Thông báo

Collapse
No announcement yet.

CẢI TẠO NỬA MÙA... (kỳ 26)

Collapse
X

CẢI TẠO NỬA MÙA... (kỳ 26)

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • CẢI TẠO NỬA MÙA... (kỳ 26)



    CẢI TẠO NỬA MÙA - VƯỢT BIÊN TÀI TỬ (kỳ 26)


    Hồi ký

    NGUYỄN HỮU THIỆN

    PHẦN II: VỀ MIỀN ĐẤT HỨA



    CHƯƠNG 3 – Cửa ngõ Tự Do và Tình Người

    (tiếp theo và hết)


    Đưa tiễn gia đình tôi ra bến tàu Galang sáng hôm ấy có Zone phó kiêm bạn tù Sơn “lồ”, một số barrack trưởng, một vài người thân và mấy anh em trong Chi Hội Không Quân Galang.

    Tuy đông nhưng không ồn ào vì biết nói gì đây?... Tất cả những gì anh em muốn nói thì hàng chữ trên cái cổng đã nói hộ rồi.

    Đó là cái cổng gỗ ở bến tàu mà tôi đã mô tả trong một kỳ trước, từ bến tàu đi vào trại nhìn lên thấy hai hàng chữ tiếng Anh:

    Welcome Vietnamese Refugee To Galang Island
    The Gate Of Freedom and Humanity

    Còn từ trong trại đi ra bến tàu thì ở mặt sau có hai hàng chữ:

    Good Bye Good Luck And Begin Your New Life With Hope
    Galang An Island To Remember



    (hình Gaylord Barr)

    Tại bến tàu, chúng tôi, người đi cũng như người tiễn, đứng ngồi chờ dưới hai cái mái tôn lớn, được ngăn cách với cầu tàu bằng mấy hàng dây kẽm, có cảnh sát Nam Dương giữ trật tự.

    Trong số các nhân viên thiện nguyện ra tiễn người đi định cư có Gaylord Barr, Debbie Dodd, và đại diện Phòng Xã Hội Nam Dương.
    Khoảng hơn một tiếng đồng hồ sau có tiếng máy tầu vọng lại rồi một chiếc tàu tốc hành (express) chạy tới, cập vào cầu tàu thấp sát mặt biển dành cho loại tàu này.

    Tới lúc đó, nhân viên của ICM (Intergovernmental Committee for Migration) và nhà cầm quyền Nam Dương mới phối hợp làm việc, đọc tên từng người trong danh sách, xem hình trong căn cước tỵ nạn rồi mới cho bước xuống tàu. Tổng cộng khoảng 150 người, đa số đi định cư ở Mỹ, Úc, một số nhỏ đi Canada và các nước Âu châu.



    Một chuyến tàu “Singapore Express” (hình Gaylord Barr)
    Vĩnh biệt Galang - An Island To Remember

    Tàu rời bến, tôi nhìn lại những bóng người đang vẫy tay từ biệt xa dần; cũng bâng khuâng nhưng trong lòng tôi không cảm thấy ái ngại cho người ở lại như hôm rời “hoang đảo” Kuku. Bởi tôi biết chắc chắn một khi đã tới được Galang - cửa ngõ của Tự Do và Tình Người - ngoài những tiện nghi tối thiểu do Cao ủy Tỵ nạn cung cấp, sớm muộn mọi người còn ở lại cũng sẽ được đi định cư.

    Chặng đường cuối...

    Chiếc tàu tốc hành Galang – Singapore tuy là tàu gỗ nhưng chạy khá nhanh và êm vì đây là vùng biển đảo, ít sóng lớn. Đường chim bay từ Galang tới Singapore chỉ khoảng 75 km nhưng vì phải đi vòng qua nhiều đảo lớn nhỏ, quá trưa tôi mới thấy những tòa cao ốc của đảo quốc này nhô lên ở chân trời phía bên trái.

    Nhưng khi tới gần, chiếc tàu không chạy thẳng vào bờ mà lại vòng lên hướng bắc, đi vào một eo biển hẹp, hơn một tiếng đồng hồ sau mới cập vào một bến tàu ở bờ bên trái, mà sau này tôi được biết nguyên là một căn cứ hải quân của Anh ở Singapore.


    Từ bến tàu, đoàn người được hướng dẫn tới trại Hawkins Road ở gần đó. Tên gọi chính thức của trại này là Trại Thuyền nhân Tỵ nạn Việt Nam (Vietnamese Boat People Refugee Camp), số 25 Hawkins Road, thị trấn Sembawang, nằm ở phần đất phía bắc của đảo quốc. Xưa kia trại này là cư xá của căn cứ hải quân.


    Bản đồ hành chánh Singapore; ngôi sao đỏ ở phía bắc là thị trấn Sembawang

    Trại Hawkins Road được ghi nhận là trại tỵ nạn chính thức đầu tiên của Cao ủy Tỵ nạn LHQ ở Đông Nam Á, được thiết lập vào năm 1978, tức là trước khi có hội nghị quốc tế về người tỵ nạn Đông Dương tổ chức tại Geneva vào tháng 7 năm 1979.

    Thế nhưng Singapore lại là quốc gia Đông Nam Á đầu tiên ngăn chặn thuyền nhân tới thẳng trại tỵ nạn, và xua đuổi họ ra biển khơi!

    Hiện nay trên Remember Singapore – một trang mạng độc lập về đảo quốc này – vẫn còn phổ biến một bài viết về việc thuyền nhân Việt Nam bị xua đuổi. Tạm dịch như sau:

    Một quá khứ bị quên lãng - Thuyền nhân Việt Nam tại Singapore
    (A Forgotten Past – Vietnamese Boat People in Singapore)


    Là một quốc gia bé nhỏ với đất đai có hạn, Singapore phải ngăn chặn làn sóng tỵ nạn. Đồng thời cũng vì lo sợ các cán bộ cộng sản Việt Nam có thể đội lốt tỵ nạn để xâm nhập đảo quốc này một cách bất hợp pháp.

    Vì thế Singapore đã trở thành quốc gia đầu tiên trong vùng ngăn chặn thuyền nhân lên bờ, hoặc tiến vào vùng duyên hải của họ, thay vào đó cung cấp thực phẩm, nước uống và nhiên liệu rồi đuổi ra khơi.

    Được mệnh danh là Cuộc hành quân Dông bão (Operation Thunderstorm), công tác này đã được Lục quân và Hải quân Singapore phối hợp thực hiện.

    Chẳng bao lâu sau, các quốc gia Đông Nam Á khác như Thái Lan, Mã Lai đã noi gương Singapore. Nhiều chiếc ghe của người tỵ nạn khi bị tàu hải quân kéo ra biển khơi đã bị lật chìm. Hàng nghìn người bị sóng cuốn trôi, bị chết đói hoặc rơi vào tay hải tặc.



    * * *

    Từ năm 1975 tới năm 1979, có khoảng 5000 người tỵ nạn Việt Nam tới Singapore nhờ được tàu buôn vớt ngoài biển và đưa vào đảo quốc này.

    Năm 1978, được sự đồng ý của chính quyền Singapore, Cao ủy Tỵ nạn LHQ đã sử dụng một trại lính cũ của Quân đội Anh trước đây, số 25 Hawkins Road, thị trấn Sembawang, làm nơi tạm trú cho người tỵ nạn.

    Trại Hawkins Road có diện tích 5.5 héc-ta, trong trại có hơn 10 dãy nhà, nay được sử dụng làm chỗ ngủ cho người tỵ nạn. Mỗi ngày, mỗi đầu người được Cao ủy Tỵ nạn cấp phát 2.50 đô-la Mỹ để mua thực phẩm và các thứ cần thiết.

    Đa số người tỵ nạn chỉ ở trại Hawkins Road một thời gian ngắn. Vì trại chỉ có sức chứa tối đa 150 người, chính phủ Singapore đã yêu cầu các nước đã nhận cho họ định cư đưa đi càng sớm càng tốt. Tuy nhiên cũng có lúc dân số trong trại lên tới cả nghìn người.

