BUỒN VUI ĐỜI LÍNH... VĂN PHÒNG (Phần 3)

Collapse
X

BUỒN VUI ĐỜI LÍNH... VĂN PHÒNG (Phần 3)

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts
  • Nguyen Huu Thien
    Moderator

    • Jul 2014
    • 1169

    BUỒN VUI ĐỜI LÍNH... VĂN PHÒNG (Phần 3)

    BUỒN VUI ĐỜI LÍNH... VĂN PHÒNG (Phần 3)

    Hồi ký
    Nguyễn Hữu Thiện





    Phần 3:
    “Một Ngày Không Quân - Một Đời Không Quân”


    ĐÔI DÒNG PHI LỘ

    Thiên hồi ký Buồn Vui Đời Lính Văn Phòng của tôi lúc ban đầu dự trù gồm hai phần, kết thúc với hồi tưởng việc đốt phá CCKQ Biên Hòa và cuộc di tản chiều 28, sáng 29/4/1975, nhưng nay nghĩ lại tôi thấy không thể không viết Phần 3, bởi vì “Một ngày Không Quân - Một đời Không Quân” (tựa đề một bài viết của một vị niên trưởng trong quân chủng).

    Sau gần sáu năm trong ngục tù cộng sản, một năm sống ở trại tỵ nạn, từ khi định cư tại Úc cuối năm 1982, tôi đã có nhiều cơ hội tiếp tục công việc của một người lính CTCT trong quân chủng Không Quân ngày trước, đáng kể nhất là việc được nằm trong Ban biên tập đặc san Lý Tưởng (Úc Châu), Ban biên soạn quyển Quân Sử Không Quân VNCH (2005), và cộng tác với Ban điều hành Hội Quán Phi Dũng.

    Qua những công việc nói trên, tôi không chỉ liên lạc với cựu Chuẩn tướng Từ Văn Bê ở Hoa Kỳ mà còn may mắn được gặp gỡ, tiếp xúc (trực tiếp hoặc qua thư từ) với nhiều vị niên trưởng, từ hàng khai quốc công thần cho tới các vị chỉ huy thuộc thế hệ thứ hai trong quân chủng, như Nguyễn Xuân Vinh, Võ Dinh, Vũ Văn Ước, Vũ Thượng Văn, Trần Phước, Nguyễn Phúc Tửng, Phùng Văn Chiêu, Nguyễn Hồng Tuyền, Trần Phước Hội, Võ Văn Ân, Trần Bá Hợi, Lê Như Hoàn, Trần Mạnh Khôi, Nguyễn Thiện Ân (Hiệp sĩ mù), Đỗ Văn Hiếu, Võ Ý... Gần đây nhất là hai niên trưởng Nguyễn Văn Chín, nguyên Tham mưu phó Hành Quân SĐ4KQ, và niên trưởng Nguyễn Phú Chính, nguyên Phi đoàn trưởng Phi Đoàn 237, SĐ3KQ.

    Những buổi gặp gỡ, những dịp tiếp xúc ấy không chỉ giúp tôi có thêm kiến thức về ngành hàng không quân sự nói chung, về KLVNCH nói riêng, mà còn đem lại cho bản thân những niềm vui tinh thần tưởng như không bao giờ có thể có sau ngày nước mất nhà tan.

    Vì thế, phần 3 của thiên hồi ký này xin được xem như nén hương lòng tưởng nhớ những vị đã vĩnh viễn ra đi, một bông hồng gửi tới những vị còn tại thế thay cho lời cám ơn về những ưu ái chiếu cố dành cho một tay sĩ quan CTCT Không Quân thuộc hàng hậu bối nhưng không bao giờ quên màu cờ sắc áo quân chủng.



    * Những ngày cuối cùng ở Biên Hòa

    Vào những tháng cuối năm 1974, những ai quan tâm tới tình hình chiến sự tại miền Nam VN đều nhận ra sự thật phũ phàng: phe cộng sản chỉ xem Hiệp Định Ba-lê 1973 như tờ giấy lộn, còn “đồng minh” Hoa Kỳ thì sau khi rút quân “trong danh dự” và tù binh Mỹ được cộng sản Bắc Việt trao trả đã phủi tay.

    Không chỉ phủi tay, Hoa Kỳ còn nhắm mắt trước những vụ vi phạm trắng trợn của phe cộng sản. Được Quốc Hội Mỹ (do phe Dân Chủ phản chiến thao túng) ngầm cam kết sẽ không cho phép Không Lực Hoa Kỳ đưa B-52 trở lại chiến trường Việt Nam, các lực lượng chính quy của cộng sản Bắc Việt ở miền Nam (lẽ ra đã phải rút về Bắc theo Hiệp Định) đã mở những cuộc tấn công quy mô vào các vị trí của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

    Tới cuối năm 1974 đầu năm 1975, để biết chắc chắn Hoa Kỳ đã phủi tay cũng như để thăm dò dư luận quốc tế trong đó có những quốc gia đặt bút ký vào Hiệp Định Ba-lê 1973, cộng sản xua quân đánh chiếm tỉnh lỵ Phước Long.

    Kết quả, Hoa Kỳ ngoảnh mặt làm ngơ, cả “thế giới tự do” hoặc im lặng hoặc trở thành đồng lõa của cộng sản Bắc Việt.

    Tình hình chiến sự ngày càng tồi tệ, một bầu không khí căng thẳng bao phủ khắp miền Nam. Sau này nhìn lại, tôi tin chắc các nhà lãnh đạo miền Nam lúc đó đã biết trước kết cuộc bi thảm của chế độ VNCH, nhưng vẫn cố gắng còn nước còn tát!

    Bộ Tư Lệnh Không Quân, trước việc bom đạn, nhiên liệu bị cắt giảm tối đa hẳn cũng biết điều đó; về phần các vị chỉ huy các đơn vị KQ có biết hay không, tôi không đoán được nhưng tới khi mất CCKQ Đà Nẵng thì chắc chắn phải biết.

    * * *

    Những trang sử đen tối của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa bắt đầu vào đêm 28 rạng 29 tháng 3 năm 1975 khi Sư Đoàn 1 KQ bỏ Đà Nẵng không một lời từ biệt.

    Tôi viết "bỏ" Đà Nẵng vì không biết sử dụng chữ nào khác cho thích hợp. Viết là “tháo chạy” không đúng vì đâu có “đụng” địch (chỉ bị ăn pháo kích), viết là “di tản” lại càng không đúng vì đâu có lệnh lạc gì mà mạnh ai ấy chạy!

    Vì sau này tại hải ngoại đã không có một vị sĩ quan cao cấp nào của SĐ1KQ viết đầy đủ về cuộc “bỏ Đà Nẵng” bi thảm ấy, tôi chỉ biết tìm hiểu qua những bài viết của các nhân chứng sống, gồm:

    - Huế, Đà Nẵng Những Ngày Tàn Cuộc Chiến của KQ Phan Văn Phúc (chuyên mục Truyện VNAF, Hội Quán Phi Dũng)

    - Những ngày cuối cùng tại phi trường Đà Nẵng của KQ Võ Văn Be (chuyên mục Truyện VNAF, Hội Quán Phi Dũng)

    - ĐÀ NẴNG NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG, trích nhật ký của Đại úy Lam Hà, Tùy viên Trung tướng Ngô Quang Trưởng

    https://dongsongcu.wordpress.com

    và lời thuật lại của một người bạn hoa tiêu quan sát phục vụ tại Phi Đoàn 110 cất cánh vào giờ thứ 25 , tôi mới biết nguyên nhân chính là quân cộng sản được các nhà sư nằm vùng hướng dẫn (?) đã chiếm Huế và tiến về Đà Nẵng quá nhanh khiến mọi người không kịp trở tay.

    Riêng bên Không Quân, nhờ Thiếu tướng Tư lệnh phó Võ Xuân Lành, trước đó mấy ngày đã chỉ thị và đích thân đôn đốc việc sử dụng C-130 di tản gia đình quân nhân KQ về Tân Sơn Nhất, đã có một số người may mắn rời Đà Nẵng một cách an toàn.

    Đêm 28/3/1975, quân cộng sản gia tăng pháo kích dữ dội. Không nhận được bất cứ lệnh lạc nào của thượng cấp, nhiều hoa tiêu đang có mặt trong phi trường đã quyết định cất cánh bay về phương nam...

    Người ta không biết Chuẩn tướng Nguyễn Đức Khánh, Tư lệnh SĐ1KQ, rời phi trường vào lúc nào, bằng phương tiện gì, chỉ biết ông đã tới "lánh nạn" ở Đài kiểm báo Sơn Chà. Nhật Ký của Đại úy Lam Hà, Tùy viên của Trung tướng Ngô Quang Truởng, viết:

    ...Hôm nay, ngày 23 tháng 10, năm 2010, tôi đi dự lễ tiễn đưa Đại tá Đặng Văn Phước về nơi an nghỉ cuối cùng. Ông là Không Đoàn Trưởng Không Đoàn 51, và chính ông là người đã nhận tín hiệu của tôi qua cái đèn bấm và cái Samsonite, ông đã can đảm đáp xuống cột cờ Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng 1 Duyên Hải để cứu Trung tướng Ngô Quang Trưởng Tư Lịnh Quân Đoàn I và tôi, ra khỏi vùng nguy hiểm vào khoảng 2 giờ sáng ngày 29 tháng 3 năm 1975.

    Sau đó chúng tôi ghé núi Sơn Chà bốc Chuẩn Tướng Khánh, Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Không Quân, rồi trực chỉ phi trường Non Nước để nhập cùng anh em Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam... (ngưng trích)

    Chính vì chẳng có lệnh lạc gì, Đại tá Nguyễn Bình Trứ, Không đoàn trưởng Không Đoàn 10 Bảo Trì & Tiếp Liệu, mới bị kẹt lại.

    KQ Võ Văn Be viết:

    ...Khoảng 4, 5 giờ sáng, tiếng pháo kích bớt dần, không biết VC hết đạn hay chỉ nghỉ mệt? Tôi thấy Đại tá Nguyễn Bình Trứ, Không đoàn trưởng Không Đoàn 10 Bảo Trì & Tiếp Liệu, mặc đồ trận màu xanh lái chiếc xe jeep đậu trước xưởng chúng tôi, đối diện xưởng là văn phòng của Liên Đoàn Bảo Trì Cấp Căn Cứ, tôi chạy lại chào và hỏi “Thưa Đại tá tình trạng của tụi em làm sao?”. Đại tá không nói, hỏi lại tôi “Anh có gặp Thiếu tá Cừ không?”. Tôi thưa “Không”. (Thiếu tá Nguyễn Văn Cừ là LĐT Liên Đoàn Bảo Trì Cấp Căn Cứ)

    Sau này được biết Đại tá Nguyễn Bình Trứ bị rớt trực thăng và đã mất. Riêng Thiếu tá Cừ thì lên được một chiếc C-7 Caribou; sau đó tôi đã gặp lại ông ở hậu cứ SĐ1KQ ở Tân Sơn Nhất... (ngưng trích)

    * * *

    Việc mạnh ai nấy bỏ chạy tại phi trường Đà Nẵng, trong đó có những hoa tiêu tử nạn khi cất cánh vì pháo kích, trên đường đi vì cạn nhiên liệu, vì hỏa lực địch hay hỏa lực “bạn”, hoặc bị kẹt lại và lọt vào tay quân địch, đã gây chấn động trong Không Quân, và dĩ nhiên Chuẩn tướng Nguyễn Đức Khánh, Tư lệnh SĐ1KQ, bị quy trách “bỏ mặc đàn em để thoát thân”. Nghe nói sau đó BTKL/KQ đã phải tìm một nơi trú ngụ "an toàn" cho ông trong căn cứ TSN.



    Các quân nhân SĐ1KQ bên cạnh một trong hai chiếc Boeing 727 của World Airways
    được chính phủ Mỹ mướn để di tản nhân viên (hình chụp ngày 25/3/1975)


    Xác người lính SĐ1KQ bị kẹp chết trong hệ thống bánh đáp của chiếc Boeing 727
    (hình chụp ngày 29/3/1975)

    Về số phận của Đại tá Nguyễn Bình Trứ, mấy chục năm sau tại hải ngoại, một vị sĩ quan thuộc SĐ1KQ đã bỏ công tìm gặp các nhân chứng, ở hải ngoại trong cũng như trong nước, xác định được vị trí chiếc trực thăng bị bắn rơi tại bờ biển, và nơi dân chúng chôn cất ông; hiền nội của vị Đại tá vắn số đã từ Úc về VN tìm được vị trí và cải táng di cốt của chồng.

    Còn trong suốt mấy chục năm trước đó, mọi người trong đó có Chuẩn tướng Từ Văn Bê vẫn nuôi hy vọng ông Nguyễn Bình Trứ bị quân cộng sản bắt sống.

    * * *

    Ngày ấy, việc vị Đại tá Không đoàn trưởng Không Đoàn 10 Bảo Trì & Tiếu Liệu bị mất tích khi rời bỏ Đà Nẵng đã khiến ông sếp của tôi, Chuẩn tướng Từ Văn Bê, bị sốc nặng.

    Bởi vì trong thời gian phục vụ dưới trướng của ông, tôi được biết hai người bạn thân nhất của ông trong quân chủng chính là hai cựu “đồng môn” Salon-de-Provence: Đại tá Nguyễn Quang Tri và Đại tá Nguyễn Bình Trứ.

    Trước hết viết về Đại tá Nguyễn Quang Tri, ông là một trong những phi công khu trục đầu tiên của KQVN tốt nghiệp tại Pháp, cùng thời với các ông Nguyễn Ngọc Loan, Hà Xuân Vịnh, Lưu Văn Đức nhưng về nước sau vì phải ở lại học thêm một khóa hoa tiêu phản lực (theo lời Đại tá Tri, ông Nguyễn Ngọc Loan cũng học khóa này nhưng chưa xong thì bị triệu hồi về nước vì lúc đó KQVN rất thiếu cấp chỉ huy).

    Năm 1960, NT Nguyễn Quang Tri cũng là một trong sáu phi công khu trục đầu tiên được chọn sang Hoa Kỳ xuyên huấn A-1 Skyraider.

    Ông là vị chỉ huy trưởng đời thư tư của Phi Đoàn 1 Khu Trục (tiền thân của Phi Đoàn 514), sau các ông Huỳnh Hữu Hiền, Hà Xuân Vịnh, Lưu Văn Đức, và cũng là người giữ chức vụ này lâu nhất (1960-1963).



    Trung úy Nguyễn Quang Tri, thứ hai từ phải, trong một chuyến thăm Hoa Kỳ vào năm 1959

    Sau cuộc đảo chánh lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm vào tháng 11/1963, Thiếu tá Nguyễn Quang Tri được lệnh bàn giao chức vụ cho Thiếu tá Võ Xuân Lành; đường công danh sự nghiệp của ông tới đây coi như chấm dứt.

    Sau này dù có “bò” lên tới cấp bậc đại tá, chức vụ của ông Nguyễn Quang Tri chỉ là Phụ tá Phòng Không tại BTL/KQ, một chức vụ hữu danh vô thực vì miền Nam VN lúc đó không có nhu cầu và cũng chẳng có một lực lượng “phòng không” đúng nghĩa.

    Ngồi chơi xơi nước ở TSN, Đại tá Nguyễn Quang Tri thường điện thoại về Biên Hòa trò chuyện với ông Từ Văn Bê; có lần tôi có mặt ở văn phòng đã... hết hồn khi nghe hai ông Đại tá “mày tao” với nhau; sau này ra hải ngoại nghe Đại tá Tri kể chuyện, tôi mới biết hai ông là bạn thân từ hồi trung học, “mày tao” với nhau cho tới cuối đời.

    Còn Đại tá Nguyễn Bình Trứ thì vào trường Võ Bị Không Quân Pháp Salon-de-Provence sau ông Bê và ông Tri một năm (1954), tức là cùng năm với Chuẩn tướng Nguyễn Đức Khánh, Tư lệnh SĐ1KQ. Từ trường Salon-de-Provence, ông Nguyễn Bình Trứ cũng nối gót ông Từ Văn Bê tới Rochefort và tốt nghiệp Kỹ sư Hàng không.

    Tôi không được biết ông Từ Văn Bê và ông Nguyễn Bình Trứ xưng hô với nhau ra sao, chỉ biết trong số sáu ông Không đoàn trưởng Không Đoàn Bảo Trì & Tiếp Liệu ở sáu Sư Đoàn Không Quân, ông Bê thân thiết, mến phục ông Trứ nhất. Một phần vì là “đồng môn” Salon-de-Provence / Rochefort, một phần vì (theo lời ông Bê) ông Trứ khi làm việc thì hết mình và khi chơi cũng... tận mạng!



    Đại tá Nguyễn Bình Trứ ngày còn mang cấp bậc Thiếu tá, với anh em kỹ thuật
    trong một buổi party Việt-Mỹ tại Đà Nẵng


    Cựu Đại tá Nguyễn Quang Tri và phu nhân cố Đại tá Nguyễn Bình Trứ
    trong một buổi hội ngộ "cựu Salon-de-Provence" tại Hoa Kỳ

    Trở lại với cuộc bỏ chạy hỗn loạn (và bi thảm) tại phi trường Đà Nẵng vào cuối tháng 3/1975. Tin tức được loan truyền đã gây xôn xao, chấn động trong Không Quân, và phần lớn dư luận đã quy trách cho Chuẩn tướng Nguyễn Đức Khánh, Tư lệnh SĐ1KQ, tội “bỏ mặc đàn em để thoát thân”.

    Trước tình hình ấy, để trấn an tinh thần quân nhân các cấp, BTL/KQ đã cho phổ biến rộng rãi một nhật lệnh khẩn tới các đơn vị KQ theo đó tất các sĩ quan giữ chức vụ chỉ huy phải có mặt 24/24 tại đơn vị, và trong trường hợp di tản sẽ là người sau cùng rời đơn vị.

    Giữa tháng 4/1975, Việt Cộng gia tăng pháo kích phi trường Biên Hòa, không chỉ bằng hỏa tiễn 122 ly mà còn có cả đại bác 130 ly; khu gia binh sĩ quan thưa vắng dần, nhưng cũng phải đợi tới tuần lễ sau cùng, khi tất cả phi cơ “fixed wing” (khu trục, quan sát) đã được đưa về Tân Sơn Nhứt hoặc Bình Thủy, vợ tôi mới chịu đưa hai con về Sài Gòn.

    Như sau này mọi người đều biết, khi ký Hiệp Định Ba-lê 1973 người Mỹ đã quyết định bỏ miền Nam VN, chính vì thế lúc đầu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu nhất quyết không ký, cho dù bị tay cáo già Henry Kissinger ra sức gây áp lực.

    [Henry Kissinger là Trưởng phái đoàn Mỹ tại hòa đàm Ba-lê, lúc đó đang giữ chức Cố vấn An ninh Quốc gia của TT Nixon. Sau khi ông Nixon đắc cử nhiệm kỳ thứ hai vào cuối năm 1973, Kissinger kiêm thêm chức Ngoại trưởng]

    Chỉ tới khi TT Nixon cho bà Anna Chennault, vợ góa của cố Trung tướng Không Quân Claire Chennault, phụ nữ gốc Hoa chống cộng có thế lực nhất trên chính trường Mỹ lúc bấy giờ, tới Sài Gòn khuyến dụ TT Thiệu, ông mới chịu ký. (xem Phụ Lục)

    Cũng mãi sau này người ta mới được biết ngày ấy bà Anna Chennault đã bị TT Nixon lợi dụng để lừa gạt TT Thiệu: nói rằng nếu ông Thiệu chịu ký, người Mỹ chỉ rời bỏ (leave) chứ không bỏ rơi (abandon) miền Nam VN, nhưng trên thực tế, sau khi đắc cử nhiệm kỳ 2, ông Nixon đã lạnh lùng bỏ rơi VNCH.

    Sau khi khoanh tay nhìn quân cộng sản trắng trợn vi phạm Hiệp Định Ba-lê đánh chiếm tỉnh ly Phước Long của VNCH vào cuối năm 1974 đầu năm 1975, người Mỹ đã chuẩn bị kế hoạch di tản công dân Mỹ tại Việt Nam.

    Lúc ban đầu, họ dự đoán quân cộng sản sẽ chiếm Sài Gòn vào giữa tháng 5, kịp ăn mừng ngày sinh nhật (tưởng tượng) 19/5 của Hồ Chí Minh, nhưng sau khi quân đội VNCH bỏ Vùng 1 Chiến Thuật, rồi phòng tuyến Phan Rang tan vỡ, họ sợ không di tản kịp nên đã trao cho Không Quân VNCH ngòi nổ để thả một trái bom CBU-55 xuống mặt trận Xuân Lộc vào ngày 12/4/1975 để làm chậm sức tiến quân của CSBV. (Chú thích 1)

    Sự kiện này (thả bom CBU), cùng với tinh thần chiến đấu của binh sĩ Sư Đoàn 18 BB, Lữ Đoàn I Nhảy Dù, Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân... tại mặt trận Long Khánh đã khiến nhiều người lạc quan, trong đó có bản thân tôi, hy vọng quân ta sẽ giữ được Vùng 3 và Vùng 4.

    Vì thế, khi thằng em trai kế chở mẹ tôi vào phi trường Biên Hòa thuyết phục tôi cùng gia đình chạy ra Phú Quốc, tôi đã nổi nóng nặng lời với bà để rồi sau này phải ân hận suốt đời.

    Nguyên mẹ tôi tuy sinh trưởng ở một làng quê nhưng là người có học (bà giáo) và hiểu biết, lại quen nhiều “đấng bậc” trong giáo quyền cho nên ngay sau khi mất Phước Long, bà đã được một vị linh mục cho biết sớm muộn miền Nam cũng sẽ mất về tay cộng sản!

    Sau mấy tuần chờ đợi mà không có tin tức gì về thằng con trai thứ ba phục tại Quân Đoàn II bị mất tích trong cuộc di tản trên liên tỉnh lộ 7, mẹ tôi quyết định đưa cả gia đình ra đảo Phú Quốc lánh nạn, để trong trường hợp tệ hại nhất, toàn bộ miền Nam lọt vào tay cộng sản, thì cũng còn hy vọng tàu bè của Thế Giới tự Do sẽ vào đảo đưa đi di cư như ở miền Bắc năm 1954, cho dù không biết sẽ được đưa đi đâu?!

    Dĩ nhiên, “cả gia đình” có nghĩa là phải có gia đình tôi vì tôi là trưởng nam.

    Trong lòng đang hy vọng quân ta sẽ giữ được Vùng 3 và Vùng 4, nghe mẹ tôi đưa ra kế hoạch “bỏ chạy”, tôi lớn tiếng:

    - Ai nói với mẹ như vậy?! Mẹ muốn đi đâu thì đi, con nhất định ở lại. Quân ta còn đang chiến đấu để giữ Long Khánh, con là sĩ quan CTCT lại bỏ chạy thì còn ra thể thống gì nữa!

    Sau đó tôi còn nói những gì trong cơn tức giận, tôi không thể nhớ. Chỉ biết sau này vợ tôi thường kể lại nàng không bao giờ có thể quên được nét mặt sững sờ
    , ánh mắt tuyệt vọng của mẹ tôi trước sự chống đối kịch liệt của gã trưởng nam.

    Vợ tôi còn trách tôi đã tỏ ra tàn nhẫn tới mức hỗn hào với mẹ của mình. Nàng nhìn bà lủi thủi ra về mà ứa nước mắt!

    (Còn tiếp)


    PHỤ LỤC:

    “Hương-Mai Long-Nữ” ANNA CHENNAULT

    Anna Chennault, tên con gái Chen Xiangmei (Trần Hương-Mai), là người vợ gốc Hoa của Thiếu tướng Không Quân Mỹ Claire Chennault (1890-1958), nguyên Tư lệnh Thập Tứ Không Lực Hoa Kỳ (14th Air Force) đóng ở Côn Minh trong Đệ nhị Thế chiến, và cũng là người thành lập các phi đội cảm tử Phi Hổ (Flying Tigers) lừng danh, đồng thời góp phần không nhỏ vào việc thành lập Không Lực Trung Hoa Dân Quốc, một nhân vật nổi tiếng mà ngày ấy Hồ Chí Minh đã tìm mọi cách để được “ra mắt”!

    Trần Hương-Mai ra chào đời tại Bắc Kinh năm 1923 (giấy tờ ghi năm 1925), là con gái lớn của một viên chức ngoại giao của Cộng Hòa Trung Hoa (tức Trung Hoa Dân Quốc của Tưởng Giới Thạch).

    Trong thời gian quân Nhật chiếm đóng Hoa Lục, mặc dù sống thiếu thốn cơ cực ở “vùng tự do” (do quân của Tưởng Giới Thạch kiểm soát) Hương-Mai cũng lấy được bằng Cử nhân Hoa ngữ vào năm 1944 tại Đại học Lĩnh Nam (Lingnan University, từ Hương Cảng di tản về “vùng tự do”).

    Sau đó, Hương-Mai trở thành phóng viên chiến trường của Trung ương
    Thông tấn xã (Central News Agency) của chính phủ Dân Quốc.

    Năm 1946, Hương-Mai được cử tới Côn Minh để phỏng vấn Thiếu tướng Claire Chennault và cả hai đã bị... tiếng sét ái tình, mặc dù lúc đó vị thiếu tướng đã có vợ + 8 con và hơn Hương-Mai 30 tuổi!

    Qua năm sau, Claire Chennault ly dị vợ và cưới Hương-Mai. Hai người có với nhau hai con gái.


    Vợ chồng Chennault và hai con

    Sau khi lấy tướng Chennault (lúc đó đã về hưu), Hương-Mai đã trở thành cánh tay mặt của ông trong việc thành lập, điều hành, quản trị công ty hàng không dân sự CAT (Civil Air Transport) do ông thành lập cho chính phủ Dân Quốc; phi công đa số là các cựu “Phi Hổ” trước kia phục vụ dưới quyền ông.

    Năm 1950, sau khi quân cộng sản của Mao Trạch Đông chiếm Hoa Lục, chính phủ Dân Quốc của Tướng Giới Thạch phải chạy ra đảo Đài Loan, CAT được bán lại cho Cơ Quan Trung Ương Tình Báo Hoa Kỳ (CIA), vợ chồng Chennault vẫn tiếp tục giữ vai trò cố vấn hàng không cho Thống chế Tưởng Giới Thạch.

    [CAT được CIA sử dụng trong những công tác bí mật tại vùng Đông Nam Á; tới năm 1959, được đổi tên thành Air America, hoạt động cho tới khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, giải thể vào giữa năm 1976.
    Phi cơ của Air America thường được sơn màu trắng hoặc màu nhôm bạc và không có cờ, phù hiệu gì cả. Tháng 4/1975, trong những giờ phút cuối cùng của Sài Gòn, nhiếp ảnh gia người Hòa-lan Hubrt van Es đã chụp được một tấm hình để đời: một chiếc trực thăng UH-1 của Air America đáp xuống sân thượng ngôi nhà số 22 đường Gia Long để bốc các nhân viên CIA và USAID còn lại, nhưng đã bị một đoàn người Việt Nam tràn lên. Tấm hình này về sau đã bị những người thiếu hiểu biết chú thích sai là “trên sân thượng Tòa đại sứ Mỹ ở Đại lộ Thống Nhất”]





    Trong những năm tháng nói trên, gia đình Chennault chia đôi thời gian, vừa ở Louisiana, quê của chồng, vừa ở Đài Bắc.

    Năm 1958, sau khi Claire Chennault qua đời vì ung thư, Trần Hương-Mai đưa hai con gái về Mỹ sống ở thủ đô Washington, ngụ tại một apartment rộng lớn ở tầng trên cùng khách sạn Wartergate (là nơi sau này sẽ xảy ra vụ xì-căng-đan nghe lén “Watergate” dẫn đưa tới việc TT Nixon phải từ nhiệm).

    Là góa phụ của một vị tướng nổi tiếng, lại là một phụ nữ gốc Hoa xinh đẹp, tài giỏi, thông thạo tiếng Anh, với lý lịch chống Cộng triệt để, Trần Mai-Hương – mà từ đây ta gọi bằng tên Mỹ Anna Chennault – mau chóng trở thành một nhân vật quen thuộc trong giới “tinh hoa chọn lọc” ở thủ đô Washington, nhất là với các chính khách thuộc đảng Cộng Hoà.

    Năm 1960, khi ông Richard Nixon ra tranh cử tổng thống lần đầu, Anna Chennault đã vận động giúp ông lấy được nhiều phiếu của cử tri gốc Hoa. Tuy lần đó Nixon thua Kennedy nhưng ông vẫn không quên công lao của vị mệnh phụ gốc Hoa mà ông tặng biệt danh “Dragon Lady” (Long-Nữ).

    Để rồi 8 năm sau, “Mai-Hương Long-Nữ” trở lại và giúp ông Nixon đắc cử tổng thống với số phiếu sát nút (hơn nhau 0.7%)!

    Nguyên vào năm 1968, sau cuộc tổng tấn công của Việt Cộng trong Tết Mậu Thân, Tổng thống Johnson của đảng Dân Chủ đã quá mệt mỏi vì cuộc chiến Việt Nam nên quyết định không tái tranh cử, nhường chỗ cho Phó tổng thống Hubert Humphrey đương đầu với ông Nixon của đảng Cộng Hòa (ra tranh cử lần thứ hai).

    Lúc đầu, ông Nixon ra vẻ được nhiều người ủng hộ nhưng rồi càng ngày càng bị thất thế trước sự lớn mạnh của phong trào phản chiến và các nỗ lực chấm dứt chiến tranh của đảng Dân Chủ, trong đó có các cuộc đi đêm của Tiến sĩ Henry Kissinger, cố vấn của Tổng thống Johnson, vận động cho một cuộc hòa đàm tại Ba-lê đã đạt kết quả quan: không chỉ có các nước Tây Âu mà cả chế độ cộng sản Liên Xô cũng ủng hộ giải pháp hòa đàm, VNCH thì dĩ nhiên phải ủng hộ lập trường của đàn anh Hoa Kỳ, chỉ có Trung Cộng chống lại, riêng đàn em Cộng Sản Bắc Việt thì theo lập trường của Trung Cộng vì bị áp lực của “bá quyền phương Bắc”.

    Lúc đó, CSBV đang lâm vào tình trạng cực kỳ bi đát do cuộc oanh tạc dữ dội chưa từng thấy trong suốt chiều dài cuộc chiến - có tên Chiến dịch Rolling Thunder (Sấm Rền) - do Hoa Kỳ thực hiện để trả đũa việc Việt Cộng vi phạm lệnh ngưng bắn, mở cuộc tổng tấn công trên toàn cõi miền Nam trong Tết Mậu Thân.

    Vì thế, vào cuối tháng 10 năm 1968, sau khi được Thủ tướng Liên Xô Kosygin thuyết phục, bảo đảm nếu Hà Nội chịu ngồi vào bàn hòa đàm, Hoa Kỳ sẽ ngưng toàn bộ mọi cuộc oanh tạc trên lãnh thổ miền Bắc, các lãnh tụ CSBV đã đồng ý tham dự hòa đàm bất chấp sự “bực bội” của đàn anh Trung Cộng.

    [Sở dĩ Thủ tướng Kosygin “sốt sắng” với TT Johnson như thế là vì xưa nay cộng sản Liên Xô luôn luôn muốn đảng Dân Chủ, vốn có truyền thống “bồ câu”, nắm quyền ở Hoa Kỳ]

    Sau khi được Thủ tướng Kosygin thông báo kết quả, Tổng thống Johnson lập tức ra lệnh ngưng oanh tạc lãnh thổ Bắc Việt vào ngày 2/11/1968.

    Nhưng trong khi ở miền Bắc dứt tiếng bom thì trong Nam lại phát nổ một trái bom tấn: Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố Chính phủ của ông sẽ không tham gia cuộc hòa đàm Ba-lê, viện lý do Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam chỉ là công cụ của CSBV trong cuộc xâm lược miền Nam, và cái gọi là “Chính phủ lâm thời Cộng Hòa Miền Nam VN” của Huỳnh Tấn Phát không đủ tư cách pháp nhân để nói chuyện với phía VNCH.

    Trong thời gian vỏn vẹn ba ngày trước khi cử tri Mỹ đi bầu tổng thống, ông Nixon đã lợi dụng cơ hội bằng vàng này để chứng minh cho người dân Mỹ thấy đảng Dân Chủ không có khả năng kết thúc cuộc chiến.

    Ba ngày sau, ông đắc cử tổng thống Mỹ!

    Chỉ tới khi các hồ sơ được giải mật 30 năm sau đó, người ta mới biết ngày ấy không phải tự ý ông Thiệu bác bỏ việc tham dự hòa đàm Ba-lê mà chính ông Nixon đã nhờ bà Anna Chennault thông qua Đại sứ Bùi Diễm thuyết phục vị Tổng thống VNCH tuyên bố tẩy chay cuộc hòa đàm này để phá phe Dân Chủ!

    Để rồi sau khi ông Nixon trở thành Tổng thống Hoa Kỳ, VNCH đã tham gia hòa đàm Ba-lê!

    Sở dĩ Tổng thống Thiệu nhận lời giúp ông Nixon là vì lời khuyến dụ của Anna Chennault, theo đó nếu ông Nixon thắng cử đảng Cộng Hòa sẽ tìm cách kết thúc cuộc chiến một cách “có lợi” cho VNCH hơn là đảng Dân Chủ.

    Tổng thống Nixon có giữ lời hay không, câu trả lời tùy nhận định của mỗi người, ở đây chúng tôi chỉ muốn nêu ra một thực tế phũ phàng là nếu vào năm 1968, Anna Chennault ra sức thuyết phục TT Thiệu tẩy chay hòa đàm Ba-lê thì tới năm 1973, “Hương-Mai Long-Nữ” lại sang tận Sài Gòn thuyết phục ông ký vào bản Hiệp Định “khai tử VNCH”!


