BUỒN VUI ĐỜI LÍNH... VĂN PHÒNG (phần 2)
Hồi ký
Nguyễn Hữu Thiện
Nguyễn Hữu Thiện
Phần 2 - “Kỹ Thuật Tiếp Vận là ta”
Giữa tháng 6/1972, chỉ hơn một tuần lễ sau khi làm đơn, tôi nhận được quyết định thuyên chuyển về Khối CTCT Bộ Chỉ Huy Kỹ Thuật Tiếp Vận Không Quân (BCH/KTTV/KQ) ở Biên Hòa, nơi mà ông chỉ huy trưởng, Đại tá Từ Văn Bê, có tiếng là người réc-lô nhất trong số chín ông đại đơn vị trưởng của Không Quân (6 Sư Đoàn + TTHLKQ + BCH/HQKQ + BCH/KTTV/KQ).
Tại sao tôi không xin về Khối CTCT của SĐ3KQ cũng ở Biên Hòa?
Xin được giải thích như sau:
Trong các ngành không phi hành của Không Quân, không kể những trường hợp hoán chuyển đơn vị giữa hai cá nhân, trong đơn xin thuyên chuyển của các quân nhân mãn hạn phục vụ chỉ ghi tên địa phương mình muốn về chứ không ghi tên đơn vị, bởi vì có khi ở một địa phương có nhiều đơn vị khác nhau, tùy theo nhu cầu mà quân nhân xin thuyên chuyển về sẽ bị chỉ định một trong những đơn vị đó chứ không được quyền lựa chọn.
Thí dụ một người có chỉ số 72 (Chiến Tranh Chính Trị) nếu làm đơn xin thuyên chuyển về Tân Sơn Nhứt thì có thể sẽ được về Văn phòng Tham mưu phó CTCT tại BTL/KQ, hay Khối CTCT của SĐ5KQ, hoặc Phòng CTCT của Liên Đoàn Kiểm Báo.
Ở đây tôi làm đơn xin về Biên Hòa, nơi có hai Khối CTCT, một của SĐ3KQ, một của BCH/KTTV/KQ. Dĩ nhiên tôi mong muốn được về Khối CTCT của SĐ3KQ nhưng có lẽ lúc đó bên SĐ3KQ đã đủ người còn BCH/KTTV/KQ thiếu người cho nên tôi mới bị đưa về phục vụ dưới trướng ông Từ Văn Bê.
* * *
Lần đầu tiên tôi được nghe tên và thấy mặt ông Từ Văn Bê là vào khoảng đầu năm 1971 ở Pleiku, nhân dịp Thiếu tá Lê Bá Định, Phi đoàn trưởng Phi Đoàn 530, đứng ra tổ chức Đêm Khu Trục (2) tại phi trường Cù Hanh.
Sanh sau đẻ muộn, tôi không được biết Đêm Khu Trục (1) tổ chức trước đó 10 năm linh đình cỡ nào, chỉ biết Đêm Khu Trục (2) là party lớn nhất trong Không Quân mà tôi từng được tham dự.
Địa điểm là CLB Sĩ Quan Không Quân Pleiku, nguyên là NCO Club của Không Đoàn 633 (Hoa Kỳ) mới bàn giao, sang trọng, đẹp đẽ, tân kỳ gấp chục lần Hội quán Mây Bốn Phương của SĐ5KQ ở Tân Sơn Nhứt.
Về văn nghệ thì ông bầu Jo Marcel, ban nhạc (cùng dàn âm thanh) và các ca sĩ tên tuổi ở Sài Gòn được Đại tá Phan Phụng Tiên cho nguyên một chiếc C-47 chở lên Pleiku; anh chàng còn chơi đẹp dắt theo cô học trò trẻ đẹp nhất, láng mướt nhất của Xuân Trang – Thu Thủy lên vũ sexy 100%, gọi là để sưởi ấm lòng những “kẻ ở miền xa, thiếu bóng đàn bà”!
