Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Nhà Thơ Cung Trầm Tưởng

Collapse
X

Nhà Thơ Cung Trầm Tưởng

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Nhà Thơ Cung Trầm Tưởng

    Cung Trầm Tưởng
    Một Hành Trình Thơ (1948-2008)

    Bắc Đẩu Võ Ý

    ---oo0oo---

    I - HỒN TÔI CÁI ĐĨA THÂU THANH*

    Vào ngày thứ bảy 21/07/2012 tới đây, tập thơ Cung Trầm Tưởng, Một Hành Trình Thơ 60 Năm, 1948-2008, sẽ ra mắt đồng hương, chiến hữu và cựu tù chính trị tại miền Trung Cali. Tập thơ bề thế, dày 644 trang kể cả 12 phụ bản tranh màu của các họa sĩ nổi tiếng như Thái Tuấn, Ngọc Dũng, Duy Thanh, Vị Ý, Nguyễn Trung, Chóe và Ngô Vương Toại. Thơ in trên giấy màu vàng nhạt, bìa cứng màu lục sậm, đẹp và trang nhã, do Tiếng Quê Hương xuất bản năm 2012 tại Hoa Kỳ, ấn phí 30 mỹ kim.

    Một Hành Trình Thơ (MHTT) do bảy Thi Tập hợp lại, được phân chia như sau:

    - 01 - Sóng Đầu Dòng – Tình Ca và Quá Độ.
    “là một bộ ba ghi những dấu chân lên đường còn giữ được của một hành trình thơ mà mục đích tiên khởi là chỉ để tiêu dao, cám cảnh và tỏ tình bông lông”. (CTT, MHTT, trang 25)

    - 02 - Lời Viết Hai Tay.
    “Khi hai tay bị còng khóa số 8, khi hai chân bị cùm gông thiết diệp, khi thân xác bị trói gù lưng tôm, cái tâm người thơ cũng trực tiếp bị xúc phạm, nhức nhối và khốn khổ. Tâm chập vào thể, ra một nhất nguyên. Người thơ tù biệt giam – tù của tù – lấy cái đầu viết hộ cho hai tay bị còng, làm thơ như chơi cờ tưởng”. (CTT, MHTT, trang 130)

    - 03 - Bài Ca Níu Quan Tài.
    “Nhan đề Bài Ca Níu Quan Tài được chuyển sát nghĩa từ từ Hán Việt “vãn ca”, tức hát níu quan tài. Vãn còn có nghĩa là một điệu hát buồn dùng để khóc than. Sự kết hợp nhuần nhuyễn của ba động tác khóc, hát và níu đã cung cấp cho người khóc Việt Nam một khả năng lột tả tối ưu nỗi đau ê chề, bề bộn của cảnh sinh ly tử biệt...Vì được viết bằng cái tâm nên sử thi nầy không thể không là một bản cáo trạng về tội ác của cộng sản”. (CTT, MHTT, trang 293)

    - 04 - Những Dấu Chân Ngang Trên Một Triền Phiếm Định.
    Người tù vác một vật nặng trên vai (bó nứa, khúc gỗ...) đi xuống “dốc mỡ”. Muốn được an toàn, bàn chân anh ta phải bám ngang dốc để lần từng bước xuống thì mới an toàn. Nếu đi thẳng thì rất dễ chúi mũi trượt té. Một cách nghĩ khác, đi ngang vừa thấy phía trước là tương lai, vừa nhìn được phía sau là quá khứ. Tương lai thì đen tối và đầy mai phục và quá khứ như là điểm tực cho sự sống. Còn Phiếm Định là bất trắc, là bất ổn. Có thể tác giả muốn biệu hiện một sự ham muốn sống, cố giữ một thế đứng thẳng và vững cho dù có bị lâm vào những hoàn cảnh đầy thử thách, bấp bênh, hiểm nghèo, bi đát.

    - 05 - Thi Bá – Con Tắc Kè và Bà Góa Phụ.
    Tiếng kêu của Con Tắc Kè trong đêm vắng, biểu thị cho nỗi cô đơn. Bà Góa Phụ là nạn nhân của chế độ. Khi tuyệt vọng và cô đơn, Bà Góa Phụ mới phát hiện tiếng kêu của Con Tắc Kè, bà hàn huyên tâm sự với nó. Con Tắc Kè như thông cảm nỗi đau khổ của bà. Con Tắc Kè chính là hóa thân của Thi Bá. Tóm lại, người thi sĩ sinh ra là để ca ngợi và tô điểm cuộc sống, người thi sĩ cũng luôn tìm cách làm vơi đi nỗi khổ của thế nhân. CTT thể hiện Tâm Sử Thi nầy như một vở kịch thơ mà “lời thoại” được đẽo gọt qua từng “con chữ” thể hiện tính riêng biệt trong “cõi thơ” của mình..

    - 06 - Mỗi Dặm Đường Một Nghìn Vần Thơ.
    Tác giả vẽ lại vạn vật cỏ cây hoa lá dưới trí tưởng tượng phong phú của một nhà thơ. Đây là bài thơ xanh ca ngợi sinh thái mang chủ nghĩa “Duy Nhiên” (naturalism). Những vần thơ tỏa ra nhiều hình ảnh rất thơ và rất đẹp. Thi Tập thứ 6 nầy là một công trình sáng tạo đầy ắp kiến thức, rung cảm và nhân tính của nhà thơ CTT.

    - 07- Sáng Ký Về Người Tình Đầu.
    Sáng là sáng tạo, ký là câu chuyện. Câu chuyện sáng tạo về người Tình Đầu (first lover) cũng là Thi Sĩ. Thượng đế rất ưu ái người thi sĩ và phái xuống trần gian để vỗ về an ủi con người. Thi sĩ là người Tinh Đầu của nhân loại. Ý tác giả muốn vẽ lại sự xuất hiện của thi nhân bằng trí tưởng tượng của một thi sĩ mắc bịnh bìa (borderline) nửa tỉnh nửa điên. Có thể nói Thi Tập 7 nầy như là một thứ “Kinh Cựu Ước” nói về sự hình thành sự sống đầu tiên của con người trên trái đất qua hình ảnh của một thi nhân. Đây là sáng tạo độc đáo của nhà thơ CTT. Từ cổ chí kim, từ đông sang tây chưa hề có một thi tập như thế nầy.

    - Cung Trầm Tưởng là bút hiệu, tên trong khai sinh là Cung Thức Cần,
    - Ngày sinh: 28 tháng 2 năm 1932, tại Hà Nội.
    - Tốt nghiệp Kỹ sư Trường Võ Bị Không Quân Pháp,
    - Tốt nghiệp Cao Học Khí Tượng tại Saint Louis University, MO, Hoa Kỳ,
    - Quản Trị An Ninh Quốc Gia Và Tài Nguyên Quốc Phòng Hoa Kỳ (hậu đại học)
    - Cựu Trung Tá Không Quân, phục vụ tại BTLKQ, Sài Gòn
    - Đi tù cộng sản 10 năm (1975-1985), bị quản chế 3 năm (1985-1988).
    - Định cư tại Minnesota, Hoa Kỳ cùng gia đình kể từ 1993.


    Chúng tôi nhận được Tập Thơ do tác giả ký tặng như là một đồng đội và nhất là một bạn tù cùng chia sẻ những tủi nhục và cùng nung nấu một niềm tin với tác giả trong các trại tù Suối Máu, Hoàng Liên Sơn và Hà Tây.

    Các Thi Tập Lời Viết Hai Tay, Bài Ca Níu Quan Tài, Những Dấu Chân Ngang Trên Một Triền Phiếm Định và Thi Bá, Con Tắc Kè Và Bà Góa Phụ, là những Tâm Sử Thi ghi lại những hình ảnh sống động đầy ắp tính man rợ, cùng những tiếng khóc thảm khốc của Việt Nam sau tháng 4/1975. Hai Tập sau cùng Mỗi Dặm Đường Một Nghìn Vần ThơSáng Ký Về Người Tình Đầu mang tính sáng tạo triệt để về nội dung cũng như phong cách. Toàn tập là một công trình đồ sộ, công phu tỉ mỉ của thi nhân (mà cũng là nghệ nhân) miệt mài đẽo gọt từng con chữ, khắt khe từng gam màu, ve vuốt từng ngữ điệu, biến dòng thơ 60 năm thành một Cõi Thơ Cung Trầm Tưởng riêng biệt rạch ròi.

    Vì lẽ đó chúng tôi liều mạng viết đôi điều cảm nhận thô thiển để giới thiệu đến độc giả đồng hương hải ngoại, cũng là nhân chứng của một giai đoạn lịch sử, về tuyển tập thơ giá trị của nhà thơ Cung Trầm Tưởng.

    II - CÓ MỘT ĐỜI TA TRÔI BẤP BÊNH

    Sau 30/04/1975, tôi gặp nhà thơ Cung Trầm Tưởng (CTT) trong Trại giam Suối Máu Biên Hòa, mới biết nhà thơ là Trung Tá Trưởng Phòng Chương Trình và Kế Hoạch Bộ Tư Lệnh Không Quân, chứ trước đó thì chỉ biết ông là tác giả có tên trong Nhóm Sáng Tạo, đã xuất bản tập thơ đầu Tình Ca, do họa sĩ Ngy Cao Uyên vẽ bìa và Phạm Duy phổ nhạc bài Tiễn Em, Bên Ni Bên Nớ, Mùa Thu Paris...

    Cùng hoạn nạn là đã thương cảm nhau rồi, huống hồ lại cùng màu cờ sắc áo. Chỉ mấy câu thơ chào sân tại trại Suối Máu của CTT đã đi vào tiềm thức của tôi một cách êm ái từ 1976 cho đến bây giờ: “Nắng nhói như kim khêu thương tích/ Thuyền mây từng mảng vỡ lênh đênh/ Trên trăm ngàn mảnh trời kia vỡ/ Có một đời ta trôi bấp bênh...”.

