BUỒN VUI ĐỜI LÍNH... VĂN PHÒNG (Phần 3)

Collapse
X

BUỒN VUI ĐỜI LÍNH... VĂN PHÒNG (Phần 3)

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts
  • Nguyen Huu Thien
    Moderator

    • Jul 2014
    • 1140

    BUỒN VUI ĐỜI LÍNH... VĂN PHÒNG (Phần 3)

    BUỒN VUI ĐỜI LÍNH... VĂN PHÒNG (Phần 3)

    Hồi ký
    Nguyễn Hữu Thiện




    Phần 3:
    “Một Ngày Không Quân - Một Đời Không Quân”


    ĐÔI DÒNG PHI LỘ

    Thiên hồi ký Buồn Vui Đời Lính Văn Phòng của tôi lúc ban đầu dự trù gồm hai phần, kết thúc với hồi tưởng việc đốt phá CCKQ Biên Hòa và cuộc di tản chiều 28, sáng 29/4/1975, nhưng nay nghĩ lại tôi thấy không thể không viết Phần 3, bởi vì “Một ngày Không Quân - Một đời Không Quân” (tựa đề một bài viết của một vị niên trưởng trong quân chủng).

    Sau gần sáu năm trong ngục tù cộng sản, một năm sống ở trại tỵ nạn, từ khi định cư tại Úc cuối năm 1982, tôi đã có nhiều cơ hội tiếp tục công việc của một người lính CTCT trong quân chủng Không Quân ngày trước, đáng kể nhất là việc được nằm trong Ban biên tập đặc san Lý Tưởng (Úc Châu), Ban biên soạn quyển Quân Sử Không Quân VNCH (2005), và cộng tác với Ban điều hành Hội Quán Phi Dũng.

    Qua những công việc nói trên, tôi không chỉ liên lạc với cựu Chuẩn tướng Từ Văn Bê ở Hoa Kỳ mà còn may mắn được gặp gỡ, tiếp xúc (trực tiếp hoặc qua thư từ) với nhiều vị niên trưởng, từ hàng khai quốc công thần cho tới các vị chỉ huy thuộc thế hệ thứ hai trong quân chủng, như Nguyễn Xuân Vinh, Võ Dinh, Vũ Văn Ước, Vũ Thượng Văn, Trần Phước, Nguyễn Phúc Tửng, Phùng Văn Chiêu, Nguyễn Hồng Tuyền, Trần Phước Hội, Võ Văn Ân, Trần Bá Hợi, Lê Như Hoàn, Trần Mạnh Khôi, Nguyễn Thiện Ân (Hiệp sĩ mù), Đỗ Văn Hiếu, Võ Ý... Gần đây nhất là hai niên trưởng Nguyễn Văn Chín, nguyên Tham mưu phó Hành Quân SĐ4KQ, và niên trưởng Nguyễn Phú Chính, nguyên Phi đoàn trưởng Phi Đoàn 237, SĐ3KQ.

    Những buổi gặp gỡ, những dịp tiếp xúc ấy không chỉ giúp tôi có thêm kiến thức về ngành hàng không quân sự nói chung, về KLVNCH nói riêng, mà còn đem lại cho bản thân những niềm vui tinh thần tưởng như không bao giờ có thể có sau ngày nước mất nhà tan.

    Vì thế, phần 3 của thiên hồi ký này xin được xem như nén hương lòng tưởng nhớ những vị đã vĩnh viễn ra đi, một bông hồng gửi tới những vị còn tại thế thay cho lời cám ơn về những ưu ái chiếu cố dành cho một tay sĩ quan CTCT Không Quân thuộc hàng hậu bối nhưng không bao giờ quên màu cờ sắc áo quân chủng.



    * Những ngày cuối cùng ở Biên Hòa

    Vào những tháng cuối năm 1974, những ai quan tâm tới tình hình chiến sự tại miền Nam VN đều nhận ra sự thật phũ phàng: phe cộng sản chỉ xem Hiệp Định Ba-lê 1973 như tờ giấy lộn, còn “đồng minh” Hoa Kỳ thì sau khi rút quân “trong danh dự” và tù binh Mỹ được cộng sản Bắc Việt trao trả đã phủi tay.

    Không chỉ phủi tay, Hoa Kỳ còn nhắm mắt trước những vụ vi phạm trắng trợn của phe cộng sản. Được Quốc Hội Mỹ (do phe Dân Chủ phản chiến thao túng) ngầm cam kết sẽ không cho phép Không Lực Hoa Kỳ đưa B-52 trở lại chiến trường Việt Nam, các lực lượng chính quy của cộng sản Bắc Việt ở miền Nam (lẽ ra đã phải rút về Bắc theo Hiệp Định) đã mở những cuộc tấn công quy mô vào các vị trí của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

    Tới cuối năm 1974 đầu năm 1975, để biết chắc chắn Hoa Kỳ đã phủi tay cũng như để thăm dò dư luận quốc tế trong đó có những quốc gia đặt bút ký vào Hiệp Định Ba-lê 1973, cộng sản xua quân đánh chiếm tỉnh lỵ Phước Long.

    Kết quả, Hoa Kỳ ngoảnh mặt làm ngơ, cả “thế giới tự do” hoặc im lặng hoặc trở thành đồng lõa của cộng sản Bắc Việt.

    Tình hình chiến sự ngày càng tồi tệ, một bầu không khí căng thẳng bao phủ khắp miền Nam. Sau này nhìn lại, tôi tin chắc các nhà lãnh đạo miền Nam lúc đó đã biết trước kết cuộc bi thảm của chế độ VNCH, nhưng vẫn cố gắng còn nước còn tát!

    Bộ Tư Lệnh Không Quân, trước việc bom đạn, nhiên liệu bị cắt giảm tối đa hẳn cũng biết điều đó; về phần các vị chỉ huy các đơn vị KQ có biết hay không, tôi không đoán được nhưng tới khi mất CCKQ Đà Nẵng thì chắc chắn phải biết.

    * * *

    Những trang sử đen tối của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa bắt đầu vào đêm 28 rạng 29 tháng 3 năm 1975 khi Sư Đoàn 1 KQ bỏ Đà Nẵng không một lời từ biệt.

    Tôi viết "bỏ" Đà Nẵng vì không biết sử dụng chữ nào khác cho thích hợp. Viết là “tháo chạy” không đúng vì đâu có “đụng” địch (chỉ bị ăn pháo kích), viết là “di tản” lại càng không đúng vì đâu có lệnh lạc gì mà mạnh ai ấy chạy!

    Vì sau này tại hải ngoại đã không có một vị sĩ quan cao cấp nào của SĐ1KQ viết đầy đủ về cuộc “bỏ Đà Nẵng” bi thảm ấy, tôi chỉ biết tìm hiểu qua những bài viết của các nhân chứng sống, gồm:

    - Huế, Đà Nẵng Những Ngày Tàn Cuộc Chiến của KQ Phan Văn Phúc (chuyên mục Truyện VNAF, Hội Quán Phi Dũng)

    - Những ngày cuối cùng tại phi trường Đà Nẵng của KQ Võ Văn Be (chuyên mục Truyện VNAF, Hội Quán Phi Dũng)

    - ĐÀ NẴNG NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG, trích nhật ký của Đại úy Lam Hà, Tùy viên Trung tướng Ngô Quang

    https://dongsongcu.wordpress.com

    và lời thuật lại của một người bạn hoa tiêu quan sát phục vụ tại Phi Đoàn 110 cất cánh vào giờ thứ 25 , tôi mới biết nguyên nhân chính là quân cộng sản được các nhà sư nằm vùng hướng dẫn (?) đã chiếm Huế và tiến về Đà Nẵng quá nhanh khiến mọi người không kịp trở tay.

    Riêng bên Không Quân, nhờ Thiếu tướng Tư lệnh phó Võ Xuân Lành, trước đó mấy ngày đã chỉ thị và đích thân đôn đốc việc sử dụng C-130 di tản gia đình quân nhân KQ về Tân Sơn Nhất, đã có một số người may mắn rời Đà Nẵng một cách an toàn.

    Đêm 28/3/1975, quân cộng sản gia tăng pháo kích dữ dội. Không nhận được bất cứ lệnh lạc nào của thượng cấp, nhiều hoa tiêu đang có mặt trong phi trường đã quyết định cất cánh bay về phương nam...

    Người ta không biết Chuẩn tướng Nguyễn Đức Khánh, Tư lệnh SĐ1KQ, rời phi trường vào lúc nào, bằng phương tiện gì, chỉ biết ông đã tới "lánh nạn" ở Đài kiểm báo Sơn Chà. Nhật Ký của Đại úy Lam Hà, Tùy viên của Trung tướng Ngô Quang Truởng, viết:

    ...Hôm nay, ngày 23 tháng 10, năm 2010, tôi đi dự lễ tiễn đưa Đại tá Đặng Văn Phước về nơi an nghỉ cuối cùng. Ông là Không Đoàn Trưởng Không Đoàn 51, và chính ông là người đã nhận tín hiệu của tôi qua cái đèn bấm và cái Samsonite, ông đã can đảm đáp xuống cột cờ Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng 1 Duyên Hải để cứu Trung tướng Ngô Quang Trưởng Tư Lịnh Quân Đoàn I và tôi, ra khỏi vùng nguy hiểm vào khoảng 2 giờ sáng ngày 29 tháng 3 năm 1975.

    Sau đó chúng tôi ghé núi Sơn Chà bốc Chuẩn Tướng Khánh, Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Không Quân, rồi trực chỉ phi trường Non Nước để nhập cùng anh em Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam... (ngưng trích)

    Chính vì chẳng có lệnh lạc gì, Đại tá Nguyễn Bình Trứ, Không đoàn trưởng Không Đoàn 10 Bảo Trì & Tiếp Liệu, mới bị kẹt lại.

    KQ Võ Văn Be viết:

    ...Khoảng 4, 5 giờ sáng, tiếng pháo kích bớt dần, không biết VC hết đạn hay chỉ nghỉ mệt? Tôi thấy Đại tá Nguyễn Bình Trứ, Không đoàn trưởng Không Đoàn 10 Bảo Trì & Tiếp Liệu, mặc đồ trận màu xanh lái chiếc xe jeep đậu trước xưởng chúng tôi, đối diện xưởng là văn phòng của Liên Đoàn Bảo Trì Cấp Căn Cứ, tôi chạy lại chào và hỏi “Thưa Đại tá tình trạng của tụi em làm sao?”. Đại tá không nói, hỏi lại tôi “Anh có gặp Thiếu tá Cừ không?”. Tôi thưa “Không”. (Thiếu tá Nguyễn Văn Cừ là LĐT Liên Đoàn Bảo Trì Cấp Căn Cứ)

    Sau này được biết Đại tá Nguyễn Bình Trứ bị rớt trực thăng và đã mất. Riêng Thiếu tá Cừ thì lên được một chiếc C-7 Caribou; sau đó tôi đã gặp lại ông ở hậu cứ SĐ1KQ ở Tân Sơn Nhất... (ngưng trích)

    * * *

    Việc mạnh ai nấy bỏ chạy tại phi trường Đà Nẵng, trong đó có những hoa tiêu tử nạn khi cất cánh vì pháo kích, trên đường đi vì cạn nhiên liệu, vì hỏa lực địch hay hỏa lực “bạn”, hoặc bị kẹt lại và lọt vào tay quân địch, đã gây chấn động trong Không Quân, và dĩ nhiên Chuẩn tướng Nguyễn Đức Khánh, Tư lệnh SĐ1KQ, bị quy trách “bỏ mặc đàn em để thoát thân”. Nghe nói sau đó BTKL/KQ đã phải tìm một nơi trú ngụ "an toàn" cho ông trong căn cứ TSN.



    Các quân nhân SĐ1KQ bên cạnh một trong hai chiếc Boeing 727 của World Airways
    được chính phủ Mỹ mướn để di tản nhân viên (hình chụp ngày 25/3/1975)


    Xác người lính SĐ1KQ bị kẹp chết trong hệ thống bánh đáp của chiếc Boeing 727
    (hình chụp ngày 29/3/1975)


    Về số phận của Đại tá Nguyễn Bình Trứ, mấy chục năm sau tại hải ngoại, một vị sĩ quan thuộc SĐ1KQ đã bỏ công tìm gặp các nhân chứng, ở hải ngoại trong cũng như trong nước, xác định được vị trí chiếc trực thăng bị bắn rơi tại bờ biển, và nơi dân chúng chôn cất ông; hiền nội của vị Đại tá vắn số đã từ Úc về VN tìm được vị trí và cải táng di cốt của chồng.

    Còn trong suốt mấy chục năm trước đó, mọi người trong đó có Chuẩn tướng Từ Văn Bê vẫn nuôi hy vọng ông Nguyễn Bình Trứ bị quân cộng sản bắt sống.

    * * *

    Ngày ấy, việc vị Đại tá Không đoàn trưởng Không Đoàn 10 Bảo Trì & Tiếu Liệu bị mất tích khi rời bỏ Đà Nẵng đã khiến ông sếp của tôi, Chuẩn tướng Từ Văn Bê, bị sốc nặng.

    Bởi vì trong thời gian phục vụ dưới trướng của ông, tôi được biết hai người bạn thân nhất của ông trong quân chủng chính là hai cựu “đồng môn” Salon-de-Provence: Đại tá Nguyễn Quang Tri và Đại tá Nguyễn Bình Trứ.

