BUỒN VUI ĐỜI LÍNH... VĂN PHÒNG (phần 4)
Hồi ký
Nguyễn Hữu Thiện
Hồi ký
Nguyễn Hữu Thiện

Bộ Tư Lệnh KQ, Tân Sơn Nhất, 1970
ĐÔI DÒNG PHI LỘ #2
Trong “Đôi dòng phi lộ” của Phần 3, tôi đã phân trần về việc thiên hồi ký Buồn Vui Đời Lính… Văn Phòng của tôi lúc ban đầu dự trù gồm hai phần, đã kéo dài thành ba phần, và phần viết thêm ấy “được xem như nén hương lòng tưởng nhớ những vị niên trưởng đã vĩnh viễn ra đi, một bông hồng gửi tới những vị còn tại thế thay cho lời cám ơn về những ưu ái chiếu cố...”
Nhưng như độc giả đã thấy, qua 10 kỳ dài lê thê của Phần 3 tôi mới viết xong những gì có liên quan tới năm vị niên trưởng - Từ Văn Bê, Nguyễn Xuân Vinh, Vũ Thượng Văn, Nguyễn Phúc Tửng, Võ Văn Ân - trong số hàng chục vị cần được đề cập tới.
Vì không thể tiếp tục kéo dài Phần 3 ngày này qua tháng khác để độc giả phải điên đầu khi tìm đọc từng kỳ, tôi sẽ bắt đầu Phần 4 để tiếp nối những gì mình đã viết.
Thành thật xin lỗi và mong rằng rồi đây sẽ... không có Phần 5!
Phần 4
Những người muôn năm cũ…
Năm vị niên trưởng đã được tôi nhắc tới trong Phần 3, trừ ông Từ Văn Bê là vị chỉ huy trực tiếp trước năm 1975, còn lại các ông Nguyễn Xuân Vinh, Vũ Thượng Văn, Nguyễn Phúc Tửng, và Võ Văn Ân đều là những vị tôi được hân hạnh gặp gỡ sau này tại hải ngoại do cơ duyên, khác với những vị tôi sẽ đề cập tới trong Phần 4, là những niên trưởng tôi xin giúp đỡ trong thời gian biên soạn quyển Quân Sử Không Quân Việt Nam Cộng Hòa.
Ngược dòng thời gian, sau Đại Hội Không Quân liên bang lần thứ 5 tổ chức vào cuối năm 1999, Liên Hội Ái Hữu Không Quân QLVNCH Úc Châu đã quyết định thực hiện quyển QSKQ, dự trù dự trù phát hành vào dịp kỷ niệm 50 năm ngày thành lập quân chủng (1 tháng 7, 2005).
Ban thực hiện Quân Sử được thành lập gồm sáu thành viên, ba người của tòa soạn LÝ TƯỞNG Úc Châu, ba người trong Ban chấp hành Hội KQ Victoria.

Ban thực hiện QSKQ, từ trái, Vũ Văn Bảo, Trần Ninh, Phạm Công Khanh,
Nguyễn Văn Dũng, Nguyễn Văn Hùng, Nguyễn Hữu Thiện
Nguyễn Văn Dũng, Nguyễn Văn Hùng, Nguyễn Hữu Thiện
* Trần Phước Hội – cái tủ thuốc bắc của Không Quân
Được trao trách nhiệm biên soạn, đầu năm 2001 tôi đã phổ biến Thông Báo của Ban thực hiện QSKQ và Bản Phác Thảo về Hình thức & Nội dung cuốn sách dự trù thực hiện. Kết quả, chúng tôi đã nhận được sự khuyến khích, lời hứa giúp đỡ, và ý kiến đóng góp của nhiều niên trưởng và chiến hữu KQ từ khắp nơi. Đầu tiên là NT Trần Phước Hội, người được xưng tụng là “cái tủ thuốc bắc của Không Quân”.