    “Hương-Mai Long-Nữ” (áo dài vàng), Phu nhân PTT Nguyễn Cao Kỳ (ngồi ghế) trong một buổi gặp gỡ tại Sài Gòn

    Tiểu sử của Anna Chennault trên Wikipedia có đoạn viết:

    “Ngày 21/4/1975, trước sự suy sụp của miền Nam VN, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã từ chức và bay sang Đài Loan. Ít lâu sau đó, Anna Chennault tới thăm và cho ông biết Tổng thống Mỹ Gerald Ford muốn cho gia đình ông tỵ nạn chính trị tại Hoa Kỳ, trừ bản thân ông vì việc này có thể sẽ gây ra tranh luận. Ông Thiệu từ chối và nói với bà Chennault: “Làm kẻ thù của Hoa Kỳ thì rất dễ, nhưng làm bạn của họ thật khó”.

    Không hiểu ông Thiệu thốt ra câu này từ những suy nghĩ trong đầu mình hay là ông nhớ lại lời tuyên bố "bất hủ" của bà Cố vấn Ngô Đình Nhu với truyền thông Mỹ sau khi chính phủ Kennedy chủ mưu lật đổ chính quyền của Tổng thống Ngô Đình Diệm, đưa tới cái chết bi thảm của ba anh em Ngô Đình dưới bàn tay đám phản tướng:


    "Whoever has the Americans as allies does not need any enemies"


    CHÚ THÍCH:

    (1) Cho tới những năm gần đây những bài viết về việc Không Quân VNCH thả bom CBU xuống mặt trận Xuân Lộc vào tháng 4/1975 vẫn có một số chi tiết không thống nhất, thậm chí thêu dệt một cách vô lý... Cho nên, loại CBU nào đã được sử dụng, có mấy trái đã được thả xuống Xuân Lộc, ai đã ra lệnh thả... vẫn tiếp tục là những câu hỏi đối với nhiều người.

    Dưới đây chúng tôi xin giới thiệu bài viết mới nhất - Trái Bom CBU Được Dùng Tại Mặt Trận Xuân Lộc - của tác giả KHIẾT NGUYỄN, phổ biến cuối năm 2023 mà chúng tôi cho là xác thực nhất, bởi những gì được trình bày đều “nói có sách mách có chứng”.



    https://hoiquanphidung.com/echo/van-...c-khi-t-nguy-n


    Last edited by Nguyen Huu Thien; 04-22-2025, 12:21 AM.
  • Nguyen Huu Thien
    Moderator

    • Jul 2014
    • 1169

    #2
    Nhân viết về “Long Nữ” Anna Chennault cũng xin giới thiệu bài viết về vị phu quân lừng danh của bà: “Phi Hổ” Claire Chennault


    https://hoiquanphidung.com/forum/c%C...-thi%E1%BB%87n
    Last edited by Nguyen Huu Thien; 02-20-2025, 03:36 PM.

    Comment

    • Nguyen Huu Thien
      Moderator

      • Jul 2014
      • 1169

      #3
      BUỒN VUI ĐỜI LÍNH VĂN PHÒNG (phần 3)

      “Một Ngày Không Quân - Một Đời Không Quân”


      (tiếp theo)


      Thứ Bảy 26/4/1975, tôi ở lại Biên Hòa vì ngày hôm sau tôi sẽ trực BCH/KTTV/KQ.

      Dù phi trường bị pháo kích nhiều, tình hình ra vẻ vẫn chưa đáng ngại cho lắm. Trực thăng của Không Đoàn 43 Chiến Thuật (gồm các phi đoàn trực thăng) vẫn tiếp tục lên xuống thi hành các phi vụ.

      Buổi chiều hôm ấy, Trung úy Trịnh Viết Khẩn, một tay bạn thân của tôi từ ngày còn ở nội trú nay đang bay trực thăng UH-1 bên KĐ43, tìm tới nhà tôi trong khu gia binh.

      Khi biết tôi đã đưa vợ con về Sài Gòn, Khẩn bật mí cho tôi biết tất cả các hoa tiêu trực thăng đã được lệnh sẵn sàng cất cánh bất cứ lúc nào, di tản về Tân Sơn Nhất để tránh pháo kích; Khẩn rủ tôi sang phi đoàn hắn để đi theo khi có lệnh di tản.

      Tôi từ chối vì sáng mai tôi sẽ trực BCH/KTTV/KQ. Phòng trực của BCH ở bên khu Đông, chỉ cách các bãi đậu trực thăng của KĐ43 vài trăm mét cho nên Khẩn vẫn dặn phòng hờ:

      - Tùy mày. Khi nghe tiếng tụi tao đồng loạt quay máy mày phải biết tụi tao sắp dông, muốn theo về Sài Gòn thì chạy sang phi đoàn tao.

      Vì các câu lạc bộ, hàng quán trong phi trường đã lần lượt đóng cửa bỏ chạy hết, tôi phải tự nấu cơm; hai thằng vừa ăn vừa nhắc nhớ những kỷ niệm của một thời quậy phá trong nội trú rồi bùi ngùi điểm lại bạn bè người còn kẻ mất, trong đó có một thằng bay UH-1 ở Pleiku, Phi Đoàn 235 Sơn Dương, đã bặt tin từ lâu...

      Riêng tôi và Trịnh Viết Khẩn, hôm đó là lần cuối cùng hai thằng gặp nhau trên cõi đời này. Di tản sang Mỹ, hắn chết một cách lãng xẹt khi hư xe ngoài xa lộ, xuống xe và bị một chiếc xe khác đụng chết!

      * * *


      Sáng Chủ Nhật 27/4, sau khi tôi lên phiên trực, Việt Cộng bắt đầu gia tăng cường độ pháo kích vào phi trường, phần lớn là hỏa tiễn 122 ly, thỉnh thoảng lại xen vào mấy trái đại bác 130 ly nổ rung chuyển mặt đất.

      Sau này, đọc các tài liệu tôi được biết từ sáng đến khuya Chủ Nhật, Việt Cộng đã pháo kích trên một ngàn trái đủ loại vào CCKQ Biên Hòa và Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III sát bên.

      Càng về khuya, Việt Cộng càng pháo kích dữ dội. Một số quân nhân thuộc BCH/KTTV/KQ bị thương được đưa lên Bệnh Xá của SĐ3KQ ở bên khu Tây, trong đó có một người bị thương nặng nên tôi phải chạy xe sang xem tình trạng ra sao.


      Cũng xin có đôi dòng về nhiệm vụ của “sĩ quan trực” tại BCH/KTTV/KQ. Một cách đầy đủ phải gọi là “sĩ quan trực ứng chiến”, bởi vì ngoài ra còn có “sĩ quan trực Trung Tâm Tiếp Liệu & Chuyển Vận”, “sĩ quan trực Trung Tâm Quản Trị Vật Liệu”, và một vị “sĩ quan tổng trực”.

      Vì BCH/KTTV/KQ là một đơn vị không phi hành cho nên tuy ký sổ nhận bàn giao phiên trực vào buổi sáng nhưng công việc của các sĩ quan trực chỉ bắt đầu sau khi tan sở.

      Sĩ quan trực các trung tâm thì chịu trách nhiệm công việc tại trung tâm, còn sĩ quan tổng trực - một vị sĩ quan cấp tá - thì trên nguyên tắc chịu trách nhiệm tổng quát nhưng trên thực tế hầu như chẳng phải làm gì cả; ông nào có tinh thần trách nhiệm cao cũng chỉ điện thoại hoặc lái xe đi một vòng điểm danh các sĩ quan trực trong ngày hôm đó.

      Trong khi “sĩ quan trực ứng chiến” thì không chỉ có trách nhiệm điều động toán ứng chiến phía ngoài các hangar nhìn ra phi đạo mà còn phải giải quyết tất cả mọi việc xảy ra sau giờ làm việc. Riêng sĩ quan trực ngày Chủ Nhật như tôi hôm đó thì lãnh đủ từ sáng sớm...

      Khi tôi lái xe tới sân bệnh xá SĐ3KQ thì thấy ba, bốn quân nhân bị thương nằm trên băng-ca đặt ngoài hành lang, trong đó có quân nhân bị thương nặng thuộc BCH/KTTV/KQ; hai người bạn cùng xưởng đang nửa ngồi nửa quỳ bên cạnh.

      Tôi tiến tới hỏi sao không đem vào phòng cấp cứu, một trong hai người lính trả lời “không còn chỗ”.

      Tôi không có thì giờ tìm hiểu lúc đó có còn vị bác sĩ nào tại Bệnh Xá hay không, chỉ thấy một hạ sĩ quan chạy tới chạy lui chăm sóc vết thương cho các quân nhân bị thương nằm ngoài hành lang. Nhưng với người lính thuộc BCH/KTTV/KQ bị thương nặng thì vô phương: anh bị một miểng pháo kích vào ngay giữa trán, tạo thành một cái lỗ sâu hoắm, đường kính cũng cỡ cái hột vịt, máu trào ra như suối, không loại băng nào có thể cầm lại được...

      Người hạ sĩ quan y tá của bệnh xá nhìn tôi lắc đầu tuyệt vọng... Điều an ủi là chỉ khoảng nửa tiếng đồng hồ sau khi tôi trở về phòng trực, dưới xưởng điện thoại lên báo người lính bị thương đã tắt thở; đã không cứu được thì chết càng mau càng tốt, tránh đau đớn kéo dài.

      Khoảng hơn 10 giờ đêm, Việt Cộng gia tăng pháo kích tới mức tối đa, nghe tiếng trực thăng bên KĐ43 bắt đầu cất cánh, tôi biết giờ này Khẩn đang nôn nóng đợi tôi theo lời dặn dò hôm trước. Lòng tôi chỉ nao nao chứ không một chút lưỡng lự đi hay ở.

      Nao nao khi biết Biên Hòa, vốn được mệnh danh là căn cứ không quân lớn nhất Đông Dương, quan trọng nhất Đông Nam Á, giờ này hoàn toàn vắng bóng phi cơ, chỉ còn lại những người lính kỹ thuật, lính phòng thủ...

      Mười một giờ đêm, tiếng trực thăng xa dần...


      Các bãi đậu trực thăng trong CCKQ Biên Hòa nhìn từ Quốc lộ 1 (ngã ba Rừng Mít). Hình chụp
      năm 1967 khi khu vực này còn là căn cứ của 145th Combat Aviation Battalion, Lục Quân Hoa Kỳ

      Sáng Thứ Hai 28/4, Việt Cộng bớt pháo kích rồi ngưng hẳn. Có lẽ chúng biết các phi cơ đã bay đi hết, tức là phi trường không còn lực lượng tác chiến, bắn chi cho phí đạn!

      Sĩ quan trực ngày Thứ Hai không đến đơn vị, tôi phải tiếp tục nhiệm vụ. Những quân nhân đã về Sài Gòn vào cuối tuần trước giờ đây đều có lý do chính đáng để không trở lại Biên Hòa: du kích Việt Cộng đã xuất hiện tại một số vị trí dọc xa lộ Đại Hàn, và nghe đồn đã đóng chốt trên Cầu Hang, đi ngang có thể bị phục kích bắn sẻ, cho nên tốt hơn hết là chạy vào Tân Sơn Nhất điện thoại lên Biên Hòa “trình diện”.


      Khoảng 10, 11 giờ sáng, Chuẩn tướng Từ Văn Bê tới T.O.C. (Trung Tâm Hành Quân) của SĐ3KQ họp với Chuẩn tướng Huỳnh Bá Tính và các sĩ quan cao cấp.

      Quá trưa, ông trở về BCH cho triệu tập các đơn vị trưởng, trưởng phòng, trưởng khối biệt lập thông báo lệnh di tản của BTL/KQ: nội chiều nay trực thăng Chinook sẽ đưa mọi người về Tân Sơn Nhất; trước khi đi phải đốt phá bình địa, không để lại một thứ gì địch có thể sử dụng. (Chú thích 1)

      (Sau này tôi được biết sở dĩ từ Biên Hoà về Sài Gòn chỉ có 25 cây số mà không di tản bằng đường bộ là vì lúc đó Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân Đoàn III không cho phép bất cứ đơn vị nào ở Biên Hòa di tản).


      Trong số sĩ quan không trở lại đơn vị vào sáng Thứ Hai có ông Trung tá Trưởng Khối và hầu hết sĩ quan thuộc Khối CTCT cho nên tôi bị ông Từ Văn Bê gọi sang khu Đông chịu trách nhiệm di tản quân nhân thuộc Khối CTCT và các phòng sở tham mưu.

      Địa điểm Chinook đáp là sân đậu phi cơ trước hangar B ở khu Tây, nơi tổ chức các buổi chào cờ của BCH/KTTV/KQ và các buổi lễ lớn ở CCKQ Biên Hòa, trong đó có lễ bàn giao phản lực cơ F-5 cho KQVN vào đầu tháng 6/1967.

      Sĩ quan cấp dưới, hạ sĩ quan, binh sĩ và gia đình ra đó trước, sĩ quan cao cấp nhất ở lại cơ xưởng, phần sở, sau khi đốt mới được đi. Để Chinook có thể chở người tới mức tối đa, các quân nhân được lệnh chỉ mang theo nón sắt, khẩu súng với hai cấp số đạn và một túi xách nhỏ.

      Họ được lệnh ngồi thành từng toán 60 người, mỗi toán do một sĩ quan hay hạ sĩ quan làm trưởng toán (trên thực tế sau một hai đợt, chuyến nào cũng chở trên dưới 100 người).

      Ưu tiên di tản như sau: Phòng An Ninh Không Quân, Phòng Tài Chánh, Phòng Tổng Quản Trị (vì hồ sơ cần mang đi trước); kế tiếp là lính kỹ thuật và sau cùng mới tới Liên Đoàn Phòng Thủ.

      Khoảng 2 rưỡi chiều, sau khi đôn đốc anh em quân nhân thuộc Khối CTCT và các phần sở tham mưu ra địa điểm chờ di tản, tôi trao trách nhiệm cho Thiếu Úy T - sĩ quan CTCT duy nhất còn ở lại với tôi - rồi trở về BCH.


      Vì buổi sáng hôm đó tôi phải ngồi ở phòng trực thêm mấy tiếng đồng hồ cho nên không được biết có bao nhiêu quân nhân thuộc Ban Văn Thư BCH, Khối CTCT và Phòng Kế Hoạch tới đơn vị, chỉ biết vào lúc 3 giờ chiều chỉ lại còn ba người: Chuẩn tướng Từ Văn Bê, tôi và người lính của Phân Đoàn Cảnh Vệ có bổn phận đứng gác trước cửa BCH.

      Ông Bê nói tôi xuống Đoàn Quân Xa lấy một can xăng 20 lít đem về BCH.

      Tôi để can xăng ngoài cửa phòng làm việc của ông rồi bước vào phòng. Hai thầy trò không ai nói với ai câu nào. Tôi ngồi ở ghế sa-lông còn ông cứ đi tới đi lui từ cái bàn làm việc tới cửa sổ, mắt nhìn ra ngoài.

      Lúc đó tôi cứ thắc mắc: tất cả phi cơ đã rời căn cứ từ đời nào, những chiếc trực thăng Chinook đang di tản anh em binh sĩ và gia đình thì đáp trước hangar B ở tận khu Tây, đứng đây không thể nhìn thấy, vậy ông Bê quan sát cái gì?!

      Mấy chục năm sau, đọc bài “Biên Hòa không lời từ biệt” của cựu Trung tá Nguyễn Phú Chính, nguyên Phi đoàn trưởng Phi Đoàn 237 (Chinook), lúc đó đang ở phía trước hangar B chuẩn bị cuộc di tản, tôi mới biết Chuẩn tướng Từ Văn Bê đợi chiếc trực thăng UH-1 của Mỹ đáp xuống gặp Chuẩn tướng Tính, là thời điểm bắt đầu cho đốt phá cơ sở.

      Gần 4 giờ chiều, chuông điện thoại reo, ông Bê vội chụp lấy ống nghe:

      - Bê tôi nghe!

      Tôi không nghe rõ người ở đầu dây nói những gì, chỉ biết ông Bê đáp:

      - Cám ơn anh Tính!

      Đặt ống nghe xuống, ông thẫn thờ như người mất hồn, không nói với tôi một lời nào, đảo mắt nhìn cái bàn làm việc rộng lớn mà không đụng tới một thứ gì.

      Ông chỉ mở ngăn kéo lấy khẩu Smith & Wesson 9 ly, ngần ngừ mấy giây rồi bỏ trở lại. Suýt nữa thì tôi buột miệng xin ông khẩu súng hiếm quý này nhưng đã kịp thời im miệng để tôn trọng những giây phút cuối cùng của ông sếp lớn trong cương vị người chỉ huy cao cấp nhất ngành kỹ thuật & tiếp vận của Không Quân trong suốt 17 năm trường!

      Rồi ông nói tôi lấy xăng rưới bắt đầu từ phòng làm việc của ông ra hành lang, rồi xuống cầu thang ra tận cửa. Tôi và ông bước ra ngoài, người lính của Phân Đoàn Cảnh Vệ có nhiệm vụ gác cửa Bộ Chỉ Huy đưa tay chào lần cuối cùng!

      Tôi nói với anh:

      - Thôi đi về đi. Tôi đốt Bộ chỉ huy bây giờ đây. Nếu anh muốn theo trực thăng di tản về Tân Sơn Nhất thì sang hangar B.

      Người lính đi được một quãng bỗng dừng chân quay đầu lại, như thể muốn chứng kiến những gì khủng khiếp nhất trong đời lính không quân của mình!

      Chuẩn tướng Từ Văn Bê nhìn cái building to đẹp nhất căn cứ KQ Biên Hòa rồi chửi thề nho nhỏ - lần đầu tiên trong 3 năm ở Biên Hòa tôi nghe thấy ông chửi thề:

      - ĐM mấy thằng Huê Kỳ, xây cho cố vào rồi bây giờ ra lịnh đốt!

      Rồi tôi được lệnh châm lửa!


      Ông Bê lái xe jeep chở tôi chạy chầm chậm ngang qua Trung Tâm Quản Trị Vật Liệu ở gần đó, Trung tá Nguyễn Kim Cương, Chỉ huy trưởng, đang đợi sẵn liền ra lệnh châm lửa đốt Phòng Điện Toán.

      Tiếp theo là Liên Đoàn Động Lực, Liên Đoàn Vũ Khí & Điện Tử và tất cả các cơ sở khu Đông lần lượt chỉm trong khói lửa, chỉ trừ giàn thử động cơ phản lực (Test Cell) ở tận cuối phi đạo phía Đông.

      Cho đốt xong khu Đông, tôi và ông Bê theo con đường dọc theo phi đạo sang khu Tây. Tới chỗ tập họp của binh sĩ phía trước hangar B, tôi nói ông cho tôi xuống xe.




      Phi trường Biên Hòa nhìn từ hướng Đông, hình chụp năm 1967. Xa xa là địa điểm di tản trước hangar B (ngôi sao đỏ). Chỗ có mũi tên vàng là tổng kho của Trung Tâm Tiếp Liệu & Chuyển Vận, bị toán EOD phá hủy tối 28/4/1975

      Thú thật, tôi xuống xe mà đầu óc không suy nghĩ gì cả. Tôi không một thoáng phân vân giữa việc xin đi theo ông Bê (ông và Chuẩn tướng Tính có trực thăng chờ sẵn ở T.O.C.) và việc ở lại với anh em binh sĩ. Tôi coi việc ở lại là một cái gì đương nhiên, thế thôi!

      Trước đó, khi trao cho Thiếu úy T chịu trách nhiệm anh em quân nhân thuộc Khối CTCT và các phần sở tham mưu chờ di tản, tôi nhờ anh giữ giùm khẩu M16 của tôi và cái túi xách helmet (flight helmet bag) cốt để anh yên tâm, tin rằng tôi sẽ trở lại với anh em.

      Không biết trong bụng T có tin hay không, chỉ biết giờ này thấy tôi trở lại, T vừa tỏ ra vui mừng vừa nhìn tôi với ánh mắt nể phục.

      Nói cho cùng, dù gì chúng tôi chúng tôi cũng có quyền tự hào khi cả Khối CTCT với gần một chục sĩ quan cấp tá, cấp úy chỉ có hai anh em chúng tôi ở lại tới giờ phút cuối.

      Về phía các sĩ quan của BCH/KTTV/KQ nói chung, vào buổi sáng (Thứ Hai 28/4/1975) tôi được biết ngoài Chuẩn tướng Từ Văn Bê, còn có Đại tá Trương Trọng Công, Chỉ huy phó, Đại tá Nguyễn Văn Trung, Không đoàn trưởng Không Đoàn Tân Trang & Chế Tạo, Trung tá Nguyễn Mạnh Thuần, Không đoàn phó, Trung tá Nguyễn Kim Cương, Chỉ huy trưởng Trung Tâm Quản Trị Vật Liệu, và nhiều vị Thiếu tá Liên đoàn trưởng, Trưởng phòng... Riêng Đại tá Huỳnh Công Chức, Chỉ huy trưởng Trung Tâm Tiếp Liệu & Chuyển Vận, tôi không biết rõ.

      Nhưng tới khi tôi trở lại khu vực chờ Chinook trước hangar B thì chỉ còn thấy Trung tá Nguyễn Kim Cương, Thiếu tá La Văn Được, Liên đoàn trưởng Liên Đoàn Bảo Trì Phi Cơ, và Thiếu tá Nhữ Văn Phúc, Liên đoàn trưởng Liên Đoàn Vũ Khí & Điện Tử (có thời gian làm quyền Trưởng Khối CTCT).

      Phía SĐ3KQ, vào lúc đó (khoảng 5 giờ chiều), tôi chỉ thấy Trung tá Lý Thành Ba, Liên đoàn trưởng Liên Đoàn Phòng Thủ...

      * * *

      Sau khi Chinook đáp được vài đợt, thì đùng một cái ai đó cho nổ kho bom nằm ở hướng bắc, gần sát phi đạo, không xa hangar B bao nhiêu.

      Thế là những tiếng nổ long trời lở đất nối tiếp nhau, miểng bom chài (như cây đinh có đuôi 4 cánh) văng rào rào xuống bãi đậu phi cơ, rớt lộp cộp trên nón sắt của mọi người. Các quân nhân trách nhiệm các hangar ở khu Tây thấy thế cũng vội vã đốt cơ sở, khói lửa càng thêm mịt mù. Trước tình thế ấy, Chinook không thể tiếp tục đáp, và cuối cùng, khi màn đêm chuẩn bị buông xuống, chỉ còn lại đoàn người ngồi chờ tuyệt vọng trước hangar B!

      Tới đây, vì là người đầu tiên châm lửa đốt CCKQ Biên Hòa, tôi nhận thấy cần có đôi lời đính chính trước nguồn tin nói rằng ngày ấy Chuẩn tướng Huỳnh Bá Tính đã trách cứ Chuẩn tướng Từ Văn Bê về việc ra lệnh đốt cơ sở quá sớm khiến binh sĩ bị rối loạn tinh thần, đưa tới tình trạng hỗn loạn và vì thế cuộc di tản bằng trực thăng Chinook đã bị bỏ dở khiến cho cả ngàn quân nhân thuộc SĐ3KQ và BCH/KT&TV/KQ bị kẹt lại!

      Tôi hoàn toàn phản bác nguồn tin đó.

      Thứ nhất, "cơ sở" của BCH/KTTV/KQ là các trung tâm điện toán, trung tâm quy chuẩn, các hangar tổng kiểm, bảo trì phi cơ, với biết bao máy móc điện tử nằm rải rác từ khu Đông sang khu Tây, không đốt sớm thì không thể đốt hết. Chuẩn tướng Từ Văn Bê ra lệnh đốt sớm có lẽ vì muốn đích thân chứng khiến tất cả đã được đốt trước khi mọi người rời bỏ căn cứ.


      Thứ hai, lúc ban đầu bên BCH chỉ đốt cơ sở ở khu Đông, tức là cách xa địa điểm di tản (khu Tây) cả cây số, binh sĩ cùng lắm cũng chỉ nhìn thấy khói đen bốc lên thôi. Nếu họ mất tinh thần thì mất vì thiếu vắng cấp chỉ huy trực tiếp nhiều hơn là vì thấy căn cứ bị đốt. Riêng binh sĩ của BCH/KT&TV/KQ, tôi nhận thấy họ bình tĩnh và nghe lệnh các sĩ quan cho tới giờ phút cuối.

      Cho nên, nếu có trách thì phải trách người ra lệnh cho nổ kho bom quá sớm (hoặc ra chỉ thị không rõ ràng), cũng như trách Bộ Tư Lệnh KQ đã không tăng cường thêm trực thăng để phụ với Chinook của 237 di tản binh sĩ. Bởi vì theo nhận xét của tôi, cho dù kho bom không nổ sớm, với nhịp độ đáp của Chinook, tới tối cũng không thể nào di tản hết cả ngàn quân nhân còn kẹt lại.

      Cuối cùng, cũng không thể không quy trách một phần cho tên phi công phản bội Nguyễn Thành Trung, kẻ đã hướng dẫn A-37 về oanh tạc phi trường Tân Sơn Nhất vào buổi chiều hôm đó. Bởi vì nếu Tân Sơn Nhất không bị ăn bom của y và đồng bọn, rất có thể Chinook vẫn tiếp tục bay xuống Biên Hòa để di tản binh sĩ và gia đình.

      Phần tôi, sau này cứ tự an ủi: bị kẹt có khi lại là may mắn, về Tân Sơn Nhất biết đâu lại chết vì bom của tên phi công phản bội ấy, hoặc vì đạn pháo kích của Việt Cộng!

      Khoảng 6 rưỡi tối căn cứ Biên Hòa hoàn toàn mất liên lạc với Bộ Tư Lệnh KQ, phi trường chìm trong bóng tối vì nhà máy điện đã bị phá hủy. Phía SĐ3KQ, Trung tá Lý Thành Ba, Liên đoàn trưởng Liên Đoàn Phòng Thủ, quyết định dẫn lính về Sàigòn bằng đường bộ. Phía BCH/KTTV/KQ, sĩ quan cao cấp nhất còn lại Thiếu Tá Nhữ Văn Phúc, Liên Đoàn Trưởng Vũ Khí & Điện Tử; ông nói với tôi:

      - Vợ con moa còn bị kẹt bên Cù Lao, không biết giờ này ra sao. Moa phải về. Thôi, toa ở lại nhé!

      (Sau này tôi được biết sĩ quan cao cấp nhất của BCH/KTTV/KQ ở lại tới giờ phút cuối không phải Thiếu Tá Nhữ Văn Phúc mà là Trung Tá Nguyễn Kim Cương, Chỉ huy trưởng Trung Tâm Quản Trị Vật Liệu, đã hướng dẫn một số anh em quân nhân thuộc BCH/KTTV/KQ đi theo đoàn quân của Trung tá Lý Thành Ba)

      Lúc đó, tình hình đã hỗn loạn. Lớp thì Cảnh Sát Dã Chiến vào giữ phi trường theo lệnh của Quân Đoàn, lớp thì đám người "thừa nước đục thả câu" vào hôi của trong các khu gia binh, lớp thì binh sĩ tự động tan hàng...


      Tôi quyết định đưa mấy anh em thuộc Khối CTCT và những quân nhân khác muốn theo tôi về Sài Gòn bằng đường bộ. Nhưng vì quân số ít, lại không có khả năng "tác chiến" như lính phòng thủ, tôi chọn đi ra ngã ba Tam Hiệp rồi theo xa lộ cũ chứ không dám sử dụng xa lộ Đại Hàn vì sợ bị Việt Cộng tấn công hoặc phục kích bắn sẻ.

      Dĩ nhiên, di tản bằng quân xa. Tôi không còn đầu óc để nhớ tới cái xe Suzuki M15 cà rịch cà tàng của mình để ở nhà trong khu gia binh mà đi thẳng tới bãi đậu quân xa trước hangar B, thấy còn hai ba chiếc pick-up (truck) Chevrolet và chiếc Scout của Đại tá Trương Trọng Công, liền nhảy lên, vừa đủ chỗ ngồi cho tôi, Thiếu úy T và ba binh sĩ dưới quyền.

      [Kiểu xe 4x4 Scout 800 của hãng International Harvester, sản xuất từ năm 1960 tới 1980, được xem là kiểu xe SUV (sport utility vehicle) đầu tiên trên thế giới. Ngày ấy BCH/KTTV/KQ được Không Quân Mỹ chuyển giao hai chiếc, một chiếc sử dụng làm “xe gia đình” của Chuẩn tướng Từ Văn Bê (nhưng hầu như luôn luôn nằm ở Đoàn Quân Xa), một chiếc Đại tá Trương Trọng Công, Chỉ huy phó, chạy]


      Một chiếc Scout 800 đời 1965. Kiểu của Không Quân sơn màu xanh blue

      Khi chúng tôi vừa ra khỏi cổng 2 (Dốc Sỏi), quẹo trái để đi về hướng Tam Hiệp thì nghe mấy tiểng nổ long trời lở đất, nhìn vào thấy lửa khói bốc lên rất cao thì cứ nghĩ đây là những trái bom đặc biệt (chẳng hạn CBU) trong kho bom vừa phát nổ. Sau này ra hải ngoại, được nghe các sĩ quan cao cấp bên Trung Tâm Tiếp Liệu & Chuyển Vận kể lại mới biết những tiếng nổ lớn đó phát xuất từ khu nhà kho chính của Trung Tâm, được Toán Tháo Gỡ Phá Hủy Đạn Dược (EOD: Explosive Ordnance Disposal) của SĐ3KQ đặt chất nổ, đợi mọi người ra khỏi căn cứ mới cho nổ. (mũi tên vàng trong hình trên)

      Tuy những tiểng nổ này không khủng khiếp cho bằng tiếng nổ khi kho bom (cũ) bị nội tuyến Việt Cộng đặt chất nổ làm rung chuyển cả thành phố Biên Hòa vào tháng 9/1972, cũng khiến dân chúng hốt hoảng, chạy ra đường hỏi thăm tin tức; chúng tôi cũng không biết trả lời ra sao...

      Ra tới ngã ba Tam Hiệp, chúng tôi quẹo mặt đi về Sài Gòn; theo sau xe của tôi là mấy chiếc pick-up một băng hoặc hai băng ghế (6 chỗ ngồi) chở khoảng 20 quân nhân.

      Nhưng chạy tới cầu Đồng Nai thì bị lực lượng Nhảy Dù đang trấn giữ cầu chặn lại, họ cho biết theo lệnh Trung tướng Tư Lệnh Quân Đoàn III, không một quân nhân nào được phép qua cầu (về hướng Sài Gòn).

      Tôi đành đưa mọi người vào sân Công Ty Đường Việt Nam trong khu kỹ nghệ Biên Hòa ở gần đó để ngủ đỡ, sáng mai tính. Nhưng nào có ngủ được, 130 ly của địch từ Trảng Bom bắn tới suốt đêm.

      Sáng ra mới biết mình may mắn, trong khi một số quân nhân của các đơn vị khác chạy về ngủ gần đó và đồng bào chạy giặc ngủ dọc xa lộ bị chết hoặc bị thương.

      Tôi còn đang phân vân chưa biết đi đâu thì một số anh em Không Quân từ Biên Hòa chạy lên cho biết "Không Quân đã trở lại phi trường!"


      Lính Dù đã cương quyết không cho qua cầu thì dù trong lòng bán tín bán nghi tôi cũng đành trở lại Biên Hòa xem sao. Về đến nơi, quả thật có thấy một số quân xa Không Quân chạy tới lui trong phi trường nhưng toàn là lính..."phòng thủ"!

      Thì ra đêm qua, Trung tá Lý Thành Ba đã không đưa đoàn người về Sài Gòn (sợ xa lộ Đại Hàn không an toàn) mà cho ngủ lại ở sân vận động tỉnh. Tôi hỏi ông bây giờ mình tính sao, ông nói chờ lệnh bên Quân Đoàn cho di tản, lúc đó mình đi theo.


      Vì không có Motorola cầm tay hoặc gắn trên xe để liên lạc với bên Phòng Thủ, tôi nói anh em chỉ được quanh quẩn từ T.O.C. ra tới Cổng 1, chờ đi theo Trung tá Lý Thành Ba, và trong lúc chờ đợi, chạy xuống Đoàn Quân Xa của BCH/KTTV/KQ gần đó đổ xăng cho đầy xe và các bình can sơ-cua (cũng may mà đêm hôm qua người ta không kịp đốt cây xăng!)

      Riêng tôi rất muốn làm một vòng từ khu Đông sang khu Tây để xem những chỗ đã đốt chiều hôm trước, nhưng sợ bên Quân Đoàn ra lệnh di tản bất ngờ nên phải bỏ ý định, chỉ lái xe vòng vòng khu vực Bộ Chỉ Huy ở khu Đông, thì thấy Phòng Điện Toán của Trung Tâm Quản Trị Vật Liệu bị hoàn toàn thiêu rụi, tòa nhà hai tầng của Bộ Chỉ Huy (do tôi châm lửa) cũng bị thiêu hủy 100% trừ cái mái hiên trước cửa ra vào vẫn còn đứng vững nhờ bốn cây cột xây bằng gạch. Nhưng rạp hát, cũng do Mỹ xây, thì còn nguyên vẹn...

      * * *

      Khoảng gần trưa, bên Quân Đoàn cho lệnh di tản. Trên đường về Sài Gòn theo xa lộ cũ, đoàn quân xa màu xanh của Không Quân tản mác dần trong rừng xe của các quân binh chủng.

      Qua nhà máy xi-măng Hà Tiên, đoàn xe bắt đầu chạy chậm lại vì bị kẹt xe ở Ngã Tư Xa Lộ (Hàng Xanh). Lách tới lách lui, cuối cùng tôi thấy mình chạy ngay sau chiếc GMC chở một quan tài phủ cờ vàng, có người góa phụ trẻ bồng con ngồi bên cạnh.