    Trước hết viết về Đại tá Nguyễn Quang Tri, ông là một trong những phi công khu trục đầu tiên của KQVN tốt nghiệp tại Pháp, cùng thời với các ông Nguyễn Ngọc Loan, Hà Xuân Vịnh, Lưu Văn Đức nhưng về nước sau vì phải ở lại học thêm một khóa hoa tiêu phản lực (theo lời Đại tá Tri, ông Nguyễn Ngọc Loan cũng học khóa này nhưng chưa xong thì bị triệu hồi về nước vì lúc đó KQVN rất thiếu cấp chỉ huy).

    Năm 1960, NT Nguyễn Quang Tri cũng là một trong sáu phi công khu trục đầu tiên được chọn sang Hoa Kỳ xuyên huấn A-1 Skyraider.

    Ông là vị chỉ huy trưởng đời thư tư của Phi Đoàn 1 Khu Trục (tiền thân của Phi Đoàn 514), sau các ông Huỳnh Hữu Hiền, Hà Xuân Vịnh, Lưu Văn Đức, và cũng là người giữ chức vụ này lâu nhất (1960-1963).



    Trung úy Nguyễn Quang Tri, thứ hai từ phải, trong một chuyến thăm Hoa Kỳ vào năm 1959


    Sau cuộc đảo chánh lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm vào tháng 11/1963, Thiếu tá Nguyễn Quang Tri được lệnh bàn giao chức vụ cho Thiếu tá Võ Xuân Lành; đường công danh sự nghiệp của ông tới đây coi như chấm dứt.

    Sau này dù có “bò” lên tới cấp bậc đại tá, chức vụ của ông Nguyễn Quang Tri chỉ là Phụ tá Phòng Không tại BTL/KQ, một chức vụ hữu danh vô thực vì miền Nam VN lúc đó không có nhu cầu và cũng chẳng có một lực lượng “phòng không” đúng nghĩa.

    Ngồi chơi xơi nước ở TSN, Đại tá Nguyễn Quang Tri thường điện thoại về Biên Hòa trò chuyện với ông Từ Văn Bê; có lần tôi có mặt ở văn phòng đã... hết hồn khi nghe hai ông Đại tá “mày tao” với nhau; sau này ra hải ngoại nghe Đại tá Tri kể chuyện, tôi mới biết hai ông là bạn thân từ hồi trung học, “mày tao” với nhau cho tới cuối đời.

    Còn Đại tá Nguyễn Bình Trứ thì vào trường Võ Bị Không Quân Pháp Salon-de-Provence sau ông Bê và ông Tri một năm (1954), tức là cùng năm với Chuẩn tướng Nguyễn Đức Khánh, Tư lệnh SĐ1KQ. Từ trường Salon-de-Provence, ông Nguyễn Bình Trứ cũng nối gót ông Từ Văn Bê tới Rochefort và tốt nghiệp Kỹ sư Hàng không.

    Tôi không được biết ông Từ Văn Bê và ông Nguyễn Bình Trứ xưng hô với nhau ra sao, chỉ biết trong số sáu ông Không đoàn trưởng Không Đoàn Bảo Trì & Tiếp Liệu ở sáu Sư Đoàn Không Quân, ông Bê thân thiết, mến phục ông Trứ nhất. Một phần vì là “đồng môn” Salon-de-Provence / Rochefort, một phần vì (theo lời ông Bê) ông Trứ khi làm việc thì hết mình và khi chơi cũng... tận mạng!



    Đại tá Nguyễn Bình Trứ ngày còn mang cấp bậc Thiếu tá, với anh em kỹ thuật
    trong một buổi party Việt-Mỹ tại Đà Nẵng


    Cựu Đại tá Nguyễn Quang Tri và phu nhân cố Đại tá Nguyễn Bình Trứ
    trong một buổi hội ngộ "cựu Salon-de-Provence" tại Hoa Kỳ


    Trở lại với cuộc bỏ chạy hỗn loạn (và bi thảm) tại phi trường Đà Nẵng vào cuối tháng 3/1975. Tin tức được loan truyền đã gây xôn xao, chấn động trong Không Quân, và phần lớn dư luận đã quy trách cho Chuẩn tướng Nguyễn Đức Khánh, Tư lệnh SĐ1KQ, tội “bỏ mặc đàn em để thoát thân”.

    Trước tình hình ấy, để trấn an tinh thần quân nhân các cấp, BTL/KQ đã cho phổ biến rộng rãi một nhật lệnh khẩn tới các đơn vị KQ theo đó tất các sĩ quan giữ chức vụ chỉ huy phải có mặt 24/24 tại đơn vị, và trong trường hợp di tản sẽ là người sau cùng rời đơn vị.

    Giữa tháng 4/1975, Việt Cộng gia tăng pháo kích phi trường Biên Hòa, không chỉ bằng hỏa tiễn 122 ly mà còn có cả đại bác 130 ly; khu gia binh sĩ quan thưa vắng dần, nhưng cũng phải đợi tới tuần lễ sau cùng, khi tất cả phi cơ “fixed wing” (khu trục, quan sát) đã được đưa về Tân Sơn Nhứt hoặc Bình Thủy, vợ tôi mới chịu đưa hai con về Sài Gòn.

    Như sau này mọi người đều biết, khi ký Hiệp Định Ba-lê 1973 người Mỹ đã quyết định bỏ miền Nam VN, chính vì thế lúc đầu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu nhất quyết không ký, cho dù bị tay cáo già Henry Kissinger ra sức gây áp lực.

    [Henry Kissinger là Trưởng phái đoàn Mỹ tại hòa đàm Ba-lê, lúc đó đang giữ chức Cố vấn An ninh Quốc gia của TT Nixon. Sau khi ông Nixon đắc cử nhiệm kỳ thứ hai vào cuối năm 1973, Kissinger kiêm thêm chức Ngoại trưởng]

    Chỉ tới khi TT Nixon cho bà Anna Chennault, vợ góa của cố Trung tướng Không Quân Claire Chennault, phụ nữ gốc Hoa chống cộng có thế lực nhất trên chính trường Mỹ lúc bấy giờ, tới Sài Gòn khuyến dụ TT Thiệu, ông mới chịu ký. (xem Phụ Lục)

    Cũng mãi sau này người ta mới được biết ngày ấy bà Anna Chennault đã bị TT Nixon lợi dụng để lừa gạt TT Thiệu: nói rằng nếu ông Thiệu chịu ký, người Mỹ chỉ rời bỏ (leave) chứ không bỏ rơi (abandon) miền Nam VN, nhưng trên thực tế, sau khi đắc cử nhiệm kỳ 2, ông Nixon đã lạnh lùng bỏ rơi VNCH.

    Sau khi khoanh tay nhìn quân cộng sản trắng trợn vi phạm Hiệp Định Ba-lê đánh chiếm tỉnh ly Phước Long của VNCH vào cuối năm 1974 đầu năm 1975, người Mỹ đã chuẩn bị kế hoạch di tản công dân Mỹ tại Việt Nam.

    Lúc ban đầu, họ dự đoán quân cộng sản sẽ chiếm Sài Gòn vào giữa tháng 5, kịp ăn mừng ngày sinh nhật (tưởng tượng) 19/5 của Hồ Chí Minh, nhưng sau khi quân đội VNCH bỏ Vùng 1 Chiến Thuật, rồi phòng tuyến Phan Rang tan vỡ, họ sợ không di tản kịp nên đã trao cho Không Quân VNCH ngòi nổ để thả một trái bom CBU-55 xuống mặt trận Xuân Lộc vào ngày 12/4/1975 để làm chậm sức tiến quân của CSBV. (Chú thích 1)

    Sự kiện này (thả bom CBU), cùng với tinh thần chiến đấu của binh sĩ Sư Đoàn 18 BB, Lữ Đoàn I Nhảy Dù, Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân... tại mặt trận Long Khánh đã khiến nhiều người lạc quan, trong đó có bản thân tôi, hy vọng quân ta sẽ giữ được Vùng 3 và Vùng 4.

    Vì thế, khi thằng em trai kế chở mẹ tôi vào phi trường Biên Hòa thuyết phục tôi cùng gia đình chạy ra Phú Quốc, tôi đã nổi nóng nặng lời với bà để rồi sau này phải ân hận suốt đời.

    Nguyên mẹ tôi tuy sinh trưởng ở một làng quê nhưng là người có học (bà giáo) và hiểu biết, lại quen nhiều “đấng bậc” trong giáo quyền cho nên ngay sau khi mất Phước Long, bà đã được một vị linh mục cho biết sớm muộn miền Nam cũng sẽ mất về tay cộng sản!

    Sau mấy tuần chờ đợi mà không có tin tức gì về thằng con trai thứ ba phục tại Quân Đoàn II bị mất tích trong cuộc di tản trên liên tỉnh lộ 7, mẹ tôi quyết định đưa cả gia đình ra đảo Phú Quốc lánh nạn, để trong trường hợp tệ hại nhất, toàn bộ miền Nam lọt vào tay cộng sản, thì cũng còn hy vọng tàu bè của Thế Giới tự Do sẽ vào đảo đưa đi di cư như ở miền Bắc năm 1954, cho dù không biết sẽ được đưa đi đâu?!

    Dĩ nhiên, “cả gia đình” có nghĩa là phải có gia đình tôi vì tôi là trưởng nam.

    Trong lòng đang hy vọng quân ta sẽ giữ được Vùng 3 và Vùng 4, nghe mẹ tôi đưa ra kế hoạch “bỏ chạy”, tôi lớn tiếng:

    - Ai nói với mẹ như vậy?! Mẹ muốn đi đâu thì đi, con nhất định ở lại. Quân ta còn đang chiến đấu để giữ Long Khánh, con là sĩ quan CTCT lại bỏ chạy thì còn ra thể thống gì nữa!

    Sau đó tôi còn nói những gì trong cơn tức giận, tôi không thể nhớ. Chỉ biết sau này vợ tôi thường kể lại nàng không bao giờ có thể quên được nét mặt sững sờ
    , ánh mắt tuyệt vọng của mẹ tôi trước sự chống đối kịch liệt của gã trưởng nam.

    Vợ tôi còn trách tôi đã tỏ ra tàn nhẫn tới mức hỗn hào với mẹ của mình. Nàng nhìn bà lủi thủi ra về mà ứa nước mắt!

    (Còn tiếp)


    PHỤ LỤC:

    “Hương-Mai Long-Nữ” ANNA CHENNAULT

    Anna Chennault, tên con gái Chen Xiangmei (Trần Hương-Mai), là người vợ gốc Hoa của Thiếu tướng Không Quân Mỹ Claire Chennault (1890-1958), nguyên Tư lệnh Thập Tứ Không Lực Hoa Kỳ (14th Air Force) đóng ở Côn Minh trong Đệ nhị Thế chiến, và cũng là người thành lập các phi đội cảm tử Phi Hổ (Flying Tigers) lừng danh, đồng thời góp phần không nhỏ vào việc thành lập Không Lực Trung Hoa Dân Quốc, một nhân vật nổi tiếng mà ngày ấy Hồ Chí Minh đã tìm mọi cách để được “ra mắt”!

    Trần Hương-Mai ra chào đời tại Bắc Kinh năm 1923 (giấy tờ ghi năm 1925), là con gái lớn của một viên chức ngoại giao của Cộng Hòa Trung Hoa (tức Trung Hoa Dân Quốc của Tưởng Giới Thạch).

    Trong thời gian quân Nhật chiếm đóng Hoa Lục, mặc dù sống thiếu thốn cơ cực ở “vùng tự do” (do quân của Tưởng Giới Thạch kiểm soát) Hương-Mai cũng lấy được bằng Cử nhân Hoa ngữ vào năm 1944 tại Đại học Lĩnh Nam (Lingnan University, từ Hương Cảng di tản về “vùng tự do”).

    Sau đó, Hương-Mai trở thành phóng viên chiến trường của Trung ương
    Thông tấn xã (Central News Agency) của chính phủ Dân Quốc.

    Năm 1946, Hương-Mai được cử tới Côn Minh để phỏng vấn Thiếu tướng Claire Chennault và cả hai đã bị... tiếng sét ái tình, mặc dù lúc đó vị thiếu tướng đã có vợ + 8 con và hơn Hương-Mai 30 tuổi!

    Qua năm sau, Claire Chennault ly dị vợ và cưới Hương-Mai. Hai người có với nhau hai con gái.


    Vợ chồng Chennault và hai con

    Sau khi lấy tướng Chennault (lúc đó đã về hưu), Hương-Mai đã trở thành cánh tay mặt của ông trong việc thành lập, điều hành, quản trị công ty hàng không dân sự CAT (Civil Air Transport) do ông thành lập cho chính phủ Dân Quốc; phi công đa số là các cựu “Phi Hổ” trước kia phục vụ dưới quyền ông.

    Năm 1950, sau khi quân cộng sản của Mao Trạch Đông chiếm Hoa Lục, chính phủ Dân Quốc của Tướng Giới Thạch phải chạy ra đảo Đài Loan, CAT được bán lại cho Cơ Quan Trung Ương Tình Báo Hoa Kỳ (CIA), vợ chồng Chennault vẫn tiếp tục giữ vai trò cố vấn hàng không cho Thống chế Tưởng Giới Thạch.