Cựu Thiếu tá Trần Phước Hội sinh năm 1931, dòng dõi hoàng tộc Huế, cháu nội của vua Thành Thái. Lúc còn nhỏ, ông có tên là Nguyễn Phước Bảo Hội, sau này vì thời cuộc nên đổi tên thành Trần Phước Hội. Ông còn một người anh trai ở Huế tên là Nguyễn Phước Bảo Hiền.
Tình nguyện gia nhập Không Quân, theo học Khóa 1 Hạ sĩ quan Kỹ thuật tại Rochefort năm 1952. Về nước, ông lần lượt phục vụ tại:
- Đệ Nhất Phi Đoàn Tác Chiến & Liên Lạc, Nha Trang.
- Đệ Nhất Phi Đoàn Khu Trục (tiền thân của Phi Đoàn 514 Phượng Hoàng), Biên Hòa.
- Phi Đoàn trực thăng 217 Thần Điểu.
Cấp bậc và chức vụ sau cùng: Thiếu tá Liên đoàn trưởng Liên Đoàn Kỹ Thuật, CC20CT, Phan Rang.
NT Trần Phước Hội là một nhân vật khá đặc biệt, được nhiều người trong Không Quân nể phục vì kiến thức rộng, trí nhớ hơn người, và tài cầm bút.
Ông say mê môn lịch sử (từng là sinh viên Ban Cử Nhân Sử Địa, Đại Học Văn Khoa), thích tìm hiểu, ham đọc sách.
Sau khi định cư tại Hoa Kỳ, ông bắt đầu viết về thuở ban đầu của quân chủng và những kỷ niệm trong đời quân ngũ, phổ biến trên website Bạn Già Không Quân (của Đại tá Nguyễn Quang Tri) và các đặc san của Không Quân ở hải ngoại.
* * *
Trước khi liên lạc trực tiếp để cổ vũ, khích lệ chúng tôi, ông Trần Phước Hội đã viết “Thư góp ý của KQ Trần Phước Hội”.
Ngay trong cách phổ biến lá thư góp ý này, chúng tôi đã có nhận xét ông Hội là người biết nguyên tắc và trọng nguyên tắc. Ông đọc được Thông Báo và Bản phác thảo của chúng tôi trên đặc san Lý Tưởng của Tổng Hội Không Lực ở Hoa Kỳ thì ông gửi thư góp ý trên Lý Tưởng của Tổng Hội, và chỉ “sao kính gửi Liên Hội Ái Hữu KQ Úc Châu, để kính tường”.
Thế nhưng sau “bản sao” lá thư góp ý ấy, ông Hội đã viết riêng cho chúng tôi những lời chí tình, chân thật. Ông cho biết tuy từng là sinh viên Ban Sử Địa, bản thân ông ngoài loạt bút ký “Đốt lò hương cũ” chưa bao giờ nghĩ tới việc khởi xướng thực hiện một cuốn Quân Sử cho Không Quân VNCH, và sau một vài vụ “khởi sự bất thành” (false start) ở một số nơi, ông đã tin rằng rồi đây sẽ chẳng có cá nhân hay hội đoàn KQ nào ở hải ngoại đứng ra làm công việc này.
Thành thử khi thấy chúng tôi phổ biến Thông Báo và Bản phác thảo, mà “đọc lên tui tin mấy anh sẽ làm thiệt” (nguyên văn lời ông) ông Hội đã có cảm tình, và nhận thấy ông có bổn phận phải hỗ trợ hết mình những người đã tự nhận lãnh công việc mà ông và những người khác dù có thiện chí cũng không có cơ hội để thực hiện.
Khi được liên lạc với ông Hội lần đầu tiên, vì cả tuổi lính lẫn tuổi đời đều thua xa, chúng tôi đã gọi ông là “Niên trưởng”, nhưng – cũng giống như ông Nguyễn Phúc Tửng sau này – ông yêu cầu chúng tôi “dẹp cái chữ niên trưởng đó đi” để “anh em” cho thân mật!