      Ngay lúc ấy, vì chưa biết giờ này (xế chiều 29/4/1975) nhiều tướng tá đã hoặc đang tìm đường thoát thân, tôi chỉ cảm thấy thương tội người góa phụ, nhưng sau này nhớ lại, tôi còn cảm thấy thương tội (và ngưỡng phục) người quân nhân lái xe cùng với người trưởng xa, tới giờ thứ 25 vẫn lo chu toàn bổn phận của người sống đối với người chết!

      Suốt 50 năm sau, mỗi lần ngày 30 tháng Tư trở lại, đầu óc tôi lại bị hình ảnh chiếc GMC chở quan tài phủ cờ vàng ám ảnh, và tự hỏi: không biết ngày ấy chiếc GMC và hai quân nhân nói trên có kịp chở quan tài này về quê của người tử sĩ hay không?

      * * *

      Tới Ngã Tư Xa Lộ, vì cầu Phan Thanh Giản đã bị Cảnh Sát Dã Chiến chặn không cho qua, xe cộ chỉ còn hai lối đi: quẹo trái để vào Sài Gòn bằng đường Hùng Vương (Thị Nghè, nối liền đường Hồng Thập Tự) và quẹo phải về hướng Bà Chiểu, Gia Định.

      Riêng chiếc xe GMC chở quan tài thì vẫn chạy thẳng về phía cầu Phan Thanh Giản. Tôi cả tuần qua không về Sài Gòn, mà có về cũng về qua ngả xa lộ Đại Hàn nên đâu biết việc cầu Phan Thanh Giản bị đóng, thấy hướng này không bị kẹt, cứ chạy theo chiếc GMC.

      Chạy tới cầu tôi mới biết chỉ có người đi bộ mới được đi qua cầu để vào Sài Gòn. Tuy nhiên, một vị sĩ quan Cảnh Sát Dã Chiến ra lệnh gỡ mấy vòng concertina (kẽm gai) để chiếc GMC chở quan tài chạy qua cầu. Thấy vậy tôi tiến tới ca bài ca con cá, nói với ông ta rằng chúng tôi là Không Quân ở Biên Hòa di tản theo lệnh Quân Đoàn III, nhà ở ngay khu Trương Minh Giảng nên xin phép được đi qua cầu.

      Tôi chỉ năn nỉ cầu may, không ngờ vị sĩ quan lại bị sốc trước tin “Biên Hòa di tản”; ông hỏi tôi một cách chi tiết rồi tới thông báo cho vị sĩ quan cao cấp hơn, sau đó ra lệnh gỡ concertina cho xe của tôi chạy vào.

      Vì là sĩ quan cấp nhỏ, tôi không biết một chút gì về tình hình ở Tân Sơn Nhất, kể cả việc tên phi công phản bội Nguyễn Thành Trung hướng dẫn A-37 về oanh tạc phi trường vào chiều hôm trước (28/4), cho nên sáng nay khi Quân Đoàn III cho lệnh di tản, chúng tôi vẫn giữ ý định đi về Tân Sơn Nhất.

      Nhưng sau khi qua cầu Phan Thanh Giản chạy vào thành phố, tôi bỗng cảm thấy lo âu cho vợ con, hiện đang tạm trú tại nhà bà ngoại ở Phú Nhuận, liền bàn với Thiếu úy T và ba binh sĩ dưới quyền hay là mình chia tay về nhà thăm gia đình rồi tính sau. Mọi người đều có cùng tâm trạng nên chúng tôi quyết định chia tay tại ngã tư Phan Thanh Giản – Pasteur.

      Xuống xe rồi, Thiếu úy T còn hỏi tôi:

      - Trung úy, rồi ngày mai mình đi đâu?

      Lúc đó trong lòng tôi vẫn còn hy vọng những gì Không Quân bàn tán trong mấy ngày qua có thể trở thành sự thật: Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ sẽ lãnh đạo tử thủ Vùng 4. Suy nghĩ một hai giây, tôi đáp:

      - Đừng vào Tân Sơn Nhất nữa, về thẳng Cần Thơ!

      Tôi về tới nhà, mừng rỡ gặp lại vợ con, rồi quá mệt vì mấy đêm liên tiếp không ngủ, tôi tắm rửa, ăn uống qua loa rồi đánh một giấc cho tới sáng, mặc cho những chiếc phản lực của Hải Quân Mỹ gầm thét trên bầu trời Sài Gòn bảo vệ những địa điểm “bốc người” của họ.


      Sáng hôm sau, 30/4/1975, vợ tôi đánh thức tôi dậy để nghe ông Dương Văn Minh kêu gọi quân nhân các cấp buông súng đầu hàng.

      Qua ngày hôm sau, Cần Thơ mất.



      (Còn tiếp)


      CHÚ THÍCH

      (1) Ngày ấy, tôi nghe vị sĩ quan tổng trực nói Chuẩn tướng Từ Văn Bê sang T.O.C. họp với Chuẩn tướng Huỳnh Bá Tính và một tướng lãnh của BTL/KQ, sau này đọc bài“Biên Hòa Không Lời Từ Biệt” của cựu Trung tá Nguyễn Phú Chính, Phi đoàn trưởng PĐ-237 Chinnok, một trong những nhân chứng sống của cuộc di tản chiều 28/4/1975, tôi mới biết không có vị tướng nào của BTL/KQ cả, mà ông Tính và ông Bê ngồi đợi lệnh của Trung tướng TLKQ qua máy viễn thông.

      Xin trích đăng một vài đoạn trong bài viết của Trung tá Chính:

      ...Khoảng 1 giờ trưa, nóng lòng gia đình ở Saigon, tôi lên BTL SĐ3KQ, (tạm thời đặt tại KĐ Yểm Cứ tránh pháo kích) xin về Saigon bằng phi cơ vài tiếng để thăm gia đình. Gặp Đ/tá Triệu nhờ ông ký Sự vụ lệnh. Ông bảo tôi vào gặp Tướng ký cho chắc. Vào phòng tôi gặp Ch/Tướng Huỳnh Bá Tính, và Ch/Tướng Từ Văn Bê đang nói chuyện nên tôi chưa kịp trình SVL. Bỗng có tiếng rè rè từ loa máy hotline, và tiếng Trung Tướng TLKQ: “cậu Tính”. Tướng Tính trả lời: “Tính nghe”. Giọng Tướng Minh ồ ồ, nhưng rõ ràng từng tiếng: “Lát nữa có thằng Mỹ đi chiếc trực thăng Air America lên gặp cậu. Tôi không biết nó sẽ nói gì với cậu, nhưng khi nó cất cánh đi, cậu thiêu hủy tất cả những gì cần thiết”.

      Trả lời xong, Tướng Tính bảo tôi chờ. Ông hỏi quân số của Tướng Bê, ông kết luận: “ anh khoảng 6.000, tôi 6.000 là 12.000. Chính, cậu có thể đem được bao nhiêu Chinook lên đây”. Tôi trả lời: “Thưa Tướng, chắc hơn 10 chiếc”. Tướng căn dặn tôi những ưu tiên thứ tự: An ninh, gia đình quân nhân, quân nhân và cuối cùng là 600 quân nhân Liên Đoàn Phòng Thủ...


      ...Tôi lái qua West Ramp liên lạc với Chinook của PĐ. Tại đây gia đình KQ và lính bắt đầu tập hợp. Nhìn thấy chiếc trực thăng sơn trắng của Air America bay ngang đầu, tôi nhớ ngay lời TLKQ. Khoảng 5 phút sau, khu của Kỹ Thuật Tiếp Vận bốc khói đen trước nhứt. Nhớ các vụ di tản Miền Trung và khi thấy các kho chứa vật liệu cháy khói đen nghịt trời, ai cũng hoảng hốt. Gia đình và cả binh sĩ cũng lao nhao toán loạn, hàng ngũ rối loạn. Chuyến đầu, 12 chiếc, tôi vô cùng vất vả. Gia đình quân nhân, kể cả binh sĩ chen lấn, xô đẩy nhau lên phi cơ làm nghẽn lối, hỗn loạn. Khi cất cánh có người còn đeo tòn teng, tôi phải gọi pilot đáp xuống lại.

      Những chuyến sau tôi đỡ vất vả. Tôi và Tướng Tính vẫn liên lạc thường xuyên. Tôi dự trù một chiếc chở 100 hay 110, phải mất 9-10 chuyến. Vì gần, bay thấp nên nhanh. Nhưng càng về chiều, các vụ thiêu hủy càng nhiều, những cột khói đen bay kín phi trường làm pilot rất vất vả mới đáp được vào đường di chuyển (taxi way). Đó cũng là một trở ngại lớn. Không ngờ chuyến thứ 5 một chiếc bị bắn ở cầu Hang thủng bình xăng. Tuy không bị thương, nhưng cũng phải đổi lộ trình.

      Đến khoảng 5 giờ chiều, phi trường TSN bị đám phản loạn Nguyễn Thành Trung đánh bom, như tôi biết sau nầy, anh em không biết nên hốt hoảng bay toán loạn mất liên lạc. Không liên lạc được với Chinook, tôi gọi Tướng Tính và cũng không nghe trả lời. Tôi lại mất liên lạc với cả Tướng nữa sao. Trước đây thỉnh thoảng ông nhắc tôi: “Cậu cố gắng lo cho quân nhân và gia đình về Saigon”. Tôi lặng người, đứng nhìn Biên Hòa chập chùng trong khói lửa. Biên Hòa thân yêu, giờ đây trông thê thảm, tang thương, lòng tôi bồi hồi, đau xót. Biên Hòa thân thương của tôi giờ biến thành biển lửa. Xe cộ đủ loại bỏ chồng chất ngổn ngang. Quần áo, giầy dép, đồ đạc, giấy tờ rãi đầy trong bải đậu West Ramp. Số người còn lại cũng nháo nhác đợi trông. Hơn nữa, chiếc xe pick-up của tôi có lẽ chạy chậm tới lui từ trưa đến giờ nên chạy cà giựt, lại càng lo lắng. Tôi nhớ cách đây một giờ Tr/úy Đàm Quang Khánh, sĩ quan trực PĐ, trước khi lên Chinook về TSN còn nhắc tôi: “ Tr/tá về đi, em đã kinh nghiệm ở Đànẳng rồi”. Tôi tự hỏi: không lẽ tôi cũng bỏ chạy sao?
      (Tr/úy Đàm Quang Khánh vừa tử nạn đúng ngày 30/4/2019 tại San Jose, California)

      Trời càng tối, nhìn cảnh phi trường mịt mù khói lửa, ảm đạm, thê lương, sự lo lắng của tôi càng cao. Bất ngờ tướng Tính gọi, tôi mừng như sắp chết đuối vớ được phao, cứ ngỡ ông còn trong Bộ chỉ huy. Nhưng tôi hoàn toàn thất vọng, vì vị trí tướng hiện tại ở Vũng Tàu. Tôi gọi Chinook khàn cả cổ. Mãi tới hơn 7 giờ tối tôi mới liên lạc được một chiếc. Khi phi cơ lên tới BH, trời tối, khói đen che kín bải đáp nên phải đáp gần vòng đai cuối phi đạo phía Tây... (ngưng trích)


      Độc giả có thể đọc trọn bài viết “Biên Hòa Không Lời Từ Biệt” của Trung tá Nguyễn Phú Chính qua link dưới đây:
      Last edited by Nguyen Huu Thien; 03-07-2025, 09:23 AM.

      Comment

      • Nguyen Huu Thien
        Moderator

        • Jul 2014
        • 1169

        #4
        BUỒN VUI ĐỜI LÍNH... VĂN PHÒNG (phần 3)

        “Một Ngày Không Quân - Một Đời Không Quân”



        (tiếp theo)


        Sau ngày 30/4/1975, khi Ủy ban Quân quản thành Hồ ra lệnh cho quân nhân QLVNCH các cấp phải “trình diện đăng ký” tại địa phương, tôi tới trình diện tại một địa điểm ở đường Huỳnh Quang Tiên, Phú Nhuận.

        Hơn một tuần sau, một người em trai của tôi ở Biên Hòa lên báo tin “khẩn cấp”: chớ trở về đơn vị cũ trình diện vì tôi có tên trong danh sách đốt phi trường đang bị CSVN truy nã!

        Như nhiều người ở lại, hoặc bị kẹt lại còn nhớ, sau khi chiếm miền Nam, cộng sản đã kêu gọi các quân nhân QLVNCH ở một số đơn vị chuyên môn, nhất là Không Quân, Hải Quân, trở lại đơn vị cũ để “hợp tác” với chế độ mới, và không ít người đã nghe theo.

        Có thể những người này hy vọng sẽ được chế độ mới lưu dụng, hoặc ít ra cũng được yên thân với đám cán bộ cộng sản nằm vùng và bọn “30 tháng tư” tại địa phương. Bên cạnh đó cũng có một số người bất đắc dĩ phải hợp tác, thường là những sĩ quan giữ chức vụ quan trọng, bị cộng sản tới tận nhà “mời”!

        Chỉ tính trong quân chủng Không Quân, đã có hàng chục cựu phi công hợp tác bằng cách huấn luyện phi công CSBV lái những loại phi cơ mà KQVN bỏ lại.

        Riêng tại Biên Hòa còn một số chuyên viên kỹ thuật, từ sĩ quan xuống hạ sĩ quan, của Bộ Chỉ Huy Kỹ Thuật & Tiếp Vận Không Quân (BCH/KT&TV/KQ) tình nguyện hợp tác. Nhưng tới khi những người này trở lại phi trường thì tất cả chỉ được giao một công việc duy nhất: dọn dẹp những gì đã bị đốt phá vào chiều tối 28/4/1975.

        Sau này tôi được nghe kể lại như sau:

        Trong số những quân nhân của BCH/KT&TV/KQ trở lại phi trường để “hợp tác” với cách mạng, có Trung tá Nguyễn Mạnh Thuần, Không đoàn phó Không Đoàn Tân Trang & Chế Tạo, và ông đã được viên chính ủy của đơn vị Không Quân CSBV có nhiệm vụ tiếp thu CCKQ Biên Hòa kêu lên mắng vốn:

        - Chúng tôi cũng đoán biết trước khi rút lui các anh sẽ được lệnh phá hủy các cơ sở nhưng tôi không thể tưởng tượng các anh lại thi hành triệt để, đốt phá tận tình tới mức ấy. Anh thử nhìn xem, cái căn cứ không quân lớn nhất, các cơ xưởng hiện đại nhất Đông Nam Á giờ đây còn lại được những gì?!

        Thế rồi, cũng theo những gì tôi được nghe kể lại, tay chính ủy đã dò hòi hỏi đám Việt Cộng nằm vùng và lấy lời khai của một số quân nhân KQ có mặt tại phi trường Biên Hòa chiều Thứ Hai 28/4/1975 để thiết lập danh sách những “thủ phạm” chính trong vụ phá hủy CCKQ Biên Hòa, nghe đâu khoảng 12, 13 người, trong đó có Trung tá Nguyễn Kim Cương, Chỉ huy trưởng Trung Tâm Quản Trị Vật Liệu (nơi có Phòng Điện Toán), mấy ông Thiếu tá Liên đoàn trường (“chủ nhân” của các hangar, cơ xưởng...), Trung tá Lý Thành Ba, Liên đoàn trưởng Liên Đoàn Phòng Thủ SĐ3KQ, vị sĩ quan trách nhiệm toán EOD phá hủy khu nhà kho của Trung Tâm Tiếp Liệu & Chuyển Vận..., và dĩ nhiên không thể thiếu tên tôi, kẻ đã châm ngọn lửa đầu tiên tại BCH/KT&TV/KQ.

        Nghe được tin này, một quân nhân phục vụ tại Khối CTCT đã tìm tới nhà mẹ tôi báo động, nhờ nhắn với tôi phải trốn cho kỹ vì trong đám nội tuyến Việt Cộng có một sĩ quan phòng thủ biết tôi khá rõ.

        Thực ra cho dù không có lời nhắn của nhân viên nói trên, tôi cũng đủ khôn ngoan để không bao giờ mò về Biên Hòa để “nộp xác” cho kẻ thù. Hơn nữa, cho dù không có tên trong danh sách bị truy nã, tôi cũng không bao giờ muốn trở lại thành phố thân yêu nay đã rợp bóng cờ đỏ, bắt buộc phải đi ngang qua cổng 1 hoặc cổng 2 của phi trường nay đã đổi chủ!

        * * *

        Trong hơn ba năm đầu của gần sáu năm ở tù cộng sản – dưới mỹ từ “học tâp cải tạo” – tôi không có nhiều cơ hội nhắc nhớ, hồi tướng những năm tháng phục vụ trong quân chủng Không Quân vì qua bao lần chuyển trại, tôi chỉ gặp vài sĩ quan KQ khác đơn vị trước năm 1975, lại không ở cùng đội cho nên rất khó “liên hệ” với nhau.

        Viết một cách chính xác thì lúc ban đầu, trong mấy tháng ngắn ngủi ở Thành Ông Năm (Hốc Môn) tôi cũng được ở chung tổ với một tay bạn thân và gặp lại một vài sĩ quan KQ quen biết.

        Tay bạn thân không ai khác hơn “Đại úy chưa kịp gắn lon” Trần Ngọc Tự, vốn là bạn nối khố từ thời trung học.

        Cùng đi Khóa 3/69, khi từ TTHL Quang Trung lên Trường Bộ Binh Thủ Đức, hai thằng cứ “nắm áo” nhau nên được ở cùng Trung Đội, giường nằm thì thằng tầng trên thằng tầng dưới.

        Cùng được về ngành Chiến Tranh Chính Trị của Không Quân, tới khi đi học Căn Bản Sĩ Quan CTCT tại Đà Lạt hai thằng cũng cùng khóa (có thêm ông bạn Phan Lạc Giang Đông).

        Chức vụ Trần Ngọc Tự nắm giữ khá dài dòng và rổn rảng: Phụ tá Trưởng Đoàn Công Tác Chính Huấn kiêm Trưởng Ban Biên Soạn Tài Liệu & Sĩ Quan Thuyết Trình, VP/TMP/CTCT, BTL/KQ; và tới năm 1974 kiêm Thư ký tòa soạn đặc san Lý Tưởng của BTL/KQ.

        Sau 30/4/1975, khi có lệnh trình diện “học tập 10 ngày”, tôi và Tự cùng nhau tới Đại học Văn Khoa trình diện để rồi bị đưa lên Thành Ông Năm (Hốc Môn). Cũng nhờ “nắm áo” nhau, chúng tôi luôn luôn ở cùng tổ cho tới khi bị đưa ra Phú Quốc vào đầu năm 1976, trước tết ta mấy ngày, và chia tay nhau từ đó.

        Tới khi Khmer Đỏ đánh đảo Thổ Châu, tù cải tạo ở Phú Quốc được đưa về đất liền thì Tự bị đưa lên Long Giao rồi ra Bắc, tôi may mắn được đưa về Trảng Lớn (Tây Ninh) rồi lần lượt nhiều trại khác trong Nam.

        Một trong những sĩ quan KQ quen biết tôi được gặp lại trong Thành Ông Năm là Thiếu tá Võ Văn Thi, Trưởng Khối CTCT Căn Cứ 20 Chiến Thuật Không Quân (Phan Rang).

        Tôi (và Tự) quen anh Thi ngày anh còn phụ trách hướng đạo sinh quân đội tại BTL/KQ.

        Vào thời gian hai tháng đầu ở Thành Ông Năm, khi CSBV chưa có đù người để kiểm soát chặt chẽ, tôi và Tự thường leo rào sang khu thiếu tá, đại úy và được gặp anh Thi vài lần. Tội nghiệp đàn anh, khi nghe phong phanh cấp thiếu tá sắp bị đưa đi nơi khác, anh Thi đã tới hàng rào nhờ người nhắn tôi và Tự ra để anh trao hai gói thuốc Bastos De Luxe mà anh mới nhận được trong lần gửi quà đầu tiên của gia đình.

        * * *

        Rời Thành Ông Năm ra Phú Quốc rồi về Trảng Lớn, tôi không quen thân một bạn tù Không Quân nào, cho tới khi bị đưa lên Đồng Ban (cũng ở tỉnh Tây Ninh) mới được ở chung đội với Trung úy Đỗ Văn Cường, trên tôi mấy khóa, hoa tiêu quan sát phục vụ tại Phi Đoàn 110 Thiên Phong ngoài Đà Nẵng (hiện nay anh đang định cư ở Hoa Kỳ).

        Sau hơn một năm ở chung hai trại Đồng Ban, Phước Long với anh Cường, khoảng tháng 8 hay tháng 9/1980, tôi bị đưa về trại Suối Máu ở Biên Hòa. Chính tại đây, tôi đã tìm lại được chút không khí “gia đình Không Quân” khi ở tù chung với mấy đàn anh cấp tá quen biết trước năm 1975, gồm mấy vị thiếu tá Liên đoàn trưởng, Trưởng Phòng ở BCH/KT&TV/KQ và Thiếu tá Lê Thanh Hồng Vân, Phi đoàn phó Phi Đoàn 530 ở Pleiku năm xưa.

        Nguyên trại tù Suối Máu được chia ra năm khu, gọi là K, từ K1 tới K5. Thời gian đầu, Suối Máu chỉ dành cho cấp tá, sau khi hầu hết các vị này đã bị đưa ra Bắc hoặc các trại khác ở trong Nam, tù cải tạo cấp úy từ các nơi như Trảng Lớn, Thành Ông Năm, Kà Tum, Phước Long... mới được đưa về để điền vào chỗ trống.

        Đám chúng tôi từ Phước Long về là đợt sau cùng cho nên bị chia năm xẻ bảy, tôi lọt vào K2 là K duy nhất còn sót lại một số trung tá, thiếu tá.

        Trước khi đưa tù từ các nơi về, cấp tá ở K2 đã bị dồn vào những dãy nhà gần hội trường và cổng ra vào, những dãy còn lại dành cho cấp úy mới được đưa về.

        Theo nội quy, tù khu cấp tá và khu cấp úy ở K2 không được “quan hệ” với nhau dưới mọi hình thức, tức là không được vào nhà đã đành mà còn không được gặp gỡ, trò chuyện ở bất cứ nơi nào. Tuy nhiên trên thực tế, nếu không sợ bị ăng-ten báo cáo, người ta có thể quan hệ với nhau khi xem đấu bóng chuyền ngoài sân hay ngồi hóng mát (hoặc phơi nắng để giết con ghẻ) trên thềm hội trường.

        Tôi cũng thường ra thềm hội trường ngồi nhưng không phải để hóng mát hoặc phơi nắng mà để thả hồn về với dĩ vãng... Không Quân.

        Nguyên trại tù Suối Máu nằm phía bên mặt Quốc lộ 1 (hướng đi Hà Nội), cách phi trưởng Biên Hòa khoảng 3 km. Ngay từ khi mới tới Suối Máu, tôi đã thấy những chiếc MiG-21 của cộng sản Bắc Việt cất cánh từ phi trường và nghe tiếng động cơ phản lực thỉnh thoảng gầm rú, mà qua kinh nghiệm trong mấy năm phục vụ tại CCKQ Biên Hòa tôi biết đó là tiếng động cơ từ giàn thử động cơ phản lực (Test Cell) ở khu Đông, mà chúng tôi không kịp phá hủy trong cuộc di tản chiều 28/4/1975.

        Trại tù Suối Máu nằm trên một vùng đất khá cao cho nên ngồi trên thềm hội trường nhìn về hướng Bắc, phía bên kia Quốc lộ 1, tôi có thể thấy nhà thờ giáo xứ Phúc Hải và các giáo xứ kế tiếp của vùng Hố Nai, nơi trước đó hơn 10 năm, Trung úy hoa tiêu F-5 Nguyễn Trí Kiên đã chấp nhận hy sinh để hàng trăm người dân được sống. (Chú thích 1)

        Một ngày nọ, đang ngồi trên thềm hội trường thả hồn về chốn xưa, tôi gặp Thiếu tá Lê Hiền Đức, Liên đoàn trưởng Liên Đoàn Chế Tạo & Sửa Chữa Phụ Tùng, thuộc Không Đoàn Tân Trang & Chế Tạo.

        Thiếu tá Đức (về sau đi HO và đã qua đời tại Hoa Kỳ) là vị sĩ quan lớn tuổi nhất trong số những cấp chỉ huy trung gian mà tôi quen thân, chỉ đứng sau Đại úy Nguyễn Văn Ban, Trưởng Phòng Tổng Quản Trị.

        Lớn tuổi nhất nhưng lại mang cấp bậc thấp hơn một số đàn em trong nghề (đã mang lon trung tá) chỉ vì ông Đức không “có điểm” với ông Từ Văn Bê.

        Cũng giống trường hợp Đại úy Nguyễn Văn Ban, tôi thân ông Đức một phần vì biết và thích uống rượu. Mỗi cuối tuần, sau giờ làm việc ông và mấy sĩ quan trẻ, hạ sĩ quan thân tín dưới quyền thường gầy độ ngay tại xướng. Xưởng của Liên Đoàn nằm ở khu Tây, gần Phòng Xã Hội nên tôi thường được tay bạn cùng khóa rủ rê. Từ đó tôi và Thiếu tá Đức thân nhau.

        Việc này tới tai ông Từ Văn Bê – một người suốt đời không một giọt rượu. Một hôm, không biết có điều gì bực bội trong lòng, ông bất ngờ hỏi tôi một cách khá gay gắt:

        - Nghe nói hồi này anh nhậu với Thiếu tá Đức dữ lắm phải không?!

        Tôi hơi khựng rồi lấy lại bình tĩnh, trả lời:

        - Thưa Đại tá (lúc đó ông Bê chưa lên tướng), chúng tôi chỉ uống mấy ly bia cho vui thôi chứ đâu có hết xị này tới xị khác mà nói là nhậu dữ. Hơn nữa, Thiếu tá Đức và chúng tôi chỉ uống sau giờ làm việc mà thôi!

        Khi trả lời như thế tôi cũng có cương ẩu: tôi và ông Đức thường uống rượu thuốc chứ đâu uống bia!

        Khi được tôi kể lại chuyện này, ông Đức biết ngay ai là kẻ đâm thọc: một ông trung úy già trưởng xưởng có tiếng là gương mẫu, thường hay lên mặt dạy đời, hù dọa người khác. Nhưng tôi dư biết tay trung úy già này - và những tay chuyên tâu trình khác - chẳng có chút ảnh hưởng nào đối với ông Từ Văn Bê, một cấp chỉ huy đầy bản lĩnh.

        * * *

        Ông Đức cho tôi biết hiện có 4, 5 vị cựu thiếu tá khác của BCH/KT&TV/KQ cũng đang ở K2 Suối Máu.


        Nguyên BCH/KT&TV/KQ của chúng tôi là một đơn vị kỹ thuật & tiếp vận, tuy cấp số tương đương với một sư đoàn không quân nhưng không có phi cơ. Thành thử trừ ông Chỉ huy trưởng Từ Văn Bê được ngồi chung trực thăng với Chuẩn tướng Huỳnh Bá Tính, Tư lệnh SĐ3KQ, rời CCKQ Biên Hòa vào tối 28/4/1975 sau khi đốt phi trường, tất cả đã phải tự mình tìm đường thoát thân hoặc chấp nhận ở lại.

        Trong số những người bị kẹt lại, hoặc chấp nhận ở lại có hai ông trung tá và hầu hết thiếu tá.

        Cũng theo lời kể của ông Đức, vào thời gian đầu ở Suối Máu còn có một số trung tá, đại tá Không Quân ở các đơn vị khác, trong đó có sếp cũ của tôi ở Pleiku ngày trước là Trung tá Lê Bá Định, cựu Trưởng Khối CTCT Pleiku, sau làm Không đoàn trưởng Không Đoàn 72 Chiến Thuật, nhưng ít lâu sau, tất cả đã bị đưa ra Bắc.


        * * *

        Ngoài các đàn anh nói trên, tôi được biết ở K2 Suối Máu lúc đó còn có Thiếu tá Lê Thanh Hồng Vân (LTHV), một hoa tiêu khu trục nổi tiếng, xuất thân Phi Đoàn 514 Phượng Hoàng, về sau có thời gian giữ chức Phi đoàn phó Phi Đoàn 530 Thái Dương ở Pleiku.


        Lê Thanh Hồng Vân, hàng ngồi, thứ hai từ trái, khi còn phục vụ tại Phi Đoàn 514, CCKQ Biên Hòa

        Trong suốt mấy tháng trước khi anh LTHV bị đưa về nhà giam Chí Hòa, tôi chỉ gặp anh vài lần, chào hỏi nho nhỏ chứ không dám gặp gỡ trò truyện vì nhà của anh nằm ngay “ngã tư quốc tế” đông người qua lại, nên tôi không muốn anh hay tôi, hoặc cả hai, bị một người bạn tù quý hóa nào đó báo cáo vi phạm nội quy.

        Nhưng dù không được trò truyện với nhau, tôi cũng biết ở Suối Máu, LTHV vừa là một anh hùng, vừa là một huyền thoại. “Anh hùng” là việc làm Trưởng Ban Hành Động của K2 trong cuộc nổi loạn đêm Giáng sinh 1978, còn “huyền thoại” là việc anh có đào là một đảng viên cộng sản!

        Anh LTHV đã qua đời cách đây mấy năm tại Hoa Kỳ, tôi xin hương linh anh cho phép kể lại những gì ngày đó anh em tù cải tạo ở Suối Máu thường kể cho nhau nghe một cách thích thú và quả quyết đó là... chuyện thật!

        Huyền thoại ấy - hoặc “giai thoại” nếu là chuyện thật - như sau: trước năm 1975, cộng sản cho một nữ cán bộ xinh đẹp giả dạng “em gái hậu phương” quyến rũ anh LTHV để khai thác bí mật quốc phòng.

        Không biết cô cán bộ có khai thác được bí mật nào không, chỉ biết thay vì quyến rũ anh, cô đã bị anh quyến rũ. Sau khi cộng sản chiếm miền Nam, tức là nhiệm vụ được đảng trao phó đã hoàn tất, cô cán bộ cộng sản vẫn không bỏ tay “giặc lái”. Sau khi LTHV bị đi học tập cải tạo, cô lên thăm nuôi thường xuyên, muốn thăm lúc nào thì thăm chứ không phải chờ đợi tới kỳ thăm nuôi như những tù cải tạo khác, bởi vì cô là một... đảng viên Cộng Sản!

        Nhờ đó, hay ít ra cũng là theo suy luận của anh em bạn tù, LTHV không bị đưa ra Bắc, và ở Suối Máu anh không ngán một tay cán bộ nào cả. Đặc biệt, anh nhất quyết không chịu cạo bộ râu mép dù đã được viên thiếu tá thủ trưởng K2 khuyến cáo nhiều lần.


        * * *

        Sau mấy tháng ở Suối Máu, qua tin tức trao đổi giữa các K, tôi được biết Phan Lạc Giang Đông (PLGĐ) đang ở bên K1.

        Như đã viết ở phần đầu, PLGĐ là một người bạn khá thân của tôi và Trần Ngọc Tự, cùng học Khóa 8 Căn Bản Sĩ Quan CTCT ở Đà Lạt năm 1970; sau đó PLGĐ cùng phục vụ tại Đoàn Công Tác Chính Huấn BTL/KQ với Tự.


        Đà Lạt 1970, từ trái, người viết, Trần Ngọc Tự, PLGĐ

        Sau 30/4/1975, tuy cùng ở Phú Nhuận nhưng PLGĐ không trình diện “học tập 10 ngày” ở Đại Học Văn Khoa với tôi và Tự, cho nên không ở chung trại với nhau.

        Trại cuối cùng của PLGĐ trước khi bị đưa về Suối Máu là Thành Ông Năm (trại đầu tiên của tôi và Tự). Về Suối Máu, PLGĐ ở K1 sát K2 của tôi.


        Suối Máu trước kia là tại tù phiến cộng, sau 1975 biến thành trại tù sĩ quan ”ngụy” do Quân Đội Nhân Dân trông coi. Các K được phân cách nhau bằng mấy lớp hàng rào kẽm gai khá kiên cố, tuy nhiên sau khi kẽm gai và cọc sắt được bộ đội gỡ bớt đem đi bán thì tù “cải tạo” có thể lén chui từ K này qua K khác.

        Nhưng hàng rào giữa K2 và K1 thì gần như còn nguyên. Theo suy đoán của tôi có lẽ vì ở hàng rào ngoài trại, khoảng giữa K1 và K2 có một vọng gác 24/24, lính canh từ trên đó nhìn xuống thấy rõ mồn một, các “đồng chí” không dám chơi bạo cho nên hàng rào giữa hai K mới còn nguyên!

        Vì thế tù ở K1 và K2 muốn nói chuyện với nhau phải nói thật lớn tiếng mới nghe được, cho nên việc trao đổi tin tức thường được thực hiện bằng cách viết ra giấy rồi cột vào một hòn đá ném qua hàng rào.

        Qua một lần trao đổi bằng miệng với anh em bên K1, tôi được biết PLGĐ ở bên đó. Nhưng chưa kịp liên lạc thì xảy ra cuộc nổi loạn đêm Giáng Sinh 1978.

        Thời gian này, tù cải tạo đã được bộ đội bàn giao công an của Cục Trại Giam, những cai tù thứ thiệt, cho nên việc truy tìm những anh em có tên trong các Ban hành động và Ban đại diện quân binh chủng ở các K không phải là một việc khó khăn.

        Thiếu tá KQ Lê Thanh Hồng Vân, Trưởng ban Hành động K2, bị đưa về Chí Hòa ngay trong đợt thanh trừng đầu tiên, còn PLGĐ nằm trong Ban Hành động K1 bị đưa đi đợt hai, khi tôi bị đưa từ K2 sang K1 thì không còn ở đó nữa.

        Cuối năm 1979, tôi bị đưa lên Tống Lê Chân. Tại trại mới, tôi gặp lại Thiếu tá Phan Thanh Tùng, một trong những ông Liên đoàn trưởng ở BCH/KT&TV/KQ ngày trước. Anh có biệt hiệu Tùng “con” vì người nhỏ thó, mặt mũi thư sinh, tính tình hiền lành.

