Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Buồn Vui Đời Lính... Văn Phòng

Collapse
X

Buồn Vui Đời Lính... Văn Phòng

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Buồn Vui Đời Lính... Văn Phòng

    BUỒN VUI ĐỜI LÍNH... VĂN PHÒNG

    Đoản thiên hồi ký



    Nguyễn Hữu Thiện

    LỜI NÓI ĐẦU:

    Cái tôi là cái đáng ghét, viết về cái tôi là việc chẳng đặng đừng, viết để ca tụng cái tôi là điều tối kỵ, cho dù viết dưới một bút hiệu khác để người đọc không biết tác giả ấy chính là mình.

    Một trong những tác giả viết để ca tụng cái tôi trắng trợn nhất xưa nay phải là Hồ Chí Minh. Ngày ấy, cho rằng đám văn nô miền Bắc ca tụng mình như thế là chưa đủ, họ Hồ đã viết một cuốn sách theo thể loại “Dế mèn phiêu lưu ký” mang tựa đề “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch” ký tên tác giả Trần Dân Tiên. Dĩ nhiên, không cần biết “những mẩu chuyện” ấy có thật hay không, đám bồi bút đã ra sức viết bài ca tụng “tác giả Trần Dân Tiên” (mà sau này toàn dân VN được biết chính là “bác”).

    Không dừng lại ở đó, họ Hồ còn viết những bài ca tụng “bác” trên báo của Đảng (Cộng Sản, Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân...) ký tên CB, viết tắt của hai chữ “của bác”, mà các thành phần “phản động” thường xuyên tạc, chế nhạo là ”củ bựa” hoặc “con b…”)



    * * *

    Đoản thiên hồi ký của tôi có thể không hấp dẫn, ly kỳ rùng rợn bằng “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch” nhưng là những chuyện có thật, những buồn vui trong binh nghiệp của một tay lính văn phòng điếc không sợ súng, với hơn 2 năm ở phi trường Cù Hanh và gần 3 năm ở xứ bưởi, dưới trướng hai ông đơn vị trưởng nổi tiếng réc-lô bậc nhất trong Không Quân, nhưng lại dẫn đưa tới những cái kết rất... có hậu và thật ấm lòng!

    Tất cả mọi nhân vật và tình tiết trong hồi ký này đều có thật 100%, tuy nhiên tên tuổi một số nhân vật sẽ được viết tắt vì những nguyên nhân tế nhị.

    I- Pleiku đi dễ khó về...

    Khoảng cuối năm 1969, tôi là một trong số 19 tân Chuẩn úy tốt nghiệp Khóa 3/69 Thủ Đức được tuyển về ngành Chiến Tranh Chính Trị Không Quân. Khi bốc thăm đi đơn vị, tôi bốc trúng cái thăm duy nhất về Sóc Trăng, trong khi anh bạn Be gốc miệt dưới lại bốc phải cái thăm duy nhất đi Pleiku.

    Sau khi bốc thăm, chúng tôi có 24 tiếng đồng hồ để đổi thăm cho nhau (nếu muốn) và tôi đã đổi cái thăm Sóc Trăng lấy cái thăm Pleiku.

    Căn cứ không quân Pleiku, ngày ấy còn mang danh xưng Căn Cứ 92 Không Quân, thời nào cũng bị xem là nơi chốn lưu đày của Không Quân, nhưng với một người có máu giang hồ như tôi, địa danh Pleiku lại có sức thu hút.


    Chưa kể lúc đó tôi có người cậu đang làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 20 Chiến Tranh Chính Trị đóng ở Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II, chắc chắn sẽ không sợ đói!


    * * *

    Ngay sau khi đặt chân tới Pleiku, tôi đã cảm thấy an tâm, phấn khởi khi được phục vụ dưới quyền một vị sĩ quan văn võ song toàn: Thiếu tá Lê Bá Định, Trưởng Phòng Chiến Tranh Chính Trị, Căn Cứ 92 Không Quân.

    Sau này tôi mới biết nguyên nhân Bộ tư lệnh KQ đưa một hoa tiêu khu trục kỳ cựu, xuất thân Khóa 58A Trần Duy Kỷ, từng giữ chức vụ Chỉ huy phó Phi Đoàn 1 Khu Trục (tiền thân của Phi Đoàn 514 Phượng Hoàng), rồi Liên đoàn trưởng Liên Đoàn 62 Tác Chiến (Nha Trang) lên Pleiku coi dăm ba mạng lính văn phòng là để chuẩn bị thành lập một đơn vị tác chiến để đáp ứng nhu cầu chiến trường Tây Nguyên: Không Đoàn 72 Chiến Thuật.

    [Khóa 58A là khóa khu trục duy nhất được huấn luyện tại Việt Nam, với bốn người đậu đầu là các Chuẩn úy Chế Văn Nghĩa (thủ khoa), Lê Xuân Lan, Đặng Thành Danh, và Lê Bá Định. Trong ngành khu trục đã có câu vè để ca tụng: nhất Nghĩa, nhì Lan, tam Danh, tứ Định]

    Ngoài tài bay bổng ông Định còn là một nhà văn Không Quân (nổi tiếng với truyện ngắn Bay trên đất Bắc) cho nên đã trở thành thần tượng của tôi, vốn tập tành cầm bút từ những năm trung học.


    Trung tá Lê Bá Định, Không đoàn trưởng KĐ72CT (1972)

    Bên cạnh đó, ông Định còn là “siêu” đàn anh của tôi ở trường Luật; ông đã có Cử nhân Luật và đang chuẩn bị lấy Cao học Quốc tế Công pháp thì “thầy” của ông là Giáo sư Nguyễn Văn Bông bị Việt Cộng ám sát.


    * * *

    Vị Chỉ huy trưởng căn cứ lúc đó là Trung tá Đỗ Trang Phúc.

    Trước khi viết về Trung tá Phúc cũng xin có đôi dòng về giang sơn của ông: Căn Cứ 92 Không Quân.

    Vào thời người Pháp còn ở VN, phi trường Pleiku chỉ là một phi trường vãng lai nho nhỏ. Tới đầu năm 1959, một phi trường hạng trung, phi cơ DC-3, DC-6 của Hàng Không Việt Nam có thể đáp, được Tổng thống Ngô Đình Diệm khánh thành và đặt tên là Phi trường Cù Hanh (các tài liệu để lại không đề cập tới nguồn gốc của tên gọi “Cù Hanh”).

    Lực lượng đầu tiên của KQVN đồn trú tại đây là một Biệt Đội T-28 của Phi Đoàn 2 Khu Trục, tới từ Nha Trang.

    Nguyên Phi Đoàn 2 khu trục, danh hiệu Phi Hổ, được thành lập tại Nha Trang vào đầu năm 1962, Chỉ huy trưởng: Đại úy Phạm Long Sửu (thủ khoa Khóa 1 HTQS Nha Trang). Sau khi làm lễ xuất quân vào giữa năm 1962, một biệt đội 8 chiếc T-28 được biệt phái ra căn cứ không quân Đà Nẵng để yểm trợ Vùng 1 Chiến Thuật; tới cuối năm một biệt đội khác được biệt phái lên Pleiku để yểm trợ vùng Cao Nguyên.

    Năm 1964, Phi Đoàn 2 khu trục – lúc này đã mang phiên hiệu 516 – di chuyển ra Đà Nẵng để trở thành lực lượng tác chiến nòng cốt của Không Đoàn 41 Chiến Thuật vừa được thành lập tại đây, và tới tháng 5 năm đó, toàn bộ phi cơ T-28 của phi đoàn đã được thay thế bằng A-1 Skyraider.



    * * *

    Cũng xin có đôi dòng về việc thành lập các Không Đoàn Chiến Thuật của KQVN. Cho tới cuối năm 1963, về tổ chức và hệ thống chỉ huy, KQVN vẫn còn theo khuôn mẫu của Không Lực Pháp tại Đông Dương trước đây, các phi đoàn là những đơn vị độc lập, có con dấu và KBC riêng, nhận chỉ thị trực tiếp từ BTL/KQ ở Tân Sơn Nhứt, chỉ lệ thuộc vào căn cứ không quân nơi đồn trú về mặt lãnh thổ và yểm trợ.

    Tới đầu năm 1964, khi số đơn vị phi hành đã gia tăng gần gấp bốn lần lúc ban đầu, để tiện việc chỉ huy, điều động, các phi đoàn riêng lẻ cùng với các đơn vị bảo trì, kỹ thuật, tiếp vận, yểm cứ, phòng thủ... đã lần lượt được kết hợp thành những Không Đoàn Chiến Thuật (Tactical Wing), tương tự như trong Không Lực Hoa Kỳ.

    Tháng 1/1964, Không Đoàn 41 được thành lập tại Đà Nẵng, tư lệnh: Thiếu tá Phạm Long Sửu; cùng thời gian Không Đoàn 33 được thành lập tại Tân Sơn Nhứt, tư lệnh: Trung tá Hà Xuân Vịnh.

    Tháng 3/1964, Không Đoàn 62 được thành lập tại Pleiku, tư lệnh: Trung tá Trần Văn Minh.

    Tháng 6/1964, Không Đoàn 23 được thành lập tại Biên Hòa, tư lệnh: Trung tá Võ Xuân Lành.

    Riêng tại Vùng 4 Chiến Thuật, trong thời gian phi trường Bình Thủy (Trà Nóc) đang được xây dựng, Biệt Đoàn 74 được thành lập tại Cần Thơ vào tháng 4/1964 do Thiếu tá Lưu Kim Cương làm Chỉ huy trưởng.


    Tới đầu năm 1965, Trung tá Trần Văn Minh, Tư lệnh Không Đoàn 62 ở Pleiku được BTL/KQ điều về Cần Thơ tiếp nhận Biệt Đoàn 74 để thành lập Không Đoàn 74, Thiếu tá Lưu Kim Cương trở về Tân Sơn Nhứt làm Chỉ huy trưởng Biệt Đoàn Thần Phong.

    [Sau khi Trung tá Trần Văn Minh vinh thăng Đại tá về Tân Sơn Nhứt giữ chức Tư lệnh phó KQ, Trung tá Huỳnh Bá Tính lên thay; năm sau, Trung tá Nguyễn Huy Ánh, Tư lệnh Không Đoàn 62 ngoài Nha Trang về làm Tư lệnh Không Đoàn 74 thay Trung tá Huỳnh Bá Tính]

    Trở lại với Không Đoàn 62 Chiến Thuật được thành lập tháng 3/1964 tại Pleiku, biệt hiệu “Không Đoàn Biên Trấn”, sau khi bước vào hoạt động đã gặp những khó khăn do vị trí hiểm trở, diện tích chật hẹp, phương tiện thiếu thốn của phi trường Cù Hanh, cũng như thời tiết khắc nghiệt quanh năm của vùng cao nguyên, cho nên qua năm 1965 đã di chuyển về Căn Cứ 12 Không Quân ở Nha Trang.

    Căn Cứ 12 lúc đó gồm Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân và các đơn vị phi hành, kỹ thuật, yểm cứ, sau khi Không Đoàn 62 di chuyển về, TTHLKQ được tách rời, các đơn vị này được sát nhập vào Không Đoàn 62.

    Từ đây, căn cứ không quân Nha Trang lại trở thành hai đơn vị biệt lập như thuở ban đầu, danh xưng “Căn Cứ 12” chìm vào quên lãng (sau này, kể cả một số KQ cựu trào nhưng không ở Nha Trang, không mấy người biết trong Không Quân VNCH đã từng có “Căn Cứ 12”).



    * * *

    Sau khi Không Đoàn 62 di chuyển về Nha Trang, một đơn vị mới được thành lập tại phi trường Cù Hanh với nhiệm vụ yểm trợ các biệt đội trực thăng, quan sát, khu trục từ các nơi biệt phái tới, và Đài kiểm báo 921 (Peacock) cũng như Trung Tâm Hành Quân Không Trợ 2. Đơn vị mới này mang danh xưng Căn Cứ 92 Không Quân. (Chú thích 1)

    Vị chỉ huy trưởng đầu tiên của căn cứ là Trung tá Phùng Ngọc Ẩn; cấp bậc, chức vụ sau cùng là Đại tá Trưởng Phòng Hành Quân Chiến Cuộc BTL/KQ. Ông là một cấp chỉ huy rất được thuộc cấp yêu mến và cũng là một nhà văn tên tuổi trong Không Quân.



    NT Phùng Ngọc Ẩn (hình trong tuyển tập Những mảnh trời khác biệt)

    Ông là dân Mỹ Tho, xuất thân Khóa 4 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, sau đó thuyên chuyển sang Không Quân và trở thành phi công.

    Tôi không được biết về khóa bay cũng như đường binh nghiệp của Trung tá Phùng Ngọc Ẩn trước khi trở thành Chỉ huy trưởng Căn Cứ 92 Không Quân, chỉ biết ông là bạn thân (xưng hô mày tao) của cố Thiếu tá Nguyễn Ngọc Biện, Chỉ huy trưởng Biệt Đội 615 (oanh tạc cơ B-57 Canberra), người đã tử nạn tại phi trường Cù Hanh vào đầu năm 1966.

    Ông Nguyễn Ngọc Biện xuất thân Khóa 2 HTQS Nha Trang, tức là cùng khóa với các NT Võ Xuân Lành, Nguyễn Văn Lượng, Vũ Thượng Văn, Trần Đình Hòe... Sau khi tốt nghiệp Khóa 2 HTQS, ông và người bạn cùng khóa là Võ Văn Hội được chọn sang Pháp học bay khu trục, trở về phục vụ tại Phi Đoàn 1 Khu Trục (tiền thân của 514).

    Năm 1960, ông là một trong sáu hoa tiêu khu trục đầu tiên của KQVN (trong đó có Phạm Phú Quốc) được tuyển chọn sang Hoa Kỳ xuyên huấn A-1 Skyraider. Ông được cả hai phía Việt Nam và Hoa Kỳ đánh giá là một trong những phi công tài giỏi nhất của KQVN.



    Xuyên huấn A-1 tại Hoa Kỳ: NT Nguyễn Ngọc Biện (thứ ba từ trái), NT Phạm Phú Quốc (thứ ba từ phải)

    Hầu hết chi tiết liên quan tới cái chết bi thảm của Thiếu tá Nguyễn Ngọc Biện được tôi ghi lại trong bài “Khóa 2 Hoa Tiêu Quan Sát” (Hội Quán Phi Dũng) đều lấy từ các bài viết của NT Phùng Ngọc Ẩn.

    Nay nhân nhắc tới Căn Cứ 92 Không Quân và NT Phùng Ngọc Ẩn, tôi xin được viết lại một lần nữa về tai nạn đáng tiếc ấy, để những ai chưa biết được biết diễn tiến sự việc, và những ai biết dưới hình thức tam sao thất bổn được biết chính xác qua những gì NT Phùng Ngọc Ẩn kể lại.



    * * *

    Sau thời gian lần lượt phục vụ tại hai Phi Đoàn 514 Phượng Hoàng, 518 Phi Long, tới tháng 7/1964, Đại úy Nguyễn Ngọc Biện đứng ra thành lập Phi Đoàn 520 Thần Báo tại CCKQ Biên Hòa, đợi tới khi phi trường Bình Thủy hoàn tất, sẽ đưa về Vùng 4 để trở thành cơ hữu của Không Đoàn 74 Chiến Thuật.

    Tuy nhiên trước đó mấy tháng, trong khi chờ đợi Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ chấp thuận chương trình chuyển giao oanh tạc cơ phản lực tầm xa B-57 Canberra cho KQVN, Không Lực Hoa Kỳ đã giàn xếp với chính phủ Phi-luật-tân cho phép một số hoa tiêu VN được tới CCKQ Clark (ở Phi-luật-tân) để được huấn luyện trên B-57. Toán đầu tiên gồm ba Đại úy hoa tiêu khu trục xuất sắc Nguyễn Ngọc Biện (trưởng toán), Nguyễn Văn Tường (mực) và Nguyễn Văn Long.

    Vì thế, sau khi chương trình B-57 được Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ chấp thuận, vào đầu năm 1965 Thiếu tá (tân thăng) Nguyễn Ngọc Biện đã bàn giao Phi Đoàn 520 cho Đại úy Võ Văn Hội để ra Đà Nẵng thành lập Biệt Đội oanh tạc 615, trực thuộc Không Đoàn 41 Chiến Thuật. Để rồi chỉ một năm sau (tháng 2/1966), bỏ mình trong một tai nạn thảm khốc do chính chiếc B-57 của ông gây ra...

    Hôm đó, chiếc B-57 do Thiếu tá Nguyễn Ngọc Biện ngồi ghế phi công, trong một phi vụ oanh tạc tại Vùng 1 Chiến Thuật đã gặp phải thời tiết rất xấu. Không thể đáp xuống Đà Nẵng vì lý do thời tiết, và vì còn bom trên phi cơ, Thiếu tá Biện đã quyết định đổi hướng để đáp xuống phi trường Cù Hanh, Pleiku.



    Oanh tạc cơ B-57 Canberra của Biệt Đội 615

    Nhưng sau khi phi cơ đáp xuống an toàn và tháo gỡ hết bom, các nhân viên phi đạo đã không thể tái khởi động động cơ của loại phản lực mà họ chưa từng học qua; cuối cùng họ quyết định dùng sức người để đẩy phi cơ (đang choán chỗ trên phi đạo), Thiếu tá Biện ngồi trên phòng lái để điều khiển bánh lái và thắng. Nhưng trong lúc lực thủy điều đã bị mất và độ dốc của phi đạo Pleiku khiến phi cơ lăn bánh càng lúc càng nhanh, Thiếu tá Biện không thể điều khiển phi cơ theo ý muốn. Thế rồi trong lúc bối rối khi thấy chiếc B-57 đâm đầu ra khỏi phi đạo, Thiếu tá Biện đã nhảy xuống và tử nạn khi bị bánh đáp bên trái của chiếc phi cơ nặng 25 tấn cán lên người.

    Theo suy đoán của NT Phùng Ngọc Ẩn, khi nhảy ra khỏi buồng lái có lẽ Thiếu tá Biện đã phản ứng tự nhiên theo những gì đã được học khi lái khu trục: trong trường hợp phải nhảy xuống từ cockpit, lăn ba vòng về phía bên trái để thoát hiểm. Nào ngờ “ba vòng về phía bên trái” lại chính là vị trí bánh đáp bên trái của chiếc B-57!

    Điều thương tâm và bi thảm là Thiếu tá Biện không tắt thở ngay mà vẫn tỉnh táo. Tại Quân y viện Pleiku, các bác sĩ cho NT Phùng Ngọc Ẩn biết ông Biện bị nội thương trầm trọng, bàng quang bị bể, chắc chắn không qua khỏi.