Trong phần giới thiệu quan khách tham dự, sau Phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ (mà ông Lê Bá Định được chỉ thị thưa gửi một cách ngắn gọn là “Thiếu tướng phi công”), cựu Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan, ông Minh “đù” và các ông sư đoàn trưởng, chỉ huy trưởng hiện diện, ông Định đã trân trọng giới thiệu “Đại tá Từ Văn Bê cũng phải tạm rời cái chùa Kỹ Thuật Tiếp Vận ở Biên Hòa để lên Pleiku chung vui”!
Đêm hôm đó, ba ông tướng (Kỳ, Loan, Minh) đều mặc đồ xi-vin, còn các ông Đại tá tôi chỉ nhớ mỗi ông Phan Phụng Tiên mặc đồ bay thắt khăn phu-la tím trông rất ư là... playboy!
Sau Đêm Khu Trục (2), tôi cũng quên luôn tên tuổi, mặt mũi ông Từ Văn Bê cũng như cái danh xưng đơn vị dài thoòng “Bộ Chỉ Huy Kỹ Thuật Tiếp Vận Không Quân”!
Hơn một năm sau, khi nhận được lệnh thuyên chuyển về “cái chùa Kỹ Thuật Tiếp Vận” ấy, tôi mới có cơ hội tìm hiểu về ông “Từ”.
* * *
Ông Từ Văn Bê sinh năm 1931, gốc Long Xuyên, ăn học ở Sài Gòn. Theo lời cố Đại tá Nguyễn Quang Tri, một vị đại niên trưởng trong ngành khu trục và cũng là bạn học năm cuối trung học của ông Từ Văn Bê thì trước kia chàng thanh niên họ Từ không hề có ý định gia nhập quân đội mà muốn trở thành kỹ sư; chỉ sau khi đậu Tú Tài Pháp, bị anh bạn học Nguyễn Quang Tri (vốn ôm mộng trở thành phi công) rủ rê mới thi vào Không Quân để theo học Khóa 1953 tại Trường Võ Bị Không Quân Salon-de-Provence bên Pháp.
Có tổng cộng 20 khóa sinh trên toàn quốc VN trúng tuyển khóa này, sang Salon-de-Provence học chung với người Pháp. Theo lời kể lại của Đại tá Tri (bài “Chuẩn tướng Từ Văn Bê”, Hội Quán Phi Dũng), ông Từ Văn Bê là dân nhà lành thứ thiệt, ngôn ngữ bình dân gọi là “cù lần”:
“Ở Pháp, cụ không biết đi chơi bời. Ngày nọ, cụ đi bệnh xá, gặp Y Sĩ Trưởng là một Đại Tá già, coi chúng tôi như con cháu trong nhà, nên ông nói với cụ nhà ta rằng: Tu connais pas qu’il y a des bordels à...” (Anh không biết ở... có các động chị em ta à) làm mấy thằng Tây con tủm tỉm cười, vì biết bao nhiêu thằng còn trinh. Không biết cụ nhà tôi mất trinh từ bao giờ???” (ngưng trích)
Trường Võ bị Không quân Pháp Salon-de-Provence
Sau một năm tại Salon-de-Provence, ông Nguyễn Quang Tri sang Meknes, Morocco, học bay khu trục, còn ông Từ Văn Bê tới Rochefort theo học ngành kỹ thuật hàng không.Về nước với bằng Kỹ sư Cơ khí Hàng Không (Ingénieur aéronautique, tiếng Anh: Aviation Engineer), Trung úy Từ Văn Bê giữ chức vụ Sĩ Quan Kỹ Thuật của Đệ Nhất Phi Đoàn Tác Chiến Liên Lạc (1er GC&L). Sau khi phi đoàn này bị giải thể vào năm 1956 (vì các phi cơ MD-315 Flamant của phi đoàn phải trả lại cho người Pháp theo các điều khoản của Hiệp Định Geneva 1954), ông về Biên Hòa làm phụ tá cho Đại úy Lê Văn Khương, Giám đốc Công Xưởng Không Quân.
Năm 1958, Đại úy Từ Văn Bê lên thay Đại úy Lê Văn Khương.
