PDA

View Full Version : Bạch Mã



Pages : [1] 2

thanphongkingwood
06-26-2013, 01:21 AM
Thân chào anh Bạch Mã

Anh tên Bạch Mã cưỡi ngựa hồng
Rán chiều đỏ ối ở ven sông
Phi ngựa về đâu chàng kỵ mã
Hoàng hôn ngả bóng có buồn không

nguyenphuong
06-26-2013, 09:13 AM
Bạch Mã dặm đường qui cố hương
Nao lòng nên chẳng quản đường trường
Quê nhà vợ ngóng Cha mòn mỏi
Bóng tối dù đen vẫn thấy thường
NP

DnThuy
06-26-2013, 12:01 PM
Thân chào anh Bạch Mã

Anh tên Bạch Mã cưỡi ngựa hồng
Rán chiều đỏ ối ở ven sông
Phi ngựa về đâu chàng kỵ mã
Hoàng hôn ngả bóng có buồn không

Yên Sơn ( Thần Phong Kingwood )

*********

Mến chào anh Yên Sơn.

Còn anh Yên Sơn! Có yên lòng ???
Bởi chôm " sợi tóc " phải long đong !...
Tóc quấn toàn thân, nên đời khổ….
Thần Phong ! Thần Phục có buồn không !?

Thủy Tiên ( Lệ Tâm )

Một nụ cười = 10 thang thuốc bổ .

Thần Phong = Thần bí = Thần nông = Thần tài = Thần thoại vv…
Cuối cùng là Thanphongkingwood .
Anh Bạch Mã noái : TT ui ! cứu bồ “ Help me ! “ …. Anh TPKW làm thơ
Chọc ghẹo anh kìa !...nhưng anh chỉ biết post nhạc, bắn cung và cưỡi ngựa hồng thôi ! ( Hic hic hic )

- Anh TPKW thấy anh BM hiền lành! định ăn hiếp hỉ ??? " Hổng dám đâu ! "

Thủy Tiên.

thanhcanh
06-26-2013, 12:54 PM
Thân chào anh Bạch Mã

Anh tên Bạch Mã cưỡi ngựa hồng
Rán chiều đỏ ối ở ven sông
Phi ngựa về đâu chàng kỵ mã
Hoàng hôn ngả bóng có buồn không

Yên Sơn

Yên Sơn hùng vĩ rực ánh hồng
Vầng dương soi bóng nước dòng sông .
Bạch Mã dặm dài tìm tri kỷ
Thanphongkingwood thấu tình không ?

Bạch Mã

Hoàng hôn ngả bóng cuối trời xa
Bạch Mã thong dong bước hào hoa.
Đường trường thăm thẳm không biết mỏi
Mơ bóng mỹ nhân chốn quê nhà .

thanhcanh

BachMa
06-26-2013, 08:02 PM
Thân chào anh Bạch Mã

Anh tên Bạch Mã cưỡi ngựa hồng
Rán chiều đỏ ối ở ven sông
Phi ngựa về đâu chàng kỵ mã
Hoàng hôn ngả bóng có buồn không

thanphongkingwood

:40:

Bạch Mã đang quay về cố hương
Nao lòng nên chẳng thiết đường trường
Quê nhà vợ ngóng Cha mòn mỏi
Đêm dù có tối vẫn xem thường

NP

:40:

Mến chào anh Yên Sơn.

Còn anh Yên Sơn! Có yên lòng ???
Bởi chôm " sợi tóc " phải long đong !...
Tóc quấn toàn thân, nên đời khổ….
Thần Phong ! Thần Phục có buồn không !?

Thủy Tiên ( Lệ Tâm )

:40:

Thân tặng hai anh Yên Sơn và Bạch Mã

Yên Sơn

Yên Sơn hùng vĩ rực ánh hồng
Vầng dương soi bóng nước dòng sông .
Bạch Mã dặm dài tìm tri kỷ
Thanphongkingwood thấu tình không ?

Bạch Mã

Hoàng hôn ngả bóng cuối trời xa
Bạch Mã thong dong bước hào hoa.
Đường trường thăm thẳm không biết mỏi
Mơ bóng mỹ nhân chốn quê nhà .

thanhcanh

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1368588019.gif


http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1372275488.gif
http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1372299902.jpg

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1372275570.mp3

thanphongkingwood
06-26-2013, 08:34 PM
http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1368588019.gif

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1372277142.jpg



Lên xe ngồi ở chỗ nào
Không khéo ngồi lộn chỗ đào người ta
Ba O xinh đẹp như hoa
Chỗ mô cũng muốn ngồi sà xuống ngay

Anh Bạch Mã ơi ời!
Thấy hình chụp nhớ Đơn Dương
Xưa kia để lại người thương giữa rừng
Tang điền, thương hải đã từng
Những khi trực nhớ lòng bâng khuâng buồn!

Cám ơn 3 O hưởng ứng chiến dịch hạch tội anh BM. Tiếp đi nghe!

DnThuy
06-26-2013, 09:17 PM
Lên xe ngồi ở chỗ nào
Không khéo ngồi lộn chỗ đào người ta
Ba O xinh đẹp như hoa
Chỗ mô cũng muốn ngồi sà xuống ngay

Anh Bạch Mã ơi ời!
Thấy hình chụp nhớ Đơn Dương
Xưa kia để lại người thương giữa rừng
Tang điền, thương hải đã từng
Những khi trực nhớ lòng bâng khuâng buồn!

Cám ơn 3 O hưởng ứng chiến dịch hạch tội anh BM. Tiếp đi nghe!

Anh TPKW ơi !

Xe ni hổng phải xe hoa !
Yên Sơn cứ việc ngồi sà xuống đi.
Bạch Mã anh cả ngại gì !?
Đắc đào! Đắc đạo đôi khi cũng nhầm !
Bạch Mã hiền hậu chân tâm.
Xin ai chớ có hiểu lầm tổn thương!
Gió chiều xào xạc Đơn Dương .
Nhìn hình bỗng nhớ người thương năm nào !?
Bâng khuâng hồn chợt xuyến xao.
Hoàng hôn ngả bóng lòng nao nao buồn !

Thủy Tiên.

thanhcanh
06-26-2013, 10:55 PM
[CENTER]

Lên xe ngồi ở chỗ nào
Không khéo ngồi lộn chỗ đào người ta
Ba O xinh đẹp như hoa
Chỗ mô cũng muốn ngồi sà xuống ngay

Anh Bạch Mã ơi ời!
Thấy hình chụp nhớ Đơn Dương
Xưa kia để lại người thương giữa rừng
Tang điền, thương hải đã từng
Những khi trực nhớ lòng bâng khuâng buồn!

Cám ơn 3 O hưởng ứng chiến dịch hạch tội anh BM. Tiếp đi nghe!


Anh Tư đã chọn chỗ gồi ( tui thấy gõ gàng trên xe đó !)
Mà còn giả bộ : biết ngồi chỗ mô?
Hay muốn ngồi giữa ...các cô ?
Coi chừng BM đá giò lái chỏng chơ bi giờ !

TC

hieunguyen11
06-26-2013, 11:29 PM
Kiếp sau không muốn làm người
Làm con Bạch Mã được đời mến thương
Đưa người yêu khắp muôn phương
Lên thăm đồi nhớ vào rừng ái ân
Đường xa nhưng thấy thật gần
Đêm về đôi bóng bên vầng trăng mơ

HN11

DnThuy
06-27-2013, 12:17 AM
Kiếp sau không muốn làm người
Làm con Bạch Mã được đời mến thương
Đưa người yêu khắp muôn phương
Lên thăm đồi nhớ vào rừng ái ân
Đường xa nhưng thấy thật gần
Đêm về đôi bóng bên vầng trăng mơ

HN11



Cám ơn 3 O hưởng ứng chiến dịch hạch tội anh BM. Tiếp đi nghe!

Ganh tỵ !!!

Anh tôi thành thật lại nhu hòa .
Vô tư, vô tội chỉ hát ca.
Lành như ông bụt! ai kia nỡ !….
Hạch tội anh tôi rõ thiệt là!? …( Kiếm chiện ! )

Dzậy mà dám bảo " thiện tai " ư !?
Yên Sơn am tự! một " Thiền sư "
Thấy anh Bạch Mã được thương mến !
Thần Phong coi bộ …muốn gầm gừ ! ( hì hì ! )

Thêm ông Hiếu Nguyễn tưởng giỡn chơi!
Kiếp sau nhất định hổng làm người !!!
Làm con Bạch Mã nằm nhai cỏ. ( cỏ non )
Tứ túc rã rời ! thế mà dzui ……..

Thủy Tiên.


Anh TPKW & HN11 ơi !
Chỉ là giỡn cho dzui đó nha!!!

TT hổng có noái thiệt !xin đừng giận !

:ukliam2::ukliam2::ukliam2::52::52:

thanhcanh
06-27-2013, 01:04 AM
Siêu quậy Thủy Tiên ui !

Thiền sư TPKW tu hành, tu tỏi , tu hú , tu hù ...ngài sắp đắc đạo , đắc đào rồi nên mới hiền lành,từ bi rứa (!), chứ Lão ni ta thì :
" Ăn thua đủ khi Phật ngủ , giả vờ cú rủ khi Phật dậy !" đó nghe !!!!

hihihi!
hahaha!

Ni cô Sầu Muộn

BachMa
06-27-2013, 01:10 AM
Siêu quậy Thủy Tiên ui !

Thiền sư TPKW tu hành, tu tỏi , tu hú , tu hù ...ngài sắp đắc đạo , đắc đào rồi nên mới hiền lành,từ bi rứa (!), chứ Lão ni ta thì :
" Ăn thua đủ khi Phật ngủ , giả vờ cú rủ khi Phật dậy !" đó nghe !!!!

hihihi!
hahaha!

Ni cô Sầu Muộn

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1368588187.gif

BachMa
06-27-2013, 03:54 AM
Kiếp sau không muốn làm người
Làm con Bạch Mã được đời mến thương
Đưa người yêu khắp muôn phương
Lên thăm đồi nhớ vào rừng ái ân
Đường xa nhưng thấy thật gần
Đêm về đôi bóng bên vầng trăng mơ

HN11

Anh ơi (HN11) đừng thấy mà ham
Lưng đau, đầu nhức (xem hình biết liền) than van cả ngày
Bi Em (BM) lỡ dại kiếp này
Kiếp sau xin được như ngày anh đây
Thằng em nào có gì hay
Chẳng qua là kiếp đọa đày (bị đày làm thân ngựa mờ) anh ơi!!

BM
(chỉ vui thôi nha anh HN11)

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1372305025.jpg

hieunguyen11
06-27-2013, 06:24 AM
http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1372305025.jpg

Ước gì làm ngựa bạch này
Cho em cỡi suốt cả ngày cũng vui
Chạy tới rồi lại chạy lui
Chạy băng qua suối, chạy xuôi xuống hồ
Chạy qua đồi núi nhấp nhô
Xuyên qua vực thẳm, chạy vô rừng già

HN11

nguyenphuong
06-27-2013, 07:00 AM
Ước gì làm ngựa bạch này
Cho em cỡi suốt cả ngày cũng vui
Chạy tới rồi lại chạy lui
Chạy băng qua suối, chạy xuôi xuống hồ
Chạy qua đồi núi nhấp nhô
Xuyên qua vực thẳm, chạy vô rừng già

HN11

Hai ơi ! đừng có mà ham....
Như con mã nọ Hai kham được nào?
Suốt ngày Hai phải ra vào....
Núi đồi,vực thẫm , rừng sâu chập chùng...
Thân Hai rồi sẽ dính bùn ( đen thui)
Gọi là Ô mã đen mun còn gì ?
Rồi Hai chạy được mấy khi...?
Hay Hai ngã quỵ còn chi thân ....chàng?????
NP

thanphongkingwood
06-27-2013, 02:24 PM
Chỗ ngồi trên xe ông Bạch Mã:

Trên xe có mấy chỗ ngồi
Bên phải đã có một đôi điệu đàng
Đằng sau, bên trái một nàng
Áo may thiếu vải trông càng xinh hơn
Phía trước, môi mắt như hờn
Chiếc áo bị rách nhưng còn bảnh bao
Lúng túng không biết làm sao
Ngồi xuống chỗ trống... úi chao... ngượng ngùng!
Ngượng ngùng tim đập thùng thùng
Con gió quái ác thổi lùng bùng tai
Tẻng tò xin lỗi cô Hai!

Thấy ngựa Hiếu Nguyễn ngon lành
Đưa lưng đỡ tấm chơn tình... úi a
Nhìn người lại nghĩ đến ta
Chọn chỗ ngồi cũng lúng túng chắc khó qua đoạn đường dài!!!

DnThuy
06-27-2013, 06:20 PM
Chỗ ngồi trên xe ông Bạch Mã:

Trên xe có mấy chỗ ngồi
Bên phải đã có một đôi điệu đàng
Đằng sau, bên trái một nàng
Áo may thiếu vải trông càng xinh hơn
Phía trước, môi mắt như hờn
Chiếc áo bị rách nhưng còn bảnh bao
Lúng túng không biết làm sao
Ngồi xuống chỗ trống... úi chao... ngượng ngùng!
Ngượng ngùng tim đập thùng thùng
Con gió quái ác thổi lùng bùng tai
Tẻng tò xin lỗi cô Hai!

Thấy ngựa Hiếu Nguyễn ngon lành
Đưa lưng đỡ tấm chơn tình... úi a
Nhìn người lại nghĩ đến ta
Chọn chỗ ngồi cũng lúng túng chắc khó qua đoạn đường dài!

Thanphongkingwood ( Yên Sơn )

**********

Yên Sơn đi nhờ xe .

Trên xe còn dư chổ ngồi.
Bạch Mã tốt bụng bèn mời Yên Sơn.
Đây là người bạn mới quen.
Thi nhân, tao nhã đáng khen muôn phần.
Đến khi xích lại ngồi gần.
Nhìn ngang! liếc dọc ! muôn phần khó ưa .
A Di Đà Lạt xin chừa !
Bề ngoài nho nhã xin thưa vẫn lầm!
Nhìn áo thiếu vải chằm chằm !
Nếu không sao biết " trông càng xinh hơn " !?
Phía trước, môi mắt như hờn!
Hay tim ai đó! Từng cơn sóng nhồi ( !? )
Lúng túng rồi lại bồi hồi!
Thì ra " Sư phụ " đứng ngồi hổng yên !
Đi nhờ xe…thiệt là phiền!
Tâm tư xao động đảo điên lòng thầy !

Thủy Tiên.

Thiện tai! Thiện tai ! A Di Đà Lạt …..

:icon_banana::icon_banana::icon_banana::103:

BachMa
06-27-2013, 06:37 PM
Hai ơi ! đừng có mà ham....
Như con mã nọ Hai kham được nào?
Suốt ngày Hai phải ra vào....
Núi đồi,vực thẳm , rừng sâu chập chùng...
Thân Hai rồi sẽ dính bùn ( đen thui)
Gọi là Ô mã đen mun còn gì ?
Rồi Hai chạy được mấy khi...?
Hay Hai ngã quỵ còn chi thân ....chàng?????
NP:40:


Dính bùn sao bảo ngựa Ô !
O ơi! O nói Ngựa mô rứa tề ?

Anh Hai (HN11) ảnh chẳng có nề,
Vượt đèo, vượt suối, không hề chi mô.

Hay là O nói xe tăng?
Anh Hai ảnh lái loanh quanh trong rừng.
Băng rừng thì phải dính bùn,
Núi đồi, vực thẳm, chập chùng có sao!

O ơi! sao nói não nùng,
Bây giờ Ngựa thấy lùng bùng lổ tai.
Ngựa này nói tự sớm mai,
O ơi! O mở một bài nha O!!
Nhé O, O nhé....O nè!!
Hông thì Ngựa khóc, Ngựa nhè cho xem!!
BM

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1372357904.jpg

thanphongkingwood
06-28-2013, 12:40 AM
Hai ơi ! đừng có mà ham....
Như con mã nọ Hai kham được nào?
Suốt ngày Hai phải ra vào....
Núi đồi,vực thẫm , rừng sâu chập chùng...
Thân Hai rồi sẽ dính bùn ( đen thui)
Gọi là Ô mã đen mun còn gì ?
Rồi Hai chạy được mấy khi...?
Hay Hai ngã quỵ còn chi thân ....chàng?????

NP:40:



O nì tui noái O nghe
Băng đồi vượt suối là nghề của Hai
Ra vô vẫn mạnh dài dài
Không tin thử... hỏi anh Hai lại tề
Dẫu tăng hay ngựa chẳng nề
Xưa răng nay rứa... khỏi chê... dễ gì

Hihihi!!!

nguyenphuong
06-28-2013, 09:42 AM
http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1372277142.jpg

Lên xe ngồi ở chỗ nào
Không khéo ngồi lộn chỗ đào người ta
Ba O xinh đẹp như hoa
Chỗ mô cũng muốn ngồi sà xuống ngay
TPKW

Chuyến xe thổ mộ thong dong
Ba cô tiên nữ lại... giông xuống trần.!!
Tìm ra ba bộ áo quần..( P trộm đó)
Model hết cở có phần hở hang.
Quần thì ngắn ngủn cắt ngang..
Làn da sợ nắng đổi sang đen xì.
Chọn ba nón Huế giống y,
Mới trông tưởng nấm linh chi...vậy nà..
Hai Tiên mặt tựa như hoa
Thêm đôi mắt kính... chu choa là ngầu..
( Đó là Tiên cả TC và Út Tiên TT)

NP

thanphongkingwood
06-29-2013, 06:22 AM
Ba cô tiên nữ lại... giông xuống trần.!!
Tìm ra ba bộ áo quần..( P trộm đó)
...................
( Đó là Tiên cả TC và Út Tiên TT)

NP
Bộ trên trời Tiên không mặc gì ráo
Nên xuống trần chôm quần áo người ta
Cái này O noái đó nha
Đừng nói tui méo mó rồi la... mất tinh thần!

Như như vậy thì:
Kiếp sau tui chẳng về trần
Không mơ làm ngựa (như anh Hiếu Nguyễn), xe tăng, tàu bò
Tiên cảnh hạnh phúc ấm no
Chẳng lo gạo mắm, không lo áo quần
Ngắm bạn bè, nghía người dưng
Không cần coi chừng bà quận nhéo tai
Hai ơi Hai hỡi là Hai
Có theo thí noái.... thiện tai! Thiệt tình!

Có người nhắn với tui là các siêu sao nghi ngờ khả năng làm thơ của chàng BM. BM ơi cứ tiếp tục cho bà con lé mắt chơi nha! Cũng bời "chỉ là vui thôi" nên tui mang anh ra làm đề tài cho các ACE có cơ hội mang niềm vui đến cho mọi người. Dẫu chưa quen mà đã phá nhau xin anh thông cổm, thông cổm!
Chúc mọi người có một cuối tuần vui vẻ/.

TPKW

thanhcanh
06-29-2013, 07:03 AM
Bộ trên trời Tiên không mặc gì ráo
Nên xuống trần chôm quần áo người ta
Cái này O noái đó nha
Đừng nói tui méo mó rồi la... mất tinh thần!

Như như vậy thì:
Kiếp sau tui chẳng về trần
Không mơ làm ngựa (như anh Hiếu Nguyễn), xe tăng, tàu bò
Tiên cảnh hạnh phúc ấm no
Chẳng lo gạo mắm, không lo áo quần
Ngắm bạn bè, nghía người dưng
Không cần coi chừng bà quận nhéo tai
Hai ơi Hai hỡi là Hai
Có theo thí noái.... thiện tai! Thiệt tình!

Có người nhắn với tui là các siêu sao nghi ngờ khả năng làm thơ của chàng BM. BM ơi cứ tiếp tục cho bà con lé mắt chơi nha! Cũng bời "chỉ là vui thôi" nên tui mang anh ra làm đề tài cho các ACE có cơ hội mang niềm vui đến cho mọi người. Dẫu chưa quen mà đã phá nhau xin anh thông cổm, thông cổm!
Chúc mọi người có một cuối tuần vui vẻ/.

TPKW


Sao không mặc gì ráo ?
Tiên cô khoác mây trời.
Nên khi trốn xuống đời
Phải chôm đồ trần thế.

Ai ơi ! xin nói khẽ !
Hoàng tử Bạch Mã buồn.
Tài thơ như hoa nụ
Đang bắt đầu tỏa hương.

Cô Hai là tiên Phượng
Muốn gì ? Nói dzới tui !
Thay tía , tui xuống thế
Đến Yên Sơn làm sui !!!!!

Tiên cả TC

hieunguyen11
06-29-2013, 07:10 AM
Bộ trên trời Tiên không mặc gì ráo
Nên xuống trần chôm quần áo người ta
Cái này O noái đó nha
Đừng nói tui méo mó rồi la... mất tinh thần!

Như như vậy thì:
Kiếp sau tui chẳng về trần
Không mơ làm ngựa (như anh Hiếu Nguyễn), xe tăng, tàu bò
Tiên cảnh hạnh phúc ấm no
Chẳng lo gạo mắm, không lo áo quần
Ngắm bạn bè, nghía người dưng
Không cần coi chừng bà quận nhéo tai
Hai ơi Hai hỡi là Hai
Có theo thí noái.... thiện tai! Thiệt tình!

Có người nhắn với tui là các siêu sao nghi ngờ khả năng làm thơ của chàng BM. BM ơi cứ tiếp tục cho bà con lé mắt chơi nha! Cũng bời "chỉ là vui thôi" nên tui mang anh ra làm đề tài cho các ACE có cơ hội mang niềm vui đến cho mọi người. Dẫu chưa quen mà đã phá nhau xin anh thông cổm, thông cổm!
Chúc mọi người có một cuối tuần vui vẻ/.

TPKW

Trên trời đâu có gì vui
Whisky, rượu chát, bê thui dưới trần
Beer ôm khắp chốn xa gần
Hoa khôi, hoa hậu, mỹ nhân đưa tình
Các cô tiên nữ cung đình
Quần dài áo rộng thùng thình kín thân
Thức ăn chẳng có gì ăn
Cải chao rau muống trộn măng nấu xào
Anh nên nghĩ lại đi nào
Thơ hay dưới thế nhiều đào mê say

HN11

nguyenphuong
06-29-2013, 08:19 AM
Bộ trên trời Tiên không mặc gì ráo
Nên xuống trần chôm quần áo người ta
Cái này O noái đó nha
Đừng nói tui méo mó rồi la... mất tinh thần!

Như như vậy thì:
Kiếp sau tui chẳng về trần
Không mơ làm ngựa (như anh Hiếu Nguyễn), xe tăng, tàu bò
Tiên cảnh hạnh phúc ấm no
Chẳng lo gạo mắm, không lo áo quần
Ngắm bạn bè, nghía người dưng
Không cần coi chừng bà quận nhéo tai
Hai ơi Hai hỡi là Hai
Có theo thí noái.... thiện tai! Thiệt tình!

Có người nhắn với tui là các siêu sao nghi ngờ khả năng làm thơ của chàng BM. BM ơi cứ tiếp tục cho bà con lé mắt chơi nha! Cũng bời "chỉ là vui thôi" nên tui mang anh ra làm đề tài cho các ACE có cơ hội mang niềm vui đến cho mọi người. Dẫu chưa quen mà đã phá nhau xin anh thông cổm, thông cổm!
Chúc mọi người có một cuối tuần vui vẻ/.

TPKW

ĐÁP LỜI

Tiên tui nói thế khi nào????
Chẳng là.. xiêm áo thiên bào được sao ?
Vậy nên mình đến nơi đâu…
Bầu tròn ta phải tròn bầu vậy thôi
Thật là mắt sáng một đôi
Tiên tui sợ quá chạy trôi về Trời....

NP

Nhắn thêm...
Kiếp sau Bà Quận vẫn bên,
Thêm mười kiếp nữa một bên vẫn còn.
Tại anh đã hứa sắt son,
Cầu xin Thượng đế chứng lòng rồi quên
Còn mơ ở lại cõi tiên...
Nghía nầy nghía nọ kiếm Tiên...không đồ ( mặc )
Tiên đế nổi giận (lột luôn)..bộ đồ ( của Anh)..........

Tại anh TPKW hiếu lầm thôi....Ráng chịu ..

NP

Anh TPKW ơi !!!

Tại Anh Hai BM hết trơn... Hai BM nói ...Anh không biết làm thơ..P tưởng thật tin sái cổ luôn. Thấy bài đăng tên BM ,P còn tưởng Anh và chị TC làm giúp ảnh, P đã hỏi Hai BM bộ hai người thân nhau à ?

Ai mà biết đâu chứ..nói chơi làm P tưởng thật..

Còn P thấy Anh mời vào nhà Anh...Hôm nọ P ghé ngang, thấy nhà kín cổng cao tường, thêm mấy con berger phía ngoài..P hoảng chạy mât ...dép. Bắt đền Anh nghe..

NP

nguyenphuong
06-29-2013, 09:03 AM
O nì tui noái O nghe
Băng đồi vượt suối là nghề của Hai
Ra vô vẫn mạnh dài dài
Không tin thử... hỏi anh Hai lại tề
Dẫu tăng hay ngựa chẳng nề
Xưa răng nay rứa... khỏi chê... dễ gì

Hihihi!!
TPKW

Chao ôi !!...mậy chục năm roài ( giả tiếng Huế)
Anh Hai giờ đã...đã ngoài sáu mươi.
Khi P thăm hỏi anh cười...
Lái xe tăng khác lái...người em ơi !
Hai giờ đã mỏi mòn hơi...
Sức đâu Hai chạy rong chơi suốt ngày
Xe tăng Hai lái đại tài,
Làm con Bạch Mã một ngày ....chạy te.....

NP

BachMa
06-29-2013, 11:17 AM
Chuyến xe thổ mộ thong dong
Ba cô tiên nữ lại... giông xuống trần.!!
Tìm ra ba bộ áo quần..( P trộm đó)
Model hết cở có phần hở hang.
Quần thì ngắn ngủn cắt ngang..
Làn da sợ nắng đổi sang đen xì.
Chọn ba nón Huế giống y,
Mới trông tưởng nấm linh chi...vậy nà..
Hai Tiên mặt tựa như hoa
Thêm đôi mắt kính... chu choa là ngầu..
( Đó là Tiên cả TC và Út Tiên TT)

NP
:40:

NP cưỡi Bạch Mã !

Bạch Mã mao như tuyết.
Tứ túc cương như thiết.
Nguyên Phương kỵ Bạch Mã.
Bạch Mã phi kịch liệt.

(Bạch Mã Hoàng Tử)
(chỉ vui thôi nha tiên nữ NP)

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1372504587.jpg

BachMa
06-29-2013, 11:45 AM
Bộ trên trời Tiên không mặc gì ráo
Nên xuống trần chôm quần áo người ta
Cái này O noái đó nha
Đừng nói tui méo mó rồi la... mất tinh thần!

Như như vậy thì:
Kiếp sau tui chẳng về trần
Không mơ làm ngựa (như anh Hiếu Nguyễn), xe tăng, tàu bò
Tiên cảnh hạnh phúc ấm no
Chẳng lo gạo mắm, không lo áo quần
Ngắm bạn bè, nghía người dưng
Không cần coi chừng bà quận nhéo tai
Hai ơi Hai hỡi là Hai
Có theo thí noái.... thiện tai! Thiệt tình!

Có người nhắn với tui là các siêu sao nghi ngờ khả năng làm thơ của chàng BM. BM ơi cứ tiếp tục cho bà con lé mắt chơi nha! Cũng bời "chỉ là vui thôi" nên tui mang anh ra làm đề tài cho các ACE có cơ hội mang niềm vui đến cho mọi người. Dẫu chưa quen mà đã phá nhau xin anh thông cổm, thông cổm!
Chúc mọi người có một cuối tuần vui vẻ/.

TPKW


http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1372528694.gifTPKW gặp Tiên...http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1369242671.gif
http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1372444589.jpg

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1372527860.mp3

DnThuy
06-30-2013, 01:08 AM
Nguyên Phương ui !!!

Bút sa gà chết Phương ơi !
Ngọc Hoàng giàu nhất trên đời ai hơn !?
Quần áo không mặc đi chôm .
Khiến cho Hòa Thượng Yên Sơn ngỡ ngàng.
Hai mắt phải đổ hào quang .
Đêm dzìa tụng niệm hoang mang lùng bùng !!!
Tại Phương không mặc áo quần !
Khiến cho Hòa Thượng nửa mừng ! nửa Dzui ….
A Di Đà Lạt hỡi ui !
Kiếp sau xin được làm người trần gian .
Quá giang xe, tối nhớ nàng .( NP )
Good bye am tự ! tình tang ! tang tình !!!

Thủy Tiên .

Anh TPKW ơi ! TT tui cũng noái giỡn cho dzui thôi ! để các A/C trong ni ( HQPD )
Cùng cười với nhau đó mờ " Thông cổm " anh ghẹo anh BM cho dzui , tui cũng dzậy!
copy từ anh vậy mà !.Tại bữa nọ anh Yên Sơn noái :

Nghĩ mình không chọc ghẹo ai
Suốt ngày tụng niệm "thiện tai" thôi mà.
Biết mình đã lỡ bị già
Thơ văn cũng chẳng tài hoa như người
Cho nên tui chỉ riêng tui
Móc ngóeo chi tội người ơi người à!

Thượng Tọa ( Thích Yên Thân )

Post xong tui đi trốn! không thì Thích Yên Thân & NP sẽ bằm tui ra trăm mảnh .....( Chết chắc! chạy .... ) :52::icon_hateyou::icon_hateyou:

nguyenphuong
06-30-2013, 06:30 AM
XIN CHO P HỎI....

Sáng ra mở máy tìm liều
Kiếm trang Bạch Mã… Ôi! tiêu mất rồi !!
Trời 1 Trời sao thế ta ơi!....
Tự dưng biến mất…tiếc ôi ôi là…..
Lòng thì muốn khóc rồi nha
May là …nó vẫn còn mà khác tên
Nhưng sao lại thế ?… cho nên…
Chẳng thôi thắc mắc lại thêm tò mò…
Nói chung thì chẳng có lo
Tiếc từ ( chữ) Bạch Mã thân co vậy mà

NP

nguyenphuong
06-30-2013, 06:50 AM
Bạch Mã mao như tuyết.
Tứ túc cương như thiết.
Nguyên Phương kỵ Bạch Mã.
Bạch Mã phi kịch liệt.

(Bạch Mã Hoàng Tử)

Chắc chắn cô nương nầy hông phải NP....Cô ta trẻ măng....
NP

BachMa
06-30-2013, 06:21 PM
Bạch Mã mao như tuyết.
Tứ túc cương như thiết.
Nguyên Phương kỵ Bạch Mã.
Bạch Mã phi kịch liệt.

(Bạch Mã Hoàng Tử)

Chắc chắn cô nương nầy hông phải NP....Cô ta trẻ măng....
NP
http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1372504587.jpg

:40::40: http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1372615885.jpg

thanphongkingwood
06-30-2013, 06:25 PM
[COLOR="#0000FF"] Nguyên Phương ui !!!
...Tại bữa nọ anh Yên Sơn noái:

Nghĩ mình không chọc ghẹo ai
Suốt ngày tụng niệm "thiện tai" thôi mà.
[/COLOR="#008000"]
Thiệt tình như dzậy mờ cô
Tui đang tu tập bị xô bất ngờ
Chiện trần gian tui hơi khờ
Khoèo qua, móc lại tui quờ quạng hơn
Thôi tui trở ngược về non
Để giữ thần hồn tu trọn kiếp ni

A Di Thổ Phộ!

nguyenphuong
07-01-2013, 05:41 AM
:40::40: http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1372615885.jpg

Cô nầy cũng không phải NP luôn...P vừa ốm vừa....trẻ hơn ...một chút
NP

nguyenphuong
07-01-2013, 06:04 AM
Thiệt tình như dzậy mờ cô
Tui đang tu tập bị xô bất ngờ
Chiện trần gian tui hơi khờ
Khoèo qua, móc lại tui quờ quạng hơn
Thôi tui trở ngược về non
Để giữ thần hồn tu trọn kiếp ni

A Di Thổ Phộ!


Hi hi hi..........
Anh đùa giỡn để mần chi????
Lúc đầu anh xuống làm thi...thả hồn.
Người ta đọc thấy bồn chồn,
Gởi hồn, gởi phách tặng hôn ...anh rồi.
Bi chừ anh nói....anh thôi....
Như rứa là ác....Anh ôi...nói gì???????
Đó là ...minh biện còn chi..
Lại còn tính ...chước tẩu phi...dzìa trời..

Tiên Cảnh..Tiên P, Tiên Út....cùng nhau níu áo....dễ gì mà bay....
NP

DnThuy
07-01-2013, 11:28 PM
“ Nguyên văn bởi TPKW “
Thiệt tình như dzậy mờ cô
Tui đang tu tập bị xô bất ngờ
Chiện trần gian tui hơi khờ
Khoèo qua, móc lại tui quờ quạng hơn
Thôi tui trở ngược về non
Để giữ thần hồn tu trọn kiếp ni

A Di Thổ Phộ!
*******

Hi hi hi..........
Anh đùa giỡn để mần chi????
Lúc đầu anh xuống làm thi...thả hồn.
Người ta đọc thấy bồn chồn,
Gởi hồn, gởi phách tặng hôn ...anh rồi.
Bi chừ anh nói....anh thôi....
Như rứa là ác....Anh ôi...nói gì???????
Đó là ...minh biện còn chi..
Lại còn tính ...chước tẩu phi...dzìa trời..
Tiên Cảnh..Tiên P, Tiên Út....cùng nhau níu áo....dễ gì mà bay....
NP
******

Hò ơ !

Về non! Hổng phải dzìa trời !
Nguyên Phương đọc kỹ để rồi trách sai.
Đùa qua, giỡn lại có ngày.
Yên Sơn nổi giận mõ bay u đầu ….
Lúc đó đừng hỏi tại sao !?
Hò ơi !!!………………… ( còn tiếp )

H5N1 đâu gồi !? nhào dzô hò tiếp đi ( hò một mình hết hơi gồi !!! )

Thủy Tiên .

:icon_smiless::icon_smiless::77::77::rose::rose::r ose::kk::kk:

hieunguyen11
07-01-2013, 11:47 PM
“ Nguyên văn bởi TPKW “
Thiệt tình như dzậy mờ cô
Tui đang tu tập bị xô bất ngờ
Chiện trần gian tui hơi khờ
Khoèo qua, móc lại tui quờ quạng hơn
Thôi tui trở ngược về non
Để giữ thần hồn tu trọn kiếp ni

A Di Thổ Phộ!
*******

Hi hi hi..........
Anh đùa giỡn để mần chi????
Lúc đầu anh xuống làm thi...thả hồn.
Người ta đọc thấy bồn chồn,
Gởi hồn, gởi phách tặng hôn ...anh rồi.
Bi chừ anh nói....anh thôi....
Như rứa là ác....Anh ôi...nói gì???????
Đó là ...minh biện còn chi..
Lại còn tính ...chước tẩu phi...dzìa trời..
Tiên Cảnh..Tiên P, Tiên Út....cùng nhau níu áo....dễ gì mà bay....
NP


Về non! Hổng phải dzìa trời !
Nguyên Phương đọc kỹ để rồi trách sai.
Đùa qua, giỡn lại có ngày.
Yên Sơn nổi giận mõ bay u đầu ….
Lúc đó đừng hỏi tại sao !?

DnThuy

Không lo tụng niệm xen vào thế nhân
Dìa tiên ta sẽ phân trần
Tại ba cô gái góp phần quậy ta
Lần sau trở xuống không tha
Như Lai Thần Chưởng cả ba u đầu

H5N1

thanphongkingwood
07-02-2013, 05:33 AM
Dzìa non! Những muốn dzìa non
Nhưng lòng trần còn có chút tơ vương
Sơn khê dặm thẳm mù sương
Một mình một đường buồn lắm ai ơi
Thôi nán ở lại mua dzui
Mang theo nụ cười góp tiếng cùng ai
Thôi đừng níu áo cô Hai
Đã khổ dài dài, khổ nữa không sao
Cuộc đời như giấc chiêm bao
Dzui được lúc nào cứ thế mà dzui

nguyenphuong
07-02-2013, 05:45 AM
Không lo tụng niệm xen vào thế nhân
Dìa tiên ta sẽ phân trần
Tại ba cô gái góp phần quậy ta
Lần sau trở xuống không tha
Như Lai Thần Chưởng cả ba u đầu

H5N1

P là Tiên cũng đã lâu
Tiên không làm ác sợ đâu điều gì
Xuống trần thấy chuyện thị phi
Ra tay cứu độ một khi bất bình
Biết lỗi Tiên sẽ thương tình
Tha con đường sống(vì) anh mình ỉ ôi...
Nhưng mà chỉ một P thôi
Ba Tiên hợp lại anh ơi chạy dài..
Thử đi,sẽ biết đó Hai
Như Lai Thần Chưởng bó tay thôi mà

NP

DnThuy
07-02-2013, 10:52 AM
Dzìa non! Những muốn dzìa non
Nhưng lòng trần còn có chút tơ vương
Sơn khê dặm thẳm mù sương
Một mình một đường buồn lắm ai ơi
Thôi nán ở lại mua dzui
Mang theo nụ cười góp tiếng cùng ai
Thôi đừng níu áo cô Hai
Đã khổ dài dài, khổ nữa không sao
Cuộc đời như giấc chiêm bao
Dzui được lúc nào cứ thế mà dzui

TPKW.

<<<<<0>>>>>

Dzui là chính !!!

Ngợi khen, kính trọng, yêu thương !
Bạn ơi! nhớ nhé phải nhường nhịn nhau.
Đời là bể khổ sầu đau.
Xin cho nhau những phút giây ngọt ngào.
Để rồi đến mãi ngàn sau.
Mỗi khi rảnh rỗi! nhớ nhau gọi thầm.
Mến nhau cất kỹ trong tâm .
Sơn- Phương đừng có lầm bầm chữi tui .*
Dzui là chính, dính là chui .
Hễ ai nổi nóng thì tui trốn liền.
Kẻo không tui sẽ bị phiền .
" Như Lai Thần Chưởng " chắc điên cái đầu …

TT.

* Sơn - Phương : Yên Sơn , Nguyên Phương .

BachMa
07-02-2013, 06:59 PM
"Nguyên văn bởi Tiên P"

Anh đùa giỡn để mần chi????
Lúc đầu anh xuống làm thi...thả hồn.
Người ta đọc thấy bồn chồn,
Gởi hồn, gởi phách tặng hôn ...anh rồi.
Bi chừ anh nói....anh thôi....
Như rứa là ác....Anh ôi...nói gì???????
Đó là ...minh biện còn chi..
Lại còn tính ...chước tẩu phi...dzìa trời..

Tiên Cảnh..Tiên P, Tiên Út....cùng nhau níu áo....dễ gì mà bay....
NP
:40:

Mời Yên Sơn lên xe

Yên Sơn nào giỡn đâu P!
Đừng đùa tội nghiệp P mời lên đi
Yên Sơn đừng để ý chi
Lên đi cứ mặc, chuyện gì có tôi
Trên xe dư một chổ ngồi,
Kế bên tiên nữ P ngồi đằng kia
Nhưng mà đừng có tía lia
Tiên P hiền lắm, anh dzìa anh mơ!
BM

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1372299902.jpg

hieunguyen11
07-02-2013, 11:55 PM
http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1372809981.jpg

DnThuy
07-03-2013, 01:03 AM
http://i43.tinypic.com/bex4q1.jpg

Tàn ác nhau chi Hiếu Nguyễn ơi !
Tuổi gần bảy bó, sắp rệu rồi !
Tình đầu, tình cuối cho anh hết …
Anh làm ơn nhận tui thảnh thơi !
TT.

TT thấy tội cho anh TPKW quá ! nên noái thay lời
H5N1 muốn ăn mà gắp cho người đó mờ !!!! kha kha kha !
Đường Sơn Đại huynh tiểu muội chạy trốn nha !
Một, hai, ba Dzọt lẹ ….

hieunguyen11
07-03-2013, 01:28 AM
http://i43.tinypic.com/bex4q1.jpg

Tàn ác nhau chi Hiếu Nguyễn ơi !
Tuổi gần bảy bó, sắp riệu rồi !
Tình đầu, tình cuối cho anh hết …
Anh làm ơn nhận tui thảnh thơi !
TT.

TT thấy tội cho anh TPKW quá ! nên noái thay lời
H5N1 muốn ăn mà gắp cho người đó mờ !!!! kha kha kha !
Đường Sơn Đại huynh tiểu muội chạy trốn nha !
Một, hai, ba Dzọt lẹ ….

Cha chả, hay cho DnThuý, giỏi cho DnThuý dám nhả đạn ngay ta! Như ta đây là kẻ không ăn chay, không tu hành gì hết, lo mà đề phòng đi.

thanphongkingwood
07-03-2013, 02:13 AM
Ơi anh Hiếu Nguyễn 5 sao
Thương nhau răng kéo nhau vào sắc không
Yêu ai giữ kín trong lòng
Ai nỡ rao bán vòng vòng vậy ta
Bao nhiêu tuổi gọi là già
60 chỉ mới vừa qua dậy thì
Tui vừa trồng mấy cây si
Anh mua tui bán mắc gì thở than

Nguyên Phương chịu thử rồi kìa
Tui làm thinh chứ tía lia hồi nào
Tui đâu có dám trèo cao
Gặp mặt Bạch Mã cúi chào chịu thua
Thủy Tiên tính thích bông đùa
Chỉ riêng Thanh Cảnh... đi chùa... vắng hoe
Chỉ anh Hiếu Nguyễn cười toe
Đứng ở sau hè chọc phá người thôi
Bắt thang lên hỏi ông giời
Hội quán Phi Dũng lắm người tài hoa
Bao giờ Hè tận Thu qua
Tui sẽ rời nhà tìm kiếm Mộc Châu
Mộc Châu biệt tích nơi đâu ?

Mời nghe nhạc để cảm thông "Mối Tình Đầu Của Tui"
http://www.youtube.com/watch?v=DVwqVUxSwTM

hieunguyen11
07-03-2013, 02:41 AM
Ơi anh Hiếu Nguyễn 5 sao
Thương nhau răng kéo nhau vào sắc không
Yêu ai giữ kín trong lòng
Ai nỡ rao bán vòng vòng vậy ta
Bao nhiêu tuổi gọi là già
60 chỉ mới vừa qua dậy thì
Tui vừa trồng mấy cây si
Anh mua tui bán mắc gì thở than

Nguyên Phương chịu thử rồi kìa
Tui làm thinh chứ tía lia hồi nào
Tui đâu có dám trèo cao
Gặp mặt Bạch Mã cúi chào chịu thua
Thủy Tiên tính thích bông đùa
Chỉ riêng Thanh Cảnh... đi chùa... vắng hoe
Chỉ anh Hiếu Nguyễn cười toe
Đứng ở sau hè chọc phá người thôi
Bắt thang lên hỏi ông giời
Hội quán Phi Dũng lắm người tài hoa
Bao giờ Hè tận Thu qua
Tui sẽ rời nhà tìm kiếm Mộc Châu
Mộc Châu biệt tích nơi đâu ?

Mộc Châu tui biết ở đâu
Nhà kế đám đậu, đầu cầu ngó qua
Yên Sơn giống chim đa đa
Người gần không chịu đi xa tốn tiền
Hữu duyên mới thấy thương liền
Vô duyên đối diện quay thuyền nhổ neo
Thương nhau đồi thấp cũng trèo
Nhưng sông Mỹ Thuận thấy teo bu gì (bu gi)

HN11

nguyenphuong
07-03-2013, 07:12 AM
Hiếu Nguyên…anh của P nha
Hai ơi ! Hai với P là anh em…
Còn anh Yên Tử..Sơn ..Yên.
Là anh …kết nghĩa cũng trên Hội (Quán) nầy

Nơi đây là chốn vui vầy
Đùa chơi, nghịch phá đửa đây(đẩy đưa) ghẹo đùa
Nên P không dễ giận đâu
Nhưng khi P giận còn lâu ….mà tìm

NP

Mộc Châu
07-05-2013, 04:13 AM
..
....Bao giờ Hè tận Thu qua
Tui sẽ rời nhà tìm kiếm Mộc Châu
Mộc Châu biệt tích nơi đâu ?

ThanPhongkingwood

Cám ơn, đã hỏi em đâu
Em vẫn quanh quẩn bên lầu Quán Phi (HQPD)
Lòng vui vì có mấy khi
Được bạn thăm hỏi còn gì quí hơn
Nhà em ở tận cuối nguồn
Phải băng qua núi, phải luồn rừng sâu
Anh không tới được đó đâu
Thôi về tiên cảnh, đường mau hơn nhiều

MC

thanphongkingwood
07-05-2013, 02:21 PM
Vui vì bất chợt làm anh
Kết nhân, kết nghĩa, kết thành một phe
Thấy anh Hiếu Nguyễn bên hè
Cầm chai cỏ-nhắc để lòe tui chơi
Mắt thì nheo, miệng cười cười
Tui làm đồ nhậu, tui mời bà con
Bạch Mã ở nhà chắc còn
Tôm khô, củ kiệu...
(Nhớ chạy ra vườn bẻ thêm mớ bòn bon cho mấy cô mình)
Tiệc mừng kết nghĩa muội huynh


Vui ơi kiếm được Mộc Châu
Khi không biệt tích quá lâu nên tìm
Thôi thì "như máu về tim"
Mộc Châu ở lợi cho thêm vui nhà
Sông sâu thì đã có phà
Non cao, rừng rậm cũng qua như thường
Biết sao không, dùng trực thăng
Ở đâu cũng đến... bất quá đổ thêm xăng là cùng
hahaha!!!

nguyenphuong
07-06-2013, 07:44 AM
thanphongkingwood

Vui vì bất chợt làm anh
Kết nhân, kết nghĩa, kết thành một phe
Thấy anh Hiếu Nguyễn bên hè
Cầm chai cỏ-nhắc để lòe tui chơi
Mắt thì nheo, miệng cười cười
Tui làm đồ nhậu, tui mời bà con
Bạch Mã ở nhà chắc còn
Tôm khô, củ kiệu...
(Nhớ chạy ra vườn bẻ thêm mớ bòn bon cho mấy cô mình)
Tiệc mừng kết nghĩa muội huynh
TPKW

Làm anh đã chắc gì vui ??
Làm anh phải giữ chữ uy đứng đầu.
Còn không được ghẹo em đâu..
Làm anh còn phải thật ngầu nữa cơ !

Ra đường...vệ sĩ đứng chờ...
Khi thì bảo vệ..xách đồ..vác mang...
Khi cần giành chổ sắp hàng
Còn phải xoa bóp khi nàng..vai đau..

Cuối cùng hàng tháng phải mau...
Tiền đưa không được càu nhàu thở than
Anh Hai.. P gọi trăm lần...
Hai ơi ! Hai hởi !! Hai cần làm Hai?????

Nếu bằng lòng là...Anh Hai thứ ba của P đó

NP

thanphongkingwood
07-06-2013, 05:29 PM
Cô Hai định nghĩa chữ "ngầu"
Đọc xong té giếng...
nghe phát rầu chữ Việt của cô Hai
Mác-xa, xoa bóp mát tay
Hiếu Nguyễn số dzách
chứ bần đạo đây xin cười trừ
Cũng chẳng muốn làm hai, ba, tư
Làm số một... may ra ừ cho dzui
Ô-rờ-lui!

Thư dưới đây là tui chôm được ở nhà ông BM. Có lẽ bà BM lâu lâu đem ra đọc khoái chí rồi để quên ở phòng khách tui lụm được. Thư chàng BM viết cho nàng... ngũ thập niên tiền:
Thư rằng

Em yêu rấu…
Anh viết thư này cho em để kỷ niệm một năm ngày chúng ta chung sống. Với tất cả lòng chân thành và biết ơn sâu sắc, em hãy tin rằng đó là quãng thời gian hạnh phúc nhất của đời anh. Thế nhưng ai cũng biết, cuộc đời có nhiều khía cạnh và nói được đầy đủ các khía cạnh đó là điều tuyệt vọng. Vậy nên anh chỉ nhấn mạnh đến lĩnh vực mà anh thích nhất, thành thạo nhất về lĩnh vực em giỏi nhất,; đó là việc chế tạo các món ăn của em!

Anh thấy mình phải có trách nhiệm, có vinh dự phát biểu rằng trong lĩnh vực nấu ăn, em là một nghệ sỹ thực sự. Khả năng cao nhất của nghệ sỹ là sáng tạo và tìm tòi, mà em thì có một sức sáng tạo, pha trộn và ngẫu hứng tới vô biên.
Ngay buổi sáng đầu tiên sau đêm tân hôn, anh được hiểu rằng cháo và cơm thực ra không có ranh giới.
Món, hay còn gọi “cái em múc ra từ nồi” là cháo, cơm hay súp đều được cả. Nó đều có độ hạt, độ nhão và độ dính giống như nhau.

Để ăn với thứ dinh dưỡng “lai tạo” ấy, em đưa ra một đĩa thịt kho mà màu sắc làm cho đêm đen cũng phải ghen tỵ. Nói về cách thái, đá tảng cũng còn chào thua, về độ cứng, gạch còn kém xa. Và đặc biệt là độ mặn, cứ cắn một miếng thịt cần uống 2 lít nước. Món thịt kho đó bùng nổ đến nỗi nếu bọn khủng bố mang được lên máy bay, anh tin hành khách sẽ lâm nguy.

Em yêu giấu…
Anh đã biết trước là khi chung sống với em, cái nỗi ngạc nhiên sẽ kéo dài vô tận. Quả không sai!
Sau thịt, món canh của em cũng vượt lên chính mình. Đấy là lần đầu tiên trong đời anh ăn canh ruột cá nấu với nấm, với thịt băm, với rau muống. Đó là ba thứ anh nhận ra được, nhưng còn ba mươi thứ khác có hình thức và hương vị bí ẩn đến nỗi anh vừa đưa lên mồm, vừa tự hỏi rằng đâu là giới hạn chịu đựng của con người và đâu là khái niệm về dinh dưỡng tổng hợp.

Anh chỉ muốn nhấn mạnh, sau khi dùng hết một bát canh như thế, từ nay anh không còn sợ bất cứ kẻ thù nào.
Thế nhưng, hạnh phúc rõ ràng mới chỉ bắt đầu. Bữa trưa là một cuộc du lịch thực sự vào thế giới ẩm thực, giúp anh phát hiện đó vẫn còn hoang dã và du lịch ấy có tên “Du lịch mạo hiểm”.

Em đã luộc một đĩa rau cải xanh mướt, mướt đến cả con sâu vẫn nằm im trên lá như ngủ ngàn đời.
Em đưa ra món thịt gà xé phay của một cụ gà đã hưởng thọ chừng trăm tuổi, khiến thịt dai như cục cao su. Cụ gà này ngày trước nhất định có tập thể thao bên nhánh của anh chàng TPKW nên hai đùi sắn chắc như que.

Sau một bữa trưa chói lọi như thế, anh vui mừng kiệt sức nằm vật ra giường để đến tối được em sốc dậy, dìu tới mâm cỗ thịnh soạn mà em đã chuẩn bị suốt cả buổi chiều. Trong cơn mê, anh chỉ còn nhớ nó gồm một đĩa cà-ri, phần “cà” ở đáy nồi, phần “ri” ở trên vung, cùng một đĩa heo quay rất nóng giòn nếu chưa cất ba ngày trong tủ lạnh. Ngoài ra, trên bàn còn có một chậu xà lách to như chậu tắm và một con tôm nướng tẩm mật ong nửa sống, nửa tái, nửa cứng, nửa mềm, nửa xanh, nửa đỏ, nửa chua. nửa cay, nửa gầy, nửa béo. Sau một bữa tối như thế em yêu ạ, anh chả hiểu tại sao mình còn sống đến hôm sau. Nói chung, anh chả hiểu làm sao mình còn tồn tại tới bây giờ?!

Sống với em, ăn những món em nấu khiến anh trở thành người đàn ông dũng cảm, không sợ gian khổ, có hàm răng chắc khỏe, dạ dày mạnh mẽ.

Em yêu rồi giấu…
Em là một bằng chứng hùng hồn về khiếu hài hước, về lòng ngây thơ và tư duy không giới hạn của phụ nữ trí thức hiện nay. Em, những cô gái như em, chẳng những biết chinh phục các đỉnh núi của nghệ thuật nấu ăn mà còn biết san bằng chúng nữa. Xin cúi mình khâm phục và đa tạ em!

Mãi mãi bên em!
Anh của em

Bạch Mã


Bí chú: bài này tớ nượm trên let, theo công thức xào lấu của bà BM chuyền nại, tớ dán nên đây giõ giàng chứ chẳng phí công chôm chỉa, địa điếc gì sất nhé.
Người vô tội, TPKW
*:)) cười té ghế

BachMa
07-06-2013, 07:28 PM
thanphongkingwood:

Cô Hai định nghĩa chữ "ngầu"
Đọc xong té giếng...
nghe phát rầu chữ Việt của cô Hai
Mác-xa, xoa bóp mát tay
Hiếu Nguyễn số dzách
chứ bần đạo đây xin cười trừ
Cũng chẳng muốn làm hai, ba, tư
Làm số một... may ra ừ cho dzui
Ô-rờ-lui!
TPKQ


ThanPhongKingWood tài ba,
BachMa nhường bước, gọi là nể nang
Anh ơi, nếu vẫn rảnh rang,
Xin anh ở lại trần gian đừng dzìa. (ở lại với Tiên P nha anh).


BachMa tìm bấy lâu nay,
Cũng vì cái lá thư này mà thôi.
Tui tìm cặp mắt muốn đui,
Bây giờ mới biết (ông) anh tui hổng hiền !
BM

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1373138367.jpg

Nhắn anh TPKW:
Anh không trả lại thư cho tui, thì tui đem hình anh hồi còn tắm mưa ra đó nha!

thanphongkingwood
07-06-2013, 08:11 PM
Nhắn anh TPKW:
Anh không trả lại thư cho tui, thì tui đem hình anh hồi còn tắm mưa ra đó nha![/COLOR][/I][/B]

Okay xin trả lại thư
Không cần hăm doạ sợ hư bột, đường
Mấy hình hồi nhỏ... chưa tới trường
Lớn lên quen tật... thành KQ mới lạ đời
Anh dán lên thiên hạ cười
Tội nghiệp bần đạo phải rời non Tiên
Bởi Tiên coi vậy chẳng hiền
Quét nhà, rửa chén, tịch thu tiền vẫn chưa thôi!
Nè nè trả lại ông ui!

BachMa
07-06-2013, 11:53 PM
thanphongkingwood:

Okay xin trả lại thư
Không cần hăm doạ sợ hư bột, đường
Mấy hình hồi nhỏ... chưa tới trường
Lớn lên quen tật... thành KQ mới lạ đời
Anh dán lên thiên hạ cười
Tội nghiệp bần đạo phải rời non Tiên
Bởi Tiên coi vậy chẳng hiền
Quét nhà, rửa chén, tịch thu tiền vẫn chưa thôi!
Nè nè trả lại ông ui!

TPKW (Thích Yên Thân)
<iframe width="480" height="360" src="//www.youtube.com/embed/f75iFx0p8As?rel=0" frameborder="0"
allowfullscreen></iframe>

<iframe width="480" height="360" src="//www.youtube.com/embed/JhDnwaVRoyw?rel=0" frameborder="0" allowfullscreen></iframe>

:40::40::40::40::40::40::40::40:http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1367262627.gif:40::40::40::40::40::40::40::40 ::40::40::40:

nguyenphuong
07-07-2013, 03:31 AM
TPKW

Cô Hai định nghĩa chữ "ngầu"
Đọc xong té giếng...
nghe phát rầu chữ Việt của cô Hai
Mác-xa, xoa bóp mát tay
Hiếu Nguyễn số dzách
chứ bần đạo đây xin cười trừ
Cũng chẳng muốn làm hai, ba, tư
Làm số một... may ra ừ cho dzui
Ô-rờ-lui!
TPKW

Chữ “ngầu” có nghĩa dữ thôi
Anh mà té giếng..anh ơi còn gì?
Chẳng nhận anh Hai nữa chi..
Chưa gì mắng thế P bị quê... quá trời !
Đùa vui chút xíu mà chơi
Biết anh khó vậy P thời ..làm thinh

NP
Ở VN giờ nói ..ngầu là..trông dữ
Té giếng...ý nói bị về thần kinh

thanhcanh
07-07-2013, 12:56 PM
Hợp Tấu

Bạch Mã đứng sau Thần Phong ,
Còn ai gõ mõ ầm ầm dưới kia ?
Có phải Hiếu Nguyên không kìa ?
Ba ông xong việc tối dìa nhậu chung !!!

Một dĩa tôm hùm.
Con khô cá đuối.
Một can rượu đế
Chính gốc Gò Đen .

Phu nhân BM mang lên !!!

thanphongkingwood
07-07-2013, 03:58 PM
Chữ “ngầu” có nghĩa dữ thôi
Anh mà té giếng..anh ơi còn gì?
Chẳng nhận anh Hai nữa chi..
Chưa gì mắng thế P bị quê... quá trời !
Đùa vui chút xíu mà chơi
Biết anh khó vậy P thời ..làm thinh

NP
Ở VN giờ nói ..ngầu là..trông dữ
Té giếng...ý nói bị về thần kinh
giởn chơi mờ có người buồn
cái mặt bí xị thấy thương quá trời
ai biểu định nghĩa lôi thôi
"vai mang, tay xách"... mà "ngầu"... thấy ghê
vậy mờ Nguyên Phương lại mê
làm ông Hiếu Nguyễn ra về tay không
Bạch Mã còn chạy lòng vòng
hai tay Hải Yến, Thần Phong cười trừ
Không Quân 2 cứ ậm ừ
gật lui gật tới như người cung trăng
buồn tình tui xin quá giang
cùng Hiếu Nguyễn lên xe tăng đi dzìa
trả chữ "mắng" cho ai kia
còn tui chắc có vấn đề "thần kinh"
Thần Kinh: Huế đẹp Huế xinh
có người té giếng đồng tình Huế thương
pó tay... người đẹp Nguyên Phương

chỉ là dzui thui mờ!

BachMa
07-07-2013, 04:37 PM
"... Chữ “ngầu” có nghĩa dữ thôi
Anh mà té giếng..anh ơi còn gì?..."
NP

nguyenphuong nào có nói chi,
Sao anh trách mắng, anh "đì" em tui ??

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1373214583.jpg
http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1359066482.mp3

thanphongkingwood
07-07-2013, 06:04 PM
nguyenphuong nào có nói chi,
Sao anh trách mắng, anh "đì" em tui ??
Bần đạo là kẻ tu hành
Nào có "mắng mỏ" em anh đâu nào
Chỉ là muốn bớt xôn xao
Để thiên hạ cứ hỏi "O mô rứa ôn"
Em nào cũng chẳng muốn Thần Phong
Thì thôi tui dạo vòng vòng tui chơi

Sau đây là thư của một em chảnh muốn lấy chồng:

Những gì tôi sắp nói sau đây đều thật lòng cả.

Tôi 25 tuổi. Tôi rất đẹp, tôi có phong cách và khiếu thẩm mỹ cao.
Tôi muốn cưới 1 anh chàng có thu nhập từ 500,000 đô mỗi năm trở lên.
Bạn có thể nói tôi là người tham lam nhưng mức lương 1 triệu đô mỗi năm thì chỉ được coi là tầng lớp trung bình ở tầng lớp lãnh đạo Việt Nam.

Yêu cầu của tôi không cao. Tôi khiêm nhường hơn nhiều nên chỉ tìm ai có thu nhập hàng năm là 500 nghìn đô là tạm đủ rồi?
Trong số các bạn, có ai đã lập gia đình chưa?
Tôi muốn hỏi: “Tôi phải làm gì để lấy được 1 ông chồng giàu như các bạn?"
Trong số những anh chàng tôi hẹn hò, anh giàu nhất cũng chỉ có mức lương 250 nghìn đô mỗi năm, đối với tôi mức lương này là quá ít. Nếu như ai đó đang có ý định chuyển đến 1 căn hộ cao cấp ở phía Ba Đình hoặc Saigon Hoa Lệ thì mức lương này thực sự là không đủ để chi tiêu.
Tôi có vài câu hỏi cho các bạn:
1) Những anh chàng giàu có thường hay lui tới những địa điểm nào? (Làm ơn liệt kê ra tên và địa chỉ của các quán bar, nhà hàng, phòng tập thể dục...)
2) Tôi nên nhắm đến những độ tuổi nào?
3) Tại sao hầu hết mấy bà vợ của các đại gia chỉ có nhan sắc trung bình? Tôi từng tiếp xúc với vài người trong số họ, họ chẳng xinh đẹp mà cũng chẳng thú vị gì cả, nhưng họ lại cưới được những anh chàng giàu có.
4) Các bạn dựa vào những tiêu chuẩn nào để chọn vợ, và những người nào chỉ có thể là bạn gái của các bạn thôi?
(Mục tiêu của tôi bây giờ là lấy chồng)

Ms. Pretty"

Sau đây là câu trả lời thẳng thắn từ CEO của tập đoàn Hội Quán Phi Dũng:

"Dear Ms. Pretty,
Tôi đã đọc bài viết của bạn và cảm thấy rất thích thú.
Tôi đoán có rất nhiều cô gái cũng có những câu hỏi tương tự như bạn.
Xin cho phép tôi được phân tích tình huống của bạn với tư cách của 1 nhà đầu tư chuyên nghiệp.
Trước hết, mức thu nhập hàng năm của tôi là hơn USD1,000.000/năm (cỡ như hai anh phụ tá BM và KQ2 đã lãnh tới $499,999.00/năm. Cũng giải thích thêm lý do mấy con số 999... bên Mỹ chỉ để cho đỡ thuế mà thôi); như vậy chắc chắn đáp ứng được yêu cầu của bạn, vì thế hi vọng mọi người không nghĩ rằng tôi đang phí thời gian ở đây.

Đứng dưới góc độ là 1 doanh nhân, tôi nghĩ cưới bạn quả là một quyết định thiếu sáng suốt.
Câu trả lời rất đơn giản, hãy để tôi giải thích cho bạn hiểu. Gạt qua những chi tiết linh tinh khác thì rõ ràng bạn đang cố gắng trao đổi "nhan sắc" lấy "tiền": A có nhan sắc và B trả tiền để mua nó, công bằng và sòng phẳng. Tuy nhiên, vấn đề mấu chốt ở đây là nhan sắc sẽ phai tàn theo năm tháng, trong khi tiền đầu tư thì không như vậy. Thực tế phũ phàng là thu nhập của tôi tăng dần qua năm tháng, còn bạn thì không thể ngày một đẹp hơn lên. Vì thế, nếu xét dưới góc độ kinh tế mà nói, tôi là một tài sản luôn luôn tạo ra giá trị gia tăng, còn bạn chỉ là một tài sản hao mòn. Hơn nữa, không phải là hao mòn bình thường, mà là hao mòn theo cấp số nhân. Nếu sắc đẹp là tài sản duy nhất mà bạn có thì giá trị của bạn sẽ bị giảm rất nhiều sau 10 năm nữa. Nếu so sánh với các phiên giao dịch trên phố Wall thì việc tôi hẹn hò với bạn cũng như một phiên giao dịch vậy. Nếu giao dịch bị giảm giá thì chúng tôi sẽ bán, chẳng ai ngốc đến mức giữ nó trong một thời gian dài - cũng như việc kết hôn vậy. Có thể bạn nghĩ tôi thật dã man khi nói ra những điều này, nhưng một tài sản mà có giá trị khấu hao lớn như vậy thì tốt nhất là nên bán hoặc là cho thuê. Bất kỳ người đàn ông nào có thu nhập 500,000 đô mỗi năm đều không phải là những gã ngu. Chúng tôi chỉ hẹn hò với bạn, nhưng chúng tôi sẽ không cưới bạn.

Vì thế, tôi thật lòng khuyên bạn hãy quên chuyện tìm cách lấy chồng giàu đi. Thay vào đó, hãy tự kiếm cho mình khoản thu nhập 500 nghìn đô mỗi năm để trở thành đại gia. Việc này có nhiều cơ hội thành công hơn so với việc tìm một thằng giàu mà ngu đấy.

Thân ái,
Nguyên Huy,
Tổng Giám đốc Hội Quán Phi Dũng

DnThuy
07-07-2013, 06:37 PM
Sau đây là thư của một em chảnh muốn lấy chồng:

Những gì tôi sắp nói sau đây đều thật lòng cả.

Tôi 25 tuổi. Tôi rất đẹp, tôi có phong cách và khiếu thẩm mỹ cao.
Tôi muốn cưới 1 anh chàng có thu nhập từ 500,000 đô mỗi năm trở lên.
Bạn có thể nói tôi là người tham lam nhưng mức lương 1 triệu đô mỗi năm thì chỉ được coi là tầng lớp trung bình ở tầng lớp lãnh đạo Việt Nam.

Yêu cầu của tôi không cao. Tôi khiêm nhường hơn nhiều nên chỉ tìm ai có thu nhập hàng năm là 500 nghìn đô là tạm đủ rồi?
Trong số các bạn, có ai đã lập gia đình chưa?
Tôi muốn hỏi: “Tôi phải làm gì để lấy được 1 ông chồng giàu như các bạn?"
Trong số những anh chàng tôi hẹn hò, anh giàu nhất cũng chỉ có mức lương 250 nghìn đô mỗi năm, đối với tôi mức lương này là quá ít. Nếu như ai đó đang có ý định chuyển đến 1 căn hộ cao cấp ở phía Ba Đình hoặc Saigon Hoa Lệ thì mức lương này thực sự là không đủ để chi tiêu.
Tôi có vài câu hỏi cho các bạn:
1) Những anh chàng giàu có thường hay lui tới những địa điểm nào? (Làm ơn liệt kê ra tên và địa chỉ của các quán bar, nhà hàng, phòng tập thể dục...)
2) Tôi nên nhắm đến những độ tuổi nào?
3) Tại sao hầu hết mấy bà vợ của các đại gia chỉ có nhan sắc trung bình? Tôi từng tiếp xúc với vài người trong số họ, họ chẳng xinh đẹp mà cũng chẳng thú vị gì cả, nhưng họ lại cưới được những anh chàng giàu có.
4) Các bạn dựa vào những tiêu chuẩn nào để chọn vợ, và những người nào chỉ có thể là bạn gái của các bạn thôi?
(Mục tiêu của tôi bây giờ là lấy chồng)

Ms. Pretty"

Sau đây là câu trả lời thẳng thắn từ CEO của tập đoàn Hội Quán Phi Dũng:

"Dear Ms. Pretty,
Tôi đã đọc bài viết của bạn và cảm thấy rất thích thú.
Tôi đoán có rất nhiều cô gái cũng có những câu hỏi tương tự như bạn.
Xin cho phép tôi được phân tích tình huống của bạn với tư cách của 1 nhà đầu tư chuyên nghiệp.
Trước hết, mức thu nhập hàng năm của tôi là hơn USD1,000.000/năm (cỡ như hai anh phụ tá BM và KQ2 đã lãnh tới $499,999.00/năm. Cũng giải thích thêm lý do mấy con số 999... bên Mỹ chỉ để cho đỡ thuế mà thôi); như vậy chắc chắn đáp ứng được yêu cầu của bạn, vì thế hi vọng mọi người không nghĩ rằng tôi đang phí thời gian ở đây.

Đứng dưới góc độ là 1 doanh nhân, tôi nghĩ cưới bạn quả là một quyết định thiếu sáng suốt.
Câu trả lời rất đơn giản, hãy để tôi giải thích cho bạn hiểu. Gạt qua những chi tiết linh tinh khác thì rõ ràng bạn đang cố gắng trao đổi "nhan sắc" lấy "tiền": A có nhan sắc và B trả tiền để mua nó, công bằng và sòng phẳng. Tuy nhiên, vấn đề mấu chốt ở đây là nhan sắc sẽ phai tàn theo năm tháng, trong khi tiền đầu tư thì không như vậy. Thực tế phũ phàng là thu nhập của tôi tăng dần qua năm tháng, còn bạn thì không thể ngày một đẹp hơn lên. Vì thế, nếu xét dưới góc độ kinh tế mà nói, tôi là một tài sản luôn luôn tạo ra giá trị gia tăng, còn bạn chỉ là một tài sản hao mòn. Hơn nữa, không phải là hao mòn bình thường, mà là hao mòn theo cấp số nhân. Nếu sắc đẹp là tài sản duy nhất mà bạn có thì giá trị của bạn sẽ bị giảm rất nhiều sau 10 năm nữa. Nếu so sánh với các phiên giao dịch trên phố Wall thì việc tôi hẹn hò với bạn cũng như một phiên giao dịch vậy. Nếu giao dịch bị giảm giá thì chúng tôi sẽ bán, chẳng ai ngốc đến mức giữ nó trong một thời gian dài - cũng như việc kết hôn vậy. Có thể bạn nghĩ tôi thật dã man khi nói ra những điều này, nhưng một tài sản mà có giá trị khấu hao lớn như vậy thì tốt nhất là nên bán hoặc là cho thuê. Bất kỳ người đàn ông nào có thu nhập 500,000 đô mỗi năm đều không phải là những gã ngu. Chúng tôi chỉ hẹn hò với bạn, nhưng chúng tôi sẽ không cưới bạn.

Vì thế, tôi thật lòng khuyên bạn hãy quên chuyện tìm cách lấy chồng giàu đi. Thay vào đó, hãy tự kiếm cho mình khoản thu nhập 500 nghìn đô mỗi năm để trở thành đại gia. Việc này có nhiều cơ hội thành công hơn so với việc tìm một thằng giàu mà ngu đấy.

Thân ái,
Nguyên Huy,
Tổng Giám đốc Hội Quán Phi Dũng

********

Mến gởi TPKW ( Yên Sơn )

Lá thư trên có sự nhầm lẫn ( Sai sót ) theo tài liệu một người quen gởi đến thì Tổng giám đốc :

Bạn cần phải hiểu rằng bất kỳ một gã đàn ông nào có mức thu nhập 500,000 đô mỗi năm đều không phải là những gã ngu. Chúng tôi chỉ hẹn hò với bạn nhưng chúng tôi sẽ không cưới bạn. Tôi khuyên bạn hãy quên chuyện tìm cách lấy chồng giàu đi. Thay vào đó hãy tự kiếm cho mình khoản thu nhập 500,000 đô mỗi năm để trở thành đại gia. Việc này có nhiều cơ hội thành công hơn so với việc tìm một thằng giàu mà ngu đấy .
Thân ái
Sumit Kishanpuria
Tổng Giám Đốc Ngân Hàng JP Morgan (*)

(*) Nếu tôi không lầm thì CEO của Ngân Hàng JP Morgan có số lương 23 triệu một năm, là CEO lương cao nhất nước Mỹ

Còn nếu là Tổng giám đốc của Hội Quán Phi Dũng thì là Hùng 45qs cơ ! . Xin dừng bút tại đây, rất mong được sự trả lời của " Cao nhân " cao nhân = người có bề cao hơn người ( Tệ nhất cũng phải có bề cao là một thước mốt trở lên cơ! ), và cũng khôn ngoan thông thái hơn người ( Đây là thiển ý của tui )

Kính thư Thủy Tiên.

Kính chúc tất cả các A/C trong HQPD một cuối tuần Dzui dzẻ, khỏe mạnh và hạnh phúc ...... cùng mọi điều tốt đẹp khác .

thanphongkingwood
07-07-2013, 09:04 PM
Mến gởi TPKW,
Lá thư trên có sự nhầm lẫn (sai sót) theo tài liệu một người quen gởi đến thì Tổng giám đốc HQPD là Hung45qs chứ không phải thằng cha Nguyên Huy tào lao nào đó

Kính thư Thủy Tiên.
Ừ nhể! Nói lộn thì nói lại chứ làm gì dữ dzậy!
Đừng la lớn, tui chỉ học theo cách xào nấu của phu nhơn ông BM mờ thui. Tui thiệt là dzô tội à nghen.
Thông cổm chưa? Phá tui wài!!!:43::kk:

BachMa
07-07-2013, 09:31 PM
Ừ nhể! Nói lộn thì nói lại chứ làm gì dữ dzậy!
Đừng la lớn, tui chỉ học theo cách xào nấu của phu nhơn ông BM mờ thui. Tui thiệt là dzô tội à nghen.
Thông cổm chưa? Phá tui wài!!!:43::kk:


:kk: Tránh xa "mồi" của đại gia TPKW :icon_smiless:
http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1373232184.jpg

nguyenphuong
07-08-2013, 04:51 AM
giởn chơi mờ có người buồn
cái mặt bí xị thấy thương quá trời
ai biểu định nghĩa lôi thôi
"vai mang, tay xách"... mà "ngầu"... thấy ghê
vậy mờ Nguyên Phương lại mê
làm ông Hiếu Nguyễn ra về tay không
Bạch Mã còn chạy lòng vòng
hai tay Hải Yến, Thần Phong cười trừ
Không Quân 2 cứ ậm ừ
gật lui gật tới như người cung trăng
buồn tình tui xin quá giang
cùng Hiếu Nguyễn lên xe tăng đi dzìa
trả chữ "mắng" cho ai kia
còn tui chắc có vấn đề "thần kinh"
Thần Kinh: Huế đẹp Huế xinh
có người té giếng đồng tình Huế thương
pó tay... người đẹp Nguyên Phương

chỉ là dzui thui mờ!
Vui gì… mà thích người buồn?
Anh dzìa xem vợ ghen tuông quá trời
Tiếng “Nôm” không hiểu thì thôi,
Ăn hiếp em..nhỏ uổng thời (làm)anh ghê!

Vậy mà cứ tưởng được mê,
Cần câu, giăng lưới bước về tay không.
Buồn tình nên chạy lòng vòng.
Hai tay ôm gi ..ây..giây,. giấy… anh P cộng trừ!

Lỗ to cứ phải ậm ừ
Gật lui gật tới ngất ngư cung hằng
Còn đâu cái lưới mà giăng,
Lên chùa xuống tóc.. bị tăng đuổi dzìa.

Nếu còn chọc phá …nọ kia
Thì còn phải sám hối dzìa tụng kinh.
Tụng mô, tụng rựa(cự)rung rinh
“Cải ni không rựa cạ mình (như) cả ươn”…

Ngồi bên cạnh vợ mà thương!
Vui thời chẳng đặng kiếm đường.. mà dzông!

NP

Mộc Châu
07-10-2013, 03:58 AM
Vui ơi kiếm được Mộc Châu
Khi không biệt tích quá lâu nên tìm
Thôi thì "như máu về tim"
Mộc Châu ở lợi cho thêm vui nhà
Sông sâu thì đã có phà
Non cao, rừng rậm cũng qua như thường
Biết sao không, dùng trực thăng
Ở đâu cũng đến... bất quá đổ thêm xăng là cùng
hahaha!!!
Thanphongkingwood




À, Châu quên:

Anh đã từng là phi công
Trực thăng, phản lực bay vòng không gian
Sông sâu, rừng núi bạt ngàn
Trên cao nhìn xuống dễ dàng…tấn công
Nhưng rồi cũng vẫn như không
Chỗ đâu hạ cánh mà mong gặp người
Chỉ còn cách lượn quanh đồi
Nhìn mây ngắm núi, nhắn lời hẹn tiên
Không quân “đào” khắp mọi miền
Hết nơi hạ giới, tìm duyên trên trời
Tình khuây khoả, phút giây thôi
Khi buồn đáp lại, vui rồi bay đi
Còn mong chung thủy nỗi gì
Lại thêm yêu thử, li kỳ làm sao!!!
Em chưa dám thử lần nào
Sợ ăn trái cấm vướng vào u mê
Tuổi già đang đến cận kề
Tim thoi thóp đợi ngày về…nghĩa trang
Yêu chi để dạ hoang mang…

MC

thanphongkingwood
07-10-2013, 06:02 AM
À, Châu quên:

Anh đã từng là phi công
Trực thăng, phản lực bay vòng không gian
Sông sâu, rừng núi bạt ngàn
Trên cao nhìn xuống dễ dàng…tấn công
Nhưng rồi cũng vẫn như không
Chỗ đâu hạ cánh mà mong gặp người
Chỉ còn cách lượn quanh đồi
Nhìn mây ngắm núi, nhắn lời hẹn tiên
Không quân “đào” khắp mọi miền
Hết nơi hạ giới, tìm duyên trên trời
Tình khuây khoả, phút giây thôi
Khi buồn đáp lại, vui rồi bay đi
Còn mong chung thủy nỗi gì
Lại thêm yêu thử, li kỳ làm sao!!!
Em chưa dám thử lần nào
Sợ ăn trái cấm vướng vào u mê
Tuổi già đang đến cận kề
Tim thoi thóp đợi ngày về…nghĩa trang
Yêu chi để dạ hoang mang…

MC

A Di thổ phộ
Xin Phật khoan độ
Cho con nghỉ tu
Chừng năm phút thôi
Để con trả lời
Cô nương Mộc Mộc

À hèm!
Không chịu yêu thử thì thôi
Tui bay lên trời, tui ngó người ta
Ngó xong tui sẽ bay xa
Tu hành cẩn mật như là tu tiên
Dù muốn thử cũng cần duyên
Không duyên dù có chung thuyền cũng không
Thế thì thôi kiếm, hết mong
Trần duyên trả lại giữ lòng tịnh chay
That's all, I said good bye
My friends, don't ask me why. I'm gone!

I'm gone đi biệt không về
Sợ ăn trái cấm u mê đường trần
Hết tiền còn phải đổ xăng
(Hay nhờ gunship quá giang trực thăng cho rồi)
Hay hỏi Hiếu Nguyễn đi xe tăng cũng tiện bề

hieunguyen11
07-10-2013, 06:09 PM
A Di thổ phộ
Xin Phật khoan độ
Cho con nghỉ tu
Chừng năm phút thôi
Để con trả lời
Cô nương Mộc Mộc

À hèm!
Không chịu yêu thử thì thôi
Tui bay lên trời, tui ngó người ta
Ngó xong tui sẽ bay xa
Tu hành cẩn mật như là tu tiên
Dù muốn thử cũng cần duyên
Không duyên dù có chung thuyền cũng không
Thế thì thôi kiếm, hết mong
Trần duyên trả lại giữ lòng tịnh chay
That's all, I said good bye
My friends, don't ask me why. I'm gone!

I'm gone đi biệt không về
Sợ ăn trái cấm u mê đường trần
Hết tiền còn phải đổ xăng
(Hay qua 239 quá giang trực thăng cho rồi)
Hay hỏi Hiếu Nguyễn đi xe tăng cũng tiện bề
Mời bạn ghé thăm nhà:

http://thovanyenson.com

Xe tăng tui chạy đường trần
Yên Sơn có muốn đi gần tui đưa
Đòi về tiên giới xin thưa
Tìm anh be bau mà đưa Sơn về
Trực thăng, gunship đi kề
Tiền công, xăng nhớt mọi bề ảnh lo
Chỉ cần tặng một bài thơ
Khi buồn ngâm lại bài thơ ân tình

http://H5N1.com

Mộc Châu
07-11-2013, 05:29 AM
A Di thổ phộ
Xin Phật khoan độ
Cho con nghỉ tu
Chừng năm phút thôi
Để con trả lời
Cô nương Mộc Mộc

À hèm!
Không chịu yêu thử thì thôi
Tui bay lên trời, tui ngó người ta...
Thanphongkingwood


Phi công hay nói gần xa
Bay vòng khắp lối, lượn qua lách vào
Em chưa yêu thử lần nào
Mà nếu yêu thiệt, tính sao bây giờ?
Chắc lúc đó, anh làm ngơ???
Gặp em quay mặt giả vờ không quen
Lầm bầm: "Sao có người điên
Thử tình không chịu, trả duyên cho rồi
Yêu chỉ là nói trên môi
Tình thì gói ghém vài lời vào thơ
Có thiệt đâu để mà mơ.."

MC

bebau
07-11-2013, 05:44 AM
Mộc Châu làm thơ trả lời hay quá ! bái phục ! bái phục !

Hai Yen
07-11-2013, 07:39 AM
Làm thơ mong thấy ông trăng?
Trăng sao không thấy...,trực thăng...lại về!

Còn trời ,còn nước,còn non
Còn trang Phi Dũng,anh còn ...làm thơ!!!

hihi...

thanphongkingwood
07-11-2013, 02:53 PM
Phi công hay nói gần xa
Bay vòng khắp lối, lượn qua lách vào
Em chưa yêu thử lần nào
Mà nếu yêu thiệt, tính sao bây giờ?
MC

Phi công = chẳng có công nào
Chỉ là bay lượn tào lao đỡ buồn
Phi công chẳng phải chuồn chuồn
Mà bay lượn, mà lách luồn vào ra
Nếu duyên trời định đôi ta
Khó gì mà tính... dzìa thưa với mẹ cha... bingo!
Chịu chưa, xin hỏi Mộc cô ?
Hay đã có bồ còn chọc ghẹo tui
(Nếu thế xui thiệt là xui
Tui về bán gạo dự tính để nuôi... con cò)
Lòng người nông cạn khó dò
Không bơi nữa, tui đi đò cho khỏi chết trôi

Tinh Hoai Huong
07-13-2013, 05:42 AM
Nghìn Trùng BẠCH MÃ ... Xa
http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1373653686.jpg
http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1373651299.mp3




Sương mù buông xuống
Hoàng hôn về hoa trắng ngập phố tôi
Mây mưa giăng gió thổi một phương trời
Chiều năm ấy lửa tràn dân quốc khổ
Quê hương tan cuộc tình đành vỡ
Vó câu nghìn dặm nỗi xót xa
Mộng chưa tròn đất lạ với trường sa
Duyên đã lỡ. Đôi ta đành ngậm ngùi chia cách
Thân BẠCH MÃ ngẩn ngơ sầu viễn khách
Nợ phong trần rủ sạch đường tơ
Gót chân phiêu lãng trăng mờ
Lữ hành tình đã... ngẩn ngơ mộng tàn !!!
Buồn thương quê mắt lệ dâng...

*
Tình Hoài Hương

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1373693474.mp3
Ui chao ơi! Đã ... Nghìn Trùng Bạch Mã Xa... Xa xăm!
Còn nước non chi đành lòng Bạch Mã đã ...
đã QUA BÊN xó góc Thơ Tình HOÀI HƯƠNG mà ỏn ẻn rù rì rủ rê:
"Nếu có YÊU TÔI thì hãy yêu tôi bây giờ...
Rằng thì là: "Về Đây Nghe Emmmm" ...
Rồi ... "Thôi Em Hãy Về"... mối duyên mình... nhạt nhoà như khói mây... hu hu hu ...

Tình Hoài Hương

thanphongkingwood
07-14-2013, 02:30 AM
Welcome Ái Ưu Du nhập cuộc chơi
Vào đây cùng nhóm hò ơi hò à
Hải Yến, Hoàng Yến một nhà
Nguyên Phương, Thảnh Cảnh cũng là người quen
Hiếu Nguyễn cùng với Thủy Tiên
Thân nhau tới độ làm điên đầu người
Không Quân 2 chỉ ngồi cười
gunship, Bạch Mã... trời ơi... giả đò
Bé Bầu coi vậy... lầm to
Thơ văn ướt át dù mò hơi lâu
cowboy72 chưa xuất hiện đâu
Cưỡi ngựa bắn súng rất ngầu đó nghen
Hùng45 còn tét đèn
Đệm xong bài nhạc sẽ thổi kèn cho coi

Welcome!

Mộc Châu
07-15-2013, 04:22 AM
thanphongkingwood

Chịu chưa, xin hỏi Mộc cô ?
Hay đã có bồ còn chọc ghẹo tui

Em nào dám chọc ghẹo người
Chỉ tại anh hỏi Châu thời trốn đâu?
Nghĩ không nên làm thinh lâu
Em phải ghi lại vài câu chân tình :)
MC

thanphongkingwood:
Lòng người nông cạn khó dò
Không bơi nữa, tui đi đò cho khỏi chết trôi

Anh lại thay đổi nữa rồi
Mới đi “gunship” giờ ngồi đò đưa
Lòng anh khi nắng khi mưa
Em không hiểu được nên chưa dám …dò :confused:
MC

gunship
07-15-2013, 03:46 PM
Anh lại thay đổi nữa rồi
Mới đi “gunship” giờ ngồi đò đưa
Lòng anh khi nắng khi mưa
Em không hiểu được nên chưa dám …dò
MC

gunship nào có cho đi,
nên anh cứ mãi ngồi lì trên ghe.
lòng anh nay quá ê chề,
mong ai rộng lượng cho anh về nơi nao !!!

gunship

Tinh Hoai Huong
07-15-2013, 06:09 PM
Anh lại thay đổi nữa rồi
Mới đi “gunship” giờ ngồi đò đưa
Lòng anh khi nắng khi mưa
Em không hiểu được nên chưa dám …dò
MC
gunship nào có cho đi,
nên anh cứ mãi ngồi lì trên ghe.
lòng anh nay quá ê chề,
mong ai rộng lượng cho anh về nơi nao !!!
gunship

*
http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1373911274.jpg

Mộc Châu ui!
Thì đó... (COWBOY GUNSHIP ... "BỂ BẦU" ...rùi, còn đâu!!! khà khà khà...)

Mời đọc trích dẫn từ Thơ Tình Hoài Hương ở dưới dây nha :
. . .
THANH PHONG(k) HIẾU NGUYỄN THIÊN SỨ(37)
PHÒNG TRỰC HOÀNG HẠC mùa Thu ĐỨC(qy) Bình
THUỶ TIÊN THANH CẢNH quê xinh
ĐÀ LẠT DANH LỊCH lung linh mặt hồ

KHÁNH THỌ (vk)THỦ ĐỨC (kq)CẦN THƠ
KHÔNG QUÂN(2) PHÙ CÁT đợi chờ MỘC CHÂU...
COWBOY... GUNSHIP ... "BỂ BẦU"
PHƯỚC(ps) HÙNG(45) PHI-DŨNG bền lâu ân tình
. . .


Tình Hoài Hương

thanhcanh
07-16-2013, 04:51 AM
Happy Birthday To Bạch Mã

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1373948566.jpg

16.07.2013

Chúc Anh Cả Vĩnh Đoàn ( Bạch Mã ) ngày sinh nhật thật vui vẻ và hạnh phúc.

Quan san nghìn dặm mịt mùng,
Vó câu trải suốt trăm năm an lành.
Ruổi giong khắp bạt ngàn xanh ,
Thênh thang gió mát , trăng thanh phiêu bồng.

*****
Mến tặng anh Bạch Mã
TC

hieunguyen11
07-16-2013, 06:39 AM
16.07.2013

Chúc Anh Cả Vĩnh Đoàn ( Bạch Mã ) ngày sinh nhật thật vui vẻ và hạnh phúc.

Quan san nghìn dặm mịt mùng,
Vó câu trải suốt trăm năm an lành.
Ruỗi giong khắp bạt ngàn xanh ,
Thênh thang gió mát , trăng thanh phiêu bồng.

TC

Vó câu muôn dặm Tây Đông
Giờ thì mỏi bước phiêu bồng đó đây
Nhiều khi một bóng đêm ngày
Nhờ Phi Dũng Quán thêm vài bạn thân
Từ nay Bạch Mã dừng chân
Niềm vui chia sẻ cận lân bạn hiền
Để quên ngày tháng u phiền
Chỉ còn kỷ niệm những miền đi qua

HN11

DnThuy
07-16-2013, 03:37 PM
Happy Birthday ( BM )

Anh tên Bạch Mã đỡ tốn xăng.
Chạy tới! chạy lui! Hách xì xằng.
Yêu đời dzui dzẻ khi dong ruỗi.
Băng núi vượt đèo, chạy phăng phăng !!!

Thủy Tiên ( Út Quậy )

Ngày xưa thì : Một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ.
Nhưng hôm nay thì: Ngựa trắng ( BM ) Birthday, cả tàu đi ăn phở ! bởi vì hết cỏ rùi!!! ( kha kha kha )



:icon_supprise::icon_supprise::43::43::icon_banana ::icon_banana::Cheerleader::Cheerleader:

:icon_smiless::icon_smiless::kk::kk::77::77::rose: :rose::41::41:

hoang yen
07-16-2013, 08:20 PM
Ghìm cương, ngựa trắng, ngất trời xanh
Áo bạc, chinh nhân, kiếp độc hành
Nhịp gõ đường xa, người muôn thuở
Hạnh ngộ, đêm trường, say vó câu

bebau
07-17-2013, 12:06 AM
http://img7.imageshack.us/img7/2853/gcpo.jpg


http://img827.imageshack.us/img827/7355/lxv1.jpg


Chúc mừng sinh nhật anh Bạch Mã !

bebau

hieunguyen11
07-17-2013, 12:45 AM
Anh Bạch Mã (Vĩnh Đoàn) thật đúng là chân mạng đế vương nên ngày sinh nhật của anh được nhiều người chúc tụng!

Vạn tuế! Vạn... vạn tuế!

:CungBia1::Cheerleader::CungBia1:

BachMa
07-17-2013, 05:46 AM
http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1373958539.gif
mến chúc BachMa sinh nhật vui tươi, tâm hồn thơ thới trẻ mãi không già...
:CungBia1: :rauch0001: :icon_coffee: :icon_coupledance::nhacvn: :103:


(BM đăng bài này dùm một người bạn ở xa)

DnThuy
07-17-2013, 08:36 AM
TT nhìn thấy tấm hình chú ngựa đang chở chiếc bánh sinh nhật trên lưng dễ thương quá !
bèn lẹ tay ghi lại vài dòng tặng thêm cho BM nhân ngày sinh nhật .

Sinh nhật Nguyễn Phước Vĩnh Đoàn July - 16 -2013 ( SN lần thứ 46 )

Chàng và nàng!

Bạch Mã chân bước nhịp nhàng!
Trên lưng đang chở một nàng thật xinh.
Áo xanh e ấp cười tình.
Dịu dàng nàng bảo: chúng mình nên đôi.
Bạch Mã hạnh phúc bồi hồi!
Thôi ta về nhé! đường thời còn xa...
Suối reo róc rách chim ca.
Khi yêu em hỡi!:" đường xa hóa gần "

Thủy Tiên.





:icon_smiless::icon_smiless::kk::icon_banana::icon _banana::nhacvn::nhacvn::77::77:

hieunguyen11
07-17-2013, 04:50 PM
TT nhìn thấy tấm hình chú ngựa đang chở chiếc bánh sinh nhật trên lưng dễ thương quá !
bèn lẹ tay ghi lại vài dòng tặng thêm cho BM nhân ngày sinh nhật .

Sinh nhật Nguyễn Phước Vĩnh Đoàn July - 16 -2013 ( SN lần thứ 46 )

Chàng và nàng!

Bạch Mã chân bước nhịp nhàng!
Trên lưng đang chở một nàng thật xinh.
Áo xanh e ấp cười tình.
Dịu dàng nàng bảo: chúng mình nên đôi.
Bạch Mã hạnh phúc bồi hồi!
Thôi ta về nhé! đường thời còn xa...
Suối reo róc rách chim ca.
Khi yêu em hỡi!:" đường xa hóa gần "

Thủy Tiên.





:icon_smiless::icon_smiless::kk::icon_banana::icon _banana::nhacvn::nhacvn::77::77:

Hiếu chỉ (hổng phải thánh chỉ)
Hạ thần xin chúc Bạch Mã:

"Bách niên giai lão"
"Thọ tỷ Nam Sơn"

Khâm chỉ,

Vạn tuế...Vạn...Vạn tuế

:CungBia1::Cheerleader::CungBia1:

BachMa
07-19-2013, 05:41 AM
Thấy lê quên lựu....

http://www.youtube.com/watch?v=_DTE1t2S0U8

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1371886646.gif

hieunguyen11
07-19-2013, 05:52 AM
Anh BM ui, siêu mẫu này mà bỏ trầu cau giạm hỏi thì tui hổng chịu............................................ ........để lâu đâu!

Mộc Châu
07-23-2013, 05:35 AM
Anh lại thay đổi nữa rồi
Mới đi “gunship” giờ ngồi đò đưa
Lòng anh khi nắng khi mưa
Em không hiểu được nên chưa dám …dò
MC

gunship nào có cho đi,
nên anh cứ mãi ngồi lì trên ghe.
lòng anh nay quá ê chề,
mong ai rộng lượng cho anh về nơi nao !!!

gunship


Gửi anh "Gun Ship" lời chào :103:
Sao anh không chở bạn vào tiên cung?
Nơi đó cảnh đẹp vô cùng
Ai nỡ để bạn chạy cùng quá giang
Lặn lội tới tận đò ngang
Trèo lên ghe nhỏ, để sang bến tình
Lỡ mà mưa gió thình lình
Sóng xô thuyền úp bạn mình... chết sao??? :p

MC

gunship
07-23-2013, 06:23 PM
Gửi anh "Gun Ship" lời chào :103:
Sao anh không chở bạn vào tiên cung?
Nơi đó cảnh đẹp vô cùng
Ai nỡ để bạn chạy cùng quá giang
Lặn lội tới tận đò ngang
Trèo lên ghe nhỏ, để sang bến tình
Lỡ mà mưa gió thình lình
Sóng xô thuyền úp bạn mình... chết sao??? :p

MC


gunship tôi,gặp người đẹp M Châu,
Lòng tôi cãm nhận nỗi lo âu,
Trời trăng, mây nước, [ quay ] cuồng trước mặt,
Phen nầy gunship sẽ lộn nhào [ vertigo ].

gunship tôi, chỉ chở quý bà,
Các ông chịu khó đeo theo phà.
M Châu, người đẹp nơi Tiên Cảnh,
gunship nầy sẽ galăng tối đa.

Tạm ú ớ

gunship
7-23-2013

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1374617435.jpg

Mộc Châu
07-24-2013, 02:28 AM
gunship tôi, chỉ chở quý bà,
Các ông chịu khó đeo theo phà.
M Châu, người đẹp nơi Tiên Cảnh,
gunship nầy sẽ galăng tối đa.

Tạm ú ớ

gunship
7-23-2013



Châu xin đính chính ngay nha:

Em người trần thế không là tiên cô
Nơi em ở, chốn rừng khô
Núi đồi heo hút đường vô gập ghềnh
Không phải Tiên Cảnh bồng bềnh
Xin đừng nhầm lẫn gửi tình sai nơi
Hỏi vui dùm bạn anh thôi!
Em không có ý muốn ngồi trực thăng
Cám ơn lời lẽ ga lăng...
MC

Ồ, anh nói "gunship tôi, chỉ chở quí bà", mà anh trang bị đầy súng ống thế kia thì bà nào còn dám leo lên??

gunship
07-24-2013, 08:07 PM
gunship tôi, chỉ chở quý bà,
Các ông chịu khó đeo theo phà.
M Châu, người đẹp nơi Tiên Cảnh,
gunship nầy sẽ galăng tối đa.

Tạm ú ớ

gunship
7-23-2013



Châu xin đính chính ngay nha:

Em người trần thế không là tiên cô
Nơi em ở, chốn rừng khô
Núi đồi heo hút đường vô gập ghềnh
Không phải Tiên Cảnh bồng bềnh
Xin đừng nhầm lẫn gửi tình sai nơi
Hỏi vui dùm bạn anh thôi!
Em không có ý muốn ngồi trực thăng
Cám ơn lời lẽ ga lăng...
MC

Ồ, anh nói "gunship tôi, chỉ chở quí bà", mà anh trang bị đầy súng ống thế kia thì bà nào còn dám leo lên??


Rừng khô, thì mặc rừng khô,

gunship sẽ đến chở cô Châu về.........

thành phố hoa lệ, vui ghê,

Mộc Châu sẽ phải say mê dài dài.



Dù cho đồi núi, rừng cây,

gunship nầy cũng sẽ bay đến liền.

Để rước người đẹp như Tiên [ Tiên trên trời ]..............

chở đi du hí những miền nên thơ.



Mộc Châu đừng có thờ ơ,

Phụ lòng gunship đang chờ từ lâu.



Có người tên là Mộc Châu,

Ngồi sau gunship trên tàu trực thăng.

Cho nên gunship rất hăng,

Lượn qua, quẹo lại, lăng xăng trên trời.





Mộc Châu giờ đã mệt nhoài,

Năn nỉ gunship, Ngưng thôi cho tui nhờ.

gunship khoái chí cười to.......



Ha ha ha
:ukliam2::ukliam2::ukliam2:



gunship

7-24-2013

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1374696348.jpg

Mộc Châu
07-26-2013, 01:28 AM
Rừng khô, thì mặc rừng khô,

gunship sẽ đến chở cô Châu về.........

thành phố hoa lệ, vui ghê,

Mộc Châu sẽ phải say mê dài dài.

Dù cho đồi núi, rừng cây,

gunship nầy cũng sẽ bay đến liền.

Để rước người đẹp như Tiên [ Tiên trên trời ]..............

chở đi du hí những miền nên thơ.

Mộc Châu đừng có thờ ơ,

Phụ lòng gunship đang chờ từ lâu.

Có người tên là Mộc Châu,

Ngồi sau gunship trên tàu trực thăng.

Cho nên gunship rất hăng,

Lượn qua, quẹo lại, lăng xăng trên trời.

Mộc Châu giờ đã mệt nhoài,

Năn nỉ gunship, Ngưng thôi cho tui nhờ.

gunship khoái chí cười to.......

Ha ha ha

gunship

7-24-2013



http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1374801732.jpg

Anh đâu cần phải cười to
Em có "phản lực" lo cho em rồi
Dẫu sao cũng cám ơn người
Mang tình đồng hội* mở lời giúp nhau
Em thuộc thế hệ đi sau
Nên tài không đủ đáp câu thơ đùa
Đáp hoài, em chắc sẽ thua
Xin đầu hàng trước cho vừa trọn vui.

Chấm hết anh Gun Ship nhé./.

MC

* Hội Quán Phi Dũng

BachMa
09-02-2013, 03:24 AM
Không Tốt Ngày !!

Hôm nay Bạch Mã thở than:
Ra đường gặp gái, cô nàng như ma.
Biết rằng là sẽ xui nha,
Đi làm bị trể, xếp la chuyện thường.
Sáng nay gặp chuyện không lường,
Một bên bồ giận, một đường vợ la.
Mùng năm, mười bốn, hăm ba,
Đi chơi cũng bịnh, ở nhà cũng đau.

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1378092145.gif

BM
(số con rệp)

nguyenphuong
09-03-2013, 03:03 AM
Ai kêu anh hổng chọn ngày
Đi nhằm thứ chẳn..chọn ngày số hên..
Hai..bốn..sáu…tám là êm
Ra đường một tá cô em (đòi) bắt dzìa (hi hi)
Công ty Xếp thưởng nữa kìa,
Thêm lương cả tháng đem dzìa vợ khen
Tặng nàng thêm bó hoa kèn,
Em là số ..dzách (anh) chẳng thèm ngó ai
Vợ nghe qua đã bùi tai
Nàng cưng anh nhất trần ai….ai bằng !!!!!

NP

BachMa
09-14-2013, 01:41 AM
http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1379122446.jpg
http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1379124356.mp3
Than Thân

Đời tôi như áng trăng mờ,
Trăng đi trăng đến, hững hờ tình tôi.
Đời tôi như áng mây trôi,
Mây đi mây đến, tình tôi lững lờ.
Đời tôi như sóng vổ bờ,
Sóng trôi sóng đập, dập vờ tình tôi.

BM

BachMa
10-07-2013, 09:16 PM
http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1381179850.jpg
http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1381180392.mp3
Ngóng Trông

Nhớ em cặp má phấn hồng,
Nhớ em môi mắt, tình nồng bên anh.
Nhớ em mắt biếc long lanh,
Nhớ anh BachMa, sãi nhanh mau về.

Hè qua, Thu đến, Đông kề,
Xuân sang em đếm, ngày về em trông.
Anh ơi, anh có nhớ không,
Sân bay em đợi, em trông anh về.

BM

BachMa
10-18-2013, 07:00 PM
http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1382123234.jpg
http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1382122373.mp3
Tình Anh

Tưỡng rằng tình héo mong manh,
Nào ngờ em đến trao anh thật tình.
Ước sao tình chuyện chúng mình,
Chóng thành sự thật như mình hằng mơ.

Em dù xa cách bơ vơ,
Anh luôn nghĩ đến, tình thơ chúng mình.
Mai đây anh sẽ tường trình,
Cùng Ba Mẹ rỏ, chúng mình thành đôi.

Em đừng luôn nghỉ xa vời,
Anh đây một dạ, yêu thời mình em.

BM

BachMa
11-07-2013, 10:21 PM
http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1383862404.jpg
http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1383922575.mp3
"Ngựa" than thân...

"Người" ơi!
Ăn hiếp "Ngựa" hoài
Có ngày
"Ngựa" sẽ nằm ngoài nghĩa trang

Bấy giờ
Xin chớ thở than
Muốn tìm "Ngựa" đến
Thiên Đàng gặp ngay

BM

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1371886646.gif

nguyenphuong
11-08-2013, 01:40 AM
Ai mà ăn hiếp Anh Hai ????
Có P giả bộ chứ ai đâu nà !!!
Nhỏng nheo nhỏng nhẽo gọi là....
Bắt Hai chìu chuộng để mà thấy vui.
Có gì than thở Hai ơi !!
Không thèm... kiếm (Hai)khác..Hai ôi ..có gì..
Rồi Hai sẽ chẳng còn chi,
Cô em chẳng réo....ngồi nhi nhâm buồn..
( Cho...đáng đời Hai )

NP


Nói lời mà chẳng nhớ lời…
P làm em nhé ! Ôn thời anh hai.
Làm hai chỉ để được …sai (hi hi )
O kêu…Hai hởi !!! Thì Hai có liền
Để... chừ ..ôn đó à nghen!!!
Lòng thay dạ đổi…mắng ten tét rồi
Để tìm ôn khác vậy thôi
Hai chi …kỳ cục nên tôi hổng cần

NP

thanphongkingwood
11-14-2013, 08:35 PM
Bạch Mã hí vang, cười như sấm
Nhìn hoàng hôn bóng ngã trên cây
Mắt dõi nhìn trùng dương xanh thẳm
Hoàng thành ơi kỷ niệm vơi đầy

http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1384470651.mp3

BachMa
11-15-2013, 06:54 PM
Bạch Mã hí vang, cười như sấm
Nhìn hoàng hôn bóng ngã trên cây
Mắt dõi nhìn trùng dương xanh thẳm
Hoàng thành ơi kỷ niệm vơi đầy

http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1384470651.mp3

Thần Phong, bạn củ từ dạo ấy
Tưỡng đã quên thân BachMa nầy
Lâu quá mà anh còn nhớ hỉ ?
Những ngày vui thoải mái nơi đây.

http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1384541343.mp3
http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1382119768.gif

thanphongkingwood
11-16-2013, 04:33 PM
Bạn cũ là bạn lâu rồi
Tui đây vẫn bạn ông ơi ông à
Chỉ vì cái tội bị già
Cho nên hay bị quán gà mà thôi
Tui vẫn là bạn đây thôi
Lâu lâu thơ thẩn cho đời thêm vui
Khi nào buồn ông gọi tui
Cù cưa nói tới nói lui đỡ buồn

BachMa
11-19-2013, 06:24 PM
Bạn cũ là bạn lâu rồi
Tui đây vẫn bạn ông ơi ông à
Chỉ vì cái tội bị già
Cho nên hay bị quán gà mà thôi
Tui vẫn là bạn đây thôi
Lâu lâu thơ thẩn cho đời thêm vui
Khi nào buồn ông gọi tui
Cù cưa nói tới nói lui đỡ buồn
Bác nghe tui thán tui buồn,
Nói thời nói vậy, chớ buồn chi mô.
Bởi vì không thấy bác vô (HQPD)
Tưỡng rằng Bác bỏ ba Cô Tiên rồi.
BachMa là bốn bác ơi,
Lâu lâu Bác nhớ vào chơi trang nầy.

Trang nầy mà được như vầy,
Là nhờ Bác đấy, đã gầy dựng nên.
BachMa cùng ba Cô Tiên,
Cãm ơn Bác đã tình riêng tõ bày.

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1372275570.mp3
:CungBia1:

thanphongkingwood
11-22-2013, 05:44 PM
Ai to gan bỏ cô tiên ?
To gan cũng chỉ bỏ tiền mà thôi
Chúc mọi người luôn thảnh thơi
Luôn luôn sức khỏe, vui chơi mỗi ngày
Lâu lâu tui chạy vào đây
Thăm anh chút đỉnh rồi phải đi cày kiếm cơm

http://www.last.fm/music/L%C3%AA+Uy%C3%AAn+Ph%C6%B0%C6%A1ng/_/V%C5%A9ng+l%E1%BA%A7y+c%E1%BB%A7a+ch%C3%BAng+ta
Sẵn dịp xin lỗi tất cả mọi người vì đa đoan quá nên không có thì giờ để rong chơi và thưởng thức những áng thơ văn chia sẻ của quý anh chị. Đôi khi cũng có đọc nhưng rồi cũng phải chạy liền chưa kịp nói tiếng cám ơn. Chúc anh chị em luôn vui chơi thoải mái và cám ơn thân tình đến những tâm hồn đồng điệu.

Tình thân,
TPKW

BachMa
12-12-2013, 06:46 PM
http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1386873509.jpg

Nhớ Em !!

Mai chiều...
Anh nhớ,
Không quên !
Nhớ em điên dại, nhớ em
Vô bờ !

Nhớ em,
Nhớ thuở làm thơ...
Nhớ em từ lúc
Anh chờ trường tan.

Nhớ em,
Lệ nhỏ
Đôi hàng,
Nhớ em tình thắm,
Dâng tràn niềm vui.

Em về
Quê ngoại vui chơi,
Anh đây trông đợi
Buồn ơi là buồn...

BM (Dec. 12, 2013)

nguyenphuong
03-12-2014, 05:54 AM
Ở đời nhiều chuyện hiểu nhầm...
Người thương tưởng ghét, người thâm tưởng hiền.
Có tài thì giấu... đôi niên,
Kém tài tí chút..một niên lộ dần.
P thì lòng thật mươi phần,
Nói ngay nói thẳng chẳng cần dối gian.
Lòng ngay hay dối mọi đàng,
Trước sau sẽ rõ muộn màng chi đâu.
Làm sao hiểu hết nông sâu,
Nhìn vào như thấy đậm sâu thâm tình..
Ai ngờ ngoài mặt lặng thinh,
Sóng cồn nổi trận như in bão bùng
Nghe qua thì thật não nùng
Nhưng ai thấu hiểu sẽ rùng mình chẳng chơi.
Lòng người ai hiểu tới nơi
Thế gian chuyện ấy người ơi cũng thường.
Có người ghét đắng...khôn lường,
Thế nhưng ngoài mặt ai tường trong tâm
Tay ôm..miệng nói tình thâm,
Môi cười dịu ngọt, thâm tâm ghét thù
Rồi đây không sớm (cũng) từ từ
Rồi thì cũng rõ thực hư thế nào......
Tay trong tay thấy vui sao,
Mà lòng.. oán, giận đến đâu ai tuờng?
Nhìn như thế tưởng là thương!!!
Còn lời không ngọt,không thương (nhưng) không thù....

nguyenphuong

nguyenphuong
03-13-2014, 02:46 AM
THƠ HAIKU

Thơ rằng:

1. Thiền sư tọa trên đá
Sương mù loang xa ớn ớn lạnh
Rừng trúc gió là đà……

2. Nằm giữa đôi vách núi
Ngọn suối chảy quanh năm không ngừng…
Quanh co trong tình-thương ….

Mời quý vị họa cho vui ....
( Tác giả NP không còn nhớ)


Bài Họa:

Cô phụ đứng vọng phu
Thân tàn..hóa đá...nghiêng nghiêng sầu....
Biển khơi gió lồng lộng......

Đứng trước sóng muôn trùng
Ngọn sóng xô muôn đời ..không thôi
Trãi dài vạn tủi hờn......
nguyenphuong

------------------
1. Con chim trên nhánhcây
Chiếc xe lửa chạy trên đường rầy
Đất chỗ cao chỗ thấp

2. Đứa nhỏ đã mười tuổi
Cây roi vô tình không có tên
Tiếng khóc từ trên mặt

3. Đống rác một ngọn núi
Mỗi túi tham là một kho tàng
Cuộc đời cơn gió bụi.
(khuyết danh)

Bài họa

1./Con cá lội dưới nước
Con gà mẹ bới đất trong vườn
Nước khi lớn khi ròng

2./Con chim bay trên trời
Con mèo mun bắt chuột trong nhà
Trời khi nắng khi mưa.....

3./Đóa hồng nhung đỏ thắm
Buổi sớm...đón nắng mai hững hờ
Chiều..tan tác vì mưa

4./Nước biển cả đại dương
Nước sa mạc nâng niu từng giọt
Trên cát nước thấm nhanh

5./Cụ già giờ chín mươi
Bát cơm chẳng cố tình để rơi
Đói lòng bởi bàn tay
nguyenphuong

-----------

Một, hai, ba, bốn …
Bước đều,bước đều, tập-tểnh đỗ mồ hôi…
Ta làm lính …

Hỉ, nộ, ái, ố ……đũ mọi đều…
Có thế cuộc đời mới đáng sống….
Chết là hết!...
(khuyết danh)

Bài họa

Sanh, Lão, Bệnh, Tử ...
Trẻ thơ, niên thiếu, thanh niên..rồi ông cụ...
Ta chết già

Giàu, nghèo, sang hèn....dễ phân biệt
Chắc chắn lòng người khó biệt phân.....
Chết để tiếng

Xuân Hạ Thu Đông có bốn mùa
Hoa mai, lan, cúc với trúc
người quân tử
nguyenphuong

----------

Hè về hoa đua nở
Hồng tỏa sắc hương khắp cả vườn
Nắng chang-chang.... oi ả!!!...

Xới đất trồng hoa quả
Vợ bảo: "nhớ tưới nhiều đi anh!..."
Quên tưới! Không cơm ăn!.....
D. Barnard

Bài họa :

Đông đến hoa úa tàn
Tuyết phủ trắng trời trắng cả hiên
Lạnh run run...ôi rét !!

Lấy xẻng cào đám tuyết
Sợ vợ...trơn trợt ngã đau
Nàng thưởng... bữa cơm ngon
nguyenphuong

----------------------

Hè về mới mấy ngày!...
Trăm hoa đua nở...bướm vờn hoa...
Tạo hóa khéo tay tạo!...
dbarnard71

Đông suốt một đời người !....
Vạn ngày giá rét...!! áo ấm che..
Trời trớ trêu phận người !!....
nguyenphuong

----------------

Đây, chốn ta mài kiếm
Lữ khách xa hay tri kỷ gần
Vào cùn nhưng ra bén!
Lyly

Kia, chỗ họ đập, rèn...
Đường thênh thang hay lối mòn quanh
Sắt thô biến gươm đao..
nguyenphuong

--------------

Nàng Thơ

Đã khuya...đèn vẫn tỏ
Nàng mĩm cười quanh quẩn cùng ta
Vui hoài, không thèm ngủ!
Châu Thi


VỢ CHỒNG

Giũa hè…trời nắng hanh
Vợ chồng nông dân cùng nghỉ trưa
Vợ….với tay quạt chồng
nguyenphuong

---------------------

Thời gian trôi quá nhanh....
Hơn năm mươi năm ...đã làm gì?
Vui buồn rầu lẫn lộn...
LNB


Tuổi thơ như dừng lại…
Không chịu lớn bao giờ…trong ta.
Đâu nghĩ gần sáu mươi.
nguyenphuong

---------------------

Mỗi ngày một nụ cười...
Không tri kỷ, không bạn bè...chán!
Chết hơn...sống đơn côi....
LNB

Chết chi phí cuộc đời
Chỉ một lần ta được làm người..
Bằng hữu khắp mọi nơi
nguyenphuong

--------------------

Kiếp sau làm đàn ông
Để đam mê và yêu mệt nghỉ!
Phận đàn bà ngồi im!
Lyly

Kiếp nầy phận đàn bà
Đam mê ..yêu đương cũng thật nhiều
Tại Ông Trời không thương
nguyenphuong

----------------

An afternoon breeze
expels cold air, along with
the fallen brown leaves.

· Cherry blossoms bloom,
softly falling from the tree,
explode into night.

· The warmth on my skin.
Fire falls beneath the trees.
I see the sun set.

· Summer here again.
Music plays sweetly, drifting.
And life is renewed.

· A winter blanket
covers the Earth in repose
but only a dream

· An ocean voyage.
As waves break over the bow,
the sea welcomes me.

dbarnard71

Bai họa:

Mây hồng buổi sớm mai
Thêm ánh nắng rực rỡ ngày hè
Không gian như bừng sáng

Nguyệt quế đêm tỏa hương
Thơm nồng cả một góc sân nhà
Sáng ra cây trắng xóa

Gió lạnh se ngoài da
Nhớ ai ấm cả lòng ..nên vui
Cách xa nhưng rất gần

Một lần người ghé thăm
Chia tay không muốn rời...đành hẹn..
Sau nầy....biết còn gặp...??

Mùa xuân tuy đã qua
Lòng dù tiếc ...nhưng luôn yêu đời..
Làm người được mấy kiếp?

nguyenphuong


Phần chuyển ngữ Anh Dương Hồng Kỳ giúp

Rosy morning clouds
Bright sunshine on summer day
Lit up the atmosphere

Night cherry blossom
With fragance all over places
Brings white morning fog

Coldness of wind felt
Thinking of someone brings warmth
No distance's too far

Dương Hồng Kỳ


NHẪN

Mũi dao sắc bén nhọn,
Bao phen cứa nát trái tim đau.
Dạy ta một chữ “Nhẫn”.

Dương Hồng Kỳ

PhiLan
03-13-2014, 06:22 AM
THƠ HAIKU

Thơ rằng:

1. Thiền sư tọa trên đá
Sương mù loang xa ớn ớn lạnh
Rừng trúc gió là đà……

2. Nằm giữa đôi vách núi
Ngọn suối chảy quanh năm không ngừng…
Quanh co trong tình-thương ….

Mời quý vị họa cho vui ....
( Tác giả NP không còn nhớ)


Bài Họa:

Cô phụ đứng vọng phu
Thân tàn..hóa đá...nghiêng nghiêng sầu....
Biển khơi gió lồng lộng......

Đứng trước sóng muôn trùng
Ngọn sóng xô muôn đời ..không thôi
Trãi dài vạn tủi hờn......
nguyenphuong

------------------
1. Con chim trên nhánhcây
Chiếc xe lửa chạy trên đường rầy
Đất chỗ cao chỗ thấp

2. Đứa nhỏ đã mười tuổi
Cây roi vô tình không có tên
Tiếng khóc từ trên mặt

3. Đống rác một ngọn núi
Mỗi túi tham là một kho tàng
Cuộc đời cơn gió bụi.
(khuyết danh)

Bài họa

1./Con cá lội dưới nước
Con gà mẹ bới đất trong vườn
Nước khi lớn khi ròng

2./Con chim bay trên trời
Con mèo mun bắt chuột trong nhà
Trời khi nắng khi mưa.....

3./Đóa hồng nhung đỏ thắm
Buổi sớm...đón nắng mai hững hờ
Chiều..tan tác vì mưa

4./Nước biển cả đại dương
Nước sa mạc nâng niu từng giọt
Trên cát nước thấm nhanh

5./Cụ già giờ chín mươi
Bát cơm chẳng cố tình để rơi
Đói lòng bởi bàn tay
nguyenphuong

-----------

Một, hai, ba, bốn …
Bước đều,bước đều, tập-tểnh đỗ mồ hôi…
Ta làm lính …

Hỉ, nộ, ái, ố ……đũ mọi đều…
Có thế cuộc đời mới đáng sống….
Chết là hết!...
(khuyết danh)

Bài họa

Sanh, Lão, Bệnh, Tử ...
Trẻ thơ, niên thiếu, thanh niên..rồi ông cụ...
Ta chết già

Giàu, nghèo, sang hèn....dễ phân biệt
Chắc chắn lòng người khó biệt phân.....
Chết để tiếng

Xuân Hạ Thu Đông có bốn mùa
Hoa mai, lan, cúc với trúc
người quân tử
nguyenphuong

----------

Hè về hoa đua nở
Hồng tỏa sắc hương khắp cả vườn
Nắng chang-chang.... oi ả!!!...

Xới đất trồng hoa quả
Vợ bảo: "nhớ tưới nhiều đi anh!..."
Quên tưới! Không cơm ăn!.....
D. Barnard

Bài họa :

Đông đến hoa úa tàn
Tuyết phủ trắng trời trắng cả hiên
Lạnh run run...ôi rét !!

Lấy xẻng cào đám tuyết
Sợ vợ...trơn trợt ngã đau
Nàng thưởng... bữa cơm ngon
nguyenphuong

----------------------

Hè về mới mấy ngày!...
Trăm hoa đua nở...bướm vờn hoa...
Tạo hóa khéo tay tạo!...
dbarnard71

Đông suốt một đời người !....
Vạn ngày giá rét...!! áo ấm che..
Trời trớ trêu phận người !!....
nguyenphuong

----------------

Đây, chốn ta mài kiếm
Lữ khách xa hay tri kỷ gần
Vào cùn nhưng ra bén!
Lyly

Kia, chỗ họ đập, rèn...
Đường thênh thang hay lối mòn quanh
Sắt thô biến gươm đao..
nguyenphuong

--------------

Nàng Thơ

Đã khuya...đèn vẫn tỏ
Nàng mĩm cười quanh quẩn cùng ta
Vui hoài, không thèm ngủ!
Châu Thi


VỢ CHỒNG

Giũa hè…trời nắng hanh
Vợ chồng nông dân cùng nghỉ trưa
Vợ….với tay quạt chồng
nguyenphuong

---------------------

Thời gian trôi quá nhanh....
Hơn năm mươi năm ...đã làm gì?
Vui buồn rầu lẫn lộn...
LNB


Tuổi thơ như dừng lại…
Không chịu lớn bao giờ…trong ta.
Đâu nghĩ gần sáu mươi.
nguyenphuong

---------------------

Mỗi ngày một nụ cười...
Không tri kỷ, không bạn bè...chán!
Chết hơn...sống đơn côi....
LNB

Chết chi phí cuộc đời
Chỉ một lần ta được làm người..
Bằng hữu khắp mọi nơi
nguyenphuong

--------------------

Kiếp sau làm đàn ông
Để đam mê và yêu mệt nghỉ!
Phận đàn bà ngồi im!
Lyly

Kiếp nầy phận đàn bà
Đam mê ..yêu đương cũng thật nhiều
Tại Ông Trời không thương
nguyenphuong

----------------

An afternoon breeze
expels cold air, along with
the fallen brown leaves.

· Cherry blossoms bloom,
softly falling from the tree,
explode into night.

· The warmth on my skin.
Fire falls beneath the trees.
I see the sun set.

· Summer here again.
Music plays sweetly, drifting.
And life is renewed.

· A winter blanket
covers the Earth in repose
but only a dream

· An ocean voyage.
As waves break over the bow,
the sea welcomes me.

dbarnard71

Bai họa:

Mây hồng buổi sớm mai
Thêm ánh nắng rực rỡ ngày hè
Không gian như bừng sáng

Nguyệt quế đêm tỏa hương
Thơm nồng cả một góc sân nhà
Sáng ra cây trắng xóa

Gió lạnh se ngoài da
Nhớ ai ấm cả lòng ..nên vui
Cách xa nhưng rất gần

Một lần người ghé thăm
Chia tay không muốn rời...đành hẹn..
Sau nầy....biết còn gặp...??

Mùa xuân tuy đã qua
Lòng dù tiếc ...nhưng luôn yêu đời..
Làm người được mấy kiếp?

nguyenphuong


Phần chuyển ngữ Anh Dương Hồng Kỳ giúp

Rosy morning clouds
Bright sunshine on summer day
Lit up the atmosphere

Night cherry blossom
With fragance all over places
Brings white morning fog

Coldness of wind felt
Thinking of someone brings warmth
No distance's too far

Dương Hồng Kỳ


NHẪN

Mũi dao sắc bén nhọn,
Bao phen cứa nát trái tim đau.
Dạy ta một chữ “Nhẫn”.

Dương Hồng Kỳ


http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1394691256.jpg

nhân tài... thiên tài
xa quá... một với tay
sầu lẻ bóng... :kk:

Hai Yen
03-14-2014, 02:37 AM
Ngựa Ô.

Ngựa còn... háu đá ...ngựa non !
Ngựa còn... ăn cỏ, là con ngựa gìa !
Ngựa ô ... hí mãi bài ca...
Phi chậm ,phi lẹ...,phi qua nỗi sầu !...

Chiều nay ngựa ấy về đâu ?
Mà trên lưng ngựa...in sâu vết ....hờn...?!

(Hai yen)

BachMa
03-14-2014, 03:14 AM
Ngua o.

Ngua con... hau da ...ngua non !
Ngua con... an co, la con ngua gia !
Ngua o ... hi mai bai ca
Phi cham ,phi le,phi qua noi sau !...

Chieu nay ngua ay ve dau ?
Ma tren lung ngua...in sau vet ....hon...?!

(Hai yen)
BachMa không phải ngựa ô
Già gần bảy chục còn non nổi gì?
Mắt già nên chẳng thấy chi
Đến khi thấy được tức thì kịp ngưng
Là ngựa..sải bước lừng khừng
Cần chi vội vã cặp chưn mỏi mòn
Chung quanh cảnh đẹp nước non
Ngắm nhìn chê chán bon bon chạy dzìa
Cỏ non một mảnh mình ta
Tha hồ mà gặm ha hà….sướng rơn...(hí hí hí vang trời...)

BM

Hai Yen
03-14-2014, 04:00 AM
Hải yến ,xin lỗi anh Bach Ma.
Sáng tác bài thơ "Ngựa Ô",nào có đụng chạm gì với anh Bach Ma...!
Một lần nữa xin lỗi mọi hiểu lầm không đáng có !!!

(Ngựa hí....)
Ngựa ơi,ngựa chớ phàn nàn,
Nhắm mắt phóng tới là nàng ...gảy chân !!!

Hai Yen

BachMa
03-14-2014, 02:20 PM
Hai yen ,xin loi anh Bach Ma.
Sang tac bai tho "ngua o",nao co dung cham gi voi anh Bach Ma...!
Mot lan nua xin loi moi hieu lam khong dang co !!!

(Ngua hi....)
Ngua oi,ngua cho phan nan,
Nham mat phong toi la nang ...gay chan !!!

Hai Yen
Hello Hải Yến, BM đâu có ý gì đâu, HY làm thơ vui thì BM củng vậy mà, vui thôi, nếu có đụng chạm thì BM là người xin lổi HY mới phải chứ. Tại BM thấy HY nhắc đến 2 chử "Ngựa Ô" BM nhớ câu này nè:

"lienquachk (9/3/2013 11:28:46 AM): Nếu sáng mai này em vẫn không nhận một trả lời, thì anh BM không xứng đáng là BM, mà là ..Ngựa Ô.!!! "

Chúc HY có một ngày vui. :Cheerleader:
BM

Hai Yen
03-14-2014, 10:39 PM
Hom nay,HY da nhan mot tra loi !,Anh BM van la Bach Ma !!!.

Trống Không Lòng Ta !!!

Ta bàng hoàng giữa chốn hổn mang
Ta thất chí làm thân con ngựa hí
Suốt chặn đường mệt lã héo khô
Ta không biết những chặn đường ly biệt
Đi về đâu và sẽ trở về đâu ?
Buổi chiều xanh mang một nỗi hoài tình
Ta huyễn hoặc đời ta mấy nỗi
Em ,trang thơ chưa từng khép vội
Ta đọc mòn giữa cuộc điêu linh
Chiều xuống phố mênh mang dòng tưởng niệm
Như nhớ em mà không phải nhớ em...
................
(Trần yến Hòa)
H.Y sưu tầm

thanhcanh
03-17-2014, 12:26 AM
Đôi Lời...

Tôi chỉ làm thơ góp vào đây,
Thị phi, ganh ghét bỏ ngoài tai.
Mong muốn mọi người cùng thư giãn
Quên đi vất vả cuộc đời này.

Một chút tình hờ như men rượu
Không đủ cho người ngây ngất say.
Nước mắt , nụ cười cùng hòa trộn
Mai mốt dẫu xa vẫn nhớ hoài.

Thanh Cảnh

nguyenphuong
03-27-2014, 02:40 PM
NHẶT CỦA RƠI

Chiều qua dạo các nẽo đường,
Vô tình nhặt được.. bên đường của rơi...
Tưởng rằng nó cũng đồ chơi !!
Đem dzìa chưng ở một nơi để nhìn.
Chà chà sao nó sáng ....in.....
Như là đá quí ( cục bự chảng nha ) nên nhìn quên thôi.
Chiều nay bạn đến thăm tôi,
Hét lên lo lắng.....Chời ơi !!!! Sao vầy???????
Hột xoàn bạn bỏ đâu đây????
Tui đành nói thật nói ngay (thẳng)
Rằng đây nhặt được của ai chẳng tường.
Đánh rơi hay giận mà buông
Tui đây chẳng biết..Trời thương cho ...mình
Trời cho của quí nên ...gìn ( giữ cẩn thận)
Chớ mong tui để ....bạn nhìn (lần nữa...vì tui dấu kín) đâu nha.................
Tui bỏ vô tủ sắt tui khóa lại dzồi

nguyenphuong

&&&

Thơ @
Cây Muốn Lặng Mà Gió Hổng Chịu Ngừng!!!

Có người nhặt được của rơi,
Vui mừng đắc ý cười người vô tâm !
Của "Ai " cũng mặc, cứ cầm,
Khư khư giữ chặt,lầm bầm : của ta !
Làm người khi mới sinh ra,
Mẹ cha đã dạy chớ mà tham lam !
Trân châu, đá quý, hột xoàn,
Rơi vào ao bẩn nhuốc nhem, ố màu !
Nhặt giùm, trả lại, thanh cao,
Tham lam giấu cất mà còn tự hào khoe khoang !!! ( tùm num, tùm na )!!!
...ý ẹ ... !!!

thanhcanh

&&&

Bùn nào mà bám được ngọc tỷ ôi!!!! Chùi đi một lát lại là sáng bong...(Bụi...hay bùn có thể bám vào một hòn ngọc qúi, nhưng chỉ một lát chùi là sạch ngay. Có bao giờ ngọc với bụi..bùn có thể giao hòa ? chỉ những vật cùng một giống mới kết hợp nhau lâu......)
Còn nữa.....
Có ai lên tiếng xin đâu mờ trả????
Với lại dzí dzụ thôi...Bởi vì là người mà....P muốn trả ..mà của nầy không chịu thì bit mần thao...Hông lẽ cầm cây ...uýnh, đuổi??????
nguyenphuong

Tui đây ....quả thật đại tài...
(vậy mờ tui không biết nha)
Bao chàng hào kiệt ....tui...chài hết trơn !!!
Nghe qua... thật phát ớn luôn,
Nghĩ mình mà vậy còn hơn....nạ dòng.
Thế nhưng ai nở đành lòng,
Gán tui tội ấy ...nên lòng ức thay.
Bảo rằng tất cả những ai...
Đem lòng mơ mộng (đến nàng) thì...mắt tai đều rình....
Quyết lòng quyết chí để rinh.....

Với nàng...
Ai đâu dại dột làm thinh khi mà....
Mỡ treo trước miệng mèo cà???
Nên lần lượt các đại ca của mình
Lọt vô mạng lưới chữ tình!!!
Nhưng ....sau đó lại trốn tình người ta ???/
Thế nên tui bị tiếng là........
Nhảy vô giành lấy người ta của nàng.
Từ Hai H... lúc chàng ràng..
Cho dù con, vợ đàng hoàng chứ đâu !!
Thứ đến là người thích câu,
Tui nhào phá đám rả câu tương phùng.
( người nầy làm thơ mắng tui vì tui can...bởi ông có người gọi mình với ông)
Thế rồi thêm một người hùng,
Nhào vô rồi lại chùng chùng bước chân.
Thứ tư dù chẳng tỏ phân..(là T....)
Nhưng thơ tình quá lòng phân vân nhiều...
Ngỡ lòng ai đó đã yêu,
Lại bị nhỏ P ...thả rêu quấn rồi.
Anh P.... đạo mạo tuyệt vời..
Dụ chàng không được..đổ tui ngang tàng.
Trời ơi ! ai cũng yêu nàng ???
Sao mà dại dột bỏ nàng hết trơn???
Để tui bị tiếng oán hờn !!!
Ức lòng tui phải thiệt hơn tỏ bày.

Nhưng....
Thật ra cũng có một ..ngài ..
Thật tâm yêu mến, đêm ngày nhớ thương.
Chuyện tình được giấu kín bưng
( thật lâu ...nhưng thời gian nầy nàng vẫn luôn thả tình....kiếm thêm...P dại dột lỡ đi gặp một anh...nàng tính sơ cua...bèn bị mắng là trơ trẻn?!?!?!).
Chẳng may đổ vỡ..bởi chưng tại nàng....
Lần nầy tui thật chẳng màng ( mang tiếng xấu)
Dang tay cứu vớt anh chàng khổ đau.
Làm sao phải cứu cho mau..
Kẻo thôi thất vọng khổ đau dài dài..

Nhưng....
Xin thưa với các Anh Hai.........
Ai người đã được ...P đây rủ....mời????
Rủ vào tình cuộc để chơi??
Chứ không tiếng xấu muôn đời bên P....
Anh nào P đã giành thương !!
Không chừa một móng vãi vương người nhờ ???
Nghe qua thật nổi da gà...
Kiểm lại chẳng có dẫu là một anh !!
Tiếng thương ( cả tiếng em) P sẽ để dành...
Một người duy nhất..tặng dành riêng ai.

Mong các Anh Hai....
Làm ơn lên tiếng thẳng..ngay
Nếu không.......
P khóc thét...mấy...mấy Hai đành lòng??????????????????

nguyenphuong

Hai Yen
03-27-2014, 11:03 PM
Gởi:Ông..X..
Chuyện ông cho rằng:"Tình yêu chân thật",nhất thiết phải có một kết thúc có hậu,chứ không đi tới kết cục đoạn trường.
Theo Hai Lua ..nghĩ khác:
Một tình yêu đúng nghĩa chân thât,nghĩa là "HÀNG XỊN",sẽ không bao giờ kết thúc cả !
Đã không bao giờ kết thúc,thì có hậu hay đoạn trường là điều vô lý,phi lý,nhảm nhí...vv va vv...Vì có xảy ra đâu mà có thật hay không thật,phải không ông?Thân mến !
(Hai Lua.NSW)
H.Y suu tam.

Hai Yen
03-31-2014, 09:10 AM
Chuyện Vui

Mấy bà hàng xóm thật độc mồm, anh đã nói với họ là em hát chỉ để giết thời gian mà họ không tin! Họ lại nói linh tinh...
_Họ nói gì thế?
_Họ nói hát hò như em là giết nhiều thứ chứ đâu phải giết thời gian....hehe....


Co vo nhin vao kieng roi buon ba:
_40 nam roi,bay gio mat xe !nguc chay !da nhan ,cai gi cung on than hon ! Vay,anh a !anh thay co cai nao con nguyen ven khong noi cho em mung !
_Anh thay mat em van TOT nhu xua...!!!


_vo hoi chong:Anh oi,anh yeu em vi khuon mat dep xinh? hay than hinh goi cam cua em ?
_Chong :(nhin tu dau xuong cuoi chan vo),Anh yeu cai tinh hai huoc cua em !!!

(Hai Yen suu tam)
hihi....

BachMa
05-06-2014, 03:29 PM
http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1399390593.jpg

Về Quê Nội
:40:

Vừa qua anh đã cùng em,
Về thăm quê Nội, làm quen xóm làng.
Gặp ai, em cũng ngỡ ngàng,
Hai Cô thương mến, xóm làng đều khen.

BM

Tinh Hoai Huong
05-08-2014, 06:13 AM
Ngua o.

Ngua con... hau da ...ngua non !
Ngua con... an co, la con ngua gia !
Ngua o ... hi mai bai ca
Phi cham ,phi le,phi qua noi sau !...

Chieu nay ngua ay ve dau ?
Ma tren lung ngua...in sau vet ....hon...?! (Hai yen)
----

Hải Yến thân,
Computer của Hải Yến không có font VNI (bất cứ loại font nào sao em?)
- Nhưng ở trong diễn đàn HQPD em vẫn gõ có dấu tiếng Việt đấy. Em à.
Em cố gắng bỏ dấu tiếng Việt, đọc dễ hiểu nhe. Cám ơn em.
(như trích dẫn bài thơ của em, ở trên, có phải thế nầy không em nhỉ :

Ngứa cơn hậu da ngứa non
Ngứa còn ăn cỗ là cơn ngứa già
Ngứa O hì mai bại cả
Phí chăm, phí lệ, phí quá nỗi sầu

Chiêu nầy ngứa ấy vế đầu
Má trên lưng ngứa ịn sáu vết hôn ?!)

thanphongkingwood
05-09-2014, 01:19 AM
http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1399390593.jpg

Về Quê Nội
:40:

Vừa qua anh đã cùng em,
Về thăm quê Nội, làm quen xóm làng.
Gặp ai, em cũng ngỡ ngàng,
Hai Cô thương mến, xóm làng đều khen.

BM

Hello BM,
Lâu quá không vào đây
Nghe bồ có chuyện hay
Rứa muh tui không biết
Rất lấy làm nuối tiếc

Vừa nghe thiên hạ đồn rằng
Có người sửa túi nâng khăn cho chàng
Về quê ra mắt họ hàng
Bà con cô bác, xóm làng đều thương
Chúc vui BM Nguyên Phương

Có bài thơ của Vĩnh Tuấn, muốn gửi tặng BM mà quên mất tiêu, chỉ nhớ bốn câu này, gửi tặng bạn hiền và người đẹp.
"nơi chốn giá băng mặt trời vừa mọc
em là vầng dương sưởi ấm cuộc đời
ta xin nâng niu cuộc tình đến chậm
em đã ân cần gửi tặng riêng ta"

TPKW

BachMa
05-09-2014, 03:37 AM
http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1399648081.jpg

Quê Em
:40:

Quê em mãi tận Mỹ Tho,
Dòng sông Bảo Định quanh co sau nhà.
Thấy em ăn nói thật thà,
Trước quen: tình bạn, sau là thành đôi.
Bây giờ xa cách hai nơi,
Mốt mai, xum họp chung đôi một nhà.

BM

nguyenphuong
05-12-2014, 12:18 PM
Thương chiếc xuồng né chân cầu
Lẻ loi một mái sông sâu khó chèo
Mình em tháo nút dây neo
Qua sông vướng một đám bèo cùng trôi!
DB/ĐQL

--
D. Barnard


Xuồng em mát mái xuôi chèo
Sông sâu nhưng lặng…em chèo khỏe re
Bèo trôi nhè nhẹ cạnh be (xuồng) có gì…?
Lòng sông rộng khắp xuồng đi
Bèo theo không kịp….xuồng trôi mặc xuồng..
BP

nguyenphuong
05-12-2014, 12:29 PM
HÈ ........

Con ve sầu vắng tiếng kêu
Phượng hồng cũng rũ..buồn hiu trên cành
Không ve phượng thấy chẳng đành
Nở hoa đỏ thắm dể dành ai đâu ??
Ve ơi ! tận mãi nơi nao ?
Về chung họp mặt cho mau phượng chờ.

NP

nguyenphuong
05-12-2014, 12:40 PM
Đường dài trăm ngỏ loanh quanh
Đã quay lưng bước xin anh chớ cùng
Sông kia khúc rẽ khúc chung
Xin ghi nhớ buổi trùng phùng hôm nay.
Lyly

Hoạ
Đường thì trăm ngỏ loanh quanh
Nhưng lòng vạn ngỏ nên anh chẳng cùng
Sông dầu khúc rẽ khúc chung
Nhưng rồi sẽ đổ xuống cùng Biển Đông
NP


Bảo dừng...cá lội lăng xăng
Bảo chờ...gió cuốn băng khoăng ra vào
Lắng nghe chim hót cành cao
Tội ai đem lý mà rào con tim.
Lyly

Hoạ
Nghe tim thú vị thật nhiều
Nhưng rồi với những thương yêu lúc đầu
Cũng tàn theo với đêm thâu
Tim ta vụn vỡ ….đi đâu mối tình?
NP

BachMa
05-12-2014, 01:27 PM
Mẹ Yêu
(cảm giác bất an, xót xa, khi mẹ đi Huế một mình.)
http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1368298711.gif

Hôm nay mẹ đã đi xa,
Thân cò lặn lội xót xa một mình.
Huyết áp, tim đập phình phình,
Môi hôi nhể nhại một mình lo âu.

Đêm thâu thức trắng buồn rầu,
Bày binh bố trận chuốc sầu với ai.
Bà con, lăng mộ, cả hai,
Ngày mai giổ nội, còn ai nhớ về...

Lể Phật Đản lại gần kề,
Đi chùa, thăm mộ lết lê thân gầy.
Lòng lo con cháu ngày ngày,
Thân gầy, nay lại càng gầy thêm hơn.

Mother's day biết nói gì hơn,
Bánh kem, quà tặng mẹ hờn để nguyên.
Mua chi cho tốn lắm tiền,
Để dành mua gạo dành tiền mẹ thương...

5 giờ sáng ở phi trường,
Mẹ dần sau bóng bức tường an ninh.
Lẻ loi đơn độc một mình,
Làm con đứng đó lệ mình rưng rưng......

Nguyệt Chế

http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1399926957.jpg
http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1367348428.mp3

BachMa
05-16-2014, 06:00 PM
Tưới Hoa
(Út thương tặng chị Hai.)
:40::40::40:

Sớm mai tưới nước sân vườn,
Cỏ cây hoa lá muôn phường hát ca.
Thã hồn theo gió cùng ta,
Chợt em bừng tỉnh tiếng la bên đường.

Áo em thấm ướt mà thương,
Quần thì cũng thế chân thường lấm lem.
Xót xa mãi cứ nhìn em,
Em ơi ngừng nhé anh xem thể nào.

Thân em lá ngọc cành đào,
Mồ hôi nhể nhại anh nao nao lòng.
Thương em thân gái long đong,
Anh thời nhất chí một lòng thương em.

Nguyệt Chế

http://hoiquanphidung.com/upload/hqpd1/TuoiCay.jpg
http://hoiquanphidung.com/upload/hqpd1/AiChoToiTinhYeu_TrucPhuong_VoThuong.mp3

nguyenphuong
05-18-2014, 03:31 AM
Chiều buông… nắng nhạt mất rồi
Nhớ ai..lòng những bồi hồi nhớ ai …
Nhớ ai ..mình nhớ chiều nay ,
Nơi phương trời ấy có ai ..nhớ mình ?
NP

Tôi quen ..lối nhỏ một mình
Buổi chiều, buổi sáng chỉ mình tôi thôi….
Tự dưng người đến chung đôi..
Sợ e ..lạc bước chiều trôi mất rồi…
NP

BachMa
06-24-2014, 03:18 AM
Thơ Vui

Hôm nay Chúa Nhựt hăm hai (22)
Vợ tôi họp bạn, cùng Mai với Đào.
Sáng nay dậy sớm lào xào,
Hột vịt (lộn) hai cái, mà nào đã no.
Bây giờ cái bụng nó co,
Thêm ba trái bắp khỏi lo dọc đường.

BachMa

***

Mổi năm mới có một ngày,
Chớ đâu có phải đi hoài đâu anh
Cơm canh dưa muối đây này
Vợ về bồi dưởng cho ngày hôm sau
Anh ơi ! đừng có lao xao
Vợ mà nóng giận tránh sao khỏi đòn!

Ngọc Tú

***

Giời ơi ngó xuống mà coi,
Bây giờ mới biết Tú oai quá chừng.
Bấy lâu cứ tưỡng lừng khừng,
Điệu này anh phải trông chừng cả hai.
Ngọc Tú, Bích Phượng thiệt oai,
Hợp nhau ăn hiếp anh hai Vĩnh Đoàn.....hehehe !!!

BachMa

***

Anh ơi sao dám gọi Giời,
Ông ở xa lắm biết đời nào (Ông)...ơi !
Hai cô tên đẹp sáng ngời,
Công Ngôn Dung Hạnh tuyệt vời đó anh.
Thôi anh đừng nói lanh quanh,
Mĩm cười chấp nhận cho xanh tuổi đời.
Không thôi bị đánh tơi bời, (huhuhu!!)
Chẳng ai bênh vực tiêu đời anh luôn.

Ngọc Tú

(Ngọc Tú tập làm thơ)

http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1403579763.gifhttp://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1403579763.gif

nguyenphuong
06-25-2014, 02:20 AM
Thơ của bạn..

BUỒN

Vắng nhau mới có một ngày
Mà buồn ghê gớm lắt lay là buồn
Chẳng cần phải có mưa tuôn
Chẳng cần phải có gió luồn trốn đông
Chỉ là chiếc ghế trống không
Chỉ là thiếu một bông hồng người trao
Buồn ơi! Mi trốn đi nào
Kẻo ta lại nhốt mi vào trong tim...
15.5.2014 TH

BachMa
07-06-2014, 08:34 PM
Ai Ra Xứ Huế - trình bày: Hoàng Oanh
http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1404620394.jpg

http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1404678587.mp3

nguyenphuong
07-11-2014, 06:18 AM
Thơ bạn

GỬI KHÁCH ĐA TÌNH

Gặp ai cũng ngỏ lời yêu
Muốn ôm trọn cả dáng kiều lướt qua
Trái tim định sẻ làm ba
(tim ta đó chia ba phần tươi đỏ - thơ T.H.)

Kiểu này chắc phải chia ra trăm phần
Anh Kèo anh Cột mừng thầm
Anh Xoài anh Mít tần ngần đứng sau
Cắt nhiều lát quá tim đau
Xin cô hàng thịt...
... đừng làm khổ nhau thế này.

Đ.L.

Vào trang "TV" cũng vui
Khách đa tình lượn tới lui từng ngày
Người nào cũng đắm cũng say
Những mong có được hoa này nụ kia
Gặp "bóng hồng" cứ si mê
Cứ săn đón - muốn rước về nhà riêng
Tiểu thư được thể làm duyên
Long lanh ánh mắt nghiêng nghiêng mái đầu
Ngày dài rồi lại đêm thâu
Trao câu hò hẹn chờ nhau cuối trời.

Chỉ là ảo mộng vậy thôi
Mua vui thoả một tiếng cười... hư vô.

Đ.L. 15/5/14

Trang thơ N. Hứng (55)

nguyenphuong
07-16-2014, 10:01 AM
Ngày Hạnh Phúc - Phương Hồng Quế & Anh Khoa

http://youtu.be/odg8SMUQJlI

nguyenphuong
07-16-2014, 10:09 AM
MỪNG SINH NHẬT.........
16/7/2014

Hôm nay sinh nhật anh...nhà,
Gửi đôi câu chúc gọi là mừng anh.
Kính ơn Me đã sinh thành,
Kính công Cha dưỡng nuôi anh thành người...
Tặng , dành....em có một người..
Hàm ơn (Ba Me) bởi được ...cuối đời có anh
Chúc anh tròn tuổi sáu lăm....
Cầu mong anh được tròn trăm...có thừa...
Chúc anh khuya, sớm, chiều, trưa,
Thảnh thơi , nhàn hạ...nắng mưa chẳng màng.
Chúc anh mạnh khoẻ an khang,
Gia đình hạnh phúc , bình an suốt đời........

LTBP

hieunguyen11
07-16-2014, 06:24 PM
Bạch Mã nhìn chẻ lắm, hông giống 65 đâu, nhìn qua anh, người ta nghĩ chừng 64 tuổi thôi!

BachMa
07-16-2014, 07:42 PM
Bạch Mã nhìn chẻ lắm, hông giống 65 đâu, nhìn qua anh, người ta nghĩ chừng 64 tuổi thôi!
BM hôm qua July 15...
http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1405539411.jpg

...và BM hôm nay July 16
http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1405539330.jpg

BachMa
07-21-2014, 08:02 PM
Nha Trang Ngày Về - trình bày: Khánh Ly ♥
http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1405972788.jpg
http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1405972848.mp3

KiwiTeTua
07-22-2014, 01:00 AM
BM hôm qua July 15...
http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1405539411.jpg

...và BM hôm nay July 16
http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1405539330.jpg



Mới gặp BachMa sáng nay July 21st, 2014, coi cũng "dể thương"..... :04: :icon_banana:

http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1405990491.jpg

BachMa
10-30-2014, 08:05 PM
Happy Halloween to friends :40:
http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1414697825.jpeg

http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1414697870.jpeg

http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1414697914.jpeg

http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1414697947.jpeg

http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1414699371.jpeg

http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1414698025.jpeg


from: BM & NP :Cheerleader: http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1414718108.jpeg

BachMa
11-07-2014, 02:18 PM
http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1415483533.jpg
http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1369242610.gifhttp://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1369242610.gifhttp://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1369242610.gif
http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1359066482.mp3

ttmd
11-10-2014, 01:50 AM
http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1415762310.gifhttp://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1415763951.gif

/upload/img/HQPD_1415583731.mp3

BachMa
04-29-2015, 04:17 AM
Thiếu tá phi công VNCH Lý Bửng lái L19 đáp xuống HKMH USS Midway - The Movie

https://www.youtube.com/watch?v=wfUj6udXAGU#t=245

BachMa
06-18-2015, 06:29 PM
Tình Già
Hai ông bà cô đơn sống trong viện dưỡng lão đã lâu, quyết định đi ăn tối và xem phim cùng nhau.
Lúc trở về thấy bạn có vẽ buồn bã, cụ bà bạn cùng phòng hỏi:
-Có chuyện gì khiến bà buồn thế?
-Phải, đi chơi với một ông già khờ, tôi đã phải tát ông ta đến 3 lần!
-Thế thì khủng khiếp quá! Ở tuổi ấy đáng nhẽ ông ấy phải biết xấu hổ lúc sàm sở bà chứ!
-Ông ấy đâu có sàm sở. Tôi phải tát 3 lần để xem ông ấy ngủ hay đã chết.


Nói Ngang
Vợ: Em chán lắm rồi, con thì khóc đòi sữa, anh thì say xỉn tối ngày!
Chồng: Vậy em muốn con thì say xỉn tối ngày, còn anh thì khóc đòi sữa chắc?


Thích Cô Con Gái Hơn
Chàng trai thẳng thắn đặt vấn đề với bố người yêu:
-Cháu muốn cưới con gái bác!
Ông bố con gái trợn mắt:
-Thế anh đã gặp vợ tôi chưa?
-Tuy cháu chưa gặp vợ bác, nhưng chắc chắn là cháu vẫn thích con gái bác hơn.

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1368588255.gifhttp://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1368588255.gif

BachMa
07-20-2015, 11:01 PM
Tóc, râu và lông... nách!
Đoàn Xuân Thu


Màn một: Tóc
Chú Ba Ngũ Tử Tư, hồi xưa, qua một đêm trầm tư về vận nước, sáng ra tóc bạc phơ. Còn Chú Ba Chu Vĩnh Khang, thời nay, tóc cũng bạc phơ khi ra hầu tòa. Giống nhau cái vụ tóc bạc phơ; nhưng khác ở chỗ: Ngũ Tử Tư ‘ngộ giúp nước... giàu’; còn Chu Vĩnh Khang thì ‘nước giúp ngộ... giàu!’

Bị bắt vào cuối năm ngoái, tóc Chu vẫn hoàn toàn đen, sau 7 tháng ở tù, chắc nằm suy nghĩ: Tên của ngộ, Tía Má đặt cho, là Vĩnh Khang nghĩa là mãi mãi yên vui, mà tại sao lại hết yên vui, chỉ còn bùi ngùi quá mạng! Chức tước, lon lá, tiền bạc (lên tới hàng chục tỷ Mỹ kim) cha con nó xúm lại lột hết ráo thì Vĩnh Khang gì nữa đây hỡi Trời?!

Buồn làm mau già, làm tóc bạc là chuyện tất nhiên. Còn đàn em của Chu Vĩnh Khang là Bạc Hy Lai, đi chung xuồng, nó họ ‘Bạc’ mà sau tóc lại hổng có ‘Bạc’ vậy cà? Chẳng qua, già, rầu nhiều, tóc bạc trước; nhỏ, rầu ít, tóc bạc sau vậy thôi!

Hai chú dẫu đều già khú đế, hồi đương chức hét ra lửa mửa ra khói, muốn em nào là có em đó, nên nhuộm tóc cho nó trẻ trung mới xứng đôi vừa lứa với hàng tá con bồ nhí chớ.

Do đó, già mà tóc vẫn còn đen là còn đương chức, già mà tóc bạc là mất chức, đi ở tù, nên dân Tàu đều ao ước là mấy ông trong Thường vụ Bộ Chính trị đảng Cộng sản Trung quốc tóc bạc hết ráo đi nha!


Màn hai: Râu!
Theo sinh vật học thì tóc, râu, lông đều là một thứ; mọc khác chỗ nên tên khác nhau vậy thôi. Trên đầu là tóc, ở miệng là râu, còn chỗ khác là lông.

Tóc, râu, lông là do ông Trời cho con người; nhằm mục đích chính là chở che những vùng nhạy cảm.

http://hoiquanphidung.com/userupload/img/Phiem942(1)_1437432510.jpg
Bảo Huân


Tuy nhiên, bọn phiến quân nhà nước Hồi giáo bên Iraq lại dùng râu để ngụy trang! Chẳng là thành phố Mosul có tới 2 triệu dân vừa bị chúng chiếm đóng, bọn Cảnh sát Hồi giáo bèn ra lịnh cấm đàn ông cạo râu. Vì cạo râu là vô đạo đức.Đây là âm mưu của IS (Islamic State) để chúng có thể dễ dàng trà trộn vào dân thường nếu bị tấn công.

Cánh mày râu mình có các loại râu như sau: râu ba chòm, mọc dưới cằm và hai bên mép; râu cá chốt mọc trên mép, dài và cong lên; râu cứt mũi như hề Charlot; râu dê, râu xồm một chòm dưới cằm; râu quai nón mọc theo hàm lên tận thái dương; râu quặp mọc trên mép dài mà quặp xuống của mấy tay sợ vợ, như tui chẳng hạn.

Có người cho rằng ‘nam tu nữ nhũ’. Đàn ông có râu mới là đàn ông. ‘Để râu không phải là già. Để râu cho biết đàn bà đàn ông’. Để râu cho nó oai. Như Từ Hải chẳng hạn: ‘Râu hùm, hàm én, mày ngài. Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao’ Thưa còn tui hổng có râu gì ráo cũng hơi rầu; nhưng kệ, bạch diện thư sinh, trói gà không chặt, đâu dám chặt chém gì ai mà cần râu để nhát thiên hạ?


Màn Ba: Lông.
Râu là dành độc quyền dành cho quý anh. Nghĩ cũng bất công chớ. Kỳ thị nam nữ quá. Có lẽ nghe ‘còm len’ như vậy nên ông Trời sửa đổi. Lông, ông cũng có mà bà cũng có, mà có nhiều hơn nữa, cho huề.

Rồi thầy bói dựa vào lông mà đoán: ‘Quân tử lông chân; tiểu nhân lông bụng’; ‘Đa mi; tất đa mao’. Trúng ngay chóc.

Rồi tùy vị trí trên thân thể mà lông có nhiều tên khác nhau như: lông mày, lông mi, lông lỗ mũi. “Lỗ mũi mười tám gánh lông! Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho”.

Bài nầy tui xin đặc biệt đề cập đến lông mọc ở nách, nên gọi là lông nách.

Lên trang web của đài BBC, tui đọc cái tin, khiến giựt mình, đổ mồ hôi hột, run rẩy toàn thân: mấy mợ xẩm bên Tàu đại lục vừa phát động một cuộc chiến tranh về lông nách.

Em Tiêu Mỹ Lệ (Xiao Meili), mới 25 cái xuân thì, tuyên chiến với mấy chú Ba, bằng cách mở ra một cuộc thi lông nách trên mạng xã hội Weibo.

Tưởng là mấy em ăn ở không làm chuyện tầm ruồng. Ai dè có cả ngàn em gởi hình chụp lông nách của mình lên để dự thi! Nhiều đến nỗi mấy hãng thông tấn lớn như CNN của Mỹ, BBC của Anh, đều phỏng vấn em Lệ. Em trả lời là: “Cuộc thi lông nách trên mạng nầy nó có nghĩa sâu xa hơn cái lông nách của tụi em nhiều. Mấy em muốn gởi thông điệp rất rõ ràng, dứt khoát đến mấy ‘hảo hán’ rằng: xã hội Tàu là một xã hội bất công. Nam trọng nữ khinh. Nè, nhìn vô cái Thường vụ Bộ Chính trị đảng Cộng sản Trung quốc toàn là đực rựa chớ đâu có một bóng hồng Trung quốc (China Rose) nào hết ráo phải không?


http://hoiquanphidung.com/userupload/img/Phiem942(2)_1437432583.jpg
Bảo Huân


Mấy ngàn năm rồi mà cứ: nhứt nam viết hữu mà thập nữ viết vô hoài. Ỷ là đàn ông, con trai nên coi thường, đánh đập, sách nhiễu, bạo hành tình dục phái nữ chúng em...!”

“Hồi xưa phong kiến bắt tụi em phải bó chân. Chồng xỉn nó quánh làm sao mà tụi em chạy? May nhờ Mao xếnh xáng kêu bỏ. Xếnh xáng từng nịnh mấy em rằng: ‘Phụ nữ chiếm hữu phân nửa bầu trời’. Vậy mà mấy thằng chả chẳng có chịu nghe!”

“Rồi cách đây mấy ngàn năm, Khổng Tử đã từng nói rằng thân thể chúng ta, lông tóc và da là do cha mẹ sinh ra, không nên làm tổn hại!”

Nhưng có em, hổng thèm thi, mà còn hỏi khó là: “Cuộc thi này là cái gì? Chả ai buộc tôi phải cạo lông nách cả. Tôi làm vậy là bởi tôi thấy không cạo đi trông rất kinh, bất kể bạn là đàn ông hay phụ nữ”

Tiêu Mỹ Lệ phản bác rằng: “Cách đây 20 năm, nách tụi em đầy lông đâu có vấn đề gì. Ngày nay, mợ Xẩm nào cũng cạo; nhưng làm vậy là không có đúng đâu nhe! Em đẹp mà đầy lông nách lên truyền hình, thiên hạ cho là thấy gớm quá, mắc cỡ quá, xấu hổ quá. Còn đàn ông thì khoe lông nách đó có sao đâu?”

Một thí sinh khác nói: “Em yêu lông nách của em. Nó là một phần của thân thể em. Đây là nguyên tắc: Nam nữ bình quyền.”

Rồi em lại hỏi khó rằng: “ Ở Trung Quốc, đàn ông cởi trần đi lại suốt ngày, tại sao đàn bà lại không được quyền làm như thế?”

Vụ lông nách nầy, cạo hay không là do mấy em quyết, tui không ý kiến. Còn cái vụ ở trần đi nhong nhỏng ngoài đường, nếu mấy em muốn, thiệt tui hết sức hoan nghinh nhe!

Kết luận là: Quan trọng là đừng để nó hôi là được. Như trong tứ đại mỹ nhân thời cổ của Trung Quốc, Quý Phi Dương Ngọc Hoàn, người đàn bà được sủng ái nhất của Đường Minh Hoàng được mệnh danh là người đẹp “tu hoa” (hoa cũng phải thẹn) bị hôi nách; nhưng Dương Quý Phi đã tắm nước khoáng nóng, trừ hãn khử phong (nghĩa là loại bỏ mồ hôi khử mùi). Thế nên nách của Dương Quý Phi có lông hay không thì nhằm nhò gì chớ. Làm sao cho sạch nách... là ‘all right’!

Thưa đang tìm tài liệu để viết bài nầy, tui ‘vớ’ được một chuyện cũng vui vui, xin kể luôn để hầu quý độc giả thân mến:

“Hổm rày nghe nói tay bí thơ phố cổ Hội An đột nhiên từ chức, hổng thèm làm nữa! Y nói mình già rồi, chưa hưu cũng nghỉ... vì cái tư duy lá chuối. Tư duy lá chuối là lá chuối già chết khô mà nhứt định cứ bám chặt vào thân cây chuối, đến nỗi người ta phải lấy dao mà cắt đi. Tui thì hổng biết tay nầy muốn chửi xéo đồng chí nào của mình, mà thiệt tui cũng hổng quan tâm lắm. Cái tui tức cười là hồi hét ra lửa mửa ra khói, y đã từng ‘dám’ ra lịnh cấm nữ hớt tóc cho nam ở Hội An. Với lý luận rất quái đản (chà đạp nhân quyền, trong đó có quyền lao động của chị em ta, phân biệt giới tính lúc cung cấp dịch vụ cho khách hàng) là: “Nữ hớt tóc cho nam, lấy ráy tai đê mê, khoái khoái... thì làm sao hổng có chuyện bậy bạ cho được? Nên chuyện gì quản không được... là tui cấm!”

Trời hỡi làm quan nhỏ như con thỏ, bằng Huyện Trìa trong Nghêu Sò Ốc Hến chứ mấy mà cứ tưởng mình là ông Trời con muốn làm gì thì làm. Muốn cấm ai thì cấm!

Do đó nghe y về nghỉ, thiệt là tui mừng húm cho mấy chị em phụ nữ làm nghề hớt tóc ở phố cổ Hội An nầy ghê.

Để đấy! Chờ hôm nào thằng chả (giờ hết chức hết quyền rồi, ai ngán?) tóc dài phải đi hớt. Nếu gặp, cứ đè đầu cỡi cổ nó cho tui!

“Ê! Thầy hù, tức thợ hớt tóc, thấy vậy đừng có khi dễ nha! Vua, Chúa gì bước vô tiệm của tui... là tui cũng đè đầu hết ráo!”


DXT - MELBOURNE

BachMa
07-21-2015, 02:54 AM
Người duy nhất
Sau khi chết con người tới thiên đường. Chúa tập hợp các linh hồn lại và nói:
- Tất cả phụ nữ đi theo Thánh Peter. Còn tất cả đàn ông xếp thành 2 hàng:
Hàng bên phải cho những người khi còn sống là chỉ huy gia đình và hàng bên trái là gia đình có vợ làm chủ.
Khi tất cả vào hàng lối, Chúa tỏ ra vô cùng thất vọng khi nhìn thấy hàng bên trái dài tới 100 dặm, trong khi hàng bên phải duy nhất chỉ có một người:
- Các ngươi phải tự thấy xấu hổ. Ta tạo ra các ngươi theo hình mẫu của ta nhưng rồi các ngươi lại để vợ cầm cương. Hãy nhìn người này đi, con trai đích thực của ta! Con hãy nói cho họ nghe con làm thế nào để có thể trở thành người duy nhất đứng ở hàng bên này?
Người đó rụt rè đáp:
- Con không biết ạ. Vợ con bảo phải luôn sắp hàng bên phải.

Tuấn Anh (Round Rock-TX)
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/CLBTL943(1)_1437446668.jpg
Bảo Huân


Phù hợp
Hai vợ chồng nọ, chết xuống âm phủ. Diêm Vương phán.
- Hai ngươi lúc sống đã phạm nhiều tội lỗi trong đó có cả tội ngoại tình. Cứ ngoại tình một lần thì quỷ sứ sẽ đâm một nhát kim.
Vừa dứt lời, quỷ sứ đè người đàn ông xuống, đâm chín nhát. Người nọ đau thấu trời xanh. la oai oái. Ông ta ngồi ở phòng đợi, nhìn dáo dác:
- Vợ tôi đâu?
Quỷ sứ trả lời:
- Bà ấy đang nằm trên máy may trong kia.

BachMa
08-02-2015, 05:45 PM
Người Việt Gốc Ớt
Hoàng Lão Tà

Tui là dân Huế chay tức là Huế 100%, Huế từ trong ra ngoài, Huế đến nỗi ra Bắc vào Nam, lên vùng Cao Nguyên tắm đủ sông hồ ao lạch mà cũng không gột rửa được chất Huế trong người.

Rồi một sáng một chiều theo với giòng người "di tản buồn", tôi đến cư ngụ trên xứ Cờ Hoa văn minh hết xảy này mà chất Huế vẫn còn tồn tại thâm căn cố đế trong người dù mỗi ngày cố gắng tắm một lần bằng nước ấm như ngày nào trên quê hương yêu dấu vào mùa Ðông mưa dầm thối đất thối đai. Tôi dùng chữ "cố gắng" vì chẳng hiểu sao tôi rất lười tắm vì đã có lần tui thử không tắm gội trong suốt một tuần mà cũng chẳng thấy người bốc mùi thơm, thúi gì hết cả. Do đó tui tự nghĩ thầm tắm hay không tắm thì cũng như nhau chẳng được lợi ích gì, chẳng làm nên tích sự gì. Lại nữa, tui nhớ cách đây cũng khá lâu, trong lúc trà dư tửu hậu, chuyện trò với một ông bạn của ông Nội tui, tuổi ngoài tám mươi, Bố tôi mới hỏi :

- Thưa Bác , Bác có bí quyết gì để giữ chữ thọ cho đến bây giờ không?

Ông Cụ vuốt râu cười khà khà:

- Bác rất ít tắm con à! Tắm thì lỗ chân lông nở lớn nên vi trùng dễ xâm nhập vào người, vì vậy suốt mùa Ðông, Bác không tắm, chỉ dùng khăn thấm nước lau sơ mình mẩy cho khỏi hôi thúi mà thôi.

Ông nội tui, tuổi lúc bấy giờ cũng trên tám mươi đã phì cười mà bảo rằng:

- Tui khác ông, mùa Hè cũng như mùa Ðông, một ngày phải tắm một lần, một lần phải mất ít nhất 1 tiếng đồng hồ để kỳ cọ, xoa nắn các huyệt đạo cho máu huyết lưu thông.

Hai ông Cụ, ông nào cũng quy tiên lúc tuổi hạc đã ngoài chín mươi, ông nào cũng có lý khi bàn đến bí quyết sống lâu, rất chi là khoa học. Vậy tui phải nghe theo lời của ai bây giờ ? Sang Mỹ, sẵn có nước nóng chảy trong vòi, tắm một ngày một lần mà chất Huế trong tui vẫn còn nồng cay vì tui ăn ớt như nhồng trong ba bữa ãn sáng, trưa, tối. Vì thế, ai hỏi tui quê quán ở đâu, tui đều trả lời một cách hãnh diện rằng tui là người Việt gốc ớt. Câu trả lời thật đầy đủ "thông tin".(Tui dịch chữ "information" cho có vẻ văn minh thời thượng). Này nhé! người Việt tức là người Việt Nam không phải Phi Luật Tân hay Miên, Lào, Thái vv...Tui đã nhiều lần bị mấy ông bà người Phi hỏi tôi có phải là Philippino không.
Tức như bò đá! Mình là con Rồng cháu Tiên mà bị nhận lầm là Phi thì có uất ức không cơ chứ? Chắc là tại tui xấu trai, thô kệch.! Dân Phi nghe tui phát biểu như thế này chắc là kiện tui ra toà, buộc tội mạ lỵ dân tộc. Các bạn có biết không, mấy cô, mấy bà Phi lai Tàu đẹp lắm các bạn ơi ! Rồi thì "gốc ớt" là biết ngay nơi chôn nhau cắt rún của tui là xứ Thần
Kinh chứ còn théc méc gì nữa. Gốc ớt là gốc Huế không sai chạy vào đâu được vì có lần tui bị một ông bạn hỏi một câu cắc cớ:

- Mi dân Huế, vậy mi có biết tại sao dân Huế chỉ ăn ớt xanh không mà thôi không ?


http://hoiquanphidung.com/userupload/img/Ot_1438537152.jpg

Tôi gân cổ cãi lại là dân Huế tui ăn đủ mọi thứ ớt: ớt xanh, ớt đỏ, ớt tím, ớt vàng, ớt chỉ Thiên, ớt chỉ Ðịa, ớt chìa vôi, ớt hiểm, ớt mọi, ớt bột, ớt trái tươi cắn dòn tan, chứ làm gì mà lại chỉ ăn ớt xanh. Ớt xanh là ăn với bánh bột lọc để hài hoà với màu đỏ của con tôm nằm nửa kín nửa hở trong lớp bột lọc. Ăn như thế là ăn kiểu cầu kỳ của các Mệ chứ thật ra ớt nào cay thì ăn chứ đâu kể màu sắc. Ông bạn tui để cho tui nói cho sướng lỗ miệng rồi mới ung dung giải thích:

- Mi thật là dân Huế mất gốc, không biết chi mô hết ! Dân Huế ăn nhiều ớt quá đến nổi ớt không kịp chín đỏ nên chỉ ăn toàn ớt xanh. Có rứa mà cũng không biết !

Ui chui choa, tui khoái quá trời khi nghe ông bạn tui ca tụng cái "đức" ăn ớt của quê hương tui. Tui chỉ muốn ôm hun ông ta một miếng để thưởng ông ta mà không dám, vì sợ bàn dân thiên hạ tưởng tui là dân "Gay" vừa mới từ San Francisco xuống quận Cam chơi.

Nói đến ớt thì phải nói đến cái món ăn "quốc hồn quốc tuý" của Huế tui là món bún bò. Ai cho tui ăn bún bò mà bảo tui đừng ăn ớt thì thà chết còn hơn. Thiệt là chưởi Cha tui, tui cũng không giận bằng! Ớt phải cay xé họng mới làm cho bún bò ngon được! Ăn bún bò Huế chính gốc là phải vừa ăn vừa hít hà vì ớt cay, phải đổ mồ hôi trán, tuôn mồ hôi nách (Vì vậy mà dân Huế ai cũng có một chai Lotion Kata, trị mồ hôi nách bỏ trong túi quần để xài mỗi khi ăn xong tô bún bò Huế. Tui nói rứa mà ai không tin tui thì thôi). Ăn bún bò Huế là chỉ dùng đũa chứ không dùng muỗng, phải húp xùm xụp mới đúng phong cách Huế. Muỗng chỉ dùng khi ăn phở Bắc Kỳ mà thôi. Cầm muỗng để ăn bún bò Huế là chưởi Cha cái tô bún bò Huế mất rồi! Mùa Ðông ở Huế không có ớt tươi vì quý hiếm lắm: "Ớt mùa Ðông ba đồng một trái" nên phải ăn ớt bột hay tương ớt hay ớt ngâm dấm nên vì vậy mà mùa Ðông, tô bún bò Huế đã không ngon bằng tô bún mùa Hè. Trời đã "nóng nung người, nóng nóng ghê" (Trong Quốc văn giáo khoa thư, mô tả mùa Hè) thế mà lại còn sì sụp tô bún bò Huế ớt cay chảy nước mắt, nước mũi, thì thật là ngon không để mô cho hết. Ngon như rứa thì thôi!
Tôi mời ai ăn bún bò Huế mà mặt cứ lạnh như tiền, ăn một cách ung dung, nhàn hạ không "khẩn trương" chê ớt không ăn không thấy một giọt mồ hôi trên trán thì đừng có hòng được tui mời ăn lần thứ hai. Ăn như vậy là "thực bất tri kỳ vị" là không kính trọng tô bún bò là khinh thường dân Huế tụi tui. Lúc tui còn ở Bloomington, tiểu bang Indiana, tui có anh bạn trẻ người miền Nam, Saigon hay đâu đó tôi quên mất tiêu. Anh ta khoái bún bò lắm ! Mỗi lần đến nhà tui ăn bún bò, anh hít hà liền miệng, mồ hôi mồ kê nhễ nhại, anh tham dự hết mình vào "công cuộc" ăn bún bò làm tôi thích thú quá chừng, xem anh ta như bạn tri kỷ, tri âm vậy.


http://hoiquanphidung.com/userupload/img/BunBoHue2_1438537196.jpg

Ngoài món bún bò bắt buộc phải có ớt lại còn một món ăn khác mà ớt cay đóng một phần tối ư quan trọng. Ấy là món "Cơm Hến". Người ta đã nói lạt như nước ốc, nước hến, vậy thì để bổ sung cho cái "lạt" đó chỉ có cái "cay"của ớt.
Không có ớt là tô cơm hến xem nhu bỏ đi chẳng đáng một đồng xu. Còn nhiều món ăn đặc sệt Huế nữa như bánh bột lọc, bánh nậm, bánh ướt nhuỵ tôm, bánh ram bánh ít, cơm dấm nuốt vv...không món ăn nào là không có ớt đi kèm, dĩ nhiên là không ăn chè hạt sen hồ Tịnh Tâm cùng với ớt. Nhưng Mẹ tui lúc sinh thời, Bà ăn mít ráo ngọt lịm và dòn tan như rứa mà Bà cũng chấm múi mít vàng ươm vào trong chén nước mắm ớt cay. Mùi vị dĩ nhiên là có khác đi nhưng hương vị cũng độc đáo lắm, các bạn cứ thử xem một lần cho biết ra răng.


http://hoiquanphidung.com/userupload/img/ComHen_1438537231.jpg

Ớt gắn liền với Huế của tụi tui nên sở dĩ tui phải nấn ná ở lại với quê hương gần 10 năm, sau 1975 là vì tui sợ qua Mỹ không có ớt mà ăn. Tui ăn ớt như nhồng! Tui còn nhớ lúc còn học cấp tiểu học trường làng, ông ngoại tui có nuôi một con nhồng, mỗi ngày phải cho nó ăn một chén ớt hoặc tươi hoặc ớt bột. Ăn nhiều ớt để lột lưỡi và nói được tiếng người.
Và quả thật như vậy, sau một thời gian ăn ớt, con nhồng ðã nói được. Cậu tôi đã bị ông ngoại tôi thưởng cho một tát tai là vì đã dạy cho con nhồng chào khách chẳng lịch sự tí nào. Số là một hôm có khách đến nhà, ông ngoại tôi đang khoe với khách con nhồng biết nói thì đột nhiên nó xổ ra một câu khiến khách phải phì cười và thẹn đỏ mặt: "Chào khách toẹt!" (Khách toẹt là khách chẳng ra gì, là chỉ như một món ăn dở, không ngon, chỉ muốn nhổ toẹt ra khỏi miệng)

Nhồng ăn ớt để lột lưỡi, để nói nhiều. Như vậy, dân Huế tụi tui ăn ớt nhiều thì có nói nhiều không hí ? Ai răng tui không biết chứ tui thì hình như nói không ít mỗi khi bạn bè bắt đúng tần số của tui. Ông ngoại tui thường mắng tui là:

- Cái thằng ni răng mà hắn nói không để miệng đâm da non.

Chẳng lẽ ai nói ít thì miệng nhiều da non hay răng? Tui thực không biết! E là phải nhờ mấy nhà sinh vật học giải thích cho điều này mới được.

Trên đây tui đã nói đến cái công dụng của ớt làm chảy nước miếng nhiều và do đó làm thức ăn trở nên ngon miệng hơn.
Nay xin nói về những đặc tính của ớt trên phương diện y học. Có thời gian tui làm việc ở tỉnh Bình Tuy gần căn cứ Bốn, khu Rừng Lá trên đường từ Saigòn ra Phan Thiết, tui có dịp tiếp xúc với các giáo viên dạy học vùng Rừng Lá này. Họ ăn ớt nhiều đến nổi tui từng tự phụ là người Việt gốc ớt mà cũng phải ngả mũ ra chào thua. Họ nhậu rượu đế đổ trong thau nhựa trộn chung với nước ngọt xá xị và mồi nhấm rượu chỉ là một mâm trái cóc và một tô muối ớt, ớt nhiều hơn muối. Họ ăn ớt không những để món ăn khoái khẩu hơn mà còn dùng ớt như một phương thuốc trị bênh sốt rét vì người nào cũng bị chứng bệnh này hành hạ và chỉ nhờ có ớt mà căn bệnh thuyên giảm dần dần. Chắc các bạn đã từng nghe hai câu thơ nói về Rừng Lá:

Ngày anh đi, rừng em chưa xanh lá
Ngày anh về rừng lá đã xum xuê.

Và hai câu thơ đối lại:

Ngày em đi, anh còn như trái ớt
Ngày em về thì ớt lớn bằng khoai.

Mới đây, tôi lại đọc được mẫu tin loan báo đại học UCLA và các khoa học gia người Nhật vừa khám phá ra ớt trị được căn bệnh ung thư tiền liệt tuyến. Các tế bào ung thư đã bị chất cay của ớt tiêu huỷ dần dần. Thật là một tin mừng gây phấn khởi cho những con dân gốc Huế.

Trong cảnh Cali mưa buồn nhớ mùa mưa xứ Huế, tôi thèm ăn một tô bún bò với ớt cay xé họng và tôi lẩm cà lẩm cẩm nghĩ rằng không biết ai là người đầu tiên tìm ra cây ớt trong rừng cây nhiệt đới và ai là người đầu tiên nếm thử trái ớt.
Không biết lúc bấy giờ người đó có nhảy nhỏm người lên vì vị cay xé nồng của ớt và có lo cuống cuồng vì sợ ăn nhằm chất độc không. Nếu biết được vị tiền nhân nào tìm ra và nếm trái ớt đầu tiên trên trần thế thì tui sẽ xin bàn dân thiên hạ tôn ông ta là vị Thần Bếp hay nói văn hoa Hán(g) rộng thì ông ta thật xứng đáng được phong làm Trù Thần trên cõi thế.

Hoan hô ớt !

Nguồn: Vienxumagazine. com

BachMa
08-12-2015, 05:00 PM
Câu chuyện về một gia đình gốc Việt với 5 người con cùng theo đuổi ngành y

Vào ngày 30/07/2015, gia đình của ông Khanh và bà Nga Le đã đến tham dự lễ khoác áo trắng cho cậu con trai út của mình, Christopher tại trường đại học Virginia Commonwealth University of Medicine (VCU). Đây là buổi lễ truyền thống, dành cho các sinh viên bắt đầu vào học chương trình ngành y.


http://hoiquanphidung.com/userupload/img/khanh_le_family_1439398264.jpg
Gia đình họ Le trong ngày lễ khoác áo trắng (từ trái sang phải: Katherine, Khanh, Brian, Nga, John và Christopher). / Ảnh: Allen Jones

Ông Khanh Le đã cố gắng cầm nước mắt, trước sự kiện đáng nhớ này của gia đình ông. Kể từ hôm nay, vợ chồng ông trở thành bố mẹ của 5 người con đều theo đuổi ngành y khoa, và đều học ở cùng một trường đại học VCU. Ông đã thốt lên rằng: “Tôi không thể nghĩ rằng gia đình mình có thể đi xa đến như vậy. Thật khó mà tưởng tượng rằng, tôi là ông bố của một gia đình có 5 người con đều là bác sĩ”.

Trước Christopher, 4 anh chị em trong gia đình họ Lê cũng đã vinh dự được theo học ngành y, tại cùng một ngôi trường. Brian đang ở năm thực tập cuối tại VCU chuyên khoa phẫu thuật. John đã là bác sĩ nội khoa tại VCU Medical Center. Audrey mới tốt nghiệp vào tháng 5, hiện đang thực tập năm thứ 1 tại Brown University. Và Katherine đang học năm thứ 4 ngành y tại VCU.

Câu chuyện về gia đình của ông Khanh Le là một tấm gương phấn đấu tiêu biểu cho cộng đồng người Việt tị nạn khắp nơi trên thế giới. Có lẽ gia đình VIệt tị nạn nào cũng thấy một phần hình ảnh của mình, trong câu chuyện của gia đình ông Khanh.

Ông Khanh là con của một gia đình viên chức trong chính quyền Việt Nam Cộng Hoà Hoà trước 1975. Biến cố 30/04/1975 đã làm đảo lộn tan tác tất cả, năm đó ông Khanh mới 18 tuổi. Cũng giống như nhiều người Việt, ông đã tìm cách trốn thoát khỏi Việt Nam. Ông đã từng vượt biên đường bộ, bị bắt ở tù gần 2 năm. Ông Khanh đã trốn thoát khỏi trại, sau đó đã cố vượt biên bằng đường biển thêm gần 10 lần nữa trong 3 năm kế tiếp. Sau cùng, ông cũng đã thành công, đến được bến bờ tự do vào tháng 4/1980.

Cũng vào thời gian đó, bà Nga cũng cùng gia đình vượt biên. Hai người đã gặp nhau ở đảo Pulau Bidong (Malaysia) mùa hè 1980. Cả hai sau đó cùng sang định cư tại Canada. Tại đây, ông Khanh đã thực hiện được ước mơ của mình, bước chân vào trường đại học. Vừa đi học, vừa đi làm, đến năm 1988, ông tốt nghiệp kỹ sư điện tại đại học Concordia -Montreal.

Sau khi tốt nghiệp, ông đã làm hai job, để vừa có thể nuôi dưỡng con cái, vừa gởi tiền về giúp đỡ gia đình ở Việt Nam. Với một cuộc sống vất vả khó khăn như vậy, ông Khanh tâm sự rằng ông luôn nhìn cuộc đời bằng con mắt lạc quan, cảm ơn những gì mình đang có, và sẵn sàng đền đáp ơn đời, ơn người khi có dịp.

Sau đó, ông Khanh tìm được công việc ở North Carolina. Ông có dịp ghé thăm và tìm hiểu trường đại học VCU. Ông nhận thấy đây là một ngôi trường y lý tưởng để cho cậu con trai đầu lòng của mình-Brian- theo đuổi giấc mơ ngành y. Ông đã quyết định đem gia đình gia định cự tại Richmond- Virginia.

Kể từ đó, Brian là người đầu tiên theo học ngành y trong gia đình. Brian cũng chính là người đã truyền cảm hứng về sự nghiệp “lương y như từ mẫu” cho các em, để rồi tất cả 5 anh chị em đều theo học cùng một ngành, một kết quả đáng khâm phục của gia đình họ Le như ngày hôm nay. Quan trọng hơn hết, cả 5 anh em đều nhớ lời cha mình dặn: ngành y là một bộ phận thiết yếu của cộng đồng, và mục đích cao cả hơn hết của nó là có cơ hội để giúp đỡ người khác.

Câu chuyện của gia đình họ Le, với 5 người con cùng học ngành y, là một kết thúc có hậu, cho một gia đình người Việt tị nạn, nhân dịp cộng đồng người Việt tị nạn khắp nơi kỷ niệm 40 năm tị nạn của dân tộc mình.


Nguồn: https://news.vcu.edu/article/A_family_legacy_Inspired_by_their_parents_five_sib lings_choose)

Trần Hòa
08-28-2015, 12:15 AM
Người Việt Gốc Ớt




Tiến sĩ Schulze: Nếu chỉ chọn một cây thảo dược, thì hãy chọn ớt!

Gửi đến bachma và những Người Việt Gốc Ớt hehehe :Cap_PDT_01_05:

http://hoiquanphidung.com/userupload/img/ot_1440720338.pdf

BachMa
09-16-2015, 02:13 AM
Lần chót

Chàng nọ đang dạo trên cầu thì trông thấy một cô gái trẻ đẹp chuẩn bị lao xuống sông.
- Cô định tự tử ư?
- Đúng vậy!
Chàng trai xin cô một nụ hôn vĩnh biệt. Cô gái đồng ý. Sau đó, chàng trai cố khuyên can:
- Xinh đẹp và đáng yêu như cô, sao lại tự tử chứ?
- Bố mẹ tôi cứ mắng chửi tôi lúc nào cũng ăn mặc như con gái

http://hoiquanphidung.com/userupload/img/clb-lanchot-02_1442366517.jpg
Bảo Huân


Đúng yêu cầu

Một cô gái trẻ, đẹp đến văn phòng môi giới hôn nhân:
- Tôi muốn tìm một người chồng lý tưởng.
- Yêu cầu của cô thế nào?
- Bao nhiêu tuổi cũng được, miễn quốc tịch nước ngoài, tướng mạo, học vấn không vấn đề. Chỉ cần có tiền đếm mỏi tay hàng ngày là được!
Tuần sau, họ hẹn cô đến và gặp một người Hàn quốc, khoảng 65 tuổi, đầu hói, đã ly dị.
Thủ tục tiến hành nhanh chóng. Cô lấy chồng, xuất cảnh và sau đó gọi cho văn phòng môi giới:
- Các ông lừa tôi. Ông ấy nghèo xác xơ.
- Đúng yêu cầu của cô mà. Ổng làm nhân viên nhà băng!


Chờ

- Này, Bob, mày thấy vợ mầy đi với ai chưa?
- Thấy rồi. Tao đang chờ đây.
- Sao không nện cho nó một trận?
- Nện chứ! Nhưng đợi nó cặp với một thằng nhỏ con hơn đã.


Hậu quả

Cậu trai lớn hỏi mẹ:
- Hồi đó sao mẹ với bố quen nhau?
- Hôm đó mẹ ra suối chơi, trượt chân ngã xuống nước. Khi sắp chìm thì một người thanh niên lao xuống, cứu được. Hai tháng sau, bố mẹ lấy nhau.
- Hèn gì bố cấm con học bơi.

http://hoiquanphidung.com/userupload/img/clb-lanchot-01_1442366676.jpg
Bảo Huân

BachMa
09-19-2015, 01:36 AM
Chuyện Trẻ Ở Bệnh Viện

Ở một bệnh viện, có 1 đứa trẻ mới sinh ra. Nó là thần đồng vì biết nói chuyện, mọi người xúm quanh giường của 2 má con.
Bác sĩ hỏi đứa bé:
- Cháu có biết bác là ai không?
Đứa bé trả lời:
- Biết ạ. Cháu cảm ơn bác sĩ đã chăm sóc má con cháu!
Cứ thế mọi người hỏi thăm và đứa bé trả lời làm ai cũng thích thú.
Đến lượt cha đứa bé hỏi:
- Cục cưng, có biết ta là ai không?
Đứa bé ngoắc ông bố lại gần và lấy ngón tay ấn nhẹ vào trán ông ta rồi hỏi:
- Ông có đau không?
- Không!
Đứa bé ấn mạnh dần, mạnh dần đến khi ông bố la to:
- Đau!
Đứa bé lúc này mới nói:
- Tui chỉ mới ấn thế này mà ông đã kêu đau. Lúc trước tui còn ở trong bụng má tui, đêm nào ông cũng đâm vào trán tui làm sao tui chịu nổi!


Hai Chị Em

Có 2 chị em nhà nọ cũng có nhan sắc. Một hôm cả hai ra suối tắm, cô chị bảo: “Chán quá em ơi, ước gì bây giờ có 1 thằng câm ở đây, 2 chị em mình sẽ đè nó ra “ấy” cho sướng, nó sẽ không thể nói lại với ai được”.
Không ngờ gần đó có 1 thằng dê nghe rõ hết nó liền nhảy ra và ra vẻ ú ớ như người câm thật, 2 cô liền đè nó ra làm thiệt.
Một lát sau, mệt quá cô chị bảo: Mình trói nó lại đây, vô ăn cơm rồi trở ra chơi tiếp. Nghe vậy, thằng dê la lên:
- ” Ấy! Các cô cứ ăn đừng trói lại, tôi không chạy đi đâu “


Ba Con Vi Trùng

3 con vi trùng nói chuyện với nhau:
Vi trùng ráy tai nói:
– Thỉnh thoảng có một cái que bông lại chui vào tai để lôi tao ra, nhưng tao trốn kỹ vào sâu bên trong nên nó không làm gì được.
Vi trùng sâu răng nói:
– Ngày hai lần có cái bàn chải muốn lấy tao ra, nhưng tao chui vào giữa kẽ răng nên nó cũng không làm gì được.
Vi trùng bệnh lậu nói:
– Ở chỗ tao cũng có một thằng trọc hay đến, nhưng nó chẳng biết nên vào hay nên ra. Rồi nó còn nôn oẹ đầy người tao !
Nghe thấy vậy vi trùng sâu răng cũng phản ứng giận dữ:
– A, cái thằng này tao cũng quen nó!

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1371892382.gifhttp://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1371892382.gif

BachMa
09-27-2015, 09:46 PM
Một gia đình có 2 vợ chồng và 2 thằng con trai sống trong 1 căn nhà khá chật hẹp.

Vì nhà chật nên chuyện ấy của 2 vợ chồng cũng không được thoải mái cho lắm mỗi khi muốn làm việc cũng phải chờ cho 2 thằng con ngủ rồi mới bắt đầu được.

Một tối nọ, hai vợ chồng đang hú hí thì ông chồng thấy thằng nhỏ cứ ngồi nhìn 2 vợ chồng, vừa tức vừa xấu hổ ông ta liền chạy lại tát cho thằng nhỏ 1 cái và mắng: ” Mày còn nhỏ sao lại cứ nhìn người ta làm chuyện ấy chứ”.

Thằng cả thấy vậy liền nói: ”Ba cứ đánh nữa đi, cho nó chừa con đã bảo nó là cứ nằm đó mà xem nó lại còn ngồi hẳn dậy cơ chứ, ngu… cho chết”.

&&&

Ngày xửa ngày xưa, có một con hổ đi kiếm mồi. Nó đến nhà một đôi vơ chồng trẻ nọ đúng vào lúc họ đang ân ái với nhau. Hổ ta tò mò nấp ở ngoài nghe ngóng xem họ nói chuyện gì, rồi mới tính chuyện vào ăn thịt.

Trong lúc ái ân, để thử lòng dũng cảm cũng như say đắm của chồng, vợ hỏi chồng :
- Nếu bây giờ có một con hổ vào đây thì mình có sợ không?

Anh chồng đang lúc đam mê nói :
- Sợ cái con C…ặ….c.

Chồng lại hỏi vợ :
-Thế mình có sợ hổ nó vào đây không?

Chị vợ cũng đang say đắm nên quên hết mọi thứ trên đời, kể cả hổ, chị ta đáp :
-C…ặ…..c. còn chả sợ nữa là hổ.

Hổ ta nghe thấy rất là ngạc nhiên. Nó tự nhủ : Con C…ặ…c… là con gì mà gớm ghiếc hơn cả mình? Nó định bụng sẽ vẫn vào ăn thịt đôi vợ chồng nọ, những rồi lại trần trừ không dám vào, và cuối cùng nó quyết định bỏ đi để tìm hiểu xem đó là con gì.

Trên đường đi nó gặp một bà già. Bà già nhìn thấy hổ thì sợ hãi vô cùng, toan bỏ chạy nhưng cuống qua ngã lăn quay. Hổ đi đến và nói :
- Bà đừng sợ. Tôi sẽ không ăn thịt bà nếu bà nói cho tôi biết con C…ặ…c… là con gì mà nó đáng sợ hơn cả tôi thế?

Bà già nhanh trí hiểu ra vấn đề, liền trả lời :
- Ối trời ơi, ông ấy ghớm ghiếc lắm, đáng sợ hơn ông nhiều.

Rồi bà vén váy lên, chỉ vào cái ấy của mình và nói tiếp :
- Đây ông xem, ông ấy cắn tôi cách đây 30 năm mà đến nay vết cắn vẫn chưa lành

Hổ nhìn vào “vết cắn” thấy quả là đáng sợ. Nó vô cùng kinh hãi và lập tức phóng thật nhanh vào rừng. Thế là con C…ặ…c… đã cứu sống được 3 mạng người.

&&&

Hai Lúa lên thành phố chơi, thấy người ta đeo khẩu trang để tránh bụi, cũng muốn bắt chước cho giống người thành phố. Hai Lúa liền tới ngay cửa hiệu để sắm một cái khẩu trang, nhưng mua lộn miếng… băng vệ sinh. Hí hửng lắm, Hai Lúa đeo ngay “miếng” khẩu trang vào rồi đi vi vu ngoài đường. Chạy xe được một lúc, Hai Lúa thấy khó thở quá, bực mình tháo “miếng” khẩu trang ra quăng vào sọt rác. Vừa quăng xong, ngó vô sọt thấy trong đó cũng có một “miếng” khác của ai đó vứt đi, Hai Lúa tức mình lẩm bẩm:

- Đ.M! May mà mình quăng đi kịp, chứ nếu không là bị hộc máu giống thằng này rồi!


http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1406731673.gifhttp://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1406731673.gif

BachMa
10-02-2015, 04:45 PM
Ông Cảnh Sát
Tác giã: Minh Tuyết

Tiểu bang Pennsylvania lạnh quá nên Ba Má, các em và các cháu tôi đã di chuyển qua Fort Smith, Arkansas trong khi tôi ở lại tiếp tục làm việc ở Lehighton Electronics. Má tôi thường xuyên gọi phôn bảo tôi sang Fort Smith luôn. Năm 1978 tôi sang Fort Smith và chuẩn bị đi thi bằng lái thì cô em tôi nói, “Chị đi thi thì đi ngày Thứ Ba. Đi ngày khác là rớt đó!” Tôi ngạc nhiên hỏi cô em, “Sao đi thi ngày khác lại rớt?” Cô em tôi bảo, “Chỉ có một Ông Cảnh sát cho người Việt Nam đậu thôi, mà ngày Thứ Ba là phiên Ông Cảnh sát đó giám sát thi viết và thi lái. Đi ngày khác sẽ gặp các người cảnh sát khác.”


http://hoiquanphidung.com/userupload/img/ong-canh-sat_1443804196.jpg
Tác giả trong một nhà thờ cổ ở Washington DC.

Hôm đi thi tôi mang theo cuốn tự điển. Bước vào phòng thi viết có bàn viết cho từng người, phía trên có bục của người giám sát như một lớp học, tôi bước đến hỏi ông, “Tôi có thể dùng tự điển không?” Ông bảo, “Được” và còn bảo “Take your time.” Lúc nộp bài ông bảo tôi ngồi chờ một chút. Ông chờ những thí sinh khác nộp bài, rồi gọi thêm hai người cảnh sát giao cho họ dẫn mấy thí sinh (người Mỹ) kia đi thi lái. Ông quay sang bảo tôi đi theo ông, từ trong building đi ra chỗ tôi đậu xe, ông hỏi tôi lái xe có giỏi không? Ông Cảnh sát là giám khảo hỏi tôi lái xe có giỏi không, liệu các bạn có dám trả lời rằng mình lái xe giỏi không?! Làm sao tôi dám múa rìu qua mắt thợ! Tôi trả lời, “Tôi nghĩ là tôi lái xe không giỏi.” Ông bảo, “Không giỏi thì phải luôn nhớ cái thắng nhé!” Lúc ấy tôi mới hiểu, thì ra là Ông sợ tôi lái không giỏi mà bị accident thì gây thương tích cho cả Ông luôn. Ông chỉ những con đường ông muốn tôi đi, khi gần ra xa lộ ông bảo đi trong service road thôi – tôi nghĩ có lẽ vì tôi đã nói là tôi lái xe không giỏi. Trở về trụ sở ông cho tôi biết là tôi thi đậu.

Đối với người Việt Nam ở Fort Smith dạo đó thì ông cảnh sát này rất đặc biệt, vì chỉ có Ông cho thí sinh người Việt Nam thi bằng lái đậu, hễ gặp cảnh sát khác là rớt hết. Thời gian qua đã lâu nên tôi không nhớ tên ông, tôi tạm gọi ông là Gerard trong bài này (Gerard là tên Ông Bảo trợ của tôi).

Có lần tôi đi bác sĩ, đến nơi, vừa ra khỏi xe thì gặp một cô Việt Nam từ phòng mạch đi ra nước mắt đoanh tròng. Tôi hỏi thăm và cô kể rằng trước khi đến phòng mạch, cô thi bằng lái xe lần thứ bốn nhưng vẫn bị rớt nên không sao cầm được nước mắt. Tôi hỏi lý do bị rớt, cô bảo vì cô không giữ cho xe chạy thẳng được. Tôi chỉ cho cô, khi lái xe đừng nhìn chằm chằm vào mũi xe, cứ nhìn thẳng và tự tin mà lái thì xe chạy thẳng. Tập như vậy mấy hôm và đi thi đúng ngày Thứ Ba thì sẽ đậu. Mấy tuần sau gặp tôi ở chợ cô mừng lắm và khoe rằng đã có bằng lái rồi. Một bà quen với Má tôi kể, bà đi thi lái đã nhiều lần, nhưng lần nào cũng vậy, cứ đến lúc cảnh sát bảo đậu parallel là bị chấm rớt vì bà không làm được. Sau lại, nhờ có các người Việt Nam khác chỉ, bà đi thi ngày Thứ Ba gặp ông Gerard, ông không bắt bà đậu parallel và ông còn dặn rằng, “Không đậu parallel được, mỗi khi gặp tình huống như vậy thì nên đi kiếm chỗ khác mà đậu nhé.”

Một ông người Việt lớn tuổi làm cùng hãng với Ba tôi, mỗi khi từ đường nhỏ quẹo ra đường lớn, ông rất nhát và cứ ngừng ở đó mãi không dám quẹo. Con cháu của ông tập cho ông mãi ông vẫn không dám đi thi. Người làm cùng sở và con cháu khuyến khích mãi rồi ông cũng nghe theo, hôm đi thi một đứa cháu cùng đi với ông và nói cho ông Gerard biết tánh nhút nhát của ông mỗi khi phải quẹo ra đường lớn. Ông Gerard bảo, “Nếu vậy thì đừng lái xe vào những giờ cao điểm (rush-hour), còn đi làm thì nên đi chung xe với người khác.” Và ông Gerard cũng cho ông ấy đậu. Người không biết Anh văn, mang theo người thông dịch đến xin thi viết hoặc xin thi vấn đáp, ông Gerard cũng đồng ý – đương nhiên là ông biết người thông dịch chỉ cho thí sinh những câu đúng nhưng ông vẫn cho đậu.

Một ký giả của báo Southwest Times Record (Fort Smith, AR), một lần phỏng vấn ông Gerard để viết một bài về ông. Ký giả đó hỏi ông, “Đa số người Việt Nam mới đến Mỹ không biết Anh văn và lái xe không chuẩn. Nhưng tôi nghe nhiều người nói rằng nhiều thí sinh đã bị những cảnh sát khác chấm rớt, khi thi lại họ lái vẫn không khá hơn, vậy tại sao ông lại cho họ đậu và cấp bằng lái?” Ông Gerard trả lời, “Các người tỵ nạn Việt Nam đó họ rất có trách nhiệm và muốn ổn định cuộc sống gia đình của họ. Không có bằng lái, làm thế nào họ có thể lái xe đi làm, không lẽ chúng ta muốn thêm gánh nặng cho Welfare hay sao?” Ông quả là người viễn kiến và hiểu sâu rộng!

Tôi tin rằng mọi gia đình người Việt ở Fort Smith thời điểm đó vẫn còn nhớ ơn Ông Gerard vì ông là người cảnh sát giàu lòng nhân từ đã giúp cho người Việt Nam phương tiện để ổn định cuộc sống ngay từ những bước đầu ở xứ Mỹ. Và tôi là một trong các thí sinh mà Ông chấm cho đậu ngay lần thi đầu. Thank you the benevolent officer! We owe U.


MT - Waco, TX

nguyenphuong
10-11-2015, 08:53 PM
BachMa and I
http://hoiquanphidung.com/userupload/hqpd/Frame_20151011_163536_Copy_1444596708.jpeg

BachMa
10-14-2015, 07:38 PM
Xuất Xứ Của Những Bài Thơ
Lê Trung Tự
September 22, 2015 00:00 CT

Lời Tòa Soạn: Nhà văn Bud Smith đang sống tại Washington Heights thuộc thành phố New York, là tác giả của tập truyện ngắn Or Something Like That. Gần đây, tác phẩm của anh được đăng trên The Bicycle Review, Red Fez và Full of Crow. Trang web của anh là www.BudsmithWrites.com


http://hoiquanphidung.com/userupload/hqpd/bud-head_1444850863.jpg
Bud Smith

Từ lúc mới 15 tuổi cho đến nay, mỗi ngày Lee đều viết một bài thơ, có khi hai bài. Bây giờ ông đã sáu mươi bảy tuổi, về hưu, không còn làm việc với công đoàn thợ sửa máy hơi nước nữa.

Một đêm Thứ Sáu nọ, rảnh rang, ông quyết định tản bộ xuống cuối đường nơi ông ở. Có một quán rượu ở đó, nơi mỗi tháng có một buổi đọc thơ. Suốt sáu năm nay ông vẫn ao ước đến đó. Lâu nay ông không đọc một chút gì cả, nên ông không chắc là sẽ cảm thấy thích thú với những gì ông thấy ở đó.

Bên trong, có một sân khấu nhỏ nằm phía sau quầy rượu. Bốn nhà thơ thong thả lần lượt bước lên sân khấu và lầm bầm gì đó vào cái micro. Ðang ngồi tại một cái bàn nhỏ trong góc phòng nhưng ông nghĩ là ông nhận ra một câu, “cuộc sống thường nhật tỏa ra một màu tím huyền ảo và trở thành một nhịp cầu dẫn tới chốn không tên vào ngày lãnh lương”.

Ông không thể nhớ chính xác nhưng ông nghĩ rằng ông đã từng viết y như thế.

Sau khi xem buổi đọc thơ ấy, có một ý nghĩ thoáng qua trong đầu rằng ông nên thử làm gì đó với những bài thơ của mình. Ông nên gửi vài bài để đăng, ông nghĩ ông sẽ vui thích nếu có vài bài thơ của ông được xuất bản trước khi ông qua đời. Nói cho cùng, ông là một người già và phần đời còn lại đang ngắn dần cho bất cứ ai. Chứ chẳng phải xuất bản là một loại bất tử hay sao? Ha! Chỉ nghĩ vậy đã thấy sướng.

Bất tử trong những tạp chí nhỏ, rẻ tiền, và chỉ có chừng mười lăm người đọc ư.

Thế nhưng, ý nghĩ đã nảy ra, và ông biết chắc là cuối cùng ông cũng sẽ làm điều đó.

Trên đường rời quán rượu, một trong những nhà thơ vẫn còn loanh quanh ở đó. Hắn đang chất mấy cái hộp lên chiếc xe chở hàng của hắn. Lee vẫy tay chào khi hắn đi ngang qua, hắn ra dấu bảo ông tới gần và trao cho ông một món quà. Một bản copy của một tạp chí đóng bằng tay.

“Có nhiều bài viết giá trị trong đó, đọc cho biết.”

Lee cảm ơn hắn và bước ngược lên đồi.

Vài tuần sau, Lee mở cuốn tạp chí ra và lật đi lật lại. Ông không biết tên tuổi của một nhà thơ nào trong đó cả, nói cho cùng, Lee biết gì về những bài thơ đã được đăng? Hoàn toàn không. Ông có thể làm thơ suốt cả cuộc đời nhưng chưa bao giờ mưu cầu chuyện đăng bài cả. Robert Frost chẳng hề có mặt trong cuốn tạp chí đó. Ðó là nhà thơ duy nhất mà ông được biết. Có lẽ ông cũng có biết Walt Whitman nữa.

Khi ông lật đến giữa cuốn tạp chí, tim ông ngừng đập. Có một bài thơ rất quen thuộc. Bài thơ viết về một người đàn ông ném những viên sỏi trên mặt hồ nước mà những viên sỏi cứ nhảy trên mặt hồ rồi bay lên bầu trời làm cho mặt trăng mất thăng bằng xoay nhào xuống trái đất, nghiền nát hắn.

Ðó là bài thơ của ông. Không một chút nghi ngờ trong đầu. Lee là tác giả của bài thơ.

Ông đi vào phòng của mình trong một trạng thái sững sờ và kéo thùng dùng để đựng sữa xuống, trong đó đầy những cuốn sổ tay. Ông biết chính xác bài thơ nằm ở đâu. Chính xác cuốn sổ tay nào. Ông mở cuốn sổ tay cũ và lật tới ngay trang viết dính đầy những vết cà-phê từ lâu đó. Bài thơ có nhan đề “Những viên sỏi nhảy nhót” mà ông đã viết vào năm 1982, 30 năm về trước.

Bằng cách nào đó, nhà thơ trong tạp chí đã đạo thơ của ông. Có lẽ ai đó vô phòng ông và bằng cách nào đó, lục lọi hết những cuốn sổ tay của ông? Thật là điên rồ nhưng đó là cách duy nhất để điều đó có thể xảy ra.

Có thể là một sự trùng hợp ngẫu nhiên.

Càng lật cuốn tạp chí, ông càng phát hiện thêm những bài thơ mà ông nhận ra là của chính ông. Gần như một nửa số bài thơ là của ông, có bài ông làm đã từ lâu, có bài ông mới làm gần đây. Tạp chí ghi mỗi bài thơ trong đó được sáng tác bởi một nhà thơ khác nhau.

Từng hàng một. Không khác gì cả.

Ông trở lại quán rượu và hỏi người phục vụ về buổi đọc thơ và những nhà thơ đã có mặt ở đó. Người phục vụ trả lời là anh ta không biết gì cả. Lee trở lại vào buổi đọc thơ tiếp theo, ngồi ngay hàng ghế đầu và lắng nghe một cách chăm chú. Không ai đọc thơ của ông nữa, nhưng dường như tất cả bọn họ đều có một cái nhìn đáng ngờ trong mắt họ. Họ nói thì thầm, có vẻ như sợ hãi khi thấy ông có mặt trong hàng khán giả. Lee đảo mắt tìm gã đàn ông đã tặng ông cuốn tạp chí đầy những bài thơ của ông, nhưng ông không thấy hắn đâu cả.

Lee đến tiệm sách trong trung tâm buôn bán của địa phương. Ông tìm thấy một số đặc san thơ khá phổ biến, xuất bản trên toàn quốc, những tạp chí thơ và các tuyển tập được quảng bá trên toàn quốc được xuất bản bởi những trường đại học hàng đầu của quốc gia.

Những bài thơ của ông cũng có in trong đó.

Chúng chiếm gần như 75 phần trăm số lượng bài trong mỗi cuốn. Lật cuốn nào ra, ông cũng thấy thơ của ông trong đó.

Nỗi khiếp hãi dâng trào gần như làm cho ông kiệt sức. Thật là thảm hại đến nỗi ông đã đứng đó hơn một giờ đồng hồ, cúi đầu nhìn sững xuống hai bàn chân mình, cho tới khi một trong những người làm việc ở tiệm sách đến hỏi rằng ông có vấn đề gì không.

“Tôi không được khoẻ.” Lee trả lời.

Ông về nhà và nghĩ ngợi về chuyện đó. Ông đã mất trí chăng?

Có lẽ ông nên đi gặp bác sĩ. Ðể trao đổi về những chuyện này – những ảo giác này. Ông khiếp đảm khi nghĩ tới điều đó. Rằng ông phải đi gặp bác sĩ tâm thần. Họ sẽ nhốt ông vô viện tâm thần? Họ sẽ châm điện ông? Họ có còn áp dụng liệu pháp đó không?

Cả buổi chiều, ông suy đi tính lại là không biết có nên tìm đến sự giúp đỡ của bác sĩ hay không. Dù vậy, một trong những việc ông đã làm là dời tất cả các sổ tay của ông từ trên tủ xuống cái két sắt chống hỏa hoạn dưới tầng hầm.

Lee không viết nữa. Từ lúc ông 15 tuổi tới bây giờ, đây là ngày đầu tiên ông không viết, cả ngày ông không làm một bài thơ nào cả. Ðó là một ngày hết sức lạ lùng.

Một ngày nữa trôi qua. Rồi một ngày khác.

Lee bắt đầu cảm thấy nhẹ nhõm hơn.

Cả tuần đó ông không một bài thơ nào được phác thảo nguệch ngoạc trong cuốn sổ tay thơ của ông.

Có lẽ như vậy thì tốt hơn.

Thế rồi, vào lúc nửa đêm, nhiều kẻ lạ mang mặt nạ xông vào nhà ông và lôi ông vào bóng đêm. Họ nhét một miếng giẻ rách vào miệng ông và trùm một cái bao lên đầu ông. Ông bị quăng lên một chiếc xe chở hàng, và chiếc xe lao vút lên đồi.

Khi chiếc xe hàng dừng lại và cái bao được tháo ra, Lee đã được mặt đối mặt với họ.

Ðó là những nhà thơ.



Bud Smith
Lê Trung Tự dịch

LTT dịch từ nguyên tác Anh ngữ “Where Poems Come From”, trong tạp chí Unlikely Stories
Trích từ nguồn website Tiền Vệ
http://baotreonline.com/Van-hoc/Van/xuatxu-tho.html

BachMa
10-21-2015, 06:03 PM
Hành là một loại gia vị – thuốc rất thông dụng trong nhân dân nhưng sử dụng hành để chữa bệnh hiệu quả thì không phải ai cũng biết

Bạn đang giữ trong tay một “bảo bối” mà không hề tốn kém chút nào. Đó chính là những củ hành vẫn thường nằm khiêm tốn trên giá bếp. Hành không chỉ góp phần làm món ăn thêm ngon miệng, mà còn bảo vệ cơ thể và sức khỏe của bạn nữa.

Đau tai
Bạn bị đau tai và cảm thấy nhức nhối không thể chịu đựng được? Đừng lo, bởi chỉ cần một củ hành là đủ để làm cơn đau phải tan biến. Hành có tác dụng kháng viêm và làm suy yếu các vi khuẩn gây ra cơn đau. Vì vậy, nếu lần tới bạn đau tai, hãy cắt lấy phần “lõi” ở trên trong củ hành đặt vào tai, bạn sẽ nhanh chóng cảm thấy dễ chịu trở lại.

Cảm lạnh


http://hoiquanphidung.com/userupload/hqpd/01-DauTai_1445449686.jpg
Uống một cốc nước hành sẽ giúp bạn phục hồi nhanh hơn mỗi khi cảm lạnh hay bị cúm…
(Ảnh minh họa: Internet)

Cũng giống như tỏi, hành có tác dụng tăng cường hệ miễn dịch. Uống một cốc nước hành sẽ giúp bạn phục hồi nhanh hơn mỗi khi cảm lạnh hay bị cúm. Cách chuẩn bị rất đơn giản: Bạn chỉ cần đun sôi nước, sau đó thả một ít hành xắt nhỏ vào và chờ trong vài phút. Mặc dù tách “trà hành” có mùi vị hơi khó chịu, nhưng đảm bảo sẽ cho thấy hiệu quả bất ngờ. Còn nếu bạn muốn khỏi bệnh nhanh hơn? Hãy… ăn hành sống khi bạn có đủ can đảm!

Bụi bay vào mắt


http://hoiquanphidung.com/userupload/hqpd/02_BuiBayVaoMat_1445449716.jpg
(Ảnh: Pixabay)

Thật khó chịu khi có hạt bụi bay lạc vào mắt bạn. Phản ứng thông thường là dùng tay dụi, dụi, và dụi cho tới lúc mắt bạn đỏ hoe lên. Nhưng điều đó chỉ khiến mọi thứ tồi tệ hơn. Một mách nước nhỏ dành cho bạn: Hãy cắt phần lõi củ hành ra từng miếng đến khi mắt bạn đẫm nước. Nước mắt sẽ rửa trôi mọi bụi bẩn bên trong và làm đôi mắt trong sáng hơn. Tất nhiên bạn cũng không nên lạm dụng quá, đặc biệt là nếu đó là hành cũ lâu ngày có thể đã bị mốc, hoặc loại đã bị phun xịt nhiều chất bảo quản.

Chảy máu tay
Nếu bạn lỡ cắt vào tay trong khi làm bếp, hãy nhanh chóng dùng một lát hành đắp lên vết thương. Nó không chỉ giúp bạn cầm máu mà còn sát trùng và chống viêm. Hơn nữa, vết cắt cũng sẽ nhanh chóng liền lại trong thời gian ngắn.

Vết sẹo


http://hoiquanphidung.com/userupload/hqpd/03_VetSeo_1445449770.jpg
(Ảnh: Pixabay)

Có lẽ bạn không hề biết rằng bí quyết để xóa các vết sẹo cơ thể lại nằm ngay trong phòng bếp nhà mình. Hoàn toàn đơn giản: bạn chỉ cần lấy nước ép từ hành, rồi thấm vào một miếng vải và đắp lên vết thương. Bạn hãy thử xem!

Khi bị ong đốt?


http://hoiquanphidung.com/userupload/hqpd/04_KhiBiOngDot_1445449801.jpg
(Ảnh: Internet)

Một số loài ong đặc biệt nguy hiểm. Chúng có thể khiến da bạn đỏ tấy và đau rát trong suốt một ngày trời. Ngay sau khi bị ong đốt, hãy rửa vết thương bằng nước lạnh rồi đắp một lát hành lên đó. Hành sẽ hút chất độc ra ngoài và làm chỗ sưng dịu lại trong phút chốc.

Hành là phương thuốc hoàn toàn tự nhiên, rẻ tiền, lại vô cùng hữu ích nữa. Vì vậy, lần tới đi chợ, đừng quên mua thêm một vài củ hành dự trữ trong bếp nhé! Tất nhiên hành còn nhiều công dụng khác mà chúng ta chưa biết hết. Nếu bạn còn những bí quyết nào khác, hãy chia sẻ với chúng tôi trong phần bình luận bên dưới.



Hân Hân(TH) Theo Đại Kỉ Nguyên
Link gốc:http://khoekhoe.net/song-khoe/dat-cu...y-ket-qua.html

BachMa
10-24-2015, 02:31 AM
http://hoiquanphidung.com/userupload/hqpd/01_ChiecAoBaBa_1445653022.jpg

Chiếc Áo Bà Ba In Hình Chữ Hỉ

Mới đầu nghe ba em gọi, tôi tưởng tên em là Muỗi. Tôi ghẹo em: “Muỗi này!Đừng chích anh, đau lắm”. Em trề môi, vẻ không bằng lòng: “Tên em là Muội. Muội là em. Em là Muội”. À ra thế!

Ba Muội, chú Phu, người Quảng Đông. Phu là phú, phú là giàu. Tên chú giàu nhưng chú không giàu. Chú chỉ có chiếc xe hủ tiếu, bán điểm tâm dưới hai tàng me đại thụ, trên vỉa hè, bên hông rạp chớp bóng Định Tường.

Má tôi đông con, cũng nghèo, có quầy bán cơm tấm gần bên.

Chủ nhựt được nghỉ học, hai đứa ra phụ chạy bàn. Em giúp ba em. Tôi giúp má tôi. Năm ấy tôi mười tám tuổi, học Đệ nhứt, năm cuối cùng của bậc Trung học Đệ nhị cấp. Cuối năm, tôi sẽ thi Tú tài hai. Đậu thì lên Đại học. Rớt thì vào Thủ Đức. Chiến trường đang hồi ác liệt. Bạn tôi, rớt Tú tài một, đi Đồng Đế, có đi mà chẳng có về. Muội, mười sáu tuổi, học Đệ tam, trường Tàu, sắp thi bằng Cao Trung.

Muội là cô giáo dạy tôi tiếng Quảng Đông. Dách là một, dì là hai, xám là ba, xập là mười. Bài xập xám là bài mười ba lá. Muội nói Muội không thích thanh niên đánh bài. Tôi đâu có ở không để đi đánh bài; vì tôi còn bận tơ tưởng đến Muội của tôi suốt ngày; ngay cả năm thi Tú tài hai, bài vở còn cả đống, tôi còn không để mắt tới nữa là.

Muội dạy tôi tính tiền là xấu lúi. Kỷ tố là bao nhiêu. Dách cô phảnh là một tô hủ tiếu. Tôi hỏi: “Một dĩa cơm tấm bì, tiếng Quảng nói làm sao?”

Muội nói: “Muội không biết”. Tôi nói: “Đi hỏi ba Muôi đi!”. Muội không dám. Muội sợ ba biết Muội quen với tôi, ba Muội rầy.

Ba Muội nói: “Con trai Việt Nam làm biếng lắm, đi chơi tối ngày, không lo buôn bán. Không buôn bán lấy gì ăn. Không có gì ăn, làm sao lấy vợ.

Nếu lấy được vợ làm sao nuôi vợ, nuôi con”. Tôi nói: “Muội đừng lo. Tôi sẽ rán học, thi đậu Tú tài hai, vào Đại học Sư phạm, được hoãn dịch, đi bán chữ, để có tiền nuôi Muội. Muội đi bán hủ tiếu, để tôi có hủ tiếu, ăn trừ cơm, trong những ngày mưa bán ế”.

Muội nói: “Muội còn nhỏ lắm, chưa biết yêu”. Tôi nói: “Tôi sẽ chờ vài năm nữa”.

Nhưng thời cuộc biến chuyển. Tôi không chờ được Muội mà ngược lại Muội phải chờ tôi. Chờ tôi suốt cả một thời con gái.

Cuối năm đó tôi đậu Tú tài hai. Hai năm xa Mỹ Tho, đi học Đại học Cần Thơ, tôi không còn dịp gặp Muội mỗi sáng chủ nhựt, để nói chuyện tào lao bắc đế nữa. Tôi sắp ra trường, sẽ đổi về một quận lỵ buồn thỉu, buồn thiu nào đó của đồng bằng sông Cửu Long; để làm một ông giáo làng, hai mươi mốt tuổi. Tôi sẽ trở về Mỹ Tho nhờ má tôi nói với chú Phu, ba Muội, hỏi cưới Muội cho tôi. Bây giờ tôi đã có đủ chữ để đi bán rồi. Tôi sẽ có tiền nuôi Muội, để ba Muội không còn chê con trai Việt Nam làm biếng nữa. Tôi sẽ không còn ăn cơm tấm má nấu. Tôi sẽ ăn hủ tiếu Muội nấu, trừ cơm, trong những ngày mưa bán ế.

Tôi không ao ước cao xa gì hết. Chuyện ấy dành cho con nhà giàu, quyền thế. Tôi chỉ ước được làm thầy giáo làng, có vợ bán hủ tiếu. Vậy mà cũng không được!


http://hoiquanphidung.com/userupload/hqpd/02_ChiecAoBaBa_1445653061.jpg

Mùa hè năm 72: mùa hè lửa đỏ. Các trận đánh lớn đồng loạt nổ ra ở Quảng Trị, Kon Tum, An Lộc. Tin chiến sự chiếm đầy mặt báo. Trang sau là cáo phó, phân ưu những người lính tử trận. Tôi tốt nghiệp, nhưng không được nhận nhiệm sở. Lệnh tổng động viên đã ban hành. Tôi vào trường Bộ Binh Thủ Đức.

Tôi thư về Muội bảo chờ tôi. Tôi còn quá trẻ để chết. Tôi sẽ trở về! Tôi sẽ trở về! Tôi vẫn còn muốn ăn hủ tiếu Muội nấu, trừ cơm, trong những ngày mưa bán ế. Hai năm xa Mỹ Tho, tôi đã ăn hủ tiếu nhiều nơi, nhiều chỗ nhưng không nơi nào, chỗ nào nấu hủ tiếu ngon bằng Muội của tôi.

Muội hứa sẽ chờ tôi về dẫu trời sập chăng đi nữa. Lời hứa ấy làm ấm lòng tôi suốt những ngày gian khổ giày sô, áo trận.

Tôi rời trường Bộ Binh Thủ Đức, về Thủy quân Lục chiến. Sư đoàn là lực lượng tổng trừ bị, nên tôi lội khắp nơi: từ Cà Mau, Chương Thiện, Bến Tre ra tận Thừa Thiên, Quảng Trị.


http://hoiquanphidung.com/userupload/hqpd/03_ChiecAoBaBa_1445653137.jpg

Một năm lính trôi qua, khi tiểu đoàn về Mỏ Cày, Bến Tre truy kích chủ lực miền của địch về quấy rối thì tôi đạp phải mìn. Sức nổ của trái mìn tự tạo bằng quả đạn pháo 105 lép, đẩy tôi văng tuốt xuống mương, mình dính đầy những miểng.

Tôi không chết, như đã hứa với Muội. Trực thăng phầm phập tải thương về Bịnh viện 3 Dã chiến Mỹ Tho. Tôi nằm trên băng ca, ngoài hành lang trên lầu, chờ ngày mai xe hồng thập tự chuyển tôi về bịnh viện Lê Hữu Sanh của sư đoàn ở Thị Nghè. Muội nghe tin tôi bị thương; tất tả cùng má đến thăm. Đã hết giờ thăm thương bịnh binh, má với Muội đứng dưới lề đường Trương Định nhìn lên nơi tôi nằm. Tôi thò cái tay, không bị dính miểng, vẫy vẫy. Má khóc. Muội cũng khóc. Vạt áo xẩm, Muội mặc, đẫm đầy nước mắt.

Muội sợ tôi chết, Muội khóc. Khóc cho giấc mộng tôi muốn làm thầy giáo đi bán chữ nuôi Muội; Muội đi bán hủ tiếu cho tôi ăn trừ cơm những ngày mưa bán ế đã không thành.

Tôi nằm bịnh viện cả tháng trời. Miểng trong người lâu lâu lại lòi ra. Tôi nghiến răng, rút miểng ra, máu lại chảy. Tôi được hai tuần phép để chờ ra hội đồng giám định y khoa.

Tôi trở về Mỹ Tho gặp má. Cởi giầy sô, áo trận, tôi mặc lại chiếc áo học trò năm cũ. Tôi ra vỉa hè, dưới hai tàng me đại thụ, bên hông rạp chớp bóng Định Tường, chạy bàn cho má tôi. Tôi gặp lại Muội. Đó là khoảng thời gian hạnh phúc nhứt đời tôi, khi bây giờ, tôi nhớ lại.

Tôi hỏi Muội: “Đẹp tiếng Quảng là gì?”. Muội nói: “Hụ len. Còn yêu là ói”. Vậy thì “Nị hụ len; ngọ ói nị”. Muội mắc cỡ, ửng hồng đôi má.

Cả tháng trời nằm bịnh viện, không có dịp xài, lương vẫn y nguyên. Tôi lãnh tiền ra, đưa cho má tôi một nửa. Má tôi không cầm tiền, má khóc.

Tôi nài nỉ: “Em con đang sức lớn, má ơi!”

Số tiền còn lại tôi dắt Muội xuống tiệm Văn Minh, gần rạp hát Vĩnh Lợi, mua vải cho Muội may áo. Tôi chọn một xấp gấm Thượng Hải có in chữ Tàu.

Tôi hỏi: “Chữ Tàu đó nghĩa là gì?”

Muội nói: “Đó là chữ hỉ. Hỉ là vui. Vải này dành cho người ta may áo cưới”.

Tôi hỏi: “Muội muốn màu gì?”

“Màu đỏ hên lắm! Muội xin Trời, Phật cho anh đi đánh giặc bình an, hết giặc, về với Muội”.

Tôi nói: “Thôi! Đời anh xui quá xá rồi còn gì, muốn đi bán chữ mà cũng không được, mới đi lính có một năm đã bị thương rồi, hên đâu hỏng thấy”.

Tôi chọn cho Muội vải áo màu xanh đọt chuối.

Tôi bảo: “Màu xanh là màu hy vọng. Anh hy vọng Muội sẽ chờ anh dù cho trời sập tới nơi.”

Muội nói: “Muội sẽ chờ.”

Tôi may cho Muội một chiếc áo bà ba để bắt đền cho chiếc áo xẩm đẫm đầy nước mắt khi đến thăm tôi bị thương nằm ở Bệnh viện 3 Dã chiến ngày nào.

Muội nói: “Muội mặc chiếc áo bà ba giống hệt con gái Mỹ Tho.”

“Ba má sanh Muội ra ở đây thì Muội đã là con gái Mỹ Tho rồi; mà con gái Mỹ Tho chánh cống chưa chắc đã dám đọ với em”. Tôi nịnh Muội.

Hai tuần phép trôi nhanh, tôi ra hội đồng giám định y khoa tái khám, bị phân loại một, trở về tác chiến. Lại băng rừng, vượt suối, bạc màu áo trận, mốc thích giầy sô cho đến ngày tan hàng, sập tiệm.

Tôi chỉ là một sĩ quan cấp thấp, nhưng lại thuộc binh chủng rằn ri nên những người thắng trận cải tạo tôi hơi lâu; mãi năm năm sau mới thả tôi về.

Tôi trở về Mỹ Tho bèo nhèo như một chiếc áo rách. Má tôi đã mất khi tôi còn ở trong trại. Mấy đứa em giấu tôi tin buồn. Đứng trước bàn thờ má, đốt một nén nhang, tôi không còn khóc được nữa, nước mắt tôi đã cạn lâu rồi. Miệng tôi méo xệch như mếu, mắt chớp chớp, mặt nhăn nhúm, giựt giựt.

Má ơi!

Tôi nhớ lại nồi cơm tấm má nấu, nồi cơm tấm nuôi tôi ăn học. Tôi nhớ cái vỉa hè, bên hông rạp chớp bóng Định Tường, dưới hai tàng me đại thụ mà mùa thu lá me bay bay, rơi đầy trên tóc. Tôi nhớ những giọt nước mắt của má tôi, khi đến thăm tôi bị thương nằm ở Bịnh viện 3 Dã chiến năm nào. Tôi nhớ những giọt nước mắt của má tôi khi không chịu cầm số tiền lương tôi gởi. Bây giờ má tôi đã mất rồi; đàn em tôi vẫn còn nheo nhóc.

Cả nhà đói, ăn độn bo bo mà cũng không đủ. Ăn buổi sáng, phải chạy, lo buổi chiều. Việc chạy gạo dồn lên cả đôi vai khẳng khiu của em gái tôi đang tuổi thanh xuân. Nhưng tuổi thanh xuân của em tôi còn đâu nữa. Nước mất nhà tan! Chưa bao giờ tôi thấm thía câu nói ấy cho bằng bây giờ.

Tôi không tìm gặp lại Muội nữa. Tình thơ dại của tôi đã tan theo vận nước. Bây giờ tôi chỉ là một sĩ quan ngụy, đi cải tạo về, mỗi tuần phải trình diện công an phường một lần cho tới ngày xả chế. Tôi ra khỏi một nhà tù nhỏ, để vào một nhà tù lớn hơn! Tôi chỉ có chữ, mà chữ bây giờ chẳng ai mua. Chế độ này không cần chữ. Lúc tôi lên trình diện, lão phó công an phường lẩm nhẩm đánh vần lịnh tha của tôi mà nước miếng tràn ra cả khóe miệng. Chế độ này cần lý lịch. Mà lý lịch tôi hạng 15, nghĩa là hạng bét, tận cùng đáy xã hội, thì tôi làm được gì bây giờ?

Tôi không tìm gặp lại Muội không phải vì tôi mặc cảm. Tôi không có gì phải mặc cảm cả. Tôi chỉ đi lính, đánh giặc, tôi thua, giặc bắt tôi ở tù. Thế thôi!

Tôi không tìm gặp lại Muội chỉ vì tôi không muốn mình trở thành gánh nặng cho Muội. Yêu người, có ai muốn trở thành gánh nặng cho người mình yêu bao giờ đâu? Tôi cũng không muốn trở thành gánh nặng cho em tôi. Thương em, có ai muốn trở thành gánh nặng cho em mình thương bao giờ đâu?

Tôi đã sống sót suốt năm năm trời dưới chín tầng địa ngục. Tôi đã đói, đói đến mức phải ăn bất cứ cái gì động đậy: cóc, nhái, ễnh ương, bù tọt.

Tôi phải sống sót để trở về, như đã hứa, với Muội. Kẻ thù muốn tôi quỳ xuống, van xin. Tôi không quỳ xuống, van xin. Kẻ thù muốn tôi chết. Tôi không chết. Tôi đã trở về, dù thân tàn ma dại.

Em gái tôi đem chiếc nhẫn cưới của má để lại, đến vợ tên công an khu vực cầm, để tôi có chút vốn đi buôn lậu dầu dừa. Ngày xưa nói đến buôn lậu là nói đến tiền tỉ, đến những vật phẩm đắt tiền, trốn thuế, chuyển hàng có xe quân cảnh hụ còi như vụ Long An. Còn bây giờ chỉ mười lít dầu dừa, bỏ vào cặp táp, từ cầu Ba Lai qua phà Rạch Miễu về Mỹ Tho, kiếm lời đủ mua lít gạo.

Đế quốc Mỹ, tàu to, súng lớn, không đủ sức đưa nhân dân ta trở về thời kỳ đồ đá. Nhà nước ta, đỉnh cao trí tuệ loài người, bằng ngăn sông, cấm chợ, rào đường, chặn ngõ dễ dàng đưa nhân dân ta trở lại thời kỳ đồ đá, thời kỳ hái, lượm, thời kỳ của nền kinh tế tự cung, tự cấp; bởi buôn bán, dù năm mười lít gạo, mười, hai chục lít dầu dừa là không lao động, không sản xuất, là bóc lột, là chủ nghĩa tư bản xấu xa.

Tôi cắt tóc ngắn lên, cho gọn gàng, cho có vẻ thầy giáo. Phần thì để né mấy tay du kích bên Cầu Bắc Tân Thạch, quê hương Đồng Khởi. Mấy tay du kích VC này có kiểu làm tiền rất láu cá, bằng cách làm nhục khách bộ hành qua phà, dùng súng, chận họ lại, bắt vào hớt tóc. Tóc dài là tàn dư

Mỹ Ngụy. Ngồi trước gương của ông thợ hớt tóc đầu đường, thấy tóc mình đã điểm vài sợi bạc, dù tôi chưa đầy ba mươi tuổi. Tôi mặc lại chiếc áo sơ mi trắng năm học đệ nhứt, đã ố vàng. Chiếc quần xanh được nhuộm đen. Mặc áo bỏ vô quần, mang giày với đôi vớ rách. Tôi xách chiếc cặp táp cũ nhưng không để đựng sách vở. Sách vở ích gì cho buổi ấy. Chiếc cặp đựng cái can nhựa mười lít dầu dừa. Tôi nhập vai thầy giáo, dù ước mơ làm thầy giáo làng, có vợ bán hủ tiếu để tôi ăn trừ cơm những ngày mưa bán ế, đã chết tự lâu rồi, từ Mỹ Tho qua Bến Tre dạy học, canh giờ đến lớp hay tan học, hòa vào đám học trò để vượt qua trạm Cầu Bắc.

Tôi đi buôn lậu dầu dừa được chừng sáu tháng thì thằng bạn học cũ thời trung học cũng ở tù về, rủ tôi hùn tiền mua chiếc xích lô đạp. Nó chạy sáng, tôi chạy chiều hoặc ngược lại. Thằng bạn tôi nói, cay đắng: “Thằng Mỹ quýnh quáng bỏ chạy, còn làm rớt lại cái tên Mỹ, Xô xích Le, xe xích lô”. Tôi thì lại nói: “Mấy ông tai to, mặt lớn của tụi mình thì hô hào tử thủ, để có thời giờ tom góp vàng bạc, đô la rồi dông, còn làm rớt lại chức dân biểu. Xô xích Le, dân biểu. Dân biểu đâu, mình chạy đó”.

Một buổi chiều sau khi chở khách ra bến xe cổng thị xã, tôi thả xe không về chợ Vòng Nhỏ thì thấy một ông cắc chú đội chiếc nón mây đan, rộng vành, như Khương Đại Vệ trong phim kiếm hiệp tàu trước 75. Ông mặc chiếc quần tiều lỡ, quá gối, chiếc áo thung tay dài gần tới cùi chỏ, bỏ vô quần, gánh hai cái cần xé không, đi lủi thủi. Tướng đi ngờ ngợ, quen quen. Chú Phu rồi chứ chẳng ai!

“Đi xích lô hông? Chú ba!” Chú Phu nhìn lên, ngơ ngác, ngờ ngợ một lát, rồi nhận ra tôi. Tôi đã đổi thay nhiều quá.

“Chèn ơi! Vậy mà ngộ tưởng nị chết rồi.”

“Chết sao được! Sống nhăn răng ra đây nè.”

Tôi chở chú Phu về nhà. Cũng căn nhà lợp ngói âm dương ở đường Huyện Toại, nhưng có vẻ tiêu điều, u ám. Chiếc xe hủ tiếu xập kỷ nìn, năm xưa, ngày cũ, còn đậu trước hàng ba, xẹp bánh, bụi bám, nhện giăng.

“Nị ở chơi, ngộ nấu hủ tiếu cho nị ăn. Lâu quá ngộ cũng không có ăn hủ tiếu.”

“Vậy chứ chú thôi bán hủ tiếu rồi sao?”

“Thôi lâu rồi! Giờ ai cũng mạt, tiền đâu ăn hủ tiếu.”

“Thì bán cho mấy ổng.”

“Ổng nào? À mấy ông cách mạng hả? Ờ mấy ổng đâu có thèm ăn hủ tiếu. Mấy ổng ăn vàng không hà.”

Chú Phu đem ra một tô hủ tiếu và một lít rượu. Tô hủ tiếu, chú Phu vừa mới nấu, cũng chịu cùng số phận tang thương theo vận nước, chỉ nước lèo, bánh và lèo tèo những lát thịt mỏng như tờ giấy quyến.

Tôi nhớ tô hủ tiếu Muội nấu cho tôi ăn trong những ngày mưa bán ế. Tô hủ tiếu với bánh bột lọc làm bằng gạo Gò Cát, trụng với nước thật sôi, dai mà không bở như hủ tiếu Sài Gòn, nước lèo nấu bằng xương heo, tôm khô, khô mực, cải bắc thảo, thêm vài tép mỡ, điểm xuyến vài cọng sà lách non xanh với mấy cọng hành luộc, một nhúm giá, vài lát ớt sừng trâu xắt mỏng, rắc chút tiêu, ăn với xì dầu và dấm đỏ. Tô hủ tiếu, người thương mình nấu, ly cà phê sữa nhỏ, xây phé nại, do chính tay mình pha, trong những ngày bão rớt, mưa dầm, bán ế giờ đã trở thành kỷ niệm. Tôi không tiện hỏi thăm về Muội, dù rất muốn.

Tôi hỏi: “Chú bây giờ làm gì để sống?”

“Thì nị thấy đó, ngộ đi mua ve chai, lông vịt về bỏ cho vựa. Nghề ve chai lông vịt mà, nghề móc bọc, móc bọc ny lon đem xuống sông rửa, rồi cân ký. Bây giờ khổ quá! Nhớ hồi xưa mình vui quá!”

Lít rượu ngâm ô môi, cho có màu, chú, cháu cưa hai gần hết.

Chú Phu, chưn nam đá chưn chiêu, lảo đảo bước vào nhà trong, lấy ra cái bọc ny lon.

Chú nói: “Con Muội! Nó gởi cho nị. Con Muội! hu hu! Nó chết rồi!”

“Muội ơi!”

“Ngộ biết nó thương nị. Lúc nị đi ở tù, nó nói nó chờ nị được tha về, nó sẽ đi bán hủ tiếu nuôi nị. Nhưng có được đâu! Tụi nó đánh ăn tụi mình rồi lại giành ăn, đánh lẫn nhau. Thiệt hết biết! Hết Pol Pot, Bành Trướng Bắc Kinh, rồi Nạn Kiều. Ngộ sợ tụi nó sẽ đuổi cha con ngộ về Trung Quốc.

Tưởng thống chế bỏ ngộ chạy ra Taiwan. Mao xếnh xáng rượt ngộ chạy tuốt đến đây. Mỹ Tho đất lành chim đậu. Rồi sanh ra con Muội. Ngộ nói với con Muội: “Mỹ Tho bây giờ đất dữ rồi, thôi bay đi con!”

Muội ngần ngừ, có ý đợi nị về. Ngộ nói: “Nị làm quan, mà lại rằn ri nữa, tù biết đến lúc nào ra? Nếu không đi; sợ không còn có dịp. Cái cột đèn còn muốn đi nữa mà.”

“Suốt cuộc đời bán hủ tiếu, ky cỏm được hai cây vàng, ngộ xuống năn nỉ mấy xì thẩu dưới chợ Mỹ Tho cho con Muội một chỗ.”

“Tàu nó ra cửa được ba ngày đêm thì bơm nhớt bị hư, máy lột dên, trôi giạt. Ở hải phận quốc tế, tàu buôn qua lại nườm nượp mà không ai vớt. Ba tuần linh đinh trên biển, tuyệt vọng quá, mấy người đi trên tàu gom quần áo, giày dép lại, đốt. Cuối cùng có chiếc tàu buôn tội nghiệp dừng lại, thả thang dây xuống. Ba tuần trên biển, nị nghĩ coi, sức đâu nữa mà leo. Nó sút tay, rớt xuống biển. Chết chìm. Hu hu.”

Chú Phu không còn nước mắt nữa để khóc, chú chỉ kêu hu hu, tiếng kêu của con thú bị một vết thương trí mạng, bị ví vào đường cùng, không lối thoát thân.

“Đêm trước khi đi, nó đưa cho ngộ cái này, nói nếu nị còn sống sót trở về, thì đưa lại cho nị. Hu hu!”

Trong cái bọc ny lon, chú Phu đưa cho tôi, là chiếc áo bà ba hình chữ hỉ tôi may cho em ngày cũ. Muội ơi! Xác em giờ ở phương nào. Trôi vào đất Thái hay vào Nam Dương. Áo bà ba, Muội yêu, hòa biển tím. Tình còn đây trời đày ta mất nhau.

Tôi không còn khóc được nữa, nước mắt tôi đã cạn lâu rồi. Miệng tôi méo xệch như mếu, mắt chớp chớp, mặt nhăn nhúm, giựt giựt.

“Muội ơi! Anh sẽ đem chiếc áo bà ba hình chữ hỉ của chúng mình theo, ra biển!”



Đoàn Xuân Thu
April 9, 2015
Nguồn:http://thoibao.com/chiec-ao-ba-ba-in-hinh-chu-hy/

BachMa
10-28-2015, 04:00 AM
Tiếng Việt không dấu

Trước Halloween, con nhận được text của mẹ gởi qua iPhone: "Cuoi tuan nay me bay qua tham con, nho con dat ve".
Con trai tức tốc bay qua. Mẹ ngạc nhiên:
- Tuần sau mẹ về rồi. Con qua làm gì?
- Mẹ text bảo con qua “dắt về” mà?
- Đâu có, mẹ bảo "đặt vé" mà!


Ngày lễ, con trai được nghỉ học nói sẽ lái xe về nhà. Cả nhà chờ mãi, mẹ bảo đứa em gái nhắn tin: “Ve toi dau roi?”.
Trả lời: “Dang mua qua chua ve duoc”.
- Ảnh nói đang bận mua quà.
Anh trai về, em gái hí hửng:
- Quà em đâu?
- Quà gì?
- Hồi nãy anh nói đang mua quà?
- Tao nói mưa quá chứ mua quà hồi nào!


Lý do

Xe buýt chở đầy du khách đang vun vút đổ dốc. Một chàng trai thục mạng đuổi theo.
Một bà khách thò đầu ra cửa sổ hét:
- Đợi chuyến sau đi, không kịp đâu cháu!
- Nh...ấ...ất định phải kịp ạ....
- Không kịp đâu, nguy hiểm lắm!
- Nhưng cháu là tài xế mà!


Ứng xử

Trong giờ giảng về ứng xử, cô giáo đặt câu hỏi:
- Giả dụ, các em vô ý đạp lên chân một người khác, các em phải làm gì?
Tom giơ tay:
- Dạ em sẽ nói: 'Cháu xin lỗi ạ'.
- Giỏi! Nếu người đó thấy em lễ phép, thưởng em một cái kẹo, thì em phải làm gì?
- Dạ, em sẽ đạp lên chân kia!

http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1405483401.gif

BachMa
11-02-2015, 04:48 AM
Chuyện Bốn Mươi Năm Trước
Hoàng Thị Thanh Nga

Đó là ngày 29 Tháng Tư tại Vũng Tàu. Cảnh rừng người ôm gói bồng bế, tao tác hoảng loạn, chen lấn lên tàu hôm ấy hệt như ngày tận thế đuổi tới phía sau. Dân chạy cộng sản. Lần này là chạy ra khỏi đất nước, không như năm 1954 chạy vào phương Nam vẫn còn là quê hương.

Mọi người trong thủy thủ đoàn của tôi tận lực giúp đỡ nâng kéo dân chạy giặc trong bờ túa lên tàu, từ những chiếc ghe nhỏ dập dềnh như lá thu rụng ngập tràn mặt nước. Tiếng người ơi ới gọi nhau, pha trộn tiếng trẻ con la khóc, náo động vang rền một góc sông. Mọi người hối hả lo lắng sợ không đến phần mình được lên. Khi sàn tàu không còn chỗ chen chân với mấy ngàn người, bên dưới nhiều chiếc ghe trống trơn, nhẹ tênh chao đảo, nhưng vẫn còn ghe có một số người chưa lên được. Nhìn xuống, mắt tôi chợt chạm vào ánh mắt van nài cuống quýt của một người đàn ông, tay phải cụt, tay trái ôm đứa bé chừng 2 tuổi, giọng khẩn khoản. Tôi trèo thang dây xuống định kéo cha con anh lên, anh ta dúi vào tay tôi đứa bé, nói nhanh…anh làm ơn cho tôi gởi thằng con, tôi phải quay về…Tôi lên tàu giao lại đứa nhỏ cho một người lính rồi tuột xuống.

Tâm trạng phân vân Ði hay Ở giằng co khốc liệt trong tôi suốt ngày hôm nay. Tôi đang được đứng an toàn trên con tàu sẽ đi khỏi nơi đây, trong khi biết bao người dưới kia khao khát cuồng điên chờ nắm lấy sợi thang leo lên. Họ có thể rơi xuống nước mất mạng bởi tranh giành chen lấn! Chẳng lẽ tôi khước từ cơ hội ưu tiên quý giá này? Nhưng bỗng tôi quyết định mau lẹ dứt khoát trong một giây, ngay vào thời điểm tàu nhổ neo bởi người đàn ông gởi con đó. Anh ta biết việc ra đi là điều sống còn bức thiết, nhưng đành gởi đứa con nhỏ vô thức của mình cho người xa lạ, vĩnh viễn không hy vọng có ngày gặp lại. Anh quay về có lẽ vì anh còn nặng trách nhiệm với cha yếu mẹ già không thể cùng mang theo? Tôi cũng vậy, tôi còn người mẹ già, một mẹ một con sống đơn chiếc từ ngày di cư vào Nam. Tôi còn người vợ trẻ, nàng cũng chỉ có mẹ con tôi là người thân duy nhất, lại đang mang thai đứa con đầu lòng sắp sinh, có thể nàng đã sinh rồi nhưng vì thời cuộc rối ren tôi không nhận được tin! Tôi đứng dưới ghe vẫy chào tiễn biệt bạn bè, mặc những tiếng réo gọi khẩn thiết…

Về đến Sài Gòn. Nghe trên đài phát thanh đọc lệnh đầu hàng của ông Tổng thống một ngày Dương V. Minh, lòng người lính thất trận quặn đau như người hấp hối trên giường mơ hồ nghe âm vang hồi chuông báo tử. Hai giọt nước mắt chợt lăn trên khuôn mặt phong trần lính tráng, mặn đắng. Sài Gòn đổi chủ, không thể diễn tả được cảnh tượng lúc này. Ðường phố tràn ngập bộ đội việt cộng. Dân chúng nhiều người không hiểu đại họa vừa đến, tò mò ra đường đứng nhìn, thậm chí reo hò cổ vũ vì thấy… lạ, vui.

Tôi về đến nhà đúng lúc mẹ đang cuống quýt lo lắng, vợ tôi trở dạ lâm bồn. Vào lúc thời cuộc rối loạn nhiễu nhương, ra đường sợ tên bay đạn lạc, vả lại tất cả công sở lẫn bịnh viện hoặc nhà hộ sinh đều “vườn không nhà trống”. May!...Mẹ tôi xưa là y tá bịnh viện, tuy không thông thạo hộ sinh nhưng lúc này bà phải bình tĩnh đỡ đẻ cho con dâu. Ơn Trời! Ca hộ sinh bất đắc dĩ diễn ra suôn sẻ, mẹ tròn con vuông!

Con trai tôi sinh ra giữa ngày 30/4/75, ngày đau thương uất hận phủ trùm toàn cõi Việt Nam! Tôi đặt tên con là…Quốc Hận. Lưu Quốc Hận.

Cái giá phải trả cho quyết định ở lại là những năm lao tù khổ sai, di chuyển nhiều trại cuối cùng “định cư” lâu dài ở trại Ba Sao Phủ Lý, là quê mẹ tôi lúc chưa di cư vào Nam. Tôi không có chút cảm xúc nào với “quê” của mình, chỉ thấy vừa e ngại vừa xót xa những người dân lam lũ chân đất, họ quá cùng khổ. Trong tù, hàng ngày phải “lao động” rã rời thân xác, phải “học tập” chính trị đau đầu, chịu đựng đến buốt nhói tâm hồn bởi lời miệt thị sỉ nhục của những tên gác tù. Mệt nhoài là vậy nhưng nhiều đêm tôi không thể ngủ vì cơn đói bạo liệt hành hạ, chong mắt nhìn trừng vào bóng đêm ngẫm nghĩ, mình đúng hay sai khi quyết định ở lại??? Ở lại, tôi chẳng chăm lo nuôi nấng được mẹ và vợ con, trái lại để mẹ đau buồn lo lắng khóc ngày khóc đêm đến lòa đôi mắt. Ðể gánh nặng đè oằn vai còm cõi vợ mỗi đợt thăm nuôi, nhưng chưa biết tôi có thể giữ được cái mạng mỏng nàng chắt chiu nhọc nhằn tiếp sức cho đến ngày “đoàn tụ” hay không? Bởi một lần kiết lỵ sắp ra hố và một lần cùm biệt giam. Còn nàng, khuôn mặt bầu bĩnh tròn đầy ngày trước nay võ vàng sâu trõm, đôi lúm đồng tiền xinh giờ hóa thành đôi dấu ngoặc đơn ngậm ngùi.

Người em duy nhất của mẹ, năm 1954 còn kẹt lại miền Bắc giờ là cán bộ nhà nước, cậu vào trại tù thăm tôi một lần chỉ để đay nghiến…Anh ngu bỏ mẹ, lính thủy ở trên tàu mà không đi luôn còn lộn xuống làm gì?…

Nếu ngày ấy ra đi, bản thân tôi không phải tù tội. Mà giờ đây còn có thể tiếp giúp tiền bạc để mẹ và vợ con được no ấm…

Nhưng ở lại tôi mới thấy nhiều mặt cuộc đời! Mới hiểu rõ hơn nỗi gian truân cơ cực và sự chung thủy của vợ, của người phụ nữ Việt Nam. Ở lại mới nếm mùi “thiên đàng xhcn” để chia sẻ cảm giác thống khổ tận cùng của dân Việt thời cộng sản. Ở lại, tôi là một trong những chứng nhân về sự dã man tàn ác của kẻ thắng trong cuộc nội chiến tương tàn. Ở lại tôi mới hiểu thêm tình nghĩa huynh đệ chi binh trong cơn hoạn nạn, chia sẻ với nhau mẩu đường nắm muối tiếp chút sự sống, giúp nhau lúc bịnh hoạn kiệt quệ, dù người “khỏe” cũng chẳng hơn gì người bịnh. Và ở lại, tôi mới chứng kiến nhiều người sĩ quan ưu tú xưa kia nay để mất sĩ khí, cam tâm làm “ăng ten” cho cai ngục hãm hại anh em, hưởng chút “ưu tiên” thăm nuôi, mơ tưởng lời hứa cuội sớm về “đoàn tụ”!...Tất cả bản chất xấu tốt của con người bộc lộ hết trong hoàn cảnh khốc liệt này.

Sau tám năm đi “học tập” trở về mẹ tôi đã ra người thiên cổ khi tuổi đời chưa quá sáu mươi. Thiếu thốn cơm ăn thuốc uống dẫn đến suy nhược thể xác, mẹ tôi như ngọn đèn cạn dầu lụi bấc, nhưng nguyên cớ sâu xa chính là suy sụp tinh thần bởi trông chờ lo lắng thằng con!

Ngày về tôi lăn lóc chợ trời mưu sinh. Còn đâu một thuở oai vệ phong độ trong bộ Worsted trường Võ Bị Quốc Gia, rồi bộ binh phục trắng tinh lính thủy, “lính” phó hạm. Cuộc đổi thay dâu bể phũ phàng! Giờ đây với bộ kaki sờn rách, tôi đánh vật cùng bao hàng mỗi sớm mỗi chiều trên chiếc xe đạp cà tàng, vất vả với những thứ thượng vàng hạ cám. Nào là đinh ốc, cờ lê, bù loong, con tán, cái muỗng, cái ca, cái “cặp lồng” inox sáng choang hoặc màu xanh tối mang nhãn USA, những thứ xưa kia rất đỗi tầm thường với dân miền Nam, bây giờ quý giá sang trọng với dân miền Bắc vì cái mác USA.

Một buổi trưa Tháng Sáu, bầu trời giăng mắc những đụn mây xám nặng nề, báo hiệu cơn mưa giao mùa. Vắng khách nhưng tôi cố ngồi nán thêm, lấy miếng nhựa che đậy “gian hàng” rồi dựa gốc cây lim dim suy nghĩ. Bất giác buông tiếng thở dài ngao ngán, không biết cuộc đời rồi sẽ ra sao? Ðang nghĩ ngợi vẩn vơ chợt tôi nghe tiếng rào rạo của bánh xe sắt nghiến trên lề đường về phía mình. Một đôi vợ chồng tàn tật bán vé số. Chị vợ cụt hai chân đến gối ngồi trên mảnh ván gắn bốn bánh xe, miếng đế vỏ xe cột vào hai tay như… đôi giày, đẩy xuống đất di chuyển. Anh chồng trong bộ đồ rằn ri TQLC cũ kỹ bạc màu, một bên ống tay áo phất phơ dưới chỏ, thỉnh thoảng dùng chân đẩy nhẹ xe giúp vợ, tiến về gốc cây ngồi nghỉ dưới bóng mát. Tôi chợt ngờ ngợ, khuôn mặt khắc khổ người đàn ông này tôi đã gặp ở đâu? Ở đâu nhỉ???...

Anh ta nhìn tôi, một thoáng lựng khựng, quay đi rồi quay lại len lén liếc, như kẻ gian. Tôi cũng vậy, lén nhìn anh ta cũng như…kẻ gian, cố phủi bụi thời gian trong đầu tìm kiếm một dấu vết liên hệ. Tôi nhớ ra rồi, cánh tay cụt. Anh ta chính là người đàn ông năm nào giao đứa nhỏ cho tôi mang lên tàu…

Có lẽ anh cũng ngờ ngợ tôi nên nở nụ cười méo mó trên cái miệng móm. Mười mấy năm rồi còn gì, ngày xưa còn trẻ mà nhìn anh đã già khắc khổ huống chi bây giờ, sau thời gian dài nếm đủ mùi “thiên đường xã hội chủ nghĩa” thì công tử Bạc Liêu cũng phải xuống sắc nói gì đám tội dân chúng tôi. Anh ngồi xuống, e dè gợi chuyện:

- Anh cho hỏi thăm, có phải hồi trước anh là lính thủy?

Tôi vỗ vai người đàn ông thân mật và hỏi một câu để xác định nghi vấn:

- Phải, còn anh có phải là người nhờ tôi đem đứa bé lên tàu?

Lời nói của tôi như đem lại cho cái thân thể quắt queo tiều tụy kia một luồng sinh khí, mắt anh ngời lên với tất cả tinh anh còn sót, có lẽ nhìn thấy tôi anh như nhìn lại được đứa con bé nhỏ ngày xưa vẫn luôn khắc khoải trong tâm tưởng, anh vồ lấy tôi miệng lắp bắp mà trong khóe mắt ứa ra hai giọt nước:

- Ðúng rồi. Ðúng là tôi nhờ anh giúp đưa thằng cu Tốt lên tàu…Cám ơn Trời Phật cho tôi gặp anh. Bây giờ con tôi nó ra sao rồi? Tôi gởi nó đi mà lòng bứt rứt không yên, lo lắng mãi, biết nó có được sống tốt hơn không hay bị sao rồi!?

Câu hỏi của người đàn ông khốn khổ này tôi chẳng thể trả lời. Chị vợ cũng rướn người nhìn chòng chọc vào mặt tôi, căng thẳng chờ đợi. Tôi ở lại, rồi từ bấy đến nay không hề có tin tức gì từ bạn bè, kể cả thằng Vinh, người tôi trao đứa bé, nên số phận lưu lạc của nó tôi không biết gì hơn anh. Nhìn nét tuyệt vọng trên khuôn mặt hai vợ chồng người tàn tật quá đau lòng. Tôi an ủi họ mà lòng buồn nẫu:

- Còn sống là còn hy vọng anh à. May chúng ta gặp lại nhau, để tôi cố dò tìm tin tức cháu rồi báo cho anh chị…

Tôi hứa liều để trấn an họ chứ tôi biết tìm đứa bé bằng cách nào!?

Cuộc đời nhiều khi ta phải tin ở nhân duyên. Như nhân duyên gặp gỡ giữa tôi và vợ chồng người thương binh ấy.

Anh bị thương cụt tay trong đợt tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị năm 1972 của một đơn vị Thủy Quân Lục Chiến. Thương tích chưa lành còn nằm trong Quân Y Viện Cộng Hòa, thì được tin ở quê nhà huyện Long Ðất - Bà Rịa - vợ anh bị hầm sập đè nát hai ống chân bởi hỏa tiễn 122 ly việt cộng pháo kích, phương tiện cấp cứu chậm trễ ở vùng quê hẻo lánh luôn bị đắp mô đào đường khiến đôi chân chị hoại tử dẫn đến tháo khớp đầu gối. Ngày việt cộng cưỡng chiếm miền Nam, anh biết cuộc đời tàn phế của vợ chồng anh hứa hẹn một tương lai bi đát cho đứa con. Anh không thể cõng vợ bồng con chen trong dòng người ồ ạt chạy loạn nên chọn cách chỉ bồng con đi. Nhưng một giây cuối cùng đứng trên ghe anh quyết định ở lại, bởi không nỡ nhẫn tâm bỏ rơi vợ tàn tật nên đành dứt ruột “quẳng” con lên tàu cho người xa lạ mang đi!

Cuộc gặp gỡ này chẳng mang lại cho vợ chồng anh chút hy vọng nào về tin tức đứa con. Nhưng anh coi tôi như ông thần có thể ban cho anh phép lạ cùng hạnh phúc. Tôi là ánh sáng lập lòe cuối đường hầm, là mấu chốt duy nhất để bám víu hy vọng, cho dù ngày 29/4 năm đó coi như anh chấp nhận vĩnh biệt đứa con. Giờ đây niềm hy vọng chợt bùng lên. Anh làm như tôi là người luôn đem lại may mắn, trong khi số phận tôi bi đát không kém!

Nhưng tôi may mắn thật! Trong lúc cuộc sống càng lúc càng khó khăn bế tắc thì chương trình HO đem lại cho cựu tù binh cũ nguồn hy vọng tràn trề, là phao cứu sinh cho những người sắp chết chìm.

Tôi được đến Mỹ vào năm 1994. Thật vô vàn cảm tạ ơn trời! Trước khi đi, tôi đem lại cho vợ chồng anh thương binh tên Tín đó tất cả những vật dụng còn dùng được trong gia đình, cả mớ đinh ốc nặng nề làm vốn liếng mưu sinh.Nhưng có lẽ anh kéo lê đến chợ trời bán hết thì thôi chứ không thể “kinh doanh” mớ hàng nặng này… Và cả niềm hy vọng quý giá nhất, là tôi sẽ tìm được tông tích thằng con lưu lạc cho anh.

Qua Mỹ. Tôi không bỏ lỡ bất cứ cuộc hội họp đồng hương, hội chợ xuân trong vùng, hoặc bất cứ đại hội nào do binh chủng Hải Quân tổ chức, mong gặp lại Vinh hoặc đồng đội cùng phục vụ trên chiến hạm năm xưa. Tôi tự gánh trách nhiệm này một phần cũng do cảm phục nhân nghĩa anh Tín, nếu năm xưa anh để tôi kéo hai cha con anh lên tàu thì bây giờ cuộc đời anh đã khác.

Sau mười năm kiên trì tôi đã liên lạc được Vinh đang định cư ở Úc. Ngày ấy nhận đứa bé từ tay tôi, thấy cu Tốt sáng sủa khôi ngô lại cảm thương đứa trẻ lạc loài, Vinh cưu mang nuôi nấng rồi khai nó là con với họ Vinh. Vinh đặt lại cho nó cái tên mang ý nghĩa tha hương, Trần Viễn Phương.Vợ Vinh cũng thương yêu đứa trẻ, nó là anh lớn của hai đứa em, sống trong gia đình êm đềm hạnh phúc. Sau hơn 30 năm được nuôi dưỡng ăn học ở xứ sở tự do, nay Phương đã thành tài và có gia đình riêng. Năm Phương 18 tuổi, tuổi trưởng thành, Vinh đã kể cho con nghe về quan hệ gia đình của họ. Phương rất cám ơn cha về điều này.

Từ ngày đi Mỹ tôi vẫn thư từ liên lạc với anh Tín, thỉnh thoảng và ngày lễ Tết tôi thường gởi chút tiền nhỏ giúp đỡ, cũng là để anh có khoản bù vào chi phí tem thư gởi đi nước ngoài đối với anh rất nặng.