    Tết 1976, tết đầu tiên bị tù trong đời, khi nghe chuông nhà thờ Tam Hiệp ngân nga lúc giao thừa, CTT ngấn lệ nghĩ đến thân phận cá chậu chim lồng và bài thơ Lệ Chuông ra đời và anh thân tặng chúng tôi, như thể cùng một cảnh phương trời hoạn nạn: “Nay muốn bay lên không có trời/ Trong lồng gẫy cánh nằm im hơi/ Chim vốn là tim, trời là máu/ Không máu tim nào chẳng héo rơi/” (Lệ Chuông, MHTT, trang 138)

    Mấy tháng sau tết 1976, chúng nó đóng hộp tất cả Sĩ quan tại Suối Máu chuyển ra các trại giam Hoàng Liên Sơn. Chúng tôi tìm cách liên lạc với nhau mỗi ngày lao khổ, đứa leo núi đẵn gỗ, người lên đồi vỡ đất trồng sắn, kẻ chặt giang nứa rừng hoang. Năm 1979, khi mấy tỉnh phía bắc bị giặc Tàu tàn phá, chúng đưa tù từ miền cao về miền trung du. Chúng tôi lại gặp nhau tại trại Hà Tây, CTT “biên chế” vào đội mộc, tôi vào đội rau xanh, cách nhau một cái ao nuôi cá. Hầu như mỗi ngày, lợi dụng xuống ao rửa sạch “phân xanh” khi tưới rau, tôi lẻn qua trại mộc để nhặt từng vỏ bào nung nấu của CTT, “bằng vai giạng đứng thế chân, bào cho lên nước đường vân của lòng”....

    Tôi như con nghiện, phải tìm cách lội qua ao tù mỗi ngày để được chích vào tĩnh mạch những đường vân ma túy có tên gọi Kỳ Cùng:

    “Có sông nhưng mà người không nước/ Nước bán xon rồi, bán lấy chi?- Một núi hư vô lầm chủ thuyết/ Bốn bên mây phủ kín màu chì” (Đất, trang 209, CTT, MTHT)

    “Nó cõng vua Lê và chúa Mác/ Về quê cha giết mẹ hiền lành/ Tang sô bạc xóa đầu con trẻ/ Cỏ ngút sân trường, chợ vắng tanh” (Người, trang 210, CTT, MHTT)

    “Có chồng mà tưởng như chồng mất/ Hương nhang đã cháy ở trong lòng/...Em đứng ôm con bồng mưa nắng/ Sắt son, dũng cảm đến Kỳ Cùng” (Và Em, trang 211, CTT, MHTT)

    Đường vân của lòng là một quy tụ những nung nấu trong lò cừ dưới thời của quỷ qua cái bảng hiệu mỹ miều Trại Cải Tạo treo đầu dê bán thịt chó. Đường vân của lòng chính là những áng mây hiện thực từ đáy sâu tâm tưởng đã bùng ra và tỏa bay khắp trời thênh thang sau mười năm hai tay bị còng qua thi phẩm thứ hai của CTT là tập thơ Lời Viết Hai Tay: “...Bài học rút ra thật dứt khoát/ Nó tôi chẳng thể đội chung trời/ Nó còn tôi mất, đơn sơ vậy/ Nó mất tôi còn, chỉ thế thôi!...Vẫn cất hồn lên tìm ánh sáng/ Xa vùng cát lún, bãi lầy sâu/ Đêm đêm thơ giống như cờ tưởng/ Bầy chữ tung tăng múa ở đầu...”

    Do điều kiện dinh dưỡng vệ sinh trong tù, nhiều bệnh truyền nhiễm hoành hành, mà thông thường là kiết lị và lao phổi. Tôi đã nhờ vào số thuốc tây của CTT (do Hội Văn Bút Thụy Điển (?) gởi về trại Hà Tây biếu anh) để trị bịnh kiết lỵ. Nhưng liều thần dược linh nghiệm hơn thuốc kiết lỵ, chính là những vần thơ hào hùng có đủ đa sinh tố cần thiết để vực dậy những bi quan yếm thế trong tù. Nếu ngày xưa Phùng Quán đã nói (đại ý): Khi ngã quỵ, hãy vịn câu thơ mà đứng dậy, thì ngày nay, trong trại tù cộng cản, CTT vẫn an nhiên nói : “Nếu giữa cơn đau tôi ngã xuống/ Vết thương bầm tím máu hình hài/ Lòng tôi vẫn đứng không lui nhượng/ Gối chẳng quỳ hàng, miệng chẳng khai” (MHHT, trang 251)...”Lòng ta đứng vững như Vầu/ .../ Nắng mưa thì cũng trọn đời đứng ngay” (MHHT, trang 173)...”Tóc vấn phong ba em đứng mũi/ Một thuyền lèo lái cõi càn khôn/ .../ Em vẫn đoan trang từng lóng trúc/ Vút roi quất ngã kẻ thù người/” ...(MHHT, trang 211).

    Người tù nào cũng nhận thấy Thơ Tù CTT mang hơi thở và ước vọng như của chính mình, nên họ rất mong được chia sẻ và bảo bọc nhà thơ. Nhân một ngày lao động khổ sai, mọi tù nhân cố vượt qua con suối với gánh “hom sắn” trên vai, trừ CTT đang lóng cóng bên bờ suối. KQ Nguyễn Minh Công bèn cõng bạn qua con suối xiết, và bài thơ Con Công ra đời trong tình tù: “Cám ơn chim công/ Cõng ta qua sông/ Mấy mùa nước lũ/ Lận đận mưa ròng/ (...)/ Mấy năm ở rừng/ Gặp toàn thú ác/ Lòng ta tan tác/ Những dòng lệ rưng/ (…) Công bay lên trời/ Vẫn nhìn nhớ đất/ Công chuyền cành quất/ Vẫn không quên trời” (MHTT, trang 192).

    Trung Tá Nguyễn Minh Công, Giám Đốc Trường Mưu Sinh Thoát Hiểm/ TTHLKQ Nha Trang, ra tù năm 1988 và mất vào năm 1989 tại Tân Định. CTT có mặt trong ngày đưa tang và chị Công đã xin nguyên bài thơ Con Công chép tay để trên bàn thờ của người bạn đời yêu dấu của mình.

    Vừa ra khỏi nhà tù nhỏ, CTT âm thầm viết Bài Ca Níu Quan Tài (BCNQT), một tâm sử thi thu âm lại tiếng khóc, chụp lại hình ảnh tận cùng bi thiết của xã hội Việt Nam sau 04/1975. BCNQT được viết tay vào một tập vở học trò, như một quả bom nghìn tấn được cất giấu tại từng 3 một chung cư ở ngay trung tâm Sài Gòn: “...Kinh bang sao chép Nga Tàu/ Bình quân là chặt cái đầu cao hơn.../ Một bầy táng tận lương tâm/ Ăn hồ, ăn giẻ, ăn vần ngày công/ Ăn tranh trẻ đói lọt lòng/ Ăn lường tiếng khóc khép vòng tử sinh.../ Ngón đòn lý lịch ly kỳ/ Cha là “ngụy”, phạm trường quy con rồi.../ Mẹ xưa khóc níu quan tài/ Nàng giờ ai vãn lại lời mẹ xưa...”

    BCNQT được chào đời tại Mỹ quốc trong sự đùm bọc của đồng đội anh em. Cá nhân tôi được đọc qua BCNQT tại Sài Gòn và tôi nghĩ ngay đến việc làm sao giúp tập thơ chào đời tại Mỹ quốc. Vào thời điểm ấy, đang có chương trình HO và ODP cho phép thân nhân và cựu tù chính trị đủ điều kiện định cư Mỹ quốc. Sẽ là chuyện điên rồ nếu nhờ những đồng đội sắp xuất cảnh mang theo BCNQT. Chúng tôi nghĩ cách an toàn hơn là nhờ các “bộ nhớ” xuất sắc mà chúng tôi đã gặp trong tù sắp ra đi theo diện HO, chịu khó học thuộc lòng tập thơ. Cuối cùng, Thiếu Tá Lâm Tùng Nguyên, Trưởng Phòng Quân Báo Sư Đoàn 4 KQ, nhận lời học thuộc lòng khúc “Ai Vãn” tròm trèm 1000 câu thơ trong vòng một tháng trước khi gia đình anh đi Mỹ theo diện ODP vào năm 1989. Bài Ca Níu Quan Tài được ghi chép lại và xuất bản tại Mỹ năm 2001. Thơ tù của CTT đã được đồng đội cưu mang trong tình nghĩa như vậy đó.

    Sau BCNQT, chúng tôi không được dịp thưởng thức những vần thơ sáng tác tại Minnesota. Khoảng 2008, tôi từ Saint Louis, Missouri chuyển về miền trung Cali, được biết CTT muốn ra một tuyển tập thơ 60 năm. Tôi giới thiệu CTT với nhà thơ Tâm Vô Lệ, Giám Đốc Thư Viện Toàn Cầu, và hai bên đã đồng thuận tiến hành những bước cần thiết cho việc in ấn. Mãi đến tháng 5 năm 2012, tôi nhận tập thơ ký tặng của tác giả, vừa bất ngờ vừa mừng vui.

    Những cảm nhận dù thô thiển, cũng là cách đáp lại cái tình cố tri (chữ của CTT) mà tác giả đã dành cho tôi...


    III - CHẬP CHỜN CÁNH BƯỚM HIỆN DẦN RA

    Trong tiểu mục nầy, chúng tôi muốn mượn hình ảnh chập chờn cánh bướm để diễn đạt những ghi nhận về “Tính Thơ CTT”.

    A - TÍNH LIÊN TỤC - Tập thơ là một hành trình liên tục và xuyên suốt 60 năm, ghi nhận những thăng trầm của đời người, dân tộc và lịch sử. Tính thủy chung đã tạo thành một dòng thơ cá biệt, có thể gọi là Cõi Thơ CTT: “Riêng bản thân người viết dựa vào kinh nghiệm sáu mươi năm làm thơ của mình, nhận thấy có một liên hệ nhân quả giữa những chữ thơ gieo đầu đời và mùa gặt thơ mai sau” (CTT, MHHT, trang 30).