        Trước năm 1975, tôi và anh Tùng đã khá thân nhưng ở Suối Máu ít khi gặp nhau trò chuyện vì hai nhà khá xa nhau, nay gặp lại ở Tống Lê Chân mới có nhiều cơ hội.

        Nguyên tù cải tạo ở Tống Lê Chân bị nhét như cá hộp trong những dãy nhà tối tăm lụp xụp, nên ban ngày ai cũng ra bên ngoài cho thoải mái, muốn “quan hệ” với ai mặc sức, nhờ đó tôi mới biết tới cái “câu lạc bộ” ngoài trời của anh Tùng và mấy quan tá “xì thẩu”, nơi các đàn anh thường tụ tập cà phê trà lá, tập tành chơi ghi-ta... vào những lúc rảnh rỗi sau giờ lao động.

        Thấy anh Tùng và mấy quan tá lần mò từng hợp âm trên cần đàn một cách khó khăn tôi bỏ công biên soạn tập “Cách bấm những hợp âm căn bản” và được đón nhận nồng nhiệt – bằng tinh thần cũng như vật chất!

        Cũng nên biết tù cải tạo ở Tống Lê Chân không được thăm nuôi, không được nhận quà cho nên tôi bị “đói” – nhất là đói thuốc, đói đường, cho nên tôi không một chút tự ái khi nhận “học phí” là những nhúm thuốc rê, những cục đường tán từ anh Tùng và các quan tá “xì thẩu”.

        Viết như thế không có nghĩa họ chỉ xem đây là một cuộc trao đổi “đôi bên cùng có lợi” mà trái lại rất quý mến tôi, đem lại cho tôi một niềm vui thực sự trong những tháng ngày tù tội ở Tống Lê Chân. Về phần anh Tùng, anh cũng rất hãnh diện khi có một đàn em Không Quân làm... rạng rỡ quân chủng!

        * * *

        Cuối tháng 1/1981, mấy tuần trước tết Tân Dậu, tôi được thả. Khoảng một tháng sau, Trần Ngọc Tự cũng được thả về từ miền Bắc; rồi PLGĐ cũng được thả.

        Vì hoàn cảnh gia đình cũng như lo ngại “tai mắt” của công an, ba thằng chúng tôi hạn chế gặp gỡ nhau, và không bao giờ ngồi chung quán cà phê nơi những anh em cựu tù cải tạo thường tụ tập. Riêng PLGĐ, tôi chỉ gặp một lần duy nhất khi hai thằng đi xe đạp ngược chiều đụng đầu nhau trong một con hẻm nhỏ ở Phú Nhuận.

        Đó là lần duy nhất và cũng là lần cuối cùng tôi gặp lại PLGĐ vì tới tháng 10/1981 tôi vượt biên. Định cư tại Úc, tôi được tin PLGĐ sang Hoa Kỳ theo diện HO và qua đời vì bạo bệnh năm 2001 khi mới 62 tuổi.

        (Còn tiếp)



        CHÚ THÍCH:

        (1) Trung úy Nguyễn Trí Kiên xuất thân hoa tiêu khu trục A-1 Skyraider thuộc Phi Đoàn 514 Phượng Hoàng. Vào đầu năm 1966, bốn phi đoàn khu trục hiện hữu - 514, 516, 518, 520 – mỗi phi đoàn được tuyển chọn bốn người sang Hoa Kỳ xuyên huấn phản lực cơ siêu thanh F-5. Phi Đoàn 514 gồm:

        - Thiếu úy Lê Như Hoàn
        - Thiếu úy Thăng Quốc Phan
        - Thiếu úy Nguyễn Trí Kiên
        - Thiếu úy Trịnh Hữu Trí


        Về nước tháng 4 năm 1967, tất cả phục vụ tại Phi Đoàn 522 Thần Ưng, phi đoàn F-5 đầu tiên, và duy nhất vào thời điểm đó.

        Trong một phi vụ oanh kích cộng quân vào năm 1968 (?), chiếc F-5 của Trung úy Kiên bị trục trặc kỹ thuật, bom đeo dưới cánh không rơi ra được, phải bay về Biên Hòa. Được lệnh nhảy dù nhưng anh đã quyết định cố tìm cách đưa phi cơ ra khỏi khu vực dân cư và bị crashed, trở thành hoa tiêu F-5 đầu tiên hy sinh.

        Sự quên mình của Trung úy Kiên đã khiến dân chúng ở vùng Hố Nai cảm kích, tri ân; tang lễ của anh được ghi nhận là một trong những đám tang quân đội được dân chúng tham dự đông nhất từ trước tới nay.
        Last edited by Nguyen Huu Thien; 03-23-2025, 11:49 PM.

        Comment

        • KiwiTeTua
          Moderator

          • Jul 2008
          • 1976

          #5
          Viết bài và dẩn chứng hình ảnh hay à nghe! Đúng là dân trong nghề...

          Comment


          • Nguyen Huu Thien
            Nguyen Huu Thien commented
            Editing a comment
            Cám ơn bạn ta đã có lời bốc thơm gà nhà. Mùa Chay tới rồi, Hà Bá (và Thầy Ba khôngquan2) lo ăn chay hãm mình làm việc lành phúc đức đi nhé. Gần đây thấy bạn bè đồng lứa cứ lần lượt ra đi, Thiên Lôi tui cũng hơi rét, ráng viết cho xong những gì mình muốn viết cho kịp chuyến tàu hoàng hôn. .
        • Nguyen Huu Thien
          Moderator

          • Jul 2014
          • 1169

          #6
          BUỒN VUI ĐỜI LÍNH... VĂN PHÒNG (phần 3)

          “Một Ngày Không Quân - Một Đời Không Quân”



          (tiếp theo)


          Tháng 10/1981 tôi vượt biên. Cuộc vượt biên khó tin vào giữa mùa bão trên chiếc ghe dài 7 mét rưỡi chỉ sau bốn ngày ba đêm đã tới Nam Dương (Indonesia) đã được tôi hồi tưởng một cách chi tiết trong thiên hồi ký “Cải Tạo Nửa Mùa – Vượt Biên Tài Tử” (HQPD, chuyên mục Chuyện tù cải tạo), ở đây chỉ xin rất ngắn gọn.

          Nguyên mấy tháng sau khi tôi được thả, ông anh cột chèo, một chuyên viên quang tuyến X ở bệnh viện Nguyễn Văn Học, quyết định tổ chức vượt biên trong phạm vi gia đình, gồm gia đình ông (7 người), gia đinh tôi (4 người), ông anh họ vợ (4 người) và hai gia đình của hai thanh niên có bổn phận lo bãi bến, vận chuyển dầu mỡ..., tổng cộng 26 nhân mạng trong đó gần một nửa là con nít.

          Ghe là một chiếc ghe bầu chạy sông đã gần mục nát, được chúng tôi đóng thêm hai công đà và bọc tôn Mỹ dưới lườn. Máy là một động cơ Yanmar F10 (chưa tới một “lốc”) phế thải được tân trang (đóng sơ-mi).


          Chiếc ghe 7 mét rưỡi sau khi "đại tu"

          Tài công là một chú em ở vùng biển nhưng chua bao giờ xa khơi, ông anh cột chèo làm tài công phụ, còn tôi – một anh lính không quân văn phòng chưa bao giờ đi biển (trừ chuyến di cư vào Nam năm 1954 trên chiến hạm Mỹ) – bị chỉ định làm... hoa tiêu!

          Báo hại, tôi phải kiếm một tay bạn sĩ quan Hải Quân để học một khóa “hải hành căn bản” cấp tốc: xem hải đồ, sử dụng hải bàn, đo tốc độ, tính độ giạt..., và quan trọng hơn cả là xem sao trời để tính phương hướng!

          Trong hai ngày bị bão cấp 3, trong khi những chiếc ghe lớn gấp đôi, máy mạnh gấp ba phải tấp vào Côn Sơn để tránh bão (và bị công an trấn lột) thì ghe của chúng tôi cứ thẳng tiến, gặp tàu buôn tàu buôn không vớt, tấp vào giàn khoan thì bị giàn khoan xua đuổi, nhưng nhờ được Ơn Trên đoái thương, ông bà phù hộ nên chỉ sau bốn ngày ba đêm đã đến được một hòn đảo nhỏ của Nam Dương, rồi được đưa tới các đảo Sedanao, Kuku, và sau hơn một tháng rời VN đã đặt chân tới trại tỵ nạn Galang – Cửa ngõ của Tự do và Tình người.



          Cổng vào Trại tỵ nạn Galang

          Tới Galang (Galang 1, còn Galang 2 dành cho những người đã được Mỹ nhận học Anh văn chờ ngay đi định cư và người tỵ nạn Căm-bốt), ngay sau khi được Cao Ủy Tỵ Nạn phỏng vấn, tôi đã dò hỏi xem trên trại có tổ chức nào của cựu quân nhân QLVNCH hay không, và được biết chỉ có hai nhóm sinh hoạt sinh hoạt thường xuyên là Chi Hội Hải Quân – Hàng Hải Galang và Chi Hội Không Quân Galang.

          Chi Hội Hải Quân – Hàng Hải có nguồn “viện trợ” từ Hoa Kỳ nên mở được một hội quán trên khu sinh hoạt (Hội Quán Trùng Dương, nếu tôi nhớ không lầm), còn Chi Hội Không Quân, mới được thành lập đầu năm 1981, thì mỗi tuần mượn Văn phòng Zone III để họp mặt một lần.

          Vào thời gian tôi tới trại, Chi Hội Không Quân Galang có khoảng 15-20 thành viên, do cụu Thiếu tá Trương Như Hoàng (Tent City) làm Chi hội trưởng và cựu Đại úy Dương Ngọc Như (Phi Đoàn 219) làm Chi hội phó.

          Về thành phần hội viên, có cấp bậc cao nhất là Đại úy Mai Văn Lê (Phi Đoàn 217), sau khi anh Hoàng đi định cư, anh Như lên làm Chi hội trưởng thì anh Lê giữ chức Chi hội phó.

          Còn lại là từ cấp trung úy xuống tới hạ sĩ quan, binh sĩ; trong số đó người duy nhất tôi quen biết từ trước là Vũ Văn Bảo (Trung úy, Phi Đoàn 237) từng ở tù cải tạo chung trại Phú Quốc, Trảng Lớn và Đồng Ban (Tây Ninh).

          Khoảng hai tháng sau khi tới trại, tôi trở thành “chủ nhân” của Văn phòng Zone III, hay viết một cách chính xác hơn, làm Zone Trưởng Zone III.


          * * *

          Nguyên trại Galang 1 được chia ra làm năm zone, từ Zone I tới Zone V. Tôi và mọi người cùng ghe ở Barrack 73 thuộc Zone III.

          Như một thông lệ, mỗi khi có một đợt tỵ nạn mới tới trại, các barrack trưởng khi thiết lập danh sách để nộp lên văn phòng zone, thường ghi cả cấp bậc của các cựu quân nhân, cảnh sát quốc gia, chức vụ của các công chức thời VNCH để trong tương lai có thể mời đảm trách các chức vụ tại văn phòng zone hoặc Ban đại diện Trại.

          Khi được biết tôi mang cấp bậc trung úy, T, Zone trưởng Zone III, một Thiếu úy Địa phương quân trẻ măng, đã xuống tận Barrack 73 mời tôi giữ chức zone phó khi ấy đang bỏ trống.

          Trước đó mấy ngày, Thảo, barrack trưởng Barrack 73, đã nói chuyện với tôi về việc này và đề nghị tôi nhận lời, bởi vì theo lời Thảo, T còn quá trẻ, tính lại hơi ba phải, nể nang người này người khác cho nên không đủ uy tín và khả năng điều hành công việc tại Zone III, vốn được xem là zone quan trọng nhất.



          Trại Galang 1 nhìn từ nhà thờ Công Giáo. Giữa hình là Zone III và trung tâm sinh hoạt của trại,
          xa xa là chùa Quan Âm, phía bên phải hình là
          Đồn cảnh sát Nam Dương và Văn phòng Chỉ huy trưởng Trại,
          phía bên trái là Zone VI và các cơ quan thiện nguyện, trên sườn đồi là Zone V

          Nguyên Zone III nằm ở vị trí trung tâm, “lãnh thổ” bao gồm trung tâm sinh hoạt của trại, gồm Hội trường, Youth Center, thư viện, phòng nghe băng tiếng Anh (Listening Center), các phòng học, tòa soạn bán nguyệt san Tự Do, sân khấu lộ thiên, chỗ đặt TV màu, sân bóng chuyền, sân đá banh..., lại gần Đồn cảnh sát Nam Dương và Văn phòng Chỉ huy trưởng Trại (Camp Commander Office) cho nên dù muốn hay không cũng dễ lọt vào mắt các xếp lớn của cả Cao ủy, Nhà cầm quyền Nam Dương lẫn Ban đại diện Trại!

          Thấy Thảo còn trẻ mà biết nghĩ tới việc chung như thế, tôi cho rằng mình cũng phải thể hiện chút thiện chí của một cựu sĩ quan QLVNCH, nên đã nhận lời giữ chức Zone phó Zone III.

          Tuy nhiên, lúc ban đầu tất cả những gì tôi muốn đóng góp chỉ là giúp T có thêm chút “uy”, cũng như đóng góp ý kiến trong các buổi họp hàng tuần với các barrack trưởng, đa số là thanh niên trai trẻ.

          Nhưng tới đầu tháng 2/1982, khi chàng thiếu úy zone trưởng có tên trong sách vào Galang 2 để chờ đi Mỹ thì cũng là lúc tôi bị phái đoàn Úc tạm gác hồ sơ vì đơn bảo lãnh của đứa cháu vợ bên Úc bị trục trặc phải làm lại từ đầu.

          Vì thế trong buổi họp bầu tân zone trưởng, sau khi được toàn thể barrack trưởng tín nhiệm qua cuộc bỏ phiếu kín, tôi đã nhận lời làm zone trưởng.



          * * *

          Ít lâu sau, một “nhân tài” Không Quân đặt chân tới Galang, một người vốn không xa lạ gì với tôi: cựu Thiếu tá Vũ Ngô Khánh Truật (Khóa 65), bạn từ thời trung học của Trần Như Lâm, tay Trung úy cùng Khóa 3/69, cùng phục vụ tại BCH/KT&TV/KQ với tôi trước năm 1975.

          Anh Truật là một người tháo vát, xông xáo, yêu thích thể thao, trước năm 1975 là một cầu thủ trong đội tuyển bóng chuyền của Sư Đoàn 3 Không Quân. Sau khi tới Galang, cứ chiều chiều anh lại rủ một số cao thủ ra sân bóng chuyền trước khu sinh hoạt đấu với nhau; chẳng bao lâu sau đã thu hút được đông đảo thanh niên trong trại, vốn trước kia chỉ thích đá banh.

          Mấy tháng sau, nhân sắp tới Ngày Quân Lực VNCH 19 tháng 6, tôi bàn với anh Truật đề nghị Ban đại diện Trại nhân dịp này tổ chức một giải thể thao toàn trại, vừa tạo không khí sôi nổi hào hứng vừa nêu cao chính nghĩa tỵ nạn.

          Đề nghị của chúng tôi được Ban đại diện chấp thuận ngay, một phần cũng vì ông Trại trưởng (Trưởng ban đại diện Trại) là một cựu Đại úy từng ở tù chung với tôi ở Suối Máu, và khi tình nguyện ra tranh chức Trưởng ban đại diện đã được tôi vận động, ủng hộ hết mình.


          Đây là lần đầu tiên kể từ khi trại tỵ nạn Galang được thành lập (1979) mới có một giải thể thao toàn trại như thế cho nên đã thu hút được cả giới “thể tháo gia” lẫn khán giả; đồng bào trong trại đua nhau đóng góp vào “quỹ giải lao” cho gà nhà...

          Kết quả, không chỉ có ông Trưởng ban tổ chức Vũ Ngô Khánh Truật nổi đình đám mà cả tôi cũng được nhiều người... thán phục: Zone III đoạt tới ba trong số bốn giải vô địch: bóng tròn, bóng bàn và chạy 1.500m (về nhất và ba).



          Trại trưởng (giữa hình) công bố kết quả giải thể thao Ngày Quân Lực 1982.
          KQ Vũ Ngô Khánh Truật đứng mép bên phải, tôi mép bên trái hình


          Đội tuyển Zone III vô địch bóng tròn

          Tháng 8/1982, khi tôi lên đường đi Úc định cư thì anh Truật đã được ông Trại trưởng (cựu Trung tá) Hoàng Công Duyên mời giữ chức Trại phó. Sau đó mấy tháng, khi ông Duyên đi Úc, anh Truật được bầu làm Trại trưởng.


          * * *

          Tới Úc, gia đình tôi được định cư tại thành phố Melbourne, tiểu bang Victoria, là nơi các cháu vợ tôi cư ngụ. Melbourne là thành phố lớn thứ nhì của Úc, chỉ sau Sydney của tiểu bang New South Wales (NSW). Melbourne cũng là thành phố có người Việt tỵ nạn đông thứ nhì, lúc đó vào khoảng 30 nghìn người.

          Năm tôi tới Úc (1982) cũng là thời gian tổ chức đại diện người Việt tỵ nạn tại các tiểu bang trước kia mang những danh xưng khác nhau (Hội Việt Kiều, Hội Người Việt Tự Do...) chính thức đổi tên thành Cộng Đồng Người Việt Tự Do (CĐNVTD).

          Các Hội Cựu Quân Nhân QLVNCH cũng lần lượt được thành lập, trước tiên tại Victoria vào năm 1979. Qua tham dự sinh hoạt của Hội CQN, được biết trong số các quân binh chủng mới chỉ có Hải Quân đã thành lập “Gia Đình Hải Quân - Hàng Hải Victoria”, tôi tìm cách liên lạc với một số anh em KQ đang sống ở thành phố Melbourne, trong đó có bạn tù Vũ Văn Bảo, cựu Chi hội phó Galang Mai Văn Lê, Đặng Văn Đạt (Trung úy, PĐ-231), Lưu Minh Đức (nam ca sĩ số 1 của Youth Center Galang), và một số anh em đã định cư trước đó mấy năm như Nguyễn Thanh Mẫn (Thiếu úy, TTHLKQ Nha Trang), các SVSQ Liên khóa 72-74 La Thanh Bình, Trương Thành Đực, Lương Tùng... với mục đích cùng nhau vận động thành lập một hội Không Quân tại tiểu bang Victoria.

          Cùng khoảng thời gian, tôi được anh Chủ tịch Hội Cựu Quân Nhân cho biết có một ông cựu thiếu tá KQ sống ở Melbourne nhưng không tham bất cứ sinh hoạt nào vì lý do riêng tư. Tôi liền xin số điện thoại và khi liên lạc được mới biết đàn anh không phải ai xa lạ mà chính là anh Võ Văn Thi, nguyên Trưởng Khối CTCT Căn Cứ 20 Chiến Thuật (Phan Rang) mà tôi đã gặp lại ở Thành Ông Năm.

          Anh Thi rất mừng, nói tôi tới nhà chơi. Sau khi tôi trình bày công việc vận động thành lập hội Không Quân, anh hứa sẽ yểm trợ hết mình nhưng sẽ không giữ một chức vụ nào.

          Đầu tháng 9 năm 1983, tôi mời tất cả anh em KQ đã liên lạc được tới họp mặt tại “căn nhà ngoại ô” của KQ Nguyễn Thanh Mẫn (người đầu tiên mua nhà). Có 13 anh em (tính cả tôi) tham dự và tất cả đồng ý thành lập Ban vận động do tôi làm Trưởng ban, Nguyễn Thanh Mẫn làm phó.

          Tiếp theo, tôi bắt đầu phổ biến lời kêu gọi trong các buổi sinh hoạt của Cộng Đồng, của Hội CQN và trên các phương tiện truyền thông.


          * * *

          Vào khoảng thời gian này, đầu mùa tỵ nạn, khí thế đấu tranh còn mạnh mẽ, nhiều phong trào, mặt trận, liên minh, tổ chức phục quốc, kháng chiến... lần lượt ra đời, với thành phần nòng cốt là giới cựu quân nhân, kế tới là giới trẻ, sinh viên học sinh.

          Việc này trong khi nêu cao được chính nghĩa quốc gia của người Việt tỵ nạn thì lại (đôi khi) tạo ra sự phân hóa trong tập thể cựu quân nhân, trong giới trẻ.

          Điều này cũng dễ hiểu bởi những người từng cầm súng, những người trẻ còn đầy bầu nhiệt huyết thường ít nhiều cực đoan cho nên ai cũng hết lòng phò “lãnh tụ” của mình, đề cao tổ chức của mình.

          Thấy được tình trạng phân hóa đó, tôi đề nghị với anh em trong Ban vận động lấy danh xưng của hội KQ sắp được thành lập là “Hội Ái Hữu Không Quân QLVNCH tiểu bang Victoria” để làm nổi bật mục tiêu chính là ái hữu, tương thân tương trợ giữa những người cùng màu cờ sắc áo năm xưa.

          Đề nghị của tôi được anh em KQ tán thành, nhưng tới khi phổ biến Thông Báo thì bị không ít người “lên gân lập trường”, “chống cộng bằng khẩu hiệu” chê bai, đả kích...

          Điển hình là trong một buổi sinh hoạt của Hội CQN, sau khi tôi lên đọc Thông Báo của Ban vận động, một cựu quân nhân có vai vế trong một tổ chức kháng chiến nọ đã đứng lên chất vấn:

          - Như vậy Không Quân các anh lập hội chỉ để ái hữu chứ không chống cộng?

          Trước cung cách trịch thượng của người này tôi cũng hơi nóng mặt nhưng đã cố dằn để ôn tồn trả lời, đại ý như sau:

          Với mấy chữ “QLVNCH” trong danh xưng của Hội, chúng tôi đã xác định lập trường quốc gia của mình, tuy nhiên chúng tôi cũng khẳng định hội được thành lập với mục đích chính là ái hữu, còn muốn tham gia các hoạt động đấu tranh, chống cộng, các hội viên có thể sát cánh với Hội CQN, với Cộng Đồng Người Việt Tự Do, hay tham gia bất cứ tổ chức, hội đoàn quốc gia nào khác.

          Không chấp nhận cách trả lời của tôi, vị cựu quân nhân nói trên đã cho tôi và cử tọa một bài mo-ran về trách nhiệm của cá nhân và hội đoàn đoàn thể trong công cuộc phục quốc, kháng chiến, v.v...

          Nhưng mặc cho ông nói gì thì nói, trong những năm sau đó rất nhiều hội đoàn, trong đó có cả hội đoàn CQN đã sử dụng hai chữ “ái hữu” trong danh xưng. Riêng Hội Không Quân Victoria, chính nhờ hai chữ “ái hữu” ấy mà chúng tôi đã ngăn chặn được việc “chính trị hóa” sinh hoạt của Hội của một vài cá nhân; chấp nhận làm mất lòng một thiểu số để duy trì sự đoàn kết, tình thân trong Hội.

          Riêng bản thân tôi, mặc dù được mời (và nhận lời) làm MC trong nhiều buổi sinh hoạt đấu tranh cho tự do dân chủ trong cộng đồng tỵ nạn, trong đó có buổi ra mắt Phong Trào Quốc Gia Yểm Trợ Kháng Chiến (Mặt Trận Hoàng Cơ Minh) tại Úc Châu, nhưng dứt khoát không gia nhập bất cứ một tổ chức, hội đoàn nào ngoài Hội CQN.


          * * *

          Cuối tháng 1 năm 1984, tại Văn phòng Cộng Đồng Người Việt Tự Do (CĐNVTD) tiểu bang Victoria, một buổi họp mở rộng đã được tổ chức với sự tham dự của hơn 30 anh em cựu quân nhân KQ trong tiểu bang, đi tới quyết định chính thức thành lập Hội Ái Hữu Không Quân QLVNCH Victoria, và bầu ra một Ban chấp hành lâm thời nhiệm kỳ 6 tháng.

          Ngày 1/7/1984, trong buổi kỷ niệm Ngày Không Lực 1 tháng 7 tại nhà hàng Hòa Bình ở vùng Footscray (chủ nhân là một cựu Đại úy KQ), Ban chấp hành chính thức đầu tiên đã được bầu, do KQ Khưu Văn Nghĩa (Trung úy, PĐ-217) làm Hội trưởng.

          Mặc dù không có một sự “kiểm chứng” nhưng cứ theo lời xác nhận của các vị niên trưởng ở Pháp và anh em KQ ở Canada, thì Hội Ái Hữu Không Quân QLVNCH Victoria, Úc Châu, là Hội Không Quân đầu tiên trên thế giới (ngoài Hoa Kỳ) được chính thức thành lập!


          Tiếng lành đồn xa, qua năm 1985, anh em KQ ở tiểu bang Queensland (QLD) tận miền bắc nước Úc đã liên lạc thăm hỏi, tìm hiểu đưa tới việc thành lập Hội Ái Hữu Không Quân tiểu bang QLD, do KQ Huỳnh Hạnh Kim Hồng (Đại úy, PĐ-245?) làm Hội trưởng.

          Tiếp theo là Hội Ái Hữu Không Quân NSW do KQ Nguyễn Hứa Chữ (Đại úy, hoa tiêu C-7 Caribou) làm Hội trưởng.


          * * *

          Ngày 2 tháng 10 năm 1992, nhân dịp về thủ đô Canberra tham dự cuộc diễn hành “Welcome Home” của cựu chiến binh tham chiến tại Việt Nam, anh em Không Quân về từ các tiểu bang Victoria, NSW và QLD đã họp mặt tại nhà hàng “Canberra” của KQ Nguyễn Bá Khuê (Thiếu tá CTCT, từng phục vụ tại Pleiku với tôi năm 1970-1971) đi tới quyết định thành lập Liên Hội Ái Hữu Không Quân QLVNCH Úc Châu.

          Ngày này (2 tháng 10 năm 1992) được xem là Đại Hội Liên Bang lần thứ nhất và sau đó cứ mỗi 2 năm, Đại Hội sẽ do các Hội KQ tiểu bang luôn phiên tổ chức.

          Năm 1994, Đại Hội kỳ 2 được tổ chức tại Sydney (NSW). Trong dịp này, tôi đã được gặp gỡ cựu Trung tá Nguyễn Quang Toại, Khóa 3 Quan sát viên TTHLKQ Nha Trang, được ghi nhận là vị niên trưởng KQ thâm niên nhất định cư ở Úc.

          Khi Đại Hội kỳ 3 được tổ chức tại Melbourne (Victoria) vào năm 1996, đã có thêm Hội Ái Hữu Không Quân Nam Úc (South Australia) được thành lập, và sau đó là Hội Ái Hữu Không Quân Tây Úc (Western Australia) ở tận bờ biển phía tây (Ấn-độ dương).

          Năm 1998, Đại Hội kỳ 4 được tổ chức tại thành phố Brisbane, thủ tiểu bang Queensland (QLD) ở miền bắc hòn đảo Úc-đại-lợi, nơi có khí hậu nhiệt đới giống như ở Việt Nam.

          Hai hội viên cao tuổi nhất của Hội QLD là cựu Thiếu tá Nguyễn Bửu Lộc, nguyên Chỉ huy trưởng Đài Kiểm Báo 11 (Cần Thơ), và cựu Đại úy Phạm Khôn Rư (Khóa 8 Rochefort), nguyên Liên đoàn trưởng Liên Đoàn Tân Trang Quân Xa & Cơ Giới, thuộc BCH/KT&TV/KQ, tức là cùng đơn vị với tôi.



          Bốn anh em BCH/KT&TV/KQ tại Đại Hội kỳ 4, Brisbane, từ trái: người viết, Chuẩn úy Trần Văn Thành,
          Trung úy Huỳnh, và Đại úy Phạm Khôn Rư


          Tới đây xin có đôi dòng về đặc san LÝ TƯỞNG của Liên Hội Không Quân Úc Châu.

          Ngược dòng thời gian, sau mấy năm “hốt bạc” với gian hàng quay số (phi cơ đáp 1 trong 16 phi trường) tại Hội chợ tết của Cộng Đồng, tới năm 1989 anh em KQ Victoria quyết định xuất quỹ thực hiện giai phẩm LÝ TƯỞNG xuân (lấy tên đặc san LÝ TƯỞNG của BTL/KQ trước 1975). KQ Vũ Văn Bảo nhờ quen biết và học nghề từ một vị thân hữu làm trong nhà in của Đại Học RMIT nên được trao trách nhiệm tổng quát, tôi phụ trách phần bài vở.

          Tưởng chỉ “chơi bạo lấy tiếng” một lần rồi thôi không ngờ cuốn giai phẩm LÝ TƯỞNG ấy lại gây tiếng vang, được anh em KQ Úc Châu và thân hữu đón nhận nhiệt tình, độc giả ngoài Không Quân (và mạnh thường quân) ủng hộ hết mình, cho nên qua năm sau tiếp tục ra mắt, để rồi từ giữa thập niên 1990 cho tới khi xảy ra đại dịch Covid-19, phát hành đều đặn mỗi năm hai số - giai phẩm xuân và số kỷ niệm Ngày Không Lực 1 tháng 7.

          Vào thời “vàng son”, số lượng độc giả ở Bắc Mỹ (Hoa Kỳ và Canada) lên tới gần 100, nhờ có KQ Bùi Tá Khánh (PĐ-219) tình nguyện làm đại diện ở Bắc Mỹ phân phối. Ngoài ra LÝ TƯỞNG Úc Châu còn có khoảng một chục độc giả KQ ở Âu Châu và một vị niên trưởng ở tận Xứ hoa anh đào.

          Sau khi Liên Hội Ái Hữu Không Quân Úc Châu được thành lập vào năm 1992, LÝ TƯỞNG Úc Châu chính thức trở thành tiếng nói của Liên Hội.


          * * *

          Cho tới giữa thập niên 1990, Liên Hội Ái Hữu Không Quân QLVNCH Úc Châu chưa có một quan hệ chính thức nào với Tổng Hội Không Lực cũng như các Hội Không Quân ở Hoa Kỳ, chỉ có những liên lạc, trao đổi mang tính cách cá nhân giữa anh em LÝ TƯỞNG Úc Châu với LÝ TƯỞNG của Tổng Hội (thời gian anh Đào Vũ Anh Hùng phụ trách), hoặc giữa một số cá nhân KQ ở Úc với cấp chỉ huy cũ, với bạn bè KQ trước năm 1975 hiện định cư tại Hoa Kỳ.

          Riêng tôi chỉ liên lạc được với hai vị đàn anh trước năm 1975 là cựu Thiếu tá Nhữ Văn Phúc, ngày ấy có thời gian giữ chức Quyền Trưởng Khối CTCT BCH/KT&TV/KQ, và cựu Trung tá Võ Ý, nguyên Phi đoàn trưởng PĐ-118 Bắc Đẩu ở Pleiku ngày trước; cả hai đi HO sang Hoa Kỳ.

          Nguyên sau khi đi tù cải tạo về, ông Phúc nghe tin đồn tôi đã chết trong lúc hỗn loạn tại phi trường Biên Hòa trong cuộc di tản tối 28/4/1975. Gần 20 năm sau, sau khi được đọc bài “Nghe tiếng hát Phùng Văn Chiêu nhớ những ngày cuối cùng của Biên Hòa” của tôi đăng trên LÝ TƯỞNG Úc Châu và được một đặc san KQ ở Hoa Kỳ đăng lại, ông Phúc mới biết tôi vẫn còn sống nhăn răng nhưng vì không có địa chỉ của LÝ TƯỞNG Úc Châu, ông đã gửi một mẩu nhắn tin “Tìm trẻ lạc” đăng cầu may trên một tờ báo nọ ở Sydney, một người bạn KQ ở trên đó đọc được mới cắt mẩu nhắn tin gửi cho tôi.

          Anh em liên lạc với nhau, câu đầu tiên của ông Phúc là “Cám ơn bạn đã nhắc tới tên tôi trong bài viết”. Đó là đoạn sau đây:

          ...Khoảng 7 giờ tối, căn cứ Biên Hòa hoàn toàn mất liên lạc với Bộ Tư Lệnh KQ, phi trường bị chìm trong bóng tối vì nhà máy điện đã bị đốt. Phía SĐ3KQ, Trung tá Lý Thành Ba, Liên đoàn trưởng Liên Đoàn Phòng Thủ, vị sĩ quan cao cấp nhất còn lại đã quyết định dẫn lính về Sài Gòn bằng đường bộ; phía BCH/KT&TV/KQ, sĩ quan cao cấp nhất là Thiếu tá Nhữ Văn Phúc, Chỉ huy trưởng Trung Tâm Quy Chuẩn KQ (PMEL), có thời gian giữ chức Quyền Trưởng Khối CTCT. Ông nói với tôi:

          - Vợ con moa còn kẹt bên Cù Lao, không biết giờ này ra sao. Moa phải về. Thôi, toa ở lại nhé! (ngưng trích)


          Câu nói chẳng có gì đáng nhớ ấy ra hải ngoại được tôi nhắc lại đã khiến ông Phúc “có điểm” với hiền nội còn hơn cả mua nhẫn hột xoàn tặng!

          * * *

          Anh Võ Ý thì biết tôi ở Úc nhờ liên lạc với một người đàn em ở thành phố Melbourne, cũng trong Hội Không Quân Victoria.

          Tôi với ông nhà thơ KQ này có khá nhiều kỷ niệm ở Pleiku. Ngày ấy (1969-1972), ông cậu lớn của tôi (Khóa 13 VBQG) đang giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 20 CTCT đóng gần cổng sau Quân Đoàn II, cách phi trường Cù Hanh chỉ vào khoảng 1 km.

          Cậu tôi thân với ông Lê Bá Định từ lúc ông Định còn làm Trưởng Phòng CTCT Căn Cứ 92 KQ với ba tay sĩ quan và dăm mạng lính văn phòng. Sau khi Không Đoàn 72 Chiến Thuật được thành lập, anh Võ Ý lên Pleiku làm Phi đoàn trưởng PĐ-118 thay ông Võ Công Minh thì cậu tôi mới quen biết người đàn em Khóa 17 VBQG này, mời cộng tác với đặc san Đại Nghĩa của Tiểu Đoàn 20 CTCT.