    Tất cả những gì ông Phùng Ngọc Ẩn có thể làm là khi thấy ông Biện tỏ ra đau đớn cùng cực, đốt một điếu thuốc gắn vào miệng bạn...

    Tới khuya, vị Chỉ huy trưởng Biệt Đội 615 – đơn vị oanh tạc cơ đầu tiên và duy nhất của KQVN – tắt thở trước sự chứng kiến của vị Chỉ huy trưởng Căn Cứ 92 Không Quân (Chú thích 2)



    * * *

    Khi tôi ra Pleiku vào cuối năm 1969, đa số những quân nhân phục vụ vào thời ông Phùng Ngọc Ẩn đều đã thuyên chuyển đi nơi khác, một số nhỏ còn lại nếu có nhắc tới ông thì cũng chỉ kể lại giai thoại ông cho Đoàn Phòng Thủ của căn cứ đem xe V-100 Commando (xe bọc thép bánh cao-su) ra uy hiếp Đồn Quân Cảnh Pleiku, đòi họ trao trả mấy quân nhân Không Quân bị họ giam giữ trái phép!

    Tới đây viết về Trung tá Đỗ Trang Phúc, vị chỉ huy đời thứ hai của Căn Cứ 92 Không Quân.

    Ông Đỗ Trang Phúc xuất thân Khóa 2 Quan Sát Viên tại TTHLKQ Nha Trang năm 1953. Khóa này gồm sáu khóa sinh trong đó có ông Trần Văn Minh (Trung tướng Tư lệnh KQ sau này). Vì nhu cầu hoa tiêu quan sát, về sau một số quan sát viên đã được đào tạo thành hoa tiêu, trong đó có hai ông Trần Văn Minh và Đỗ Trang Phúc.

    Ông Trần Văn Minh gốc Khóa 1 SQTB Thủ Đức - tức là cùng khóa với các ông Huỳnh Hữu Hiền, Huỳnh Bá Tính, Võ Xuân Lành, Phạm Ngọc Sang... - sau khi ra trường phục vụ trong binh chủng Pháo binh một thời gian rồi mới gia nhập Không Quân; còn ông Đỗ Trang Phúc tôi không biết ông xuất thân quân trường nào, khóa mấy, chỉ nghe một vài người nói ông gốc gác Nhảy Dù cho nên rất “đuya” (tiếng Pháp “dure”: cứng rắn).

    Ông Đỗ Trang Phúc không bác bỏ nhận xét đó và thường nói nửa đừa nửa thật:

    - Pleiku là chỗ lưu đày quan bất mãn, lính ba gai, không réc-lô làm sao trị các cậu được!

    Nhưng một người mới chân ướt chân ráo tới phi trường Cù Hanh như tôi thì làm sao biết được điều đó, cho nên chỉ hai tháng sau ngày nhận đơn vị, khi được phép đặc biệt về Sài Gòn dự đám tang người cậu út ở SĐ9BB đền nợ nước, tôi đã tự “gia hạn” thêm 4 ngày nữa!

    Khi trở ra Pleiku, ông Lê Bá Định cho tôi biết chiều nào ông Phúc cũng “hỏi thăm” và nói khi nào tôi về tới nơi là phải lên trình diện Chỉ huy trưởng ngay!


    Khi tôi vào trình diện, ông Phúc không thèm hỏi tôi về nguyên trễ phép mà đi thẳng vào đề:

    - Cậu trễ phép mấy ngày?


    - Thưa Trung tá 4 ngày!

    - Cậu có biết “cái giá” của tôi không?

    - ...

    - Cậu trễ phép bao nhiêu ngày thì cứ nhân đôi lên thành số ngày trọng cấm rồi ra quân trấn mà nằm!

    Có nghĩa là tôi sẽ lãnh 8 ngày trọng cấm và ở tù 8 ngày ngoài Quân Trấn Pleiku. Phải đưa ra quân trấn bởi vì ngày ấy Căn Cứ 92 KQ nhỏ như cái lỗ mũi, phòng làm việc còn không đủ lấy đâu ra chỗ làm “cải hối thất” để nhốt lính!

    Tôi có 30 phút để chuẩn bị trước khi Chuẩn úy Hải, thằng bạn cùng khóa Thủ Đức về làm Quân Cảnh KQ, chạy xe jeep tới tận cư xá sĩ quan độc thân chở tôi ra quân trấn.

    Tuy mang tiếng “ở tù” nhưng các sĩ quan bị đưa ra Đồn quân cảnh của Quân trấn Pleiku không bị nhốt trong phòng mà được thoải mái đi lại ngoài sân, ngồi dưới gốc cây đọc sách báo, hoặc thả hồn theo tiếng thông reo... Trừ tôi ra!

    Số là ngay sau khi tôi được đưa tới nơi, ông hạ sĩ quan trực đồn quân cảnh đã căn dặn:

    - Trừ khi đi vệ sinh, tắm rửa, ăn uống, những lúc khác xin Chuẩn úy ở trong phòng dùm, bởi vì ông Trung tá Phúc lái xe ngang qua đây mà thấy Chuẩn úy lang thang ngoài sân, ổng méc Quân trấn trưởng là tụi tui lại bị khiền đó!

    Chiều hôm sau, ông Lê Bá Định khi ra phố trên đường về ghé thăm, đưa cho tôi một ổ bánh mì thịt, một tờ báo, cũng cho tôi biết tuy ông với vị Đại úy Trưởng đồn Quân cảnh là chỗ quen thân vì cùng ở trong giới cầm bút với nhau nhưng ông không muốn làm phiền vì ông biết tính ông Đỗ Trang Phúc!


    Tôi ở tù được 5 ngày thì ông Phúc cho xe quân cảnh KQ ra lãnh về. Không hiểu vì ông cho rằng bấy nhiêu đã đủ để răn đe đám sĩ quan trẻ hay vì dư luận trong căn cứ xôn xao bất mãn trước việc một sĩ quan KQ bị đem ra quân trấn nhốt chỉ vì tội trễ phép?! (tôi... hân hạnh là sĩ quan KQ đầu tiên và duy nhất ở Pleiku bị “gửi” ra quân trấn vì sau khi Không Đoàn Yểm Cứ Pleiku được thành lập và tiếp nhận các cơ sở của Hoa Kỳ, trong phi trường Cù Hanh đã có một cải hối thất đầy đủ tiện nghi).

    Riêng tôi, tôi biết lỗi của mình nên không bao giờ đem lòng oán hận ông Phúc, phần ông cũng không vì 8 ngày trọng cấm ghi hồ sơ ấy mà xem tôi như một con cừu đen. Bằng cớ là chỉ mấy tháng sau ông đã ưu ái chọn tôi trong đám sĩ quan trẻ để gửi đi học khóa “Trưởng quầy hàng Quân tiếp vụ”, bởi vì cho tới lúc ấy không quân Pleiku vẫn còn phải mua ké quân tiếp vụ bên quầy hàng của C2 Lực Lượng Đặc Biệt ở gần đó.

    Rất tiếc ngày ấy đầu tôi chưa có “sạn”, không thấy được sức hấp dẫn của chức vụ béo bở Trưởng quầy hàng Quân tiếp vụ nên đã dứt khoát từ chối, viện lý do tôi đang chờ BTL/KQ gửi đi học Khóa Căn Bản Sĩ Quan Chiến Tranh Chính Trị ở Đà Lạt.

    Ông Phúc ra sức thuyết phục tôi, nói rằng tôi chỉ cần học xong khóa cái khóa mấy tuần lễ rồi về thiết lập Quầy hàng Quân tiếp vụ cho đơn vị, sau đó nếu muốn đi học CTCT thì cứ việc đi.

    Nhưng tôi vẫn dứt khoát từ chối. Khi tôi trở về Phòng CTCT kể cho ông Lê Bá Định nghe thì chính ông Định mặc dù thường chỏi nhau với ông Phúc cũng tỏ ra không vui và có ý trách tôi tại sao được ông Phúc ưu ái chiếu cố mà lại để ông phải thất vọng!

    Về sau, khi quân số ở CCKQ Pleiku đã lên tới hàng ngàn, vị Thượng sĩ ngày ấy được ông Thiếu tá Liên đoàn trưởng Liên Đoàn Trợ Lực “tiến cử” đi học khóa Trưởng quầy hàng Quân tiếp vụ thay tôi đã trở thành một trong hai tay chơi duy nhất ở Pleiku chạy xế Ford Mustang. Phần tôi cứ tới cuối tháng phải ra phố Pleiku mua thuốc Ruby "quân tiếp vụ" (vì thuốc của quầy hàng Quân tiếp vụ trong căn cứ bán cho không đủ hút)!


    (Còn tiếp)


    CHÚ THÍCH:

    (1) Ý nghĩa những con số trong danh xưng đơn vị KQ.

    Vào thuở ban đầu của KQVN, con số trong tên gọi các căn cứ, các không đoàn chiến thuật được đặt theo một nguyên tắc khá đơn giản: thứ tự tiếp nhận từ tay người Pháp và vùng chiến thuật.

    Trước hết viết về thứ tự tiếp nhận. Nha Trang được tiếp nhận trước tiên, được mang danh xưng Căn Cứ Trợ Lực Không Quân số 1, kế tiếp là Biên Hòa số 2, Tân Sơn Nhứt số 3, và Đà Nẵng số 4. (trong nội bộ Không Quân, các căn cứ thường được gọi ngắn gọi Căn Cứ 1, Căn cứ 2...)

    Năm 1961, sau khi các Vùng Chiến Thuật được thành lập, theo chỉ thị của Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH, phiên hiệu trong danh xưng các Căn Cứ phải thêm số của vùng chiến thuật vào phía sau, thế là 1 thành 12, 2 thành 23, 3 thành 33, 4 thành 41.

    Tuy nhiên, trừ ở Nha Trang, nơi danh xưng “Căn Cứ 12” được sử dụng một cách chính thức, trên giấy tờ cũng như khi nói chuyện, ở các căn cứ còn lại, dân Không Quân vẫn tiếp tục gọi là Căn Cứ 2, 3, 4 cho tới khi các Không Đoàn 23, 33, 41 Chiến Thuật được thành lập vào năm 1964.

    Tới đây mới bắt đầu... nhức đầu: tại sao sau Không Đoàn 41 Chiến Thuật ở Vùng 1 Chiến Thuật, khi không đoàn chiến thuật kế tiếp được thành lập tại Pleiku, Vùng 2 Chiến Thuật, không mang phiên hiệu 52 mà lại là 62: Không Đoàn 62 Chiến Thuật.

    Trước năm 1975, tôi không có cơ hội tiếp xúc với các vị hữu trách ở VP/TMP Chương Trình & Kế Hoạch ở BTL/KQ để tìm hiểu, chỉ sau khi ra hải ngoại trong thời gian tham gia biên soạn cuốn Quân Sử Không Quân, mới được NT Trần Phước Hội, người được tặng biệt hiệu “Cái tủ thuốc bắc của Không Quân”, giải thích đại khái như sau:

    Trước kia số 5 đã được dự trù dành cho phi trường Phú Bài (Huế), khi tiếp nhận sẽ trở thành Căn Cứ Trợ Lực Không Quân số 5.

    Cũng nên biết, từ thời Pháp phi trường Phú Bài đã được xem là một căn cứ không quân quan trọng, nơi có một phi đội khu trục và một biệt đội quan sát đồn trú, vì thế sau khi tiếp nhận các căn cứ Nha Trang (1), Biên Hòa (2), Tân Sơn Nhứt (3), Đà Nẵng (4), KQVN đã chuẩn bị tiếp nhận căn cứ Phú Bài (5). Tuy nhiên một thời gian sau khi tiếp nhận Đài kiểm soát không lưu, KQVN vẫn không có nhân lực để tiếp nhận cả căn cứ, cuối cùng Phú Bài đã được giao cho Nha Hàng Không Dân Sự; khi ấy ở Pleiku, Không Đoàn 62 Chiến Thuật đã được thành lập. Vì thế mà khuyết số 5 trong phiên hiệu các đơn vị.


    * * *

    Nhưng dân KQ kỳ cựu nếu để ý sẽ thấy ngày ấy KQVN không chỉ khuyết số (5) mà còn khuyết cả số (8) trong phiên hiệu các đơn vị: sau Không Đoàn 74, lẽ ra căn cứ mới được thành lập ở Pleiku ở Vùng 2 Chiến Thuật phải mang số 82 nhưng tại sao lại mang số 92?!

    Câu trả lời: trước đó con số (8) đã bị Biệt Đoàn Thần Phong của ông Nguyễn Cao Kỳ “xí” để làm phiên hiệu: Biệt Đoàn 83 (đơn vị thứ tám của KQ, nằm ở Vùng 3 Chiến Thuật).

    Như nhiều người có thể biết, Biệt Đoàn Thần Phong được xem là lực lượng riêng của ông Nguyễn Cao Kỳ, không có trong sơ đồ tổ chức của Bộ tư lệnh KQ thì lẽ ra không nên "ngang nhiên" như thế. Nhưng một khi việc này xảy ra, ai dám "đặt vấn đề" với ông Tư lệnh Không Quân? Thôi thì lấy số 9 đặt cho Pleiku vậy.

    Năm 1967, sau khi nền Đệ nhị Cộng hòa được thành lập, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh giải tán Biệt Đoàn Thần Phong. Con số 83 ở Tân Sơn Nhứt cũng chìm vào quên lãng, tương tự con số 12 ở Nha Trang trước đó.



    * * *

    Sau cùng, nhân nhắc tới Căn Cứ Không Quân 92 tôi cũng phải đề cập tới việc có ít nhất hai tác giả, một Mỹ một Việt, đã có sự lẫn lộn giữa phù hiệu của Căn Cứ Không Quân 92 ở Pleiku ngày trước và phù hiệu của Không Đoàn 92 Chiến Thuật được thành lập sau này tại Căn Cứ 20 Chiến Thuật ở Phan Rang.

    Tác giả Mỹ không ai khác hơn là ông Robert C Mikesh, tác giả cuốn Flying Dragons, trong phụ bản phù hiệu các đơn vị trong KQVN, phía dưới phù hiệu Căn Cứ 92 Không Quân ông đã chú thích “92nd Tactical Wing” (Không Đoàn 92 Chiến Thuật). Vị tác giả VN có lẽ dựa theo cuốn Flying Dragons cho nên cũng chú thích sai tương tự.


    Phù hiệu Căn Cứ 92 Không Quân (Pleiku, trước 1970)



    Phù hiệu Không Đoàn 92 Chiến Thuật (Phan Rang, sau 1970)



    (2) Sau năm 1975, Đại tá Phùng Ngọc Ẩn bị tù cải tạo 13 năm tại các trại Hà Tây và Xuân Lộc.

    Ông qua đời ngày 15/06/2013, tại San Diego, CA, Hoa Kỳ. Hưởng thọ 80 tuổi.

    Trong bài “Bên dưới những đôi cánh sắt” (Hội Quán Phi Dũng) viết về các văn nghệ sĩ trong quân chủng Không Quân, tác giả Ngọc Tự viết về ông như sau:

    Ông là một trong số rất đông các sĩ quan cao cấp KQ say mê văn chương chữ nghĩa. Có thời gian ông làm Chỉ Huy trưởng Căn cứ 92 KQ ở Pleiku. Ông viết truyện ngắn, truyện dài và cộng tác thường xuyên với báo Lý Tưởng. Các sáng tác của ông nói về cuộc sống và sự chiến đấu của người lính KQ, qua hình ảnh người phi công thời chiến, cũng không thiếu việc thẳng thắn bầy tỏ tâm trạng của những con người ấy, giữa khi tham dự vào cuộc chiến tranh bảo vệ đất nước, và đối diện với hiện tình xã hội. Trong quân ngũ, ông giao tình thân mật và gần gũi với các nhà văn KQ cấp bậc và chức vụ thấp hơn.


    Các tác phẩm văn xuôi đã ấn hành:

    . Bay Trong Hoàng Hôn 1968.
    . Kẻ Lạc Ngũ 1972.
    . Cánh Chim Ngoại Biên 1974.
    . Ngoài Chân Mây (in chung với 6 tác giả khác).

    . Những Mảnh Trời Khác Biệt (tuyển tập nhiều tác giả, nhà xuất bản Lý Tưởng 1971).
    .Tập Thơ Truyện Không Quân Thời Chiến.
    Last edited by Nguyen Huu Thien; 09-17-2024, 05:52 PM.

  • #2
    BUỒN VUI ĐỜI LÍNH... VĂN PHÒNG

    Nguyễn Hữu Thiện

    (tiếp theo)


    Trước cũng như sau năm 1975, trong số những người Không Quân tôi quen biết, thuộc nhiều ngành nghề, cấp bậc khác nhau, có không ít người không thích ông Đỗ Trang Phúc, nhưng kể cả những người này cũng chỉ có thể than phiền về sự độc tài, tính réc-lô, tật đốp chát thẳng thừng của ông chứ không thể phủ nhận sự nghiêm minh cũng như con người cương trực nơi ông.



    NT Đỗ Trang Phúc tại Hoa Kỳ

    Trước khi viết về những khen chê dành cho ông Chỉ huy trưởng đời thứ hai của Căn Cứ 92 Không Quân, tôi xin trình bày sơ qua về tổ chức, nhân sự, cơ sở vật chất của Không Quân Pleiku ngày ấy.

    Hai đơn vị quan trọng nhất trong căn cứ là Phòng Hành Quân và Phòng Không Cụ.

    Có thể viết một cách ngắn gọn, Phòng Hành Quân đặc trách công việc trên trời còn Phòng Không Cụ lo mọi việc dưới đất (yểm cứ, trợ lực...), tương tự nhiệm vụ của một liên đoàn tác chiến và một liên đoàn yểm cứ của các Không Đoàn Chiến Thuật trước năm 1970, khi chưa thành lập các Sư Đoàn KQ.

    Ngoài ra còn có Phòng Yểm Trợ Hành Quân làm việc chung với phía Hoa Kỳ nhưng tôi không có cơ hội (đúng ra là không quan tâm) tìm hiểu về hoạt động và nhân sự của Phòng này.




    Về các phòng ban tham mưu thì cũng đầy đủ như ở bất cứ nơi nào khác: Phòng Nhân Viên, Phòng Tài Chánh, Phòng Huấn Luyện, Phòng Chiến Tranh Chính Trị, Phòng An Ninh Không Quân, v.v...