    Còn Giang Hữu Tuyên thì ghi nhận như sau: “Mỗi nhà thơ có một cơ duyên và “lộ trình” riêng để đến với độc giả, đến với người thưởng ngoạn thơ mình.
    Cung Trầm Tưởng trước: diễm lệ, khuê các.
    Cung Trầm Tưởng sau: hoành tráng, phẫn nộ.
    Nhưng thủy chung như nhất, nằm tận sóng đáy tâm hồn tác giả là dòng “dưỡng trấp” trữ tình”
    . (Giữa Trước Và Sau, Giang Hữu Tuyên, MHHT, trang 504)

    B - TÍNH SÁNG TẠO - Tính sáng tạo hiển hiện trong mỗi bài thơ, nó cũng hiển hiện trong mỗi con chữ trong mỗi câu thơ ông viết ra. Ba Thi Tập 5, 6 và 7 chính là ba Thi Tập mang tính sáng tạo toàn diện. Trong lãnh vực thơ, nếu hiểu sáng tạo là sáng kiến để tạo một ngôn ngữ mới, thì Lục Bát CTT mà nhà thơ Viên Linh gọi là “Lục Kinh Bát Quái”, là một thí dụ điển hình: “Tôi về bước bước đăm chiêu/ Tâm tư khoác kín sợ chiều lạnh thêm/” (…). (Khoác Kín, MHTT, trang 73). Xin mời đọc lại Tiểu Mục I, nhận xét về tính sáng tạo trong Thi Tập 6 và Thi Tập 7:

    Tính sáng tạo trong Thi Tập 6: “Chào lim lưng trời tựa/ Lẫy lừng rừng bạch dương/ Phi lao lớn phi thường/ Chào hào hùng trắc bá/ .../Chào ném lao phi yến/ Thế vận hội vàng anh/ Chào khướu, khách đua tranh/ Vành khuyên dòn kỷ lục/.../ Mưa nuôi đời phồn thực/ Làm thành thế giới xanh/ Người ngoan, đất cũng lành/ Vì Trời hằng muốn thế/ Trời Đất chỉ biết cho/ Nên Đất Trời bất tử”

    Tính sáng tạo trong Thi Tập 5: ”Nó khóc hay hơn là hát hỏng/ Đời phèn họng nó cũng đùn chua/ Rốn vừa xót xáy lìa lòng mẹ/ Hồn đã tanh tao bị bỏ bùa/ “Xung phong uống máu thù phanh xác!”/ Lời hát đeo như một bớt chàm/ Nó tắm trong nồi da xáo thịt/ Sinh làm nô Bắc, tử binh Nam”...

    C - TÍNH SỬ THI – Ba Thi Tập Lời Viết Hai Tay, Bài Ca Níu Quan Tài và Thi Bá Con Tắc Kè Và Bà Góa Phụ là ba thi phẩm ghi lại cảnh sống của dân tộc trong một giai đoạn lịch sử sau 04/1975 cho tận ngày nay: “Người thơ xưa nói lên tâm thức bộ lạc. Người thơ tù “cải tạo” bây giờ, một nạn nhân kiêm chứng nhân, nói lên tâm thức cộng đồng của những người tù cải tạo” (Ainsi Parlait Le Poète, CTT, MHTT, trang 130): “Ngón đòn lý lịch ly kỳ/ Cha là “ngụy”, phạm trường quy con rồi/ ...Nỗi đau da thịt không liền/ Phân ly, kỳ thị hai miền nát tan/ .../ Mẹ xưa khóc níu quan tài/ Nàng giờ lệ đổ nối dài trường giang/ “ (Bài Ca Níu Quan Tài, MHTT trang 347)

    D - TÍNH TRỮ TÌNH – Tính trữ tình trước 75 nằm rải rác trong Tình Ca: “Mùa thu nơi đâu/ Người em mắt nâu/ Tóc vàng sợi nhỏ/ Mong em chín đỏ trái sầu/ (…) Tàu em đi tuyết phủ/ Toa em lạ lẫm đầy/ Làm sao em yên thấm/ Cho ấm mộng đêm nay/ Và xuôi ngon trên trống trải đường dài/” (MHTT, trang 70,71)

    Tính trữ tình vẫn hiển hiện sau 1975. Khi VietHome phỏng vấn về tính trữ tình trong thơ tù, CTT trả lời: “Có chứ, và khá nhiều đấy. Chất trữ tình nó ở trong máu mình rồi, có muốn cai nó cũng không được. (…) Xin dẫn một số câu thơ: ”Nhớ em trông ngóng hằng đêm/ Màn lay tưởng tóc, gối mềm tưởng da/ (...)/ Em về giữa lúc khuya sang/ Mênh mông đức hạnh, dịu dàng ưu tư/ Em đoan trang dáng hiền từ/ Tóc rừng thu liễu rũ bờ vai thương/ (…) “Tôi đi thu nghiệm thêm mầu phép/ Níu giữ mặt trời đứng ngọ lâu/ (...)/ Tôi làm chiếc ghế lót trăng đêm/ Mời cô ngồi xuống nồng hơi lụa/ Để đá như da cũng biết mềm/ (...)” (Những Dấu Chân LIZ, MHTT, trang 457).

    E - TÍNH PHẢN KHÁNG – Khi VietHome phong vấn về tinh phản kháng trong tù, nhà thơ CTT lại trả lời: “Cũng như thơ của nhiều người tù khác, thơ của tôi có những vần phản kháng và chống kháng mãnh liệt. Giáo Sư Nguyễn Ngọc Diễm gọi những vần thơ nầy của tôi là nộ thi. Tôi tự nghĩ rằng, nếu không làm những vần thơ phẫn uất như vậy, tôi sẽ là một kẻ đạo đức giả. (…) Xin trich dẫn một số câu thơ điển hình cho dòng nộ thi của tôi: “Cái đau vì nắng rần rần/ Vì thâm thù mới mười lần gớm hơn/ Mồ hôi tuột cán cuốc trơn/ Nắm cho chặt nỗi căm hờn này nhe!/…/ Một nhát quắm sâu dang đứt phựt/ Nghe vùi hun hút một phiền âu/ Hai nhát tông bay rên xiết nứa/ Nghe chôn u uất bốn buồn rầu/.../ Môt quắm. Hai tông. Ba phạt núi/ Bốn tông. Năm quắm. Sáu băng rừng/ Từng ấy rừng băng chân cứng đá/ Mai về đạp vỡ cửa lao lung/.../ Hãy chặt chặt sâu tông phắt phắt/ Hãy phang phang gắt quắm ào ào/ Mai về đạn nhảy ngay nòng súng/ Trực chỉ đầu thù nổ thật mau!” (MHTT, trang 558)

    F - TÍNH NHỤC THỂ – Có thể nói Cõi Thơ CTT thể hiện nhiều bất ngờ mà một trong những bất ngờ này là Tính Nhục Thể: “Chúng ta chỉ có đời nầy thôi để hưởng thụ/ Để ăn bùi, uống lịm, làm tình/ Và làm ra sản phụ/ Bú mớm lớn tương lai/ Cất lợp một vòm đài cho linh hồn trú ngụ”. (Nhả Tụng Cho Một Thân Xác, trang 459)

    Xin trích dẫn vài câu thơ mang gợi cảm nhục tính xuyên suốt dòng thơ 60 năm của CTT: “Đến anh thân thể lụa là/ Dài đuôi con mắt, ngắn tà váy kiêu/ Đến anh lưng thắt chiết yêu/ Sểnh tâm phá giới con diều ái ân” (Râu Xanh, trang 82). “Thì ra anh mới biết, Sau xoắn xuýt thân nhau/ Con sâu tình tội lỗi/ Vào đùn mối hồn sầu” (Mãn Cuộc, trang 100). “Mời em cạn cốc nầy luôn/ Buông con hoẵng chạy vào hồn nửa đêm/ Sương dầm tuyết dãi rơi êm/ Trở thân con hoẵng chao mềm thịt da/.../ Lông con hoẵng ấy vàng tơ/ Xin quỳ hai gối vái thờ thần linh” (Vật Tổ, trang 425). “Con chim mào đỏ về hong nắng/ Phút ấy đời trai chỉ một lần/.../Rúc tiếng còi sương, đêm khuya rách/ Một hồn con gái rớm tình yêu/ Gối chăn nồng bén hương thân thể/ Biển dưới Trường Sơn khóc mỹ miều” (Những Dấu Chân Liz, trang 450). “Bốn mắt thắp mặt trời đêm rạng rỡ/ Bước nhịp nhàng một luân vũ lung linh/ Với trăm thương nghìn mến nến ân tình/ Tỏa sáng láng môi thơm men hợp cẩn” (Môt Luân Vũ Lung Linh, trang 465).

    Tính nhục thể trong thơ CTT mang tính ẩn dụ, thôi thúc người đọc vận dụng đến trí tưởng từ những câu thơ trau chuốt, bóng bẩy để rồi khi đã vỡ ý ra rồi thì lại cảm thấy sung sướng, hả dạ và thích thú.

    IV - SỐNG SAO CHO XỨNG LŨY THỪA THƯƠNG ĐAU

    Thơ tù của CTT vừa là thuốc đa sinh tố vừa là cây gậy (để giúp người tù đứng thẳng), nên các bạn tù của ông hầu như ai cũng học thuộc lòng một vài câu cho đến một vài bài thích hợp để nuôi dưỡng cuộc sống tù. Mà cuộc sống trong tù của Quân Cán Chinh VNCH chính là Tình Nước và Tình Nhà. Tôi cũng vậy, những câu thơ hoặc bài thơ mang tính Trữ Tình và Phản Kháng (Nộ Thi) của CTT tôi đều học thuộc hay tìm cách lưu giữ. Bài thơ Những Dấu Chân Liz gồm 246 câu được tôi chép kín bằng chữ nhỏ vào hai trang của một tờ giấy học trò từ Trại Hà Tây và cất giấu cho đến ngày mang nó sang Saint Louis MO năm 1992. Các bài khác như Biểu Tượng, Kỳ Cùng, Vạn Vạn Lý...rất cần thiết cho ngũ tạng lục phủ của tôi, bất cứ lúc nào bất cứ ở đâu.

    Như hai câu kết trong bài Biểu Tượng, trang 173: “Vầu đanh như thép sáng ngời, Nắng mưa thì cũng trọn đời đứng ngay” là một nhắc nhở quý báu đối với người tù trong địa ngục của quỷ. Được biết, cây vầu cùng họ với cây nứa cây tre hay cây trúc, nhưng cao và to hơn cây tre rất nhiều. Cây vầu được nhà thơ chọn làm biểu tượng để nói lên khí phách của người tù chính trị, vì vầu như trúc đều là tiết trực tâm hư (lóng thẳng ruột rỗng) là biểu tượng của người quân tử.

    Quan niệm sống của thi sĩ ngày càng thiên về với thiên nhiên. Tư tưởng nầy kết thành Thi Tập 6 và bàng bạc trong Những Dấu Chân Ngang: “Lên lên ráp nối phi thuyền/ Ghép chung trí tuệ, nối liền cảm thông/ Hãy đi bốn biển tang bồng/ Kết cho bền mối tương đồng năm châu/ Nghe châu Mỹ, ngóng châu Âu/ Dưỡng nuôi nhân bản, đỡ đầu hành tinh/ Hãy đi đan nối tâm tình/ Dấn thân vào chuyến viễn chinh màu hồng/ Khẳng khiu một nhánh xương rồng/ Giữa sa mạc cát vẫn nồng nhựa say” (Chuyến Chót, trang 394).

