BUỒN VUI ĐỜI LÍNH VĂN PHÒNG (phần 4)

Collapse
X

BUỒN VUI ĐỜI LÍNH VĂN PHÒNG (phần 4)

Collapse
 
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts
  • Nguyen Huu Thien
    Moderator

    • Jul 2014
    • 1199

    #1

    BUỒN VUI ĐỜI LÍNH VĂN PHÒNG (phần 4)

    BUỒN VUI ĐỜI LÍNH... VĂN PHÒNG (phần 4)

    Hồi ký
    Nguyễn Hữu Thiện



    Bộ Tư Lệnh KQ, Tân Sơn Nhất, 1970


    ĐÔI DÒNG PHI LỘ #2

    Trong “Đôi dòng phi lộ” của Phần 3, tôi đã phân trần về việc thiên hồi ký Buồn Vui Đời Lính… Văn Phòng của tôi lúc ban đầu dự trù gồm hai phần, đã kéo dài thành ba phần, và phần viết thêm ấy được xem như nén hương lòng tưởng nhớ những vị niên trưởng đã vĩnh viễn ra đi, một bông hồng gửi tới những vị còn tại thế thay cho lời cám ơn về những ưu ái chiếu cố...”


    Nhưng như độc giả đã thấy, qua 10 kỳ dài lê thê của Phần 3 tôi mới viết xong những gì có liên quan tới năm vị niên trưởng - Từ Văn Bê, Nguyễn Xuân Vinh, Vũ Thượng Văn, Nguyễn Phúc Tửng, Võ Văn Ân - trong số hàng chục vị cần được đề cập tới.

    Vì không thể tiếp tục kéo dài Phần 3 ngày này qua tháng khác để độc giả phải điên đầu khi tìm đọc từng kỳ, tôi sẽ bắt đầu Phần 4 để tiếp nối những gì mình đã viết.

    Thành thật xin lỗi và mong rằng rồi đây sẽ... không có Phần 5!


    Phần 4
    Những người muôn năm cũ


    Năm vị niên trưởng đã được tôi nhắc tới trong Phần 3, trừ ông Từ Văn Bê là vị chỉ huy trực tiếp trước năm 1975, còn lại các ông Nguyễn Xuân Vinh, Vũ Thượng Văn, Nguyễn Phúc Tửng, và Võ Văn Ân đều là những vị tôi được hân hạnh gặp gỡ sau này tại hải ngoại do cơ duyên, khác với những vị tôi sẽ đề cập tới trong Phần 4, là những niên trưởng tôi xin giúp đỡ trong thời gian biên soạn quyển Quân Sử Không Quân Việt Nam Cộng Hòa.

    Ngược dòng thời gian, sau Đại Hội Không Quân liên bang lần thứ 5 tổ chức vào cuối năm 1999, Liên Hội Ái Hữu Không Quân QLVNCH Úc Châu đã quyết định thực hiện quyển QSKQ, dự trù dự trù phát hành vào dịp kỷ niệm 50 năm ngày thành lập quân chủng (1 tháng 7, 2005).

    Ban thực hiện Quân Sử được thành lập gồm sáu thành viên, ba người của tòa soạn LÝ TƯỞNG Úc Châu, ba người trong Ban chấp hành Hội KQ Victoria.



    Ban thực hiện QSKQ, từ trái, Vũ Văn Bảo, Trần Ninh, Phạm Công Khanh,
    Nguyễn Văn Dũng, Nguyễn Văn Hùng, Nguyễn Hữu Thiện

    * Trần Phước Hội – cái tủ thuốc bắc của Không Quân

    Được trao trách nhiệm biên soạn, đầu năm 2001 tôi đã phổ biến Thông Báo của Ban thực hiện QSKQBản Phác Thảo về Hình thức & Nội dung cuốn sách dự trù thực hiện. Kết quả, chúng tôi đã nhận được sự khuyến khích, lời hứa giúp đỡ, và ý kiến đóng góp của nhiều niên trưởng và chiến hữu KQ từ khắp nơi. Đầu tiên là NT Trần Phước Hội, người được xưng tụng là “cái tủ thuốc bắc của Không Quân”.

    Cựu Thiếu tá Trần Phước Hội sinh năm 1931, dòng dõi hoàng tộc Huế, cháu nội của vua Thành Thái. Lúc còn nhỏ, ông có tên là Nguyễn Phước Bảo Hội, sau này vì thời cuộc nên đổi tên thành Trần Phước Hội. Ông còn một người anh trai ở Huế tên là Nguyễn Phước Bảo Hiền.

    Tình nguyện gia nhập Không Quân, theo học Khóa 1 Hạ sĩ quan Kỹ thuật tại Rochefort năm 1952. Về nước, ông lần lượt phục vụ tại:

    - Đệ Nhất Phi Đoàn Tác Chiến & Liên Lạc, Nha Trang.
    - Đệ Nhất Phi Đoàn Khu Trục (tiền thân của Phi Đoàn 514 Phượng Hoàng), Biên Hòa.
    - Phi Đoàn trực thăng 217 Thần Điểu.


    Cấp bậc và chức vụ sau cùng: Thiếu tá Liên đoàn trưởng Liên Đoàn Kỹ Thuật, CC20CT, Phan Rang.

    NT Trần Phước Hội là một nhân vật khá đặc biệt, được nhiều người trong Không Quân nể phục vì kiến thức rộng, trí nhớ hơn người, và tài cầm bút.

    Ông say mê môn lịch sử (từng là sinh viên Ban Cử Nhân Sử Địa, Đại Học Văn Khoa), thích tìm hiểu, ham đọc sách.

    Sau khi định cư tại Hoa Kỳ, ông bắt đầu viết về thuở ban đầu của quân chủng và những kỷ niệm trong đời quân ngũ, phổ biến trên website Bạn Già Không Quân (của Đại tá Nguyễn Quang Tri) và các đặc san của Không Quân ở hải ngoại.

    * * *

    Trước khi liên lạc trực tiếp để cổ vũ, khích lệ chúng tôi, ông Trần Phước Hội đã viết “Thư góp ý của KQ Trần Phước Hội”.

    Ngay trong cách phổ biến lá thư góp ý này, chúng tôi đã có nhận xét ông
    Hội là người biết nguyên tắc và trọng nguyên tắc. Ông đọc được Thông Báo và Bản phác thảo của chúng tôi trên đặc san Lý Tưởng của Tổng Hội Không Lực ở Hoa Kỳ thì ông gửi thư góp ý trên Lý Tưởng của Tổng Hội, và chỉ “sao kính gửi Liên Hội Ái Hữu KQ Úc Châu, để kính tường”.

    Thế nhưng sau
    “bản sao” lá thư góp ý ấy, ông Hội đã viết riêng cho chúng tôi những lời chí tình, chân thật. Ông cho biết tuy từng là sinh viên Ban Sử Địa, bản thân ông ngoài loạt bút ký “Đốt lò hương cũ” chưa bao giờ nghĩ tới việc khởi xướng thực hiện một cuốn Quân Sử cho Không Quân VNCH, và sau một vài vụ “khởi sự bất thành” (false start) ở một số nơi, ông đã tin rằng rồi đây sẽ chẳng có cá nhân hay hội đoàn KQ nào ở hải ngoại đứng ra làm công việc này.


    Thành thử khi thấy chúng tôi phổ biến Thông Báo và Bản phác thảo, mà “đọc lên tui tin mấy anh sẽ làm thiệt” (nguyên văn lời ông) ông Hội đã có cảm tình, và nhận thấy ông có bổn phận phải hỗ trợ hết mình những người đã tự nhận lãnh công việc mà ông và những người khác dù có thiện chí cũng không có cơ hội để thực hiện.

    Khi được liên lạc với ông Hội lần đầu tiên, vì cả tuổi lính lẫn tuổi đời đều thua xa, chúng tôi đã gọi ông là “Niên trưởng”, nhưng – cũng giống như ông Nguyễn Phúc Tửng sau này – ông yêu cầu chúng tôi “dẹp cái chữ niên trưởng đó đi” để “anh em” cho thân mật!

    Việc đầu tiên của ông Hội là gửi cho chúng tôi những bài cũ của ông viết về thuở ban đầu của KQVN, đồng thời cho mượn cuốn Quân sử QLVNCH – Giai đoạn hình thành, do Phòng 5 Bộ TTM ấn hành, nặng gần 4 kg, và đề nghị tôi dựa vào tình hình chính trị, quân sự được ghi lại trong cuốn sách này làm bối cảnh cho việc thành lập KQVN.



    Cuốn quân sử QLVNCH trong giai đoạn hình thành

    Theo sự tìm hiểu của tôi, cuốn sách này một số thư viện ở Úc cũng có nhưng ông Hội nhất định gửi cuốn của ông sang, bởi vì theo lời ông cuốn sách có những chỗ không chính xác đã được ông hiệu đính, cho nên ông muốn gửi cho tôi để tôi khỏi bị phân vân nghi ngại, tốn công đọc tới đọc lui.

    Nhận được cuốn sách cả ngàn trang, mới đọc lướt qua tôi đã phục ông Hội. Ông không chỉ sửa những chỗ sai bằng bút chì, mà còn ghi rõ ông căn cứ vào tài liệu nào; ở một vài chỗ ông còn đính kèm những trang giấy trên đó ông ghi thêm những chi tiết mà ông biết nhờ đọc được ở đâu đó, cũng có khi viết những lời bình kiểu Mao Tôn Cương!


    Tiếp theo, ông Hội đã dồn hết tâm sức để viết và gửi cho chúng tôi ba bài để làm tài liệu biên soạn cuốn QSKQ:

    - Ngành Kỹ Thuật & Tiếp Vận trong Không Quân Việt Nam
    - Đệ Nhất Phi Đoàn Tác Chiến & Liên Lạc
    - Việc thành lập Phi Đoàn 217

    Rồi từ đó, cứ lâu lâu ông lại điện thoại hỏi thăm công việc, khuyến khích chúng tôi (ông sống giang hồ, không có email), hoặc viết thư trả lời những chi tiết mà tôi nhờ ông tìm hiểu, kiểm chứng; hoặc gửi thêm tài liệu, chẳng hạn photocopy của cuốn La Reconquête de l’Indochine của người Pháp mà ông may mắn có được.

    Sau khoảng nửa năm liên lạc qua lại, tôi đã hiểu tại sao người ta lại đặt cho ông
    Hội biệt hiệu “cái tủ thuốc bắc của Không Quân”. Nghĩa là bất cứ cái gì liên quan tới thời kỳ đầu của Không Quân, ông cũng biết, cũng nhớ!


    Chính ông sếp cũ của tôi – Chuẩn tướng Từ Văn Bê – khi nghe tôi báo cáo về việc “lôi kéo” được ông Trần Phước Hội, cũng mừng cho tôi vì bản thân ông Bê rất nể phục kiến thức và trí nhớ của ông Hội từ ngày hai người còn phục vụ tại Đệ Nhất Phi Đoàn Tác Chiến & Liên Lạc (1954-1956) và Đệ Nhất Phi Đoàn Khu Trục & Trinh Sát (tức Phi Đoàn 1 Khu Trục,
    tiền thân của PĐ514).

    thế chúng tôi quyết định mời ông Hội làm “cố vấn biên tập”, ông nhận lời nhưng nhấn mạnh chỉ trên công việc chứ không trên danh xưng.


    Khoảng giữa năm 2002, ông Hội viết thư cho tôi biết ông dự trù sẽ sang Úc một chuyến để thăm mấy người cháu ở Perth (tiểu bang Tây Úc) đồng thời thăm các ông (Đại úy) Phạm Khôn Rư, (Thiếu tá) Nguyễn Bửu Lộc, là đàn em khóa 8 Rochefort, ở Brisbane (tiểu bang Queensland), sau đó sẽ xuống Melbourne (tiểu bang Victoria) thăm (Thiếu tá) Nguyễn Văn Răng, bạn cùng khóa 1 Rochefort. Trong thời gian ở Melbourne, ông sẽ ở nhà ông Răng và mỗi ngày “sẽ sử dụng phương tiện chuyên chở công cộng” tới nhà tôi để xem xét và góp ý vào việc biên soạn.

    Rất tiếc, sau đó vì một lý do bất khả kháng, ông Hội đã phải hủy bỏ dự định trên. Thay vào đó ông liên lạc thư từ với tôi thường xuyên hơn, yêu cầu tôi cho biết diễn tiến công việc, nhất là về thời kỳ thành lập KQVN.

    Cũng xin viết thêm, nội dung cuốn QSKQ gồm 7 Chương, trong đó Chương 6 (hình ảnh) và Chương 7 (Phụ Lục) do các anh em tòa soạn LÝ TƯỞNG Úc Châu đảm trách, còn lại 5 Chương do tôi biên soạn, gồm:

    -Việc thành lập KQVNCH
    -Thời kỳ phát triển (1956-1964)
    -Thời kỳ hiện đại hóa (1965-1968)
    -Thời kỳ bành trướng (1969-1972)
    -Sau Hiệp Định Ba-lê (1973-1975)

    Công việc biên soạn, nếu nói về “cực” thì cả 5 Chương đều cực như nhau, nhưng nếu nói về “khó”, thì Chương I – Việc thành lập KQVNCH – là khó nhất.