    [CAT được CIA sử dụng trong những công tác bí mật tại vùng Đông Nam Á; tới năm 1959, được đổi tên thành Air America, hoạt động cho tới khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, giải thể vào giữa năm 1976.
    Phi cơ của Air America thường được sơn màu trắng hoặc màu nhôm bạc và không có cờ, phù hiệu gì cả. Tháng 4/1975, trong những giờ phút cuối cùng của Sài Gòn, nhiếp ảnh gia người Hòa-lan Hubrt van Es đã chụp được một tấm hình để đời: một chiếc trực thăng UH-1 của Air America đáp xuống sân thượng ngôi nhà số 22 đường Gia Long để bốc các nhân viên CIA và USAID còn lại, nhưng đã bị một đoàn người Việt Nam tràn lên. Tấm hình này về sau đã bị những người thiếu hiểu biết chú thích sai là “trên sân thượng Tòa đại sứ Mỹ ở Đại lộ Thống Nhất”]





    Trong những năm tháng nói trên, gia đình Chennault chia đôi thời gian, vừa ở Louisiana, quê của chồng, vừa ở Đài Bắc.

    Năm 1958, sau khi Claire Chennault qua đời vì ung thư, Trần Hương-Mai đưa hai con gái về Mỹ sống ở thủ đô Washington, ngụ tại một apartment rộng lớn ở tầng trên cùng khách sạn Wartergate (là nơi sau này sẽ xảy ra vụ xì-căng-đan nghe lén “Watergate” dẫn đưa tới việc TT Nixon phải từ nhiệm).

    Là góa phụ của một vị tướng nổi tiếng, lại là một phụ nữ gốc Hoa xinh đẹp, tài giỏi, thông thạo tiếng Anh, với lý lịch chống Cộng triệt để, Trần Mai-Hương – mà từ đây ta gọi bằng tên Mỹ Anna Chennault – mau chóng trở thành một nhân vật quen thuộc trong giới “tinh hoa chọn lọc” ở thủ đô Washington, nhất là với các chính khách thuộc đảng Cộng Hoà.

    Năm 1960, khi ông Richard Nixon ra tranh cử tổng thống lần đầu, Anna Chennault đã vận động giúp ông lấy được nhiều phiếu của cử tri gốc Hoa. Tuy lần đó Nixon thua Kennedy nhưng ông vẫn không quên công lao của vị mệnh phụ gốc Hoa mà ông tặng biệt danh “Dragon Lady” (Long-Nữ).

    Để rồi 8 năm sau, “Mai-Hương Long-Nữ” trở lại và giúp ông Nixon đắc cử tổng thống với số phiếu sát nút (hơn nhau 0.7%)!

    Nguyên vào năm 1968, sau cuộc tổng tấn công của Việt Cộng trong Tết Mậu Thân, Tổng thống Johnson của đảng Dân Chủ đã quá mệt mỏi vì cuộc chiến Việt Nam nên quyết định không tái tranh cử, nhường chỗ cho Phó tổng thống Hubert Humphrey đương đầu với ông Nixon của đảng Cộng Hòa (ra tranh cử lần thứ hai).

    Lúc đầu, ông Nixon ra vẻ được nhiều người ủng hộ nhưng rồi càng ngày càng bị thất thế trước sự lớn mạnh của phong trào phản chiến và các nỗ lực chấm dứt chiến tranh của đảng Dân Chủ, trong đó có các cuộc đi đêm của Tiến sĩ Henry Kissinger, cố vấn của Tổng thống Johnson, vận động cho một cuộc hòa đàm tại Ba-lê đã đạt kết quả quan: không chỉ có các nước Tây Âu mà cả chế độ cộng sản Liên Xô cũng ủng hộ giải pháp hòa đàm, VNCH thì dĩ nhiên phải ủng hộ lập trường của đàn anh Hoa Kỳ, chỉ có Trung Cộng chống lại, riêng đàn em Cộng Sản Bắc Việt thì theo lập trường của Trung Cộng vì bị áp lực của “bá quyền phương Bắc”.

    Lúc đó, CSBV đang lâm vào tình trạng cực kỳ bi đát do cuộc oanh tạc dữ dội chưa từng thấy trong suốt chiều dài cuộc chiến - có tên Chiến dịch Rolling Thunder (Sấm Rền) - do Hoa Kỳ thực hiện để trả đũa việc Việt Cộng vi phạm lệnh ngưng bắn, mở cuộc tổng tấn công trên toàn cõi miền Nam trong Tết Mậu Thân.

    Vì thế, vào cuối tháng 10 năm 1968, sau khi được Thủ tướng Liên Xô Kosygin thuyết phục, bảo đảm nếu Hà Nội chịu ngồi vào bàn hòa đàm, Hoa Kỳ sẽ ngưng toàn bộ mọi cuộc oanh tạc trên lãnh thổ miền Bắc, các lãnh tụ CSBV đã đồng ý tham dự hòa đàm bất chấp sự “bực bội” của đàn anh Trung Cộng.

    [Sở dĩ Thủ tướng Kosygin “sốt sắng” với TT Johnson như thế là vì xưa nay cộng sản Liên Xô luôn luôn muốn đảng Dân Chủ, vốn có truyền thống “bồ câu”, nắm quyền ở Hoa Kỳ]

    Sau khi được Thủ tướng Kosygin thông báo kết quả, Tổng thống Johnson lập tức ra lệnh ngưng oanh tạc lãnh thổ Bắc Việt vào ngày 2/11/1968.

    Nhưng trong khi ở miền Bắc dứt tiếng bom thì trong Nam lại phát nổ một trái bom tấn: Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố Chính phủ của ông sẽ không tham gia cuộc hòa đàm Ba-lê, viện lý do Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam chỉ là công cụ của CSBV trong cuộc xâm lược miền Nam, và cái gọi là “Chính phủ lâm thời Cộng Hòa Miền Nam VN” của Huỳnh Tấn Phát không đủ tư cách pháp nhân để nói chuyện với phía VNCH.

    Trong thời gian vỏn vẹn ba ngày trước khi cử tri Mỹ đi bầu tổng thống, ông Nixon đã lợi dụng cơ hội bằng vàng này để chứng minh cho người dân Mỹ thấy đảng Dân Chủ không có khả năng kết thúc cuộc chiến.

    Ba ngày sau, ông đắc cử tổng thống Mỹ!

    Chỉ tới khi các hồ sơ được giải mật 30 năm sau đó, người ta mới biết ngày ấy không phải tự ý ông Thiệu bác bỏ việc tham dự hòa đàm Ba-lê mà chính ông Nixon đã nhờ bà Anna Chennault thông qua Đại sứ Bùi Diễm thuyết phục vị Tổng thống VNCH tuyên bố tẩy chay cuộc hòa đàm này để phá phe Dân Chủ!

    Để rồi sau khi ông Nixon trở thành Tổng thống Hoa Kỳ, VNCH đã tham gia hòa đàm Ba-lê!

    Sở dĩ Tổng thống Thiệu nhận lời giúp ông Nixon là vì lời khuyến dụ của Anna Chennault, theo đó nếu ông Nixon thắng cử đảng Cộng Hòa sẽ tìm cách kết thúc cuộc chiến một cách “có lợi” cho VNCH hơn là đảng Dân Chủ.

    Tổng thống Nixon có giữ lời hay không, câu trả lời tùy nhận định của mỗi người, ở đây chúng tôi chỉ muốn nêu ra một thực tế phũ phàng là nếu vào năm 1968, Anna Chennault ra sức thuyết phục TT Thiệu tẩy chay hòa đàm Ba-lê thì tới năm 1973, “Hương-Mai Long-Nữ” lại sang tận Sài Gòn thuyết phục ông ký vào bản Hiệp Định “khai tử VNCH”!


    “Hương-Mai Long-Nữ” (áo dài vàng), Phu nhân PTT Nguyễn Cao Kỳ (ngồi ghế) trong một buổi gặp gỡ tại Sài Gòn


    Tiểu sử của Anna Chennault trên Wikipedia có đoạn viết:

    “Ngày 21/4/1975, trước sự suy sụp của miền Nam VN, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã từ chức và bay sang Đài Loan. Ít lâu sau đó, Anna Chennault tới thăm và cho ông biết Tổng thống Mỹ Gerald Ford muốn cho gia đình ông tỵ nạn chính trị tại Hoa Kỳ, trừ bản thân ông vì việc này có thể sẽ gây ra tranh luận. Ông Thiệu từ chối và nói với bà Chennault: “Làm kẻ thù của Hoa Kỳ thì rất dễ, nhưng làm bạn của họ thật khó”.

    Không hiểu ông Thiệu thốt ra câu này từ những suy nghĩ trong đầu mình hay là ông nhớ lại lời tuyên bố "bất hủ" của bà Cố vấn Ngô Đình Nhu với truyền thông Mỹ sau khi chính phủ Kennedy chủ mưu lật đổ chính quyền của Tổng thống Ngô Đình Diệm, đưa tới cái chết bi thảm của ba anh em Ngô Đình dưới bàn tay đám phản tướng:


    "Whoever has the Americans as allies does not need any enemies"


    CHÚ THÍCH:

    (1) Cho tới những năm gần đây những bài viết về việc Không Quân VNCH thả bom CBU xuống mặt trận Xuân Lộc vào tháng 4/1975 vẫn có một số chi tiết không thống nhất, thậm chí thêu dệt một cách vô lý... Cho nên, loại CBU nào đã được sử dụng, có mấy trái đã được thả xuống Xuân Lộc, ai đã ra lệnh thả... vẫn tiếp tục là những câu hỏi đối với nhiều người.

    Dưới đây chúng tôi xin giới thiệu bài viết mới nhất - Trái Bom CBU Được Dùng Tại Mặt Trận Xuân Lộc - của tác giả KHIẾT NGUYỄN, phổ biến cuối năm 2023 mà chúng tôi cho là xác thực nhất, bởi những gì được trình bày đều “nói có sách mách có chứng”.



    https://hoiquanphidung.com/echo/van-...c-khi-t-nguy-n


    Last edited by Nguyen Huu Thien; 02-13-2025, 04:02 PM.
  • Nguyen Huu Thien
    Moderator

    • Jul 2014
    • 1140

    #2
    Nhân viết về “Long Nữ” Anna Chennault cũng xin giới thiệu bài viết về vị phu quân lừng danh của bà: “Phi Hổ” Claire Chennault


    https://hoiquanphidung.com/forum/c%C...-thi%E1%BB%87n
    Last edited by Nguyen Huu Thien; 02-20-2025, 03:36 PM.

    Comment

    • Nguyen Huu Thien
      Moderator

      • Jul 2014
      • 1140

      #3
      BUỒN VUI ĐỜI LÍNH VĂN PHÒNG (phần 3)

      “Một Ngày Không Quân - Một Đời Không Quân”


      (tiếp theo)


      Thứ Bảy 26/4/1975, tôi ở lại Biên Hòa vì ngày hôm sau tôi sẽ trực BCH/KTTV/KQ.

      Dù phi trường bị pháo kích nhiều, tình hình ra vẻ vẫn chưa đáng ngại cho lắm. Trực thăng của Không Đoàn 43 Chiến Thuật (gồm các phi đoàn trực thăng) vẫn tiếp tục lên xuống thi hành các phi vụ.

      Buổi chiều hôm ấy, Trung úy Trịnh Viết Khẩn, một tay bạn thân của tôi từ ngày còn ở nội trú nay đang bay trực thăng UH-1 bên KĐ43, tìm tới nhà tôi trong khu gia binh.

      Khi biết tôi đã đưa vợ con về Sài Gòn, Khẩn bật mí cho tôi biết tất cả các hoa tiêu trực thăng đã được lệnh sẵn sàng cất cánh bất cứ lúc nào, di tản về Tân Sơn Nhất để tránh pháo kích; Khẩn rủ tôi sang phi đoàn hắn để đi theo khi có lệnh di tản.

      Tôi từ chối vì sáng mai tôi sẽ trực BCH/KTTV/KQ. Phòng trực của BCH ở bên khu Đông, chỉ cách các bãi đậu trực thăng của KĐ43 vài trăm mét cho nên Khẩn vẫn dặn phòng hờ:

      - Tùy mày. Khi nghe tiếng tụi tao đồng loạt quay máy mày phải biết tụi tao sắp dông, muốn theo về Sài Gòn thì chạy sang phi đoàn tao.

      Vì các câu lạc bộ, hàng quán trong phi trường đã lần lượt đóng cửa bỏ chạy hết, tôi phải tự nấu cơm; hai thằng vừa ăn vừa nhắc nhớ những kỷ niệm của một thời quậy phá trong nội trú rồi bùi ngùi điểm lại bạn bè người còn kẻ mất, trong đó có một thằng bay UH-1 ở Pleiku, Phi Đoàn 235 Sơn Dương, đã bặt tin từ lâu...

      Riêng tôi và Trịnh Viết Khẩn, hôm đó là lần cuối cùng hai thằng gặp nhau trên cõi đời này. Di tản sang Mỹ, hắn chết một cách lãng xẹt khi hư xe ngoài xa lộ, xuống xe và bị một chiếc xe khác đụng chết!

      * * *


      Sáng Chủ Nhật 27/4, sau khi tôi lên phiên trực, Việt Cộng bắt đầu gia tăng cường độ pháo kích vào phi trường, phần lớn là hỏa tiễn 122 ly, thỉnh thoảng lại xen vào mấy trái đại bác 130 ly nổ rung chuyển mặt đất.

      Sau này, đọc các tài liệu tôi được biết từ sáng đến khuya Chủ Nhật, Việt Cộng đã pháo kích trên một ngàn trái đủ loại vào CCKQ Biên Hòa và Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III sát bên.