    Về lãnh thổ và cơ sở vật chất, cho tới giữa năm 1970 phía KQVN chỉ chiếm ngụ khoảng 1/4 diện tích của căn cứ, tức là những cơ sở của Không Đoàn 62 Chiến Thuật để lại, còn 3/4 là của Không Quân Mỹ.

    Vừa qua cổng Phi Vân - cái tên quá sức thơ mộng của một nơi chốn lưu đày - trên con đường chính của căn cứ, phía bên phải là Phòng Trực, Phân Đoàn Quân Cảnh, Đoàn Phòng Thủ, rồi tới Phòng An Ninh Không Quân, tiếp theo là Câu lạc bộ Mây Cao Nguyên (cái tên cũng quá sức thơ mộng nhưng nấu ăn khá dở) rồi tới Phòng Nhân Viên, Đoàn Kiến Tạo, Đoàn Truyền Tin.

    Phía bên trái con đường, từ cổng đi vào khoảng 100 mét là ngôi nhà sử dụng làm văn phòng Chỉ huy trưởng và Ban Văn thư, cách một con đường là sân cờ. Dọc theo chiều dài của sân cờ là một dãy nhà gồm Phòng Họp của căn cứ, Phòng Hành Quân, Phòng Không Cụ, và Phòng Tài Chánh, còn Phòng Chiến Tranh Chính Trị thì nằm trong một ngôi nhà nhỏ ở phía sau.

    Qua khỏi sân cờ tới Đoàn Quân Xa là chấm dứt. Từ đây trở đi là giang sơn của người Mỹ, gồm Không Đoàn 633 Đặc Nhiệm (633rd Special Operations Wing) và một số biệt đội tác chiến.

    Trở lại ngôi nhà của bộ chỉ huy, giữa ngôi nhà này và sân cờ là con đường đi vào cư xá sĩ quan, cư xá hạ sĩ quan binh sĩ, khu gia binh và sau cùng là Đài Kiểm Báo 921 (danh hiệu Peacock) ở trên đồi.


    CC92KQ nhìn từ hướng tây bị ngọn đồi giữa hình che khuất. Trên đồi là Đài Kiểm Báo 921 rồi tới
    phi trường nơi có chiếc C-130 đang đáp. Con suối ở cận ảnh chạy tới tận vòng đai phi trường, nơi lính
    phòng thủ (và các hoa tiêu quan sát trước khi đáp) thường được ngắm gái Thượng “tắm tiên”


    Tất cả mọi cơ sở, nhà cửa kể trên đều được xây dựng từ thời thành lập Không Đoàn 62 Chiến Thuật (1964), mái tôn tường gạch hoặc mái tôn vách ván (khu gia binh HSQ, binh sĩ), trừ cư xá sĩ quan độc thân và cư xá vãng lai mới xây sau này do phía Hoa Kỳ tài trợ, được hãng thầu RMK xây vào năm 1966 cùng với các cơ sở của Không Lực Hoa Kỳ trong phi trường Cù Hanh.

    Khu cư xá này được xây đúng theo tiêu chuẩn Không Quân Mỹ (tôi nhấn mạnh: USAF chứ không phải US Army), và cũng giống tất cả mọi cơ sở, nhà cửa do Mỹ xây trong phi trường Pleiku, chung quanh cư xá có một bức tường chống pháo kích xây bằng gạch đỏ dày khoảng nửa mét.

    Nói về pháo kích ở phi trường Cù Hanh, những ai từng sống ở đây hẳn còn nhớ ngày ấy đám vi-xi muốn pháo giờ nào thì pháo chứ không nhất thiết phải đợi tới ban đêm. Tuy nhiên vì chỉ có thể lén lút tới gần phi rường pháo mấy trái rồi bỏ chạy, đa số đạn pháo chỉ là hỏa tiễn 107 ly cho nên nếu rớt bên ngoài tường gạch coi như huề tiền.

    Dãy cư xá sĩ quan độc thân gồm 20 phòng có một đặc điểm mà tôi tin không nơi nào có, đó là cái giường ngủ “không phải single cũng không phải double”.

    Nguyên ngày ấy tiếp liệu của KQVN chưa có “vật liệu Mỹ” (bàn ghế, giường tủ...), trong mỗi phòng ngủ lại chỉ được hãng thầu RMK đóng cho một cái kệ tủ bốn ngăn và một cái kệ nhỏ có thể sử dụng làm bàn viết chứ không có giường chiếu gì cả, cho nên Đoàn Kiến Tạo của căn cứ được lệnh đóng 20 cái giường gỗ đánh vẹc-ni nệm mousse cho tương xứng với những phòng độc thân đẹp đẽ ấy.

    Điều thú vị những cái giường “single” này không chỉ êm mà còn khá rộng, các chàng sĩ quan độc thân (hoặc độc thân tại chỗ) có thể biến thành một cái giường “double” mỗi khi có em gái má đỏ môi hồng nào đó vào thăm.

    Về phần cư xá vãng lai ở gần đó, tôi không nhớ phòng ngủ tập thể trang bị ra sao, chỉ nhớ phòng giải trí khá rộng rãi, đầy đủ tiện nghi, đặt hai bàn bi-da vẫn còn dư chỗ để ông Lê Bá Định, lúc còn ngồi chơi xơi nước, tối tối dạy khiêu vũ cho đám sĩ quan trẻ.


    * * *

    Về nhân sự, Căn Cứ 92 Không Quân không có Chỉ huy phó. Trưởng phòng Hành Quân là Trung tá Trung, nickname “FM đầu bạc”, một vị sĩ quan khá lớn tuổi, ít được gặp nên tôi cũng không biết nhiều về ông; Trưởng phòng Không Cụ cũng là một... ông cụ: Thiếu tá Quách Thu Vinh mà chúng tôi thường gọi thân mật là “Papa Vinh”, sau này thuyên chuyển về Bộ Chỉ Huy Kỹ Thuật Tiếp Vận Không Quân ở Biên Hòa, rồi sang Sư Đoàn 3 KQ giữ chức Liên đoàn trưởng Liên Đoàn Phòng Thủ trước khi giải ngũ.


    Quan tá thứ ba trong đơn vị là Thiếu tá Lê Bá Định, vị Trưởng phòng CTCT mà tôi đã giới thiệu ở phần đầu; kế tiếp là Thiếu tá Phạm Bá Mạo, Trưởng đoàn Phòng Thủ (tôi sẽ trở lại với nhân vật đặc biệt này ở một đoạn sau).

    Còn lại, trong số 4, 5 ông Đại úy tôi chỉ quen thân Đại úy Hàn Phú, Trưởng Đoàn Quân Xa, vì ông là một người dễ mến và có máu văn nghệ.

    Sĩ quan cấp trung úy trở xuống vào khoảng 20 mạng, đa số thuộc Khóa 7/68 không phi hành và Khóa 3/69 Thủ Đức chuyển sang Không quân. Cộng với trên 200 HSQ binh sĩ nữa, quân số của Căn Cứ 92 khoảng 250 người.


    * * *

    Về những điều mà quan lính sống dưới trướng ông Đỗ Trang Phúc ta thán, trước hết phải nói tới sự độc tài, réc-lô. Xin đan cử một vài thí dụ:

    - Quân phục đồng nhất: trong buổi chào cờ mỗi sáng thứ hai, tất cả mọi quân nhân, từ quan tới lính, gốc phi hành hay không phi hành, phải mặc đồ treillis xanh ô-liu cho đồng nhất, tức là giống hệt lục quân ngoại trừ việc không phải gom ống quần.

    - Tuyệt đối cấm mở hàng quán ăn uống trong khu gia binh. Muốn cà phê cà pháo, ăn sáng, cơm trưa cơm chiều, nhậu nhoẹt... vui lòng vào CLB Mây Cao Nguyên. Tuy vẫn có một số quân nhân vẫn xuống khu gia binh ăn cơm tháng nhưng phải kín miệng và giới hạn số người (tại mỗi nhà).

    - Không tổ chức nhảy đầm nhảy địch gì cả. Muốn “nhót” phải ra Hội quán Phượng Hoàng của Quân Đoàn ngoài phố Pleiku, hoặc canh me khi nào bên Bộ chỉ huy Thiết Giáp hoặc Pháo Binh có tổ chức dạ vũ thì tìm tới nhảy ké!

    Văn nghệ thì chỉ khi nào Ban Văn Nghệ BTL/KQ ra Pleiku trình diễn (rất hiếm họa) thì đám lính trấn thủ lưu đồn mới được xem văn nghệ, trong khi Căn Cứ 92 KQ và Tiểu Đoàn 20 CTCT cùng sử dụng một con đường từ phố đi vào, giống như hàng xóm, xin yểm trợ văn nghệ lúc nào mà chẳng được, nhưng hình như ông Phúc không thích chơi với người ngoài Không Quân!

    Gần nửa năm sau ngày tôi ra Pleiku, khi ông Lê Bá Định đã kết thân với ông cậu của tôi (Tiểu đoàn trưởng TĐ20CTCT), ông Phúc mới ép bụng để ông Định mời Ban Văn Nghệ của của Tiểu Đoàn sang trình diễn một buổi cho quân nhân KQ trong căn cứ.

    [Điều đáng ngạc nhiên, ông Đỗ Trang Phúc cũng là một người yêu nhạc, nhưng là nhạc cổ điển tây phương hoặc nhạc hòa tấu êm dịu. Khi đôi bên đã "chung sống hòa bình", có mấy lần ông rủ tôi tới nhà khoe dàn máy xịn hoặc băng, đĩa nhạc ngoại quốc của ông]


    - Về réc-lô, ngoài việc bản thân bị ông ký 8 củ và ra quân trấn “nghỉ mát” 5 ngày, tôi còn được nghe kể lại sau khi nhận bàn giao căn cứ từ tay ông Phùng Ngọc Ẩn, công việc đầu tiên của ông Phúc là ra lệnh cho tất cả mọi quân nhân trong căn cứ phải làm coọc-vê mỗi sáng Thứ Bảy (corvée, tiếng Pháp, nghĩa là làm cỏ, dọn dẹp vệ sinh nơi công cộng).

    Để bảo đảm công việc đạt kết quả, ông Phúc đã trao cho Đại úy Phạm Bá Mạo, Trưởng đoàn Phòng Thủ, làm “tư lệnh coọc-vê” trong toàn căn cứ. Báo hại ông Mạo trên đe dưới búa, bỗng dưng trở thành một “public enemy”, để rồi tới khi ông được thăng cấp Thiếu tá, nhiều người trong căn cứ đã lén gọi ông là “thiếu tá coọc-vê”! (Chú thích 1)

    Vào thời gian tôi ra Pleiku, Thiếu tá Phạm Bá Mạo không còn làm “tư lệnh coọc-vê” nữa, vì các phần sở đã vào khuôn vào khổ, cứ tới sáng Thứ Bảy là tự động ra làm cỏ trong khu vực trách nhiệm.


    * * *

    Tới đây nói về sự nghiêm minh và con người cương trực nơi ông Đỗ Trang Phúc.

    Một sĩ quan cấp nhỏ như tôi dĩ nhiên không có nhiều cơ hội tiếp xúc, không đủ tư cách để nhận xét về vị chỉ huy cao cấp nhất của mình, cho nên chỉ xin thuật lại những gì ông sếp trực tiếp của tôi, Thiếu tá Lê Bá Định, kể với tôi, cũng như những gì anh em KQ phục vụ trực tiếp dưới quyền ông Đỗ Trang Phúc ở những đơn vị khác kể lại.

    Theo ông Định, ông Phúc “không ngán cha nào ở BTL/KQ cả”. Sau này khi nhắc tới Đại tá (sau lên Chuẩn tướng) Phạm Ngọc Sang, lúc đó sắp ra Pleiku nắm chức Tư lệnh Sư Đoàn 6 KQ, ông Định cũng có nhận xét tương tự, nhưng rõ ràng là ông Sang có cái thế để không ngán ai.

    Xét về thâm niên quân vụ, ông Sang xuất thân Khóa 1 SQTB (Thủ Đức), tức là cùng khóa với các ông Trần Văn Minh, Võ Xuân Lành, Huỳnh Hữu Hiền, Huỳnh Bá Tính thì chỉ thua hai vị xuất thân Khóa 2 Sĩ Quan Hiện Dịch (Đập Đá, Huế) là Trần Văn Hổ, vị tư lệnh KQ đầu tiên, Trần Phước (Mệ), và sáu vị xuất thân Khóa 3 Sĩ Quan Hiện Dịch (Đà Lạt) là Võ Dinh, Nguyễn Ngọc Oánh, Từ Bộ Cam, Nguyễn Thế Anh, Đinh Văn Chung, và Nguyễn Đức Hớn.

    Về thâm niên trong nghề (bay bổng), ông Sang đứng hàng đầu vì sau khi chuyển sang Không Quân, ông được đưa sang trường bay căn bản Marrakech, Morocco (thuộc địa của Pháp ở Bắc Phi) theo học Khóa 52F1 (cùng với các ông Huỳnh Hữu Hiền, Huỳnh Bá Tính, Đinh Văn Chung...), tức là đàn anh của các ông Trần Văn Hổ, Nguyễn Cao Kỳ... (Khóa 52F2) thì đâu phải ngán ai.

    Trong khi ông Đỗ Trang Phúc học Khóa 2 Quan Sát Viên ở TTHLKQ Nha Trang năm 1953, sau đó mới học lái “bà già”, đương nhiên sự nghiệp bay bổng phải thua các vị nói trên.

    Chỉ có thể giải thích ông Phúc không ngán ai vì bản tính của ông vốn như thế.

    Sau khi tôi ra Pleiku được mấy tháng, Thiếu tướng Tư Lệnh KQ Trần Văn Minh và phái đoàn của BTL/KQ khi tới thanh tra Căn Cứ 92 đã được ông Phúc đãi ăn trưa theo tiêu chuẩn “một ngày như mọi ngày” ở CLB Mây Cao Nguyên!

    Nghĩa là không có rượu tây (cognac), gu của ông Minh “đù”, không cao lương mỹ vị mà chỉ là những món ăn trong thực đơn thường ngày của CLB mà thôi. Cũng may, một vị trong số sĩ quan được ăn trưa với phái đoàn đã thủ sẵn một chai Hennessy VSOP cho nên ông Minh mới có rượu tây uống.

    Còn về thực đơn thì ông tướng tư lệnh KQ có lẽ đi đâu cũng được đãi sơn hào hải vị ăn riết cũng ngán, bữa đó đã không tiếc lời khen món dưa cải xào thịt bò. Nghe ông Lê Bá Định kể lại, tôi nghi có khi nào ông Minh “đù” xỏ lá ông Phúc không, thì ông Định xác nhận là ông Minh khen thiệt bởi ổng chiếu cố món bình dân này một cách khá tận tình!

    Cũng theo lời kể của ông Định, hôm đó ông Phúc chỉ bị ông Tư lệnh KQ cự mấy lần về cái tội nói lớn và nói nhiều quá. Những ai từng gần gũi hoặc tiếp xúc thường xuyên với ông Phúc hẳn phải biết chẳng những ông có một giọng Bắc không mấy êm tai, cường độ âm thanh lên tới gần 100 decibel (dB) mà còn nói lớn, cho nên dù muốn hay không cũng khiến người khác bị chói tai, hoặc cảm thấy bị áp đảo.

    Tóm lại, nhận xét một cách khách quan, ông Đỗ Trang Phúc là một người cương trực nhưng hơi thiếu xã giao, một cấp chỉ huy nghiêm minh tới mức độc tài. Theo suy nghĩ của tôi, bằng đó thứ cộng lại thì có lợi cho công việc chung nhưng không có lợi cho cá nhân ông. Vì thế trong khi ông luôn được BTL/KQ trọng dụng thì lại không được lòng đa số thuộc cấp, trong đó có những người làm việc dưới quyền ông tại Pleiku, Nha Trang và Phan Rang sau này.

    *Ông Phúc “Đỗ” đụng ông Phúc “Phan”

    Theo đà bành trướng của quân chủng, năm 1970 KQVN bắt đầu thành lập các Sư Đoàn Không Quân (SĐKQ). Mỗi SĐKQ gồm một bộ chỉ huy (gọi là Sư Đoàn Bộ, sau đổi lại là Tư Lệnh Bộ) và các Không Đoàn Chiến Thuật, một Không Đoàn Bảo Trì Tiếp Liệu và một (hoặc hai) Không Đoàn Yểm Cứ (tùy thuộc số căn cứ trực thuộc).

    Các Không Đoàn Yểm Cứ chịu trách nhiệm về lãnh thổ, phòng thủ, trật tự trị an và mọi phương tiện sinh hoạt trong căn cứ trong đó có các cư xá, khu gia binh, hàng quán, phương tiện giải trí, v.v...

    Vì thế, công việc tại các không đoàn yểm cứ rất đa đoan, trách nhiệm nặng nề, nhưng đồng thời cũng đem lại cái thế, cái uy và tiền bạc (tôi chỉ muốn nói tới tiền bạc hợp pháp từ các nhà thầu câu lạc bộ, các chủ hàng quán trong căn cứ chứ không nói tới những "nguồn lợi" khác có thể có).

    Tháng 7/1970, cùng thời gian với việc SĐ2KQ được thành lập tại Nha Trang, Căn Cứ 92 Không Quân trở thành Không Đoàn Yểm Cứ Pleiku. Vì ngày đó SĐ6KQ chưa thành lập nên Không Đoàn Yểm Cứ Pleiku và Không Đoàn 72 Chiến Thuật (thành lập tháng 10/1970) tạm thời trực thuộc SĐ2KQ, ít nhất cũng là trên giấy tờ.

    Trung tá Võ Quế (em trai Đại tá Võ Dinh, Tham mưu trưởng BTL/KQ) ra Pleiku làm Không đoàn trưởng Không Đoàn Yểm Cứ còn Trung tá Đỗ Trang Phúc về Nha Trang giữ chức Không đoàn trưởng Không Đoàn Yểm Cứ Nha Trang, và thăng cấp Đại tá.

    Lúc đó tại Nha Trang, Đại tá Vũ Văn Ước, nguyên Tư lệnh Không Đoàn 62 Chiến Thuật, đã được điều về Tân Sơn Nhất làm Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ Huy Hành Quân Không Quân, Đại tá Nguyễn Văn Lượng, nguyên Chỉ huy phó TTHLKQ sang giữ chức Sư đoàn trưởng (về sau đổi lại là Tư lệnh Sư Đoàn), Đại tá Phan Quang Phúc làm Sư đoàn phó.