    Khó bởi vì tài liệu vốn đã không có bao nhiêu lại thường bị tam sao thất bổn. Do đó, ngoài hai cuốn South Vietnamese Air Force của Jim Mesko – một cuốn sách mỏng nhưng có những dữ kiện chính xác nhờ tham khảo sử liệu của người Pháp, người Mỹ, và cuốn Flying Dragons của Robert C. Mikesh - một cuốn sách dày nhưng trong ấn bản lần thứ nhất khá nhiều cái sai vì người trong cuộc (KQVN) nhớ sai, tôi chỉ biết cậy trông vào “bộ nhớ” của các niên trưởng thuộc hàng “khai quốc công thần” như Võ Dinh (Tham mưu trưởng KQ), Vũ Văn Ước (BCH/HQKQ), Phạm Ngọc Sang (SĐ6KQ), Nguyễn Quang Tri, Trần Phước, Huỳnh Minh Quang...



    South Vietnamese Air Force của Jim Mesko


    Flying Dragons của Robert C Mikesh
    (ấn hành lần thứ nhất)

    Nhưng các niên trưởng nói trên mỗi vị cũng chỉ biết, chỉ nhớ về một số đơn vị, chứng kiến một số sự kiện, và trong một vài trường hợp đã không có sự thống nhất về thời điểm, hoặc không nhớ diễn tiến. Cho nên tôi phải so sánh, gạn lọc rồi đúc kết ký ức của các vị niên trưởng, trong đó quan trọng nhất là bài viết ngắn Các cấp chỉ huy đơn vị đầu tiên của KQVNCH do Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang biên soạn ít lâu trước khi qua đời, được phổ biến trên website Bạn Già Không Quân.

    Sau đó, chỗ nào còn nghi ngờ, hoặc có một khoảng trống thời gian “không thể bỏ
    qua” tôi lại phải liên lạc với các NT Võ Dinh, Trần Phước, Vũ Văn Ước, Nguyễn Quang Tri để xin “cứu bồ”. Trường hợp các niên trưởng cứu không được thì phải nhờ tới “tủ thuốc bắc của Không Quân” Trần Phước Hội. Và trong đa số trường hợp, tôi đã không phải thất vọng.


    Bên cạnh đó, tuy không nắm giữ những chức vụ quan trọng, không chỉ huy các đơn vị đầu tiên của KQVN, nhưng ông Hội biết, và nhớ rất nhiều diễn tiến vào cái “thuở ban đầu lưu luyến ấy”, cho nên ông đã giúp tôi được yên tâm khi viết về một số khoảng trống thời gian mà ông gọi là “khuyết sử”.

    Giờ đây nhìn lại, chính tôi cũng không ngờ Chương I của cuốn QSKQ lại có thể đầy đủ tới mức ấy. Bản
    thân tôi chẳng có tài cán, công lao gì trong đó, mà tất cả là nhờ vào bộ nhớ của các NT, nhất là Chuẩn tướng Võ Dinh, Đại tá Vũ Văn Ước, Đại tá Trần Phước, và đặc biệt ThiếuTrần Phước Hội.

    * Con người tài hoa và tình nghĩa

    Ngoài chỉ số bảo trì phi cơ, ông
    Trần Phước Hội còn có nhiều chỉ số phụ”, trong đó có nghề cầm bút.


    Đọc loạt bài “Đốt lò hương cũ” và “Không Quân thời khuyết sử”, cũng như những bài khác của ông đăng trên website Bạn Già Không Quân, Lý Tưởng của Tổng Hội, Lý Tưởng - Úc Châu, người ta không chỉ nể phục kiến thức, trí nhớ của ông mà còn thích thú về óc khôi hài, châm biếm nhẹ nhàng, hoặc cảm động trước tình nghĩa nơi con người ông.

    Khôi hài, châm biếm như ông
    tả cảnh
    mấy cô nữ trợ tá KQ xinh đẹp duyên dáng, mặc đồng phục váy ngắn, vào đầu thập niên 1950 được biệt phái tới CCKQ Biên Hòa để thực tập hướng dẫn phi cơ trên “lầu gương” (tên gọi nhà văn Dương Hùng Cường đặt cho đài kiểm soát không lưu). Ông Hội viết:

    ...Muốn lên lầu, phải leo một cái thang bằng sắt dựng thẳng đứng theo kiểu thang cứu hỏa. Các cô tập sự cứ mỗi hai giờ lại phải leo thang để đổi ca. Thân liễu yếu đào tơ mà phải hì hục leo vất vả, sợ té nên cứ bám chặt vào thang mà không dám bước lên. Khổ một nỗi là các cô mặc váy ngắn, muốn đến gần để tiếp tay đỡ các cô lên thì cũng ngại ngùng... Trong tình cảnh này, mượn hai câu thơ của Hồ Xuân Hương để diễn tả thì đúng nhất:

    Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt – Đi thì cũng dở, ở không xong!

    Tình nghĩa thì điển
    hình là bài “Tìm bạn 4 phương”, viết cho một bà đầm tóc vàng sợi nhỏ đã 7 bó, sau gần một nửa thế kỷ vẫn chưa quên được người tình xưa - một chàng Trung sĩ Không Quân VNCH đào hoa đã đền nợ nước từ đời nào! Hoặc bài “Ngày giỗ tướng Lành”...

    Ông Hội không chỉ tình nghĩa với người mà còn tình nghĩa với vật – những con tàu thân yêu. Sau khi Đệ Nhất Phi Đoàn Tác Chiến & Liên Lạc bị giải thể, những chiếc oanh tạc cơ Marcel Dassault MD-315 bị người Pháp lấy lại để viện trợ cho Không Quân Hoàng Gia Căm-bốt, khi có dịp ghé phi trường Pochentong và nhìn thấy bóng một “người tình xưa”, ông Hội đã tìm mọi cách để được tới gần, vuốt ve và chụp chung với “em” một bô hình kỷ niệm! (xem Phụ Lục)


    * * *

    Giữa năm 2005, ông Hội tới Melbourne tham dự Lễ Kỷ Niệm 50 Ngày thành lập Không Quân VNCH, đồng thời cũng là buổi phát hành cuốn
    QSKQ.

    Trước ngày lễ, một hoa tiêu trực thăng của Phi Đoàn 217, được biết ông Hội là niên trưởng kỹ thuật của Phi Đoàn lúc mới thành lập, đã có nhã ý tổ chức một bữa cơm gia đình để khoản đãi, có sự hiện diện của nhiều anh em trong hội KQ Victoria.


    Riêng tôi thì không được may mắn cho lắm: vì đã có hẹn trước với NT Nguyễn Văn Răng, một người bạn thân cùng Khóa 1 Rochefort, ông Hội không thể tới nhà tôi dùng bữa cơm hội ngộ với anh chị Phạm Khôn Rư (Khóa 8 Rochefort), chị Huỳnh Long Mỹ (quả phụ cố Đại tá Nguyễn Bình Trứ) tới từ Brisbane, và ông Nguyễn Bá Thảo, cựu Trung tá Trưởng Khối Chiến Tranh Chính Trị, BCH Kỹ Thuật & Tiếp Vận KQ, vị chỉ huy của tôi trước 1975, tới từ Hoa Kỳ.

    Sau
    khi cuốn QSKQ được phát hành, tôi không có dịp gặp lại ông Hội, và cũng không liên lạc điện thoại, thư từ với ông nữa vì ông như cánh chim trời, nay đây mai đó.


    Khoảng giữa năm 2008, một tay bạn thân của tôi ở Hoa Kỳ viết thư sang kể lại việc được gặp ông Hội ở Houston và ông gửi lời thăm tôi. Tay bạn (được biết ông Hội lần đầu) nhận xét: “Ông già vui tính, dễ thương quá mày ạ!”

    Lần đầu tiên, tôi nghe một người gọi ông
    Hội là “ông già” (chúng tôi thường gọi bằng “anh”). Và chỉ mấy tuần sau “ông già vui tính, dễ thương” ấy đã vĩnh viễn ra đi!

    Viết tới đây, tôi bỗng nhớ lại câu nói của ông
    Hội khi chúng tôi quyết định thực hiện cuốn QSKQ:

    “Mấy anh có làm thì làm gấp đi, các NT của chúng mình giờ này đa số đã già yếu cả rồi, không biết ra đi lúc nào!”

    Có ngờ đâu, ông
    Hội lại ra đi trước hơn ai hết trong số những NT mà tôi muốn xin tài liệu.


    Trong một chuyến về thăm quê cha đất tổ, ông đã đột ngột qua đời ngày 9 tháng 6 năm 2008 tại Huế vì một cơn đau tim. Hưởng thọ 78 tuổi.

    Tang lễ được cử hành tại Huế, và ông đã được an nghỉ trong nghĩa trang của dòng họ (vua Thành Thái) ở cố đô.

    sao, cũng có thể xem đây một điều an ủi, sau một đời lang thang, biệt xứ, ông Trần Phước Hội - tức “Mệ” Nguyễn Phước Bảo Hội - đã được an giấc nghìn thu tại nơi chôn nhau cắt rốn của mình.


    * * *

    Sau cùng xin có đôi dòng giải thích về việc không có hình cá nhân của NT Trần Phước Hội trong bài viết của tôi.

    Không hiểu vì nguyên nhân gì, ông Hội không thích chụp hình, và nếu “bị” chụp thì căn dặn không được phổ biến trên các phương tiện truyền thông. Vì thế mặc dù chúng tôi có những tấm hình rất rõ chụp ông Hội phát biểu trong buổi phát hành cuốn QSKQ, ông đã chỉ đồng ý cho chúng tôi phổ biến một tấm chụp ông từ xa xa, đang đứng tại bàn để chào mọi người khi được MC giới thiệu.


    NT Trần Phước Hội trong buổi phát hành QSKQ

    Phải đợi tới khi ông mất, mới thấy một tấm hình chụp ông mặc áo dài khăn đóng được sử dụng trong tang lễ.

    (Còn tiếp)


    PHỤ LỤC

    Phi Đoàn Tác Chiến & Liên Lạc

    Phi Đoàn Tác Chiến & Liên Lạc, gọi một cách đầy đủ là Đệ Nhất Phi Đoàn Tác Chiến & Liên Lạc, do danh xưng tiếng Pháp của phi đoàn 1er Groupe de Combat et de Liaison, viết tắt là 1er GC&L, là một trong bốn đơn vị phi hành đầu tiên của Không Quân Việt Nam, tuy nhiên vì chỉ tồn tại được 2 năm đã không có mấy người biết tới.

    Khi cố vấn cho chúng tôi trong việc biên soạn quyển QSKQ, ông Trần Phước Hội nói rằng cho dù chỉ tồn tại được 2 năm, Phi Đoàn Tác Chiến & Liên Lạc cũng là nơi khởi nghiệp của nhiều vị niên trưởng trong KQVN trong đó có một vị sau này làm Tư lệnhbốn vị lên tới cấp tướng thì không thể không đề cập tới.

    thế, ông đã viết một bài rất chi tiết tựa đề Ðốt Lò Hương Cũ - Ðệ Nhất Phi Ðoàn Tác Chiến & Liên Lạc để chúng tôi tham khảo và sau đó phổ biến trên các trang mạng của Không Quân.


    * * *

    Sau khi Quốc trưởng Bảo Đại ký Dụ số 9 thành lập ngành Không Quân trong Quân Đội Quốc gia Việt Nam vào ngày 25/6/1951, ba phi đoàn sau đây đã được lần lượt thành lập, lúc đầu do người Pháp chỉ huy sau đó bàn giao cho phía VN.

    -Phi Đoàn 312 Đặc Nhiệm thành lập năm 1951, có nhiệm vụ chuyên chở các yếu nhân trong chính phủ; tới năm 1953 đổi danh xưng thành Phi Đội Liên Lạc VN (tiếng Pháp là Escadrille de Liaison du Vietnam, viết tắt là ELAVN, còn được gọi là Phi Đoàn VIP). Năm 1955, quyền chỉ huy Phi Đội Liên Lạc được bàn giao cho Đại úy Huỳnh Hữu Hiền.

    -Phi Đoàn 1 Quan Sát (tiền thân của PĐ110) thành lập ngày 1/1/1952, tới ngày 1/3/1953 bàn giao cho VN, Chỉ huy trưởng: Trung úy Nguyễn Ngọc Oánh.

    -Phi Đoàn 2 Quan Sát (tiền thân của PĐ112) thành lập đầu năm 1953, bàn giao cho VN ngày 1/7/1953, Chỉ huy trưởng: Trung úy Võ Dinh.

    Tới tháng 1/1954, Phi Đoàn Tác Chiến & Liên Lạc được thành lập tại Nha Trang.

    Đây là đơn vị phi hành đầu tiên của KQVN có khả năng “tác chiến”, mặc dù rất hạn chế. Phi đoàn được trang bị 16 phi cơ MD-315 Flamant, một loại máy bay 2 động cơ do hãng Marcel Dassault của Pháp chế tạo sau Đệ nhị Thế chiến, có 2 rack bom dưới cánh, mỗi bên gắn được 4 trái bom miểng loại 250 cân Anh, và 2 đại liên 50 (12 ly 7) ở hai bên mũi. Trong nhiệm vụ liên lạc, MD-315 có thể đáp xuống phi trường loại C (1.000m) ở các tỉnh nhỏ để chuyên chở các yếu nhân. MD-315 cũng được sử dụng để thả dù tiếp tế cho các tiền đồn.