Việc đầu tiên của ông Hội là gửi cho chúng tôi những bài cũ của ông viết về thuở ban đầu của KQVN, đồng thời cho mượn cuốn Quân sử QLVNCH – Giai đoạn hình thành, do Phòng 5 Bộ TTM ấn hành, nặng gần 4 kg, và đề nghị tôi dựa vào tình hình chính trị, quân sự được ghi lại trong cuốn sách này làm bối cảnh cho việc thành lập KQVN.

Cuốn quân sử QLVNCH trong giai đoạn hình thành
Theo sự tìm hiểu của tôi, cuốn sách này một số thư viện ở Úc cũng có nhưng ông Hội nhất định gửi cuốn của ông sang, bởi vì theo lời ông cuốn sách có những chỗ không chính xác đã được ông hiệu đính, cho nên ông muốn gửi cho tôi để tôi khỏi bị phân vân nghi ngại, tốn công đọc tới đọc lui.
Nhận được cuốn sách cả ngàn trang, mới đọc lướt qua tôi đã phục ông Hội. Ông không chỉ sửa những chỗ sai bằng bút chì, mà còn ghi rõ ông căn cứ vào tài liệu nào; ở một vài chỗ ông còn đính kèm những trang giấy trên đó ông ghi thêm những chi tiết mà ông biết nhờ đọc được ở đâu đó, cũng có khi viết những lời bình kiểu Mao Tôn Cương!
Tiếp theo, ông Hội đã dồn hết tâm sức để viết và gửi cho chúng tôi ba bài để làm tài liệu biên soạn cuốn QSKQ:
- Ngành Kỹ Thuật & Tiếp Vận trong Không Quân Việt Nam
- Đệ Nhất Phi Đoàn Tác Chiến & Liên Lạc
- Việc thành lập Phi Đoàn 217
Rồi từ đó, cứ lâu lâu ông lại điện thoại hỏi thăm công việc, khuyến khích chúng tôi (ông sống “giang hồ”, không có email), hoặc viết thư trả lời những chi tiết mà tôi nhờ ông tìm hiểu, kiểm chứng; hoặc gửi thêm tài liệu, chẳng hạn photocopy của cuốn La Reconquête de l’Indochine của người Pháp mà ông may mắn có được.
Sau khoảng nửa năm liên lạc qua lại, tôi đã hiểu tại sao người ta lại đặt cho ông Hội biệt hiệu “cái tủ thuốc bắc của Không Quân”. Nghĩa là bất cứ cái gì liên quan tới thời kỳ đầu của Không Quân, ông cũng biết, cũng nhớ!
Chính ông sếp cũ của tôi – Chuẩn tướng Từ Văn Bê – khi nghe tôi báo cáo về việc “lôi kéo” được ông Trần Phước Hội, cũng mừng cho tôi vì bản thân ông Bê rất nể phục kiến thức và trí nhớ của ông Hội từ ngày hai người còn phục vụ tại Đệ Nhất Phi Đoàn Tác Chiến & Liên Lạc (1954-1956) và Đệ Nhất Phi Đoàn Khu Trục & Trinh Sát (tức Phi Đoàn 1 Khu Trục, tiền thân của PĐ514).
Vì thế chúng tôi quyết định mời ông Hội làm “cố vấn biên tập”, ông nhận lời nhưng nhấn mạnh chỉ trên công việc chứ không trên danh xưng.
Khoảng giữa năm 2002, ông Hội viết thư cho tôi biết ông dự trù sẽ sang Úc một chuyến để thăm mấy người cháu ở Perth (tiểu bang Tây Úc) đồng thời thăm các ông (Đại úy) Phạm Khôn Rư, (Thiếu tá) Nguyễn Bửu Lộc, là đàn em khóa 8 Rochefort, ở Brisbane (tiểu bang Queensland), sau đó sẽ xuống Melbourne (tiểu bang Victoria) thăm (Thiếu tá) Nguyễn Văn Răng, bạn cùng khóa 1 Rochefort. Trong thời gian ở Melbourne, ông sẽ ở nhà ông Răng và mỗi ngày “sẽ sử dụng phương tiện chuyên chở công cộng” tới nhà tôi để xem xét và góp ý vào việc biên soạn.