Sau hơn 30 năm, đứa trẻ lưu lạc ngày xưa đem vợ con về mái lều xiêu vẹo, nơi có hai vợ chồng tàn tật run rẩy đứng chờ, nước mắt hạnh phúc rơi trên đôi má cóp nhăn già trước tuổi. Tuyệt diệu thay sự trùng phùng như chuyện cổ tích mà tôi có cơ duyên làm nhân chứng. Nhớ ngày 29/4 năm đó, người đàn ông đứng chết lặng nhìn chiếc tàu từ từ rời xa bến sông, thằng bé nhoài người khóc thét, tiếng khóc xé lòng…Giờ đây hình ảnh hai người nghèo khổ tật nguyền sung sướng ôm ấp vuốt ve con cháu lành mạnh tươi đẹp như báu vật, mãi không muốn rời như sợ mất đi lần nữa, khiến ai thấy cũng phải xúc động rơi nước mắt. Coi như thượng đế bù đắp cho số phận khốn khổ của họ chút ấm áp cuối đời.

Tốt không thể lãnh cha mẹ sang Úc nuôi dưỡng vì giấy tờ đã thay đổi tên họ nhiêu khê, vả lại vợ chồng anh Tín cũng chẳng muốn làm gánh nặng cho con, gặp lại được nó sau cuộc chia ly tưởng như vĩnh biệt ngày ấy đã là ân huệ của Trời! Mỗi năm Tốt đều đưa vợ con về thăm và chu cấp tiền để cuộc sống cha mẹ đỡ phần khốn khó. Câu chuyện kết thúc có hậu.

Tháng Tư tới đây, thằng Quốc Hận con tôi tròn 40 tuổi. Cũng là bốn mươi năm lòng người lính cũ khắc khoải ngậm ngùi. Bốn mươi năm chưa thấy ánh sáng cuối đường hầm cho Việt Nam! Coi cuốn phim tài liệu Last Days in Vietnam lòng người tỵ nạn chùng nặng một nỗi buồn khôn tả. Hình ảnh tao tác đau thương ngày ấy giờ hiển hiện toàn cảnh trên từng thước phim. Cuộc di tản thực hiện ồ ạt vào những ngày cuối Tháng Tư nhưng chủ yếu là cho người Mỹ và nhân viên của họ, một số người dân nhạy bén thời cuộc “ăn theo” với vận may ở tòa sứ quán Mỹ, rồi gia đình ly tán vì người lên được trực thăng người kẹt lại, bàng hoàng thảng thốt. Một hòa bình trong đau thương, chia lìa hơn cả chiến tranh!

Cuộc di tản này, riêng Hải Quân Việt Nam với 30 chiến hạm đã mang được hơn ba chục ngàn đồng bào di tản từ Vũng Tàu, Côn Sơn đến Philippines an toàn như phép lạ!

Lòng người dân Việt mãi còn khắc khoải đau buồn mỗi ngày Tháng Tư đen, ngày mất nước.

Vậy mà đã bốn mươi năm chồng chất!


http://hoiquanphidung.com/userupload/hqpd/Chuyen-40-nam-truoc_1446438713.jpg
Thắm Nguyễn



HTTN

http://baotreonline.com/Chuyen-muc-tre/Tuong-niem-30-thang-4/chuyn-bn-mi-nm-trc.html

BachMa
11-05-2015, 05:12 AM
Nét Đẹp Nào Hơn?

http://hoiquanphidung.com/userupload/hqpd/NetDepNaoHon_1446699667.jpg

Sau ngày đăng quang lên ngôi hoa hậu, để tỏ lòng thành kính và cám ơn, cô tân hoa hậu lên Chùa với hoa quả để tạ ơn với niềm vui đang trào dâng.

Cô liền tới gần chú tiểu, kiêu hãnh hỏi:
-Tôi là hoa hậu mới đăng quang, chú có thấy tôi đẹp không?

-Chú tiểu nhẹ nhàng đáp:
Thưa cô có cả hàng ngàn vạn người còn đẹp hơn rất nhiều.

Nghe nói thế cô gái mở tròn đôi mắt đáp:
Hoa hậu là người đẹp nhất trong những người đẹp rồi. Chú nói thử xem những người đẹp hơn tôi như thế nào?

Chú tiểu đáp:
- Giữ gìn trang nghiêm giới hạnh là thân đẹp
- Ăn ở hiền hòa, thủy chung là nết đẹp
-Thấy người ta ngã mà nâng lên, đó là cử chỉ đẹp
- Thấy người ta đói cho ăn, rách cho mặc, nghèo túng thì giúp đỡ, đó là tấm lòng đẹp
- Phụng dưỡng cha mẹ già, chu cấp cho người cô quả, cúng dường chư tăng ni đó là tâm hồn đẹp.
- Thấy người ta lâm nguy, sợ hãi nói lời an ủi, giúp đỡ là ngôn ngữ đẹp
- Tánh nết đoan chính không có gì đáng tuyên dương cả.


http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1368588187.gif

BachMa
11-06-2015, 07:52 PM
Truyện Cười Người Lớn

Hai vợ chồng kia rất yêu thương nhau, sau 10 năm thử thách bà vẫn chưa có bầu. Cuối cùng ông đồng ý nhờ một người đàn ông khỏe đẹp để cấy giống. Mọi chuyện đã sắp đặt, giờ hành sự đến, ông rời nhà, dặn vợ sẽ có người tới làm phận sự, bà cứ tự nhiên tiếp đại ân nhân.

Trong khi ấy, một nhiếp ảnh gia chuyên chụp hình trẻ em dạo trong vùng, tới gõ cửa. Chủ và khách đều thuộc diện mau mồm miệng. Khách chưa kịp mở lời chủ đã vồn vã mời vào, bà nhanh nhẩu :

- Tôi biết ông là ai, đến đây làm gì, tôi đang chờ ông đây xin ông tự nhiên.

- Thật vậy sao, hôm nay tôi có chương trình giảm giá đặc biệt, sản phẩm trẻ em là chuyên nghề của tôi, bảo đảm không vừa ý không tính tiền bà.

- Thế tốt, đó là điều vợ chồng tôi mong muốn. Xin ông cho biết mình sẽ làm việc ở đâu ?

- Bà cứ yên tâm, theo kinh nghiệm của tôi, phải làm hai cái trong bồn tắm, trên bàn ăn, dưới bếp, sau đó có thể bò càng dưới sàn nhà.

- Trong bồn tắm ? Dưới sàn nhà ? Chồng tôi chưa bao giờ làm như thế, hèn gì…

- Thưa bà nghề chúng tôi không bảo đảm làm đâu trúng đó, tôi phải thử 5, 7 kiểu, mỗi vị trí một hai cái, càng nhiều góc cạnh khác nhau càng hy vọng mang lại kết quả tốt.

- Chồng tôi xưa nay chỉ có một chỗ, làm hoài một kiểu hèn chi… Nếu vậy, xin ông làm liền, tôi nóng lòng lắm rồi.

- Thưa bà, nghề này không cho phép chúng tôi vội vã, mặc dầu chỉ cần 5, 10 phút, nhưng thiếu chuẩn bị kết quả sẽ không làm bà thỏa mãn.

- Phải rồi, chồng tôi không có kinh nghiệm, ông ấy vội vội vàng vàng, phụp một cái là xong, đem đi rửa (hình), hèn chi …

- Thưa bà, tôi không dám chê ông nhà, nhưng hành nghề như vậy hèn gì trong nhà bà không có một sản phẩm nào ra hồn.

- Phải rồi, chúng tôi cũng muốn có hình ảnh con cháu cho đỡ buồn.

Anh phó nhòm mở cặp lấy ra mấy tấm hình trẻ em. Chỉ một tấm chụp trong sân trường:

- Thưa bà, cái này, chúng tôi làm việc ở sân trường.

- Ấy chết, ai lại làm ở nhà trường, không sợ cảnh sát sao ?

- Không sao, thưa bà, lúc làm cái này chúng tôi chuẩn sẵn từ ngoài, vào tới là phụp liền, cảnh sát cũng khoái đứng xem chúng tôi làm suốt buổi !

Phó nhòm đưa tấm hình khác chụp em bé sinh đôi:

- Cặp sinh đôi này thật là khó khăn, bà mẹ các cháu không giữ nổi, chúng tôi làm suốt ngày.

- Trời đất, làm gì mà giữ không nổi !

- Dạ phải, bà ấy luôn chân luôn tay, hai đứa không đứng yên một chỗ, đứa này vừa xáp vô là đứa kia đã ra, cứ thế, lăng xăng mãi, mệt quá, hai đứa vừa ngồi chụm lại, tôi phụp một cái, thật bất ngờ mà lại đẹp thế này.

Đưa tấm hình em bé khác chụp ngoài công viên:

- Bé này, thưa bà tôi đã mất 4 tiếng đồng hồ làm ngoài công viên, còn hư cả đồ nghề nữa.

- Ông nói sao ? Làm tới 4 tiếng đồng hồ ? còn hư cả đồ nghề nữa ?

- Dạ phải, thưa bà thằng nhỏ nhúc nhích quá, tôi phải chui vào bụi rậm, chỉ lòi đồ nghề ra, vì nặng, tôi phải để đồ nghề trên cái nạng, thằng nhỏ nhúc nhích sàng qua sàng lại lia chia, rung chuyển cả mặt đất, đồ nghề mất thăng bằng rơi xuống, đụng phải tảng đá làm tôi thót cả ruột gan.

- Thôi được, tôi đã xem sản phẩm của ông, mình bắt đầu được chưa, tôi cũng chịu hết nổi rồi.

- Thưa bà, xin bà năm phút, tôi ra xe lấy cái tripot, cái nạng để dựng đồ nghề.

- Trời ơi, đồ nghề của ông phải chống nạng hay sao ?

- Thưa bà, cái cà nông (camera Cannon) của tôi vừa dài vừa nặng, tay tôi cầm không nổi. Ấy… ấy…bà sao vậy ?

Nghe tới đó, bà chủ nhà kinh hoàng, bủn rủn tay chân té xuống sàn nhà nằm sùi bọt mép. :kk:


&&&

Có ba chàng trai người Mỹ đi du lich ở rừng già Amazon, chẳng may bi lạc giữa đường và bị một bộ lạc ăn thịt người rất là dã man bắt giữ, 3 chàng trai nài nỉ van xin người tù trưởng tha mạng cho mình, nguòi tù trưởng đồng ý nhưng với một điều kiện là 3 người phải vào rừng để lấy về cho ông ta mỗi người một loại trái cây nhưng mà phải có đủ 10 trái, và chỉ trong vòng 1 tiếng đồng hồ thôi, nói xong, 3 chàng trai liền vào rừng và chỉ một lúc sau thì chàng trai thứ nhất trở về với 10 trái cam, người tù trưởng tỏ vẻ hài lòng vói chàng trai này và nói :

- Mày cũng nhanh tay quá, vậy bây giờ mày có muốn sống không?

- Chàng trai 1 : Dạ thưa ông, con xin ông tha cho con ạ .

- Tao tha mạng cho mày cũng được, nhưng mà mày phải nhét hết 10 trái cam của mày vào trong hậu môn, nhét vào được hết 10 trái thì tao tha, còn không thì tao ăn thịt.

Chàng trai vội vàng cởi quần ra và bắt đầu nhét cam, nhưng mà làm sao anh ta có thể nhét vào bằng đó trái cam được chứ, thế là số phận của anh ta bị kết liễu, và hồn của anh ta thì bay lên trời.

Một thời gian sau đó thì chàng trai thứ 2 hăm hở trở về, trên tay anh ta là 10 trái nho, thật là may mắn cho anh ta. Và anh ta cũng bị bắt nhét 10 trái nho, 10 trái nho thì có vẻ dễ dàng với anh ta thật vì anh ta nhét một hồi thôi thì đã được 9 trái rồi, nhưng bỗng nhiên anh ta lại phì cười và 9 trái nho đó bị phọt ra ngoài, thật là đáng tiếc, và thế là hồn lìa khỏi xác, thật là tội nghiệp, hồn của chàng trai thú 2 bay lên trời thì gặp hồn của anh chàng thứ 1, anh chàng thứ 1 vội vàng hỏi :

- Hồn 1 ( ngạc nhiên pha lẫn ngây thơ) : Tôi thấy anh nhét nho sung lắm mà, sao tự nhiên đang nhét lại phì cười ra để cho nho nó tọt hết ra ngoài vây?

- Hồn 2 : Tôi cũng biết vậy, nhưng mà anh có biết không, khi tôi đang cúi xuống để nhét trái nho cuối cùng thì tôi thấy thằng cha kia đang khệ nệ kéo về một lượt 10 trái sầu riêng, tui mắc cười quá, không hiểu nỗi làm sao mà nó có thể nhét vào 10 trái sầu riêng đưọc, nghĩ đến đây thì tui chịu hết nỗi nên bật cười... :icon_smiless:


&&&

Vợ thấy chồng đi làm về, chạy ngay ra đón chồng, hôn 1 cái vào má và thỏ thẻ với ông :

- Anh ơi, em “trễ” 2 tháng rồi, chắc chúng ta có em bé quá.

Chồng vui mừng khôn xiết vì sắp được làm bố.. 2 vợ chồng cùng nhau xem ti vi và đi ngủ.

Sáng hôm sau, chồng lại đi làm, chỉ có mỗi bà vợ ở nhà. Có 1 anh nhân viên Điện lực đến bấm chuông:

-Tôi có thể giúp gì cho anh?

-À không , tôi đến đây chỉ để báo cho bà biết là bà đã trễ 2 tháng rồi nhá!!!”

- Hả? Sao các anh lại biết?

- Bà đừng có cố tỏ vẻ ngạc nhiên như thế, bà trễ dù là 1 bữa chúng tôi cũng biết chứ đừng nói chi đến 2 tháng như vậy!!!

Quá hoảng sợ, bà vợ nói “thôi đợi chồng tôi nói chuyện với các anh!!! ” rồi đóng sập cửa lại.

Ngay sáng hôm sau ông chồng đến ngay công ty điện lực và gặp anh nhân viên thu tiền hôm trước, vỗ bàn hét : ”Này anh kia, anh muốn gì ở vợ chồng chúng tôi?”

- Cũng đơn giản thôi, ông bà vui lòng đưa chúng tôi tiền là mọi việc sẽ ổn thỏa

Ông chồng nghĩ đang bị tống tiền, nên càng thêm bực tức:

- Nếu tao không đưa tiền cho mày thì sao?

- Bắt buộc chúng tôi phải cắt của ông thôi – anh nhân viên thu tiền trả lời.

Ông chồng há hốc miệng: “Cắt rồi vợ tôi xài cái giiiiiiiiiiiiiiii ??????? ”

- Kêu bà ta xài đỡ cây đèn cầy vậy !!!!! :ukliam2:


http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1371892382.gifhttp://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1371892382.gif

BachMa
11-12-2015, 10:10 PM
Việt Nữ Kiếm
Kim Dung
Dịch Giả: Nguyễn Duy Chính

http://hoiquanphidung.com/userupload/hqpd/truyen-kiem_zps1b3edf63_1447366108.jpg

- Xin mời!

- Xin mời!

Hai kiếm sĩ quay ngược lưỡi kiếm, tay phải cầm cán kiếm, tay trái úp lên tay phải, cúi mình hành lễ.

Hai người đứng chưa yên vị, đột nhiên một làn ánh sáng trắng nhấp nháy, tiếp theo một tiếng “coong”, lưỡi kiếm chạm nhau, hai bên cùng lùi lại một bước. Những người chung quanh ai nấy đều “ồ” lên một tiếng.

Kiếm sĩ áo xanh liên tiếp tung ra ba chiêu, kiếm sĩ áo gấm đều gạt ra được. Người áo xanh rú lên một tiếng dài, trường kiếm từ góc bên trái chém xuống, thế mạnh và nhanh. Kiếm sĩ áo gấm thân thủ nhanh nhẹn, nhảy vọt về phía sau, tránh được nhát kiếm. Chân trái y vừa chấm đất, thân hình đã vọt lên, liên tiếp đâm luôn hai kiếm, công kích đối thủ. Kiếm sĩ áo xanh không chuyển động, nhếch mép cười gằn, vung kiếm gạt ra.

Kiếm sĩ áo gấm đột nhiên tung mình chạy quanh đối thủ, mỗi lúc một nhanh. Người áo xanh chăm chú theo dõi mũi kiếm địch, mỗi khi địch động thủ lập tức vung kiếm gạt ra. Người áo gấm bất thần lúc chuyển qua trái, lúc chuyển qua phải, thân pháp biến huyễn bất định. Kiếm sĩ áo xanh chăm chú theo một lúc đã thấy mắt hoa, quát lên:

- Ngươi muốn tỉ kiếm hay muốn bỏ chạy?

Y lách cách đâm ra hai kiếm thẳng vào địch thủ. Thế nhưng người áo gấm chạy rất nhanh, khi kiếm tới nơi thì y đã ra nơi khác, chung qui mũi kiếm vẫn cách y khoảng một thước.

Kiếm sĩ áo xanh thu kiếm về che bên hông, chân phải hơi rùn xuống. Người áo gấm thấy ngay chỗ hở, vung kiếm đâm vào vai trái kẻ địch. Nào ngờ đó chỉ là dụ chiêu của người áo xanh, nên chỉ thấy kiếm vung lên một vòng, mũi kiếm nhanh nhẹn tuyệt luân đã đâm thẳng vào yết hầu. Kiếm sĩ áo gấm sợ hãi khôn tả, trường kiếm vuột khỏi tay phóng thẳng vào tâm oa địch thủ. Đó chẳng qua là kế sách chẳng đặng đừng hai bên cùng chết, nếu như địch vẫn tiến tới, ngực ắt trúng kiếm. Trong tình thế đó, đối phương ắt chỉ còn cách thu kiếm về đỡ, và y mới có đường thoát được cảnh ngộ khó khăn.

Nào ngờ kiếm sĩ áo xanh không không né tránh, cổ tay chỉ hơi động, xoẹt một tiếng mũi kiếm đã đâm thẳng vào cổ họng địch thủ. Lại nghe keng một tiếng, trường kiếm người kia ném ra đâm vào ngực y đã rơi xuống đất.

Kiếm sĩ áo xanh cười hắc hắc mấy tiếng, thu kiếm về. Nguyên lai ngực y có mang một tấm hộ tâm kính nên mũi kiếm tuy có trúng nhưng không hề bị thương. Yết hầu người áo gấm máu vọt ra có vòi, thân thể dãy dụa không ngừng. Trong đám đồng bọn lập tức có kẻ chạy ra khiêng thi thể đi và lau chùi vết máu.

Kiếm sĩ áo xanh cho kiếm vào bao, tiến lên hai bước, cúi mình hành lễ với một vị vương gia ngồi trên một chiếc ghế bọc gấm ở hướng bắc. Vị vương gia đó mặc áo bào màu tía, hình dạng quái dị, cổ rất dài, mỏ nhọn như chim, mỉm cười, tiếng như ngựa hí:

- Tráng sĩ kiếm pháp tinh diệu, ban cho mười cân vàng.

Người áo xanh quì chân phải xuống, cúi mình tạ lễ:

- Tạ thưởng!

Vị vương gia đó vung tay một cái, từ bên phải y một vị quan cao gầy, trạc ngoài bốn mươi, hô lớn:

- Kiếm sĩ hai nước Ngô Việt, tỉ thí lần thứ hai!

Từ phía đông trong phe người áo gấm, một hán tử thân hình to cao, tay cầm một thanh đại kiếm bước ra. Thanh kiếm dài đến hơn năm thước, thân kiếm rất dày, hiển nhiên nặng nề khác thường. Phía tây cũng bước ra một kiếm sĩ áo xanh, người tầm thước, trên mặt đầy những vết sẹo ngang dọc tính ra phải đến mười hai mười ba nhát chém, chỉ mới nhìn cũng biết hẳn là tay đã từng trải qua không biết bao nhiêu trận đấu. Hai người hướng về vị vương gia quì xuống hành lễ, rồi chuyển mình đứng đối diện nhau, cúi mình chào.

Người áo xanh đứng thẳng người, nhếch mép cười một cách ác độc. Mặt y vốn dĩ đã mười phần xấu xí, nay điểm thêm nụ cười, trông lại càng khó coi. Kiếm sĩ áo gấm thấy hình dáng y như ma quỉ, không khỏi lạnh người, thở hắt ra một tiếng, từ từ đưa tay trái ra nắm lấy chuôi kiếm.

Kiếm sĩ áo xanh đột nhiên rú lên một tiếng dài, nghe như tiếng cho sói tru, vung kiếm nhắm địch thủ đâm tới. Người áo gấm cũng hú lên một tiếng, vung thanh đại kiếm nhắm kiếm của địch gạt ra. Kiếm sĩ áo xanh nghiêng người né tránh, trường kiếm đảo từ trái sang phải một vòng. Người áo gấm hai tay cầm kiếm múa lên khiến có tiếng kêu vù vù. Thanh đại kiếm đó ít ra cũng phải nặng đến năm mươi cân, nhưng chiêu số của y hết sức nhanh nhẹn.

Hai người ra sức chiến đấu thoắt đã trên ba mươi chiêu, kiếm sĩ áo xanh bị thanh đại kiếm trầm trọng áp đảo phải liên tục lùi bước. Hơn năm mươi người áo gấm đứng ở phía tây lộ vẻ mừng ra mặt, xem ra trận đấu này bên họ ắt sẽ thắng.

Chỉ nghe thấy kiếm sĩ áo gấm quát lên một tiếng như sấm sét, vung thanh đại kiếm chém ngang. Kiếm sĩ áo xanh không cách nào tránh né, đánh vung trường kiếm hết sức gạt ra. Chỉ nghe keng một tiếng, hai thanh kiếm đụng vào nhau, nửa thanh đại kiếm gãy văng ra ngoài. Nguyên lai thanh kiếm của gã áo xanh sắc bén vô tỉ, đã chặt đứt kiếm đối phương thành hai đoạn. Thanh kiếm tiếp tục đi thêm một vòng chém xuống vạch một đường dài đến hai thước cắt từ yết hầu cho tới tận bụng dưới người áo gấm. Kiếm sĩ áo gấm rống lên từng hồi, lăn quay ra đất. Người áo xanh cúi nhìn thân hình to lớn của nạn nhân một hồi rồi tra kiếm vào vỏ, quì xuống hướng về vị vương gia hành lễ, trên mặt không dấu được vẻ đắc ý.

Viên quan kế bên vị vương gia nói:

- Tráng sĩ kiếm đã sắc bén mà nghệ thuật lại tinh tường, đại vương ban cho mười cân vàng.

Kiếm sĩ áo xanh tạ ơn lui về.

Bên cánh phía tây đứng một hàng tám người kiếm sĩ áo xanh, đối phó với hơn năm chục người kiếm sĩ áo gấm, hai bên nhân số chênh lệch thấy rõ.

Viên quan đó lại chậm rãi nói:

Kiếm sĩ hai nước Ngô Việt, tỉ đấu lần thứ ba!

Trong hai đội kiếm sĩ, mỗi bên lại có một người bước ra, hướng vào vị vương gia cúi đầu hành lễ xong đứng đối diện nhau. Đột nhiên một ánh sáng xanh chói mắt, ai nấy đều cảm thấy một hơi lạnh phả vào người. Trong tay kiếm sĩ áo xanh đã thấy một thanh kiếm dài chừng ba thước, rung động không ngừng, trông chẳng khác gì một giải lụa xanh lấp lánh. Viên quan khen ngợi:

- Kiếm tốt lắm!

Kiêm sĩ áo xanh hơi khom mình tạ ơn khen ngợi. Viên quan lại nói tiếp:

- Một người đánh một đã xem qua hai trận, lần này đánh đôi!

Trong đội áo gấm một người nữa bước ra, rút kiếm ra khỏi vỏ. Thanh kiếm đó sáng loáng như nước mùa thu, mới trông cũng biết là sắc bén. Trong đội áo xanh cũng bước ra thêm một người. Bốn người sau khi hướng về phía vị vương gia hành lễ, quay lại chào nhau. Chỉ thấy kiếm quang lấp lánh, trận đấu đã bắt đầu.

Trận đấu đôi này, kiếm sĩ cùng bên có thể phối hợp, giúp đỡ lẫn nhau. Chỉ mới vài hiệp, nghe keng một tiếng, một thanh kiếm của phe áo gấm đã bị địch thủ chém gãy. Thế nhưng người đó vẫn rất hùng hổ, vung nửa thanh kiếm còn lại nhảy xổ vào địch thủ. Trường kiếm của gã kiếm sĩ áo xanh lại lấp lánh, chỉ nghe xoẹt một tiếng, cánh tay bên phải của y bị chém đứt đến tận vai, tiếp theo thêm một kiếm đâm ngập vào giữa tâm oa.

Hai người bên kia vẫn đấu liên tục không ngừng, không để ý đến kiếm sĩ áo xanh đắc thắng đứng rình bên cạnh. Bỗng dưng trường kiếm của y vung ra, xoẹt một tiếng chém đứt làm đôi thanh kiếm trong tay người áo gấm. Thanh kiếm đó lại đâm thẳng tới ngập thẳng vào ngực, xuyên qua tới tận sau lưng.

Vị vương gia cười ha hả, vỗ tay:

- Kiếm đã sắc mà kiếm pháp cũng rất hay! Mau thưởng rượu, thưởng vàng! Để bốn người đấu bốn người xem thế nào!

Hai bên mỗi đội lại bước ra bốn người, hành lễ xong rút kiếm đấu. Bên phe áo gấm thua liền ba trận, chết mất bốn người nên kỳ này bốn người ra đấu hết sức liều mạng, nhất quyết phải thắng một lần. Chỉ thấy hai người áo xanh phân hai bên tả hữu giáp công một người áo gấm, còn lại ba người áo gấm xông vào tấn công khiến hai người áo xanh phải liên tiếp đỡ gạt. Hai người áo xanh chỉ toàn thế thủ, chiêu số nghiêm mật nhưng không đánh trả chiêu nào khiến cho ba người áo gấm không cách gì giúp đỡ lẫn nhau. Còn lại hai người áo xanh đánh một, chỉ trong mươi chiêu đã giết được đối thủ, rồi lại tiếp tục tấn công một người áo gấm khác. Hai người áo xanh kia vẫn theo kiểu cũ, chỉ thủ mà không công, cầm chân hai người áo gấm, để cho đồng bọn hai người đánh một giết chết kẻ địch.

Những người áo gấm đứng xem thấy bên mình chỉ còn có hai người, ai thắng ai thua đã thấy rõ, nên thảy đều cất tiếng la ó, rút kiếm định xông vào chém chết cả tám người áo xanh.

Viên quan vội lớn tiếng:

- Những người học kiếm phải biết tuân theo kiếm đạo!

Thần khí và âm thanh của y có một uy lực khiến cho phe áo gấm lập tức phải lắng ngay xuống. Bấy giờ mọi người ai nấy đền thấy rõ, bốn người kiếm sĩ áo xanh, kiếm pháp không đồng, hai người thủ thế hết sức nghiêm nhặt, còn hai người công thế lại hết sức độc địa, chia hai bên tấn công vào. Kẻ thủ chỉ cốt cầm chân đối phương, giữ được một người đều cho người giữ thế công lấy nhiều thắng ít, theo lối tằm ăn dâu. Cứ theo cách thức ấy thì dù đối phương võ công có cao bao nhiêu, phe áo xanh cũng khó mà thắng được. Không nói gì bốn người đánh bốn người, mà lấy bốn đánh sáu, đánh tám họ cũng có thể thắng. Hai người giữ thế thủ thi triển kiếm chiêu trông như một mạng lưới, dù phải đối phó với năm, sáu người cũng vẫn không sao.

Lúc đó trên đấu trường, hai người kiếm sĩ áo xanh đang dùng thế thủ để cầm chân một người áo gấm, còn bên kia hai người áo xanh khác nhanh nhẹn công kích giết thêm một người áo gấm thứ ba, lập tức quay lại giáp công người còn lại. Hai người vốn thủ thế lập tức lui ra đứng một bên quan sát. Người áo gấm còn lại tuy thấy chắc chắn sẽ thua, nhưng không buông kiếm đầu hàng mà lại hết sức chiến đấu. Đột nhiên bốn người kiếm sĩ áo xanh cùng hét lên một tiếng, bốn thanh kiếm cùng đâm ra, phân ra trên dưới, trái phải, cùng trúng vào kiếm sĩ áo gấm.

Người áo gấm bị đâm bốn nhát lập tức chết ngay, nhưng mắt vẫn mở trừng trừng, mồm há hốc. Bốn người áo xanh cùng rút kiếm ra, giơ chân trái lên chùi kiếm vào giày cho sạch vết máu, nghe cách một tiếng đã tra kiếm vào vỏ. Những động tác đó xem ra rất nhanh nhẹn, nhưng phải nói cái khó là làm sao họ làm thật đều, cùng giơ chân trái lên, cùng chùi vết máu, cùng tra vào bao, tất cả đều chỉ nghe một tiếng mà thôi.

Vị vương gia cười ha hả, vỗ tay:

- Hảo kiếm pháp, hảo kiếm pháp! Kiếm sĩ của thượng quốc nổi danh thiên hạ, hôm nay quả thực cho chúng ta được mở mắt. Ban cho bốn vị kiếm sĩ, mỗi người mười cân vàng.

Bốn người kiếm sĩ áo xanh đồng loạt cúi mình tạ ơn. Cả bốn khom lưng, bốn cái đầu thành một đường thẳng, không người nào cao, người nào thấp, không biết họ phải mất bao nhiêu công phu mới luyện được đều như thế.

Một người áo xanh tiến lên, bưng một chiếc hộp dài thếp vàng, nói:

- Vua bên tệ quốc đa tạ hậu lễ của đại vương, sai thần dâng lên một thanh bảo kiếm để đáp lại. Kiếm này tệ quốc mới đúc, mong đại vương thưởng ngoạn.

Vị vương gia nọ cười đáp:

- Xin đa tạ. Phạm đại phu, nhận lấy đưa ta xem nào!

Vị vương gia đó là Việt vương Câu Tiễn. Viên quan đó là Việt quốc đại phu Phạm Lãi. Những kiếm sĩ áo gấm là vệ sĩ trong cung của Việt vương, còn tám người kiếm sĩ áo xanh là sứ giả của Ngô vương Phù Sai đưa lễ vật sang. Trước đây Việt vương bị Phù Sai đánh bại, nằm gai nếm mật, rắp tâm báo cừu, tuy ngoài mặt đối với Ngô vương mười phần cung thuận, nhưng ngày đêm không ngừng huấn luyện sĩ tốt, chờ cơ hội đánh nước Ngô. Để thám thính quân lực Ngô quốc, y liên tiếp sai cao thủ trong đám vệ sĩ ra đấu kiếm với kiếm sĩ nước Ngô, không ngờ mới có mấy trận đã chết mất tám tay hảo thủ. Câu Tiễn vừa sợ, vừa tức, tuy mặt không động thanh sắc, vẫn phải lộ vẻ tán thưởng tài ba kiếm khách nước Ngô.

Phạm Lãi tiến lên mấy bước, đón lấy cái hộp vàng, chỉ thấy nhẹ bổng, giống như hộp không, lập tức mở ra xem. Những người chung quanh không ai thấy được trong hộp có gì, chỉ thấy mặt Phạm Lãi thoáng một ánh màu xanh mờ mờ phủ, đều kêu “a” lên một tiếng, lộ vẻ kinh dị. Hiển nhiên là kiếm khí chiếu lên mặt khiến cho râu tóc, chân mày đều mang sắc biếc.

Phạm Lãi bưng hộp đến trước Việt vương, cúi mình tâu:

- Xin mời đại vương xem!

Câu Tiễn thấy hộp trong lót gấm, đặt một thanh kiếm dài chừng ba thước, thân kiếm thật mỏng, mũi kiếm lóng lánh, biến huyễn vô chừng, buột miệng khen:

- Kiếm tốt thực!

Việt vương cầm lên xem, chỉ thấy mũi kiếm liên tiếp rung động, tưởng chừng như chỉ lắc nhẹ một cái, kiếm sẽ gẫy ngay, bụng nghĩ thầm:

- Kiếm này mỏng manh như thế, chắc chỉ cầm chơi, không dùng được vào việc gì!

Người đứng đầu toán kiếm sĩ áo xanh rút trong bọc ra một mảnh lụa mỏng, tung thẳng lên trời rồi nói:

- Xin đại vương giơ ngang kiếm ra, lưỡi kiếm hướng lên. Đợi cho lụa rơi trên kiếm, sẽ thấy kiếm này không phải như kiếm thường!

Chỉ thấy mảnh lụa mỏng từ lưng chừng không vật vờ bay, Việt vương giơ tay ra, lụa rơi ngay trên thanh kiếm. Nào ngờ miếng lụa không ngưng lại mà tiếp tục rơi, nhẹ nhàng đậu trên mặt đất. Hóa ra vuông lụa đã bị cắt thành hai, kiếm sắc như thế không ai có thể ngờ được. Điện trên điện dưới tiếng hoan hô vang động.

Kiếm sĩ áo xanh nói tiếp:

- Kiếm này tuy mỏng mảnh thật, nhưng đụng với kiếm nặng nề khác không bị gãy đâu!

Câu Tiễn nói:

- Phạm đại phu, đem ra thử xem nào!

Phạm Lãi đáp:

- Vâng!

Hai tay nâng hộp kiếm lên để cho Câu Tiễn đặt vào, lùi lại mấy bước, quay lại đi đến trước mặt một kiếm sĩ áo gấm, cầm kiếm ra, nó:

- Rút kiếm ra thử coi!

Kiếm sĩ cúi mình hành lễ, rút kiếm đeo trên mình ra, giơ lên trên cao không dám hạ thủ. Phạm Lãi hét to:

- Chém xuống!

Kiếm sĩ áo gấm thưa:

- Vâng!

Gã vung thanh kiếm ra trước mặt. Phạm Lãi giơ kiếm ra gạt, chỉ nghe keng một tiếng nhỏ, trường kiếm của kiếm sĩ áo gấm đã đứt làm đôi. Nửa thanh kiếm rơi xuống tưởng như văng vào Phạm Lãi. Phạm Lãi nhẹ nhàng nhảy qua tránh được. Mọi người ai nấy đều ồ lên một tiếng, không hiểu tán thưởng thanh kiếm sắc bén hay khen ngợi thân thủ nhanh nhẹn của Phạm đại phu.

Phạm Lãi đặt lại kiếm vào hộp, cúi mình đặt xuống bên chân Việt vương. Câu Tiễn nói:

- Xin mời kiếm sĩ thượng quốc ra ngoài ăn yến lãnh thưởng!

Tám người kiếm sĩ áo xanh hành lễ xuống điện. Câu Tiễn vung tay một cái, các kiếm sĩ áo gấm cùng tất cả thị vệ lập tức lui ra, chỉ còn lại một mình Phạm Lãi.

Câu Tiễn nhìn thanh kiếm dưới chân, lại nhìn máu tươi còn loang đầy mặt đất, xuất thần hồi lâu mới hỏi:

- Nghĩ sao?

Phạm Lãi nói:

- Kiếm thuật võ sĩ nước Ngô không phải ai cũng tinh thông như tám gã này. Binh khí võ sĩ nước Ngô, không chắc ai ai cũng đã sắc bén như vậy. Tuy nhiên cứ xem đây cũng đủ. Cái đáng lo nhất là thuật chiến đấu đông người của bọn họ, biết áp dụng Tôn tử binh pháp một cách khéo léo, thần xem hiện nay quả là vô địch thiên hạ.

Câu Tiễn trầm ngâm rồi nói:

- Phù Sai sai tám người này sang dâng bảo kiếm, đại phu thử nghĩ y có ý định gì?

Phạm Lãi tâu:

- Y muốn cho mình thấy khó khăn mà nản lòng, không để tâm xâm phạm nước Ngô báo cừu.

Câu Tiễn giận dữ, cúi mình lấy thanh bảo kiếm trong hộp ra, vung tay một cái, chỉ nghe một tiếng soạt đã chém đứt một bên ghế ngồi, lớn tiếng nói:

- Dù có muôn vàn khó khăn thì Câu Tiễn này cũng không vì sợ khó mà lùi bước. Rồi sẽ có ngày ta bắt được Phù Sai, dùng ngay thanh kiếm này chém đầu nó!

Nói xong lại vung kiếm lên chặt làm đôi một cái ghế bằng gỗ đàn khác.

Phạm Lãi khom lưng nói:

- Xin chúc mừng đại vương, chúc mừng đại vương!

Câu Tiễn ngạc nhiên:

- Trước mắt thấy đám võ sĩ nước Ngô tài nghệ như thế, có gì mà mừng mà vui?

Phạm Lãi nói:

- Đại vương nói là dù có muôn vàn khó khăn cũng không lùi bước. Nếu như đại vương quả có quyết tâm như thế, đại sự sẽ thành. Việc khó khăn trước mắt ngày hôm nay, nên mời thêm Văn đại phu đến cùng nhau thương nghị.

Câu Tiễn nói:

- Hay lắm, ngươi ra truyền lệnh mời ngay Văn đại phu đi.

Phạm Lãi đi ra khỏi điện, truyền lệnh cho thái giám đi mời đại phu Văn Chủng, tự mình đứng ngay bên cửa để chờ. Chẳng mấy chốc, Văn Chủng đã phi ngựa đến cùng sánh vai với Phạm Lãi vào cung.

Phạm Lãi vốn người đất Uyển nước Sở, tâm tính phóng khoáng không nệ tiểu tiết, làm gì cũng không ai đoán nổi ý tứ, người xứ đó ai cũng gọi y là "gã Phạm khùng". Khi Văn Chủng làm huyện lệnh đất Uyển, nghe tên Phạm Lãi, nên sai bộ thuộc đến thăm. Gã bộ thuộc gặp Phạm Lãi rồi về trình:

- Tên này là tên khùng nổi tiếng ở vùng này, ăn nói lung tung chẳng đâu vào đâu.

Văn Chủng cười:

- Người nào hành sử không giống người khác, ắt bị người đời chê cười là phá rối, có ý kiến cao minh hơn người thì bị chê là hồ đồ. Các ngươi làm thế nào mà hiểu nổi Phạm tiên sinh được.

Rồi tự mình đến thăm Phạm Lãi. Phạm Lãi tránh mặt không gặp nhưng liệu rằng Văn Chủng sẽ quay lại lần nữa nên mượn áo khăn của anh, ăn mặc chỉnh tề ngồi đợi. Quả nhiên chẳng bao lâu Văn Chủng lại đến. Hai người gặp nhau, đàm luận hồi lâu về đạo vương bá, tâm đầu ý hợp, cứ tiếc là gặp nhau quá trễ.

Hai người biết rằng đất trung nguyên tình hình ngày càng thêm căng thẳng, nước Sở tuy lớn nhưng loạn, trước mắt thấy làm nên nghiệp bá ắt tại đông nam. Thành thử Văn Chủng từ quan, cùng Phạm Lãi đến nước Ngô. Lúc ấy Ngô vương đang trọng dụng Ngũ Tử Tư, nói gì nghe nấy, thế nước đang thời hưng vượng.

Phạm Lãi và Văn Chủng lưu lại kinh thành Cô Tô mấy tháng, thấy các chính sách của Ngũ Tử Tư đưa ra trị quốc hết sức trác tuyệt, xét ra mình không dễ gì hơn được y. Hai người thương nghị với nhau, nhận rằng nước Việt ở ngay cạnh nước Ngô, phong tục tương tự, đất đai tuy nhỏ hơn, nhưng cũng có thể đủ chỗ thi thố tài năng, nên rủ nhau đến đó. Câu Tiễn gặp hai người, sau khi đàm luận tỏ ra kính phục, nên đều phong họ làm đại phu.

Nhưng Câu Tiễn không nghe lời Văn Chủng, Phạm Lãi khuyên nhủ đem quân đánh Ngô, dùng Thạch Mãi làm tướng, bị đại bại trên bờ sông Tiền Đường. Câu Tiễn bị vây ở Cối Kê toan tự vận. Trong khi nguy cấp, Văn Chủng, Phạm Lãi hiến kế đem tiền mua được Thái Tể nước Ngô là Bá Hi để thay Việt vương trần tình. Ngô vương Phù Sai không nghe lời Ngũ Tử Tư, thuận cho Việt vương cầu hòa, chỉ bắt Câu Tiễn về nước Ngô nhưng sau cũng thả. Từ đó Việt vương nằm gai nếm mật, quyết chí phục hận, thi hành chín chính sách do Văn Chủng thảo ra để diệt Ngô.

Chín chính sách đó thứ nhất là tôn trời đất, kính quỉ thần để Câu Tiễn nung nấu cái tâm tất thắng. Thứ hai là đem tiền bạc, của cải đem cống tặng vua Ngô để cho vua Ngô quen thói xa xỉ mà quên việc đề phòng nước Việt. Thứ ba là qua nước Ngô vay lương, sau lấy thóc đã nấu chín đem trả. Ngô vương thấy thóc tốt nên phát cho dân làm giống, gieo không nảy mầm khiếm dân Ngô bị đói. Thứ tư là đem hai mỹ nữ, Tây Thi và Trịnh Đán dâng lên Phù Sai, để cho vua nước Ngô mê luyến nữ sắc, không lo gì đến chính sự. Thứ năm là cống những thợ khéo để khiến cho Ngô vương hao tài tốn của trong việc xây cất cung thất, điện đài. Thứ sáu là đút lót cho bọn gian thần, tay chân Ngô vương để họ làm bại hoại triều chính. Thứ bảy là tìm cách ly gián Phù Sai với các trung thần, để đến nỗi sau này Ngô vương ép Ngũ Tử Tư tự sát. Thứ tám là tích súc lương thảo, làm cho dân giàu nước mạnh. Thứ chín là rèn đúc võ khí, huấn luyện sĩ tốt, chờ cơ hội đánh nước Ngô.

Tám thuật trên đều thành công, riêng có việc thứ chín nay gặp khó khăn. Trước mắt thấy Ngô vương sai tám kiếm sĩ sang, binh khí đã sắc bén, kiếm thuật lại tinh tường, kiếm sĩ nước Việt khó mà thủ thắng.

Phạm Lãi đem cuộc tỉ kiếm vừa qua kể lại cho Văn Chủng. Văn Chủng nhíu mày nghĩ ngợi:

- Này Phạm hiền đệ, kiếm sĩ nước Ngô, kiếm sắc thuật tinh, đã khó đối phó nhưng nếu họ lại còn biết đem binh pháp Tôn Tử áp dụng vào quần đấu, cái đó mới thực là khó khăn.

Phạm Lãi đáp:

- Chính thế, thời trước Tôn Võ Tử phò tá Ngô Vương, cầm quân phá Sở, đánh vào Dĩnh Đô, dùng binh như thần, thiên hạ không ai bì kịp. Nước Tề, nước Tấn tuy lớn mà cũng không nước nào dám chống lại Ngô. Binh pháp Tôn Tử có viết: Ngã chuyên vi nhất, địch phân vi thập, thị dĩ thập công kỳ nhất dã, tắc ngã chúng nhi địch quả. Năng dĩ chúng địch quả giả, tắc ngô chi sở dữ chiến giả, ước hĩ (Nếu như ta tập trung làm một mà địch chia ra thành mười, ta lấy mười chống một, tức là ta đông mà địch ít. Ta dùng nhiều chống ít, người nào đánh với ta ắt phải ở thế nguy) 1. Bốn người bên Ngô đánh với bốn người bên mình, họ lấy hai chống một, tức là lấy đông đánh ít, làm gì mà không thắng.

Hai người còn đang bàn luận thì đã đến trước mặt Việt Vương. Chỉ thấy Câu Tiễn tay vẫn còn cầm thanh kiếm mỏng như lá lúa, bần thần như người mất hồn.

Một hồi lâu, Câu Tiễn mới ngửng lên hỏi:

- Này Văn đại phu, trước đây nước Ngô có vợ chồng Can Tương, Mạc Tà, giỏi nghề đúc kiếm. Nước Việt ta cũng có Âu Trị Tử là thợ giỏi, tài cũng chẳng kém gì. Thế nhưng ngày nay, cả ba người Can Tương, Mạc Tà, Âu Trị Tử chẳng ai còn sống. Nước Ngô có cao thủ đúc kiếm tài giỏi như thế, chẳng lẽ nước Việt ta từ khi Âu Trị Tử chết đi, không còn ai nữa à?

Văn Chủng đáp:

- Thần nghe Âu Trị Tử có hai người đồ đệ, một người là Phong Hồ Tử, một người là Tiết Chúc. Phong Hồ Tử nay ở nước Sở, Tiết Chúc vẫn còn ở nước Việt ta.

Câu Tiễn mừng quá, nói:

- Đại phu mau mau mời Tiết Chúc đến đây, lại phái người sang nước Sở mang tiền bạc đón Phong Hồ Tử trở về nước Việt.

Văn Chủng tuân lệnh lui về.

Sáng sớm hôm sau, Văn Chủng vào triều báo tin đã sai người sang Sở, Tiết Chúc cũng đã được lệnh vào chầu. Câu Tiễn vừa gặp Tiết Chúc, liền hỏi:

- Sư phụ người là Âu Trị Tử từng phụng mệnh tiên vương đúc ra năm thanh kiếm. Năm thanh kiếm đó, tốt xấu thế nào nói ta nghe thử xem nào?

Tiết Chúc khấu đầu:

- Tiểu nhân từng nghe tiên sư nói là trước đây phụng mệnh tiên vương đúc năm thanh kiếm, gồm có ba thanh kiếm lớn, hai thanh kiếm nhỏ. Thanh thứ nhất tên là Trạm Lư, thanh thứ hai là Thuần Quân, thanh thứ ba là Thắng Tà, thanh thứ tư là Ngư Trường, thanh thứ năm là Cự Khuyết. Hiện nay Trạm Lư đang ở nước Sở, Thắng Tà, Ngư Trường ở nước Ngô, Thuần Quân, Cự Khuyết đang ở trong cung của đại vương.

Câu Tiễn gật đầu:

- Chính thế!

Nguyên lai trước đây khi nghe tin Việt vương Doãn Thường đúc được năm thanh kiếm, Ngô vương hay tin sai người sang đòi. Doãn Thường thấy nước Ngô mạnh, đành phải đem ba thanh Trạm Lư, Thắng Tà, Ngư Trường đem cống. Về sau Ngô Vương Hạp Lư đem thanh Ngư Trường đưa cho Chuyên Chư hành thích Vương Liêu. Thanh kiếm Trạm Lư bị rơi xuống nước, sau Sở vương tìm được. Vua nước Tần nghe tin đòi không được nên đem quân đánh Sở nhưng Sở vương nhất định không giao.

Tiết Chúc bẩm:

- Tiên sư từng nói là trong năm thanh kiếm thì thanh Thắng Tà là hạng nhất, Thuần Quân, Trạm Lư là thứ hai, rồi đến Ngư Trường. Cự Khuyết đứng hạng chót. Khi đúc thanh Cự Khuyết, vàng và đồng không hợp được với nhau nên Cự Khuyết chỉ sắc bén chứ không phải là bảo kiếm.

Câu Tiễn nói:

- Thế ra hai thanh Thuần Quân, Cự Khuyết của ta không địch được với Thắng Tà, Ngư Trường của vua Ngô ư?

Tiết Chúc sợ hãi:

- Tiểu nhân nói thẳng, đáng chết, xin đại vương thứ tội.

Câu Tiễn trầm ngâm không nói, nhưng cứ như lời Tiết Chúc thì hai thanh kiếm nước Việt không thể so được với hai thanh kiếm nước Ngô.

Phạm Lãi chen vào:

- Tiên sinh học được nghệ thuật của tôn sư, vậy thử xây lò đúc kiếm, đúc vài thanh bảo kiếm, lẽ gì không sánh được với kiếm nước Ngô.

Tiết Chúc nói:

- Xin thưa với đại phu, tiểu nhân không đúc kiếm được.

Phạm Lãi hỏi:

- Chẳng hay vì cớ gì?

Tiết Chúc đưa hai bàn tay ra, chỉ thấy cả hai bên ngón tay cái và ngón tay trỏ đều cụt lủn, hai bàn tay chỉ có sáu ngón tay. Tiết Chúc điềm nhiên nói:

- Muốn có kình lực đúc kiếm phải có sức của hai ngón cái, ngón trỏ. Tiểu nhân là kẻ tàn phế không thể làm được.

Câu Tiễn ngạc nhiên hỏi:

- Bốn ngón tay ngươi phải chăng bị kẻ thù chặt đứt?

Tiết Chúc đáp:

- Không phải kẻ thù, mà chính là sư huynh của tiểu nhân chặt đấy.

Câu Tiễn lại càng lạ lùng:

- Sư huynh của ngươi là Phong Hồ Tử phải không? Tại sao y lại chặt đứt tay ngươi? A, chắc là thuật đúc kiếm của ngươi trội hơn y, nên y mang lòng đố kỵ, chặt ngón tay ngươi để ngươi không thể đúc kiếm được nữa.

Tiết Chúc không muốn nói về chuyện của sư huynh, chỉ im lặng không đả động gì đến lời suy nghiệm của Câu Tiễn. Câu Tiễn nói tiếp:

- Quả nhân bản tâm muốn sai người sang Sở đón Phong Hồ Tử về. E rằng y sợ ngươi báo thù nên chắc không chịu về.

Tiết Chúc thưa:

- Xin đại vương lượng xét, Phong sư huynh hiện nay đang ở nước Ngô chứ không phải ở nước Sở.

Câu Tiễn giật mình, hỏi:

- Y … y ở nước Ngô ư? Tại Ngô làm gì thế?

Tiết Chúc thưa:

- Ba năm trước đây, Phong sư huynh có đến nhà của tiểu nhân, đưa cho coi một thanh bảo kiếm. Tiểu nhân vừa nhìn thấy liền giật mình, hóa ra đó là một thanh kiếm báu mà tiên sư Âu Trị Tử trước đây đúc tại nước Sở, tên là Công Bố, trên thân kiếm có văn như dòng nước chảy, từ cán đến tận mũi, chỉ một đường không đứt đoạn. Tiểu nhân đã từng nghe tiên sư nói qua nên thoạt trông đã biết ngay. Hồi đó tiên sư phụng mệnh Sở vương đúc ba thanh kiếm, một là Long Uyên, hai là Thái A, ba là Công Bố. Sở vương thích lắm, không hiểu vì sao lại lọt vào tay sư ca.

Câu Tiễn nói:

- Chắc là Sở vương ban cho sư huynh ngươi đó!

Tiết Chúc thưa:

- Nói là Sở vương ban cho thì cũng không sai, nhưng đã qua tay hai người rồi. Theo lời Phong sư huynh, sau khi tướng nước Ngô đem quân phá Sở rồi, Ngũ Tử Tư đào mả Sở Bình vương lên lấy roi đánh vào tử thi, mới thấy trong mộ có thanh kiếm này. Khi về lại nước Ngô, nghe đến danh Phong sư huynh, nên y mới đem kiếm này tặng cho, nói là vốn của tiên sư đúc nên nay đưa cho Phong sư huynh gìn giữ.

Câu Tiễn giật mình:

- Ngũ Tử Tư dám đem kiếm báu cho người khác, quả thực khí độ anh hùng, quả thực anh hùng!

Bỗng dưng cười ha hả:

- May là Phù Sai trúng kế của ta, ép được y tự sát, ha ha, ha ha!

Câu Tiễn cười không ai dám lên tiếng. Một hồi lâu sau, y mới hỏi:

- Ngũ Tử Tư đem thanh Công Bố tặng cho sư huynh ngươi để sai y làm gì?

Tiết Chúc thưa:

- Theo lời Phong sư huynh thì khi đó Ngũ Tử Tư chỉ nói là vì ngưỡng mộ tiên sư, chứ không đòi gì cả. Phong sư huynh được thanh bảo kiếm, trong lòng cảm kích, nghĩ là Ngũ tướng quân dám đem một vật báu hi hữu thế gian đem tặng cho mình, không thể không tự mình đến gặp mặt tạ ơn. Cho nên y mới sang nước Ngô, đến nhà Ngũ Tử Tư, được Ngũ tướng quân dùng lễ thượng tân đãi đằng, lưu lại trong dinh, hết sức nồng hậu.

Câu Tiễn nói:

- Ngũ Tử Tư khiến cho người khác phải đem tính mạng ra hi sinh cho mình, đều dùng thủ đoạn đó. Trước đây y sai Chuyên Chư hành thích Vương Liêu, ắt cũng như thế.

Tiết Chúc nói:

- Đại vương liệu sự như thần. Thế nhưng Phong sư huynh nào biết được âm mưu của Ngũ Tử Tư, sau khi thụ ân hậu hĩ như vậy, trong lòng hết sức cảm kích, mới hỏi xem mình có thể làm được việc gì. Ngũ Tử Tư trước sau chỉ nói: “Các hạ nhọc lòng đến nước Ngô, là khách quí của nước Ngô, không dám nhờ nhõi gì cả”.

Câu Tiễn chửi:

- Tên già gian xảo, y lấy thoái làm tiến đấy mà.

Tiết Chúc thưa:

- Đại vương quả sáng suốt có thể nhìn xa vạn dặm. Phong sư huynh sau cùng thưa thật với Ngũ Tử Tư là y không có tài cán gì ngoài tài đúc kiếm, nay được đãi đằng hậu như thế xin đúc vài thanh bảo kiếm dâng tặng.

Câu Tiễn vỗ đùi nói:

- Có thế chứ!

Tiết Chúc nói tiếp:

- Ngũ Tử Tư lại nói là nước Ngô bảo kiếm cũng đã nhiều, chẳng cần đúc thêm làm gì nữa. Đúc kiếm cực kỳ hao tổn tâm lực, ngày xưa Can Tương, Mạc Tà đúc kiếm không thành, Mạc Tà phải nhảy vào trong lò đúc, bảo kiếm mới đúc xong. Cái thảm sự đó nhất định không để cho lại xảy ra nữa.

Câu Tiễn lạ lùng:

- Y quả thực không mong Phong Hồ Tử đúc kiếm cho y ư? Thế thì lạ thật.

Tiết Chúc thưa:

- Lúc đó Phong sư huynh cũng lấy làm lạ. Một hôm, Ngũ Tử Tư lại đến tân quán cùng Phong sư huynh nhàn đàm, mới nói tới chuyện nước Ngô cùng các nước ở phương Bắc như nước Tề, nước Tấn tranh bá đồ vương, tuy chiến sĩ nước Ngô dũng khí có thừa, ngặt là dùng xe chiến đấu lại có chỗ chẳng kịp, nếu như xảy ra bộ chiến, kiếm kích đang dùng cũng chẳng sắc bén bằng. Lúc đó Phong sư huynh mới cùng y đàm luận về thuật đúc kiếm. Hóa ra cái việc mà Ngũ Tử Tư muốn đúc, chẳng phải chỉ là một hai thanh bảo kiếm mà là hàng nghìn, hàng vạn thanh kiếm sắc.

Câu Tiễn lúc đó mới tỉnh ngộ, không nhịn nổi phải kêu lên “Oái chà” một tiếng đồng thời liếc mắt nhìn Văn Chủng, Phạm Lãi. Văn Chủng lúc ấy mặt đầy nét lo, còn Phạm Lãi thì ngơ ngẩn như người mất hồn, bèn hỏi:

- Phạm đại phu, ý ngươi thế nào?

Phạm Lãi đáp:

- Ngũ Tử Tư tuy diệu kế đa đoan, không nói y đã chết rồi mà nếu như có còn tại thế, cũng không thoát khỏi bàn tay đại vương.

Câu Tiễn cười:

- Hắc hắc, chỉ e quả nhân không phải đối thủ của Ngũ Tử Tư đâu.

Phạm Lãi nói:

- Ngũ Tử Tư đã bị đại vương dùng xảo kế trừ đi rôi, không lẽ y còn làm hại nước Việt được sao?

Câu Tiễn ha hả cười:

- Điều đó cũng chẳng sai. Tiết Chúc, sư huynh ngươi nghe lời Ngũ Tử Tư, giúp y đúc kiếm chăng?

Tiết Chúc thưa:

- Chính thế. Thế rồi Phong sư ca đi theo Ngũ Tử Tư đến xưởng đúc kiếm ở Mạc Can sơn, thấy hơn một ngàn thợ đương rèn kiếm, nhưng phép tắc chưa thật là hay, nên đứng ra chỉ điểm, thành ra từ đó kiếm nước Ngô sắc bén không nước nào bì kịp.

Câu Tiễn gật đầu:

- Hóa ra là như thế!

Tiết Chúc nói tiếp:

Đúc kiếm được một năm, Phong sư ca làm việc quá độ nên tinh lực hao mòn, mới đem tên của tiểu nhân nói cho Ngũ Tử Tư hay. Ngũ Tử Tư liền sửa soạn lễ vật, sai Phong sư ca đến mời tiểu nhân qua nước Ngô, giúp Phong sư ca đúc kiếm. Tiểu nhân mới nghĩ rằng thế hai nước Việt Ngô vốn dĩ thù nhau lâu đời, nước Ngô đúc được kiếm sắc, chẳng cứ gì giết người Tề, người Tấn, mà còn giết luôn cả người Việt mình nữa, nên mới khuyên Phong sư ca đừng trở lại nước Ngô nữa.

Câu Tiễn nói:

- Chính thế, ngươi quả là người hiểu biết.

Tiết Chúc rập đầu:

- Đa tạ đại vương khen ngợi. Thế nhưng Phong sư ca không nghe lời khuyên, hôm đó ngủ lại, nửa đêm đột nhiên dí kiếm sắc vào cổ tiểu nhân, rồi chặt đứt bốn ngón tay khiến cho thành phế nhân.

Câu Tiễn giận quá, lớn tiếng:

- Nếu sau này bắt được Phong Hồ Tử, ta sẽ băm vằm y thành mắm.

Văn Chủng nói:

- Tiết tiên sinh, bản thân ông không đúc kiếm được, nhưng chỉ bảo cho thợ rèn, mình vẫn có thể đúc được hàng nghìn, hàng vạn thanh kiếm sắc.

Tiết Chúc nói:

- Bẩm đại phu, sắt để đúc kiếm thì hai nước Việt Ngô đều có cả, nhưng đồng tốt thì Việt có, mà thiếc tốt thì lại ở tại Ngô.

Phạm Lãi nói:

- Ngũ Tử Tư vốn đã sai người canh gác Tích sơn, không cho dân chúng đào thiếc, phải thế không?

Tiết Chúc mặt lộ vẻ kinh ngạc, nói:

- Phạm đại phu, nguyên lai ngài đã biết chuyện đó rồi.

Phạm Lãi mỉm cười:

- Ta chỉ đoán thế mà thôi. Nay Ngũ Tử Tư đã chết rồi, lệnh y ban ra chắc gì người Ngô còn theo. Nếu đem giá cao mà mua nghĩ rằng thiếc tốt kiếm cũng không khó.

Câu Tiễn nói:

- Thế nhưng nước xa không chữa được lửa gần, kiếm được đồng, mua được thiếc, xây lò, đúc kiếm, đúc không được kiếm tốt lại phải khởi từ đầu, ít ra cũng mất độ hai ba năm. Nếu như Phù Sai không sống được tới lúc đó chẳng hóa ra là cái hận để đời sao?

Văn Chủng, Phạm Lãi cùng khom lưng thưa:

- Chính thế, chúng thần xin chờ nghe kế sách của đại vương.

Phạm Lãi rời cung rồi, trong lòng suy nghĩ:

- Đại vương đợi chẳng nổi hai ba năm, còn ta thì thêm một ngày, một đêm, cũng đã ...

Nghĩ tới đó, ngực thấy đau nhói, trong đầu hiện ra ngay một bóng hình diễm tuyệt. Đó là hình bóng người con gái giặt lụa bên bờ suối Tây Thi. Người con gái đó tên là Di Quang, chính mình đã tìm khắp thiên hạ để có được, người đã do linh khí núi sông nước Việt tạo thành, rồi lại chính mình đưa lên đường sang cống vào cung nước Ngô.

Đường từ Cối Kê sang Cô Tô rất ngắn, chỉ mất vài ngày đường thủy, thế nhưng chỉ trong thời gian ngắn ngủi ấy, hai người đã yêu nhau thắm thiết, không thể nào chia lìa. Trên khuôn mặt trắng ngần của Tây Thi, hai giọt lệ chẳng khác nào hai hạt trân châu, tiếng nàng êm đềm như suối chảy:

- Thiếu Bá, chàng hãy hứa, nhất định sẽ sang đón thiếp về, càng sớm càng hay, thiếp ngày đêm trông đợi. Chàng hãy nói một lần nữa, nói là sẽ không bao giờ quên thiếp cả.

Thù nước Việt không thể không báo, nên đành phải thế. Thế nhưng Di Quang còn phải nằm trong vòng tay Phù Sai, thì lòng hờn ghen, khổ não lúc nào cũng dằn vặt trong tim. Phải đúc kiếm thật nhanh, kiếm phải sắc bén hơn kiếm của nước Ngô...

Chàng chậm rãi đi trên đường, theo sau là mười tám vệ sĩ lẽo đẽo ở xa.

Bỗng dưng từ con đường phía tây vọng đến tiếng một đoàn người hát bằng tiếng Ngô:

- Kiếm ta sắc hề, địch mất mật. Kiếm ta vung lên hề, địch rơi đầu ...

Tám người mặc áo xanh, tay choàng tay, cất tiếng hát rống lên, cùng nhau tiến tới như chỗ không người. Người đi đường ai nấy tránh giạt ra một bên. Đó chính là bọn kiếm sĩ nước Ngô toàn thắng hôm trước trong cung nước Việt, hẳn là uống rượu vào, hoành hành nhiễu loạn trên đường phố.

Phạm Lãi nhíu mày, nỗi tức giận dâng lên đầy ngực.

Tám tên kiếm sĩ nước Ngô đi đến trước mặt Phạm Lãi. Tên đi đầu mắt lờ đờ say, nhìn chàng trừng trừng, rồi nói:

- Ngươi là Phạm đại phu ... ha ha, ha ha, ha ha!

Hai tên vệ sĩ vội sấn lên trước, chặn trước mặt Phạm Lãi, hét lớn:

- Không được vô lễ, mau tránh ra!

Tám tên kiếm sĩ cùng cất tiếng cười hô hố, nhái giọng Việt:

- Không được vô lễ, mau tránh ra!

Hai tên vệ sĩ rút phắt trường kiếm, thét to:

- Đại vương đã ra lệnh, ai dám động đến đại phu sẽ bị chém đầu!

Tên đi đầu trong bọn nước Ngô, chân nam đá chân siêu, hỏi lại:

- Chém đầu ngươi, hay chém đầu ta?

Phạm Lãi nghĩ thầm:

- Bọn này là sứ thần nước Ngô, tuy vô lễ, nhưng không nên cùng chúng động thủ.

Vừa định nói: “Tránh cho họ đi” thì đột nhiên ánh sáng lấp lánh, hai tên vệ sĩ kêu la thảm khốc, tiếp theo hai tiếng leng keng, hai bàn tay phải cầm kiếm của họ đã rơi xuống đất. Tên đi đầu trong bọn nước Ngô chậm rãi cho kiếm vào vỏ, mặt đầy vẻ ngạo nghễ.

Mười sáu người còn lại trong bọn vệ sĩ nhất tề rút kiếm, chạy lên bao vây bọn kiếm sĩ nước Ngô. Tên đi đầu ngửa mặt lên trời cười ha hả, nói:

- Bọn ta từ Cô Tô đến Cối Kê, vốn đã không mong sống sót mà về, thử xem nước Việt chúng bay đem bao nhiêu nhân mã tới giết được tám người chúng ta nào?

Tiếng “nào” vừa dứt, lập tức tám người cùng rút kiếm ra, đâu lưng với nhau thành một khối.

Phạm Lãi nghĩ thầm: “Việc nhỏ không nhịn ắt hư chuyện lớn, hiện nay nước ta chưa chuẩn bị xong, không nên giết tám tên này làm gì, để cho Phù Sai mất mặt”. Bèn thét:

- Tám người này là sứ thần thượng quốc, dẫu sao cũng không nên vô lễ với họ, lui ra đi!

Nói xong đứng tránh sang một bên đường. Bọn vệ sĩ ai nấy tức khi bừng bừng, mắt như muốn đổ lửa, nhưng vì đại phu ra lệnh nên đành phải lui vào. Tám tên Ngô sĩ lớn tiếng cười ha hả, cùng gân cổ lên hát:

- Kiếm ta sắc hề, địch mất mật. Kiếm ta vung lên hề, địch rơi đầu ...

Bỗng nhiên có tiếng kêu be be, một thiếu nữ mặc áo mỏng màu xanh lục dẫn độ mươi con dê, từ con đường phía đông đi tới. Đàn dê tới ngang bọn kiếm sĩ nước Ngô liền tránh đi vòng qua một bên.

Một tên Ngô sĩ hứng chưa dứt, vung kiếm một cái, chém một con dê từ đầu tới đuôi cắt thành hai mảnh, tưởng như lấy chỉ mà căng, cả cái mũi cũng đứt làm đôi. Kiếm thuật tinh xảo như thế, chưa nghe ai làm được bao giờ. Bảy tên Ngô sĩ cùng lớn tiếng hoan hô. Phạm Lãi không nhịn được phải bật lên: “Kiếm giỏi thực!”.

Thiếu nữ lật đật vung cây gậy trúc trong tay, lùa đàn dê về phía sau mình, hỏi :

- Tại sao ông lại giết dê của tôi?

Thanh âm vừa nhỏ nhẹ, vừa trong trẻo nhưng chứa vài phần phẫn nộ.

Tên Ngô sĩ giết con dê kia vung thanh kiếm dính đầy máu lên hoa hoa dọa nạt, cười nói:

- Này cô gái, ta muốn chặt cô thành hai khúc nữa.

Phạm Lãi vội gọi:

- Này cô kia, mau lại đây, bọn họ say rượu đấy.

Cô gái đáp:

- Uống rượu thì uống rượu chứ đâu phải muốn dọa ai thì dọa.

Tên kiếm sĩ nước Ngô vung kiếm chém nhứ mấy lượt trên đầu cô gái, cười nói:

- Ta đang định chặt cái đầu cô, nhưng thấy cô xinh đẹp, bỏ qua uổng quá.

Bảy tên còn lại cùng cười hô hố.

Phạm Lãi thấy cô gái mặt trái xoan, lông mi dài, mắt to, da trắng trẻo, dung mạo tú lệ, thân hình nhỏ nhắn, ẻo lả, lòng không nỡ để yên, gọi lớn:

- Cô nương, mau lại đây!

Cô gái quay lại đáp:

- Vâng ạ!

Tên kiếm sĩ nước Ngô vung kiếm ra toan cắt dây lưng cô gái, cười nói: “Để ta ...”. Chỉ mới nói được hai tiếng thì cây gậy trúc trong tay cô gái đã vụt đâm lên, trúng ngay vào cổ tay y. Gã kiếm sĩ cổ tay đau nhói, kêu lên một tiếng, kiếm rơi xuống đất. Cây gậy trúc lại vung lên một lần nữa, chỉ thấy vụt một lằn xanh, đã đâm trúng ngay mắt trái đối thủ. Gã kiếm sĩ nước Ngô rống lên một tiếng, hai tay ôm mắt, kêu gào luôn mồm.

Hai lần cô gái vung gậy lên, nhẹ nhàng khéo léo, đâm vào cổ tay, vào mắt, trông như không có gì cả, mà không hiểu sao gã kiếm sĩ nước Ngô không tránh được. Bảy tên kiếm sĩ còn lại kinh sợ kêu lên, một tên cao lớn múa kiếm nhắm mắt cô gái đâm tới. Tiếng kiếm đâm ra kêu vù vù, đủ biết kình lực mười phần mạnh mẽ.

Thế nhưng cô gái không né tránh, chỉ đâm gậy trúc ra, đánh sau mà tới trước, á một tiếng đã đâm trúng vai phải gã Ngô sĩ. Kình lực đâm của gã lập tức nhũn xuống. Gậy cô gái lại vung ra, đâm ngay vào mắt phải. Gã kiếm sĩ nước Ngô kêu rống như heo bị chọc tiết, hai tay vung loạn cả lên, máu từ trong mắt chảy ra ròng ròng, hết sức ghê rợn.

Chỉ bốn chiêu mà cô gái đãm đâm mù mắt hai tên nước Ngô. Ai nấy thấy cô thuận tay vung lên, đối thủ lập tức bị thương, đều phải giật mình. Sáu tên kiếm sĩ nước Ngô vừa tức, vừa sợ, cùng rút trường kiếm, vây cô gái lại.

Phạm Lãi khá giỏi kiếm thuật, trông cô gái chỉ chừng mười sáu, mười bảy, dùng một cây gậy trúc mà đâm mù mắt hai tay cao thủ nước Ngô. Thủ pháp tuy nhìn không rõ, nhưng thực là kiếm pháp thượng thừa. Phạm Lãi vừa sợ vừa vui, thấy sáu tên kiếm sĩ cùng rút binh khí vây cô gái, thầm nghĩ tuy cô gái kiếm thuật tinh tường, nhưng khó lòng địch lại sáu cao thủ, nên lớn tiếng nói:

- Các vị kiếm sĩ, không sợ làm bại hoại thanh danh nước Ngô sao? Cậy số đông, ha ha!

Nói rồi vỗ tay một cái, mười sáu vệ sĩ nước Việt lập tức rút kiếm giàn ra vây bọn sáu người nước Ngô lại.

Cô gái lạnh lùng cười nhạt:

- Sáu người đánh một chắc gì đã thắng nào!

Tay trái khẽ giơ lên, gậy trúc trong tay phải đâm vào mắt một tên Ngô sĩ. Tên này giơ kiếm lên đỡ, nhưng cô gái đã chuyển đầu gậy đâm vào ngực một tên khác. Ngay lúc đó, ba thanh kiếm của ba tên Ngô sĩ cùng hướng vào cô gái đâm tới. Thế nhưng thân pháp cô gái hết sức nhanh nhẹn, chỉ lách nhẹ đã tránh khỏi cả ba mũi kiếm, nghe cách một tiếng, gậy trúc đã đâm trúng cổ tay tên phía bên trái. Tên này năm ngón tay nhũn ra, trường kiếm rơi ngay xuống đất.

Mười sáu người vệ sĩ nước Việt vốn muốn từ ngoài đánh vào, nhưng lúc đó trường kiếm của bọn kiếm sĩ nước Ngô đang vung tít, thành một một mạng lưới kiếm xanh lấp lánh, nên đám vệ sĩ không tài nào tới gần được.

Chỉ thấy cô gái phiêu hốt qua lại trong mạng lưới kiếm đó, tà áo màu xanh nhạt cùng giây lưng phất phới bay, trông hết sức ngoạn mục. Nghe tiếng “ối chà” cùng tiếng “loảng xoảng” liên hồi, trường kiếm bọn kiếm sĩ nước Ngô lần lượt rơi xuống đất, kẻ thì nhảy ra ngoài, kẻ thì lầy tay bưng mặt, kẻ thì lăn ra đường, kẻ nào cũng bị đâm mù một bên, không mắt phải thì mắt trái.

Cô gái thu gậy về đứng nhìn, cất giọng nhí nhảnh:

- Bọn ngươi giết chết con dê của ta, có chịu đền không nào?

Tám tên kiếm sĩ nước Ngô vừa kinh hãi, vừa phẫn nộ, kẻ lớn tiếng gầm gừ, kẻ run lẩy bẩy. Bọn này vốn dĩ là những võ sĩ hết sức dũng mãnh, giá có bị chặt cụt hai chân, hai tay cũng không khiếp sợ. Thế nhưng nay bỗng dưng họ bị một cô gái chăn dê đánh bại, mà lại không hiểu vì sao nên trong kinh hãi đầu óc có phần hoang mang..

Cô gái nói tiếp:

- Các ngươi không đền con dê cho ta, ta đâm mù nốt mắt kia bây giờ.

Tám tên kiếm sĩ nghe vậy, không hẹn mà cùng nhảy lùi một bước. Phạm Lãi kêu lớn:

- Này cô gái, để ta đền cho cô một trăm con dê, cô thả cho bọn họ đi.

Cô gái nhìn Phạm Lãi mỉm cười, nói:

- Ông tốt bụng quá, nhưng tôi không cần đền một trăm con, chỉ một con là đủ rồi.

Phạm Lãi quay lại bọn vệ sĩ:

- Các ngươi hộ tống sứ giả thượng quốc về nhà khách nghỉ ngơi, mời thầy thuốc lại chữa mắt cho họ.

Bọn vệ sĩ tuân lệnh, cử ra tám người, rút kiếm áp tống. Tám tên Ngô sĩ tay không binh khí, chẳng khác gì gà thua độ, cúi đầu, xịu mặt lủi thủi đi về. Phạm Lãi tiến lên mấy bước, hỏi:

- Tôn tính cô nương là gì?

Cô gái hỏi lại:

- Ông hỏi cái gì thế?

Phạm Lãi nói:

- Tên cô là gì?

Cô gái đáp:

- Tên tôi là A Thanh, còn tên ông gọi là gì?

Phạm Lãi mỉm cười, nghĩ thầm:

- Con gái nhà quê, không biết lễ phép, không hiểu sao lại học được kiếm thuật xuất thần nhập hóa như thế. Chỉ cần hỏi xem thầy của cô ta là ai, mời lại dạy cho võ sĩ nước Việt, thì việc phá quân Ngô không khó khăn gì.

Nghĩ tới việc cùng Tây Thi hội ngộ gần kề, bỗng thấy trong lòng hớn hở, trả lời:

- Tên ta là Phạm Lãi. Này cô, mời cô đến nhà ta ăn cơm được không?

A Thanh nói:

- Tôi không đi đâu. Tôi còn phải lùa dê đi ăn cỏ.

Phạm Lãi nói:

- Nhà ta có vườn cỏ tốt lắm, cô cho dê đến ăn, tôi còn đền cho cô thêm mười con dê béo nữa.

A Thanh vỗ tay cười:

- Nhà ông có vườn cỏ rộng ư? Thế thì tốt quá. Nhưng tôi không bắt đền ông, vì có phải ông giết dê của tôi đâu.

Nói xong cô gái ngồi sụp xuống đất, vỗ về con dê bị cắt thành hai mảnh, giọng bùi ngùi:

- Lão Bạch ơi, tội nghiệp mày, người ta giết mày mà tao ... không cứu mày sống lại được.

Phạm Lãi sai vệ sĩ:

- Đem hai mảnh con Lão Bạch gói lại, chôn tại bên nhà cô gái, nghe chưa!

A Thanh đứng lên, trên gò má vẫn hai hàng lệ rơi nhưng trong mắt đã hiện nỗi mừng, nói:

- Phạm Lãi, ông ... ông không đem Lão Bạch làm thịt ăn đấy chứ?

Phạm Lãi nòi:

- Dĩ nhiên là không rồi. Đây là con Lão Bạch ngoan ngoãn, yêu quí của cô, ai lại ăn thịt nó.

A Thanh thở dài:

- Ông tốt bụng quá. Tôi rất ghét ai đem dê của tôi xẻ ra ăn thịt. Nhưng mà má tôi bảo là không bán dê cho người ta thì mình đâu có tiền mua gạo.

Phạm Lãi nói:

- Thôi từ giờ trở đi, để ta cho người mang gạo, vải tới cho mẹ cô, dê cô nuôi không cần phải bán cho ai nữa.

A Thanh mừng quá, ôm chặt lấy Phạm Lãi, kêu lên:

- Ông tốt bụng quá!

Bọn vệ sĩ thấy cô gái ngây thơ, lại cứ gọi đích danh tên Phạm Lãi, ngay giữa đường ôm chặt lấy ông ta, nực cười quá đều quay đầu ra chỗ khác, nhưng không dám cười thành tiếng.

Phạm Lãi nắm tay cô, tưởng chừng cô là tiên nữ trên trời xuống trần, chỉ thoắt một cái đã có thể biến mất. Hai người đi giữa đàn dê kêu be be, cùng lững thững đi về phủ.

A Thanh lùa dê đi vào phủ đệ Phạm Lãi, kinh hãi kêu lên:

- Nhà ông sao mà lớn thế, một mình ông ở sao cho hết được?

Phạm Lãi mỉm cười:

- Chính là ta thấy nhà rộng quá, nên định mời má cô và cô đến ở luôn, có được không? Trong nhà cô còn ai nữa?

A Thanh đáp:

- Chỉ có má tôi với tôi hai người thôi. Nhưng không biết má tôi có chịu không. Má tôi thường dặn tôi là đừng nói chuyện nhiều với đàn ông. Nhưng ông là người tốt, không định làm hại chúng tôi đâu.

Phạm Lãi bảo A Thanh lùa dê vào vườn hoa, rồi gọi đầy tớ dọn bánh trái, hoa quả điểm tâm ra nhà mát khoản đãi cô gái. Bọn người nhà thấy đàn dê tha hồ ăn mẫu đơn, thược dược, chi lan, hồng ... cùng các loại kỳ hoa dị thảo khác mà Phạm Lãi chỉ cười khì khì, đều ngạc nhiên.

A Thanh uống trà, ăn bánh, rất lấy làm thích thú. Phạm Lãi nói chuyện với cô hồi lâu, thấy cô ngôn ngữ ấu trĩ, hoàn toàn chẳng hiểu việc đời, sau cùng mới hỏi:

- A Thanh cô nương, vị sư phụ nào dạy cô kiếm thuật thế?

A Thanh trợn tròn đôi mắt, hỏi lại:

- Kiếm thuật nào? Tôi làm gì có sư phụ.

Phạm Lãi nói:

- Cô chỉ dùng một thanh trúc mà đâm mù mắt tám tên đê tiện, cái đó là kiếm thuật đấy, ai dạy cô vậy?

A Thanh lắc đầu:

- Không ai dạy tôi hết, tôi tự biết đấy thôi.

Phạm Lãi thấy cô thái độ chân thực, không tỏ vẻ gì là dối trá, trong lòng lấy làm lạ: “Không lẽ dị nhân giáng trần thật sao?” nên hỏi tiếp:

- Thế cô từ bé đã biết múa gậy ư?

A Thanh đáp:

- Thực ra thì tôi không biết đâu, năm tôi mười ba tuổi, ông Bạch lại cưỡi dê, tôi không cho ông ấy cưỡi, lấy gậy trúc ngăn lại. Ông ấy cũng lấy một cây gậy đánh tôi, hai bên đánh lẫn nhau. Lúc đầu ông ấy đánh trúng tôi, tôi không đánh được ông ấy. Ngày nào tôi và ông ấy cũng lấy gậy đùa chơi, gần đây tôi đánh trúng được ông Bạch rồi, đánh ông ấy đau lắm mà ông ấy không đánh tôi được. Thành ra hồi này ông ấy không thèm tới đùa với tôi nữa.

Phạm Lãi vừa mừng vừa sợ, nói:

- Ông Bạch ông ấy ở đâu? Cô dẫn ta tới gặp ông Bạch được không nào?

A Thanh nói:

- Ông ấy sống ở trong núi, kiếm không được đâu. Ông ấy lại kiếm tôi được mà tôi không kiếm ra ông ấy.

Phạm Lãi hỏi:

- Thế ta muốn gặp ông ấy thì làm cách nào?

A Thanh ngẫm nghĩ một hồi:

- À, chỉ có cách ông đi chăn dê với tôi, mình cùng đi đến chân núi đợi ông ấy ra. Thế nhưng đâu có biết ông ấy ra lúc nào đâu.

Nói rồi thở dài:

- Đã lâu lắm rồi không thấy ông ấy ra chơi.

Phạm Lãi nghĩ thầm:

- Vì nước Việt, vì Di Quang, theo cô ta đi chăn dê đã làm sao nào! Kiếm thuật của A Thanh, nhất định là do vị ẩn sĩ trong núi Bạch công công này truyền thụ. Có lẽ là ông Bạch thấy cô nhỏ tuổi, thuần phác, nên mới lấy gậy trúc đùa với cô ta. Một cô bé quê mà còn học được kiếm thuật tinh vi đến thế, mời về đạy cho võ sĩ nước Việt, việc phá Ngô ắt phải thành.

Nghĩ vậy, Phạm Lãi bèn nói:

- Tốt lắm, để ta đi theo cô chăn dê, chờ ông Bạch nhé.

Sau khi đãi A Thanh ăn cơm, Phạm Lãi theo cô đến chân núi ở bên ngoài thành để cùng chăn dê. Bộ thuộc, thủ hạ không ai hiểu nguyên nhân, nên lấy làm quái lạ. Luôn mấy ngày, Phạm Lãi tay cầm gậy trúc, cùng A Thanh đến chân núi, hát xướng, chờ ông Bạch ra.

Đến ngày thứ năm, Văn Chủng đến Phạm phủ thăm bạn, thấy người phu khiêng kiệu mặt rầu rầu, mới hỏi:

- Sao lâu nay không thấy Phạm đại phu, khiến cho đại vương khắc khoải, nên sai ta đến thăm. Hay là Phạm đại phu không được khỏe chăng?

Người phu đáp:

- Bẩm Văn đại phu, Phạm đại phu khỏe mạnh bình thường, chỉ có ... chỉ có điều ...

Văn Chủng hỏi gặng:

- Chỉ sao?

Người phu khiêng kiệu đáp:

- Văn đại phu là bạn thân của Phạm đại phu, bọn chúng tôi là người dưới không dám nói, mong Văn đại phu khuyên bảo giùm.

Văn Chủng càng thêm kỳ quái, hỏi:

- Phạm đại phu có chuyện gì thế?

Người phu đáp:

- Phạm đại phu mê cái ... mê cái cô nhà quê biết đánh gậy, ngày nào cũng theo cô ta đi chăn dê, lại không cho vệ sĩ đi theo, tới tối mịt mới về. Tiểu lại có việc muốn gặp cũng chẳng ai dám đến quấy rầy cả.

Văn Chủng cười ha hả, nghĩ thầm:

- Hồi Phạm hiền đệ còn ở tại nước Sở, người ta vẫn gọi là gã Phạm khùng. Y hành sự khác người, người thường không sao hiểu nổi.

Chính lúc đó Phạm Lãi đang ngồi trên bãi cỏ ở triền núi, kể chuyện Tương phi và sơn quỉ nước Sở. A Thanh ngồi bên cạnh chăm chú nghe, cặp mắt đen láy, nhìn không chớp mắt, bỗng nhiên hỏi:

- Bộ Tương phi thực sự đẹp đến thế sao?

Phạm Lãi chậm rãi nói:

- Mắt nàng so với nước suối kia còn trong hơn, còn sáng hơn ...

A Thanh lại hỏi:

- Thế trong mắt cô ấy có cá bơi không?

Phạm Lãi vẫn nói tiếp:

- Da nàng so với mây trắng trên trời cao còn mềm mại hơn, ấm áp hơn.

A Thanh hỏi:

- Chẳng lẽ cũng có chim bay trong đó ư?

Phạm Lãi vẫn nói:

- Miệng nàng so với đóa hoa hồng còn mịn màng hơn, diễm lệ hơn. Môi nàng ướt át, so với giọt sương trên cánh hoa còn óng ánh hơn. Tương phi đứng bên bờ nước, bóng nàng in trên sông Tương, hoa mọc ở đây thẹn thùng mà khô héo cả, cá cũng không dám đến bơi trong giòng, sợ sẽ làm rung động tan mất bóng của nàng. Bàn tay trắng muốt khua trong nước, mềm mại đến nỗi tưởng như tan vào giòng sông ...

A Thanh hỏi:

- Phạm Lãi, ông đã gặp cô ấy rồi, phải không? Sao ông biết rành rọt thế?

Phạm Lãi thở dài, nói:

- Ta đã gặp, đã ngắm nàng rất là kỹ càng.

Người chàng nói đến là Tây Thi chứ không phải Tương phi. Phạm Lãi quay đầu hướng về phương Bắc, nhìn giòng sông cuồn cuộn, nghĩ đến người con gái mỹ lệ đó đang ở tại thành Cô Tô nước Ngô giờ này ra sao? Đang kề cận bên Ngô vương chăng? Hay đang nghĩ đến ta?

A Thanh lại hỏi:

- Phạm Lãi, râu ông trông kỳ cục quá, cho tôi vuốt một cái được không?

Phạm Lãi nghĩ thầm, không biết nàng lúc này đang cười hay đang khóc. A Thanh lại nói:

- Phạm Lãi, râu của ông có hai sợi trắng, thật là vui, trông giống lông dê của tôi quá.

Phạm Lãi nghĩ tiếp:

- Ngày chia tay, nàng gục đầu vào vai ta mà khóc, nước mắt nàng thấm ướt một bên vạt áo ta. Chiếc áo đó ta không bao giờ giặt, trong nước mắt nàng có lẫn cả nước mắt ta.

A Thanh nói:

- Phạm Lãi, tôi muốn nhổ một sợi râu của ông để nghịch chơi, có được không? Tôi chỉ nhổ khe khẽ thôi, không làm đau ông đâu.

Phạm Lãi nghĩ tiếp:

- Nàng nói rằng nàng thích nhất được ngồi trên thuyền trên sông, trên hồ chầm chậm theo nước mà bơi. Đợi khi nào đoạt được nàng về, chức đại phu ta cũng chẳng màng, chỉ mong được mỗi ngày cùng nàng ngồi trên thuyền, bơi dạo khắp sông hồ.

Bỗng nhiên thấy cằm đau nhói, A Thanh đã nhổ được một sợi râu của chàng. Chỉ thấy A Thanh cười khanh khách, nhưng tiếng cười chưa dứt đã reo lên:

- Ông đến rồi!

Như một làn khói nhấp nháy, A Thanh đã chạy vụt ra. Thế là một bóng xanh, một bóng trắng quấn quít nhanh vô tả, hai bên đã đấu với nhau. Phạm Lãi mừng quá: “Ông Bạch tới rồi!”.

Hai người đấu một lúc, thân pháp chậm lại, chàng không nhịn được phải kêu “A” lên một tiếng. Kẻ đang đấu với A Thanh không phải người mà là một con vượn trắng.

Con vượn cũng cầm trong tay một cây gậy trúc, múa tít đấu với cây gậy trong tay A Thanh. Con vượn đó ra chiêu cực kỳ xảo diệu, kình đạo lợi hại, mỗi lần vung ra có tiếng kêu vù vù. Thế nhưng chiêu nào nó đánh ra A Thanh cũng đỡ được, nàng còn tùy thời mà phản kích lại, tung ra những chiêu lợi hại không kém.

Mấy hôm trước, khi A Thanh đấu với bọn kiếm sĩ nước Ngô trên đường cái, mỗi lần vung gậy ra đều đâm mù mắt một tên, nhưng lần nào ra chiêu cũng như lần nào. Đến bây giờ Phạm Lãi mới thực thấy sự tinh xảo về kiếm thuật của cô gái. Tuy sở học về đánh kiếm của chàng không nhiều, nhưng vì vẫn thường xem các vệ sĩ nước Việt luyện kiếm, kiếm ai hay, kiếm ai dở chỉ liếc mắt là biết ngay. Khi hai bên kiếm sĩ Ngô Việt đấu với nhau, chàng đã hết sức bội phục, nay xem A Thanh đấu với con vượn, tuy chỉ cầm cành tre, nhưng chiêu pháp tinh kỳ, kiếm thuật của bọn kiếm sĩ hai nước Việt Ngô xem như trò trẻ.

Cây trúc trong tay con vượn trắng mỗi lúc một nhanh, A Thanh thỉnh thoảng lại đứng im không động đậy, chỉ lâu lâu lại phóng gậy ra, nhanh như một ánh điện chớp, ép cho con vượn phải lùi lại.

A Thanh đẩy cho bạch viên lùi được ba bước, lại thu gậy đứng nhìn. Con vượn trắng hai tay cầm gậy, nhảy vọt lên cao, dùng hết sức từ trên cao đánh xuống. Phạm Lãi thấy tình hình cực kỳ nguy cấp, sợ quá, kêu lên:

- Coi chừng!

Đã thấy A Thanh vung gậy tạt ra, nghe hai tiếng lách cách, cây gậy của con vượn đã rơi xuống đất.

Con vượn trắng hú lên một tiếng dài, nhảy phắt lên cây, nhún vài cái, đã ra ngoài hơn mười trượng. Chỉ nghe tiếng kêu não nề, mỗi lúc một xa. Trong sơn cốc tiếng vượn hú đáp lại, hồi lâu không dứt.

A Thanh quay đầu lại, thở dài, nói:

- Ông Bạch gãy hai cánh tay rồi, từ nay không còn ra ngoài chơi đùa với tôi được nữa.

Phạm Lãi ú ớ:

- Cô đánh gãy hai cánh tay của y ư?

A Thanh gật đầu:

- Sao hôm nay ông Bạch hung tợn quá, liên tiếp ba lần định xông vào giết ông đó.

Phạm Lãi giật mình:

- Y ... y định đâm chết tôi ư? Sao lại thế?

A Thanh lắc đầu:

- Tôi cũng chẳng biết tại sao.

Phạm Lãi thấy rờn rợn trong lòng:

- Nếu không phải A Thanh cản được nó thì con vượn này muốn giết ta thật dễ như thổi tro trong bếp.

Sáng sớm hôm sau, trong phòng luyện kiếm của Việt vương, A Thanh cầm một thanh gậy trúc đứng trước hai chục kiếm sĩ cao thủ hạng nhất nước Việt. Phạm Lãi biết cô ta không biết cách dậy người khác sử kiếm, nên chỉ còn cách để cho kiếm sĩ nước Việt bắt chước kiếm pháp của cô ta.

Thế nhưng không một kiếm sĩ nào đỡ được đến ba chiêu. Mỗi lần A Thanh giơ gậy lên, hoặc là bị đâm trúng cổ tay, rơi kiếm, hoặc trúng chỗ yếu hại lăn quay ra đất.

Hôm thứ hai, ba mươi kiếm sĩ bị cô ta đánh bại. Hôm thứ ba, lại thêm ba mươi võ sĩ bị cô ta dùng thanh gậy trúc đánh què tay, gẫy vai. Đến ngày thứ tư, khi Phạm Lãi yêu cầu cô ta tái đấu với võ sĩ nước Việt thì không còn thấy cô đâu nữa. Tìm đến nhà, chỉ thấy nhà trống không và mươi con dê. Phạm Lãi sai vài trăm bộ thuộc đi khắp trong ngoài thành Cối Kê, khắp hoang sơn, thôn xóm để tìm nhưng không ai thấy tung tích gì của cô ta cả.

Tám mươi kiếm sĩ nước Việt không người nào học được chiêu thức nào của A Thanh, nhưng người nào cũng tận mắt nhìn thấy hình ảnh của thần kiếm. Ai nấy đều biết rằng, quả thực trên thế gian này có loại thần kỳ kiếm pháp đó. Tám mươi người chỉ miễn cưỡng tìm ra được một chút manh mối về thân pháp phiêu phiêu hốt hốt đem truyền thụ lại cho người khác. Chỉ có thế mà kiếm pháp võ sĩ nước Việt đã trở thành vô địch thiên hạ rồi.

Trong khi đó, Phạm Lãi ra lệnh cho Tiết Chúc đốc thúc thợ giỏi, đúc ra hàng nghìn, hàng vạn thanh kiếm tốt.

Ba năm sau, Câu Tiễn hưng binh phạt Ngô, đụng trận tại bờ Ngũ Hồ. Năm nghìn quân Việt cầm kiếm đi trước, quân Ngô chặn lại. Hai bên giao tranh, trường kiếm quân Việt lấp lánh, quân Ngô tan tác. Vua Ngô Phù Sai phải lui về núi Dư Hàng. Việt binh truy kích, quân Ngô không cách nào đương cự với lối đánh kiếm thần tốc của quân Việt. Phù Sai thua trận tự sát. Quân Việt tiến vào kinh thành Cô Tô nước Ngô.

Phạm Lãi tự mình dẫn một ngàn binh cầm kiếm, đi thẳng vào Quán Oa cung của Ngô vương. Đây chính là nơi Tây Thi ở. Chàng dẫn vài tên vệ sĩ, chạy vào cung, gọi:

- Di Quang! Di Quang!

Phạm Lãi chạy tới một hành lang dài, mỗi bước chân vang lại tiếng trong trẻo êm tai, hóa ra dưới chân là lòng đất rỗng. Tây Thi bước chân rất êm, mỗi bước đi uyển chuyển chẳng khác chi tiếng cầm tiếng sắt. Phù Sai làm đường hầm này, chỉ để nghe tiếng chân nàng thay tiếng nhạc.

Ở đầu phía bên kia, vang lại tiếng chân người. Mỗi bước chân tiếng nhạc lại tấu lên, vui mừng như tiếng sắt, trong trẻo như tiếng dao cầm. Một giọng nói nhỏ nhẹ cất lên:

- Thiếu Bá, có phải chàng đấy không?

Phạm Lãi thấy máu trong ngực sôi lên, vội đáp:

- Chính ta đây! Chính ta đây! Ta đến đón nàng đây!

Chàng thấy chính giọng mình cũng xúc động, nghe như giọng ai khác văng vẳng từ đâu đến. Chàng xăm xăm bước tới. Tiếng nhạc trong đường hầm càng dồn dập hơn, một thân hình mềm mại ngả vào lòng chàng.

Đêm xuân êm đềm, mùi hoa thơm từ vườn bay xuyên qua rèm cửa, tỏa đầy Quán Oa cung. Phạm Lãi và Tây Thi hai người tận hưởng những ngày mong nhớ.

Bỗng dưng trong đêm thanh vắng, nghe đâu văng vẳng tiếng dê kêu be be. Phạm Lãi mỉm cười:

- Nàng vẫn không quên phong vị quê hương, trong cung thất mà cũng nuôi dê sao?

Tây Thi cười lắc đầu, chính nàng cũng lạ, sao lại có tiếng dê kêu ở đây. Thế nhưng đang ở bên ý trung nhân, chỉ có tình yêu êm đềm, mọi ý niệm khác đều tan biến trong khoảnh khắc. Nàng chậm rãi đưa tay nắm lấy bàn tay Phạm Lãi. Một luồng máu nóng cùng dâng lên trong huyết quản của hai người.

Đột nhiên trong đêm khuya tĩnh mịch, tiếng một người con gái ở đâu vang lại từ xa:

- Phạm Lãi, ngươi gọi Tây Thi của ngươi ra, ta muốn giết cô ta đi!

Phạm Lãi giật mình nhỏm dậy. Tây Thi thấy tay chàng bỗng dưng lạnh ngắt. Phạm Lãi đã nhận ra đó chính là tiếng của A Thanh. Tiếng kêu của cô vượt qua tường cao chung quanh Quán Oa cung, lọt vào tận đây.

- Phạm Lãi, Phạm Lãi, ta muốn giết Tây Thi của ngươi, chạy không thoát đâu. Ta nhất định sẽ giết cho bằng được Tây Thi.

Phạm Lãi vừa sợ hãi, vừa bàng hoàng:

- Tại sao cô ta lại muốn giết Di Quang? Di Quang từ trước tới nay đã phạm tội lỗi gì với cô ta đâu.

Nhưng chỉ một khoảnh khắc, mọi việc đều rõ ràng:

- Cô ta không phải hoàn toàn chỉ là một cô gái quê, không hiểu chuyện đời. A Thanh đã yêu ta.

Càng thấy bàng hoàng, càng thấy sợ hãi. Phạm Lãi trong đời đã từng gặp nhiều chuyện lớn, quyết đoán những việc hồ nghi, trải qua không biết bao nhiêu gian hiểm. Năm trước tại Cối Kê sơn bị quân Ngô vây hãm, lương thực hết, viện binh không, thế nhưng không hoang mang như lúc này. Tây Thi thấy lòng bàn tay chàng đầy mồ hôi lạnh, lại thấy tay run run.

Nếu như A Thanh muốn giết chính bản thân chàng, Phạm Lãi hẳn không sợ hãi, thế nhưng người nàng muốn giết lại là Tây Thi.

- Phạm Lãi, Phạm Lãi, ta muốn giết Tây Thi của ngươi, chạy không thoát đâu.

Tiếng của A Thanh khi bên đông, khi bên tây, từ ngoài tường thành vọng vào. Phạm Lãi trấn tĩnh lại, nói:

- Để ta đi ra ngoài gặp người này.

Chàng nhẹ buông tay Tây Thi ra, nhanh nhẹn đi ra ngoài cửa cung. Mười tám vệ sĩ lập tức theo sau. Tiếng gọi của A Thanh ai ai đều nghe, thấy nàng đứng ngoài cửa cung kêu tên tục người anh hùng phá Ngô Phạm đại phu, lấy làm lạ lùng.

Phạm Lãi ra đến ngoài cửa cung, ánh trăng sáng giãi đầy mặt đất. Nhìn quanh, không thấy bóng người, lớn tiếng nói:

- A Thanh cô nương, mời cô lại đây, ta có chuyện muốn nói.

Bốn bề tĩnh mịch, không một âm thanh. Phạm Lãi nói tiếp:

- A Thanh cô nương, lâu không gặp, cô có được khỏe không?

Thế nhưng không nghe tiếng trả lời. Phạm Lãi đứng đợi hồi lâu nhưng chẳng thấy A Thanh xuất hiện.

Chàng quay lại dặn nhỏ vệ sĩ, lập tức điều một nghìn tên giáp sĩ, một nghìn kiếm sĩ, chia ra thủ ngự mặt trước, mặt sau Quán Oa cung.

Phạm Lãi về gặp lại Tây Thi, ngồi xuống nắm lấy tay nàng, không nói một câu. Trên đường đi từ cửa cung đến phòng, trong đầu chàng nổi lên bao nhiêu ý niệm:

- Hay là đưa một cung nữ giả làm Di Quang, để cho A Thanh giết? Hay là ta cùng nàng hóa trang thành giáp sĩ nước Việt, trốn khỏi Ngô cung, từ nay ẩn tính mai danh? Hay khi A Thanh đến ta tự sát trước mặt nàng, xin nàng tha mạng cho Di Quang? Hay ta điều hai ngàn cung thủ bảo vệ cửa cung, A Thanh tiến vào, lập tức bắn ra giết nàng ta đi?

Thế nhưng kế nào xem ra cũng có chỗ sơ hở, không vẹn toàn. A Thanh có đại công với nước Việt, lẽ nào lại giết cô ta. Chàng lặng nhìn Tây Thi bỗng nhiên trong lòng nảy sinh một ý niệm ấm áp: "Thôi hai người cùng chết với nhau, thế là tốt hơn cả. Hai người được chết cùng nhau một chỗ, còn gì hơn”.

Thời gian dần dần trôi. Tây Thi thấy tay Phạm Lãi ấm lại. Chàng không còn sợ hãi nữa mà trên khuôn mặt đã nở một nụ cười. Từ ngoài song cửa, ánh mặt trời đã le lói chiếu vào.

Bỗng từ ngoài vang lại những tiếng loảng xoảng, leng keng kéo dài bất tuyệt, rõ ràng là tiếng binh khí rơi xuống đất. Âm thanh đó từ cung môn tới, tưởng như một con rắn dài, trườn vào thật nhanh. Trong hầm cũng đã nghe tiếng binh khí loảng xoảng rơi. Một ngàn giáp sĩ cùng một ngàn kiếm sĩ cũng không ngăn nổi A Thanh. Chỉ nghe tiếng A Thanh kêu lên:

- Phạm Lãi, ngươi ở đâu?

Phạm Lãi nhìn Tây Thi rồi lớn tiếng nói:

- A Thanh, ta ở đây.

Tiếng “đây” chưa dứt, đã nghe “binh” một tiếng, cửa phòng mở tung, một bóng xanh bay vụt vào. Chính là A Thanh. Cây gậy trúc trên tay nàng chỉ thẳng vào ngực Tây Thi.

Nàng ngưng lại ngắm dung mạo Tây Thi, sát khí trên mặt dần dần dịu xuống, biến thành nỗi thất vọng, buồn rầu, rồi biến thành nỗi lạ lùng, hâm mộ, sau cùng trở nên cung kính, lẩm bẩm:

- Trong ... trong đời này, sao lại có người ... có người đẹp đến thế? Phạm Lãi, cô ấy còn đẹp hơn những gì ông mô tả.

Nàng uốn chiếc eo thon, hú lên một tiếng trong trẻo rền vang, vượt cửa sổ ra ngoài. Tiếng hú thoáng đã thật xa, mỗi lúc một nhỏ dần, nhưng dư âm còn vang động chưa dứt.

Mấy chục vệ sĩ vội chạy đến trước cửa. Vệ sĩ trưởng khom lưng thưa:

- Đại phu không sao chứ?

Phạm Lãi xua tay, mọi người lui ra. Chàng cầm tay Tây Thi, nói:

- Chúng mình thay quần áo dân thường, đến Thái Hồ bơi thuyền, không trở lại đây nữa.

Ánh mắt Tây Thi sáng lên, tỏa ra một niềm vui vô bờ bến. Bỗng nhiên, nàng hơi nhíu mày, đưa tay ôm lấy ngực. Đường gậy của A Thanh tuy chưa đánh trúng, nhưng kình lực từ đầu gậy đã khiến nàng bị thương nơi tâm khẩu.

Hai nghìn năm qua, ai ai cũng biết rằng: “Tây Thi ôm ngực” là hình ảnh đẹp nhất trên cõi đời này.


Hết

BachMa
11-18-2015, 04:00 AM
Tiệm May Sài Gòn
Phạm Thị Hoài


Tiệm may Sài Gòn không ở Sài Gòn, không ở Cali. Tôi đứng chờ chắn tàu ở đầu đường Khâm Thiên, ghi đông xe tôi ngoắc vào mẹt của chị hàng thuốc trên vỉa hè, chị hàng thuốc chửi tôi là đồ con gì, lúc ấy tôi thấy cái biển to tướng ở trên đầu chị ta: “Tiệm may Sài Gòn, dạy cắt may các kiểu nam nữ hợp thời trang”, mở ngoặc bên dưới là có com-lê, vét-tông, áo dài.

Buổi tối gặp Dũng, tôi bảo em đi học may, Dũng bảo thôi thôi xin cô học với hành, tiếng Pháp này, tiếng Anh này, com-piu-tơ này, trang điểm cô dâu này. Chúng tôi uống mỗi đứa một cốc nước mía. Dũng nghĩ thế nào lại gọi thêm một điếu Vina, tôi thì được đĩa hướng dương, Dũng hút hết thuốc thì bảo: “Anh nói cho mà biết, nhất nghệ tinh nhất thân vinh”. Tôi nói: “Thì lần này em nhất nghệ tinh”. Dũng bảo, thôi thôi xin cô, lần nào cũng lần này.

Lúc vào tiệm may tôi thấy một đám con gái hai chục đứa toàn nhà quê ngồi bên bàn máy, chả đứa nào nhìn tôi. Tôi định quay ra ngay, nhưng chị hàng thuốc đã chắn chỗ cạnh xe tôi, xin chị ấy đứng dậy để lấy xe ra là thành đồ con gì, vả lại lúc đó có tiếng gọi: “Này này em gì ơi, học hả?”

Ðấy là bà chủ tiệm đang lách bụng và mông qua đám con gái. Bà vừa lật lật một quyển vở mép cong tướn vừa nói: “Một trăm hai mươi kiểu nam nữ âu phục dân tộc phổ biến thời trang nhất hiện nay, sơ cấp hai trăm rưỡi, trung cấp bốn trăm, cả trung cả sơ thì sáu trăm giảm năm chục, cao cấp thì áo dài com-lê, thực hành ngay trên vải giáo viên vào loại tín nhiệm, nào em tên là gì?”

Nào em tên gì? Tôi nghĩ chắc bà bận lắm nên lễ nhập học của tôi phải xong ngay trong một tràng tiếng Việt cực trong sáng như thế. Sau này tôi gọi bà là cô Tuyết và thỉnh thoảng cũng gọi là u như cả đám học trò. Tôi rõ là người Hà Nội nên cả đám gọi tôi là chị xưng em. Sang ngày thứ hai, tôi được biết là có bốn giáo viên, hai thầy ở tầng trên dạy cắt, hai thầy ở tầng dưới dạy may, ngoài ra còn có một cô con gái của bà chủ chuyên vắt sổ, hai cô con dâu làm đủ thứ việc và một chị cũng người nông thôn lo cơm nước. Tôi không thấy có chút gì của Sài Gòn ở đây. Lúc ngồi vào cái máy Trung Quốc tập đánh suốt bằng chuôi kéo, tôi nghĩ mình vẫn có thể bỏ chạy. Những lớp học tiếng Pháp tiếng Anh và com-piu-tơ toàn dân thành phố có học và có tiền hoặc làm ra vẻ lịch sự có tiền. Lớp trang điểm cô dâu cũng lịch sự đúng là nghề son phấn. So với những chỗ ấy thì cái tiệm may Sài Gòn này là một toa tầu đen chật ních ước mơ; tôi đang mua vé đi suốt vào một tương lai treo đầy sơ-mi hàng chợ và áo gió đóng mác Nam Triều Tiên. Buổi tối Dũng hỏi học hành thế nào. Tôi bảo hay lắm, ba tháng thì em có thể mở tiệm. Tôi nghĩ việc đầu tiên là may một đôi quần đùi. Sẽ bọc vào giấy báo bảo Dũng về nhà hãy mở.

Cả bọn hai chục đứa tên toàn dấu sắc nghe phát ngốt. Tuất, Bích, Trúc, Ðát, Phúc, Thoát, Ngát, Thấm, Bắc... Bà chủ là Tuyết, cô con gái Xuyến, hai cô con dâu Phấn, Ðức, bốn thầy Quýt, Túc, Chiến, Thắng. Ở tầng trên suốt ngày vang vang chia mông cộng ngực trừ nách. Mông, ngực, nách. Ở dưới nhà chả ai nghe rõ ai nói gì, có hét lên thì quạt trần cũng vãi tung tiếng hét thành hạt vụn. Tôi nghĩ mình đi Trâu Quỳ trước khi kịp may đôi quần đùi. Cho nên khi con bé ấy bảo tên em là Lan thì tôi mến ngay, ở chỗ khác bọn con gái tên Lan toàn loại vô vị. Nhìn kỹ con bé ấy quả là không giống bọn tên dấu sắc còn lại. Nó đang ngồi cạnh tôi khều khều những ngón tay búp măng ngon như mật, cười đường may của tôi lên bờ xuống ruộng, thì bố nó ở quê ra bước vào tiệm. Cô Tuyết hỏi: “Bác mua sơ-mi hay quần thụng, hay xin học cho cháu?” Bố nó bảo dạ không dám, rồi mếu máo kể lể là đi tìm đứa con gái lên Hà Nội học may, ba tháng không thấy về, sáu tháng không thấy về. Cô Tuyết bảo: “Bác ơi Hà Nội này hàng trăm tiệm may.” Bố nó đáp: “Tôi đi tiệm này là thứ mười chín.” Bố nó đã ra đến cửa, cô Tuyết hỏi với: “Thế em nó tên là gì nhỡ đâu”. “Ở nhà gọi là con Chút”. Con bé Lan từ gầm bàn chui lên bảo tôi, bố em đấy. Hoá ra nó cũng tên dấu sắc.

Những ngày đầu tôi nghĩ mình dốt nhất lớp nên chỉ để ý vào việc học. Thứ tự công việc là tập may thẳng hàng trên vải vụn, rồi may cổ sơ-mi, rồi may măng-sét. Sang ngày thứ ba cô Tuyết bảo tôi lên gác học cắt sơ-mi cơ bản. Hai thầy Quyết và Túc hướng dẫn cho cả bọn không có tổ chức gì. Ðứa nào ới thầy ơi thì thầy đến, nếu không thì thầy Quyết còn trẻ nằm ngay trên bàn để hát, còn thầy Túc ngồi rung đùi tán chuyện. Thầy Quyết cởi trần. Thầy Túc áo chỉ khoác hờ để lộ bụng rất phệ. Thầy Quyết trông xinh trai. Thầy Túc nghề chính là giáo viên trường Ðại học Mỹ thuật, nên thường nói những chuyện làm cả đám học trò nhà quê không biết đường nào mà tin. Thầy Quyết chủ yếu dạy cắt cơ bản. Thầy Túc dạy những cách mô-đi-phê ăn chơi nghệ sĩ. Lúc tôi lên gác thì con bé Lan đang ướm một chiếc áo khoác màu hồng, thầy Túc vuốt mãi chỗ ngực áo, bảo chỗ này còn nhăn lắm phải lược lại, xong thầy bảo: “Xin lỗi nhé”, rồi luồn tay vào trong để kiểm tra lần lót. Thầy Quyết đang nằm ca cải lương nhổm dậy bảo: “Áo này mà mặc với bộ đầm bảy mảnh thì chết người!” Thầy Túc xì một cái, bảo đầm bảy mảnh quê bỏ mẹ, em Lan phải díp trắng đến đây này. Thầy khum hai bàn tay lượn một khoanh đùi con bé Lan để minh họa, rồi lại bảo: “Xin lỗi nhé, ở đây chẳng ai biết gì về nghệ thuật chán lắm em ơi.”


http://hoiquanphidung.com/userupload/hqpd/TiemMaySaiGon_1447818854.jpg
Tranh: Thắm Nguyễn

Tôi học toàn những kiểu may cơ bản của thầy Quyết. Theo cách cắt của thầy thì áo nào cũng giống áo nào, áo đàn bà thêm chút ngực, áo đàn ông bớt xệ vạt trước, áo trẻ con không trừ eo. Cho nên tôi học một buổi được hơn chục kiểu, một trăm hai mươi kiểu chắc là xong trong mươi ngày.

Xong áo cơ bản thì đến quần cơ bản, áo màu xanh nhờn nhợt còn quần màu tím, cô Tuyết bảo như thế bán cho người nhà quê mới hợp. Ngoài tiệm may cô là chủ nhiệm Câu lạc bộ Thơ Thăng Long, hai thầy Chiến và Thắng dạy may ở tầng dưới cũng là hội viên. Hai thầy đều già, thường dọa chúng tôi là cái nghề may này công phu lắm không phải chuyện đùa. Có hôm cô Tuyết cầm tờ Hà Nội Mới đọc ngân nga một bài thơ lục bát. Tôi vừa nghe thấy loáng thoáng thấy cỏ xanh rờn với nhịp cầu thân tình thì cô Tuyết la ầm lên: “Chết tôi không ân tình lại đánh thành thân tình, con Xuyến đâu lên toà soạn bắt họ đính chính, chữ nghĩa của người ta chứ phải chuyện đùa!” Hai thầy Chiến và Thắng cũng gật gù, ừ thân tình thì còn ra cái gì. Tấm bằng khen của Câu lạc bộ Thơ Thăng Long treo lẫn trên tường với những mẫu cổ áo, phải nhìn kỹ mới thấy.

Dù sao mặc lòng tôi đã không bỏ chạy. Khi câu chuyện tiệm may đã qua cũng như tiếng Pháp tiếng Anh, com-piu-tơ và trang điểm cô dâu, tôi lại chăm chỉ đến cơ quan ngồi đọc báo. Có thể sắp tới tôi đi học lớp thư ký giám đốc, nhưng cái tiệm may cái toa tàu chợ chật ních ước mơ nằm cạnh chỗ chắn tầu đầu đường Khâm Thiên ấy cứ rõ mồn một trong đầu. Ngồi ở cái bàn máy sát vỉa hè, tôi nghĩ khi nào tàu Thống Nhất bò qua có thể móc cái toa đen này vào cho chạy thẳng đến Sài Gòn. Sài Gòn thật. Ở đó những cái tên toàn dấu sắc sẽ mất dấu sắc. Chúng nó, những con bé bỏ làng đi hy vọng tạo mẫu thời trang bằng màu xanh nhờn nhợt và màu tím, sẽ học được nhiều hơn một trăm hai mươi kiểu, và tôi sẽ được chia tay có ưu thế với Dũng. Ở đây tôi chỉ mong Dũng cưới tôi mà chưa xong. Dũng là người thực tế. Hai đứa cùng đọc báo ở hai cơ quan thì không có gia đình. Tôi không đòi hỏi Dũng ngoài cơ quan phải biết chữa tivi hay rửa xe máy. Nhưng Dũng có những đòi hỏi. Tôi nghĩ truyền thống nước mình là đàn bà phải nỗ lực nên quyết đi học may.

Học được một tuần thì các thầy đều khen tôi thông minh. Tôi chia mông cộng ngực trừ nách đâu ra đấy, đám con gái tên dấu sắc nhiều đứa chưa hết lớp bốn tính mãi không ra. Con bé Lan đã xong lớp mười quả thực không giống bọn còn lại. Cả bọn cứ say đắm vào những cái áo có cổ xếp nếp và tay bồng thật nhiều, trông như những chiếc đèn lồng sắp bay lên trời. Tôi thường phải đứng mẫu cho những áo quần hớn hở của chúng, thụng, lửng, chun, ly, cánh dơi, đầm xoè, cổ Ðức, cổ Nhật... Chúng nó lấy cái dáng thành thị của tôi làm chuẩn, chuẩn rồi thì giành nhau mặc vào người, suốt ngày khúc khích cởi ra mặc vào tông hống giữa phố xá, bao nhiêu thẹn thùng xấu hổ đã gửi trả về thầy u ở quê hết rồi.

Con bé Lan một hôm bảo tôi là trên phố có bộ đồ chín trăm ngàn, chắc tiền công phải tám trăm, ở quê ăn chơi nhất là áo hai chục, tiền công được năm ngàn nhưng còn hơn làm ruộng. Sau áo khoác hồng nó đã may díp trắng đến đúng khoanh đùi mà thầy Túc đánh dấu. Thầy Túc bảo em Lan có gu lắm. Cô Tuyết thấy nó từ tầng trên xuống, xẹt qua tầng dưới để kiêu hãnh ra phố như cục phấn hồng viền một mẩu trắng thì gào lên: “Này đóng nốt tiền học đi chứ!” Con bé Lan ngoảnh đầu điệu nghệ như nghệ sĩ trên sân khấu bảo u ơi con có đâm vào xe lửa chết đâu mà u lo. Cô Tuyết quay ra bảo cả bọn: “Biết thế tao đã nộp quách cho bố nó cho xong, khổ thân ông già, con với cái học chả học chỉ xí xớn.”

Từ bàn máy sát vỉa hè tôi thấy nó chui qua thanh chắn, nhún nhảy trên đường ray. Giày cao gót của nó bị vướng. Nó ngã xoài ra mà không chịu dậy, cứ nằm thế nhe răng cười với cái đầu tầu đen sì đang sình sịch tới. Hôm sau nó bảo tôi, em chả việc gì phải tránh tàu, tàu nó tránh em chứ chị. Tôi chẳng còn chút tin tưởng nào vào mình sau tất cả những lần thử vận may bằng tiếng Pháp, tiếng Anh, com-piu-tơ và trang điểm cô dâu nên thấy nể lòng tự tin mù quáng của con bé. Nó thì lấy tiệm may Sài Gòn rởm này làm điểm xuất phát. Tôi thì lấy đây làm chỗ dừng. Tình bạn của chúng tôi ngắn ngủi như vận may. Hai tháng trời tôi chẳng được gì ở nó ngoài cái tên giả không có dấu sắc. Nó cũng chẳng được gì ở tôi. Cái con bé này cần nhất là trút bầu tâm sự. Nhưng luồn tâm sự vào tôi như luồn chỉ vào kim, được mỗi một sợi vất vả. Cho nên con bé Lan ở lì trên gác, chỉ xẹt qua tầng dưới để băng ra phố, mỗi hôm một xống áo. Rót lòng vào thầy Túc trên gác như rót vàng vào khuôn, thêm cái miệng xinh trai của thầy Quyết đệm nhạc mùi, con bé Lan đến ngồi cạnh tôi khều khều những ngón búp măng ngon như mật, là chỉ để hỏi phăng-ta-di là gì hở chị. Và băng ra phố. Bao nhiêu tâm sự còn lại trút cả vào xiêm y.

Tôi cũng thử một hôm nghênh ngang trên đường ray lúc chắn tàu. Buổi tối tôi bảo Dũng đấy là cảm giác mạnh, em chả việc gì phải tránh tàu, tàu nó tránh em. Uống xong nước mía bỗng nhiên Dũng ôm hôn tôi. Lưỡi hai đứa cùng ngọt như kẹo và môi rất dính, tôi cố gỡ môi ra bảo nếu đám cưới thì tiền mừng chắc đủ mua một cái máy. Dũng bảo tôi, thôi thôi lúc nào cũng nếu.

Tôi nghĩ đã đến lúc may đôi quần đùi nên mang vải lên gác nhờ thầy Túc. Vải cũng tầm thường, nhưng chắc thầy sẽ phăng-ta-di thêm vào. Trên gác không có ai ngoài thầy Quyết đang nằm trên bàn, ngay dưới cái quạt trần, vỗ bụng hát bài Lá diêu bông. Vài sợi tóc thầy bay trong bát nước rau ở mâm cơm cũng dọn trên bàn. Thầy hỏi cắt gì. Tôi bảo đôi quần đùi. Thầy bảo: “Như cơ bản, ống ngắn đi là được.” Tôi nghĩ không phăng-ta-di vào thì chẳng ra gì nên kiếm cớ sắp đến giờ các thầy ăn cơm để rút lui. Nhưng thầy Quyết ngồi dậy bảo đưa đây nào, rồi cắt xoẹt xoẹt, xong lại nằm xuống, tóc bơi trong nước rau.

Ở dưới nhà cô Tuyết đang lên cơn. Tháng trước cũng có một cơn. Một trong hai đứa cháu nội của cô được mười bốn tháng thường bò dưới những gầm bàn, thỉnh thoảng chúng tôi đạp máy nghiền vào nó chỉ bị nghe khóc điếc tai một lát. Hôm ấy nó nhặt được hai cái kim đút vào mồm, lúc cô Tuyết cho uống sữa đậu nành mới nhè ra. Cô Tuyết lên cơn thì đám con gái tên dấu sắc hết cởi ra mặc vào, đứa nào đang cởi truồng là vô phúc. Hai cô con dâu, mỗi cô lên một bên gác xép, từ trên đầu chúng tôi cô bên trái và cô bên phải thay nhau trả miếng mẹ chồng và tranh thủ móc kháy nhau. Dưới đất thì giãy đành đạch, lơ lửng trên không thì bốp chát rào rào, bao nhiêu của quý lẽ ra chỉ dùng riêng cho mình đem ra ấn vào mồm nhau, cô Xuyến là con gái ngồi vắt sổ thỉnh thoảng lại bình luận rất chua, hôm ấy tôi được biết cái tiệm may này thật sự có máu văn nghệ. Hai thầy trên gác một thầy hát, một thầy mỹ thuật. Dưới nhà thì thơ và thỉnh thoảng lên cơn. Lúc tôi cầm đôi quần đùi mới cắt đi xuống, mấy đứa con gái tên dấu sắc đang giữ bụng cô Tuyết cho nó khỏi bung, nhưng miệng cô thì không ai giữ được. Bình thường những tràng tiếng Việt cực trong sáng của cô còn kết thúc ở đâu đó, khi lên cơn chúng không bao giờ chấm hết, phải là người của tiệm Sài Gòn này mới thấm thía, các chị hàng thuốc và mấy bà bán đồ điện Liên Xô từ vỉa hè bên kia kéo sang cũng không chia sẻ được gì. Tôi từ trên gác bước thẳng vào giữa câu của cô: “... xong không dọn bàn là là xong không rút ỉa ra đấy rồi cút để gái già này vác bụng đi hầu mấy con đĩ non kia thì xí xớn học chả học may lên bờ xuống ruộng đơm cái cúc vênh váo như vác lồn cái khuyết thùa toe toét chỉ xí xớn tôi thì đuổi tuốt nhà này là nhà làm ăn tử tế toàn người có học có văn thơ hẳn hoi chứ là cái nhà thổ à không phải cái nhà thổ không phải cái chợ ai muốn ra thì ra vào thì vào thời buổi này không ai nuôi không ai tôi đây chẳng thương thì chó nó thương...”

Tôi dầm chân đứng mãi trong câu của cô chẳng muốn bước ra vì tự nhiên tôi thấy mình thật hạnh phúc, đời tôi về mọi phương diện so với cô Tuyết là một chuỗi may mắn, bụng tôi mới sáu hai rưỡi và tôi nói một tiếng Việt thong thả có dấu ngắt. Ðôi quần đùi bị thầy Quyết cắt như quần cơ bản đánh xoẹt không sáng tạo gì chỉ là một bi kịch rất nhỏ, nhờ con bé Lan may hộ có thể vẫn cứu vãn đợc, đường may của nó nuột như vẽ.

Con bé Lan ở đâu bước vào, có thầy Túc theo sau. Nó chạy bán xới lên gác, thầy Túc ở lại. Bụng thầy và bụng cô Tuyết là kỳ phùng địch thủ. Thầy bảo, này chị người ta cười cho đấy. Cô Tuyết vẫn ngâm tiếp bài thơ hiện đại phát khiếp của cô, chỉ tạt ra ngoài lề làm một chú thích rằng “anh tưởng anh có tài muốn làm gì thì làm hả tôi trả lương để anh đi dạy hay đi ngồi quán cà phê đây không phải cái nhà thổ đây không phải cái chợ.” Con bé Lan từ trên gác đi xuống. Nó lại mặc bộ tủ, áo khoác hồng và mini trắng. Giầy cao gót. Môi son. Tóc đổ như thác. Nó thả từng bước xuống, hai đùi hé so le, dừng lại trên mỗi bậc, hai đùi khép lại, cứ hé ra khép vào mê hồn như thế con bé tiến đến trước mặt cô Tuyết. Nó bảo: “U không thôi thì con ra đâm đầu vào xe lửa.”

Cô Tuyết cũng muốn lắm mà không thôi được. Khi lên cơn, những tràng tiếng Việt của cô không thể tự chấm hết.

Con bé Lan băng ra phố, chui qua thanh chắn nằm vắt ngang đường ray. Lúc chúng tôi nghe tiếng tàu phanh, xô cả ra thì đã muộn. Nó đứt thành ba đoạn, cặp đùi mê hồn xuôi về phía tiệm may, mái tóc đổ về phía dãy hàng hoa, áo váy một màu đỏ thắm phải nhìn kỹ mới thấy màu hồng và màu trắng. Chắc nó đã nằm ngửa mặt lên trời, chỗ ấy có chùm đèn giao thông treo lủng lẳng vào đường dây điện. Nó nằm đấy mỉm cười đếm nhẩm, một hai ba, cô Tuyết sẽ thôi chửi này, một hai ba, sẽ có ai đó xông ra bồng nó dậy... Con bé mới ở Hà Nội sáu tháng, nó không biết là ở đây chẳng ai buồn dây với họa. Giả sử lúc đó đang đứng sau thanh chắn, tôi cũng chỉ giương mắt nhìn thôi. Lần này tàu không tránh nó. Ðấy là tàu Thống Nhất chạy suốt vào Sài Gòn . Con bé Lan còn nợ tiền học bây giờ có thể gửi ba khúc thân lại Hà Nội mà đưa linh hồn lậu vé vào thẳng Sài Gòn. Ở đó nó có thể dùng tên thật. Ở đó bố nó tìm đằng trời. Tôi nhớ có người bảo con gái Sài Gòn đã đẹp thì đẹp hiện đại phô phang, con gái Hà Nội đã đẹp thì đẹp cổ điển quý phái. Con bé Lan chẳng có chút quý phái cổ điển nào nên phải bỏ Hà Nội này mà đi. Cái khuynh hướng trưng bày sốt sắng và hơi điên điên của nó, Hà Nội này không biết thưởng thức.

Tiệm may nghỉ việc một ngày để làm đám tang. Con bé Lan không có hộ khẩu Hà Nội nhưng chả ai biết địa chỉ của nó ở quê mà gửi xác nên cô Tuyết nhận là con nuôi để chôn ở Văn Ðiển. Cô mang hương hoa ra cúng ngay trên đường ray. Mỗi lần tàu chạy qua hương hoa nát bét, cô lại mang hương hoa mới ra cúng, một ngày mười mấy lần. Vừa cúng cô vừa vả đôm đốp vào mặt mình để xin con bé Lan tha cho. Một ngày ăn tát mười mấy lần để chừa cái tội ác mồm chứ không ác bụng. Từ trong tiệm may đám con gái tên dấu sắc đứng nép vào vai nhau nín thở nhìn ra, cả đời chúng nó chưa được thấy cảnh nào hồi hộp như vậy. Tôi thấy con bé Lan đang chu du trong Nam cứ chốc chốc lại phải lộn về Hà Nội để rộng lượng. Thầy Túc bảo hôm đó thầy dẫn nó đi trường mỹ thuật tham quan, trong ấy có khoa đì-dai thời trang, xong hai thầy trò ngồi quán cà phê để bàn xin cho nó bước đầu tạm vào ngồi mẫu rồi sau sẽ tính. Thầy không ra ngoài đường ray thắp hương mà đến nằm cạnh thầy Quyết trên bàn khóc: “Em ơi sao em phải tự trọng chết người thế em!” Tôi nghĩ mình chả còn chút tự trọng nào sau những gợi ý kết hôn chưa thành với Dũng, nên thấy sợ lòng tự trọng mù quáng của con bé. Chốc chốc tôi lại sởn gai ốc tưởng nó lộn về Hà Nội không phải vì khổ nhục kế của cô Tuyết mà chỉ để hỏi tôi đì-dai là gì hở chị

Hôm sau tôi mang đôi quần đùi đến may. Ở tầng dưới có chín bàn máy nhưng chỉ một chiếc không làm đứt chỉ, bình thường đứa nào đã chiếm được thì không chịu nhường. Hôm ấy tầng dưới vắng tanh. Tôi cắm kim, hạ chân vịt xuống xí chỗ ở chiếc máy tốt rồi lên gác. Ðám con gái tên dấu sắc đang bao vây thầy Túc đòi thầy cắt cho áo khoác hồng. Mỗi đứa một chiếc. Tôi nghĩ cả thầy lẫn trò đã hoá rồ. Kiểu này xong áo thì đến lượt hai chục chiếc mini trắng và cái dáng thành thị của tôi đương nhiên phải đứng ra làm chuẩn. Hai chục lần làm cục phấn hồng viền một mẩu trắng suông tình. Rồi chúng nó sẽ cải tên một lượt, bao nhiêu dấu sắc như kim gãy vứt xuống gầm bàn cho thằng bé mười bốn tháng nhặt đút vào mồm. Tôi tự nhủ phải bình tĩnh, đừng cuống lên đi tham quan trường mỹ thuật như chúng nó, nên xuống nhà may đôi quần đùi. Cắt đầu chỉ. Là. Rút bàn là. Luồn chun. Xong tôi lấy một tờ Hà Nội Mới có đăng tin buồn về con bé Lan gói lại cẩn thận. Sẽ bảo Dũng về nhà hãy mở. Tôi biết đấy là một đôi quần đùi xấu như cái ngã tư chắn tàu này.

Hôm sau nữa tôi vừa đến rơi ngay vào cuộc cởi ra mặc vào trắng hồng của bọn con gái tên dấu sắc. Cô Tuyết, cô con gái, hai cô con dâu, chị người ở và bốn thầy đứng ngây cả ra nhìn. Đàn bướm cái rào rào này hình như vừa dùng thuốc phiện, trong ngõ chợ cách tiệm mấy bước chân chuột cũng say thuốc lảo đảo qua đường. Tôi xong việc làm chuẩn hai chục lần đi ra thì cô Tuyết đưa cho gói giấy báo, bảo có anh gì gửi lại. Dũng chỉ viết là “Cảm ơn nhưng hiện không có nhu cầu.” Tối hôm qua lưỡi hai đứa lại ngọt như kẹo và môi rất dính. Tôi đã không gỡ môi ra để nhắc chuyện cưới xin, tôi biết đấy là lần hôn cuối.

Tôi định xin cô Tuyết trả lại một phần tiền học, sẽ nói thác là phải đi công tác đột xuất. Biệt phái Sài Gòn. Nhưng cô lại lên cơn, tôi không ngắt câu của cô được. Cô cứ chắp tay lạy bọn con gái tên dấu sắc mỗi đứa một áo khoác hồng một mini trắng đung đưa cười với phố xá. U lạy con u cắn rơm cắn cỏ con sống khôn chết thiêng Lan ơi Chút ơi đừng xí xớn cho u nhờ...

Tôi ra phố biệt phái Sài Gòn. Sắp tới có lẽ tôi đi học lớp thư ký giám đốc.


PTH - 1995
http://baotreonline.com/Van-hoc/Truyen-ngan/tim-may-sai-gon.html

BachMa
11-22-2015, 06:02 AM
Những Câu Chuyện Thật Ngắn
:40: :40: :40:

Một cô gái đưa ra 1 thử thách với người yêu mình:

“Chỉ cần anh có thể sống 1 ngày mà không có em, không nhắn tin, gọi điện hay gặp gỡ, em sẽ yêu anh cho đến ngày em chết”

Chàng trai vui vẻ đáp ứng và làm theo đúng những gì cô gái nói mà không biết đó là ngày cuối cùng cô gái phải chiến đấu với căn bệnh ung thư thời kỳ cuối.....

Ngày hôm đó, chàng trai chạy đến nhà cô gái với một nụ cười chiến...thắng. Nhưng rồi nụ cười đó vỡ oà theo những dòng nước mắt khi anh khuỵu xuống bên chiếc quan tài mà cô gái đang nằm.

Và khi chàng trai gỡ một mảnh giấy nhỏ mà cô gái đã cầm thật chặt trong tay trước khi chết, trái tim anh như vỡ ra từng mảnh.

Trên đó viết: "Anh đã làm được rồi, anh yêu. Anh có thể làm được nó mỗi ngày chứ? EM YÊU ANH


oooOooo

Một người bán dưa hấu đặt biển hiệu "một miếng dưa giá 30 nghìn đồng. 3 miếng dưa giá 100 nghìn đồng".

Một người đàn ông đến và mua một miếng dưa với giá 30 nghìn đồng, trả tiền xong ông mua thêm một miếng dưa nữa với giá 30 nghìn đồng, sau đó lại mua thêm tiếp lần nữa. Và rồi ông nói cho người bán dưa:
- Thấy chưa, tôi mua 3 miếng dưa hấu mà chỉ có trả với giá 90 nghìn đồng! Ông đúng là không biết buôn bán!

Người bán dưa liếc mắt nhìn vào ông ta:
- Đấy, lúc nào cũng thế, ai cũng mua hẳn 3 miếng dưa thay vì chỉ mua có 1, rồi còn dạy tôi bán hàng chứ...


oooOooo

Trên thiên đường, 2 người mới lên ngồi nói chuyện:
- Sao anh chết?
- Tôi bị 1 chiếc xe hơi đâm khi đang cố gắng bảo vệ 1 người.
- Tại sao?
- Tôi không muốn cô ấy bị tổn thương.
- Có lẽ anh yêu cô ấy rất nhiều nhưng anh có nghĩ cô ấy sẽ bị tổn thương vì cái chết của anh?
- Không ! Cô ấy đang rất hạnh phúc vì người tôi cứu là người cô ấy yêu...


oooOooo

Chú ơi, Mua giùm con vé số.
Im lặng!
Chú ơi, Mua giùm con vé số đi mà,nhe chú!

Thằng bé mặc chiếc áo sơ mi trắng còn đính cả phù hiệu của trường học tay cầm tập vé số dầy cộm mời hắn mua.
- Này cho cháu 10.000.Chú không mua. Hắn hờ hững rút tờ tiền nhét vào tay đứa bé.
- Xin lỗi chú. Cháu bán vé số chứ không đi xin. Nói rồi cậu bé quay lưng bỏ đi.
Hắn ngớ người vội chạy theo xin lỗi và mua 2 tấm vé số...


oooOooo

Con chó khi biết mình sắp chết, sẽ dùng đôi mắt nói lời từ biệt với chủ nhân. Sau đó kiếm một nơi bí mật nhất trong nhà, một mình đợi chờ cái chết.
Tại sao nó lại kiếm một nơi bí mật nhất trong nhà vậy ?

Một là, không thể đi xa hơn nữa khi còn lại chút hơi thở cuối cùng;
Hai là, hy vọng khi chết còn có thể bảo vệ ngôi nhà này.

Nhưng điều quan trọng hơn hết, nó không muốn chủ nhân nhìn thấy xác của mình, không muốn chủ nhân phải buồn !


http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1368588019.gif

BachMa
11-25-2015, 10:07 PM
Thằng Ăn Cắp
http://hoiquanphidung.com/userupload/hqpd/ThangAnCap_1448488924.jpg
Sư kể:

- Ở một làng nào đó bên xứ Ấn Độ, có một thương gia nghèo. Ðời sống khó khăn, nạn cường hào ác bá quá đỗi lộng hành khiến bác ta sống không nổi, phải bỏ đi một xứ xa sinh sống. Sống nơi đất khách quê người lâu ngày, lòng riêng vẫn tủi. Lại thêm tuổi đà xế bóng, tính ganh đua, lòng ham muốn cũng mỏi mòn. Một hôm chạnh nhớ cố hương, bác quyết định trở về. Bán hết tài sản lấy tiền mua vàng, gói vào một túi vải giấu trong túi hành lý khoác vai, bác lên đường về quê hương.

Trong vùng quê người thương gia, giữa một cánh đồng, dân trong vùng xây một ngôi chùa nhỏ để các nông phu buổi trưa ghé vào lễ Phật và nghỉ ngơi. Một cây bồ đề lâu năm che bóng rợp xuống một sân nhỏ lát gạch, một cái giếng khơi, nước mát và trong vắt, cũng là nơi cho khách bộ hành ghé chân nghỉ ngơi, giải khát, hoặc đôi khi ngủ qua đêm trong chùa. Chùa không có người coi. Phật tử trong chùa đều là nông dân. Lúc rảnh việc thì tự ý tới làm công quả quét tước, dọn dẹp, chăm sóc cho đám cây cỏ sân chùa lúc nào cũng hương khói quanh năm.

Sau nhiều ngày lặn lội đường xa, người thương gia về gần đến làng cũ. Trời đã xế trưa, nắng gắt. Ði ngang qua chùa, bác ghé vào nghỉ chân dưới gốc bồ đề. Ra giếng nước giải khát, rửa ráy sạch sẽ xong, bác vào chùa lễ Phật. Trong chùa vắng lặng. Bác thắp hương quỳ trước bàn thờ Phật. Ngước nhìn lên, nét mặt đức Thế Tôn vẫn trầm mặc như xưa nay, hơn mười năm qua không có gì thay đổi. Cảnh vật như đứng ngoài thời gian. Lễ xong, người thương gia rời chùa. Thấy bóng chiều đã ngả, đường về còn khá xa, bác liền rảo bước, bỏ quên túi hành lý trong chùa.

Buổi chiều hôm đó, một nông dân nghèo khổ trở về làng sau một ngày làm việc ngoài đồng. Ngang qua chùa, ngày nào cũng vậy, bác ghé vào lễ Phật trước khi trở về nhà. Lễ xong, bác trông thấy một túi vải to để gần bàn thờ. Bác ta nghĩ thầm: “Không biết túi vải của ai đi lễ đã bỏ quên. Nhỡ có người tham tâm lấy mất thì tội nghiệp cho người mất của. Âu là cứ mang về nhà rồi bảng thông báo để trả lại cho người ta.”

Về đến nhà, bác nông dân gọi vợ con ra, trỏ vào túi vải, nói:
- Ðây là vật người ta bỏ quên trong chùa. Nay mình cứ tạm kiểm kê rõ ràng, đầy đủ, mai mốt có người đến nhận đúng thì trả lại cho người ta.

Giở ra xem, thấy có gói vàng to, người nông dân nghiêm giọng dặn vợ con:
- Vàng của người ta là một vật rất nguy hiểm. Nó làm nảy lòng tham. Mọi điều bất chính, bất lương, mọi sự đau khổ cũng từ đó phát sinh. Mẹ con mày chớ có dúng tay vào mà khốn!

Bác cất cẩn thận vào rương, khóa lại.

Người thương gia rảo bước về gần đến làng, nhìn xa xa ráng chiều êm ả, những làn khói bếp vương vấn trên rặng tre quen thuộc. Cảnh xưa vẫn còn trong trí bác so với nay như không có gì thay đổi sau hơn mười năm xa cách.

Vừa đến cổng làng, người thương gia mới sực nhớ đã bỏ quên túi hành lý ở chùa. Lo sợ, hốt hoảng, bác vội quay lại con đường cũ, vừa chạy vừa kêu:
- Khổ thân tôi! Thế là tôi mất hết cả sản nghiệp dành dụm từ hơn mười năm nay! Bao nhiêu công lao trôi sống trôi biển cả rồi! Khổ thân tôi chưa!
Người đi đường ai thấy cũng ngạc nhiên.

Tới chùa thì cảnh vẫn vắng tanh, bên trong chỉ có một cụ già đang lễ Phật. Người thương gia vội túm lấy cụ già, hốt hoảng hỏi:
- Túi đồ của tôi đâu? Vàng của tôi đâu?

Cụ già ngạc nhiên:

- Túi đồ nào của bác? Vàng nào của bác?
- Thì cái túi hành lý tôi để quên hồi xế trưa trong chùa này!

Cụ già vẫn bình thản:

- Quả thật lão không thấy túi đồ của bác. Lão đã sống thanh đạm cả đời, nỡ nào trong chốc lát vứt bỏ lương tâm mà tham của người. Bác cứ bình tĩnh. Của mất, có duyên còn có ngày lấy lại, vô duyên thì của cầm trong tay cũng mất. Túi đồ của bác đã thất lạc, bác lại mất luôn cả cái tâm công chính, đỗ vấy cho người là cớ làm sao?

Gần đây có một xóm làng, buổi chiều nông dân thường lễ Phật trước khi về nhà. Bác thử tới đó hỏi xem. Thói thường, thấy vàng là tối mặt lại. Nhưng cũng còn tùy. Cũng còn có nhiều người tốt.

Người thương gia nghe ra, nhận thấy mình vô lý, bèn xin lỗi cụ già rồi theo lời chỉ dẫn, tiếp tục đi tìm. Tới làng, ông ta hỏi nhiều người mà không ai biết. Nghĩ rằng sản nghiệp dành dụm trong mười năm của mình nay phút chốc như chiếc lá vàng rơi theo gió đưa, biết đâu là bờ bến mà tìm! Ðành phó mặc cho bước chân tình cờ may rủi. Khi tới cuối làng, giữa vườn cây cối um tùm có một căn nhà lá nhỏ tồi tàn. Trước cửa treo một tấm bảng đen, với hàng chữ trắng viết to: “Tôi có nhặt được một túi vải bỏ quên trong chùa. Ai là chủ xin tới nhận lại.”

Người thương gia mừng quýnh đập cửa, gặp anh nông dân ra mở hỏi:

- Bác là chủ túi đồ bỏ quên trong chùa?
- Vâng, chính tôi. Tôi đã để quên trong chùa hồi xế trưa nay. Xin cho tôi nhận lại.
- Nếu đó là của bác thì bác phải nói xem túi đồ của bác như thế nào? Trong đựng những gì?

Người thương gia trả lời:

- Ðó là túi vải, trong đựng một ít lương khô đi đường.

Người nông phu nói:

- Thế thì không phải túi đồ của bác.
- Thú thật với bác, cũng còn một số vàng trong một gói vải khác màu đỏ.

Người nông phu nghe tả đúng các đồ vật và số lượng vàng đựng trong túi vải, biết chắc người tới hỏi là chủ nhân bèn mở rương ra, nói với người thương gia:

- Quả thật đó là túi đồ của bác. Xin mời vào nhận.

Người thương gia nhận đủ số vàng, lòng vui khôn tả. Bác thấy cảnh nhà người nông dân nghèo nàn mà lại không có lòng tham, để tỏ lòng biết ơn, bác chia đôi số vàng gói vào một miếng vải đưa cho người nông dân. Bác nói:

- Vàng của tôi tưởng đã mất, may sao lại gặp tấm lòng quý của bác. Tôi xin biếu bác một nửa để tỏ lòng thành thật biết ơn.

Người nông dân ngạc nhiên:

- Trả lại món vật không phải của mình chỉ là một việc bình thường, có ơn gì mà được đền?
- Bác đã làm một điều thiện. Ðược đền ơn là đúng lẽ.
- Làm việc thiện là nghĩa vụ tự nhiên. Đạo lý xưa nay vẫn dạy như vậy. Đó không phải là cái cớ để đòi hay nhận tiền thưởng. Vàng của bác do công sức làm ra thì bác hưởng. Tôi có góp công lao gì vào đó mà chia phần? Thôi, xin bác hãy để tôi được sống yên vui trong cái nghèo của tôi hơn là sống giàu có nhờ vào của cải người khác. Như thế cũng là một cách ăn cắp.

Người thương gia không còn lý lẽ gì để nói thêm bèn khoác hành lý lên vai, bất thần vất gói vải đựng nửa số vàng lên bàn rồi bỏ chạy. Ý định của ông ta là bắt buộc bác nông dân phải nhận sự đền ơn, nhưng bác vội nhặt gói vàng rồi đuổi theo, miệng hô hoán:

- Bớ người ta, thằng ăn cắp! Bắt lấy thằng ăn cắp.

Dân trong làng nghe tiếng hô hoán liền đuổi theo bắt được người thương gia dẫn trở lại trước mặt bác nông dân, hỏi:

- Hắn đã ăn cắp vật gì của bác?
- Hắn định ăn cắp cái tâm công chính và chân thật mà tôi có được từ ngày tôi học Phật!

-- Những người làm việc công mà đòi trả ơn,
làm việc thiện chỉ do tư lợi,
làm việc nước cốt vì quyền hành địa vị...
thảy đều.. không hiểu chuyện nầy!!

Tâm Ngôn

BachMa
11-28-2015, 07:44 PM
Truyện Cười Người Lớn
http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1371892382.gifhttp://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1371892382.gif

Trường mầm non, 1 bé trai hỏi cô giáo:
-Cô ơi, con nít có thể có thai không cô.
Cô giáo :
-Con nít không thể có thai được đâu con ạ !
Thằng bé liền chạy tới đứa bạn gái nói :
-Đó, cưng không phải sợ đâu


Một ông nông dân lái xe công nông chở con gái lớn ra tỉnh mua sắm. Ông mua cho cô gái một sợi dây chuyền vàng rất đẹp. Trên đường về hai bố con bị một toán cướp chặn đường cướp sạch cả xe lẫn đồ . Hai người thất thểu đi bộ tiếp. Ông bố nói:
– Đời không biết thế nào mà lần. Đang vui vẻ thế mà loắng cái đã mất hết cả. Tội nghiệp con bị chúng nó lấy mất cái dây chuyền đẹp.
Cô gái nhìn quanh, thò tay vào chỗ kín lấy ra sợi dây chuyền. Ông bố vừa mừng vừa ngạc nhiên. Ngẫm nghĩ một lúc ông nói:
– Chán quá, hôm nay mà mẹ con cũng đi cùng thì chúng ta bây giờ vẫn còn xe công nông để đi!


Trong lớp học, cô giáo hỏi Huy :
– Huy cho cô biết, trên cây có 10 con chim, một người thợ săn bắn chết một con, hỏi còn mấy con?
– Dạ, tiếng súng nổ làm chim bay đi hết, làm gì còn con nao?
– Sai, súng săn bây giờ là súng hơi, làm gì có tiếng nổ, còn 9 con. Tuy nhiên, cô rất thích kiểu suy nghĩ của em.
– Thế em đố lại cô 1 câu có được không ạ?
– Được.
– Có 3 cô gái cùng ăn kem, một cô cắn từng miếng kem một, một cô ngậm và mút que kem, một cô thì để cho kem chảy vào miệng rồi nuốt, hỏi trong 3 cô ấy cô nào đã có chồng rồi?
– Cô giáo suy nghĩ một lúc rồi đỏ mặt, bảo:
– Huy, em rất bậy, đi ra ngoài viết bản kiểm điểm.
– Huy trả lời:
– Thưa cô, người có chồng là người tay có đeo nhẫn cưới. Tuy nhiên, em rất thích kiểu suy nghĩ của cô


Vào nhà vệ sinh công cộng, vừa ngồi xuống thì một giọng nữ từ buồng bên kia vọng sang.
– Ới, anh có suôn sẻ không?.
Vốn không thích bắt chuyện với người lạ, nhưng khó mà từ chối giọng nói ngọt ngào đó, tôi trả lời: Ờ, tôi cũng ổn.
Giọng bên kia lại vọng sang: Anh cảm thấy thế nào?
Bắt đầu bực mình: Tôi thấy cũng thoải mái.
Giọng bên kia bối rối: Chắc em phải cúp máy thôi, vì cứ mỗi lần em hỏi anh thì có thằng cha mắc dịch ở buồng vệ sinh bên cạnh lại nhảy vô giành trả lời.


Trong công viên, cô gái hỏi chàng trai: Anh ơi sao mắt anh to thế? Chàng trai trả lời: mắt anh to vì hồi bé anh khóc nhiều. Cô gái tiếc nuối: Thế sao hồi bé anh không đi tiểu nhiều?

http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1405483401.gif

BachMa
12-02-2015, 09:30 PM
Li Hôn! (đọc lần nào cũng khóc)

Một căp vợ chồng đã lấy nhau được 20 năm thì quyết định li hôn. Nguyên nhân là từ khi kết hôn hai người luôn cãi vã, bất đồng ý kiến, tính cách không hợp. Nếu không phải lo cho con thì hai người đã đường ai nấy đi rồi. Dường như chỉ cần đợi con trưởng thành, không để cha mẹ phải lo lắng thì 2 người sẽ sống cuộc sống tự do của mình, không cần phải nhẫn nhịn những cuộc cãi vã vô nghĩa nữa.


http://hoiquanphidung.com/userupload/hqpd/LiHon_01_1449091422.jpg

Họ quyết định li hôn.

Sau khi ký đơn li hôn, 2 người đi ra từ văn phòng luật sư, người chồng đề nghị: “Ăn cơm cùng nhau một bữa nữa nhé!” Người vợ nghĩ rằng, tuy đã li hôn rồi, nhưng hai người cũng không phải là kẻ thù, ăn bữa cơm cũng chẳng có gì là không được cả.

Vào nhà hàng ăn, người phục vụ mang lên một đĩa cá chua ngọt, người chồng liền gắp một miếng cá cho người vợ và nói: “Em ăn đi! Đây là món ăn em thích nhất mà.”

Người vợ lúc ấy đỏ hoe 2 mắt, nói: Em thất vọng quá, tại sao anh cứ luôn khăng khăng làm theo ý mình, cái gì cũng tự mình đưa ra rồi quyết định, không quan tâm đến cảm nhận của em vậy. Kết hôn lâu như vậy rồi, lẽ nào anh không biết cả đời này món em ghét nhất chính là cá sao?”. Lúc này người chồng cũng nghẹn ngào nói: “Em luôn không hiểu tình cảm của anh dành cho em, lúc nào anh cũng nghĩ phải khiến em vui thế nào, luôn dành cho em những gì tốt nhất. Em biết không, cả đời này món mà anh thích nhất chính là————cá chua ngọt.”

Hai người yêu thương nhau như thế, lại vì những vấn đề không hợp nhau mà chia cách. Đây là vấn đề tình yêu, hay là vấn đề về hôn nhân?Sau bữa ăn ấy mỗi người một ngả, anh đi đằng đông thì cô đi đằng tây, 2 người đều sợ mình sẽ hối hận, nên giao ước là trong 1 tháng sẽ không gọi điện cho nhau.


http://hoiquanphidung.com/userupload/hqpd/LiHon_02_1449091444.jpg

Người chồng đi được 2 bước thì có điện thoại gọi đến, là điện thoại của người vợ. Anh do sự rất lâu, cuối cùng cũng không nghe. Anh trở về nhà, cả đêm cứ trằn trọc không ngủ được, trong lòng nóng như lửa đốt, dằn vặt vô cùng. Anh suy nghĩ rất lâu, cuối cùng đã gọi điện cho vợ thể hiện sự hối hận của mình.

Lại không có ai bắt máy cả. Sau khi gọi rất nhiều lần rồi, cuối cùng có người nhận, lại là giọng của 1 người đàn ông lạ: “Alo, xin chào!” Trong lòng người chồng như có dao cắt, không cách nào giải thích được.

Đang lúc giận dỗi tuan cúp máy thì đầu dây bên kia lại nói: “Cho hỏi anh là ai vậy?Trong điện thoại rõ ràng hiện lên 2 chữ: “ông xã.”

“Alo, tôi là chồng cô ấy, anh là ai?” Trong câu nói biểu lộ rõ ý thách thức. “À, tôi là bác sĩ, mời anh nhanh chóng đến bện viện XXX ngay, vợ của anh bị tai nạn, hiện đang cấp cứu!” Lời bác sĩ như sấm đánh ngang tai anh, anh lao nhanh đến bệnh viện. Hóa ra sau khi 2 người chia tay ngày hôm đó, tinh thần cô ấy không ổn, lúc qua đường bị xe ô tô đâm vào. Người vợ trước khi bất tỉnh đã gọi điện cho chồng, nhưng anh lại không bắt máy.

“Bác sĩ, vợ tôi thế nào rồi, ông nhất định phải cứu cô ấy! Tôi năn nỉ ông!” Nói rồi, anh quỳ gối trước bác sĩ. Bác sĩ liền đỡ anh ta đứng lên, “ Chúng tôi sẽ cố gắng hết sức cứu cô ấy, bây giờ đang phẫu thuật, đầu cô ấy bị va đập nghiêm trọng, cho dù có tỉnh lại cũng trở thành người thực vật. Anh phải chuẩn bị tinh thần!”

Người chồng hoảng hốt, bất an, anh cứ đi đi lại lại ở hành lang, “Nếu như cô ấy chết đi, tôi phải làm sao đây?Tôi làm thế nào mới đối diện được với chính mình?”

Đèn phòng cấp cứu đã tắt.

Các bác sĩ đẩy cửa bước ra, 1 vị bác sĩ già nhất đến trước mặt anh, “Chúng tôi đã cố hết sức, cô ấy có lẽ không sống được đến sáng mai. Anh vào thăm cô ấy đi, chuẩn bị hậu sự đi! Cô ấy đã không thể nói được nữa rồi!”

Anh dường như sụp đổ, đẩy cửa bước vào phòng.

Người vợ nằm trên giường đã không còn nhìn ra diện mạo, băng quấn quanh đầu chỉ chừa ra mắt và mũi. Người chồng đau như cắt, đến trước giường vợ nói: “Anh đến muộn mất rồi!” Nói chưa dứt lời, nước mắt anh đã trào ra!

Anh nhẹ nhàng nắm lấy tay vợ, ngạc nhiên thấy khóe mắt cô ấy đỏ hoe ướt ướt, hai hàng nước mắt làm ướt vải gạc, miệng cô khẽ mấp máy, hình như muốn nói gì đó.

Anh vội ghé tai sát vợ, giọng cô yếu ớt, ngắt quãng: “Em….đã điện thoại cho anh, chỉ là…….muốn…….nói với anh, trong tủ lạnh có sủi cảo, còn giấy bảo hiểm và sổ tiết kiệm trong ngăn kéo, mật khẩu là ngày sinh của anh, còn có mì sợi mà anh thích nhất, còn có………….em…………….yêu………” . Chưa nói dứt lời, cô không còn nói được nữa. Cô cũng không thở được nữa rồi.

Anh bật khóc nức nở. Đến lúc này đây cô vẫn nhớ căn dặn anh, nhớ tới món mì sợi! Kết hôn bao nhiêu năm, anh chỉ thấy cô ốm có 1 lần, mà món mì cô làm thì rất khó ăn!


http://hoiquanphidung.com/userupload/hqpd/LiHon_03_1449091476.jpg

1 tháng sau, người chồng mở giấy bảo hiểm trong ngăn kéo, ngày làm thủ tục bảo hiểm là ngày đăng kí kết hôn, người thừa hưởng tất nhiên là tên anh. Số tiền không lớn, chỉ có hơn 30 triệu, nhưng ở giữa có kẹp 1 giấy ghi chú, “Chồng yêu à, lúc anh thấy tờ phiếu này có lẽ em đang ở thế giới bên kia rồi. Cho dù chúng ta sau này có thế nào, nếu có lí hôn thì em vẫn muốn anh biết, tình yêu của em với anh trước sau không đổi, thiên chức làm vợ em không tiếp tục được nữa, cho dù em đi rồi, nhưng số tiền bảo hiểm này sẽ thay em, phần nào tiếp tục chăm sóc anh, giống như là em vẫn ở bên anh. Trên thiên đường em sẽ cầu chúc cho anh, yêu anh!”

Đọc những dòng này, anh nấc lên, khóc không thành tiếng. Cô ấy trước khi chết vẫn muốn nói “Em yêu anh”!

Sinh mệnh mong manh như thế, ngắn ngủi như thế, vậy thì chúng ta có nói được bao nhiêu lần “em yêu anh”? Thể diện cái gì, giận dỗi cái gì, trong tình yêu không nên quá cố chấp. Khoan dung một chút! Cảm thông một chút! Hiểu nhau một chút! Đừng để trong cuộc sống có những điều đáng tiếc như vậy! Nếu không thì bạn sẽ bỏ lỡ một người cả đời yêu bạn, cuối cùng chỉ nói được một lần câu “anh yêu em.” Lúc ấy thì có hối hận bao nhiêu đi chăng nữa cũng không thể nghe được lời bày tỏ yêu thương như vậy nữa! Chúng ta cũng chẳng có lí do gì để mà không nói với người mình yêu câu “anh yêu em” cả. Nói với cô ấy, để cô ấy biết tình cảm của bạn, cô ấy là bầu trời của bạn, là sự sống của bạn!

Phải đối xử với bản thân mình tốt một chút vì một đời người đâu có dài. Phải đối xử tốt với những người bên cạnh ta, vì kiếp sau đâu ai biết là còn có thể gặp nhau nữa hay không! Người ta nói: “Tu 100 năm được ngồi chung thuyền, tu 1000 năm mới cùng chăn gối.” Vậy nên, hãy biết trân trọng những hạnh phúc nhỏ nhoi và bình thường bên cạnh bạn.


iki.vn
http://blog.iki.vn/news/5589-li-hon!-doc-lan-nao-cung-khoc

BachMa
12-09-2015, 04:44 AM
Truyện Cười Người Lớn
:107: :107: :107:

Cô bé mới lớn, hay thắc mắc đủ mọi chuyện trên đời. Một hôm ra bãi biển thấy một cậu bé trai cởi truồng, cô bé quay sang hỏi mẹ:
– Mẹ ơi thằng bé kia có cái gì kìa?
Mẹ cô trả lời cho qua chuyện:
– Đấy là cái còi.
Cô bèn tiến lại gần cậu bé và chăm chú quan sát, một lúc sau cô bé háo hức trở lại nói với mẹ:
– Mẹ ơi, đúng là cái còi thật. Nhưng lạ lắm cơ, khi con thổi nó lại kêu oai oái đằng mồm ấy.


Trong công viên, một đôi trai gái đang tâm sự
Cô gái: Em tính đi giải phẫu nâng ngực? Ý anh sao?
Chàng trai: Em phải tôn trọng sự thật chứ, dù cho sự thật thế nào đi chăng nữa..
Một lát sau..
Cô gái: Anh thôi đi, sao cứ bóp méo sự thật mãi thế?


Có 2 vợ chồng tiều phu nọ! Sống nghèo nàn bên cạnh 1 khu rừng. Người chồng tên Ấn, mụ vợ tên Gái. Ban ngày người chồng vẩn vào rừng kiếm củi. Còn mụ vợ thì may vá. Được cái mụ vợ rất xinh nhưng tội là lẳng lơ, hay đua đòi.
Trong làng có tên Bá Hộ thấy sắc đẹp của mụ vợ cầm lòng không được, nên thường những lúc người chồng đi vắng thường lấy cớ nhờ vả may áo mà thả “Dê”. Mụ vợ vì ham tiền nên…lửa gần rơm…lâu ngày cũng bén.
Như thường lệ người chồng vào rừng lấy củi. Đợi chồng đi mụ vợ nhắn người tình qua để làm “chuyện ấy “.
Trong lúc cao trào, mây nước ngừng trôi. Bất chợt người chồng về. Mụ vợ hốt hoảng nói :
– Mụ vợ :”Anh ấn vô”.
– Tên Bá hộ nghe người tình thỏ thẻ vậy nên nghĩ mình chưa “làm đến nơi , đến chốn” nên làm “theo yêu cầu” bạn tình.
– Mụ vợ lại tiếp tục nói khẽ: “Anh ấn vô”
– Tên Bá hộ nghĩ trong đầu sao hôm nay nó sung thế!
Mụ vợ hốt hoảng khi thấy chồng vô đến sân giọng gấp rút “Anh ấn vô, Anh ấn vô”…
– Tên Bá hộ hì hục! hì hục!
– Mụ vợ hốt hoảng khi thấy chồng vô gần giọng líu lại : Anh ấn
vô, Anh ấn vô…
– Tên Bá hộ hù !ù !lúc này lực bất tòng tâm! tức quá khi nãy giờ nó cứ bắt mình Ấn vô liên tục!liền nhảy xuống đất chửi đổng.
“Tiên sư con đĩ! mày bảo ông ấn thế nào được nữa hả! Sức người cũng có hạn chứ có phải trâu bò đâu hả.


Adam và Eva sống bên nhau rất hạnh phúc. Một bữa gặp Đức Chúa, Adam hỏi:
– Thưa Đức Chúa, Eva thật xinh đẹp. Tại sao Người lại làm cho nàng đẹp thế?
– Để lúc nào con cũng muốn ngắm nàng.
– Làn da của nàng mới mịn màng làm sao!
– Để con lúc nào cũng muốn chạm vào nàng chứ!
– Nàng có một mùi thơm thật dễ chịu.
– Để lúc nào con cũng muốn quấn quýt bên nàng chứ!
– Thật tuyệt vời, sự tạo hóa của Người thật vĩ đại làm con vô cùng biết ơn. Nhưng có một điều mà con cứ thắc mắc là tại sao Đức Chúa lại làm cho nàng ngốc nghếch thế?
– Thế thì nàng mới yêu con chứ!


Trong phiên toà xữ án một vụ hiếp dâm, ông luật sư bảo vệ cho bị cáo hỏi cô gái bị hiếp.
-Luât sư: Cô nói, cô đang đi trên khúc đường vắng, thì bị cáo bất
ngờ ôm cô và đẩy vô vách tường hiếp, đúng không?
-Cô gái: Vâng, đúng.
-Luật sư: Như vậy là hiếp đứng, đúng không?
-Cô gái: Vâng, đúng.
-Luật sư hỏi tiếp: Cô cao bao nhiêu?
-Cô gái: Khoảng thước tư.
-Luật sư: Cô cao thước tư mà bị cáo cao hơn thước bảy làm sao hiếp đứng được?
-Cô gái lật đật trả lời: Thì tôi nhón lên


http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1368589891.gifhttp://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1368589891.gif

BachMa
12-19-2015, 03:05 AM
Truyện Cười Người Lớn

http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1389577133.gifhttp://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1389577133.gifhttp://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1389577133.gif

Trong 1 cuộc thi Hoa Hậu, vì dã dến lúc phải chấm điểm coi ai sẽ thắng cuộc nên ban giám khảo ra câu hỏi cho 3 cô đẹp nhất.
Trong người cô có mấy cái miệng?
Ba cô đều trả lời : 2 cái
Ban giám khảo lo lắng hỏi tiếp:
Cái nào già hơn?
Cô thứ nhất: Cái dưới già hơn cái trên vì cái trên không có râu nhưng cái dưới có râu
Cô thứ hai: Cái dưới già hơn cái trên vì cái trên còn răng mà cái dưới móm xọm hà.
Cô thứ ba: Của ai thì em không biết chứ của em thì cái trên già hơn cái dưới vì cái trên cuả em lâu lâu mới bú còn cái dưới thì mới bú tối hôm qua.


Giờ sinh vật Cô giáo giảng bài, cuối lớp có 2 nhóc quậy đang đánh ca rô.
Cô: Tèo và Tí tại sao không chịu nghe giảng? Tèo hãy trả lời cho cả lớp - Vì sao nuôi con bằng sữa mẹ tốt hơn sữa bò?
Tèo vẻ mặt rất hớn hở tỏ ra rất thuộc bài nhanh nhảu trả lời ngay:
Thưa Cô vì sữa mẹ có các ưu điểm sau :
1. Sữa mẹ khi uống không cần pha.
2. Khi đi chơi xa không cần bình thuỷ nước sôi, ly tách, muỗng chi cho lỉnh kỉnh.
3. Không cần đậy đằng gì mà kiến gián cũng không bao giờ vô được. Và cuối cùng là cái bình sữa lại rất đẹp ạ!
Cô tức quá nhưng nén giận hỏi thêm: Dzậy nó không có nhược điểm nào sao????
Tèo: Thưa cô có ạ; thỉnh thoảng có mùi thuốc lá và rượu bia ạ!
Cô!!!!!!!!!!!!!!!!!!!


Ông chồng đi tắm sau khi vợ vừa mới tắm xong, đúng lúc chuông cửa reo.
Vợ vội quấn khăn tắm vào và chạy xuống mở cửa. Cửa mở thì ra là ông hàng xóm Bob. Chị vợ chưa kịp nói gì thì Bob bảo:
– Tôi sẽ cho chị 800 đô nếu chị buông cái khăn tắm kia ra.
Suy nghĩ 1 chút rồi chị vợ buông khăn tắm, đứng trần truồng trước mặt Bob. Sau vài giây ngắm nghía, Bob đưa 800 đô cho chị vợ rồi đi. Chị vợ quấn lại khăn tắm vào người rồi đi lên nhà.
Vào đến phòng tắm, chồng hỏi: "Ai đấy em?"
– Vợ: "ông Bob hàng xóm."
– Chồng: "Tốt, thế hắn có nói gì đến số tiền 800 đô hắn nợ anh không?"


Một Đại Úy vừa nhậm chức và một cô Thư ký không những trẻ đẹp, lại bặt thiệp và lịch sự, được bổ nhiệm dưới quyền của ông.
Một hôm, trong khi làm việc, cô Thư ký thoáng thấy cái khuy quần ông Đại Úy quên cài; khi rời phòng việc, cô nhắc khéo ông Đại Úy một câu: "Thưa Đại Úy, cái cổng trại của Đại Úy chưa đóng ạ!"
Thoạt nghe, ông không hiểu cô Thư ký muốn nói gì, nhưng sau đó, ông phát giác ra cái khuy quần chưa cài, ông bèn nghĩ ra cách để nghịch cho đỡ ngượng.
Hôm sau, ông hỏi cô thư ký: "Hôm qua khi cô phát giác cái cổng trại rộng mở, cô có thấy anh lính đứng nghiêm gác cổng chứ?"
Cô Thư ký cũng dí dõm không kém, trã lời: "Dạ không ạ! Em chĩ thấy một anh thương binh già ngồi giửa hai cái túi vải nhà binh thôi ạ!"


Một cô gái chạy đến đồn cảnh sát thở hổn hển, tố cáo là mình vừa bị cưỡng hiếp… Viên thanh tra hỏi:
– Có chuyện gì vậy?
– Xin ông giúp tôi. Ở ngõ vắng đằng kia có một kẻ đần độn vừa cưỡng bức tôi.
– Nhưng sao cô biết đó là kẻ đần độn?

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1371892441.gifhttp://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1371892441.gif

BachMa
12-22-2015, 08:37 PM
Mười Câu Chuyện Ngắn (thật ngắn)
http://hoiquanphidung.com/userupload/hqpd12_2015/Bear_Rose_1450816300.gif

Câu chuyện thứ nhất:
Một cậu học trò lớp ba viết rằng cậu muốn trở thành một diễn viên hài trong bài tập làm văn của mình. Người bố phê: “Không có chí lớn”, còn thầy giáo nói: “Thầy chúc em mang tiếng cười cho toàn thế giới”.

Là người lớn, chúng ta nên khuyến khích, cổ vũ hơn là đặt ra những yêu cầu quá cao đối với trẻ con. Hơn thế, chúng ta hãy mở rộng khái niệm thành công để trẻ con thoải mái tung đôi cánh ước mơ của mình.


Câu chuyện thứ hai:
Ăn cơm xong, mẹ và con gái rửa chén bát trong bếp, bố và con trai ngồi xem ti vi. Bỗng nhiên có tiếng đổ vỡ dưới bếp, sau đó im bặt. Con trai nói: “Con biết chắc mẹ vừa làm bể chén bát”, bố hỏi: “Tại sao con chắc như thế?”, con trai trả lời: “Vì không nghe tiếng mẹ la”.

Chúng ta luôn đánh giá người khác và đánh giá bản thân qua những tiêu chuẩn nào đó, thường khó khăn với người khác nhưng lại rất dễ dãi đối với mình.


Câu chuyện thứ ba:
Người ăn mày nói: “Bà có thể cho tôi xin một ngàn không?”, người qua đường trả lời: “Nhưng tôi chỉ có năm trăm”, người ăn mày bảo: “Vậy bà thiếu tôi năm trăm nhé”.

Nhiều người trong chúng ta luôn cho rằng ông trời mắc nợ mình, cho mình không đủ, không tốt nên lòng tham đã che mất thái độ biết ơn.


Câu chuyện thứ tư:
Người vợ đang nấu ăn trong nhà bếp, người chồng đứng bên cạnh nhắc nhở: “Cẩn thận, coi chừng khét!”, “Sao em bỏ ít muối thế?, “Ơi kìa, nước đã sôi rồi, em cho thịt vào đi”. Người vợ bưc bội: “Anh làm ơn đi ra ngoài giùm em! Em biết nấu ăn mà!”. Người chồng mỉm cười: “Ừ, có ai bảo em không biết nấu ăn đâu. Anh chỉ muốn em hiểu được cảm giác của anh như thế nào khi đang lái xe mà em ngồi bên cạnh cứ lải nhải”.

Học cách thông cảm người khác không khó, chỉ cần chúng ta đặt mình vào hoàn cảnh của người khác.


Câu chuyện thứ năm:
A nói với B: “Khu nhà tôi vừa dọn về một ông hàng xóm bất lịch sự. Tối hôm qua, đã gần một giờ sáng rồi mà ông ta còn qua đập cửa nhà tôi rầm rầm”.
B hỏi: “Thế anh có báo cảnh sát không?”.
A trả lời: “Không, tôi mặc kệ ông ta, xem ông ta như thằng điên vì lúc ấy tôi đang tập thổi kèn saxophone”.

Chuyện gì cũng có nguyên nhân, nếu biết trước lỗi của mình thì hậu quả sẽ khác đi. Tuy nhiên, chúng ta lại thường ít khi thấy mình sai, nhưng lại dễ dàng thấy người khác sai.


Câu chuyện thứ sáu:
Hai cha con đi ngang qua một khách sạn 5 sao. Trông thấy một chiếc xe hơi xịn rẽ vào, cậu con trai nhận xét:
- Những người ngồi trên chiếc xe ấy đều có trình độ học vấn rất thấp!
Người cha ôn tồn đáp lại:
- Người vừa phát biểu câu ấy là người hiện trong túi không có lấy một đồng xu!

Con người thường có thái độ “ghen ăn tức ở”, khi nói ra điều gì, nhận xét việc gì đều thể hiện trình độ và “đẳng cấp” của mình. Bởi vậy hãy thận trọng!


Câu chuyện thứ bảy:
Có hai đoàn khách nước ngoài đến tham quan một địa điểm du lịch sinh thái. Do trời mưa nên đường dẫn vào khu “Kỳ hoa dị thảo” lầy lội. Người hướng dẫn của đoàn thứ nhất bảo: “Xin lỗi quý khách, chúng ta không thể đi tiếp”. Còn người hướng dẫn đoàn thứ hai suy nghĩ một thoáng rồi nói: “Để quý khách thấy rằng việc tìm kiếm kỳ hoa dị thảo khó khăn như thế nào, Ban giám đốc công ty đã cố tình tạo con đường lầy lội cho quý khách có thêm cảm xúc thực tế”.

Hoàn cảnh khác nhau, quan điểm khác nhau sẽ nhìn một sự vật không giống nhau. Tư tưởng kỳ lạ như thế đấy bạn ạ! Nếu bạn chịu suy nghĩ thì quyền quyết định hoàn cảnh nằm trong tay bạn.


Câu chuyện thứ tám:
Một phụ nữ vào tiệm kim hoàn, trông thấy hai chiếc vòng đeo tay giống nhau như đúc, một chiếc giá 2 triệu, một chiếc giá 20 triệu. Không chần chừ, bà ta liền lấy chiếc 20 triệu vì nghĩ rằng đắt tiền chắc chắn sẽ là đồ tốt. Khi vừa quay lưng bước đi, bà nghe nhân viên nói với nhau: “Không ngờ chỉ vì đính sai bảng giá mà chúng ta lời đến 18 triệu đồng!”.

Hãy xem, lắng nghe và kiểm định. Đó là lời khuyên trong câu chuyện này. Có nhiều thứ tưởng vậy, thấy vậy, nghe vậy mà không phải vậy, đừng vì chủ quan, tin vào suy nghĩ của mình mà lầm to.


Câu chuyện thứ chín:
Hai vợ chồng vào xem triển lãm tranh của các họa sĩ trẻ, trong đó có một bức tranh của con trai họ. Người vợ đi rất nhanh, mắt chỉ kịp lướt vào tên của tác giả ở mỗi bức tranh. Một lúc sau không thấy chồng, người vợ quay lại tìm. Người chồng đang đứng trước một bức tranh say sưa ngắm nhìn. Bức trang ấy lúc nãy người vợ đã xem qua. Bà bực bội nói: “Ông đứng đó làm gì vậy? Sao không đi tìm bức tranh của con mình?”. Người chồng quay sang nhìn vợ: “Đây là tranh của con mình nè, nó quên ký tên trên bức tranh”.

Trong cuộc sống, có người chỉ lo chạy băng băng nên đã không thể tìm thấy thứ mình cần tìm, đánh mất cơ hội được thưởng thức hoa nở hai bên đường.


Câu chuyện thứ mười:
Tại buổi lễ tốt nghiệp ở một trường cấp hai, thầy hiệu trưởng đọc tên học sinh xuất nhất trong năm học. Đọc đến lần thứ ba mà vẫn không thấy ai đi lên sân khấu. Thầy hiệu trưởng nhìn xuống, hỏi cậu học sinh xuất sắc đang bình thản ngồi bên dưới:
- Em không nghe thầy gọi tên à?
Cậu học sinh đứng lên, lễ phép:
- Dạ, thưa thầy em đã nghe. Nhưng em sợ các bạn chưa nghe thấy ạ!

Danh và lợi đã vô tình trở thành chiếc lồng nhốt chúng ta vào trong ấy. Chúng ta luôn giáo dục con em mình phải cố gắng học thật giỏi, phải trở thành nhân vật xuất sắc nhất nhưng lại ít khi dạy các em tính khiêm tốn.

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1368588019.gif

BachMa
12-30-2015, 09:16 PM
BachMa & nguyenphuong kính chúc
quý độc giả cùng quý anh chị thành viên Hội Quán Phi Dũng
một năm mới dồi dào sức khỏe, an khang thịnh vượng.

http://hoiquanphidung.com/userupload/hqpd12_2015/NewYear_2016_1451510113.jpg
http://hoiquanphidung.com/userupload/hqpd12_2015/550_001_1451509325.gif
http://hoiquanphidung.com/userupload/hqpd12_2015/Auld Lang Syne - Kenny G_1451509459.mp3

BachMa
01-19-2016, 08:50 PM
Ba Chuyện Tình

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1368298711.gif

Tình Bạn: Tại Sao Anh Khóc?

Một anh nọ đến gõ cửa nhà anh bạn Bedouin để nhờ vả:
“Tôi muốn anh cho tôi mượn bốn ngàn dinar vì tôi phải trả nợ. Anh giúp tôi được không?”

Anh bạn bảo vợ gom hết mọi thứ giá trị họ đang có, nhưng cũng không đủ. Hai vợ chồng phải đi mượn hàng xóm cho tới khi gom đủ số tiền.

Khi anh nọ đi rồi, vợ thấy chồng mình khóc.
“Sao anh lại buồn? Giờ đến lượt hai vợ chồng mình lại nợ hàng xóm, có phải anh sợ mình không trả nợ nổi?”
“Chẳng phải vậy đâu! Anh khóc vì anh ấy là người anh rất quý mến, vậy mà anh chẳng hề biết anh ấy gặp hoạn nạn. Anh chỉ nhớ tới anh ấy khi anh ấy đến gõ cửa hỏi mượn tiền.”


Tình Mẹ: Không Chịu Buông Tay

Vài năm về trước, vào một ngày mùa hè, một cậu bé quyết định đi bơi ở con sông gần nhà. Trời thì nóng mà nước sông thì mát, cậu mừng rỡ nhảy ào xuống, bơi ra giữa sông mà không để ý rằng một con cá sấu đang bơi lại phía sau!

Cùng lúc đó, mẹ cậu bé đang ở trong nhà và khi nhìn ra cửa sổ, bà hoảng hốt khi thấy con cá sấu tiến ngày càng gần cậu con trai hơn! Hoảng sợ tột độ, bà mẹ lao ra, nhanh gấp nhiều lần cậu bé khi cậu chạy đi bơi, vừa chạy, vừa hét gọi con trai. Nghe tiếng mẹ gọi, cậu phát hiện ra con cá sấu và bơi ngược trở lại về phía bờ. Nhưng quá muộn, đúng khi cậu bơi tới bờ thì cũng là lúc con cá sấu đớp được chân cậu! Từ trên bờ, người mẹ chậm một giây, chộp lấy cánh tay cậu. Và bắt đầu một trận kéo co không cân sức. Con cá sấu khoẻ hơn người mẹ rất nhiều, nhưng người mẹ còn quá nhiều tình thương và không thể buông tay. Lúc đó, một bác nông dân đi qua, nghe tiếng kêu cứu vội vã của người mẹ nên đã vội vã lấy một chiếc gậy to ra cùng chiến đấu với con cá sấu! Con cá sấu đành thả chân cậu bé ra.

Sau hàng tuần, hàng tuần trong bệnh viện, cậu bé đã được cứu sống. Nhưng chân cậu có một vết sẹo rất to, trông rất khủng khiếp – bằng chứng của lần bị cá sấu tấn công. Một phóng viên tới gặp cậu bé khi cậu đã hoàn toàn bình phục. Phóng viên này hỏi cậu bé có thể cho xem vết sẹo được không. Cậu bé kéo ống quần lên, để lộ vết sẹo cho phóng viên chụp ảnh. Và phóng viên nọ đã nói rằng vết sẹo này cậu bé sẽ không thể nào quên! - Không đâu, hãy nhìn tay cháu đã! – cậu bé nói rồi kéo tay áo lên. Trên tay áo của cậu là một vết sẹo to, thậm chí còn sâu hơn cùng với những vết cào xước rất đậm và kéo dài do móng tay của mẹ cậu – khi người mẹ dồn tất cả sức lực và yêu thương để giữ lại đứa con trai yêu quý. Cậu bé nói với phóng viên:- Chính vết sẹo này cháu mới không bao giờ quên được! Và cháu tự hào về nó, tự hào vì mẹ cháu đã không chịu buông tay.

Trong cuộc sống những người cha – người mẹ luôn như thế đấy, họ yêu đứa con của mình bằng cả trái tim và chấp nhận hy sinh, chấp nhận đau đớn và níu giữ lấy ngay cả những hy vọng nhỏ nhoi, mong manh nhất chỉ cần đứa con mình được sống, được no đủ và êm ấm.

Bất cứ người cha, người mẹ nào cũng sẽ không bao giờ buông tay khi con mình đang ở trong tận cùng hiểm nguy. Nơi bình yên nhất, chính là trong vòng tay gia đình thân yêu!

Gia đình chính là nơi bình yên và luôn dang tay che chở ta. Là nơi ta tìm về khi mệt nhoài trên con đường đời đầy rẫy chông gai.


Tình Người: Tiếng Đóng Cửa

Tôi mới chuyển đến nơi ở mới, cứ gần nửa đêm đang lúc ngủ ngon, tôi bị thức giấc vì tiếng đóng cửa rất mạnh ở lầu trên và tiếng chân lộp cộp rất khó chịu.

Nhiều ngày kế tiếp nhau, vẫn tiếng đóng cửa và tiếng dép vào đúng giờ ấy khiến tôi không sao chịu nổi.
Mẹ tôi khuyên: "Thôi con à, chúng ta mới đến, con đừng vội, kẻo làm mất lòng hàng xóm".

Tôi đem chuyện ra than thở với mấy người trong xóm. Có người khuyên: "Bà và chị cố gắng chịu đựng tiếng đóng cửa đó một thời gian. Chắc sẽ không lâu đâu..."
Rồi người ấy nói tiếp: "... Nửa năm trước, người cha bị tai nạn xe qua đời; người mẹ bị ung thư, liệt giường, không đi lại được. Tiếng đóng cửa đó là của người con. Hoàn cảnh khá đáng thương, xin bà và chị thông cảm!

Cậu thanh niên này mới chỉ độ 16 tuổi. Tôi tự nhủ: "Trẻ người non dạ, cố chịu đựng thôi".
Thế nhưng, tiếng đóng cửa vẫn tiếp tục xảy ra. Tôi quyết định lên lầu nhắc nhở.
Cậu bé mở cửa, hốt hoảng xin lỗi: "Dì thứ lỗi, cháu sẽ cố gắng cẩn thận hơn..."
Thế nhưng, cứ khi tôi vừa thiu thiu giấc ngủ, tiếng đóng cửa quen thuộc lại vang lên đập vào tai tôi như thách thức.

Mẹ tôi an ủi: "Ráng đi con, có lẽ nó quen rồi! Từ từ mới sửa được..."
Rồi khoảng một tháng sau, đúng như lời mẹ nói, tiếng đóng cửa đột nhiên biến mất.
Tôi nằm trên giường nín thở lắng tai nghe, tiếng khép cửa thật nhỏ, và bước chân nhẹ nhàng cẩn thận.
Tôi nói với mẹ: "Mẹ nói đúng thật!"
Nhưng tôi bỗng bất ngờ… khi thấy hai mắt mẹ tôi ngấn lệ.

Mẹ tôi nghẹn ngào nói: "Mẹ thằng bé trên lầu đã ra đi rồi, tội nghiệp thằng bé, ban ngày đi học, đêm đến quán chạy bàn. Nó cố gắng đi làm thêm để kiếm tiền chạy chữa cho mẹ, nhưng rồi bà ấy vẫn không qua khỏi.
Trong tình hàng xóm, tôi sắp xếp thời gian viếng xác người phụ nữ ấy.
Cậu bé cúi thấp đầu, tiến đến gần tôi và nói: "Dì! Nhiều lần cháu làm Dì mất ngủ, cháu xin Dì tha lỗi".

Rồi cậu nói trong tiếng nấc: "Mẹ cháu mỗi ngày một yếu, nói không được, nghe không rõ, cháu đóng cửa mạnh để mẹ biết cháu đã về, có thế bà mới an tâm ngủ. Nay mẹ cháu không còn nữa, Dì ạ..."
Nghe câu chuyện, tôi bỗng cảm thấy như bị ù tai, lệ từ hai khóe mắt tôi bỗng tuôn trào ra...
Tôi thấy mình quả là vô tâm, thiếu cảm thông với hoàn cảnh của người khác.

Cảm thông là tối cần trong các mối quan hệ và lòng khoan dung là quà tặng đáng giá nhất trên đời. Xin Bạn đừng bao giờ khép lại lòng mình lại.

Cầu mong cho con người chúng ta luôn hướng đến một nhịp đập trái tim quảng đại, tấm lòng vị tha, nhân ái, vượt qua những suy nghĩ tầm thường, để mặc lấy tâm tình yêu thương.

Tạo hóa ban tặng riêng chỉ có ở "Con Người"...

(BachMa sưu tầm)

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1368588019.gif

BachMa
01-25-2016, 10:32 PM
Kể Chuyện Bằng Tiếng Anh

Giáo viên dạy Anh nói chuyện với một giáo viên khác :"Tui không thể chịu nổi sao lại có đứa học trò thế này.
Chuyện là tôi có ra một bài làm là hãy kể một câu chuyện ngắn bằng tiếng Anh , rồi nó kể câu chuyện về hoàng tử và công chúa".
Giáo viên kia thắc mắc: Vậy có gì không ổn?
- Không ổn là bài làm của nó như thế này:... "Hoàng tử và công chúa gặp nhau tại lâu đài. Hoàng tử hỏi :"Can you speak Vietnamese?" Công chúa trả lời:"Sure". Thế là sau đó cả bài văn nó toàn viết bằng tiếng Việt hết.


Bệnh Nặng

Có một bệnh dịch tràn lan ở một thị trấn nọ. Bệnh dịch lớn và ảnh hưởng mạnh đến nỗi tất cả các nhà thuốc trong thị trấn đều chật kín người đứng xếp hàng mua thuốc.
Bỗng có một anh chàng gương mặt hốc hác tất bật hối hả chạy đến một nhà thuốc và hét to "Xin mọi người làm ơn cho tôi mua trước. Có người đang phải nằm trên giường chờ tôi".
Mọi người đều lịch sự và thương cảm nhường chỗ cho anh vị trí đầu. Anh chạy thật nhanh đến chỗ quầy thuốc và nói "Bán cho tôi 5 cái BCS (Bao Cao Su)".


Chắc Chắn Là Thế Rồi

Trong lớp học, cô giáo đang giảng bài.
- Cô giáo : Người khôn ngoan luôn luôn biết nghi ngờ, còn kẻ ngu dốt thì lúc nào cũng tuyên bố chắc chắn.
- Vova: Thưa cô ! Cô tin chắc chứ ?
- Cô giáo: Chắc chắn.


Xác Nhận Vấn Đề

Vova thường ngồi chung xe bus với Natasa. Một hôm, Vova lấy hết dũng cảm dúi cho Natasa một mẩu giấy, trên đấy viết:
- "Tôi rất thích bạn, nếu bạn đồng ý kết bạn với tôi thì hãy đưa lại mẩu giấy này cho tôi, còn nếu không đồng ý thì hãy vứt nó qua cửa sổ".
- Một lúc sau Natasa chuyển lại mẩu giấy cũ, Vova vui mừng mở ra xem, trên giấy viết: "Không mở được cửa sổ!"


Bánh Xe Bể Lốp

Có một em tuổi "teen" dậy muộn, vừa dắt xe ra khỏi cửa thì lốp xẹp lép do hết hơi.
Dắt xe ra đầu đường, vừa trông thấy anh thợ sửa xe, cô nàng liền gọi to: - Anh ơi, "bơm em phát"!
Anh thợ sửa xe nhìn vào lốp rồi đáp: - Non thế bơm cái gì?
Đang vội nên cô gái nhanh nhẩu: - Tối qua em vừa sờ rồi, không thủng đâu, cứ bơm đi!
Anh sửa xe nhìn cô và lắc đầu nói "thôi được quay đít vào đây"

Thò tay bóp thử cái xem sao
Thấy nó mềm nên đút vòi vào
Vặn vặn, xoay xoay rồi đứng dậy
Nhấp nhổm xuống lên nhấn ào ào
Mệt mỏi, mồ hôi đầy trên trán
Nữ khách đâm lo, nói thì thào
“Anh ơi, cẩn thận không chửa đấy!”
“Tôi nhấn thế này, chửa làm sao?”

http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1405483401.gif

BachMa
02-03-2016, 06:42 PM
Trắng Tay Thì Đã Sao
http://hoiquanphidung.com/upload_hqpd/hqpd116/1454524449-TrangTayThiDaSao.jpg

Một vị thương gia lập nghiệp từ tay trắng, sau kiếm được rất nhiều tiền nhưng vì buôn bán trong thời kinh tế không ổn định, khiến anh ta trở nên phá sản, nợ nần chồng chất. Nghĩ mãi không tìm ra cách giải quyết, anh ta bèn ra bờ sông định tự tử.

Vào lúc canh ba một đêm nọ, anh ta đến trước bờ sông, bỗng nhiên nhìn thấy một thiếu nữ đang ngồi khóc thảm thiết, anh bèn đến hỏi cô gái:
– Có chuyện gì mà đêm hôm khuya khoắt cô ngồi khóc một mình ở đây ?
Cô gái buồn bã nói:
– Tôi bị người yêu ruồng bỏ, tôi không muốn sống nữa, bởi vì không có anh ấy tôi không sống nổi.

Vị thương gia vừa nghe xong lập tức nói:
– Ồ! Lạ nhỉ, sao lúc chưa có bạn trai, cô có thể tự sống được ?!
Cô gái vừa nghe xong liền bừng tỉnh và bỏ ngay ý định tự tử. Ngay lúc đó vị thương gia nọ cũng chợt nhận ra rằng: Khi chưa giàu có ta vẫn sống bình thường, ta cũng tay trắng làm nên mà!
Lúc đó cô gái quay sang hỏi vị thương gia:
– Đêm hôm lạnh lẽo như vậy, anh ra đây để làm gì ?
Vị thương gia ậm ừ trả lời:
– Ừ… đâu có làm gì, chỉ là tản bộ chút vậy thôi.

Thì ra, dù đã mất tất cả nhưng thực sự cũng chỉ bằng lúc ta chưa có mà thôi. Đây là một nhận thức lớn! Ai thấy được điều này là có trí tuệ. Khổ đau, vật vã, thù hận thậm chí quyên sinh khi mất mát xảy ra, xét cho cùng cũng chỉ thiệt cho mình vì trước đây ta vốn có gì đâu!

Người con gái trong câu chuyện trên khi mất người yêu nghĩ rằng không có người yêu thì không sống nổi, chợt thấy rõ rằng trước khi chưa gặp “kẻ phản bội” kia thì ta vẫn sống vui, liền lập tức đổi ý không trầm mình xuống sông nữa.

Người thương gia trắng tay cũng đổi ý khi ngộ ra rằng trước đây ta cũng từ tay trắng mà lên. Bây giờ trắng tay nhưng cũng chỉ bằng ngày xưa chứ chưa mất mát tí gì.

Con người sinh ra đời với hai bàn tay trắng và dù thành công hay thất bại thì cũng trở về cát bụi với hai bàn tay không, vậy thì sá gì với được mất, có không, vì vô thường thay đổi vốn là bản chất của cuộc đời này !!

&&&

Thần Chết
http://hoiquanphidung.com/upload_hqpd/hqpd116/1454524475-su-thuc-tinh-cua-than-chet.jpg

Ngày xưa, một cặp vợ chồng nọ đã phải đi gặp Thần Chết.

Vị Thần Chết nói: “Hai người, các ngươi chỉ có thể sống một người, các người hãy oẳn tù tì, người thua thì phải chết”.

Hai lần oẳn tù tì trước đó cả hai vợ chồng đều ra giống nhau, đến lần thứ ba, người chồng lại thua…Thần Chết thở dài nói: “Vốn dĩ chiếu theo lệ của ta, nếu như các ngươi ba lượt đều ra giống nhau, ta sẽ thả các ngươi ra, không muốn phải dùng đến lần thứ tư để phân thắng bại”.

Nghe xong, người vợ ôm chằm lấy người chồng tấm tức mà rằng: “Đã nói là 3 lần đều cùng nhau ra búa, tại sao lần thứ ba tôi ra cái kéo thì anh lại ra bao.”

Thực tế, đây chính là nhân tâm, là sự ích kỷ và ngốc ngếch của bộ phận một nhóm người, tính toán với người khác cuối cùng thành ra tính toán với chính mình. Khi người ngu ngốc muốn thua, kỳ thực anh ta đã thắng rồi. Cho nên, nếu lúc nào cũng lương thiện…thì bạn đã là người thắng cuộc! Làm người hãy luôn giữ trong tâm sự phúc hậu, lương thiện vậy.

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1368588019.gif

(BachMa sưu tầm)

BachMa
02-08-2016, 07:49 PM
Đêm Trái Sáng
Dung Sàigòn & Võ Hà Anh

http://hoiquanphidung.com/upload_hqpd/hqpd116/1454960624-DemTraiSang.jpg

Ánh sáng rực rỡ đẹp mắt của những trái hoả châu chiếu sáng rực bao lơn nhà Dung. Trái nọ nối tiếp trái kia rồi vụt tắt, để lại trên nền mây những cụm khói đặc trắng sữa. Sự hiện diện của chúng trong ánh mắt mọi người không lâu quá vài phút, nhưng hầu như chúng bất tử. Đã từ bao ngày bao tháng không ngừng lấy một giây. Những trái sáng đối với tôi, với các bạn hữu tôi thành một hình ảnh quen thuộc đến nhàm chán, nhưng đối với Dung thì chỉ có nghĩa như một ngọn đèn mầu đẹp mắt. Dung đến đứng bên tôi, nhìn theo ánh mắt tôi, nói khẽ:

- Hoả châu rực sáng cả bao lơn nhà mình nhỉ anh. Đẹp ghê!

Tôi không đáp lại nhưng hơi quay lại phía nàng, để Dung thấy rằng tôi có nghe nàng nói. Dung tiếp:

- Tối nào cũng có hết anh à. Hình như ở phía phi trường Tân Sơn Nhất hay xa hơn nữa. Thỉnh thoảng có vài chiếc máy bay nhào lộn gần những trái sáng đó. Chắc ở đấy có đánh nhau anh nhỉ?

Tôi chỉ nói:

- Ừ!

Nơi nào có trái châu thì có đánh nhau, không hẳn thế. Có thể người ta thả trái sáng để kiểm soát không phận hay địa phận quan trọng, nhưng điều chắc chắn là trái châu biểu hiện cho khuôn mặt chiến tranh và những bất bình thường. Tôi định nói với Dung như thế. Nhưng lại thôi, vì nghĩ Dung không thích nghe những câu đó.

- Sao anh bỗng dưng ít nói thế? Có chuyện gì vậy anh?

Tôi không hiểu Dung định nói gì, nhìn Dung ngơ ngác. Dung cười, mái tóc cắt ngắn lay động quanh chiếc cổ trắng và đôi mắt sáng rực màu hồng trái sáng:

- Trông anh buồn cười ghê!

Tôi mỉm cười theo, véo nhẹ vào vai Dung. Dung kêu ái, đau anh, và chế nhạo:

- Em cảm tưởng như có một cái gì thay đổi ghê gớm, khiến anh phải suy nghĩ ghê lắm.

Tôi hơi khựng người ra một chút và ngạc nhiên trước linh tính bất ngờ của người yêu. Dung đang vô tình khơi mào cho tôi mở đầu một câu chuyện quan trọng mà tôi định nói với Dung ngay từ lúc mới đến. Tôi chờ đợi Dung dẫn dụ vào câu chuyện hơn nữa. Nhưng Dung đã bỏ lửng câu chuyện đó, cô bé hầu như không để tâm hoàn toàn đến một chuyện gì bao giờ. Dung nâng bàn tay tôi đang chống nhẹ trên lan can sắt, vuốt ve những ngón tay gân guốc rồi âu yếm trách móc:

- Anh hút thuốc nhiều thế, tay vàng khói thuốc đây này. Coi chừng phổi cũng vàng theo đó.

Tôi tỉnh bơ:

- Vàng theo càng tốt. Anh khoái chết sớm.

Dung ngước lên nhìn tôi:

- Anh chỉ thế, ăn với nói. À, em pha nước chanh cho anh uống nhé.

Tôi gạt đi:

- Thôi, anh không khát!

- Nhưng anh nên uống cho mát. Hút thuốc nhiều thì phải uống nhiều cho khỏi ráo.

Tôi bật cười:

- Em làm cô lang hồi nào vậy? Ừ, thì pha cho anh một ly.

Dung mắng yêu:

- Người ta đã hầu mà còn làm bộ. Ngồi đó, em mang nước lên, hai đứa vừa uống vừa ngắm hoả châu.

Tôi ngồi xuống chiếc ghế đối diện với những trái hoả châu đang lơ lửng trên lưng chừng trời. Ở một nơi nào đó, dưới tầm chiếu sáng của những trái hoả châu kia đang có một trận chiến ác liệt. Và ở đó có thể có những thằng bạn đã một thời gian sống gần gũi bên tôi. Chúng nó đang tiếp tục tranh đấu bằng cách này hay cách khác, dưới bình diện nọ hoặc bình diện kia. Những tranh đấu của chúng ta bằng lòng nhiệt thành và sự hăng hái vô bờ ngày hôm qua, hôm nay đã không dừng lại mà chuyển hướng sang một phương vị khác, dữ dội hơn, tàn khốc hơn. Nhưng vẫn là những khuôn mặt đó, những bàn tay đó và những tâm hồn đó. Tôi hồi tưởng lại những khuôn mặt đã cùng tôi vươn cao giữa những khó khăn bao năm qua. Như trái sáng xuất hiện hằng đêm. Những biến cố thời cuộc theo nhau tiếp nối. Lao đầu vào những biến cố đó để tạo một thế tranh đấu chính đáng cho chánh nghĩa.

Nói về những kẻ vắng mặt đó, những kẻ có mặt, trong những buổi tụ họp lại tiếp tục tìm một hướng đi đã bùi ngùi thương tiếc, nhưng lại càng cương quyết hơn. Cứng rắn hơn. Tôi khao khát một hình thức đấu tranh kiểu mới. Và có lẽ, lần này dôi đã tìm được theo ý muốn.

Dung kéo chiếc bàn mây lại trước mặt tôi, đặt ly nước chanh trên đó và ngồi ghé bên thành ghế. Tôi tựa đầu vào người nàng. Dung áp hai bàn tay lạnh ngắt vì nước đá vào má tôi, cười khúc khích. Lạnh không anh? - Không - Làm bộ hoài - Thật mà - Sao em thấy lạnh? - Tại anh ngồi cạnh Dung, ấm lắm.

- Ghét anh!

Tôi bật cười vì đối đáp lẩm cẩm của hai đứa. Dung lúc nào cũng tươi vui nhí nhảnh như chim sơn ca. Cô bé thường chê tôi là ông cụ non chưa già mà có vẻ đạo mạo. Dung hỏi sao hôm nay anh có vẻ là lạ. Anh có điều gì giấu em?

Tôi đáp:

- Anh không có điều gì giấu em, nhưng anh có chuyện chưa nói với em và bây giờ anh nói đây.

Tôi nói, bằng một cách trình bầy vụng về, về quyết định của tôi ngày mai để bước vào một cuộc sống mới. Dung im lặng nghe, đôi mắt lim dim và hai tay đan ngón nhau. Có lẽ nàng cho là thái độ hợp lý nhất nên có, trong lúc nghe tôi nói về một quyết định quan trọng cho cả hai đứa. Nhưng sự im lặng của nàng lại khiến tôi bức rứt. Có phải tôi đã làm Dung nghĩ ngợi và sẽ thức trắng đêm nay không?

Khi tôi nghĩ rằng đã nói đủ những điều mình muốn nói, tôi hỏi Dung nghĩ sao về quyết định của anh. Dung ngước nhìn tôi, nụ cười trái tim gượng gạo.

- Anh muốn Dung nói sao bây giờ? Ý kiến của Dung có ý nghĩa gì đối với một quyết định là sự hiển nhiên phải có, thoát thai từ bổn phận và sự say mê hoạt động của anh? Nhà này có mình anh Khang là con trai lớn, đã đi lính. Bây giờ tới lượt anh. Anh muốn biết em có buồn không? Hay anh định hỏi em có đòi anh đừng đi lính vội, ở nhà để hai đứa còn được gần gũi nhau? Tất nhiên em buồn lắm chứ, vì em phải xa anh. Vì anh sắp bước vào cuộc sống mới nhiều bất ngờ, bất trắc. Nhưng em không có lý do gì để đòi anh đừng nhập ngũ. Từ bao năm nay anh đã hoạt động những việc ngoài ý thích của em. Nhưng em chịu đựng được thì bây giờ em có chịu đựng thêm một lần nữa cũng chẳng sao. Vì em hiểu anh. Lứa tuổi của em, của anh, là để lao đầu vào những đấu tranh không vụ lợi, để hết tâm sức ra phục vụ cho một lý tưởng cao xa. Anh đừng ngạc nhiên vì những lời lẽ em nói. Những gì thuộc nội tâm em anh chưa hẳn đã biết đến một lần. Anh vẫn tưởng em là một đứa trẻ con trong lúc em ôm ấp những hoài bão như anh trước kia và đã đến lúc anh bước sang một môi trường tranh đấu khác. Mục tiêu của anh thu hẹp lại. Đó là việc tranh đấu trong súng đạn, trọng trách của anh nặng nề hơn. Những hoạt động tuỳ hứng của anh trước kia, bây giờ là của em.

Tôi nhìn Dung say sưa nói, và kinh ngạc. Những lời lẽ ấy hầu như ở một người nào khác, chín chắn và già dặn thốt ra chứ không phải người yêu tôi nói. Dung nhìn lên cao, những đóa hoả châu trong đáy mắt nàng mở rộng. Tôi thấy như có mùi gió đồng nội, mùi khói lửa đạn và tiếng súng ì ầm vọng về, đến với giác quan tôi. Đêm trái sáng như hỗn loạn âm thanh và hình ảnh của những sinh vật di động.

Đêm trái sáng như nới rộng ra tận cùng vũ trụ, mênh mang và bát ngát như hồn tôi lúc này. Dung yêu của anh, những gì anh sẽ làm ngày mai để nối tiếp việc anh đã làm hôm nay và những ngày qua sẽ chỉ là làm vì em, cho em. Không còn gì khác hơn là vì hạnh phúc và sự hiện diện của anh, của em, trong cuộc sống. Trước khi anh đến đây, anh đã tưởng rằng anh sẽ vấp phải những phiền muộn của em, và nếu ngày mai anh lên đường thì có lẽ anh sẽ ôm theo những phiền muộn ấy.

Nhưng bây giờ thì trái lại. Anh sẽ bình thản ra đi, gánh vác lấy trọng trách và lao mình vào những bất ngờ trong chốn gió núi mây ngàn. Nơi đó sẽ có nhiều hoa lửa trên nền trời hằng đêm như đêm nay. Và biết đâu, anh ở nơi đó, em ở đây nhưng cả hai đứa cùng đang ngắm đoá hoa trái sáng nở lớn nhất, lâu nhất, đẹp nhất giữa hàng chục hàng trăm hoa đang nở. Và hai đứa cùng nguyện cầu cho nhau, như em hằng cầu nguyện cho anh mỗi lần gặp đoá hoa sao đổi ngôi.

Dung đã thôi nói từ lúc nào, nàng chống tay lên lan can, nhìn mông ra màn đêm. Tôi ngắm thật lâu đôi bờ vai người con gái đã chấp nhận những lời hứa hẹn trăm năm chung sống với nhau của tôi và bỗng thấy xúc động. Tôi xoa nhẹ trên đôi vai ấy và Dung ngã vào lòng tôi, bật khóc. Tiếng khóc nhỏ và nghe dễ thương như tiếng mưa cuối năm trên cao nguyên Đà Lạt. Dung thủ thỉ:

- Em xin lỗi đã làm anh suy nghĩ. Nhưng thà là em nói với anh một lần, còn hơn là không bao giờ nói. Để anh hiểu là em đã lớn khôn, không còn bé bỏng nữa. Anh chẳng vẫn từng chê em là “bé con” đó sao!

Tôi bật cười, em cứ nói thế tức là em vẫn còn trẻ con. Chỉ có trẻ con mới tự cho mình là người lớn. Anh thích em vẫn là “bé con” như anh vẫn từng bảo thế, vì làm người lớn phải gánh nhiều phiền muộn lắm. Nhưng tôi lại nói:

- Phải rồi, em đã là người lớn. Kể từ tối nay, em oai kinh khủng!

Tôi không dấu được vẻ hài hước trong giọng nói khiến Dung nhõng nhẽo phản đối:

- Anh kỳ! Ghét anh ghê cơ!

Tôi ở lại với Dung đến nửa khuya. Lúc ra về, những đoá hoả châu vẫn “làm sáng rực cả ban công nhà em” như Dung đã viết. Tôi len lén bước xuống thang, những bước chân gượng nhẹ. Dung bước theo tủm tỉm cười đồng loã.

Khi bắt tay từ biệt, tôi thấy tay Dung lạnh ngắt. Lạnh hơn cả lúc Dung cầm đá pha nước chanh cho tôi. Tôi hiểu Dung đang xúc động. Dung nói bâng quơ:

- Mai anh đi!

Tôi gật đầu. Anh sẽ viết thư về cho em, kể hết cho em nghe những vui buồn trong quân ngũ. Một ngày nào đó, anh sẽ viết cho em câu nói của một anh chàng Biệt Động viết cho người yêu ở Sàigòn mà anh đã vô tình được nghe kể lại. Những lời nói đó, người ngoài cuộc riễu cợt nhưng người trong cuộc lại cảm động bâng khuâng. Muôn đời thì những câu nói trữ tình, lãng mạn vẫn cần cho ngôn ngữ tình yêu.

“Ở Sàigòn, nếu em buồn vì nhìn thấy hạnh phúc của những kẻ song đôi trên đường phố thì em nên hãnh diện nghĩ rằng hạnh phúc của họ có được phải nhờ đến sự chiến đấu bảo vệ của những người phương xa, có người yêu em trong số đó”.

Tôi nghe trong lòng mình dâng lên một niềm hạnh phúc nhè nhẹ. Ánh hoả châu vẫn rực rỡ trên thành phố, hắt bóng tôi và chiếc xe lướt dài trên mặt đường. Tôi bật lên một điệu sáo miệng, rồi bất ngờ khám phá ra mình đang thổi sáo một điệu nhạc quân hành.


Sài Gòn 1967
Dung Sàigòn & Võ Hà Anh
vohaanh-dungsaigon.blogspot.fr

BachMa
02-18-2016, 07:59 PM
Chuyện Vui Đầu Năm

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1381108152.gif

Đi máy bay về ăn tết ở Việt Nam
Trong dịp Tết, trên một chuyến bay về Việt nam, có một bà sồn sồn tướng mạo nhìn rất ngầu mua vé hạng cá kèo (“coach”)nhưng nhất định cứ ngồi ì ở hàng ghế hạng nhất (“first class”). Người nữ tiếp viên (“stewardess”) nhờ một người thông dịch tiếng Việt giải thích cho bà ta là ghế hạng nhất chỉ dành cho người mua vé hạng nhất mà thôi. Nhưng bà chằng lửa nầy nổi nóng:
- Tôi thích ngồi ở cái ghế rộng rãi nầy. Tôi nhất định không đi đâu cả. Ai muốn làm gì thì làm!
Người tiếp viên phải mời ông phi công phụ (“co-pilot”) ra giải thích. Nhưng cũng không thay đổi gì được.
Sau cùng, ông phi công trưởng (“captain”) được mời đến để giải quyết vấn để lì lợm khó xử nầy. Không biết ông phi công trưởng này nhờ người thông dịch nói cái gì (?) mà bà chằng lửa dời ra hàng ghế hạng cá kèo ở đằng sau ngay tức thì.
Cô nữ tiếp viên và ông phụ công phụ đều cùng ngạc nhiên hỏi:
- “Captain” đã nói cái gì với bà ta mà có kết quả ngay vậy?
Ông phi công trường nói:
- Tôi nói với bà ta là ghế hạng nhất này không bay về Việt Nam.


Đầu năm chán đời
Vài ngày sau khi Tết, trong một quán rượu người ta nhận ra là có một anh chàng không thấy uống rượu mà cứ ngồi nhìn ly rượu đầy của anh ta một cách rất thiểu não. Có một tên du đãng bước vào quán, thấy ngứa mắt quá, giựt lấy ly rượu và uống cạn. Anh chàng thiểu não này chợt khóc òa lên làm tên du đãng cũng lấy làm lạ. Thấy cũng tội nghiệp, tên du đãng nói:
- Thôi đi cha nội! Làm gi phải khóc. Tôi uống ly rượu vì thấy ngứa mắt quá. Để tôi mua cho cha nội một ly rượu khác. Đàn ông con trai có chuyện chẳng đáng gì mà khóc là sao?
Người đàn ông trả lời:
- Không phải như anh nghĩ đâu. Hôm nay là ngày đen tối nhất của cuộc đời tôi. Số là sau mấy ngày Tết nhâu nhẹt vui chơi, sáng nay phải đi làm trở lại. Tôi đến sở bị trễ. Đã thế tôi lại ngủ gục trong lúc làm việc cho nên bi ông chủ hãng đuổi việc. Khi ra bãi đậu xe thì cái của tôi bị ai đánh cắp mất tiêu rồi. Tôi đành phải đón taxi để đi về nhà. Taxi đi rồi, tôi mới nhớ là đã để quên cái cặp có rất nhiều giấy tờ quan trọng của tôi trên xe taxi. Bước vào nhà, tôi lại bắt gặp vợ tôi đang ngủ với anh làm vườn… Tôi thấy chán đời quá, vào quán rượu này, gọi một ly rượu và bỏ đã thuốc độc vào. Tôi đang phân vân không biết có nên uống hay không thì anh đã dành lấy uống cạn hết rồi….


Mượn $2000 về ăn tết ở Việt Nam
Một anh chàng trẻ bảnh bao sắp về Việt Nam ăn tết trong 2 tuần lễ. Anh ta đến một nhà băng và muợn $2000.00 tiền mặt. Thủ tục mượn tiền đòi hỏi phải có cái gì thế chân (collateral) chẳng hạn như tài sản, vật quí gía… Anh chàng cho nhà băng biết là anh ta sẽ thế chân chiếc xe “Mercedes” mới toanh của anh. Sau khi giao xe, chìa khóa cho nhà băng, anh ta ký các giấy tờ nợ và nhận $2000.00.
Hai tuần sau, trở về từ Việt Nam, anh ta đến trả nhà băng số tiền $2000.00 cộng với $15 tiền lời (interest). Nhân viên nhà băng có thắc mắc là:
- Tại sao ông là chủ một chiếc xe đắt tiền như vậy mà ông chỉ cần vay có $2000.00?
Anh ta trả lời là:
- Làm cách nào tôi có thể gởi chiếc xe trị giá gần $100.000.00 này một cách an toàn trong 2 tuần lễ mà chỉ tốn có $15.00???

http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1405483401.gif

BachMa
02-23-2016, 09:23 PM
Vội
http://hoiquanphidung.com/upload_hqpd/hqpd116/1456262470-Voi.jpg

Vội đến, vội đi, vội nhạt nhòa
Vội vàng sum họp, vội chia xa
Vội ăn, vội nói rồi vội thở
Vội hưởng thụ mau để vội già

Vội sinh, vội tử, vội đôi lời
Vội cười, vội khóc, vội buông lơi
Vội thương, vội ghét, nhìn nhau lạ!
Vội vã tìm nhau, vội rã rời…

Vội bao nhiêu kiếp rồi vẫn vội
Đuổi theo hạnh phúc cuối trời xa
Ngoài hiên đâu thấy hoa hồng nở
Vội ngày, vội tháng, vội năm qua

Cứ thế nghìn thu đời vẫn vội
Mặt mũi ngày xưa không nhớ ra
“Đáy nước tìm trăng” mà vẫn lội
Vội tỉnh, vội mê, vội gật gà…

Vội quên, vội nhớ, vội đi về
Bên ni, bên nớ, mãi xa ghê
Có ai Giác lộ bàn chân vội
“Hỏa trạch” bước ra dứt não nề.

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1368590047.gifhttp://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1368590047.gif

Thầy Tánh Tuệ

BachMa
03-02-2016, 07:29 PM
Tiếng Mỹ Và Tiếng Việt
Hiệu Minh sưu tầm

http://hoiquanphidung.com/upload_hqpd/hqpd116/1456946674-TiengMyVaTiengViet.jpg

Tôi tình cờ quen một anh bạn Mỹ, người Mỹ chính cống, mắt xanh mũi lõ, tên Johnson William, quê ở bang Ohio của xứ Cờ Hoa nhưng Johnson đã hơn 16 năm sinh sống ở Việt Nam, nghiên cứu về dân tộc học Ðông Nam Á, nói tiếng Việt thông thạo, phát âm theo giọng Hà Nội khá rõ, hắn học tiếng Việt ở Ðại học Ngoại ngữ Hà Nội rồi làm Master of Art về văn hóa xã hội Việt Nam ở học Khoa học Tự nhiên Sài Gòn, rành lịch sử Việt Nam, thuộc nhiều câu thơ lục bát trong truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du, Lục Vân Tiên của cụ Ðồ Chiểu. Johnson ăn mặc xuềnh xoàng, cái đầu rối bù, chân mang một đôi giày bata cũ mèm, lưng quảy một ba lô lếch thếch, sẵn sàng ăn uống nhồm nhoàm ngoài vỉa hè. Johnson có thể quanh năm suốt tháng ăn cơm với chuối thay cho bánh mì và phomát, xịt nước tương vào chén rồi cứ thế mà khua đũa lùa cơm vào miệng. Ðối với Johnson, thịt rùa, rắn, ếch, nhái, chuột đồng, … hắn xơi ngon lành. Bún riêu là món khoái khẩu của Johnson, hắn còn biết thèm hột vịt lộn ăn với rau răm chấm muối tiêu chanh. Ai có mời đi chén thịt cầy với mắm tôm, Johnson chẳng ngần ngại mà còn biết vỗ đùi đánh cái phét khen rượu đế mà nhắm với thịt chó ngon “thần sầu quỉ khốc” !!! Chẳng biết Johnson khéo tán tỉnh thế nào (hoặc bị tán) mà vớ được một cô bé Hà thành tóc “đờ-mi gác-xông”, sinh viên ngành văn chương hẳn hoi. Ngày cưới, Johnson vận áo dài khăn đóng, dâng trầu cau và quì lạy bàn thờ tổ tiên nhà gái thành thạo làm đám thanh niên, thiếu nữ, cả lũ con nít và mấy ông cụ ông, cụ bà trong làng suýt xoa, kinh ngạc, xúm đen xúm đỏ coi muốn sập nhà.

Chúng tôi gặp nhau trên chuyến xe lửa từ Nha Trang ra Huế. Tôi về thăm quê, còn Johnson thì sau mấy tháng nghiên cứu phong tục Tây nguyên xuống Nha Trang rồi tiếp đi dự Festival Huế. Ðường dài, tàu chạy dằn xóc, chung quanh ồn ào, lao nhao chẳng ai ngủ được. Johnson rủ tôi xuống toa ăn uống, kêu mỗi người một ly cà phê đen, một bình trà nóng rồi trao đổi đủ thứ chuyện trên đời. Tôi cũng khá thán phục sự hiểu biết và thành thạo văn hóa Việt Nam của Johnson khi nghe hắn thỉnh thoảng chêm vô câu chuyện mấy câu ca dao, thành ngữ tiếng Việt. Thật thú vị khi nói chuyện với một người Mỹ bằng tiếng Việt về đề tài ngôn ngữ Việt Nam (dễ chịu hơn nhiều khi nói chuyện với một người Mỹ bằng… tiếng Anh). Vậy mà Johnson vẫn lắc đầu than:
- Tiếng Việt của mấy ông rắc rối quá! Tôi học đã lâu mà vẫn còn lúng túng, nhiều lúc viết sai, nói sai lung tung cả lên. Này nhé, từ xưng hô, ăn uống, giao tiếp… thật lắm từ khác nhau chẳng đơn giản như tiếng Mỹ của tớ, chỉ một từ you là để nói với tất cả người đối thoại, tiếng Việt thì phân biệt ông, bà, anh, chị, em, con, cháu, ngài, mày, thầy, thằng, … rành mạch. Tiếng Mỹ thì dùng một chữ black để chỉ tất cả những vật gì, con gì có màu đen trong khi đó tiếng Việt thì khác, ngựa đen thì gọi là ngựa ô, chó đen thì kêu là chó mực, mèo đen thì gọi là mèo mun, gà đen thì là gà quạ, bò đen là bò hóng, mực đen là mực tàu, tóc đen thì hóa thành tóc nhung hoặc tóc huyền. Ðã là màu đen rồi mà người Việt còn nhấn mạnh thêm mức độ đen như đen thủi, đen thui, rồi đen tuyền, đen thắm, tím đen, đen ngắt, đen bóng, đen sì, đen đủi, đen thẳm, đen óng, đen thùi lùi, đen kịt, đen dòn… Còn để chỉ màu ít đen hơn thì người Việt dùng chữ đen hai lần: đen đen.

Tôi cười cười:
- Thì tiếng Mỹ của ông nhiều lúc cũng rắc rối kia mà. Này nhé, người Việt nói: “Hôm qua, tôi đi tiệm” thì người Mỹ lại nói “Yesterday, I went to the shop”. Tiếng Anh, đi là go, nhưng đã đi (quá khứ) thì phải viết là went. Bản thân chữ hôm qua (yesterday) đã là quá khứ rồi thì ai cũng biết mà gì cần phải đổi go thành went chi cho rối mấy người học Anh văn? Nội chuyện học thuộc lòng 154 động từ bất qui tắc của mấy ông cũng đủ làm nhiều người trên thế giới phải thi rớt lên rớt xuống. Người Việt nói hai con chó mà chẳng cần thêm s hoặc es thành hai con chó “sờ” (two dogs) như tiếng Mỹ. Một đứa con nít thì nói là one child là được rồi, vậy mà thêm một đứa nữa thì bắt đầu rối, chẳng phải là two childs mà thành two children. Một con ngỗng là one goose, hai con ngỗng thì thành two geese. Vậy mà viết một con cừu là one sheep nhưng hai con cừu thì cũng là two sheep, chẳng chịu đổi gì cả ?!.

Johnson vẫn không chịu thua:
- Văn phạm của xứ ông cũng rắc rối bỏ xừ! Xem nè, thắng và thua là hai chữ phản nghĩa chứ gì? Thua và bại là hai chữ đồng nghĩa, đúng hông? Vậy mà, hai câu nói: “Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán” đồng nghĩa với câu “Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán”? Không thể viết là “Ngô Quyền đánh thua quân Nam Hán”!!! Phải không nào? Rồi còn, “áo ấm” tương đương với “áo lạnh”, “nín thinh” giống như “làm thinh” trong khi ấm và lạnh phản nghĩa nhau, nín và làm cũng là những động từ đối nhau. Rồi ba hồi mấy ông dùng tiếng Hán như Quốc gia rồi đổi thành tiếng Nôm ra Nhà nước, Trực thăng (có thể không cần chữ máy bay phía trước) thành Máy bay Lên thẳng (phải có chữ máy bay phía trước), Thủy quân lục chiến thì đổi là Lính thủy đánh bộ, sao không gọi luôn là lính nước đánh đất??? Lễ động thổ thì không thể sửa lại là Lễ động đất mặc dầu là thổ là đất?

Tôi tiếp tục “ăn miếng trả miếng”:
- Tiếng Mỹ cũng đâu có tránh khỏi. See và look cũng đều là động từ để cùng chỉ hành động xem, nhìn, ngắm, dòm nhưng oversee (quan sát, trông nom) lại ngược nghĩa overlook (bỏ sót, không nhìn thấy). Wise man là người thông thái, uyên bác, vậy mà thay chữ man (đàn ông) thành woman (đàn bà) thì chữ wise woman thành bà phù thủy, bà đỡ bà lang, bà thầy bói, bà đồng bóng!!! Rồi chữ man và guy (anh chàng, gã) gần gần như nhau thì chữ wise guy thành một kẻ hợm hĩnh, khoác lác. Sao lại “park on driveways” (đậu xe trên đường nội bộ) nhưng “drive on parkways” (lái xe trên xa lộ)?

Johnson ôm bụng cười:
- Tên món ăn Việt Nam cũng lạ, miền Nam có bánh da lợn, tưởng làm bằng thịt lợn nhưng thực chất là bằng bột, có lẽ giống như các lớp da lợn, nhưng sao không gọi là bánh da heo theo từ miền Nam mà gọi theo chữ lợn miền Bắc? Bánh bò cũng chắng có miếng thịt bò nào. Bánh tiêu thì không rắc tiêu mà lại rắc mè. Gọi rau má mà chẳng liên quan đến má hay mẹ gì cả. Bánh tét mà gói thật chặt, chẳng thể nào tét được. Bánh dày thì lại mỏng hơn bánh chưng. Bánh chưng thì phải nấu thật lâu mới chín chứ không phải dùng cách chưng hơi hay chưng hấp. Nước lèo trong nồi hủ tiếu thì chẳng phải theo kiểu nước Lào (hay Lèo). Trái sầu riêng thì ăn vô chẳng thấy sầu riêng hay sầu chung chi cả. Bưởi Năm roi rất tuyệt nhưng sao đúng là năm roi? Trái vú sữa, Cây dái ngựa thì thật là tượng hình. Hi hi… Ngôn từ bây giờ cũng thế, cò đất, cò nhà… thì chẳng dính dáng gì đến “con cò, cò bay lả, lả bay la…” cả.

Tôi cũng chẳng vừa:
- Thế cái món hot dog của mấy ông có liên quan gì đến con chó không? Món bánh mì kẹp thịt bò bằm Hamburger của Mc Donald thì đâu có thịt heo (ham). Trái thơm, trái khóm “pineapple” thì chẳng có gì liên quan đến pine (cây thông) và apple (trái táo) cả? Vào phòng thí nghiệm sinh học, ông Giáo sư bảo bắt một con “Guinea pig”, nghe qua tưởng đâu là con heo xứ Guinea (ở Tây Phi Châu, giáp với Senegal, Mali, Liberia, Sierra Leone và biển Bắc Ðại Tây dương) nhưng ngờ đâu là một giống chuột tên là Guinea (ở Guinea không có giống chuột này!). Ðáng lý chữ football (bóng đá) thì phải viết là legball chứ, bởi vì người ta đá banh bằng cả cái chân (leg) chứ đâu chỉ cái ống chân foot từ dưới đầu gối đến trên bàn chân? Mới đây, khi dân Pháp không chịu ủng hộ Mỹ trong vụ chiến tranh Iraq thế là mấy dân biểu Mỹ giận đòi đổi tên món khoai tây chiên French fries bằng chữ American fries thì mấy ông Tây lại ôm bụng cười chế riễu rằng món French fries không phải xuất xứ từ Pháp mà từ … Mỹ và là món ăn của dân Mỹ. Có lẽ mấy ông Mỹ tiền bối xưa, khi làm món này đặt tên là khoai tây Pháp cho nó có vẻ … ngoại cho sang, giống như bây giờ một số quán ăn Việt Nam có thực đơn Lẫu Thái, Bún Singapore, Bánh bao Mã Lai, Cá chiên viên Singapore, Hủ tiếu Nam Vang, … mặc dầu nguyên liệu và cách nấu gần như 100% của Việt Nam???

Johnson gật gù:
- Ừ, cũng đúng. Nhưng lúc đầu học tiếng Việt, tôi thấy khó quá, đã lấy 24 chữ cái A, B, C của vần La tinh rồi mà bày ra thêm a, â, ă, u, ư, ơ, d, đ, … nữa. Lại thêm kèm 5 dấu sắc (‘), huyền (`), hỏi (?), ngã (~), nặng (.) và không dấu ( ) nữa. Như le, lé, lè, lẹ, lẻ, lẽ, mỗi chữ mang một nghĩa khác nhau. Rồi phải học cách bỏ dấu ở đâu trong từ cho chính xác nữa chứ. Hòa hay là hoà. Li hay là ly? Có câu thơ về dấu này cũng hay:
Chị Huyền mang nặng ngã đau,
Sao không sắc thuốc, hỏi sao cho lành ?!

Trong ngôn ngữ Việt Nam, tôi thấy nhiều chữ ghép với chữ ăn mặc dầu nó chẳng ăn nhập đến chuyện bỏ thực phẩm vào miệng, nhai và nuốt xuống gì cả. Nói ăn nhậu, ăn tiệc, ăn mùng, ăn cưới, ăn giỗ, … thì có lý nhưng sao lại ăn nằm, ăn hút, ăn tiền, ăn lương, ăn cắp, ăn mày, ăn chặn, ăn quỵt, ăn diện, ăn đòn, ăn công, ăn năn, ăn hiếp, ăn khách, ăn ảnh, …

Tôi bật cười chận ngang khi Johnson tiếp tục ghép chữ với từ ăn:
- Thì như tiếng Mỹ của ông vậy thôi. Chữ to get khó dịch gì ra hồn cả. Tôi cũng có nghĩ là khi mình chưa tìm ra động từ nào thích hợp thì dùng tạm luôn chữ to get! Khi quân đội Mỹ bắt sống được Saddam Hussen ở Iraq thì tuyên bố “We got him!”, sao không dùng động từ to catch, to caught, to force, to find, to capture, to pick up, …cho rõ nghĩa? Rồi động từ to get đi kèm các giới từ in, into, on, out, up, at-able… thành một loạt động từ mới. Các động từ to take, to put, to be… cũng vậy.

Johnson chuyển qua phần khác:
- Chuyện mạo từ tiếng Việt cũng làm rắc rối người nước ngoài. Người Việt nói cái bàn, cái nhà, cái gường, cái nón… nhưng không thể nói cái chó, cái mèo mà phải là con chó, con mèo, con người…. Ðồ vật là cái, động vật là con. Bây giờ nhiều cô cậu thanh niên Hà Nội thay vì nói cái xe Honda Dream thì lại dùng từ con Ðờ-rim, rồi tiếp là con Su (Suzuki), con a còng (@), con Tô (Toyota), con Mẹc (Mercedes)…

Vợ chồng tôi có chuyện vui thế này: Tôi quen vợ tôi, một phần vì yêu các cô gái Việt Nam, một phần cũng để trau dồi thêm tiếng Việt. Hôm hôm chúng tôi ra Hồ Gươm dạo chơi, tôi khen: “Con hồ này đẹp quá!”. Vợ tôi “chỉnh” liền: “Không, anh phải nói là cái hồ này đẹp quá!”. Vậy mà đi ngang sông Tô Lịch thấy nước đen ngòm, tôi nói: “Cái sông này bẩn quá!” thì vợ tôi “sửa” ngay: “Ậy, anh phải nói là con sông này bẩn quá chứ không nói là cái sông!”. Tôi la lên: “Ồ, sao lại thế, khi là cái, khi là con, làm sao phân biệt?”. Vợ tôi ôn tồn giải thích: “Cái gì động dậy, nhúc nhích thì gọi là con, như con sông có nước chảy, còn cái gì nằm im như cái hồ nuớc tĩnh mịch thì phải là cái hồ. Con chó, con mèo nó chạy được nên phải là con. Cái nhà, cái bàn, cái cột đèn đâu có di chuyển được nên phải là cái. Rõ chửa?”. Lúc đó, tôi phá lên cười vì phát hiện một điều vô cùng thú vị: “À, anh hiểu rồi! Tiếng Việt thật hay. Hèn gì cái… cái của anh nó nhúc nhích lên xuống nên phải gọi là con …, còn của… em, nó nằm im một chỗ nên phải gọi là cái, cái… Ha ha…”. Hôm ấy, tôi bị mấy cái nhéo đau điếng, nhưng bù lại, có được một đêm hạnh phúc.

Tôi thấy tức cười vô cùng với anh bạn Mỹ này:
- Tôi cũng có chuyện hiểu lầm trong phát âm tiếng Mỹ như thế này.
Trong một bữa tiệc với các sinh viên quốc tế, tôi nhận phần phục vụ nước uống. Gặp bà giáo người Mỹ đã đứng tuổi, tôi đến chào lịch sự và nói theo kiểu cách theo kiểu của người Việt: “Good evening, Madam. May I have a honour to serve you? Do you like my Coke?” (Chào bà, Tôi có thể hân hạnh phục vụ quí bà. Bà có muốn món Coke (Coca Cola)?). Bà này trợn mắt nhìn tôi, ra vẻ ngạc nhiên, rồi lắc đầu bỏ đi. Tôi băn khoăn chẳng hiểu chuyện gì? Hôm sau, tôi đánh bạo đến hỏi bà: “I am sorry, yesterday I have found your strange look when hearing my invitation. Was there a wrong?” (Xin lỗi, hôm qua tôi thấy bà nhìn tôi kỳ lạ khi nghe lời mời của tôi. Có điều gì không ổn vậy?). Bà giáo mỉm cười độ lượng: “Yes, I had misunderstood yours. Today, I just find out that your pronunciation is not correct. You said “Coke” not sound like “Coke” but “c@ck”. c@ck is a male chicken but it also has a dirty meaning else. You should be careful when saying this word to a lady”. (Vâng, tôi đã hiểu lầm anh. Hôm nay, tôi mới hiểu ra là anh phát âm không đúng. Anh nói chữ “Coke” mà không giống “Coke” mà thành “c@ck”. c@ck là con gà trống nhưng nó cũng có một nghĩa khác xấu. Anh phải cẩn thận khi nói từ này với một phụ nữ).

Johnson “gỡ gạc”:
- Hi hi… Anh bạn người Việt dẫn tôi đến thăm nhà, đến trước ngôi nhà của mình anh nói: “Ðây là nhà tôi, mời ông vào chơi”, gặp vợ anh ta ra đón trước cửa, anh ta lại giới thiệu: “Ðây là nhà tôi, mời ông vào chơi”. Tôi hơi ngạc nhiên nhưng cũng không hỏi và bước vào nhà, nhà anh ta thật đẹp (vợ anh ta cũng vậy!). Tôi ra vẻ lịch sự nên khen chủ nhà và nói: “Nhà anh và nhà anh thật đẹp”. Hai vợ chồng nhìn nhau cười. Vì đi lâu ngoài đường, lại không có WC công cộng, nên tôi hỏi anh chủ nhà “Xin ông cho tôi vào cái chỗ đi toilet của nhà ông được không?” Hi hi… lúc đó tôi không nghĩ đến cái sự buồn cười của câu này, hôm sau nghĩ lại tôi mới thấy.

Tôi cười to kể tiếp:
- Lần đầu tiên sang Châu Âu cách đây 10 năm, tôi quen một cô sinh viên Hà Lan. Chúng tôi nói chuyện với nhau bằng tiếng Anh. Cô rủ tôi ra bãi biển nằm phơi nắng và nói chuyện. Hôm đó, tôi chẳng đem theo cái gì để trải xuống bãi cát để nằm cả. Nói với cô này, thì cô mỉm cười: “Oh, never mind. You can lie down at my top” (Ồ, không sao. Anh có thể nằm trên cái top của tôi). Tiếng Anh của tôi cũng chẳng giỏi gì nên chẳng hiểu là nằm trên top là nằm ở đâu? Tôi chỉ biết top có nghĩa là đỉnh, là ở trên. Vậy nằm ở trên là nằm đâu? Nằm trên đầu thì chắc là không đúng rồi, ai lại nằm trên đầu mà nói chuyện với phụ nữ. Chẳng lẽ nằm trên… mình cô này? Hồi lúc trước đi Tây, tôi nghe nhiều thằng bạn kháo nhau rằng, phụ nữ Tây nó… Tây lắm, thích thì sẵn sàng… chiều! “Tình cho không biếu không” mà. Vậy là… lẽ nào ??? Tới nơi, tôi mới bật cười và thấy mắc cỡ trong lòng khi thấy cô này cởi áo khoác ra, trải dưới bãi cát và chỉ tôi nằm trên đó. Tối đó, về đến nhà, tôi lặng lẽ lật từ điển Anh – Việt ra xem, mới biết thêm là top còn có nghĩa là cái áo khoác ngoài của phụ nữ. Trời ơi!

Johnson vỗ vai tôi:
- Chút xíu nữa bạn là… hố to rồi. Ha ha… Năm ngoái, tôi có đến thăm miệt vườn Nam bộ, tôi có nghe một câu thế này mà lúc đó chẳng thế nào hiểu được: “Hôm qua, qua nói qua qua mà qua hổng qua. Hôm nay, qua hổng nói qua mà qua lại qua”……………..

Câu chuyện của chúng tôi còn dài. Chia tay với Johnson ở ga Huế, lững thửng dọc theo con đường về chợ Ðông Ba, trong đầu còn vương vấn câu chuyện rắc rối tiếng Việt với Johnson, thì có ông già chạy xích lô lẽo đẽo theo sau:
- “Ôn đi về mô khôn hè?”
Tôi gật đầu, bước lên chiếc xe cũ rích, buột miệng:
- Có tiệm sách nào gần đây nhất, Bác? Tôi muốn mua một quyển Tự điển Tiếng Việt.
Tôi bất chợt nhớ ra rằng, trong tủ sách gia đình của tôi, có đủ loại tự điển các nước, nhưng chưa hề có một quyển Tự điển Tiếng Việt nào.


Hiệu Minh sưu tầm
http://namrom64d.blogspot.com/search?updated-min=2010-01-01T00:00:00-08:00&updated-max=2011-01-01T00:00:00-08:00&max-results=19

BachMa
03-11-2016, 04:50 PM
Khác Nhau Chỗ Nào?
Trong một cuộc thi hoa hậu, có 2 thí sinh lọt vào vòng chung kết, nhưng cả hai đều xứng đáng ngang ngửa nhau.
Ban giám khảo phải đưa ra thêm một câu hỏi phụ. Ai trả lời hay và đúng nhất thì sẽ đoạt giải Hoa hậu:
Câu hỏi:
“Thí sinh hãy cho biết sự khác nhau giữa cái Váy và cái Lồng Chim.”
Cô gái đoạt chức Á hậu đã trả lời :
“Thưa ban giám khảo, cái Váy và cái Lồng Chim khác nhau ở chỗ: Trong Lồng Chim thì có con Chim; Còn trong Váy thì không có Chim.”’
Cô gái đoạt chức Hoa hậu đã trả lời:
“Thưa ban giám khảo, cái Váy và cái Lồng Chim khác nhau ở chỗ: Khi mở Lồng thì Chim bay ra; Còn khi mở Váy thì ... Chim bay vào !!!”


Số Đào Hoa
Bạn bè bảo tôi là thằng cô đơn vì tôi không có bạn gái; nhưng tôi cũng đã từng có người con gái thề cùng tôi sống chết có nhau:
"Không trả nợ cho bà, bà thề sống chết với mày.”
Cũng từng có người con gái cùng tôi hẹn ước đến kiếp sau:
"Muốn cua chị mày hả? Đợi kiếp sau đi cưng."
Và từng có người con gái cam lòng tự nguyện vì tôi mà chết:
"Cái gì? Làm bạn gái ông? Tui thà chết còn hơn…"
Nghĩ lại tôi thấy mình cũng đào hoa quá !!!


Còn Không Biết Hưởng!?...
Lấy nhau được ít lâu, nàng mới biết thực ra chồng mình chẳng có tài cán gì.
Mọi việc trong nhà, nàng đều một thân gánh vác. Đánh vật với cuộc sống ở thị thành không xong, hai vợ chồng dọn về một làng chài ven biển tìm kế sinh nhai.
Chắc vì thiếu kinh nghiệm nên nàng không đánh cá được nhiều như người ta. Cực chẳng đã, nàng khóc lóc với chị hàng xóm:
- Chị ơi, có bí quyết gì không chỉ cho em với, nhà em chỉ ăn hại thôi, mình em mưa nắng kiếm ăn mà không đủ. Sức vóc em không thiếu nhưng mỗi tội không biết đánh cá chỗ nào cho được nhiều cả.
Chị hàng xóm chép miệng:
- Có gì đâu, cứ mỗi sáng dậy, tôi nhìn cái của nợ của lão chồng, nó ngoẹo sang hướng nào thì đi đánh cá hướng ấy.
Nàng về nhà làm theo, quả nhiên đánh được nhiều cá, nàng lấy làm vui mừng lắm. Được ít hôm, nàng lại chạy sang than thở:
- Chị ơi, nhưng có hôm cái của nợ ấy nó chỉ thẳng lên giời, em chẳng biết là nên đi theo hướng nào cả, hu hu, sao em khổ thế…
Chị hàng xóm cười khẩy:
- Phải gió nhà chị, hôm nào nó dựng đứng lên thế thì ở nhà chứ đi đánh cá làm gì nữa! Rõ là phước nhà chị mà không biết hưởng!

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1381108152.gif

BachMa
03-17-2016, 06:10 PM
Viết Cho Thương Phế Binh QLVNCH
Phan Xuân Sinh

http://hoiquanphidung.com/upload_hqpd/hqpd116/1458237945-VietChoThuongBinh.jpg

Năm 1972 giữa Thành Phố Ðà Nẵng xẩy ra một chuyện rất thương tâm. Tại Trung Tâm I Hồi Lực có hai phế binh, một người mù mắt và người kia thì cụt cả chân tay. Họ thấy cuộc sống của họ trên đời nầy sẽ làm khổ cho vợ con, nên họ quyết định phải tự sát…Thế nhưng họ phải tính toán như thế nào mà vợ con họ được lãnh tiền tử tuất, được lãnh thêm một số tiền bồi thường lớn để có phương tiện sinh sống. Như vậy họ phải nhào ra đường cho xe cán, nhưng phải là xe của Mỹ thì số tiền mới hy vọng khấm khá. Người mù đẩy người cụt lao vào xe GMC của Mỹ và hai thân người dẹp nát. Tất cả các Thương Phế Binh tại Trung Tâm Hồi Lực chạy ra vây xe Mỹ và đòi bồi thường tại chỗ. Vì họ nghĩ rằng chết như vậy sẽ đưa ra kiện tụng và chưa chắc được bồi thường. Những thân người què, cụt, mù nằm la liệt trên đường gây một thảm cảnh và một xúc động mạnh, làm cho cơ quan quân sự Mỹ nhượng bộ. Số tiền họ bồi thường cho hai phế binh đó rất lớn. Chuyện đáng nói không phải bồi thường mà chính là chuyện lao đầu vào xe. Ðộng lực nào đẩy họ tìm đến cái chết mà không một chút do dự, một chút sợ hãi. Chính là họ nghĩ tới cái đau khổ triền miên mà họ phải gánh chịu, thà rằng họ chết thì sự đau đớn chỉ nhất thời, còn nếu họ sống thì gia đình phải chịu đau đớn dai dẳng. Trước khi chết, họ còn tính toán chết như thế nào cho thân nhân được lợi, chết đi còn tìm cách giúp đỡ cho người ở lại, họ coi nhẹ thân xác vì nghĩ rằng họ có sống thì cũng vô dụng. Chiến tranh đã đưa con người đến tận cùng bờ tuyệt vọng mà không còn chỗ thoát.

Qua câu chuyện trên ta thấy, một sự vật qua những cái nhìn khác nhau, qua những nhận xét khác nhau. Vật thể ấy sẽ biến dạng theo cá tính, theo quan niệm của người nhìn. Sự mô tả khác nhau của từng người khiến ta rối rắm và nhiều khi đưa tới tình trạng thiếu trung thực. Thế nhưng có một cái nhìn về những hình tượng mà mọi người phải đồng lòng, phải rơi nước mắt, phải nhất trí với nhau đó là cái nhìn về những người đã bao lần vào sinh ra tử, đã hiến cả một phần thân thể cho đất nước. Sau cuộc chiến họ trở về với đôi nạn gỗ, với xe lăn, với chiếc gậy mò mẫm đường đi vì đôi mắt mù lòa. Cái nhìn của chúng ta về họ cùng có một sự xúc động như nhau, cùng thương cảm và lặng người. Tại sao chúng ta lại đồng cảm với nhau như vậy? Bởi vì họ là những con người có những hệ lụy mật thiết với chúng ta, họ là những viên gạch lót đường làm nền móng cho chúng ta tiến bước. Một phần thân thể và máu của họ đã thấm xuống mạch đất, đã ăn sâu vào gốc rễ để cho chúng ta tồn tại. Chúng ta trân quý họ bao nhiêu thì kẻ thù lại khinh bỉ và hành hạ họ bấy nhiêu, chúng ta ghi ơn họ bao nhiêu thì kẻ thù lại đẩy họ vào đường cùng không lối thoát. Họ đang gánh chịu sự đày đọa trên thân thể, lại thiếu ăn thiếu mặc. Ai ra tay giúp họ?

Nghĩ lại cho cùng chính chiến tranh đã gây ra biết bao nhiêu nghịch cảnh. Họ là những người lính, nhiệm vụ của họ là ngăn cản quân thù xâm lăng. Họ gánh chịu tất cả những đau thương đứng trước cảnh đầu sóng ngọn gió, họ lãnh đủ trên người những lằn tên mũi đạn, thập tử nhất sinh. Những người ra đi vĩnh viễn, những người trở về nhưng thân tàn ma dại, không còn hình hài nguyên vẹn. Có người mang danh nghĩa là con người nhưng quả thật chỉ còn một đống thịt, vì bản năng sinh tồn họ khó nhọc lê tấm thân trên đường phố để kiếm ăn. Ai chịu trách nhiệm về sự đau thương nầy? Xã hội đã làm ngơ, vì cái xã hội mà họ đang sống do kẻ thù điều khiển, không đoái hoài tới họ. Chiến hữu tránh mặt, vì chính ngay bản thân sống trên đất nước quá khó khăn thì làm sao cưu mang nổi những người bạn tật nguyền nầy. Thôi thì cứ mệt nhọc lê thân trên hè phố kiếm ăn qua những tấm lòng độ lượng bố thí của thập phương. Chúng ta đã từng thấy trên đường phố, bến xe, bến đò, chợ búa thì không lạ gì những con người tật nguyền nầy. Chúng ta cũng không thể ngờ # những con người trước đây cùng trong hàng ngũ với chúng ta, chiến đấu cùng chiến tuyến với chúng ta và cũng có những người là cấp chỉ huy của chúng ta. Bây giờ họ thuộc loại đầu đường xó chợ, bị người đời khinh khi, thiếu ăn thiếu mặc, sống giở chết giở vì họ không còn khả năng làm việc, trên thân thể họ chỉ còn trái tim thoi thóp thở, chỉ còn chút ít mạch sống. Vì ai họ ra nông nỗi nầy? Có phải chăng vì sự tồn vong dân tộc, vì lý tưởng cao đẹp của cuộc sống mà họ phải xả thân bảo vệ, vì sự an nguy của toàn dân mà họ liều mình hiến dâng.

Sống trên đất Mỹ, chúng ta không thấy được những nghịch cảnh nầy. Những thương phế binh của Mỹ đã từng chiến đấu ở Việt Nam, họ được chính phủ của họ trợ cấp đầy đủ, không thấy cảnh ăn xin. Hằng năm đến ngày “Veteran day” chúng ta nhìn thấy họ hãnh diện diễn hành, dân chúng Mỹ trân trọng cúi đầu khi họ đi qua, vì biết rằng sự hy sinh to lớn của họ nước Mỹ không thể nào bồi đắp được. Mang thân Phế Binh đã khổ rồi, mà mang thân phế binh của kẻ chiến bại thì mức độ khổ sở gấp ngàn lần. Từ tinh thần đến vật chất, từ suy nghĩ đến cuộc sống họ không còn trông nhờ vào ai được, họ ê chề thất vọng, họ chỉ còn ngóng đợi sự giúp đỡ của chúng ta. Ðã hơn 30 năm từ khi làn sóng tỵ nạn ồ ạt định cư trên đất nước tự do, chúng ta đã thành lập biết bao nhiêu Hội Ðoàn, Ðảng Phái. Chúng ta đã tổ chức gây Quỹ biết bao nhiêu lần để củng cố những cơ sở chính trị, hướng dẫn các thế hệ đàn em luôn luôn hướng về quê hương. Chúng ta đã trở thành những trưởng giả, những bậc phú ông, nên chúng ta phải tìm vui trong những khung cảnh sang trọng. Có ai còn nhớ lại cuộc chiến đấu trước đây đã bao nhiêu người nằm xuống, đã biết bao nhiêu phế binh đang ngoi ngáp bên quê nhà, mà thân thể của họ đã từng lót đường cho chúng ta trốn thoát chế độ sát nhân trong nước. Có ai nhỏ giùm cho họ những giọt lệ thương sót, cho cuộc đời bất hạnh của những anh em đã từng cầm súng gìn giữ quê hương, để chúng ta có dịp đặt chân trên đất nước tự do. Hơn hai triệu người tha phương chỉ có một vài người đơn độc gióng lên tiếng chuông kêu gọi lòng nhân đạo của mọi người, hãy nghĩ về những anh em thương tật bên quê nhà. Tiếng kêu thất thanh của họ cũng chỉ có một số ít người hưởng ứng, lòng hy sinh của họ cũng mỏi mòn. Chúng ta vong ân bội nghĩa như vậy sao? Không, Chúng tôi tin rằng chúng ta là những con người trọng tình trọng nghĩa, không dễ gì một sớm một chiều mà quên đi những con người sa cơ thất thế nầy, những người một thời vùng vẫy trên chiến trường để bảo vệ cuộc sống thanh bình của toàn dân. Cái nhìn của chúng ta về những anh chị em Phế Binh nầy cũng khác, chúng ta bao giờ cũng tri ân họ, bao giờ chúng ta cũng cho họ là những con người vĩ đại. Cái nhìn của chúng ta về họ với đôi mắt dịu dàng thán phục, với đôi mắt rực sáng kính nể. Cái nhìn của chúng ta đã được sự đồng tình của nhiều người.

Có lẽ độc giả sẽ hỏi rằng tôi là ai mà có những lời “bênh vực” cho Thương Phế Binh và kêu gọi mọi người thương tình giúp đỡ cho họ đang lây lất sống tại quê nhà. Xin thưa, tôi cũng là một thương phế binh, tôi gửi lại một bàn chân phải trên quê hương trong mùa chinh chiến khốc liệt nhất, đó là Mùa Hè Đỏ Lửa 1972. Vì vậy tôi hiểu tâm trạng của anh chị em vì tôi đã từng đau với cái đau của họ. Có một điều tôi hơn được họ bởi vì tôi may mắn là tôi đang sống trên đất Mỹ. Nếu tôi ở quê nhà tôi cũng lê tấm thân trên đường phố, chống đôi nạn gỗ và ngữa cái nón cời xin ăn từng bữa. Tôi cũng sẽ trông chờ tấm lòng thương mến của quý vị.
Lời van xin của tôi, thay mặt cho anh em nói lên lời cám ơn chung đến quý vị.

PHAN XUÂN SINH

BachMa
03-26-2016, 02:54 AM
Mẹ Già..!!

http://hoiquanphidung.com/upload_hqpd/hqpd116/1458960101-MeGia.jpg

Mẹ vẫn biết mẹ già không sạch sẽ
Nhưng con ơi đừng khóa mẹ trong này
Bưng bát cơm mẹ rung tay rơi vãi
Bẩn nền nhà để con phải dọn lau

Mẹ hứa giờ không lên phòng khách đâu
Đừng nhốt mẹ ở đây sầu thăm thẳm
Ở nơi này mẹ thấy cô đơn lắm
Con ơi con cho mẹ ngắm cuộc đời

Mẹ biết rằng để con xấu với người
Khách đến nhà nhìn thấy người mẹ bẩn
Quần áo bốc mùi, tính tình luẩn quẩn
Biết không con mẹ thấy hận tuổi già

Cả cuộc đời ta có mẹ có cha
Tuổi xế chiều dẫu biết là vất vả
Chữ hiếu đi đầu làm con phải trả
Phải biết tự hào khi còn cả song thân

Đấng sinh thành đã vất vả hy sinh
Chịu đắng cay để cho mình cuộc sống
Chịu tối tăm để đời con tươi sáng
Ta có huy hoàng đừng phụ bạc mẹ cha

Phải chăm sóc phụng dưỡng khi tuổi già
Phải lấy đó chính là niềm vinh hạnh
Đời chỉ vui khi mẹ cha bên cạnh
Một tiếng thở dài ta vẫn thấy yêu thương..

:40: :40: :40:


Ông Lão Quét Rác

http://hoiquanphidung.com/upload_hqpd/hqpd116/1458960139-OngLaoQuetRac.jpg
Tài sản không phải là người bạn cả đời, học được tôn trọng mới là tài sản của một đời vậy. Ảnh: Internet

Một người phụ nữ hơn 40 tuổi sang trọng quý phái dẫn theo đứa con trai đi đến hoa viên ở lầu dưới một cao ốc, vốn là tổng bộ xí nghiệp nổi tiếng tại Thượng Hải, ngồi xuống một chiếc ghế dài ăn đồ.

Một lúc sau, người phụ nữ vứt một mẩu giấy vụn xuống đất, cách đó không xa có một ông lão đang quét rác, ông không nói lời nào, đi đến lượm mẩu giấy đó lên, và bỏ nó vào trong thùng rác bên cạnh.

Lại qua một lúc nữa, người phụ nữ lại vứt một mẩu giấy nữa. Ông lão một lần nữa lại đi đến nhặt mẩu giấy đó lên bỏ vào trong thùng rác. Cứ như vậy, ông lão đã lượm ba lần liên tục.

Người phụ nữ chỉ vào ông lão, và nói với cậu con trai mình rằng: “Đã nhìn thấy chưa, con bây giờ nếu không cố gắng học hành, tương lai sẽ giống như ông ta, chẳng có tiền đồ gì cả, mà chỉ có thể làm cái công việc thấp kém này thôi!”.

Ông lão nghe xong liền buông cây chổi xuống, đi đến nói: “Chào cô, nơi đây là hoa viên tư gia của tập đoàn này, cô đã vào đây như thế nào vậy?”.

Người phụ nữ trung niên cao ngạo nói: “Tôi là giám đốc bộ môn vừa mới được tuyển vào đây”.

Lúc này, một người đàn ông vội vàng đi đến, rất mực cung kính đứng trước mặt ông lão. Nói với ông lão rằng: “Tổng giám đốc, hội nghị sắp bắt đầu rồi!”.

Ông lão nói: “Tôi đề nghị hãy cách chức người đàn bà này ngay lập tức!”.

Người đó luôn miệng nói: “Vâng, tôi sẽ lập tức làm theo chỉ thị của ngài!”.

Ông lão dặn dò xong, liền đi thẳng đến chỗ cậu bé, ông đưa tay sờ sờ đầu của cậu, nói một cách ngụ ý sâu xa rằng:

“Ông mong cháu hiểu rằng, điều quan trong nhất trên đời này là cần phải học biết tôn trọng mỗi người và thành quả lao động của họ”.
Người phụ nữ trung niên sang trọng đó kinh ngạc đến ngây người trước sự việc diễn ra trước mắt.

Một lúc sau bà vẫn ngồi liệt trên chiếc ghế dài, nếu như biết đó là tổng giám đốc thì nhất định bà sẽ không có cái thái độ vô lễ đến như vậy.

Nhưng bà đã làm rồi, hơn nữa còn làm trước mặt của tổng giám đốc đang trong thân phận một người làm vườn. Tại sao vậy? Lẽ nào là bởi sự sang hèn của thân phận chăng?

Tôn trọng mỗi một người, chớ lấy thân phận mà phân biệt, đây là thói quen của bạn, vốn là điều không thể giả được, nó sẽ luôn để lộ ra một mặt chân thật trong nhân cách của bạn.

Tài sản là thứ không vững bền, học được cách tôn trọng mới là tài sản của một đời vậy. Đó mới là cảnh giới cao nhất của đời người.


Tiểu Thiện, dịch từ Cmoney.tw
http://www.webtretho.com/forum/f3950/nu-giam-doc-mat-viec-chi-boi-mot-cau-noi-cua-ong-lao-quet-rac-2154339/

ttmd
03-28-2016, 03:01 AM
http://hoiquanphidung.com/upload_hqpd/hqpd116/1459134612-BachMa6.gif

/upload_hqpd/hqpd116/1459131938-NguaPhi_.mp3

BachMa
03-29-2016, 07:19 PM
Chuyện Tình Anh Thủy Quân Lục Chiến QLVNCH

http://hoiquanphidung.com/upload_hqpd/hqpd116/1459278860-ChuyenTinhAnhTQLC.jpg

Một thời để yêu và một thời để chết. Một thời bên nhau, đại bác xa xa vọng về và hỏa châu thắp sáng chân trời. Rồi tù đầy chia cắt. Anh trở về dang dở đời em. Nhiều trường hợp sau hơn 10 năm ngục tù, anh trở về , em đã đem con qua Mỹ và đi xa hơn nữa, em đã sang ngang. Cũng như hàng trăm người khác, chuyện cô gái sông Hương mà tôi kể cho quý vị hôm nay cũng vậy mà thôi.

Nhưng đây là câu chuyện trong gia đình anh chị em cùng khóa của chúng tôi, xin kể lại để quý vị nghĩ rằng đây là khổ đau hay hạnh phúc.

Ðặc biệt đây là câu chuyện liên quan đến mặt trận Quảng Trị năm 1972.

Chàng là sĩ quan thủy quân lục chiến, tốt nghiệp Ðà Lạt, cùng khóa với chúng tôi. Năm đó đã trên 30 tuổi, ly dị vợ, sống độc thân, đẹp trai và có thể nói là hào hoa phong nhã.

Ðời thủy quân lục chiến, 12 tháng anh đi, nay đây mai đó. Còn nhớ bài ca của lính mũ xanh. Tháng hai đem quân ra Huế... và ở đó trung tá Nguyễn đã gặp cô Lan Hương, sinh viên văn khoa, người con gái sông Hương. Lúc đó vào đầu thập niên 70, em mới 20 tuổi. Cô gái Huế cũng có nhiều bạn trai theo đuổi và phần cô cũng rất đào hoa. Ðược coi là người đẹp văn khoa xứ Huế. Gặp chàng sĩ quan Bắc Kỳ, áo mầu lính biển với mũ xanh, mang vóc dáng của người hùng thời chinh chiến, Lan Hương bỏ tất cả để theo chàng.

Chị cả một gia đình lễ giáo bảo thủ, cha mẹ cô hoàn toàn chống đối cuộc hôn nhân hết sức phiêu lưu. Anh chàng Bắc kỳ hơi lớn tuổi, quá khứ chẳng biết ra sao, đi thứ lính không biết chết ngày nào, không ai lại muốn con gái sớm thành góa phụ.

Nhưng cô gái sông Hương bướng bỉnh đã bỏ nhà theo sư đoàn thủy quân lục chiến vào Saigon mất tăm dạng. Nàng chỉ trở về với đứa con trong bụng để rồi gia đình cũng phải đành chấp nhận cho chàng rể bất đắc dĩ ra mắt nhạc gia và chờ đón đứa cháu ra đời.

Lúc đó đúng vào giai đoạn trung tá Nguyễn cùng với lữ đoàn đang chiến đấu tại mặt trận Quảng Trị. Lan Hương đau bụng vào nhà thương khi Bắc quân tấn công thủy quân lục chiến tại Ái Tử.

Hương kể rằng đại bác chẳng biết từ đâu vọng về ngày đêm. Rồi bom nổ, tiếng máy bay xé ngang trời. Dân chúng bị thương, bị chết đem vào bệnh viện cho đến ngày 6 tháng 4 năm 1972 đứa con trai đầu lòng của cô gái sông Hương ra đời. Ðặt tên cháu là Vũ.

Cũng ngày hôm đó, từ mặt trận trung tá Nguyễn bay trực thăng về hậu cứ, rồi xe nhà binh cùng với binh sĩ ào vào thăm vợ con được ít phút rồi lại ra đi.

Lính tráng đi với ông thầy, súng đạn đầy người, áo quần tơi tả, đến rồi đi tưởng như trong phim ảnh.

Cô sinh viên nay trở thành bà mẹ trẻ ôm con khóc không biết rồi đây anh có trở về không ? Ðó là những ngày đầu của người con gái nếm mùi đau thương chinh chiến. Mấy năm trước, dù Mậu Thân với bom đạn và xác người chôn ở vườn nhà, tuy có sợ hãi nhưng vẫn còn ở tuổi ngây thơ. Bây giờ chiến tranh mới thâm nhập vào da thịt.

Suốt 6 tháng dài từ tháng 4 tới tháng 9 năm 1972 Lan Hương thực sự sống với chiến trường Quảng Trị. Theo tin chiến sự mỗi ngày. Quân ta quân địch đánh nhau ở đâu. Thủy quân lục chiến rút lui ra sao, rồi đơn vị về Huế dưỡng quân để lên đường vượt Mỹ Chánh thế nào.

Người con gái sông Hương cùng thở theo hơi thở của cả đoàn quân mũ xanh. Khi đánh vào Cổ Thành, lính bên ta chết bao nhiêu, xác đem về đầy các xe nhà binh, máy bay chở về Saigon không kịp còn nằm chờ ở phi trường.

Cô sống trong những cơn ác mộng ngày đêm, không đêm nào là không có cơn mộng dữ. Ðứa con đầu lòng đã sống trong niềm lo bất tận của mẹ.

Tiếp theo là 1 tin vui trong giai đoạn mới của binh nghiệp. Trung tá Nguyễn đổi về Saigon làm trung đoàn trưởng 1 trung đoàn bộ binh. Mặt trận miền Ðông cũng không kém phần ác liệt, tuy nhiên không khí thủ đô làm cho gia đình có được những giây phút tương đối an toàn.

Mới đây, từ bên Arizona, đọc những bài viết về trận Quảng Trị và dự trù làm phim, cô Lan Hương đã viết cho gia đình tôi một đoạn email:

“Ðọc những chuyện về trận Quảng trị 37 năm về trước, em hết sức xúc động. Ðó là một phần cuộc đời của em không bao giờ quên được. Cuộc đời làm vợ lính thủy quân lục chiến, làm mẹ lần đầu. Và do những tình cờ em lại quen biết với gia đình anh chị suốt bao năm nay.”