Năm 1964, cùng với việc thành lập các Không Đoàn 23, 33, 41, 62, 74 Chiến Thuật, Công Xưởng Không Quân trở thành Không Đoàn Kỹ Thuật Tiếp Vận, chức vụ Giám đốc Công Xưởng của Thiếu tá Từ Văn Bê trở thành Tư lệnh Không Đoàn KTTV.
Lễ chuyển giao phản lực cơ F-5 cho KQVN, Biên Hòa 1/6/1967. Đi hàng đầu, từ trái: Trung tá Dương Thiệu Hùng, Tư lệnh KĐ23,
Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, Tư lệnh KQVN, Trung tá Từ Văn Bê, Tư lệnh KĐKTTV. Đi phía sau là Đại sứ Mỹ Ellsworth Bunker
Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, Tư lệnh KQVN, Trung tá Từ Văn Bê, Tư lệnh KĐKTTV. Đi phía sau là Đại sứ Mỹ Ellsworth Bunker
Năm 1970, trong đà bành trướng của quân chủng, khi các Sư Đoàn Không Quân được thành lập, Không Đoàn Kỹ Thuật Tiếp Vận trở thành Bộ Chỉ Huy Kỹ Thuật Tiếp Vận Không Quân, chức vụ của ông Từ Văn Bê trở thành Chỉ huy trưởng.
Như vậy, tính tới năm 1975, ông Từ Văn Bê đã nắm quyền chỉ huy một đơn vị trong suốt 17 năm liên tục, một kỷ lục không chỉ trong Không Quân mà còn của cả QLVNCH.
Nguyên nhân: theo nhận xét của đa số niên trưởng trong Không Quân, ông Từ Văn Bê vừa có khả năng chuyên môn vừa yêu nghề vừa có tinh thần trách nhiệm, để ông liên tục nắm giữ một đơn vị kỹ thuật sẽ có nhiều thuận lợi. Bên cạnh đó còn thêm một nguyên nhân tế nhị mà mọi người thường hiểu ngầm chứ không bao giờ nói ra công khai: ông Từ Văn Bê có tiếng là thanh liêm, để ông nắm ngành tiếp vận sẽ không sợ bị... thất thoát, vì thế ông thường được gọi nửa đùa nửa thật là “ông thần giữ của của Không Quân”!
Nhưng ông Từ Văn Bê không chỉ thanh liêm mà còn... réc-lô; bởi ông quan niệm Công Xưởng Không Quân cũng giống như một hãng xưởng ngoài dân sự, các nhân viên sáng đi chiều về, nếu không đôn đốc, kiểm soát thì công việc sẽ không chạy. Vì thế trong giờ làm việc mới có xe díp của Phân Đoàn Cảnh Vệ chạy vòng vòng trong căn cứ để “hốt” mấy chú lính mang phù hiệu “kỹ thuật tiếp vận” đi lang thang không có lý do chính đáng.
[BCH/KTTV/KQ không có “quân cảnh” riêng, chỉ có “cảnh vệ” để canh gác các cơ sở kỹ thuật, các kho vật liệu và tuần tiễu trong phạm vi trách nhiệm]
Nghe kể lại, cơ xưởng nào có nhiều lính vi phạm sẽ bị ông Từ Văn Bê... ghi lòng tạc dạ (ông có một trí nhớ dễ nể). Sĩ quan (và hạ sĩ quan có chức vụ) cũng thế, người nào lè phè, vô trách nhiệm hoặc có nhiều “phốt” thì không thể sống yên với ông, trái lại người nào đàng hoàng chăm chỉ thì không bao giờ bị thuyên chuyển đi nơi khác, vì ông Từ Văn Bê và BTL/KQ đã có một thỏa thuận ngầm: BTL/KQ không bao giờ được “bắt” người của ông!
Vì thế, trước khi rời Pleiku tôi tới chào từ biệt sếp cũ là Trung tá Lê Bá Định, lúc này đang làm Không đoàn trưởng KĐ72CT, biết tôi có tật ngựa non háu đá, điếc không sợ súng, ông ân cần căn dặn:
“Bạn có vợ con rồi, về với ông Từ Văn Bê ráng giữ mình, ổng mà thấy bạn OK rồi thì không bao giờ phải lo bị đổi đi nơi khác.”