    Trại Hawkins Road được xem là trại tỵ nạn tốt nhất và nhân bản nhất so với các trại tỵ nạn khác ở Đông Nam Á, nơi mà những câu chuyện kinh hoàng về những gì xảy ra cho người tỵ nạn Việt Nam, như tra tấn, cưỡng hiếp, giết hại, đã được nhiều người kể lại.

    Tới cuối tháng 6 năm 1996, trại Hawkins Road chính thức đóng cửa sau khi khoảng 100 thuyền nhân sống tại đây từ năm 1990 mà không được quốc gia nào nhận cho định cư, tình nguyện trở về Việt Nam.

    Tính từ năm 1978 tới năm 1996, đã có tổng cộng 32,457 người tỵ nạn Việt Nam sống ở trại Hawkins Road. Đa số đã trở thành công dân các quốc gia Âu châu, công dân Úc hay công dân Mỹ.

    Remember Singapore
    Đăng lần đầu: 01 tháng 7, 2011
    Hiệu đính: 25 tháng 1, 2022

    (Bài viết ngắn trên đây không đề cập tới chi tiết trại Hawkins Road còn được sử dụng làm nơi chờ đợi phi cơ của những thuyền nhân đã được một quốc gia nhận cho định cư, tới từ Nam Dương, Mã Lai...)



    * * *

    Theo những tài liệu tôi đọc được sau này cũng như hồi ký của một số nhân chứng là các thuyền nhân sống sót, thì càng ngày Hải Quân Singapore càng tỏ ra cứng rắn, thậm chí có những hành động vô lương tâm, vô nhân đạo cho nên tới cuối năm 1980 hầu như không còn một chiếc ghe tỵ nạn nào từ Việt Nam có thể lọt vào đảo quốc này.

    Chỉ có những thuyền nhân nào may mắn được tàu buôn ngoại quốc vớt ngoài khơi rồi đưa vào Singapore mới được đặt chân lên bờ, với điều kiện quốc gia (của tàu buôn) đó phải cam kết bằng văn bản sẽ nhận những thuyền nhân này định cư và đưa họ ra khỏi Singapore trước thời hạn 90 ngày!

    Tới đây tôi xin được nhắc tới và đề cao lòng nhân đạo của các tổ chức tư nhân và tàu buôn của các quốc gia Tây Âu và Bắc Âu trong việc cứu vớt thuyền nhân Việt Nam trên biển Đông.

    Theo con số của Cao ủy Tỵ nạn LHQ, từ năm 1975 tới năm 1987 đã có tổng cộng 839,228 người Việt tạm trú tại các trại tỵ nạn của Cao ủy ở Đông Nam Á và Hương Cảng, trong số này có khoảng 5% (42,918 người) vượt thoát bằng đường bộ tới Thái Lan.

    Cũng trong khoảng thời gian nói trên, 749,929 người đã được đi định cư tại các quốc gia đệ tam; nhiều nhất là Hoa Kỳ (402,382), kế tới là Pháp (120,403), Úc (108,808) và Canada (100,012).

    Tuy nhiên nếu chỉ xét về hoạt động cứu vớt thuyền nhân trên biển Đông thì Tây Đức, Hòa Lan và các nước Bắc Âu phải được nêu danh hàng đầu.

    Trước hết nói về Tây Đức, có lẽ không một người Việt tỵ nạn nào không một lần nghe tới tên con tàu “Cap Anamur”.

    Nguyên vào năm 1979, sau hội nghị quốc tế về người tỵ nạn Đông Dương do Cao ủy Tỵ nạn LHQ tổ chức tại Geneva, cùng với việc chính phủ Tây Đức mở rộng vòng tay đón nhận người ty nạn, Tiến sĩ Rupert Neudeck (1939 – 2016), nguyên là một nhà giáo kiêm ký giả Đức, đã cùng bà vợ Christel và một nhóm bạn đứng ra thành lập tổ chức “A ship for Vietnam” (Một con tàu cho Việt Nam), với mục đích cứu vớt các thuyền nhân trên biển Đông phải đối diện với hiểm nguy phong ba bão táp và hải tặc.

    Với tiền quyên góp từ dân chúng Đức, tổ chức của ông Rupert Neudeck đã mướn được chiếc tàu chở hàng Cap Anamur của Pháp và đưa sang biển Đông hoạt động.



    Tàu Cap Anamur

    Lúc đầu, không ít người đã bi quan cho đây là một công việc phiêu lưu vô định, nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, những kết quả tốt đẹp ngoài sự mong đợi của mọi người đã cho thấy sáng kiến ông Rupert Neudeck thật tuyệt vời!

    Với sự yểm trợ tài chánh từ khắp nơi, sau đó “Một con tàu cho Việt Nam” đã trở thành hai, rồi ba con tàu - Cap Anamur I, II và III.
    Tính tới năm 1986, tổ chức “A ship for Vietnam” đã cứu vớt được 10,375 thuyền nhân trên biển Đông và chăm sóc trên 35,000 người đau yếu, kiệt sức.

    Cũng trong năm 1986, sau khi Cao ủy Tỵ nạn LHQ áp dụng “chính sách thanh lọc” đối với những thuyền nhân mới tới các trại tỵ nạn ở Đông Nam Á, tàu Cap Anamur II đã đưa 358 thuyền nhân không được một quốc gia đệ tam nào cấp chiếu khán về thẳng hải cảng Hamburg của Tây Đức. (Chú thích 1)



    Tàu Cap Anamur II chở thuyền nhân VN tới Hamburg, tháng 5 năm 1986

    Tiến sĩ Rupert Neudeck (trái) và nữ Thủ tướng Đức Angela Merkel


    Năm 2005, đánh dấu 30 năm miền Nam VN bị lọt vào tay cộng sản Bắc Việt, ông Rupert Neudeck đã được mời lên chương trình Paris By Night 77 để được phỏng vấn và tri ân về những gì mà ông và tổ chức A ship for Vietnam - còn gọi là Ủy ban Anamour - đã làm được cho thuyền nhân Việt Nam.



    * * *

    Về phần Hòa Lan, tuy không có những cá nhân đứng ra vận động thành lập các tổ chức như A ship for Vietnam nhưng hoạt động âm thầm của các công ty hàng hải và nhân viên đã mang lại kết quả thật ấm lòng.

    Viết một cách chính xác, các công ty hàng hải ấy đã cố tình làm lơ, nếu không muốn nói là bật đèn xanh, để các tàu buôn của mình ưu tiên cứu người tỵ nạn trên biển cả, bất chấp những thiệt hại về doanh thu của công ty.

    Theo một bài trên trang mạng Vạn Giã Quê Tôi viết về hoạt động nhân đạo nói trên, hai công ty hàng hải Hòa Lan đóng góp nhiều nhất vào việc cứu vớt người Việt trên biển là Smit Lloyd và Ned Lloyd. Chỉ trong hai năm 1980 và 1981, hai công ty này đã vớt được trên 2300 thuyền nhân Việt Nam.

    Còn theo thuyền trưởng Willem Christ của công ty Smit Lloyd, trước sau các tàu buôn của công ty đã vớt được trên 10,000 thuyền nhân Việt Nam rải rác khắp vùng biển Đông Nam Á, trong đó chỉ có khoảng 400-500 do tàu của ông vớt, nghĩa là còn rất nhiều tàu khác của công ty Smit Lloyd đã tham gia hoạt động nhân đạo này.

    Ông Willem Christ chỉ được mọi người biết tới tên tuổi vào năm 2012 sau khi bà mẹ của Alisha, một nữ thuyền nhân Việt Nam được ông cứu vớt trước đó 30 năm nhờ đài truyền hình SBS TV của Úc giúp tìm kiếm vị ân nhân của gia đình mình. (Chú thích 2)



    * * *

    Theo phóng sự trên SBS TV, vào một đêm trong tháng 2 năm 1982, chiếc thương thuyền của công ty Smit Lloyd do ông Willem Christ làm thuyền trưởng đang đi trên biển Đông thì khám phá ra chiếc ghe lâm nạn.

    Đó là một chiếc ghe chở 168 thuyền nhân Việt Nam đang bị trôi giạt. Trước đó mấy ngày, ghe bị chết máy, các “chuyên viên” trên ghe đã liên tục tìm đủ mọi cách để sửa cái máy tàu nhưng nó vẫn không chịu nổ; giờ đây thực phẩm và nước uống đã cạn; cái chết chỉ còn là vấn đề thời gian.