Viet Anh Thi

BachMa
04-02-2016, 03:26 AM
Cơm Hến
Việt Phương

Cơm Hến là một món cơm bình dân xứ Huế, nhưng trong đó chứa đựng cả một quá trình thật vất vả. Trước tiên, nói đến cơm Hến, dĩ nhiên là phải nói đến Hến. Muốn có được Hến, chúng ta không thể nào không nhắc đến những người làm nghề cào Hến trên sông Hương, hay đãi Hến nơi cồn Hến. Họ vất vả đi xúc, đãi từng con Hến nhỏ, về ngâm nước cho Hến nhả hết cát. Xong, họ rửa sạch, đun sôi lấy nước Hến, đãi lấy thịt Hến ra khỏi vỏ. Thật là nhiêu khê


http://hoiquanphidung.com/upload_hqpd/hqpd116/1459566512-ComHen_01.jpg
Cồn Hến - NGUỒN PANORAMIO.COM

Tuy nhiên, ngày nay, có những lò chuyên nấu Hến và cung cấp Hến và nước Hến cho những quán ăn, những người bán hàng gánh, nên khâu này được giản dị thêm một bước.

Phần tiếp theo cũng rắc rối những vấn đề, tuy là món bình dân nhưng theo đó là một chuỗi những rau và gia vị ăn kèm. Rất cầu kỳ thường có trong những cách chế biến thức ăn của kinh đô Phú Xuân một thời.

Rau gồm: Khế chua cắt từng ngôi sao năm cánh rất đẹp mắt, bạc hà, bắp chuối (từ hoa chuối), lõi cây chuối non, rau muống chẻ, giá sống, rau xà lách, rau thơm đủ loại, ớt trái, chanh... (như thế đã có trên 10 loại rau trái khác nhau)

Gia vị: Hành khô, gừng, tương ớt, mắm ruốc, đậu phụng chiên, tóp mỡ, (có nơi còn cho thêm bánh tráng nướng)

Và dĩ nhiên là phải có cơm.

Thật ra, ngày xưa cơm Hến dành cho những người nhà nghèo. Muốn sử dụng lại cơm nguội, nên ngày hôm sau chỉ luộc nồi Hến lên, rồi ra vườn cắt những thứ rau trái có sẵn trong vườn, nhất là lõi cây chuối non (phần già thường bằm cho heo ăn). Những món rau ăn độn với cơm, làm thành món cơm Hến.


http://hoiquanphidung.com/upload_hqpd/hqpd116/1459566540-ComHen_02.jpg
Bắt hến tại Vỹ Dạ - NGUỒN VIETNAMNET.VN

Tôi nhớ nhất những sáng mưa phùn bay lất phất, thấy người gánh cơm Hến run rẩy trong chiếc áo mưa tơi. Khói nghi ngút một đầu gánh, đi ngang qua sân nhà. Me tôi thế nào cũng gọi bà vào, mua vài tô cơm Hến. Nhẹ nhàng đặt gánh xuống hiên nhà, bà gỡ miếng nylon che mỗi đầu quang gánh. Những giọt mưa như những giọt nước mắt theo đó nghẹn ngào nhểu xuống nền nhà. Ðôi tay bà run run trong cái lạnh. Hình ảnh đó vẫn theo tôi suốt từ thời thơ ấu. Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam dãi dầu với biết bao hy sinh, chịu thương, chịu khó. Mỗi lần có dịp ăn cơm Hến, tôi không thể nào không bùi ngùi nhớ lại những hình ảnh cũ. Chỉ một tô cơm bình dân thôi, cũng đã gói ghém biết bao gian lao khó nhọc trong đó. Gánh cơm Hến. Một đầu gánh là nồi nước Hến cùng cơm và những gia vị như mắm ruốc, ớt, chanh, tương ớt, đậu phụng chiên giòn, tóp mỡ. Ðầu kia là một thúng đầy những thứ rau mát mắt, đã cắt rửa sẵn.

Trước tiên, bà múc ra tô một ít cơm, sau đó nào rau, nào đậu phụng rang, nào tóp mỡ hành khô và Hến, tôi nhớ là Hến rất ít, chỉ một muỗng canh mà thôi. Và một chén nhỏ nước Hến múc riêng. Trộn tất cả những hỗn hợp trên, thêm vào chút tương ớt đặt biệt của người Huế, chút mắm ruốc, vắt chút chanh tùy khẩu vị mỗi người. Ăn trong cái cay cay, chua chua, mằn mặn quyện trên đầu lưỡi. Ăn trong cái giòn giòn ngọt ngào của rau sống, cùng cái giòn rụm béo ngậy của tóp mỡ và đậu phụng chiên làm tăng nồng vị giác. Thỉnh thoảng múc một muỗng nước Hến cho vào miệng, nước Hến ngọt lịm đưa cơm trơn tuột vào dạ dày. Thật không có cái món cơm bình dân nào sánh bằng.

Ngoài trời, mưa bay lất phất, ngồi co ro bên lò than của nồi nước Hến, ăn tô cơm Hến. Hít hà vị cay của ớt chạy vào ấm buồng ngực. Nhìn đôi tay thoăn thoắt của bà bán bún Hến gánh, như đang dạo trên những phím dương cầm khúc nhạc không lời đầy những nốt thương yêu, cơ hàn, nhẫn chịu. Khúc nhạc đó vẫn còn vang lên trong lòng tôi, mỗi khi nhớ về xứ Huế.


http://hoiquanphidung.com/upload_hqpd/hqpd116/1459566570-ComHen_03.jpg
Cơm hến - NGUỒN DANANG43.COM

Nói đến cơm Hến phải nói đến cồn Hến. Cồn Hến, nằm ở hạ nguồn sông Hương cách thành phố Huế khoảng 4km. Cồn Hến thuộc xã Hương Lưu, phường Vĩ Dạ, rất nổi tiếng qua bài thơ "Ðây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử. Ăn cơm Hến phải tới cồn Hến ăn mới đúng là cơm Hến chính gốc. Hến được bắt và đãi tại đây. Có nhiều quán cơm Hến ở Cồn Hến. Lái xe qua Cồn Hến, vào những con đường đất. Dọc bên đường là những quán cơm Hến, bún Hến, cháo Hến. Chúng tôi dừng xe lại ở quán Hoa Ðông,

Quán là những mái tôn được lợp chìa ra khỏi hiên nhà. Trong vườn, những bàn ghế bình dân nằm chờ khách. Vài bàn đã có khách cười nói xôn xao, âm thanh rất Huế.

Dĩ nhiên tôi kêu một tô cơm Hến. Ăn cơm Hến, lòng bồi hồi nhớ đến thuở ấu thời. Ðã bao nhiêu năm trôi dạt khắp nơi, nhưng lòng lúc nào cũng nhớ về một nơi chốn tôi đã được sinh ra. Và, cơm Hến cùng bà bán gánh dạo thường đi ngang nhà tôi mỗi sáng, ngày xưa. Tôi thương quá, tà áo dài ngả màu, rách nhầu bà vẫn thường mặc, khi gánh cơm đi bán. Và những làn khói vương vất gót chân bà. Khói vẫn vương vất hồn tôi dù thất lạc. Tôi thẫn thờ nhìn quanh, con đường làng xanh lá. Chợt nhớ câu thơ họ Hàn "Ở đây sương khói mờ nhân ảnh."


Việt Phương
http://baotreonline.com/Chuyen-muc-tre/Tap-ghi/com-hen.html

BachMa
11-29-2016, 06:26 PM
Login to Cánh Thép Website today November 29, 2016

http://hoiquanphidung.com/upload_hqpd/hqpd616/1480443855-CanhThep_001.JPG

BachMa
12-04-2016, 03:44 AM
Cai Rượu

Có rất nhiều người sa đà vào bia rượu, họ sẽ cảm thấy vô cùng bứt rứt nếu không có rượu trong người. Việc này gây ra không ít những hệ lụy không đáng có. Việc cai rượu cũng chẳng hề đơn giản 1 chút nào, mình sưu tầm được cách này rất hay và hy vọng ai đó cũng có thể dùng nó để cai rượu.


http://hoiquanphidung.com/upload_hqpd/hqpd616/1480822200-Cai Ruou.jpg

Thật sự mình thấy rượu chè có bổ béo gì đâu mà mọi người lại bị nghiện như vậy. Nghiện bia rượu được xem là sự bất lực của con người bởi họ không còn khả năng kiểm soát được mong muốn của bản thân đối với uống rượu nữa.

Chưa kể, nghiện rượu gây ra khá nhiều khó khăn trong cuộc sống và phá vỡ hạnh phúc nhiều gia đình. Đôi khi, việc nghiện rượu còn đem đến nhiều tai nạn không mong muốn cho bản thân người uống như mất kiểm soát hệ thần kinh, biến chứng huyết áp và tim mạch.

Nếu mọi người có ý chí dù chỉ 1 chút, hãy dùng cách này:

Nước húng quế điều trị nghiện rượu

Húng quế là một trong những loại rau thơm được sử dụng khá phổ biến trong bữa cơm của người Việt, đây cũng là vị thuốc tuyệt vời để điều trị nghiện rượu. Húng quế chứa khá nhiều dược liệu giúp giảm cơn thèm rượu bia, nếu tiêu thụ thường xuyên bạn sẽ cai được hẳn bia rượu.

Ngoài ra, húng quế còn hoạt động như một chất chống oxy hóa giúp loại bỏ các gốc tự do độc hại cũng như giúp thanh lọc cơ thể.

Chuẩn bị:
– 5 ngọn húng quế
– 20 hạt tiêu đen
– 1 ly nước chừng 250ml

Thực hiện:

Đêm trước khi đi ngủ, hãy đặt lá húng quế và 20 hạt tiêu đen vào trong cốc nước, để ngâm húng quế và tiêu trong ly nước qua đêm.

Sáng hôm sau, khi thức giấc người nghiện bia rượu chỉ cần uống cốc nước này (trước đó hãy vớt bỏ tiêu và húng quế ra khỏi ly). Uống đều đặn trong 1 đến vài tuần, người nghiện rượu sẽ giảm dần và bỏ hẳn các loại đồ uống có cồn.

Nếu được, hãy thêm vào khẩu phần ăn của người nghiện rượu 1 nhúm lá húng quế để tăng hiệu quả của phương pháp này. Bạn có thể yên tâm hoàn toàn vì những nguyên liệu của công thức từ tự nhiên tuyệt đối an toàn cho sức khỏe.

Chúc bạn thành công nhé!


nguồn: http://www.webtretho.com/forum/f73/du-ng-na-m-la-na-y-trong-1-tua-n-bo-m-nha-u-cha-c-cha-n-cu-ng-cai-duo-c-ruo-u-2217237/

BachMa
12-15-2016, 03:09 AM
Cái Bí Ẩn Của “Chuyện Đàn Ông”
Cô ghi phiếu hỏi người đàn ông đi khám “chuyện đàn ông”: Anh tên gì?
- Dạ, Trần Ngọc Quý.
- Ngắn hay dài?
- Dạ…? Dạ… bình thường ạ.
- Hoặc ngắn hoặc dài, sao bình thường được?
- Ý cô là…
- I ngắn hay Y dài?
- Dài… dài ạ.
- Dài thì nói luôn là dài, ậm ừ mất thời gian quá.


Chuyện Trên Thiên Đường
Ba cô gái bị tai nạn, lên tới của thiên đường thì gặp thánh Pie. Ông này dẫn các cô vào vườn thiên đường cực đẹp nhưng vịt con đi lại kín cả vườn. Ông bảo: "Ai mà dẫm phải vịt thì sẽ bị trừng phạt rất nặng".

Được một lúc thì cô thứ nhất dẫm bép một cái, chết một con vịt. Thánh Pie hiện ra tức thì, dắt theo một người đàn... ông cực xấu và nói: "Đây là hình phạt dành cho con".

Một lúc sau cô thứ hai làm bép một cái nữa, thế là Pie hiện ra với một người còn xấu hơn lúc nãy.

Cô thứ ba run như cầy sấy, đi dò dẫm từng bước một. Mãi chả dẫm chết con vịt nào. Thánh Pie hiện ra cùng với một chàng trai tuyệt đẹp và đưa chàng cho cô. Còn chàng trai mặt cau có bực bội:
"Tức quá đi, đã cẩn thận thế rồi mà vẫn dẫm chết vịt!"


Bực Cả Mình
Bà mẹ vợ nghe vọng ra từ phòng tắm:
-Bực cả mình, sáng tối nào anh cũng chỉ bóp ở trên không à.
-Em nhớ lại đi, tối hôm qua anh chẳng bóp từ dưới bóp lên là gì?
-Sao bây giờ ở trên nó dẹp lép còn ở dưới nó phồng to như thế này?
-Em nói nhiều quá...
-Bóp ở dưới đi! Tiếng cô vợ hét lên.
-Bóp ở đâu mà chẳng được. Tôi thích bóp chổ nào thì bóp! Tiếng anh chồng cự lại.

Ba già sợ có đánh nhau vội lên tiếng can:
-Nó muốn bóp ở đâu thì cứ để yên... Trên dưới gì cũng cần thôi.

Cô con gái nghe xong mở cửa phòng tắm ló đầu ra chìa cho mẹ xem ống kem đánh răng móp méo:
-Mẹ nhìn xem có tức mình không?

Bà già vợ:
-Tao tưởng chuyện gì to. Tụi bây đánh răng, tao cũng... nhức đầu!!!

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1381108152.gif

BachMa
12-20-2016, 06:43 AM
Thân chúc Admin, BĐH, thành viên và độc giã HQPD
một mùa Giáng Sinh vui tươi, ấm cúng bên gia đình,
và một năm mới đầy an lành, hạnh phúc.

http://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1/1482215926-photo 2011 1-12-26.jpg

BachMa
01-06-2017, 03:46 AM
Đời Kỵ Binh

Đã từ lâu rồi tôi muốn viết chuyện đời Kỵ Binh của tôi, chỉ hơn một năm đội chiếc mũ đen, chịu đựng nổi gian khổ của một Sĩ Quan còn quá trẻ với tuổi đời và trách nhiệm quá lớn của một Chi Đội Trưỡng.


http://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1/1483673437-DoiKyBinh_ChienLe_001.jpg
Chiến Lê

Cuộc đời Kỵ Binh có nhiều nổi đau hơn là chiến công hiển hách, không huy chương, không hào quang ngụy trá tô điểm cho cuộc đời binh nghiệp ngắn ngủi của tôi. Tôi mản khóa 56 SQCBTG cuối tháng 3/1974, sau một tuần lể ngắn ngủi về thăm nhà rồi vào Sài Gòn trên chuyến bay của hảng HKVN mà mẹ tôi đã bán chiếc nhẩn cưới để tôi có tiền mua vé, vì đường bộ vào Sài Gòn rất nguy hiểm trong lúc đó, VC hay chận xe đò thu thuế, bắt thanh niên trẻ tuổi vào rừng hay lính VNCH đi phép xui xẻo gặp tụi nó.

Tôi về Biên Hòa trình diện BCH Lữ Đoàn III KB, cũng con đường quen thuộc mà tôi đã đi qua trong những ngày đi phép về Sài Gòn, khi còn thụ huấn tại trường Thiết Giáp Long Thành, mà bây giờ thì khác hẳn nhau, tôi sẻ nhận một nhiệm vụ mới, một trách nhiệm nặng nề của một cấp chỉ huy chỉ hơn 21 tuổi đời, trong hoang tàn đổ vở của cuộc chiến do kẻ thù cùng chủng tộc từ phương Bắc. Tôi sinh ra và lớn lên bên dòng sông Vu Gia hiền hòa, thuộc quận Đại Lộc, tỉnh Quãng Nam, con lớn trong một gia đình có 6 trai, 2 gái, ba tôi là HSQ Pháo Binh của SĐI BB, khóa 8/62 HSQ ĐB, tôi khóa 8/72 SQTB cũng chung trường Đồng Đế cách nhau 10 năm.

Tôi chọn về LĐIII mặc dù tôi đậu thứ sáu và mỗi nhóm 5 người tôi là người đầu tiên của nhóm thứ hai, tuy nhiên vì chuyện tình cảm ngu ngơ của ngày mới lớn, tôi đã làm trái lời mong ước của mẹ tôi là muốn tôi chọn đơn vị về vùng I CT cho gần nhà. Ngày đứng trước mặt Đ/Tá Trần Văn Thoàn Tư lịnh phó LĐIII XK nhận lảnh đơn vị về Thiết Đoàn 18 tôi nhớ mẹ tôi muốn rơi nước mắt khi biết từ đây sẻ còn có dịp gặp lại mẹ tôi không.

Tôi và Thông cùng dân Đồng Đế nó khóa 10/72 được bổ nhiệm về Chi Đoàn 2/18, hai đứa mang hành trang qua BCH CĐ 2/18, được ông Th/ Sĩ thường vụ cho hai giường bố bỏ đồ và đợi sáng mai xe GMC chở lên Tân Uyên Biên Hòa chi đoàn đang đi ủi rừng ở đó, hai thằng ghé CLB của TĐ ăn cơm tối uống cà phê ngồi nói chuyện đời cho đến khuya, chuẩn bị cho ngày mai không biết cuộc sống sẻ về đâu trong cuộc chiến, mà sống chết trong đường tơ kẻ tóc.

Chiếc xe GMC chở tôi và Thông rời phố Tân Uyên, rẻ qua con đường đất đỏ trực chỉ về phía Tây hai bên là rừng chồi, tôi nhớ quê tôi phía Tây Mỹ Đông, cũng rừng chồi bên nay Hà Nha gần quận Thường Đức, có sim rừng màu tím ngọt lịm, tôi nhớ bài thơ màu tím hoa sim của nhà thơ Hữu Loan nhưng tôi không có vợ, tôi không lo sợ chiếc bình hoa ngày cưới trở thành chiếc bình nhang, tôi không nghe tiếng người con gái trong thơ mà chỉ nghe tiếng đạn nổ và khói mịt mù trước mặt, anh tài xế bảo chúng tôi lội bộ vào khi chi đoàn bố trí trên đường rút quân ra trong nhiệm vụ ủi rừng, Thông về chi đội 2, tôi chi đội 4 súng cối 81 ly.

Chi đoàn trực chỉ về Phú Chánh phía Tây trại cùi Bến Sắn, dưởng quân và lục soát khu vực nầy được vài hôm thì Chi đoàn di chuyển lên Trảng Bàng, tôi thích viết văn, làm thơ dù chẳng có hay ho gì, mỗi lần dừng quân hỏi tài xế Hùng ở đó có gì nổi tiếng, tôi sẻ làm thơ chép vào trong nhật ký, nó bảo tôi viết cho tập san Vó Câu Biên Trấn của LĐIII XK, nghe chuyện Tha La xóm đạo tôi ao ước qua đó nhưng CĐ vào Khiêm Hanh và Trị Tâm giải tỏa áp lực địch trên đồn Chà Rầy và Bò Cạp nên không có thì giờ làm thơ, tại trận đánh đồn Chà Rầy đi với 1 trung đội Trinh Sát SĐ 25 BB tôi mới thấy cái nguy hiểm của trận mạc, xác chết bó trong poncho bỏ lên trực thăng và binh sỉ bị thương rên rỉ chờ tản thương, cảnh tượng rất buồn, tôi không biết gia đình của họ sẻ ra sao khi nhận được xác chồng con đem về mai táng, tôi có nhiều đêm không ngũ được, nổi lo sợ nào về trong giấc mơ làm tôi thao thức, không có em gái hậu phương choàng vòng hoa chiến thắng, chỉ có người cô phụ quấn khăn tang trong nước mắt tủi buồn, chiến tranh là vậy đó không biết bao giờ đến phiên mình, nếu tôi có mệnh hệ nào mẹ tôi sẻ ra sao, sẻ không còn những ngày đợi mong con nhưng sẻ có nhiều đêm dài trong nước mắt.


http://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1/1483673422-DoiKyBinh_ChienLe_002.jpg

Giửa tháng 4/74 CĐ đóng quân tại Lò Chén bên xa lộ Đại Hàn, tỉnh Bình Dương, nữa đêm di chuyển lên Gò Dầu Thượng vượt biên giới vào Kampuchia để giải vây căn cứ Đức Huệ, CSBV tấn công bằng hỏa tiển 122 ly lúc chi đội tôi đi bên hông phải của đội hình chử U, CĐ quay hướng về bên phải thanh toán mục tiêu và phá hủy toàn bộ hỏa tiển đặt nơi nầy, tôi xuống các địa đạo và hầm hố của CSBV lục lọi hy vọng tìm được cái gì đó làm kỹ niệm, tôi thấy một túi xách loang lổ với vết máu, mở ra tìm thấy cuốn vở nhàu nát, vàng úa của loại giấy rẻ tiền, trong đó lá thư của một anh bộ đội viết gởi cho mẹ được nửa chừng, anh hứa sẻ cố gắng trên con đường đấu tranh chống Mỹ Ngụy để mẹ anh có thêm khẩu phần mua đường làm bánh trong ngày Tết đến, tôi nghe lòng chùng xuống, không biết bây giờ anh chết rồi mẹ anh có mua được thêm đường làm bánh không, hai kẻ không cùng chiến tuyến có cùng nổi lo cho mẹ, dù sao nổi lo của tôi cũng đở hơn, tôi lo không có tôi về ăn Tết, ăn bánh tráng cuốn với thịt ba rọi xông khói, tẩm chút mắm với đường, mà mẹ tôi thường làm trong dịp Tết, chắc mẹ tôi sẻ buồn, sẻ khóc.

Tôi đã khóc trên đường vượt biên giới về phía Việt Nam tôi khóc cho bà mẹ không có con về ăn bánh Tết, tôi khóc cho mẹ tôi khi nghe bản nhạc Xuân nầy con không về, mẹ tôi thường nói trong thư gỡi cho tôi, Tết con không về mẹ ăn mải không ngon, mẹ sẻ sống đến cuối đời canh cánh một nổi buồn nhớ con, tôi nghe mắt cay cay và môi mặn chút gì khi chi đoàn dừng quân taị QL 1 Gò Dầu Hạ dưỡng quân và bổ sung đạn dược.

Đầu tháng 5 năm 1974, sau cuộc hành quân vào Kampuchia để giải vây căn cứ Đức Huệ , nằm trong quận Đức Hòa thuộc tỉnh Hậu Nghỉa, do Tiểu Đoàn 83 Biệt Động Quân biên phòng trấn giữ, chi đoàn 2/18 Thiết Kỵ có nhiệm vụ giữ an ninh trên quốc lộ 22 từ Bình Dương về Củ Chi,Trảng Bàng và Gò dầu Hạ, cho đến giữa tháng 5 năm 1974 khi chi đoàn nhận lịnh di chuyển về Bến Cát, một quận lỵ nằm trên đường về Lai Khê, cách Bình Dương hơn 10 cây số dọc theo quốc lộ 13, một con đường đã đi vào trong chiến sữ với địa danh An Lộc, mà những tháng ngày còn lặn lội ở quân trường Đồng Đế, Nha Trang ,tôi chỉ nghe tên mà không có lúc nào hình dung trong đầu óc, là có một ngày nào đó tôi sẻ trực tiếp tham chiến tại vùng nầy, mục đích của cuộc hành quân là yểm trợ cho Sư Đoàn 18 Bộ Binh tái chiếm An Điền và căn cứ 82 đã bị sư đoàn 9 Cộng Sản Bắc Việt tấn công và tràn ngập trong 2 ngày 16 và 17 tháng 5 năm 1974.Chi đội trưởng chi đội 4 là Chuẩn Úy Nùng ông Nội về hậu cứ trị bịnh, nên tôi tạm thời chỉ huy chi đội 4 trong cuộc hành quân nầy, đây là cái nhìn hạn hẹp của của một sĩ quan chi đội trưởng vừa ra trường không đầy 3 tháng, trong một trận đánh dữ dội mà tổn thất của hai bên lên đến cả ngàn người.

Chi Đoàn 2/18 TK dưới quyền chỉ huy của chi đoàn trưởng Đại Úy Trần văn Làm vào quận Bến Cát ngày 17 tháng 5 cùng với Tiểu Đoàn 64 Biệt Động Quân tùng thiết , trong lúc các toán trinh sát của SĐ 18 BB đi vào bố trí bên nầy bờ sông Thị Thính và chờ lịnh vượt sông , CSBV bắt đầu pháo kích vào quận lỵ bằng đại bác 130 ly, hỏa tiển 122 ly và 107 ly suốt ngày, nên những người dân ở đây đã di tản về một vùng bình yên nào đó.

Ngày 25 tháng 5 chi đoàn di chuyển đến bờ sông Thị Thính để yểm trợ cho Lực lượng BĐQ và trinh sát SĐ18 BB tái chiếm An Điền,một chi đội chiến xa M48 của TĐ 22 CX,chi đội 1 chiến xa M41 của Th/Úy Lân án ngử tại đầu cầu, bên hông có chi đội 2 thiết vận xa M113 của Th/Úy Dạ và chi đội 3 M113 của Th/Úy Viên , chi đội 4 của tôi chỉ huy còn có 3 xe M113, trang bị súng cối 81 ly nằm trên đường tỉnh lộ 14 ,cách sông Thị Thính chừng 500 thước, từ đây nhìn qua bên kia cầu là môt đoạn đường khoảng 100 thước hai bên là sình lầy, xác của 2 chiếc xe tăng T 54 bị bắn hư hại bởi một đơn vị bạn vẩn còn nằm bên phải của đoạn đường nầy. Đạn pháo của địch vẩn tiếp tục rơi vào bên nầy sông và thỉnh thoảng một vài trái hỏa tiển AT-3 từ bên kia sông bắn qua nhưng không gây một thiệt hại nào đáng kể, bên kia sông địch quân di chuyển vủ khí, đạn dược và đào công sự phòng thủ đợi chờ.

Từ đây cho đến cuối tháng 5 năm 1974 ,TĐ 64 BĐQ và trinh sát SĐ 18 đã lấy lại một phần phía đông của làng An Điền, nhưng cầu sông Thị Tính và đường vào An Điền không đủ khả năng an toàn để Chi đoàn 2/18 TK vào yểm trợ cho các đơn vị bạn. Ngày 1 tháng 6 Trung Đoàn 52, SĐ 18 BB băng qua cầu Thị Thính vào An Điền, chi đoàn nằm bên nầy bờ sông Thị Thính xử dụng đại liên 50, đại bác trên chiến xa M 48 và M 41 để yểm trợ cho cuộc tấn công, Chuẩn Úy Trần văn Đình cùng khóa 8/72 SQTB Đồng Đế với tôi là trung đội trưởng trinh sát của SĐ 18 BB đã tử trận ngày hôm đó, trong thời gian nầy Công Binh chiến đấu đã tu bổ cầu và đường vào An Điền, ngày 4 và 5 tháng 6 với sự hổ trợ của Trung Đoàn 48, SĐ 18 BB và BĐQ đã tái chiếm An Điền và mở đầu cho cuộc tấn công của Chiến Đoàn 318 Xung Kích trên đường về căn cứ 82.

Chiều ngày 6 tháng 6 năm 1974, chi đoàn vượt qua cầu Thị Thính, tôi lội bộ trên đoạn đường vào làng để chỉ dẩn chi đội 4 vượt qua một bải lầy thì Cộng quân bắt đầu pháo kích trên đường vào An Điền, tôi phải nhảy vào trong một chiến xa T54 cộng quân còn bỏ lại trên đường để tránh pháo, Trung sỉ Phước, một trưởng xa trong chi đội 4 và 2 người lính BĐQ bị thương nặng, xe tôi bị gảy cây antena nên tôi xử dụng xe của TS Phước để xử dụng máy truyền tin và hướng dẫn chi đội 4 vào An Điền khi trời vừa sụp tối, trong cơn mưa đầu mùa tháng 6 của miền Nam. Chung quanh làng An Điền hàng chục xác chết CSBV rải rác trên đường ,một số nằm trên bờ ruộng và một phần lớn chôn vùi trong giao thông hào kiên cố, mà cộng quân đã che đậy với những tấm lưới đan bằng cây chồi và phủ đầy với 5, 6 tất đất, những xác chết CSBV đã để lại sau hơn hai tuần lể giao tranh nên mùi hôi thối rất khó chịu, đêm đó CS tấn công phòng tuyến của SĐ 18 BB và tiếp tục pháo kích vào An Điền, trong xe ngoài tôi ra chỉ còn có Hùng tài xế và Thạch là một tân binh mới về đơn vị làm xạ thủ đại liên, cả ba đứa tôi thay phiên canh gác đợi chờ sáng mai vào giải tỏa căn cứ 82.

Tờ mờ sáng ngày 7 tháng 6 chi đoàn di chuyển ra khỏi làng An Điền về hướng Bắc , đội hình di chuyển với chi đội 1 và 2 đi hàng ngang ,đi hàng dọc hông bên trái là chi đội 3 và hông bên phải là chi đội 4 của tôi chỉ còn hai xe liên lạc bằng máy truyền tin, xe còn lại chạy theo sau và tôi ra dấu hiệu bằng tay . Chi Đoàn tiến vào khoảng 200 thước thì đụng độ chốt đầu tiên của CSBV, hàng cây chồi và cỏ ở đây cao hơn một thước nên khó nhìn rỏ địch quân ở đâu, trận đánh kéo dài suốt ngày, dưới cơn mưa pháo của tất cả các loại từ đại bác 130 ly, hỏa tiển 107ly, 122 ly, súng cối 82 và 61 ly của cộng quân, chi đoàn di chuyển rất chậm, một số binh sỉ BĐQ và thiết kỵ tử thương trong khi địch bỏ lại nhiều xác chết trong các hầm hố xây dựng rất kiên cố, tối đến chi đoàn vòng lại bố trí phòng thủ, nửa đêm đặc công CS xâm nhập vào vòng đai và cuộc chiến tiếp diển, tôi nghe máy truyền tin, nhận tọa độ và bắn súng cối yểm trợ trước phòng tuyến của thiết giáp và BĐQ, mổi lần nghe tiếng động phía trước đầu xe thì tôi ném vài trái lựu đạn đề phòng đặc công tấn công.


http://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1/1483673409-DoiKyBinh_ChienLe_003.jpg

Sáng hôm sau trước khi di chuyển vào mục tiêu, Hùng tài xế lấy C4 [thuốc nổ trong mìn Claymore] nấu ca nước nóng đổ vào bịch gạo sấy, ba đứa tôi chia nhau ăn với ba miếng khô cá sặc bằng hai ngón tay và cả ba đứa uống chung một ca nước lạnh, rồi sẳn sàng vào trận địa để tiếp tục thêm một ngày máu lữa, ngày nào cũng vậy sau những miếng cơm sấy với cá khô, súng đạn sẳn sàng khai hỏa khi vào mục tiêu, xông pha trong tiếng đạn thù, để đêm về trong giấc ngủ không yên nghe đạn pháo rơi đầy trên chiến lũy, chi đoàn tiến quân còn cách căn cứ 82 một cây số thì CS phản công dữ dội, tử thủ trong hầm với B40, B41 , 82ly không giật với pháo binh yểm trợ từ Lai Khê và phía bắc căn cứ 82, ban đêm địch xữ dụng đại liên 12 ly 7 từ những chiến xa T 54 và PT 76 đã bị hư hại bởi pháo binh hay phi cơ oanh kích trước đây, bắn vào khi đơn vị phòng thủ ban đêm, mổi ngày chi đoàn tấn công chiếm được 50 đến 100 thước, ban đêm lùi lại 50 thước để vào vị trí phòng thủ và ngày hôm sau lại tiếp tục tấn công, chi đoàn cầm chân tại chổ cho đến 13 tháng 6 thì Chiến Đoàn 315 Xung Kích vào tiếp viện. Chi Đoàn di chuyển qua khỏi An Điền, vượt cầu Thị Thính về giử an ninh trên quốc 13, bổ sung quân số và đạn dược đồng thời bảo vệ các căn cứ pháo binh của Tiểu khu Bình Dương và SĐ 18 BB, yểm trợ các đơn vị bạn còn tiếp tục trên đường về giải tỏa căn cứ 82.

Ngày 20 tháng 6 năm 1974 chi đoàn di chuyển về tỉnh lộ 1A trên đường đi Phú Giáo , ngày hôm sau tôi nhận lịnh về Lử Đoàn III Kỵ binh, khi về đến Biên Hòa mới biết tin tôi được thuyên chuyển về Chi Đoàn 2/15 TK, ngày 22 tháng 6 tôi trở lại An Điền trình diện tại bộ chỉ huy Thiết Đoàn 15,nằm tại phía đông nam làng An Điền. Ngày hôm sau CĐ 2/15 TK rời An Điền thay thế bởi CĐ 2/18 TK và mấy ngày sau tôi được tin Đ/Úy Trần văn Làm tử trận trên đường về căn cứ 82.

Đầu tháng 10 năm 1974, khi CĐ 2/15 TK hành quân trên QL 20 về Định Quán, Phương Lâm, tôi nghe tin SĐ 5 BB đã tái chiếm và treo cờ vàng ba sọc đỏ trên căn cứ 82, tôi rất vui mừng vì sau gần 4 tháng với các đơn vị bạn BĐQ, SĐ 18, SĐ 5, SĐ 25 BB và Lử Đoàn III XK với các chiến đoàn 315, 318 và 322 XK, nhiệm vụ giải tỏa căn cứ 82 đã thành công, bù lại tổn thất của hai bên lên đến cả ngàn người, những đổ vỡ của chiến tranh trên phố Bến Cát và điêu tàn của ngôi làng mang tên An Điền, mà thửa ruộng cũng không còn ngày tháng bình yên. Tôi nhớ mải về Hùng, nhớ câu chuyện về quê hương của Hùng ở Tây Ninh, những hứa hẹn có ngày về thăm khi đơn vị hành quân qua lối đó, tôi nhớ mãi những người kỵ binh anh dũng của CĐ 2/18 TK, những người đã cùng tôi chia xẻ những ngày dài trong chiến trận, tôi nhớ Hùng và Thạch những ngày chia nhau nắm cơm sấy ăn vội vàng với miếng cá khô, ngồi bên nhau đếm từng tiếng đạn pháo rơi về trên trận tuyến, ước mong hai chử bình an, tôi thương mến vô cùng những kỵ binh đồng đội của tôi và những chiến hửu của các đơn vị bạn, đã hy sinh trên chiến trường An Điền và trên đường về căn cứ 82.

Tôi và Thiếu Úy Long lên xe Jeep từ BCH LĐIII ở Biên Hòa , trực chỉ Bình Dương rẻ qua QL 13, Long cho tôi biết là từ lúc ra trường cho đến khi thăng cấp Thiếu Úy gần một năm nay chưa có lần ra đơn vị tác chiến, chỉ ở BCH làm ban 3 của LĐ, tôi dặn dò Long cẩn thận vì trận chiến trên đường về căn cứ 82 rất nguy hiểm, không biết chi đoàn 2/15 đi đến đâu rồi, hai đứa trình diện Bách Thảo tại BCH của TĐ 15 ngay giữa làng An Điền thì CSBV bắt đầu pháo kích vào BCH, tôi chui xuống gầm xe khi tài xế đóng cửa sau, nhìn lại phía sau thấy Long đứng ngẩn ngơ coi tội nghiệp vô cùng, sau đó hai đứa lội bộ vào bìa rừng khi CĐ 2/15 kéo ra, Đ/Úy Vinh 81 cho Long về chi đội 2 và tôi chi đội 4, lúc đó chỉ còn có 2 xe, 2 trưỡng xa và 2 tài xế.

Sau khi rút quân ra khỏi An Điền cuối tháng 6/1974 chi đoàn 2/15 về ngả ba Tân Hưng , ai cũng gọi là cua Paris không biết tại sao? Thiếu Úy Long chi đội trưởng chi đội 2 không đủ khả năng chỉ huy chi đội nầy, sau trận An Điền chi đoàn được bổ sung một số lao công đào binh và các quân nhân mới nầy không biết xe M113 là gì, tác xạ vủ khí ra sao? Thiếu Úy Vân tạm giữ chức vụ chi đoàn phó muốn tôi về coi thế cho Long , khi tôi về chi đội 4 có Hạ Sĩ Cần và HS Có là người có kinh nghiệm và rất giỏi về mọi công tác trong chi đội, tôi hỏi cả hai nếu tôi về coi chi đội 2 họ có thể về giúp tôi không? Cả hai đồng ý nên tôi xin Đ/Úy Vinh 81 cho cả hai về chi đội 2 với tôi .

Chi đoàn có nhiệm vụ giữ an ninh trên TL 1B đến TL 2B về Phú Giáo , mỗi ngày tôi dẩn 3 chiếc M113 nằm án ngữ từ Chánh Lưu đến ngả ba Tân Hưng , trước đây trên con đường nầy chi đội 1 Bích La chạm địch làm tụi nó bỏ lại vài xác chết với vũ khí cá nhân, có lẻ tụi nó sợ xe số đỏ nên khi tôi di chuyển trên vùng nầy cả tháng mà không gặp tụi nó, chỉ có một đêm tối trời tụi nó bò ra bắn 1 trái B40 vào xe tôi làm bể góc lưới chống B40, rủi thay trái đạn trượt qua xe bên cạnh nổ ngay nắp đậy làm chết một KB mà đáng lẻ anh ta đi phép chiều hôm ấy nhưng thay đổi ý định và ở lại cho đến ngày mai.

Đầu tháng 7/74 chi đoàn chuyển quân về Phú Chánh nằm trong rừng cao su, cứ vài bửa thì tôi quá giang xe Lam ra Bình Dương, uống cà phê, coi cinê không trả tiền vì bà chủ rạp thương lính VNCH lắm, bả hay nói các con đừng lo tiền vé má cho mấy con coi thả dàn. Một lần ra chợ Bình Dương mấy người lính thèm thuốc nhờ tôi mua thiếu cho họ, ai là SQ các đơn vị LĐIII XK đều biết là khi đi chơi không ai mang lon nên cô Lợi chủ tiệm thuốc lá tưởng tôi là lính nghèo nên bán chịu, sau đó cuối tháng tôi mang tiền ghé trả cho cô, cô Lợi dân Biên Hòa lên Bình Dương lập nghiệp , thấy tôi dân miền Trung nghèo khổ đi lính bị đổi vào trong Nam xa nhà nên rất mến thương tôi, sau nầy có Th/Úy Xưng cùng khóa ở Thiết Đoàn 10 muốn về Bình Dương gặp tôi, tôi bảo nó ghé chợ gặp cô Lợi sẻ biết tôi ở đâu, cô Lợi khám phá ra tôi là SQ nên giận hờn không muốn gặp tôi nửa, thật ra tôi không có ý định lừa dối cô, tôi chỉ muốn ai quen biết tôi vì tôi chớ không phải vì tôi là ai.

Đầu tháng 10/74 Đ/Úy Vinh cho tôi về Đà Nẵng 2 tuần , đây là cơ hội cuối cùng để tôi gặp lại người tôi yêu , từ giả nhau lần cuối khi biết hy vọng ngày bên nhau chỉ còn là cơn mộng mà thôi , trao cho em gái cô ấy tập thơ 122 bài tôi viết cho cô ấy ngày mới quen , thề không bao giờ trở về Đà Nẵng nửa , ngang trái sao đâu lời thề gần thành sự thật , 23 năm sau tôi mới trở về khi thuyền đã lở bến sông.

Tôi trở lại vùng hành quân nhận lệnh đi học SQ bổ túc 2 tuần lể tại BCH LĐIII ở Biên Hòa, có lẻ đây là hai tuần sung sướng nhất trong cuộc đời binh nghiệp của tôi, nằm ngũ giường nệm ăn cơm với Tướng Khôi, Đại Tá Thoàn toàn là cao lương mỹ vị, ngày đầu về đó gặp Th/Tá Danh trưởng ban 5 biết tôi là Thiên Chương cây bút thường trực của Đặc San Vó Câu Biên Trấn, Th/Tá Danh hứa sẻ liên lạc với Chi Đoàn cho tôi về Sài Gòn 3 ngày phép lể Giáng Sinh, tôi không biết có chắc là chuyện đó sẻ xảy ra hay không nên không quan tâm gì cho mấy.


http://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1/1483673397-DoiKyBinh_ChienLe_004.jpg

Đầu tháng 11/74 chi đoàn hành quân vùng Phương Lâm, Định Quán trên QL 20, mổi ngày chi đội 1, 2, 3 thay phiên nhau giữ an ninh trục lộ cả tháng dài, ai hành quân vùng nầy cũng biết, hai bên đường chỉ có chuối và đu đủ mà thôi, phơi chuối khô, luộc chuối xanh chấm mắm, ăn gỏi đu đủ tối ngày cũng chán, chận xe chở hàng Đà Lạt về xin bắp cải, su hào ăn đổi món, cuối tháng 11/74 CĐ 2/15 rời vùng nầy chi đội tôi đi đầu, tôi đi giửa 2 xe di chuyển cách nhau 50 thước, vừa ngưng lại báo cáo qua 1 chặng đường thì tôi bị lảnh 1 trái B40 bắn qua xe trật thùng xăng khi tôi ngồi sau cây ĐL 30 bay qua trước mặt, nói chuyện cái chết cận kề trong đường tơ kẻ tóc là đây, từ đó về rừng cao su Trảng Bom dưởng quân, có lẻ Thiết Giáp có duyên nợ với cao su mà lúc nào cũng dính vô rừng cao su như vậy.

Đ/Úy Vinh có buổi tiệc giả từ nghiệp nhà binh về làm nhà giáo khoảng giữa tháng 12 /74, tôi đi biệt phái cho CĐ 2/22 CX hơn 1 tuần xong trở lại CĐ thì Đ/Úy Bản thay thế cho 81 báo cho tôi biết Th/Tá Danh gọi cho tôi về Sài Gòn ăn Noel 1974. Tôi quen biết với 3 người chị làm cho Bộ Phát triển sắc tộc văn phòng trên đường Nguyễn Du, con đường có lá me bay và những tháng ngày gợi nhớ, tôi ghé đón họ về ăn tối xong đi lể nhà thờ Đức Bà cho tới nửa đêm, đêm Noel cũng là đêm đầu tiên trong giấc ngũ bình yên không lửa đạn ở Sài Gòn, ngày hôm sau cả đám đi ăn tiệc ở nhà bà chị bên chợ Dakao, sáng hôm sau tôi lên xe về đơn vị, đó là lần đầu tiên tôi hưởng không khí thanh bình, ánh đèn điện thay ánh hỏa châu rơi, tiếng cười vui rộn rả thay cho tiếng đạn thù.

Trở lại đơn vị tôi nhận lịnh tăng phái cho CĐ 2/22CX đang trên đường vào Gò Dầu Thượng đầu tháng 1/75, dịp nầy tôi được hội kiến với Th/Tá Thái Minh Sang trong một hoàn cảnh gay cấn, CĐ1/22 và 2/22 CX nằm bên nay cầu Gò Dầu yểm trợ một đơn vị của SĐ 18 BB thì phải vì tướng Lê Minh Đảo bay trực thăng điều động ở trên, một chiếc M48 lảnh nguyên một trái 82 không giật bị cháy tử thương vài KB, Thiết Giáp và BĐQ tùng thiết rút về rừng cao su trên QL1 về hướng Tây Ninh, sáng hôm sau một KB 22CX gọi tôi trình diện Quỹ Kiến Sầu, NT T.M. Sang bắt được tài xế xe tôi đem gạo ra chợ bán, lục xét trong thùng gạo thì có 2 trái lựu đạn, vùng nầy là vùng xôi đậu đem gạo và lựu đạn bán cho ai, tôi được lịnh dẩn anh tài xế cà chớn nầy về xe trừng trị, tôi sợ vô cùng khi gặp cấp trên , nhất là không biết người lính mình có ý định gì khi đem lựu đạn đi bán, trên đường về xe Huệ cháy là tài xế xe tôi chưởi bới làm tôi nổi nóng, đánh cho anh ta một trận cho đến khi người xạ thủ ĐL ngăn cản sợ lở có di chuyển thì không có người lái xe, đêm đó CĐ di chuyển về Khiêm Hanh, tôi dạy cấp tốc cho một anh LCĐB lái xe vì Huệ nằm một đống , men rượu và trận đòn tôi cho làm nó bất tỉnh cho đến khi về gần Truông Mít.

Từ giữa tháng 1/75 cho đến cuối tháng 1/75 CĐ2/22 CX và BĐQ tùng thiết phá nhiều chốt CSBV thiết lập sau khi chiếm Trị Tâm mở đường về Khiêm Hanh , có lần qua một làng nhỏ phía nam Truông Mít chi đội tôi chở 1 tiểu đội Trinh Sát của BĐQ vào bìa làng thì bị CSBV ẩn nấp dưới hầm hố và điạ đạo kiên cố tấn công mãnh liệt, Th/Tá Hà Ngọc Bé ra lệnh cho tôi rút lui để CX M48 vào ủi chốt, thay vì kéo ra bên hông để yểm trợ, tôi cho chi đội ra phía sau BCH 2/22 CX và nằm chờ thời, anh Bé sau khi phá chốt xong chạy xe gần bên tôi nói nhỏ (tao biểu mầy ra , sao lại chạy xa quá vậy) tôi thấy mình trong lúc luống cuống quên hẳn nhiệm vụ chỉ huy, sau nầy gặp nhau bên Mỹ nhắc chuyện cũ cho anh Bé nghe, anh cười như chẳng có gì quan trọng, anh ấy rất tốt với các SQ thuộc cấp, không la lối, chưởi bới trong hệ thống truyền tin làm mất mặt anh em.

Tháng 2/75 tôi về lại CĐ2/15 khi CĐ nằm bảo vệ căn cứ Tân Hưng, có lần một anh BĐQ và người lính tôi muốn làm chuyện vệ sinh, trời xui đất khiến họ lội ra hàng rào kẻm gai, anh BĐQ đạp trúng trái mìn nhảy khi trái đạn nầy bay lên làm tử thương người lính của tôi, tôi đang uống cà phê sáng dưới căn hầm dả chiến, tưởng pháo kíck vì CSBV xử dụng các dàn phóng hỏa tiển pháo kích vào căn cứ nầy hàng ngày, bửa đó bị 07 chưởi tả tơi, ngày Tết tôi vào BCH TĐ 15 cũng trong căn cứ nầy để gắn lon Th/Úy mặc dù tôi đã được thăng cấp trước đó hơn 6 tháng, Tr/Úy Ngô Bính bẻ lon của ảnh làm hai cho tôi có 2 bông mai, Th/Tá Thảo cắm vào bao gối trên giường ngũ của ổng rồi gắn lon cho tôi, cả Chi Đoàn ăn Tết tại căn cứ Tân Hưng không bánh tét, bánh chưng, thịt mỡ, dưa hành chỉ có cơm, bún và phở của CLB dả chiến, không có rượu để uống, bên kia làng có du kích tụi nó, phiá bắc có tụi CSBV không ai dám nhậu lo phòng thủ cho chắc ăn.

Mồng ba Tết Đ/Úy Lượng cho tôi và anh Bính chở mấy cô em gái hậu phương của trường An Mỹ về Bình Dương khi họ lên thăm đơn vị, tôi và ba Bính về Sài Gòn ăn Tết, đó cũng là lần cuối tôi gặp lại mấy bà chị quen rồi về đơn vị tiếp tục những ngày dài chiến đấu. Sau Tết Chi Đoàn 2/15 di chuyển trên đường về Phú Giáo giữ an ninh trục lộ, tôi ở lại phòng thủ căn cứ Tân Hưng tiếp tục những ngày buồn chán nơi nầy, sáng lên CLB kiếm gì ăn xong về xe nằm đọc sách, mỗi lần bị pháo thì chun vô xe, tối đi kiểm soát các vọng gác sợ lính ngũ quên, ngày nào cũng vậy cho đến đầu tháng 3/75 tăng phái cho CĐ 2/22 CX hành quân Khiêm Hanh, phá chốt, mở đường có chiến xa làm hết, chi đội tôi đi theo chỉ yểm trợ khi cần thiết.

Tuần đầu tháng 4/75 tôi về lại CĐ2/15 xin phép về Sài Gòn để tìm gia đình sau khi mất Đà Nẵng, sau 2 ngày liên lạc với nhà báo nhắn tin, để địa chỉ KBC và tên các vùng tôi hay hành quân cho người bạn thân có gia đình cũng ở xóm tôi, nếu tìm được thì cho tôi hay, tôi trở về khi CĐ 2/15 vào Truông Mít cũng là ngày CĐ 2/18 bị tổn thất khá nặng và bạn tôi Th/Úy Thông tử trận tại đây, mấy ngày sau mới lấy xác được đem về an táng tại Nghỉa Trang QĐ BH, vì lúc đó cũng mất Tuy Hòa quê của Thông, tôi rất buồn vì thấy đời lính quá ngắn ngủi, hơn nửa hai đứa cùng chung trường Đồng Đế, chung khoá CBTG về chung đơn vị hay đi uống cà phê tâm sự với nhau. Mấy ngày sau trở lại vùng hành quân với CĐ 2/22CX qua phía Tây Truông Mít, CSBV dồn hết quân số vào vùng nầy, nhìn từ xa thấy tụi nó chuyển quân mà phát sợ, ban đêm mỗi lần phi cơ Hỏa Long bay thả trái sáng và bắn yểm trợ cho các đơn vị bạn, phòng không 37ly bắn đầy trời từ 4 hướng khác nhau, cầm chân tại chổ chừng một tuần lể đến giửa tháng 4/75 tôi đi theo CĐ 2/22 CX về giải tỏa Long Khánh.

Đơn vị di chuyển qua Bắc QL 1 gần ngả ba Dầu Giây, đụng độ hàng ngày với CSBV và ăn sơn pháo 75 ly từ các ngọn đồi chung quanh bắn vào, có lần một SQ chi đội trưởng mời tôi lên xe M48 uống cà phê sáng, chưa kịp uống nửa ly cà phê nhìn xuống chân đồi CSBV chuyển quân hàng trăm theo mấy đám ruộng bám lên đồi, cả CĐ bung rộng tác xạ liên tục vào cuộc tấn công biển người nầy, cho đến khi tụi nó tổn thất nhiều quá rút lui qua ngọn đồi bên kia, chẳng ai thèm lục soát mục tiêu hay thu hoạch chiến lợi phẩm, nhìn xuống chân đồi xác địch chết ngổn ngang với vũ khí bỏ lại trên chiến trường.

Ngày hôm sau CĐ di chuyển xuống chân đồi tôi đi bên phải, cạnh một con lộ nhỏ, từ xa có một đám người đi thẳng vào phòng tuyến chi đội của tôi không biết là dân hay tụi nó, không cần chờ lệnh ĐL 50 trên xe 32, xe 36 và 34 bắt đầu tác xạ, đám đông tản mác mọi nơi, tôi nghỉ là dân nên gọi ngưng bắn, cái lầm lẩn đó để địch có cơ hội đến gần và bắn B40 vào xe 34 đi tận cùng bên phải, tất cả KB trên xe nhảy xuống vì xe bốc khói mịt mù, hai xe còn lại bốc họ lên xe khi chi đoàn rút quân qua bên kia đồi và CSBV bắt đầu pháo kích mở đầu cho cuộc tấn công, chiều đó nằm bên nay đồi nhìn về bên kia xe M113 mang số 34 bắt đầu phát nổ, tôi báo cáo tổn thất về CĐ2/15 đang yểm trợ cho Trung Đoàn 48 SĐ18 BB tại Dầu Giây, đêm đó tôi không ngũ được, nổi lo âu cho cuộc sống của gia đình tôi ngày mất Đà Nẵng, nổi lo sợ cho ngày mai của tôi sẻ ra sao trong cuộc chiến huynh đệ tương tàn nầy, tôi ngồi dựa vào pháo tháp gục đầu trong mỏi mệt, khi mặt trời vừa rựng ánh bình minh trên cỏi chết của những người lính Kỵ Binh.

Khoảng giữa tháng 4 năm 1975 trong cuộc hành quân giải tỏa Long Khánh, chi đội 3 của tôi tăng phái cho chi đoàn 2/22 Chiến Xa, dưới quyền chỉ huy của chi đoàn trưởng Thiếu tá Hà ngọc Bé, nằm án ngử phía Bắc Quốc Lộ 1 khoảng 2 cây số, phía tây Quốc Lộ 20 và chừng hơn vài cây số trên đường về Dầu Giây, qua nhiều cuộc đụng độ với Sư Đoàn 341 CSBV trên mặt trận nầy đã gây nhiều tổn thất cho cả hai bên, cho đến chiều ngày 24 tháng 4 năm 1975 ,CĐ 2/22 CX di chuyển về Biên Hòa, qua khỏi rừng cao su bên chợ Trảng Bom thì tôi được lịnh ở lại, để chờ đợi đến sáng hôm sau thì chi đội của tôi sẻ trở về chi đoàn 2/15 Thiết Kỵ, khi chi đoàn sẻ di chuyển qua vùng nầy trên đường về dưởng quân ở Biên Hòa.

Sau hơn một tuần lể giao tranh với CSBV để yểm trợ cho Trung Đoàn 52, Sư Đoàn 18 Bộ Binh tham chiến tại ngả ba Dầu Giây, chi đội tôi không có bộ binh tùng thiết, chỉ còn vỏn vẹn 2 thiết vận xa M113 và 9 kỵ binh, di chuyển khoảng hơn cây số về hướng Bắc QL 1 và bố trí phòng thủ đêm tại cạnh rừng cao su Trảng bom bên con đường đất đỏ, sau nầy gặp anh Lưu ngày ĐH TG nam Cali tôi mới biết đó là con đường đi về Bầu Hàm mà vài chi đoàn của LĐIII XK đã bị đánh bật ra khỏi nơi nầy cách đó vài bửa. Trong suốt đêm đó, CSBV chuẩn bị cho cuộc tổng tấn công về Sài Gòn đã di chuyển nhiều chiến xa, quân xa với đại pháo và lực lượng bộ binh về hướng Biên Hòa, trước vị trí phòng thủ của chi đội tôi không xa lắm, hầu như không ai được ngủ yên trong đêm đó, tiếng động của xe cộ, chiến xa , tiếng người và ánh đèn trong đêm tối càng gia tăng nổi lo lắng trong thâm tâm của mọi người, sau những ngày dài trong chiến trận từ giữa tháng 3 năm 1975 hành quân vùng Gò Dầu Hạ trên đường về Tây Ninh, đầu tháng 4 năm 1975 về Truông Mít, quận Khiêm Hanh cho đến cuộc hành quân giải vây Long Khánh, ai cũng chưa có một ngày nghỉ ngơi hay về phép thăm viếng gia đình.

Trưa ngày 25 tháng 4 tôi được lịnh di chuyển ra QL 1 để tháp tùng CĐ 2/15 TK, dưới quyền chỉ huy của Đại Úy Ngô duy Lượng lên đường về Phước Tuy, sau khi ăn Tết 1975 đây là lần thứ hai tôi trở về chi đoàn sau hơn 2 tháng tăng phái cho CĐ 2/22 CX , Chi đoàn di chuyển đến cuối thành phố Biên Hòa rẻ vào quốc lộ 15, qua căn cứ Long Bình rồi trường Thiết Giáp, Long Thành, nơi tôi đã có một thời gian thụ huấn Sỉ Quan căn bản Thiết Gíáp ở đó vào cuối năm 1973, chi đoàn đóng quân tại Phú Mỹ một ngôi làng nhỏ trên QL 15 giửa chi khu Long Thành và tỉnh lỵ Phước Tuy chiều hôm đó, trong lúc nầy Lử Đoàn I Nhảy Dù sau trận giải tỏa Long Khánh di tản về Phước Tuy và có nhiệm vụ bảo vệ QL15 từ Long Thành về Bà Rịa, nên TĐ 9 Nhảy Dù đêm đó là đơn vị tùng thiết cho CĐ 2/15 TK, đây là lần đầu tiên tôi đi hành quân với các anh hùng mủ đỏ, mà tôi chỉ từng nghe ca ngợi trong những bản nhạc trên đài phát thanh hay trên màn ảnh truyền hình trong những lần về phố ngồi uống cà phê , từ xa về hướng Đông là thị xã Bà Rịa , hướng Tây là trường Thiết Giáp và trường Bộ Binh Thủ Đức, đại pháo của CSBV vẩn vang rền trong khi các đại bác 37 ly phòng không của địch, như màng lưới lữa trong bầu trời đen tối đuổi theo các phi cơ Hỏa Long trong phi vụ yểm trợ cho các đơn vị bạn, còn đang chiến đấu trong tận cùng tuyệt vọng, tôi vùi đầu trong giấc ngủ, tin tưởng vào các chiến sỉ Nhảy Dù sẻ bảo vệ phòng tuyến đêm nay và hy vọng ngày mai có thêm một ngày bình yên trong lữa đạn.


http://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1/1483673383-DoiKyBinh_ChienLe_005.jpg

Ngày 26 tháng 4 tôi được hai ngày phép về Sài Gòn xả hơi, vì đầu tháng 5/1975 khi tôi phải về trường TG học khóa SQ Tu Bổ Quân Xa, trong khi chờ đợi Thiếu Úy Huỳnh, chi đội trưởng chi đội 2 mản phép trình diện đơn vị để thay thế tôi trong lúc đi phép, tôi ghé uống cà phê sáng trong ngôi quán nhỏ bên đường , trong lúc xe 26 của chi đội 2 nằm gần chợ và vài kỵ binh ngồi uống bia kế bên, đến trưa mà Th/Úy Huỳnh vẩn chưa trở lại, tôi ghé vào xe chi đội 2 uống vài chai bia để giết thì giờ trong nôn nả đợi chờ, cho đến 5 giờ rưởi chiều hôm đó Th/Úy Huỳnh mới trở lại đơn vị, tôi suy nghỉ nếu về tới Biên Hòa thì đã tối sẻ không có xe về Sài Gòn được, tôi nói với Th/Úy Sinh lấy xe Jeep về Biên Hòa một mình đừng chờ tôi, tôi xin phép Đại Úy Lượng cho tôi ở lại đêm nay và sáng sớm ngày mai tôi sẻ đi phép về Sài Gòn, trời vừa sụp tối thì SĐ 304 CSBV bắt đầu tấn công vào trường Thiết Giáp và trường Bộ Binh Thủ Đức, SĐ 325 CSBV tấn công chi khu Long Thành, khoảng 8 giờ tối hôm đó trong tiếng đạn đại pháo, đại bác phòng không và các loại vủ khí vang rền khắp mọi nơi của Cộng quân, chi đoàn 2/15 TK và TĐ 9 Nhảy Dù di chuyển trong đêm tối vào thị xã Bà Rịa cùng lúc với SĐ 3 CSBV từ mặt trận Long Khánh kéo về Chi đội 1 Bích La và chi đoàn phó là Trung Úy Ngô Bính 07 nằm đầu phố án ngữ về hướng Bắc và hướng Tây, chi đội 3 nằm giửa phố với xe số 32 của tôi quay mặt về hướng Bắc và xe số 36 nằm sau xe tôi cách 50 thước án ngữ phía Nam , có lẻ tôi nghỉ có Bích La và 07 ở hướng Tây nên tôi bỏ trống bên hông, tuy nhiên đó cũng là điều may mắn cho tôi sáng ngày hôm sau, chi đội 2, cđ 4 và bộ chỉ huy CĐ 2/15 TK án ngử ở cuối phố về hướng Đông. Sau khi sắp xếp phiên gác đêm và kiểm soát chung quanh vị trí của hai thiết vận xa trong chi đội, tôi đi ngủ sớm để chuẩn bị ngày mai di chuyển lên tuyến đầu đối mặt với quân thù, trong lúc nầy có lẻ đã rời mặt trận Long Khánh di chuyển về Phước Tuy.

Sáng sớm ngày 27 tháng 4 năm 1975 , tôi nhìn thấy tận mắt cảnh hoang tàn của thành phố nầy lần đầu tiên, các đường phố không một bóng người , những cuộc pháo kích của địch vài ngày trước đây đã để lại nhiều đổ nát , không biết người dân ở đây đã di tản về đâu, hay tạm trú trong những căn hầm dả chiến với niềm hy vọng được gìn giữ tài sản của ông cha để lại. Tiếng súng và đạn pháo bắt đầu vang dội phía Bắc nơi chi đội 1 án ngử tôi lên máy để biết được CSBV bắt đầu tấn công bằng pháo binh, chiến xa và bộ binh vào tuyến của Thiết giáp và Nhảy dù, tôi cho chi đội lên xe sẳn sàng ứng chiến, lúc nầy quân đội CSBV đã vào trung tâm thành phố vài chiến xa T54 đã chạy vào trên đường phố bên trái tôi chừng 100 thước, nhìn về trước mặt tôi chừng hơn 50 thước cộng quân tràn ngập trong các ngôi nhà và ngay cả trên các ngỏ hẻm vào phố , tôi xử dụng hỏa tiển M72 bắn vào các căn nhà trước mặt và ra lịnh khai hỏa đại liên 50 , 30 ly để ngăn chận bước tiến của địch, khi nhận được lịnh mở đường cho chi đoàn trở ra QL 15, tôi vừa lùi xe ra đến ngả tư thì đại bác của địch trên chiến xa T54 khai hỏa cùng lúc với đại bác 90 ly, hỏa tiển M72 của lực lượng Nhảy Dù, may mắn cả hai chiếc M113 không bị hư hại giữa hai làn đạn của bạn và thù.

Sau nầy mấy chục năm may mắn liên lạc và nói chuyện với Th/Úy Hường tôi mới biết Hường xử dụng 106 SKZ trang bị trên M113 đã bắn cháy 1 T54 và thiệt hại thêm 1 chiếc nửa, có lẻ điều nầy đã cầm chân lực lượng địch đũ để CĐ rời khỏi phố Phước Tuy, trong hệ thống truyền tin tôi còn nghe được tiếng Hường nức nở báo với 08, tụi nó bắn trúng Sông Hồng rồi tuy nhiên không biết vì lý do gì, tôi đã không liên lạc được với BCH CĐ để Hường biết tôi bình yên vô sự trong tình trạng hổn loạn nầy.

Từ giữa phố ra QL 15 phải qua ngôi chợ nằm bên tay phải, CSBV bố trí trong chợ với hỏa lực rất mạnh, chi đội đã xử dụng đại liên 50, đại liên 30 và tất cả vủ khí cá nhân còn sót lại vừa bắn vừa di chuyển qua ổ phục kích nầy, ra đến QL 15 về hướng Đông chừng 1 cây số thì chi đội án ngử tại phía Tây cầu Cỏ May, chờ đợi chi đoàn di tản qua phía Đông bên kia cầu. Chiều hôm đó chi đội 2 với 3 xe còn lại tử thủ tại chân cầu với 1 trung đội ND, trong số đó xe 23 phải câu bình điện mỗi lần di chuyển, chi đội 3 của tôi với 2 xe bố trí cách đó gần trăm thước , sau đó là chi đội 1 [tổn thất khá nặng trong cuộc tấn công của CSBV sáng hôm đó] 1 xe thiệt hại nặng phải phá hủy tại chỗ, xe của Bích La còn nguyên vẹn, BCH chi đoàn có 2 xe chỉ huy với 1 xe sửa chửa và chi đội 4 có 2 xe súng cối nằm dọc theo QL 15 về hướng Đông cầu Cỏ May, Lúc nầy Đ/Tá tỉnh trưỡng tỉnh Phước Tuy tháp tùng với Tướng Vũ Văn Giai TL SĐ 3 đến tại BCH chi đoàn ra lịnh TG và TĐ9 Nhảy Dù trở lại tái chiếm Phước Tuy, Đ/Úy Lượng liên lạc với Th/Tá Đường TĐT TĐ9 Nhảy Dù cho binh sĩ sẳn sàng lên xe nhưng Th/Tá Đường không chấp nhận và chọn ở lại cầu Cỏ May, không có BB tùng thiết và sau khi bàn cải với đơn vị ND , Đ/Úy Ngô duy Lượng ra lịnh cho Công binh chiến đấu phá nổ cầu để ngăn bước tiến của CSBV, tuy nhiên đã không làm thiệt hại nặng trên chiếc cầu nầy nên ban đêm địch xử dụng đặc công bò qua cầu tấn công, chi đội 2 và binh sỉ của TĐ 9 ND chống cự mảnh liệt, địch xử dụng ghe, xuồng chuyển quân dọc theo bờ sông qua phòng tuyến của CĐ 2/15 TK và TĐ 8 ND để tấn công từ phía Nam và Bắc QL 15, sau vài giờ tấn công khi tiếng súng vừa ngưng , một số binh sỉ của Thiết Giáp và Nhảy Dù bị thương nhưng không được di tản.

Sáng ngày 28 tháng 4 , địch quân tiếp tục pháo kích vào vị trí phòng thủ của chi đoàn và tìm cách vượt qua cầu Cỏ May, chi đội 2 và các binh sỉ Nhảy Dù vẩn còn chống trả với địch ở chân cầu Cỏ May, đại pháo của CSBV càng lúc càng gia tăng và càng đến gần, một trái đại bác 130 ly nổ bên cạnh xe tôi lúc di chuyển qua một vị trí khác đã làm thương vong vài binh sỉ Nhảy Dù và 2 xạ thủ đại liên trong xe tôi, chỉ có tôi và người tài xế là còn nguyên vẹn, tôi liên lạc xin di tản thương binh nhưng được lịnh chờ đợi trực thăng tải thương từ Lử Đoàn III Kỵ Binh đồn trú tại Biên Hòa, Suốt ngày nầy trên không trung các trực thăng CH-47 Chinook tiếp tục bay về hướng biển đông, tôi hy vọng có lần nào đó họ sẻ xuống đây để bốc đơn vị mình về Biên Hòa, tôi mơ ước ngày phép về Sài Gòn, nhớ ngày lang thang trên đường Nguyển Du đợi chị Thể, chị Hội, chị Loan Anh giờ tan sở ở Bộ Phát Triển Sắc Tộc, ngồi uống ly cà phê ngọt ngào đếm lá me bay, giờ đây đếm từng chiếc trực thăng bay qua ngang đầu, không hề hay biết đây là lần di tản sau cùng của quân đội Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam.

Chiều hôm đó chiến trường lắng dịu, không có tiếng súng thù, không đạn pháo rơi nên cái im lặng của trận địa làm mọi người ngộp thở, có lẻ CSBV chờ đợi cuộc tấn công trong đêm nay. Khoảng 10 giờ đêm thì tôi được lịnh xử dụng một thiết vận xa di chuyển về phía đông QL 15 trên đường về Vủng Tàu, để thăm dò con đường có đủ an toàn khi đơn vị di tản, tôi một mình trong đêm đi được vài cây số dưới ánh trăng thì nhìn thấy QL 15 bị phong tỏa bằng các cuộn kẻm gai, tôi mở đèn pha và lội bộ trước đầu xe để xem tình hình, trong ánh sáng của đèn xe tôi thấy một người lính Thủy Quân Lục Chiến gở một đoạn kẻm gai để đến gần tôi, anh cho tôi biết là trên đường quốc lộ đã được gài mìn chống chiến xa và vị trí phòng thủ của đơn vị TQLC bao bọc 2 bên bằng kẻm gai và mìn Claymore để tử thủ đến cùng, tôi báo cáo về chi đoàn biết tin và nhận lịnh nằm tại chổ chờ đến sáng hôm sau, suốt đêm tôi lo lắng, bâng khuâng không biết ngày mai sẻ ra sao, sau lưng tôi cả chi đoàn nằm trong vòng hiểm nguy của hàng ngàn quân thù với xe tăng và đại pháo, trước mặt tôi là hàng rào phòng thủ của người lính mủ xanh, những người hùng của mùa hè đỏ lửa 1972 ngày tôi mới vào lính, ôm súng trên phòng tuyến đợi quân thù, nhìn về hướng tây trong ánh lữa bập bùng của hỏa châu và những cuộn khói lờ lững trôi ở cuối chân trời , tôi biết chiến trận vẩn còn trong cao độ giửa các cánh quân còn lại của quân lực VNCH và CSBV , dựa lưng vào pháo tháp để tìm giấc ngủ vội vàng tôi chờ đợi ngày mai, như chờ đợi và chấp nhận số phận nào đã đưa tôi vào con đường chinh chiến hiểm nguy mà không còn lối thoát .


http://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1/1483673366-DoiKyBinh_ChienLe_006.jpg

Trưa ngày 29 tháng 4 , chi đoàn di chuyển về hướng đông QL 15 , sau cuộc tiếp xúc của chi đoàn trưởng Đ/Úy Ngô duy Lượng và cấp chỉ huy của đơn vị TQLC , họ đã tháo gở mìn và chướng ngại vật trên đường quốc lộ cho đơn vị Thiết giáp và Nhảy dù vào Vũng Tàu, để lại sau lưng SĐ 3 CSBV trên đường truy đuổi, sau khi tu bổ cầu Cỏ May và đưa bộ binh vào xâm chiếm Vũng Tàu. Chi đội 2 đi trước, chi đội 1, kế đến BCH, chi đội 4 và chi đội 3 của tôi đi sau cùng, khi vào đến phố Vũng Tàu thì lực lượng đặc công và bộ binh của CSBV đã nằm phục kích, mở cuộc tấn công sau khi 1 thiết vận xa của chi đội 2 di chuyển qua khỏi đầu phố, hơn ba mươi mấy năm may mắn liên lạc được với Th/Úy Hường tôi mới biết xe Hường đi sau xe 26 bị một trái M79 vào pháo tháp, xe tấp lên lề ủi vào căn nhà bên đường, tài xế chết và Hường bị thương, được lính bỏ vào thuyền thúng đưa đến bịnh viện Gò Công, ngày 30/4 bị đuổi về nhà, tù cải tạo hơn 2 năm lại bị trái M79 oan nghiệt một lần nửa đưa Hường ra khỏi trại tù và kẹt ở VN cho đến ngày hôm nay, kế đến xe sửa chửa 06 của CĐ bị bắn cháy và cả đơn vị bị kẹt trên đường phố nhỏ hẹp không xoay trở được, tôi nhận lịnh mang 2 xe còn lại của chi đội 3 mở đường tấn công vào ổ phục kích của địch, khi di chuyển qua phần còn lại của chi đoàn ở đầu phố thì tôi thấy xe 06 nằm giửa đường vẩn còn bốc cháy, sau xe xác chết của Hạ sỉ Có, người lính kỵ binh thân quen của tôi ngày mới về đơn vị và xác 2 đồng đội khác nằm chết bên nhau, trên con đường chỉ còn máu lửa và nước mắt, tôi đi trước theo sau là xe số 36, khai hỏa tất cả vủ khí còn đủ đạn dược, từ đại liên 50 ly, 30 ly, súng phóng lựu M79, súng cá nhân M16 và Colt 45, vừa di chuyển vừa bắn hai bên đường, cả đơn vị di chuyển trong tiếng đạn mịt mù qua khoảng hơn cây số mới đến Bến Đá.

CSBV tiếp tục pháo kích trên đường di tản của Thiết giáp và Nhảy dù bằng đại pháo trên đường ra biển, tôi nhận lịnh rời xe và phá hủy các thiết vận xa trước khi ra bờ biển, tuy nhiên trong lúc gom góp đồ đạc vào ba lô và trong cơn mưa pháo kinh hồn, tôi lội bộ ra bờ biển tìm kiếm đồng đội mà không có cơ hội làm được điều đó, một số kỵ binh và binh sỉ nhảy dù đã bị thương và chết trên chặng đường nầy, tôi xuống một chiếc xuồng máy đuôi tôm với Cần, Dũng và Thành của chi đội 2 cũ khi tôi về làm chi đội trưỡng chi đội nầy vài tháng, tuy nhiên sau vài lần tìm cách nổ máy mà vẩn không thành công, nhìn ra trước mặt tôi thấy một chiếc xuồng khác chạy qua với một số KB đồng đội gọi tôi , tôi quay lại dặn dò Cần nhớ tìm tôi khi về Sài Gòn rồi tôi nhảy xuống biển để bơi ra khi chiếc xuồng nầy quay lại để kéo tôi lên, không để ý rằng mình mang cả ba lô, súng đạn khi lội xuống biển, nên khi người lính kéo tôi lên phải cởi bỏ ba lô thả xuống biển cho dể dàng kéo tôi lên, tôi ngồi trên xuồng tiếc cái ba lô với cuốn nhật ký tôi viết từ ngày ra đơn vị, mấy lá thư hỏi thăm của người tôi yêu mà không yêu tôi nên chỉ giữ để làm kỹ niệm mà thôi, tôi tháo đôi giày bốt đờ sô xả nước cho khô và lau hai cây súng M16 và Cold 45, mỗi cây chỉ còn có 1 băng đạn mà thôi, khi trời vừa sập tối tất cả kỵ binh còn lại của chi đoàn dời qua một chiếc tàu đánh cá lớn hơn, con tàu trực chỉ về tỉnh Gò Công trong đêm tối, mổi người riêng một ý tưởng, không ai nói chuyện gì với nhau, ai cũng có những nổi buồn canh cánh bên lòng và âu lo của những ngày sắp đến .

Sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975 , những kỵ binh còn sống sót sau trận chiến ở thị xã Bà Rịa của chi đoàn 2/15 TK ngồi trên chiếc tàu đánh cá đợi chờ tin tức từ trong đất liền , cho đến khi nghe tin T.T Dương văn Minh yêu cầu các binh sỉ bỏ súng và chấp nhận đầu hàng vô điều kiện , Đ/Úy Lượng họp mặt tất cả kỵ binh để thăm dò ý kiến và cho phép mọi người được lựa chọn một trong hai con đường còn lại , một là đi về vùng IV chiến thuật hay ra đảo Phú Quốc để tiếp tục cuộc kháng chiến chống cộng, hai là trở về để đầu hàng cộng sản và đoàn tụ với gia đình, khoảng 6 hay 8 người tôi không nhớ rỏ đã tình nguyện trở về với gia đình, đó cũng là lần cuối cùng chúng tôi tiển đưa nhau, họ có an toàn trở lại với gia đình không ai biết, cũng như số phận của 36 người kỵ binh còn lại những tháng ngày sắp tới không biết về nơi đâu, Đ/Úy Lượng cho phép vài người vào bờ để mua sắm lương thực và chuẩn bị cho một cuộc hành trình về trên vùng vô định , tôi tình nguyện ở lại không biết có phải vì TỔ QUỐC , DANH DỰ và TRÁCH NHIỆM hay không , tổ quốc tôi với hơn 20 năm trưởng thành và 3 năm dài trong quân ngũ đã không còn , danh dự và trách nhiệm của một sỉ quan đã làm tôi ray rức nhiều hơn hết, có lẻ đó là động lực duy nhất thúc đẩy tôi vào quyết định chiến đấu đến cùng, hay kinh nghiệm của những ngày ấu thơ ở Đại Lộc, Quãng Nam nơi tôi sinh ra và lớn lên trong vùng cộng sản chiếm đóng, chứng kiến sự tàn ác của chế độ cộng sản và cuộc đời chinh chiến đã để cho tôi nhìn thấy những đổ vở trên quê hương, do kẻ thù từ phương Bắc gây ra, nên tôi quyết định ra đi.

Chiều ngày 30 tháng 4 năm 1975 con tàu lên đường ra khơi, mang theo những kỵ binh còn sống sót trong trận chiến sau cùng của chi đoàn 2 số đỏ , một thời oanh liệt trên chiến trường Tây Ninh, Hậu Nghỉa, Bình Dương, Biên Hòa và Long Khánh của vùng III chiến thuật, những con đường in vết xích qua chiến trường Kampuchia năm 1971 và 1974, nay chỉ còn là dấu chân của một thời trong dỉ vãng, con tàu trực chỉ về hướng Đông, trước mặt chỉ có màu biển xanh và bầu trời rộng mở, sau lưng là hướng Tây, đỏ rực màu nắng của bóng chiều lên khi mặt trời vừa xuống, đó cũng là hình ảnh sau cùng để tôi nhìn lại quê hương Việt Nam thân yêu, gia đình tôi không còn liên lạc từ ngày mất Đà Nẵng chắc không biết những gì xảy đến với tôi, tôi ra đi về một chốn lạ xa mà không biết có ngày trở lại, tương lai tôi như bóng tối đại dương mà con tàu đang dấn bước, trong bóng đêm mịt mùng chỉ còn nghe tiếng sóng vổ và từ phía chân trời xa có ánh đèn lấp lánh trong màn đêm, những ánh đèn trên chiến hạm của đệ thất hạm đội Hoa Kỳ, cũng là ngọn hải đăng cho con tàu lưu lạc trong cơn bảo tố của quê hương, soi đường cho cuộc hành trình của 36 kỵ binh chi đoàn 2/15 TK về trên vùng đất mới, riêng tôi cuộc đời Kỵ Binh hơn một năm ngắn ngủi chỉ còn là nhớ thương và nuối tiếc, những ngày tháng vàng son và oai hùng của một thời làm lính mũ đen chỉ còn là kỹ niệm mà thôi.

[B]Chiến Lê

BachMa
01-15-2017, 03:56 AM
Trận Địa Pháo
(Truyện Đời Lính Chiến)
Đinh Lâm Thanh

Hôm nay, vừa nhận được nguyệt san Chiến Sĩ Cộng Hòa tháng 12/2013 từ Mỹ gởi qua, tình cờ tôi bắt gặp một truyện ngắn đã viết cách hơn 10 năm (2004). Đây là một truyện thật. Xin phép post ra để tưởng niệm các Chiến Sĩ thuộc Tiểu Đoàn 1/45 BB, Tiểu Đoàn 23 Tiếp Vận, Trung Đoàn 45 và Sư Đoàn 23 Bộ Binh… đã bỏ mình vì Tổ Quốc từ năm 1968 đến ngày 30.4.1975 tại các chiến trường Quảng Đức, Buôn Mê Thuột, Pleiku-KonTum cũng như những chiến sĩ và gia đình đã vĩnh viễn ra đi trên biển cả trong lúc vượt biên tìm Tự Do. Đặc biệt xin kính dâng Vong Linh Các Vị : Thiếu Tướng và Bà Trương Quang Ân, Thiếu Tướng Võ Văn Cảnh đã để lại nhiều kỷ niệm tiếc thương trong lòng tôi cũng như vợ tôi. (Paris, 28.12.2013)

*****

Sau nhiều lần trì hoãn, cuối cùng Hòa phải trình diện lên đường nhập ngũ theo lệnh tổng động viên khóa 24 Sĩ Quan trừ bị Thủ Đức là khóa tập trung đa số thanh niên còn sót lại từ nhiều đợt trước với những lý do khác nhau. Ngày ra trường, các tân Chuẩn úy trúng tuyển được gọi tên chọn đơn vị. Trên nguyên tắc, những ai trúng tuyển với số điểm cao sẽ được đi theo các ngành không tác chiến như quân nhu, quân cụ, truyền tin … Nhưng thực tế tổng số chọn không đáng bao nhiêu, hơn nữa, những chỗ tốt nầy đã dành riêng cho những gia đình tân sĩ quan đặt cọc từ trước.

Ngày chọn đơn vị, Hòa không buồn đi xem, đậu được Chuẩn úy đã là may mắn. Hòa xuống khu gia binh nhậu với các hạ sĩ quan huấn luyện viên cho đến chiều mới quay lên hội trường.


http://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1/1484369131-TranDiaPhao_001.jpg

Bài vở thi ra trường Hòa đạt được điểm rất cao, từ lý thuyết đến thực hành, kể cả môn bắn súng. Nhưng chắc chắn sẽ đội sổ trong kỳ thi mãn khóa với mười lăm ngày phạt trọng cấm. Đây là một trường hợp động trời đối với một sinh viên sĩ quan, chưa bao giờ xảy ra tại trường Thủ Đức.

Đúng như dự đoán, tên của Hòa bị xếp vào cuối danh sách không có gì lạ. Khi lên chọn đơn vị, nhìn từ trên xuống chỉ thấy các Sư đoàn bộ binh đang sẵn sàng chào đón, Hòa nghĩ đi đâu cũng vậy, chức vụ Trung đội trưởng tác chiến đã dành sẵn cho các tân sĩ quan mới ra trường. Hòa không ngần ngại điền tên mình vào Sư Đoàn 23 bộ binh đóng tại Buôn Mê thuột. Dù sao, từ đây về Nha Trang cũng gần hơn so với nơi đồn trú của các Sư Đoàn khác.

Tám ngày trọng cấm đầu tiên bị phạt vì tội trể phép một tuần. Thực ra không phải trể, chính Hòa muốn ở lại Sàigòn chơi với bạn bè. Trong thời gian vắng mặt bất hợp pháp, Hòa điện thoại về Liên Đoàn Sinh Viên thông báo rằng, Hòa ở lại Sài Gòn cho đến chiều Chủ nhật sau sẽ về trình diện. Lần thứ hai, trong dịp thực tập hành quân chung quanh vùng Thủ Đức, khi đoàn quân vừa xuất phát, Hòa đã tách khỏi Đại đội, mang theo súng và balô rẽ vào nhà người quen chè cháo, uống rượu say rồi ngủ quên. Kiểm điểm quân số trước khi lên xe Sĩ quan Trung đội trưởng mới khám phá sự vắng mặt của Hòa. Cả đại đội náo động lên chia nhau đi tìm kiếm lục soát đến khuya. Lúc khám phá ra, Hòa chưa tỉnh rượu.

Cầm sự vụ lệnh lên trình diện Trung đoàn 45 đóng tại cây số 5 gần thị xã Buôn Mê Thuột, vùng cao nguyên đất đỏ, tuy còn xa lạ nhưng trong lòng Hòa vẫn thấy bình thản. Vừa xuống xe đò Hòa vào ngay ban 1. Làm xong thủ tục, Đại úy Trưởng ban nhân viên dẫn Hòa lên trình điện Trung tá Cẩn Trung đoàn trưởng.

Trung tá Cẩn nhìn từ đầu xuống chân:

- Xem lý lịch, khả năng trình độ học vấn của anh cao lắm nhưng tại sao các ngành nghề chuyên môn không dùng anh mà đẩy lên đây ?

- Thưa Trung tá, dạ con bà phước !

Nhìn lại Hòa một lần nữa, trung tá trung đoàn trưởng hỏi lại Hòa :

- Chắc trong quân trường anh ‘ba gai’ phải không ?

Hòa líu ríu :

- Dạ, không có. Thưa Trung tá.

Đại úy ban nhân viên đứng bên cạnh trình :

- Trình Trung tá, bị phạt mười lăm ngày trọng cấm.

Trung tá Cẩn ngồi ngữa ra sau, dựa lưng vào ghế gật gật đầu :

- Tôi cũng đoán như vậy !

Vừa nói vừa cúi xuống nhìn vào quân bạ. Hòa sợ Trung tá đọc hết chi tiết nên vội thưa vắn tắt :

- Dạ trể phép và ngủ…quên.

Trung tá Cẩn cho lệnh Đại úy ban nhân viên lui ra xong nói với Hòa :

- Hiện giờ Trung đoàn đang thiếu một Sĩ quan Chính huấn, mặc dù anh chưa học qua khóa Chiến tranh Chính trị, nhưng tạm thời tôi bổ nhiệm anh vào chức vụ nầy. Trình diện Đại úy Túy trưởng ban 5, ông ta sẽ hướng dẫn công việc của một Sĩ quan chính huấn.

Hòa đứng nghiêm chào trước khi lui ra :

- Dạ, cám ơn Trung tá.

Tưởng sẽ xách balô xuống Tiểu đoàn, không ngờ may mắn được ở lại bộ chỉ huy Trung đoàn. Hòa được cấp một phòng dành riêng cho Sĩ quan độc thân trong phạm vi doanh trại, nằm sát mấy phòng của các em nữ quân nhân. Như vậy cũng an ủi được phần nào !

Nghe Đại úy Túy thuyết một hồi, Hòa hiểu đại khái nhiệm vụ của một Sĩ quan Chính huấn là huấn luyện chính trị cho binh sĩ và hạ sĩ quan của Trung Đoàn. Thú thực chẳng biết gì để lên lớp, Hòa mượn mấy quyển sách của Cục Chính huấn về đọc qua loa vài chương.

Trung đoàn 45 tọa lạc tại một khu đất rộng cách trung tâm thành phố Buôn Mê Thuột 5 cây số trên quốc lộ 21 đường đi Ninh Hòa. Sau lưng Bộ chỉ huy còn có Trung Tâm Huấn Luyện Bổ Túc và Trường Huấn Luyện Võ Thuật. Khu vực nầy thường hứng đạn súng cối do Việt Cộng câu đến với tầm súng 81 ly. Sân bắn thường được dùng để tổ chức lớp học chung những lúc các tiểu đoàn về dưỡng quân một lượt. Khi nào tổ chức lớp học cho từng đơn vị một, Hòa xử dụng sân cờ của từng tiểu đoàn cơ hữu. Ngày đầu tiên Hòa lên lớp với quân số của ba tiểu đoàn gom lại, lớp học tổ chức ngay trên sân bắn trung tâm huấn luyện. Vào bài, Hòa cố ra vẻ trịnh trọng nghiêm trang của một huấn luyện viên chính trị, trước mặt, anh em hạ sĩ quan binh sĩ tuy đang nghiêm chỉnh nhưng ai nấy đều ngủ ngồi một cách ngon lành. Trên bục, Hòa thao thao bất tuyệt, dưới đất, tất cả đều nhắm mắt bất động. Bổn phận Hòa vẫn phải nói nhưng thông cảm cho những người lính trận, suốt tuần suốt tháng lặn lội trong rừng, về hậu cứ nghỉ được vài ngày thì phải học chính trị ! Nếu không ngủ gật, đầu óc cũng đang hướng về vợ con, nghĩ đến bữa cơm nóng hay một vài ngày phép thường niên.

Để chấm dứt buổi học và đánh thức anh em dậy ra về, Hòa kết thúc bằng những chuyện tiếu lâm. Nghe đến chuyện tiếu lâm anh em tỉnh táo ngay và đứng dậy vỗ tay hoan hô nồng nhiệt dành cho một buổi học chính trị thành công mỹ mãn.


http://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1/1484369144-TranDiaPhao_002.jpg

Vào dịp lễ Giáng sinh Trung tá Trung đoàn trưởng tổ chức buổi tiệc tại Trung đoàn. Quan khách quan trọng gồm Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn, Đức Giám Mục địa phận, Đại Tá Tỉnh Trưởng, Ông Chánh Án. Hòa được kêu lên văn phòng Trung tá Trung đoàn trưởng :

- Tôi giao trách nhiệm cho anh tổ chức tiếp tân, công việc nhà bếp và phục vụ ẩm thực cho quan khách.

- Thưa Trung tá, tôi sợ không đủ khả năng.

- Anh là một sĩ quan chiến tranh chính trị (!) hơn nữa trước khi vào lính đã có kinh nghiệm về ngoại giao, tiếp tân tổ chức tiệc tùng, tôi thấy anh có thể đảm trách được.

- Thưa Trung tá, kinh nghiệm chẳng có gì nhưng tôi sẽ cố sức làm tròn nhiệm vụ.

- Được, anh tính toán xem cần những gì để tổ chức một bữa tiệc với các món ăn theo phong tục tây phương. Tôi lưu ý anh tiệc mời gần 60 người, trong đó ông Tướng Tư lệnh Sư đoàn, Đức Giám Mục, Đại Tá Tỉnh Trưởng, Ông Chánh Án… Anh phải làm thế nào khỏi mất mặt Trung đoàn. Hòa biết đây là lệnh của thượng cấp, chưa biết phải tính toán thế nào nhưng cũng đứng nghiêm :

- Tuân lệnh.

- Anh cần gì cứ trực tiếp gặp tôi.

- Tuân lệnh.

Hòa phát họa các món ăn chính gồm ngỗng, trừu và tôm hùm. Phần rượu gồm chát trắng và đỏ dùng riêng với từng loại tôm thịt khác nhau. Champagne uống với bánh sinh nhật. Scotch để sẵn, vị nào muốn dùng trước tạo ngon miệng hay sau cùng để giúp tiêu hóa dễ dàng các món ăn.

Sau khi Trung đoàn trưởng vui vẻ thông qua các món ăn đến lượt Hòa vắt chân lên cổ để kiếm mua ngỗng đúng tuổi. Non thì hôi ngỗng, già thì dai thịt. Phần rượu phải vào tận Sài Gòn tìm đúng loại chính gốc nhập qua từ Châu Âu.

Hòa chuẩn bị trước gần hai tuần cho ngày đãi khách. Mượn tạm ba anh quân dịch ở Tiểu đoàn tác chiến, gốc người Hoa trước kia nấu bếp tại Chợ Lớn để tăng cường bếp chính. Hướng dẫn cách phục vụ, bưng dĩa, rót rượu cho các nữ quân nhân. Riêng bàn danh dự, chính Hòa phải đảm trách. Một điều quan trọng, ngày nào Hòa cũng nhắc ông Thượng sĩ thường vụ và đầu bếp chánh, trong đám ngỗng mua về, chỉ có một con ở độ tuổi ngon nhất, khi làm thịt phải canh chừng đừng để lẫn lộn với thịt dai của các con khác. Nhưng sự việc xảy ra ngoài ý muốn của tất cả mọi người :

Các cô nữ quân nhân đã bưng lầm lên bàn danh dự những dĩa thức ăn làm bằng thịt các con ngỗng quá tuổi.

Đức Giám Mục dùng dao cắt miếng thịt đến ba lần, ngài quay qua nói đùa :

- Anh Cẩn, con ngỗng nầy học thái cực đạo đã mấy năm rồi ?

Ông Tướng Tư Lệnh còn phang thêm một câu :

- Nó mang đai đen mấy đẳng anh Cẩn !

Phía quan khách được dịp cười rần lên. Trung tá Trung đoàn trưởng đỏ mặt nhìn Hòa. Hòa chỉ còn trân người chịu đựng chẳng biết làm gì được bây giờ.

Mất tinh thần vì các món thịt ngỗng, Hòa hơi run tay khi mở các chai champagne biểu diễn trước mắt quan khách. Mặc dù rượu chính Hòa tự tay lựa chọn từ các cửa hàng trên đường Tự do Sàigòn, nhưng vẫn thiếu bình tĩnh khi nắm nghiêng chai rượu vặn ngược khóa giây kẽm và dùng ngón cái đẩy nhẹ nút chai. May mắn, một tiếng nổ dòn, nút chai bay lên trần nhà và làn hơi khói bay ra…Hòa thở ra nhẹ nhỏm, đúng là rượu thật, người vui nhất có lẽ là Trung tá Trung đoàn trưởng. Cha Tâm, Tuyên úy Sư đoàn vớt vát cho Hòa sau vụ trục trặc thịt ngỗng :

- Chuẩn úy, hôm nào rảnh tôi phải theo anh học khóa mở rượu champagne mới được.

Ngay sáng hôm sau, Hòa được kêu lên trình diện :

- Tôi không muốn nói với anh một câu gì nữa. Anh về chuẩn bị, xuống ban nhân viên lấy sự vụ lệnh lên trình diện Tiểu đoàn 1 trên Quảng Đức.

Hòa cũng không còn gì trình bày trong lúc nầy, Hòa đứng nghiêm chào :

- Tuân lệnh Trung tá.

Hòa vừa quay gót, vị Trung tá gọi lại :

- Không ai gởi gắm anh cho tôi khi anh đến đây. Thấy anh có khả năng muốn giữ anh lại Trung đoàn nhưng tối hôm qua anh đã làm tôi thất vọng.

- Xin lỗi Trung tá chuyện xảy ra ngoài ý muốn của tôi.

Chuyến bay C123 hai ngày sau đó đưa Hòa và một số quân nhân đi Quảng Đức. Ngọn đồi thấp và ngắn ở đầu tỉnh lỵ do Công Binh san bằng làm phi trường. Máy bay phải thắng gấp khi các bánh xe vừa chạm đất, nếu không phi cơ sẽ đâm đầu xuống thành phố. Mang danh tỉnh lỵ chứ thật sự chỉ là thị trấn quá nhỏ, đứng trên cao có thể nhìn thấy toàn diện thị trấn với con đường độc nhất chạy từ phi trường đến cổng ra vào tiểu khu. Vài chục tiệm ăn, cửa hàng tạp hóa xen kẽ với các cơ quan hành chính tỉnh tập trung chung quanh khu chợ.

Thị trấn hẻo lánh của lính và của những bộ lạc người Thượng ở rải rác chung quanh. Mỗi tháng một chuyến mở đường tiếp tế đến từ Buôn Mê Thuột, do địa phương quân tiểu khu đãm trách từ quận Đức Lập trở lên. Quốc lộ 19 từ quận trở về Buôn Mê Thuột trách nhiệm bởi các lực lượng của Sư Đoàn. Về trình diện tiểu đoàn 1 do Đại úy Tình chỉ huy. Vị Đại úy nổi tiếng khắt khe nhất của Trung đoàn 45 từ trước đến nay. Một sĩ quan cùng chung chuyến máy bay cho Hòa biết :

- Anh sẽ bị Đại úy Tình đày cho biết thân.

- Tôi có làm gì đâu và cũng chẳng có liên hệ gì, tại sao ?

Ông ta có thói quen, Trung đoàn đã đày về thì ông sẽ làm tới không nương tay.

- Thì cũng Trung đội trưởng tác chiến là cùng, còn chỗ nào hơn nữa !

- Rồi anh xem.

Khi vào trình diện, gặp lúc Tiểu Đoàn đang họp, các Đại đội trưởng và ban tham mưu có mặt đông đủ. Đại úy Tình nhìn Hòa cười :

- Thêm một thằng bị đày lên đây !

Cầm chai bia uống một hơi xong quay qua hỏi Hòa :

- Sao bị đưa lên đây vậy ?

- Thưa đại úy tôi nghĩ không phải bị đày. Trường Bộ binh Thủ Đức đào tạo ra để làm Trung đội trưởng tác chiến, phục vụ ở Buôn Mê Thuột, Quảng Đức hay ở bất cứ nơi nào cũng vậy.

Một Trung úy ngồi cạnh chen vào :

- Nói đúng, không sao đâu, lên đây lội rừng bắt vắt với chúng tôi cho vui.

Đại úy Tình hỏi :

- Nghe nói đang giữ chức vụ Sĩ quan Chính huấn của Trung đoàn sao hôm nay balô khăn gói lên đây ?

- Không phải nghề của tôi, thưa Đại úy.

Một trung úy còn trẻ thưa :

- Đại úy cho tôi xin Chuẩn úy nầy, đại đội tôi còn thiếu một sĩ quan.

- Nếu anh muốn.

Hòa theo xe về Đại đội đang đóng trên phi trường. Vừa bước xuống Trung úy trẻ cho biết :

- Tôi tên Điệp, để gọi anh em ra giới thiệu với anh.

Một Thiếu úy hai Chuẩn úy và một Thượng sĩ người Thượng bước vào lều :

-Tôi vừa xin Chuẩn úy Hòa về với chúng ta. Như vậy đại đội đủ sĩ quan theo cấp số.

Quay qua Thượng sĩ người Thượng :

- Chuẩu úy Hòa sẽ thay anh trên nguyên tắc, nhưng tôi yêu cầu anh giúp đỡ anh Hòa, cứ chỉ huy trung đội 3 như thường lệ trong một thời gian ngắn.

- Dạ, tuân lệnh.

Hòa lên tiếng :

- Trước hết cám ơn Trung úy đã xin tôi về đây, sau cám ơn Thượng sĩ đã nhận lời giúp tôi trong thời gian đầu và cuối cùng xin chào các anh.

Xong mấy chai bia, tất cả lui ra, Trung úy Điệp nhắc Hòa :

- Thượng sĩ Y Kloc rất giỏi, tôi muốn ông ta tiếp tục giúp anh trong lúc đầu. Hành quân anh sẽ đi sát với ban chỉ huy, có gì còn có tôi.

- Không sao đâu, trường dạy sao thì làm vậy. Xin cám ơn Trung úy.

Trung úy Điệp xuất thân khóa 18 Võ Bị Đà Lạt, ra trường đã chọn Sư đoàn 23 Bộ binh. Sau một năm làm Trung đội trưởng, ngày lên Trung úy nhận ngay chức vụ Đại đội trưởng đại đội nầy. Trung úy Điệp là sĩ quan xuất sắc và có tài. Đại úy Tình trọng nể nhất trong số Đại đội trưởng khác của Tiểu đoàn. Chính điểm nầy, đại đội của Trung úy Điệp thường đảm trách nhiệm vụ nặng nề hơn những đại đội khác.

Tiếp theo đó, Thượng sĩ Y Kloc đã tập họp anh em binh sĩ thuộc trung đội 3 để ra mắt Hòa. Hai trung sĩ, hai hạ sĩ và hai mươi hai binh sĩ nghiêm chỉnh chào Hòa trước cửa văn phòng đại đội. Hòa đã dành nhiều thời gian hỏi han vui đùa với anh em :

- Mặc dù tôi là Trung đội trưởng, nhưng Thượng sĩ Kloc vẫn giúp tôi chỉ huy các anh trong một thời gian ngắn. Tôi sung sướng về trung đội 3 với các anh, khổ cực sống chết cùng có nhau.

Nhìn đám anh em sẽ cùng sanh ra tử với mình, Hòa sót xa nhìn từng người, tất cả còn trẻ nhưng nỗi khắc khổ hiện rõ nét trên khuôn mặt.


http://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1/1484369156-TranDiaPhao_003.jpg

Hoàn cảnh họ cũng như Hòa, từ giã cha mẹ vợ con lên đường thi hành nhiệm vụ. Nhà cửa giờ đây là đồi núi, gia đình không ai hơn ngoài anh em đồng đội và tài sản chỉ vỏn vẹn chiếc balô. Hôm nay vui cười nhưng chưa biết ngày mai, sau cuộc hành quân trở về, sẽ rên rỉ trên chiếc băng ca hay nằm yên trong quan tài bằng gỗ ?

Thượng sĩ Y Kloc trình diện Hòa một binh sĩ trẻ :

- Binh nhì Xí tình nguyện theo giúp Chuẩu úy.

Hòa nhìn người bạn mới, tuổi chừng hai chục, khỏe mạnh đẹp trai.

- Anh đẹp trai sao lại mang tên Xí ?

Xí cười đưa hàm răng trắng :

- Hồi nhỏ khó nuôi, mẹ em phải đổi tên…

- À, tôi biết. Chốc nữa nói chuyện nhiều.

Hướng về phía Thượng sĩ Kloc, Hòa tiếp :

- Cho tan hàng, tôi sẽ ở chung với anh em Trung đội.

Xí theo Hòa vào căn nhà sát văn phòng đại đội, nơi dành riêng cho các sĩ quan trung đội trưởng, Xí hỏi :

- Sao Chuẩn úy không ăn ngủ chung với các sĩ quan kia ?

- Tôi muốn ăn ở chung với anh em.

Xí kê chiếc giường xếp một góc trong phòng, cũng là nơi ăn uống nghỉ ngơi của trung đội, rồi hỏi Hòa :

- Đồ đạc chỉ có chiếc balô ?

- Ừ chỉ có vậy, tôi muốn từ nay ăn chung với anh em và chiều nay mình xuống quán mua cái gì về tất cả nhậu chung.

- Đây chẳng có gì nhiều như ở Buôn Mê Thuột.

- Thì mua vài chục chai bia, vài ký thịt bò xào củ hành.

- Dạ, như vậy cũng nhất rồi Chuẩn úy.

Trong buổi cơm tối, Hòa có dịp vui chơi với từng anh em một. Thượng sĩ Y Kloc là lính chuyên nghiệp, vợ bốn con ở tại quận Buôn Hô gần Buôn Mê Thuột. Chỉ biết đọc và viết nhưng có nhiều kinh nghiệm về trận mạc rừng rú. Tính tình ngay thẳng được lòng tất cả anh em. Trung sĩ nhất Vàng xuất thân trường Hạ sĩ quan Đồng Đế, lanh lợi và gan dạ, có vợ hai con đang ở trong trại gia binh tiểu đoàn. Thượng sĩ Kloc nói nhỏ cho Hòa biết khi giới thiệu Tiểu đội trưởng tiểu đội 3, Trung sỉ Tâm, người ba gai nhất trung đội, nhất là sau khi vào vài chai rồi thì xem trời trăng chẳng ra gì nữa. Nhưng lại là một hạ sĩ quan gan dạ chuyên đi đầu mở đường rất giỏi. Tâm thường gọi mấy sĩ quan vừa ra trường là ‘chuẩn úy sữa’ mà phách lối, tuân hành mệnh lệnh nhưng không bao giờ chịu phục tùng ai.

Hòa trấn an :

- Nhưng là một Hạ sĩ quan giỏi, sẽ làm được nhiều việc. Nó đang bất mãn về vụ đi phép của nó.

- Được để tôi xem lại.

Vừa ăn xong có lệnh sáng mai lên đường sớm. Đối với anh em trung đội không có gì lạ, chuyện hành quân như cơm bữa, có thể lên đường ngay tức khắc không có gì thắc mắc. Xí vừa vội vã lo cho mình vừa lo cho Hòa :

- Đồ đạc để em mang.

- Không được, anh mang đồ của anh, tôi phải mang theo đồ dùng của tôi. Nếu anh vui lòng thì nấu ăn giùm cho tôi trong thời gian hành quân vì tôi không có nhiều thời giờ.

- Bổn phận của em mà.

- Không phải bổn phận của một người lính mà tình cảm cá nhân với nhau. Tôi tự lo cho tôi những gì có thể làm được.

Vừa nói, Hòa vừa sắp balô cho mình, chiếc võng, cái mền, mấy gói cơm sấy, ký cá khô. Thấy còn rộng chỗ, Hòa bảo Xí:

- Anh đưa hết mì gói của hai anh em mình qua cho tôi mang. Nhẹ mà.

- Để em mang.

- Anh còn cái soong và mấy lon guigoz nữa. Đừng để tôi nói nhiều !

Hòa vừa để khẩu súng lục vào balô vừa giải thích với Xí :

- Thứ nầy để làm kiểng cho vui, đụng trận chẳng có ích gì. Anh lấy thêm một cấp số đạn carabin cho tôi.

Vừa sáu giờ sáng đại đội đã tập họp lên đường. Tất cả anh em trong đại đội ngạc nhiên khi thấy Hòa vai balô, súng carabin M2 cầm tay, trên người còn thêm hai trái lựu đạn, bi đông nước và hai cấp số đạn như một binh sĩ ra trận.

Trung sĩ Tâm hỏi Hòa :

- Thằng Xí đâu mà Chuẩn úy tay xách vai vác ?

- Tôi cũng có tay có sức như các anh vậy.

Trung sĩ Tâm đứng thẳng người lên đưa tay kính cẩn chào Hòa.

Nhìn người lính bộ binh hành quân một tuần với năm bảy chục cây số rừng rậm núi cao, trên vai không dưới hai chục ký lô…nào súng với hai cấp số đạn cá nhân, một thùng đạn liên phụ trội, lương khô thực phẩm, võng mền, chén đũa, Hòa không thể nhẫn tâm nhờ một người nào mang gì thêm, tự mình lo liệu với khả năng.


http://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1/1484369166-TranDiaPhao_004.jpg

Nghe anh em kể lại bây giờ Hòa mới thấy những gì Thượng sĩ Kloc vừa nói về Xí. Vừa đi vừa nấu cơm, mì hoặc nấu canh, thậm chí còn làm gà trong lúc di chuyển dưới mưa. Bí quyết chỉ cần một nón sắt, móc giây kẽm xuyên qua khúc cây làm đòn cho hai người gánh, nấu nước sôi trong lon guigoz treo tòn teng phía trên nón. Một tô mì, nồi canh chỉ cần mười phút, nồi cơm mười lăm phút và nửa tiếng có thể nhậu bộ lòng gà. Chưa nhậu xong bộ lòng đã có ngay thịt gà bóp tiêu muối hay kho mặn.

Những lúc dừng chân ngủ đêm, nằm sát bên nhau Xí có lần tâm sự :

- Gia đình em chỉ có mẹ già và hai anh em, đứa em còn nhỏ. Em rớt Tú tài 1 liên tiếp hai năm, phải trình diện đi quân dịch.

- Học đến đệ nhị, sao em không theo học khóa hạ sĩ quan ?

- Em không muốn ở lâu trong quân đội, bỏ mẹ già một mình đơn chiếc không ai ngày đêm chăm sóc. Em hy vọng xong thời hạn quân dịch ra về sống với gia đình.

- Sao không nghĩ đến chuyện lập gia đình để bà cụ có người bên cạnh trong lúc vui buồn ?

Xí cười :

- Ai thèm lấy lính, nói đúng hơn con gái bây giờ sợ góa chồng quá sớm.

Hòa thầm nghĩ tội nghiệp cho tuổi trẻ cũng như tội nghiệp cho chính mình. Thời buổi chiến tranh càng ngày càng ác liệt, biết đến bao giờ có thể áp dụng đứng đắn thời hạn thi hành quân dịch :

- Hoàn cảnh của em sao không xin phục vụ gần nhà ?

- Khó lắm Chuẩn úy, làm lính kiểng phải chạy chọt một số tiền lớn, không được lãnh lương mà còn phải đóng thêm hụi chết hàng tháng. Xin vào tiểu khu làm những công việc vớ vẩn để được gần nhà thì không đủ tiền để mua một chỗ.

Xí hỏi ngược lại Hòa :

- Còn Chuẩn úy, sao lại lên đây ?

- Học ra Thủ Đức để làm Trung đội trưởng tác chiến, phục vụ ở đâu cũng vậy. Sống chết đều có số mạng.

- Thế Chuẩn úy có gia đình chưa ?

- Mới cưới vợ cách đây gần một tháng !

- Cô quê người gốc đâu ?

- Sài Gòn và hiện đang ở tại cư xá Sĩ quan Trung đoàn.

Không nghe hỏi tiếp, Hòa chỉ nghe tiếng thở nhè nhẹ của Xí và tiếng mưa rơi đều xuống tấm poncho.

Tỉnh Quảng Đức thuộc khu 23 chiến thuật do Sư đoàn 23 Bộ binh trách nhiệm. Trong tình hình lãnh thổ Khu chiến thuật không sôi động, Sư đoàn thường tăng phái lên đây một Tiểu đoàn Bộ binh với nhiệm vụ hành quân lục soát và giữ gìn an ninh vùng rừng núi hiểm trở bao quanh tiểu khu. Tiểu đoàn 1 do Đại úy Tình chỉ huy đang tăng phái đến. Nhưng những cuộc hàng quân lục soát thường tổ chức ở cấp Đại đội.

Trong thời gian Hòa phục vụ tại đây, chưa lần nào đụng độ lớn với địch đến cấp Tiểu đoàn, chỉ gặp từng nhóm nhỏ vài ba tên thường đặt mìn quấy phá chung quanh các trục lộ hoặc câu đạn cối vào thị trấn và bộ chỉ huy tiểu khu. Bộ chỉ huy Tiểu đoàn lên tăng phái tiểu khu xem như đi dưỡng sức trong lúc các Đại đội phải trèo núi băng rừng lội suối. Cứ sáu ngày hành quân được một ngày nghỉ. Đặc biệt chưa có thứ bảy chủ nhật nào được về thị xã. Lý do đơn giản là những ngày cuối tuần địch thường pháo kích vào tiểu khu trong lúc các quan chức tổ chức đánh bạc nhảy đầm và ăn nhậu.

Ba khu vực hành quân chung quanh thị trấn do kế hoạch của phòng 3 tiểu khu phối hợp với tiểu đoàn nghiên cứu. Các đại đội phải tiến quân theo hướng đã định, chiếm các ngọn đồi và lục soát những tọa độ đã được chấm sẵn.

Rừng già chằng chịt tre và mây, những toán tiền phong phải khó khăn để mở đường cho các trung đội theo sau. Băng rừng lội suối chiếm mục tiêu nầy qua mục tiêu khác và nhất là phải chiếm những ngọn đồi để nghỉ đêm. Hình như địch không lập căn cứ lớn hay chuyển quân ngang qua các khu rừng núi quanh khu vực Quảng Đức. Những cuộc hành quân lục soát thường nhắm vào những toán nhỏ giao liên hậu cần, quấy phá bằng súng cối, chận các trục giao thông, đặt mìm trên các trục lộ và chận xe đò thu thuế.

Sáu ngày trong tuần cơm sấy cá khô, vật lộn với đồi tre núi, mây hoang, muỗi sốt rét và vắt rừng, một loại đỉa rừng nhỏ con nhưng hút máu còn độc hơn đỉa sông. Anh em binh sĩ thường mong đụng trận lớn, sau đó còn được nghỉ xả hơi vài ngày còn hơn tuần nầy tháng nọ lặn lội lùng bắt mấy tên Việt cộng quấy rối. Chúng đợi quân ta đi qua, chui ra bắn vài ba tràng tiểu liên rồi vác súng chạy…

Thị trấn không có gì vui ngoài vài quán nhậu. Năm ba chai bia vài tô phở làm nguồn vui độc nhất của anh em binh sĩ mỗi khi được về nghỉ một ngày trong tuần. Thị trấn nhỏ bé của lính, làm sao tránh khỏi ồn ào mỗi khi bia rượu đón tiếp người về từ các cuộc hành quân. Tiểu khu thường than phiền với đại úy Tình rằng, lính của tiểu đoàn gây ồn ào náo loại thị trấn. Cuối cùng Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng đưa cho Đại úy Tình cây gậy để tự đập mình bằng cách bổ nhiệm Đại úy Tình làm Quân trấn trưởng thị trấn Quảng Đức !

Chức vụ nầy không có gì quan trọng hơn ngoài việc chỉ huy Quân Cảnh tiểu khu, tuần tiểu bắt lính gây ồ ào say sưa làm mất trật tự ngoài đường. Đại úy Tình họp anh em sĩ quan xỉ vả một trận :

- Các anh không biết giáo dục binh sĩ để chúng ăn uống say sưa ngoài đường, bây giờ tiểu khu đưa cho cây gậy để tự đập mình…

Trung úy Điệp trình bày :

- Suốt tuần trong rừng, về nghỉ được một ngày cũng nên nhắm mắt để anh em vui chơi một chút.

Đại úy Tình chưởi thề :

- Đ.m. chúng nó đưa gậy để anh em mình đập nhau.

Hòa đứng lên :

- Xin phép Đại úy cho tôi có ý kiến.

- Nói đi Hòa.

- Thì mình dùng gậy đập chúng nó trước.

Tất cả sĩ quan đồng ý :

- Hay đó, nói đi Hòa.

- Đề nghị ‘tân Quân trấn trưởng‘ ra một nhật lệnh phổ biến rằng, để duy trì quân phong quân kỷ, quân trấn sẽ áp dụng hình phạt tại chỗ đối với tất cả quân nhân các cấp về tội say sưa gây rối loạn, ăn mặc thiếu tác phong, tóc tai hớt không đúng tiêu chuẩn…

Đại úy Tính hỏi :

- Rồi sao ?

- Đợi chiều Chủ nhật Đại úy chuyển nhật lệnh qua tiểu khu thông báo, để không ai kịp chuẩn bị đề phòng. Thứ hai anh em chúng ta đang lúc còn ở trong rừng, trước giờ chào cờ, Đại úy chỉ huy Quân cảnh đứng tại cổng ra vào tiểu khu cũng như giữa phố, chận tất cả sĩ quan tiểu khu, dùng tondeur xớt tóc ngay một đường từ trước ra sau, theo lệnh của Quân trấn trưởng vừa ban hành hôm qua. Nhật lệnh cần nhấn mạnh, tất cả quân nhân các cấp sĩ quan trong quân trấn phải làm gương trước cho anh em binh sĩ, tóc tai gọn gàng đúng tiêu chuẩn quân phong quân kỷ...

Một Thiếu úy thêm vào :

- Đám sĩ quan tiểu khu ông nào tóc cũng dài xuống tận vai, chỉ cần xớt một đường là đủ ăn tiền !

Tiếng vỗ tay hoan hô của các sĩ quan cổ võ thối thúc Đại úy Tình phấn khởi. Ông ra lệnh Hòa thảo ngay một nhật lệnh, mỗi Đại đội cho trình diện Tiểu đoàn năm người với dao kéo và tondeur hớt tóc.

Kết quả sau đó một tuần tiểu đoàn được lệnh rút về lại Buôn Mê Thuột ! Về hậu cứ, tiểu đoàn tạm thời đảm trách an ninh chung quanh Buôn Mê Thuột theo chương trình yểm trợ bình định nông thôn. Các Đại đội chia ra đóng quân ở ba khu vực dọc theo quốc lộ 14 nối liền Buôn Mê Thuột với Pleiku.


http://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1/1484369175-TranDiaPhao_005.jpg

Đại đội Hòa lãnh nhiệm vụ vùng Quảng Nhiêu, thuộc quận Buôn Hô, cách thị xã chừng 30 cây số về hướng Tây Bắc.Vùng đất xôi đậu nầy là địa bàn hoạt động của địch, vừa thu hoạch nông sản phẩm, hoạt động du kích và quấy phá quốc lộ 14 huyết mạch vùng cao nguyên. Đại đội trưởng gọi Hòa căn dặn :

- Anh là sĩ quan tôi tin tưởng, tôi giao trung đội anh vào đóng trong xã Quảng Nhiêu, vùng xôi đậu chứa chấp, bao che địch nằm vùng như anh đã biết. Phải cẩn thận và khôn khéo trong việc tiếp xúc với dân.

- Tôi sẽ kiểm soát và không để anh em tiếp xúc trực tiếp với dân.

Xã Quảng Nhiêu đếm chừng vài trăm nóc nhà, dân từ xứ Quảng lên đây lập nghiệp. Dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, đây là một ấp chiếc lược kiên cố, tổ chức chặt chẽ, nhưng từ lúc chương trình nầy bị hủy bỏ nơi đây trở thành địa bàn hoạt động nằm vùng. Ban đêm địch về thu gom lúa gạo, tổ chức tuyên truyền học tập. Sư đoàn và tiểu khu đã tổ chức nhiều cuộc hành quân truy lùng nhưng không kết quả. Nhà nào tại đây cũng có chồng, con hoặc anh em theo địch, ban ngày phân tán rút vào rừng ban đêm trở về với gia đình.

Hiệp định Genève chia cắt Việt Nam làm đôi ở vĩ tuyến 17, Việt cộng đã ngon ngọt dụ dỗ và bắt cóc hàng chục ngàn người đưa ra Bắc. Một kế hoạch thâm độc dùng tình thân ruột thịt để trấn áp những gia đình còn lại trong Nam. Những người bị bắt đưa đi, khi huấn luyện xong, miền Bắc đưa trở lại vô Nam buộc gia đình phải bao che, hợp tác với địch. Mẹ không thể tố giác con, vợ không thể phản bội chồng, anh em tình máu mủ phải đùm bọc lấy nhau. Cộng sản biến những người nầy với gia đình họ thành những thành phần nằm vùng nòng cốt ở Miền Nam. Những địa bàn nổi tiếng xôi đậu Miền Trung, từ Quảng Nam Quảng Ngải, đến Miền Nam như Củ Chi, Bến Tre đã gây khó khăn và hao tổn cho quân đội Miền Nam.

Thủ đoạn dùng máu mủ tình thân giữa cha mẹ vợ chồng con cái anh em là một hành động tàn bạo vô nhân đạo đã đem lại những khổ đau tận cùng đến hàng chục ngàn gia đình sống giữa gọng kìm của hai chế độ. Cộng sản lợi dụng liên hệ gia đình thao túng, buộc thân nhân phải phục tùng, làm địch vận, đóng thuế, nuôi dưỡng chứa chấp cán bộ nằm vùng. Phía Miền Nam nghi kỵ, kiểm soát cô lập và xếp loại những gia đình nầy thuộc thành phần tay sai của Cộng sản Miền Bắc.

Rất nhiều trường hợp trớ trêu và đau lòng, trong gia đình. Nhiều cha con, anh em ruột thịt ở hai chiến tuyến gặp lại nhau trong đắng cay chua chát, đôi lúc còn thẳng tay bắn giết lẫn nhau nơi trận địa !

Hòa cho trung đội đóng tại bìa rừng, bên hông chợ. Dân trong xã không có thiện cảm khi thấy quân đội vào trú đóng tại đây. Chợ tan sớm, dân chúng rút vào nhà, ngoài sân không thấy bóng trẻ con.

Đến chiều, cùng đi với Xí và anh truyền tin, Hòa vào xóm tìm gặp trưởng làng thăm hỏi xã giao đồng thời cho họ biết việc đóng quân chỉ tạm thời với mục đích để giữ gìn an ninh cho xã. Nhưng dân chúng cửa đóng then cài, không muốn tiếp xúc với những người lạ mặt.

Nhiệm vụ của trung đội nằm ngoài phạm vi xã, ban ngày tuần tiểu tảo thanh khu vực chung quanh, ban đêm tổ chức nhiều tổ kích đón bắt những tên nằm vùng thường lén lút về nhà. Những tổ kích ban đêm luôn di động và thay đổi vị trí liên tục nhưng vẫn không tóm được tên du kích nằm vùng nào. Có nhiều đêm nghe tiếng chó sủa mừng người quen, Hòa biết chúng đang có mặt bên trong xã, nhưng không phải nhiệm vụ của Trung đội. Hòa cho anh em bám sát những căn nhà nghi ngờ, nhưng chúng đã thoát một cách an toàn và bí mật.

Hơn ba tuần lễ sau Đại đội được hoán chuyển về giữ an ninh trên trục lộ 21, yểm trợ các trợ toán bình định nông thôn đang hoạt động trong phạm vi quận Phước An.

Thoải mái và sung sướng nhất trong thời gian làm Trung đội trưởng tác chiến của Hòa là lúc đóng chốt nằm tại đồi Chukuc, nhiệm vụ giữ an ninh khu vực chung quanh đồi và khoảng 10 cây số trên quốc lộ 21. Chung quanh Chukuc, một vùng đất đỏ phì nhiêu với những khu rừng thưa, nhiều buôn của người Thượng tập trung tại đây. Địch quân không thể len lỏi ẩn núp trong buôn, chúng đến đây mục đích lấy nông sản phẩm. Người thượng không theo Việt cộng, họ thẳng thắng nói rõ như vậy và thường cho Hòa biết tin tức mỗi khi chúng xuất hiện tại đây. Hòa và anh em trong trung đội thường vào buôn an toàn, uống rượu mua bán trao đổi với dân.

Trước khi đến, Hòa đã xin người bạn Dược sĩ trong Tiểu đoàn Quân Y một số thuốc cảm, nhức đầu đau bụng…đồng thời gởi tiền xuống Nha Trang nhờ mua mấy tạ muối làm quà, trao đổi gà vịt rau cải với các buôn. Người Thượng rất sòng phẳng, họ không nhận của cho mà thích trao đổi. Nhờ vậy trong thời gian đóng ở khu vực nầy anh em trong Trung đội được ăn uống đầy đủ. Hòa rất khắt khe và nghiêm cấm nhiều vấn đề với anh em Trung đội trong việc tiếp xúc mua bán đổi chác với dân trong buôn. Hòa được dân trong buôn xem như người bạn và ông thầy thuốc giỏi, vì bệnh gì thầy thuốc cũng đều chữa khỏi với vài viên aspirine.

Ban ngày Trung đội rải quân dài và tuần tiểu dọc theo quốc lộ, ban đêm chia thành ba tổ kích, nhưng may mắn trong thời gian đóng quân ở đây không xảy ra đụng độ nhỏ nào.

Một đêm Hòa kiểm soát một tổ kích, khám phá hạ sĩ An và binh nhất Thái vắng mặt. Vừa hỏi xong, Hòa nghe anh em cười ồ lên :

- Chút nữa Chuẩn úy sẽ biết !

Hòa chất vấn Trung sĩ Tiểu đội trưởng :

- Cho tôi biết hai người nầy đi đâu ?

- Dạ vào rừng một chút, chúng nó sẽ về ngay.

- Ban đêm vào rừng làm gì ?

- Quanh quẩn gần đâu đây không đi xa đâu Chuẩn úy.

- Tôi đang ở với tiểu đội Trung sĩ Tâm, nếu hai anh Thái và An về, cho qua trình diện tôi.

- Dạ Chuẩn úy.

Trung sĩ Vàng vừa dứt câu, Thái và An đã về đến, gặp Hòa, hai người đứng nghiêm đưa tay lên chào :

Hòa hỏi ngay :

- Đêm hôm các anh bỏ đơn vị đi đâu đến giờ ?

Thái ấp úng :

- Chúng em đi…

- Đi đâu ?

An gải đầu :

- Dạ đi ‘bắt cái nước’.

Thái tiếp :

- Dạ ‘bắt cái nước’ với hai em thượng ở bụi cây gần phía sau.

Hòa nghiêm giọng :

- Bỏ đơn vị trong lúc thi hành phận sự, các anh biết có lỗi không ?

- Dạ

- Hơn nữa, lỡ có bầu tội nghiệp cho người ta, tôi làm sao ăn nói với tộc trưởng trong buôn ?

Thái năn nỉ Hòa ngồi xuống đám cỏ, giải thích :

- Chuẩn úy đừng lo chuyện đó, các em làm tình đã hay và tính toán cũng giỏi, không mang bầu đâu. Chuẩn úy có nghe bao giờ gái Thượng lén lút và có bầu với trai kinh bao giờ chưa ?

Đến giờ trung sĩ Vàng lên tiếng :

- Thượng theo chế độ mẫu hệ, con gái tự động tìm trai và khoái ‘bắt cái nước’ với người kinh.

An hớn hở :

- Các em khoái ‘bắt cái nước’ với trai kinh vì có ‘cái đi cái về’ thích hơn so với trai Thượng. Chính các em hẹn hò và tìm đến đây với em.

Trung sĩ Vàng hỏi :

- Tại sao không làm ban ngày ?

- Các em không chịu làm ban ngày vì sợ ông Trời nhìn thấy !

Hòa ngắt ngang :

- Thôi đủ rồi.

Hạ sĩ Hậu ngồi kế bên đùa với Hòa :

- Chuẩn úy đẹp trai dễ thương. Các em trong mấy buôn đã chấm rồi, coi chừng sáng ngủ dậy sẽ thấy vài cô đứng trước lều dắt theo trâu bò xin cưới Chuẩn úy… hi.. hi..

Sung sướng nhất của Hòa tại đây, hằng ngày rỗi rảnh, vai mang M16 cùng Xí và anh truyền tin ghé vào các buôn uống rượu chuyện trò với các trưởng tộc. Đối với người thượng những ai thực tình đều được quý mến, nhất là những người ăn cùng mâm uống (rượu) cùng ‘cần’ (ống hút) với những người trong buôn mà không lộ vẻ miễn cưỡng. Hòa uống rượu không bao giờ chùi cần hút trước khi ngậm vào miệng cũng như ăn một cách ngon lành những món thịt cá còn sống đựng trên miếng lá chuối… Trong vùng có nhiều bộ tộc Thái trắng. Con gái ở đây trắng và đẹp hơn gái kinh rất nhiều. Một tộc trưởng thương mến Hòa, ông nhiều lần ngỏ ý muốn cho Hòa con gái đầu của ông. Ông nói nếu Hòa muốn, ông cho con gái đi hỏi cưới Hòa ngay.

Hòa vừa được lên Thiếu úy và có lệnh về trình diện phòng 1 Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn. Chưa biết tương lai về đâu nhưng trước mắt phải từ giã hai mươi mấy anh em, những người đã cùng nhau chia sớt buồn vui cực khổ trong thời gian qua, Hòa thấy lòng mình thắt lại. Cầm sự vụ lệnh trong tay Hòa tìm Thượng sĩ Y Kloc :

- Anh cầm số tiền nầy mua vài lít rượu, ít gà vịt và vài ký thịt bò, anh em mình nhậu chơi một bữa.

Cầm số tiền thượng sĩ Y Kloc ngần ngại :

- Sao nhiều vậy, mua hết hay sao Thiếu úy ?

- Ừ mua hết, tôi vừa lãnh lương xong.

Buổi khao anh em và cũng là bữa cơm chia tay đối anh em trong trung đội. Ăn xong, Hòa báo tin Hòa sẽ rời anh em về trình diện Sư đoàn nhận nhiệm vụ mới. Tất cả bỗng dưng im bặt không một ai nói được câu gì trước một mất mát lớn lao và bất ngờ đối với họ.

Một hồi lâu Hạ sĩ An bật khóc :

- Như vậy ông thầy bỏ tụi em rồi !

Buồn nhất là Xí, người đã theo sát Hòa như hình với bóng từ ngày Hòa vừa lên Quảng Đức. Anh lấy trong túi áo cái hộp quẹt Zippo và tháo chiếc đồng hồ đang đeo tay trả lại cho Hòa. Hòa an ủi :

- Em giữ lại làm kỷ niệm để nhớ anh mỗi khi nấu cơm và xem giờ. Xa em, anh thấy buồn…

- Nếu làm việc tại Bộ Tư lệnh, ông thầy nhớ ghé thăm em.

- Chưa biết đi đâu, làm gì, nhưng nếu ở gần sẽ đến thăm các anh em. Xin hứa.

Về trình diện bộ Tư lệnh, Trung tá Trưởng phòng 1 cho Hòa biết Hòa được chọn về Tiểu đoàn 23 tiếp vận, một đơn vị mới đang được thành lập. Những ngày đầu tiên về tiểu đoàn chỉ có hai sĩ quan : Thiếu tá Trương làm Tiểu đoàn trưởng và Hòa phụ trách ban 4. Sau nầy Hòa được biết, do đề cử của Trung tá Tiến Trưởng phòng 4, Đại tá Cẩn, lúc nầy là Tư lệnh phó Sư đoàn đã chấp thuận khi thấy tên Hòa trên danh sách đề nghị.

Để đáp ứng với tình hình chiến thuật mới, các Tiểu đoàn tiếp vận được thành lập bên cạnh các Sư đoàn. Đơn vị mới nầy kết hợp các đơn vị trực thuộc trước kia, ngoài hai đại đội quân nhu quân cụ làm nòng cốt, còn thêm một trung đội vận tải cơ hữu, một trung độ chung sự chuyên về hậu sự lo an táng chôn cất các chiến sĩ bỏ mình vì tổ quốc, một trung đội sữa chữa truyền tin và một trại nông mục nuôi heo, bò gà… Tiểu đoàn tiếp vận xem như một đơn vị trực thuộc và nằm bên cạnh Sư đoàn để yểm trợ hữu hiệu và đắc lực từ hậu cứ đến tiền phương.

Sau khi trình diện Thiếu tá Trương, Hòa phóng xe xuống hậu cứ tiểu đoàn 1 báo tin vui cho anh em cũ, nhưng họ đã lên đường hành quân ngay trong đêm đó.

Gần ba năm sau, khoảng đầu hè 1971 chiến trường Buôn Mê Thuột trở nên sôi động. Trung đoàn 45 thường đụng độ lớn với địch trong các cuộc hành quân chung quanh các khu rừng giữa hai quận Buôn Hô và Thuấn Mẫn. Các tiểu đoàn bộ binh bị tổn thất nặng trong những lần giao tranh với địch tại vùng nầy. Địch quân không nhiều, chừng vài tiểu đoàn bộ binh với sự yểm trợ của nhiều đơn vị pháo, vừa cầm chân vừa làm tiêu hao lực lượng trung đoàn 45 tại Buôn Mê Thuột bằng chiến thuật khiêu khích dụ quân ta vào trận địa đã dàn sẵn. Trong giai đoạn đầu địch dùng thế ‘thượng mộc hạ thổ’. Toán địch quan sát và chỉ huy trận địa ẩn núp trên các cây cao. Dưới đất vài toán nhỏ bộ đội xuất hiện chạm súng lẻ tẻ mục đích dụ quân ta đổi hướng truy kích. Khi các cách quân ta đã vào đúng ổ mai phục và tầm pháo, đạn cối 81 của chúng rót xuống như mưa, vừa sát hại vừa áp đảo tinh thần. Lúc dứt pháo, địch từ trong các hố chui lên đánh cận chiến. Sau trận nầy, Trung đoàn đổi chiến thuật, địch quân quay qua xử dụng chiến thuật ‘trận địa pháo’.

Với chiến thuật mới, địch quân chỉ tấn công quân ta bằng đạn pháo. Rừng rậm, chúng hóa trang ẩn kín trên cây, theo dõi hướng tiến quân và điều chỉnh tầm pháo. Khi đoàn quân đã vào trọn trong mục tiêu, hàng chục họng súng nhả đạn rót xối xả xuống đầu. Đến chừng pháo binh ta bắn trả chấm đứt được các họng súng địch thì tổn thất quân ta đã khá nặng nề.

Vào một chiều chủ nhật Hòa đang ngồi trong quán café ‘Tím’ trên đường Nơ Trang Long, Trung úy Linh phụ tá của Hòa cùng Thiếu úy Phan dừng xe trước cửa, vào hấp tấp cho biết :

- Kiếm anh từ trưa đến giờ.

- Chuyện khẩn cấp ?

Phan tiếp lời :

- Anh quen thân các chủ trại mộc, tôi nhờ anh làm gấp một số hòm, chỉ cần cưa bốn miếng ván lớn hai miếng nhỏ cho hai đầu. Gấp quá không cần phải bào láng.

- Hôm qua anh đã lấy hết hòm tại các nhà cung cấp chưa đủ sao ?

- Không thấm vào đâu, vì một số lớn xác của anh em Tiểu đoàn 1 vừa được trực thăng đưa về.

Vừa nghe đến tên Hòa giật thót mình, Tiểu đoàn 1 là đơn vị chiến đấu, Hòa đã cùng đồng đội sát cánh bên nhau hơn một năm trời.

Hòa trả lời vội Phan :

- Được tôi sẽ lo chuyện anh trong chiều nay, bây giờ chạy gấp xuống trung đoàn. Xác đem về ở đâu ? Đi chung xe để khỏi mất thời giờ.

Hòa để xe mình tại chỗ, lên chung với Phan chạy về hướng cây số 5. Khi ngang qua phi trường L19, Hòa thấy vẫn còn ba chiếc trực thăng đang lên xuống tải thương và tử thi. Mấy chiếc xe hồng thập tự của Tiểu đoàn Quân Y và Quân Y Viện Buôn Mê Thuột nối đuôi nhau liên tiếp chạy ra. Linh tính Hòa báo trước chuyện chẳng lành đã với những đồng đội cũ, với lối chiến thuật ác liệt nầy, khó ai giữ được tính mạng từ trận nầy qua trận khác.

Xe chạy thẳng vào nhà xác tiểu đoàn nhưng chỉ tìm được đây hơn một chục tử thi. Hậu cứ cho dọn một phòng lớn nằm kế văn phòng ban chỉ huy Tiểu đoàn để chứa thêm gần bốn chục xác khác.

Hòa bật khóc thành tiếng và chạy đến ôm lấy các xác chết những đồng đội cũ của mình. Xí đang nằm yên mặt nhợt nhạt đầy vết máu, một mảnh đạn súng cối xuyên qua ngực trên tay vẫn còn mang chiếc đồng hồ Seiko. Vàng không còn nguyên vẹn thân thể, trên áo vẫn còn bảng tên với cấp bậc Trung sĩ nhất. Kloc bị ngay một mảnh đạn ngang đầu. Tâm thân mình chỉ còn một nửa nằm cạnh những anh em khác : Nghĩa, Báu, Hùng…như vậy trung đội thân yêu ngày trước của Hòa đã hoàn toàn tan rã.

Trung úy Linh bước đến ôm Hòa kéo ra vỗ về :

- Đằng nào anh em đã chết rồi, anh khóc họ cũng không sống lại được. Bây giờ tôi đưa anh lên bệnh viện để tìm những người bị thương, xem có thể giúp gì được không.

Trong Quân y viện những người bị thương đang nằm la liệt trên giường, trên băng ca, dưới đất. Không còn chỗ cho những anh em vừa đến. Hòa chạy thẳng vào phòng cấp cứu thấy Chín, Hoan đang được truyền máu. Ba binh sĩ Sâm, Trọng, Bá còn tỉnh, đã được băng tạm đang ngồi dựa vách tường.

- Trung úy !

Nghe tiếng gọi, Hòa quay lại, Đậu đang được chuyển vào phòng cấp cứu, còn tỉnh và nhận ra Hòa. Hòa vội hỏi :

- Trung đội của mình…?

- Dạ tiêu tùng hết. Chúng nó pháo tới tấp trên đầu không cách nào chống đỡ. Em được đưa về đây bằng trực thăng, không biết những người còn lại ra sao.

Nắm tay anh em một hồi, Hòa phải ra khỏi cấp cứu theo yêu cầu của Y sĩ trưởng.

Trước lúc lui ra Hòa đến cạnh bác sĩ Hoạt bạn học ngày trước, nói như van xin :

- Lính cũ của tôi, anh lo liệu giùm.

Bắt tay Hòa, bác sĩ Hoạt gật đầu :

- Không sao, bổn phận của tôi, anh đừng nóng ruột.

Từ giã quân y viện Hòa đến thẳng hai trại mộc, yêu cầu làm gấp năm chục hòm đơn giản để tẩm liệm vào sáng mai.

Hôm sau Hòa có mặt trọn buổi sáng tại doanh trại tiểu đoàn 1 trong lúc trung đội chung sự tắm rửa, thay áo và liệm các binh sĩ cũ của mình. Linh cữu được sắp thành từng hàng trong một căn nhà dài để chờ thân nhân. Đứng từ xa đã nghe tiếng than van khóc lóc não nùng của những bà mẹ mất con, những người vợ mất chồng.. Hòa nước mắt đỏ hoe, bước nhẹ đến sau lưng mẹ của Xí, vợ Vàng, vợ Tâm, vợ con Kloc…ôm các bà vào lòng vỗ về sót xa như đang ôm những người thân yêu nhất trên đời. Không ai nói được tiếng nào, chỉ có nước mắt và những tiếng nấc nghẹn ngào giữa mùi khói hương nồng nặc, tiếng chuông mõ hòa lẫn tiếng cầu kinh. Suốt ngày hôm đó cho đến sáng hôm sau, Hòa ở lại bên cạnh các quan tài với thân nhân, Hòa không can tâm quay về đơn vị.


http://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1/1484369186-TranDiaPhao_006.jpg

Sáng hôm sau Hòa nhờ Trung úy Linh lấy một số tiền riêng và một bộ áo dân sự. Hòa nhờ Linh đưa tiền lại cho thân nhân từng gia đình để mua hương hoa và góp thêm lộ phí đưa linh cữu về nguyên quán. Hòa thay bộ áo dân sự, lên xe ngồi chung xe chở linh cữu Xí đến tận đồi Chukuc, nơi đã ghi dấu nhiều kỷ niệm, để tiển đưa một người lính, người bạn, người em một đoạn đường.

Trung úy Linh nói với Hòa :

- Anh cần tôi lái xe theo anh, hay tôi bảo tài xế đón anh?

- Cám ơn Linh, tôi sẽ trở lại bằng xe đò. Đường không an ninh, anh đừng cho jeep chạy theo.

Trên đường trở lại Buôn Mê Thuột, quá mệt mỏi nhưng Hòa không thể chợp mắt, hình ảnh của những người lính cũ chết không toàn thây, của các bà mẹ bà vợ nằm lăn bên hòm than khóc thảm thiết cứ ám ảnh trên suốt đoạn đường.

Chia ly, đau khổ, tàn phế, chết chóc và mất mát là định luật của chiến tranh mà phần thiệt thòi lúc nào cũng giáng xuống đầu những gia đình nghèo khó, những binh sĩ vô tội đáng thương. Dù dưới chế độ nào cũng vậy, họ không đủ tiền để mua một chỗ núp bóng che thân. Họ đã nằm xuống hàng trăm hàng ngàn người ngoài mặt trận cho sự an toàn của một vài quan quyền trong bàn giấy.

Những chiến sĩ đáng thương nầy đã thực sự hy sinh cho tự do và toàn vẹn của lãnh thổ, nhưng được gì ngoài vài chục ngàn tiền tử với chiếc hòm sáu miếng ván ? Xác chưa kịp chôn, vành tang chưa quấn chặt, nước mắt cha mẹ vợ con đang chảy… trong lúc các tướng tá hãnh diện nhận thêm sao, thêm hoa trên cổ, thêm những chéo vải xanh đỏ trước ngực. Hãy nhìn kỹ đằng sau những chiếc huy chương nầy, không gì hơn ngoài nước mắt đau thương của những người còn lại, máu và những xác chết của những anh em thuộc cấp đã hiến thân mình cho tổ quốc cũng như hàng ngàn trẻ con, thanh niên đáng thương vô tội phía bên kia chiến tuyến, đã hy sinh cho mưu đồ tham vọng xâm chiếm Miền Nam của cộng sản khát máu.

Vùng rừng núi Pleiku-Kontum, một vị trí chiến lược quan trọng, địch cần khống chế để làm bàn đạp thôn tính Miền Nam. Ranh giới Việt-Miên-Lào là vùng lý tưởng để ẩn náu, dưỡng quân của bộ đội Miền Bắc. Nơi lập kho hậu cần lương thực vũ khí đạn dược để chuyển tiếp vào Nam xuyên qua đường mòn Hồ chí Minh. Làm chủ được vùng nầy, Miền Bắc có thể cắt đôi Việt Nam Cộng Hòa thành hai, đẩy ranh giới từ Bến Hải vào tận Quy Nhơn.

Mùa hè 1972 Miền Bắc đã tập trung trên ba sư đoàn chính quy với sự hổ trợ của những trung đoàn xe tăng và trọng pháo hạng nặng. Quân đoàn 2 đóng tại Pleiku, Bộ Tư Lệnh tiên liệu trước khả năng địch nên điều động sư đoàn 23 bộ binh từ Buôn Mê Thuột lên làm đơn vị cơ bản, phối hợp với Sư đoàn 22 đóng tại Quy Nhơn, các Lữ đoàn trọng pháo, Thiết giáp cùng với nhiều Liên đoàn Nhảy dù và Biệt động quân tăng phái.

Bộ chỉ huy tiền phương của chiến dịch đóng quân trên ngọn đồi về hướng tây cách thị xã chừng dưới mười cây số. Một cách quân được chỉ định đóng ở bìa rừng để bảo vệ thành phố Kontum. Tiểu đoàn 23 tiếp vận do Thiếu tá Nhất chỉ huy, đang theo sát bộ tư lệnh, Trung úy Linh tháp tùng ban chỉ huy, Hòa liên lạc đi về giữa tiền phương tại Kontum, Pleiku và hậu cứ Buôn Mê Thuộc.

Chiến thuật đánh thành phố của địch, chúng thường dùng pháo trấn áp trước, chiếm lấy dân để cản đường phản công của quân ta. Sau một đêm địch pháo kích như điên vào thị xã, vùng cát trắng Kontum nhuộm thành đỏ bởi máu của dân lành vô tội. Thành phố trở thành đống gạch, người và gia súc chết nằm ngổn ngang trong nhà ra đến đường. Vừa dứt pháo, địch từ nhiều hướng ồ ạt vào chiếm các điểm trọng yếu nhưng đã gặp phản công kịp thời của quân ta, chúng buộc phải rút lui sau vài giờ giao tranh. Kế hoạch đánh chiếm thị xã Kontum hoàn toàn thất bại, địch đã để lại một thành phố hoang tàn đổ nát và tang thương.

Đánh bạt địch ra khỏi thành phố Kontum, Bộ tư lệnh tiền phương Quân đoàn II chia lực lượng thành nhiều mủi tiến quân thẳng vào cơ sở hậu cần và sào huyệt của chúng. Chận đường tiếp viện vào từ Miền Bắc và giải vây các tiền đồn đang bị chúng cô lập. Bộ tư lệnh tiền phương đã san bằng sào huyệt các cơ sở hậu cần dễ dàng và mau chóng. Chỉ tiếc một hai tiền đồn đã lọt vào tay địch sau những loạt tấn công biển người, là một thủ đoạn thí quân không vô nhân đạo của Cộng sản.

Chiến lợi phẩm do Trung đoàn 45 tịch thu đuợc ngoài vũ khí trang bị cá nhân đều xuất xứ từ Liên Sô và Trung cộng còn mấy chục tấn gạo ẩm ướt lên mốc, muối hột và cá khô các loại. Bên trái bãi đất trống nằm sát bộ chỉ huy tiền phương trung đoàn, các chiến lợi phẩm đã được phân ra từng loại, bên phải vẫn còn chất đống bừa bãi. Trong lúc tiểu đoàn làm thủ tục tiếp nhận, Hòa tách riêng đi về hướng các tù binh, trên trăm người đang bị bịt mắt ngồi thành từng hàng dưới bóng cây. Họ còn quá trẻ chừng 16 đến 18 tuổi là cùng. Nhiều khuôn mặt còn búng ra sữa, trên người chỉ chiếc áo rách và cái quần cụt. Hòa nhìn họ bỗng thấy xót xa trong lòng. Đám tù binh Miền Bắc trẻ nầy chào đời trong chiến tranh, áo không đủ mặc, ăn không đủ no, chữ nghĩa chỉ vài ba chữ. Đời chưa bao giờ biết đến miếng cá miếng thịt là gì ngoài những món ăn trường kỳ ngô khoai và rau cải. Đến lúc vừa đủ sức vác cây súng, chục quả súng cối và vài ký lương thực thì bị lùa vào Miền Nam rồi lần lượt bỏ thây vì bệnh tật và bom đạn sau khi vượt qua vĩ tuyến 17. Cấp chỉ huy lúc nào cũng hồ hỡi báo cáo, vận động dân chúng rằng chúng ta đã tiến mạnh tiến nhanh..

Hòa tiến đến bên cạnh một tù binh trẻ :

- Tôi mời anh điếu thuốc.

Anh tù binh không trả lời, quay mặt qua hướng khác. Châm xong điếu thuốc Hòa ôn tồn :

- Tôi không ở trong đơn vị đã bắt anh và cũng không phải sĩ quan an ninh điều tra đến thẩm vấn.

Anh tù binh trẻ quay lại nhưng vẫn không có thái độ nào.

- Anh hút điếu thuốc cho ấm. Tôi biếu anh vì tình cảm riêng của tôi.

Đến đây anh tù binh gật đầu, Hòa cúi xuống gắn điếu thuốc vào miệng, anh ngập ngừng vài giây rồi hút bằng những hơi dài. Những tấm vải bịt mắt không cho phép Hòa thấy được phản ứng trên gương mặt các anh em tù binh nhưng Hòa cũng nhận biết tất cả đều muốn được một điếu thuốc.

Vừa châm thuốc cho từng người Hòa vừa nói :

- Các anh may mắn được chúng tôi bắt về đây, dĩ nhiên sẽ bị giam giữ một thời gian, được săn sóc chữa bệnh và nuôi ăn. Sau nầy các anh sẽ được trả về lại Miền Bắc trong chương trình trao đổi tù binh. Không ai giết hại, móc mắt mổ bụng để ăn thịt như các anh đã bị tuyên truyền. Đừng sợ !

Nghe đến đây các tù binh đổi ngay thế ngồi, quay hẳn về hướng Hòa đang đứng, ngước mặt lên nghe ngóng. Chưa dứt câu, Hòa nghe tiếng người quen sau lưng :

- Hòa lên đây hồi nào ? Làm sĩ quan chiến tranh chính trị hay lắm, nhưng không nên. Mấy ông ban 2 sẽ báo cáo bậy lên Trung đoàn càng thêm lắm chuyện. Lui vào trong làm ly café nói chuyện hay hơn.

Đại úy Điệp, Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1 choàng tay qua vai kéo Hòa vào trong lều bên cạnh bộ chỉ huy.

- Có thường lên đây không Hòa ?

- Dạ thường nhưng ở ngoài thị xã, hôm nay có dịp đi theo vào kiếm thăm anh em cũ.

- Báo Hòa tin buồn, trong đại đội chỉ còn một mình tôi, các anh em trung đội truởng khác cùng thời với Hòa đã ra đi. Hòa ngồi yên một lúc hỏi lại :

- Sao em không hay biết gì ?

- Xác đưa thẳng về hậu cứ. Lúc nầy anh thường có mặt ở Pleiku-Kontum ?

- Dạ lâu lâu cũng về Buôn Mê Thuột, nhưng quá bận rộn không liên lạc thường xuyên với hậu cứ tiểu đoàn.

Anh em uống xong tách café, Đại úy Điệp bắt tay đứng dậy :

- Tôi phải về Tiểu đoàn bây giờ.

Hòa nước mắt lưng tròng :

- Bảo trọng nghe anh .

Đại úy Điệp gượng cười :

- Cám ơn, số mạng do Trời định làm sao biết được Hòa !

Trực thăng vừa ra khỏi thị xã Kontum, đạn từ dưới bắn lên tới tấp, hai xạ thủ đại liên vừa bắn trả xuống vừa trấn an :

- Chúng nó bắn bằng AK không sao đâu, sẽ bay lên trên tầm đạn.

Hai tay nắm chặt vào thành ghế, Hoà nhìn ra ngoài, những viên đạn lửa chỉnh hướng bay ngang trước mặt. Máy bay phải bốc ngược lên vượt qua tầm bắn. Lúc trực thăng vào hẳn trong đám mây, xạ thủ đại liên ngồi ở cánh cửa nói vào tai Hòa :

- Chỉ ngại khi chúng nó bắn bằng hỏa tiễn hay súng phòng không, đạn AK nếu không trúng thùng xăng thì không sao.

Hai lần suýt chết vì máy bay nhưng Hòa không lo lắng mỗi khi bước lên trực thăng. Hòa nghĩ rằng Trời chưa kêu đến tên mình, mặc dù đã hai lần lọt ngay vào ổ phục kích trên đèo Chư Pao và giữa quốc lộ 14 nối liền Kontum và Pleiku.

Bạn bè đồng đội và anh em dưới quyền đã vĩnh viễn ra đi để lại những nỗi buồn thương tiếc trong lòng người ở lại. Hòa tự nghĩ, không biết bao giờ sẽ đến lượt mình. Bom đạn vô tình đâu biết phân biệt được ai, kẻ hứng chịu trước nhất là những người lính đáng thương, những cấp sĩ quan nhỏ bé như Hòa. Năm 1954 ngưng chiến và chia đôi đất nước để hai miền Nam Bắc sống yên lành trong hòa bình hạnh phúc. Nhưng chính đây là cơ hội để miền Bắc dưỡng quân, huấn luyện binh sĩ, trang bị vũ khí tối tân rồi vượt ranh giới, xâm lược gây thương đau chết chóc cho Miền Nam.

Ủy ban quốc tế kiểm soát đình chiến đâu ? Pháp, Mỹ, Anh…. đâu ? Chính các người đã nhân danh hòa bình công lý đạo đức và dựa vào sức mạnh súng đạn để buộc dân tôi ký vào hiệp định Genève. Ngày nay địch quân đã đạp lên chữ ký của các người, kéo hàng vạn binh lính vượt biên giới vào Nam gây tang thương cho hàng triệu người vô tội.

Miền Nam không có người bộ đội nào gọi là quân giải phóng. Danh từ mặt trận nghe thật vĩ đại nhưng thực chất là những tên trí thức tay sai của miền Bắc nằm vùng phá hoại, núp bóng giật giây. Địch quân có mặt tại miền Nam chính là hàng chục sư đoàn chính quy hùng hậu của miền Bắc, đã vượt qua biên giới với những dụng cụ giết người tối tân trang bị từ Liên sô và Trung cộng !

Dân hai miền Nam Bắc đều là người Việt nhưng sống trong hai quốc gia riêng biệt và dưới hai chế độ hoàn toàn trái nghịch nhau. Các ông đừng ngây thơ và cũng đừng đánh lừa dư luận cho rằng chiến tranh Việt Nam đơn thuần là một nội chiến tại của Việt Nam Cộng Hòa, mà thực sự là cuộc xâm lược vĩ đại của cộng sản Miền Bắc, chính chúng đã vi phạm trắng trợn các nguyên tắc căn bản giữa hai quốc gia độc lập và có chủ quyền.

Các người nghĩ thế nào khi cùng nhau đặt bút ký kết các điều khoảng kiểm soát đình chiến và bảo đảm tự do hòa bình cho hai quốc gia độc lập theo công pháp quốc tế ? Hãy can đảm nhận lấy trách nhiệm để thực thi các điều khoảng do chính các người đẻ ra, đừng để lịch sử phê phán và chính con cháu các người ngày sau sẽ lên án buộc tội.

Đinh Lâm Thanh
nguồn: http://nsvietnam.blogspot.com/2013/12/tran-ia-phao-truyen-oi-linh-chien-inh.html

BachMa
02-04-2017, 05:48 AM
Hạnh Phúc Đầu Xuân
sáng tác: Minh Kỳ & Lê Dinh
trình bày: Trung Chỉnh & Hoàng Oanh
:40: :40: :40:
<iframe width="640" height="360" src="https://www.youtube.com/embed/TMXv-2A8iS8?rel=0&amp;controls=0&amp;showinfo=0" frameborder="0" allowfullscreen></iframe>

BachMa
02-04-2017, 06:27 AM
Chuyện Người Đàn Bà 2000 Năm Trước
sáng tác: Song Ngọc
trình bày: Vũ Khanh
:40: :40: :40:
(Chúa Giê-su nói : "Ai trong các ngươi cảm thấy mình trong sạch thì hãy lấy đá ném người đàn bà ngoại tình đó trước đi ")

<iframe width="640" height="360" src="https://www.youtube.com/embed/zfLoSiWXA40?rel=0&amp;controls=0&amp;showinfo=0" frameborder="0" allowfullscreen></iframe>

BachMa
02-12-2017, 06:08 AM
Máy Dò Nói Dối
Anh chàng John rất chuộng các lọai máy móc, hàng hóa vừa được tung ra thị trường, nhiều khi anh ta chưa biết rõ lợi ích, hiệu quả của món hàng.
Một hôm anh ta vác về nhà một món hàng lạ, có hình dáng như một “robot” và bảo với vợ con đây là một cái máy dò nói dối.
Sẵn dịp cậu con Tommy vừa đi học về… muộn 2 giờ. Để biểu diễn máy nói dối, John hỏi:
- Con đi đâu mà giờ này mới về?
Cậu con trả lời:
- Mấy đứa con đi thư viện làm bài chung.
Người máy bèn đến gần Tommy tát cho nó một cái như trời giáng, làm nó bổ chửng.
- Tommy, robot này là máy dò nói dối đó con à. Con nói dối là nó đánh đau lắm. Nói thật đi, con đi đâu?
Tommy cúi đầu khai thật:
- Con đến nhà bạn coi phim.
- Vậy tụi con xem phim gì?
Tommy trả lời:
- Dạ tụi con coi phim “The Ten Commandments.”
Người máy đến tát cho Tommy một cái nữa.
Nó vội vàng chữa lại:
- Tụi con xem phim “The Sex Queen.” Con xin lỗi đã nói dối.
John nghiêm mặt nhìn con:
- Con thật đáng xấu hổ, hồi bằng tuổi con, không bao giờ bố dám nói dối cha mẹ.
Người máy lẳng lặng đến tát cho John một cái đích đáng.
Marie, vợ anh John, ôm bụng cười ngặt ngoẽo, chảy cả nước mắt nước mũi:
- Đáng đời anh chưa? Thằng Tommy thật đúng con anh.
Ngay lập tức người máy cho Marie một cái tát... bật ngửa!


Ba Xác Chết
Ba xác chết có bộ mặt mỉm cười được đặt tại Trung tâm điều tra hình sự ở Arkansas (Mỹ). Ông quản lý đang trả lời thám tử về nguyên nhân của những cái chết.
- Đây là Celtus. Ông ta chết ngay sau khi biết tin mình trúng xổ số 20 triệu USD.
Ông ta bước đến xác thứ hai:
- Đây là Bob. Ông ta chết khi nghe tin toà án cho ly dị vợ mà không phải chia gia sản.
Đến cái xác thứ ba:
- Đây là Tom. Ông ta chết vì bị sét đánh.
- Hai người trước thì có thể hiểu được nụ cười, còn ông này cười gì? - Thám tử hỏi.
- Ồ, ông ta cứ ngỡ mình đang được chụp hình!


Vợ Mới Cưới
Tạp chí “Phụ nữ tân thời” phỏng vấn một anh chàng mới cưới vợ, vợ anh ta là một nữ cảnh sát giao thông:
- Xin anh cho biết cảm tưởng khi có một người vợ như vậy?
- Thấy không thoải mái chút nào!
- Anh có thể nói rõ hơn?.
- Vâng, ngay đêm tân hôn tôi đã bị cô ấy phạt tới 3 lỗi cùng lúc: Tốc độ quá nhanh, đậu sai… nơi quy định và không đội mũ an toàn!

http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1405483401.gif

BachMa
02-18-2017, 03:17 AM
Tôi Thi Quốc Tịch
Tôn Nữ Thu Dung


http://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1/1487044273-ToiThiQuocTich.jpg
Bảo Huân

Sau gần 5 năm bước chân đến Mỹ, tôi bắt tay vào việc điền đơn xin nhập tịch. Chứ sao, một lưu dân gương mẫu như tôi xứng đáng làm điều đó hơn ai hết. Ðúng 5 năm, Sở Di Trú gởi thư mời đi lăn tay để chứng minh “nhân thân” trong sáng như tờ giấy trắng, lý lịch không hề có “tiền án tiền sự” gì ráo! Ðiều đó dĩ nhiên rồi, một dân nhập cư lương thiện cần cù như tôi suốt 5 năm nay chỉ biết vùi đầu vào đi học, đi làm, đi bệnh viện và đi Las Vegas… không kể một lần đi nếm rượu nho ở Napal Valley mà chỉ vài tuần sau là ông chủ vựa rượu nho ấy lăn đùng ra chết (chắc không phải là quá đau khổ vì những lời phê bình góp ý vô cùng thẳng thắn của tôi!!!)

Ðừng coi thường tôi nghen! Tôi có những người bạn (mà tôi không dám và không thể nói tên công khai ở đây), họ luôn tự hào họ là những tay SÁT CÁ, SÁT GÁI, SÁT THỦ, SÁT NHÂN, SÁT…THÁT v.v… Tôi khiêm tốn hơn, tôi chỉ có một niềm hãnh diện nhỏ bé (nhưng vô tận) là SÁT PHẠT… Tôi chơi bài luôn luôn thắng, từ bầu cua, xì lát, tiến lên, xập xám cho đến những… ván bài lật ngửa, tôi cũng đều nắm được những quy luật để không thể nào thua!!! Tôi chơi nhỏ thắng nhỏ, chơi lớn thắng lớn, không chơi thì không thắng! Kể cả đứng gần ai người đó cũng thắng luôn!!!

Khi chụp hình lăn tay xong, nhân viên Sở Di Trú phát cho tôi một cuốn cẩm nang Luyện Thi Quốc Tịch LEARN ABOUT THE UNITED STATES và một Video Clip để luyện nghe và nói. Làm bất cứ việc gì tôi cũng là người ham chơi mau chán, nhưng những gì liên quan tới chữ nghĩa là tôi say mê cùng cực, đời tôi gắn liền với chữ nghĩa, tôi học như điên vì càng học càng thấy mình ngu kinh khủng.

Thấy tôi cứ chúi đầu vào học, Chief tò mò gạn hỏi:

“Ủa chớ cô quan tâm đến ba cái quái này làm gì? Ai cần biết Hoa Kỳ có bao nhiêu Senator? Ai cần nhớ ông nào làm Tổng Thống suốt Thế Chiến I? Ai cần hiểu khi cả Tổng Thống lẫn Phó Tổng Thống lăn đùng ra chết mẹ nó hết cùng một lúc thì thằng quỷ nào sẽ lên thay nắm quyền sinh sát?”

Rồi nheo mắt rất thập phần đểu cáng:

“Hay cô chán săn sóc người tàn tật rồi nên muốn ứng cử vô DÒNG CHÍNH?”

Chief là dân Trắng cao sang quyền quý, xuất thân từ một danh gia vọng tộc đâu đó ở một trong 13 tiểu bang từ thời lập quốc… (nghe khoe vậy chớ tôi đâu có biết thật hay xạo!!!) nay về CALI điều khiển cái Nursing Home sang trọng này. Chief cũng không nghĩ tôi chưa phải là công dân Hoa Kỳ khi thấy tôi hơn khá xa các dân nhập cư đến từ các nước… chậm tiêu khác!

Chief còn có dòng máu kỳ thị chủng tộc chảy ào ào trong huyết quản dù bề ngoài vẫn rất thân thiện dễ thương (hay tôi nhạy cảm quá chăng?). Chief không thích Tổng Thống Obama chút nào, cứ mong mỏi đến tháng 11 đi bầu cho người khác. Chief còn vận động hành lang, muốn xâm phạm bí mật đời tư của tôi bằng cách cứ cà rà theo hỏi tôi sẽ bỏ phiếu cho ai trong đợt này. Chief thuộc Ðảng Cộng Hòa nhưng không hiếu chiến kiểu Trump… Nghe tôi trả lời tôi học “ba cái quái này” để thi Quốc Tịch, Chief rất bất ngờ và ngạc nhiên khi biết tôi mới qua Mỹ 5 năm và chưa có Quốc Tịch Hoa Kỳ.

Nhưng cũng phải nói Chief rất dễ thương khi thỉnh thoảng lại ôn cùng tôi vài câu lịch sử, chính trị, địa lý và uốn nắn giùm tôi những chữ phát âm không đúng… cho đến ngày tôi thuộc lòng như cháo chảy đủ cả 100 câu thì cũng là lúc tôi lên đường ứng thi.

Chief tuyên bố:

“Cô mà không đậu thì chẳng ai đáng đậu.”

Rất nhiều lần Chief bày tỏ lòng ngưỡng mộ tôi nhưng không nói gì tới chuyện tăng lương. Nhưng dù sao Chief cũng biết cách ngăn chận lòng tự cao tự đại của tôi bằng một câu an ủi chí lý vô song:

“Hơn nữa, đợt này nhằm kỳ bầu cử nên bọn nó sẽ cho đậu ráo hết để kiếm cử tri!”

Mẹ kiếp, tôi muốn chửi thề ghê gớm nhưng không dám vì sợ mất đi hình tượng sang trọng, lịch sự, rất Lady trong mắt Chief, đúng là bản chất của bọn thực dân đế quốc, lúc nào cũng muốn ra vẻ ban ơn và không công nhận người khác giỏi hơn mình… Nói thật, Chief mà biết độ 20% những câu cần học thì tôi sẵn sàng bỏ việc!

Tôi tự nhủ với lòng mình sẽ có một lúc nào đó phanh phui hết những tội lỗi trong từng lời nói của Chief khi nào Chief sa cơ thất thế hoặc là khi nào tôi thật giỏi tiếng Anh. Cứ chờ đó đi.

Ngày đi thi: Một sáng cuối tuần đẹp trời, sương hồng phủ mờ phố núi, đẹp như thơ, như tranh.

Giờ thi: 7:55 am yêu cầu tới trước 30’ để kiểm tra giấy tờ.

Ðịa điểm thi: San Bernardino… Chúa ơi, cái thành phố vừa bị khủng bố tấn công dã man vào mấy tháng trước.

Xe vừa vào Free Way 210 East thì mặt trời nhô lên màu đỏ vàng rực rỡ như nửa trái cam CALI ngọt ngào xinh đẹp. Con gái nói:

“Mặt trời lên đẹp ghê chưa má, đó là điềm hanh thông đại cát”

(Con gái là dân làm báo chuyên nghiệp, lương cao bổng lộc hậu chớ không phải dân báo đời như má nó, nó có liên quan đến ngành địa ốc như ba nó nên đi học thêm phong thủy và nói năng pha lẫn tiếng tàu như sư phụ nó cho sang!)
Nó xin nghỉ nửa ngày để chở tôi đi thi vì biết tôi luôn luôn đi lạc, không cách nào phân biệt được đâu là hướng South, hướng West, hướng North, hướng East khi đến một thành phố khác.

Thường tôi tới San Bernardino là tới những khu vực nghèo khổ, phát thức ăn, áo quần cho những người Homeless. Thật sự San Bernardino cũng có những thành phố xinh đẹp, sang trọng như những nơi tôi vừa đi qua … những ngôi nhà mới sáng trưng trong nắng, những con đường hoa đào trắng đẹp mê hồn soi bóng xuống cỏ xanh, những biệt thự cổ kính nép bên sườn đồi. Tôi nói:

“Nhà đẹp quá, hay mình tới đây mua nhà đi con.”

Nó la lớn:

“Má, làm ơn tĩnh tâm mà nhớ lại rằng là má đang trên đường đi thi quốc tịch chớ không phải là đi coi nhà hay mua nhà. Làm ơn rơi khỏi chân mây chút!!!”
Tôi cười, tôi rút ra một kinh nghiệm xương máu sau rất nhiều nỗi đoạn trường cay đắng rằng thì là nếu tôi đang bị ai giận dữ la mắng, hay tôi dại dột làm điều chi lầm lỗi thì đừng có mà gân cổ lên cãi vã làm gì cho mệt,…Tôi chỉ cần cười thôi là mọi điều đều được hóa giải hết trọi hết trơn… Hơi vô duyên lãng nhách một chút, nhưng tôi phải công nhận tôi cười … dễ thương thiệt đó!

Nó hạ giọng liền:

“Ðể con ghé vô mua cho má một ly starbucks”

Ðúng là đứa con có hiếu.

Tôi vào nộp giấy, nó gọi tôi lại gần, nói nhỏ:

“Má, nếu má thi rớt con sẽ để má đi bộ về, chỉ có 3,4 chục miles chớ mấy!”

Ðúng là đứa con bất hiếu. Bộ mày chưa từng nghe ai nói câu “học tài thi phận” bao giờ sao?

“Nhưng nếu má đậu con sẽ cho má $100”

Tôi không thèm trả lời, mặc kệ nó xếp hàng đứng sau lưng.

Cởi giày, đi chân không qua cổng an ninh… Bóp, điện thoại, áo lạnh chạy qua máy dò. Ly cà phê mới uống một hớp bị quăng vô thùng rác cùng chung số phận với chai nước suối. Không sao, tôi sẽ có $100 đồng cá cược của nó để mua lại vài chục ly cà phê khác.

Vào sảnh lớn ngồi chờ gọi tên phỏng vấn tôi bắt đầu run… đã nói tôi là con thỏ nhưng luôn phải khoác cho mình cái lốt con sư tử… Không ai biết tôi run trừ nó khi thấy tôi kéo cái khăn quàng lên cổ, nó nheo mắt hết sức đểu cáng:

“Sợ rồi phải không? Can đảm lên, my Great Mom”

Bao nhiêu người được gọi vào, bao nhiêu khuôn mặt méo xẹo trở ra. Ai dám nói:”Mùa bầu cử nó cho đậu ráo” là nói tầm bậy tầm bạ. Bởi những lời đồn đãi vô căn cứ như vậy nên cứ đến mùa bầu cử là dân nhập cư tấp nập nộp đơn đi thi để ảnh hưởng không nhỏ đến… tôi. Thôi thì cùng lắm là… gọi taxi về nhà, tốn năm bảy chục!

Một vị giám khảo ra gọi tên ông thầy tu ngồi hàng ghế sau tôi… vài phút trước, tôi đã kịp hỏi và biết ông thầy tu đó người Bangladesh, dân Hồi Giáo, tên Hosain Rahman, di dân theo diện tu sĩ…(Ai nói tôi không có dòng máu ngoại giao chảy tràn huyết quản?) đi cùng ông là 3 đồng nghiệp, ủa quên 3 đồng đạo cho vui chớ chỉ một mình ông thi.

Vị giám khảo mập, lùn, đầu không có tóc, mặt mày hiền lành phúc hậu… tôi ước chi ông này phỏng vấn thì mình đỡ sợ… vì nãy giờ ngồi đây, tôi toàn chứng kiến những giám khảo mặt mày đằng đằng sát khí, làm như dân nhập cư vô ăn hết gia tài hương hỏa không bằng…. Họ giả vờ làm như không hề biết rằng chúng tôi đã cống hiến cho đất nước này đôi khi nhiều hơn cả họ.

Ông thầy tu vào và ra rất nhanh, không biết vì thiếu giấy tờ hay sao sao đó, khuôn mặt ông đã đen thì chớ bây giờ tối thui luôn… Tôi chưa kịp định thần thì vị giám khảo ấy đọc rất rõ tên người tiếp theo từng tiếng một DUNG NU THU TON.

Tôi không nghĩ đó là tên tôi, tôi không nghĩ Chúa, Phật, Alah và các đấng linh thiêng đã nhận lời tôi cầu khẩn là cho tôi được phỏng vấn bởi vị giám khảo này! Nếu biết các ngài rộng lòng bao dung đến vậy tôi đã xin thêm một điều nhỏ bé khác là được song suốt qua truông qua ải!!! Dịp may đâu đến 2 lần, tôi chắc lưỡi:
Cùng lắm là chết!

Tôi đứng lên:

“I’m here”

“Good Morning”

“Good Morning, How are you today?”

“Good, and you?”

“Good”

“Follow Me, Please.”

Cuộc tra tấn bắt đầu, tôi thầm nghĩ, rất kiên cường, tôi hít một hơi dài trấn tĩnh.

Giám khảo hỏi trên con đường đi qua mấy dãy hành lang sao mà dài lê thê (bắt đầu từ đây tôi sẽ dịch ra tiếng Việt)

“Cô đi với ai đến đây?”

“Con gái tôi”

“Cô không thể đi một mình sao?”

“Nói thật, tôi hơi sợ…”

“Sợ? Sợ điều gì?”

Tôi liền chơi trò vận động hành lang:

“Ðây là một ngày rất quan trọng của tôi, tôi sợ đi lạc, sợ trễ giờ, sợ tai nạn xe cộ và kể cả sợ thi rớt nữa!”

Ông ta cười:

“Ðừng lo, mọi sự sẽ tốt đẹp thôi!”

Vào phòng phỏng vấn, tôi chuẩn bị tư thế đưa tay phải lên thề theo đúng như sách vở là nói tất cả sự thật và chỉ là sự thật mà thôi như trong cả ngàn trường hợp phỏng vấn mà tôi coi trong Video clip đến mòn cả cái đầu đĩa. Ngạc nhiên chưa, ông ta lại bảo tôi ngồi xuống, đưa passport, thẻ xanh, thẻ Social, bằng lái xe.

Ổng cầm, coi sơ, xong ôm xấp hồ sơ của tôi đi ra sau khi biểu tôi ngồi chờ vài phút và không được move chỗ khác (Wait me few minutes and don’t move… please). Move đi đâu trời hỡi? Tôi đang run cầm cập như con cầy sấy đây !

Chừng 5’ sau ông trở lại, chắc đi điều tra nghiên cứu gì thêm ở các cấp cao hơn. Ông ngồi xuống, bắt đầu hỏi, bỏ qua phần thề thốt… chắc ổng quên, tưởng tôi đã thề hồi nãy rồi… không lẽ tôi nhắc là tôi chưa được thề… Tôi chắc lưỡi: “ngu sao nhắc, ai lại đi mua thêm cái dây để tự trói mình!!!”

Hay ổng thấy mặt tôi rất lương thiện ngây thơ trong sáng nên không hề biết nói dối và nếu bắt tôi thề sẽ là một xúc phạm nặng nề???

Ai biết ổng nghĩ gì làm gì với cái thái độ nhởn nhơ như vậy.

Chỉ biết được một điều lạ lùng duy nhất là tôi không được thề thốt gì cả như mấy chục triệu dân nhập cư từ mấy trăm năm nay!!!

Tôi thấy mình đặc biệt và hãnh diện vì điều này cho đến khi kể lại cho một số người nghe điều bí ẩn ấy, thì ai cũng tức cười và nói ổng quên tại tôi cứ xí xô xí xà làm ổng líu quíu, chỉ có một người bi quan yếm thế làm tôi lo sợ mất ngủ mấy đêm: “Vậy là kỳ thi của bạn hổng có giá trị gì ráo. Bạn chuẩn bị thi lại đi chớ ở đó mà huênh hoang những là hãnh diện với là đặc biệt!!!”

Kệ, chuyện này để sau tính.

Còn bây giờ kể tiếp chuyện phỏng vấn, khi cầm Passport của tôi cẩn thận lật từng trang rất kỹ, ổng hỏi:

“Cô về Việt Nam 1 lần?”

“Vâng”

“Ai là người trả tiền cho chuyến đi này?”

Câu hỏi không có trong bất cứ bài học nào của Sở Di Trú như thế này thực sự xúc phạm đến tôi, tôi cáu kỉnh, Hắn nghĩ mình là ai vậy chứ?

Nhưng một tia chớp nhanh chóng hiện ra trong đầu, à, hắn đang gài độ, thử coi mình có nhận tiền hay ân huệ gì của bọn ISIS không chứ gì? Chắc hồi nãy Camera có quay tôi chuyện trò thân thiết với ông thầy tu Hồi Giáo!

Tôi nghiêm trang trả lời:

“Tự tôi trả tiền cho tôi, tôi đã và đang làm việc, cần gì tiền của ai!”

Hắn (tôi bực mình lắm rồi, không thèm lịch sự gọi là Vị hay Ông gì nữa) ôn tồn giải thích:

“Ồ không, tôi hỏi vì hơi ngạc nhiên khi thấy cô Low Income (thu nhập thấp) mà có tiền về Việt Nam. Mọi thứ ở đó đắt hơn ở đây rất nhiều.”

Ðúng là tráo trở như dân ngoại giao, miệng trơn tru còn hơn bôi mỡ.

“Cô sinh ở NhaTrang?”

“Không, tôi sinh ở Huế”

“Thừa Thiên Huế?”

Cách phát âm chữ Thừa Thiên Huế của hắn chuẩn không chê vào đâu được. Tôi đâm nghi ngờ hắn thuộc dạng CIA hoặc FBI gì đây nên vô cùng cảnh giác.

“Vâng”

“Ðó là một nơi rất buồn, Cô có biết chuyện gì xảy ra ở đó vào năm 1968 không?”

Tôi lại cáu, hắn đâu có ngờ tôi chỉ có một nhúm chữ tiếng Anh ít ỏi làm vốn mà hắn đã moi ra gần hết rồi… Hỏi tiếp nữa chắc dồn tôi vào thế phải sử dụng ngôn ngữ thứ ba là TO QUƠ! Nhưng đã nói, tôi là một kịch sĩ tài ba như lời thầy Bửu Ý khen hồi nhỏ, tôi điềm tĩnh trả lời:

” Biến cố Mậu Thân”

” Very Good”

Nhắc tới Huế là tôi ngứa miệng, bèn hỏi:

“Ông có ở đó vào ngày ấy?”

“Tôi ở gần Ðàn Nam Giao, lúc bấy giờ tôi là nhân viên hành chính ngoại giao của cơ quan thông tin Hoa Kỳ”

“Lúc ấy ông còn rất trẻ, và đẹp trai, tôi nghĩ vậy!”

Hắn cười, đỏ mặt lúng túng, im lặng vài giây và nói thật buồn:

“Tôi chỉ là một chàng trai trẻ thôi. Tôi yêu một cô gái Huế, nhưng cô biết đó. Người Huế không muốn gả con cho người nước khác. Chúng tôi chia tay, và cô ấy… lên núi!”

Tôi ngớ người trước chữ “lên núi” của hắn. Tưởng trong biến cố Mậu Thân hắn phát giác cô là việt cộng, nhưng không phải, cô bị chết vì đạn lạc… được mang về chôn trên đỉnh Ngự Bình.

Bỗng dưng tôi trở thành người phỏng vấn, hắn chìm vào cơn hoài cảm nào đó dù đã gần nửa thế kỷ trôi qua.

Im lặng hồi lâu, tôi hỏi :

“Có phải vì vậy mà ông nhận phỏng vấn tôi khi thấy tôi mang họ TÔN NỮ?”

“Tôi không thể nói có hay không, cô thông cảm. Cô hãy nói cho tôi biết: Ai là người có tội trong cái chết ấy?”

Tôi tự giận mình đã không giỏi tiếng Anh để hỏi và nghe câu chuyện với nhiều tình tiết ly kỳ có thể khai thác ở hắn, cái máu làm báo nghiệp dư đang muốn nổi lên nhưng vốn biết người biết ta, tôi thấy vốn liếng ngôn ngữ của mình tới đây là cạn kiệt, bèn lôi hắn ra khỏi cơn trầm cảm cuối tuần:

“Rất nhiều cái chết vào năm ấy, nhưng tôi không nghĩ câu này nằm trong phần 100 câu hỏi tôi được học để biết về nước Mỹ?”

Hơi giật mình, hắn rời khỏi cơn hoài niệm, cười xởi lởi:

“Ồ không, tôi chỉ trắc nghiệm tiếng Anh của cô thôi. Bây giờ tôi mới bắt đầu hỏi về những điều cô cần biết về nước Mỹ!”

Câu 1: Có bao nhiêu chánh án trong tòa án tối cao?

– 9 người (tôi lanh chanh thêm: mới chết 1 người á.) Hắn cười khen tôi giỏi

Câu 2: Tên 3 tiểu bang nguyên thủy của Hoa Kỳ ?

– Virginia (tôi nghĩ tới thầy Trương Vũ)

– Maryland (tôi nghĩ tới nhà thơ Phạm Khánh Vũ)

– Georgia (tôi nghĩ tới quê hương của tác giả Cuốn Theo Chiều Gió)

Câu 3: Ai là Thượng Nghị Sĩ của California?

(tôi định nói Janet Nguyễn cho oai, nhưng hơi sợ rằng sách vở chưa in kịp, cô chỉ là Thượng Nghị Sĩ của Tiểu Bang, hắn không biết lại cho rằng tôi sai nên tôi đành cay đắng nói theo sách vở)

– Diane Feinstein
Câu 4: Ai là nghị viên của California?

( bà này vẫn ký thường xuyên vào các giấy khen thưởng này nọ của tôi nên tôi trả lời không suy nghĩ luôn)

– Lorreta Sanchez

Câu 5: Ai là Tổng Thống trong suốt Thế Chiến 1?

(cái này tôi học mẹo cho dễ nhớ tên cái ông đọc ra là trẹo bản họng: WW1 Tên ổng cũng bắt đầu bằng WW)

– Woodrow Wilson

Câu 6: Tên một tiểu bang giáp ranh Mễ Tây Cơ?

(tôi trả lời nhanh như chớp)

– Texas

Câu 7: Tên bài Quốc Ca Hoa Kỳ?

(tôi biết bài này rõ, nhưng nhỡ may trả lời xong hắn biểu hát cho hắn nghe thì tiêu tán đường, nên từ chối ngay lập tức)

– Xin lỗi, tôi không nhớ rõ lắm, cái tên thật khó nhớ, nhưng tôi đã trả lời đúng cả 6 câu rồi, đâu cần trả lời thêm .

Hắn lại cười, lẩm nhẩm đếm coi thử đủ 6 câu chưa:

“Ồ, xin lỗi, cô nói đúng, bây giờ cô đọc và viết cho tôi những câu này”

Hắn đưa 2 tờ giấy,

Tôi đọc: “Why does the flag have 50 stars?”

Và viết theo lời hắn đọc : “Because there is one star for each state.”

Chưa điều gì dễ hơn 2 điều hắn vừa bảo tôi làm… Hắn khen tôi chữ đẹp.

“Congratulations! cô chờ 2 tuần sẽ có thư mời đi tuyên thệ.”

Tôi đậu, tôi đứng lên, không cảm thấy vui mừng chi lắm như vẫn tưởng tượng xưa nay, cảm ơn, chào tử tế… đi ra cửa.

Cảm thấy mình là một công dân hạng hai vừa được đặc cách lên hạng nhất như một ân huệ được ban bố… mà tôi thì chúa ghét nhận ân huệ từ ai!

Tôi muốn khóc, không phải vì vui mừng mà chỉ cảm thấy mất mát một điều gì vô hình mà to tát xiết bao! Ðiều gì? Tôi khắc khoải mất ngủ nhiều đêm.

“Má, sao lâu vậy má? Mấy người vô sau má đều rớt hết trơn hà! Con biết thi càng ngày càng khó, Cali đất chật người đông… Nếu má rớt con cũng chở má về chớ không bắt má đi bộ đâu! Con chỉ nói giỡn thôi mà, má đừng giận!”

Mặt tôi buồn thiu nên con nhóc tưởng tôi rớt liền an ủi hỏi han. Tôi đưa tờ giấy có chữ ký giám khảo đóng dấu xác nhận YOU PASSED THE TESTS OF ENGLISH AND U.S HISTORY AND GOVERNMENT cho nó cầm. Nó hớn hở:

“Má giỏi quá, má đúng là GREATTTTTT…… MOM của tụi con!”

Sau khi thi, rất nhiều người hỏi tôi thi Nhập Tịch dễ hay khó thì tôi chẳng biết trả lời sao, tôi ngần ngừ nói nhỏ: tôi không biết. Mọi người rất ngạc nhiên, nhưng tôi nói thật mà… tôi kể hết rồi đó, tùy bạn nhận định thôi!


Tôn Nữ Thu Dung - July 13, 2016
nguồn: http://baotreonline.com/toi-thi-quoc-tich/

BachMa
03-02-2017, 06:31 AM
Chuyện Người Tóc Bạc Sớm
Tiên Sha - Lê Luyến
(Tặng bạn tôi, Biệt kích Nguyễn Thanh Châu)

"Phong trần xuôi một bước lưu lạc
Đầu xanh theo một chuyến Xuân tàn"
Tản Đà


I

Sống ở xứ người buồn nên cuối tuần anh em thường tụ họp uống trà tán gẫu; Ôi thôi đủ thứ chuyện trên trời dưới đất, toàn thiên hạ sự. Nhưng lần nào cũng vậy, chu du khắp năm châu bốn bể rồi sau rốt họ cũng trở về với câu chuyện của mảnh đất quê hương hình chữ S xa xôi ngàn dặm.

Lớp trẻ ngạc nhiên khi nghe người lớn luôn nhắc đến đề tài chiến tranh và ngục tù cũ rích mà không bao giờ biết chán. Họ nói với chút ngậm ngùi cay đắng; Có kẻ ủ ê thở dài nhưng cũng có người bộc phát lòng căm ghét và khinh miệt. Làm sao giải thích cho lớp trẻ hiểu rằng đó là hoài niệm, là sự tìm kiếm quá khứ, là vốn liếng cuộc đời của cả một cuộc bể dâu tang thương mà thời đó những người trong cuộc bị cuốn hút, có khi không còn nhận ra được ngay cả chính bản thân mình. Làm sao cho lớp người trẻ biết rằng sau những năm tháng tăm tối của định mệnh, sau thời gian đăng đẳng đầy rẫy tai ương gai góc, những con người ngày xưa may mắn còn sống sót, quây quần cố nhóm lên đóm lửa tưởng chừng đã bị vùi lấp, chìm khuất trong bão giông quên lãng. Hiện tại họ đã già, vết thương bom đạn đục khoét làm bạc nhược thân xác. Cái đầu thì cằn cỗi lão hóa thiếu chất xám, họ chấp nhận làm bất cứ công việc gì để giải quyết cấp thời chuyện cơm áo qua ngày. Quá khứ đối với họ như món đồ cổ trân quý dẫu rằng có bị sứt mẻ, méo mó vì thời gian tàn nhẫn nhưng vẫn luôn được săm soi, nhìn ngắm bằng tấc dạ bồi hồi lẫn xót xa. Họ nâng niu trau chuốt như tìm kiếm đời mình ở trong đó, như để gạn lọc chuyện đúng sai, phải trái cuộc đời.

Chúng ta hãy lắng nghe lời tâm sự của một người lính già còn sống sót sau cuộc chiến...

II

Anh người miền Trung. Tuổi mới năm mươi mà thoạt nhìn cứ tưởng đã ngoài sáu chục. Anh vào lính rất sớm, sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông.

Anh bảo là không thể bình thản tiếp tục con đường học vấn khi chiến tranh bùng phát như ngọn lửa táp ngang mày, khi bạn bè lần lượt lên đường và xã hội miền Nam như bị nén chặt trong không khí bức bối, lo sợ với những cuộc xuống đường biểu tình của bọn tả khuynh đội lốt tôn giáo, của bọn hoạt đầu chính trị đang xâu xé, tranh dành quyền lực. Tuổi trẻ sống với nhiều thắc thỏm, ưu tư, hoài nghi và đau khổ. Chiến tranh, bạo loạn và suy đồi đã đưa họ đến cùng cực chán nản. Anh gia nhập quân đội, tốt nghiệp trường Hạ sĩ quan thông dịch, anh tình nguyện về đơn vị Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ. Một năm hành quân bình an khắp mặt trận vùng I chiến thuật. Năm sau - 1967, anh xin chuyển về binh chủng Biệt Kích Lôi Hổ.


http://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1/1488435133-ChuyenNguoiTocBacSom_001.jpg

Người lính trẻ đầu đội beret đỏ, vai áo mang phù hiệu cọp trắng và cánh dù đó tên là Nguyễn thanh Châu, vỏn vẹn chỉ nhảy được ba chuyến công tác thì kết thúc cuộc đời binh nghiệp. Trong lần hành quân hiểm nghèo tại vùng biên giới Hạ Lào cùng với ba chiến binh VN và hai lính Mỹ, anh không may sa vào tay giặc. Cuộc đọ sức quá chênh lệch giữa các tay súng trong cuộc chơi sinh tử và tất nhiên phần thua sẽ thuộc về phe nào có tay súng ít hơn. Địch đông gấp nhiều lần, do vậy số phần những người lính cảm tử lẻ loi đã được an bày. Hai người lính Mỹ và một quân nhân truyền tin VN bị bắn hạ ngay từ loạt đạn đầu tiên. Toán ba người còn lại vất bỏ ba lô tháo chạy về phía rừng sâu biên giới.

Sau nhiều ngày chiến đấu cam go đơn độc, đói khát và căng thẳng, cuối cùng kiệt sức họ bị bắt. Người sĩ quan trưởng toán không chịu khai ra mật lệnh truyền tin bị địch xử bắn ngay tại chỗ. Còn lại anh và một người bạn bị trói dong về nơi chạm súng lúc ban đầu, chỗ có xác hai quân nhân Mỹ và người lính truyền tin VN. Đến nơi họ phát hoảng khi nhìn thấy hình hài các bạn bị xé banh tan nát nhầy nhụa đầy máu, ruột gan tim phổi bị tha đi mất, cái đầu bị liếm gần như trọc lóc, chỉ còn lơ thơ vài mảng tóc dính bết vào xương sọ. Ba người lính xấu số đã bị hùm beo móc ruột tan nát. Số phận không cho họ được tiếp tục làm “cọp sấm sét” ngược lại bị “cọp ăn thịt” đúng nghĩa. Thân xác họ bị rỉa rói tàn nhẫn bởi thú dữ, kên kên ở trên rừng và cả lũ diều hâu ở trong phòng điều hòa, có đầy đô la và quyền sinh sát trong tay. Chúng nhân danh nhiều thứ chủ nghĩa, học thuyết, nhiều danh từ hoa mỹ để đưa người lính VNCH vào tử lộ, chết chẳng toàn thây. Riêng Châu thì may mắn hơn. Sau ba tháng mỏi mòn không tin tức, cha mẹ anh được lãnh tiền tử tuất và đành lấy ngày ra đi công tác làm ngày kỵ cơm anh hàng năm. Không ai biết là Châu vẫn còn sống lây lất trên trần gian để trả nợ thua trận.

III

17 năm sau

Năm 1985, trên đường phố quen thuộc của thành phố Đà Nẵng bỗng xuất hiện một quán nhậu bình dân. Thực khách đa số là dân mánh mung, chợ trời. Đứng tên đăng ký ngôi quán là một bà già ngoài diện tuổi lao động, đủ điều kiện hợp pháp để nhà cầm quyền Cộng sản cấp giấy phép mở quán, nhưng thật tế chủ nhân điều hành lại chính là đôi vợ chồng trung niên, con trai của bà lão. Vợ là người đảm đang, nấu ăn giỏi, tính tình hòa ái. Chồng là mẫu đàn ông lịch lãm, tháo vát, vừa ở tù về.

Công an địa phương quản lý người chặt chẻ, nhất là thành phần chế độ cũ. Vô phương làm ăn, túng cùng bạn bè bày kế để cho bà già đăng ký tên chủ quán, còn vợ chồng anh là người giúp việc kiếm cơm. Dần dà khi vỡ lẽ ra thì chuyện đã rồi nên cũng phải làm ngơ bỏ qua.

Quán nhờ món nhậu ngon, giá bình dân, chủ yếu lấy công làm lời nên chẳng bao lâu khách đến viếng mỗi ngày một đông. Gia đình chủ quán năm người, vợ đứng bếp có cô con gái lớn phụ giúp. Chồng lo tiếp khách, bán bia rượu, ghi sổ, thu tiền. Đứa con trai cả và bé út 13 tuổi chạy bàn phục vụ. Những hôm đông khách quá, người ta thấy có vài dân nhậu tự động bỏ bàn đứng dậy, giúp cha con chủ quán một tay như người trong nhà. Cũng có hôm quán ồn ào vì có kẻ say sưa quậy phá hay muốn nhậu chạy làng, thì lập tức xuất hiện ngay vài tay giang hồ tứ chiếng, kịp thời giải quyết ổn thỏa mọi việc. Trước sau, người chủ quán vẫn giữ thái độ bàng quang của kẻ ngoại cuộc, thản nhiên đứng nhìn như chẳng hề mảy may dính dáng đến mình.

Riêng mấy tay anh chị nầy thì dân giang hồ Đà Nẵng không ai là không biết đến. Ngày trước họ đã một thời lừng lẫy như Phước Mèo nổi danh giỏi võ, với cây dao “tàng chiêu quái đao” đã từng đụng độ lính Đại Hàn có đai đen Taekwondo; hay Hoàng Rouleau, trắng trẻo đẹp trai giống thư sinh nhưng quay súng và bắn nhanh như phim cao bồi Django, đã có lần thử súng với tài xế Mỹ lái xe ẩu đụng người bỏ chạy. Một Đề “đầu bạc” gan to bằng trời, một thân một mình tung hoành nhiều năm ở thành phố lớn miền Trung nầy. Ngoài ra còn có Khiếu râu, Sang què, hai sĩ quan BĐQ độc thân, thường ngâm nga thơ phú mỗi khi tửu hứng. Sau 75, họ bị nhốt tại địa phương vì bị thương tật và các trại tù chứa đầy người quá. Các anh làm đủ nghề, chạy áp-phe, buôn bán. Riêng Đề “đầu bạc” thì hành nghề xe ôm, nhưng không chở người, chở hàng mà chỉ chuyên chở những thứ lậu thuế, quốc cấm.

Những người bạn nầy tuy mang tiếng giang hồ nhưng họ sống như những “hảo hớn thảo dã Lương sơn Bạc” đầy khát vọng công lý, phóng khoáng và nhất mực thủy chung với bạn. Thời gian người chủ quán còn ở trong tù, thỉnh thoảng họ xúm nhau giúp gạo, giúp củi cho vợ bạn nuôi con chờ chồng. Những lúc gia đình bạn gặp cơn khốn đốn đều có mặt họ bên cạnh. Ngày bạn ra tù, họ rủ đến vầy cuộc nhậu, chén tạc chén thù, say túy lúy càn khôn suốt một ngày. Biết hoàn cảnh bạn khó khăn, họ gợi ý giúp mở quán nhậu rồi phân công người mua xốp về làm thùng đựng nước đá, người giúp gỗ đóng bàn ghế, sau đó dẫn bạn đến giới thiệu các đề-pô bia, rượu, thuốc lá mua trả gối đầu với giá đặc biệt. Sau cùng họ góp tiền lại cho bạn mượn vốn làm ăn. Vợ người chủ quán nhìn họ bằng ánh mắt cảm động, biết ơn. Riêng với họ chẳng bao giờ nhọc lòng bận tâm. Họ làm nghĩa cử giúp bạn một cách thản nhiên như uống một ly rượu, hút một điếu thuốc.

IV

Một buổi sáng mùa hè năm 1986, trong ngôi quán bất đắc dĩ được cải biến từ căn nhà ở nằm trên đường Huỳnh thúc Kháng, một người đàn ông cao gầy, đội nón lá rách toe vành, mặc chiếc áo bạc màu sờn vai đẫm ướt mồ hôi, có những quầng muối trắng loang lổ còn in lại trên lưng - Người đi bán củi dạo. Thấy chủ quán bước ra, ông khẻ chào. Bà vợ chủ quán nói:
- Củi ông nầy bán đượm lửa mà giá lại rẻ hơn mấy mối trước. Anh vào lấy tiền trả giúp em. Khi người chủ quán trở ra ngồi đếm tiền trả ông bán củi mà trong lòng anh cứ ngờ ngợ, hình như quen thuộc với ông nầy lắm. Khuôn mặt xương xương, cái miệng hay cười toét, vầng trán rộng hơi vồ đầy vẻ bướng bỉnh với mái tóc lờm xờm biếng chải, muối nhiều hơn tiêu... Tất cả dường như gần gũi lắm nhưng người chủ quán cố nhớ mãi vẫn không ra. Chợt nghĩ ra được một điều. Chủ quán bước đến chổ quầy hàng, vói tay lấy chai rượu và hai chiếc ly nhỏ. Anh rót mời người bán củi và nói:

- Rượu gạo 100%, uống không bị nhức đầu. Anh dùng thử một ly nhé.

Đón ly rượu, ông bán củi không khách sáo chiêu thử một ngụm. Cái miệng bỗng nở toét ra vẻ khoái trá. Người chủ rót thêm và gợi chuyện:

- Anh ở đâu? Sao ít thấy qua lại đường nầy.

- Tôi ở Nại Hiên. Mới hành nghề bán củi dạo, kiếm cơm qua ngày.

Giọng nói dửng dưng, khuôn mặt bình thản, ông tiếp tục uống rượu đốt thuốc. Chủ quán lại nói tiếp:

- Tôi cũng có vài người bạn nhà ở Nại Hiên, trước đây học cùng trường Tây Hồ.

- Tôi cũng học Tây Hồ. Bạn anh tên chi?

- Tên Châu... Nhưng đã chết lâu rồi.

- Tôi cũng tên Châu, Nguyễn thanh Châu.

Chủ quán mở to mắt nhìn chăm chăm người đàn ông ngồi đối diện, miệng hỏi dồn dập:

- Châu “Lôi Hổ”?

Khuôn mặt ông bán củi chợt thoáng buồn:

- Hổ lôi thì có, chứ làm gì còn hổ sấm sét nữa.

Người chủ quán xô ghế đứng bật dậy, dang hai tay chụp vào vai ông bán củi lay mạnh, giọng thảng thốt, ướt sũng xúc động:

- Đúng là Châu, Châu điên đây rồi. Mi còn sống hả? Tau là Luyến, Luyến lồi đây.

Nghe tiếng la lớn, vợ người chủ quán bỏ bếp chạy vội lên nhà trên. Đôi bạn ngày xưa đang ôm choàng nhau cảm động, thổn thức trước cặp mắt ngơ ngác của bà.

* * *

Chín giờ sáng hôm sau. Trong ngôi quán bất đắc dĩ đã diễn ra một khung cảnh tình nghĩa, ấm cúng. Bảy người đàn ông trung niên thuộc đủ mọi thành phần buôn bán, làm thuê, mánh mung hay mới ra tù, ngồi quây quần quanh chiếu nhậu, bên những chai rượu, chai bia và một mâm thức nhắm thịnh soạn do chính tay bà chủ nấu ra để chồng chiêu đãi người bạn thưở xưa, mang bản án 17 năm lưu đày mà cứ ngỡ đã chết mất xác từ lâu. Họ là những tay giang hồ anh em thường xuyên có mặt ở quán nầy như: Phước mèo, Đề đầu bạc, Hoàng rouleau, Sang què, Khiếu râu. Trong ngày hội trùng phùng, họ nâng ly với tấm lòng dạt dào nỗi nhớ niềm thương của những kẻ may mắn còn sống sót sau chiến tranh và tù ngục.

Rượu đầy rồi cạn, men thấm dần, họ thúc hối người bạn Biệt kích vào chuyện. Ánh mắt mênh mang, một thoáng buồn suy tư, chậm rãi nhả những vòng khói thuốc mờ nhạt, Châu bắt đầu câu chuyện 17 năm về trước ...

V

Trên cõi đời nầy ngoài tôi ra, chắc chắn không còn ai biết câu chuyện định mệnh năm xưa. Sẽ không bao giờ có ai nhớ đến cái tên Mỹ Missouri của toán chúng tôi.

Sau trận chạm súng bất ngờ, ba bị cọp ăn, một tử hình, toán sáu người chúng tôi chỉ còn sống sót lại hai đứa. Tôi và Lô viết Cầu bị bắt trói quặt cánh khuỷu, rời khỏi vùng tử địa có bốn xác chiến hữu chết không toàn thây. Ngày đi đêm nghỉ, chúng tôi phải gồng mình chịu cái nóng ngột ngạt, khô cháy của gió Lào ban ngày và cái rét kinh khủng, buốt xương của núi rừng Trường Sơn ban đêm. Cuộc hành trình về nơi lưu đày tưởng chừng bất tận. Ban đầu còn khỏe, ý nghĩ đào thoát cứ lởn vởn trong suốt đoạn đường đi qua. Dần dà bị đói khát, gian khổ, bệnh tật hành hạ, cái chết không còn là nỗi ám ảnh ghê gớm nữa. Tôi nghĩ, đôi khi cái chết đòi hỏi phải có ý nghĩa, nhưng trong tình thế hiện tại thì cái chết chẳng còn nghĩa lý gì nữa khi phải sống với hoàn cảnh nhục nhã, tồi tệ như thế nầy. Có thể cái chết sẽ làm chúng tôi bớt đau khổ hơn là sống hèn, sống nhục. Nhưng kẻ địch không để chúng tôi có cơ hội. Hiếm lắm chúng mới bắt được một người lính quốc gia chứ đừng nói chi là thứ Biệt Kích đặc biệt. Do vậy không những chúng canh phòng nghiêm ngặt ngày đêm, mà còn tỏ thái độ thù hằn căm ghét đến thậm tệ nữa là khác.

Một tháng sau chúng tôi đến Quảng Bình, vùng đất khô cằn sỏi đá của địa đầu “Xã hội chủ nghĩa”. Tôi thấy người dân ở đây cũng thiếu thốn, khổ cực như người tù, chỉ khác là họ không bị trói thúc ké như chúng tôi. Kế tiếp, xe bộ đội chở hai đứa về Thanh Liệt, Thanh Trì, Hà Đông. Ngày xưa, nơi đây đã một thời nổi tiếng bánh cuốn Thanh Trì và bài thơ “Áo lụa Hà Đông” được Ngô thụy Miên phổ thành nhạc, đã thâm nhập sâu sắc vào lòng mọi người và dòng văn học nước nhà. Tất cả những ấn tượng đẹp đẽ của xứ sở nhiều giai thoại nầy bỗng chốc tiêu tan trong lòng người tù binh trẻ khi nhìn thấy hàng chữ “Xà lim Bộ Công an” đập vào mắt. Đó là khởi đầu của năm tháng lưu đày kinh hoàng, là thời gian của cùm gông đọa đày, là triền miên trong đói rét nhục hình.

Từ đó, cuộc đời hai đứa tôi hầu như có mặt cùng khắp ở các địa ngục trần gian như: Nhà tù Vỉnh Quang, Tân Lập, Hồng Thắng, Thanh Phong. Những nơi đi qua, tôi đã thấy hàng ngàn bộ xương còn thở, còn đi, đứng, nằm, ngồi, ăn uống. Những thây ma biết cử động, những cái bóng im lìm mỗi ngày một gày gò tiêu hao, từ thể xác đến tâm hồn. Cứ thế cho đến một lúc, những kẻ bất hạnh bỗng biến mất vĩnh viễn trên cõi đời. Họ ra đi lặng lẽ cũng như họ đã sống cuộc đời lặng lẽ. Tất cả bình thường, tự nhiên từ cái chết đến cả sự mơ ước một ngày được trả tự do, dần dần rồi cũng dửng dưng, bình thản chẳng hề bận tâm suy nghĩ.

Ngày tháng tù, những người lính chúng tôi xem nhau như anh em một nhà, không cho phép ai nghĩ điều gì khác ngoài tình đồng đội, thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ, bảo vệ nhau để sinh tồn. Nếu địch muốn chúng tôi chết thì phải cố mà sống. Nếu họ muốn chúng tôi sống hèn thì phải bảo ban, nhắc nhở nhau sống cho dũng cảm, hiên ngang để xứng đáng với tinh thần bất khuất của người lính từng xem nhẹ sinh tử và thấu đáo lẽ sống chết vô thường. Những khi chập chờn nửa mê, nửa tỉnh, phiêu hốt trôi nỗi trong các phòng biệt giam khủng khiếp của nhà tù, chúng tôi đã kiên trì vận dụng nghị lực để chế ngự bất hạnh, cố tập trung suy nghĩ, mài giũa ý chí bằng hùng khí và lý tưởng. Đó là phương pháp tự rèn để tồn tại. Chính nhờ vậy nên đã nuôi dưỡng mạng sống cho hàng chục chiến hữu chịu cùm gông suốt hai mươi năm, hăm lăm năm như Quách Rạng, Nguyễn văn Hợp, Hà văn Chấp, Lê văn Tụng, Đinh Anh, Bùi văn Tư... được tồn sinh để có ngày trở về. Phải chăng đó là phép lạ nhiệm màu, là sự phấn đấu bền bỉ kiên cường của những con người yêu chuộng lẽ sống thiêng liêng.

Sự độc ác, dối trá và ngu xuẩn của kẻ thù chỉ có thể làm nung nấu lòng người tù càng sống khí phách, quật cường hơn nữa với năm tháng lưu đày vô hạn định.

Bọn cán bộ làm sao hiểu được điều đó. Đầu óc chúng rỗng tuếch, đần độn như hình nhân Rôbô thì làm sao có thể cải hóa được những con người thừa nhiệt huyết, dũng cảm và cứng đầu, dẫu rằng chúng có thể dày xéo cả tinh thần lẫn thể xác chúng tôi. Người Cộng sản ngây thơ cứ nghĩ rằng khi đã hành hạ người ta bằng đủ thứ nhục hình là đã khuất phục được. Họ nhầm lẫn khi thấy chúng tôi im lặng. Họ đâu biết rằng những điều nói ra với chúng tôi chỉ là nước đổ lá môn, có khi còn bị ép-phê ngược lại là đằng khác. Điển hình như câu chuyện ngốc nghếch sau đây:

“Năm 1973, Cục quản lý Trung ương Hà Nội đến trại. Buổi chiều, lúc xếp hàng điểm danh vào phòng, chợt thấy một người từ Ban chỉ huy đi xuống, vừa đi vừa nghe phát thanh từ chiếc radio nhỏ mang trên vai. Cán bộ trực trại ngẩn mặt nhìn ra vẻ ngưỡng mộ lắm rồi quay sang chúng tôi, anh ta vênh váo nói: chỉ cán bộ cao cấp cách mạng mới có được tiêu chuẩn ưu đãi những thứ quý hiếm như 3Đ đó, chứ ngụy các anh thì cả đời cũng không có được. Thoạt nghe qua chúng tôi ngẩn ngơ không hiểu, nhưng khi được tên cán bộ giải thích thì mới bật ngửa ra, không nhịn được phải phát cười rộ lên. Thì ra 3Đ đó là: đạp, đồng, đài. Thời điểm đó, xe đạp, đồng hồ và radio là niềm mơ ước to lớn của cán bộ và nhân dân miền Bắc, trong khi đối với miền Nam thì những thứ đó thật quá tầm thường, nhỏ nhoi làm sao”.

Còn khối chuyện ngu dốt của bọn cai tù làm chúng tôi khinh bỉ và nực cười đến chảy nước mắt. Cứ thế chúng tôi lần lữa cố sống, kéo lê chuỗi năm tháng đoạn trường để chờ đợi một ngày vận nước, mệnh đời thay đổi.

Thế nhưng, ngày tang thương tháng Tư năm bảy lăm đã bóp chết tất cả mọi niềm tin mà chúng tôi ôm ấp, nuôi dưỡng hàng chục năm qua. Ngày miền Nam thất thủ đã nổ ra như một quả bom có sức hủy diệt mọi hy vọng trong lòng người bị lưu đày biệt xứ. Ngày hôm đó trời đất như cũng đồng cảm với tù, trở nên u ám ảm đạm như lòng người sầu thảm, héo hắt. Câu thơ thuộc nằm lòng của Thi hào Nguyễn Du hồi còn đi học “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, đến nay tôi mới cảm nhận được hết ý nghĩa thâm sâu của nó. Đêm nằm thao thức, nghe tiếng thở dài vang lên từng chập. Người bạn tù bên cạnh cũng trằn trọc, thao láo đôi mắt, buồn bã nhìn ra dãy núi Tam Đảo chập chùng sương khói trắng đục, câm nín chẳng thốt nửa lời. Đất trời đêm ba mươi tháng Tư nầy sao mà ảm đạm, thê lương lạ lùng. Gió khuya trở giấc vọng về tiếng rít gào, mây đen kịt từ đâu kéo đến che lấp cả vầng trăng hạ tuần, mờ mờ ảo ảo, le lói những ánh ma trơi. Cảnh vật xao xác cũng giống lòng người đòi đoạn như bốn câu thơ:

"Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi.
Chinh phu tử sĩ mấy người,
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn ..."

Quê hương chúng ta chiến tranh ròng rã, hết đời ông đến đời cha rồi đến đời con cháu. Hết đánh giặc ngoài lại xâu xé với thù trong. Người chết lên đến con số triệu. Xương cao thành núi, máu chảy tựa sông. Nơi đâu cũng đầy rẫy tiếng kêu gào của oan hồn uổng tử.

Sau bảy lăm, kẻ thù lại có thêm cơ hội lên mặt huênh hoang, đắc chí của kẻ vừa chiến thắng. Miền Nam thất trận, chúng tôi tắt đi tất cả niềm hy vọng còn sót lại. Thêm tám năm tù nữa, tôi sống quằn quại trong nỗi đau thua trận mới nhưng đồng thời cũng có cơ hội để kiểm chứng thật kỹ những sai lầm của kẻ chiến thắng. Trình độ dân trí và sự ngu dốt không thể tưởng tượng nỗi của kẻ thù chính là sự sai lầm của chế độ Xã hội chủ nghĩa miền Bắc. Thế mà đau đớn thay, kẻ bại trận lại là chúng ta.


http://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1/1488435144-ChuyenNguoiTocBacSom_002.jpg

Cuối năm 1984 tôi được ra tù. Tất cả đều xa lạ, ngỡ ngàng. Con đường ngày xưa vào đất địch gian nguy chẳng hẹn ngày trở lại. Con đường hôm nay cũng chẳng khác gì mấy, hun hút trời mây, mịt mờ vô định. Có khác chăng là mái tóc xanh ngày xưa bây giờ đã lốm đốm bạc mầu, thân hình ốm o già cỗi. Bao nhiêu năm lê lết trong những trại tù khổ sai không thấy mặt trời, sống với một bầy lang sói hóa thân thành bọn cai ngục. Không sách báo, không ánh sáng văn minh, không phố phường đô thị ... vô vàn cái không khiến con người tôi trở thành đần độn.

Hai ngày hai đêm thao thức, vài lần đổi tàu xe, tôi mới đặt chân về tới quê nhà. Phố xá nhiệt náo xô bồ. Nhịp sống chuyển động hối hả, bon chen khác xưa, con người thì lạnh nhạt và xa lạ hơn. Chỉ riêng dòng sông Hàn vẫn thủy chung như ngày nào, êm ả hiền hòa trôi ra cửa biển Tiên Sa. Kỷ niệm học trò đầy ắp chợt hiện về. Một góc trời quê hương, một bến sông tuổi thơ và tháng ngày vô tư ngụp lặn thỏa thích trong dòng sông mộng mị. Cái ngổ ngáo pha chút lãng mạn của người lính năm xưa bỗng chốc sống lại. Tôi tìm chỗ vắng trên Bến Mía, nhảy ùm xuống làn nước ngọt ngào tình quê, đắm mình trong thứ hạnh phúc vay mượn mong manh nhưng rất thật. Đầu óc vẩn vơ ý nghĩ là để gọt rửa sạch sẽ những cát bụi bẩn thỉu của cuộc đời phong trần đã áp đặt lên số phận tồi tệ, bất hạnh của mình. Tôi muốn tìm lại cho tâm hồn đôi chút bình an và hơi hướm một thoáng hạnh phúc thần tiên của thiên đường tuổi thơ vô tư yêu đời, đầy ước mơ với trang giấy trắng tinh khôi có hoa và bướm của thưở học trò.

Con đường ngắn ngang qua Cổ Viện Chàm dẫn về làng Nại Hiên nay không còn nhận ra được nữa. Nhiều người đi qua, họ nhìn kẻ mặc áo tù với vẻ hững hờ pha chút tội nghiệp. Tất cả đã đổi thay xa lạ, không còn ai nhớ ra tôi nữa. Tôi bật cười chua chát. Quả thế, chuyện đời đổi thay, có đôi khi mình còn không nhận ra chính mình nữa thì làm sao cuộc đời có thể dung chứa được hết thảy mọi con người trong cuộc bể dâu.

Đêm hôm đó tôi có mặt trong ngôi từ đường của tộc Nguyễn thanh. Bên cạnh, cha tôi đứng trầm ngâm như mặc niệm trước di ảnh tổ tiên. Mẹ tôi thì sụt sùi mãi từ lúc tôi mới bước về. Chỉ có mỗi hai Người là không xa lạ với tôi. Nhìn thằng con trai từ cõi chết bao nhiêu năm bỗng hiện về, rồi nhìn tấm ảnh của tôi đặt trên bàn thờ nhang đèn hoa trái đầy đủ, mẹ tôi cứ khóc ngon khóc lành. Bà vuốt ve, sờ nắn tôi như ngày còn bé dại. Mẹ nói nhìn thấy tôi còn sống như nằm mộng gặp chiêm bao. Lối xóm nghe tin ùn ùn kéo đến thăm hỏi chật nhà. Vài thằng bạn thua trận may mắn còn sống sót, nay thất cơ lỡ vận đi làm thuê làm mướn, đạp xích lô xe thồ, hùn tiền kéo tôi vào quán nhậu bình dân, chén đầy chén vơi, chén mầy chén tau, cạn đến mềm môi. Vài tuần sau tôi theo chúng nó, rồi cùng một kiếp cu li lê lết kiếm sống, đoạn tháng qua ngày.

Châu ngửa cổ tợp một hớp rượu lớn, đặt ly không xuống chiếu rồi thở dài. Anh trầm ngâm đốt thuốc rít vài hơi rồi tiếp tục câu chuyện cuộc đời:

- Đã nhiều năm kẻ thù đặt ách cai trị độc tài, bạo ngược lên đầu lương dân miền Nam. Ngẫm cho cùng, tôi nghĩ đến nay chắc họ cũng đã hiểu ra một điều: họ chẳng bao giờ là kẻ chiến thắng. Giờ đây họ đã tận mắt nhìn rõ bộ mặt thật đẹp đẽ của miền Nam. Cuộc sống ấm no tiến bộ, nhà cửa tiện nghi và xã hội văn minh khác xa những lời tuyên truyền bịp bợm, dối trá của bọn đầu gấu cộng sản. Sự thật oái oăm khiến họ thức tỉnh, mới biết mình bị đảng lừa một cú cay độc. Bao nhiêu năm nằm gai nếm mật chiến đấu gian khổ, đến lúc chiến thắng mới bật ngửa ra là họ còn thua cả người dân nghèo miền Nam từ vật chất lẫn tri thức và nhiều phương diện khác. Hàng ngũ lãnh đạo vô học, dốt nát nhan nhản trong các cấp đảng bộ cầm quyền làm gì họ không biết.

Té ra kẻ chiến bại không phải ai khác lại chính là họ. Những người “đồng chí lớn” đểu giả của họ cộng thêm sự bịp bợm của chế độ đã dồn đuổi họ vào con đường phẩn nộ và đến một lúc mất hết niềm tin, họ bắt đầu quay trở lại chống đối kịch liệt. Lần nầy thì những con người cách mạng, ngày xưa chỉ biết tiến lên bằng mũi súng, ngày nay đã bị một vết nội thương trí mạng như tâm chưởng mà không hề thấy máu chảy ra bên ngoài cơ thể. Những kẻ huênh hoang chiến thắng trong Bắc bộ Phủ lại có thêm những kẻ thù mới, xuất phát từ trong hàng ngũ của họ như: Trần Độ, Bùi Tín, Hoàng minh Chính, Đặng kiên Giang, Phạm quế Dương, Nguyễn thanh Giang...

Riêng tôi, sau ngày trở về đã trở thành cái gai nhọn đáng ghét trước mắt công an. Họ bắt lên đồn viết báo cáo, răn đe rồi trình diện hàng ngày. Mặc, tôi vẫn thản nhiên sống. Mắt luôn luôn nhìn thẳng vào họ khi đối diện. Nhiều lần quá họ đâm nhợn, lâu dần rồi cũng lửng lơ con cá vàng... họ lảng đi. Họ ngây thơ quá, làm sao hiểu được những điều suy nghĩ trong cái đầu chai sạn của người tù lưu đày biệt xứ mới trở về. Tôi không muốn trở thành địch thủ của những kẻ háo thắng, vừa ngu xuẩn lại vừa ấu trĩ như những đứa bé chưa ráo máu đầu, mới bước chân chập chững vào cuộc đã may mắn có sẵn chiến thắng trong tay. Miền Nam thua trận vì có nhiều sai lầm nhưng chắc gì những kẻ chiến thắng miền Bắc đã không mắc phải sai lầm lớn hơn? Điều bất hạnh nhất là quê hương sau cuộc chiến được xếp vào hàng nghèo đói, lạc hậu và tham nhũng nhất thế giới. Đời sống người dân lao động muôn vàn cơ cực nhưng vẫn không đủ ăn mặc. Trẻ con thất học. Xã hội suy đồi. Lỗi ấy thuộc về ai? Câu hỏi xin dành lại cho lịch sử luận tội và phán xét những người có trách nhiệm từ cả hai phía đối nghịch. Có điều tôi biết chắc chắn rằng Việt Nam chỉ là một canh bài được sắp sẵn trên chiếu bạc quốc tế. Chiến thắng của kẻ thù không phải vì thiện chiến hơn chúng ta, nhưng họ có chổ tựa vững chắc cộng thêm sự may mắn và dã tâm tráo trở, phản bội của cả hai khối Quốc Cộng.

Trận chiến đã tàn. Cuộc thư hùng đã kết thúc. Cho đến nay toán chúng tôi chỉ còn sót lại mỗi mình tôi. Lô viết Cầu rồi cũng đã chết vì bị sốt ác tính vào năm 1984.

Hôm nay tôi không là cái gì hết, đơn giản chỉ là một người lính muốn nói lên những suy nghĩ của đời người vận nước; Chỉ là kẻ đứng chông chênh ngoài xã hội, bên lề cuộc đời, là chứng nhân của một cuộc bể dâu tang thương để ghi nhận thêm cho lịch sử quốc gia, dân tộc sự chuyển mình sang một trang mới với nhiều nỗi bẻ bàng, đau xót và phiền muộn. Thời gian rồi cũng dần phôi phai đi. Tôi rồi cũng sẽ một ngày trở về với cát bụi, nơi chốn cội nguồn, một thứ quê hương cuối cùng trong tâm linh người sống. Nhưng, lịch sử sẽ là vỉnh viễn, là bất tử với thời gian. Tốt, xấu, đúng, sai rồi phải có một ngày được vạch trần hẳn hoi ra ánh sáng. Sự thật lịch sử sẽ được hoàn nguyên và chúng ta hãy vững tin chờ đợi ngày ấy ắt đến không xa.

Với các bạn, lời tâm tình thân thiết của tôi là mãi mãi chỉ muốn làm một người lính trọn trung, trọn nghĩa, trọn tình với quốc gia, dân tộc. Và tôi dám xác quyết với các bạn rằng, tôi không có điều gì phải ân hận, hối tiếc khi đã chọn làm một người lính quốc gia chân chính như đã từng chọn trước đây.

VI

Phải đến năm 1995 gia đình anh mới đặt chân được đến Mỹ. Nghe anh kể thì suýt chút nữa lại bị Mỹ chơi đểu, bỏ rơi thêm lần thứ hai.

Lần thứ nhất vào năm 1973 tại hòa đàm Paris, trong điều khoản cam kết về việc trao trả tù binh, các anh bị gạt ra khỏi danh sách vì Mỹ không thừa nhận BK là người được họ huấn luyện, trả lương và thực hiện các kế hoạch hành quân trong cuộc chiến bí mật. Các anh đã sớm bị người bạn Mỹ gian trá phản bội, trước khi hiện rõ bộ mặt trơ tráo bán đứng miền Nam, trắng trợn bỏ rơi chiến hữu.

Hồ sơ bí mật BK nằm kín trong văn khố Ngũ giác Đài chưa hề một lần được giải mật. Phải đợi nhiều năm sau, đến lúc chương trình H.O ra đời và những người lính Việt Nam hoạt động bí mật bên kia bức màn sắt còn sống sót được thả về, lần lượt ra đi tỵ nạn và có mặt trên đất Mỹ thì nội vụ mới được một số người Mỹ chân chính đưa ra ánh sáng. Tác phẩm”Secret Army, Secret War” của Segwich Tourison, cựu nhân viên tình báo lục quân Mỹ được ra đời ngay vào thời điểm đó đã phơi trần tất cả sự thật bỉ ổi của chính quyền Nixon. Đồng thời trong dịp Đại Hội ra mắt Gia Đình Biệt Kích VN tại tiểu bang Georgia vào tháng 10 năm 1995, S. Tourison là diễn giả người Mỹ duy nhất đã thuyết trình và trả lời bằng ngôn ngữ tiếng Việt, thông suốt tất cả các câu hỏi có liên quan đến những hoạt động vượt tuyến trong cuộc chiến tranh ngoại lệ VN.

Cùng thời gian đó, một tập thể luật sư hùng hậu của ông John Mattes đã phát đơn kiện chính phủ Hoa Kỳ bội tín, bỏ rơi các quân nhân BKVN. Hội đồng lưỡng viện Hoa Kỳ quyết định giải mật các hồ sơ có liên quan đến vấn đề nầy. Sau đó các quân nhân BKVN hiện đang sống trên đất mỹ được mời đến điều trần tại quốc hội vào ngày 19 tháng 6 năm 1996 và tất cả sự thật dấu diếm từ lâu đã được phơi bày ra ánh sáng. Giới truyền thông, báo chí Hoa Kỳ đồng thanh ủng hộ. Họ đưa tin, viết bài, lên tiếng công kích sự gian trá của chính quyền Mỹ thời đó và đòi hỏi chính phủ phải hoàn trả tiền lương 20 năm cho những BK bị họ bỏ rơi. Những chiến sĩ Kinh Kha thời đại VNCH được hồi sinh như những anh hùng. Đó chính là giá trị đích thực của lòng yêu nước, của sự hy sinh cao cả không hề tiếc máu xương của những chàng trai đất Việt yêu chuộng tự do, công lý và dân chủ. Đó chính là lòng dũng cảm, sự cao thượng của trai trẻ VN, sẵn sàng sống cho tha nhân và chết cho dân tộc.

Số tiền bốn mươi ngàn mỹ kim bồi thường cho một người lính BK so ra chẳng nghĩa lý vào đâu đối với sinh mạng quý giá của con người. Cái may mắn to lớn nhất đối với họ là còn sống trở về với cha mẹ, vợ con, những người thân yêu đã hàng bao nhiêu năm mỏi mắt chờ trông. Phần thưởng tinh thần mới chính là những cái thật sự họ cần thiết. Bốn mươi ngàn đô la đối với họ, những người lính kiêu hùng, chỉ là bãi nước bọt nhổ vào mặt những tên điếm đàng buôn bán chiến tranh như Nixon, Kissinger ... bắt chúng phải cúi đầu nhận tội phản bội. Bốn mươi ngàn đô la là cái đấm thôi sơn vào những bộ mặt trơ tráo đã một thời mật ngọt, giả nhân giả nghĩa, là sự vạch trần cho thế giới biết rõ về bản chất gian manh của những tên hoạt đầu chính trị trên một xứ sở dư thừa bơ sữa nhưng thiếu thốn tình người. Những người lính BK đã tự hào sống xứng đáng là một con người Việt Nam chân chính.

VII

Đến nay chiến tranh đã đi qua, thiên hạ gặp nhau, nhìn nhau, tất cả đều bình thường như nhau. Duy chỉ có những người trong cuộc mới hiểu được mình. Do vậy, chẳng lấy chi làm lạ khi bầy con trẻ vẫn thường nghe cha chú nhắc đi nhắc lại hoài chuyện ngày xưa. Chỉ những giây phút đó họ mới thật sự sống trọn vẹn cho chính mình.

Hôm nay, trên những nẻo đường luân lạc của kiếp người lưu vong, họ xóa sổ làm lại từ đầu, bôn ba tần tảo kiếm sống. Thời gian rỗi rảnh họ dành cho mớ hoài niệm quá khứ với nhiều vết tích đau thương còn hằn sâu trên da thịt quê hương, dân tộc và chính bản thân mình. Trong lòng họ không hề hối tiếc hay oán trách những lần ra đi sống chết trong nguy nan cuộc đời, dù họ đã bị phản bội, dù họ đã từng chết đi sống lại.

Trăng ở đây không sáng bằng những đêm trăng ở quê nhà. Đã bao nhiêu lần họ nhìn thấy lại hình bóng của chính mình. Ở đó có hạnh phúc, thương đau ... khởi đầu từ một thời son trẻ cho đến cuối chặng đường trăng khuất. Đời người rồi cũng đã trôi qua mau như ánh đèn, như gió thổi, như mây bay, như chiêm bao. Tất cả đều là phù vân.


Tiên Sha - Lê Luyến
Atlanta, tháng Bảy năm 2004.
nguồn: http://www.bietdongquan.com/baochi/munau/so32/chuyennguoitocbacsom.htm

BachMa
03-11-2017, 05:31 AM
Tuyết Trắng
sáng tác : Anh Chương
trình bày: Sĩ Phú
:40: :40: :40:
<iframe width="640" height="360" src="https://www.youtube.com/embed/6omxLhXp3OY?rel=0&amp;controls=0&amp;showinfo=0" frameborder="0" allowfullscreen></iframe>


Em Còn Nhớ Mùa Xuân
sáng tác: Ngô Thụy Miên
trình bày: Sĩ Phú
:40: :40: :40:
<iframe width="640" height="360" src="https://www.youtube.com/embed/gPlRrWFX05k?rel=0&amp;controls=0&amp;showinfo=0" frameborder="0" allowfullscreen></iframe>

BachMa
03-26-2017, 04:01 AM
Sài Gòn Ngày Tháng Cuối

/uploadpics/hqpd1/1490499816-SaiGonNgayThangCuoi_DaiPham.jpg
tác giã

Thế là sau năm năm làm việc với Đệ Thất Không Đoàn Hoa Kỳ tại Tân Sơn Nhất, Sài Gòn, tôi lại chuyển qua một nhiệm sở mới là Toà Đại Sứ Mỹ cũng tại thủ đô Sài Gòn. Những tay sĩ quan và hạ sĩ quan trẻ của đơn vị gọi là Phân Đội Alpha của Đệ Thất Không Đoàn là những người lính thật là vui vẻ cởi mở và rất là thân thiện mà tôi không bao giờ quên được nhất là sau bao nhiêu chuyến công tác, bao nhiêu chuyến bay trên vận tải cơ khổng lồ Hercules C-130 ra Vùng I và Vùng II Chiến Thuật.

Thời gian vẫn không ngừng trôi và con người cũng phải thích ứng với không gian mới. Tôi được điều về Đoàn Liên Lạc Hoa Kỳ để yểm trợ một Phụ Bộ thuộc Phủ Tổng Thống. Nội dung công việc cũng không có gì thay đổi nhiều, cũng vẫn là tóm tắt và tổng kết những tin tức về quân sự mà hai bên Việt Mỹ đã thâu lượm được để tường trình lên cấp trên.

Nhờ vào thời gian làm việc cho Không Quân Mỹ và Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ mà tôi ý thức được rằng người Mỹ nắm rất vững về những tình hình biến chuyển trên chiến trường, tương quan lực lượng đôi bên và cũng biết rất rõ về đối phương tức là Cộng quân Bắc Việt và đám Việt Cộng trong Nam; và Hoa Kỳ có một sức mạnh quân sự phải nói là khủng khiếp thừa sức đè bẹp Cộng quân bất cứ lúc nào.

Chính vì thế mà niềm tin của tôi vào đồng minh Hoa Kỳ đã từ từ thuyên giảm một cách rõ rệt khi thấy người Mỹ khoanh tay để cho Cộng Sản tràn vào các đô thị kể cả Sài Gòn và Chợ Lớn ngày Tết Mậu Thân. Họ cũng chấp nhận những sự di tản chiến thuật rút khỏi tỉnh Phước Long, rồi sau nầy khỏi Kông Tum Plei Ku, Vùng II để xẩy ra Đại Lộ Kinh Hoàng là dịp cho Cộng quân pháo kích giết hại hơn hai chục ngàn dân lành dọc theo Quốc Lộ này. Họ đã đem B-52 ra Miền bắc để rải thảm 12 ngày đêm kể cả thủ đô của Công Sản là Hà Nội và phong tỏa cảng Hải Phòng nhưng lại ngừng ngay cuộc ném bom đó khi Hà Nội đồng ý quay trở lại bàn đàm phán.

Hiệp Định Paris được ký kết một cách đơn phương giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt dù rằng phía VNCH chúng ta cực lực phản đối. Hoa Kỳ vẫn ký để đơn phương rút quân kể cả các cố vấn ra khỏi Miền Nam trong khi họ biết chắc chắn rằng Bắc Việt sẽ vi phạm hiệp định và vẫn bám chặt vào các căn cứ địa của nó tại Miền Nam. Những năm '60, khi họ đến với chúng ta trên danh nghĩa Đồng Minh thì họ cam kết với chúng ta để chống lại sự bành trướng của Cộng Sản trong vùng Đông Nam Á. Khi họ muốn rút đi những năm đầu của thập niên '70, thì họ lại ký kết với kẻ thù chứ không cần đến ý kiến và chữ ký của chúng ta nữa. Hiệp Định Paris chính là con dao mà đồng minh Hoa Kỳ đã ngầm đưa cho Cộng Sản Việt Nam và quan thầy của chúng để thanh toán chế độ VNCH chúng ta nhanh chóng hơn.

Quả thật là làm đối thủ của Hoa Kỳ dễ hơn rất nhiều so với làm đồng minh của họ bởi vì hầu như người Mỹ kể cả Tổng Thống của họ nhiều khi công khai hoá luôn cả những kế hoạch mà họ dự tính.

Sau khi ký kết được như ý muốn Hiệp Định Paris thì đồng minh Hoa Kỳ lại thi hành một chiến thuật cắt giảm viện trợ cả về quân sự lẫn kinh tế trong chiến lược bỏ rơi đồng minh VNCH đơn độc chiến đấu trong tình trạng thiếu súng ống đạn dược và nhiên liệu để chống lại cả một khối Cộng Sản Quốc Tế đầy gian manh và hiểm độc đang yểm trợ mạnh mẽ cho Cộng Sản Bắc việt và đám VC trong Nam "đánh cho đến người Việt Nam cuối cùng".

Trong lịch sử loài người tự cổ chí kim có lẽ không có một cuộc chiến đấu nào can trường anh dũng và oai hùng hơn cuộc chiến đấu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà - chiến đấu trong đơn độc nhưng với một chính nghĩa sáng ngời và một lòng quả cảm vô biên đến viên đạn và hơi thở cuối cùng.

Một mình chiến đấu bảo vệ Miền Nam chống lại cả một khối Cộng Sản bao gồm Nga Sô, Trung Cộng, Khối CS Đông Âu, Bắc Hàn, Cuba và CS Việt Nam, dù rằng Mỹ và đồng minh đã bỏ mình ra đi - chứ không chịu đầu hàng giặc phiến Cộng cõng rắn Trung Cộng và Nga Sô vào cắn gà nhà.


/uploadpics/hqpd1/1490499830-SaiGonNgayThangCuoi.jpg

Thế rồi cái gì phải đến đã xảy ra, Miền Nam bị lui dần vào thế bị động dù rằng tinh thần quân dân cán chính vẫn vững vàng nhưng súng thì thiếu đạn dược và chiến đấu cơ thiếu nhiên liệu thì không thể chống lại được quân xâm lược Cộng Sản đã càng lúc càng mạnh hơn kể từ khi Hoa Kỳ và các lực lượng đồng minh khác như Úc, Tân Tây Lan, Phi Luật Tân, Đại Hàn, v.v., lần lượt rút lui khỏi Miền Nam ngay sau khi Hiệp Định Paris ký kết ngày 27 tháng Giêng năm 1973.

Qua đầu năm 1975 thì tình hình càng lúc càng tồi tệ hơn và VNCH lúc đó giống y như vị anh hùng Samson, trong truyện phim Samson & Dalilah, mắt đã không còn nhìn thấy gì và với bộ tóc đã bị cắt ngắn, tượng trưng cho sức mạnh không còn nữa của Samson, và tay chân thì bị xiềng xích, đang bị một bọn người lùn khả ố đang dùng những chiếc kìm sắt dứt ra từng miếng thịt trên thân thể của mình.

Ngày 30 tháng Tư năm 1975 thì Miền Nam mà trái tim là Sài Gòn trút hơi thở cuối cùng.

Trong thời gian bị tập trung trong trại giam ở Miền Bắc tôi có một dịp may được chuyền tay đọc một tạp chí Reader's Digest là cuốn nguyệt san mà tôi thích nhất trước kia, trong đó có một bài viết mà tôi không sao quên được của một vị luật sư người Cuba về sự thất bại của cuộc đổ bộ tại Vịnh Con Heo. Sau khi cuộc đổ bộ thất bại và chế độ Fidel Castro đang khủng bố, đàn áp và trả thù tàn bạo những người Cách Mạng Cuba Tự Do thì vị luật sư này đã trốn thoát được qua Hoa Kỳ và ông ta thề rằng nếu phải bỏ ra hai mươi năm để tìm hiểu tại sao cuộc đổ bộ hoàn hảo như vậy để tái chiếm lại Cuba và lật đổ chế độ của Fidel Castro mà cuối cùng lại thất bại thì ông ta cũng phải đi tìm.

Cuộc đổ bộ này đã được tập dượt và coi như là toàn hảo với sự yểm trợ của không quân Mỹ để làm cỏ những chiếc máy bay cũ kỹ của Cuba trong lúc lực lượng Cách Mạng Cuba lưu vong đang đổ bộ lên Vịnh Con Heo để tiến vào tái chiếm Cuba. Câu trả lời mà ông ta tìm ra được là kế hoạch đã được chu toàn vào thời gian cuối của nhiệm kỳ Tổng Thống Eisenhower; nhưng lúc thi hành thì giờ phút chót TT John Kennedy đã ra lệnh hủy bỏ toàn bộ kế hoạch và không quân Mỹ đã không xuất hiện như mong đợi, và kết quả là lực lượng đổ bộ nằm phơi mình trên bãi biển cho từng đoàn máy bay của Fidel Castro đến dội bom và oanh kích. Cuộc nổi dậy và tái chiếm Cuba bị dập tắt trong uất hận và ngậm ngùi. Chúng ta có thể hình dung ra được sự trả thù tàn bạo của Fidel Castro đối với những chiến sỹ Cuba Tự Do còn sống sót sau lần đổ bộ ấy như thế nào rồi.

Đầu tháng Tư năm 1975, tình hình rất là xáo trộn bất lợi cho chế độ VNCH vì Hoa Kỳ đã để lộ rõ cho cả đồng minh VNCH và cả kẻ thù là CS Bắc Việt thấy rằng Mỹ đang di tản nhân viên Sứ Quán của họ ra khỏi Miền Nam. Văn Phòng Tùy Viên Quân Sự (Defense Attache's Office: D.A.O) được lệnh di tản trước.

Tôi vào họp với các cố vấn Mỹ thuộc Toà Đại Sứ vào đầu tháng Tư thì nhận được chỉ thị rằng tất cả những nhân viên nào mà không thiết yếu (non-essential) thì sẽ được ưu tiên di tản trước với gia đình của họ, và những nhân viên nào thiết yếu (essential) thì phải ở lại để yểm trợ cho các Phủ Bộ, các cơ quan, Bộ Tư lệnh Cảnh Sát, v.v. của VNCH đến giờ phút cuối cùng.

Tôi và một số bạn đồng nghiệp được lệnh ở lại và được các cố vấn cam kết là sẽ có trực thăng đến tận nhà để đón chúng tôi vào giờ phút cuối cùng của Sàigòn.

Lần lượt một số bạn đồng nghiệp của tôi đã ra đi theo gia đình làm việc cho cơ quan D.A.O. và chúng tôi vẫn ở lại.
Đến ngày 27 tháng Tư năm 1975 tôi được triệu tập vào Tòa Đại Sứ họp một lần nữa và không ngờ rằng đó là lần họp cuối cùng khi các cố vấn Mỹ tuyên bố rằng bây giờ thì về nhà để chờ đợi di tản vì mọi công việc thường nhật đã không còn cần thiết nữa và tình hình không còn cứu vãn được.

Tôi ra về trong lòng nặng trĩu vì người anh Cả của tôi lúc đó là Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng của Sư Đoàn 5 Bộ Binh đã mất tích. Chỉ có độc nhất một gia đình người anh thứ ba là Thiếu Tá Hải Quân nhờ đi du học tại Rhode Island đầu năm 1975 nên đã may mắn đoàn tụ được trên đất Mỹ với vợ con đi theo cơ quan D.A.O di tản qua được giữa tháng Tư.

Vì gia đình tôi lúc đó cư ngụ tại vùng ngoại ô của Sàigòn, nên tôi đưa vợ và hai đứa con nhỏ lên bên Nội tại Quận Ba một thời gian xem sao vì ngày 28 một tên phi công nội tuyến VC đã dội bom xuống phi trường Tân Sơn Nhất và kế hoạch di tản bằng đường hàng không đã phải hủy bỏ.

Tối ngày 29 tháng Tư, tôi quyết định cho vợ con vào Tòa Đại Sứ chứ không ngồi chờ đợi nữa. Sau khi giã từ Mẹ và các em, tôi lái chiếc xe kiểu Taxi đã được sửa lại làm xe nhà đến cổng sau của Toà Đại Sứ thì thấy thiên hạ đen nghịt và nhốn nháo đầy những người nhưng chiếc cổng sắt đã đóng và trên bức tường bao quanh khu vực thì Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đang gườm súng không cho ai ra hay vào nếu không có lệnh. Họ chỉ nhận những người nào trình ra được thẻ của Toà Đại Sứ thì mới nhấc những người đó vào bên trong mà thôi.

Tôi đưa vợ con đến sát chân tường và tuy có thẻ nhân viên tòa đại sứ trong túi nhưng không biết rằng có thuyết phục được các tay lính TQLC này cho vợ con tôi đi theo hay không.

Nếu tôi vào được bên trong mà vợ con bị bỏ rơi lại thì có thể sẽ bị VC trả thù, ý nghĩ đó cứ luẩn quẩn trong đầu tôi một lúc rồi đột nhiên trong một giây tôi quyết định, một quyết định đã làm thay đổi hẳn cả một đời người.

Tôi quyết định ở lại cũng vợ con và đưa vợ con tôi về lại nhà bên Nội.

Khi Mẹ tôi nhìn thấy tôi thì chỉ hỏi được một câu là tại sao con không đi? Tôi trả lời rằng tôi không thể ra đi một mình được trong khi Mẹ và tất cả gia đình đều ở lại và ông anh Cả thì chưa có tin tức gì. Lúc đó thì ông anh thứ Hai của tôi nghe tin đồn ở đâu không biết thì tỏ ra lạc quan và nói rằng thế nào cũng có chính phủ Liên Hiệp và chắc mình không sao đâu. Ông ấy là người may mắn nhất vì sau đó đi "cải tạo" chưa đến ba cuốn lịch nhờ làm việc cho ngành Quân Y.

Tối hôm đó tôi ngủ không được và chỉ có một điều an hận là mình mới 29 và chết quá trẻ.

Sáng ngày hôm sau 30 tháng Tư lúc khoảng 10 giờ thì đài phát thanh loan báo lệnh đầu hàng của Tổng Thống mới lên là Dương Văn Minh. Tôi nghe như một phát súng nổ bên tai vậy, bèn lên trên lầu của nhà Mẹ tôi trên đường Trương Minh Giảng để thu xếp quần áo trở về nhà trong Phú Lâm.

Một lúc sau thì nghe thấy tiếng xe tăng chạy một cách nặng nề vào trong thành phố, tôi đẩy nhẹ cửa sổ ra nhìn xuống đường thì thấy hai ba chiếc tăng T-54 đang lăn bánh từ hướng Ngã Ba Ông Tạ chạy qua nhà Mẹ tôi về hướng chiếc cầu và tôi thấy như toàn thể bầu trời đang sụp đổ trước mặt mình.

Chiều hôm đó thì tôi lái xe đưa vợ con về lại căn nhà cũ. Tôi đã mua sẵn một hộp thuốc ngủ loại mạnh và định cùng với cả gia đình quyên sinh chứ không thể sống nổi với Cộng Sản được. Nhưng nhìn hai đứa con đang say ngủ ngây thơ vô tội, lòng tôi chùng xuống, tôi lại bỏ ý nghĩ đó và quyết định là sẽ ở nhà và chờ họ đến bắt mình rồi phó mặc cho số mệnh.

Mấy ngày sau, một chiếc xe díp chạy vào trong sân nhà tôi, với ba tay mặc sắc phục như của công an trong đó có một tay có vẻ là tên chỉ huy, ngừng trước nhà và hỏi tìm tôi. Họ đưa tôi đến một căn nhà ba từng tại ngã Ba Ông Tạ bên ngoài là Tiệm Thợ May nhưng không ngờ trên lầu trước kia là VC nằm vùng trong đó. Sau ba ngày thẩm vẫn liên tục, tên chỉ huy tự giới thiệu là Trung Tá có lẽ thuộc cơ quan Phản Gián từ Miền bắc vào vì nói giọng Bắc bảo tôi về sửa soạn để đi "tập trung cải tạo". Lúc đó tôi vẫn chưa để ý đến hai chữ "tập trung". Sau này tôi mới thấu hiểu được cách dùng chữ của VC vì ở tù tập trung có nghĩa là bị giam giữ không hạn định và không có án lệnh. Thế rồi lệnh của Ủy ban Quân Quản ra lệnh cho chúng tôi chuẩn bị một tháng đi "học tập cải tạo", "để thành công dân tốt", để được hưởng "chính sách khoan hồng nhân đạo" của Đảng và Nhà Nước.

Những người đi "cải tạo" mười ngày thì kéo dài ra vài năm. Những người đi một tháng thì trở thành sáu tháng, vài năm, mười năm, mười lăm năm; và hai mươi người cuối cùng thì bị giam giữ đến năm thứ mười bẩy.

"Hãy nhìn những gì Cộng Sản làm, đừng nghe những gì Cộng Sản nói", câu nói ấy chưa bao giờ đúng và đầy ý nghĩa như vậy.

Khi tôi bước chân vào chốn ngục tù thì hai đứa con gái và con trai của tôi mới lên bốn và lên năm, lúc tôi trở về thì chúng đã bước vào lứa tuổi đôi mươi.

Bây giờ cả hai cháu đều đã có gia đình riêng và mỗi khi có dịp gặp lại con gái và con trai của tôi trên San Jose hay khi hai cháu xuống đây thăm tôi, tôi lại nghĩ rằng có lẽ tôi đã quyết định đúng vào cái buổi tối đêm 29 tháng Tư năm ấy tại cổng sau của Toà Đại Sứ Mỹ Sàigòn.

Con người ta quả là có số mệnh dù là đôi lúc số mệnh quá nghiệt ngã với mình.

Viết xong ngày Rằm Thượng Nguyên năm Canh Dần

nguồn: http://phamgiadai.blogspot.com/search?updated-max=2010-10-20T15:25:00-07:00&max-results=7

BachMa
04-06-2017, 10:26 PM
Giã Biệt Sài Gòn
sáng tác: Nam Lộc
trình bày: Tuấn Vũ
:40: :40: :40:
<iframe width="640" height="360" src="https://www.youtube.com/embed/vbZm2nz1Br8?rel=0&amp;controls=0&amp;showinfo=0" frameborder="0" allowfullscreen></iframe>


Anh Đi Chiến Dịch
sáng tác: Phạm Đình Chương
trình bày: Thanh Tuyền
:40: :40: :40:
<iframe width="640" height="360" src="https://www.youtube.com/embed/4yFaDmUmOzc?rel=0&amp;controls=0&amp;showinfo=0" frameborder="0" allowfullscreen></iframe>

BachMa
04-30-2017, 04:02 AM
Hồi Ký 30-4-75: Tháng Ngày Tao Loạn

Tác giả là Bác sĩ Vĩnh Chánh, thuộc Hội Y Khoa Huế Hải Ngoại. Bài “Không Bỏ anh em, không bỏ bạn bè” ông góp cho, viết về nước Mỹ gần 3 tháng trước hiện đã có gần 20,000 lượt người đọc. Tốt nghiệp Y Khoa Huế năm 1973, thời chiến tranh, ông là Y Sĩ Trưởng binh chủng Nhảy Dù cấp tiểu đoàn và gắn bó với đơn vị chiến đấu cho tới giờ phút cuối tại vành đai Sài Gòn ngày 30 tháng Tư. Bài mới của ông là một hồi ký sống động và xúc động về những ngày cuối của cuộc chiến.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd417/1493523445-HoiKy30Thang4-ThangNgayTaoLoan_001.jpg

Không một ai ở Miền Nam Việt Nam có thể quên được những cay đắng, uất hận nghẹn ngào, nhục lụy, chết chóc tang thương khi quân dân VNCH bị đồng minh bỏ rơi, đẩy vào cảnh sụp đổ.

Sau cuộc di tản chiến thuật Tây Nguyên trong tháng Ba, 1975, thảm họa lan rộng khắp Miền Trung thuộc các quân khu 1, 2 rồi đến quân khu 3. Trong cương vị nhỏ nhoi của một quân y sĩ Nhảy Dù theo sát bên cạnh đơn vị Dù tác chiến, cá nhân tôi đã sống trọn vẹn với đồng đội cho đến giờ phút cuối cùng của cuộc chiến. Ngày 30 Tháng 4,1975.

Trong một ngày vào tháng Hai 1975 khi Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù (viết tắt TĐ1 ND) với Thiếu Tá Ngô Tùng Châu làm TĐ Trưởng đang dưỡng quân tại đèo Phước Tượng nằm trên Quốc Lộ 1 giữa Huế và Đà Nẳng, sau chiến trận ở Thường Đức/ Đại Lộc, Y Sĩ Thiếu Tá Nhẩy Dù Trinh đích thân đưa BS Bùi Cao Đẳng, người bạn thân đồng môn đồng khóa của tôi, đến Bộ Chỉ Huy tiểu đoàn thay tôi làm Y Sĩ Trưởng TĐ1 ND.

Ngay sau khi bàn giao, tôi được chở thẳng đến phi trường Đà Nẳng để trong cùng ngày, trước Tết 1975, vào Sài Gòn lãnh một nhiệm vụ mới, Y Sĩ trưởng Tiểu Đoàn 15 ND. Các Tiểu Đoàn tân lập 12, 14, 15 ND cùng với Đại Đội 4 ND Trinh Sát và Tiểu Đoàn 4 Pháo Binh ND là thành phần chủ lực cho Lữ Đoàn 4 Nhảy Dù, dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Lê Minh Ngọc, vừa được thành lập vào đầu năm 1975.

Trên chuyến bay về Sài Gòn, lòng tôi có nhiều xúc động mâu thuẫn. Dù tôi chỉ phục vụ TĐ1 ND trong 6 tháng kể từ ngày trình diện làm Y Sĩ trưởng TĐ 1 vào cuối tháng 7, 1974, đúng vào lúc TĐ1 ND nhảy vào trận chiến ở Đại Lộc/ Thường Đức, tôi đã có quá nhiều kỷ niệm với đơn vị tác chiến lừng danh hàng đầu của Sư Đoàn ND.

Trong ngày đầu tiên ở mặt trận, tôi được đích thân người con trai của Cô ruột tôi là Đại Úy Trần Văn Thể, đại đội trưởng xuất sắc của ĐĐ 11, chỉ bày những căn bản thực tế ở trận địa như định hướng của ta và địch, phân biệt pháo ta hay pháo địch, đào hố cá nhân nơi bất cứ dừng quân nào, đi trên dấu giày của người đi trước để tránh đạp phải mìn, luôn đội nón sắt và mang áo giáp, ngay cả khi sử dụng hố tiêu… Làm sao kể cho xiết những ngày dài lội bộ trong rừng sâu, trên những sườn đồi trơn trợt, lầm lũi quanh co theo chân các binh sĩ, chia nhau từng điếu thuốc, từng ngụm cà phê pha chung với đế, chuyền nhau từng ca cơm dưới những cơn mưa tưởng không bao giờ dứt.

Làm sao quên được những tiếng la hét, ra lệnh trong điện đài giữa cấp chỉ huy Tiểu Đoàn, Đại Đội và Trung Đội trong bước tiến xung phong đánh chiếm mục tiêu, giữ vững vị trí hay buộc rời bỏ vị trí dước áp lực của địch để rồi lại phản công, cận chiến và tái chiếm lại mục tiêu tại từng ngọn đồi, trước nhỏ nhưng về sau càng lớn càng cao. Tại từng ven rừng hay trong rừng rậm, tại từng con suối, bờ dốc. Trong đêm khuya, hay giữa trưa. Vào sáng sớm hay cuối ngày. Trong mưa, trong nắng hoặc trong sương mù. Vì làm gì có giới hạn thời gian trong trận chiến. Vì làm gì có thời tiết thuận lợi khi xung phong. Và làm gì có được sự công bằng khi địch nằm sẵn trong các công sự trên đồi chờ ta đánh vào. Nhưng ta phải đánh để dành lại từng tất đất, từng ngọn đồi, để đánh đuổi kẻ xâm lược và bảo vệ miền đất tự do.

Qua nhiều ngày với TĐ1 ND, tôi có dần kinh nghiệm để phân biệt được tiếng pháo của ta hay địch, khi nằm dưới hố cá nhân hoặc trong hầm với bộ chỉ huy, ngày ngày 3 cữ sáng trưa chiều, nhìn lên thấy từng làn chớp sáng của đạn địch chụp trên các ngọn cây lớn kèm theo tiếng nổ đinh tai với ngàn mảnh đạn và cành lá văng tứ phía . Đã bao lần tôi cảm thấy bất lực trước những vết thương quá nặng của thương binh đang chết dần khi chờ đợi tản thương, bèn đành đốt điếu thuốc lá đưa vào môi cho từng người để rồi đoán chừng cái chết đến khi khói điếu thuốc thôi bay. Và cũng bao lần tôi đã cúi đầu khóc thầm khi thấy những xác chết, cả quan lẫn quân, được gói chặt trong poncho nằm từng hàng dài hai bên bãi đáp chờ được bốc đi.

Nhớ và nhớ hình ảnh uy nghiêm đầy khí phách của các sĩ quan và bao khuôn mặt non trẻ nhưng dạn dày phong sương của các binh sĩ tuy đầy kinh nghiệm chiến trường, nhưng họ vẫn giữ một tâm hồn đơn sơ thật hồn nhiên mà tôi biết được qua những lần trò chuyện, những tâm sự trong đêm dài hay qua những dừng quân ngắn trong khi cùng nhau vui đùa. Với họ, tôi đã yêu những bản nhạc lính mà trước đây tôi từng chê là sến. Với họ, tôi đã tìm thấy tình đồng đội qua thử thách trong máu lửa. Với họ, bổn phận và trách nhiệm luôn được gắn liền với 4 chữ “Nhảy Dù Cố Gắng”. Và với họ, tôi quên hẳn cái chết đằng sau và nguy hiểm chờ đợi phía trước.

Sau chiến thắng ở Đồi 1062 tại Thường Đức, Thiếu tá Nguyễn Văn Phú, Tiểu Đoàn Phó của TĐ1 ND, được đề cử làm Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 15 ND tân lập và trước khi rời vùng, TTá Phú đặc biệt xin cho tôi được đi theo với Tiểu Đoàn tân lập của ông. TTá Phú và tôi đã có những giao hữu tốt đẹp trong thời gian ông trực tiếp chỉ huy cánh phó với 2 ĐĐ đánh thẳng vào trận chiến. Tôi có gởi rượu và thuốc lá đến cho TTá Phú ở mặt trận, đúng lúc phe ta cần chút chất nóng để đánh đấm cũng như để ăn mừng chiến thắng. Thêm vào đó, tôi còn có cơ duyên giúp cho TTá Phú về thăm vợ ở Sài Gòn đúng lúc, vì nhờ lần thăm này mà vợ ông mới có thai lần đầu kể từ khi lấy chồng vào cuối năm 1968.

Nếu được thuyên chuyển về Sài Gòn, tôi chắc mọi quân nhân của binh chủng ND đều vui mừng vì không những đây là hậu cứ của Sư Đoàn ND, xa hẳn nguy hiểm của chiến trường, mà còn là thủ đô, là nơi phồn hoa đô hội với nhiều chốn ăn chơi. Riêng với tôi, không những tôi được về gần nhà mình ở trong Cư Xá Sĩ Quan Chí Hòa với Măng của tôi, mà đây còn là một cơ hội quý báu để tôi có dịp gặp lại người tôi yêu và theo đuổi qua suốt 9 năm, kể từ thời Dự Bị Y Khoa, sau nhiều năm cách trở. Cuộc thử thách riêng tư này coi vậy cũng không ít gay go, so với cuộc chiến tôi vừa trải qua ở mặt trận.

Tôi đến trình diện TTá Phú tại bộ chỉ huy TĐ 15 ND ở Trại Cây Mai trong Chợ Lớn và bắt tay ngay vào nhiệm vụ của mình trong khi TĐ đang chỉnh đốn quân số, quân trang, huấn luyện…Tôi làm quen với các sĩ quan tác chiến của bộ chỉ huy TĐ như vị TĐ Phó, sĩ quan trưởng Ban 3 cùng các sĩ quan ĐĐ Trưởng, cũng như làm quen với các y tá thuộc cấp trong Trung Đội Quân Y của tôi và thiết lập danh sách tiếp liệu y dược.

Vì Lữ Đoàn 4 ND có nhiệm vụ bảo vệ Thủ Đô, nên vấn đề tiếp liệu quân trang, quân nhu cho TĐ tác chiến nói chung và tiếp liệu y dược của tôi nói riêng, có phần nào được ưu tiên. Trong trại quân, tôi đã có những buổi dạy về cấp cứu căn bản ở chiến trường như cầm máu, băng bó…, về y khoa phòng ngừa cho bệnh sốt rét, bệnh tiêu chảy, bệnh hoa liễu cho riêng các y tá của tôi và cho toàn thể binh sỉ của tiểu đoàn.

Tuy TĐ được lệnh cắm trại và ứng chiến 100%, TTá Phú thường làm ngơ cho tôi vài ba giờ những khi tôi ghé về nhà thăm Măng của tôi, cũng như thông cảm cho tôi khi tôi rời trại vào buổi chiều, nhảy lên xe ôm đến thẳng nhà người con gái tôi yêu, nhất là sau khi nghe tôi kể về cuộc tình 9 năm trời lận đận dang dở và ước muốn hàn gắn nối lại mối tình đầu đời của tôi. Người tôi yêu đang học năm cuối của khoa Chính Trị Kinh Doanh tại Viện Đại Học Đà Lạt.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd417/1493523459-HoiKy30Thang4-ThangNgayTaoLoan_002.jpg

Vào chiều Mồng Một Tết, hiên ngang trong bộ đồ hoa dù và chững chạc trong phong cách, hạnh phúc dồn dập đến với tôi khi tôi gặp lại nàng tại nhà, sau hơn 3 năm xa cách. Sau đó tôi tiếp tục ráo riết chinh phục nàng qua những lá thư đậm đà tình thương nhớ viết từ trại quân hay trong khi đi hành quân, hoặc qua những dịp thăm viếng nhà nàng, trổ tài miệng lưỡi chiếm được cảm tình của gia đình họ hàng. Mối tình của tôi từ từ chuyển hướng thuận lợi. Trong bối cảnh chao đảo của chiến sự, càng ngày chúng tôi càng cảm thấy gần gũi sâu đậm hơn.

Đó cũng là thời gian TĐ15 ND bắt đầu trực tiếp tham dự những cuộc hành quân ở vòng đai Biệt Khu Thủ Đô, truy lùng các toán du kích Việt Cộng nổi lên đây đó hậu thuẫn cho cuộc tiến công của quân CS. Bấy giờ toàn bộ Miền Trung đã mất vào tay Cộng Quân. Cùng chung một số phận với các đại đơn vị khác của những quân khu và của Lực Lượng Tổng Trừ Bị như các Lữ Đoàn của Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, các Liên Đoàn Biệt Động Quân, Lữ Đoàn 3 ND, rồi LĐ 2 ND lần lượt chịu những thiệt hại lớn tại Khánh Dương, rồi Phan Rang. Những chiến thắng thường có của bao năm trước nay dần được thay thế bởi những tin thất trận, những rã ngủ không chờ đợi, những triệt thoái vô nguyên lý, những thành phố bỏ ngỏ, hay những trận đánh bất cân xứng, những vùng vẫy tuyệt vọng kéo theo bao hy sinh đau thương trong giờ thứ 25 bất chấp lệnh trên, những mất mát sinh mạng quá lớn của cả quân và dân.

Ở Sài Gòn, tình hình chính trị lẫn quân sự càng lúc càng đen tối dần. Sài Gòn với giới nghiêm sau 12 giờ đêm. Sài Gòn với hàng trăm ngàn quân dân cán chính từ bao tỉnh đàng ngoài, trắng tay chạy lấy mạng liên tục đổ về thành phố để lánh nạn, mang theo bao câu chuyện thương tâm trên các con đường di tản. Dòng đời chao đảo, đầy gian khó. Người đời hoang mang vì mất lòng tin ở chính quyền. Có tin nhiều nhân vật tên tuổi bắt đầu rời nước trong khi một số khác bàn đến chuyện phải ra đi dù chưa biết đi đâu. Đâu đâu cũng lo tích trử thức ăn chuẩn bị cho một cuộc tử thủ với viễn ảnh thành phố sẽ tắm trong máu lửa. Ngoài đường người đông hẵn, ai nấy bước đi vội vả, ánh mắt âu buồn trầm tư. Trong nhà các gia đình ngồi triền miên trước đài truyền hình hay lắng nghe tin tức từ BBC và VOA, bàn chuyện to nhỏ.

Sau trận đánh vào đơn vị du kích lớn ở giữa Tây Ninh và Sài Gòn, TĐ15 được lệnh về đóng quân tạm ở vùng Hóc Môn Bà Điểm. Khi TTá Phú và tôi đi tìm gặp nói chuyện với vị Giám Đốc của hãng dệt Công Thành để ngỏ lời cho TĐ15 ND đóng bộ chỉ huy tại hảng dệt, một ngạc nhiên đầy thú vị xẩy ra khi ông Giám Đốc buột miệng hỏi tôi “có phải đây là anh Chánh, con rể ông Thạch không?” Tôi ngất ngây trả lời “dạ đúng” cùng lúc nhận ra Chú Ngưng, chồng của Dì ruột nàng ở Thủ Đức mà tôi có dịp gặp trước đây.

Ngày hôm sau, trong sự bất ngờ vui sướng của tôi, Chú Ngưng chở nàng với người em gái đến thăm tôi ngay tại bộ chỉ huy TĐ. Khi ngồi ăn trưa với bữa cơm dã chiến, nàng có vẻ “thấm” cái đời sống phong trần lính chiến của tôi, và đã e thẹn cười khi TTá Phú nói chọc “Bác Sĩ nhỏ con, người yêu BS còn nhỏ con hơn, chắc hai người sẽ đẻ ra những thằn lằn con nhỏ chút xíu!”

Khoảng gần một tuần sau, trong đêm 23 tháng 4, TĐ15 ND được điều động đến bố trí ở cầu Bình Triệu, trên trục xa lộ Đại Hàn. Đó cũng là thời gian thị xã Xuân Lộc vừa mất. Một trận chiến kinh hồn đã diễn ra suốt 13 ngày đêm tại đây. Quân đoàn 4 của CS Bắc Việt gồm các sư đoàn 5, 6, 7 và 34 với hàng trăm chiến xa đại bác dồn toàn lực tấn công. Sư Đoàn 18 Bộ Binh của Tướng Lê Minh Đảo, với sự hỗ trợ của LĐ 1 ND, Liên Đoàn 82 Biệt Kích Dù và Không Quân lần đầu sử dụng những quả bom lớn 5 tấn Daisy Cutter, đã chận đứng bước tiến của chúng, gây thiệt hại rất nặng nề cho quân địch (*). Dù trễ, trận đánh đã gây một tiếng vang lớn xa gần và khiến những chiến sĩ quanh tôi và chính tôi lên tinh thần và tìm lại được khí thế hào hùng.