          Lúc đó ở Pleiku có hai người cầm bút tên tuổi cũng cộng tác với tờ Đại Nghĩa là nhà thơ Kim Tuấn và nhà văn / nhà thơ Hoàng Khởi Phong (Đại úy Quân Cảnh Nguyễn Vinh Hiển), cho nên tôi cũng thường được theo ông Lê Bá Định và anh Võ Ý ra phố Pleiku tham dự những buổi họp mặt văn nghệ (viết là “chầu rìa” có lẽ chính xác hơn).

          Ra hải ngoại, anh Võ Ý viết văn nhiều hơn là làm thơ. Những bài viết của anh đa số viết về “người và việc” trong Không Quân trước năm 1975 cũng như sau khi ra hải ngoại, cùng với một số bài về “trường mẹ” Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt.

          Anh cũng cộng tác với LÝ TƯỞNG của Tổng Hội, LÝ TƯỞNG Úc Châu, các đặc san KQ ở Hoa Kỳ và Đa Hiệu của Võ Bị Quốc Gia.

          Tới năm 2001, khi Liên Hội Không Quân Úc Châu bắt tay vào việc thực hiện quyển Quân Sử Không Quân VNCH, anh Võ Ý không chỉ góp sức với bài “Ngành Quan Sát trong KLVNCH” mà còn giới thiệu chúng tôi với nhiều vị niên trưởng trong quân chủng để nhờ giúp đỡ trong việc biên soạn.

          Tuy nhiên, đó là chuyện sau này còn vào năm 1998, vị niên trưởng Không Quân đầu tiên từ Hoa Kỳ chúng tôi được hân hạnh đón tiếp lại là một vị khách bất ngờ: Giáo sư Tiến sĩ (cựu Đại tá) Nguyễn Xuân Vinh, vị Tư lệnh đời thứ hai của Không Quân VNCH.

          (Còn tiếp)

          Last edited by Nguyen Huu Thien; 04-08-2025, 10:06 PM.

          Comment

          • KiwiTeTua
            Moderator

            • Jul 2008
            • 1976

            #7
            Bác Nguyen Huu Thien commented, "Cám ơn bạn ta đã có lời bốc thơm gà nhà. Mùa Chay tới rồi, Hà Bá (và Thầy Ba khôngquan2) lo ăn chay hãm mình làm việc lành phúc đức đi nhé. Gần đây thấy bạn bè đồng lứa cứ lần lượt ra đi, Thiên Lôi tui cũng hơi rét, ráng viết cho xong những gì mình muốn viết cho kịp chuyến tàu hoàng hôn. ."

            Thường ngày KiwiTeTua tui cũng OK, "chăm chỉ hạt bột", không "quậy" như thầy Ba khongquan2 và bác Thiên Lôi Miệt Dưới...
            Bây giờ đã vào Mùa Chay của đạo Công Giáo thì Kiwi còn "ngon lành" hơn, "hảm mình", Thứ 6 không ăn thịt, chỉ ăn cá, tôm nhỏ thôi...
            Có thằng bạn nó nói nó cũng ăn chay, không ăn thịt Thứ 6 - bà xả nó chỉ làm lobsters, hấp cẳng chân Alaska King Crabs, mua ở Costco, cho nó
            ăn thôi - Tui bảo nó hôm nào ăn chay, cho tao qua ăn chung cho dzui...

            Nghe bác Thiên Lôi nói đến "chuyến tàu hoàng hôn...", tui cũng nãn... Thôi thì ráng sống đàng hoàng "as much as you can", khi nào Chúa gọi về thì ta phải chịu thôi... Cuộc đời ngắn ngủi, còn dzui được thì cứ dzui, bác "rét" làm chi cho đời mất dzui, thấy ngắn đi!
            Anyway, bác Thiên Lôi viết văn, viết bài hay lắm!
            Last edited by KiwiTeTua; 04-11-2025, 10:11 PM.

            Comment

            • Nguyen Huu Thien
              Moderator

              • Jul 2014
              • 1169

              #8
              BUỒN VUI ĐỜI LÍNH... VĂN PHÒNG (phần 3)

              “Một Ngày Không Quân - Một Đời Không Quân”



              (tiếp theo)


              Nguyễn Xuân Vinh - vị cựu Tư lệnh đáng mến

              Trước năm 1975, tôi chỉ nể phục chứ không phải một người ái mộ ông Nguyễn Xuân Vinh.

              Nể phục bởi vì vào năm 1965, ông là người đầu tiên được cấp bằng Tiến sĩ Khoa học Không gian tại Đại học Colorado; tới năm 1972 được phong chức Giáo sư tại Đại học Michigan, đồng thời lấy bằng Tiếng sĩ Quốc gia Toán học tại Đại học Sorbonne danh tiếng của Pháp quốc.

              Không ái mộ bởi, thứ nhất, tôi rất ghét môn toán, thứ hai, tôi không thích đọc truyện tình cảm lãng mạn, cho nên dù cuốn Đời Phi Công của ông có đoạt Giải thưởng Văn chương Toàn quốc năm 1961, được tái bản tới 4 lần, tôi cũng chỉ đọc qua một lần cho biết nội dung.

              Sau khi gia nhập Không Quân, tôi còn cố tình bỏ lỡ cơ hội nghe ông nói chuyện tại CCKQ Biên Hòa vào năm 1973.

              Ngày ấy, sau khi Hiệp Định Ba-lê được ký kết vào đầu năm 1973, chính phủ VNCH đã xúc tiến việc mời các nhà khoa bảng VN đang làm việc tại ngoại quốc, kêu gọi sinh viên đang du học về thăm miền Nam với hy vọng trong tương lại họ sẽ về góp phần vào sự phát triển của đất nước thời hậu chiến.

              Tôi là một trong những sĩ quan có nhiệm vụ đón tiếp, hướng dẫn các phái đoàn sinh viên nói trên khi họ tới thăm các cơ sở của BCH/KT&TV/KQ.

              Còn buổi nói chuyện của vị Giáo sư Tiến sĩ cựu Tư lệnh Không Quân với các sĩ quan tại CCKQ Biên Hòa thì do Khối CTCT của SĐ3KQ tổ chức. Các ông đơn vị trưởng tại BCH/KT&TV/KQ được chỉ thị của Đại tá Từ Văn Bê sắp xếp công việc sao cho càng nhiều sĩ quan cấp tá tới tham dự càng tốt. Riêng sĩ quan Khối CTCT thì từ cấp trung úy trở lên phải đi tham dự theo lệnh ông Trưởng Khối, nhưng tới nơi thấy quá đông người tôi làm bộ lạng tới lạng lui ngoài cửa cho sếp thấy mặt rồi chuồn mất!

              Mấy ngày sau, khi tôi có việc phải lên văn phòng ông Từ Văn Bê, ông hỏi tôi nghĩ gì về buổi nói chuyện của Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh. Dĩ nhiên tôi không dám xạo vì biết chắc chắn sẽ bị lộ tẩy nên đành thú thật mình không tham dự vì... quá bận việc!

              Ông Bê chỉ biết lắc đầu thở dài!

              * * *

              Sau khi định cư tại hải ngoại tôi mới biết ngoài chức Giáo sư, học vị Tiến sĩ, ông Nguyễn Xuân Vinh còn là một nhà khoa học nổi tiếng quốc tế. Vì thế vào đầu năm 1998, khi Tổng Hội Sinh Việt Nam tại Úc thông báo ông sẽ sang Melbourne tham dự một cuộc hội thảo khoa học quốc tế theo lời mời của người Úc, Hội Ái Hữu Không Quân Victoria (dưới thời anh Vũ Văn Bảo làm Hội trưởng) đã đưa ra một chương trình đón tiếp linh đình của Hội Không Quân Victoria!


              Đón NT Nguyễn Xuân Vinh và phu nhân tại phi trường Melbourne

              Lúc đó Tổng Hội Sinh Viên đã có sẵn một lịch trình đón tiếp Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh, tổ chức các buổi nói chuyện, gặp gỡ sinh viên VN tại ba thành phố lớn Melbourne (Victoria), Sydney (NSW) và Brisbane (QLD), tuy nhiên do “áp lực” của các đàn anh Không Quân (và tình thân giữa tôi với anh Chủ tịch vốn là con trai một người bạn), Hội Không Quân Victoria đã được “độc quyền” vị cựu Tư lệnh KQ trong hai ngày: ngày đầu tiên sau khi ông tới Melbourne và ngày cuối cùng trước ông trở về Hoa Kỳ.

              Một sự trùng hợp tốt đẹp là ngày đầu tiên ấy lại rơi vào khoảng thời gian tổ chức buổi họp định kỳ mỗi tam cá nguyệt của Hội Không Quân Victoria tại trụ sở Hội CQN tiểu bang, cho nên chỉ cần biến buổi họp nội bộ thành buổi đón tiếp vị Giáo sư Tiến sĩ, cựu Tư lệnh KQ (cùng phu nhân), mời Ban chấp hành Cộng Đồng Người Việt Tự Do, Ban chấp hành Hội CQN tiểu bang và đồng hương tới tham dự, là tốt đẹp cho cả ba phía Không Quân, CQN và Cộng Đồng.

              Chỉ có điều đáng tiếc là mặc dù trụ sở Hội CQN là nguyên tầng lầu của một thương xá do một vị mạnh thường quân cho mướn với giá tượng trưng, đã không đủ chỗ đứng, ngồi cho hàng trăm đồng hương cho nên nhiều người đã phải đứng ở ngoài hành lang và cầu thang suốt gần hai tiếng đồng để dự thính buổi đón tiếp và nói chuyện của Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh.

              Theo đúng nguyên tắc cũng như phép lịch sự, sau khi ông Nguyễn Xuân Vinh trở thành Giáo sư tại Đại học Michigan vào năm 1972, khi thưa gửi phải gọi ông là “Giáo sư”, cho nên khi giới thiệu vị khách với cử tọa, lẽ dĩ nhiên tôi phải sử dụng chữ “Giáo sư”, nhưng tới khi thưa gửi trực tiếp, vì đây là một buổi nói chuyện do Hội Không Quân đứng ra tổ chức, tôi đã gọi ông là “Niên trưởng”:

              - Kính thưa Niên trưởng cựu Tư Lệnh Không Quân...

              Không ngờ lại... có điểm! Khi bước lên bục, câu nói đầu tiên của ông là:

              - Tôi rất xúc động khi sau bao năm rời quân chủng Không Quân, nay vẫn được anh em gọi là “Niên trưởng”. Tôi rất quý hai chữ này!

              Tôi tin lời ông bởi vì sau đó ông đã dành phần lớn thời gian để kể chuyện vui buồn quân trường, quân ngũ, những diễn tiến đáng nhớ trong bốn năm giữ chức Tư Lệnh Không Quân, hơn là sự thành đạt, những thành tích của ông sau khi giải ngũ.

              Tôi chưa từng nghe ông Nguyễn Xuân Vinh thuyết trình, nhưng nếu chỉ nói về tâm tình – như buổi gặp gỡ đồng hương ở Melbourne hôm đó – phải công nhận ông có sức thu hút cử tọa mãnh liệt, không phải với những câu chuyện ly kỳ mà đôi khi chỉ là những việc bình thường trong cuộc sống của một phi công, một vị tư lệnh.

              Vì thế hơn một tiếng đồng hồ qua đi như... cơn gió thoảng. Trước sự nuối tiếc của mọi người, tôi đã phải “an ủi” bằng cách thông báo buổi nói chuyện chính thức của “Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh” do Tổng Hội Sinh Viên VN tổ chức vào ngày hôm sau tại một hội trường rộng lớn, nhưng ra vẻ cử tọa cũng không mấy hào hứng vì đa số là cựu quân nhân và đồng hương lớn tuổi, họ thích nghe “Đại tá Nguyễn Xuân Vinh” hơn “Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh"!

              Trong phần tiệc trà tiếp theo đó, tuy đã được tôi (MC) nhấn mạnh chỉ dành cho gia đình Không Quân, vẫn có một số vị CQN lớn tuổi nán lại, dứt khoát không phải vì miếng ăn mà chỉ để được trò chuyện với một nhân vật nổi tiếng xuất thân QLVNCH, vì thế tôi cũng không có được nhiều thời gian riêng tư với vị cựu Tư Lệnh.

              Sau khi biết tôi là người thân cận của Chuẩn tướng Từ Văn Bê trước năm 1975 và hiện phụ trách bài vở cho đặc san LÝ TƯỞNG Úc Châu, ông lấy cuốn sổ nhỏ trong túi ra cho tôi số điện thoại và địa chỉ của ông Bê ở Oklahoma và hứa sau khi đi một vòng các tiểu bang, trở lại Melbourne ông sẽ trao cho tôi một “bản sao” nhật ký của ông trong chuyến thăm Úc để tôi tùy nghi sử dụng.

              Ông cũng không quên ca tụng ông Từ Văn Bê (mà ông luôn luôn gọi là “Chuẩn tướng”), một đàn em của ông tại Trường Võ Bị Không Quân Pháp Salon-de-Provence ngày xưa, và cho tôi biết ông sếp cũ của tôi từng giữ chức Chủ tịch Cộng Đồng Người Việt ở tiểu bang Oklahoma và là người sáng lập Hội Cựu Quân Nhân QLVNCH tại đây.


              Tại TTSH/CQN, sau khi nhận quà tặng của Hội KQ Victoria, NT Nguyễn Xuân Vinh
              tặng sách cho Hội trưởng Vũ Văn Bảo

              Sau mấy tuần thăm viếng ba thành phố lớn của Úc, thuyết trình cho giới trẻ, gặp gỡ anh em CQN, được các Hội Không Quân tiểu bang tiếp đón, hướng dẫn đi du ngoạn, ông Nguyễn Xuân Vinh – mà từ đoạn này tôi gọi là “niên trưởng” theo ý ông – và phu nhân trở lại Melbourne.

              Tại thành phố phương nam cổ kính nhất nước Úc này, NT và phu nhân đã được anh em KQ hướng dẫn đi thăm các danh lam thắng cảnh trong hai ngày, và dự bữa cơm thân mật trước khi trở về Hoa Kỳ.

              Bữa cơm tối được tổ chức tại tư gia cựu Hội trưởng Khưu Văn Nghĩa (ngôi nhà khang trang rộng rãi nhất Hội tính tới lúc ấy) với sự tham dự của hầu hết hội viên.


              NT Nguyễn Xuân Vinh và phu nhân với các “nàng dâu Không Quân” Victoria

              Bầu không khí thật thân mật, ấm cúng. Thân mật tới mức Ban chấp hành Hội đã tự động sắp xếp NT Nguyễn Xuân Vinh ngồi chung bàn VIP với anh em và một số hội viên lớn tuổi, còn phu nhân thì ngồi chung bàn với đám quần hồng.

              Dù NT và phu nhân không nói ra nhưng ngay sau đó chúng tôi đã nhận thấy “something wrong”. Tuy nhiên tới khi được NT giải thích vì tình hình sức khỏe yếu kém của phu nhân, lúc nào ông cũng phải kề cận, nhất là khi ăn uống, anh em liền mời phu nhân lên ngồi chung bàn với NT nhưng ông đã xua tay, nửa đùa nửa thật:

              - Không sao, tôi tin tưởng giao nhà tôi cho các chị, nhưng có gì các chị phải chịu trách nhiệm đấy nhé!

              Trong suốt bữa ăn, tôi để ý thấy mỗi lần bà chủ nhà (chị Nghĩa) đi ngang qua, ông lại hỏi “Nhà tôi có ăn được... (món này món nọ) không?”, cho thấy vị cựu Tư lệnh Không Quân luôn quan tâm tới người bạn đời của mình.

              Vì thế, lợi dụng bầu không khí huynh đệ chi binh hiếm hoi tối hôm ấy, tôi đã hỏi NT một câu khá hắc búa:

              - Thưa NT, nhân vật Phượng trong cuốn Đời Phi Công chính là phu nhân hay một người đẹp nào khác, hay chỉ là sản phẩm của óc tưởng tượng?

              Ông nhìn tôi mỉm cười, trả lời... nước đôi:

              - Cái này thì tôi không thể tiết lộ. Nhưng các anh cũng nên biết trong thơ văn, những hình ảnh đẹp nhất... thường không có thật!

              Chịu thua ông phi công kiêm nhà văn! Phu nhân có nghe được thì cũng huề tiền.

              * * *

              Sau bữa cơm và trước chương trình karaoke, anh Hội trưởng Vũ Băn Bảo đã thay mặt Hội tặng vị cựu Tư lệnh Không Quân một áo jacket đồng phục của Hội KQ Victoria – veston xanh đậm có thêu huy hiệu “Tổ Quốc – Không Gian” trên túi bên trái; ông thử liền tại chỗ, thấy vừa vặn ông mặc luôn (sau khi về Hoa Kỳ, ông luôn luôn mặc cái jacket này khi tham dự các sinh hoạt của KQ, của CQN hay Cộng Đồng).

              Tới chương trình karaoke, Nguyễn Xuân Vinh phu nhân tỏ ra rất háo hức, không phải để hát mà để nghe người khác hát; bà không dấu diếm mình thích nhất giọng hát Vũ Khanh.

              Tiết lộ này khiến tôi khá ngạc nhiên vì (xin lỗi những người ái mộ Vũ Khanh) với tôi, cách hát của Vũ Khanh thích hợp với nhạc... “sến” hơn. Nguyễn Xuân Vinh phu nhân xuất thân từ một danh gia vọng tộc ngoài Bắc, thân phụ làm Đốc phủ sứ thì bà phải nghe Anh Ngọc, Duy Trác, Sĩ Phú, Trần Thái Hòa, Nguyên Khang... chứ!

              Cũng xin viết thêm, tôi biết được gia thế của Nguyễn Xuân Vinh phu nhân là qua một người bạn học cùng lớp với bà ở Hà Nội trước kia.

              Người bạn học đó là “chị Phương”, người bạn đời của “bố Tuynh”, tên thân mật trước năm 1975 anh em CTCT Không Quân chúng tôi dành cho Nhạc trưởng Vũ Văn Tuynh (1923-2007), cựu Thiếu tá Trưởng Ban Quân Nhạc BTL/KQ.



              Ông và tôi cùng quê Nam Định, hai huyện Ninh Cường và Giao Thủy chỉ cách nhau một con sông cho nên tôi và ông đều “nghi” rằng chúng tôi có họ hàng gần xa với nhau: họ ngoại của tôi là Vũ Ngọc, cùng với Vũ Văn của ông và Vũ Đức là ba chi tộc họ Vũ ở Nam Định.

              Từ ngày quen biết “bố Tuynh” tôi khám phá ra một điều rất đáng yêu là trong thư từ với những người thân quen - ngang cơ hoặc dưới cơ - ông luôn luôn ký tên “Tuynh-Phương”; hiểu ý, chúng tôi gọi phu nhân là “chị Phương” thì cả hai ông bà vui thích ra mặt.

              Định cư ở Sydney (tiểu bang New South Wales) mỗi lần ông bà xuống thăm con gái ở Melbourne (tiểu bang Victoria) tôi đều mời tới nhà tôi ăn cơm tối để nói chuyện ngày xưa và uống vang đỏ.

              Đáp lại, lần nào ông cũng dúi cho tôi một bịch nylon đựng thuốc ống vố “No. 79” thơm lừng của đế quốc Mỹ do con ông từ xứ Cờ Huê gửi sang.

              Sau khi ông phải vào bệnh viện vì các biến chứng của bệnh tiểu đường, toàn bộ “No. 79” tồn kho của ông đã được cô con gái đưa về Melbourne biếu tôi!


              * * *

              Trở lại với chương trình karaoke sau bữa cơm thân mật tiễn NT Nguyễn Xuân Vinh và phu nhân, vì không có ca sĩ đực rựa nào biết một ca khúc của Vũ Khanh để hát tặng phu nhân, tôi đã bí mật dàn xếp với “đệ nhất nữ danh ca” của Hội là chị Xuân, hát bản “Em biết anh đi chẳng trở về” (Anh Bằng phổ thơ Thái Can, một bản tủ của Vũ Khanh) vào cuối chương trình để tiễn vị cựu Tư Lệnh Không Quân.

              Không ngờ màn dàn dựng của tôi đã gây xúc động thật sự, nơi anh chị em KQ hiện diện cũng như chính NT Nguyễn Xuân Vinh mà tôi có thể nhận ra qua nét mặt nghiêm và buồn của ông.

              “Ông thần” Lý Tống

              Vị khách Không Quân thứ hai sang thăm Úc trong năm 1998 là cựu Trung úy Lý Tống.

              Với không ít cựu quân nhân Không Quân nói riêng, người Việt quốc gia tại hải ngoại nói chung, Lý Tống là một người hùng, tuy nhiên trong hồi ký này tôi chỉ kể
              những gì có thật ngoài đời về một “chiến hữu Không Quân” là cựu Trung úy phi công A-37 Lý Tống (Lê Văn Tống) và những gì xảy ra trong hai chuyến thăm Úc của anh cũng như tại tòa án Thái Lan, có dính dáng tới cá nhân tôi và Liên Hội Ái Hữu Không Quân Úc Châu.


              Theo ngôn ngữ bình dân của người Việt thì khi ta gọi ai là “ông thần” là có ý “nể” và “ngán” người đó.

              Lý Tống (LT) đáng nể vì anh cam đảm hơn người, dám làm những việc mà người khác không dám làm, và đáng “ngán” bởi anh ngang tàng không sợ một ai. Chính vì thế mà gia nhập Không Quân từ tháng 1/1965, tới tháng 4/1975 LT vẫn còn mang lon trung úy, trong khi đa số SVSQ xuất thân các khóa 65 đã mang lon thiếu tá, chậm nhất cũng phải đại úy.

              Tiểu sử của LT trên Wikipedia viết:

              Từ tháng 1/1965 đến 12/1965, Lý Tống học tại Trung tâm huấn luyện không lực Nha Trang. Lý Tống học khóa 65A do đại úy Truyền làm Đoàn trưởng. Đang học tại Trung tâm huấn luyện không lực Nha Trang thì Lý Tống nhận được giấy báo đi du học tại Hoa Kỳ.

              Tháng 1/1970, Lý Tống được phân công về phi đoàn 122, sư đoàn 4 không quân Cần Thơ. (ngưng trích)

              Đọc đoạn trên nếu chú ý chúng ta sẽ thấy khoảng thời gian từ năm 1965 tới tháng 1/1970 cần đặt một dấu hỏi: LT học bay dở lắm hay sao mà hơn 4 năm trời mới lấy được cái bằng hoa tiêu quan sát?!

              Câu hỏi trên, những ai quen biết LT hoặc được nghe bạn bè của LT kể đã có câu trả lời, ở đây tôi chỉ xin hết sức ngắn gọn:

              Sang Mỹ học bay, LT hành hung (khá nặng tay) một đàn anh nổi tiếng hắc ám và bị đuổi về nước, cho ra bộ binh. Nhưng LT chỉ mê làm phi công, anh gửi hết lá thư này tới lá thư khác cho Trung tướng Tư lệnh Không Quân Trần Văn Minh xin được trở lại Không Quân để học bay.

              Sự kiên trì của LT cuối cùng đã khiến ông Minh “đù” xiêu lòng, chấp thuận cho anh về lại KQ, học bay phi cơ quan sát, về phục vụ tại Phi Đoàn Quan Sát 122 ở Bình Thủy, Cần Thơ; rồi xuyên huấn phản lực cơ A-37, phục vụ tại Phi Đoàn 548 “Ó Đen”, Không Đoàn 92CT, CC20CT (Phan Rang) cho tới ngày tan hàng.

              Tại Phan Rang, chẳng hiểu do đâu LT được đặc trách Câu lạc bộ Sĩ quan trong căn cứ. Chỉ huy trưởng căn cứ là Đại tá Đỗ Trang Phúc, một người rất réc-lô, trước kia làm Chỉ huy trưởng Căn Cứ 92 KQ (Pleiku) đã được tôi nhắc tới trong Phần 1 của hồi ký này.

              Sự ngang tàng (tạm gọi như thế) của LT tại Phan Rang đã được tác giả Vĩnh Hiếu (PD 215 Thần Tượng) kể lại trong tập bút ký “Trên Vòm Trời Lửa Đạn” như sau:

              ...Trong giai đoạn này, Đại tá Đỗ Trang Phúc đang làm căn cứ trưởng. Ông là một vị Đại tá nghiêm khắc, kỷ luật và có thể nói là bảo thủ. Nhảy đầm là một điều cấm kỵ, ngay cho cả những phi công hào hoa, lả lướt. Tuy nhiên việc cấm nhảy đầm đã được hủy bỏ vì một sự kiện đã xãy ra sau đây.

              Trong một buổi dạ vũ tổ chức cho Không đoàn, Lý Tống đã mướn một cô gái vũ “sexy” được trả tiền hậu hĩ để đến trước mặt Đại tá chủ tọa biểu diễn. Theo sự dàn xếp, cô gái này phải đứng ngay trước mặt bàn “VIP” nhảy múa, không được đi đâu khác.

              Tối hôm đó, trong màn vũ “sexy”, thấy cô gái này múa trước mặt quá lâu trước mặt mình, Đại tá Phúc đỏ mặt vì ngượng với các bà, bèn kêu Lý Tống đến và ghé tai anh, bảo: “Chú mày bảo cô ta đi chỗ khác ngay!” Anh Lý Tống đã nhanh nhẩu trả lời: “Đại tá hoặc tiếp tục ngồi xem hoặc ra về chứ tôi không có quyền xen vào nghiệp vụ của cổ, nhất là do cô tự ‘ái mộ’ Đại tá , chứ tôi không dính dáng gì cả!”. Đại tá Phúc hỏi gằn: “Vậy chú mày muốn tao làm gì?” Lý Tống bèn trả lời: “Anh em chỉ muốn nhảy đầm như thường lệ. Đâu có Căn cứ Không Quân nào cấm nhảy đầm đâu?” Vị chỉ huy trưởng bực mình nói:“Rồi!.. Tao cho phép nhảy đầm. Xong chưa!?” Thấy Đại tá Phúc xuống giọng, anh phi công ngang bướng này lợi dụng tình thế đòi điều kiện: “Xin Đại tá phải đi một đường bay bướm trước anh em mới dám ra nhảy chứ!?” Đại tá Phúc ở vào thế chẳng đặng đừng miệng càu nhàu: “Cả đời tao chỉ có hai ông Tướng Kỳ và Tướng Minh mới bắt được tao nhảy đầm thôi. Mầy là người thứ ba làm chuyện đó!” Trước sự reo hò của tất cả mọi người trong buổi tiệc, vị Chỉ huy trưởng “recglo” này miễn cưỡng bước ra sàn nhảy.

              Ngoài việc nghiêm khắc trong vấn đề ăn chơi, tóc tai của nhân viên trong căn cứ cũng được kiểm soát chặt chẽ. Tất cả nhân viên phải ăn bận chỉnh tề và đầu tóc phải luôn luôn húi cao theo tiêu chuẩn ba phân. Mỗi buổi sáng thứ Bảy tại sân cờ, Đại tá Phúc đi thanh tra với một anh Quân Cảnh. Vị nào tóc dài sẽ bị xén một đường tông đơ và sau đó sẽ tự ra tiệm điều chỉnh lấy.

              Một hôm Đại tá Phúc đi ăn ở Câu Lạc Bộ Sĩ quan tình cờ gặp Lý Tống với mái tóc “hippy” đang ngồi đấu láo với bạn bè. Ông bèn hỏi: “Tại sao anh không đi chào cờ?” Lý Tống trả lời: “Thưa Đại tá, tôi bận lo kiểm tra nhà bếp nên không đi chào cờ được”. Đại tá Phúc giận dữ: “Tôi không cần biết lý do gì! Ngày mai anh trình diện tôi với đầu tóc ngắn ba phân, nghe chưa!” Sáng hôm sau Lý Tống trình diện vị Chỉ Huy Trưởng với cái đầu cạo trọc lóc cùng với bộ râu Hitler quái đản. Đại tá Phúc tức giận gọi thẳng Đại tá Không Đoàn Trưởng 92, Lê Văn Thảo, cự nự: “Thằng Lý Tống cạo trọc đầu có giấy phép bác sĩ chưa?” Cũng nên biết rằng nhân viên phi hành không được cạo đầu trừ khi có giấy đồng ý của bác sĩ vì lý do sức khỏe. Đại tá Thảo binh đệ tử, trả lời: “Tôi nghĩ ông không nên chọc tên khùng đó là hơn!” (ngưng trích)

              * * *

              Tin hay không tin những gì Vĩnh Hiếu viết, và nếu tin thì tin bao nhiêu phần trăm là tùy độc giả, riêng tôi từng sống dưới trướng ông Phúc, bị ông gửi nhốt ở quân trấn 5 ngày về tội trễ phép, và từng chứng kiến sự ngang tàng (và vô lễ với thượng cấp cũ, Đại tá Võ Văn Ân) của LT ở Thái Lan nên tin... 50%.

              Viết rõ ràng hơn, tôi tin những sự việc trên có thể đã xảy ra nhưng mức độ “gây cấn” không đến nỗi như Vĩnh hiếu đã mô tả, bởi cứ theo lời ông Lê Bá Định (sếp của tôi ở Pleiku), ông Đỗ Trang Phúc “không ngán cha nào ở BTL/KQ cả” chẳng lẽ lại chịu thua một anh trung úy?!

              Nhưng dù chỉ với 50% ấy, chúng tôi - anh em KQ ở Úc Châu - và cả Đại tá Võ Văn Ân cũng phải điên đầu với Lý Tống sau khi anh được nhà cầm quyền CSVN thả vào đầu năm 1998.

              * * *

              Để độc giả thấy được mức độ tôn sùng và sự ủng hộ của đồng bào ở Úc Châu dành cho LT cao tới mức nào, tôi phải trở lại năm 1992, năm “ông thần” LT uy hiếp phi công chiếc phi cơ của Vietnam Airlines xuống thấp trên không phận Sài Gòn để anh thả truyền đơn chống cộng rồi sau đó nhảy dù.

              Khi biết nội dung truyền đơn kêu gọi dân chúng trong nước nổi dậy lật đổ chế độ cộng sản, phía dưới ký tên “Lý Tống, Tư lệnh lực lượng nổi dậy”, tôi hiểu đây chỉ là hành động chơi bạo lấy tiếng của LT, nhưng với đại đa số đồng hương ở Úc thì LT là một người hùng, bất chấp hiểm nguy, tù tội để nêu cao chính nghĩa của người Việt quốc gia!

              Chưa bao giờ người Việt tỵ nạn tại Úc lại xôn xao, háo hức, hăng hái lên tiếng ủng hộ một nhân vật chống cộng mạnh mẽ đến như thế. Họ gọi anh là Freedom Fighter: Chiến Sĩ Tự Do.

              Nhưng với luật pháp quốc tế, hành động uy hiếp, đe dọa phi hành đoàn của LT phải bị xem là tội “không tặc” (hijack), các Ban chấp hành Cộng Đồng Người Việt Tự Do không thể công khai lên tiếng ủng hộ hành động không tặc của “người hùng”.

              Vì thế tại hầu hết các tiểu bang, Hội Cựu Quân Nhân QLVNCH được trao trách nhiệm thành lập các Ủy Ban Phát Huy Tinh Thần Lý Tống.

              Nhưng các Hội Cựu Quân Nhân ở Úc tuy danh xưng nghe thì oai, trên thực tế thường chỉ có một ban chấp hành chứ không có “lính”, cho nên vì LT là dân Không Quân mọi việc đã được bán cái cho các Hội Không Quân tiểu bang. Thành thử, lấy thí dụ tại tiểu bang Victoria, trừ Trưởng Ban là ông Chủ tịch Hội Cựu Quân Nhân (gốc Hải Quân), đa số nhân lực còn lại đều là người của Không Quân, trong đó tôi đặc trách về truyền thông và làm MC.

              Các buổi văn nghệ, dạ vũ, thuyết trình để gây quỹ cho Ủy Ban Phát Huy Tinh Thần Lý Tống (gọi tắt là “quỹ Lý Tống”) được tổ chức liên tục, với kết quả tài chánh thu được có lẽ chỉ đứng sau các buổi gây quỹ cho Ủy Ban Cứu Nguy Người Vượt Biển (tàu Cap Anamur) trước đây, do Linh mục Joseph Bùi Đức Tiến đứng ra tổ chức, tôi làm MC.

              Vì LT bị CSVN kết án 20 năm tù và ở tù tận ngoài miền Bắc cho nên quỹ Lý Tống” được sử dụng vào việc “thăm nuôi” mỗi khi có cơ hội.

              Không ngờ tới tháng 9 năm 1998, mới thọ án được 6 năm, LT đã được nhà cầm quyền CSVN ân xá. Sau khi LT trở về Hoa Kỳ, Ủy Ban Phát Huy Tinh Thần Lý Tống tiểu bang Victoria đã quyết định sử dụng tiền quỹ còn lại mời anh sang thăm Úc để đồng hương Việt Nam có cơ hội đón tiếp, gặp gỡ cho thỏa lòng ngưỡng mộ, còn lại bao nhiêu sẽ trao cho LT “dằn túi”.

              Theo tôi nhớ chỉ khoảng một tháng sau khi về Mỹ, xuất hiện tại một hai buổi tiếp đón bên đó, LT đã sang thăm Úc như một... ông hoàng!

              Thật vậy, nếu không kể lần đón Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh trước đó mấy tháng (có sự tham gia của Tổng Hội Sinh Viên VN Úc Châu), xưa nay chưa có buổi đón tiếp nào tại phi trường Melbourne có nhiều người tham dự đến thế, đặc biệt là giới truyền thông.