    Vừa qua ngưỡng cửa bát tuần mà cụ ông CTT vẫn cứ bước chân ngang trên một triền phiếm định như thuở nào, nghĩa là vẫn yêu đời yêu người chưa nguôi với một luyến ái quan không tuổi (chữ của CTT): “Dưới nếp trán nhăn nheo/ Một luồng niềm đằm thắm/ Lưu niên hồn mẫn cảm/.../Sống bắc qua tha nhân/ Một chiếc cầu lân trợ/ Xích ghế lại kề gần/ Bằng nụ cười niềm nở/ .../ Mỗi lần nói thương nhau/ Là cách tân ngôn ngữ/.../ Anh trẻ ra trăm tuổi/ Khi em nói yêu anh/ Yêu em anh nói với/ Tiếng nói đáy lòng mình/ Một trinh nguyên ngôn ngữ/ Của bảy sắc cầu vồng”...(Cho Một Hồn Không Tuổi, CTT, thư riêng).

    Quan niệm sống như vậy, là ông đã thực sự thủy chung với từng con chữ và với cả cõi thơ của riêng ông. Trong bài Điểm Tâm Xuân Hoàng Liên Sơn sáng tác năm 1978 với 4 câu kết như sau:

    Mai sau thịt thắm da liền,
    Cái yêu khác trước, cái nhìn khác xưa,
    Cái tin vô cớ xin chừa,
    Sống sao cho xứng lũy thừa thương đau.


    Cung Trầm Tưởng, Một Hành Trình Thơ 1948-2008 ra đời, là để thể hiện cách sống sao cho xứng với lũy thừa thương đau mà cả dân tộc của ông đã và đang hứng chịu.


    Bắc Đẩu Võ Ý
    Corona, 06/2012

    (*) Tựa của 4 Tiểu Mục là thơ của CTT
    Last edited by khongquan2; 07-05-2012, 07:25 PM.

  • #2

    Comment


    • #3
      Kính thưa quý Niên Trưởng và Anh Chị,

      Xin giới thiệu một số hình ảnh trong buổi lể tổ chức chiều Chủ Nhật ngày 06-17-2012 ra mắt tập thơ "Cung Trầm Tưởng - Một Hành Trình Thơ (1948 - 2008)" của nhà thơ Cung Trầm Tưởng tại Minneapolis Central Library, Minneapolis, MN.


      Nhà thơ Cung Trầm Tưởng
      (Cựu Tr/Tá KQ Cung Thức Cần)





      Comment


      • #4
        Tiễn Em -thơ : Cung Trầm Tưởng - Nhạc : Phạm Duy
        -Trình bày Sĩ Phú



        Bài thơ TIỄN EM
        (tựa cũ Chưa bao giờ buồn thế)

        Lên xe tiễn em đi
        chưa bao giờ buồn thế
        trời mùa đông Paris
        suốt đời làm chia ly
        oOo
        Tiễn em về xứ mẹ
        anh nói bằng tiếng hôn
        không còn gì lâu hơn
        một trăm ngày xa cách
        oOo
        Ga Lyon đèn vàng
        tuyết rơi buồn mênh mang
        cầm tay em muốn khóc
        nói chi cũng muộn màng
        oOo
        Hôn nhau phút này rồi
        chia tay nhau tức khắc
        khóc đi em. khóc đi em
        hỡi người yêu xóm học
        để sương thấm bờ đêm
        đường anh đi tràn ngập
        lệ buồn em...
        oOo
        Ôi đêm nay
        chưa bao giờ buồn thế
        trời mùa đông Paris
        suốt đời làm chia ly
        oOo
        Tàu em đi tuyết phủ
        toa anh lạnh gió đầy
        làm sao anh không rét
        cho ấm mộng đêm nay
        và mơ ngon trên khắp nẻo đường rầy !
        oOo
        Trời em mơ có sao
        mình anh đêm ở lại
        trời mùa đông Paris
        không bao giờ có sao
        trời mùa đông Paris
        chưa bao giờ buồn thế !
        Last edited by Ha Vo; 07-05-2012, 05:37 AM.

        Comment


        • #5
          Bên Ni Bên Nớ -thơ Cung Trầm Tưởng -PD -Thái Hiền -NNS (HD)



          Đêm chớm ngày tàn, theo tiếng xe về, lăn về viễn phố
          Em hỡi sương rơi, ngoài song đêm hạ, ôi buồn phố xá
          Hoang liêu về chết tha ma, tiếng chân gõ guốc xa xa
          Người xa vắng người, người xa vắng người...
          Em có nghe rộn rã bước ai vất vả bóng ai chập chờn?

          Hồn ai cô đơn tìm về ấm cúng
          Em có nghe bi ai tình ai ấp úng
          Thương ai lạc loài, ăn mày xán lạn ngày mai
          Đêm ni ai say đất lở, em ơi có nghe rạn vỡ
          Vạn mảnh ly tan theo chuỗi cười.
          Bên tê thành phố tráng lệ
          Giai nhân nằm khoe lõa thể
          Bên ni phố vắng ôi lòng ngoại ô.

          Em có nghe hồ như bước ai gõ nhịp bước ai giang hồ?
          Hẹn ai bên ni dài in ngõ cũ
          Em có nghe bên ni lạnh như bên nớ?
          Phút giây chia lìa, trong lòng vẫn phải đèo mong
          Hai tâm linh giam kín lại
          Bấm đốt ngón tay chờ đợi
          Chờ ngày con thơ, thơ cũng ra đời
          Em ơi ngoài kia liếp ngỏ
          Sương rơi ngoài song khép hở
          Bên trong kín gió ấm ơi là tình.

          Last edited by Ha Vo; 07-05-2012, 05:40 AM.

          Comment


          • #6
            Mùa Thu Paris - thơ Cung Trầm Tưởng
            nhạc PD - trình bày Khánh Hà -VCH .wmv (HD)



            MÙA THU PARIS

            Mùa thu Paris
            Trời buốt ra đi
            Hẹn em quán nhỏ
            Rưng rưng rượu đỏ tràn ly
            oOo
            Mùa thu đêm mưa
            Phố cũ hè xưa
            Công trường lá đổ
            Ngóng em kiên khổ phút, giờ
            oOo
            Mùa thu âm thầm
            Bên vườn Lục-Xâm
            Ngồi quen ghế đá
            Không em buốt gía từ tâm
            oOo
            Mùa thu nơi đâu ?
            Người em mắt nâu
            Tóc vàng sợi nhỏ
            Mong em chín đỏ trái sầu
            oOo
            Mùa thu Paris
            Tràn dâng đôi mi
            Người em gác trọ
            Sang anh, gót nhỏ thầm thì
            oOo
            Mùa thu không lời
            Son nhạt đôi môi
            Em buồn trở lại
            Hờn quên, hối cải cuộc đời
            oOo
            Mùa thu! mùa thu
            Mây trời âm u
            Yêu người độ lượng
            Trông em tâm tưởng, giam tù

            oOo
            Mùa thu !... Trời ơi ! Tình thu !

            Last edited by Ha Vo; 07-05-2012, 06:04 AM.

            Comment


            • #7
              Lục Bát Cung Trầm Tưởng, Một Đóng Góp Lớn Cho Văn Học

              Lục Bát Cung Trầm Tưởng, Một Đóng Góp Lớn Cho Văn Học
              Du Tử Lê

              Giữa thập niên (19)90, trong một buổi ra mắt sách ở quán café Tao Nhân, nằm trên đường Westminster, thành phố Garden Grove, miền Nam tiểu bang California, mở đầu phần phát biểu của mình, cố nhà văn Mai Thảo đã làm một so sánh chói gắt về sự xuất hiện của tác giả thi phẩm được giới thiệu trong đêm, với sự xuất hiện của hai tác giả nổi tiếng rất sớm, trong sinh hoạt văn chương miền Nam, trước tháng 4, 1975.


              Từ trái qua: Cung Trầm Tưởng, Phạm Duy, Ngy Cao Uyên. (Hình phamduy.com)

              Ðại ý tác giả “Ta thấy hình ta những miếu đền” nói rằng, vào những năm cuối thập niên (19)50, có hai tiếng thơ đã tạo chấn động vang dội, ngay khi những bài thơ thứ nhất.

              Trừ những người trẻ, tham dự buổi giới thiệu tác phẩm vừa kể, vốn không có cơ hội biết nhiều về sinh hoạt văn học nghệ thuật miền Nam những năm (19)50, (19)60; kỳ dư, các tân khách còn lại, khi nghe nhắc tới Cung Trầm Tưởng, đa số đã liên tưởng tới thơ bốn chữ, năm chữ và, lục bát của họ Cung. (1)

              Liên tưởng tức thì này, không có nghĩa tất cả những vị đó đều đọc, nhớ thơ Cung Trầm Tưởng qua tạp chí Sáng Tạo. Họ biết, nhớ, thuộc và, yêu mến tiếng thơ này, qua một số ca khúc của nhạc sĩ Phạm Duy, phổ thơ Cung Trầm Tưởng. Thí dụ, ca khúc “Mùa thu Paris,” hay “Tiễn em” Phạm Duy đổi từ nhan đề gốc “Chưa bao giờ buồn thế”...

              Nếu ký ức chưa tệ hại đến mức phản bội tôi thì, tôi nhớ đó là năm 1959, giữa bối cảnh hiu hắt, “thiếu niềm tin” của độc giả trong lãnh vực thi ca, thi phẩm “Tình Ca” của Cung Trầm Tưởng ra đời.

              “Tình Ca” của Cung Trầm Tưởng chỉ có tổng cộng 13 bài mà, hết 6 bài được nhạc sĩ Phạm Duy soạn thành ca khúc; với bìa, phụ bản rực rỡ, mới lạ của họa sĩ Ngy Cao Uyên (cũng về từ Pháp, như Cung Trầm Tưởng,) đã là một xuất hiện “lộng lẫy,” như khi lục bát Cung Trầm Tưởng xuất hiện trên tạp chí Sáng Tạo vậy. (2)

              “Tình ca” Cung Trầm Tưởng còn “lộng lẫy” hơn nữa trong đêm ra mắt ở nhà hàng Anh Vũ. Với con số 3+1 là Cung Trầm Tưởng, Ngy Cao Uyên, Phạm Duy và, tiếng hát Thái Thanh, buổi ra mắt tựa dự báo một bình minh khác, cho sinh hoạt thi ca miền Nam, thời đó.

              Không biết tôi có quá lời chăng, khi nói rằng, đó là thời điểm họ Cung “đánh cắp” tất cả mọi ngọn đèn rực rỡ nhất của tiền trường sân khấu sinh hoạt thi ca miền Nam. Tất cả mọi ngợi ca đổ dồn về ông, như nước chảy về chỗ trũng. Những vòng nguyệt quế tìm đến ông, tựa đó là điều gì không thể tự nhiên hơn...