      Càng về khuya, Việt Cộng càng pháo kích dữ dội. Một số quân nhân thuộc BCH/KTTV/KQ bị thương được đưa lên Bệnh Xá của SĐ3KQ ở bên khu Tây, trong đó có một người bị thương nặng nên tôi phải chạy xe sang xem tình trạng ra sao.


      Cũng xin có đôi dòng về nhiệm vụ của “sĩ quan trực” tại BCH/KTTV/KQ. Một cách đầy đủ phải gọi là “sĩ quan trực ứng chiến”, bởi vì ngoài ra còn có “sĩ quan trực Trung Tâm Tiếp Liệu & Chuyển Vận”, “sĩ quan trực Trung Tâm Quản Trị Vật Liệu”, và một vị “sĩ quan tổng trực”.

      Vì BCH/KTTV/KQ là một đơn vị không phi hành cho nên tuy ký sổ nhận bàn giao phiên trực vào buổi sáng nhưng công việc của các sĩ quan trực chỉ bắt đầu sau khi tan sở.

      Sĩ quan trực các trung tâm thì chịu trách nhiệm công việc tại trung tâm, còn sĩ quan tổng trực - một vị sĩ quan cấp tá - thì trên nguyên tắc chịu trách nhiệm tổng quát nhưng trên thực tế hầu như chẳng phải làm gì cả; ông nào có tinh thần trách nhiệm cao cũng chỉ điện thoại hoặc lái xe đi một vòng điểm danh các sĩ quan trực trong ngày hôm đó.

      Trong khi “sĩ quan trực ứng chiến” thì không chỉ có trách nhiệm điều động toán ứng chiến phía ngoài các hangar nhìn ra phi đạo mà còn phải giải quyết tất cả mọi việc xảy ra sau giờ làm việc. Riêng sĩ quan trực ngày Chủ Nhật như tôi hôm đó thì lãnh đủ từ sáng sớm...

      Khi tôi lái xe tới sân bệnh xá SĐ3KQ thì thấy ba, bốn quân nhân bị thương nằm trên băng-ca đặt ngoài hành lang, trong đó có quân nhân bị thương nặng thuộc BCH/KTTV/KQ; hai người bạn cùng xưởng đang nửa ngồi nửa quỳ bên cạnh.

      Tôi tiến tới hỏi sao không đem vào phòng cấp cứu, một trong hai người lính trả lời “không còn chỗ”.

      Tôi không có thì giờ tìm hiểu lúc đó có còn vị bác sĩ nào tại Bệnh Xá hay không, chỉ thấy một hạ sĩ quan chạy tới chạy lui chăm sóc vết thương cho các quân nhân bị thương nằm ngoài hành lang. Nhưng với người lính thuộc BCH/KTTV/KQ bị thương nặng thì vô phương: anh bị một miểng pháo kích vào ngay giữa trán, tạo thành một cái lỗ sâu hoắm, đường kính cũng cỡ cái hột vịt, máu trào ra như suối, không loại băng nào có thể cầm lại được...

      Người hạ sĩ quan y tá của bệnh xá nhìn tôi lắc đầu tuyệt vọng... Điều an ủi là chỉ khoảng nửa tiếng đồng hồ sau khi tôi trở về phòng trực, dưới xưởng điện thoại lên báo người lính bị thương đã tắt thở; đã không cứu được thì chết càng mau càng tốt, tránh đau đớn kéo dài.

      Khoảng hơn 10 giờ đêm, Việt Cộng gia tăng pháo kích tới mức tối đa, nghe tiếng trực thăng bên KĐ43 bắt đầu cất cánh, tôi biết giờ này Khẩn đang nôn nóng đợi tôi theo lời dặn dò hôm trước. Lòng tôi chỉ nao nao chứ không một chút lưỡng lự đi hay ở.

      Nao nao khi biết Biên Hòa, vốn được mệnh danh là căn cứ không quân lớn nhất Đông Dương, quan trọng nhất Đông Nam Á, giờ này hoàn toàn vắng bóng phi cơ, chỉ còn lại những người lính kỹ thuật, lính phòng thủ...

      Mười một giờ đêm, tiếng trực thăng xa dần...


      Các bãi đậu trực thăng trong CCKQ Biên Hòa nhìn từ Quốc lộ 1 (ngã ba Rừng Mít). Hình chụp
      năm 1967 khi khu vực này còn là căn cứ của 145th Combat Aviation Battalion, Lục Quân Hoa Kỳ

      Sáng Thứ Hai 28/4, Việt Cộng bớt pháo kích rồi ngưng hẳn. Có lẽ chúng biết các phi cơ đã bay đi hết, tức là phi trường không còn lực lượng tác chiến, bắn chi cho phí đạn!

      Sĩ quan trực ngày Thứ Hai không đến đơn vị, tôi phải tiếp tục nhiệm vụ. Những quân nhân đã về Sài Gòn vào cuối tuần trước giờ đây đều có lý do chính đáng để không trở lại Biên Hòa: du kích Việt Cộng đã xuất hiện tại một số vị trí dọc xa lộ Đại Hàn, và nghe đồn đã đóng chốt trên Cầu Hang, đi ngang có thể bị phục kích bắn sẻ, cho nên tốt hơn hết là chạy vào Tân Sơn Nhất điện thoại lên Biên Hòa “trình diện”.


      Khoảng 10, 11 giờ sáng, Chuẩn tướng Từ Văn Bê tới T.O.C. (Trung Tâm Hành Quân) của SĐ3KQ họp với Chuẩn tướng Huỳnh Bá Tính và các sĩ quan cao cấp.

      Quá trưa, ông trở về BCH cho triệu tập các đơn vị trưởng, trưởng phòng, trưởng khối biệt lập thông báo lệnh di tản của BTL/KQ: nội chiều nay trực thăng Chinook sẽ đưa mọi người về Tân Sơn Nhất; trước khi đi phải đốt phá bình địa, không để lại một thứ gì địch có thể sử dụng. (Chú thích 1)

      (Sau này tôi được biết sở dĩ từ Biên Hoà về Sài Gòn chỉ có 25 cây số mà không di tản bằng đường bộ là vì lúc đó Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân Đoàn III không cho phép bất cứ đơn vị nào ở Biên Hòa di tản).


      Trong số sĩ quan không trở lại đơn vị vào sáng Thứ Hai có ông Trung tá Trưởng Khối và hầu hết sĩ quan thuộc Khối CTCT cho nên tôi bị ông Từ Văn Bê gọi sang khu Đông chịu trách nhiệm di tản quân nhân thuộc Khối CTCT và các phòng sở tham mưu.

      Địa điểm Chinook đáp là sân đậu phi cơ trước hangar B ở khu Tây, nơi tổ chức các buổi chào cờ của BCH/KTTV/KQ và các buổi lễ lớn ở CCKQ Biên Hòa, trong đó có lễ bàn giao phản lực cơ F-5 cho KQVN vào đầu tháng 6/1967.

      Sĩ quan cấp dưới, hạ sĩ quan, binh sĩ và gia đình ra đó trước, sĩ quan cao cấp nhất ở lại cơ xưởng, phần sở, sau khi đốt mới được đi. Để Chinook có thể chở người tới mức tối đa, các quân nhân được lệnh chỉ mang theo nón sắt, khẩu súng với hai cấp số đạn và một túi xách nhỏ.

      Họ được lệnh ngồi thành từng toán 60 người, mỗi toán do một sĩ quan hay hạ sĩ quan làm trưởng toán (trên thực tế sau một hai đợt, chuyến nào cũng chở trên dưới 100 người).

      Ưu tiên di tản như sau: Phòng An Ninh Không Quân, Phòng Tài Chánh, Phòng Tổng Quản Trị (vì hồ sơ cần mang đi trước); kế tiếp là lính kỹ thuật và sau cùng mới tới Liên Đoàn Phòng Thủ.

      Khoảng 2 rưỡi chiều, sau khi đôn đốc anh em quân nhân thuộc Khối CTCT và các phần sở tham mưu ra địa điểm chờ di tản, tôi trao trách nhiệm cho Thiếu Úy T - sĩ quan CTCT duy nhất còn ở lại với tôi - rồi trở về BCH.


      Vì buổi sáng hôm đó tôi phải ngồi ở phòng trực thêm mấy tiếng đồng hồ cho nên không được biết có bao nhiêu quân nhân thuộc Ban Văn Thư BCH, Khối CTCT và Phòng Kế Hoạch tới đơn vị, chỉ biết vào lúc 3 giờ chiều chỉ lại còn ba người: Chuẩn tướng Từ Văn Bê, tôi và người lính của Phân Đoàn Cảnh Vệ có bổn phận đứng gác trước cửa BCH.

      Ông Bê nói tôi xuống Đoàn Quân Xa lấy một can xăng 20 lít đem về BCH.

      Tôi để can xăng ngoài cửa phòng làm việc của ông rồi bước vào phòng. Hai thầy trò không ai nói với ai câu nào. Tôi ngồi ở ghế sa-lông còn ông cứ đi tới đi lui từ cái bàn làm việc tới cửa sổ, mắt nhìn ra ngoài.

      Lúc đó tôi cứ thắc mắc: tất cả phi cơ đã rời căn cứ từ đời nào, những chiếc trực thăng Chinook đang di tản anh em binh sĩ và gia đình thì đáp trước hangar B ở tận khu Tây, đứng đây không thể nhìn thấy, vậy ông Bê quan sát cái gì?!

      Mấy chục năm sau, đọc bài “Biên Hòa không lời từ biệt” của cựu Trung tá Nguyễn Phú Chính, nguyên Phi đoàn trưởng Phi Đoàn 237 (Chinook), lúc đó đang ở phía trước hangar B chuẩn bị cuộc di tản, tôi mới biết Chuẩn tướng Từ Văn Bê đợi chiếc trực thăng UH-1 của Mỹ đáp xuống gặp Chuẩn tướng Tính, là thời điểm bắt đầu cho đốt phá cơ sở.

      Gần 4 giờ chiều, chuông điện thoại reo, ông Bê vội chụp lấy ống nghe:

      - Bê tôi nghe!

      Tôi không nghe rõ người ở đầu dây nói những gì, chỉ biết ông Bê đáp:

      - Cám ơn anh Tính!

      Đặt ống nghe xuống, ông thẫn thờ như người mất hồn, không nói với tôi một lời nào, đảo mắt nhìn cái bàn làm việc rộng lớn mà không đụng tới một thứ gì.

      Ông chỉ mở ngăn kéo lấy khẩu Smith & Wesson 9 ly, ngần ngừ mấy giây rồi bỏ trở lại. Suýt nữa thì tôi buột miệng xin ông khẩu súng hiếm quý này nhưng đã kịp thời im miệng để tôn trọng những giây phút cuối cùng của ông sếp lớn trong cương vị người chỉ huy cao cấp nhất ngành kỹ thuật & tiếp vận của Không Quân trong suốt 17 năm trường!

      Rồi ông nói tôi lấy xăng rưới bắt đầu từ phòng làm việc của ông ra hành lang, rồi xuống cầu thang ra tận cửa. Tôi và ông bước ra ngoài, người lính của Phân Đoàn Cảnh Vệ có nhiệm vụ gác cửa Bộ Chỉ Huy đưa tay chào lần cuối cùng!

      Tôi nói với anh:

      - Thôi đi về đi. Tôi đốt Bộ chỉ huy bây giờ đây. Nếu anh muốn theo trực thăng di tản về Tân Sơn Nhất thì sang hangar B.

      Người lính đi được một quãng bỗng dừng chân quay đầu lại, như thể muốn chứng kiến những gì khủng khiếp nhất trong đời lính không quân của mình!

      Chuẩn tướng Từ Văn Bê nhìn cái building to đẹp nhất căn cứ KQ Biên Hòa rồi chửi thề nho nhỏ - lần đầu tiên trong 3 năm ở Biên Hòa tôi nghe thấy ông chửi thề:

      - ĐM mấy thằng Huê Kỳ, xây cho cố vào rồi bây giờ ra lịnh đốt!

      Rồi tôi được lệnh châm lửa!


      Ông Bê lái xe jeep chở tôi chạy chầm chậm ngang qua Trung Tâm Quản Trị Vật Liệu ở gần đó, Trung tá Nguyễn Kim Cương, Chỉ huy trưởng, đang đợi sẵn liền ra lệnh châm lửa đốt Phòng Điện Toán.

      Tiếp theo là Liên Đoàn Động Lực, Liên Đoàn Vũ Khí & Điện Tử và tất cả các cơ sở khu Đông lần lượt chỉm trong khói lửa, chỉ trừ giàn thử động cơ phản lực (Test Cell) ở tận cuối phi đạo phía Đông.

      Cho đốt xong khu Đông, tôi và ông Bê theo con đường dọc theo phi đạo sang khu Tây. Tới chỗ tập họp của binh sĩ phía trước hangar B, tôi nói ông cho tôi xuống xe.




      Phi trường Biên Hòa nhìn từ hướng Đông, hình chụp năm 1967. Xa xa là địa điểm di tản trước hangar B (ngôi sao đỏ). Chỗ có mũi tên vàng là tổng kho của Trung Tâm Tiếp Liệu & Chuyển Vận, bị toán EOD phá hủy tối 28/4/1975

      Thú thật, tôi xuống xe mà đầu óc không suy nghĩ gì cả. Tôi không một thoáng phân vân giữa việc xin đi theo ông Bê (ông và Chuẩn tướng Tính có trực thăng chờ sẵn ở T.O.C.) và việc ở lại với anh em binh sĩ. Tôi coi việc ở lại là một cái gì đương nhiên, thế thôi!