    Nhưng cứu tinh đã tới kịp thời: chiếc tàu của thuyền trưởng Willem Christ. Trong số thuyền nhân được vớt có cô bé Alisha 2 tuổi, cha mẹ và một người cậu của cô.

    Sau khi chắc chắn tất cả mọi người đã được vớt lên tàu, ông Willem Christ đã cho tàu ủi chìm chiếc ghe tỵ nạn để dàn cảnh đây là một tai nạn. Ông giải thích với phóng viên SBS TV:

    “Một khi chiếc ghe bị chìm trên biển, họ không còn là người tỵ nạn nữa mà theo quốc tế công pháp, là những người lâm nạn bắt buộc phải cứu vớt... Ngày ấy, tôi đã ghi trong nhật ký hàng hải (logbook): Trong màn đêm, tàu đụng phải một vật nổi phía trước.”

    “Chúng tôi không có gì để đãi họ ngoài một ly nước lạnh, tôi nói với họ - như tôi luôn nói với những thuyền nhân khác được chúng tôi vớt - đừng cám ơn chúng tôi, mà hãy cám ơn trời đã cho quý vị được may mắn gặp chúng tôi trên biển Đông này.”

    Đoàn người được chiếc tàu của ông Willem Christ đưa tới đảo Pulau Bidong, thuộc lãnh thổ Mã Lai, nơi có một trại tỵ nạn của Cao ủy Tỵ nạn LHQ.



    * * *

    Gia đình của Alisha được định cư tại thành phố Melbourne, Úc-đại-lợi. Ngay sau khi tạm gọi là an cư lạc nghiệp trên quê hương thứ hai, bà mẹ của Alisha đã bỏ công tìm kiếm vị thuyền trưởng ân nhân của gia đình mình nhưng không có kết quả.

    Nguyên nhân chính không phải vì ở Hòa Lan không ai biết, hoặc không ai còn nhớ về việc con tàu của ông Willem Christ vớt 168 người vào đầu năm 1982, mà chỉ vì ngày ấy do những nguyên nhân tế nhị, phức tạp liên quan tới bảo hiểm và trách nhiệm trước công ty, công việc cứu người trên biển Đông của những chuyến tàu của hai công ty Smit Lloyd và Ned Lloyd đã không được ghi lại đúng với thực tế đã diễn ra!

    Sau gần 30 năm, bà mẹ của Alisha mới tìm ra vị cứu tinh năm xưa, và cô con gái hai tuổi ngày ấy nay đã đại diện gia đình tới thủ đô Hòa Lan Amsterdam tái ngộ vị thuyền trưởng.

    Alisha nói trên SBS TV:

    “Thật tuyệt vời khi tôi có cơ hội tái ngộ với người đã cứu vớt tôi. Chính nhờ ông Willem Christ - cùng với công ơn cha mẹ - mà tôi có được cuộc sống hiện nay. Bằng không, có thể tôi đã trở thành một kẻ ăn xin trên đường phố Việt Nam, hoặc nằm trong số những người đã vùi thây dưới lòng biển”.



    * * *

    Tôi không nhớ nhiều về thời gian sống ở trại Hawkins Road bởi vì trên thực tế cũng chẳng có nhiều điều đáng nhớ.

    Lúc đó khoảng 3, 4 giờ chiều, đoàn người được một nhân viên Cao ủy Tỵ nạn nói tiếng Anh (có lẽ là người Hoa) và một thông dịch người Việt hướng dẫn vào trại.

    Phía trước trại có một cái cổng sắt trên có hai hàng chữ bằng tiếng Việt và tiếng Anh:

    HÂN HOAN CHÀO ĐÓN CÁC BẠN
    WELCOME TO HAWKINS ROAD


    và huy hiệu của Cao ủy Tỵ nạn LHQ (UNHCR).



    Cổng trại Hawkins Road. Ngôi nhà lầu mái ngói đỏ phía trong là cửa tiệm bách hóa & hàng quán ăn uống


    Vào bên trong, phía tay trái có một cái nhà tiền chế trông giống như một trailer lớn, có lẽ trước kia là Văn phòng Cao ủy Tỵ nạn, nay được các nhân viên an ninh sử dụng.

    Chúng tôi được đưa vào phía trong, tới trước một văn phòng nho nhỏ. Tại đây chúng tôi được nhân viên Cao ủy Tỵ nạn phổ biến một số việc như sau:

    - Về nơi tạm trú, vì hầu hết các dãy nhà trong trại đều đã có người chiếm ngụ, chúng tôi cứ việc tới những căn còn trống, hoặc bất cứ căn nào đang có người ở xin họ chia bớt cho một khoảng trống để đặt lưng; cuối cùng, nếu vẫn không có chỗ thì ngủ tạm ở ngoài hàng hiên.

    - Tại các căn nhà đều có bếp (dầu hôi), nồi niêu xoong chảo, mền chiếu của những người đi định cư để lại, chúng tôi có thể sử dụng.

    - Bắt đầu từ ngày mai, mỗi ngày mỗi đầu người sẽ được Cao ủy Tỵ nạn cấp phát 2.50 đô-la Mỹ để chi dụng. Văn phòng trại sẽ có thông báo trên loa phóng thanh.

    - Thực phẩm và mọi thứ cần thiết có thể mua ở cửa tiệm đối diện văn phòng trại.

    - Mọi người có thể ra phố tham quan, mua sắm nhưng nên hỏi kỹ đường đi nước bước để khỏi bị lạc...

    Khi đi vào các dãy nhà để tìm chỗ tá túc, tôi đã phải chán nản khi thấy ở những dãy nhà nằm phía ngoài, có nơi người ta đã phải trải chiếu ngoài hàng hiên!

    Nhà ở đây là nhà mái ngói tường gạch nhưng được xây từ đầu thế kỷ, lại bị bỏ trống trong nhiều năm trời cho nên khá bệ rạc.

    Trong khi gia đình bà chị vợ (7 người) kéo nhau vào sâu hơn ở phía trong với hy vọng tìm được chỗ trống, tôi vẫn đứng tần ngần trước một căn nhà trông tương đối sạch sẽ, dự tính sẽ vào hỏi, nếu không còn chỗ sẽ ở tạm ngoài hàng hiên. Gia đình tôi chỉ có hai vợ chồng với hai con nhỏ nên cũng dễ xoay sở.

    Bỗng một người đàn ông từ trong nhà bước ra, nheo mắt nhìn tôi rồi buột miệng chửi thề:

    - Địt mẹ mày Thiện!

    Tôi kinh ngạc, sững sờ vì trước mắt tôi không ai khác hơn là Phạm Khắc Khiêm, tay trung úy Hải Quân cùng Đội từ những ngày đầu cải tạo ở Thành Ông Năm, “ân nhân” đã chỉ dẫn tôi cách đi biển đồng thời cũng là “oan gia” đã mua cho tôi cái hải bàn M88 dổm!

    Tay bắt mặt mừng xong xuôi, Khiêm kể đại khái vợ chồng hắn và đứa con nhỏ vượt biên đầu năm 1982 (sau tôi mấy tháng), tới Pulau Bidong được Mỹ nhận ngay vì có cha mẹ và tất cả anh chị em đã di tản hồi năm 1975 và định cư ở Mỹ; hắn sang Singapore cách đây hai tuần và ngày mai sẽ đáp phi cơ đi Mỹ!

    Tới phiên tôi cũng kể sơ chuyện vượt biên của mình. Rồi Khiêm dắt chúng tôi vào nhà lúc đó đã có hai gia đình tạm trú. Hắn dọn dẹp cái khoảng trống được sử dụng làm nhà bếp, nói chúng tôi ngủ đỡ, ngày mai hắn sẽ bàn giao “giang sơn” của hắn.

    Đêm hôm đó hai thằng bạn tù ngồi ở hàng hiên nói chuyện tới khuya. Riêng tôi, khi thuật lại chi tiết chuyến đi đầy sóng gió của chiếc ghe 7 mét rưỡi của mình, tôi dấu nhẹm việc cái hải bàn M88 Khiêm mua giúp tôi là đồ dổm!