Rất tiếc, sau đó vì một lý do bất khả kháng, ông Hội đã phải hủy bỏ dự định trên. Thay vào đó ông liên lạc thư từ với tôi thường xuyên hơn, yêu cầu tôi cho biết diễn tiến công việc, nhất là về thời kỳ thành lập KQVN.
Cũng xin viết thêm, nội dung cuốn QSKQ gồm 7 Chương, trong đó Chương 6 (hình ảnh) và Chương 7 (Phụ Lục) do các anh em tòa soạn LÝ TƯỞNG Úc Châu đảm trách, còn lại 5 Chương do tôi biên soạn, gồm:
-Việc thành lập KQVNCH
-Thời kỳ phát triển (1956-1964)
-Thời kỳ hiện đại hóa (1965-1968)
-Thời kỳ bành trướng (1969-1972)
-Sau Hiệp Định Ba-lê (1973-1975)
Công việc biên soạn, nếu nói về “cực” thì cả 5 Chương đều cực như nhau, nhưng nếu nói về “khó”, thì Chương I – Việc thành lập KQVNCH – là khó nhất.
Khó bởi vì tài liệu vốn đã không có bao nhiêu lại thường bị tam sao thất bổn. Do đó, ngoài hai cuốn South Vietnamese Air Force của Jim Mesko – một cuốn sách mỏng nhưng có những dữ kiện chính xác nhờ tham khảo sử liệu của người Pháp, người Mỹ, và cuốn Flying Dragons của Robert C. Mikesh - một cuốn sách dày nhưng trong ấn bản lần thứ nhất có khá nhiều cái sai vì người trong cuộc (KQVN) nhớ sai, tôi chỉ biết cậy trông vào “bộ nhớ” của các niên trưởng thuộc hàng “khai quốc công thần” như Võ Dinh (Tham mưu trưởng KQ), Vũ Văn Ước (BCH/HQKQ), Phạm Ngọc Sang (SĐ6KQ), Nguyễn Quang Tri, Trần Phước, Huỳnh Minh Quang...

South Vietnamese Air Force của Jim Mesko
Flying Dragons của Robert C Mikesh
(ấn hành lần thứ nhất)

(ấn hành lần thứ nhất)
Nhưng các niên trưởng nói trên mỗi vị cũng chỉ biết, chỉ nhớ về một số đơn vị, chứng kiến một số sự kiện, và trong một vài trường hợp đã không có sự thống nhất về thời điểm, hoặc không nhớ rõ diễn tiến. Cho nên tôi phải so sánh, gạn lọc rồi đúc kết ký ức của các vị niên trưởng, trong đó quan trọng nhất là bài viết ngắn Các cấp chỉ huy đơn vị đầu tiên của KQVNCH do Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang biên soạn ít lâu trước khi qua đời, được phổ biến trên website Bạn Già Không Quân.
Sau đó, chỗ nào còn nghi ngờ, hoặc có một khoảng trống thời gian “không thể bỏ qua” tôi lại phải liên lạc với các NT Võ Dinh, Trần Phước, Vũ Văn Ước, Nguyễn Quang Tri để xin “cứu bồ”. Trường hợp các niên trưởng cứu không được thì phải nhờ tới “tủ thuốc bắc của Không Quân” Trần Phước Hội. Và trong đa số trường hợp, tôi đã không phải thất vọng.
Bên cạnh đó, tuy không nắm giữ những chức vụ quan trọng, không chỉ huy các đơn vị đầu tiên của KQVN, nhưng ông Hội biết rõ, và nhớ rất nhiều diễn tiến vào cái “thuở ban đầu lưu luyến ấy”, cho nên ông đã giúp tôi được yên tâm khi viết về một số khoảng trống thời gian mà ông gọi là “khuyết sử”.
