Có lẽ đôi lần Bạn tình cờ bắt gặp trên YouTube một nhạc phẩm Việt Nam nào đó với những hình ảnh minh hoạ lộng lẫy hớp hồn cuốn quyện theo nội dung bài hát mà người thực hiện mang tên NNS. Vâng, NNS hay Nguyễn Nam Sơn từ Úc Châu với "Lá Thư Úc Châu" mà hàng tuần từ nhiều năm qua đã liên tục cung cấp cho bạn bè thân hữu gần xa những công trình sưu tập độc đáo trong mọi thể loại văn, thơ, nhạc... Nhưng trên hết phải kể đến những hình ảnh quê hương đẹp tuyệt vời mà anh đã thu thập được và ghép vào những nhạc phẩm dưới hình thức PPS được kèm theo email mang tên Trang Thơ Nhạc điện tử. Từ những đoạn phim dạng pps nầy lẽ ra đã không thể xem trực tiếp trên internet đã được chuyển sang phim ngắn và post vào YouTube.
Lần lượt xin hân hạnh giới thiệu cùng quý Bạn Lá Thư Úc Châu của anh NNS, sự sắp xếp có thể không theo thứ tự thời gian, kèm theo là những nhạc phẩm do anh NNS chọn lọc đã được ông Phung Nang Tran đưa vào YouTube. Xin chân thành cám ơn anh Nguyễn Nam Sơn và Phung Nang Tran.


Lá Thư Úc Châu

Chúc Thân hữu Thân Tâm An Lạc
Trang Thơ Nhạc cuối Tuần: 22-6-2013
Nhạc: Nỗi Lòng Người Đi
Nhạc sĩ: Anh Bằng
Tiếng hát: Vũ Khanh
Tình thân,
Kính.
NNS





Bài đọc:

(1) Ts Nguyễn Hưng Quốc

Lợi dụng tự do dân chủ và lợi dụng quyền lực


Chỉ trong hơn hai tuần, chính quyền Việt Nam ra lệnh bắt khẩn cấp hai blogger nổi tiếng ở Việt Nam: bắt Trương Duy Nhất tại Đà Nẵng vào ngày 26/5 và sau đó, bắt Phạm Viết Đào tại Hà Nội vào ngày 13/6. Cả hai đều bị buộc tội “lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân" theo điều 258 Luật hình sự Việt Nam.
Trước đó, ở Việt Nam, công an và chính quyền cũng đã từng bắt bớ và kết án nhiều người với tội danh tương tự: “lợi dụng các quyền tự do dân chủ”. Tôi tò mò vào đọc lại bộ Luật hình sự Việt Nam, thấy ghi:

1. Người nào lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

2. Phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

Đọc xong, thú thực, tôi vẫn không hình dung được cụ thể cái gọi là tội “lợi dụng các quyền tự do dân chủ” ấy là như thế nào cả. Tôi sống ở Tây phương khá lâu, hiếm khi nghe đến các tội thuộc loại đó. Ở Tây phương, người ta nói nhiều đến tội lợi dụng quyền lực chứ không ai nói đến tội lợi dụng tự do dân chủ. Noam Chomsky có một cuốn sách nổi tiếng tiêu biểu cho cách nhìn ấy: Failed States: The Abuse of Power and the Assault on Democracy (Các nhà nước thất bại: Lợi dụng quyền lực và tấn công dân chủ) do Holt Paperbacks xuất bản năm 2007, ở đó, Chomsky tập trung sự phê phán vào chính phủ, chủ yếu là chính phủ Mỹ, trong việc can thiệp bằng quân sự vào nội bộ các nước khác.