              Hội Không Quân Victoria đón LT tại phi trường Melbourne

              Từ Hoa Kỳ, LT sang Melbourne trước tiên vì Ủy Ban Phát Huy Tinh Thần Lý Tống tiểu bang Victoria đứng ra mời, và anh em KQ ở Victoria - lực lượng chính trong Ủy Ban - đã đứng ra lo liệu nơi ăn chốn ở cho LT và sắp xếp toàn bộ chương trình; Hội CQN Victoria chỉ có trách nhiệm cử người hướng dẫn LT đi một vòng các tiểu bang rồi trở lại Melbourne.

              Chỉ riêng tại Victoria, chúng tôi đã tổ chức:

              - Buổi chào đón chính thức tại trụ sở Hội CQN tiểu bang (nơi nói chuyện của NT Nguyễn Xuân Vinh hồi đầu năm)

              - Buổi BBQ & ăn tối thân mật tại tư gia một hội viên KQ, có sự tham dự của nhiều thân hữu (và một số “người đẹp” ái mộ LT)

              - Dạ tiệc & dạ vũ chào mừng LT tại Candelles Reception.

              - Party tại tư gia một hội viên KQ trước khi LT lên đường trở về Hoa Kỳ.



              Lý Tống tại TTSH CQN Victoria với bức hình "Dựng Cờ" do một chiến hữu tặng

              Nói chung, về mặt tuyên truyền cho chính nghĩa “chống cộng” cũng như quảng cáo cho cá nhân LT, chuyến Úc du của anh đã thành công tốt đẹp, và tập thể Không Quân ở Úc cũng được hãnh diện lây trước sự ái mộ, đón tiếp nồng nhiệt đồng hương dành cho người phi công anh hùng và hào hoa phong nhã.

              Tuy nhiên cũng có những cái không được tốt đẹp mà không phải ai cũng biết, cũng để ý tới. Thứ nhất là cung cách giao tiếp, ứng xử của LT; rất có thể đó là do bản tính coi trời bằng vung của anh nhưng nói gì thì nói, việc xem thường các niên trưởng, thân hào nhân sĩ, các “chức sắc” trong cộng đồng dứt khoát là một việc không hay.

              Chẳng hạn trong dạ tiệc & dạ vũ chào mừng anh tại Candelles Reception với trên 300 người tham dự, chúng tôi đã sắp xếp anh ngồi bàn VIP với các vị Chủ tịch Cộng Đồng, Chủ tịch Hội CQN, và một số niên trưởng Không Quân, Lục Quân... nhưng sau khi lên sân khấu phát biểu mấy câu, trở xuống bàn ngồi được một lát là LT bỏ đi, tới cái bàn có những người đẹp ái mộ mình để tán dóc (và tán tỉnh).

              Trước tình trạng này, ông Chủ tịch Hội CQN, tức Trưởng Ban Phát Huy Tinh Thần Lý Tống, tìm tới tôi (MC) để than phiền, yêu cầu tôi mời LT trở lại bàn VIP. Dĩ nhiên, đời nào LT thèm nghe lời tôi!

              Nhưng cái không tốt đẹp đáng nói nhất phải là trong nội bộ Không Quân, một phần vì cung cách ăn nói (và cái tật “nổ”) của LT với các niên trưởng, chiến hữu KQ, một phần vì LT có thái độ khinh bạc với đàn bà con gái khi nhắc tới những người đã đi qua đời anh, hoặc qua tay anh.

              Tệ hại hơn cả là việc anh khoe có một đứa con gái với một cô gái nọ nhưng sau đó không hề có ý định tìm gặp đứa con!

              Vì thế, LT đã dần dần đánh mất cảm tình ban đầu nơi anh chị em trong Hội KQ Victoria, nhất là các bà vợ KQ. Hậu quả, tới ngày LT rời Melbourne trở về Mỹ số người ra phi trường tiễn anh chỉ bằng 1/3 ngày đón anh tới Úc.

              LT buồn ra mặt. Anh nói với vợ tôi, có ý trách móc:

              - Chỉ có mấy người vậy thôi sao!

              Trước cảnh này, tôi cũng cảm thấy mủi lòng, thương tội LT. Nhưng biết sao hơn, mỗi người có quan niệm sống khác nhau, được tự do lựa chọn lối sống mà mình yêu thích, thì phải chấp nhận mọi hệ lụy, khen chê của người đời thôi.

              (Còn tiếp)
              Last edited by Nguyen Huu Thien; 04-26-2025, 01:41 AM.

              Comment

              • Nguyen Huu Thien
                Moderator

                • Jul 2014
                • 1169

                #9
                BUỒN VUI ĐỜI LÍNH... VĂN PHÒNG (phần 3)


                “Một Ngày Không Quân - Một Đời Không Quân”

                (tiếp theo)



                * Đại tá Vũ Thượng Văn – văn võ song toàn

                Trong năm 2001, anh em Không Quân ở tiểu bang Victoria được hân hạnh đón tiếp cựu Đại tá Vũ Thượng Văn (VTV), nguyên Tham mưu phó Kế Hoạch & Chương Trình, BTL/KQ, từ Pháp sang thăm Úc.

                Trước năm 1975, tôi chỉ được nghe tên tuổi NT VTV qua lời kể của ông Lê Bá Định khi ông đang giữ chức Không đoàn trưởng Không Đoàn 72 Chiến Thuật, đồn trú tại phi trường Cù Hanh, Pleiku.

                Nguyên từ khi được thành lập vào cuối năm 1970, Không Đoàn 72 Chiến Thuật (cùng với Không Đoàn Yểm Cứ Pleiku) tạm thời trực thuộc Sư Đoàn 2 KQ ở Nha Trang trong lúc chờ Sư Đoàn 6 KQ được thành lập tại Pleiku.

                Tới khoảng đầu năm 1972, Trung tá Lê Bá Định (nguyên là Trưởng Khối CTCT Pleiku mà tôi là một nhân viên dưới quyền) bật mí cho tôi biết Đại tá VTV sẽ ra Pleiku làm Sư đoàn trưởng SĐ6KQ.

                Theo lời ông Định, Đại tá VTV xuất thân Trưởng Võ Bị Không Quân Pháp Salon-de-Provence, là một trong những phi công phản lực đầu tiên của KQVN (học ở bên Pháp), từng nắm giữ những chức vụ quan trọng tại BTL/KQ; là một người văn võ song toàn, ông rất xứng đáng giữ chức vụ Sư đoàn trưởng Sư Đoàn cuối cùng của KQVN.

                Xưa nay ông Lê Bá Định ít khi khen ai cho nên khi thấy ông hết lời ca tụng Đại tá VTV, tôi tin rằng ông VTV phải tài giỏi hơn người.

                Tiếc thay, việc đó đã không xảy ra. Cuối năm 1972, Đại tá Phạm Ngọc Sang ra Pleiku nhận chức Sư đoàn trưởng SĐ6KQ (
                để rồi được vinh thăng Chuẩn tướng vào đầu tháng 4/1974).


                Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang

                Người thất vọng nhiều nhất trước việc bổ nhiệm này phải là ông Lê Bá Định.

                Là một sĩ quan cấp úy, tôi không đủ tư cách nhận xét, đánh giá, phê bình các vị niên trưởng cho nên chỉ có thể viết có lẽ ông Lê Bá Định và ông Phạm Ngọc Sang “khắc tuổi” nhau, đưa tới việc vào một ngày không mấy đẹp trời nọ (thật ra ở Pleiku có ngày nào trời đẹp!), ông Lê Bá Định bị “dzăng” khỏi chức Không đoàn trưởng Không Đoàn 72 Chiến Thuật, Trung tá Lê Văn Bút, nguyên Phi đoàn trưởng Phi Đoàn 229 Lạc Long lên thay.

                Sau này tôi được nghe nhiều nguồn tin khác nhau về nguyên nhân khiến ngày ấy Đại tá VTV không ra Pleiku làm Sư đoàn trưởng, chức vụ chắc chắn sẽ giúp ông lên tướng. Người thì nói ông VTV không muốn nhận trọng trách ở vùng Cao Nguyên, nơi tình hình chiến sự luôn luôn sôi động trong suốt cuộc chiến; người thì nói vì ông VTV giỏi về tham mưu, vào giờ phút chót Đại tá (sau lên Chuẩn tướng) Võ Dinh, Tham mưu trưởng BTL/KQ, đã can thiệp với Trung tướng Trần Văn Minh giữ ông Tham mưu phó Kế Hoạch & Chương Trình - tức Đại tá VTV - ở lại Tân Sơn Nhất.

                * * *

                Xét về xuất thân, vai vế trong quân chủng, tay nghề (bay bổng) có thể viết hai ông Phạm Ngọc Sang và VTV ngang cơ: cả hai đều xuất thân Khóa 1 Sĩ quan Trừ Bị, một người ở Thủ Đức một người ở Nam Định, sau khi thuyên chuyển sang Không Quân đều được xuất ngoại theo học tại những trường bay xịn nhất của Pháp.

                Ông Phạm Ngọc Sang được gửi đi học Khóa 52F1 tại trường bay căn bản Marrakech (Morocco) cùng với các ông Huỳnh Hữu Hiền, Huỳnh Bá Tính, Phan Phụng Tiên, Đinh Văn Chung, tức là trước các ông Trần Văn Hổ, Nguyễn Cao Kỳ, Trịnh Hảo Tâm học Khóa 52F2.

                Sau khi solo (được gắn cánh bay) tại Marrakech, các ông Phạm Ngọc Sang, Huỳnh Hữu Hiền, Phan Phụng Tiên, Đinh Văn Chung, Huỳnh Bá Tính được tuyển đi học lái “phi cơ nhiều động cơ” tại Trường Vận Tải trong CCKQ Avord ở nội địa Pháp.

                Theo lời NT Nguyễn Xuân Vinh (cũng dân Vận Tải), ngày ấy chỉ những người tốt nghiệp ưu hạng tại Marrakech mới được tuyển để học lái “phi cơ nhiều động cơ”, tức oanh tạc cơ/vận tải cơ có từ hai động cơ trở lên.

                Tại Avord, các khóa sinh được huấn luyện trên vận tải cơ hạng nhẹ MD-312 Flamant; sau khi tốt nghiệp hoặc sẽ được đưa tới trường oanh tạc Blida (ở Algeria) thụ huấn trên phi cơ MD-315 về oanh tạc và tác xạ, hoặc được đưa tới các đơn vị vận tải trang bị phi cơ C-47 Dakota, ngồi ghế phi công phụ ít nhất sáu tháng, sau đó sẽ được tuyển tới trường CIET (viết tắt của tiếng Pháp Centre d’Instruction des Equipages de Transport: Trung tâm Huấn luyện Phi hành đoàn Vận tải) để được thụ huấn trở thành phi công chánh, có khả năng điều khiển phi cơ trong mọi điều kiện thời tiết.


                Một chiếc MD-312 được phục hồi với cờ hiệu của KQVN

                Hai hoa tiêu vận tải đầu tiên của Việt Nam tốt nghiệp trường CIET chính là ông Phạm Ngọc Sang và ông Huỳnh Hữu Hiền.

                Trong khi đó ông VTV lại được theo học tại một quân trường danh giá là Trường Võ bị Không Quân Pháp Salon-de-Provence, và cùng với ông Nguyễn Ngọc Loan trở thành hai phi công phản lực đầu tiên của KQVN.

                Nguyên sau khi tốt nghiệp Khóa 1 Sĩ quan Trừ bị (Nam Định), rồi Khóa 2 Hoa Tiêu Quan Sát tại TTHLKQ Nha Trang, ba Thiếu úy Nguyễn Ngọc Loan, VTV, Trần Đình Hòe được tuyển đi du học ở Pháp; hai ông Nguyễn Ngọc Loan, VTV vào Trường Salon-de-Provence còn ông Trần Đình Hòe vào Trường Vận Tải Avord.

                Sau giai đoạn tại Salon-de-Provence hai ông Nguyễn Ngọc Loan, VTV được đưa tới Trường Khu Trục tại Meknès (Morocco) để học bay khu trục và phản lực (T-33 của Mỹ, Ouragan của Pháp, Vampire của Anh).



                Chiến đấu cơ phản lực Ouragan của Pháp

                [Ngày ấy, sau hai ông Nguyễn Ngọc Loan, VTV còn có các ông Phạm Long Sửu, Trần Duy Kỷ, Nguyễn Quang Tri, Nguyễn Đức Khánh cũng được huấn luyện bay phản lực, vì theo dự trù (vào lúc bấy giờ) KQVN sẽ được Hoa Kỳ viện trợ các chiến đấu cơ phản lực như F-80 Shooting Star, F-86 Super Sabre]

                Cũng theo lời Đại tá Nguyễn Quang Tri, sau khi ông Nguyễn Ngọc Loan về nước, ông VTV vẫn tiếp tục ở lại Pháp để học thêm các khóa về chiến thuật, tham mưu..., mãi tới cuối năm 1956 đầu năm 1957 mới về nước, và được ghi nhận là khóa sinh “tốn cơm quốc gia nhiều nhất”, nhập ngũ năm 1951 tới cuối năm 1956 mới... thành tài!

                * * *

                Về nước, ông VTV chỉ phục vụ một thời gian ngắn tại Phi Đoàn 1 Khu Trục & Trinh Sát (tiền thân của Phi Đoàn 514) rồi được đưa về Bộ Tư Lệnh KQ nắm giữ những chức vụ quan trọng.

                Đầu năm 1965, khi đang giữ chức Giám đốc Trung Tâm Hành Quân Không Quân (TACC: Tactical Air Control Center), ông VTV đã được xuyên huấn oanh tạc cơ B-57 tại Tân Sơn Nhất, cùng với Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, Tư lệnh KQ, và Đại tá Nguyễn Ngọc Loan, Tư lệnh phó.

                [Việc xuyên huấn B-57 cho các hoa tiêu VN diễn ra tại CCKQ Clark, Phi-luật-tân, bắt đầu vào tháng 5/1964, với ba khóa sinh đầu tiên là Đại úy Nguyễn Ngọc Biện, Đại úy Nguyễn Văn Tường (Tường mực) và Đại úy Nguyễn Văn Long.
                Vì vào thời gian này đã có một đơn vị B-57 của KLHK đồn trú tại Biên Hòa cho nên các ông Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Ngọc Loan VTV đang giữ những chức vụ quan trọng đã được xuyên huấn ngay tại Tân Sơn Nhất]



                Oanh tạc cơ B-57 của Biệt Đội 615; Chỉ huy trưởng: Thiếu tá Nguyễn Ngọc Biện

                Chức vụ sau cùng của Đại Tá VTV là Tham Mưu Phó Kế Hoạ̣ch & Chương Trình, BTL/KQ. Trong chức vụ này, cùng với Tham mưu trưởng BTL/KQ là Đại tá (sau lên Chuẩn tướng) Võ Dinh, ông đã ra sức "bảo vệ" ưu tiên của KQVN trong chương trình hiện đại hóa và bành trướng của QLVNCH.

                Trước năm 1975, tôi chỉ là một sĩ quan cấp úy lại không phục vụ tại BTL/KQ dĩ nhiên làm sao biết được công việc của Đại Tá VTV nếu như sau này ông không sang thăm Úc và bị... kẹt lại!

                Nguyên vào cuối tháng 8 năm 2001, Đại tá VTV cùng phu nhân từ Pháp sang Melbourne thăm thân nhân và (dự trù) ngao du một vòng xứ Úc-đại-lợi. Được tin (qua một niên trưởng trước kia cùng định cư tại Pháp với NT VTV), Hội KQ Victoria đã tổ chức đón tiếp tại tư gia một hội viên.

                Đây là lần đầu tiên trong đời tôi được gặp NT VTV và đã mến phục ông ngay. Ông có dáng dấp thư sinh nho nhã, nói chuyện rất thu hút với một giọng Hà Nội nhỏ nhẹ, lịch sự nhưng không màu mè kiểu cách như nhiều người Hà Nội trung lưu trước 1954 mà tôi được biết.

                Thật khó lòng mà tưởng tượng đây là một cựu hoa tiêu khu trục tài ba, từng lái chiến đấu cơ Ouragan, oanh tạc cơ B-57!

                Chính vì con người đáng mến nơi NT VTV mà khoảng cách giữa một vị niên trưởng nhập ngũ năm 1951 và các đàn em KQ – “già” nhất là Khóa 64, cấp bậc cao nhất chỉ là đại úy – đã mau chóng thu hẹp trong bữa cơm tối thân mật đón tiếp hai ông bà.

                Đáng nhớ nhất là việc NT không tiếc lời khen ngợi sự hiện diện đông đủ và tài nữ công gia chánh của các bà vợ KQ mà ông gọi là các “nàng dâu Không Quân”. Ông nói:

                - Ở đâu cũng vậy, phải có các “nàng dâu Không Quân” tham gia thì Hội KQ ở đó mới đông vui, bền vững.

                * * *

                Riêng tôi, trong không khí thân mật đầy tình huynh đệ chi binh ấy đã không có được nhiều thời gian riêng tư với vị đại niên trưởng mà tôi có ý định... khai thác.

                Nguyên vào khoảng thời gian này, cuối tháng 8/2001, Liên Hội Ái Hữu Không Quân Úc Châu sau khi tham khảo ý kiến các vị niên trưởng ở khắp nơi đã quyết định thực hiện quyển Quân Sử Không Quân VNCH, dự trù ra mắt nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày thành lập quân chủng, 1/7/2005, và đã gửi thư mời gọi các niên trưởng, chiến hữu KQ cung cấp tư liệu, hình ảnh, và bài viết về đơn vị, ngành nghề của mình.

                Thư vừa gửi đi thì NT VTV sang thăm Melbourne, quả là cơ hội bằng vàng. Vì thế sau khi không thể khai thác NT trong bữa cơm thân mật đón tiếp ông, tôi dự định xin phép ông cho tới thăm ông bà một buổi để hỏi ông những chuyện ngày xưa liên quan tới KQVN, trước khi hai ông bà trở về Pháp.

                Và trời đã... chiều lòng người: vào ngày 11 tháng 9, 2001 xảy ra cuộc khủng bố kinh hoàng ở Hoa Kỳ, ông bà VTV bị kẹt lại ở Melbourne gần một tháng trời vì những thủ tục xuất nhập cảnh khó khăn tại các quốc gia Âu Mỹ.

                Trước việc NT VTV bị kẹt lại, Hội KQ Victoria đã quyết định tổ chức buổi kỳ họp định kỳ đệ III tam cá nguyệt sớm hơn thường lệ để vừa... cúng cô hồn vừa giỗ Trung tướng Trần Văn Minh (qua đời ngày 27/8/1997) và mời NT VTV tới chủ trì.

                Buổi họp được tổ chức tại tư gia KQ Nguyễn Ngọc Bảo (PĐ245), Hội phó Nội vụ, rộng rãi thoáng mát, có heo quay, có cả... thầy cúng là Nguyễn Ngọc Bảo phu nhân (trong Ban hộ niệm chùa Hoa Nghiêm ở gần đó)...



                Cúng cô hồn trong buổi họp đệ III TCN 2001 của Hội KQ Victoria. NT VTV mặc jacket da đứng giữa hình

                Vì đường xá xa xôi, phu nhân của NT VTV không thể tháp tùng chồng, cho nên anh em đã cho người tới đón NT hơi sớm để tôi và anh em trong Ban thực hiện Quân Sử Không Quân có nhiều thời gian trò chuyện với ông.

                Trước hết, khi được biết dự định của anh em KQ Úc Châu, ông đã ra sức khuyến khích vì theo ông đây là một công việc vô cùng cần thiết mà trước năm 1975 ở BTL/KQ không ai chịu nghĩ tới!

                Thực ra, theo lời NT VTV, trước năm 1975, tại Văn Phòng Tham Mưu Phó Kế Hoạch & Chương Trình BTL/KQ cũng có một Tiểu Ban Quân Sử nhưng không được mọi người quan tâm tới. Có lần Tiểu Ban này thỉnh cầu ngân khoản để mua một cái máy chụp hình thì bị bác với lý do “không có trong bảng cấp số”!

                Về tài liệu để biên soạn quyển QSKQ, theo ông hiện nay trên Internet có khá nhiều bài viết công phu của cá nhân hay tập thể cựu quân nhân KQ tuy nhiên lại có những mâu thuẫn, do nguồn tài liệu tham khảo cũng như do trí nhớ của người trong cuộc, cần phải đối chiếu, kiểm chứng, và tham khảo với các bậc “tiền bối” trong quân chủng.

                Vì thế, ông rất đồng ý với cách tiến hành công việc của tôi là sau khi hoàn tất mỗi thời kỳ (thành lập, phát triển, bành trướng) sẽ đúc kết những khoảng trống (trong lịch sử quân chủng), những gì chưa rõ ràng, hoặc mâu thuẫn nhau (trong các nguồn tài liệu cũng như bộ nhớ của các niên trưởng) để phổ biến dưới hình thức những Thư tham khảo, hy vọng sẽ nhận được những lời giải đáp, sự bổ túc của các vị niên trưởng và chiến hữu KQ khắp nơi.

                Riêng về phần mình, NT VTV cho biết vì về nước trễ (đầu năm 1957) nên ông không nắm vững những diễn tiến trong thời kỳ thành lập quân chủng Không Quân. Ông chỉ nhớ đại khái những gì liên quan tới bản thân ông: sau một thời gian ngắn phục vụ tại Phi Đoàn 1 Khu Trục & Trinh Sát, ông được đưa về BTK/KQ phục vụ tại Trung Tâm Hành Quân Không Quân (TACC: Tactical Air Control Center) lúc đó còn gọi là Trung Tâm Kiểm Soát Không Chiến, do Đại úy Trần Văn Minh (Tư lệnh KQ sau này) giữ chức vụ Giám đốc, Trung úy Nguyễn Ngọc Loan làm Phụ tá.

                Sau đó, ông Nguyễn Ngọc Loan lên làm Giám đốc thay ông Trần Văn Minh. Chúng tôi không được biết giữa ông Nguyễn Ngọc Loan và ông VTV có đời Giám đốc nào khác hay không, chỉ biết vào đầu năm 1965, khi được xuyên huấn oanh tạc cơ B-57 tại Tân Sơn Nhất cùng với Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, Trung tá Nguyễn Ngọc Loan, Thiếu tá VTV đang giữ chức Giám đốc Trung Tâm Hành Quân Không Quân.

                Tới năm 1970, trong đà bành trưởng của KQVN, cùng với việc các Sư Đoàn Không Quân được thành lập, Trung Tâm Hành Quân Không Quân được nâng lên thành Bộ Chỉ Huy Hành Quân Không Quân (AOC: Air Operations Command).

                Đại tá Vũ Văn Ước, nguyên Tư lệnh Không Đoàn 62 Chiến Thuật ngoài Nha Trang được đưa về Tân Sơn Nhất làm Chỉ huy trưởng còn Đại tá VTV thì sang BTL/KQ giữ chức vụ Tham mưu phó Kế Hoạch & Chương Trình.

                * Những cuộc đấu võ mồm

                Trong khi không nhớ nhiều về thời kỳ thành lập quân chủng, NT VTV lại biết nhiều và biết rất rõ về thời kỳ hiện đại hóa và bành trướng của KQVN, bởi vì ông là người trong cuộc.

                Nguyên sau cuộc tổng tấn công của Việt Cộng vào Tết Mậu Thân 1968, phía Hoa Kỳ bắt đầu chương trình hiện đại hóa và bành trướng QLVNCH, do MACV, Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH, và các đại diện quân binh chủng phối hợp soạn thảo kế hoạch.

                Phái đoàn đại diện Không Quân do Đại tá Võ Dinh, Tham Mưu Trưởng BTL/KQ cầm đầu, Đại tá VTV làm phó. Vì Đại tá Võ Dinh quá bận rộn với công việc thường nhật cùng với kế hoạch, chương trình bành trướng quân chủng, Đại tá VTV phải thường xuyên đi họp để... đấu lý với các quan lớn bên Bộ TTM và các phái đoàn đại diện quân binh chủng bạn.

                Phải đấu lý bởi vì, theo lời kể lại của Đại tá VTV, trong các buổi họp nói trên, quân binh chủng nào cũng tìm cách giành ưu tiên, về ngân khoản viện trợ, về mức độ bành trướng, về cấp số đơn vị... cho quân binh chủng của mình.

                Chẳng hạn lúc đầu Lục Quân đã nhất quyết đòi làm chủ trên 700 chiếc trực thăng UH-1 do Lục Quân Hoa Kỳ bàn giao để thành lập những Lữ Đoàn Không Kỵ (Air Cavalry Brigade) trực thuộc Lục Quân. Các vị đại diện Lục Quân lập luận: trực thăng của Lục Quân Hoa Kỳ thì phải bàn giao cho Lục Quân Việt Nam. Nghe thật có lý!

                Nhưng đòi hỏi này đã bị MACV bác bỏ ngay; lý do người Mỹ đưa ra rất đơn giản: không có đủ thì giờ, tiền bạc để huấn luyện, thành lập những Lữ Đoàn Không Kỵ - một cấp đơn vị chưa từng có trong QLVNCH.

                Đó là phần hiện đại hóa, sang tới phần bành trướng, khi đại diện KQ trình bày kế hoạch các Không Đoàn Chiến Thuật (Tactical Wing) hiện hữu cùng với các Không Đoàn tân lập sẽ kết hợp thành những Sư Đoàn Không Quân (Air Division), thì các vị bên Bộ TTM phản đối, cho rằng “Sư Đoàn” nghe lớn quá, gọi là “Lữ Đoàn” (Brigade) đủ rồi!

                Đại diện của KQ - tức Đại tá VTV - liền phản bác một cách “nhẹ nhàng” như sau: việc tổ chức các cấp đơn vị trong Không Quân VNCH rập khuôn theo tổ chức trong KLHK, mà KLHK thì không hề có cấp đơn vị “Lữ Đoàn Không Quân” (Air Brigade), chỉ có cấp “Sư Đoàn Không Quân” (Air Division), chẳng hạn Sư Đoàn 2 KQ trực thuộc Đệ Thất Không Lực (7th Air Force) đang hoạt động tại Việt Nam.

                Cuối cùng, với sự hậu thuẫn của AFAG (Air Force Advisory Group) trong MACV, phe ta đã thắng: Không Quân VN sẽ thành lập các Sư Đoàn Không Quân.

                Nhưng không “thắng 100%”. Bởi vì sau đó, Bộ TTM đã “chế” ra một danh xưng chức vụ mới là “Sư đoàn trưởng” để gọi ông sếp lớn của các Sư Đoàn Không Quân.

                Nói là “chế” bởi vì trước đó trong ngôn ngữ của người Việt quốc gia không hề có chức vụ “Sư đoàn trưởng”, chỉ có Quân Đội Nhân Dân của cộng sản Bắc Việt mới sử dụng (khi nói chuyện họ thường gọi tắt là “Sư trưởng”).

                Dĩ nhiên, đại diện KQ lại phản đối, nhưng vô ích, bởi vì Bộ TTM lập luận quân số của một Sư Đoàn Không Quân không thể sánh với quân số của Sư Đoàn Nhảy Dù, Sư Đoàn TQLC hay các Sư Đoàn Bộ Binh!


                Vì thế khi các Sư Đoàn Không Quân được thành lập, các ông Tư lệnh Không Đoàn Chiến Thuật 41, 62, 23, 74, 33 đã trở thành các ông Sư đoàn trưởng của các Sư Đoàn 1, 2, 3, 4, 5 Không Quân.

                [Mãi tới cuối năm 1972 đầu năm 1973, sau khi Sư Đoàn 6 Không Quân được thành lập tại Pleiku, có lẽ đã nhận ra “Sư đoàn trưởng” là “từ Việt Cộng”, Bộ TTM mới ban hành Sự Vụ Văn Thư đổi danh xưng Sư đoàn trưởng của các Sư Đoàn Không Quân thành Tư lệnh Sư đoàn]

                * * *

                Sau khi NT VTV và phu nhân trở về Pháp, lâu lâu tôi lại gửi email thăm hỏi và được ông hồi đáp với văn phong dí dỏm cố hữu, có khi còn kể chuyện tới bãi biển ở Nice ngắm đầm khoe tòa thiên nhiên, nhưng sau khi ông bà sang Hoa Kỳ sống thì tôi mất liên lạc.

                Khi cách đây khoảng hai tuần, tôi đang viết bài này thì được một KQ ở Hoa Kỳ báo tin NT VTV đã qua đời nhưng không cho biết thêm chi tiết. Sau đó tôi đã tìm cách liên lạc với một số niên trưởng và chiến hữu KQ ở Hoa Kỳ để hỏi thăm tin tức nhưng tới nay vẫn chưa có kết quả.

                Theo lời một vị phi đoàn trưởng khu trục tôi quen thân, tin tức cuối cùng về NT VTV là cách đây hơn 2 năm, ông và NT Bồ Đại Kỳ có viết thư thăm hỏi nhau, sau đó thì bặt tin.

                (Còn tiếp)

                CHÚ THÍCH

                (1) Trong bài viết về Bộ Chỉ Huy Hành Quân Không Quân (AOC: Air Operations Command), Đại tá Vũ Văn Ước, Chỉ huy trưởng, không hề nhắc tới danh xưng “Trung Tâm Kiểm Soát Không Chiến”, mà chỉ viết về Trung Tâm Hành Quân Không Quân, trong đó có các đoạn:

                “Thời gian này KLVNCH đã có sẵn một số phi cơ Bearcat, T-28 và số ít A-1H... Vì nhu cầu phối hợp hành quân Việt-Mỹ để yểm trợ các lực lượng diện địa VNCH nên một trung tâm hành quân không quân (TACC) được thành lập tại TSN. Tại đây ban cố vấn Hoa Kỳ và các sĩ quan VN làm việc song song với nhau để điều hành việc yểm trợ bằng không quân...

                “Vị sĩ quan chỉ huy đầu tiên của trung tâm là Đại Úy Trần Văn Minh (Tư lệnh KQ sau này), phụ tá là Đại Úy Nguyễn Ngọc Loan và trưởng phòng hành quân là tôi, Vũ Văn Ước.” (ngưng trích)

                Trong khi theo một số bài viết của Đại tá Nguyễn Quang Tri, và tiểu sử của Trung tướng Trần Văn Minh, của Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan, danh xưng đầu tiên của trung tâm này là “Trung Tâm Kiểm Soát Không Chiến”, có từ năm 1956 sau khi người Pháp trao toàn bộ trách nhiệm cho KQVN trong lúc người Mỹ chưa kịp điền vào chỗ trống.

                Cũng nên biết trước năm 1956, công việc yểm trợ của không quân cho các lực lượng diện địa đều do các GATAC của Pháp điều động.

                GATAC là viết tắt của tiếng Pháp “Groupe Aérien Tactique d'Appui Au Combat”, có nghĩa là “đoàn không yểm chiến thuật”.

                Có tất cả ba GATAC: Nord, Centre, Sud, trách nhiệm ba miền Bắc, Trung, Nam.

                Sau khi người Pháp rút, các GATAC giải tán, trách nhiệm không yểm được trao cho người Việt, KQVN thành lập “Trung Tâm Kiểm Soát Không Chiến” để thay thế.

                Hai chữ “Không Chiến” ở đây không có nghĩa là “phi cơ đánh nhau trên trời” mà chỉ có nghĩa là “chiến đấu từ trên không”, tức “không yểm” (air support).

                Sau khi người Mỹ nhập cuộc, các cố vấn trong KLHK và phía đối tác (KQVN) làm việc song song với nhau để điều hành việc yểm trợ chiến trường, thì “Trung Tâm Kiểm Soát Không Chiến” mới được đổi danh xưng thành “Trung Tâm Hành Quân Không Quân” (TACC: Tactical Air Control Center) theo cách gọi trong KLHK.

                Thời gian này là đầu năm 1962, khi KLHK bắt đầu bí mật tham chiến qua Chương trình Farm Gate, và Giám đốc Trung Tâm Hành Quân Không Quân là Đại úy Nguyễn Ngọc Loan (theo NT Trần Bá Hợi trong bài Phi Đoàn 2 Khu Trục).


                PHỤ LỤC

                TƯỞNG NHỚ Lăng CHA CẢ

                *KQ Vũ Thượng Văn

                Ðã là người Không Quân VNCH thì không ai mà không biết Lăng Cha Cả, ở xã Tân Sơn Nhất, quận Tân Bình, tỉnh Gia Ðịnh. Tuy nhiên, cũng rất nhiều người Không Quân chỉ đi ngang qua Lăng Cha Cả để ra vào phi trường Tân Sơn Nhất, chưa chắc đã nhìn kỹ cái lăng đó hình dáng ra sao? Lại cũng không biết sự tích cái lăng ấy, và có lẽ cũng không biết lai lịch "Cha Cả" này là ai?



                Lăng Cha Cả (hình chụp trước năm 1975)

                Cả chục ngàn chiến sĩ Không Quân đã mua bánh mì Lăng Cha Cả, đặc biệt là dân Sư Ðoàn 5 KQ và Bộ Tư Lệnh Không Quân. Bánh mì ngon, nóng, rẻ, thường thêm một miếng ớt cay, ăn sáng trên máy bay là "hết xẩy". Nhưng cũng cả chục ngàn KQ ấy khi mua bánh mì thì quay lưng về phía Lăng Cha Cả, cho nên ngày nay có lẽ cũng chẳng nhớ cái lăng ấy ra sao. Ðể giúp các bạn ôn lại hình ảnh xưa, chúng tôi đã sưu tầm được tấm hình độc đáo nầy để các bạn cùng thưởng lãm. Thưởng lãm trong bùi ngùi, vì lăng nầy đã bị chính quyền VC phá bỏ năm 1983, viện lý do là để phát triển đô thị.


                Cha Cả tên thật là Pierre Pigneau de Béhaine, sinh ngày 02 tháng 11 năm 1741, tại Origny-en-Thierache (Pháp Quốc). Sau khi học nhiều trường đạo các cấp, tu viện và chủng viện Missions Etrangères (Thừa Sai Ngoại Quốc), ông được thụ phong linh mục (prêtre) năm 1765, và được gửi qua Hà Tiên, Nam Kỳ (Cochinchine) để truyền giáo. Trong thời gian nầy, ông đã soạn thảo một cuốn tự điển lớn bằng tiếng Việt.