      Trước đó, khi trao cho Thiếu úy T chịu trách nhiệm anh em quân nhân thuộc Khối CTCT và các phần sở tham mưu chờ di tản, tôi nhờ anh giữ giùm khẩu M16 của tôi và cái túi xách helmet (flight helmet bag) cốt để anh yên tâm, tin rằng tôi sẽ trở lại với anh em.

      Không biết trong bụng T có tin hay không, chỉ biết giờ này thấy tôi trở lại, T vừa tỏ ra vui mừng vừa nhìn tôi với ánh mắt nể phục.

      Nói cho cùng, dù gì chúng tôi chúng tôi cũng có quyền tự hào khi cả Khối CTCT với gần một chục sĩ quan cấp tá, cấp úy chỉ có hai anh em chúng tôi ở lại tới giờ phút cuối.

      Về phía các sĩ quan của BCH/KTTV/KQ nói chung, vào buổi sáng (Thứ Hai 28/4/1975) tôi được biết ngoài Chuẩn tướng Từ Văn Bê, còn có Đại tá Trương Trọng Công, Chỉ huy phó, Đại tá Nguyễn Văn Trung, Không đoàn trưởng Không Đoàn Tân Trang & Chế Tạo, Trung tá Nguyễn Mạnh Thuần, Không đoàn phó, Trung tá Nguyễn Kim Cương, Chỉ huy trưởng Trung Tâm Quản Trị Vật Liệu, và nhiều vị Thiếu tá Liên đoàn trưởng, Trưởng phòng... Riêng Đại tá Huỳnh Công Chức, Chỉ huy trưởng Trung Tâm Tiếp Liệu & Chuyển Vận, tôi không biết rõ.

      Nhưng tới khi tôi trở lại khu vực chờ Chinook trước hangar B thì chỉ còn thấy Trung tá Nguyễn Kim Cương, Thiếu tá La Văn Được, Liên đoàn trưởng Liên Đoàn Bảo Trì Phi Cơ, và Thiếu tá Nhữ Văn Phúc, Liên đoàn trưởng Liên Đoàn Vũ Khí & Điện Tử (có thời gian làm quyền Trưởng Khối CTCT).

      Phía SĐ3KQ, vào lúc đó (khoảng 5 giờ chiều), tôi chỉ thấy Trung tá Lý Thành Ba, Liên đoàn trưởng Liên Đoàn Phòng Thủ...

      * * *

      Sau khi Chinook đáp được vài đợt, thì đùng một cái ai đó cho nổ kho bom nằm ở hướng bắc, gần sát phi đạo, không xa hangar B bao nhiêu.

      Thế là những tiếng nổ long trời lở đất nối tiếp nhau, miểng bom chài (như cây đinh có đuôi 4 cánh) văng rào rào xuống bãi đậu phi cơ, rớt lộp cộp trên nón sắt của mọi người. Các quân nhân trách nhiệm các hangar ở khu Tây thấy thế cũng vội vã đốt cơ sở, khói lửa càng thêm mịt mù. Trước tình thế ấy, Chinook không thể tiếp tục đáp, và cuối cùng, khi màn đêm chuẩn bị buông xuống, chỉ còn lại đoàn người ngồi chờ tuyệt vọng trước hangar B!

      Tới đây, vì là người đầu tiên châm lửa đốt CCKQ Biên Hòa, tôi nhận thấy cần có đôi lời đính chính trước nguồn tin nói rằng ngày ấy Chuẩn tướng Huỳnh Bá Tính đã trách cứ Chuẩn tướng Từ Văn Bê về việc ra lệnh đốt cơ sở quá sớm khiến binh sĩ bị rối loạn tinh thần, đưa tới tình trạng hỗn loạn và vì thế cuộc di tản bằng trực thăng Chinook đã bị bỏ dở khiến cho cả ngàn quân nhân thuộc SĐ3KQ và BCH/KT&TV/KQ bị kẹt lại!

      Tôi hoàn toàn phản bác nguồn tin đó.

      Thứ nhất, "cơ sở" của BCH/KTTV/KQ là các trung tâm điện toán, trung tâm quy chuẩn, các hangar tổng kiểm, bảo trì phi cơ, với biết bao máy móc điện tử nằm rải rác từ khu Đông sang khu Tây, không đốt sớm thì không thể đốt hết. Chuẩn tướng Từ Văn Bê ra lệnh đốt sớm có lẽ vì muốn đích thân chứng khiến tất cả đã được đốt trước khi mọi người rời bỏ căn cứ.


      Thứ hai, lúc ban đầu bên BCH chỉ đốt cơ sở ở khu Đông, tức là cách xa địa điểm di tản (khu Tây) cả cây số, binh sĩ cùng lắm cũng chỉ nhìn thấy khói đen bốc lên thôi. Nếu họ mất tinh thần thì mất vì thiếu vắng cấp chỉ huy trực tiếp nhiều hơn là vì thấy căn cứ bị đốt. Riêng binh sĩ của BCH/KT&TV/KQ, tôi nhận thấy họ bình tĩnh và nghe lệnh các sĩ quan cho tới giờ phút cuối.

      Cho nên, nếu có trách thì phải trách người ra lệnh cho nổ kho bom quá sớm (hoặc ra chỉ thị không rõ ràng), cũng như trách Bộ Tư Lệnh KQ đã không tăng cường thêm trực thăng để phụ với Chinook của 237 di tản binh sĩ. Bởi vì theo nhận xét của tôi, cho dù kho bom không nổ sớm, với nhịp độ đáp của Chinook, tới tối cũng không thể nào di tản hết cả ngàn quân nhân còn kẹt lại.

      Cuối cùng, cũng không thể không quy trách một phần cho tên phi công phản bội Nguyễn Thành Trung, kẻ đã hướng dẫn A-37 về oanh tạc phi trường Tân Sơn Nhất vào buổi chiều hôm đó. Bởi vì nếu Tân Sơn Nhất không bị ăn bom của y và đồng bọn, rất có thể Chinook vẫn tiếp tục bay xuống Biên Hòa để di tản binh sĩ và gia đình.

      Phần tôi, sau này cứ tự an ủi: bị kẹt có khi lại là may mắn, về Tân Sơn Nhất biết đâu lại chết vì bom của tên phi công phản bội ấy, hoặc vì đạn pháo kích của Việt Cộng!

      Khoảng 6 rưỡi tối căn cứ Biên Hòa hoàn toàn mất liên lạc với Bộ Tư Lệnh KQ, phi trường chìm trong bóng tối vì nhà máy điện đã bị phá hủy. Phía SĐ3KQ, Trung tá Lý Thành Ba, Liên đoàn trưởng Liên Đoàn Phòng Thủ, quyết định dẫn lính về Sàigòn bằng đường bộ. Phía BCH/KTTV/KQ, sĩ quan cao cấp nhất còn lại Thiếu Tá Nhữ Văn Phúc, Liên Đoàn Trưởng Vũ Khí & Điện Tử; ông nói với tôi:

      - Vợ con moa còn bị kẹt bên Cù Lao, không biết giờ này ra sao. Moa phải về. Thôi, toa ở lại nhé!

      (Sau này tôi được biết sĩ quan cao cấp nhất của BCH/KTTV/KQ ở lại tới giờ phút cuối không phải Thiếu Tá Nhữ Văn Phúc mà là Trung Tá Nguyễn Kim Cương, Chỉ huy trưởng Trung Tâm Quản Trị Vật Liệu, đã hướng dẫn một số anh em quân nhân thuộc BCH/KTTV/KQ đi theo đoàn quân của Trung tá Lý Thành Ba)

      Lúc đó, tình hình đã hỗn loạn. Lớp thì Cảnh Sát Dã Chiến vào giữ phi trường theo lệnh của Quân Đoàn, lớp thì đám người "thừa nước đục thả câu" vào hôi của trong các khu gia binh, lớp thì binh sĩ tự động tan hàng...


      Tôi quyết định đưa mấy anh em thuộc Khối CTCT và những quân nhân khác muốn theo tôi về Sài Gòn bằng đường bộ. Nhưng vì quân số ít, lại không có khả năng "tác chiến" như lính phòng thủ, tôi chọn đi ra ngã ba Tam Hiệp rồi theo xa lộ cũ chứ không dám sử dụng xa lộ Đại Hàn vì sợ bị Việt Cộng tấn công hoặc phục kích bắn sẻ.

      Dĩ nhiên, di tản bằng quân xa. Tôi không còn đầu óc để nhớ tới cái xe Suzuki M15 cà rịch cà tàng của mình để ở nhà trong khu gia binh mà đi thẳng tới bãi đậu quân xa trước hangar B, thấy còn hai ba chiếc pick-up (truck) Chevrolet và chiếc Scout của Đại tá Trương Trọng Công, liền nhảy lên, vừa đủ chỗ ngồi cho tôi, Thiếu úy T và ba binh sĩ dưới quyền.

      [Kiểu xe 4x4 Scout 800 của hãng International Harvester, sản xuất từ năm 1960 tới 1980, được xem là kiểu xe SUV (sport utility vehicle) đầu tiên trên thế giới. Ngày ấy BCH/KTTV/KQ được Không Quân Mỹ chuyển giao hai chiếc, một chiếc sử dụng làm “xe gia đình” của Chuẩn tướng Từ Văn Bê (nhưng hầu như luôn luôn nằm ở Đoàn Quân Xa), một chiếc Đại tá Trương Trọng Công, Chỉ huy phó, chạy]


      Một chiếc Scout 800 đời 1965. Kiểu của Không Quân sơn màu xanh blue

      Khi chúng tôi vừa ra khỏi cổng 2 (Dốc Sỏi), quẹo trái để đi về hướng Tam Hiệp thì nghe mấy tiểng nổ long trời lở đất, nhìn vào thấy lửa khói bốc lên rất cao thì cứ nghĩ đây là những trái bom đặc biệt (chẳng hạn CBU) trong kho bom vừa phát nổ. Sau này ra hải ngoại, được nghe các sĩ quan cao cấp bên Trung Tâm Tiếp Liệu & Chuyển Vận kể lại mới biết những tiếng nổ lớn đó phát xuất từ khu nhà kho chính của Trung Tâm, được Toán Tháo Gỡ Phá Hủy Đạn Dược (EOD: Explosive Ordnance Disposal) của SĐ3KQ đặt chất nổ, đợi mọi người ra khỏi căn cứ mới cho nổ. (mũi tên vàng trong hình trên)

      Tuy những tiểng nổ này không khủng khiếp cho bằng tiếng nổ khi kho bom (cũ) bị nội tuyến Việt Cộng đặt chất nổ làm rung chuyển cả thành phố Biên Hòa vào tháng 9/1972, cũng khiến dân chúng hốt hoảng, chạy ra đường hỏi thăm tin tức; chúng tôi cũng không biết trả lời ra sao...

      Ra tới ngã ba Tam Hiệp, chúng tôi quẹo mặt đi về Sài Gòn; theo sau xe của tôi là mấy chiếc pick-up một băng hoặc hai băng ghế (6 chỗ ngồi) chở khoảng 20 quân nhân.

      Nhưng chạy tới cầu Đồng Nai thì bị lực lượng Nhảy Dù đang trấn giữ cầu chặn lại, họ cho biết theo lệnh Trung tướng Tư Lệnh Quân Đoàn III, không một quân nhân nào được phép qua cầu (về hướng Sài Gòn).

      Tôi đành đưa mọi người vào sân Công Ty Đường Việt Nam trong khu kỹ nghệ Biên Hòa ở gần đó để ngủ đỡ, sáng mai tính. Nhưng nào có ngủ được, 130 ly của địch từ Trảng Bom bắn tới suốt đêm.

      Sáng ra mới biết mình may mắn, trong khi một số quân nhân của các đơn vị khác chạy về ngủ gần đó và đồng bào chạy giặc ngủ dọc xa lộ bị chết hoặc bị thương.

      Tôi còn đang phân vân chưa biết đi đâu thì một số anh em Không Quân từ Biên Hòa chạy lên cho biết "Không Quân đã trở lại phi trường!"


      Lính Dù đã cương quyết không cho qua cầu thì dù trong lòng bán tín bán nghi tôi cũng đành trở lại Biên Hòa xem sao. Về đến nơi, quả thật có thấy một số quân xa Không Quân chạy tới lui trong phi trường nhưng toàn là lính..."phòng thủ"!

      Thì ra đêm qua, Trung tá Lý Thành Ba đã không đưa đoàn người về Sài Gòn (sợ xa lộ Đại Hàn không an toàn) mà cho ngủ lại ở sân vận động tỉnh. Tôi hỏi ông bây giờ mình tính sao, ông nói chờ lệnh bên Quân Đoàn cho di tản, lúc đó mình đi theo.


      Vì không có Motorola cầm tay hoặc gắn trên xe để liên lạc với bên Phòng Thủ, tôi nói anh em chỉ được quanh quẩn từ T.O.C. ra tới Cổng 1, chờ đi theo Trung tá Lý Thành Ba, và trong lúc chờ đợi, chạy xuống Đoàn Quân Xa của BCH/KTTV/KQ gần đó đổ xăng cho đầy xe và các bình can sơ-cua (cũng may mà đêm hôm qua người ta không kịp đốt cây xăng!)