Chomsky là một trí thức khuynh tả nổi tiếng vừa như một người có những suy nghĩ độc lập vừa như một người chống chính phủ (Mỹ) đến mức cực đoan, do đó, ông vừa được nể trọng vừa bị phê phán gay gắt bởi chính giới trí thức Mỹ. Tuy nhiên, điều ông nhấn mạnh hoàn toàn đúng: điều đáng lo ngại trong việc bảo vệ tự do và dân chủ không phải là vấn đề lợi dụng hay lạm dụng các quyền tự do dân chủ của dân chúng mà chính là việc lợi dụng và lạm dụng quyền lực của những kẻ cầm quyền. Có thể nói nếu bản chất của dân chủ là vấn đề phân quyền và kiểm soát quyền lực, nguy cơ lớn nhất mà mọi nền dân chủ lúc nào cũng phải đối diện là việc lợi dụng quyền lực. Nói đến nhu cầu hoàn thiện dân chủ chủ yếu là nói đến việc hoàn thiện các phương thức hạn chế các sự lợi dụng và lạm dụng ấy.
Cách nói “lợi dụng các quyền tự do dân chủ” của chính quyền Việt Nam, vốn rất xa lạ với thế giới Tây phương, vừa nghịch lý vừa vô lý.
Nó nghịch lý ở nhiều điểm. Thứ nhất, trong hoàn cảnh Việt Nam hiện nay, ai cũng biết, dân chúng không có nhiều tự do dân chủ để lợi dụng. Thứ hai, nói đến lợi dụng là nói đến giới hạn, một người bị buộc tội là lợi dụng một cái gì đó khi người ấy vượt qua khỏi cái giới hạn mà nó cho phép; tuy nhiên, tự do của mỗi người vốn lại vô giới hạn trong chừng mực nó không đụng đến tự do của người khác. Như vậy, ở đây sẽ có ba trường hợp: Một, đối với những lãnh vực hoàn toàn không có quan hệ đến người khác, đến bất cứ ai cả, tôi có quyền tự do tuyệt đối; hai, tôi phải biết dừng lại khi chạm đến biên giới của quyền tự do của người khác (ví dụ, tôi có thể nói bất cứ điều gì về tôi nhưng tôi lại không có quyền bới móc đời tư của người khác; tuy nhiên, trong trường hợp này, tôi sẽ không bị buộc tội là lợi dụng tự do của tôi mà là tội xâm phạm vào đời tư người khác hoặc làm hại đến thanh danh người khác); và ba, cái gọi là “biên giới” của tự do của mỗi người lại không phải là một cái khung cố định: một số người, khi quyết định tham gia vào chính sự, trở thành một thứ nhân vật công cộng (public figure), đã mặc nhiên tự nguyện hy sinh phần lớn cái gọi là riêng tư của mình: Với những người ấy, việc vạch trần nhiều chi tiết thuộc về đời tư, ví dụ thu nhập hay tài sản của họ hoặc gia đình họ, không còn bị xem là xâm phạm vào đời tư của nhau nữa. Trong cả ba trường hợp ấy, cái gọi là lợi dụng quyền tự do không hề hiện hữu. Thứ ba, cách nói lợi dụng dân chủ lại càng nghịch lý vì dân chủ, tự bản chất, là quyền từ dưới lên (của dân chúng đối với giới lãnh đạo qua việc bầu cử cũng như phê bình và kiểm tra), nhưng trên thực tế, về phương diện cơ cấu, lại thuộc về phía trên, ở những người cầm quyền: Chỉ có những người cầm quyền mới có thể lợi dụng dân chủ; với dân chúng, những người thấp cổ bé miệng thì vô phương.