Giờ đây nhìn lại, chính tôi cũng không ngờ Chương I của cuốn QSKQ lại có thể đầy đủ tới mức ấy. Bản thân tôi chẳng có tài cán, công lao gì trong đó, mà tất cả là nhờ vào bộ nhớ của các NT, nhất là Chuẩn tướng Võ Dinh, Đại tá Vũ Văn Ước, Đại tá Trần Phước, và đặc biệt Thiếu tá Trần Phước Hội.
* Con người tài hoa và tình nghĩa
Ngoài chỉ số bảo trì phi cơ, ông Trần Phước Hội còn có nhiều “chỉ số phụ”, trong đó có nghề cầm bút.
Đọc loạt bài “Đốt lò hương cũ” và “Không Quân thời khuyết sử”, cũng như những bài khác của ông đăng trên website Bạn Già Không Quân, Lý Tưởng của Tổng Hội, Lý Tưởng - Úc Châu, người ta không chỉ nể phục kiến thức, trí nhớ của ông mà còn thích thú về óc khôi hài, châm biếm nhẹ nhàng, hoặc cảm động trước tình nghĩa nơi con người ông.
Khôi hài, châm biếm như ông tả cảnh mấy cô nữ trợ tá KQ xinh đẹp duyên dáng, mặc đồng phục váy ngắn, vào đầu thập niên 1950 được biệt phái tới CCKQ Biên Hòa để thực tập hướng dẫn phi cơ trên “lầu gương” (tên gọi nhà văn Dương Hùng Cường đặt cho đài kiểm soát không lưu). Ông Hội viết:
...Muốn lên lầu, phải leo một cái thang bằng sắt dựng thẳng đứng theo kiểu thang cứu hỏa. Các cô tập sự cứ mỗi hai giờ lại phải leo thang để đổi ca. Thân liễu yếu đào tơ mà phải hì hục leo vất vả, sợ té nên cứ bám chặt vào thang mà không dám bước lên. Khổ một nỗi là các cô mặc váy ngắn, muốn đến gần để tiếp tay đỡ các cô lên thì cũng ngại ngùng... Trong tình cảnh này, mượn hai câu thơ của Hồ Xuân Hương để diễn tả thì đúng nhất:
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt – Đi thì cũng dở, ở không xong!
Tình nghĩa thì điển hình là bài “Tìm bạn 4 phương”, viết cho một bà đầm tóc vàng sợi nhỏ đã 7 bó, sau gần một nửa thế kỷ vẫn chưa quên được người tình xưa - một chàng Trung sĩ Không Quân VNCH đào hoa đã đền nợ nước từ đời nào! Hoặc bài “Ngày giỗ tướng Lành”...
Ông Hội không chỉ tình nghĩa với người mà còn tình nghĩa với vật – những con tàu thân yêu. Sau khi Đệ Nhất Phi Đoàn Tác Chiến & Liên Lạc bị giải thể, những chiếc oanh tạc cơ Marcel Dassault MD-315 bị người Pháp lấy lại để viện trợ cho Không Quân Hoàng Gia Căm-bốt, khi có dịp ghé phi trường Pochentong và nhìn thấy bóng một “người tình xưa”, ông Hội đã tìm mọi cách để được tới gần, vuốt ve và chụp chung với “em” một bô hình kỷ niệm! (xem Phụ Lục)
* * *
Giữa năm 2005, ông Hội tới Melbourne tham dự Lễ Kỷ Niệm 50 Ngày thành lập Không Quân VNCH, đồng thời cũng là buổi phát hành cuốn QSKQ.
Trước ngày lễ, một hoa tiêu trực thăng của Phi Đoàn 217, được biết ông Hội là niên trưởng kỹ thuật của Phi Đoàn lúc mới thành lập, đã có nhã ý tổ chức một bữa cơm gia đình để khoản đãi, có sự hiện diện của nhiều anh em trong hội KQ Victoria.