    Một chiếc MD-315 Flamant mang huy hiệu KQVN phi diễn trong một airshow

    Trong số 16 phi cơ MD-315 của Phi Đoàn, có 6 chiếc cũ được lấy từ Phi Đoàn 312 Đặc Nhiệm, và 10 chiếc mới tinh sau khi tháo cánh đóng thùng đã được mẫu hạm Dixmude chở từ quân cảng Toulon tới Sài Gòn. Sau khi được ráp lại tại công xưởng Parc Colonial 191 ở Biên Hòa (tức Công Xưởng Không Quân sau này) và bay thử, các phi cơ đã được đưa ra Nha Trang.

    Thành phần nhân sự của Phi Đoàn Tác Chiến & Liên Lạc khá hùng hậu, với gần 200 sĩ quan, hạ sĩ quan, đa số tốt nghiệp phi công, điều hành viên, cơ khí viên, vô tuyến du hành (radio-navigant) tại các trường không quân ở Pháp hoặc Bắc Phi. Thời gian đầu, một số sĩ quan và hạ sĩ quan Pháp nắm giữ các chức vụ chỉ huy kiêm cố vấn để rồi tới khi mãn nhiệm kỳ lần lượt bàn giao lại cho người Việt, trong đó có Đại úy Đinh Văn Chung, Chỉ huy trưởng phi đoàn, Đại úy Phan Phụng Tiên, Trưởng phòng Hành quân, Trung úy Lê Văn Khương, Sĩ quan Kỹ thuật (về sau được Trung úy Từ Văn Bê thay thế)...

    Trong số sĩ quan của phi đoàn, sau này một vị lên làm Tư lệnh Không Quân là Đại tá Nguyễn Xuân Vinh, bốn vị lên tới cấp Chuẩn tướng là Huỳnh Bá Tính (Tư lệnh SĐ3KQ), Phan Phụng Tiên (Tư lệnh SĐ5KQ), Từ Văn Bê (Chỉ huy trưởng BCH/KT&TV/KQ) và Lê Trung Trực (Phụ tá cho Trung tướng Đặng Văn Quang tại phủ Tổng thống); trong số thăng cấp Đại tá có các ông Đinh Văn Chung (Tham mưu phó Chiến Tranh Chính Trị BTL/KQ), Dương Thiệu Hùng (Tư lệnh các KĐ 41, 23 Chiến Thuật), Nguyễn Kim Khánh...

    Về thành tích, trong thời gian tồn tại khá ngắn ngủi (2 năm), Phi Đoàn Tác Chiến & Liên Lạc đã tham dự hai cuộc hành quân quan trọng là Hành quân Atlante bình định Quân khu 5 (Nam-Ngãi-Bình-Phú) và Chiến dịch Đinh Tiên Hoàng bình định miền Tây, đánh dẹp hai tướng “Năm Lửa” Trần Văn Soái và “Ba Cụt” Lê Quang Vinh.


    KQVN tham gia chiến dịch với 1 biệt đội quan sát và 1 biệt đội MD-315 đồn trú tại phi trường Sóc Trăng.

    Bốn vị Trung úy thay phiên nhau làm Biệt đội trưởng MD-315 mỗi người một tuần lễ: Phan Phụng Tiên, Dương Thiệu Hùng, Huỳnh Minh Bon, và Lâm Văn Phiếu. Riêng Trung úy Huỳnh Bá Tính vì gốc Hòa Hảo nên từ chối không tham gia chiến dịch này.



    TT Ngô Đình Diệm tới thăm và cám ơn các nhân viên phi hành của Phi Đoàn Tác Chiến & Liên Lạc
    đã tham gia Chiến dịch Đinh Tiên Hoàng

    Ngoài ra, phi đoàn còn tham dự cuộc phi diễn đầu tiên của KQVN nhân ngày miền nam Việt Nam tuyên bố độc lập, thành lập nền Đệ Nhất Cộng Hòa, 26/10/1955, cùng với Phi Đoàn 1 Quan Sát và Phi Đoàn 1 Vận Tải (lúc đó KQVN chưa có khu trục và trực thăng).


    * * *

    Giữa năm 1956, Phi Đoàn Tác Chiến & Liên Lạc bị giải thể, vì theo các điều khoản của Hiệp định Genève 1954, mọi chiến cụ do người Pháp quản trị, trong đó có phi cơ, phải đem ra khỏi Việt Nam trước ngày 30/6/1956. Vì thế, 10 chiếc MD-315 đã được lấy lại để viện trợ cho Không Quân Hoàng Gia Căm-bốt, 6 chiếc còn lại bay về Pháp.

    Phần lớn nhân viên phi hành và một số nhân viên kỹ thuật của Phi Đoàn được đưa về Tân Sơn Nhất để thành lập Phi Đoàn 2 Vận tải do Đại úy Đinh Văn Chung làm chỉ huy trưởng, hoặc bổ sung cho Phi Đội Liên Lạc (Phi Đoàn VIP); số chuyên viên kỹ thuật còn lại được thuyên chuyển về Phi Đoàn 1 Khu Trục vừa được thành lập tại Biên Hòa.
    Last edited by Nguyen Huu Thien; 08-14-2025, 02:06 AM.
  • Nguyen Huu Thien
    Moderator

    • Jul 2014
    • 1199

    #2
    BUỒN VUI ĐỜI LÍNH... VĂN PHÒNG (phần 4)

    Những người muôn năm cũ

    Hồi ký

    Nguyễn Hữu Thiện

    (tiếp theo)

    *Những bộ nhớ thời “khuyết sử”

    Như đã viết trong kỳ trước, trong việc biên soạn cuốn QSKQ, khó nhất là Chương I – Việc thành lập KQVNCH.

    Khó bởi vì cuốn Flying Dragons của Robert C. Mikesh có nhiều điểm sai, cuốn South Vietnamese Air Force của Jim Mesko khá chính xác nhưng lại quá sơ lược. Trí nhớ của các niên trưởng thuộc hàng “khai quốc công thần” thì nhiều khi lại nhớ... khác nhau! Trước khi bắt đầu công việc, tôi đã có trong tay bài Ngày thành lập Không Quân VNCH của cựu Đại tá Huỳnh Minh Quang, nguyên Tham mưu phó Nhân Viên SĐ5KQ, và bài Các cấp chỉ huy đơn vị đầu tiên của KQVNCH của cựu Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, nguyên Tư Lệnh SĐ6KQ.

    Theo lời ông Trần Phước Hội cũng như sự tìm hiểu của riêng tôi, có thể nói bài của viết của NT Phạm Ngọc Sang chính xác tới 99%, nhưng trong đa số trường hợp ông chỉ nhớ năm chứ không nhớ ngày tháng, còn bài viết của NT Huỳnh Minh Quang “rằng hay thì thật là hay...” (vì có nhiều chi tiết) nhưng lại thiếu chính xác về một số mốc điểm thời gian quan trọng.


    Điển hình là thời điểm Thiếu tướng Lê Văn Tỵ được bổ nhiệm giữ chức vụ Tổng Tham mưu trưởng Quân Đội Quốc Gia Việt Nam thay Trung tướng Nguyễn Văn Hinh, và thời điểm Thiếu tá Trần Văn Hổ thay Trung tá Nguyễn Khánh trong chức vụ Phụ tá Không Quân (cho Tổng Tham mưu trưởng).

    NT Huỳnh Minh Quang viết:

    Rồi một biến chuyển quan trọng đã xảy ra trong QĐVNCH vào tháng 2-1956:
    Trung Tướng Lê Văn Tỵ được Tổng Thống Ngô Đình Diệm chỉ định thay thế Trung Tướng Nguyễn Văn Hinh ở chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng QĐVNCH.

    Trong khi trên thực tế, theo cuốn Quân sử QLVNCH – Giai đoạn hình thành và mọi tài liệu chính thức của VNCH, việc này đã xảy ra hơn 1 năm trước đó khi ông Lê Văn Tỵ còn mang cấp bậc Thiếu tướng.


    Một cách chi tiết, vào ngày 1 tháng 12 năm 1954, Đại tá Lê Văn Tỵ được Thủ tướng Ngô Đình Diệm thăng cấp Thiếu tướngbổ nhiệm giữ chức vụ Tổng Tham mưu trưởng Quân Đội Quốc Gia Việt Nam thay thế Trung tướng Nguyễn Văn Hinh.

    Nếu tới tháng 2/1956 ông Lê Văn Tỵ mới được Tổng thống Ngô Đình Diệm chỉ định thay thế Trung tướng Nguyễn Văn Hinh thì làm sao ông có thể tới chủ tọa lễ nhận bàn giao CCKQ Nha Trang vào ngày 1/7/1955 như hình ảnh đã ghi lại!


    Thiếu tướng Lê Văn Tỵ trong lễ bàn giao CCKQ Nha Trang, 1/7/1955


    Từ cái sai nói trên đã dẫn đưa tới cái sai về thời điểm Trung tá Trần Văn Hổ thay thế Trung tá Nguyễn Khánh trong chức vụ Phụ tá Không Quân.

    NT Huỳnh Minh Quang viết:

    Tiếp theo đó (tháng 2/1956), lệnh của Tham Mưu Biệt Bộ Phủ Tổng Thống (Đại Tá Huỳnh Văn Cao) chỉ thị Văn Phòng Phụ Tá Không Quân gọi Trung Úy Trần Văn Hổ đang phục vụ tại Phi Đoàn Liên Lạc Việt Nam (ELAVN) Tân Sơn Nhất về trình diện Tham Mưu Biệt Bộ Phủ Tổng Thống...

    Trong khi trên thực tế, Trung tá Nguyễn Khánh chỉ tạm thời giữ chức vụ Phụ tá Không Quân trong thời gian chưa đầy hai tháng (từ 1/7/1955 tới 20/8/1955) rồi bàn giao cho Thiếu Trần Văn Hổ.

    Trước đó một tuần, ông Trần Văn Hổ còn mang cấp bậc Trung úy, làm Biệt đội trưởng Biệt Đội Quan Sát tham gia cuộc hành quân Atlante tiếp thu Quân khu 5 (chứ không phải “đang phục vụ tại Phi Đoàn Liên Lạc Việt Nam Tân Sơn Nhất”như NT Huỳnh Minh Quang viết) thì được Biệt Bộ Phủ Thủ Tướng (lúc đó ông Ngô Đình Diệm chưa làm Tổng thống) gọi về, thăng liền một lúc hai cấp: Đại úy thực thụ, Thiếu tá nhiệm chức, và được bổ nhiệm vào chức vụ Phụ tá Không Quân. (Chú thích 1)

    Theo sự suy đoán của tôi, sở dĩ bài Ngày thành lập Không Quân VNCH của NT Huỳnh Minh Quang có nhiều chỗ sai về ngày tháng là vì ông chỉ vận dụng “bộ nhớ” của mình chứ không tham khảo tài liệu của người Pháp, người Mỹ cũng như cuốn Quân sử QLVNCH – Giai đoạn hình thành do Phòng 5 Bộ TTM ấn hành.

    NT Huỳnh Minh Quang viết bài này khá sớm, khi chưa có Internet, và hầu như chưa có ai (trong KQVN) viết về lịch sử quân chủng cho nên bài viết của ông đã trở thành một sử liệu hiếm hoi, được nhiều người tìm đọc và tin theo.

    Thật ra cũng có một số vị niên trưởng KQ thuộc hàng “khai quốc công thần” nhận những cái sai về thời điểm tôi nêu ra ở trên, trong đó có ông Trần Phước Hội và cựu Đại tá KQ Trần Phước, người cùng học Khóa 2 Sĩ Quan Hiện Dịch với ông Trần Văn Hổ, nhưng ai cũng ngại lên tiếng sửa sai. Vì thế, cho tới nay bài Ngày thành lập Không Quân VNCH của NT Huỳnh Minh Quang vẫn được phổ biến rộng rãi trên Internet mà không có ai làm công việc hiệu đính.

    Nhân tiện tôi cũng xin nêu ra những mâu thuẫn trong các tài liệu và “bộ nhớ” của các niên trưởng KQ liên quan tới cấp bậc của hai ông Trần Văn Hổ và Nguyễn Khánh vào thời điểm trên.

    Trước hết là ông Trần Văn Hổ, nhiều vị niên trưởng KQ viết rằng ngày ấy Trung úy Trần Văn
    Hổ được thăng liền một lúc ba cấp: Đại úy thực thụ, Thiếu tá nhiệm chức, Trung tá giả định và được bổ nhiệm vào chức vụ Phụ tá Không Quân (năm 2002 khi biên soạn cuốn QSKQ chính tôi cũng viết như thế).

    Tuy nhiên sau này tôi được biết không chỉ có cựu Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang (trong bài Các Cấp Chỉ Huy Đơn Vị Đầu Tiên Của KQVNCH) mà còn có ít nhất một vị niên trưởng KQ khác (tôi không nhớ tên), cũng như một số trang mạng uy tín viết rằng khi được bổ nhiệm vào chức vụ Phụ tá Không Quân ngày 20/8/1955, ông Trần Văn Hổ mang cấp bậc Thiếu tá, sau đó mới được thăng Trung tá.