    Ông Phan Quang Phúc cũng là một vị niên trưởng thâm niên trong ngành quan sát, Chỉ huy trưởng tiên khởi của Phi Đoàn 3 Quan Sát, sau cải danh hiệu thành Phi Đoàn 114, thuộc Không Đoàn 62 Chiến Thuật. Ngày đó, để phân biệt hai ông Phúc, trong KQVN thường gọi là Phúc “Phan” và Phúc “Đỗ”.

    Tiếng lành đồn gần tiếng dữ đồn xa, chỉ vài tháng sau khi ông Phúc “Đỗ” về Nha Trang thì tiếng ta thán từ miền thùy dương cát trắng đã vang vọng lên tới tận vùng cao nguyên bụi đỏ. Thậm chí còn có tin đồn ông Phúc “Đỗ” (gốc Bắc) đụng nặng với ông Phúc “Phan” (gốc Nam) vốn luôn luôn dễ dãi với các đàn em nay đang bị nằm dưới quyền xài xể của ông Phúc “Đỗ”!


    NT Phan Quang Phúc tại Hoa Kỳ

    Cũng theo những lời đồn trên, vì có sự cua-răng giữa hai ông Phúc mà sau này BTL/KQ đã phải đưa ông Phúc “Đỗ” đi Phan Rang làm Chỉ huy trưởng Căn Cứ 20 Chiến Thuật KQ (thay Đại tá Nguyễn Văn Bá về Cần Thơ nắm Căn Cứ 40).

    Tới đây cũng xin được nhấn mạnh, tôi chỉ ghi lại những tin đồn trên như chuyện “trà dư tửu hậu”, còn thực hư ra sao tôi không... chịu trách nhiệm! (Chú thích 2)

    Về thời gian ông Phúc “Đỗ” nắm quyền ở Phan Rang, ít nhất cũng có một đồng môn (CTCT) thân thiết của tôi nhận xét: “Tao chịu cách làm việc của ông Phúc; ổng khó nhưng khó đúng!”

    Sau này ra hải ngoại, định cư tại Úc, theo dõi sự thành lập và sinh hoạt của Tổng Hội Không Lực VNCH bên Hoa Kỳ trong những năm đầu, luôn luôn thấy tên ông Phúc “Đỗ” trong danh sách các vị cố vấn qua nhiều nhiệm kỳ, tôi càng thêm cảm phục.

    Cuối cùng, cũng xin đề cập tới một số “huyền thoại” liên quan tới ông Đỗ Trang Phúc mà tôi được nghe, được đọc trong đó có vụ “đụng độ” giữa ông và Trung úy Lý Tống ở căn cứ Không Quân Phan Rang mà cuối cùng ông phải... chịu thua!

    Theo suy đoán của tôi, nếu việc này có thật thì cũng đã được phóng đại tới mức phi lý. Kể lại dưới hình thức một câu chuyện trà dư tửu hậu còn có thể tạm chấp nhận nhưng viết ra để rồi được các trang mạng phổ biến là việc không nên làm. Ít nhất đã có một vị niên trưởng bên Lục quân đọc được chuyện này và hỏi tôi “Bên Không Quân các anh vô kỷ luật tới mức đó mà một ông Đại tá Chỉ huy trưởng phải chịu thua hay sao?”

    (Còn tiếp)


    CHÚ THÍCH:

    (1) Trung tá Phạm Bá Mạo (? – 2017). Ở Căn Cứ 92 Không Quân ngày ấy, sau Thiếu tá Lê Bá Định, vị Trưởng Phòng CTCT của tôi, Thiếu tá Phạm Bá Mạo, Trưởng Đoàn Phòng Thủ, là vị sĩ quan cấp tá trong đơn vị tôi quý mến nhất.

    Ngày ấy ở Pleiku, bên Không Đoàn 72 Chiến Thuật có Thiếu tá Võ Ý, Phi đoàn trưởng Phi Đoàn 118 Bắc Đẩu, là một nhà thơ nổi tiếng trong quân chủng, bên cạnh đó đàn anh còn được biết tới (và ái mộ) với tài đặt nickname và châm chọc người khác (bằng thơ văn, dĩ nhiên).

    Chẳng hạn Đại úy Trần Dật, gốc quan sát nhưng nay xuống đất làm Trưởng Phòng An Ninh Dưới Đất thuộc Không Đoàn Yểm Cứ, đã được ông Võ Ý gọi là “ông Dật Dờ” và làm tặng bài thơ bằng tiếng Anh “bồi” trong đó có ba câu:

    Red face never dried
    Long legs never tired
    Cold feet never die...

    (Hồng diện đa dâm thủy
    Trường túc bất chi lao
    Lạnh cẳng chết được sao...)

    Ông Phạm Bá Mạo cũng xuất thân ngành quan sát như “ông Dật Dờ”, không biết có “lạnh cẳng” hay không, chỉ biết ông cũng đã xuống đất nắm giữ chức vụ Trưởng Đoàn Phòng Thủ, và được ông Võ Ý đặt nickname “ông Cảm Mạo”.

    Khi tôi ra Pleiku cuối năm 1969 thì Đại úy Phạm Bá Mạo đã lên Thiếu tá, và bị một số người gọi là “Thiếu tá coọc-vê” vì họ cho rằng ông được thăng cấp chỉ vì đã xuất sắc trong vai trò “Tư lệnh coọc-vê” mỗi sáng Thứ Bảy!


    Nhưng riêng tôi, tôi cho rằng ông Mạo là một người vừa hiền lành vừa tận tụy với công việc chứ không phải ông muốn lấy điểm hoặc ngán Trung tá Đỗ Trang Phúc, bởi một khi đã ra Pleiku là “cùi không sợ lở” (ngày ấy KQVN chưa có căn cứ Phù Cát). Thế nhưng nhiều người, nhất là HSQ binh sĩ, đâu có chịu hiểu cho ông.

    Sau khi Căn Cứ 92 trở thành Không Đoàn Yểm Cứ Pleiku, ông Mạo giữ chức vụ Liên đoàn trưởng Liên Đoàn Phòng Thủ; tới cuối năm 1972, ông được thăng cấp Trung tá, lên làm Không đoàn trưởng Không Đoàn Yểm Cứ thay thế Đại tá Võ Quế.

    Qua chức vụ sau cùng, ông Mạo mới có nhiều cơ hội chứng tỏ khả năng chỉ huy cũng như tinh thần phục vụ của mình. Để rồi cuối cùng, tháng 4/1975, bị quân cộng sản bắt tại Phan Rang cùng với vị Tư lệnh SĐ6KQ của mình - Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang.

    Riêng cá nhân tôi, một tay bán trời không văn tự luôn tìm cách chọc phá các sếp, cứ gặp mặt là bị ông Mạo mắng “chúng mày sĩ quan trẻ ba gai”, nhưng trong lòng tôi biết ông cũng thương tôi và thích nghe tôi tán phét.

    Sau khi tôi thuyên chuyển về Biên Hòa, vào khoảng cuối năm 1972, một tay đệ tử cũ của tôi (cũng ba gai có hạng) làm việc dưới quyền ông Mạo bị ông ký củ, bèn điện thoại về cầu cứu, nhờ tôi can thiệp để ông đừng ghi hồ sơ.

    Mặc dù trong bụng cho rằng tay đàn em bị ký củ là đáng đời, tôi cũng giữ lời hứa điện thoại ra Pleiku năn nỉ ông Mạo; nhưng chưa kịp năn nỉ thì ông đã bảo “Tao chỉ nhốt cho nó sợ, để làm gương cho những thằng khác, chứ tao có bao giờ ghi hồ sơ phạt ai đâu”.

    Câu nói của ông Mạo, hơn 50 năm sau tôi vẫn còn nhớ nguyên văn. Chỉ có điều đáng tiếc là khi tôi được biết tin tức về ông thì ông đã vào nursing home bên Hoa Kỳ, chưa kịp liên lạc thăm hỏi thì ông đã vĩnh viễn ra đi.


    Cựu Trung tá Phạm Bá Mạo tại Hoa Kỳ trong bộ áo bay mang phù hiệu
    Phi Đoàn 229 Lạc Long (Pleiku), có lẽ trong một dịp hội ngộ của Phi Đoàn

    (2) Đại tá Phan Quang Phúc. Trong bài "Ngành Quan sát trong KLVNCH", đàn anh Võ Ý chỉ cho biết NT Phan Quang Phúc từng giữ chức vụ Chỉ huy trưởng đầu tiên của Phi Đoàn 3 Quan Sát (Phi Đoàn 114 sau này) chứ không cho biết ông xuất thân Khóa nào.

    Riêng tôi được tiếp xúc với ông hai lần khi ông lên thăm Pleiku khoảng năm 1971, 1972, với tư cách Sư đoàn phó SĐ2KQ. Thời gian này Trung tá Võ Quế đang giữ chức Không đoàn trưởng Không Đoàn Yểm Cứ Pleiku.

    Qua hai lần được tiếp chuyện ngắn ngủi, tôi có nhận xét ông Phúc “Phan” rất thoải mái, vui tính. Ông còn khen con dao găm Thượng tôi đeo trên thắt lưng mang súng và nói đùa tặng cho ông được không!

    Năm 1975, ông bị kẹt lại và bị đưa ra Bắc 13 năm, có thời gian ở tù chung với Đại tá KQ Bùi Quan Khương, Không đoàn trưởng Không Đoàn Yểm Cứ Bình Thủy.
    Last edited by Nguyen Huu Thien; 09-26-2024, 09:54 AM.

    Comment


    • #3
      Bác Thiên Lôi Miệt Dưới viết bài rất hay, đầy đủ chi tiết. hình ảnh... Bravo!

      Comment


      • #4
        Cám ơn Hà Bá vùng Vịnh đã có lời bốc thơm gà nhà. Tất cả những gì được viết ra đều là sự thật, nhưng không phải tất cả mọi sự thật đều được viết ra. Chẳng hạn chuyện “bắt cái nước” với sơn nữ Ra-đê, viết ra chắc chắn sẽ bị Ban Điều Hành HQPD đì-lết.

        Last edited by Nguyen Huu Thien; 10-02-2024, 12:41 AM.

        Comment


        • #5
          Ngày xưa bác Thiên Lôi ở trên Pleiku, vùng Cao Nguyên rừng rú, núi đồi chập chùng nên tha hồ "bắt cái nước” lung tung ben...

          Còn em đóng ở Lục Tỉnh miền Tây mấy chục năm trước, lâu lắm rồi, thuở "ván chưa đóng thuyền", còn dám "bắt cái nước”, chứ bây giờ em hiền như Bụt, chả dám hó hé gì cả... Trời đã vào Thu, vài tháng nữa sẽ vào Đông, gió heo may bắt đầu lành lạnh về đêm, mà phải vác comforter ra ngoài đường thành "homeless", ho hen cảm lạnh thì phiền lắm lắm...hehhheeee... Em chả dám, bác Thiên Lôi ơi!
          Last edited by KiwiTeTua; 10-02-2024, 09:08 PM.

          Comment


          • #6
            Công nhận

            Sau khi đọc vài ba kỳ đoản thiên Hồi Ký của anh bạn Nguyễn hữu Thiện ,phải công nhận anh này gia nhập Không Quân không sớm ,mà biết quá nhiều chuyện của K Q . Chứng tỏ anh sưu tầm , nghiên cứu rất kỹ; nói ra nhiều chuyện ít người biết
            Chứng tỏ anh nầy cũng có máu như ông Vương hồng Sểnh đây.Ông Sểnh còn giử cả đến cái biên lai không ăn nhậu gì, thời Pháp mà có lúc cần làm bằng chứng đem ra khoe đấy ! Cũng hấp dẫn
            Tóm gọn : Hay và Thú vị ! N-N
            Last edited by NGHICH_NHI; 10-03-2024, 01:52 AM.

            Comment


            • #7
              Bộ nhớ của các Niên trưởng

              Kính thưa NT NGHỊCH_NHĨ,

              Như đã viết ở phần mở đầu, viết về cái tôi là điều không nên, nhưng vì NT đã chiếu cố, thằng em xin phép được khoe cái MAY MẮN của mình trong việc tìm hiểu, ghi chép những gì liên quan tới lịch sử hơn 20 năm (1951-1975) của quân chủng Không Quân VNCH như sau:

              - Trước 1975, nhờ làm việc dưới trướng ông Lê Bá Định, ông Từ Văn Bê, được theo hai ông đi đây đi đó và nghe hai ông kể chuyện ngày xưa.

              - Ra hải ngoại, nhân việc biên soạn cuốn Quân Sử Không Quân VNCH (2005) được liên lạc qua thư từ hoặc trực tiếp nhiều vị NT thuộc nhiều đời khác nhau, như:

              * Võ Dinh, Vũ Văn Ước (Khóa 1 HTQS)
              * Huỳnh Hữu Hiền (Khóa 52F1 Marrakech)
              * Nguyễn Phúc Tửng (Khóa 52F2 Marrakech, khóa của các ông Trần Văn Hổ, NCK, Lưu Kim Cương...)
              * Nguyễn Xuân Vinh (Khóa 52 Salon-de-Provence)
              * Trần Phước (tức Mệ, Khóa 1 Quan Sát Viên, cùng xuất thân Khóa 2 SQHD Đập Đá, Huế, với ông Trần Văn Hổ)
              * Vũ Thượng Văn, Nguyễn Quang Tri (Khóa 53 Salon-de-Provence)
              * Trần Đình Hòe (Khóa 2 HTQS, tốt nghiệp trường Vận Tải Avord)
              * Phùng Văn Chiêu (Khóa 1 Quan Sát viên)

              * Nguyễn Hồng Tuyền (Khóa 53E Marrakech, khóa mang lại nguồn nhân lực lớn nhất cho KQVN, chỉ xin kể sơ: Nguyễn Huy Ánh, Nguyễn Đức Hớn, Ông Lợi Hồng, Ôn Văn Tài, Trần Minh Thiện, Nguyễn Văn Bá, Lâm Văn Phiếu, Chu Trọng Để, Hồ Văn Ứng Kiệt, Bùi Quang Kỉnh, Nguyễn Văn Trang, v.v...)
              * Trần Phước Hội (Khóa 1 Kỹ Thuật Rochefort)


              Cuối cùng, cũng xin khoe thằng em đã mất mấy chục năm mới tìm ra được nhân chứng sống về sự hiện hữu của danh xưng “Căn Cứ 12” của Nha Trang trong những năm đầu thập niên 1960, đó là NT Đằng Vân, tác giả bài “TTHLKQ Nha Trang” (Hội Quán Phi Dũng).

              Tóm lại, hay không bằng hên, thưa NT.



              Chuẩn úy Nguyễn Huy Ánh tại trường bay khu trục Bordeaux, Pháp quốc, 1953

              Tân Sơn Nhứt 1967, từ trái, Thiếu tá Trần Đình Hòe, Tư lệnh phó KĐ33CT, Đại tá Farley Peebles, Tư lệnh Không Đoàn Yểm Cứ 377 (USAF), Thiếu tá Phùng Văn Chiêu, Liên đoàn trưởng Liên Đoàn Phòng Thủ kiêm Chỉ huy phó Yếu Khu TSN, Thiếu tá Nguyễn Trung Sơn, Liên đoàn trưởng Liên Đoàn Yểm Cứ
              Last edited by Nguyen Huu Thien; 10-03-2024, 02:18 AM.

              Comment


              • #8
                Cám ơn anh bạn Thiện có hồi đáp cái comment khá rõ ràng chi tiết !
                Sẵn đây cũng có cái thắc mắc mong bạn Thiện tra cứu xem sao .
                Đó là ông Đại Tướng Nguyễn Khánh thường mang cánh bay trong quân phục !
                Không biết Ông có học bay thật sự không ,tốt nghiệp năm nào ? hay chỉ là gắn cánh cho "đúng điệu " để Pháp giao KQ cho VN .
                Ban đầu văn phòng KQ nghe đâu ở trong Chợ lớn chứ không phải TSN .! Đúng không ??? N-N
                Last edited by NGHICH_NHI; 10-04-2024, 03:08 AM.

                Comment


                • #9
                  Cánh bay của ông Nguyễn Khánh


                  Để trả lời Niên trưởng NGHỊCH_NHĨ, trước hết tôi xin xác nhận ông Nguyễn Khánh có học bay “đầm già” tại TTHLKQ Nha Trang, cùng thời gian với Khóa 5 Hoa Tiêu Quan Sát.

                  Theo các vị niên trưởng KQ mà tôi tham khảo, vào tháng 7/1955, khi người Pháp bàn giao Phòng Không Quân (Département Air) cho phía Việt Nam, Bộ TTM Quân Đội Quốc Gia VN không biết chọn ai trong số các sĩ quan KQ (cao cấp nhất là Đại úy) nên đã tạm thời chỉ định Đại tá Nguyễn Khánh thuộc binh chủng Nhảy Dù giữ chức vụ Phụ Tá Không Quân (cho Tổng Tham Mưu Trưởng: Adjoint Air au Chef d’Etat Major Général).

                  Sau đó ông Nguyễn Khánh ra TTHLKQ Nha Trang học bay “đầm già” (Morane-Saulnier MS-500) cùng thời gian với Khóa 5 HTSQ. Thủ khoa khóa này là NT Nguyễn Hữu Tần, lúc đó mang cấp bậc Đại úy vừa từ Lục quân chuyển sang Không Quân, kể lại rằng Đại tá Nguyễn Khánh thường vào câu lạc bộ sĩ quan ăn cơm, trò chuyện thân mật với anh em khóa sinh.

                  Rất tiếc, sau khoảng 10 giờ học bay, ông Nguyễn Khánh... đập tàu và bỏ cuộc.

                  Nhưng sau này khi đã lên tướng, người ta lại thấy ông Nguyễn Khánh thường mang cánh bay trên ngực áo (cũng may mà cánh không có “râu”)!

                  Dĩ nhiên không ai dám xét hỏi bằng bay của ông, trong khi ông thì nói rằng ông biết bay phi cơ quan sát là do học hỏi các hoa tiêu chở ông đi đó đây bằng loại phi cơ này; tương tự sau này một vài vị tướng Lục quân học lái UH-1 do phi hành đoàn biệt phái cho mình chỉ dạy.

                  Thực hư ra sao, chỉ có trời biết!

                  * * *

                  Về việc NT N_N viết “Ban đầu văn phòng KQ nghe đâu ở trong Chợ Lớn...”, xin được giải thích như sau:

                  Từ khi ngành Không Quân được thành lập vào tháng 2/1952, Ban Không Quân (Section Air, sau đổi thành Phòng Không quân, Département Air) được đặt trên lầu của Bộ TTM ở đường Galliéni (Quận 5), tức đường Trần Hưng Đạo sau này.