Hơn nữa, việc lên án các hành vị lợi dụng quyền tự do dân chủ của dân chúng còn vô lý vì ở Việt Nam hiện nay, nguy cơ phổ biến và trầm trọng nhất, có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống của mọi người và vận mệnh của đất nước nhất, chính là việc lợi dụng quyền lực chứ không phải là lợi dụng tự do dân chủ. Tham nhũng: lợi dụng quyền lực. Mua quan bán chức: lợi dụng quyền lực. Đưa con cháu mình vào những chức vụ vượt quá khả năng và không đúng quy định về bổ dụng: lợi dụng quyền lực. Tạo cơ hội cho thân nhân làm giàu một cách bất chính: lợi dụng quyền lực. Trấn áp các quyền tự do căn bản và các biểu hiện căn bản của dân chủ: lợi dụng quyền lực. Chà đạp lên nhân quyền, bắt bớ những người không làm gì khác ngoài việc phát biểu ý kiến và chính kiến của mình: lợi dụng quyền lực. Khẳng định thế lãnh đạo độc tôn của đảng mình, bất chấp nguyện vọng của dân chúng, yêu cầu của dân chủ và xu hướng phát triển của nhân loại: lợi dụng quyền lực.
Ở Việt Nam hiện nay, nhìn đâu cũng thấy lợi dụng quyền lực. Quyền lực nhỏ: lợi dụng ít; quyền lực lớn: lợi dụng nhiều. Lợi dụng quyền lực từ tên công an đứng đường đến đến các bộ trưởng, các thứ trưởng, thủ tướng, chủ tịch nước và vô số những kẻ gọi là lãnh đạo chủ chốt khác. Tai họa lớn nhất mà dân chúng Việt Nam phải gánh chịu hiện nay là lợi dụng quyền lực. Nhu cầu khẩn thiết nhất để xây dựng một nước Việt Nam dân chủ và phát triển cao phải bắt đầu từ một điểm chính: hạn chế lợi dụng quyền lực.
Bắt bớ và trấn áp những người dân bình thường với tội danh “lợi dụng các quyền tự do dân chủ” là một cách lợi dụng quyền lực một cách thô bạo. Và trơ trẽn. Trơ trẽn vì nó đánh tráo khái niệm “lợi dụng”.

(2) Tưởng Năng Tiến

Văn hóa thổ tả


Nhược điểm lớn nhất của thể chế chính trị của chúng ta là gì? Là chế độ đảng trị, chuyên chế và mất dân chủ rất nặng nề.
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh

————————————-
Khi mới bước chân vào đến miền Nam, có người đã “nẩy ra” một ý tưởng (hơi) ngộ nghĩnh như sau:
“Quan sát cảnh vật và sinh hoạt của con người từ Bắc vào Nam, tôi nảy ra ý khái quát này: từ Bắc vào Nam là đi từ miền đất nghèo đến nơi giầu có, từ chỗ hàng năm hễ gặp hạn hán hay lụt lội là đói khát, đến nơi dường như sờ đâu cũng có cái ăn, cây trái, tôm cá ê hề, muốn chết đói cũng khó.
Nhưng mặt khác, đi từ Bắc vào Nam là đi từ nơi văn hoá cao đến nơi văn hoá thấp.” (Hồi Ký Của Giáo Sư Nguyễn Đăng Mạnh).
Cách “khái quát này” này đã khiến cho nhà thơ Thiếu Khanh , một người sinh trưởng ở miền Trung, buồn lòng thấy rõ:
“Đó là khẩu khí của một bậc đại trí thức ở đất kinh kỳ ngàn năm văn vật nhìn về miền đất tuổi đời non nớt mới ba trăm năm, một cách bao dung và rộng lượng, như một hoàng đế ở trung nguyên nhìn ra man di bốn cõi...”
Nói sao (nghe) đắng cay dữ dội vậy Trời ? Bắc/Nam/Trung gì cũng một nhà hết trơn mà, đúng không?
Tôi e là có đôi chút hiểu lầm giữa ông nhà thơ và ông nhà giáo thôi. Khi đưa ra nhận xét về “độ chênh” của hai nền văn hóa Bắc/Nam (chắc) ý giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh chỉ muốn đề cập đến những nét nền nã của vùng đất cũ (so với miền đất mới) chứ ông không có ý đề cao văn hoá cộng sản – hay còn gọi là văn hóa công nông, văn hóa vô sản, văn hoá A.K… – chỉ mới xuất hiện, vài chục năm qua, ở đất nước chúng ta.
Và sự hiểu lầm này – phần nào – có thể là do cái “khẩu khí” của kẻ phát ngôn (thuộc bên thắng cuộc) và cái màng nhĩ (vốn đã mỏng tang) của người buộc phải lắng nghe, bên phe thua cuộc.
Trên một chuyến tầu xuôi Nam khác, một cây bút khác, thuộc thế hệ khác, không có dính dáng chi nhiều đến chuyện thắng/thua trong cuộc chiến vừa qua, đã ghi lại tỉ mỉ một mẫu đối thoại của hai người đồng hành, cùng với nhận xét (rất) khác về văn hoá Bắc/Nam:
- Tên chị là gì? - Thưa em tên Mơ.
- Mơ gì? Mộng mơ hay quả mơ? - Tùy, ai muốn hiểu thế nào thì hiểu…
- Quê quán ở đâu vậy? - Em ở Thạch Thất, Hà Tây.
- Chị công tác ở cơ quan nào? - Thưa, ở ty Văn Hóa Thông Tin Hà Sơn Bình.
- Chắc chưa vào Ðảng…? - Vâng, em mới phấn đấu ở cương vị đoàn…
- Chị lập gia đình chưa? - Em chưa lập, nhưng đối tượng thì có rồi!
- Các cụ nhà ta còn cả chứ? - Vâng, thầy u em vẫn còn.
- Gia đình được mấy anh chị em nhỉ? - Thưa, được tám cả thảy…
- Chị đi đâu mà hành lý cồng kềnh thế này?
“Nơi em về trời xanh không em…?” Bên này vĩ tuyến 17 không có một câu hỏi thơ mộng, lãng mạn như vậy … Vì vậy những lời yêu đương được mở đầu bằng “Ðồng chí công tác ở cơ quan nào ?” (Thế Giang. Thằng Người Có Đuôi. Westminster, CA: Nguời Việt, 1987).
Chúng ta, tất nhiên, cũng “không nên” chỉ vì vài câu đối thoại (ghi trên) mà lại “nẩy ra cái ý khái quát” ngược lại rằng “đi từ Bắc vào Nam là đi từ nơi văn hoá thấp đến nơi văn hoá cao” – nơi mà người ta gặp nhau chỉ để hỏi (chơi) xem: - Bây giờ tháng mấy rồi hỡi em?
Hay: - Anh đi về đâu mà bụi đường vương trên mái tóc?
Sau một niên học, hay một trại hè – không chừng – dám có những những câu hỏi sát sườn hơn nhưng tuyệt đối vẫn không liên quan gì (ráo) đến lý lịch của nhau: - Anh ơi nếu mộng không thành thì sao?
Nói tóm lại, và nói nào ngay, là thái độ sống nghi kỵ, dò xét không thuộc vô cái nền văn hóa (chết tiệt) nào hết trơn hết trọi – của cả bốn miền, tính luôn miền núi. Hoặc giả, nếu có, đó cũng chỉ là cái thứ văn hóa chi bộ, văn hoá đảng ủy,văn hoá lý lịch, văn hoá công an, văn hóa điềm chỉ, hay nói tóm lại là là văn hóa đảng trị mà thôi.
Tôi không tin rằng giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh có chút (xíu xiu) nào thích thú hay hãnh diện gì về cái loại văn hoá thổ tả này, vì chính ông cũng đã (đôi lần) suýt bị “gay go” với nó:
“Vào năm 1983, tôi còn bị đánh một trận nữa. Người ta đánh một bài viết của tôi chưa hề được công bố. Hồi ấy cuộc xung đột ta với Tầu ở biên giới còn nóng hổi. Anh Nguyên Ngọc vừa ở chiến trường ra, được đề bạt làm bí thư đảng đoàn Hội nhà văn, chủ trương làm một cuộc cách mạng trong đời sống văn học, đặc biệt là chống Maoít.