    Sau khi bỏ công tìm hiểu thêm một số tài liệu, tôi đã nghiêng về phía NT Phạm Ngọc Sang và suy đoán diễn tiến sự việc như sau:

    Ngay sau khi được triệu về Phủ Thủ tướng, Trung úy Trần Văn Hổ đã được ông Trần Trung Dung, Bộ trưởng Phụ tá Quốc phòng, ký hai nghị định thăng cấp cùng một lúc: Trung úy lên Đại úy thực thụ, Đại úy thực thụ lên Thiếu tá nhiệm chức, và được bổ nhiệm vào chức vụ Phụ tá Không Quân thay ông Nguyễn Khánh; rồi sau đó (rất có thể vào dịp mừng ngày 26/10/1955 - ngày thành lập chính thể Việt Nam Cộng Hòa) mới được thăng cấp Trung tá giả định.

    Theo lời kể lại của Đại tá Trần Phước, sau khi ông Trần Văn Hổ được bổ nhiệm vào chức vụ Phụ tá Không Quân, các cấp chỉ huy trong Không Quân được lệnh về Sài Gòn trình diện vị tân chỉ huy thì “Trung úy Trần Văn Hổ đã mặc quân phục đại lễ trắng với cấp bậc Trung tá bước vào phòng họp”.

    Rất có thể vì tới lúc đó mới được diện kiến vị chỉ huy, các vị niên trưởng đó cho rằng ông Trần Văn Hổ đã được thăng liền một lúc ba cấp!

    * * *

    Tiếp theo, nói về cấp bậc của ông Nguyễn Khánh lúc nhận lãnh chức vụ Phụ tá Không Quân (ngày 1/7/1955). Theo Công Báo Quốc Gia Việt Nam thì Bộ Quốc Phòng đã bổ nhiệm Trung tá Nguyễn Khánh lúc bấy giờ đang là Thanh tra trưởng Nhảy Dù tạm thời giữ chức vụ Phụ tá Không Quân, trong bản tiểu sử của tướng Nguyễn Khánh được phổ biến cho báo chí khi ông giữ chức vụ Thủ tướng Chính phủ vào tháng 2/1964, cũng ghi rõ cấp bậc của ông khi giữ chức vụ nói trên (Phụ tá Không Quân) là Trung tá.



    Thủ tướng Nguyễn Khánh trên một trực thăng Alouette III của KQVN do đích thân
    Thiếu tá Nguyễn Huy Ánh, Chỉ huy trưởng Phi đoàn 211, ngồi ghế hoa tiêu vào năm 1964


    Chi tiết này phù hợp với tiểu sử của ông Nguyễn Khánh trên Wikipedia, theo đó sau khi chính thể Việt Nam Cộng Hòa được thành lập (26/10/1955), Quân Đội Quốc Gia Việt Nam được cải danh thành Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, Trung tá Nguyễn Khánh mới được thăng cấp Đại tá.

    Một cách chi tiết, sau khi bàn giao chức vụ Phụ tá Không Quân cho Thiếu tá Trần Văn Hổ vào ngày 20 tháng 8, TrungNguyễn Khánh được cử làm Chỉ huy phó Chiến dịch Hoàng Diệu (đánh dẹp Bình Xuyên) dưới quyền Đại tá Dương Văn Minh, Chỉ huy trưởng.

    Chiến dịch này kết thúc vào ngày 24/10/1955, hai ngày trước khi ông Ngô Đình Diệm tuyên bố thành lập chính thể Việt Nam Cộng Hòa. Để tưởng thưởng công lao, sau đó Tổng thống Ngô Đình Diệm đã thăng cấp Thiếu tướng cho Đại tá Dương Văn Minh, và thăng cấp Đại tá cho Trung tá Nguyễn Khánh.

    Việc nhiều người, trong đó có các NT Không Quân, kể lại rằng khi được bổ nhiệm vào chức vụ Phụ tá Không Quân, ông Nguyễn Khánh mang cấp bậc Đại tá, tôi cho rằng có lẽ cũng giống trường hợp cựu Trung tá KQ Nguyễn Phúc Tửng được người Việt ở Âu Châu gọi là Đại tá, mà tôi đã đề cập tới ở Phần 3.

    Đó là khác với người Việt khi nói, viết có sự phân biệt rõ rệt giữa hai cấp bậc Trung tá (Lieutenant Colonel) và Đại tá (Colonel), người Pháp người Mỹ khi nói chuyện hoặc viết thư thường gọi tắt “Lieutenant Colonel” là “Colonel”.

    Vào giữa thập niên 1950, đa số sĩ quan Việt Nam vẫn còn sử dụng tiếng Pháp cho nên cứ gọi ông Nguyễn Khánh là “Colonel” từ ngày ông còn mang lon Trung tá, đưa tới việc nhiều người hiểu lầm vị Phụ tá Không Quân là một Đại tá.

    *Đại tá Phùng Văn Chiêu.

    Nhưng cứ tạm cho rằng bài Ngày thành lập Không Quân VNCH của NT Huỳnh Minh Quang chính xác 100% thì cộng với bài Các cấp chỉ huy đơn vị đầu tiên của KQVNCH của NT Phạm Ngọc Sang cũng không thể giúp tôi biết được mọi diễn tiến quan trọng trong tiến trình thành lập KQVN.

    Chúng tôi cần những nhân chứng sống, những vị niên trưởng thuộc thế hệ thứ nhất đã dự phần vào, hoặc có liên quan trực tiếp tới việc thành lập KQVN.

    Nhưng một sĩ quan cấp úy trước năm 1975 chỉ phục vụ tại Pleiku và Biên Hòa, ra hải ngoại lại định cư ở Úc thì làm sao có thể quen biết các vị niên trưởng nói trên?

    Cũng may, tuy không quen biết các vị niên trưởng ấy nhưng tôi lại quen biết hai vị “trung gian” quen biết nhiều là cựu Trung tá Võ Ý và cựu Đại tá Phùng Văn Chiêu.

    Ông Võ Ý với tôi khá thân từ ngày còn ở Pleiku khi ông giữ chức Phi đoàn trưởng Phi Đoàn 118 còn tôi giữ chức Sĩ Quan Báo Chí Pleiku; ông là đàn em Võ Bị Đà Lạt của ông cậu tôi đang làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 20 CTCT bên Quân Đoàn II (cậu tôi khóa 13, ông Võ Ý khóa 17), và cộng tác với đặc san Đại Nghĩa của Tiểu Đoàn khá thường xuyên.

    Trong Phần 1 của thiên hồi ký này, tôi đã nhắc tới ông Võ Ý khá nhiều lần, ở đây chỉ viết thêm: ra hải ngoại, mặc dù một người định cư ở Úc một người ở Mỹ nhưng tôi và ông Võ Ý vẫn liên lạc thường xuyên, để thăm hỏi nhau cũng như trao đổi bài vở, tài liệu về Không Quân.



    Cựu Trung tá Võ Ý


    Dù thân trâu chậm uống nước đục, sang Mỹ theo diện HO sau nhiều năm tù “cải tạo”, ông Võ Ý vẫn tích cực tham gia mọi sinh hoạt của KQVN tại hải ngoại, trở thành đầu mối cho tôi mỗi khi cần liên lạc với các đàn anh, niên trưởng ở Hoa Kỳ.

    Còn cựu Đại tá Phùng Văn Chiêu, tôi được ông chiếu cố nhờ... thích nghe ông hát!

    Sau này, khi ông Chiêu qua đời tại Hoa Kỳ vào đầu năm 2017, thay vì nhắc tới công sức phục vụ của ông trong quân chủng, tôi đã viết bài Phùng Văn Chiêu – “Tiếng hát thâm tình” để tướng nhớ.

    Trước năm 1975, khi ông Chiêu giữ chức Không đoàn trưởng Không Đoàn Yểm Cứ Biên Hòa, SĐ3KQ, tôi đã được bạn bè bên đó cho biết ông có máu văn nghệ cùng mình và một giọng hát trầm ấm nhưng chưa có dịp nghe ông hát. Phải đợi tới sau khi ra hải ngoại, định cư tại Úc tôi mới được thưởng thức tiếng hát của ông qua CD.

    Nguyên vào năm 2000, khi đã quá tuổi cổ lai hi, ông Phùng Văn Chiêu thu một CD gồm 12 ca khúc mang tựa đề NHỮNG TÌNH KHÚC KỶ NIỆM với tiếng hát thâm tình Phùng Văn Chiêu”.



    Bìa CD "NHỮNG TÌNH KHÚC KỶ NIỆM...”, Đại Phùng Văn Chiêu đang được Thiếu tướng
    Tư lệnh phó KQ Võ Xuân Lành trao gắn huy chương tại CCKQ Biên Hòa


    CD này không phát hành thương mại, chỉ để tặng bạn bè, người thân quen. Riêng tại Úc châu, ông Chiêu không quen thân ai ngoài Trung úy B, một tay cùng khóa 3/69 với tôi, trước năm 1975 phục vụ tại Liên Đoàn Phòng Thủ, Không Đoàn Yểm Cứ Biên Hòa. Ông Chiêu gửi cho hắn ba CD, hắn giữ một (vợ hắn yêu nhạc, hát khá hay), biếu bà già vợ một (bà cũng là người yêu nhạc, thích hát), còn lại một hắn gửi cho tôi.

    Ít lâu sau, đầu năm 2001, nhận thấy sau hơn 25 năm vẫn không có ai viết về cuộc phá hủy CCKQ Biên Hòa chiều ngày 28 tháng 4, 1975 trước khi di tản, tôi quyết định kể lại trên giai phẩm xuân của đặc san Lý Tưởng – Úc Châu. Để cho bài viết đỡ bi thảm, tôi đã lấy một tựa đề hơi... cải lương: Nghe tiếng hát Phùng Văn Chiêu, nhớ những ngày cuối cùng của Biên Hòa.

    Bài viết khá ăn khách! Khi liên lạc với anh Phạm Công Khanh (PĐ219), Liên hội trưởng Liên Hội Ái Hữu Không Quân Úc Châu, ông Phùng Văn Chiêu
    đã lịch sự gửi lời cám ơn tôi.

    Khoảng thời gian này cũng là lúc chúng tôi vừa cho phổ biến Thông Báo của Ban thực hiện QSKQ, ông Chiêu hứa sẽ cố gắng giúp đỡ trong phạm vi khả năng của ông. Và ông đã không hứa lèo!

    Tại hải ngoại, ông rất có uy tín, quen biết nhiều. Có thể viết đa số các vị đại niên trưởng Không Quân đã giúp đỡ chúng tôi trong việc biên soạn phần đầu của cuốn QSKQ (vi
    ệc thành lập, thời kỳ phát triển) là do công vận động, sự giới thiệu của ông.


    * * *

    Ông Phùng Văn Chiêu là dân Cần Giuộc, Long An, sinh cuối năm 1928.

    Tôi không được biết ông xuất thân từ trường sĩ quan nào, chỉ biết khi chuyển sang Không Quân theo học Khóa 1 Quan Sát Viên tại TTHLKQ Nha Trang ông đã có thời gian phục vụ bên Lục Quân.

    Xin trích vài đoạn trong bài Điểm Danh Các Bạn Già, Phần II: Khóa 1 Quan Sát Viên của cựu Đại tá Trần Phước:

    ...Khóa 1 Quan Sát Viên khai giảng vào đầu tháng 10-1952, lúc Khóa 1 Hoa Tiêu gần mãn khóa, chỉ còn huấn luyện giai đoạn chót nữa mà thôi.

    Khóa 1 Quan Sát Viên dài 6 tháng, gồm 6 sĩ quan học viên:

    - Phùng Văn Chiêu
    - Nguyễn Đình Giao
    - Lê Minh Luân
    - Đỗ Khắc Mai
    - Đinh Thạch On
    - Trần Phước


    Tất cả sáu người chúng tôi đều là sĩ quan của các quân trường: Sĩ Quan Khóa 2 Quang Trung, Huế, Khóa 1 Sĩ Quan Trừ Bị Nam Định hay Thủ Đức và Khóa Sĩ Quan Nước Ngọt, ai cũng đã từng phục vụ bên Lục Quân ít nhất đôi ba năm...

    Anh Phùng Văn Chiêu có tướng là con nhà võ hơn hết, từ dáng người, điệu bộ, và cách ăn nói. Anh người Nam, to lớn, đẹp trai, có giọng nói ồm ồm, nên khi anh đối đáp với các huấn luyện viên Pháp chẳng khác gì là dân Gaulois chính cống. Anh là con người mau mắn, hay tình nguyện làm những công việc thay cho cả lớp học...

    Sau gần 20 năm cách biệt, bỗng một hôm, tôi nhận được thiệp mời đám cưới của cháu anh Phùng Văn Chiêu tại Houston, nơi tôi đang cư trú, tôi hết sức ngỡ ngàng, tôi nửa tin nửa ngờ vì bấy lâu chúng tôi bặt tin.

    Nhưng tôi càng sửng sốt hơn nữa khi tôi gặp lại anh Chiêu tại tiệc cưới hôm đó. Hình dáng anh Chiêu thay đổi hẳn, chỉ có giọng nói vẫn như xưa. Nét đẹp trai, trẻ trung xưa kia biến đâu mất, nay khuôn mặt xương và nhiều nét nhăn ở cổ. Anh cho biết lúc đó anh đang bịnh và từ Pháp mới sang Mỹ để dự đám cưới này. Vì biết tôi đang ở Houston nên mới gửi thiệp mời. Trong dịp vui này, anh Chiêu đã trổ tài với nhiều bản nhạc tình Pháp tặng cô dâu chú rể. Thế mới biết, tuy bề ngoài hình dáng thay đổi nhưng tính tình vui nhộn của anh Chiêu vẫn như thuở xa xưa...