              Cùng lúc, hiện tượng hay phong trào khát khao có được một lần được thấy “mùa thu Paris” (như trong thơ Cung Trầm Tưởng,) trở thành cơn sốt trên 40 độ C. trong tâm tưởng của nhiều người trẻ thành phố:
               
              Mùa thu đêm mưa
              Phố cũ hè xưa
              Công trường lá đổ
              Ngóng em kiên khổ phút, giờ
               
              Mùa thu âm thầm
              Bên vườn Lục-Xâm
              Ngồi quen ghế đá
              Không em buốt giá từ tâm
               
              Mùa thu nơi đâu?
              Người em mắt nâu
              Tóc vàng sợi nhỏ
              Mong em chín đỏ trái sầu...


              (Trích “Mùa Thu Paris, CTT)
               
              Hay ước nguyện cuối cùng trước khi nhắm mắt, không chỉ của giới trẻ mà, của rất nhiều văn nghệ sĩ thời đó là, một lần được đứng dưới những ngọn đèn vàng của ga Lyon! Ðược thấy sông Seine (qua thơ Nguyên Sa,) hay được đặt chân vào một quán rượu ở Paris. Khi Paris qua thơ của hai nhà thơ này trở thành những mơ ước khôn cùng...

              Paris càng trở nên quyến rũ hơn nữa, khi ca khúc “Tiễn em” phổ cập quần chúng:
               
              Lên xe tiễn em đi
              chưa bao giờ buồn thế
              trời mùa Ðông Paris
              suốt đời làm chia ly

              (......)

              Ga Lyon đèn vàng
              tuyết rơi buồn mênh mang
              cầm tay em muốn khóc
              nói chi cũng muộn màng

              (......)

              khóc đi em. khóc đi em
              hỡi người yêu xóm học
              để sương thấm bờ đêm...”


              (Trích “Chưa bao giờ buồn thế,” CTT)
               
              Những hình ảnh lãng mạn, mới mẻ như những khối thuốc nổ cực mạnh, gây chấn thương nặng nề tâm thức người nghe/đọc, như “Người em mắt nâu / Tóc vàng sợi nhỏ,” hay “Ga Lyon đèn vàng / tuyết rơi buồn mênh mang”... đã nhức nhối “bám trụ” trong sâu, kín tâm tư của nhiều người.

              Hoặc chỉ với bốn chữ “người em xóm học,” lần đầu tiên xuất hiện trong thơ Việt Nam, tự thân cũng đã đủ làm thành cơn bão mang tên những mơ ước nghìn trùng, hạnh ngộ hãn hữu, của những người một đời chưa bước khỏi biên cương đất nước.

              Nhưng với văn giới miền Nam thời đó, đỉnh điểm tài hoa thi ca Cung Trầm Tưởng vẫn là những bài thơ lục bát của ông.

              Nói tới lục bát Cung Trầm Tưởng, tôi không rõ họ Cung có biết, những người bạn một thời Sáng Tạo, đã gọi ông một cách yêu mến là ...“Bà Huyện Thanh Quan thời đại mới”?

              Người kể lại chuyện này là cố nhà văn Mai Thảo. Sinh thời, trong những cuộc họp mặt văn nghệ giới hạn tại nhà riêng một vài thân hữu, dù không ai hỏi, chủ nhiệm Sáng Tạo vẫn thường nhắc tới những bằng hữu trong nhóm Sáng Tạo của mình. Nhất là những người bạn còn trong tù. Hơn một lần, ông kể:

              “...Anh em Sáng Tạo thích lục bát Cung Trầm Tưởng lắm. Dù nó chỉ làm được ít bài rồi thôi. Chúng tôi từng gọi nó là ‘Bà Huyện Thanh Quan thời đại mới’...”

              Mọi người lắng nghe. Bất ngờ. Thích thú. Cũng trong bất ngờ, tôi hỏi tác giả “Ðêm giã từ Hà Nội,” khi anh em Sáng Tạo “sắc phong” cho Cung Trầm Tưởng là một thứ “Bà Huyện Thanh Quan thời đại mới” thì họ y cứ trên những tương đồng nào, giữa hai cõi giới thi ca đó?
              Vẫn nụ cười móm mém hóm hỉnh và, cái nheo mắt tinh quái, cố nhà văn Mai Thảo lúc lắc đầu, trước khi trả lời:

              “...Ờ... thì anh em thấy lục bát của nó mượt mà, óng ả như nhung lụa vậy mà...”

              Có thể tác giả “Mười đêm nhà ngọc” không chờ đợi nơi tôi một câu hỏi, như thế! Như số anh em có mặt buổi tối vừa kể, cũng không chờ đợi nhà văn Mai Thảo trả lời, như vậy!

              Tôi không biết số bằng hữu hiện diện trong họp mặt kia, cảm nhận ra sao về lục bát Cung Trầm Tưởng. Tuy nhiên, tôi nghĩ, ai đó, nếu có một kiến thức căn bản về thể thơ lục bát, cùng sự hiểu biết thấu đáo về những biến chuyển, vận hành trải qua nhiều giai đoạn của thể thơ truyền thống này, sẽ phải nhìn nhận rằng, đóng góp vào sự đổi mới lục bát của Cung Trầm Tưởng, những năm (19)50 là một đóng góp lớn cho văn học miền Nam, nói riêng, Việt Nam, nói chung.

              Du Tử Lê

              (Kỳ sau, “Phác họa mấy thời kỳ lục bát và, thơ Cung Trầm Tưởng”)
               
              Chú thích:

              1. Theo tuyển tập “Cung Trầm Tưởng một hành trình thơ (1948-2008)” do nhà Tiếng Quê Hương, Hoa Kỳ, ấn hành 2012 thì, nhà thơ Cung Trầm Tưởng tên thật là Cung Thúc Cần, sinh ngày 28 tháng 2, 1932 tại Hà Nội. Ông là cựu sĩ quan cấp tá của quân chủng Không Quân VNCH cũ. Sau 10 năm tù cải tạo và 3 năm bị quản chế, ông cùng gia đình định cư tại Hoa Kỳ từ năm 1993.

              2. Họa sĩ Ngy Cao Uyên, tên thật Nguyễn Cao Nguyên, tốt nghiệp ngành Cơ Khí Không Quân tại Pháp, như Cung Trầm Tưởng. Ông là chủ tịch đầu tiên của Hội Họa Sĩ Trẻ Việt Nam, Saigon, 1966. Ngy Cao Uyên hiện cư ngụ tại tiểu bang Virgina, Hoa Kỳ.

              Comment


              • #8
                Phác Họa Mấy Thời Kỳ Lục Bát Và, Thơ Cung Trầm Tưởng

                Phác Họa Mấy Thời Kỳ Lục Bát Và, Thơ Cung Trầm Tưởng
                Du Tử Lê
                ---oo0oo---

                Là người Việt Nam, ai cũng biết lục bát là một thể thơ truyền thống, đặc biệt của riêng văn học Việt Nam. Mặc dù gần đây, có người đưa ra “phát kiến” cho rằng, không chỉ Việt Nam mà, một vài đân tộc khác, cũng có thơ lục bát hoặc một thể thơ tương tự như vậy.


                Từ trái qua: Thanh Tâm Tuyền, Cung Tiến, Tô Thùy Yên, Cung Trầm Tưởng.

                “Phát kiến” này, theo tôi không có cơ sở vì hai yếu tính căn bản sau đây:

                Thứ nhất, vì đặc tính của ngôn ngữ Việt Nam là Ðơn âm/Monosyllabic, nên lục bát mới có thể giữ đúng cấu trúc 6 chữ cho câu thứ nhất và, 8 chữ cho câu thứ hai.

                Thứ nhì, ngoài Việt Nam, chúng ta biết, có ngôn ngữ của một số dân tộc khác, cũng là loại đơn âm. Nhưng, vì những ngôn ngữ đơn âm kia, không có 5 dấu sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng (như của Việt Nam,) để ứng hợp với luật Bằng/Trắc căn bản, bắt buộc mà, thể thơ lục bát đòi hỏi. Chúng ta cũng biết, các chữ có dấu huyền hoặc không dấu, thuộc “Vần Bằng.” Những chữ có dấu sắc, hỏi, ngã nặng thuộc “Vần Trắc.”

                Cụ thể, luật thơ lục bát được quy định như sau:

                1. Bằng bằng, trắc trắc, bằng bằng (cho câu sáu.)

                2. Bằng bằng, trắc trắc, bằng bằng, trắc, bằng (cho câu 8.)

                Tuy nhiên, luật thơ lục bát cho phép người làm thơ được miễn trừ luật bằng, trắc ở những chữ thứ nhất, thứ ba và, thứ năm. (Giới làm thơ quen gọi là luật “nhất, tam, ngũ bất luật.”

                Thí dụ hai câu thơ mở đầu “Ðoạn trường tân thanh” của Nguyễn Du:

                Trăm năm trong cõi người ta
                Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét nhau.


                Tóm lại, với niêm luật bắt buộc để lục bát là... lục bát, tôi không nghĩ và, cũng không tin có một nền văn học nào khác trong nhân loại, cũng có một thể thơ lục bát, giống Việt Nam.

                Khi nói, lục bát là một thể thơ truyền thống, đặc biệt của riêng người Việt Nam, tôi muốn nhấn mạnh, thể thơ này xuất hiện rất sớm trong lịch sử văn học của chúng ta hàng nghìn năm trước. Nó xuất hiện dưới dạng ca dao, tục ngữ khi chữ quốc ngữ trở thành phổ thông.

                Nhưng, chúng ta vẫn phải đợi tới khi Nguyễn Du Tiên sinh chọn thể thơ lục bát để ký thác tâm sự mình, qua trường thiên “Ðoạn Trường Tân Thanh,” (dân gian quen gọi là “Truyện Kiều,”) lúc đó, lục bát mới chính thức trở thành một thể thơ có đầy đủ tính văn học ở mọi khía cạnh.

                Ðặt qua một bên nghệ thuật tả cảnh, tả tình, tâm lý, triết lý, tâm sự, phản ảnh xã hội, thời đại sống của mình v.v... căn bản lục bát của Nguyễn Du Tiên sinh là “kể chuyện.” Vị cha già của lục bát Việt Nam, (nếu tôi được phép gọi như vậy,) là một nhà văn kể chuyện (Story Teller) cực kỳ tài hoa, uyên bác.