Như những quân nhân bảo vệ Xuân Lộc bị dồn vào chân tường nên đã quyết tâm anh dũng chiến đấu, chúng tôi vẫn đang còn đây, cho đến giờ phút này, sẵn sàng chờ đến lượt mình vào trận cuối cùng. Và cứ thế, TĐ15 ND bám chốt với lệnh cố thủ bảo vệ cây cầu cho đến phút cuối, hay người lính cuối cùng.

Trong những ngày kế tiếp, từ sáng sớm cho đến chiều tối, tôi chứng kiến hàng trăm hàng ngàn xe đủ loại, từ xe đạp cho đến các xe Honda, Lambretta… xe quân đội lớn nhỏ, xe chở hàng cồng kềnh đầy người và đồ vật, lính tráng thuộc đủ binh chủng và thường dân, lũ lượt kéo nhau chạy trong hỗn độn từ hướng Biên Hòa về Sài Gòn, ngang qua cầu Bình Triệu. Có lúc tôi tự hỏi làm sao biết được trong đám người chạy loạn này, ai là bọn VC cố ý len lỏi theo đám đông vào nội thành để hoạt động nội tuyến!?

TĐ15 ND bung quân làm nhiều nút chặn ở cả phía bên này và bên kia cây cầu. Tôi nhận thấy TĐ có bố trí 2 xe jeeps có mang đại bác 106 ly chống chiến xa và 2 xe jeeps khác với trang bị hỏa tiễn Tow. Đa số binh sĩ đều có mang trên lưng loại rocket M 72 chống tăng, trong vị trí sẵn sàng chống trả cản bước tiến của quân thù. Trong tư thế Y Sĩ Trưởng Tiểu Đoàn, tôi cố chuẩn bị trong khả năng của mình để cấp cứu và tản thương theo hàng dọc.

Đêm 28 tháng 4, địch pháo kích dữ dội vào trại Hoàng Hoa Thám và căn cứ Không Quân Tân Sơn Nhất. Tiếng nổ và những cột lửa bùng cháy trong đêm làm tôi thao thức tới gần sáng. Lệnh trên vẫn muốn TĐ án binh bất động trong tư thế sẵn sàng tác chiến. Bộ chỉ huy TĐ cấp tốc dời qua phía bên này cầu.

Sáng ngày 29, tôi nhìn thấy nhiều trực thăng của Mỹ bay trên trời, kể luôn cả cặp phi cơ phản lực bay vòng vòng như thể hộ tống. Xung quanh tôi ai cũng mường tượng có một chuyện gì đang xẩy ra ở Sài Gòn, nhưng chẳng một ai biết đích thực. Không lẽ Thủy Quân Lục Chiến Mỹ nhảy vào lại cuộc chiến? Nếu được như vậy, ít ra ta cũng còn cơ hội củng cố lại, tình hình rồi sẽ tốt đẹp hơn…Tôi ngây thơ mơ tưởng hay tự dối lòng?!

Gần trưa, tôi bước đến nhà thờ Đức Mẹ Fatima ở bên kia cầu Bình Triệu. Nhà thờ mở cửa nhưng không một bóng người. Một mình, tôi quỳ đọc kinh và kính cẩn cầu nguyện, xin Chúa ban ơn phước cho đơn vị Nhảy Dù của tôi, cho gia đình Măng tôi và gia đình nàng được bình an và nàng đừng rời nước để chúng tôi còn gặp lại nhau. Khi định rời nhà thờ, tôi bỗng nhìn thấychiếc máy điện thoại nằm trong góc và nẩy ra ý liên lạc với nàng dù biết nhà nàng không có điện thoại. May mắn thay, từ cuốn niên giám cũ bên cạnh điện thoại, tôi tìm ra số điện thoại của Cụ Mai Văn An, một Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện ở cùng cao ốc với nhà nàng. Sau khi Cụ An cho biết là gia đình nàng còn nguyên vẹn đây, tôi cám ơn Cụ và nhờ Cụ nhắn lại với ba của nàng là tôi, tự nhận là con rể, bình yên và đang đóng quân ở cầu Bình Triệu. Rời khuôn viên nhà thờ, lòng tôi cảm thấy thanh thản, phó mặc mọi sự trong tay Chúa an bài.

Đêm 29 Cộng Quân lại pháo kích dữ dội vào Tân Sơn Nhất và trại Hoàng Hoa Thám của Sư Đoàn Nhẩy Dù. Tín hiệu vô tuyến của Trung Tá Lê Minh Ngọc, Lữ Đoàn Trưởng LĐ 4 ND hoàn toàn im lặng. Sau đó liên lạc vô tuyến giữa TD15 ND với bộ Tư Lệnh SĐ ND cũng bị gián đoạn. Tuy nhiên 3 Tiểu Đoàn 12, 14 và 15 ND và Lữ Đoàn Phó vẫn còn giữ liên lạc với nhau.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd417/1493523478-HoiKy30Thang4-ThangNgayTaoLoan_003.jpg

Trong cùng đêm, TĐ15 ND có đụng nhẹ với các toán đặc công VC ở phía bên cầu. Lại một đêm chập chờn, không ngủ, bên cạnh những ly cà phê đậm đặc và thuốc lá đốt không ngừng! Mọi người ngồi bất động, tư lự xung quanh các máy vô tuyến kêu rè rè, thỉnh thoảng mới có một vài báo cáo từ các đại đội. Không một ai muốn lên tiếng. Người nào trong đầu cũng đầy những câu hỏi mà chẳng ai có thể trả lời.

Qua sáng ngày Thứ Tư, 30 tháng Tư, 1975, tại bộ chỉ huy TĐ15 ND, tôi đón nhận 4 người thương binh của TĐ. Trong số đó có một thương binh nặng cần phải tản thương gấp vì trúng đạn vào bụng. Sau khi tôi chuyền nước biển và viết tờ tản thương, Ban 3 TĐ cho biết không thể tản thương vì không liên lạc được với bất cứ đơn vị quân y nào như BV Đỗ Vinh, Tổng Y Viện Cộng Hòa. Tôi suy nghĩ đôi chút và trình bày với TTá Phú ý định tôi sẽ chuyễn thương binh này đến BV dân sự Nguyễn Văn Học.

Trong khi chúng tôi đứng cách xa người thương binh để bàn tính chuyện tản thương, anh ta bỗng kêu lên “Xin đừng chuyển tôi đi đâu cả. Để cho tôi chết ở đây…” và trong tích tắc, anh lấy ngay khẩu súng M16 nằm dọc cạnh anh trên chiếc băng ca, lên cò cái rẹt, quay mũi súng vào ngay dưới cằm. Nhiều tiếng la cản lên nhưng không kịp. Một tiếng nổ chát tai khiến mọi người bất động, rồi tất cả đổ xô chạy chạy lại vây quanh băng ca, nhưng chỉ còn kịp để thấy anh đang ngáp cá, người run nhẹ, vết thương mở rộng ở mặt và đầu, máu văng tung tóe. Tôi cầm chặt bàn tay anh, người y tá lấy tay vuốt mắt anh. Cơ thể anh từ từ dãn ra, đi vào cõi chết.

Những người có mặt giữ im lặng trong bầu không khí đau thương. Chỉ trong một khoảnh khắc, chúng tôi chứng kiến người lính trẻ đã làm một quyết định nhanh chóng và dứt khoát, cho thấy khí thế anh hùng bất khuất của một chiến sĩ. Một cái chết hiên ngang khi cuộc chiến đang dần tàn. Anh đạt ước nguyện chết trong danh dự với sự hiện diện của đồng đội chung quanh. Toàn thể bộ chỉ huy cùng đứng nghiêm, cố ngăn dòng lệ rơi, đồng đưa tay chào vĩnh biệt người lính.

Trong khi sự tự vận bất ngờ của người thương binh đang gây xốn xang đau lòng cho bộ chỉ huy tiểu đoàn, từ radio chúng tôi nghe bản tuyên bố đầu hàng của Tổng Thống Dương Văn Minh được lập lại nhiều lần. Sau một thời gian dài trên vô tuyến, TTá Phú quay về phía tôi và không một lời giải thích, bảo tôi đi theo với ông. Tôi ngồi sau lưng TTá Phú trên cùng một chiếc xe jeep, bên cạnh người lính truyền tin và 2 cận vệ. Người sĩ quan Ban 3 đi xe thứ hai với một toán lính khác. TĐ Phó ở lại bộ chỉ huy TĐ.

Tôi chẳng biết đoàn xe đang chạy về đâu, cho đến khi xe ngừng trong sân toà Tỉnh Trưởng Gia Định. Nhìn xung quanh, tôi thấy cả trăm người dân chạy hỗn độn trong sân, tranh dành vác những bao gạo từ trong toà tỉnh đi ra. TTá Phú đến bên tôi nói nhẹ “Bác sĩ đi đi!”, rồi ông quay lưng lại tiến vào phía bên trong tòa tỉnh với toán binh sĩ của ông. Đó là lần cuối cùng tôi nhìn thấy TTá Phú tại Việt Nam. Và đó cũng là lần cuối tôi rời vĩnh viễn Tiểu đoàn 15 Nhẩy Dù. Tôi cúi đầu, trong nghẹn ngào. Sững sờ, trong đê hèn. Bàng hoàng, trong đau đớn. Muốn gào thét nhưng miệng khô đắng. Muốn khóc nhưng mắt khô vì tủi nhục. Còn cái chết?! Tôi chưa một lần nghỉ đến.

Đang đứng ngơ ngác không biết phải làm gì thì một người đàn ông bước ngang bên cạnh tôi nói liền “ông cởi bỏ súng xuống và thay đồ nhanh lên”. Như cái máy, tôi vội chạy đến gần gốc cây lớn, định cởi bỏ tất cả. Nhưng sực nhớ lại, tôi chẳng có bộ áo quần dân sự nào trong ba lô. Vừa lúc ấy, có một thanh niên chạy ngang tôi với bao gạo trên vai. Tôi chận anh ta lại và xin bộ áo quân đang mặc trên người, cùng lúc tôi lục ví đưa tờ 500 đồng cho anh. Không một chút do dự anh ta thả bao gạo xuống đất, rồi vừa nhìn tôi như thông cảm anh ta cởi áo quần đưa cho tôi, cho luôn cả đôi dép nhật nữa…

Tôi cởi áo giáp, dây ba chạc có súng, bi đông nước, nón sắt, rồi nhanh chóng cởi đôi giày lính và bộ quân phục, gom lại để vào dưới gốc cây. Rồi tôi mặc cái áo màu xanh da trời nhớp nhúa và xỏ cái quần đậm màu, đi nhanh ra phía đường lớn đón chiếc xe ôm, bảo chở về đường Cao Thắng ở Sài Gòn, nhà nàng.

Ba ngày sau 30 Tháng Tư 75: lễ cưới được Cha Laroche của Dòng Chúa Cứu Thế chủ hôn. Với chúng tôi, đây là “đám cưới chạy tang khi mất nước”, diễn ra trong đạm bạc, cô dâu không áo cưới.

Xe ôm chở tôi đi qua nhiều đoạn đường vắng, mọi nhà đóng cửa. Đây đó là những đống áo quần trận, nón sắt, áo giáp và súng đạn rải rác bên vệ đường. Có những đoạn đường người đi lại khá đông hay tụ tập hai bên đường, và có những chiếc xe chở đầy người với mặt mày sắt máu, hô to khẩu hiệu và phất cờ MTGPMN… Cũng những con đường ấy tôi thường chạy qua lại, mà sao bây giờ bỗng trở thành xa lạ, mờ ảo như trong một cõi âm. Những âm thanh la hét, còi xe, lùng bùng trong tai tôi. Mắt tôi thấy mọi hình ảnh bên ngoài, nhưng chẳng thấu hiểu; lòng tôi như tê dại, chẳng thể suy nghĩ gì. Nhớ đến người thương binh tự vận chết sáng hôm nay, tôi ngước nhìn lên trời. Một màu tang tóc đang chụp xuống thành phố thân yêu.

Xe vào đường Cao Thắng. Nàng là người đầu tiên từ trên balcon nhìn thấy tôi bước xuống xe ôm. Nàng và các em chạy nhanh xuống mở cổng đón tôi vào. Khi đến thang lầu, tôi phải vịn vào vai nàng để bước lên từng bước. Thể tôi rã rời và tinh thần khủng hoảng, tôi thật chẳng hiểu vì sao mình lại về được đến nhà an toàn.

Hầu như mọi người đều thông cảm và tôn trọng sự yên lặng của ba nàng và của tôi. Chiều đến, tôi đạp xe về nhà Măng tôi ở cư xá Sĩ Quan Chí Hòa cho bà cụ yên tâm, rồi tôi chở Măng tôi đến nhà nàng xin ba mẹ nàng cho phép tôi ở tạm nơi đây, vì cư xá Sĩ Quan Chí Hoà quá nguy hiểm.

Tối ngày 30 tháng 4, chúng tôi ngồi ở balcon nói chuyện với nhau thật khuya. Trước đây, trong một lá thư gởi cho nàng, tôi có viết “anh xin làm bóng mát trên con đường em đi”. Giờ đây, với sự đổi đời, tương lai tôi mù mịt, viễn ảnh những năm tháng sắp tới là chuổi ngày đen tối, đọa đày và tôi e ngại tôi chẳng còn khả năng làm bóng mát cho em. Nàng ngồi nghe tôi nói nhiều hơn trả lời. Vì có lẽ câu trả lời đã được quyết định tự lúc nào.

Em yêu dấu, tôi viết bài này mến tặng Em, người đã can cường cứu vớt đời tôi khi quyết định thành vợ thành chồng với tôi trong một đám cưới quá đơn giản tại nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế ở đường Kỳ Đồng. Chỉ 3 ngày sau khi mất nước, lễ cưới được Cha Laroche của Dòng Chúa Cứu Thế chủ hôn. Với chúng tôi, đây là “đám cưới chạy tang khi mất nước”, diễn ra trong đạm bạc, cô dâu không áo cưới. Hình ảnh kỷ niệm chỉ có hai tấm hình đen trắng. Sau đó với tôi là mấy năm đi tù cải tạo, rồi đi tù vượt biên, em đã cùng tôi vượt qua bao thử thách, cho đến khi chúng ta đến bến bờ tự do.

Tôi cũng viết bài này để tưởng nhớ đến người bạn thân, BS Bùi Cao Đẳng, Y Sĩ Trưởng Tiểu Đoàn 1 ND, bạn đồng môn đồng khóa và đồng binh chủng Quân Y ND với tôi, người được sinh ra vào ngày 30 tháng 4, năm 1946, cùng tan hàng rã ngũ như tôi vào ngày 30 tháng 4, năm 1975 và đã vĩnh viển ra đi cũng vào ngày 30 tháng 4 năm 2012 tại MD, USA.

Thân tặng các chiến hữu của Tiểu Đoàn 1 ND và của Tiểu Đoàn 15 ND, đã chết trong bão tố khói lửa hay còn sống thầm lặng, hiện đang tự do ở hải ngoại hay ê chề ở trong nhà tù lớn tại Việt Nam, với những kỷ niệm chinh chiến không thể quên.

“Cho tôi xin lại ngọn đồi, ở nơi tôi dừng quân cũ
Cho tôi xin lại bờ rừng, nơi từng chiến đấu bên nhau
Cho tôi xin một lần chào, chào bao nhiêu người đã khuất
Xin cho tôi được nằm gần, bên ngàn chiến hữu của tôi”

Viết trong tháng Tư, 2013, tại California, U.S.A.
Vĩnh Chánh

(*)Tài liệu tham khảo cho bài viết:
1. Chiến Sử Sư Đoàn Nhảy Dù
2. Battle of Xuan Loc, by Phillip B. Davision
3. Fighting is an art, by George J. Weight
4. Fighting to the end, by Brigadier General Trần Q. Khôi
5. vietnamwar.net
6. sudoan18bobinh.com


Tân Sơn Hòa chuyển
nguồn: http://nhaydu.com/index_83hg_files/left_files/T-Chien/HoiKy30-4.htm


BachMa
05-16-2017, 04:50 PM
Không Bỏ Anh Em, Không Bỏ Bạn Bè
Bác-sĩ Vĩnh Chánh

Tác giả là Bác sĩ Vĩnh Chánh, thuộc Hội Y Khoa Huế Hải Ngoại. Thời chiến tranh, ông là Y Sĩ Quân Y Nhảy Dù. Bài viết sau đây được tác giả viết cho Mùa Giáng Sinh năm 2012. Chuyện là thật, nhưng họ và tên các nhân vật không hoàn toàn đúng sự thật.

Bất cứ một chiến tranh nào cũng có những hoạt động quân sự được che dấu bảo mật. Với những phi cơ màu đen không số không tên không cờ, Phi Đoàn 219 Long Mã của Không Quân VNCH, trực thuộc Phòng 7 Nha Kỹ Thuật, Bộ Tổng Tham Mưu, có nhiệm vụ thả người ra phía Bắc vĩ tuyến, đưa đón và yểm trợ những toán tiền thám Lôi Hổ, Biệt Kích đi sâu vào lòng địch… Bài phóng tác dưới đây được dựa trên câu chuyên của Trần Khánh, một người con của Huế và là một “Thượng Sĩ Già” của Biệt Đoàn 83 gồm những chiếc trực thăng H34 của phi đoàn 219, với nét mặt vẫn mang đầy vẻ khí khái hiên ngang của một chàng trai thời chiến của ngày nào dù tóc nay đã nhuộm màu thời gian. Ước mong bài viết diễn tả được phần nào công việc hiểm nghèo các phi hành đoàn của Không Lực VNCH thi hành hàng ngày mà cá nhân tôi, một y sĩ QYND, đã chứng kiến qua những phi vụ đánh phá mục tiêu, yểm trợ, tiếp tế, tản thương…trong trận đánh năm 1974 ở Đồi 1062 tại vùng Thường Đức/ Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd417/1494953191-KhongBoAnhEmKhongBoBanBe_001.jpg

Từ xa về thăm bạn bè trong vùng Nam Cali nhân Mùa Giáng Sinh năm 1981, Khánh cố tình quên cái đau răng đã hành hạ anh từ mấy ngày qua. Qua một đêm mất ngủ vì nhức răng quá độ dù tối hôm trước anh uống rượu khá nhiều với các bạn cùng phi đoàn, Khánh quyết định tìm đến văn phòng nha sĩ cầu cứu.

Vì không quen biết ở vùng này, Khánh bước đại vào một văn phòng nha khoa nằm ở góc đường, gần căn nhà người bạn mà mình vừa tá túc. Trong khi đang đứng kể rõ bệnh tình với cô nhân viên để xin cho được gặp nha sĩ dù không có hẹn trước, Khánh thấy người nha sĩ bước vào phòng và ra dấu cho người nhân viên chấp nhận, có lẽông ta nghe được câu chuyện vì đứng sát cửa phòng chờ khách.

Nằm chờ trên ghế khám không mấy lâu, Khánh thấy người Nha Sĩ vừa bước vào phòng vừa đọc hồ sơ cá nhân của Khánh. Qua vài câu thăm hỏi về bệnh tình, ông hỏi Khánh có ở trong quân đội trước khi mất nước. Khánh trả lời có và cho biết mình phục vụ trong Không Quân VN. Người Nha Sĩ ngần ngừ một thoáng rồi nói nhỏ “tôi có người em trai cũng ở trong Không Quân, nhưng nó chết rồi”. Rồi như muốn trút đi một tâm sự buồn, ông vội nói tiếp “Nó tên là Hòa, Nguyễn Đại Hòa, người rất hiền hòa như tên của nó vậy đó. Nó là trung úy phi công trực thăng đóng ở Đà Nẳng, và chết trong một phi vụ vào tháng 2 năm 1971”.

Khánh thảng thốt bật thẳng dậy, hỏi ngay “có phải xác của Trung Úy Hòa được đưa về Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương ở Huế bằng trực thăng không?” Người Nha Sĩ bước lui mấy bước và trả lời không ngập ngừng “Đúng rồi. Sao anh biết?”

Như một tia chớp, bao nhiêu hình ảnh trong phút chốc bỗng trở về trong đầu Khánh một cách mạch lạc dù câu chuyện đã xẩy ra cả mươi năm qua.

“Thưa Nha Sĩ, nếu đúng với tên người chết là Trung Úy Hoà, chính phi hành đoàn chúng tôi đưa xác anh ấy về Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương!”

Người Nha Sĩ đứng yên lặng trong giây lát, như để tự trấn tĩnh lấy mình, rồi bỗng vái lạy Khánh, vừa nói nhanh.

“Mấy lâu nay gia đình chúng tôi muốn biết về cái chết của nó vì nghe phong phanh phi đoàn nó nói là trực thăng của nó bị bắn rơi, chỉ riêng một mình nó chết thôi và phi hành đoàn 3 người còn lại đều bị bắt làm tù binh”

Trong cùng lúc đó, Khánh cũng bật dậy, nhảy vội ra khỏi chiếc ghế khám, chạy đến bên cạnh người Nha Sĩ, làm hành động ngăn không cho ông ta vái nữa; và trong sự cảm thông, hai người xúc động ôm chặt lấy nhau trong im lặng. Rồi người Nha Sĩ mời Khánh bước qua phòng làm việc. Bấy giờ Khánh mới lấy lại bình tĩnh và tuần tự kể từng chi tiết về chuyến rescue mission đặc biệt năm đó.

Trong Chiến Dịch Lam Sơn 719 đánh vào các căn cứ của CS Bắc Việt ở Hạ Lào vào tháng 2, 1971, Biệt Đoàn 83 của Khánh được biệt phái từ Phủ Bài ra Ái Tử. Sau khi thi hành thả những toán Lôi Hổ vào vùng đất địch, trực thăng H34 của Khánh đang trên đường trở về căn cứ Phủ Bài. Trước khi đến cây số 17 gần An Lỗ, liên lạc viễn tuyến trên tần số phi cơ cho biết có một chiếc trực thăng UH1H của phi đoàn bạn từ Đà Nẵng bị bắn rớt ở phía Tây Động Ông Đô. Phi hành đoàn của Khánh lập tức chuyển hướng, quay về hướng Tây, lần theo toạ độ tìm đến nơi chiếc trực thăng bị rơi.

Trời lúc đó đã về chiều dù chưa tới 5 giờ và càng vào trong núi càng nhiều sương mù. Từ trên cao, Khánh thấy xác chiếc trực thăng nằm nghiêng ở kế bên dòng suối nhỏ. Sau khi đảo quanh một vòng để quan sát tình hình chung quanh trực thăng bị rơi, chiếc H34 từ từ bay dừng một chỗ trên không và sử dụng hệ thống Hoist thả Khánh xuống ở cách xa trực thăng kia khoảng 80 thước.

Khi đến được mặt đất và tháo gỡ dây Hoist ra khỏi người, Khánh mới biết cỏ tranh xanh cao hơn đầu người anh và triền đồi rất dốc, khiến anh đã bị lăn từ trên triền đồi xuống đến dưới lòng suối.

Vừa ê ẩm trong người, vừa hồi hộp, Khánh chạy lần theo men bờ suối và đến cạnh chiếc trực thăng ngộ nạn. Khánh nhìn ở bên ngoài và chung quanh trực thăng, nhưng không thấy bóng dáng ai cả. Nhìn vào phòng lái, Khánh thấy thân thể một người nằm gục không nhúc nhích ở ghế phi công trưởng, đầu nghẹo sang một bên và kính phía trước bị bắn lủng một lỗ to tướng.

Khánh lách người qua cửa hông bên trái, lần đến gần người nằm bất tỉnh ở ghế trước bên phải. Bấy giờ Khánh mới nghe hơi thở phì phò của người phi công bị thương cùng một lúc nhận thấy khuôn mặt anh bên phải là một khối bầy nhầy đầy cả máu.

Sau khi cố gắng lôi được hai bàn chân của người bị thương còn bị kẹt ở pedales phía dưới thân máy bay, Khánh bắt đầu ôm lấy thân hình anh ta, từ từ kéo ra khỏi xác máy bay. Khánh nghe được một tiếng thở mạnh từ người phi công vừa trút hơi thở cuối cùng trong tay mình.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd417/1494953212-KhongBoAnhEmKhongBoBanBe_002.jpg


Trong khi vác xác đồng đội trên vai chạy dần về nơi an toàn, máu người chết tiếp tục chảy xuống ướt cả áo bên trong của Khánh, cộng thêm với mồ hôi của mình khiến Khánh choáng váng và mệt đến lả cả người. Sau hai lần phải dừng lại nghỉ mệt, Khánh đã đến được điểm hẹn, bấm đèn pin lên hướng trực thăng của mình làm dấu thả dây Hoist xuống cho Khánh móc xác người chết lên trước, rồi đến mình lên sau.

Chiếc H34 bay quành một vòng nhỏ như để chào vĩnh biệt lần cuối người bạn mới hy sinh, rồi lấy hướng về phía Đông Nam. Ít phút sau, Khánh lấy lại bình tĩnh, nhìn đọc bảng tên HÒA trên áo bay của người phi công xấu số.

Phi hành đoàn H34 báo cáo sự việc và nhận chỉ thị đưa xác Trung Uý Phi Công Hòa về Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương. Khánh vẫn còn run sợ, thầm nghĩ anh có may mắn không bị VC phục kích và chiếc trực thăng H34 đang bay chờ anh trên trời cũng không bị nhắm bắn trong khi thi hành nhiệm vụ một cách đơn độc vào giờ chót trong một thời tiết rất xấu.

Dù đau buồn vì 3 người phi hành đoàn còn lại đã bị bắt làm tù binh trước khi trực thăng của anh đến vùng, và phi công trưởng tử thương, nhưng Khánh và phi hành đoàn H34 của anh có niềm hãnh diện riêng vì ước nguyện của các chiến hữu Không Quân đã thêm một lần được thực hiện qua châm ngôn “Không Bỏ Anh Em, Không Bỏ Bạn Bè”.

Cả tuần sau, Khánh vẫn bồn chồn đứng ngồi không yên, người cứ mệt mỏi bần thần.Bộ đồ bay màu đen của anh vẫn còn thoảng mùi máu của đồng đội dù đã được giặt đi giặt lại khá nhiều lần. Cái chết của người Trung Úy Phi Công Hòa với gương mặt bị bắn nát một nữa bên của anh,cùng với hình ảnh của bao người lính Lôi Hổ, Biệt Kích mà Biệt Đoàn 83 của anh đã từng đưa đi, đón về phía sau lưng địch, có khi đầy đủ có khi thiếu một vài người, đã để lại những vết thương âm ỷ khó quên trong tâm hồn của con người vốn coi nhẹ tính mạng nơi anh.

Nghe xong câu chuyện và với nước mắt lưng tròng, người Nha Sĩ lên tiếng:

“Chắc vong linh em tôi xui khiến và dẫn đường cho anh đến văn phòng gặp tôi sáng nay. Câu chuyện anh kể hôm nay về cái chết của Hòa là một món quà vô giá trong mùa Giáng Sinh năm nay cho gia đình Cha Mẹ và anh em chúng tôi. Nguyện ước biết rõ về cái chết đau thương của Hòa trong vòng tay của một đồng đội sẽ mang đến một kết thúc nhẹ nhàng cho gia đình chúng tôi. Thay mặt cho toàn gia đình, tôi xin được nói lời cảm tạ với ân nhân đã đem xác em tôi về…”.

Trong mùa Giáng Sinh năm 1981, sau khi rời văn phòng nha sĩ, Khánh cảm thấy nhẹ hẳn người, như vừa trút bỏ được một gánh nặng đã cất giữ trong lòng từ lâu. Và anh bỗng thấy tâm hồn mình thư thái, nhẹ nhàng như muốn vụt lên với trời cao trong xanh.


Vĩnh Chánh
nguồn: http://rangdongphila.org/khong-bo-anh-em-khong-bo-ban-be-bac-si-vinh-chanh/

BachMa
05-24-2017, 03:09 AM
Binh chủng Nhảy Dù đã có M16 lúc đảo chánh năm 1963!!
https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd417/1495595080-4048301277_0145498e13_o.jpg

BachMa
06-04-2017, 06:47 PM
Bảy Tay Súng Oai Hùng
(A20 Xuân-Phước)

Trại tù A.20 Xuân Phước của Việt Cộng toạ lạc tại một địa điểm cách ga xe lửa Lahaye khoảng 15 cây số thuộc tỉnh Phú Yên (Trung phần). Đây chính là nơi mà trong thời chiến tranh trước 1975 VC dùng làm Mật Khu an dưỡng cho các cán binh CS của chúng. Sau khi chiếm được miền Nam tháng Tư 1975, chúng biến nơi này thành trại tù lớn, chia làm hai khu, Khu A và Khu B. Và mỗi Khu còn chia ra thành nhiều Phân trại. Phân trại E giam giữ các anh em Sĩ quan QLVNCH.

Bọn VC đã đưa toàn bộ số đàn ông di tản qua Mỹ trở về từ con tàu Việt Nam Thương Tín nhốt tại đây, rồi sau biến các tù nhân này thành những phu hồ để xây dựng những ngôi nhà ở và nhà giam bằng xi măng cốt sắt. Đồng thời chúng áp dụng một quy chế đối xử với tù nhân vô cùng khắt khe. Bọn cai tù tuyên bố rằng, nơi đây chúng sẽ "biến sắt thành bùn", bất cứ tù nhân nào dù ngoan cố tới đâu cũng phải bị khuất phục. Nhưng ngược lại, chúng đã luyện cho các tù nhân trở thành Gang Thép ! Các anh em tù gọi đây là "Trại Kiên Giam".


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd417/1496601641-BayTaySungOaiHung_001.jpg

Ở đây chúng tôi không nói về các sinh hoạt của trại tù, vì đã có 2 quyển sách nói về Trại tù A.20 Xuân Phước rồi. Một, là quyển "Trại Kiên Giam" của nhà văn Nguyễn Chí Thiệp, cựu sinh viên Quốc Gia Hành Chánh, hiện ở Texas . Và hai, là quyển "Cuối Tầng Địa Ngục" của nhà văn Đỗ Văn Phúc, cựu đại úy CTCT, hiện cũng ở Texas.

Hôm nay chúng tôi chỉ xin tường thuật lại vụ cướp súng công an rồi đào thoát của 7 cựu Sĩ quan QLVNCH, đó là:

1.- Đại úy Đặng Ly Thông (Trường Anh Ngữ QĐ)
2.- Tr/úy Nguyễn Duy Đức (Biệt Động Quân)
3.- Tr/úy Nguyễn Ngọc Bửu (TQLC Khoá 25VBĐL)
4.- Tr/úy Nguyễn Lưu Úy (Phi công F5E)
5.- Tr/uý Nguyễn Hồng Quân (Phóng viên Chiêu Hồi)
6.- Tr/uý Nguyễn Văn Minh (TQLC)
7.- Đại úy Lê Thái Chân (Pháo binh Dù)

Tại trại A-20 Xuân Phước, Phân trại A, các tù nhân được chia ra thành từng đội, mỗi đội có khoảng trên dưới 30 người. Hàng ngày các đội được hướng dẫn đi ra ngoài trại để làm việc lao động nặng nhọc như đào ao nuôi cá, cuốc đất trồng hoa màu, v.v... Mỗi lần dẫn tù từ trại đi "lao động" luôn luôn có 1 quản giáo mang súng ngắn và 2 vệ binh mang súng
dài đi kèm.

Nhưng vào ngày 13 tháng 11 năm 1980, đội của các anh em 7 Sĩ quan trên chỉ có một quản giáo và 1 vệ binh đi kèm. Vì đã có chuẩn bị từ trước, cho nên thấy đây là cơ hội tốt. Bởi vậy, thừa lúc giải lao, chỉ có một tên vệ binh đứng gần, một anh bèn dùng xẻng đập vào đầu tên vệ binh lăn ra bất tỉnh. Các anh em cướp súng rồi hè nhau tẩu thoát về phía
chân núi. Tên quản giáo ở đàng xa thấy động định chạy lại... thì anh em liền nổ một phát súng chỉ thiên, tên quản giáo hoảng sợ quay đầu hướng về trại chạy thục mạng.

Thực ra, trong toán tổ chức trốn trại lần này chỉ có 6 anh em thôi, không có Đại úy Đặng Ly Thông. Nhưng khi anh em bỏ chạy thì Đại úy Thông chạy theo luôn miệng la ơi ới... đợi tui với ! Những anh em trong đội còn lại thì ngồi yên tại chỗ. Mấy tiếng đồng hồ sau, trong trại mới báo động, bọn công an trong trại kéo ra mở cuộc truy lùng có dẫn theo cả chó, đồng thời đưa những anh em trong đội còn lại trở về trại.

Hơn tuần lễ trôi qua, anh em trong trại rất vui mừng tưởng đâu vụ trốn trại trên đã thành công. Nào hay mấy tuần sau có điện từ Tuy Hoà gọi trại cho người tới nhận diện 6 cái xác chết của tù nhân trốn trại. Một anh tù hình sự đi theo đám công an có nhiệm vụ chôn cất đã kể lại rằng, một toán du kích người Thượng phát hiện có 6 người, một người đang ngồi trên bờ, bên cạnh để 2 khẩu súng, một CKC và một AK, còn 5 người thì đang tắm dưới suối. Toán Du kích này đoán ngay là tù trốn từ trại A.20 Xuân Phước vì chúng đã được báo động từ vụ cướp súng tên du kích người Thượng mấy hôm trước. Lập tức chúng liền nổ súng bất ngờ vào anh đang ngồi giữ súng, và bắn vào các anh đang tắm dưới suối làm không ai kịp trở tay.

Toán công an trại tới nhận xác, nhận diện từng người, thấy Đại úy Lê Thái Chân lọt sổ. Nhưng một thời gian sau Đại úy Lê Thái Chân cũng bị bắt trở lại và bị kêu án 18 năm tù. Sau đó Chân được thả ra năm 1995 và qua Mỹ năm 1999, định cư tại thành phố Utica, tiểu bang New York, là một nơi hẻo lánh ít có người Việt.

Khi hay tin Lê Thái Chân tới Mỹ, chúng tôi liền liên lạc với anh ngay. Chân bèn kể vắn tắt câu chuyện như sau:

Sau khi chạy được vào chân núi, anh em không dám đi đường lộ mà phải vượt đường rừng, men gần các buôn Thượng để kiếm thực phẩm như đào trộm khoai để mưu sinh. Dọc đường anh em cướp được thêm một khẩu AK của một tên du kích người Thượng tên Ma Lan. Chính vì nhân đạo không giết tên Ma Lan mà lộ trình đào tẩu của anh em bị lộ, bọn du kích bám sát.

Toán của anh đi hơn 1 tuần lễ thì giáp với biên giới Cam Bốt. Có đêm anh em đứng trên ngọn núi Buôn Mê Thuột nhìn qua phía Cam Bốt thấy lửa đỏ trời và tiếng súng đại bác vang rền. Trong thời gian này quân VC tràn qua Cam Bốt. Vì anh Chân nguyên là Sĩ quan đề-lô pháo binh, anh có nhiệm vụ đi trước thám sát địa hình. Một hôm, anh vừa đi thám sát được một lúc thì bỗng nghe có nhiều loạt súng nhỏ nổ, anh nghĩ rằng có biến động. Anh liền tìm chỗ ẩn núp. Độ tiếng đồng hồ sau, thấy mọi sự yên tỉnh, anh liền thận trọng từng bước quay trở lại chỗ anh em đợi khi nảy… thì không thấy ai cả. Anh bị lạc từ đó không biết chuyện gì đã xẩy ra cho các bạn đồng đội?


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd417/1496601658-BayTaySungOaiHung_002.jpg

Cho đến mấy ngày sau, ngày 18-12-1980 anh chạm trán với một toán bộ đội VC, chúng chận hỏi giấy tờ. Anh chối quanh, chúng làm dữ đòi bắn bỏ. Sau anh đành nhận đại là tìm đường vượt biên. Chúng đưa anh về đồn tạm giam. Qua hôm sau chúng điều tra ra anh trốn trại, nên đánh anh một trận suýt chết, rồi giải giao anh trở về trại Xuân Phước. Tới lúc
đó, anh mới được anh em đồng tù thuật lại về cái chết của 6 đồng đội. Tất cả 6 cái xác được chôn chung một cái huyệt, san bằng, không để lại chút dấu vết gì!

Sau khi Chân vắn tắt kể cho nghe câu chuyện, chúng tôi còn muốn biết thêm nhiều chi tiết nữa, nhưng Chân hẹn lại dịp khác. Lần khác gọi lại thì Chân lại bận. Chúng tôi yêu cầu Chân viết ra giấy, hoặc thâu vào băng gởi cho chúng tôi cũng được. Chân đồng ý. Một mặt chúng tôi viết bài "Bảy Tay Súng Oai Hùng" này gởi cho Chân xem. Chân có đính chính vài chỗ, nhứt là tên họ và cấp bậc của 6 người bạn. Đồng thời kèm theo mấy dòng:

- Anh Sáu, chuyện vượt ngục của em dài dòng và chi tiết nhiều lắm. Thuận tiện em sẽ thâu băng và nhờ anh góp ý. OK nhé ! Bây giờ chỉ gởi thêm một ít chi tiết và tùy anh định liệu. Mất liên lạc một thời gian, chúng tôi bắt lại liên lạc và cho Chân xem lại bài viết sau khi đã hoàn chỉnh. Chân cho biết như vậy đã tạm đủ, chúng tôi liền đưa lên các diễn đàn hôm 30-12-2008.

Và rồi sau đó ít lâu, một bạn đọc ở Pháp có liên lạc cho chúng tôi biết, có một gia đình ở Pháp đã trở về VN mấy lần và lên tận Trại A.20, xin Ban Giám Thị trại giúp đỡ để tìm đến địa điểm chôn cất 6 thi hài của tù nhân quá cố. Nhưng vì thời gian đã quá lâu, những cán bộ công an phụ trách trong thời gian đó không còn ai, lớp giải ngũ, lớp thuyên chuyển đi đơn vị khác. Các thân nhân nầy vẫn không nản chí, họ thuê người dò tìm một thời gian rồi cũng không tìm ra. Như đã nói, 6 người được chôn chung một cái huyệt và san bằng không để lại dấu vết gì, cây cỏ đã mọc phủ mất dấu. Ngay chính anh Chân cũng không thể xác định được vị trí anh em dừng chân lúc đó…

Chúng tôi có gợi ý với quý vị ấy, trong số 2 tù hình sự phụ trách đào mộ lúc đó có một anh tên là Quý, cựu “Hạ sĩ Nhảy Dù” đóng tại Trại Hoàng Hoa Thám, Tân Sơn Nhứt, Sàigòn. Hạ sĩ Quý, thường gọi là Quý Đen, có cha là lính Pháp gốc Phi Châu, người cao lớn, da đen nhánh và tóc quăn… rất dễ nhận diện. Nếu tìm được Hạ sĩ Quý Đen thì chắc chắn là sẽ tìm ra nơi chôn cất 6 di hài Chiến sĩ QLVNCH.

Đầu mối để tìm ra Hạ sĩ Quý Đen là các Sĩ Quan, HSQ hoặc binh sĩ Nhảy Dù thuộc đơn vị cuối cùng trại Hoàng Hoa Thám năm 1975… Chúng tôi hy vọng bài viết nầy sẽ được quý vị cựu quân nhân các cấp thuộc trại Hoàng Hoa Thám năm xưa đọc. Nhờ ơn trên may ra sẽ có vị biết rõ quê quán và địa chỉ của Hạ sĩ Quý Đen, xin hãy lên tiếng hầu giúp cho gia đình của “Bảy Tay Súng Oai Hùng” tìm ra mộ huyệt các người thân để cải táng…

Đó chính là một niềm an ủi vô biên cho các Chiến Sĩ quá cố!

Lynnwood, 15-12-2013
Quang Phục Võ Văn Sáu

Tái bút: Xin quý bạn đọc vui lòng phổ biến thật rộng bài viết nầy hầu
giúp cho thân nhân của 6 Anh Em Chiến sĩ VNCH đã hy sinh… tìm ra Hạ sĩ Quý Đen.
Đa tạ.

nguồn: http://nhaydu.com/index_83hg_files/left_files/T-Chien/7-taySung.htm

BachMa
06-15-2017, 03:29 AM
50 Năm Ngày Quân Lực 19 Tháng 6
Giao Chỉ San Jose


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd417/1497496969-50 nam NgayQuanLuc_001.jpg

Nửa thế kỷ đã trôi qua, cựu quân nhân VNCH vẫn còn nhớ mãi ngày quân lực. Khắp mọi nơi đều tổ chức họp mặt... bởi vì.. "Hồn lính còn vương trên tóc bạc, anh nhớ sa trường, em có hay..."

Ý nghĩa và lịch sử

Lịch sử miền Nam Việt Nam của chúng ta ngoài bất hạnh to lớn là ngày mất nước tan hàng 30 tháng 4-1975 còn có những bất hạnh nhỏ cũng khá đau thương.

Nếu chúng ta có những ngày ghi dấu rõ ràng như giỗ Tổ Hùng Vương, Hai bà Trưng, rồi trải qua các triều đại anh hùng chiến đấu chống Bắc phương của thời xưa thì ngày tháng lịch sử của một trăm năm qua có nhiều điều phiền muộn.

Không thể kể đến các ngày tháng mà phe cộng sản ồn ào tưởng niệm, riêng miền Nam chúng ta vẫn còn nhớ ngày 20 tháng 7-1954 chia đôi đất nước. Rồi đến 30 tháng 4-1975 mất nốt miền Nam. Đó là hai ngày quốc hận. Chúng ta có đến 2 ngày Quốc Khánh nhưng chẳng ngày nào được coi là toàn quân toàn dân đồng thuận. Ngày 26 tháng 10 của nền đệ nhất Cộng Hòa với tổng thống Ngô Đình Diệm cũng phải trả giá mở đầu bằng cuộc truất phế ông vua cuối cùng của triều Nguyễn trong chức vụ quốc trưởng và chấm dứt bằng cái chết của chính vị tổng thống đầu tiên. Qua nền đệ nhị Cộng Hòa của trung tướng Nguyễn Văn Thiệu đã ra đời bắt đầu bằng một ngày Quốc Khánh mới 1 tháng 11. Ở giữa 2 nền Cộng Hòa có ngày 19-6-1965. Ngày mà ông thủ tướng Kỳ gọi là ngày quân đội lên cầm quyền. Đó là ngày được chọn là ngày Quân Lực, chúng ta vẫn tưởng nhớ và kỷ niệm cho đến nay. Tại hải ngoại đây là ngày quân lực lần thứ 50.

Mặc dù không thích cái ý nghĩa nguồn gồc lịch sử của ngày Quân Lực, nhưng không phải vì vậy mà chúng tôi không tôn trọng nó. Đây chính là điều hẹn ước, đây chính là một sự thỏa hiệp. Đây là cái cây của tình chiến hữu, phải chăm sóc mới tồn tại và phải tưới nước bón phân mới sống được. Sau cùng, khi nói chuyện cũ vẫn có anh em trẻ hỏi rằng tại sao ngày xưa không lựa chọn một ngày nào khác có ý nghĩa và không hệ lụy với biến chuyển thời sự cuả các triều đại. Bèn kể lại chuyện lịch sử ngày Quân lực như sau:

50 lần Quân Lực, viết cho đời lính.

Tôi đã từng đọc biết bao lần về lịch sử Ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Mỗi lần đọc là một lần khắc khoải, nhưng rồi bụng lại bảo dạ, thôi không than thở nữa. Lần này vào dịp Quân Lực 19 tháng 6 năm 2015, lại xin gửi đến các chiến hữu một chút tâm sự.

Cũng như quý vị, chúng tôi không thích cái ý nghĩa nguyên thủy của Ngày Quân Lực mà ông thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ đã khoe rằng, ông là cha đẻ. Chẳng phải bây giờ mới nói ra cái chuyện cũ kỹ đó, chúng tôi đã từng viết ra cảm nghĩ ray rứt ngay từ 50 năm về trước. Ngay từ ngày đó Giao Chỉ cũng đã vất vả về cây bút. Số là ngay sau khi đảo chính ông Diệm, tôi là sĩ quan đại diện Quân Khu I từ miền Đông lên họp Tổng Tham Mưu về đề tài đi tìm một ngày ghi dấu cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Anh em trong ủy ban các cấp ngồi bàn thảo. Lấy biết bao nhiêu ngày tháng lịch sử từ Bắc vào Nam, từ 1950 đến 1965 để đưa ra lựa chọn. Suốt cả chiều dài của lịch sử đều là những ngày tháng có liên quan đến việc hình thành quân đội quốc gia, nhưng chẳng chọn được ngày nào cho trọn vẹn ý nghĩa. Cái đắng cay của vấn đề là giai đoạn trước di cư 54, nghị định văn thư và hồ sơ thành lập đơn vị Việt Nam đều bằng tiếng Pháp và từ bộ tư lệnh quân đội Viễn Chinh đưa xuống. Lệnh cho thành lập BVN gọi là các tiểu đoàn Việt Nam cũng bằng Pháp văn. Lệnh cho tiểu đoàn 5 nhảy dù Việt Nam vào Điện Biên Phủ cũng do tướng Pháp ký. Tiểu đoàn trưởng cũng là người Pháp. Đọc lịch sử quân đội quốc gia trước thời 1954, bộ tổng tham mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tại Sài Gòn chưa tìm được một ngày cho đủ ý nghĩa của Quân Lực. Sau 1954 thì cũng có một số ngày tháng được trình lên để duyệt xét. Bản phúc trình có ghi lại một số dữ kiện mà ký ức mòn mỏi của tôi còn hình dung được một vài chi tiết như sau: Thời kỳ 46 – 47, quân đội Liên Hiệp Pháp bắt đầu tuyển mộ tân binh Việt Nam, các đơn vị bổ túc ra đời, các đại đội nhảy dù lính Việt do sĩ quan Pháp chỉ huy. Hiệp ước Hạ Long ngày 6 tháng 6-1948, vua Bảo Đại nhân danh Quốc Trưởng ký với Pháp có điều khoản thành lập Quân Đội Quốc Gia. Ngày 1 tháng 6-1949, khóa sĩ quan Việt Nam đầu tiên mở ra tại Huế. Bốn tiểu đoàn Việt Nam thành lập. Trong Nam là tiểu đoàn 1 Bạc Liêu và tiểu đoàn 3 Rạch Giá. Ngoài Bắc, tiểu đoàn 2 Thái Bình và tiểu đoàn 4 Hưng Yên. Tiểu khu Hưng Yên ngày đó là thời kỳ các sĩ quan trẻ gặp nhau. Trung úy Nguyễn Văn Thiệu, trung úy Cao Văn Viên và đại úy Trần Thiện Khiêm. Cao cấp nhất là đại úy Nguyễn Khánh sau thăng cấp thiếu tá. Sau này các sĩ quan ngày xưa trở thành quốc trưởng, tổng thống, thủ tướng và đại tướng tổng tham mưu trưởng. Đến khi tập hợp vào miền Nam. Quân Đội Quốc Gia gia tăng dần lên 60,000 quân nhưng chưa có được một ngày quân lực mang ý nghĩa rõ ràng. Phía chính phủ trước đó thì đã có ngày Quốc Khánh 26 tháng 10 tổ chức duyệt binh hàng năm ghi dấu Đệ Nhất Cộng Hòa của tổng thống Ngô Đình Diệm. Sau đó là đến thời kỳ đảo chính và những năm xáo trộn giữa các tướng lãnh với cả chục lần binh biến. Tuy nhiên, sau cùng miền Nam đã gượng gạo nhận ngày cách mạng 1 tháng 11 làm ngày Quốc Khánh mới.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd417/1497496983-50 nam NgayQuanLuc_002.jpg

Tiếp theo, với sức ép của Hoa Kỳ và đòi hỏi của dân chúng, các vị tướng lãnh của thời kỳ hỗn loạn chính trị ở miền Nam đã miễn cưỡng lập ra một chính phủ dân sự tạm thời với cụ Phan Khắc Sửu làm quốc trưởng và ông Phan Huy Quát làm thủ tướng. Tuy nhiên, các vị chính khách dân sự này không đủ bản lãnh để lãnh đạo đất nước trong một hoàn cảnh rất đen tối và phức tạp. Biết bao nhiêu tranh chấp giữa các đảng phái, các tôn giáo và rất nhiều khó khăn trong hoàn cảnh chiến tranh ngày một gia tăng và Mỹ ào ạt đổ quân vào Việt Nam để chặn đứng làn sóng đỏ. Thêm vào đó, quốc trưởng và thủ tướng lại bất đồng ý kiến nên nội các dân sự bèn tuyên bố bỏ cuộc, trao quyền lại cho các tướng lãnh. Các tướng lãnh niên trưởng của chúng tôi rất vui mừng họp bàn để nhảy ra chính trường gọi là nhận trách nhiệm lịch sử. Một cách hết sức khách sáo, các xếp vẫn nói là muốn rửa tay chính trị, không ham quyền lực nhưng tình thế bắt buộc phải ra nhận lãnh. Nhân danh quân đội, các đàn anh chúng tôi vẫn đeo sao trên cổ áo, họp hội nghị tranh cãi suốt ba ngày, đưa ông Thiệu, ông Kỳ ra cai trị đất nước gọi là ngày quân đội đứng lên làm lịch sử 19 tháng 6-1965. Không bao giờ tôi quên được ngày 19 tháng 6 đó. Tình cảm chân thành với quân đội thì luôn luôn gắn bó, nhưng bảo cái ngày đó là ngày toàn quân đứng lên làm lịch sử thì việc này chỉ có các xếp làm với nhau chứ đâu có ăn nhập gì đến toàn quân. Với bút hiệu Lính Chiến, tôi viết báo Chính Luận cho tổng thư ký Từ Chung qua mục “Một tuần vòng chân trời quân sự”. Tôi đã đưa ra quan điểm như trên. An Ninh Quân Đội của Quân Khu I ở Thủ Đức đã mời lên hỏi thăm sức khỏe. Gặp anh bạn quen nói rằng, “Thôi ông ơi, ông làm ơn nghỉ viết lách cho chúng tôi nhờ. Thời ông Diệm lên thì có 26 tháng 10. Đến thời ông Minh thì 1 tháng 11. Bây giờ ông Kỳ thì chọn 19 tháng 6.

Tuy nhiên, ngày đó các xếp đã chọn thì cứ coi như một hẹn ước giữa anh em mình. Bàn làm gì chuyện xa xôi cho thêm phiền. Viết lách làm gì cho rắc rối.” Đó là anh bạn đại úy an ninh quân đội đã nói chuyện với tôi đầu năm 1966. Năm đầu tiên có Ngày Quân Lực. Cho đến năm nay là 50 năm. Đúng như vậy, anh bạn cũ nhân danh An Ninh Quân Đội ngày xưa tra vấn tôi, nay đã qua đời. Đó là đại tá Trần Duy Bính. Nhưng lời chiến hữu nói ra vẫn còn ở lại. Quả thật, 19 tháng 6 hàng năm đối với chúng tôi chỉ là một ngày hẹn ước để gặp nhau. Người tự nhận là khai sinh cho 19 tháng 6 là ông thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ nay đã ra đi. Vị chủ tịch ký giấy ban hành nghị định 19 tháng 6 là trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, cũng trở thành người thiên cổ. Vậy thì, nếu đã nhìn thấy những cay đắng của lịch sử như thế thì cái ý nghĩa của ngày 19 tháng 6 của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nằm ở chỗ nào. Nghĩ như thế mà sao mỗi năm đến 19 tháng 6 vẫn thấy lòng rung động. Kỷ niệm 19 tháng 6 lần thứ nhất vào năm 1966 làm trong Bộ Tổng Tham Mưu. Năm sau 1967, duyệt binh lớn ở đường Trần Hưng Đạo. Rồi từ đó mỗi năm là có Ngày Quân Lực. Lúc làm quy mô, lúc thì thu hẹp. Cho đến năm 1973, sau khi vừa ký hiệp định Paris thì Tổng Tham Mưu tổ chức một cuộc duyệt binh vĩ đại đã được ghi vào bộ phim lịch sử ngày nay vẫn còn có dịp coi lại trên DVD. Năm đó chúng tôi tham dự trong ủy ban tổ chức tại Bộ Tổng Tham Mưu. Xin nhắc lại một vài kỷ niệm đáng ghi nhớ. Trước đó một tuần, anh hùng quân đội từ các đơn vị được chào đón tại thủ đô, dẫn đi thăm các danh lam thắng cảnh, các công xưởng quân đội, sau cùng còn du ngoạn Đài Loan. Ngày nay, tại San Jose chúng ta vẫn còn các bạn anh hùng quân đội đại diện không quân trung tá Nguyễn quan Vĩnh và đại tá Ngô Văn Định của TQLC. Thời đó các đoàn thể và thương gia khoản đãi đại tiệc suốt tuần. Thủ tướng Trần Thiện Khiêm và phái đoàn chính phủ lên làm lễ tại Nghĩa Trang Biên Hòa. Khu Nghĩa Trang Quân Đội vào đầu tháng 6-1973 đã là nơi yên nghỉ gần 15 ngàn chiến sĩ, chiếm một nửa toàn thể khu vực dự trù cho 30 ngàn phần mộ. Các trận đánh khốc liệt từ 1968 Mậu Thân đến 1972 Mùa Hè Đỏ Lửa đều có đại diện Hải Lục Không Quân về nằm dưới lòng đất lạnh. Tiếp theo ngày 19 tháng 6-1973, các đơn vị Hải Lục, Không Quân, các quân đoàn, các binh chủng, địa phương quân, nhân dân tự vệ, xây dựng nông thôn, thiếu sinh quân và nữ quân nhân đều có mặt tham dự một cuộc diễn hành lịch sử được coi là xuất sắc nhất. Và cũng thật đau thương, đây là cuộc diễn hành cuối cùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd417/1497496994-50 nam NgayQuanLuc_003.jpg

Đoạn phim được dân Hà Nội coi lén sau 1975 hết sức trầm trồ là đoàn diễn hành nữ quân nhân. Nhịp bước quân hành của các thiếu nữ trong quân phục đã làm cho rung động cô sinh viên văn khoa Nông Thị Thanh Nga. Sau khi xem diễn hành ở đường Trần Hưng Đạo, cô ghi tên vào học niên khóa 1973-1974 để về sau ra trường trở thành thiếu úy huấn luyện viên cho đến lúc tan hàng tháng 4-1975. Ngày nay cô thiếu úy của quân đội Sài Gòn trở thành quả phụ bán hàng rong ở vỉa hè chợ Tân Định. Hàng năm đem vàng hương lên Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa nhớ về ngày 19 tháng 6. Nhưng bây giờ chúng ta hãy trở lại với Ngày Quân Lực năm 1973. Sau buổi diễn hành, tổng thống đãi tiệc buổi trưa các anh hùng quân đội tại Dinh Độc Lập. Buổi chiều thủ tướng khánh thành khu triển lãm của Hải Lục Không Quân và các công xưởng tiếp vận. Buổi tối là cuộc rước đuốc và xe hoa. Hàng ngàn ngọn đuốc sáng rực đô thành Sài Gòn hoa lệ tưởng chừng như hòn ngọc viễn đông sẽ vĩnh viễn sống mãi với Việt Nam Cộng Hòa. Cùng buổi tối, đại tướng Tổng Tham Mưu Trưởng tiếp tân tại Bộ Tổng Tham Mưu.

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, phó tổng thống Trần Văn Hương, thủ tướng Trần Thiện Khiêm, toàn thể nội các, ngoại giao đoàn, phái đoàn quốc hội và các anh hùng quân đội tham dự đêm văn nghệ của biệt đoàn trung ương. Ngày vui quân lực của cả một thời xưa xa cách 50 năm tưởng chừng như mới hôm qua. Bây giờ năm 2015 đã trải qua 50 năm quân lực. Nếu ngày 19 tháng 6-1975, đất nước mà còn giữ được thì Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa sẽ có lễ khánh thành đợt sau cùng với Nghĩa Dũng Đài hoàn tất cao ngất từng không, rực rỡ hàng đèn hai bên lối đi. Khu mộ chí tướng lãnh nằm ở vòng trong, rồi đến sĩ quan các cấp và hàng binh sĩ. Nhưng rồi ngày 30 tháng tư 2015 chợt đến, ai là người còn nhớ về thắp hương tại nghĩa trang Biên Hòa.

Khu nghĩa trang xưa trên 120 mẫu năm 1975 tính đến năm 2015 diện tích nghĩa trang thu hẹp lại chỉ còn trên 50 mẫu. Các gia đình đă cải táng di chuyển 5,000 và vẫn còn 11000 ngôi mộ với cỏ gai lấp đầy lối vào. Cho đến ngày 30 tháng 4 năm 2015 vừa qua, phong trào hải ngoại về trùng tu nghĩa trang đã hoàn tất được tổng cộng gần 2000 ngôi mộ, Khu Nghĩa dũng đài đã được dọn sạch. Cây cối được chính đốn lại và các con đường đuợc tu sửa. Các tổ chức hoàn toàn tự nguyện và hoạt động riêng biệt nhưng rất hữu hiệu. Không phối hợp nhưng cùng chung mục đích. Anh em đã về từ Úc ch âu, từ Pháp quốc và từ Hoa Kỳ. Hồ sơ nghĩa trang quân đội Biên Hòa đã có mặt tại bộ ngoại giao Hoa Kỳ và Việt Nam. Có mặt tại tòa đại sứ Mỹ ở Hà Nói và Sài Gòn. Tại văn phòng huyện ủy Bình Đường và thủ tướng Hà Nội. Đặc biệt hơn nữa hồ sơ cũng luôn luôn trong tay vị đại tá Hoa Kỳ gốc Việt tùy viên quân sự Mỹ tại Hà Nội. Trong khi đó các Việt Kiều về thăm quê hương cũng đã có chương trình thăm nghia trạng Biên Hòa.Như vậy,trên phương diện chính thức, dù hoang phế điêu tàn nhưng Nghĩa trang quân đội tại Biên Hòa vẫn còn tồn tại như một chứng tích của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Với những biến chuyển thời sự hiện nay, tuy muộn màng nhưng chắc chắn nghĩa trang sẽ trở thành vĩnh cửu cũng như lịch sử của Việt Nam Cộng Hòa. Các di vật của Liên Đội Chung Sự và của quân lực đã thu về Viện Bảo Tàng tại San Jose. Ngày quân lực năm nay, Việt Museum sẽ đón chào các cựu chiến sĩ ghé lại thăm. Đặc biệt các vị từ nơi xa về thăm sẽ có dịp ghi dấu hình ảnh ý nghĩa tại San Jose với tượng đài anh hùng và hàng ngàn di tích lịch sử. Các hội đoàn quân đội họp mặt xin liên lạc với chúng tôi để thu xếp thăm viếng chung và có thể tổ chức Picnic cho từng khóa anh em trong tinh thần thực sự huynh đệ chi binh.

Giao Chỉ San Jose
nguồn: https://vietbao.com/a239190/50-nam-ngay-quan-luc-19-thang-6

BachMa
07-05-2017, 03:20 PM
Thầy Giáo Cũ và Lá Cờ Vàng
Nguyễn Duy-An


Tôi bàng hoàng xúc động thật lâu khi nhận được điện thoại của một người bạn học gọi từ Pennsylvania báo tin thầy cũ của chúng tôi là thầy N. mới từ Việt Nam qua Mỹ du lịch và thầy rất mong được gặp lại tôi. Thầy tôi đang ở nhà của một người cháu ở vùng Tây Nam tiểu bang Virginia, cách nhà tôi gần 3 giờ lái xe. Tôi gọi điện thoại xuống để chào thầy và hẹn cuối tuần sẽ xuống đón thầy về nhà nhưng thầy bảo cứ để thầy đi xe lửa lên Hoa Thịnh Đốn rồi đón thầy ở nhà ga, và “đó là mệnh lệnh” nên tôi đành phải vâng lời.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd417/1499267448-ThayGiaoCuVaLaCoVang_01.jpg

Sau khi nói chuyện điện thoại với thầy, tôi đã ngồi thẫn thờ cả tiếng đồng hồ tưởng nhớ lại kỷ niệm hơn bốn năm về trước, lúc trở về Việt Nam thăm gia đình, tôi đã hỏi thăm và tìm cách đến thăm Thầy sau gần 30 năm cách biệt. Nếu không có một người bạn học dẫn tới, chắc chắn tôi không thể nào nhận ra thầy cũ của mình... Tôi chỉ nấc lên được một tiếng “thầy” rồi ôm chầm lấy thầy mà khóc òa trong tức tưởi! Thầy tôi đó, một ông lão gầy gò ốm yếu, tóc chỉ còn lơ thơ vài sợi trắng như tuyết, và vẫn chưa được “trả quyền công dân” sau bao nhiêu năm bị tù đày vì đã làm thầy của bao nhiêu người “quyền cao chức trọng” trước năm 1975. Thầy tôi chỉ là một nhà giáo dạy trường tư nhưng đã bị giam cầm và quản chế lâu hơn rất nhiều sĩ quan và công chức khác vì lúc nào thầy cũng “ngẩng cao đầu và đứng thẳng lưng” để không mất đi tư cách của một nhà giáo. Thầy tôi đã quyết định không đi Mỹ theo diện đoàn tụ, cũng chẳng nộp đơn theo diện H.O. , chỉ muốn đi du lịch một lần cho biết trước khi về với ông bà tổ tiên.

Sáng Thứ Bảy tôi thức dậy rất trễ vì tối hôm trước ngồi chuyện trò với thầy mãi tới gần 2 giờ sáng mới đi ngủ. Vừa bước xuống nhà tôi đã thấy thầy đang ngồi uống trà và đọc báo ở phòng khách. Nghe tôi chào, thầy tháo cặp kiếng lão rồi nói:

- Đúng là “đi một ngày đàng học một sàng khôn” con ạ. Mới đọc vài tờ báo đã học được nhiều chuyện hay về đời sống của người Việt mình bên Mỹ… Con uống trà hay cà phê? Vợ con đã để sẵn phích nước sôi, hộp trà, và cà phê trên bàn. Chắc thầy làm ồn nên con giật mình hả?

- Dạ không ạ. Bình thường con dậy sớm lắm. Thầy dậy lâu chưa ạ?

- Mỗi đêm thầy ngủ có vài ba tiếng thôi. Con mệt cứ lên ngủ tiếp đi.

- Con ngủ thẳng giấc rồi thầy ạ. Để con pha vội ly cà phê rồi chở thầy ra Eden chơi. Gần 10 giờ sáng rồi, thầy trò mình ra trễ khó tìm chỗ đậu xe lắm... Buổi chiều vợ chồng con và các cháu sẽ đưa thầy lên DC chụp hình và thăm Nhà Trắng, Quốc Hội, Tháp Bút Chì, Viện Bảo Tàng và những đài kỷ niệm khác.
- Tùy con. Nhưng thầy không muốn gia đình con phát bịnh vì phải lo tiếp đãi thầy.


* * *

Trong lúc chờ vắng xe để quẹo trái vào “Cổng Tam Quan” trước trung tâm Eden, thầy tôi hỏi lớn:

- Đường này họ đặt tên là “Đại Lộ Sàigòn” hả con?

- Dạ. Hồi đầu năm Thành Phố Falls Church cho phép cộng đồng Việt Nam để thêm tên “Saigon Boulevard” song song với tên đường chính thức là “ Wilson Boulevard ”.
Còn bên trong khu Eden , tất cả các đường ngang dọc đều mang tên Việt Nam hết đó thầy.

- Người Việt mình bên này hay thật!

- Mai mốt thầy sang California hay Texas sẽ thấy nhiều trung tâm lớn hơn Eden nữa, và sinh hoạt người Việt dưới đó còn mạnh gấp mấy lần trên này thầy ạ.

Tôi vừa quẹo xe vào cổng, thầy tôi đã nghẹn ngào thốt lên:

- Ôi! Đẹp quá. Lá cờ… Lá Cờ Vàng… Ôi! Mấy chục năm rồi… Con nhớ chụp cho thầy mấy tấm hình dưới cột cờ nhé.

- Dạ… Mà thầy không sợ gặp rắc rối lúc trở về Việt Nam sao? Mấy người “du lịch” khác họ sợ liên luỵ lắm nên…

- Ăn thua chi con. Ai sao kệ họ. Phần thầy đã nếm đủ rồi, chẳng có gì phải sợ hãi! Con lái xe tới gần chỗ cột cờ đi.

- Dạ… nhưng phải đứng xa xa mới chụp được thầy ạ. Cây cột cờ cao quá.

- Ừ nhỉ. Mà con nhớ chờ lúc gió nó bay bay rồi mới chụp cho đẹp nhé. Nhìn hai lá cờ Việt – Mỹ tung bay trong gió mà thấy lòng quặn đau con ạ. Ôi! Mấy chục năm rồi!
Tôi nghe giọng thầy nghèn nghẹn như không muốn thoát ra khỏi đầu môi. Tôi biết thầy mình đang xúc động lắm. Hình như đôi mắt của thầy cũng long lanh ngấn lệ…

Sau khi chụp mấy tấm hình với nhiều góc độ khác nhau, thầy cầm tay tôi nói nhỏ:

- Con đi với thầy tới chỗ cột cờ nhé.

- Dạ.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd417/1499267521-ThayGiaoCuVaLaCoVang_02.jpg

Tôi theo thầy đến bên cột cờ. Thầy tôi trịnh trọng đưa tay sờ vào cột cờ như một cái gì linh thiêng lắm, rồi từ từ ngửa mặt, nheo mắt ngắm hai lá cờ đang tung bay phần phật dưới nắng ban mai. Mãi một lúc lâu thầy mới quay lại thầm thì bên tai tôi:

- Thầy trò mình đứng im cầu xin cho những người đã hy sinh bỏ mình vì quê hương con nhé.

- Dạ. Một phút mặc niệm phải không thầy?

- Đúng. Đã có hàng trăm, hàng ngàn người bỏ mình dưới Lá Cờ này đó, con còn nhớ không? Ta bắt đầu cầu nguyện cho họ nhé.

- Dạ.

Sau mấy phút im lặng dưới cột cờ, tôi nhận ra sự thay đổi khác thường trên khuôn mặt già nua vì tuổi tác của thầy. Tôi biết chắc chắn đằng sau đôi mắt u uẩn đau buồn của thầy còn chất chứa bao nhiêu tâm sự không biết giãi bày cùng ai. Tôi đưa thầy dạo qua một vài cửa tiệm nhưng thầy tôi cứ lững thững đi theo như một kẻ mất hồn! Tôi dừng lại bên “quầy báo” trước cửa tiệm Phở Xe Lửa. Mặc dầu “người bán báo” hôm nay không phải là “chú thương phế binh” quen biết nhưng tôi cũng lên tiếng theo thói quen:

- Chú cho cháu xin mỗi thứ một tờ.

- Có ngay. Có ngay. 15 Đô tất cả.

Thầy cầm tay tôi giặc giặc:

- Ở nhà có mấy tờ Hoa Thịnh Đốn, Phố Nhỏ… rồi đó con. Sáng nay thầy đã đọc.

- Dạ. Không sao thầy ạ. Con mua ủng hộ các chú gây “quỹ thương phế binh”.

- Ồ. Quý hóa quá!

Chờ lúc tôi nhận lại tiền thối và xếp báo xong xuôi, thầy tôi trao cho “chú bán báo” tờ giấy 5 Đô và nói nhỏ:

- Ông cho tôi góp mấy đồng nhé.

- Dạ… Dạ… Cám ơn. Xin lỗi ông đây là…

Tôi đỡ lời:

- Thưa chú đây là thầy cũ của cháu mới từ Việt Nam qua chơi.

Không để tôi nói thêm, thầy tôi lên tiếng:

- Tình chiến hữu! Tình chiến hữu! Đẹp thật! Đẹp thật! Các ông làm hay quá.

Rồi quay sang tôi, thầy tiếp tục:

- Con chụp cho thầy một tấm hình với ông anh đây. Con chụp cẩn thận để lấy hết hình cái sạp báo nhé.

- Dạ.

Không biết thầy tôi và “ông bạn mới” to nhỏ những gì mà chú ấy phải chạy nhờ người trông dùm sạp báo để đi theo thầy tôi chụp chung một số hình dưới “sân cờ” với những nụ cười thật rạng rỡ trên khuôn mặt của cả hai người. Sau đó, thầy tôi nhất định không chịu vào tiệm ăn sáng, cứ nằng nặc bắt tôi chở về nhà để đọc báo và “con đi in ngay cho thầy mấy tấm hình!” Cũng may vợ và các con tôi đã dậy, và đang chuẩn bị bữa trưa trước khi chở thầy đi thăm thủ đô Hoa Thịnh Đốn.


* * *

Thầy kính yêu,

Bao nhiêu năm ở Mỹ, hầu như tuần nào con cũng ghé Eden, và đã hơn một lần con đậu xe sát bên cột cờ, nhưng chưa bao giờ con xúc động như mấy phút cùng thầy cầu nguyện dưới cột cờ buổi sáng hôm đó. Đúng như cha ông đã nói — “không thầy đố mầy làm nên” — con đã quên mất ý nghĩa linh thiêng của Lá Cờ nếu như con không được một lần chứng kiến “cảnh đoàn viên” của thầy và Lá Cờ Vàng ở Eden sau bao nhiêu năm cách biệt. Mãi mãi con vẫn là đứa học trò bé nhỏ của thầy. Thầy không những đã dạy con qua sách vở và bài giảng mà còn qua chính gương sống của thầy. Con cầu xin để bài học về “Lá Cờ” không phải là bài học cuối cùng thầy dạy cho con.


Nguyễn Duy-An
nguồn: http://www.quocgiahanhchanh.com/thaygiaocu.htm

BachMa
07-21-2017, 06:43 PM
Bến Cũ Chiều Xuân
Trần Bạch Thu


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd417/1500662265-BenCuChieuXuan.jpg


Ga Phủ Lý chiều 28 tết, một đoàn người ăn mặc lếch thếch, áo quần vá chằng vá đụp, tay xách túi nhỏ đựng lon, hủ nhựa lỉnh ca lỉnh kỉnh từng cặp một, mang chung còng tay mỗi bên trái, phải. Bên kia đường, dân chúng hiếu kỳ với dáng vẻ sợ sệt, đưa mắt nhìn tò mò về phía đám đông hơn hai trăm người đang ngồi duổi chân trên vạt đất thấp dọc theo dốc đường ray xe lửa. Mặt trời đỏ thẳm đang dần tắt sau dãy núi Ba Sao gồ ghề đen như mực. Chúng tôi đang chờ tàu xuôi Nam.

Lúc xếp hàng chuẩn bị lên xe tải để ra ga, một anh bạn chen tới gần nói nhỏ với tôi vì anh thuận tay tráí nên muốn được còng tay phải với tôi. Ừ thì tôi thuận tay phải nên đồng ý ngay. Anh là sĩ quan trẻ, cấp bậc Thiếu tá, nguyên Tiểu đoàn trưởng thuộc Sư đoàn 7 Bộ Binh. Tôi quen anh hồi mới chuyển về trại Hà Nam Ninh được mấy tháng, trước khi xếp thành tổ đội để chuẩn bị về Nam. Trước đây, các trại cải tạo thường được phân chia ra làm hai loại dành riêng cho quân nhân và công chức ở những địa điểm khác nhau trong miền Nam cũng như sau nầy ra miền Thượng du Bắc Việt. Mãi cho đến khi Trung quốc tiến đánh các tỉnh sát biên giới phía Bắc, các trại cải tạo mới được di dời về một số tỉnh miền Trung du mạn phía tây bắc Hà Nội và các thành phần cải tạo được sát nhập lại với nhau không còn phân biệt dân hay quân nữa. Từ đó các trại chiếm đa phần là quân nhân đủ mọi cấp bậc, trừ cấp Tướng và Đại tá được xếp ở riêng còn tất cả cấp bậc còn lại đều được đưa vào các tổ đội lẫn lộn với thành phần dân sự.

Suốt gần năm năm trời bị giam giữ, từ trại cải tạo Long Thành, Đồng Nai cho đến khi ra tận ngoài Phú Sơn, Bắc Thái tôi luôn được xếp vào tổ đội thuộc thành phần dân sự chế độ cũ. Nay sinh hoạt chung với thành phần quân đội có rất nhiều điều khác biệt, vui vẻ và năng động hơn. Tính gan dạ và mưu trí của họ đã giúp “mưu sinh thoát hiểm” cho rất nhiều người đồng cảnh tù.

Trong suốt mấy ngày trên tàu tôi mới biết thật gia cảnh hiện nay của anh, vợ gởi quà thăm nuôi được mấy lần khi còn ở trại cải tạo Long Giao, rồi sau đó biệt tăm luôn cho đến khi ra miền Bắc, họa hoằng lắm anh mới nhận được một ít quà do mẹ anh gởi ra theo những người quen đi thăm nuôi chồng ở cùng trại. Nhà quê nghèo, còn nuôi thêm bốn đứa con nhỏ của anh thì làm sao đủ sức mà đi thăm nuôi. Anh lặng lẽ cam chịu thân phận người “tù mồ côi.” Dù khó khăn đến mấy cũng phải sống, anh rất giỏi cải thiện rau dại và thường khi còn mò bắt được nhiều con “rạm” (cua nhỏ to bằng ngón chân cái), đồng thời ngày nào anh cũng giấu được một ít củi khô, chẻ nhỏ quấn trong người, qua mặt được cán bộ gát cổng để đem vào trại. Người có gạo, bột ngọt hay tôm khô, anh có củi, rau, cua cá và công nấu nướng cùng nhau chia sẻ qua ngày.

Cho đến khi gia đình được phép thăm nuôi sau năm năm trời chịu đựng với đói rét và bệnh tật, tình hình cải tạo mới bắt đầu đỡ khổ. Nhờ thăm nuôi mà số người chết giảm dần. Dân chúng sinh sống quanh các trại cải tạo bắt đầu cảm thông và hiểu biết nhiều hơn về thành phần tù nhân chế độ cũ nên một số lén lút quan hệ với tù nhân để “mua bán đổi chác” đủ thứ, thông thường là cung cấp thực phẩm, thuốc men để đổi lấy quần áo, đồ dùng, dĩ nhiên là mấy tù nhân “đại lý” cũng phải biết điều với cán bộ. Về phần anh em tổ đội trưởng, trừ một số bản tính ác tâm, không lương thiện, còn lại đa phần đều ra sức giúp đỡ nhau để cùng sống sót mà chờ ngày về. Tôi còn nhớ hồi ở trại Mễ (Nam Hà) có anh Nhà trưởng nguyên là Trung tá Công binh, sau khi kiểm tra nhân số để nhập buồng giam, cán bộ ra lệnh nhắc nhở anh kiểm soát nội qui, giữ gìn yên lặng, không được tụ tập ồn ào hay nấu nướng linh tinh. Anh gật đầu.

- Thưa vâng.

Khi cán bộ đóng cửa buồng giam và áng chừng đã đi xa, anh quay ra đầu nhà, hướng về phía anh em.

- Tự do.

Thế là cả buồng mọi người cười che miệng, lục đục lên lò tự chế bằng lon guigoz cắt đôi, đốt củi nhỏ, có khi đốt bằng ny lông nấu cà phê, trà lá với nhau. Ra lao động hay ở buồng giam, cán bộ nói gì anh cũng nghe, bảo gì anh cũng vâng, đôi khi trước mặt cán bộ anh còn quơ tay nói lớn bảo anh em cố gắng làm cho xong, nhưng khi cán bộ đi rồi thì đâu cũng vào đấy, lao động cầm hơi. Cải tạo lâu dài mà. Ít lâu sau, khi tôi đã chuyển trại vào Nam, nghe anh em nói lại rằng anh đã chết trong trại giam ngoài miền Bắc.

Khi xe lửa từ ga Phủ Lý lần lượt qua khỏi ga Thanh Hóa … đến Đồng Hới, anh em vui mừng vô hạn vì biết chắc rằng mình đang trên đường xuôi về miền Nam thân yêu. Tới nhà ga Quảng Trị, Huế, anh em cầm tay nhau mà ứa nước mắt. Nhớ hồi di tản tháng 3 năm 1975, càng đi xa vào trong Nam bao nhiêu càng an toàn bấy nhiêu, mọi người chạy bán sống bán chết bằng đủ mọi phưong tiện để về tới Sài gòn, nhưng than ôi … vận nước đã đến hồi mạt vận, chỉ chạy thôi mà thua trắng tay. Giờ tâm trạng cũng giống y như vậy, mong tới ga Bình Triệu nhưng khi xe lửa vừa qua Tháp Chàm một đỗi thì dừng hẳn lại.

Chúng tôi xuống ga Thuận Hải và được xe tải đưa về trại Z30 (Hàm Tân). Trời nắng nóng, mồ hôi nhễ nhại, anh em muốn cởi bỏ những bộ quần áo chống rét ngoài miền Bắc mà không được … vì tay bị còng. Gió thổi thốc tung bụi mù. Bước xuống xe chao đảo mà ai nấy cũng cố gắng nhìn quanh, lòng vui khôn tả. Sự sống tưởng chừng như đang được hồi sinh. Rừng xanh bạt ngàn, đất đai, hoa màu bát ngát ...

Anh và tôi được xếp chung vào đội lao đông nông nghiệp, làm rẫy trồng khoai, bắp. Về đến Hàm Tân ăn uống được cải thiện rất nhiều. Nhớ hôm sáng đầu tiên mới tới trại, trực cơm mang về một thau khoai mì tươi nấu chín, anh em rất đỗi ngạc nhiên vì suốt mấy năm ở ngoài Bắc, hai bửa ăn chinh chỉ có khoai mì lát, phơi khô mốc xanh hoặc bo bo còn nguyên võ, chứ làm gì có cái khác mà ăn sáng. Đã thế, tương đối gần nhà, non một ngày đường nên gia đình đi thăm nuôi thường xuyên, mỗi tháng một lần và tù nhân được tiếp tế thực phẩm rất dồi dào. Tù nhân được đăng ký tiền mặt nên thứ gì cũng có, miễn là có tiền. Lao động có kết quả, ngoài phần thu hoạch cho trại, anh em giỏi và có sức được canh tác riêng trên những vạt đất ven đường ra rẫy trại để cải thiện như bầu, bí, mướp, cải xanh... Anh bạn thuận tay trái chung còng với tôi hôm về Nam nay đã trở thành người hùng ngang dọc, trồng trọt cải thiện tứ phía. Anh chọn vạt đất gần suối để tranh thủ tưới nước, chăm sóc vì sau khi hết giờ lao động, cán bộ thường hay cho xuống suối tắm trước khi về nhập trại. Lớp ăn, lớp chia hoặc đổi lấy thực phẩm khô, riêng tôi được anh đặc biệt biếu không.

Sinh hoạt hằng ngày anh ăn cơm chung với “Bố già”, Thiếu úy cảnh sát, nguyên Trưởng cuộc ở Quảng Ngãi, luôn tự xưng mình là già hơn hết. Mà già thiệt, năm ấy cũng đã gần sáu mươi. Cứ hết đợt nầy đến đợt khác có khi gồm cả sếp cũ. Đại úy cảnh sát trẻ về nhiều rồi mà “Bố già” vẫn còn ở mãi. Mỗi lần có đợt thả về là có khiếu nại, ban đầu còn viết đơn, riết rồi cũng chán bèn đâm ra than phiền với cán bộ quản giáo. Cuối cùng cũng có kết quả là theo đội ra rẫy nhưng không lao động mà chỉ đun nước uống cho đội nên có thì giờ cải thiện, nấu nướng linh tinh.

Sinh hoạt trong buồng giam ở Hàm Tân tương đối thoải mái. Buồng giam lợp tôn thấp lè tè, láng gỗ ở trên, sạp dưới đúc xi măng, lối đi ở giữa nền đất, vách ván trống thưa. Số tù nhân giam giữ gồm hai hoặc ba đội hơn trăm người. Sau khi cán bộ đóng cửa, anh em tụ tập nhau thành nhóm, lập “bàn đèn” chiếu phim miệng, thường là tiểu thuyết của Kim Dung, “Tiếu Ngạo Giang Hồ” hay “Cô Gái Đồ Long.” Phim kiếm hiệp đôi lúc cũng bị ngưng, cắt đoạn khi máy chiếu được thăm nuôi chuyển qua tin tức thời sự: Phục quốc đã về tới Cà Mau hay Tướng lãnh VNCH đã về tới Thái Lan.

Ngoài những rạp chiếu phim kiếm hiệp còn có những “bàn đèn” văn nghệ nho nhỏ, chỉ năm ba anh em đàn hát trong buồng giam. Nhớ hồi còn ở trại Hà Nam Ninh, cứ mỗi sáng Chủ nhật nghĩ lao động, anh em thường hay tụ tập ngoài sân, sau khi nấu nướng ăn uống xong là tụ tập đàn hát và các rạp chiếu phim ngoài trời bắt đầu, máy chiếu rãi rác từng nhóm nhỏ, nhiều bộ phim rất hấp dẫn với đề tài là những câu chuyện thuộc “thâm cung bí sử” của VNCH do chính người có thẩm quyền trong cuộc kể lại.

“Bố già” không tham gia vào các “bàn đèn” chiếu phim hay văn nghệ bỏ túi vì đau lưng không thể ngồi lâu được, nhưng cung cấp đèn dầu tim nhỏ và thuốc lào với điều kiện là khi ra lao động, anh em phải thay phiên nhau ra suối gánh nước về cho Bố để nấu nước pha trà giảo cho toàn đội giải lao. Anh bạn thuận tay trái cũng ít khi tham dự “bàn đèn” viện cớ là lao động vất vả, lớp nào cho đội, lớp nào lo cho mấy vạt đất cải thiện nên mệt phờ râu, ngũ sớm để ngày mai cày tiếp. Nhưng từ trong sâu thẳm, anh em cũng đoán biết anh có cả một trời tâm sự buồn. Rất ít nói, khi xếp chỗ nằm, anh tình nguyện chọn trong góc khuất, tối thui ờ cuối buồng giam. Có hôm, khi các “bàn đèn” máy chiếu phim bị rè do cảm cúm, sổ mủi nên tắt sớm, về ngũ, anh em mới phát hiện ra là anh vẫn còn thức.

“Bố già” luôn đem niềm vui đến cho anh em, nhất là cánh trẻ có nhiều dịp đùa giởn. Nhớ những buổi chiều ra suối tắm, mình trần như nhộng, quần đùi ướt đẫm, té nước về phía “Bố già.”

- Bố xem các con còn ngon lành không? Khi về bố chọn đứa nào?

- Tau gả hết rồi.

“Bố già” kể có đứa cháu gái kêu bằng Dượng, lỡ thời, chồng chết hồi Tết Mậu Thân, ở vậy nuôi con. Vừa nói Bố vừa ngóng lên vạt đất cải thiện trên bờ suối. Anh em cười vang hiểu ý Bố. Cán bộ ra lệnh còn năm phút nữa tập trung về trại. Anh bạn thuận tay trái, nãy giờ lo tưới nước đám rẫy ở trên bờ mới lật đật xuống suối tắm giặt. Anh luôn là người vội vả sau cùng nên có nghe được gì đâu.

- Bố định làm mai cho anh đấy.

Anh cười cho vui với anh em thôi, chứ vợ con gì nữa, vết thương lòng còn chưa nguôi …

“Phương trời mình đi xa thêm xa.
Nghe vàng mùa thu sau lưng ta.
Em ơi, em ơi thu thiết tha…
Ôi người vì ta qua phong ba.
Có còn gì sâu trong tâm tư. Mắt lệ, mờ hoen, dư âm xưa…”
(Tình Lỡ)

Khi chuyển trại về Nam, anh em ai cũng tràn đầy hy vọng là sắp được thả vì theo kiểu gối đầu, trước khi có tù nhân từ miền Bắc chuyển vào thì trại đã có đợt thả đại trà hằng trăm người, đông đến độ sau khi thả tù rồi, nhiều buồng giam còn lại trống trơn, nhất là khu trại C và D dã chiến ở vòng ngoài, chỉ rào bằng dây thép gai, không có tường xây chung quanh. Thật ra, khi đã bị giam giữ nhiều năm, hơn sáu, bảy năm rồi còn gì, mà lại không biết thời gian thụ án là bao nhiêu nên anh em cũng không còn nôn nóng như trước nữa. Thôi kệ cứ vui qua ngày, có thế mới sống được chứ. Vả lại, khi về Nam không còn cảnh đói rét như ở miền Bắc nên không khí trong tù cũng khác hẳn.

Không biết bên ngoài có can thiệp gì hay không mà các đợt thả tù lại dồn dập với số lượng rất đông so với hồi năm năm về trước, mỗi năm chỉ thả một hai đợt nhỏ giọt vài ba chục người mà nghe nói toàn là bảo lãnh không thôi, chứ làm gì có học tập cải tạo tốt. Có khi là do đổi mới hay sửa sai không chừng? Tù gì mà nhiều lắm thế. Chủ hảng nước tương nỗi tiếng hiệu con mèo cũng vào tù vì tội làm ăn giàu có. Chủ hảng sản xuất xe đạp cũng vào tù vì tội cạnh tranh với thương nghiệp quốc doanh, chuyên nhập khẩu xe đạp Trung quốc. Có cả sư thầy ờ các chùa chiền địa phương. Đặc biệt nhất là có Giáo sư hội trưởng Hội Khổng học Sài gòn vào tù chỉ vì biết xem Tử vi, bốc quẻ như thần. Mỗi tối, khi cửa buồng giam vừa đóng lại, anh vỗ tay ba tiếng, ngày nào cũng vậy. Anh em tò mò, gạn hỏi năm lần bảy lượt vì ngại đến tai cán bộ, anh giải thích: Vỗ tay ba tiếng là để mừng rằng mình đã từng ngày một, trả hết nợ vay kiếp trước hay kiếp nầy. Hai là tội nghiệp cho những người gây nghiệp mới, không biết chừng nào họ mới trả được. Ba là nên tha thứ cho họ vì họ không biết việc họ làm. Anh đoan quyết là “chúng mình sắp về hết rồi.” Thế là anh em yên chí chờ ngày về.

Ban đầu còn nói đùa chơi cho vui thôi, nhưng sau đó từng đợt tù được thả càng ngày càng khít dần nên “Bố già” sợ mất cơ hội làm mai cho đứa cháu gái. Thật tình Bố rất thương và thích bọn trẻ trong tù nhưng Bố chọn anh bạn thuận tay trái là vì cho xứng đôi vừa lứa, chứ không chê bai gì bọn trẻ, giờ cũng đã ngoài ba mươi. Tội nghiệp “Bố già” lo khi được thả về rồi, đâu còn có dịp nào gặp lại nữa. Quảng Ngãi xa xôi quá, đâu có đứa nào chịu ra. Hơn nữa, sinh hoạt hằng ngày cơm nước và nhất là chiều nào cũng giúp Bố gánh nước về trại để nấu ăn hay rửa chén bát. Chỉ có anh bạn thuận tay trái là bền bỉ nhất. “Bố già” từ từ gợi chuyện.

Anh tốt nghiệp khóa 22 trường Sĩ Quan Bộ Binh Thủ Đức, ra trường chọn về Tiểu khu Quãng Ngãi và trở thành sĩ quan tác chiến thuộc Tiểu đoàn địa phương đóng quân trên địa bàn quê hương của “Bố già” gọi là thôn Bình An mà không Bình An. Tết Mậu Thân năm 1968 anh bị thương trong lúc giao tranh và bị địch bắt, sau đó chuyển lên giam giữ ở vùng Datsut, Kontum. Sáu tháng sau, anh vượt ngục thành công về tới Dakto và ra trình diện với chính quyền VNCH. An ninh quân đội điều tra (giam lỏng) và làm việc hơn sáu tháng. Sau khi hồ sơ bạch hóa anh được phục hồi cấp bậc cũ và thuyên chuyển về vùng IV, khu chiến thuật Tiền Giang làm sĩ quan tác chiến thuộc Sư đoàn 7 Bộ Binh. Khi vừa đổi về đơn vị đóng gần nhà, gia đình liền nhờ người mai mối và tổ chức đám cưới ngay trong năm.

Để đánh dấu cho sự trở về của anh như một phép mầu, gia đình tổ chức đám cưới thật lớn, thật linh đình. Cô dâu con nhà khá giả, học hành tử tế sánh vai bên anh chàng Trung úy trẻ, đẹp trai, oai phong lẫm liệt. Cả phố ai cũng mê… “Bố già” sốt ruột không muốn nghe tiếp, chỉ ngắn gọn có chịu không thì Bố nhắn về cho vợ, kỳ tới thăm nuôi sẽ dẫn cháu theo vào cho có bạn, rồi sẵn dịp coi ra sao. Còn người đã bỏ đi rồi thì kể làm chi. Nhưng anh bạn thuận tay trái bỏ lững, coi như không muốn bàn tới nữa. Sự đời đã tắt lửa lòng. “Bố già” buồn năm phút.

Tưởng đâu như thế là quên đi, nhưng có một hôm dưới bóng mát tàng cây trong trại nhân ngày nghĩ không lao động, anh em tụ tập nhau ăn uống, “Bố già” kể rằng tội nghiệp con nhỏ mới lầy chồng chưa được bao lâu thì chồng nó tử trận. Chồng mất rồi mới biết mình có thai và sau đó sanh ra một bé gái, nó lập bàn thờ chồng và ở vậy nuôi con cho đến ngày nay. Nghe cảm động và ngưỡng mộ quá, anh em bèn hỏi:

- Hiện nay cô ấy đang làm gì ở đâu Bố?

- Cô giáo Lan dạy học ở quê vợ tau từ trước tới giờ.

Đang rít một bi thuốc lào, ém hơi chờ nhả khói, anh bạn thuận tay trái bỏ dựng đứng điếu cày, chống tay lên, mặt mày xanh mét y như người say thuốc lào. Bình thường, khỏe như anh có khi phải hai bi mới đã điếu. Giọng nói hơi lạc đi.

- Võ thị Lan ở Sông Vệ phải không Bố?

- Ừ, sao mi biết?

Hồi mới còn là Thiếu úy ở Quảng Ngãi, anh theo đơn vị hành quân thường hay qua lại những bến đò ngang sông Vệ. Rồi một hôm tình cờ anh gặp cô giáo Lan là người có nhan sắc trong vùng, vừa đi dạy vừa phụ giúp mẹ có quán nước và bán thêm môt ít đồ chạp phô ở gần bờ sông. Trong đơn vị có người quen giới thiệu, tới lui nhiều lần rồi dính luôn. Đơn vị đứng ra tổ chức “đám cưới nhà binh” chỉ có cô dâu chú rễ và anh em cùng đơn vị tại hậu cứ của tiểu đoàn. Chưa tròn năm, trận Mậu Thân xảy ra anh bị thương và bị địch bắt, đơn vị báo cáo mất tích nhưng anh em cùng đại đội báo riêng cho gia đình biết là chắc chết vì bị phi pháo của ta truy kích. Sau đó, anh sống sót về trình diện An ninh quân đội và theo lời khuyên ngầm gần như bắt buộc của sĩ quan an ninh là không nên quan hệ với đơn vị cũ để bịt tất cả các đầu mối truy tầm của địch. Anh chấp hành lệnh trên và được chuyển đi nơi khác, không còn môt mối quan hệ nào ờ Quảng Ngãi nữa. Ra đi không một lời từ giả với người vợ trẻ. Rồi biền biệt qua bao năm tháng, theo đời quân ngủ anh chưa một lần nào trở lại chốn xưa…


* * *

Thế rồi vào một buổi sáng trời vừa tạnh mưa, anh em đang ngồi chờ thăm nuôi, kẻ có người không, trể hẹn là chuyện thường. “Bố già” được gọi ra nhà thăm nuôi cùng lúc với anh bạn thuận tay trái. Có khi gần tám năm rồi anh chưa được một lần thăm nuôi. Anh em rất ngạc nhiên và vui khi thấy anh đi sóng đôi với Bố ra nhà thăm nuôi. Đây là một kỳ tích của “Bố già.”

Hôm ấy cuối tuần có đông tù nhân được thăm nuôi, anh em nhường cho vợ chồng “Bố già” chọn đầu dãy bàn ở gần góc nhà, khuất tầm nhìn của cán bộ đang bắt ghế ngồi ở ngoài cửa ra vào. Chưa ngồi xuống, anh bạn thuận tay trái đã nhủn người muốn đổ xuống ghế. Đứng bên cạnh vợ “Bố già” là người đàn bà trung niên khẳng khiu mặc chiếc áo bà ba màu mỡ gà với khuôn mặt sạm nắng nhưng có nét, đôi mắt to đen lay láy đang tràn đầy nước mắt.

- Anh Mai, anh còn sống.

Anh ngồi xuống gật đầu ứa nước mắt vói tay qua dãy bàn nắm lấy tay “người ấy” mà tưởng chừng như còn xa xôi lắm…

Tối hôm đó, “bàn đèn” của đội lao động nông nghiệp ngoài thuốc lào, trà đậm còn có thêm một ít kẹo gương Quảng Ngãi. Chuyện như “châu hoàn hợp phố” gây nhiều xúc cảm khiến buổi chiếu phim anh em ngồi đầy mấy sạp, máy chiếu hơi bị rè và ngắt quảng vì không quen kể và cảm động. “Bố già” ngồi bên kia sạp xi măng thỉnh thoảng quay qua chen vào:

- Cái tưởng là của mình có khi không phải là của mình. Còn cái mình bỏ đi, tưởng không phải là của mình đôi khi chính lại là của mình.

- Con rơi con rớt hả Bố?

- Già rồi mới thấm.

Tới khuya, anh em trong ban “cổ nhạc nam phần” của Thầy Lai phụ họa thêm vài câu vọng cổ…

“Tôi đứng đây mà tưởng chừng như đứng trên bờ sông Mỹ Thuận, khi mình quay xuồng tách bến để trở lại với hai con. Bờ cây xa mờ nhuộm khói hoàng hôn, con nước lớn lục bình trôi rời rạc … Chiều đã xuống mặt trường giang bát ngát, mà bóng người thương cũng khuất dạng giữa … sông đầy …” (Tuyệt Tình Ca)

Thời gian qua nhanh, thăm nuôi mấy lượt, đường đi Quảng Ngãi – Hàm Tân không còn xa nữa. Vợ chồng con gái trùng phùng. Cô giáo Lan ngày càng mượt mà, sắc diện tươi tỉnh, vui mừng vô hạn. Mười mấy năm qua tường đâu đã mất, ai ngờ người vẫn còn đây, còn có ngày nầy…

Đến cuối năm, trại có đợt thả tù nhân hằng mấy trăm người, gần hết láng trại. Lại đúng đợt thăm nuôi vào dịp gần Tết nên thân nhân đều nán ở lại nhà thăm nuôi vài ngày chờ làm xong thủ tục để cùng về. Không khí thật rộn rịp, tràn đầy niềm vui, nhất là cánh tù nhân trẻ.

Chúng tôi ra khỏi trại vào buổi chiều, anh em cùng nhau đến xóm nhỏ trước cổng trại ghé vào quán nước bên đường. Riêng anh chị Mai Lan từ giả sớm để về Sông Vệ cho kịp Tết.

Thấy hai anh chị nắm tay nhau dìu lên xe, bất giác một anh bạn nhớ lại chuyến xuôi Nam hồi hai năm trước buột miệng lên tiếng.

- Tự do rồi muốn nắm tay nào cũng được. Tình yêu đâu cần trái phải.

Nghe thế cả bọn cười vang. Ngoài kia gió xuân đang về.


Trọng đông, 2016
Trần Bạch Thu
nguồn: http://www.quocgiahanhchanh.com/bencuchieuxuan.htm

BachMa
08-06-2017, 06:03 PM
Cuối Tuần Thả Dê
Có anh chàng nọ lang thang ở chợ cuối tuần chợt gặp một cô gái trẻ, bèn trêu:
"Cô kia, cô kỉa, cô kìa,
Mặt mũi xinh xắn, cái kia thế nào?"

Cô gái không phải tay vừa, đáp:
"Cũng xinh, cũng xỉnh, cũng xình,
Cũng như chúng mình có tóc, có lông"

Rồi hỏi lại chàng ta:
"Anh kia, anh kỉa, anh kìa,
Dáng dấp chững chạc, cái kia thế nào?"

Chàng ta trả lời:
"Cũng cưng, cũng cứng, cũng cừng,
Cũng nhảy tưng bừng khi thấy cái kia"....


Nhờ cô láng giềng
Một người đàn ông đến than phiền với bác sĩ:
- Dạo này tôi chán lắm, chẳng có hứng thú gì với vợ.
- Anh uống liều thuốc này, sau ba ngày sẽ công hiệu.
- Nhưng vợ tôi sắp đi xa cả tháng, làm sao biết được tác dụng của thuốc?
Bác sĩ mỉm cười và đùa rằng:
- Nếu vậy, anh có thể nhờ cô láng giềng xem sao.
- Thôi bác sĩ ơi, cô láng giềng của tôi mà đồng ý thì tôi cần quái gì thuốc của ông!


E thẹn
Một thiếu nữ vào phòng mạch bác sĩ xin khám tổng quát. Bác sĩ yêu cầu cô cởi bỏ quần áo.
Vốn tính hay e thẹn cô yêu cầu bác sĩ đóng cữa phòng và tắt đèn để cô cởi quần áo trong bóng tối. Vị bác sĩ làm theo và cũng khám nghiệm trong bóng tối.
Một lát khám xét xong, cô gái sờ mò hoài tìm không ra quần áo của mình bèn hỏi:
- Quần áo của em đâu hả bác sĩ?
- Thì ở dưới đống quần áo của tôi ấy mà..


Ai lăng nhăng
Một đôi nam nữ đang ngủ như hai đứa trẻ vô tội. Tới ba giờ sáng, đột nhiên một tiếng động lớn vang lên ở phía ngoài. Người phụ nữ nhảy ra khỏi giường và la lên với người đàn ông:
“Chết rồi! Chồng em về đấy!”
Thế là người đàn ông nhanh chóng nhảy ra khỏi giường trong trạng thái trần như nhộng và nhảy ra khỏi cửa sổ như một người điên. Anh ta rơi bịch xuống đất, chạy qua một bụi gai, rồi chạy rất nhanh về phía xe ô tô.
Vài phút sau, anh ta quay lại và la lên với người phụ nữ: “Tôi là chồng cô đây, đồ hư hỏng!”
Người phụ nữ hét lại: “Ờ? Thế sao anh lại chạy? Đồ lăng nhăng!”

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1381108152.gif

BachMa
08-14-2017, 01:54 AM
Duyên Kiếp
(một câu chuyện thật 100%)
Sơn Trung

Tôi tên là Đào Duy Kỳ, dòng​ dõi Đào Duy Từ, là một Trung úy trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, tốt nghiệp trường Bộ Binh Thủ Đức, ra đơn vị tác chiến khoảng hai năm thì ngày 30-4-1975 xảy đến. Cũng như mọi Sĩ Quan Việt Nam Cộng Hòa, tôi đã bị giải ra Bắc và ngồi tù qua các trại Sơn La, Yên Bái, Lạng Sơn...

Tôi vốn sinh trưởng trên sông nước Cửu Long giang, khí hậu an lành và trong mát cho nên khi ra Bắc, tôi rất khốn khổ. Tại Lạng Sơn, Thái Nguyên, mùa hè nóng ghê gớm, đến nỗi ban ngày không dám nằm giường chiếu hoặc dựa cột, ngồi ghế hay gốc cây. Mùa hè, dân nơi đây phải chui xuống gậm giường mà nằm. Mùa đông thì rét như cắt thịt, nhất là cơn gió bấc và mưa phùn đã cộng tác chặt chẽ làm tội chúng tôi, những tù nhân thiếu áo, thiếu cơm. Nhưng rồi ngày tháng trôi qua, tôi cũng đã quen thuộc với khí hậu Lạng Sơn, Thái Nguyên.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd417/1502675438-DuyenKiep.jpg

Những ngày ra Bắc đầu tiên, chúng tôi rất khổ sở. Chúng tôi bị bọn công an ngu dốt chửi mắng, đánh dập và hành hạ. Chúng dốt nhưng lại có nhiều tự hào. Tư hào chiến thắng. Tự hào yêu nước. Tự hào thông minh và tự hào giàu mạnh. Chúng thực thà tin rằng chúng là người trí tuệ, còn tất cả nhân dân miền Nam là ngu dốt nên đã theo Mỹ và thất bại. Chúng tự hào là chúng yêu nước nhất còn phe quốc gia là bán nước cho nên chúng đề cao khẩu hiệu “ Yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa”, hàm ý chỉ có người cộng sản là yêu nước. Chúng không biết Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng và đàn em sau này của Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp đã ký tên bán Việt Nam cho Trung Quốc. Họ khinh người Nam ngu dốt, không có tình yêu quê hương, tổ quốc cho nên khi có người xuất cảnh, họ mở nhạc cho nghe bài “ Quê hương là chùm khế ngọt” để dạy người xuất ngoại lòng yêu nước. Họ không biết những người bỏ nước ra đi cũng rất yêu nước, yêu nhà, yêu mẹ già, em dại và yêu tự do nhưng vì cộng sản tàn ác nên phải bỏ tất cả mà ra đi! Họ coi họ là bậc thầy, còn chúng tôi là kẻ ngu dốt phải nhờ họ dạy dỗ cho nên người. Danh từ “ học tập cải tạo” ý nghĩa là thế! Dưới mắt cộng sản, nhân dân miền Nam là cầm thú, chỉ có cộng sản là con người, con người trí tuệ, bách chiến bách thắng! Sự khinh bỉ cộng với lòng căm thù cho nên một số người Bắc đã chạy sang Hongkong mà còn làm lễ mừng chiến thắng 30-4 và đánh đập người Nam tại đây!Bọn công an, bộ đội đa số nhiễm độc cộng sản, học đường lối tàn ác từ Liên Xô, Trung Quốc,lại muốn tỏ ra hăng hái tích cực để lập công cho nên chúng đày đọa chúng tôi đủ điều. Hể một tù nhân có lỗi gì là cả lũ công an, bộ đội xúm lại đánh hôi. Đánh hội chợ coi như là một đặc tính của con người xã hội chủ nghĩa. Nếu không xúm vào mà cứ đứng trơ mắt nhìn, có lẽ họ sẽ bị phê bình là không có tinh thần đồng đội, không có ý thức căm thù quân địch. Chúng lại dùng khí hậu khắc nghiệt, và cái đói và rét để đọa đày chúng tôi. Chúng bắt chúng tôi lao động cực nhọc để trả thù chúng tôi. Nhất là những ngày đầu tiên ra đất Bắc, chúng tôi thường bị dân chúng, nhất là đàn bà và trẻ con ném đá, ném đất và chửi bới thô bỉ nặng nề. Có khi họ đã tập trung đông đảo trên đường chúng tôi đi lao động để ném đá, hô đả đảo và chửi bới. Có thể là do dân chúng đã bị nhiễm nọc độc cộng sản. Có thể địa phượng bắt dân đả đảo để trấn áp chúng tôi, mong lập thành tích kia nọ. Có đôi khi chúng tôi đột nhiên gặp vài đồng bào thì họ ngại ngùng, tránh né. Có lẽ họ sợ liên lụy, sợ bị công an bắt bỏ tù vì liên lạc với tù nhân!Sống trong chế độ ác ôn, con người phải đeo mặt nạ, nếu không thì dễ bị quỷ tha, ma bắt. Tất cả đều là nạn nhân!

Ban đầu thì chúng tôi chao động, có người sợ hãi, nhưng rồi thì cũng quen đi vì mình đã ngồi xuống đất đen thì còn gì để mất và để sợ hãi. Chúng tôi cho rằng cuộc đời chúng tôi đã chấm dứt vì ở Liên Xô, Trung Quốc và Việt Nam trước đây, những tù binh hay phản động là ngồi tù rục xương mà thôi. Chúng tôi im lặng để mặc cho họ ném đá và chửi bới. Nếu ai bị thưong thì chúng tôi săn sóc, băng bó. Nếu dân chúng quá dữ tợn thì chúng tôi dừng lại, để quản giáo giải quyết rồi mới tiếp tục đi. Tôi hiểu dân chúng miền Bắc đa số tin theo lời tuyên truyền xuyên tạc của cộng sản, và tin những lời cộng sản nói. Họ tin vào ông Hồ, họ cất giấu cán bộ, và góp lương thực ủng hộ cộng sản. Nhiều bà bảo rằng đảng lúc nào cũng đúng. Công an không bắt oan ai bao giờ. Con cháu bà nếu bị giam giữ thì bà bảo chúng nó cố gắng hoc tập tốt để sớm trở về. Nhiều ông bố thấy con ngỗ ngáo, bèn đem con cho bộ đội hay giao con cho công an để họ giáo dục thành người tốt. Ngay tại miền Nam trước 1975, nhiều người tin Nguyễn Hữu Thọ là người quốc gia, không phải cộng sản. Ông Hồ là người yêu nước, là bậc đạị nhân, đại nghĩa. Khi dân Bắc di cư vào Nam, đồng bào Nam kỳ thắc mắc: “Ngoài Bắc đã độc lập tự do, sao còn bỏ xứ mà đi?” Tất cả đã nhiễm độc quá nặng nên tôi cũng không oán trách họ. Nhưng rồi ngày tháng trôi qua, tôi nhận thấy có sự biến đổi trong dân chúng. Mấy năm sau, họ không chửi bới hay ném đá, ném đất vào chúng tôi nữa. Trái lại , có những đôi mắt lặng nhìn chúng tôi như biểu lộ một niềm thông cảm.

Sau ngày 30-4-1975, nhiều đồng bào và cán bộ miền Bắc đã vào Nam. Khi vào thì họ ốm yếu xanh xao, khi trở ra thì béo tốt, áo quần sang trọng, lại mang cả vải vóc, xe đạp, xe Honda, TV, tủ lạnh, radio, casette là những thứ mà chỉ có cán bộ cao cấp đi Liên Xô là có thể mua về được. Họ cũng nghe những câu chuyện về Miền Nam thanh bình thịnh vương, khác với hình ảnh ghê tởm, hãi hùng do cán bộ nhà nước đã tuyên truyền trước đây như lính ngụy “xé xác, uống máu, moi gan quân thù”. Họ nhìn kỹ những tù nhân thì thấy những tù nhân này tuy bị đày đọa khổ sở nhưng vẫn toát ra sự thông minh, hiền lành. Họ nghe nói sĩ quan miền Nam phần lớn có bằng đại học, ít nhất cũng tốt nghiệp trung học phổ thông chứ không phải là hạng cán bộ i tờ như ở miền Bắc sau cuộc Cải cách ruộng đất.

Khoảng 1980, tù nhân đã được gia đình thăm nuôi. Lúc này thì dân chúng miền Bắc đã tới gần dân chúng miền Nam hơn khi họ gặp những bà mẹ, người vợ sĩ quan miền Nam ra thăm nuôi. Họ thấy miền Nam nhiều tình cảm, đầy tình chồng nghĩa vợ, và có tài nguyên phong phú mà thăm nuôi chồng con trong bao nhiêu năm. Vì thế, họ thấy miền Nam có một cái gì đó khác với miền Bắc nghèo khổ, cằn cỗi về vật chất và tinh thần. Những sĩ quan miền Nam trung hậu đã trở thành đầu đề cho các câu chuyện đầu môi của dân Bắc.

Một hôm, ông giáo Thào qua sông Gianh, là một sông rất rộng ở miền Trung. Trên đò chật ních người. Thuyền chở nặng không đi nổi. Ông giáo Thào thường qua lại sông Gianh cho nên quen biết ông lái đò. Ông lái đò kêu to lên: “Ông giáo ơi, xin giúp một tay”. Ông giáo Thào bèn đứng dậy cầm chèo. Mấy bà đi chợ cười to mà nói:

“Ông giáo giỏi quá!”

Lúc bấy giờ trên đò có mấy người trẻ, to cao, mập mạp nhưng đen đúa đồng loạt đứng dậy nói với ông giáo:

“Thầy để chúng em chèo cho!”.

Việc này làm cho dân Bắc vĩ tuyến đã hiểu biết đôi phần về tinh thần “tôn sư trọng đạo”, và “ nhân nghĩa lễ trí tín” của sĩ quan miền Nam trong khi miền Bắc đã mất hẳn từ khi cờ đỏ xuất hiện trên thủ đô Hà Nội!.

Kỷ luật trại giam rất khắc nghiệt và tàn bạo. Tù nhân không được hái trộm khoai, sắn, rau trong trại. Tù nhân nam không được liên hệ tình dục với nữ phái, nếu bị bắt quả tang thì bị biệt giam ở hầm kín. Ai trốn trại thì bị giết chết không tha... Ngoài ra còn nhiều điều lệ lạ lùng khác nữa. Giữa trại tù thực dân và cộng sản có nhiều khác biệt, nhưng điều khác biệt rõ nhất là cái đói.Trong trại tù cộng sản, tù nhân luôn luôn đói. Lúc đi lao động, lúc nằm ngủ, chúng tôi đếu bị cái đói dày vò. Chúng tôi đa số không vi phạm điều thứ nhất là vì lúc nào cộng sản cũng canh chừng tù nhân rất ngặt. Ban đêm chúng khóa cửa lại, không ai ra ngoài để đào khoai, nhổ sắn. Chúng tôi có thể giải quyết vấn đề dạ dày bằng nhiều cách.Khi đi lao động, chúng tôi có thể hái rau rừng, đào khoai rừng, hoặc bắt những con vật như rắn, cắc kè, kỳ nhông, hay đào bắt bò cạp, và những côn trùng trong lòng đất. Đôi khi chúng tôi cũng giăng bẫy bắt chồn cáo, mễn và thỏ rừng. Chúng tôi vừa lao động vừa nấu ăn rất nhanh và rất gọn cho nên cũng đỡ đói ít nhiều. Điều chẳng may là không phải lúc nào chúng tôi cũng thu hoạch kết quả vì tù nhân thì quá đông. Không những tù nhân mà bọn bộ đội, công an cũng đói phải kiếm thêm lương thực. Tuy nhiên, từ khi được gia đình tiếp tế, đời sống vật chất của chúng tôi tạm đủ. Điều khoản thứ hai thì miễn bàn, vì trại tù của chúng tôi giam toàn đàn ông, Cán bộ, công an, văn phòng và y tế cũng đều là nam nhân, không có một bóng nữ. Còn việc trốn trại thì cũng hiếm.

Trong trại tôi có hai công an trẻ, tên là Hoạt và Liêm rất hiền lành. Hai anh thường dẫn chúng tôi đi lao động. Các anh rất dễ dãi, không quát nạt, bắt khoan, bắt nhặt như các công an khác. Hai anh hỏi tôi nhiều điều:

-Nghe nói sĩ quan các anh đều tốt nghiệp đại học Sài Gòn?

-Đa số sĩ quan tốt nghiệp đại học, là giáo sư, kỹ sư, bác sĩ. Một số là sinh viên.

Như tôi là sinh viên khoa học phải đi lính vì lệnh động viên.

-Trong Nam phải chăng con nhà giàu và quyền thế tay sai Mỹ ngụy mới được học đại học phải không?

-Trong Nam ai cũng được học. Con cái của Nguyễn Hữu Thọ, Trịnh Đình Thảo, Trương Như Tảng... theo cộng sản nhưng chính phủ miền Nam vẫn cho con cái họ học hành, không ngăn cấm, bắt bớ, giam cầm và trả thù vợ con họ. Mọi người đều được học trung học, đại học nếu có học lực khá...Học trung học xong thì các học sinh có thể xin học các đại học. Có hai loại đại học tại miền Nam: Một là học tự do nghĩa là vào học khỏi cần thi tuyển như Y khoa, Duợc khoa, Văn Khoa, Luật khoa. Một loại là phải thi vào là đại học Sư Phạm, Đại học Hành chánh... Nói chung là ai học giỏi đều có thể học đại học. Có nhiều bà buôn thúng bán mẹt cũng nuôi con học kỹ sư, bác sĩ.

Sau đó, cả hai công an xin tôi dạy Anh ngữ, riêng anh Liêm còn xin học nhạc với đại úy Thêm. Tôi nói:

Chúng tôi rất sẵn sàng giúp các anh học hành, nhưng không biết cấp trên có chấp thuận, và việc này có trái nội quy trại hay không.

Hai anh cho biết việc này đã được cấp trên thông qua. Sau hai năm chúng tôi chuyển trại thì việc học của hai anh công an trẻ tạm ngưng. Có lẽ các anh sẽ tìm thầy khác. Trong xã hội cộng sản, ngay cả tại Trung Quốc lục địa, hầu hết cán bộ không thích học tiếng Nga, mà thích học tiếng Anh để mong có cơ hội làm việc tại các nước tư bản. Có lẽ hai anh công an kia có dự tính xin chuyển sang ngành ngoại giao hay xin đi lao động xã hội chủ nghĩa, hay hoạt động gián điệp tại các nước tư bản. Tại Sài gòn, sau 1975, con em đảng đua nhau học tiếng Anh, còn con em “ngụy” yếu thế nên bị bắt học tiếng Nga. Sự đời tréo cẳng ngỗng là thế!

Tôi vốn là một sinh viên trường Đại Học Khoa học Sài gòn, bị động viên mà vào trường võ bị Thủ Đức. Tôi có người yêu là Bạch Yến, người Huế, sinh viên Dược Khoa, dòng dõi tôn thất. Hai chúng tôi gặp nhau tại một “bal de famille” nhân sinh nhật của một người bạn, và từ đó chúng tôi thường gặp nhau rồi yêu nhau. Những khi rảnh rỗi tôi thường đến nhà nàng. Ba nàng đi làm việc ở bộ Giáo dục, còn mẹ nàng lo việc buôn bán ở chợ Bến Thành, chị nàng dạy học ở trường tiểu học Bàn Cờ. Tôi thường đến thăm nàng vào trưa thứ năm vì ngày đó, thời khắc biểu của hai chúng tôi đều trống. Thỉnh thoảng chúng tôi đi xem ciné với nhau. Khi tôi đến thăm nàng tại nhà hay khi chúng tôi đi xem ciné, nàng thường mang hai ba lớp quần, nhất là nàng thường mang quần tây, hay quần jean để bảo vệ an toàn cá nhân. Và khi tôi đến thăm nàng, nàng cẩn thận đóng các cửa sổ lại kẻo xóm giềng xoi mói mà sinh ra điều nọ, tiếng kia. Tôi được phép cầm tay nàng, ôm nàng và hôn nàng mà thôi. Nàng hay khóc. Mỗi khi xúc động thì nàng chạy vào buồng khóc và lau nước mắt sau đó mới trở ra chuyện trò với tôi. Cuộc tình duyên của tôi đứt đoạn vì tôi phải đi động viên, rồi ra tiền đồn. Rồi biến cố 30-4-1975, tôi đi tù còn nàng thì đã theo gia đình ra đi trong ngày 29-4-1975 và chúng tôi xa nhau mà không một lời từ giã. Và cũng từ đó về sau, tôi không được tin tức gì về nàng và gia đình nàng.

Khoảng năm 1983, chúng tôi bị chuyển trại về Vĩnh Phú. Một hôm nhóm tôi gồm 20 người đi đốn cây trong rừng. Buổi trưa là giờ ăn, tôi bèn đi sâu vào rừng để tìm chuối rừng hay rau rừng để “cải thiện”. Bỗng nhiên tôi thấy có một cánh tay phụ nữ trắng trẻo giơ lên vẫy tôi. Tôi nhìn quanh rồi bước lại thì một người con gái hiện ra ôm lấy tôi và kéo tôi vào một cái hang ở dưới một gốc cây. Nàng ôm tôi và nói bằng tiếng Việt rất rõ ràng, rành mạch:

“Em yêu anh! Anh hãy yêu em đi”

Tôi không kịp phân biệt, như một cái máy, tôi ôm nàng và cởi y phục nàng. Tôi không suy nghĩ, do dự. Tôi như con hổ đói vồ mồi. Tôi như con trai mới lớn lần đầu yêu một cô gái trắng trinh. Nàng còn là một con gái và thân thể thơm mùi con gái. Tôi như đi vào một thế giới mới mẻ đầy cảm xúc tuyệt vời. Xong việc, nàng ngồi dậy, hôn tôi và bảo tôi:

“Anh hãy đi nhanh đi. Em tên là Mỹ Lan”.

Tôi vội chỉnh đốn y phục và nói:

“Cảm ơn em đã đến, đã cho anh những giây phút tuyệt vời”.

Tôi ôm nàng nhưng không nói tên tôi vì tôi không mong được gặp lại nàng lần thứ hai trong đời vì việc này rất khó đối với một tù nhân giữa núi rừng âm u! Hơn nữa, tôi sợ câu chuyện có thể bị vỡ lỡ mà mang tai họa.

Trước khi ra khỏi hang, tôi nhìn ngược nhìn xuôi lỹ lưỡng. Thấy không có ai theo dõi, tôi nhanh nhẹn bước ra rồi tiếp tục công việc như chẳng có việc gì xảy ra. Mấy hôm sau, khi đi đốn cây rừng, tôi cố ý trở lại nơi này, nhưng không hề thấy bóng dáng nàng hay một vết tích nào của nàng. Tôi cố ý lắng nghe trong trại có tin tức gì một người con gái nào bị bắt ở gần trại không, nhưng tuyệt nhiên không nghe ai nói gì cả. Tôi mừng nàng được an toàn. Tôi phục nàng can dảm, dám xông pha hiểm nguy. Nếu chuyện vỡ lỡ, nàng có thể bị bắt về nhiều tội.

Nàng có thể mang tội gián điệp và bị tù mãn kiếp, héo úa một đời xuân. Tôi bị tù đã đành, nhưng nàng tại sao lại mạo hiểm? Ngoài đời thiếu gì trai tơ? Thiếu gì đàn ông? Tôi không thể hiểu nguyên do nào mà nàng hành động như thế! Nàng là con gái miền núi, đâu phải ngưởi Tây phương mà có lối “yêu cuồng sống vội” như vậy? Quả thật tội không hiểu. Dẫu nàng thế nào đi nữa, tôi vẫn yêu nàng, trân quý nàng. Nàng là một vị tiên đã hiện đến trong đời tôi. Nàng đến một lần và chỉ ban ân sũng một lần thôi! Tôi nhớ nhung nàng.

Tôi nhớ làn da trắng ngà của nàng, hương thơm trên thân thể nàng, nhất là nốt ruồi bên mép trái, đặc biệt là một nốt ruồi son giữa ngực của nàng. Nàng chợt đến rồi chợt đi như con bướm vàng trong giấc mộng. Thỉnh thoảng tôi nhớ đến nàng. Trong giấc mơ, tôi thấy nàng cùng tôi âu yếm.Tôi thắc mắc không hiểu nàng là ai. Nàng là một cô gái Mường hay cô gái Kinh? Nàng là một sơn nữ hay một cán bộ ở trong vùng? Nàng lãng mạn muốn tìm của lạ miền Nam hay nàng là một cô gái bụi đời? Dẫu sao, đối với tôi, nàng là một vưu vật!

Tuần sau, chúng tôi được lệnh chuyển trại về Sơn La. Việc di chuyển này làm cho lòng tôi thêm chua xót.Thế là tôi xa cách Vĩnh Phú, không còn cơ hội gặp lại Mỹ Lan.

Năm 1985, tôi được phóng thích.

Trước đây, tôi nghe nói một số sĩ quan cộng hòa bị giải ra Bắc bằng xe lửa thì bị dân chúng ngoài Bắc ném đá. Nhưng lần này từ Hà nội đến Quảng Bình , chúng tôi không thấy có trở ngại nào. Khi về Quảng Trị, Huế, Quảng Nam, chúng tôi bước xuống tàu cho giản gân cốt, thì đồng bào bu lại hỏi han, nắm tay, sờ đầu, kẻ cười, người khóc làm cho chúng tôi rất xúc động. Khi chúng tôi lên tàu, đồng bào ném quà bánh cho chúng tôi rất nhiều. Tình cảm quê hương miền Nam rất nồng thắm với những đứa con bất hạnh như chúng tôi!

Sang năm 1986, tôi cùng anh chị em trong gia đình tổ chức vượt biên và may mắn đến Poulo Bidong, sau đó, năm 1987, tôi được định cư tại Hoa Kỳ. Tại Houston, tôi vừa đi làm vừa ghi tên vào đại học. Sau mấy năm, tôi đỗ bằng kỹ sư điện toán và làm việc cho hãng Corel. Sau tôi gặp Mai Linh người Mỹ Tho và chúng tôi kết hôn. Thỉnh thoảng tôi nhớ đến kỷ niệm Vĩnh Phú, nàng đã đến rồi đi như giấc mộng Liêu Trai. Tôi nghĩ giờ nàng có lẽ đã lấy chồng, hằng ngày vợ chồng mang gùi vào núi bẻ măng, đào khoai sọ, nhổ sắn như hình ảnh những người dân thiểu số mà tôi thường thấy khi đi Đà Lạt chơi. Tôi thấy bóng nàng ẩn hiện trong núi rừng Vĩnh Phú và lòng tôi cảm thấy luyến tiếc bâng khuâng. Tôi nghĩ cuộc đời nàng sẽ héo úa trong chốn rừng sâu. Giỏi lắm thì nàng sẽ thành một cán bộ thương nghiệp hay Hợp tác xã trong bản làng, tay dắt con lớn,vai địu con nhỏ, ngực teo, mặt mũi xanh xao như bao cô nàng Thổ Mán nơi thượng du miền Bắc.Hay cao hơn nữa là một nữ đảng viên cấp xã, cấp huyện, mang áo bộ đội bỏ ngoài quần, đội nón cối, đi dép râu, vai mang săc-cốt, tay đeo đồng hồ,thân gầy ốm, dáng lom khom bước trong cơ quan. Những hình ảnh của nàng, lúc ẩn lúc hiện trong tâm trí tôi làm thành một kho kỷ vật êm đềm.

Cuộc hôn nhân của chúng tôi rất hạnh phúc. Chúng tôi sống bên nhau được ba năm thì Mai Linh bị bệnh ung thư rồi mất. Tôi buồn rầu mấy năm trời. Hình ảnh Mỹ Lan lại hiện đến trong tôi rất ngọt ngào và thần bí. Hương thơm của thân thể nàng như còn vương vấn trong mũi tôi và thân thể tôi. Tôi có ý định về Việt Nam du lịch, thăm lại Vĩnh Phú, mối tình tôi. Nhưng tôi lại không dám vì cuộc đời như nước chảy mây trôi, thuyền trôi mà bến bờ cũng đổi thay, quá khứ e đã tan vỡ như xác pháo mùa Xuân, không thể nào tìm lại được. Nếu đào bới quá khứ,chỉ thêm đau lòng như Lưu Nguyễn khi trở lại quê xưa!

Các bạn bè khuyên tôi nên đi du lịch một chuyến để quên sầu. Tôi mua vé máy bay đi du lịch Đức, Pháp, và Ý vì Tây phương đối với tôi có nhiều quyến rủ. Hơn nữa, tôi có bà chị họ định cư tại Tây Đức. Chị tôi có con du học tại Tây Đức trước 1975, đỗ tiến sĩ, sau 1975 xin ở lại, rồi bảo lãnh gia đình qua đây. Khi tôi đến Tây Đức, gặp anh chị và các cháu, tôi vui mừng hết sức. Các cháu lái xe đưa tôi đi la cà trong thành phố. Một hôm các cháu đưa tôi đi ăn phở của người Việt nổi tiếng là ngon nhất tại đây. Khi bà chủ tiến tới chào hỏi chúng tôi thì tôi ngạc nhiên hết sức, vì nàng là Mỹ Lan, người tình một khắc mà tôi ghi nhớ ngàn đời. Bên môi trái của nàng vẫn in rõ một nốt ruồi duyên. Tôi liền đứng dậy, kéo nàng ra một bên, rồi hỏi nhỏ:

- Phải chăng em là Mỹ Lan? Chúng ta đã gặp nhau tại trại tù Vĩnh Phú?

Sau một phút ngỡ ngàng, nàng cũng nhận ra tôi. Tôi hỏi nàng và kể lể mọi sự. Chúng tôi ôm nhau mà khóc. Nàng giao công việc cho người nhà rồi đưa tôi về nhà nàng. Còn tôi, tôi quay lại bảo các cháu tôi:

- Bà chủ nhà hàng là bạn quen của cậu ở Việt Nam. Bà ấy mời cậu lại nhà. Các cháu về trước, cậu sẽ về sau”. Dặn dò các cháu xong, tôi theo nàng ra xe.

Nhà nàng ở tại một khu yên tĩnh trong thành phố. Nàng ở một mình với con trai. Các anh em thì đã có nhà riêng. Người thì đi làm các hãng tư, người thì phụ giúp nàng trông coi tiệm phở. Khi còn hai chúng tôi, nàng kể lể sự tình. Quê nàng ở Sơn Tây, tổ tiên đỗ cử nhân, tiến sĩ, làm chức quan nhỏ ở triều Lê, triều Nguyễn. Năm 1954, cộng sản về Hà Nội, mở cuộc cải cách ruộng đất và cải tạo công thương nghiệp, gia đình nàng bị quy là địa chủ. Mẹ nàng và anh em nàng thu vén tài sản trong tay nải, bỏ trốn lên mạn ngược. Ban đầu, gia đình nàng giả làm thương gia lên buôn bán để tìm hiểu, sau đó làm nhà cửa gần bản Mường, lán Thổ tại Vĩnh Phú.

Gia đình nàng ăn mặc, nói năng và sinh hoạt đều theo phong tục bản Mường, Mán. Nhờ khéo giao thiệp, gia đỉnh nàng được cảm tình dân chúng nơi đây, dược họ giúp đỡ và che chở. Nàng nghe tin các sĩ quan miền Nam bị đưa ra giam giữ tại Vĩnh Phú, là một nơi gần bản Mường của nàng. Tuy chưa gặp những người miền Nam, nhưng lòng nàng chan chứa cảm tình với các tù nhân miền Nam vì họ với nàng là cùng chung cảnh ngộ, là nạn nhân của chế độ cộng sản. Nàng quyết gặp một sĩ quan miền Nam và sẵn sàng hiến thân cho chàng ta để giữ lấy dòng máu trong sạch của người quốc gia. Nàng cam tâm mang tiếng “không chồng mà chữa” còn hơn ở góa trong rừng thẳm, hoặc phải lấy anh Mán, anh Thổ hay anh cộng sản làm chồng! Nàng đã nghiên cứu địa hình địa vật, và đã đào hang ẩn náu đưới một gốc cây trong rừng, nơi tù cải tạo thường tới lao động. Nàng đã chờ đợi vài ngày đêm; cuối cùng nàng đã gặp tôi, và đã toại nguyện.

Sau buổi gặp gỡ đầu tiên, nàng đã có thai. Lúc này, mẹ nàng đã mất, anh em nàng chung sống với nhau. Hằng ngày, anh em nàng phải tô mặt cho đen thêm một chút để tránh cặp mặt cú vọ của cộng sản, mặc dầu nơi đây hoang vắng, người kinh it khi lên đây Gia đình nàng cũng theo nếp “du canh” của người thiểu số mà di chuyển nơi này nơi nọ. Cứ vài năm là một lần di chuyển, như vậy cũng có lợi là tránh được sự theo dõi của công an. Nhân dịp người Hoa bị đánh đuổi trong vụ nạn kiều, anh em nàng theo họ sang Hoa Lục, rồi sang Hongkong.

Tại đây, chính phủ Hongkong bắt anh em nàng vào trại tập trung. Sau một thời gian, gia đình nàng được phái đoàn Tây Đức nhận định cư tại Tây Đức. Anh em nàng lúc đầu xin làm công nhân cho các hãng xưởng, sau cả nhà quyết định góp vốn mở hàng phở, và anh em nàng đã thành công. Khách hàng vào ra nườm nượp, người Việt Nam đã đành mà người Đức, Pháp, Mỹ cũng thích dùng phở của nhà nàng. Con trai nàng nay đã lớn, được mười tuổi, đang theo học trung học và nàng thì vẫn phòng không chiếc bóng. Còn tôi, tôi cũng kể đời tôi từ nhỏ cho đến nay, qua bao chuỗi ngày sóng gió và đau thương.

Chúng tôi ngồi nói chuyện một hồi thì nàng rủ tôi theo nàng đón con đi học về. Chúng tôi ra xe do nàng lái, và chờ đợi ở cổng trường. Vài phút sau thì học sinh tan học. Con nàng ra xe. Nàng giới thiệu tôi với con nàng:

- Hưng, đây là bố ruột của con từ Mỹ sang và gặp mẹ.

Tôi nhìn thấy Hưng giống tôi nhưng cao to hơn, và trắng trẻo hơn. Tôi ôm con tôi và con tôi cũng ôm tôi trong xúc động. Tôi rất mừng vì bất chợt mà tôi đã có một đứa con trai khôn lớn.

Tối hôm đó, chúng tôi sống trong đêm tân hôn. Đêm đó cũng là đêm thứ hai tôi thấy lại bộ ngực trần trắng như ngọc với một nốt ruồi son nằm ở giữa hai gò bồng đảo rất xinh đẹp.

Tôi ngỏ lời xin cưới nàng làm vợ, nàng sung sướng cười trong hàng nước mắt. Tôi hỏi nàng muốn sang Mỹ hay ở lại Đức, nàng trả lời nàng muốn sang Mỹ cùng tôi chung sống. Mấy tháng sau, chúng tôi tiến hành thủ tục hôn nhân và bảo lãnh. Đám cưới của chúng tôi được tổ chức đơn giản tại Đức, gồm anh chị họ và các cháu của tôi, cùng anh em nhà nàng với bạn bè. Sau đó, vợ chồng và con chúng tôi về Mỹ và sống một đời tự do và hạnh phúc.

Sơn Trung
nguồn: http://www.quehuongngaymai.com/forums/showthread.php?251071-Mời-đọc-một-câu-chuyện-thật-100-rất-hay-!

BachMa
09-03-2017, 04:01 AM
Chiến Thắng Đầu Xuân 1971
Đỗ Văn Phúc


Ưu ái tặng tất cả chiến sĩ Sư đoàn 5 Bộ binh. Đỗ Văn Phúc
Phải cắm cờ Việt Nam trên làng ThPong VIETNAM trước lúc hừng sáng.

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd417/1504410617-ChienThangDauXuan1971_001.jpg

Trên các tờ báo lớn Saigon vào một ngày đầu xuân Tân Hợi (1971), người ta đọc một giòng chữ lớn đậm nét chạy 6 cột: “Một quyết định táo bạo tại chiến trường ngoại biên: Phải cắm cờ Việt Nam trên làng ThPong Vietnam trước lúc hừng sáng” ca tụng chiến thắng lẫy lừng đầu xuân của các chiến sĩ Tiểu đoàn 4/8, Sư đoàn 5 Bộ binh trên mặt trận Snuol, Kampuchea. Các ông nhà báo quen nghề thi vị hoá; chứ thực sự thì trận đánh bắt đầu lúc hừng đông và kết thúc nhanh gọn vào lúc xế trưa. Tuy ngắn ngủi, nhưng đây là một trận đánh lớn và ngoạn mục, có ý nghĩa lớn vì đó là chiến thắng mở đầu của cuộc hành quân Toàn thắng 71 NB do Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 tổ chức đánh thọc sâu vào lãnh thổ Kampuchea trên địa bàn tỉnh Kratie nhằm phá nốt căn cứ hậu cần của cái gọi là Mặt trận Giải phóng Miền Nam, con đẻ của ngụy quyền Hà Nội nhằm xâm lược và xích hóa miền Nam ta.Sau chiến thắng Mậu thân 1968, tiêu diệt toàn bộ hạ tầng cơ sở của Việt cộng tại các tỉnh thành đô thị miền nam, cho bọn con cháu bác Hồ toại nguyện “sinh bắc tử nam”, quân ta hoàn toàn làm chủ chiến trường trên khắp 4 vùng chiến thuật, mở rộng thêm các khu bình định, đẩy bọn cộng quân còn sống sót chạy qua bên kia biên giới Việt Miên. Sư đoàn tôi trấn giữ ba tỉnh phía Bắc Sai gòn: Bình Dương, Bình Long và Phuớc Long. Những địa danh nổi tiếng như Bời Lời, Hố Bò, Tam giác sắt, Long Nguyên, Bù Na… nơi mới đây thôi, từng diễn ra bao trận chiến kinh hoàng, chôn thây hàng ngàn quân sĩ đôi bên. Ngày nay chỉ còn là những vùng đất đầy hố bom. Cây chồi đã mọc lên chằng chịt, thay thế cho những cây già bị bom và pháo ta đốn gục. Quân ta hành quân hàng tháng trời không gặp địch. Hoạ chăng vài ba đứa du kích còn sót lại trốn chui trốn nhũi dưới những căn hầm ẩm mốc, chờ đêm đêm mò ra ven đường xe bò nhận chút lương thực do thân nhân từ các làng cạnh lén lút tiếp tế cho để sống cầm hơi. Lính tác chiến lâu ngày không đánh nhau cũng chán. Nhất là lúc tuổi trai đang hăng, đang mơ ước chiến công để có thêm vài tấm huy chương cài đỏ ngực hoặc nở thêm một bông mai vàng trên ve áo trận, để thấy đường binh nghiệp thênh thang hơn. Tôi xuất thân khoá đầu tiên của trường Ðại học Chiến tranh Chính trị Ðà lạt, ra trường nhằm lúc chiến dịch Chân Trời Mới được phát động trong toàn quân mà sư đoàn 5 là thí điểm. Anh em chúng tôi có 39 tân sĩ quan chia nhau về 39 đại đội tác chiến của sư đoàn. Lẽ ra chấp nhận làm đại đội phó rồi lên trưởng ban 5 tiểu đoàn, trung đoàn, đa số anh em chúng tôi tình nguyện xuất nghành CTCT để nắm các chức vụ chỉ huy chiến đấu. Người đầu tiên làm đại đội trưởng là Dương Quang Bồi rất được tìn nhiệm. Tiểu đoàn tôi có 4 đại đội, thì dân CTCT nắm hết ba: Bồi, đại đội 16, Nhơn, đại đội Chỉ huy và tôi, đại đội 15. Tiểu đoàn trưởng lúc đó là Ðại úy Nguyễn Chí Hiền, khoá 17 Thủ Ðức, dân nhà giáo động viên, nhưng chịu đánh đấm và đã chuyển qua hiện dịch. Anh Hiền từ đại đội Trinh sát Sư đoàn về, là con chủ bài của Sư đoàn trong nhiều năm qua lối đánh táo báo, mưu trí và óc tổ chức tuyệt vời. Ðại uý Hiền đưa tiểu đoàn 4/8 từ hỗn danh “anh Tám né” lên hàng đơn vị thiện chiến nhất sư đoàn. Nhưng cũng vì thế mà chúng tôi khổ cực hơn hết, vì được Sư đoàn sử dụng tận tình, giao cho những nhiệm vụ hóc búa nhất, chịu trách nhiệm những vùng căng thẳng nhất. Ðặc biệt, năm 1970, tiểu đoàn đã đặt chân vào trung tâm mật khu Long nguyên, xuyên qua một khu rừng đầy rẫy mìn bẫy, bình định một yếu điểm mà từ hàng chục năm trước chưa có đơn vị nào dù Việt hay Mỹ trấn ngự được.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd417/1504410667-ChienThangDauXuan1971_002.jpg

Chiến trường lắng dần trong năm 1970. Cuối năm, tiểu đoàn được lệnh về trấn đóng ven đô giữ an ninh cho đồng bào Saigon ăn tết. Ðêm đêm ngủ đứng trên bờ mương vùng sông lạch sình lầy Giồng Ông Tố, nhìn qua đô thành với hàng ngàn ánh đèn màu lấp lánh, với tiếng nhạc xuân văng vẳng, lòng chợt rộn lên ước mơ một hạnh phúc sum vầy ngắn ngủi bên bếp lửa nồng ngày xuân. Gần mà rất xa, chỉ vài cây số đường chim bay thôi, nhưng nhiệm vụ và hiểm nguy từng giây ngăn trở, người lính trấn ven đô đành chế ngự ước muốn để tỉnh táo lắng nghe ngóng trong từng bụi dừa nước kia có động tịnh gì của bọn du kích ranh mãnh không.

Trước chúng tôi, Tiểu đoàn 38 Biệt động quân đã mất vài sĩ quan chỉ vì ngứa chân, đêm mò về Saigon nhảy nhót; khi trở ra bằng xuồng, bị Việt cộng phục kích bắn sẻ. Tết ven đô xong, trên đường về hậu cứ ở Lai khê, tưởng sẽ có dăm ba ngày nghỉ dưỡng quân, tôi viết thư về nhắn vợ con lên ở chơi, ra lệnh cho thường vụ mua sắm cho anh em binh sĩ ăn tết. Tới Lai Khê chưa kịp thở, áo quần vừa cởi ra, sửa soạn đi tắm đã nghe lệnh từ ban 3 gọi về Trung đoàn bộ họp gấp. Tôi chỉ cằn nhằn vài tiếng rồi lái xe đi.

Ðến nơi, vào thẳng văn phòng Trung đoàn trưởng, đã thấy đủ mặt sĩ quan tiểu đoàn và các ban của Trung đoàn. Ðại tá Bùi Trạch Dần khui hai chai Hennessy rót ra mời tận tay từng anh em chúng tôi. trong khi ban 2 phân phát những tấm bản đồ với những địa danh lạ, viết bằng thứ chữ Miên ngoằng nghèo như những con giun. Vượt biên! Thế là vượt biên rồi. Ðiều này chúng tôi đã nghe đồn từ lâu. Tiểu đoàn cũng đã từng được lệnh hành quân thực tập trong các rừng cao su Lộc Ninh từ mấy tháng trước. Nhưng giây phút này thì quá bất ngờ. Ðơn vị đã hành quân liên tục hàng nửa năm, chưa được nghỉ dưỡng quân một ngày. Ðại tá Dần tận tay mời từng người cốc rượu và nói: “Quân đoàn mở cuộc hành quân Toàn thắng, trong đó Trung đoàn 9 làm nỗ lực chính. Tiểu đoàn 4 được chọn tăng phái để bảo đảm thắng lợi cho trung đoàn ta. Sau giai đoạn 1 hoàn tất, toàn bộ trung đoàn ta sẽ thay thế họ. Ngay đêm nay các anh lên đường, chúc các anh chiến thắng lớn, đem vinh quang về cho đơn vị.”

Chúng tôi lục tục ra về. Chưa đến nơi đã nghe tiếng gầm rú của đoàn chiến xa đủ loại của Thiết đoàn 1. Quân sĩ thì theo điều động của thường vụ, đang tập họp lãnh thêm đạn dược, lương thực, sửa soạn lên đường.

Giã nhà đeo bức chiến bào,
Thét roi cầu Vị, ào ào gió thu.

Ngày nay, người chiến sĩ ra đi không kịp từ giã gia đình, khoác lên người áo giáp, nón sắt, súng đạn và ba lô hành trang nặng hàng chục ký, giữa tiếng gầm của những chiến xa khổng lồ thay con chiến mã; lại chẳng có gió thu ào ào mà là hơi lạnh se người của một đêm đầu xuân. Lạnh ở ngoài trời và lạnh tận đáy tâm hồn. Ðoàn xe chuyển bánh lúc nửa đêm về sáng, mang theo đoàn trai trẻ trực chỉ hướng Bắc dọc theo quốc lộ 13, tiến về biên giới Việt Miên.

Ðến trưa hôm sau, đoàn xe dừng ở Lộc Ninh, quận lỵ địa đầu của tổ quốc ở phiá Bắc Nam phần. Quân sĩ tấp nập bày binh bố trận; mũ nâu Biệt động, mũ đen Thiết giáp, mũ xanh Lực lượng Ðặc biệt và mũ sắt bọc vải ngụy trang hoa rừng của Bộ binh. Chúng tôi trao nhau những ánh mắt cảm thông và lời thầm chúc an bình. Tư lệnh Quân đoàn, Trung tướng Ðỗ Cao Trí, chắc nịch trong bộ chiến phục Dù đang cùng các chỉ huy cao cấp bàn bạc, tấm bản đồ trải rộng trên mui xe Jeep. Tôi được lệnh, cho quân chuyển sâu về phía trái quốc lộ đến nơi sẽ là vị trí xuất phát. Hậu trạm báo tin vợ con tôi đang có mặt tại Lai khê, xin ý kiến. Tôi bồi hồi gửi lời chào và bảo quay về, hẹn sau hành quân sẽ gặp lại.

Rừng biên giới cây cao và thưa thớt. Trên đất cỏ mọc xanh rì, điểm những cụm hoa cúc vàng rải rác. Quân đi sâu vào lòng đất khách đầy trắc trở. Con sông Chlong uốn mình giữa hai hàng cây bằng lăng đang ra hoa màu tím nhạt. Phía bên kia sông, chiến đoàn 333 Biệt động của Ðại tá Nguyễn Văn Phúc cũng đang di chuyển. Tiếng người nói cười xen lẫn tiếng khô khan của vũ khí va chạm nhau. Trời cao, nắng vàng ấm áp. Trên vai là chiếc ba lô đựng 25 kí quân dụng: bảy ngày lương khô, ba cấp số hỏa lực, một mìn claymore, một chiếc xẻng, năm quả lựu đạn M26… Mìn claymore bấy giờ là vũ khí đắc dụng để chống tấn công biển người. Mỗi người binh sĩ còn mang theo năm bao cát không để phòng thủ dã ngoại tránh mưa pháo. Ðạn pháo, hoả tiển thường chạm nổ từ những ngọn cây trong rừng, toả hàng trăm miểng đạn sắc bén xuống như pháo hoa. Ðơn vị tôi ít thương vong nhất vì tiểu đoàn trưởng đã dự trù đầy đủ phương tiện phòng thủ.

Những ngày đầu vô sự. Chỉ chạm địch lẻ tẻ khi bắt đầu vào sâu đất khách, đến gần quận lỵ Snuol. Ðọc trong nhật ký hành quân:

Ngày 4 tháng 2: đã bắt đầu tiến vào lãnh thổ Kampuchea. Trung đội 3 đi tiền phong. Hạ sĩ Nguyễn văn Bô bắn chết một giao liên, thu một xe đạp, một AK-47 và nhiều tài liệu quan trọng chuyển cho ban 2 khai thác.

Ngày 6 tháng 2: đánh chiếm một căn nhà do địch đang chuẩn bị ăn liên hoan. Giết hai tên tại trận. Thu 1 K54, 1 AK và hai dãy bàn đầy thức ăn, rượu đế….

Ngày 8 tháng 2: Trong lúc đóng quân ở khu nhà phía nam quận lỵ Snuol, địch từ trong khu nhà dân bắn sẻ gây tử thương hạ sĩ Nghĩa và hạ sĩ Rô. Trung đội 2 truy kích tận làng Miên, bắt giữ tất cả thanh niên gom về cho Trung đoàn khai thác.

Ngày 9 tháng 2: đại quân vào chiếm quận lỵ Snuol, lập căn cứ yểm trợ hỏa lực.

Tiểu đoàn được lệnh tiến về Tây Bắc, vượt qua đồn điền cao su bạt ngàn. Bảy giờ sáng, có một tiếng đạn AK vọng ra từ hướng trước mặt. Có lẽ địch bắn báo động. Tám giờ, tiếp cận mục tiêu. Ðây là hai khu nhà trong đồn điền, ngăn cách bởi một con đường đất đỏ. Khu bên trái là làng Thpong Cham gồm hàng chục nhà sàn bằng gạch, khu bên phải là Thpong Vietnam, đơn sơ nhà tranh vách đất. Tên làng nói lên sự phân biệt cư dân Chàm và Việt nam làm phu đồn điền tại đây. Tin tình báo cho hay địch đang đóng quân cấp trung đoàn thuộc công trường (Sư đoàn) 5 Cộng sản Bắc Việt. Ðại đội tôi chịu mặt phải, Ðại đội 16 của Bồi mặt trái, cùng tiến song song. Khi vừa nhìn thấy những mái nhà ngói đỏ làng Cham, địch khai hỏa bằng trọng liên và AK. Tiếng đạn chát chúa vang dội như uy hiếp tinh thần và làm cho ta khó phân biệt được nơi xuất phát. Quân ta đã chiếm hàng cây cao su trước mặt làng, bên kia con đường là hầm hố giao thông hào địch. Ở hai góc làng, hai lô cốt kiên cố có những cây đại liên bắn không ngừng vào đội hình quân ta. Lá cao su rụng từ mùa thu năm trước nay đã khô dòn, trải một lớp dày trên mặt đất. Ðịch nắm được điều này nên dùng kế hỏa công, bắn trái sáng đốt rừng. Lửa bắt cháy dữ dội, nhất là nương theo cơn gió thổi mạnh làm cả khu rừng ngập trong bão lửa. Quân ta núng thế phải rút chạy tránh bị thiêu sống. Nhưng chẳng lẽ chạy hoài sao? Vì rừng thì bạt ngàn. Thế là lệnh ban ra: “Phải nhảy qua màn lửa tiếp tục tiến quân bao vây địch.” Chúng tôi trở lại chiến tuyến khi mặt đất còn rát bỏng, những chiếc lá còn chút than hồng thỉnh thoảng cháy bùng lên sau mỗi cơn gió. Ðến gần trưa, tình hình như dậm chân tại chỗ. Hoả lực địch càng ráo riết. Quân ta chẳng nhúc nhích bước nào. Trung tướng Trí nóng ruột, bay trực thăng lên trực tiếp chỉ huy. Chúng tôi mở thêm tần số để nghe đích thân ông ra lệnh. Giọng nói uy quyền của ông vang lên trong ống nghe: “Tôi cho lệnh phải chiếm mục tiêu trước khi trời tối; liệu không làm được thì rút ra, cho đơn vị khác thay thế. Ðơn vị nào vào trước, cắm cờ, tôi cho chỉ huy thăng một cấp.”

Hai giờ chiều, Bồi bị thương cánh tay phải, được băng bó và tải thương ngay. Hùng Ðầu lâu lên thay, nghe tiếng y oang oang vọng đến. Tôi bổng nghĩ ra một biện pháp táo bạo và trình ngay lên tiểu đoàn. Ðó là việc xin pháo binh yểm trợ tiếp cận, bắn từng tràng 10 trái từ phía cuối làng, kéo ngắn lại cho đến hệ thống giao thông hào trước mặt chúng tôi; quân sĩ ta sẽ xung phong ngay khi trái đạn chót vừa nổ. Pháo binh chiến đoàn từ chối, vì vấn đề an ninh cho đơn vị bạn. Thông thường, pháo chỉ bắn khi quân ta rút ra khỏi một tầm an toàn tối thiểu, vì pháo không hoàn toàn chính xác đến phạm vi từng thước trong khi quân ta chỉ cách địch chừng mươi thuớc là cùng. Lại xin ý kiến Tư lệnh; Tướng Trí O.K. với điều kiện quân ta phải tận dụng các đường thoát nước để ẩn mình. Thế là lệnh ban ra. Các trung đôi nằm dán mình xuống, nón sắt, áo giáp phủ kín những điểm trọng yếu trên thân thể; lưỡi lê cắm lên đầu súng trong vị thế sẵn sàng xung phong. Ðạn bắt đầu ra khỏi nòng từ căn cứ hoả lực. Từng tràng mười trái. Tiếng nổ nghe gần lại dần dần cho đến tràng cuối cùng nổ ngay trên hầm hố địch đối diện chúng tôi. Mặt đất rung chuyển dữ dội, tưởng chừng thân thể bị bật tung lên, lục phủ ngũ tạng bị sức ép như vỡ ra, hai tai ù điếc. Nhưng vẫn cố gắng tỉnh táo đếm chính xác từng trái đạn ra khỏi nòng và nổ tung trên chiến hào địch. 96, 97, 98, 99 và …100, ầm, ầm. Trái thứ 100 vừa nổ, nhào lên các bạn, chĩa mũi súng căm thù vào giặc..

X U N G P H O N G…

Bất kể bất trắc là pháo binh có thể bắn nhầm thêm trái nữa hay không, cả trăm binh sĩ vùng lên, chạy vượt qua con đường đất đỏ, nhảy thẳng vào tuyến địch. Chúng tôi đứng trên những miệng hầm khi bọn cộng quân còn che tai cúi đầu chờ những trái đạn tưởng sẽ nổ sau đó. Bắn, đâm, lựu đạn tung xuống. Xương thịt người nhầy nhụa từng đống trong các giao thông hào. Phiá bên trong, bọn còn sống sót tháo chạy về hướng bắc. Bên làng Thpong Cham, đại đội 16 cũng làm chủ trận địa. Phải treo cờ lên ngay, xác nhận chiến tích. Lấy đâu có cờ? quân ta đi hành quân cấp tiểu đoàn chẳng bao giờ mang theo quốc kỳ, quân kỳ; chẳng có kèn đồng dù trong cấp số, mỗi đại đội có một lính kèn. Tôi tháo chiếc khăn quàng cổ nửa đỏ nửa tím trao cho Hạ sĩ Quí: “ Kiếm cái gì treo lên cho ông tướng thấy.”

Xác cộng quân nằm la liệt khắp nơi. Những đứa trong hầm thì thịt xương trộn lẫn, máu óc văng tung toé, khó đếm được bao nhiêu. Những đứa nằm phơi trên đất thì mình găm đầy lỗ đạn. Chúng nó là bộ đội chính quy miền Bắc, trắng trẻo, mập mạp trong bộ áo quần màu xanh lá mạ còn mới nguyên, rộng thùng thình. Những cây súng tiểu liên AK 47 còn mới, báng gỗ bóng loáng đỏ tươi chưa kịp gây tội ác với đồng bào miền Nam. Thương thay, cũng con em đồng bào miền Bắc bị phỉnh phờ đem thây làm bia đở đạn cho giấc mộng xâm lược của bọn bạo quyền. Chín mươi bảy xác để lại trên chiến trường. Khai thác tài liệu tịch thu, chúng tôi nhận diện đây là Trung đoàn 174 và một đơn vị đặc công Z27. Về sau, khi ở tù trại cải tạo Suối Máu, tôi gặp một thiếu úy cộng sản từng có mặt và sống sót trong trận này. Lúc tham chiến tại Snuol, anh ta chỉ là một hạ sĩ. Anh ta thú nhận quân ta đánh quá ác liệt và mưu trí.

Năm giờ chiều cùng ngày, thiết giáp chở Tiểu đoàn 2/9 vào tiếp tế thêm đạn dược và tải thương binh. Tôi gặp lại Nguyễn Văn Duyến bạn cùng khoá, đang làm đại đội trưởng. Anh em gặp nhau vài phút ngắn ngủi, trao đổi tin tức bạn bè rồi đường ai nấy đi. Chúng tôi trú phòng qua đêm. Mỗi đại đội cho một trung đội ra nằm tuyến cách đó chừng cây số. Bốn giờ sáng, Ðại Úy Hiền cho lệnh báo động; chưa kịp nhảy xuống hố cá nhân thì pháo địch nhả tới tấp. Ðịch tung đợt tấn công đầu tiên vào tuyến của Quân báo tiểu đoàn. Cả tiểu đội chín người hy sinh tại chỗ nhưng địch cũng khựng lại vì hàng rào mìn claymore. Phiá sườn đại đội tôi, địch cũng tấn công mạnh. Một số binh sĩ vì quá mệt mỏi lúc ban ngày nên không đào kịp hầm hố. Họ cứ chạy quanh gốc cao su nép mình chống trả. Thế mà không ai bị thương hay bỏ mạng. Tiểu doàn bị tấn công cả thảy năm đợt, có lúc tưởng bị tràn ngập. Tôi phải nhảy ra khỏi hố, trực tiếp bắn súng cối 81 ly yểm trợ cho bạn. Hết đạn, quăng súng vào hồ nước rồi nhảy ra phụ trợ cho trung 2 đang chịu áp lực nặng nề nhất. Nhờ có 3 cấp số đạn, nhờ có mìn claymore, chúng tôi cầm cự cho đến khi trời lờ mờ sáng thì địch bắt đầu rút. Qua làn sương mỏng, chúng tôi thấy chúng dùng móc câu kéo xác đồng bọn và vũ khí. Lại có màn thi nhau bắn bia như lúc tập ở quân trường. Lệnh truy kích được ban ra. Tôi lầu bầu: “đạn còn đâu nữa mà truy với kích.” Mặc, cứ tiến lên, địch đang rối trí bỏ chạy thì chúng có hơi đâu mà chống trả. Tiến về phía cuối rừng cao su, cách đó chừng trăm mét, chúng tôi phát hiện được vị trí chỉ huy hành quân của địch với hệ thống tổng đài và dây điện thoại chằng chịt tỏa ra như lưới nhện xung quanh trận liệt. Thì ra huyền thoại Ðiện biên là đây, binh sĩ Bắc việt, quân đội nhân dân anh hùng, con cháu Hồ Chí Minh vĩ đại dùng mười đánh một mà cũng phải chém vè. Cả trung đoàn quân Bắc không đánh nổi một tiểu đoàn quân Nam.

Tướng Trí và bộ Chỉ huy hành quân đón chúng tôi ở chợ Snuol điêu tàn. Ông bắt tay tôi khen ngợi và lệnh cho sĩ quan tùy viên lấy tên tuổi, số quân tôi và các chiến sĩ do tôi đề nghị. Chiếc bông mai ông hứa hẹn đem cho tôi vinh dự, nhưng không mấy hài lòng, vì tôi sắp đến ngày thăng cấp đương nhiên theo quy chế hiện dịch. Sau này, Bộ Tổng Tham Mưu ân thưởng cho tôi tấm Anh dũng Bội tinh với nhành Dương liễu.

Nghỉ ngơi vài hôm, chúng tôi lên đường hành quân sâu về hướng Bắc, đánh thêm vài trận cũng kinh hồn không kém. Có lần, chúng tôi vào tận nơi gọi là trường Huấn luyện của cục R, tứ bề thọ địch, trên vai còn cõng theo thương binh và một số vũ khí tịch thu chưa có phương tiện chuyển vận về Chiến đoàn. Nhờ phi cơ yểm trợ đắc lực, chúng tôi đã an toàn rút ra sau khi giết hết bọn lính hậu cần và đốt cháy rụi toàn bộ cơ sở địch.

Trận đánh ngày 27 tháng 2 là trận đại phục thù. Chúng cho trinh sát theo dõi đường tiến quân ta từ cả tuần lễ, và chờ khi tiểu đoàn đi vào địa điểm bất lợi do chúng dự liệu trước. Trung đoàn 174 được tăng cường thêm đơn vị của Trung đoàn 165, pháo lớn và đặc công từ mạn rừng tấn công ồ ạt ngay khi quân ta vừa dừng bên suối nước tạm nghỉ quân chuẩn bị ăn uống. Ðại đội Chỉ huy đóng trong làng Trapeang Lak bị tràn ngập ngay. Binh sĩ tan tác chạy về chiến đoàn, nhưng tổn thất nhẹ. Hùng Ðầu lâu đang cởi trần tắm rửa, không kịp mặc áo, ôm bản đồn dọt về phía tôi. Nhìn lui thấy cả một rừng nón cối và áo quần xanh lá mạ, ôi người đâu là người. Chúng vừa chạy vừa hô to đòi bắt sống chúng tôi: “Cái thằng cao cao, cầm bản đồ kia, chỉ huy đấy, bắt sống nó.” Ðạn cối và pháo binh địch bắn chặn đường phía nam. Một đơn vị phía Tây án ngữ lối ra. Tiểu đoàn trưởng kêu gọi ở lại cầm cự. Có một điều là đêm trước, Chiến đoàn đã bị pháo kích trúng kho đạn, thông báo đến các đơn vị nếu có chạm địch sẽ không có pháo yểm trợ. Nhờ những gốc cao su lớn, chúng tôi có điểm tựa, cầm cự đến trưa và mở được đường máu rút về phía nam, tập trung quân số phản công trở lại. Thiếu tá Nguyễn Ða dẫn tiểu đoàn 2/9 lên tiếp trợ chiếm lại mục tiêu, thu nhặt chiến trường. Tiểu đoàn tổn thất ở mức trung bình. Riêng đại đội tôi chỉ có thương binh mà không có tử sĩ. Ai cũng bảo tôi cầm quân mát tay.

Tướng Trí tử nạn phi cơ một tháng sau đó. Tướng Minh từ vùng 4 về thế, không có những phương lược chính xác và táo bạo, đưa chiến đoàn 8 (thay thế Chiến đoàn 9 về nước vào giữa tháng 3-71) vào thế nan giải, một mình chịu áp lực 3 công trường (sư đoàn) địch. Và thảm họa Snuol đã xảy ra. Sư đoàn 5 phải mất một thời gian dài mới khôi phục lại khí thế. Trận Bình Long mùa hè đỏ lửa 1972, với Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ anh hùng, với hàng ngàn chiến sĩ quả cảm, Sư đoàn đã ghi một chiến tích lẫy lừng vào quân sử. Giờ đây Tướng Hưng, Tướng Vỹ đã lấy cái chết dũng liệt để đền nợ nước, bảo toàn khí tiết, chiếm một chỗ đứng cao quý trong lòng tiếc thương của đồng bào, chiến sĩ. Quách Kế Nhơn, Ðèo Chính Tường, Nguyễn Trọng Thủy, Nguyễn Văn Mâu và bao người đã về lòng đất mẹ. Bồi trở về nếp sống dân thường sau chuyến du ngoạn Ðài Loan do được chọn là chiến sĩ xuất sắc nhất Quân đoàn 3. Anh may mắn không đi cải tạo, nhưng lại rủi không đủ điều kiện xuất cảnh HO. Mai Thanh Tòng (ban 5) nay ở New Jersey; nhớ lúc đem quân trở lại, cứu anh từ cái hố cá nhân đã lọt trong sự kiểm soát của địch, anh méo cả mặt: “Trời ơi, thấy cái ống quần của nó ngay trên miệng hố!” Nguyễn Chí Hiền thì ở Pháp, lâu lâu thư từ thăm nhau gắn bó như ngày xưa. Còn Hùng Ðầu lâu, còn bao nhiêu anh em khác, như bầy nghé tan đàn, kẻ tha phương, người ở lại âm thầm chịu cảnh sống đắng cay tủi nhục; có còn nhớ đến nhau không, có còn ngồi bên tách cà phê ôn lại quá khứ anh hùng, những ngày cơm sấy cá khô, chia sẻ gian lao sinh tử… và tình đồng đội thắm thiết… và niềm tự hào của người chiến binh.

Đỗ Văn Phúc
nguồn: https://buonvuidoilinh.wordpress.com/2013/10/27/do-van-phuc-chien-thang-dau-xuan-1971/

BachMa
09-29-2017, 02:22 AM
Hồi Ký Một Cánh Hoa Dù
Trương Dưỡng - K20


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd417/1506651096-Chuong1_VaoQuanTruong1.jpg

Lời Nói Đầu

Một Cánh Hoa Dù nhằm mục đích nói lên tinh thần bất khuất của toàn thể quân nhân trong binh chủng Nhảy Dù nói chung và ý chí phấn đấu không ngừng của tác giả nói riêng.
Sau ngày mất nước, toàn thể chiến sĩ QLVNCH đều uất nghẹn, nhất là chiến sĩ Nhảy Dù; thật sự không ai muốn bỏ súng chịu thua trước một đối thủ mà trong các lần chạm trán, quân thù nghe danh đều khiếp sợ. Gần hai mươi trận chiến viết trong quyển sách nầy là bằng chứng hùng hồn, nói lên sự chiến đấu anh dũng, tài giỏi và kiên cường của những Hoa Dù ngay cả trong các trận địa chiến với quân số tập trung hùng hậu của địch như trận Tổng Phản Công Tết Mậu Thân, trận Hạ Lào, và Bình Long Anh Dũng,
Riêng tác giả cũng là Một Cánh Hoa Dù nhỏ nhoi, lúc đương thời từng cùng với anh em binh sĩ đã xông pha trận mạc và gặt hái vài thành quả tốt đẹp. Lúc bị thương tật, vẫn phấn đấu vươn lên; dù 9 năm sống dưới chế độ hà khắc Cộng Sản, dù bôn ba nơi xứ lạ quê người, và dù 25 năm bị hãm mình trên xe lăn, lúc nào cũng hướng về phía trước để Tự Thắng, để Nhảy Dù Cố Gắng !
Mục đích của quyển sách nầy cũng muốn kể lại các cuộc hành quân mà tác giả đã trực tiếp hay gián tiếp tham dự, để cho độc giả biết qua các trận chiến nổi tiếng mà các chiến sĩ Dù đã góp một phần nào xương máu, để các chiến hữu khi đọc sẽ hồi tưởng lại những ngày mình đã xông pha vào đường tên mũi đạn tại quê nhà. Và cũng muốn để cho thế hệ con cháu biết về sự gian lao khổ cực của ông cha, chiến đấu đến cùng để bảo vệ sự Tự Do cho đồng bào Miền Nam.
Chương I, nói về sự huấn nhục tại quân trường, nơi đó có truyền thống huynh đệ chi binh và sự rèn luyện gian khổ để trở thành cấp chỉ huy tương lai.
Chương II nói về các khóa học sau khi ra trường, ngoài ra tác giả cũng muốn nói sơ về người bạn trăm năm, mà đã suốt đời hy sinh cho chồng con.
Chương III cũng là chương chính trong quyển sách nầy, kể lại các trận đánh oai hùng của các cuộc hành quân Dù và những chuyện buồn vui đời lính.
Chương IV nói sự phấn đấu về thể xác lẫn tinh thần của tác giả khi mới bị thương tật, và ý chí vươn lên để chứng tỏ mình vẫn còn hữu dụng, chín năm kẹt lại ở VN, tác giả cùng gia đình đã cố gắng vượt qua được những cơn khó khăn, khổ cực.
Chương V : những ngày ở nơi đất khách quê người, tác giả đã được sự giúp đỡ của đồng hương và sự khuyến khích của người bạn đời cố gắng dìu dắt các con học hành.
Tác giả rất cám ơn sự khuyến khích, giúp đỡ, và nhắc nhở các điều thiếu sót về các trận chiến, về các ý kiến quý báu làm cho cuốn sách nầy thêm hoàn mỹ. Cám ơn tướng Lê Quang Lưỡng, cựu Tư lệnh SĐND; Đại Tá Nguyễn Thu Lương, cựu Lữ Đoàn Trưởng/Trưởng Phòng Hành Quân Sư Đoàn Nhảy Dù; và các bạn Hòa, Lạc, Tường, Mẫn, An, Chiến, Chờ, Cơ, Triết, Nguyên, Cần, Hùng, Triệu, Huệ, Bảo, Thạnh, Thành, Tâm, Nhẫn,....
Ngoài ra tác giả cũng có tham khảo các bài đăng trên báo Đa Hiệu, báo Mũ Đỏ, và báo KBC cùng nhiều sách báo khác để cho các bài viết có tầm rộng và xúc tích hơn, cám ơn các vị tác giả nầy. Cuối cùng xin nhấn mạnh có vài tên trong câu chuyện đã được sửa đổi vì sợ va chạm đến cá nhân. Tác giả không phải là một nhà văn, nên sách nầy coi như là “Kể chuyện”, nhớ đâu viết đó, mong quí vị thông cảm.


*****

Chương 1

Vào Quân Trường

1. Xếp Bút Nghiên Theo Việc Đao Cung


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd417/1506651114-Chuong1_VaoQuanTruong2.jpg

Tôi đang ăn ở Phạn xá, tưởng không ai để ý, nên kéo ghế ngồi sâu vào trong gầm bàn, hòng cho đôi chân được thoải mái đôi chút. Vì suốt cả ngày bị các cán bộ khoá đàn anh, thay phiên nhau quần phạt đủ mọi cách!
Bỗng có tiếng quát to từ đằng sau lưng :
- Anh kia!
Và một cây gậy dí vào lưng, vì anh cán bộ nầy đã để ý theo dõi từ lâu, mà tôi nào có hay biết trời trăng gì đâu ?
Anh sinh viên sĩ quan cán bộ nói tiếp:
- Anh có biết Tân Khoá Sinh chỉ được ngồi một phần ba ghế, và mọi động tác đều phải giữ vuông góc hay không ?
Chờ cho tôi biết ngồi đúng thế xong, anh ta nói tiếp:
- Gắp thức ăn cũng phải vuông góc. Anh đã ngồi uể oải mà còn banh chân ra nữa. Như vậy mất tư cách lắm, có biết không?
- Dạ thưa cán bộ biết.
Anh sinh viên cán bộ chỉnh xong, rồi quát to:
- Anh biết lỗi thì làm 20 cái nhảy xổm, vừa làm vừa đếm thật to cho cả tiểu đoàn nghe coi.
Như người ăn vụng bị bắt gặp, tôi vừa sợ vừa xấu hổ, liền đứng ra phía sau ghế vừa làm vừa đếm thật to . Khi nhảy được hơn 10 cái thì anh bảo ngưng: - Thôi đủ rồì, thấy anh làm mệt, tôi
thưởng anh trái “Chuối Võ Bị” nè. Anh
có từng thấy chuối võ bị chưa?
- Dạ ...thưa chưa !
Anh cán bộ chìa nắm tay tới trước, rồi mở rộng bàn tay, bày ra một nắm ớt đỏ tươi và nói:
- Chuối võ bị đây anh, ăn thử một trái coi có ngon không?
Tôi ngó nắm ớt, chần chừ chưa biết phải làm gì, hết dòm sinh viên cán bộ, rồi lại nhìn vào nắm ớt! Cuối cùng đành phải nhặt một trái bỏ nhanh vô miệng định nuốt trôi cho xong. - Không được nuốt, phải nhai từ từ để thưởng thức chuối võ bị chứ anh! SVSQ cán bộ quát.
Thế là tôi bắt buộc phải nhai nhòm nhoàm trái ớt, rồi nuốt vội, ớt cay quá làm nước mắt nước mũi chảy ròng ròng. Tôi phải há miệng hít hà lia lịa. Vậy mà anh cán bộ vẫn không động lòng chút nào, còn hỏi một cách vô lương tâm:
- Ăn có ngon không anh ?
Tôi bấm bụng trả lời:
- Dạ...dạ...ngon!
Miệng thì nói ngon mà lòng lại cay đắng trăm chiều. Tôi cứ để mặc cho hai dòng lệ tiếp tục trôi chảy theo niềm cay đắng vì quá khổ cực và xót xa! Có lẽ vì cả hai. Bây giờ tôi mới thấy cái thấm thía, cái gian truân khốn khổ của đời lính! Vì đây chỉ là bước đầu của đời binh nghiệp mà thôi.
Trong phòng ăn, tiếng hát Hoàng Oanh vang lên :
Xếp áo thư sinh, mười sáu trăng tròn....
Lênh đênh báng súng,lời thề chinh nhân
Lời nhạc rất đúng với hoàn cảnh hiện tại, khiến lòng tôi lâng lâng bồi hồi nghĩ lại, lý do tại sao mình quyết định tình nguyện vào trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam nầy.
Cuối năm 1963, sau khi cuộc đảo chánh Tổng thống Ngô Đình Diệm thành công, không khí chánh trị ở Saigòn vẫn còn sôi động. Tại các phân khoa đại học, một số giảng sư chẳng hạn như gs Chu Phạm Ngọc Sơn cứ lên diễn đàn tuyên truyền toàn chánh trị, vì thế việc học của sinh viên gần như bế tắc.
Tôi là một sinh viên nghèo, mong sớm thành đạt để giúp đỡ gia đình. Nhưng gặp tình trạng như thế nầy thì nếu cứ tiếp tục học sẽ không đạt kết quả như ý. Do đó tôi quyết định nộp đơn tình nguyện vào trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt khoá 20 Nguyễn Công Trứ.
Thực ra còn một động cơ mạnh mẽ khác đã thúc đẩy tôi vào trường Võ Bị nầy. Số là dịp lễ Quốc Khánh vừa rồi, tôi có đi dạo phố với anh bạn cùng trường trung học Trần Trung Tiên ở tỉnh Vĩnh Bình. Anh Lâm Văn Rớt, so với tôi trước kia, thì ốm yếu lờ khờ rất nhiều. Chẳng ngờ, mới có một năm thụ huấn tại quân trường, mà anh đã thay đổi không thể nào tưởng tượng nổi. Người anh bây giờ thật hiên ngang quắc thước, trong khi Rớt chỉ đi rảo bước một cách khoan thai hùng dũng; bên cạnh nghe như có tiếng gió sột soạt, còn tôi thì phải chạy lúp súp, mới kịp theo ngang hàng với anh, làm mệt thở hổn hển gần muốn đứt hơi! Lúc đó tôi cảm thấy mình cũng là thân nam nhi mà sao quá yếu ớt. Mặc dù tôi cũng thường xuyên trau giồi sức khỏe, sáng nào cũng thức sớm trước sáu giờ, đạp xe từ Phú Nhuận đến lò Nguyễn Bình ở đường Chi Lăng để tập nhu đạo. Rồi đúng 7 giờ rưởi, phải đạp xe tới trường Petrus Ký học lớp Đệ Nhứt ban toán với các thầy Phạm văn Lược, thầy Binh, thầy Đảnh,…
Nói tới Nhu đạo, tôi nhớ đến một chuyện hiểu lầm nực cười: số là khi học lớp Đệ Nhị tại trường Âu Lạc do nhà văn Chu Tử làm giám hiệu. Ngồi cạnh bàn có thằng bạn tên Đặng Thông Phong, thấy nó lùn và nhỏ con nên tôi thường hay chọc: “Mầy mà lộn xộn tao quăng ra cửa sổ”. Phong chỉ mỉm cười một cách hiền lành chớ không nói năng gì hết. Nhưng có lần tôi gặp Phong ở trường dạy Nhu Đạo của võ sư Nguyễn-Bình cùng với ông võ sư Đệ Thất Đẳng Hiệp Khí Đạo người Nhựt. Thấy Phong đeo tới đai nâu, tôi giật mình vì lúc đó mình chỉ mới có đai vàng. Phong tới bảo cứ quật mạnh đi, hắn sẽ không trả đòn. Tôi nghĩ anh ta nhỏ con nên cũng còn coi thường, nhưng khi nạp đủ mọi đòn hông, đòn vai, và kể cả đòn chân mà cũng không thể nào quật ngã được, lúc đó tôi hết sức phục tư cách của Phong, một người võ giỏi mà lúc nào cũng khiêm nhượng. Vị võ sư đệ ngũ đẳng nhu đạo người Nhật nầy rất tài ba, từ ngày ông tới phụ chỉ thêm thì ai nấy đều tiến bộ thấy rõ. Ông bảo ngày nào võ sinh cũng nên cố gắng vô đòn hông vài trăm lần. Có lẽ Phong được chân truyền của ông nên võ nghệ rất xuất sắc. Có lần tôi thấy anh thi lên đai đen ở đường Phan thanh Giãn, Đa-Kao, thân hình anh mềm dịu như con mèo. Những người đai đen lớn con mà không thể nào quật cho lưng anh xuống nệm được. Còn Phong tuy thấp nhỏ mà cũng có thể hạ những tay đẳng cấp cao hơn, anh đúng là một kỳ tài. Sau nầy anh làm huấn luyện viên nhu đạo ở trường bộ binh Thủ-Đức, lúc ấy anh đã có đệ tam hoặc đệ ngũ đẳng gì rồi. Nghe nói hiện anh là Võ sư rất nổi tiếng ở California.
Chúng tôi tập trung ở một địa điểm gần Ngã Sáu để chờ đưa ra phi trường.
Cùng đi khóa nầy có Phan Thanh Miên, bạn cùng lớp Đệ Nhứt B1 ở Petrus Ký. Má tôi có đưa tiễn, bà sắm đủ thứ đồ mang theo không hết, phải nhờ Miên xách phụ dùm giỏ cam. Bà gởi gấm đủ điều và nhờ Miên coi sóc dùm, làm như tôi còn con nít vậy! Đúng là lòng mẹ bao la như biển Thái Bình.
Chiếc máy bay dân sự chở đám thanh niên, trong đó có tôi, xuống phi trường Liên Khương Đà Lạt. Từ cánh cửa bước ra, mọi người lần lượt rời phi cơ một cách mệt mỏi, đến tập trung tại nơi hai chiếc GMC và một chiếc xe Jeep đang đậu. Đám thanh niên ngơ ngác ngó ngang ngó dọc như sợ bỏ sót một thứ gì. Tất cả khoảng ba mươi người, tuổi từ 18 tới 25. Y phục gọn gàng, cùng với túi hành trang nhẹ đeo vai. Những người tuổi trẻ nầy trông có vẻ bơ phờ vì họ chưa quen đi phi cơ. Bấy giờ là khoảng cuối tháng 12, thời tiết mùa đông ở Đà Lạt đã lạnh giờ lại càng lạnh thêm, những luồng gió cắt da thổi vào người khiến ai cũng bị nổi ốc, rùng mình! Xung quanh phi trường là đồi thông bát ngát, lá thông reo lên như những bản nhạc buồn làm se lòng những chàng trai đầy nhựa sống, vừa rời bỏ thành phố thân yêu. Đứng cạnh chiếc xe Jeep là 4 SVSQ khoá 19, họ mặc quân phục dạo phố mùa Đông bằng nỉ xám đen. Trên đầu đội mũ Casquette có huy hiệu Tự Thắng Để Chỉ Huy. Hai vai gắn alpha vàng trên nền đỏ thẩm, cánh tay trái có đeo giây biểu chương màu anh dũng, giày bóng loáng, kèm theo khuôn mặt nghiêm trang, trông rất oai nghi hùng dũng. Rồi chợt cả bốn người cùng tiến về phía đám thanh niên trẻ; nhìn dáng đi của họ như toát ra một cung cách hiên ngang, sắt đá, và uy lực thể hiện sau một năm tôi luyện ở quân trường. Họ và những chàng trai trẻ vừa mới đến, tuy mỗi người một vẻ nhưng cùng chung một hoài bão là đem tài trai để phục vụ non sông, tổ quốc. Đó là hoài bão oai hùng của người chiến sĩ.

2. Giai Đoạn Tân Khóa Sinh


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd417/1506651127-Chuong1_VaoQuanTruong3.jpg

Cũng nên lược sơ qua về trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, đây là một nơi chuyên đào tạo cho chiến trường những sĩ quan hiện dịch, có trình độ văn hoá bậc đại học. Trường có thể liệt vào tầm cỡ nhứt, nhì trong vùng Đông Nam Á, nó được đỡ đầu bởi trường Võ Bị West Point ở Mỹ. Hằng năm vào ngày mãn khoá đều có sự tham dự của vị Chỉ huy trưởng trường nầy. Trường được xây cất trên một sườn thoai thoải ở độ cao 1515 mét, dưới chân Đồi Bắc, chảy dài kề cận bên ấp Thái Phiên trù phú, với vô số rau cải tươi xanh, cung cấp cho thành phố của xứ hoa anh đào. Chính tại đây đã tạo ra nhiều cuộc tình thơ mộng giữa các chàng trai Võ Bị và các nàng thôn nữ ngọt ngào diễm lệ. Nhờ khí hậu mát mẻ nên mỗi Chủ nhật, thành phố được làm đẹp thêm bởi những chàng trai Võ bị trong các bộ đồ dạo phố mùa Đông, mùa Hè, với những màu sắc hài hoà tạo cho họ vừa rực rỡ vừa hiên ngang, làm đẹp lòng các nàng nữ sinh của trường Bùi Thị Xuân, Đà Lạt.
Theo tổ chức của trường thì đứng đầu là Chỉ Huy Trưởng, đặc biệt Khoá 20 của chúng tôi có đến năm vị CHT: Đại tá Trần Ngọc Huyến, Chuẩn tướng Nguyễn-Văn-Kiểm, Đại tá Trần-Văn-Trung, Thiếu-tướng Trần-Tử-Oai, và Đại-tá thiết giáp Lâm-Quang-Thơ, người đã chủ tọa lễ gắn cấp bậc Tân Thiếu úy cho chúng tôi.
Trường gồm có Văn Hoá Vụ, Quân Sự Vụ, và Ban Yểm Trợ. Văn Hóa Vụ lo giảng dạy chương trình văn hóa bậc Đại học; Quân Sự Vụ huấn luyện hành binh chiến thuật, vũ khí, và tác xạ; Ban Yểm Trợ lo tổng quát các nhiệm vụ huấn luyện và còn cung cấp các lính giả địch, xe cộ vật liệu, và đạn dược,...
Liên Đoàn Sinh Viên chia thành 2 tiểu-đoàn, mỗi tiểu-đoàn có 4 đại đội (thời kỳ Tướng Oai nhập lại còn 4 đại đội và đại đội cờ đỏ được khen thưởng, còn đại đội nhận cờ đen thì bị cúp phép).
Có hai hệ thống: Tự-Chỉ-Huy và Tuần-Sự. HT Tự Chỉ Huy do sĩ quan cán bộ liên đoàn trưỡng đề cử, dựa theo thành tích điểm văn-hóa và quân-sự trong năm thứ nhứt để chọn. Hệ thống Tuần Sự do các sinh viên sĩ quan cán bộ thuộc hệ thống Tự Chỉ Huy cắt cử, hệ thống nầy điều hành công việc hằng ngày, luân phiên mỗi tuần thay đổi để trực tiếp chỉ huy các tân khoá sinh.
Khí hậu Đà Lạt thật tốt, lúc ở trong máy bay tôi mệt mỏi buồn nôn, nhưng vừa bước ra cửa phi cơ là cảm thấy khoẻ ngay! Sau khi tự giới thiệu, bốn sinh viên sĩ quan cho chúng tôi biết rằng họ có nhiệm vụ tiếp đón những anh em Tân Khoá Sinh, tức là những tân sinh viên sĩ quan tạm thời. Các thanh niên chia ra làm hai, mỗi nhóm lên một xe GMC.
Chiếc Jeep dẫn đầu chạy phăng phăng, đoàn xe chạy vòng qua các thắng cảnh nổi tiếng của thị xã Đà Lạt, nào thác Prenn, thác Cam Ly, hồ Hồ xuân Hương, khu chợ Hoà-Bình; gần đến trường có hồ Than-Thở, ấp Thái-Phiên. Ôi Đà Lạt sao có nhiều cảnh đẹp và thơ mộng quá! Khi xe chạy ngang qua phố chợ, nhiều người vẫy tay như chào mừng, nhất là các cô gái Đà Lạt với đôi má đỏ hồng trông thật dễ thương. Họ gật gật cái đầu tỏ dấu như nhắn nhủ một điều gì. Chúng tôi ai nấy đều cảm thấy buồn vui lẫn lộn. Mãi đang ngắm nhìn cảnh đẹp hai bên, bỗng chiếc xe quẹo gắt và ngừng lại trước cổng tam quan, bên hông có treo một bảng lớn đề những dòng chữ to đập vào mắt mọi người:
Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam
Nơi Qui Tụ Những Chàng Trai Có Lý Tưởng
Nhìn dòng chữ nầy tự nhiên tôi cảm thấy tự hào, liên tưởng đến hình ảnh một Thiếu úy tuổi trẻ, hiên ngang, mang danh dự về cho gia đình và họ hàng, nhất là bà mẹ hiền, lúc nào cũng ủng hộ và khuyến khích tinh thần của con mình.
Chiếc cổng trường rất lớn, xây bằng gạch đỏ Đồng Nai, có nhà kiếng làm trạm kiểm soát ở ngay chính giữa, chia cổng làm hai lối, bên phải để đi vào, bên trái là lối ra. Trước nhà gương có gắn những chữ nổi bằng đồng bóng loáng:
Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam
Tự Thắng Để Chỉ Huy
Khi xuống xe tôi thấy một số người từ các địa phương khác đến. Có người đi bằng xe lửa, cũng có một số người đi bằng máy bay như nhóm ở Sàigòn chúng tôi. Tất cả được các SVSQ cán bộ mời ra câu lạc bộ ở trên sườn đồi thấp, xây bên ngoài cổng trường. Các thanh niên ai cũng háo ăn vì đói bụng đã lâu. Họ ngồi ngã nghiên thoải mái, cười cười nói nói huyên thiên, có gã còn liếc mắt đưa tình với mấy cô hầu bàn người Hoa duyên dáng.
Anh sinh viên cán bộ hỏi:
- Tình hình bên ngoài ra sao, các anh?
Một thanh niên nói giọng Huế trả lời:
- Chán lắm anh ơi! Đâu có học hành gì được, chính trị lồng vào khuôn viên đại học, làm mất hết ý nghĩa của sinh viên thuần tuý, hơn nữa lúc nào cũng đe dọa tổng động viên. Tui đi con bồ tui nó khóc quá chừng, nhưng tui nói với nó là hai năm sau ra Thiếu úy mặc sức em hãnh diện!
Sau khi ăn uống no nê rồi thì họ mời chúng tôi ra xếp hàng tập họp trước cổng. Từ khi xuống máy bay tới giờ, tôi thấy các sinh siên sĩ quan Khoá 19 nầy thật là lịch sự dễ thương. Các anh cán bộ bây giờ mặc quân phục kaki vàng, quần túm ống bỏ vào giày Map được đánh bóng như gương soi. Đầu họ đội nón nhựa thoa dầu láng bóng, lưng đeo dây nịt trắng to bản. Tất cả đều cầm chiếc gậy ngắn trên tay trông như những tướng Patton của Mỹ thời Đệ Nhị Thế Chiến, vừa oai hùng vừa hung dữ, sẵn sàng gõ vào đầu những chú nào ba gai. Họ còn mang lên cổ áo những cấp bậc hai gạch, ba gạch màu đỏ, trông giống như các cấp bậc của sĩ quan SS thời Đức-Quốc-Xã. Những cặp mắt ngó trừng trừng che khuất dưới vành nón nhựa, như xoi mói vào tim của từng chàng trai được gọi danh hiệu mới là Tân Khóa Sinh. Một anh đứng trước chúng tôi, cổ đeo hoa mai viền đỏ trên nền trắng, nói một cách nhỏ nhẹ lịch sự:
- Tôi, sinh viên sĩ quan Cán bộ tiểu đoàn trưởng, Tiểu Đoàn Tân Khoá Sinh, hân hoan chào mừng và đón nhận các anh là những Tân Khoá Sinh của khoá 20 Trường Võ Bị Quốc Gia VN.
Đảo mắt một vòng, anh nhìn thẳng vào các tân khoá sinh, rồi nói tiếp:
- Các bạn là những người đã nộp đơn tình nguyện vào quân trường nầy, để rèn luyện thành những sĩ quan hiện dịch, hầu cung cấp cho chiến trường những cán bộ thao lược. Khi vào quân trường các anh cần phải giữ đúng nội quy, và thi hành kỷ luật như các khoá đã đi trước. Ngay từ bây giờ nếu ai muốn đổi ý vẫn còn kịp, chúng tôi sẵn sàng mua vé máy bay đưa về nguyên quán ?
Nói như vậy chớ đâu có ai muốn trở về; mọi người trước khi ra đi đều đã bịn rịn từ giã bà con, bạn bè, và nhiều lời hứa hẹn hùng hồn với bồ bịch.
Anh sinh viên sĩ quan cán bộ lập lại ba lần:
- Có anh nào muốn đổi ý không ?
Chúng tôi đồng loạt trả lời:
- Không! không! không!
- Tất cả theo lệnh tôi: Bên phải..quay!
- Đàng trước...bước!
Một ấn tượng về đời lính đã bắt đầu len lỏi vào tâm tư của những chàng trai trẻ. Mọi người thi hành theo như phản xạ, họ sửa lại điệu bộ cho có vẻ nghiêm chỉnh. Do đó tiếng giày của họ cũng nện mạnh từ từ bước theo như cán bộ.
Trong khi nộp đơn ở Saigòn, tôi đã được hướng dẫn đầy đủ về nếp sinh hoạt trong Võ Bị. Vì nhu cầu chiến tranh, khoá 20 phải học cấp tốc hai năm, thay vì 3, 4 năm như các khoá khác, về văn hóa thì tương đương với 2 năm ngành đại học. Còn chương trình quân sự thì sẽ học như các khoá khác: về cá nhân chiến đấu, hành quân tác chiến từ cấp tiểu đội, trung đội, và đại đội. Ngoài ra cũng học về địa hình, vũ khí, tác xạ, cùng lãnh đạo chỉ huy.
Nhưng mọi người đều hoang mang nhất về Tám Tuần Sơ Khởi. Có người gọi đó là tám tuần địa ngục trần gian, có người gọi đó là tám tuần lột xác, sẽ lột bỏ hết những cá tính dân sự để trở thành một một quân nhân thuần tuý.
Giai đoạn nầy chỉ biết có tuân lệnh tuyệt đối, không được thắc mắc phân trần gì hết! Thật là giai đoạn trăm cay ngàn đắng,giống như sắt bị trui rèn trong lò luyện thép vậy.
Thế rồi kèn trống nổi lên như chào đón, như mời mọc, và cũng như thúc giục chúng tôi đi vào. Nghe tiếng nhạc vui tươi chẳng khác nào khi còn ở ngoài dân chính trong những đêm liên hoan nhảy nhót ở các Phân khoa Đại học, ai cũng có cảm giác oai phong, hớn hở!
Nhưng!!!..
Người cuối cùng vừa bước qua khỏi cổng thì hỡi ơi! Tiếng quân nhạc cũng vừa chấm dứt. Mọi sự đều trái ngược, họ trở mặt một cách trắng trợn! SVSQ cán bộ ùa ra đông như kiến!
Một người kèm một tân khoá sinh; họ bắt đầu nạt nộ, la hét. Một anh cán bộ chạy tới quát vào mặt tôi và bảo :
- Anh nầy, chạy theo tôi coi, anh thấy toà nhà ngang phía trước không? Ráng chạy cho qua mặt tôi.
- Chạy nhanh lên, bộ tà tà muốn ba gai hả ?
Đoàn quân hàng một khi nãy như bị tan loãng ra từng cặp một. Rồi mỗi người chạy đua với một sinh viên cán bộ, nhưng chắc chắn phần thua cuộc phải là những anh chàng lính mới nầy. Họ không biết, cứ ráng chạy qua mặt sinh viên cán bộ để về phạn xá (dãy nhà ngang là phạn xá) phía trước để thi hành đúng lệnh của đàn anh, mong rằng làm xong sẽ được nghỉ sớm, vì đi suốt ngày mệt mỏi quá chừng.
Nhưng than ôi, giống như các tân khóa sinh khác, tôi đã lầm. Lúc đang chạy ngon trớn giữa đường thì bị một cán bộ khác chận lại và quát to:
- Anh chạy giỏi lắm, giờ chạy ngược cho tôi coi.
Như chiếc xe bị giật lùi, tôi bị vấp té ngã, vì hai chân chẹn vào nhau.
Tức thì đàng sau, một tiếng hét như sấm nổ bên tai:
- Yếu đuối như vậy sao ? Làm mười cái nhảy xổm coi.
Tôi chưa từng biết thế nào là nhảy xổm, vì thế anh ta làm trước một cái biểu diễn, rồi bắt tôi thi hành theo lệnh. Lúc nãy chạy nước rút làm tôi mệt thở hổn hển, tim đập mạnh quá nên mặt tái xanh. Đầu óc choáng váng mà cũng ráng nhảy 10 cái xổm. Nhưng thiện chí đã như vậy mà vẫn chưa được yên thân.
- Nhảy thêm 10 cái hít đất !
Tôi tự nhủ mẹ kiếp, 10 cái nầy rồi 10 cái khác, cứ như thế thì chỉ có thác thôi! Chẳng lẽ hình phạt nầy vô tận hay sao?
Đang nghĩ vẫn vơ, bỗng nghe tiếng quát:
- Tiếp tục chạy 1 vòng sân cho tôi coi.
Lại tiếp tục như cái máy, tôi lúc đó vừa chạy vừa tức, vì mình đã chấp hành đúng lệnh, có ba gai gì đâu. Hồi nào tới giờ ở ngoài đời chỉ được chiều chuộng, chứ chưa từng bị ai nạt nộ hành hạ như thế nầy. Rồi họ hai ba người kèm, bắt tôi chạy và bò qua ống cống làm áo quần bị ướt nhẹp dính đầy bùn sình, thật là dã man hết sức. Tôi quá tức giận định chạy thẳng ra cổng luôn, nhưng không hiểu sao hai chân cứ bẻ quanh vô theo những người chạy trước!
Từ bốn sinh viên sĩ quan tại phi trường, rồi lên bốn chục người, bây giờ thì tứ bề bị vây kín bởi những sinh viên cán bộ. Một vòng rồi một vòng, tôi cứ tiếp tục chạy cho đến khi bị ngã té xuống đất lúc nào mà cũng không hay, nhưng lỗ tai thì vẫn nghe rõ tiếng quát:
- Ai chỉ anh vô Võ Bị mà biết mang giày Bata vậy?
Tôi vừa thở vừa trả lời:
- Thưa có người mách tôi là vào đây sẽ bị phạt. Mang giày tốt, sợ bỏ uổng!
- Bộ anh khinh dễ Võ Bị phải không? Vô Võ Bị mà mang giày không đứng đắn vậy sao ?
Đang ấm ớ không biết trả lời ra sao, bỗng lúc đó tôi lại nghe một cán bộ quây một thanh niên khác đang đứng ủ rũ như con gà chết:
- Anh tưởng vô Võ Bị để nhảy đầm hay sao mà mang giày đẹp vậy, lại còn mũi nhọn hoắc nữa chứ.
Tôi chửi thầm trong bụng, đúng là “Quan thì to miệng, dân thì ngậm tăm”!
Làm quan trên thì muốn phát ngôn thế nào cũng được, mang giày xấu cũng bị phạt, còn mang giày tốt thì bảo là đi nhảy đầm. Mẹ ơi! sao con khổ thế nầy ?
Tôi thắc mắc là tại sao khi ở câu lạc bộ, và ngay cả ở trên xe GMC, họ đã tử tế chở vòng vòng để cho ngắm cảnh. Lúc đó các anh quả thật là những chàng sinh viên sĩ quan bặt thiệp dễ thương. Thế mà sao bây giờ họ dữ tợn quá vậy? Nghĩ như thế chừng một thoáng rồi bỗng mắt tôi nhòa dần, đầu chúi ngã về phía trước. Mắt nhìn một anh cán bộ thành hai người, thành ba, bốn, năm,...rồi mờ dần. Trong giây phút đó, tôi mơ hồ nhớ lại hình ảnh khuôn mặt của những người dân ở chợ Đà Lạt, những cái cười vẫy tay ấy như hàm ý là: “Bây giờ cười vui đi các cậu trẻ, chút nữa đây rồi sẽ biết”. Còn những nụ cười của các cô nữ sinh xứ hoa đào, tôi đã hiểu những nụ cười ấy ngầm chứa một ẩn ý như nhắn nhủ, như dặn dò: “Hãy ráng lên, cố gắng vượt qua những thử thách đầy gian khổ, rồi đây các anh sẽ là những chàng trai hùng, những người yêu lý tưởng của chúng em ”!
Các thức ăn mà tôi cho vào bụng một cách thoải mái ở câu lạc bộ, bây giờ ọc ra hết trọi, con người lờ đờ không tự chủ, nghe họ bảo sao thì cứ làm như cái máy.
Một lúc sau đó, nhờ không khí lạnh của Đà Lạt làm tôi tỉnh lại, vừa mở mắt ra thì thấy một anh cán bộ đã đứng sẵn đó từ bao giờ, tôi chưa kịp có phản ứng gì thì anh ta quát lớn:
- Giả bộ xỉu phải không anh? Tưởng tôi thương tiếc cái mạng của anh lắm sao? Mạng của anh chỉ bằng một tờ giấy thôi. Anh hãy đứng lên trình diện tôi coi.
Như con ngựa đua bị thằng nài thúc hối bởi roi giọt, cứ nhắm mắt lao tới. Tôi gắng gượng đứng dậy, chân trước đá chân sau; khệnh khạng bước đến trước mặt anh ta, chưa kịp đứng vững thì bị quát:
- Anh có biết đứng nghiêm không? Hãy chào tay và xưng danh tôi coi?
- Thưa anh, tôi tên là Trương Dưỡng.
- Quân đội không có anh em gì cả. Dân chính lắm, phải nói là thưa Niên Trưởng.
Nhắc tới chữ anh em tôi chợt nhớ tới một trường hợp tức cười là chuyện hai anh em ruột phạt nhau. Người anh tên Long ở ĐĐA (sau nầy ra trường vài tháng thì bị hy sinh) quát:
- Anh là gì của tôi?
- Dạ là em của anh. Người em là Nguyễn Bảo Sơn trả lời!
- Quân đội không có anh em gì hết, xưng danh lại.
- Dạ ... mình cùng máu mủ!
Theo lời Sơn kể lại: Long tức giận em không nghe lời ở nhà săn sóc bà mẹ yếu, mà cứ nộp đơn đi Võ Bị! Nên hôm đó Long đã phạt Sơn tơi bời!
Có lẽ thấy tôi quá mệt mỏi, anh cán bộ giả lãng, thay vì tiếp tục hành xác, anh lại chỉ vẽ cho cách chào, cách gập càm ba ngấn, thế nghiêm, thế nghỉ, cách xưng hô, trình diện.
Anh sinh viên cán bộ bảo tôi lập lại theo:
- Tân khoá sinh T.D, danh số...., trình diện niên trưởng. Tôi lập lại...nhưng đến hai chữ “Niên trưởng” thì bị khựng, vì nghe nó ngờ ngợ làm sao. Niên trưởng? Sao lại là niên trưởng? Niên trưởng là cấp bậc gì trong quân đội? Thôi thì tìm hiểu cái quái gì, lệnh ra thì cứ làm cái đã, tôi cứ lập lại như con vẹt. Nhưng nghĩ hai chữ niên trưởng nó mới lạ khó nói chẳng khác nào anh chàng vừa cưới vợ, phải sửa đổi gọi nhạc gia là bố mẹ, thay vì mọi lần kêu là hai bác.
Hơn mấy giờ bị quần thảo, đám tân khoá sinh được dẫn đi hớt tóc và lãnh quân trang. Phòng hớt tóc gồm 5 ghế, đặt trước gương dài, từng 5 người được gọi lên ..... “Bàn cạo”. Ai nấy như nhẹ nhõm vì từ khi bước chân vào cổng trường tới giờ chỉ có dịp nầy mới được tự do ngồi nghỉ ngơi đôi chút, họ chẳng còn thì giờ để ý tóc sẽ được cắt theo kiểu nào. Khi hớt xong, thấy đầu bị cạo trọc còn ba phân, mặt mày ai nấy đều méo xẹo!
Sau đó họ đưa chúng tôi vào phạn điếm để ăn cơm. Cứ bốn người ngồi một bàn, họ chỉ tôi cách ngồi thẳng lưng, hai tay buông thòng xuống, cầm gập và mặt ngó thẳng, lúc ăn phải giữ vuông góc, trông giống như người máy “Rô bô”â vậy. Bỗng tôi nghe tiếng hét trước mặt:
- Anh kia! Xưng danh coi.
Tôi đứng bật dậy chợt thấy đó là bạn Lâm Văn Rớt, định lên tiếng bảo cứu mạng, tao bị tụi nó hành quá trời mầy ơi, nhưng Rớt làm mặt lạ quát:
- Xưng danh nhanh lên.
Tôi tưởng hắn nói chơi ai dè hắn trở mặt thiệt. Tức quá tôi hét lớn:
- Tân khoá sinh Trương Dưỡng trình diện.
- Anh đã ăn được mấy chén?
- Thưa 5 chén (trời ơi bạn bè mà phải dạ với thưa!!)
- Anh ăn thêm 2 chén nữa cho tôi coi.
- Tuân lệnh!
Nhưng đồ ăn đã hết rồi, đành phải ăn cơm với xì dầu.
Sau khi cơm nước xong, họ dẫn đi lãnh quân trang và quân dụng, hành trang đầu đời quân ngũ gồm: một túi đựng quân trang, một cái balô, 2 đôi giày trận, hai bộ đồ tác chiến, một cái mũ sắt hai lớp nặng chình chịch, một nón lưỡi trai và một số đồ cá nhân lỉnh kỉnh. Mọi người thay đồ tại chỗ, với bộ đồ mới rộng thùng thình, trông ngơ ngáo thật nực cười .
Rồi họ đưa chúng tôi về phòng, trên lầu ba. Các tân khoá sinh bắt đầu xả nước nóng tắm rửa thật là thoải mái, mọi gian lao suốt ngày như được trút đi theo dòng nước.
Phòng tắm ở đây xung quanh tường lót toàn gạch men, và dưới nền toàn là gạch bông. Hằng ngày sinh viên phải quét dọn lao chùi bằng bột Nap bóng loáng trông rất sạch sẽ. Lúc đó trời đã tối đen, bỗng nghe tiếng kèn thổi báo ngủ. Tất cả tân khoá sinh mọi phòng đều phải lên giường và tắt đèn đi ngủ.
Đây chỉ mới ngày đầu trong 8 tuần lễ sơ khởi, còn lại năm mươi lăm ngày thử lửa nữa, với nhiều trò phạt hành xác mới mẽ, khi nhớ tới cảm thấy rùng mình, thật là đoạn trường ai có qua cầu mới hay.
Suốt 8 tuần, tân khoá sinh bị phạt tập thể hoặc phạt dạ chiến cho cá nhân nào bê bối, từ sáng đến tối chỉ toàn là cực hình, nhiều hình phạt thật là vô lý không thể tưởng. Có lần cả tiểu đoàn tân khoá sinh bị sinh viên Phạm Hiệp Sĩ, Cán Bộ Tiểu Đoàn Trưởng, phạt tập hợp kiểu “ Nhanh như lá vàng rơi ”. Tất cả tân khóa sinh đều ở trên lầu ba, khi nghe tiếng còi, một cán bộ thả chiếc lá, cũng từ lầu ba, mọi người phải chen nhau chạy xuống tập họp. Làm thế nào mà hơn 400 người có thể thi hành kịp với một chiếc lá rơi, có thể nếu biết bay thì may ra. Thế là lên lầu làm lại, chạy lên chạy xuống cho tới gần xỉu thì vị tiểu đoàn trưởng lên bục xỉ vả nào là ba gai, nào là tránh né, rồi bắt bò, hít đất, nhảy xổm,...
Có hình phạt bắt lấy cây tăm đo chiều dài của sân trại, hoặc ăn trái ớt và bảo nó là trái chuối, hoặc bảo đổ đầy bình bi-đông bằng chai dầu gió. Có anh tân khóa sinh nhận thư tình dài tới 7 trang giấy! Sinh viên cán bộ bảo anh lấy keo dán lại thành tờ giấy dài lê thê giống như sớ Táo Quân, rồi bắt anh ta đứng lên bục gỗ, đọc to cho tất cả cùng nghe! Nhiều đoạn trong thơ thật ướt át, mùi không thể tả! Nghe anh đọc lên ai cũng muốn cười bể bụng,... nhưng nếu anh nào cười thì sẽ bị phạt ngay.
Mỗi lần ra sân bắn, tân khoá sinh thường thi đua với nhau “chầu tê liệt”, hễ ai thua điểm thi tác xạ thì tối về đãi một chầu bao bụng cho người thắng cuộc, ăn no nê mệt nghỉ! Nhiều tân khoá sinh trong khi học môn địa hình, tìm cọc và điểm đứng. Khi đi qua khu vực trồng cà rốt trong ấp Thái Phiên, có anh muốn thưởng thức món cà rốt tươi ướp lạnh, đã nhổ lén một củ ăn rất ngon lành, xong nhét đồng tiền chì vào lỗ vừa mới nhổ trống, coi như mua vậy. Có toán vì lo kiếm anh chàng nào đó đang lén tìm lùm cây chui vô ngủ, vì đêm qua gác nên thiếu giấc. Do đó cả toán về trễ giờ quy định nên bị phạt tập thể.
Mọi sự di chuyển trong doanh trại của tân khoá sinh đều đi đúng nhịp hoặc chạy lúp súp, chớ không được đi rảo bộ khơi khơi. Mỗi buỗi sáng thức dậy lúc 5 giờ chạy sáng, rồi dùng bột Nap để lau chùi phòng ngủ, phòng vệ sinh cho bóng. Lúc nào tân khoá sinh cũng phải đi nhón gót, vì nếu cán bộ thấy dấu chân dính trên nền các phòng thì tối đó sẽ bị phạt dạ chiến.
Ngoài ra giày phải đánh bóng, áo quần để trong tủ cá nhân và mền drap đều phải xếp vuông thẳng, sinh viên cán bộ mỗi Thứ Bảy đều đeo găng tay trắng, rồi họ cố tình rờ dưới tủ, dưới giường, ở kệ sách, và các bộ phận tháo rời của súng cá nhân.
Trong khi thi hành lệnh phạt thường bị xỉ vả:
- Anh thích cười ruồi với thợ giặt hả ?
- Tà tà hả, tránh né hả, anh nào ba gai sẽ bị ra trung sĩ đó.
- Anh yếu xìu như vậy mà đòi ra trường chỉ huy binh sĩ hả?
- Anh uể oải, chán nản, không hiểu thế nào là Tự Thắng để chỉ huy sao ?
Vài chuyện đáng kể là trường hợp tân khoá sinh Đỗ Quang Xuân có người anh họ là Đại tá Quân Sự Vụ Trưởng. Ông ta sắp đổi đi ra đơn vị tác chiến nên bảo với sinh viên cán bộ tuần sự đại đội cho gặp Xuân, nhưng sinh viên cán bộ nói :
- Theo qui chế tân khoá sinh không được gặp bất cứ sĩ quan nào trong suốt 8 tuần sơ khởi, nếu đại tá gặp xong tôi sẽ phạt anh Xuân.
Vì muốn nhắn chuyện gấp nên ông ta đành gật đầu ưng chịu. Tối hôm đó Xuân bị phạt dạ chiến trước đại đội.
Đại uý Đại đội trưởng Đại đội A là một sĩ quan rất khắc khe và cứng rắn, nên hôm cháu ông nhập trường, khi đang thọ phạt, anh xưng là cháu của Đại úy Di để may ra họ nể mặt mà phạt nhẹ. Nhưng anh sinh viên cán bộ nghe được càng phạt nhiều thêm. Tội nghiệp anh bị xỉu lên xỉu xuống, lúc đó tôi là sinh viên sĩ quan đại đội trưởng hệ thống tự chỉ huy, trong khi anh đang xỉu, tôi lén thoa dầu cho anh. Có lần khi tân khoá sinh khoá 21 tên Lê hữu Khiêm đang thọ phạt, tôi thấy trung uý Lê hữu Khái, sĩ quan Đại đội trưởng Đại đội B, đi tới đi lui, hai tay cứ xoa với nhau, như muốn tìm cách giúp đỡ em mình, mà không thể làm được! Khoá tôi có một đứa em ruột của một vị trung tướng mà cũng bị ra trung sĩ vì thiếu điểm.
Những thí dụ trên chứng tỏ sự chí công vô tư, không sợ quyền thế. Đó là tinh thần đặc biệt của những sĩ quan xuất thân từ quân trường mẹ nầy.
Vì tập quá vất vả và phải chạy hoài nên toán nào cũng có những tân khoá sinh bị bong chân, cứ đi cà nhắc theo sau hàng quân, chúng tôi đặt tên cho họ là “ Phái Đoàn Thiện Chí ”.
Đối với tân khoá sinh, thợ giặt lúc bấy giờ có thể được coi như người thân tốt bụng duy nhất. Với tiền lương trung sĩ cho năm thứ nhứt, tôi có thể nhờ thợ giặt mua dùm thuốc bổ calcium B1, sữa hộp, kẹo,.. Mỗi buổi chiều thợ giặt cũng bán gà rôti, hột vịt lộn, bánh mì nem, chả chiên,... Sau khi học quân sự về, TKS sợ nhứt là lúc tập họp đi ăn, vì đây là dịp để các sinh viên sĩ quan cán bộ phạt tập thể, họ nêu nhiều lý do rồi phạt chạy, bò, hít đất, nhảy xổm,...Những người nào có cử chỉ không thi hành tích cực thì bị cán bộ đại đội gọi trình diện phạt dạ chiến vào ngay tối hôm đó, với balô chất đầy quân trang, nón sắt và vũ khí cá nhân, rồi bị hành xác từ 8 tới gần 10 giờ đêm. Vì vậy mỗi lần tập họp đi ăn, tôi thường uống 2 ống calcium B1, húp một ít sữa đặc, để có thể thi hành hình phạt đàng hoàng, hầu tránh bị xỉu hoặc bị gọi phạt dạ chiến phụ trội.
Vì bị phạt tập thể mỗi lần gần hai tiếng đồng hồ, nên khi vào phạn xá, ai nấy đều đói meo, người nào cũng ăn trên năm chén cơm. Khóa tôi đặc biệt có anh Nguyễn hiền Triết, cao 1.85 m, tiêu chuẩn tối thiểu của nó là 7 chén. Triết thủ cờ Liên Đoàn trong năm thứ hai, sau nầy ra Tiểu đoàn 6 Nhảy Dù, rồi về làm sĩ quan cận vệ phủ Tổng Thống.
Tánh Triết rất tếu và tốt với bạn bè, có lần vào đêm cuối năm, Nghiêm đang chỉ huy Đại đội Nhảy dù đóng ở vườn Tao Đàn với nhiệm vụ phòng thủ vòng ngoài phủ tổng thống, Triết qua rủ người bạn đồng khoá nầy, lợi dụng giờ giới nghiêm, lấy xe đi đến các khu nhà giàu, nơi nào có để các chậu bông ngoài cửa, Triết, Thành, và Nghiêm đều bợ hết. Khi tới một biệt thự nọ, có chậu bông thật to, cả ba đang hì hụt lăn lên xe, bỗng có một cảnh sát viên từ trong hẻm đi ra. Ba đứa đang lúng túng, nhanh trí Thành chồm tới kéo cổ áo ra hù:
- Đại úy nè, sao còn đứng đó, không tới đây lăn phụ.
Thấy tới ba ông Đại úy Nhảy Dù vừa trẻ tuổi vừa cao lớn oai nghi, anh cảnh sát đâu dám chần chừ:
- Dạ! Dạ! Đại úy.
Rồi anh săn tay áo, phụ khiên chậu bông lên xe!
Nghiêm và Triết vừa làm vừa cười thằng quỉ Thành nầy ma le lanh trí quá! Sáng hôm sau, Triết chở mấy chậu bông đem phân phát cho những thằng bạn cùng khoá, trong đó có phần của tôi là một chậu bông giấy.
Triết chẳng những to con mà mũi lại cao, nước da hơi ngâm đen, trông giống người Mỹ gốc Mễ lắm. Có lần chúng tôi cùng Triết đi ăn chè, chị bán hàng hỏi:
- Ông Mỹ nầy cũng biết ăn chè sao ?
Tôi sẵn dịp nói đùa:
- Hắn là Mỹ mà biết nói tiếng Việt đó.
Chị ta không tin, tôi làm bộ nói với Triết:
- Can you speak Vietnamese ?
Triết cười hô hố giọng như Mỹ rặc:
- Oh yeah ! Of course !!!
Chúng tôi bảo cá nồi chè, chị ta cười cười bảo cứ làm thử.
Triết làm bộ nói bập bẹ:
- Cộ...thu..ơng t..ui kh...ôn ?
Cô bán chè nghe nói mặt đỏ như e thẹn, trố mắt nhìn Triết một cách ngạc nhiên, cuối cùng cô tặng cho ông Mỹ da vàng chén chè khỏi trả tiền. Nhưng bụng của Triết ăn một chén đâu thấm tháp gì, sẵn trớn hắn làm thêm chục chén, khiến chị bán chè hôm đó trúng mối dẹp gánh về nghỉ sớm.
Cũng tại cái bao tử to ấy mà khiến Triết phải vô cùng điêu đứng khổ sở, vì suốt mười năm trong trại tù tập trung, mỗi buổi ăn chỉ có một chén cơm trộn củ sắn với nước muối, thì làm sao mà chịu cho thấu. Đã vậy lúc ra tù, sáng nào với bụng rỗng, đôi chân run rẩy, Triết cũng ráng chạy xích lô vòng vòng kiếm khách, mong tìm chút tiền mua cơm ăn dằn bụng trước đã.
Lúc đó dưới chế độ kiểm soát bằng lý lịch, các sĩ quan ra tù về chỉ có nước đi vá xe đạp ngoài đường, hoặc khá lắm thì mướn được xe xích lô để sống lê lết qua ngày. Nhưng xích lô thì nhiều mà người thì nghèo, Triết kiếm ăn rất khó, đã khổ lại càng khổ thêm, lu gạo nhà Triết lúc nào cũng trống rỗng. Mặc dù chị Triết cũng hết sức chịu khó, nhưng kiếm tiền không ra, vì thế các con anh (đứa nào cũng nặng hơn 4 ký khi chào đời, sức ăn mạnh như cha) bị đói dài dài. Đôi khi Triết cứ chạy lang thang ngoài đường hoài vì sợ về nhà thấy cảnh vợ con nheo nhóc! Đúng là anh hùng mạt lộ chỉ có trời ngó thôi!
Có lần chở khách ở khu Bà Quẹo, sẵn dịp Triết ghé thăm tôi. Thấy anh ốm nhom, mặt mày xanh lét, tôi hết sức xúc động, hơn mười năm gặp lại mà đã suy tàn như thế nầy. Tôi vội nói bà xã nấu một nồi cơm to, để hai đứa vừa ăn vừa hàn huyên lại những kỷ niệm vui buồn ở quân trường. Hiện nay Triết đang sống bằng nghề sửa áo quần ở tiểu bang Arkansas, với bản chất của người trai Đa Hiệu, anh ta từ tay ngang bây giờ đã là thợ sửa đồ vét, đồ cưới được khách hàng hết sức ưa chuộng, còn Thành tuy đẹp trai giống Châu Nhuận Phát nhưng đã hy sinh năm 1971!
Bây giờ xin trở lại chuyện dài về tân khoá sinh; sau 8 tuần huấn nhục, Khoá 20 có khoảng 7, 8 người bị trả về dân chính vì lý do sức khỏe, không chịu đựng nỗi, mọi người đều như thay da đổi lớp, dáng dấp yểu điệu thư sinh không còn nữa. Bây giờ tôi cân lên thêm được tám ký, người dẻo dai hơn trước, mọi thứ đều tiến bộ cả về thể xác cũng như tinh thần. Chúng tôi ai nấy đều hiểu rằng mục đích của những hình phạt cực hình đó không ngoài việc tạo cho sinh viên sĩ quan một cơ thể chắc chắn, một tinh thần chịu đựng có thể thích ứng với mọi khó khăn dù gian nan tới đâu cũng biết tự thắng để chỉ huy. Nhất là những hình phạt gọi là vô lý đó, cũng không ngoài mục đích tạo cho chúng tôi thích ứng, làm quen với kỷ luật sắt trong quân đội. Đó chính là: “Quân trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu”.
Mọi người đã dần dà có cảm tình với các niên trưởng, mến phục thái độ đàn anh của họ. Những hành động đáng nhớ như khi kèn ngủ đã thổi lên, mọi đèn phòng tắt, các sinh viên niên trưởng đã lặng lẽ đi từng phòng kéo chăn mền đắp lên người khoá đàn em, vì sợ họ mệt quá ngủ quên sẽ bị trúng gió. Cũng có những lần các sinh viên cán bộ biết các tân khoá sinh chờ tắt đèn im lìm đâu đó, rồi mới lặng lẽ tu những hộp sữa đặc đã dấu sẵn dưới mền, nhưng họ đã lờ đi vì các niên trưởng biết những đàn em hết sức tội nghiệp nầy cần phải bồi dưỡng thêm cho cơ thể sau mấy ngày học tập và chịu hình phạt hết sức vất vả.
Những hành động đó tuy âm thầm, nhưng thể hiện biết bao nhiêu tình đồng đội của những người cùng chung mái trường mẹ thân yêu! Bằng chứng là sau 30 năm gặp lại các đồng môn ở xứ người, lòng tôi tràn đầy hân hoan, lúc nào cũng cảm thấy ấm cúng như gợi nhớ lại những kỷ niệm vui buồn, nhớ nhứt là các niên trưởng cán bộ thời kỳ Tám Tuần Sơ Khởi Tân Khoá Sinh.
Riêng anh Lâm văn Rớt, sau khi tốt nghiệp về Tiểu đoàn 7 Nhảy dù, đã bị thương nặng ở trận Bình-Giã. Rồi về làm sĩ quan chính huấn ở Đại đội Tổng hành Dinh Bộ Tổng Tham Mưu. Năm 1975, anh bị tù gần mười năm, khi về nhà thì vợ đã mất. Anh phải ngồi bán thuốc lá dạo ở chợ Vĩnh Bình để nuôi các con lúc ấy còn thơ dại. Hiện tại anh đang ở Pháp .

3. Chinh Phục Lâm Viên


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd417/1506651141-Chuong1_VaoQuanTruong4.jpg

Rồi Tám Tuần Sơ Khởi cũng trôi qua, các Tân khoá sinh được thử thách lần chót. Đó là chinh phục đỉnh Lâm-Viên: cả khoá chia làm hơn 40 toán, mỗi toán khoảng 10 người. Tất cả chuẩn bị đầy đủ hành trang tác chiến chứa đầy trong ba lô, súng cá nhân địa bàn, bản đồ quân sự. Mọi người đều phát xuất từ vũ đình trường và trên đường đi đến đỉnh Lâm Viên phải tìm cho được một số cọc trên đó có ghi các ước hiệu địa hình quân sự chỉ định.
Toán chúng tôi vượt thung lũng ở sân bắn, xuyên qua đồi yên ngựa, vừa tới chân núi Lapbé North thì trời đã mờ tối, theo bản đồ thì cọc thứ nhứt ở trên lưng chừng một đường đỉnh của rặng núi nầy. Khi tới đúng tọa độ, tất cả phân tán chia nhau ra tìm, tôi mãi lo nhìn theo lằn lân tinh trên địa bàn để định tọa độ lại cho chính xác thì bị hụt chân rơi xuống hố sâu, tôi la lớn để mấy đứa cùng toán tới phụ kéo lên, vì vai mang ba lô nặng chỉu.. Bỗng có đứa kêu lớn :
- Thấy cọc rồi tụi bây ơi!
Chúng tôi mừng rỡ vội chạy tới, soi đèn lên thì thấy trên cọc có vẽ ước hiệu trung đoàn bộ binh, lúc ấy khoảng 11 giờ đêm; chúng tôi lại lấy bản đồ tiếp tục định hướng để tìm các cọc kế tiếp. Đến một giờ khuya lại tìm được thêm được hai cọc nữa, và khi trời mờ sáng thì đã qua đủ số cọc chỉ định và cọc cuối cùng nằm ngay ở chân núi Lâm Viên. Toán chúng tôi được thưởng mỗi người một lá cờ Lâm Viên vì đến trước nhất và tìm đúng hết các cọc.
Đêm đó có tổ chức đốt lửa trại và ca hát rất vui vẻ. Đặc biệt có anh Chu văn Thiệp, thổi khẩu cầm qua nòng súng và nhảy múa rất lả lướt. Tiếng hỏa châu nổ tưng bừng như ngày hội lớn trên đỉnh Lâm Viên. Niềm hãnh diện của những chàng tân khóa sinh vì họ đã vượt qua giai đoạn thử thách đầy cam go, khổ cực đầu tiên trong đời binh nghiệp nầy.
Tối hôm sau, tại trường Võ Bị, trong mỗi phòng, dưới ánh đèn cầy mờ ảo, các sinh viên sĩ quan khoá đàn anh đến làm lễ trao găng tay theo truyền thống. Tiếp theo đó là lễ gắn Alfa. Từ đó trở đi, tôi và anh em cùng khoá 20 VBĐL chính thức trở thành Sinh Viên Sĩ Quan của trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam. Tất cả rất hãnh diện cất tiếng ca bài “ Võ Bị Hành Khúc”, mỗi khi di chuyển đều bước trong hàng quân:
Ta đoàn sinh viên Võ Bị Việt Nam
Đồng hát khúc ca quân hành
Đoàn sinh viên ta xiết chặc dây thân ái
Gieo khắp đó đây những mầm sống vui
Đồng thanh ca ta vui hát lên
Dù gian nan qua bao khó khăn
Đoàn Sinh Viên ta vui bước lên
Đi lên,....đi lên.....đi
Ta đoàn Sinh Viên họp đoàn vui sống
Gieo khắp đó đây khúc ca thanh bình
Trong giai đoạn tân khoá sinh, chúng tôi chỉ được học phần quân sự, gồm các môn: tháo ráp và lao chùi vũ khí, cơ bản thao diễn, đoạn đường chiến binh, tác xạ các loại súng trường M1, Colt, Tiểu liên, Trung liên, Đại liên,....Ngoài ra còn học về địa hình, tìm cọc và tìm điểm đứng. Cũng học về cá nhân chiến đấu, thoát hiểm mưu sinh, lính gác giặc. Chiến thuật tiểu đội tuần tiểu phục kích, tiểu đội đột kích đêm,..

4. Giai Đoạn Sinh Viên Sĩ Quan


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd417/1506651162-Chuong1_VaoQuanTruong5.jpg

Giai đoạn nầy, khi chánh thức trở thành Sinh viên Sĩ quan, chúng tôi học cả Quân Sự lẫn Văn Hoá. Học Văn hoá thường vào mùa mưa; mỗi lớp học chứa khoảng 25 sinh viên sĩ quan, vì thế các đại đội phải chia thành hai toán A1, A2, B1, B2,.. Lúc đi học thường mặc kaki vàng ủi thẳng nếp, chúng tôi không dám ngồi chồm hổm, sợ nhăn nếp sẽ bị khóa đàn anh phạt. Trường được trang bị các phòng thí nghiệm rất tối tân: Phòng Thực Nghiệm Vật Lý, Hoá Học, Kỷ Nghệ Nặng, và Điện Tử,...
Ngày đầu tiên khi vào học lớp Anh Văn, tôi giật mình vì sau 8 tuần lột xác, đầu óc bây giờ trống trơn, ngay cả chia động từ “To Be” mà cũng quên, đúng là 8 tuần “Tẩy não”. Rồi thời gian trôi qua, chúng tôi dần dần nhớ lại, nực cười nhất là giỏ cam mà má tôi gởi cho thằng Miên xách dùm tại điểm tập trung ở Sàigòn, cách nay đã hai tháng, mãi tới giờ nầy mới nhớ thì nó đã nằm trong bụng của Phan thanh Miên hết rồi !
Thời gian Thiếu tướng Trần Tử Oai về làm chỉ huy trưởng, ông thấy các sinh viên sĩ quan có vẻ cứng ngắc, thực hành kỷ luật một cách tuyệt đối, việc gì cũng lý tưởng quá mức. Ông đã phạt lia lịa, toàn tội trọng cấm (nhưng không lưu hồ sơ cá nhân). Mục đích muốn các sinh viên nếm chút bụi đời, chớ thật ra ông rất thương chúng tôi, vì thỉnh thoảng ông tự lấy xe qua nhà tù rước các sinh viên bị phạt về.
Tôi cũng là một nạn nhân trong đó. Một hôm nọ, lúc liên đội F, H đi ngang qua phòng Chỉ huy trưởng, tôi và Thái Văn Huyện, là đồng trưởng toán, đang vừa chào Tướng kỳ vừa đếm nhịp bước thì nghe tiếng gọi :
- Dừng lại.
Huyện vội hô :
- Đứng lại .....đứng .
Tôi quay đầu nhìn, thấy một người có khuôn mặt đầy oai vệ; tay ông cầm cây “Can”, trên nón có hai ngôi sao sáng chói; đang cùng sĩ quan cận vệ đi tới, chúng tôi ai nấy đều hồi hộp, thiếu uý đã ghê lắm rồi huống chi đây lại là thiếu tướng!
Ông ta cất tiếng rổn rảng :
- Các anh đi học ở đâu về ?
Huyện run rẩy trả lời :- Dạ thưa .... Thiếu .... uý, đại đội học tác xạ về.
Chúng tôi ai nấy đều giật mình cười thầm, thằng nầy gan trời, dám kêu Thiếu tướng bằng thiếu uý! Ông ta gõ khẻ lên đầu Huyện và nói:
- Sinh viên Sĩ quan gì mà nhát gan vậy .
Thế là ông phạt 2 trưởng toán 10 ngày trọng cấm. Tôi bị vạ lây thật là oan uổng, khi về tới doanh trại vội tắm rửa thu xếp hành trang lên xe qua nhà tù ở bên khu Quan Trung.
Đây là khu trường cũ, nhà cửa xập xệ, trong tù đầy nhóc sinh viên sĩ quan Khoá 19 và Khoá 20, quang cảnh thật hỗn độn, không còn thể thống, đàn anh nghiêm trang đáng kính sợ nữa.
Các niên trưởng ở đây thật là xuề xoà dễ chịu, nói chuyện vui vẻ thật cởi mở; tiêu chuẩn tù phải ăn cơm muối, nhưng câu lạc bộ kế bên, anh lính trực đâu có khóa cửa tù, vì “Ở trong đó toàn mấy ổng không”! Đó cũng là dịp để nghỉ ngơi thoải mái, hết qua câu lạc bộ ăn thì về nằm luyện chưởng : Anh Hùng Xạ Điêu, Cô Gái Đồ Long, Lệnh Xé Xác,...Riêng tôi chỉ thích cỡi con ngựa chiến to lớn số 75 (của bà Ngô Đình Nhu trước kia), ngựa nầy to lớn và phi rất nhanh, có lần tôi cỡi nó phi nước đại, chạy qua mặt xe hơi “Con Cóc” ở gần Lò Nguyên Tử. Khi tôi cỡi ra tới phố Đà Lạt, trên bờ Hồ Xuân Hương, con 75 thấy mấy ngựa cái (để cho du khách thuê), nó nổi chứng hất tôi rớt nguyên con xuống đất làm ê cả xương mông!
Khoá tôi có Phan thanh Miên cỡi ngựa chì nhất, hắn làm Hội trưởng Hội Kỵ Mã. Vào ngày Lễ Mãn Khoá, Miên đóng vai tên quân cấp báo trong kịch Trận Đống Đa. Khởi đầu tuồng kịch, Miên phi ngựa nước rút từ bên nầy sân Vũ Đình Trường chạy qua tới bên kia sân, nơi vua Quang Trung đang ngồi trên mình voi, Miên gò ngựa cái rụp, phóng nhanh xuống, tới quỳ trước đầu voi hô to:
- Dạ cấp báo, giặc Thanh đang tiến đánh nước ta !
Miên cũng đá banh rất giỏi, là tuyển thủ giành cúp vô địch tỉnh Lâm Đồng cho nhà trường, nhờ vậy nên được thêm 1 điểm trung bình, cuối năm thứ nhứt xếp hạng cao và được làm sinh viên cán bộ Liên đoàn. Miên được tuyển về Sư đoàn Nhảy dù, cùng Tiểu Đoàn 9 với tôi. Sau 1975 anh bị tù hơn 8 năm, tội nghiệp chị Miên ở nhà tảo tần nuôi con, ráng sức gom góp và vay mượn để có tiền ra tiếp tế chồng ở ngoài Bắc. Rồi chị cố làm để trả nợ, nuôi con, đến nổi phải bị ho ra máu. Khi ra Miên tù, chị lo cho 2 cha con vượt biên, chị đúng là một người vợ đức hạnh, một người mẹ hiền đáng khâm phục. Mong rằng bạn Miên, bây giờ đang ở California, phải bù đắp cho chị thật nhiều.
Đại đội F có TKS Đặng Quốc Thông hát rất hay, những buổi sinh hoạt đại đội, mọi người thường đề nghị anh hát bản “Màu Hoa Trắng”:
“Màu hoa trắng....ngày xưa anh đã trao ân tình lần cưới em!”
Lời nhạc trầm buồn làm mọi người đều tưởng nhớ tới người yêu của mình!!!
Thời gian trôi qua thật mau, mới ngày nào mà nay Khóa 20 đã gần xong năm thứ nhứt. Vào một buổi sáng cuối năm 1964, Thiếu uý Hoàng công Trúc, Sĩ quan Cán bộ Đại đội F, gọi Nguyễn văn Măng, Nguyễn thành Nhu, Đoàn kim Sơn, và tôi tới văn phòng đại đội trình diện. Ông chỉ cho chúng tôi đống kiếm dựng ở vách và bảo mỗi đứa lấy một cây, rồi nói:
- Các anh được nhà trường chọn làm Sinh Viên Sĩ Quan Cán Bộ Hệ Thống Tự Chỉ Huy thay thế Cán bộ Khoá 19 vì họ đi Dục Mỹ học lớp “Rừng Núi Sình Lầy” để chuẩn bị ra trường.
Nhìn qua một vòng ông nói tiếp:
- Anh Dưỡng sẽ là SVSQ cán bộ Đại đội trưởng Đại đội F; Măng, Trung đội 16; Nhu, Trung đội 17; và Sơn là Trung đội trưởng Trung đội 18. Võ văn Hết là sinh viên Tham mưu, Nguyễn anh Thư là Thủ Kho đại đội.
Ngừng một chút, Thiếu uý Trúc nói :
- Việc chọn lựa nầy căn cứ vào thành tích điểm Năm Thứ Nhứt, vậy ai có gì thắc mắc không ? Mọi người đều trả lời :
- Không.
Sau đó ông dẫn 4 đứa ra sân tập dượt các thế: chào kiếm, trình kiếm, thế nghỉ, thế nghiêm,...Thiếu úy Trúc bảo đây là kiếm của Pháp nên rất nhẹ, ông đã lựa trước vì các thứ khác nặng và cồng kềnh hơn. Dù sao nó cũng nhẹ hơn súng cá nhân nhiều; thế là từ đây đỡ khổ, khỏi phải lo khi chùi súng dơ sẽ bị cúp phép dạo phố vào cuối tuần; nhất là làm cán bộ sẽ được miễn canh gác hoặc ứng chiến.
Nhắc đến việc canh gác thì có nhiều chuyện để kể, nhất là những ngày Tết mà ngồi gác và nghe bài “Phiên Gác Đêm Xuân” thì thật là buồn :
“Đón Giao thừa một phiên gác đêm”! ...
Khí hậu Đà Lạt đã lạnh mà về mùa Đông lại càng lạnh thấu xương. Mỗi khi đứng gác, chúng tôi phải mặc nhiều lớp và choàng bên ngoài thêm cái áo dạ mà cũng còn thấy lạnh, tôi thường trùm kín hết chỉ chừa lỗ mũi, miệng, và cặp mắt để quan sát, chờ toán tuần tiểu đến khoảng 6 thước thì chận để hỏi Mật khẩu:
- Ai đó đứng lại,...
- Mật khẩu :....
Không khí đại đội F bấy giờ vô cùng vui tươi, phóng khoáng, nhờ đó đã tạo nên những thành tích nổi bật về thể thao, như bóng chuyền, bóng tròn, bóng rổ, cũng có nhiều bạn rất hiền như Trần phi Cơ, Nguyễn hữu Phước, Phạm v Khóa, Nguyễn v Khoa.
Đặc biệt anh Đoàn kim Sơn, Trung đội trưởng Trung đội 18, thì hết sức đạo mạo, nghiêm trang. Anh nghiêm khắc với mọi người và cũng nghiêm khắc với ngay cả bản thân! Chính tôi lúc ấy là đại đội trưởng của anh, mà vẫn phải kiêng nể phần nào. Mỗi lần tôi theo Măng, Tài, Minh,..trốn đêm ra khu Tôn Thất Lễ nhậu tại nhà Mai hòa Đơ. Sáng ra thấy gương mặt đạo mạo của anh là tôi cảm thấy thèn thẹn làm sao đó, cảm thấy mình đã phạm sai lầm, đã nêu gương xấu cho đại đội.
Sơn ra trường vừa đi hành quân vừa học tốt nghiệp Luật và được làm Biện Lý tòa án quân sự (thiết diện vô tư giống như Bao Công đời xưa). Anh là người tỉnh Bến tre, lại nhỏ con, sống khắc khổ, nên bạn bè thường gọi anh là “Ông Đạo Dừa”!
Lúc ban đầu các SVSQ cùng khóa thường phản đối việc cắt gác của Võ văn Hết, vì ai cũng ngán về việc canh gác, nhất là khí hậu vào mùa Đông mà phải lên Đồi Bắc đứng chịu trận 2 giờ và 45 phút thì thật là khổ sở, gác ca đầu hoặc ca chót thì đỡ, còn gặp 2 ca giữa từ 11 giờ tới 3:45 thì hôm đó coi như thức trắng đêm và sáng ra sẽ ngủ gục trong buổi học.
Làm cán bộ đại đội trưởng nhiều khi phải cố gắng dàn xếp cho yên, đối với khóa đàn em thì thật là dễ chỉ huy, lệnh ra là họ thi hành ngay không một do dự. Nhiều bạn đồng khóa thường chuồn đi phố đêm, tôi chỉ nhắc nhỡ nhưng lúc nào cũng bao che, dấu nhẹm những lỗi lầm, không báo cáo Sĩ quan Cán bộ Đại đội.
Có lần đang ở phòng Thiếu uý Trúc, thấy kẹp hồ sơ sinh viên sĩ quan “Tự phê bình, tự đánh giá”. Tôi tò mò lật coi, trong đó hầu hết các bạn Đại đội F phê bình tôi là: trực tính, cương nghị, tốt với bạn và đa số đều cho hạng nhất. Tôi thấy rất mừng, không phải mừng vì được bạn bè đồng đội cho hạng cao; mà mừng vì mình không bị họ cho là làm “Ăng-ten” lấy điểm Sĩ quan Cán Bộ.
Lớp Văn Hóa có thầy dạy toán rất giỏi tên Nguyễn Ngộ, người Huế, gia đình toàn trí thức. Lúc còn trẻ, thường dùng thuốc ngủ, vì ông hay thức khuya để học bài, đọc sách. Rồi do lạm dụng thuốc nên bấy giờ không ngủ được, khiến ông như người lẫn trí, và tánh tình kỳ hoặc. Hễ mỗi lần vô lớp, ông bỏ tập lên bàn rồi gọi to:
- SVSQ nào tên là Trương Dưỡng đâu, lên trình diện coi?
Khi tôi lên thì ông đưa bài vở bảo giảng cho anh em trong lớp, nhưng đây là môn Tân Đại Số tôi chỉ biết chút đỉnh và đã quên hết rồi, nên nói:
- Thưa thầy, tôi không biết thì làm sao giảng được!
Vậy mà ông cũng chỉ sơ rồi bảo cứ giảng thử! Không ngờ ông có tài đặc biệt, nói qua loa mà tôi có thể lãnh ngộ, vì thế ông rất hài lòng. Thường gọi Khóa 20 là khóa của trò Trương Dưỡng, ông nói nhiều lần trong lớp, làm tôi mắc cỡ vô cùng! Mỗi lần tới giờ học của ông tôi thường trốn ra sau cuối lớp, úp mặt xuống bàn, giả đò ngủ gục, vậy mà ông vẫn kêu lên bảng, khiến các bạn đồng lớp thường hay chọc quê!
Dù sao tôi cũng kính nể sự thông minh đặc biệt của thầy Ngộ, hơn nữa ông đã thưởng thức sở trường toán học của tôi, nghe nói sau nầy ông phải về bệnh viện điều trị, vì chứng mất ngủ trở nên trầm trong, khiến người ông hơi “Mát”!
Sinh viên sĩ quan rất dễ bị ngủ gục, nhất là trong giờ văn hoá; vì ngoài việc canh gác, ứng chiến ra, chúng tôi thường di hành và dạ hành suốt ngày đêm. Với quân trang trên người nặng gần 20 ký, Tướng Oai thường ra lệnh chúng tôi di hành dưới những cơn nắng gắt. Bắt đầu từ trường đi bộ đến thác Gouga gần phi trường Tùng Nghĩa, Liên Khương. Đoạn đường đi và về trên 50 cây số, nên ai nấy đều than mệt quá chừng.
Có hôm đoàn dạ hành vượt hồ Than Thở, leo lên đỉnh Lapbé Sud (cao nhất vùng nầy), chúng tôi đi suốt đêm, đoàn quân thường bị đứt khúc vì thỉnh thoảng có người vừa ngồi xuống nghỉ chân rồi do mệt quá nên ngủ gục luôn, riêng tôi đêm đó cũng đánh giấc được 2, 3 lần, mỗi lần chừng 5,10 phút.
Khoảng gần 5 giờ sáng, từ trên đỉnh núi cao, chúng tôi mới nhìn thấy được đèn ở trường; mọi người mừng rỡ hấp tấp tuột dốc về đến trường, vừa tắm rửa làm vệ sinh xong thì kèn đã thổi tập hợp ăn sáng, để còn kịp đến lớp học văn hoá vào 7:30! Thử hỏi như vậy mà không ngủ gục trong lớp sao được ?
Chỉ có tôi là hơi đặc biệt một chút, có lẽ vì sợ ra Trung sĩ hay sao? Mà lúc nào cũng tỉnh ngủ trong lớp học, dù cả đêm thức giấc mệt mỏi. Các bài vở phát về tôi đều đọc không bỏ sót trang nào, nhiều khi tranh thủ ngồi trong cầu mà cũng lấy theo đọc. Có lẽ nhờ vậy nên điểm tổng kết của tôi rất cao .
Theo thiếu uý Hoàng Công Trúc cho biết, tôi được hạng ba (trong hơn 450 SVSQ) năm thứ nhứt, lẽ ra phải làm chức vụ cấp Liên đoàn, nhưng người thứ nhì trong đại đội, không đủ điểm tiêu chuẩn, nên tôi phải ở lại làm đại đội trưởng. Dù được ở một mình một phòng, không bị khám xét, nhưng tôi vẫn lau chùi ngăn nắp, vì lúc đi học, thường có nhiều phái đoàn đến thăm. Họ thích coi nếp sinh hoạt thực tại của sinh viên sĩ quan lắm.
Việc thích thú nhất của chúng tôi là được về Thủ Đô diễn hành. Vì cả năm trường đâu có ai được phép về thăm nhà; khi đến Sàigòn, vào ở trong trại Tổng Tham Mưu, sĩ quan hướng dẫn không thông cảm gì hết, họ ra lệnh cấm trại 100%. Nhưng sinh viên sĩ quan như những con khỉ được sút chuồng, lệnh thì cứ lệnh đi thì cứ đi. Tôi trốn trại tới Phú Nhuận thăm nhà trọ cũ một chút, rồi phóng ra phố, đi vòng đường Nguyễn Huệ, Lê-Lợi, ăn bún suông ở nhà hàng Thanh-Thế, gỏi khô bò, nước mía Viễn Đông, đi lung tung thưởng thức Thủ đô yêu dấu vì:
“Sàigòn đẹp lắm Sàigòn ơi ! Sàigòn ơi!”
Trong lúc đang diễn hành, tôi rất vui vẻ và hãnh diện vì được cầm kiếm đi hàng đầu, trong óc cứ nghĩ đến câu hát “Trở về Thành đô có anh đi hàng đầu” mà tự mỉm cười hoài, đúng là tuổi trẻ háo thắng. Nhưng khi về trường, các sĩ quan cán bộ phạt cả khoá bò lên chạy xuống thung lũng khu Vũ-đình-trường mệt gần toé phở, nhưng cũng đáng đồng tiền bát gạo vì được lả lướt khắp Thủ đô, mà tôi và các bạn cùng khóa, hằng nhớ nhung suốt cả năm trường.
Thời gian trôi qua thật nhanh, mới ngày nào là tân khoá sinh đã dự lễ “Quỳ xuống Tân Khoá Sinh, đứng dậy Sinh Viên Sĩ Quan”, nay Khoá 20 đã hoàn tất năm Thứ Nhất và đang thụ huấn giai đoạn chót của năm Thứ Hai. Chúng tôi được thong thả đôi chút trong thời gian chờ ngày mãn khoá. Cơn lo sợ bị ra Trung sĩ trong năm thứ nhứt và Thượng sĩ trong năm thứ hai đã trôi qua. Sinh viên Sĩ quan Khoá 20 bây giờ có thể tụ năm tụ bảy để uống cà phê, tán gẫu; hoặc khơi lại những kỹ niệm học tập đầy gian lao khổ cực. Cùng ôn lại những buổi dạ hành, những trận độn thổ phục kích. Những lần thao dượt hành quân cấp Trung đội, Đại đội Tấn công, Phục kích hoặc vượt sông băng qua hồ Than Thở, lái ca nô ở hồ Xuân Hương. Hoặc học Chỉ huy Tham mưu cấp Tiểu đoàn với những nguyên tắc chiến thuật rút kinh nghiệm các trận chiến ngoài vùng hành quân.
Lúc thực tập thường chia hai phe, bên mầy địch bên tao bạn, bắn nhau tơi bời bằng đạn mã tử; có nhiều lúc đánh xáp lá cà, cận chiến thật là vui vẻ. Khi tập xong về doanh trại, tắm rửa sạch sẽ, rồi rủ nhau ra câu lạc bộ hả hê đánh chén, nếu hết tiền thì ghi sổ. Nhưng tôi lúc nào cũng thuộc nằm lòng câu “Sáu đồng bỏ túi trái” của Đại uý Lưu-Vĩnh-Lữ; đánh giặc cũng như ở ngoài đời, lúc nào cũng có trừ bị: lúc nhậu say thì cũng phải có $6 dằn túi để xích lô đưa về tới nhà.
Ở Đại đội F có anh Nguyễn tấn Kiệt, bản tánh kỹ lưỡng, mặt mày trắng trẻo đẹp trai, đứa nào cẩu thả bê bối ưa bị Kiệt cằn nhằn; chúng tôi thường gọi đùa anh là “Ni cô Diệu Kiệt”. Anh ta thấy tôi lãnh lương ra là xả láng, nên thường giữ dùm vài trăm, nhờ vậy cuối tháng tôi vẫn có tiền xài, cám ơn bạn nhiều lắm, bạn hiện đang ở Cali có nghe không Kiệt? Cũng chỉ vì xài phóng khoáng nên sau nầy đi hành quân xa, tôi cứ thường nhắn bà xã gởi tiền tiếp tế, đôi khi phải vay mượn của bà Thượng sĩ Bạc, nhưng bà nầy không chịu lấy tiền lời. Sau ngày mất nước bà sa sút, chúng tôi có chút đỉnh thỉnh thoảng cũng giúp đỡ lại cho bà.
Để trau giồi tài đa năng đa hiệu, các sinh viên còn học các môn cỡi ngựa, đánh kiếm, ăn cơm Tây. Ngoài ra cũng học Nhu Đạo, Kiếm Thuật, và Thái Cực Đạo. Khóa tôi có anh Hoàng như Liêm đã được huấn luyện viên người Đại Hàn khen thưởng tài nghệ xuất sắc, nhất là cặp chân của anh, đá rất cao, mạnh mẽ và thật chính xác. Nhưng khi anh ra trường thì bị thương, phải cưa một chân, thật là đáng tiếc cho một tài năng trẻ tuổi nầy!
Ngoài các môn thể thao xuất sắc, đội nhà trường lúc nào cũng đoạt giải vô địch tỉnh Lâm Đồng như: bóng tròn, bóng chuyền, và bóng rổ. Sinh viên còn chơi baseball, bóng bàn, tennis, đánh cờ tướng, mà chược, domino,...và cả nhảy đầm nữa. Mỗi tháng được ăn cơm Tây để học cách xử dụng dao, muỗng, nĩa cho thuần thục. Thường thường có mấy sĩ quan khoá đàn anh về thăm trường kể lại những trận đánh bằng đạn thật ngoài chiến địa, họ nói mấy anh Thiếu uý mới ra trường nghe tiếng súng nổ cứ tưởng là đạn mã tử (một loại đạn tập không có đầu), nên họ cứ xung phong tiến lên làm cho binh lính ở đơn vị hết sức khâm phục sự gan dạ của sĩ quan trường Võ Bị, xem cái chết nhẹ tựa lông hồng !
Những ngày sắp cuối khoá, nhà trường thường mời các nhân vật tên tuổi đến thuyết trình. Một hôm Tướng Cao văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng, đến thuyết trình, lúc ấy năm mươi Sinh Viên đã được chọn về đơn vị Nhảy Dù, vì muốn tránh né đi thụ huấn tại Dục Mỹ (khoá 19 năm rồi chết mấy người vì đạp nhầm bãi mìn tại khoá Rừng Núi Sình Lầy nầy), nên trình với ông cho về học Khóa Nhảy Dù để sớm tham dự chiến trường. Trung tướng nguyên là Tư Lệnh Sư Đoàn Dù, thấy mấy chàng trai trẻ nầy quá hăng hái (hay quá ma lanh?) nên rất hài lòng và chấp thuận cho miễn đi Dục Mỹ, đợi về Sàigòn học Khóa huấn luyện nhảy dù. Trong khi các bạn đồng khoá về Nha Trang lội rừng, vượt núi, thì 50 trự Nhảy Dù tương lai được ra phố rong chơi ngày đêm thật là thỏa thích.

5. Lễ Mãn Khoá


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd417/1506651174-Chuong1_VaoQuanTruong6.jpg

Mọi người đã thật sự yêu đời binh nghiệp, yêu Võ Bị, kể cả yêu những cô gái má đỏ hồng hồng đầy quyến rũ của xứ hoa đào. Khoá tôi có anh Phương, người hơi lùn nhưng chạy nước rút 100 thước không ai sánh bằng. Phương xuất thân từ Thiếu Sinh Quân, là cầu thủ bóng tròn xuất sắc của trường, anh quen với một nữ sinh trường Bùi Thị Xuân do tình cờ gặp nhau ở phố trong những ngày đi phép đầu tiên.
Mối tình lớn mạnh trong những buổi cuối tuần, và cả hai đã yêu nhau thật sự. Phương cảm thấy cám ơn Lệ, vì có Lệ mà đời anh thấy vui hơn, có ý nghĩa hơn; đường phố Đà Lạt như trải hoa gấm theo bước chân mỗi khi cặp tình nhân sánh vai nhau dưới trời phủ đầy sương mù, giống như cảnh thiên thai thơ mộng. Cứ mỗi lần sắp chia tay về trường, Phương cảm thấy thời gian sao như trôi qua thật nhanh. Ngày ra trường đã đến, các Thiếu uý tương lai có mời thân nhân, bạn bè đến dự Đêm Truy Điệu và Lễ Mãn Khoá kế tiếp ngày hôm sau. Phương cũng có mời Lệ đến chung vui.
Trong Đêm Truy Điệu, trời mùa Đông đầy sương mù bao phủ, ngoại cảnh âm u như làm tăng thêm ý nghĩa của buổi lễ chiến sĩ trận vong nầy. Giờ hành lễ đã đến, tất cả đèn khu Vũ Đình Trường đều tắt, chỉ còn lại ánh sáng của hai ngọn đuốc lập loè đặt trước Đài Tử Sĩ .
Quan khách ở trên khán đài, còn tất cả sinh viên sĩ quan đều đứng xếp hàng ngay ngắn trên sân vũ đình trường để hành lễ. Gió thổi qua rừng thông nghe ríu rít như tiếng than của những oan hồn còn vất vưởng đâu đây, sương mù từng đợt bay qua mau, tạo nên một quang cảnh âm u im lìm như bãi tha ma !
Cảnh vật đã diễn đạt đầy đủ ý nghĩa của đêm truy điệu “Chiến sĩ trận vong”, để mọi người cầu xin anh linh các bậc đàn anh về chứng giám cho những chàng trai Võ Bị, để mai đây họ sẽ lên đường phục vụ quê hương, lý tưởng, và Tổ Quốc.
Từ đây các Đàn Em sẽ bước chân trên khắp nẻo đường đất nước, từ những con rạch nhỏ Đồng Nai, đến những cánh đồng chiêm Bắc Việt, hoặc trong đám rừng già của dãy Trường Sơn Trung Việt. Các em sẽ chấp nhận hy sinh để nối gót đàn anh viết nên những trang sử oai hùng hầu lưu truyền hậu thế.
Mọi người cùng lắng nghe trên khán đài giọng trầm buồn của sinh viên sĩ quan xướng ngôn viên đọc bài văn tế “Chiêu Hồn Tử Sĩ” (bài mà các cựu sinh viên sĩ quan VB,dù lâu cách mấy mà khi đọc đến đều thấy lòng bồi hồi cảm xúc):
Cả Vũ Đình Trường như lắng đọng, rồi tiếng gió thổi ù ù qua micro nghe như xé rách cả màn nhĩ mọi người, như báo cho họ biết các oan hồn của tử sĩ ở đâu đây đang kéo về để chứng kiến.
Tiếng xướng ngôn viên trổi lên :

Lúc bấy giờ,
Trên cánh đồng chiêm Bắc Việt,
Bên con rạch nhỏ Đồng Nai,
Trong đám rừng sâu Trung Việt,
Phút chốc!
Liệt vị đã trở nên người thiên cổ!
Sự nghiệp đang công đeo đuổi,
Thôi cũng đành gián đoạn giữa đường.
Chí tang bồng hằng mong thực hiện,
Thôi cũng đành ôm hận nghìn thu!
Vì đâu ?...Bởi đâu ?...
Thân chiên sĩ đắp xây nền nợ nước,
Đám sương mù tàn tạ mảnh chiến y,
Trên chốn trần gian ... nào ai sống mãi,
Nhưng...
Lúc Quốc thù chưa gột rửa!
Chí làm trai chưa toại mộng hải hồ!
Thì hận tuyền đài làm sao ngăn được dòng huyết lệ?
Rồi còn người thân kẻ thuộc !
Ơn cù lao, nghĩa vợ chồng, tình huynh đệ
Bao tình cảm sao nỡ dứt cho đành ?
Mộ chiến sĩ đấp xây nền thế hệ
Giòng Lạc-Hồng còn tồn tại với thời gian
Chiến sĩ ...trận vong !!!
Chiến sĩ ... trận vong!!!
Đêm nay gió lạnh trên đồi thông đang trổi dậy!
Ánh lửa hồng đang thức tỉnh từng hồi,
Chiến sĩ trận vong có linh thiêng hãy về đây chứng giám
Dẫn dắt và nung nấu tâm cang chúng tôi,
Bằng ngọn lửa thiên truyền thống.
Ngày mai đây một đoàn trai sẽ hăm hở lên đường.
Nối chí tiền nhân làm Tổ quốc non sông thêm phần tỏ rạng.
“ Chúng tôi không tìm an lạc dễ dàng”,
“ Mà chỉ khát khao gió mưa cùng nguy hiểm”
Cũng có lúc chí tuy còn mong tiến bước,
Nhưng sức không kham nổi đoạn đường !!
Chúng tôi cần được dắt dìu.
Chiến sĩ trận vong!!!
Chiến sĩ trận vong!!!