                Nhưng phần vừa bị chính quyền đàn áp (ông phải đi tù một thời gian), vừa bị hải tặc khủng bố, nên sau đó, ông phải đóng cửa trường (mà ông là Hiệu trưởng), dọn về Pondicherry (Ấn Ðộ). Khi tình hình khả quan hơn, ông trở lại Hà Tiên. Lần trở lại này, năm 1774, ông được trao chức tổng quản giáo hội vùng Nam Kỳ, Căm Bốt và Chàm, với tước vị là Giám Mục d' Adran (Evêque d'Adran, Việt Nam gọi ông là Giám Mục Bá-Ða-Lộc).

                Năm 1778, hải tặc Căm Bốt triệt hạ tỉnh đạo Hà Tiên, Ðức Cha Bá-Ða-Lộc phải rút về Sài Gòn, cư ngụ tại tư dinh Hoàng Tử Nguyễn Ánh. Năm 1782, Tây Sơn khởi nghĩa gây ra nhiều vụ tàn sát ở Sài Gòn. Sau khi vua cha bị giết hại, Nguyễn Ánh lên ngôi, cầu viện Xiêm La (Siam), nhưng quân Xiêm bị Tây Sơn đánh đại bại năm 1785. Nguyễn Ánh quay sang cầu viện Pháp qua trung gian của Giám Mục Bá-Ða-Lộc.

                Năm 1786, Bá-Ða-Lộc mang ấn tín của vua Nam Kỳ (tức chúa Nguyễn Ánh) cùng Hoàng tử Nguyễn Cảnh rời Hà Tiên qua Pháp. Phái đoàn tới cảng Lorient ngày 26 tháng 02 năm 1787. Ngày 16 tháng 5, vua Louis XVI tiếp phái đoàn tại lâu đài Versailles. Một thỏa ước được ký kết giữa hai vương quốc tại Versailles ngày 28 tháng 11 năm đó, giữa Bá tước de Montmorin, Bộ trưởng Ngoại Giao Pháp quốc, và Giám Mục Bá-Ða-Lộc, Ðặc sứ toàn quyền của vua Nam Kỳ.



                Tượng Giám mục Bá-Ða-Lộc và Hoàng tử Nguyễn Cảnh trước Nhà Thờ
                Đức Bà, Sài Gòn (hình chụp thời Pháp thuộc)

                Nhưng bản thỏa ước này sau đó đã không được áp dụng. Bá tước De Conway, Thống Ðốc Pháp tại các lãnh địa thuộc Ấn Ðộ đã từ chối thi hành thỏa ước.

                Chờ ở Pondicherry khá lâu, Giám Mục Bá-Ða-Lộc rất nóng ruột. Rốt cuộc, ông từ chối sự giúp đỡ của người Anh (rất bất lợi), tự thành lập một lực lượng cứu viện Nguyễn Ánh, gồm 2 tàu chiến với một nhóm chuyên viên dân sự, quân sự và binh sĩ cùng vũ khí, đạn dược, đổ bộ vào Sài Gòn ngày 14 tháng 7 năm 1789. Lực lượng này tuy không hùng hậu nhưng đã gây phấn khởi cho Nguyễn Ánh. Ông lấy lại thế tấn công đánh Tây Sơn (lúc đó, lực lượng chính của Tây Sơn đang bị quân Tàu cầm chân tại Bắc Kỳ), và từ đó đi đến chỗ thống nhất Nam Bắc và lên ngôi Hoàng đế, lấy hiệu Gia Long (1802).

                Nhưng trước đó Ðức Cha Bá-Ða-Lộc đã mất vì bạo bệnh tại Quy Nhơn ngày 09 tháng 10 năm 1799. Vì đã có thời làm Thủ tướng cho nhà vua nên tang lễ của Ðức Cha đã được vua Gia Long cho cử hành trọng thể theo nghi lễ quốc táng tại Sài Gòn ngày 16 tháng 12 năm 1799. Mộ của ông được gọi là Lăng Cha Cả.

                Paris, tháng 9 năm 2000
                KQ Vũ Thượng Văn
                Last edited by Nguyen Huu Thien; 05-13-2025, 03:36 PM.

                Comment

                • Nguyen Huu Thien
                  Moderator

                  • Jul 2014
                  • 1169

                  #10
                  BUỒN VUI ĐỜI LÍNH... VĂN PHÒNG (phần 3)

                  “Một Ngày Không Quân - Một Đời Không Quân”

                  (tiếp theo)


                  * “Sư phụ” VÕ VĂN ÂN Niên trưởng NGUYỄN PHÚC TỬNG

                  Tôi được gặp gỡ và trở nên thân thiết với cựu Đại tá Võ Văn Ân, nguyên Không đoàn phó KĐ92CT, và cựu Trung tá Nguyễn Phúc Tửng, nguyên Liên đoàn trưởng LĐ74 Tác Chiến, là nhờ sang Thái Lan thăm “ông thần” Lý Tống đang bị xét xử về tội “không tặc”.

                  Vì ông Nguyễn Phúc Tửng là đàn anh của ông Võ Văn Ân, tôi xin viết về ông trước.

                  Nếu không phải một sĩ quan KQ thâm niên cỡ Đại tá Võ Văn Ân trở lên, sau năm 1975 không mấy người biết cựu Trung tá Nguyễn Phúc Tửng xuất thân cùng khóa bay với các ông Trần Văn Hổ, Nguyễn Cao Kỳ, Trịnh Hảo Tâm...



                  Khóa 52F2 Marrakech, hàng ngồi, từ trái: Phan Thanh Vân, Lưu Kim Cương,
                  Nguyễn Cao Kỳ, Trần Văn Hổ,Trịnh Hảo Tâm...

                  Đó là Khóa 52F2 tại trường bay căn bản Marrakech ở Morocco (thuộc địa của Pháp ở Bắc Phi), gồm ba sĩ quan lục quân đã tốt nghiệp tại Việt Nam là Trần Văn Hổ, Nguyễn Cao Kỳ, Trịnh Hảo Tâm, và 19 dân chính được tuyển thẳng vào Không Quân trong số đó có các ông Lưu Kim Cương, Phan Thanh Vân, Bùi Đức Mỹ, Huỳnh Văn Hiến, Bùi Hữu Thế, Hạ Hầu Sinh, Nguyễn Phúc Tửng...

                  Khi tốt nghiệp, các khóa sinh dân chính nói trên mang cấp bậc Trung Sĩ, về nước được Trung tướng Nguyễn Văn Hinh, Tổng tham mưu trưởng Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, đặc cách thăng cấp Chuẩn úy.

                  Năm 1964, mở đầu thời kỳ phát triển của KQVN, các Không Đoàn Chiến Thuật 41, 23, 33, 62, 74 được lần lượt thành lập tại Đà Nẵng, Biên Hòa, Tân Sơn Nhất, Pleiku và Cần Thơ.

                  Theo bảng cấp số, tại mỗi không đoàn (trừ KĐ33 ở TSN) phải có một phi đoàn quan sát, cho nên vào tháng 6/1964, Đại úy Nguyễn Phúc Tửng được trao trách nhiệm thành lập Phi Đoàn 116 tại Nha Trang, chờ khi nào phi trường Binh Thủy hoàn tất sẽ di chuyển về để trở thành cơ hữu của Không Đoàn 74 Chiến Thuật.

                  Tháng 7/1965, hai tháng trước ngày Không Đoàn 74 Chiến Thuật được chính thức thành lập, Đại úy Nguyễn Phúc Tửng đưa Phi Đoàn 116 về Bình Thủy, và ít lâu sau thăng cấp Thiếu tá.

                  Qua năm 1966, Liên đoàn 74 Tác Chiến được thành lập gồm các phi đoàn 520 khu trục, 116 quan sát và 217 trực thăng (về sau có thêm phi đoàn 211 trực thăng từ Tân Sơn Nhất về tăng cường).

                  Thiếu tá Võ Văn Hội (Khóa 2 HTQS Nha Trang), Phi đoàn trưởng Phi Đoàn 520, lên làm Liên đoàn trưởng.

                  Tuy đã nắm chức vụ cao, Thiếu tá Võ Văn Hội vẫn tiếp tục bay các phi vụ hành quân trên A-1 Skyraider, và đã bị hỏa lực địch bắn nát bàn tay trái trong một phi vụ yểm trợ quân bạn. Cuộc đời bay bổng của Trung tá (vinh thăng) Võ Văn Hội tới đây chấm dứt!

                  Thiếu tá Nguyễn Phúc Tửng lên thay Trung tá Hội, bàn giao Phi Đoàn 116 cho Đại úy Bùi Quang Kỉnh.

                  Hai năm sau, khi đã mang cấp bậc trung tá, ông Nguyễn Phúc Tửng được biệt phái sang Air Vietnam. Sau tháng 4/1975, ông tỵ nạn tại Pháp, bay cho một hãng hàng không dân sự ở Bắc Phi cho tới khi về hưu.

                  Chính vì thâm niên quân ngũ của mình (Khóa 52F2), mặc dù cấp bậc sau cùng chỉ là Trung tá, ông Nguyễn Phúc Tửng đã được mọi người xem như cánh chim đầu đàn của KQVN tại Pháp và các nước Tây Âu...


                  Cựu Trung tá Trần Mạnh Khôi, PĐT 548 Ó Đen (thứ hai từ trái) tới thăm cựu Trung tá
                  Nguyễn Phúc Tửng (bên trái) tại Paris khoảng giữa thập niên 1980 (hình: Trần Mạnh Khôi)

                  Cựu Đại tá Võ Văn Ân vào Không Quân sau Trung tá Nguyễn Phúc Tửng 6 năm. Ông theo học Khóa 58 Trần Duy Kỷ tại TTHLKQ Nha Trang, tức là cùng khóa với “tứ quý” khu trục - nhất Nghĩa nhì Lan tam Danh tứ Định (Chế Văn Nghĩa, Lê Xuân Lan, Đặng Thành Danh, Lê Bá Định) và các đàn anh tên tuổi trong ngành quan sát như Nguyễn Văn Chín, Võ Trung Nhơn...

                  Sau một thời gian bay phi cơ quan sát tại Nha Trang (dưới quyền đàn anh Nguyễn Phúc Tửng), ông Ân thuyên chuyển về Biên Hòa, từng giữ chức Phi đoàn trưởng PĐ112, rồi trở lại Nha Trang làm Phi đoàn trưởng PĐ114.

                  Tôi không được biết ông xuyên huấn phản lực cơ A-37 vào thời gian nào, chỉ biết tới đầu năm 1972 ông là một trong những sĩ quan đầu tiên đặt chân tới căn cứ không quân Phan Rang, cùng với Đại tá Nguyễn Đình Giao (và các sĩ quan chuyên ngành) tiếp nhận căn cứ này từ tay người Mỹ.

                  Sau khi Phan Rang trở thành Căn Cứ 20 Chiến Thuật Không Quân, Không Đoàn 92 Chiến Thuật được thành lập tại đây gồm ba phi đoàn A-37 524 Thiên Lôi, 534 Kim Ngưu, 548 Ó Đen và Phi Đội tản thương 259D.

                  Trung tá (sau lên Đại tá) Lê Văn Thảo làm Không đoàn trưởng, Trung tá (sau lên Đại tá) Võ Văn Ân làm Không đoàn phó.

                  Sau năm 1975, di tản sang Hoa Kỳ ông Võ Văn Ân và vợ (bà Nicole Kim) rất thành ông trên thương trường.


                  Cựu Đại tá Võ Văn Ân trong một airshow tại Hoa Kỳ

                  Tới đây viết về việc “Ó Đen” Lý Tống (LT) bị ra tòa ở Thái Lan về tội “không tặc”.

                  Nguyên sau chuyến thăm Úc vào cuối năm 1998, trở về Mỹ, LT tới Florida là tiểu bang có nhiều người Cuba tỵ nạn cộng sản sinh sống, mướn một phi cơ nhỏ vào đúng ngày tết dương lịch 1/1/2000, tức ngày đầu tiên của thiên niên kỷ 2000, bay sang thủ đô Havana thả truyền đơn kêu gọi dân chúng Cuba nổi dậy lật đổ chế độ cộng sản.

                  Trong khi đa số các nguồn tin chỉ cho biết khi bay trở về Florida, LT đã bị nhân viên công lực của Sở Di Trú và Quan Thuế Hoa Kỳ (United States Immigration and Customs Enforcement - ICE) thẩm vấn, sau đó tha bổng, chỉ bị Cơ Quan Quản Trị Hàng Không Liên Bang (FAA) rút bằng bằng lái phi cơ, thì một vài tờ báo Mỹ đã tường thuật thêm một chi tiết ly kỳ: sau khi rải truyền đơn LT bị phi cơ MiG của Cuba bay lên rượt theo nhưng các chiến đấu cơ F-16 của Hoa Kỳ đã kịp thời cất cánh nghênh cản và hộ tống LT về Florida đáp an toàn.

                  Tuy nhiên một số nhà quan sát đã cho rằng các phi cơ MiG của Cuba dư sức bắn hạ TL trước khi F-16 kịp tới can thiệp nhưng họ đã “tự chế” vì sợ bị dư luận quốc tế lên án.

                  Còn nhớ trước đó 4 năm, có hai chiếc Cessna do người ty nạn Cuba bay về Havana thả truyền đơn chống cộng và bị phi cơ MiG bay lên rượt đuổi, một chiếc bị bắn hạ, chiếc còn lại chạy thoát (về không phận Mỹ).

                  Qua vụ này Cuba đã bị dư luận quốc tế lên án dữ dội vì hai chiếc Cessna này không phải phi cơ quân sự, phi cơ MiG của Cuba chỉ cần “đuổi” ra khỏi không phận, hoặc cùng lắm là “kè” sát, buộc phải hạ cánh xuống Havana để bắt sống phi công.

                  * * *

                  Từ Cuba trở về, LT được người Mỹ gốc tỵ nạn Cuba đón tiếp như một người hùng.


                  LT được đón tiếp tưng bừng trong một lễ hội của người tỵ nạn Cuba

                  Thừa thắng xông lên, tới đầu tháng 11/2000, nhân chuyến viếng thăm Việt Nam của Tổng thống Mỹ Bill Clinton, LT lại chơi bạo để tạo sự chú ý của dư luận quốc tế.

                  Lần này anh sang Thái Lan, tới thành phố biển Rayong trên bờ vịnh Thái Lan, rồi vào ngày 17/11/2000 thuê một chiếc máy bay nhỏ với huấn luyện viên, nói là để “dợt bay” nhưng sau đó đã uy hiếp (LT khai là “thuyết phục”) huấn luyện viên này bay sang Việt Nam để LT thả hơn 50.000 tờ truyền đơn rồi trở về Thái Lan. Sau khi phi cơ đáp xuống Rayong, LT bị nhà chức trách bắt giữ.

                  Hơn một tuần sau, ngày 26/11/2000, Cục Điều tra thuộc Bộ Công an của CSVN quyết định khởi tố bị can Lý Tống theo tội danh quy định tại Điều 81 và 88 của Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, ban hành quyết định truy nã quốc tế đối với LT, và yêu cầu nhà chức trách Thái Lan cho dẫn độ LT về Việt Nam để xét xử theo luật pháp địa phương.

                  VIẾT THÊM:

                  Sở dĩ LT phải về tận Rayong ở miền đông Thái Lan (cách Bangkok 183 km, cách Pattaya 62 km) để mướn phi cơ là vì đây là phi trường dân sự gần Việt Nam nhất (khoảng 800-900 km).

                  Tuy “gần” nhưng cũng nằm ngoài tầm hoạt động của những chiếc Cessna một động cơ cho nên LT phải thuê một chiếc
                  Vulcanair P.68C hai động cơ để có thể bay đi Việt Nam rồi trở về Thái Lan.

                  LT còn chu đáo mang theo một máy định vị (GPS, ngày ấy còn rất hiếm) để theo dõi, tính toán lộ trình gần nhất.


                  * * *

                  Yêu cầu của nhà cầm quyền CSVN cho dẫn độ LT về Việt Nam để xét xử đã không được Thái Lan cứu xét ngay bởi vì chính họ lúc đó cũng chưa biết sẽ phải xét xử LT - một người mang quốc tịch Mỹ - ra sao!

                  Được biết sau khi LT và huấn luyện viên Thira trở lại Rayong, LT được một viên đại úy cảnh sát lấy cung; anh khai sau khi phi cơ cất cánh anh đã thuyết phục Thira, trả cho anh ta mấy ngàn đô-la Mỹ để bay sang VN và hứa khi về sẽ tặng luôn cái máy định vị. Nhưng khi được thẩm vấn Thira lại khai khác, cho biết mình bị LT hăm dọa cho nổ bom (trong túi đựng truyền đơn) để cưỡng bách anh ta bay sang VN.

                  Sau khi thụ lý, ngày 24/01/2001 công tố viện tỉnh Rayong đã cáo buộc LT vào ba tội danh: đe dọa tính mạng công dân Thái Lan - cưỡng ép sử dụng máy bay trái với mục đích ban đầu - vi phạm luật xuất nhập cảnh Thái Lan (tức là ra khỏi và đi vào không phận Thái Lan một cách bất hợp pháp).

                  Tuy nhiên sau đó nhà chức trách Thái Lan đã phải mất gần 3 năm trời - từ cuối tháng 1/2001 tới cuối tháng 12/2003 - mới đưa được LT ra tòa để xét xử về ba tội danh nói trên.

                  Có hai nguyên nhân chính. Thứ nhất là tài... câu giờ của LT.

                  Thích hay không thích cá nhân LT, tôi bắt buộc phải nể phục sự cam đảm, liều lĩnh, kiến thức và đầu óc của anh!

                  Thực ra trong thời gian gần 3 năm ấy LT đã bị ra tòa thường xuyên nhưng chỉ là những phiên dự thẩm (committal hearing), để xác định tội danh sẽ bị đem ra xét xử tại các phiên sơ thẩm.

                  Chỉ trong mấy tháng đầu năm 2001, đã có ba phiên dự thẩm mà chẳng đi tới đâu.

                  Trong phiên thứ nhất LT chấp nhận vị luật sư bào chữa do tòa chỉ định nhưng lại bác bỏ tội danhđe dọa tính mạng phi công”; trong phiên thứ hai LT không chấp nhận luật sư bào chữa nữa và đòi thay người khác; phiên thứ ba, LT phản cung, không chấp nhận cả ba tội danh theo cáo trạng!

                  Bên cạnh đó, LT còn cố tình “lạc đề”, thay vì trả lời các câu hỏi của quan tòa anh lại “mượn” tòa án Thái Lan làm diễn đàn lên án chế độ CSVN, đề cao chính nghĩa của người Việt quốc gia ở hải ngoại.

                  Dù LT không nói ra, tôi và những người quan tâm theo dõi vụ án cũng thừa biết LT câu giờ để tạo sự chú ý của truyền thông Thái Lan, để ngày càng có thêm nhiều cá nhân, tổ chức của người Việt quốc gia hải ngoại lên tiếng bênh vực, hậu thuẫn, cũng như tạo sự quan tâm nơi dư luận và giới hữu trách Hoa Kỳ trước việc nhà cầm quyền CSVN đòi dẫn độ LT về VN xét xử.

                  Nguyên nhân thứ hai là chính nhà cầm quyền Thái Lan lúc đó cũng đang bối rối, chưa biết phải xét xử “công dân Mỹ LT” ra sao.

                  “Nhà cầm quyền Thái Lan” nói tới ở đây là cấp cao nhất: chính phủ của Thủ tướng Thaksin Sinawatra.

                  Ông Thaksin Sinawatra - cầm quyền từ năm 2000 tới 2006 - vị thủ tướng thứ 23 của Thái Lan, một quốc gia quân chủ lập hiến nhưng thực quyền luôn luôn nằm trong tay các tướng lãnh, và có “truyền thống” đảo chánh như cơm bữa!

                  Tính tới lúc đó, ông Thaksin vị thủ tướng đầu tiên không thuộc phe quân đội mà “thọ” hết nhiệm kỳ (rồi tái đắc cử và bị đảo chánh giữa nhiệm kỳ 2).


                  Thủ tướng Thái Lan Thaksin Sinawatra

                  Thaksin Sinawatra một nhân vật đầy giai thoại. Ông mang trong người một nửa dòng máu Trung Hoa, là chắt nội của Khu Chun Seng (丘春盛), một di dân từ Quảng Đông tới Thái Lan lập nghiệp vào thập niên 1880. Sau khi kết hôn với một cô gái Thái Lan, ông nội (của Thaksin) đổi họ thành Sinawatra.

                  Thaksin Sinawatra sinh năm 1949, tốt nghiệp Học viện Cảnh sát năm 1973, du học Hoa Kỳ, lấy bằng Cao học Hình sự tại Đại học Eastern Kentucky University Tiến sĩ Tội phạm học tại Đại học Sam Houston State University, Texas.

                  Về nước, Thaksin Sinawatra phục vụ tại Bộ tham mưu Cảnh sát Bangkok cho tới khi xin nghỉ hưu vào năm 1987 với cấp bậc Trung tá để làm business trong ngành truyền thông, giải trí, tin học (IT), và mau chóng trở thành một nhà tài phiệt hàng đầu của Thái Lan, đứng ra thiết lập trường đại học Sinawatra University; về sau còn mua đội bóng tròn Manchester United nổi tiếng của Anh Quốc...

                  Trong những năm đầu của nhiệm kỳ 1 (2000-2003), Thaksin Sinawatra được mô tả là một người thân tây phương nói chung, Hoa Kỳ nói riêng, từ đó đã làm ngơ cho các tổ chức chống cộng của người Việt hải ngoại sử dụng đất Thái làm địa bàn hoạt động.

                  Sự việc điển hình nhất là vụ đặt bom tại tòa Đại sứ CSVN tại Bangkok vào tháng 6/2001 nhà cầm quyền CSVN khẳng định do các thành viên trong chính phủ Nguyễn Hữu Chánh (Chính phủ Việt Nam Tự do) thực hiện. Nhưng sau khi bắt được các thủ phạm, Thái Lan chỉ giam giữ một thời gian ngắn rồi cho chìm xuồng.

                  Vì thế có thể viết chiêu trò câu giờ của LT đôi khi đã được chính nhà cầm quyền Thái Lan... phụ họa!

                  Một thí dụ điển hình về sự “tà tà” của tòa án Thái Lan là việc LT đòi đưa huấn luyện viên Thira ra tòa để đối chất với anh.

                  Như đã viết ở trên, ngay từ phiên dự thẩm thứ hai, LT đã bác bỏ cáo buộc “đe dọa tính mạng phi công”, và khai trước tòa rằng anh đã sử dụng tình cảm và tiền bạc để mua chuộc Thira “tự nguyện” giúp mình!

                  Nay được tòa cho biết Thira đã khai với cảnh sát anh ta bị LT hăm dọa cho nổ bom để cưỡng bách bay sang VN, LT đòi đưa Thira ra tòa để đôi bên đối chất. Nhưng tòa cho biết Thira đang... đi học ở Mỹ, chưa biết bao mới về!

                  * * *

                  Khi tôi sang Thái Lan thăm LT (và gặp Đại tá Võ Văn Ân, Trung tá Nguyễn Phúc Tửng) vào đầu năm 2003 thì phía Thái Lan đã có quyết định dứt khoát: LT nhận hay không nhận các tội danh bị cáo buộc, có hay không có luật sư biện hộ, tòa sơ thẩm vẫn tiến hành xét xử anh trong một ngày gần nhất.

                  LT liền phản ứng bằng cách không chấp nhận sự biện hộ của bất cứ luật sự nào do tòa án chỉ định mà sẽ đứng ra... tự biện hộ! Trước tình thế này, Đại tá Võ Văn Ân đã từ Hoa Kỳ bay sang để lo mướn luật sư cho LT.

                  Là một người bị kẹt lại VN, sau 6 năm tù “cải tạo” mới vượt biên, định cư tại Úc, tôi không được biết rõ quan hệ giữa vị cựu Không đoàn phó KĐ92CT với trung úy hoa tiêu A-37 LT thuộc PĐ 548 Ó Đen sau khi anh tỵ nạn ở Mỹ, chỉ nghe đại khái anh là nhân viên thân tín của ông tại một cơ sở thương mại, thường gọi ông là “Sư Phụ”. Sau khi LT bị bắt tại Thái Lan, ông thường xuyên sang thăm nom.

                  * * *

                  Trung tá Nguyễn Phúc Tửng đại diện KQ ở Âu Châu cũng từ Pháp bay sang, cùng với một phái đoàn người Việt hải ngoại hùng hậu chưa từng thấy từ Hoa Kỳ kéo nhau sang Rayong để thăm LT và tham dự phiên dự thẩm cuối cùng (sau đó tòa sẽ ấn định ngày xét xử).

                  Đại diện người Việt ở Úc chỉ có một mình tôi; không phải vì sự ủng hộ LT ở Úc đã giảm bớt mà chỉ vì trước đó đã có quá nhiều phái đoàn sang thăm LT tại nhà tù Rayong và tham dự các phiên dự thẩm.

                  Riêng Không Quân ở Úc đã cử đại diện sang thăm LT bốn năm lần, trong đó có các chuyến đi của anh Vũ Văn Bảo, đặc trách tòa soạn đặc san LÝ TƯỞNG Úc Châu, của anh Phạm Công Khanh, Hội trưởng Hội KQ tiểu bang Victoria kiêm Liên hội trưởng Liên Hội KQ Úc Châu.

                  [Xin lưu ý độc giả Không Quân: có tới hai ông đại úy hoa tiêu trực thăng có cùng tên cúng cơm “Phạm Công Khanh” cùng định cư tại Úc, một ông bay cho 217 Thần Điểu, một ông bay cho 219 Long Mã (Kingbee), người được nhắc tới trong bài viết này là Phạm Công Khanh 219]

                  Tôi được đề cử sang Thái Lan thăm LT và tham dự phiên dự thẩm sau cùng là vì vào thời gian này tôi không chỉ giữ chức vụ Tổng Thư ký Liên Hội KQ Úc Châu mà còn cộng tác với hai cơ sở truyền thông - một tờ báo Việt ngữ hàng đầu ở Úc và Ban Việt ngữ của đài phát thanh SBS Radio (của chính phủ Úc, thường gọi là “đài sắc tộc”).

                  Một công đôi ba việc: vừa đại diện KQ Úc Châu thăm LT, vừa viết bài tường thuật cho LÝ TƯỞNG Úc Châu, cho tờ báo tư nhân, vừa trực tiếp phỏng vấn LT (live) cho SBS Radio!

                  Để thi hành “nghiệp vụ” của mình, ngoài cái camera bỏ túi có sẵn, tôi phải mượn cái laptop của một người bạn và bóp bụng mua một cái máy thu băng mini-cassette có thể dấu trong người (vì tòa án cấm thu băng chụp hình trong tòa).

                  Viết ra thì... xấu hổ nhưng vẫn phải viết, đây là lần tiên trong hơn 20 năm định cư ở Úc tôi được “xuất ngoại”. Không phải tôi không có thân nhân ở Hoa Kỳ (có nhiều là đàng khác), cũng không phải tôi không thích đi du lịch đây đó mà chỉ vì vợ tôi rất sợ đi máy bay, chẳng lẽ đi một mình; còn về thăm VN thì tôi đã có lời thề từ ngày đặt chân xuống ghe vượt biên.

                  Vì thế, để cho chắc ăn, anh Phạm Công Khanh đã phải liên lạc với Đại tá Võ Văn Ân (mà anh đã gặp trong chuyến đi Thái Lan trước đó) để biết ngày giờ ông tới Bangkok rồi mới book vé máy bay cho tôi, để ông tới trước, đón tôi ở phi trường rồi cùng nhau đi Rayong, nơi xét xử LT.

                  (Còn tiếp)
                  Last edited by Nguyen Huu Thien; 05-31-2025, 10:05 AM.

                  Comment

                  • Nguyen Huu Thien
                    Moderator

                    • Jul 2014
                    • 1169

                    #11
                    BUỒN VUI ĐỜI LÍNH... VĂN PHÒNG (phần 3)

                    “Một Ngày Không Quân - Một Đời Không Quân”


                    (tiếp theo)



                    “Sư phụ” VÕ VĂN ÂN Niên trưởng NGUYỄN PHÚC TỬNG

                    Khi tôi tới phi trường Bangkok khoảng 12 giờ đêm, không chỉ có Đại tá Võ Văn Ân mà còn có cả Trung tá Nguyễn Phúc Tửng chờ sẵn, nhưng vì chỉ biết mặt Đại tá Ân (qua xem hình) nên tôi chào ông trước:

                    - Chào niên trưởng!

                    - Giờ này còn “niên trưởng” gì nữa em. Kêu bằng anh được rồi!

                    Rồi ông giới thiệu ngắn gọn:

                    - Đây là anh Nguyễn Phúc Từng từ Pháp qua.

                    Đại tá Ân cho biết ông tới Bangkok từ sáng sớm, mướn một phòng trọ gần phi trường chờ Trung tá Tửng và tôi, ngủ đỡ một đêm rồi sáng hôm sau đi Rayong.

                    Tôi để ý quan sát hai vị đàn anh, ông Ân bảnh trai, cao ráo, ăn mặc tươm tất, để bộ ria mép như nam diễn viên Clark Gable, người thủ vai anh chàng Rhett Butler trong phim Cuốn Theo Chiều Gió (Gone With the Wind); còn ông Tửng thì không có gì nổi bật, ăn mặc xuề xòa đã vậy còn hói đầu và nét mặt không lấy gì làm vui vẻ, ít nói... nên khó lòng gây được cảm tình nơi người đối diện khi gặp lần đầu.

                    Lúc đó tôi đâu đã biết vai vế của ông Tửng trong Không Quân cho nên khi thấy ông “mày tao” với ông Ân còn ông Ân thì một điều “anh” hai điều “anh” với sự kính trọng, tôi rất thắc mắc.

                    Không biết ông Ân có đoán được thắc mắc của tôi hay không, chỉ biết trước khi bước lên taxi để đi về phòng trọ, ông quay lại nói nhỏ với tôi:

                    - Anh Tửng ngày xưa là thầy của anh đó em!

                    * * *

                    Ông Ân đưa tôi và ông Tửng về một phòng trọ tồi tàn ở một khu ngoại ô gần phi trường Don Mueang (ngày ấy Bangkok chưa có phi trường mới Suvarnabhumi).

                    Đó là một căn phòng trên tầng 6 (hay 7) của một building cũ kỹ (cũng may mà có thang máy), bên trong có mấy cái giường single bằng gỗ, một cái bàn nhỏ với mấy cái ghế; vì chỉ ở qua đêm nên tôi không để ý có bếp hay không, chỉ nhớ có cái ấm điện cũ kỹ, toilet và nhà tắm thì mốc meo, hôi hám...

                    Ông Ân đã tới Thái Lan nhiều lần, giải thích với tôi: vì chỉ cần ở qua đêm hoặc một hai ngày chờ phi cơ, ông đã dò hỏi và tìm được phòng ngủ bình dân này, vừa tiết kiệm tiền bạc vừa gần phi trường.

                    Khoảng 7 giờ sáng, ông Ân đã hối chúng tôi xuống để checkout và chờ taxi tới đón đi Rayong. Thì ra đêm hôm qua ông đã điều đình với người tài xế taxi chở chúng tôi từ phi trường về phòng trọ: sáng nay anh ta sẽ chở chúng tôi đi Rayong (hơn 180 km) với một giá “phải chăng” mà theo ông Ân vẫn còn rẻ nhiều so với phí tổn ba người chúng tôi đi “tuk tuk” (xe Lam ở Thái Lan) tới bến xe đò + xe đò đi Rayong + tuk tuk tới khách sạn!

                    Đường từ Bangkok đi về các tỉnh phía đông nam đều là xa lộ 2, 3 lane, anh tài xế taxi còn khá trẻ cứ chạy trên dưới 130 kmh bất chấp giới hạn 110 kmh theo luật định. Tôi hỏi anh bộ ở Thái Lan không có cảnh sát tuần tra xa lộ (highway patrol) sao, thì anh trả lời có nhưng rất hiếm, đang chạy mà thấy họ chỉ cần bớt ga là xong!

                    Sau một tuần lễ ở Thái Lan tôi nhận thấy đa số taxi, xe ôm, tuk tuk thường chạy quá tốc độ ấn định nhưng rất an toàn vì họ tuyệt đối tôn trọng luật lệ giao thông (trừ speeding!)

                    Càng xuôi nam, khung cảnh hai bên đường càng giống miền tây của Việt Nam. Ông Ân dân Long Xuyên, ông Tửng dân Sa Đéc, tôi dân Bắc 54 nhưng cũng từng giang hồ xuống tận Châu Đốc cho nên cả ba anh em không hẹn mà đều chạnh nhớ quê hương. Ông Ân buột miệng:

                    - Nhớ Việt Nam mình quá anh Tửng ơi, Thiện ơi!

                    Tới Rayong, xe taxi ngừng trước khách sạn Star Hotel, nơi ông Ân đã book sẵn phòng cho ba người chúng tôi.

                    Ngày ấy, đầu thế kỷ 21, khi chưa có các khách sạn và khu nghỉ mát 5 sao của Novotel, Hilton thì Star Convention Hotel (4 sao) là xịn nhất ở Rayong.



                    Star Convention Hotel, Rayong

                    Hiện nay, thành phố Rayong, thủ phủ của tỉnh Rayong, nhìn ra vịnh Thái Lan, được xem là một trong những thành phố kỹ nghệ phát triển nhất ở vùng Đông Nam Á, với xưởng ráp xe hơi của hãng Ford có trên 2000 công nhân, với những nhà máy hóa chất hiện đại, nhưng vào thời gian tôi tới Rayong, Thái Lan cùng với một số nước Á Châu khác đang bị kiệt quệ sau Cuộc đại khủng hoảng tài chánh năm 1997 (1997 Asian financial crisis), kỹ nghệ du lịch cũng bị ảnh hưởng nặng nề cho nên giá mướn phòng ở Star Hotel được hạ xuống tới mức thấp nhất để cố gắng duy trì hoạt động, nhờ vậy ông Ân mới dám mướn phòng tại đây.