                  Ở đường Trần Hưng Đạo tận Quận 5, kêu là “trong Chợ Lớn” thiết nghĩ cũng không sai.

                  Tới cuối năm 1955, Bộ Tư Lệnh Không Quân Pháp tại Viễn Ðông (Commandement de l'Air en Extrême Orient - CAEO) bị giải thể, cơ sở của CAEO ở biệt thự số 110-112 đường Testard, Sài Gòn (sau này là đường Trần Quý Cáp) được bàn giao cho Văn Phòng Phụ Tá Không Quân.

                  Năm 1957, Văn Phòng Phụ Tá Không Quân di chuyển vào phi trường Tân Sơn Nhứt, trở thành Bộ Tư Lệnh Không Quân.
                  Last edited by Nguyen Huu Thien; 10-06-2024, 01:50 AM.

                  Comment


                  • #10
                    Nghe có lớp lang bài bản , đáng tin cậy ! Bravo anh Thiện .
                    Cho anh bạn giống như hộc thuốc Bắc của KQ , cũng không ngoa ! N-N

                    Comment


                    • Nguyen Huu Thien
                      Nguyen Huu Thien commented
                      Editing a comment
                      Cám ơn NT, "Cái tủ thuốc Bắc của Không Quân" là biệt hiệu của cố NT Trần Phước Hội (1930-2008), tên thật Nguyễn Phước Bửu Hội (dòng dõi vua Thành Thái), Khóa 1 Rochefort (1952), Cử nhân Sử Địa.
                      Last edited by Nguyen Huu Thien; 10-05-2024, 01:10 AM.

                  • #11
                    BUỒN VUI ĐỜI LÍNH... VĂN PHÒNG

                    Nguyễn Hữu Thiện

                    (tiếp theo)


                    Vì Pleiku bị xem là nơi chốn lưu đày, ngày ấy các quân nhân Không Quân ở Pleiku chỉ cần phục vụ 2 năm là được thuyển chuyển thay vì phải 4 năm như ở các nơi khác.

                    Theo thủ tục hành chánh, 3 tháng trước ngày mãn hạn phục vụ các quân nhân có quyền làm đơn nhưng riêng tôi ở Pleiku quá 2 năm vẫn không chịu làm đơn.

                    Nguyên nhân: CCKQ Pleiku ngày càng đông vui và bản thân tôi ngày càng ý thức trách nhiệm, yêu thích công việc của một sĩ quan CTCT – không phải sĩ quan CTCT ngồi phòng có gắn máy lạnh ở hậu phương mà sĩ quan CTCT “trấn thủ lưu đồn”.

                    Có thể viết nếu không bị ông tân Trưởng Khối CTCT đì tận mạng, tôi đã chẳng bao giờ rời bỏ phố núi cao!

                    Trở lại với cuối năm 1970, khi tôi đi học khóa CTCT ở Đà Lạt trở về thì Không Đoàn 72 Chiến Thuật đã được thành lập, Thiếu tá Nguyễn Văn Bá (Khóa 53E Marrakech) làm Không đoàn trưởng, gồm các Phi Đoàn:

                    - 530 khu trục của Thiếu tá Lê Bá Định, danh hiệu tiếng Anh “Jupiter”, tiếng Việt “Thái Dương”

                    - 118 quan sát của Thiếu tá Võ Công Minh, sau đó ít lâu bàn giao cho Thiếu tá Võ Ý, danh hiệu “Black Cat”, “Bắc Đẩu”.

                    [Lúc đầu danh hiệu tiếng Việt của 118 là “Huyền Miêu” dịch từ tiếng Anh “Black Cat”, nhưng tới khi Thiếu tá Võ Ý nhận chức Phi đoàn trưởng, có lẽ thấy trong truyện thần thoại, phù phép tây phương, hình ảnh con mèo đen (huyền miêu) luôn luôn thuộc phe tà đạo, hoặc có liên hệ với cõi âm, đặt tên cho phi đoàn sợ xúi quẩy, ông đổi danh hiệu tiếng Việt thành “Bắc Đẩu”]

                    - 229 trực thăng của Thiếu tá Nguyễn Văn Bút, danh hiệu “Pelican”, “Lạc Long”.



                    A-1 Skyraider của PĐ-530 và trực thăng UH-1 của PĐ-229


                    Qua năm 1971 có thêm phi đoàn trực thăng 235 “Sơn Dương” của Thiếu tá Vĩnh Quốc.

                    Tôi không được biết ngay lúc mới thành lập, các phi đoàn 530, 118, 229 đã có cả danh hiệu tiếng Anh lẫn tiếng Việt hay về sau mới có danh hiệu tiếng Việt, chỉ biết một điều sở dĩ phải có danh hiệu tiếng Anh là để nhận diện hoặc phối hợp hoạt động với các đơn vị phi hành đặc biệt của Không Lực Hoa Kỳ ở vùng tam biên, hạ Lào, bắc Căm-bốt, đường mòn Hồ Chí Minh..., tương tự việc Phi Đoàn trực thăng 219 “Long Mã” (chuyên đổ biệt kích) khi hoạt động chung với MACV-SOG đã được biết tới với danh hiệu “Kingbee”.

                    Trong số các đơn vị phi hành đặc biệt ấy của KLHK có hai phi đoàn A-1 Skyraider là 22nd SOS (Special Operations Squadron), danh hiệu “Zorro”, đồn trú tại Nakhon Phanom AFB ở đông bắc Thái Lan, và 602nd SOS, danh hiệu “Firefly” và “Sandy”, trước kia đồn trú ở Nha Trang và Pleiku sau cũng di chuyển sang Nakhon Phanom.

                    Sau khi hai phi đoàn này bị giải thể vào cuối năm 1970, qua đầu năm 1971, Thiếu tá Lê Bá Định cùng một số hoa tiêu của 530 đã được C-47 đưa sang Nakhon Phanom tiếp nhận những chiếc A-1 tương đối còn tốt đem về Pleiku.

                    Khi ra phố Nakhon Phanom, ông Định có mua mấy lố khăn phu-la lụa in hoa văn Thái rất đẹp đem về tặng khách trong buổi đón ông và các hoa tiêu mang A-1 về; vợ chồng tôi là hai người cuối cùng hân hạnh được ông “mời” lên để ông thắt phu-la trên cổ.

                    Nhân tiện xin kể một chuyện bên lề về chuyến đi này do nhà văn KQ “Bằng Phong” Đặng Văn Âu kể lại (ông Âu là người lái C-47 đưa các hoa tiêu khu trục sang Thái Lan).

                    Nguyên vùng đông bắc Thái Lan, trung tâm là thành phố Nakhon Phanom, là ổ Việt kiều thân cộng, ở Lào và miền bắc VN sang Thái Lan tha phương cầu thực từ thời thực dân Pháp và sau khi quân phiệt Nhật chiếm Đông Dương.

                    Sau Hiệp Định Geneva 1954, VN bị chia đôi thành hai miền với hai thể chính trị khác nhau, chính phủ Thái Lan đã yêu cầu cả miền Nam lẫn miền Bắc cho hồi hương khoảng 100,000 Việt kiều ở đông bắc Thái Lan. Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (thời TT Ngô Đình Diệm) dứt khoát từ chối viện lý do Việt kiều ở vùng này đa số từ Lào hoặc miền Bắc VN; Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (cộng sản Bắc Việt) thì miễn cưỡng nhận nhỏ giọt, ưu tiên cho những kiều bào có tài sản về xây dựng đất nước – thực chất là cho nhà nước “vay” vô thời hạn – vì thế sau đó chẳng có ma nào dại dột về nộp xác nữa. Không về nhưng vẫn bị sống dưới ảnh hưởng của đám cán bộ cộng sản nằm vùng!

                    Khi ông Lê Bá Định cùng phi hành đoàn C-47 và một số hoa tiêu của Phi Đoàn 530 ra phố Nakhon Phanom, ghé vào khu buôn bán của Việt kiều thì một tay cán bộ chất vấn, lên giọng chê bai, đả kích, buông lời thóa mạ, nào là “làm lính đánh thuê cho đế quốc Mỹ”, nào là “thả bom tàn sát đồng bào trẻ thơ vô tội”...

                    Thay vì nổi giận hoặc bỏ đi, ông Lê Bá Định đã bình tĩnh đối diện với tay cán bộ và cho hắn một bài học nhớ đời: đừng bao giờ xem thường một sĩ quan QLVNCH, bởi vì ngoài trình độ kiến thức tối thiểu, ông ta còn có thể là một người có trình độ đại học, có tài hùng biện như trong trường hợp Thiếu tá Lê Bá Định, chỉ cần vài câu cũng đủ cho mọi người thấy ai là tay sai cộng sản Nga Tàu, ai đang xâm lược miền Nam VN!

                    Tên cán bộ bất ngờ gặp một đối thủ siêu đẳng, ú ớ chống đỡ vài câu rồi lủi đi như con chó cụp đuôi...


                    * * *

                    Trở lại với thời gian cuối năm 1970, khi tôi từ Đà Lạt trở về, Phòng CTCT của Căn Cứ 92 đã được nâng cấp thành Khối CTCT của Không Đoàn Yểm Cứ Pleiku. Mặc dù đã sang Không Đoàn 72 Chiến Thuật để lo việc thành lập Phi Đoàn 530, ông Lê Bá Định vẫn còn kiêm nhiệm chức vụ Trưởng Khối CTCT trong thời gian chờ người ra thay thế.

                    Lúc đó, trong cấp số mới của Khối CTCT Pleiku có Đoàn Công Tác CTCT và ông Lê Bá Định đã ưu ái bổ nhiệm tôi làm Trưởng Đoàn mà lẽ ra phải là một vị Đại úy. Trong Đoàn Công Tác CTCT có các Toán Tâm Lý Chiến, Toán Chính Huấn, Toán Dân Sự Vụ... Thế là tuy lon lá không bằng ai, tôi có đông lính nhất!

                    Công việc đầu tiên của tôi sau khi lên làm Trưởng Đoàn Công Tác CTCT là thành lập ban nhạc với sự giúp đỡ của Chuẩn úy (sau lên Trung úy) Lê Trung Xuân, tức ca sĩ Lê Xuân, đời chồng thứ nhất của nữ danh ca Lệ Thu (LT).

                    Mặc dù không ít người trong Không Quân cũng như giới nghệ sĩ đã biết việc này, trong suốt hơn 40 năm khi LT còn sống, tôi chưa bao giờ tự mình viết ra, chỉ vì muốn tôn trọng đời tư của một nữ danh ca mình quen biết, quý mến.

                    Thực ra trước 1975, tôi cũng chỉ là một người ái mộ tiếng hát LT như bao người ái mộ khác, phải đợi tới khi ra hải ngoại, được làm MC cho buổi trình diễn đầu tiên của LT ở Úc năm 1983 (hoặc 1984) và mấy năm sau được phỏng vấn LT cho một chương trình phát thanh nọ, tôi mới quen biết.



                    Melbourne 1983. Gia đình người viết và Lệ Thu; ngồi phía trước là KQ Đinh Hưng (Khóa 65B), ca sĩ phụ diễn

                    Phỏng vấn Lệ Thu năm 1996


                    Cho nên phải đợi tới sau khi LT qua đời, những bài báo viết về LT, những cuộc phỏng vấn LT (của người khác) được phát lại, trong đó hơn một lần LT cho biết người dẫn dắt mình trong bước đầu sự nghiệp cũng là người chồng đầu tiên, là một quân nhân Không Quân và ca sĩ nổi tiếng, tôi mới dám tiết lộ “người chồng đầu tiên” ấy chính là Trung úy KQ Lê Trung Xuân, một người bạn cùng đơn vị với tôi ở CCKQ Pleiku năm xưa, sau này cùng về phi trường Biên Hòa.

                    Anh Lê Trung Xuân hơn tôi khoảng 10 tuổi, gốc Huế trung lưu. Anh xuất thân Trường Kỹ Thuật Không Quân Pháp Rochefort (lớp hạ sĩ quan) khoảng giữa thập niên 1950. Anh có một giọng tenor độc đáo, thường trình diễn những ca khúc nổi tiếng của nam danh ca Pháp Tino Rossi cho nên trong nội bộ Không Quân anh được tặng biệt hiệu “Tino Xuân”, về sau bị thế hệ đàn em kém hiểu biết “Mỹ hóa” thành “Tony Xuân”.

                    Khi hát ở các vũ trường, phòng trà ca nhạc ở Sài Gòn, anh Lê Trung Xuân lấy nghệ danh Lê Xuân. Mặc dù có trình độ nhạc lý cao và một giọng tenor độc đáo, một người chuyên hát nhạc cổ điển và bán cổ điển như anh Xuân không phải “thần tượng” của đa số người nghe nhạc lẫn dân nhảy đầm ở Sài Gòn, cho nên anh không “chạy show” mà chỉ trụ ở một vũ trường, hát phần của mình và sẵn sàng điền vào chỗ trống khi có ca sĩ không tới hoặc tới trễ.

                    Vì thế anh Xuân thuộc lòng nhiều bài hát thuộc đủ mọi thể điệu và có khả năng hát liên tục cả chục bài.

                    Với khả năng chuyên môn (ca hát, nhạc lý) cũng như thâm niên quân ngũ, anh Xuân từng được đề cử giữ chức Trưởng Ban Văn Nghệ BTL/KQ nhưng anh đã từ chối, vì như những ai từng làm văn nghệ trong quân đội đều biết, chỉ huy các nghệ sĩ đã khó, đối phó với những cái mánh của họ (đa số nhưng không phải tất cả) còn khó hơn, đó là chưa kể tới việc cô ca sĩ này được quan to ưu ái, chàng diễn viên kia quen thân với sếp lớn... Kết quả, sau một thời gian phục vụ tại BTL/KQ, anh đã bị thuyên chuyển như bao người khác.

                    Trong thời gian phục vụ tại CCKQ Pleiku, anh Xuân đã nhận hướng dẫn một số mầm non của Đài phát thanh Pleiku trong đó có một cô ca sĩ sau này khá nổi tiếng. Anh cũng bỏ công hướng dẫn những “mầm già” là mấy tay trung úy đại úy ở cư xá sĩ quan độc thân mê ca hát.

                    Với trình độ nhạc lý và kinh nghiệm ca hát của mình, anh Xuân đã giúp tôi tuyển chọn được bốn quân nhân trẻ biệt phái lên Đoàn Công Tác CTCT để thành lập ban nhạc, và luyện giọng cho một nam ca sĩ cây nhà lá vườn, tuy không thể gọi là nhà nghề nhưng ít nhất cũng mang lại chút sôi động, hào hứng trong các buổi sinh hoạt CTCT tại hội trường, các dịp liên hoan của các phi đoàn hay cơ xưởng.

                    Chỉ có điều hơi nản là toàn bộ nhạc cụ và trang bị âm thanh đều là từ thời ông Phùng Ngọc Ẩn để lại, vừa lỗi thời vừa cũ vừa công xuất yếu. Sau này khi tôi đề nghị ông tân Trưởng Khối CTCT xin Không Đoàn xuất quỹ để mua sắm nhạc cụ, trang bị cho ban nhạc thì bị ông gạt ngay, nói rằng không đoàn tân lập có nhiều nhu cầu khác ưu tiên hơn. Sau đó tôi mới biết đứng số 1 trong những "nhu cầu ưu tiên” ấy là cái sân tennis đúng tiêu chuẩn, có lưới chống B40 vây quanh, chiếm trọn cái carpark của cư xá sĩ quan độc thân và cư xá vãng lai, chỉ để phục vụ nhu cầu chơi tennis của ông Không đoàn trưởng Yểm cứ và vài ba tay sĩ quan trong đơn vị có khả năng hầu vợt!

                    Kết quả, cho tới ngày tôi rời Pleiku, ban nhạc chỉ sử dụng dàn trống, một cái amplifier và cái loa bass cũ, còn lại đều là đàn, microphone, loa... của các thành viên trong ban nhạc tự sắm.


                    * * *

                    Cùng với việc thành lập ban nhạc, sau khi người Mỹ bàn giao một cái hall khá lớn, Đoàn Công Tác CTCT còn phụ trách công việc chiếu phim hàng tuần cho quân nhân và gia đình trong căn cứ.

                    Trước đó, tôi thấy trong kho vật liệu của Phòng CTCT có hai cái máy chiếu phim rất cũ, không biết bị cho “đình động” từ bao giờ, một máy chiếu phim 35 ly, một máy chiếu phim 16 ly. Cái máy 35 ly rất phức tạp kềng càng, cho nên thầy trò chúng tôi cũng không bỏ công mày mò, chỉ đem cái máy 16 ly ra lau chùi rồi nhờ cố vấn Mỹ giúp mượn phim. Sau khi chiếu thử thành công, chúng tôi thông báo cho anh em quân nhân và gia đình.

                    Kết quả thật tốt đẹp, ở xứ Thượng không có bất cứ môn giải trí nào ngoài mấy chương trình của đài truyền hình Sài Gòn lúc tỏ lúc mờ lúc tối thui, thì việc được xem một cuốn phim Mỹ mới phát hành quả là một điều thích thú.

                    Chỉ có một trục trặc nho nhỏ là kiểu máy chiếu phim 16 ly của chúng tôi có lẽ có từ thời Bảo Đại, vừa khó ráp phim vừa hay đứt phim bất tử, mỗi lần như thế lại phải “nghỉ giải lao” mấy phút chờ nhân viên ráp phim.

                    Cũng may, ít lâu sau chúng tôi được phía Hoa Kỳ tặng cho một cái máy chiếu hiệu Bell & Howell còn rất mới, lại có ống kính để chiếu phim màn ảnh rộng (cinemascope).

                    Điểm “đáng yêu” nhất của cái máy này là khả năng ráp phim tự động cho nên hầu như không bao giờ bị đứt phim bất tử, và bất cứ nhân viên nào của Đoàn Công Tác CTCT cũng có thể sử dụng.

                    Việc chiếu phim thường xuyên cho quân nhân và gia đình xem có thể gọi là một điểm son, dù nhỏ bé, của Đoàn Công Tác CTCT, nhưng không phải là không gây rắc rối. Đó là thỉnh thoảng khán giả, trong đó có các em nhỏ, lại được (bị) xem những cuốn phim có những cảnh khỏa thân lộ liễu, những màn mần tình táo bạo mà nếu chiếu ở các rạp ở Sài Gòn chắc chắn sẽ bị lưỡi kéo kiểm duyệt cắt bỏ.

                    Nhưng biết sao hơn!