    Nhân dịp vui, chúng tôi nhắc lại chuyện xưa, hồi năm 1954, khi Phi Đoàn 1 Quan Sát đóng tại sân bay Thành Nội, Huế, chúng tôi và nhiều anh em phi hành khác cùng phục vụ nơi đây. Hồi đó, chúng tôi khoảng 15 người, đang còn trẻ, dưới 25 trên 20. Ngoài giờ công vụ ra, anh em thường hay lái xe chở em út đi tắm biển Thuận An hay đi thăm lăng tẩm đền đài. Hoặc có nhiều anh trồng cây si ở các tiệm tạp hóa có người đẹp, nhưng chẳng có anh nào thành công nên vợ nên chồng...

    Riêng anh Chiêu ở bên trong Đồn quân sự Mang Cá, ngày ngày chỉ tà tà cuốc bộ ra cổng, thỉnh thoảng gặp anh em lái xe đi ngang qua, mời lên xe, anh Chiêu từ chối, lấy lý do đi tản bộ cho khỏe người. Thật vậy, anh bách bộ có vẻ thảnh thơi thong dong lắm, nhưng nếu ai để ý, sẽ thấy anh thường ghé một nơi, ở đó đã có người đẹp chờ sẵn. Anh Chiêu dấu diếm cũng phải, vì sợ các bạn phá đám, và hơn nữa sợ bị lộ tẩy vì trong 6 anh em, chỉ có anh Chiêu và tôi có gia đình mà thôi. Chỉ trong một thời gian ngắn chớp nhoáng kỷ lục, anh Chiêu đã để khổ, để lụy, để sầu và để…lại cho người con gái Huế, khóc hết nước mắt ngày tiễn anh Chiêu rời Cố Đô, xuôi về Nam… (ngưng trích)

    * * *

    Sau khi tốt nghiệp, cả sáu sĩ quan quan sát viên được đưa tới Phi Đoàn 1 Quan Sát mới được thành lập cho KQVN, lúc đó còn do người Pháp chỉ huy và mang danh xưng tiếng Pháp Premier Groupe Aérien d'Observation et d'Accompagnement au Combat, viết tắt là GAOAC-1, rút gọn thành GAO-1; phía Việt Nam gọi là Phi Đoàn 1 Quan Sát & Trợ Chiến, hoặc gắn gọn là Phi Đoàn 1 Quan Sát (về sau trở thành Phi Đoàn 110).

    [Trong cuốn Flying Dragons, tác giả Robert C Mikesh đã suy diễn GAO là viết tắt của ba chữ Group, Artillery Observationtrong tiếng Anh (Phi Đoàn Quan Sát, Hướng Dẫn Pháo Binh), thật ngớ ngẩn, tức cười, vì ông dư biết lúc đó người Mỹ chưa tới VN! Không biết khi tái bản ông có cho sửa lại không?]

    Theo NT Trần Phước trong số sáu quan sát viên đầu tiên của KQVN chỉ có ba người bay hành quân nhiều là Nguyễn Đình Giao, Đinh Thạch On, và Trần Phước. Riêng ông Phùng Văn Chiêu đau hệ thống hô hấp, bay cao bị nghẹt thở” cho nên về sau được đưa về làm yểm cứ.

    Do kinh nghiệm tác chiến trước khi thuyên chuyển sang Không Quân, ông Chiêu được BTL/KQ trao phụ trách hồ sơ kế hoạch phòng thủ của các căn cứ KQ trong thời gian 7 năm trời, trước khi giữ chức Liên đoàn trưởng Liên Đoàn Phòng Thủ,Không Đoàn 33 Chiến Thuật (nguyên là Căn Cứ 3 Trợ Lực) vào năm 1964.

    Trong kế hoạch phòng thủ hỗn hợp, căn cứ KQ Tân Sơn Nhất được gọi làYếu điểm Tân Sơn Nhất thuộc Yếu khu Hạnh Thông Tây - Tân Sơn Nhất. Bộ chỉ huy Yếu khu đặt tại Bộ TTM, Chỉ huy trưởng Tỗng hành dinh Bộ TTM kiêm nhiệm chức vụ Chỉ huy trưởng Yếu khu.

    Tới năm 1965, do nhu cầu phòng thủ căn cứ Tân Sơn Nhất trước sự gia tăng pháo kích, và các cuộc tấn công của Việt Cộng có thể xảy ra, Yếu khu Hạnh Thông Tây - Tân Sơn Nhất đã bị giải thể để thành lập một yếu khu mới: Yếu khu Tân Sơn Nhất. Bộ chỉ huy Yếu khu đặt tại Bộ chỉ huy Phòng thủ căn cứ TSN, sau khi có sự tham gia của phía Hoa Kỳ, trở thành Trung tâm Phòng thủ Hành quân Hỗn hợp (JDOC: Joint Defense Operation Center).

    Trung tá Lưu Kim Cương, Tư lệnh KĐ33CT, kiêm nhiệm chức vụ Chỉ huy trưởng Yếu khu Tân Sơn Nhất, Thiếu tá Phùng Văn Chiêu, Liên đoàn trưởng Liên Đoàn Phòng Thủ, giữ chức vụ Chỉ huy phó kiêm Tham mưu trưởng Yếu khu.

    Vì Trung tá Lưu Kim Cương quá bận rộn với công việc thường nhật của một vị tư lệnh không đoàn, có thể nói Thiếu tá Phùng Văn Chiêu đã được trao toàn bộ việc điều hành Yếu khu.



    Trung tá Lưu Kim Cương và Đại tá Farley Peebles, Tư lệnh Không Đoàn 377 Yểm Cứ (377th Air Base Wing) của KLHK


    Tân Sơn Nhất, 1967, từ trái, Thiếu tá Trần Đình Hòe, Đại tá Farley Peebles, Thiếu tá Phùng Văn Chiêu....

    Trong trận Mậu Thân đợt 1, tại mặt trận Tân Sơn Nhất quân ta thắng lớn. Gần 1000 tên địch bỏ xác tại trận trong đó có 187 xác nằm bên trong hàng rào phi trường, do lực lượng phòng thủ hỗn hợp (KLHK + KQVN) ở tuyến B (hướng Bà Quẹo) bắn hạ.

    Trong khi quân bạn (Hoa Kỳ, KQVN, Lục Quân VN...) chỉ có 55 người hy sinh, trong đó có 5 quân nhân KQVN.

    Sau trận này, nhiều quân nhân trong Yếu khu đã được thăng cấp đặc cách mặt trận, trong số đó Trung tá Lưu Kim Cương lên Đại tá, Thiếu tá Phùng Văn Chiêu lên Trung tá.

    Tới Mậu Thân đợt 2, nhờ tin tình báo chính xác, Bộ chỉ huy Yếu khu đoán biết Việt Cộng sẽ tấn công phi trường từ hướng đông nam (ngã tư Bảy Hiền) cho nên phòng bị chu đáo. Kết quả, quân ta đã phá vỡ các cuộc tấn công, không một tên địch nào lọt vào được phi trường, tất cả đều bị tiêu diệt bên ngoài vòng đai, nhưng rất tiếc Đại tá Lưu Kim Cương đã hy sinh trong lúc tham gia truy kích tàn quân địch ở Nghĩa trang Quân đội Pháp. (Chú thích 2)

    Sau khi ĐạiLưu Kim Cương hy sinh, Trung tá Phùng Văn Chiêu lên thay thế trong chức vụ Chỉ huy trưởng Yếu khu TSN, chức vụ Liên đoàn trưởng Liên Đoàn Phòng thủ TSN được trao cho Trung tá Lê Văn Triệu.

    Ðầu năm 1970, khi Trung tá Chiêu được thuyên chuyển về Sư Đoàn 3 KQ làm Không đoàn trưởng Không Đoàn Yểm Cứ Biên Hòa, chức vụ Chỉ huy trưởng Yếu khu TSN được trao lại cho Ðại tá Phan Phụng Tiên, Tư lệnh Không Đoàn 33 Chiến Thuật (tới cuối năm 1971, KĐ33CT trở thành Sư Đoàn 5KQ).

    (Còn tiếp)


    CHÚ THÍCH

    (1) Tiểu sử Đại tá Trần Văn Hổ

    Ông Trần Văn Hổ sinh năm 1928 tại Chợ Lớn.


    Tình nguyện nhập ngũ ngày 24/9/1949, theo học Khóa 2 Sĩ Quan Hiện Dịch tại Trường Sĩ Quan Việt Nam ở Đập Đá, Huế (tiểu sử của ông trên Wikipedia ghi ông xuất thân Khóa 1 là sai).

    Ngay từ trong quân trường, tên họ của ông được thêm chữ Paul phía trước để phân biệt với một bạn đồng khóa cùng tên họ có quốc tịch Pháp Blanchard Trần Văn Hổ, sau này cũng mang cấp bậc Đại tá, có thời gian giữ chức vụ Giám đốc Nha Động Viên.

    Trường Sĩ quan Đập Đá chính là tiền thân của Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt. Thành lập ngày 1/12/1948, sau hai năm đã đào tạo được hai khóa là Khóa 1 Phan Bội Châu (1948-1949) và Khóa 2 Quang Trung (1949-1950). Bắt đầu từ Khóa 3, trường dời về Đà Lạt.

    Khóa 1 có bốn người sau này lên tới cấp Trung tướng là Nguyễn Văn Thiệu (Tổng thống), Tôn Thất Đính, Nguyễn Hữu Có, Đặng Văn Quang; trong số lên Thiếu tướng có các ông Bùi Đình Đạm, Tôn Thất Xứng...


    Khóa 2 có hai người lên tới Trung tướng là Ngô Du, Nguyễn Văn Mạnh; lên Thiếu tướng có các ông Huỳnh Văn Cao, Lê Ngọc Triển, Hoàng Văn Lạc...; đặc biệt có hai người trở thành vị chỉ huy đầu tiên của Không Quân là Đại tá Trần Văn Hổ và Hải Quân là Đại tá Lê Quang Mỹ.

    Sau khi thuyên chuyển sang Không Quân, ông Trần Văn Hổ được gửi đi học Khóa 52F2 tại trường bay căn bản Marrakech ở Bắc Phi, cùng với hai sĩ quan khác là Nguyễn Cao Kỳ, Trịnh Hảo Tâm và 19 dân chính trong số đó có các ông Lưu Kim Cương, Phan Thanh Vân, Nguyễn Phúc Tửng.

    Khóa này là đàn em của Khóa 51H (ông Lê Trung Trực) và Khóa 52F1 (các ông Huỳnh Hữu Hiền, Phạm Ngọc Sang, Huỳnh Bá Tính, Phan Phụng Tiên, Đinh Văn Chung...)

    Tốt nghiệp phi công quan sát, về nước ông Trần Văn Hổ phục vụ tại Phi Đoàn 1 Quan Sát mới được người Pháp thành lập cho KQVN, Chỉ huy trưởng: Đại úy Nguyễn Ngọc Oánh.

    Theo NT Phạm Ngọc Sang, vào thời điểm Trung úy Trần Văn Hổ được Biệt Bộ Phủ Thủ Tướng gọi về bổ nhiệm vào chức vụ Phụ tá Không Quân thì KQVN đã có những sĩ quan sau đây mang cấp bậc Đại úy:

    - Nguyễn Ngọc Oánh, Chỉ huy trưởng Phi Đoàn 1 Quan Sát
    - Võ Dinh, Chỉ huy trưởng Phi Đoàn 2 Quan Sát
    - Nguyễn Cao Kỳ, Chỉ huy trưởng Phi Đoàn 1 Vận Tải
    - Đinh Văn Chung, Chỉ huy trưởng Phi Đoàn Tác Chiến & Liên Lạc
    - Huỳnh Hữu Hiền, Chỉ huy trưởng Phi Đội Liên Lạc (ELAVN, còn gọi là Phi Đoàn VIP)
    - Phạm Ngọc Sang, Phi Đội Liên Lạc (tới đầu năm 1956 làm Chỉ huy trưởng thay ông Huỳnh Hữu Hiền đi học khóa Huấn Luyện Viên Khu Trục tại Pháp)

    Việc Trung úy Trần Văn Hổ được bổ nhiệm vào chức vụ Phụ tá Không Quân là do thời thế.


    Thời gian này Thủ tướng Ngô Đình Diệm mới bổ nhiệm Thiếu tướng Lê Văn Tỵ giữ chức vụ Tổng Tham mưu trưởng Quân Đội Quốc Gia Việt Nam thay thế Trung tướng Nguyễn Văn Hinh, vốn là người thân tín của Quốc trưởng Bảo Đại. Việc này đã gây phân hóa trong hàng ngũ sĩ quan cao cấp, khiến ông Ngô Đình Diệm phải hết sức thận trọng trong việc tìm người để trao trách nhiệm chỉ huy các đơn vị quân đội đang được người Pháp lần lượt chuyển giao, trong đó có Không Quân và Hải Quân.

    Vì thế trong lúc chờ đợi tìm được người của Không Quân và Hải Quân, vào ngày 30/6/1955, ông đã tạm thời bổ nhiệm Thiếu tướng Trần Văn Đôn, Phụ tá Tổng tham mưu trưởng Quân Đội Quốc Gia, kiêm nhiệm chức vụ Phụ tá Hải Quân, và qua ngày hôm sau, 1/7/1955, bổ nhiệm Trung tá Nguyễn Khánh vào chức vụ Phụ tá Không Quân.