Tối hôm đó từng cặp Sinh viên Sĩ Quan thay phiên nhau mang súng chỉ địa (mũi súng hướng xuống đất) để đứng canh gác Đài-Tử-Sĩ.
Sáng hôm sau là lễ Mãn khoá, có sự tham dự của Tổng Thống và các vị lãnh đạo cao cấp; Các sinh viên sĩ quan mặc quân phục Đại Lễ, đi diễn hành từ doanh trại tới Vũ-Đình-Trường. Chúng tôi biểu diễn, theo nhịp trống, các động tác cơ bản thao diễn như Thiếu úy Nguyễn Văn Trân đã hướng dẫn: “Phải, phải, đôi, quay, tung, vuông, chào” có nghĩa là bắt súng vai phải hai lần, đôi súng, quay súng trước mặt, rồi tung thẳng súng lên cao, đưa súng vuông góc ra trước ngực, rồi thế chào súng. Các động tác cơ bản cứ lập lại theo nhịp kèn và trống. Rồi cuối cùng các sinh viên đi đều bước và xếp thành chữ “V,B,Q,G” tức Võ Bị Quốc Gia.
Sau đó sinh viên Thủ Khoa Quách Tinh Cần bắn tên về bốn hướng tượng trưng cho chí Tang Bồng Hồ Thỉ. Bắn cung xong, Cần quay lại hàng quân hô to:
- Quỳ xuống “Sinh Viên Sĩ Quan” !
Các SVSQ Khóa 20 đều đồng loạt quỳ chân phải xuống đất, chân trái co vuông góc phía trước. Ngay khi đó các Sĩ quan Cán bộ tới gắn cấp bậc Thiếu uý trên cầu vai mỗi người.
Khi các Sĩ Quan Cán Bộ trở về tới khán đài, Cần hô :
- Đứng dậy “Tân Sĩ Quan” !
Các Quan Khách cùng Thân Nhân đồng vỗ tay chúc mừng vang vội khắp Vũ Đình Trường, còn các Tân Thiếu uý khoá 20 chạy cấp tốc về phòng thay đổi y phục để trở lại Vũ Đình Trường diễn kịch tập thể Truyền thống “Trận Đống Đa”. Trên 400 diễn viên, người khiêng võng, kẻ cầm cờ, kia có đồn Hạ-Hồi, nọ có thành Thăng-Long; trông cũng rất xôm tụ. Ngày mai đây một đoàn trai sẽ hăm hở lên đường; Hoa Mai nở đầy trong sân trường. Hơn 400 Tân Sĩ Quan mang cấp bậc Thiếu uý sáng chói trên cầu vai mà họ đã gặt hái được sau một thời gian dài trải qua chương trình huấn luyện hết sức cực nhọc.
Cha mẹ bắt đầu ôm choàng lấy con trai, anh em xiết chặt tay nhau, người yêu ôm chặt người tình, để cùng chia xẻ niềm hân hoan và hãnh diện .
Lệ chạy đến ôm chặt lấy Phương, nàng vui mừng khôn xiết; những giọt nước mắt nóng bỏng đã trào ra từ đôi mắt bồ câu, trước sự chứng kiến của cha mẹ và anh em Phương, chàng nhẹ nhàng hôn lên mái tóc thề của người yêu xứ hoa đào, rồi dẫn nàng đến giới thiệu với mẹ cha. Mọi người đều vui vẻ trò chuyện tíu tít với nhau!
Về Tiểu đoàn 9 Nhảy Dù được vài tháng, khi Tiểu đoàn tân lập nầy sẵn sàng, thì Phương đã nhập cuộc ngay với những trận đánh nẫy lửa. Cuộc thử lửa thực sự trong đời chàng giờ đây mới bắt đầu. Phương vẫn tiếp tục liên lạc với Lệ; hai người trao đổi thơ tình thường xuyên với nhau, coi đó như nguồn an ủi yêu thương, với những lời hứa hẹn thật tốt đẹp.
Bỗng một thời gian khá lâu Lệ không nhận được thư hồi đáp, nàng vội hỏi thăm bạn bè của Phương thì nghe phong phanh anh đang tham dự một cuộc Hành quân lớn cấp Lữ Đoàn tại Vùng II Chiến thuật. Lệ nửa an tâm, nửa bồn chồn, nàng vẫn cố mong nhận được thư của Phương.
Nhưng !!!
Như xét đánh ngang tai! Lệ được tin Phương đã tử trận trong cuộc tiến quân vào Núi Lồi thuộc quận Phù Mỹ, tỉnh Bình Định. Khi trung đội của Trạch và cánh quân của Phương sắp sữa bắt tay nhau tại mục tiêu chỉ định, bỗng nghe tiếng “Ầm” ! Một binh sĩ đạp nhầm mìn, Phương đứng gần nên bị hai mảnh ghim vào phổi và cuốn họng, mặc dù máy bay tới tản thương nhanh lẹ, nhưng không cứu nổi một người tuổi trẻ, tài hoa, và hào hùng như Phương. Trung úy Phan Nhật Nam ôm xác Phương, khóc nức nỡ! Lệ ré lên khóc nghẹn ngào, miệng không ngừng kêu tên người yêu “Anh Phương ! Anh Phương” ! Rồi nàng ngất lịm đi trong đau khổ cùng cực. Đầu óc quay cuồng nghe như đâu đây văng vẵng bài thơ truy điệu:
“Lúc bấy giờ trên cánh đồng chiêm Bắc Việt .........
“Phút chốc liệt vị đã ra người thiên cổ!
“Sự nghiệp đang công đeo đuổi,
“Thôi cũng đành gián đoạn giữa đường!.
Phương là sĩ quan hy sinh đầu tiên của Tiểu Đoàn 9 Nhảy dù. Để tưởng nhớ, đơn vị lấy tên anh đặt cho doanh trại. Đó là “Trại Trần Thanh Phương”.
Trương Dưỡng. K20
nguồn: http://www.dtruong.com/stories/MotCanhHoaDu_unicode.htm

BachMa
10-06-2017, 05:37 AM
Hồi Ký Một Cánh Hoa Dù
Trương Dưỡng - K20


Chương 2

Về Sư Đoàn Nhảy Dù

1. Tập Nhảy Dù


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1507267010-Chuong2_VeSuDoanNhayDu01.jpg

Tôi và bốn mươi chín bạn đồng khoá, trong đó có anh Thủ-khoa, được chọn để đưa về Sàigòn học Khoá Dù 76 ở Trung tâm Huấn-Luyện Nhảy Dù, trong trại Hoàng-Hoa-Thám. Khoá nầy hơi đặc biệt hơn các khoá khác, vì có 10 cô nữ quân nhân học chung với năm mươi tân thiếu úy chúng tôi.
Khoá 76 Dù có nhiều chuyện đáng chú ý. Điều muốn kể đầu tiên là buổi tiệc tổ chức Tiếp Tân của Tướng Dư quốc Đống, Tư lệnh Sư đoàn, tại phòng Khánh Tiết, để khoản đãi các Đơn-vị-trưởng cấp Lữ đoàn, cấp Tiểu-đoàn, các Trưởng phòng, và 50 tân sĩ quan. Đây là cơ hội để cho các đơn vị trưởng có dịp gặp những cán bộ trung đội trưởng tương lai của họ. Gương mặt các vị nầy đều vui tươi hớn hở, có vẻ như sẵn sàng thu nạp những con gà nòi, tuy tuổi đời còn trẻ mà người nào cũng có vóc dáng “Kiêu hùng điểm chút phong sương” của các chiến sĩ Dù tương lai.
Khuôn mặt đáng chú ý nhất trong số khách dự dạ tiệc là Tướng Dư-quốc-Đống, ông có vóc dáng uy nghi, mày rậm, mắt to, cử chỉ hiên ngang. Ông là một sĩ quan can đảm, tài ba, đã từng trải qua nhiều trận chiến ác liệt trên khắp bốn Vùng Chiến Thuật. Ngoài tài hành quân tác chiến, Tướng Đống còn là một người rất nghĩa khí. Có lần trong cuộc họp Hội-Đồng Tướng-Lãnh để bầu phiếu buộc tội Trung-tướng Nguyễn-Chánh-Thi về việc a tòng và dung túng những phật tử ở Vùng I Chiến Thuật, họ biểu tình quấy rối trị an và phản kháng lại Chính Phủ Trung Ương. Hầu hết tướng lãnh đều bỏ phiếu thuận, chỉ có hai phiếu trắng; một vị tướng nói:
- Tội của Tướng Thi đã quá rõ ràng, tại sao lại có người bỏ phiếu trắng là nghĩa lý gì đây ?
Tướng Đống đứng lên nói: ‘Tôi đã bỏ phiếu trắng đó; Trung-tướng Thi là thầy tôi, Tr/tướng Viên cũng là thầy tôi, nếu bảo tôi chống lại thầy mình, thì tôi không làm. Vậy quí vị muốn xử thế nào thì tôi sẵn sàng thi hành.”
Các tướng lãnh trong đó có Trung-tướng Nguyễn-văn-Thiệu, Trung-tướng Cao-văn-Viên,...nghe lời nói khí-khái hùng hồn của ông, ai nấy đều mến phục. (Tướng Thi, tướng Viên nguyên là hai vị Tư-lệnh tiền nhiệm của Sư-Đoàn Nhảy-Dù).
Tướng Đống rất thương yêu binh-sĩ, nhưng ông lại rất khắc khe đối với các sĩ-quan cao-cấp. Các vị Tư lệnh phó, Lữ đoàn trưởng, Trưởng phòng, Tiểu đoàn trưởng đều rất nể sợ ông. Đại-tá Nguyễn-khoa-Nam, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 3 Nhảy dù, đã từng bị quở trách khi đang hành quân ở mặt trận Bến Gò-Nổi. Lúc ấy Tiểu đoàn 9 Nhảy dù có một đại đội bị địch độn thổ phục kích ở bãi sậy cao quá đầu người. Đại-đội tôi đang đóng quân cùng với các đại đội khác bảo vệ bộ chỉ huy Tiểu đoàn. Trung tá Nhã, tiểu đoàn trưởng, lệnh cho tôi dẫn Đại đội 91 ra tiếp ứng Đại-đội 92 của bạn Nguyễn tống Hiến.
Trên đường toàn là rừng cây, đi khoảng 20 phút gặp một bãi lau sậy rộng mênh mông bát ngát, tôi cho đại đội đi đến một khoảng trống trước mặt, rồi dàn quân chờ liên lạc coi đơn vị của Hiến đang ở đâu. Bỗng từ phía bên bụi sậy trước mặt, cách Đại đội tôi khoảng 100 thước, vài tên địch đầu đội nón cối, trong đó có một người vác băng ca giống như y tá của ta. Có lẽ chưa thấy chúng tôi, vì mặt họ đang nhìn về hướng Đại đội 92.
Các binh sĩ thấy địch, vội phản ứng bắn xối xả; nhưng tiếng của Hiến la oé lên trên máy: “Lính mầy đang bắn vào tụi tao, ngưng ngay!”
Tôi bảo binh sĩ thôi tác xạ, nhưng Hiến vẫn tiếp tục la: “Sao tụi mầy còn bắn dữ vậy?” Tôi cầm ống liên hợp của máy PCR25 nói:
- Tụi tao đâu có bắn.
Bỗng nhiều loạt đạn nổ về hướng chúng tôi, vài binh sĩ bị thương ngay loạt đạn đầu tiên. Thiếu úy Trứ vội điều động cả trung đội xung phong lên định bắt sống đám bộ đội trước mặt. Nhưng các chiến sĩ vừa nhóm lên thì địch từ trong rừng ào ra đông như kiến! Anh và chuẩn úy Phan Văn Phúc đành khựng lại, và dựa vào mô đất hoặc gốc cây để khai triễn các hỏa lực cơ hữu. Bỗng một một viên đạn trúng xuyên qua chân Trứ, máu chảy ra lênh láng. Khinh binh Đông cố kéo thầy mình về phía sau, Phúc điều khiển trung đội hợp cùng hai trung đội của Chuẩn úy Trọng và Phấn chống trả mãnh liệt.
Địch quân đành nằm liều tại chỗ bắn vào Đại đội 91, chúng tôi chống trả mãnh liệt, mặc cho Hiến cứ la, vì rõ ràng mọi người đều thấy địch mặc sắc phục của lính chính qui Bắc Việt, và chúng đã bắn thẳng vào đơn vị tôi nữa. Giằng co nhau qua lại hơn một tiếng đồng hồ thì đối phương biết mình bị lưỡng đầu thọ địch.
Lính của Hiến cũng đang bắn xả vào họ, nên chúng phải chém vè, rút vào đám lau sậy trốn mất để lại nhiều thương binh và nhả Đại đội 92 ra, tiếng súng ngưng dần rồi dứt hẳn. Thế là đơn vị tôi vô tình áp dụng được kế “Vây Ngụy cứu Triệu” mà đón được đơn vị bạn về.
Điều đặc biệt là Tướng Đống thường bay trực thăng trên đầu các đơn vị Nhảy Dù khi họ đang chạm địch, có lẽ ông đã vô tần số và nghe chúng tôi oé nhau. Nên ngay sáng hôm sau, ông đã cùng Đại tá Nguyễn khoa Nam đáp xuống chỗ đóng quân của Tiểu đoàn 9 Nhảy dù. Tôi được lệnh chỉ huy đội giàn chào để nghênh đón ông (vì nước da của tôi ngâm đen giống Tướng Đống, nên Tiểu đoàn cố tình cho tôi làm giàn chào tới hai lần, lần trước ở TTHL Vạn Kiếp, Bà Rịa). Khi trực thăng đáp xuống, thấy ông xồng xộc đi nhanh tới, tôi hết hồn vội hô to: “Vào hàng ....phắc!”
Có thể vừa xuống trực thăng, ông đã được Đại tá Nam cho biết tôi là một trong hai đại đội trưởng đã trực tiếp chạm địch hôm qua, ông hỏi:
- Anh đụng địch ra sao ?
Tôi đứng thế nghiêm, tóm tắt kể lại tình hình đánh nhau ở chiến địa; nghe xong ông không nói gì, chỉ đi thẳng vào bộ chỉ huy Tiểu đoàn. Đứng từ xa tôi thấy ông hình như đang khiển trách Đại tá Nam và Trung tá Nhã. Ông tức giận vì chiến đoàn không cho truy kích, để địch vượt thoát. Mỗi lần các đơn vị đi hành quân mà không chạm địch, ông thường nói từ trực thăng xuống :
- Bộ các anh né tụi nó hả ?
Các sĩ quan cấp “Tá” trở lên mới bị Tướng Đống nạt nộ, quở trách, đối với cấp “Úy” thì ông không nói gì. Nhưng với anh em Binh sĩ, ông hết sức nhỏ nhẹ, cặp mắt luôn nhìn họ một cách hiền từ, trìu mến. Ông nghĩ họ là thành phần cực khổ và chịu nhiều nguy hiểm nhất; ông muốn yểm trợ cùng giúp đỡ thật nhiều cho binh sĩ và gia đình của họ; giống như người cha lo lắng cho những đứa con thân yêu của mình vậy.
Tướng Đống là Tư lệnh thứ tư của SĐND (từ 1964 đến 1972, sau Đại tướng Đỗ cao Trí, Trung tướng Nguyễn chánh Thi, Đại tướng Cao văn Viên). Trong binh chủng Dù, ông phục vụ lâu năm nhất, chỉ huy từ cấp Trung đội trưởng và không hề có thời gian gián đoạn chỉ huy so với các Tư lệnh khác. Thời gian ông chỉ huy là lúc chiến tranh Việt Nam lên tới cao điểm khốc liệt nhất, những trận đánh dữ dội không giản dị như thời còn trực thuộc quân đội Pháp. Nhiều trận giao tranh ở cấp sư đoàn và phối hợp hành quân tác chiến với các quân binh chủng khác. Dưới quyền lãnh đạo của tướng Đống, lực lượng Nhảy Dù đã không những mang lại nhiều chiến thắng mà còn làm cho quân lực Đồng Minh phải ngưỡng mộ.
Đại tướng Lindsay, nguyên là cựu cố vấn TĐ8ND đã nói: “Những chiến thắng gần đây ở Grenada và kinh đào Panama do Nhảy Dù Mỹ đem lại chính là chúng tôi đã học hỏi nhiều về kinh nghiệm tác chiến của Nhảy Dù VN...”.
Tướng Schwarzkopf, nguyên Tư Lệnh lực lượng Hoa Kỳ tại vùng Vịnh, trong cuộc chiến với Iraq tại Kuwait trước đây, đã viết cuốn hồi ký tựa đề là “It Doesn’t Take A Hero”.
Trong phần nói về những ngày tham chiến tại Việt Nam khi còn là Thiếu Tá Cố vấn cho TĐ7ND, ông viết: “Không giống như một vài đơn vị khác của QĐVNCH, các đơn vị Nhảy Dù, bằng mọi giá, bao giờ cũng tìm cách đưa thi hài đồng đội trở về với gia đình của họ”. Ông kể lại một hôm, tại chiến trường Cao Nguyên Trung Phần, sau một trận chiến, có 3 binh sĩ Dù tử thương. Trực thăng tiếp tế Mỹ từ chối chở 3 xác chết. Thiếu tá Schwarzkopf đã bổ nhào ra ôm càng phi cơ và nói với viên Phi công: “Tôi sẽ không rời chiếc càng nầy, tôi sẽ bị ngã chết, ông có muốn chịu nhận trách nhiệm xảy ra như vậy không? Hơn nữa nếu ông cất cánh, tôi sẽ bắn phi cơ”. Cuối cùng 3 thi hài được trực thăng nầy chịu chở đi.
Dưới quyền tướng Đống, binh chủng Dù từ cấp Lữ Đoàn đã trở thành cấp Sư Đoàn, với quân số lên đến 12.700 gồm 9 Tiểu đoàn Tác chiến, ba Tiểu đoàn Pháo binh, và ba Đại đội Trinh Sát. Cũng như vị tiền nhiệm là Đại tướng Đỗ cao Trí, người đã chỉ huy Dù dẹp loạn Bình Xuyên, lập uy tín cho Thủ Tướng Diệm lúc mới cầm quyền thời Đệ Nhất Cộng Hòa, tướng Đống đã chỉ huy SĐND lập nhiều công lớn trong kỳ Tết Mậu Thân, trận Pleime, Đồi 1416 ở Dakto, cuộc tiến quân sang Campuchia, trận Hạ Lào, Trận An Lộc, Bình Long,...
Trong Khoá học Dù, các môn khó học nhứt là nhảy “Chuồng cu” và “Dây kinh dị”. Khi nhảy chuồng cu, Khoá sinh đứng trong một cái chòi cao 11 thước, lưng móc vào một dây cáp (kéo dài ra xa, rồi thấp dần xuống tới mô đất cao). Họ phóng mình giống như từ trong phi cơ nhảy ra (có một số tân binh bị loại vì không dám nhảy chuồng cu). Còn dây kinh dị cũng hơi giống như chuồng cu, chỉ khác là dùng hai tay nắm chặt vào cái rõ rẽ (ròng rọc), rồi từ độ cao 12 thước cầm rõ rẽ tuột theo dây cáp tới khi chân gần chạm bãi cát, thì buông dây nhào lộn, sao cho té theo đà một cách nhẹ nhàng. Đầu lúc nào cũng phải cúi cho càm đụng vào ngực, để tránh bị tổn thương não bộ.
Ngoài ra khóa sinh còn học cách té, cách chạy tránh dù lôi. Huấn luyện viên dùng một cái quạt thật lớn, đường kính khoảng 3 thước, gắn trên xe Dodge. Sức gió thổi mạnh vào khoá sinh, làm dù bung ra, kéo lôi cả người và thổi đi xa. Nếu muốn tránh bị dù lôi, họ phải nhanh chân chạy bọc ra phía sau, ngay đỉnh của cây dù đang phùng to đó, như vậy dù sẽ xẹp xuống, không còn bị ảnh hưởng sức thổi của cây quạt khổng lồ nữa.
Khóa sinh cũng được học cách lái dù để tránh không xáp lại gần dù bạn, học cách điều khiển cho dù xuống chậm và lái cho dù xuống đúng bãi đáp an toàn. Kế đó học xuống dù trên mặt đất, trên ngọn cây, hoặc rơi xuống nước.
Khoá Dù 76 chúng tôi đã bị Trung uý Nguyễn Văn Vinh, Chỉ huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện, đích thân ra phạt tập thể thật là oan. Lý do là “Cố ý coi thường và khiêu khích các hạ sĩ quan huấn luyện viên”.
Thật ra thì cũng do các tân thiếu uý đã quen chạy sáng trong suốt hai năm ở quân trường, lại còn tập chạy trường lực khoảng 30 cây số mỗi ngày, trong 3 tháng cuối khoá để chuẩn bị tâm tư cho lớp Rừng Núi Sình Lầy tại Dục Mỹ, vì vậy ai nấy đều có sức khỏe như voi. Khi chạy sáng, các Huấn Luyện Viên, vừa vợ con đùm đề, vừa tuổi tác cao, thì làm sao chạy theo kịp hàng quân. Các ông phải cố gắng chạy theo tới mệt thở hổn hển. Vừa nổi sùng, vừa mắc cở, chẳng biết họ báo cáo thế nào đó, để đến nổi Trung uý Vinh phải đích thân ra xử phạt tập thể. Điều đáng giận là trong khi chúng tôi thi hành lệnh phạt thì các cô nữ khoá sinh lại đứng cười chế nhạo, thật là quá đáng! Càng giận hơn, vì họ còn dám đếm theo nhịp khi chúng tôi đang hít đất nữa chứ!!.
Tức quá tối đó có vài cậu xung phong đi “Đột kích đêm”, kết quả thành công rực rỡ, vì những chàng trẻ tuổi độc thân nầy đúng là “Rightman” của các cô. Từ đó đã tạo ra những mối tình đầy thơ mộng và có những cặp đã được đơm hoa kết trái tới ngày nay, họ vẫn còn cùng nhau vui đùa với các cháu nội, ngoại ở nơi xứ lạ quê người nầy .
Trung-tá Vinh (cấp bậc sau cùng), trước năm 1975, ở gần nhà tôi. Khi sắp trình diện đi tù tập trung, có nói với vợ rằng: “Chắc anh tự vận trong tù quá, sợ không chịu đựng được sự hành hạ nhục nhã của chúng nó đâu!”
Quả thật vậy, một thời gian sau, gia đình chị Vinh nhận được thư báo tử! Lý do chết vì bịnh(?).
Tất cả 7 sô nhảy của Khoá Dù 76, đều có mặt Trung-tá Ngô-Quang-Trưởng, tham mưu trưởng sư đoàn, và Đại-tá Cố Vấn. Trung tá Trưởng, người nhỏ con, khuôn mặt khắc khổ, nhảy bằng dù điều khiển; còn khóa sinh chúng tôi thì nhảy bằng dù tự động. Ông và viên đại tá từ độ cao trên hai ngàn thước, ở vị thế rơi tự do, hai người bơi gần lại để trao gậy cho nhau. Nhìn họ lúc ấy giống như hai con dơi, đang bay lơ lửng trên không trung, trông thật ngoạn mục!
Khi tới cách mặt đất khoảng 500 thước, họ mới cho bung dù, rơi là đà, hai chân chạm xuống mặt đất một cách nhẹ nhàng. Còn phần tôi thì hởi ơi! Nhảy lần đầu thật là quờ quạng, lúng túng. Lúc phóng mình ra khỏi chiếc C-47, miệng đếm lẩm bẩm:
- 331, 332, 333, 334 !
Vừa dứt tiếng thứ tư thì dù bật tung ra, người tôi bị ghì giật lại. Cánh dù bung rộng lớn, làm cản gió khiến tôi như bị treo lơ lửng trên không. Lấy lại sự bình tình, tôi đảo mắt nhìn khắp nơi, thấy toàn là mây với mây! Nhìn xuống, tôi giật mình kinh hãi, lúc ở lầu năm tầng ngó xuống còn chóng mặt, bây giờ nó lại cao khiếp quá chừng, thật là đáng sợ! Rồi mặt đất như cứ dâng lên dần dần, các thửa ruộng giống như những bàn cờ càng lúc càng lớn ra.
Kìa sắp tới mặt đất mà mắt vẫn ngó trời mây bao la, bỗng thoáng thấy trước mặt hiện ra một tàng cây to tướng, tôi giật mình phân vân! Biết phải làm sao đây? Chân sắp chạm ngọn cây rồi? Tôi mất bình tỉnh quên hết các lời đã chỉ dạy trong khoá học! Bỗng tai nghe văng vẳng:
- Kéo dây Thượng thăng bên trái!
Tôi làm theo như phản ứng tự nhiên, thoáng nhìn ngang qua, thấy bên cạnh là một cây cổ thụ có tàng rộng đang từ từ dâng lên; nếu không điều chỉnh dù kịp lúc, thì cả người tôi và cánh dù đều dính trên ngọn cây! (hôm đó vì gió hơi mạnh nên Trí “Khệu” bị dính ngọn cây và một đứa rớt thủng mái “Tôn” trường học).
Khi đáp xuống đất, thay vì lo chạy tránh dù lôi, tôi vẫn còn đứng ngơ ngáo, để mặc cho em bé chăn trâu giúp xếp dù gọn vô bao tải lúc nào rồi mà vẫn còn không hay.
Mới hơn 10 tuổi mà đã biết điều khiển và xếp gọn dù thật là giỏi; sau khi xong, em đứng nhìn tôi, chợt thấy bông mai trên bâu áo, em la lên:
- Ông nầy là Thiếu uý mà lờ quờ quá tụi bây ơi! Tôi móc túi cho em chút tiền quà, vừa vác dù vào điểm tập trung vừa tự cười thầm, lớn đầu mà bị em nhỏ chê, thật là xấu hổ quá trời! Lòng tự nhủ kỳ sau không được quá bê bối như vậy nữa, để không bị các em chăn trâu chê quờ quạng!

2. Về Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1507267028-Chuong2_VeSuDoanNhayDu02.jpg

Sau khi mãn Khóa Dù, tôi và 15 bạn Khóa 20 Võ Bị, được bổ sung về Tiểu đoàn 9 Nhảy dù. Giống như Tiểu đoàn 2 ND, đây là một đơn vị tân lập, trong kế hoạch mở rộng Sư Đoàn Nhảy Dù. Vì thế thành phần cán bộ nòng cốt lấy ra từ những sĩ quan xuất sắc của các Tiểu Đoàn Dù nổi tiếng:
Tiểu-đoàn-trưởng: Thiếu-tá Lê-Văn-Huệ, Khóa 1 Thủ Đức
Tiểu-đoàn-phó : Đại-uý Trương V. Phước, Khóa 4 Thủ Đức
Sĩ quan Ban Ba : Đại uý Liêm, K12ĐL, SQ Pháo Binh Dù
Đại-đội-trưởng ĐĐ90ND: Đại-uý Phú, K4 Phụ Thủ Đức
Đại-đội-trưởng ĐĐ91ND: Đại-uý Đỉnh, K15 Đà Lạt
Đại-đội-trưởng ĐĐ92ND: Đại-uý Võ-Tín, K14 Đà Lạt
Đại đội trưởng ĐĐ93ND: Đ/U Nguyễn Đình Bảo, K14ĐL
Đại-đội-trưởng ĐĐ94ND: Đại-uý Thừa, Khóa 9 Thủ Đức
Các Đại-uý Bảo, Thừa, Tín, và Đỉnh là những anh hùng vừa chiến thắng và được thăng cấp tại mặt trận trong chiến dịch hành quân nổi tiếng có tên là “Đại Bàng 800” ở Vùng II chiến Thuật (ĐĐ91 có nhiều thay đổi chức vụ đại đội trưởng nhất: từ 1966-67 là Đại úy Quân, Trung úy Trang, Đại úy Đỉnh, Mể; từ 68-70 là Đại úy Dưỡng; từ 71-75 là Đại úy Bảo, Tâm, Trọng, Tường,...).
Các vị sĩ quan đại đội trưởng đã có một thời gian ngắn, từng ở Tiểu đoàn trong thời kỳ phôi thai tân lập là:
Trung úy Nguyễn Hữu Cang: ĐĐT/Đại đội 94
Trung úy Ngô Tùng Châu: ĐĐT/Đại đội 90
Trung úy Phan Nhật Nam: ĐĐT/Đại đội 93
Trung úy Lã quý Trang: ĐĐT/Đại đội 91
Trung úy Đức: ĐĐT/Đại đội 92
Mười sáu đứa chúng tôi chia nhau về làm Xử Lý Thường Vụ Trung Đội Trưởng:
ĐĐ90ND : Dưỡng, Đại
ĐĐ91ND : Bảo, Hiến, Miên, Thành
ĐĐ92ND : Nuôi, Trụ, Chàng, Toàn
ĐĐ93ND : Phương, Chí, Hổ
ĐĐ94ND : Lộc, Trạch, Lân
Lúc đó các đơn vị nhảy dù thường chạm trán với quân chánh-qui địch tại những nơi hung hiểm, chẳng hạn như giải vây cho các căn cứ biên phòng: Pleime, Katum, Bến-Sỏi,...
Việc bổ nhiệm các chức vụ hết sức cân nhắc. Thiếu-uý mới ra trường, chưa kinh nghiệm thì chỉ được làm “Xử lý” Trung đội, vài tháng sau mới làm “Quyền” Trung-đội-trưởng (lúc nầy được ăn thêm tiền chức vụ). Sau đó một thời gian có kinh nghiệm vững chắc mới được chức Trung đội trưởng “Thực thụ”. Vì vậy các chức vụ của Sư Đoàn Nhảy Dù đều được mọi người xem quí trọng.
Lúc bấy giờ là đầu năm 1966, tiểu đoàn đang chờ đợi tân binh học xong khoá dù, rồi toàn bộ sẽ đi học bổ túc quân sự tại Trung tâm huấn luyện Vạn-Kiếp ở Bà Rịa. Một hôm tôi và Trần Hữu Bảo có nhiệm vụ dẫn tân binh học khóa dù; mọi người đều đi đường bộ, vì doanh trại tiểu đoàn cũng nằm trong khu vực Hoàng Hoa Thám. Trong khi binh lính đang học tập, tôi và Bảo ngồi ở mái hiên nghỉ mát; lúc ấy Đại uý Liêm “Bô” cùng với Đại uý Phước ngồi trên xe Jeep chạy ngang qua. Chúng tôi đang ở trong bóng mát tối mờ nên họ không nhìn thấy. Khi dẫn lính về thì nghe tin Đại úy Liêm đề nghị với tiểu đoàn trưởng phạt hai đứa mười ngày trọng cấm.
Tôi và Bảo vội chạy tới trình diện Tiểu Đoàn Trưởng và nói:
- Thưa Thiếu tá chúng tôi đâu có vắng mặt tại bãi tập.
Thiếu tá Huệ hỏi :
- Vậy lúc đó hai anh đang ở đâu mà Đại uý Liêm không nhìn thấy?
- Chúng tôi đang ngồi trong mái hiên và có thấy Đại uý Liêm lái xe chở Đại uý Tiểu đoàn phó. Họ đã đi ngang qua nhưng không nhìn vào hướng chúng tôi.
Thiếu tá Huệ thấy hai đứa tôi trả lời hợp lý, ông lúc nào cũng có thiện cảm với 16 con gà mới ra lò nầy. Hơn nữa biết Đại uý Liêm chỉ muốn hù mấy chàng trai trẻ mới ra trường nầy thôi, nên ông giả bộ nói:
- Kỳ sau ráng cẩn thận nghe, thôi các anh về đi.
Rồi không nói năng gì đến lệnh phạt nữa.
Bảo là người xứ Huế, còn tôi là dân miền Lục Tỉnh (Vĩnh Bình), hai đứa không có nhà ở Sàigòn nên ngủ thường trực ở trong doanh trại tiểu đoàn. Hằng ngày chúng tôi hay lấy xe Vélo Solex đèo nhau chạy từ Bà Quẹo xuống tận tới tiệm cơm Thanh Xuân ở bến xe Nguyễån Cư Trinh, để thưởng thức món rau ghém chấm mắm kho, cùng món gỏi gà ngon tuyệt!
Không phải tự nhiên muốn đi ăn cơm xa xôi như vậy đâu, thực ra tôi đã từng có mối tình thơ mộng ở đây, nên đi đoạn đường dài hơn 5 cây số để ăn trưa vì còn một dụng ý khác! Cách quán cơm Thanh Xuân khoảng 100 thước, có ngôi nhà giàu, cao ba tầng lầu, trong nhà đó có hai cô gái đẹp, tuổi độ cập kê. Có thể nhái theo Nguyễn Du để tả:
Hương xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Lan càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.
Tuy hai chị em không thể sánh với sắc đẹp hai nàng Kiều của Nguyễn Du, nhưng trong lòng tôi lúc đó cảm thấy Lan quả thật là tuyệt vời. Tôi quen biết Lan từ năm học Đệ Nhị, chỉ vì mặc cảm mình xuất thân ở vùng tỉnh lẻ quê mùa; so với nếp sống sang trọng xe hơi, nhà lầu của nàng, tôi cảm thấy quả thật không xứng. Mỗi lần tới nhà, thấy ba má nàng cởi mở như người Tây phương, cho phép các con tiếp xúc với bạn trai một cách tự nhiên, khiến lòng tôi hết sức mến mộ. Hương thì vui vẻ ngây thơ, còn Lan thì tế nhị biết chìu lòng người, tôi mến Lan ngay từ buổi đầu gặp gỡ. Nhưng vì bản tính nhút nhát, tự ty mặc cảm, nên chẳng những không dám thố lộ tâm tình mà còn tự làm cho khoảng cách giữa hai người càng lúc càng xa thêm! Do đó, thay vì gặp nàng thường xuyên, tôi chỉ có thể làm bộ thích ăn món mắm kho để có cớ rủ Trần Hữu Bảo cùng đi Nguyễn Cư Trinh, mong được nhìn thấy hình bóng nàng từ xa, hầu khuây khỏa phần nào nỗi thương nhớ! Trong thâm tâm tôi nghĩ, đời nào một người giàu có lại chịu lấy chồng nghèo quê mùa như mình!
Rồi mấy tháng sau, trong dịp đám cưới của đứa em gái, tôi xin phép về quê, sẵn dịp thăm nhà luôn. Khi tới Vĩnh Bình, mấy đứa bạn học cũ như Lộc, Chánh, Hiền, Bá,...rủ nhau lại nhà thằng bạn thân tên Song ở xã Phước Hưng. Chúng tôi đuổi vịt, bắt cá, đem nướng trui ăn với mắm cá sặt xé, trộn với gừng non và trái bần chín ngon vô cùng.
Từ nhỏ tôi đã rất thích cảnh đồng quê, trong những năm trung học Đệ Nhất Cấp, ở trường Trần Trung Tiên. Mỗi cuối tuần tôi thường chạy xe đạp tới nhà các đứa bạn như Trần Đức Nhuận ở Đầu Bờ để uống nước dừa xiêm thiệt, và lội sông, ra đồng bắt ốc bưu ăn với cơm mẽ; vô nhà Văn Tường ăn tàu hủ, uống sữa đậu nành; hoặc vô xóm người khmer, như nhà của bạn Tô Savong, để ăn món canh xiêm lo, nấu bằng cá lóc, đu đủ sống, nêm mắm bồ hóc mùi thơm đậm đà, thật hết sức đặc sắc.
Sau khi no nê, Song và Chánh dẫn tôi tới nhà bà dì họ ở cạnh bên đường đất đỏ, cách nhà Song độ 100 thước, mà trước khi vào nhà nó, tôi đã từng đi ngang qua.
Ngôi nhà nầy rất rộng, phía trước có trồng mấy cây vú sữa, cành mang đầy trái chín đỏ ửng. Bên sân phải nhà, có một cây táo ta, trái vị chua chua chát chát ăn rất ngon. Sau nhà có chuồng nuôi bồ câu, chúng bay lượn khắp nơi, nhiều con đậu đầy trên nóc. Gian trước là phòng khách rộng rãi, bộ ván gỗ để gần cửa sổ, ở giữa đặt một cái bàn hình chữ nhựt, cùng 8 chiếc ghế gỗ vây xung quanh. Gian phía sau cũng rất lớn, có nhà bếp, nhà tắm, và kho chứa lúa đầy bồ.
Vừa bước vào nhà, tôi thấy một người đàn bà tuổi trung niên, đôi mắt sáng, mũi dọc dừa, mặc đồ bà ba mà tướng vóc có vẻ sang trọng.
Chánh chỉ tôi rồi nói:
- Thằng nầy là bạn học cũ, ở Sàigòn về chơi, sẵn dịp con dẫn nó ghé thăm dì luôn.
Tôi gật đầu khẻ chào, bà mời mọi người vô nhà. Sau khi đãi trà bánh một lát, thì Song đi theo bà chủ ra nhà sau rồi nói:
- Sao, Cô Tư coi thằng Dưỡng, bạn con, có được không? Nó là thiếu úy Nhảy Dù, hiện đang làm việc ở Sàigòn. Con định giới thiệu con Nhi cho nó đó.
Hai cô, cháu đang thì thầm những điều gì đó chẳng biết. Một hồi sau, trong lúc tôi đang ngồi uống trà với Hiền, Chánh và Bá, bỗng thấy một cô gái bưng một dĩa dưa hấu ra mời. Vừa nhìn thấy cô, tôi giật mình, tim run động mạnh. Không ngờ ở nhà quê mà có một cô gái dễ coi và duyên dáng thế nầy hay sao?
Cô có nước da bánh mật, tóc dài phủ lên bờ vai thon, đôi mắt đen huyền và sắc sảo, môi cô đỏ mọng tự nhiên, khi nàng cười bày ra hai hàm răng trắng xinh xinh, lại có má núm đồng tiền làm tăng thêm phần mỹ miều dễ thương. Nếu đem so với Lan thì “Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”, một đàng thì sắc sảo mặn mà của người thành phố, còn đàng khác thì ngây thơ duyên dáng, hiền hoà của gái đồng quê.
Như đã nói ở trên, tôi đã bị ảnh hưởng cảnh đồng quê từ nhỏ, nên khi thấy nàng thôn nữ, như cá gặp nước, như bị mất hồn. Rồi nàng lại còn đích thân mời thêm một miếng dưa nữa chứ, làm tôi đã điên đảo, bây giờ lại càng đảo điên hơn! Thấy tôi ngó nàng chăm chú, Chánh thúc cùi chõ hỏi:
- Sao, coi được không mậy ?
Tôi giật mình bẽn lẽn, như kẻ trộm bị bắt gặp quả tang! Mới vừa thấy cô thôn nữ, mà đã si tình, y như mèo thấy mỡ, thật không đàng hoàng chút nào. Cũng có thể đó là “Tiền duyên” kiếp trước; vì không hiểu sao, tôi mới gặp nàng lần đầu mà đã cảm thấy như có một sức thu hút, in sâu hình bóng thùy mị đoan trang của cô gái miền quê vào tim! Trong lúc trò chuyện với mẹ nàng, thấy bà là người ăn nói thẳng thắn, có tài quyết đoán, tánh tình cương trực, làm tôi vô cùng ngưỡng mộ.
Trên đường đi, Song và Chánh còn nói, bà là người đảm đang, lòng dạ rất tốt, thường hay giúp đỡ mọi người, cô Nhi giống mẹ nhiều nhứt. Khi từ giã bà mà tôi cảm thấy như còn quyến luyến một điều gì, cố nhìn vói ra sau, bỗng bất chợt bắt gặp khuôn mặt của người đẹp đang núp ở nhà sau, ló đầu ra nhìn theo, khiến lòng tôi xao xuyến lâng lâng, có lẽ tôi đã bị tiếng sét ái tình rồi!
Trở về nhà Song, má của hắn hỏi:
- Mầy có chịu con Nhi không, Mợ Tư sẽ làm mai cho?
Bụng tôi thì rất thích cô thôn nữ nầy, nhưng chỉ mỉm cười vì nghĩ còn phải tìm hiểu thêm đôi chút về người bạn trăm năm tương lai, nhất là cần phải hỏi ý của má tôi nữa chứ. Tôi rất thương mẹ, vì bà đã ở goá, lo tảo tần nuôi tôi ăn học thành tài, mà không một lời than thở. Nhớ nhứt là hai giỏ quà, khi bà lên thăm ở trường Võ Bị, tôi là thanh niên mà khiêng vô không nổi, vậy mà bà đã chịu khó mang nó từ Trà Vinh lên; đoạn đường dài hơn 500 cây số và phải sang xe đò tới mấy chuyến.
Thấy tôi chần chừ chưa trả lời Mợ Tư, Chánh nói:
- Nếu mầy không chịu, tao sẽ giới thiệu em gái tao cho.
Tôi chỉ mỉm cười, vì mình đã có chủ kiến rồi.
Chánh, Song, Hiền, Bá, là những thằng bạn nối khố của tôi, họ rất tốt bụng. Song tốt nghiệp Sư Phạm dạy học gần nhà, còn Chánh và Hiền vừa có giấy gọi vào trường Võ khoa Thủ Đức, chúng nó thấy tôi đã gần 25 tuổi mà vẫn còn độc thân, nên hết lòng muốn tôi cưới vợ ở Vĩnh Bình, để sau nầy thỉnh thoảng còn trở về quê ra đồng bắt cua, cá, ốc bưu với họ nữa chứ. Chánh cũng có dẫn tôi tới gặp em gái của nó, cô nầy cũng đẹp dễ thương như cô Nhi, nhưng đầu óc đã có chủ định riêng, không muốn nghĩ điều gì nhiều nữa.
Sau khi trở về tỉnh, tôi có để tâm tìm tòi về gia thế của cô Nhi. Rồi đầu óc cứ suy nghĩ vẫn vơ, nghĩ đến Lan và các bạn gái mà tôi đã quen biết. Nghĩ đến nếp sống thanh bình, khi hết giặc, về quê đào ao nuôi cá, trồng cây lập vườn, sống an nhàn thơ thới, không phải bon chen cạnh tranh với ai hết. Ôi cảnh đồng quê sao mà thần tiên, lý tưởng quá!
Cuối cùng tôi quyết định đến gặp mẹ và trình bày mọi việc. Bà hết sức vui mừng, không cần nói lôi thôi gì hết, lúc nào bà cũng ủng hộ con, giống như lần tôi xin phép bà để theo học trường Võ Bị Đà Lạt lúc trước. Bà bảo thu xếp làm đám cưới sớm, mọi việc dưới tỉnh sẽ có anh hai Sang lo dùm.
Hôm sau biết nàng lên tỉnh mua sắm (hay muốn cho gặp mặt lần nữa đó cô nàng?), Chánh vội tới rủ tôi vô Tri Tân, nhà của người chị thứ ba, để gặp nàng thêm. Tôi cùng Chánh chạy xe vô Tri Tân, vừa tới thì thấy Nhi cũng mới bước ra khỏi cửa, nghe nói dẫn mấy đứa em tên Hồng Sơn, Hồng Giang ra chợ sắm áo quần gì đó. Gặp mặt nhau bất ngờ trước cửa, hai bên chỉ khẽ gật đầu chào xã giao. Chánh lén chỉ sau lưng tôi như ngụ ý:
- Nó đó, mầy có chịu không Nhi ?
Tôi nhìn nàng cười có má núm đồng tiền thật duyên dáng, cảm thấy hài lòng hết sức! Gương mặt cả hai đều đỏ ửng như e lệ thẹn thùa, nửa phần mắc cỡ, nửa phần vui tươi! Đó có nghĩa là “Tình trong như đã mặt ngoài còn e” vậy mà !
Hai tháng sau, trước khi về quê cưới vợ, tôi viết vài bức thơ gởi cho các bạn gái cũ (chỉ là bạn thôi vì tôi chưa dám, hoặc vì bản tính nhút nhát, thốt những lời yêu đương hứa hẹn). Trong đó có nêu lý do là đã bị các nàng chê, nên đành vâng lệnh gia đình về quê cưới vợ, để nối dõi tông đường, mong các nàng tha lỗi và vẫn còn được giữ liên hệ tình bạn thuần túy tốt đẹp như thuở nào.
Nhận được thơ, Lan tức giận tại sao tôi lại quyết định quá đột ngột như vậy? Nàng bảo Đại (bạn trai của Hương, do tôi giới thiệu) tổ chức một bữa cơm, rồi nói tài xế chở Lan và Hương đích thân đến rước hai vợ chồng tôi, đưa tới nhà của Đại! Thử coi “Người ta” đẹp tới đâu? Mà khiến tôi xiêu lòng đến nổi phải làm đám cưới một cách vội vã? Thật ra cũng tại hoàn cảnh giàu nghèo chênh lệch, cũng tại đầu óc tôi lúc đó còn quá cổ lỗ sĩ, tự ty mặc cảm, và cũng tại tôi quá thích nếp sống yên tỉnh hồn nhiên của đồng quê,......
Trong khi ăn, Lan thì ngó trừng trừng, còn Nhi vô tình cứ tỉnh bơ như là tới nhà bạn ăn cơm vậy. Lúc đó tôi có nhiều lời muốn phân trần với Lan lắm nhưng không có dịp! Thật là có lỗi với nàng vô cùng, tôi không ngờ Lan là một tiểu thơ đài các mà lại để mắt xanh đến anh chàng cù lần, nhà quê nầy. Sau đó để lương tâm khỏi cắn rứt, tôi định làm môi giới Lan cho Bảo, kẹt là nó đang có bạn gái ở xóm Kỳ Đồng, nên cuối cùng giới thiệu Lộc cho Lan. Nhưng trong trận chiến năm Mậu Thân, Lộc và Đại đã anh dũng hy sinh! Điều thật đáng buồn vì Đại là con trai độc nhất trong gia đình. Ôi chiến tranh thật là tàn nhẫn!!!
Lúc về nhà, tôi có kể chuyện về Lan cho Nhi biết, nàng chỉ mỉm cười. Sẵn dịp, tôi cũng nói luôn cho nàng biết tất cả mối tình thời còn tuổi học trò. Tôi nói nếu đã cưới nàng thì phải có trách nhiệm che chở cho nàng suốt đời, những cô gái đó vẫn còn là những người bạn tốt của tôi. Nhi thật hiền lành, không thắc mắc, không than van, đã ủng hộ tinh thần tôi rất nhiều trong những năm chinh chiến đầy gian lao, nguy hiểm.
Lúc mới lên Sàigòn, Nhi thường nhớ nhà, nhất là những đêm mưa tầm tã thì lại càng buồn hơn; lúc đó nàng thường khóc thầm, làm ướt đẫm cả vai áo tôi. Mỗi lần nàng khóc tôi liền hát bài “Tám Điệp Khúc” để chọc nàng cười:
.......“Nhi.....làm cho mưa bay giăng giăng......mây tím dệt.... thành sầu!”......
Mỗi khi tôi đi hành quân, lòng nàng rất lo âu, nhưng không bao giờ thố lộ cho biết, sợ tôi buồn. Trong 4 ngày phép hành quân, thực sự chỉ có 2 ngày được trọn vẹn. Còn ngày đầu thì đi xa ngàn dậm nôn nóng gặp mặt, nhưng ngày chót thì cứ suốt đêm nằm bịn rịn lo buồn cảnh sắp chia ly, có thể là một đi không trở lại, vì chỗ nào chiến trường thật sự sôi động và hung hiểm mới cần đến các đơn vị Nhảy Dù.
Nhi thích nghe bài hát “Chiều Trên Phá Tam Giang” của Nhạc sĩ Trần Thiện Thanh. Trong đó có những câu rất đúng với tâm trạng của người chinh phụ như nàng:
... “Nghĩ tới một điều em không rõ”
“Nghĩ tới một điều em sợ, không dám nghĩ”
“Đến một người đi giữa chiến tranh”
“Lại nghĩ tới anh”!
“Lại nghĩ tới anh”!.....
Mỗi lần bên trại gia đình binh sĩ nghe tiếng khóc than vì có người vừa nhận tin báo tử, suốt đêm đó Nhi lo âu hồi hộp. Thật là tội nghiệp cho các chinh phụ, lúc nào cũng sống với cảnh lo âu sợ sệt, trong cuộc chiến tranh đầy máu lửa nầy!
Vì đất nước lâm vào cảnh chiến tranh, hầu hết các phụ nữ đều lấy chồng lính. Dù hậu phương hay tiền tuyến đều có muôn ngàn nguy hiểm. Trong lòng chinh phụ lúc nào cũng lo cho sự an nguy của chồng, lo cho chính mình, và lo cho tương lai con cái. Họ sống vợ chồng với nhau rất là khiêm nhường. Họ sống với nhau bằng:
Những “24 giờ phép!”
Những “7 ngày đợi mong!”
Hoặc có người: “Cưới nhau xong là đi!”
Tuổi thanh xuân của các chiến sĩ hầu như cống hiến toàn phần cho tổ quốc, và tuổi thanh xuân của chinh phụ đã cống hiến toàn phần cho chinh phu:
Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi
Dạ chàng xa ngoài cõi thiên san.
Chinh phụ lúc nào cũng:
Sầu lên ngọn ãi, oán ra cửa phòng!
Hoặc là:
Ngàn dâu xanh ngát một màu
Tình chàng ý thiếp ai sầu hơn ai ?
Thế nhưng để cho các chiến sĩ an tâm chiến đấu, an tâm phục vụ, làm tròn bổn phận và trách nhiệm, chinh phụ còn phải đảm trách việc nhà:
Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam
Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân
Khi nhắc đến phụ nữ, có lẽ chúng ta không thể không ghi nhận và ca ngợi đức tính cao quí của người đàn bà Việt Nam. Không phải chỉ ở những thế kỷ xa xưa trước đây, mà ngay cả thời Cận đại, cũng như thời Hiện đại bây giờ; chúng ta cũng tìm thấy những bóng hình người đàn bà cao quí trong xã hội. Một trong những đức tính đáng khen ngợi là sự kiên trì và sự thủy chung của một người vợ Việt Nam. Chẳng hạn như một người vợ lính, thường ngày ở nhà phải lo toan việc gia đình, nuôi con ăn học, và thậm chí đôi khi còn phải lo cho gia đình của chồng nữa. Khi chồng bị đi tù gọi là cải tạo, thì người vợ lại phải lo tiếp tế thăm nuôi; và vẫn phải lo toan cuộc sống khó khăn hằng ngày trong gia đình dưới dưới chế độ hà khắc Cộng sản. Khi người chồng trở về thì người vợ phải lo tìm đường vượt biên, và nhiều khi không đủ tiền người vợ lại phải hy sinh để cho người chồng dẫn theo một vài con đi trước. Đó là những đức tính rất cao quí, rất đáng ca ngợi, và rất hiếm thấy ở tất cả những người đàn bà ngoại quốc nào trên thế giới.
Nỗi đau khổ cùng cực nhất của người chinh phụ là khi trở thành quả phụ !!!
Thăm chồng mà chẳng gặp chồng
Bao nhiêu hy vọng theo giòng mây tan!
Hoặc:
Ngày mai đi lượm xác chồng
Say đi để muốn mình không là mình..!
Người đàn bà Việt Nam không phải như Phạm Duy đã nói:
Em ngại ngùng dạo phố mùa Xuân
Bên người yêu tật nguyền chai đá
Họ đã khắc khoải trong vai trò chinh phụ thì càng trọn vẹn trong vai trò “Tù phụ”. Sau ngày Quốc Hận 30/4/75, tất cả gia đình chiến sĩ, gia đình công chức miền Nam đều bị Cộng Sản bao vây chặt chẽ:
Tứ phía quân thù lưới bủa vây
Áo cơm pha với lệ vơi đầy
Nửa khuya thức giấc lo rồi sợ!
... Tù ở bên ngoài đâu khác trong
Hoặc khi đi thăm nuôi chồng thì:
Bên cầu em đứng, đợi, chờ, trông
Đông quá mà sao thiếu bóng chồng
Anh hỡi ! Anh ơi ngày hai buổi
Đi về anh có nhọc nhằn không?...
Khi ngồi trên xe đò thấy:
......Đoàn người lao động về ngang đó
Cuối mặt thương chồng lệ ướt mi!
Rồi nhắn nhủ:
Kiên nhẫn nghe anh em sẽ chờ
Anh về em sẽ hết bơ vơ!
Hoặc:
....Gặp nhau trong cảnh đoạn trường
Tuy trong gang tấc xa đường quan san ...

Bây giờ trở lại chuyện ở Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù. Thiếu tá Tiểu Đoàn Trưởng là một người rất tốt bụng, có lần Đô Thành bị địch pháo kích; ban đêm nghe tiếng đạn nổ vang rền, nhiều khu vực đông dân bị pháo trúng, gây ra những đám cháy sáng rực cả một vùng trời. Lúc ấy vào khoảng nửa đêm, ông lái xe vào doanh trại tiểu đoàn, thấy tôi đang cùng binh sĩ ở các hố chiến đấu ứng chiến, phòng địch lợi dụng pháo kích mà xâm nhập (nếu ông chạy vô trong thì sẽ thấy bạn Trần Hữu Bảo và anh Thành “Râu” Khoá 19 ĐL, cũng không thân nhân ở Sàigòn như tôi). Thành là sĩ quan An Ninh Tiểu Đoàn rất được Thiếu Tá Huệ thương. Phần đông các sĩ quan khác đều có nhà ở đây, nên mỗi đêm họ về chung vui với gia đình, chỉ có ba đứa tôi là lúc nào cũng nằm chèo queo trong hậu cứ.
Có lẽ nhờ vậy mà ông thương nên sau đó vài tháng ông cho tôi và Bảo đi học lớp Điều không Tiền tuyến ở Dục Mỹ, Nha Trang. Rồi vài tháng sau lại đề cử cho tôi đi học lớp Tác Chiến Trong Rừng tại Mã-Lai.

3. Tại Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1507267044-Chuong2_VeSuDoanNhayDu03.jpg

Sau khi đầy đủ quân số, toàn bộ Tiểu Đoàn 9 được xe chở đến Trung tâm huấn luyện Vạn Kiếp ở tỉnh Bà Rịa. Hằng ngày tôi và Đại có nhiệm vụ đưa binh sĩ Đại đội 90 đến các bãi tập, để các Huấn luyện viên của trung tâm dạy họ về cá nhân chiến đấu, riêng Đại Đội Chỉ Huy của chúng tôi cần phải học thêm về vũ khí nặng như Đại bác 75 ly và Súng cối 81 ly.
Ở Trung tâm nầy, tôi gặp 2 vị khoá đàn anh là trung úy Thọ, khóa 16, và thiếu úy Nguyễn Văn Tỵ, khoá 19. Họ thường dẫn tôi ra phía sau doanh trại nhậu món Rựa Mận ăn với củ riềng, mắm tôm, và lá mơ thật ngon và vui vẻ!
Cuối khoá học, toán súng cối sẽ có nhiệm vụ bắn đạn khói để làm màn che cho tiểu đoàn tấn công mục tiêu trên các ngọn núi ở phía Tây bắc thị xã Bà Rịa. Từ nào tới giờ chỉ học toàn lý thuyết và bắn bập bẹ vài quả đạn súng cối khi còn ở quân trường, mà lúc đó tôi đâu có chú tâm mấy về loại súng nầy. Vì nghĩ mình sau nầy ra trường chỉ xử dụng súng Colt, súng trường, chớ đâu phải là sĩ quan pháo binh mà cần biết về biểu xích, cân bằng bọt nước của súng cối.
Một hôm khoảng 8 giờ tối, sau khi ăn cơm chiều xong, tôi mò qua chỗ vị trí trực súng cối của Trung Tâm. Lúc vừa định bước vào vòng rào thì gặp vị Thiếu uý Huấn Luyện Viên đang ngồi chơi cờ tướng với một Thượng sĩ già. Thấy tôi đến, hai vị hơi ngạc nhiên, vì đã huấn luyện nhiều Tiểu Đoàn Dù, nhưng chưa từng có ai tới nhờ chỉ dạy về Súng cối 81 ly như tôi. Hai người rất vui vẻ dẫn tôi đến chỗ vị trí đặt khẩu súng cối 81 ly. Súng được để ở trong hố tròn khoét sâu dưới đất khoảng một thước, đường kính khoảng 2 thước. Xung quanh được viền bằng những vỏ đạn 105 ly, trông rất mỹ thuật, trên đường viền đó có cắm những tiêu mốc đánh dấu A, B, C, D,...
Tôi được hai người chỉ về xạ biểu, cân bằng bọt nước, và cách đặt tiêu mốc chuẩn bị cho những hỏa tập cận phòng. Họ chỉ thật tận tâm và lần nầy tôi hấp thụ rất nhanh vì bây giờ thực sự cần biết nó để sắp sửa áp dụng vào thực tế trong cuộc thao dượt, và cho chiến trường trong những ngày sắp tới. Sau cùng tôi hỏi đến cách làm màn khói để chuẩn bị cho cuối tuần nầy.
Sáng sớm Thứ Bảy, đơn vị tôi đựợc đưa đến vị trí cách chân núi Bà Rịa khoảng một ngàn thước, tôi cho đặt hai khẩu súng cối 81 ly hướng về đỉnh núi, các đại đội tác chiến đang dàn quân bố trí chờ đợi màn khói sẽ xung phong tấn công mục tiêu, là đỉnh núi cao phía trước mặt. Tôi lấy bản đồ kẻ vị trí điểm đứng của súng và vị trí dưới chân đồi, đo khoảng cách, đọc xạ biểu, và cân bằng bọt nước. Xong rồi hô to:
- Khẩu đội chuẩn bị....bắn.
Sau khi đạn chạm đất gây 2 cụm khói bay lên, tôi thấy hơi dài, nên điều chỉnh tiếp.
- Phương giác 120, về phải 50, gần lại 100....chuẩn bị!
Sau khi hai khẩu đội trưởng điều chỉnh xong, tôi tới kiểm soát, rồi cho lệnh bắn tiếp. Lần nầy thì đúng như ý định, tôi báo cáo là màn khói sẵn sàng.
Đúng 8 giờ các đại đội đều bố trí xong, Tiểu Đoàn Trưởng ra lệnh:
- Các đơn vị chuẩn bị khi có màn khói, lập tức tấn công, nghe rõ trả lời?
- 90 nghe rõ
- 91 nghe 5/5
- 92 nghe rõ
- 93 nghe rõ
- 94 nghe 5 trên 5
Tôi cho các khẩu đội di chuyển nòng súng trái, phải, và bắn hằng loạt đạn khói làm một màn trắng như sương mù bao trùm cả chân núi rồi ngưng bắn, để các đơn vị tác chiến bắt đầu tấn công chiếm mục tiêu.
Sau buổi thao dượt, Thiếu uý Vinh, người chỉ tôi về súng cối, đến khen bắn màn khói rất đẹp và chính xác. Đại úy Phú và Tiểu Đoàn Trưởng tưởng tôi là người xuất thân Võ Bị, có tài đa năng, đa hiệu, thì việc gì cũng biết, nên rất hài lòng. Nhưng họ đâu có ngờ trước đó mấy ngày, tôi mù tịt về bắn súng cối, nói chi đến việc biết cách làm màn khói đẹp mắt như thế nầy đâu!
Lúc ở Bà Rịa, thấy các tân binh nhớ nhà trốn về Sàigòn nhiều quá, Thiếu ta Huệ ra lệnh cạo trọc tất cả binh sĩ tiểu đoàn, rồi cho Quân Cảnh làm trạm kiểm soát. Vì thế không còn nạn trốn trại nữa. Tôi thấy các anh binh nhì như Tám Lọ, Mai Lực, Võ Lục, Châu Non, Năm, Hồi, Nghinh, Phạm văn Chơi,... ưa lấy đũa gõ trên chén cơm, miệng râm râm mấy câu nam mô, trông giống các nhà sư, thật là tếu.

4. Khóa Huấn Luyện Điều Không Tiền Tuyến


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1507267058-Chuong2_VeSuDoanNhayDu04.jpg

Mùng bốn Tết ta, khoảng tháng hai năm 1966, tôi và Bảo được Tiểu đoàn đề cử đi học khoá Điều Không Tiền Tuyến tại Dục Mỹ, Nha Trang. Trong khi chờ đợi nhập học (vào ngày Mùng 8), tôi và Bảo tới ở nhà Nguyễn văn Táo, bạn cùng khoá, và được má Táo cho ăn món tôm chua thịt luộc truyền thống của người xứ Huế, giống như dưa giá thịt kho của Miền Nam thường ăn trong ba ngày Tết.
Để giải khuây trong dịp đầu năm nầy, Táo đưa Bảo và tôi tới nhà cô em họ tên B. Võ, ở một hiệu sách trên đường Độc Lập, để đánh bài trong gia đình cho qua ba ngày Tết tha hương buồn tẻ nầy.
Bài bạc là thứ đỏ đen, dễ bị tán gia bại sản, do đó tôi chỉ chơi giải khuây trong những ngày tết, với gia đình hoặc bạn bè chòm xóm thôi. Bốn chúng tôi (Táo, B. Võ, Bảo, và tôi) chỉ chơi xì dách 21 điểm và đặt nhỏ vì đâu có vốn nhiều. Vậy mà cũng kéo dài thâu canh, tới sáng mới chịu nghỉ. Lúc đầu tôi gom sòng, một đống tiền ở trước mặt, còn Bảo thì cạn dần, có lẽ nó cứ lo nhìn lén cô em họ của Táo, một hoa khôi của thành phố Nha Trang, nên tới nửa đêm thì sạch túi. Rồi Bảo lấy tiền của tôi để chơi tiếp. Bàn tay của Bảo lúc đó sao mà xui quá, đến hừng sáng thì cô em họ của Táo quơ sạch hết!
Tới ngày đi trình diện trường Pháo Binh, Táo nói má nó cho mỗi đứa mượn hai ngàn để đóng tiền cơm. Khoá nầy chỉ có toàn sĩ quan Nhảy Dù của 8 Tiểu đoàn, gồm 16 người, trong đó có các anh Hồ Lệ, Nhỏ, và Nam Râu là khoá 19 ĐL, đàn anh của tôi. Ngoài ra còn có Ngạc lùn, Cương Củ Đậu (không phải tên thật) là những tay khuấy nước chọc trời trong Sư đoàn Dù.
Giường ở đây có rất nhiều rệp, ai nấy đều thức suốt đêm, không ngủ được. Tôi và Bảo vì đóng tiền ăn, nên không còn đồng xu dính túi định cứ nằm lỳ ở trại chịu trận cho đàn rệp hút máu. Anh Nhỏ, Nam, và Hồ Lệ thấy tội nghiệp, cứ mỗi lần đi đâu ba người thường rủ tụi nầy theo và họ dành trả tiền, đúng là tình anh em Võ Bị vô cùng gắn bó. Đàn anh lúc nào cũng muốn che chở cho đàn em. Bảo và tôi hết sức cảm động trước tấm thạnh tình nầy.
Nhưng Cương và Ngạc (không phải tên thật) uống say thì ít khi tự chủ được bản thân. Có lần nhậu say ở câu lạc bộ Biệt Động Quân (bên cạnh trường pháo binh), Ngạc nổi hứng đòi đánh anh Đại úy Quản lý Câu Lạc Bộ. Anh nầy thấy Ngạc say nên chịu lép nhịn nhục; vì uống quá nhiều, nên Ngạc quậy tùm lum, khiến một anh Trung sĩ BĐQ để tâm trả hận.
Một buổi chiều nọ, khi chúng tôi đang đứng ở đầu chợ Dục Mỹ, chờ đón xe về trại. Bỗng từ ngoài xa, anh Trung sĩ cầm dao phóng tới định đâm anh Ngạc, thật là may mắn, lúc đó tôi nhìn thấy kịp nên nhanh nhẹn chụp cổ tay và tướt được con dao ra. Chỉ có mười sáu sĩ quan Dù mà dám quậy ổ Biệt Động thì thật là gan trời, có lần Cương nhậu say quá, tối hôm đó đang ngủ trên giường, bỗng anh ngồi dậy khóc hu! hu! rồi đập đầu làm bể cánh cửa của tủ đựng áo quần, may là tủ bằng gỗ, nếu bằng sắt thì đầu anh chắc tiêu luôn. Sáng thức dậy, Cương thấy đầu bị băng bó thì hỏi sao vậy, làm ai nấy nghe anh hỏi đều ôm bụng cười. Thì ra cả một đêm phá làng phá xóm, khiến trời gần sập mà anh vẫn không biết gì.
Có lẽ thấy những sĩ quan Dù nầy ba gai quá, nên anh phi công L-19 thay vì bay bình phi để cho khoá sinh quan sát điều chỉnh pháo binh. Nhưng muốn chơi Nhảy Dù, anh điều khiển máy bay lượn lên lượn xuống, làm mặt chúng tôi bị kéo dài ra như mặt ngựa, tối về anh nào cũng ói lia, ói lịa, ói ra tới mật xanh, ói tới ruột lộn xà ngầu, hết còn “Nhảy Dù cố gắng” nổi. Đặc biệt có anh Tài, mặt đã dài, khi phi cơ vút mạnh lên, trông mặt anh lúc đó càng thấy buồn cười hơn. Đã vậy mà mỗi lần máy bay lượn qua lượn lại, anh cứ oé lên la làng la xóm, khiến mấy tay phi công càng làm già thêm.
Khoá nầy dạy về điều chỉnh pháo binh, phần đầu học điều chỉnh dưới đất, phần chót ngồi trên máy bay L-19 để tập xác định tọa độ và điều chỉnh đạn pháo bằng tầm nhìn từ trên cao. Những điều học được rất bổ ích, có thể áp dụng trực tiếp trong các đơn vị Dù khi bị chạm địch.

5. Khóa Du Kích Chiến, Mã Lai


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1507267072-Chuong2_VeSuDoanNhayDu05.jpg

Vài tháng sau, trong lúc Tiểu đoàn đang tham dự cuộc hành quân tại thung lũng Iadrang, thuộc quận Lệ Thanh, tỉnh Pleiku; tôi nhận được công điện, gọi về Sàigòn để đo may quần áo và làm thủ tục xuất ngoại đi Mã Lai học khoá 32 Tác Chiến Trong Rừng (Jungle Warfare School).
Lúc ấy vào khoảng tháng 9 năm 1966, Sư Đoàn Dù có bốn sĩ-quan được đề cử đi học: Chuẩn uý Nguyễn Văn Thu của TĐ2ND, Nguyễn văn Khen thuộc TĐ3ND, Nguyễn văn Phương, TĐ8ND, và tôi thuộc TĐ9ND. Khoá nầy có 4 sĩ quan Lực Lượng Đặc Biệt, trong đó có anh Sĩ, sau về TĐ9ND.
Theo những người đi trước kể lại là ở Singapore hàng hóa rất rẻ vì thuế nhẹ, nếu đem về nước bán sẽ có lời nhiều. Sẵn mới cưới vợ, tôi định làm một cú buôn bán nhỏ để có tiền mua sắm cho cặp vợ chồng mới mẻ nầy. Nhưng vào giờ chót, tôi đem tiền trả lại cho ông anh họ bên vợ ở Chợ Lớn!
Khi máy bay loại C123 chở các khoá sinh đến phi trường Singapore, tôi thấy cảnh vật ở đây thật đẹp và vô cùng yên tỉnh. Không giống như Tân Sơn Nhứt, lúc nào cũng có máy bay chiến đấu lên xuống thường xuyên (khi chúng tôi ở Đà Lạt mới về học nhảy dù, tiếng động cơ của các máy bay phản lực, gầm thét vang rền suốt đêm, vì không quen, nên mấy đêm đầu tiên, không ai có thể chợp mắt ngủ yên được!)
Chúng tôi vừa vào trong nhà kiếng của phi trường, cảnh sát Singapore tới chận lại xét kỹ từng người coi có giấy chứng nhận đã chích ngừa đầy đủ chưa. Họ sợ các sĩ quan khoá sinh đem bịnh truyền nhiễm từ nước ngoài vào.
Tiếp đón chúng tôi tại đây là Đại uý Châu, Sĩ quan Liên Lạc kiêm Thông Dịch của nhà trường. Ông đưa khoá sinh bằng xe bus, chạy tới cầu biên giới hai nước rồi dừng lại, mọi người phải xuống xe để nhân viên hải quan kiểm soát hành lý và giấy passport. Họ khám từ cái áo thung đến trái cây, vì một ký trái lê ở Singapore là một đồng tiền Mã, trong khi ở bên kia cầu, thì giá mắc hơn gắp ba lần.
Do đó, trước khi qua cầu biên giới, đại úy Châu có cho xe ghé lại tiệm buôn của anh Tuấn và anh Nghĩa trong khu phố Chinatown ở Singapore. Hai anh chủ tiệm người Việt có đưa cho chúng tôi danh sách ghi giá biểu các món hàng, mà họ biết sĩ quan khoá sinh nào qua đây, cũng thường mua sắm những loại đó. Họ bảo cứ so sánh các tiệm khác, dù mua ở đâu, hai anh cũng sẵn lòng cho gởi đồ trong kho. Ngày về nước, chỉ cần tới đem thẳng từ đó ra phi trường Singapore, như vậy sẽ khỏi bị đóng quan thuế từ phía Mã Lai.
Mỗi chiều thứ sáu chúng tôi thường gọi taxi vô tận phòng ngủ của trường, từng ba người cùng đi một chiếc, thẳng qua Singapore để du ngoạn và mua sắm. Chúng tôi đã thử so sánh giá cả, thấy chỗ anh Tuấn, anh Nghĩa rẻ hơn nên cứ yên chí order thẳng với anh, để còn tranh thủ đi dạo các nơi.
Khóa nầy có đại úy Giàu, tham mưu trưởng ở Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, anh tuổi gần tứ tuần, mỗi lần tới khách sạn, anh thích gọi thợ đấm bóp người Hoa có nghề rất điêu luyện, họ bấm huyệt và kéo giản xương gân kêu nghe “Rốp rốp”. Hầu hết chúng tôi còn thanh niên, nên không có mỏi lưng, chỉ thích đi khu phố Tàu để mua sắm và ăn món vịt Bắc Kinh và dưa cải xào ruột già, ngon vô cùng. Lúc kêu đồ ăn, vì không rành tiếng Tàu, nên nhiều khi bị đưa lộn món mà vẫn phải ráng ăn. Khi tính tiền thường nói bặp bẹ vài tiếng (sấu lúi, tẩy xu,..!) để họ không tính giá đập đổ như những người ngoại quốc khác!
Quân trường nầy có diện tích rộng gần bằng trường Bộ Binh Thủ Đức, nhưng số học viên chỉ có 2 toán khoảng 80 người, gồm 40 sĩ quan Việt Nam và 40 sĩ quan Đồng minh. Cổng ra vô không có lính gác như ở các căn cứ quân sự của nước mình. Chỉ có một nhân viên an ninh đứng trực phòng vũ khí với cây “Can” cầm nơi tay. Hầu như cảnh sát ở khắp các thành phố của hai nước Mã Lai và Singspore đều không mang súng.
Điều đáng chú ý là ở đây họ rất quan tâm đến đạn dược, mỗi khóa sinh chỉ được nhận 9 viên đạn thật để phòng thân, hầu lúc vô rừng đối phó khi gặp thú dữ. Ai lỡ bị mất một viên đạn thì phải có lý do, cần làm phúc trình báo cáo chi tiết. Nếu không chính đáng có thể bị trục xuất về nước!
Từ những yếu tố trên, mọi người đều cảm thấy quyến luyến cảnh sống yên ổn an vui trong một đất nước thanh bình. Khác với đời sống loạn lạc, lúc nào cũng như bị đe dọa về sinh mạng và không khí nghẹt thở bao trùm toàn chiến tranh đầy chết chóc của quê hương ta.
Khoá sinh được ở từng phòng riêng biệt, có đầy đủ tiện nghi, mỗi buổi sáng người bồi đến từng phòng gõ cửa gọi:
- Tea sir!
Sau khi uống trà sữa nóng xong, trong khi khóa sinh rửa mặt, người bồi phòng lo xếp gọn ba lô và trải giường ngay ngắn, xong anh ta đích thân máng ba lô lên vai cho chúng tôi. Họ lễ phép coi các sĩ quan khoá sinh nầy như khách quý vậy.
Những người bồi phòng rất tử tế một phần vì đã được chỉ thị cách đối xử lịch sự với người ngoại quốc, một phần khác Đại uý Châu có căn dặn khoá sinh cho tiền tip khá để giữ thể diện Quốc gia. Toán khoá sinh Đồng Minh, trong đó đa số là sĩ quan Hoa kỳ, vì bản tính tự nhiên kiểu Mỹ của họ, mặc dù giàu có nhưng keo kiệt nên bị các bồi phòng chê.
Các lớp học thường là ở trong đồn điền cao su, hoặc ở trong rừng, mỗi buổi cơm trưa có xe chở đồ ăn nóng tới; với nước cam, bưởi hoặc nước ngọt, cà phê, đồ tráng miệng thật vô cùng đầy đủ. Trường nầy do Hoàng gia Anh đài thọ, nên bữa ăn chiều rất trang nghiêm, trong phòng ăn hết sức yên lặng, mọi người (khoá sinh và sĩ quan huấn luyện người Anh) đều phải thắt cà vạt. Trên bàn ăn bày đầy dao, muỗng, nĩa,.. đặc biệt ở các bàn người Việt Nam mình đều có các tô nước tương, trong đó có đầy ớt xắt lát đỏ tươi!
Thỉnh thoảng họ tổ chức party đãi khoá sinh, đặc biệt bốn đứa sĩ quan Dù chúng tôi rất được Thiếu tá Trưởng khối Huấn luyện ưa thích vì ông cũng thuộc Binh chủng Nhảy dù của Hoàng Gia Anh. Ông ta cũng đội mũ đỏ như chúng tôi và có tửu lượng rất cao, bốn tên nhập lại mà cũng không hạ nổi, vì không quen uống rượu Tây nên dễ bị say. Rượu Jean, Rum có vị vừa thơm vừa ngọt dễ uống nên bị say ngầm. Khác với rượu đế của ta, nó gắt và nặng cần phải dằn bụng rồi mới dám uống. Đêm đó tôi bị say quá chừng, mà trong bụng thì xẹp lép, không có chút đồ ăn nào hết !
Trường nầy chú trọng dạy về cách chiến đấu trong rừng, thoát hiểm mưu sinh, phản phục kích trên bộ và trên sông rạch, cách xác định điểm đứng, và cách phân biệt trên bản đồ quân sự các loại rừng già (loại rừng số 1), rừng rậm toàn lau sậy, ô rô, và dương xỉ (rừng số 2),...
Lúc thực tập cần phải chú ý để tâm, chớ không được học hời hợt, cẩu thả. Khi hai bên đánh tập với nhau, dù là bằng đạn mã tử, nhưng muốn bắn thì phải nhắm mục tiêu cho kỹ. Nếu ria bắn bậy bạ thì phải tập lại cho đúng mới thôi. Có lần tôi được đề cử làm chỉ huy cả toán, để tiến đánh một mục tiêu đã chỉ định. Do không chuẩn bị sẵn, phần vì cấp bách và phần vì lơ đễnh, nên khi đứng trước toán để ban lệnh hành quân; tôi nói thiếu sót phần tình hình địch và bạn. May nhờ Đại uý Châu thông dịch thêm bớt nên được thiếu tá huấn luyện viên khen đáo để, làm trong bụng tôi mắc cỡ gần chết!
Không phải tự nhiên tôi được ông thiếu-tá Nhảy Dù người Anh, chỉ định làm người chỉ huy cho buổi thao dượt cuối cùng của khoá 32 nầy đâu. Nguyên do tuần rồi, toán tôi được về nhất trong cuộc đi địa hình tìm cọc.
Cả lớp 40 người chia ra thành 10 toán nhỏ, được xe chở đến các địa điểm khác nhau trong khu rừng rậm. Từ đó các toán phát xuất đi địa hình tìm cọc và trong hai ngày phải tập trung đến một địa điểm gần trường. Toán tôi có anh Lương Huỳnh Hương, khoá 16 Đà Lạt, một Thiếu uý Bộ binh, và một Chuẩn uý Địa phương quân. Chúng tôi khởi hành di chuyển trong khu rừng già, loại rừng số một, đi tới trưa thì dừng lại lấy lương khô ra ăn vội, rồi tiếp tục lên đường, vì phía trước là rừng số 2, loại rừng toàn cây ô rô, dương xỉ, rất khó đi. Lúc đầu chúng tôi thay phiên nhau lấy dao rừng, chặt cây dọn đường làm lối đi, nhưng rị mọ hơn một tiếng đồng hồ mà chỉ được 100 thước! Như vậy 16 cây số còn lại thì biết bao giờ mới tới nơi? Anh Hương, đại niên trưởng của tôi, đề nghị mỗi người thay phiên nằm xuống, lấy thân đè lên cây ô rô làm cầu cho người kế tiếp bước qua. Mọi người làm theo chừng một giờ mà chỉ được 500 thước, ai nấy đều vất vả và mỏi mệt vô cùng. Trung uý Hương, mọi khi rất bình tỉnh và bản tính rất hiền lành (mỗi cuối tuần, tôi thường cùng đi với anh qua Singapore để du ngoạn và mua sắm), nhưng hôm nay anh gặp phải đoạn đường đầy chướng ngại vật, và còn khoảng 4, 5 tiếng nữa là trời sụp tối rồi mà chưa đi tới đâu, nên rất bồn chồn nóng ruột. Vì anh là con chim đầu đàn, có trách nhiệm về tinh thần trong việc hướng dẫn chúng tôi ra khỏi chướng ngại vật nầy!
Đi được một đoạn nữa, thấy có một con đường đất đỏ băng ngang qua hướng đi. Tôi đề nghị đi theo con đường nầy, đến khi hết rừng dương xỉ thì sẽ đổi phương giác ngược lại, rồi đi tiếp theo hướng đã định để tìm các cột tiêu mốc do nhà trường chỉ định các toạ độ trên bản đồ. Giống như trên hướng đi mà gặp hồ nước (hoặc sông rạch) trước mặt thì thay vì phải lội băng ngang, ta chỉ cần đi vòng theo ven bờ (hoặc kiếm cầu) để qua tới bên kia rồi tiếp tục bẻ góc, đi theo hướng cũ.
Mọi người đều đồng ý, vừa ngầm đếm bước đôi vừa thoải mái đi phom phom theo đường xe bò. Đi một khoảng thì đường mòn uốn cong về hướng Đông, đúng y như hướng chúng tôi dự định, ai nấy đều hết sức mừng rỡ, tiếp tục nhanh chân tiến bước. Bỗng anh Chuẩn uý Địa Phương Quân kêu rú lên, chúng tôi quay lại nhìn thì thấy mặt mày hắn xanh lét, tay chân run rẩy, miệng mếu máo, môi run lập bập, như muốn nói gì nhưng thốt không ra tiếng. Tôi hỏi:
- Mầy làm gì vậy Tân ?
- Ông ....thầy!!!
- Cái gì ? Ông thầy hả?
Tân không trả lời, bước nhanh vượt qua trước, mà mặt cứ lấm lét ngó về phía sau. Anh người nhỏ con, nãy giờ cứ than mệt, đi lẹt đẹt phía sau, nhưng bây giờ lại cố chen lên phía trước. Tôi hỏi gì, Tân cứ lắc đầu, không nói năng chi hết.
Nhờ theo đường mòn, nên đi khoảng hai tiếng thì đã vượt qua khỏi rừng cây dương xỉ. Chúng tôi kiểm soát lại tọa độ điểm đứng, rồi tiếp tục đi nhanh tới phía trước; một chập sau, thì ra khỏi đám rừng, phía trước mặt là một bãi đất trống mà người ta đã ủi để khai hoang trồng trọt. Bây giờ Tân thấy đã đi rất xa chỗ hồi nãy, nên mới dám nói cho chúng tôi biết là anh đã gặp cọp. Thì ra anh không dám kêu thẳng tên cọp mà gọi là “Ông thầy”! (Cọp ở Mã Lai đâu có biết tiếng Việt?)
Nhà trường đã phát cho mỗi người 9 viên đạn thật, mục đích để đề phòng thú dữ như trường hợp nầy. Tối đó chúng tôi lượm cây khô, đốt lửa suốt đêm để phòng muỗi và cọp. Trời hừng sáng, trong khi ai nấy đang chìm đắm trong giấc ngủ say sưa vì suốt hôm qua quá mỏi mệt, bỗng tiếng động cơ nổ làm mọi người đều giật mình thức giấc. Nhìn từ hướng Bắc, có một xe “Ben” đang chạy về phía chúng tôi. Anh Hương gọi:
- Các anh mau ra chận xe lại để đi ké một đoạn.
Con đường xe sắp chạy tới là đúng hướng Đông, vì chiều hôm qua, trước lúc đi ngủ, chúng tôi đã chấm tọa độ sẵn sàng hết rồi. Mọi người đều lẹ làng cuốn gọn ba-lô chạy nhanh ra đón. Khi xe chạy được một đoạn chừng 10 cây số thì chúng tôi nói tài xế ngừng lại, vì nếu tiếp tục đi thêm vài cây số nữa thì sẽ đến đúng điểm tập trung, như vậy thì bị lộ tẩy, có thể huấn luyện viên sẽ nhìn thấy!
Chúng tôi xuống xe, lấy bản đồ định phương giác, rồi tiếp tục đi về điểm tập trung, đó là một cơ sở đồn điền cao su. Đi chừng hai tiếng đồng hồ thì bắt đầu đặt chân vô đồn điền.
Từ xa tôi thấy mấy ông huấn luyện viên, đang đứng cạnh một căn lều vải lớn. Họ đang chỉ về hướng chúng tôi; khi tới nơi, họ mừng rỡ và khen ngợi rối rít, vì toán nầy tới sớm nhất!
Thật ra nếu không nhờ có đường mòn và xe Ben thì còn kẹt trong rừng, chưa biết chừng nào mới đến đây nữa? Họ tưởng thưởng bằng cách cho xe chở thẳng về trường và chúng tôi được phép đi phố lần chót vào ngay chiều Thứ Năm đó. Vì cuối tuần sau, chúng tôi bắt đầu lên máy bay về nước, từ phi trường Singapore !
Ngày về nước, tôi có mua vài cái đồng hồ Seiko để cho bà con, và đặc biệt có mấy cây thuốc thơm để chia cho binh sĩ thuộc cấp, vì tôi không biết hút thuốc. Không hiểu trong người tôi có máu nhà binh hay sao, mà khi đi xa nhà, mặc dù mới cưới vợ, nhưng trong đầu tôi lúc nào cũng chia đều:
“Nửa phần nhớ lính, nửa phần nhớ em”.
Nàng dâu mới xinh xinh của tôi, thì lẽ đương nhiên là nhớ nhiều, nhưng các chú lính trẻ như Mai Lực, Tám Lọ, Thạch Sên, Dương Phen,...lúc nào cũng chí chóe, líu lo trông họ ngây thơ vô tội, thật là dễ thương.
Dương Phen thì cao ráo, có thân hình lực lưỡng, là xạ thủ súng cối tài giỏi, Châu Non thì khi di chuyển trước ngực mang ba lô, sau lưng mang bàn tiếp hậu súng cối 81 ly, nhưng miệng cứ lẩm bẩm cười chọc:
- Sắc Muội Nực...bol (Tiếng Khmer là: Thiếu úy nhớ vợ)!
Còn Thạch Sên là người có sức mạnh vô cùng, anh có thể một mình khiên toàn bộ khẩu súng cối, nặng gần một tạ, mà đi phom phom trong rừng núi gập gềnh, mỗi ngày khi dừng quân, ba người đều đào hố súng cối rất sâu và rộng, Sên là người có bùa Miên cao tay nhất Tiểu đoàn, có lần anh trung sĩ Thạch Sanh bị bùa hành, Sanh tự nhiên như người say rượu, chạy lên Ban chỉ huy đại đội của Trung úy Ngô Tùng Châu chửi bới la hét bậy bạ, Thạch Sên tới trấn áp, rồi ném anh ta xuống vũng nước sình, để đại đội trưởng đả nư, khỏi cần phạt tù nữa.
Tiểu đoàn có rất nhiều lính người Việt gốc Miên, họ thường rất tin bùa ngãi. Tôi thấy Thượng Sĩ Nhứt Sơn Dum, đêm nào cũng đốt nhang thờ cúng, ông ta sau nầy qua Nam Vang đeo quân hàm đại úy của xứ chùa Tháp.
Nghe nói bùa của họ rất linh nghiệm, nhưng cũng phải kiêng cữ rất nhiều, không được để bùa gần chỗ dơ, không được chui qua sào phơi áo quần, không được lấy vợ người ta, không được để đàn bà rờ đầu,.... Điều tôi được chính mắt thấy, tai nghe về sự linh nghiệm của bùa ngải nầy rất nhiều:
Châu Non sau nầy bị xe đụng chết ở Ngã Tư Bảy Hiền, nghe nói trước đó anh bị tai tiếng bê bối trong trại gia binh. Trung sĩ Sơn Dương, thuộc Đại đội 91, đã đi lính lâu năm chưa từng bị thương. Một hôm, trong cuộc hành quân ở Phù Cát thuộc tỉnh Bình Định, anh đi vệ sinh nên cổi bùa máng ở một nhánh cây. Khi anh (không còn bùa hộ mạng trong mình) vừa bước tới gò đất chừng 10 thước thì bị đạp phải mìn, nổ chết không kịp trối. Tôi đã đi hành quân, có năm bị thương tới ba lần, còn Đại tá Đặng, người Việt lai Miên, ở cạnh nhà, khi đụng trận, hai tay ông cứ quơ khăn bùa phất phất, nhào lên phía trước, mà suốt 20 năm xông pha, ông chưa từng bị thương tích lần nào. Dương Phanh có cho tôi cái nanh heo rừng, nhưng về nhà cứ bị bà xã rờ đầu hoài, nên phải đem trả lại, sợ phạm bùa giống như Thạch Sanh, thì nguy hiểm vô cùng.

Trương Dưỡng. K20
nguồn: http://www.dtruong.com/stories/MotCanhHoaDu_unicode.htm

BachMa
10-12-2017, 04:11 AM
Hồi Ký Một Cánh Hoa Dù
Trương Dưỡng - K20


Chương 3

Kể Chuyện Hành Quân (hay Buồn Vui Đời Lính)

Ba mươi năm qua, bao đổi thay, bao thống khổ chồng chất; giờ đây trên đất khách tha hương kẻ còn người mất !
Ngồi ôn cố tri tân nhớ đến bạn bè và chiến hữu thân thương, nhớ lại những trận chiến khi còn ở các đơn vị Nhảy Dù, tưởng chừng như mới hôm qua”!!!

1. Hành Quân Tân Quí


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1507780851-Chuong3A_KeChuyenHanhQuan01.jpg

Cuộc hành quân đầu tiên của Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù tân lập nầy là tổ chức đóng đồn tuần tiểu lục soát nhằm ngăn chận địch xâm nhập Thủ Đô từ chiến khu Lê minh Xuân. Tiểu đoàn phân phối các đại đội bố trí xung quanh ấp Tân Quí thuộc về hướng Tây của phi trường Tân Sơn Nhứt.
Sau khi làm đám cưới xong, tôi đưa Nhi lên Sàigòn. Đến tạm trú tại nhà Bác Sáu, má của Lê huỳnh Đức, bạn học Petrus Ký, thuộc cư xá sở chăn nuôi cạnh Ngã Tư Bảy Hiền. Bác Sáu giới thiệu cho vợ chồng tôi ở trọ tại Tân Việt chung với Bà Bảy, má của chú Hai, nhân viên làm nghề mộc tại sở thú y.
Căn nhà của Chú Hai khá rộng rãi, chỉ có bà Bảy và vợ chồng tôi ở. Giá tiền trọ là $800/tháng. Bà Bảy là người rất tử tế, khi nào đi hành quân xa, vợ tôi về quê, bà chỉ lấy giá tượng trưng mỗi tháng có $600 thôi (lúc đó lương tháng của tôi, kể cả tiền không vụ là khoản $30.000).
Vừa có chỗ ở chưa được nửa tháng, tôi đã phải theo tiểu đoàn ra đóng quân ở Tân Quí!
Làm thân trai thời loạn, không biết thế nào là tuần trăng mật!! “..Cưới nhau xong rồi đi ...”. Để những ngày hành quân xa em, chỉ còn biết hết nhớ nhung rồi nhung nhớ thôi !
Hành quân tại Tân Quí, thật ra chỉ để cho tiểu đoàn tân lập nầy làm quen với chiến trận, chứ chưa phải là cuộc thử lửa thực sự. Lúc đó Đại uý Phú đi TĐ8ND và Thiếu úy Đại thuyên chuyển qua TĐ6ND (Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù), Trung úy Ngô tùng Châu được bổ sung về coi Đại đội Chỉ huy. Tôi kiêm nhiệm luôn trung đội đại bác, tức Liên đội trưởng Vũ Khí Nặng, Trung sĩ Tình là Khẩu đội trưởng súng cối, Trung sĩ Nghị làm Khẩu đội trưởng đại bác 75 ly Không Giật.
Bắt chước Thiếu uý Vinh ở Trung tâm Vạn kiếp, tôi làm các tiêu mốc, hỏa tập cận phòng và chỉ cho trung sĩ Tình, Thạch Sên, Dương Phen, và Châu Non cách đọc bản xạ biểu, cân bằng bọt nước của súng cối, và cách coi tiêu mốc để xác định các hoả tập. Lúc rảnh rang tôi chỉ binh sĩ coi địa bàn và ôn lại các cách bắn súng cối, đại bác 75 ly, và đại liên.
Hôm đó tôi lại chỗ đóng quân của Thuận văn Chàng, thấy anh đang dạy khinh binh Quảng và Cứ coi bản đồ và địa bàn. Chàng là người gốc Chàm, lúc ở quân trường có điểm năm thứ nhứt rất cao nên được đề cử làm SV Cán bộ Tiểu Đoàn. Anh rất hiền lành nói chuyện hòa nhã, bạn bè ai cũng thương. Nhưng thật vắn số, chỉ vài tháng sau, anh bị hy sinh tại mặt trận Đồng Xuyên Mỹ Xá thuộc tỉnh Thừa Thiên, Vùng I Chiến Thuật!
Ghé qua trung đội của Lê Phát Lộc, thấy anh nấu chè đậu xanh đãi cả trung đội, nhìn mọi người ăn uống vui vẻ với nhau, tôi thấy tinh thần huynh đệ chi binh của họ thật là khắng khít.
Một hôm, khoảng hai giờ khuya, bên hướng ấp Ông Cha, nằm giáp ranh ấp Tân Quí, có nhiều tiếng súng nổ, tin tức cho biết, địch từ chiến khu Lê Minh Xuân, đang định tấn công khuấy phá nhà thờ. Họ gọi nhờ đơn vị chúng tôi để xin yểm trợ, tiểu đoàn bảo bắn súng cối 81 ly về hướng Tây của nhà thờ, tôi cho bắn thử vài quả trước coi họ phản ứng ra sao? Thật sự tôi không tin vào tài bắn súng cối của mình và của khẩu đội mấy, vì đây là lần đầu tiên bắn đạn nổ.
May quá! Nhà thờ bảo như vậy rất hiệu quả, và xin bắn tiếp. Tôi cho tác xạ thêm 50 quả đạn nổ, rồi bắn kéo dài xa về hướng Tây để truy sát địch. Sau cùng bên Ấp Ông Cha xin soi sáng xung quanh nhà thờ để quan sát coi mấy anh du kích có còn muốn xâm phạm nhà thờ nữa không? Sáng sớm hôm sau, tiểu đoàn cho một đại đội bung ra lục soát, thấy có nhiều dấu vết địch để rơi rớt lại như nón cối và vỏ đạn loại súng AK-47 và súng trường CKC.

2. Mặt Trận Thung Lũng Iadrang


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1507780867-Chuong3A_KeChuyenHanhQuan02.jpg

Từ Tân Quí về hậu cứ, tiểu đoàn được nghỉ dưỡng quân 3 tuần để chuẩn bị cho cuộc hành quân xa tại Vùng II Chiến Thuật. Cặp vợ chồng son lại được tái ngộ, Chúng tôi rất vui mừng, ngày đêm khắng khít bên nhau như không muốn rời xa nửa bước.
Mỗi đêm tôi chở Nhi ra bến tàu hứng gió, vừa nhìn những tàu chiến khổng lồ vừa ăn phá lấu hoặc mía ghim hấp cũng rất thú vị. Thỉnh thoảng tôi đưa nàng đi ăn bò bía ở Công viên Duy Tân, ăn mì vịt tiềm ở La kai, hoặc vô nhà bà chị họ để được anh Sây nấu mấy món ăn Tàu rất ngon.
Những ngày ở Sàigon, Nhi rất muốn được đến đây chơi với người chị nầy. Nhờ vậy việc nhớ nhà cũng được giảm bớt phần nào .
Nhưng thời gian đoàn tụ thật ngắn ngủi, một tháng trôi qua thật nhanh, tôi lại phải cùng tiểu đoàn ra Pleiku để tham dự cuộc hành quân tại thung lũng Iadrang.
Theo tin tức thì một trung đoàn lính Hoa Kỳ đã bị phục kích và tổn thất nặng tại thung lũng xa xăm, núi rừng chằng chịt trong miền biên cảnh của tỉnh Pleiku nầy (phim We Are The Solders nói về trận nầy).
Iadrang là khu rừng rậm hiểm trở, phía Bắc giáp Đức Cơ, phía Nam là rặng Chu Prong, hướng Đông là QL 14, hướng Tây là biên giới Việt Miên. Quân chánh qui Bắc Việt thường xâm nhập theo đường mòn Hồ chí Minh, rồi dấu quân lập chiến khu tại đây, để chỉ đạo các đội quân phá rối Vùng II Chiến thuật. Vì vậy muốn cho dân chúng trong khu vực nầy được sống yên ổn, Quân đoàn đã xin Bộ Tổng Tham Mưu tăng phái một chiến đoàn Dù để chống cự lại đám quân chủ lực của Cộng Sản miền Bắc tại mặt trận mà đã từng gây nhiều tổn thất cho quân đội bạn. Trung tá Nguyễn Khoa Nam, Chiến đoàn trưởng, chỉ huy trực tiếp cuộc hành quân nầy .
TD9ND được máy bay chở ra phi trường Pleiku, rồi từ đó xe vận tải đưa đến Biển Hồ, để chờ đợi tiếp tế lương thực và kiểm điểm vũ khí, đạn dược. Trong ba ngày, bốn tiểu đoàn đã trang bị hoàn tất, họ báo cáo sẵn sàng đợi lịnh xuất phát. Tại Trung Tâm Hành Quân Chiến đoàn, Trung tá Nguyễn Khoa Nam họp ban tham mưu thảo kế hoạch tiến quân. Ông đã khoanh tròn định rõ các mục tiêu, và phân chia ranh giới khu vực hành quân trong thung lũng Iadrang cho từng tiểu đoàn.
Chúng tôi đổ bộ bằng trực thăng vận xuống một bãi trống trong vùng hành quân. Tiểu đoàn chia quân hai cánh, Đại uý Trương Vĩnh Phước chỉ huy hai Đại đội 91 và 92 tấn công mục tiêu bên cánh trái. Tiểu đoàn trưởng đích thân chỉ huy cánh bên phải.
Đại đội 94 đi đầu, tiếp theo là Đại đội 90, bọc hậu có Đại đội 93, tiến chiếm mục tiêu đã chỉ định.
Thiếu tá Huệ ra lệnh Đại đội 94 phải dàn mỏng và đi theo đội hình chân vạc từ từ tiến vào mục tiêu là thung lũng rậm rạp trước mặt, để nếu chạm địch thì Đại uý Phước từ trên sườn núi sẽ đổ quân đánh bọc xuống.
Cánh Thiếu tá Huệ đi khoảng một cây số thì gặp vài tổ kháng cự nhỏ, ĐĐT/ ĐĐ 94 cho lệnh dàn hàng ngang bố trí tại chỗ. Ông điều chỉnh pháo binh bắn vào các ổ địch. Sau khi pháo binh ngưng tác xạ, Trung đội trưởng Trung đội 1 cho binh sĩ đồng loạt bắn xả vào. Rồi 3 khinh binh chạy theo đội hình chân vạc, người nầy bắn yểm trợ cho người kia, chiếm từng gốc cây, và vào tới bờ rừng làm đầu cầu cho cả trung đội tiến vô. Sau đó, Trung đội 1 lại bắn yểm trợ cho Trung đội 2 xung phong chiếm ổ chốt địch kế tiếp. Những chốt nhỏ nầy lần lượt bị tiêu diệt dễ dàng bởi tài điều khiển linh động của các trung đội thiện chiến Dù.
Trong khi đó, bên Đại uý Phước gặp sự kháng cự mạnh mẽ, có lẽ là đài quan sát hay tiền đồn, địch dựa lợi thế từ trên cao, đã bắn một cách dữ dội vào cánh quân trên sườn đồi. Thấy đơn vị mình đang ở trong vị thế hơi bất lợi, Đại úy Phước ra lệnh dàn quân phân tán mỏng, rồi điều chỉnh pháo binh bắn vào ổ địch. Sau khi đạn pháo chấm dứt, ông nói Cố vấn Mỹ xin khu trục và gunship yểm trợ.
Một chập sau thì ba phi tuần gunship được điều động tới nã các đại liên và phi đạn phóng lựu vào mục tiêu. Tiếp theo, 3 chiếc khu trục bay tới bồi thêm những loạt bom nổ và bom napal, khiến địch không thể bắn vào toán quân của Đại uý Phước nữa .
Trong khi đó Đại uý Phước đã cho một đại đội lén bọc lên đỉnh cao, chờ khi chấm dứt phi pháo thì nhào xuống tấn công vào ổ chốt địch. Trung úy Trang, Đại đội trưởng 91 cho đơn vị dàn sẵn, khi khu trục vừa ngưng oanh tạc, anh lập tức ra lệnh tấn công. Toàn bộ đại đội vừa bắn vừa hô xung phong tiến nhanh vào ổ chốt địch. Khi chiếm được mục tiêu, có vài binh sĩ bị thương vì sự chống trả yếu ớt tự vệ của những cán binh ngoan cố đã bị thương kẹt lại, còn phần đông thì đã trốn vì không chịu nổi phi pháo, đã nổ tới tấp vào vị trí của họ.
Sau khi thu dọn chiến trường, đại đội tịch thu được một thượng liên, nhiều súng cá nhân, và bắt sống được 3 tù binh. Tiểu đoàn tiếp tục lên đường tấn chiếm các mục tiêu kế tiếp.
Ngày hôm sau, các tiểu đoàn bạn chạm địch mạnh, chúng tôi được lệnh dừng quân tại chỗ, sẵn sàng tiếp ứng. Đến chiều thì tiếng súng đã ngưng, có lẽ địch thấy các đơn vị Dù quá kiên cường, không thể làm cho chúng tôi bị sa lầy như đơn vị Đồng Minh, nên họ rút êm ra khỏi thung lũng. Vì thế suốt một tuần lễ cả chiến đoàn đều không còn chạm địch.
Mặc dù ngày nào cũng lội trong khu vực rừng rậm âm u, lau sậy cao ngập đầu. Mỗi sáng phải ăn uống nấu nướng xong trước 7 giờ để chuẩn bị sẵn sàng đợi lịnh xuất phát. Các khinh binh dùng dao rừng, dẹp đường cho đơn vị phía sau có lối đi. Việc phá rừng vượt núi nhiều lúc rất gian nan, nhất là mỗi khi gặp rừng lao sậy, ô rô, hay dương xỉ, những khinh binh dẫn đầu đoàn quân phải chịu vất vả vô cùng! Nếu không chạm địch, thì cứ tiếp tục dùng bản đồ, địa bàn, xác định mục tiêu rồi đi mãi cho tới 6 giờ chiều mới dừng quân. Rồi kẻ thì lo kiếm nước nấu cơm, người thì lo đào hầm hố, căng mìn bẫy, đặt lính gác giặc. Còn các “Đề Lô” thì lo điều chỉnh các quả tập cận phòng, lỡ khi địch giữa đêm tấn công bất ngờ, thì pháo đội yểm trợ chỉ dựa vào các hoả tập đó mà tác xạ.
Suốt 7 ngày đi trong rừng rậm, đầy lau sậy cao ngập lút đầu, ít khi thấy được ánh sáng mặt trời, đến nỗi binh nhì Võ Lục phát điên nói tục tỉu bậy bạ :
- Đi cả tuần mà không thấy “L. đ.” của đàn bà.
Ai nấy nghe anh vi von đều cười ngất. Ở đây không có giếng, nên khi đi ngang suối, mọi người đều lo lấy nước đựng đầy bình bi đông và phải dự trữ để buổi chiều khi dừng quân sẽ có nước nấu cơm. Tôi thì lúc nào cũng uống thuốc ngừa sốt rét và nước đun sôi.
Nước ở đây không tốt, có người bảo tại rừng thiêng nước độc, có người bảo tại lính Mỹ giận thua trận nên bỏ vi trùng sốt rét vào nguồn nước. Vì sau khi các tiểu đoàn Dù rút ra ngoài, thì có gần 50% chiến sĩ bị sốt rét rừng, một số người bị chết vì trúng nước quá nặng. Trung sĩ nhứt Cao Ngâm của đại đội chỉ huy đã bị chết vì bịnh nầy. Chàng, Bảo, Lộc, Thành “Râu”..cũng mắc bịnh sốt rét rừng, và bị hậu hoạn sanh biến chứng nhiều năm!
Sau 7 ngày hành quân trong rừng, lương thực dự trữ đã cạn, chúng tôi được lịnh đi ra quận Lệ Thanh để nhận tái tiếp tế. Còn hơn 10 cây số mới tới quận lỵ, nhưng binh sĩ thì đã nhịn đói suốt đêm, nên đi một cách uể oải. Trên đoạn đường dài lê thê, mà đôi vai thì súng đạn ba lô nặng chĩu.
Thỉnh thoảng có anh nổi chứng, đưa súng lên trời, bóp cò bắn loạn xà ngầu. Họ đâu có hiểu tại vì rừng núi chằng chịt làm chậm bước tiến như đã tiên liệu, cho nên việc tiếp tế phải bị trễ nải. Lúc ấy thật là vô kỷ luật, hỗn quan, hỗn quân, không ai dám la rầy binh sĩ hết.
Tôi cũng đang bị đói meo, tinh thần hết sức mệt mỏi. Bỗng anh đệ tử đem đến cho một trái bắp còn nhỏ, trong đó chỉ le que vài hột non xèo. Vậy mà mừng như lượm được vàng, cầm trái bắp từ từ thưởng thức, tôi ăn từ cùi bắp, râu bắp, và luôn cả vỏ bắp, thật là ngọt tuyệt. Các thứ lần lượt trôi vào bao tử, làm giảm bớt cuộc biểu tình của cái dạ dầy, vì nó cứ sôi lình bình, làm suốt đêm không ngủ được! Nếu lúc đó có luôn cây bắp, chắc tôi cũng làm sạch. Đây là lần đầu tiên trong đời bị nếm mùi đói, may mà chỉ có một ngày, một đêm. Tới chiều mọi người đều được tiếp tế đầy đủ.
Ngay tối hôm đó, tôi nhận được công điện về Sàigòn để chuẩn bị đi học Mã Lai. Lúc đang ở phi trường Pleiku chờ phi cơ dân sự về Sàigòn, tôi rất hồi hộp vì tối hôm qua đã phát hiện có rất nhiều người bị bịnh sốt rét rừng. Tôi vừa từ trong đó ra, chẳng biết có sao không nữa? Sợ khi khám sức khỏe, nếu phát hiện có vi trùng sốt rét sẽ bị loại!
Về tới Sàigòn, tôi vội đi khám sức khoẻ, thấy mọi thứ đều tốt, nên rất mừng. Có lẽ tôi nhờ vào nước đã đun sôi và đã uống thuốc ký ninh đều đặn. Tôi yên chí đi chích ngừa, vào ngân khố lãnh Traveler Check, xong mọi thủ tục như giấy thông hành, đo may quân phục dạo phố mùa hè.
Rồi thì cứ tà tà chở bà xã đi đó đây, chờ đến ngày lên đường xuất ngoại. Tội nghiệp các bạn Tiểu đoàn 9 Dù, nhiều người đã bị sốt rét, mà vẫn phải ở lại Vùng II dưỡng bệnh, chỉ có những người nặng mới được đưa về bệnh xá Đỗ Vinh trong trại Hoàng Hoa Thám.
Quân nhân khoẻ mạnh thì vẫn tiếp tục được trực thăng vận, vô rừng Pleime để tìm và tiêu diệt địch. Chờ trên hai tháng mới được về Sàigòn nghỉ quân và tham dự diễn hành ngày Quốc Khánh.

3. Hành Quân Vùng Phù Cát, Sa Huỳnh


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1507780887-Chuong3A_KeChuyenHanhQuan03.jpg

Học Mã Lại về nghỉ được 4 ngày phép để chuẩn bị theo tiểu đoàn đi hành quân ở Phù Cát, Bình Định. Lợi dụng dịp nầy, tôi chở Nhi đi chơi khắp phố. Tôi đưa nàng tới Tân Định để thăm người anh, rồi vô Chợ Lớn, nhà Chế Ký, là chị họ của bà xã. Sáng đi ăn phở Tàu Bay, chiều vô Chợ Cũ ăn cháo cá, thỉnh thoảng ra bến tàu hứng mát.
Bốn ngày phép trôi qua rất nhanh, cặp vợ chồng son đành phải đau lòng, đứt ruột chia tay, để mai đây mỗi người đi một ngã. Tôi thì theo tiểu đoàn viễn chinh tận Vùng II Chiến Thuật, còn Nhi thì về Vĩnh Bình để đỡ phần lẻ loi hiu quạnh. Ôi chiến tranh thật là buồn nản, tôi vừa cưới vợ mới vài tháng, hương chưa ấm lửa chưa nồng, mà đã phải lao đầu vào lằn tên mũi đạn, suốt ngày cứ bôn ba trong rừng thiên nước độc, coi sống chết nhẹ tựa lông hồng.
Tiểu Đoàn 9 Dù được máy bay C-130 chở tới phi trường Qui Nhơn, từ đó xe vận tải GMC đưa chúng tôi đến cầu Bà Gi để đóng quân tạm nghỉ đêm. Trong ba ngày ở tại đây, mọi người lo trang bị đầy đủ lương thực đạn dược, để chuẩn bị cho ngày lên đường vào vùng hành quân.
Theo tin tức, khu vực sắp đến là vùng xôi đậu, nơi đây Mặt trận Du Kích Chín Xã đã thao túng hoành hành, trong suốt mấy năm trường, và những ngày vừa qua, có sự xuất hiện của bộ đội chính qui. Khiến Quân đoàn II phải gởi điện khẩn, xin tăng cường đơn vị Tổng Trừ Bị để tảo thanh quân địch.
Ngày 12 tháng 11 năm 1966, năm giờ sáng Tiểu Đoàn 9 được xe GMC chở về ngã Bồng Sơn, qua quận Phù Mỹ, đèo Nhông, đèo Phù Củ ; gần xế trưa xuống xe dàn đội hình băng qua QL1, Tiểu đoàn bắt đầu tiến quân về phía Đông, bên trái có núi Chóp Chài, sườn phải có TĐ6ND và Thiết Vận Xa .
Chúng tôi dừng quân tại làng Bình Dương Đông để đợi tiếp tế 7 ngày lương, chuẩn bị tiến vào vùng hành quân. Tại đây có cô Năm thợ may tánh tình vui vẻ, đã sửa quần áo cho một số binh sĩ. Chợ búa toàn rau cải và củ kiệu tươi, giá cả rất rẻ; binh sĩ mua sắm để đem vào vùng hành quân. Sáng sớm chúng tôi đi lục soát ngôi làng bên cạnh, ngày hôm sau trở về Bình Dương Đông thì hay tin cô Năm thợ may bị Việt Cộng tối về bắt ra chặt đầu xử tử! Với bản án thông đồng với ngụy!?? Tiểu đoàn trưởng nổi giận hỏi sao tụi CS máu lạnh lại có thể nhẫn tâm giết hại dân lành một cách dã man như vậy? Ông cho lệnh an ninh điều tra ai đã chỉ điểm và quyết tâm tiêu diệt toàn bộ đám du kích hèn mạt, chuyên hãm hại những người dân vô tội bằng những ngụy biện chủ thuyết ngoại lai đáng ghét!
Hai ngày sau, chúng tôi xuất phát từ thôn Dương Liễu, thuộc huyện Phù Cát. Dùng cách giống như lùa tôm xúc tép (Tấn công bao vây), Tiểu đoàn cho hai đại đội tiến thẳng vào Đầm Trà Ổ, cạnh bờ biển, để lục soát dọc theo bờ biển từ Vạn Phú qua nhà thờ Chánh Khoan; rồi dàn quân làm tuyến ngăn chận.
Tiểu đoàn trừ chia quân hai ngã, tiến thẳng vào mục tiêu là ngọn Núi Lồi. Các đại đội tiến quân thần tốc, khiến du kích Mặt Trận Chín Xã rối loạn, không kịp trở tay, một phần bị bắt, một phần chém vè chạy ra biển rồi bị túm gọn bởi các đơn vị ở Đầm Trà Ổ.
Khi đi ngang qua thôn Dương Liễu thuộc quận Phù Cát, tôi thấy trong một ngôi nhà tranh, có một thiếu nữ đẹp tuyệt vời: mắt phượng, mày ngài, mũi dọc dừa; tóc cô để dài che phủ đôi bờ vai thon, da trắng bóc, như là đã được tắm bằng nước dừa xiêm hằng ngày (vì thôn nầy trồng dừa nhiều như ở Bến Tre); cô đẹp y như tiên giáng trần. Với cảnh hoang tàn trong thôn xóm vắng vẻ, chung quanh đều âm u tâm tối, khiến tôi liên tưởng tới những hồ ly ngàn năm hóa thân trong truyện Liêu Trai của Bồ Tùng Linh.
Thiếu tá Huệ, Tiểu đoàn trưởng, đã gần bốn mươi mà vẫn còn độc thân, lúc đi ngang qua, cũng đứng ngó ngẩn người một hồi lâu, có lẽ ông đã xúc động trước sắc đẹp dị thường đó. Rồi sợ binh sĩ có người không tự chủ làm bậy hoặc vào nói la cà làm liên lụy như trường nhợp cô Năm thợ may. Ông hạ lệnh các đơn vị trưởng phải đích thân coi chừng bảo vệ cho người trong nhà đó. Đêm ấy, ai cũng mơ tưởng đến nàng tiên giáng trần nầy. Nếu suy nghĩ kỹ lại cũng nên thắc mắc, tại sao trong vùng xôi đậu, dân cư ly tán hết, mà chỉ có một mình cô ta ở lại đây? Tại sao lại ngồi khơi khơi ở trên tấm phản mà không núp vô buồng? Có thể nào cô nàng đã lấy dung nhan mỹ miều để che chở cho một cán bộ gộc (có thể là cấp bộ chính trị trung ương), hay chính cô là nữ hộ lý loại chuyên phục vụ cho cán bộ Cộng Sản cao cấp? Đối với một người hiền từ như Thiếu tá Huệ, ông cho rằng thà tha lầm còn hơn là bắt lầm, nhất là người đẹp, càng phải “Ga lăng”, nhẹ nhàng hơn.
Các dân làng ở dưới chân Núi Lồi đã di tản đi gần hết, chỉ còn lại những người già cả yếu đuối, nhiều người ở đây bị một chứng bịnh kỳ lạ, giống như dịch hạch, có từng chùm mụt nổi ở cổ và háng. Ai nấy đều sợ truyền nhiễm trong các giếng nước, nên phải đun sôi kỹ lưỡng và đôi khi dùng nước dừa để giải lao. Tiểu đoàn trưởng bảo bác sĩ và y tá cố gắng cứu chữa cho những người dân đau khổ nầy!
Một hôm nọ, binh nhì Huy, thuộc khẩu đội đại bác 75 ly, đang đào hố nhỏ ở gần bờ biển để đi đồng. Bỗng có một cậu bé tuổi chừng 15, đang lấp ló nhìn trộm trong một cái chòi nhỏ, Huy tay cầm sẻng, vai mang súng chạy tới hỏi :
- Em nhỏ làm gì mà núp ló ở đây ?
- Em đói quá, mấy ngày không có gì trong bụng, anh cho em xin chút cơm ăn đi !
Huy thấy em mặc áo quần rách rưới, tay chân run rẩy, mặt mày xanh lét, anh tội nghiệp, nhưng trong nồi chỉ còn toàn cơm cháy khét. Huy thấy chú bé ăn ngấu nghiến, không bỏ sót một hột cơm cháy nào hết.
Ăn xong, cậu bé vừa liếm những hạt cơm còn dính trên mấy ngón tay, vừa nói:
- Anh muốn bắt mấy ông du kích không, em chỉ cho?
Mặt Huy sáng lên:
- Thiệt hả ? Để anh dẫn em đi gặp Thiếu uý.
Huy vội đưa em bé đến gặp tôi và nói:
- Thiếu uý, em bé nầy nói sẽ đưa mình đi bắt du kích nằm vùng.
- Đúng không? Sao nó chịu chỉ cho mình vậy ?
- Tại nó đói quá, em đã cho ăn một chén cơm cháy.
Tôi thấy em có vẻ còn đói, nên bảo binh sĩ lấy cơm thêm cho em. Trong khi ăn, tôi hỏi tại sao em đang ở trong vùng nầy mà sao dám chỉ chỗ trú ẩn của họ?
- Nẫu (chúng nó) bắt ba em, lấy búa đập đầu đến chết, em chạy trốn ngoài đồng, bữa đói bữa no, không dám về nhà.
Thì ra vì gia đình em là điền chủ giàu có trong làng, ba em bị đấu tố, và do chính tay tên Chủ tịch Mặt Trận Chín Xã đứng ra tuyên án. Tiểu đoàn trưởng được tin, vội ra lệnh cho Đại đội 92 dẫn ban An ninh đi lùng bắt được tên Chủ tịch và một số du kích địa phương. Điều hú vía là có một tên du kích đã trốn trong hang đá trên đỉnh Núi Lồi, chính nơi đây đêm qua đã đặt Ban chỉ huy Đại đội. Tôi và tổ súng cối đã nằm ngay trên hang đó. Rất may là lúc nào tôi cũng cảnh giác, luôn luôn phân phối người trực gác khẩu súng cối, nên tên du kích không thể hó hé chui ra làm bậy.
Được tin nầy, Trung tá Đào Văn Hùng, Chiến đoàn trưởng, bảo trực thăng chở tên Chủ tịch Mặt trận Chín Xã về Bộ chỉ huy Chiến đoàn. Nhưng giữa đường, hắn ta nhào ra khỏi máy bay tự vận. Trung tá Hùng đem em bé về Sàigòn nhận làm con nuôi, sau nầy em đi lính Dù và là hạ sĩ nhứt trong Biệt Đội Tác Chiến Điện Tử của tôi.
Trung tá Hùng là một sĩ quan nổi tiếng trong Binh chủng Nhảy Dù, ông ta đã từng tham dự các mặt trận Cao Bằng, Điện Biên Phủ,..ở ngoài Bắc; và rất nhiều trận ác chiến ở khắp 4 Vùng Chiến Thuật. Trong khi ai cũng khiếp oai tướng Đống, chỉ có Trung tá Hùng là dám chọc phá ông thôi.
Có lần khi Tướng Đống đang ở trong lều, Trung tá Hùng dám ném lựu đạn khói vô và hô to:
- Sao tối hù, không thấy ai hết vậy ?
Vì tướng Đống nước da hơi đen ngâm, nên ông mới chọc. Nhưng Tướng Đống rất thưởng thức tài đánh giặc (và ba trợn) của ông, nên cũng thương tình bỏ qua!
Trong một cuộc hành quân cấp chiến đoàn, Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù, cùng 2 tiểu đoàn Dù khác, đang hoạt động trong vùng đồi núi mù mịt của dãy Trường sơn. Một buổi tối nọ, các đơn vị đang dừng quân trên các đỉnh đồi cheo leo. Trong khi mọi người đang chập chờn giấc ngủ, vì cả ngày vượt rừng băng núi và chạm địch lẻ tẻ, bỗng ai nấy đều giật mình tỉnh giấc vì tiếng la hét vang rền của ông:
- Tiên sư tụi bây, cứ trốn chui lén lút như con chuột. Các con có giỏi thì hãy ra mặt đánh với các bố nè!
Tiếng nói của ông phát ra, bị các ngọn núi xung quanh làm dội ngược lại, gây nên những luồng âm thanh vang truyền khắp nơi. Nguyên nhân là vì buổi chiều, khi ông được tiếp tế 2 chai rượu Martell, liền ra lệnh dừng quân. Ông ngồi nhâm nhi một hơi hết luôn hai chai, rồi đứng lên chửi bới lung tung. Làm chúng tôi, đang đóng ngoài tiền đồn, sợ địch biết rõ vị trí, pháo kích hoặc tấn công bất ngờ! Chiến thuật kiểu nầy của ông thật là táo bạo, có thể gây tổn thiệt cho thuộc cấp.
Nhưng có lẽ ông biết cả ruột gan của địch, nên đã chiến thắng rất nhiều. Chẳng hạn như trận Mậu Thân Đợt II ở vùng Ven Đô, ông cho lệnh Tiểu Đoàn 7 Dù, dàn hàng ngang lục soát từ Đông qua Tây toàn bộ khu vườn trầu và đồng ruộng mênh mông vùng Nhị Bình, Tân Thới Hiệp; khiến địch thấy lực lượng hùng hậu đi qua thì lo chém vè, dấu mình trong các hầm ngầm hoặc ngậm ống sậy lặn dưới nước. Khi Tiểu đoàn 7 đi qua hết thì họ trồi ra. Nhưng ông đã cho Tiểu Đoàn 2 lục soát ngay từ Nam lên Bắc, Tiểu đoàn 7 đi ngược lại Từ hướng Tây trở lại hướng Đông (kiểu hồi mã thương). Cứ thế cày qua cày lại, mỗi lần bắt được gần chục tên, tới chiều thì hầu như tiểu đoàn chính qui địch hoàn toàn tan rã. Tôi nghe ông vừa nghiến răng vừa nói trong máy:
- Ông nhai, ông nghiền, ông cày nát chúng mầy ra!
Càn quét trong Đầm Trà Ổ hơn một tuần, tiểu đoàn được trực thăng vận qua quận Hoài Nhơn. Ở đây cũng chạm địch lẻ tẻ, nhưng phải băng rừng vượt núi thật là vất vả! Đứng ngọn núi bên đây, tôi vẫn nghe rõ tiếng Đại đội trưởng Nguyễn Đình Bảo đang thúc hối binh sĩ Đại đội 93 từ ngọn núi bên kia:
- Các cậu bảo họ leo nhanh lên, trời sắp tối rồi !
Tối hôm đó bộ chỉ huy tiểu đoàn và một đại đội đóng quân trên một sườn đồi thoai thoải. Còn 3 đại đội khác chiếm các đỉnh xung quanh làm thế ỷ giốc để yểm trợ cho nhau.
Sáng ra Đại uý Phước, Tiểu đoàn phó, vừa chữa bệnh gan từ Sàigòn ra bổ sung đơn vị, mặt ông vàng như nghệ, môi đen thâm, nhưng người ông rất hiền từ, các sĩ quan tiểu đoàn đều mến thương. Mấy hôm liên tiếp tôi thấy anh Bao, phục dịch của ông, đang đi kiếm mót rau rừng chẳng hạn như lá tàu bay, rau má,..cho thầy mình. Sẵn có dư một ít măng non và lá tàu bay, tôi bảo anh Bao đem nấu cho đại úy ăn và căn dặn đừng nói ông biết để tránh tiếng nầy nọ. Đối với thượng cấp, tôi luôn luôn tôn trọng, nhưng không thích nịnh bợ.
Khi tiểu đoàn đóng quân tại một xóm nhỏ gần chân núi huyện Hoài Nhơn. Một buổi chiều nọ, tôi nghe tin một binh sĩ đang bị Trung úy Thành, sĩ quan An Ninh, phạt đánh đòn. Chưa biết lý do gì, nhưng vì nóng ruột lính mình bị người ta đánh, nên tôi tức tốc chạy tới lều của Thiếu tá Huệ phản đối:
- Thưa Thiếu tá tại sao Trung úy Thành đánh lính của tôi?
Ông ta cười hô hố, bước ra khỏi võng và kéo tay tôi vừa dẫn tới chỗ Ban An Ninh vừa nói:
- Dưỡng đi lại đây coi đàn anh dạy lính,
Thành thuộc Khóa 19 ĐL, người xứ Huế, được Thiếu tá Huệ cưng và tín nhiệm nhứt Tiểu đoàn, vì anh ăn nói đàng hoàng, tư cách chững chạc, thường hay bàn chuyện về binh pháp, hành quân tác chiến một cách mạch lạc nên được vị Tiểu đoàn trưởng thương, và đã cho đi học khoá Mã Lai đầu tiên trong tiểu đoàn tân lập nầy.
Thì ra Dũng bị đòn do tội xâm phạm tài sản của dân chúng, nên tôi cứng miệng vì tội lỗi quá đành rành. Thiếu tá Huệ thấy tôi dung túng và dễ dãi với binh sĩ thuộc cấp quá, nên đưa cây roi bảo tập đánh đòn họ, ông nói: “Lính Nhảy Dù thường xuất thân từ những tay anh chị, họ dũng cảm thiện chiến, không sợ tù tội, nhưng chỉ sợ bị hổ ngươi mắc cỡ vì bị phạt đòn”! (giống như em bé ngây thơ chơn chất!).
Quả thật vậy, sau nầy ở Đại đội 92, đơn vị đang đóng quân trong khuôn viên chùa Từ Đàm, gần dốc Nam Giao, dưới chân núi Ngự Bình ở Huế. Binh nhứt Cứ là một khinh binh xuất sắc của tôi, nhưng phải tội ưa trốn ra phố, dọa phạt tù nhiều lần mà cậu ta cũng không sợ. Sau cùng tôi bắt anh đứng vịn gốc cây, chổng mông cho tôi cầm roi đánh đòn giữa ngoài sân nhà của dân chúng. Anh nói:
- Vô nhà hãy đánh Trung uý ơi, ở đây mắc cỡ lắm!
- Anh chỉ mắc cỡ chứ đâu sợ tù, vậy có còn trốn đi phố nữa không?
Cứ lắc đầu, tôi quất anh 5 roi, lẽ dĩ nhiên chỉ dơ cao rồi đánh khẽ. Anh là khinh binh gan lỳ, xuất sắc nhất, được nhiều huy chương và thăng cấp rất nhanh vì lập rất nhiều thành tích. Quả thật sau nầy Cứ chỉ đi phố khi có phép thôi.
Nhiều lần tôi xin ra trung đội tác chiến, nhưng Thiếu tá Huệ bảo mới ra trường còn hăng máu, chưa kinh nghiệm, chờ một thời gian nữa sẽ tính. Tôi với ông không bà con thân thuộc, nhưng đã được quan tâm giúp đỡ nhiều phen. Có lần đang ngồi nói chuyện với anh Thành, bỗng thấy ông sắp đi đến, tôi vội chuồn êm, vì sợ mang tiếng nịnh bợ thượng cấp. Chắc ông nghĩ tôi là người ngay thẳng thật thà không biết nịnh bợ, nên cứ giữ ở lại Đại đội Chỉ Huy và đề nghị cho đi học Mã Lai (sau Thành một khoá) tới hai lần (vì sợ bị lọt sổ). Mãi tới gần một năm sau, khi ông vừa nằm xuống trong một trận đụng độ ác liệt ở vùng Phi Quân Sự, gần cầu Hiền Lương, tôi mới chuyển về Đại đội 92. Tôi lúc nào cũng tưởng nhớ ơn tri ngộ của ông, đã hết lòng nâng đỡ, ngay từ những ngày đầu trong quân ngũ.
Hơn một tháng rưởi, tiểu đoàn đã dẫm nát hết khu rừng núi sình lầy của Đầm Trà Ổ, Núi Lồi, và mật khu Hoài Nhơn. Quân Đoàn II lại cho chúng tôi đổ bộ trực thăng vận xuống vùng nhiều VC ở Sa Huỳnh thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Địch tại đây thật gan lỳ và hung hăng, chúng tôi chưa kịp nhảy xuống đất là đã bị họ bắn trả xối xả vào các trực thăng chở quân.
Dùng chiến thuật thần tốc, các chiến sĩ Dù vừa nhảy xuống đất đã vội dàn quân vừa bắn vừa la “Xung phong” vang rền cả chiến địa. Vì hỏa lực và sức chiến đấu quá dũng mãnh của các Đại đội Dù, nên địch thấy chống cự không lại, xúm nhau cong lưng chém vè (tháo chạy). Bỏ lại các Cán bộ Chỉ Huy trong hầm Trung Tâm Hành Quân của họ.
Hầm nầy rất lớn, bề ngang 3 thước, bề dài độ 6 thước. Các binh sĩ bao vây xung quanh, kêu gọi đầu hàng. Nhưng họ ngoan cố mở lựu đạn tự tử (Cán bộ cao cấp Cộng Sản ở khu Bình Định, Qui Nhơn đã bị nhồi sọ quá nhiều nên rất cứng đầu). Khi lục soát dưới hầm thì thấy có xác cố vấn Trung Cộng và tên Huyện ủy vùng Bồng Sơn, Tam Quan, cùng nhiều tài liệu chứng tỏ họ là những Cán bộ Chính trị Cao cấp. Chiều hôm đó, sau khi thu dọn chiến trường, toàn bộ tiểu đoàn đóng quân ngay trong làng sôi đậu nầy.
Trong nhà tôi ở, binh sĩ tìm thấy dưới cái lu nước đầy, có một hầm bí mật, trong đó, anh chủ nhà đang ẩn núp. Binh sĩ định bắt hắn, nhưng bà vợ mang bụng bầu vừa khóc vừa van xin nói thấy lính sợ quá nên mới trốn. Tôi vừa nhận được tin bà xã đã có bầu. Có lẽ vì đồng cảnh tương lân, và anh nầy cũng không có súng ống gì làm bằng chứng là du kích, nên tôi cũng bắt chước thiếu tá Huệ là tha lầm hơn bắt lầm. Các binh sĩ thấy bà vợ xanh xao bụng mang dạ chửa nên bảo anh chồng đón xe ra tỉnh ở, đợi cuộc hành quân chấm dứt hãy về cày cấy nuôi vợ con đừng nghe lời đường mật của tụi Tàu Cộng. Sau một tuần hành quân lục soát trong vùng Sa Huỳnh, Quảng Ngãi, chúng tôi được xe đưa về Tam Quan. Trong khi chờ đợi máy bay vận tải tới phi trường Đệ Đức để chở về Sàigòn.
Lúc đó trung úy Phan Nhật Nam từ đại đội tác chiến, chuyển qua làm quyền Đại đội trưởng Đại đội 90. Anh Nam là người rất vui tánh, thích nói tếu với giọng oang oang khiến mọi người đều cười bể bụng, làm quên hết nỗi vất vả trong mấy tháng hành quân. Nghe nói anh vừa bị thương nặng ở trận Bình Giả, nên phải thay mấy thước ruột non bằng nilon, do đó các bạn bè thường gọi là “Nam Nilon”. Anh Nam có tài ăn nói, hùng biện chinh phục được người nghe, từ ngày anh về, các sĩ quan trong tiểu đoàn rất là vui vẻ, và thường tổ chức những buổi nhậu dã chiến để nghe anh kể chuyện.
Tôi không thích hút thuốc, có lần dừng quân tại một làng, gần chân cầu An Lỗ, anh Lê Văn Mễ gọi sĩ quan các đại đội tới nhậu, sau khi mọi người đều gần ngây ngất, thì anh Mễ bắt đầu ngâm thơ bài “Mòn Mỏi”, rượu vào làm hồn thơ trong lòng trổi dậy, khiến anh ngâm một cách say mê đến đổ lệ. Anh đã xúc động vì ý thơ, mà cũng có thể xúc động vì quá mòn mỏi trong chờ ngày thanh bình, để mọi người trai trẻ như chúng tôi khỏi phải sống cảnh trôi nổi lênh đênh đây đó. Xa vợ, xa con, xa người thân, quyến thuộc, xa bạn bè và nhất là xa Thành phố thân yêu với những ánh đèn màu rực rỡ. Nơi đó có “Đêm Màu Hồng” với tiếng hát cao vút của Thái Thanh, nhà hàng Bồng Lai có ban tam ca Thanh Phong, Duy Mỹ, Phương Đại. Hoặc ở đường Trần Hưng Đạo có vũ trường Ritz với những ca sĩ tài ba như Jo Marcel, Nhật Trường,..
Khi anh Nhật (không phải tên thật) đã thấm rượu đế hơi nhiều, bất chợt đứng lên, rút súng ra chĩa vào đầu tôi, bảo phải hút thuốc, nếu không hút thì nhấp một cái cũng được. Từ nào tới giờ rất sợ mùi thuốc lá, nhất là thấy tàn thuốc trong vũng nước là tôi muốn buồn nôn. Biết anh đã say nên tôi không cự tuyệt thẳng, chỉ đứng dậy từ từ rút lui.
Anh bực tức, nhưng chẳng lẽ ăn hiếp đàn em (anh là niên trưởng của tôi), nên trút cơn giận (của rượu) lên đầu anh bạn cùng khoá 18 ĐL là Mê Linh. Anh Nhật vừa bắn chỉ thiên dọa, vừa rượt anh Mê Linh chạy dọc theo bờ sông An Lỗ! Khiến mọi người đều lo. May là nhờ Thiếu tá Nguyễn Đình Bảo, Tiểu đoàn phó, là khoá đàn anh nói giúp, nếu không thì đã bị Trung tá Nhã phạt củ rồi.
Tiểu đoàn đã hành quân trên hai tháng nên được cho về Sàigòn dưỡng quân một tháng. Khi tới nhà thì Nhi cũng từ tỉnh lên (do nhắn tin trước). Mới hai tháng mà tôi coi như hai năm, vì những đêm dài thao thức ngoài chiến địa, lúc nào cũng tưởng nhớ tới nàng. Bây giờ Nhi đã đầy đặn hơn trước, trong bụng đã có mang cục máu chung của hai người. Tôi thầm cám ơn vì nàng sắp cho một đứa con đầu lòng, để nưng niu bồng bế, để nghe tiếng líu lo ríu rít của đứa trẻ, hòng giảm bớt sự căng thẳng, bớt lo nghĩ đến những ngày hành quân đầy gian nan nguy hiểm nầy.

4. Hành Quân Vùng Bà Hom


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1507780911-Chuong3A_KeChuyenHanhQuan04.jpg

Sau 3 tháng ở Vùng II về, tiểu đoàn được điều động ra đóng ở vùng Ven đô, trong ấp Bà Hom, để làm tuyến phòng thủ vòng đai, ngăn ngừa địch xâm nhập từ mật khu Lý Văn Mạnh vào Thủ Đô quấy phá dân chúng trong những ngày xuân.
Chung quang Thủ đô Sàigòn có Trung Đoàn 165A gồm những đơn vị đặc công quyết tử, chuyên môn quấy rối thành phố. Trong đó Tiểu Đoàn 6 Đặc Công phụ trách vùng Bà Quẹo, Bà Hom. Chúng phối hợp với du kích ở các xã Phú Thọ Hòa, Phú Lâm, Bình Trị Đông để điều nghiên, bám sát, và phá rối trị an. Nhưng Du kích từ đâu ra? Chính là dân chúng trong vùng trốn ra bưng học tập; rồi trở về sinh sống như những người dân thường. Chúng cung cấp tin tức về các đơn vị đóng vùng ven Đô, dẫn đường cho các đơn vị chính qui tấn công vào Sàigòn và cầm chân cho các đơn vị nầy rút đi. Những vụ pháo kích vào Thủ Đô và các căn cứ quân sự như Phi trường Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Chỉ Huy Các Lực Lượng Hoa Kỳ tại VN cũng đều do họ gây ra.
Để đối phó với loại du kích đặc công nầy, cần phải nhờ đến các đơn vị Địa Phương Quân, Nghĩa Quân (dẫn đưỡng, nhận diện, và chỉ điểm các du kích địa phương, các gia đình có người trốn ra bưng) phối hợp với các đơn vị chủ lực như Biệt Động Quân, Bộ Binh, và Tổng Trừ Bị có nhiệm vụ trấn giữ vùng cửa ngõ vào Đô Thành (TĐ2ND do Đại úy Lê Quang Lưỡng chỉ huy, đã tiêu diệt phần lớn Tiểu đoàn 6 Đặc Công nầy, vào đầu năm 1967 tại ấp Vĩnh Hạnh. Thọ, bạn cùng khóa 20, đã hy sinh trong những ngày còn chân ướt chân ráo mới ra trường!)
Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù khi tới Bà Hom liền phân chia từng khu vực trách nhiệm cho các đại đội. Mỗi sáng các đơn vị bung ra tuần tiểu lục soát, tối thì đặt tiền đồn và mấy tổ phục kích. Nhân dịp nầy các đại đội trưởng cho các quân nhân thay phiên về phép thăm gia đình. Tôi cũng được 4 ngày phép về Vĩnh Bình để thăm bà xã, vừa hạ sanh đứa con trai đầu lòng! Đặt cháu tên Tâm, vì lúc đó tôi đang nghĩ đến các từ ngữ tốt lành như: lương tâm, thành tâm, thiện tâm,và cũng có nghĩ đến tên của anh Nguyễn Đức Tâm, khóa 18, vừa về tiểu đoàn! Sau nầy, có lần anh đến nhà chơi, vừa nhìn thấy tức thì tôi gọi lớn:
- Tâm à! Ra ba biểu, chào bác đi con.
Anh Tâm la lên:
- Chu cha! Thằng nầy dám lấy tên tao đặt cho con nó!
Lúc đó hai vợ chồng tôi ôm bụng cười một cách khoái chí, trong khi anh Tâm thì đang tức tối! Hai đứa kế tôi cũng lấy tên Thành, đại đội trưởng Đại đội 92, và Thiện là bác sĩ tiểu đoàn. Thật ra suốt mấy năm cùng vào sanh ra tử ở tiểu đoàn, chúng tôi rất thương mến lẫn nhau. Mỗi khi dừng quân ở một xóm làng nào, thường gọi nhau tới vừa nhậu vừa tán dốc. Tức cười anh Thiện lúc mới ra trường Quân Y, uống một ly bia đã đỏ mặt; nhưng sau nầy, anh chỉ đòi uống rượu đế.
Có một trùng hợp thật đặc biệt là cả ba người Tâm, Thiện và tôi, cùng được đứng đầu sổ trong danh sách thăng cấp Đại úy đặc cách tại mặt trận vào dịp lễ Quốc Khánh năm 1968. Chính Đại tá Trần Quốc Lịch đã nhảy dù xuống gắn cấp bậc tân thăng và Tiểu đoàn trưởng cho mở tiệc “Rửa Lon” ngay tại bãi nhảy Ấp Đồn. Lúc đó tôi mang Trung uý mới một năm mà được đứng thứ nhì toàn quốc (anh Thiện đứng nhứt vì đã mang hàm Trung úy ngay từ khi còn là sinh viên Quân Y), đó là nhờ có 2 chiến thương, 3 nhành dương liễu và mấy cái sao vàng (một huy chương bằng một năm thâm niên quân vụ).
Bấy giờ TĐ9NDø có nhiều anh khóa 18 Đà Lạt như: Mễ, Trang, Tâm, và Nam. Đại úy Quân, Võ Tín, và Trung úy Cang đổi đi tiểu đoàn khác. Mấy ngày Tết, trong khi dân chúng thì thư thã mừng Xuân, còn chúng tôi thì lúc nào cũng ứng trực nơi đơn vị, hoặc nằm chèo queo trên võng để tưởng nhớ đến người thân đang làm gì trong những ngày xuân?

5. Vùng Phi Quân Sự


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1507780939-Chuong3A_KeChuyenHanhQuan05.jpg

Sau khi ăn Tết ở Bà Hom xong, cả Tiểu đoàn được C130 chở tới phi trường Phú Bài của thành phố Huế. Rồi từ đó các xe GMC đưa Tiểu đoàn đến đóng quân tạm thời tại xã An Hoà, nằm phía Tây, bên cạnh Cổ Thành Huế.
Đây là lần đầu tiên tôi được ra đất Thần Kinh, xứ “Ngàn năm văn vật”, và nhà của Trung úy Thành ở ngay tại xã An Hoà nầy. Tôi có đến thăm gia đình anh, thấy ngôi nhà thật rộng rãi, sân trước có trồng cây vả ăn chát chát, kèm với tôm chua thịt luộc thì ngon tuyệt diệu! Cạnh nhà có “O” Hoa rất đẹp, Thành nói phải chi còn độc thân thì giới thiệu cho tôi.
Sẵn dịp tiểu đoàn chờ tiếp tế lương thực, tôi và mấy đứa bạn rủ nhau ra chợ Đông Ba ăn bánh khoái ở cửa Thượng Tứ. Vào Thành Nội coi cung điện cổ xưa của triều đại nhà Nguyễn. Nhìn thấy ngai vàng chạm trổ bằng ốc xa cừ, cùng các bệ chầu của quan lại thời xưa, tôi thấy nó chỉ là những di tích bảo tàng, chứ không nguy nga tráng lệ tân kỳ như dinh Độc lập ở Sàigòn ngày nay. Chúng tôi cũng có đi viếng các lăng vua Tự Đức, Thiệu Trị, Minh Mạng,...ở bên Nam Hoà. Ăn cơm hến, cơm âm phủ ở gần Đập Đá, rồi tới chân núi Ngự Bình ăn bánh bèo. Mỗi buổi sáng, mọi người thường qua cầu Gia Hội thưởng thức món bún bò nổi tiếng của Mụ Rớt.
Bộ Tư lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh cho tiểu đoàn an dưỡng được 3 ngày, thì bắt đầu khoanh các vòng tròn chỉ định mục tiêu trên các đỉnh núi, thuộc dãy Trường sơn.
Đúng 7 giờ sáng, tiểu đoàn bắt đầu xuất phát từ cầu An Lỗ, ở gần cây số 17. Các đại đội tiến dọc theo bờ sông, trực chỉ về hướng Tây. Đi xuyên qua chòm nhà chừng 2 tiếng đồng hồ thì đến chân núi. Mọi người đều sẵn sàng chuẩn bị tâm tư cho 4 ngày ròng rã leo dốc và phá rừng dầy đặc của dãy Trường sơn trùng trùng điệp điệp nầy! Các anh em binh sĩ thấy dưới chân núi có nhiều cây rau má mọc giữa bãi đất hoang, họ nhanh tay hái mỗi người một bó, nhét vào ba lô. Đợi buổi chiều dừng quân sẽ nấu canh tôm khô, rau má ăn cho có chất tươi.
Tôi có anh đệ tử tên Thương, trước kia làm nghề đánh cá ở miệt Vũng Tàu, anh kể chuyện mỗi khi ra biển, thường đem đầy đủ gia vị, tối đến soi đèn vớt mực rồi nhúng dấm ăn tươi tại chỗ rất ngon. Mỗi lần chuẩn bị vào khu vực hành quân vùng rừng núi, anh thường mua sẵn nhiều đồ gia vị, để vô rừng nếu tìm được măng tươi, lá tàu bay, hay rau má,...thì thầy trò sẽ có bữa cơm ngon miệng. Thiếu tá Huệ chia tiểu đoàn ra hai cánh, ông đích thân dẫn 3 đại đội đi trục chính, lần lượt lục soát các đỉnh núi phía Nam. Đại uý Phước chỉ huy hai đại đội đi bên phải, phía Bắc của trục chính.
Đoàn quân lục soát được 4 ngọn núi thì trời đã sắp sụp tối. Cả tiểu đoàn đừng quân tại 2 đỉnh cao. Đại đội 90 đóng quân ở giữa, còn hai Đại đội 92, 94, thì bao vòng ngoài. Tất cả đều lo đào hố chiến đấu, căng mìn định hướng (Claymore), mìn chiếu sáng, và gài những bẫy lựu đạn. Sĩ quan Tiền sát viên pháo binh lo điều chỉnh hỏa tập cận phòng, bằng đạn khói.
Đi suốt cả ngày và vượt qua mấy ngọn núi cao, tôi thấy thấm mệt, nhưng còn phải lo kiểm soát các hố súng cối 81 ly, đại bác 75 ly Không giật, và coi binh sĩ hai khẩu đội đào hố chiến đấu bảo vệ vòng trong cho bộ chỉ huy tiểu đoàn. Sau khi cổi giày để chuẩn bị ăn cơm nóng thì trời đã bắt đầu tối om. Mỗi buổi trưa thường vừa đi (hoặc lợi dụng lúc dừng quân vài phút) vừa đem cơm vắt ra ăn một cách vội vã. Có hôm phải dừng quân vào lúc 9 giờ đêm, vì bị các chướng ngại vật. Gặp những lúc đơn vị chạm địch thì thật là vừa nguy hiểm và vừa cực nhọc vô cùng!
Hôm sau tiểu đoàn chiếm được các mục tiêu chỉ định sớm hơn, nên được dừng quân trước 5 giờ chiều, lúc ấy tôi đang ngồi xem bản đồ, thì bác sĩ Nghị lại chơi. Anh hỏi cách xác định điểm đứng, trong khu rừng núi trùng điệp nầy. Tôi chỉ trong bản đồ, các đường đỉnh, đường thông thủy, các vòng cao độ, các loại đồi yên ngựa, đồi trọc, các khe suối, và các độ cao của từng đỉnh núi. Những yếu tố trên cộng với việc dùng địa bàn để đo phương giác từ, thì có thể xác định tọa độ trong rừng núi dễ dàng. Ngoài ra cũng cần biết phân biệt loại rừng số 1 (rừng già) và rừng số 2 (rừng dương xỉ, ô rô).
Bác sĩ Nghị thì trắng trẻo, vóc dáng như thư sinh, nhưng rất thích học hỏi về quân sự, tôi có đến nhà anh một lần, ở một vila rộng lớn nằm trên đường Hồng thập Tự, gần trường Petrus Ký.
Ngày thứ 3 của cuộc hành quân, Đại đội 94 đã phát hiện một kho lúa khổng lồ, nằm dấu kín trong một khe núi để tránh phi cơ quan sát của ta. Có lẽ đây là kho chứa mà họ đã thu thuế từ các quận Quảng Điền, Phong Điền, Hương Điền, An Lỗ,...Tội nghiệp dân chúng thời chiến phải thắt lưng buộc bụng để đóng thuế nuôi quân địch, những kẻ mà lúc nào cũng tìm cách gây hại con cháu và thôn làng của họ.
Tiểu đoàn đã được lệnh cho đốt kho lúa (và kho muối) cháy suốt đêm (vì địa thế hiểm trở, không thể dùng trực thăng bốc ra được, hơn nữa lúa để ở vùng ẩm thấp lâu ngày, nên bắt đầu trở mốc, nếu đem về chỉ có thể cho heo ăn thôi).
Sau đó tiểu đoàn ra ngoài Quốc lộ I, nghỉ quân 3 ngày lãnh lương thực, rồi được trực thăng vận bỏ vô một khu vực khác. Chúng tôi lại bắt đầu Tây chinh, lục soát tìm và tiêu diệt địch ở các mục tiêu khác, trong dãy Trường sơn núi rừng trung điệp. Hành quân trong rừng núi 1 tháng thì được xe chở ra Quảng Trị và đóng quân tại nhà thờ La Vang. Tiểu đoàn đang chờ đợi cả chiến đoàn ra đầy đủ, để chuẩn bị cho một cuộc hành quân lớn tên Lam Sơn 54, nhằm tấn công xua đuổi trung đoàn chính quy Bắc Việt vừa xâm nhập vào phía Nam vĩ tuyến 17, ngay trong vùng Phi Quân Sự (DMZ).
Lúc đó Đại uý Linh về làm Tiểu đoàn phó thay thế Thiếu tá Phước (vừa thăng cấp) để ông ra Vũng Tàu làm Tiểu đoàn trưởng TĐ6ND. Mấy ngày đóng quân ở La Vang, tiểu đoàn thường cho các đại đội đi tuần tiểu lục soát ở khu rừng rậm, phía sau nhà thờ, dọc theo bờ sông Thạch Hản. Chúng tôi chỉ chạm du kích lẻ tẻ, không đáng kể. Nhưng có điềm đặc biệt là Thiếu tá Huệ đã bị con ve bám vào trong lỗ rún, gỡ hoài không ra. Bác sĩ Thiện phải lấy kềm giải phẫu đặc biệt mới lấy ra được! Người ta dị đoan cho đó là một điềm, vì tuần lễ sau vị Tiểu đoàn trưởng đáng kính, người sáng lập Tiểu đoàn 9 Nhảy dù, đã anh dũng hy sinh trong trận ác chiến, đẩm máu tại đèo Ba Dốc, gần cầu Hiền Lương, mà tôi sắp kể sau đây:
Bốn tiểu đoàn dù, dưới sự chỉ huy của Chiến đoàn trưởng Trần Quốc Lịch. Đúng ngày N, đồng loạt xuất phát từ Gio Linh. Đoàn quân chia 4 mũi dùi, tấn công vào vùng phi quân sự. Địa thế vùng phi quân sự chia thành hai khu vực khác nhau: từ đường rầy xe lửa về phía Đông thì trống trải, bên phải Quốc lộ 1 là những động cát. Từ Quốc lộ 1 tới đường rầy cách khoảng 1 cây số là đồng ruộng bỏ hoang. Phía Tây đường rầy là đám rừng rậm, chính nơi đây, theo tin tức tình báo, Trung đoàn Chính qui của địch đã lập căn cứ bám trụ. Vì họ cho đây là vùng yên ổn, không sợ bị oanh tạc và pháo kích. Việt Cộng nghĩ rằng chỉ có chúng mới dám vi phạm quy ước về vùng phi quân sự, không giữ chữ tín ma lanh như cáo Hồ!
Mục đích của cuộc hành quân nầy, ngoài việc xua đuổi địch trở về Bắc, mà còn phải yểm trợ cho việc thiết lập “Hàng rào điện tử Mac Namara”. Trong đó chuyên viên Hoa Kỳ sẽ đặt những thiết bị phát hiện địch bằng điện tử như: Minisid, Asid, và Microsid,...Mọi sự di chuyển của địch gây âm ba chấn động, nhiễu loạn từ trường, hoặc âm thanh,...
Tiểu đoàn 9 Dù được chỉ định đi cánh phải, lấy đường rầy xuyên Việt làm chuẩn. Trong khi chờ các đại đội dàn quân băng qua bờ cao quá đầu của đường rầy, tôi cùng ban chỉ huy của Thiếu tá Huệ đi dọc theo quốc lộ, bước lên cầu Hiền Lương, nhìn qua bờ Bắc thấy ngọn cờ đỏ sao vàng được treo lơ lửng ở bên kia cầu, đối chiếu với cờ vàng ba sọc đỏ của chúng ta đang bay phất phới ngạo nghễ ở bên nây cầu.
Mỗi khi tấn công những mục tiêu khó khăn, các đơn vị Dù thường cho phi pháo dập nát rồi mới vô, để đỡ hao sinh mạng binh sĩ. Nhưng vì đây là vùng Phi Quân Sự, không biết tin tức tình báo có thực sự chính xác hay không? Chúng ta làm quá rầm rộ, nếu không chạm địch, thì chúng sẽ rêu rao quốc tế là Miền Nam hiếu chiến, vi phạm hiệp ước. Như vậy có cớ cho bọn phản chiến Mỹ, kêu gọi quốc hội cúp viện trợ!
Khi các mũi dùi vừa tiến vào bìa rừng thì địch đồng loạt nổ súng; cũng may là các toán đi đầu đã thận trọng dàn mỏng và cho các khinh binh một cách linh động từng người vừa chạy vừa bắn yểm trợ với nhau, để chiếm bìa rừng làm đầu cầu cho cánh quân đi đầu. Các khinh binh nghe phát súng địch đầu tiên, đã vội nhảy vào các bờ ruộng hoặc gốc cây, họ bắn cầm chừng, để chờ đơn vị dàn quân lên đồng loạt bắn trả bằng những hỏa lực vô cùng hùng hậu cơ hữu như: súng Trường AR-15, Đại liên 30, Trung liên, M-79, Đại bác 75 ly, súng Cối 60 ly, và 81 ly,...Đợi tiếng súng địch thưa dần và pháo binh Dù bắn dập vào tuyến án ngữ của địch, toàn bộ các trung đội dàn hàng ngang, vừa hô to “Xung phong”, vừa bắn vừa chạy nhanh vào mục tiêu .
Nhưng! Mọi sự ngoài sức tưởng tượng, địch ở đây như đã chuẩn bị sẵn sàng nghênh chiến, chúng chống trả thật mãnh liệt, làm các trục tiến quân đều phải khựng lại .
Tôi nghe tiếng bạn Đỗ Ngọc Nuôi la to trong máy:
__ Tụi nó đông quá, xin pháo binh gấp, mấy đứa nhỏ bị kẹt hết rồi!
Đề lô tiểu đoàn vội xin hải pháo và pháo binh cơ hữu bắn thêm vào khu rừng trước mặt, Thiếu tá Huệ bảo không trợ gọi phi cơ khu trục lên. Đại đội 92 từ bên trái dàn lên dùng hết các hỏa lực cơ hữu để làm tê liệt những ổ kháng cự của địch, cố gắng chiếm mục tiêu trước khi trời tối. Nhưng một loạt đạn AK làm Trung úy Đức, đại đội trưởng, bị thương. Thiếu úy Trần Hữu Bảo cùng trung đội xung phong lên tiếp ứng, nhưng anh cũng bị bắn bể xương vai!
Trận chiến càng lúc càng ác liệt! Thấy giằng co suốt cả ngày mà không vô được bìa rừng, Thiếu tá Huệ nóng ruột la hét đốc thúc nhiều phen. Trời bắt đầu ngả bóng về chiều, bỗng như thần xui quỷ khiến, ông móc súng Colt và đứng thẳng lên bờ cao của đường rầy tại Đèo Ba Dốc, vừa bắn vừa la “Xung phong”. Ngay lập tức ông bị hai viên đạn ghim trúng vào đầu và bụng, chết không kịp một lời trăn trối!
Lúc đó tôi đang ngồi ở kế bên, nhìn thấy thảm cảnh như vậy, trong lòng xúc động bồi hồi! Nước mắt rưng rưng chảy ra lúc nào không biết! Một nỗi buồn man mác đang dấy lên trong lòng. Tôi rất kính phục và thương mến người anh cả của tiểu đoàn nầy, ông lúc nào cũng giúp đỡ và che chở tôi, trong những ngày đầu của đời binh nghiệp.
Trời bỗng kéo mây đen u ám, giông gió bắt đầu nổi lên ào ào, cảnh vật lúc ấy như buồn lây với kẻ bạc phần! Rồi cơn mưa giông trút xuống ầm ầm. Và chính nhờ cơn mưa bất chợt nầy, làm tầm quan sát bị giới hạn. Lợi dụng mây mù che phủ, các khinh binh của Thuận Văn Chàng nhào lên dùng lựu đạn ném vào tiêu diệt ổ thượng liên, anh hô xung phong, cả Trung đội vừa bắn vừa la vang rền bãi chiến địa.
Tuyến đầu của họ hoảng sợ chạy lui, làm cả cánh quân địch tưởng bị tràn ngập, nên ùa nhau chạy tán loạn. Các trung đội của Lộc, Nuôi, Bảo, Thành... cùng xông lên truy sát địch. Rồi cả tiểu đoàn ào lên vừa bắn vừa đuổi địch tới bên kia bờ sông Bến Hải, các tiểu đoàn bạn cũng lần lượt nhào vô thanh toán chiến trường. Tất cả đều thu lượm rất nhiều chiến lợi phẩm.
Chiến đoàn đại thắng nhờ cơn mưa giông nầy, hay là nhờ hương hồn của cố Trung tá Huệ, đã phò trợ cho các đơn vị, tránh bị sa lầy trong trận chiến ác liệt ở vùng Phi Quân Sự nầy? Đêm đó chúng tôi đóng quân lại trong vùng DMZ, pháo địch như muốn trả đũa cuộc bại trận, nên họ bắn liên hồi vào vị trí đóng quân đêm của các đơn vị Dù. Các pháo đội ta cũng không thua kém gì, với đạn dược hùng hậu, cộng với tài điều khiển xuất sắc của những sĩ quan pháo binh Dù như anh Lạc, Triệu, Lước,... Chẳng bao lâu làm im mồm các con gà cồ của địch. Chúng tôi ai nấy đều buồn vì mất người anh cả, giống như rắn không đầu.
Mọi người lo sợ đạn pháo, trước khi đi ngủ, đều đào lỗ sâu, rồi trải poncho, nằm giữa màn trời, chiếu đất. Pháo địch bắn từ bên kia bờ Bắc, cứ 5 phút thì rơi vài quả sát gần chỗ đóng quân. Suốt đêm không ai tài nào chợp mắt được!
Vừa nhìn sao đêm, vừa hồi tưởng lại: lúc tôi và Bảo chạy lên gặp Thiếu tá Huệ vì bị quan ba Liêm dọa phạt hai anh Thiếu uý mới ra trường. Lúc tôi lên xin ra đại đội tác chiến, ông nói đợi có kinh nghiệm và bớt hăng máu rồi mới cho đi. Nhớ lúc ông kéo tôi tới coi trung uý Nguyễn Văn Thành trừng phạt binh sĩ phá phách dân chúng trong khu vực hành quân. Và nhất là hình ảnh ông đứng thẳng trên đường rầy, đốc thúc đơn vị xung phong lên xua đuổi giặc ra miền Bắc. Ông tức họ nói một đường làm một nẻo, không coi trọng chữ ký trong bàn hội nghị. Hình ảnh ông lúc đó thật oai hùng, thật khí phách, nói lên tinh thần xả thân vì nước, bảo vệ cho lý tưởng, mong cho nhân dân miền Nam được luôn luôn ấm no, tự do, và hạnh phúc.

6. Trận Lam Sơn 60


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1507780962-Chuong3A_KeChuyenHanhQuan06.jpg

Từ vùng Phi Quân Sự, tiểu đoàn được xe chở về làng An Hoà, nằm cạnh bờ thành phía Tây của cổ thành Huế, các đại đội bố trí dọc theo các nhà dân từ An Hoà tới cầu Bạch Hổ.
Thiếu Tá Nguyễn Thế Nhã về làm Tiểu đoàn trưởng, Đại úy Nguyễn Đình Bảo lên Tiểu đoàn phó, Trung úy Mễ làm Đại đội trưởng Đại đội 91, Trung úy Thành là ĐĐT/ĐĐ92ND (thay thế Trung úy Đức bị thương trận DMZ vừa rồi). Các tân binh từ Sài gòn ra để bổ sung cho những tổn thất trong mặt trận ở vùng giới tuyến. Đạn dược, vũ khí, và quân dụng được tái trang bị đầy đủ. Mọi người đều lãnh 1 ngày lương khô và 3 ngày đồ ăn tươi gồm thịt heo, rau cải,...để chuẩn bị ra quân. Tiểu đoàn được lệnh sẽ tấn công vào mật khu Đồng Xuyên Mỹ Xá (quê của tướng VC Nguyễn Chí Thanh). Hành quân nầy tên là Lam Sơn 60.
Tiểu đoàn phát xuất từ cửa Đông Ba, băng qua thôn La Vân Thượng, đi theo đội hình quả trám. Đại đội 91 dẫn đầu, tiếp đến là Đại Đội 90, theo sau là ĐĐ 92. Bên cánh trái có ĐĐ 93, và sườn phải là Đại đội 94. Khoảng 10 giờ sáng, đại đội đi đầu đã đến Mục Tiêu A (xin xem sơ đồ hành quân Lam Sơn 60 đính kèm). Đây là một cái làng bề ngang khoảng 500 thước, bề dài khoảng 1500 thước, trải rộng tới sát bờ sông. Trung uý Mễ cho Trung đội 1 của Thiếu uý Miên làm mũi nhọn để tấn kích. Trách nhiệm chiếm bờ làng làm đầu cầu là Trung sĩ Của, một hạ sĩ quan tài giỏi nhất tiểu đoàn, anh đã lập nhiều chiến công trong các cuộc hành quân ở Vùng II và vùng DMZ vừa qua. Trung sĩ Của đích thân điều động 3 khinh binh đi đội hình chân vạc, bắn yểm trợ cho nhau để tiến vào mục tiêu.
Khi khinh binh đầu tiên tới gần cách bờ làng chừng 10 thước, anh nhìn thoáng thấy không có ai, nên vội vã ngoắc tay gọi toàn bộ trung đội vào. Miên không ngờ địch đã núp kỹ dưới giao thông hào, nên cứ cho trung đội tiến vô làng. Khi cách bờ làng chừng 10 thước, bỗng địch từ giao thông hào chồm lên, đồng loạt ria vào đội hình của anh. Chỉ một loạt đạn đầu mà đã gây cho trung đội Miên tổn thất gần phân nửa!
Trung sĩ Của và hai chiến sĩ khác đã hy sinh, còn Miên thì bị bắn rách tả tơi áo quần và luôn cả bao đựng băng đạn cũng bị bay mất tiêu! Anh hú hồn vội nhảy vào bờ ruộng, vừa bắn trả vừa coi mình có bị thương chỗ nào không? Quả thật mỗi người đều có số mạng riêng, nhìn anh giống như trưởng lão cái bang, vậy mà chỉ bị rách một mảnh da nhỏ ở khuỷu tay, thật là tốt số!
Vì thấy đây là một chòm nhà, nên Tr úy Mễ mới không dùng chiến thuật tiền pháo hậu xung. Nhưng bây giờ thì kẹt cứng, anh vội điều động đơn vị dàn quân lên bờ ruộng, bắn cầm chừng để yểm trợ cho trung đội của Miên. Mặt khác anh điều chỉnh súng cối 81 ly và pháo binh bắn vào mục tiêu. Thiếu tá Nhã cho lệnh ĐĐ 93 tiến lên bắn yểm trợ sườn trái cho ĐĐ 91. Địch bị hỏa lực hùng hậu từ hai mặt và bị cả pháo binh lẫn súng cối; rồi ba phi tuần khu trục và gunship nhào tới bắn ào ào. Họ không ngờ gặp phải hỏa lực hùng hậu quá sức tưởng tượng. Mới đó mà mục tiêu A muốn thành bình địa, giống như gặp phải ổ kiến lửa. Chúng vội cuốn vó chạy bán mạng về mục tiêu C và D.
Trung úy Mễ thấy tiếng súng địch đã thưa, anh bảo Trung đội của Phạm Văn Thành xung phong tiến vào bờ làng. Cả trung đội của Thành đồng loạt vừa bắn vừa hô “Xung phong” vang trời, làm những tên thương binh còn kẹt lại hoảng sợ, dơ hai tay lên cao hàng phục. Tr sĩ Trường, Tr sĩ Lương dẫn tiểu đội nhào lên chiếm lấy bờ làng, làm đầu cầu cho toàn bộ đơn vị vào thu dọn nốt mục tiêu. Th tá Nhã điều động ĐĐ 93 lên chiếm Mục Tiêu B, trong khi đó thì ĐĐ91 bố trí hướng về Mục Tiêu D chờ lệnh.
Đại đội 93 vào mục tiêu B dễ dàng, vì địch đã bị đuổi về dựa lưng ở bờ sông để gượng gạo chống cự “Ổ kiến lửa” nầy. Lúc ấy đã hơn 4 giờ chiều, phép hành binh thì kỵ nhất là “Giặc cùng chớ đuổi”, nhưng đã thấy địch mà chẳng lẽ bỏ cho chúng rút yên. Tiểu đoàn trưởng quyết định dùng pháo binh (Thiếu tá Nhã xuất thân từ pháo binh Dù) đập nát 2 mục tiêu cuối cùng, rồi cho Đại đội 91 thanh toán Mục tiêu D và Đại đội 92 đánh chiếm Mục tiêu C. Tưởng rằng pháo đã dập nát, thì có thể dễ dàng thanh toán các mục tiêu còn lại, nhưng không ngờ địch lại vẫn còn gan lỳ chống trả (có thể nào tiểu đoàn cứng đầu nầy đang liều chết bảo vệ cho Tướng VC về quê thăm thân nhân?).
Hai ĐĐ 91 và ĐĐ 92 đã nhiều lần xung phong, nhưng gặp sự kháng cự quá mạnh! Thấy trời đã ngả bóng rồi mà các binh sĩ vẫn không lên nổi, Phạm Văn Thành tức giận nói:
- Tụi bây không dám vô thì để tao!
Rồi anh nhào lên vừa bắn vừa hô “Xung phong”, binh sĩ thấy thầy mình dũng cảm quá cũng đứng lên xung phong tiến nhanh vào mục tiêu. Nhưng khi mục tiêu đã được thanh toán thì đại đội phải trả một giá quá đắt: Thiếu uý Phạm Văn Thành và một Chuẩn uý đã bị hy sinh! Tại Mục tiêu C càng thảm thiết hơn! Cũng giống như Thành, vì nóng lòng thanh toán địch cho xong trước tối. Thiếu uý Thuận Văn Chàng đã mở sẵn chốt lựu đạn, định nhào tới phóng vào giao thông hào của địch, để dọn đường cho binh sĩ chiếm vào bờ làng. Nhưng!!! Than ôi! Chàng chưa kịp tung quả lựu đạn, thì bị một viên CKC bắn trúng đầu, khiến anh chết mà tay còn nắm chặc quả lựu đạn đã tháo chốt an toàn. Cả thân hình anh đè lên trái lựu đạn vẫn còn chưa nổ!
Buồn ơi là buồn! Hai đứa bạn đồng khóa của tôi đã cùng hy sinh trong một một buổi chiều ảm đạm!!! Chàng và Thành là hai đứa hiền lành nhất trong 16 thiếu úy cùng khóa 20 ở Tiểu Đoàn 9 Dù nầy. Có lần Thành dẫn tôi lại nhà ba má nó, ở cư xá nằm trong khuôn viên dinh Độc Lập (có lẽ ba của Thành làm nhân viên hoặc quân nhân gác Phủ Tổng Thống). Ba má Thành là người Bắc di cư và rất hiền từ, ông bà rất sốt sắng, đối xử với bạn của con mình thật tử tế và cởi mở.
Còn Thuận Văn Chàng, như đã nói, là một người rất thông minh, hiền lành, ăn nói nhẹ nhàng giống ca sĩ Chế Linh vậy, chúng tôi ai cũng mến anh vì đức tính hết sức hòa nhã đó. Nhưng không ngờ khi ra trận mạc, anh thật là dũng mãnh, lúc nào cũng tiến lên như để che chở cho thuộc cấp, sợ họ xung phong trước sẽ gặp nguy hiểm.
Chàng có một hoài bảo rất lớn, theo lời người yêu duy nhất của anh, nử sĩ Trần Thị Bông Giấy kể (trong quyển Nhật Nguyệt Buồn Như Nhau II) qua chuyện đối thoại giữa người anh cả và Thuận Văn Chàng như sau:
- Tại sao mầy bỏ học đi lính?
- Thứ nhất, nhà tao nghèo quá. Thứ hai, có một lẽ quan trọng như một mối tâm huyết từ bé tao đã cưu mang: “Khôi phục lại đất Chàm”.
- Mầy có nghĩ đó là một điều khó thực hiện?
Chàng suy nghĩ một lúc, rồi nói:
- Tao biết! Nhưng tao quyết không thay đổi. Giờ đây, chỉ gia nhập binh chủng Nhảy Dù mới mong lên Tướng. Nếu không có quân trong tay, làm sao thi hành được ước vọng riêng ?
Tiếng đàn guitare lại vang lên một đoạn nhạc buồn, Chàng ngưng tay đàn nói giọng trầm trầm:
- Đúng! Tao vẫn biết khôi phục đất Chàm không phải là điều dễ dàng thực hiện. Nhưng, từ hàng trăm năm qua, dân tộc tao chìm đắm quá sâu trong khốn khổ. Người dân xứ tao phải chịu sống kiếp tha hương ngay chính cái nơi đã chôn nhau cắt rốn. Tao may mắn được ăn học đàng hoàng, kiếm ra đồng tiền bằng sự hiểu biết của mình. Nhưng còn vô số những người mù chữ, bao người lớn, con nít hằng ngày không biết lấy gì mà ăn, hằng đêm không đủ tấm chăng đấp cho ấ bụng?
Qua giọng nói anh, nghe ra một nỗi u trầm đặc biệt, cát u trầm trong các điệu nhạc người Hời, mà trong tiếng hát lúc nào cũng pha niềm thống hận hoài cố hương của dân tộc Chàm.
Anh tiếp:
- Mầy là bạn chí cốt của tao, hẳn cũng hiểu sở dĩ tao đạt được thành quả dẫn đầu trong suốt nhiều năm còn đi học là bởi tao có con đường riêng, không dám chút nào xao lãng. Bây giờ việc lao vào Nhảy Dù cũng không ra ngoài cái chí ấy. Nay chí chưa tròn, công danh chưa đạt, Thuận Văn Chàng (đọc trại như Chàm chăng?) đã chôn vùi hoài bảo lớn lao của mình tại đây!!!
Trên đường rút quân về, lòng tôi buồn rười rượi, miệng cứ lẩm bẩm ca khẻ bài hát buồn :
“ Một ngày, ngày đã qua! Ôi một ngày, ngày chóng qua!”
“ Một chiều,.... một ngày ..... không còn nữa, đã trôi qua
...... không còn gì!”
“ Ôi chinh chiến .... đã mang đi .... bạn bè!!!”
“ Ngựa hồng đã mỏi gót, chết trên đồi quê hương!!”
Bạn bè trong thời buổi chinh chiến là chuyện bạn bè sát cánh bên nhau, sớm còn chiều mất! Sắt đá cũng đổ lệ! Núi rừng cũng để tang! Mười sáu thiếu úy khóa 20 Đà Lạt về TĐ9ND tính từ ngày ra trường đến Tết Mậu Thân thì đúng 2 năm 2 tháng, mà hy sinh hết 6 bạn (Phương, Thành, Lộc, Đại, Chàng, và Hổ)!!!
Trận Lam Sơn 60 nầy thật là thảm thiết nhất trong các trận mà tôi đã tham dự từ ngày trình diện bổ sung cho tiểu đoàn. Mặc dù đơn vị tịch thu hằng trăm súng và được tặng thưởng rất nhiều huy chương và cấp bậc, nhưng phải trả một giá rất đắt: có tới 4 sĩ quan và một số binh sĩ hy sinh!!! Cuộc hành trình của Tiểu đoàn 9 Dù kỳ nầy, chưa đầy hai tháng mà đã tham gia tới hai trận đánh lớn và tổn thất quá nhiều sĩ quan. Trong đó có cố Trung tá Lê Văn Huệ, vị tiểu đoàn trưởng khả kính, hai người bạn đồng khoá thân thương của tôi! Mới một năm rưởi mà đã xảy ra rất nhiều chuyện buồn thảm.
Tôi ra trường vào thời kỳ cuộc chiến bắt đầu sôi động, mỗi ngày mỗi thêm ác liệt. Vì vậy những trận chiến sau mà tôi sắp kể sẽ còn hung hiểm và gay go hơn nhiều!

7. Trở Lại Vùng Phi Quân Sự (1967)

Khi về Sài gòn thì Tiểu đoàn xả trại 1 tuần lễ, riêng các sĩ quan trong đó có Thiếu tá Nguyễn Đình Bảo, Đại úy Mễ,...(vừa được thăng cấp đặc cách mặt trận trong cuộc hành quân Lam Sơn 60 vừa rồi) được Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng mời đi ăn tiệc ở nhà hàng Bồng Lai nằm trên đường Lê Lợi, gần chợ Bến Thành. Tại đây có ban tam ca Sao Băng, và ai nấy đều thích thú khi nghe giọng trầm ấm trong các bài hát về lính của ca sĩ Thanh Phong .
Sau khi hết phép, các đại đội lo báo cáo phúc trình tổn thất và được bổ sung kịp thời, để chuẩn bị cho cuộc hành quân tới. Lúc nầy tôi được chuyển qua làm trung đội trưởng ở Đại đội 92, dưới quyền của Trung uý Nguyễn Văn Thành.
Lợi dụng mấy ngày rảnh rỗi, tôi tập họp binh sĩ để huấn luyện bổ túc về cá nhân chiến đấu, và phản ứng cấp thời khi bị địch tấn công hay phục kích bất ngờ. Tôi cũng đem những lý thuyết học tại quân trường và kinh nghiệm đã học hỏi hơn một năm rưởi ở tiểu đoàn, chỉ cho các hạ sĩ quan và khinh binh thêm về bản đồ, kỷ thuật hành quân cấp tiểu đội, trung đội. Một tháng trôi qua thật nhanh, chúng tôi lại được bốc ra Huế và đóng quân tạm tại làng An Hoà để chờ nhận tiếp tế lương thực. Sau đó tiểu đoàn được đưa vào khu vực hành quân tại quận Quảng Điền, còn được gọi là Sịa (nhứt Huế nhì Sịa). Quận nầy ở gần biển và rất trù phú, nhưng du kích địa phương ưa gài mìn ở dưới ruộng nước, nếu không may đạp nhầm thì nhẹ nhất cũng bị cưa chân.
Mục đích của cuộc hành quân là làm chỗ an toàn cho bãi nhảy dù dã chiến. Vì mỗi năm ai cũng phải nhảy dù bồi dưỡng đủ 4 “Sô” mới được tiếp tục ăn lương không vụ (tương đương tiền bay của phi công bên không quân). Vì đa số ai cũng bận đi hành quân triền miên, nên sư đoàn chở dù ra để giúp cho những người còn thiếu Saut được nhảy dù bổ túc từ trên phi cơ trực thăng, vì bãi nhảy hơi chật hẹp.
Khoảng hai tuần sau, xe GMC chở tiểu đoàn đến Đông Hà, một quận nằm phía Nam Gio Linh, ở gần cực Bắc tỉnh Quảng Trị, để chuẩn bị cho cuộc hành quân lớn cấp chiến đoàn, vào vùng Phi Quân Sự một lần nữa!
Chúng tôi vừa tới chỗ đóng quân vào lúc trời mờ tối, thì được địch pháo hỏa tiễn 122 ly chào đón. Có lẽ bọn nằm vùng thấy chuyển quân rầm rộ quá, nên gọi pháo kích cảnh cáo. Vì ở đây cũng gần sông Bến Hải, có thể trong tầm của loại pháo binh nòng dài. Mặc dù trời đã tối, chưa kịp tắm rửa, nấu nướng, ai cũng lo ưu tiên đào hố chiến đấu, để có nơi trú ẩn vì địch thường pháo khuấy rối để mọi người bị mất ngủ.
Cuộc hành quân kỳ nầy cũng nhằm yểm trợ cho việc thiết lập hàng rào Mac Namara về phía Đông của Quốc Lộ 1. Đây là vùng trống trải, toàn động cát và đám rừng thông già trồng dọc theo bờ biển, do đó địch ở bên kia bờ sông Bến Hải, có thể nhìn thấy cuộc tiến quân một cách dễ dàng.
Tiểu đoàn định lừa địch, bằng cách chọn điểm xuất phát từ chợ Đông Hà, thay vì đi bờ Bắc, chúng tôi đi dọc theo bờ Nam của sông Đông Hà, để vào căn cứ hải quân ở Cửa Việt.
Đúng 1 giờ khuya (phải đi trong bóng đêm để tránh đài quan sát và pháo binh địch), chúng tôi được tàu lội nước của hải quân Mỹ (gọi là M. Track) đưa qua bờ Bắc của Cửa Việt.
Vậy mà cũng không dấu được hành tung, địch vẫn rải pháo đều đều, làm cuộc tiến quân thỉnh thoảng phải dừng lại, mỗi khi nghe tiếng pháo đề ba (départ) từ bên kia bờ Bắc.
Dù bị pháo liên tục vào đội hình, nhưng đơn vị vẫn cố gắng tiếp tục tiến tới bờ sông Bến Hải để yểm trợ cho nhân viên gài các dụng cụ khám phá địch bằng các cơ phận điện tử.
Tôi thấy các anh Phan Nhật Nam, Lê Văn Mễ, và đa số anh em binh sĩ, mỗi khi dừng quân 5, 10 phút là vội lấy nón sắt ra đào cát lên để ngồi trốn đạn pháo. Còn tôi thì nhờ đi theo hàng cây thông, nên khi nào nghe pháo thì nhảy vô gốc cây núp, nếu đạn pháo trúng ngọn cây sẽ nổ tung ra nhiều mảnh, tôi có nón sắt và áo giáp hy vọng sẽ bớt phần nào nguy hiểm! Thà đánh bằng đạn thẳng ít sợ hơn, chứ pháo rải rác kiểu nầy hoài thì khó mà tránh, đúng là trời bảo ai nấy dạ!
Khoảng 7 giờ sáng thì chúng tôi đã thấy bờ sông Bến Hải, nhìn về hướng Mục tiêu 4, là cái đồi cát cao nhất trong vùng (Căn cứ A1 sau nầy và còn có tên là Ocean view), tôi thấy các bóng đen của binh sĩ Tiểu Đoàn 6 Dù, mỗi lần bị pháo kích là họ vội nằm xuống; Rồi lo đào vội hố cá nhân. Cử động của họ hấp tấp vội vàng dưới làng mưa pháo của địch quân, họ lúc ấy thật tội nghiệp, như những con thú bị săn đuổi!
Sau khi dứt tiếng pháo họ lại đứng lên và tiếp tục tiến về hướng sông Bến Hải. Hình bóng họ hiện rõ trên đồi cát, di động giống như xem cinéma sống thực vậy!
Nghe giọng nói của Trung úy Tèo trong máy:
__ Bây giờ nó đã vượt lằn ranh khu phi quân sự, trình Sơn Thủy tôi bị ...(Xếp bấm chặt combiné im lặng)..Tèo hiểu ý nói tiếp :
__ Trình đích thân, nó ném đá trước mặt tôi 3 thước .
Có lẽ Việt Cộng đang theo dõi máy nên tưởng là trúng đích; và từ đó trở đi đạn đại bác từ bờ Bắc cứ nả đều trước mặt đoàn quân khoảng 3 cây số (mà Tèo đã ngụy tạo là 3 thước).
Vì tiểu đoàn đi sát bờ biển, nên tôi thấy có một chiếc phản lực quây lảo đảo như bị trúng đạn phòng không, nó từ miền Bắc bay trở về và rớt đâm đầu xuống biển. Cuộc hành quân nầy nhờ hải pháo từ các tuần dương hạm yểm trợ mạnh mẽ vào các ổ pháo địch; nếu không, có thể chúng tôi phải bị tổn thất rất nhiều. Sau khi xong nhiệm vụ, mọi đơn vị vội vã rút nhanh về hướng Nam, càng xa càng đỡ thiệt hại!
Khi về tới Đông Hà, tiểu đoàn được xe chở tới đóng quân tại bờ sông Thạch Hản, gần thị xã Quảng Trị. Trong mấy ngày nghỉ quân chờ bổ sung và tiếp tế lương thực, tôi đi thăm phố và cổ thành Đinh Công Tráng, ở ngay cạnh chợ. Cổ thành nầy rất kiên cố, xung quanh có hào sâu bao bọc, các bờ thành cao chừng 5 thước, dầy 5 thước, được xây bằng gạch rất kiên cố. Diện tích của thành nầy thì nhỏ bằng Hoàng cung Đại Nội ở Huế (hình vuông mỗi cạnh khoảng 500 thước).
Mấy ngày sau, tiểu đoàn được lệnh đi lục soát tìm và tiêu diệt địch (nếu có), ở dọc theo bờ biển phía Đông của thành phố. Sau 4 ngày lại được nghỉ quân 3 hôm, rồi tiếp tục cuộc hành quân kế tiếp, vào khu rừng núi, nằm phía Tây của thị trấn Quảng Trị. Khi đã càn quét xong 4 hướng trong đó có các quận Triều Phong, Hải Lăng của tỉnh lỵ Quảng Trị, đơn vị lại được điều động đi xuống phía Nam, ranh giới giữa 2 thành phố Huế và Quảng Trị.
Chúng tôi cứ đi dọc theo sông Mỹ Chánh về hướng Tây, vào sâu trong dãy Trường sơn, trèo đèo vượt suối, đủ 4 ngày ra lãnh lương thực, rồi trực thăng vận trở vô và tiếp tục leo những ngọn núi khác để tìm và diệt địch.
Sau đó tiểu đoàn trở về An Lỗ chờ tiếp tế và coi như được nghỉ dưỡng quân 4 ngày. Tại đây đại uý Mễ đã gọi các sĩ quan cấp đại đội trưởng và trung đội trưởng tới nhậu lai rai, rồi nghe anh ngâm bài thơ ruột tựa đề là Mòn Mỏi, như tôi đã kể ở phần trước.
Hôm sau trung đội tôi được chỉ định mở cuộc đột kích đêm, tại một làng xôi đậu, nằm trong khu vực xa xôi, ngoài tầm kiểm soát của địa phương quân. Ngôi làng ở về hướng Đông Bắc, cách chỗ tiểu đoàn đóng quân khoảng 5 cây số.
Chiều hôm đó tôi chỉ rõ cho binh sỉ trung đội về các chi tiết của cuộc hành quân đột kích đêm, và phân phối nhiệm vụ cho từng tổ một. Đúng 4 giờ khuya, trung đội bắt đầu xuất phát. Chúng tôi lặng lẽ và thận trọng đi xuyên qua đồng ruộng trống trải, dưới ánh trăng mờ ảo. Dạ hành mãi tới gần 5 giờ mới thấy ngôi làng hiện ra phía trước (tôi chọn giờ nầy vì đó là lúc gần hết phiên gác của địch, nếu có, và lúc ai cũng đang say sưa chập chờn trong giấc ngủ).
Đến cách bờ làng chừng 100 thước, trung đội dàn ngang theo bờ ruộng để yểm trợ cho 3 khinh binh, chạy zít zắt theo đội hình chân vạc, tiến vào bờ làng làm đầu cầu. Khi thấy các khinh binh vô được bờ làng, cả trung đội cùng tiến vào một cách lặng lẽ. Mọi người nhẹ nhàng đi qua từng căn nhà, xem có động tịnh gì không? Rồi trung đội tiếp tục lần lượt lục soát hết ngôi làng. Nhưng chúng tôi không thấy dấu vết gì về địch, nên lặng lẽ rút lui, trả lại sự yên tỉnh cho thôn xóm. Họ vẫn tiếp tục say sưa trong giấc điệp, để rồi sáng ra, không ngờ trong đêm có một đoàn quân Dù đã từng rình mò từng căn nhà của họ. Sau vụ đột kích đêm, Tiểu đoàn trưởng thưởng cho chai rượu Black & White, tôi tập họp trung đội và chia cho mỗi người uống một nắp, để thưởng công vất vả, và để họ được nếm mùi rượu ngoại quốc tuy thơm ngon, nhưng không đậm đà bằng rượu đế mà họ quen dùng. Riêng các khinh binh thì được uống gấp đôi, vì họ vừa cực khổ vừa lãnh phần nguy hiểm hơn đồng đội.
Có lần trung đội được lệnh đi đầu mở đường cho đoàn quân hơn 500 người, trong dãy Trường sơn, đầy những cây rừng rậm rạp cản đường tiến quân. Lúc đó tôi phải đích thân lên đi đầu để vừa đôn đốc các khinh binh Quảng, Cứ,.. phá đường vượt rừng băng suối, vừa để định đúng hướng mục tiêu bằng bản đồ và địa bàn. Đây là một trách nhiệm nặng nề, vì nếu tính sai tọa độ, pháo binh có thể bắn lầm lên đầu quân bạn. Tôi thấy các khinh binh người nào cũng mồ hôi chảy ướt đẫm cả áo, tay chân và cổ họ bị những gai và lá sậy sắc bén khứa đứt nhiều lằng rướm máu, nhìn họ mà tôi ứa nước mắt.
Khinh binh Cứ ngồi bẹp xuống và nói:
- Mệt quá Thiếu uý ơi, cho em nghỉ một chút đi!
Tôi quay ra sau quẹt vội nước mắt, sợ họ thấy rồi làm nư, sẽ làm chậm bước tiến của đoàn quân:
- Ráng chút nữa đi, tiểu đoàn đang trông cậy vào chúng ta đó.
Cứ và các khinh binh cũng ý thức trách nhiệm nặng nề, nên đứng lên tiếp tục dùng dao đi rừng dẹp các chướng ngại vật. Tôi rất thương mến họ, nên thường dành mọi ưu tiên về thăng cấp, huy chương, và đi phép thăm nhà cho họ (các khinh binh: Cứ, Quảng, Võ, Học,... quí mến của tôi)
Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh (các Tiểu đoàn Dù khi tăng phái thường được đặt dưới quyền điều động của vị Tư lênh Sư đoàn địa phương) thấy chúng tôi leo núi đã chán, lại điều động tiểu đoàn xuống hành quân tìm địch trong vùng bờ biển nổi tiếng nhiều du kích, thuộc huyện Phú Thứ, nằm ở phía Nam thành phố Huế. Tại đây tiểu đoàn chạm địch nhiều phen và bắt được một số du kích.
Xong miệt đồng bằng lại đổi qua vùng đồi hoa sim Nam Hoà, nơi đây tiểu đoàn lần đầu tiên tổ chức hành quân đột kích đêm với sự tham chiến của toàn đơn vị. Lúc ấy là đêm trăng rằm, toàn bộ tiểu đoàn chia quân làm hai cánh. Thiếu tá Bảo chỉ huy 2 đại đội đi theo đường đất đỏ tiến sâu vào hướng Tây chừng 3 cây số, rồi rải hàng ngang, bọc về hướng Nam chừng 1 cây số, làm tuyến án ngữ trong một làng thuộc quận Nam Hoà.
Tiểu đoàn trừ do Thiếu tá Nhã chỉ huy, cho hai đại đội dàn quân xuất phát từ chân núi Ngự Bình, tiến dọc về hướng Tây, thẳng vào các ngọn đồi trọc, nơi có tin tức tình báo là địch sẽ về đây tiếp thu lúa ruộng do các du kích địa phương từ các thôn xóm đưa ra. Khoảng một giờ khuya, các du kích địch như những con chuột, bắt đầu ló mặt ra, chúng không ngờ, toán quân Dù đã phục sẵn, cứ nghênh ngang đi giữa đường nên bị bắt gọn. Một số chạy ra hướng khu đồi trọc, định báo động cho toán bên ngoài. Nhưng ở đây chúng bị cùng chung số phận, vì đại đội của trung uý Tèo đã tóm sạch hết. Giữa đêm khuya tiếng nói của Tèo vang rền trong quảng không vô tận:
- Trình Sơn Thủy (mật hiệu truyền tin của tiểu đoàn trưởng), tôi tóm được khá nhiều chuột.
Thiếu tá Nhã nói giọng hớn hỡ:
- Anh giỏi lắm, bên Bắc Bình (Thiếu tá Bảo) cũng thu hoạch khá lắm.
- Tư Tưởng đây Thành Thái(Thành, Đại đội trưởng ĐĐ92).
- Tư Tưởng (Tèo, đại đội trưởng Đại Đội 93) tôi nghe!
- Có vài con chạy về hướng của bạn đó, trả lời.
- Tôi sẽ ân cần tiếp đón chúng nó, trả lời.
(ước hiệu truyền tin của Tướng Đống là Bạch Long, Trưởng Phòng Ba là Hắc Long, Đại tá Nguyễn Khoa Nam là 601,...)
Sáng hôm sau, chúng tôi vào nghỉ quân tại các xóm gần dốc Nam Giao, cạnh chùa Từ Đàm, để chuẩn bị đợi máy bay đưa về Sàigòn. Chuyến ra Vùng I kỳ nầy thiệt là vô cùng cực khổ! Vì mọi người đã đi gần hết các nơi rừng núi đồng lầy: từ miền giới tuyến ở khu Phi Quân Sự, tới các khu vực xung quanh hai thị xã Quảng Trị và Huế.
Thấm thoát đã hơn 3 tháng rồi, mà vẫn chưa được gặp mặt vợ con. Do đó ai cũng mong ngày về Sàigòn, mọi người đều chuẩn bị mua sắm quà xứ Huế cho thân nhân. Tôi có mua mấy nón lá bài thơ, mè xửng, và kẹo gương để đem về Vĩnh Bình cho Nhi và bà con hai họ. Khi ra phi trường Phú Bài, có binh sĩ vì mua quà nhiều quá, nên đập bỏ hết các nồi niêu, son chảo để có chỗ chứa trong ba lô. Họ mừng quá vì sắp gặp được thân nhân, cần phải đem quà về thật nhiều cho vợ con, để bù đắp lại chuyến hành quân kỳ nầy quá lâu.
Mỗi lần đi xa về, tôi thường hát khẻ bên tai cho Nhi nghe bài “Sau Ngày Hành Quân” như để vuốt ve an ủi và như để xin lỗi vì bắt nàng phải đợi chờ quá lâu:
* Sau ngày hành quân, anh về mang theo chiến thắng....
* Súng còn đeo vai, đã viết thư cho người yêu!
*... Hay thôi anh đền em,..đền em anh dũng bội tinh, hay
anh đền em, bằng chữ yêu....... Mình....
Chiếc C-130 (loại bán phản lực, chở trên 100 người) bay được gần nửa giờ, thì đáp xuống phi trường, đa số binh sĩ đều tưởng đã tới SàiGòn nên hớn hở chờ cửa hậu mở để nhanh chân đi ra, tôi đang thắc mắc tại sao kỳ nầy bay mau quá vậy?
Nhưng khi ra khỏi máy bay thì ai cũng bật ngửa! Vì đây không phải là Thủ đô yêu dấu, mà là phi trường Phượng Hoàng ở Tân Cảnh, thuộc quận Dakto, tỉnh Kontum. Nhìn xung quanh toàn núi cao bao bọc.
Thì ra Tổng Tham Mưu vừa nhận được công điện khẩn của Quân Khu II, báo cáo Sư đoàn Chính qui (Công trường 320 ?) địch vừa xuất hiện đêm qua trong vùng núi Ngọc Long (Ngok Wan hay đỉnh cao nhứt vùng 1416) và dự định tấn công vào Dakto, Tân Cảnh, và tỉnh lỵ Kontum. Trong khi chờ đợi các Tiểu đoàn Dù ra nghênh chiến, chúng tôi được lệnh đáp xuống đây để kịp thời ngăn chặn ý đồ xâm lược của địch.
Đêm đó cả tiểu đoàn tạm trú quân trên đồi cao trong phi trường Tân Cảnh. Thấy các quân nhân tức giận vì bị lừa dối, Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng bảo Đại uý Mễ tập hợp binh sĩ giải thích và nói rõ là chỉ hành quân 1 tuần rồi sẽ về Sàigòn.
Sáng hôm sau, tiểu đoàn xuất phát từ quận Dakto, chia quân làm hai cánh, tiến vào lục soát các đỉnh núi cao. Đây là khu rừng rậm, đầy muỗi và đỉa vắt cựa quậy giống như đỉa trâu, trông thật là kinh khiếp! Tôi vừa làm rớt địa bàn và lượm lên thì thấy mấy con vắt ngọ ngoậy đeo dính trên địa bàn, làm sợ hết hồn!
Tôi vội lấy lọ thuốc muỗi ra, thoa khắp tay chân và đầu cổ. Vì chỗ nào có da thịt, vắt sẽ bám vào để hút máu! Ở nơi rừng thiên nước độc nầy chẳng những có nhiều muỗi, vắt, mà còn lạnh kinh khủng, lạnh nhất là trên đỉnh núi Ngọc Long, cao 1416 thước. Đêm đó mọi người phải đốt lửa ở dưới hố cá nhân để sưởi, mà cũng không thể chợp mắt được, vì trên đỉnh cao thấu mây xanh nầy có nhiều sương mù lạnh lẽo bao phủ!
Chúng tôi đi vòng vòng tìm địch trong các khu rừng rậm, núi non trùng điệp được 1 tuần thì rút về Tân Cảnh, đợi sáng mai phi cơ đưa các tiểu đoàn khác ra thay thế.
Khoảng 6 giờ chiều hôm đó, anh Nhật, anh Phan Nhật Nam, Nguyễn Đức Tâm, Đỗ Ngọc Nuôi, Nguyễn Tống Hiến và tôi cùng rủ nhau đi xin tiền ông quận trưởng Dakto để mua rượu nhậu. Lúc đó tình hình tuy hơi căng thẳng, nhưng địch chắc chưa chuẩn bị đầy đủ, nên không động tĩnh gì.
Anh Tâm làm tài xế lái xe Jeep, các người còn lại thì súng AR-15 lên đạn cầm tay sẵn sàng tư thế chiến đấu. Tâm nhấn hết ga, khoảng 20 phút thì đến quận đường. Chúng tôi vào gặp vị Quận trưởng khoá đàn anh (khoá 10 ĐL), và ca bài “Con cá sống nhờ nước”. Anh Quận trưởng thấy mấy thằng đàn em nầy quá gan lỳ, dám xách xe chạy cà rỡn trên đoạn đường đầy nguy hiểm, chỉ vì ham vui. Anh vội móc túi đưa 10 ngàn và hối chúng tôi ra về sớm, kẻo trời tối, địch phát giác rồi phục binh chận đường, thì thập phần nguy hiểm.
Có tiền rồi, mọi người hớn hở chạy một mạch từ Dakto về tới Tân Cảnh, nhìn lại đồng hồ thì đã quá 7 giờ rưởi tối. Tất cả vội tìm một quán bar, rồi gọi rượu thịt ra nhậu tới hết tiền thì trời cũng đã khuya. Tôi và mọi người ra về, nhưng chỉ có Nhật vì đã nhậu quá say nên muốn ở lại lê la “Làm thơ con cóc”. Sáng hôm sau trong khi ai nấy đều chuẩn bị ra phi trường thì Nhật mới lót tót leo dốc về, thấy anh thở hổn hển, mặt mày xanh lét vì “Trèo đèo leo dốc”, Tâm và Mễ ôm bụng cười lăn lóc!
Trước khi lên phi cơ, Thiếu tá Nhã tổ chức lễ gắn cấp bậc Trung úy đặc cách cho Nuôi, Hiến, Miên,....và tôi ngay tại phi đạo. Chiếc C-130 chở tôi vừa cất cánh, thì địch bắt đầu khai chiến, chúng pháo kích bằng hỏa tiễn 122 ly (để chào mừng mấy Trung úy vừa tân thăng chăng?) vào phi trường, khiến một số binh sĩ, chưa lên kịp máy bay, bị trúng mảnh đạn rocket. Thiếu tá Nhã cũng bị một mảnh xuyên qua gan, phải giải phẫu cấp tốc mới bảo tồn được sinh mạng, lúc đó Thiếu tá Phạm Hy Mai về tạm thay thế. Mấy ngày sau cả chiến đoàn Dù đều đụng trận ác liệt tại đỉnh 1416 (có bài ca nói về trận nổi tiếng nầy), hai bên đều tổn thất rất nhiều!
Về tới Sàigòn, sau khi dự tiệc ở nhà hàng Bồng Lai xong, tôi vội cấp tốc ra bến xe đò Miền Tây, mua vé về Vĩnh Bình thăm vợ con, vì kỳ nầy đi quá lâu nên tôi sốt ruột, nóng lòng ước chi mình có cánh, để bay mau về gặp Nhi. Ở Vĩnh Bình 4 ngày, tôi đi thăm mấy thằng bạn học cũ. Chiến tổ chức tiệc mời tôi, Lộc, Chánh, và Hiền tới nhậu vui vẻ. Anh em lâu ngày gặp nhau nên uống thật nhiều vì “Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu”, uống rượu với những thằng bạn tốt nầy thì:
Đồ ăn ngon
Người ngồi ăn ngon
Chỗ ngồi ăn ngon
.....................Ngon!
(Tản Đà)
Sau khi Tiểu đoàn nghỉ dưỡng quân 1 tháng, chúng tôi lại chuẩn bị khăn gói lên 5 chiếc C-130 ra Huế, để bảo vệ cho đồng bào ăn tết Mậu Thân. Lúc đó tôi được thăng cấp Trung uý đặc cách mặt trận, nhân dịp lễ Quốc Khánh 1 tháng 11 năm 1967. Và vẫn là Trung đội Trưởng Trung đội 1, Đại đội 92, của Trung uý Đại đội trưởng Nguyễn Văn Thành (Khoá19).

8. Trận Tết Mậu Thân Tại Vùng I Năm 1968

A). Mặt trận tại Quảng Trị.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1507780978-Chuong3A_KeChuyenHanhQuan07.jpg

Sau nhiều ngày Đơn vị hành quân tìm và tiêu diệt địch dọc theo dãy Trường Sơn, phía Bắc sông Thạch Hãn, từ Đông Hà đến Đèo Ba Dốc thuộc tỉnh Quảng Trị, rồi vào Huế ở Nam Hoà, Phú Thứ, La Vân, Đồng Xuyên Mỹ Xá.
Chiến Đoàn Nhảy Dù được ngừng hành quân nghỉ ngơi ăn Tết tại những điểm quan yếu trong các Thị trấn. Tiểu Đoàn 2 và TĐ7ND đóng ở An Lỗ và Quảng Điền; Tiểu Đoàn 5 ND được điều động về Đà Nẳng. Tiểu đoàn 9 chúng tôi bố trí quân chung quanh thị trấn bảo vệ thành phố Quảng Trị.
Đại đội 92 ở phía Đông Nam, Đại đội 94 bảo vệ làng Tri Bưu. Dọc bờ sông Thạch Hãn, phía Tây thành phố là Đại đội 93. Riêng Đại đội 91 của Đại uý Mễ, đóng chung với Đại đội Chỉ Huy Tiểu đoàn, làm thành phần trừ bị.
Ngay ngày 30 Tết, Tiểu đoàn được “Mật lệnh” của Chiến đoàn Trưởng Lê Quang Lưỡng, nghi ngờ rằng địch sẽ tấn công. Nên mặc dù hưu chiến, các đại đội cũng bung ra tuần tiểu, lục soát. Ban đêm lo đặt mìn định hướng Claymore, mìn chiếu sáng, và đào hầm hố chiến đấu phòng thủ cẩn thận. Trong khi Địa Phương quân, Nghĩa quân, Sư Đoàn 1 Bộ binh, hầu như xả trại (hoặc trốn trại) về nhà ăn Tết, chúng tôi được lệnh cấm trại chặc chẻ, đề phòng địch tấn công bất ngờ vào thị xã.
Mồng Một Tết, khoảng 3 giờ khuya, nhằm lúc mọi người đang ngon giấc vì mệt mỏi bởi đêm qua say sưa chè chén trong các buổi tiệc dã chiến, đón Giao Thừa truyền thống đầu năm. Bỗng nhiên mọi người đều tỉnh giấc, vì súng địch đồng loạt khai hỏa khắp mọi nơi.
Chúng tôi vội nhào ra hố chiến đấu và bắn trả mãnh liệt. Đại đội 92 phòng thủ dọc theo bờ làng, lúc đó sương mù dầy đặc, binh sĩ cứ bắn bừa ra ngoài đồng ruộng phía trước mặt.
Qua máy truyền tin, tôi vô cùng sững sờ xúc động: Đại đội 94 đang bị địch tràn ngập. Ban Chỉ Huy Đại đội, trong khuôn viên nhà thờ Tri Bưu, bị tấn chiếm. Đại uý Thừa, Đại đội trưởng, viên Cố vấn Mỹ, Trung uý Lê Phát Lộc, và Nguyễn Văn Hổ, bạn đồng khoá 20 ĐL của tôi, đều bị hy sinh ngay từ đợt tấn công tràn ngập nầy! Chuẩn úy Trần Ngọc Chỉ thấy địch quân quá đông, nên vừa chống trả vừa tìm cách hướng dẫn binh sĩ còn lại rút lui, tránh sự truy kích của địch quân.
Đại uý Thừa, tốt nghiệp khoá 9 Võ Khoa Thủ Đức, là một sĩ quan trẻ tuổi dũng cảm của sư đoàn Dù, đã lập rất nhiều chiến công hiển hách. Đặc biệt trong trận Đại Bàng 800 ở Vùng II Chiến Thuật, anh đã chỉ huy đại đội tấn công và truy sát địch, tịch thu được rất nhiều chiến lợi phẩm, vì thế Tướng tư lệnh Vùng đáp trực thăng tới gắn cấp bậc Đại úy đặc cách cho anh ngay tại chiến trường. Nguyễn văn Hổ rất tốt với bạn bè, chính anh lúc ở quân trường đã dạy tôi đờn vọng cổ bằng Tây Ban Cầm. Còn bạn Lê Phát Lộc thì rất hiền lành, tướng phúc hậu, hai trái tai dài thòng xuống như lỗ tai Phật, bạn bè ai cũng nghĩ anh có phúc tướng, sẽ sống rất thọ, không ngờ chiến tranh thật tàn nhẫn, nó không nể vì một ai!
Thấy Đại đội 94 như vậy, chúng tôi hết sức cẩn trọng, dùng hỏa lực cá nhân và chỉ được yểm trợ bằng súng cối 60 ly cơ hữu. Không có pháo binh, hải pháo, hoặc không trợ hùng hậu, mà bất cứ cuộc hành quân thường lệ của các đơn vị nhảy dù nào cũng phải có.
Sau nầy tôi mới biết, lúc đó anh Đồng Minh Mỹ định giả vờ làm ngơ, để xem tài hai con gà chọi nhau. Thử coi Miền Nam có đủ sức tự lực tự cường, cho đàn anh dễ bề rút tay ra khỏi cuộc chiến đầy tốn kém. Tiện thể vồ anh Việt Cộng một vố lớn, chẳng biết mấy anh Bộ Chính Trị ngoài Bắc và Cục R trong Nam có biết không?
Hừng Đông vừa ló dạng, các trung đội tung ra lục soát và bắt sống hơn 10 tù binh. Chúng toàn trẻ măng, khoảng 16, 17 tuổi; nói giọng Quảng Bình, mặt mày đỏ ngây, ngơ ngơ ngác ngác, thì ra họ đã dùng thuốc “Hùng Binh” của Trung Cộng chế. Thuốc nầy là loại kích thích; khi uống vào thì hăng máu và không hề sợ chết.
Đến 8 giờ sáng, tại Bộ Chỉ Huy Tiểu đoàn đang bị địch đe dọa tấn công, tôi nghe tiếng the thé của Đại úy Đỉnh, sĩ quan ban 3, gọi Thành “Râu” kéo binh về tiếp viện.
Thành Râu ra lệnh tôi dẫn nhanh trung đội, dọc theo Quốc Lộ I, từ Ngã Ba Long Hưng, hướng về Bộ chỉ huy Tiểu đoàn, gần cầu Thạch Hãn, tiếp theo là trung đội của Thiếu uý Minh, và Chuẩn uý Khải.
Chúng tôi đang đi trên Quốc lộ I, vừa tới ngã tư đường về nhà thờ La Vang, gần BCH Trung đoàn 1 BB, thì địch bắn hàng loạt đạn, từ xóm nhà bên trái, tôi vội hô to:
- Địch phục kích trái!
Cả trung đội liền la:
- “Xung phong”!
Và lập tức nhào về hướng phát ra tiếng súng. Chúng tôi vừa bắn vừa hô xung phong vang rền cả khu vực, hai trung đội của Khải và Minh cũng bị lôi cuốn và hành động theo. Binh sĩ chạy vượt qua chòm nhà, vừa xả đạn vừa hô xung phong liên hồi. Chúng tôi tiến mãi tới gò mả, giữa BCH Trung Đoàn 3 BB và bờ làng, thì gặp phải sức kháng cự mãnh liệt!
Tôi và hạ sĩ Đình, mang máy truyền tin, vội nhào nhanh tới hố lõm để tránh đạn. Áo field jacket bị bắn rách tung toé, tôi hoảng hốt vì không biết mình có bị thương hay không? (theo kinh nghiệm: vì đạn vô ngọt xớt nên khi bị thương, không có đau liền). Sau khi lấy lại bình tỉnh, tôi bắn yểm trợ cho Đình nhảy tới sau phên vách đất, rồi Đình bắn yểm trợ lại cho tôi.
Quan sát lại thấy hơn mười binh sĩ bị hy sinh! Có anh vừa bò tới nắm chân tôi vừa nói: “Trung uý ơi em bị thương!”, miệng lẩm bẩm niệm kinh rồi từ từ lịm dần, khiến lòng tôi se thắt!! Đáng thương nhất là hạ sĩ Lực, nhà ở làng Tri Bưu, mới cưới vợ ăn Tết hơn hai tuần lễ, và binh nhất Thương, hằng ngày giúp tôi nấu cơm nhà binh tuy đạm bạc nhưng đầy hương vị đậm đà!!!
Lúc đó từ trong máy truyền tin, tiếng Thành Râu rồi anh Đỉnh, gọi thúc hối tôi dẫn 3 trung đội về BCH Tiểu đoàn. Nhìn lại xác anh em và súng chưa kịp lấy lại được, số thương binh nằm rải rác chung quanh. Hơn nữa danh dự binh chủng Nhảy Dù không thể nào để cho mất súng và mất xác; nhất là xác của các chiến hữu đã hằng ngày tíu tít quấn quít rất dễ thương. Họ đã nhiều phen cùng hoạn nạn, cùng sinh tử, nên tôi quyết định cãi lại quân lệnh.
Tôi nói trong máy với anh Thành Râu:
- Thà là ra toà án quân sự, tôi nhất định không rút, vì binh sĩ và xác chết còn kẹt ở đây.
Rồi bảo Đình phụ nạp đạn, tôi đứng nơi vách đất, vừa nhắm bắn vừa điều động cả 3 trung đội. Minh và Khải thấy tôi la hét “Xung phong” cũng phụ giúp điều động đốc thúc binh sĩ mình. Dựa vào vách đất, tôi có thể quan sát rõ địch đang núp từng chòm mả một; hễ tên nào ló đầu lên thì tôi bắn ngay, khiến chúng hụp xuống. Nhờ vậy anh em ba trung đội cứ nhích lên dần.
Có thể nói đây là trận để đời của tôi, vì hầu như đánh xáp lá cà với lực lượng chính qui và đông đảo quân số của địch. Tôi vừa thúc hối ba trung đội, bằng cách bắn dọa trên đầu họ, vừa hô xung phong, mà mỗi lần chỉ lên được vài bước.
Tôi và Đình cách cây thượng liên của địch khoảng mười lăm thước (chỉ 15 thước nên thấy đầu nòng súng địch rõ mồn một), trong khi đó binh sĩ 3 trung đội dàn dài bên trái, phía sau tôi khoảng 10 thước.
Các binh sĩ đang còn e ngại hỏa lực địch, thì đột nhiên Binh nhứt Nguyễn văn Ba, y tá đại đội, bò sát lên trước và hạ được tên xạ thủ thượng liên. Ba dơ cao súng địch, khiến đồng đội phấn khởi, đứng lên vừa bắn vừa hô xung phong, đuổi địch ra khỏi nghĩa địa. Ba kể lại, khi xạ thủ thượng liên thấy anh chĩa súng bất ngờ, vội đưa hai tay lên, Ba vì súng bị kẹt đạn (lại là y tá nên hơi lạng quạng), anh lính quýnh không dám cho y đầu hàng, sợ hắn biết rồi bóp cò thượng liên, vì thế mới ném lựu đạn để tự vệ.
Binh sĩ đại đội lo thu lượm súng và xác của bạn cùng rất nhiều súng địch. Tám lọ, anh hề của đại đội, ôm một bó súng to, toàn AK-47 và B-40. Đột nhiên một tên bên kia đường tựa gò mả bắn qua, tôi nghe một tiếng “Rẹt”, đáy quần bị bắn rách, rờ thấy “Hắn” còn nguyên vẹn nên mừng hú vía. Đùi bị rướm máu, nhưng chỉ trầy da. Tôi vừa bắn trả cầm chân vừa ra lệnh rút về BCH Tiểu đoàn. Thật là hú hồn, giằng co suốt buổi, tôi đã đứng bắn hàng trăm viên đạn AR-15, áo quần rách tả tơi, mà chỉ bị thương rách một chút xíu ở vành tai trái và bắp đùi phải!
Lúc về BCH, gặp Thiếu tá Nhã, Tiểu đoàn trưởng, ông vẫn giữ vẻ mặt nghiêm, nhưng không trách phạt vi lệnh mà còn bảo anh lính phục vụ kiếm khúc bánh mì cho tôi lót bụng. Còn anh Thành và anh Đỉnh thì cười kín đáo, tỏ ý hân hoan khuyến khích. Nhưng cũng nhờ cú “Bốc đồng” này, nên sau khi về Sàigòn, mặc dù thương tích đầy mình (bị thêm lần nữa tại Hồ Tỉnh Tâm, trong thành nội Huế, vào mùng mười Tết). Nghe tiếng điện thoại của anh Bảo gọi :
- Tiểu đoàn định cho ông làm Đại đội trưởng Đại đội 91, thay thế thằng Mễ, vậy vô đây gấp để nhận bàn giao!
Tôi mừng rỡ trả lời : - Tôi sẽ vô ngay, đích thân!
Vì còn trẻ háo thắng, nên tôi rất vui mừng và chịu bỏ phép nghỉ bịnh, để nhận cái nhiệm vụ làm đại đội trưởng thực thụ của một binh chủng thiện chiến nầy.
Cũng nên nhắc lại một câu chuyện nhỏ về trường hợp đặc biệt của anh Nguyễn Văn Thiện, bác sĩ tiểu đoàn. Đêm ba mươi Tết, anh được mấy bác sĩ bạn, làm ở bệnh viện Tiểu khu, mời tới nhà, để đón giao thừa cho có không khí đầm ấm của gia đình.
Thấy anh nhậu đã say mèm, nên tài xế vội lấy xe Jeep cứu thương, chở về Bộ chỉ huy Tiểu đoàn. Dọc đường có đầy địch nằm phục kích sẵn hai bên, nhưng rất may là lúc đó họ chưa có lệnh đồng loạt tổng công kích, nên chúng không dám khai hỏa, sợ hỏng kế hoạch chung. Thật là hú vía nếu anh ở trể chừng một tiếng đồng hồ, thì chắc lãnh đủ!!
Sáng Mùng 3 Tết, thị xã Quảng Trị tổ chức tuyên dương công trạng bảo vệ thành phố của Tiểu đoàn 9 Nhảy Dù, dân chúng đa số là người công giáo di cư năm 1954. Tinh thần chống Cộng rất cao, họ đem nhiều quà tặng cho chúng tôi, nào bánh chưng, bánh tét, dưa món,...còn có cả vòng hoa nữa. Nhưng quý giá nhất là ở tấm lòng chân thật và lời cám ơn giản dị : ... “Nhờ các ‘En’ mà thành phố Quảng Trị không bị chi cả”...Phải, chúng tôi chiến đấu chỉ vì thế thôi:
“Sự Bình An của dân chún

B). Mặt Trận Trong Thành Nội Huế.

Sáng hôm sau tiểu đoàn được chở cấp tốc bằng trực thăng Chinook vào giải tỏa thành nội Huế. Để tránh phòng không địch, phi công chỉ bay là đà sát ngọn cây, vậy mà cũng có một số bị thương vì đạn AK từ dưới bắn lên!
Bãi đổ quân là một sân trống, trước bệnh viện Nguyễn Tri Phương, trong đồn Mang Cá. Lúc nầy tình hình Huế vô cùng bi đát! Địch đã làm chủ hết các cổng thành và bờ cao kiên cố, chỉ còn lại một góc nhỏ là đồn Mang Cá.
Tại đây, Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Sư Đoàn 1, đang chỉ huy cố thủ bằng những “Lính kiểng” cơ hữu. Mặc dù hằng ngày chịu đựng nhiều loạt pháo, họ vẫn bảo vệ được đồn, trong đó chứa hàng ngàn thương binh.
Trước khi kể đến cuộc quần thảo của Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù với sư đoàn chính qui của Việt Cộng trong Thành Nội, tôi muốn nói qua về Tướng Ngô Quang Trưởng, một vị tướng mà toàn quân hết sức khâm phục. Ngoài đức tính liêm khiết (nhứt Thắng, nhì Chinh, tam Thanh, tứ Trưởng). Ông còn là người đầy mưu lược, lễ độ, và vô cùng dũng cảm.
Trong trận tái chiếm Quảng Trị năm 1972, ông đã dùng kế hoạch “Phong Lôi” rất tài tình. Do biết rõ địch đã gài nhiều nội tuyến trong các đơn vị, nhất là Bộ Binh và Địa Phương Quân. Ông lừa địch bằng cách phổ biến ngày N, sẽ cho quân Dù và Thủy Quân Lục Chiến vượt sông Mỹ Chánh tái chiếm Quảng Trị. Đối phương được tin, vội dàn quân tăng cường dầy đặc, gồm bộ binh chủ lực, hỏa tiễn 122 ly, chiến xa T-54, phòng không 30 ly,...dọc theo bờ Bắc sông Mỹ Chánh, để chuẩn bị nghênh chiến.
Nhưng vào ngày N, Tướng Trưởng đã cho B-52 rải thảm suốt đêm, dọc theo tuyến án ngữ của địch. Ban ngày thì pháo binh, phản lực, và hải pháo luân phiên nã vào vị trí đối phương, khiến địch không có một phút nào yên ổn, để ngốc đầu trốn chạy. Thật đúng như là bị “Thiên lôi đánh”!
Chờ vài ngày sau, biết địch không còn dám dàn quân như thế nữa. Họ phòng thủ hời hợt, vì tưởng ta chỉ pháo dọa chứ không dám làm thiệt. Đúng lúc đó, Tướng Trưởng đích thân dùng trực thăng ban khẩu lệnh cho từng đơn vị trưởng. Các Chiến đoàn Dù lập tức vượt sông vào lúc 1 giờ khuya, bên phải Quốc lộ I có Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến, tất cả đồng loạt khởi binh!
Mới 8 giờ sáng đã nghe Tiểu đoàn 1 Nhảy Dù tịch thâu tới 11 khẩu phòng không 30 ly! Đây là chiến lợi phẩm lớn nhất từ trước tới giờ. Trong vòng một thời gian ngắn, Tiểu đoàn 11 Dù đã bắn cháy hơn mười chiến xa T-54, và Thủy Quân Lục Chiến đã chiếm được cổ thành Quảng Trị.
Ngũ Giác Đài và các tướng lãnh Mỹ và Pháp hết sức ngạc nhiên. Trước đây họ chỉ đánh giá cao tướng VC Võ Nguyên Giáp ở trận Điện Biên Phủ, nhưng tướng Giáp đã dùng chiến thuật biển người, phải nướng hơn trăm ngàn bộ đội. Cộng Sản đã bất chấp mọi thủ đoạn để đạt được mục đích theo chủ thuyết Duy Vật: “Cứu cánh biện minh cho phương tiện”.
Tướng Giáp quả đúng là “Nhất tướng công thành vạn cốt khô”. Tướng Trưởng trái lại, ông quý trọng và giữ gìn sinh mạng của từng người lính. Ông cũng khuyến khích, kiểm soát và chỉ dẫn cho từng sĩ quan, dù là sĩ quan cấp trung đội.
Tướng Trưởng còn là người biết trọng lễ nghĩa, khi nghe Tướng Đống ra Huế, ông đã đến phi trường sớm, và ra tận cầu thang máy bay tiếp đón người thầy cũ của mình. Mặc dù lúc đó hai người cùng cấp bậc, nhưng SĐND thì trực thuộc quyền chỉ huy của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Vùng I Chiến Thuật. Tướng Đống cũng rất biết điều, mỗi lần họp hoặc nhận lịnh Quân Đoàn, ông thường cho Tư Lệnh Phó ra mặt. Riêng ông có mặt ở Huế để đốc thúc và trấn an các quân nhân trong SĐND (Vì các đơn vị trưởng rất nể trọng Tướng Tư Lệnh; có mặt ông, họ sẽ làm việc siêng năng hơn).
Tướng Trưởng còn là người rất can đảm, mặc dù địch đã làm chủ hầu hết thành nội Huế, Đồn Mang Cá như chỉ mành treo chuông, nhưng ông vẫn cùng các lính kiểng ở lại cố thủ một diện tích nhỏ hẹp, ngày đêm chịu đựng mưa pháo, để bảo vệ an toàn cho hàng ngàn thương binh. Ông còn là người rất năng động nhiệt thành trong mọi công việc. Khi còn là Tiểu đoàn Trưởng TĐ5ND, lúc chạm địch, ông xung phong trước hàng quân. Ông đã chỉ huy linh động tài giỏi giành thế chủ động chiến trường, dù trong những tình thế khó khăn,...Trận Đỗ Xá ở Quảng Ngải năm 1965, trận Liên Kết năm 1966 đã đưa Tiểu đoàn nầy được hơn 6 lần tuyên dương trước quân đội và tiểu đoàn được đeo dây biểu chương màu Đỏ.
Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, đơn vị xuất sắc đã cung hiến cho QLVNCH tám vị Tướng lãnh tài ba: Nguyễn Chánh Thi, Ngô Quang Trưởng, Trương Quang Ân, Hồ Trung Hậu, Đỗ Kế Giai, Lê Quang Lưỡng, và hai vị tướng đã hiển danh “Vị quốc vong thân”: Tướng Phạm Văn Phú và Nguyễn Khoa Nam.
Sư Đoàn 1 rồi Quân Đoàn I, dưới tay ông, đã làm khiếp vía địch quân ở vùng Hỏa Tuyến.
Bây giờ xin trở lại trận chiến Tết Mậu Thân tại thành nội Huế. Về tình hình địch, bộ đội Bắc Việt từ hướng Tây Bắc, vùng thung lũng A Shau, A Lưới vừa xâm nhập, phối hợp với du kích địa phương, chĩa nhiều mũi dùi tiến vào cố đô Huế. Hướng Tây từ quận Nam Hòa, Nam Giao băng qua cầu Bạch Hổ chiếm cửa Chánh Tây. Hướng Bắc từ rặng Trường Sơn, qua chùa Thiên Mụ, Kim Long. Hướng Đông từ Đồng Xuyên, Mỹ Xá, dọc theo La Vân Thượng tới An Hoà chiếm cửa Đông Ba. Cánh cuối cùng từ Phú Thứ, Đập Đá, qua cầu Trường Tiền chiếm cửa Thượng Tứ.
Về tình hình bạn, đại đội Hắc Báo của anh bạn cùng khóa Phan Gia Lâm đang bị bao vây trong Đại Nội. Tiểu đoàn 2 Nhảy Dù và Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù sáng Mùng 1 Tết, chạy băng đồng marathon gần 20 cây số từ Sịa, Quảng Điền, và cây số 17, An Lỗ về giải cứu cố đô (Hai tiểu đoàn bị chận lại ở An Hoà mãi tới mùng 3 mới vào được BTL Sư đoàn 1 BB). Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù chúng tôi ở mặt trận Quảng Trị đã hao hơn trăm chiến sĩ, tới Huế vào trưa mùng 4 Tết, tạm bố trí trong đồn Mang Cá.
Sáng Mùng 5 Tết, chúng tôi xuất phát để tái chiếm phi trường Tây Lộc và Cửa Chánh Tây. Vừa mới ra khỏi đồn được 200 thước, tôi gặp Thiếu tá Lê Minh Ngọc, Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù đang dẫn binh đi ngang qua. Hỏi thăm thì biết lúc nầy quân số của Tiểu Đoàn 2 và 7 Nhảy Dù chỉ còn phân nửa! Họ bị thiệt hại nặng từ đêm Giao Thừa khi chiếm đầu cầu An Hòa, và đã giao tranh với địch trong Thành Nội mấy ngày qua. Chỉ 3 ngày mà đơn vị bạn đã hao quá nhiều. Chúng tôi ai nấy mặt mày bí xị, vì mình sắp sửa tiến vào vùng tử địa! Không biết ai còn, ai mất, đúng là:
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo thái sơn nhẹ tựa hồng mao
(Chinh Phụ Ngâm)
Khi vào tới gần tường thành Đại Nội, chúng tôi thấy phía trước có nhiều bóng đen thấp thoáng và nghe vài tiếng súng lẻ tẻ. Cả đại đội dàn quân xung phong, gặp một số người mặc áo đen giơ tay đầu hàng. Hỏi ra mới biết đó là binh sĩ của đại đội Hắc Báo. Gặp lại bạn đồng khoá Phan Gia Lâm, hai đứa bắt tay mừng mừng lo lo. Lâm nói giọng Huế:
__ Lính mi sao còn nhiều quá vậy? Lính của tao chuồn về nhà ăn Tết gần hết!
Hỏi thăm Lâm về tình hình phía trước, rồi chúng tôi thận trọng tiến dọc theo bờ kinh, thẳng về hướng phi trường L-19 ở Tây Lộc. Khu nầy nhờ Tiểu đoàn 2 và 7 Nhảy Dù đã dọn sẵn, nên chỉ chạm địch lẻ tẻ, thỉnh thoảng có vài binh sĩ bị bắn tỉa từ phía bên kia bờ kinh. Sau khi chiếm phi trường, tiểu đoàn tiến về cửa Chánh Tây. Đánh trong thành phố thật không dễ, chúng tôi phải phá tường, leo cửa sổ để di chuyển. Các ngõ hẻm, cao ốc, đường cái, và ngả tư, đều có thượng liên địch chực sẵn.
Khi đến gần cửa Chánh Tây, tôi thấy có rất nhiều địch đội nón cối, tay đang cầm súng Ak-47, B-40, đi qua lại trên bờ thành. Chúng tôi chờ trời tối cho khinh binh lén leo lên dùng lưỡi lê đánh cận chiến, chiếm được một góc thành làm đầu cầu cho đại đội nhào lên bắn ào ạt khiến địch trở tay không kịp. Dùng cách nầy tuy tổn thất nhiều, nhưng vì địch quân đã có lợi thế bờ thành cao trên 5 thước, nếu không liều mạng vào hang cọp thì làm sao bắt được cọp con. Càng dây dưa trì hoãn thì càng tổn thất tiêu hao dần dần, rốt cuộc không có thành quả gì. Trong hai ngày tiểu đoàn chiếm lại được cửa Chánh Tây và bàn giao lại cho Sư đoàn 1 BB trấn giữ. Chúng tôi bọc ngược trở lại để chiếm cửa Đông Ba .
Tại đây có cây thượng liên đặt nơi cửa thành cao và rất kiên cố, chúng tôi thử xung phong nhiều lần mà không lên được cửa. Trung đội tôi lúc ấy còn 21 người, nhưng do khí thế chiến thắng từ Quảng Trị và cửa Chánh Tây vừa rồi, nên binh sĩ rất tự tin. Đợi ngay khi điều chỉnh pháo binh dập nát khẩu thượng liên, cả trung đội vừa bắn vừa hô xung phong tiến nhanh lên và chiếm được cửa thành. Thấy tên xạ thủ thượng liên chết nằm trên súng, hai chân bị khoá bằng dây xích.
Kiểm điểm quân số lại thấy chỉ còn mười người nguyên vẹn. Mười một mạng người chết và bị thương, để đổi lấy cửa thành nầy đây. Lính Nhảy Dù trả nợ máu cho quê hương miền Nam, lấy lại sự thanh bình cho đồng bào xứ Huế. “Chúng tôi không cầu an lạc dễ dàng mà chỉ khát khao gió mưa cùng nguy hiểm”. Gần ba mươi năm qua, trên đất Mỹ, tôi vẫn nhớ cảm giác cay cay đau đớn khi đứng trên cổng thành đổ nát của mùa xuân năm xưa! Mùa Xuân rây máu của xứ Huế mù trời sương đục, tang tóc đau thương!
Mấy ngày sau, tiểu đoàn tiếp tục mở rộng kiểm soát các khu vực bên trong Thành Nội. Sáng Mùng 10, chúng tôi chuẩn bị vượt qua hồ Tỉnh Tâm để tìm cách đánh lấy lại cửa Thượng Tứ, cửa chính Nam, đi thẳng vào Đại Nội. Suốt tuần lễ, người không tắm rửa, chân không rời đôi giày trận, sống giữa màn trời chiếu đất, lót dạ bằng những chén cháo trắng. Tuy lương thực không được tiếp tế, nhưng lúc đó không ai ăn vô nổi, vì hằng ngày nhìn thấy xác chết đầy đường, không có người thu dọn. Chúng tôi sống với và giữa những người chết, họ là những người dân đã sống trong chịu đựng và chết trong oan khiên. Họ đã chết cho ai, vì ai?.. Bao nhiêu năm câu hỏi vẫn còn, không được ai đứng ra lãnh trách nhiệm trả lời.
Trung đội vượt qua hồ Tỉnh Tâm phía ngoài Cầu Kho, tiến vào lục soát ngôi biệt thự khá sang trọng. Khi vừa rút ra khỏi nhà, thì nghe “Đùng” một tiếng, một quả lựu đạn hay súng cối gì đó rơi đúng vào giữa đội hình trung đội tôi! Mọi người đều ngã lăn vì trúng mảnh đạn. Lưng tôi bị đầy mảnh, máu ướt đẩm cả áo trong lẫn áo ngoài.
Tôi đang kiệt sức dần, thì bỗng nhiên thấy một tên lính địch chạy qua nhà tôi đang nằm. Trong khi tên bộ đội chưa phát giác, do từ một phép lạ hoặc bản năng sinh tồn, tôi đứng dậy, chạy băng về bộ chỉ huy đại đội, các anh em binh sĩ cũng nhanh chân rút theo. Mắt loáng thoáng nhìn thấy Đại đội trưởng Thành Râu từ xa, tôi kiệt sức ngã lăn nằm bất tỉnh trước sân đất trước nhà.
Lúc tỉnh dậy, thấy mình đang nằm trên lầu của một biệt thự sang trọng. Anh bạn tốt là bác sĩ Thiện mượn mền để đắp cho tôi nhưng chủ nhà không chịu. Tối đến thấy trên mình có cái mền mới tinh, nhưng nó bị trượt qua một bên, vết thương bắt đầu hành sốt, người run lập cập. Tôi định kéo mền lên đắp, nhưng dở tay không nổi, đành nằm chịu trận! Nhìn xung quanh thấy có vài thương binh bị nặng quá đã hy sinh, còn những người khác thì mê man. Sáng ra mới biết anh Thiện đã lén “Mượn tạm” mền để đắp cho tôi. Sau đó nghe nói chủ nhà nầy là kinh tài (hãng xe bus vàng) của Việt Cộng. Hắn ta cùng bọn nằm vùng đã làm nội tuyến hướng dẫn bộ đội vào thành, quấy nhiễu dân chúng, gây bao nhiêu cảnh chết chóc, lầm than cho những kẻ vô tội trong ba ngày Xuân.
Hơn một tuần quần thảo trong thành nội, Tiểu đoàn 9 Dù còn thảm hơn hai Tiểu đoàn Dù bạn. Quân số còn lại những người nguyên vẹn không quá một trăm!
Lúc chuyển quân ra Vùng I Chiến Thuật, Tiểu đoàn cần tới 5 chiếc vận tải cơ C-130, nhưng trở về với một chiếc mà còn thấy rộng. Riêng Trung đội 1 của tôi thì coi như báo cáo tổn thất “ Nằm, ngồi ”(chết, bị thương) là 100%.
Để diễn tả về trận chiến Tết Mậu Thân tại Vùng Giới Tuyến nầy, tôi xin phỏng theo hai câu thơ bất hủ ở mặt trận An Lộc, Bình Long:

Cố đô Huế Mậu Thân chiến tích
Chiến sĩ Dù vị quốc vong thân!

(Chương 3 còn tiếp)

Trương Dưỡng. K20
nguồn: http://www.dtruong.com/stories/MotCanhHoaDu_unicode.htm

BachMa
10-15-2017, 02:59 AM
Hồi Ký Một Cánh Hoa Dù
Trương Dưỡng - K20


Chương 3 (tiếp theo)

Kể Chuyện Hành Quân (hay Buồn Vui Đời Lính)

9.Trận Chiến Vùng Ven Đô hay Tết Mậu Thân Đợt II


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1508035253-Chuong3B_KeChuyenHanhQuan01.jpg

Sau khi về hậu cứ ở trong trại Hoàng Hoa Thám, cả tiểu đoàn được xả trại một tuần, lúc đó tôi đang nằm chữa trị tại bệnh viện Đỗ Vinh thì Thiếu tá Bảo, Tiểu Đoàn Phó, gọi về tiểu đoàn để nhận bàn giao chức vụ đại đội trưởng Đại đội 91 Nhảy Dù. Rồi ra nhà hàng Bồng Lai dự tiệc khao quân của Tiểu đoàn trưởng.
Trung Tá Nhã, Đại uý Thành,...đã được thăng cấp đặc cách mặt trận, riêng tôi vì mới lên Trung uý vài tháng nên được Nhành Dương Liễu (anh dũng bội tinh tuyên dương trước quân đội) và hai chiến thương bội tinh (bị thương ba chỗ: lỗ tai trái, đùi phải, tại trận Quảng Trị, và lưng mang đầy mảnh cắm sâu vào nhiều nơi hiểm quá nên không dám mổ!).
Lợi dụng tiểu đoàn xả trại, tôi vội lên xe đò về quê thăm vợ con. Nhưng phải ghé qua Cần Thơ lo tìm máy bay, vì đường về Vĩnh Bình bị phá đứt nhiều đoạn và chưa được an ninh.
Tối hôm đó, tôi vào ngủ tạm nhà Vãng Lai của Quân Đoàn IV. Tại đây gặp một Thiếu tá khoá 4 Thủ Đức, anh nầy đưa tôi ra phi trường Trà Nốc kiếm được phi công L-19 chở về Trà Vinh. Sau nầy tôi có ghé thăm anh ở đường Nguyễn Minh Chiếu, Phú Nhuận; anh dẫn tôi vô Phòng Ba Tổng Tham Mưu để gặp bạn cùng khoá là Trưởng Phòng (hoặc phụ tá Trưởng Phòng gì đó?). Lúc ấy tôi đang mang cấp bậc đại uý, đủ tiêu chuẩn, nên anh ghi tên trong danh sách khoá 4 Quân Chánh để học xong sẽ làm Quận Trưởng. Vì cứ đi đánh giặc triền miên, tôi cũng muốn an nhàn một lúc để được sống gần vợ con. Nhưng Sư Đoàn Dù hỏi vị tiểu đoàn trưởng có chịu cho đi không và tôi thất vọng vì họ không muốn mất đi con gà chọi cứng cựa nầy!
Về tới Vĩnh Bình, người Dì Sáu của bà xã bảo chúng tôi lại ở chung, vì xung quanh tỉnh lỵ vẫn còn du kích, mỗi tối chúng cứ bắt loa tuyên truyền từ bên kia bờ sông. Lúc đó tôi còn vết thương đầy lưng chưa lành, mỗi ngày nhờ bà xã thay băng. Nằm trên lầu mà xung quanh giường ngủ chứa toàn là đồng hồ, máy may, radio, cassette,....cũ (Vì đây là tiệm cầm đồ và bán vàng).
Khoảng nửa tháng sau thì tiểu đoàn di chuyển ra Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp để “Trui rèn” lại. Vì lần nầy hao tổn quá nhiều, tân binh bổ sung cần được huấn luyện giống y tiểu đoàn mới tân lập như hai năm về trước (trong vòng có hai năm mà có quá nhiều thay đổi, không biết rồi đây hai năm tới nữa sẽ ra sao?). Cuộc hành quân thao dượt cuối khoá kỳ nầy đặc biệt hơn lần trước, toàn bộ TĐ9ND sẽ thực tập nhảy dù trận, tất cả quân nhân, xe Jeep, GMC, và cả các khẩu pháo 105 ly cũng được thả dù từ phi cơ C-123 xuống một khu rừng, cách thị xã Bà Rịa khoảng 10 cây số. Sau khi nhảy xuống, các đại đội tác chiến bỏ dù tại chỗ và lập tức nhào lên tấn công mục tiêu chỉ định. Toán tiếp liệu lo thu nhặt dù, pháo binh lo bãi để kịp thời làm màn khói cho cuộc thao dượt.

Trước khi vào đề về trận chiến Mậu Thân Đợt II, tôi muốn nói sơ về “Người ở lại Charlie” Nguyễn Đình Bảo. Anh xuất thân trường VBQG Khóa 14 Đà Lạt. Từng là võ sĩ huyền đai nhu đạo, nhưng anh rất khiêm tốn hiền hòa, thường giúp đỡ đàn em; khi lâm trận, anh lúc nào cũng có mặt ở tuyến đầu .
Có lần Đại đội tôi được chỉ định đi tiền phong và chạm nặng tại rừng Long Giang, Tây Ninh, gần Bộ Chỉ Huy Cục R. Căn cứ vào hầm hố và vũ khí, thì quân số địch ước lượng cỡ cấp trung đoàn. Với phòng không và hỏa tiễn 122 ly liên tiếp dội đúng vào đội hình của chúng tôi. Lúc đó anh Bảo chỉ ngồi cách tôi khoảng 20 thước, đột nhiên đứng dậy đi về phía tôi, thì bỗng nghe “Ầm” một tiếng. Một quả pháo rơi đúng ngay chỗ anh vừa ngồi. Thật là hú vía, nếu quả đạn sớm chừng 30 giây thì Nhật Trường sẽ không có thể đặt ra bài ca nổi tiếng “Người ở lại Charlie” sắp kể sau đây :
Chuyện xảy ra vào lúc mùa hè đỏ lửa, khi đó Trung tá Bảo là Tiểu Đoàn Trưởng TĐ11ND. Đơn vị anh đóng quân trên trục ngã ba (trục nhánh, nối tiếp của đường mòn Hồ chí Minh từ Lào, để chở quân, vũ khí tại Tân Cảnh, Kontum) nhằm ngăn chận các tuyến tiếp tế của địch từ Bắc vào Nam. Vì vậy đỉnh Charlie là cái gai mà VC phải nhổ bằng mọi giá. Họ đã pháo kích thường xuyên và tung nhiều đợt tấn công trận địa, với sự yểm trợ hùng hậu của chiến xa T-54, hỏa tiễn 155ly, và 122ly. Anh Bảo, anh Mễ, và ngay cả bác sĩ, truyền tin, cùng y tá tiểu đoàn cũng phải ôm súng ra hố chiến đấu, để chống trả lại các đợt tấn công tiền pháo hậu xung vô cùng ác liệt của địch.
Một hôm, Lữ Đoàn Trưởng đáp trực thăng xuống Charlie để thị sát, tôi cũng tháp tùng để vào thăm toán Tác Chiến Điện Tử (lúc đó tôi làm Biệt Đội Trưởng trực thuộc Phòng Hành Quân Sư Đoàn), do thiếu uý Chinh làm Trưởng Toán.
Anh Bảo chỉ cho phái đoàn thấy con đường đất to lớn (ăn thông với đường mòn Hồ Chí Minh ở bên Lào), nằm cheo leo giữa sườn đồi, chính nơi đây xe vận tải địch đã từng chạy qua lại suốt đêm, giống như “Xa lộ không đèn”.
Bác sĩ tiểu đoàn chỉ vào các dãy đồi xung quanh, nơi địch thường đặt súng từ bên kia núi bắn thẳng vào Charlie. Tôi thấy Chinh và các chiến sĩ Tiểu Đoàn 11 ND, mặt mày bơ phờ hốc hác, có lẽ vì hôm qua phải thức suốt đêm, để chống trả lại các đợt tấn kích của địch. Khi tôi vừa về tới căn cứ Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn khoảng vài tiếng đồng hồ, thì bỗng nghe báo cáo trong máy truyền tin rằng địch bắt đầu pháo kích Căn Cứ Charlie dữ dội. Ngay sáng hôm sau, chúng tấn công ồ ạt và đã xung phong tràn ngập căn cứ.
Bất ngờ, một tin như sét đánh ngang tai: Trung Tá Nguyễn Đình Bảo đã hy sinh vì một trái pháo loại xuyên phá nổ chậm rơi trúng ngay hầm của anh!! Lúc đó tôi đứng trong phòng Trung Tâm Hành Quân Tiền Phương Sư Đoàn, thấy Tướng Dư Quốc Đống, Tư Lệnh SĐND và các Sĩ Quan Tham Mưu, ai nấy đều bàng hoàng xúc động!...
Tôi nghe trong máy truyền tin, tiếng anh Mễ báo cáo là địch đã vào tới BCH Tiểu Đoàn, chúng tràn ngập căn cứ. Anh xin phi pháo oanh tạc ngay đỉnh Charlie, đồng thời mở đường máu rút lui. Đại tá Lương (đang xử lý Lữ Đoàn II) bảo Mễ cố gắng lấy xác anh Bảo. Lúc đó anh Mễ, anh Hải đã bó sẵn vào poncho định khiêng về; nhưng địch đã tấn công ồ ạt quá, nên hai người đành cắn răng bỏ lại! Hơn nữa hôm đó Thiếu tá Mễ còn phải điều động và dẫn dắt cả đơn vị vượt núi, băng rừng đồng thời tìm cách tránh phục binh truy kích của địch.
Căn Cứ Charlie chẳng những chôn vùi xác anh hùng Nguyễn Đình Bảo mà còn nhiều chiến sĩ dũng cảm khác, trong đó có Thiếu úy Chinh của Biệt Đội chúng tôi! Chị Bảo với cảnh vợ góa con côi, đã vận động các nơi lập hội giúp đỡ cô nhi quả phụ. Sau ngày mất nước, trước khi qua Mỹ, tôi có đến từ giả Chị, trông thấy cảnh nhà thật tiêu điều, đồ đạc bán sạch, để lấy tiền trang trải cho con trai cưng của anh Bảo, tên Bảo Tường, đang theo Đại Học Y Khoa. Qua lời anh Có, trung tá Quân Cảnh, ở nhà đối diện, nói chị là người đức hạnh, hiền thục trong cư xá sĩ quan Chí Hoà, khiến ai nấy đều khâm phục.
Bây giờ xin bắt đầu câu chuyện “Tôi tham dự các trận đánh vùng Ven Đô”. Lúc tiểu đoàn đang tập nhảy dù trận, thì được lịnh khẩn cấp về Sàigòn để chống trả cuộc Tổng Tấn Công Đợt II. Khi các phi cơ C-47 đưa chúng tôi về tới phi trường Tân Sơn Nhứt, Đại Đội 91 của tôi được điều động thẳng đi bảo vệ Dinh Độc Lập. Các đại đội khác ở tại Hậu Cứ tiểu đoàn, ứng chiến 100%.
Để bảo vệ vòng ngoài Phủ, tôi bố trí các trung đội tại vườn Tao Đàn, trường JJ Rousseau, trường Đại Học Văn Khoa, Bộ Ngoại Giao, và Ban Chỉ Huy Đại Đội cùng Trung Đội 4 đóng ở cao ốc Nguyễn Du, cạnh nhà báo Thời Luận của Tướng Tôn Thất Đính. Lúc mới vừa đóng quân xong, Tướng Đính cho anh sĩ quan cận vệ tới gọi tôi qua văn phòng gặp ông. Có lẽ với tình hình đang hỗn độn mà được đơn vị Nhảy Dù tới ở bên cạnh, thì thật là yên tâm. Tướng Đính vỗ vai tôi và nói:
__ Em có cần gì qua giúp đỡ hay không?
__ Dạ thưa không, cám ơn Trung Tướng.
Sau khi xuề xòa đôi câu, ông bảo anh cận vệ đưa tôi đi ăn một bữa cơm xã giao thịnh soạn.
Tối đến, khoảng 2 giờ khuya, chợt nghe nhiều tiếng súng nổ hướng trường Đại Học Văn Khoa, tôi vội bắt máy truyền tin, nghe Chuẩn uý Trứ báo cáo có nhiều bóng đen mang súng, xuất hiện ở đường Gia Long. Tôi vội dẫn Trung Đội Chỉ Huy tới ngay hiện trường; đến nơi thấy binh sĩ của Trứ đã tước súng của mấy anh cảnh sát trước nhà hàng Thanh Thế. Ngay sau đó, trong phủ Tổng Thống, nghe có tiếng súng nổ, Đại tá Trưởng Phòng Cận Vệ Nhan Văn Thiệt, Thiếu Tá Tư (khoá 13 ĐL), và một số sĩ quan cận vệ chạy xe Jeep có gắn đại liên đến. Tiếp đó bên cảnh sát Đô Thành có các ông Cò Quận Nhì, Cò Long bót Lê Văn Ken, Cò He bót Tao Đàn cũng đều có mặt. Đây chỉ là một sự hiểu lầm, vì nửa đêm khuya vắng, binh sĩ của Trứ thấy bóng người mang súng, không biết đó là cảnh sát. Lúc ấy trùng hợp với sự pháo kích bằng nhiều loạt đạn hỏa tiễn 122 ly, phát xuất từ bên kia Thủ Thiêm.
Trước mặt Đại tá Thiệt và mấy ông Cò, các Cảnh sát viên mặt mày hãy còn ngơ ngác nói :
- Lính Nhảy Dù bộ mình đồng da sắt, sao không sợ chết gì hết vậy? Vừa nghe tiếng súng là đã thấy họ hô xung phong và nhào tới như chớp, khiến chúng tôi hết hồn chưa kịp trở tay, thì đã bị họ tước súng rồi!
Đại tá Thiệt, Thiếu tá Tư, người nào cũng có đeo bằng Dù trước ngực, nghe nói cũng hãnh diện lây, nên cứ cười hỉ hả khoái chí. Sáng hôm sau, không biết các anh báo cáo với Tổng Thống thế nào, mà họ đã chở vào vườn Tao Đàn cho một xe vận tải chất đầy những thùng đồ hộp Ration C và còn có thêm mấy chục ngàn tiền thưởng để ủy lạo binh sĩ.
Thật ra trong những lúc tập dượt đội hình chiến đấu và phản ứng cấp thời khi chạm địch. Tôi thường giải thích với binh sĩ là khi bị địch bắn, dù mình có quay lưng chạy, cũng không thể nào nhanh hơn tầm đạn bay và dễ dàng làm mục tiêu cho địch từ từ ngấm bắn. Nếu ta cứ liều mạng hô xung phong (để áp đảo tinh thần) và nhào tới bắn trả, địch sẽ khiếp sợ quíu tay, do đó có thể từ đường tử, tìm đường sanh. Đơn vị tôi đã dùng chiến thuật nầy nhiều lần và rất hữu hiệu, chẳng hạn như trận vừa rồi ở ngã tư nhà thờ La Vang đã kể ở phần trên. Lúc ấy dân chúng có nói lại: vì chúng tôi xung phong thần tốc quá, nên có một số địch còn kẹt lại, trốn kỹ trong hầm trú ẩn của nhà dân, chờ rút đi họ mới dám ló đầu ra.
Từ đó về sau, mỗi buổi sáng, Thiếu tá Đỗ Quang Tư và các sĩ quan trong Phủ thường tới rủ tôi đi ăn điểm tâm. Cò Long bót Lê văn Ken cũng thường dẫn đi ăn ở các nơi sang trọng trong Thủ Đô như khách sạn Lê Văn, Nam Đô, tôm cá Phù Tang ở Cầu Kho. Lần nào tôi cũng có gọi máy rủ anh Bảo đi chung. Cò Long biết sĩ quan Dù không có tiền, anh thường lén đút vào túi tôi và có lần khi hành quân ở Tây Ninh, anh đã gởi cho cặp rượu Martell, đang ở trong rừng mà có rượu ngon, thật là quí vô cùng.
Lúc đó tại chợ Cây Quéo, Gò Vấp, Tiểu đoàn 9 Dù đang chạm địch mạnh. Liên Đoàn 81 Biệt Cách được lịnh tăng cường 2 đại đội(trong đó có một Đại đội trưởng là Bùi Cao Thăng, K20ĐL,hiện định cư tại Nam Cali) để làm thành phần tấn công đột kích càn quét đám du kích. Nơi đây chúng đang bám trụ trong Tịnh Xá Trung Tâm, cạnh chuồng ngựa. Tiểu đoàn trưởng, Trung tá Nhã, đề nghị rút đại đội tôi từ phủ Tổng Thống về tăng cường. Sư đoàn đã đánh đi nhiều công điện, nhưng có lẽ vì anh Tư, anh Thiệt cố tình giữ lại, nên chần chờ hết vài hôm.
Mãi tới khi có tin đại đội trưởng Tèo tử trận, họ mới chịu buông cho đại đội đi. Cũng vì sự chần chừ trì hoãn nầy, khiến vị Tiểu đoàn trưởng nổi giận. Khi đại đội vừa xuống tới Cây Quéo, trong một ngày mà ông bắt đánh hết mặt Nam rồi lại qua mặt Tây. Dẹp xong mặt Tây rồi lại tới mặt Bắc.
Đánh trong Thành phố thật khó khăn vô cùng, thường phải leo cửa sổ, chui qua tường, vì các ngõ hẻm đều có súng thượng liên địch chực sẵn. Lúc đó có nhiều Phóng viên Chiến trường đi theo chụp ảnh phỏng vấn, họ cũng rất gan dạ, đi theo sát cuộc tiến quân. Khi đến mặt Bắc thuộc khu vực chuồng ngựa, tại đây địch kiên trì cố thủ, chúng tôi phải dùng thật nhiều lựu đạn cay và thùng “Cà rem” E8 hơi ngộp. Khói cay bay mịt mù khắp khu vực, địch chịu không nổi phải chạy bỏ điểm cố thủ, nhờ vậy mới chiếm được tịnh xá của Ni sư Huỳnh Liên. Ngược lại binh sĩ cũng bị cay mắt tơi bời, dù có đeo mặt nạ mà cũng chịu không nổi. Tôi bị cay mắt quá, phải chạy đi tìm lu nước, úp mặt một thời gian mới đỡ được phần nào.
Đụng trận suốt ngày, Đại đội tôi bị tổn thất khoảng năm người, thật là một ngày dài trong đời binh nghiệp! Chỉ một ngày mà dẹp yên được vùng Cây Quéo; đây cũng nhờ địch đã thấm mệt vì bị thiệt hại nhiều khi chạm trán với các Đại đội Dù tới trước, và đã chịu các trận đột kích tài tình của các chiến sĩ Biệt Cách 81. Nhất là nhờ sự dũng cảm của anh em Đại đội 91 Dù cùng với loạt hơi cay mù mịt, khiến chúng dù có ngoan cố bám trụ (danh từ VC) tới đâu cũng giống như chuột trốn kín trong hang, cũng đành phải chịu chui ra khỏi ổ. Trận nầy tuy toàn thắng, nhưng địch không theo lời kêu gọi đầu hàng. Họ đã nghe đồn tin vịt là lính Nhảy Dù dữ tợn, nếu đầu hàng sẽ bị móc mắt cắt lỗ tai, nhờ vậy TQLC hưởng trọn chiến quả, vì địch đã đầu thú toàn bộ với họ.
Sau khi dẹp yên chợ Cây Quéo, thay vì được về hậu cứ nghỉ dưỡng quân, nhưng BTL Sư đoàn lại điều động Tiểu đoàn 9 ND ra thẳng vùng Ven Đô. Chúng tôi bố trí quân gần Ấp Đồn, thuộc quận Hốc Môn. Tại đây, Chiến Đoàn II ND do Trung tá Hùng chỉ huy. Họ đã giáp trận với đối phương nhiều lần, ở phía Tây Bắc hãng bột ngọt Vị Hương Tố. Địch quân đang dấu mình trong các vườn trầu thuộc xã Tân Thới Hiệp, cách phi trường Tân Sơn Nhứt khoảng 5 cây số.
Một sáng chủ nhật nọ, Đại đội 91 được lệnh đi tuần tiểu lục soát khu vực phía Nam Ấp Đồn. Khi toán khinh binh vừa băng qua đường đất đỏ, nối giữa Nhị Bình và Ấp Đồn, thì bị một tràng AK-47 từ trong rừng rậm phía trước bắn ra. Chuẩn uý Trọng, trung đội trưởng, vội dàn quân hàng ngang, vừa bắn vừa hô “Xung phong”, đuổi địch tới tận bờ sông (nhánh sông Sàigòn).
Tại đây, chúng tôi phát hiện ra rất nhiều thùng đạn còn mới tinh (có lẽ địch chuyên chở tới bằng ghe thuyền, hoặc buộc vào những khúc gỗ, thả trôi theo dòng nước từ vùng thượng lưu). Tôi cho lệnh lục soát và bố trí xung quanh “Kho đạn nổi” khổng lồ nầy! Với hàng trăm thùng đạn có thể chở bằng nhiều xe GMC. Đặc biệt nhất là Hỏa tiễn 122 ly, 175 ly, ngoài ra còn rất nhiều đạn B-40, AK-47,... Khoảng một giờ sau, phi cơ trực thăng chở các vị tướng Westmoreland, Cao Văn Viên, Dư Quốc Đống cùng nhiều Sĩ quan Tham mưu cao cấp. Tháp tùng trực thăng còn có Phóng viên, Ký giả của các Nhật Báo lớn ở Thủ Đô. Họ tới nhanh và đông đủ như vậy, vì đây là lần đầu tiên trong cuộc chiến, quân ta đã tịch thu được nhiều hỏa tiễn 122 ly, ở một nơi rất gần phi trường Tân Sơn Nhứt, bộ Tổng Chỉ Huy Quân Lực Hoa Kỳ, Bộ TTM, và Thủ Đô Sàigòn.
Với số hỏa tiễn nầy mà bắn vào thành phố, thì không thể nào tưởng tượng nổi sự thiệt hại về nhân mạng, nhà cửa. Nhất là vấn đề tâm lý, sẽ ảnh hưởng rất lớn lao đến tình hình chính trị lúc bấy giờ. Các báo chí đều có đăng trang đầu, hình tôi đứng cạnh hỏa tiễn 122 ly cao quá tầm đầu. Sáng hôm sau, anh Bảo gọi tôi lên xem công điện của Tướng Mỹ, trong đó có lời khen thưởng toàn thể quân nhân các cấp ĐĐ91ND.
Đúng một tuần lễ sau, cũng lại vào ngày chủ nhật (trên tờ huy chương Oak Leaf With “V” Device đính kèm ghi ngày 24/3/68), ngày mà ai nấy đều nghỉ học nghỉ việc để xả hơi. Lúc đó tôi định lên tiểu đoàn, nói với anh Bảo để xin về Phú Lâm, dự đám cưới của cô bạn gái, là em họ của Kiệt, một bạn thân cùng khóa. Nhưng anh Bảo nói, tiểu đoàn vừa mới nhận được lệnh khẩn là cho các đại đội tung ra tuần tiểu, vì có tin địch đang tăng cường xâm nhập để chuẩn bị cuộc Tổng Công Kích đợt II. Đại Đội 91 được chỉ định đi lục soát vườn cau, phía bên kia bờ rạch. Tôi cho các trung đội đi theo đội hình quả trám: Trung đội 3 của Chuẩn uý Trứ đi đầu, tiếp theo là Ban Chỉ Huy đại đội. Bên sườn phải có Thiếu úy Phấn, cánh trái có Thiếu úy Hoè (Khóa 22 ĐL), bọc hậu có Chuẩn úy Trọng. Mặc dù gọi là đi tuần tiểu lục soát, nhưng các khinh binh lúc nào cũng giữ đúng đội hình. Nhờ vậy khi khinh binh Học vừa qua tới giữa cầu khỉ thì bỗng nghe tiếng súng AK bắn từ bờ bên kia, nhờ phản xạ tự nhiên, Học nhảy đại xuống con rạch cạn, Trung đội cánh phải vội dàn ngang bờ rạch bắn yểm trợ cho Trung sĩ Lương dẫn tiểu đội đi đầu chiếm bờ bên kia để làm đầu cầu.
Vừa qua khỏi cầu khỉ, tôi thấy thấp thoáng tổ báo động của địch đang chạy dọc theo bờ rạch (thẳng góc với con rạch chúng tôi vừa băng qua). Chuẩn úy Trứ cho khinh binh vừa bắn vừa rượt theo tới vườn cau, khi cách chòm nhà có vườn cau bỏ hoang chừng 100 thước, thì bị địch từ trong bắn ra nhiều loạt đạn. Trứ cho toàn thể trung đội dàn trận tựa vào bờ ruộng bắn xối xả vào. Tiểu đội 1 bắn yểm trợ cho 3 khinh binh Võ, Học, và Đông dùng đội hình chân vẹt tiến chiếm bờ làng làm đầu cầu. Nhưng Học mới lên vài bước thì bị bắn trúng bụng, Trứ điều động Tiểu Đội 2 lên tiếp ứng, mặc dù đạn bắn như mưa, nhưng Võ và Đông cùng vài chiến sĩ cũng can đảm liều mạng nhào lên kéo Học ra phía sau để kịp di tản vì máu ra rất nhiều. Do quyết tâm cứu đồng bạn, 2 binh sĩ khác bị hy sinh ngay tại chỗ! Tôi gọi về Tiểu đoàn xin Nguyễn Tống Hiến (bạn cùng khóa) bắn súng cối 81 ly yểm trợ sơ khởi, đồng thời xin một đại đội yểm trợ sườn phải. Vì bên đó có nhiều địch, chúng đang núp trong bờ rạch bắn vào chúng tôi.
Trung úy Fix, cố vấn đại đội, lập tức xin phi cơ lên yểm trợ. Không đầy 1 giờ sau, Thiếu tá Bảo đã tới ngay bên cạnh tôi. Ban Chỉ Huy ở phía sau lưng Trứ, nơi có bờ ruộng và chòm cây che phủ, đối diện với vườn cau. Tôi điều chỉnh phi cơ, pháo binh, và súng cối luân phiên dập vào vị trí địch, để họ không thể ngửng đầu dậy bắn vào binh sĩ của Trung đội 3.
Lúc ấy Trứ và anh em binh sĩ đều đang kẹt ngoài đồng trống, họ chỉ tựa vào những bờ đê nên thật là nguy hiểm. Trứ báo cáo có một số binh sĩ đang bị kẹt ngay trong vườn cau! Khoảng 2 giờ sau thì Đại đội 94 của Tâm mới tới, nhìn thấy anh đang đứng hỏi chỉ thị của anh Bảo để bố trí quân, tôi vội la lên bảo ngồi thấp xuống. Anh vừa nhích người thì đã bị một viên đạn bắn trúng ngay cánh tay, máu phun ra từ vết thương như vòi nước (Có lẽ đạn đã xuyên qua động mạch), nếu anh trể chừng 1 giây, viên đạn có thể trúng ngực. Anh phải mang ơn cứu mạng của tôi, nghe anh Tâm!.
Nơi chỗ tôi ngồi có nhiều cần “Ăng ten” máy truyền tin, địch thường dùng súng trường CKC nhắm bắn vào. Suốt cả ngày, tôi chỉ có thể điều chỉnh pháo binh, phi cơ, mà không thể điều động đơn vị vượt lên chiếm vườn cau được; vì địch có lợi thế núp trong hầm hố kiên cố và chống trả mãnh liệt.
Khoảng 6 giờ chiều, trời bắt đầu chợp tối; Thiếu tá Bảo cho lệnh rút ra bên nầy bờ suối, để tái võ trang và kiếm chút gì ăn lót bụng (trong những lần chạm địch, nhiều khi cả ngày không ăn gì mà chẳng cảm thấy đói). Khi tôi gặp Tiểu đoàn trưởng, thấy mặt ông buồn vì đại đội đã bị kẹt lại 4 người không thể lấy xác được. Trung tá Nhã, mặt nghiêm nghị hỏi:
__ Mầy còn dám vô trở lại nữa, hay để cho thằng Thành?
Đang bực vì chưa lần nào bị thảm thiết như lần nầy! nên tôi trả lời:
__ Để tôi tiếp tục!
Rồi tôi đưa đại đội trở qua bên kia cầu, đóng quân xung quanh bờ ao làm tiền đồn. Binh sĩ không còn sức để đào hầm hố, nơi đây cách chỗ địch khoảng 800 thước. Chúng tôi cả ngày giáp trận, giày không kịp cởi, cơm chẳng muốn ăn, không tắm rửa, không nghỉ ngơi; nhưng không ai chợp ngủ được vì sợ địch phản công bất ngờ. Thấy Fix nằm ngó trời trăng, mặt mày tư lự nhưng có vẻ bình tỉnh, không sợ chết như một số người khác. Tôi vỗ vai anh như an ủi, Fix nhìn tôi mỉm cười khuyến khích, khiến lòng tôi nguôi bớt cơn phiền muộn! Nghĩ đến trách nhiệm của người chỉ huy, nhớ đến xác các chiến hữu còn kẹt lại ở trận địa, và nhất là nhớ đến gương mặt nghiêm nghị của vị Tiểu đoàn trưởng, lòng tôi thấy bùi ngùi như bị kim châm!
Sáng sớm hôm sau, tiểu đoàn cho Đại đội 93 của Trung úy Phước đến yểm trợ cánh phải. Chúng tôi thận trọng tiến về vườn cau, bây giờ thì phía bên Phước đang chạm địch, còn Đại đội tôi sau khi thụt đại bác 75 ly, quạt đại liên tới tấp vào mục tiêu, các khinh binh đi đầu thận trọng chạy theo kiểu chân vạc. Lúc họ chiếm được bờ vườn cau làm đầu cầu, thì 2 trung đội dàn ngang tiến lên. Sau khi chiếm được mục tiêu, tôi cho binh sĩ thu dọn xác anh em và chia nhau lục soát toàn bộ vườn cau.
Bỗng tin mừng đưa đến tới tấp, Chuẩn úy Trứ báo:
__ Trình đích thân, Duy Tân 3 thu được 1 súng cối, 1 thượng liên, 2 B-40, 3 CKC, và 12 Ak-47.
Chuẩn úy Trọng nói trong máy:
__ Duy Tân, đây Duy Tân 1, chúng tôi thu được 1 súng cối 61 ly, 2 Thượng liên, 3 B-40, 2 CKC, và 8 Ak-47 .
__ Duy Tân (biệt hiệu truyền tin của tôi) nghe rõ, khá lắm!
Bên Thiếu úy Phấn và Thiếu úy Hoè cũng báo về tới tấp. Nhìn thấy hầm hố có nắp kiên cố xung quanh vườn cau, căn cứ vào 2 súng cối và hố chiến đấu thì quân số địch ước lượng cấp tiểu đoàn. Nghe tin, Trung tá Nhã lập tức băng ruộng tới nơi, mặt ông hớn hở, vội báo cáo chiến lợi phẩm về Chiến đoàn. Ông vừa cười vừa bắt tay tôi :
__ Thành thật chia buồn và chúc mừng mày, Dưỡng !
(Chia buồn vì một số binh sĩ đã hy sinh, còn chúc mừng vì dựa vào vị trí kiên cố của địch mà Đại đội 91 lại có thể đánh bật họ ra và thu lượm được quá nhiều chiến lợi phẩm).
Thông thường thì lực lượng tấn công phải cần gấp ba lần lực lượng phòng thủ, nhưng các đơn vị Dù có thể dùng quân số ít hơn và hỏa lực yểm trợ hùng hậu, cũng có thể thành công và thu lượm nhiều chiến quả, đem lại vinh dự cho màu cờ binh chủng. Nhờ có 3 phi tuần khu trục và 3 phi tuần Gunship, cùng pháo binh và súng cối của Hiến yểm trợ liên tục. Số hỏa tập đều rất gần chúng tôi, đôi khi còn nằm trong tầm sát hại; nhất là của khu trục phản lực. Tôi phải điều chỉnh hướng thả của phi cơ bằng đường ngang hông, nếu thả hướng dọc sẽ rất nguy hiểm, vì đà của các mảnh bom có thể tạt trúng đơn vị bạn. Tầm văng xa của mảnh bom tới 500 thước mà Ban Chỉ huy Đại đội ở cách địch khoảng 200 thước, Trung đội của Trứ thì còn gần hơn nữa (Đây một phần cũng nhờ học khóa Điều Không Tiền Tuyến ở Trường Pháo Binh, cùng học lý thuyết ở VB Đà Lạt).
Trận nầy có thể nói là do ở sự dũng cảm của anh em Đại đội 91 Nhảy Dù và sự yểm trợ hữu hiệu của phi pháo mà chúng tôi đã chuyển bại thành thắng. Đơn vị Nhảy Dù thường chạm trán với lực lượng chính qui địch, ngoại trừ trận Tết Mậu Thân đợt I, lúc nào chúng tôi cũng có hỏa lực yểm trợ hùng hậu. Vì thế trận địa có khó khăn, hung hiểm cách nào, chiến sĩ Dù vẫn có thể hoàn thành nhiệm vụ cấp trên giao phó.
Trung tá Nhã (sau nầy tử trận ở Vùng I) là vị sĩ quan gương mẫu, mặt lúc nào cũng nghiêm nghị, nhưng ông thưởng phạt rất công minh. Chẳng hạn như trận nầy, căn cứ vào số chiến lợi phẩm thu được, chiến đoàn phân phối cho Tiểu đoàn 9 Dù:
. 2 Anh dũng Bội tinh với nhành Dương liễu.
. 10 ngôi Sao vàng.
. 20 ngôi Sao bạc.
. 50 ngôi Sao đồng.
. và nhiều Cấp bậc được đề nghị tân thăng.
Trung tá Nhã đã dồn hết cho Đại đội 91 Dù và để tôi toàn quyền phân phối định đoạt. Chính đích thân Đại tá Nguyễn Khoa Nam, Lữ Đoàn Trưởng LĐ III ND, đã đến hậu cứ để trao gắn huy chương và các cấp bậc tân thăng. (Tôi và anh Tâm được nhành dương liễu, anh Bảo và các Trung đội trưởng của tôi cùng khinh binh được ngôi sao vàng,..). Một tháng sau, Đại tá Nam lại đích thân đến Ấp Đồn, chứng kiến viên Cố Vấn gắn riêng cho tôi một huy chương US với “V” Device kèm Nhành Dương Liễu của quân lực Mỹ. Trong buổi tiệc tiếp tân dã chiến đãi ở dịp gắn huy chương nầy, Trung tá Nhã đã nói đùa chọc Đại tá Nam :
__ Dưỡng, mầy nói Đại tá cho 50 ngàn tiền thưởng đi, lúc trước Đại tá có nói, hễ ai bắt được cán bộ nằm vùng của VC thì Quận trưởng Hốc Môn sẽ thưởng tiền.
Tôi thấy Đại tá Nam đỏ mặt, vì ông nổi tiếng liêm khiết làm gì có tiền mà thưởng cho tôi! Mặc dù Đại đội 91 vừa bắt được một cán bộ địch, với súng K-54 tại bờ rạch, trong khu 18 Thôn Vườn Trầu. Đại tá Nguyễn Khoa Nam sau làm Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn IV ở Cần Thơ, ông đã anh dũng tuẫn tiết khi Miền Nam bị rơi vào tay Cộng Sản ngày 30/4/1975!
Ông là một sĩ quan rất thanh liêm, tận tụy, và luôn luôn thương yêu chăm sóc cho từng binh sĩ trực thuộc. Tuy tuổi đã quá tứ tuần mà vẫn còn độc thân. Năm 1970, sau khi bị thương nhiều lần, tôi được thuyên chuyển về làm việc tham mưu dưới quyền của ông, lúc đó BCH LĐIIIND đang đóng ở hãng Khải Vinh, Phú Lâm. Dịp nầy tôi được gần gũi ông nhiều nhất; bản tánh rất sợ đàn bà, như trường hợp Dược sĩ L. rất mến ông, bà thường vận động giúp đỡ bệnh viện Đỗ Vinh (Bệnh Viện của Sư Đoàn Dù) đến bạc triệu. Vậy mà khi bà tới hãng Khải Vinh thăm, ông không ra tiếp và bảo là đã đi vắng.
Tôi thường theo ông bay trực thăng vòng vòng khắp vùng hành quân, nhiều khi máy bay hết xăng, về đổ tiếp rồi bay nữa, khiến bao tử tôi bị nhồi quá nên khó chịu hết sức! (có lẽ ảnh hưởng của mười mấy mảnh đạn còn ghim sâu trong mình). Một hôm tôi theo ông tới thăm Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù, lúc đó Tiểu đoàn Trưởng về thăm vợ sanh, nên chỉ có Thiếu tá Nguyễn Chí Hiếu, Tiểu đoàn phó, đón tiếp.
Thấy Trung tá Vỹ, TĐT/TĐ5ND, đi vắng, Đại tá Nam nói :
__Vợ sanh mà cần gì phải về thăm, có bà mụ lo được mà.
Thiếu tá Hiếu cười cười :
__ Đại tá chưa có vợ nên không biết, thật ra sự hiện diện của người chồng rất an ủi khích lệ cho người vợ lúc lâm bồn!
Đại tá Nam nghe nói xong, hai lỗ tai đỏ ửng hình như nghe đến chuyện vợ con thì mắc cỡ vậy. Bởi còn độc thân, nên ông cứ xung phong đi hành quân hoài, do đó các sĩ quan Tham mưu Lữ Đoàn cũng mệt theo !
Đổi về làm công tác tham mưu nhưng tôi vẫn nhớ đến những ngày còn ở đơn vị Tác chiến, nhớ đến các chiến sĩ Đại đội 91 Nhảy Dù, nhất là những lần đơn vị được điều động đến tiếp viện và giải vây các trại LLĐB ở vùng biên phòng như trại Bến Sỏi, Phước Tân, Thiện Ngôn, Kà Tum,.............ở vùng mật khu Dương Minh Châu, Bời Lời, đồn điền Vên Vên, bến Gò Nổi, Rừng Long Giang, Lò Gò, Xóm Giữa,... thuộc mặt trận Tây Ninh, mà tôi sắp kể tiếp theo đây:

10. Mặt Trận Tây Ninh (1968-1969)


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1508035269-Chuong3B_KeChuyenHanhQuan02.jpg

Trong trận chiến tại Việt Nam, vị trí địa dư của vùng bán đảo Đông Dương đã khác hẳn với vị trí vùng bán đảo Triều Tiên. Cả hai quốc gia cùng bị chia cắt, nhưng Nam Hàn nhờ biển bao bọc nên sự xâm nhập và phá hoại không dễ dàng như ở Miền Nam Việt Nam, mà rừng núi trùng điệp chạy dài suốt dãy Trường Sơn là nơi có đường mòn Hồ chí Minh xuyên qua hai lân bang Lào và Khmer.
Hai nước nầy là loại trung lập thiên tả. Lào thì mặc nhiên bất lực, còn Khmer thì công khai dung dưỡng bọn Trung ương cục Miền Nam trên nội địa của họ để làm căn cứ xuất phát các cuộc tấn công vào Miền Nam, rồi sau đó rút về cứ địa an toàn Cam Bốt. Sihanouk đã cho quân đội Bắc Việt và VC trú quân trên lãnh thổ Khmer, khiến quốc gia nầy gần như bị mất chủ quyền. Vì thế dân chúng Căm Bốt vốn dĩ đã từng có mối hận thù truyền kiếp, nay họ nhân cơ hội nầy nổi dậy để chống đối và biểu tình đòi hỏi phải có thái độ dứt khoát đối với việc đóng quân của Cộng Sản.
Cuối cùng họ tổ chức biểu tình rầm rộ với sự ủng hộ của Sư sãi, sinh viên, quân đội,... đột nhập vào sứ quán Cộng Sản Bắc Việt đập đồ, cướp phá, và nổi lửa thiêu sạch hồ sơ giấy tờ. Sihanouk vận động Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa dùng áp lực buộc VC rút quân, nhưng không thành. Vì thế Lon Nol và Quốc Hội đồng thanh truất phế vị Quốc Trưởng đã điều hành quốc gia nầy hơn 15 năm. Chính vì sự dung dưỡng của Sihanouk bấy giờ, nên Bắc Việt mới xử dụng được đất đai của Campuchia làm căn cứ địa để chuyển vận vũ khí, tập trung lực lượng tổ chức các cuộc Tổng công kích Tết Mậu Thân năm 1968. Vì thế chiến trường Tây Ninh trở nên sôi động vào các năm 68,69,70.
Sau khi phản công đẩy lui địch ra khỏi thành phố Sài gòn và vùng Ven Đô, TĐ9ND được chỉ định trấn giữ các trọng điểm trong Sàigòn. Đại đội 91 của tôi đóng ở kho đạn Gò Vấp, Đại đội 94 của anh Tâm trấn giữ khu vực ở kho Năm Khánh Hội. Lúc bấy giờ có một số sĩ quan mới về như Chuẩn úy Tường và Chuẩn úy Phúc làm Trung đội trưởng cho tôi, Lê Mạnh Đường ở ĐĐ90 rồi về ĐĐ92 của Thành Râu. Trạch thuyên chuyển đi Tiểu đoàn 3, Chí “Bệu” đi Tiểu đoàn 6, Bảo bị thương ở vai nên về chỉ huy tân binh ở trại Vương Mộng Hồng.
Các đại đội nghỉ tại đây khoảng nửa tháng thì có tin tức địch đã rút về hướng Tây Ninh, nơi tiếp cận căn cứ địa Trung ương Cục miền Nam (Cục R) của Việt Cộng.

a).Trận Đồn Điền Vên Vên

Tiểu Đoàn được về hậu cứ nghỉ một tháng, rồi được xe GMC chở lên Đồn điền cao su Vên Vên để tăng phái cho Quân Đoàn III. Vừa bố trí quân xong, trực thăng chở Tướng Đống và Tướng Đỗ Cao Trí đáp xuống Bộ chỉ huy Tiểu đoàn.
Tôi thấy tướng Trí cầm cây “Can” chỉ vào bản đồ hành quân như ban lệnh cho Trung tá Nhã, trong khi tướng Đống đứng kế bên chăm chú lắng tai nghe một cách nghiêm cẩn (Tướng Đống rất tôn trọng vị Cựu Tư lệnh Sư Đoàn Dù cũ của mình). Tướng Trí là một sĩ quan kỳ cựu và tài ba trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa, ông từng lãnh đạo Sư Đoàn Nhảy Dùø và Quân Đoàn III gặt hái nhiều thành quả trong các cuộc hành quân quy mô nổi tiếng. Đặc biệt ông đã cho dùng chiến thuật “Diều Hâu”, lưu động và thần tốc, trong mặt trận vùng Tây Ninh và Căm Bốt rất hữu hiệu. Như trận càn quét địch ở kamPong cham, thay vì điều động cả Chiến đoàn dàn quân trận địa, mới có thể kiểm soát bao quát toàn khu vực, ông chỉ cho 2 đại đội đổ bộ bằng trực thăng đánh mục tiêu nầy, rồi bốc lên bỏ vào khu vực khác.
Suốt ngày đơn vị Dù nầy được trực thăng vận đi khắp tỉnh KamPong Cham, giống như diều hâu đáp xuống xớt cá. Khiến các tổ trú ẩn của Việt Cộng trong địa phận nầy không kịp tránh né, không kịp trở tay, đâu đâu cũng báo cáo bị quân Dù tập kích. Do đó địch bị rối loạn hàng ngũ, bỏ chạy tứ tán, làm mồi cho những khẩu đại liên của các trực thăng võ trang.
Trung tướng Đỗ Cao Trí rất có uy quyền, oai phong của một cấp chỉ huy. Một sáng thứ hai nọ, tôi ôm bản đồ theo Đại tá Nguyễn Khoa Nam vào họp hàng tuần tại Phòng Hành Quân của Biệt Khu Thủ Đô (Lúc đó Bộ Chỉ Huy Lữ đoàn III đóng ở hãng Khải Vinh, Phú Lâm, trực thuộc Quân Đoàn III đang hành quân vùng Lê Minh Xuân, bảo vệ Vòng Đai Sàigòn). Tướng Trí chủ tọa buổi họp, người thuyết trình đầu tiên là Trung tướng Nguyễn văn Minh, Tư lệnh Biệt Khu Thủ Đô :
- Kính thưa Trung tướng, thưa quí vị, hôm nay tình hình Biệt Khu Thủ đô...
Sau khi thuyết trình xong, Tướng Trí, vẫn ngồi ở ghế bành, miệng ngặm ống điếu, tay cầm cây “Can”, chỉ thị và hỏi nầy nọ, Tướng Minh nghiêm chỉnh trả lời rành mạch, xong tướng Trí khẽ nghiêng đầu (chứ không nhìn thẳng mặt) qua bên viên tướng Cố Vấn Mỹ, chỉ chỉ này nọ. Trong khi tướng Mỹ cung kính chồm người tới vừa gật gật cái đầu như tỏ ý lắng nghe vừa ghi chú lia lịa. Tôi nhìn cảnh đó thấy ông thật là oai phong chẳng những với người mình mà cả luôn người Mỹ nữa. Tới phiên Đại tá Nam, tôi vội đem bản đồ treo lên bảng, trong khi ông thuyết trình, thì tôi lấy que chỉ theo trên khu vực hành quân của Lữ đoàn. Tôi cố gắng giữ cho đừng khớp vì trong phòng thuyết trình toàn là tướng, tá, chỉ có mình tôi là cấp đại úy nhỏ nhất!
Tướng Trí sau nầy bị tử nạn trực thăng tại phi trường Trảng Lớn, Tây Ninh. Cái chết của ông có nhiều nghi vấn, vì ông chủ trương đánh chiếm Căm Bốt, điều nầy trái với ý của người Mỹ. Họ cho ông quá hiếu chiến, trong khi đó với chiến thuật diều hâu của ông, chỉ cần dùng sư đoàn Dù và TQLC trong một tháng là có thể chiếm được toàn cõi Căm Bốt. Vì ông tức giận họ đã để cho Việt Cộng làm căn cứ an toàn trên đất Khmer, từ đó chúng đưa quân vào phá hoại Miền Nam VN.
Trở lại trận đánh ở đồn điền cao su Vên Vên, Trà Võ. Tiểu đoàn vừa đóng quân xong, ngay đêm đó địch đã pháo kích nhiều quả vào đơn vị, như thách thức đoàn quân Dù. Sáng hôm sau, Đại Đội 91 được chỉ định đi “Tùng thiết” làm mũi dùi tấn công, mục tiêu là một ngôi làng bỏ hoang, chính nơi đây đêm qua địch đã đặt hỏa tiễn 122 ly và súng cối pháo vào vị trí đóng quân của tiểu đoàn. Khi gần tới bờ làng thì bị địch quân bắn ra ào ạt, chúng tôi nhảy nhanh khỏi Thiết vận Xa M-113 tìm các mô đất hoặc dựa theo chiến xa bắn trả lại. Các xạ thủ đại liên trên M-113 bắn quạt vào mục tiêu; sĩ quan tiền sát lập tức điều chỉnh pháo binh; Cố Vấn Mỹ gọi Khu trục và gunship tới bắn dập vào mục tiêu. Sau khi hỏa lực yểm trợ vừa ngưng, chúng tôi cùng chiến xa vừa bắn vừa chạy ào vô mục tiêu. Nhưng có lẽ địch đã kịp thời bổ sung toán trừ bị trám vào chỗ giao thông hào đã bị pháo dập, nên họ vẫn tiếp tục bắn trả mạnh mẽ, khiến chúng tôi phải khựng lại.
Bỗng một chiếc M-113 bị B-40 địch bắn đứt dây xích, tôi đưa Trung đội 2 của Phấn tới bắn yểm trợ cho xạ thủ và tài xế nhảy ra khỏi xe. Địch thật kiên trì, chúng tôi phải dùng mọi hỏa lực yểm trợ mà họ vẫn chưa chịu chém vè. Đánh nhau tới trời ngả bóng, chúng mới lợi dụng đêm tối di tản thương binh và rút lui dưới những loạt mưa pháo bắn rải truy kích của pháo đội Dù. Đêm đó Thiếu úy Phấn la chí choé vì Trung đội anh nằm giữ chiến xa đứt xích, bị pháo cận phòng của ta bắn gần quá, sợ các mảnh văng trúng nguy hiểm cho binh sĩ!
Sáng ra Đại đội tôi thận trọng tiến vào mục tiêu, thấy hầm hố kiên cố của địch thật nhiều! Các lò Hoàng cầm, chõng tre, và những giao thông hào có nắp che, chứng tỏ địch ở đây nhiều cỡ cấp tiểu đoàn, thảo nào hôm qua chúng có đại bác bắn đứt dây xích và coi thường chi đoàn thiết vận xa. Nếu không có hỏa lực hùng hậu của phi pháo thì TĐ9ND với chi đoàn Thiết vận xa phải trầy da tróc vảy và chưa chắc đã đánh bật được địch ra khỏi những hầm hố quá kiên cố nầy. Sau khi lục soát, chúng tôi tịch thu được một số vũ khí và đạn dược do địch lo chém vè thủ thân nên không kịp thu lượm tàn cuộc.
Tiểu đoàn phân bố lục soát xong dừng quân tại đây một đêm. Sáng hôm sau, Thiếu tá Bảo chỉ huy hai Đại đội 91 Dù và Đại đội 92 Dù đi cánh phải, thành phần còn lại do Trung tá Nhã chỉ huy đi cánh trái. Tất cả tiến về các mục tiêu đã chỉ định, nơi nghi ngờ địch đã rút quân về đó. Đại đội 92 của anh Thành đi đầu được khoảng hai cây số đường rừng cao su thì chạm địch lẻ tẻ, Thiếu tá Bảo điều động Đại đội tôi lên chận cánh phải để hốt các tên tẩu thoát do Thành phá ổ.
Bên cánh trái của Trung tá Tiểu đoàn trưởng cũng gặp nhiều chốt cầm chân, có lẽ để cho chủ lực quân của địch kịp thời rút sâu về mật khu an toàn. Họ không ngờ quân Dù của chúng ta dám đuổi chúng tới cùng đường như vậy. Từ lâu nay họ làm chủ khu vực nầy, gây khó dể cho các cuộc hành quân của SĐ25BB, ĐPQ, và Dân Vệ các xã xung quanh.
Đây là lần đầu tiên chạm trán với hỏa lực mạnh và đơn vị thiện chiến, khiến Cộng quân hoang mang, chưa đánh đã lo chạy. Các chốt địch lần lượt được bứng sạch. Tiểu đoàn tiếp tục bung rộng, rồi đóng đồn lập căn cứ, tổ chức các cuộc hành quân tuần thám, đột kích cấp đại đội vào trong những nơi gọi là mật khu an toàn của địch. Các đơn vị chỉ chạm lẻ tẻ, địch thấy chúng tôi ở lì trong vùng nầy nên quyết định bỏ đi. Đem quân về ẩn trú tại mật khu Bời Lời và Dương Minh Châu.
Tiểu đoàn bàn giao khu vực nầy lại cho Địa Phương quân trấn giữ, chúng tôi được đưa vào thị trấn Tây Ninh nghỉ xả hơi, tại đây tôi và các bạn đi tham quan Toà thánh Cao Đài ở trong khu vực chợ Long Hoa. Các Cửu Trùng Đài, Hiệp Thiên Đài, được xây cất hết sức uy nghi tráng lệ. Tôi thấy các tín đồ Cao Đài thờ cả Phật lẫn Chúa, cùng Văn Hào Victor Hugo, và Giáo chủ của họ là Đức Ông Phạm Công Tắc. Họ cũng đặt ra những chức sắc như Lễ Sanh, Thượng Sanh,...
Từ chợ Long Hoa, họ có mở con đường rất rộng hướng về Nam Vang, nơi Giáo Chủ Phạm Công Tắc đã từng sống lưu vong. Chúng tôi đi tới núi Bà Đen, tại đây có lăng mộ của tướng Cao Đài nổi danh thời TT Ngô Đình Diệm, ông đã bị bắn chết tại giữa cầu bắc ngang qua Khánh Hội, mà sau nầy đặt tên cầu Trịnh Minh Thế.

b). Trong Mật Khu Bời Lời

Nghỉ dưỡng quân một tuần lễ, Tiểu đoàn được trực thăng vận vào mật khu Bời Lời, nằm khu vực phía Đông Nam Thị xã Tây Ninh. Đại đội tôi vừa nhảy khỏi máy bay đã bị địch từ trong chòm cây bắn vài tràng AK, một binh sĩ bị trúng đạn tử thương ngay tại chỗ. Cả đơn vị lập tức vừa hô “Xung phong” vừa bắn và chạy vào bờ rừng, khiến địch sợ hãi, trở tay không kịp, kẻ lo chém vè, người nào chần chờ thì giơ tay đầu hàng.
Bây giờ mới lo kiểm điểm lại đơn vị, thì thấy có một tử trận và 5 binh sĩ bị thương. Y tá đại đội băng bó vết thương, tất cả được trực thăng di tản về bệnh viện Đỗ Vinh ở hậu cứ Hoàng Hoa Thám. Chúng tôi tiếp tục tiến sâu vào mục tiêu, khám phá rất nhiều hầm hố kiên cố, trong đó có Trung Tâm Hành Quân rộng lớn và nằm sâu dưới mặt đất. Đây là nhờ trực thăng đổ bộ chớp nhoáng, nên địch không kịp ra giao thông hào nghênh chiến, chỉ có những tên lính gác và các tên ở gần hướng bãi đổ quân chống trả yếu ớt, do đó chúng tôi chỉ bị tổn thất nhẹ và chiếm được mục tiêu mà không cần phi pháo yểm trợ (chúng tôi lúc đó giống như những con chim diều hâu nhào xuống từ trực thăng để chụp bắt những con cá đang bơi lơ đễnh).
Sau khi thu dọn chiến trường, trực thăng lại đáp xuống bốc chúng tôi thả xuống một khu rừng khác, cách đấy 5 cây số về hướng Bắc. Vì phi cơ quan sát L-19 thấy địch đã chạy về chòm rừng nầy. Lợi dụng địch chưa kịp đào hầm hố, tiểu đoàn cho phi pháo dập trước, rồi nhào trực thăng xuống hốt thêm một mớ. “Chiến thuật Diều hâu” tuy rất mệt nhưng kết quả vô cùng khả quan, địch không kịp trở tay và ta đỡ tốn hao sinh mạng, mà vẫn thu hái được nhiều thành quả không ngờ.
Bốc chỗ nọ, thả xuống chỗ kia, làm suốt một tuần thì mật khu rộng lớn nầy coi như bị các đơn vị Dù cày nát. Tiểu đoàn lại được đưa về Thị Xã dưỡng quân và nhận tiếp tế lương thực, đạn dược, bổ sung quân số, để chuẩn bị cho cuộc hành quân diều hâu kế tiếp vào một mật khu khác. Ra thị xã kỳ nầy, lúc rảnh rỗi chúng tôi thường ra chợ ăn hủ tiếu gà ở Quán Cây Me, đường đi lên Thiện Ngôn. Hủ tiếu tại đây không thua gì phở gà Hiền Vương ở Tân Định. Đặc biệt họ đựng hủ tiếu trong những tô to lớn và thịt gà thật nhiều, nước lèo rất ngon.
Sau đó tiểu đoàn được xe chở vào Quận Khiêm Hạnh, nằm ở hướng Đông Nam của Tỉnh lỵ. Tại đây mỗi ngày các đại đội thay phiên nhau vô tuần tiểu lục soát tại các khu rừng xung quanh quận lỵ, thỉnh thoảng thọc sâu vào mật khu Bời Lời coi chúng có còn dám trở lại lập căn cứ để đưa quân vào phá quấy quận Khiêm Hạnh như trước kia không?