Tôi rất cảm động trước lời khuyên của vị chỉ huy cũ nhưng lúc ấy trong lòng tôi tự biết mình sẽ khó mà “OK”!
* * *
Về tới Biên Hòa, việc đầu tiên của tôi là tới Phòng Nhân Viên (sau này gọi là Phòng Tổng Quản Trị) làm thủ tục đáo nhậm đơn vị (ký “circuit d’arrivée”), một ông Thiếu úy già mặt mũi rất khó chịu nhìn tôi từ đầu tới chân rồi nói:
-Thiếu úy có biết sĩ quan mới về Bộ chỉ huy ký “circuit d’arrivée” xong phải vào trình diện Đại tá Chỉ huy trưởng không? Lo hớt tóc cạo râu đi nghen!
Tới Khối CTCT, tôi vào trình diện Đại úy Nhữ Văn Phúc, một sĩ quan kỹ thuật đang giữ chức “quyền Trưởng Khối CTCT” thay Thiếu tá Nguyễn Bá Thảo đi làm Sĩ quan Liên lạc KQ bên Mỹ.
Đại úy Nhữ Văn Phúc (sau lên Thiếu tá) là một sĩ quan khá trẻ, chắc chỉ hơn tôi bốn, năm tuổi, xuất thân thiếu sinh quân, hoạt bát vui vẻ, rất được cảm tình trong đơn vị.
Thế nhưng mới nói chuyện được hai ba câu, ông đã hỏi tôi – hỏi thật chứ không hỏi đùa:
-Nghe nói ngoài Pleiku anh chuyên môn dọt phải không?
Nghe ông Phúc hỏi tôi giật mình, và thất vọng. Giật mình vì không ngờ Thiếu tá X lại nhỏ mọn và thù dai tới mức thông báo “thành tích” của tôi về đơn vị mới. Thất vọng vì không ngờ ông Phúc lại hỏi tôi về cái tội “chuyên môn dọt” ngay trong lần đầu tôi “ra mắt” ông.
Thành thử như một phản ứng tự nhiên, tôi lui ngay về thế thủ; thủ nhưng vẫn trả lời một cách hơi găng, tuy cố thòng một câu cho ra vẻ khôi hài:
-Thưa đại úy, tôi chỉ trễ phép một lần duy nhất, còn những lần khác tôi xin mà không cho đi thì tôi đành phải dọt thôi!... Nhưng bây giờ về Biên Hòa rồi tôi đâu cần dọt nữa!
Sau này, khi tôi đã trở thành “ma cũ”, quan hệ giữa tôi và ông Phúc khá tốt đẹp, chỉ sau Đại úy Vũ Duy Ty (Khóa 65B), Trưởng Phòng Tâm Lý Chiến kiêm phụ trách hướng đạo sinh quân đội, là người tôi thân thiết nhất.
Bởi vì chỉ sau khi đã trở thành “ma cũ”, tôi mới nhận ra ngày ấy ông Phúc cũng chẳng có ác cảm hay thành kiến với tôi mà chỉ muốn “phủ đầu” để đưa tôi vào khuôn khổ, cũng giống không ít cấp chỉ huy trung gian khác - Trưởng Khối, Trưởng Phòng, Liên Đoàn Trưởng... - ở BCH/KTTV/KQ.
Có thể viết, khi “tiếng dữ đồn xa” thì một phần không nhỏ tiếng dữ của ông Từ Văn Bê là do các cấp chỉ huy trung gian này vô tình tạo ra!
* * *
Trở lại với buổi trình diện Đại úy Phúc, sau đó ông cũng lập lại những gì ông Thiếu úy già ở Phòng Nhân Viên đã cảnh cáo tôi: hớt tóc cạo râu trước khi trình diện Đại tá Chỉ huy trưởng; ông cũng nói tôi phải may phù hiệu đơn vị lên vai áo và bỏ áo trong quần!
Lúc đó tôi đang mặc một bộ nomex (áo quần rời của dân trực thăng), rất muốn giải thích cho ông Phúc biết mặc đồ nomex mà bỏ áo trong quần thì trông không giống con giáp nào cả, nhưng tôi đã kịp nhớ tới lời căn dặn của ông Lê Bá Định để im miệng.