    Việc trao chức vụ Phụ tá Không Quân cho một sĩ quan Lục Quân cũng không gây khó khăn, trở ngại cho các hoạt động mang tính cách chuyên môn bởi vì cho tới lúc đó ngành Không Quân chưa có một bộ chỉ huy thống nhất, các phi đoàn còn là những đơn vị độc lập (thành lập do Quyết Định của Bộ TTM), có con dấu riêng, đồn trú tại căn cứ nào thì được nơi đó yểm trợ, cho nên Phòng Không Quân tại Bộ TTM thực chất chỉ là một cơ sở hành chánh.

    Phải đợi gần hai tháng sau, ngày 20/8/1955, Thủ tướng Ngô Đình Diệm mới bổ nhiệm Trung úy Trần Văn Hổ vào chức vụ Phụ tá Không Quân thay Trung tá Nguyễn Khánh.

    Hơn một tuần sau, ngày 28/8/1955, Thiếu tá Lê Quang Mỹ được bổ nhiệm vào chức vụ Phụ tá Hải Quân thay Thiếu tướng Trần Văn Đôn.

    Điều đáng chú ý là ông Lê Quang Mỹ cũng xuất thân Khóa 2 Sĩ quan Hiện dịch (Đập Đá, Huế) với ông Trần Văn Hổ và Thiếu tá Huỳnh Văn Cao, người đang nắm giữ chức vụ Tham mưu trưởng Biệt Bộ Phủ Thủ Tướng!

    Vì thế nhiều người tin rằng khi được ông Ngô Đình Diệm tham khảo ý kiến, ông Huỳnh Văn Cao đã “tiến cử” hai người bạn cùng khóa với mình.


    Trung tá Trần Văn Hổ (không rõ xuất xứ hình và thời điểm)

    Nhưng trong khi việc đề cử ông Lê Quang Mỹ ra vẻ hợp tình hợp lý vì lúc đó ông là đã sĩ quan cấp tá duy nhất trong Hải Quân và đang giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Giang lực (đơn vị duy nhất của Hải Quân do người Việt chỉ huy), thì việc đề cử Trung úy Trần Văn Hổ ra vẻ... hơi bất thường, vì ông chỉ là một trung úy và không nắm giữ một phi đoàn nào của KQVN lúc đó!

    Qua năm 1956, Trung tá Trần Văn Hổ được vinh thăng Đại tá. Năm 1957, Trung tá Nguyễn Xuân Vinh lên thay Đại tá Trần Văn Hổ, chức Phụ tá Không Quân được đổi thành Tư lệnh Không Quân.

    Chúng tôi không được rõ về các chức vụ của Đại tá Trần Văn Hổ sau năm 1957, chỉ biết đại khái ông phục vụ ở Bộ TTM.

    Sau năm 1975, ông định cư tại Pháp và đã có lần sang Hoa Kỳ thăm bạn bè Không Quân.

    Điều đáng tiếc là khi ông qua đời, tin tức không được loan tải rộng rãi, và hình như không có bài viết nào về cuộc đời của ông – vị chỉ huy đầu tiên của KQVN.

    (2) Bài chi tiết “Trận Mậu Thân 1968 tại CCKQ Tân Sơn Nhứt và cái chết của cố Chuẩn tướng Lưu Kim Cuơng


    https://hoiquanphidung.com/forum/c%C3%A1c-chuy%C3%AAn-m%E1%BB%A5c/th%E1%BB%9Di-s%E1%BB%B1/qu%C3%A2n-s%E1%BB%AD-kh%C3%B4ng-qu%C3%A2n/4103-c%C3%A1i-ch%E1%BA%BFt-c%E1%BB%A7a-c%E1%BB%91-ch-t%C6%B0%E1%BB%9Bng-l%C6%B0u-kim-cu%C6%A1ng


    PHỤ LỤC

    Tiếng hát Phùng Văn Chiêu

    Anh về với em

    https://www.youtube.com/watch?v=s60ZtEvpmds

    Comment

    • dnchau
      Super Member

      • Feb 2009
      • 1843

      #3
      Viếng thăm chú Chiêu (Đại tá Phùng văn Chiêu)

      Source : Han Tran


      Comment

      • Nguyen Huu Thien
        Moderator

        • Jul 2014
        • 1199

        #4
        Râu KHÔNG QUÂN đẹp nhất!

        Khi post bài kỳ vừa rồi, nhắc tới Đại tá NGUYỄN ĐÌNH GIAO, Tham mưu trưởng SĐ6KQ, người cùng học Khóa 1 Quan Sát Viên với các NT Phùng Văn Chiêu, Trần Phước, tôi nhớ trong “kho hình” của mình có một tấm chụp ông với Bộ tham mưu SĐ6KQ trong một buổi tiệc nhưng tìm không ra, nay thấy trên FB Không Lực VNCH cũng có hình này nên xin được phổ biến.



        Từ trái, Đại tá Phạm Ngọc Sang, Tư lệnh Sư Đoàn, Đại tá Nguyễn Đình Giao, Trung tá Lê Văn Bút, Không đoàn trưởng
        KĐ72CT, Thiếu tá (Trung tá?) Nguyễn Văn Mười, Phi đoàn trưởng PĐ530 Thái Dương.

        Vì không biết rõ thời điểm chụp tấm hình này nên tôi không thể đoán lúc đó Thiếu tá Nguyễn Văn Mười đã lên Trung tá và làm Không đoàn phó KĐ72CT hay chưa, chỉ biết một điều chắc chắn là chụp trước khi Đại tá Phạm Ngọc Sang vinh thăng Chuẩn tướng, ngày 1/4/1974.

        Tôi thích tấm hình này một phần vì bộ râu của Đại tá Nguyễn Đình Giao – viết một cách đầy đủ là râu mép + râu cằm.

        Trước đây tôi có đọc một bài viết thuộc loại trà dư tửu hậu, trong đó có nhắc tới những vị tướng tá được Bộ TTM cấp giấy phép để râu là Đại tướng Nguyễn Khánh, Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, Đại tá KQ Hà Xuân Vịnh, và một vị Đại tá bên Lục Quân tôi không nhớ tên; còn Đại tá Nguyễn Đình Giao có giấy phép hay không, tác giả không nhắc tới.

        Thế nhưng, như tôi đã viết trong Phần 2 của hồi ký khi nhắc tới việc tôi được Chuẩn tướng Từ Văn Bê ký giấy phép để râu, theo SVVT của Trung tướng Lê Văn Tỵ ký năm 1956 thì:

        -Tuyệt đối cấm quân nhân Quân Đội VNCH để tóc dài, râu cằm và râu quai nón.
        -Về râu mép, đơn vị trưởng tùy nghi cho phép.

        Như vậy, nếu sau này không có một SVVT nào khác, việc ông Nguyễn Khánh để râu cằm (râu dê) là vi phạm quân phong quân kỷ, Đại tá Hà Xuân Vịnh để râu quai nón là bất hợp lệ, và Đại tá Nguyễn Đình Giao để râu cằm là để... lậu!

        Chính vì không biết chắc chắn có một SVVT nào khác về việc cho phép để râu hay không, ở đây tôi chỉ... đánh giá ba bộ râu “ngoại lệ” mà nhiều người biết tới.

        Trước hết xét bộ râu cằm (râu dê) của ông Nguyễn Khánh, ai cũng thấy nó kỳ kỳ vì xưa nay râu cằm thường phải đi với râu mép, ở đây ông Nguyễn Khánh không có râu mép nên nhìn vào thiếu sự cân xứng, thậm chí khôi hài!


        Trung tướng Nguyễn Khánh: râu dê?

        Kế đến là bộ râu quai nón của Đại tá Hà Xuân Vịnh. Ở Biên Hòa ngày ấy, vị Tư lệnh Không Đoàn 23 Chiến Thuật nổi tiếng khắp xứ bưởi nhờ bộ râu đẹp. Rất đẹp!

        Biên Hòa 1965. Trung tá Hà Xuân Vịnh đang được Thủ tướng Phan Huy Quát
        trao gắn huy chương. (Hình: bản quyền của Cay Mai Collection)

        Tuy nhiên, tôi vẫn thích nhất cách để râu của Đại tá Nguyễn Đình Giao, nó gây một sự chú ý vừa phải, trông vừa oai vừa có vẻ chịu chơi, rất có sức thu hút... nữ giới.

        Vài hàng trà dư tửu hậu giúp vui cho anh em Không Quân, kính mong nhị vị Niên trưởng sống khôn thác thiêng tha lỗi.
        Last edited by Nguyen Huu Thien; 09-03-2025, 03:45 AM.

        Comment

        • Nguyen Huu Thien
          Moderator

          • Jul 2014
          • 1199

          #5
          BUỒN VUI ĐỜI LÍNH... VĂN PHÒNG (phần 4)

          Những người muôn năm cũ

          Hồi ký

          Nguyễn Hữu Thiện


          *Những bộ nhớ thời “khuyết sử”

          (tiếp theo)

          Trong số những vị đại niên trưởng được ông Phùng Văn Chiêu vận động viết tiểu sử (và những gì còn nhớ về đời quân ngũ) gửi cho Ban thực hiện QSKQ, cựu Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Tần, nguyên tư lệnh SĐ4KQ, là người... mau mắn nhất.

          Trước năm 1972, tôi hoàn toàn không biết gì về NT Nguyễn Hữu Tần (không nghe tên, không thấy mặt) cho tới khi ông được BTL/KQ bổ nhiệm vào chức vụ Sư đoàn trưởng SĐ4KQ sau khi cố Thiếu tướng Nguyễn Huy Ánh tử nạn vào cuối tháng 4/1972.

          Tôi không biết, không nghe vì trước kia ông Tần không hề làm Tư lệnh một Không Đoàn Chiến Thuật nào, và khi ông giữ chức Tham mưu phó Hành Quân BTL/KQ ở Tân Sơn Nhất thì tôi ở tận Pleiku, lại là dân không phi hành nên không có cơ hội nghe nhắc tới tên ông.

          Ông Nguyễn Hữu Tần sinh năm 1930 tại Quảng Yên, Bắc phần, trong một gia đình khá giả. Lên bậc trung học ông được gửi về Hà Nội ăn học và tốt nghiệp bằng Tú Tài 1 chương trình Pháp.

          Cuối tháng 9 năm 1951, theo lệnh tổng động viên, ông gia nhập Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, theo học Khóa 1 Sĩ quan Trừ Bị Nam Định, tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy.

          [Từ khóa 1 đến khóa 5 Sĩ Quan Trừ Bị, tùy số điểm khi ra trường, học viên sẽ tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy, Chuẩn úy, hoặc Trung sĩ. Từ khóa 6 trở đi, tất cả những người tốt nghiệp đều mang cấp bậc Chuẩn úy]

          Ông Nguyễn Hữu Tần một trong số 12 sĩ quan tốt nghiệp Khóa 1 Nam Định được thuyên chuyển về Không Quân (con số mà tôi được biết), trong đó có các ông Nguyễn Xuân Vinh, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Ngọc Loan, Nguyễn Văn Lượng, Phan Phụng Tiên, Đặng Đình Linh, Vũ Thượng Văn...

          khác chăng là sau khi ra trường vào giữa năm 1952, Thiếu úy Nguyễn Hữu Tần không xin về Không Quân mà tình nguyện đi tác chiến, giữ chức Trung đội trưởng thuộc Tiểu đoàn 717 Khinh quân Việt Nam.

          Năm 1953, ông thăng cấp Trung úy, giữ chức Đại đội trưởng; năm 1954 giữ chức Tiểu đoàn phó, và qua đầu năm 1955, thăng cấp Đại úy, giữ chức Tiểu đoàn trưởng. (Chú thích 1)

          Giữa năm 1955, Đại úy Nguyễn Hữu Tần tình nguyện về quân chủng Không Quân, theo học Khóa 5 Hoa Tiêu Quan Sát tại TTHLKQ Nha Trang, và đậu Thủ khoa.

          Mãn
          khóa, ông về phục vụ tại Phi Đoàn 1 Quan Sát, lúc đó do Đại úy Trần Phước làm Chỉ huy trưởng. Đầu năm 1959, đang giữ chức Chỉ huy phó Phi Đoàn 1 Quan Sát ông được thuyên chuyển sang Phi Đoàn 2 Quan Sát, cũng giữ chức Chỉ huy phó; Chỉ huy trưởng là Đại úy Võ Công Thống.


          Đầu năm 1960, ông trở về Phi Đoàn 1 Quan Sát làm Chỉ huy trưởng, rồi tới năm 1962, quay về làm Chỉ huy trưởng Phi Đoàn 2 Quan Sát.

          Đầu tháng 11/1963, sau khi xảy ra cuộc đảo chánh lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm, Đại úy Nguyễn Hữu Tần bị cho ngồi chơi xơi nước tới tháng 2/1964, sau khi tướng Nguyễn Khánh “chỉnh lý” lật đổ tướng Dương Văn Minh, ông được thăng cấp Thiếu tá, giữ chức vụ Tư lệnh phó Không Đoàn 62 Chiến Thuật vừa được thành lập tại Pleiku, do Trung tá Trần Văn Minh làm Tư lệnh.