C). Hành Quân Tại Mật Khu Dương Minh Châu

Tại quận Khiêm Hạnh khoảng nửa tháng, Chúng tôi được về Sàigòn nghỉ xả trại một tuần, các sĩ quan vẫn được mời ăn ở nhà hàng Bồng Lai như thường lệ.
Một hôm tôi rủ anh Bảo, Thành, Tâm, Phước, và bác sĩ Thiện vào nhà Chế Ký, chị họ của bà xã, nhà ở gần cầu Chà Và; để cho anh Sây, chồng chế Ký, trổ tài nấu các món ăn tàu với bào ngư, vi cá, và nấm đông cô ngon chẳng thua gì ở nhà hàng. Anh Thành, anh Bảo thích nhất là cách uống trà tàu đặc biệt của anh Sây. Những chun nhỏ, trước khi châm trà, được anh dùng nước sôi tráng nóng. Trà đựng đầy trong một ấm bằng đất đỏ (giống như chun), dùng nước sôi tráng bỏ nước đầu, rồi mới rót vào chun còn nóng, mọi người cầm lên ngửi thấy mùi trà thơm rất đặc biệt (khác với trà ướp Sói Lâm Đồng). Khi mỗi người uống chừng ba chun thì cảm thấy bụng nhẹ nhàng vì đồ ăn dầu mỡ đã bị tiêu hoá hết. Anh Tâm, anh Thiện khoái chí cứ cười mím chi cọp hoài!
Nghỉ tại hậu cứ 1 tháng, tiểu đoàn nhận lệnh ra hành quân tuần tiểu tại vùng Ven Đô, nhằm ngăn ngừa địch xâm nhập phá rối Thủ Đô. Giống như lần trước, khu vực trách nhiệm là Ấp Đồn, Nhị Bình, Tân Thới Nhứt,...thuộc quận Hốc Môn.
Tại đây chỉ có một chuyện đáng nói là đêm hôm nọ khi Trung sĩ Ký đi gọi Binh nhứt Đông thức dậy để canh gác. Khinh binh Đông hôm qua mới lãnh lương, đã cùng với Trung sĩ Trình đi nhậu, vì trong người còn hơi men, nên Đông đưa súng bắn dọa mấy loạt, làm cả đại đội tưởng bị địch tấn công, vội nhào ra hố chiến đấu. Đây không phải là lần đầu, ĐĐ91 nầy cách nay mấy tháng, lúc còn đóng quân ở An Lỗ, Huế. Trung sĩ Trình đã uống say rồi nổ súng bắn dọa vào hướng lều ngủ của vị Đại đội Trưởng tiền nhiệm.
Trình nguyên là họa sĩ, tốt nghiệp trường Mỹ Nghệ, anh là người thông minh, tài giỏi. Nhưng tánh tình rất đặc biệt, hễ mỗi lần lãnh lương là rủ anh em đi nhậu cho sạch hết tiền ngay hôm đó, vì chịu chơi nên anh em trong đại đội rất thích Trình. Do một sự hiểu lầm trong cái chết của Binh nhứt Kỳ, khi đi hành quân vùng rừng núi Trường Sơn, Trình quy trách nhiệm cho đại đội trưởng, nên trong cơn say nghĩ đến bạn Kỳ, anh ria súng bắn bậy. Do đó tôi mới cấp tốc đổi về nhận chức vụ nầy.
Vì sợ kỷ luật bị lỏng lẻo, tôi quyết định thử bắt chước dùng biện pháp kiểu như “Cây gậy và củ cà rốt”. Tôi bảo Thượng sĩ Thường Vụ đại đội, sáng hôm sau đem khinh binh Đông treo giữa sân rồi cho Trung sĩ Ký lấy roi đánh, trước đó tôi có dặn Ký đưa roi cao nhưng đánh nhẹ và vừa đánh vừa xin tha cho Đông, còn tôi thì giả bộ lớn tiếng đòi đưa khinh binh Đông ra Toà án Quân sự. Đông, Trình và binh sĩ trong đại đội thấy tôi là người nổi tiếng thương lính, mà hôm nay lại giận dữ như vậy. Trình đích thân vào xin tha cho Đông và hứa sẽ bảo chúng nó không được bắn bậy nữa. Tôi hỏi :
- Còn Đông, có hứa không?
Đông gật đầu lia lịa:
- Em xin hứa, Trung úy !
Sau đó, Trình được người biết thưởng thức tài, đại đội thường giao phó nhiều nhiệm vụ quan trọng. Anh thấy tôi biết dùng người, nên hăng hái làm việc, và để làm gương tốt, Trình không còn say rượu và la cà các quán trong những ngày lãnh lương nữa. Từ đó Đại đội 91 Nhảy Dù trở nên thái bình, Đông là một khinh binh rất giỏi và can đảm.
Ngựa chứng nếu biết điều khiển sẽ trở thành ngựa giỏi, Trình chẳng những thông minh, nhanh lẹ, có nhiều tài xuất chúng, và rất dũng cảm khi lâm trận. Lúc về hậu cứ, còn giúp bạn anh là Trung sĩ Dậu lo trang trí lại văn phòng đại đội, thật ngăn nắp và mỹ thuật. Nhơn dịp được ăn Tết đầu tiên ở hậu cứ, Trình (không phải tên thật, anh hiện là họa sĩ kiêm văn sĩ nổi tiếng ở Mỹ) lấy giỏ đựng dưa hấu và giấy màu dán thành một đầu lân đẹp không thua gì lân mua ở Chợ Lớn.
Vào những ngày đầu năm, anh cùng các binh sĩ trong đại đội đem lân ra múa tại chợ Bà Quẹo, chợ Tân Việt, và ngay cả nhà tôi nữa. Có được tiền, anh và Dậu ra nhà hàng Thanh Bạch đặt trên 150 khẩu phần, (mỗi hộp có nửa con gà Rôti, bánh Baté Sô, bánh mì Sanwich kèm thịt ham và cheese bên trong), cùng trái cây tráng miệng. Anh cho treo đèn, kết bông giấy tổ chức “Đêm Màu Hồng” dã chiến, mời quan khách gồm Trung tá Nhã, Thiếu tá Bảo, Đại úy Thành, Trung úy Phước, anh chị Tâm, và các sĩ quan cùng đến chung vui với quân nhân trong Đại đội 91 Nhảy Dù.
Mỗi binh sĩ có một hộp Coca, và một hộp khẩu phần bảo đảm ăn no. Ngoài ra còn có văn nghệ “Lính hát cho lính nghe” nữa chứ. Hôm đó nhìn thấy mọi người đều vui vẻ, sau khi cụng với anh Tâm, Thành, và Phước được vài ly Martell, tôi nổi hứng cùng Trình tới Micro song ca bài “Tình Nhớ”. Chị Tâm là ca sĩ giỏi nghe hát cứ ôm bụng cười:
- Ối giời ơi! Anh Dưỡng mà cũng biết hát nữa kìa!
Mọi người đều cười khoái chí, các anh em trong đại đội vỗ tay tán thưởng, khuyến khích, thật là vui quá vui! Đông là người xứ Huế lên trình diễn hai bài ca mà Duy Khánh thường hát ở Đài Phát Thanh Sàigòn nghe cũng hơi giống ca sĩ thứ thiệt! Lần đầu tiên Tiểu Đoàn 9 được ăn Tết tại hậu cứ, các anh em trong đại đội thật vui. Phước cũng bắt chước dựng cây nêu cao như của chúng tôi và cũng tổ chức tiệc tân niên có mời quan khách đầy đủ đến Đại Đội 93 của anh.
Phước người xứ Huế mà tánh tình rất hào phóng, tốt bụng, và rộng rãi. Mỗi lần nghỉ quân ở một làng xã nào, anh thường gọi máy rủ Tâm, Thành, và tôi tới nhậu dã chiến tại chỗ đóng quân của anh. Chúng tôi hay thay phiên hễ ai có món gì thì hú nhau qua lại, để giải sầu trong lúc xa nhà.
Phước là bạn thân của ca sĩ Nhật Trường, hôm sinh nhựt của chị Trường, Phước rủ tôi và anh Tâm tới dự tiệc gia đình, nhậu xong Nhật Trường nhét vào túi Phước 5 ngàn để có tiền dằn túi, đi chơi vòng vòng.
Chúng tôi cũng có đến nhà hàng Ritz để nghe Nhật Trường và Jo Marcel. Khi hát xong, Trường xuống bàn cụng ly, và anh mời chúng tôi đến dự lễ khai trương tiệm bán nhạc “Tiếng Hát Đôi Mươi” tại đường Lê Lợi.
Giống như anh Tâm, Phước cũng rất đẹp trai, hào hoa phong nhã. Hôm dự đám cưới, mọi người đều khen hai vợ chồng thật xứng đôi vừa lứa, trai tài gái sắc, nhưng trớ trêu thay không đầy một tháng sau họ lại tan rã! Tình duyên của Phước, giống như cuộc đời của anh, thật là ngắn ngủi! Anh đã bị hy sinh tại chiến trường Tây Ninh vào năm 1970. Anh Lạc, Phúc và tôi có đến chùa Xá Lợi tiễn đưa Phước ra phi trường Tân Sơn Nhứt, chúng tôi đích thân khiêng linh cữu tới tận phi cơ để chào vĩnh biệt anh, một người bạn tốt, dễ thương! Anh ra đi để lại bao nhiêu tiếc thương cho bạn bè Tiểu đoàn 9 Nhảy Dù.
Sau ngày mất nước, tôi bị thương tật nằm nhà, Trình, lúc đó là họa sĩ giỏi, cổ thắt cà vạt tay sách cập da, cùng Thượng Sĩ Dậu, cựu kế toán trưởng Đại đội 91, đã đến thăm tôi, thật là an ủi vô cùng.
Ở đây được vài tuần, tiểu đoàn trở lại thị xã Tây Ninh, chờ nhận lương thực sẽ được trực thăng vận vào mật khu Dương Minh Châu, còn gọi là Chiến khu C. Địch quân thường đưa quân từ căn cứ an toàn thuộc khu Mỏ Vẹt bên kia biên giới Căm Bốt, xâm nhập vào lãnh thổ nước ta. Họ đặt bản doanh tại đây, rồi tung quân qua Tây Ninh, Lộc Ninh, Bình Dương,...
Mục tiêu cuối cùng của họ là Thủ Đô Sàigòn. Tin tức tình báo cho biết, hai hôm trước, địch đã từ vùng Mỏ Vẹt tiến quân qua Mật khu Dương minh Châu. Vì thế TĐ9ND được đổ bộ vào đây để truy lùng địch.
Khi chúng tôi tới nơi, bố trí lục soát khắp khu rừng rậm, chỉ thấy dấu vết hầm hố, chứ không gặp sự kháng cự nào của địch. Rừng Dương minh Châu rất rậm, có nhiều muỗi và vắt. Những con vắt tại đây cũng nhiều và to như ở Dakto và Mã Lai! Rừng rậm nhiều gai gốc làm cản trở cuộc tiến quân. Di chuyển tới 7 giờ tối mà vẫn chưa được lệnh dừng quân, đi được thêm nửa giờ, chúng tôi bị chận ngang bởi con suối nước sâu ngập đầu, bề ngang gần 2 thước, binh sĩ vượt qua thật vất vả. Vài ba người bị rớt mất súng và ai nấy đều bị ướt như chuột lột.
Mãi tới 9 giờ đêm, tiểu đoàn mới cho lệnh đóng quân. Tôi chia chỗ cho các trung đội bố trí xong, lập tức trèo lên võng thay bộ đồ khô, kéo vớ cao, xịt thuốc muỗi ở bàn tay, lấy mũ lưới trùm đầu, đợi Hạ sĩ Năm đem chén cơm ngụi tới ăn, thì đồng hồ cũng chỉ 11 giờ khuya, thật là một ngày đầy vất vả! Bảy giờ sáng hôm sau, trong khi tôi lên bộ chỉ huy tiểu đoàn họp để nhận lệnh trong ngày, thì binh sĩ lo nấu nướng, dọn dẹp lều chõng, sẵn sàng xuất phát vào 7:30. Đại đội tôi được chỉ định đi đầu, tìm cách ra khỏi rừng, để về phía Tây sông Vàm Cỏ, vì tin tức cho biết địch đã chuyển về hướng nầy.
Đại đội 91 đi được 2 cây số thì anh thợ hớt tóc bắt được một con kỳ đà khổng lồ dài khoảng 1 thước, Trung tá Nhã nghe tin, gọi tôi bảo anh ta thả nó ra, vì đi hành quân mà gặp con đỏ (mãng) hoặc kỳ đà thì xui lắm.
Anh thợ hớt tóc của đại đội không chịu nghe lệnh, lén dấu kín chờ chiều làm thịt, để có một buổi ăn ngon. Nhưng nghe nói nó cũng đã cựa quậy sút dây và nhảy trốn vào rừng. Đi tới trưa gặp được đường lớn, nối giữa Tây Ninh và Lộc Ninh, nơi đây có xe chờ sẵn, chúng tôi được đưa qua bên kia sông Vàm Cỏ, vì phi cơ quan sát thấy có địch xuất hiện trong vùng nầy.
Vừa qua sông, đi về hướng Nam khoảng 800 thước, đại đội tôi đi đầu và chạm địch mạnh, Thiếu tá Bảo vội đưa Đại đội 92 tiến về hướng Tây để giúp bên cánh phải. Anh Bảo đi sát bên tôi (đại đội nào chạm địch là lập tức anh Bảo tới ngay tuyến đầu liền), phụ báo cáo tình hình về tiểu đoàn. Tôi điều động các trung đội nghênh địch và lo điều chỉnh phi pháo bắn yểm trợ. Lực lượng địch rất mạnh, chúng có phòng không bắn lên máy bay và nả súng cối, hỏa tiễn liên tục vào đơn vị tôi. Vì địa thế hiểm trở và địch bắn trả rất mạnh, các khinh binh không thể xung phong lên chiếm bờ rừng, làm đầu cầu cho đơn vị tiến qua khoảng trống để xông vào mục tiêu, chúng tôi chỉ có phi pháo bắn phủ đầu, để mong địch chịu đựng không nổi, mà rời bỏ địa đạo. Lúc đó Thiếu tá Nguyễn Đình Bảo đang ngồi cách tôi khoảng 20 thước, đột nhiên anh đứng dậy tới chỗ tôi, thì bỗng nghe “Ầm” một tiếng, một quả đạn súng cối (hoặc đạn pháo) rơi đúng ngay chỗ anh vừa ngồi, nhìn thấy anh nhún vai lắc đầu hàm ý như may mắn quá!
Nếu anh trễ chừng 30 giây thì đâu có dịp sau nầy về làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù, gặt hái nhiều chiến thắng làm vẻ vang Binh Chủng. Nhưng cuối cùng anh đã nằm xuống tại căn cứ Charlie, để lại bao nhiêu thương tiếc cho gia đình, bạn bè đã nhiều phen cùng anh vào sanh ra tử, đồng cam cộng khổ như anh em chúng tôi!
Chiều đến, bỗng nhiên như quỷ thần xui giục, anh thợ hớt tóc nhào lên, vừa bắn vừa hô xung phong chạy ào qua bên kia khoảng đất trống, khiến anh em không ngăn cản kịp. Lập tức anh bị địch bắt trói tại chỗ, đêm đến hai bên đều ngồi dưới hố chiến đấu ghìm nhau, trong khi pháo binh ta liên tục dập đều đặn vào vị trí địch. Từ 8 giờ tới 12 giờ khuya, anh thợ hớt tóc của đại đội cứ kêu cầu cứu, tiếng anh văng vẳng trong đêm tối, nghe thật ai oán, bi thảm vô cùng!
Nhiều khi tôi cầm lòng không được, muốn liều mạng chạy qua tiếp cứu, nhưng anh Bảo nói tụi nó đã gài sẵn đợi mình trúng kế, tới 1 giờ khuya không còn nghe tiếng anh nữa. Có một binh sĩ bắt được đài VC, nghe chúng bêu rêu phóng đại láo khoét rằng đã tiêu diệt toàn bộ tiểu đoàn Dù mang số 9 (có lẽ chúng khai thác anh thợ hớt tóc, làm gia đình binh sĩ ở hậu cứ sợ hết hồn). Suốt đêm tôi trằn trọc không ngủ được vì vô dụng và bất lực không cứu được thuộc cấp của mình!
Sáng lại binh sĩ thụt đại bác 75 ly và bắn đại liên, rồi tôi cho ba khinh binh chọc mũi dùi vào một bờ rừng, thấy không phản ứng, hạ sĩ Võ vội nhào vô một gốc cây, trong bờ rừng, trông ngóng kỹ không có gì động tĩnh, lúc đó cả trung đội của Tường mới bắt đầu xung phong vừa bắn vừa tiến vào mục tiêu. Khi toàn bộ đại đội vào xong, tôi nhìn thấy hầm hố kiên cố của họ mà rợn xương sống, nếu không có pháo binh bắn đuổi và nếu họ không “Nể mặt” binh chủng Nhảy Dù thiện chiến, thì tôi nghĩ, muốn chiếm được mục tiêu nầy phải chịu tổn thất rất nhiều. Trung tá Nhã tới nơi thấy chúng cất nhà sàn, xây địa đạo chằng chịt, hầm chỉ huy hành quân rộng lớn, địch lại có súng phòng không và hỏa tiễn, chứng tỏ quân số cỡ cấp trung đoàn.
Không biết tiểu đoàn báo cáo ra sao, mà chiều hôm đó Trung tướng Dư Quốc Đống, Tư lệnh Sư đoàn Nhảy Dù, đáp trực thăng xuống coi các hầm hố, địa đạo, và lò hoàng cầm (lò nấu cơm không bị khói bay mù mịt như lò thường) của địch nữa. Ông cho lệnh chúng tôi theo dấu chân để truy sát địch. Tiểu đoàn đặt bản doanh tại Bến Gò Nổi và cho các đại đội tổ chức hành quân tuần tiểu lục soát, nếu phát hiện địch thì cho phi pháo dập và tiểu đoàn sẽ đưa trừ bị tới tiếp ứng kịp thời. Đóng đồn ở đây hơn một tháng thì được Tiểu đoàn Dù bạn ra thay thế, chúng tôi được về hậu cứ nghỉ dưỡng quân.

d). Giải vây trại Bến Sỏi

Về tới Sàigòn, Đại úy Vị, vừa chuyển đến tiểu đoàn mấy tháng, nay lại đổi đi làm Liên đoàn trưởng Địa phương quân. Tôi nói anh bán lại miếng đất ở Cổng C, do Sư Đoàn cấp cho những sĩ quan thâm niên trên 10 năm. Anh Vị bảo:
__ Bán gì, mầy dẫn tụi tao đi nhậu một chầu là xong.
Thế là ngay trong buổi chiều hôm đó, chúng tôi (Bảo, Tâm, Thành, Phước, Vị, Dưỡng,..) đưa nhau ra Chợ Cũ, vào quán Nam Việt, thưởng thức món Dê Hà Nàm. Ăn xong, tất cả kéo đi tắm hơi tại đường Bùi Hữu Nghĩa, Chợ Lớn.
Ở hậu cứ được một tháng, tiểu đoàn lại di chuyển lên Tây Ninh (Sư đoàn Dù lúc đó có 8 Tiểu Đoàn tác chiến và ba Tiểu đoàn Pháo binh, sau nầy có thêm TĐ11ND, và 3 đại đội Trinh Sát. Cuối cùng còn thành lập cấp tốc thêm Lữ đoàn IV. Các đơn vị thay phiên nhau ra vùng I, Vùng II, và Vùng III, thường cứ đi hành quân 2 tháng thì về Sàigòn 1, 2 tháng tùy theo tình hình). Mấy ngày nay địch tung quân tấn công và bao vây trại Lực lượng Đặc Biệt Bến Sỏi. Tiểu Đoàn 8 Dù của Trung tá Thọ (người sau nầy bị bắt tại căn cứ 31 ở Hạ Lào), hôm qua vừa đổ bộ trực thăng xuống tiếp viện, thì địch phục kích sẵn tại bãi đáp, và bị tổn thất nặng (trên 100 vừa chết và bị thương!).
Chúng tôi được lịnh cấp tốc nhảy vào tiếp ứng Tiểu đoàn 8, và giải vây trại bến Sỏi. Bãi đổ trực thăng là đồng trống (bãi đổ của Tiểu đoàn 8 xung quanh toàn lau sậy), ở mặt phía Tây chòm nhà thuộc khu Bến Sỏi. ĐĐ 91 nhảy xuống đầu tiên, vừa rời khỏi trực thăng chúng tôi đồng loạt hô xung phong, vừa bắn vừa chạy vào làng (dân chúng đã bỏ nhà khi địch đến). Thật may, không có ai thủ mặt nầy, chúng đang bận cầm cự với Tiểu Đoàn 8 ở mặt phía Đông, sát bờ sông Vàm Cỏ, và một số đang bám vào xung quanh trại Bến Sỏi.
Địch quân không ngờ chúng tôi được điều động tăng viện nhanh như vậy, nên thu dọn rút chạy. Các Trung đội tiếp tục tiến nhanh về hướng trại lính, chúng tôi truy quét xung quanh, thấy có những nồi cơm còn đang nấu chưa chín. Tới cạnh bờ Tây Bắc của Trại thì gặp địch kháng cự, binh sĩ dùng hỏa lực hùng hậu bắn trả. Thấy tiếng súng địch thưa thớt, Tường, Phấn, Trọng, và Trứ cho từng tổ bắn yểm trợ, chiếm từng nhà một, vì trong làng khó đánh, cần cẩn thận tối đa để tránh thương vong.
Mãi tới chiều mới bắt tay được với anh em Biệt Kích trong trại Bến Sỏi, tôi thấy anh Trưởng Trại đang ngồi ngã ngửa trên ghế cao coi chúng tôi đánh giặc. Có lẽ vì trại quá kiên cố và thường bị bao vây, lúc nào cũng có các đơn vị Nhảy Dù thiện chiến đến cứu thì làm sao anh ta chẳng yên tâm được. Sau khi bắt tay xong, chúng tôi chuẩn bị kiếm chút gì bỏ bụng, bây giờ mới biết đói. Cả ngày cứ lo đánh giặc đâu nghĩ tới bao tử còn trống rỗng. Nhưng vì lệnh tiếp viện khẩn cấp (cứu binh như cứu lửa), binh sĩ đâu kịp nhận tiếp tế lương thực, may còn có nồi cháo trắng của địch, Hạ sĩ Năm nhanh tay múc cho tôi một chén cháo của VC để lại, binh sĩ cũng lục lạo kiếm gì bỏ bụng cho qua đêm nay, vì ngày mai sẽ có tiếp tế.
Đang chuẩn bị cởi giày nằm nghỉ, thì tiểu đoàn lại truyền lệnh chuẩn bị di chuyển đêm. Lúc đó vào khoảng 11 giờ khuya, tất cả bắt đầu xuất phát, Đại đội tôi được lệnh dẫn đầu (lại đi đầu, giữa đêm khuya dễ bị phục kích, nguy hiểm lắm! Không biết tại Đại đội mang số 1 hay tại tôi có khả năng địa hình?). Tôi tức giận vì cả ngày đánh nhau mệt mỏi và đói meo do chưa kịp tiếp tế, chỉ một chén cháo mà thấm vào đâu, nếu địch bỏ độc vào cháo thì kẹt rồi (vì thấy lửa còn đang cháy dưới nồi, chắc họ không kịp bỏ độc, nếu có thuốc)! Định nằm ngủ cho quên đói, bây giờ lại phải đi đêm khuya, vào chỗ vô cùng nguy hiểm, nơi Tiểu Đoàn 8 vừa bị địch độn thổ phục kích trong bãi sậy hôm qua! Tôi cho Trung đội 1 của Tường đi đầu, vì khinh binh Võ rất giỏi địa bàn, anh sẽ dùng vạch lân tinh để định hướng đêm. Tôi phải lên đi kế bên Võ để kiểm soát phụ hướng đi, chúng tôi đi quẹo qua lại theo đồng trống, không dám vô sát bìa rừng, sợ địch phục quân ở trong đó. Anh Bảo đi mút đàng sau, cứ gọi máy hỏi nầy nọ, tôi chỉ bấm ống liên hợp hoặc thổi gió như để trả lời. Suốt 2 tiếng đồng hồ, chúng tôi đi trong lặng lẽ, sợ gây tiếng động, lỡ bị địch biết rồi từ hai bên rừng cây bắn ra thì thật là nguy hiểm.
Lúc nầy ai nấy đều quá kiệt sức, chỉ cần một trung đội địch, là có thể làm điêu đứng cả tiểu đoàn quá uể oải nầy rồi! Sau khi băng qua con suối, thì đồng hồ đã chỉ 4 giờ sáng, nơi đây cách mục tiêu khoảng 1 cây số, có lẽ Tiểu đoàn trưởng cũng đã quá đừ, nên cho lệnh dừng quân. Tôi mệt quá không thèm nghĩ đến bố trí phòng thủ hay canh gác gì hết, nằm đại xuống đất ngủ một cách say sưa.
Vừa chợp mắt chưa được 15 phút, bỗng nghe tiếng súng nổ dưới bờ suối, thì ra Thượng sĩ Sơn Bum đã dẫn toán An ninh xuống lấy nước và gặp mấy tên VC cũng đang tới bờ suối, hai bên đụng nhau, anh Bum lấy được vài cây súng địch, có lẽ tại địch không may, bất ngờ gặp phải vị thượng sĩ già, kinh nghiệm từ chiến trường Điện Biên ngoài Bắc.
Đến 7 giờ sáng (nếu ở nhà thì chắc ngủ bù tới trưa) tiểu đoàn chuẩn bị đi tiếp ra hướng Bến Gò Nổi, Đại đội tôi bọc hậu, đi tới xế chiều, Trung tá Nhã gọi tôi qua máy truyền tin:
- Duy Tân đây Sơn Thủy!
- Duy Tân tôi nghe Đích thân.
- Tôi để dành cho anh nón sắt nước ở trên miệng giếng.
- Duy Tân nhận rõ, cám ơn đích thân.
Đi được một đoạn đường, thấy cái giếng, bên trên có một nón nhựa, tôi mừng quá thầm cám ơn vị Tiểu đoàn trưởng tốt bụng; biết tôi bị khát nước từ đêm qua tới giờ, vội chạy tới giếng, định bưng nón nhựa lên uống thì giựt mình khựng lại, vì ở trong đó là nước sình đục ngầu; nhìn xuống giếng thì toàn đất sình không! Nhưng khát quá nên cũng hớp đại, binh sĩ mỗi người uống một hớp đỡ khát. Có người lấy nước dưới hố bom, khi uống xong nhìn kỹ thấy có xác chết sình ở sâu dưới đáy, nên ói ra mật xanh mà cũng còn thấy gớm.
Tới 4 giờ chiều thì đến bến Gò Nổi, Trung sĩ Phượng chở tiếp tế bằng tàu thủy. Đặc biệt kỳ nầy mỗi đại đội được một cây nước đá, lúc đang khát mà ngậm được cục nước đá thì thật là mát thấu ruột gan. Sau khi nhận tiếp tế và các binh sĩ nấu ăn xong, Đại đội 91 qua nằm tiền đồn bên kia con rạch nhỏ, phía Bắc và cách bộ chỉ huy Tiểu đoàn khoảng 2 cây số, ĐĐ92ND thì nằm tiền đồn hướng Tây, ĐĐ93ND ở hướng Nam, ĐĐ90ND, và ĐĐ94ND thì đóng tại bến Gò Nổi .
Vị trí đóng quân của tôi là một đám rừng rậm, gần chỗ Tiểu đoàn 8 Dù bị phục kích hôm qua. Vì đây là nơi hung hiểm, nên tôi đích thân phân chia phòng thủ, kiểm soát các vị trí đại liên, dặn các trung đội gài mìn claymore, mìn chiếu sáng, và bẫy lựu đạn. Rồi cùng với sĩ quan tiền sát điều chỉnh các hỏa tập cận phòng.
Đang bận rộn thì viên Trung úy cố vấn đại đội tới hỏi: “Tại sao tôi đóng quá rộng (quá phân tán) như vậy?” Thấy anh ta chết nhát muốn đóng dồn cục cho đỡ sợ, sống chết mặc bây, miễn sao bảo vệ cho mình an toàn; cứ trông mong ngày tháng hết hạn mau để rút về nước tránh nguy hiểm.
Tôi tức giận bảo nó: “Mầy mới ra trường chưa kinh nghiệm chiến trận, về bảo thầy mầy qua học tao nè”. Hắn thấy tôi giận dữ, một phần vì sợ đi theo đại đội nằm tiền đồn nguy hiểm, nên báo về Cố Vấn Trưởng ở Bộ chỉ huy Tiểu đoàn, sáng hôm sau anh ta được rút về ở chung với Tiểu đoàn.
Nửa tháng sau, Bộ Chỉ Huy Tiểu đoàn vào đóng ở Trảng Lớn, Đại đội tôi đi nằm tiền đồn sâu trong Quận Thanh Điền, gần Bến Gò Nổi, phía Đông sông Vàm Cỏ. Binh sĩ biết khu nầy đầy VC (Việt Cộng), họ bắt chước địch, ai nấy đều đào hố chiến đấu có nắp che chở mảnh B-40. Đêm đó chúng tôi bị địch bắn B-40, Ak-47,... vào vị trí đóng quân, mọi người ra hố chống trả mãnh liệt, tiểu đoàn cho bắn soi sáng khắp vùng, sĩ quan Tiền sát gọi pháo binh bắn các hỏa tập cận phòng. Cũng may nhờ hầm có nắp che nên chỉ một vài binh sĩ bị thương. Trong đó khinh binh Võ bị viên đạn xuyên ngực khá nặng, sau khi địch thấy chúng tôi phòng thủ kiên trì, lại bị pháo binh bắn hiệu quả quá, chúng rút lui qua bên kia sông.
Tôi gọi tiểu đoàn xin trực thăng tản thương, nhưng nghe tiếng anh Bảo nói trong máy:
- Mầy đuổi Mỹ, bây giờ năn nỉ nó cho máy bay đi ?
- Chết bỏ, tôi không năn nỉ ai hết!
Khoảng 1 giờ khuya, Thiếu tá Bảo đích thân theo trực thăng vào bốc thương binh ra. Gặp mặt tôi, anh cự nự:
- Mầy cứng đầu làm liên lụy tới tao đây nè!
Tôi mỉm cười :
- Xin lỗi đích thân! Tôi đâu có muốn như vây.
Cố Vấn Mỹ, chỉ một vài người có đầu óc bảo thủ, lo an toàn cho bản thân mình, như anh Trung úy vừa nói trên. Đa số người khác đều biết hòa mình với chúng ta, chẳng hạn như Trung úy Smith ở trận vườn trầu vùng Ven Đô. Các anh Sanchez, Sinkovitz, và Takata là những người rất tốt. Sinkovitz mỗi lúc dừng quân trong xóm, thường nói tôi mời các sĩ quan Trung Đội Trưởng tới nhậu. Anh bỏ tiền mua rượu đế, tôi lo đồ nhậu, thật là vui vẻ, nhưng khi chạm địch thì anh tự động xin máy bay tới yểm trợ thật kịp thờ, anh ta đã bị thương nhiều lần. Lúc về hậu cứ, hắn thường rủ Thượng Sĩ Sơn Bum đi nhậu mút mùa.
Takata là người Mỹ gốc Nhật, sinh trưởng ở Hawaii, anh đi quân đội lâu năm leo lên tới cấp bậc Thượng sĩ Nhứt, lúc mới về làm Cố Vấn Biệt Đội Tác chiến Điện Tử (Sensor Detachment), anh đã giúp đỡ rất nhiều. Vì Sư đoàn Dù ủy nhiệm cho tôi đứng ra tổ chức đơn vị nầy, mọi vật dụng đều thiếu thốn. Takata cứ theo hỏi có cần gì không anh sẽ giúp đỡ, tôi nói cần văn phòng phẩm, nhưng anh hỏi cá nhân tôi cần gì, chẳng hạn Tivi, Radio, đồ trong PX,...Thấy tôi cứ lắc đầu từ chối, anh thắc mắc nói khi làm cố vấn các nơi khác, đơn vị trưởng thường nhờ mua đồ lắm, sao tôi không chịu đòi hỏi gì hết vậy. Tôi nói tao cũng rất thích, nhưng vì thể diện dân tộc, không muốn người Mỹ coi thường người Việt Nam, nếu mầy có tốt thì kiếm gì giúp đỡ cho gia đình binh sĩ đi.
Tôi chỉ vui miệng nói chơi, tại vì hắn cứ theo hỏi hoài. Thấy anh cười chúm chím bỏ đi, tôi vội lên Phòng 4 để nộp bản nhu cầu cần thiết về vũ khí, quân dụng, và quân trang của đơn vị tân lập cho Trung tá Huy. Bất ngờ ngày hôm sau, Takata đã lên căn cứ Long Bình ở Biên hòa chở về mấy xe GMC tủ sắt và giường sắt, mọi gia đình quân nhân trong biệt đội đều có. Thấy tôi, anh ta cứ cười mím chi cọp như còn dấu một điều bí mật gì. Khi về nhà mới biết anh đã lén chở ra cho tôi một giường sắt và một tủ sắt như các anh em binh sĩ trong Biệt đội.
Anh có mời tôi lại nhà chơi, thấy chị là người gốc Hoa Kiều, dân Cần Thơ, có học thức, tánh tình hiền lành, ăn nói lễ phép, săn sóc chồng con giống như người Nhựt. Anh là Cố Vấn mà đi đâu cũng hỏi qua tôi, nhằm lễ Giáng Sinh, Takata mua mấy két bia, tôi mua vài con vịt, lấy trực thăng đem lên cho toán coi đài kiểm báo trên đỉnh núi Bà Đen.
Nhân dịp Thanksgiving, anh có rủ tôi và Thiếu úy Tường đến dự lễ của người Mỹ gốc Hawaii tại một Vila rộng lớn ở góc đường Trần Quí Cáp và Trương Minh Giảng, Sàigòn. Họ tổ chức theo tục lệ của người dân bản xứ, những cục than đá to được nung đỏ, nhét vào bụng các con heo đã làm sạch, họ đem chôn heo dưới hầm sâu, rồi lấy lá chuối đậy lên, trước khi lấp đất, heo được phủ kín bằng vải lều. Đúng 12 giờ trưa hôm sau, tức ngày lễ Tạ Ơn, Takata kéo tôi và Tường cùng mọi người cổ đeo vòng hoa, quây quần xung quanh hầm, choàng vai nhau vừa cầu nguyện, ca hát, và nhảy múa, giống như dân tộc Thượng. Sau đó họ cuốc đất và kéo lều vải, lá chuối ra. Heo bị than đá làm chín rục, giống như thịt hầm. Takata đưa cho tôi một dĩa thịt heo mềm, nóng bốc hơi, đụng vào muốn phỏng môi. Thức ăn, rượu, nước ngọt, bom, nho,...thì tự do.
Một hôm nọ, tôi theo máy bay của Thiếu tá Nguyễn Đình Bảo đi thả các máy Sensor ở vùng Damber bên Cam Bốt; trực thăng bị phòng không bắn trúng mấy viên đạn. Takata đang ở trại B-16 hết sức lo lắng và bồn chồn. Lúc máy bay vừa đáp xuống, anh đã chờ sẵn tại phi đạo và vội chạy tới ôm xiết chặt, tỏ ý mừng tôi vừa thoát hiểm, thật là có tình có nghĩa.
Takata rất dễ dãi, có lần ra thăm toán Tác Chiến Điện Tử của Thiếu úy Chinh trên căn cứ Charlie ở Tân Cảnh; chiều về Kontum tôi dẫn anh tới nhà thằng bạn học cũ tên Sủng để ăn món bún nước lèo; vậy mà hắn cũng ăn ngon lành và tối thay vì vô trại ngủ, anh đã cùng tôi nghỉ đêm tại đây nữa chứ! Sủng “Lùn” là thằng bạn thân cùng quê Vĩnh Bình, nó kinh doanh nổi tiếng và giao thiệp rộng rãi tại thị trấn Kontum nầy.
Có lần hắn dẫn tôi và Trung úy Duối, sĩ quan Quân Cảnh 204 Sư Đoàn Nhảy Dù, cùng 2 anh Trưởng Ty vô một buông Thượng nhậu rượu cần với 2 người con vị Tù Trưởng. Người con trai thì hát và đờn Tây Ban Cầm rất hay, giống như Chế Linh; còn cô con gái tên Nhân thì có nét đẹp tuyệt trần, mủi cao, đôi mắt bồ câu đen huyền. Tuy là dân tộc Thượng nhưng cô có nước da trắng mịn màng và đôi bàn tay thon đẹp, giống như sơn nữ Phà Ca hoặc Châu Pha trong các bài hát mà Phương Hồng Quế thường trình diễn. Cô Nhân học lớp Đệ Nhị trường Dòng và nói tiếng Pháp như người Tây rặc. Ngoài nét đẹp sắc sảo, cô còn hát và uống rượu cần rất hay; tánh tình cô thật thà chất phát. Lúc rượu vào và ngà say, Duối và các anh trưởng ty méo mó tay chân khiến cô ta bực mình nói :
- Ông trưởng ty nầy xấu quá! Anh nầy dễ ghét quá!
Cô thấy tôi đàng hoàng nên cứ lại ngồi gần kề sát bên và cứ bảo tôi phụ uống phần rượu của cô (mỗi người tới phiên thì phải núp hết một “Can” bằng ống hút dài tới đáy bình rượu cần). Vì đang hứng chí và được người đẹp nhờ vả, nên tôi cũng tỏ vẻ “Ga lăng”, sẵn sàng “Chở” luôn phần của nàng sơn nử tên Nhân mỹ miều nầy. Rượu cần làm bằng bo bo, vị ngọt nhưng say ngầm; khiến tôi khi về trại tối đó bị say suốt đêm, trong giấc mơ thấy mình cùng nàng sơn nữ đang bay lơ lửng trên mấy tầng mây xanh, vân du khắp non bồng nhược thủy!
Sau khi mất nước, ở Hawaii, Takata tìm kiếm tôi khắp nơi, mãi tới đầu năm nay, nhờ anh Hà cho biết mới liên lạc được, (tôi cũng có hỏi anh Bùi Đức Lạc và nhiều người khác để tìm Takata). Được tin tôi, anh mừng hớn hở, vội gởi quà đặc sản Hawaii. Mặc dù bị suyển nặng, đi đâu cũng mang theo bình dưỡng khí, vậy mà anh cũng định đi xa thăm tôi và gởi cho trước quà kỷ niệm. Trong đó có Poncho Light mà ngày xưa tôi đi hành quân lúc nào cũng mang theo, và mũ Dù cùng nhiều đặc sản Hawaii, anh thật là người chí tình, bây giờ anh đã hưu trí.
Những ngày đóng quân trong căn cứ B-16 ở Tây Ninh, khi nào rảnh rỗi, Nhan thường rủ tôi, Tới, và Minh đi nghe bản nhạc “Qua Cơn Me”â mà 4 đứa đều thích, tại quán cà phê phía sau lưng Tòa Hành Chánh tỉnh.
Trở lại chuyện hành quân, tiểu đoàn hoạt động vùng Tây Ninh được hai tháng thì về nghỉ ở Hậu cứ. Lúc nầy vào cuối năm 1968, nhân dịp lễ Quốc Khánh 1-11-68, anh Thiện, anh Tâm và tôi được thăng cấp Đại úy Đặc Cách. Phấn được thăng lên Trung úy, Trứ thăng cấp Thiếu úy.

e). Mặt trận rừng Long Giang

Nghỉ ở hậu cứ hơn 3 tuần lễ, tiểu đoàn ra Ven Đô một tháng, rồi đi hành quân tại Huế hai tháng trong các vùng Phú Thứ, Hương Điền, Quảng Điền,... chúng tôi chỉ chạm địch lẻ tẻ không đáng kể.
Sau khi về trại Hoàng Hoa Thám nghỉ quân 1 tháng, tiểu đoàn lại chuẩn bị ra quân vùng Tây Ninh. Căn cứ địa của Bắc Việt càng ngày càng bành trướng, có tới 400 ngàn địch thường xuyên trú đóng trên lãnh thổ Căm Bốt. Khiến chánh quyền Lon Nol bị dân chúng nổi lên chống đối. Ông ta cầu cứu Mỹ can thiệp giúp đỡ. Tổng thống Nixon lên đài giãi thích với dân chúng là “Miền Bắc đã tập trung các lực lượng chính quy tại các khu căn cứ có tính cách bất khả xâm phạm ở Căm Bốt, để mở các cuộc tấn công vào lực lượng Hoa Kỳ và Đồng Minh...... Tôi thà làm Tổng Thống một nhiệm kỳ, còn hơn là làm Tổng Thống hai nhiệm kỳ để nhìn thấy sự thất trận đầu tiên của Hoa Kỳ trong vòng 190 năm lịch sử này”.
Rồi ông ta cho lịnh oanh tạc B-52 và mở các cuộc hành quân phối hợp Việt-Mỹ vào Cục R ở trên lãnh thổ Căm Bốt. Nhằm mục đích thanh toán Bộ Chỉ Huy đầu não, đã điều hành tất cả mọi hoạt động quân sự của Cộng sản tại miền Nam Việt Nam. Vì thế quân Việt Cộng như kiến bị động ổ, chạy tràn lan qua các vùng rừng rậm ở Tây Ninh và Bình Long.
Lúc chúng tôi đến thị xã Tây Ninh, thì Tiểu Đoàn 9 được lịnh đi tuần tiểu lục soát địch tại đồn điền cao su ở hướng Đông làng Long Hoa. Đại đội 91 có nhiệm vụ bảo vệ pháo binh. Họ đang yểm trợ Tiểu đoàn 1 Nhảy Dù hành quân trong đồn điền cao su Bến Đá, phía Đông Bắc quận Khiêm Hạnh. Chiều hôm đó Tiểu đoàn 1 chạm khá nặng, địch quân làm chòi canh trên ngọn cây và bắn tỉa vào các khinh binh, đại đội của Phạm Thái Hóa, bạn cùng khóa, bị chúng cắt làm đôi. Lúc đó Trung tá Phạm Hi Mai, tiểu đoàn trưởng, đang ở pháo đội, gọi máy điều động các đại đội khác lên tiếp ứng; tôi nghe trong máy tiếng Hóa la:
- Tụi nó đông lắm, cứ cho bắn pháo ngay trên đầu chúng tôi, mau lên!
Các đại đội nhanh lẹ tiến lên cố chọc thủng vòng vây, tới mờ tối thì bắt tay được cánh quân của Hóa. Sáng hôm sau, Tiểu đoàn 9 vào Bến Đá tăng cường, cùng Tiểu đoàn 1 tràn lên đánh đuổi địch ra khỏi khu vực. Tiểu Đoàn 1 rút ra thị trấn, chúng tôi tiếp tục truy kích địch tại vùng Bến đá. Hai ngày sau, không còn tung tích địch, Tiểu Đoàn 9 bọc về đồn điền cao su gần Long Hoa và đóng quân lập căn cứ tuần thám tại khu vực nầy. Đại Đội tôi hành quân lục soát và chạm du kích lẻ tẻ tại khu vườn cao su gần bờ làng. Tối đó chúng tôi vào xóm nghỉ, Bộ chỉ huy đại đội vô tình đóng đúng ngay nhà một người đàn em, K21 ĐL.
Trong Long Hoa, nhà được chia từng lô, đường xá chằng chịt, cây cối rậm rạp, rất dễ bị lạc. Chúng tôi có đụng du kích khi họ vào làng nầy phá rối (đạo Cao Đài cũng chống Cộng như Thiên Chúa). Khi đóng quân xong, các sĩ quan trong đại đội cùng họp nhau nhậu rượu đế với Sinkovitz, anh nầy có tật ngủ mặc nguyên đồ trận, không mùng mền gì hết, vì con người khổng lồ nầy toàn mùi rượu, chắc muỗi hút máu sẽ bị say luôn. Sinkovitz rất gan lỳ, khi chạm địch anh gọi máy bay tới rất nhanh.
Khi hoạt động xong khu vực Long Hoa, tiểu đoàn được điều động qua bên kia sông Vàm Cỏ Đông, bộ chỉ huy lập căn cứ ở Bến Gò Nổi, các đại đội tổ chức tuần tiểu về hướng Tây, Nam, và Bắc; còn hướng Đông giáp với bờ sông.
Một hôm Thiếu tá Bảo chỉ huy hai Đại đội 91 và 92 của tôi và anh Thành, vào lục soát rừng Long Giang, ở phía Tây và cách Gò Nổi độ 5 cây số (phía Tây của Rừng nầy chừng 10 cây số, bên kia biên giới Miên-Việt, là nơi VC đặt căn cứ an toàn do Tướng VC Trần Văn Trà chỉ huy, đây còn gọi là Cục R, căn cứ nầy chạy dài từ Nam lên Bắc, qua Kiến Tường, Lò Gò, Xóm Giữa, Thiện Ngôn, có tên là Lưởi Câu, Mỏ Vẹt) .
Rừng Long Giang bỏ hoang lâu ngày nên cây mây và gai gốc chằng chịt, các khinh binh chỉ phá độc đạo, đi hàng một, Đại đội tôi đi một mạch từ Đông qua Tây không gặp gì hết, Đại đội 92 bên cánh phải của tôi, gần bìa rừng nên chạm địch (vì địch đào hố sát bờ rừng phía Bắc), hai bên bắn nhau dữ dội, một chập sau có tin anh Thành bị thương. Tôi được lịnh bọc lại để nghênh chiến cho Đại đội 92 tìm cách rút ra.
Sau khi ĐĐ92ND rút ra xong, chúng tôi dàn ngang ngoài bờ rừng, nả súng bắn vào điểm đóng quân của địch. Cầm cự một lúc, tôi nghĩ rừng nầy đầy cây mây và gai gốc, dù phi pháo bắn vào, chỉ chạm nổ trên ngọn, địch quân có thân cây và nắp hầm che chở kiên cố, rất khó đánh bật họ ra. Tôi cho lịnh đeo mặt nạ và dùng súng phóng lựu bắn hơi cay, Thiếu úy Trứ, Trọng, và Phấn cho bày “Thùng cà rem” E8 (binh sĩ thường gọi là “Ơ quít”) và đồng loạt phóng vào mục tiêu. Địch bị động ổ nên bắn bậy bạ để rút chạy, lúc đó tôi đang đứng ở một chòm cây, vì hơi cay nhiều quá nên cởi nón sắt ra chuẩn bị đeo mặt nạ.
Bỗng nghe “Ầm” một tiếng, đầu như bị ai cầm búa tạ đập một cái rầm, cả thân hình tôi té nằm úp xuống đất. Đưa tay rờ đầu, thấy máu chảy dài từ bàn tay tới cùi chỏ, thì ra địch đã bắn B-40 trúng ngọn cây, hai mảnh bay tới ghim trúng vào đầu, sức hơi phụt mạnh của đạn làm cho tôi té nguyên con.
Nghe tôi bị trúng đầu, Tiểu đoàn lập tức đem trực thăng C34 tới bốc chở thẳng về bệnh Viện Đỗ Vinh, trong trại Hoàng Hoa Thám SĐND, Hạ sĩ Năm nhanh nhẹn nhảy theo để chăm lo cho tôi. Tội nghiệp đêm đó Bác sĩ Thiện thức suốt đêm, cứ cách một giờ tới canh chừng, vì anh sợ bị nứt giáp sọ, hoặc chấn thương não bộ (Thiếu tá Công Tiểu đoàn 1 pháo binh Dù bị lật xe trúng đầu ở Phong Điền, Huế; gần chỗ tôi và Miên bị tai nạn, anh Công tưởng bị nhẹ nên vẫn trực làm việc như thường, sáng hôm sau chết vì giáp sọ bị nứt!)
Lúc đó Chú Út tiệm Phước An Nguyên đang ở SàiGòn, vô tình biết được tin tôi bị thương, và nghe nói tới trúng đầu ai cũng tưởng nặng lắm. Ông vội về Vĩnh Bình báo cho má tôi và bà xã biết. Khi gặp vợ tôi, bà bụng đánh lô tô mà miệng thì cứ nói cho nàng yên tâm:
- Không có sao đâu, bị chút xíu hà!
Hai người đàn bà, kẻ lo sợ cho con, người lo sợ cho chồng, tay run run, tim hồi hộp, xách khăn gói vội vã ra đón chuyến xe chiều cấp tốc lên Sàigòn. Tới nơi gặp hạ sĩ Năm đang ở nhà một mình và nói:
- Đại úy vừa mới đi chơi.
Cả hai thở phì ra, như trút hết mọi lo âu, suốt 4 giờ ngồi xe mà lòng họ lúc nào cũng bồn chồn, đầu óc cứ nghĩ vẫn vơ. Khi tôi về nhà nghe nói hai người xuống sở Chăn Nuôi ở Ngã Tư Bảy Hiền. Mặc dù đầu băng bó tùm lum và đau nhức kêu tăng tăng, nhưng thương mẹ và nhớ vợ quá, nên cũng ráng chạy đi rước họ về nhà. Một tháng sau Bác sĩ Thiện đích thân lấy mảnh ra, vì chỉ chích thuốc tê xung quanh vết thương, nên tôi nghe tiếng cây dao rạch cái “Rẹt”, rồi tiếng cây kềm kéo qua kéo lại kêu “Rạo rạo”, khi tìm đúng mảnh, liền nhổ ra cái “Bựt”! Thấy mảnh thứ nhứt vừa lấy ra, hai tay tôi buông thòng xuống, anh Thiện giựt mình hỏi tôi có sao không? Anh thấy máu da đầu ra nhiều quá vì thời gian dò tìm mảnh hơi lâu, nên vội may lại, để chừa một mảnh tháng sau mổ tiếp.
Người phụ trách mổ lần thứ nhì là Bác sĩ Trần Đông A. Rút kinh nghiệm kỳ trước, Bác sĩ A lấy kim tìm mảnh đạn, rồi để cây kim làm dấu, anh rạch một đường, lẹ tay đút cái kềm ngay chỗ cây kim, giựt mạnh cả kim lẫn mảnh ra luôn, xong may vết thương lại, hành động thật mau lẹ và hiệu quả.

11. Về Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù (Trận Gò Nổi)


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1508035282-Chuong3B_KeChuyenHanhQuan03.jpg

Mọi người trong gia đình thấy tôi từ Tết Mậu Thân tới giờ, chưa đầy 3 năm, mà đã bị thương nhiều chỗ (lỗ tai, bắp đùi, nhiều mảnh lựu đạn còn trong lưng, và 2 mảnh B-40 ghim trên đầu). Họ khuyên tôi làm đơn về đơn vị nào bớt nguy hiểm, để gia đình cứ phập phòng lo sợ mỗi khi đi hành quân.
Riêng tôi cũng hơi mệt mỏi, nhìn lại mười sáu bạn cùng khóa đã bổ sung về TĐ9ND, chỉ mới 5 năm chiến đấu, mà đã mất đi sáu đứa (Phương, Chàng, Lộc, Hổ, Đại, Thành), những người còn sống ai cũng bị lãnh thẹo ít nhất vài lần. Ôi chiến tranh thật là tàn khốc! Tôi cầm đơn vô văn phòng Trung tá Nhã, đọc xong ông nhìn tôi hồi lâu, rồi nói:
- Mầy định đi bỏ tao hả Dưỡng?
Thấy ông có cử chỉ bịn rịn, tôi muốn lấy đơn trở lại ngay, vì gần 5 năm sống ở đây, chung quanh toàn bạn cùng hoạn nạn, tôi thật tình không nỡ rời xa những bạn tốt: Thành, Tâm, Bảo, BS Thiện, Hiền,..Nơi đó có những cấp chỉ huy khả kính như: Trung tá Nhã, Thiếu tá Nguyễn Đình Bảo.
Hòe, Trọng, Tường, Trứ, Phấn, Minh, Dậu, Trường, Quảng, Cứ, Tám, Học, Ngọc, Nhường, Lương, Ninh, Võ, Thiện, Hồi, Năm, Nhàn,..là những quân nhân tài giỏi, rất dũng cảm khi lâm trận. Lúc nào tôi cũng thương mến các anh em tốt trong Đại đội 90, 91, 92 Nhảy Dù, đã giúp tôi gặt hái được nhiều thành tích trong quân ngũ, thăng cấp đặc cách nhanh chóng.
Nhìn tôi đứng ngẩn người, Trung tá Nhã như đọc thấu tâm trạng, nhưng trước kia ông đã giữ không cho tôi đi làm Quận Trưởng, chẳng lẽ bây giờ ông lại nỡ từ chối người thuộc cấp đã nhiều lần vào sanh ra tử cho ông. Cuối cùng ông đặt bút ký, mà gương mặt buồn, làm lòng tôi bồi hồi xao xuyến, thương mến, và kính phục lòng rộng rãi của vị chỉ huy tốt bụng!
Sư đoàn chấp thuận đơn thỉnh nguyện và thuyên chuyển về Bộ chỉ huy Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù. Tôi được cử làm Sĩ quan Phụ tá hành quân; nhưng không khí ở đây hơi khác, anh đại úy Trưởng ban Ba tánh tình khó khăn, không đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau như các sĩ quan trong Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù. Vì vậy tôi nói với Đại tá Nguyễn Khoa Nam, xin về lại Tiểu đoàn cũ.
Đại tá Lữ đoàn trưởng biết tôi rất nhiều, qua hai lần trực tiếp gắn huy chương. Ông muốn giữ lại nên cho tôi làm Trung Tâm Trưởng Trung Tâm Hành Quân (không có trong cấp số Lữ Đoàn); trực tiếp báo cáo và nhận lệnh của ông, không qua Trưởng ban Ba và Tham Mưu Trưởng. Hầu hết những sĩ quan khác trong Lữ đoàn như Đại úy Phích, Vinh, Trường, Trung úy Chính và Phan Xuân Hiệp, thấy tôi thẳng tính, không nịnh bợ. Họ mến thương và từ đó tôi có thêm được nhiều bạn tốt mới. Bộ chỉ huy Lữ đoàn đang đóng tại hãng Khải Vinh, nên đơn vị Hoa Kỳ ở trong Đài Phát Tuyến Phú Lâm mời Đại tá Nam tới tham quan. Khi ông và tôi mới vào cổng thì còi hụ hú lên, mọi nhân viên và quân nhân canh phòng đều mang súng đạn mũ sắt chạy ra hố chiến đấu tập báo động giả cho đại tá coi.
Họ đưa vào phòng phát tuyến để cho Đại tá Nam thử nói chuyện trực tiếp với nhân viên bên Hoa Kỳ. Tôi thấy mặt ông rất vui và thích thú vì lần đầu tiên được nói máy vô tuyến có tầm xa một nửa quả địa cầu như vậy. Tôi hay theo ông đi thăm các tiểu đoàn hành quân trực thuộc bằng trực thăng hoặc bằng xe Jeep. Ông ít khi nói máy và ban chỉ thị lẻ tẻ, nên thường ủy quyền cho tôi trực tiếp làm việc với các Tiểu đoàn.
Có lần Tiểu đoàn 1 Nhảy Dù bị địch tấn công tại căn cứ Bến Gò Nổi, lúc đó Trung tâm hành quân của Lữ đoàn 3 đặt tại Toà Hành Chánh tỉnh Tây Ninh. Khoảng 1 giờ khuya, Đại Úy Nguyễn Văn Triệu, Ban 3 tiểu đoàn, báo cáo địch quân từ Cục R bên kia biên giới, đã cho đơn vị chánh qui hùng hậu tấn công và đã chọc thủng tuyến phòng thủ vào sâu tới BCH.
Họ đã lợi dụng khoảng trống của tuyến giữa hai đại đội của Ngoạc Lùn và Hóa Đen nên chọc mũi dùi vào đó, chúng thấy đống ba lô chất chung quanh khẩu súng cối (Ngoạc đã cho xếp ba lô tại đây để đưa đại đội đi tuần tiểu đêm bằng tàu thủy trên sông Vàm Cỏ, Ngoạc bị trúng mảnh B-40 từ trên bờ bắn vào đùi nên được trực thăng tới bốc tản thương trong đêm).
Bộ đội Cộng sản xuất thân từ bần cố nông, thấy chiến lợi phẩm là nhào lên giành giựt những chiếc ba lô đựng quân trang quân dụng. Anh Triệu thấy một tên đeo 4 sao (có lẽ là Thượng tá), rút súng K-54 bắn chỉ thiên bảo:
- Các Đồng Chí phải lo đánh giặc, đừng có giành giựt chiến lợi phẩm!
Lúc ấy binh sĩ Tiểu đoàn 1 Nhảy Dù đang núp dưới hố thấy vậy, vội ném lựu đạn tiêu diệt toàn bộ. Vì địch vào lẫn lộn, nên binh sĩ được lệnh núp kỹ dưới hầm, thấy ai không đội nón sắt là bắn. Đại úy Triệu xin soi sáng và pháo binh bắn các hỏa tập cận phòng. Tôi nghe trong máy Triệu la hoảng:
- Nó sắp tới hầm chỉ huy của tao rồi, mầy cứ cho pháo binh bắn lên đầu tao luôn đi, mau lên!!!
Hai mươi phút sau, máy bay C-130 từ Sàigòn lên thả trái sáng. Đánh nhau tới gần 3 giờ khuya thì Tiểu đoàn 1 Dù, nhờ soi sáng, nên binh sĩ từ dưới hố bắn tỉa từng tên một, dẹp sạch địch trong căn cứ. Các mìn claymore, bãi lựu đạn, pháo binh, khu trục, và Gunship lần lượt đẩy lui địch ở vòng ngoài. Đại đội của Minh đánh xáp lá cà rất ngoạn mục, Hóa đã trám lại lỗ hổng bằng cách dùng lựu đạn thanh toán khu vực trách nhiệm và nhào vào hố phòng thủ xả đạn bắn chận các đợt xung phong biển người của bộ đội chánh qui Bắc Việt. Đại đội chỉ huy nhảy ra trám chỗ trống nơi tuyến phòng thủ của đại đội Ngoạc.
Ngay từ lúc Tiểu đoàn 1 báo cáo bị địch tràn ngập (overrun), Đại tá Nam đã có mặt tại Trung tâm Hành quân để canh chừng nhắc nhở tôi điều động hỏa lực yểm trợ. Suốt đêm chỉ có tôi với ông ngồi theo dõi diễn biến trận phản công anh dũng của Tiểu đoàn số 1 kỳ cựu và thiện chiến của sư đoàn Nhảy Dù, còn binh sĩ truyền tin thì ngủ gật tại chỗ.
Những Đại đội trưởng tài giỏi như Minh, Nam Râu, Ngoạc Lùn, Hóa Đen đều là những người sĩ quan từng xông pha chiến đấu trong trận mạc, lập nhiều chiến công hiển hách và có rất nhiều huy chương anh dũng bội tinh. Vì thế mặc dù bị địch tấn công bất ngờ, họ cũng vẫn bình tỉnh điều động binh sĩ chống trả một cách thứ tự không hoảng hốt, không sợ sệt.
Các quân nhân TĐ1ND thật là anh dũng thiện chiến đáng khen. Đặc biệt nhất là La Tịnh Tường, cách nay vài tháng, anh đã điều động đơn vị dùng lựu đạn đánh xáp lá cà, tiêu diệt gọn một đại đội địch ở Cầu Khởi. Ba tháng trước, Tiểu Đoàn 1 cũng vừa cùng Tiểu Đoàn 9 phối hợp với chi đoàn thiết vận xa 1/10 của Đào Đàn, đánh dẹp đơn vị chủ lực địch tại Bến Đá (lúc đó tôi còn là Đại đội trưởng Đại đội 91 Nhảy Dù).
Sáng ra Tiểu đoàn 1 Dù thu dọn chiến trường, tịch thu được hơn một trăm ba mươi súng đủ loại, đơn vị cũng bị hy sinh 4 chiến sĩ và bị thương hơn mười người. Chuẩn tướng Hinh,Tư lệnh phó Sư đoàn 25 Bộ binh từ trên trực thăng quan sát thấy có nhiều súng ống địch bỏ rải rác bên ngoài xa, có lẽ do phi pháo bắn truy kích.
Trung tướng Đống hết lời khen ngợi Đại tá Nam và Trung tá Mai cùng toàn thể binh sĩ TĐ1ND tại căn cứ B-16. Có rất nhiều tưởng thưởng cho Tiểu đoàn 1, trong đó Phạm Thái Hóa được lên Đại úy. Thiếu tá Tường và các Đại úy Minh, Nam, Triệu được Bảo Quốc huân chương, còn anh Nhỏ thì được thăng chức thiếu tá đặc cách mặt trận.
Đại Úy Triệu có kể lại việc anh suýt chết vì bị nội tuyến. TĐ1ND có một binh sĩ trẻ tuổi khờ dại, lúc về phép tại quê nhà, bị VC móc nối. Chúng lừa gạt anh lính trẻ nầy là hãy tìm cách lập công lớn cho cách mạng sẽ được lên chức sĩ quan khỏi cần phải đi quân trường cực khổ. Anh lính trẻ, có nhiều bà con đi theo du kích, nghe nói được lên chức mau nên hỏi:
- Thế nào mới gọi là lập công lớn?
Tên Việt Cộng nằm vùng nói:
- Anh giết chết vài sĩ quan Dù, thì coi như có công .
Anh lính, nhiều tham vọng nầy, còn thắc mắc:
- Nếu tôi lập công thì ai chấm công?
Tên nằm vùng nói gạt:
- Anh đừng lo, ở đó chúng tôi đã cài nhiều người lắm!
- Khi thành công rồi làm sao mới gặp mấy người bên anh?
Thấy cá sắp mắc câu, tên VC nói:
- Khi nào ra trận, nếu gặp người bên chúng tôi thì cứ đứng dậy dơ tay la lớn nói tôi xin đầu hàng, rồi anh được tiếp nhận, chừng đó anh khai là đã có công với cách mạng. Lập tức họ sẽ cho anh làm sĩ quan, rất oai phong, tha hồ về làng hãnh diện với bà con, xóm giềng!
Chuyện thật vô lý như vậy mà anh lính trẻ dại thuộc dân miền quê ít học trong vùng xôi đậu nầy cũng tin thiệt! Một hôm, anh ta thấy Đại úy Triệu cùng Thượng sĩ Chiêm ra ngoài vòng rào kẽm gai để kiểm soát mìn bẫy. Hắn lén đến chỗ để cục pin (con cóc) và bấm nổ mìn định hướng claymore, nơi anh Triệu đang đi. Rất may số Triệu còn đỏ, vì mìn đặt hơi nghiên lên nên các mảnh claymore chỉ bay ngang qua đầu, vừa lúc Trung tá Mai đi tới thấy hắn đang thực hiện âm mưu. Trung tá Tiểu đoàn trưởng đá nó vài đá và nói:
- Mầy bấm mìn làm gì, có Đại úy Triệu đang ở ngoài, bộ muốn hại chết người hả con!
- Dạ em định thử cục Pin!
Thực sự lúc đó Trung tá Mai đâu có ngờ hắn đang định âm mưu, ông tưởng hắn chỉ vô ý thôi. Nhưng tên nầy sợ bị nghi ngờ, nên tìm cách chuồn sớm. Một hôm tổ hắn ba người được lịnh đi nằm tiền đồn ở Cầu Khởi, nửa đêm thấy có mấy tên du kích đi tới, hắn nhớ lời tên nằm vùng căn dặn, nên vội đứng lên hai tay dơ cao, miệng la lớn:
- Tôi xin hàng, tôi xin hàng!
Mấy tên du kích thấy động, giật mình ria súng bắn tên ngu dại, dễ tin lời xúi bậy nầy, chết không kịp ngáp. Hai đồng đội tưởng tên nầy nhát gan, định can nhưng không kịp, nhờ phản ứng nhanh, họ bắn ào ạt vào đám du kích. Kết quả hạ được hai tên, số còn lại chạy hoảng vô rừng mất dạng. Sáng ra nghe kể lại, Tr/tá Mai và Triệu mới vỡ lẽ, biết hắn đúng là nội tuyến!
Lúc đó Chỉ huy Hậu Cứ Lữ đoàn 3 Dù là Đại úy Thành, bạn cùng Khóa 20. Thành đẹp trai, khuôn mặt giống hệt như tài tử điện ảnh Hồng Kông Châu Nhuận Phát; vì bị thương tay cà quẹo cà quơ nên mới làm việc nhẹ và an toàn nầy.
Hắn có cô vợ vì rất trẻ nên nhỏng nhẻo vô cùng. Mỗi khi về Sàigòn, Thành rủ tôi và Bảo (cũng quẹo tay và chỉ huy hậu cứ Lữ đoàn 1) qua trạm Y tế của Mỹ ở khu Không Quân, trong phi trường Tân Sơn Nhứt. Thành nói với anh Y tá người Hoa kỳ là 3 đứa bị bịnh ....(!), cần thuốc Trụ sinh để chữa trị. Anh Y tá thấy 3 chàng đại úy trẻ tuổi, mặt mày sáng sủa nên tin thiệt, liền lấy cho mấy hộp trụ sinh. Thành đem thuốc ra bán cho Thượng sĩ Doanh nhà ở Tân Việt. Có tiền 3 đứa kéo nhau đi tìm quán nhậu thỏa thích. Thành có nhiều cách kiếm tiền để đi chơi, lúc thì khai bịnh, khi thì lấy súng K-54 đổi, nhờ vậy chúng tôi có tiền đi nhậu lai rai hoài. Năm 1971, Bảo về sở Cảnh Sát Đô Thành, còn Thành thì về làm Cảnh Sát Trưởng Phú Quốc. Nhưng chẳng may đám buôn lậu bị Cảnh sát Đặc Biệt ở Trung Ương bắt, chúng cho là Thành phản phé báo cáo, nên đã tổ chức ám sát!

12. Đại Đội Trưởng Công Vụ Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1508035299-Chuong3B_KeChuyenHanhQuan04.jpg

Đầu năm 1970, tôi gặp Trung úy Thu, sĩ quan ban 4 của Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù, trước cùng học khóa Tác Chiến Trong Rừng tại Mã Lai. Anh nói lữ đoàn đang cần chức Đại Đội Trưởng Chỉ Huy Công Vụ. Thu thấy tôi từng làm Đại đội trưởng tác chiến nên bảo về Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù với nó cho vui. Tôi làm đơn vị trưởng có quân trong tay đã quen, sĩ quan tham mưu chỉ một thân một mình thì hơi chán, hơn nữa Đại tá Nam còn độc thân nên cứ tình nguyện đi hành quân hoài. Thấy tôi bằng lòng, Thu về trình với Trung tá Lê Quang Lưỡng.
Thu trước kia ở TĐ5ND làm y tá cho Đại đội 54 của Đại Úy Lê Quang Lưỡng. Thấy anh có bằng cấp, siêng năng, và tánh tình ngay thẳng dễ thương, nên ông cho đi học khóa sĩ quan ở Thủ Đức. Sau khi ra trường, anh được Đại úy Lưỡng kéo về TĐ2ND; vì Thu có tướng lộ xỉ, hai mắt lồi dễ bị chết yểu, nên ông ngầm che chở, cho ở Đại đội Chỉ huy, đỡ nguy hiểm hơn. Nhưng khi Đại úy Lưỡng đi du học ở Mỹ, Thu theo đơn vị ra hành quân và bị pháo kích thủng ruột tại đỉnh cao 1416 tên Ngok Wan ở Dakto, Kontum! Vì vậy khi làm LĐT/LĐ1ND Trung tá Lưỡng cố tình kéo Thu theo. Ông thương Thu ở tánh tình ngay thẳng và làm việc rất năng động. Thu không biết nịnh bợ, anh dám chỉnh (riêng) LĐT nếu ông phạm sai lầm, chính Trung tá Lưỡng thương anh nhất ở điểm dám ăn nói và không ỷ thế làm bậy.
Trong trận Hạ Lào, vì Đại tá Lưỡng ở lại sau để giúp đỡ điều động yểm trợ TĐ2ND và TĐ7ND rút ra an toàn. Lúc ấy địch chỉ có khả năng bắn vói theo máy bay, nên mọi người đều đi đường bộ, chỉ có Thu dám leo lên phi cơ trực thăng để theo bảo vệ chủ mình. Vừa cất cánh chưa được 5 phút, máy bay lập tức bị bắn, phải đáp khẩn cấp xuống gần căn cứ Bravo. Trong khi chờ đợi phi công người Mỹ gọi đồng bạn xuống cứu, Thu cứ lấy mình che chở sợ đạn lạc trúng đại tá Lưỡng. Vị Lữ Đoàn Trưởng thấy anh trong cơn nguy biến mà vẫn một lòng trung thành, lòng ông an ủi và rất thương người sĩ quan thuộc cấp trung cang nghĩa dũng nầy. May thay các phi công Mỹ khác nhận được tín hiệu, nên không đầy 5 phút đã bay tới liều mạng đáp xuống cứu!
Nếu trễ chừng 10 phút thì địch, thấy trực thăng rớt, sẽ tới nơi tìm chiến lợi phẩm; chắc chắn những người trên máy bay nầy sẽ bị bu như kiến gặp viên đường ngon ngọt!
Khi qua Mỹ, Thu ở Atlanta, đứa con trai hay đi tiểu bậy ngoài sân; nên hàng xóm người Mỹ qua nói nhiều lần, anh tức giận lấy roi đánh đứa con trai cưng nhất của mình. Vì nó được nuông chiều quá, nên dạy bảo hoài không nghe. Thật là rủi ro, trong khi đánh, cháu lại né tránh, nên roi trúng nhầm chỗ hiểm, làm cháu chết ngay. Do đó Thu bị cảnh sát bắt giam; vừa hối hận vì lỡ tay đánh đứa con cưng mình chết, vừa không được ở nhà để ngó mặt con lần cuối cùng; tối hôm đó, Thu lấy áo thắt cổ tự vận trong tù! Thật là một thảm cảnh đau lòng!
Khi tôi về làm Đại Đội Trưởng Đại đội Chỉ Huy Công vụ thấy có một số hạ sĩ quan a dua với anh phục vụ của Lữ đoàn trưởng, họ hoành hành lập bè kết đảng (giống như bọn thái giám loạn quyền trong các phim Hồng Kông). Tôi lập tức cho Thượng sĩ Luông làm Thường Vụ thay thế một trung sĩ nhứt. Anh nầy nhờ phe đảng, miệng lưỡi nên lâu nay nắm quyền sinh sát, chỉ huy luôn cả vị thượng sĩ hiền lành có nhiều kinh nghiệm và khả năng. Thế là chúng nó phản đối nói tôi dám “Đảo chánh” và đâm thọc đàm tiếu, rỉ tai gây lung lạc lòng tin của Trung tá Lữ đoàn Trưởng.
Một hôm ông xuống thăm doanh trại đại đội và hỏi:
- Tụi nó đồn anh ăn tiền thằng thủ kho (Trung sĩ Vui) 50 ngàn có đúng không?
Không ngờ có chuyện dựng đứng động trời như vậy, tôi giận đỏ mặt chỉ ngực nói:
- Tôi xuất thân trường VBĐL, Trung tá cứ cho điều tra, nếu có ăn hối lộ của thằng Vui một đồng hoặc một cắc, thì trung tá cứ lột lon, mấy đứa cận vệ của trung tá thuộc quân số Đại đội Công Vụ, nếu tôi sợ họ gièm pha đâm thọc thì không thể nào chỉ huy được.
Trung tá vỗ vai tôi cười giả lã nói:
- Tôi nói chơi với anh thôi, không có gì đâu!
Tôi trình bày rõ với ông, việc nhà kho thiếu hụt nhiều là sự sơ xuất của thủ kho, hậu cư,ù và sĩ quan đại đội trưởng tiền nhiệm, tôi thấy vậy nên tới đại đội cũ lấy về bù đắp. Từ nay kiểm soát thường xuyên nhà kho, nếu có gì sơ sót chính là trung sĩ Vui sẽ chịu trách nhiệm.
Từ đó bọn gièm pha thấy tôi làm việc thẳng thắn, minh bạch, những tên đệ tử cũng sợ tánh cứng cỏi của tôi; chúng mà vi phạm tôi phạt nặng hơn người khác. Vì tôi rất ghét những ai đâm thọc, nịnh bợ xỏ lá. Những người khác sợ đi tác chiến chớ tôi đâu có sợ. Có lần ở trại biên phòng Kàtum, tôi nạt thằng Miên, bạn cùng khóa, trước mặt Trung tá Lê văn Ngọc, Lữ đoàn Phó, ông ta nói đùa:
- Tụi mầy đừng có chọc thằng Dưỡng, nó bị thương ở đầu nên “Mát” đó!
Trung tá Lưỡng là người giỏi về đánh trận (những sĩ quan xuất thân khóa 4 Võ Khoa Thủ Đức như Tướng Trưởng, Tướng Lân, Tướng Hậu, Tướng Điềm, Đại tá Phước, Đại tá Lương,...đều có tài hành binh), ông thích nghiên cứu tình hình địch, bạn rồi dùng mưu lược tấn công bất ngờ, khiến địch không trở tay kịp. Nhiều khi hằng đêm ông ngồi thảo ba, bốn lệnh hành quân, sau cùng ông quyết định chọn kế sách nào thật hữu hiệu cho quân ta thành công mà ít bị thiệt hại nhất. Nhiều năm tác chiến ở TĐ5ND, ông học được kinh nghiệm của các Tiểu Đoàn Trưởng Viên, Nguyễn Chánh Thi, Ngô Xuân Soạn, Hồ Tiêu, và Ngô Quang Trưởng. Nhờ vậy lúc về nắm TĐ2ND, ông giống như diều gặp gió, có cờ tới tay, sẵn sàng thi thố tài năng ấp ủ bấy lâu nay.
Lúc tôi mới về Dù thì ông là Đại úy Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù. Khóa 20 ở đó cũng nhiều, ông đã tận dụng tài năng của Hạnh, Phương, Hòa, Thọ, Điệp, Toàn,...và những sĩ quan giỏi như Bằng, Phú đen, Mạnh,...đưa tiểu đoàn hết thắng chỗ nầy lại chiến thắng chỗ khác, đặc biệt ông đã cho dùng kèn thúc quân mỗi khi xung phong, binh sĩ hăng say chiến đấu, công hiệu hơn thuốc Hùng Binh của VC, khiến tiểu đoàn nổi danh như cồn. Ông và các sĩ quan cũng lên chức nhanh như gió. Trận Mậu Thân ở Huế, trận Hạ Lào, trận Mỏ vẹt, Lưỡi Câu ở Cục R Campuchia, trận An Lộc, Bình Long mùa hè đỏ lửa, Trận Vĩnh Hạnh ở ven đô,.... đã đưa ông lên hàng Tướng lãnh, chỉ huy Sư đoàn Nhảy Dù cho tới ngày mất nước. Cuộc đời binh nghiệp của ông vô cùng gian khổ, nhưng ông rất mưu lược, bình tỉnh, và gan dạ. Nhà văn Phan Nhật Nam đã tặng ông danh hiệu: “Con Beo Gấm Của Chiến Trường”.
Tôi theo LĐ1ND đi Phước Long, đóng chung căn cứ với Lữ Đoàn 2 Không Kỵ Hoa Kỳ tại căn cứ Phước Bình. Trung úy Công Binh Nguyễn Thanh Nhàn, Miên, và tôi đi trước nửa tháng để làm hầm hố, chỗ ngủ kiên cố cho Trung tá Lưỡng, Trung tá Lê Văn Ngọc, Thiếu tá Ninh, các sĩ quan tham mưu, và binh sĩ. Đại đội Công vụ và Công binh cũng lo làm Trung tâm Hành quân. Căn cứ nầy thường bị địch đặt pháo từ Mật khu Bù Gia Mập và núi Bà Rá bắn vào.
Những ngày rảnh rỗi, ba đứa đi tham quan thị xã Phước Long, và được Đại tá Lưu Yểm, Tỉnh trưởng, cho tiền tiêu xài thỏa chí. Ở đây có làng người Thượng, gần con suối chảy qua thị xã, có cầu treo lắt lẻo gập gềnh khó đi, phong cảnh rất nên thơ, ba đứa thường ra suối tắm, nước rất trong và mát mẽ.
Nửa tháng sau bộ chỉ huy Lữ đoàn và các tiểu đoàn tác chiến tổ chức hành quân phối hợp Việt-Mỹ, vào các khu rừng rậm ở xung quanh núi Bà Rá và thị xã Phước Long. Ngày nào địch cũng từ mật khu Bù Gia Mập pháo vào căn cứ, mỗi khi di chuyển đều phải đội nón sắt và mặc áo giáp. Có một trái hỏa tiễn 122 ly rơi ngay trước hầm của tôi nghe tiếng “Ầm” thật lớn, làm lòng ngực như bi nghẹt, chạy ra coi thấy miệng hố vô cùng to lớn! Đường kính gần 2 thước, sâu hơn một thước.
Hạ sĩ nhứt Cổn bị một quả rơi trúng hầm, bay văng banh ống cống nhưng anh không hề hấn gì, thật là kỳ diệu khó tưởng! Lúc đó Trung tá Lưỡng vừa được thăng cấp Đại tá, tôi lấy trực thăng C.N.C về Sàigòn, mua rượu Champagne, Olive, xúc xích, và thịt nguội tại tiệm Đô Chính, cạnh rạp cinéma Eden. Ông tổ chức tiệc rửa lon có mời vị Lữ Đoàn Trưởng và sĩ quan tham mưu của Không Kỵ Hoa Kỳ qua dự.
Vài hôm sau đi phép vợ sanh (Cháu Thành), trước khi về tôi ghé thăm Thiếu tá Tư. Anh có người bạn làm Phó Tỉnh và nhắn ông ta kiếm con đuông Chà Là cho Tổng Thống. Vị phó Tỉnh Vĩnh Bình nghe tôi chuyển lời, hôm sau đã chở lại nhà mấy quài đuông, ông cho riêng tôi một phần. Đại tá Lưỡng cũng rất thích đuông Chà Là, ông ngâm nước mắm cho nhả nhớt dơ, rồi đích thân đứng chiên từng con. Trong khi chiên, Việt Cộng (có lẽ ngửi thấy mùi thơm chăng!) pháo kích rầm rầm, làm ông hoảng hồn, phóng nhanh vào hầm!
Tôi từng theo Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn đóng ở trại biên phòng Thiện Ngôn, phía Bắc tỉnh Tây Ninh. Nơi đây, Lữ Đoàn trực tiếp chỉ huy các tiểu đoàn đánh qua căn cứ an toàn của địch ở bên kia biên giới thuộc Campuchia, tại các đồn điền cao su Snuol, Chup, Damber, Krek. Một hôm, Trung tá Ngọc rủ anh Lạc và tôi, lấy trực thăng chỉ huy của Lữ Đoàn Trưởng, bay qua Chup, ghé vào bộ chỉ huy liên đoàn Biệt Động Quân, xin tiền Miên của ông Liên Đoàn trưởng, bạn của Trung tá. Trực thăng bay qua phi trường Nam Vang, rồi có xe Jeep đưa chúng tôi vô Thành Phố, chạy vòng vòng qua Hoàng Cung, nhà hàng nổi Maxim, và Chợ Lớn Mới rất khang trang. Nhà phố ở đây bề ngang thường rộng hơn nhà phố ở Sàigòn, Chợ Lớn. Tôi mua trái vải, trái nhản, và trái hồng dòn ở trong chợ Mới (tiền do Trung tá Ngọc chia và của Nguyễn văn Tới, Đại đội trưởng 82 cho mấy hôm trước).
Vài tháng sau, Bộ chỉ huy Lữ đoàn tới đóng ở Katum, để trực tiếp chỉ huy các tiểu đoàn Dù đánh qua biên giới, ngay Tổng hành dinh của Trung ương cục Miền Nam. Tại đây, các đơn vị tịch thu hàng ngàn xe đạp thồ do Trung Cộng sản xuất và mấy trăm tấn gạo, cùng nhiều quân dụng quân trang.
Về Sàigòn tôi được đi học khóa Đại đội trưỏng và Miên xử lý Đại Đội Công Vụ. Khi học xong, đại tá Lưỡng muốn tôi làm sĩ quan ban Ba với Phạm Như Đà Lạc, Bảo làm Đại đội trưởng Công Vụ (lúc tôi rời Tiểu đoàn 9, Bảo cũng thế tôi làm Đại đội trưởng 91, Bảo là người lót đường phải không bạn?) Tôi không thích làm tham mưu, sẵn Biệt Đội Tác chiến Điện Tử có lệnh sắp thành lập (nhờ Phúc, Đại đội Phó, cho biết và bảo tôi lên gặp Trung tá Lân, Trưởng Phòng 1). Ông nói về hỏi ý kiến đại tá lữ đoàn trưởng và tôi được toại nguyện.

13. Biệt Đội Trưởng BĐ Tác Chiến Điện Tử


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1508035316-Chuong3B_KeChuyenHanhQuan05.jpg

Năm 1970, mỗi Sư Đoàn đều thành lập một Biệt Đội Tác Chiến Điện Tử. Nhằm mục đích gài các thiết bị điện tử (gọi là Sensor) trong khu vực trách nhiệm; để kịp thời phát hiện sự di chuyển, sự xâm nhập của địch; bằng sự gây chấn động (Seismic Device) bởi các bước chân; nhiễu loạn điện từ (Magneticfield); hoặc Nghe được âm thanh (Acoustic Device), Nhìn bằng tia hồng ngoại tuyến (Infa-Red).
Khi địch di chuyển sẽ tạo ra chấn động nhỏ trên mặt đất, vũ khí đi ngang qua máy sẽ gây ra sự nhiễu loạn từ trường, địch nói chuyện hoặc tiếng động gần nơi đặt máy, sẽ được chuyển tín hiệu về đài kiểm báo. Tầm hoạt động trong vòng 25 cây số với ăng ten Định Hướng, nếu đài kiểm báo đặt trên đỉnh núi, thì tầm hoạt động rất xa. Các máy Điện tử như Minicid thường được chôn trên đường xâm nhập, mỗi máy cách nhau khoảng một trăm thước, để thâu nhận tiếng động do bước chân của địch. Có những loại máy được thả xuống từ phi cơ, máy nầy hình dạng giống như trái bom tên là Asid, bề dài khoảng nửa thước, sau đuôi có cần “Ăng ten” màu xanh lá cây. Khi phóng xuống máy sẽ ngập sâu dưới đất chỉ ló đầu antenna lên thôi.
Ở đường mòn Hồ chí Minh, người ta thả máy Asid và những máy phát hiện kim khí đi ngang qua (gây nhiễu loạn từ trường), loại máy nầy hình dạng và màu sắc giống như viên đá nhỏ. Máy Acousboy, Acoustic(?), được treo dấu ngụy trang trên những cành cây, thân cây để thu nhận âm thanh. Hàng rào điện tử Mac Namara dọc theo vùng giới tuyến được thiết bị bằng những loại máy trên.
Có lần tại một vùng địch thường di chuyển, ở phía Tây Đồi 50 (La Sơn) 5 cây số, cách phi trường Phú Bài Huế khoảng 14 cây số về hướng Nam, Đại úy Hà Thúc Mẫn, khóa 20 ĐL, tiểu đoàn phó 4/54, chỉ huy lực lượng Action Force phối hợp với Lữ Đoàn 2/101 Không Kỵ Hoa Kỳ, Mẫn đã tổ chức phục kích bằng mìn định hướng Claymore.
Anh đề nghị toán TCĐT đặt máy điện tử Minicid (sensor) và mìn Claymore dọc theo đường (mà tin tức tình báo nói địch thường hay di chuyển). Khi VC đi ngang qua, đài kiểm báo phát hiện tín hiệu, Mẫn ra lệnh bấm nổ (bằng remote control) hàng loạt mấy chục quả mìn. Ngay sau đó đơn vị đổ bộ bằng 6 trực thăng vào lục soát và thu lượm được thành quả vô cùng rực rỡ, hơn 30 vũ khí đủ loại nằm rải rác dọc theo bãi phục kích bằng mìn định hướng nầy.
BĐ/TCĐT gồm có 11 Sĩ quan, 50 Hạ sĩ quan và 10 binh sĩ.
Biệt Đội trưỡng: Đại úy Trương Dưỡng
Biệt đội Phó : Trung úy Trương Ngọc Ẩn
Các Trưởng Toán TCĐT: Trung úy Lâm Vỹ, Thiếu úy An,
Tường, Tám, Ân, Trốn, Liên, Việt, và chuẩn úy Chinh.
Kế Toán Trưởng: Thượng sĩ Cầu
Thường Vụ : Thượng sĩ nhứt Khánh
Thủ Kho: Trung sĩ Hùng
Thơ ký : Hạ sĩ Nguyễn văn Hòa
Biệt đội trực thuộc Đại tá Nguyễn Thu Lương, Trưởng P3
Sau khi thành lập xong Biệt đội, tôi và 3 Sĩ quan Trưởng toán là An, Ân, và Liên được đi thụ huấn chuyên môn tại Trường Truyền Tin ở Vũng Tàu. Khóa nầy quy tụ hầu hết Biệt đội trưởng của các Sư Đoàn. Mỗi ngày chúng tôi ăn cơm chung với Nghiêm và Vinh “Con” ở doanh trại TĐ6ND.
Có lần nhằm ngày thi cuối khóa, Phạm Cảng, Tiểu đoàn phó Thủy Quân Lục Chiến, là bạn cùng Đại đội F khi còn trong trường Võ Bị Đà Lạt, lấy xe Jeep chở tôi ra Bãi Trước nhậu tôm càng tới gần say hắn mới chịu đưa về lại trường Truyền Tin để thi Tổng Kết cuối khóa. Lúc ấy tôi đã ngà ngà, đầu óc còn nhớ loáng thoáng. Thi xong trở ra cổng, thấy vị Tiểu đoàn phó TQLC (Cảng làm Tiểu Đoàn Trưởng sớm nhất trong 25 bạn cùng khóa ở TQLC) đang ngồi ngủ gục trên tay lái xe Jeep! Cảng chờ tôi ra để chở đi nhậu tiếp.
Lúc ở trường Đà Lạt, mỗi sáng thứ hai chào cờ, tôi đi kiếm, Cảng cầm cờ đại đội. Hai đứa cùng cao 1.72 thước như nhau, có lẽ vì “Cờ kiếm hợp nhất”, nên khi ra trường lâu ngày gặp lại, ý hợp tâm đầu, nhậu hoài không chán. Sau khi qua Mỹ, mặc dù ở xa Florida, Cảng vẫn làm bài luận Anh Văn (essay) nói về sự phấn đấu, khắc phục dầu thể xác bị thương tật của tôi, làm cô giáo Mỹ hỏi thăm lia lịa.
Ngày mãn khóa, tôi lên đọc đôi lời phi lộ, có lẽ vì họ nể nang đơn vị Nhảy Dù, nên cho đậu Thủ khoa của khóa Biệt Đội Tác Chiến Điện Tử đầu tiên nầy. Về Sàigòn, tôi mời mấy anh Biệt Đội Trưởng tới nhà ăn cơm canh chua cá Bông Lau. Mọi người đều tỏ ý khen tài nấu ăn của bà xã.
Biệt đội theo Bộ Tư Lệnh Sư đoàn tới đóng quân ở căn cứ Trảng Lớn, Tây Ninh, để chuẩn bị mở cuộc hành quân quy mô tấn công vào đầu não của Trung Ương Cục Miền Nam tại bên kia biên giới Miên-Việt.
Lúc ấy Lonol nổi dậy cướp chánh quyền. Tại làng Mimốt, lính Khmer tập trung dân Việt Nam giết hại, thanh niên thì đập đầu thả trôi sông, thiếu nữ thì hãm hiếp xong bắt làm người hầu như nô lệ. Có một thanh niên sau khi bị đập đầu, thẩy xuống nước được một lúc thì tỉnh lại. Nhờ làm nghề chài lưới, nên anh lặn rất giỏi; anh dùng hơi tàn cố lội vào bờ bên kia và chạy trốn về biên giới Việt Nam. Gặp lúc TĐ1ND đang hành quân phía Bắc trại biên phòng Kàtum, anh tới xin họ đem quân đi giải cứu mấy ngàn đồng bào, sắp bị lính Khmer “Cáp duồn” sát hại hết! Tiểu đoàn vội báo về BCH/LĐ1ND. Nhằm lúc Trung tướng Đỗ Cao Trí đang họp với Đại tá Lữ Đoàn Trưởng và có sự hiện diện tướng Đống, Đại tá Lương, Trưởng Phòng 3 SĐND. Mọi người đều đề nghị tướng Trí tìm cách cứu giúp đồng bào mình.
Lúc ấy chưa có lệnh qua Miên, nên tướng Trí chỉ thị TĐ2ND lập tức lợi dụng đêm tối, lấy trực thăng của VN tại QĐIII chở quân (vì trực thăng Mỹ không dám thi hành khi chưa có lệnh Tổng Thống của họ). Khi hai đại đội đầu tiên của TĐ2ND vừa đáp xuống sân banh Mimốt, thì Trung tướng Trí cũng đáp trực thăng xuống theo, làm thiếu tá TĐP/TĐ2ND giật mình, sợ ông bị nguy hiểm, nên báo cáo về LĐ1ND.
Tướng Đống thấy Trung tướng Trí vì nóng lòng muốn cứu đồng bào mình mà không nề nguy hiểm, ông vội đốc thúc các đơn vị lên tiếp ứng. Ông cùng Đại tá Lương cũng bay trực thăng tới với tướng Trí tại mặt trận luôn. Lính Khmer là loại ô hợp, chỉ một thời gian ngắn đã bị bắt gọn. Lập tức LĐ1ND cho một Tiểu đoàn tiến từ Thiện Ngôn lên Smac, lo giữ đường cho xe vận tải chở hằng ngàn đồng bào ta về bên nầy biên giới, để tránh bị họ sát hại một cách quá dã man (điều đáng nói là Mimốt cũng gần căn cứ địa an toàn của tướng Trần văn Trà ở cục R, nhưng vì không muốn mất lòng lính Khmer, nên VC nhắm mắt rút đầu để cho đồng bào bị Cáp duồn, miễn sao cho họ được yên thân thôi). Vài tháng sau, Tổng Thống VNCH ra lệnh tấn công qua biên giới Việt Nam-Campuchia phối hợp với Đồng Minh (sau khi đã được Tổng Thống Nixon cho phép).
LD1ND được lệnh nhảy vào giải tỏa Kam Pong Cham, phối hợp với tướng Intam, Tổng Trấn kiêm Tư Lệnh Đệ Nhất Quân Khu, Kiêm Phó Chủ Tịch Quốc Hội. Các tiểu đoàn Dù tung quân ra đánh chiếm Peam Chikong, Pretotung, và Trà Ơn (năm 1970). Có một bà lão kể cho Đại tá Lương nghe là chính tên đầy tớ giúp việc cho bà đã rủ lính Miên tới hãm hiếp con gái và bắt làm người hầu cơm nước, thật là nhục nhã vô cùng!
Giống như cuộc đấu tố ngoài Bắc, trong chiến dịch ngụy tạo là Cải Cách Ruộng Đất, nông dân vùng lên! Các tá điền tố điền chủ, học trò tố thầy. Chính Trường Chinh, Tổng Bí Thư đảng CS đã đích thân đứng ra tố cha mình, để dâng công với đảng!(Đảng viên CS cha mẹ còn tố huống gì người dân xa lạ)
Trận nầy sào huyệt an toàn của Việt Cộng bị phá tan tành; dùng chiến thuật diều hâu di động chớp nhoáng, khiến địch chạy phân tán tứ tung, không nơi trú ẩn, các tiểu đoàn Dù tịch thu rất nhiều chiến lợi phẩm; trong đó có đủ thứ kho chứa quân trang, quân dụng, và hàng ngàn vũ khí, nhiều chưa từng thấy trong cuộc chiến chống du kích tại Miền Nam Việt Nam. Đây là một trận địa chiến quy mô, tập hợp các đơn vị thiện chiến nhứt quân lực Việt Nam Cộng Hòa và Đồng Minh.
Sư đoàn chia nhiều mũi dùi, tiến vô vùng địch tại bên kia biên giới. Những mục tiêu quan yếu như Lò gò, Xóm Giữa, Smac,Krek, Snoul, Chup, Mimot, Damber,......lần lượt bị các tiểu đoàn Dù và đơn vị Bạn (BĐQ,BB,...) tấn chiếm. Tin tức tịch thu chiến lợi phẩm được báo về tới tấp. Những vùng lâu nay gọi là bất khả xâm phạm, bây giờ đã trở thành bình địa bởi pháo binh, B-52, Khu trục, và cuối cùng các Tiểu đoàn Nhảy Dù, TQLC, Biệt Động Quân, SĐ25BB vào làm chủ tình hình. Trận nầy mất một vị Tướng có tài đánh trận địa chiến. Cố Đại Tướng Đỗ Cao Trí đã bị tai nạn phi cơ, trực thăng chở ông vừa cất cánh tại phi trường Trảng Lớn, đã bị nổ. Dân chúng ở Mimốt nhớ ơn vị tướng anh hùng, cứu hàng vạn nhân mạng, nên đã tạc tượng thờ tướng Đỗ Cao Trí tại Đồn Điền Mimốt.

14. Trận Hạ Lào


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1508035335-Chuong3B_KeChuyenHanhQuan06.jpg

Tôi theo Bộ Tư Lệnh sư đoàn Dù tới Đông Hà, đóng quân nghỉ vài hôm, chờ lãnh tiếp tế. Tại đây tôi gặp mấy thằng bạn cùng khóa như Hoàng xuân Đạm, Nguyễn văn Thao, Nguyễn Thiện Sanh đang làm sĩ quan tham mưu ở Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Quân đoàn I . Nhờ đó mới biết là Sư Đoàn Dù sẽ tham dự cuộc hành quân tên Lam Sơn 719 (tức 1971 tiến quân theo trục Quốc Lộ 9). Mục đích nhằm phá các cơ sở tiếp vận, các kho tàng của quân Bắc Việt vùng phía Đông Thị Trấn Tchépone thuộc Hạ Lào. Bộ Tư Lịnh Tiền Phương SĐND đóng tại phía Bắc Lao Bảo, nằm trên trục lộ kéo dài từ Đông Hà, Khe Sanh, Lao Bảo, và Tchépone (Quốc Lộ 9). Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn ở phía Đông chúng tôi khoảng 1 cây số.
Về tình hình địch, Sư đoàn 308, Sư đoàn 320, Sư đoàn 986 (sau nầy còn thêm nhiều Sư đoàn kéo vào tham chiến), Trung đoàn Chiến Xa, và nhiều tiểu đoàn Pháo binh cùng Hỏa tiễn 122 ly với mức độ tiếp tế đạn dược dư thừa.
Lúc nầy đài V.O.A. và B.B.C. đã nói trước một cách rõ ràng là Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa sẽ xử dụng các đơn vị Tổng Trừ Bị và SĐ1BB tấn công sang Hạ Lào.
Ngày N-1, Thiếu tá Lạc, Tiểu đoàn trưởng Pháo binh Dù, ngồi trên phi cơ quan sát Hoa Kỳ, bay trên vùng trách nhiệm, thấy những đường đất mới chằng chịt (màu ngà ngà chứ không như bên Khe Sanh, Lao Bảo). Bụi bay mù mịt chứng tỏ có xe đang xử dụng. Anh đếm được 6 đám bụi nhỏ (một hoặc hai xe), nhưng khi máy bay tới gần thì tất cả đã chui vào các lùm cây rậm rạp mất hút, không để lại dấu vết. Bay đến gần Thị Trấn, thấy một cây cầu bắc ngang sông Sépone.
Quan sát kỹ ở độ cao 1000 bộ, anh nhìn rõ không phải là cây cầu, mà là đoàn xe đang băng qua sông. Vì gặp máy bay, chúng đậu sát gần và bất động, trên cao nhìn xuống giống như cây cầu đúc. Địch thường đắp đập đá ngầm (làm cầu ngầm), để xe băng qua sông, vì cầu nổi sẽ bị máy bay oanh tạc ngay.
Tình hình bạn gồm Sư đoàn Nhảy Dù, Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến, Sư đoàn 1 Bộ Binh, Liên đoàn 12 Biệt Động Quân, các Thiết đoàn 4, 8, 11, 17, Chiến xa (khoảng 200 chiến xa), Liên Đoàn 1 Không Quân, 8 Tiểu đoàn pháo binh, Lữ đoàn 5 Cơ Giới Mỹ (khai hoang Quốc Lộ 9). Sư đoàn TQLC có nhiệm vụ lừa địch giả như chuẩn bị Bắc tiến, kiểu dương Đông kích Tây rồi làm thành phần trừ bị trong giai đoạn đầu.
Theo kế hoạch dự trù thì giai đoạn đầu Sư đoàn Dù, Liên Đoàn Biệt Động Quân, và Liên Đoàn Thiết Giáp thọc mũi nhọn vào thẳng Hạ Lào. Hành quân lập căn cứ hỏa lực từ Quốc Lộ 9 lên về hướng Bắc nhằm nhử địch nhả Tchépone để Sư Đoàn 1 BB nhảy vào thị trấn nầy (vì Phạm Văn Đồng có tuyên bố ai vào Tchépone tức làm chủ vùng Hạ Lào), sau đó TQLC vào án ngữ cho các đơn vị rút ra.
Ngày N, ngày khởi đầu cuộc hành quân, theo lịnh Tổng Thống VNCH, được đài Phát Thanh Sàigòn truyền đi nguyên văn như sau: “Giờ phút nầy tôi cho lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tấn công qua phần đất Lào”. Vừa nghe xong, các đơn vị bắt đầu xuất phát, qua khỏi biên giới chừng 2 cây số, các Tiểu đoàn Dù gặp sự kháng cự mạnh mẽ của địch.
Nhờ pháo binh và chiến xa cùng sự chiến đấu hăng hái của binh sĩ nhảy dù, khoảng 12 giờ trưa TĐ5ND đã tới địa điểm chỉ định để thiết lập và bảo vệ Căn cứ pháo binh Bravo. Các TĐ1ND, TĐ8, và TĐ9 tiếp tục tiến về hướng Tây, mở đường cho Bộ chỉ huy LĐ1ND tới Bản Đông (BanDong) để thiết lập căn cứ hỏa lực A Lưới (Xem bản đồ phối trí đính kèm). Đến 7 giờ tối, đêm đầu tiên, các đơn vị báo cáo như sau:
TĐ8ND do Trung tá Văn Bá Ninh, Tiểu đoàn trưởng, Thiếu tá Phú, Tiểu đoàn Phó, báo cáo khám phá một kho chứa chừng 2000 xe đạp thồ còn mới, một xưởng sửa chữa trong đó có 1000 xe đạp cũ còn xử dụng được. Một kho nhiên liệu khoảng 50 thùng phuy nhớt và 100 phuy dầu cặn, xác nhận đã đụng độ với đơn vị thuộc Sư đoàn 320 (do khai thác tù binh và tử thi).
TĐ1ND do Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Phan, và Thiếu tá TĐP Sáng, đã khám phá một kho quân trang quân dụng, và xác nhận đã đụng độ với đơn vị của Công trường 308 CSBV.
TĐ9ND do Trung tá Trí (vài ngày sau bị thương cùng bác sĩ do trúng hỏa tiễn địch, Trung tá Ngọc xử lý), Tiểu đoàn trưởng, và Thiếu tá Đồng làm Tiểu đoàn Phó, báo cáo gặp một Trung Tâm Huấn Luyện rất quy mô được ngụy trang trong khu rừng giả nhưng khổng lồ.
LĐ3ND do Đại tá Thọ chỉ huy, được trực thăng vận vào vùng hành quân, thuộc phía Bắc LĐIND của Đại tá Lưỡng chừng 5 cây số. TĐ2ND đi đầu chiếm một ngọn đồi trọc lập căn cứ hỏa Lực mang tên là Căn cứ 30, và chĩa súng đại bác yểm trợ cho Bộ chỉ huy Lữ Đoàn cùng 2 tiểu đoàn trực thuộc tiến về hướng Tây, lập căn cứ hỏa lực mang tên là Căn cứ 31.
Các đơn vị Lữ đoàn 3 ND cũng chạm địch khi vừa đáp xuống, ngay ngày đầu họ đã gặt hái nhiều kết quả không thua vì cánh LĐ1ND (Lúc đầu, theo lời Đại tá Lương, Trưởng Phòng Ba SĐND nói, các đơn vị thắng thế dễ dàng và tịch thâu nhiều kho chứa vì địch tưởng ta đổ bộ hoặc tiến quân bằng trục Quốc Lộ 9 để tấn công Thị Trấn Tchépone, nên dàn sẵn 2 sư đoàn 320 và 308 tại Tchepone chờ đợi, vài ngày sau thấy Thị Trấn yên lặng, nên chúng mới tung ra phản công các căn cứ đóng rải rác lẻ tẻ của ta).
BCH/Lữ đoàn 2 ND đóng ở căn cứ hỏa lực Tàbạt, Lao Bảo, Tiểu Đoàn 7 và hai đại đội của TĐ6ND hoạt động phía Bắc căn cứ Alpha và Bravo.
Gần căn cứ Alpha, có địa danh rùng rợn là “Đồi Ma, Suối Máu”. Vì nơi suối máu, Thiếu tá Phan, TĐT/TĐ1ND, đã bị phục kích và hy sinh, Đại úy Triệu bị phỏng cấp 3. Chính nơi đây đã xảy ra nhiều trận đánh đẫm máu giữa quân Dù và CSBV. Đồi ma là một đỉnh cao, từ trên đây có thể quan sát toàn vùng Nam Lào, trên đỉnh có đồn cũ kiên cố do quân Pháp để lại. Địch quân cố thủ đồi nầy để làm đài quan sát, hướng dẫn pháo binh bắn vào những căn cứ hỏa lực và các vị trí trú quân của ta. Các đơn vị Dù nhiều lần muốn thanh toán ổ chốt nầy nhưng vì địa thế quá hiểm trở (chỉ có một sườn hơi thoai thoải, còn 3 mặt đều dốc đứng). Ngay hướng đường đỉnh là những lô cốt kiên cố.
Vì thế Đại tá Lịch phải chỉ Thiếu tá La Tịnh Tường dẫn hai đại đội thanh toán cho bằng được mục tiêu nầy. Tường cho binh sĩ ăn uống trước sáu giờ chiều, rồi lợi dụng trời sáng trăng, ngầm kéo quân đi đến chân đồi. Khoảng 2 giờ khuya, anh cho Hùng “Móm” dẫn Đại Đội 113 dàn quân làm nghi binh tại sườn thoai thoải. Thiếu tá Tường đích thân chỉ huy cánh còn lại (Đại đội 114 của Hùng “Mập”) leo dốc đứng phía sau núi. Khoảng 5 giờ sáng thì Hùng Móm cho binh sĩ khai hỏa nhưng vẫn nằm tại chỗ, địch quân nhào ra lô cốt để bắn xuống dưới sườn đồi. Lúc ấy cánh Hùng Mập đã leo tới đỉnh mà quân CS vẫn không hay. Tường, Hùng, và toàn thể toán cảm tử xông vào các lô cốt thanh toán gọn từng tên một, bắt sống nhiều địch quân và thu nhiều vũ khí, chỉ có một ít địch nhanh chân tẩu thoát.
Các Đơn vị như Đại đội Tổng Hành Dinh, Công Binh, Quân Cảnh, Truyền Tin, Biệt Đội Tác Chiến Điện Tử, Tiểu Đoàn Yểm Trợ,...đóng vòng đai bảo vệ Bộ Tư BTL Sư Đoàn Dù. Các đơn vị trừ bị bố trí theo trục lộ từ Lao Bảo tới Khe Sanh, và tung ra hoạt động sâu đến bên nây biên giới.
Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến sau đó nhảy trực thăng vào hoạt động vùng phía Nam Sư đoàn Dù và yểm trợ Sư đoàn 1 Bộ Binh đổ bộ trực thăng vào lập căn cứ hỏa lực phía Đông Nam Tchépone.
Trung đoàn 3 cho 2 Tiểu đoàn 2 và 4 của thiếu tá Hoàng Mão, K20ĐL và thiếu tá Tôn thất Việt, k16ĐL, nhảy xuống rặng Kurock thiết lập căn cứ hỏa lực bảo vệ cho 2 Tiểu đoàn 1 của Thiếu tá Thuật Xáng, và Tiểu Đoàn 3 của NT Nguyễn Xuân Phong, K10ĐL, vào phía Đông Nam Tchépone. Tiểu đoàn 2 của Hoàng Mão bị tổn thất nặng và được Tiểu đoàn 3 tiếp ứng kịp thời.
Tiểu đoàn 5 thuộc Trung đoàn 2 của Trung tá Giám và Thiếu tá Huỳnh bá An khám phá nhiều ống dẫn dầu và nhiều kho chứa vĩ đại; Tiểu đoàn 3/2 do Trung tá Nguyễn tri Tấn (hậu duệ của Nguyễn Tri Phương) làm Tiểu đoàn trưởng và Thiếu tá Nguyễn văn Tuấn, Tiểu đoàn phó nhảy đầu tiên. Kế tiếp là Tiểu đoàn 2/2 trong đó có Trung tá Huế, K18 ĐL, làm Tiểu đoàn trưởng và Thiếu tá Nguyễn hữu Cước, Khóa 21 ĐL, Tiểu đoàn phó, nhảy trực thăng vào thị trấn Tchépone (lúc đầu dự trù nhảy xuống phi trường nhưng máy bay quan sát thấy địch phục chờ sẵn, nên đổi bãi đáp giờ chót cách phi trường khoảng 2 cây số về phía Nam) phá tan sào huyệt địch, băng qua đường chiếm nhà thờ rồi cấp tốc rút ra hướng Tây Nam và bị địch chận đánh tại rồi Furaton, Trung tá Quế bị thương và bị bắt tại đây. Thiếu tá Cước dẫn 340 người còn lại của Tiểu Đoàn 2/2 băng qua đường 914 (nhánh của Đường mòn Hồ Chí Minh) về vùng an toàn tại căn cứ hỏa lực Delta 1 của Trung đoàn 3, để được trực thăng bóc ra! Riêng Tiểu Đoàn 3/2 sau khi phá hủy nhiều kho tàn của địch, lúc rút ra cũng bị chận đánh. Vì địch đã tập trung nhiều hỏa tập tại đây để chờ đợi quân ta; do đó đơn vị nầy đã bị tổn thất nặng nề gần nguyên một tiểu đoàn. Trận nầy Sư Đoàn 1 BB bị tổn thất khá nhiều, trong đó có vị sĩ quan nổi tiếng là Trung tá Lê Huấn bị hy sinh ngay từ đợt đầu!
Tội nghiệp Liên đoàn 12 Biệt Động Quân nằm tiền đồn phía cực Bắc; vì vậy chỉ chịu đựng được 7 ngày thì Tiểu đoàn 21 do Thiếu tá Hiệp làm Tiểu đoàn trưởng, và Quách Thưởng, Tiểu đoàn phó; cùng Tiểu đoàn 39 do Thiếu tá Khang, TĐT, và Đỗ Đức Chiến làm Tiểu Đoàn Phó bị tràn ngập (overrun). Họ phải rút về căn cứ 31 cho trực thăng bốc ra; riêng Tiểu đoàn 37 của Lại Thế Thiết đóng với BCH Liên đoàn bên nầy biên giới làm lực lượng trừ bị (lẽ ra TĐ39 làm trừ bị, nhưng vì phi cơ đổ lầm nên lãnh đủ dùm cho TĐ37). Thiết và Măng, là bạn cùng khóa 20 Đà Lạt, sau nầy được thăng cấp Trung tá, làm Liên Đoàn Phó Liên Đoàn BĐQ.
Bộ đội Bắc Việt đã ngang nhiên đổ quân bằng xe dưới chân đồi, rồi uống thuốc kích thích tố tên “Hùng Binh” của Trung Cộng chế tạo. Chúng dùng chiến thuật biển người nhào lên không sợ chết, giống như người máy rô bô.
Những ngày kế tiếp, các tiểu đoàn Dù bung ra lục soát, họ liên tiếp khám phá rất nhiều kho tàng, đủ các loại quân dụng và đạn dược, các vật dụng trong kho quân trang còn mới toanh, TĐ1ND sau đó khám phá thấy một kho thực phẩm trong đó có các loại đồ hộp của Nga và Trung Cộng, chưa từng thấy xuất hiện trên chiến trường Miền Nam.
Nhiều Pass B-52 đánh vào các thung lũng (những vùng nghi ngờ địch quân trú đóng), lần nào cũng có tiếng nổ phụ, chứng tỏ đó là kho đạn. Hoặc những cột khói cao, chỉ dấu đánh trúng vào kho nhiên liệu (đặc biệt kho xăng dưới chân đồi 1500, đã cháy liên tục 2 ngày 2 đêm).
Ở Bộ Tư Lệnh SĐND, ngày nào tôi cũng lên phòng Trung Tâm Hành Quân họp, thấy các đơn vị báo cáo chạm địch và xin tản thương liên tục. Địch quân thường bắn hỏa tiễn 122 ly vào đây, có lần vừa đi gần tới Phòng Hành Quân, thì nghe tiếng hú xé gió của hỏa tiễn, tôi vội nằm xuống, thì “Ầm” một tiếng, quả đạn rơi cách chỗ tôi nằm khoảng 5 thước, cát bụi văng dính cùng mình (không biết tại sao hỏa tiễn cứ theo tôi hoài, có lần tôi và Đại úy Công Binh Nguyễn Thanh Nhàn đang đứng ở gần cầu Mỹ Chánh, khi nghe tiếng hú xé gió của hỏa tiễn, tôi nhanh chân phóng vô hầm; Nhàn đứng khơi khơi cười chọc: “Ông thần Dưỡng trốn đâu mất rồi?”. Nhà tôi ở gần phi trường, mỗi lần nghe pháo kích, tôi phản ứng phóng nhanh xuống dưới cầu thang, vợ con tôi đứng cười ngất, có lẽ tại bị thương nhiều phen, trong mình tôi còn nhiều mảnh quá nên giống như gà bị nhát đèn!)
Đến gần hố đạn, thấy cỏ sậy làm giảm độ xuyên phá (chỉ sâu chừng 10 phân), nhưng bề ngang rất rộng, đường kính khoảng 2 thước, rút từ kinh nghiệm nầy nếu dùng cây dừa nhiều chất sơ, có thể cản độ xuyên phá của bom, hỏa tiễn.
Càng ngày trận chiến càng ác liệt, sau khi thấy ta không có ý định vào Tchépone, 2 Sư đoàn Bắc Việt tại đây bắt đầu phản công, địch điều quân tới các căn cứ hỏa lực để mong đè bẹp chúng ta. Chẳng hạn như cánh quân Tiểu đoàn 8 Nhảy Dù và chi đoàn Thiết giáp bị nguyên một Trung đoàn của Sư đoàn 320 chận đánh tập kích. Cánh quân TĐ1ND sau đó được TĐ7ND của Thiếu tá Ngọc vào tiếp ứng để đương cự với Sư đoàn 308 Bắc Việt. Lúc đó B-52 được xử dụng như máy bay chiến thuật để yểm trợ các cánh quân bạn (vì địch quân tập trung đông quá, khu trục, pháo binh làm không xuể). Nhiều quả bom rơi cách đơn vị bạn chỉ có 500 thước!
Một hôm, trong cuộc họp của Bộ Tư Lệnh, thấy Lữ đoàn III Nhảy Dù đang bị áp lực quá nặng; Trung tướng Dư Quốc Đống ra lệnh tập trung yểm trợ hỏa lực mạnh thêm. Ngoài ra ông còn cho lệnh phái một toán Tác Chiến Điện Tử vào Căn cứ 31, tăng cường cho Đại tá Thọ.
Tôi chỉ định Trung úy Lâm Vỹ, Trưởng toán 1, dẫn binh sĩ chuyên viên và đem máy Sensor theo. Thấy tình hình lúc đó thật sôi động, Căn cứ hỏa lực 31 của Đại tá Thọ như chỉ mành treo chuông. Chẳng lẽ bỏ anh em đi một mình vào tử địa, tôi quyết định theo trực thăng đưa Toán 1 vào đồi 31.
Khi đoàn trực thăng 4 chiếc bay vào vùng Hạ Lào, tôi ngồi trên máy bay nhìn xuống thấy con sông Sépone chạy dài từ Lao Bảo tới Thị Trấn mút tận bờ Tây. Lúc bay ngang qua căn cứ hỏa lực Bravo của TĐ5ND, thấy những khẩu pháo đang tác xạ liên hồi, khoảng 2 phút sau thì tới Bản Đong, Căn cứ hỏa lực A Lưới, trong đó có BCH/LĐIND, nơi thằng bạn cùng khoá Nguyễn Tấn Kiệt đang làm sĩ quan Hành quân.
Các trực thăng bay rất thấp để tránh đạn phòng không, vậy mà chạy cũng không thoát khỏi! Khi vừa tới đồi 31 thì chiếc đi đầu, trong đó có toán của Trung úy Lâm Vỹ bị bắn trúng, nó bay lảo đảo mất thăng bằng, vội đáp khẩn cấp xuống sườn thoai thoải của Căn cứ 31. Trung úy Vỹ bị bắn bể xương đầu gối! Ba chiếc còn lại sợ quá (vì phòng không xung quanh Căn cứ bắn lên như rừng pháo bông), vội bay trở về Bộ Tư Lệnh.
Ngay chiều hôm đó đồi 31 bị tràn ngập, tôi nghe tiếng Nguyễn Quốc Trụ, bạn cùng khóa, gọi Kiệt bên Căn Cứ A Lưới là: “Xe tăng Việt Cộng đang trên hầm chỉ huy, mầy nói pháo binh bắn lên đầu tao, chờ tụi nó xuống tao sẽ tự tử, vĩnh biệt mầy, Kiệt ơi!”. Trụ là em ruột của Thủ Khoa Khóa 18 Đà Lạt, Nguyễn Anh Vũ, Niên trưởng nầy đã hy sinh mấy năm trước, khi đang làm trung đội trưởng ở Tiểu đoàn 1 Nhảy Dù.
Căn cứ hỏa lực 31 thất thủ, bên trong gồm BCH Lữ đoàn III Nhảy Dù, Tiểu đoàn 3 trừ, BCH TĐ3PB, Pháo đội 33 của “Anh hùng Mũ Đỏ Tên Đương!”. Thấy tên nhiều đơn vị như vậy, nhưng quân số lúc đó đã hao hụt chỉ còn trên 400 người. Đại tá Thọ,Trung tá Châu,...bị bắt. Đại úy Đương tuẫn tiết!
Những Đại Đội Trinh Sát của các đơn vị thường rất thiện chiến, như TS9 do NT Nguyễn Đình Hạnh, K19 ĐL, chỉ huy. Đơn vị gồm đa số lính thuộc Liên Đoàn Phòng vệ Phủ Tổng Thổng (bị đày, có lẽ không chống đảo chánh). Đơn vị nầy xung trận rất dũng mãnh, đôi khi được thả ngay trong lòng địch. Mỗi lần lâm trận, chị Hạnh cũng nhảy theo xung phong ào ào, khiến binh sĩ đại đội Trinh Sát phục sát đất. Nhưng khi thấy xác địch nhiều quá, chị sợ tới mất ngủ.
Sau nầy chị chỉ lãnh phần gác tù binh, và trực tổng đài để binh sĩ rảnh tay truy kích địch. Ở Vùng IV có nhiều “Nữ quân nhân lậu” nầy và đôi khi họ còn chì hơn đức lang quân, chẳng hạn như bà Tiểu đoàn Trưởng Tiểu đoàn “Cọp Ba Đầu Rằng” BĐQ có thể gan lì giống như Bà Triệu thời xưa.
Đơn vị Trinh Sát Sư Đoàn 9 Bộ Binh của anh Nguyễn Đình Hạnh nổi tiếng sát quân, thường không ai thoát khỏi 6 tháng, riêng đại đội trưởng Hạnh đã bị thương 7 lần và bị giải phẫu hơn chục phen. Nhưng mạng anh rất lớn đã lọt khỏi sổ phong thần. Còn chị lại càng rất chì, đã theo anh hành quân từ ngày chưa cưới, mà vẫn dám tiếp tục theo anh chàng lãng tử bạt mạng nầy tới ngày nay. Hiện anh chị sống tha hương tại thủ phủ Sacramento thuộc tiểu bang California.
Còn các đơn vị Trinh Sát SĐND thì khỏi nói, Út Bạch Lan của Đại Đội 2 Trinh Sát nổi tiếng như cồn, hai đại đội TS1 và TS3 cũng rất là dũng cảm thiện chiến. Chẳng hạn như ĐĐ3 Trinh Sát dưới sự điều động của Đại úy Thanh và Trung úy Bảo đã chiến đấu rất kiên cường khi theo TĐ8ND đi tiếp ứng LĐ3ND, và bị trung đoàn địch phục kích gần chân đồi 31. Binh sĩ toàn đại đội đã dùng lựu đạn để tiêu diệt nhiều chiến xa, họ đã bắn tới hết đạn nhưng vẫn dành 1 viên cuối cùng giống như anh hùng Nguyễn Văn Đương.
Theo lời Vũ Hùng, một chiến sĩ thuộc ĐĐ3TS, kể lại thì cái chết của Đại úy Thanh và Trung úy Bảo cùng nhiều anh em tại gần đồi 31 thật vô cùng dũng cảm, những hình ảnh kiên cường của đồng đội đã ghi đậm vào tâm tư mà 27 năm sau, trên bước đường lưu vong ở Seattle, mỗi lần nghĩ đến anh rất hãnh diện và cảm phục chí can cường bất khuất của đồng đội .
Căn Cứ Hỏa Lực 31 thất thủ là một tin buồn nhất cho Sư đoàn Nhảy Dù chúng tôi từ trước tới nay!
Ngay ngày hôm sau, LĐT/LĐ1ND cho một Tiểu đoàn Dù tới tiếp đón những binh sĩ chạy thoát được từ Căn cứ 31. Thiếu tá Phú, Tiểu đoàn phó TĐ8ND dẫn 2 đại đội tùng thiết, hai chi đoàn Thiết giáp, và ĐĐ3 Trinh Sát đi còn cách Căn cứ 31 khoảng 2 cây số thì bị phục kích bởi quân số đông đảo của Bắc Việt, tưởng chừng sắp sữa bị overrun, nhưng may quá nhờ 2 Pass B-52 đến kịp lúc, bom thả kẹp sát hai bên đường, làm im ngay tiếng súng địch (TĐ1ND và TĐ7ND cũng phải dùng B-52 tương tự để giải vây. Một năm sau, Đại tá Lưỡng cũng lấy kinh nghiệm nầy để giải cứu An Lộc,Bình Long).
Trung úy Vỹ bị thương chân không vô được căn cứ, vừa bò vừa lết xuống chân đồi. Anh đã nhịn ăn uống cả ngày, dùng hơi sức cuối cùng bò lại nơi chiến địa, vừa thấy anh em TĐ8ND, vội la lên cho họ tới cứu, đôi mắt lờ mờ nhìn binh sĩ bạn đến gần, anh kiệt sức, ngất xỉu trên tay họ!
Vỹ kể lại trong đêm đó, sau khi lấy băng cá nhân bó tạm vết thương, anh bị hành sốt, áo quần rách rưới, nên càng lạnh thêm! Lúc đang nằm trốn trong bụi rậm, anh nghe thấy xe địch, thiết giáp và vận tải, chạy qua lại dập dìu, bộ binh địch di chuyển rầm rộ, nói chuyện huênh hoang. Dù quá mệt mỏi, đói khát, Lâm Vỹ cũng cố gắng bò về hướng Nam, nơi BCH/LĐ1ND đang đóng quân tại căn cứ hỏa lực A Lưới. Vỹ nghe rõ tiếng đề ba của pháo đội bắn liên tục suốt đêm, bò được 2 cây số thì trời sáng, anh lo kiếm bụi núp,sợ địch bắt gặp thì coi như đời tàn!
Một tuần sau khi Căn cứ 31 bị thất thủ, địch tập trung dùng chiến thuật tiền pháo hậu binh. Ngày nào chúng cũng bắn vào đồi 30 của TĐ2ND hằng ngàn quả đạn pháo, rồi dùng Thiết giáp và biển người định tràn ngập căn cứ hỏa lực nầy, trong đó có mấy thằng bạn cùng khóa tôi là Hạnh, Phương, Điệp,...cùng Mạnh Thu, Thơm,...hợp sức với các chiến sĩ đồng lòng sát cánh chiến đấu kiên cường, chống đỡ nhiều đợt xung phong biển người của quân chánh quy Bắc Việt. Pháo binh 105 ly của Bành Minh Trí và pháo đội 155 ly của Phạm văn Hy đã quay nòng bắn trực xạ.
Địch quân như đàn kiến bu quanh đồi 30, nhờ bốn pháo đội bắn yểm trợ thật hữu hiệu, những loạt đạn C.V.T. làm đàn kiến im một chút. Trần công Hạnh rà được tần số khu trục Mỹ, điều chỉnh các đợt oanh tạc thật hữu hiệu, làm phi công Mỹ đánh trúng mục tiêu, thầm khen phục anh chàng nào đang bị bao vây mà vẫn còn bình tỉnh tìm cách cựa quậy.
Địch quân hết đợt nầy tới đợt khác dùng biển người nhào lên định overrun như căn cứ 31, nhưng các chiến sĩ can cường TĐ2ND và các pháo đội thề quyết không để cho chúng khuất phục, pháo binh trực xạ bắn cháy nhiều chiếc thiết giáp địch, các binh sĩ dùng lưỡi lê lựu đạn đẩy lui các đợt xung phong. Sau khi cầm cự được hai tuần, BTL Sư Đoàn cho lệnh TĐ2ND để lại vài cảm tử quân cầm cự cho đơn vị lợi dụng đêm tối từ từ rút khỏi đồi 30, chờ khi toán cảm tử rút hết, Lữ đoàn dùng B-52 rải thảm tiêu diệt toàn bộ địch chung quanh Đồi 30 nầy.
Mặc dầu quân số (kể cả pháo binh) trong căn cứ hỏa lực không quá 300 người, mà có thế cầm cự với 2 trung đoàn địch và một trung đoàn Thiết giáp với pháo binh, hỏa tiễn yểm trợ hùng hậu, vậy mà hai tuần lễ tấn công bằng mọi cách, có lúc chiến xa PT76 địch đã vào sát hàng rào; nhưng súng M-72, mìn chống chiến xa, pháo binh trực xạ, và ngay cả lựu đạn tay, đã tiêu diệt các con rùa nầy ngay trước hố chiến đấu của chiến sĩ Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù.
Trong cuộc di tản của TĐ2ND có một chuyện cần kể là khi đang bay thị sát mặt trận, trên trực thăng Trung tá Nguyễn thu Lương, Tham Mưu Phó Hành Quân SĐND, đã vô tình nghe được trong máy tiếng kêu cầu cứu:
- Em là Hạ Sĩ Hứa thuộc TĐ2ND, tụi em còn 6 người với em là 7; tụi em đang ở lưng chừng đồi, em còn súng và hai quả khói, và em có gương soi; vị nào đang bay trên đó nếu nhận được tin xin xuống cứu tụi em!!!
Tiếng kêu cứ lập đi lập lại! Trung tá Lương nói viên cố vấn Mỹ tên Vichy bảo phi công thử bay vòng trở lại coi có phải cầu cứu thật hay địch bắt buộc tù binh dụ máy bay xuống?
Trung tá Lương nói với Hứa:
- Anh nhìn về đồi 30 coi mặt trời hiện đang ở bên trái hay bên phải?
- Dạ bên trái.
Sau khi coi lại giờ giấc, Trung tá Lương tự nói thầm: “Như vậy họ đang ở hướng Tây Nam của đồi 30”.
- Em khoan thả khói, chưa nhận vị trí mà hết khói thì không xuống được .
- Em còn một trái khói màu xanh và một trái màu tím!
- Tôi sẽ bay thấp và thẳng khi nào thấy máy bay đúng hướng thì chiếu gương ngay.
Trực thăng bay qua lại mấy lần, và Hứa bên dưới điều chỉnh:
- Không! Bên trái em .
Trở lại vòng thứ nhì thì nghe Hứa nói:
- Không! Bên phải em .
Lần thứ 3 thì nghe tiếng la mừng rỡ của Hứa:
- Dạ đúng! Đúng! Đang bay thẳng vào mặt tụi em!
Hứa chiếu gương và nói :
- Em đang ở dưới bụng máy bay!
Trung tá Lương nhìn dưới sườn đồi thấy 5, 6 người đang mình trần tay cầm áo phất qua phất lại, ông bảo:
- Thả trái khói xanh!
Hứa làm theo, trực thăng thấy khói bay là sát nhìn kỹ coi có gì khả nghi không? Rồi ông bảo thả khói tím và sẵn sàn chờ trực thăng đáp xuống sẽ phóng nhanh lên. Sau khi bóc lên, Trung tá Lương lấy bi đông nước cho họ uống giải khát; còn Đại tá Vichy vừa đưa bao thuốc thơm vừa đưa ngón tay cái lên ngụ ý khen ngợi toán binh sĩ Dù biết cách thoát hiểm mưu sinh! Còn 7 chiến sĩ TĐ2ND thì mừng rỡ và gật đầu cám ơn mọi người trên máy bay đã không sợ nguy hiểm dám liều đáp xuống vùng sôi động để cứu 7 người !
TĐ1ND do Thiếu tá Nguyễn quang Sáng cho hai đại đội đột kích vào BTL Sư Đoàn 308. Trận đánh xáp lá cà một cách tuyệt vời nầy đã tiêu diệt được viên Tư lệnh Sư đoàn, Thượng tá Nguyễn xuân Rục, với đầy đủ bản đồ và gậy chỉ huy của y.
Trên đường rút về bên nây biên giới, xe thiết giáp chở Thiếu tá Phan, Tiểu đoàn trưởng TĐ1ND, bị bắn B-40, ông đã bị tử thương, Đại úy Triệu bị phỏng nặng (cấp ba), anh phải chịu đau đớn vì giải phẫu ghép da hằng chục lần, vô nhà thương thấy anh treo tay chân, băng bó cùng mình, thật tội nghiệp vô cùng.
Đại úy Nguyễn đức Tâm, đại đội trưởng Đại đội 91 Nhảy Dù được chỉ định dẫn đầu đoàn quân rút lui, anh thấy dọc theo Quốc Lộ 9, địch dàn quân phục kích sẵn, nên bẻ về hướng Nam khoảng 1 cây số, rồi đổi hướng Đông tiến về biên giới, nhờ vậy đưa toàn bộ các đơn vị rút ra an toàn. Riêng chiếc phi cơ chở Đại tá Lưỡng và Đại úy Thu vừa ra khỏi A lưới chừng 5 phút thì bị bắn rớt, may nhờ chiếc trực thăng của Mỹ nhào xuống bốc nhanh lên,nếu chậm chừng 10 phút, có thể vị Lữ đoàn Trưởng tài ba của chúng ta sẽ bị quân Việt Cộng tới bu như kiến (Đại tá Lê quang Lưỡng vì lo cho pháo binh yểm trợ hai Tiểu đoàn Dù rút lui an toàn nên mới kẹt lại sau cùng)
Nếu kỷ thuật tác chiến của những sư đoàn Chánh Qui CSBV khá như sư đoàn Dù và TQLC thì chúng ta sẽ bị thảm hại rất nhiều. Nhưng chúng chỉ quen đánh những trận thư hùng với quân đội Pháp, không có huấn luyện tới trình độ để đương đầu với những đơn vị có khả năng kỷ thuật cao. Nếu 2 tiểu đoàn chính qui Bắc Việt mà gặp một tiểu đoàn Nhảy Dù, TQLC, hoặc BĐQ thì coi như họ bị tiêu ngay.
Trận Hạ Lào, quân VC đã cố gắng dùng biển người và biển lửa, cùng cua sắt để mong đè bẹp ta, nhưng chúng hoàn toàn bị thất vọng. Bằng cớ khi chúng ta rút khỏi Hạ Lào, địch không có lực lượng nào khả dĩ có thể làm tổn thất hoặc rối loạn hàng ngũ ta, lúc đó chúng chỉ có thể bắn vói theo trực thăng để mong gỡ gạc phần nào, mặc dù hai đài phản bội Đồng Minh, VOA và BBC đã cho chúng biết trước.
Chúng ta vào Hạ Lào và chúng ta đã rút ra khỏi Hạ Lào khi nhiệm vụ phá tan căn cứ tiếp liệu hậu cần của địch đã hoàn tất. Hành quân tấn công thì không khó, nhưng hành quân rút lui, trong lúc khó khăn, mà thành công được là điều chắc chắn tinh thần kỷ luật binh sĩ thật cao. Cộng thêm sự gan dạ và tài điều binh của các sĩ quan chỉ huy, một phần cũng nhờ địch quân mất tinh thần và tổn thất quá nặng nề.

15. Trận An Lộc Bình Long (Mùa Hè Đỏ Lửa 1972)


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1508035360-Chuong3B_KeChuyenHanhQuan07.jpg

Năm 1972, phải chăng để dò dẫm, Bắc Việt đã tung ra một cuộc tổng tấn công được coi là có tính toán rất kỹ lưỡng về mặt chiến lược. Cũng rất quan trọng, vì lần đầu tiên họ dùng chiến xa của Nga Sô tập trung tấn công một cách ào ạt.
Bất chấp hiệp ước Genève và không cần biết đến vùng phi quân sự giữa hai miền Nam và Bắc, địch tung mũi dùi tấn công đánh thẳng từ phía Bắc xuống Nam, và gặp phải sự kháng cự mãnh liệt. Một mũi dùi tấn công khác từ biên giới Campuchia đánh qua phía Kontum, Pleiku, làm cho các tiền đồn đều lâm vào tình trạng bị động. Áp lực đè nặng vùng nầy đến độ phải đưa sư đoàn bộ binh từ Ban Mê Thuột lên để tiếp viện.
Ở mặt trận phía Bắc, địa phương thành lập từng bộ phận lưu động nhỏ để dễ điều động, nhưng cũng vì thế mà trở thành khó chỉ huy và hậu quả là tuyến phòng thủ bị vỡ. Thành phố Quảng Trị thất thủ ngay sau đó, các đơn vị tranh nhau chạy về Huế. Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn IV, được gởi ngay ra Huế với nhiệm vụ tái lập trật tự tại đây.
Hai sư đoàn tổng trừ bị, SĐND và SĐ/TQLC, đến giờ nầy vẫn còn ở Sàigòn, được đặt dưới quyền xử dụng của tướng Trưởng. Sư Đoàn 21 Bộ Binh ở Vùng Đồng Bằng Cửu Long được đặt trong tình trạng báo động, dự trù sẽ được bốc ra Huế.
Bất thình lình địch quân tấn công vào An Lộc, bao vây thị trấn nầy, đe dọa SàiGòn vốn chỉ cách đó khoảng 100 cây số. Tình hình lúc bấy giờ hết sức căng thẳng, chỉ cần trể nửa giờ nữa là không kịp ngưng chuyến đi ra Huế của SĐ21BB để chuyển hướng cho sư đoàn nầy tới thẳng An Lộc, nhằm bảo vệ vòng ngoài cho thủ đô SàiGòn.
Tôi theo BTL tiền phương sư đoàn đến đóng quân ở Căn cứ Lai Khê, sư đoàn thiết lập Trung tâm Hành quân để trực tiếp chỉ huy các đơn vị Dù đang tham chiến tại Bình Long.
Vào Mùa Hè đỏ lửa năm 1972, chiếm xong quận Lộc Ninh, Việt Cộng đã mở cuộc tấn công biển người, với chiến xa T-64 lần đầu tiên xuất hiện tại vùng nầy. Chúng bao vây và cô lập Thị trấn An Lộc thuộc tỉnh Bình Long, trong đó có Chuẩn tướng Lê Văn Hưng, Tư lệnh Sư đoàn 5 Bộ Binh.
Đại tá Lê quang Lưỡng, Lữ đoàn trưởng LĐIND, điều động các Tiểu đoàn Dù đánh từ Lai Khê lên Chơn Thành. Tại đây Tổng Thống và Trung Tướng Đống đáp trực thăng xuống, ra lệnh Chiến Đoàn Dù nhảy vào tiếp ứng An Lộc. Sau khi được lệnh, Đại tá Lưỡng thay vì nhảy trực thăng thẳng vào Thị Trấn, (theo lời ông kể lại qua điện thoại) Đại tá cho trực thăng vận xuống Đồi Gió ở phía Đông của Thị Xã An Lộc.
TĐ6ND đã dùng chiến thuật thần tốc bất ngờ đánh trúng ngay đầu não chỉ huy (hay đài quan sát), Thiếu tá TĐP Bằng, K16, dẫn 2 Đại đội do Trung úy Ngô Xuân Vinh tự Vinh “Con”, và Tuấn nhảy xuống đầu tiên. Trung úy Tuấn và Vinh điều động binh sĩ xung phong thần tốc tiêu diệt địch trong một “Lô cốt” duy nhất mà chúng đã đặt Bộ Chỉ huy, khiến chúng chạy tán loạn. Nơi đây có rất nhiều hầm hố bằng những tản đá xếp lại; vì đất rất cứng, toàn đá sạn, rất khó dùng sẻng đào hầm. Sau đó 2 Tiểu đoàn 5 và 8 cùng Pháo binh được đổ trực thăng xuống cùng với BCH Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù. Chiến đoàn Trưởng Lê Quang Lưỡng quyết định cho TĐ6ND ở lại giữ cao điểm nầy, đích thân đại tá dẫn 2 tiểu đoàn 5 và 8 cấp tốc đi ngay đêm đó để vào An Lộc, trấn an các đơn vị đang bị bao vây lâu ngày.
Tiểu Đoàn 8 dẫn đầu hướng về Thị Trấn An Lộc; TĐ5ND của Trung tá Nguyễn Chí Hiếu, TĐT, và Thiếu tá Lê Hồng, TĐP (sau bị thương Ngoạc Lùn lên thay), cho tiểu đoàn đi theo đội hình quả trám bảo vệ phía sau. ĐĐ51 của Sĩ (sau bị thương Trung úy Nguyễn Tiến Việt lên thay) đi trước, tiếp theo là ĐĐ50 của Đ/U Từ Khánh Sinh; bọc hậu có ĐĐ52 của Lê Hữu Chí, K20ĐL; cánh trái là ĐĐ53 của Dũng, K22ĐL ( vài ngày sau Dũng bị thương, Hồ Tường lên thay); bảo vệ sườn phải ĐĐ54 của Nguyễn Văn Dũng (sau bị thương Trung úy Dương lên xử lý). Khi vào gần tới Thị trấn thì địch chận đánh đại đội đi chót của Chí Bệu. Trung tá Hiếu điều động ĐĐ53 bọc lại tăng cường giúp Chí đánh bật địch ra. Kế đó Tiểu đoàn tiếp tục đi về hướng Đông Nam An Lộc thanh toán các ổ chốt và bảo vệ an ninh tại phía Bắc Xa Cam. TĐ8ND lo thanh toán các ổ chốt và bảo vệ an ninh ở phía Nam thị xã An Lộc.
TĐ6ND ở lại Đồi Gió để vừa làm lực lượng tiếp ứng bên ngoài, vừa ngăn chận địch chiếm lợi thế cao có thể dùng làm đài quan sát hay bộ chỉ huy trực tiếp nhắm vào Thị Xã.
Lúc bấy giờ các đơn vị bị bao vây đã lấy lại tinh thần vì có đơn vị thiện chiến Nhảy Dù vào yểm trợ. Sáng hôm sau, Đại tá Lưỡng cho TĐ8ND bung ra lục soát về phía Tây Thị Trấn, nhưng địch quân pháo kích nhiều quá nên TĐ8ND chuyển về hướng Nam. TĐ5ND cũng ra tiếp ứng nhằm mở rộng vòng vây, để có bãi tiếp tế bằng thả dù. Nhờ có tiếp tế đầy đủ nên tinh thần các đơn vị bị vây vẫn còn vững chắc.
Vào đêm 30/4/72, để kỷ niệm ăn mừng lễ Lao Động 1/5, địch bắt đầu tập trung tổng tấn công vào An Lộc, chúng hạ quyết tâm nuốt gọn các đơn vị đang kẹt bên trong: Như LĐ1ND Nhảy Dù, Liên Đoàn 81 Biệt Kích Dù, SĐ5BB, SĐ21BB,...nhưng các đơn vị bên trong An Lộc đã kiên cường chống trả mãnh liệt. Tuyến của BCH/SĐ5BB của Tướng Lê Văn Hưng bị lung lay, Đại tá Lưỡng điều động cấp tốc ĐĐ/TS1ND lên lấp chỗ; sau đó, ông tăng cường thêm TĐ5ND để đẩy lui bảo vệ Tướng Hưng.
Ngoài ra ông còn dùng 4 khẩu súng cối 81 ly (xạ thủ là những chuyên viên của TĐ1PB) bắn yểm trợ rất hữu hiệu. Ngay đêm đó, 2 trung đoàn địch đang hung hăn xung phong vào thì bị mấy loạt bom B52 xóa sạch, sáng hôm sau có mười mấy tên sống xót quờ quạng chạy bậy vào khu TĐ8ND và bị đẩy lui; chúng hốt hoảng chạy đâm đầu vào khu vực TĐ5ND, một anh thượng sĩ thường vụ đại đội hăng máu dẫn lính ra thanh toán, nhưng anh đã hy sinh sau khi tiêu diệt toàn bộ địch. Các đơn vị trong An lộc đều rất kiên cường. Nhất là các chiến sĩ Biệt kích, theo lời Hùng, K21ĐL, TĐP thuộc SĐ5BB kể lại, thì chính anh đã mục kích sự gan dạ và tài điều khiển của Đại tá Phan Văn Huấn, Khóa 10 ĐL làm Liên Đoàn trưởng, và Tr/T Lân, LĐP. Họ đã tổ chức các cuộc đột kích đêm, từng tổ 3 người lợi dụng đêm tối len vào ổ địch, đặt chất nổ hoặc phá các kho địch. Đôi khi còn tiến sâu vào vòng trong để sát hại cấp chỉ huy địch bằng cận chiến. Những cái can đảm, hào hùng của họ đã lọt vào mắt của một cô giáo còn kẹt lại An Lộc. Chính cô đã làm nên hai câu thơ lịch sử để ghi nhớ công xả thân vì nước của chiến sĩ Biệt Kích Dù:
An Lộc địa sử ghi chiến tích
Biệt Kích Dù vị Quốc vong thân!
Thấy địch tập trung quân số bao vây thị trấn đông quá, Đại tá Lưỡng đã phải dùng 15 phi tuần B-52 đánh vào các khe suối, mà khi đi vào An Lộc, ông thấy rất nhiều hầm hố dọc theo hai bên bờ, các vị trí pháo của địch, và ngay tuyến cận phòng (cách quân bạn không quá một ngàn thước, thật hết sức táo bạo và liều lĩnh, giống như trường hợp B-52 đã giải vây cho các TĐ 7 và 8 tại Hạ Lào). Khiến địch gần như tịch ngòi, các phi cơ quan sát Mỹ báo cáo địch chỉ có một phần ba lực lượng còn khả năng chiến đấu, sau khi hứng chịu 15 phi tuần B-52. Đánh thêm 8 phi tuần thì An Lộc gần như được yên tỉnh.
Trước khi Chiến Đoàn Dù vào An Lộc, các đơn vị thuộc Sư Đoàn 21 BB của tướng Hồ Trung Hậu đã ngày đêm hứng chịu những đạn pháo liên tục của địch. Phía Tây Quốc lộ 13 gần Tàu Ô là Tiểu đoàn của Võ Công Danh, phía Đông Chơn Thành có Trung đoàn của Đ/T Nguyễn viết Cần, SĐ21BB, đang ở phía Bắc Chơn Thành, ông đã điều động các binh sĩ trực thuộc cố gắng chọc mũi dùi vào giải vây An Lộc. Nhưng Đại tá Cần đã hy sinh vì một viên đạn pháo cay nghiệt! Ông nguyên là TĐT TĐ11ND, một sĩ quan tài giỏi, tánh tình hiền hậu, biết lo cho kẻ dưới, nên thuộc cấp ai nấy đều mến phục.
Có lần khi TĐ11ND đóng quân ở vườn Tao Đàn, bảo vệ an ninh vòng ngoài phủ Tổng Thống. Một đêm nọ, ông cùng 2 ĐĐT Bạch và Nuôi đến ăn uống tại nhà hàng Tour D’Ivor.
Bỗng có hai Quân cảnh Mỹ đến hỏi giấy, vì thấy ông cao ráo, trắng trẽo, mũi lỏ giống hệt người Hoa Kỳ. Ông tự ái không đưa, chỉ nói mình là TĐT/TĐ11ND và bảo hai người ngồi chung là đại đội trưởng thuộc cấp. Họ không tin còn có cử chỉ hỗn láo, định còng tay, Nuôi và Bạch thấy TĐT mình bị hạ nhục, nên tức giận đứng lên tính can thiệp, Hai Quân cảnh hiểu lầm rút súng ra, Bạch nhanh tay hơn, rút súng bắn chết hai quân cảnh Mỹ để tự vệ! Ba người vội xuống xe Jeep chạy về vườn Tao Đàn và ra lệnh báo động, các xe Quân cảnh Mỹ có gắn súng đại liên rượt theo bao vây. Sợ động tới dinh Độc Lập, nên các anh chạy về Trại Hoàng Hoa Thám, đoàn xe Jeep có gắn đại liên của Mỹ rượt theo tới trước cổng trại. Tướng Đống biết chuyện nên ra lệnh hễ Mỹ xông vô thì cứ bắn, lính Tổng Hành Dinh đem súng ra dàn trước cổng. Sau đó cấp trên của Mỹ gọi họ rút về để điều tra kỹ lưỡng rồi sẽ tính.
Khi nhân chứng nói tại Quân Cảnh Mỹ hỗn láo và rút súng ra trước, mọi việc được dàn xếp ổn thỏa: Trung tá Cần bị ra bộ binh, Nuôi và Bạch bị phạt một năm nhốt ở Quân Lao.
Trở lại trận đánh An Lộc,dân và lính đã thụ động co rút dưới hỏa ngục do từ trên trời xuống trong hơn 2 tháng; pháo kích không phải từng cơn, từng giờ, từng loạt; pháo đầy trời như mưa; pháo ào ạt như gió; pháo kín mít như mây. Pháo không vạch từng đường như Mậu Thân, pháo không đi từng luồng như hạ Lào. Pháo và trời chan hòa trộn lẫn như mây bay giăng giăng che kín cả bầu trời An Lộc. Nhờ Đại tá Lưỡng rút kinh nghiệm trận Hạ Lào, canh giờ địch thường hay dùng biển người tấn công, ông xin mấy Pass B-52 rải thảm cách vòng rào phòng thủ không quá 1000 thước, cả Trung đoàn địch đang hung hăng tấn công, bỗng bị cuốn mất trong đám bụi mù, nhờ vậy Bình Long được yên tỉnh mấy ngày.
TĐ6ND, sau khi bị tổn thất nặng tại Đồi Gió (chỉ còn 180 người) rút về Lai Khê tái bổ sung và huấn luyện cấp tốc tại chỗ, được trực thăng đổ hai đại đội của Ngô xuân Vinh (tự Vinh Con) và Nguyễn văn Nghiêm, trưởng ban 3 kiêm nhiệm xử lý chức vụ Tiểu đoàn phó thay thế Thiếu tá Bằng (bị thương mắt tại Đồi Gió), nhảy xuống Tân Khai, phía Nam Thị Trấn, đánh bật lên Xa Cát, Xa Cam, các bộ đội địch lâm vào cảnh lưỡng đầu thọ địch (trong đánh ra, ngoài đánh vào), nên trở tay không kịp, bị lính Dù hốt sạch. Tiểu Đoàn 6 Dù bắt tay được với TĐ8ND tại cửa ngõ vào An Lộc, như vậy coi như Bình Long đã được thoát hiểm.
Cũng nên kể lại trường hợp của trại Tống lê Chân, vì pháo binh trong An Lộc bị tê liệt do các cuộc pháo kích dữ dội của quân Bắc Việt, Quân đoàn III đã thả pháo binh 155 vào trại để từ đây bắn yểm trợ cho Bình Long. Tiểu Đoàn 92/BĐQ/Biên Phòng của Đại úy Ngôn (Ngôn, Khóa 21 Đà Lạt, là người hùng ở Tống lê Chân, trong 1 năm anh được thăng cấp 2 lần, chính Tổng Thống ra lệnh thả lon Trung tá bằng máy bay xuống tưởng thưởng cho anh) đã tuần tiểu lục soát tiêu diệt toán nghiên cứu chiến trường của Cục R, họ đã bắn chết một Thượng tá có trách nhiệm tìm lý do tại sao cuộc tấn công hỗn hợp chiến xa và Bộ binh của chúng vào An Lộc bị thất bại nặng nề.
CSBV bại trận, không chiếm được An Lộc bằng những chủ lực vô cùng hùng hậu, vì vậy Hiệp Định Ba Lê được chúng bằng lòng ký kết (Ngôn sau nầy bị chết trong trại tù VC). Khi đóng tại căn cứ Sư đoàn 5 BB ở Lai Khê, tôi có gặp Biệt đội Tác Chiến Điện Tử Sư đoàn 21 Bộ binh, họ rủ nhậu bia với rắn “Ri Cá”! Tôi thấy anh em Sư Đoàn 21 ôm ra từng bao cát, trong đó đựng những con rắn ngọ nguậy trông thật ghê khiếp. Họ làm thịt tại chỗ; vì sợ mất mặt màu áo binh chủng, tôi cố uống nhiều bia để lấy can đảm, rồi mới dám ăn, lúc tài xế chở về doanh trại bên SĐND, nhớ tới động tác ngọ nguậyï của rắn ri cá, nên buồn nôn, khiến bụng sạch bóc luôn!
Anh em Biệt Đội TCĐT/SĐ21BB thật là hào sảng chịu chơi, họ mới gặp tôi lần đầu mà đã mua từng chồng két bia để đãi, nhất là những con rắn, đã vất vả đem từ Bạc Liêu xa xăm lên. Có lẽ họ thích nét hào hùng của lính Nhảy Dù, cũng có thể trong đó có anh tài xế của vị Biệt đội trưởng tiền nhiệm đã kể lại, lúc trước tôi đã mời lại nhà đãi cơm canh chua cá bông lau và còn cho anh 40 lít xăng để lái xe về Bạc Liêu.

16. Trận Tái Chiếm Cổ Thành Quảng Trị


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1508035372-Chuong3B_KeChuyenHanhQuan08.jpg

Khi hay tin Quảng Trị bị thất thủ, dân quân tranh nhau chạy về Huế, Tướng Trưởng phải bỏ bữa cơm trưa tại dinh Tổng Thống để cấp tốc bay ra ngay nhiệm sở mới, cố đô Huế lúc nầy đang ở trong tình trạng hỗn loạn vô trật tự.
Trung tướng Trưởng, với một sự bình tỉnh đáng kính phục, không có một trách phạt hay quy lỗi cho một ai. Ông đã vãn hồi được trật tự trong hàng ngũ quân sĩ và đặt lại ngay hệ thống an ninh phòng thủ trên bờ sông Mỹ Chánh, sẵn sàn chờ đón một cuộc tấn công mới của địch. Vì họ đã chiếm được một phần đất khá sâu và đang muốn tiến xa xuống phía Nam khai thác thành quả chiến thắng vừa đạt được.
Tướng Trưởng biết lợi dụng sự già nua của cán bộ VC. Tướng Bắc Việt chỉ huy mặt trận lúc đó thay vì thừa thắng xong lên, ông ta cho dừng quân chờ báo cáo chiến thắng và nhận chỉ thị mới. Hà Nội tức giận việc nầy, ra lệnh sa thải ngay viên tướng nhát gan và gởi một thượng tướng Thứ Trưởng Bộ Quốc Phòng vào thay thế.
Tướng nầy đến nơi phải mất gần một tháng mới nắm được quân tình để hòng tiếp tục khai thác thêm chiến quả. Một thời gian quá đủ cho tướng Trưởng kiện toàn xong hệ thống phòng thủ. Ông chẳng những chận đứng được đợt tấn công của địch mà còn phản công dò dẫm ở một vài điểm, làm địch quân phải lúng túng và chùng bước tiến quân của họ lại. Ông đã nhận được lệnh phải tiêu diệt 4 sư đoàn chánh qui Bắc Việt đang đối diện ở bờ Bắc sông Mỹ Chánh, bằng 2 sư đoàn tổng trừ bị là Sư Đoàn Dù và Sư Đoàn TQLC mà hiện ông đã có sẵn trong tay.
Biệt đội tôi theo Bộ Tư Lệnh ra Huế và đóng quân tại Cây Số 17 gần cầu An Lỗ. LĐ1ND do Đại tá Lê Văn Ngọc làm Lữ Đoàn Trưởng, đóng ở bờ Nam gần cầu Mỹ Chánh. LĐ2ND do Đại tá Trần Quốc Lịch (rồi Đại tá Nguyễn Thu Lương thế chức LĐT), đóng ở căn cứ Hòa Mỹ, Phong Điền. Các Tiểu đoàn Dù hoạt động phía Tây Quốc lộ 1; từ Phong điền tới bờ Nam sông Mỹ Chánh, sẵn sàng đợi lệnh ào qua sông tiến về Bắc để tái chiếm Quảng Trị và Cổ Thành Đinh Công Tráng.
Sau Trận Bình Long, Hiệp Định Đình Chiến Paris đang được tạm thời (vì Việt Cộng đâu bao giờ giữ lời hứa) áp dụng, hai bên lo chiếm đất dành dân kiểu da beo. Các đơn vị cũng được một thời gian an ổn thoải mái.
Bấy giờ khí hậu ở đây thật là nóng bức, nắng lửa mưa dầu. Mỗi buổi trưa, Thiếu tá Hồng Thu, đại đội trưởng Quân Cảnh Dù, Thiếu tá Đàn, Tâm Lý Chiến, Thiếu tá Bằng, đại đội trưởng Tổng Hành Dinh, Thiếu Tá Tôn Thất Hiếu, đại đội trưởng Truyền Tin, Đại Úy Nguyễn Thanh Nhàn, Tiểu đoàn Công Binh, và tôi,....thường rủ nhau ra sông An Lỗ tắm.
“Sông An Lỗ nắng đục mưa trong” (phỏng theo câu ca dao nói về sông An Cựu). Bấy giờ là mùa mưa, nước sông trong leo lẻo, chúng tôi thường bơi ra giữa dòng, rồi nắm tay nhau lặn thi, ai nổi lên trước thì thua chầu đãi nhậu tại chỗ. Trên bờ sông có quán bán cua luộc và hột vịt lộn, chúng tôi lặn xong rồi lên uống bia với cua cũng vui vẻ lắm. Thiếu tá Đàn rất rộng rãi, anh thường đãi chúng tôi đi ăn bún bò Mụ Rớt ở Gia Hội, hoặc Cơm Âm Phủ ở gần Đập Đá, anh nguyên là Cảnh sát trưởng một Quận trong Thành Phố Sàigòn.
Một hôm Thiếu tá Hiếu lái trực thăng C&C của Tướng Lưỡng, chở chúng tôi ra cửa Thuận An tắm biển, rồi tới nhậu mực tươi của Thiếu tá Chỉ huy Trưởng căn cứ Hải Quân tại đây, anh nầy cùng khóa 16 Đà Lạt với Thiếu Tá Bằng. Mực tươi luộc đựng đầy trong thau to trông thấy ớn! Vì anh phi công trưởng nầy khóa 21 Đà Lạt nên rất chịu chơi; một hôm khác, anh cho Thiếu tá Hiếu lái chở chúng tôi ra Đà Nẵng nhậu xong rồi về trong ngày, để mọi người kịp dự thuyết trình trong phiên họp tham mưu mỗi buổi chiều của Sư đoàn.
Trong cuộc chiến Việt Nam, chiến sĩ Dù thường phải đi khắp nơi để đánh dẹp quân thù, chúng tôi ngoài việc thường xuyên xa nhà, sống trong rừng thiêng nước độc, ngày đêm chạm mặt quân thù. Những ngày dừng quân tiếp tế hoặc đợi lệnh hành quân kế tiếp, mọi người thường đi tham quan thắng cảnh hoặc rủ nhau chè chén cho đỡ lòng nhung nhớ vợ con, thân thuộc.
Rồi ngày tái chiếm Quảng Trị sắp đến, Bộ Tư Lệnh họp các Lữ Đoàn Trưởng, các phòng ban lia lịa; và cho tổ chức buổi thuyết trình hành quân mời các đơn vị tăng phái, phổ biến rộng rãi ngày chuẩn bị vượt sông Mỹ Chánh tấn công tái chiếm Quảng Trị. Nội tuyến và tình báo địch nhận được tin, chúng cho dàn trận chờ đưa các đơn vị ta vào rọ, nào xe tăng T-54, T-64, PT-76, Phòng Không 30 ly, đại bác 130 ly,...cùng các Sư đoàn chánh qui của quân Bắc Việt. Thật là một lực lượng hùng hậu chưa từng thấy, một con kiến cũng khó qua, một con ruồi cũng bay không lọt! Nhưng.....
Ngày N đã điểm các đơn vị quân Nam chuẩn bị như sẵn sàng xuất quân nhưng không thực sự tiến quân (chỉ dùng kế nghi binh), đêm trước đó các Pass B-52 trải thảm liên tục bên bờ Bắc sông Mỹ Chánh; các Phi tuần Khu Trục, Pháo binh 105 ly, thay nhau nả vào các tuyến án ngữ suốt ngày, khiến địch bị tơi bời. Quân CSBV giống như bị thiên lôi đánh, không thể ngóc đầu dậy tháo chạy được !
Rồi vài hôm sau, ngày 7 tháng 5 năm 1972 (lại một mùa hè đỏ lửa) trong khi địch quân không còn dám tập trung gần bờ sông Mỹ chánh, trong khi họ chưa hồi sức bởi trận thiên lôi giáng; các đơn vị sau khi đã trực tiếp nhận khẩu lệnh (để giữ bí mật tuyệt đối), bắt đầu xuất quân. Sư đoàn Dù phụ trách phía Tây Quốc lộ 1, bên cánh phải có Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến.
Một giờ khuya, TĐ1ND vượt sông Mỹ Chánh đánh bất ngờ, khiến địch trở tay không kịp, mới mờ sáng đã nghe họ báo cáo tịch thu tới 11 khẩu đại bác Phòng Không 30 ly!
Cánh TĐ11ND do Thiếu tá Mễ làm TĐT và Thành Râu, TĐP, từ Phong Điền tiến về hướng Tây Bắc, đuổi địch chạy qua bên kia sông. Vào nửa đêm 14/5, chúng trở lại phản công, pháo dữ dội vào tiểu đoàn, rồi các chiến xa địch lù lù tiến vào vị trí phòng thủ. Lúc ấy TĐT Mễ đã bị thương, Thành Râu (xử lý TĐT) đứng trên đỉnh đồi dùng ống dòm Hồng Ngoại Tuyến thấy bóng nhấp nhô như bầy “Cua đinh” lấp loé ánh đèn của đoàn xe tăng giống một đàn đom đóm, Thành vội gọi pháo binh bắn chận. Đại úy Triệu cho bắn đạn CVT để tiêu diệt đám bộ binh tùng thiết, nếu mảnh đạn mà trúng vào thùng xăng thì những con cua đinh sẽ trở thành “Cua rang muối” ngay lập tức. Một chiếc bị pháo cháy, nhưng chiến xa và tùng thiết địch vẫn tiến, đại bác 76 ly và đại liên 12.8 ly từ trên pháo tháp nả vào TĐ11ND. Chờ tới gần, binh sĩ dùng súng chống chiến xa M-72 và Hỏa tiễn lân tinh 4 nòng MX202 bắn hạ hết 8 chiến xa địch, ngoài ra binh sĩ còn dùng lưỡi lê, lựu đạn để tiêu diệt những tên tùng thiết ngoan lỳ dám xong vào tuyến phòng thủ của tiểu đoàn.
Ở xung quanh đồi Trần Văn Lý (tên của một Thiếu úy thuộc TĐ11ND đã hy sinh tại đây), các đơn vị đã dùng hỏa tiễn Tow diệt thêm 7 chiến xa địch. TĐ11ND sau đó tiến lên diệt 3 nút chận quan trọng khác là nhà thờ La Vang, căn cứ Trung Đoàn 3 BB cũ, và Chi Khu Mai Lĩnh để trợ giúp cho TĐ5ND và TQLC tiến đánh Cổ Thành. “Tinh thần” TĐ11ND lúc bấy giờ rất hăng hái vì nhân dịp giỗ thất tuần của cố Tiểu Đoàn Trưởng Nguyễn Đình Bảo, toàn thể chiến sĩ quyết tâm “Rửa hận” trận Charlie và họ đã chiến thắng nhờ ba yếu tố:
1. Đơn vị đã xử dụng 24 phản lực cơ yểm trợ một lúc, phi cơ bay rợp trời, dùng “Smart Bomb” để tiêu diệt chiến xa.
2. Ngay cả một sĩ quan tâm lý chiến của Tiểu đoàn với độ cận thị rất nặng, vậy mà đã xử dụng và chỉ huy toán “Hỏa Tiễn Tow” tiêu diệt nhiều chiến xa địch.
3. Thả bom B-52 cách tuyến phòng thủ chỉ có 700 thước, để tiêu diệt Chiến xa và Bộ binh địch (đây không phải là khoảng cách an toàn tối thiểu cho loại phi cơ chiến lược nầy)
LĐ2ND chiếm các căn cứ ở đỉnh cao dãy Trường sơn như Barbara, Động Ông Đô (những tên nầy được đặt sau hiệp ước đình chiến), và chiếm đỉnh cao (căn cứ Ann sau nầy) đặt các khẩu pháo 155 ly ở hướng Tây Ái Tử. Các tiểu đoàn thuộc LĐ2ND, báo cáo tịch thu trên 2000 khẩu súng, trong đó có phòng không 30 ly, đại bác, và hỏa tiễn đủ loại. Ngoài ra các đơn vị còn tiêu diệt nhiều chiến xa của địch. Thiếu tá Đào Thiện Tuyển, TĐP/TĐ8ND, báo cáo thấy nhiều đồ lót phụ nữ và nghe nhiều tiếng chửi chí chóe của các cô hộ lý tại căn cứ 18 (Đại tá LĐT Nguyễn Thu Lương định đặt tên Căn cứ 81, nhưng Trung tá Tuyển sợ kỵ húy ảnh hưởng không tốt cho ĐĐ81 của ông, nên đổi ngược là cô gái 18):
- Đ.M. các ông chạy bỏ chúng tôi lại không kịp dẹp nồi niêu, son, chảo,... như vậy thì còn bố chi mà nấu nướng đây?
Cánh quân các tiểu đoàn khác, trong đó có Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù cùng nhau Bắc tiến đánh đuổi địch ra khỏi các quận Triệu Phong, Hải Lăng khi tới Ngã Ba Long Hưng thì bị khựng lại. Tại đây địch đã làm tuyến án ngữ từ Ngã Ba tới cầu Thạch Hãn, TĐ5ND và đơn vị bạn phải dùng cận chiến, đôi bên đều tổn thất nặng nề. Nhờ vậy địch quân lùi vào tử thủ cổ thành Đinh Công Tráng. Một đại đội của Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù đã lên được Cổ Thành, nhưng bị một trái bom của Mỹ thả gần quá làm tổn thiệt một số chiến sĩ dũng cảm ở trên bờ thành. Sau khi TĐ5ND rút ra đi về mục tiêu kế tiếp ở phía Tây Quốc Lộ I, phi cơ tiếp tục dội bom làm tan nát cổ thành, một đơn vị của TQLC đã nhào lên chiếm được vị trí quá kiên cố đó, và địch quân chịu không nổi phi pháo, nên rút chạy về phương Bắc (nhưng sau trận nầy, cổ thành sụp đổ tan tành, mất tiêu dấu vết cổ kính của một di tích lịch sử!)
Trong một thời gian hạn định, Tướng Ngô Quang Trưởng đã điều động 2 đơn vị Tổng Trừ Bị tái chiếm lại được Quảng trị, nơi địch quân đã dồn hết lực lượng chủ chốt để thách đố quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Tướng Trưởng đã diệt địch không phải bằng một cuộc phản công đại quy mô, mà bằng những cuộc tấn kích nho nhỏ và liên tục, mỗi ngày một khác và ở những địa điểm không giống nhau, nhằm mục đích tiêu hao để rồi diệt gọn địch. Ông tiếp tục cho hành quân phản công lấn đất lần về đến thị xã Quảng Trị. Sau đó chiếm lại thành phố và bao vây cổ thành Quảng Trị, rồi trương cờ lên cổ thành Đinh Công Tráng. Ông cho lệnh bố trí quân phòng thủ phía Nam sông Thạch Hãn, dùng phía Bắc bờ sông như vùng trái độn để củng cố và tổ chức các tuyến phòng ngự, xử dụng trọng pháo tối đa để ngăn chận địch quân tiến gần bờ sông (nói thêm là sau trận chiến thắng nầy, tướng Trưởng có được một cháu trai, ông đặt tên là Trị). Ngũ Giác Đài và các danh tướng ngoại quốc hết sức khâm phục sự chiến đấu dũng cảm của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa nói chung, Sư Đoàn Dù và Sư Đoàn TQLC nói riêng.
Sau trận nầy, địch quân hoàn toàn mất khả năng chiếm giữ Thị Trấn Quảng Trị, vì cổ thành đổ nát, Thị Xã tan tành bởi bom, đạn pháo; nên chánh quyền lập thị trấn mới tại Quận Triệu Phong, Phía Bắc sông Mỹ Chánh. Địch quân núp vào dãy núi Trường sơn ở phía Tây, thỉnh thoảng pháo vài quả khuấy rối, như để chứng tỏ còn hiện diện tại đây. Vì vậy các đơn vị Dù thay phiên nhau lên các đỉnh núi cao trong dãy Trường Sơn, lập căn cứ đóng đồn giống như Địa Phương Quân.
Điều đáng buồn là Đại tá Nguyễn Trọng Bảo, Tham mưu trưởng SĐND, đi quan sát bằng trực thăng, chẳng may máy bay bị địch bắn trúng và rớt xuống vùng phía Đông Bắc cầu Mỹ Chánh, ông bị tử thương cùng Trung tá Huỳnh Long Phi, pháo binh. Đại úy Lang bị thương chân và phỏng nặng cấp ba, còn Đại úy Công binh Nguyễn Thanh Nhàn thì thật may thoát khỏi nạn vì vợ ra thăm nên đại úy Lang đi thế. Tin nầy làm Tướng Đống nằm bịnh liệt giường hết mấy ngày, vì ông rất thương vị Tham Mưu Trưởng đã từng giúp ông rất đắc lực trong nhiều năm qua.
Tháng 3 năm 1973, xe Jeep chở tôi chạy tới cua quẹo gần cầu Phong Điền thì bỗng bị lạc tay lái, xe lật nhào xuống lề đường sâu thoai thoải; tôi đang ngồi ở ghế trưởng xa, bị văng ra ngoài, lưng chạm vào viên đá, gây chấn thương cột sống, hai chân bị tê liệt, mất cảm giác và không thể cử động từ thắt lưng trở xuống! Thế là đời binh nghiệp chấm dứt từ đây!

Trương Dưỡng. K20
nguồn: http://www.dtruong.com/stories/MotCanhHoaDu_unicode.htm

BachMa
10-19-2017, 02:23 AM
Hồi Ký Một Cánh Hoa Dù
Trương Dưỡng - K20


Chương 4

Gãy Gánh Giữa Đường

1. Tai Nạn Thảm Khốc


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1508378726-Chuong4_GayGanhGiuaDuong01.jpg

Năm 1973 tôi ra thăm toán Tác chiến điện tử tại LĐ1ND, ở bờ Nam sông Mỹ Chánh thuộc tỉnh Quảng Trị. Trên đường về xe Jeep bị lật ở khúc cua quẹo ngay chân cầu Phong Điền khiến lưng tôi chạm nhằm viên đá, gây chấn thương cột sống! Thế là cuộc đời gãy gánh giữa đường !!!
Sau khi tỉnh dậy chờ xe cứu thương di tản, tôi bi quan nằm ngó trời đất mênh mông. Nghĩ đến số phận tàn phế của mình, chẳng lẽ phải tiếp tục kéo dài cuộc sống không lạc thú nầy hay sao? Nghĩ đến người vợ còn trẻ tuổi (chưa đầy ba mươi!), tôi muốn tự giải thoát để không liên lụy cuộc đời son trẻ của nàng. Nhưng khi nhớ đến ba đứa con còn nhỏ dại rồi đây sẽ ra sao ? Chỉ trong mấy phút mà đầu óc suy nghĩ đủ thứ. Cuối cùng tôi quyết định không buông xuôi, phải cố gắng tồn tại, dùng bộ óc và kiến thức sẵn có để dìu dắt các con cho nên người rồi sẽ tính sau.

a). Tại Bệnh Viện Cộng Hòa
Khi được chở về tới Trạm xá ở bộ Tư Lệnh Sư đoàn Nhảy Dù, nhìn thấy Tướng Lê Quang Lưỡng, Tư Lệnh SĐND, Đại tá Phước, Tư Lệnh Phó, tới thăm; nhưng tôi cứ nhắm mắt buông xuôi. Lúc đó tôi không muốn gặp ai, chỉ mong được yên lặng để tiếp tục suy nghĩ về số phận tương lai của mình.
Sáng hôm sau, đích thân Bác sĩ Trần Khắc Niệm, Y Sĩ Trưởng, kiểm soát lại bệnh tình rồi gọi về Hậu cứ nói Bác sĩ Tường cho người đón và đưa tôi thẳng vô Bệnh viện Cộng Hòa để kịp giải phẫu lấy máu bầm sớm, may ra cứu vãn được phần nào hệ thần kinh tủy sống. Bác sĩ Niệm, Bác sĩ Tường, y sĩ trưởng bệnh viện Đỗ Vinh, là những người bạn rất tốt. Lúc bình thường Cò Thu, tôi, và anh Niệm thích chơi bóng chuyền với nhau, tại sân Trạm xá Quân y. Chúng tôi cũng ưa rủ nhau ra thành phố Huế du ngoạn nơi các Lăng Miếu cổ xưa, vào Hoàng Cung Đại Nội xem các di tích lịch sử và ăn bún bò nổi tiếng ở Gia Hội,...nhưng từ đây tôi sẽ không còn những ngày huy hoàng đó nữa!
Vô Bệnh Viện Cộng Hòa, họ chụp quang tuyến và đưa đi mổ ngay. Đây là cuộc giải phẫu lớn, gần một buổi sáng mới xong. Khoảng nửa ngày thì tôi tỉnh dậy, thấy miệng khô và khát nước vô cùng! Nhưng họ không cho uống, chỉ lấy bông gòn thấm nước thỉnh thoảng để trên môi cho thấm xuống chút xíu, vì mới mổ mà uống nước sẽ nguy hiểm. Lúc ấy tôi bị hành sốt và lạnh run, miệng đánh bồ cạp liên tục! Y tá đấp mền và lấy đèn sưởi mà không đỡ chút nào, thân nhân đứng ngoài phòng kiến nhìn cảnh như vậy mà đau lòng xót ruột.
Vợ tôi sau nầy kể lại là thường ngày tôi rất kỹ, trước khi ăn đều rửa tay, vậy mà hôm đó cục bông gòn ướt rớt xuống nệm dơ bẩn, tôi vẫn cứ lượm lên liếm một cách ngon lành, giống như những em bé thèm kẹo cục vậy!
Ở Hậu giải phẫu một thời gian, họ đưa tôi tới phòng điều trị, tại đây có một số sĩ quan bị thương cột sống như :
* Thiếu Úy Nguyễn Văn Tuân, khóa 24 ĐL, còn độc thân. Anh mới ra trường 6 tháng thì bị bắn trúng ngay xương sống, chỉ có bà mẹ già gần 70 tuổi vào nuôi bịnh. Tuân bị lở nhìn thấy cả xương khu, vết to bằng bàn tay, hằng ngày phải rửa nước biển, chữa trị suốt cả năm vẫn chưa lành.
* Chuẩn úy Linh, vừa mới cưới vợ một tháng, bị thương giống Tuân; tội nghiệp vợ Linh còn trẻ đẹp mà sớm chịu cảnh nầy! Hằng ngày chị chăm sóc Linh rất chu đáo và tận tình.
* Chuẩn úy Sơn, xương sống không vỡ; nhưng bị chấn thương, làm ảnh hưởng thần kinh tủy. Sơn bị loại liệt mềm, đôi chân thường co giựt. Ba má và em trai hằng ngày thay phiên vào chăm sóc. Sau ngày mất nước, vì sinh kế, gia đình về quê làm ruộng; nhưng dân ở đó nghèo quá làm bậy. Họ vào nhà Sơn ăn trộm; má Sơn thấy la lên, bị họ đánh trúng cổ, gây chấn thương cột sống và tê liệt 2 chân giống con! Gia đình Sơn phải trở về Phú Nhuận sống lây lất qua ngày. Tội nghiệp ba và em trai của Sơn phải làm việc vô cùng vất vả, để đùm bọc, chăm sóc hai mẹ con bị bịnh hiểm nghèo nầy. Má Sơn chịu đựng được mười năm và vừa mới mất hai năm trước.
* Thiếu úy Lạc cũng còn độc thân như Sơn và Tuân, bà mẹ ở Bến Tre lên chăm sóc anh rất kỹ. Lạc có tiến triển, vài dây thần kinh phục hồi dần, đôi chân cựa quậy chút chút. Sau nầy trước khi xuất viện về Bến Tre, anh đứng được tập đi bằng cách vịn trong hai thanh paralel.
* Đại úy Bếp, Đại đội trưởng công vụ Liên đoàn Biệt Động Quân, căn cứ ở gần cầu Bình Lợi, anh bị thương vì pháo kích. Trung tá Hồng, Liên Đoàn Trưởng, cũng bị thương chân trong ngày đó, nằm ở trại sĩ quan cao cấp (sau nầy họ chuyển tôi xuống nằm cạnh phòng Trung tá Hồng). Gia đình anh Bếp coi bộ khá giả, chị nói cho ăn ổ yến, nên có tiến triển và phục hồi đôi chút, anh thường đi ngâm đôi chân vào hồ nước xoáy.
Cũng từng là Đại đội trưởng Chỉ huy Công vụ như anh, nhưng bà xã tôi, những ngày cuối tháng chưa kịp lãnh lương, phải qua bà Thượng sĩ Bạc (Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù) mượn tiền đi xe Lam vô thăm nuôi!
Thật ra làm Đại Đội Trưởng muốn giàu có thì không được, nhưng muốn có chút ít xài vặt cũng không khó. Lúc còn ở Tiểu đoàn 9 Nhảy Dù, Trung sĩ Dậu, kế toán trưởng, thấy gia cảnh tôi quá đơn sơ đạm bạc, ở nhà lợp “Tôn” nóng bức. Đích thân Dậu và anh thợ hớt tóc kiêm thợ mộc tên Tám đi kiếm thùng đạn pháo binh về đóng “La phông”, để có thể nằm nghỉ trưa; anh và Tám còn đóng một cái giường, tuy thô sơ nhưng lòng tôi rất ấm cúng, vì đó là tình nghĩa, là tấm lòng tốt của Dậu và Tám, nhưng lòng tôi vẫn ái ngại mỗi khi nghĩ đến chuyện nầy.
Có lần má của binh nhì Dũng, một người giàu có, nhà thầu khai thác trục Đa Sa (đường dẫn vào trường Võ bị Đà Lạt), đến văn phòng đại đội nhờ Dậu giúp đỡ dùm. Vì Dũng thích Nhảy Dù quá nên bỏ học, chưa đủ 18 tuổi mà đã trốn nhà đi lính; khiến ai nấy đều lo âu sợ sệt. Bà tìm đến nhà tôi nhờ giúp đỡ và hứa sẽ hậu tạ, thấy Dũng còn vị thành niên, tôi cho em ở Trung đội Chỉ huy, bớt nguy hiểm phần nào, nhưng không nhận thù lao, chỉ lấy bó hoa hồng Đà Lạt thôi.
Dậu rất tốt và hiểu tôi nhiều nhứt, hôm Tết tôi treo tiền cho đội lân nhà, sau khi kiểm điểm, thấy dư thừa cho buổi tiệc Tân Niên. Dậu bàn với Trường đem hoàn lại số tiền; nhưng vợ tôi không nhận, coi như ủng hộ phần nhỏ mọn nầy cho anh em binh sĩ vui chơi trong ba ngày Xuân. Dậu và Trường thật chí tình và trung tín, dầu đi đâu hay ngay khi ngồi viết bài nầy, tôi vẫn hồi tưởng lại và thương mến họ, cùng các anh em từng sống chết có nhau, ở Đại đội 91 Nhảy Dù.
Một trong những bịnh bi đát và khổ sở nhất là bịnh chấn thương cột sống; hệ thống bài tiết bị đình trệ, gần như không còn hoạt động tốt và gây rất nhiều biến chứng. Họ để ống “Xông” vào bọng đái thường trực gây ra nhiểm trùng, chuyền lên tới hai quả thận. Riêng tôi còn bị ống xông loại cứng quá làm lủng từ bọng đái xuyên qua ruột già, khiến nước tiểu chảy qua đường hậu môn! Lúc đó họ định mổ tách ra, nhưng thấy tôi còn yếu nên tìm loại ống xông đặc biệt đặt thường trực và bơm nhiều thuốc trụ sinh vào chai nước biển diệt vi trùng để bảo vệ thận. Họ cho trụ sinh nhiều quá đến đổi cơ thể tôi không còn tiếp nhận được Pénicilin, hễ chích vào sẽ bị phản ứng, ngay cả uống Ambicilin cũng vậy.
Còn việc đại tiện thật là bế tắc, mỗi ngày tôi nhìn thấy ra ba cục “Thuốc tể” thì mừng rỡ, nhưng nếu lớn bằng ba cục “Cứt dê” thì trong người thật khó chịu! Cứ ôm cái bụng chình bình; không còn muốn ăn uống gì nữa; lúc đó tôi ốm yếu cân mất hơn 50 pounds (gần 25 kí lô!).
Cháu Thành bấy giờ đã hơn 3 tuổi, ngày nào cũng theo má vào thăm tôi. Nó ưa leo lên giường nằm cạnh bên, khiến mọi cơn đau đớn về thể xác như tiêu tan mất hết. Có lần đi ngang qua hai chân, thấy tôi đang lót báo, nó vội lật đật nhảy xuống cái rột, thật là đáng “Ghét” vô cùng.
Trước đó, mỗi khi Biệt Đội được ở hậu cứ, sáng nào nó cũng canh thức sớm, leo lên xe Jeep theo tôi vào văn phòng làm việc. Thành thường trèo lên bàn lấy viết vẽ lung tung; nó thích cho chú tài xế chở đi chơi vòng vòng. Các sĩ quan và quân nhân trong Biệt Đội đều thương nó. Mỗi lúc đi hành quân xa, tôi thường lén thức dậy một cách nhẹ nhàng để trốn ra phi trường, nhưng lần nào cũng không gạt được, tôi vừa ngồi dậy là nó liền mở mắt đen thui, làm như đã canh sẵn hồi nào tới giờ.
Khi máy bay bắt đầu lăn bánh ra phi đạo, tôi nhìn nó mà ứa nước mắt, thật sự không muốn rời xa con chút nào; nếu đào ngũ được tôi cũng muốn làm. Có lần Huy lúc ở Tiểu đoàn 9 Nhảy Dù đã đào ngũ; vậy mà ra Quảng Trị, hắn cũng dám lại thăm tôi như thường (đơn vị Nhảy Dù chỉ cần người tình nguyện. Những ai quá nặng nợ, không kềm giữ được bản thân thì không giúp gì cho đơn vị thiện chiến nầy). Vì vậy khi có con cái đùm đề, nặng nợ gia đình, chần chừ mỗi khi đi hành quân xa, lúc đó tôi cảm thấy không xứng đáng mang danh binh chủng nầy chút nào!
Nhà thương của Việt Nam đâu có máy lạnh nhiều như ở Mỹ, chúng tôi ai cũng bị lở (mông hoặc xương khu) vì hầm hơi, mặc dù thỉnh thoảng cũng nhờ thân nhân giúp trở mình qua lại. Tôi chỉ bị nhẹ, trong khi Tuân và Sơn thì lở rất nặng; nhưng vết mổ của mọi người đều lành thật chậm. Hằng ngày vợ tôi phải rửa bằng nước biển và băng bó kỹ lưỡng nhưng cũng không gom mặt. Sau nầy khi hành quân về, bác sĩ Niệm có tới thăm và cho hộp “Bô Mát” làm bằng một loại nấm gì ở Phi châu, do Pháp sản xuất. Khi thoa vài lần, thấy vết thương có tiến triển, tuy đắt tiền nhưng bà xã tôi vẫn kiếm mua, xức trong vài tháng thì lành hẳn.
Vết lở của tôi bằng đồng bạc mà cũng nửa năm và tốn rất nhiều típ bô mát mới hết, đây đúng là bịnh nhà giàu! Vì mỗi lần lở lâu lành nên tôi giữ gìn rất kỹ; ngày nào cũng tắm rửa sạch sẽ; tối nào cũng thức giấc nhiều lần để trở mình (thói nầy tập quen từ năm 1973 và đi theo tôi tới giờ đã gần 25 năm!).
Không khí sinh hoạt ở đây cũng dễ chịu, đồng cảnh thường thương mến giúp đỡ lẫn nhau. Thân nhân được đôi chút an ủi vì những người xung quanh ai cũng nồng nhiệt; lúc rảnh rỗi mấy bà thường tụ họp chuyện trò thăm hỏi nhau, trong đó đề tài chánh thường bàn về vết lở và táo bón của người thân họ.
Một tháng sau, Sĩ quan Đại diện SĐND vào bệnh viện gắn cho tôi cấp bậc Thiếu tá và chuyển xuống trại sĩ quan cao cấp. Tại đây, cấp Trung và Thiếu tá thì hai người một phòng, Đại tá ở phòng có máy lạnh, cấp Tướng thì rộng rãi và tiện nghi hơn. Trưởng trại sĩ quan cao cấp là Trung úy Hai, sau ngày mất nước, nghe nói anh là nội tuyến nằm vùng (chỉ nghe nói chứ chưa xác định rõ). Dãy nhà cấp Tướng, lúc đó có Ngô Quang Trưởng,Tư Lệnh Quân Đoàn I và Phó Tổng Thống Trần Văn Hương,...Cụ Hương chỉ thích nằm võng chứ không chịu nằm giường. Nghe nói Tướng Trưởng đã bất mãn vụ gì đó nên khai bịnh như để phản đối một cách tiêu cực.
Tôi nằm cùng phòng với Thiếu tá Anh, là Phi công lái F-5 đầu tiên của ngành không quân. Anh ra ngoài Bắc oanh tạc, máy bay trúng đạn, bị thương ở chân. Mỗi tối có một binh sĩ Biệt đội thay phiên đến trông nom, vì vợ tôi lo ở nhà coi sóc 3 đứa con còn nhỏ dại. Tội nghiệp cháu Thiện lúc đó mới sanh 7, 8 tháng, ở nhà với anh Tâm (mới 6 tuổi) và chị Hảo, người giúp việc cho gia đình mấy năm nay.
Cháu Hảo là con của một Trung sĩ Dù, nhà trong trại Hoàng Hoa Thám, tánh tình cương trực không tham lam. Có lần bà xã tôi mua giấy số, cầu mong có chút đỉnh tiền lo cho chồng, con. Nhưng vì đầu óc bối rối lo lắng đủ điều, tiền lương cố định; mà phải nào là thuốc men, nào là cơm gạo và nhất là phải có tiền mua sữa cho cháu Thiện nữa. Mắt thì dò giấy số mà đầu óc cứ nghĩ đâu đâu, như Tú Xương đã nói về vợ:
....Nuôi nấng ba con với một chồng (đang bịnh)
Lặn lội thân cò khi quãng vắng....
Hảo lượm giấy số đã quăng bỏ lên coi lại, bỗng la lớn:
__ Trúng cặp 7 một trăm ngàn rồi cô ơi !
Vợ tôi không tin, nhưng cũng miễn cưỡng coi, bỗng mắt nàng sáng lên vì quả thật là trời đã ngó lại!
Ở trại sĩ quan cao cấp, mỗi ngày tôi mang giày nẹp tập đi trong hai thanh paralel; ngoài ra còn lo vô nước biển, trong đó có thuốc trụ sinh, để chữa bệnh nhiễm trùng đường tiểu gây ra do đặt ống xông lâu ngày. Điều trị hơn một năm thì sức khỏe tôi hồi phục dần, hằng ngày có thể tự lăn xe đi vòng vòng trong khu trại nầy, và mỗi buổi sáng thường ra phơi nắng. Chiều tới, khoảng năm giờ là bắt đầu thấy buồn, vì hai mẹ con sửa soạn ra về, nhất là cháu Thành cứ quay lại vẫy tay chào làm tôi ứa nước mắt.
Không hiểu tại sao lúc đó tôi dễ nhạy cảm và con người quá yếu đuối? Có lần Thành nghịch ngợm, mẹ nói hoài không nghe, nên giận quăng đôi giày của nó ra sân; chỉ có vậy mà tôi cũng chảy nước mắt. Có lẽ trước kia tôi còn nghĩ đến quyền quý danh vọng, bây giờ thì mất tất cả. Chỉ còn lại bốn mẹ con yêu thương trong tầm tay, tôi muốn họ lúc nào cũng được yên vui hạnh phúc mãi mãi, không ai được động tới họ.
Những ngày ở bệnh viện buồn chán, may nhờ có mấy đứa con vô chơi nên tôi cảm thấy yêu đời dần dần và tự nhủ thầm: hãy bỏ mọi ước mơ ảo tưởng qua một bên, không nhìn về quá khứ để ngồi than thở, hối tiếc; mà nên bằng lòng với định mệnh để nắm giữ cái hiện hữu thực tại, và cố ngoi lên trong khả năng hạn chế của mình (Thực sự nếu cứ ngồi một chỗ để cằn nhằn so bì tại sao mình không đi đứng được như người ta, tại sao mình không có nầy không có nọ như người ta? Tại sao và tại sao,....thì thà xuống địa ngục còn sướng hơn)
Thân thể tuy bất toàn nhưng không có nghĩa là cuộc đời đã chấm dứt; đôi chân không đi được nhưng khối óc vẫn còn nguyên vẹn. Nước chảy đá mòn, thời gian dài chịu đựng sự dày vò về thể xác lẫn tâm hồn suốt năm qua; vẫn không bào mòn được ý chí phấn đấu sẵn có trong con người từng xong pha vào làng tên mũi đạn quân thù như tôi. Mấy tháng nay tôi luôn tranh đấu với bản thân, quyết tâm hướng về tương lai, bỏ lại những quá khứ đau buồn từ ngày bị tai ương tàn khốc!
Sau khi nghĩ thông suốt, tôi thường tự an ủi bằng cách so sánh với những người có cảnh ngộ khó khăn hơn mình. Như những người bị liệt tứ chi chẳng hạn, họ còn khổ sở hơn rất nhiều: hai tay cử động yếu ớt, khó thở vì phổi không được bình thường. Hoặc so với những người bị ung thư bất trị, hoặc những người già yếu lụm khụm. Ôi thế gian nầy còn biết bao nhiêu người đau khổ hơn mình; tại sao họ chịu đựng được, còn mình đường đường là một nam nhi, đã từng tôi luyện trong lò luyện thép tại Đà Lạt, đã từng “Nhảy Dù Cố Gắng”, chỉ huy binh sĩ trong các mặt trận thập phần nguy hiểm như Tết Mậu Thân ở Quảng Trị, Huế, và Vùng Ven Đô Sàigòn. Nào là mặt trận Tây Ninh, nào là Bình Long Anh Dũng, nào là vùng Phi Quân Sự, Hạ Lào,Campuchia,... Rồi tôi nghĩ đến những nhà tu hành đạo đức; họ đâu chú trọng về hưởng thụ bản thân, đã một lòng hướng thiện và cứu rỗi chúng sanh đang đau khổ vì cái vòng lẩn quẩn: sinh, lảo, bịnh, tử.
Bây giờ đã thấu triệt, nhờ vậy tôi cảm thấy thoải mái và xin xuất viện về nhà để gia đình tránh khỏi một kiểng hai quê, hòng có dư chút đỉnh mua sữa cho cháu Thiện hiện còn quá thơ dại.

b). Xuất Viện Về Nhà.

Sau khi về nhà được một tháng thì có Tý, chồng của cô Tánh, là em họ của bà xã đến thăm. Tý ở Chợ Lớn là tay buôn bán lành nghề, chú chỉ tôi cách sinh lợi là thu mua sắt vụn rồi sẽ đưa người tới chở đi bán cho hãng nấu thép. Lúc đó nhờ mới trúng số nên có tiền mở địa điểm mua sắt vụn tại nhà.
Gia đình binh sĩ nghe tin, vội đem mấy thùng phuy lủng, vỉ sắt mục sét, đồ sắt vụn,... đến cân bán ào ào, chẳng mấy chốc sân bên hông nhà chất cao ngất toàn là sắt phế thải. Tý gọi người đem xe tới chở được vài chuyến thì sắt vụn trong trại gia binh hết sạch, đành phải kiếm nghề khác. Lúc đầu An Ninh định cản trở họ mót sắt vụn ra kiếm thêm chút cháo, may nhờ Thiếu tá Triệu (sau khi chữa hết phỏng về làm Chỉ Huy Tổng Hành Dinh) can thiệp nên tôi cũng kiếm được chút ít (cám ơn nhiều nhe anh Triệu). Lúc đó Đại Úy Võ Tính, sĩ quan truyền tin, cho tôi một cuộn dây và Thiếu tá Ngọc, Tiểu đoàn trưởng TĐ2ND, cho người kéo dây điện thoại xuyên qua doanh trại tiểu đoàn, nhờ vậy tôi ở nhà mà cũng có thể liên lạc được bạn bè. Có một phế binh đã giải ngũ chạy xích lô, thay vì đem xe vào nhà ở trong trại Hoàng Hoa Thám, anh đã đem gởi tại nhà tôi, để buổi chiều cậu em vợ, chở đi vòng vòng giải khuây.
Một hôm tôi đem cán dao đi hàn ở tiệm trên Hương Lộ 14, gần chợ Tân Bình. Bác thợ hàn cũng là chủ nhà, đang hàn mà mắt đỏ ngầu, thỉnh thoảng có vài giọt nước mắt chảy xuống ướt hai gò má. Tôi tò mò hỏi thăm.
Lấy tay vội lau nước mắt, ông nói:
- Tôi đang nhớ đến thằng con đang đánh giặc ở Thường Đức. Mấy đứa bạn của nó về nói ở đó đang đánh lớn lắm, có rất nhiều thương vong! Tôi sợ nó bị điều gì thì cả nhà sẽ khổ lắm!
- Bây giờ thời chiến loạn, ai cũng phải đi linh?
- Nhà tôi mở tiệm hàn; nó là thợ chánh, còn tôi thì mắt đã loà; từ ngày nó đi lính, mọi chuyện điều bế tắc.
- Con bác đi lính gì?
- Nó đi Nhảy Dù.
- Như vậy là tại nó tình nguyện chứ đâu có ai bắt buộc?
- Nó tới tuổi Quân Dịch, nên đăng lính Nhảy Dù vì hậu cứ ở Sàigòn, gần nhà; vả lại nó cũng thích lính Nhảy Dù nữa.
Tôi trả tiền hàn xong, định bảo Cậu Bảy (em vợ) lái xích lô về. Bỗng tôi chợt nghĩ có thể giúp bác thợ hàn được, nên nói bác thử ghi tên họ và số quân, may ra có thể lo được. Ông lão nghe nói mừng rỡ, như gặp tia sáng dưới đường hầm, nhanh chân vô nhà ghi vội vã. Rồi mặt mày hớn hở, hai tay cầm mảnh giấy đưa cho tôi và nói:
- Nhờ ông giúp đỡ xin cho cháu được về Sài gòn tôi thật biết ơn vô cùng!
Tôi cầm mảnh giấy bỏ túi; vài ngày sau đi lên hướng Bà Quẹo, thấy Tướng Lưỡng đang đứng trò chuyện với các sĩ quan đệ tử ở trước sân. Tôi ghé vô chào, ông hỏi thăm đủ điều, có vẻ rất quan tâm, tôi lúc đó rất cảm động, cuối cùng ông hỏi:
- Dưỡng ở nhà có cần gì cứ gọi thằng Nhu (bạn cùng khóa, hiện làm Trưởng Phòng 1).
Sẵn đó tôi xin Sư Đoàn cấp cho một xe Jeep và một tài xế để chở đi đây đó. Tướng Lưỡng là thầy cũ, ông rất thương yêu thuộc cấp, vì vậy vị Tư Lệnh gật đầu chấp thuận mau mắn:
- Tôi sẽ bảo thằng Nhu lo cho.
Sau khi từ giã mọi người, tôi tiếp tục đi lên hướng Bà Quẹo. Hai hôm sau, tôi gọi điện thoại cho Nguyễn Thành Nhu xin đích danh tên Đặng Văn Y, con của bác thợ hàn.
- Mầy yên chí tao sẽ lo cho, cần gì cứ gọi vào đây.
Nhu là thằng bạn tốt, vì bị thương nhiều lần nên được về làm chỗ không nguy hiểm như lúc còn ở đơn vị tác chiến. Sau ngày mất nước nó đã vượt biển tìm tự do, nhưng chẳng may bị mất tích để lại vợ con còn kẹt lại tại quê nhà!
Một tháng sau, binh nhì Y được về Sàigòn, anh dẫn bố lại và mang theo quà định đền ơn; nhưng tôi từ chối. Sau ngày mất nước, Y thấy cổng nhà bị hở hang, sợ trẻ nhỏ hoặc kẻ trộm vô nhà phá phách; bố anh bảo chở giàn máy đến hàn vá thật chắc chắn. Mặc dù không còn liên hệ thầy trò, nhưng Y thỉnh thoảng vẫn đến thăm tôi, thật có tình có nghĩa!
Hết nghề thu mua sắt vụn, bà xã tôi xoay qua nghề bán gạo, anh chị Hiền có lại ủng hộ dùm một bao gạo thơm. Khi còn ở TĐ9NDø, bác sĩ Hiền là người chịu chơi nhứt trong các bác sĩ Dù mà tôi đã gặp. Lúc mới về đơn vị thay thế bác sĩ Thiện, anh đã hòa mình ngay với sĩ quan trong tiểu đoàn; những buổi nhậu của chúng tôi đều có anh tham gia và tửu lượng khá cao, mọi người đều rất mến anh. Khi nghe gia đình tôi mới qua Mỹ, từ California xa xăm anh cũng gởi tiền giúp và chúc tôi sớm ổn định trong những ngày chân ướt chân ráo tại đất khách quê người. Mặc dù bây giờ anh chị đã khá giả, nhưng nghe nói hễ gặp đám TĐ9 cũ như Mễ, Tâm, Thành là cố mời tới nhà nhậu để hồi tưởng lại những ngày cùng ngồi bên nhau uống rượu đế với khô mực, khô cá khoai, và soài sống chấm mắm ruốc!
Bán gạo được vài tháng thì thua lỗ gần hết vốn, vì không có địa thế tốt, tôi lại chuyển qua nghề bán củi bìa. Một hôm đi ngang qua Tổng Tham Mưu, thấy ngôi biệt thự đối diện có những bó ván nẹp chất đầy sân, tôi ghé vào thấy bên trong họ đang đóng thùng để đựng đồ sành, đồ sứ như ghế đôn, chậu, con voi. Tôi hỏi ông quản lý về việc cung cấp ván nẹp, ông Hai ghi địa chỉ và nói khi nào rảnh sẽ tới bàn chi tiết, vì ông nói củi bìa có thể mót cưa thành những miếng nẹp bản nhỏ mà ông đang dùng và giá thành lại rẻ, như vậy hai bên đều có lợi.
Vài ngày sau ông tìm đến nhà, thấy gia cảnh như vậy, nên khuyến khích tôi làm bàn cưa tròn để xẻ củi bìa thành các miếng nẹp theo thước tấc chỉ định, còn phần vạc bỏ thì để bán củi vụn. Tôi hứa với ông Hai sẽ làm một đợt cho coi thử, nhưng không ai rành nghề thợ mộc! Tôi điện thoại nói Phạm Thái Hóa Khối Bổ Sung, cho mượn thợ mộc tới chỉ những cậu trẻ tay ngang mà tôi thuê như “Thợ vịn”, vì đâu biết có làm được lâu dài không mà kiếm thợ giỏi. Hóa, K20ĐL, cho binh nhì Ninh ra giúp vài ngày, chỉ cho Chương và Thanh cưa ván nẹp. Giao hàng đợt đầu tuy không hoàn hảo nhưng bà chủ và ông Hai đều là người phúc hậu, họ nhận hàng và đặt tiếp.
Sau đó tôi đi tới hai chỗ bán đồ sứ ở đường Võ Di Nguy, Phú Nhuận và đưa hàng mẫu, ở đây chỉ mua thùng chứ không mua ván nẹp. Sau khi thương lượng giá cả xong, tôi về huy động những người lối xóm đang thất nghiệp. Trong đó có anh Bộ, thương binh Dù bị cụt hai chân, và con của Trung sĩ nhứt Lớn, thuộc cấp của tôi, xúm nhau ngồi đóng gia công (làm nhiều ăn nhiều làm ít ăn ít). Rồi từ tay ngang, tôi ngồi trên xe lăn mà vẫn có thể điều động quản lý mọi việc, bà xã tôi lo đếm tiền, phát lương, và nấu ăn.
Bây giờ làm ăn cũng kha khá, từ việc bán củi bìa, nay đã có hai giàn cưa máy chạy ngày đêm; từ việc bán nẹp giờ đây có thể đóng thùng và nhận vô bao bì xuất khẩu. Thợ đóng thùng từ hai người lên mười hai người, ai cũng cố đóng nhanh để chiều nhận nhiều tiền, phụ giúp gia đình được thêm sung túc. Tôi thì lo kiếm cách làm cho sản phẩm ngày càng tốt đẹp, giá thành phải chăng, và nhất là giữ uy tín, giao hàng đúng hẹn. Cái nào vì di chuyển làm bị hư méo, tôi cho đem về đổi ngay. Nhờ vậy các chủ tiệm đồ sứ đều hài lòng; tiền bạc vô ra, các con có dư đủ; làm tôi quên hẳn mình là người tàn phế, tinh thần vợ chồng tôi lúc đó rất sảng khoái và yêu đời.
Nhưng! Ngày Quốc Hận đến, tôi lại bị Gãy gánh giữa đường!

2. Sau Ngày Quốc Hận


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1508378744-Chuong4_GayGanhGiuaDuong02.jpg

a). Tiêu tan sự nghiệp!

Những ngày cuối “Tháng tư đen”, máy bay của tên nội tuyến đã oanh tạc phi trường; vì sợ liên lụy các con, tôi tản cư qua nhà anh Ba ở Tân Định, thế là:

“Sự nghiệp đang công đeo đuổi
“Nay cũng đành gián đoạn giữa đường!

Toàn dân Miền Nam nói chung, gia đình binh sĩ và quân cán chính đang bị chôn vùi trong biển hận. Con xa cha, vợ xa chồng, loài quỷ đỏ đã gieo rắc bao tang thương, bao khổ hận cho mọi người. Công lao sự nghiệp đã gầy dựng, mới làm lại cuộc đời, sau những ngày bi quan tưởng mình đã vứt bỏ như đồ phế thải. Nhưng chỉ một phút bị tụi Cộng Đỏ cướp giựt sạch. Chúng cho đổi tiền, mọi người đều trở thành vô sản. Mọi người đều chỉ còn 200 đồng, của cải bị tịch thu vào “Quĩ chung” (Cộng sản) để cho các tên đầu sỏ từ Bộ Chóp bu tới những đảng viên thuộc loại “Ba Mươi” từ từ xài thỏa thích.
Dân đen bần cố nông thì “Chạy ăn từng bữa toát mồ hôi” còn các ngài thì lúc nào cũng nhân sâm bồi bổ, vì thế lũ ngu dốt nầy sống thật dai để hưởng mọi lạc thú. Người nào cũng quá tẩm bổ, nên đa số chết vì bị tai biến mạch máu não; nhìn mặt tên nào cũng chành bành bóng loáng to tròn như trái bong bóng sắp nổ, so với những người nông dân, thợ thuyền gầy ốm thì thật khác xa như hai thái cực.
Họ ngu dốt vô học thức, nhưng dùng bạo quyền như những chúa trùm Mafia sai khiến đàn em là công an, bộ đội, và cảnh sát đàn áp, đè đầu đè cổ dân đen; mà miệng thì cứ lập đi lập lại như con két về lý thuyết ngoại lai của tên Lenin, người đã bị chính dân Nga hạ bệ. Vì Lenin chủ trương buộc bụng bỏ đói dân đen để dễ cai trị (đói quá còn sức đâu mà phản đối, mấy người tù trong những trại gọi là cải tạo đều đã nếm mùi đau khổ nầy). Còn đảng viên là những tên “Ăn như tu, ở như tù, nói chuyện như lãnh tụ, tới chừng về hưu, mới biết mình ngu”; chúng đã lỡ lầm, mà làm hại dân hại nước!
Sau ngày Quốc Hận, người dân miền Nam đa số bị đuổi đi vùng đèo heo hút gió được gọi là Kinh Tế Mới; những vùng đất đai màu mỡ như khu trồng trà và cà phê ở Lâm Đồng thì dành cho dân miền Bắc, bà con thân thuộc đảng phái vào khai khẩn (đúng là phe đảng). Những người thương mãi giàu có thì bị ghép (chụp mũ) là Tư Sản Mại Bản để có cớ tịch thu tài sản (nhà cửa, cơ sở, vàng bạc,...) đem hết về cho bọn đầu não ngoài Bắc xài. Nhà tôi gần khu Bà Quẹo, thấy rõ tận mắt là họ đã tháo gỡ các máy móc của hãng Dệt Vinatex Co., hãng Bột Ngọt Vị Hương Tố, hãng Mì Ba Cua ViFon, máy móc, tủ lạnh, máy lạnh,...tất cả chở hàng đoàn xe đủ loại để đem ra miền Bắc (đúng là giải phóng miền Bắc). Họ đã tiêu diệt một cách êm đẹp những người mà họ từng gọi là “Vừa là Đồng chí vừa là Anh em” như đám Mặt trận Giải Phóng Miền Nam, đám Thành Phần Thứ Ba. Chính tên thiếu tá công an quận Tân Bình đã khóc nức nở vì thấy bọn Đảng viên miền Bắc quá tham lam, tàn bạo vơ vét của cải giống như quân Mông Cổ .
Tên nào tiếc rẻ đòi chia phần thì bị vô tù hoặc quản thúc như Nguyễn Hộ, Dương Quỳnh Hoa, Ngô Công Đức, Chân Tín,...Những tên tham quyền cố vị chịu làm bù nhìn như Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh tấn Phát, Nguyễn thị Bình,..thì được cho ngồi chơi xơi nước; để mặc nhân dân miền Nam, đồng bào ruột thịt của họ, bị những tên “Mông Cổ” đè đầu bóc lột .
Đoạn nầy viết hơi gay gắt vì thật sự tôi là người trong cuộc, đã nếm mùi chế độ nầy gần 9 năm, chứng kiến và tiếp xúc với nhiều tên Cộng Sản mà bản chất từ trong xương tủy của họ chỉ có thể nói gọn bốn chữ là “Lừa thầy phản bạn”. Tôi không thích bàn về chính trị, chỉ muốn nói lên sự thật thôi. Một lãnh tụ mà dốt nát thì hại hằng triệu người.
Trong cuốn Hồi Ký của Lý Phục Huy, vị Bác sĩ riêng theo Mao Trạch Đông suốt 22 năm trường. Ông ta kể lại cách mạng “Bước Nhảy Vọt” làm chết trên 30 chục triệu dân đen. Nguyên nhân vì nghe lời báo cáo láo của cán bộ địa phương là có thể xây lò đất luyện kim (luyện thép) tại nhà, và sẽ sản xuất nhảy vọt hơn các lò luyện thép quy mô tối tân của người Anh, thế là Mao Chủ tịch nhà ta cổ động xây lò tại dân gian, khiến nhà nông bỏ trồng trọt mà chuyên lo luyện sắt.
Rồi lũ quan quyền địa phương, muốn lập công thi đua đạt năng xuất, bắt dân chúng lấy cả nồi niêu son chảo ra nấu luôn. Hết củi thì lấy cánh cửa cột nhà ra xài để nộp đủ số chỉ tiêu cho Trung Ương. Họ đã cổ võ, đốc thúc, và hô hào thi đua tăng năng xuất. Bắt dân đen làm ngày đêm không nghỉ, ai chần chừ thì bị gán tội phản động, xét lại,...! Họ còn phát động phong trào diệt chim; nơi nơi đều đồng loạt khua chiên đánh trống, khiến chim không dám đậu, bay hoài tới gãy cánh, rớt xuống đất bị dân chúng bắt xỏ xâu chất thành đống cao như núi. Thế rồi sâu bọ hoành hành, không còn chim ăn sâu nên mùa màng thất thoát, dân chúng chết đói đầy đường!
Nhưng mấy tên Tỉnh ủy thì lên chức như diều (như Hoa Quốc Phong từ Tỉnh ủy lên làm Thủ Tướng), rồi vì lúa gạo không trồng trọt nên dân phải ăn vỏ cây, kết quả chỉ vì một tên ngu dốt mà hại chết hằng chục triệu nhân mạng.
Ở Việt Nam Chủ Tịch Đảng chưa có bằng Tiểu Học, nhưng miệng thì nói thuộc lòng nói trơn tru như con vẹt:
- Tiến nhanh, tiến mạnh tiến vững chắc lên chủ nghĩa.... xã hội (đói rách! ). Hoặc là:
- Đỉnh cao trí tuệ của loài...... người (hay loài vật ?)
Thành tích của những người lãnh đạo được đánh giá bằng những năm tù. Ở tù lâu là coi như có công nhiều với cách mạng. Trong Thép Đen có kể lại chuyện một người Cộng sản già 65 tuổi đang bị tù chung với tác giả, ông Tiến có đưa cho tác giả coi tấm hình chụp chung với Phạm văn Đồng, Võ nguyên Giáp, và Hoàng quốc Việt. Đây là hình cắt trong báo đặc san Đỏ xuất bản tại Pháp, có ghi chú: Bác Tiến là chủ nhiệm còn 3 người kia là nhân viên. Sau nầy ông ta thấy đảng Cộng Sản làm hại dân, hại nước, nên đề nghị sửa sai. Thế là ông bị ba tên thuộc cấp gán tội “Thành phần xét lại” và nhốt mười mấy năm mà vẫn chưa thả. Tình nghĩa thầy trò, chủ tớ, bè bạn, anh em,.... của họ là vậy đó!
Sau khi đưa một đống tiền để đổi lấy hai trăm đồng Việt Cộng, như vậy từ nay phải làm gì để sống? Những người mạnh mẽ còn chịu không kham, huống chi gia đình tôi, cháu lớn mới 7 tuổi, mỗi ngày cứ đọc sách giáo khoa tuyên truyền toàn chuyện vót chông diệt ngụy, bắn máy bay, và râu bác dài như.... khiến mỗi lần nghe tới là nổi sùng. Còn Thiện mới một tuổi thì làm gì có tiền mua sữa, đành cho uống nước lạnh pha chút đường mà chúng tôi thường gọi đùa là “Sữa bộ đội”. Uống riết cháu mặt mày xanh lét, me nó thì phải về quê mua heo con lên Sàigòn bán.
Đồ đạc trong nhà tiêu dần, đồng hồ, Honda, ngay cả nhẫn Truyền Thống Võ Bị (của thằng Măng, bạn cùng khóa, tặng cho lúc gặp nhau ở bờ sông Mỹ Chánh) cũng đem ra bán sạch.
Nhà nhà đều sạch, người người đều xẹp, chính sách của họ đã đi “Đúng hướng”, dân miền Nam càng lầm than thì chúng càng khoái chí!
Hết buôn lợn rồi lại lo quấn thuốc lá để 5 giờ sáng leo xe đò Hốc Môn ra Chợ Lớn dành chỗ trải dưới đất bán chui, hôm nào xui xẻo bị bọn “Mafia con”(cảnh sát hay đám cách mạng 30) ra tịch thu thì sữa bộ đội của cháu Thiện chỉ còn nước lã, chứ tiền đâu mà mua đường! Ngày nào cũng ráng ăn bo bo độn khoai mì với nước mắm (tiêu chuẩn gần giống như cơm tù, vì họ chỉ có nước muối thay vì được nước mắm như dân ở ngoài), nhà là nhà tù, người là kẻ tội, cả miền Nam đang sống như tù tội! Bán thuốc lá cũng không xong, tương lai mù mịt, tôi không giúp được gì cho gia đình, lúc nầy tư tưởng đầy bi quan, tinh thần xuống dốc đến cùng cực!!!
Một hôm Dì Sáu từ tỉnh lên thăm, bà là người phúc hậu tử tế, bị đánh tư sản. Chúng ụp vào nhà lấy hết vàng bạc (mấy trăm lượng), vì bà có tiệm bán vàng và cầm đồ và bị kết tội “Tư sản mại bản”,...Dì Sáu thấy tôi ngồi chiếc xe lăn đã mục nát, nệm lót đã rách nên cho tiền mua một chiếc xe khác làm chân (anh bạn Lê Tấn Huỳnh Long, nguyên bác sĩ TQLC, làm ở bệnh viện Quốc Gia Phục Hồi, định cấp cho tôi một chiếc khác, vì trong kho có mấy trăm chiếc; nhưng tên Sáu Châu không chịu, nói để dành chở ra Bắc (cái gì cũng chở về Bắc!). BS Long tức giận từ chức. Anh cũng bị pháo kích trúng xương sống, nhưng phục hồi được chút đỉnh nên đi nạng được. Qua Mỹ anh đã đổ bằng bác sĩ lại, nhưng ngồi lâu sợ lở mông, nên đi làm bất tiện. Khi qua đây anh chị cũng có làm giấy bảo lãnh USCC cho gia đình tôi, không sợ gánh nặng của nợ, thật là tử tế vô cùng).

b) Làm Lại Cuộc Đời .

Thay vì sắm xe lăn, tôi đã mua một chiếc xe lắc bằng tay. Từ ngày mất nước không có ra ngoài, vì xe xích lô và xe Jeep đâu còn nữa! Hôm nay có xe lắc tay, giống như được tháp đôi chân, như chim sổ lòng. Tôi cùng với cháu Thành (lúc đó được 6 tuổi) quyết định đi dạo một chuyến thật xa. Hai cha con hè nhau lắc xe từ nhà, qua ngang Bà Quẹo, theo lộ đá sỏi tới trường đua Phú Thọ; đoạn đường dài gần năm cây số! Tôi muốn đến thăm thằng bạn già Trịnh Xuân Tiểu, cùng học Trần Trung Tiên ở tỉnh. Hai đứa rất thân từ mấy chục năm trước. Tiểu học sĩ quan Hải Quân khóa 14, vì tánh quật cường không chịu khuất phục nội quy kỷ luật, nên phải trở lại khóa 16 mới được ra Thiếu úy thật sự. Tánh nó rất tốt, lúc tôi còn đang ở trọ tại Phú Nhuận, hắn đến rủ cùng đi lựa mua xe gắn máy hiệu Pusch. Sẵn dịp, Tiểu nói mẹ cho tôi mượn tiền mua luôn xe Mobilet loại tự động mới ra đợt đầu; mặc dù lúc đó tôi chỉ là học sinh đâu có tiền để trả nợ (má Tiểu chuyên cho vay lấy lời, nhưng nó đâu có cho tính phân lãi với tôi xu nào!).
Tiểu biết địa chỉ, nên một hôm đi xích lô tới thăm tôi; nó mượn xe lắc tay để về nhà má ở trước rạp hát Trương Minh Giảng (Tiểu bị phục kích trên giang thuyền và trúng đạn bể xương đầu gối). Nhưng mới lắc tới Ngã Tư Bảy Hiền thì bị xỉu, may nhờ những người đi đường đè xuống cạo gió làm nó hoảng sợ mỗi khi nhìn thấy chiếc xe lắc nầy.
Biết xe nầy không ổn, tôi quyết định bán và tự vẽ kiểu cho anh Học, thợ hàn gió đá, cựu hạ sĩ quan Nhảy Dù, làm một chiếc khác với khung được uốn cong bằng ống nước loại thép tốt. Vì thế xe thật vững chắc, có gắn máy PC-50 và sức chịu đựng cao. Với xe có gắn máy, hằng ngày tôi, cháu Thành, và cháu Vinh ra chợ Tân Bình mua bo bo, đổi mì sợi tại các Hợp Tác Xã, hoặc đến hỏi mua từng nhà. Từ đó có đồng tiền vô ra giúp đỡ phần nào cho gia đình, tôi hết tự ti mặc cảm.
Có lần vô Tân Phú mua bo bo, khi đủ bao thì chở ra Chợ Lớn, qua đường Cầu Tre gập ghềnh khó đi. Hôm đó, vì mua được nhiều, tôi hăng hái chạy tới chạy lui vô Chợ Lớn bán hàng nhiều chuyến. Đến 8 giờ tối về tới nhà, tôi mới phát hiện gót chân phỏng sưng to nặng tới thấu xương (thịt gần như bị chín luôn)! Vì đường gồ ghề nên bao bo bo bị tuột ra sau, đẩy gót chân tôi chạm vào ống bô (ống khói) nóng hực cả buổi, mà cứ tỉnh bơ chạy hoài.
Mặc dù không có cảm giác, nhưng lúc đó trong người tôi cảm thấy rất bứt rứt, khó chịu. Có lẽ vì ống bô quá nóng, khiến máu trong cơ thể cũng bị ảnh hưởng nóng theo; nhưng vì nghĩ đến hôm nay được đắc lợi, lòng cảm thấy phấn khởi, đâu còn để ý đến bản thân mình, miễn sao làm ra tiền nhiều để gia đình được đầy đủ là cảm thấy vui rồi.
Nhờ ngày nào cũng ngâm nước lá me (đâu có tiền mua “Bô Mát” loại tốt như của BS Niệm đã cho!) để làm tái thịt chỗ vết phỏng, nên một năm (tới một năm lận) mới lành hẳn.
Từ đó tôi lấy miếng ván chận chân cho cách biệt với bô xe. Tuy bị phỏng nặng, nhưng vì sinh kế, nên vợ tôi băng bó gót chân kỹ lưỡng và hằng ngày vẫn tiếp tục đi mua bán bo bo như thường lệ.
Có lần bị nhiễm trùng đường tiểu hơi nặng, phải vào nằm phòng cấp cứu tại bệnh viện Trưng Vương; nhưng suốt đêm đó tôi cứ cảm thấy người bứt rứt, trằn trọc không ngủ được. Sáng ra mới biết chân mình đã bị kiến lửa bu đen nghẹt tới không nhìn thấy mười ngón, chúng cắn nát bấy hai bàn chân suốt cả đêm mà cũng không hay biết! Tôi phải xin xuất viện gấp; lại phải ngâm chân bằng nước lá me thêm vài tháng!
Lúc ở bệnh viện Trưng Vương, nằm cạnh giường có một bịnh nhân người vùng Cát Lái, Thủ Đức; ông bị vết mổ làm độc vì chỉ khâu bị đứt, nên phải nhập viện xin giải phẫu lại. Để có tiền mua chỉ may vết thương, con ông là em Toàn phải nhịn ăn tới mặt mày xanh xao, tay chân run rẫy, đi đứng không vững! Toàn cứ nằm co ro, cố ngủ để cho qua cơn đói. Tôi thấy em tới giờ ăn trưa mà sao cứ nằm hoài, nên hỏi thăm thì biết Toàn là đứa con hiếu thảo, vì tiền túi mang theo đóng cho nhà thương hết, mà không thể bỏ cha ở lại một mình; nền đành ráng nhịn ăn đợi bác sĩ giải phẫu may lại vết thương cho cha. Lúc ấy bà xã tôi có đem theo bánh ú cúng mùng 5 tháng 5, tôi lấy chia cho Toàn ăn. Em mừng rỡ, cám ơn rối rít, tay run run lột lá bánh ít bỏ vào miệng ăn ngấu nghiến trông thật ngon lành. Hôm sau vì bị kiến cắn bàn chân nên tôi xin xuất viện, vợ tôi lấy một ít tiền cho Toàn để làm lộ phí. Tuy số tiền và bánh ú nhỏ nhoi gọi là chia sẻ miếng khi đói bằng gói khi no, nhưng nửa tháng sau, Toàn đã dò được tới nhà để cám ơn và báo tin ba Toàn đã qua đời vì nhập viện trễ quá (tại nhà nghèo cần phải xoay tiền nhập viện, thuốc men thiếu nên vết thương làm độc!).
Chính vì nghĩ đến trường hợp nầy, nên khi mới qua Mỹ, mặc dù tôi lãnh trợ cấp SSI và bà xã cùng cháu lớn đi làm nhà hàng, mỗi đêm được $20.00; nhưng cứ vài tháng là chúng tôi gởi về cho những người nghèo ở Việt Nam (mỗi lần $300 chia cho 10 nhà, chính anh Quách Vĩnh Trường, anh Triệu, và Lâm Sanh Kim đã đem phân phối dùm). Có lần anh Triệu cũng được 1 phần là $30, vợ anh dùng làm vốn nhỏ và ra chợ Tân Bình mua bán áo quần cũ; nhưng bị bọn Cách mạng 30 tìm cớ tịch thu, còn nhốt 2 mẹ con vào tù (con anh Triệu mới sanh cần sửa mẹ nên cũng nếm mùi ở tù!!)
Ra ngoài tôi mới biết có rất nhiều cách để làm ra tiền, khi mua bo bo ở một nhà nọ, thấy có một cái máy xay bột (hoặc bo bo) đang trùm kỹ. Tôi hỏi mua với giá rẻ, vì họ muốn trống chỗ nên bán đổ bán tháo cho xong. Khi đem máy về nhà, bà xã nói không có thợ làm sao sử dụng được; tôi trùm mền bỏ đó, chờ thời cơ sẽ có dịp dùng.
Thấy mấy người Tàu từ Kampuchia tị nạn ở xóm Tân Việt gần nhà, hằng ngày họ chở từng bao bo bo đi xay thành bột, bán cho các lò bánh mì thùng phuy. Tôi liền mướn cháu Đại, khoảng 15 tuổi, đứng máy để xay bo bo gia công. May quá, máy nầy xay ra bột nhiễn nên được người ta thích, từ đó máy chạy suốt ngày đêm, bà xã tôi rất phấn khởi.
Từ việc xay gia công, tôi nghĩ ra ý mua bo bo về xay để bán bột trực tiếp cho các lò thùng phuy như lò Tám Cảnh ở Ngã Tư Bảy Hiền, Chú Thanh ở Bà Quẹo. Cháu Vinh phụ trách lo thu mua bo bo và liên lạc với những người Khmer tị nạn như ông Si, thằng Hòa, A hắc,...
Cháu Vinh là con của Thượng Sĩ Luông, Thường Vụ của tôi khi còn ở Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù. Sau ngày mất nước, thấy không ai săn sóc và gia đình đơn chiếc, cháu Hảo đã đi vùng Kinh Tế Mới, ông cho con gái 15 tuổi là cháu Vinh qua phụ vợ tôi mà không đòi hỏi lương bổng (nhưng chúng tôi vẫn trả tiền và tăng dần mỗi khi làm ăn thăng tiến). Thượng sĩ Luông là người rất trung thành, ông đã bị thương lủng mấy khúc ruột rất tội nghiệp. Các con ông người nào cũng ngoan và giỏi.
Một hôm ba của Tiêu Anh, bạn học Trần Trung Tiên, đến chơi. Ông là chủ lò bánh mì ở Trung Chánh, trước kia chuyên cung cấp bánh mì cho Trung tâm Huấn luyện Quang Trung. Ông thấy có máy xay bột nên đưa ý kiến, mua xác khoai mì về xay nhiễn cung cấp cho các lò bánh mì làm bột áo thoa tay.
Thấy thị trường bo bo hơi hạn chế, người Khmer tị nạn cũng làm máy xay gia công. Do đó tôi đi Hố Nai mua xác mì về xay bán cho các lò thùng phuy; Rồi tôi đem mẫu cho các lò bánh mì lớn. Lúc đầu thật khó khăn, vì họ có người bỏ mối sẵn. Nhưng tôi không nản chí, cố gắng tìm xác mì trắng, rồi cứ đi vòng vòng từ các lò Nguyễn Huệ,... ở Phú Nhuận, tới lò Đồng Khánh ở Chợ Lớn. Lúc đầu được một lò, rồi hai, ba, bốn,...dần dần hầu hết các lò ở Sàigòn đều là khách hàng của tôi.

c). Kinh Doanh phát triển.