Hôm ấy nhân có một cuộc họp của giới lý luận phê bình văn học ở trụ sở báo Văn nghệ, Nguyên Ngọc và Nguyễn Khải đến hô hào chúng tôi dũng cảm nói sự thật, đảm bảo không sợ bị ‘tai nạn lao động’. Một số người phát biểu hưởng ứng, trong đó có Hoàng Ngọc Hiến và tôi. Thấy ý kiến nghe được, anh Từ Sơn ở báo Văn nghệ đề nghị viết thành bài để đăng báo.
Bài của Hiến chính là bài ‘hiện thực phải đạo’ nổi tiếng, được coi như mở đầu cuộc đổi mới văn học. Bài đăng được ít lâu thì bị phê phán quyết liệt cùng với bản Đề cương của Nguyên Ngọc.
Vì thế bài của tôi đã lên khuôn vội rút về. Nhưng nhiều người cứ đồn bài này còn táo tợn hơn cả bài của Hiến, và lời đồn đại này cứ lan rộng mãi. Hoàng Trung Thông lúc bấy giờ là Viện trưởng viện văn học phát biểu trong một cuộc hội nghị ở Viện, nói tôi đã đối lập tư tưởng chính trị với tư tưởng Văn nghệ.
Chuyện này tôi chẳng quan tâm làm gì nếu không liên quan đến kỳ phong học hàm phó giáo sư của tôi lúc bấy giờ. Hồi ấy, người đăng ký phong học hàm, trước khi được đưa ra bầu bán về chuyên môn, phải thông qua đảng uỷ của cơ quan công tác về tư tưởng. Trường hợp của tôi trở thành gay go vì tiếng đồn về bài viết của tôi đã vang đến đảng uỷ trường đại học Sư phạm và đảng bộ khoa văn.”
1983 – 2013: hơn một phần tư thế kỷ đã qua, cả đống nước sông, nước suối, nước mắt, nước mưa – cùng với vô số máu lệ – đã (ào ạt) tuôn ngang qua cầu và qua cống. Tuy vậy, cái thứ văn hoá phong chức thì vẫn còn nguyên vẹn (ở trường Đại Học Sư Phạm, Hà Nội) theo như tường thuật của Nhóm Phóng Viên Điều Tra, thuộc báo Người Cao Tuổi.
Đây là một bài tường trình rất dài, vô cùng luộm thuộm vì quá nhiều điệp ngữ cũng như điệp ý, được đăng thành nhiều kỳ từ hôm 22 đến 30 tháng 5 năm 2013 (và đã được in lại trên trang Dân Luận, vào ngày 1 tháng 6) nhưng chỉ cần xem qua vài câu, trong phần kết luận, người đọc vẫn có thể hiểu được khái quát vấn đề:
“Hội đồng phong giáo sư Ngành Vật lý gồm các giáo sư danh tiếng đầu ngành đã loại ứng viên Nguyễn Văn Minh khỏi danh sách phong chức danh Giáo sư, vì ông Minh không thể là nhà khoa học chân chính, khi ‘man khai, thiếu trung thực’ vi phạm đạo đức nhà giáo, có dấu hiệu vi phạm pháp luật…. Bản lí lịch bí ẩn của gia đình, ông Minh cố tình che dấu, đã bị lộ rõ có 2 thế hệ (4 người) tham gia nguỵ quân nguỵ quyền phản cách mạng.”
Sự việc rõ ràng, đã đến lúc Bộ GD&ĐT cần nhanh chóng xem xét lại có nên để ông Minh làm Hiệu trưởng Trường ĐHSP Hà Nội, thậm chí ông Minh không xứng đáng đứng trong hàng ngũ của Đảng Cộng sản Việt Nam vì man khai lí lịch.”
Ông Minh, phen này, chắc chết – chết chắc. Nếu may mà sống sót e cũng khó có thể hết ngóc đầu lên nổi. Cụm từ này (“ngóc đầu lên nổi”) tôi cóp lại từ phản hồi của một độc giả, với bút danh TM 1111, bên dưới bài viết (“Trường Đại học Sư phạm Hà Nội: Gian dối trong hồ sơ tranh cử Hiệu trưởng của PGS,TS Nguyễn Văn Minh”) trên trang Dân Luận:
“Chiến tranh huynh đệ tương tàn đã kết thúc gần 40 năm. Nhà nước VN vẫn ra rả ngày từ ngày đầu về chính sách hòa hợp hòa giải dân tộc. Nếu đến năm 2013 mà cách xét hồ sơ xem một người trí thức có thể đảm nhiệm chức vụ hiệu trưởng một trường ĐH để phục vụ đất nước vẫn phải quyết liệt phân biệt địch-ta bạn-thù, vẫn phải soi mói, sắt máu và sùng sục căm thù, vẫn phải truy tìm từng người bà con thân thuộc xem có người nào là ngụy quân, ngụy quyền, ác ôn, nợ máu, v.v., thì đất nước này làm sao có thể ngóc đầu lên nổi?”. Ủa, có ai nói gì đến chuyện “đất nước này … ngóc đầu lên nổi” hồi nào đâu, cha nội? Chỉ có ông Tiến Sĩ Vũ Minh Khương nói thế này thôi, và cũng đã lâu rồi: “Khó khăn trong quyết định của mỗi người chúng ta hôm nay không phải là làm cách gì để đất nước tiến lên mà là làm gì để chúng ta không lùi tiếp nữa, bởi đường lùi của chúng ta còn rộng rãi thênh thang lắm.”
Với chế độ hiện hành, cùng với nền văn hoá đảng trị hiện nay – có lẽ – ngay cả đến bác Hồ cũng không biết làm cách nào để “chúng ta không lùi tiếp nữa.” Dù sao, vẫn còn điều may mắn là “đường lùi của chúng ta còn rộng rãi thênh thang lắm.” Giời ạ!