                Nói cách khác, Lục bát của Nguyễn Du Tiên đã sinh trở thành “khuôn vàng thước ngọc” ảnh hưởng vào dòng chảy lục bát của văn học Việt mấy trăm năm sau. (3)

                Tiêu biểu cho sự kiện này là nhà thơ Nguyễn Bính, một nhà thơ nổi tiếng từ thời Tiền chiến. (4)

                Không kể những bài lục bát dài hàng trăm câu trở lên, như bài “Lỡ Bước Sang Ngang,” ở những bài lục bát khác ngắn hơn, như bài “Trăng Sáng Vườn Chè,” vỏn vẹn chỉ có 10 câu, nhưng nó vẫn là dạng kể một câu chuyện.

                Một trong những bài lục bát cuối cùng của sự nghiệp thi ca đồ sộ của tác giả “Lỡ Bước Sang Ngang,” bài “Tỉnh Giấc Chiêm Bao,” đăng trong giai phẩm “Trăm Hoa,” Hà Nội, 1956, cũng vẫn ở dạng kể chuyện, rất có lớp lang, thứ tự:

                Chín năm đốt đuốc soi rừng,
                Về đây ánh điện ngập ngừng bước chân.
                Cửa xưa mành trúc còn ngân
                Góc tường vẫn đọng trăng xuân thuở nào...


                Tuy nhiên, cùng thời gian đó, khi Huy Cận, tác giả “Lửa Thiêng” xuất hiện thì, ông đã cho lục bát một gương mặt, một chiếc áo mới. Nói cách khác, lục bát Huy Cận, đóng vai trò chấm dứt chu kỳ lục-bát-kể-chuyện kéo dài từ thời Nguyễn Du.

                Lục bát Huy Cận chẳng những không nhắm mục đích kể lể thứ tự các sự việc mà, nó cũng không mô tả một biến chuyển tâm sinh lý nào. Nó là một chuỗi hình ảnh nối tiếp nhau qua tương tác rất máu thịt với chữ, nghĩa. Tôi muốn nói tới nỗ lực vận dụng những con chữ một cách tân kỳ, sáng tạo. Ðể tự thân hình ảnh và, chữ nghĩa sẽ mang tới cho người đọc những cảm ứng sâu, rộng khác nhau, tùy tâm hồn, trình độ mỗi người đọc.

                Với lục bát mới của Huy Cận, độc giả không còn bị nhốt trong những ý, tình được định hướng sẵn bởi tác giả. Người đọc cũng không bị trói tay, chân trong một không gian với một khí hậu bất biến.

                Vì không gian trong lục bát Huy Cận là không-gian-mở, nên những liên ảnh (link-image) trong thơ của tác giả “Lửa Thiêng” cũng không diễn biến theo một trật tự cố định nào.

                Thí dụ, Huy Cận mở đầu bài “Thu Rừng” của mình bằng hai câu:

                Bỗng dưng buồn bã không gian,
                Mây bay lũng thấp giăng màn âm u.


                Rồi bất ngờ ông “giới thiệu” với những người đọc, một sinh vật:

                Nai cao gót lẫn trong mù
                Xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về.


                Con nai trong hai câu thơ trên, không hề là hình ảnh đại diện hay “thay mặt” cho tác giả. Nó cũng không giữ một vai trò mang tính ẩn dụ (metaphor) nào. Nó là chính nó. Nó là một phần của cái “không gian buồn bã” - Như một điểm nhấn (making a point) sinh động trong bài thơ (bức tranh) đẫm ướt mùa thu này.

                Cũng thế, mở đầu bài thơ “Thuyền Ði,” Huy Cận viết:

                Thuyền đi, sông nước ưu phiền;
                Buồm treo ráng đỏ giong miền viễn khơi.
                Sang đêm thuyền đã xa vời;
                Người ra cửa biển nghe hơi lạnh buồn.


                Ông dẫn người đọc đi thẳng vào bài thơ (đúng hơn vào không gian thơ) của ông mà, không cần một rào đón, chuẩn bị tâm lý nào cho người đọc. Suốt bài thơ, người ta cũng không thấy dù thấp thoáng chủ thể (nhân vật) như lục bát cũ.

                Ngay bài “Buồn Ðêm Mưa,” một trong vài bài lục bát được nhiều người biết đến nhất của Huy Cận thì, nhân xưng đại danh tự “Ta,” xuất hiện duy nhất một lần trong bài thơ, cũng không phải là cái “Ta” của chủ thể. Hay cái “Ta” của nhân vật. Mà cái “Ta” phiếm-chỉ trong bài thơ, chỉ là chiếc cầu nối, giữa trời đất, và cảm thức nhỏ bé của con người trong bao la mà thôi. Người đọc không thấy một Huy Cận riêng tư nào trong toàn thể bài thơ:

                Ðêm mưa làm nhớ không gian,
                Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la...
                Tai nương nước giọt mái nhà
                Nghe trời nặng nặng, nghe ta buồn buồn...


                Lại nữa, nếu phải đi tìm một “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt cõi giới lục bát Huy Cận thì đó là tinh thần hoài cổ, rất gần với khí hậu thơ Bà Huyện Thanh Quan thuở trước:

                Ðồn xa quần quại bóng cờ
                Phất phơ buồn tự thời xưa thổi về

                (Trích “Chiều Xưa,” Huy Cận)

                Nó đúng như tinh thần hai câu thơ nổi tiếng của ông:

                Một chiếc linh hồn nhỏ
                Mang mang thiên cổ sầu.

                (Trích “Ê Chề,” Huy Cận.)

                Theo tôi, đó là những nét đặc thù trong lục bát Huy Cận. Còn lục bát Cung Trầm Tưởng thì sao?

                Du Tử Lê

                Chú thích:

                (3): Theo Wikipedia thì tác giả Truyện Kiều sinh năm 1765, mất năm 1820. Ngoài Truyện Kiều, Nguyễn Du còn để lại một số tác phẩm tiêu biểu như: Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh. Văn Tế Sống Hai Cô Gái Trường Lưu. Thác Lời Trai Phường Nón (bằng chữ Nôm). Ba tập thơ chữ Hán là: Thanh Hiên Thi Tập, Nam Trung Tạp Ngâm, và Bắc Hành Tạp Lục.

                (4): Nhà thơ Nguyễn Bính tên thật là Nguyễn Trọng Bính. Ông sinh 1918, mất năm 1966.

                (5) Nhà thơ Thế Lữ tên thật là Nguyễn Thứ Lễ. Ông sinh năm 1907, mất năm 1989.

                (6) Nhà thơ Huy Cận tên là Cù Huy Cận. Ông sinh năm 1919, mất năm 2005.

                Comment


                • #9
                  Trường Phái Lục Bát Cung Trầm Tưởng

                  Trường Phái Lục Bát Cung Trầm Tưởng
                  Du Tử Lê
                  ---oo0oo---

                  Tôi không biết có phải định mệnh đã mang đến cho sinh hoạt văn chương của chúng ta, một hạnh ngộ giữa lục bát Huy Cận và, lục bát Cung Trầm Tưởng? Hay đó là “bước trùng” của hai tài thơ lớn ở thể thơ truyền thống, đặc thù Việt?


                  Nhà thơ Cung Trầm Tưởng

                  Với tôi, Cung Trầm Tưởng không chỉ đi tiếp con đường lục bát Huy Cận mà, họ Cung còn đẩy vận hành của một chu kỳ lục bát tới chỗ rốt ráo của nó. Hai chữ “rốt ráo” tôi dùng ở đây, xin hiểu theo nghĩa Cung Trầm Tưởng, bằng vào tài hoa và trí tuệ của mình, đã hoàn tất một thời kỳ lục bát. Ðem lục bát ra khỏi bóng rợp của giai đoạn lục-bát-kể-chuyện, kéo dài mấy trăm năm, kể từ khởi điểm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du.

                  Tuy vẫn xây dựng lục bát của mình trên căn bản nhịp chẵn: 2-2-2 cho câu sáu và, 2-2-2-2 cho câu tám:

                  “Bù em / góp núi / chung đồi (2-2-2)
                  “Thiêu nương / đốt lá / cũng rồi / hoang sơ” (2-2-2-2)

                  (“Kiếp Sau,” CTT.)

                  Hoặc nhịp đều 3-3 cho câu sáu, 4-4 cho câu tám:

                  “Ôi thông xanh / ôi hồng đào (3-3)
                  “Phong rêu mấy thuở / hồn nào không đau” (4-4)

                  (“Thu ngây,” CTT.)

                  Nhưng lục bát Cung Trầm Tưởng đã vượt khỏi cái không gian núi, đồi, cồn, bãi, sông, nước, mây, gió, trăng, sao... của lục bát Huy Cận:

                  “Bỗng dưng buồn bã không gian
                  “Mây bay lũng thấp giăng màn âm u

                  (H.C.)

                  Hay:

                  “Canh khuya tạnh vắng bên cồn
                  “Trăng phơi đầu bãi, nước dồn mênh mang.”

                  (H.C.)

                  Theo tôi, những hình ảnh như núi, đồi, cồn, bãi, sông, nước, mây, gió, trăng, sao... đó, nếu không đi liền với những liên tưởng là những hình ảnh, những biểu-ngữ (signifier) hoặc những hoán dụ (metonymy) thì chúng chỉ là những sáo ngữ, đã bị “cliché.” Chúng thiếu sinh khí. Rời xa đời thường. Không cùng nhịp đập thời đại. Không chủ thể. Và, khi toàn bộ hồn vía bài thơ chỉ bảng lảng những đám mây hoài cổ thì, nó sẽ khó có được cho nó tính nhân loại!

                  Cung Trầm Tưởng, ngược lại.

                  Chẳng những ông công khai ném mình ra “tiền trường” của thổ-ngơi bài thơ với một thời gian, không gian chuẩn xác:

                  “Mưa rơi đêm lạnh Saigon
                  “mưa hay trời khóc đêm tròn tuổi tôi”

                  (“Ðêm sinh nhật,” CTT.)

                  Mà, ông còn đem hình ảnh tạp của đời thường, hợp hôn với những ý niệm siêu hình vào trong thơ của mình, như:

                  “Bãi nhăn nhàu vết lăn xưa
                  “Một xe thổ mộ giờ trơ gỗ gầy.”

                  (“Ðất Nghĩa một chiều mưa,” CTT.)

                  Hoặc:

                  “Quả đào chín vỡ làm đôi,
                  “Tôi nhân tiền sử nằm phơi trần truồng.”

                  (“Nấm xanh,” CTT.)

                  Hoặc nữa:

                  “Bát cơm miếng cháy khê vàng,
                  “Miệng chua khó nuốt, địa đàng khó lên.”

                  (“For rent,” CTT.)

                  Hay, đời thường một cách nhân loại hơn:

                  “Trời hay thu khóc ủ ê?
                  “Cổ cao áo kín đi về đường tôi.”

                  (“Ðêm sinh nhật,” CTT.)