    Bởi vì cuối cùng cả hai thằng bạn tù và gia đình cũng đã tới được bến bờ tự do mà không bị trầy vi sứt vảy. Tôi không muốn Khiêm bị cụt hứng vì cái chuyện không vui ấy!

    Sáng hôm sau, khoảng 10 giờ, đại diện Cao ủy Tỵ nạn vào trại phát tiền, mỗi ngày một đầu người được 2.50 đô Mỹ, tức 5 đô-la Singapore theo thời giá (tôi không nhớ rõ mỗi lần được phát tiền cho mấy ngày).

    Sau đó vợ của Khiêm dẫn chúng tôi vào cửa tiệm đối diện văn phòng trại. Đó là tầng trệt của một ngôi nhà lầu khá lớn, vừa bán các loại thực phẩm khô (kể cả gạo), các mặt hàng tạp hóa, dầu hôi để nấu bếp, vừa kiêm quán ăn và giải khát.

    Phía trước có tấm bảng hiệu ghi bằng ba ngôn ngữ Hoa, Mã Lai và Việt Nam.

    Xế chiều, chúng tôi tiễn gia đình Khiêm lên xe bus đi ra phi trường rồi trở về “giang sơn” vừa được hắn bàn giao: cái phòng nho nhỏ có cửa, diện tích vừa đủ trải hai chiếc chiếu.


    * * *

    Tạm quên đây là trạm dừng chân cuối cùng trước khi tới miền đất hứa, phải nói cuộc sống ở Trại tỵ nạn Hawkins Road buồn chán vô cùng. Đã không có bất cứ sinh hoạt giải trí nào lại thêm tâm trạng nôn nao trong lúc chờ đợi được gọi tên đi ra phi trường, cho nên tuy tối tối cũng có ti-vi màu phía trước văn phòng, cũng chiếu phim tập võ hiệp Hoàng Phi Hùng của Tàu, chương trình ca nhạc Solid Gold của Mỹ, các trận đá banh quốc tế... mà hồi còn ở Galang chúng tôi say mê theo dõi, nhưng cũng chẳng có mấy người xem!

    May mắn nhất là những người vừa có tiền vừa có người quen biết ở Singapore đưa đi tham quan danh lam thắng cảnh của đảo quốc và mua sắm, ăn uống ở Downtown. Còn những ai rời Galang không một xu dính túi như gia đình tôi thì chỉ biết quanh quẩn trong hàng rào của trại Hawkins Road và... ăn đầu heo!

    Để những người tỵ nạn ngày ấy không ghé Singapore hiểu được nỗi đau khổ phải ăn đầu heo, tôi xin có đôi dòng giải thích.

    Không biết kỹ nghệ thịt heo đóng hộp ở đảo quốc này mỗi ngày giết bao nhiêu con, chỉ biết đầu heo ở Singapore là món thịt tươi rẻ mạt chưa từng thấy trên cõi đời này. Cứ hai ba ngày lại có một chiếc xe vận tải nho nhỏ chở thực phẩm tươi - rau trái, thịt cá - vào trại Hawkins Road để bán cho dân tỵ nạn. Mỗi cái đầu heo (heo kỹ nghệ, to bằng đầu con bê) chỉ giá 2.50 đô-la Singapore (1.25 đô-la Mỹ), trong khi một bịch 4 trái táo xanh nhỏ xíu, héo hắt (nhập cảng từ Úc, Tân-tây-lan) đã giá một đô-la!

    Mặc dù trong suốt chín tháng ở Galang, ba bố con tôi chỉ được ăn thịt heo tươi một lần duy nhất vào dịp Tết ta, nhưng sang Singapore phải ăn đầu heo mấy ngày liền cũng vẫn ngán tới cổ, vợ tôi phải bấm bụng cho chồng con ăn tôm cá tươi một ngày trước khi mua cái đầu heo kế tiếp!



    * * *

    Sau ba bốn ngày cấm cung trong trại Hawkins Road, tôi quyết định “xuống phố”. Phố ở đây là thị trấn Sembawang, cách trại Hawkins Road gần một km, nằm ở cực bắc hòn đảo Singapore.

    Sembawang là một trong hơn 20 đơn vị hành chánh, thương mại của Singapore mà các tư liệu tiếng Anh khi viết về đảo quốc này đã không thống nhất cách gọi, chỗ thì gọi là city, chỗ gọi là town, chỗ gọi là district..., ở đây tôi gọi là thị trấn (town) nếu ở ngoại ô, hoặc khu vực (district) nếu ở trung tâm. Gọi như thế để phù hợp với việc Wikipedia gọi Singapore là một “quốc gia thành phố” (city-state), nghĩa là cả nước chỉ là một thành phố lớn, tương tự Monaco bên Âu châu.

    Singapore (trước 1975 người miền Nam gọi là Tân Gia Ba), danh xưng chính thức là Cộng Hòa Singapore (Republic of Singapore), là một hòn đảo nằm ở phía nam bán đảo Mã Lai, một bề 50 km, một bề 27 km, dân số gần 6 triệu (thống kê năm 2023).

    Phía nam phân cách với Nam Dương bằng eo biển Singapore, phía bắc phân cách với Mã Lai bằng eo biển Johor - tuy gọi là eo biển (strait) nhưng thực ra bề ngang chưa tới 1 km, trông giống như một con sông, đứng bờ bên này có thể thấy bờ bên kia khá rõ.

    So với các thị trấn khác, Sembawang tương đối nhỏ và thưa vắng. Sembawang trở thành một thị trấn có lẽ chỉ vì trước kia có căn cứ hải quân và nay có các cầu tàu (piers).

    Nhưng dù nhỏ và thưa vắng, trước mắt tôi Sembawang cũng là thị trấn văn minh, hiện đại nhất mà tôi được được biết từ trước tới nay. Cái gì cũng mới lạ, đẹp mắt, đường phố sạch sẽ, hàng quán khang trang..., cả đến con người cũng khác hẳn người Hoa ở Chợ Lớn trước kia, sạch sẽ, sáng sủa, dễ nhìn hơn nhiều.

    Sau khi tham quan một vòng trung tâm thương mại của Sembawang, tôi trở về trại và chiều hôm sau rủ vợ con ra phố, mua KFC cho hai đứa nhỏ còn vợ chồng ăn mì ở cái quán lộ thiên có vẻ bình dân nhất ở gần bờ tôi mà đã nhắm từ hôm trước. Lỡ chơi bảnh tôi tới luôn, mua một gói thuốc lá Winston của đế quốc Mỹ và một lon bia Tiger của Singapore rồi ra ngồi trên băng ghế bên bờ ngắm cảnh.

    Lúc đó tôi mới chú ý tới mấy người đàn ông ngồi gần đó, trên băng ghế hoặc dưới mặt cỏ, vừa giải khát vừa trò truyện với nhau.

    Tôi đoán họ là người Mã Lai qua ngôn ngữ cũng như nét mặt, màu da. Thấy họ cũng có vẻ hiền lành, tôi lân la làm quen, hỏi chuyện bằng tiếng Anh, dù cả đôi bên không lưu loát cho lắm cũng có thể hiểu được nhau.

    Đó là những công nhân Mã Lai sang Singpore làm việc dưới hình thức sau này rất phổ biến tại Việt Nam: xuất khẩu lao động (XKLĐ).

    Và cũng giống như đại đa số XKLĐ Việt Nam hiện nay, ngày ấy người Mã Lai sang Singapore chỉ để làm cu-li (lao động tay chân) cho người Tàu Singapore. Sau này tìm hiểu tôi được biết vào cuối thập niên 1970 đầu thập niên 1980, công nhân Mã Lai chiếm tới 40% lực lượng lao động ở Singapore, đa số là lao động nặng.

    Phải lao động nặng hơn với số lương thấp hơn người bản xứ nhưng dân Mã Lai vẫn tranh giành nhau đi XKLĐ sang Singapore vì ở Mã Lai thiếu công ăn việc làm, và nếu có kiếm được thì lương cũng rất thấp so với bên Singapore.

    Chưa hết, các công nhân Mã Lai còn bị nhà cầm quyền Singapore “bóc lột” bằng cách quy định một lệ phí visa lao động khá nặng, cứ ba tháng lại phải đóng một lần!