(3) Thơ
Luân Hoán


Năm 2008 tôi ấn hành tập Em Từ Lục Bát Bước Ra, đây là một trường thiên lục bát, cũng có thể gọi là trường ca, theo xếp loại của nhà thơ Đỗ Quyên. Ngoài đoạn mở và kết, phần giữa ở mỗi cụm 4 câu, tôi chọn lựa một số từ lẫn quí danh của nhiều thi, họa, nhạc sĩ, điêu khắc gia, nhiếp ảnh gia, ca sĩ... ghép vào câu thơ. Làm thơ kiểu này giống như một trò chơi. Thú vị ở chỗ được sống cùng với xúc cảm, tư tưởng của nhiều người. Sau tập thơ, tôi còn thấy tiếc câu Em Từ Lục Bát Bước Ra của Lê Hân, nên bày ra chuyện rủ các bạn khác cùng góp tay cho vui. Cách tham gia đơn giản: dùng câu Em Từ Lục Bát Bước Ra làm câu mở đầu và tùy nghi viết 3 câu tiếp hoặc nhiều câu tiếp. Kết quả thật khả quan, 42 tác giả khắp năm châu, kể cả Việt Nam đã gưởng ứng. Bài tập họp này chưa được in ấn thành sách, tôi đã giới thiệu trên Vuông Chiếu và trang Saimonthidan có phổ biến tiếp. Hôm nay, xin được tái giới thiệu với lời mời rộng rãi đến các bạn đọc xa gần, mong quí bạn cùng vui vẻ tham gia. Lục Bát được gọi là thể thơ dân tộc, mỗi người chúng ta, đều có thể viết được, các bạn đừng e ngại, thử dạn tay một lần mua vui. (chúng ta không phân biệt bất cứ ai).

Em từ lục bát bước ra
.... (mời viết tiếp vào đây)....

Những đoạn viết của quí bạn, xin gởi về cho chúng tôi qua email: lebao_hoàng@yahoo.com Chúng tôi sẽ giới thiệu sau mỗi tuần, đầy đủ. Cách chơi làm thơ tập thể này, chúng tôi nghĩ rất thú vị, giống như dịp thư giãn vậy.

Để quí bạn sớm hứng thú, xin mời đọc những đoạn đã đóng góp của các anh chị:


em từ lục bát bước ra
lạc cửa lạc nhà lạc chợ lạc sông
phất phơ phơ phất cỏ bồng
biết ai ai biết có không dặm về
Nam Chi (Đặng Tiến), Orleans, France 18-12-2008

em từ lục bát bước ra
liến ngang ngó dọc bắt tà ma anh
câu thơ con chữ loanh quanh
còn anh trốn giữa xuân xanh em rồi ?
Song Thao, Montréal Canada

em từ lục bát bước ra
bỏ xiêm áo, hái bông hoa vô thường
eo ôi, cái cõi đoạn trường
ngựa hoang vó đạp đứt cương một đời
gió ơi cơn gió lưng trời...
Nam Dao, Québec Canada