                  Với “cổ cao áo kín đi về đường tôi,” họ Cung đã san bằng khoảng cách giữa thi sĩ và người đọc. Nó là phản ứng tự nhiên của con người (dù ở đâu,) trước thời tiết.

                  Thêm nữa, mỗi con chữ trong câu thơ “cổ cao / áo kín / đi về / đường tôi,” nếu đứng riêng, chúng là những biểu-ngữ xác tín cá tính chủ thể. Nhưng khi đứng chung trong dòng chảy của một nguồn mạch ngữ nghĩa thì, chúng lại là một liên lập hình ảnh vừa ẩn dụ (metaphor) vừa hoán dụ (metonymy) như một xâu chuỗi lấp lánh tu từ (rhetoric).

                  Chỉ cần một chút chú ý, người đọc sẽ gặp được rất nhiều những xâu chuỗi lấp lánh tu từ như thế, trong lục bát họ Cung. Thí dụ:

                  “Mình tôi với phố non cao
                  “Tàu như dưới tỉnh núi còn vọng âm.”

                  (“Khoác kín,” CTT.)

                  Hoặc:

                  “Muối nồng vị mặn tình quê
                  “Sóng ôm nguyên gói biển về tặng tôi.”

                  (“Quà biển,” CTT.)

                  Ở đây, tôi xin được mở một ngoặc để nhấn mạnh, bài thơ trên, họ Cung viết từ năm 1962. Nhưng với hai chữ “nguyên gói” thì nó giống như ông mới viết hôm nay, 2012 vậy.)

                  Cũng vẫn khởi đi từ tài hoa làm mới, làm giầu ngôn ngữ Việt, lục bát Cung Trầm Tưởng thơm tho những xâu chuỗi tu từ, như:

                  “Trời nong chặt nỗi thu phiền
                  “Hồn cây hồng mộc ngợp miền thu Tây.

                  (“Thu ngây,” CTT.)

                  Hoặc nữa:

                  “Thôi em xanh mắt bồ câu
                  “Vàng tơ sợi nhỏ xin hầu kiếp sau.”

                  (“Kiếp sau,” CTT.)

                  Ở 2 câu lục bát trong “Thu ngây,” thì “nong” là động từ cụ thể. Trên nguyên tắc “nong” phải đi liền với một bổ túc từ cũng cụ thể. Nhưng Cung Trầm Tưởng đã làm một cuộc cách mạng ngôn ngữ (cho riêng ông.) Khi bổ túc từ theo sau động từ “nong” của ông, lại là một cụm từ trừu tượng: “nong... chặt nỗi ưu phiền.”

                  Cũng thế, khả năng khoác cho chữ nghĩa một linh hồn mới của họ Cung, còn rõ ràng, dễ nhận thấy hơn nữa, qua câu thơ:

                  “Thôi em xanh mắt bồ câu.”

                  Ðơn giản, nếu phải so sánh hay liên tưởng mầu xanh đôi mắt người yêu của mình, người ta thường nghĩ ngay tới mầu xanh đại dương, mầu xanh mây trời...Tôi chưa thấy ai so sánh mầu xanh đôi mắt người yêu của mình với mầu... xanh của mắt... bồ câu! Mặc dù, tới nay, nhân loại chưa phát hiện một loại bồ câu nào có đôi mắt mầu... xanh!

                  Lại nữa, tôi nghĩ, ngay với thơ lục bát bây giờ, chúng ta cũng khó thấy những câu thơ lãng mạn, pha lẫn chút tự trào, như:

                  “Chờ em anh để râu xanh
                  “Lòng xây bốn bức tường thành giam em.”

                  (“Râu xanh,” CTT.)

                  Hoặc:

                  “Tặng em một gã lo xa,
                  “Vành trăng tươm tất, bình hoa bày bàn.”


                  (“Lẩn thẩn,” CTT.)

                  Cũng như nỗ lực nhân cách hóa đẹp tới bất ngờ, như:

                  “Sóng dâng còn ngấn môi kề
                  “Ðêm hôn bãi nhớ, sớm về viễn khơi.”

                  (“Quà biển,” CTT.)

                  Tuy nhiên, quan trọng hơn, đáng kể hơn nữa, vẫn theo tôi thì, tài hoa và trí tuệ Cung Trầm Tưởng nằm nơi nỗ lực cởi bỏ giới-hạn-không-gian-lục-bát - - Ðể từ đó, nhân loại tính hiện ra như một cuộc “giải phóng” triệt để, quyết liệt. Chúng tôi xin bạn đọc lại một lần nữa câu thơ:

                  “Vàng tơ sợi nhỏ xin hầu kiếp sau.”

                  Ðó là một câu thơ vẫn mang tính liên lập hình ảnh (vừa ẩn dụ, vừa hoán dụ) như một xâu chuỗi lấp lánh tu từ, rất Cung Trầm Tưởng... Nhưng ở phương diện ngữ-nghĩa thì “tóc vàng sợi nhỏ” là một thứ thẻ nhận dạng Tây Phương. Cũng ý đó, cụ thể hơn, một năm sau (năm 1957,) ông viết:

                  “Thôi Diane diễm kiều Âu,
                  “Mẫu hình yểu điệu xin hầu kiếp sau.”

                  (“Kiếp sau nữa,” CTT.)

                  Tóm lại, Cung Trầm Tưởng không chỉ đi tiếp con đường lục bát Huy Cận mà, ông còn đẩy vận hành của thời kỳ lục bát mới, tới những không gian, những ngữ-cảnh, ngữ-nghĩa mà trước đó, lục bát không hề có.

                  Nếu không có cuộc “giải phóng” lục bát một cách dứt khoát, quyết liệt của họ Cung, đồng nghĩa với nỗ lực kết thúc chu kỳ vận hành của một thời kỳ lục bát, tôi e hôm nay, chưa chắc văn học Việt đã có thể bước qua một thời kỳ lục bát khác nữa, như đã thấy.

                  Nhìn lại 20 năm văn học, nghệ thuật miền Nam, trong lãnh vực thi ca, chúng ta có khá nhiều nhà thơ thành danh nhờ ứng dụng xuất sắc kỹ thuật, cũng như cải biên (modify) hình ảnh, ý tưởng của một số thi sĩ nổi tiếng của Âu Châu - Nhưng với thể thơ truyền thống, đặc thù lục bát thì, đóng góp của họ Cung cho thể thơ thuần Việt này, là một đóng góp cực kỳ to lớn. Mức độ to lớn ở đây, còn còn được đo định bằng sự kiện có nhiều nhà thơ đã hân hoan đi theo con đường lục bát Cung Trầm Tưởng!

                  Vì thế, nếu lục bát của họ Cung có được coi là một “trường phái” - “Trường phái lục bát Cung Trầm Tưởng,” thì tôi nghĩ, cũng không là một lời nói quá!

                  Du Tử Lê
                  (2 tháng 7, 2012)

                  Comment


                  • #10
                    Cám ơn khôngquan2 và Hà Võ đã post những bài viết về thơ Cung Trầm Tưởng và nhạc phổ thơ của thi sĩ qua sự trình bày rất nghệ thuật và công phu. Tình thân. KQ võ ý.

                    Comment


                    • #11
                      Cổ dao Cung Trầm Tưởng






                      Kiếp Sau - thơ Cung Trầm Tưởng, nhạc Phạm Duy - tiếng hát Thái Thanh



                      Cung Trầm Tưởng gắn bó với giai đoạn đầu của thời chia đôi đất nước, qua thi tập Tình Ca, mười ba bài mà Phạm Duy đã phổ nhạc năm bài, đó là Mùa Thu Paris, Kiếp Sau, Về Ðây, Khoác Kín (Phạm Duy đổi là Chiều Ðông) và Chưa Bao Giờ Buồn Thế (Phạm Duy đổi thành Tiễn Em). Tất cả năm bài đều thuộc vào những bài thơ phổ nhạc tiêu biểu cho sự gặp gỡ giữa thi ca và âm nhạc ở cung cao sáng tạo.

                      Trong năm bản nhạc thơ ấy, có Kiếp Sau ít nổi tiếng hơn cả, nhưng lại là bài hay nhất. Thơ Cung Trầm Tưởng, nhạc Phạm Duy và tiếng hát Thái Thanh kết hưởng thành một thể toàn bích, gói trọn thiên thu trong khoảnh khắc. Nhạc Phạm Duy và giọng hát Thái Thanh, không lạ gì với thính giả, duy có chất Thơ trong bài Kiếp Sau, riêng nó đã đạt tới đỉnh nghệ thuật nhưng ít ai đề cập.

                      Bài thơ rất ngắn, sau này Cung Trầm Tưởng có viết lại hai version khác, nhưng có lẽ vẫn không vượt được bản đầu in năm 1959 ở Sài gòn:

                      Bù em một thoáng trời gần,
                      đơm hoa kết mộng cũng ngần ấy thôi!
                      Bù em góp núi chung đồi
                      thiêu nương đốt lá cũng rồi hoang sơ
                      Bù em xuôi có ngàn thơ,
                      vẫn nghe trắc trở bên bờ sông thương
                      Quên thôi, bông sẽ phai hường,
                      mà xưa tiếng gọi nghe dường thiên thu.
                      Non sông bóng mẹ sầu u,
                      mòn trông ngưỡng cửa, chiều lu mái sầu
                      Thôi em xanh mắt bồ câu,
                      vàng tơ sợi nhỏ xin hầu kiếp sau...


                      Kiếp Sau làm năm 1956. Hơn bốn mươi năm. Không một vết nhăn.


                      Trò chuyện về thơ tức là chuyện trò với chữ -vấn đề ngữ sự- nói như Cung Trầm Tưởng.

                      Trước hết là chữ bù. Bù em. Phạm Duy có lẽ vì nhu cầu âm nhạc đã đổi ra đền. Ðền em, nũng nịu, Tây hơn, hợp thời hơn, nhưng Bù em, mới hiếm, mới Việt. Chữ đền có nghĩa đổi trao, lấy đi rồi đền lại. Chữ bù chỉ thấy cho, chỉ "lấp đầy". Nguyên lý lấp đầy lại rất phụ nữ, rất nhục cảm, rất Sartrien, rất Cung Trầm Tưởng. Bù lại gần với âm bu. Bu là gọi mẹ theo tiếng quê ta. Một người "Tây con" như Cung Trầm Tưởng thời ấy, làm thơ tặng những em "tóc vàng sợi nhỏ" mà lại viết Bù em thật tuyệt.