    Một trong hai công nhân Mã Lai trò chuyện với tôi còn khá trẻ và ra vẻ có trình độ đã không dấu được sự cay đắng trước những bất công, tủi nhục của người XKLĐ Mã Lai ở Singapore.

    Tới lúc đó tôi mới hiểu những công nhân Mã Lai chiều chiều kéo nhau ra cái bờ đá này không phải để ngắm sóng nước mà để nhìn về quê nhà ở ngay phía bên kia. Nghĩ tới thân phận lưu vong của mình, quê hương xa nghìn dặm không biết có ngày về hay không, tôi thầm cầu mong cuộc sống ở nơi chốn được nhiều người gọi là “miền đất hứa” sẽ không đến nỗi thê thảm như những người XKLĐ Mã Lai ở Singapore!



    * * *

    Ở trại Hawkins Road được khoảng một tuần, bà chị vợ rủ vợ tôi và mấy người khác ra phố Singapore, dân địa phương gọi là “Downtown”.

    Như tôi đã có lần viết, không phải người “tỵ nạn cộng sản” nào cũng khố rách áo ôm như gia đình tôi mà có những người giàu, thậm chí rất giàu, chẳng hạn các gia đình người Hoa ở Chợ Lớn, sau khi phong trào “đi bán chính thức” chấm dứt đã tung vàng ra để vượt biên với tư cách tỵ nạn cộng sản.

    Những người Hoa này ra phố Singapore như cơm bữa cho nên họ rành rẽ mọi thứ, từ đường đi nước bước, danh lam thắng cảnh, trung tâm thương mại, ẩm thực... Cho nên ai muốn ra phố cứ việc đi theo họ, khi về chỉ cần nhớ bến và số xe bus.

    Lúc đầu vợ tôi không muốn đi vừa vì không có tiền mua sắm vừa vì bầu bì, nhưng sau khi tôi đồng ý hộ tống, nàng đã đi theo bà chị.

    Đoàn người chờ ở trạm khoảng 10 phút thì xe bus tới. Lần đầu tiên trong đời tôi mới thấy một chiếc xe bus lớn, đẹp, tối tân, tiện nghi như thế. Theo sự hướng dẫn của mấy người Hoa Chợ Lớn, chúng tôi lần lượt bước lên xe, bỏ tiền cắc vào cái khe trên máy bán vé tự động, lấy vé rồi tìm chỗ ngồi.

    Đi được nửa đường, tôi đã thấy những tòa nhà chọc trời từ xa xa. Càng tới gần trong tâm thành phố càng có nhiều bóng cây xanh, đủ loại hoa muôn màu hai bên đường, đem lại một cảm giác thật dễ chịu.

    Bước xuống xe ở một trạm ở gần trung tâm thành phố, nơi tập trung những tòa nhà cao nhất, như một phản xạ, tôi nghểnh cổ nhìn lên để ước đoán bao nhiêu tầng, chẳng khác nào mấy anh nón cối đứng trước khách sạn Caravelle (10 tầng), khách sạn President (14 tầng) ở Sài Gòn hồi năm 1975!

    Thực ra, vào thời gian này - đầu thập niên 1980 - Singapore mới bước vào giai đoạn phát triển, phố xá nhà cửa không chỉ thua các thành phố lớn của Nhật Bản mà còn không bằng Hương Cảng, nhưng với một người Việt vừa rời bỏ một Sài Gòn suy tàn dưới chế độ cộng sản, những tòa cao ốc, những thương xá với kiến trúc tân kỳ của Singapore phải được xem là biểu tượng điển hình của thế giới tư bản văn minh hiện đại mà chúng tôi sắp được bước chân vào.



    Khu “Downtown” của Singapore vào năm 1982

    Trong khi các bà các cô và đám con nít đi vào các thương xá, tôi đi một vòng khu phố. Nhận xét đầu tiên của tôi là sự sạch sẽ tới mức khó tin ở những nơi chốn công cộng, không một cọng rác, không một tàn thuốc lá, không một miếng giấy gói kẹo; kế đến là những thảm cỏ xanh rì xen lẫn hoa lá muôn màu được chăm sóc, cắt tỉa công phu...

    Đường xá rộng lớn, hầu như chỉ có xe hơi và xe bus chứ ít thấy xe gắn máy và xe vận tải (xe vận tải chỉ được phép vào phố trước bình minh), còn taxi thì phần lớn là hiệu Mercedes!

    Trước năm 1975 tôi chưa hề ra khỏi Việt Nam cho nên chỉ biết các thành phố lớn ở Á châu như Tokyo, Osaka, Hương Cảng, Thượng Hải, Đài Bắc... qua hình ảnh. Riêng Singapore cho tới giữa thập niên 1960 vẫn chưa có tiếng tăm gì, và nếu truyền thông quốc tế có nhắc tới thì cũng chỉ vì những rắc rối, bất ổn qua việc thành lập Mã Lai Á.

    Ngược dòng lịch sử, trước năm 1963, Liên bang Mã Lai (Federation of Malaya) gồm các tiểu vương quốc và tỉnh tự trị nằm trên Bán đảo Mã Lai (Malay Peninsula).

    Ngày 16/9/1963, do sự vận động của Anh quốc, một tân quốc gia được thành lập mang danh xưng Mã Lai Á (Malaysia), gồm Liên bang Mã Lai và ba cựu thuộc địa của Anh là North Borneo, Sarawak và Singapore.

    Ý đồ của người Anh trong việc thành lập Mã Lai Á ai cũng thấy rõ: thông qua người Hoa duy trì ảnh hưởng tại khu vực, vì người Hoa chiếm tới 40% dân số của tân quốc gia này (75% ở Singapore, 23% ở Mã Lai) và đa số các cơ sở thương mại nằm trong tay họ.

    Lo ngại trước việc Đảng Nhân Dân Hành Động của Lý Quang Diệu, lãnh tụ Singapore, sẽ làm mưa gió trong các cuộc bầu cử liên bang, Thủ tướng Tunku Abdul Rahman đã cố tình tạo ra căng thẳng sắc tộc (trong đó có căng thẳng giữa người Hoa sống ở Mã Lai với người Hoa sống ở Singapore), để rồi tới ngày 8 tháng 8 năm 1965, Quốc hội Mã Lai đã bỏ phiếu loại trừ Singapore ra khỏi Mã Lai Á với 126/126 phiếu thuận.

    Lãnh tụ Singapore Lý Quang Diệu tuyên bố thành lập Cộng hòa Singapore (Republic of Singapore).

    LƯU Ý: Trước năm 1975, truyền thông miền Nam có một sự phân biệt rõ rệt giữa hai danh xưng “Mã Lai” (Malaya) và “Mã Lai Á” (Malaysia).

    Chữ “Mã Lai” để gọi người Mã Lai, bán đảo Mã Lai (Malay Peninsula), và Liên bang Mã Lai (Federation of Malaya) trước năm 1963, còn chữ “Mã Lai Á” để gọi tân quốc gia Malaysia (sau 1963).

    Về phần truyền thông của cộng sản Hà Nội thì phiên âm Malaysia thành Ma-lai-xi-a, cũng giống như họ gọi Úc-đại-lợi là Ôx-tơ-rê-li-a, Tân-tây-lan là Niu-di-lơn vậy.

    Rất tiếc, sau năm 1975 hầu hết người miền Nam cũng như người Việt hải ngoại đã quên danh xưng Mã Lai Á để chỉ gọi vắn tắt là Mã Lai (cho nên tôi cũng đành phải gọi theo).

    * * *

    Chính thức trở thành một tân quốc gia trên bản đồ thế giới vào năm 1965, với diện tích khoảng 700 km2 (1/3 diện tích Sài Gòn – Gia Định trước 1975), dân số 1.8 triệu người, tài nguyên không có, kỹ nghệ chưa phát triển, Singapore hầu như chỉ là một con số không, cho nên Thủ tướng Lý Quang Diệu mới ước ao một ngày không xa Singapore sẽ bằng Sài Gòn của miền Nam VN!