Tới khi ký xong một vòng “circuit d’arrivée” thì tôi đã trở thành một quân nhân “kỹ thuật tiếp vận” gương mẫu: tóc ngắn 3 phân, mày râu nhẵn nhụi, mặc một bộ treillis áo bỏ trong quần, không quên may phù hiệu đơn vị trên vai, lên Bộ chỉ huy trình diện Đại tá Chỉ huy trưởng!
Nhưng hôm đó ông Từ Văn Bê quá bận rộn, khi được ông Trung úy Trưởng Ban Văn Thư vào báo có một tay Thiếu úy mới thuyên chuyển về đang chờ trình diện, đã nói ông Trung úy cứ ký “circuit d’arrivée” cho tôi, khi nào ông rảnh sẽ kêu lên trình diện sau.
Văn phòng Chỉ huy trưởng và Ban Văn Thư của BCH/KTTV/KQ. Hình chụp vào năm 1967
khi đơn vị còn là Không Đoàn KTTV, phía trước có chữ “Bộ Tư Lệnh”
khi đơn vị còn là Không Đoàn KTTV, phía trước có chữ “Bộ Tư Lệnh”
Vậy là tôi đã hy sinh mái tóc, bộ râu một cách vô ích!... Khoảng một tháng sau vẫn không thấy Ban Văn Thư kêu lên trình diện ông chỉ huy trưởng, tôi bắt đầu để râu tóc trở lại.
Về phần Đại tá Từ Văn Bê có lẽ do công việc bề bộn liên tục (tiếp nhận vật liệu, phụ tùng phi cơ trước khi ký Hiệp Định Paris, nhận bàn giao cơ sở từ phía Hoa Kỳ...) cũng quên luôn anh chàng thiếu úy trẻ mới thuyên chuyển về mà ông chưa được thấy mặt mũi, dòm giò cẳng.
Cho tới một ngày đẹp trời nọ, tôi dại dột (vô tình thì đúng hơn) lạy ông tôi ở bụi này.
Đó là việc tôi nổi hứng làm một bài thơ vui để đăng trên Bản Tin đơn vị, kể về việc tôi từ Pleiku thuyên chuyển về BCH/KTTV/KQ trong đó có nhắc tới ba sĩ quan khác cũng mới từ phố núi cao đổi về đây là Thiếu tá (ít lâu sau lên Trung tá) Quách Thu Vinh, Đại úy Hàn Phú, và Đại úy Thái Văn Bé (cả hai sau lên Thiếu tá).
Nhờ bài thơ này mà tôi lọt vào mắt xanh của ông Từ Văn Bê cho nên hơn 50 năm sau tôi vẫn còn nhớ gần như thuộc lòng.
NHẬT KÝ ĐỜI TUI
Kể từ ngày lên đường nhập ngũ
Bốn quân trường đủ thứ ăn chơi
Vai mang quai chảo sáng ngời
Tưởng rằng từ đó cuộc đời lên hương.
Ngày bốc thăm bốn phương tám hướng
Tay run run cứ tưởng xổ đề
Cần Thơ đã có người về
Nha Trang, Đà Nẵng, Biên Huề cũng tan
Bớ Pleiku sao mà hắc ám (1)
Ta với mi ân oán gì đâu...
Ra đi lòng dạ thấy rầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ (2)
Ra tới xứ mưa mùa nắng gió
Suốt đêm dài chẳng có gì chơi
Ngày ngày hai buổi leo đồi
Ăn cơm gạo sấy vui đời ấm no
Núi Hàm Rồng (3) chiều chiều đứng ngó
Khát khao lòng biết mó nơi mô
Lâu lâu đi tắm Biển Hồ
Giai nhân miền Thượng tha hồ bướm ong
(Nhưng đừng quất ngựa truy phong
Đinh thư đầy bụng đi đong cuộc đời).
* * *
Tháng năm rồi ngày về cũng tới
Vợ với con ơi ới chán ghê
Pleiku đi dễ khó về
Trai đi có vợ gái về có con
Nhưng thôi phước đức hãy còn
Kỹ Thuật Tiếp Vận sướng hơn núi đồi...