em từ lục bát bước ra
dáng thanh tân rộ chút tà huy bay
mở lòng ra giữa cõi này
đón em nguyệt lặn sương bay tối trời
Phan Xuân Sinh, W.Tawakoni USA

em từ lục bát bước ra
ngày ta quýnh quáng la cà cùng thơ
hỡi ơi sáu, tám cơ đồ
vì đâu biến dạng vào thô nhám này
giờ chim vẫn hót trên cây
hay thanh đã nghẹn giữa bầy chia xa
kêu thương vọng tiếng hằng hà
cho sáu tìm tám mặn mà thủy chung
Hoàng Xuân Sơn, Laval Canada

em từ lục bát bước ra
ham nhìn, quên nặn màu ra vẽ rồi
thì thôi, đợi lúc em ngồi
đừng quên vén yếm rạng ngời dáng em
hs Đinh Cường, Virginia USA

em từ lục bát bước ra
còn anh ở cõi ta bà ngó vô
em từ lục bát bước ra
hiên sân anh đã mùa hoa cải vàng
Hoàng Lộc, USA

em từ lục bát bước ra
hồn nghiêng lật sấp theo tà nắng xiêu
chênh chao tôi nhập bóng chiều
theo em lặng lẽ nắm liều câu thơ
vịn tay nâng dắt ven bờ
tôi loay hoay với hững hờ em trao
đến khi nắng biết phai màu
mới hay tôi đã úa sầu từ khi
Quan Dương, USA

em từ lục bát bước ra
ngẩn ngơ lối gió nắng sà ngõ mây
tóc bồng rối cả ngàn cây
nghe xưa rụng cả tháng ngày xanh xao
Mạc Phương Đình, USA

em từ lục bát bước ra
trăng khuya chưa dậy tiếng gà lạnh sương
nửa trời đông chí nam phương
đã nghe xuân một hào dương trở về
Trần Huiền Ân,Tuy Hòa Việt Nam

em từ lục bát bước ra
bóng em nghiêng xuống bóng ta cuối ngày
ta hồn nhiên mở vòng tay
ôm ngang, chiếc bóng đã bay mất rồi
buồn vào bảy chữ dạo chơi
gặp em đứng đó mỉm cười vu vơ
bàn tay em thả câu thơ
cong năm ngón lại thành tờ ngũ ngôn
Trần Mộng Tú, USA

em từ lục bát bước ra
vẫn ta xuôi ngược bôn ba đường trần
mộng nào chẳng mộng phù vân
yêu em ta đã một lần ngu si
Sương Mai, Fair Oaks California USA

em từ lục bát bước ra
lòng xưa hóa mới tình xa hoa gần
câu thơ nào cũng sang xuân
cánh hoa nào cũng dành phần sớm mai
tóc tơ nuôi mộng đêm dài
gừng cay muối mặn nối bài ca dao
khi cùng đăm đắm nhìn nhau
em thành ánh sáng ngấm vào mắt anh
Thiếu Khanh, Sài Gòn

em từ lục bát bước ra
vườn không bỗng nở trăng và dáng thơ
từ em lục bát bước vô
nhân gian chợt ảo bên bờ thiên thu
Phạm Nhã Dự, USA

em Từ Lục Bát Bước Ra
bỏ đi có nhớ thơ ta thơ mình
ơi chàng Luân Hoán đa tình
đã nghe lòng nhớ bóng hình kim lan ?
ơi chàng Luân Hoán đa đoan
mau tìm trả lại bóng nàng vào thơ
kẻo nàng thơ khóc bây giờ ….
Trần Hoan Trinh, Đà Nẵng Việt Nam

Em từ lục bát bước ra
Làm ta lính quýnh bể cha cái bình
đang khi thí nghiệm, thiệt tình
khổ thân ta...ngồi một mình buồn hiu
Nguyễn Nam Sơn, Úc Châu
( Thơ lục bát (con cóc) của NNS, xin Anh Luân Hoán châm chế..hi..hi..)

.................................................. .................................................. .................................
Kính.
NNS