                    Vì ở các tầng trên, mỗi phòng chỉ có một giường đôi hoặc hai giường chiếc nên ông Ân với ông Tửng ở một phòng, tôi ở một phòng. Nhận phòng xong, nghỉ ngơi một lát ông Ân rủ ông Tửng và tôi xuống chợ Rayong kiếm cái gì bỏ bụng.

                    Xin có đôi dòng tả cảnh thành phố Rayong. Nếu so sánh Bangkok với Sài Gòn trước 1975 thì Rayong là Cần Thơ, tức là nhỏ hơn, đỡ xô bồ hơn nhưng cũng có những sinh hoạt phố thị, cơ sở thương mại, phương tiện giải trí, hàng quán, v.v...

                    Khách sạn Star Hotel nằm ở trung tâm thành phố, cách chợ Rayong khoảng 200, 300 mét. Nằm giữa khách sạn và chợ là khu bán những thức ăn chơi (street food) bên cạnh một sân khấu lộ thiên vào cuối tuần hay ngày lễ có nhạc sống “free”, có những băng ghế để khán giả vừa lai rai vừa thưởng thức văn nghệ.

                    Khi đi bộ từ khách sạn ra chợ, tôi để ý thấy ông Ân đi hơi cà nhắc thì cứ tưởng ông mới bị đau chân nhưng không dám hỏi; mãi sau này đọc bài “Ngành Quan Sát trong KLVNCH” của anh Võ Ý mới biết trước 1975 ông đã có nickname Ân “què”.

                    Còn ông Tửng thì bước đi khá chậm, có lẽ vì tuổi già sức yếu.

                    Chợ Rayong là một cái nhà lồng lớn, rất sạch sẽ thoáng mát. Điểm đáng chú ý đầu tiên là tới phân nửa diện tích được dành cho các quầy bán thức ăn nấu sẵn mà đa số khách hàng mua mang về nhà để ăn. Những quầy này bán đủ mọi thứ đồ kho, đồ xào, các loại canh chua, cà-ri..., các cặp vợ chồng đi làm về chỉ cần ghé qua mua là có một bữa cơm chiều thịnh soạn.

                    Cũng có một số quầy bán thêm các món ăn tại chỗ như cơm đĩa, mì, hủ tiếu... có mấy cái bàn gần đó cho khách ngồi.

                    Về giải khát thì có bia Singha của Thái Lan, Tiger của Singapore, Tsingtao của Trung Cộng mà tôi đã được thưởng thức ở Úc. Bia tây phương cũng có nhiều nhưng đặc biệt đi tới đâu cũng thấy quảng cáo Heineken của Hòa Lan, hầu hết mọi tấm bạt, dù che bên ngoài các hàng quán đều quảng cáo cho hiệu bia này!

                    Sau khi ăn trưa, ông Ân rủ chúng tôi đi một vòng quanh chợ cho biết phố Rayong rồi trở về trước sân khấu lộ thiên ngồi trò truyện, ngắm người qua lại.

                    Thời gian ba anh em chúng tôi ở Rayong, đầu năm 2003, người dân Thái Lan vừa kết thúc các hoạt động mừng sinh nhật Quốc vương Bhumibol Adulyadej (1927-2016) kéo dài một tháng trời. Khi chúng tôi tới Rayong, tại các địa điểm, ngã tư quan trọng quan trọng trong thành phố, trong đó có ngã tư trước Star Hotel vẫn còn các bàn thờ với tấm hình thật lớn của ông với đủ các loại hoa lan.

                    Ông Ân cho chúng tôi biết người dân Thái Lan họ tôn sùng, kính trọng hoàng gia của họ còn hơn “Sãi cả”, tức vị sư cao cấp nhất của Phật giáo Thái Lan. Ông Tửng thì có vẻ hiểu biết nhiều về hoàng gia Thái, từ Quốc vương Bhumibol, Hoàng hậu Sirikit tới các hoàng tử, công chúa...

                    Nghe ông Tửng nhắc tới hoàng gia Thái Lan, tôi bỗng nhớ lại 55 trước, thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, ngày còn học lớp Nhất ở trường tiểu học giáo xứ Bùi Phát, Phú Nhuận, cả lớp được xe buýt chở sang đường Công Lý đứng vẫy cờ chào đón Quốc vương Bhumibol và Hoàng hậu Sirikit công du VNCH.



                    Quốc vương Thái Lan Bhumibol đàm đạo với Tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm

                    Sau đó tôi cũng quên luôn ông vua Thái nhưng tên bà hoàng hậu Sirikit tôi vẫn nhớ mãi, không phải vì tôi là người ái mộ bà mà chỉ vì sau này tôi được sếp cũ là Thiếu tá (sau lên Trung tá) Lê Bá Định cho một gốc lan trắng trong số bốn, năm giống lan mang tên bà hoàng hậu.

                    Nguyên vào đầu năm 1971, sau khi phi đoàn khu trục 530 được thành lập tại Pleiku, ông Định đưa một toán hoa tiêu sang phi trường Nakhon Phanom, Thái Lan, để nhận phi cơ A-1 Skyraider của Phi Đoàn Đặc Nhiệm 602 (602nd Special Operations Squadron) của Không Lực Hoa Kỳ vừa bị giải thể cuối năm 1970.

                    Khi ra phố Nakhon Phanom ông Định mua một lố khăn phu-la bằng lụa Thái mang về làm quà cho mọi người đồng thời mua mấy gốc “lan Sirikit” đựng trong các chậu sành nhỏ và tôi được ông ưu ái cho một chậu.

                    Tôi đem về treo dưới hiên nhà nhưng đợi hoài mà không thấy gốc lan ra bông hoặc đẻ nhánh, cuối cùng nó chết khô. Ông Định chê tôi không biết cách “chơi lan” nhưng cuối cùng mấy gốc “Hoàng hậu Sirikit” của ông cũng chết khô theo.

                    Ông quăng mấy cái chậu sành đựng lan vào góc vườn, vợ ông chọc quê gọi là “lan... lịch kịch”!

                    * * *

                    Xế chiều, trước khi về khách sạn, ông Tửng nói ông Ân ra đứng trước bàn thờ Quốc vương Thái Lan để tôi chụp cho hai ông mấy pô làm kỷ niệm. Sau đó ông Ân mua một ít heo quay và mấy ổ bánh mì mang về để làm bữa tối. Dĩ nhiên, khách sạn có cafeteria và restaurant nhưng chúng tôi đâu dám héo lánh tới vì muốn tiết kiệm tiền bạc tối đa.

                    Cũng xin viết về việc “ăn đồng chia đều” giữa ba anh em. Ngay trên đường từ Bangkok đi Rayong, sau khi được biết tôi mang theo 1000 đô-la Úc dằn túi cộng thêm 1000 của Hội Không Quân Victoria đưa để chi tiêu (cho “công vụ”), ông Ân đã đề nghị như sau: chỉ có ba anh em ở chung với nhau mà chia ra hai “phe” ăn xài riêng thì không giống ai, vì thế tất cả mọi chi phí từ tiền phòng cho tới ăn uống, di chuyển... sẽ cộng lại rồi chia ba, và ông trao cho tôi nhiệm vụ ghi chép, lưu giữ mọi khoản chi tiêu.

                    Về tới khách sạn, ăn tối xong trò chuyện một hồi, thấy ông Ân ông Tửng tìm về quá khứ, cùng nhau hồi tưởng bao chuyện xưa tích cũ trong quân chủng; để hai đàn anh được tự nhiên, tôi bỏ về phòng mình xem ti-vi.

                    Nhưng chỉ mấy phút sau ông Tửng sang gõ cửa. Ông không bước vào phòng, chỉ nhìn thẳng vào mặt tôi, nghiêm giọng:

                    - Thiện mày nghe tao nói nè, mình sang đây là để thăm LT và dự các phiên tòa chứ không phải đi du lịch, dứt khoát không có cái vụ mát-xa gái ghiếc nghen! Mày muốn... cái gì thì đợi về Bangkok!

                    Nghe ông Tửng nói thế tôi vừa ngạc nghiên vừa không vui (vì bị dạy mo-ran), đáp ngay:

                    - Anh Tửng đừng lo, em không ham mấy mục đó đâu!

                    - Thì tao cứ dặn phòng hờ vậy cho chắc ăn. Mày phải biết tụi nó (Việt Cộng) cố tìm mọi cách để phá mình, đừng có làm gì để bị bể nghen!

                    Ông Tửng về phòng rồi tôi mớt chợt nhớ lại hồi trưa khi mới tới khách sạn, trong khi ông Ân làm thủ tục chek-in, tôi đã quay sang chiêm ngưỡng mấy cô gái trẻ đẹp sexy ngồi tán dóc với nhau ở gần đó. Nhìn cách ăn mặc hở hang và dáng điệu khiêu khích của các cô, một người kém thông minh tới đâu cũng dư biết họ thuộc thành phần nào!

                    Thật tình mà nói, lúc đó tôi ngắm các cô vì tò mò hơn là để “rửa mắt” nhưng có lẽ ông Tửng không nghĩ như thế mà cho là tôi có ý đồ đen tối cho nên giờ này mới sang phòng tôi để răn đe!

                    Những gì xảy ra sau đó cho thấy ông Tửng đoán việc... như thần: khoảng 9 giờ đêm, một nhân viên (nam lao công) của khách sạn lên gõ cửa phòng, hỏi có muốn gái mát-xa không!

                    Dĩ nhiên tôi lịch sự từ chối!

                    * * *

                    Ngày hôm sau, ông Ân đưa tôi đi ăn chiều với vị luật sư Thái Lan (tôi không nhớ tên) mà ông đã liên lạc trong chuyến đi trước để bàn thảo về phiên tòa xử LT sẽ diễn ra vào ngày mai. Ông Tửng vì bận “việc riêng” không có mặt (sau này tôi mới biết việc gì).

                    Ông Ân chọn một nhà hàng gần bờ biển tương đối bình dân nhưng yên tĩnh với những cái bàn dưới bóng dừa, rất thích hợp cho một buổi nói chuyện như thế.

                    Bờ biển ở đây khá đặc biệt, bến đậu của tàu đánh cá thay vì ở ngoài bờ lại là trong một con rạch lớn nằm phía trong, ăn thông với bờ biển. Con rạch được đào khá sâu để những chiếc tàu đánh cá tương đối lớn có thể cập sát bờ, thuận tiện cho việc vận chuyển hải sản lên bờ.

                    Nhà hàng mà ông Ân chọn nằm trên khoảng đất giữa bờ biển và con rạch, vừa có thể ngắm biển vừa quan sát sinh hoạt của tàu thuyền (sau này tìm hiểu tôi được biết tỉnh Rayong là trung tâm sản xuất nước mắm của Thái Lan).

                    Những tàu đánh cá ở đây đều là tàu gỗ nhưng khá lớn, có khi dài tới 20 mét, với đặc điểm được sơn màu sắc rực rỡ rất vui mắt...



                    Một tàu đánh cá Thái Lan ở Rayong

                    Vì ông luật sư bận việc bất ngờ, tới trễ nên trong lúc chờ đợi, hai anh em vừa lai rai vừa trò chuyện – đủ thứ chuyện. Bỗng ông Ân nói:

                    - Nhìn mấy cái tàu này anh nhớ công ty đánh cá của anh quá Thiện ơi!

                    Nghe ông nói tôi rất ngạc nhiên vì trước đó qua nghe anh Phạm Công Khanh kể tôi chỉ biết ông Ân từng làm chủ siêu thị...

                    Đôi mắt xa xăm như thả hồn về quá khứ, ông Ân bắt đầu kể chuyện. Ngay lúc đó tôi không hiểu tại sao ông Ân lại trút hết bầu tâm sự với một đàn em Không Quân mới gặp hơn một ngày; và sau này tôi cũng chỉ có thể giải thích vì hai anh em chúng tôi “hạp nhau”!

                    Tôn trọng người đã khuất - ông Võ Văn Ân, ông Nguyễn Cao Kỳ - lẫn người còn sống - và bà Nicole Kim, người lần lượt làm vợ hai ông – tôi chỉ xin rất vắn tắt những gì ông Ân kể liên quan tới công ty tàu đánh cá của ông mà thôi.

                    Tàu đánh cá nói tới ở đây là tàu sắt lớn (thuê của công ty Mỹ) chuyên đánh bắt tuna tận ngoài khơi, loại lớn để làm các loại thực phẩm chứ không phải để làm nước mắm như cá ở Rayong.

                    Công ty có sự hùn hạp của ông Nguyễn Cao Kỳ. Điều đáng tiếc là doanh nghiệp ngày càng phát triển thì quan hệ tình cảm giữa ông Kỳ và bà Kim càng thắm thiết. Cuối cùng bà Kim đề nghị chia tay chồng, ông Ân đồng ý.

                    Tôi vẫn còn nhớ nguyên văn câu nói của ông Ân:

                    - Anh không oán trách ông Kỳ, anh cũng chẳng oán trách bà Kim. Mình là đàn ông mà không giữ được vợ là mình dở, là lỗi tại mình. Anh chỉ tiếc một điều là vì việc này mà anh phải giải tán công ty (để chấm dứt mọi quan hệ giữa ông với ông Kỳ và bà Kim).



                    Một tấm hình không rõ nguồn gốc được phổ biến trên Internet, trong đó có hai cựu Tư lệnh KQ
                    Nguyễn Xuân Vinh, Nguyễn Cao Kỳ, bà Nicole Kim, và LT (đánh dấu chữ X)
                    . Không có ghi chú về
                    thời điểm nhưng chắc chắn phải là trước khi LT về VN thả truyền đơn lần thứ nhất (1992)

                    Rất có thể một số độc giả cho rằng ông Ân nói với tôi như thế để ra vẻ mình là một người cao thượng, nhưng riêng tôi hân hạnh được ông coi như một người em cho tới những ngày cuối đời, tôi hiểu ông và tin ông nói thật lòng.

                    * * *

                    Buổi gặp gỡ giữa vị luật sư Thái Lan và ông Ân diễn ra rất tốt đẹp, phần tôi chỉ ngồi nghe.

                    Ông luật sư có những nét lai Ấn-độ nhưng nói tiếng Anh rất dễ nghe (chứ không chói tai như nhân vật Apu trong phim tập hoạt họa The Simpsons). Ông cho biết ông nhận lời ông Ân chỉ vì qua theo dõi vụ án ông rất cảm phục LT, thù lao đối với ông chỉ là chuyện phụ.

                    Cái khó khăn là làm sao trong phiên tòa ngày mai LT đồng ý để ông đại diện, có như thế các phiên sơ thẩm sắp tới mới thể diễn ra như nhà cầm quyền Thái Lan mong muốn, và khi ấy việc dẫn độ LT Việt Nam để xét xử theo yêu cầu của nhà cầm CSVN sẽ bị tạm dẹp sang một bên.

                    Qua ngày hôm sau, theo thông báo thì 10 giờ sáng tòa bắt đầu xử nhưng mới 7 giờ ông Ân đã hối ông Tửng và tôi đi bộ ra chợ ăn sáng rồi kêu xe tuk tuk tới tòa, cách đó khoảng 2, 3 km.

                    Khoảng 9 giờ, phái đoàn người Việt từ Hoa Kỳ gần 20 người đã tề tựu đông đủ dưới cái mái ở bên phải sân trước tòa án, nơi giới truyền thông, thân nhân, dân chúng có thể ngồi chờ trên những băng ghế.

                    Như đã viết, phái đoàn người Việt từ Hoa Kỳ sang Rayong lần này, theo lời ông Ân, đông chưa từng thấy, không chỉ vì đây là phiên dự thẩm cuối cùng mà còn vì sự lo ngại biết đâu trước sự “ương ngạnh” của LT, nhà chức trách Thái Lan sẽ cho dẫn độ anh về Việt Nam theo yêu cầu của chế độ cộng sản Hà Nội, thì đây sẽ là chuyến thăm viếng sau cùng để... tiễn chân!

                    Về phía truyền thông, tôi không để ý từ Mỹ có những ai, chỉ biết có cô Thanh Trúc của đài phát thanh Á Châu Tự Do (RFA) từng sang Rayong nhiều lần, và mấy nhà báo Thái Lan của hai tờ Anh ngữ The Bangkok Post và The Nation tới từ Bangkok.

                    Trong lúc chờ đợi, chúng tôi chụp hình kỷ niệm và trò truyện, qua đó tôi được biết quỹ yểm trợ LT ở Hoa Kỳ lên tới cả trăm ngàn đô-la cho nên trong việc mướn luật sư tư biện hộ cho LT tiền bạc không thành vấn đề mà điều quan trọng là LT có chấp nhận vị luật sư hay không!

                    Gần 10 giờ, LT được chở tới tòa bằng một chiếc xe bít bùng cùng với vài phạm nhân hình sự khác. Tất cả mặc quần áo tù hình sự gồm cái áo ngắn tay không cổ và cái quần đùi dài tới đầu gối màu nâu đỏ, hai chân bị xiềng với nhau bằng một sợi xích khá lớn.

                    LT và các phạm nhân được đưa vào khu nhà tạm giam phía sau tòa án, riêng LT có cảnh sát hộ tống hai bên nên không ai có thể tới gần, chỉ đứng cách xa mấy mét vẫy chào, gọi tên LT và anh tươi cười đưa tay lên chào lại.

                    So với ngày sang thăm Úc trước đó hơn ba năm, LT gầy và già đi thấy rõ. Khi tôi gọi tên anh, anh quay sang nhìn tôi và nói “Khỏe không?”, không hiểu vì anh nhận ra tôi hay chỉ là câu chào hỏi chung chung?



                    LT được đưa tới tòa án Rayong

                    Sau khi tất cả phạm nhân được đưa vào khu tạm giam, mọi người mới được vào phòng xử; phòng xử TL nằm ở phần trước tòa nhà, khá rộng rãi. Mặc dù có lệnh tuyệt đối cấm thu băng, chụp hình, tôi vẫn ngồi ở một ghế sát lối đi để tìm cơ hội chụp hình.

                    Kết quả, khi LT từ cuối phòng xử đi lên, với cái máy ảnh bỏ túi dấu phía trong vạt áo veston, tôi đã lén chụp được một tấm hình từ phía sau. Dù chỉ là chụp phóng chừng, tôi cũng may mắn lấy được trọn vẹn đôi chân bị xiềng của LT với hậu cảnh là cái bục của tòa án, quan tòa, hình vua Thái Lan trên tường... cho biết đây là một tấm hình chụp trong tòa bất chấp lệnh cấm của tòa (rất tiếc tấm hình này sau khi đăng báo, nhân viên tòa soạn đã để thất lạc).

                    Diễn tiến phiên tòa được tôi lén thu băng bằng cái máy micro-cassette dấu trong túi áo sơ-mi.

                    * * *

                    Phiên tòa diễn ra khá sôi nổi nhưng cũng không có gì hấp dẫn. Sôi nổi bởi vì “bị cáo” (LT) không chỉ nói dài nói dai mà có khi còn ngắt lời quan tòa, cướp lời luật sư biện hộ, khiến anh bị quan tòa cảnh cáo nhiều lần. Không có gì hấp dẫn vì LT cứ lập đi lập lại mình là một nhà tranh đấu cho nhân quyền cho nên đây không phải là một vụ án hình sự mà là vụ án chính trị, xét xử một chiến sĩ nhân quyền!

                    LT cũng lập lại yêu cầu phải cho viên phi công Thira ra tòa đối chất với mình, bởi anh khẳng định anh chỉ thuyết phục, mua chuộc Thira bay sang không phận Việt Nam chứ không đe dọa tính mạng. Khi quan tòa trả lời viên phi công này sẽ chỉ ra tòa sơ thẩm, tức là các phiên tòa xét xử TL về ba tội danh cáo buộc, anh đã cực lực phản đối và bị quan tòa ra lệnh ngồi xuống!

                    Cứ mỗi lần LT ngắt lời quan tòa, ở dưới này ông Ân ngồi cạnh tôi lại than trời!

                    Phải là một người khách quan hiện diện tại tòa mới thấy được thái độ ngạo mạn của LT. Anh mang theo một tập hồ sơ rất dày, vừa nói vừa trưng ra những điều được ghi trong Tuyên ngôn quốc tế về Nhân quyền hoặc Công pháp quốc tế, v.v..., ý muốn nói quan tòa... dốt!

                    Tới giờ giải lao 15 phút, LT được phép xuống phía dưới thảo luận, trao đổi với chúng tôi và luật sư biện hộ. Nói là thảo luận, trao đổi nhưng trên thực tế ông Ân khuyên cái gì, luật sư nói điều gì LT cũng bác bỏ.

                    Có lúc anh còn lớn tiếng với “Sư phụ” khiến ông Tửng phải xen vào, nói “LT, em không được vô lễ với anh Ân như thế”. Luật sư khuyên tới khuyên lui, LT đốp chát “You know nothing” khiến ba người chúng tôi phải lắc đầu!

                    Gần hết giờ giải lao, LT có vẻ hòa hoãn hơn, anh đưa cho ông Ân một xấp giấy khoảng 10 tờ vừa chữ in vừa viết tay (của LT) nhờ ông ra tiệm photocopy để trao cho luật sự biện hộ, và tôi đã tình nguyện làm công việc này vì ông Ân cần ở lại trong tòa để theo dõi diễn tiến.

                    Ông Ân từng tới tòa án Rayong nhiều lần, chỉ cho tôi tiệm photocopy cách tòa khoảng 500 mét. Khi tôi trở về cảnh sát không cho vào tòa, phải ngồi chờ ở phía ngoài.

                    Phiên xử kết thúc khoảng 1 giờ trưa. LT được đưa trở lại khu nhà tạm giam. Tại đây các phạm nhân được phép ra sân trò chuyện với thân nhân qua một hàng rào lưới thép trong thời gian 30 phút. Trước khi cô Thanh Trúc phỏng vấn LT, tôi yêu cầu anh nói đôi lời chào hỏi đồng hương ở Úc và cám ơn sự hỗ trợ tinh thần cũng như vật chất, để tôi gửi về Úc cho kịp buổi phát thanh lúc 7 giờ tối của SBS Radio...

                    * * *
                    Trở về khách sạn tôi lấy cái laptop ra cặm cụi đánh báo cáo. Tôi “mổ cò” tới chiều mới xong, ông Ân đưa tôi và ông Tửng xuống phố tìm một tiệm Internet để gửi báo cáo đi các nơi.

                    Xong công tác, ba anh em đi vòng vòng để tìm mua cái đồ khui rượu vang (wine opener) để khui chai vang đỏ ba anh em sẽ uống tối nay, vì ngày ấy hầu hết các chai rượu vang ngon vẫn sử dụng nút bần (cork) chứ chưa sử dụng nút vặn (screw cap) như hiện nay. Đây là một trong hai chai vang đỏ Bordeaux ông Tửng mang từ Pháp sang.

                    Đi hết một dãy phố mà vẫn không tìm ra được một tiệm nào bán đồ khui rượu, hỏi họ có biết chỗ nào bán không họ cũng lắc đầu. Ông Tửng bực mình:

                    -ĐM, chắc dân Thái Lan không biết uống rượu vang cho nên mới không bán đồ khui... Tao bảo đảm với tụi mày hồi nãy mình hỏi mua cái đồ khui tụi nó cũng không hiểu mình hỏi cái gì!

                    Cũng xin mở ngoặc để nói về thói quen “xổ tiếng Đan Mạch” của ông Tửng. Trước năm 1975, cứ theo lời đồn trong Không Quân, vị chỉ huy “xổ tiếng Đan Mạch” nhiều nhất không ai khác hơn là Trung tướng Tư lệnh Trần Văn Minh, tới mức trong KQ người ta đặt cho ông nickname Minh “đù”; còn bên ngoài quân chủng, ông được gọi một cách lịch sự là Minh “đen” để phân biệt với Trung tướng Nguyễn Văn Minh, Tư lệnh Quân Đoàn III là Minh “đờn”, Trung tướng Trần Văn Minh (Lục quân) là Minh “nhỏ”, và Trung tướng Dương Văn Minh là Minh “lớn” (người Mỹ gọi là “big” Minh).

                    Trước năm 1975, tôi không phục vụ tại BTL/KQ nên không biết trên thực tế vị Tư lệnh sau cùng của quân chủng “xổ tiếng Đan Mạch” thường xuyên tới mức nào nhưng sau hai ngày gặp ông Tửng, tôi cho rằng cũng chỉ bằng vị niên trưởng này là cùng!

                    Tôi nói:

                    - Khỏi tốn công tìm nữa hai anh. Em có cách mở rượu vang không cần đồ khui.

                    Ông Tửng nghi ngở:

                    - Thiệt không mày?

                    - Dạ, em bảo đảm mà!

                    Rồi ba anh em đi về khách sạn; về tới khu bán thức ăn chơi (bên cạnh một sân khấu lộ thiên) ông Ân dắt tôi và ông Tửng vào để mua “mồi”. Tới một quầy bán đồ chiên, tôi và ông Tửng hết sức ngạc nhiên khi thấy cô bán hàng vừa nói tiếng Thái tíu tít vừa tươi cười săn đón, mời mọc ông Ân, và ông cũng đáp lại bằng tiếng Thái.

                    Công tâm nhận xét, cô bán hàng cũng không còn trẻ mà phải trên dưới 40. Cô khá đẹp, làn da trắng muốt chứ không rám nắng như đa số đàn bà con gái Thái cho nên tôi nghi tổ tiên của là người Hoa hoặc lai Trung Hoa.

                    Điều đáng nói cô ta không chỉ tươi cười săn đón ông Ân như một khách hàng bình thường mà trong ánh mắt nụ cười của cô còn có cái gì đó rất khó diễn tả.

                    Quan sát các món chiên, ông Tửng chấm ngay món đuông chiên vàng béo ngậy mà tôi không biết là loại đuông gì. Ông Ân mua một chén (bỏ vào bịch ni-lông), ông Tửng nói mua thêm chén nữa; tôi thì chỉ thích thịt nên mua mấy miếng gà chiên.

                    Vừa về tới khách sạn, ông Tửng lấy ngay chai rượu ra nói:

                    - Đâu mày mở biểu diễn cho tao coi!

                    Lúc đó tôi chưa biết cách mở rượu vang bằng cách lấy đế giày dộng vào đít chai mà chỉ biết sử dụng đầu lớn của đôi đũa đẩy cái nút chai lọt vào bên trong chai, trông không thẩm mỹ một chút nào cả. Dù vậy ông Tửng cũng phục sát đất:

                    - ĐM, thằng nhỏ Bắc kỳ này sao cái gì nó cũng biết vậy ta!

                    Từ lúc tới Rayong, đây là bữa ăn thoải mái đầu tiên của chúng tôi, đầu óc không còn bị căng thẳng vì những việc liên quan tới LT, cho nên ba anh em vừa ăn uống vừa nói chuyện vui vẻ. Tôi có cái tật thích chọc ghẹo người khác, thấy ông Tửng ưa cằn nhằn tôi càng thích chọc:

                    - Anh Tửng, hôm qua đánh báo cáo gửi đi em có một thắc mắc mà chưa kịp hỏi anh: xưa nay dân Nam kỳ kỵ húy chúa Nguyễn Phúc nên chữ “Phúc” được viết thành “Phước”, vậy tại sao tên anh không phải Nguyễn Phước Tửng mà lại là Nguyễn Phúc Tửng?

                    Ông Ân nghe tôi nói có lý quá cũng phụ họa:

                    - Ờ ngộ hén, phải là Nguyễn Phước Tửng chớ!

                    Ông Tửng bị bí, tức mình cãi cối:

                    - Nhưng ông già tao thích đặt tên cho tao là Nguyễn Phúc Tửng tụi mày tính sao đây!

                    Cứ như thế ba anh em vừa ăn uống vừa tán dóc; riêng hai chén đuông chiên, gần như ông Tửng thầu hết...

                    Sáng hôm sau tôi quần áo chỉnh tề sang phòng hai đàn anh để chuẩn bị đi nhà tù Rayong thăm LT như đã hẹn trước với phái đoàn người Việt từ Hoa Kỳ thì thấy ông Tửng vẫn ngồi trên giường, mặt mũi bơ phờ.

                    Thì ra đêm hôm qua đàn anh bị Tào Tháo rượt suốt đêm vì đã một mình xơi tới nửa ký đuông chiên!

                    Báo hại ông Ân phải điện thọai xin lỗi phái đoàn và hướng dẫn họ thủ tục thăm tù trước khi lội bộ xuống phố Rayong tìm mua thuốc trụ sinh cho ông Tửng. Cũng may mà các nhà thuốc tây ở Rayong cũng bán thuốc thoải mái như ở Việt Nam trước năm 1975, nghĩa là không cần phải có toa bác sĩ.

                    Sau khi uống thuốc, tới khoảng 11 giờ, ông Tửng cho biết mình đã cảm thấy khỏe và nhất định đòi đi thăm LT, hy vọng phái đoàn người Việt còn ở đó.

                    Khuyên can không được, ông Ân đành đưa chúng tôi xuống phố kêu tuk tuk đi vào nhà tù Rayong.


                    Tới nơi chẳng những không gặp đoàn người Việt (đã ra về) mà còn không được gặp LT vì nhân viên nhà giam viện lý do hết giờ thăm mặc dù lúc đó mới hơn 12 giờ trưa. Sau này chúng tôi được biết vì LT gây sự với đám cai ngục nên mới sinh chuyện.

                    Đợi cả nửa tiếng đồng hồ không có tuk tuk, chúng tôi đành phải đi xe ôm. Như đã viết ở trên, tài xế taxi, tuk tuk, xe ôm ở Thái Lan hầu như ai cũng chạy quá tốc độ ấn định, ông Tửng lại ngồi xe của một tay thích... lạng cho nên về tới chợ Rayong mặt ông không còn một hột máu, phải ngồi nghỉ ở một băng ghế để hoàn hồn!

                    Sợ tôi lại chọc đàn anh của mình, ông Ân kéo tôi ra xa nói nhỏ, giải thích sở dĩ ông Tửng yếu như thế là vì mới mổ tiền liệt tuyến được hơn hai tuần. Nghe vậy tôi càng thêm kính mến vị niên trưởng thuộc hàng khai quốc công thần của quân chủng!

                    Sau khi ông Tửng nghỉ mệt một hồi, chúng tôi đi vòng vòng chợ Rayong. Tới trước một cửa hàng bán sỉ sầu riêng, từng đống xếp cao mấy mét, ông Tửng dừng lại, nói:

                    - Chà sầu riêng đã quá, vô hỏi xem họ có bán lẻ mua mấy trái về khách sạn ăn, Ân!

                    Ông Ân đáp:

                    - Tui sợ khách sạn không cho đem vô đâu!

                    Thấy mặt ông Tửng tiu nghỉu, ông Ân nói:

                    - Để tui hỏi mấy bả bán cho mình mấy trái ăn tại chỗ được không.

                    Nói xong ông Ân bước vào cửa hàng vừa lấy tay ra dấu vừa bập bẹ tiếng Thái, hai phụ nữ bán hàng ra vẻ rất hiếu khách, vui vẻ gật dầu, ông Ân liền vẫy tay gọi chúng tôi vào. Dĩ nhiên, tôi từ chối!

                    thể nói tôi là một trong những tay Bắc kỳ 54 bị “Nam kỳ hóa” hơn ai hết (do những năm tháng sống ở Tha La xóm đạo, Trảng Bàng, Tây Ninh hồi mới vô Nam) nhưng lại không biết ăn, thậm chí không chịu nổi mùi sầu riêng!

                    Vì thế tôi phải bỏ đi chơi vòng vòng khoảng nửa tiếng đồng để hai đàn anh Nam kỳ ăn sầu riêng cho thỏa thích. Ăn xong, ông Tửng ra vẻ đã lấy lại phong độ, không chịu về khách sạn mà nói ông Ân đi tới khu bán thức ăn chơi (mà tối hôm qua chúng tôi đã mua đuông chiên) tìm hiểu thêm về những món ăn đặc biệt của Thái Lan, nhân tiện mua thức ăn cho bữa trưa, bữa chiều.

                    Các bà bán hàng tại đây hình như ai cũng biết ông Ân và tỏ ra rất có cảm tình, vồn vã. Thấy bữa nay có thêm hai người nữa, họ hỏi tới hỏi lui, dù ngôn ngữ bất đồng chúng tôi cũng hiểu mấy bả hỏi tụi tôi là người nước nào?

                    Ông Ân nói mấy bả thử đoán xem thì họ đoán ông là người Nhật, ông Tửng là người Tàu, còn tôi đen đủi xí trai lại để ria mép nên họ nói tôi là người Indonesia. Buồn 5 phút!

                    Sau khi đi một vòng và mua thức ăn, trên đường trở về khách sạn, đi ngang quầy bán đồ chiên mà hôm trước chúng tôi mua đuông, cô bán hàng vừa thấy chúng tôi là vồn vã chỉ vào khay đuông chiên mời mọc. Ông Ân lắc đầu quầy quậy, tay chỉ vào những túi thức ăn chúng tôi đã mua nhưng người đẹp vẫn tặng “free” cho chúng một hai món đồ chiên khác.

                    Đi được một quãng, ông Tửng nói với ông Ân, tôi biết là nói đùa nhưng nghe cũng rất... ấm lòng:

                    -Ê Ân, coi bộ chị nhỏ đó mết mày dữ à, mà tao thấy coi cũng được quá đi chớ, hay là mày ở lại Rayong luôn cho rồi!

                    Ông Ân chỉ cười.

                    (Còn tiếp)
                    Last edited by Nguyen Huu Thien; 06-20-2025, 03:34 AM.

                    Comment



                    Hội Quán Phi Dũng ©
                    Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




                    website hit counter

                    Working...