Riêng tôi thì không được may mắn cho lắm: vì đã có hẹn trước với NT Nguyễn Văn Răng, một người bạn thân cùng Khóa 1 Rochefort, ông Hội không thể tới nhà tôi dùng bữa cơm hội ngộ với anh chị Phạm Khôn Rư (Khóa 8 Rochefort), chị Huỳnh Long Mỹ (quả phụ cố Đại tá Nguyễn Bình Trứ) tới từ Brisbane, và ông Nguyễn Bá Thảo, cựu Trung tá Trưởng Khối Chiến Tranh Chính Trị, BCH Kỹ Thuật & Tiếp Vận KQ, vị chỉ huy của tôi trước 1975, tới từ Hoa Kỳ.
Sau khi cuốn QSKQ được phát hành, tôi không có dịp gặp lại ông Hội, và cũng không liên lạc điện thoại, thư từ với ông nữa vì ông như cánh chim trời, nay đây mai đó.
Khoảng giữa năm 2008, một tay bạn thân của tôi ở Hoa Kỳ viết thư sang kể lại việc được gặp ông Hội ở Houston và ông gửi lời thăm tôi. Tay bạn (được biết ông Hội lần đầu) nhận xét: “Ông già vui tính, dễ thương quá mày ạ!”
Lần đầu tiên, tôi nghe một người gọi ông Hội là “ông già” (chúng tôi thường gọi bằng “anh”). Và chỉ mấy tuần sau “ông già vui tính, dễ thương” ấy đã vĩnh viễn ra đi!
Viết tới đây, tôi bỗng nhớ lại câu nói của ông Hội khi chúng tôi quyết định thực hiện cuốn QSKQ:
“Mấy anh có làm thì làm gấp đi, các NT của chúng mình giờ này đa số đã già yếu cả rồi, không biết ra đi lúc nào!”
Có ngờ đâu, ông Hội lại ra đi trước hơn ai hết trong số những NT mà tôi muốn xin tài liệu.
Trong một chuyến về thăm quê cha đất tổ, ông đã đột ngột qua đời ngày 9 tháng 6 năm 2008 tại Huế vì một cơn đau tim. Hưởng thọ 78 tuổi.
Tang lễ được cử hành tại Huế, và ông đã được an nghỉ trong nghĩa trang của dòng họ (vua Thành Thái) ở cố đô.
Dù sao, cũng có thể xem đây là một điều an ủi, sau một đời lang thang, biệt xứ, ông Trần Phước Hội - tức “Mệ” Nguyễn Phước Bảo Hội - đã được an giấc nghìn thu tại nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
* * *
Sau cùng xin có đôi dòng giải thích về việc không có hình cá nhân của NT Trần Phước Hội trong bài viết của tôi.
Không hiểu vì nguyên nhân gì, ông Hội không thích chụp hình, và nếu “bị” chụp thì căn dặn không được phổ biến trên các phương tiện truyền thông. Vì thế mặc dù chúng tôi có những tấm hình rất rõ chụp ông Hội phát biểu trong buổi phát hành cuốn QSKQ, ông đã chỉ đồng ý cho chúng tôi phổ biến một tấm chụp ông từ xa xa, đang đứng tại bàn để chào mọi người khi được MC giới thiệu.

NT Trần Phước Hội trong buổi phát hành QSKQ
Phải đợi tới khi ông mất, mới thấy một tấm hình chụp ông mặc áo dài khăn đóng được sử dụng trong tang lễ.
(Còn tiếp)
PHỤ LỤC
Phi Đoàn Tác Chiến & Liên Lạc
Phi Đoàn Tác Chiến & Liên Lạc, gọi một cách đầy đủ là Đệ Nhất Phi Đoàn Tác Chiến & Liên Lạc, do danh xưng tiếng Pháp của phi đoàn 1er Groupe de Combat et de Liaison, viết tắt là 1er GC&L, là một trong bốn đơn vị phi hành đầu tiên của Không Quân Việt Nam, tuy nhiên vì chỉ tồn tại được 2 năm đã không có mấy người biết tới.