    Phố phường Singapore vào năm 1969


    Nhưng chỉ cần 15 năm - một khoảng thời gian quá ngắn trong chiều dài lịch sử của một dân tộc - Singapore đã không chỉ vượt xa Việt Nam, qua mặt các nước Đông Nam Á mà còn hiên ngang sánh vai với những quốc gia phát triển, giàu mạnh hàng đầu thế giới.


    * * *

    Mang mặc cảm thua kém và tâm trạng buồn tủi cho đất nước, tôi không còn hứng thú chiêm ngưỡng những tòa nhà cao ngất ngưởng, những thương xá tráng lệ nữa mà đi ra bên ngoài khu Downtown để quan sát, tìm hiểu sinh hoạt của người dân “Thành phố Sư tử”.

    Trước hết nói về “người”, người Hoa ở Singapore nói chung so với người Hoa ở Chợ Lớn trông thanh tú, cao ráo, sạch sẽ, ăn mặc tươm tất, sang trọng hơn nhiều.

    Trong khi 99% người Hoa ở Chợ Lớn nói chuyện với nhau ngoài đường phố bằng tiếng Hoa thì ở Singapore chỉ có người trung niên trở lên sử dụng tiếng Hoa, còn lại đám trẻ độ tuổi 30 trở xuống thì 99% nói tiếng Anh. Từ đó tôi mới hiểu tại sao đường phố Singapore đâu đâu cũng có những poster song ngữ của Bộ Văn Hóa bằng tiếng Quan Thoại và tiếng Anh: Learn Mandarin (Hãy học tiếng Quan thoại).

    Ra khỏi khu Downtown tôi thấy một sinh hoạt thương mại hơi giống với ở Sài Gòn trước năm 1975, đó là những dãy sạp trên vỉa hè hai bên đường, bán quần áo, đồ chơi, máy radio-cassette... Viết là “hơi giống” vì những cái sạp ở đây rộng lớn, cao ráo, sạch sẽ, ngăn nắp hơn những cái sạp hai bên đại lộ Lê Lợi ngày xưa rất nhiều.

    Tôi bị dãy sạp bán máy radio-cassette thu hút, không phải để mua vì làm gì có tiền mà chỉ để ngắm. Tới gần tôi mới khám phá ra ngoài máy móc người ta còn bán băng cassette nhạc ngoại quốc, đa số là nhạc Anh Mỹ, toàn nhạc hay mà giá chỉ 1 hoặc 2 đô-la Singapore (tức 50 xu hoặc 1 đô-la Mỹ). Giá rẻ mạt như thế bởi đây là băng “lậu”.

    Tôi vô cùng thích thú vì trước năm 1975 ở Sài Gòn tôi chỉ biết đĩa hát “lậu”. Còn nhớ ngày ấy chỉ trừ một số cậu ấm cô chiêu có tiền mua đĩa hát ở tiệm Anna (đường Nguyễn Huệ) hoặc thân nhân ở ngoại quốc gửi về, đa số người yêu nhạc ngoại quốc chỉ có một nguồn thưởng thức duy nhất là các chương trình nhạc ngoại quốc yêu cầu, nhạc ngoại quốc chọn lọc trên đài phát thanh.

    Tới giữa thập niên 1960, tại một số sạp bán hàng bên lề đường bắt đầu bán những đĩa hát bằng nhựa (vinyl) màu vàng cam với giá chỉ bằng 1/3 đĩa o-ri-gin bán trong tiệm. Đó là những đĩa hát làm lậu tại Hương Cảng, Đài Loan, Singapore, tuy chất lượng kém nhưng nếu chơi trên những dàn máy rẻ tiền thì không phân biệt được.

    Hương Cảng lúc đó còn là một nhượng địa của Anh quốc, luật lệ lỏng lẻo, ai muốn làm gì thì làm cho nên không chỉ trở thành trung tâm làm hàng giả lớn nhất thế giới, mà còn là nơi in ấn sách báo “lậu”, sản xuất đĩa nhạc “lậu” với quy mô lớn.

    Đài Loan thì không ký hiệp ước văn hóa song phương với bất cứ quốc gia nào cho nên tha hồ làm đĩa hát lậu, in sách lậu; phổ biến nhất là sách học ngoại ngữ, chẳng hạn bộ Cours de Langue et de Civilization Française mà học sinh trung học tại miền Nam VN học sinh ngữ Pháp bắt buộc phải mua.

    Còn Singapore vốn đã là một hải cảng tự do (free port) từ thời còn là thuộc địa của Anh quốc, sau khi trở thành một quốc gia riêng biệt (1965) vẫn duy trì tư thế hải cảng tự do để thu hút các nhà đầu tư ngoại quốc (không phải đóng thuế) để tạo công ăn việc làm cho người dân, và không đánh thuế hàng hóa để thu hút du khách. Vì thế hàng o-ri-gin và hàng lậu, hàng giả đều được bày bán tự do.

    Tuy nhiên, vì càng ngày càng ít người Việt chơi máy hát đĩa trong khi băng nhạc (tape) ngày càng phổ biến, tới cuối thập niên 1960 đĩa hát lậu không còn phổ biến. Tại Sài Gòn, cùng với cảnh trăm hoa đua nở của băng nhạc Việt Nam, một số người đã thực hiện các băng nhạc ngoại quốc lậu, tức là thu từ đĩa hát o-ri-gin, như các băng Sélection, Anna (của tiệm bán đĩa hát Anna)...

    Bước sang thập niên 1970, băng cassette bắt đầu trở nên phổ biến, tuy nhiên chất lượng âm thanh thua xa băng lớn cho nên thường chỉ được gắn trong xe hơi hoặc chơi bằng máy xách tay chạy pin.

    Nhưng trước khi tôi đi tù về và vượt biên (1981) thì vào năm 1979 hãng Sony của Nhật đã làm một cuộc cách mạng với máy cassette “Walkman” nhỏ bằng bàn tay nhưng nghe qua headphones chất lượng âm thanh không thua gì nghe từ dàn máy lớn. Tiếp theo là các kiểu máy radio-cassette xách tay với âm thanh khuyếch đại hiệu Sharp (cũng của Nhật) làm mưa gió trên thị trường...

    Tôi tới Singapore vào thời điểm ấy cho nên những băng cassette nhạc ngoại quốc đựng trong hộp in hình màu của ca sĩ/ban nhạc với danh sách ca khúc, có khi còn kèm theo cuốn sách nhỏ in lời hát đã có sức thu hút mãnh liệt. Nhận thấy đây là một dịp may hiếm có, tôi móc hết tiền trong túi ra mua.

    Rất tiếc, lúc đó tôi chỉ có hơn 10 đô-la Singapore cho nên chỉ mua được 4, 5 cuốn cassette nhạc pop Anh Mỹ chọn lọc giá 1 đô-la và 3 cuốn đặc biệt giá 2 đô-la của The Beatles, The Shadows và nam danh ca Pháp Adamo.

    So với những người có tiền mua máy radio-cassette trị giá cả trăm đô-la ở Singapore, tôi chẳng lời được bao nhiêu nhưng sau khi tới Úc, bạn bè đã phải ganh tỵ vì những cuốn cassette của tôi đã trở nên vô giá, bởi ở Úc chẳng những không có băng “lậu” mà còn không có những băng chọn lọc với hàng chục ca khúc No.1 của các ca sĩ, ban nhạc nổi tiếng như ở “hải cảng tự do” Singapore.


    * * *

    Sau gần hai tuần ở Singapore, chúng tôi được thông báo chiều 11/8/1982 sẽ đáp phi cơ sang Úc. Và phải đợi tới khi ra tới phi cảng quốc tế Changi, chúng tôi mới thực sự thấy được đỉnh cao văn minh của đảo quốc này.

    Sau này có cơ hội tìm hiểu, tôi mới biết sau khi được chính thức khánh thành ngày 29 tháng 12 năm 1981, Changi International Airport đã được xưng tụng là phi cảng quốc tế hiện đại nhất, đẹp nhất thế giới, còn lúc đó, tôi chỉ biết mình bị choáng ngợp trước kiến trúc tân kỳ với đài kiểm soát không lưu cao chót vót (80m), với những bồn phun nước, cây cối hoa lá ở bên trong phi cảng, đặc biệt là các loại hoa lan và màn ảnh digital (đầu tiên trên thế giới) thông báo các chuyến đi và đến.