          Như vậy, trong binh nghiệp của mình, ông Nguyễn Hữu Tần chỉ mang
          lon Thiếu úy 1 năm, Trung úy 2 năm, nhưng lon Đại úy thì mang tới... 9 năm!

          Tuy nhiên tiền hung hậu kiết, sau đó hoạn lộ của ông thăng tiến rất nhanh: đầu tháng 11 năm 1965, sau khi Không Đoàn 62 Chiến Thuật di chuyển về Nha Trang, ông được đưa về Tân Sơn Nhất làm Chỉ huy trưởng Trung Tâm Hành Quân Không Quân (Tactical Air Control Center: TACC) thay Thiếu tá Vũ Thượng Văn; cuối năm 1967, ông được thăng cấp Trung tá, giữ chức Tham mưu phó Hành Quân BTL/KQ.

          Cuối tháng 4
          /1972, ông được thăng cấp Đại tá và được bổ nhiệm vào chức vụ Sư đoàn trưởng Sư Đoàn 4 Không Quân, thay cố Thiếu tướng Nguyễn Huy Ánh tử nạn phi cơ trực thăng tại CCKQ Bình Thủy.


          Bản Tin Sư Đoàn 4 Không Quân

          Ngày 1/4/1974 Đại tá Nguyễn Hữu Tần được vinh thăng Chuẩn tướng trong đợt gắn sao cuối cùng của Không Quân, cùng với các Đại tá Nguyễn Đức Khánh (SĐ1KQ), Phạm Ngọc Sang (SĐ6KQ).

          Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Tần

          Như vậy, ông Nguyễn Hữu Tần mang lon Đại tá chưa đầy 2 năm. Trong Không Quân trước đó chỉ có bốn vị Đại tá lên Chuẩn tướng nhanh hơn, gồm:

          -Đại tá Nguyễn Cao Kỳ: 5 tháng
          -Đại tá Nguyễn Huy Ánh: 8 tháng
          -Đại tá Nguyễn Ngọc Loan: 12 tháng
          -Đại tá Võ Xuân Lành: 18 tháng.

          * * *

          Trước năm 1975, tôi chỉ có dịp nhìn thấy ông Nguyễn Hữu Tần hai lần, một từ xa xa khi tháp tùng ông Từ Văn Bê về tham sự buổi họp của các ông đại đơn vị trưởng với BTL/KQ, một lần đứng rất gần khi tham dự lễ kỷ niệm Ngày Không Lực năm 1973 tại Tân Sơn Nhất mà tôi đã kể chi tiết trong một phần trước.

          Đại kháivào năm 1973, BTL/KQ đã tổ chức Ngày Không Lực 1 tháng 7 một cách trọng thể tại CCKQ Tân Sơn Nhất. Vì có phần tuyên dương công trạng 9 đại đơn vị, gồm 6 Sư Đoàn, TTHLKQ, BCH/HQKQ, BCH/KTTV/KQ, và gắn huy chương cho 9 ông sếp lớn cho nên đích thân các ông phải về tham dự.

          Theo chương trình chi tiết, trước phần gắn huy chương, 9 ông sếp lớn sẽ rời ghế ngồi, xếp thành một hàng dọc phía bên phải khán đài rồi đi tới đứng trước hiệu kỳ của đơn vị mình, đối diện với khán đài. Sau khi Trung tướng Tư lệnh KQ gắn huy chương cho các ông xong và trở về khán đài, các ông sẽ đi hàng một trở về vị trí cũ (phía bên phải khán đài) rồi mới trở lại chỗ ngồi của mình.

          Công việc đi đứng nói trên, với một sĩ quan mới ra trường 4, 5 năm như tôi chỉ cần nghe “briefing” 5 phút là xong ngay, nhưng với một ông chuẩn tướng hay đại tá đã rời quân trường trên dưới 20 năm thì... không bảo đảm, vì thế trước đó mấy ngày, các đơn vị phải cử người đại diện ông sếp lớn về TSN tập dợt, sau đó trở về đơn vị dợt lại cho sếp.

          Xui cho ông Từ Văn Bê là trong danh sách 9 đại đơn vị, BCH/KTTV/KQ của
          ông đứng sau cùng cho nên khi xếp hàng một ông là người đứng cuối hàng, có bổn phận hô các khẩu lệnh “trước bước, bên trái quay, chào tay...”, gắn huy chương xong lại phải hô “chào tay, bên trái quay, trước bước...”

          Sau khi lên TSN đóng vai sếp lớn để tập dợt, tôi trở về Biên Hòa dợt lại cho ông Từ Văn Bê.


          Tới ngày 1 tháng 7, vì có phần tổng dợt trước buổi lễ, ông Bê bắt tôi theo sát ông để... nhắc tuồng. Vì thế tôi mới có dịp đứng gần các Chuẩn tướng Oánh, Lượng, Tính, Tiên các Đại tá Khánh, Sang, Ước, Tần khi các ông sắp hàng thực tập.


          * * *

          NT Nguyễn Hữu Tần có viết thêm cho chúng tôi một chuyện vui vui là vào thời gian ông theo học Khóa 5 Hoa Tiêu Quan Sát tại TTHLKQ Nha Trang, Trung tá Nguyễn Khánh thuộc binh chủng Nhảy Dù sau khi được Thủ tướng Ngô Đình Diệm trao chức vụ Phụ tá Không Quân đã ra Nha Trang học bay trên “đầm già” MS-500.

          Ông Nguyễn Khánh thường vào câu lạc bộ sĩ quan ăn uống, trò chuyện thân mật với anh em khóa sinh. Rất tiếc, sau khoảng 10 giờ bay ông bị một tai nạn nhẹ và bỏ cuộc.

          Tuy nhiên sau này người ta lại thấy tướng Nguyễn Khánh luôn luôn mang cánh bay trên ngực áo. Ông nói rằng ông biết bay phi cơ quan sát là do học hỏi các hoa tiêu chở ông đi đây đó bằng loại phi cơ này; tương tự về sau có một vài vị tướng Lục quân học lái trực thăng UH-1 do phi hành đoàn biệt phái cho mình chỉ dạy.

          Về cánh bay ông mang tên ngực, không hiểu ông mang... đại hay được Không Quân hợp thức hóa bằng cách nào đó. Nên nhớ ông Nguyễn Cao Kỳ một sớm một chiều từ Trung tá lên Chuẩn tướng và nổi như cồn là nhờ có ông Nguyễn Khánh đỡ đầu cho nên các sếp lớn trong Không Quân cũng phải biết điều!


          Tuy nhiên gần đây, trong bài “Không Quân VNCH Thời Kỳ Hình Thành 1951-56” của tác giả Vương Hồng Anh, phổ biến trên Việt Báo ngày 22/01/2000 lại có đoạn viết:

          Trong một buổi lễ mãn khóa sĩ quan Không Quân tại Nha Trang vào năm 1964, tướng Khánh cho biết khi còn là sĩ quan cấp tá, ông đã tình nguyện theo học tại Trung tâm Huấn luyện Không quân Nha Trang và tốt nghiệp với vị thứ cao.

          Theo thiển ý, rất có thể người nào đó đã chế ra câu chuyện này, bởi danh sách các khóa sinh hoa tiêu quan sát của TTHLKQ Nha Trang từ Khóa 1 còn sờ sờ ra đó, ông Nguyễn Khánh dù sao cũng là một tướng lãnh tên tuổi, một chính khách hàng đầu (Quốc trưởng, Thủ tướng) không dám nổ sảng như thế đâu, bởi ông biết chắc chắn sẽ bị lộ tẩy.


          Trung tướng Nguyễn Khánh với cánh bay trên ngực áo trái
          (cũng may mà ông không mang “cánh có râu”)

          Trở lại với Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Tần, tôi được bạn bè ở SĐ4KQ cho biết tính ông hiền, ít nói, làm việc tận tụy và công minh. Họ cũng nhấn mạnh ông hiền nhưng không dễ dãi; một tay bạn của tôi ở phi đội tải thương Hồng Điểu kể lại khi hắn làm đơn xin để râu mép đã phải vào trình diện Tư lệnh Sư Đoàn để ông xem có giống con giáp nào không, rồi mới đích thân ký giấy phép!

          Sau năm 1975, ông Tần và gia đình định cư tại Bắc California.

          Khoảng năm 2007, 2008 tôi được thấy ông xuất hiện trên sân khấu văn nghệ cùng với các chiến hữu QLVNCH trong một DVD hùng ca, và đã phải giật mình vì thấy ông già đi quá mau. Có điều an ủi là trông ông rất an nhiên tự tại.

          Cũng nên biết hai ông bà đều là Phật tử thuần thành, có pháp danh là Tâm Luyện và Tâm Quảng.

          Sau khi vị cựu Tư lệnh SĐ4KQ qua đời vào tuổi 78 giữa tháng 12/2008, tôi được nghe kể trước đó mấy năm, bà Tần đã lên chùa tu cho nên trưởng nam của ông đã thay mặt mẫu thân để cùng các em đứng ra tổ chức tang lễ cho thân phụ.

          * * *

          Vị đại niên trưởng thứ hai đáp lời mời gọi của ông Phùng Văn Chiêu là cựu Chuẩn tướng Nguyễn Văn Lượng, nguyên Tư lệnh SĐ2KQ.

          Khác với ông Nguyễn Hữu Tần, trước năm 1975 tôi đã được nghe nói khá nhiều về ông Nguyễn Văn Lượng; lần đầu tiên là khi ông được bổ nhiệm vào chức vụ Sư đoàn trưởng Sư Đoàn 2 KQ vào tháng 7/1970.

          Nguyên trong kế hoạch bành trướng Không Lực VNCH, bắt đầu vào năm 1970 các Không Đoàn Chiến Thuật hiện hữu (41, 62, 23, 33, 74) sẽ kết hợp với các không đoàn tân lập để trở thành các Sư Đoàn Không Quân.

          Mặc dù không có văn kiện chính thức nào của BTL/KQ, mọi người đều hiểu ngầm rằng vị Tư lệnh Không Đoàn Chiến Thuật đương nhiệm sẽ lên nắm chức vụ Sư đoàn trưởng.

          Bằng chứng là khi Sư Đoàn 4 KQ được thành lập vào tháng 3/1970 tại Bình Thủy, Đại tá Nguyễn Huy Ánh, người đang nắm chức vụ Tư lệnh KĐ74CT đã trở thành Sư đoàn trưởng SĐ4KQ; kế tiếp, tháng 5/1970 tại Biên Hòa, Đại tá Huỳnh Bá Tính, Tư lệnh KĐ23CT, trở thành Sư đoàn trưởng SĐ3KQ.

          Nhưng tới tháng 7/1970, tại Nha Trang mọi việc đã không diễn ra như thế. Ít lâu trước ngày thành lập SĐ2KQ, Đại tá Vũ Văn Ước, Tư lệnh KĐ62CT, được lệnh bàn giao chức vụ cho Đại tá Nguyễn Văn Lượng, Chỉ huy phó TTHLKQ Nha Trang, để về Tân Sơn Nhất làm Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ Huy Hành Quân Không Quân.

          Tính cho tới lúc đó, ông Nguyễn Văn Lượng không phải là nhân vật nổi tiếng cho lắm trong Không Quân, bởi vì cũng giống như ông Nguyễn Hữu Tần, trước kia ông chỉ làm Chỉ huy trưởng một phi đoàn quan sát chứ chưa từng nắm chức Tư lệnh một Không Đoàn Chiến Thuật nào.

          * * *


          Ông Nguyễn Văn Lượng sinh năm 1931 tại Kiến An (sau này thuộc Hải Phòng), động viên theo học Khóa 1 Sĩ quan Trừ Bị Nam Định, tức là cùng khóa với các NT Không Quân Nguyễn Xuân Vinh, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Ngọc Loan, Phan Phụng Tiên, Đặng Đình Linh, Nguyễn Hữu Tần, Vũ Thượng Văn, Trần Đình Hòe...

          Ra trường giữa năm 1952 với cấp bậc Thiếu úy, ông phục vụ tại một đơn vị lục quân trước khi được tuyển về Không Quân vào cuối năm đó, theo học Khóa 2 Hoa Tiêu Quan Sát tại TTHLKQ Nha Trang, cùng với các bạn Khóa 1 Nam Định Nguyễn Ngọc Loan, Vũ Thượng Văn, Trần Đình Hòe
          , và ông Võ Xuân Lành của Khóa 1 Thủ Đức.

          Mãn khóa tháng 8 năm 1953, ông phục vụ tại Phi đoàn 2 Quan sát (tiền thân của PĐ112) đồn trú tại Nha Trang; cuối năm 1955, ông được thăng cấp
          Trung úy và giữ chức Chỉ huy trưởng Phi đoàn thay thế Đại úy Võ Dinh.

          Đầu năm 1959, ông được thăng cấp
          Đại úy. Tháng 11/1963, sau cuộc đảo chánh lật đổ TT Ngô Đình Diệm ông được thăng cấp Thiếu tá và được cử đi làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn Khóa Sinh, TTHLKQ Nha Trang. Đầu năm 1967, ông được thăng cấp Trung tá, giữ chức vụ Chỉ huy phó Trung Tâm.

          Tháng 7 năm 1970, ông được thăng cấp
          Đại tá và được bổ nhiệm làm Sư đoàn trưởng SĐ2KQ vừa được thành lập tại Nha Trang, và ở chức vụ này cho đến tháng 4 năm 1975.