      Riêng tôi rất muốn làm một vòng từ khu Đông sang khu Tây để xem những chỗ đã đốt chiều hôm trước, nhưng sợ bên Quân Đoàn ra lệnh di tản bất ngờ nên phải bỏ ý định, chỉ lái xe vòng vòng khu vực Bộ Chỉ Huy ở khu Đông, thì thấy Phòng Điện Toán của Trung Tâm Quản Trị Vật Liệu bị hoàn toàn thiêu rụi, tòa nhà hai tầng của Bộ Chỉ Huy (do tôi châm lửa) cũng bị thiêu hủy 100% trừ cái mái hiên trước cửa ra vào vẫn còn đứng vững nhờ bốn cây cột xây bằng gạch. Nhưng rạp hát, cũng do Mỹ xây, thì còn nguyên vẹn...

      * * *

      Khoảng gần trưa, bên Quân Đoàn cho lệnh di tản. Trên đường về Sài Gòn theo xa lộ cũ, đoàn quân xa màu xanh của Không Quân tản mác dần trong rừng xe của các quân binh chủng.

      Qua nhà máy xi-măng Hà Tiên, đoàn xe bắt đầu chạy chậm lại vì bị kẹt xe ở Ngã Tư Xa Lộ (Hàng Xanh). Lách tới lách lui, cuối cùng tôi thấy mình chạy ngay sau chiếc GMC chở một quan tài phủ cờ vàng, có người góa phụ trẻ bồng con ngồi bên cạnh.

      Ngay lúc ấy, vì chưa biết giờ này (xế chiều 29/4/1975) nhiều tướng tá đã hoặc đang tìm đường thoát thân, tôi chỉ cảm thấy thương tội người góa phụ, nhưng sau này nhớ lại, tôi còn cảm thấy thương tội (và ngưỡng phục) người quân nhân lái xe cùng với người trưởng xa, tới giờ thứ 25 vẫn lo chu toàn bổn phận của người sống đối với người chết!

      Suốt 50 năm sau, mỗi lần ngày 30 tháng Tư trở lại, đầu óc tôi lại bị hình ảnh chiếc GMC chở quan tài phủ cờ vàng ám ảnh, và tự hỏi: không biết ngày ấy chiếc GMC và hai quân nhân nói trên có kịp chở quan tài này về quê của người tử sĩ hay không?

      * * *

      Tới Ngã Tư Xa Lộ, vì cầu Phan Thanh Giản đã bị Cảnh Sát Dã Chiến chặn không cho qua, xe cộ chỉ còn hai lối đi: quẹo trái để vào Sài Gòn bằng đường Hùng Vương (Thị Nghè, nối liền đường Hồng Thập Tự) và quẹo phải về hướng Bà Chiểu, Gia Định.

      Riêng chiếc xe GMC chở quan tài thì vẫn chạy thẳng về phía cầu Phan Thanh Giản. Tôi cả tuần qua không về Sài Gòn, mà có về cũng về qua ngả xa lộ Đại Hàn nên đâu biết việc cầu Phan Thanh Giản bị đóng, thấy hướng này không bị kẹt, cứ chạy theo chiếc GMC.

      Chạy tới cầu tôi mới biết chỉ có người đi bộ mới được đi qua cầu để vào Sài Gòn. Tuy nhiên, một vị sĩ quan Cảnh Sát Dã Chiến ra lệnh gỡ mấy vòng concertina (kẽm gai) để chiếc GMC chở quan tài chạy qua cầu. Thấy vậy tôi tiến tới ca bài ca con cá, nói với ông ta rằng chúng tôi là Không Quân ở Biên Hòa di tản theo lệnh Quân Đoàn III, nhà ở ngay khu Trương Minh Giảng nên xin phép được đi qua cầu.

      Tôi chỉ năn nỉ cầu may, không ngờ vị sĩ quan lại bị sốc trước tin “Biên Hòa di tản”; ông hỏi tôi một cách chi tiết rồi tới thông báo cho vị sĩ quan cao cấp hơn, sau đó ra lệnh gỡ concertina cho xe của tôi chạy vào.

      Vì là sĩ quan cấp nhỏ, tôi không biết một chút gì về tình hình ở Tân Sơn Nhất, kể cả việc tên phi công phản bội Nguyễn Thành Trung hướng dẫn A-37 về oanh tạc phi trường vào chiều hôm trước (28/4), cho nên sáng nay khi Quân Đoàn III cho lệnh di tản, chúng tôi vẫn giữ ý định đi về Tân Sơn Nhất.

      Nhưng sau khi qua cầu Phan Thanh Giản chạy vào thành phố, tôi bỗng cảm thấy lo âu cho vợ con, hiện đang tạm trú tại nhà bà ngoại ở Phú Nhuận, liền bàn với Thiếu úy T và ba binh sĩ dưới quyền hay là mình chia tay về nhà thăm gia đình rồi tính sau. Mọi người đều có cùng tâm trạng nên chúng tôi quyết định chia tay tại ngã tư Phan Thanh Giản – Pasteur.

      Xuống xe rồi, Thiếu úy T còn hỏi tôi:

      - Trung úy, rồi ngày mai mình đi đâu?

      Lúc đó trong lòng tôi vẫn còn hy vọng những gì Không Quân bàn tán trong mấy ngày qua có thể trở thành sự thật: Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ sẽ lãnh đạo tử thủ Vùng 4. Suy nghĩ một hai giây, tôi đáp:

      - Đừng vào Tân Sơn Nhất nữa, về thẳng Cần Thơ!

      Tôi về tới nhà, mừng rỡ gặp lại vợ con, rồi quá mệt vì mấy đêm liên tiếp không ngủ, tôi tắm rửa, ăn uống qua loa rồi đánh một giấc cho tới sáng, mặc cho những chiếc phản lực của Hải Quân Mỹ gầm thét trên bầu trời Sài Gòn bảo vệ những địa điểm “bốc người” của họ.


      Sáng hôm sau, 30/4/1975, vợ tôi đánh thức tôi dậy để nghe ông Dương Văn Minh kêu gọi quân nhân các cấp buông súng đầu hàng.

      Qua ngày hôm sau, Cần Thơ mất.



      (Còn tiếp)


      CHÚ THÍCH

      (1) Ngày ấy, tôi nghe vị sĩ quan tổng trực nói Chuẩn tướng Từ Văn Bê sang T.O.C. họp với Chuẩn tướng Huỳnh Bá Tính và một tướng lãnh của BTL/KQ, sau này đọc bài“Biên Hòa Không Lời Từ Biệt” của cựu Trung tá Nguyễn Phú Chính, Phi đoàn trưởng PĐ-237 Chinnok, một trong những nhân chứng sống của cuộc di tản chiều 28/4/1975, tôi mới biết không có vị tướng nào của BTL/KQ cả, mà ông Tính và ông Bê ngồi đợi lệnh của Trung tướng TLKQ qua máy viễn thông.

      Xin trích đăng một vài đoạn trong bài viết của Trung tá Chính:

      ...Khoảng 1 giờ trưa, nóng lòng gia đình ở Saigon, tôi lên BTL SĐ3KQ, (tạm thời đặt tại KĐ Yểm Cứ tránh pháo kích) xin về Saigon bằng phi cơ vài tiếng để thăm gia đình. Gặp Đ/tá Triệu nhờ ông ký Sự vụ lệnh. Ông bảo tôi vào gặp Tướng ký cho chắc. Vào phòng tôi gặp Ch/Tướng Huỳnh Bá Tính, và Ch/Tướng Từ Văn Bê đang nói chuyện nên tôi chưa kịp trình SVL. Bỗng có tiếng rè rè từ loa máy hotline, và tiếng Trung Tướng TLKQ: “cậu Tính”. Tướng Tính trả lời: “Tính nghe”. Giọng Tướng Minh ồ ồ, nhưng rõ ràng từng tiếng: “Lát nữa có thằng Mỹ đi chiếc trực thăng Air America lên gặp cậu. Tôi không biết nó sẽ nói gì với cậu, nhưng khi nó cất cánh đi, cậu thiêu hủy tất cả những gì cần thiết”.

      Trả lời xong, Tướng Tính bảo tôi chờ. Ông hỏi quân số của Tướng Bê, ông kết luận: “ anh khoảng 6.000, tôi 6.000 là 12.000. Chính, cậu có thể đem được bao nhiêu Chinook lên đây”. Tôi trả lời: “Thưa Tướng, chắc hơn 10 chiếc”. Tướng căn dặn tôi những ưu tiên thứ tự: An ninh, gia đình quân nhân, quân nhân và cuối cùng là 600 quân nhân Liên Đoàn Phòng Thủ...


      ...Tôi lái qua West Ramp liên lạc với Chinook của PĐ. Tại đây gia đình KQ và lính bắt đầu tập hợp. Nhìn thấy chiếc trực thăng sơn trắng của Air America bay ngang đầu, tôi nhớ ngay lời TLKQ. Khoảng 5 phút sau, khu của Kỹ Thuật Tiếp Vận bốc khói đen trước nhứt. Nhớ các vụ di tản Miền Trung và khi thấy các kho chứa vật liệu cháy khói đen nghịt trời, ai cũng hoảng hốt. Gia đình và cả binh sĩ cũng lao nhao toán loạn, hàng ngũ rối loạn. Chuyến đầu, 12 chiếc, tôi vô cùng vất vả. Gia đình quân nhân, kể cả binh sĩ chen lấn, xô đẩy nhau lên phi cơ làm nghẽn lối, hỗn loạn. Khi cất cánh có người còn đeo tòn teng, tôi phải gọi pilot đáp xuống lại.

      Những chuyến sau tôi đỡ vất vả. Tôi và Tướng Tính vẫn liên lạc thường xuyên. Tôi dự trù một chiếc chở 100 hay 110, phải mất 9-10 chuyến. Vì gần, bay thấp nên nhanh. Nhưng càng về chiều, các vụ thiêu hủy càng nhiều, những cột khói đen bay kín phi trường làm pilot rất vất vả mới đáp được vào đường di chuyển (taxi way). Đó cũng là một trở ngại lớn. Không ngờ chuyến thứ 5 một chiếc bị bắn ở cầu Hang thủng bình xăng. Tuy không bị thương, nhưng cũng phải đổi lộ trình.

      Đến khoảng 5 giờ chiều, phi trường TSN bị đám phản loạn Nguyễn Thành Trung đánh bom, như tôi biết sau nầy, anh em không biết nên hốt hoảng bay toán loạn mất liên lạc. Không liên lạc được với Chinook, tôi gọi Tướng Tính và cũng không nghe trả lời. Tôi lại mất liên lạc với cả Tướng nữa sao. Trước đây thỉnh thoảng ông nhắc tôi: “Cậu cố gắng lo cho quân nhân và gia đình về Saigon”. Tôi lặng người, đứng nhìn Biên Hòa chập chùng trong khói lửa. Biên Hòa thân yêu, giờ đây trông thê thảm, tang thương, lòng tôi bồi hồi, đau xót. Biên Hòa thân thương của tôi giờ biến thành biển lửa. Xe cộ đủ loại bỏ chồng chất ngổn ngang. Quần áo, giầy dép, đồ đạc, giấy tờ rãi đầy trong bải đậu West Ramp. Số người còn lại cũng nháo nhác đợi trông. Hơn nữa, chiếc xe pick-up của tôi có lẽ chạy chậm tới lui từ trưa đến giờ nên chạy cà giựt, lại càng lo lắng. Tôi nhớ cách đây một giờ Tr/úy Đàm Quang Khánh, sĩ quan trực PĐ, trước khi lên Chinook về TSN còn nhắc tôi: “ Tr/tá về đi, em đã kinh nghiệm ở Đànẳng rồi”. Tôi tự hỏi: không lẽ tôi cũng bỏ chạy sao?
      (Tr/úy Đàm Quang Khánh vừa tử nạn đúng ngày 30/4/2019 tại San Jose, California)

      Trời càng tối, nhìn cảnh phi trường mịt mù khói lửa, ảm đạm, thê lương, sự lo lắng của tôi càng cao. Bất ngờ tướng Tính gọi, tôi mừng như sắp chết đuối vớ được phao, cứ ngỡ ông còn trong Bộ chỉ huy. Nhưng tôi hoàn toàn thất vọng, vì vị trí tướng hiện tại ở Vũng Tàu. Tôi gọi Chinook khàn cả cổ. Mãi tới hơn 7 giờ tối tôi mới liên lạc được một chiếc. Khi phi cơ lên tới BH, trời tối, khói đen che kín bải đáp nên phải đáp gần vòng đai cuối phi đạo phía Tây... (ngưng trích)


      Độc giả có thể đọc trọn bài viết “Biên Hòa Không Lời Từ Biệt” của Trung tá Nguyễn Phú Chính qua link dưới đây:
      Last edited by Nguyen Huu Thien; 03-07-2025, 09:23 AM.

      Comment

      • Nguyen Huu Thien
        Moderator

        • Jul 2014
        • 1140

        #4
        BUỒN VUI ĐỜI LÍNH... VĂN PHÒNG (phần 3)

        “Một Ngày Không Quân - Một Đời Không Quân”



        (tiếp theo)


        Sau ngày 30/4/1975, khi Ủy ban Quân quản thành Hồ ra lệnh cho quân nhân QLVNCH các cấp phải “trình diện đăng ký” tại địa phương, tôi tới trình diện tại một địa điểm ở đường Huỳnh Quang Tiên, Phú Nhuận.

        Hơn một tuần sau, một người em trai của tôi ở Biên Hòa lên báo tin “khẩn cấp”: chớ trở về đơn vị cũ trình diện vì tôi có tên trong danh sách đốt phi trường đang bị CSVN truy nã!