Vừa đặt chân về nơi xứ bưởi
Đã thấy lòng phấn khởi hân hoan
Bà con cô bác xa gần
Tới lui thăm hỏi trăm phần mến thương
Có những người cùng nơi xứ Thượng
Quách Thu Vinh lão trượng ngày nào
Thêm Đại úy Bé to cao
Quan ba Hàn Phú cũng nhào về đây
Thế là một ách ba tây
Cùng nhau góp sức đắp xây chung nhà
Kỹ Thuật & Tiếp Vận là ta...
(1) Đúng ra là tôi bốc phải thăm Sóc Trăng rồi đổi lấy thăm Pleiku
(2) Mượn thơ Nguyễn Du
(3) Núi Hàm Rồng KQ Mít gọi là “núi Lìn”, Không Quân Mỹ bắt chước gọi là “Pussy Mountain”
Pussy Mountain, Pleiku
Bài thơ con cóc ấy chưa được đăng trên Bản Tin đơn vị thì đã lọt vào mắt xanh ông Đại tá Chỉ huy trưởng!
Nguyên ông Từ Văn Bê là một người rất kỹ, việc gì trong đơn vị cũng muốn đích thân kiểm soát (người ta nói ông “độc tài” chẳng oan chút nào), cho nên bài vở trong Bản Tin đơn vị do Ban Thông Tin Báo Chí, Khối CTCT thực hiện mỗi tam cá nguyệt phải trình duyệt bản thảo trước khi cho đánh máy.
Đọc xong bài thơ của tôi, ông Từ Văn Bê điện thoại cho Đại úy Phúc hỏi tác giả là ai (tôi không ghi tên thật). Khi ông Phúc nói tôi là một sĩ quan mới từ Pleiku thuyên chuyển về mà chưa có dịp trình diện Đại tá Chỉ huy trưởng, ông Bê mới chợt nhớ ra liền kêu tôi lên trình diện. Với râu tóc và quân phục lúc ấy không lấy gì làm gương mẫu cho lắm, tôi cũng hơi rét.
Nhưng mọi việc đã diễn ra tốt đẹp ngoài sức tưởng tượng. Ông Từ Văn Bê không hề đả động tới râu tóc và quân phục của tôi, ông chỉ hỏi về chuyện Pleiku, từ công việc của tôi ở đó (Trưởng Đoàn Công Tác CTCT, Sĩ Quan Báo Chí) cho tới các cấp chỉ huy ở phi trường Cù Hanh, cách riêng hai ông Đỗ Trang Phúc và Lê Bá Định. Ông nói ông đã biết ông Định từ ngày ổng còn giữ chức Chỉ huy phó kiêm Sĩ quan CTCT của Phi Đoàn 1 Khu Trục ở Biên Hòa.
Cuối cùng, ông Từ Văn Bê mở cái sơ-mi (chemise) trong đó có bản thảo bài thơ của tôi, viết mấy chữ lên một miếng giấy kẹp vào đó rồi đưa cho tôi, miệng mỉm cười.
Ra khỏi phòng, tôi mở cái sơ-mi ra thì đọc được mấy chữ ông Bê viết trên miếng giấy:
CTCT, có nên có một phần thưởng?
Bên dưới ký tên “Từ Văn Bê” thật lớn! (ông luôn luôn ký đầy đủ tên họ)
Sau đó, tôi được Đại úy Phúc xuất quỹ Xã Hội thưởng cho 500 đồng.
* * *
Số tiền trên chỉ đủ để bao các sĩ quan trong Khối CTCT một chầu cà phê sáng, nhưng dòng chữ của ông Từ Văn Bê thì còn mãi trong tôi!
Tôi không quá lời mà thực sự dòng chữ ấy đã có tác dụng lớn trong việc từng bước thay đổi con người thích chống đối, giảm bớt cái tật ngựa non háu đá nơi tôi. Tôi vừa cảm kích trước sự quan tâm của ông Bê vừa cảm thấy vui vui khi nhận ra rằng cái tài vặt của mình coi vậy mà cũng có người... ái mộ!