Vì máy ở nhà quá nhỏ, nên tôi phải vô Cầu Tre bao luôn nhà máy Quốc Doanh của ông Tám, họ lãnh xay ngày đêm mới kịp giao đúng hẹn cho khách hàng. Nhà máy nầy khá lớn, nhưng vì mới nên chỉ có hai người đặt xay gia công.
Anh Hào thì xay xương bò và trấu trộn cám cung cấp cho các tiệm bán thực phẩm gia súc; tôi thì cho chở từng xe vận tải xác mì cung cấp bởi anh Hùng, chủ thầu xác và bột khoai mì ở làng công giáo Hố Nai. Công nhân trong nhà máy ưa nói đùa:
“Xay xác ông Dưỡng xay xương ông Hào”!
Ngày nào tôi cũng chạy theo xe Lam của chú Hoàng đi giao hàng khắp nơi. Còn Cháu Vinh thì đi theo xe ba bánh gắn máy của chú Hiền chở bột áo đi giao vùng khác (hai xe nầy bao chở mối thường xuyên cho tôi). Lúc nầy khách hàng nhiều mà bọn nhà máy quốc doanh làm việc không đàng hoàng, đôi khi sai hẹn, và chúng còn định xay lén dành mối, đâm sau lưng khách hàng mình (vì chủ trương Cộng Sản là bất chấp mọi thủ đoạn, miễn mình có lợi là được rồi). Các nhà máy do người Hoa Kiều ở Chợ lớn thì làm ăn rất có uy tín, nhưng họ đã có khách hàng sẵn nên không nhận thêm của tôi được.
Vì thế để tự xay xác mì tại nhà, tôi vô Chợ Lớn đặt cái máy xay to lớn, đường kính khoảng 8 tấc, mua Motor 25 Ngựa, dùng thùng phuy chẻ và tôn cũ làm vách để ngụy trang (vì làm rùm beng sẽ bị thuế nặng và bên Phường qua làm tiền hoặc gây nhiều khó dễ. Lúc mới mất nước bên Phường có cho Công An qua nhà điều tra đủ thứ, tên nầy thấy tôi còn băng bó đầy mình nên mới để yên).
Nhà tôi có sân rộng, bên cạnh là một lô đất trống (mỗi lô là 8x20 do SĐND cung cấp, trước kia đã mua được 1 lô, chỗ tôi đang ở là xây cất trên lô của Đại úy Vị, đã nói ở Chương Ba). Vợ tôi trồng cây ăn trái như ổi, mít, dừa, mảng cầu, đào lộn hột,..Sau ngày Quốc hận, có lần bên Phường mượn sân trống đặt bàn làm thẻ cử tri; lúc đó tên Mừng, Trưởng Ban An ninh, thấy bà Bảy là cô của hắn đang ở nhà tôi, nên sau nầy dễ chịu không cho người dòm ngó kiểm tra ngầm nữa.
Bà Bảy là chủ nhà cũ của tôi, bà rất thương tụi nầy, sau ngày mất nước bà hay lên thăm và ở chơi vài ngày; chúng tôi thường cho tiền bà tiêu vặt. Lúc nầy hơi khá, con cháu của bà kẹt tiền, chúng tôi sẵn sàng giúp đỡ. Còn bà thượng sĩ Bạc vì mấy đứa con trai đi nghĩa vụ, nên lúc kẹt cũng qua hỏi mượn, chúng tôi không bao giờ do dự; vì họ từng giúp đỡ gia đình tôi nhiều phen. Ở Sàigòn chúng tôi coi gia đình bà Bạc, Bà Bảy, cụ Hoàng, anh Nhàn, Thượng sĩ Luông là những người bà con tốt. Vợ tôi rất nể trọng những người nầy.
Nhà máy xay bột được dựng lên do những tay ngang, bà xã thì lo tráng nền; Tâm, Thành, Thiện, và cháu Vinh phụ trách khiêng và trộn hồ. Nhằm đúng ngày chú Hùng ở Hố Nai tới thâu tiền xác mì, thấy thợ nhà làm lồi lõm nên ngứa mắt; anh xăn quần áo nhào vô phụ tráng nền. Thế là nhà máy cũng xong, điện ba dây thì câu nhờ với chị Hai (vợ của cố Trung tá Vinh, cựu Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Nhảy Dù). Vợ tôi may cái mùng chứa hơi bằng vải kaki trắng to giống như khinh khí cầu, rồi đóng thùng chứa bột bằng ván ép, không thua vì thợ mộc.... mới học nghề! Cháu Vinh, Đại, Nhân, Tâm, và bà xã,...là những công nhân thường trực của “Nhà máy xay bột tư doanh” vừa mới dựng bảng hiệu Phát Lợi và khai trương nầy.
Mọi việc đều êm đẹp, vợ tôi vừa làm thợ mộc, thợ máy, thợ điện, và kiêm luôn thợ nấu ăn cùng quản lý tài chánh. Đàn bà mà, thấy tiền vô như nước, đếm hoài không biết chán, nên làm
việc rất hăng, còn muốn mọc thêm nhiều cánh tay để tăng gia sản xuất. Vì khách hàng tới hối thường xuyên, nhiều khi phải làm suốt đêm để giữ đúng hẹn! Xay bột dính đầy đầu mà cũng ham. Có lần vì mưa dột ướt áo quần; Nhi, đang xay bột, đứng lên vén tóc, thì tay ướt chạm nhằm dây điện, nàng bị giật té cái rầm, ngã nguyên con trên sàn bột, thật nguy hiểm vô cùng!
Tôi thì lo chạy vòng ngoài, lúc đi xa lộ đón mua bột và xác mì, chẳng may xe bị gãy cốt gần rơi bánh sau. Cháu Thành (lúc đó được 8 tuổi) phải hì hục đẩy xe từ bên kia dốc cầu xa lộ. Cầu nầy dài khoảng 1000 thước và dốc rất cao! Tội nghiệp cháu nhỏ tuổi ốm yếu mà phải đẩy chiếc xe cọc cạch nặng nề, tôi thì không thể xuống để xe nhẹ bớt phần nào! Đã vậy lại còn gặp thêm chuyện xui xẻo nữa chứ.
Số là khi Thành đang lo cặm cụi đẩy xe lên dốc, tới gần giữa cầu có cục đá to; tôi vừa lo lách tránh, chưa kịp kêu thì chân cháu đã vấp vào, làm ngón cái bị trúng chảy máu ròng ròng; mà Thành vẫn phải bậm môi, cắn răng nhịn đau tiếp tục đẩy. Vì nếu ngừng thì xe tuột dốc càng nguy hiểm thêm. Lòng tôi lúc ấy đau đớn đứt ruột! Cháu cứ để cho máu chảy và tiếp tục đẩy thêm gần 1 cây số tới phía bên nầy dốc cầu mới có chỗ sửa xe,và kiếm thuốc băng tạm vết thương!!!
Thật là tội nghiệp con hết sức, mới từng ấy tuổi đầu mà đã chịu nhiều đắng cay! Ở cái tuổi đó, đáng lẽ chỉ lo đi học và vui đùa, còn cháu thì phải ngày đêm dầm mưa phơi nắng theo phụ giúp người cha tàn phế trôi nổi đó đây!
Lúc tôi ra ngoài, bên lưng lúc nào cũng dấu một cái bóp nhét đầy tiền. Mỗi lần đi đâu đều có Thành theo phụ đẩy cho máy nổ khi xe khởi hành. Hai bố cháu ăn uống ngoài đường ngoài xá, có bữa đi từ sáng tới chiều tối mới về tới nhà; vì ngồi lâu nên một trái thận bị hư, coi như ngưng hoạt động.
Yên, em trai của Sơn, tốt nghiệp đại học, vì muốn tự chữa bệnh cho mẹ và anh, nên đã đi thụ huấn về châm cứu và bắt mạch định bệnh ngành Đông y. Lúc đó thuốc Tây rất hiếm và rất mắc tiền, chính quyền Cộng Sản toàn cổ động dùng cây cỏ trị bịnh như cây Xuyên Tâm Liên, cây Sống Đời, lá Tía Tô,...
Một hôm Yên đến thăm và thử bắt mạch cho tôi, chú hỏi:
- Anh đã cắt bỏ một quả thận bên trái rồi phải không?
- Anh đâu có giải phẫu thận !
- Như vậy là anh đã bị hư một trái thận rồi!
Yên chỉ tôi cách bắt mạch, lấy ngón tay trỏ rờ vị trí tượng trưng cho mạch thận, trầm sâu dưới cổ tay; nhưng không thấy nhịp đập chút nào hết. Nguyễn Trọng Nhi, bạn cùng khóa, trước ở TĐ8ND, cùng với Bác sĩ Nhiếp, cả hai vừa ra tù, đến thăm và bắt mạch cũng nói y như Yên. Bác sĩ Nhiếp lúc trong tù cũng nghiên cứu về Đông Y Châm Cứu như Nhi, anh và bác sĩ Dũng (bác sĩ chữa bịnh cho gia đình tôi, phòng mạch ở Hương lộ 14) là những bác sĩ Dù tài giỏi và chịu chơi như Bác sĩ Hiền và BS Thiện ở TĐ9ND lúc trước.
Từ đó, mỗi ngày tôi có mời chú Tuyển tới châm cứu, vì thận hư làm chân sưng và lở loét thật khó chịu, tối nằm ngủ chỉ nghiêng được một bên. Tuyển thấy vậy mời ông thầy của chú, đang làm Lương Y cho Quận Tân Bình.
Ông ta đã bắt mạch xong liền nói:
- Tôi bổ một “Đại Thang” lúc uống phải từ từ coi có bị phản ứng không; thuốc nầy rất mắc tiền, anh ráng thử coi?
Tôi gật đầu ưng chịu và đưa tiền (tương đương năm chỉ vàng) để bổ thuốc. Thang thuốc nầy chỉ gồm có hai thứ dược thảo, đó là “Nửa ký” Thục Địa và nửa ký thuốc gì mà tôi không nhớ rõ tên, đem sao thủy thổ; rồi nấu 4 chén còn lại một chén. Khi uống thuốc có lẽ bị ám ảnh sợ phản ứng (vì tôi đã từng bị phản ứng khi chích Pénicilin và uống Ambicilin) nên tim hơi hồi hộp. Uống hết chén thuốc thì người tôi hơi nóng, đầu óc lâng lâng; vài ngày sau rờ thử mạch thận thì thấy nó đập trở lại, chân bớt sưng và vết lở cũng kéo mặt lành dần. Ông thầy bắt mạch hớn hở ra mặt, quả thật là than thuốc hay, nếu Tây Y thì chỉ đợi thay ghép thận thôi, biết mình yếu thận nên tôi cữ ăn mặn và uống nước nhiều. Mỗi lần nước tiểu bị nhiễm trùng là vội uống trụ sinh để tránh hại tới thận.
Bây giờ bán bột áo và bo bo cũng khá, nhưng thấy các lò thùng phuy tiêu thụ bột mì rất nhiều; nên tôi liên lạc với một vài chủ lò để trao đổi bột bo bo với bột mì. Giai đoạn mua bán bột mì lúc đầu cũng gặp nhiều khó khăn, sau nhờ giữ uy tín nên các chủ lò giới thiệu cho nhau nên tôi làm ăn càng ngày càng phát đạt.
Nhớ lại lần đầu muốn mua hai bao bột, 5 giờ khuya, tôi và cháu Vinh chạy lên Phú Nhuận canh lò vừa mở cửa để chồng tiền mua 2 bao bột (mỗi bao giá 2 ngàn đồng tương đương một lượng vàng). Lúc đó bà chủ tăng giá bất ngờ nên thiếu 100 đồng, tôi đòi thế chiếc xe đạp của cháu Vinh đang cỡi để về nhà lấy thêm tiền. Bà chủ lò không chịu, chỉ bán cho một bao, tôi vừa chở bột về vừa tiếc rẻ và tủi hổ; nhưng chỉ nửa năm sau, chính bà chủ đó và nhiều chủ khác dám bán chịu cho tôi mỗi lần một tấn (20 bao tương đương 20 cây vàng!).
Dần dần tôi đã tạo được uy tín, lúc đầu có ông chủ vì kẹt bột dư trong lò lâu ngày chưa đem ra được (các lò thường làm bánh nhỏ hơn chút đỉnh hòng có bột dư bán lén cho các lò thùng phuy, để kiếm chút cháo. Vì lò nào cũng bị quốc doanh, họ tức mình là chủ mà bị nhà nước quản lý, đúng là cướp cạn!). Sắp tới ngày kiểm kho, ông ta đang lính quýnh, thì vừa đúng lúc tôi đến giao bột áo; ông bảo đút xe Lam vô chở đám bột thặng dư đi bán dùm, giá bao nhiêu cũng được. Tôi làm theo, chở bột đem giao cho vựa ở Chợ Vườn Chuối, và đợi vựa bán ra chút đỉnh mới đủ tiền trả tới 20 chục cây lận!
Mãi tới gần 11 giờ đêm tôi mới đi tới nhà, để đem tiền tới giao lại cho chủ lò. Nửa đêm nghe tiếng gõ cửa, ông ta giật mình kinh sợ (Công An thường tới bắt người nửa đêm), chừng thấy hai chú cháu mới an tâm, đếm tiền xong ông ta nói:
- Tại sao anh không để sáng đem lại cũng được?
- Đây là số hàng lớn, tôi sợ ông lo suốt đêm.
Thấy tôi hiểu thấu tâm can, mặt ông vui vẻ và nói:
- Anh làm ăn rất có uy tín, tôi sẽ giới thiệu các chủ lò khác. Vì thấy tôi không bắt chẹt và trả tiền bột cao giá hơn những người khác, nên lần nào có bột dư ông cũng đích thân lái Honda tới nhà gọi; rồi các chủ lò khác nghe tiếng cũng lần lượt đến kiếm (trước kia tôi phải đến từng lò bánh mì, bây giờ thì các chủ lò đích thân đến nhà tôi). Thế là việc bán bột còn thu lợi khá nhanh hơn xay xác mì nữa. Tiền vô ào ào, tháng nào tiêu chuẩn cũng phải sắm một cây vàng. Có tiền thì nghĩ tới đi chui, tôi cho cháu Tâm theo cậu Hai Lâm Ál; người lái tàu là Trịnh xuân Tiểu. Ra khơi được 3 ngày thì gặp bão nên tấp vô và bị tóm ở Hòn Khoai, Cà Mau.
Cháu Tâm trên thuyền cùng với cháu Vũ, con anh Hai Ál, rảnh rỗi ra be thuyền nhìn nước biển và kể lúc ra khơi thì gặp nước màu vàng, màu xanh, màu đen. Rồi đột nhiên thấy ngược lại màu đen, màu xanh, màu vàng, và đụng bờ bị Việt Cộng bắt cả đám, tịch thu hết vàng bạc và đồ quí đem theo. Tội nghiệp Tâm lúc đó mới 10 tuổi đầu mà cũng nếm mùi tù, ăn cơm muối hơn một tháng (con nít ở chế độ Cộng Sản cũng bị tù như thường). Tiểu bị tù vài năm và bị tịch thu nhà cửa! Sau nầy anh Hai Ál làm thêm một chuyến nữa, tôi lại bị mất hơn chục cây mà cũng không xong, thôi đành tìm cách khác.
Lúc ấy nhân dịp năm Quốc tế người tàn tật, có diện cho xuất cảnh chữa bịnh, tôi nhờ anh bạn tốt là cựu Thiếu tá Phòng Ba SĐND tên Lâm sanh Kim nộp đơn thử. Mặt khác vận động bạn bè ngoại quốc nhờ làm giấy bảo lãnh USCC. Tiến hành như vậy giống như là nước lã mà khuấy nên hồ; vì không có ai thân thuộc trong diện tứ thân phụ mẫu đang ở ngoại quốc như những người khác! Nhưng không hiểu sao ý chí tôi tin tưởng và quyết tâm lo vụ nầy một cách tích cực!

d). Kinh Doanh Thu Hẹp Lo Thủ Tục Xuất Ngoại

Lúc ấy gia đình Dì Sáu cũng được đi diện đoàn tụ (con lãnh cha mẹ)ï. Vợ tôi có nhờ bà kêu mấy em họ ở Mỹ làm cho giấy USCC, khoảng một năm sau thì tôi được một lượt tới 3 giấy USCC của Tuấn Anh, con bà Dì; Hồng Nhàn, bạn học trước ở Đại đội Tiếp Liệu Dù; và Lê Tấn Huỳnh Long, Bác sĩ TQLC (đã mòn mỏi trông đợi gần 2 năm, bây giờ lại có một lúc ba người sẵn lòng bảo lãnh, khiến mọi người trong nhà đều mừng rỡ, hy vọng một ngày mai trời sẽ ngó lại. Giống như những lần trước, từ nguồn tuyệt vọng, gia đình tôi cũng đã tìm được những điều mỹ mãn ngoài tầm tưởng tượng).
Bấy giờ có một số sĩ quan ở tù được thả về, Lã quý Trang (3 năm), Nguyễn Thanh Nhàn (5 năm), Bác sĩ Tường, rồi tới Nguyễn văn Khen, Nguyễn Hiền Triết, Phạm Thái Hóa, Nguyễn văn Triệu, Ngô văn Nhị (em rể tôi), và đại tá Nguyễn thu Lương,...Những người sau nầy tù từ 8, 9 năm trở lên; như anh sáu Lương đã bị biệt giam và bị hăm dọa lên án tử hình nhiều lần vì tánh khẳng khái, bất khuất mà các bạn tù chung đều khâm phục, thương mến. Bạn cùng khóa Trần Phi Cơ kể lúc ở trong tù tại trại K3, anh rất phục hai cử chỉ hào hùng của 2 sĩ quan Dù : Thiếu úy Quỳnh lúc đẩy xe đất vô bị tên cán bộ Việt Cộng rầy nói sao chở ít quá. Lập tức anh Quỳnh hất ngã xe đất và vạch ngực ra nói:
- Cho ăn bao nhiêu thì làm bấy nhiêu, nếu không bằng lòng thì bắn đi!
Còn đại úy Dù tên Minh “Đen” khi học tập, cán bộ bảo anh tố chửi Mỹ xâm lược; thì anh dám đứng lên nói:
- Chúng tôi thấy Mỹ qua giúp miền Nam cũng giống các anh qua Campuchia.
Hai anh đều bị cùm 6 ngày. Còn Đỗ Ngọc Nuôi, Khóa 20 ĐL, ở trong tù mà dám tổ chức chống phá VC, anh đã cùng nhiều người, trong đó có anh sĩ quan truyền tin, đã lợi dụng sửa Radio cho cán bộ Việt Cộng. Rồi bảo họ mua các điện trở, tụ điện, transistors,...nói là để sửa radio, nhưng anh đã tự chế ra máy thu thanh, và bắt liên lạc được các đơn vị kháng chiến bên ngoài. Cuối cùng bị bại lộ, anh SQ truyền tin bị tử hình và Nuôi bị 16 năm tù. Tội nghiệp chị Nuôi, vì nghe lời tán bùi tai của SVSQ lanh lợi Đỗ ngọc Nuôi khi còn ở Đà Lạt, nên phải lo cho ông chồng tù tội: Một năm ở Quân Lao vì vụ Tour D’Ivor và 16 năm tù tập trung của CS, cùng nuôi dưỡng 6 đứa con nên người, thật đáng khâm phục.
Anh Võ văn Huệ, bạn cùng khóa, lúc ở tù tại Đà Nẳng, tên cán bộ hỏi:
- Ở trận Thường Đức lính bận đồ rằn ri là lính gì mà sao hăng quá vậy? Họ cứ xung phong nhào lên, không sợ chết thiệt là gan quá chừng !
- Họ là lính Nhảy Dù đó.
Khi những người bạn vừa ra tù tới chơi, tôi thường bảo bà xã nấu bò nhúng giấm, hoặc bò tái để như bù đấp tượng trưng phần nào những ngày thiếu thốn ở trong tù. Riêng Nhị vừa về là lo đi chui và bị bắt nhốt tại Bến Giá Trà Vinh hơn một năm, đến khi bị ung thư ruột già mới được thả về chừng một tháng thì chết, bỏ lại 4 đứa con còn nhỏ dại và vợ là em gái duy nhất của tôi phải chịu cảnh gà mái nuôi con, trong xã hội :
Nước trong leo lẻo cá đớp cá!
Trời nắng chan chan người trói người!
Anh Triệu thường đến thăm tôi, mỗi lần tới ưa dẫn theo đứa con trai út mà anh thương yêu nhứt, nhưng một thời gian sau anh bị trắc trở gia đình, cuối cùng người tốt hiền lành như anh mà trời cũng khiến cho chịu thêm nhiều phiền não! Chị đã ôm thuyền khác, con theo mẹ khiến anh lâm cảnh bơ vơ! Ôi Quốc hận đã gây bao cảnh tù tội, ly tán cho nhiều chiến sĩ anh hùng đã dùng hết tuổi xuân để bảo vệ nền tự do, nhưng bất thành đành phải ôm hận triền miên!
Lúc còn đi kiếm mối bán bột, tôi có qua khu cư xá Lữ Gia và gặp anh bạn cùng khóa Quách Vĩnh Trường. Anh nầy có một quá khứ rất hào hùng. Hôm đó, đơn vị đang tập họp chuẩn bị hành quân, bỗng bị một tên nội tuyến ném lựu đạn vào hàng quân. Thay vì lo nhảy tránh, Trường muốn cứu binh sĩ thuộc cấp, nên vội nhào tới để cầm trái lựu đạn quăng ra xa; nhưng vừa tung ra khỏi tay thì lựu đạn nổ, cả thân mình hứng chịu đầy mảnh. Binh sĩ an toàn nhưng anh trả một giá rất đắt: một chân một tay bị cưa, bàn tay còn lại bị mất vài ngón, mặt anh bị xẹo phải chịu đựng nhiều lần giải phẫu mới giữ được mạng sống.
Điều anh tự hào và hãnh diện là cái miệng còn nguyên vẹn, nhờ đó mới nẩy sinh ra tình sử chẳng thua gì chuyện tình “Romeo And Juliet”. Tuy cơ thể tật nguyền nhưng anh vẫn ngày hai bữa cắp sách đến trường Luật. Có một lần trên xe bus, một cô nữ sinh viên mỹ miều duyên dáng dễ thương. Thấy anh không có chỗ ngồi, người lắc lư không vững, nên cô đứng dậy nhường ghế, chừng xuống xe mới biết hai người cùng học chung trường Luật (mỗi lớp thường cả ngàn sinh viên nên ít biết mặt nhau). Trường cám ơn rối rít, cô Kiều thì cảm thấy làm được điều thiện nên tinh thần cũng thoải mái! Hôm khác cô đi xe đạp tới ngang trạm xe bus, thấy Trường đang bước lên xe và bị trợt chân té (có thể anh thấy cô Kiều liền giả bộ té, đúng không Trường?); cô chạy tới đỡ dậy. Từ đó hằng ngày cô lấy xe tới chở Trường đi học, vừa ngồi xe vừa trổ tài miệng lưỡi thực tập hùng biện của con nhà Luật; khiến cô Kiều xiêu lòng, cuộc tình càng ngày càng sinh sôi nẩy nở. Các em cô Kiều cũng đều tốt nghiệp Đại Học, họ là những người trí thức nên cũng ủng hộ và tán thành cuộc tình duyên mà đã chống lại ý của ba má họ, là người giàu có nổi tiếng ở Long An. Ông bà đều phản đối, nhưng thiểu số phục tùng đa số và phục luôn tài hùng biện của hai nhà cử nhân Luật.
Mấy chục mảnh lựu đạn tránh cái miệng của Trường, để giúp anh yêu đời và với tài thuyết phục ấy còn làm hàng chục chủ lò bánh mì thùng phuy ủng hộ mua bột áo của vợ chồng Trường. Chị một chiếc xe đạp, anh một chiếc xe đạp cải tiến (có hai bánh phía sau), mỗi ngày hai luật gia “Lao động vinh quang” từ sáng tới chiều!
Mỗi khi tới nhà tôi, cháu Vinh liền mau lẹ dọn cơm để tranh thủ nghe chú Trường vừa ăn vừa trổ tài hùng biện; còn chị Trường thì cứ cười hả hả (ý bảo anh Trường nói vừa vừa thôi, coi chừng lộ tẩy!). Hai người có một cháu trai khôi ngô tuấn tú mà ba của Trường rất hãnh diện, đi đâu cũng đều tuyên bố là “Cháu đích tôn của bác và vợ chánh thức của thằng Trường”; làm bạn bè cùng khóa nghe một cách thích thú, thật vui vẻ vô cùng. Khi qua tới Mỹ, anh chị vẫn cố gắng vươn lên, hằng ngày cấp sách vô trường Đại học. Hơn 2 năm sau, chị Kiều lấy được ngành Kế Toán, còn Trường thì tốt nghiệp ngành Hội Họa với số điểm ưu hạng, được thầy cô mến phục người có tài và chí đáng khen. Chị Trường cũng là một người dâu con hiếu thảo, hết lòng phục vụ ba chồng bị mù lòa và tăng áp huyết. Báo chí ca tụng chị là “Quan Âm Bồ Tát” cứu độ Trường và gương tốt cho mọi phụ nữ Việt Nam.
Bán bột mì một thời gian thì các chủ lò xuất ngoại dần, nên việc thu nhập chỉ còn một phần nhỏ, chúng tôi lại có thêm nghề mới: làm bột năng. Mua khoai mì từ Hố Nai, Tây Ninh,...Vợ tôi mướn người lột vỏ, xay nhuyễn, bỏ vô bồng bột (bao vải), nhúng vào thau nước nhồi cho bột hòa tan trong nước. Còn bã mì thì đổ ra thùng bán cho heo ăn, hoặc phơi khô xay nhuyễn làm bột áo. Sáng ra đổ bỏ nước, lấy muỗng vớt lớp bột vàng (bột mủ) để riêng, còn lại bột trắng tinh thì đổ ra phơi. Lúc trời mưa, tôi sợ bột bị ướt thường la oé lên để mấy đứa bưng các nia bột vô nhà. Nhờ làm nghề nầy tôi có thể nhìn mây đoán được trời sẽ mưa hay không!
Tôi cũng làm đại lý thâu mua bột năng của bạn hàng từ Tây Ninh và Hố Nai. Các bạn hàng thật khôn lanh, lúc bột hiếm phải ra bến xe đón giành mua. Lúc vô mùa bột ối động, họ đổ đại vô nhà mỗi ngày hàng tấn; làm tôi phải lo tìm mối tiêu thụ trong Chợ Lớn, hoặc tới các lò làm bún tàu, bột bán,..ở Cầu Tre. Nếu để lâu bột sẽ bị nổi mốc, coi như lỗ vốn. Tôi cũng cho xay bột năng nhiễn và vô bao từng 10 ký lô, hằng ngày có ông Si, chú Biện đem xe đạp tới chở giao cho các sạp tạp hóa ở chợ, lò làm bánh Da Lợn, hoặc các hãng dệt để họ hồ bột.
Ông Si là người Khmer gốc Hoa Kiều, lúc ở Miên ông đã nghe lời ngọt ngào của tụi du kích, nên có ủng hộ tiền của. Tới khi cướp được miền Nam, vợ chồng tới gặp, chúng làm bộ như xa lạ. Ông và những người Khmer tị nạn chửi rủa Việt Cộng vô ơn bội nghĩa! Ông người ốm yếu (vì tiết giảm để có ăn lâu dài) nhưng nhờ là người Tàu, làm ăn đàng hoàng nên cũng bỏ bột được nhiều mối. Ông lấy hàng trước chờ thu được tiền mới đưa tôi.
Một hôm, vào năm 1982, ông và gia đình định trở về Miên để tìm đường đi chui qua đường Thái Lan. Họ là dân bản xứ biết tiếng Khmer, nên cứ sống như dân du mục, đi dần tới gần biên giới. Rồi một ngày đẹp trời, cả gia đình bắt đầu thực hiện kế hoạch. Họ ngày đêm băng rừng lội suối chạy vượt biên giới qua Thái Lan. Trước khi ra đi, bà vợ ngần ngại không muốn cho ông qua từ giả chúng tôi; vì còn kẹt một số bột chưa thâu tiền được để trả cho tôi. Nhưng ông là người khẳng khái, tín nghĩa, chẳng lẽ bỏ đi không từ giả người đã đem công ăn việc làm cho mình bấy lâu nay. Cuối cùng ông Si quyết định nói cho biết (thật ra nếu không nói tôi cũng thông hiểu vì vượt biên quan hệ tới nhiều sinh mạng,cần phải giữ bí mật tối đa).
Vợ tôi làm tiệc tiễn đưa, trước khi đi ông ôm cứng tôi như cảm động không muốn rời, rồi nhét vào túi cho tôi một cọc tiền như để trả nợ; nhưng vợ chồng tôi không lấy, vì biết ông rất cần số tiền nầy. Ông Si quả thật là một người biết trọng chữ tín, mấy năm trước, đang ở California, ông viết thơ về Việt Nam cho những người Khmer còn kẹt lại và hỏi thăm được số điện thoại. Ông mừng quá, vội gọi tôi và nói muốn qua thăm, vài hôm sau ông bà mua ngay vé máy bay. Khi gặp tôi, mừng rỡ như tìm lại được bạn cố tri, bây giờ ông mập mạp giống xì thẩu (ông chủ) như lúc còn bán tạp hóa ở Campuchia.
Sau ngày 30/4/75 khoảng hai năm, anh cận vệ cũ của tôi lúc còn ở Đại đội 91 Nhảy Dù là Nguyễn văn Năm, từ vùng Kinh Tế Mới xa xăm về thăm tôi. Thầy trò lâu ngày gặp nhau mừng mừng tủi tủi, Năm kể lại sinh hoạt của gia đình và anh em Tiểu đoàn 9 ở vùng kinh tế mới trong thời gian qua. Năm và một vài bạn đã rủ nhau vô rừng cưa cây, cắt ra từng khúc để đun thành than, rồi dùng xe đạp thồ (chở) mỗi người trên trăm ký; vừa đạp trên đường nhựa, vừa dắt bộ trên đường đê để tránh trạm kiểm soát; đoạn đường dài từ Tây Ninh tới sàigòn (gần 100 cây số!). Đứa con trai đầu của Năm mới 12 tuổi mà cũng theo cha chở than đem lên Sàigòn, trên một khoảng đường thật xa xăm, vất vả và đầy nguy hiểm. Nguy hiểm vì du kích thường chận đường tịch thu bắt bớ hăm dọa đánh đập giống như những tên cướp cạn.
Lúc bấy giờ chẳng khác nào chế độ sứ quân thời xưa, du kích mỗi làng xã thường sách súng ra đường đón xe đò cướp bóc, xét chận lấy những đồ bạn hàng dấu (đem về Sàigòn bán chui) như thịt heo, gà, vịt, gạo,...để đưa về cho vợ con chúng và chia nhau nhậu nhẹt hả hê! Mặc cho những người dân vì muốn kiếm tiền nuôi sống gia đình, nên phải độn đồ lậu vào đùi, vào bụng giả đàn bà có thai, nhưng không qua được những tay cướp bóc chuyên nghiệp lừa dân phản bạn nầy.
Chỉ vì muốn bảo vệ 2 bao than xương máu, nên khi đi gặp du kích gọi lại bất ngờ, Năm biết tránh không khỏi, cũng ráng chạy trong tuyệt vọng, để mong giữ được gia tài sống chết vô cùng cần thiết cho vợ yếu con thơ, đang chờ tiền để mua thuốc men và sữa cho đứa bé sơ sinh nhỏ dại. Lúc đó dù biết không chạy nhanh bằng đạn bay, nhưng anh đã quẩn trí, chỉ nghĩ đến vợ con, nếu không có tiền thì họ sẽ nguy khốn, anh không còn nghĩ tới bản thân mình nữa, chỉ cần họ được bình an thì anh có chết cũng không màng!
Rồi một viên đạn thù xuyên qua vai anh, do tên du kích cướp cạn chỉ vì bao than mà coi sinh mạng người dân như cỏ rác! Sau hơn một tháng trị thương, gia đình bị sạch vốn; vợ anh là con của Trung sĩ Chu cũng là thuộc cấp cũ của tôi, đã khuyên Năm bỏ nghề nguy hiểm nầy và thử lên Sàigòn kiếm tôi cầu cứu. Nhưng Năm ngần ngại vì ông thầy mình đang bệnh tật, dưới chế độ cướp bóc nầy không biết có tồn tại được hay không. Sẵn dịp còn yếu chưa làm gì được, anh định đi thăm xếp cũ một chuyến, còn việc nhờ cậy chắc không có hy vọng gì.
Cha con dùng hai chiếc xe đạp, đem theo mấy củ khoai mì, khoai lang, và cặp gà định đem lên Sài gòn cứu đói thầy mình. Năm không ngờ tôi như vậy mà cũng còn kiếm ăn được, suốt hai ngày ăn uống chuyện trò mà không dám mở miệng, cuối cùng anh bạo dạn nói:
- Anh Tư, tôi muốn mượn anh chị 150 ngàn (lúc đó tương đương nửa lượng vàng) để làm vốn buôn bán, nếu anh kẹt vốn thì để tôi xoay sở cách khác.
Gia đình tôi lúc đó cũng mới bắt đầu kiếm ăn được, mặc dù chưa có dư nhiều, nhưng ở chung lâu ngày, biết Năm là người tự trọng, cần cù chịu khó; chỉ vì hoàn cảnh đặc biệt mới mở miệng nhờ mình, ở thời buổi khó khăn chung của cả dân chúng miền Nam, và của gia đình binh sĩ trong chế độ cũ nói riêng.
Tôi bàn với bà xã nhín chút tiền cho anh mượn, vợ tôi bằng lòng, Năm vô cùng mừng rỡ. Chỉ một năm sau, anh đã hoàn trả đủ số tiền và còn đem cho tôi một quài chuối to lớn, do chính tay anh trồng được. Bây giờ vợ Năm buôn bán gạo lẻ ở chợ trong khu kinh tế mới, Năm lo trồng trọt và thỉnh thoảng ra chợ Gò Dầu Hạ chở gạo và hàng tạp hóa về cho vợ bán. Mỗi khi đi Sàigòn, Năm đều ghé nhà thăm, tôi thường theo dõi và rất hài lòng vì với sự chịu khó cần cù, gia đình anh mỗi ngày mỗi ổn định hơn.
Sau khi nộp đơn xin xuất ngoại chữa bệnh,khoảng hai năm thì được gọi bổ túc hồ sơ, tôi và cháu Thành tới Nguyển Du, vì bục tam cấp cao nên họ cho Thành (mới 10 tuổi) vô đại diện. Chúng bảo tôi về làm tờ tường trình bản thân. Trong một trang giấy đầy tôi cố viết các năm học từ bậc Tiểu học, tên đường, và nói bị động viên tới Đại úy rồi bị pháo kích về làm việc hậu cần (danh từ VC). Tôi dấu chuyện tình nguyện vào Võ Bị Đà Lạt, và cấp bậc thực thụ, vì hồ sơ từ Thiếu tá trở lên sẽ ra ngoài Bắc. Chúng bắt khai lại lần thứ nhì, tôi chỉ thêm phần học các trường võ thuật và các việc buôn bán nhỏ. Họ kêu tới kêu lui nhiều lần ý muốn làm khó dễ đủ điều, nhưng tôi vẫn kiên trì; rồi họ bác đơn, tôi khiếu nại. Chúng làm khó dễ, bảo chỉ cho một mình tôi đi chữa bệnh thôi. Tôi ưng chịu, VC không ngờ tôi quá quyết tâm.
Quách Vĩnh Trường và tôi qua sở Ngoại Vụ khiếu nại, ở đây gặp cô thơ ký (có lẽ là nhân viên chế độ cũ) rất tử tế và nhân hậu, lúc nào cũng ưu tiên cho người tàn phế. Thấy tôi và Trường đến đưa đơn khiếu nại, cô từ trong phòng bước ra ngoài nhận đơn và vui vẻ trả lời những câu thắc mắc của hai đứa. Một tháng sau chỗ làm thủ tục xuất cảnh thông báo gia đình tôi đã được chấp thuận và đợi ngày gọi đi phỏng vấn.
Khi ngồi ở văn phòng đợi phái đoàn Hoa kỳ kêu vào, các cô thơ ký coi hồ sơ nói:
- Chú không ở diện tứ thân phụ mẩu trực thuộc (vì người bảo lãnh là em bạn dì bên vợ!), chắc không đi được đâu!
Vợ chồng tôi nghe vậy thì vô cùng chán nản! (kể cả ông Dượng bên Mỹ cũng bảo đừng bán nhà, chắc không hy vọng đâu!) Lúc vào bên trong, sau khi hỏi lung tung, viên Trưởng Phái Đoàn Phỏng vấn Mỹ lật danh sách hồ sơ lớn bằng cái bàn, tìm luôn hai cuốn cũng không thấy tên trong sổ. Ông ta lắc đầu, nhân dịp cô thông dịch ra ngoài lấy đồ gì đó, nhanh tay tôi đưa cho ông tờ tường trình về thành tích 12 năm ở quân ngũ, trong đó có ghi hai huy chương Mỹ và huy chương Việt Nam như Đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương, chiến thương bội tinh, nhành dương liễu, sao vàng, sao bạc,...cùng hình ảnh sĩ quan Cố Vấn Hoa Kỳ mà Đại tá Nguyễn Thu Lương đã cho tôi. Đọc xong, ông bảo chúng tôi ra ngoài, chờ gọi về Thái Lan kêu họ dùng “Số quân”, hỏi ban hồ sơ ở Mỹ coi tôi có những huy chương Hoa Kỳ như đã ghi trong tờ giấy mà tôi vừa mới đưa không? Chừng một tiếng đồng hồ sau ông gọi trở vô và hỏi:
- Anh bị thương lật xe có được quy trách công vụ không?
- Thưa có!
Rồi tôi đưa ông ta tờ copy giấy chứng thực (khi hành quân dù bị tai nạn cũng được quy trách công vụ). Chắc ông ta đã nhận được điện thoại xác nhận cái huy chương rất cao quý của họ tức Commandation With “V” Devive kèm nhành lá liễu mà Cố Vấn Trưởng TĐ9ND đã gắn cho tôi trong trận chiến vùng Ven Đô (đối với người Mỹ, Tướng Collin Power có ngôi sao bạc họ đã cho là anh hùng rồi, còn Việt Nam thì rất nhiều người có huy chương cao quí vì họ đã ngày đêm chạm trán với địch trong nhiều năm trường). Ông đích thân đứng dậy bắt tay và rót trà mời tôi, uống ly nước trà mà lòng tôi cảm thấy mát dạ làm sao, vì từ đây tương lai ba đứa con tôi sẽ sáng sủa, bản thân tôi sẽ không còn nghe những luận điệu điêu ngoa trên đài truyền thanh, truyền hình, và nhất là những cô búi tóc Phường thỉnh thoảng cứ lại nhà dạy đời, nói móc họng:
- Hai chân anh không đi được chứ đầu óc còn vướng nhiều tư tưởng Mỹ Ngụy lắm!
Khi đi khám sức khỏe bác sĩ thấy phim quang tuyến có nhiều mảnh đạn còn trong mình tôi, ông ta hỏi:
- Trong nầy có nhiều mảnh đạn, lúc trước anh đã đi quân đội phải không?
Tôi sợ bị làm khó dễ nên nói dối:
- Đây là những mảnh bị pháo kích từ Tết Mậu Thân!
Nhìn tướng tôi một lúc, ông ta hỏi gằn:
- Anh cứ nói thiệt tình đi.
- Phải, lúc trước tôi có đi lính.
- Lính gì, nhìn tướng anh có vẻ không phải lính trơn?
- Tôi là cựu Thiếu tá Nhảy Dù.
- Như vậy mới được chứ, anh đừng lo tôi sẽ phê tốt cho.
- Cám ơn Bác sĩ!
Sở nhà đất nói sĩ quan Dù nhiều nợ máu không được bán, tôi đành ký giấy hiến nhà và phải đưa cho chúng một ngàn đồng; mới có giấy xác thực để không bị khó dễ tại phi trường! Trong khi diện ưu tiên cao như chồng vợ thì đợi tới 4 tháng, còn tôi được xếp vào diện “Nhân đạo đặc biệt”, chỉ một tháng là đã có chuyến bay! Khi đã biết chắc ngày lên đường, tôi bao một chiếc Taxi quen chở cả nhà về quê thăm gia đình hai họ.
Một tuần lễ thăm quê mẹ lần chót ở Vĩnh Bình; bà con, bạn bè thay phiên đãi tiệc tiễn đưa, trong số bạn thân, có anh Nguyễn Thành Chiến “Vừa là tri kỷ vừa là tri âm”. Lúc còn học Đệ Thất trường tỉnh, Trần Trung Tiên, thấy Chiến mồ côi cha mẹ sớm, ngày nào cũng đem cơm theo từ quê đạp xe tới trường, đoạn đường dài 9 cây số dưới trời nắng chan chan.
Lúc đó ảnh hưởng Pháp, các trường đều dạy 2 buổi. Tôi bảo anh mỗi ngày tới nhà nghỉ trưa và cùng nấu cơm nóng ăn với tôi. Vì má tôi có sạp bán guốc ở chợ, nên hai đứa phụ trách nấu ăn, Chiến lãnh phần làm cá, lột tép, rửa rau; còn tôi nấu cơm và nêm nếm (chơi gác bạn rồi!) Mỗi lần nấu xong tôi nếm tới no bụng luôn!
Chiến tánh tình hiền lành và tốt bụng, bạn bè ai cũng thương mến. Sau khi xong Đệ Nhứt Cấp, Chiến vào Sư Phạm còn tôi lên Sàigòn ở nhà trọ để tiếp tục học. Lúc mới ra trường làm thầy giáo với lương chỉ 4 ngàn đồng một tháng, vậy mà anh cũng tự động gởi cho tôi 1 ngàn/tháng. Má tôi cho 1500$/tháng mà tiền trọ chỉ có 800$/tháng, nên tôi lúc ấy cũng không thua kém vì anh Thống, công tử Bạc Liêu, ở trọ chung nhà. Trong đám cùng ở trọ, đứa nào cũng trượt một vài keo mới lấy được mảnh bằng Tú Tài Toàn Phần, còn tôi vì thấy má buôn bán cực khổ và tấm thạnh tình của Chiến, nên ráng học và thi keo nào trúng keo nấy.
Sau nầy Chiến bị Động Viên đi khóa Hạ Sĩ quan ở Quang Trung, tôi có chở bà xã, đang mang bụng bầu to lớn, lên thăm Chiến, nhưng vì đợi chờ lâu quá, vợ tôi xỉu nên phải đi về. Lúc đó tôi có gởi tiền lại cho Chiến, anh nhận được vài lần rồi bảo ngưng. Sau ngày mất nước, Chiến làm ăn thất bại, lên nhà tôi mượn một lượng vàng làm vốn buôn bán, bà xã rất sẵn lòng vì nghe tôi thường kể về người bạn tâm giao nầy. Vài năm sau Chiến làm ăn được, vội đem 5 chỉ tới trả nợ trước, phần còn lại sẽ trả sau. Chúng tôi nói phần nầy khỏi đưa nữa, vì lúc trước còn nợ bạn thanh toán chưa hết.
Chiến từng viết trong lưu bút ca ngợi tôi tốt với bạn bè, nhưng sự thực so với anh thì tôi còn thua rất xa. Tôi rất quý bạn bè, trên quảng đường đời, gặp rất nhiều bạn tốt, nếu mình vì mọi người thì mọi người cũng vì mình. Đó là phương châm mà tôi hằng noi theo để cư xử với bè bạn và mọi người xung quanh.
Ở Trà vinh một tuần lễ, gia đình tôi đi cúng mộ Ba tôi và Má vợ; rồi nhiều bà con và bạn bè cùng đưa lên Sàigòn. Nhạc gia cho một cặp dê, bà con hai bên đem nào là cua, tôm, gà, vịt,...và đích thân hai tay nấu ăn giỏi là Cô Hai Néo và anh Hai Sang đứng bếp nấu đãi bạn bè lối xóm hơn một trăm người. Trong đó có anh Sáu Lương, anh Triệu, cò Thu, anh Nhàn, ông cụ Hiếu,... Bà tổ trưởng hỏi sao không mời những người bên Phường, tôi mỉm cười ngụ ý cho bà biết là:
Đồ ăn ngon
Chỗ ngồi ăn ngon
“Người ngồi ăn không ngon”
.....Không ngon!!!
(Tản Đà)
Những tên bị nhiễm chủ thuyết lừa thầy phản bạn, đã hùa nhau hành hạ các chiến hữu của mình mà lại mời họ dự tiệc tiễn hành ư ? Như vậy thì cari dê, rượu dê, heo quay, ếch sào lăn, tôm càng, và cua rang muối,...sẽ làm cho bà con, bạn bè, xóm giềng,.. nuốt không trôi khi bị ngồi ăn chung với họ.
Sáng hôm sau ba xe bus mà tôi đã thuê đến chở bà con, lối xóm, bạn bè (trong đó dĩ nhiên có Chiến) để đưa tiễn gia đình tôi ra phi trường. Bà cụ nhà đối diện, má của cựu Trung tá Tôn thất Hiếu Truyền Tin SĐND, và bà Sáu đã ôm vợ tôi khóc một cách ngon lành. Mười bốn năm ở đây, chúng tôi đã gây được thiện cảm với bà con lối xóm, lúc làm ăn phát đạt, chúng tôi thường giúp đỡ những người bị khó khăn.
Như trường hợp anh Trịnh Hữu Ân, khi ở tù về, phải chạy ăn thật vất vả để nuôi vợ con, dù mệt nhọc cực khổ, nhưng ngày nào anh cũng không quên mua quà bánh về cho các con. Vì những ngày đói khổ ở trong tù, mỗi khi chán nản, anh thường nghĩ đến Tí Chị, Đức, Tí Em, Tí Hon. Vì chúng là niềm an ủi mà anh đã hết lòng yêu mến trong suốt cuộc đời đầy bảo táp, phong ba nầy! Tôi thấy nhạc gia anh già yếu nên thường giúp tiền cho ông bồi bổ, những người xóm giềng kẹt tiền thì chúng tôi lúc nào cũng sẵn sàng giúp đỡ. Ông cụ Tôn Thất Hoàng rất thương gia đình tôi; mỗi lần đi thâu tiền về trễ, ông thường đứng trước cửa trông ngóng vì xe tôi ưa hư vặt (chạy tới gãy cốt xe mấy lần, thật nguy hiểm!). Cụ đích thân qua sửa dùm, mặc dù tuổi đã trên bảy mươi mà vẫn còn mạnh mẽ.
Lúc từ giả mọi người, từ trong phòng kiếng tôi thấy một bàn tay thiếu ngón đang cố nhón lên vẫy chào; biết đó là bạn thân Quách V Trường, khiến tôi ứa nước mắt, nguyện khi tới Mỹ, sẽ lòng dùng hết khả năng vận động giúp bạn toại chí (tôi thường tin tưởng quyết tâm của mình, hễ mà hứa thì phải cố gắng làm cho được). Ngồi trên máy bay mà tôi vẫn còn liên tưởng đến ngày nào hai đứa cùng dầm mưa đứng trước Sở Ngoại Vụ, Nguyễn Du, và Nguyễn Trải. Trường đã chịu bao nhiêu gian khổ, gánh nhiều nỗi đắng cay! Có những buổi trưa hè nắng gắt, hoặc những ngày mưa gió bão bùng, anh phải cầm đơn chầu chực bọn cầm quyền để mưu cầu một tờ giấy xuất cảnh.
Khi tôi bắt đầu nộp đơn thì Trường đã có giấy nầy, anh đã mòn mỏi trông chờ ba đứa em ruột ở Pháp và Mỹ. Chờ tới dài cổ, mà chẳng có một tia sáng ở cuối đường hầm. Nhìn bàn tay thân thương của anh, tôi có quyết tâm tự nhủ: “Yên chí đi Trường, hãy tin tưởng thằng bạn nầy, có thể làm lai chuyển lòng nguội lạnh của các đứa em. Hơn bốn năm qua, đã không đáp ứng lời kêu gọi của người anh đang kẹt lại quê nhà”!
Lòng đã quyết, tâm chẳng sờn, gót chẳng lui! Người ta chỉ sợ lòng người ngại núi e sông! Nhưng khi núi sông đã không còn là chướng ngại nữa, em gái của Trường sau khi nghe tôi trổ tài thuyết phục (nhờ ảnh hưởng nhà hùng biện của Trường), bằng lòng làm giấy bảo lãnh.
Thế là khi núi sông không còn là những chướng ngại nữa thì Trường và vợ con không khác gì con chim xổ lồng, tung cánh giữa sự đùm bọc, che chở của thân quyến và bạn bè!
Đối với một người lính, cuộc chiến đấu bằng súng đạn mới chỉ là một phần đời. Khi đã đánh trận thì không ai đám bảo đảm sinh mạng mình an toàn trước viên đạn thù, hoặc ít nhất cũng bị thương tật. Trường hợp những người lính bị thương tật như Nguyễn Văn Tuân, Trường, Sơn, Lạc, Linh, và tôi, thì cuộc chiến đấu chính bản thân mình, với sự tuyệt vọng ở tinh thần, niềm đau đớn nơi thể xác,..sẽ là phần đời thứ hai, khó khăn hơn và cam go hơn mọi người khác rất nhiều!

Trương Dưỡng. K20
nguồn: http://www.dtruong.com/stories/MotCanhHoaDu_unicode.htm

BachMa
10-22-2017, 05:48 PM
Hồi Ký Một Cánh Hoa Dù
Trương Dưỡng - K20


Chương 5

Những Ngày Trên Đất Mỹ

1. Bước Đầu Tha Hương.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1508378760-Chuong5_NhungNgayTrenDatMy01.jpg

Chiếc máy bay của hãng hàng không Air France vừa cất cánh, tôi cố nhìn qua cửa kiếng ngó lại Quê hương lần chót: kìa đám nhà tôi, nhà thằng Nhàn, và nhà Cụ Hiếu ở Cổng C, trại Hoàng Hoa Thám, mà lúc trước mỗi lần mang dù lên bãi nhảy, tôi thường liếc mắt nhìn xuống cho tới quen thuộc luôn. Giờ đây vĩnh viễn xa nó, bỏ lại biết bao nhiêu bạn bè thân thuộc, những kỷ niệm êm đẹp từ thuở học trò, và bao cơn ác mộng khi sống dưới chế độ Cộng Sản!
Phi cơ cất cánh hơn 15 phút mà tôi vẫn còn lo sợ hảo huyền, có thể nào họ gọi quay trở lại vì mình còn thiếu giấy tờ nầy nọ không? Suốt 9 năm sống với bọn vô thần, tôi cũng như những người dân khác lúc nào cũng lo sợ phập phồng. Tới khi phi cơ đáp xuống phi trường Thái Lan thì tôi mới yên chí là mình đã được tự do hoàn toàn, được thoát khỏi cảnh địa ngục đen tối; tia sáng cuối đường hầm đang lóe lên phía trước!
Tôi hít một hơi thật dài khoan khoái và bắt đầu quan sát xung quanh; thấy xứ nầy chỉ cách nước ta vài tiếng đường bay, mà sao họ phồn thịnh và văn minh xa hơn Việt Nam nhiều quá vậy? Họ có xa lộ cao tốc, xe cộ đầy phố; người phu quét đường, những cô y tá cũng có xe hơi làm phương tiện di chuyển đó đây. Sau khi làm thủ tục, họ chở tôi và cháu Tâm cùng những người già yếu bệnh tật đi tới một Bệnh Viện cách Phi trường khoảng 1 giờ xe. Ngồi trên chiếc Bus sạch sẻ đầy tiện nghi, thấy tài xế chạy trên xa lộ nhanh vùn vụt và cứ giữ theo lề trái, khác với hệ thống giao thông ở Việt Nam. Tôi sợ hãi, cứ nhắm mắt không dám ngó, tưởng xe sắp đụng đến nơi!
Ở bệnh viện vài ngày thì phái đoàn Mỹ đến làm thủ tục bổ túc hồ sơ, đặc biệt họ có trả lại các hình ảnh quân đội quí báu mà trước kia tôi đã gởi qua Thái Lan theo đường bưu điện. Thực đơn Thái Lan thường để thêm nước cốt dừa và ớt, ăn rất ngon, vì trước kia ở Huế tôi đã quen ăn ớt trấy với món tôm chua, thịt luộc, và trái vả. Nhưng lúc đó tôi bị trở ngại về đường đại tiện, chỉ có vô mà không đường thoát thì thật khổ sở vô cùng!(vì thường khi hai ba ngày vợ tôi giúp rửa ruột một lần), bây giờ đã gần một tuần mà không ra được cục “Thuốc tể” nào, nên bụng lình bình no hơi không muốn ăn gì hết! Hai hôm sau, phi cơ vận tải phản lực 747 đưa gia đình đến San Francisco. Tại đây tôi vô cùng ngạc nhiên vì phi trường quá to lớn vĩ đại, máy bay lên xuống liên tục, ngoài đường xe cộ đông nghẹt. So với Thái Lan thì xứ Mỹ còn phồn vinh gấp bội. Chúng tôi giống như chú mán về thành, gặp gì cũng muốn nhìn. Phái đoàn đại diện ICM chở mọi người về nghỉ đêm tại Motel, riêng gia đình tôi đợi sáng đổi máy bay đi Florida, nơi Tuấn Anh, con bà Dì, là người đứng tên bảo lãnh. Tối hôm đó Tâm, Thành, và Thiện mở TV coi chương trình hoạt họa suốt đêm, nhất là Thiện thích coi hoạt họa và comic tới bây giờ hai mươi mấy tuổi đầu mà vẫn còn đam mê!
Khi đến phi trường Fort Lauderdale ở Florida thì được gia đình Dì Sáu ra đón, Tuấn Việt chở chúng tôi về tới nhà, nhìn đồng hồ đã điểm 11 giờ đêm. Dượng Sáu biết ngồi máy bay lâu mệt nên đãi ăn cháo gà cho nhẹ bụng, mọi người đều hết lòng chỉ dẫn. Nhất là Mợ Dõng thấy tôi ngồi cặm cụi viết hết lá thơ nầy tới lá thơ khác vì còn quyến luyến bạn bè thân thuộc, nên mua tem để sẵn thật nhiều. Việt và Dõng chở đi làm thủ tục xin trợ cấp và khám sức khỏe, ai nấy đều tận tình giúp đỡ cho gia đình tôi trong lúc khó khăn của thuở ban đầu trên xứ lạ quê người nầy.
Nghe tin tôi đến Mỹ, ngay hôm sau, hai anh Lý Hải Vinh và Phạm Ngọc Thạnh, Khóa 22 ĐL, đã sách xe chạy ngược từ West Palm Beach tới North Lauderdale, để chở tôi lên Orlando họp mặt cựu sinh viên sĩ quan Võ Bị Đà Lạt tại nhà anh Vàng Huy Liễu, cùng khóa với Vinh và Thạnh. Tại đây Niên Trưởng Long và bạn cùng khóa Nguyễn văn Hơn đã đề nghị hội viên giúp đỡ để gia đình tôi được sớm ổn định trong giai đoạn đầu. Hai hôm sau, Việt chở cả gia đình xuống Miami để lãnh tiền USCC cho mỗi đầu người 300 đô, tôi hỏi anh đại diện hội Thiện Nguyện về vụ bảo lãnh. Anh Hồ Kim Sanh nói muốn lãnh bao nhiêu người cũng được, ngoài tứ thân phụ mẩu, như vợ chồng, mẹ cha, anh em, con cái, những người khác phải là quân nhân (sĩ quan tù cải tạo).
Ngay đêm đó, tôi tranh thủ điền các mẫu USCC cho thân nhân và bạn bè như Lâm Sanh Kim, Nguyễn văn Triệu, Vũ văn Luông, hơn 40 người,...và điền sẵn mẫu bảo lãnh cho Quách Vĩnh Trường, chờ vận động giải thích cho em rể Trường. Tôi đã copy các giấy tờ chứng nhận lãnh trợ cấp gởi cho em gái ruột của Trường hiện đang ở Delaware, một Tiểu bang thuộc miền Bắc nước Mỹ. Tôi rất thông cảm họ, vì ít ai dám lãnh của nợ (lúc còn tại Việt Nam tôi rất ao ước và chờ đợi tới 2 năm mới được tờ USCC nầy để bổ túc hồ sơ). Trường đã có giấy xuất cảnh đi Pháp, nhưng đứa em bên đó đổi ý, nên khi có giấy USCC, anh xin chuyển cảnh và qua được mau vì khỏi cần làm lại từ đầu. Khi Kim và Triệu gần qua, vì tôi không tự lái xe được, nên đùn về California cho anh Bùi Đức Lạc, Chủ tịch Hội Gia Đình Mũ Đỏ. Anh Lạc là người rất tốt, khi nghe tôi qua anh đã giúp đỡ, những hồ sơ bảo lãnh tôi nhờ, anh đều sốt sắng nhận lời (có rất nhiều người miệng cứ ba hoa nói chính trị nầy nọ, nhưng nghe tới giúp đỡ hoặc bảo lãnh người khác thì co cổ rút đầu!). Anh giúp đỡ rất nhiều người, một phần cũng nhờ sự ủng hộ của chị Lạc.
Sau khi có đủ tiền đóng tháng đầu tháng cuối cho Apartment, tôi quyết định tự mướn nhà, vì không muốn lợi dụng lòng tốt của anh Các quá lâu, mong trả lại nếp sống riêng tư của người chiến hữu Không quân tốt bụng nầy.
Ngoài ra anh Tòng nghe gia đình tôi vì lãnh sớm tiền USCC nên bị cúp trợ cấp An Sinh Xã Hội (Welfare và Food Stamps) ba tháng đầu. Anh đã vận động các đồng hương giúp đỡ tiền nhà mấy tháng đầu. Một tuần sau, ở Miami cộng đồng có tổ chức ngày Quốc Hận, gia đình Dượng Sáu chở tôi đi dự. Sẵn dịp ban tổ chức mời tôi lên khán đài cho anh Cường phỏng vấn về tình trạng ở quê nhà. Ở nhà Dì Sáu được hai tuần thì anh Dương Văn Các chia cho hai căn phòng với giá tượng trưng thật rẻ, khoảng 1 tháng sau tôi mua được chiếc xe cũ hiệu Dodge, đời 1976 (tôi qua Mỹ ngày 14/4/84). Tâm lúc đó 16 tuổi nên cùng me nó tập lái xe, thỉnh thoảng tôi lên ngồi ghế trưởng xa cho họ tập dượt . Bà xã tôi hơi nhát gan, mỗi khi thấy xe cảnh sát là quýnh lên muốn lái xe leo lề luôn. Hai tháng sau cả hai đều có bằng lái. Lúc đầu đi học Anh Văn, có ông Mỹ ở gần nhà anh Các, mỗi đêm tới đưa rước đi học tại trường Middle School ở Margate.
Ba tháng sau, nhờ Đệ, em của Thạnh, ghi tên học trường nghề cho vợ chồng tôi và cháu Tâm vào buổi tối. Thành, 14 tuổi, và Thiện, 12 tuổi, mỗi buổi sáng có xe bus đưa tới Pompano Beach học ở trường Middle School; còn Tâm thì học High school.
Lúc đó tôi lật sổ điện thoại hỏi việc làm tại nhà hàng Tàu thì gặp bà chủ tên Nữ, có chồng là anh Minh, biết là đồng hương vừa mới qua, nên mời tới đãi ăn cơm tôm hùm rang muối, rồi mới cho vợ tôi làm; hằng ngày chị đích thân đưa rước, anh chị thật là người tử tế và phúc hậu. Còn cháu Tâm cũng được chủ nhà hàng Wangfu cho làm bus boy.
Những ngày đầu vợ tôi hơi tủi thân khóc thầm, vì dù sao ở Việt Nam từng là bà chủ, tiền bạc vô ra như nước (mấy năm gần đi, VC quá khôn ngoan quỷ quyệt, nắm gọn tất cả nên không làm ăn gì được, chúng tôi cứ bán vàng ra xài gần tiêu vốn, chỉ còn một ít mua được mấy bộ sơn mài đem qua Mỹ). Tôi làm cha làm chồng mà ngày nào cũng ngồi xe lăn nhìn cảnh vợ yếu con thơ đi làm đêm khuya cực khổ! Lòng cảm thấy khó chịu vô cùng!
Sau ba tháng học xong lớp Assembly tại trường Florida Atlantic Vocational, chúng tôi tiếp tục học lớp Technician. Bà xã học nghề Upholstery (may đóng ghế salon), tôi và cháu Tâm thì học lớp Electronic Industrial (Tâm học lớp nầy cũng được tính vào chương trình High School).
Lúc đầu coi một trang của cuốn DC test book, tôi phải cặm cụi tra tự điển, rồi lấy viết chì ghi hết ba phần tư tờ giấy. Thầy giảng thầy nghe, tôi ngồi như phỗng đá, như đờn khảy tai trâu, không hiểu gì hết; vì họ nói quá nhanh, toàn danh từ chuyên môn. Nhờ ngày nào cũng tra tự điển và ghi chú, dần dần những chữ đã tra hai ba lần thì thuộc; ban đầu mỗi ngày chỉ coi được một trang sách. Rồi tăng lên hai trang, ba trang,...sau hai tháng thì tôi có thể đọc được 10 trang. Bây giờ thì mỗi trang chỉ cần tra tự điển chừng năm mười chữ, tôi thường căn cứ những thí dụ trong bài giảng hoặc trong các sách họ, để tập làm exercises, experiments, và home works. Tâm còn trẻ nên hấp thụ nhanh hơn cha, trong khi cháu đi làm đêm, tôi ở nhà soạn bài, để sáng vô trường tôi giảng lại những gì đã biết, còn Tâm thì nghe hiểu được lời thầy giảng và hỏi thêm bạn Mỹ cùng lớp rồi nói lại cho tôi.
Hai cha con biết mình còn thua kém về sinh ngữ, nên cố gắng siêng năng sao cho theo kịp bạn học. Hai tháng đầu học xong cuốn DC (Điện một chiều). Tuy ở Việt Nam có học qua, nhưng ngành điện tử ngày càng phát triển, Transistor từ dạng vacuum tub (bóng đèn chân không) bây giờ thì chế bằng chất bán dẫn như silicon. Tiếp theo là điện hai chiều AC (Alternative Current); phần nầy tương đối khó hơn dòng điện một chiều. Nó giải thích tại sao điện xoay chiều mà có thể đi qua hai cực bằng kim loại bị ngăn cách bởi khoảng không cực nhỏ như Capacitor (Tụ điện). Dựa theo “Nguyên lý hai cực cùng tên đẩy nhau”, khi điện tích âm (electrons) trong đầu kim loại của Tụ điện bị đẩy qua cực bên kia và lập tức được điện dương hút đưa tới dây dẫn điện, và cứ thế lập lại từng chu kỳ, thế là ta có dòng điện chạy liên tục.
Trong khi đó bà xã học bên lớp bọc nệm, gặp ông thầy tốt bụng và học trò siêng năng cùng khéo tay, nên chỗ nào không hiểu thì ông ra dấu (vì có nhiều học trò Nam Mỹ cũng kém Anh ngữ). Học được hơn sáu tháng thì ông giới thiệu cho đi làm, coi như thực tập, khi đủ giờ nhà trường sẽ phát bằng Technician về ngành Upholstery.
Mỗi buổi trưa chúng tôi ra xe ăn cơm (mang theo), tôi tranh thủ vừa nằm vừa ăn, vì ngồi lâu không đi đứng dãn gân cho máu chạy điều hoà như người thường, nên máu dồn rất khó chịu. Hai mẹ con nhường cho tôi nguyên băng sau để ngã lưng, cả ba vừa nghỉ vừa tranh thủ lấy bài ra học.
Tới môn thứ ba là Semiconductor, lúc nầy hai cha con tôi đã thuộc nhiều từ ngữ Anh văn, mỗi ngày có thể đọc được vài chục trang. Đầu óc tôi cứng ngắc, nên phải đọc đi đọc lại nhiều lần gần thuộc luôn, để từ từ (chứ không nhanh lẹ như tuổi trẻ) nhớ lại và dùng tới khi cần. Trong những ngày theo lớp điện tử, ông thầy có đề nghị nhà trường cắt cử một cô giáo dạy thêm, Văn phạm Anh Văn và nghe thính thị Anh ngữ, mỗi ngày một giờ. Nhờ vậy sau nầy lên Đại học chúng tôi bớt bỡ ngỡ về các lớp Essay (cách đặt câu và tập làm Văn). Khoảng sáu tháng thì xong quyển thứ tư là Communication, lúc nầy thực tập rất nhiều, mỗi lần học hết sách thì ông thầy cho thi test, nếu trên điểm trung bình thì mới được học cuốn tiếp.
Học hết môn thứ năm là Microprocessor, giáo sư thấy điểm test của tôi càng ngày càng cao, không biết ông báo cáo thế nào mà một hôm nọ có phóng viên truyền hình tới lớp học quay phim và phỏng vấn. Hôm sau trên đài số 10 có chiếu cuộc thâu ảnh nầy. Thầy thấy chúng tôi siêng năng tiến bộ vượt bực, nên mấy môn sau, ông tặng sách còn mới tinh, nhờ đó tiết kiệm được một ít tiền.
Sau khi học xong cuốn Linear systems, Digital, và Communication thì được dự lễ phát bằng. Ông thầy đích thân đưa tôi lên khán đài nhận văn bằng, trong danh sách tốt nghiệp có đánh dấu cho tôi hạng Danh Dự. Gia đình tôi đã chụp chung hình với người thầy tốt bụng, lúc nào cũng nâng đỡ khuyến khích tôi trong giai đoạn khó khăn mò mẫm Anh ngữ từ những ngày đầu!
Sau khi lãnh bằng Technician ở trường Vocational, tôi và Tâm theo danh sách các hãng điện mà thầy đã copy cho, chúng tôi thức dậy sớm khởi hành từ 7 giờ sáng, chạy xe vòng vòng ghé hỏi vài hãng điện nhưng chưa có kết quả, đến trưa thì tới hãng Computer Product. Họ phỏng vấn Tâm tại chỗ và nói lương bắt đầu là $4.50/giờ, chờ đủ hai tháng sẽ cho lên $6/hr. Vì cần việc làm nên Tâm nhận chịu. Còn tôi họ chê handicap (tôi nghĩ vậy thôi) nên không ai ngó tới.
Lúc nầy thì Thành và Thiện vì học nhảy theo tuổi nên hơi chới với trong 6 tháng đầu; nhưng rồi giống như cuộc chạy đua, hai đứa đã rượt kịp toán cuối cùng (Điểm D), và tăng vận tốc dần lên bắt gần kịp toán thứ nhì (điểm B). Qua năm sau, ba đứa nói tiếng Anh trôi chảy, và bắt đầu có nhiều điểm A. Thành thì nhảy lớp và học bốn năm thì tốt nghiệp, nên điểm B nhiều hơn A, không có điểm C hoặc D. Còn Thiện nhờ có thời gian, nó đã lấy mấy lớp Honors và Advances nên tốt nghiệp High school top ten percent.

2. Vào Đại Học


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1508378772-Chuong5_NhungNgayTrenDatMy02.jpg

a) Broward Community College
Tôi và Tâm sau khi học xong ở trường Vocational, liền thi vào Broward Community College (BCC). Khi coi kết quả bài test, họ chấp thuận cho ghi tên nhập học và được cấp học bổng Pell Grants, nhưng các lớp Anh văn phải bắt đầu từ lớp ESL (English as Second Language).
Hãng thấy Tâm chịu khó học hành, nên dễ dãi cho làm bù mỗi khi kẹt giờ ở trường. Nhờ vậy chúng tôi có thế lấy 3 lớp (courses) trong một khóa học (semeter). Term đầu học Pre- Calculus I, English ESL, và Direct Current (DC Circuits). Có điều buồn cười là, vì không phân biệt các tiền xu của nước Mỹ như đồng Dime, Nickel, và Penny, nên tôi bị trật hết một câu trong bài thi test đầu tiên. Tánh tôi thích đơn giản, không muốn bận bịu về tiền bạc (trái lại bà xã thì rất khoái đếm và xếp tiền; ở Việt Nam mặc dù cả ngày làm vất vả, nhưng tối nào bả cũng ngồi xếp tiền ngay ngắn không thua vì nhân viên ngân hàng!). Kể cả đồng hồ, cà rá, nhẫn,... tôi cũng không thích đeo. Có lần đi hành quân ở Quảng Trị, Hạ Sĩ Thương, đệ tử của tôi, bị tử thương tại ngã Tư nhà Thờ La Vang vào ngày mùng Một Tết năm Mậu Thân, tay của Thương có đeo chiếc đồng hồ Seiko vàng của tôi, vì lúc đó chiến đấu liên miên, nên phải nhờ ông Thượng sĩ thường vụ đi hỏi hậu cứ kiếm dùm hơn một tháng mới thu lại được!
Lúc nầy hai mẹ con làm việc dành dụm được chút đỉnh, nên mua thêm một chiếc xe còn mới giá $6000. Chiếc Stations Wagon tuy đã tám năm cũ, nhưng cuối tuần chúng tôi cũng dám chạy đi xa như Tampa, Orlando,..để họp mặt gia đình Võ Bị (cứ hai ba tháng luân phiên tổ chức gặp nhau để nhắc lại những chuyện buồn vui quân trường). Thỉnh thoảng chúng tôi đi lên khu nhà anh Hiền, anh Huấn để câu cá, bắt cua, bắt sò,...cũng rất vui vẻ. Riêng Thiện thì đi cho có lệ, hắn chỉ thích ở nhà coi hoạt họa Comic thôi!
Lúc nầy tôi có thể đọc mỗi ngày ba, bốn chục trang vì đã rành hết các danh từ chuyên môn của điện và toán. Các lớp Hóa học và Vật lý thì hơi khó và nỗ lực rất nhiều mới mong được điểm cao, đặc biệt ông thầy Vật lý rất giỏi và tốt, còn độc thân, nghe nói sau nầy chết vì mang bịnh Aids!
Sáu credits của môn Khoa Học Nhân Văn (môn chọn lựa) thì thật là buồn ngủ và nhàm chán, tôi đã chọn hai môn Nhân Chủng học (Anthropology) và Tôn Giáo (Religion). Môn Triết học thích thú hơn, nhưng không đủ từ ngữ để theo lớp nầy.
Cuối năm 1988, tôi và cháu Tâm xong chương trình 2 năm (AS Degree), điểm tổng kết khá cao GPA: 3.8/4.0, mảnh bằng Technician nầy có giá trị hơn ở Vocational. Vì thế Tâm xin được vào hãng điện lớn tại khu nầy, Bendix trả lương nhiều hơn, mới vô là $9/hr. Vợ tôi lúc nầy cũng được $7/hr, chẳng mấy chốc (khoảng hai năm sau) là có tiền Down (đặt cọc) vay tiền ngân hàng, mua nhà giá $60,000 trả góp mỗi tháng $600.
Ngôi nhà vừa mua nằm trong vùng Pompano Beach, mới xây cất, gồm ba phòng ngủ, hai phòng tắm. Xung quanh toàn người da màu, nên giá tương đối rẻ, mình cũng là người da vàng, chỉ cần có chỗ nào vừa túi tiền và khang trang là quí lắm rồi. Vừa có nhà đẹp vừa được tiết kiệm, vì cuối năm, Tâm sẽ được trừ bớt tiền thuế.
Nhà có đất tương đối rộng, vợ tôi và cháu Tâm cuối tuần lo trồng rau sống và cây ăn trái như: nhản, mít, mảng cầu dai, bưởi, quít, bơ, chùm ruột,...
Các cháu còn mua một con chó con giống Đức về nuôi, chó nầy càng lớn càng khôn, biết hiểu ý người, ba đứa thương và coi nó như là member of Trương ’s family (người trong nhà).
Hôm có cơn bão lớn Andrew, gió tại nhà (cách trung tâm bão 30 miles) là 75 miles/hr, chó được đem vô garage; đêm đó nó sợ run quá muốn sổ bầu tâm sự mà cũng ráng nín; đợi tới khi Tâm cho phép, nó mới dám ỉa đái ngay trong garage. Các cháu thấy vậy vừa thương vừa tội nghiệp!
Lúc nầy Thành đã xong High school, nó thường rủ bạn là Sơn tới nhà làm bài tập home work về Calculus, để nếu có phần nào không hiểu nhờ tôi chỉ dùm. Thành sáng đi học tối làm nhà hàng Wangfu để phụ giúp gia đình (chúng tôi quen sống đùm bọc lẫn nhau, cũng như ở Việt Nam, năm người cùng ngủ chung một giường, vừa ấm cúng, vừa tiện lợi, và cũng vừa là một khối đoàn kết không ai có thể tách rời).
Mỗi lần có sinh nhựt một người nào, cả nhà thường kéo nhau ra nhà hàng để ăn mừng, tiện thể cho me chúng nó rảnh tay đỡ mất công nấu bếp một bữa. Vấn đề ẩm thực hằng ngày thật đơn giản, sáng sớm sách cơm theo, hoặc đem mì ly, mì gói vô trường, để trưa đến đổ nước sôi tranh thủ ăn nhanh. Cháu Tâm hoặc cháu Thành kiếm phòng học trống, đỡ tôi lên bàn giáo sư nằm ngửa cho thẳng người, vì ngồi lâu máu tụ một chỗ rất khó chịu và thật mỏi lưng nhất là nơi đốt xương gãy!
Ngày nào ở nhà rảnh rỗi, tôi nấu nồi cơm vì bà xã đi làm xa, cách nhà nửa giờ xe chạy. Có hôm tôi làm đồ ăn luôn, nhưng khi ngồi vào bàn, thấy chúng nó (nhất là Thành) cứ nhăn mặt, như khó nuốt lắm vậy! Có lẽ ba đứa đã quen ăn đồ ngon, nhiều gia vị, của đầu bếp chánh!
Mỗi năm khai thuế, cháu Tâm đều nhờ anh Lâm làm dùm, mặc dù cháu nói đã đi làm có tiền và mua được nhà mới, nhưng anh nói:
- Làm dùm cho nhà anh Dưỡng mà tôi lấy tiền sao ?
Anh, chị, và gia đình (anh Tòng, chị Oai) đã giúp đỡ thật nhiều trong bước đầu tha hương, chẳng những riêng chúng tôi, mà đối với những đồng bào mới qua, họ cũng đều sẵn lòng giúp đỡ, thật là một gia đình đạo đức!

b). Florida Atlantic University.

Tôi và Tâm tiếp tục chuyển trường học tiếp. Tại Florida Atlantic University không chấp nhận một số Credits cho bằng AS (nếu biết trước như Thành và Thiện sau nầy thì học AA sẽ không bị mất Credit nào). Vì vậy hai cha con mất hơn 20 Credits (khoảng 7 courses)!
Bắt đầu vào Florida Atlantic University, thông thường phải chọn các môn của năm thứ ba trước, nhưng vì kẹt giờ làm của Tâm, nên tôi nói với Doctor Gajulian, counselor, cho lấy thử course Linear Systems của năm thứ tư. Ông ta hỏi:
- Are you sure ?(anh có chắc không)
- Yes, I would like to try!(vâng, tôi muốn học thử)
Ông ta ký giấy cho tôi ghi danh lớp mà ông sẽ phụ trách giảng dạy, để coi tôi làm sao có thể học nổi môn được nổi tiếng hóc búa nhất của năm thứ tư nầy?
Nhưng muốn theo course Linear Systems thì phải học các lớp toán cao cấp như Calculus III về số phức tạp (complex number) như a+jb chẳng hạn. Tôi chưa từng biết qua về phần nầy, may nhờ có anh sinh viên người Mỹ gốc Phi Châu ngồi gần và anh Hồ Văn Kỳ Tháo cũng tận tình chỉ dẫn những gì tôi thắc mắc, nhưng thi thử lần đầu bị điểm D! (thường mỗi course thi test ba, bốn lần tùy theo thầy giảng dạy). Tôi phải vô thư viện mượn sách các lớp năm thứ ba có liên quan đến môn nầy, hằng ngày đọc tới mờ mắt mới theo kịp thầy giảng bài và từ từ làm được home work. Tới midterm tôi đạt được điểm B, mừng quá vì càng ngày càng hiểu thấu triệt (nhờ tham khảo rất nhiều sách). Đến khi thi Final (cuối khóa) chỉ có tôi được điểm cao nhứt lớp. Ông thầy khen ngợi trước mặt các bạn sinh viên cùng lớp và nói từ nay tôi muốn chọn course nào cũng được; nếu ai cản trở cứ lại văn phòng Counselor, ông sẽ ký giấy giới thiệu ghi danh cho!
Florida Atlantic University nằm trên một khu vực rất rộng lớn, thuộc thành phố Boca Raton. Hằng năm có trên mười ngàn sinh viên ghi danh học. Trường gồm nhiều Phân khoa: Kỹ Sư Điện, Cơ Khí, Computer Sciences, Cử Nhân Kinh Tế, Xã hội,...và các lớp Cao học (MS, MA), Tiến sĩ (Doctor).
Trường có một thư viện cao bốn tầng chứa rất nhiều sách, các lầu hai, ba, bốn có những phòng riêng biệt dành cho những sinh viên muốn học từng nhóm chung với nhau. Mấy cha con tôi ưa vào đây để làm homeworks và học bài, thỉnh thoảng tôi được ngả lưng trên những chiếc ghế đâu lại. Tôi ngồi lâu thì mỏi, cứ lo chống chỏi với cơn nhức mỏi thì không thu thập được nhiều, ngược lại nếu được nằm thoải mái thì đọc hiểu rất nhanh. Giống như “Vua ngọa triều” Lê long Đĩnh thời xưa!
Lúc mới vào học ở F.A.U., Tâm làm ca sáng, nên chỉ chọn được những lớp chiều. Vì thế buổi sáng tôi ở nhà học bài còn cháu Tâm phải tranh thủ học trong giờ ăn trưa và giờ break time. Tối về cháu thức tới khuya để học và làm bài; cuối tuần mấy cha con vô thư viện học bài cho yên tỉnh và dễ tập trung hơn, còn me chúng nó ở nhà lo làm món ăn ngon như bò nhúng dấm, bánh xèo, gỏi cuốn, bì cuốn, nem nướng, bún nước lèo, chờ mấy cha con về thưởng công siêng năng chăm học.
Nhờ sự nhắc nhở khuyến khích nên các học trò đều cố gắng chuyên cần, để mong lấy được điểm cao về khoe và được bù bằng những nụ cười sung sướng hãnh diện của người mẹ hiền, người vợ ngoan! Quả là:
Gia đình phấn đấu vượt lên,
Chàng lo đọc sách, nàng quên hưởng nhàn!
Ba con cần kiệm siêng năng,
Chăm lo đèn sách rạng phần công danh.
Thắm thoát Thiện đã học xong High School, ngày lễ tốt nghiệp, cả nhà đều đi dự; và hãnh diện nhìn thấy cháu được choàng cổ đeo sợi dây danh dự của những học sinh Top Ten percent. Nhờ vậy nên Thiện được học bổng của một cơ quan cho suốt 4 năm, cùng với học bổng của nhà trường thì cháu đủ sức đóng tiền học phí và sách vở. Trong khi tôi và Tâm học tới 5 năm, Thiện chỉ 3 năm rưởi là tốt nghiệp Kỹ sư và hai năm sau xong luôn MS (Master Degree: Cao học). Thành thì tốt nghiệp BS trong vòng 4 năm.
Các courses đáng chú ý trong năm thứ ba là Networks Analysis I và II, Electronic I, Electronic Lab I và II, Calculus III, và Microprocessor,... Vào năm thứ tư có vài lớp hơi khó chẳng hạn như Physis III và Matrix. Đặc biệt ông thầy dạy Electronic Lab thấy những ngày lễ July 4 mà tôi vẫn vô trường thực tập trong phòng Computer, nên để ý và cho điểm rất cao (trước đó chỉ được B trong mấy bài phúc trình thực tập đầu tiên).
Những năm học ở FAU, ngày lễ hoặc cuối tuần, bốn cha con đều sách xe chở nhau vô thư viện hoặc vào các phòng Lab học, các cháu không đi chơi giải trí hoặc giao du bạn bè, chỉ cố lo học để sớm ra trường, làm việc giúp đỡ gia đình.
Môn Senior Project ở năm cuối thì hơi gay cấn, mỗi nhóm chọn đề tài sáng chế một thứ gì về điện tử, có hai giáo sư cố vấn. Ngoài ra còn phải thi Clast Test mới được phát bằng.
Thi Clast test (College Level Test) gồm 4 môn: Đại số, Hình học, Reading, và Writing. Thiện thi một lần thì đậu liền; Tâm, và Thành kẹt môn Writing tới hai hai lần. Còn riêng tôi thì phải thi lại tới lần thứ ba mới qua được môn Essay nầy! (Đa số sinh viên Việt Nam và Ngoại quốc đều bị thi lại nhiều lần, có vài người kẹt hoài phải làm đơn xin miễn trừ để được cấp bằng tốt nghiệp).
Lần đầu bị rớt có lẽ vì viết ít hơn năm trăm chữ trong một giờ thi hoặc bị nhiều lỗi chánh tả. Lần thứ nhì tôi viết về Tướng Nguyễn Khoa Nam, phần nhập đề chửi Mỹ bỏ rơi Đồng Minh trung thành là Miền Nam Việt Nam, trong khi Trung Cộng và Liên Sô tăng cường viện trợ, khiến gây ra bao cảnh tang thương như tù tội, kinh tế mới, và Thuyền nhân bị chết chìm hoặc bị hải tặc. Đến khi thi môn Essay (Luận văn) lần thứ ba, họ cho đề tài: “Tập tục cần phải biết để giữ”, tôi đã tả về tục lệ mấy ngày Tết ở Việt Nam. Phần nhập đề nói tổng quát về tục lệ ở Nhật vào nhà phải cởi giày dép, ở Tàu thì phải tôn kính bề trên, rồi vô đề viết trong phần Thesis statement (giới thiệu Luận thuyết): tục lệ Tết ở Việt Nam chia ra làm ba giai đoạn: Lễ Đưa Ông Táo, Lễ Giao Thừa, và Ba ngày Xuân. Thân đề chia ra ba đoạn, mỗi phần chừng hơn trăm chữ nói về việc cúng Táo quân (dịch đại là Saints of Kitchen) để họ về trời báo cáo tốt (good report!) với God (Ngọc hoàng). Và tả tục lệ “Lì Xì” khiến người chấm bài thi thấy lạ và cho đậu môn Anh văn quá khó khăn đối với người chân ướt chân ráo, mới hội nhập trên đất Mỹ nầy!
Về Senior Project, nhóm tôi ba người mua parts ở tiệm về ráp máy đo điện trở, rồi mời hai giáo sư phụ trách lên phòng họp, chiếu phóng đồ các mạch điện lên màn ảnh. Mỗi người thay phiên nhau lên thuyết trình chi tiết, và trả lời các câu thắc mắc của họ. Cuối cùng hai ông lấy điện trở 100 ohms để vô máy đo thử, các Giảng sư thấy kim chỉ số 101 ohms, sai số không đáng kể, thế là họ cho môn nầy thông qua, như vậy phần khó khăn cũng đã xong.
Sau khi đã hoàn tất đủ 130 Credits (mỗi course tương đương 2 hoặc 3 credits) tiêu chuẩn, Ông Counselor dò đúng thì cấp giấy chứng nhận tốt nghiệp. Phòng Quản trị Nhân Viên kiểm tra coi đã đậu xong môn thi trắc nghiệm Sinh Viên (clast Test), rồi họ mới chịu cấp bằng tốt nghiệp.
Trước ngày Mãn khóa, nhà trường đã giới thiệu Phóng viên Báo chí đến nhà tôi để Phỏng vấn và đăng lên báo vào dịp lễ Tốt Nghiệp của các Tân Kỹ sư, Cao Học, và Tiến sĩ. Vì hai cha con tốt nghiệp cùng ngày và số điểm ra trường hơi khá(Tâm có GPA: 3.3, tôi được GPA: 3.64). Hệ thống tính điểm ở đây như sau: A:4.0, B+:3.5, B:3.0, C:2.0, D:1.0, F:0.0. Điểm C trở lên coi như được cho tốt nghiệp. Trong lễ Tốt Nghiệp nầy có ba người được quan khách vỗ tay tán thưởng nhiều nhất là một ông già 80 tuổi mà vẫn còn cầu tiến và tốt nghiệp Master Degree, một cô sinh viên trẻ tốt nghiệp bằng Tiến sĩ, và tới phiên cháu Tâm đẩy tôi lên khán đài thì xướng ngôn viên đọc lớn lên “Cha và con cùng tốt nghiệp ngành Kỹ Sư Điện....”
Chúng tôi đã nhận được những tràng pháo tay liên tục, toàn hội trường, kể luôn cả những Giảng sư, đều đồng loạt đứng lên vỗ tay (có lẽ họ thấy tôi là người Á Đông ngồi xe lăn mà chịu khó đi học). Lúc đó tôi thật cảm động vừa sung sướng vừa vui mừng vì mình đã đem lại niềm hãnh diện, danh dự cho gia đình và một phần nhỏ nào cho dân tộc và xứ sở (Trên báo có nói về chế độ tù tập trung và sự độc tài tàn bạo của chế độ CS đã áp bức nhân dân miền Nam, sau ngày Quốc Hận).
Trong lễ phát bằng, vì bục khán đài cao, mà chỉ có mình tôi ngồi xe lăn, nhưng họ vẫn làm đường ramp bằng ván để cháu Tâm đẩy lên chỗ nhận bằng và bắt tay President của trường.
Nhờ có bằng cấp, vài tháng sau Tâm được nâng lên chức Kỹ sư và lương tăng từ $12/hr tới khoảng gần $18/hr (tính lương hằng năm). Riêng tôi thì không hy vọng được ai mướn, nhưng cũng gởi đơn đại tại ba hãng cầu may (đơn gởi thẳng cho President của hãng, có kèm theo hai tờ huy chương Hoa Kỳ và tờ báo đăng trong ngày lễ Mãn khóa). Thật bất ngờ có tới hai hãng gọi đi phỏng vấn (có lẽ họ thấy điểm GPA cao). Hãng Motorola ở Boynton Beach, cách nhà khoảng nửa giờ xe, gọi vào phỏng vấn từ 8:30 sáng tới 4:30 chiều, mỗi manager của một group hỏi hơn 1 giờ.
Người đầu tiên xuống văn phòng nhân viên dẫn tôi lên lầu hai, tới phòng riêng ông ta rồi đóng cửa lại. Sau khi bắt tay nói vài câu xã giao là vào đề hỏi ngay. Các lý thuyết ngành Điện tử, trong đó có phần hơi khó trả lời là Microprocessor. Tôi viết programing về Assembly Language hơi kém; vì để cho ông ta khỏi kêu viết Program, tôi lanh lẹ tả về sự cấu trúc của hệ thống microprocessor, nào là CPU (center processor unit), nào là ALU (Arithmetic logic unit), tôi vẽ sơ đồ cấu trúc của Microprocessor, trong đó có Accummulator, Index Register, Program counter, Address Register, Stack Point, Control, Data Register, Memory,..Anh ta thấy vẽ đúng và nhanh nên bảo ngừng vì tưởng tôi thuộc rành về môn nầy. Nhưng sự thật thì khác hẳn và rất may mắn; vì tôi đã đem hết sự hiểu biết ít ỏi ra hù trước, nếu hỏi thêm thì sẽ không còn biết gì nữa (giống như Trình Giảo Kim trong chuyện Tàu chỉ có tài ba búa đầu, búa thứ tư thì yếu không còn hữu hiệu nữa).
Người thứ nhì là ông tiến sĩ, thầy dạy cũ của tôi ở trường Florida Atlantic University, vì vậy ông ta hỏi rất dễ, cuối cùng ông lật tờ thành tích biểu và hỏi :
- Anh qua Mỹ được bao lâu?
- Tôi tới Hoa kỳ ngày 14 tháng 4 năm 1984!
Ông nhìn tôi và trợn mắt nói:
- Sinh viên Người Mỹ, rành Anh ngữ mà muốn có điểm GPA: 3.0 còn khó, anh mới qua có mấy năm, trở ngại sinh ngữ mà GPA: 3.64 thì thật đáng khâm phục, tôi sẽ phê tốt cho anh.
- Thank you, sir!
Người thứ ba hỏi cũng không khó mấy, sau khi khảo hạch đủ thứ về các hệ thống truyền thông (Communication) vì hãng nầy chuyên sản xuất máy pager (hay Beeper). Tôi vẽ hình Antennna dẫn vào Radio Frequency (RF: cao tần), tới Mixer (trộn sóng), Mondulator (Tách sóng) và cuối cùng là Audio Frequency (Hạ tần) tức phần lỗ tai người có thê thu nhận được. Nhưng tôi bị khựng ở một câu hỏi hơi hóc búa, đó là sự phân biệt giữa Điện trường (electrical) và Từ trường (magneticfield) của hai loại Antennas.
Thấy tôi hơi ngập ngừng, anh manager vội giãi thích: Dipole antenna chịu ảnh hưởng của Điện trường còn Loop Antenna thì chịu ảnh hưởng của Từ trường. Ông ta bảo không sao; vì tôi đã trả lời được tám phần mười những câu hỏi, và điểm tốt nghiệp cao là đủ tiêu chuẩn rồi.
Đến cửa ải thứ tư, bấy giờ đã 3 giờ chiều, bị hạch hỏi và ngồi suốt ngày, tôi cảm thấy quá mệt mỏi. Nhưng thật may mắn, người thứ tư hỏi rất dễ và ông Manager nầy chính là người xếp của tôi sau nầy. Sau khi hỏi xong, ông kêu một Kỹ Sư người Việt tên Tống Chung vô nói về công việc đang làm của nhóm nầy, Chung giải thích bằng tiếng Anh vì xung quanh toàn người Hoa Kỳ. Chung làm việc ở đầy 7, 8 năm, trước khi về Việt Nam, anh cho biết là tôi đã được ông Manager đó nhận rồi. Vì nhận được tin mẹ bịnh nặng, nên Chung mới về thăm nhà và nhờ vậy nên gặp được bà lần cuối!
Khoảng một tháng sau tôi được hãng gọi điện thoại thương lượng về giá cả, đây chỉ là thủ tục vì với tiền lương kỹ sư đối với một người tưởng mình đã vô dụng như tôi là nhiều quá rồi. Tôi nhận lời một cách không do dự, mọi người trong nhà đều vừa mừng vì tìm được việc làm, vừa lo vì không biết tôi có chịu đựng ngồi mỗi ngày tám tiếng trong hãng hay không?
Tâm lo mua thuốc đau bụng, nhức đầu để đem theo phòng ngừa; Thành mua nệm thông hơi cho ngồi lâu khỏi bị hầm, sợ lở mông; Thiện thì mua tập ghi chú và giấy bút; vợ tôi lo mua cà vạt áo quần cùng hộp nhựa, bình thủy để đem cơm, nước nóng theo. Tất cả người trong nhà đều ủng hộ, khuyến khích giống như chuẩn bị đưa em bé lần đầu tiên đến trường để theo học mẫu giáo vậy! Ngày đầu tiên Thành chở tới hãng Motorola, tôi vô cùng hồi hộp! Vì thường ngày rất ít tiếp xúc với bạn Mỹ, sợ bị trở ngại trong việc xã giao. Khi vô tới cổng, thấy họ đã làm thêm một cánh cửa tự động và đường dốc thoai thoải dành riêng cho một nhân viên đi xe lăn độc nhất là tôi. Quả là xứ văn minh, những người tàn phế vẫn được tôn trọng và dành nhiều ưu đãi.
Hãng nầy là một trong rất nhiều chi nhánh trên khắp thế giới, nhân viên tại đây khoảng 3000 trong đó kỹ sư có trên 2500 (toàn thế giới có mấy trăm ngàn nhân viên). Trụ sở chánh đặt ở Schaumburg, Illinois. Riêng Florida có hai chi nhánh, một ở Plantation, Fort Lauderdale, chuyên sản xuất về điện thoại cầm tay loại không dây (Wireless cellular Phones). Còn hãng tôi làm ở Boynton Beach, thì chuyên môn chế các máy Pager (Beeper); riêng nhóm tôi mới thành lập có nhiệm vụ phải đạt chỉ tiêu trong vòng hai năm nghiên cứu, chế tạo, và sản xuất loại máy Pager mới, có thể nhận và phát tín hiệu (Two way). Vì từ trước tới giờ các loại máy Pager, đang xử dụng ở thị trường, chỉ thâu (Receiver) tín hiệu rồi hiện số (thường là số điện thoại của người nhắn tin) và chữ lên cho người đang mang máy nhận biết ai đã gọi mình.
Toán chúng tôi có tên là Tango Group gồm hai nhóm kỹ sư, nhóm software và nhóm hardware. Nhóm software bao gồm 3 kỹ sư cơ khí (mechanical) và các kỹ sư chuyên về Computer Sciences. Nhóm tôi do Kevin làm Section Manager chuyên về điện tử được chia ra thành hai tiểu tổ : tổ Transmitter (phát thanh hay phát tín hiệu) và tổ Receiver (Thâu nhận tín hiệu) .
Tôi ở trong tổ Receiver gồm khoảng mười lăm Kỹ sư chuyên viên, mỗi kỹ sư lo một phần vụ riêng biệt như: antenna, R.F Amplifier, Mixer, Oscillator, Mondulator, Audio Frequency,....
Lúc đầu anh Chung coi tổng quát phần nầy, anh đã chỉ tôi cách hàn mấy parts (Transistor, capacitor, resistor,...), nhưng sau đó anh đổi qua toán khác. Tại chi nhánh Boynton nầy có nhiều kỹ sư Việt Nam làm lâu năm và rất giỏi như: Anh, Dũng, Khang, Long, Chung, Nha, Phong, Lâm, Khanh,...Lúc tôi mới vào thường học hỏi những kinh nghiệm quí báu của họ.
Tôi là RF Engineer, đặc trách phần Radio Frequency, phần nầy được chỉ định thâu làn sóng cao tần có frequency là 940 MHz (tức 940 triệu chu kỳ trong một giây đồng hồ). Tôi có nhiệm vụ dùng Computer để phát họa và chạy hệ thống gọi là RF Stage sao cho khuếch đại tín hiệu (thu nhận từ antenna) được hơn gấp trăm ngàn lần tin hiệu thu trong không gian, mà danh từ chuyên môn toán học gọi là 15 db (decibel) gain và giữ Noise Figure nhỏ hơn 2.8 db. Tức là khuếch đại thật nhiều mà vẫn giữ sự nhiễu loạn làn sóng thật ít. Sau khi dùng MDS (Microwave Design System) trên máy computer do hảng H.P. sản xuất để phác họa các mạch điện cho RF stage, rồi design bằng cách simulation bởi software viết sẵn cho máy Suns, tôi bắt đầu hàn gần ba mươi parts gồm: Transistor, resistor, capacitor, inductor,...trên một vùng diện tích nhỏ bằng hột nút áo, trên PC Board bề mặt bằng cái hộp quẹt (nó chứa hằng ngàn parts trong đó có cả phần Receiver, Transmitter, và IC,..)
Tôi đã học và nghiên cứu nhiều sách vở mãi tới 2, 3 tháng mới hiểu rõ cách design bằng MDS trên Computer. Còn vấn đề hàn các parts nhỏ li ti như sợi tóc là cả một vấn đề; mặc dù đã đeo kiếng tốt và đã học lớp Assembly (hàn PC Board), nhưng đây là một lãnh vực khác, thật khó khăn vô cùng.
Các Resistors, capacitor, Inductors, Transistors,...đều làm bằng những miếng hình chữ nhựt nhỏ cỡ hai sợi tóc nhập lại! Phải cần kính lúp mới thấy được các số trên các components (parts) nầy. Hàn board nầy rất khó, chỉ cần để mũi hàn hơi lâu một chút là coi như board và part đều bị hư, tôi mang mắt kiếng mà chỉ nhìn thấy lờ mờ, rồi chấm nhẹ mỏ hàn vào hai đầu; sau đó, dùng kiếng lúp kiểm lại coi có đúng ngay chỗ không?
Lúc đầu tôi xin vài Boards hư tập thử nhiều lần, tới hơn một tháng mới không còn hư nữa! Sau đó bắt đầu hàn thực sự các parts đúng như mạch điện (Circuit) đã có sẵn trên Computer, xong rồi làm các đầu nối để gắn vào máy đo như Network Analyzer, Nosie Figure Meter, Generators,....Rồi thay tới đổi lui sao cho đạt đúng mục tiêu chỉ định. Công việc nói thì đơn giản, nhưng trên thực tế thật khó vô cùng, vì vậy họ mới hạn định ký contract với các hãng thầu trong vòng hai năm cung cấp, nếu giao hẹn trễ phải bồi thường 20 triệu đô la cho hãng thầu Mtel. Trong hai năm, ngoài việc design RF Stage, tôi cũng được chỉ định làm về phần Mixer, thay cho anh Kỹ sư phụ trách phần nầy lúc đi phép thường niên.
Mỗi ngày ngồi chừng 4 giờ là tôi bắt đầu mệt đừ, vì máu dồn một chỗ, không lưu thông như người khác vì họ đi tới đi lui, đứng lên ngồi xuống. Cứ 2 giờ làm việc thì có 15 phút nghỉ break time, họ xuống lầu vào cafeteria ngồi tán dốc xả hơi. Còn tôi thì cứ ngồi kiểu số 4 trên xe lăn, may nhờ ông trưởng Group thông cảm mua tặng cho chiếc xe lăn có thể điều chỉnh ngửa 120 độ, nên mỗi buổi trưa tôi tranh thủ ăn nhanh rồi ngã người ra một chút tại phòng (thường mỗi Kỹ sư có một phòng riêng). Phòng tôi có 4, 5 máy đo, máy hàn, máy computer, kệ tủ đựng sách và dụng cụ, mỗi ngày trước khi về bỏ các vật dụng quan trọng vào hộc tủ và khóa lại.
Khoảng 2 giờ chiều thì mệt đừ người, tôi có đem theo trà sâm để uống vài hớp cho khỏe chút đỉnh; và thường tự nhủ ráng lên đi bạn, mỗi giờ là hai chục đô đó, bằng một tháng lương công nhân ở Việt Nam, có thể mua được 3, 4 con gà,...Mỗi lần nhắc tới tiền thì mắt tôi sáng lên, khiến mọi mỏi mệt đều tiêu tan, đúng là tham tiền! Vì tôi nghĩ nếu làm việc có tiền sẽ mua căn nhà tiện nghi cho handicap (tàn phế); rồi trồng cây ăn trái, mỗi ngày ngó từng đọt non tăng trưởng, vui thú cảnh điền viên (chỉ coi vợ con trồng thôi!).
Một năm sau, tôi có tiền down mua căn nhà mới xây, ở gần hãng. Nhà lợp ngói, có đất phía sau rộng để trồng vài cây ăn trái, rau sống, và nhất là phía trước có trồng ba cây mai vàng và một cây bông mai tứ quí!
Trong hãng, tôi thường học thêm của một người Nhật tên Eshi Yashu, anh đậu bằng tiến sĩ, tuy nói tiếng Mỹ không trôi chảy, nhưng rất thông minh và sáng chế ra một transistor loại IC mà có thể làm cho Noise Figure rất thấp 2.0 db và Gain (khuếch đại) đạt tiêu chuẩn là 15 db. Ngoài ra có anh Wang Phang rất tử tế, thường giúp tôi khiêng những máy cần thiết về phòng tôi. Mỗi lần có gì thắc mắc thường điện thoại hỏi anh Khang hoặc Phạm Long (em Phạm Ngọc Thạnh, K22 ĐL).
Nhưng ráng ngồi làm việc được hai năm rưởi thì group đã sản xuất xong loại máy mới nầy, sau khi cho làm hàng loạt để tung ra thị trường khắp thế giới, mọi người trong group đều nhận được giấy khen. Tưởng đâu đã thu hoạch mỹ mãn thì được nghỉ xả hơi một thời gian, ai dè cấp trên định tái phối trí, toán tôi và toán của Wang Phang được chỉ định dời qua Texas và hãng định cho nghỉ hưu non (tình nguyện và bắt buộc)1200 kỹ sư để bớt chi phí hòng cạnh tranh với các hãng Nhật. Tôi không thể đi xa một mình được, các người trong gia đình đều có việc tại đây, nên các con tôi bảo tôi nghỉ hưu non, hãng cho một ít tiền và lãnh thất nghiệp được sáu tháng. Bây giờ được hưởng trợ cấp tàn phế mỗi tháng $490, hằng ngày ngồi trước bàn computer, để hồi tưởng và ghi lại những thăng trầm buồn vui đời lính và cuộc sống phấn đấu bằng nghị lực, đã xảy ra cho đời tôi, từ ngày bước chân vào trường VBQG, ngày xảy ra tai nạn thảm khốc gây cho cơ thể bất toàn.
Sự phấn đấu đã xảy ra thường xuyên và mãnh liệt với chính bản thân. Sống trong nỗi tuyệt vọng, mất niềm tin, cuộc phấn đấu nội tâm thật là cam go, nó còn khó gấp bội lần so với những giờ phút quyết liệt nơi chiến trường!


Thay Lời Kết

12 năm trong quân ngũ với nhiều vất vã gian nan, nhất là những lúc trèo đèo vượt suối. Ngoài ra những lần chạm địch, đạn thù không kiên nể một ai, lúc đó người chiến sĩ đem sinh mạng ra thử thách với tử thần! Người chinh phụ ở hậu phương lúc nào cũng phập phòng lo sợ.
9 năm còn kẹt lại ở Việt Nam, sống dưới chế độ phe đảng, công an, và cảnh sát. Bọn cầm quyền độc tài chuyên chế, lúc nào cũng muốn áp bức người dân, nhất là dân Miền Nam. Chúng muốn đưa gia đình của những người liên hệ chế độ cũ đến đường cùng. Một chế độ kiểm soát bằng lý lịch, những người cựu quân, cán, chính lành mạnh mà còn phải “Chạy ăn từng bữa toát mồ hôi!”.
Còn gia đình tác giả thì chồng bịnh tật, vợ ốm yếu, ba đứa con còn quá dại khờ (1, 3, và 5 tuổi). Tiền mặt sau khi đổi chỉ còn hai trăm đồng, không của cải quý giá (Honda, chiếc nhẫn truyền thống Đà Lạt bằng vàng 18,...đều bán sạch), vậy mà gia đình đã cố gắng ngoi từ đáy parapole để lên gần tới đỉnh.
13 năm sống tha hương, lúc mới qua Mỹ, trong nhà có hai lao động: trưởng nam mới vừa 16 tuổi, và mẹ đi làm nhà hàng, dành dụm tiền mua sách vở. Tối đi làm tới gần nửa đêm, sáng sớm cả nhà năm người đều cấp sách đến trường để rồi 9 năm sau, 4 cha con đều tốt nghiệp Kỹ Sư (1 cháu đổ bằng Master).
24 năm ngồi trên xe lăn, với nhiều biến chứng do bịnh tê liệt gây ra, khiến tác giả ngày đêm phấn đấu với những cơn đau nhức, khó chịu, nhất là ở vùng ranh giới thắt lưng, nơi đốt xương sống bị gãy. Đầu óc lúc nào cũng lo lắng trăm bề, nhiều khi cầm quyển sách mà trong óc nghĩ chuyện đâu đâu, tinh thần kém minh mẫn, chậm chạm, khó hấp thụ như tuổi thanh xuân. Vì vậy cần phải cố gắng gấp bội, mới có thể theo kịp bạn học, còn muốn điểm cao để đem lại vinh dự cho gia đình, cho sinh viên Việt Nam, thì khỏi nói quí vị cũng hiểu tác giả đã phải phấn đấu đến bực nào? Không được than van mệt mỏi, không được nghĩ đến những cơn đau do bịnh trạng gây ra. Phải tranh thủ từng giờ từng phút, kể cả những lúc các cháu ẵm lên bàn nằm nghỉ trưa tại phòng học, vừa cầm khúc bánh mì ăn, vừa đọc sách, ôn bài.
Đoạn trường ai có qua cầu mới hay! Mỗi lần tác giả nghĩ đến giai đoạn dài đã trải qua mà thấy rùn mình ớn sợ ! Không ngờ mình có thể chịu được cảnh đó trong suốt 24 năm! Cộng thêm mười năm ở quân trường và đơn vị tác chiến! Thì tuổi xuân nầy chẳng hưởng thụ được bao nhiêu, cán cân giữa vui và buồn, sướng và khổ, quả thật là quá chênh lệch!
Hôm nay ngồi đây viết lại hồi ký nầy để mong quí vị nào có phần số tốt hơn, đừng bao giờ buông xuôi, chán nản, mỗi khi gặp bất cứ trở ngại nào cũng cần phấn đấu ngoi lên.


Florida ngày 1/8/1997
Trương Dưỡng

HẾT

Cám Ơn Các Anh

Trương Dưỡng. K20
nguồn: http://www.dtruong.com/stories/MotCanhHoaDu_unicode.htm

BachMa
10-30-2017, 08:26 PM
Chiện zui !

- Hôm qua bồn cầu bị tắc, thấy trên mạng bảo đổ nước sôi vào có thể thông được, tôi mới đun 2 ấm nước sôi đổ thẳng vào, kết quả là, mẹ nó chứ, mùi còn nồng nặc hơn. Bạn cùng phòng tôi vừa về, nhìn tôi bằng ánh mắt quái dị nói, vãi, mày còn luộc cả cứt à?!

***

- Nửa đêm hôm qua đi đánh bài về, lẳng lặng đi tới cạnh giường, cởi quần oánh một cái rắm rõ to trên đầu bà xã rồi cười sung sướng. Nếu không phải vì nhìn thấy bà xã đi từ trong toilet ra, và vẻ mặt của mẹ vợ đang nằm trong chăn hoảng sợ nhìn tôi, thì có khi tôi còn cười thêm được lúc nữa…

***

- Đi ngân hàng rút tiền, dừng xe bên ngoài còn dặn thằng bạn là nếu có người đến phạt xe thì nhớ báo cho tôi biết một tiếng. Quả nhiên vừa vào được vài phút đã có cảnh sát giao thông đến. Thằng bạn kia xông vào trong ngân hàng gào ầm lên: Đại ca, cảnh sát đến, chạy mau!!! Mẹ nó chứ, cả một cái đại sảnh to mấy chục con người lập tức yên lặng không một tiếng động, sau đó cả đám đông ùn ùn chen nhau chạy ra khỏi ngân hàng như lũ quét. Tôi bị 5,6 nhân viên bảo vệ ấn xuống đất… Con mẹ nó oan chết đi được, đúng là không sợ đối thủ giỏi như thần, chỉ sợ đồng đội ngu như lợn.

***

- Trên xe bus~ một đứa bé trai nghịch ngợm hô to với bố mình ~ Bố ơi bố ~ Con là sủi cảo đây, mau ăn con đi! Bố đứa bé cũng phối hợp ăn ầm một miếng rồi nói: Ngon quá, bảo bối, con là sủi cảo nhân gì thế? Đứa bé: Bố ~ con là sủi cảo nhân cứt ạ ~

***

- Hôm nay xuống nhà gặp một ông cụ 100 tuổi, nhìn thấy cụ ngồi một mình liền tới hỏi: “Cụ ơi, sao cụ không xuống chơi cờ với mấy cụ dưới nhà ạ?” Không ngờ ông cụ lại nói: “Chơi với mấy thằng nhóc 60, 70 tuổi thì có gì vui đâu?”

***

- Lúc đi học tôi cầm theo quả hồng, sau khi lên xe bus thì cắm cúi nghịch di động, tiện tay nhét quả hồng vào túi. Vừa ngồi xuống, có một tiếng pẹt vang lên, thịt quả hồng màu vàng đỏ lòi ra dưới mông, mọi người trên xe lập tức bịt mũi. Vì muốn giải thích rõ, tôi còn quẹt một tí đưa lên miệng, kết quả là cả xe thi nhau nôn ọe. Bác tài xế nói, đó là cứt thật, đứa bé kia vừa ị đùn ra, quả hồng của cậu rơi dưới đất kia kìa.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1509394669-Bop.jpg


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1509394720-LoXa.jpg

BachMa
11-05-2017, 05:45 PM
Trình Độ Ngoại Ngữ Của Tổng Thống Ngô Đình Diệm
Vỹ Nhân Của Thế Giới
<iframe width="780" height="475" src="https://www.youtube.com/embed/vG04lc4Vdog" frameborder="0" allowfullscreen></iframe>

BachMa
11-11-2017, 02:44 AM
Trình Độ Ngoại Ngữ Của Lãnh Tụ..
Việt Nam Cộng Hòa ngày xưa

<iframe width="780" height="475" src="https://www.youtube.com/embed/F4iwA9s3Mfk" frameborder="0" allowfullscreen></iframe>

BachMa
11-18-2017, 09:00 PM
Nhớ Ngày Sài Gòn Mất Tên
(Hấp lực Của Một Thành Phố)
Komori Yoshihisa & Khôi Nguyên

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1509395263-NhoNgaySaiGonMatTen_01.jpg
Tuy phải sống trong hoàn cảnh lửa đạn chiến tranh kéo dài, nhưng miền Nam VN lại là một quốc gia có sức hấp dẫn lạ kỳ. Trong đó, xã hội của thành phố Sài Gòn cũng là nơi tỏ sức thu hút đặc biệt với những mặt tốt xấu, buồn vui, thiện ác của con người được bộc lộ rõ nét.

Đó là một xã hội thể hiện những phong tục và bản sắc của người dân VN được pha trộn thêm những nét văn hóa tiêu biểu của Trung Hoa, Pháp và Hoa Kỳ nên có thể nói đây là một sự kết hợp tính đặc thù giữa Đông và Tây, cũ và mới. Điển hình là có những người xem bói và nói về tín ngưỡng thần linh bằng tiếng Pháp một cách sành sỏi.

Không hiểu đó có phải là do cá tính dân tộc của người miền Nam VN hay là vì những quan niệm về lẽ sinh tử bị ảnh hưởng từ chiến tranh, nhưng họ luôn bộc lộ tình cảm một cách trực tiếp không cần che đậy hay đè nén. Họ vật vã gào khóc khi mất người thân, họ khiển trách than thở trước những tệ nạn của nhà chức trách, họ giận dữ lớn tiếng khi bị lường gạt hoặc mất tiền bạc của cải v.v….Tóm lại, việc bộc lộ tình cảm vừa trực tiếp vừa khích liệt là những điều xảy ra trong cuộc sống hàng ngày của xã hội miền Nam VN. Điều này quả thật tương phản với hình ảnh những người Nhật Bản ngồi im lặng chịu đựng trên những con tàu điện ngầm chật kín trong giờ cao điểm đến hãng sở làm việc ở Tokyo.

Tuy nhiên, ở mặt phản diện hầu như trong thâm tâm mọi người đều có khuynh hướng dè dặt và nghi ngờ hay nói cách là không thật tình tin tưởng kẻ khác và đây chính là hai mặt trái ngược khi diễn tả tâm tính của người Sài Gòn. Tức là tuy ta có thể nhìn thấy cảm tình của họ dường như bộc lộ ra hết bên ngoài nhưng mặt khác bên trong lại chất chứa sự nghi ngờ. Vì vậy cũng có thể nhìn được hai yếu tố gắn liền với mặt phản diện này là sự gian dối và sự lừa gạt. Ngoài ra, xã hội cũng nghiêng về sức mạnh của đồng tiền được coi là bối cảnh xuất phát tệ nạn tham nhũng.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1509395281-NhoNgaySaiGonMatTen_02.jpg

Thế nhưng, điều khiến tôi dao động mạnh nhất là nhìn thấy người dân miền Nam kể cả nam lẫn nữ đều có sức sống mãnh liệt dù trong tình trạng đất nước chiến tranh, không biết sống chết lúc nào. Họ luôn tươi cười rạng rỡ và bình thản trong cuộc sống. Quả thật, đối với một người từ thủ đô Tokyo Nhật Bản trong một buổi chiều Xuân êm đềm như tôi chợt thay đổi hoàn cảnh, đi đến vùng đất chiến hỏa này và được mục kích lối sống của người dân miền Nam VN nên tôi không khỏi ngạc nhiên.

Tóm lại, kể từ sau khi hiệp định Ba Lê được ký kết vào tháng Giêng năm 1973, tôi càng có nhiều cơ hội tiếp xúc với những người VN và cảm nhận được những biểu hiện tình cảm hỉ nộ ai lạc của họ. Đó là khoảng thời gian mà cho dù ai cũng biết hiệp định đình chiến Ba Lê chỉ là trò nguỵ tạo nhưng nhịp sống của xã hội Sài Gòn vẫn tiếp tục vươn lên và kỳ vọng về một tương lai hòa bình trong lúc tình hình chiến cuộc có lúc tạm thời lắng dịu.

Riêng trường hợp của tôi, cho đến khi quen thuộc với cuộc sống ở Sài Gòn thì cũng phải trải qua nhiều kinh nghiệm thương đau. Nói chung, có những người dân ở đây suy nghĩ rằng người ngoại quốc vốn giàu có nên nếu lường gạt họ bao nhiêu cũng là điều bình thường. Hơn nữa, nếu sự lường gạt xảy ra giữa những người VN với nhau thì phía bị lường gạt lại bị coi là ngu khờ, dại dột và phải chấp nhận sự thiệt thòi này một cách đương nhiên.

Điển hình là lúc tôi mướn căn phòng trọ trong thành phố do một phụ nữ trung niên kinh doanh tiệm uốn tóc làm chủ, tôi có ký vào một tờ giấy được coi là bản khế ước mướn phòng. Nhưng khi bắt đầu dọn vào ở ngày đầu tiên thì sáng hôm sau có một người đàn ông lạ mặt đến cho tôi biết rằng: “Anh là người nhập cư bất hợp pháp”. Thì ra người phụ nữ nói trên đã tự ý lấy danh nghĩa chủ phòng rồi cho tôi mướn. Sau đó tôi phải trả thêm tiền đặt cọc cho người chủ phòng thật sự.

Chưa hết, khi tôi nhờ người bắt đường dây điện thoại trong phòng thì cũng ngay sáng hôm sau khi chuông điện thoại reo thì tôi bắt máy nhưng lại nghe tiếng hai người đàn ông khác đang nói chuyện. Bởi lẽ, đây không phải điện thoại bắt riêng mà họ câu dây từ máy điện thoại chính ở phòng bên cạnh. Dĩ nhiên là tôi bị mất tiền bắt đường giây này và sau đó cũng phải trả thêm tiền để bắt đường giây riêng cho máy điện thoại của mình.

Ngoài ra, tôi cũng từng bị mất xe hơi, bị trộm vào phòng. Đó là lúc tôi ngã bệnh vì chưa quen phong thổ nơi này, sau mấy ngày nằm liệt tôi cảm thấy hồi phục và đi ra ngoài cho khuây khỏa nhưng khi trở về phòng thì thấy kiếng cửa sổ bị phá vỡ và lúc xem lại đồ đạc thì mới biết bị mất tiền, máy chụp hình máy thu âm v.v…

Thêm một kinh nghiệm khác là do công việc bận rộn nên tôi có mướn một phụ nữ đến dọn dẹp, giặt giũ nhưng trải qua một thời gian dài sau đó tôi mới biết tiền bạc trong ngăn kéo và túi quần đã bị cô ta lấy đi từng chút, Có lần tôi cùng người bạn đi Vũng Tàu tắm biển thì bị trộm chìa khóa xe hơi, cuối cùng phải bỏ tiền ra chuộc lại chìa khóa. Trong khi đó, tôi cũng được nghe nói về tình trạng hối lộ hoành hành trong xã hội.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1509395294-NhoNgaySaiGonMatTen_03.jpg

Tuy vậy, bên cạnh những mặt tiêu cực cũng có biết bao điều tốt đẹp diễn ra nơi những góc cạnh khác của xã hội miền Nam với nhiều mảnh đời cùng cực đầy nghịch cảnh nhưng họ vẫn vững tin vào cuộc sống và giữ được nét thanh khiết trong tâm hồn vốn chứa đựng đầy ý nghĩa tình người khiến tôi vô cùng ngạc nhiên muốn tìm tòi học hỏi thêm. Hoặc có thể nói khác hơn là chính họ đã mang lại những nụ cười và niềm lạc quan yêu đời cho tôi mà từ trước đó tôi chưa hề cảm nhận được nguồn năng lực tạo nên sức sống mãnh liệt đến như vậy.

Tóm lại, trong khi tôi cố gắng nhớ tiếng Việt bao nhiêu thì cũng tiếp xúc thân mật với những người thuộc giai cấp bình dân bấy nhiêu. Từ đó, tôi lại càng bị lôi cuốn vào hấp lực của thế giới nội tâm mang nét đặc dị của người dân trong xã hội miền Nam VN nói chung và Sài Gòn nói riêng.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1509395311-NhoNgaySaiGonMatTen_04.jpg

Nếu đối chiếu với xã hội Nhật Bản xưa kia, ta cũng thấy được nét tương đồng của xã hội miền Nam về đặc tính bổn phận của cá nhân đối với gia đình. Trong xã hội miền Nam, những người được coi là trụ cột của gia đình luôn có bổn phận phải chăm lo cho cha mẹ, anh chị em và người thân nên có thể nói là họ đã hy sinh cả cuộc đời để chu toàn bổn phận này. Trong mối quan hệ với bạn bè, người quen, người dân miền Nam còn có lối xử thế đặt trên căn bản coi trọng tình nghĩa lẫn thể diện. Tôi đã gặp rất nhiều người tuy trông bề ngoài có vẻ như họ rất chuộng tiền bạc vật chất nhưng bản chất thực sự của họ chính là những người tốt bụng, có lòng giúp đỡ tha nhân và hành xử theo hướng nhân nghĩa đạo đức rất đáng kính trọng.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1509395326-NhoNgaySaiGonMatTen_05.jpg

Thêm nữa, nếu ta xét về trường hợp người dân sống trong một xã hội lâm cảnh nhiễu nhương trong thời kỳ chiến loạn như miền Nam thì có lẽ họ không thể nào có được một cuộc sống nội tâm đơn thuần. Và vì vậy, họ phải thích ứng với hoàn cảnh để sinh tồn trong những môi trường lừa lọc, tính toán. Nói một cách đơn giản là trong bối cảnh cuộc chiến VN có sự xâm nhập của những thành phần hoạt động cho phía MTGP nên người dân miền Nam khó có thể phân biệt ai là thù ai là bạn và từ đó họ cũng không thể nào tin tưởng người khác một cách dễ dàng.

Những nét đặc tính sinh hoạt của người dân miền Nam VN còn được một ký giả Nhật Bản nổi danh là Kondo Koichi miêu tả rất sống động qua các loại bài ký sự và tác phẩm của mình. Ông Kondo Koichi vốn là đặc phái viên của tờ báo Sankei tại Sài Gòn, từng lưu học ở Pháp và kết hôn với người trưởng nữ của vị đại sứ Nhật Bản ở Pháp vào năm 1967 nhưng chỉ ba năm sau vợ ông qua đời.

Ông đến Sài Gòn làm việc từ năm 1971 và trong thời gian này đã tái hôn với một phụ nữ VN tên Bùi Thị Nâu. Sau đó, ông đã viết quyển sách “Saigon Kara Kita Tsuma To Musume” tức “Vợ Con Tôi Đến Từ Sài Gòn” để nói về đặc tính sinh hoạt của người dân miền Nam qua hình ảnh của người vợ ông là bà Nâu và người con gái riêng của vợ tên Mỹ Dung mà ông coi như con ruột. Tác phẩm này đã đoạt được giải thưởng văn học bộ môn tả chân mang tên văn hào Oya Soichi vào năm 1979.

Từ năm 1980, ông Kondo Koichi còn thực hiện hàng loạt bài phóng sự về vấn đề người tị nạn VN và cũng nhận được nhiều giải thưởng văn học danh giá của Nhật Bản. Tuy nhiên, tác phẩm nổi tiếng nhất của ông liên quan đến sự kiện Sài Gòn Thất Thủ” là quyển sách có tựa đề “Saigon Ichiban Nagai Hi” tức “Sài Gòn Ngày Dài Nhất”. Đáng tiếc là ông Kondo Koichi đã ra đi trong lứa tuổi hãy còn rất trẻ khi mất vào tháng Giêng năm 1986 vì chứng bệnh ung thư bao tử, hưởng dương 45 tuổi.

Trở lại những mảnh đời nổi trôi theo số phận nghiệt ngã mà từ tôi từng chứng kiến tại Sài Gòn thì quả thật họ có sức chịu đựng vượt qua mọi sự tưởng tượng của tôi. Chẳng hạn như trường hợp một vị cao niên trong cùng năm có tới 3 người con trai tử trận nhưng ông vẫn đè nén nỗi đau để vươn sống và chăm lo cho các cháu của mình. Còn một người tôi quen khá thân là cô gái ở lứa tuổi đôi mươi làm việc ở quán bar có mang được 7 tháng thì nghe tin chồng chết ngoài chiến trường và cô vẫn tiếp tục vui sống vì đứa con và người mẹ già của mình. Ngoài ra còn biết bao cảnh ngộ bi thương khác nhưng lạ lùng là họ vẫn nở nụ cười như để trang điểm thêm cho cuộc sống.

Nói chung, từ trong bóng tối chiến tranh, ánh sáng của những nụ cười sảng khoái và những câu nói đùa làm bầu không khí trở nên sôi động chính là hành trang trong cuộc sống của người dân miền Nam. Đó cũng là những bài học giúp tôi nhìn được ý nghĩa cuộc sống để đương đầu với nghịch cảnh.
Lối sống của người dân miền Nam VN là như vậy đó và nó luôn thu hút tôi một cách đặc biệt.


©Komori Yoshihisa & Khôi Nguyên @ HVR
nguồn: http://www.nvbonphuong.com/forums/showthread.php?250940-Nhớ-ngày-Sài-Gòn-mất-tên-Hấp-lực-của-một-thành-phố

BachMa
11-21-2017, 07:34 PM
Còn Nhớ Sài Gòn Không - Thanh Thúy
<iframe width="780" height="475" src="https://www.youtube.com/embed/1mhLl8YXjcw" frameborder="0" allowfullscreen></iframe>

BachMa
12-01-2017, 09:41 PM
Chuyện Về Chị Kim Chi
Vĩnh Chánh

Một chuyện tình đẫm lệ thời chinh chiến. Thật đáng thương cho những người đã sinh ra và lớn lên trong cuộc chiến quốc cộng tương tàn thảm khốc.

oooOooo

Chị biết anh vì hai gia đình ở chung xóm gần chợ Gia Định. Chị cũng là bạn cùng lứa với em anh từ trường tiểu học cho đến lúc vào trường Trưng Vương. Anh học Khoa Học Sài Gòn. Thỉnh thoảng anh dừng chân ở quán nhà chị ở đầu ngõ, chào hỏi vu vơ, nói đôi ba câu chuyện. Kêu chị là bé dù anh chỉ hơn chị chừng 5 tuổi. Vậy mà chị lại thích, chị có cảm giác mình thật bé bỏng khi đứng bên cạnh anh thật cao lớn, cần sự che chở của anh.

Năm lên lớp 11, chị thấy anh vắng mặt một thời gian ngắn, qua nhỏ bạn biết anh động viên vào Thủ Đức. Rồi anh lại hiên ngang xuất hiện sau đó với bộ đồ hoa dù và nón Beret đỏ. Cuộc tình bắt đầu, với người yêu là một Thiên Thần Mũ Đỏ.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1512006697-ChuyenVeChiKimChi_01.jpg
Hình minh họa

Ở tuổi 17, chị lớn dần trong tình yêu trầm lặng của anh, trở thành một thiếu nữ chín chắn, trong khi đó đời sống nội tâm cùng sự lo sợ triền miên đôi khi khiến chị cảm thấy lạc lõng giữa chúng bạn ở lứa tuổi ô mai.

Niên học 1974-1975, chị bước vào năm thứ nhất Văn Khoa. Anh vẫn miệt mài với đơn vị ở những chiến trường xa. Những lá thư yêu thương anh gửi chị chỉ ghi cái địa chỉ KBC 4794 lạ hoắc.

Cuối tháng Hai 1975, anh bất ngờ có mấy ngày về phép. Đêm trước ngày trở lại đơn vị, anh đưa chị đi ăn chè góc Bạch Đằng/ Nguyễn Huệ. Ngồi quán chè, cùng nhìn ra sông Saigon, chị bỗng nghe anh nói bằng một giọng nhẹ nhàng, “Ngày mai anh trở ra lại mặt trận. Em ở nhà bình an. Chuyến đi này không biết bao giờ anh về thăm em được. Tình hình rất căng. Đôi khi anh nghĩ may ra anh bị thương thì chúng mình mới có cơ hội để thành vợ chồng!”

Lẫn trong tiếng nói, chị tưởng như bên tai mình có hơi thở của anh. Vị ngọt của muỗng chè bỗng trở thành vô vị nơi cuối lưỡi. Chị quay lại nhìn anh. Hai bàn tay tìm nhau. Không, không thể chờ đến khi anh bị thương… Nhận ra bàn tay mình run rẩy trong tay anh, chị nói “Thôi mình về đi anh”.

Khi lặng lẽ rời quán chè bờ sông, anh không cầm tay chị. Chắc anh không hiểu sao buổi hẹn hò bỗng bị chị cắt ngắn, đòi về. Nhìn vẻ thất vọng một cách tội nghiệp trên khuôn mặt sạm đen của anh, chị thấy thương anh chi lạ. Phải cố gắng lắm chị mới có thể nói với anh bằng giọng bình tĩnh: “Mình về nhà trọ của anh đi, em có chuyện muốn nói.”

Ngay khi cánh cửa phòng riêng của anh trong nhà trọ vừa khép lại, chị đứng trước anh, nhìn anh, rồi nói như sợ không còn cơ hội nào khác “Đêm nay em sẽ ở lại đây. Em muốn chúng mình thuộc về nhau đêm nay. Em không muốn chờ đợi thêm nữa.”

Không chờ cho anh kịp phản ứng, chị rơi mình vào vòng tay anh, mặt đầm đìa nước mắt. Cả hai xớ rớ ngồi cạnh giường, luống cuống đến tội nghiệp. Bên cho với tê tái khắc ghi. Bên nhận trong nghiệt ngã đắn đo. Sau đó, cả hai dựa sát vào nhau; anh trầm tư ôm vai chị, che chở trìu mến, chị ngã đầu trên tay anh, nhìn lên trần nhà, mủi lòng, mặc cho nước mắt tự nhiên tuôn trào.

Thương anh, thương mình, lo sợ cho số kiếp con người mong manh. Chị biết chị vừa đi ngược sự giáo dục gia đình, nhưng chị không cảm thấy nuối tiếc, vì chị nhận rõ một khi tình yêu và hy sinh để trở thành một thì không có gì tuyệt đẹp hơn là giờ phút bên nhau trong hiện tại. Y như câu truyện “Một Thời Để Yêu Một Thời Để Chết.”


***

“Này em khăn áo vẫn còn nếp nhầu
Lược gương đâu có nỡ nào quên bóng hình
Này em, chăn gối vẫn còn ấm nồng
Chỉ người năm cũ như bóng trăng gầy liệm cuối sông…” (1)

Đêm đầu tiên và cuối cùng có nhau, chị biết đơn vị dù của anh đang hành quân vùng cao nguyên.

Ngày 10 tháng Ba năm 1975, Ban Mê Thuột thất thủ. Sau đó có tin Pleiku, Kontum bị rút bỏ.

Từ vùng hành quân, anh nhờ lính hậu cứ nhắn tin cho chị biết. Và đó là lần cuối cùng chị được tin anh.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1512006712-ChuyenVeChiKimChi_02.jpg
Hình minh họa

Cuối tháng 3, chị được biết TĐ của anh cùng chung số phận với Lữ Đoàn 3 ND, đánh cho đến người cuối cùng ở Khánh Dương, rồi phân tán mỏng. Trên đường rút quân, đơn vị đã không tìm thấy anh. Mất tích? Tử thương? Bị bắt làm tù binh? Quả là tội nghiệp cho một thiếu nữ như chị, với chỉ danh nghĩa người yêu của lính, xuôi ngược chạy tìm tin tức của anh, từ hậu cứ TĐ đến Bộ Tư Lệnh SĐ, hoặc ủ rũ chờ đợi, nghe ngóng tin tức ở nhà anh.

Ngày 29 tháng 4, người anh cả của chị, một sĩ quan HQ, chạy nhanh về nhà, hối thúc cha mẹ, thằng em trai và chị ra bến Bạch Đằng, lên thuyền rời nước. Như một người máy trôi theo dòng đời, chị ra đi mà lòng quặn đau, bất định, biết rằng từ đây mọi người vĩnh viễn mất nước. Và chị, vĩnh viễn xa rời và mất luôn cả anh.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1512006726-ChuyenVeChiKimChi_03.jpg
Hình minh họa

Ngày đến trại Fort Chaffee, tiểu bang Arkansas, chị mới biết mình có thai được trên 2 tháng. Trong khi cả gia đình chị bấn loạn, cá nhân chị vừa lo lắng vừa hân hoan với mầm sống của anh trong người. Qua bao nhiêu gian nan, cam go chịu khổ chịu cực, chịu cảnh gái chưa chồng nhưng có con, chị can đảm vượt thoát mọi thử thách, mọi e dè để cuối cùng định cư ở Fort Polk, tiểu bang Louisiana với một người chồng Mỹ vào năm 1984. Chị cố tạo cho mình một vườn hoa trái nơi chị nhận làm quê hương thứ hai, nhưng đa số là trái ngang trái trắc trở, trái sầu trái đắng, trái chua trái cay, là tiềm ẩn từ bao thôi thúc vương vấn, bao bùi ngùi luyến thương của mất nhau, hoài nhau không thể chối từ mà cũng chẳng thể vứt bỏ vì đó là những bám víu giúp chị can đảm sinh tồn.


***

Gần cuối thập niên 80, tôi tình cờ gặp chị trong một phiên trực tại phòng cấp cứu của Bệnh Viện Baynes Jones Army Community tại Fort Polk, tiểu bang Louisiana, nơi vốn là bản doanh của sư đoàn 5 cơ giới Hoa Kỳ đã có mặt tại chiến trường VN. Con gái chị, với khuôn mặt Việt Nam, khoảng 13-14 tuổi, té xe đạp, không bị thương tích nặng ngoại trừ vài vết thương trầy trụa ngoài da. Nhìn thấy tôi là một bác sĩ người Việt, chị mừng rỡ bắt chuyện. Kể từ đó, thỉnh thoảng chúng tôi gặp nhau đôi lần, cũng tại bệnh viện quân đội Mỹ, có luôn cả người chồng Mỹ của chị là một thiếu tá hồi hưu từng tham chiến 2 lần tại Việt Nam.
Vài năm sau chồng chị qua đời vì bệnh tim, chị trở thành bệnh nhân của tôi tại phòng mạch tư. Đó cũng là thời gian tôi khám phá chị bị ung thư vú và chuyển chị qua bác sĩ chuyên khoa. Trong một lần nói chuyện dài hơn, chị mở lời tâm sự về chuyện tình của chị trong chiến tranh VN, về người cha của con gái chị. Chị cho biết chị cầu nguyện hàng ngày hầu mong biết tin tức về anh, sống chết như thế nào sau trận đánh ở Khánh Dương, nhưng không mấy hy vọng cũng như đã từng cố gắng tìm kiếm qua các cộng đồng người Việt tỵ nạn trong bao năm qua. Không lâu sau đó, chị rời vùng Fort Polk trở về sinh sống với cha mẹ chị ở Springdale, tiểu bang Arkansas.


***

Chào bác sĩ. BS. còn nhớ tôi không?? Tôi là Kim Tiên đây…Vâng, đúng rồi đó. Vâng. Cám ơn BS. Bố mẹ tôi bình yên… Con gái tôi vừa vào năm thứ nhất Đại học cộng đồng tại đây. Dạ cám ơn BS. Chắc cháu sẽ vui khi biết BS vẫn còn nhớ đến cháu và gởi lời thăm… Thưa BS. hiện tại ung thư của tôi ở giai đoạn cuối, các bác sĩ bên này cho biết tôi còn sống được khoảng 6 tháng nữa… Dạ. Cám ơn BS… Dạ không sao! Tôi muốn báo một tin rất vui cho BS. biết là tôi vừa tìm được tin tức của cha con gái của tôi rồi… Cám ơn BS chung vui với chúng tôi. Vâng, anh ấy vẫn còn sống tại Việt Nam… Dạ, tôi may mắn tìm ra được em gái của anh, cũng qua Mỹ với chồng theo chương trình H.O cuối năm 1991. Nhờ trời thôi BS ạ…Dạ, qua chương trình Nhịp Cầu Thân Yêu của đài Little Sài Gòn loan báo… Thưa BS., chính tôi cũng không biết được tình trạng của anh ra sao! Em gái của anh nhất định không chịu nói nhiều. Chỉ cho địa chỉ một người trung gian… Nên tôi quyết định về VN một chuyến, trước là để thăm mộ bên nội ngoại của tôi, sau sẽ tìm đến thăm anh… Dạ, tôi cùng đi với một người bạn thân quen trong nhà thờ, tôi không thể chờ con gái tôi cùng đi chung vì cháu rất bận học, mà tôi thì không còn bao nhiêu thì giờ nữa… Dạ có gì tôi sẽ cho BS biết sau… Cám ơn BS. Tôi sẽ cố gắng giữ gìn sức khỏe trong chuyến đi.

Gần một tháng sau, chị gọi điện thoại cho tôi, nói nhanh giữa những cơn thở nặng và xúc động. Câu chuyện nhiều lúc bị ngắt khoảng bởi những im lặng và tiếng sụt sùi.


***

“Sài Gòn là đây sao em? Đường không còn lối người chen chân.
Sài Gòn là đây sao em? Lạ sao giọng nói người không quen!
Biết mấy tâm sự đành lãng quên. Xôn xao kỷ niệm lạc lối tìm…” (2)

Sau nhiều ngày bận rộn đi thăm bà con gần xa và viếng mộ đại gia đình ở Thủ Đức, chị mệt mỏi trở về Sài Gòn, ngỡ ngàng bước cô đơn giữa lòng phố đầy người.
Ngày rời Sài Gòn với mảnh giấy ghi địa chỉ của anh do một người bà con với em của anh cho, chị đi xe khách đến Ninh Hòa. Từ bến xe, chiếc honda thồ chở chị đi tiếp trên con đường đất đến một làng khá xa thị xã. Đường về lối mới sao chật hẹp thu nhỏ, hoàn toàn xa lạ trong tâm trí, không một hương thơm vương vấn. Không một tiếng gọi quen thuộc. Không một câu hò ạ ơ. Và trời cũng chẳng mưa để làm ướt lòng người trở về. Ngược lại trời đổ nắng đến hoa cả mắt, nóng cháy cả người kèm theo bụi đường đỏ làm chị ngột ngạt giữa bao nhung nhớ chất chứa màu kỷ niệm của thuở tình tự.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1512006737-ChuyenVeChiKimChi_04.jpg
Hình minh họa

Sau vài lần ngưng dọc đường hỏi thêm chi tiết, xe ngừng trước một căn nhà nhỏ xơ xác, tội nghiệp với mái tôn đổi màu theo thời gian, có vài bụi chuối xung quanh cùng hàng cây dâm bụt phía trước. Không chần chờ, chị bước vội vào nhà. Đập ngay vào mắt là một thân hình cao, gầy gò ngồi trên một sạp tre, lưng xoay ngược hướng chị đi vào, bên cạnh là một cặp nạng. Chị ngập ngừng lên tiếng, kêu nhẹ tên anh. Thân hình ấy quay nhanh về hướng chị, cùng lúc quờ quạng chụp tìm đôi nạng gỗ. Trước mắt chị là một hình hài với chân phải cụt lên tận đầu gối, áo quần xốc xếch, tóc tai bung xung. Chị bật khóc chạy đến gần, trong một thoáng kịp nhìn thấy 2 vũng mắt lõm sâu không có tròng mắt. Chị đột nhiên khuỵu người xuống trên sàn đất, như thể toàn sức lực dành cho chuyến đi bỗng cạn kiệt. Cùng lúc ấy, bóng một người đàn bà đi nhanh từ bếp nâng chị dậy.

Anh bị thương nặng ở chân trên đường rút quân, cố gắng lết xa khỏi trận chiến và ẩn núp trong bụi rậm. Ngày hôm sau, địch tìm thấy anh và bắt anh làm tù binh. Anh nghĩ vết thương ở chân phải có thể lành nếu được chữa trị với trụ sinh và đăng bột, nhưng tên y sĩ trại tù chọn cách dễ là tháo khớp gối. Sau đó anh còn bị đạn nổ trong khi nhóm lửa rừng sưởi ấm ở trại tận bên Cao Miên, khiến cả 2 con mắt của anh bị hư nặng tuy vẫn nhìn thấy rất mờ. Vì vậy anh được thả cho rời trại sớm. Trên đường khổ sở, một mình thất thểu về lại làng phố, anh bỗng gặp một người đàn bà chưa một lần quen biết, hiện tại là vợ của anh, đem anh về nhà săn sóc. Chồng trước của bà là một người lính Địa Phương Quân tử trận 2 năm trước ngày mất nước. Trong vài năm sau đó, đôi mắt anh làm độc kinh niên nên bác sĩ đành phải múc bỏ cả hai bên.

Biết tính của anh chỉ muốn nhắc đến những giai đoạn quan trọng của trận cuối và trong thời gian khi còn là tù binh, chị không thắc mắc hỏi thêm, cũng chẳng cắt ngang cuộc độc thoại của anh bằng một giọng nói trầm tĩnh của chấp nhận số phận đã an bài, của một cam chịu không lối thoát. Chị có cảm tưởng anh chỉ thổ lộ lần duy nhất này rồi sẽ không bao giờ nhắc lại, như chôn sâu vĩnh viễn nỗi oan khiên vào bóng tối đời anh. Đời anh là một nỗi buồn khôn nguôi kết trái sầu tủi từ thuở anh trở thành kẻ chiến bại và phế nhân. Anh cố tình làm ra vẻ thản nhiên như không hề muốn chị phải đau đớn, dày vò tự trách số phận quá nghiệt ngã, cùng khốn, lỡ làng!

“Trách chi người ai lỗi ai
Trách chi người mi ướt cay
Trách chi người thôi đã xa nhau kiếp này…
Mùi thơm khăn áo ngây ngất đi vào cổ tích tôi” (1)

Chị yên lặng ngồi nghe, tiếng được tiếng không, tê tái cõi lòng, nhớ lại năm xưa có lần anh thì thầm bên chị, “may ra anh bị thương thì chúng mình mới có thể trở thành vợ chồng.” Thế nhưng tuyệt đối chưa một lần chị nghĩ đến anh có thể bị thương trong cuối cuộc chiến, và cũng chưa hề nghĩ anh đã phải trải qua những giai đoạn khổ sở cùng cực như vậy. Từ một nam nhân oai hùng ngày xưa, nay anh là một phế nhân với những vết thương tàn phá nặng nề trên cơ thể. Đôi mắt ngày xưa, nơi chị thường hay nhìn vào để tìm hình ảnh của tình yêu và sức sống của tuổi trẻ mình, nay chỉ là 2 mí mắt nhíp gần nhau nằm sâu trong một khoảng màu trắng ở giữa. Giờ đây chị mới hiểu vì sao em gái của anh tránh không cho chị biết nhiều về anh. Chị bỗng cảm thấy gần gũi với vợ của anh, thầm cám ơn rằng ơn Trên sắp đặt cho anh tìm được ánh sáng dịu hiền giữa đường qua sự săn sóc, cứu vớt, nuôi nấng, bao bọc, che chở, yêu thương của người vợ này. Như một bà tiên hiện ra nguyên vẹn để dẫn dắt, cưu mang, nâng đỡ chàng Thiên Thần Mũ Đỏ của chị trong sa cơ thất thế, khi cánh dù bị chà đạp, tan tác trong cuộc đổi đời.

Chiều hôm ấy, chị không từ chối khi vợ anh mời chị ở qua đêm tại đây, cả hai cùng nhau tâm sự dưới một ngọn đèn vàng úa duy nhất của nhà, nhất là sau khi nghe chị cho biết anh từng là người yêu đầu đời của chị. Càng về khuya, chuyện trò càng cởi mở hơn, bấy giờ chị mới từ tốn cho vợ chồng anh biết là chị có thai với anh ngay trong đêm trước khi anh rời Sài Gòn về lại đơn vị cuối tháng 2, 1975. Con gái của anh sinh vào cuối tháng 11, 1975; chị đặt tên cho con là Kim Ngân, ghép từ nửa tên của chị và nửa tên của anh, nay con gái được 19 tuổi và đang học đại học gần nhà. Vợ anh liên tục nắm chặt tay chị và kéo chị ngồi sát vào mình, một cử chỉ che chở, chia xẻ, thông cảm và đầy thân thiện trong suốt câu chuyện. Anh hoàn toàn im lặng, hai tay ôm đầu mình. Thỉnh thoảng 2 vai có rung nhẹ. Mãi sau khi chị dứt, anh mới nhẹ nhàng hỏi là con gái có biết câu chuyện giữa anh và chị, và biết anh là cha không. Con gái anh, chị trả lời, chỉ biết cha nó là một sĩ quan Nhảy Dù, tử trận và mất xác khi cuộc chiến VN gần đến hồi kết thúc. Ngay cả mục đích đi tìm anh trong chuyến về VN của chị, chị cũng hoàn toàn dấu con gái.

Chỉ một điều duy nhất chị không tiết lộ cho anh và vợ anh biết là chị đang bị ung thư vào giai đoạn cuối.

Tối hôm đó, sau khi đọc kinh cầu nguyện cám ơn, chị có một giấc ngủ thật an lành dù lạ nhà, một phần có lẽ vì đi đường quá mệt, phần kia vì chị đã đạt được mục tiêu chính của chuyến đi. Sau bao nhiêu cầu xin, bao nhiêu thấp thỏm đợi chờ mong mỏi tin tức, nguyện vọng ấp ủ từ bao năm qua nay được đáp ứng và trở thành sự thật. Trước đây, bao thương nhớ, bao hình ảnh về anh và sự mất anh trong đời, những suy sụp tinh thần của một người đàn bà di tản mang thai, những oan trái mòn mỏi trong xót xa; những gian khó thử thách trong đời sống mới, những gượng cười trong lệ sầu; những năm nuôi dạy con một mình; những cô đơn tinh thần khi sống bên cạnh người chồng Mỹ với bao dị biệt văn hóa, ngôn từ; những mệt mỏi thể xác qua bao lần xạ trị, hóa trị, thuốc cũ thuốc mới, những sợi tóc xanh phai màu rơi rụng; những đau đớn chán nản khi căn bệnh trở nặng; những lo âu suy tính về tương lai con gái rồi đây sẽ mồ côi mẹ… tất cả đã tạo cho chị một tình trạng trầm cảm nặng nề. Nhưng giờ đây, chị vô cùng mãn nguyện tìm thấy anh, nhìn thấy anh bằng xương bằng thịt, biết anh đã sống sót qua chiến tranh, dù bị tàn phế trầm trọng nhưng bù lại anh có một người bạn đường luôn bên cạnh, săn sóc yêu thương anh. Hơn nữa anh còn có đứa con gái và đứa con trai.

Sáng hôm sau, đứa con trai của anh, nhỏ hơn con của chị gần 3 tuổi, ở nhà ông bà ngoại cạnh trường trung học huyện, về kịp chào chị trước khi chị lên đường. Chị cũng đã kín đáo trao tặng tất cả số tiền lớn còn lại cho vợ anh đêm qua. Chị có hứa với vợ chồng anh là chị sẽ kể cho con gái của anh tất cả câu chuyện giữa anh và chị, không một dấu diếm, luôn cả thương tật của anh và hoàn cảnh hiện tại của vợ chồng anh. Để trả lời câu hỏi của vợ anh, bằng một giọng mong manh sâu tận đáy lòng, chị run run xúc động cho biết sẽ trở về lại thăm vợ chồng anh nếu sức khỏe cho phép. Sau khi chào tạm biệt vợ chồng anh và chúc nhau an lành, hai người đàn bà ôm xiết chặt nhau, mắt chớm lệ, gần gũi trong cảm thông trân quý. Anh vẫn đứng yên bên khung cửa trước nhà, chan hòa trong ánh sáng ấm ban mai. Chị vội bước nhanh đến chiếc xe thồ đang đợi. Xe rồ máy chở chị đi. Không nhìn lui, bình an trong lòng, chị ngước nhìn trời. Một màu xanh tuyệt đẹp. Không mây.


***

“Sài Gòn ngày xưa đâu em? Mộng mơ ngày tháng tuổi hoa niên.
Sài Gòn ngày xưa đâu em? Từng con đường phố mình thân quen
Dĩ vãng đâu về, buồn ngẩn ngơ. Bao nhiêu mong đợi lạc bến chờ” (2)

Chị Kim Tiên đã không về lại VN lần thứ hai. Chị chết trong bình an vào giữa tháng 5, 1994. Cháu Kim Ngân điện thoại cho tôi biết, theo lời yêu cầu của Mẹ, cháu đang sửa soạn về thăm cha trong mùa hè này, mang theo chiếc xe lăn cũ của Mẹ cùng một số tiền lớn từ bảo hiểm nhân thọ của mẹ để lại cho cha.

Ước mong cháu Kim Ngân sẽ nuôi nấng và gìn giữ chuyện cổ tích của cha và mẹ mình.

Tháng Giêng, 2017
Mission Viejo, CA
Vĩnh Chánh

(1): “Đã Một Lần”, nhạc của Y Sĩ Nhảy Dù Phạm Gia Cổn. Lời thơ của Th. Tá TQLC Định Nguyên
https://youtu.be/312lnbyEYV8

(2): “Sài Gòn Thủa Đó Làm Sao Quên”, nhạc và lời của Y Sĩ Không Quân Lê Khắc Bình
https://youtu.be/-shwXlcVuNY

nguồn: https://buonvuidoilinh.wordpress.com/2017/02/23/chuyen-ve-chi-kim-chi/

BachMa
12-10-2017, 06:24 AM
Tháng Ba Định Mệnh
Võ Đức Nhuận

Với những dòng này, mong đóng góp chút ít tư liệu về cuộc chiến, và những gương hy sinh của các Sĩ Quan QLVNCH, những anh hùng không tên tuổi đã nằm xuống trong cuộc chiến, để giữ gìn miền Nam êm ấm thanh bình gần 3 thập niên từ sau 1945-1975

March 12, 2017
…Những ngày cuối tháng 3, trời mưa như trút nước, cả ngày lẫn đêm, như xót thương cho số phận non sông Bình Định đã rơi vào tay của lũ vô thần. Qua hơn 2 ngày đêm, chúng tôi không có gì để ăn, ruột đói cồn cào, quần áo ướt sũng, thật đói và lạnh. Chúng tôi đi ngang qua những đám gò trồng đậu phụng, nhổ lên hy vọng kiếm củ ăn cho đỡ đói lòng, nhưng vào mùa đó cuối tháng 2 Âm Lịch, củ còn rất non. Chúng tôi rửa bằng nước mưa, nhai lấy nước mà thôi. Chúng tôi qua những cánh đồng bắp cũng thế , chỉ ngậm lấy nước. Qua ngày thứ 3, cả ba chúng tôi đều bị tiêu chảy, kiệt sức không còn đi nổi. Tôi thấy tình hình như vậy, chắc là số phận tôi không xong rồi, nên nói với hai anh bạn đồng hành:“Tôi không đi nổi nữa rồi, hai anh còn sức cứ đi theo hướng Đông ra biển may ra còn tàu của hải quân của quốc gia bốc các anh về Sài Gòn.”Thật là cảm động, tuy không cùng đơn vị nhưng hai anh lính nói:
“Đại Uý đi thì chúng tôi đi, ông ở lại chúng tôi ở lại. Chúng tôi không nỡ bỏ ông ở đây!”

Không còn cách nào khác, chúng tôi đành vào làng, may ra xin được thức ăn và dưỡng bệnh sau đó tiếp tục cuộc hành trình. Sau đêm thứ 3, chúng tôi đến một ngôi làng, trước vài thửa ruộng của ngôi làng có một cái chòi, chúng tôi vào chòi khoảng 2, 3 giờ sáng. Chúng tôi vắt cho khô quần áo, nằm ngủ đợi trời sáng. Sau những ngày đói lạnh, bệnh tật, chúng tôi nằm thiếp đi cho đến khi mặt trời mọc. Sáng hôm đó chúng tôi vào một nhà dân gần đó, để nhờ họ cho cơm ăn và dưỡng bệnh, để có sức mà đi. Chủ nhà là một người đàn bà nhà quê trông cũng bình thường như những bà nông dân khác,không có gì phải nghi kỵ. Sau khi nấu cơm cho chúng tôi ăn xong, chủ nhà chỉ cho chúng tôi bộ ván để lên nằm nghĩ lưng. Ôi thật là một bữa cơm ngon nhất trong đời, dầu chỉ có cơm trắng với bầu luộc và mắm ruốc. Nửa giờ sau, du kích đã vào nhà, súng AK chỉa đầu, bắt chúng tôi trói ké dẫn đi. Tâm trạng tôi lúc này chỉ còn biết tới đâu hay tới đó mà thôi. Sự sống còn phó mặc cho số mệnh. Chúng tôi bị dẫn đi nhiều nơi, đôi khi là trụ sở của làng, đôi khi là trường học, có khi là ngôi đình làng. Dần dần số người bị bắt cứ tăng lên. Nhiều khi một ngôi trường Tiểu học nhỏ, mà nhốt số người lên đến hàng trăm. Đêm đến không có chỗ nằm, chỉ ngồi mà thôi. Ôi thật là những ngày ghê gớm nhất của cuộc đời, không biết còn có cảnh khổ nào hơn không?

Chúng tôi không được cho ăn uống chi cả. Tự ai có gì nấy ăn mà thôi. Ngày hôm sau, chúng tôi bị dẫn về hướng Tây, không gian vô định, ai biết mình sẽ bị đưa về đâu, và sống còn đến ngày nào. Khoảng thời gian này, không có một quy ước hay chính sách gì cả, hễ ai bất tuân bọn chúng, thì coi như bị bắn bỏ. Trong đoàn chúng tôi đi, có một binh sĩ còn trẻ, không dè dặt với chúng, đôi khi anh ta đi ngoài hàng một chút thì bị bọn chúng lôi ra bắn ngay. Thật là dã man! Chúng muốn bắn để khủng bố tinh thần của mọi người. Ôi sinh mạng con người nhỏ hơn là con ong, cái kiến. Dọc đường quốc lộ 19, từ Bình Khê lên đến chân đèo An Khê, trước kia có lực lượng của SĐ 22 Bộ Binh trấn đóng. Tôi không nhớ rõ là Tiểu Đoàn nào, nhưng thuộc Trung Đoàn 41. Trước đây có một trận đánh thật là ác liệt, hai bên vệ đường tử thi của các chiến sĩ VNCH nằm la liệt, có lẽ đã xẩy ra gần nửa tháng rồi, cơ thể bắt đầu sình thúi chỉ thấy quân phục và sọ người trắng hếu. Một số tử thi khác thì còn loang lổ một ít tóc trên phần sọ đã rữa. Mùi tử khí xông lên nồng nặc khắp trời. Ôi chiến tranh và thân phận con người, tôi lại nhớ đến mấy câu thơ của bà Đoàn Thị Điểm:

Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi,
Chinh phu tử sĩ mấy người,
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn…..

Vào thời gian này, tôi không còn nhớ rõ là mình đã nghĩ gì, chỉ có một con đường, chúng muốn đưa mình đi đâu thì mình theo đó thôi, mặc cho số phận đẩy đưa, cuối cùng cùng là giải thoát kiếp người. Chúng tôi đi đến ngày thứ 3 thì đến một trại trước kia là mật khu của chúng. Trại này nằm trong rừng sâu, cách đèo An Khê khoảng 50 km từ hướng Bắc. Cả mấy ngày đi, chỉ ăn được một lần, chúng tôi đi ngang 1 địa phương thì được đồng bào nấu cơm gói sẵn bằng lá chuối phát cho chúng tôi mỗi người một gói không biết là lệnh của họ hay lòng tự nguyện của đồng bào. Đến gần phạm vi của trại, chúng dừng lại để nghĩ và chuẩn bị cho chúng tôi nhập trại, trong lúc này tôi gặp lại một số anh em binh sĩ trong Pháo Đội, thật mừng và thật tủi cho thân phận những kẻ chiến bại. Thời điểm này chúng bắt giao nộp hết tư trang như đồng hồ, bút máy, nhẫn….Tôi thấy chúng dùng nón để thu, không ghi sở hữu của ai cả. Tôi biết bọn này muốn lấy không rồi, tôi làm dấu cho anh thường vụ Pháo Đội giấu chiếc đồng hồ Boulevard Sport của anh, khi đi đến bờ sông có 1 số người Thượng đứng bán chuối hoặc cơm. Chúng tôi đổi chiếc đồng hồ lấy 1 nắm cơm muối mè gói lá chuối, hai thầy trò chia nhau ăn cho qua cơn đói lòng. Thật là: “Đoạn đường ai có qua cầu mới hay”, vật chất chỉ có giá trị khi thời gian thích hợp. Còn với thời gian này, vật chất dù cao quáy thế nào cũng không qua nổi một gói muối mè.

Thế là chúng tôi lần lượt vào trại. Sĩ Quan đều bị đem đi cùm, từ Thiếu Úy trở lên là bị cùm. Số lượng SQ bị bắt mỗi ngày một đông, chúng thả cấp nhỏ, cùm cấp lớn. Bắt được Đại Uý cùm Đại Uý thả Thiếu Uý. Cứ như là cấp số cộng. Phải nói bạn nào có thời gian ở trại Vĩnh Thạnh khi đọc dòng hồi ký này, không thể nào quên được một nơi gọi là ĐỊA NGỤC TRẦN GIAN đúng nghĩa của nó, không nơi nào ghê sợ hơn. Vì trại nằm trong rừng sâu, lam sơn chướng khí. Tổng số binh sĩ bị bắt vào thời điểm cao nhất ở đây có thể lên đến cả ngàn người, nhưng sau hơn 4 tháng, số tử vong lên đến cả trăm. Sốt rét chết, đói mà chết, bị đánh mà chết. Các đơn vị bộ đội cộng sản ở đây đa số đều là những cán binh CS trở về từ Côn Đảo, lòng nung nấu thù hận. Họ muốn trả những trận đòn thù trên các người lính Cộng Hòa còn chút sĩ khí đã ở lại chiến đấu để bảo vệ quê hương. Có 1 anh Trung Úy người miền Nam trước kia nguyên là giáo sư bị bắt vào trại cùng thời gian với chúng tôi, vì quá căm phẫn trước sự hành hạ của bọn chúng, nên chạy ra vọng gác giựt súng AK của tên bộ đội đang gác cổng nhưng không thành công vì cơ thể suy nhược, ăn uống thiếu thốn làm sao khoẻ bằng chúng. Sau khi giựt súng không được, anh ta bị rược chạy vòng vòng trong trại. Vì trại quá đông người nên chúng không bắn được. Vì không còn đường thoát, anh ta chạy đến bên những chảo nước đang nấu để cho tù uống và nhảy vào chảo! Thật là rùng rợn và thương tâm! Chúng dập tắt lửa, mang anh ta ra ngoài, nhưng anh ta vẫn còn sống. Anh ta chửi rủa bọn CS luôn mồn:

“Đả đảo Cộng sản. Quân dã man khát máu.”

Chúng cho khiêng anh vào trạm xá. Thật ra chỉ là một cái nhà nhỏ, vài lọ thuốc, vài lọ cồn mà thôi. Anh ta vẫn chửi liên hồi. Chúng lấy đất sét cho vào miệng, lấy cây dộng cho đến khi hết thở. Ôi! các bạn có hình dung được con người hay là ác quỷ nhỉ. Tôi có người bạn ở cùng quê tên Phan Duy Liêm, cấp Tr/Uý ĐĐT/ĐPQ cũg bị bắt vào trại này, tôi không nhớ anh đã làm gì phật ý chúng mà buổi chiều hôm đó, tôi chứng kiến tận mắt, 3 tên bộ đội đứng 3 góc đánh anh từ góc này văng sang góc kia, như là người ta chuyền bóng. Là thân phận tù sao dám chống trả chúng. Sau khi anh được thả ra, lục phủ đã bị dập nát, đã bị tổn thương. Mặc dù thời gian sau được gia đình tiếp tế thuốc men chữa chạy, sau hai năm hao tổn, anh đã lìa đời, bỏ lại một vợ và một con thơ, là bà con họ hàng với gia đình tôi.
Ở đây khí hậu chưa có một nơi nào dễ sợ hơn. Danh từ sơn lam chướng khí thật là đúng nghĩa của nó. Các nhà giam (lán) được cất dưới những tàng cây cổ thụ, suốt ngày ít khi thấy ánh sáng mặt trời, sương buổi sáng rất nặng và dày đặc, 9 hay 10 giờ mới thấy mặt trời, máy bay thám thính cũng chỉ thấy toàn màu xanh của rừng. Khoảng hơn tháng đầu chúng chưa cho đi làm, mỗi ngày chỉ phát hai nắm cơm bằng một bát trung bình, vơi chứ không đầy, mì khô hết 80%, vài hột gạo có thể đếm được, tất cả chúng tôi đều đói và sốt rét.

Ở đây trung bình một tuần sốt rét 3 lần. Sốt thì nằm, dậy được thì đi lao động, xuống trạm xá khai bệnh, cặp nhiệt độ 40 độ C, cho vài viên Nivaquine, 39 độ trở lui, thì chúng cho uống một thứ rễ cây tên là “mật nhân”. Trên đời nà y chưa có thứ nào đắng như thứ này, uống xong quay đi là nôn thốc, nôn tháo, nôn đến mật xanh, mật vàng, lần sau sốt hoặc nằm liệt không dám khai bệnh nữa, hết sốt thì dậy đi làm. Con người thiếu ăn, thiếu dinh dưỡng, sốt rét triền miên, nên chúng tôi trong như những thây ma còn sống. Da mặt thì vàng bệt, xám ngoét, mắt trũng sâu, chân đi siêu vẹo, quần áo tả tơi. Ôi! chúng tôi thật là tới tận cùng của địa ngục. Chúng tôi nào có tội tình gì, chỉ biết cầm súng bảo vệ quê hương không có một ý đồ bất chính, không có một tham vọng nào làm tổn thương đến giá trị vật chất hay tinh thần của con người, tại sao chúng tôi lại phải bị trừng phạt một cách khủng khiếp như thế? Có những lúc tuyệt vọng, anh em nói đùa:

“Chúa hay Phật gì cũng bỏ chạy hết rồi còn đâu mà cầu nguyện.”

Sau hơn 3 tháng tôi bị bắt, gia đình tôi mới được tin tức. Vợ tôi từ Phan Thiết ra Bình Định đến trại 3 Vĩnh Thạnh để thăm, thật là một chặng đường vất vả. Vì xe cộ không có, vợ tôi phải đi bộ khoảng 50km đường rừng, phải ngủ lại ở trại 2 rồi mới lên trại 3 được. Biết bao nhiêu gian nan và sợ hãi, khi được gặp mặt, vợ chồng tôi nhìn nhau nước mắt lưng tròng, hỏi thăm vài câu sức khoẻ, đâu còn lời nào để nói. Và biết nói gì hơn khi mỗi bàn có hai bộ đội ngồi bên cạnh, súng AK lăm lăm, nói được gì đây. Về nhà, vợ tôi bị sốt rét chữa trị gần 2 năm mới bình phục. Thời gian ấy, vợ tôi phải chuyền sẻrum liên tục, thế mới biết rừng thiêng nước độc đến cỡ nào. Sau đó thân phụ tôi đi thăm một lần, về cũng bị sốt rét liên tục. Từ đó về sau, chỉ có em trai tôi còn khoẻ mạnh đi thăm mà thôi.

Có những lúc đói quá, mắt đổ đom đóm vàng khi nhì thấy các anh em khác có người tiếp tế, có đồ ăn. Muốn quên đi, tôi chỉ còn biết ra gốc cây ngồi luyện Yoga cho quên đi nỗi đói khát, bệnh tật. Ai có biết sách lược triệt hạ kẻ thù, không sợ chúng phản kháng là làm cho chúng đói triền miên, không bao giờ cho chúng ăn đủ no. Suốt ngày tư tưởng lẩn quẩn, mong có cái gì bỏ vào miệng, vào bụng mà thôi, không còn nghĩ được thứ gì khác trên đời. Ôi con người có những lúc phải như thế này ư? Tôi có đọc cuốn Tiểu Đoàn Trừng Giới của Erich Maria Remark, nhà văn Đức, tù binh Đức, cũng bỏ vào các trại tập trung cũng đói như chúng tôi, nhưng thời gian ngắn hạn và không bệnh tật. Còn chúng tôi đói dài hạn và bệnh tật triền miên. Tôi còn nhớ vào thời gian cò ở quân ngũ, tướng độc nhãn Mó Dayan của Do Thái có qua thăm trường Võ Bị Đà Lạt, đã nói:

“Muốn chiến thắng Cộng Sản, phải sống với Cộng Sản.”

Xin những ai, có làm chính khách, chưa bao giờ biết ngục tù Cộng Sản, thì xin nghĩ đến bao nhiêu anh hùng đã hy sinh, bao nhiêu triệu đồng bào còn đang sống vất vưởng nơi quê nhà, vật lộn với miếng cơm manh áo hàng ngày vì phương châm “làm cho tập thể, hưởng theo nhu cầu” của chúng. Và cả một thế hệ chúng tôi tù đày oan khiên, khổ nhọc, thì chớ nên phụ quá khứ một thời tự do, dân chủ, thanh bình của miền Nam Việt Nam.

Ở trại này có những cách giết người rất dã man. Các bạn có biết, một cái nhà cùm kín mít, bên trong là một dãy khóa lại, tất cả việc ăn uống vệ sinh đều tại chỗ, đó là cùm thông thường. Nếu chúng muốn tra tấn ai, cho hai chân vào hai lỗ chéo nhau, chân phải lỗ bên trái, chân trái lỗ bên phải, dưới mông ngồi có một cây đà vuông thông ra ngoài, xuyên qua một cây trụ thẳng đứng khoét một lỗ hình chữ nhật, để cây đà vuông có thể di chuyển được từ thấp lên cao, chúng gọi là cùm yên ngựa. Mỗi lần nâng cây đà lên là ống quyển bị ép vào lỗ cùm. Bên ngoài chúng dùng một miếng nêm hình tam giác để đóng, mới đầu đóng là tù nhân la thất thanh sau đó im dần…im dần, tù nhân đã hết thở. Ôi địa ngục ở đâu, có lẽ còn ít sợ hãi hơn nơi này. Chúng tôi bị nhốt trong một cái lán gần bên nhà cùm. Đêm đêm nghe tiếng la thất thanh xé tâm can, rồi dần , im dần và tắt hẳn… Thế là một người đã ra đi không biết là tốt hay xấu với chúng tôi, biết đâu vài hôm đến lượt mình.

Ở đây có những cái chết rất kỳ lạ, buổi sáng còn ngồi chơi nói chuyện, vì là ngày Chủ Nhật, anh bạn ở cùng quê, Đ/Uý Dậu TĐT/CB, ngồi ngã ra, quay quay như gà mắc toi, đem xuống bệnh xá, chừng 1 giờ đồng hồ sau thì chết. Khí hậu thật là rùng rợn, sinh mạng con người còn thua những loài côn trùng. So với tù binh của Đức Quốc Xã thời Đệ Nhị Thế Chiến đâu có khác gì nhau.

Sau một tháng nhốt một chỗ, chúng tôi được chia ra để đi lao động. Những công việc chính là nhổ mì, trồng mì, và làm cỏ mì. Buổi sáng tù tập trung do 1 hoặc 2 tên bộ đội dẫn đi tới những bãi mì trong núi hoặc trên đồi cao. Chúng tôi dàn hàng ngang, mỗi người một cái cuốc, dùng để cuốc cỏ xung quanh cây mì. Cây mì mới mọc cao chừng 5cm hay một tấc, rất dễ lẫn lộn với cỏ. Chúng tôi đâu phải nhà nông chuyên nghiệp, từ nhỏ cha mẹ đã hy sinh gian khổ, nuôi con ăn học, mong con sau này thành đạt đâu nghĩ đến việc phải dùng cái cuốc,cái cày. Ôi công lao của cha mẹ lo lắng nuôi con trong thời điểm này hình như đã sai đường. Nếu chẳng may chúng tôi cuốc gãy cây mì chúng thấy được, thì báng súng AK vào đầu, vào cổ, mũi súng thọc vào sườn, vào bụng.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1511038259-ThangBaDinhMenh_01.jpg

Anh bạn tôi là Đ/Uý Dậu có lẽ bị đòn thù trong trường hợp này, nên đã mất đi vài tuần sau đó, trong bữa sáng Chủ Nhật mà tôi vừa nói ở trên. Thật là thê thảm, những tù nhân chẳng may mà mất đi, chúng quấn bằng miếng vải ni lông, dùng để làm áo mưa, xung quanh kẹp 7 nẹp tre, quấn lại như một khúc dồi lớn. Hai người khiêng, hai người đào lỗ ngoài rừng rồi lấp đi. Xong chúng cắm một cái bảng nhỏ viết tên tù nhân bằng sơn. Với 2,3 tháng nắng mưa, thì không còn biết ai là ai nằm đó nữa. Vì thế gia đình anh Dậu đã cố gắng nhiều lần, nhưng vẫn không tìm thấy xác anh ở đâu để đem hài cốt của anh về mai táng nơi quê nhà.

Rất may là khoảng tháng thứ 5 chúng tôi chuyển trại, lúc này đại đa số là Quân, Cán, Chính VNCH đã bị bắt hoàn toàn, không còn 1 lực lượng nào trong nước có thể đối kháng và phá hoại chúng được. Chúng thành lập những Tổng Trại Tù Binh để quản lý. Một Tổng trại như thế do cấp Trung Đoàn chính quy quản lý do Thủ Tướng Cộng Sản Phạm Văn Đồng ký, mục đích là để trấn an dân chúng và để trình làng với Quốc Tế. Giai đoạn cuối ở địa ngục này, tôi bị sốt rét hành hạ liên tục, có lẽ đã xâm nhập vào gan, lá lách hay thận. Người tôi vàng vọt, xám ngoét, mắt trũng sâu, bụng ỏng, chân thì dần dần to ra như chân voi bước đi không nổi nữa. Chúng tôi được đưa xuống Tổng trại 4 An Trường. Ôi, thật là một cuộc di chuyển có khác nào như chở heo, chở gà ra chợ để bán! Một chiếc xe Motolova như vậy chở xấp xỉ cả trăm người, người sau phải bám người trước cho chặt, nếu không khi xe quẹo, quán tính của trọng lượng sẽ làm văng những người sau ra ngoài mà chết. Súc vật đem bán cần sống, cần khoẻ chứ chúng tôi thì không….

Tôi được đưa xuống trại 1 của Tổng Trại 4, nhờ gia đình tiếp tế, thuốc men đầy đủ, và ở trại này, chế độ ăn uống có phần dễ thở hơn, nên tôi đã dần dần hồi phục và giữ được cái mạng còm cho đến hôm nay. Phải nói rằng sáu năm tù đày, thời gian ở trại này là tương đối dễ chịu nhất so với các trại khác. Vào thời điểm này, đa số anh em đều tin rằng sau 3 năm rồi thì thế nào cũng được thả về, nhưng thật sự là một sự lầm lẫn to lớn. Lời nói của chúng như những bó cỏ treo trước đầu con ngựa đang kéo xe, cỏ thì nhìn thấy đó, nhưng con ngựa có bao giờ ăn được đâu?….Những ngày kêu thẩm vấn, tự khai, ôi thật là khổ sở. Nói thế nào chúng cũng không tin. Hỏi:
“Từ ngày anh tham gia nguỵ quân, ngụy quyền đến giờ giết bao nhiêu cách mạng?”

Tôi trả lời:
“Tôi là đơn vị Pháo Binh yểm trợ, họ yêu cầu tác xạ ở đâu, chúng tôi bắn ở đó. Kết quả do các đơn vị Bộ Binh tham gia họ ghi nhận và báo cáo, chúng tôi đâu có trực tiếp tham dự ”

Hỏi:
“Anh nói anh không giết cách mạng sao họ cho anh mang lon Đ/Uý sớm như vậy?”

Tôi trả lời:
“Theo chế độ đào tạo SQ tại miền Nam, có bằng cấp mới được chọn, 1 năm Chuẩn Uý, được thăng Thiếu Uý, 2 năm Thiếu Uý được thăng Trung Uý. Sau đó khoảng 3 năm đủ điểm thì lên Đ/Uý.”

Nhưng dù có nói thế nào chúng cũng chẳng tin. Và cứ như thế hết ngày này đến ngày khác, tôi cứ bị kêu liên tục, hỏi hơn cả tháng, chúng cứ xoáy vào một điểm là giết hại bao nhiêu cách mạng. Cuối cùng tôi phải moi một trận yểm trợ nhớ mang máng theo kết quả của Bộ binh báo cáo, là địch quân tổn thất vài chục chúng mới hết hỏi. Ai có ngờ đâu đó là cái giá treo cổ mà mình tự gánh vào, sau này chúng cho là thành phần ác ôn có nợ máu với nhân dân….

Thời gian ở Tổng trại này hơn 1 năm, sau đó có lẽ tình hình thanh lọc tù nhân giảm dần, chúng tôi chuyển từ tổng trại này sang tổng trại 5 thuộc các đơn vị tỉnh Phú Yên quản lý. Trại này cũng là một trại sắt máu, chúng tôi làm việc như lao động khổ sai, và cơm thì không bao giờ được ăn no. Có một vài anh em bỏ mạng vì đốn cây rừng cho chúng, cây đè mà chết hoặc thương tật suốt đời. Các bạn từng xem những phim La Mã thời Caesar, các nô lệ kéo gỗ hay kéo đá, chúng tôi cũng vậy. Một khúc gỗ súc dài 4 hoặc 5 mét, đường kính khoảng 7 tấc, xỏ 4 dây thừng, mỗi bên 4 người khiêng. Đường từ trên núi, leo dốc, xuống ghềnh hiểm trở, nếu rủi ro mà té ngã thì coi như cái mạng đi đoong. Súng AK thì lăm lăm, sẳn sàng nhả đạn nếu chúng tôi tìm đường chạy trốn. Ôi, nếu so sánh, chúng tôi và nô lệ thời Trung Cổ của La Mã có khác gì nhau đâu.

Tôi còn nhớ nằm cạnh tôi có ông bạn già là Tr/Tá ĐN Thanh trước 75 là CHT Quân Cảnh Quân Khu 2, và có thời gian Tr/Tá Thanh đã từng làm Trưởng trại giam tù phiến cộng ở Phú Quốc. Có một ngày họ phân công tôi và bác Thanh là 1 cặp trong toán chặt gỗ làm nhà, chỉ tiêu dài sáu mét, đường kính từ 1.5 đến 2 tấc, phải là gỗ tốt, lá nhỏ, vỏ mỏng. Tôi và bác Thanh phải lên núi cao tìm gỗ vì dưới thấp không còn nữa. Sau khi chặt xong, tôi và bác Thanh khiêng về trại. Vì lúc đó tôi còn trẻ nên nghĩ rằng mình khiêng phần gốc để bác Thanh phần ngọn nhẹ hơn. Từ trên triền núi cao, tôi lao xuống dốc vì nặng quá, không kềm được, nên đã té ngã nhiều lần. Rốt cuộc để khỏi tai nạn, bác Thanh dành khiêng phần gốc vì thật sự mà nói, bác rất khoẻ và rất đô con. Tối về sinh hoạt kiểm điểm xong, bác nằm và than sao đau lưng và khổ quá. Bên cạnh tôi có anh bạn Luật sư Lê Đình Khang nói nhỏ:
“Bác khổ là vì hồi đó bác hà tiện quá mà.”

Bác càu nhàu hỏi:
“Hà tiện gì?”

Anh bạn Khang nói:
“Nếu hồi đó bác sắm bao tải cho nhiều, cứ mỗi chuyến C130 chở tù phiến cộng từ Sài Gòn ra Côn Đảo, bỏ hết vào bao ném xuống biển, thì đâu có ngày hôm nay.”

Bác và chúng tôi cùng cười, quên đi nỗi đau đớn nhọc nhằn.

Trong thời gian ở trại này, chúng tôi chứng kiến một cảnh thương tâm. Có một số anh em trốn trại nhưng không thoát được, tôi chỉ nhớ tên 2 người là T/Tá Giang và T/Tá Phước, 2 người còn lại tôi không nhớ được. Chúng cho làm mỗi người một cái lều, như lều cắm trại, sát mặt đất, có khung bằng ván để nằm, làm hệ thống cùm dưới chân bằng gỗ, khóa lại suốt ngày đêm, trông giống như những chiếc nhà mồ nằm ngay tại vọng gác trước mặt trại. Chúng tôi ngày nào lao động cũng phải đi ngang qua, trông thật đau xót và thương tâm, nhưng đâu biết làm sao khác hơn….


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1511038272-ThangBaDinhMenh_02.jpg

Vào một đêm, bỗng dưng lửa cháy các chòi, chòi của T/Tá Giang là nặng nhất. Họ được đưa đi bệnh viện Tuy Hòa để cấp cứu. T/Tá Giang phải cưa hai chân đến đầu gối. Các bạn khác đều bị phỏng nhưng cũng được lành. Chúng tôi đều nhận định rằng chúng muốn đốt cho chết rồi cho là tai nạn, vì các chòi nằm giữa miếng đất trống thì sao lại có hỏa hoạn.

Khoảng 5 tháng sau, họ thả anh Giang về. Gia đình từ miền Nam phải lo phương tiện di chuyển anh, sau 75 gạo còn không đủ ăn, làm sao mà sắm xe lăn. Tôi nghe sau này hình như anh đã quyên sinh vì nghịch cảnh gia đình. Ôi thân phận con người, thân phận của những kẻ chiến bại, dưới nanh vuốt của một lũ bạo tàn nhất trong lịch sử của nhân loại.

Và cuộc đời chúng tôi cứ kéo dài như thế thôi, niềm tin được thả về còn xa lắm, chỉ khi nào sức cùng lực kiệt, chúng bảo gì nghe đó, sự đối kháng không còn nữa, may ra mới được về, lúc đó liệu còn sống sót bao nhiêu người đây. Phần cá nhân tôi, có một hôm, tôi bị sưng chân phải đi cà nhắc, xuống trạm xá được cho làm việc nhẹ . Buổi sang 1 tên bộ đội vào kêu chúng tôi đi làm, thấy tôi không chuẩn bị, hắn hỏi tại sao, tôi trả lời đau chân, trạm xá cho làm việc nhẹ. Hắn trừng mắt, giơ súng lên và bắt tôi đi làm với đội. Tôi phải cà nhắc theo đội để đi làm. Đứng cuốc đất suốt ngày bằng 1 chân, ngày hôm sau chân kia sưng phù lên. Thế là tôi phải nằm liệt mấy ngày. Ôi, bạn có hình dung được chúng tôi phải chịu đựng như thế không?

Sau hơn 3 năm chúng tôi được chuyển giao cho ngành Công an quản lý. Chúng tôi thuộc loại tù chuyên nghiệp, được chuyển đến trại A30 ở Tuy Hòa. Trại này tập trung đủ các thành phần, hình sự, vượt biên, những người bị bắt năm 78,79 họ gọi là phản động, và chúng tôi từ các tổng trại 5, tổng trại 8, Trại Lam Sơn, Trại Thanh Bình, v.v….Cảm nghĩ của tôi khi đến trại này là thôi, thế là cuộc đời gắn liền với chữ Tù. Giống như nhân vật Papillon của Henrie Chariere. Ở tù không biết tại sao mình ở tù, ngoại cảnh đưa đến mà mình không tài nào vùng vẫy được. Hay gần giống như nhân vật chính trong tác phảm “Giờ thứ 25″ của một nhà văn Nga tôi không nhớ rõ tên. Hết ở tù bởi quân Đức, rồi đến Nga, rồi đến Đồng Minh, khi ra đi thì mới lấy vợ, khi về vợ đã 3 con rồi, mỗi quốc gia, một đứa.

Dưới tay Công An quản lý, thật là một sự xảo quyệt của con người, tinh vi đến mức không thể nào diễn tả được. Ở đây cũng thiếu thốn và đói như những trại khác, nhưng ở đây thì gia đình thăm nuôi, tiếp tế cho nhận thoải mái. Mục đích của chúng, cứ cho người nhà thăm nuôi ăn cho no, làm việc cho chúng vượt chỉ tiêu, thì đâu có gì tốt bằng đâu nào. Các trại khác thì thân nhân thăm nuôi chỉ cho đem quà, bánh, thức ăn không cho nhận gạo. Ở trại A 30 này, không tiếp tế gạo cho tù nhân là một thiếu sót lớn. Lần thăm ban đầu gia đình tôi không biết, sau mới hiểu ra gạo là chính. Đến A 30, chúng tôi khai phá những cánh đồng ngút ngàn. Tất cả những cánh đầm lầy biến thành ruộng xanh ngút tầm mắt, và những cánh đồng mía chỉ thấy đường chân trời, tầm mắt không thể nhìn hết. Chúng lại lên lớp:

“Ta làm ta hưởng. Lao động là vinh quang.”

Ôi thật là bực lỗ tai. Sao có những con người, chỉ biết nói và không cần thái độ của người nghe. Chúng tôi làm cho họ hưởng, nếu gia đình chúng tôi không nuôi thì chúng tôi đã chết đói rồi.

Ở đây có một trường hợp, anh Đ/Úy Thức đơn vị Dù, tôi không biết Lữ Đoàn mấy vì ở khác lán. Buổi chiều đi lao động về, anh gặp tên Tr/Tá Hạnh Công An Giám Thị trưởng Trại A 30 hỏi thăm và nói gì đó, sau lên lớp…Vì hắn quá trâng tráo và dối trá nên anh Thức dằn không nỗi nhảy vào đánh tên Giám Thị trại. Công an phòng vệ đã nhào vô bắt và đán anh Thức, không thể nào diễn tả được. Chỉ biết sau khi đánh xong, chúng bỏ anh vào xe cút kít đẩy vào chỗ biệt giam thì thấy anh như một đống thịt, máu me đầy mình! Ôi con người đến thế thì thôi! Tôi nghe sau đó họ đưa anh xuống bệnh viện Tuy Hòa để điều trị và nghe đâu hình như có người bà con làm lớn ở Hà Nội lãnh anh đem về nhà. Từ đó đến nay, không còn được nghe gì hơn nữa, không biết anh có còn sống, và nếu như có đọc những dòng này của tôi, thì xin anh nghĩ, lúc đó chúng tôi rất căm phẩn chúng nó, và xót thương anh nhưng chúng tôi đành bất lực……

Tôi cũng không biết nói sao, vì mỗi con người có trình độ nhận thức khác nhau, phải nói rằng nếu nghị lực không đầy đủ thì sẳn sàng làm tay sai cho chúng. Có một ngày, chúng tôi đang cuốc cỏ thì tên Công An quản giáo kêu tôi ra giữa đám mì, giở trò giáo đầu là tôi lao động lấy lệ, sinh hoạt không chịu phát biểu, ù lì, là thành phần chống đối ngấm ngầm, như vậy làm sao tiến bộ, cách mạng xét cho các anh về. Tôi muốn bật cười nhưng không dám, vì nó đã nhàm với chúng tôi. Nghe bao nhiêu năm rồi. Tôi lặng thinh, hắn nói tiếp:
“Bây giờ anh muốn thể hiện cho chúng tôi thấy sự tiến bộ của anh thì anh phải theo dõi báo cáo tư tưởng của anh nào chống đối cách mạng, ai phát biểu những gì bất lợi cho cách mạng. Báo cáo trực tiếp với tôi, hay bỏ vào hòm thư trước trại.”

Tôi phải trả lời hắn theo sách vở:
“Thưa cán bộ, nhiệm vụ chúng tôi ngoài việc học tập lao động, tôi còn phải báo cáo ngay nếu phát hiện được những thành phần nào trốn trại.”

Hắn nói:
“Tôi yêu cầu anh báo cáo những anh nào phát biểu chống đối kìa.”

Tôi vâng lấy lệ. Khoảng tháng sau, hắn kêu tôi ra lần nữa vì không thấy báo cáo của tôi, hắn hỏi:
“Tôi không thấy báo cáo nào của anh hết, anh là thành phần ngoan cố, chống đối.”

Tôi nói:
“Tôi có để ý một hai bữa, thấy anh em ai cũng an tâm, đâu có nói gì, thành tôi không có gì để báo cáo.”

Hắn đơn cử một vài lời nói mỉa mai của vài anh em. Tôi nói:
“Anh em vui miệng nói đùa, tôi không để ý.”

Thế là hắn lôi tôi ra, dùng báng súng đập cho một trận. Tôi mang thương tích và nước mắt căm hờn về trại, cơm nuốt không vào. Không phải đau mà khóc nhưng uất hận làm cho nước mắt tuôn trào. Tối hôm đó một vài anh em mang thuốc giảm đau và dầu xoa bóp cho tôi, thật là an ủi. Dầu sao chúng tôi cũng còn có nhiều anh em nghĩa khí và có tình người.

Bọn hắn cũng có mắt chọn người lắm. Mỗi ngày chúng tôi đi cuốc đất, cả đội dàn hàng ngang, chỉ tiêu mỗi người 4 mét chiều rộng và 200 mét chiều dài, chúng chọn một tên kêu ra nói nhỏ:
“Anh ráng cuốc 250 mét, kỳ sau gia đình anh lên thăm nuôi tôi sẽ can thiệp với trại để cho anh được gặp gia đình ban đêm.”

Ôi, một sự hứa hẹn tuyệt vời. Tù nhân nào lại không muốn hàn huyên với gia đình sau bao nhiêu năm dài ngăn cách, bao nhiêu biến cố vật đổi sao dời. Có người suy nghĩ chín chắn thì thấy là chuyện đau khổ thêm cho vợ mình, có người chuộng vật chất thì cho đó là một đặc ân của Cộng Sản. Thật là một thủ đoạn quá tinh vi. Thế là hôm sau, tên được kêu cuốc vượt trội hơn anh em khác. Tối về họp kiểm điểm chúng nêu ra:
“Anh A cũng như các anh, cùng sức vóc, cùng tiêu chuẩn ăn uống như nhau. Người ta cuốc được 250 mét, các anh cuốc có 200 mét, lại kêu không đủ giờ, chứng tỏ các anh làm cầm chừng, lười lao động. Bao giờ các anh mới tiến bộ đây?”

Bắt đầu từ ngày đó, chỉ tiêu là 250 mét/ngày. Chúng tôi cuốc từ sáng sớm đến chiều tối, tay chân rã rời, tai như bốc khói. Trên đường đi về trại, thân thể rã rời ngất ngưỡng như người mộng du, vì sức đã cạn rồi. Chúng tôi chửi thầm, ôi những thằng ngu, nào dám chửi thẳng vào mặt, nó mà báo cáo một phát là biệt giam, hai chân vào cùm, làm bạn với gián…..

Ở đây cũng có tổ chức những đêm văn nghệ, diễn viên là các em vượt biên bị bẳt. Các em còn rất trẻ, có em đã bị bắt vào đây đến 3 lần, thật đáng thương. Họ cho tập dượt, và cho trình diễn những đêm thứ 7, chủ nhật hay các ngày lễ của chúng. Nội dung hình như chúng tôi gần như thuộc lòng, vì xem đi xem lại, tháng này qua tháng khác. Khi nào tổ chức văn nghệ là chúng lùa hết ra sân vận động, không được ở lại trong trại. Tôi và anh bạn Thắng đem áo mưa ra để nằm ngủ, chúng bắt gặp. Thế là hôm sau chúng họp kiểm điểm là chúng tôi không chịu tiếp thu văn hóa cách mạng, thành phần bướng bỉnh ù lì. Có những trò khác, bọn chúng mị dân, mà ngay cả một số gia đình chúng tôi cũng nghĩ chúng là nhân đạo. Thí dụ sau khi cho vợ con thăm nuôi, tiếp tế, tối còn cho gặp. Ngày hôm sau, gia đình về, chúng đưa sổ cho thân nhân viết cảm tưởng. Chúng đem trình làng với đồng bào ở ngoài hay các phái đoàn quốc tế viếng thăm. Chúng đem khoe khoang cũng như phổ biến trong trại, thế thì nhân đạo quá đi chứ, thử hỏi có thân nhân nào dám viết lời không tốt cho chúng đâu.

Ở trại này, trước khi chúng tôi chuyển đến, có nghe kể lại một chuyện thương tâm. Là có số anh em giựt súng tên Công An định bỏ chạy nhưng bị một tên Tr/Tá của ta ôm lại để cho Công An bắn chết 1 hay 2 đồng đội của ta. Cả trại rất căm phẫn và khinh bỉ tên này. Khi chúng tôi đến trại A 30 thì tên này đã được bọn Cộng Sản cho định cư vùng kinh tế mới Mai Liên do trại quản lý và được đem gia đình đến sinh sống vì hắn có công với cách mạng. Tên này là Tr/Tá Lập trước kia làm Quận Trưởng quận Vạn Ninh, tôi biết vì vợ của hắn có chút bà con xa với gia đình tôi. Những năm sau khi được phóng thích về, có một lần tôi ghé thăm gia đình cha mẹ vợ hắn, thì mới hay việc đời có vay, có trả, thời gian sau vợ hắn đã bỏ hắn, sống với người khác rồi.

Những khổ hình ở trại làm sao mà nói cho hết, tôi chỉ ghi lại những điều mình nghe, mình chứng kiến để bạn đọc suy nghĩ thấy cái bạo tàn, quỷ quyệt của chế độ để đem một chút ánh sáng cho những ai vì một chút quyền lợi riêng tư mà muốn cái gọi là ” hoà hợp hòa giải với Cộng Sản”. Các bạn có biết, cảnh đời tù tội là đắng cay, khổ nhọc nhưng cũng có lắm chuyện cười ra nước mắt. Chúng tôi là những thành phần gồm sinh viên, giáo chức, cán sự, hay hành chính bị động viên. Dẫu sao, với xã hội miền Nam thời đó chúng tôi cũng là thành phần gọi là trí thức chút ít. Từ nhỏ cha mẹ sinh ra đã hy sinh cho con ăn học những mong cho con mình đỗ đạt, cho cuộc sống vững vàng, chúng tôi nào có quen các cuốc, cái cày. Khi bị bắt vào đây chúng xem bọn tôi như một lũ ăn hại, vô tích sự.

Có một ngày đội chúng tôi đi cày lần đầu, các bạn có biết, trâu bò cũng quen với ngôn ngữ địa phương. Ở miền Trung từ Bình Định trở vào, muốn bò quẹo trái thì gọi Thá, muốn bò quẹo phải thì gọi Dí, muốn chúng dừng lại thì gọi Dò. Còn ở vùng Quảng Trị muốn quẹo trái thì gọi Tắc, muốn quẹo phải thì dùng Rị, và muốn dừng lại thì dùng Họ. Hôm đó mỗi người được phát một cặp bò và 1 cái cày, có một anh người Quảng Trị cầm cày và cầm roi điều khiển bò, cứ dùng hết Tắc rồi Rị, bò nó không biết đi đâu, nó quẹo lung tung. Bò đi mãi gần đến bờ rào đụng nhà dân, anh la Họ….Họ….., bò vẫn đi, hoảng quá anh la : “Stop, stop, stop”. May có vài anh em ra chận bò lại, chúng tôi có dịp cười nghiêng ngửa. Khi anh chàng trở lại chúng tôi nói:
“Bò nó đâu có đến trường mà biết tiếng Anh, ông bạn.”

Những kỷ niệm đau khổ cũng như là hạnh phúc của con người đều có giá trị ngang nhau trong tiềm thức, người ta khó mà quên được. Có những ngày chúng tôi đi làm ruộng tại cánh đồng tên là Đầm Sen. Cánh đồng đầm lầy bạt ngàn, bỏ hoang lâu ngày từ thời Pháp thuộc, thật xa xôi và hẻo lánh, bèo lát, điên điển, cỏ dại mọc như rừng, mỗi lần nhảy xuống ruộng, có chỗ sình ngập lên tới cổ. Và có những đám ruộng nước đĩa ơi là đĩa….lội như bánh canh. Từ nhỏ tôi cũng như nhiều anh em khác, nói chung môi trường sống là thành phố, nên thấy đĩa rất là sợ. Lần đầu tiên nhảy xuống ruộng, thấy nhột nhột nhảy lên, là một vài con bám chân bám đùi, máu chảy tùm lum…..Úi trời ơi, thật là hãi hùng, bắt chúng xong lại nhảy xuống, vì nhảy lên bờ thì AK chĩa vào đầu.

Ngày ấy làm ruộng về, mặc dù đói, nhưng cơm nuốt không nổi vì tinh thần căng thẳng và hãi hùng quá mức. Mấy hôm sau, chúng tôi rút kinh nghiệm, chọn bộ quần áo nào mới nhất, không có chỗ rách, bỏ áo vào trong quần, cột hai ống chân cho chặt, cột quanh lưng, cột hai khuỷu tay, nhờ thế mà khi nhảy xuống ruộng, thấy đĩa bơi quanh người nhưng chúng không bám được, nhưng cũng có những trường hợp ngoại lệ, chúng vào tận chỗ kín để cắn, về nhà máu me tùm lum phát khiếp. Cũng có những chuyện vui đáng nhớ. Số là sau khi khai hoang xong, những đám ruộng bùn quậy lên rất nhiều cá nên anh em tha hồ bắt. Tôi thì chạm cá rất nhiều, nhưng chẳng bao giờ bắt được cả. Bắt nó lên là nó vuột, bắt một tay cũng vuột, hai tay cũng không xong. Chiều về hỏi mấy anh bạn chuyên nghiệp chỉ giùm cho một chiêu làm sao để bắt mà nó không vuột. Anh bạn cười:
“Bắt cá cũng như đi cua gái vậy, khi đụng nó phải từ từ mò từ đuôi lên tới đầu, khi vị trí của đầu nằm trong lòng bàn tay rồi, thì dịu dàng nắm lại, thật chặt và thật êm thì không bao giờ bị mất cả.”

Thế là hôm sau theo cách chỉ dẫn của anh bạn, tôi được mấy bữa bồi dưỡng ngon lành. Có những ngày làm cỏ ở những thửa ruộng cạn, chúng tôi không tìm được thứ gì để ăn. Vài ba người, mỗi người vài chú nhái, chiều về cải thiện, 1 vài con không đáng là bao, người nọ dồn cho người kia để ăn cho đủ. Các bạn biết sao không? Cho thì tiếc, bèn oảnh tù tì ai thắng thì ăn hết, ai thua thì nhịn. Ôi con người khi tới tận cùng đất đen rồi thì mới nhận chân được giá trị của nó. Chuyện đã 28 năm rồi, nhiều khi tôi nghĩ mình cũng nên quên đi để sống những ngày còn lại của cuộc đời. Nhưng thỉnh thoảng quá khứ lại hiện về, không sót một chi tiết nhỏ nào. Có những đêm ác mộng hãi hùng, bị đánh, bị tra tấn và những cơn trốn chạy dưới lằn đạn AK của chúng. Khi tỉnh dậy tinh thần bàng hoàng, đầu óc ngây ngô. Và không biết đến bao giờ tâm trí mới được bình yên đây. Đọc qua lịch sử biết bao sự hưng vong của chế độ Đinh, Lý, Trần,Lê….Biết bao nhiêu thi nhân đã tiếc thương một thời quá khứ êm ấm, thanh bình…..

Tạo hoá gây chi cuộc hý trường,
Đến nay thắm thoát mấy tinh sương.
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Ngõ cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương,
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.

Hay:
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc.
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia…
(Bà Huyện Thanh Quan)

Hoặc:
Khắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ
Ây hồn Thục Đế thác bao giờ
Năm canh, máu chảy đêm hè vắng
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ
Có phải tiếc Xuân mà đứng gọi
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ
Đêm đêm ròng rã kêu ai đó
Dục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ
(Nguyễn Khuyến)

Vận nước đã đổi thay, quê nhà chìm đắm trong cảnh bất công. Giới thống trị thì vàng son rủng rỉnh, xe pháo dập dìu, người dân còn lại phải vật lộn với cuộc sống đầy gian nan mới đủ cơm ngày hai bữa, và còn phải lo thuốc thang khi đau yếu. Không hiểu tiền nhân có đau khổ như chúng ta không? Nếu có thì chỉ có sự thay đổi thể chế xã hội và đau nỗi mất nước, không đến nỗi phải lưu vong như chúng ta, trên 15.000 dặm đường chim bay, xa hơn một nữa vòng trái đất. Muốn tìm một chút tình cảm thân thương nơi cha, nơi mẹ, nơi anh em, nơi bạn bè hay người thân thật là khó vô vàn. Thật là:

Đau lòng tử biệt sinh ly,
Muốn cho tái ngộ chỉ nhờ mộng trung….

Chúng ta đã may mắn thoát khỏi ách bạo tàn, dung thân ở xứ tự do. Tuy không dễ, nhưng chúng ta có đầy đủ quyền tự do của một con người được pháp luật bảo vệ. Quê nhà còn biết bao người thân đang trầm luân với cuộc sống đoạ đầy và bất công, chỉ hy vọng chút tin vui khi có con cái, hay anh em gửi về chút ít quà hay tiền để mạch máu đang chảy không bị cạn….bởi một lũ vô thần, tham lam, ích kỷ và tàn bạo…..

Với những dòng này, mong đóng góp chút ít tư liệu về cuộc chiến, và những gương hy sinh của các Sĩ Quan QLVNCH, những anh hùng không tên tuổi đã nằm xuống trong cuộc chiến, để giữ gìn miền Nam êm ấm thanh bình gần 3 thập niên từ sau 1945-1975. Và để cho thế hệ sau phân tích sự hy sinh gian khổ của cha ông. Và cũng mong quê hương dân tộc sớm khỏi ách bạo tàn của một lũ người vô thần thống trị,và mãi mãi thanh bình trong chiều hướng tự do dân chủ…..


Võ Đức Nhuận
(Đây là những nhân vật có thật trong chặng đường chiến đấu cuối cùng, và những trại cải tạo đã đi qua)
nguồn: https://buonvuidoilinh.wordpress.com/2017/03/31/thang-ba-dinh-menh/

BachMa
12-13-2017, 05:46 PM
Nàng Dâu Nam Kỳ
Nguyễn Thị Thanh Dương

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1513115822-NangDauNamKy_01.jpg
Tôi coi lại va ly quần áo và túi xách tay của mẹ chồng một lần nữa, rồi lảnh lót gọi với lên lầu cho thằng con trai:
– Cu Tí ơi, cu Tí à, con sẵn sàng chưa?

Mẹ chồng tôi không hài lòng, trách tôi:
– Con trai lớn tướng mà cứ gọi Cu Tí như thằng bé lên ba ấy.

– Mẹ ơi, con biết rồi, chỉ gọi giỡn “anh chàng” một chút cho vui mà. Andrew ơi, xong chưa con, chúng ta đi thôi?

Con trai tôi đã đến bên tôi, anh chàng nhìn bà nội âu yếm:
– Cháu cám ơn bà đã nhắc nhở mẹ cháu.

Bà cũng âu yếm nhìn cháu, Andrew lớn giống bố như khuôn như đúc, lại hiền ngoan học giỏi, ra trường là xin ngay được công việc như ý nên bà thương nhiều.

Bà khéo léo giục cháu:
– Thì cháu lấy vợ đi, mẹ cháu sẽ không bao giờ gọi là “Cu Tí” đâu. Bà già rồi phải cho bà thấy mặt cháu dâu và cả chắt nữa như người anh họ của cháu ở Calif. thì bà mới yên lòng.

Andrew hứa hẹn:
– Vì chúng cháu phải tìm hiểu nhau lâu để thử thách tình yêu nên chưa cho gia đình biết. Vâng, bà cứ đi California chơi, khi bà về cháu sẽ mang cháu dâu tương lai đến trình diện bà và bố mẹ cháu.

Mẹ chồng tôi vui mừng:
– Cháu làm bà sốt ruột, bà chờ đợi mấy năm nay mới nghe cháu hứa một câu làm bà hài lòng đấy.

Tôi cũng vui mừng không kém, hai vợ chồng tôi có con muộn, Andrew là con trai duy nhất, từ ngày Andrew tốt nghiệp đại học, có việc làm vững chắc đã nhiều năm nay tôi giục con cưới vợ mà nó cứ nói chưa có ai, tình yêu chưa đến, nên tôi không nhắc nó nữa. Hôm nay bất ngờ lại có tin vui.

Chúng tôi đưa bà ra phi trường về California, thăm gia đình con trai trưởng. Bà sẽ ở chơi Calif. một tháng. Bà chẳng ưa gì con dâu cả, nhưng bà thương con trai và cháu đích tôn nên về thăm họ.

Tiễn bà đi phải đầy đủ mặt con cháu, gồm vợ chồng tôi và Andrew. Tôi hiểu tính mẹ chồng lắm, bao giờ bà cũng muốn được con cháu quây quần chăm lo, quý mến, chứ không thể xuề xòa, lấy lệ cho xong.

Khi chồng con tôi đang check vé máy bay cho bà, thì bà chợt nhớ ra, dặn dò tôi:
– Chốc nữa về con nhớ đi gởi món tiền ấy về Việt Nam cho mẹ nhé. Lần này ngoài phần tiền của mẹ lại được con cho thêm vài trăm thì cậu Nụ tha hồ sửa nhà cửa. Cậu con già rồi, có căn nhà tử tế thì chết cũng yên lòng nhắm mắt con ạ.


***

Ngày tôi và anh Bông yêu nhau, anh dẫn tôi về “ra mắt” mẹ anh, bà mẹ người Bắc tóc vấn trần cài lược, đôi mắt sắc xảo nhìn tôi không chút thiện cảm. Bà khéo léo hỏi thăm họ hàng tông môn nhà tôi, rồi phán:
– Hai đứa cứ tìm hiểu nhau cho kỹ, chứ Bắc Nam có nhiều điều không hợp nhau đâu.

Anh Bông quả quyết:
– Kỹ từ lâu rồi mẹ ơi, bây giờ chỉ đợi mẹ cho phép hỏi cưới thôi. Thí dụ… ngay ngày mai cũng được.

Bà nghiêm mặt lườm con trai:
– Anh đừng có nhanh nhẩu đoảng, chuyện hôn nhân hệ trọng cả đời.

Thế là mối tình nồng nàn của chúng tôi khựng lại vô hạn định vì mẹ anh chưa đồng ý. Thuở ấy anh Bông đang ở trong quân ngũ, một hôm anh mang về quả lựu đạn, đặt lù lù trên bàn, ngay trước mặt mẹ anh và thống thiết:
– Nếu mẹ không đồng ý cho chúng con cưới nhau thì quả lựu đạn này sẽ nổ tung chết cả con và cô ấy, và xin mẹ chôn chúng con chung một nấm mồ.

Mẹ anh hoảng hốt lên:
– Ối con ơi, bình tĩnh nào, việc gì phải mang vũ khí đạn dược ra thế!!

Anh ai oán:
– Sống mà không lấy được người mình yêu thì chết cho xong!

Mẹ anh năn nỉ:
– Đừng dại dột con nhé? Vậy con muốn cưới hỏi ngày nào thì mẹ sẽ làm ngày ấy.

Nhờ thế tôi mới sớm được làm dâu của bà, và vì thế bà càng ghét cay ghét đắng tôi.

Mãi sau này chồng tôi mới dám kể cho tôi nghe, mẹ anh đã chê tôi là con gái miền Nam quen ăn trắng mặc trơn, làm đồng nào “xào” đồng ấy, lấy cái “ngữ” này chỉ khổ vào thân, thằng chồng nai lưng đi làm nuôi con vợ ăn tiêu hoang phí.

Anh đành “khủng bố” mẹ bằng qủa lựu đạn, nếu không thì mẹ anh cho tôi đợi tới già hay chán quá tôi đi lấy chồng khác mà thôi. Tôi làm dâu nhà anh, cha anh mất trước đó vài năm. Anh cả đã lấy vợ và ở riêng một năm nay, vì anh cả thuyên chuyển công việc ra miền Trung nên vợ con cũng đi theo, chồng tôi là con thứ cũng là con út, đi lính đóng quân ngay Lái Thiêu, tiện đi về thành phố Sài Gòn mỗi ngày.

Mẹ chồng tôi nắm giữ quyền hành trong nhà, bà đảm đang trông coi cửa hàng bán vật liệu xây cất do chồng để lại, cửa hàng trước cửa nhà rất đông khách nên bận bịu cả ngày, nhưng bà vẫn đi chợ mỗi buổi sáng, quẳng cái giỏ chợ xuống bếp, vắn tắt ra mệnh lệnh cho tôi:
– Thịt bò thái xớ ngang, xào rau muống. Thịt lợn kho mặn, cua giã nhuyễn, nấu bát riêu cua cà chua…

Tôi hỏa mù trước những món ăn Bắc này, ở với má, tôi cà nhỏng ăn học và ăn chơi, má dễ dãi hiền lành thôi thì con gái ở với ba má sướng ngày nào thì cứ hưởng, chừng lấy chồng vất vả lo cho chồng con thì giờ đâu mà ăn chơi.

Hôm cuối tuần mẹ chồng tôi mua một con gà sống về ra một mệnh lệnh khác:
– Cắt tiết gà, luộc gà với hành gừng cho thơm, thịt gà phải vừa chín tới. Nước gà nấu bát miến, cho tiết luộc và lòng mề thái nhỏ lên trên.

Tôi rình lúc mẹ chồng không để ý, gọi chồng xuống bếp và than phiền:
– Mẹ anh đang chơi trò rượt đuổi em chạy trối chết luôn, bắt em nấu hết món này tới món kia, mà toàn là những món em chưa biết nấu bao giờ. Anh cứu em với.

– Mẹ đang dậy em nấu nướng đấy, trước lạ sau quen.

– Nhưng em không dám cắt cổ gà, nhìn nó đau em sợ lắm…

Má tôi Nam kỳ dễ tính, mua gà làm sẵn ngoài chợ cho lẹ, còn mẹ anh Bắc Kỳ tính toán chi li từng chút một, mua gà sống sẽ biết chắc con gà ngon vừa ý, và nhất là giá rẻ hơn gà làm sẵn.

Tôi cầm chân và hai cánh gà thật chặt còn mắt thì nhắm lại trong khi chồng tôi cắt tiết, đúng lúc ấy mẹ chồng tôi xuống bếp, giọng bà hùng dũng như một vị tướng mắng mỏ quân sĩ phạm luật:
– Giời ôi, hai vợ chồng mới cắt tiết được con gà cơ à? Này nhé, chị lấy hai chân kẹp cánh, kẹp chân gà và cầm cổ gà cắt vài nhát, dốc ngược gà lên cho chảy hết tiết là xong. Ngày xưa tôi làm dâu, nhà chồng có giỗ Tết một mình tôi cắt tiết một lúc mấy con gà nhanh như chớp.

Chồng tôi bênh tôi:
– Ngày nay khác rồi mẹ ơi, với lại vợ con chân yếu tay mềm…

Bà “mát mẻ”:
– À thì ra ý anh nói tôi vũ phu đấy, còn vợ anh thì yểu điệu thục nữ.

Để đáp lễ lại những món ăn Bắc mẹ chồng đã chỉ dạy, tôi về học cấp tốc má tôi mấy món miền Nam dễ nấu như canh khổ qua nhồi thịt và cá thu kho nước dừa, thì mẹ chồng tôi giẫy nẩy lên:
– Canh mướp đắng ư? Tôi chịu thôi, không ăn được.

– Cá thu kho nước dừa lợ lợ khó ăn lắm.

Tôi liền đổi sang món “canh rau tập tàng” cho lạ đời, thì bà mẹ chồng Bắc Kỳ vẫn không chấp nhận. Bà rên xiết:
– Canh gì mà lắm loại rau thế này? Nào mồng tơi, rau rền, mướp khía, bù ngót, bắp non. Chị nấu canh nào thì nấu một món rau thôi nhé, đừng hoang phí thế.

Trời ơi, món “canh rau tập tàng” của miền Nam dân dã hào phóng dùng nhiều loại rau chứ có phải tôi sáng chế ra đâu.

Tôi bất mãn lắm, chỉ muốn bữa nào… trả thù, làm món “Mắm kho quẹt” cho bà ăn, món này rẻ tiền, mặn mà ăn hoài không hết, đỡ tốn, hay cho bà uống nước mưa như ở dưới quê tôi thay cho uống nước trà, tiết kiệm được tiền mua trà, chắc bà sẽ không chê tôi hoang tàn nữa?

Những chuyện “mất lòng nhau” giữa mẹ chồng người miền Bắc và nàng dâu người miền Nam thường xuyên xảy ra.

Ngày giỗ tết gia đình anh cả về nhà, làm cỗ xong tôi cho hai con anh cả ăn trước thì bị mẹ chồng mắng cho một trận là không biết nề nếp gì cả, trẻ con không được phép ăn trước người lớn. Trong khi trong gia đình miền Nam chúng tôi cứ thoải mái dọn đồ cho tụi nhỏ ăn trước cho rảnh để rồi người lớn ăn sau.

Vốn chẳng ưa tôi, bà thường mang tôi ra so sánh thẳng thừng với nàng dâu cả của bà, nàng dâu Bắc, ăn nói ý tứ lịch lãm, sống căn cơ tằn tiện, biết thu vén trước sau chồng con sẽ được nhờ và chê tôi tuệch toạc bạ đâu nói đó, thích gì làm đó, mua sắm thì bất kể tiền còn nhiều hay ít. Nói trắng ra là tôi đang “phá của” nhà chồng.

Vì yêu chồng nên tôi nhẫn nhịn chịu đựng mẹ chồng, cũng như tôi đã chịu hy sinh bỏ nghề dạy học chỉ để ở nhà phụ mẹ chồng buôn bán.
Tối về tôi chỉ biết khóc rấm rứt với chồng để cho anh vỗ về an ủi, thôi em cố chiều mẹ, sau này mẹ hiểu ra sẽ thương yêu em nhiều. Trời chẳng phụ công, phụ lòng tử tế của ai bao giờ.

Được một năm thì biến cố 1975 xảy ra, cả đại gia đình chúng tôi đều vượt thoát đến Mỹ.

Đầu tiên mẹ chồng tôi ở với gia đình anh cả, có nàng dâu Bắc Kỳ mà mẹ từng đắc ý, tấm tắc khen ngoan, hơn nữa anh chị cả có con trai đầu lòng, là cháu đích tôn của bà.

Nhưng khi sống chung lâu dài thì bà và nàng dâu cả lại có sự xung khắc, càng ngày càng nhiều. Mẹ chồng Bắc và nàng dâu Bắc, giống nhau cả tính ý, cả cách ăn ở mà vẫn không thể đi chung đường.

Một hôm chị Bích đã gọi phone cho tôi, thông báo khẩn cấp:
– Em chuẩn bị tinh thần đón mẹ về sống chung đi nhé, mẹ đang đòi về với vợ chồng em đấy.

– Có chuyện gì hả chị?

Chị Bích ấm ức kể:
– Bao nhiêu chuyện lặt vặt xưa nay chị kể em nghe nhiều rồi, chị không chấp, vì mẹ già rồi, tính nết lại khó khăn hơn người ta. Nhưng chuyện này thì không thể, “tiền già” mẹ lãnh hàng tháng mẹ cứ bo bo suốt bao nhiêu năm nay, ai đời ăn cây táo đi rào cây cam hở em! Mẹ để dành tiền gởi hết về cho cậu Nụ và thân nhân ngoài Bắc. Mẹ có cho ai thì cũng chừa lại phần mình tí chứ, đến lúc cần gì ở Mỹ thì lại hỏi vợ chồng chị, ai mà chịu được? Chưa hết, mỗi đầu năm bà lại hỏi chính phủ đã “tăng lương” cho mẹ chưa? tiền trợ cấp tăng theo thời gía đắt đỏ ấy mà, mẹ lẩm bẩm nói: “Đừng có tưởng tôi không đọc được tiếng Anh mà lờ đi nhé”. Thế có điên người không? Cứ làm như bà không hỏi, không nhắc nhở là chị sẽ ăn chặn, ăn bớt món tiền ấy không bằng. Chị bực mình gắt lên, thế là bà giận hờn, mắng mỏ chị và đùng đùng đòi về sống với vợ chồng em.

– Hay mẹ giận thì nói thế thôi, chứ mẹ vẫn theo đúng “tôn ti trật tự” là phải sống với con trai trưởng và cháu nội đích tôn mà?

– Không, lần này mẹ sai nguyên tắc rồi. Bằng cớ là mẹ còn… khen em nữa đó, khen nàng dâu miền Nam xởi lởi, dễ chịu và thoải mái hơn dâu Bắc.

Thật thế, mẹ chồng tôi “hy sinh”, thà về sống với gia đình tôi, tiền gìa lãnh ít hơn ở California nhưng bà bảo tinh thần bà thoải mái hơn nhiều, bà lôi chuyện nàng dâu cả ra kể nào là tính toán với bà từng món chi tiêu, nàng khá gỉa thế mà còn muốn bà bớt chút tiền gìa đóng góp hàng tháng v..v… Tôi chẳng biết giữa mẹ chồng và nàng dâu này ai đúng ai sai, vì ai cũng cho là mình có lý cả.

Mẹ chồng sống với tôi, tình thế đảo ngược so với ngày tôi làm dâu bà. Nhà này là nhà của tôi, của cải tiền bạc mẹ chồng tôi mất hết sau khi bỏ nước ra đi. Hiện nay bà sống nhờ tiền xã hội, không biết tiếng Anh, không thể lái xe, muốn gì cũng phải nhờ con nhờ cháu.

Bản tính tôi hồi nào tới giờ vẫn thế, chi tiêu rộng rãi trong cuộc sống. Tôi đi shopping quần áo cho tôi, nhưng thấy quần áo nào đẹp và tốt thì… sắm luôn cho chồng con và bà mẹ chồng, bà vẫn xót xa như ngày xưa khi tôi chân ướt chân ráo làm dâu nhà bà:
– Con ơi, mua làm gì lắm quần áo thế? Một đời ta ba đời nó, quần áo trong tủ cả đống kia đã mặc hết đâu.

Bây giờ bà đã thân mật âu yếm gọi tôi là “con” không gọi bằng “chị” kiểu cách lịch sự như thuở tôi mới làm dâu nữa.
– Theo mùa, theo “mốt” mà mẹ, nhưng con cũng mua lúc đại hạ giá rồi.

Bà đành chịu thua:
– Ừ, con thích thì sắm cho mình con thôi, quần áo mẹ mặc tới chết chưa hết con đừng mua nữa.

Thế mà tôi vẫn cứ mua về vì tôi thấy thích hợp với bà không mua cũng… uổng, dù tôi biết mang về nhà bà lại vừa nhận vừa càm ràm mắng tôi hoang phí và lanh chanh, không ai khiến mà cũng mua.

Đi chợ tôi toàn mua những món đắt tiền, tôi quan niệm tiền nào của ấy, thường xuyên mua cá tuyết, cá salmon, cá bass hơn là cá catfish, cá đù, cá nục. Thịt bò loại T-bone Steak, Ribeye Steak hay Sirloin Steak đương nhiên phải ngon hơn loại thịt vai dai nhách. Trái cây đầu mùa đắt bao nhiêu nhưng tôi cũng mang cả thùng về cho cả nhà cùng hưởng món ngon đầu mùa, chẳng phải nhịn thèm đợi tới giữa mùa.

Mỗi lần mẹ chồng tôi mở tủ lạnh, lui cui dọn dẹp bà lại rên rỉ như khi mình mẩy lên cơn đau nhức:
– Giời ơi là giời! Đồ ăn thức uống mua ê hề thế này, ăn không hết bỏ đi, phí cả tiền và phí của giời.

Tôi đã quen nghe bà cằn nhằn, nên không buồn, mà còn vui đùa:
– Mẹ ơi là mẹ, con phải mua sắm cho chợ búa đắt hàng, kích thích nền kinh tế phát triển. Ăn ngon thì bổ vào thân và cũng là cách hưởng đời.

– Thế con không dành dụm tiền của cho thằng con của con à? Mẹ vì hoàn cảnh, vì biến cố nên trắng tay đã không lo được gì cho con cháu rồi…

– Mẹ nói thế là trả lời rồi đấy, nên con quan niệm có tiền cứ hưởng ngay trong hiện tại, chẳng cần nhịn thèm, nhịn mặc hay từ bỏ những niềm vui tốn tiền nào đó để dốc hết vốn để dành, chồng con của con đã được nếm đủ mùi sung sướng hơn người. Tương lai, con của con sẽ làm ra tiền và tự lo cho nó cũng như vợ chồng con đã tự lo và gây dựng nên nhà cửa, vốn liếng ngày nay.

Tiền trợ cấp hàng tháng mẹ chồng tôi vẫn gởi về miền Bắc, cho người em út của bà là cậu Nụ, người đã kẹt lại không theo gia đình di cư vào Nam năm 1954. Cả một đời cậu nghèo khổ, những năm đất nước chiến tranh, lương công nhân không nuôi nổi vợ và hai con, nên người vợ vốn đã ốm yếu lại càng ốm yếu quanh năm. Thậm chí cậu không đủ tiền mua cái vỏ xe đạp hiếm hoi lắm cơ quan mới có mà phân phối ưu tiên cho công nhân tiên tiến như cậu…

Ngày nay cậu Nụ đã già, vợ chết sớm vì bệnh tật, cậu sống bám vào đám con cháu cũng nghèo khổ, nên mẹ chồng tôi thương xót đã gởi tiền về hàng tháng cho em, mong em sung sướng được ngày nào hay ngày ấy. Ngoài ra bà còn các họ hàng quyến thuộc khác ở quê hương miền Bắc của bà, nay giúp người này mai giúp người nọ, nên tiền bạc lúc nào cũng vơi, cũng không đủ.

Tôi hiểu mẹ chồng tôi và đồng tình với bà, giúp đỡ thân nhân nghèo khó bên Việt Nam vừa là tình thương vừa như làm điều phước thiện. Thỉnh thoảng có những cảnh khổ làm tôi động lòng, đưa thêm tiền cho mẹ chồng gởi biếu họ, coi như tôi theo mẹ làm phước dù những thân nhân như cậu Nụ hay ông chú này, bà bác kia tôi đều chưa biết mặt bao giờ.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1513115837-NangDauNamKy_02.jpg

Mẹ chồng tôi đã trở về từ Calif., bà có vẻ hài lòng với chuyến viếng thăm này. Thật ra khi người ta không hợp nhau khi chung sống, thì hãy sống xa nhau và là khách của nhau sẽ hay hơn. Vợ chồng tôi mừng vì mối quan hệ giữa mẹ chồng và nàng dâu cả đã hàn gắn được phần nào.

Buổi tối đầu tiên ăn bữa cơm sum họp gia đình, mẹ chồng tôi vẫn nhớ và hỏi Andrew ngay:
– Sao, cháu của bà, hôm nào thì mang cháu dâu tương lai ra mắt cả nhà như cháu đã hứa?

Andrew thăm dò:
– Để cuối tuần sau được không bà?

Tôi nói:
– Dĩ nhiên là được, với lại mẹ cần chuẩn bị tinh thần cũng như một bữa cơm để chào đón cô khách qúy chứ.

Mẹ chồng tôi cẩn thận:
– Con chưa biết cô gái ấy ra sao mà đã vồ vập thế sao được.

– Ít ra cô gái là bạn của con mình cũng là quý rồi.

Bà lẩm bẩm:
– Thời buổi này mẹ chồng nàng dâu cứ như là bạn bè ấy, không có khoàng cách gì cả. Cháu ơi, thế cô gái ấy là người miền Nam hay Bắc hở cháu?

Andrew hơi bối rối:
– Sao bà lại hỏi phân biệt thế? Giống như ngày xưa bà đã hỏi bố cháu khi mang mẹ cháu về trình diện bà.

Chồng tôi mỉm cười trấn an con trai:
– Không sao đâu, bà chỉ hỏi cho biết mà thôi. Bây giờ khác xưa rồi.

Andrew ấp úng:
– Cô ấy… không là người miền Nam như mẹ, mà cũng… không là miền Bắc như bố.

Mẹ chồng tôi cởi mở:
– Ừ, bà không phân biệt Bắc Nam như bố mẹ cháu ngày xưa đâu. Bà biết rồi, cô ấy là người miền Trung chứ gì. Con gái Trung cũng chịu khó tần tảo làm ăn và thương chồng con hết lòng lắm.

Chồng tôi phản đối:
– Cứ gì gái Trung hay gái Bắc, gái Nam kỳ như vợ con cũng thương chồng chiều con không ai bằng, lại còn chiều cả mẹ chồng nữa, sẵn sàng bỏ nghề dạy học nhàn hạ, thôi làm cô giáo, ở nhà phụ mẹ chồng buôn bán, bận rộn mịt mù với gạch cát xi măng và tính toán tiền nong cả ngày như một mụ lái buôn chuyên nghiệp.

Mẹ chồng tôi cười hài lòng:
– Điều này thì mẹ công nhận, gái miền nào cũng tốt xấu tùy người. Cô gái cháu yêu và sẽ cưới làm vợ là người miền Trung bà cũng vui vẻ chấp nhận ngay vì cứ là con gái Việt Nam là nề nếp rồi.

Andrew lo lắng đáp:
– Nhưng cô ấy là… người Mỹ bà ơi. Tên là Jessica.

Mẹ chồng tôi buông đũa, ngạc nhiên và bất bình kêu lên:
– Con gái Mỹ? Giời ôi, nó người Mỹ làm sao thích hợp với nhà này?

Vợ chồng tôi nhìn nhau, chia sẻ cái nhìn cùng quan điểm. Tôi lên tiếng trước:
– Thưa mẹ, chuyện lấy vợ Mỹ hay chồng Mỹ là chuyện thường tình. Chúng ta sống ở Mỹ, đây là quê hương thứ hai của chúng ta, những người trẻ lớn lên ở Mỹ, hấp thụ nền văn hóa Mỹ, thì lấy Mỹ đâu có gì là xung đột.

– Nhưng cô gái Mỹ ấy sẽ tiêu xài kiểu Mỹ khổ thân cháu tôi. Sẽ tan nhà nát cửa…

– Sống ở Mỹ tiêu xài kiểu Mỹ là đúng rồi mẹ à… Chừng nào sống ở Việt Nam mà tiêu xài kiểu Mỹ thì mẹ hãy lo.

Chồng tôi tiếp lời tôi:
– Mẹ cứ yên tâm, phần đời ai nấy lo, ngày xưa mẹ cứ chê nhà con là gái Nam ăn tiêu hoang phí, mà bây giờ vẫn nên nhà nên cửa và chính mẹ lại hợp với nàng dâu Nam kỳ đấy, còn Andrew, chúng ta hãy tôn trọng quyết định của nó.

Andrew có vẻ buồn buồn vì bà nội không vui, anh chàng không ăn cơm nữa, đứng lên đi nhanh về phòng, làm mẹ chồng tôi hoảng lên:
– Nó đi đâu đấy? Hay là lại tìm quả lựu đạn như bố nó năm xưa ra hù dọa tôi?

Tôi trấn an bà:
– Nó có đi lính như bố nó đâu mà có sẵn lựu đạn.


Nguyễn Thị Thanh Dương
nguồn: http://www.nvbonphuong.com/forums/showthread.php?257045-Nàng-dâu-Nam-kỳ

BachMa
12-20-2017, 07:24 PM
Rải Tro Theo Gió
Nguyễn Tường Thiết
Tặng Nhung, “đứa con đầu lòng” của nhà văn Thạch Lam.

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1513117571-RaiTroTheoGio_01.jpg
Trên Đỉnh Đèo Hải Vân
Tôi gặp anh tất cả bốn lần. Bốn lần đó trải dài hơn ba thập niên. Không nhiều. Đã thế dường như trong cả bốn lần đó ngoài cái gật đầu chào chúng tôi không hề trao đổi với nhau lấy một tiếng. Anh vốn ít lời. Còn tôi thì e dè. Tôi vốn có tính rất ngại bắt chuyện với một người nổi tiếng, đặc biệt nếu người ấy lại là người có quyền thế. Trong thâm tâm tôi biết nếu tôi mở chuyện thì anh cũng sẽ vui vẻ bắt chuyện ngay. Đằng sau gương mặt lầm lì ít nói ấy anh là người rất bình dị. Nhưng lần nào cũng thế sau cái gật đầu chào, tôi không bao giờ cất tiếng. Để đến bây giờ ngồi trước bàn máy vi tính một buổi sáng mùa thu miền Tây Bắc nước Mỹ, tôi viết đôi dòng về anh mà lòng không khỏi gợn chút nuối tiếc: bài viết của tôi vì thế sẽ không ghi lại một mẩu đối thoại nào, dù ngắn, để làm kỷ niệm giữa anh và tôi. Mà nào giữa chúng tôi đâu có phải người xa lạ gì cho cam? Anh là nguời rất thân cận trong đại gia đình Nguyễn Tường chúng tôi, là chồng của người em họ tôi, trưởng nữ của nhà văn Thạch Lam.

Tôi nhớ lại hình ảnh anh trong bốn lần gặp ấy. Bốn lần thì có đến ba anh hiện lên trước ly rượu. Đó cũng là hình ảnh cha tôi thường thoáng hiện mỗi lần tôi nhớ về ông. Trước ly rượu anh trầm ngâm yên lặng. Cha tôi cũng thế. Và bao giờ cũng vậy mỗi lần nghĩ về anh lòng tôi không khỏi có ngầm một sự hãnh diện thầm kín rằng dòng họ tôi có được một người rể như anh nổi tiếng là người thanh liêm. Cách đây sáu năm khi tái bản cuốn truyện của cha tôi, cuốn Giòng Sông Thanh Thủy, tôi đã viết lời đề tặng anh trên trang đầu cuốn sách những lời thật lòng: “Tặng anh Ngô Quang Trưởng, với cả tấm lòng quí mến và ngưỡng mộ”.

Cơ duyên nào mà một vị tướng lừng danh của quân lực miền Nam Việt Nam lại kết duyên với cô con gái lớn của nhà văn tài hoa nhất Tự Lực Văn Đoàn? Tôi không biết nhiều để trả lời thật đúng cho câu hỏi này. Người có thẩm quyền trả lời là bà Trưởng. Mang dòng máu của nhà văn Thạch Lam tôi nghĩ Nhung nếu muốn viết cũng sẽ dễ thôi. Tôi cũng không có ý định viết hồi ký về anh vì thật tình tôi không biết nhiều. Chỉ xin ghi lại đây đôi chút kỷ niệm với anh trong dăm lần gặp gỡ hiếm hoi.

Trước khi gặp anh lần đầu tiên vào năm 1962 tôi đã nghe lan truyền câu chuyện về một mối tình tay ba của hai sĩ quan trẻ thuộc hai binh chủng khác nhau của QLVNCH, một không quân và một nhẩy dù, với cô con gái lớn của một nhà văn nổi tiếng. Hai quân nhân cùng yêu một cô gái. Đó là chuyện thường tình trong cuộc chiến. Điểm đặc biệt họ lại là đôi bạn rất thân nhau. Trước cái chết có thể đến bất cứ khi nào, họ giao ước với nhau trong tình bạn là nếu người nào nằm xuống trước thì người kia nguyện sẽ suốt đời chăm lo cho cô gái kia. Người phi công sau đó tử nạn máy bay và định mệnh đã đẩy cô em họ tôi gắn liền cuộc đời với anh Trưởng. Sau này nhiều lần gặp Nhung tôi toan hỏi Nhung về câu chuyện tình này có đúng sự thực hay không, nhưng tôi lại thôi không hỏi. Với tôi đó là một huyền thoại đẹp, hãy cứ để nguyên vẹn như thế trong trí tưởng tượng của tôi.

Năm 1962 tôi ở Sài Gòn và dậy học tại trường trung học Minh Tân ở Biên Hòa. Một bữa anh Triệu tôi, hiệu trưởng trường Minh Tân, chở tôi từ Biên Hòa về Sài Gòn trên chiếc xe lambretta của anh. Đến Thủ Đức anh tôi đề nghị ghé thăm Nhung lúc này đang ở đó. Trong lúc nói chuyện với Nhung thì có tiếng xe đỗ ở ngoài cửa. Tôi nhìn ra. Từ trên xe jeep một sĩ quan bận đồ dù nhẩy xuống. Hai bông mai trên ve áo trận. Anh Trưởng lúc ấy cấp bậc Trung úy giữ chức vụ Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 5 Nhẩy Dù. Anh người tầm thước, nước da ngâm đen, khuôn mặt sần sùi khắc khổ. Cảm tưởng đầu tiên của tôi là anh không những không đẹp trai, lại không có cái “tướng” hùng của một quân nhân. Trí tôi lúc ấy thoáng hiện câu chuyện tình tay ba và tôi hình dung khuôn mặt anh chàng phi công tử trận chắc là phải hào hoa và đẹp trai hơn anh Trưởng.

Năm 1967 tôi gặp anh Trưởng lần thứ nhì ở Huế thì trên ve áo trận của anh hai bông mai đã thay thế bằng một ngôi sao. Anh đã lên tướng! Người sĩ quan tôi trông không có “tướng” ấy, năm năm sau đã được thăng tướng trong một thời gian ngắn kỷ lục. Trong họ tôi bắt đầu có lời đồn đãi là từ khi anh Trưởng lấy Nhung thì như diều gặp gió đường binh nghiệp của anh lên vùn vụt. Từ một Trung úy Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 5 Nhẩy Dù anh bây giờ là Chuẩn tướng Sư đoàn trưởng Sư đoàn 1 Bộ Binh. Năm ấy từ Sài Gòn tôi bay ra Huế hai tuần lễ và tá túc tại đại học xá Nam Giao, nơi mà hai năm trước tôi đã từng là sinh viên nội trú để theo học ở Đại Học Khoa Học Huế. Từ Nam Giao tôi đi bộ đến thăm cô em họ, lúc này đã khó gặp vì ở một nơi rất “kín cổng cao tường”. Tư dinh của tướng Trưởng là một biệt thự trên đường Lê Thánh Tôn gần nhà bưu điện Huế. Chung quanh tòa nhà giây thép gai giăng đầy, ở bốn góc là bốn lô cốt thiết lập bằng những bao cát với những họng súng chĩa ra từ lỗ châu mai. Người lính gác cổng vào trong nhà báo và Nhung đã ra tận cổng để tiếp tôi. Chúng tôi đang nói chuyện ở sa lông thì anh Trưởng về. Trông anh mệt nhọc nhưng oai phong hơn hẳn lần tôi gặp anh 5 năm trước. Thuở ấy tôi chưa nhập ngũ, vẫn còn là sinh viên, dù vậy trông anh tôi cũng có cảm giác hơi khớp. Không biết có phải vì ngôi sao trên ve áo anh khiến tôi thấy anh oai vệ hơn không. Tôi đứng dậy chào anh trong lúc Nhung nói với anh Trưởng: “Anh Thiết, con bác Tam đấy!”. Anh không nói gì, chỉ khẽ gật đầu, rồi lẳng lặng ra chỗ quầy rượu nơi có đặt mấy chai Martell có ngâm những củ sâm bên trong, anh rót rượu vào ly rồi cầm ly rượu trên tay không uống, anh chậm rãi bước tới bước lui trong phòng khách, đầu cúi nhìn sàn nhà vẻ mặt đăm chiêu suy nghĩ.

Năm 1970 khi tôi gặp lại anh lần thứ ba thì tôi đã là một quân nhân. Sau biến cố Tết Mậu Thân tôi nhập ngũ khóa 2/68 Thủ Đức. Ra trường tôi phục vụ ngành Chiến Tranh Chính Trị tại Tổng Cục CTCT ở Sài Gòn. Năm ấy khoảng gần tết thím Sáu tôi tức là bà Thạch Lam mất tôi đi viếng thím trong bộ quân phục. Quan tài thím đặt tại tư dinh tướng Trưởng trong cư xá sĩ quan Chí Hòa. Họ hàng chúng tôi đứng chật hai bên quan tài đặt chính giữa phòng khách. Xe jeep đậu trước cửa. Anh Trưởng bước vào. Bỏ chiếc mũ lưỡi trai cặp tay – chiếc mũ gắn hai ngôi sao đen – anh đứng yên lặng trước quan tài mẹ vợ cúi đầu. Đứng ở bên này quan tài, đối mặt anh lần đầu trong tư thế một quân nhân, một Thiếu úy trước một Thiếu tướng, tôi cảm nhận tất cả cái trọng trách lớn lao của vị tướng Tư Lệnh Quân Đoàn IV, quân khu IV, hằn trên gương mặt khắc khổ của anh. Hai phút sau anh đội mũ lên đầu rồi vội vã bước ra xe đi mất.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1513117582-RaiTroTheoGio_02.jpg
Trung Tướng - Ngô Quang Trưởng

Năm 1972 sau “mùa hè đỏ lửa” tôi là một trong ba sĩ quan của Khối Kế Hoạch/ Tổng Cục CTCT đi thanh tra vùng giới tuyến. Ba người ấy là Trung tá Vĩnh Huyền, Thiếu tá Nguyễn Công Luận và tôi với cập bậc Trung úy. Phái đoàn bay ra Huế trú đóng hai tuần lễ ở Mang Cá trong cổ thành Đại Nội. Không khí nơi đây đượm mùi chiến tranh. Lần đầu tiên kể từ ngày ra trường tôi trực diện với cuộc chiến. Cộng quân lúc này thỉnh thoảng vẫn tiếp tục nã pháo vào cổ thành Huế. Mỗi lần nghe tiếng đạn rít trên không trung tôi quơ nón sắt chụp lên đầu nhào xuống giao thông hào nơi hàng trăm binh sĩ thuộc đủ loại binh chủng và cấp bực cùng nhào xuống trú pháo. Theo bản năng tự nhiên mỗi lần nghe tiếng đạn pháo rít trên cao là tôi lại chúi đầu xuống đất mặc dù tôi biết rằng nghe được tiếng đạn rít tức là mình đã thoát chết vì đạn đã bay qua khỏi đầu. Chính trong lúc trú pháo này mà tôi hiểu được nỗi kinh hoàng mà anh vợ tôi Trung úy Nguyễn Thái Hòa và những chiến sĩ sư đoàn 5 Bộ Binh tử thủ An Lộc đã phải hứng chịu trước những trận mưa pháo dữ dội hơn gấp cả ngàn lần. Trước khi ra Huế lần này tôi đã đi chôn anh Hòa tại nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa. Anh tử trận ngày 7-7-1972 đúng ngày Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bay xuống An Lộc gắn lon Đại úy cho anh và ngay đêm đó anh bị pháo chết. Nội trong 24 tiếng đồng hồ ông anh vợ tôi đã lên chức hai lần, từ Trung úy lên cố Thiếu tá. Và cũng chính trong lần ra Huế này mà tôi được nghe được rất nhiều giai thoại về anh Trưởng, “người hùng tái chiếm Quảng Trị” lúc này đã được vinh thăng Trung tướng với ba sao trên ve áo và giữ chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn I, Quân khu I. Tất cả những giai thoại đó nếu được ghi lại đầy đủ tôi nghĩ có thể viết thành một quyển sách. Giai thoại về sự thanh liêm trong sạch của anh cũng có. Giai thoại về tác phong chỉ huy của anh cũng có. Giai thoại về lòng thương lính dưới quyền của anh cũng có.

Tôi nhớ là trong giao thông hào giữa hai đợt pháo kích một vị sĩ quan cạnh tôi sau khi biết sự liên hệ rất gần giữa tôi với anh Trưởng hỏi tôi có đi thăm tướng Trưởng trong lần ra Huế này không. Tôi trả lời không. Rồi tôi nói thêm: “Mình chả dại. Đang ngon lành trong ngành CTCT lại ở hậu cứ, gặp ổng nhỡ ổng lại ký giấy tống mình ra tiền tuyến thì mệt lắm. Mà không phải tôi nói giỡn đâu. Một người anh họ tôi cùng khoá với tôi 2/68 đã bị lãnh búa rồi. Ông tướng hãnh diện đi khoe với cố vấn Mỹ là có người anh họ đang chiến đấu ở ngay tuyến đầu!”

Lần thứ tư tôi gặp anh Trưởng là vào tháng 7 năm 1993 tại Virginia, tiểu bang êm đềm của nước Mỹ. Như một khúc phim được quay nhanh, hai mươi ba năm sau ngày tôi gặp anh lần chót ở Việt Nam tôi lại thăm anh Trưởng tại tư gia, một căn nhà khiêm nhường tại vùng thủ đô Hoa Kỳ. Cuộc chiến Việt Nam như một giấc mơ hãi hùng nhưng không thực lúc này đã trở thành dĩ vãng. Năm đó vào tháng 7 chúng tôi bay qua miền Đông nhân ngày giỗ thứ 30 của cha tôi được tổ chức tại nhà anh cả tôi, anh Việt, ở Virginia. Lần đầu tiên gặp anh Trưởng trong bộ thường phục, trông anh là lạ. Anh bận chiếc áo mông-ta-gu màu đỏ trông anh mập ra, trẻ trung và khỏe mạnh. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy ở anh vẻ an bình hiện trên gương mặt. Nhưng đó chắc chỉ là bề ngoài. Bên trong chắc hẳn anh mang nặng nỗi đau và niềm cay đắng của một vị tướng bại trận sẽ mang theo anh cho đến tận cuối đời. Anh đích thân rót rượu và ân cần mời tất cả mọi người. Tôi toan tiến lại gần anh, nói với anh vài lời, đặc biệt là bầy tỏ tấm lòng của tôi đối với anh, nhưng tôi lại thôi. Tôi nghĩ trong bụng anh có thể đã nghe những lời bầy tỏ tương tự như thế rất nhiều lần rồi, nói ra lại thành khách sáo, vả lại chúng tôi là người nhà, còn thiếu gì những dịp khác để gặp anh tâm tình. Nhưng tôi đã lầm. Dịp khác để gặp anh đã không bao giờ đến, cho đến khi anh ra đi vĩnh viễn vào ngày 22 tháng 1 năm 2007. Tôi không thể ngờ lần thứ tư tôi gặp anh ở Virginia đó cũng là lần chót. Và chúng tôi vẫn chưa bao giờ trao đổi với nhau được lấy một lời. Tôi chỉ còn cách tự an ủi là ba năm trước khi anh mất anh đã đọc những lời chân tình của tôi viết về anh trên trang đầu cuốn sách Giòng Sông Thanh Thủy tôi gửi tặng.

Trưa hôm nay tôi lái xe đến thăm anh Phạm Hậu. Nhà anh Hậu ở Bothell, cách Shoreline chỗ chúng tôi ở khoảng 20 phút lái xe. Từ mấy năm nay chúng tôi có một giao ước. Cứ cách khoảng hai tháng là hai đứa phải ới cho nhau một tiếng, hẹn nhau tại một quán ăn, ăn trưa rồi ngồi hàn huyên. Luân phiên chúng tôi trả tiền. Nhưng dạo này anh hơi lẫn, ngại lái xe, nên tôi thường đến nhà anh chở anh đi.

Từ trong nhà bước ra anh nói ngay:

– Tôi quên mất rồi. Không biết lần này ai trả tiền, ông hay tôi?

– Tôi cũng không nhớ. Nhưng nhầm nhò gì. Để tôi trả cho. Anh cứ “vô tư” đi cho tôi nhờ!

– Này này! Ông đừng có lợi dụng cái bệnh Alzheimer của tôi nhé! Cái gì cũng phải cho nó sòng phẳng...

Trong lúc lái xe tôi nghĩ đến sự tình cờ hi hữu đã khiến chúng tôi gặp lại nhau và ở gần nhau trên nước Mỹ. Bốn mươi năm trước chúng tôi có một thời gian cùng phục vụ tại Khối Kế Hoạch/Tổng Cục CTCT. Anh Hậu lúc ấy là Thiếu tá nhưng anh chỉ tạm trú ở Tổng Cục vài tháng trước khi chờ biệt phái sang Phủ Tổng Thống. Hồi đó tôi nghe đồn anh có “gốc” lớn lắm. Sau này kể anh chuyện ấy anh cười nói: “Gốc mẹ gì! Toàn là đồn nhảm không à!”. Tôi cũng nhớ là sau khi biết tôi là con của ông cụ, anh Hậu, tác giả tập thơ Chuyện Chúng Mình, có đọc cho tôi ngay câu thơ mà anh đã làm trước đó mười năm: “Yêu Nhất Linh tôi chọn tên Nhất Tuấn”. Cùng sang Mỹ năm 1975 và cùng chọn tiểu bang miền Tây Bắc nước Mỹ để định cư, chúng tôi đã có dịp gặp nhau thường xuyên từ hơn ba mươi năm nay.

Ăn trưa xong, bên tách trà nóng, chúng tôi ngồi ôn chuyện cũ. Lẫn trong câu chuyện hình ảnh của những người mà chúng tôi đã từng quen biết năm xưa, người mất kẻ còn, lần lượt hiện ra. Tội nghiệp Trung tá Ngô Văn Hùng, Trưởng khối Kế Hoạch/Tổng Cục CTCT, xếp của chúng tôi, đã chết vì ngộp thở trên chuyến tàu hỏa chở những tù nhân cải tạo ra Bắc. Trung tá Nguyễn Đình Bảo, Trưởng phòng Nghiên Cứu Kế Hoạch, xếp trực tiếp của tôi, cũng đã ra đi tại tiểu bang New Jersey miền Đông nước Mỹ. Trung tá Vĩnh Huyền, Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 50 CTCT, người mà anh Hậu vẫn khen là có gương mặt và tác phong rất bảnh, đã từ lâu tôi mất liên lạc, không biết còn ở Calgary bên Canada hay không. Và Thiếu tá Nguyễn Công Luận nữa, không biết anh còn ở San José hay không, sức khoẻ anh hiện ra sao...

Bên ngoài lướt qua khung kính của nhà hàng mưa nhẹ bay bay. Bãi đậu xe lá vàng phủ ướt nhẹp. Bây giờ là cuối thu, những chiếc lá của hàng cây phong trồng trên bãi đậu xe đã bắt đầu chuyển từ màu vàng óng sang màu đỏ tía. Mỗi lần cơn gió mạnh thổi lá rụng lả tả bay đậu trên mui trên kính những chiếc xe hơi nằm trên bãi.

Tôi nhìn anh Phạm Hậu ngắm hàng râu mép của anh và bỗng thấy anh cũng bảnh y như Trung tá Vĩnh Huyền trong hình ảnh ký ức tôi năm xưa. Chỉ khác là bây giờ râu tóc của nhà thơ này đã chuyển sang màu muối tiêu. Nhớ đến Trung tá Vĩnh Huyền tôi lại liên tưởng đến lần chúng tôi ra Huế năm 1972 và tôi nói với anh Hậu:

– Tôi đang viết giở một bài về tướng Ngô Quang Trưởng, nghe nói anh có làm bài thơ về ông Trưởng hay lắm, anh có thể đọc cho tôi được không?

Năm ngoái cũng trong một lần đi ăn trưa như hôm nay tôi đã kể cho anh Hậu nghe về ước muốn sau cùng của anh Trưởng là sau khi anh chết tro của anh được thả trên đèo Hải Vân. Vào mùa hạ năm 2008, một năm sau khi anh chết, ý nguyện đó đã được gia đình thực hiện. Theo lời Nhung kể cho tôi trong một lần điện đàm thì anh Trưởng có một người tài xế sống ở Việt Nam mà Nhung vẫn thường xuyên liên lạc và giúp đỡ từ nhiều năm nay. Chính chú tài xế ấy đã đón Nhung và các con Nhung tại phi trường Tân Sơn Nhất khi Nhung mang bình tro anh Trưởng về Việt Nam. Từ phi trường chú tài xế chở mọi người về nhà chú tại ngoại ô thành phố Sài Gòn. Thật là một điều lạ lùng là nhà chú tài xế đó lại ở trên đường Thạch Lam, một con đường mới mở sau này khá lớn và dài ở sâu trong Chợ Lớn. Tôi có hỏi Nhung là chú ấy có biết Nhung là con của Thạch Lam hay không Nhung trả lời là chú ấy không biết và Nhung cũng không nói. Rồi sau đó tất cả bay ra Huế thuê xe lên đèo Hải Vân. Đến gần đỉnh đèo nơi một khúc ngoặt nguy hiểm có một cái miếu nhỏ thờ những người bị tai nạn chết ở đó Nhung quyết định chọn chỗ này để rải tro. Suốt ngày hôm đó trời âm u giông gió. Mấy mẹ con và chú tài xế khấn nguyện trước miếu. Một lát lâu sau khấn xong ngửng lên thì trời đất bỗng dưng quang đãng hẳn lên mây tan và trời trong xanh. Vợ con anh Trưởng từng người một kể cả người tài xế trung thành lần lượt rải tro theo gió, tro của vị tướng lừng danh của quân sử VNCH bay trên ngọn đèo hùng vĩ Hải Vân nơi mà chú tài xế kia đã nhiều lần chở vị tướng ba sao qua lại trên trục lộ Huế-Đà Nẵng, ngọn đèo đã đưa vị tướng chấn lĩnh vùng địa đầu lên đỉnh vinh quang và cũng là ngọn đèo đã kéo vị tướng ấy xuống chốn cùng thảm bại.

Rải tro theo gió... trên đỉnh đèo Hải Vân... ý nguyện của người đã khuất gợi lên trong tôi hình ảnh vừa bi hùng lại vừa lãng mạn, như là sự kết hợp tuyệt vời giữa mối tình của viên dũng tướng với cô con gái đầu lòng của nhà văn Tự Lực Văn Đoàn.

Ngậm ngùi tôi lắng nghe anh Phạm Hậu đọc bốn câu thơ sau đây của anh:

Lệnh sáng giữ, lệnh chiều bỏ Huế!
Bao chiến công... cũng thế mà thôi
Hải Vân... tro rắc bốn trời
Hạt tro nào... lạc vào nơi cổ thành?
Nhất Tuấn
Tiểu đoàn 5 Nhẩy Dù VN (3/1954-9/1954).

Nguyễn Tường Thiết
nguồn: http://www.quocgiahanhchanh.com/raitrotheogio.htm

BachMa
12-24-2017, 05:31 AM
Merry Christmas & Happy New Year 2017

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1514092100-Santa_takin_gas.jpg

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1514092409-25443296_321096828297120_9132058959059319613_n.jpg

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1514092119-XmasCopter.jpg

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1514092140-xmas-usaf-cargo.jpg

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1514092156-santa-vietnam.jpg

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1514092180-SantaOnU2.jpg

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1514092191-war-santa.jpg

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1514092224-santa-bird.jpg

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1514092245-military-humor-funny-christmas-aircraft-f-15-santa-claus-merry-christmas.jpg

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1514092310-imagesHVTJQ9ME.jpg

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1514092340-https___blueprint-api-production.s3.amazonaws.com_uploads_card_image_632 424_baeaaf78-dc75-4f44-9e12-92a6d3fe7929.jpg

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1514092358-d7209b54886409cf5ff5bd85d6b5b9cc.jpg

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1514092376-Christmas_Day_USS_Nimitz_1.jpg

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1514092469-25395768_320796231660513_2318366027002052333_n.jpg

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1514092510-640px-US_Navy_101219-N-6632S-012_An_F-A-18_Hornet_is_decorated_with_Christmas_lights_on_th e_flight_deck_of_the_aircraft_carrier_USS_Geo.jpg

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1514092549-25396257_320797494993720_6365359097831359218_n.jpg

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1514092832-25348706_320521535021316_4427026871662796736_n.jpg

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1514092861-3312h5v.jpg

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1514092594-HQPD_2017.jpg

BachMa
12-28-2017, 10:01 PM
Người Tù Binh Hồi Chánh Bên Bờ Sông Ba
Phạm Tín An Ninh

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1513117557-NguoiTuBinhHoiChanhBenBoSongBa.jpg
Hình minh họa
Tôi gặp lại anh trong 1 dịp rất tình cờ . Mùa Hè năm 2008 , vợ chồng tôi cùng mấy người bạn trên đường từ thác Niagra trở lại New York bằng chiếc mini-van , ghé lại thành phố Buffalo để tìm mua 1 hộp thuốc nhỏ mắt .

Đến quày Pharmacy trong 1 cửa hàng Target , tôi may mắn gặp 1 dược tá người Việt . Nếu không nhìn kỹ cái bản tên trên nắp túi áo và với cái tên khá đặc biệt , chắc chắn tôi không thể nào nhận ra anh , người tù binh , đã bị Đại Đội Trinh Sát của đơn vị tôi bắt trong 1 cuộc hành quân thám sát bên bờ Sông Ba , nằm trong địa phận quận An Túc ( An Khê ) vào giữa tháng 02/1972 .

Đúng vào sáng ngày 30 Tết Nhâm Tý ( 1972 ) khi chuẩn bị cho buổi tiệc khao quân tất niên tại bản doanh Sông Mao , Trung Đoàn 44 nhận lệnh phải di chuyển gấp lên An Khê để cùng Thiết Đoàn 3 Kỵ Binh tăng phái , thành lập 1 chiến đoàn , thay thế vị trí của 1 Lữ Đoàn thuộc Sư Đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ vừa rút quân về nước , làm lực lượng trừ bị cho Quân Đoàn . Giai đoạn đầu , Chiến Đoàn phối họp với Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn , hành quân tảo thanh tiêu diệt các lực lượng địch dọc theo hai bên QL-19 và đảm trách giữ an ninh lộ trình 24/24 con đường huyết mạch này từ Bình Khê đến Pleiku , để kịp thời cho các nhu cầu chuyển quân , tiếp tế lên chiến trường Pleiku và Kontum .

Thời gian này Sư Đoàn 22BB đang bổ sung quân số quân dụng , chuẩn bị di chuyển lên Tân Cảnh để đối phó với tình hình đột biến . Một lực lượng lớn Cộng quân từ miền Bắc và Lào ào ạt xâm nhập qua biên giới , tăng cường cho Mặt Trận B-3 của Tướng CS Hoàng Minh Thảo , trong ý đồ đánh chiếm Tây Nguyên .

Buổi tiệc khao quân tất niên bị huỷ bỏ , thực phẩm phân phát cho binh sĩ và trại gia binh . Chúng tôi rời bản doanh Sông Mao lúc 12 giờ trưa . Chi Đoàn 2/8 TK tăng phái hộ tống lực lượng bộ binh đến Đèo Cả , ranh giới tỉnh Phú Yên . Sau đó được lực lượng Thiết Kỵ của Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn mở đường và đón đơn vị chúng tôi từ Đèo Cả đến Đèo Cù Mông , Bình Định . Nghỉ đêm và đón giao thừa tại Vạn Giã , sáng hôm sau tiếp tục di chuyển . Chúng tôi đến căn cứ An Khê lúc 4 giờ chiều ngày Mồng Một Tết .

Một Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 44 được nhanh chóng thành hình . Trung Tá Trần Quang Tiến , Trung Đoàn Trưởng 44BB là Chiến Đoàn Trưởng , Trung Tá Trần Lý Hưng , Thiết Đoàn Trưởng TĐ 3KB là Chiến Đoàn Phó . Cá nhân tôi đảm trách Trưởng Ban 3 Chiến Đoàn . Một toán liên lạc của Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn , do 1 vị Đại Tá chỉ huy , được đặt bên cạnh BCH Chiến Đoàn . Ngoài Thiết Đoàn 3 KB , Chi Khu An Túc và 1 tiểu đoàn Địa Phương Quân của TK Bình Định cũng được đặt dưới quyền chỉ huy , điều động của Chiến Đoàn .

Hai hôm sau , Chiến Đoàn được lệnh tổ chức 1 cuộc hành quân khẩn cấp , giải toả hai căn cứ cấp đại đội thuộc Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn nằm trên Đèo An Khê , vừa bị 1 lực lượng Công quân bất ngờ tấn công và đang vây hãm . Sư Đoàn Mãnh Hổ đã phái 1 lực lượng tiếp ứng , nhưng bị phục kích , thiệt hại khá nặng . Lực lượng địch được uớc tính gồm 1 tiểu đoàn và 1 đại đội đặc công của Sư Đoàn 2 Sao Vàng .

Nhờ hoả lực hùng hậu và những kỵ binh dũng cảm trên các chiến xa M-113 của Thiết Đoàn 3KB , cùng các phi công tài ba gan dạ thuộc Phi Đoàn Mãnh Sư 243 , sau những kế hoạch nghi binh , tạo các bãi đáp giả , lừa địch rất hiệu quả , từng đại đội bộ binh được tuyển lựa các binh sĩ trẻ , trang bị nhẹ , đổ xuống , vừa khép vòng vây vừa ngăn chặn lực lượng tăng viện của địch .

Đại Đội 44 Trinh Sát nổi danh thiện chiến , với hai toán Viễn Thám được trang bị mặt nạ chống hơi ngạt , chia làm hai cánh bất ngờ nhảy xuống ngay sau lưng địch , từng toán nhỏ lao vào tấn công bằng hơi cay , lựu đạn , và cả M-72 , dưới sự yểm trợ chính xác hữu hiệu của các trực thăng võ trang , nhanh chóng tiêu diệt hai cái chốt chặn của địch ở hai bên dốc đèo , làm đầu cầu cho lực lượng Thiết Giáp có bộ binh tùng thiết , đồng loạt tấn công , nhanh chóng làm chủ chiến trường . Chỉ trong vòng hai tiếng đồng hồ , cả hai căn cứ đã được giải toả , địch quân tháo chạy , bị các đơn vị bao vây tiêu diệt , có mấy tên bị ta bắt sống . Chiến Đoàn đã ghi 1 chiến tích vẻ vang cho đầu năm mới .

Sáng hôm sau Đại Tướng Cao Văn Viên TTMT và Tưóng Tư Lệnh Lực Lượng Đại Hàn tại Việt Nam từ Sài gòn bất ngờ bay ra An Khê quan sát chiến trường và ngợi khen các đơn vị tham chiến .

Ngay chiều hôm ấy , qua hệ thống siêu tần số , Tướng Lam Sơn , Tư Lệnh Phó Quân Đoàn II cho biết , theo tin tức không ảnh của Mỹ ghi nhận , có dấu hiệu địch xuất hiện trong khu vực bên kia bờ Sông Ba , khu này nằm tiếp giáp Vùng Oanh Kích Tự Do , lệnh Chiến Đoàn cho 1 đơn vị cấp đại đội thâm nhập , thám sát tình hình . Ông Chiến Đoàn Trưởng bảo tôi và Đại uý Trần Công Lâm , Đại Đội Trưởng 44 Trinh Sát , dùng CNC bay dọc theo bờ sông , thám sát địa thế , tìm 1 khúc sông thuận lợi và an toàn nhất để vượt sông . Sáng sớm hôm sau , sau khi thông báo cho TTHQ/ Quân Đoàn & Sư Đoàn Mãnh Hổ , yêu cầu tạm ngưng mọi cuộc tác xạ hay oanh kích trong vùng , đúng 5 giờ sáng , hai toán Viễn Thám vượt sông trước làm đầu cầu để toàn bộ Đại Đội Trinh Sát sang sông . Nhiệm vụ hành quân lục soát trong khu vực được ấn định 16 cây số vuông , theo đề nghị của Quân Đoàn .

Sau 2 tiếng đồng hồ , không có cuộc đụng độ nào , Chiến Đoàn nhận được báo cáo của Đại Đội Trinh Sát bắt được 2 tù binh , 1 nam 1 nữ , và cả hai xin được hồi chánh . Theo trình bày của anh Đại Đội Trưởng Trinh Sát . Người đàn ông bị phát giác trước , khi đang trên đường xuống sông lấy nước . Anh ta khai là y sĩ thuộc 1 tiểu đoàn chính quy CS , đã đào ngũ hơn 1 tuần . Anh xin được hồi chánh cùng với người vợ mới gặp , cô là người Thượng , dân ở vùng này , không phải đồng chí của anh . Sau đó , anh hướng dẫn đến 1 hốc đá , chỉ người con gái , và cây súng K-54 được chôn trong 1 bụi rậm gần đó . Vì cuộc hành quân đang tiếp diễn , nên tôi yêu cầu Đại Đội Trinh Sát an ninh bãi đáp để tôi dùng CNC bốc về khai thác .

Khi trực thăng đáp xuống , đích thân Đại uý Lâm dẫn giải đến giao cho tôi cùng giấy chứng nhận y sĩ và mấy tấm ảnh . Hai người được giữ lại BCH Chiến Đoàn để tiếp tục khai thác trước khi chuyển giao cho Ty TT Chiêu Hồi Bình Định . Khi cô con gái bước lên trực thăng , chúng tôi đã khá bất ngờ , ngạc nhiên về sắc đẹp kỳ lạ của cô . Thấy áo quần rách rưới , chúng tôi mua cho cô mấy bộ bà ba . Khi mặc vào , trông cô thích thú lắm . Vì cả hai đang bị bệnh , người đàn ông thỉnh thoảng lên cơn sốt , nên chúng tôi sắp xếp cho ở tạm trong trạm xá ( đang trống ) của Đại Đội Quân Y để điều trị .

Tất nhiên có sự canh gác đề phòng . Anh Bác sĩ Quân Y lại là bạn thân đồng hương , nên tôi thường ghé lại đây thăm và nhân tiện có nhiều dịp nói chuyện với vợ chồng anh tù binh hồi chánh . Mặc dù đã được Ban 2 ( Tình Báo ) cho chúng tôi biết khá đầy đủ chi tiết sau khi khai thác , nhưng qua những cuộc tâm tình riêng , tôi biết thêm nhiều điều lý thú khác . Anh tên Trúc Bạch , họ Hồ . Làm tôi nhớ tới cái hồ có tên Trúc Bạch mà người phi công Mỹ nổi danh John McCain đã nhảy dù xuống và bị bắt , khi phi cơ của ông bị bắn rơi , lúc ấy ông còn ở trong nhà tù Hilton Hà Nội .

Tôi hỏi anh có biết sự việc này không, hay là anh đã có công trạng gì, nên được mang tên cái hồ đặc biệt này kể cả họ Hồ? Anh cười ngượng ngùng , bảo là , bố mẹ anh gặp nhau lần đầu tiên bên bờ hồ này , rồi sau đó nên duyên và đặt tên cho anh , thằng cu đầu lòng để làm kỷ niệm . Ông bà đều là giáo viên . Trước dạy ở Hà Nội , nhưng vì lý lịch nên sau này phải đổi lên vùng sâu vùng xa mới giữ được nghề cũ . Bố anh gốc người Phát Diệm . Gia đình theo đạo Công Giáo từ mấy đời trước đó . Bố anh chỉ có 1 bà chị , nhưng đã theo chồng di cư vào Nam từ 1954 . Ngày ấy cả xứ họ đạo đều đi , nhưng vì mẹ mang thai anh gần đến ngày sinh , nên bố đành ở lại . Bà cô anh vào Nam , 1 thời gian ở Ngã Ba Ông Tạ , nhưng sau đó mất liên lạc , không biết đã chuyển đi đâu .

Bố anh bảo người bà con trong làng vào Nam rất đông , nên nếu tìm bà cô cũng không khó lắm . Tôi cho anh biết là tôi có quen nhiều bạn bè ở vùng Công Giáo Hố Nai , đa số là người Bùi Chu Phát Diệm , tôi có thể hỏi thăm tin tức cho anh . Đang học trường Trung Học Y tế thì anh bị động viên chuyển sang Quân Y, và được đưa vào B (chiến trường miền Nam) bổ sung cho Sư Đoàn 2 Sao Vàng .

Dù học chưa xong , anh vẫn được cho làm y sĩ . Anh bảo chỉ biết cứu thương và học được 1 số thuốc Nam , trị bệnh bằng các loại lá cây . Hơn nữa đơn vị cũng chẳng có thuốc men gì , ngoài 1 ít thuốc ký ninh của Trung Cộng viện trợ .Anh cũng kể về sự nghèo nàn khốn khổ của dân chúng miền Bắc , chính sách hộ khẩu như 1 hình thức nắm cái bao tử để tạo áp lực với dân , đặc biệt là ép buộc thanh thiếu niên phải vào Nam chiến đấu . Anh cũng kể về mối tình đầu của anh với 1 cô bạn học , khá xinh . Khi biết cô là con của 1 đảng viên trong ban bí thư thành phố , anh ngại . Chưa kịp lùi bước , thì cô cũng kịp khám phá anh ta gốc Công giáo , gia đình lại có đông người di cư vào Nam , nên cô bảo thẳng thừng rồi chia tay . Anh biết trước nên chẳng bất ngờ , cũng chỉ buồn buồn 1 chút rồi thôi .

Cô con gái đang ngồi với anh , anh gọi là vợ , người sắc tộc , có cái tên rất khó nhớ . Điều đặc biệt là cô khá đẹp . Cái đẹp man dại của 1 cô gái núi rừng có 1 ma lực hấp dẫn đến kỳ lạ . Chính vì điều này đã làm anh có thêm dũng khí để trốn khỏi đơn vị , thực hiện ý định hồi chánh , mà anh đã ấp ủ từ lúc bị chuyển vào miền Nam .

Tiểu đoàn đang ẩn quân ở vùng núi Cheo Reo , nhiều bộ đội bị sốt rét , nên anh cùng 1 người lính trong tổ Quân y tranh thủ đi vào rừng để tìm lá cây làm thuốc . Khi đến bờ 1 con suối nhỏ bên triền núi , anh bắt gặp 1 cô gái đang trồng khoai bên cái chòi tranh sơ sài trong hốc đá . Anh ngạc nhiên , sao lại có 1 người con gái dám sống lẻ loi giữa núi rừng quạnh vắng . Đến gần anh giật mình ngạc nhiên hơn , không tin vào đôi mắt của chính mình . Không thể giữa núi non hẻo lánh này lại có 1 cô con gái đẹp đến lạ lùng , 1 nét đẹp hoang dã , cuốn hút anh ngay từ cái nhìn đầu tiên . Da ngâm đen với đôi mắt thật to , chiếc mũi cao , đôi môi mọng đỏ .

Cô khác hẳn với những cô gái Thượng mà anh đã gặp trong các vùng hành quân . Anh mơ hồ nhớ đến chuyện ngày xưa , khi còn bé , anh thường nghe mẹ kể về những cô tiên mắc phải lỗi lầm bị đoạ xuống trần gian . Người bạn lính đi theo anh cũng ngẩn ngơ trước điều bất ngờ kỳ lạ này . Cô gái chỉ nói 1 ít tiếng Việt , nhưng cũng đủ để hai người hiểu được . Cô bảo cô bị người trong buôn cho là ma , nhiều lần đòi giết cô , nên ông trưởng làng đày ra sống ở đây . Cha mẹ thỉnh thoảng được đến thăm , nhưng cô không được phép về buôn .

Anh bực dọc cảm thấy có điều gì bất nhẫn . Sau khi được cô gái chỉ đường đến buôn , anh và người bạn lính tìm đến gặp ông trưởng làng để cố thuyết phục xin được thả cô ra , nhưng không những bị từ chối , mà ông trưởng làng còn cho biết là chờ đến mùa lũ , họ sẽ trói cô lại và bỏ trôi sông để cúng thánh thần , tránh tai hoạ cho buôn .

Sau khi về đơn vị , anh suy nghĩ bằng cách nào để cứu được cô con gái . Ý muốn đào ngũ để hồi chánh bao nhiêu lần lóe lên trong đầu , bây giờ càng thôi thúc anh thực hiện . Hai ngày sau , anh báo cáo riêng với tay Thủ Trưởng , xin đi lấy lá thuốc Anh đi 1 mình , thật sớm . Để tránh nghi ngờ , nhất là người bạn đồng chí Quân Y hôm trước , anh để lại balô , chỉ mang theo ít lương khô và khẩu súng K-54 phòng thân . Anh tìm đến giải cứu cô gái Thượng , kể lại cho cô nghe lời của ông trưởng làng , sẽ thả cô trôi sông . Cô gật đầu , mang theo cái gùi chứa ít bắp , khoai và hai cái bình chứa nước làm bằng vỏ trái bầu .

Anh dắt cô gái đi thật nhanh . Buổi chiều khi gặp con Sông Ba , hai người tiếp tục đi dọc theo bờ sông cho đến tối . Nghĩ đã hơn 1 ngày đường , đơn vị không thể nào đuổi theo , anh dừng lại và ẩn trốn trong 1 hốc đá an toàn . Ăn bắp khoai sống tạm , chờ tìm đường ra hồi chánh . Không ngờ 1 tuần sau thì bị đơn vị tôi bắt . Tin tức đơn vị Cộng quân do anh tù hồi chánh cung cấp được kịp thời báo cáo lên Quân Đoàn . Một lực lượng Biệt Động Quân đang hoạt đông trong khu vực Hàm Rồng được tung vào khu vực , nhưng địch quân đã di chuyển đi nơi khác mấy ngày trước ( Sau này được biết đơn vị này bị thiệt hại nặng nề bởi hoả lực Không Quân của ta oanh kích , khi bọn chúng bao vây tấn công 1 căn cứ tại Thuần Mẫn , do 1 đơn vị đia phương quân trú đóng ) .

Mấy hôm sau , khi sức khoẻ tạm hồi phục , vợ chồng anh được chuyển giao cho Ty Chiêu Hồi Tỉnh Bình Định . Qua nhiều lần nói chuyện , nhìn thấy ở anh có sự chân thành , nhất là việc Sư Đoàn 2 Sao Vàng của anh bị thiệt hại nặng nề , bộ đội chết quá nhiều không kịp bổ sung quân số , chúng tôi thấy tội nghiệp cho người dân miền Bắc , nhất là những thanh thiếu niên bị cưỡng bách , tuyên truyền xẻ dọc Trường Sơn cứu nước , để rồi có biết bao người phải sinh Bắc tử Nam !

Ngày 24/04/1972 , Tân Cảnh thất thủ , khi BTL/SĐ22BB bị địch quân tràn ngập , vị Tư Lệnh liêm sĩ và khí phách đã cùng đồng đội chiến đấu tới giây phút cuối cùng , và vùi thây nơi chiến địa , Trung Đoàn 44 chúng tôi có lệnh di chuyển khẩn cấp lên phi trường Cù Hanh , Pleiku để được không vận lên Kontum . Chỉ sau 1 ngày đến Kontum , thay thế cho 1 Liên Đoàn Biệt Động Quân ở tuyến Tây Bắc , đơn vị tôi đã đánh 1 trận lẫy lừng , tiêu diệt cả 1 trung đoàn của Sư Đoàn 320 CS và 1 đại đội chiến xa T-54 , khi bọn chúng từ Tân Cảnh tràn xuống tấn công , trong ý đồ chiếm lấy Kontum .

Chiến thắng này đã mở màn cho nhiều chiến thắng sau đó để giữ vững Kontum trong suốt Mùa Hè Đỏ Lửa . Và thành phố địa đầu Tam Biên này chỉ rơi vào tay CS , khi Quân Đoàn 2 có lệnh triệt thoái vào giữa tháng 03/1975 , tạo nên cuộc di tản đẫm máu kinh hoàng trên con đưởng tử lộ 7-B .

Đã hơn 36 năm , bất ngờ gặp lại anh giữa 1 nơi xa lạ . Chỉ mới nhắc lại 1 vài chi tiết bên bờ Sông Ba ở An Khê năm nào là anh nhớ ra tôi ngay . Tôi không dám vồn vã vì đang đo lường phản ứng của anh . Nhưng bất ngờ anh ôm chầm lấy tôi , gọi tên tôi trong nỗi vui mừng pha chút cảm động . Anh lễ phép xưng em với tôi , bảo là vợ chồng luôn nhớ đến tôi , nhớ anh bác sĩ quân y bạn tôi và nhớ mấy ngày đặc biệt ở căn cứ An Khê . Anh ca ngợi khả năng và lòng nhân đạo của những người lính VNCH . Anh bảo làm sao anh có thể quên được 1 kỷ niệm lớn lao đã làm thay đổi cả cuộc đời anh vả cả vợ anh .

Anh khẩn khoản mời chúng tôi ở lại 1 vài ngày với gia đình anh . Tôi ra xe kể qua câu chuyện cho mấy người bạn . Ai cũng thích thú , nhất là muốn xem dung nhan của cô tiên nữ người Thượng bây giờ ra sao . Tôi vào báo cho anh biết là chúng tôi chỉ có thể ở chơi với vợ chồng anh đến sáng ngày mai , nhưng xin anh tìm giúp 1 hotel ở gần nhà để chúng tôi ngủ qua đêm , vì đông người quá , ngại làm phiền . Anh cười , bảo 1 đêm thì quá ít để anh có thể kể bao nhiêu chuyện về cuộc đời của vợ chồng anh . Anh gọi điện thoại về nhà báo tin cho vợ biết và vào xin boss nghỉ sớm để đưa chúng tôi về nhà . Anh cho biết đã đặt giùm khách sạn , nhưng muốn mời chúng tôi về nhà anh chơi , đến khi nào ngủ anh sẽ đưa ra khách sạn .

Anh lái xe chạy trước và bảo chúng tôi cứ chạy theo anh . Đường lạ nhưng không nhiều xe lắm , bọn tôi ai cũng nôn nao , mong sớm đến nhà để nhìn dung nhan cô gái Thượng ngày xưa . Ngôi nhà khá đẹp nằm trong khu vườn rộng , trồng đủ các loại hoa . Điều đặc biệt là trước nhà có cả 1 khóm dã quỳ .Loại hoa màu vàng tôi thường thấy ở Vùng Pleiku , An Khê ngày trước . Khi chúng tôi vừa xuống xe , 1 người đàn bà mở cửa bước ra chấp hai tay trước ngực và cúi đầu chào . Anh chồng chưa kịp giới thiệu thì chúng tôi đã ồ lên .

Chị cười thật tươi và đưa tay bắt từng người . Có lẽ đã nghe chồng kể qua về chuyện bất ngờ gặp lại tôi , nên chị nhìn từng người để cố nhận ra tôi . Và chị đã nhận ra khi tôi là người cuối cùng bắt tay chị . Điều làm tôi bất ngờ là chị chào hỏi bằng tiếng Việt rất sõi . Mấy người bạn và cả vợ tôi ai cũng trầm trồ trước nhan sắc của chị .

Riêng tôi lại có 1 chút thất vọng . Đúng là với tuổi bây giờ , chị là 1 người đàn bà đẹp , nhưng là cái đẹp của 1 hoa hậu phu nhân , mang nét quí phái với chút phấn son . Không còn cái đẹp man dại núi rừng của cô ngày trước . Cái đẹp đặc biệt và hiếm hoi ấy dễ làm mê hoặc người ta hơn . Anh chị mời chúng tôi ra vườn sau , ngồi quanh cái bàn tròn dưới gốc 1 cây bơ phủ bóng . Chúng tôi phụ anh chị làm 1 bữa BBQ . Tôi bảo là hồi đó tên chị khó đọc quá , nên tôi không còn nhớ . Chị cười bảo là H’ Niê . Sợ không hiểu chị lấy 1 que cây viết xuống đất . Vừa viết chị vừa nói : Sau này ông xã em đặt tên cho em là H’ An Khê . Sang Mỹ lấy họ chồng , bây giờ em là An Khê Hồ . Nói xong , chị nhìn sang tôi cười : Cái chỗ An Khê mà các anh đã cứu vợ chồng em đấy !

Tôi đùa :
– Bọn tôi phải cám ơn chị. Sắc đẹp của chị đã giúp bọn tôi bớt đi 1 kẻ thù, và anh Bạch cũng phải mang ơn chị, vì nhờ chị mà anh mới quyết tâm thực hiện giấc mơ hồi chánh của mình, nếu không thì chắc đã trở thành liệt sĩ vô danh từ lâu rồi !

Suốt buổi chiều hôm ấy , anh ngồi kể say sưa cho chúng tôi nghe về cuộc đời của anh và đời sống của vợ chồng sau ngày hồi chánh :
– Em chỉ có 1 cô em gái . Mãi đến năm 1985 em mới liên lạc được và sau này đã bão lãnh sang Mỹ cùng với chồng và 1 đứa con trai . Bố mẹ em đã chết từ lâu , và vẫn cứ tưởng em là liệt sĩ .

Sau ngày được chuyển về Bộ Chiệu Hồi , vợ chồng em đều được đối xử rất tốt và giúp đỡ tận tình . Đáng mừng và cảm động nhất là họ đã cố gắng bỏ nhiều công sức để tìm được bà cô ruột của em . Bà có hai người con trai đều là sĩ quan VNCH , một anh ở Biệt Động Quân , nghe nói đánh giặc có tiếng , tiếc là anh đã tử trận trong Tết Mậu Thân , hình như lúc mang hàm Trung Uý , và 1 anh là Thiếu Tá Hải Quân . Cũng nhờ anh này mà cả nhà và vợ chồng em mới được rời khỏi Sài gòn vào sáng sớm ngày 30/04/1975 .

Năm 1974 vợ em sinh con trai đầu lòng , sang đây thì có thêm cô con gái . Hai cháu đều đã lập gia đình . Lúc trước gia đình em ở Philadelphia , nhưng từ khi vợ chồng thằng con trai nhận việc làm ở đây , bọn em chuyển lên đây sống gần các cháu .