                    * * *

                    Khí thế đang lên thì ông Trưởng Đoàn Công Tác CTCT bị... mất job, hay viết một cách nhẹ nhàng hơn, sau khi Khối CTCT của Không Đoàn Yểm Cứ Pleiku được ông Lê Bá Định bàn giao cho vị tân Trưởng Khối, đã có sự thay đổi nhân sự: chức vụ Trưởng Đoàn Công Tác CTCT được trao cho một vị sĩ quan thâm niên hơn, có cấp bậc cao hơn.

                    Cũng xin có đôi dòng về vị tân Trưởng Khối CTCT, Thiếu tá X. Ông xuất thân điều hành viên vận tải (navigator), không có chỉ số CTCT, tất cả những gì liên quan tới CTCT chỉ là ông từng đảm trách chức vụ Sĩ Quan CTCT tại một đơn vị vận tải; chức vụ này do cấp chỉ huy chỉ định trong số nhân viên thuộc quyền.

                    Về con người của của Thiếu tá X, bỏ qua việc những người không ưa ông nói ông là “chúa ma giáo” để chỉ nghe những gì ông Lê Bá Định kể thì tính tình ông X vốn không được bình thường cho lắm (tốc kê), sau khi bị một tai nạn lưu thông đã trở nên mát nặng, từ đó ông mới có nick name “X khùng”. Ông Định cũng cho biết ông X có một người anh trai cấp tá rất có uy tín tại BTL/KQ.

                    Tôi không được biết rõ quan hệ giữa hai ông thiếu tá cựu và tân Trưởng Khối CTCT, chỉ biết ông X thường kể rằng ông xưng hô “mày tao” với ông Định (nhưng tôi không có cơ hội kiểm chứng) còn ông Định thì có vẻ xem thường ông X – một cách kín đáo nhưng tôi vẫn nhận ra.

                    Chính vì không biết rõ mối quan hệ giữa hai người, tôi không thể khẳng định ông X tìm mọi cách đì tôi vì cho rằng tôi là “đệ tử ruột” của ông Định hay vì đường lối chỉ huy của ông hoàn toàn trái ngược với ông Định, hoặc chỉ đơn thuần vì ông cho rằng tôi dám “kên” ông (như có lần ông đã nói với một nhân viên dưới quyền).

                    Thời gian này, đầu năm 1971, người Mỹ đang tiến hành bàn giao một số cơ sở cho phía Việt Nam. Khối CTCT dọn tới một tòa nhà nằm gần cổng ra vào Không Đoàn 633 (Không Lực Hoa Kỳ), nhưng vì không đủ chỗ, Đoàn Công Tác CTCT của tôi vẫn ở lại chỗ cũ, tức khu vực của KQVN ở gần cổng ra vào căn cứ.




                    Một phần CCKQ Pleiku vào năm 1967. Cận ảnh là khu vực của Air Vietnam, kế tới là các ụ đậu trực thăng,
                    các hangar rồi tới cơ sở của Không Đoàn 633 (Hoa Kỳ). Giữa hình là trạm hàng hóa (cargo terminal)
                    và trạm hành khách (passenger terminal), phía bên phải là các ụ đậu phi cơ OV-10


                    Thay đổi đầu tiên của Thiếu tá X trong sinh hoạt thường ngày của Khối CTCT là điểm danh mỗi buổi sáng. Từ ngày ra Pleiku, tôi chưa từng nghe hai chữ “điểm danh” tại các phần sở, may ra thì chỉ có Đoàn Phòng Thủ mới điểm danh quân số trước mỗi phiên ứng chiến ngoài vòng đai!

                    Cứ tạm thời cho rằng mỗi người có đường lối chỉ huy khác nhau, chúng ta không nên chỉ đánh giá Thiếu tá X qua việc điểm danh nhân viên dưới quyền mỗi buổi sáng, nhưng việc bắt mười mấy quân nhân (của Đoàn Công Tác CTCT) phải leo đồi xuống dốc hơn một cây số để dự điểm danh mỗi ngày thay vì chỉ cần một cú điện thoại báo cáo quân số phải bị xem là... khùng - như cái nick name của ông. Chưa hết, lâu lâu giữa giờ làm việc, Thiếu tá X lại lái xe ghé Đoàn Công Tác CTCT xem ông Thiếu úy Trưởng Đoàn có mặt ở đó hay đã bỏ xuống khu gia binh uống cà phê rồi!

                    Cũng may, mấy tháng sau Không Đoàn 633 của Không Lực Hoa Kỳ chính thức bàn giao tòa nhà Bộ tư lệnh to đẹp của họ, Bộ chỉ huy Không Đoàn Yểm Cứ Pleiku tới chiếm ngụ vẫn còn dư chỗ, Khối CTCT được chia cho 1/3 tầng lầu, Đoàn Công Tác CTCT của tôi dọn tới ở chung, việc điểm danh diễn ra ngay ngoài sân đậu xe, màn cuốc bộ đi điểm danh mới chấm dứt.


                    * * *

                    Vào thời gian này, hai ông Trung úy Trưởng Phòng Xã Hội và Trưởng Phòng Tâm Lý Chiến vừa thuyên chuyển về Tân Sơn Nhứt và Đà Nẵng, sĩ quan Khối CTCT chỉ còn Thiếu úy Phạm Xuân Trường, Khóa 7/68, mới ra Pleiku làm Trưởng Phòng Chính Huấn, Chuẩn úy Lê Trung Xuân (đã nhắc tới ở trên), thuộc Phòng Tâm Lý Chiến, và tôi, Trưởng Đoàn Công Tác CTCT.

                    Khoảng tháng 4, tháng 5 năm 1971, thêm một sĩ quan được thuyên chuyển tới Khối CTCT Pleiku: Đại úy Đỗ Đức Kỳ.

                    Thay vì giao cho anh một trong ba chức vụ đang bỏ trống là Trưởng Phòng Xã Hội, Trưởng Phòng Tâm Lý Chiến, và Sĩ Quan Thông Tin Báo Chí, ông X đã bổ nhiệm anh làm Trưởng Đoàn Công Tác CTCT, chức vụ tôi đang nắm giữ.

                    [Trên nguyên tắc, đơn vị chỉ có quyền “đề cử” để BTL/KQ cứu xét và ra quyết định bổ nhiệm, nhưng trên thực tế một khi đã được đề cử chắc chắn sẽ được bổ nhiệm]


                    * * *

                    Anh Kỳ với tôi không xa lạ; anh nguyên là một trong bốn ông Trung úy phi hành hoặc không phi hành được chuyển sang ngành CTCT, cùng theo học Khóa 8 Căn Bản Sĩ Quan CTCT tại Đà Lạt với đám Chuẩn úy chúng tôi vào giữa năm 1970.

                    Anh Kỳ là dân “cậu”, gốc quan sát, ít nói, có thú chơi máy ảnh; ra Đà Lạt anh mang theo cái máy hiệu Mamiya của Nhật đời mới nhất và thường chụp “chùa” cho anh em cùng khóa trong những buổi dạo phố, du ngoạn.



                    Đà Lạt 1970. Từ trái, Phan Lạc Giang Đông, người viết, Trần Ngọc Tự, Đỗ Đức Kỳ


                    Ra Pleiku, được trao chức vụ Trưởng Đoàn Công Tác CTCT, anh Kỳ trở nên nghiêm trang (và hơi réc-lô) cũng là điều dễ hiểu, bởi ở quân trường anh là khóa sinh, ra đơn vị anh là cấp chỉ huy; ngược lại việc một số HSQ binh sĩ trong Đoàn Công Tác không thích anh cũng là điều dễ hiểu: họ đã quen với cung cách làm việc thoải mái, không câu nệ hình thức của tôi.

                    Riêng tôi, tôi cố giữ một khoảng cách vừa đủ giữa anh với tôi, không phải vì tôi mất chức Trưởng Đoàn CTCT về tay anh mà vì tôi muốn để anh - người đang đang nắm quyền chức - tùy nghi ứng xử; kết quả, anh cũng giữ một khoảng cách tương xứng. (Sau này tôi về Biên Hòa, anh có ghé nhà thăm một lần nhưng chỉ gặp vợ tôi)

                    Sau khi chức vụ Trưởng Đoàn Công Tác được trao cho anh Kỳ, tôi trở thành một sĩ quan không có chức vụ chính thức, nhưng không có nghĩa là được tự do lang thang, hoặc ngồi chơi xơi nước quanh năm mà có thể bị ông Thiếu tá Trưởng Khối nổi hứng chỉ định thi hành bất cứ công việc nào ông muốn. Chỉ có một điều an ủi nho nhỏ: dù Thiếu tá X đã giao ban nhạc cho Trung sĩ T, mọi người, trong đó có T, vẫn xem ban nhạc là của tôi, dù không chính thức.


                    * * *

                    Hơn một tháng sau ngày bị mất chức Trưởng Đoàn Công Tác CTCT, tôi được lệnh đưa quan tài của một quân nhân Không Quân về Đà Nẵng trao cho gia đình an táng.

                    Điều cần nói ở đây là quân nhân này không phải một nhân viên phi hành của Không Đoàn 72 Chiến Thuật hy sinh vì Tổ Quốc mà là một người lính của Không Đoàn Yểm Cứ Pleiku bị nhân dân tự vệ bắn chết vì... gái!

                    Đó là một anh lính trẻ (tạm gọi là A, thuộc Liên Đoàn Trợ Lực, nếu tôi nhớ không lầm) theo đuổi một cô gái ngoài phố Pleiku. Nhà của cô gái ở gần trụ sở Nhân Dân Tự Vệ, cho nên A đã trở thành cái gai trước mắt những ông trời con này, trong đó có một tay mê cô gái nhưng không được đáp lại.

                    Sau mấy lần kên nhau giữa đôi bên, bạn bè KQ khuyên A không nên đi vào xóm một mình nữa nhưng anh không nghe. Để rồi tới một buổi trưa nọ, không hiểu chuyện gì đã xảy ra chỉ biết A bị tay nhân dân tự vệ kia bắn chết tại chỗ!

                    Hung tin về tới phi trường, hàng chục lính KQ trang bị vũ khí cá nhân leo lên một chiếc xe Dodge 4x4 quyết tâm ra phố “san bằng trụ sở nhân dân tự vệ” nhưng đã bị Quân Cảnh KQ chặn lại tại cổng Phi Vân vì có lệnh cấm trại 100%.

                    Nguyên ông Phó tỉnh trưởng Hành chánh tỉnh Pleiku vốn là chỗ thân thiết với Trung tá Võ Quế, Không đoàn trưởng Không Đoàn Yểm Cứ Pleiku, ngay sau khi được báo cáo sự việc đã điện thoại thông báo cho Trung tá Quế để đề phòng việc lính KQ kéo nhau ra phố báo thù (rất có thể ông ta chưa quên, hoặc từng được nghe kể việc Trung tá Phùng Ngọc Ẩn cho xe bọc thép của Đoàn Phòng Thủ ra vây đồn Quân Cảnh Pleiku năm nào)

                    Lập tức Trung tá Võ Quế ra lệnh Không Đoàn Yểm Cứ cấm trại 100%!

                    Qua ngày hôm sau, ông Phó tỉnh Hành chánh vào tư thất của Trung tá Võ Quế trong phi trường Cù Hanh gặp ông Quế, Thiếu tá X, và một số sĩ quan cao cấp trong đơn vị. Tư thất của ông Quế chính là ngôi nhà trước kia sử dụng làm Bộ chỉ huy và Ban văn thư của Căn Cứ 92.

                    Tôi không được biết hai bên thảo luận, dàn xếp ra sao, chỉ biết sau đó Thiếu tá X điện thoại gọi tôi tới tư thất của Không đoàn trưởng. Khi tôi tới nơi, ông Quế đang tiễn ông Phó tỉnh Hành chánh ra tận xe, hai người thân mật bắt tay từ giã nhau.

                    Vào phòng – Phòng họp của Căn Cứ 92 trước kia nay được sử dụng làm phòng tiệc (formal dining room) – tôi thấy các sếp đang cười nói vui vẻ. Sau khi tôi đứng nghiêm chào mọi người, Trung tá Quế nói với tôi:

                    -Đơn vị đề cử anh đại diện đưa quan tài KQ A về Đà Nẵng, chia buồn với gia đình và tham dự đám tang...

                    Ông Quế chưa nói hết câu, mặt tôi đã nóng bừng khi thấy mình bị ông Trưởng Khối CTCT chơi sát ván. Bởi vì xưa nay nếu cần có một vị sĩ quan đại diện đơn vị trong tang lễ thì người đó hoặc là thượng cấp, đồng đội (trường hợp nhân viên phi hành) hoặc là vị Trưởng Phòng Xã Hội, hoặc cả hai.

                    Thời gian này, Khối CTCT đã có Trung úy N mới ra Pleiku và được bổ nhiệm vào chức vụ Trưởng Phòng Xã Hội, tại sao Thiếu tá X lại bắt tôi đi Đà Nẵng?!

                    Giờ này hồi tưởng 6 năm binh nghiệp của mình, tôi có thể hãnh diện vỗ ngực tôi chưa từng sợ bất cứ một quan lớn nào. Ngay lúc ấy, tôi đã tính phản đối kịch liệt: ông Trưởng Phòng Xã Hội đâu mà lại bắt tôi đi, tôi sẽ trả lời ra sao nếu gia đình A đặt câu hỏi, tôi sẽ phản ứng ra sao nếu gia đình A lăn ra “ăn vạ” trước việc con trai của họ bị nhân dân tự vệ bắn chết, hoặc đặt câu hỏi về kết quả cuộc điều tra, v.v...

                    Nhưng tôi đã kịp dằn lại. Việc “đòi nợ máu” của anh em KQ là chuyện tương lai, còn trước mắt là việc đưa người chết về quê nhà để được mồ yên mả đẹp...

                    Đúng lúc đó vị Thiếu tá Liên đoàn trưởng của người lính KQ xấu số, vốn là một người rất khôn khéo, tế nhị, đã tiến tới trấn an tôi:

                    -Anh chỉ đại diện trên danh nghĩa, còn tất cả mọi việc tôi đã trao cho Trung sĩ X, nơi ăn chốn ở, phương tiện di chuyển sẽ có người ở Đà Nẵng lo liệu cho các anh... Thôi anh về chuẩn bị đi, khi nào có phi vụ tôi sẽ cho người tới đón.


                    * * *

                    Tất cả mọi diễn tiến sau đó tôi chỉ nhớ lờ mờ, bởi vì Trung sĩ (nhất) X, một hạ sĩ quan thâm niên công vụ, có lẽ đã được ông Thiếu tá Liên đoàn trưởng căn dặn, đã tự động lo liệu, sắp xếp mọi việc, còn tôi thì từ lúc bước chân lên phi cơ, mặt lúc nào cũng thẫn thờ như người mất hồn.

                    Có thể nói từ lúc nhìn thấy quan tài của A, tôi đã quên hẳn việc mình bị ông Trưởng Khối CTCT chơi và chỉ còn nghĩ tới người lính KQ xấu số nằm trong đó.

                    Dù không phải phi công “lướt trên ngàn mây gió” thì cũng là mang danh lính Không Quân, chết tức tưởi vì đạn của nhân dân tự vệ thì nhục nhã, đau lòng quá...

                    Tôi đã cố gắng lăm nhưng vẫn không ngăn được nước mắt khi cha mẹ, anh chị của A khóc lóc vật vã trước quan tài. Nhà nghèo, nông dân ít học, có được người con út đẹp trai sáng sủa đi lính Không Quân phải được xem là một niềm hãnh diện, ngờ đâu chưa đầy 3 năm sau...

                    Nhà A ở một vùng thôn quê khá xa thành phố, từ lúc tôi đến cho tới khi về, trời Đà Nẵng như cũng buồn theo, mưa suốt mấy ngày liên tục, gió lạnh căm, nghĩa trang lầy lội càng khiến lòng người thêm se thắt...

                    Chôn cất xong xuôi, quân xa chở mọi người về tới nhà, gia đình A nhất định mời tôi, Trung sĩ X và người tài xế ở lại dùng cơm trưa. Thấy gia cảnh khó khăn, tôi từ chối ngay nhưng khi người cha của A mời thêm lần nữa, Trung sĩ X liền xen vào thay tôi nhận lời nhưng anh không quên nói với gia đình A là chúng tôi không có nhiều thì giờ, cho nên có gì ăn nấy rồi về ngay.


                    Lập tức, tôi nhận ra và cảm phục cách ứng xử khôn khéo của người hạ sĩ quan trừng trải: ở lại dùng cơm để an ủi gia đình nhưng không cho đi chợ. Kết quả, chỉ có món cá, mắm và rau.

                    Có thêm chăng là chai bia mập (bia con cọp) người cha của A sai ai đó đi mua. Đang buồn lại không có nước đá, tôi chỉ uống nửa ly bia đắng!

                    Đó là lần đầu tiên và cũng là cuối cùng tôi tới căn cứ không quân Đà Nẵng, không giữ lại được một hình ảnh nào về giang sơn, cơ ngơi của Chuẩn tướng Nguyễn Đức Khánh trong đầu. Nhưng hình ảnh ngôi nhà lụp xụp của gia đình A tôi vẫn nhớ.

                    (Còn tiếp)
                    Last edited by Nguyen Huu Thien; 10-05-2024, 09:47 PM.

                    Comment


                    • #12
                      BUỒN VUI ĐỜI LÍNH... VĂN PHÒNG

                      Nguyễn Hữu Thiện

                      (tiếp theo)



                      Sau chuyến đi Đà Nẵng trở về, ngồi chơi xơi nước không bao lâu thì tôi bị đưa xuống Phòng Huấn Luyện làm huấn luyện viên. Viết là “bị” nhưng với tôi, một sĩ quan CTCT yêu nghề (và thích tán phét) phải nói là “được”.

                      Số là vào đầu năm 1971, sự bành trướng mau lẹ của Không Lực Việt Nam Cộng Hòa để thay thế những người bạn Mỹ đã đưa tới một rắc rối nho nhỏ - nhưng với các cá nhân trong cuộc không phải chuyện nhỏ: hàng trăm hoa tiêu trẻ, đa số là dân trực thăng, sau khi tốt nghiệp bên Mỹ về vẫn còn mang “con cá” (alpha, lon sinh viên sĩ quan).

                      Nguyên nhân: sau khi được gửi học quân sự giai đoạn 1 tại TTHL Quang Trung (đa số cùng Khóa 3/69 với tôi), các SVSQ này được đưa về Không Quân học sinh ngữ rồi đi Mỹ học bay. Nhưng sau khi tốt nghiệp về nước, họ vẫn chưa trở thành sĩ quan - ít nhất cũng theo lập luận “stupid” của Bộ TTM - vì chưa học quân sự giai đoạn 2.