Gọi là tài vặt vì làm thơ đúng nghĩa thơ như đàn anh Võ Ý, hoặc hai ông bạn thi sĩ Phan Lạc Giang Đông, Trần Ngọc Tự của tôi ở BTL/KQ mới khó, chứ thơ vui thì một ngày làm mấy bài mà chẳng được!
Từ đó, tôi trở thành cây bút thường xuyên trên Bản Tin đơn vị, lúc làm thơ vui, lúc viết phóng sự tiếu lâm, lúc kể chuyện người tốt việc tốt, khá ăn khách!
Về quân phong quân kỷ, như thể chịu ảnh hưởng mọi người chung quanh, tôi tự động nhập gia tùy tục lúc nào không hay, ăn mặc chỉnh tề, tóc tai gọn ghẽ, chỉ giữ lại bộ râu mép.
* * *
Khoảng hai tháng sau khi về BCH/KTTV/KQ, tôi được bổ nhiệm làm Trưởng Phòng Xã Hội, một chức vụ tôi không thích một chút nào cả.
Thứ nhất, xưa nay chức vụ này thường do một nữ sĩ quan gốc trợ tá xã hội đảm trách, chẳng hạn bà Đại úy Tâm ở BTL/KQ, bà Trung úy Nhàn bên SĐ3KQ.
Thứ hai, công việc của Phòng Xã Hội tại BCH/KTTV/KQ rất nặng nề so với các phòng ban khác thuộc Khối CTCT như Phòng Chính Huấn, Phòng Tâm Lý Chiến, Ban Thông Tin & Báo Chí..., bởi vì ngoài những công tác xã hội đúng nghĩa, còn phải chịu trách nhiệm Phòng May, Phòng Hớt Tóc, Thư Viện, kiểm soát Binh Thực...
Trước khi tôi về BCH/KTTV/KQ thì tại Khối CTCT, ngoài Đại úy Vũ Duy Ty Trưởng Phòng Tâm Lý Chiến đã nhắc tới ở trên, có Trung úy Tôn Thất Tịnh (Khóa 27 Thủ Đức), Trưởng Ban Thông Tin Báo Chí, Thiếu úy Ngô Hưng Tâm (Khóa 3/69 Thủ Đức), Trưởng Phòng Chính Huấn, Thiếu úy Phạm Xuân Cung (cũng Khóa 3/69 Thủ Đức), Trưởng Phòng Xã Hội kiêm quản lý Câu lạc bộ Bửu Long.
[Hai khóa không phi hành đông nhất của Không Quân là 7/68 và 3/69, riêng tại CCKQ Biên Hòa, Khóa 3/69 đông hơn Khóa 7/68]
Tuy giữ chức vụ Trưởng Phòng Xã Hội, nhưng hầu như mọi việc anh Cung phải giao hết cho nhân viên dưới quyền để rảnh tay trông coi Câu lạc bộ Bửu Long, vốn là niềm hãnh diện của ông Từ Văn Bê.
Vì thế, sau khi tôi về đơn vị ông Từ Văn Bê đã quyết định bổ nhiệm vào chức vụ Trưởng Phòng Xã Hội thay Thiếu úy Cung. Khỏi nói, tôi chán vô cùng, nội cái danh xưng chức vụ nghe đã “yếu” rồi, mai đây còn phải về BTL/KQ họp hành với bà Đại úy Tâm và một đám Trưởng Phòng Xã Hội hồng quần đã quá nửa chừng xuân thì thật là... móp mặt bầu cua.
Nhưng khác với việc được Trung tá Đỗ Trang Phúc đề cử đi học khóa Trưởng quầy hàng Quân tiếp vụ ở Pleiku trước kia, việc Đại tá Từ Văn Bê bổ nhiệm tôi làm Trưởng Phòng Xã Hội BCH/KTTV/KQ là… quân lệnh!
Họa vô đơn chí, tôi vừa nhận lãnh chức vụ được ít lâu thì Phòng Xã Hội phải kiêm thêm một nhiệm vụ không giống ai là quản trị đàn bò và bầy dê của đơn vị.
(Còn tiếp)
Comment