    Hiện nay (2024), Changi International Airport đã có tới 4 terminal (dự trù sẽ có thêm T5 vào năm 2030), nhưng ngay ngày ấy, dù mới chỉ có T1, đã có tới 6 khu vực (island) với tổng cộng 200 quầy tiếp khách!



    Đài kiểm soát không lưu của phi cảng Changi



    Một trong 6 khu Departures trong phi cảng Changi với màn hình digital vào đầu thập niên 1980


    Trong lúc đoàn người đi Úc chúng tôi (độ khoảng 50 người) ngồi ở phòng chờ lên phi cơ, có một diễn tiến khá thú vị, và với riêng tôi phải nói là hết sức thú vị. Đó là việc một số người đã khám phá ra trong số người tỵ nạn đi Úc có bà QV.

    Bà QV nói tới ở đây chính là nữ tác giả viết sách dạy nấu ăn nổi tiếng ở Sài Gòn trước năm 1975, đã được tôi nhắc tới hai lần trong thiên hồi ký này.

    Thực ra, cả đời tôi mới được thấy hình ảnh của bà QV hai lần, một lần trên báo một lần trên tivi, cho nên nếu không được những người ngồi gần cho biết người phụ nữ quá tuổi trung niên ăn diện sang trọng kia là bà QV, tôi đã không nhận ra vị “ân nhân” đồng thời cũng là “oan gia” của mình!

    Gọi bà là ân nhân là vì vào đầu năm 1971, khi theo chồng ra Căn Cứ Không Quân Pleiku sau ngày cưới, trong hành trang vu quy của cô vợ yêu quý của tôi có cả cuốn sách “Cách nấu những món ăn Việt Nam căn bản” của bà QV, nhờ đó mà trong thời gian sống ở “phố núi cao”, tôi không phải cơm hàng cháo chợ nữa, cho dù cơm nhà đôi khi cũng phải cố gắng lắm mới nuốt được.

    Còn gọi là oan gia vì sau năm 1975, bà đã lên tivi khuyến khích mọi người nấu bánh chưng bằng bo bo và quả quyết “cũng ngon như bánh chưng nấu bằng nếp”!

    Những sự việc trên tôi đã viết chi tiết trong một vài kỳ trước đây, nay chỉ xin kể sơ.

    Vào năm 1977, trong thời gian tù cải tạo ở Phước Long, thân nhân một anh bạn không biết kiếm đâu ra được mấy số Báo ảnh Liên Xô nhân dịp lên thăm nuôi đưa vào trại cho mọi người đọc cho biết.

    Về hình thức, Báo ảnh Liên Xô cũng tương tự tạp chí Thế Giới Tự Do của Phòng Thông Tin Hoa Kỳ trước năm 1975, cũng in màu rất đẹp tuy giấy có phẩm chất kém hơn. Còn về nội dung dĩ nhiên sặc mùi tuyên truyền, nhưng vì ở tù trong rừng sâu không có thứ gì để đọc, anh em cải tạo cũng chuyền tay nhau cho tới khi nó rách nát.

    Qua đọc Báo ảnh Liên Xô tôi mới khám phá ra hình bà QV trên Trang Phụ Nữ do “chị Vera” phụ trách, và qua nội dung trao đổi giữa đôi bên, tôi được biết bà QV đã từng viết thư cho chị Vera để tự giới thiệu bản thân, đề nghị thiết lập thêm mục gia chánh trên Báo ảnh Liên Xô, và bà hứa sẽ xung phong tham gia, hướng dẫn cách nấu các món ăn truyền thống của Việt Nam.

    Vì không có Báo ảnh Liên Xô để đọc tiếp, tôi cũng quên luôn bà QV cho tới khi về Suối Máu hơn một năm sau đó, trước tết Kỷ Mùi được xem bà lên đài truyền hình Sài Gòn Giải Phóng hướng dẫn dân miền Nam nấu bánh chưng bằng bo bo, loại ngũ cốc để nuôi gia súc mà chế độ CSVN và người dân miền Bắc gọi là “cao lương”!

    Đám tù cải tạo gốc Phước Long chúng tôi đã được hân hạnh làm quen với bo bo trong thời gian còn ở Tây Ninh, khi lên Phước Long phải ăn bo bo 100% trước khi bị bắt ăn độn “bắp đá” (bắp Nam Mỹ phơi khô, cũng để nuôi súc vật).

    Bo bo nấu chín có mùi hôi nồng rất khó ăn, chưa kể vỏ của nó còn dai hơn cao-su (vì thế khi làm thức ăn cho gia súc, người ta phải xay thành bột). Vậy mà bà QV khi lên truyền hình hướng dẫn dân Sài Gòn nấu bánh chưng bằng bo bo đã phán một câu xanh rờn:

    - Chị em cứ nấu thử đi, ăn ngon như bánh chưng nấu bằng nếp vậy!

    Không hiểu trong số người tỵ nạn có mặt trong phòng chờ này có ai ngày ấy đã xem bà QV lên truyền hình biểu diễn nấu bánh chưng bằng bo bo hay không, và nếu có thì giờ đây họ nghĩ gì trước việc bà (cùng cô con gái) lại rời bỏ thiên đường xã hội chủ nghĩa nơi bánh chưng được nấu bằng bo bo?!

    Theo suy đoán của tôi, nếu nhớ, chắc họ cũng chẳng vui gì trước việc bà QV lại có mặt trong hàng ngũ “tỵ nạn cộng sản”!

    Riêng tôi cũng không vui, nhưng nhớ tới việc có hàng trăm nghìn người Việt gốc Hoa không biết một câu tiếng Việt nhưng nhờ có nhiều vàng đã trở thành “tỵ nạn” - đi bán chính thức cũng như đi chui - sống dưới sự bao bọc của Cao ủy Tỵ nạn LHQ tại các trại tỵ nạn ở khắp Đông Nam Á, tôi cho rằng bà QV vẫn xứng đáng được gọi là “tỵ nạn” hơn những người Việt gốc Hoa nói trên rất nhiều!

    Nhìn bà và cô con gái lăng xăng chụp hình cho nhau (cái máy hình chắc mới mua ở Singapore), trong khi một số người tỏ vẻ khó chịu ra mặt, tôi lại cho đó là một cái gì hết sức tự nhiên. Làm người ai mà không mưu cầu hạnh phúc, và khi đạt được thì có quyền vui hưởng, đơn giản thế thôi!



    * * *

    Gần một tiếng đồng hồ sau, hành khách chuyến bay của hãng Hàng không Úc QANTAS được gọi vào cổng (gate) để lên phi cơ. Đám hành khách “tỵ nạn” chúng tôi đi sau cùng.

    Từ cổng, chúng tôi được hướng dẫn lên phi cơ bằng cầu thang ống (jet bridge, trong nước gọi là “ống lồng”). Vào bên trong phi cơ, nhìn mỗi hàng ngang có tới 10 ghế tôi mới biết mình được đi Boeing 747 “Jumbo”, kiểu phi cơ khổng lồ mà trước năm 1975 họa hoằn lắm mới có một chiếc đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất.

    Theo sự hướng dẫn của nhân viên di trú của Tòa đại sứ Úc và các cô tiếp viên hàng không, đoàn người tỵ nạn chúng tôi được cho ngồi ở một khu vực dành sẵn, tuy nhiên vì có khá nhiều ghế trống, chúng tôi muốn ngồi đâu thì ngồi. Vợ tôi có tật say xe, sợ cao độ lại mang bầu nên đòi ngồi bốn ghế ở giữa (3-4-3), hơn nữa bay ban đêm có ngồi gần cửa sổ cũng chẳng thấy gì.

    Khoảng 7, 8 giờ tối, phi cơ cất cánh. Chiếc Boeing 747 bay êm như mơ. Độ nửa tiếng sau, các nam nữ tiếp viên bắt đầu phân phối bữa ăn tối. Có hai món chính để lựa chọn là beef và chicken; vì ngày ấy chưa biết thịt bò Úc ngon nổi tiếng, cả gia đình tôi chọn món gà chiên, đi kèm với bánh mì ổ nhỏ, bơ, cheese, salad, một lon bia hay nước ngọt (loại lon ngắn bằng 2/3 lon 375 ml), hoặc một ly rượu vang đỏ hay vang trắng.