        Như nhiều người ở lại, hoặc bị kẹt lại còn nhớ, sau khi chiếm miền Nam, cộng sản đã kêu gọi các quân nhân QLVNCH ở một số đơn vị chuyên môn, nhất là Không Quân, Hải Quân, trở lại đơn vị cũ để “hợp tác” với chế độ mới, và không ít người đã nghe theo.

        Có thể những người này hy vọng sẽ được chế độ mới lưu dụng, hoặc ít ra cũng được yên thân với đám cán bộ cộng sản nằm vùng và bọn “30 tháng tư” tại địa phương. Bên cạnh đó cũng có một số người bất đắc dĩ phải hợp tác, thường là những sĩ quan giữ chức vụ quan trọng, bị cộng sản tới tận nhà “mời”!

        Chỉ tính trong quân chủng Không Quân, đã có hàng chục cựu phi công hợp tác bằng cách huấn luyện phi công CSBV lái những loại phi cơ mà KQVN bỏ lại.

        Riêng tại Biên Hòa còn một số chuyên viên kỹ thuật, từ sĩ quan xuống hạ sĩ quan, của Bộ Chỉ Huy Kỹ Thuật & Tiếp Vận Không Quân (BCH/KT&TV/KQ) tình nguyện hợp tác. Nhưng tới khi những người này trở lại phi trường thì tất cả chỉ được giao một công việc duy nhất: dọn dẹp những gì đã bị đốt phá vào chiều tối 28/4/1975.

        Sau này tôi được nghe kể lại như sau:

        Trong số những quân nhân của BCH/KT&TV/KQ trở lại phi trường để “hợp tác” với cách mạng, có Trung tá Nguyễn Mạnh Thuần, Không đoàn phó Không Đoàn Tân Trang & Chế Tạo, và ông đã được viên chính ủy của đơn vị Không Quân CSBV có nhiệm vụ tiếp thu CCKQ Biên Hòa kêu lên mắng vốn:

        - Chúng tôi cũng đoán biết trước khi rút lui các anh sẽ được lệnh phá hủy các cơ sở nhưng tôi không thể tưởng tượng các anh lại thi hành triệt để, đốt phá tận tình tới mức ấy. Anh thử nhìn xem, cái căn cứ không quân lớn nhất, các cơ xưởng hiện đại nhất Đông Nam Á giờ đây còn lại được những gì?!

        Thế rồi, cũng theo những gì tôi được nghe kể lại, tay chính ủy đã dò hòi hỏi đám Việt Cộng nằm vùng và lấy lời khai của một số quân nhân KQ có mặt tại phi trường Biên Hòa chiều Thứ Hai 28/4/1975 để thiết lập danh sách những “thủ phạm” chính trong vụ phá hủy CCKQ Biên Hòa, nghe đâu khoảng 12, 13 người, trong đó có Trung tá Nguyễn Kim Cương, Chỉ huy trưởng Trung Tâm Quản Trị Vật Liệu (nơi có Phòng Điện Toán), mấy ông Thiếu tá Liên đoàn trường (“chủ nhân” của các hangar, cơ xưởng...), Trung tá Lý Thành Ba, Liên đoàn trưởng Liên Đoàn Phòng Thủ SĐ3KQ, vị sĩ quan trách nhiệm toán EOD phá hủy khu nhà kho của Trung Tâm Tiếp Liệu & Chuyển Vận..., và dĩ nhiên không thể thiếu tên tôi, kẻ đã châm ngọn lửa đầu tiên tại BCH/KT&TV/KQ.

        Nghe được tin này, một quân nhân phục vụ tại Khối CTCT đã tìm tới nhà mẹ tôi báo động, nhờ nhắn với tôi phải trốn cho kỹ vì trong đám nội tuyến Việt Cộng có một sĩ quan phòng thủ biết tôi khá rõ.

        Thực ra cho dù không có lời nhắn của nhân viên nói trên, tôi cũng đủ khôn ngoan để không bao giờ mò về Biên Hòa để “nộp xác” cho kẻ thù. Hơn nữa, cho dù không có tên trong danh sách bị truy nã, tôi cũng không bao giờ muốn trở lại thành phố thân yêu nay đã rợp bóng cờ đỏ, bắt buộc phải đi ngang qua cổng 1 hoặc cổng 2 của phi trường nay đã đổi chủ!

        * * *

        Trong hơn ba năm đầu của gần sáu năm ở tù cộng sản – dưới mỹ từ “học tâp cải tạo” – tôi không có nhiều cơ hội nhắc nhớ, hồi tướng những năm tháng phục vụ trong quân chủng Không Quân vì qua bao lần chuyển trại, tôi chỉ gặp vài sĩ quan KQ khác đơn vị trước năm 1975, lại không ở cùng đội cho nên rất khó “liên hệ” với nhau.

        Viết một cách chính xác thì lúc ban đầu, trong mấy tháng ngắn ngủi ở Thành Ông Năm (Hốc Môn) tôi cũng được ở chung tổ với một tay bạn thân và gặp lại một vài sĩ quan KQ quen biết.

        Tay bạn thân không ai khác hơn “Đại úy chưa kịp gắn lon” Trần Ngọc Tự, vốn là bạn nối khố từ thời trung học.

        Cùng đi Khóa 3/69, khi từ TTHL Quang Trung lên Trường Bộ Binh Thủ Đức, hai thằng cứ “nắm áo” nhau nên được ở cùng Trung Đội, giường nằm thì thằng tầng trên thằng tầng dưới.

        Cùng được về ngành Chiến Tranh Chính Trị của Không Quân, tới khi đi học Căn Bản Sĩ Quan CTCT tại Đà Lạt hai thằng cũng cùng khóa (có thêm ông bạn Phan Lạc Giang Đông).

        Chức vụ Trần Ngọc Tự nắm giữ khá dài dòng và rổn rảng: Phụ tá Trưởng Đoàn Công Tác Chính Huấn kiêm Trưởng Ban Biên Soạn Tài Liệu & Sĩ Quan Thuyết Trình, VP/TMP/CTCT, BTL/KQ; và tới năm 1974 kiêm Thư ký tòa soạn đặc san Lý Tưởng của BTL/KQ.

        Sau 30/4/1975, khi có lệnh trình diện “học tập 10 ngày”, tôi và Tự cùng nhau tới Đại học Văn Khoa trình diện để rồi bị đưa lên Thành Ông Năm (Hốc Môn). Cũng nhờ “nắm áo” nhau, chúng tôi luôn luôn ở cùng tổ cho tới khi bị đưa ra Phú Quốc vào đầu năm 1976, trước tết ta mấy ngày, và chia tay nhau từ đó.

        Tới khi Khmer Đỏ đánh đảo Thổ Châu, tù cải tạo ở Phú Quốc được đưa về đất liền thì Tự bị đưa lên Long Giao rồi ra Bắc, tôi may mắn được đưa về Trảng Lớn (Tây Ninh) rồi lần lượt nhiều trại khác trong Nam.

        Một trong những sĩ quan KQ quen biết tôi được gặp lại trong Thành Ông Năm là Thiếu tá Võ Văn Thi, Trưởng Khối CTCT Căn Cứ 20 Chiến Thuật Không Quân (Phan Rang).

        Tôi (và Tự) quen anh Thi ngày anh còn phụ trách hướng đạo sinh quân đội tại BTL/KQ.

        Vào thời gian hai tháng đầu ở Thành Ông Năm, khi CSBV chưa có đù người để kiểm soát chặt chẽ, tôi và Tự thường leo rào sang khu thiếu tá, đại úy và được gặp anh Thi vài lần. Tội nghiệp đàn anh, khi nghe phong phanh cấp thiếu tá sắp bị đưa đi nơi khác, anh Thi đã tới hàng rào nhờ người nhắn tôi và Tự ra để anh trao hai gói thuốc Bastos De Luxe mà anh mới nhận được trong lần gửi quà đầu tiên của gia đình.

        * * *

        Rời Thành Ông Năm ra Phú Quốc rồi về Trảng Lớn, tôi không quen thân một bạn tù Không Quân nào, cho tới khi bị đưa lên Đồng Ban (cũng ở tỉnh Tây Ninh) mới được ở chung đội với Trung úy Đỗ Văn Cường, trên tôi mấy khóa, hoa tiêu quan sát phục vụ tại Phi Đoàn 110 Thiên Phong ngoài Đà Nẵng (hiện nay anh đang định cư ở Hoa Kỳ).

        Sau hơn một năm ở chung hai trại Đồng Ban, Phước Long với anh Cường, khoảng tháng 8 hay tháng 9/1980, tôi bị đưa về trại Suối Máu ở Biên Hòa. Chính tại đây, tôi đã tìm lại được chút không khí “gia đình Không Quân” khi ở tù chung với mấy đàn anh cấp tá quen biết trước năm 1975, gồm mấy vị thiếu tá Liên đoàn trưởng, Trưởng Phòng ở BCH/KT&TV/KQ và Thiếu tá Lê Thanh Hồng Vân, Phi đoàn phó Phi Đoàn 530 ở Pleiku năm xưa.

        Nguyên trại tù Suối Máu được chia ra năm khu, gọi là K, từ K1 tới K5. Thời gian đầu, Suối Máu chỉ dành cho cấp tá, sau khi hầu hết các vị này đã bị đưa ra Bắc hoặc các trại khác ở trong Nam, tù cải tạo cấp úy từ các nơi như Trảng Lớn, Thành Ông Năm, Kà Tum, Phước Long... mới được đưa về để điền vào chỗ trống.

        Đám chúng tôi từ Phước Long về là đợt sau cùng cho nên bị chia năm xẻ bảy, tôi lọt vào K2 là K duy nhất còn sót lại một số trung tá, thiếu tá.

        Trước khi đưa tù từ các nơi về, cấp tá ở K2 đã bị dồn vào những dãy nhà gần hội trường và cổng ra vào, những dãy còn lại dành cho cấp úy mới được đưa về.

        Theo nội quy, tù khu cấp tá và khu cấp úy ở K2 không được “quan hệ” với nhau dưới mọi hình thức, tức là không được vào nhà đã đành mà còn không được gặp gỡ, trò chuyện ở bất cứ nơi nào. Tuy nhiên trên thực tế, nếu không sợ bị ăng-ten báo cáo, người ta có thể quan hệ với nhau khi xem đấu bóng chuyền ngoài sân hay ngồi hóng mát (hoặc phơi nắng để giết con ghẻ) trên thềm hội trường.

        Tôi cũng thường ra thềm hội trường ngồi nhưng không phải để hóng mát hoặc phơi nắng mà để thả hồn về với dĩ vãng... Không Quân.

        Nguyên trại tù Suối Máu nằm phía bên mặt Quốc lộ 1 (hướng đi Hà Nội), cách phi trưởng Biên Hòa khoảng 3 km. Ngay từ khi mới tới Suối Máu, tôi đã thấy những chiếc MiG-21 của cộng sản Bắc Việt cất cánh từ phi trường và nghe tiếng động cơ phản lực thỉnh thoảng gầm rú, mà qua kinh nghiệm trong mấy năm phục vụ tại CCKQ Biên Hòa tôi biết đó là tiếng động cơ từ giàn thử động cơ phản lực (Test Cell) ở khu Đông, mà chúng tôi không kịp phá hủy trong cuộc di tản chiều 28/4/1975.

        Trại tù Suối Máu nằm trên một vùng đất khá cao cho nên ngồi trên thềm hội trường nhìn về hướng Bắc, phía bên kia Quốc lộ 1, tôi có thể thấy nhà thờ giáo xứ Phúc Hải và các giáo xứ kế tiếp của vùng Hố Nai, nơi trước đó hơn 10 năm, Trung úy hoa tiêu F-5 Nguyễn Trí Kiên đã chấp nhận hy sinh để hàng trăm người dân được sống. (Chú thích 1)

        Một ngày nọ, đang ngồi trên thềm hội trường thả hồn về chốn xưa, tôi gặp Thiếu tá Lê Hiền Đức, Liên đoàn trưởng Liên Đoàn Chế Tạo & Sửa Chữa Phụ Tùng, thuộc Không Đoàn Tân Trang & Chế Tạo.

        Thiếu tá Đức (về sau đi HO và đã qua đời tại Hoa Kỳ) là vị sĩ quan lớn tuổi nhất trong số những cấp chỉ huy trung gian mà tôi quen thân, chỉ đứng sau Đại úy Nguyễn Văn Ban, Trưởng Phòng Tổng Quản Trị.

        Lớn tuổi nhất nhưng lại mang cấp bậc thấp hơn một số đàn em trong nghề (đã mang lon trung tá) chỉ vì ông Đức không “có điểm” với ông Từ Văn Bê.

        Cũng giống trường hợp Đại úy Nguyễn Văn Ban, tôi thân ông Đức một phần vì biết và thích uống rượu. Mỗi cuối tuần, sau giờ làm việc ông và mấy sĩ quan trẻ, hạ sĩ quan thân tín dưới quyền thường gầy độ ngay tại xướng. Xưởng của Liên Đoàn nằm ở khu Tây, gần Phòng Xã Hội nên tôi thường được tay bạn cùng khóa rủ rê. Từ đó tôi và Thiếu tá Đức thân nhau.

        Việc này tới tai ông Từ Văn Bê – một người suốt đời không một giọt rượu. Một hôm, không biết có điều gì bực bội trong lòng, ông bất ngờ hỏi tôi một cách khá gay gắt:

        - Nghe nói hồi này anh nhậu với Thiếu tá Đức dữ lắm phải không?!