                      Vì thế, cho dù không thể bắt các hoa tiêu này về lại Thủ Đức để học, Bộ TTM cũng ra một chỉ thị cứng nhắc là các SVSQ nói trên phải học quân sự giai đoạn 2 tại đơn vị, xong xuôi mới được mang lon.

                      Có thể viết một cách tiếu lâm là để được mang lon sĩ quan Không Quân, các hoa tiêu này phải hoàn tất chương trình huấn luyện “Trung đội trưởng Bộ Binh”.

                      Nghĩa là họ sẽ phải học về sinh hoạt lãnh đạo chỉ huy, về chiến tranh chính trị, và bắn súng… Colt-45. Riêng tại Pleiku không thôi cũng đã có mấy chục hoa tiêu từ nay sáng sáng theo thầy đi đánh giặc hoặc bay tập huấn, chiều chiều về học “chữ”!

                      Lúc đó Phòng Huấn Luyện của Không Đoàn Yểm Cứ Pleiku ngoài ông Thiếu tá Trưởng Phòng gốc tác chiến chuyển sang Không Quân chỉ có hai sĩ quan trẻ chưa học định nghiệp, một ông Trung sĩ Nhất có chỉ số huấn luyện và hai tay văn thư thì lấy đâu ra người để dạy hai môn chiến tranh chính trị và sinh hoạt lãnh đạo chỉ huy, cho nên đã phải cầu cứu Khối CTCT.


                      Dĩ nhiên, ông Trưởng Khối CTCT đã không một chút do dự, tống tôi đi ngay cho khuất mắt. Nhưng cũng nhờ vậy tôi có được tám tuần lễ thú vị và xét ra cũng không đến nỗi vô ích trong binh nghiệp của mình, chưa kể nhờ đó được quá giang trực thăng dài dài.

                      Chuyện một tay Khóa 3/69 dạy những tay Khóa 3/69 khác để ra sĩ quan đã được tôi kể chi tiết trong một bài viết trước đây, nay chỉ xin tóm gọn.

                      Mỗi giờ học, tôi chỉ “dạy” khoảng 15 phút về chiến tranh chính trị (chính nghĩa quốc gia, âm mưu xâm lược của cộng sản...), về tổ chức, hệ thống chỉ huy trong QLVNCH nói chung, quân chủng Không Quân nói riêng, thời gian còn lại tôi kể chuyện cho họ nghe.

                      Có lẽ tôi có khiếu kể chuyện hay sao đó mà về sau không còn mấy người ngủ gục hoặc tán dóc um sùm nữa, cùng lắm cũng chỉ hút thuốc một cách kín đáo thôi.

                      Cho tới nay, tôi vẫn còn nhớ truyện kể “ăn khách” nhất của tôi trong khóa học là tình sử tay ba Huyền Trân Công Chúa - Chế Mân - Trần Khắc Chung được tôi thêu dệt tối đa (khiến H, một thằng bạn nội trú năm xưa nay bay UH-1, cứ dựa lưng vào vách khoanh tay tủm tỉm cười)...

                      Dần dần các vị hoa tiêu mang “con cá” ấy gọi tôi bằng “thầy”, tuyệt nhiên không có ý châm chọc mà đầy tình thân có pha chút vui đùa.

                      Chỉ có điều bi thảm là không phải học viên nào của tôi cũng sống cho tới ngày... tốt nghiệp: trước sau đã có hai người hy sinh trên chiến trường Tam Biên trước khi tất cả được chính thức gắn lon Thiếu úy! (Nghe nói, từ đó về sau các hoa tiêu mang “con cá” bị cấm bay những phi vụ tác chiến).

                      Cũng từ đó, mỗi lần đi công tác hoặc đi phép, tôi khỏi xuống Trạm Hàng Không xếp hàng mà sáng sớm cứ tới phi đạo 229, 235, hễ thấy cựu “học trò” quân sự giai đoạn 2 của mình ngồi ghế co-pilot liền tiến lại cười cầu tài là xong ngay.


                      Trực thăng UH-1 của Phi Đoàn 229 Lạc Long


                      Giữa năm 1971 tôi lại được Thánh tổ phù hộ (thánh tổ của ngành CTCT là Quân sư Nguyễn Trãi của nhà Hậu Lê), dẫn đưa tới việc tôi trở thành Sĩ Quan Báo Chí CCKQ Pleiku ngoài ý muốn của ông Thiếu tá Trưởng Khối CTCT.

                      Nguyên vào một ngày không mấy đẹp trời nọ (trời Pleiku thì có bao giờ đẹp!), bỗng dưng có văn thư của Văn Phòng TMP/CTCT, BTL/KQ gửi các căn cứ KQ yêu cầu Sĩ Quan Báo Chí của đơn vị về Sài Gòn tham dự cuộc hội thảo chuyên ngành do MACV tổ chức, với sự hợp tác của Tổng Cục CTCT.

                      Vào thời gian này, chức vụ Trưởng Ban Thông Tin Báo Chí (TTBC) kiêm Sĩ Quan Báo Chí Pleiku chưa có người nắm giữ, cho nên tôi lại bị Thiếu tá X “điền vào chỗ trống cho hợp nghĩa” – không phải bổ nhiệm chính thức mà chỉ để đi tham dự cuộc hội thảo nói trên, sau khi về đơn vị thì lại trở thành phó thường dân như cũ!

                      Nhưng khi tôi về tới BTL/KQ, ông Trung tá Trưởng Phòng TTBC BTL/KQ khi thiết lập danh sách người tham dự để phía Hoa Kỳ làm Chứng nhận (Certificate), nghe tôi nói tôi chẳng giữ chức vụ gì ở Khối CTCT Pleiku cả, đã té ngửa vì thư mời của phía Hoa Kỳ ghi rõ người tham dự phải là “IO” của một đơn vị.

                      [IO là viết tắt của “Information Officer” trong quân đội Hoa Kỳ. Đối tác trong KQVN gọi là Sĩ Quan Thông Tin Báo Chí, dịch sang tiếng Anh là “Press & Information Officer”, tuy nhiên khi làm việc, liên lạc với nhau, phía KQVN cũng sử dụng chữ “Information Officer” (IO) cho thống nhất, còn trong nội bộ thường gọi ngắn gọn là Sĩ Quan Báo Chí]

                      Tôi nói với ông Trung tá Trưởng Phòng TTBC rằng nếu vậy thì để tôi trở về đơn vị, khỏi tham dự nhưng ổng nói đâu có được, cuộc hội thảo này mang tính cách bắt buộc, đơn vị KQ nào cũng phải có IO tham dự. Sau đó ông nói trước mắt ông cứ ghi tôi là “Pleiku AFB’s Information Officer” trong danh sách giao cho phía Hoa Kỳ rồi tính sau.

                      Qua ngày hôm sau, chúng tôi được đưa tới một trung tâm hội nghị (conference center) phía trên rạp REX. Không khí rất trang trọng khiến tôi cũng hơi khớp vì chưa bao giờ được tham dự một sinh hoạt như thế, thành thử tôi cứ bám theo mấy ông sĩ quan báo chí khác của KQ cho chắc ăn.

                      Buổi hội thảo được đặt dưới sự chủ tọa của một vị Thiếu tướng Mỹ thuộc MACV, một vị Đại tá thuộc Tổng Cục CTCT và Trung tá Lê Trung Hiền, phát ngôn viên của Bộ TTM QLVNCH; tôi nhớ tên Trung tá Hiền vì ông hay lên truyền hình và cũng là thuyết trình viên duy nhất của phía Việt Nam trong cuộc hội thảo này.

                      Sau hai ngày nghe thuyết trình, qua ngày thứ ba có buổi ăn trưa (self-serve) rất thịnh soạn do phía Hoa Kỳ khoản đãi trong khuôn viên một biệt thự lớn ở đường Trần Quý Cáp, không biết có phải tư dinh của Tư lệnh MACV hay không?

                      Trong buổi ăn trưa này, ông Trung tá Trưởng Phòng TTBC cho tôi biết VP/TTM/CTCT của BTL/KQ đã gửi văn thư cho Khối CTCT Không Đoàn Yểm Cứ Pleiku thông báo việc tôi được bổ nhiệm làm Sĩ Quan Báo Chí của đơn vị.

                      Ông giải thích đại khái về việc bổ nhiệm này như sau:

                      Sĩ Quan Báo Chí tại các căn cứ Không Quân là người của đơn vị nhưng làm việc cho Phòng TTBC BTL/KQ, trong đó nhiệm vụ chính là báo cáo hoạt động, tình hình chiến sự, và kết quả hàng tuần của đơn vị về Phòng TTBC BTK/KQ; đồng thời đón tiếp, hướng dẫn các nhà báo ngoại quốc được BTL/KQ giới thiệu.

                      Còn Trưởng Ban Thông Tin Báo Chí của đơn vị là người chịu trách nhiệm về công tác thông tin báo chí trong đơn vị. Thông thường, tại cấp đơn vị, Sĩ Quan Báo Chí cũng là Trưởng Ban Thông Tin Báo Chí, tuy nhiên có khi Sĩ Quan Báo Chí chỉ là một nhân viên trong Ban Thông Tin Báo Chí.


                      * * *

                      Dĩ nhiên, đời nào Thiếu tá X bổ nhiệm tôi vào chức vụ Trưởng Ban TTBC nhưng chỉ với cái mác “Sĩ Quan Báo Chí Pleiku”, từ nay tôi có quyền lang thang một cách hợp pháp, chẳng hạn mỗi tuần xuống các phi đoàn ghi nhận hoạt động để báo cáo về Phòng TTBC BTL/KQ, hoặc tham dự các lễ lạc bên Không Đoàn 72 Chiến Thuật để làm phóng sự; kể cả một số function/party bên Không Đoàn 633 của Hoa Kỳ (633rd Special Operations Wing), ông Lê Bá Định cũng thường đưa tôi đi theo và giới thiệu là VNAF’s Information Officer.

                      Nhờ đó tôi mới có cơ hội gặp gỡ các cấp chỉ huy và gần gũi anh em phi hành, tìm hiểu về cuộc sống và sự bay bổng, đánh đấm của các đấng mặc áo liền quần thuộc Không Đoàn 72 Chiến Thuật. Trước đó, một số hoa tiêu khu trục của Phi Đoàn 530 như các anh Phạm Văn Thặng, Vũ Công Hiệp, Nguyễn Văn Huynh, Phan Đắc Huề... đã biết tôi là nhân viên cũ của ông Lê Bá Định (Trưởng Phòng CTCT Căn Cứ 92 KQ) cho nên đã dành mọi sự dễ dãi và cung cấp những kiến thức, hướng dẫn rất thú vị và hữu ích cho nghề nghiệp của một sĩ quan báo chí KQ.

                      Thời gian này ông Lê Bá Định đã lên làm Liên đoàn trưởng Liên Đoàn 72 Tác Chiến thay Trung tá Nguyễn Văn Trang về Nha Trang chữa bệnh, nghe nói vì bị Thượngthư”.(Chú thích 1)

                      Việc Trung tá Trang bị Thượngthư cho tới nay tôi vẫn không biết thực hư ra sao, nhưng nếu nó xảy ra thật thì cũng nhờ đó mà đường công danh sự nghiệp của ông Lê Bá Định lên như diều gặp gió.


                      Ông Định vừa lên làm Liên đoàn trưởng thì diễn ra cuộc tái chiếm Căn Cứ Hỏa Lực số 6 (Firebase 6) tức Đồi 1001, nằm ở tây nam Dak To, gần vùng tam biên.

                      Căn Cứ Hỏa Lực số 6

                      Với sự yểm trợ của không quân, chủ yếu là Không Đoàn 72 Chiến Thuật, sau 13 ngày đêm giao tranh ác liệt, Lữ đoàn 2 Nhảy dù của Đại tá Trần Quốc Lịch đã đánh tan ba trung đoàn quân cộng sản.

                      Với sự tường thuật trực tiếp của các phóng viên Mỹ, chiến thắng này đã được phía Hoa Kỳ xem là thành công điển hình của chương trình Việt nam hóa chiến tranh.

                      Rất nhiều sĩ quan của Không Đoàn 72 Chiến Thuật được thăng cấp đặc cách mặt trận, như Thiếu tá Lê Bá Định lên Trung tá, các Đại úy Phạm Văn Thặng, Vũ Công Hiệp, Văn Thanh, Nguyễn Văn Huynh, Trần Ngọc Hà... của 530 lên Thiếu tá (bên 118, 229 tôi không nhớ rõ).

                      Về phần tôi, đây cũng là một dịp thực tập viết phóng sự chiến trường!


                      * * *

                      Nhưng sự phù hộ của Thánh tổ Nguyễn Trãi không dừng lại ở đây, mà việc tôi trở thành Sĩ Quan Báo Chí Pleiku ngoài ý muốn của ông Thiếu tá Trưởng Khối CTCT cuối cùng đã dẫn đưa tới việc tôi và ông... sống chung hòa bình!

                      Đầu đuôi là việc thực hiện đặc san “An Ninh Dưới Dất” cho ông Dật Dờ, một nhân vật độc đáo ở Pleiku tôi đã từng nhắc tới khi viết về ông Cảm Mạo (Phạm Bá Mạo).

                      Ông Dật Dờ - nickname do ông Võ Ý đặt – gốc quan sát nay xuống đất làm Trưởng Phòng An Ninh Dưới Đất của Không Đoàn Yểm Cứ Pleiku.

                      Phòng An Ninh Dưới Đất ở ngay bên cạnh Khối CTCT trên tầng lầu của tòa nhà Không đoàn bộ, nhưng giờ này nếu có ai hỏi tôi phần hành của Phòng này là gì thì tôi cũng chỉ có thể trả lời: kiểm soát các bình chữa lửa ở các phần sở và giáo dục mọi người ở khu gia binh không được sử dụng dầu JP-4 (dầu phản lực) để nấu ăn.



                      CCKQ Pleiku, 1967. Tòa nhà dưới chân đồi phía bên trái là Bộ tư lệnh Không Đoàn 633 Hoa Kỳ,
                      về sau được chuyển giao cho Không Đoàn Yểm Cứ Pleiku

                      Cận ảnh tòa nhà


                      Ông Dật Dờ lúc đó còn mang cấp bậc Đại úy, chỉ có một hai nhân viên dưới quyền làm công việc đánh máy và nghe điện thoại nhưng lại muốn ra một cuốn “đặc san An Ninh Dưới Đất” để lấy tiếng, và thuyết phục tôi giúp ông.

                      Tôi nhận lời ngay vì hai nguyên nhân.

                      Thứ nhất tôi muốn có chỗ để tập tành viết lách và rút tỉa kinh nghiệm làm báo. Trước kia, khi Pleiku còn là Căn Cứ 92 KQ, ông Lê Bá Định làm Trưởng Phòng CTCT, mỗi tam cá nguyệt đều có một Bản Tin đơn vị do ông Trung úy Trưởng Phòng Tâm Lý Chiến chịu trách nhiệm thực hiện, tôi phụ một tay, nhưng sau khi Thiếu tá X ra Pleiku ra làm Trưởng Khối CTCT thay ông Định, ông Trung úy Trưởng Phòng TLC thuyên chuyển về Đà Nẵng để lấy vợ thì Bản Tin cũng theo ông... sang sông.

                      Thứ hai, tôi biết ông Dật Dờ tuy... dật dờ nhưng là người có tâm lành, cho dù luôn bị đem ra làm đề tài chế diễu trong đơn vị, ông không bao giờ để bụng.

                      Vì thế tôi nhận lời giúp ông và rủ được một tay Thiếu úy bạn cũng biết viết lách lai rai tham gia. Tôi còn nghĩ đùa: hay là mình mời nhà nhạc sĩ (Thiếu úy KQ) Hoàng Khai Nhan, cũng đang ở Pleiku, sáng tác bản “An Ninh Dưới Đất hành khúc” chắc chắn ông Dật Dờ sẽ nổi như cồn!


                      Cuối cùng, cũng phải thú nhận ít nhiều “ý đồ” của tôi khi nhận lời thực hiện đặc san An Ninh Dưới Đất cho ông Dật Dờ: có cơ hội, phương tiện chọc ghẹo thiên hạ. Chẳng hạn việc ông Thiếu tá Trưởng Phòng Huấn Luyện (người có bộ râu mép khá đẹp) để bà xã nấu ăn bằng dầu JP-4, bếp nổ tung cũng may không gây hỏa hoạn, đã được tôi đưa vào cuối bài thơ cổ động Say No to JP-4:

                      Anh Tư huấn luyện không hay
                      Cũng xài dầu đó có ngày cháy râu
                      An ninh dưới đất để đâu!

                      Ông Dật Dờ với ông Thiếu tá Trưởng Phòng Huấn Luyện là chỗ thân thiết vậy mà khi đọc câu thơ này ông không hề nói tôi xóa bỏ mà còn phá lên cười khoái trá, đủ biết ông là người vô tư tới mức nào!

                      Vì ở Pleiku không có phương tiện ấn loát, ông Dật Dờ phải đem đặc san về Nha Trang in ké ở Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân vốn là chỗ quen biết; tôi đảm trách công việc của một “phụ tá chủ nhiệm kiêm chủ bút kiêm họa sĩ” dĩ nhiên phải đi theo ông.

                      Vào một buổi sáng nọ, tôi và ông Dật Dờ xuống Phi Đoàn 118 quá giang U-17 về Nha Trang.

                      Sau một buổi làm việc tại nhà in của TTHLKQ, chúng tôi giao mọi thứ cho nhân viên ấn loát rồi về nhà ông Dật Dờ trong cư xá sĩ quan ăn cơm tối, ngủ đêm; sáng hôm sau tôi trở về Pleiku, ông ở lại đợi báo in xong.

                      Có tới nhà ông Dật Dờ mới thấy nơi ông có tới hai con người khác nhau. Ở Pleiku ông hay đùa giỡn cợt nhả nhiều khi tới mức quá lố nhưng khi về nhà, ông thay đổi một góc 180 độ: nghiêm trang, chững chạc, đối đáp với vợ, dạy dỗ các con đâu ra đó. Vợ ông người Bắc, tôi đoán là dân Hà Nội, một điển hình của công dung ngôn hạnh khiến tôi cũng cảm thấy hãnh diện lây.


                      * * *

                      Tờ đặc san An Ninh Dưới Dất của ông Dật Dờ đã gây “chấn động” trong nội bộ Không Đoàn Yểm Cứ Pleiku. Không cần biết nội dung ra sao chỉ biết đây là tờ đặc san đầu tiên được ra mắt tại căn cứ không quân Pleiku là đủ để gây tiếng vang rồi.