Khi cố vấn cho chúng tôi trong việc biên soạn quyển QSKQ, ông Trần Phước Hội nói rằng cho dù chỉ tồn tại được 2 năm, Phi Đoàn Tác Chiến & Liên Lạc cũng là nơi khởi nghiệp của nhiều vị niên trưởng trong KQVN trong đó có một vị sau này làm Tư lệnh và bốn vị lên tới cấp tướng thì không thể không đề cập tới.
Vì thế, ông đã viết một bài rất chi tiết tựa đề Ðốt Lò Hương Cũ - Ðệ Nhất Phi Ðoàn Tác Chiến & Liên Lạc để chúng tôi tham khảo và sau đó phổ biến trên các trang mạng của Không Quân.
* * *
Sau khi Quốc trưởng Bảo Đại ký Dụ số 9 thành lập ngành Không Quân trong Quân Đội Quốc gia Việt Nam vào ngày 25/6/1951, ba phi đoàn sau đây đã được lần lượt thành lập, lúc đầu do người Pháp chỉ huy sau đó bàn giao cho phía VN.
-Phi Đoàn 312 Đặc Nhiệm thành lập năm 1951, có nhiệm vụ chuyên chở các yếu nhân trong chính phủ; tới năm 1953 đổi danh xưng thành Phi Đội Liên Lạc VN (tiếng Pháp là Escadrille de Liaison du Vietnam, viết tắt là ELAVN, còn được gọi là Phi Đoàn VIP). Năm 1955, quyền chỉ huy Phi Đội Liên Lạc được bàn giao cho Đại úy Huỳnh Hữu Hiền.
-Phi Đoàn 1 Quan Sát (tiền thân của PĐ110) thành lập ngày 1/1/1952, tới ngày 1/3/1953 bàn giao cho VN, Chỉ huy trưởng: Trung úy Nguyễn Ngọc Oánh.
-Phi Đoàn 2 Quan Sát (tiền thân của PĐ112) thành lập đầu năm 1953, bàn giao cho VN ngày 1/7/1953, Chỉ huy trưởng: Trung úy Võ Dinh.
Tới tháng 1/1954, Phi Đoàn Tác Chiến & Liên Lạc được thành lập tại Nha Trang.
Đây là đơn vị phi hành đầu tiên của KQVN có khả năng “tác chiến”, mặc dù rất hạn chế. Phi đoàn được trang bị 16 phi cơ MD-315 Flamant, một loại máy bay 2 động cơ do hãng Marcel Dassault của Pháp chế tạo sau Đệ nhị Thế chiến, có 2 rack bom dưới cánh, mỗi bên gắn được 4 trái bom miểng loại 250 cân Anh, và 2 đại liên 50 (12 ly 7) ở hai bên mũi. Trong nhiệm vụ liên lạc, MD-315 có thể đáp xuống phi trường loại C (1.000m) ở các tỉnh nhỏ để chuyên chở các yếu nhân. MD-315 cũng được sử dụng để thả dù tiếp tế cho các tiền đồn.

Một chiếc MD-315 Flamant mang huy hiệu KQVN phi diễn trong một airshow
Trong số 16 phi cơ MD-315 của Phi Đoàn, có 6 chiếc cũ được lấy từ Phi Đoàn 312 Đặc Nhiệm, và 10 chiếc mới tinh sau khi tháo cánh đóng thùng đã được mẫu hạm Dixmude chở từ quân cảng Toulon tới Sài Gòn. Sau khi được ráp lại tại công xưởng Parc Colonial 191 ở Biên Hòa (tức Công Xưởng Không Quân sau này) và bay thử, các phi cơ đã được đưa ra Nha Trang.
Thành phần nhân sự của Phi Đoàn Tác Chiến & Liên Lạc khá hùng hậu, với gần 200 sĩ quan, hạ sĩ quan, đa số tốt nghiệp phi công, điều hành viên, cơ khí viên, vô tuyến du hành (radio-navigant) tại các trường không quân ở Pháp hoặc Bắc Phi. Thời gian đầu, một số sĩ quan và hạ sĩ quan Pháp nắm giữ các chức vụ chỉ huy kiêm cố vấn để rồi tới khi mãn nhiệm kỳ lần lượt bàn giao lại cho người Việt, trong đó có Đại úy Đinh Văn Chung, Chỉ huy trưởng phi đoàn, Đại úy Phan Phụng Tiên, Trưởng phòng Hành quân, Trung úy Lê Văn Khương, Sĩ quan Kỹ thuật (về sau được Trung úy Từ Văn Bê thay thế)...