                      Nhưng Phạm Duy có lý khi ông đổi lại là đền em. Ai cũng hiểu. Ở Phạm Duy là ý thức cộng đồng, ý thức dân ca, ở Cung Trầm Tưởng là ý thức biệt dã, ý thức thi ca. Bù em là ngôn ngữ thứ nhất, ngôn ngữ bùa chú khác lạ, không giống ai: Ngôn ngữ vừa được nhà thơ tác tạo. Cả bài thơ có hơi cổ điển, có hồn ca dao. Nhưng không phải ca dao thuần túy mà là ca dao đã hóa thân, cổ điển đã tục lụy.

                      Thiêu nương đốt lá cũng rồi hoang sơ


                      Các cụ xưa đâu viết thế. Các cụ môn đăng hộ đối, đâu có thẩy bình dân "cũng rồi" ngồi chung chiếu với quý tộc "thiêu nương". Rồi lại:

                      Thôi em xanh mắt bồ câu


                      Ca dao đâu viết thế. Ca dao thường trực tiếp, dễ hiểu: Em thôi, mắt xanh, hay mắt em, thôi xanh v.v... Nên khi gặp thôi em xanh mắt người đọc lạc vào mê đạo.

                      Mà xưa tiếng gọi nghe dường thiên thu

                      Toàn thể câu thơ là một bể hoang đường, lạc đất.

                      Tất cả những "cũng rồi", "mà xưa", "nghe dường" gieo vào câu thơ ở những chỗ bất ngờ nhất, làm lỗi nhịp, làm đảo thần lục bát, phát sinh một hồi âm mới: Wagner hay Mozart? Phạm Duy hay Văn Cao? Có hết. Tất cả đồng quy ở tiếng gọi thiên thu hay tất cả đều đã hoang sơ?

                      Cung Trầm Tưởng đã xướng lên một thứ cổ dao hiện đại:

                      Non sông bóng mẹ sầu u
                      Mòn trông ngưỡng cửa, chiều lu mái sầu


                      Những tiết tố âm nhạc, quá khứ, hiện tại, không gian, thời gian, ẩn hiện, giao tỏa với nhau. Những hình ảnh sáo mòn như "đơm hoa kết mộng", "sông Thương trắc trở" được hồi sinh trong một kiếp mới, nhờ cách xếp câu, đảo tứ:

                      Bù em một thoáng trời gần,
                      đơm hoa kết mộng cũng ngần ấy thôi!
                      Bù em góp núi chung đồi
                      thiêu nương đốt lá cũng rồi hoang sơ
                      Bù em xuôi có ngàn thơ,
                      vẫn nghe trắc trở bên bờ sông thương


                      Những cách treo chữ: cũng rồi, cũng ngần..., buông chữ: bù em, thôi em..., đảo chữ: mòn trông..., hoặc tạo cảnh: chiều lu mái sầu... đều có tính cách phá tán âm thanh lục bát, phá tan nội dung ca dao để tạo ra, về mặt thời gian, một tiếng gọi từ ngàn xưa vọng lại, về mặt âm thanh và tư tưởng, một khúc điệu mới, phong liệm nỗi buồn nguyên thủy, rồi nghiền tán nó ra, rắc vào không gian, gieo vào vũ trụ, tạo ra một môi trường buồn ẩm nhạc:

                      Ngày đi, chiều tới không nghiêm,
                      khoan thai gió cởi phong niêm rũ buồn
                      Bờ nghiêng nắng giốc đường thuôn,
                      thiết tha tiếng cũ nghe luồn không trung.

                      (Về Ðây)

                      Trong bài Bémol, Buồn lại rơi theo nhịp khác, như nốt nhạc bị giam cầm:

                      Chiều buồn lạc thanh âm
                      Hoang sơ vào khuya tối
                      Linh hồn tôi dương cầm


                      Bài Khoác Kín cũng là một trong những giá trị độc đáo của thi ca Cung Trầm Tưởng mà Phạm Duy đã phổ nhạc và đổi tên thành Chiều Ðông (Phạm Duy có tài lựa những tuyệt tác của mỗi tác giả để đưa vào cung bậc âm thanh). Khoác Kín cũng là một bài thơ ngắn, nhưng mỗi câu, mỗi chữ đều là những giọt tuyết lệ của thời gian, nhỏ trong không gian tàn tạ:

                      Chiều đông tuyết lũng âm u
                      bâng khuâng chiều tới tiếp thu trời buồn
                      Nhớ ngày tầu cũng đi luôn,
                      ga thôn trơ nỗi, băng nguồn héo hon.
                      Phường xa nhịp sắt bon bon,
                      tàu như dưới tỉnh, núi còn vọng âm.
                      Sân ga mái giọt âm thầm:
                      Máu đi có nhớ hồi tâm đêm nào?
                      Mình tôi với tuyết non cao;
                      với cồn phố tịnh buốt vào xương da;
                      với mây trên nhợt ánh tà;
                      với đèn xóm hạ cũng là tịch liêu.
                      Tôi về bước bước đăm chiêu,
                      tâm tư khoác kín sợ chiều lạnh thêm.


                      Giọng buồn Cung Trầm Tưởng, thời 55-60, đã khác hẳn giọng sầu Huy Cận trong thời thơ mới. Cung Trầm Tưởng đem lại một cô đơn mới: Cô đơn hiện sinh. Cô đơn của con người trong sự nhận thức lại chính mình. Cô đơn của một Roquentin trực diện với "bản lai chân diện mục" của mình trước gương soi mói, soát lục. Cô đơn của gã tử tù Meurseult, xa lạ với loài người:

                      Hoang liêu về chết tha ma
                      Tiếng chân gõ guốc người xa vắng người

                      (Tương Phản)

                      Và chắc hẳn Wagner dưới suối vàng cũng đã có phần nào trách nhiệm trong cách biến tấu nhịp điệu thể xác và linh hồn lục bát Cung Trầm Tưởng.


                      *


                      Cung Trầm Tưởng những năm cải tạo đã thay đổi quan niệm sáng tác, trữ tình chuyển sang dấn thân:

                      "Người thơ xưa nói lên tâm thức bộ lạc. Người thơ tù "cải tạo" bây giờ, một nạn nhân kiêm chứng nhân, nói lên tâm thức cộng đồng của những người tù cải tạo. Cái tâm thức sâu thẳm, lên men từ khổ đau, thúc trướng bởi bản năng tập quần, xúc tác ra một nhân gian thuần nhất, nền cộng hòa của những người anh em đồng cảnh, những người tù cùng khổ." (Ainsi parlait le poète)

                      Từ một quan niệm thơ như thế, lục bát Cung Trầm Tưởng, bài Nguyện Cầu Mùa Thu, làm ở Hoàng Liên Sơn, thu 77, có những câu:

                      Áo tù thẫm máu đôi vai
                      Bàn chân nứa chém, vành tai gió lùa
                      Ngó tay bỗng thấy già nua
                      Cứa êm thân xác mấy mùa thu qua
                      Môi cằn, má hóp thịt da
                      Ngô vơi miệng chén, canh pha nước bùn
                      Ðêm nằm ruột rỗng vai run
                      Ðầu kề tiếng suối, chân đùn bóng đêm


                      Cung Trầm Tưởng thơ tù trở thành hiện thực. Rất hiện thực, nhưng không phải lúc nào cũng hiện thực. Những mộng, mơ, những trữ tình bị kìm hãm trong lao lý nhưng khó thoát khỏi bản năng. Cung Trầm Tưởng thơ tù, có mộng, có mơ, nhưng lại là những cơn ác mộng mà vẫn có cái ngất ngư, cao đạo của tâm hồn:

                      Sớm đi đội gió đỉnh đầu
                      Tưởng như hồn chết giữa vầu nứa khô
                      Ðường lên dang nứa nhấp nhô
                      Ngả nghiêng mây núi, lệch xô đất trời

                      (Ðường lên dang nứa)

                      Mười năm lao cải luyện thép cho thơ. Thơ ông đanh hơn. Như thể muốn thổi bễ thời gian, luyện quánh nỗi đau trong tiếng hò địa phủ:

                      Mồ dẹt thời gian xe hủ lô
                      Sương tang sô xóa bặt sông hồ
                      Niềm đau sờ thấy hồn vong tộc
                      Nham nháp trời và sần đất thô


                      Con đường mười năm đã vùi chôn những ngây thơ, những tin yêu, những nhẹ dạ xưa, và đưa thi ca vào một lộ trình gai góc, lộ trình heo hắt, lộ trình tang trắng mà thơ là sự cô đọng những tang thương, khấp liệm trong lòng người tù cải tạo:

                      Và đi cho tới cùng đường
                      Của heo hút xứ khôn lường khổ đau
                      Thoắt đi tóc đã phai màu
                      Như nghìn tang trắng quấn đầu vi lô
                      Chiều tê sương sập nấm mồ
                      Vùi chôn chú bé hồ đồ năm xưa.


                      Thụy Khuê

                      (http://thuykhue.free.fr)





                      Chiều Đông - thơ Cung Trầm Tưởng, nhạc Phạm Duy, tiếng hát Thái Thanh

                      Last edited by Chopper; 03-05-2016, 10:51 PM.

                      Comment


                      • #12
                        Cám ơn chiều tím đã post bài nhận định đặc sắc của Thụy Khuê về thơ CTT.

                        Comment


                        • #13
                          Thiệp Mời - Nhà Thơ KQ Cung Trầm Tưởng

                          Hung45HTQS

                          Comment


                          • #14
                            Thư Mời

                            Nhóm bạn KQ của nhà thơ Cung Trầm Tưởng
                            Trân trọng kính mời quý NT, quý KQ & Thân hữu

                            Tham dự Buổi Gặp gở Văn ghệ với
                            KQ CUNG TRẦM TƯỞNG

                            Nhân dịp thi sĩ qua Cali ra mắt tập thơ
                            CUNG TRẦM TƯỞNG, Một Hành Trình Thơ
                            (1948-2008)

                            Buổi gặp gở gia đình sẽ được tổ chức tại

                            ROYAL GARDEN (Club House)
                            10200 Bolsa Ave
                            Westminster, CA 92686
                            714-531-0500

                            Vào lúc 11AM ngày Thứ Bảy 28 tháng 7, 2012
                            (pot luck tùy hỉ)

                            Trân trọng,


                            Xin liên lạc:

                            Chị Tường: 714-425-8709
                            KQ Nguyễn Cầu: 714-530-1741
                            KQ Hồ Vĩnh Thủy: 626-242-3945
                            KQ Võ Ý: 714-262-6272

                            ** Thân chuyển
                            Last edited by hung45qs; 07-24-2012, 05:43 PM.
                            Hung45HTQS

                            Comment


                            • #15
                              Vạn Vạn Lý




                              Comment



                              Hội Quán Phi Dũng ©
                              Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




                              website hit counter

                              Working...
                              X