                      Từ đó (theo sự suy đoán của tôi) một câu hỏi xuất hiện trong đầu Trung tá Võ Quế, Không đoàn trưởng Không Đoàn Yểm Cứ Pleiku: một cái Phòng cỏn con với hai ba thầy trò mà còn thực hiện được một tờ đặc san, cả Không Đoàn chẳng lẽ không làm được!

                      Thế rồi ông Không đoàn trưởng bàn với ông Trưởng Khối CTCT về việc thực hiện một đặc san nhân dịp kỷ niệm đệ nhất chu niên ngày thành lập Không Đoàn. Thiếu tá X về bàn với tôi...

                      Lần đầu tiên kể từ ngày ra Pleiku ông X tỏ ra hòa nhã với tôi, như thể có con chim hòa bình ngậm cành ô-liu đang đậu trên nóc tòa nhà Không đoàn bộ!

                      Tôi tự nhủ thầm: thôi thì cũng là một cơ hội để bắt đầu một cuộc sống chung hòa bình, bởi ngoài việc đã an phận với chức vụ Sĩ Quan Báo Chí tôi cũng muốn được ông X dễ dãi trong việc đi phép vì vợ tôi đã về Sài Gòn từ mấy tháng trước để chuẩn bị sanh con đầu lòng.

                      Tôi cho ông X biết với tôi nội dung không thành vấn đề, in ấn mới quan trọng, nếu nhà in của TTHLKQ chịu in cho mình thì tôi sẽ tiến hành. Thế là sau khi ông Dật Dờ nhận lãnh trách nhiệm liên lạc in ấn, tôi bắt tay vào việc.

                      Thực ra khi ông X hỏi tôi về việc thực hiện đặc san, tôi đã nghĩ ngay tới nhà in của Tiểu Đoàn 20 CTCT của cậu tôi, nơi in tờ Đại Nghĩa của Quân Đoàn II mỗi tam cá nguyệt, một cuốn đặc san khổ nhỏ mà về hình thức không thua gì nguyệt san Tiền Phong của Cục Tâm Lý Chiến, Tổng Cục CTCT, thì việc in một cuốn đặc san khổ A4 dày gấp đôi tờ “An Ninh Dưới Dất” của ông Dật Dờ dễ như trở bàn tay, đó là chưa kể bìa màu!

                      Tuy nhiên, tôi muốn hỏi lại cậu tôi cho chắc ăn và chỉ cho ông X biết vào giờ phút chót.

                      Kết quả, đặc san kỷ niệm đệ nhất chu niên ngày thành lập Không Đoàn Yểm Cứ Pleiku ra mắt đúng ngày dự trù, bìa in bốn màu rực rỡ. Xét về nội dung, một đặc san của yểm cứ đương nhiên chẳng gì có gì ly kỳ hấp dẫn nhưng chỉ nội việc phần sở nào cũng được nhắc tới, tên tuổi các sếp được trân trọng đề cao cũng đủ khiến mọi người vui vẻ.

                      Riêng tôi cũng không quên đá nhẹ người này khều móc người kia trong phóng sự “người tốt việc tốt”, khiến tay bạn thân Trần Ngọc Tự ở Văn Phòng TMP/CTCT BTL/KQ đã phải viết thư ra khuyên tôi “nên giữ mình”!

                      Nhưng nếu có sếp nào không vui thì cũng để bụng chứ không ai tỏ thái độ với tôi cả. Riêng Thiếu tá X còn hỏi tôi ông cậu đã có Không Vụ Bội Tinh chưa, nếu chưa Không Đoàn sẽ “chạy” cho một cái thay lời cám ơn; nhưng cậu tôi cho biết ông đã có từ ngày còn ở dưới Cần Thơ, do Không Đoàn 74 Chiến Thuật tặng.


                      * * *

                      Khoảng hai tuần sau, đoán chừng vợ tôi sắp bể bầu, tôi xin đi phép đặc biệt về Sài Gòn. Ông X chẳng những chấp thuận ngay mà còn tử tế nói nếu cần tôi cứ việc ở thêm vài ngày, ông sẽ “điều chỉnh” bằng sự vụ lệnh đi công tác!

                      Đầu tháng 8/1971, vợ tôi sanh quý tử. Hơn một tháng sau, tôi được ông X ký sự vụ lệnh “công tác báo chí” về Sài Gòn đón vợ con ra Pleiku.

                      Tới đây bắt đầu những tháng ngày hạnh phúc nhất của tôi ở phố núi cao.

                      Thằng con trai đầu lòng đẻ ra cân nặng hơn 3 ký, dù chỉ có sữa đặc “quân tiếp vụ” cũng lớn như thổi, mặt mũi phương phi, tốt giống, ông Lê Bá Định xem tướng nói lẽ ra nó có “chơn mạng đế vương” nếu như không bị cái miệng hơi nhỏ...

                      Cô vợ thì, chao ôi, gái một con trông mòn con mắt!

                      Tổ ấm thì được ở ngôi nhà trước kia là “tư dinh” của ông Tư lệnh Không Đoàn 62 Chiến Thuật mà nay đang làm Tư Lệnh Không Quân!

                      Cũng xin được kể đầu đuôi để những ai chưa từng ở khu gia binh Pleiku không cho là tôi phét lác!

                      Ngày ấy (năm 1964) khi người Mỹ chưa xây tặng khu cư xá sĩ quan độc thân đẹp đẽ đầy đủ tiện nghi mà tôi đã mô tả ở phần đầu, cư xá sĩ quan độc thân của Không Đoàn 62 Chiến Thuật chỉ là một dãy nhà mái tôn tường gạch, chia ra từng căn, mỗi căn có một phòng khách nho nhỏ và một phòng ngủ lớn kê được bốn cái giường single; nằm giữa dãy nhà là khu nhà tắm có nước nóng và nhà vệ sinh cho mọi người sử dụng chung.

                      Đi qua cư xá sĩ quan độc thân thì tới khu gia binh nằm hai bên con đường đi bộ lên Đài Kiểm Báo 921. Phía bên trái dành cho gia đình HSQ binh sĩ gồm những dãy nhà mái tôn vách ván chia ra từng căn; phía bên mặt thế đất càng lúc càng cao dành cho gia đình sĩ quan gồm những ngôi nhà tiền chế khung sắt mái tôn vách tôn, mỗi ngôi nhà được chia đôi cho hai gia đình, sử dụng chung bậc thềm. Mỗi bên gồm hai gian, một gian là phòng khách + phòng ăn, một gian là phòng ngủ khá rộng, trần nhà và các bức vách trong nhà được đóng các-tông; có bếp, nhà tắm + nhà vệ sinh riêng, có điện nước bắt tới tận nơi.

                      Tôi nhớ có khoảng ba, bốn dãy nhà như vậy, mỗi dãy có hai ngôi nhà, và sau cùng là một ngôi nhà y hệt nhưng nằm ở vị trí cao nhất nhìn xuống căn cứ. Đó là tư thất của ông Tư lệnh và Tư lệnh phó Không Đoàn 62 Chiến Thuật: Trung tá Trần Văn Minh và Thiếu tá Nguyễn Hữu Tần.



                      Toàn cảnh căn cứ không quân Pleiku vào năm 1965. Ngôi nhà có mũi tên đỏ là tư thất
                      của ông Tư lệnh Không Đoàn 62 Chiến Thuật, về sau bị tôi chiếm ngụ


                      Thế nhưng cùng với những cái nhất kể trên, những ngôi nhà trong khu gia binh sĩ quan có hai khuyết điểm: không có nước nóng, và vì khung sắt mái tôn vách tôn cho nên đêm lạnh thấu xương, đắp mền Đại Hàn cũng chẳng nhằm nhò gì!

                      Vì thế, sau khi Không Đoàn 62 Chiến Thuật di chuyển về Nha Trang đầu năm 1965, Căn Cứ 92 Không Quân điền vào chỗ trống, quân số chẳng có là bao, cho nên các sếp lớn nếu có mang gia đình ra Pleiku thì cũng ở cư xá sĩ quan độc thân (mái tôn tường gạch, nhà tắm có nước nóng...), mỗi người chiếm một căn, phòng khách được biến thành phòng ăn và nhà bếp, phòng ngủ thì dư chỗ cho một cái giường double và mấy cái single!

                      Thành thử vào thời gian tôi ra Pleiku vào cuối năm 1969, cùng với các sếp độc thân (hoặc độc thân tại chỗ) như Trung tá Đỗ Trang Phúc, Trung Tá Trung “FM đầu bạc”, Thiếu tá Quách Thu Vinh, Bác sĩ Phước..., có ba bốn sĩ quan cao cấp đem gia đình tới sống tại cư xá này, trong đó có Thiếu Lê Bá Định và Thiếu tá Thành (Trung Tâm Hành Quân Không Trợ 2, tôi không nhớ họ).

                      Chỉ có một số sĩ quan cấp úy có gia đình sống ở khu nhà tiền chế rộng rãi nhưng lạnh lẽo, phần lớn là các ông chuẩn úy, thiếu úy già đông con.

                      Thời gian tôi đem vợ con ra Pleiku, khoảng tháng 9, tháng 10/1971, tình trạng cư xá hơi... loạn.

                      Thực ra việc “...hạ tắc loạn” này cũng có nguyên nhân của nó. Từ ngày Trung tá Võ Quế ra Pleiku nắm Không Đoàn Yểm Cứ, lệnh “ngăn sông cấm chợ” của ông Đỗ Trang Phúc bị dẹp bỏ thì hàng quán mọc lên khắp nơi không nói làm gì mà còn có những sự chiếm dụng phòng ốc, nhà cửa một cách ngang nhiên, trắng trợn.

                      Chẳng hạn phòng giải trí của cư xá vãng lai do Mỹ xây vốn là nơi đặt bàn bi-da và lớp dạy khiêu vũ miễn phí của ông Lê Bá Định, cho dù hiện nay ông Định quá bận rộn không thể tiếp tục thì cũng vẫn là nơi đám sĩ quan trẻ tụ tập dợt nhảy với nhau. Vậy mà nỡ lòng nào người ta ngăn đôi, một bên đặt bàn bi-da một bên (có quầy rượu) giao cho vợ chồng Thượng sĩ H mở quán bún bò!

                      Hơn một tháng sau khi nộp đơn cho Ban Cư Xá mà không thấy trả lời, tôi làm một vòng quan sát khu cư xá sĩ quan tiền chế thì thấy ngôi nhà xưa kia là tư thất của ông Tư lệnh và Tư lệnh phó Không Đoàn 62 Chiến Thuật hiện nay đang bỏ trống.

                      Tôi hỏi một chú lính quen thân trong Ban Cư Xá thì chú cho biết ngôi nhà nói trên bỏ trống đã lâu, sĩ quan cấp tá thì không ai xin nhưng cũng không dám cấp cho sĩ quan cấp úy sợ lỡ mai này có quan lớn nào muốn đem gia đình sống trên đồi cao!

                      Cách đó khoảng nửa năm, Đại úy H, Chỉ huy trưởng Đài kiểm báo 921, đưa vợ ra Pleiku chơi mấy tháng, đã dàn xếp với Ban Cư Xá để ông sử dụng một nửa ngôi nhà với lý do nó ở gần Đài Kiểm Báo của ông nhất.

                      Sau khi Đại úy H thuyên chuyển đi nơi khác, ngôi nhà tiếp tục bỏ trống. Vì ngôi nhà không có khóa, tôi mở cửa vào xem thì thấy nửa bên phía gần đường đã được Đại úy H cho sơn sửa gọn gàng sạch sẽ, liền quyết định “cắm dùi”, chờ ngày đón vợ con ra Pleiku.

                      Khoảng hai tuần lễ sau khi gia đình tôi chiếm ngụ tư thất của ông Tư lệnh Không Đoàn 62 Chiến Thuật trước kia, vợ chồng Trung sĩ X tưng bừng khai trương quán hủ tiếu tại ngôi nhà đối diện. Dĩ nhiên phải có sự đồng ý của quan trên!

                      Cho nên trong buổi họp sĩ quan, khi thảo luận về việc cấp cư xá cho các sĩ quan đem gia đình ra Pleiku, ông Thiếu tá Liên đoàn trưởng Liên Đoàn Trợ Lực cũng chỉ “đá nhẹ” tôi về việc tự động chiếm ngụ và nói thêm:

                      - Anh có biết anh đang ở tư dinh của ông Minh “cồ” ngày xưa hay không?!

                      [Trong các buổi họp cấp đơn vị, tôi để ý thấy các sếp lớn khi nhắc tới vị Tư lệnh một cách informal thường gọi là ông Minh "cồ”, chỉ khi nào ra khỏi phòng họp hoặc giữa một nhóm nhỏ với nhau, ngươi ta mới dám gọi ông Minh “đù”]

                      Ít lâu sau Trung úy Hiền thuộc Khối Không Quân Y Hàng Không đợi nhà lâu quá, cũng bắt chước tôi đem vợ con tới chiếm ngụ nửa còn lại của ngôi nhà, tức “tư dinh” của ông Tư lệnh phó Không Đoàn 62 trước kia.

                      Thời gian này, các dãy nhà mái tôn tường gạch (gạch bê-tông) mới tinh được xây dưới chân đồi cũng bắt đầu được cấp phát cho các sĩ quan đem gia đình ra Pleiku, cho nên việc tôi ngang nhiên chiếm ngụ ngôi nhà vốn là tư thất của ông Tư lệnh Không Đoàn 62 ngày nào cũng chìm vào quên lãng!



                      Gia đình người viết; Pleiku cuối năm 1971

                      Cuộc sống chung hòa bình giữa tôi và Thiếu tá X tiếp diễn một cách tốt đẹp. Mồng một Tết ta năm đó (đầu năm 1972), ông X còn ưu ái ghé nhà tôi chơi, ăn bánh mứt, uống trà, trò chuyện khá lâu; khi tôi kể cho ông Lê Bá Định nghe, ông cười và nói đùa thế giới sắp hòa bình!

                      (Còn tiếp)


                      CHÚ THÍCH:

                      (1) Trung tá Nguyễn Văn Trang thuộc hàng đại niên trưởng, xuất thân Khóa 53E Marrakech. Theo hồi ký “Một chuyến đi Tây nửa kiếp người – Ngày đầu cắp sách học bay” của cố NT Nguyễn Hồng Tuyền, khóa này gồm 12 sĩ quan, 2 thầy đội và 36 khóa sinh dân chính.

                      Trong số sĩ quan, có Trung úy Nguyễn Đức Hớn (Khóa 3 VBQG), làm trưởng khóa, các Thiếu úy Chu Trọng Để, Dư Quốc Lương, Lâm Văn Phiếu, Trần Minh Thiện, v.v...

                      Trong số dân chính có các ông Nguyễn Huy Ánh, Ông Lợi hồng, Ôn Văn Tài, Nguyễn Hồng Tuyền, Nguyễn Văn Bá, Đặng Văn Phước, Bùi Quang Kỉnh, Đặng Trần Dưỡng, Hồ Bảo Định, Nguyễn Văn Trang...

                      Vì nhu cầu hoa tiêu để tiếp nhận những chiếc trực thăng H-19 do người Pháp bàn giao, một số hoa tiêu sau khi tốt nghiệp T-6 (fixed-wing) tại Marrakech đã được đưa sang Paris để học lái trực thăng H-13, trong đó có các ông Nguyễn Đức Hớn, Trần Minh Thiện, Đặng Văn Phước, Bùi Quang Kỉnh, Đặng Trần Dưỡng, Hồ Bảo Định, Nguyễn Văn Trang...

                      Trong số nói trên, ông Trần Minh Thiện trở thành vị chỉ huy trưởng tiên khởi của Phi Đoàn 215 (thành lập tại Đà Nẵng năm 1964, di chuyển về Nha Trang năm 1965). Đời chỉ huy trưởng thứ hai chính là ông Nguyễn Văn Trang.

                      Tới khi Thiếu tá Nguyễn Văn Bá ra Pleiku thành lập Không Đoàn 72 Chiến Thuật (tháng 10/1970), ông rủ người bạn đồng khóa năm xưa (53E) lên xứ Thượng giúp mình một tay, giữ chức vụ Liên đoàn trưởng Liên Đoàn 72 Tác Chiến, Thiếu tá Nguyễn Văn Trang nhận lời ngay. (Cuối năm 1970, hai ông vinh thăng Trung tá)

                      Như vậy, rõ ràng là ông Trang tình nguyện lên Pleiku chứ không phải bị đày. Tại đây, ông đã cấp tốc tiến hành việc thành lập Phi Đoàn trực thăng 229 để cùng với hai Phi Đoàn khu trục 530, quan sát 118 bao vùng Cao Nguyên.

                      Vì phần lớn hoa tiêu của 229 vừa tốt nghiệp tại Hoa Kỳ và được đưa thẳng ra Pleiku, họ phải sang phi trường Holloway (Camp Holloway) của Lục Quân Hoa Kỳ ở gần đó để được Tiểu Đoàn 52 Không Kỵ (52nd Aviation Battalion) huấn luyện hành quân. Trung tá Trang đã theo dõi sát nút và ra sức “push” chương trình này, kết quả Phi Đoàn 229 Lạc Long đã được thành lập theo đúng dự trù vào đầu tháng 12/1970.



                      Trung tá Nguyễn Văn Trang đang chúc mừng một hoa tiêu vừa được xác định hành quân tại Camp Holloway.
                      Đứng cuối cùng phía bên mặt là Thiếu tá Lê Văn Bút, Phi đoàn trưởng 229


                      Nhưng chỉ vài tháng sau, bỗng nhiên ông Trang bị một chứng “bệnh lạ”, các bác sĩ tài giỏi nhất bên Quân y viện, hầu hết là bạn thân của ông Lê Bá Định, cũng không tìm ra bệnh; sau đó phải đưa về Quân y viện Nguyễn Huệ ở Nha Trang.

                      Mấy tuần sau, ông Định bật mí cho tôi biết ông Trang bị người Thượng “thư” và ông Bá đã phải cho một chiếc trực thăng chở một ông thầy người Thượng về Nha Trang để “giải thư” cho ông Trang, bất chấp sự phản đối của gia đình vốn là người Công giáo.

                      Thực hư ra sao, chính ông Định cũng không thể quả quyết, chỉ biết một điều chắc chắn là sau đó ông Trang... hết bệnh nhưng không bao giờ trở lại xứ Thượng.
                      Last edited by Nguyen Huu Thien; Hôm qua, 12:04 AM.

                      Comment



                      Hội Quán Phi Dũng ©
                      Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




                      website hit counter

                      Working...
                      X