Trong số sĩ quan của phi đoàn, sau này một vị lên làm Tư lệnh Không Quân là Đại tá Nguyễn Xuân Vinh, bốn vị lên tới cấp Chuẩn tướng là Huỳnh Bá Tính (Tư lệnh SĐ3KQ), Phan Phụng Tiên (Tư lệnh SĐ5KQ), Từ Văn Bê (Chỉ huy trưởng BCH/KT&TV/KQ) và Lê Trung Trực (Phụ tá cho Trung tướng Đặng Văn Quang tại phủ Tổng thống); trong số thăng cấp Đại tá có các ông Đinh Văn Chung (Tham mưu phó Chiến Tranh Chính Trị BTL/KQ), Dương Thiệu Hùng (Tư lệnh các KĐ 41, 23 Chiến Thuật), Nguyễn Kim Khánh...
Về thành tích, trong thời gian tồn tại khá ngắn ngủi (2 năm), Phi Đoàn Tác Chiến & Liên Lạc đã tham dự hai cuộc hành quân quan trọng là Hành quân Atlante bình định Quân khu 5 (Nam-Ngãi-Bình-Phú) và Chiến dịch Đinh Tiên Hoàng bình định miền Tây, đánh dẹp hai tướng “Năm Lửa” Trần Văn Soái và “Ba Cụt” Lê Quang Vinh.
KQVN tham gia chiến dịch với 1 biệt đội quan sát và 1 biệt đội MD-315 đồn trú tại phi trường Sóc Trăng.
Bốn vị Trung úy thay phiên nhau làm Biệt đội trưởng MD-315 mỗi người một tuần lễ: Phan Phụng Tiên, Dương Thiệu Hùng, Huỳnh Minh Bon, và Lâm Văn Phiếu. Riêng Trung úy Huỳnh Bá Tính vì gốc Hòa Hảo nên từ chối không tham gia chiến dịch này.

TT Ngô Đình Diệm tới thăm và cám ơn các nhân viên phi hành của Phi Đoàn Tác Chiến & Liên Lạc
đã tham gia Chiến dịch Đinh Tiên Hoàng
đã tham gia Chiến dịch Đinh Tiên Hoàng
Ngoài ra, phi đoàn còn tham dự cuộc phi diễn đầu tiên của KQVN nhân ngày miền nam Việt Nam tuyên bố độc lập, thành lập nền Đệ Nhất Cộng Hòa, 26/10/1955, cùng với Phi Đoàn 1 Quan Sát và Phi Đoàn 1 Vận Tải (lúc đó KQVN chưa có khu trục và trực thăng).
* * *
Giữa năm 1956, Phi Đoàn Tác Chiến & Liên Lạc bị giải thể, vì theo các điều khoản của Hiệp định Genève 1954, mọi chiến cụ do người Pháp quản trị, trong đó có phi cơ, phải đem ra khỏi Việt Nam trước ngày 30/6/1956. Vì thế, 10 chiếc MD-315 đã được lấy lại để viện trợ cho Không Quân Hoàng Gia Căm-bốt, 6 chiếc còn lại bay về Pháp.
Phần lớn nhân viên phi hành và một số nhân viên kỹ thuật của Phi Đoàn được đưa về Tân Sơn Nhất để thành lập Phi Đoàn 2 Vận tải do Đại úy Đinh Văn Chung làm chỉ huy trưởng, hoặc bổ sung cho Phi Đội Liên Lạc (Phi Đoàn VIP); số chuyên viên kỹ thuật còn lại được thuyên chuyển về Phi Đoàn 1 Khu Trục vừa được thành lập tại Biên Hòa.
Comment