    Bình thường, tôi không bao giờ ăn hết một phần ăn như thế, nhưng hôm đó tôi xơi tới gần hai phần!

    Nguyên tôi chỉ được trời phú cho một nửa cái “ăn to nói lớn” mà một đực rựa cần có, nghĩa là tôi nói lớn, rất lớn, thuyết trình không cần microphone nhưng lại ăn rất ít và rất chậm.

    Tôi ăn chậm bẩm sinh, tức là không phải răng yếu mà vì không thể nhai nhanh. nuốt nhanh như mọi người được. Vì thế khi đi lính, vào quân trường tôi luôn luôn bị đói, mọi người ăn xong, vị huynh trưởng ra lệnh đứng lên rời “nhà bàn”, tôi vẫn chưa ăn được nửa bữa!

    Nhưng kể cả trường hợp có thì giờ thoải mái, tôi cũng không thể ăn nhiều vì bao tử quá nhỏ; cho nên trong tù cải tạo, sau khi ăn trưa, ngủ trưa, trên đường đi lao động ca chiều tôi đã cảm thấy đói.

    Vậy mà trên chuyến bay đi Úc, sau khi ngốn hết khẩu phần của mình, nhìn sang thấy của vợ gần như còn nguyên, tôi tiếc rẻ (một đức tính có được trong tù) bèn ăn nốt!

    Trước 1975, tôi thích uống hơn là ăn, nói theo cách nói của dân nhậu là không “phá mồi”, nhưng sau bao năm tù đày, thiếu thốn, đói khổ, giờ này chỉ cần được ăn một bữa tối đơn giản trên phi cơ QANTAS cũng đủ khiến tôi cảm thấy cái ăn nó chưa bao giờ thú vị đến như thế!



    * * *

    Đêm đã khuya, mặc dù hầu hết hành khách đã ngủ yên, hai cô tiếp viên vẫn đi lên đi xuống ở hai lối đi, quan sát tình hình, trò chuyện hỏi han hành khách còn thức, và phục vụ giải khát.

    Thấy trên xe đẩy ngoài trà, cà-phê, sữa, nước ngọt... còn có chai whisky Johnnie Walker nhãn đen, dù không cảm thấy thèm rượu, tôi vẫn xin một ly single (45 ml).

    Tôi chỉ muốn được thưởng thức lại hương vị quen thuộc của chai rượu mình ưa thích trước năm 1975 như một sự hồi tưởng quá khứ.

    Đưa ly rượu lên mũi lắc nhẹ, hít một hơi tôi cảm thấy lâng lâng, sảng khoái; nhấp một ngụm nhỏ, vị cay thấm vào từng kẽ răng, hơi nồng bốc lên mũi, tôi nhắm mắt lại và nghĩ tới tương lai trước mặt. Mặc dù vẫn tiếc cơ hội đi Mỹ và chưa thể hình dung được cuộc sống ở Úc, tôi cũng cố tự nhủ thôi thì tới đâu hay tới đó, đã có hàng nghìn người nửa thầy nửa thợ như tôi định cư ở Úc chứ có phải một mình tôi đâu.

    Que sera sera, nhưng ít nhất nơi quê hương thứ hai ấy tôi cũng sẽ không còn bị gọi là “ngụy”, các con tôi đi học về sẽ không còn hát “Đêm qua em mơ gặp bác Hồ...” để rồi ăn mấy cái tát của mẹ, vợ tôi sẽ không còn phải bon chen ngoài chợ trời...

    Nhìn bà QV và cô con gái tay cầm ly rượu sánh vai cô tiếp viên tóc vàng tươi cười chụp hình lưu niệm, tôi mỉm cười, uống cạn ly rượu rồi thiếp đi lúc nào không hay.

    Nguyễn Hữu Thiện
    Melbourne, Úc-đại-lợi, tháng 7/2024

    * Để hoài niệm một quãng đời và tưởng nhớ những người đã đến rồi đi, cách riêng:
    - Linh mục Gildo Dominici (1935-2003) – một người cha tinh thần
    - Nhạc sĩ Văn Giảng (1924-2013) – một người thầy
    - Nhà thơ Phan Lạc Giang Đông (1940-2001) – một người bạn
    - Nhà giáo Gaylord Barr (1947-2015) – một tâm hồn.





    CHÚ THÍCH:

    (1) Sau khi sang Úc định cư, qua tham gia các sinh hoạt cộng đồng tôi mới biết tới hoạt động của tàu Cap Anamur. Thời gian này, Ủy Ban Cứu Người Vượt Biển (Boat People S.O.S Committee)do Tiến Sĩ Nguyễn Hữu Xương, giáo sư Ðại Học University of California San Diego, sáng lập năm 1980 tại San Diego và làm chủ tịch, nhà văn Phan Lạc Tiếp giữ chức vụ Giám Ðốc Ðiều Hành, được xem là tổ chức nhân đạo (của người Việt) uy tín và đóng góp nhiều nhất vào quỹ hoạt động của tổ chức “A ship for Vietnam” – thường được gọi là “Ủy ban Cap Anamur”.

    Sau khi chi nhánh của Ủy Ban Cứu Người Vượt Biển được thành lập tại Úc châu, do một vị linh mục tuyên úy vốn là cậu họ của tôi làm Trưởng ban, tôi đã tham gia với tư cách xướng ngôn viên (MC) cho các buổi văn nghệ, đấu giá gây quỹ của Ủy Ban tại thành phố Melbourne.

    Đầu năm 1986, Ủy Ban Cứu Người Vượt Biển đã hợp tác với Ủy Ban Cap Anamur cùng với tổ chức Médecins Sans Frontières (MSF, Doctors Without Borders) của Pháp đưa con tàu Cap Anamur II ra khơi.

    Trong thời gian 5 tháng hoạt động, tàu Cap Anamur II đã gặp 14 chiếc ghe tỵ nạn và vớt được tổng cộng 888 thuyền nhân. Trong số này, 530 thuyền nhân được được trao cho Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ ở Trại Palawan, Phi-luật-tân, để đi định cư tại các quốc gia đệ tam đã cấp chiếu khán cho họ.

    Số 358 thuyền nhân còn lại được tàu Cap Anamur II chở thẳng về Tây Đức, tới hải cảng Hambourg ngày 5 tháng 5 năm 1986. Tại đây, các thuyền nhân Việt Nam đã được người dân và chính quyền đón tiếp trọng thể, được vinh danh là “Những Chiến Sĩ của Tự Do” (Freedom Fighters).

    (2) SBS, viết tắt của Special Broadcasting Service, gồm SBS Radio và SBS TV, là một hệ thống truyền thông công cộng của Úc.

    SBS Radio bắt đầu hình thành vào giữa thập niên 1970 với việc chính phủ Úc cung cấp cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật để các thiện nguyện viên trong nhóm sắc tộc thực hiện các chương trình phát thanh bằng ngôn ngữ mẹ đẻ tại hai thành phố lớn nhất của Úc là Sydney và Melbourne.

    Tới đầu năm 1978, SBS Radio được chính thức thành lập với kinh phí do chính phủ liên bang tài trợ, phát sóng trên toàn quốc.

    Luật sư Lưu Tường Quang, một người tỵ nạn trước năm 1975 là công chức cao cấp thuộc Bộ Ngoại Giao VNCH, trở thành vị Giám đốc đầu tiên của SBS Radio. Riêng tôi cũng thường xuyên cộng tác với Ban Việt Ngữ từ những năm cuối thập niên 1990 cho tới đầu thập niên 2010.

    Về truyền hình, SBS TV bắt đầu hoạt động vào tháng 10/1980.

    Tới cuối thập niên 1980, SBS đã lớn mạnh, không chỉ dành cho các sắc tộc (với trên 60 ngôn ngữ khác nhau) mà còn là một hệ thống phát thanh, truyền hình bằng Anh ngữ (mainstream) cho khán thính giả toàn quốc, và được tiếp vận tới nhiều quốc gia trên thế giới.
    Last edited by Nguyen Huu Thien; hôm nay, 12:10 AM.


Hội Quán Phi Dũng ©
Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




website hit counter

Working...
X