        Tôi hơi khựng rồi lấy lại bình tĩnh, trả lời:

        - Thưa Đại tá (lúc đó ông Bê chưa lên tướng), chúng tôi chỉ uống mấy ly bia cho vui thôi chứ đâu có hết xị này tới xị khác mà nói là nhậu dữ. Hơn nữa, Thiếu tá Đức và chúng tôi chỉ uống sau giờ làm việc mà thôi!

        Khi trả lời như thế tôi cũng có cương ẩu: tôi và ông Đức thường uống rượu thuốc chứ đâu uống bia!

        Khi được tôi kể lại chuyện này, ông Đức biết ngay ai là kẻ đâm thọc: một ông trung úy già trưởng xưởng có tiếng là gương mẫu, thường hay lên mặt dạy đời, hù dọa người khác. Nhưng tôi dư biết tay trung úy già này - và những tay chuyên tâu trình khác - chẳng có chút ảnh hưởng nào đối với ông Từ Văn Bê, một cấp chỉ huy đầy bản lĩnh.

        * * *

        Ông Đức cho tôi biết hiện có 4, 5 vị cựu thiếu tá khác của BCH/KT&TV/KQ cũng đang ở K2 Suối Máu.


        Nguyên BCH/KT&TV/KQ của chúng tôi là một đơn vị kỹ thuật & tiếp vận, tuy cấp số tương đương với một sư đoàn không quân nhưng không có phi cơ. Thành thử trừ ông Chỉ huy trưởng Từ Văn Bê được ngồi chung trực thăng với Chuẩn tướng Huỳnh Bá Tính, Tư lệnh SĐ3KQ, rời CCKQ Biên Hòa vào tối 28/4/1975 sau khi đốt phi trường, tất cả đã phải tự mình tìm đường thoát thân hoặc chấp nhận ở lại.

        Trong số những người bị kẹt lại, hoặc chấp nhận ở lại có hai ông trung tá và hầu hết thiếu tá.

        Cũng theo lời kể của ông Đức, vào thời gian đầu ở Suối Máu còn có một số trung tá, đại tá Không Quân ở các đơn vị khác, trong đó có sếp cũ của tôi ở Pleiku ngày trước là Trung tá Lê Bá Định, cựu Trưởng Khối CTCT Pleiku, sau làm Không đoàn trưởng Không Đoàn 72 Chiến Thuật, nhưng ít lâu sau, tất cả đã bị đưa ra Bắc.


        * * *

        Ngoài các đàn anh nói trên, tôi được biết ở K2 Suối Máu lúc đó còn có Thiếu tá Lê Thanh Hồng Vân (LTHV), một hoa tiêu khu trục nổi tiếng, xuất thân Phi Đoàn 514 Phượng Hoàng, về sau có thời gian giữ chức Phi đoàn phó Phi Đoàn 530 Thái Dương ở Pleiku.


        Lê Thanh Hồng Vân, hàng ngồi, thứ hai từ trái, khi còn phục vụ tại Phi Đoàn 514, CCKQ Biên Hòa

        Trong suốt mấy tháng trước khi anh LTHV bị đưa về nhà giam Chí Hòa, tôi chỉ gặp anh vài lần, chào hỏi nho nhỏ chứ không dám gặp gỡ trò truyện vì nhà của anh nằm ngay “ngã tư quốc tế” đông người qua lại, nên tôi không muốn anh hay tôi, hoặc cả hai, bị một người bạn tù quý hóa nào đó báo cáo vi phạm nội quy.

        Nhưng dù không được trò truyện với nhau, tôi cũng biết ở Suối Máu, LTHV vừa là một anh hùng, vừa là một huyền thoại. “Anh hùng” là việc làm Trưởng Ban Hành Động của K2 trong cuộc nổi loạn đêm Giáng sinh 1978, còn “huyền thoại” là việc anh có đào là một đảng viên cộng sản!

        Anh LTHV đã qua đời cách đây mấy năm tại Hoa Kỳ, tôi xin hương linh anh cho phép kể lại những gì ngày đó anh em tù cải tạo ở Suối Máu thường kể cho nhau nghe một cách thích thú và quả quyết đó là... chuyện thật!

        Huyền thoại ấy - hoặc “giai thoại” nếu là chuyện thật - như sau: trước năm 1975, cộng sản cho một nữ cán bộ xinh đẹp giả dạng “em gái hậu phương” quyến rũ anh LTHV để khai thác bí mật quốc phòng.

        Không biết cô cán bộ có khai thác được bí mật nào không, chỉ biết thay vì quyến rũ anh, cô đã bị anh quyến rũ. Sau khi cộng sản chiếm miền Nam, tức là nhiệm vụ được đảng trao phó đã hoàn tất, cô cán bộ cộng sản vẫn không bỏ tay “giặc lái”. Sau khi LTHV bị đi học tập cải tạo, cô lên thăm nuôi thường xuyên, muốn thăm lúc nào thì thăm chứ không phải chờ đợi tới kỳ thăm nuôi như những tù cải tạo khác, bởi vì cô là một... đảng viên Cộng Sản!

        Nhờ đó, hay ít ra cũng là theo suy luận của anh em bạn tù, LTHV không bị đưa ra Bắc, và ở Suối Máu anh không ngán một tay cán bộ nào cả. Đặc biệt, anh nhất quyết không chịu cạo bộ râu mép dù đã được viên thiếu tá thủ trưởng K2 khuyến cáo nhiều lần.


        * * *

        Sau mấy tháng ở Suối Máu, qua tin tức trao đổi giữa các K, tôi được biết Phan Lạc Giang Đông (PLGĐ) đang ở bên K1.

        Như đã viết ở phần đầu, PLGĐ là một người bạn khá thân của tôi và Trần Ngọc Tự, cùng học Khóa 8 Căn Bản Sĩ Quan CTCT ở Đà Lạt năm 1970; sau đó PLGĐ cùng phục vụ tại Đoàn Công Tác Chính Huấn BTL/KQ với Tự.


        Đà Lạt 1970, từ trái, người viết, Trần Ngọc Tự, PLGĐ

        Sau 30/4/1975, tuy cùng ở Phú Nhuận nhưng PLGĐ không trình diện “học tập 10 ngày” ở Đại Học Văn Khoa với tôi và Tự, cho nên không ở chung trại với nhau.

        Trại cuối cùng của PLGĐ trước khi bị đưa về Suối Máu là Thành Ông Năm (trại đầu tiên của tôi và Tự). Về Suối Máu, PLGĐ ở K1 sát K2 của tôi.


        Suối Máu trước kia là tại tù phiến cộng, sau 1975 biến thành trại tù sĩ quan ”ngụy” do Quân Đội Nhân Dân trông coi. Các K được phân cách nhau bằng mấy lớp hàng rào kẽm gai khá kiên cố, tuy nhiên sau khi kẽm gai và cọc sắt được bộ đội gỡ bớt đem đi bán thì tù “cải tạo” có thể lén chui từ K này qua K khác.

        Nhưng hàng rào giữa K2 và K1 thì gần như còn nguyên. Theo suy đoán của tôi có lẽ vì ở hàng rào ngoài trại, khoảng giữa K1 và K2 có một vọng gác 24/24, lính canh từ trên đó nhìn xuống thấy rõ mồn một, các “đồng chí” không dám chơi bạo cho nên hàng rào giữa hai K mới còn nguyên!

        Vì thế tù ở K1 và K2 muốn nói chuyện với nhau phải nói thật lớn tiếng mới nghe được, cho nên việc trao đổi tin tức thường được thực hiện bằng cách viết ra giấy rồi cột vào một hòn đá ném qua hàng rào.

        Qua một lần trao đổi bằng miệng với anh em bên K1, tôi được biết PLGĐ ở bên đó. Nhưng chưa kịp liên lạc thì xảy ra cuộc nổi loạn đêm Giáng Sinh 1978.

        Thời gian này, tù cải tạo đã được bộ đội bàn giao công an của Cục Trại Giam, những cai tù thứ thiệt, cho nên việc truy tìm những anh em có tên trong các Ban hành động và Ban đại diện quân binh chủng ở các K không phải là một việc khó khăn.

        Thiếu tá KQ Lê Thanh Hồng Vân, Trưởng ban Hành động K2, bị đưa về Chí Hòa ngay trong đợt thanh trừng đầu tiên, còn PLGĐ nằm trong Ban Hành động K1 bị đưa đi đợt hai, khi tôi bị đưa từ K2 sang K1 thì không còn ở đó nữa.

        Cuối năm 1979, tôi bị đưa lên Tống Lê Chân. Tại trại mới, tôi gặp lại Thiếu tá Phan Thanh Tùng, một trong những ông Liên đoàn trưởng ở BCH/KT&TV/KQ ngày trước. Anh có biệt hiệu Tùng “con” vì người nhỏ thó, mặt mũi thư sinh, tính tình hiền lành.

        Trước năm 1975, tôi và anh Tùng đã khá thân nhưng ở Suối Máu ít khi gặp nhau trò chuyện vì hai nhà khá xa nhau, nay gặp lại ở Tống Lê Chân mới có nhiều cơ hội.

        Nguyên tù cải tạo ở Tống Lê Chân bị nhét như cá hộp trong những dãy nhà tối tăm lụp xụp, nên ban ngày ai cũng ra bên ngoài cho thoải mái, muốn “quan hệ” với ai mặc sức, nhờ đó tôi mới biết tới cái “câu lạc bộ” ngoài trời của anh Tùng và mấy quan tá “xì thẩu”, nơi các đàn anh thường tụ tập cà phê trà lá, tập tành chơi ghi-ta... vào những lúc rảnh rỗi sau giờ lao động.

        Thấy anh Tùng và mấy quan tá lần mò từng hợp âm trên cần đàn một cách khó khăn tôi bỏ công biên soạn tập “Cách bấm những hợp âm căn bản” và được đón nhận nồng nhiệt – bằng tinh thần cũng như vật chất!

        Cũng nên biết tù cải tạo ở Tống Lê Chân không được thăm nuôi, không được nhận quà cho nên tôi bị “đói” – nhất là đói thuốc, đói đường, cho nên tôi không một chút tự ái khi nhận “học phí” là những nhúm thuốc rê, những cục đường tán từ anh Tùng và các quan tá “xì thẩu”.

        Viết như thế không có nghĩa họ chỉ xem đây là một cuộc trao đổi “đôi bên cùng có lợi” mà trái lại rất quý mến tôi, đem lại cho tôi một niềm vui thực sự trong những tháng ngày tù tội ở Tống Lê Chân. Về phần anh Tùng, anh cũng rất hãnh diện khi có một đàn em Không Quân làm... rạng rỡ quân chủng!

        * * *

        Cuối tháng 1/1981, mấy tuần trước tết Tân Dậu, tôi được thả. Khoảng một tháng sau, Trần Ngọc Tự cũng được thả về từ miền Bắc; rồi PLGĐ cũng được thả.

        Vì hoàn cảnh gia đình cũng như lo ngại “tai mắt” của công an, ba thằng chúng tôi hạn chế gặp gỡ nhau, và không bao giờ ngồi chung quán cà phê nơi những anh em cựu tù cải tạo thường tụ tập. Riêng PLGĐ, tôi chỉ gặp một lần duy nhất khi hai thằng đi xe đạp ngược chiều đụng đầu nhau trong một con hẻm nhỏ ở Phú Nhuận.

        Đó là lần duy nhất và cũng là lần cuối cùng tôi gặp lại PLGĐ vì tới tháng 10/1981 tôi vượt biên. Định cư tại Úc, tôi được tin PLGĐ sang Hoa Kỳ theo diện HO và qua đời vì bạo bệnh năm 2001 khi mới 62 tuổi.

        (Còn tiếp)



        CHÚ THÍCH:

        (1) Trung úy Nguyễn Trí Kiên xuất thân hoa tiêu khu trục A-1 Skyraider thuộc Phi Đoàn 514 Phượng Hoàng. Vào đầu năm 1966, bốn phi đoàn khu trục hiện hữu - 514, 516, 518, 520 – mỗi phi đoàn được tuyển chọn bốn người sang Hoa Kỳ xuyên huấn phản lực cơ siêu thanh F-5. Phi Đoàn 514 gồm:

        - Thiếu úy Lê Như Hoàn
        - Thiếu úy Thăng Quốc Phan
        - Thiếu úy Nguyễn Trí Kiên
        - Thiếu úy Trịnh Hữu Trí


        Về nước tháng 4 năm 1967, tất cả phục vụ tại Phi Đoàn 522 Thần Ưng, phi đoàn F-5 đầu tiên, và duy nhất vào thời điểm đó.

        Trong một phi vụ oanh kích cộng quân vào năm 1968 (?), chiếc F-5 của Trung úy Kiên bị trục trặc kỹ thuật, bom đeo dưới cánh không rơi ra được, phải bay về Biên Hòa. Được lệnh nhảy dù nhưng anh đã quyết định cố tìm cách đưa phi cơ ra khỏi khu vực dân cư và bị crashed, trở thành hoa tiêu F-5 đầu tiên hy sinh.

        Sự quên mình của Trung úy Kiên đã khiến dân chúng ở vùng Hố Nai cảm kích, tri ân; tang lễ của anh được ghi nhận là một trong những đám tang quân đội được dân chúng tham dự đông nhất từ trước tới nay.
        Last edited by Nguyen Huu Thien; 03-23-2025, 11:49 PM.

        Comment



        Hội Quán Phi Dũng ©
        Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




        website hit counter

        Working...