          Ngày Quốc Khánh 1/11/1972, ông được thăng cấp Chuẩn tướng, cùng đợt với các Chuẩn tướng Võ Dinh, Đặng Đình Linh, Phan Phụng Tiên, Nguyễn Ngọc Oánh, Huỳnh Bá Tính, và Lê Trung Trực.


          Chuẩn tướng Nguyễn Văn Lượng

          * * *

          Trở lại với năm 1970, ít lâu sau khi SĐ2KQ được thành lập tại Nha Trang, tại Pleiku Căn Cứ 92 trở thành Không Đoàn Yểm Cứ Pleiku và một đơn vị tác chiến được thành lập: Không Đoàn 72 Chiến Thuật, gồm các phi Đoàn 530 khu trục, 118 quan sát, 229 và 235 trực thăng.

          Như sau này tôi được biết, vào lúc đó (năm 1970) BTL/KQ đã có kế hoạch vào đầu năm 1972, sau khi tiếp nhận CCKQ Phù Cát từ tay người Mỹ sẽ thành lập Sư Đoàn 6 Không Quân, gồm các lực lượng đồn trú tại Pleiku và Phù Cát. Tuy nhiên vì tình hình chiến sự sôi động tại vùng Cao Nguyên, tiếp theo là Mùa hẻ đỏ lửa, tới cuối năm 1972 SĐ6KQ mới được thành lập.

          Trong thời gian chờ đợi, Không Đoàn Yểm Cứ Pleiku và Không Đoàn 72 Chiến Thuật tạm thời trực thuộc SĐ2KQ ở Nha Trang. Nhưng sự “trực thuộc” này chỉ có trên giấy tờ còn về hoạt động, hai không đoàn này gần như hai đơn vị biệt lập, nhận chỉ thị trực tiếp từ BTL/KQ.


          Đại tá Nguyễn Văn Lượng trước một buổi lễ trao gắn huy chương cho quân nhân trong đơn vị

          Trong thời gian hai năm Pleiku tạm thời trực thuộc Nha Trang ấy, tôi chỉ thấy vị Sư đoàn trưởng SĐ2KQ, Đại tá Nguyễn Văn Lượng, lên Pleiku hai lần.

          Lần thứ nhất vào khoảng giữa năm 1971 nhân dịp Không Đoàn Yểm Cứ Pleiku kỷ niệm một năm ngày thành lập, vì có Đại tá Võ Dinh, Tham mưu trưởng BTL/KQ, ra tham dự nên ông Lượng với tư cách Sư đoàn trưởng SĐ2KQ phải lên Pleiku để đón khách; chưa kể Đại tá Võ Dinh còn là anh ruột của Trung tá Võ Quế, Không đoàn trưởng KĐYC Pleiku.

          Lần thứ hai vào đầu năm 1972, ông Lượng lên Pleiku chủ tọa lễ bàn giao chức vụ Không đoàn trưởng KĐ72CT giữa Đại tá Nguyễn Văn Bá và Trung tá Lê Bá Định. (Chú thích 2)

          Lần thứ ba tôi được thấy ông Lượng vào giữa năm 1973, lúc đó ông đã lên Chuẩn tướng, trong buổi kỷ niệm Ngày Không Lực năm 1973 tại Tân Sơn Nhất (tôi đã viết ở trên); lần thứ tư khi tôi tháp tùng ông Từ Văn Bê về tham dự buổi họp của BTL/KQ với các đơn vị trưởng, tổ chức tại phòng thuyết trình (briefing room) của BCH/HQKQ – niềm hãnh diện của Đại tá Vũ Văn Ước – do người Mỹ chuyển giao.

          * * *

          Sau khi được ông Phùng Văn Chiêu “móc nối”, NT Nguyễn Văn Lượng đã giúp Ban Thực Hiện QSKQ rất nhiều qua việc trả lời các Thư tham khảo, nhất là về những gì diễn ra tại CCKQ Nha Trang. Bởi vì có thể nói ông ở miền thùy dương cát trắng từ đầu mùa tới cuối mùa: khóa sinh Khóa 2 HTQS, hoa tiêu Phi Đoàn 2 Quan Sát, Chỉ huy trưởng (đời thứ hai) Phi Đoàn 2 Quan Sát, Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn Khóa Sinh TTHLKQ, Chỉ huy phó TTHLKQ Nha Trang.

          Thêm một thú vị bất ngờ là khi được (bị) ông Phùng Văn Chiêu yêu cầu viết tiểu sử cá nhân để cung cấp cho Ban Thực Hiện QSKQ, NT Nguyễn Văn Lượng đã viết tay vài dòng ngắn ngủi, rất dí dỏm, nguyên văn như sau:

          “Tốt nghiệp Khóa 1 Nam Định 1951. Gia nhập KQ 1952. Kỷ niệm đẹp nhất trong đời quân ngũ là thời gian làm bạn với em Morane 500. Em thuộc loại gái quê cổ lỗ sĩ, thân hình thô kệch, chân cẳng dài thoòng nhưng luôn luôn gắn bó chung thủy và chưa từng làm tôi thất vọng.

          Sau này có dịp làm bạn với các em khác như Lan 19 trẻ trung thon thả, em C-47 lực lưỡng đô con, hoặc các chàng dũng sĩ lực điền AD6 hay nho nhã thư sinh A-37, chàng nào cũng võ công bí kíp cùng mình nhưng rồi càng không thể nào quên được những đêm cùng em “đầm già” của tôi tình tự dưới trăng trên đèo Mang Yang, những buổi vật lộn với gió dập mưa vùi ngang đèo M Drak, hoặc những buổi đẹp trời thảnh thơi lướt sóng rửa chân trên biển Nha Trang thần tiên thơ mộng.”




          * * *

          Về con người và đường lối chỉ huy của NT Nguyễn Văn Lượng, vì không có cơ hội phục vụ dưới quyền, tôi chỉ xin ghi lại nhận xét của hai cựu quân nhân Không Quân trên FB “Không Lực VNCH”:

          Thinh Q Tran
          Tướng KQ Nguyễn Văn Lượng, một nhân cách lớn, đức độ, tài ba, trong sạch, thưởng phạt nghiêm minh!

          Gia Dai
          Thinh Q Tran Mình học quân sự ở SĐ2KQ. Binh thực nằm đối diện Sư đoàn bộ. Nghe nói buổi trưa ông hay vào đây ăn cơm nên ở đây nhà ăn rất ngon và sạch sẽ. Xung quanh gắn lưới ruồi và có một nhân viên giữ cửa tay cầm vợt đập ruồi. Ăn cơm xong có trà đá uống và được mút đầy bình đong.


          * * *

          Thời gian như bóng câu qua cửa, các vị niên trưởng tôi được hân hạnh liên lạc, trực tiếp hoăc gián tiếp, đã lần lượt về bên kia thế giới.

          Tới đầu tháng 12 năm 2020, sau khi Chuẩn tướng Đặng Đình Linh, nguyên Tham mưu phó Tiếp Vận BTL/KQ qua đời, tôi mới giật mình nhận ra rằng Thập Lục Tướng Quân - tức 16 vị tướng được gắn sao khi đang tại vị - của KQVN giờ đây chỉ còn lại một mình Chuẩn tướng Nguyễn Văn Lượng và nhờ anh em KQ ở California dò hỏi tin tức, thì được cho biết từ mấy năm qua NT sống khép kín, không muốn liên lạc với ai, mình nên tôn trọng.

          Chỉ tới ngày 23 tháng 12 năm 2024, qua đọc bản tin “Viếng Linh Cữu Niên Trưởng Nguyễn Văn Lượng” của KQ Trần Đình Phước, Hội Ái Hữu Không Quân Bắc Cali, trên Hội Quán Phi Dũng tôi mới biết ông đã qua đời ngày mồng 2 tháng 12, 2024.





          Đại diện Hội Ái Hữu Không Quân Bắc Cali chào vĩnh biệt (hình KQ Trần Đình Phước)


          Anh Phước cho biết “tang lễ Niên Trưởng được tổ chức trong phạm vi gia đình rất đơn giản theo ý nguyện của Niên Trưởng lúc sinh thời.

          (Còn tiếp)

          CHÚ THÍCH

          (1) Tiểu Đoàn Khinh Quân

          Theo tài liệu của của Khối Quân Sử QLVNCH, từ năm 1949 Bộ Quốc Phòng Quốc Gia Việt Nam đã cho thành lập các tiểu đoàn Tiểu Đoàn Việt Nam, tiếng Pháp gọi là Bataillon du Vietnam, viết tắt là BVN.

          Thời gian đầu, toàn bộ cấp chỉ huy của các BVN đều là các sĩ quan Pháp; về sau mới dần được chuyển sang cho các sĩ quan người Việt.

          Tới năm 1953, trước tình hình chiến sự gia tăng và theo thỏa ước giữa Phái bộ viện trợ Quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam và Bộ Tư lệnh Lực lượng Liên Hiệp Pháp tại Đông Dương, trong năm 1953 và năm 1954, Hoa Kỳ yểm trợ cho Quân Đội Quốc Gia Việt Nam thành lập các Tiểu Đoàn Khinh Quân (tiếng Pháp: bataillon léger). Đây là một việc làm gấp rút để đối phó trước tình thế khẩn trương lúc bấy giờ: Việt hóa chiến tranh, nhằm giao cho các tiểu đoàn khinh quân công tác bình định lãnh thổ, để các đơn vị chủ lực Pháp đảm nhiệm phần tiêu diệt lực lượng đối phương.

          Các tiểu đoàn khinh quân đều là tân lập cho nên từ cấp chỉ huy đến binh sĩ đều là người Việt. Sĩ quan đa số là những quân nhân tốt nghiệp các khóa sĩ quan trừ bị. Hạ sĩ quan là những quân nhân nguyên là hạ sĩ trong các Tiểu Đoàn Việt Nam (BVN) và những thanh niên có trình độ học thức trung bình được tuyển chọn đưa đi huấn luyện thành cán bộ hạ sĩ quan Tiểu Đoàn Khinh Quân.

          Theo kế hoạch, Bộ Tổng tham mưu Quân Đội Quốc Gia Việt Nam dự trù thành lập 54 Tiểu Đoàn Khinh Quân và 14 đại đội trọng pháo với sự yểm trợ quân viện của Hoa Kỳ. Đến cuối năm 1953, tuy có 35 tiểu đoàn được thành lập nhưng vì thiếu thốn trang bị, chỉ có 24 tiểu đoàn hành quân được.


          Bước sang năm 1954, một đợt các Tiểu đoàn Khinh quân được thành lập, tại miền Bắc có các Tiểu đoàn Khinh quân 713, 714, 715, 716, 717, 718 (lưu động), 719 (Bùi Chu), 720 (Hưng Yên).

          Sau khi nền Đệ nhất Cộng hòa được thành lập, các Tiểu Đoàn Việt Nam và Tiểu Đoàn Khinh Quân được kết hợp thành các Sư Đoàn Bộ Binh.

          (2) Video Lễ trao quyền chỉ huy Không Đoàn 72 Chiến Thuật (Cánh Thép Channel)

          Đây là lễ bàn giao quyền chỉ huy Không Đoàn 72 CT giữa Đại tá Nguyễn Văn Bá và Trung tá Lê Bá Định diễn ra vào đầu năm 1972, chứ không phải năm 1970 như chú thích ở đầu video (năm 1970, cả ông Bá lẫn ông Định còn mang lon Thiếu tá).

          Tôi được tham dự buổi lễ này với tư cách Sĩ Quan Báo Chí Pleiku. Lúc đó SĐ6KQ chưa thành lập, Pleiku còn tạm thời trực thuộc SĐ2KQ cho nên Đại tá Nguyễn Văn Lượng, Sư đoàn trưởng SĐ2KQ, mới tới chủ tọa.

          Ở giữa video, có những ghi chú thiếu chính xác sau đây:

          -“Trung tá” Nguyễn Văn Bá (khi ấy đã mang lon Đại tá)

          -229, 235 Thả Toán”. Hai phi đoàn trực thăng này thi hành mọi nhiệm vụ như bất phi đoàn UH-1 nào khác chứ không chỉ thả toán mà thôi.

          -530 Biệt Đội Cò Trắng C-47. Phi Đoàn Khu Trục 530 danh hiệu Thái Dương (Jupiter), sử dụng A-1 Skyraider. Còn “Cò Trắng” là danh hệu của những chiếc C-47, C-123 sử dụng riêng cho những phi vụ đặc biệt thả các toán biệt kích thâm nhập lãnh thổ Bắc Việt.

          Sở dĩ các phi vụ này được đặt tên “Cò Trắng” vì những chiếc C-47, C-123 đã được tẩy xóa màu cờ, các huy hiệu, chỉ để lại toàn thân máy bay một màu nhôm trắng.

          Cuối cùng cũng xin được ghi thêm chi tiết: tác giả câu đối “Trung kiên một lòng vì Tổ Quốc – Sắt son một dạ với Không Gian” là cố Trung tá Lê Bá Định, Không đoàn trưởng KĐ72CT.



          https://www.youtube.com/watch?v=UvJltTb1Vm0&t=29s
          Last edited by Nguyen Huu Thien; 09-13-2025, 11:40 PM.

          Comment



          Hội Quán Phi Dũng ©
          Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




          website hit counter

          Working...