Buổi chiều , cả vợ chồng cậu con trai và cô con gái chạy xe đến , mang theo mấy chai rượu đỏ và nhiều thức ăn dành cho buổi tối . Các cháu rất lễ phép , dễ thương , nói được tiếng Việt nhưng không giỏi lắm . Đặc biệt cô con gái , chắc nhờ thừa hưởng sắc đẹp của mẹ , nên rất xinh xắn . Nhìn đôi mắt của cháu tôi nhớ lại đôi mắt ngây dại của mẹ cháu ngày xưa , khi còn là cô gái Thượng hoang dã . Đôi măt to , đen láy , mang cả hình bóng núi rừng và mây trời cao nguyên thưở ấy . Điều làm chúng tôi bất ngờ và thích thú hơn .

Cháu gái đang là 1 dược sĩ và cậu con trai là Thiếu Tá Bác Sĩ của 1 đơn vị trú đóng ở đây . Cô vợ người Mỹ cũng là 1 Bác Sĩ Quân Y cùng đơn vị . Bọn tôi nâng cốc ca ngợi anh chị và chúc mừng cho sự thành đạt của các cháu . Sáng hôm sau , hai vợ chồng đến khách sạn rất sớm , mời chúng tôi ăn điểm tâm trước khi chia tay . Khi tôi đến quày check out , người thu ngân của khách sạn cho biết có người đã thanh toán tiền phòng rồi . Tôi phàn nàn trách , anh cười , ôm vai tôi nói nhỏ : Biết trả bao nhiêu cho đủ so với tấm lòng và sự giúp đỡ của các anh .

Cả vợ chồng ôm từng người chúng tôi và mong có ngày tái ngộ . Khi bắt tay từ giã anh , 1 người bạn của tôi hỏi đùa : Thế Hổ Trúc Bạch có gặp « giặc lái » John McCain chưa ? Anh cười , nói lớn : Em đã gặp ông trong 1 cuộc vận động bầu cử . Em bảo với ông là , tôi và gia đình sẽ bỏ phiếu cho ông , vì ông đã nói 1 câu rất đúng : Điều đáng buồn là trong cuộc chiến Việt Nam , kẻ man rợ đã thắng !

Anh chị lái xe hướng dẫn chúng tôi đi 1 đoạn đường . Đến ngã rẽ qua xa lộ , anh dừng lại , đưa tay ra cửa vẫy chào tiễn biệt . Chia tay vợ chồng anh , suốt cả đoạn đường dài , tôi miên man hồi tưởng về những ngày tháng cũ và hình dung lại từng khuôn mặt đồng đội bạn bè , 1 số đã chết tại các chiến trường khốc liệt An Khê Cheo Reo , Pleiku , Kontum , số còn lại sau những năm tháng tù đày nghiệt ngã , giờ đang lưu lạc bốn phương trời , mang theo những vết thương chưa thể lành được trong lòng .

Đặc biệt , tôi nhớ tới Trần Công Lâm , người Đại Đội Trưởng Trinh Sát lừng danh , đã chỉ huy cuộc hành quân bên bờ Sông Ba ngày ấy . Lâm là bạn chí thân , cùng khoá Thủ Đức , cùng Trung Đội SVSQ , và nằm giường trên tôi , lúc còn ở quân trường . Hai thằng đã rủ nhau về cùng đơn vị . Lâm đã hy sinh vào cuối tháng 03/1973 trên đỉnh núi Ngok Wang , Kontum khi đang là Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3/44 .

Và cuối cùng , tôi cũng nhớ đến đôi mắt đẹp man dại của cô gái Thượng , cùng hình ảnh người tù hồi chánh ở An Khê lúc trước , khi Lâm dẫn giải đến trực thăng giao lại cho tôi.
Phạm Tín An Ninh
nguồn: http://www.nvbonphuong.com/forums/showthread.php?250924-Người-Tù-Binh-Hồi-Chánh-Bên-Bờ-Sông-Ba

BachMa
01-03-2018, 08:54 PM
Mèo & Rắn

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1515012598-Meo_Ran.jpg

Trước đây, tôi xem bức ảnh này nhưng không hiểu hết ý nghĩa, chỉ biết là chú mèo thấy cái đuôi rắn thò ra từ 1 cái lỗ bé và chú mèo cứ nghĩ đó là đuôi chuột, lấy chân vờn định kéo ra.

Sau này, tôi mới biết bức ảnh này là một tác phẩm nổi tiếng của họa sỹ người Ý Marco Melgrati, dưới bức ảnh có chú thích rằng:

"Bạn sẽ không bao giờ biết được bạn đang chơi với ai, vì vậy xin hãy luôn tôn trọng mỗi người trong suốt cuộc đời bạn".

Trong cuộc sống, những gì mà bạn nhìn thấy chỉ là một phần rất nhỏ của sự thật, những gì bạn chưa nhìn thấy như phần chìm của tảng băng trôi! Đôi khi, bạn nghĩ không ai biết bạn đang làm gì, nhưng kỳ thực họ đã nhìn thấu bạn là ai từ lâu rồi, nên bạn hãy cẩn trọng trong phát ngôn và hành động, bởi bạn không biết điều gì xảy ra khi bạn làm tổn thương họ.

Hãy luôn làm đầy ngân hàng cảm xúc, hãy dùng sự chân thành, hoà hiếu, yêu thương của bạn để đối đãi với người.

HÃY SỐNG ĐÚNG VỚI CON NGƯỜI BẠN

Nguyễn Ngọc Ngạn

BachMa
01-07-2018, 05:45 AM
Đằng Sau Một Bài Hát

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1515279547-DangSauMotBaiHat.jpg
Vào truyện
Một tối trong một lữ quán ở tỉnh nhỏ Amarillo của tiểu bang Texas:
– “Trước 1975 ở Việt Nam anh làm gì?”
– “Tôi trong Không Quân…”
– “Chắc anh cùng lứa với ông Nguyễn Cao Kỳ?”
– “Không! ông Kỳ là cấp chỉ huy của tôi, ở Sài Gòn; Tôi đóng ở Pleiku. Tôi ngang cỡ với Lưu Kim Cương, một đàn em thân cận của ông Kỳ.”
– “A, anh biết ông Lưu Kim Cương hả? Anh có biết ông ấy chết như thế nào không?”
– “Nghe nói rất thương tâm; Trúng đạn bắn xe tăng, phổi lòi ra ngoài!


***

Rất nhiều người đã nghe bài hát “Cho Một Người Vừa Nằm Xuống” từ sau biến cố Tết Mậu Thân, năm 1968, nhưng chắc ít ai biết rõ những tình tiết đưa đến sự ra đời của nhạc phẩm này, để đến cả 40 năm sau vẫn còn có người muốn tìm hiểu.

Bài hát có lời như sau:
“Anh nằm xuống, sau một lần đã đến đây
Đã vui chơi trong cuộc đời nầy
Đã bay cao trong vòm trời đầy
Rồi nằm xuống, không bạn bè, không có ai
Không có ai, từng ngày, không có ai đời đời
Ru anh ngủ, mùa mưa tới trong nghĩa trang này có loài chim thôi
Anh nằm xuống, cho hận thù vào lãng quên
Tiễn đưa nhau trong một ngày buồn
Đất ôm anh đưa vào cội nguồn
Rồi từ đó, trong trời rộng, đã vắng anh
Như cánh chim, bỏ rừng, như trái tim bỏ tình
Nơi đây một lần, nhìn anh đến những xót xa đành nói cùng hư không
Bạn bè còn đó, anh biết không anh?
Người tình còn đó anh nhớ không anh?
Vườn cỏ còn xanh, mặt trời còn lên
Khi bóng anh như cánh chim, chìm xuống
Vùng trời nào đó, anh đã bay qua?
Chỉ còn lại đây những sáng bao la
Người tình rồi quên, bạn bè rồi xa
Ôi tháng năm, những dấu chân người cũng bụi mờ
Anh nằm xuống, như một lần vào viễn du
Đứa con xưa đã tìm về nhà
Đất hoang vu khép lại hẹn hò
Người thành phố, trong một ngày, đã nhắc tên
Những sớm mai, lửa đạn
Những máu xương chập chùng
Xin cho một người vừa nằm xuống
Thấy bóng thiên đường cuối trời thênh thang”

Với những ai không quen biết nhạc sĩ Trịnh Công Sơn (TCS) – là tác giả bản nhạc – dù có nghe, hay đọc kỹ lời ca cũng khó có thể biết nhân vật được nói đến là ai; Chỉ biết người ấy mới qua đời, và lúc còn sống đã có dịp bay cao trên trời.

Để hiểu rõ câu chuyện, có lẽ phải nhìn lại từ năm 1962. Đó là năm nữ ca sĩ Khánh Ly (KL) thật sự bước vào cuộc đời ca hát của mình, trình diễn ở phòng trà Anh Vũ, một trong vài phòng trà ca nhạc (sống) lúc nào cũng chật ních giới thưởng ngoạn, trên đường Bùi Viện ở Sài Gòn.

Ca sĩ KL ghi lại trong “Chuyện kể sau 40 năm” – chú thích trong ngoặc đơn là của Nguyên Giao: “… Tôi vẫn đi hát ở Anh Vũ, và chính ở đó, tôi gặp Trung úy Không quân Lưu Kim Cương. Sau buổi hát, anh chở anh Sơn (người anh ruột của KL – không phải là TCS) và tôi chạy vòng vòng Sài Gòn… hát tiếp những bài tôi vừa hát; Đặc biệt là bài ‘Anh Đến Thăm Em Một Chiều Mưa’ … Anh bảo … Mai (tên thật của KL) chọn bài có gout lắm, cứ như thế, và anh cũng muốn em giữ mãi nụ cười. Anh thích thấy em cười vì nụ cười đó sẽ mở cho em tất cả những cánh cửa … Cuộc gặp gỡ giữa anh em chúng tôi và Trung úy Lưu Kim Cương đơn giản như vậy. Tôi biết ơn anh vì anh là người duy nhất có cái nhìn thiện cảm với tôi. Anh là người đầu tiên và duy nhất khuyến khích tôi đi theo nghiệp dĩ này … ”

Nhưng cuối năm 1962, KL lại rời Sài Gòn lên hát cho một phòng trà khác ở Đà Lạt, và lưu lại đó 5 năm. Năm 1964, tại Đà Lạt, KL gặp một người nhạc sĩ nghèo. Anh đến với cô bình thản như cơn mưa dầm của Đà Lạt vào đêm hôm đó. Qua vài câu chuyện, cô và nhạc sĩ trở thành hai người bạn. Người bạn ấy không ai khác, đó là nhạc sĩ TCS. Rất nhiều lần TCS đề nghị KL về Sài Gòn đi hát với ông nhưng cô đều từ chối bởi cô yêu Đà Lạt, sự yên tĩnh thanh bình của Đà Lạt đã quyến luyến bước chân cô, không như Sài Gòn vốn đông người và luôn nhộn nhịp.

Đến năm 1967, ca sĩ KL tình cờ gặp lại nhạc sĩ TCS giữa giòng người đi lại trên đường Lê Thánh Tôn, Sài Gòn, vào một buổi chiều êm ả. Từ một đêm mưa của Đà Lạt đến một buổi chiều trên đường phố Sài Gòn, tất cả đã bắt đầu như đưa đẩy định mệnh.

Vài hôm sau, trên nền gạch đổ nát bãi đất rộng sau trường đại học Văn Khoa Sài Gòn, một quán lá sơ sài được dựng lên với cái tên là Quán Văn. Tại đây, giọng hát khàn đục, và lôi cuốn của KL đã làm ngẩn ngơ, bàng hoàng & ngất ngây cả một thế hệ với những bản tình ca, và Ca Khúc Da Vàng mới lạ của TCS.

Hãy nghe bà Đặng Tuyết Mai – trước là phu nhân của Thiếu tướng Không quân Nguyễn Cao Kỳ (NCK) lúc giữ chức Thủ tướng VNCH - mô tả liên hệ giữa Lưu Kim Cương (LCK) và Trịnh Công Sơn (TCS) trong một cuộc phỏng vấn năm 2009 ở Hoa Kỳ:

“ … Anh LKC và chị rất là say mê nhạc của anh TCS và con người của anh TCS nữa. Chị hay nấu nướng. Trong Câu lạc bộ Không quân, anh LKC có một câu lạc bộ nhỏ là Mây Bốn Phương, luôn luôn kéo anh TCS vào đó. Chị đem đồ nhậu đến. Anh TCS làm được bài nhạc mới là hát, và hay tả cho nghe. Chị hay đến câu lạc bộ Mây Bốn Phương để nghe anh TCS đàn hát những bài hát mới. Giao tình của anh TCS với anh LKC rất mật thiết. Cũng lạ, một người rất là nhà binh, to lớn, cường tráng. Còn anh TCS rất là mỏng manh, ốm yếu. Nhưng hai người gần nhau vô cùng trong tình nghệ sĩ. Anh LKC có rất nhiều nghệ sĩ tính, hát rất hay. Thành ra, họ rất thân mến với nhau. Hàng tuần, họ gặp nhau hai, ba lần … “

Từ năm 1967, NCK giữ chức Phó Tổng thống VNCH, có Trung tá LKC trong số những sĩ quan thân tín Không quân chung quanh.

Đúng mùng một Tết Mậu Thân (31 tháng Giêng năm 1968), một cánh quân Việt Cộng tấn công căn cứ Không quân trong phi trường Tân Sơn Nhứt. Có mặt tại căn cứ, LKC đã “không quân đánh bộ” thành công chỉ huy dẹp tan quân địch hôm 23 tháng Hai, và được vinh thăng Đại tá.

Mặc dù bị tổn thất nặng nề trong cuộc tổng công kích đợt 1 Tết Mậu Thân, tới trung tuần tháng 4, 1968 Việt Cộng lại mở cuộc tổng công kích đợt 2. Nhật báo Chính Luận ở Sài Gòn trong số ra ngày mùng 7, tháng 5, năm 1968 đăng tin: “Sáng ngày mùng 2 tháng 5 vào hồi 10 giờ, Ðại tá Lưu Kim Cương, Tư Lệnh Không Ðoàn 33 đã bị tử thương trong lúc ông đương đích thân chỉ huy một đơn vị bảo vệ vòng đai phi trường để đẩy lui một cánh quân Việt Cộng tại khu nghĩa trang Pháp gần ngã tư Bảy Hiền. Ông đã bị một tên Việt Cộng thủ súng B40 (phóng lựu đạn, để bắn xe tăng) vẫn còn sống, bắn một trái B40 trúng tấm mộ bia ngay bên cạnh Ðại tá Cương, sức nổ và miểng đạn đã chặt đứt một cánh tay của ông và gây thêm nhiều vết thương nặng khác, khiến ông tắt thở tại chỗ. Một phóng viên truyền hình Pháp chạy theo Ðại tá Cương cũng bị tử thương ngay bên.

Ðại tá Lưu Kim Cương năm nay 34 tuổi có 2 con. Ông là người rất vui tính, có nhiều máu văn nghệ, chiếm được nhiều cảm tình trong giới quân đội cũng như báo chí. Tưởng cũng nên ghi nhận đây là lần đầu tiên một sĩ quan mang cấp Tá của quân đội ta nói chung và của Không quân VN nói riêng đã hy sinh trong lúc trực chiến với địch.”

Nhà báo/Nhà văn Văn Quang có ghi lại: “Một buổi chiều năm Mậu Thân 1968, ngồi ở nhà hàng Pagode tôi gặp Khánh Ly và Ngọc Anh đi cùng Trịnh Công Sơn. Chúng tôi rủ nhau đi ăn cơm chiều. Ăn ở một quán bụi xong đã đến giờ giới nghiêm – thời gian đó Sài Gòn giới nghiêm từ 5 giờ chiều đến 5 giờ sáng. Khánh Ly nhờ tôi đưa Trịnh Công Sơn về … Đêm đó là đêm đầu tiên tôi đưa Trịnh Công Sơn về building Cao Thắng. Ở cái building đó chỉ có một phòng gắn máy lạnh, là của một thương gia bán huy chương ở ngay chợ Bến Thành thuê làm phòng riêng, cho tôi ở chung nhưng không lấy tiền. Sơn mang đến cây đàn guitar, ở lại phòng tôi vài ngày, tôi không nhớ rõ bao nhiêu ngày. Nhưng chính ở đó anh sáng tác hoặc hoàn tất bản ‘Tình Xa’. Tôi có cái máy ghi âm hiệu Akai, trong khi tôi đi làm, Sơn vẫn thường dùng để nghe lại bản nhạc mình đang hoàn thành. Rồi chợt một hôm nghe tin Lưu Kim Cương chết ở phi trường Tân Sơn Nhất, Khánh Ly lên phòng tôi, cô ngồi lặng, Sơn chỉ nhìn và cũng lặng yên. Ít ngày sau, bài ‘Cho Một Người Vừa Nằm Xuống’ ra đời … “

LKC chỉ là một trong nhiều chiến sĩ đã vị quốc vong thân trong cuộc chiến 20 năm ở Việt Nam. Người ta ước tính đã có khoảng 3 triệu quân & dân hai miền chết vì cuộc chiến đó. Trong số này, đã có rất nhiều chiến sĩ trong các binh chủng khác như Thủy quân Lục chiến, Biệt kích Dù, Biệt động quân, v.v. của VNCH đã chết trận. Khác với hai sĩ quan cấp Tá Không quân Phạm Phú Quốc, và Lưu Kim Cương, hầu hết những hy sinh anh hùng khác – kể cả trong binh chủng Không quân – đã không được người ngoài thân nhân, hay bạn thân biết đến, vì mấy ai được/có nhạc sĩ sáng tác, ghi lại (bằng bài hát), và được cho phổ biến (trên truyền thông), để người ngoài – không phải là thân nhân – biết đến?

Mặt khác, so với các chiến sĩ đã nằm xuống, trường hợp các Tù Cải Tạo trong các nhà tù của Việt Cộng lại càng phải được ghi nhận cho đúng. Đừng quên ngay sau năm 1975, hàng trăm ngàn cựu quân nhân, và viên chức VNCH đã bị tù đày, hành hạ, có người cả 20 năm. Bao nhiêu gia đình đã tan tác? Một số tù nhân đã chết trong tù vì bệnh hoạn, hay kiệt sức. Những chịu đựng, và hy sinh của những người tù lay lứt sống còn hình như đã không được ghi nhận tương xứng so với những bạn đồng ngũ nổi danh đã nằm xuống.

Hơn 35 năm sau biến cố 1975, một tối trong một lữ quán ở tỉnh nhỏ Amarillo của tiểu bang Texas, tình cờ tôi đã được trao đổi vài ba câu chuyện với một cựu sĩ quan Không quân cùng lứa với cố Chuẩn tướng Lưu Kim Cương. Có khác chăng chỉ là người còn sống đã trải qua 13 năm tù cải tạo, và chỉ muốn quên đi quãng đời thanh xuân mà ông coi là đã bị phí phạm.

Còn bao nhiêu cựu tù chưa có dịp giải tỏa chuyện đời của họ? Cũng đều là vì nước, giữa đột ngột chết trận, và sống còn với thể xác suy yếu & tâm thần gẫy đổ sau nhiều năm bị kẻ thù đầy đoạ & hạ nhục, thử hỏi: Ai trần ai hơn ai? Và như vậy, sao đã vinh danh người này mà hình như không nghĩ đến người kia?


***

Có những bài hát có ý nghĩa, và công dụng hơn chỉ là phương tiện/sản phẩm giải trí, hay nghệ thuật. Đó là những bài ca ghi lại những sự kiện xảy ra cho các nhân vật trong hoàn cảnh của thời gian & không gian như nhân chứng cho dân tộc của một quốc gia đã trải qua. “Cho Một Người Vừa Nằm Xuống” là một trong những nhạc phẩm thuộc loại hiếm hoi này.

Nếu đã biết như thế, những người yêu nhạc không nên chỉ để đầu óc đắm chìm trong giới hạn của lời ca & tiếng nhạc, để có khi còn thấy những sự kiện tuy không được trực tiếp kể lại, nhưng cũng thuộc những biến cố đổi đời.

(BachMa sưu tầm)

BachMa
01-10-2018, 04:16 AM
Ponchos Buồn
Bảo Định

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1515466387-PonchosBuon_01.jpg
Hình minh họa
Không biết từ bao giờ, chiếc áo poncho đã trở thành chiếc áo đi mưa của người lính VNCH. Thời chiến tranh Việt-Pháp, người lính Pháp dùng áo đi mưa bình thường như ta vẫn dùng, nhưng màu sắc là màu kaki. Bộ đội Việt Minh thì dùng “tơi” làm bằng lá cọ, rất bất tiện. Về sau họ được trang bị bằng tấm vải nylon được lén lút mua từ vùng “Tề”. Trong những món quân trang được cấp phát cho người lính, có tấm poncho màu ô liu, dùng để làm áo đi mưa. Ý nghĩ đầu tiên của người lính giản dị chỉ có thế.

Nhưng khi vượt sông, người lính được chỉ cách dùng tấm poncho, gói tất cả ba lô, quân trang quân dụng, cột túm lại để trở thành cái phao mà vượt qua dòng nước. Khi đi hành quân, với hai tấm ponchos nối lại với nhau, một sợi dây căng dùng làm đòn dong, người lính đã có một “túp lều lý tưởng của anh và của em”, của ba người lính, hay ba chàng “ngự lâm pháo thủ”. Vì cần thêm một người lính nữa chung vào, tấm poncho thứ ba làm tấm drap trải nền. Người lính đi hành quân dài ngày, ngoài ba lô quân dụng, phải mang một cấp số rưỡi đạn dược, nhiều trái lựu đạn, hành trang thường nặng trên 20 ki lô, nên ít ai mang theo chăn mền. Do đó tấm poncho thứ ba, khi đêm khuya lạnh lẽo giữa nơi núi non, hay vùng đồng không mông quạnh, đã trở thành chiếc mền cho ba người lính đắp chung. Ba người lính cùng dựng “túp lều lý tưởng”, cũng là tổ “Tam Tam” trong cơ chế quân đội, là đơn vị nhỏ nhất: Tổ Tam Tam, Tiểu đội, Phân đội, Trung đội, Ðại đội…

Khi đi vào những vùng khan hiếm nước, hay không có nước như mật khu Hắc Dịch thuộc tỉnh Phước Tuy chẳng hạn, người lính đào một cái hố cạn, phủ poncho lên trên, tạo thành một cái giếng cạn để hứng những giọt sương đêm, hay gặp may, có một cơn mưa nào bất ngờ chợt đến để hứng nước. Sau cùng, khi người lính hy sinh nơi chiến địa, tấm poncho đã trở thành chiếc áo quan “phủ kín thân xác của người chiến sĩ”.

Mùa Hè Ðỏ Lửa năm 1972, Tiểu đoàn 2/43 cùng Ðại đơn vị Sư đoàn 18 BB nhảy vào An lộc thay thế Sư đoàn 5BB, trấn giữ Thị xã này của “Bình Long Anh Dũng”.

Ngày 12 tháng 6 năm 1972, khi lá cờ vàng ba sọc đỏ phất phới tung bay trên đỉnh đồi Ðồng Long, người hùng An Lộc, Tướng Lê Văn Hưng tuyên bố với phái viên VTVN: “Thành phố An Lộc đã được hoàn toàn giải tỏa”.

Sau hơn hai tháng giao tranh, lực lượng tấn công cộng sản xâm lăng Bắc Việt với quân số đông gấp 4 lần lực lượng của QLVNCH, nhưng quân trú phòng đã gây cho chúng thiệt hại ít nhất là 30 ngàn quân trong tổng số 4 sư đoàn quân CSBV. Tổn thất về phía QLVNCH cũng khá nặng nề. Nhưng điều quan trọng là họ đã giữ vững được thị xã. Mặc dù An lộc đã trở thành một địa ngục của trần gian! Mưu đồ của CSBV mong chiếm được An Lộc để đặt làm Thủ đô của cái gọi là “Chính phủ Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam”, con đẻ của Hànội, và làm bàn đạp tiến đánh thủ đô Sàigòn hoàn toàn bị bẻ gãy. Cuối cùng bọn đầu lĩnh Bắc Bộ Phủ đành phải chọn Lộc Ninh, một quận nhỏ của tỉnh Bình Long, nằm cách biên giới Việt-Miên vài cây số để làm thủ đô! Thật là khôi hài!


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1515466407-PonchosBuon_02.jpg
Hình minh họa

An Lộc đứng vững là nhờ sức chịu đựng, tinh thần chiến đấu dũng cảm, và lòng hy sinh vô bờ bến của người lính VNCH. Họ là những chiến sĩ Nghĩa Quân, Ðịa Phương Quân tỉnh Bình Long của Ðại Tá Trần Văn Nhựt, Sư Ðoàn 5 BB của Tướng Lê Văn Hưng, vài đơn vị của Sư Ðoàn 9, Sư Ðoàn 18, Sư Ðoàn 21, Biệt Ðộng Quân, và lực lượng Nhảy Dù. Hai câu thơ của một cô giáo An Lộc, được viết lên trên một tấm gỗ của thùng đạn pháo binh, cắm trước Nghĩa trang Biệt Cách Dù, ngay giữa khu phố chợ Bình Long:

“An Lộc Ðịa, sử ghi chiến tích,
Biệt Cách Dù, vị quốc vong thân”

Ðã nói lên lòng biết ơn sâu xa của người dân địa phương đối với sự hy sinh cao cả của người lính VNCH.

An Lộc đã đứng vững, các ngọn đồi chung quanh như Ðồi Ðồng Long, Ðồi Gió, Ðồi 169… đã được tái chiếm. Quân CSBV bị thua nặng, bị kiệt quệ, nên thôi mở những cuộc tấn công thiêu thân. Nhưng vòng vây bao quanh thị xã vẫn siết chặt. Không đủ khả năng hay không còn dám mở những cuộc tấn công bằng bộ chiến, chúng tấn công bằng trận địa pháo. Những trận mưa pháo liên tục trút lên thị xã nhỏ bé, ngày cũng như đêm. Những người lính VNCH tử trận không có phương tiện để mang về hậu cứ trong hoàn cảnh súng phòng không dày đặc, đường bộ thì bị cắt tại Tàu Ô trên QL13, đành phải “vùi nông một nấm” tại chỗ. Nhưng mỗi tấc đất của An Lộc là một tấc lãnh đạn pháo của địch. Do đó chuyện “người chết hai lần, thịt xương nát tan” chuyện thường tình. Tại An Lộc, Tiểu Ðoàn 2/43 đã có những người lính chết ba lần, bốn lần, thậm chí năm lần! Thử hỏi thịt xương còn gì? Không chỉ là nát tan!

Sư Ðoàn 18BB của Ðại Tá Lê Minh Ðảo, sau khi nhảy vào An Lộc, để cùng với Trung Ðoàn 52 và một tiểu đoàn của Trung Ðoàn 48 tăng phái cho Sư Ðoàn 5, đã có mặt tại đây ngay từ những ngày đầu của trận chiến, liền cấp tốc mở những cuộc hành quân tái chiếm những vùng đất bị mất, nới rộng vòng đai phòng thủ, hầu giảm thiểu những trận mưa pháo của địch. Phi trường Quản Lợi nằm cách xa thị xã An Lộc lối 10 cây số về hướng Ðông Bắc. Trong thời kỳ quân đội đồng minh còn tham chiến ở Việt Nam, nơi đây là căn cứ của một Lữ Ðoàn Quân Ðội Hoa Kỳ. Người bạn đồng minh đã xây dựng tại đây những pháo đài, những bunkers rất là kiên cố để bảo vệ sân bay. Khi trận chiến An Lộc xảy ra, đây là địa điểm tốt để đặt sở chỉ huy của chúng, nhất là những dàn đại pháo để bắn vào An Lộc. Do đó, Tư lệnh Mặt trận Lê Minh Ðảo quyết định bằng mọi giá, phải tái chiếm Phi trường Quản Lợi.

Vào một ngày đầu Thu năm 1972, Sư đoàn 18 BB đã mở cuộc hành quân cấp Trung Ðoàn để tái chiếm phi trường Quản Lợi. Ðây là vùng đồn điền cao su Ðất Ðỏ (Terre Rouge) của người Pháp. Từ An Lộc đi về hướng Ðông theo con đường 303. Trước khi đến phi trường, phải vượt qua một thung lũng hẹp. Ðây là thung lũng mà những người lính của tiểu đoàn 2/43 gọi là “Thung lũng Tử thần”. Chính cái thung lũng nhỏ hẹp này đã cướp mất biết bao nhiêu là sinh mạng của các chiến sĩ Tiểu Ðoàn 2/43.

Từ sáng sớm, những phi cơ chiến đấu thay nhau trút bom đạn lên đầu giặc; tiếp theo là những tràng đạn pháo 105ly, 155ly. Những khẩu pháo này đã hoạt động liên tục trong suốt trận chiến, nòng súng bị nở rộng, đường khương tuyến bị mòn, nên bây giờ tác xạ không còn chính xác. Ðộ sai số có thể lên đến 500 mét! Sau những đợt mưa bom và đạn pháo, Tiểu Ðoàn 2/43 của Ðại Úy Nguyễn Hữu Chế, khóa 13 Võ khoa Thủ Ðức, và Tiểu Ðoàn 3/43 của Thiếu Tá Lê Thanh Quang, khóa 16 Võ bị Ðàlạt, bắt đầu mở cuộc tấn công.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1515466427-PonchosBuon_03.jpg
Hình minh họa

Trước khi mặt trời lặn, hai tiểu đoàn đã tiến chiếm được một đầu phi đạo. Trận chiến diễn ra rất ác liệt, sự thiệt hại của cả hai bên đều khá cao! Nhưng quân bạn đã lập được đầu cầu, xua quân địch về bên kia và về cuối phi đạo! Cuộc hành quân chỉ tiến đến được ngang đó. Bên kia phi đạo là một dãy pháo đài và bunkers kiên cố của quân đội Mỹ để lại. Sức chống trả của địch thật mãnh liệt, quân bạn không thể tiến xa hơn. Sau nhiều ngày tạm nghỉ ngơi, một trận đánh quyết liệt đã diễn ra mà nỗ lực chính là Tiểu Ðoàn 2/43 để giải quyết trận địa.

Tiểu đoàn được tăng phái Ðại Ðội Trinh Sát 43 của Ðại Úy Nguyễn Tấn Chi, khóa 12 Võ khoa Thủ Ðức. Từ sáng sớm, bom và đạn pháo thay nhau trút xuống mục tiêu. Thời gian của cơn mưa bom đạn kéo dài gần suốt ngày. Trước khi tấn công, một màn khói nhân tạo, do những trái đạn khói pháo binh tạo thành, dày đặc, làm màng che cho bộ binh tiến lên. Trận đánh kéo dài hơn hai tiếng đồng hồ để vượt qua một phi đạo không rộng lắm. Nhưng quân bạn không thể nào chiếm được những pháo đài và bunkers. Cộng quân với các khẩu súng cộng đồng 12ly7, đại liên, trung liên, SKZ, B40, B41 đã chống trả quyết liệt. Một vài toán quân tiến được qua bên kia phi đạo, nhưng không thể nào xâm nhập vào bên trong, đành phải bỏ cuộc, rút lui. Con số thương vong khá cao. Trời vừa tối, trước mặt vị Tiểu Ðoàn Trưởng là 19 chiến sĩ QLVNCH nằm ngay hàng với tấm poncho phủ kín.

Còn nỗi buồn nào hơn nỗi buồn này. Chỉ trong một cuộc tấn công ngắn ngủi, con số thiệt hại đã lên quá cao! Nhiệm vụ chưa hoàn thành. Mục tiêu vẫn chưa bị thanh toán. Bóng đêm đến nhanh. Ta và địch đều phải bận rộn lo việc tản thương và tiếp tế. Ðịch bên kia phi đạo. Ta ở bên này, mặt đối mặt, tất cả đều mệt mỏi rã rời! Không ai buồn bắn pháo vào nhau.

Một đêm yên tĩnh trôi qua. Trời thu ảm đạm, mây đen vần vũ. Cơn mưa chợt đến. Gió núi từng cơn thổi qua. Người lính VNCH áo quần ướt nhẹp, co ro trong cái lạnh đầu mùa. Nhưng súng không rời tay, mắt đăm đăm nhìn về hướng địch đang cố bám bên kia phi đạo, để theo dõi động tĩnh của đối phương.

Ngày hôm sau, trận đánh lại tiếp tục. Nhưng lần này tiểu đoàn được tăng cường Trung Ðội Hỏa tiễn TOW của Chuẩn Úy Phương, vị sĩ quan tốt nghiệp trường Fort Benning bên Mỹ. Khi đưa Trung Ðội Hỏa tiễn TOW vào, Tư Lệnh cho biết mỗi trái đạn trị giá 7 triệu đồng (vàng lúc đó là 20 ngàn/lượng). Hỏa tiễn TOW là loại vũ khí chống xe tăng ra đời vào khoảng năm 1945. Nhưng hình như chưa được tung ra mặt trận thì cuộc Ðại chiến Thế giới lần thứ hai chấm dứt. Không biết trong trận chiến tranh Cao Ly, quân đội đồng minh đã có dịp sử dụng loại hỏa tiễn này chưa?

Trong chiến tranh Việt Nam, loại hỏa tiễn này chỉ mới trang bị cho QLVNCH từ hồi Mùa Hè Ðỏ Lửa năm 1972, và chỉ mới xuống đến cấp Trung Ðoàn Bộ Binh. Mỗi trung đoàn có một trung đội gồm hai khẩu, gắn trên xe jeep. Tầm bắn của viên đạn là 3,000 mét. Khi viên đạn rời nòng súng, nó kéo theo một sợi dây kim tuyến. Chính nhờ sợi dây kim tuyến này mà ta có thể điều khiển viên đạn đến mục tiêu theo ý muốn. Trên ống nhắm có một chữ thập. Ta chỉ cần đưa chữ thập vào mục tiêu thì nhất định viên đạn phải trúng mục tiêu. Khi nổ, sức nóng tỏa ra trên 3000 độ. Ðặc biệt viên đạn có thể luồn lách qua những hàng cây như cây cao su. Ðây là loại vũ khí chống xe tăng rất hữu hiệu. Chỉ tiếc rằng người bạn đồng minh đã viện trợ cho ta quá trễ!

“Mất bò rồi mới làm chuồng!” Cũng giống như hồi Tết Mậu Thân năm 1968, khi quân CSBV xâm lăng sử dụng AK47 để tấn công trên toàn cõi VNCH thì người bạn đồng minh mới cung cấp cho ta súng M16. Sau này khi bộ đội CSBV sử dụng xe tăng T-54, ta mới được ông bạn quý nhượng lại cho M48, do họ rời chiến trường VN, nặng quá không tiện mang theo! Có lẽ ông bạn Mỹ không muốn ta thắng VC, chỉ muốn ta thủ huề! Họ sợ ta thừa thắng rồi mở cuộc Bắc tiến! làm mất thế cân bằng toàn cầu của họ. Ôi! Thương thay cho thân phận người lính của một nước nhược tiểu.

Vị Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 2/43 hân hạnh được bắn phát đạn đầu tiên. Viên đạn chạm trúng mục tiêu, vị trí của khẩu thượng liên 12ly7. Viên đạn nổ, khẩu súng câm họng ngay. Hàng mấy chục tên bộ đội bỏ chạy tán loạn. Chúng tìm cách nhào xuống triền đồi, lủi nhanh vào rừng sâu. Thêm hai viên đạn nữa rời nòng súng. Những ổ kháng cự mạnh nhất của cộng quân bị vỡ. Tiểu đoàn trưởng cho lệnh tấn công. Chỉ trong một khoảnh khắc, toàn bộ trận địa của địch đã bị quân bạn chiếm lĩnh.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1515466446-PonchosBuon_04.jpg
Hình minh họa

Xác địch nằm la liệt. Nhiều tên bị xiềng vào chân súng, vào bunkers. Nhiều tiếng rên, nhiều tiếng khóc la. Nào là “Bác ơi! Ðảng ơi! Con chết mất”. Tuyệt nhiên không có tiếng “Bố ơi! Mẹ ơi!” hay “Trời ơi! Phật ơi!” như ta vẫn thường thốt lên mỗi khi đau đớn hay gặp cơn nguy biến. Khói súng, và mùi da thịt cháy khét lẹt của giặc tỏa ra cả một vùng. Súng cá nhân, súng cộng đồng vất bỏ ngổn ngang. Kết quả ta thu được 1 súng thượng liên 12ly7, 1 súng cối 82ly, 2 khẩu 61 ly, nhiều AK, B40 và B41. Bên ta hoàn toàn vô sự! Phi trường Quản Lợi đã được tái chiếm.

Nhưng chiến thắng này tiểu đoàn đã phải trả cái giá quá đắc! Ðó là mười chín sinh mạng của các Chiến sĩ Tiểu Ðoàn 2/43. Những người lính dũng cảm, ra đi không hẹn ngày về. Họ đã nằm lại trên mảnh đất quê hương, đã hy sinh thân xác để bảo vệ Tổ quốc Việt Nam được Ðộc Lập, Tự Do, và mang lại Hạnh Phúc, Ấm No cho toàn dân.

Họ đã hy sinh thân xác để chống lại làn sóng đỏ tràn vào từ phương Bắc. Nhưng cuối cùng, vì sự ngu dốt của bọn người “ăn cơm Quốc gia thờ ma Cộng sản”, bọn người ngây thơ và nhẹ dạ, và vì sự phản bội của đồng minh; sự hy sinh của những người lính VNCH xem ra có vẻ oan uổng! Họ đã bỏ phí đời trai trẻ. Khi nằm xuống, những tấm ponchos đã phủ kín đời họ. Là những chiếc áo quan buồn, ra đi giữa vùng lửa đạn. Nhưng cũng là cái may! Họ đã chết vinh quang! Họ không phải sống nhục sau ngày 30 tháng 4, 1975, để phải chứng kiến cảnh “nước mất nhà tan”. Chỉ có những người còn lại là phải sống nhục, sống trong nỗi đau triền miên!

Michigan, ngày cận Xuân
Bảo Định
nguồn: https://ngoclinhvugia.wordpress.com/2010/12/30/ponchos-bu%E1%BB%93n-b%E1%BA%A3o-d%E1%BB%8Bnh/

BachMa
01-12-2018, 06:49 AM
Người Thợ Vẽ Bên Dốc Cầu Quay
Trần Bạch Thu

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1515739596-NguoiThoVeBenDocCauQuay.jpg
Hình minh họa

Tháng Chạp gió lùa về se lạnh, nhất là vào những buổi tối, đèn chong lấp lóe suốt các con đường ngắn quanh chợ, người qua kẻ lại mua bán ồn ào náo nhiệt. Đèn sáng nhất là ở dãy vựa dưa hấu chất đầy trên các ụ rơm còn thơm mùi rạ mới. Dãy tiệm chạp phô thường khi mở cửa đến quá nửa đêm trong mấy ngày cận Tết, nhưng tối nay quanh khu chợ hầu hết đều đóng cửa sớm từ chiều, còn trong nhà lồng chợ thì đèn lại thắp sáng choang, người ta sắp ghế đẩu chật cứng không còn lối đi và bên ngoài lộ thiên từng đống ngổn ngang các sạp gỗ của bạn hàng trong chợ được đem ra chất thành từng cụm.

Chưa tối lắm mà dân chúng đã bu quanh chợ đông nghịt. Gánh hát cải lương đang chuẩn bị che màn dựng sân khấu ở cuối dãy nhà lồng để diễn tuồng liên tiếp trong 3 ngày Tết.

Năm nay gánh hát không diễn ở trong đình mà lại dời về nhà lồng chợ là vì ông chủ tiệm thuốc bắc An Tế Đường đã mua bao giàn và muốn cho bà con ở xa tụ về có chỗ rộng rãi để coi cọp (coi tự do, khỏi mua vé). Đến giờ khai diễn khán giả tràn lấn, xô đẩy các hàng ghế phía sau, đứng ngồi lẫn lộn chỉ còn lại mấy chỗ ngồi danh dự ở phía trước. Hôm ấy ông Lý mặc chiếc áo bành-tô rộng thinh màu mỡ gà sáng óng. Điệu bộ trông rất nhanh nhẹn, vui tươi. Chốc chốc lại quay ra nói lớn cho đám lính kín đang đứng dang tay làm hàng rào cản bên hông nhà lồng chợ không cho khán giả tràn lấn gần sát vô sân khấu. Bất ngờ day qua bên phải ông Lý bắt gặp một cặp mắt sáng, khuôn mặt thanh tú vóc người thon gọn cân đối.

Trên sân khấu người ta bắt đầu giới thiệu tuồng hát và không quên cảm ơn sự tiếp đãi hào phóng của ông chủ tiệm An Tế Đường. Khán giả vỗ tay nhiệt liệt hoan nghênh nhưng ông Lý hồn đang ở tận đâu đâu… Hình như ông đang hướng về khán giả phía bên phải. Chờ đến hồi phân đoạn ngưng tuồng hát, đèn sáng lên và người phu kéo màn che kín sân khấu, ông nhanh nhẹn đi ra phía hông nhà lồng để giáp tận mặt cô gái có cặp mắt sáng như sao băng đang hồn nhiên rướn người về phía sân khấu.

Trước khi vãng hát, ông Lý thì thầm to nhỏ với bọn lính kín vốn là đám tay chân bộ hạ chịu nhiều ân nghĩa của ông ở chợ Tầm Vu. Kịch bản cũ rích lại bắt đầu được đem ra diễn lại. Ông Lý đóng vai người dang tay nghĩa hiệp cứu kẻ gặp nạn, bảo lãnh người cô thế. Chỉ có trời mới biết ông đã đóng vai nầy bao nhiêu lần rồi. Nhưng lần nầy lại khác…

Một buổi sáng sớm bình thường như mọi ngày ở chợ, ông Lý đang ngồi đọc báo bỗng có một thiếu nữ còn trẻ đẹp bồng con nhỏ đến trước cửa tiệm không nói một tiếng nào chỉ khóc uất nghẹn xin giao đứa nhỏ còn quấn tả, rồi sau đó đặt đứa bé xuống chiếc ghế bành làm bằng mây có lót gối đệm vải bông gòn cho ông. Ngỡ ngàng đến chết điếng, ông Lý không còn nói được lời nào. Người tài phú bước ra vặn hỏi cớ sự và có ý muốn đuổi đi nhưng ông đã ngăn lại, mời vô bên trong tiệm hỏi han cho rõ nguồn cơn.

Hồi năm ngoái, sau khi vãng hát ở chợ ra về cô gái có đôi mắt sáng như sao băng bị bọn lính kín tìm cớ xét giấy tờ tùy thân không có nên tình nghi áp giải về đồn trong đêm tối, may nhờ ông Lý tình cờ đi ngang qua thấy tội nghiệp nên bảo lãnh đem về nhà. Rồi từ cái đêm hôm ấy là cả một quãng đời cơ khổ nhục nhằn, mang tiếng “chữa hoang” nên cô phải bỏ xứ ra đi tá túc nhờ đỡ người anh họ ở trong “xóm miểu” Kim Liên bên Chợ Cũ, Mỹ Tho để chờ ngày sinh nở. Chỉ có vậy thôi.

Thường khi gặp cảnh nầy thì hai bà vợ của ông Lý, một cả là người Hoa, một kế là người quán xứ bên chợ Ông Văn đều phân giải bằng cách trợ cấp cho một ít tiền rồi khuyên thiếu phụ nên bồng con về xứ. Nhưng lần nầy hai bà thấy động lòng vì thiếu phụ còn quá trẻ và nhất là đứa nhỏ lại là bé trai kháu khỉnh, mặt này sáng trưng. Còn phần ông Lý coi mòi muốn lập thêm phòng ba nên câu chuyện chưa thể kết thúc như trước. Bỗng chưng hững giữa chừng, thiếu phụ đứng lên xin ra về và nhất quyết chỉ giao con, không nhận tiền cũng như không nói gì thêm. Dứt khoát bỏ đi không hề ngoái lại.

Ngoài kia gió Tết đang về, gánh hát cải lương cũng về chợ hát như mọi năm. Nắng vẫn lên cao, người đi chợ cuối năm vẫn rộn ràng tấp nập và trong dòng người ấy có một thiếu phụ đang lầm lũi bước đi bên lề đường mà nước mắt như mưa.


***

Thời gian qua mau, đứa bé ngày càng lớn khôn, lanh lợi thường hay lẽo đẽo theo ông Lý giờ đã chống gậy đi quanh phố chợ ngày thường, còn khi có dịp đình đám nó luôn được ngồi cạnh bên ông. Tuổi già đã mỏn, con nhiều dòng nên ông Lý phải lo mọi việc trước ngày ra đi. Giao tiệm thuốc bắc cho vợ chồng người con trai trưởng đồng thời phân chia tài sản, đất đai cho tất cả các con, trai cũng như gái đã trưởng thành có gia đình hay chưa cũng đều được ông quyết định có phần. Riêng đứa nhỏ có giấy thế vì khai sanh là con của ông và mẹ ghi là vô danh. Thật khó cho ông. Đắn đo suy nghĩ kỹ ông quyết định viết di chúc trích phần huê lợi đất hương hỏa 20 giạ thóc cấp dưỡng cho đứa nhỏ tới năm 18 tuổi. Thường gia đình giàu có về tiền bạc thì còn có thể chia đều được, chứ đất đai thì rất khó. Nhất hậu hôn, nhì điền thổ. Khi cha mẹ qua đời, con cái khó lòng mà giải quyết êm thắm. Gia môn vô phúc đáo tụng đình là vậy.

Sau nhiều năm dò hỏi, ông qua tận bên Chợ Cũ, Mỹ Tho tìm tới nhà người anh họ bên vợ cũng không biết, cho đến bây giờ mẹ đứa nhỏ ở đâu. Cuối cùng, ông Lý quyết định là sau khi ông mất, người con trai trưởng có nhiệm vụ sẽ đem giao đứa bé cho người anh họ nuôi nấng cùng với giấy tờ ghi nhận phần huê lợi 20 giạ thóc hằng năm cho đến lúc trưởng thành. Phần gia bảo được giữ kín cho đến khi đứa nhỏ khôn lớn, do chính ông giao cho người anh vợ giữ dùm là con triện nỗi bằng gỗ, in chữ Tàu “An Tế Đường” để đóng dấu đỏ lên trên bao bì gói thuốc, ba toa thuốc gia truyền và một cái thúng mây lớn dùng để rây thuốc thành viên.

Dòng đời trôi nỗi, sau nầy đứa nhỏ không cha không mẹ sống với người Cậu lớn lên ở xóm miểu Kim Liên trong khu nhà lá mà ngay đầu hẻm có cội me già, tàng lá che phủ gần hết xóm. Ngày ngày tới trường bình thường không ai biết. Cho tới một hôm, trong lớp thầy dạy vẽ cho ra bài “tả chân” tự vẽ bất cứ cái gì ở trong nhà, người hay đồ vật cũng được. Hôm kiểm tra, thường thì học sinh vẽ giống nhau. Có em vẽ con gà, chó, mèo hay vật dụng, cũng có một ít đứa vẽ chân dung người trong gia đình. Kết quả người đứng đầu sổ điểm danh trong lớp có điểm cao nhất. Bức vẽ bằng viết chì là một cái đèn dầu để bàn rất đẹp và nổi bật hình ba chiều nhưng đặc biệt là có cái ống khói dài lại bị bể một miếng ở phía trên cùng. Thầy hỏi:
- Sao em lại vẽ cái đèn như vậy?

- Thưa thầy, đèn nhà em bị bể ống khói lâu rồi.

Cả lớp cười vang. Nhất là mấy đứa lớn hay tinh nghịch. Thầy cũng cười. Nhưng từ đó một số đứa khâm phục tài vẽ của nó nên bắt đầu kết thân và lần hồi tò mò mới biết được câu chuyện đầy bi thương ở chợ Tầm Vu hồi mười mấy năm về trước.

Thế rồi vào một buổi sáng sớm trời còn sương đục mặt trời chưa lên. Xe cộ và người qua lại đông đúc như mắc cửi, nhất là xe gắn máy Honda Dame cánh nhựa sơn hai màu xanh trắng lướt rất đẹp và nổi bật trên đường phố. Hôm ấy ngày tựu trường, từng nhóm nhỏ học sinh áo quần tươm tất đang tụ tập dọc theo lề đường líu lo trò chuyện chờ mở cổng. Mấy đứa rất vui tươi, gương mặt rạng rỡ vì mới thi đậu bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp và đang hy vọng chỉ còn hai, ba năm nữa thôi là tới bậc Tú Tài, nếu đi lính sẽ là Sĩ quan hay vào các trường chuyên nghiệp là Cán sự, còn thi đậu vô trường Y khoa học sẽ trở thành Bác sĩ. Nghĩ tới đó mà lòng rộn vui quên hết mọi sự đời. Nhìn xéo qua bên kia ngã tư là trường Nữ Trung học Lê Ngọc Hân đang dập dìu áo dài trắng, nón lá phất phơ rồi mơ màng “Gió sân trường lồng lộng áo ai bay …” Cả bọn cùng tự hãnh mặt lên trời cười vang.

Bỗng từ xa trong lề đường dưới các tàng me cao có trái chín rụng lác đác. Trên con đường đất phủ đầy lá me khô xuất hiện hai vị Sư khất thực, kẻ trước người sau đang lầm lũi đi tới. Cả bọn ngạc nhiên khi nhìn thấy vị Sư đi trước còn trẻ măng và hình như là đứa bạn học cùng lớp hồi năm ngoái. Không dám vô lễ nên chỉ dõi mắt nhìn theo riết cho đến khi các vị Sư đi khuất rồi mới bàn tán. Nhìn quanh quất để tìm xem có ai giống không. Đến khi vào lớp học hỏi thăm các bạn ở khắp các ban ABC cũng không ai thấy. Mấy hôm sau, có đứa bạo dạn chay theo vị Sư đi trước.
- Thưa thầy có phải thầy là …

- Mô Phật.

Từ sau đó không thấy hai vị Sư đi ngang qua đường trước cổng trường như trước nữa.

Mãi đến sau nầy trong một dịp theo Mẹ lên cúng Phật ở Tịnh xá Ngọc Tường tình cờ tôi gặp lại Sư, lúc đó mới có cơ duyên chuyện vãn nhiều hơn và biết đúng thật vị Sư đi trước là người bạn học cùng lớp có tên đứng đầu sổ điểm danh trong lớp.

Có một lần tôi lên Tịnh xá vãng cảnh, ăn cơm chay với một số bạn học cùng lớp. Gặp Sư cũng hỏi han cho biết vậy thôi.
- Thầy cũng thi đậu hạng Bình Thứ mà sao lại đi tu.

- Bần đạo thí nguyện mười phương tìm Mẹ.

Nghe thấy thế, mọi người xúc động dâng tràn. Đời chắc là bể khổ. Người thiếu phụ giao con ở tiệm thuốc bắc An Tế Đường năm xưa đã thí phát qui y, không liên lạc với gia đình từ đó. Chấm hết mọi sự đời. Nay tới lượt con cũng gởi thân nơi cửa Phật. Thật ngậm ngùi.

Trong thời gian khất thực đi khắp mọi nơi, Sư có thời kỳ được nhập môn với Thượng Tọa Thích Tâm Giác và học được nghề châm cứu tới nơi tới chốn. Sau đó thường đi khắp các Tịnh xá mở chẩn chữa bệnh cho nhiều người với lời nguyện với Thầy khi nhập môn là nếu được tinh tấn đạt thành sở nguyện thì sẽ phát tâm hành hiệp không nhận thù lao. Cứ thế mà vui cùng đạo pháp giúp đời.

Năm năm sau cơ trời dung ruổi, Sư tìm được Mẹ đang trụ trì ở chùa Sư Cô tận ngoài Vũng Tàu. Kể từ sau đó Sư lại cởi bỏ áo cà sa trở về đời thường với danh xưng là Đạo Hiệp chuyên châm cứu và bán thuốc cao đơn hoàn tán trong vùng Mỹ Tho – Long An.

Đạo Hiệp cất một gian nhà lá trong hẻm xóm “Cây Dái Ngựa” gần khu chợ Vòng Nhỏ, Mỹ Tho. Ông Đạo qui tụ dân lao động trong xóm tới nhà lãnh bao bì về nhà dán và cho thuốc tán hoặc thuốc viên vô hộp giấy, được tính công theo số lượng giao nộp hằng ngày. Cả xóm già trẻ bé lớn thinh không được trời ban cho công ăn việc làm tại nhà rất dễ dàng. Thuốc của Đạo Hiệp lại nỗi tiếng khắp trong vùng là thuốc trị ban nóng hiệu “Lão Hòa Thượng” có đóng dấu “An Tế Đường” bản gốc đàng hoàng và hai loại thuốc khác là thuốc tiêu và thuốc tán rơ miệng trị đẹn sữa, hoặc lác đồng tiền cho trẻ nhỏ. Thuốc chế tại nhà thuộc loại thủ công gia truyền rất thông dụng.

Ngoài ra, Đạo Hiệp lại còn có tài châm cứu trị bệnh không lấy tiền. Tiếng lành đồn xa. Một hôm bà vợ của ông Trưởng Ty Cảnh Sát nữa đêm bị phong trúng gió méo miệng cho người tới rước Đạo Hiệp về châm cứu. Hết bệnh bà muốn trả ơn, nhưng ông Đạo mới ngoài hai mươi tuổi, không nhận gì hết trừ hương hoa cúng Phật. Nài nỉ mãi Đạo Hiệp mới chịu nhận lời đề nghị cất một kiosque bên dốc cầu Quây cho dân chúng dễ dàng tìm thấy chỗ để rước về châm cứu lúc nữa đêm nữa hôm. Mọi người buôn bán ở phố cũng như Cảnh sát đều biết rõ lai lịch của căn kiosque mới nầy. Khi mọi việc tương đối ổn định Đạo Hiệp không quảng cáo gì về thuốc gia truyền hay châm cứu ở kiosque mà lại cho trương bảng hiệu là Phòng vẽ “Anh Tuấn” ghép tên thật của mình và tên đứa em bà con. Điều đặc biệt là phòng vẽ chỉ chuyên họa hình thờ, không vẽ hay họa bất cứ thứ hình nào khác.

Lâu dần phòng vẽ biến thành tiệm họa hình thờ chuyên nghiệp. Ở quê người ta mang ra những tấm hình bị hoen ố do tai nạn thấm nước hay bảo quản không kỹ của người thân mất đã lâu hoặc không có hình lưu lại. Dù có hình hay không chỉ cần cho biết mất năm nào bao nhiêu tuổi, nam hay nữ và nhớ dẫn theo người thân nào có gương mặt giống nhất ra tiệm “Anh Tuấn” là sẽ họa được hết. Có đủ loại mẫu hao hao giống ông Hội đồng đang mặc áo dài khăn đống ngồi trên ghế đai hay sĩ quan, binh lính chết trận chỉ cần gắn chân dung lên là thành vị tướng rất oai nghiêm. Thiện hạ đồn rằng Đạo Hiệp có tâm nên họa hình rất có thần và đem về nhà thờ rất linh do đó tiệm họa hình ngày càng đông khách, thường khi chờ cả tháng trời hình mới họa xong.

Cả tỉnh đều biết ông Đạo Hiệp trẻ tuồi tài cao hành hiệp cứu nhân độ thế nhưng cũng có người thắc mắc vì sau nầy tuy mang danh xưng là ông Đạo nhưng lại ăn mặc thường phục và để tóc dài như một thanh niên đời thường. Thỉnh thoảng gặp bạn thân hay đi dự đám giỗ cũng ăn mặn uống rượu mạnh hay bia “33” như các thực khách khác không kiêng cử gì cả hay ít nhất cũng chay lạt như các cư sĩ tại gia. Nhất là còn trong độ tuổi thanh niên về tình trạng quân dịch ra sao?

Sau nầy mới biết Đạo Hiệp có giấy tờ hoãn dịch vì lý do tôn giáo thuộc danh sách ở chùa Việt Nam Quốc Tự, Sài Gòn. Mỗi năm lên chùa làm giấy tờ gia hạn một lần và được chùa cấp giấy chứng nhận là “Sứ Giả Như Lai” đi công tác Phật sự ở các địa phương. Có nghĩa là được sinh hoạt ngoài đời bình thường ít nhất là trên giấy tờ hợp pháp. Hơn nữa, với các hoạt động thực tế giúp đời vô vị lợi, đôi khi miễn phí hoàn toàn nên được mọi người thông cảm. Ông Đạo còn trẻ nên châm chước trong đời sống hằng ngày. Đạo tại tâm mới đáng trân trọng và quí mến.

Đa tài có khi lại đa mang. Đạo Hiệp còn biết thổi sáo mà lại thổi rất hay. Có những đêm trăng sáng từ kiosque ở phố bờ sông đường Trưng Trắc khi nước sông dâng đầy, gió thổi lan xa hòa lẫn với tiếng tiêu sầu của Đạo Hiệp nữa thì dù cho có Mỵ Nương tái thế cũng phải xiêu lòng.

Quả thật có người con gái trẻ đẹp quê ở xã Mỹ Phong ra tiệm họa hình “Anh Tuấn” để họa hình thờ, thỉnh thoảng có tới chơi ở nhà của người bà con gần kiosque của Đạo Hiệp đem lòng yêu mến thầm.

Đào hoa cũng có số. Hồi mới mở tiệm họa hình được một vài tháng có một cô gái quê nhà nghèo ở Cồn Bà, Gò Công ra chợ xin làm mướn, thấy tiệm họa hình đắt khách nên thử dò hỏi muốn làm người giúp việc. Túc nghiệp là đây. Đạo Hiệp cưu mang đem về căn nhà lá ở hẻm “Cây Dái Ngựa” nhờ giúp việc nhà và phụ trông coi việc mua bán thuốc gia truyền. Được một thời gian cô gái mang bầu và để tránh tiếng cho Đạo Hiệp, cô gái bỏ về xứ mang theo giọt máu rơi của Đạo Hiệp.


***

Bẵng đi mười năm, bao nhiêu nước chảy qua cầu. Không biết lúc nào và quan hệ ra sao mà Đạo Hiệp giờ đã 5 con với người đẹp năm xưa ở Mỹ Phong. Vật đổi sao dời, thời cuộc đổi thay, toàn bộ khu phố nằm ven bờ sông Trưng Trắc bị giải tỏa làm khu đi bộ hóng mát và ở cuối con đường người ta cho xây một tượng đài cao nghệu, ngang ngữa ngoảnh nhìn ra ngã ba sông nước mênh mông. Phòng vẽ “Anh Tuấn” cũng bị dở bỏ và dời về một xẻo đất nhỏ nằm gá dưới chân cầu Bạch Nha đối diện gần khu bến xe đò cũ. Cũng lại chỉ họa hình thờ. Vật lộn với đời sống mới Đạo Hiệp đang trong hồi túng quẫn. Người sống còn không lo nổi huống hồ chi người đã mất. Tiệm họa hình ế ẩm. Thuốc gia truyền bị cấm mua bán. Châm cứu không được phép đăng ký. Cả gia đình sống chen chúc trong căn nhà sàn nhỏ hẹp, chật cứng vừa làm phòng vẽ vừa sinh hoạt. Cùng đường Đạo Hiệp bắt đầu gia nhập tổ chức vượt biên, vượt biển chuyên đi móc nối khách. Tù tội nhiều phen nhưng cũng không đi lọt.

Sau cùng, may mắn có người quen ân nghĩa nhờ châm cứu chữa bệnh thời trước nay định cư ở nước ngoài về nước thăm và cám cảnh trước khó khăn của gia đình nên đã giúp vốn cho Đạo Hiệp sang tiệm vẽ dời gia đình về bến xe mới thuộc xã Đạo Thạnh mở quán ăn ven quốc lộ để lập nghiệp. Mấy đứa con lớn lên không học hành chữ nghĩa gì cả, ra đời sớm làm lụng nghề chân tay hay rửa xe sống qua ngày.

Được một thời gian không cạnh tranh nổi với các quán ăn, nhà hàng thời đại mới có nữ tiếp viên xinh đẹp nên Đạo Hiệp sang quán, lui về quê vợ xã Mỹ Phong làm rẫy trồng rau sinh sống.

Gần hơn nửa đời người, Đạo Hiệp cũng dang tay hành hiệp cứu đời và thương người khốn khổ. Cuối cùng rồi cũng sa vào vòng tục lụy, nghiệp đời lẫn quẫn. Lúc sau nầy thường hay nhắc đến gia đình ông thợ mộc mù ở xứ đạo Cồn Bà, Gò Công có người con gái năm xưa tên Nhạn và đứa con rơi bây giờ thất lạc không biết ra sao? Nhớ đến câu chuyện kể ở chợ Tầm Vu hồi mấy chục năm về trước. Thăng trầm thế sự cũng nhiều, Đạo Hiệp quyết định rủ áo đi tu trở lại.

Hôm làm lễ xuất gia khất thực dưới sự chứng kiến của một ít người thân. Đạo Hiệp xuống tóc và rơi nước mắt khi tận tay đốt ba toa thuốc gia truyền và con triện in mộc đỏ hiệu “An Tế Đường.” Sư Thầy thấy thế bèn buột miệng:
- Họa Phúc khôn lường. Dứt nghiệp từ đây.

Đạo Hiệp chậm rãi từ từ đi sâu vào trong hậu liêu rồi khuất dạng.

Trần Bạch Thu
nguồn: http://www.quocgiahanhchanh.com/nguoithove.htm

BachMa
01-15-2018, 03:54 AM
Người Vợ Lính
Phương Lâm

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1515466494-NguoiVoLinh_01.jpg
Hình minh họa

Tiếng đạn quân thù rền vang đây đó
Lửa bùng lên rực đỏ cháy quê hương
Máu chiến binh hồng thắm nhuộm chiến trường
Quyết giữ lấy phần biên cương Quốc thổ
Là vợ của lính trong thời binh lửa
Mái pông sô hứng đạn tưởng trời mưa
Súng vang trời cứ ngỡ pháo giao thừa
Mùi thuốc súng chưa khi nào được ngửi
Thị xã Trà Vinh tôi sống không lâu nhưng nơi nầy đã để lại trong tôi nhiều kỷ niệm, đã cưu mang tôi hai lần trên bước đường trốn chạy nạn cộng sản. Lần thứ nhất vào khoảng tháng 2 năm 1975 khi đồng bào tỉnh Quảng Trị lục đục kéo ngang qua Huế, anh bà con của tôi là cố Trung Tá Nguyễn Văn Bình Sư Đoàn 1 Bộ Binh đến nhà đề nghị với má tôi:
-Dì nên đưa các em về Trà Vinh ở với chị Thảo một thời gian, dì bảo các em chuẩn bị vài hôm nữa con lên lại đưa dì và các em đi.

Gia đình tôi đông chị em, ba tôi bị Việt Cộng chôn sống năm Mậu Thân nên chúng tôi lúc nào cũng được lưu tâm của mọi người thân trong gia tộc.

Mặc dù anh Bình không nói lý do gì mà đi, nhưng một vị trung tá nói như thế cũng hiểu ngầm rằng tình hình chiến sự căng thẳng. Thảm cảnh Mậu Thân còn đó, những bộ hài cốt trắng hếu bị quấn chặt dây kẽm gai, xương đầu dập nát trong những hố chôn tập thể như hiển hiện trước mắt, hình ảnh những tên đao phủ trợn mắt nhe răng, cầm búa, cầm mã tấu đánh vào đầu người dân lành vô tội làm tôi rởn ốc nổi da gà, khi nghe anh Bình nói như vậy tụi tôi cuống cuồng, chị em mỗi đứa một túi xách nhỏ mang theo ít đồ cá nhân ngồi bắt mặt ngó ra đợi anh Bình.

Nhà chị Thảo ở đầu sân bay Trà Vinh, gần cổng Đại Đội Tổng Hành Dinh của Sư Đoàn 9 BB, chồng chị Thảo làm đại đội trưởng, căn nhà lợp lá dừa nước, vách toàn là ống đạn, chiều dài căn nhà quá cỡ nhà bình thường ,từa tựa như khu gia binh.

Vô tới đây ai nấy thở phào nhẹ nhõm, chạy một mạch xa như vậy cứ nghĩ rứa là ổn nào ngờ chết điếng người khi nghe tin QLVNCH nhận lệnh phải buông súng.
Thế là hết! Chị em chúng tôi nước mắt lưng tròng nhìn nhau trong âu lo, thương hận.

Cho tôi thước vải thô màu trắng
Quấn ngang đầu buộc chặt nỗi hờn căm
Ba mươi tháng tư một chín bảy lăm
Cúi đầu xuống bịt tang ngày Quốc Hận.

Đất nước đã nhuộm đỏ màu tang tóc, đại nạn cộng sản bao trùm, không biết tương lai về đâu, nơi bám víu sau cùng là chấp tay xin ơn trên che chở .Trong thế chẳng đặng đừng chúng tôi bầu đoàn thê tử lục đục trở lại Huế, nhà của tôi đông chị em nên ba tôi xây rất to, căn sau nối liền với nhà trước, nhà đúc mái bằng dự tính lên lầu, Tết Mậu Thân bị mấy trái pháo mà không sập, vô tới cửa ngõ thì tá hỏa tam tinh, một nhà toàn là lính Việt Cộng, khi đến tột cùng của sợ hãi thì không còn biết sợ là gì nữa, tôi bước vào nhà như một con điên liệng mạnh túi xách xuống nền, hét lớn:
-Mấy ông ở mô mà vô đây! Đi ra ngay! Ra khỏi nhà ngay lập tức!

Đám lính cộng sản phần nhiều là choai choai cỡ mười lăm mười bảy, đứa nào đứa nấy nghe tôi hét chúng quờ quạng kéo nhau dồn lui qua phòng sau, rồi có một tên lớn tuổi ra điều đình:
-Không biết mẹ và các cô về nên chúng cháu không chuẩn bị, mẹ cho chúng cháu ở tạm nhà sau một hai hôm để chỉ huy sắp xếp, chúng cháu sẽ đi ngay.

Ai nấy đều mừng thầm, xuống nước nhỏ tức là nhà mình không mất.

Bạn còn nhớ cuối mùa xuân năm nớ
Quê hương chìm trong biển đỏ thương đau
Tang thương ly hận chồng chất oán sầu
Đất nước khởi đầu thiên niên mạt vận.

Trà Vinh

Lần nầy trở lại với hoàn cảnh khác, tay ôm con dại, cùng chồng tránh nạn thu gom đi tù lần thứ hai.

Làng tôi có bốn người đi tù về năm 1977, anh Tùng bà con của chúng tôi, cấp bậc trung tá trước phục vụ trong ban Liên Hợp Quân Sự Bốn Bên cùng với hai thiếu úy là anh Cam và anh Đức cùng chồng tôi.

Sau khi Trung Cộng đánh các tỉnh biên giới phía Bắc, công an vô lại nhà, bắt các anh làm lý lịch, đêm hôm sau xét hộ khẩu bắt đi luôn, chồng tôi cũng vậy, sáng hôm nay công an bắt khai lý lịch, chiều hôm đó chúng tôi vội vàng bỏ Huế ra đi.

Gia đình ba người chúng tôi vào tá túc thị xã nầy được gần bốn tháng, rất ngạc nhiên vì cuộc sống bà con ở đây chẳng khác lúc trước mấy, quán nước mía dọc đường, quán cà phê vẫn dùng nhạc cũ trước 1975, nói đến cơm độn hầu như không ai biết, so với Huế, Quảng Trị thì đây là thiên đàng.

Cuộc sống tinh thần ít căng thẳng hơn Huế, người dân ở đây không dòm ngó nhau nên tình trạng rình rập báo cáo lập công không có, nhờ vậy chúng tôi sống lậu ở đây trên bốn tháng rồi không bị xét hộ khẩu.

Mâm cơm trưa đã chuẩn bị xong để bên mép giường, chiếc chiếu cũ trải xuống nền nhà làm bàn ăn cũng đã sẵn sàng, xoong cơm trắng không độn, xoong cá kèo kho khô với hẹ ngào ngạt mùi thơm,ở Huế thời điểm nầy làm chi có được bữa cơm ngon như vậy.

Nghề đạp xe lôi giờ giấc bất thường khi sớm khi trễ, tôi bồng con ra ngồi dưới bóng mát cây xoài, nước phèn vàng quánh trong hồ nuôi cá xông lên mùi hăng hắc, nhìn ra con dốc đầu lộ chờ anh ấy về.

Rất ngạc nhiên trưa nay sau xe có hai người, một lớn một bé, tôi bồng con đứng dậy nhường bóng mát cho ảnh kéo chiếc xe vào. Tôi gật đầu chào người phụ nữ về cùng xe với ảnh, rùng mình khi nhìn qua khuôn mặt người đàn bà nầy, quá dễ sợ,một mắt tròng trắng nhô lên như muốn nhảy ra ngoài, ghèn đóng một vòng quanh con mắt, vàng vàng xám xịt , cánh tay trái treo lên cổ một vết thương dài lòi mỡ lẫn máu vàng khè ruồi bay theo, đầu đội mũ rách toe, mặt hai mẹ con dính đầy đất bụi, tay bé cầm cái tô to, họ là người ăn xin, chồng tôi nói :
-Em đưa chịvà cháu vô nhà, anh tháo cổ xe ra rồi vô sau.

Tôi đưa hai mẹ con vô nhà, đẩy mâm cơm sâu vào trong, rảnh chỗ ở mép giường mời hai người ngồi, vì sống tạm nên chẳng có bàn ghế chi hết, người phụ nữ vẫn im thin thít từ ngoài sân vào tới đây, chồng tôi vào bưng theo thau nước, kẹp cái khăn trắng đã ngả màu vì nhuộm phèn, vì thiếu xà phòng, ảnh nói:
-Chị rửa mặt rồi cho cháu ăn cơm kẻo quá trưa rồi.

Quay qua tôi anh giới thiệu:
-Đây là chị Quang, vợ của Đại Úy Quang trưởng phòng hành quân đơn vị cũ của anh, anh ấy là bạn, đầu năm 1974 anh thuyên chuyển về Đà Nẵng anh Quang ở lại đã bị bắn chết tại phòng ngủ trong bản doanh đơn vị khi Việt Cộng tấn công Ban Mê Thuột.

Chị Quang đứng dậy đưa em bé đi rửa mặt, nhìn khuôn mặt dơ hầy lem luốc của chị tôi không thể đoán chị ở độ tuổi nào, tôi hỏi chồng:
-Chị ấy làm chi mà bị thương nhiều dữ vậy, nhìn mặt chị. em rùng mình, con mắt ghê quá, lòi ra không nói mà ớn ốc, cái lớp ghèn lòng thòng bao quanh, tay bị thương há miệng, mỡ máu chảy, ruồi lằng theo cả đoàn, sao chị ấy không băng bó lại, mất vệ sinh kiểu đó lâu ngày cánh tay cụt như chơi.

Chồng tôi mĩm cười nói:
-Đó là di chứng của thời đại.

Tôi nói lại:
-Đúng là bệnh thời đại, khi xã hội là một vũng bùn thì con người lấm bùn mất vệ sinh theo.

Chị ấy đưa cháu trở vào, tôi bưng mâm cơm đặt xuống chiếc chiếu, tôi chọn ngồi sát bên chị, để hai người ngồi cùng chiều khỏi nhìn thấy mặt người đối diện, kéo nồi cơm về gần, tôi ngại cánh tay lòi mỡ đó đưa qua đưa lại, nhưng tôi giật mình khi chị đưa tay nhận chén cơm, cánh tay trắng nõn nà vết thương kinh tởm đó không còn nửa, tôi ngạc nhiên hỏi chị:
-Hồi nãy tay chị bị thương mà sao bây giờ lành rồi.

Chị cười nói:
-Chuyện dài dòng lắm, chị sẽ kể cho cô nghe sau.

Tôi suy nghĩ câu nói của chồng tôi “di chứng của thời đại”, câu nói có ẩn ý nhưng mình nghĩ không tới.

Bây giờ tôi nhìn kỹ mặt chị, mắt trái tròng trắng vẫn nhô lên, nhưng ghèn bao quanh không còn, khuôn mặt trái xoan, sóng mũi dọc dừa, con mắt còn lại đen láy sau hàng lông mi dài, họ gọi là mắt bồ câu, một vẻ đẹp thanh tú, kiêu sa, nếu con mắt bình thường thì đúng là một giai nhân.

Tôi thắc mắc, nhìn dáng người của chị, chắc chắn sinh ra và lớn lên trong một gia đình bề thế đương nhiên là học hành tới nơi tới chốn, gia đình của chị, rồi gia đình bên chồng, dù khó khăn cách mấy đi nữa bộ hai gia đình không kham nổi hai mẹ con chị hay sao, mà chị lại phải dắt con đi ăn xin, chắc chắn có vấn đề.

Bữa cơm xong chị phụ tôi dọn dẹp, tôi không cho, tôi nói:
-Chị rửa tay cho cháu ngủ đi, mấy cái chén em quơ một tí là xong.

Chồng tôi vội vàng lên yên, lái xe đi lại, để dọn hàng cho chị Thảo và đưa các mối bán buôn ở chợ về nhà, tôi dặn ảnh:
-Anh nhớ nói qua với chị Thảo nhà mình có khách nghe.

Anh gật đầu quay qua nói với chị Quang:
-Tụi em ở đây khá lâu rồi chưa được ai hỏi thăm sức khỏe, đêm nay chắc cũng vậy chị phè cánh ngủ một giấc mai đi sớm.

Anh ấy ra đi chúng tôi ngồi lại với nhau nhìn thẳng vào mắt chị tôi mở đầu:
-Chị biết đó, em cũng là vợ lính, nhưng lính từ trại tù về, xã hội nầy gọi anh là ngụy quân, em không may mắn được làm vợ lính trong thời chiến để cùng chồng ngửi mùi thuốc súng, em cũng không may mắn làm người vợ bán từng CC máu để nuôi chồng trong các trại tù khổ sai khốn nạn.

Em chia xẻ nhọc nhằn thân xác của anh hiện tại và trân quý dĩ vãng oai hùng của anh, em không bao giờ đụng tới vết thương đang mưng mủ, nhức nhối từ trái tim đến thớ thịt, có những buổi chiều anh ngồi quay mặt xuống hồ đôi mắt nhìn về nơi xa xôi nào đó, có khi đứng dậy mắt đỏ hoe.

Em nghĩ đó là những phút giây thiêng liêng của cuộc sống, người anh hùng ngã ngựa, họ muốn đứng lên, nhưng đứng lên cách nào, muốn vực dậy nhưng vực cách sao đây. Em luôn cảm thông và khuyến khích tinh thần, tội nghiệp ảnh, tội nghiệp những người lính Việt Nam Cộng Hòa.

Tội nghiệp những người vợ bị lột xác trong cái xã hội quỷ quái nầy, các chị phải đầu tắt mặt tối gánh nặng hai vai, chồng trong các trại tù, con còn nhỏ dại, tứ thân phụ mẫu già yếu tật bệnh, bây giờ em đang ngồi đây cũng đang cùng anh trốn chạy, qua một ngày là mừng một ngày, được ngày nào hay ngày đó, xã hội này là một bóng đêm dài bất tận, nhìn tới phía trước lóe lên toàn dao găm mã tấu, toàn máu là máu.

Tôi nói một hơi chị ngồi yên lắng nghe, con mắt còn lại của chị sáng lên, long lanh đầy sát khí chị nói.
-Chồng của cô là bạn thân của chồng chị, họ là những người lính từng kề vai sát cánh sống chết bên nhau, bây giờ người mất người còn, chú và cô đang trên đoạn đường bôn tẩu, chú có cô cảm thông chia xẻ, chị một mình lạc lõng bơ vơ, chẳng còn ai ngoài những người bạn, trân quý nhau coi nhau như ruột thịt. Chị kể cho cô nghe về chị, sáng mai mẹ con chị sẽ đi, không biết đi đâu bạn bè bảo sao thì nghe vậy.

Chị bắt đầu kể:
Bản doanh của đơn vị là một căn cứ của Quân đội Hoa kỳ bàn giao lại, căn cứ rất lớn, đơn vị dành một khu làm nhà ở cho sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ, chị và anh Quang ở trong đó.

Khoảng ba giờ sáng đêm 10 tháng 3 năm 1975, đang ngủ giật mình vì những tiếng nổ lớn, nửa tỉnh nửa mê không biết nổ ở đâu và hướng nào, anh Quang vùng dậy bật đèn sáng, chụp bộ đồ lính vắt trên đầu giường, tròng quần vào, cúi xuống xỏ chân vào đôi bốt đờ sô, tay lấy cây súng AR 15 dựng bên đầu giường, vén màn bước ra như thường lệ ngồi vào ghế để cột dây giày, chị nghe anh lên tiếng nói chuyện với ai đó thì một loạt súng nổ, chị giật mình vén màn nhìn ra anh Quang gục lên bàn,thấy người bắn anh Quang bận bồ đồ biệt kích bạc màu, tóc dài, dáng nhỏ mặt xương xẩu đứng nhìn anh Quang một lúc rồi bỏ đi.

Máu anh Quang từ ghế ngồi chảy xuống có vòi, chị ngồi bệt xuống nền nhà thân hình cứng đơ, như cái xác không hồn, cứ ngồi mở to mắt nhìn máu chảy, nhìn anh ngồi gục ở đó, chị lịm chết đi như thế không biết bao lâu, con bé khóc chị giật mình, đứng lên kiếm miếng bánh quy trong hộp lương khô cho bé ăn.

Không biết đã qua giờ thứ mấy, không biết bây giờ sáng hay chiều, mặt trời đã nghiêng bóng, như xác chết chị bước ra ngoài coi còn ai nhờ giúp. Đập cửa phòng anh Đường đối diện không nghe ai lên tiếng, mấy phòng kế bên cửa mở toang không bóng người, đơn vị im lìm vắng tanh, hoang vắng đến lạnh người, tiếng súng đì đùng nghe rất xa.

Chị không biết việc gì đã xảy ra, một điều chị biết là lúc nầy trong đơn vị chỉ còn một mình chị, quay vào phòng, anh Quang ngồi bất động trên ghế, máu nhuộm đỏ bộ đồ hoa loang một khoảng lớn trên nền nhà.

Nhìn anh, cứ đứng nhìn chết trân, chân taychị lạnh cóng, trong đầu lảng vảng câu hỏi. Chết rồi ư? Chết thật rồi ư? Nước mắt không chảy nữa, khô đắng cổ họng, không biết phải làm gì, đầu óc trống rỗng, chợt bừng tỉnh như qua cơn mê khi nghe tiếng người nói chuyện, tiếng chân người xào xạc đến gần, chị mừng thầm như vậy là có người giúp, nhưng phải coi ai cái đã, chị lui vào trong buồng ngủ, vạch tấm màn chắn gió nhìn ra ngoài.

Có ba người đứng trước cửa phòng của chị, chị thấy thằng bắn anh Quang vai hắn có cột tấm vải đỏ, với thêm hai thằng khác đội mũ cối, ba đứa súng đeo vai đứng ngay cửa ra vào đang chỉ chỏ chi đó, thấy hắn chị mừng quá, vớ cây súng AR15 của anh Quang, kê mũi súng lên thành gỗ đóng lưới chắn muỗi, mũi súng cách bọn đó khoảng 3 mét, tầm đạn nầy thì cả ba đứa đều ngang vai.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1515466510-NguoiVoLinh_02.jpg
Hình minh họa


Chị bật nhẹ khóa an toàn,kéo mạnh tấm màn che, mở mắt to nhìn ba đứa để coi chúng ra sao khi chị nghéo cò,ngón tay chị siết chặt cò súng, cho chắc ăn mũi súng nhích qua nhích lại, chúi xuống, dở lên, toe tấm ván ép làm cửa.

Ba đứa khuất tầm nhìn, có lẽ bọn chúng nằm xuống, chị xách súng chạy ra, trở băng đạn lại, (súng anh Quang hai băng cong gắn băng keo lại với nhau) đạp mạnh cửa, thấy ba thằng nằm chồng lên nhau, chị đưa súng vào đầu bóp cò tiếp ba chục viên đạn ra đi, ba cái đầu dẹp xuống như ba mũi dày.

Nhìn xác dẹp đầu của thằng đó chị thấy lòng mình nhẹ nhõm, tâm trí tỉnh táo lạ thường, đem đặt cây súng lên bàn cạnh anh Quang, lúc đó mới nghĩ ra; chôn anh rồi rời khỏi đây. Chị ung dung mở cái xẻng cá nhân cào một rảnh dài sâu ngang đầu gối dãy đất bên cạnh phòng ngủ, lấy tấm ra trắng bọc xác kéo anh ra huyệt chôn, anh quá cao và nặng, hơn nữa trong tư thế ngồi, chết quá lâu cứng đờ.

Chị tập trung hàng chục chai rượu tẩm vào quần áo một lúc duỗi thẳng người ra, đất không đủ lấp kín phải vác bao cát chắn chung quanh nhà xổ ra lấp lên, một số chất thành nấm mộ, xong việc trời cũng nhá nhem tối, chị vào sửa soạn để ra đi. Chị mang theo hai cây súng của anh, cây rouleaux ngắn nòng (P38) với nửa hộp đạn, cây browning 10 viên đạn giắt vào nịt vú, xé hai tấm vải trắng trải giường làm khăn tang, quấn lên đầu cúi chào anh rồi hai mẹ con ra đi.

Hành trình về phương Nam

Những bước chân âm thầm trong đơn độc, không phương tiện, không bóng người trên quốc lộ, cứ đi, cứ bước, nhưng không biết điểm đến và bao giờ tới đích. Tim chị bây giờ chai cứng, thù hận đốt cháy con người, chị sẵn sàng giết bất cứ đứa nào lạng quạng trước mắt. Chị sẵn sàng chết, cho nên chị không sợ chết, chị nguyện sẽ trả thù cho anh Quang trong khả năng có thể.

Dọc theo Quốc lộ 21về hướng đông, đi bộ đến nỗi hai bàn chân phồng lên chảy nước, đi nhanh, đi chậm, qua từng khúc, vượt từng đoạn, nơi nào có nhà vào xin ăn, ngủ bờ, ngủ bụi, ngủ bất cứ lúc nào không kể ngày đêm, chị chẳng còn biết sợ là chi, cây P.38 sẵn sàng bắn vào đầu bất cứ đứa nào. Những nơi đã đi qua không để lại trong chị dấu ấn nào, rồi một hôm không biết từ ngày đầu tới giờ đã bao lâu, mẹ con chị đứng trên đèo Phượng Hoàng hướng về phía đông, xa xa những cụm khói bốc lên có lẽ đó là thị xã Ninh Hòa.

Người chị hừng hực nóng như cơn sốt khi đứng trong khu thị tứ đỏ rực màu máu, có lẽ miền Nam đã mất trong những ngày chị lang thang trên đường 21.
Dọc theo Quốc lộ 1, từng cụm người ngồi,nằm, la liệt thần sắc ngu ngơ, họ ngồi vì họ đã cùng đường.Từng toán lính cộng sản đi ngang qua, những thằng bận đồ lính VNCH mang băng đỏ lẽo đẽo theo sau, chị muốn móc súng bắn nát óc mấy thằng đó.

Chị bắt xe đi từng đoạn về Sàigòn, Sàigòn bây giờ quá tội nghiệp, xác xơ,ủ rũ,vọng nhìn theo bóng những đứa con bị đuổi ra đi.

Sài gòn ơi! Thôi từ nay vĩnh biệt
Ta gục đầu thương tiếc buổi chia ly
Người ra đi đảo lộn cả đất trời
Người nằm xuống không nói lời từ biệt
Muôn thế hệ ngàn sau hằng thương tiếc
Sài gòn ơi! Thôi vĩnh biệt từ nay.

Đau đớn nhìn quang cảnh Sàigòn, thế là hết!

Chị về nhà nghỉ một ít lâu, đợi sinh hoạt của thành phố bắt đầu khởi động lại, chị bế cháu về Cầu Ngang thăm gia đình anh Quang, chỉ nói qua loa là anh ấy tử trận, cứ vậy vài ba tháng đem cháu về thăm nội mang tí quà Sài gòn, ở lại vài ba hôm rồi lên.

Một hôm ngồi trên xe đò lên Trà vinh để về Sàigòn, xe dừng lại đón người đàn ông bên đường với bốn năm lồng vịt, người ấy lên xe chật ních, chen ngang qua chỗ chị ngồi anh ta nheo con mắt trái, chị thấy người nầy quen quen nhưng nhớ không ra, vì mặt mày lem luốc, chị nghĩ anh ta nheo mắt tức là đã biết mình chắc ra dấu hiệu chi đó.

Xe tới bến, chị nán lại xuống sau cùng, cố ý chờ người bán vịt, mấy lồng vịt đặt lên xe lôi, người ấy quay lại nhìn chị, chị đi bộ theo ra góc đường bán vịt gà đứng chờ. Ổn định chỗ bán, người ấy tới hỏi chị:
-Chị Quang không nhìn ra em à, em Hoàng đây.

Chị mừng quá, Hoàng là bạn cùng quê với anh Quang, trước đây cùng đơn vị, Hoàng ở thám sát, anh Quang làm ban hành quân. Anh em gặp nhau thường xuyên, sau Hoàng xin đổi về Sư Đoàn 9 cho gần nhà. Nghe anh Quang nói về Sư Đoàn 9 Hoàng ở đại đội trinh sát, gặp lại Hoàng giờ đây sắc thái suy sụp nhiều, già trước tuổi, cười nhưng không vui, chị nói với ảnh:
-Mặt chú bầy hầy lem luốc, chị thấy quen quen nhưng không nhận ra, buôn bán có khá không?

Hoàng trả lời:
-Cũng tạm ổn, em có nghe tin anh Quang, em xin chia buồn với chị.

-Cám ơn chú, vận nước mệnh người thôi đành chấp nhận, sao tôi thấy chú không được vui, bộ gia đình gặp chuyện gì hay sao, xã hội tăm tối con người sống theo lối chụp giật có gì chia xẻ được, mình chia xẻ cho nhau .

Hoàng nhìn chị như dò xét, lưỡng lự nói:
-Không có gì đâu chị, một vài chuyện lặt vặt thôi mà, hôm nào rảnh chị em mình tâm sự, cũng có vài chuyện em cần chia xẻ, nhưng không biết chia xẻ với ai, thời buổi nầy không thể tin ai được chị à.

Chị trả lời:
-Chú Hoàng tin anh Quang thế nào thì tin chị như vậy, bộ chú sợ chị là chó săn hả, có gì chú cứ nói đừng ngại.
.
Hoàng tới sát bên chị nói nhỏ:
-Nếu chị không sợ liên lụy thì em nói, em và một số anh em đại đội trinh sát ly khai, em buôn bán thế nầy để mua lương thực thuốc men cho anh em. Anh em khá đông, nhưng bị chúng giết lần giết mòn đi cả, chuyện quá dài không thể nói một lúc ở đây được, mỗi tuần hai ngày thứ hai và thứ ba em đều có mặt ở đây, lúc nào có dịp chị về đây trúng hai ngày nầy em sẽ nói cho chị nghe.

Chị trả lời Hoàng:
-Bây giờ chị lên cho kịp chuyến xe đã, hai tuần sau trở lại đây tìm chú.

Về tới Sàigòn chị tìm nhà cô bạn xin theo cô ấy chạy bán thuốc tây, chị được cô ấy giới thiệu với vài người chủ vựa thuốc, cô ấy nói:
-Ban đầu hơi lúng túng, nhưng nghề dạy nghề, cố nhớ vài tên thuốc với công dụng và liều lượng dùng, rồi mau chóng trở thành Dược sĩ.

Chị bám trụ ở sạp anh Nghị tại chợ Kim biên, cũng may anh Nghị là sĩ quan Biệt Động Quân tù về sớm nên anh ấy thông cảm hoàn cảnh của chị, tận tình hướng dẫn, chị ngồi liền mấy ngày để học. Thấy cũng không quá khó nên chị bắt đầu xuất chinh, anh Nghị cho chị quyển tự điển thuốc bỏ túi, cũng may trời cho có chút nhan sắc kèm theo sự lanh lẹ nên cũng buôn bán ra trò, quá dễ để hái tiền, người có thuốc đem đi bán họ không biết giá trị thuốc, người đi mua cần đúng tên thuốc, đúng bệnh chứ họ không cần biết giá tiền bao nhiêu.

Đúng hẹn chị về Trà Vinh sáng thứ Ba, mang theo một ít thuốc đau đầu đau bụng, với một ít tiền. Hoàng mừng nói:
-Tưởng chị lạnh gáy nói cho qua chuyện, không ngờ chị về thật.

Hoàng chỉ quán hủ tiếu nói:
-Chị vô đó gọi hũ tiếu ngồi đợi em, quán của hai ông bà người Hoa lớn tuổi họ ít chú ý tới người khác, hơn nữa cũng là nơi quen biết.

Khi Hoàng vào chị lấy gói quà nhét vào tay chú ấy.
-Trong nầy một ít thuốc, chị có ghi và một ít tiền chị phụ với chú, từ nay chú khỏi lo thuốc, anh em trong đó cần thuốc gì cho chị biết, chị sẽ phụ thêm một tý tiền để chú rộng tay chi dụng cho anh em.

Hoàng run run nói:
-Em cảm động quá, thay mặt anh em, em xin cám ơn chị.

Hoàng nói tiếp:
-Sau ngày 30 tháng 4 tụi em kéo nhau mang súng đạn đi luôn không về, mấy tháng đầu tập trung, sau nầy xé lẻ , kiếm ghe sống trong kinh rạch, rừng tràm, rừng đước, bờ bụi, tụi em đã đánh phá nhiều nơi, giết chết nhiều thằng ác ôn. Cuộc sống của anh em ngày càng khó khăn, mò tôm, bắt cá mưu sinh, mình em ngoài nầy cựa quậy phụ giúp.

Một số anh em bị thằng trưởng công an huyện Trà Cú bắt, thằng nầy quá ác ôn, bắt ai tình nghi là nó bắn ngay, vất xác xuống sông không tra hỏi. Anh em mình đã bị nó giết đến sáu người rồi, em lo quá, cuộc sống nầy không thể kéo dài, ra trình diện gặp nó cũng chết, sống để chiến đấu nhưng chỉ một nhóm nhỏ đánh đấm làm sao, súng có mà đạn không, không lẽ sống lây lất như thế nầy mãi, em thương anh em quá nhưng nghĩ mãi không tìm ra cách nào cho ổn thỏa.

Chị góp ý:
-Theo ý chị trước tiên phải nghĩ cách tiêu diệt thằng công an đó đã rồi tính tiếp, bây giờ chú nên báo anh em ở yên và cố lẩn tránh, còn thằng công an chú thu thập tin tức của hắn, sinh hoạt thường ngày, gia đình, vợ con, nơi ăn, chỗ ở, thói quen, mọi việc mình sắp xếp từ từ không thể nôn nóng được, chị hứa sẽ đồng hành với chú và anh em. Thôi chị lên hai tuần sau về lại, khi nào cần việc gì chú lên chợ Kim Biên hỏi sạp thuốc tây anh Tư Nghị, chị lảng vảng quanh khu đó, cẩn thận là trên hết.

Chị trở lại chợ Kim Biên phải nói là thời gian hái ra tiền, nhà nước cộng sản bị cấm vận, bệnh viện toàn là thuốc lá cây, xuyên tâm liên, ngải cứu. Thuốc tây trong các kho Long Bình, kho 18 và các kho dự trữ khác của VNCH bọn cộng sản đưa ra bán hàng xe, như bán vật liệu phế thải. Bọn chúng không phân biệt được các loại thuốc nên không dám dùng, thi nhau chở đi bán. Buồn cười nhất, hôm nay bán thuốc đó, ngày mai lại đi mua thuốc đó, bán ra một mua lại ngàn, sẵn tiền vơ vét của đồng bào nhắm mắt nhắm mũi mua từng bao chuyển về Bắc.

Lặn lội ở chợ mới biết sinh hoạt đằng sau chợ, khi chiều xuống đêm lên, trong ánh đèn vàng mờ nhạt, bên những đống rác tanh hôi đủ thứ mùi, một xã hội lên ngôi, những bóng người như ma trơi lần lượt về tựu lại, họ là những tay móc túi, giật dọc, những kẻ ăn xin, những tay đâm thuê chém mướn, họ có luật lệ của họ, có vùng đất tự trị trong giới giang hồ đường phố.

Chị không biết họ nhưng họ biết chị, chị bắt đầu thích họ, thích cái xã hội với những tay ngang tàng bướng bỉnh, coi luật pháp không là chi, chị xích lại với họ, thân thiết với họ, hòa đồng với họ, hôm nào ai làm ăn không khá chị tặng một bao lì xì, họ đủ mọi lứa tuổi, nam có, nữ có, một số có gia đình ban đêm về nhà ban ngày nhập bọn.

Chuyện tên công an huyện Trà cú làm chị suy nghĩ mãi, nếu giết được tên nầy may ra anh em tìm được một ngả rẽ mới. Chị về gặp Hoàng như đã hẹn, Hoàng cho chị chi tiết cá nhân của tên ác ôn đó. Khó khăn là tên nầy sinh sống ăn ở trong huyện, gia đình ở đâu vùng ngoài. Chị đã nghĩ ra cách, tìm anh Nghị chủ vựa thuốc hỏi:
-Khách quen của anh có ai làm nhà báo không?

Anh Nghị trả lời:
-Có mấy tay hay tới mua và đặt hàng, mua nhiều chắc đưa về ngoài bán lại.

-Hôm nào có nhà báo tới nam nữ chi cũng được anh nhớ gọi em nghe.

-Chi vậy, bộ muốn xin theo làm đệ hả?

Cả hai cùng cười, sáng nào tới chợ chị cũng ghé nhắc:
-Anh nhớ bạn nhà báo của em nghe.

Chị tìm đám anh em móc túi nhờ họ ra tay giúp lấy cái bóp để coi giấy tờ cá nhân của người làm báo, ai nấy tranh nhau trổ tài, họ hỏi:
-Con mồi ở đâu?

Chị nói:
-Chuẩn bị thôi, khi nào người đó tới chị sẽ báo.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1515466522-NguoiVoLinh_03.jpg
Hình minh họa

Một hôm, khoảng ba giờ chiều anh Nghị cho người báo tin ngắn gọn: “người tình của chị tới”. Chị chạy quanh tìm được ba em, hai gái một trai, chị tức tốc vào sạp, người đàn ông trung niên ốm xanh có lẽ thiếu dinh dưỡng đang hút thuốc nói chuyện với anh Nghị. Thấy chị anh Nghị nheo mắt gật gật đầu, ba đứa sà vào hỏi mua thuốc đau bụng chưa kịp nói lời nào là bỏ đi ngay. Trong lòng chị lo lo, chắc thằng cha nầy không mang theo bóp đựng giấy tờ nên mấy đứa thấy không có chi đã bỏ đi.

Chị đứng lên nói bâng quơ vài điều rồi theo sau lưng ba đứa, ra sau hàng vải con bé đưa cho chị cái bóp, chị giật mình la lên:
-Ôi trời! Chị tưởng thằng cha không có bóp nên các em bỏ đi liền, ai dè các em đã lấy, lanh không thể tưởng được, chị bái phục các em.

Một em nói:
-Lanh vậy mà có khi bị bẻ què tay đó chị.

-Chị lấy mấy tờ giấy giao bóp lại cho mấy đứa em nghe.

Lục tìm trong bóp, một thẻ đảng viên đảng cộng sản, một giấy giới thiệu của cơ quan báo chí thành ủy Sàigòn, một thẻ chứng nhận nhân viên biên tập báo nhân dân và một chứng minh nhân dân (thẻ căn cước của mình đó) như vậy là quá đủ để chứng minh nhân thân của một người. Chị đi tìm nhóm làm giấy tờ giả, họ chụp hình làm tuốt luốt các giấy tờ kể cả thẻ chứng minh nhân dân, đương nhiên là thay tên đổi họ.

Chị về nhà ông nội của Bé, hỏi thăm tình hình nông nghiệp, vì có vài nơi nông dân không xuống vụ, không chịu cày cấy. Nắm rõ tình hình trong vùng, chị lên chợ Trà vinh gặp chú Hoàng báo cho chú ấy biết: “thứ bảy tuần sau chị sẽ về thăm thằng đó, không biết có giết được hay không, chị cố gắng tạo điều kiện thuận lợi, bằng mọi cách nó phải chết trong ngày thứ bảy, em xin vong hồn các anh chết oan phù trợ cho chị”.

Chị đã đi mấy trăm cây số nơi nầy nơi khác tìm chỗ thử súng, cuối cùng về sông La Ngà nơi nầy có khúc quanh nước chảy mạnh tiếng sóng ào ào, chị lấy cây súng Browning ra, cây súng quá nhỏ, đầu đạn bằng mút đũa, lúc trước thấy anh Quang hay bỏ túi chứ chưa khi nào thấy anh ấy bắn, nên chị chưa biết sự công phá của viên đạn.

Chị không an tâm, chị mang theo trái dừa khô, dí mũi súng sát trái dừa thử một phát, coi kỹ phía bên đầu đạn ra xoáy một lỗ đút ngón tay cái lọt, thế là an tâm. Súng bán tự động một giây có thể bóp cò ba lần, chỉ có thánh mới phản công kịp, một giây ngắn ngủi trong hộp sọ không còn tý não nào.

Ngày thứ sáu chị về Trà Vinh lấy phòng ở lại nhà trọ, chiều lang thang ra vườn dừa để đầu óc bớt căng thẳng, tự an ủi mình nếu thuận tiện thì ra tay còn không thì thôi lo lắng làm gì cho mệt. Về phòng trọ uống một chai thuốc an thần của con nít mới chợp mắt được.

Sáng thứ bảy dậy sớm, lên bộ đồ giống như thằng mất bóp, mang tòn ten máy chụp hình, súng nhỏ mang trong bắp vế sát háng bên phải, túi quần bên nầy cắt sạch cho đỡ vướng, tập đi tập lại nhiều lần cách moi súng, nhanh và cho tay vào cò chính xác vì cây súng quá nhỏ.

Khoảng 10 giờ sáng chị vào ủy ban nhân dân huyện, trình giấy giới thiệu và các giấy tờ liên quan cá nhân, nói cho họ biết mục đích tìm hiểu vấn đề an ninh trong huyện và nguyện vọng của bà con làm nông nghiệp, vì huyện nầy được tỉnh giới thiệu là huyện điểm nên các đồng chí trung ương quan tâm. Một cuộc họp vội vàng được triệu tập, các tay quan to, trưởng đầu nghành được giới thiệu, bí thư huyện, huyện đội trưởng, trưởng công an, và một số lâu la khác.

Ngồi ngắm mục tiêu, không đoán được tuổi vì mặt hắn nhăn nheo da bầm bầm đen sạm, chị nghĩ trong bụng cái ngữ nầy chắc không mê gái vì sinh khí không có, như con bọ, thì hơi sức đâu mà gái với gông. Hết ban nầy qua ban khác thay nhau, thành tích, phấn đấu, chỉ tiêu, chị ngồi nghe ghi ghi chép chép như ai. Xong việc báo cáo hơn 12 giờ được mời ăn cơm trưa, chiều đi thăm một vài xã để gặp bà con, rồi đến một vài nơi coi tình hình an ninh, tới đâu chụp hình tới đó, đám cán bộ khoái tỉ, cười híp mắt.

Đi tìm hiểu an ninh trật tự thì đi sát với trưởng công an để nghe báo cáo thành tích, cứ tưởng không còn sinh khí té ra sinh lực coi bộ dồi dào, chị mừng thầm thế thì quá thuận tiện, đàn ông lâu ngày không phụ nữ, gặp đàn bà chợ trời chỉ ba chiêu là gia tài sự nghiệp coi như xong.

Gần bốn giờ chiều thì đoàn cán bộ và nhà báo quay về huyện, chị chụp cho họ nhiều hình lưu niệm, chụp cả ngàn cái cũng không sao vì máy không phim. Hứa sẽ đăng báo trang đầu, quay qua nói nhỏ với trưởng công an:
– Sáng mai em có hẹn với các đồng chí thị ủy Trà Vinh, xe đò bây giờ không còn, nhờ anh giúp đưa em lên thị xã với, lên tới trên đó em lo tất cho anh, nơi ăn, chỗ ngủ, uống nước tâm sự, chứ về nơi lạ ở một mình cô đơn lắm.

Nghe vậy thì đàn ông nào không sướng, không xuôi tai, hắn nói:
-Tôi không có xe, cô chờ tôi đi mượn coi có ai họ cho mượn xe hay không đã.

Chiếc xe Suzuki yên liền, có lẽ chạy bằng dầu hôi, khói phụt đen đường, gầm gừ gào thét cố lăn bánh cõng hai mạng người xa dần huyện thị. Ban đầu ngồi xa, qua một vài ổ gà xích lại gần, gần hơn rồi nhẹ nhàng ôm hắn, nghiêng mặt kê vào lưng mơn trớn cọ xát, hắn rùng mình, có lẽ lần đầu trong đời hôm nay hắn mới được cảm giác đê mê đó.

Chị xổ toàn lời ong ve dụ dỗ, hắn im lặng không nói tiếng nào. Lên tới quốc lộ rẽ trái về thị xã, chị đề nghị ghé lên ao Bà Om chụp vài tấm hình kỷ niệm, chạy non cây số thì tới. Người ta gọi là ao nhưng đây là một cái hồ lớn, chiều dài cũng trên cây số, chiều ngang chỗ to chỗ nhỏ năm bảy trăm mét. Chung quanh hồ toàn cây sao, không đoán chính xác tuổi nhưng nhìn gốc rể cũng có thể biết số cây ở đây đã có vài ba trăm năm.

Ao Bà Om nổi tiếng cho những cặp tình nhân hẹn hò, hoang vắng đến lạnh lùng, u buồn cô tịch. Chị chọn một gốc có hai rễ nhô lên như hai bờ tường, cao ngang đầu, ngồi xuống đó như ngồi trong góc nhà, chị nói với hắn:
-Mình xuống đây ngồi tý đi anh, ngồi lên rễ ngang tựa lưng vào đây thì tuyệt vời.

Hắn dựng chiếc Suzuki vào gốc cây, chị xuống ngồi trước, xích qua phải chừa chỗ bên trái, đưa tay lắc nhẹ cây súng, lẫm bẩm một mình: “sắp tới phiên mầy rồi đó”.

Hắn vịn tay bước vô chỗ ngồi, hai người nói đủ thứ chuyện trên trời dưới đất, chị bắt đầu dựa vào hắn, mùi dầu thơm trên tóc quyến rũ hắn chịu không nổi, luồn tay phải qua lưng chị, rồi ôm lấy chị, hôn tứ tung lên trán, lên mặt, lên môi, tay trái chị vòng qua cổ hắn,hôn đáp trả, hắn say sưa hai mắt nhắm nghiền. Tay phải chị móc cây súng dí sát màng tang bên trái bóp cò, năm tiếng đẹt đẹt như tiếng vỗ tay vang lên trong buổi chiều xế bóng.

Hắn chết liền không nhúc nhích, cũng chết trong tư thế ngồi như anh Quang, hắn chết trong lúc đang nhắm mắt tận hưởng nụ hôn nồng nàn của tử thần ban tặng. Hắn phải trả mạng lại cho sáu anh em, cho những người vì yêu thương đất nước mà hắn đã ra tay.

Chị cũng biết rằng thằng ác ôn nầy chết thằng ác ôn khác lên thay, nhưng biết đâu thằng sau có kẽ hở, anh em tìm cơ hội vượt qua. Chị dựa lưng hắn vào rễ cây, vắt chân lên, hai tay bỏ lên đầu gối, người ta đi ngang qua cứ ngỡ hắn đang ngồi chơi. Chị chạy xe ra quốc lộ, bỏ lại trong sân chùa, đón xe gió về lại Sài gòn trong đêm.

Tuần sau tin từ nhà anh Quang nhắn lên, cả tuần nay công an ập vào nhà lục lọi, hỏi chị hạch xách đủ điều. Cô em gái từ nhà chạy ra chợ báo tin, không biết tìm gì mà công an ập vào nhà lật tung mọi ngõ ngách, cuối cùng họ hỏi chị đi đâu, ba mẹ nói chị đi về ở dưới Cầu Ngang. Cô em nhắn chị đừng về nhà.

Tối hôm đó chị xin ở lại với chị em bụi đời, mấy đứa móc túi đứa nào cũng thương chị, các em hỏi lý do chị ở lại, chị nói chị đang bị truy nã, mấy đứa có suy nghĩ giống chị, ban đêm ở đây còn ban ngày thì sao, không phải lẩn tránh một vài hôm mà có thể là suốt đời, một em bàn với chị:
-Đợi má Chín về tụi em đến gặp má nhờ má nghĩ cách.

Khoảng hơn mười giờ người đàn bà lớn tuổi đi trước,theo sau một tốp bị gậy nghêu ngao ca hát cùng nhau vào chợ, thấy cuộc sống vô tư của họ, chị cũng vui lây, mấy đứa nhỏ nói:
-Chị ngồi khuất bên kia để bọn em nói nhỏ với má đã, nếu má đồng ý tụi em đưa má qua đây gặp chị.

Chị nghĩ các em tuy nhỏ nhưng ra đời sớm va chạm nhiều trong việc mưu sinh nên đầu óc các em tinh tế và khôn ngoan.

Má chín theo mấy đứa nhỏ đến gặp chị, hứa sẽ giúp, má bảo ngủ đi sáng mai dậy sớm mọi chuyện xong ngay. Mấy đứa nhỏ nhường mùng muỗi và chỗ ngủ cho chị, suốt đêm không thể nào chợp mắt được. Ngồi bó gối suy nghĩ làm thế nào để vượt qua ngõ bí nầy, chị đành bó tay nghĩ không ra cách, tự an ủi mình thôi tới đâu hay tới đó, mấy người gác chợ cầm gậy đi ngang qua la lớn:
-Mấy thằng nhóc không ồn ào nghe chưa?

Rất sớm má Chín mang túi vải tới tìm chị, chui vào mùng má bảo:
-Phải làm sớm, đừng để cho tụi nó biết mặt em.

Má mở bao ra mùi hăng hắc xông lên hôi muốn lộn ruột, lấy cái gì đó gắn lên mắt trái, má nói cái nầy khó chịu lắm, ngứa quá thì lấy tăm xỉa ngang vô,không được tháo ra, một tuần má tháo ra cho một bữa. Xong rồi gắn cái chi mát mát vào tay chị như vết thương hồi nãy em đã thấy. Má Chín làm cho chị và chỉ cách, bôi một tý phẩm đỏ lên, lấy lớp mỡ mỏng gọi là bàng nhạng lớp nầy thường bọc ngoài lá gan, hay ruột già của bò mới được, vì mỡ bò khi khô nó chuyển sang màu vàng vàng. Trời nóng mỡ tươm ướt thấm vô phẩm đỏ thành ra một vết thương mưng mủ máu.

Quệt thêm chung quanh một lớp mật mỏng, hay nước đường thế là đi tới đâu ruồi lằng theo tới đó, gớm ghiếc ít ai dám nhìn. Đặc biệt loại bàng nhạng nầy đắp lên chỗ nào là dính sát, con mắt chị ghèn dính tèm lem là nó đó. Rồi trét đất lên mặt, lên tay, chỗ nào đậm chỗ nào nhạt là một nghệ thuật trang điểm công phu chứ không đơn giản như mình tưởng.

Má nói bây giờ không ai có thể nhìn ra em, phải đi lang thang, tìm chỗ ngồi dang nắng cho cháy lớp da mịn màng tiểu thư nầy đi. Khi đi ngoài đường mình là người ăn xin đui què, đói đi không muốn nổi, đừng cắm đầu cắm cổ chạy như thiên hạ. Chị cám ơn má Chín dúi vào tay Má một nắm tiền, Má từ chối không lấy, chị năn nỉ Má mới cầm.

Thế là chị nhập cuộc xin ăn, chị đi theo mấy nhóc móc túi, các em chỉ đâu chị ngồi đó, cuộc sống lề đường cũng nhiều thú vị. Gia đình chị gặp chị nhưng họ nhận không ra, khi nào cần gì chị nhờ các em móc túi liên lạc.

Tháng trước chị thấy chú Hoàng lảng vảng trước sạp thuốc anh Nghị, chị viết mấy chữ “cần gì thì nói với em nầy, chị không tiện gặp chú”. Chị nhờ mấy em móc túi cầm tờ giấy tới giật đồ trên tay chú Hoàng để chú đuổi theo, đuổi một đoạn thì túm được thằng nhỏ, nó van xin tha, nhét miếng giấy vào tay chú, Hoàng liếc qua mảnh giấy, túm áo thằng nhỏ kéo đi:
-Tao đem chú mầy cho công an.

Hoàng kéo thằng nhỏ đi, viết nghuệch ngoạc mấy chữ nhét vào tay chú móc túi:
-Em trả miếng giấy nầy lại cho người nhờ em đưa.

Hoàng viết:
-Ngày 9 âm lịch, về tìm xe lôi số 162.

Đêm hôm qua chị nhờ đưa bé tới, chị ngồi trong mùng không dám cho bé thấy cái mặt dễ sợ của chị, bé nhận ra tiếng mẹ, chị cho bé biết chị hóa trang để trốn khỏi bị đi tù nên mặt mẹ dơ lắm, bé đừng nhìn và đừng nói chi hết. Hai mẹ con mình ngày mai cùng đi trốn.

Chị từ giã gia đình hè phố, ai cũng quyến luyến yêu thương, họ là những người sống ngoài lề đường tận cùng xã hội nhưng lòng họ bao la như đại dương, tim óc họ cao như núi. Mấy đứa móc túi cầm tay chị khóc nói:
-Chị đi đâu khi nào về nhớ tìm chúng em.

Chuyến xe Sài Gòn Trà Vinh hôm nay về trễ vì qua trạm Vĩnh Long tụi thuế xét lâu quá, chị cũng đâm lo. Có lẽ Hoàng đã dặn chồng em rồi khi thấy số xe chị hỏi xe chú có đi không, chồng em hỏi lại:
-Có phải chị Quang không?

Chị gật đầu lên xe, chồng em nói:
-Hoàng nhờ em nói lại với chị, sáng mai 3 giờ chị lên tàu Phú Thịnh khoảng 3 giờ rưỡi hay trễ hơn một tí tàu nầy sẽ nhổ neo chạy lên Sài Gòn, nếu như quá bốn giờ nó không nhổ neo thì xuống nhanh và lẩn trốn. Để chắc ăn hơn, 2 giờ em đưa chị về bến đò và sẽ đứng chờ cho đến khi đò rời bến.

Một đêm không ai chợp mắt, có lẽ chồng tôi không biết chị Quang đã làm gì, sống ra sao trong thời gian qua. Hai giờ sáng họ ra xe lôi, tôi nắm tay chị nói:
-Em kính phục chị, kính phục người vợ lính bất khuất, người phụ nữ anh hùng ngoài trí tưởng tượng của em. Em nhớ chị mãi, và em cầu nguyện cho chị hằng đêm.

Lời nhắn của em: “Nếu chị đọc được bài nầy, xin chị liên lạc với Ban Biên Tập, Tập San Biệt Động Quân để lấy địa chỉ của em, chúng em nhớ chị, hỏi và tìm chị khắp nơi”.

Thương nhớ chị nhiều.

Phương Lâm
nguồn: https://buonvuidoilinh.wordpress.com/2017/01/22/nguoi-vo-linh/

BachMa
01-17-2018, 10:01 PM
Lấy Chồng Xứ Huế
Thùy An

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1515705636-LayChongXuHue_03.jpg
Hình minh họa
Quen Khanh đã ba năm, tôi không hề biết anh là người Huế. Anh nói tiếng Nam ngọt xớt. Những danh từ rất Nam bộ như “hưỡn”, “xí xọn”… anh đều hiểu rõ và đôi khi còn áp dụng vào những câu chuyện khôi hài rất có duyên. Cho đến khi tình cảm hai đứa chín muồi, Khanh ngõ ý:

-Ba me anh muốn biết mặt em.

Tôi theo Khanh về nhà trong tâm trạng vô cùng hồi hộp. Dù đã chuẩn bị tinh thần, nhưng tôi vẫn cảm thấy bối rối, chân tay thừa thải trước tia nhìn vừa dịu dàng vừa soi mói của mẹ Khanh. Đó là người phụ nữ ngoài năm mươi, gương mặt tròn trịa, nước da trắng mịn phảng phất vài nếp nhăn nơi đuôi mắt. Tóc bà nhuộm màu nâu đen, được bới cao, cài trâm đồi mồi trông rất quí phái. Bà trang điểm nhẹ nhàng, một chút phấn hồng và môi son màu nhạt.

-Thưa mẹ, đây là Kiều Tiên, bạn gái của con.

Nụ cười của bà thật tươi:

-Kiều Tiên à? Cái tên dễ thương hí. Ngồi chơi đi cháu. Chờ bác một chút.

Bà đứng dậy đi vào trong, để lại tôi ngơ ngác sau khi nghe một loạt âm thanh líu lo như chim hót. Khanh nheo mắt:

-Sao? Không hiểu à? Anh đã nói rồi, gia đình anh người Huế, vậy mà không tin. Em có phải là chắt nội của Tào Tháo không đó?

Mẹ Khanh ra, trên tay bưng một cái dĩa hình bầu dục tráng men xanh. Bà đến gần tôi, đặt dĩa lên bàn:

-Ăn đông sương với bác cho vui.

Đông sương? Không phải. Đó là những miếng thạch dày khoảng hai phân, được cắt thành từng miếng hình thoi bằng ba ngón tay. Rải rác giữa lớp thạch trong suốt là những khối vuông nhỏ màu trắng, đen, nâu, cam và xanh lá cây.

Mẹ Khanh nhìn tôi chăm chú. Hình như bà đang nghĩ, con nhỏ này câm chắc? Và tôi cũng nghĩ, Kiều Tiên, hãy nói một câu gì đi chứ.

-Cháu cám ơn. Ô, thạch của bác làm đẹp quá.

Mẹ Khanh vui vẻ:

-Người Huế gọi thạch là đông sương cháu à. Cháu ăn đi, đừng sợ, bác không dùng màu thực phẩm mô –rồi bà lấy tăm ghim miếng thạch lên săm soi –cháu coi màu nì, màu trắng là sữa, đen là cà phê, nâu là cà phê sữa, lục là nước lá dứa, còn màu gạch là nước cà rốt.

Màu “gạch” là màu “cam”! Tôi lại học được một từ đặc trưng của Huế. Miếng thạch ngọt thanh tan trên đầu lưỡi, thấm vào lòng tôi những cảm giác dịu êm.

Cổng nhà Khanh bỗng mở toang. Một người đàn ông trung niên,giống Khanh như tạc phóng xe máy vào. Ông đứng trước thềm, tươi cười nhìn mẹ Khanh rồi chỉ tay vào giỏ xe: một chậu hoa dâm bụt vừa nở hai nụ hàm tiếu màu vàng. Mẹ Khanh đến gần, ngắm nghía:

-Mình mới mua hả? Ôi bông cẩn vàng, đẹp thiệt đó.

Tôi tròn mắt. Khanh ghé vào tai tôi:

-Người Huế gọi “Hoa dâm bụt” là “bông cẩn”.

Ba Khanh bước vào phòng khách, mẹ Khanh theo sau bảo Khanh:

-Con bưng chậu hoa xuống rồi đi cất xe cho ba.

Tôi đứng dậy, vòng tay:

-Cháu chào bác ạ.

-Cháu là bạn gái của Khanh phải không? Bác gái nói cho bác biết rồi.

Ba Khanh ngồi đối diện tôi, hỏi han ân cần. Giọng ông ấm áp, tuy âm sắc hơi nặng, có nhiều từ tôi không hiểu rõ, chỉ lờ mờ đoán ra. Nhưng ánh mắt ấy, cử chỉ ấy đã nói lên một tình cảm chân thành.


oooOooo

Tôi nhận lời cầu hôn của Khanh, mặc cho những lời bàn ra tán vào của đám bạn. Thật ra cũng vì thương tôi, nên chúng nó mới đề cao cảnh giác nhiệt tình như thế. Nào là: “Công dung ngôn hạnh mày có được bao nhiêu mà dám uống thuốc liều hở?”, “Làm dâu người Huế khó lắm, mày chịu được sao?”, “Chúng tao khuyên mày nên đi học vài khoá nấu ăn, làm bánh mới đủ sức đối phó.”…

Tôi bịt hai tai, hét:

-Chúng mày có im hết đi không? Tình yêu của Khanh đã cho ta đầy đủ mười thành công lực.

Nói thì oai lắm, nhưng lòng tôi cũng hơi run khi nghe ba Khanh bảo:

-Đám cưới xong, Khanh nên đưa Kiều Tiên về Huế thăm mệ và mấy O. Xa xôi quá, không ai vào chung vui cùng hai con được. Ba nghĩ là họ rất mong thấy mặt con dâu của ba.

Tôi lại càng run. Cái gì “mệ”, cái gì “O”?

Khanh lại “phụ đề Việt ngữ”:

-Mệ là… bà nội của anh đó. Còn O là hai người em gái của ba.

-Như vậy “O” có nghĩa là “cô” phải không anh?

-Đúng. Cho em 10 điểm. Còn “mệ”?

-Mệ là… bà nội chớ gì.

-Mệ là bà thôi. Mệ nội, mệ ngoại, là bà nội, bà ngoại.

-Sao hồi nãy anh nói mệ là bà nội? Tiền hậu bất nhất, cho anh zéro điểm là vừa.

-OK, anh chịu thua em 1 – 0 đó, bây giờ nghe anh nói tiếp nè.

-Bộ anh muốn em loạn thần kinh hả?

Khanh dỗ dành:

-Nếu em không chịu cho anh truyền thêm nội công thì làm sao ứng phó với bà con nội ngoại của anh ngoài Huế chứ.

Có lý. Mặc dù tôi chưa quen nghe giọng Huế, nhưng nếu tôi hiểu được những từ người Huế thường dùng, thì sự đồng cảm giữa tôi và “giang sơn nhà chồng” sẽ dễ dàng hơn. Tôi lấy tờ giấy và cây bút:

-Được rồi, anh nói đi. Em sẽ ghi và học thuộc lòng.

Khanh phấn chấn ra mặt:

-Em ngoan quá –rồi tằng hắng –Anh bắt đầu nè. Người Huế từ “mô” là “đâu”, ví dụ “anh đi mô?” có nghĩa là “anh đi đâu?”, “bên ni” là “bên này”, “bên nớ” là “bên kia”, “răng” là “sao”, “rứa” là “thế”, “kiệt” là “hẻm”, “tra” là “già”, “ăn kỵ” là “ăn giỗ”…

Đầu óc tôi lùng bùng, tay chân tôi quờ quạng. Khanh đặt câu hỏi:

-Đố em, “ôn” là gì?”

Tôi xếp giấy lại, thở phào:

-Anh hết vốn rồi hả? Đố như anh, con nít cũng biết. Ôn là ôn tập chớ gì.

Khanh kí vào đầu tôi:

-Cho em xuống học lớp Lá là vừa. “Ôn” là “Ông”. Gặp các ông già, người ta thường “Thưa ôn”, cũng như đối với các bà lão, người ta thường “thưa mệ”…

Khanh tiếp tục đưa tôi vào mê hồn trận:

-À, anh nhắc em điều này, nếu thấy một người đàn ông được gọi là “Mệ” thì em cũng đừng ngạc nhiên, vì đó là những người trong hoàng tộc…

Tôi hét lên:

-Cái gì? Ôi em bị tẩu hoả nhập ma rồi.


oooOooo

“Giang sơn nhà chồng” của tôi toạ lạc giữa một khoảng vườn xanh tốt trong thành nội, gồm ba căn nhà trệt lợp ngói rộng rãi, ngăn cách nhau bởi các dãy hàng rào bằng cây thấp, lá nhỏ, quấn quít những sợi dây leo màu vàng. Khanh nói:

-Bà nội anh rất thích chăm sóc vườn tược. Hàng rào chè tàu này còn già hơn tuổi của anh nữa đó, còn kia là những dây tơ hồng. Em thấy có đẹp không? Ngày trước, nhà anh chỉ có một căn thôi, sau này hai O lập gia đình, bà nội mới xây thêm hai căn nữa, của hồi môn ấy mà.

Có tiếng reo:

-Khanh, cháu Khanh đó phải không?

Một phụ nữ khoảng trên dưới năm mươi, mặc quần tây nâu, áo hoa sặc sỡ, từ căn nhà bên phải chạy ra. Tóc bà uốn cao, nước da trắng, miệng cười có má lúm đồng tiền.

-Đây là O Hương của anh.

-Cháu chào… O ạ.

O Hương tiến đến gần, vuốt má tôi:

-Vợ thằng Khanh đây hả. Chà, hai đứa xứng đôi lắm đó nghe –rồi bà kéo tay tôi và Khanh về phía căn nhà giữa –Mạ ơi, vợ chồng Khanh về tới rồi nì.

Khanh nhìn sang căn nhà bên trái cửa khoá ngoài. O Hương nói:

-O dượng Hoà về làng ăn kỵ rồi. Chắc là mai mới lên.

Nãy giờ tôi cố ý lắng nghe. Eureka, tôi đã nhớ. “Ăn kỵ” là “ăn giỗ”, còn “mạ”? Chắc là “mẹ” rồi. Xem ra tiếng Huế đâu có khó gì, khỏi cần Khanh làm thông dịch.

Bà nội của Khanh rất đẹp lão. Mái tóc bà bạc phơ, gương mặt hồng hào, phúc hậu. Bà đang ngồi trên chiếc ghế mây cạnh ngưỡng cửa, miệng cười móm mém, âu yếm nhìn Khanh đi bên tôi.

-Chúng cháu chào mệ.

Bà gật đầu rồi đưa tay níu lấy vai Khanh:

-Đỡ mệ vô nhà.

Bà nhỏ bé trong vòng tay Khanh, bước chân bà khập khiểng. Khanh lo lắng:

-Mệ, mệ bị sao vậy?

O Hương đỡ lời:

-Hôm qua mệ ra vườn tưới cây, mệ bị bổ.

-Im đi, tau bớt rồi –bà nhìn O Hương từ đầu đến chân –mi bận cái áo chi mà loè loẹt rứa? Tra rồi, gần làm mụ gia rồi, còn bày đặt diện.

Tôi nói nhỏ với Khanh:

-Em hiểu từ “tra” rồi, nhưng “bổ”là gì? Còn “mụ gia”?

-“Bổ” là “té”, còn “mụ gia” là “mẹ vợ” hoặc “mẹ chồng”. Xứ Huế anh có câu: “Thương chồng mà khóc mụ gia, chớ tui với mụ chẳng bà con chi.”

Tôi che miệng cười. Bà nội Khanh ngồi trên sập gụ, vẫy Khanh và tôi lại gần. Bà vuốt tóc tôi:

-Mệ có coi bóng đám cưới, trông cháu đẹp hơn trong bóng nhiều. Biết hai cháu sắp ra thăm mệ, đêm mô mệ cũng nằm chộ.

Khanh thông dịch ngay:

-“Bóng” là “hình”…

Tôi ngắt lời:

-Còn “nằm chộ” là “nằm mơ”, đúng không?

-Very good, em thông minh thật đấy.

Bà nội Khanh có vẻ thích tôi. Bà kể cho tôi nghe rất nhiều chuyện, từ chuyện làng xóm, đến chuyện những người trong họ tộc, chuyện gia đình Khanh… giọng bà nhẹ nhàng, thân ái. Vì đã ôn tập trước, nên những từ rặt Huế như răng, mô, tê, rứa… tôi hiểu dễ dàng. Và càng lúc, tôi càng thấy gần gũi bà, thương yêu bà hơn.

-Cháu biết không? Chồng của cháu rất thích ăn chè thịt quay.

Chè thịt quay là gì? Tôi nhìn quanh tìm Khanh. Nhưng thôi, khỏi cần thắc mắc, chẳng qua cũng chỉ là món chè bình thường, cứ ăn vào là biết ngay thôi mà. Bà gọi:

-Hương ơi, lấy cà mèn đi mua chè thịt quay cho các cháu ăn đi con.

O Hương bảo Khanh:

-Cháu qua nhà dắt dùm chiếc xe ra cho O.

-Để cháu chở O đi.

Khanh đến bên tôi:

-Em ở nhà với mệ được không?

Tôi vênh mặt:

-Anh khỏi lo. Mệ nói gì em cũng hiểu hết.


oooOooo

Tôi đi thơ thẩn trong vườn. Nắng chiều dìu dịu, gió chiều êm ái. Lòng tôi rộn vui theo tiếng chim hót chuyền cành. Hình như bà nội gọi:

-Vợ thằng Khanh mô rồi?

Tôi hấp tấp chạy vào:

-Mệ sai cháu gì ạ?

-Cháu ra ngoài “cươi” lấy cái “chủi”, “xuốt” dùm mệ cái “dà”.

-!!!

Lần này thì tôi thua thật. Khanh ơi, mau về cứu em.


Thùy An
nguồn: https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=1204789172988728&id=431033327030987

BachMa
01-22-2018, 01:21 AM
Chuyến Bay Cuối Cùng Phi Đoàn A-37
Thiên Lôi 524
Sĩ quan Hành quân Phi đoàn 524 Thiên Lôi

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1515467886-ChuyenBayCuoiCungPhiDoan A-37_01.jpg
Hình minh họa
28 tháng tư 1975, sau bữa cơm chiều vội vã ở một câu lạc bộ gần khu gia binh TSN, tôi trở về ụ đậu phi cơ đầu phi đạo 07 phải nơi tạm trú ba phi đoàn 524, 534, 548 di tản về từ căn cứ Phan Rang, bước xuống xe tôi thấy các nhân viên phi đạo đang bận rộn kéo các A37 trang bị đầy bom đạn từ trong vòm trú ẩn ra đậu hàng ngang dài phía trước cách ụ năm chục bộ Anh (50 Feet). Tôi bước đến hỏi Trưởng phi đạo tại sao dời phi cơ ra khỏi ụ? Anh ta trả lời theo lệnh Trung tá Kỹ thuật và Bộ Chỉ Huy Hành Quân. Tôi vào phòng trong ụ, nhắc điện thoại gọi Trung tâm hành quân, thì sĩ quan trực cho biết hình như lệnh của Bộ Tư Lệnh KQ hay Bộ Tổng Tham Mưu gì đó, tôi phát cáu, giũa anh một câu: Anh là Sĩ quan trực mà không biết lệnh lạc rõ ràng là như thế nào ? Anh có biết hồi chiều phi đạo 07 bị dội bom không ? Anh ta cầu hòa trả tời: Thưa thiếu tá, em thấy cũng vô lý thật, nhưng lệnh trên đưa xuống, em phải thi hành, nếu Thiếu tá muốn bìết rõ thì hỏi Đại tá Ước. Tôi cúp phôn rồi bấm số Đại tá Ước nhưng không có ở phòng giấy. Tôi ra lại bãi đậu, nói với Trưởng phi đạo di chuyển phi cơ trở lại vòm trú ẩn, nhưng anh nói: Thiếu tá nói với xếp em, em mới thi hành được. Tôi gọi điện thoại cũng không ai trả lời. Đang đứng phân vân suy nghĩ, làm cách nào để liên lạc được môt vị có thẩm quyền hỏi cho ra lẽ lệnh của ai để yêu cầu di chuyển phi cơ về vị trí cũ. Sơn “húc” tiếc nuối vừa nói vừa chỉ tay bên kia hàng rào kẽm gai: “Đêm qua Thiếu tá đừng cản em thì đám CS Võ Đông Giang đã ra người thiên cổ rồi, còn đâu mà cho kế hoạch để đám thằng Trung mang A37 từ Phan Rang về bỏ bom TSN hôm nay!”.

Đêm 27 tháng tư tôi tập họp tất cả hoa tiêu 524 ăn tối ở câu lạc bộ gần trung tâm Truyền Tin điện tử, Sơn lên sân khấu bỏ túi cầm microphone và đề nghị tôi về lấy phi cơ bỏ bom Camp Davis nơi đồn trú các phe quân sự bốn bên, thật ra lúc đó chỉ còn độc nhất một bên là CS Bắc Việt mà thôi. Tôi chạy nhanh lên kéo Sơn xuống vỗ vai nói: “Chuyện đâu còn đó, từ từ rồi tính!”. Sơn vùng vằng kéo tay tôi ra vừa khóc vừa nói: “Không còn thì giờ nữa đâu Anh Tư ơi! Sau này Anh sẽ tiếc!”. Bây giờ đứng nhìn một hàng dài A37 bom đạn xăng nhớt đây đủ im lìm chờ đợi; một ý nghĩ thoáng qua trong đầu tôi hay là nói Sơn vào lấy nón bay đi số hai cùng tôi cất cánh hai A37 lên thanh toán mục tiêu Camp Davis xong dọt đi Utapao.

Chuyện đánh trúng cái barrack đó tôi tin tưởng Sơn và tôi lượm một cách dễ dàng như những phi vụ bay đêm tự do lượm công voa chở tiếp liệu của Bắc Việt trên đường mòn phía nam Pleime tháng 9 năm 1972. Tuy nhiên ở địa vị Trưởng phòng Hành quân tôi có nên làm không? Những trái bom 250 cân Anh vừa nổ chiều nay trên phi đạo TSN giờ lại nổ cạnh Bộ Tư Lệnh KQ? Sau đó chúng tôi sẽ dọt đi để lại mấy chục anh em phân vân xáo trộn nằm trực trong nhà vòm cuối phi đạo! Chưa kể đến ngàn ngàn chiến hữu và gia đình đang đồn trú trong căn cứ TSN. Tôi gọi Sơn lên xe chạy đi tìm Đại Tá Thảo và Trung Tá Cả. Hết câu lạc bộ Mây Bốn Phương đến các quán cơm trong khu gia binh cũng không thấy các vị đó ở đâu. Tôi đành quay trở lại biệt đội.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1515467901-ChuyenBayCuoiCungPhiDoan A-37_02.jpg
Hình minh họa

Sơn nhảy nhanh xuống xe chạy vào biệt đội xách hai cái nón bay ra, giục tôi vào xách dù ra phi cơ. Tôi đứng lặng nhìn Sơn lắc đầu vừa nói: “Không thể trút bom xuống Camp Davis được! Hành động này chỉ ăn miếng trả miếng cho hả giận chứ có lợi lộc gì đâu?”. Bước vào phòng hành quân phi đoàn nhìn thấy anh em tụm năm tụm ba rầm rì những biến cố xảy ra mấy ngày qua; nào việc di tản bên DAO, những chuyến C130 bên hậu trạm, đám anh em Đà Nẵng kẹt lại bị thằng Trung ép ngồi ghế trái có phi công Mig ghế mặt canh chừng oanh kích phi đạo TSN chiều nay. Thấy Trung tá Khôi đang đứng nói chuyện với Tuấn cuối góc phòng, tôi xáp lại hỏi: “Trung tá có biết Đại tá Thảo ở đâu không?”. Anh trả lời: “Có lẽ Ông đi ăn tối với Cả và Thi chưa về”. Tôi hỏi Khôi: “Anh có biết tại sao tất cả phi cơ kéo ra khỏi ụ không?”. Khôi trả lời, “đâu có biết, chắc phải có lệnh trên, kỹ thuật mới di chuyển”. Nhưng phi cơ trang bị bom đạn, xăng nhớt đầy đủ đậu sát cánh nhau như thế có phần không ổn cho lắm. Sơn mang dù xách nón bay tới: “Sơn đi một mình nghe Anh Tư”. Tôi nực lên quát: “Không thể được Sơn ơi, có lên thì lên tất cả”. Trung tá Khôi nhìn tôi rồi hỏi: “Mục tiêu nào vậy?”. Khôi vừa nói vừa vỗ vai Sơn đừng nóng, hiện tình chưa đủ căng thẳng sao bạn?

Tôi tự hào trong hàng ngũ phi công khu trục Không Lực Việt Nam Cọng hòa nhất là Không đoàn 92 có PĐ 524, 534, 548; cho đến giờ phút này 22:18 tối 28 tháng tư 1975 tất cả phi công đều có mặt ứng chiến đầy đủ không thiếu một ai. Ngoại trừ Thiếu tá Chấn, Thiếu tá Liễn, Trung tá Thi và Thiếu tá Tứ, bay bốn A37 , hai trang bị bom nổ 500 lbs, hai trang bị CBU, ra căn cứ Phan Rang phá hủy phi đạo và Bộ Chỉ Huy đang chiếm đóng hầu tránh CS có thể kế hoạch lần thứ hai oanh kích TSN.

Suốt đêm tất cả anh em ba phi đoàn chờ đợi điều động cất cánh nhưng tuyệt nhiên không một tiếng chuông điên thoại reo, không khí oi bức ngột ngạc; mọi người mệt mỏi suốt ngày bao nhiêu xáo trộn xảy ra, nào đưa gia đình di tản ngoài hậu trạm, nào phi cơ đám Nguyễn thành Trung mang từ Đà Nẵng vào Phan Rang lấy nhiên liệu lên bom đạn về oanh kích phi đạo TSN, không cho các phi cơ có đường bay di tản.

Nửa đêm tôi lả người thiếp đi lúc nào không hay. Đến khi nghe tiếng còi hụ báo động liên hồi. Tôi chụp điện thoại hot line phòng hành quân chiến cuộc được biết có pháo kích; tôi hỏi cần phi tuần khẩn không? Sĩ quan trực trả lời chưa có tọa độ. Rồi chúng tôi nghe tiếng nổ lớn đàng trước ụ bên cạnh. Tiếng hét Trung tá Cả: Tất cả ra sau ụ nhanh lên. Trời tờ mờ sáng, liếc nhìn đồng hồ gần ba giờ sáng 29 tháng tư. Những trái pháo kích đầu nghe từ phía trái lần lượt gần lại và cuối cùng trúng một phi cơ, sau đó tiếng nổ ầm ầm liên tục trong màn lửa ngợp một góc phi trường. Mười mấy năm thả bom đây là lần đầu nghe bom đạn nổ; chát chúa dây chuyền, phi cơ bốc cháy theo. Sơn khiều vai tôi: “Anh Tư thấy chưa, chúng nó điều chỉnh pháo kích từ Camp Davis”. Ngồi bịt tai chịu trận đàng sau bức tường dài cao hơn mười thước Anh. Tôi nôn nóng lom khom đến cuối bức tường ló mặt ra nhìn phía trước bãi đậu, một cảnh tượng hoang tàn đang hủy diệt trước mắt, hơn năm chục chiếc A37 đang bốc cháy khói lửa ngút ngàn. Tôi quay trở lại tựa lưng vào tường sắt lạnh, đầu óc chùn lại. Những cánh thép A37 là huyết mạch của ba phi đoàn khu trục Phan Rang. Giờ đây hơn trăm phi công chiến đấu bằng tay không ư? Thế là hết! Cuộc chiến bên ta đã lâm vào ngõ cụt. Hèn gì cả đêm hôm qua không có một phi tuần nào được điều động cả. Trung tá Khôi và Cả hỏi Đại tá Thảo: “Giờ tính sao sư phụ?”. Không đoàn trưởng trả lời: “Đợi sáng hết pháo kích di chuyển anh em về Bộ Tư Lệnh Không Đoàn 33 rồi tính!”. 5 giờ 40 sáng, vẫn còn những trái pháo kích rớt rãi rác khắp phi trường. Chúng tôi vẫn ngồi tựa lưng bức tường sau ụ, hướng về phía bắc. Có mấy chiếc vận tải và U17 cất cánh quẹo trái phía Gò Vấp để lấy hướng tây đi Bình Thủy hay Utapao? Phòng không xịt lên liên tục. Một chiếc AC119 trúng cao xạ gãy làm đôi trước mắt chúng tôi. Cảnh tượng thật bàng hoàng, anh em nhìn thấy lắc đầu bùi ngùi cho số phận những người có mặt trên tàu định mệnh đó. Sáu giờ mười lăm, mặt trời ló dạng. Đạn pháo thưa dần. Chiếc pick up và chiếc shuttle bus phòng dù xà tới bên hông phải ụ cuối. Tiếng Đại tá Thảo: “Mọi người lên xe”, nhanh như chớp tất cả chen lên đầy hai chiếc van. Trực chỉ Bộ chỉ huy Không đoàn 33. Đến nơi Đại tá Thảo xuống xe đi vội vào cửa, vài phút sau chạy ra; nhảy lên xe tiếp tục chạy về Bộ Tư Lệnh. Đến nơi các phòng vắng lặng không còn ai cả. Dọt trở lại sân cờ Không Đoàn 33 Đại tá Thảo tuyên bố tạm thời tan hàng, anh em rán tìm lấy phương tiện di tản.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1515467916-ChuyenBayCuoiCungPhiDoan A-37_03.jpg
Hình minh họa

Mọi người xuống xe nhưng chạy về đâu bây giờ? Tan hàng. Nghe thảm thiết quá. Một trong những đơn vị chiến đấu kiên cường nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, giờ đang bị bó tay, tước đoạt phương tiện duy nhất để chiến đấu. Lệnh ai sắp hàng ngang trên năm chục chiếc A37 cánh liền cánh, xăng nhớt, bom đạn trang bị đầy đủ để hủy diệt? Nếu không cho chúng tôi chiến đấu thì cũng để chúng tôi có phương tiện ra khỏi vòng đai đang bủa quanh phi trường chứ ?!!! Chúng tôi đâu có nản chí đầu hàng? Chúng tôi đâu có rã ngũ ? Cho đến sáng 29 tháng tư tất cả phi công khu trục Không Đoàn 92 đều có mặt, từ Không Đoàn Trưởng trở xuống, không thiếu một ai! Nếu có ý đồ đào ngũ chúng tôi đã theo lời mời của vị Đaị úy Trưởng phi cơ C130 của Không Quân Hoa Kỳ hôm 23 tháng tư ngày tiễn vợ con lên phi cơ di tản. Lúc bước ra khỏi ramp, anh ta nói: “Why don’t you stay with us?”. Tôi cười và trả lời: “Cám ơn đề nghị của anh. Tôi phải ở lại chiến đấu”. Anh ta lắc đầu và nói cho tôi vừa đủ nghe: “War is over!”. Tôi vẫy tay chào mọi người rồi lên xe chạy về phòng Hành quân gần đầu phi đạo 07R. Đang đứng tần ngần chưa biết đi đâu thì Lê Vàng xà tới chiếc lambretta giục tôi lên xe, vừa chạy Vàng vừa nói cứ chạy khắp parking thấy tàu nào nổ máy thì nhảy lên đi theo chứ ở đây chịu trận sao? Chạy ngược chạy xuôi thấy được chiếc C 47 trên đường vội vã tiến về đầu phi đạo 07, Vàng tống ga đuổi theo nhưng thấy phi cơ taxi càng nhanh không có vẻ ngừng lại bốc mình, vả lại nhìn qua các khung cửa nhỏ thấy lúc nhúc chật cả tàu. Vàng quay xe trở lại. Chạy qua bãi tha ma A37 của chúng tôi, quá thảm não, không muốn nhìn. Camp Davis bên tay mặt làm tôi sôi máu, giá nghe Sơn đêm qua không chừng tình thế có thể khá hơn hôm nay? Ít ra cũng hả giận và còn ít phi cơ để anh em get out! Trong quân ngũ nhiều khi tuân thủ kỷ luật quá cũng không chắc là đúng mà còn tai hại đến đồng đội. Giây phút suy tư qua lẹ khi Vàng lắc xe vào bên trong chưởi thề: “Nó muốn cất cánh ngược chiều trên taxi way”. Tôi đưa tay vẩy vẩy; chiếc L19 cắt ga quay trở lại, Vàng xà xe vào nhìn lên phi cơ thấy có hai người, phi công ngoắc tay gọi lên. Vàng lắc đầu nói với tôi: “Cậu lên đi”. Tôi rời yên xe nhảy lên lom khom chung ghế với người ngồi phía sau. Vàng tống ga dọt mất. Pilot lại cất cánh cũng trên taxi way nhưng lần này đúng hướng. Tôi khom người trên đầu hoa tiêu. Phi cơ lên gần cuối phi đạo bắt đầu quẹo trái phía bắc Gò Vấp. Tôi la lên: “Quẹo mặt, quẹo mặt, quẹo về phía Sài Gòn. Vì sáng nay tôi chứng kiến phòng không bắn lên từ hướng đó. ” May quá Thiếu tá!”, Hoa tiêu trả lời nhưng vẫn quẹo theo ý tôi. Tôi bảo lấy cao độ chui mây hướng 240 độ. Anh ta nói không biết bay phi cụ. “Anh bay tôi nhìn phi cụ”, tôi trả lời. Lên năm ngàn bộ ánh sáng chan hòa. Hoa tiêu bình phi. Trời thủ đô hôm nay mây mù phủ kín như báo hiệu một cơn bỉ cực bắt đâu giáng xuống cho miền Nam thân yêu.

Tôi hỏi anh định đi đâu. Anh nói: “Không biết nên đi đâu Thiếu tá”. Rồi anh ta tiếp, anh vừa ra trường bay Nha Trang về phi đoàn chưa được xác định hành quân, người chung ghế phía sau với Thiếu tá là em ruột của em 16 tuổi. Tôi quay qua nhìn hành khách trẻ xúng xích trong chiếc áo bay quá cỡ có lẽ của anh đưa cho mặc. Tôi nói có hai nơi chúng ta có thể đến là Bình Thủy, Sư đòan 4 KQ hay Côn Sơn nơi tập trung di tản bằng đường thủy. Thiếu tá quyết định đi đâu thì em đến đó. Tôi nghĩ đi Cần Thơ hơn vì ở đỏ còn ba phi đoàn A37, bên căn cứ Trà Nóc còn có mấy phi đoàn trực thăng. Tôi nói anh cứ giữ cấp 240 đi Cần Thơ. Mười lăm phút sau Tân An trước mặt, bầu trời quang đãng không một cụm mây; nguyên miền Nam trải dài dưới cánh bạc, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Cần Thơ, Sóc Trăng… miền đất trù phú, ruộng vườn xanh ngát, sông lạch hiền hoà không lẽ rồi đây một sớm một chiều thay tên đổi họ?

Năm mươi phút bay, sông Bassat hiện trước mặt tôi nói với hoa tiêu qua tầng số Bình Thủy xin chỉ thị đáp. Sau khi nhận đầy đủ chi tiết, chàng phi công vào chiều gió xuôi rồi quẹo phải 180 độ vào cận tiến chỉnh mũi phi cơ thẳng phi đạo, chiếc L19 từ từ xuống thấp cuối cùng lướt nhẹ trên đường bay. Chạy đến giữa, đài kiểm soát cho lệnh đổi qua tần số dưới đất, và được lệnh taxi theo chiếc pick-up xanh Follow Me về bãi đậu gần cổng vào phi trường. Chúng tôi lần lượt xuống phi cơ; thì một xe jeep Quân Cảnh chạy tới; người Trung sĩ này ngày trước đóng ở Nha Trang tôi và anh ta quen nhau; anh chào tôi rồi nói: “Thưa Thiếu tá, lệnh Ông Tướng tất cả phi cơ các nơi về, đậu tại đây; đổ xăng nhớt đầy đủ và chỉ được cất cánh khi có phi trình của Hành quân Chiến cuộc”. Rồi anh kể cho tôi nghe sáng nay mấy Ông Khu trục AD5 và AD6 làm náo động cả phi trường. Tôi hỏi anh ta có xe cho chúng tôi mượn đi ăn trưa, đói bụng quá. Anh bảo tôi vào trạm gác anh sẽ kiếm cho tôi phương tiện. Năm phút sau anh chạy đến một chiếc jeep và nói với tôi một tiếng rưởi phải trả lại xe. Tôi trả lời cám ơn nhiều lắm và hứa về đúng giờ. Tôi hỏi tinh hình Cần Thơ. Anh nói vẫn còn yên nhưng không nên đi xa quá. Sau khi ra dấu cho hai bạn đồng hành về từ TSN lên xe, tôi lái ra cổng chạy được một đoạn đường nhìn thấy có quán ăn hai bên, tôi ngừng lại nhìn quanh có vẻ tốt. Trong quán một vài bàn có mấy quân nhân trang phục Không quân ăn trưa trễ đang ngồi nói chuyện. Chúng tôi chọn một bàn góc trái . Sau khi gọi ba dĩa cơm tấm sườn đặc biệt có hai trứng ốp la và ba ly trà đá lớn. Tôi nói với chàng pilot L19, Cần Thơ có vẻ còn yên nhưng tình hình mỗi lúc mỗi thay đổi rất lẹ; tuy nhiên đến đây là tốt rồi. Ăn xong vào phi trường tôi sẽ bàn với anh chương trình kế tiếp chúng ta sẽ làm gì. Chúng tôi ngốn ngáo đĩa cơm nóng hổi, hai miếng sườn cốt lét nướng vàng và trứng gà thơm phức mùi bơ; nốc hết nửa ly trà đá, như chưa bao giờ được ăn ngon như vậy, có lẽ để quá đói và mấy hôm ở TSN đầu óc căng thẳng ăn uống bất thường, thêm vào đó cơm tấm sườn nướng Cần Thơ có tiếng ngon nhất nước.

Xong bữa ăn trưa chúng tôi trở lại căn cứ. Vào trạm Quân Cảnh trả xe, bắt tay cám ơn và đưa cho anh bạn Không đoàn 62 ngày trước cây thuốc Salem đầu lọc tôi hỏi mua lúc trả tiền ở quán nhậu. Anh ta cười và nói: “Thiếu tá khách sáo quá làm em tổn thọ sớm”. Tôi vỗ vai anh: “Hân hạnh cho ta có người bạn tốt như anh!”.
Ba chúng tôi bách bộ về Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn. Qua bãi đậu phi đoàn quan sát; tôi đứng lại hỏi người phi công L19: “Anh có bản đồ miền Nam không?”. Anh ta rút trong túi dưới bên mặt ra một tấm tỉ lệ 500000 và nói: “Tấm này được không Thiếu tá?”. Tôi trải ra trên nền xi măng và nói: “Nếu chúng ta còn gặp nhau thì không có gì trở ngại; nhưng lỡ không gặp nhau lại thì anh nhớ là cất cánh Bình Thủy lấy cấp 300 độ trực chỉ Utapao, trời tháng này tốt; anh cứ ôm theo bờ biển ba tiếng sau sẽ thấy phi đạo lớn, chính đó Utapao”. “Em không nói được tiếng Anh Thiếu tá”, viên Thiếu úy cắt ngang tôi. “Cần gì liên lạc với đài không lưu, anh quan sát cờ gió hoặc nhìn phi cơ đáp hoặc cất cánh là biết phi đạo đang xử dụng, xong bay vào trên ngàn bộ lắc cánh, đài sẽ biết vô tuyến hư họ sẽ chớp đèn xanh cho anh ưu tiên vào đáp”. Anh có thắc mắc gì nữa không?, tôi hỏi . Anh lắc đầu và xếp bản đồ bỏ lại túi. Tôi nói bây giờ chúng ta lên trình diện Tướng Tần. Anh ta xin phép ghé vào phi đoàn quan sát tìm gặp mấy người bạn cùng khóa về đây mấy tháng trước. Tôi bắt tay anh nói cám ơn, hy vọng chúng ta gặp lại.

Bước vào cửa lớn Bộ Tư Lệnh SĐ4KQ, gặp Nhân PĐ534, anh nói đu theo trực thăng về đây hồi 11 giờ, cũng có ý định vào trình diện ông Tướng. Hai chúng tôi đợi chánh văn phòng ba phút thì được Tướng Tần gọi vào gặp. Ông Tướng hỏi tình hình TSN và Bộ Tư Lệnh KQ xong Người nói: “Hai anh xuống gặp Đại Tá Ninh và đưa note này cho ông”. Tướng Tần trao tôi tấm giấy. Chúng tôi chào xong đi về Không Đoàn 74 CT, lúc gần đến nơi thì gặp Đại Tá Ninh lái xe vào chỗ đậu. Sau thủ tục chào kính tôi đưa note của Tướng Tần; Đại Tá Ninh hỏi: “Khoẻ không Cửu, lâu lắm mới gặp anh”. Tôi cám ơn và trả lời vẫn bình thường. Nhớ lại mười năm trước, 1965, lúc đó Đại úy Ninh Biệt đội trưởng Khu trục Phi Hổ ở Pleiku, được giao trọng trách cùng Đại úy Lạc về Không Đoàn 62 CT thành lập Phi Đoàn Thiên Lôi 524. Nguyễn Huy Bỗng, Trần Văn Nghĩa, Hoàng Dự và tôi xung phong rời Cọp Bay 516 về Nha Trang bổ sung quân số. Giờ đây mười năm sau, 29 tháng tư 1975, Đại Tá nói: “Tốt lắm, hai anh vào giúp tôi PĐ A37”; Đại Tá kéo chúng tôi vào giới thiệu với anh em trẻ 520. Xong ông rời phòng Hành quân. Các hoa tiêu vây quanh tôi và hỏi tình hình Sài Gòn. Tôi thuật lại cho họ nghe những biến chuyển xảy ra mấy ngày qua. Anh em nói cho tôi nghe tâm trạng, bàng hoàng, lo lắng sau mấy hôm khác lạ xảy ra trong các Phi đoàn, nhất là biến động sáng nay trên bầu trời căn cứ. Lệnh Tướng Tần truyền xuống để trấn an quân sĩ. Phi trường Bình Thủy đã xao động càng nghẹt thở thêm. Xe Quân Cảnh tuần tiểu liên miên chạy lòng vòng các bãi đậu phi cơ. Tôi nhìn lên bảng phi lệnh và hỏi suốt ngày chưa có phi tuần nào cất cánh hả? Anh em lắc đầu. Vẻ mặt mọi người chán nản. Không khí có vẻ trầm lặng mang theo sự ngột ngạc nôn nóng. Họ nhìn nhau như muốn nói ra một điều gì trong tâm trí nhưng ai cũng ngại ngùng phát biểu. Tôi ngồi xuống ghế và ra dấu cho anh em cũng tìm chỗ an tọa. Rồi bắt đầu lên tiếng: “Nói cho anh em rõ, Bộ Tư Lệnh KQ đã bỏ ngõ. Trung tâm Hành Quân KQ cũng không còn hoạt động. Tôi nghĩ giờ này Sài Gòn đã bị CS tiến chiếm rồi. Bắt đầu bây giờ nếu có phi vụ điều động thì anh em phụ trách phi tuần nào cứ cất cánh lên target đánh xong đi thẳng Utapao không quay trở về nữa. Chắc các anh đã biết, từ Binh Thủy đi Utapao hướng 300 rồi chứ gì? Khoảng 45 phút là đến. Anh em nên lấy bản đồ ra kiểm soát lại và ghi các chi tiết, tầng số tower… Các bạn trẻ giờ đây rộn ràng hơn và đi lấy túi check list với bản đồ ra kiểm lại lần cuối. Nhìn họ, nhìn dấu bút ghi chép khoanh tròn lớn căn cứ Hoa Kỳ bên Thái Lan tôi biết họ cũng đã sữa soạn kỹ lưỡng đầy đủ từ trước rồi.

Nãy giờ tôi mãi nói chuyện với các bạn Thần Báo thì Nhân 534 bốc điện thoại gọi tìm mấy người quen ở Cần Thơ. Lát sau Nhân đến bảo tôi mượn xe chở anh ta ra phố cho anh gặp người quen. Tôi nói giờ phút này mà bạn còn luyến tiếc gì nữa. “Anh nói dưới này còn yên ổn lắm, tôi đi nửa tiếng sẽ trở về liền”. Tôi trả lời: “Đại Tá Ninh căn dặn coi giùm anh em A37, mình đâu bỏ Phi Đoàn đi được?”. Anh đáp ngay: “Tôi đánh cá với bạn đi tới tối về vẫn không có gì xảy ra đâu, Bộ Tư Lệnh, Bộ Tổng Tham Mưu, Trung Tâm HQKQ đã im tiếng còn ai để xin phi vụ yểm trợ ? Vả lại mình đi một chốc thì về chứ có dọt đâu mà lo không hoàn tất trách nhiệm?”. Tôi nhìn vẻ mặt ra chiều năn nỉ của anh rồi cũng xiêu lòng. Tôi nói với Sĩ Quan trực mượn chìa khóa xe pick-up đưa Thiếu tá Nhân đi sẽ về ngay. Kéo hộc lấy chìa khóa, viên Thiếu úy trẻ giao cho tôi và nói: Xe đậu bên mặt cửa ra vào.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1515467931-ChuyenBayCuoiCungPhiDoan A-37_04.jpg
Hình minh họa

Lên xe chạy một khoảng đến Phi Trường Trà Nóc, Nhân bảo quẹo vào để anh nhờ mấy bạn Trực thăng đưa ra phố. Tôi định ngừng xe trước phi đoàn cho Nhân xuống xong sẽ dọt về ngay thì anh bạn của Nhân chạy Honda tắp vào và nói: “Mày mới xuống hả, tao vừa gặp Đại tá Thảo, Đại tá Ân, Trung tá Cả bên văn phòng Đại tá Bá”. Nhân giục tôi: “Mình phải qua trình diện mấy ông chứ?”. Tôi nhìn Nhân vừa nói vừa tống ga chạy về Bộ Chỉ Huy Căn cứ: “Trình diện gì nữa, hồi sáng Đại tá Thảo đã tuyên bố tan hàng, tự tìm phương tiện di tản rồi mà?”. Gặp được cấp chỉ huy thoát khỏi gọng kềm CS đang siết dần TSN, tôi cũng lấy làm mừng; sẵn dịp cũng nên chào Đại tá Bá xếp cũ mấy năm trước ở Phan Rang. Một chốc bảo Nhân: “Tôi phải về Phi đoàn 520, hơn 45 phút rồI”. Nhân gật đầu nói: “Gặp lại sau”.

Bảy giờ tối, một Thiếu úy thấy tôi ngồi xem truyền hình đến hỏi: “Ăn gì chưa Thiếu tá?”. Tôi lắc đầu, anh đề nghị chở tôi ra quán nhậu trước cổng. Tôi nói : Anh đi ăn tối đi, nếu tiện nhờ anh mua giùm ổ bánh mì gà. Tôi rút ra tờ năm trăm đưa nhưng anh không nhận.

Suốt đêm 29 rạng sáng 30 mọi người không ngủ, thao thức đợi phi vụ. Thỉnh thoảng nghe đại bác nổ và nhiều loạt súng nhỏ nhưng tuyệt nhiên phi trường Bình Thủy vẫn hoạt động bình thường, các ụ parking đèn sáng trưng, các chuyên viên kỹ thuật vẫn cắm cúi sửa tàu, tiếng động cơ A37 thỉnh thoảng nổ đều theo nhịp test của trưởng phi cơ. Tôi đứng nhìn phi đạo trong đêm, nghĩ đến các đầu não chiến đấu đã tự tan hàng, chỉ còn lại vùng bốn lẻ loi chiến đấu được bao lâu? Đạn dược, xăng nhớt, cơ giới… còn lại đủ chống cự không?

Mười giờ sáng đài truyền hình phát sóng các Tướng, Bộ trưởng của chính phủ Big Minh kêu gọi toàn quân bỏ súng rời đơn vị trở về nhà. Hiệu triệu của Tổng Thống “ba ngày” chỉ thị các Binh đoàn, công sở bàn giao tất cả cho “Quân Giải Phóng miền Nam”.

Thế là Căn cứ Bình Thủy cũng tự động tan hàng. Chưa qua mười phút, cảnh rã ngũ xảy ra nhanh đến nổi tôi nhìn ra bãi đậu phi cơ vắng lặng, không còn quân cảnh, không còn chuyên viên kỹ thuật. Tôi rất thán phục anh em A37 Cần Thơ, có nôn nóng nhưng rất trật tự có thể nói là lịch sự. Tôi lên tiếng vì nhu cầu tất cả Hoa Tiêu A37 phải rời Việt Nam, anh em bắt cặp lấy, mỗi phi cơ phải đi được ba người, không dù nón, không hành lý, ngoại trừ Phi Công bay ngồi ghế trái phải đội helmet để liên lạc và tất cả phi cơ bay cao độ maximum 12 ngàn bộ không cần dưỡng khí. Tôi là người đầu tiên quăng cái cặp samsonite đựng nhiều kỷ vật qua hàng rào kẽm gai. Thế là anh em lần lượt tự động nhảy lên phi cơ. Một Thiếu úy chạy đến hỏi tôi: “Còn vợ em làm sao Thiếu tá?”. Tôi quay qua đẩy anh ta và vợ lên chiếc tàu gần ụ bên đã có phi công ngồi ghế trái.Thấy mọi người đã an vị, không còn ai trên parking, tôi nói với Thiếu tá Danh, chúng ta cũng lên tàu chứ? Khi ngồi trên ghế mới thấy đa số phi cơ bình điện yếu không mở máy được. Tôi bảo Danh nhảy xuống giúp tôi đẩy chiếc APU (Auxiliaire Power Unit) qua cắm vào phi cơ gần nhứt; nhưng loay hoay hoài cũng không làm sao nổ máy “boost” bình điện được.

Nắng miền nam bắt đầu nóng, tôi tự giận mình bay mấy ngàn giờ mà không biết start APU, tệ thật! Kịp lúc đó Thiếu tá Kim, người bạn cùng khóa 63A, Liên Đoàn Trưởng Kỹ Thuật chạy lambretta đến gọi tôi: “Cửu cho “moi” đi với!”. Tôi mừng quá và chụp tay anh: “Chắc chắn anh phải đi, start APU dùm coi”. Kim đưa hai ngón tay bấm, tiếng nổ dòn APU vang lên, tôi giục Kim và Danh đẩy máy “boost” đến tất cả phi cơ bình yếu cho phi công mở máy. Gần chiếc cuối tôi thấy chỉ có hai người ngồi, Tôi nói Kim lên ngồi ké. Rồi tôi nói với Danh còn chiếc nữa ta có thể lên tàu.

Lúc trở lại phi cơ, tôi ra dấu cho Danh mang dù nón oxygen đầy đủ vì không có ai nữa để cho đi. Vả lại chúng tôi phải lên 25 ngàn bộ để liên lạc trước với Utapao tower. Vừa taxi ra khỏi ụ thì thấy Mậu và một người bạn chạy vespa gọi: “Cửu, cho “moi” đi với!”. Tôi nhìn thấy còn chiếc A37 đậu ụ cạnh. Tôi chỉ cho Mậu và người bạn lên bay chiếc đó. Bấm interphone nói với Danh hy vọng họ không cần APU. Dù sao chúng tôi cũng phải đợi cho họ mở máy taxi ra mới lăn bánh theo.

Khi phi cơ line up đầu phi đạo, nhìn lại căn cứ lần cuối vắng vẻ không thấy một bóng người. Tôi mang tâm trạng bùi ngùi, luyến tiếc phải bỏ ra đi nơi một thời sinh động náo nhìệt. Bao kỷ niệm hiện về, những sáng tinh sương phi tuần nối đuôi nhau rầm rộ bay vào không gian đi chu toàn nhiệm vụ Bảo Quốc Trấn Không, những buổi chiều sầu thảm khi hay tin một cánh chim đã lìa đàn đền nợ nước. Những đêm thức trắng vần vũ trên trời tây cover cho các bạn trực thăng vào kéo đồng đội lên trong thửa ruộng xanh phía bắc phố thị Tân An.

Danh kéo tôi về thực tại: “Cất cánh được chưa Cửu?”. Tôi gật đầu ra dấu tống ga 100%. Danh đưa phi cơ lên thẳng đứng. Cao độ kế quay vùn vụt, mấy phút sau phi cơ bình phi 25 ngàn bộ, hướng 300. Tôi lắc cần lái đồng thời qua interphone nói với Danh, tới phiên tôi bay. Danh buông tay để tôi điều khiển phi cơ. Trên tầng số guard tôi nghe được nhiều phi cơ trực thăng “may day” với các chiến hạm Hải quân Mỹ xin xác định tọa độ, hướng bay để vào đáp. Vô tuyến ồn ào như họp chợ. Tôi đưa tay vặn qua tầng số tour Utapao, thì đã nghe anh em bắt đầu liên lạc nhưng không nghe được vì họ phải bay thấp và còn quá xa. Tôi xen vào : “Xin các A37 yên lặng!”. Tôi bắt đầu gọi đài Utapao báo cáo trong vòng 25 phút nữa, khoảng bốn chục phi cơ A37 xin chỉ thị vào đáp. Utapao Tower: “Welcome Sir, runway 18 headwind 10 miles, vibility 25 miles, altimeter setting 29.92 reporting each flight when ready for landing. Thunder 524 Roger”. Tôi báo lại chi tiết cho anh em, mọi người bấm nút gọi cho biết nhận rõ.

Đến Hà Tiên đánh mấy vòng ngắm phố thị, ruộng vườn. Tôi nói với Danh nhìn quê hương lần cuối đi trước khi qua không phận Cao Miên, chắc phải lâu lắm mới có dịp được thấy lại. Danh mỉm cười: “Anh đang di tản hay bay du hành cross country đây?”. Rời không phận Việt Nam, tôi nói Danh cầm cần lái tiếp tục trực chỉ Utapao.

Đến căn cứ Thái Lan sát bờ biển Danh xin chỉ thị đài vào đáp. Danh lướt nhẹ trên phi đạo 18 và để phi cơ chạy đến cuối đường bay thì tower cho tầng số ground, quẹo mặt đã thấy chiếc pick-up Follow-Me đợi sẵn, taxi theo họ đến bãi đậu tạm khoảng trăm feet từ runway thì hai airmen nhảy xuống xe, một ra dấu full stop, tắt máy, một quăng hai khúc gỗ chặn bánh phải. Xong anh ta đến chào tôi rồi đưa giấy bút yêu cầu điền vào tên họ phi hành đoàn, số đuôi phi cơ từ đâu đến cùng lúc đó người lính KQ Hoa Kỳ cầm hộp sơn xì xóa mất lá cờ sau đuôi. Sau đó họ mời chúng tôi xuống tàu lên xe pick-up để họ đưa vào bàn đón tiếp, họ cũng không quên nhắc nhở chúng tôi vì điều luật an ninh căn cứ vũ khí và nón bay được để lại sau thùng xe để chuyển vào kho.

Đến bàn ghi tên họ lần nữa rồi được phát một cái khăn tắm, hộp xà phòng, kem bàn chải đánh răng. Bàn bên cạnh có các thức uống, bánh ngọt. Mấy anh em đến trước đang nhâm nhi cà phê trò chuyện, mỗi người mang một tâm trạng, trên nét mặt đăm chiêu nhưng có phần thư thả hơn hồi sáng; hết còn cảnh bồn chồn ngồi đứng không yên. Thời tiết Thái Lan nóng bức như Cần Thơ mặc dù ở đây sát bờ biển. Thấy vòi nước trên bãi cỏ cạnh văn phòng tôi tiến tới mở ra đưa hai tay hứng nước vụp vào mặt.

Nhóm hoa tiêu Bình Thủy thấy tôi vẫy tay chào, vài bạn đưa ngón trỏ lên có ý nói chúng ta hoàn tất di tản tốt. Một thiếu úy từ Đà Nẵng về Cần Thơ kéo tôi ra một góc dúi vào tay hai tờ trăm đô la, tôi ngạc nhiên nhìn rồi đút trở lại túi anh ta; anh phân trần: “Em ở Mỹ mới về một tháng, còn một ngàn rưởi, Thiếu tá giữ mà xài!”. Tôi nói cám ơn anh, nhưng bây giờ có nhu cầu gì mà cần đến tiền bạc. Đêm hôm qua anh có nói chuyện, vừa đổi về SĐ 1 KQ chưa được check out hành quân thì phải chạy. Tôi nói với anh yên chí, Bình Thủy tương đối yên, phi cơ còn đầy đủ, tất cả chúng ta sẽ rời Việt Nam an toàn.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1515467942-ChuyenBayCuoiCungPhiDoan A-37_05.jpg
Hình minh họa

Quá mệt mỏi tôi ngồi bệt xuống sàn xi măng bãi đậu, lấy chiếc khăn tắm vừa lãnh cuộn tròn làm gối, ngã người đánh một giấc cho đến khi nghe tiếng phi cơ, tôi choàng tỉnh nhìn lên bầu trời thấy chiếc L19 lắc cánh. Tôi nghiêng mặ,t chống tay đứng thẳng dậy hướng về đài kiểm soát, “green light” chớp chớp, tôi tự cười thầm thỏa mãn: “Hai anh em nhà họ rồi chứ ai vào đây nữa!”. Chiếc phi cơ quan sát tà tà một phần ba runway mới chạm bánh, đến cuối phi đạo quẹo mặt, taxi theo “Follow-Me” cho đến bãi đậu chung với các tàu vận tải cách chỗ đứng chúng tôi ba trăm thước. Phi cơ tắt máy, tôi nhìn hắn ta bước ra rồi đến người em và thêm một vị mặc áo chùng đen, có lẽ là một linh mục? Lúc họ xuống xe pick-up, đi về bàn làm giấy tờ theo chỉ dẫn ra dấu của người lính Hoa Kỳ, tôi tiến lại vỗ vai, hắn ta quay lại thấy tôi mừng quá: “Đúng như Thiếu tá nói, ba tiếng bay thì nhìn thấy phi trường Utapao, em vào lắc cánh đèn xanh bật cho vào đáp ngay. Tôi định hỏi vị linh mục đó anh gặp ở đâu nhưng thấy anh ta loay hoay làm giấy tờ tôi bước về chỗ cũ. Mấy anh em Cần Thơ giục tôi vào ghi tên cho kịp chuyến bay tới đi Guam.

30 tháng tư 2005, ba mươi năm sau. Nhân ngày họp mặt Khu Trục, tôi ngồi viết lại “đoạn đường” đã qua này để cám ơn trên đã cho tôi gặp nhiều bạn tốt, tôi mới hoàn thành được chuyến đi mang nhiều ý nghĩa của đời mình. Tuổi quá lục tuần, trí nhớ bắt đầu sức mẻ đến nổi tên họ những người bạn đã gặp cũng đi Utapao). Trong khi gần trăm hai mươi Phi Công Khu Trục Phan Rang tại TSN từ 20 đến sáng 29 tháng tư không một phi công khu trục bay khỏi phi trường bằng A37 đi Thái Lan cả, vì tất cả A37 như phần trên đã viết, “Lệnh ai kéo phi cơ ra khỏi ụ để cho VC pháo kích rạng sáng 29 tháng tư?”. Nực cười nhất là một số quân nhân phía ta sau này viết lại tháng tư đen cũng vấp những lỗi lầm y như vậy, có lẽ họ có đọc “The fall of Saigon” rồi “copy” lại chăng? không còn nhớ.

Trong ý nguyện viết lại khúc chuyện xưa này cũng mong ước được hội ngộ với anh em ngày trước. Những Anh em đã từng cùng nhau vì lý tưởng tự do, vẩy vùng trên Không Gian đất Việt. Thời trai trẻ mang sứ mạng được Tổ Quốc quê hương giao phó, chúng tôi đã hãnh diện chiến đấu đến cùng, luận thành bại ngoài tầm tay quân đội. Cũng bài viết này xin nhắc lại cho ký giả “salon” David Butler, mấy tuần cuối tháng tư 75, quanh quẩn trong các bar, hộp đêm Mỹ gom góp tin tức chiến sự từ các cọng sự viên tòa đại sứ, DAO,… kể lại để dựng đứng những tin thất thiệt trong cuốn “The fall of Saigon”: Trang 380, David viết, “April 29, 04:00 tại TSN tất cả các Phi Đoàn A37 đã cất cánh di tản.

Written by Thiên Lôi 524
nguồn: https://buonvuidoilinh.wordpress.com/2017/12/17/chuyen-bay-cuoi-cung-phi-doan-a-37/

BachMa
01-24-2018, 02:15 AM
Hủ Tiếu Mỹ Tho

Mỗi lần về miền Tây ngang qua đất Tiền Giang, thành một thói quen để “dành bụng” tới Mỹ Tho ăn hủ tíu. Nhưng chỉ dừng ở ngã ba Trung Lương để ăn thì… chỉ là Hủ tiếu “giống Mỹ Tho”.

Phở Bắc, bún bò Huế, hủ tíu Mỹ Tho là ba món đặc sản nổi danh vang tiếng từ xưa đến nay trong vô vàn món ẩm thực ba miền.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1516759793-HuTieuMyTho_01.jpg

Vào bất cứ tiệm bán hủ tíu nào ở Mỹ Tho cũng sẽ nhìn thấy trên bàn ăn những thứ lỉnh kỉnh như: lọ nước mắm, tương xì dầu, tương ớt, tương đen, chanh, giá sống, ớt hiểm, tỏi, ớt sừng trâu xắt xéo màu xanh, vàng, đỏ. Rổ rau thường có ngò gai, quế là những thứ không bao giờ thiếu.

Những tiệm hủ tíu ngon nổi tiếng thường có trước giải phóng của người Hoa, nhà cửa, bàn ghế cũ kỷ, ám màu mỡ dầu với khói nhìn xỉn xỉn, xưa xưa. Trái lại, những tiệm mới mở sau này của người Việt thường sang trọng, nền gạch láng, bàn ghế inox sáng nhoáng nhoàng. Sang, mà chưa chắc đã ngon.

Đặc điểm của hủ tíu Mỹ Tho là cọng nhỏ, khô, dai dai, hương vị hơi chua, mang nét đặc trưng không lẫn với hủ tíu ở nơi nào khác. Những tiệm hủ tíu ngon “số dzách” ở Mỹ Tho có thể đếm trên đầu ngón tay. Một tiệm hủ tíu Mỹ Tho ăn ngon, bao giờ cũng kèm theo bánh mì, hoành thánh, hai món chiến lược rất khoái khẩu của người Hoa.

Ngày xưa, sau lưng Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu, TP Mỹ Tho bây giờ, có tiệm hủ tíu danh tiếng Hưng Ký. Mỗi buổi sáng, khách sang trọng ngồi tràn ra đường để ăn. Có người phải đứng đợi canh chỗ khách vừa đứng dậy là ngồi chiếm ngay. Chậm chân là nhịn ăn. Chiếc xe đẩy nấu nước lèo, đặt ngang phía trái cửa ra vào, mỗi lần châm nước, khói phả lên thơm lừng ngây ngất những thực khách đang đói bụng. Nước lèo nấu thơm ngát rất đặc biệt, ngon nhờ những bí quyết gia truyền.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1516759808-HuTieuMyTho_02.jpg

Một tô hủ tíu hay mì, chỉ được múc chừng 1/3 vá to thịt nạc bằm ướp rất ngon vào một cái tô cạn đáy. Sau đó, múc gần một vá nước kèo thật nóng đã nấu bằng xương heo, khô mực, tôm khô đổ vào tô rồi dùng vá đập nhè nhẹ để thịt bằm rời ra và vừa mới chín tới ăn mới ngọt. Liền sau đó, đổ ngay vào tô hủ tíu đã làm sẵn phủ đầy lên mặt nào: phèo heo, tôm khô chấy, tép mỡ, gan heo, thịt xá xíu xắt mỏng, ngò tây, hành lá, cải thảo. Tuy bán có đắt hơn các nơi khác một ít, nhưng vẫn được nhiều thực khách ưa chuộng.

Nhằm lúc trời oi bức, hủ tíu nóng, dai cùng với ớt cay xè, mấy thứ gia vị cay nồng khác quyện vào nhau, dưới ăn, trên đổ mồ hôi hột vậy mà khách vẫn xì xụp ăn cho hết mới chịu lau trán.

Hủ tíu Nam Vang với hủ tíu Mỹ Tho ngày xưa có khác nhau về bún và gia vị, nhưng ngày nay về cơ bản như nhau. Nếu khác chăng là ở người đứng nấu. Dạo trước, ở Quốc lộ 1A, gần ngã tư Cai Lậy, có một tiệm hủ tíu Nam Vang nổi tiếng nhờ ổng chủ biểu diễn tài nghệ nấu của mình.

Khi vớt hủ tíu được trụng từ nồi nước sôi lớn ra bằng cái vợt lưới to, ông liền đập nhè nhẹ cán vợt mấy cái vào mép nồi cho hủ tíu trụng ráo nước, sau đó ông ta cầm vợt để ra ngoài nhún nhún vào cái lấy trớn, rồi bất thần hất mạnh vợt cho hủ tíu bay cao trên không, hơi nghiêng mình, ông nhanh nhẹn lòn tréo tay phải đang cầm chiếc vợt ôm sát phía sua lưng, đưa sang bên trái để kịp hứng lấy vắt hủ tíu từ trên đang rơi xuống một cách tài tình, rồi đổ ngay vào cái tô ông cầm bên tay trái. Mỗi lần ông biểu diễn như thế đều được tiếng vỗ tay nồng nhiệt của nhiều người hiếu kỳ xem.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1516759842-HuTieuMyTho_03.jpg

Cũng nhờ nghệ thuật hấp dẫn mà quán hủ tíu rất đơn sơ này bán rất đắt. Còn hủ tíu ở Chợ Lớn bản to và mềm, thậm chí hơi nhão, khác với cọng hủ tíu khô, dai như hủ tíu Mỹ Tho hay hủ tíu Nam Vang say này. Tô hủ tíu bao giờ cũng lềnh mỡ, lăn tăn những thịt nạc băm và luôn có một hai lá xà lách to nằm chễm chệ, ít cọng hẹ, bên cạnh là những lát thịt xá xíu và han heo xắt mỏng phủ kín mặt tô, chen chúc là những miếng tép mỡ cỡ bằng hạt đậu phộng vàng rực.

Điều làm nên hương vị riêng khiến cho hủ tíu Mỹ Tho trở nên nổi tiếng kể từ thập niên sáu mươi chính nhờ việc chọn hột gạo làm ra cọng bánh và nối nước lèo pha chế của các đầu bếp trứ danh đất Mỹ Tho như: Nam Sơn, Tuyền Kỳ, Hưng Ký, Phánh Ký, Phát Ký, Gia Ký, Oai Ký… Hủ tíu ngon nhất phải làm bằng gạo Gò Cát (giống lúa đặc sản) ở xã Mỹ Phong, ngoại thành Mỹ Tho.

Cũng cần nói thêm, gạo Gò Cát chuyên sản xuất ra bún, bánh tráng, bánh nghệ nức tiếng ở Mỹ Tho hơn 50 năm nay. Còn hủ tíu ngon, theo bà Lê Thị Thái, chủ lò sản xuất bún-hủ tíu cho biết, nhất thiết phải là bánh khô, khi nấu trụng sơ nước sôi, tươm mỡ hành phi, cọng trong bóng, bắt mắt. Chất lượng ngon dở là bí kíp gia truyền thuộc về người nấu nước lèo. Ai cũng dư biết thịt tủy xương ống hầm rục, thêm mực khô, tôm chấy mỡ mà thành, nhưng phải có vài thứ gia vị “bí truyền” mới thơm ngây ngất, ngọt lịm đặc trưng.

Để cảm nhận điều này, khách đến khu vực cầu Quay, đường Trưng Trắc – TP Mỹ Tho, dãy hàng quán bình dân mà nườm nượp khách ta lẫn tây vào ăn. Đó mới là Hủ tíu Mỹ Tho chánh gốc, trên tô hủ tíu bao giờ cũng có hai lá cải chẻ đôi, có tôm, lòng heo, hoặc trứng cút, sườn non.. hành phi, mỡ chấy thơm lừng, cọng hủ tíu dai dai…

Hủ tíu Mỹ Tho là món ăn đặc sản đậm đà chất Nam Bộ, luôn gợi về quê hương, kỷ niệm với những ai đã từng tri âm, tri kỷ với đất Mỹ Tho và người dân phương Nam.

nguồn: http://tachcaphe.com/hu-tiu-my-tho-100-nam-danh-tieng/

BachMa
01-27-2018, 04:13 AM
Nhan Sắc Cư Tang
Như Thương

Đây là chuyện đánh trại Gia Binh rất nổi tiếng tại Ban Mê Thuột, nhân vật và mọi chuyện đều là sự thật của năm xưa, cô Yến – mà đúng ra phải gọi là bà Tiên – hiện vẫn còn sống ở Sài Gòn và vẫn mái tóc che dấu tích xưa của bạo tàn !
Mộ của chú Tiên trong Nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa đã được gia đình cải táng lâu lắm rồi…
Đọc lại… Xin thắp nén hương lòng cháu kính viếng chú Tiên, chú ơi ….


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1514440134-NhanSacCuTang.png
Hình minh họa

Bệnh viện bỗng dưng xôn xao vì phòng 120 đông nghẹt lính và những người thăm nuôi khi một người phụ nữ mang thai 8 tháng được chuyển đến. Bác sĩ và y tá chạy ngược, chạy xuôi khi biết người mẹ chuẩn bị lâm bồn. Có điều gì lạ với một sản phụ thế nhỉ ?

Người đàn bà mang thai tên Nguyễn thị Yến, còn rất trẻ, nhập viện với một vòng băng trắng ngang trán. Mảng băng trắng đã hất ngược phần tóc phía trước ra sau làm khuôn mặt cô Yến trông hơi luộm thuộm, vết thương thấm máu ra ngoài bông băng một chút nay đã thẫm màu máu lại. Điều đặc biệt là cô luôn miệng nói với tất cả bác sĩ, y tá và những người bên cạnh cô:

– Cho em đi thăm anh Tiên một chút hay cho em nhìn thấy ảnh một chút cũng được, rồi em sanh con nhanh thôi mà…

– Em biết anh ấy còn sống…

– Em đỡ cái đầu anh ấy dẫu biết anh ấy bị thương, nhưng vẫn còn sống…

– Em xin các anh chị nói cho em biết anh ấy nằm ở phòng nào đi, em đi bộ sang cũng được nữa…

– Em lạy bác sĩ cho em đi thăm chồng em…

– Bác sĩ à, chồng em còn sống mà, anh ấy chỉ bị thương ở đầu thôi. Tin em đi.

Những câu nói có đầu đuôi lại dường như thảng thốt, mất bình tĩnh trong giọng nói . Cô không khóc, nhưng không còn biết mình còn một bé gái 3 tuổi đứng khóc thút thít bên bà ngoại ở góc phòng mà cô lại luôn miệng hỏi về người chồng.

Mọi người đều cầu nguyện cho người sản phụ khác thường ấy được mẹ tròn con vuông. Cơn vật vã, mồ hôi, hơi thở rướn cong, tiếng ồn ào trộn lẫn nhau gồm cả tiếng kêu xé lòng của người mẹ và gọi xót xa của người vợ…

– Anh Tiên ơi…

Máu, mồ hôi và nước mắt nhòe nhoẹt đâu đó trên những khuôn mặt người, trên bàn sanh, trong phòng bệnh . Những bàn tay vỗ về người sản phụ và nựng nịu đứa bé gái mới vừa chào đời đã làm mọi người trong phòng khóc ròng. Mẹ tròn con vuông – cảm tạ Ơn Trên vô vàn.

Sau ngày ấy, lính vào càng lúc càng đông – cả cấp chỉ huy mang lon Thiếu tá – và anh em binh sĩ. Ai cũng nói một câu giống nhau duy nhất, kể cả các bác sĩ :

– Trung úy Tiên còn sống, anh ấy nằm bên phòng Hồi sức, chị mới sanh còn yếu lắm, mai mốt y tá đem anh ấy sang thăm chị, chị đừng lo!

Rồi sau đó họ lặng lẽ đi về, hết tốp này đến tốp khác – nhưng sao khuôn mặt họ nặng trĩu buồn và vị chỉ huy đã rưng rưng nước mắt… Những phong thư tiền được trao cho bà ngoại của cháu bé 3 tuổi, cụ khóc ròng mỗi lần nhận phong thư. Đứa bé gái ngơ ngác và hốc hác trông thật tội nghiệp, quanh quẩn bên mẹ nhìn em mình một cách tò mò, ngây thơ. Trong túi em đầy kẹo của các cô y tá cho, em thích lắm, nhưng sao mẹ lạ quá… mẹ không nói gì với bé cả, chỉ có bà ngoại là ôm bé hoài thôi và các bà đi vào thăm mẹ nữa…

Một tuần lễ trôi qua, người sản phụ bây giờ nằng nặc đòi đi thăm chồng – nghe đâu đó một câu nói đau lòng trong dãy hành lang:

– Chắc cô ấy sẽ điên thôi… chịu sao nổi!

Và người sản phụ quên cả cho con bú … đứa bé khóc ngất, bà ngoại lại đến kế bên dỗ dành con gái cho bé bú. Người sản phụ ăn rất ít, gần như không chịu ăn và ngủ rất ít. Ngày cũng như đêm và vừa chợp mắt được một chốc lại giật mình trăn trở, rồi lại hỏi mẹ ruột về chồng mình.

Hành lang bệnh viện dần dần biết toàn bộ câu chuyện thương tâm não lòng của người quả phụ – cho tôi bắt đầu viết hai chữ Quả Phụ Tử Sĩ từ đây.

Đêm hôm ấy, Việt cộng đánh trại Gia Binh – trại sĩ quan lẫn trại của binh sĩ – Địch công đồn bằng chiến thuật biển người từ đồn điền café sau trại Gia Binh . Tiếng lựu đạn nổ vang trời trong đêm khuya, tiếng hô xung phong, tiếng đạn trên đồn bắn trả, tiếng chân người chạy rầm rập quanh vách nhà, tiếng đập cửa, tiếng lên đạn trên nòng súng, tiếng gọi kêu cứu, tiếng thét, tiếng gọi chữa cháy nhà… tất cả đã tạo thành một mớ âm vang cực kỳ hỗn độn khuấy động màn đêm yên tĩnh.

Tàn một đêm, sáng hôm sau… chiến trường tang thương phơi bầy những gì đã xảy ra hãi hùng đêm qua. Nhà cháy, người chết cháy, nhà sập, những cánh cửa mở toang vì những bàn chân tàn bạo đạp tung, người chết và người bị thương nằm ngồi ngẩn ngơ thất hồn bên cạnh người sống hốt hoảng !

Một người đàn bà chết cháy mùi khét lẹt bị kẹt dưới thanh gỗ kèo nhà chắn ngang cái bụng mang thai ! Người chồng – là một sĩ quan đêm qua trực đồn – ngồi im lặng bên xác vợ, chẳng buồn kéo thây vợ ra khỏi cái đà ngang ấy, những đứa trẻ đứng lớ ngớ bên cạnh gọi mẹ, gọi ba…

Một người đàn bà bụng mang dạ chửa khác nữa với vết thương viên đạn xuyên ngang trán ngồi vuốt khuôn mặt bê bết máu của chồng và luôn gọi: Anh Tiên ơi … Đứa bé gái trong góc nhà khóc ngất trong hoảng hốt và bà cụ già ngồi ôm cháu kêu Trời…

Tất cả mọi người dường như không còn nhìn thấy ai và nhìn thấy gì nữa – khuôn mặt những nạn nhân là nét vô hồn, sợ hãi còn đọng lại đêm qua. Những căn nhà bỗng mở toang hoang và đổ nát mọi ngõ ngách, đồ đạc vương vãi khắp nơi.

Lòng người chết lặng ! Và Trời Đất âm u chuyển mưa…

Giọt mưa đổ xuống phủ hết cây cối quanh khu trại Gia Binh, những lô cốt gần đấy và xóa trôi đi những vệt máu trên hiên nhà của người đàn bà ngồi ôm đầu chồng – Trung úy Huỳnh Huỳnh Tiên đêm qua xuống ca trực, nên đã ở nhà với vợ con…

Bẵng đi 30 năm sau, tôi có dịp gặp lại người quả phụ năm xưa chưa tròn 25 tuổi – bây giờ đã làm bà ngoại – vẫn mái tóc cắt ngang trên chân mày – vẫn gầy gầy, ngồi đàn tranh cho tôi nghe và giọng Bắc chùng xuống kể lại chuyện xưa…

VC đã đạp cửa nhà cô vào đêm đánh trại, chúng dùng báng súng con ạ . Rồi chúng gọi chú ra ngoài, cô sợ quá chạy theo van xin chúng đừng giết chú, chúng bắn dọa cô một viên đạn xuyên qua trán cô đây rồi lôi chú ra trước phòng khách… Chúng bắn trúng ngay đầu chú trước mắt cô… Khi chúng đi rồi, cô ngồi ôm đầu chú và kêu cứu, nhưng cảnh tượng ngoài sân thật khủng khiếp… nhà thím Bi đối diện bị cháy, nhà con bị sập và cây cối đổ ngang dọc !

Cô gọi mãi vẫn không thấy ai đến trong đêm khuya, đến sáng thì cô không còn nhớ gì nữa cả kể cả chuyện cô sinh bé Nguyệt Trừ và chuyện cô có bé Nhật Trừ 3 tuổi.

Một năm sau, người Tiểu đoàn trưởng đưa cô ra thăm mộ chú – ngôi mộ ấm cúng và được chăm sóc đàng hoàng trong Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa . Nhìn di ảnh chú, bấy giờ cô mới khóc chồng thật sự con ạ ! Mới tin rằng chồng mình đã chết…

Bao nhiêu hy vọng, bao nhiêu hồ nghi mong manh đã che lấp được cái giấu giếm của bạn bè đồng ngũ chồng mình trong lòng cô 1 năm và cô đã sống với niềm hy vọng nhập tâm rằng chú Tiên chỉ bị thương nặng mà thôi – trí óc cô kể từ lúc ấy đã khóa lại mọi suy nghĩ khác.

Và cô bắt đầu cầm trong tay cuốn sổ CÔ NHI QUẢ PHỤ mà trước đây bà ngoại đã nhận từ vị Thiếu tá chỉ huy trưởng.

Con xem lại vết thẹo trên trán cô ẩn sau mớ tóc thời thanh xuân của tuổi chưa đầy 25 – cô vén mái tóc sang một bên và tôi nhìn thấy vết thẹo dài thật sâu nằm vắt ngang gần hết trán – Cô còn nói thêm :

– Cô biết vào tuổi làm bà ngoại của cô, cô không nên để kiểu tóc trông rất trẻ này, nhưng đó là NHAN SẮC CƯ TANG của cô dành cho người chồng yêu quý, có lẽ đời sẽ hiểu cho cô…

Người đàn bà quả phụ năm xưa cư tang chồng vẫn ở vậy nuôi hai đứa con gái Nhật Trừ, nay là bác sĩ Sản Khoa và Nguyệt Trừ nay là y tá. Bà làm bạn với tiếng đàn tranh và những đứa học trò đến học đàn. Bà không khóc nữa, lặng lẽ bình tâm sống với hình ảnh chồng trên chiếc bàn thờ trong phòng ngủ của bà.


Như Thương
nguồn: https://buonvuidoilinh.wordpress.com/2017/07/23/nhan-sac-cu-tang/

BachMa
01-31-2018, 06:05 AM
Task Force South Và Niên Trưởng Của Tôi
Vương Mộng Long, K20

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1517378503-TaskForceSouth.jpg
Là lực lượng trừ bị cơ hữu của Vùng 2 nên Liên Đoàn 2 Biệt Động Quân, cứ sáng có mặt ở Kontum, chiều đã về Phú Bổn, nay Lâm-Đồng, mai Quảng-Đức. Tháng trước chúng tôi bị đặt dưới quyền chỉ huy của Task Force South, tháng sau chúng tôi đã nằm dưới quyền chỉ huy của Biệt Khu 24, cứ xoay vần như thế suốt năm 1968.

Đà-Lạt tháng Năm…

Một buổi trưa, đại đội tôi đang giữ nhiệm vụ bảo vệ pháo binh tại phi trường Cam-Ly thì được lệnh cấp tốc lên đường cứu viện cho cánh quân của đại úy tiểu đoàn trưởng. Cánh quân này, gồm Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 11 Biệt Động Quân cùng hai Đại Đội 2/11 và 3/11, đang bị một tiểu đoàn Việt-Cộng bao vây tấn công rất dữ dội trong vùng rừng rậm cách Đà-Lạt năm cây số về hướng Tây Nam. Đại Úy Hồ Khắc Đàm, Khóa 16 Võ Bị, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 11 đã bị thương. Chúng tôi đi như chạy, chỉ mấy phút sau đã đứng trên đỉnh 1632. Qua một yên ngựa, tôi chuyển đội hình thành tam giác mũi trước, khẩu đại liên 30 làm mũi, Trung Đội 1 của Thượng Sĩ Ngọ bên phải, Trung Đội 3 của Chuẩn Úy Biện bên trái.

Tiền quân vừa di chuyển tới con dốc cuối yên ngựa thì súng nổ. Đề lô của tôi hôm đó là hai người Mỹ. Hai anh này là người của đơn vị pháo binh Hoa-Kỳ mà tôi đang bảo vệ. Mười sáu khẩu 105 ly chỉ nằm cách chúng tôi chừng hai cây số phía sau lưng. “Hai chục tràng hiệu quả!” Đạn vừa nổ xong, lại tiếp, “Hai chục tràng hiệu quả!” Cứ thế, tôi dùng đạn đại bác mở đường, rồi thận trọng tiến lên. Thời buổi đó đạn dược quá dồi dào, bắn không hạn chế. Trước mặt tôi, địch trải quân rất thưa, chủ đích của chúng là cầm chân chúng tôi, trong khi lực lượng chính của chúng đang nỗ lực dứt điểm cánh quân của Đại Úy Đàm. Rừng thông không rậm lắm, nhưng có rất nhiều ổ mối. Mỗi ổ mối có thể là một ụ súng của địch. Khi nghe được những tiếng súng bắn tay từ vùng giao tranh phiá trước, tôi bắt đầu xử dụng không quân đánh tiếp cận ngay trước mặt để tiến lên. Tôi đã xử dụng hai phi xuất Skyraider thả liên tiếp bốn trái Napalm xuống cái khe núi ngăn cách chúng tôi và ngọn đồi cao nhìn xuống trận địa của Đại Úy Đàm.

Trong lúc tôi đang phân vân không biết sẽ tiến chiếm ngọn đồi bên kia bằng cách đâm thẳng xuống suối, hay bằng cách đi vòng về bên phải, theo hướng Tây. Con đường vòng thì hơi xa, mà tình trạng của anh Đàm thì đang nguy khốn lắm. Cuối cùng tôi chọn con đường ngắn. Tôi dàn quân hàng ngang, vừa đi vừa bắn. Tới nửa dốc, anh đề lô Mỹ nói L.19 trên trời bị phòng không bắn, phi công bị thương. Chiếc L.19 mới lên thay đòi chúng tôi đánh dấu vị trí quân bạn bằng khói vàng.
Tôi cho đánh hai trái khói vàng, một bên phải, một bên trái trục tiến. Một phút sau, L.19 cự nự rằng tại sao họ thấy ở dưới đất có tới bốn, năm vị trí khói vàng, trong khi chúng tôi báo cáo rằng chỉ có hai! Họ yêu cầu chúng tôi đánh dấu lại bằng khói đỏ. Tôi vội thỏa mãn yêu cầu của không quân ngay lập tức. Cũng chỉ một phút sau, phi công lại khiếu nại khi thấy dưới đất xuất hiện bốn, năm cột khói đỏ! Như vậy là địch đã nghe được những lời đàm thoại của quân ta, và chúng đã làm cho L.19 không biết đâu là bạn đâu là địch. Tôi chưa biết phải xử trí ra làm sao trước tình trạng éo le này thì, “Xoẹt!” một trái rocket từ L.19 phóng xuống cách tôi chừng mười mét. Anh đề lô Mỹ vừa kéo tay tôi chạy về bên trái vừa hét vào ống nói truyền tin: “Check air! Check air!” Cách tôi chừng hai chục mét, dưới khe, có nhiều họng súng của Việt-Cộng, cá nhân có, cộng đồng có, đua nhau bắn lên trời. Chiếc Sky Raider chúc xuống theo trục Đông Tây. Tôi và anh đề lô Mỹ nắm tay nhau dẫn đầu đoàn quân chạy thục mạng theo hướng ngược lại. “Ùm!” một quả bom nổ dưới khe, sau lưng. Anh Mỹ mang máy truyền tin té sấp mặt xuống đất.

Tôi đỡ anh ta dậy, may quá! Không sao! Nhưng một mảnh bom bay sượt qua, đã bứng đi mất một nửa cái máy PRC 25 của anh. Chiếc Sky Raider thứ nhì lao xuống, ngóc lên: “Ùm!” Chúng tôi theo nhau cắm đầu chạy về hướng Đông. Hai chiếc máy bay tiếp tục chúc đầu xuống, ngóc đầu lên,” Cạch! Cạch!… Cạch! Cạch!…” đại liên trên cánh chim sắt bắt đầu khạc đạn. Chạy được một đoạn đường khá xa, tôi kéo quân lên một bình nguyên cỏ tranh, lập lại đội hình. Anh đề lô mượn tôi một cái máy truyền tin. Anh ta đang loay hoay chưa vào được tần số không lục thì chiếc L.19 quái quỷ đã theo kịp. Thiếu Úy Duyên leo lên một mô mối, dơ cái bản đồ vẫy vẫy anh phi công. Đâu ngờ, lại “Xoẹt!” Phi công đáp lại bằng một quả khói cắm ngay giữa đội hình của Đại Đội 1/11! Ông Duyên vứt cả bản đồ, co giò tẩu thoát.

Cứ cái trò chạy nước rút từng chặng như thế này, chắc chẳng bao lâu tụi tôi đứt ruột mà chết! Tôi không có cách nào bắt không quân ngừng truy đuổi được. Nếu tôi ngừng lại để thanh toán tụi Việt-Cộng đang bám đuôi thì chết với bom của Mỹ ngay. Khóc dở, mếu dở, vừa chạy, vừa thở, chợt nhớ ra một điều, tôi níu vai thằng Ty vặn cái chốt đổi tần số truyền tin sang địa chỉ của liên đoàn. Trung Tá Hồ Hữu Dõng, Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 2 Biệt Động Quân đang theo dõi tình hình trên máy, nên chỉ vài phút sau, chiếc quan sát cơ quẹo ngược về hướng Tây. Trung Tá Dõng ra lệnh cho tôi giữ liên lạc với liên đoàn để ông có thể trực tiếp yểm trợ cho tôi trong thời gian này. Ông nói, vì phải chia quân ra ngăn cản đoàn viện binh của tôi, nên áp lực của Việt-Cộng trên cánh quân của Đại Úy Đàm cũng giảm bớt, nhờ vậy, lực lượng bạn đã giữ vững được vị trí. Ông cho tôi hay, cũng nhờ không quân Hoa-Kỳ can thiệp hữu hiệu, chứ không thì hai đại đội bạn đã bị địch tràn ngập rồi.

Tới lúc này, tần số của tiểu đoàn đã hết nhiễu loạn, các cánh quân đã gọi được nhau. Tôi ngóng cổ gióng hướng. Hóa ra tôi chỉ còn cách Quốc Lộ 20 chừng hơn cây số! Từ đỉnh đồi bên này, tôi nhìn thấy xa xa, trên sườn một ngọn đồi hướng Nam, có một đoàn quân đang di chuyển về hướng Tây, nhiều người trong đoàn quân đó che mưa bằng những tấm nhựa trắng dùng để bọc đầu đạn pháo binh. Thì ra đó là Đại Đội 4/11!
Đại Đội 4/11 cứ phoong phoong theo đường xe be, chẳng đụng chạm gì cả, nên họ bắt tay được Đại Úy Đàm lúc xế chiều. Còn tôi, phải băng qua hai cái khe và một ngọn đồi, nên tối mịt mới tới được ngọn đồi xảy ra giao tranh. Tiếng súng đã im từ lâu. Sau lần hành quân này mỗi quân nhân tham chiến của đại đội tôi đều được bồi hoàn đặc biệt một đôi giày mới, và một bộ rằn ri mới. Ngày hôm đó tiếng máy bay và tiếng đại bác vang dội núi đồi suốt từ trưa cho tới tối mịt, khiến dân chúng Đà-Lạt phải trải qua một bữa hoảng hồn.

Lâm-Đồng tháng Tám…

Đại Đội 1/11 bị tách riêng ra khỏi tiểu đoàn, đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn. Lúc này Trung Tá Bùi Văn Sâm đã thay thế Trung Tá Hồ Hữu Dõng giữ chức Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 2 Biệt Động Quân.

Chúng tôi được trực thăng vận vào Gia-Bắc, một bản Thượng bỏ hoang, nằm trên Liên Tỉnh Lộ 8B nối liền Di-Linh (LâmĐồng) với Thiện-Giáo (Phan-Thiết). Nhiệm vụ của tôi là thiết lập một căn cứ hỏa lực dã chiến cho một pháo đội Hoa-Kỳ. Pháo đội này sẽ yểm trợ hỏa lực cho các cánh quân đang truy lùng địch vùng liên ranh Cao Nguyên và Duyên Hải. Đây cũng là nơi Trung Tá Sâm đặt bản doanh bộ chỉ huy hành quân của ông. Sau khi lập xong vòng đai an ninh căn cứ, tôi tung các toán tuần tiễu xa, rồi ngồi chờ pháo binh Hoa-Kỳ chuyển vận súng vào vị trí. Chinook rầm rộ theo nhau đáp. Chưa đầy hai giờ sau, mười sáu khẩu đại bác 105 ly đã sẵn sàng tác xạ.

Tới chiều, ông thượng sĩ trưởng toán liên lạc truyền tin của Sư Đoàn 23 Bộ Binh chạy ra tìm tôi, báo tin: – “Anh Đào” đang trên đường đến thăm. “Anh Đào” là danh hiệu truyền tin của Chuẩn Tướng Trương Quang Ân (Khóa 7 Võ-Bị), Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh, kiêm Tư Lệnh Task Force South. Tôi đã đón Tư Lệnh tại bãi trực thăng, thuyết trình cho ông về quân số lực lượng phòng vệ, về các toán tuần tra dã ngoại, và kế hoạch phản ứng khi bị địch tấn công hay pháo kích. Tôi dẫn Tư Lệnh duyệt một vòng vị trí phòng thủ của đơn vị trước khi đưa ông vào hầm chỉ huy của liên đoàn để nghe trung tá liên đoàn trưởng tường trình diễn tiến hoạt động của Biệt Động Quân trong lần hành quân này.

Vài tháng trước, sau khi đại đội tôi tịch thu được một kho gạo của địch trong Mật Khu Tứ-Quý, tôi đã giáp mặt Chuẩn Tướng Tư Lệnh Task Force South một lần, và đã được ông gắn cho một Anh Dũng Bội Tinh với Ngôi Sao Bạc. Dịp đó, trong hàng quân, tôi chỉ được ông Tướng bắt tay một cái, nghe ông khen một câu “Tốt lắm!” rồi thôi. Lần này tôi có cơ hội tiếp xúc với ông lâu hơn, nghe ông nói nhiều hơn và nhìn mặt ông rõ hơn. Sau khi đưa Tư Lệnh tới bộ chỉ huy nhẹ liên đoàn, tôi trở về lều của mình, leo lên võng nằm nghỉ. Rồi tôi chợp mắt ngủ quên. Ngoài lều, đám “tà lọt” của tôi ngồi đấu láo.

Tôi đang mơ màng thì giật mình vì tiếng ông Thượng Sĩ Nguyễn Lược, Trung Đội phó, Trung đội 3, – Vào hàng! Phắc! Tôi ngồi dậy, nhoài người, thò đầu ra khỏi lều quan sát. Chuẩn Tướng Tư Lệnh đang bắt tay từng quân nhân đang hiện diện trên bãi cỏ gần lều của tôi. Ông ân cần hỏi han từng người, về tình trạng ẩm thực, về việc uống thuốc ngừa bệnh sốt rét rừng, về vấn đề thư từ liên lạc với gia đình, về chuyện bồi hoàn quân trang sau mỗi đợt hành quân dài ngày… Tuyệt đối, tôi không nghe vị Tư Lệnh này “quay” thuộc cấp với những câu hỏi liên quan đến xẻng, cuốc, bi đông, nón sắt, giây ba chạc, tiêu lệnh khi gác giặc, hay cấp số đạn mang trên lưng… Trò truyện cùng thuộc cấp một hồi, Tư Lệnh mới thong thả quay lưng, đi về hướng chiếc trực thăng đang chờ trên bãi. Ông dừng lại giữa đường, dơ tay ra dấu cho đoàn tùy tùng. Đoàn tùy tùng của ông Tư Lệnh đang ghé thăm toán Liên Lạc Truyền Tin của Sư Đoàn 23.

Có một nữ quân nhân trong đoàn tùy tùng. Người nữ quân nhân này chính là phu nhân của ông Tướng. Bà đang cùng ông Thiếu Tá Thịnh, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn Truyền Tin Sư Đoàn 23 thăm hỏi những người lính bộ binh. Tôi nghe tiếng Trung Sĩ Nguyên, cựu Thiếu Sinh Quân, đang vòi vĩnh bà vợ ông Tư Lệnh: – Chị cho em vài trăm đi chị! Em cạn túi rồi, thèm thuốc lá quá, mà chưa tới ngày lãnh lương… Bà “Chị Dâu của Thiếu Sinh Quân” lục túi xách tìm tòi một phút, rồi nhỏ nhẹ, như phân bua, – Chị vét túi, chỉ còn năm chục, em cầm tiêu đỡ. Anh chị cũng… chưa tới ngày lãnh lương. Sương trắng từ khe núi bắt đầu dâng lên.
Chiếc trực thăng cất cánh, rồi chui vào tầng mây thấp. Tiếng động cơ “Bạch! Bạch! Bạch! …” loãng trong gió, xa dần. “Niên trưởng” và “Chị” đi rồi. Nhưng hình như, tình huynh đệ chi binh còn vương đâu đây, trong tim chúng tôi… Đêm xuống, trời trở gió, rồi mưa to. Nửa đêm, xảy ra một chuyện bất thường. Từ thung lũng đen ngòm dưới kia, bỗng vang lên những âm thanh ầm ầm như động đất. Chấn động tràn lên đồi, khiến căn lều của tôi cũng rung rinh như muốn sập. “Động đất! Động đất!

Bà con ơi!” Thượng Sĩ Lạc, Thường Vụ Đại Đội vừa gõ kẻng báo động vừa lớn tiếng la liên tục. Thế rồi, nhanh như cơn lốc, hàng trăm con voi rừng ào ào vượt dốc xông lên. Cây rừng bị voi đè gãy đổ kêu răng rắc. Khi đàn voi tới cách lều của tôi chừng hai chục thước thì con đầu đàn dẫm phải đống lửa còn nghi ngút khói sau cơn mưa của ông Lạc. Than củi bay lên tung tóe làm nó hoảng hồn, vội quẹo sang bên phải. Thế là cả đàn voi ùn ùn theo nhau dạt về hướng Tây, khu đặt pháo của Hoa Kỳ. Quân Mỹ la chí choé. Đợi đàn voi đi qua, tôi cho quân báo động, dàn quanh khu pháo binh để những xạ thủ Mỹ kiểm tra tình trạng súng ống xem có thiệt hại gì không? Dưới ánh đèn pha, tôi thấy năm, sáu khẩu đại bác 105 ly bị voi ủi gãy gọng, chổng càng. Chừng nửa giờ sau, công việc kiểm tra tình trạng khả dụng của pháo binh chấm dứt, tôi cho lệnh thu quân, người nào về vị trí của người nấy.

Tôi cùng Thượng Sĩ Lạc đi một vòng tuần tra các vọng gác, rồi quay về lều. Tôi vừa ngồi trên võng, chưa kịp cởi giầy thì, một đại úy Hoa Kỳ có hai binh sĩ Mỹ hộ tống đã hăm hở tiến tới đòi gặp mặt. Ông đại úy này là sĩ quan an ninh phòng thủ của pháo đội Mỹ. Ông ta nghi rằng Việt Cộng lùa voi đi trước, sau đó chúng sẽ theo chân voi, tấn công ta. Ông ta đã tới từng lều ra lệnh cho binh sĩ dưới quyền tôi trở lại tuyến phòng thủ ngoài rào kẽm gai của pháo đội. Chưa có lệnh của tôi, anh em Biệt Động Quân chưa nhúc nhích. Do đó, ông ta phải đi tìm tôi để điều đình. Ông ta yêu cầu tôi cho quân ra vị trí phòng thủ, và duy trì tình trạng báo động cho tới khi trời sáng. Tôi từ chối yêu cầu này. Thấy vậy, ông ta liền nổi giận la hét om xòm và dọa sẽ tường trình việc này lên Bộ Tư Lệnh Task Force South để thượng cấp khiển phạt tôi. Tôi ôn tồn giải thích cho ông Mỹ này biết rằng, đường đàn voi vừa đi qua là một con dốc trơn trượt sau cơn mưa. Ngay đầu dốc tôi cũng vừa đặt thêm một vọng gác.

Nếu Việt-Cộng tiến quân theo đường đó sẽ bị lính gác phát hiện ngay, và chúng ta có dư thời gian để vào vị trí chống trả. Vả lại, đêm nay thời tiết quá lạnh, nếu bắt binh sĩ dưới quyền phải ngâm mình dưới hố cá nhân đầy nước từ nửa đêm tới khi trời sáng sẽ khiến họ nhiễm bịnh. Ngoài ra, có dấu hiệu gì báo cho ta biết chắc chắn rằng địch sẽ tới đâu? Tôi quả quyết với ông đại úy Mỹ rằng, chẳng có thằng Việt-Cộng nào đi theo đàn voi này. Vì đây là một đàn voi rừng, voi dại, không phải voi nhà. Tôi móc túi lấy gói Lucky, mời ông đại úy; ông ta gạt tay từ chối. Sau khi tự mồi cho mình một điếu, tôi thân mật vỗ vai ông sĩ quan Đồng Minh, nhỏ nhẹ, – Này ông bạn ơi! Nhiệm kỳ phục vụ tại Việt-Nam của bạn chỉ kéo dài sáu tháng là cùng. Nếu bạn có thức trắng vài ba đêm cũng chẳng ảnh hưởng gì. Còn chúng tôi thì khác.

Chúng tôi đã chiến đấu mười năm, và sẽ còn phải chiến đấu thêm mười, hai mươi năm nữa.Vì thế, tôi phải tiết kiệm mồ hôi, xương máu, sức khỏe của binh sĩ dưới quyền tôi.Thôi bạn về ngủ đi! Chúc bạn ngủ ngon! Hẹn gặp lại. Nào ngờ, cử chỉ thân thiện của tôi chỉ làm ông sĩ quan Mỹ giận dữ thêm, ông ta quát vào mặt tôi: – Người Mỹ đang ngâm mình trong hố nước, các anh cũng phải làm như vậy! Tôi muốn các anh phải ra vị trí ngay bây giờ! Trước thái độ hống hách xấc xược của ông bạn Đồng Minh, tôi không thể dằn nổi cơn thịnh nộ. Tôi đưa ngón tay trỏ chỉ ngay mặt anh ta rồi hét lớn:

– Câm mồm! Tôi là người chỉ huy phòng thủ căn cứ hỏa lực này. Còn anh chỉ là người được tôi bảo vệ! Tuyệt đối anh không có quyền hành gì đối với đơn vị tôi cả! Anh muốn báo cáo việc này với ai thì báo! Tôi không bận tâm! Cút khỏi đây ngay! Sau đó, không thèm nhìn anh ta, tôi quay gót vào lều. Không biết làm gì hơn, ông sĩ quan an ninh Mỹ đành hậm hực dẫn lính bỏ đi. Có lẽ do yêu cầu của bên pháo đội Mỹ, nên hai trực thăng vũ trang đã bay vòng vòng, rọi đèn pha quanh căn cứ từ nửa đêm cho tới sáng.

Rồi cũng qua một đêm ồn ào, mất ngủ vì tiếng động cơ máy bay. Trưa hôm sau Tướng Ân và một đại tá Hoa-Kỳ xuống kiểm tra tình hình tổn thất của pháo binh, đồng thời nghe tường trình chi tiết vụ việc lủng củng giữa tôi và ông sĩ quan an ninh của pháo đội. Một phái đoàn báo chí Việt Mỹ cũng chiếm một trực thăng tháp tùng ông Tư Lệnh. Trong căn lều vải, chỉ có hai chiếc ghế dành cho Tư Lệnh và Đại Tá Cố Vấn Sư Đoàn. Những người khác kể cả trung tá liên đoàn trưởng Biệt Động Quân và sĩ quan pháo đội trưởng Mỹ đều phải đứng chen vai nhau. Các phóng viên bấm máy ảnh “tí tách!” liên tục. Ông pháo đội trưởng tổng kết tình hình cho biết, bốn khẩu đại bác 105 ly bị hư hại cần thay thế, hai binh sĩ bị voi dẫm gãy xương đã được tản thương trong đêm.

Sau đó, viên đại úy an ninh Mỹ lên bục trình bày. Anh ta khiếu nại rằng, sau khi đàn voi đi qua, Biệt Động Quân Việt-Nam đã không chịu duy trì tình trạng báo động cho tới sáng, pháo đội Mỹ đã không được bộ binh bảo vệ nếu địch theo chân voi, ào lên tấn công… Rồi tới phiên tôi, – Thưa Chuẩn Tướng, xin Chuẩn Tướng cho lệnh, tôi sẽ trình bày sự việc bằng tiếng Anh hay tiếng Việt? – Trung úy xuất thân từ quân trường nào? – Thưa Chuẩn Tướng tôi tốt nghiệp Khóa 20 Võ Bị. – Nếu trung úy không nói được tiếng Anh thì trung úy nhờ ông trung sĩ thông dịch viên của sư đoàn giúp đỡ cho. Tôi nóng mặt, – Như vậy thì tôi sẽ trình bày sự việc bằng tiếng Anh. Nhờ trung sĩ thông dịch viên dịch lại bằng tiếng Việt cho các phóng viên báo Việt.

Cái sơ đồ phòng thủ không tỷ lệ được hai Biệt Động Quân cầm giữ để tôi thuyết trình. Tôi sơ lược sự kiện xảy ra đêm qua. Tôi lý giải quyết định không duy trì báo động của tôi vì đàn voi di chuyển đêm qua là voi rừng, không phải voi nhà. Tôi tin chắc địch không đủ khả năng bắt ép một đàn voi rừng làm theo lệnh được. Với tôi, việc bắt binh sĩ ngâm mình trong hố cá nhân đầy nước dưới thời tiết lạnh giá, trong thời gian năm sáu tiếng đồng hồ là một hành động ngu ngốc. Tôi là một cấp chỉ huy không ngu ngốc, nên tôi không nghe theo yêu cầu ngu ngốc của bất cứ ai. Nghe tôi nhấn mạnh tiếng “stupid” (ngu ngốc) tới hai lần, ông đại tá Mỹ hơi cau mặt, liếc nhìn anh sĩ quan an ninh Hoa Kỳ. Anh ta cúi mặt, dí dí hai mũi giày trên đất. Buổi họp chấm dứt, Tướng Ân đứng lên, vỗ vai tôi, ôn tồn, – Khá lắm! Anh khen chú! Khá lắm!

Ông đại tá Mỹ cũng vồn vã, – You’re excellent! Ông xiết tay tôi thật chặt trước lúc từ giã. Hai ngày sau cuộc hành quân chấm dứt. Hôm đó lại có chuyện bất thường xảy ra! Đại bác đã được năm chiếc Chinook bốc đi hết. Chiếc trực thăng chuyển quân cuối cùng cũng vừa cất cánh sau khi hốt toán đề lô pháo binh của tôi. Trên bãi còn lại một toán sáu người. Tôi lấy làm lạ về cách làm việc cứng ngắc của người Mỹ. Người Mỹ đánh giặc bằng sách vở, việc ai nấy làm, nhiều lúc thấy mắc cười. Hai chiếc tàu cứu cấp và chỉ huy cứ khơi khơi trên trời, cùng hai gunships, bay vào, bay ra, theo đuôi đoàn trực thăng chở quân. Nếu họ xử dụng một trong hai chiếc tàu trống đó mà bốc chúng tôi thì đâu cần điều động hai gunships và một slick quay trở lại đây lần nữa? Bây giờ trên bãi chỉ còn lại sáu người gồm có tôi, Binh Nhứt Trần Ty mang máy PRC 25, cùng hai hộ tống viên là Binh Nhứt Phạm Công Cường, và Hạ Sĩ Nguyễn Phượng Hoàng. Phía Mỹ có một đại úy da đen, nhưng trên bảng tên thì họ của ông ta lại là White (Trắng) cùng một anh binh nhì da trắng mang máy truyền tin cho ông. Hai người Mỹ này là toán liên lạc điều không của ngày hôm đó.

Bỗng đâu, sương mù dâng lên cuồn cuộn. Sương đêm như từ dưới đất phun lên, từ gốc cây tuôn ra, từ tàn lá trên cao tỏa xuống, quánh lại như mây, và trắng như sữa. Phút chốc cả vùng đồng cỏ ngập chìm trong biển sương dày dặc. Ông đại úy da đen đứng cách tôi chưa tới sải tay mà tôi cũng không nhìn rõ mặt ông ta. Nguy rồi! Cứ cái đà này thì tối nay chúng tôi phải ngủ lại đây mất thôi! Rõ ràng là chiếc H.U.1D đang bay ngay trên đầu, nhưng tôi không trông thấy đèn pha của tàu. Anh phi công nói, dưới bụng anh ta chỉ là mây trắng, anh ta không dám sà xuống tìm chúng tôi, vì sợ cánh quạt chặt phải tàn cây thì chết! Trực thăng tiếp tục vòng vòng bao vùng cả giờ, nhưng vô vọng. Trời tối dần, trực thăng hết xăng, phải về Blao tiếp nhiên liệu.

Rồi trời tối hẳn. Sau khi liên lạc với ban chỉ huy không vận, Đại Úy White báo cho tôi biết rằng, ngày mai, nếu thời tiết tốt, chúng tôi mới được bốc ra khỏi đây. Ông ta đề nghị tôi qua đêm ngay trên bãi đáp. Tôi không đồng ý với White về việc này. Kinh nghiệm cho tôi biết, mỗi khi quân ta rời vị trí một căn cứ hỏa lực, thì không lâu sau đó, du kích địa phương sẽ tới dò la, nhặt nhạnh những vật dụng chúng ta vô tình bỏ lại. Nếu đêm nay ở lại chỗ này, chúng tôi có thể sẽ chạm mặt với du kích, phần bất lợi chắc chắn nghiêng về phía ta. Thế là hai bên giằng co, người đòi ở lại, kẻ đòi di chuyển. Cuối cùng, khi nghe tôi dọa sẽ kéo nhau đi, bỏ thây kệ thày trò anh ta ở lại, anh ta mới đành hậm hực vác ba lô lên vai. Tôi ra lệnh cho chú Cường gài lại hai trái M26 ở hai đầu đường dẫn tới nơi đống lửa cao nghệu mà chúng tôi vừa đốt.

Sau đó chúng tôi nối đuôi nhau tụt thẳng xuống dốc núi bên lề Bắc của Tỉnh Lộ 8 B. Chúng tôi vuợt qua con suối nhỏ dưới dốc, rồi leo lên lưng chừng vách đá, ngừng lại nhóm lửa, ngả lưng. Cây cối rậm rạp, sương mù dày dặc, rừng tối thui, cho dù ai đó có đứng cách chúng tôi năm ba mét chưa chắc đã nhìn thấy bếp lửa của chúng tôi. Chỉ cần một người ngồi canh và tiếp củi cho đống lửa cháy đều, năm người còn lại yên chí ngủ. Chừng một giờ sau, bên hướng căn cứ hỏa lực có tiếng lựu đạn nổ “Ùm!” Đại Úy White ghé tai tôi hỏi nhỏ, – Cái gì thế? Tôi trả lời bừa, – Không biết, có thể là du kích, có thể là một con nai… Anh đại úy Mỹ móc túi lấy ra gói thuốc lá, – Ông hút một điếu đi! Lạnh quá! Tôi ngăn tay anh ta lại, – Đừng làm điều này! Nguy hiểm lắm! Tai và mắt của du kích không biết chúng ta đang ở đâu. Nhưng mũi của chúng có thể tìm được chúng ta đó! Bây giờ đang gió Bắc. Người nào đứng bên Tỉnh Lộ 8B chắc chắn sẽ ngửi được khói thuốc của chúng ta ngay. Gắng đợi tới sáng mai, lên tàu rồi, thì tha hồ mà hút. White gật đầu tỏ ý hiểu chuyện.

Vừa lúc đó bên kia bờ nổ thêm một tiếng “Ùm!” thứ hai, theo sau là một tràng AK bắn bâng quơ. White giựt tay tôi, lắc mấy cái thật mạnh, rồi bất ngờ dang hai tay ôm tôi vào ngực anh, xiết tôi một cái thật chặt, rồi buông nhanh ra, – My commander! You’re a great commander! Đêm ấy anh chàng da đen còn ôm máy nói chuyện với cấp chỉ huy của anh ta khá lâu. Trước khi thiếp đi, tôi còn loáng thoáng nghe anh ta nhắc đi, nhắc lại vài lần tiếng “Vietnamese Ranger…” gì đó. Hừng đông, sương mù tan nhanh dưới nắng.

Chưa tới mười giờ sáng, một slick với hai gunships hộ tống đã có mặt trên vùng. Không lâu sau, chúng tôi đạp chân trên Sân Vận Động Di-Linh. Tại đây, Thiếu Úy Duyên và Tướng Ân đang đứng chờ. Tướng Ân bắt tay tôi và Đại Úy White, – Mission completed! You’re the best! Khi White và người mang máy truyền tin của ông ta đã quay lại trực thăng để trở về đơn vị của họ, Tướng Ân mới vỗ vai tôi, ôn tồn, – Anh rất hài lòng! Tuần tới anh sẽ giao cho chú một nhiệm vụ. Tôi đứng nghiêm, – Vâng, bất cứ nhiệm vụ gì Chuẩn Tướng giao phó, tôi sẽ cố gắng hoàn thành. Thiếu Úy Duyên cũng xen vào: – Tối qua, khi nghe nói trực thăng không vào đón anh nữa, tôi bực quá, gọi máy lên Sư Đoàn cự nự lung tung. Ai đời, dư máy bay lại dùng để hộ tống, trong khi người thì bỏ lại. Nếu ảnh (Duyên dơ tay chỉ vào ngực ông Tướng) mà không vào máy “stop” tôi lại, tôi còn làm tùm lum.

Muốn phạt thì cứ phạt, cóc có ngán! Quay qua Tướng Ân, Duyên nói, – Anh thấy chưa? Họ dùng một slick trống, bay theo đoàn tầu chuyển quân để làm gì? Trong khi đại đội trưởng của em bị bỏ lại giữa rừng. Làm ăn gì mà bê bối quá vậy? Tướng Ân xua tay, – Thôi chuyện qua rồi! Anh sẽ bàn lại với họ về sự việc này để rút kinh nghiệm. Thiếu Úy Duyên là một Cựu Thiếu Sinh Quân, Chuẩn Tướng Ân cũng là một Cựu Thiếu Sinh Quân lớp đàn anh của Duyên. Họ là anh em, nên cách cư xử, xưng hô, có khác so với người ngoài.

Tướng Ân nắm tay tôi tản bộ quanh sân vận động. Vừa đi, ông vừa nói, – Trong quân đội, hôm nay anh là chuẩn tướng, chú là trung úy, cấp bậc tuy có cách biệt nhau đấy, nhưng biết đâu? Có một ngày nào đó chú đuổi kịp anh, không chừng chú còn qua mặt anh nữa! Duy chỉ có cấp bậc “NiênTrưởng” là suốt đời, chú đuổi anh không kịp. Có một điều anh muốn nhắc nhở chú là, phải sống sao cho không hổ danh Võ- Bị. Đối với anh em cùng trường, phải thương yêu, nâng đỡ, che chở, đùm bọc lẫn nhau. Phải sống thế nào cho anh ra anh, em ra em. Từ nay, anh cho phép chú, nếu gặp anh, không phải là giữa hàng quân, chú cứ gọi anh là niên trưởng. – Vâng! Tôi tuân lệnh của niên trưởng! Trong thời gian tăng phái cho Task Force South, tôi còn nhiều dịp giáp mặt Anh Đào. Tôi không biết vì lý do riêng tư nào mà vị niên trưởng này lại đặc biệt lưu ý tới tôi.

Mỗi khi đơn vị tôi về đóng quân tại Cam-Ly hay Liên-Khương, ông đều tạt xuống thăm tôi vài phút. Ông thường nhắc nhở tôi rằng: “Sự tồn vong của một đơn vị bộ binh không nằm ở trang bị tối tân, hỏa lực hùng hậu, mà nằm ở sự gắn bó giữa thượng cấp và thuộc cấp. Cấp chỉ huy phải lưu ý chăm sóc tới cuộc sống của từng người lính. Vì họ là lớp người được hưởng ít quyền lợi nhất. Nhưng nhiệm vụ của họ lại nặng nề nhất. Mạng sống của họ thật là mong manh. Hãy thương yêu thuộc cấp như thương yêu em út trong gia đình. Có như thế, thuộc cấp mới hết lòng với mình. Khi hữu sự, họ sẽ không bỏ mình.” Tôi rất cảm kích trước những lời chỉ dạy chân tình và quý báu của người đàn anh đáng kính này.

Vài ngày sau, tôi nhận một công điện trao tay, từ Văn Phòng Tư Lệnh Sư Đoàn 23 gởi theo trực thăng xuống DiLinh. Tư Lệnh chỉ thị cho tôi phải giám sát một đại úy thuộc Sư Đoàn 23 được gửi tới, theo chân Đại Đội 1/11/BĐQ hành quân trong thời gian một tháng. Ông đại úy sẽ tháp tùng tôi để quan sát, học hỏi kỹ thuật chỉ huy tác chiến của tôi trong suốt thời gian quy định. Chiều hôm đó trực thăng Hoa-Kỳ thả ông đại úy xuống chỗ đóng quân của tôi. Ông đại úy đi một mình, không tùy tùng. Ông đội nón đi rừng, mặc áo “Sô Dù” và trang bị một Colt 45. Trong ba lô của ông có mười ca gạo, và một cái võng, chẳng có poncho, chăn mền, nồi niêu, xoong chảo, chén bát, muỗng nĩa gì cả. Tôi không hỏi ông đại úy lý do tại sao ông ta bị đưa tới đây, nhưng ông ta tự ý tâm sự với tôi rằng, ông ta đang bị phạt.

Đúng lý ra, tôi không bận tâm về việc ẩm thực của ông đại úy, nhưng thấy hoàn cảnh của một sĩ quan gặp lúc khó khăn, tôi ra lệnh cho Chuẩn Úy Đinh Quang Biện, Trung Đội Trưởng Trung Đội 3 cấp cho ông ta một người lính lo việc cơm nước. Binh Nhì Triệu Cheng, anh lính nấu cơm của ông Biện được giao nhiệm vụ này. Trong thời gian một tháng, chúng tôi liên tục nhảy diều hâu vào vùng Đa-Dung, La-Ngà, Ma- Nôi… không có vụ đụng độ nào đáng kể. Rồi ông đại úy đáo hạn thọ phạt, từ giã, ra đi. Triệu Cheng cũng bị trả lại Trung Đội 3, tiếp tục nấu cơm cho Chuẩn Úy Biện. Chuyện tưởng chừng như đã quên. Cho tới một chiều nắng phai… Bốn sĩ quan Đại Đội 1/11 ngồi trên xe Jeep lượn quanh hồ Bảo-Lộc. Một bóng hồng dơ tay chận xe tôi. Người đẹp nhoẻn miệng cười tươi, hàm răng tuyệt đẹp.

– Xin lỗi trung úy, em muốn hỏi thăm Thiếu Úy Chân ở Đại Đội 1 Tiểu Đoàn 11.Bốn chàng sĩ quan nhìn nhau, – Cô có lầm không? Tất cả bốn đứa sĩ quan Đại Đội 1 đều ngồi trên xe này. Không có đứa nào tên là Chân cả. Cô gái tần ngần, – Anh Chân, cao cao, trăng trắng, tóc bồng bềnh, mang kiếng mát Ray-Ban, thường đi cùng ông đại úy mặc áo “Sô Dù” đại đội trưởng. Hai anh ấy hay ghé nhà em mỗi khi về phố… Ngồi trên ghế tài xế, Thiếu Úy Duyên bỗng nhảy nhổm, vỗ đùi, – Đúng rồi! Thiếu Úy Chân Đại Đội 1. Đúng rồi! Để chúng tôi đi kiếm dùm cho cô ngay bây giờ. Chào cô, chúng tôi đi nghe! Cô bé lại nhoẻn miệng cười, lí nhí tiếng cám ơn, rồi lui lên lề, nhường đường cho xe chúng tôi đi. Tôi chẳng hiểu nếp, tẻ, mô, tê gì cả, nhưng không tiện hỏi. Khi đã ngồi yên chỗ bên bàn ăn trong Quán Ngọc-Lan, Duyên mới nói nhỏ cho tụi tôi vừa đủ nghe, – Có mấy lần về phố nhận tiếp tế, tui bắt gặp thằng Cheng và “cha nội đại úy học nghề” thậm thụt khu xóm Chùa. Hình như nhà cô bé này cũng ở gần đâu đó. Để chiều nay về, tôi khảo thằng Cheng là rõ ngay. Sáng ngày kế đó, lúc xách nước cho tôi rửa mặt, Hạ Sĩ Nguyễn Lác cười hì hì.

– Thằng Cheng nó đổi tên là Chân, lên làm Thiếu Úy Đại Đội Phó cho ông Đại Úy Đại Đội Trưởng Đại Đội 1 cả tháng nay. Tất cả bà con trong xóm Bàn Đèn Thuốc Phiện sau chùa Phật Giáo, ai cũng biết. Chỉ có các ông thầy Đại Đội 1 là không rõ đó thôi. Tôi chợt vỡ lẽ ra, hiểu chuyện, bật cười. Binh Nhì Triệu Cheng, anh em thường gọi đùa là “Triệu Đại Gia” vốn là cháu đích tôn của ông chủ hãng nhôm Triệu-Đà trong Chợ-Lớn. Vào một đêm mưa buồn giăng giăng, sau Tết MậuThân, điếu thuốc gắn trên môi, “Triệu Công Tử” đang lang thang trên phố vắng không đèn thì bị Tuần Cảnh Biệt-Khu Thủ-Đô chận đường. Cheng bị tóm cổ, thảy lên xe, đưa về Trung-Tâm Quản-Trị Trung-Ương.

Binh Nhì Triệu Cheng có mặt ở Đại Đội 1/11 trước ngày tôi xuất viện trở về chỉ huy đơn vị. Mấy ngày sau, đại đội phải di chuyển bộ từ cầu Trắng lên sân vận động, chờ trực thăng vào vùng. Vì có lệnh di chuyển gấp, Triệu Cheng không kịp đút cái nồi nấu cơm của anh vào trong bao cát. Cái nồi nấu cơm của thày trò anh được móc vội trên ba lô. Cái nồi đen đong đưa theo bưóc chân Cheng… Đoàn quân đi qua xóm Chùa, dân chúng túa ra đường vẫy tay. Xe Jeep của đại đội dừng lại trước Cà Phê Duyên. Tôi bước xuống đứng bên đường, chờ tài xế Châu Minh Đạt chạy đi mua mấy ổ bánh mì. Tôi nghe nhiều tiếng gọi, – Anh Chân ơi! Anh Chân ơi! – Thiếu Úy Chân! Thiếu Úy Chân! Vào nhà bác nghỉ mệt một lúc rồi đi tiếp. Đi trong hàng quân, Triệu Cheng nhe răng cười. Anh đưa tay khoát khoát, chối từ những lời mời chào.

Anh giở nón sắt ra, cầm tay. Cặp kiếng mát Ray-Ban thật xứng với khuôn mặt thư sinh trắng trẻo hồng hào. Trong bộ tác chiến rằn ri, trông anh như một nam siêu sao trong phim cao bồi màn bạc Mỹ. Những em bé đứng bên đường, có lẽ quen anh, trầm trồ kháo nhau, – Ông thiếu úy mà cũng vác nồi đi hành quân. Ông thiếu úy bình dân quá, chịu chơi quá tụi mày ơi! Khẩu M16 đeo vai, ba lô trên vai, Triệu Cheng vẫn bước khoan thai. Cái nồi nhôm đen, đeo bên hông ba lô, đung đưa theo nhịp bước anh đi. Tôi nghĩ, trong số những bàn tay vẫy vẫy tiễn đưa đoàn hùng binh ra trận ngày hôm ấy, thế nào cũng có bàn tay của cô bé xóm Chùa, cô bé có hàm răng tuyệt đẹp. Cũng từ hôm ấy, gia tài đại đội tôi có thêm giai thoại “Ông Thiếu Úy Bình Dân”.

Mùa Thu trên Cao Nguyên…

Mỗi lần Đại Đội 1/11 về Liên-Khương thì cái lều vải của tôi lại được căng trước sân tư gia của ông chủ xưởng cưa ĐứcTrọng. Lần nào cũng vậy, vừa thấy mặt tôi, cô cháu gái của ông chủ đã mừng rỡ, – Chào trung úy mới “dìa”! Bác Ba ơi! Ông trung úy Bắc Kỳ “dìa gồi” nè! Giọng nói đặc sệt Hậu-Giang của cô bé, tôi không nghe quen, nên thấy ngộ. Bà vợ ông chủ xưởng cưa kể truyện lai lịch cái tên Thu Bình của cháu bà cũng hàm ý lịch sử. Mùa thu năm 1954 hiệp định Genève được ký kết, chiến tranh Pháp Việt chấm dứt, Việt Nam hòa bình. Cháu bà sinh ra vào cuối mùa Thu đất nước thanh bình, nên được đặt tên là Thu Bình.

Như vậy, phải hai, ba tháng nữa Thu Bình mới đủ mười bốn tuổi. Ấy thế mà anh thiếu úy đại đội phó cứ cắp đôi cô bé này cho tôi. Cái anh Đặng Hữu Duyên này thực là vô duyên hết chỗ nói! Anh ta còn lấy tên “Thu Bình” làm danh hiệu cho khẩu đội đại liên M60 của đại đội. Trước đó, khẩu đội súng cối 60 ly của Binh Nhứt Lê Văn Ngẫu đã bị anh Duyên khoác cho cái tên “Kim Cương”, vì ở Pleiku có một cô nữ sinh diễm kiều nhảy đầm rất giỏi tên là Kim Cương. Kim Cương và hai chị gái của cô đều thích Biệt Động Quân. Sau này Kim Cương kết duyên với anh Hoàng Kinh Ngữ, Biệt Động Quân thuộc Tiểu Đoàn 23. “Tình báo gia binh” sao mà thính tai đến thế! Chúng tôi chưa tổ chức hầm hố xong, bầu đoàn thê tử của Đại Đội 1/11 đã từ Đà-Lạt ào xuống một xe cam nhông, đầy đàn bà và con nít.

Các bà vợ lính đem con từ Pleiku xuống chờ chồng lĩnh lương. Tôi nói với các ông trung đội trưởng tìm cách “du di” cho những quân nhân có gia đình đôi chút thời giờ để họ có thể chăm sóc vợ con. Ông chủ xưởng cưa cho phép thân nhân của đơn vị tôi được xử dụng dãy nhà chứa ván vỏ làm nơi tạm trú. Đời Biệt Động, sống nay, chết mai. Hạnh phúc của những gia đình Biệt Động là cái hạnh phúc “được phút nào, hay phút nấy!” Có lẽ vì thế mà bất cứ hành quân nơi nào, dù xa hậu cứ Pleiku cách mấy, chỉ cần dừng lại đôi ngày gần nơi thị tứ, có đường xe đò, là vợ con binh sĩ tìm tới ngay. Thân nhân binh sĩ trong đơn vị nhìn ông đại đội trưởng như người anh cả. Khi gia đình gặp cảnh khó khăn, họ không ngại ngùng đến nhờ tôi giúp đỡ. Anh chàng nào lạng quạng, có bồ, có bịch, hay cờ bạc, bê tha, bỏ thí vợ con là biết tay tôi ngay.

Các chị cũng hay áy náy về chuyện vợ con của ông đại đội trưởng. Mỗi lần thấy bóng tôi đi ngang qua khu gia binh, các chị thường ân cần: “Trung úy cưới vợ cho có người tiếp tế lúc đi hành quân xa đi trung úy ơi! Trung úy cứ kén chọn hoài! Tụi em chờ mãi chưa thấy trung úy mời ăn xôi gấc!” Những lúc đó, tôi chỉ cười trừ. Chẳng biết trả lời các chị ấy sao cả. Vì lấy vợ đâu phải là chuyện dễ? Lấy vợ mà giản dị như xung phong chiếm một ngọn đồi thì tôi đâu có còn độc thân cho tới hôm nay? Nhà ông chủ xưởng cưa có cái máy lạnh chạy bằng đèn dầu lửa. Binh Nhứt Trung thường gửi bia lạnh của tôi trong tủ lạnh này. Tôi và ông chủ xưởng cưa thường ngồi đối ẩm nói chuyện đời vào những chiều sương rơi. Bãi cỏ bên kia Quốc Lộ 20 là sân bốc của trực thăng. Chúng tôi tập trung bên này đường, đội ngũ chỉnh tề. Càng trực thăng vừa chạm đất, chúng tôi đã ào sang, sẵn sàng leo lên. Cứ tám người một con tàu. Cứ bốn mươi người, một cánh quân.

Có khi cánh quân của tôi bị thảy xuống cách cánh quân của Thiếu Úy Duyên hàng chục cây số. Chúng tôi vào vùng, rồi chuyển vùng xoành xoạch. Mưa theo chân chúng tôi từ bãi đáp này, sang bãi đáp khác. Rừng già Cao Nguyên lạnh quanh năm. Đi rừng vào mùa mưa còn thêm nhiều nỗi khổ. Đường trơn như tráng mỡ. Muỗi vắt đông vô kể. Một sáng, đơn vị đang di chuyển trên đường voi thồ trên núi Voi thì tao ngộ chiến. Hai bên mới bắn nhau vài băng AK, và M16, lính Trung Đội 1 của Thượng Sĩ Ngọ đã đè lên nhau, chạy thục mạng về phiá sau. Thiếu Úy Duyên đi đầu cùng Trung Đội 1 cũng chạy bán sống bán chết. Tới chỗ tôi, anh hổn hển.

– Thái Sơn! Chạy mau! Chạy mau! Tôi dang hai tay, chặn đường, níu áo Duyên, – Dừng lại! Dừng lại! Làm gì kỳ vậy? Duyên giựt áo khỏi tay tôi, mặt tái mét, lắp bắp, – O…o… ong!… Ong vò vẽ! Chạy mau! Chạy mau! Duyên xô tôi một cái, rồi phóng đi, nhanh như bay. Tôi và hai anh cố vấn Mỹ tụt lại sau cùng. “Vo!… o…o… Vo!… o…o…Vo!..o…o…” Cha mẹ ơi! Đàn ong như một đám mây đen đặc đang ào ào kéo tới. Những con ong hung hãn lao “vèo!… vèo!” như mưa rào xuống đầu ba đứa chúng tôi. – Run! run! run!… Vừa la lên bằng tiếng Anh, tôi vừa co giò. Hai tay tôi có găng da đi rừng, tôi xòe hai tay che cổ và mặt. Những tiếng “đốp!… đốp!… đốp!” “độp!… độp!… độp!” liên tiếp nổ trên cái mũ đi rừng, làm tôi thót tim từng chặp. Tụi ong vò vẽ này đánh tàn bạo thiệt! Tôi chợt nhớ ra hai quả khói đeo trên dây ba chạc, ngay ngực. Tôi cúi người xuống, dùng răng rút đại một cái chốt an toàn. Quả khói vàng bung mỏ vịt. Tôi chạy tới đâu khói vàng mịt mù tới đó. Tôi phải nín thở, nếu không, tôi có thể chết ngộp chứ không phải chơi. Tôi chạy tới khi quả lựu đạn khói vàng hết xịt khói thì dừng lại. Đàn ong cũng không còn truy kích nữa. Tôi la lớn, – Anh Duyên ơi! Bác Ngọ ơi! Cho đại đội dừng lại. Bố trí kiểm quân!

Đại đội nhanh chóng vào đội hình. Trong đội hình đó, tôi nổi bật lên, sáng choang. Từ đầu chí chân, toàn thân tôi nhuộm khói vàng. Đi trong rừng mà ngụy trang kiểu này thì thằng địch, dù bị thong manh, cũng tác xạ trúng mình cái tróc! Kiểm quân xong, chỉ thiếu có một anh trung sĩ cố vấn Mỹ da đen. Chuyến hành quân này, toán cố vấn Mỹ chỉ có một hạ sĩ quan và một binh sĩ truyền tin, không có sĩ quan đi theo đơn vị tôi. Có ba anh lính của đại đội chậm chân, bị ong đánh cho khờ khạo, phải đi cà lết. Anh Mỹ trắng chạy sau lưng tôi cũng bị ong chơi năm bẩy mũi. Cũng may, anh ta có cặp chân dài, vừa phóng lên, anh ta đã bỏ tôi lại đằng sau. Cái ba lô của anh, đựng chiếc PRC 25 bị ghim đầy xác ong. Ong chích xong, là chết bỏ xác. Loài ong này thiệt là anh hùng! Tôi cũng bị ong đánh một phát trúng gáy. Chỉ một phát thôi cũng đủ làm cho tôi cảm thấy xương sống gây gây như muốn lên cơn sốt. Tôi ra lệnh cho đại đội dò dẫm trở lại trận địa. Lựu đạn khói đi trước, quân ta tiến theo sau. Anh trung sĩ cố vấn Mỹ da đen, to như một con bò, nằm một đống giữa đường. Anh chàng vừa rên hừ hừ vừa co giựt chân tay.

Anh cố vấn đang lên cơn sốt. Anh đau đớn, lăn lộn, vật vã. Tôi gọi y tá đại đội lên lụi cho anh ta một mũi Peniciline. Chúng tôi tiến tới vị trí chạm súng. Một cái nón cối vỡ nằm trỏng trơ trong vũng máu giữa đường. Những con ong đen đang chui rúc trong bãi óc và máu trên thi thể tên Việt-Cộng. Hắn bị trúng nhiều vết đạn trên người. Trên mặt đường voi đi, hai khẩu AK nằm cách nhau không xa, có vài vỏ đạn AK vương vãi đây đó. Hạ Sĩ Nghết, người khinh binh đi đầu đơn vị nói.

– Vừa tới khúc quanh, tui nghe tiếng người nói chuyện phiá trước, tui đưa súng lên, bóp cò liền. Tụi nó có bắn lại. Tụi nó bắn lên trời. Ông Nghết hạ được một tên tại trận. Tên thứ nhì vứt súng, nhào vào bụi. Nó đạp sập một ổ ong vò vẽ. Vò vẽ phản công, đuổi Đại Đội 1/11 chạy vắt giò lên cổ. Tôi cho một trung đội lục soát quanh triền đồi. Tên Việt Cộng thứ nhì nằm chết cách ổ ong chừng hai chục mét về hướng suối. Hắn bị thương ở ngực và đã chết trên đường thoát thân. Tôi cho người võng anh trung sĩ Mỹ đen đi theo đại đội. Chúng tôi tìm hướng chui ra một bãi cỏ tranh. Tôi gọi tiểu đoàn cho trực thăng tản thương. Ba anh lính Biệt Động Quân Việt-Nam và hai anh cố vấn Mỹ mặt mày sưng vù, miệng rên ư ử, run lập cập, theo nhau leo lên tàu về Đà-Lạt. Sau lần hành quân này, tiểu đoàn được cho nghỉ dưỡng quân vài ngày trong thị xã Đà-Lạt. Đại đội tôi đóng quân trên ngọn đồi đầu đường dẫn vào thành phố. Chỉ cần một buổi là xong việc tái tiếp tế, tái trang bị. Bốn chàng sĩ quan của Đại Đội 1/11 lại leo lên lưng con tuấn mã mang số 103472, rồ ga. Chiếc Jeep mui trần nhong nhong khắp nơi, từ Phở Đắc Tín, qua Cà Phê Tùng, tới Phở Bằng, lên Rạp NgọcLan, xuống Rạp Diên-Hồng, vào cư xá sinh viên đại học, rồi cuối cùng, về “diễn binh” quanh khu Chợ Hòa-Bình.

Những cánh phượng vỹ cuối mùa phủ đầy con đường thơ mộng bên bờ hồ Xuân Hương. Đó đây, từng cặp, dập dìu, nam thanh, nữ tú. Những bước chân vô tình đạp trên xác hoa. Tôi thấy trong số những anh kép đang cặp tay người đẹp, đi loanh quanh, hết lên đồi, xuống dốc, lại xuống dốc, lên đồi, có vài ba anh rằn ri, nón nâu… Hình như sau Tết Mậu-Thân, dân chúng Đà-Lạt hết ghét bỏ Biệt Động Quân rồi? Xe qua phố nào, tôi cũng thấy những bàn tay vẫy, những nụ cười. Xe tấp vào lề, đậu bên tam cấp dẫn xuống chợ. Thiếu Úy Duyên trao tay lái cho tài xế. Bốn chúng tôi tà tà lượn một vòng quanh bùng binh, ngắm những bóng hồng từ Sài Gòn lên. Chợ hoa rực rỡ muôn mầu. Bên đường, nhiều xe du lịch đậu nối đuôi nhau.

Tôi vừa định kéo ba ông bạn chui vào Cà Phê Tùng, thì một ông rằn ri già đứng bên đường la oang oang, – Các cha nội về đơn vị đi hành quân gấp! Các cha nội ơi! Người vừa kêu réo chúng tôi bỏ thành phố để vào rừng là ông Đại Úy Voòng Lập Dzếnh, Tiểu Đoàn Phó. Hôm ấy là Chủ Nhựt, Chủ Nhựt mà cũng không được nghỉ. Đời Biệt Động, suốt tuần lễ, ngày nào cũng là… Thứ Hai.

Chúng tôi trở lại chỗ đậu xe. Xe đi đâu mất rồi? Bà già bán chuối chiên bên đường nói với tôi, – Xe của trung úy bị Quân Cảnh kéo về Quân Trấn rồi! – Bà có thấy chú tài xế đâu không? – Cậu ấy bỏ xe đi mua cái gì đó, lúc quay trở lại thì xe đã bị kéo mất. Cậu ta sợ quá nhờ một anh đi xe gắn máy chở đi tìm xe rồi. Một chiếc Jeep Biệt Động Quân xuất hiện; tôi nhờ quá giang lên Văn Phòng Quân Trấn. Quân Trấn Đà -Lạt nằm trong một khách sạn nhìn ra Hồ Xuân Hương. Chuẩn Tướng Tư Lệnh Task Force South hiện nay kiêm nhiệm luôn chức vụ Quân Trấn Trưởng Đà-Lạt. Một ông trung úy Quân Cảnh đã tiếp tôi tại phòng trực nơi tầng dưới cùng.

Tôi hỏi ông trung úy rằng, Quân Cảnh có giam chiếc Jeep 103472 Biệt Động Quân của tôi không? Ông ta chỉ tay về phía bãi đậu xe, cả chục chiếc Jeep đậu sát nhau. Chiếc 103472 mui trần của tôi nằm phía ngoài cùng. Trên xe còn khẩu M 16 của tài xế cùng cái máy PRC25. – Xe của trung úy chở máy móc, vũ khí mà đậu khơi khơi giữa chợ, không có người canh gác, nên chúng tôi kéo về giam ở đây.

– Trung úy cho tôi biết thủ tục nhận lại xe ra làm sao được không? – Thường thì những xe bị kéo về đây chỉ được trả về đơn vị sau một tuần lễ. Chủ xe bị ký củ, tài xế bị nhốt trong phòng kỷ luật, chỉ được tha vào ngày xe được thả ra. Thiếu Tướng Quân Trấn Trưởng ra lệnh, cứ xe nào đậu trong phố không có tài xế, hoặc xe chở đàn bà trên ghế trưởng xa là tóm ngay. Chiếc Jeep đậu kế xe của trung úy là xe của Trung Tá Ry, Tham Mưu Trưởng Tiểu Khu Tuyên Đức đó! Xe của Trung Tá Ry bị bắt lúc đang chở bà Ry đi chợ; bà Ry ngồi trên ghế trưởng xa. Ông Ry thì tôi biết, vì ông ấy là thầy tôi. Năm tôi còn học trong trường thì ông Ry là Thiếu Tá Trưởng Khoa Công Binh. Thiếu Tá Ry đã dạy Khóa 20 chúng tôi kỹ thuật bắc cầu phao, lái xuồng đổ bộ, cách gài bẫy, gài mìn, tháo mìn, phá cống, phá cầu, chế tạo liều thuốc lõm chống chiến xa, phá lô cốt, hạ cây rừng, phá nòng đại bác… Tôi nhủ lòng, để hôm nào rảnh, hành quân về nghỉ, tôi sẽ ghé thăm ông. Tôi hỏi, – Thằng tài xế của tôi đã tới đây, nó có gặp trung úy không vậy? – Anh ta đang bị nhốt trong phòng kỷ luật. – Tôi muốn gặp nó. Anh cho tôi gặp nó đi.

Viên trung úy dẫn tôi sang phòng bên. Khoảng mười cậu tài xế đang bị cấm túc ở đây. Giày của họ bị rút hết dây. Quân Cảnh sợ họ quẫn trí, dùng dây giày thắt cổ tự tử, nên bắt họ đi giày không dây. Thằng đồ đệ ruột Châu Minh Đạt của tôi đang ngồi trò chuyện vui vẻ cùng những anh bạn “giày không dây” mới quen của nó.
– Ông thày ơi! Em vừa vào tiệm mua được hai bao Lucky cho ông thày, quay ra thì xe đã bị tụi nó kéo đi mất rồi. Tụi nó tống em vào đây để chờ ông thày tới lãnh mới thả ra. Mấy thằng Quân Cảnh Đà-Lạt này phách lối quá, để hôm nào tụi em lừa lừa, lụi cho tụi nó vài dao, cho biết đời. Tôi nạt, – Im đi! Rồi quay sang anh trung úy Quân Cảnh tôi nói, – Anh trả dây giày cho nó. Tôi lãnh nó ra. – Không có lệnh của Thiếu Tướng, tôi không thả anh ta ra được. – Anh dẫn tôi lên gặp Chuẩn Tướng.

Hình như lúc đó mặt tôi “ngầu” lắm hay sao mà khiến anh Quân Cảnh cuống quít, – Để tôi lên trình. Anh ta chạy nhanh lên lầu rồi xuống ngay, – Thiếu Tướng nói, lính gì thì lính, vi phạm kỷ luật thì thọ phạt đủ ngày mới thả. – Vậy thì anh lên trình với Chuẩn Tướng rằng nếu không thả xe, thả người, ngày mai tôi sẽ không đi hành quân nữa. Tôi sẽ dẫn đại đội tới đây, vào phòng kỷ luật ngồi cho đủ một tuần lễ mới ra. Trên lầu có tiếng người vọng xuống, – Dưới đó có chuyện gì mà ồn ào thế? – Thưa Thiếu Tướng! Có một anh trung úy Biệt Động Quân đang làm loạn ở dưới này. Anh ta cứ đòi gặp mặt Thiếu Tướng, cứ đòi lãnh tài xế và xe ra. – Cho nó lên đây! Tôi vừa dợm chân định chạy lên gác, thì anh Quân Cảnh níu tay, – Anh để lại khẩu Colt trên giá súng kia, đi lên người không. Có lệnh cấm mang vũ khí vào phòng Tư Lệnh. Tôi vứt cái dây ba chạc xuống đầu cầu thang rồi phóng lên lầu. Vừa ló đầu vào phòng tôi đã nghe “Niên Trưởng” cười hì hì, – Pháp bất vị thân! Ngày mai chú mi tới Quân Trấn thọ phạt một tuần. Hết một tuần mới được tha. Tôi tưởng niên trưởng nói thật, nên cũng lễ phép trả lời, – Tuân lệnh! Rồi tôi nhìn ông, thắc mắc.

– Mai đến phiên tôi nhảy đầu. Nếu không có tôi thì ai thay tôi chỉ huy hai Đại Đội 1 và 3? – Ngồi xuống đi! Tôi ngồi xuống cái ghế đặt trước bàn của niên trưởng Ân. Niên trưởng của tôi chìa cho tôi xem một tờ giấy đánh máy, một bản viết bằng Anh Ngữ. Đó là danh sách đề nghị ân thưởng huy chương Hoa-Kỳ cho những chiến sĩ hữu công trong chiến dịch, trên đó, tên tôi đứng đầu. Niên trưởng của tôi gõ gõ cán bút xuống mặt bàn, rồi nhìn tôi, thật ôn tồn, – Sĩ Quan Võ-Bị, cũng như Thiếu Sinh Quân, là những người đã chấp nhận một đời theo nghề lính. Đã là một người lính nhà nghề, thì trước hết phải yêu nghề. Đã là một sĩ quan thì đương nhiên là một cấp chỉ huy.

Một cấp chỉ huy hoàn hảo phải hội đủ những đức tính cần thiết của một người chỉ huy đó là: Can trường, thao lược, liêm khiết, và nhân ái. Những đức tính can trường, thao lược, và liêm khiết là tự mình, do mình. Còn đức nhân ái lại liên hệ tới người khác, nhất là với thuộc cấp. Nhớ đừng bao giờ bỏ rơi thuộc cấp. Đừng bao giờ bỏ rơi anh em. Nếu thuộc cấp phạm lỗi, hãy tha thứ cho họ, một lần, hai lần, thế nào họ cũng đổi thay. Quân đội là một tập thể qui tụ hàng trăm thành phần. Do đó, có lúc mình phải duy trì kỷ cương bằng kỷ luật và mệnh lệnh. Nhưng cũng có lúc chúng ta phải chỉ huy bằng tình thương từ trái tim. Cái khó là làm sao biết được, lúc nào nên chỉ huy bằng khối óc, lúc nào nên chỉ huy bằng trái tim. Ông liên đoàn trưởng của chú đã kể cho anh nghe đầy đủ về lý lịch và thành tích của chú. Rồi qua những lần tiếp xúc, anh cũng biết tính khí và khả năng của chú rồi. Đừng nản lòng, hãy cố gắng lên,vàng ròng không ngại lửa. Chú có hiểu ý anh không?

– Vâng! Tôi hiểu ý niên trưởng rồi. Cám ơn niên trưởng về những lời khuyên vừa rồi. Thì ra ông niên trưởng này đã được báo biết chuyện tôi bị lao đao như thế nào sau Vụ Phật Giáo Miền Trung năm 1966, chuyện tôi bị bóc lon, bị treo lon vì theo Tướng Nguyễn Chánh Thi… Hôm đó tôi còn được ngồi nghe ông kể vài chuyện liên quan tới đời lính của ông. Kỷ niệm thời Thiếu Sinh Quân, kỷ niệm thời Nhảy Dù. Mỗi chuyện ông kể, là một bài học cho tôi nhớ mà áp dụng sau này.

Chiều đó, anh trung úy Quân Cảnh trố mắt, ngạc nhiên khi thấy ông Tướng Quân Trấn Trưởng đích thân tiễn chân một trung úy cắc ké của Biệt Động Quân ra tận xe. Rồi ông Tướng còn đứng lặng nhìn theo bóng chiếc xe mang số 103472 càng lúc càng xa dần. Ngày hôm sau… Chúng tôi chạm địch trong rừng thông cách thác Prenn tám cây số về hướng Tây. Địch hai chết, ta một bị thương là Binh Nhứt Nguyễn Văn Phong thuộc Trung Đội 3. Sương mù dày quá, trực thăng không tìm ra đám khói vàng đánh dấu bãi đáp để bốc thương binh. Chúng tôi đành leo lên một cao điểm để qua đêm. Người lính bị thương nằm trên võng, bên đống lửa.

Viên đạn súng trường trúng đùi, chạm xương, nằm trong bắp thịt. Một ống quần của anh đã bị quân y xẻ dọc để tiện băng bó. Y tá đại đội đã làm “ga-rô” nơi phía trên của vết thương. Tôi thấy đùi anh như đang sưng tấy lên. Tôi nhẹ lay đầu võng của Phong, – Chú thấy trong người ra sao? – Em khoẻ mà! Thái Sơn đừng lo. –
Chú cố gắng chịu đau qua đêm. Sáng mai anh xin trực thăng đưa chú về Đà-Lạt. – Khuya rồi! Ông thầy đi ngủ đi! Lấy sức. Mai ông thầy còn phải lội nữa mà! Tôi đưa ca cà phê nóng cho Phong, – Chú uống cho khỏe. – Cám ơn Thái Sơn! Sau một hớp cà phê, Phong bắt đầu tâm sự, – Ngày Mùng Một Tết, trung úy bị thương nặng, tụi em lo quá! Tụi em chưa kịp vào nhà thương thăm trung úy, thì đại đội đã bị đưa lên Đà-Lạt đánh nhau. Tụi em chờ mãi không thấy trung úy trở về. Có người còn đưa tin rằng trung úy đã ra loại hai, không trở lại đơn vị tác chiến nữa.

Tới khi ông Trung Úy Lương về chỉ huy đại đội thì tụi em tin chắc là trung úy đã đi luôn rồi. Tụi em buồn quá, bàn nhau sẽ leo xe đò về SàiGòn đào ngũ. Hôm tiểu đoàn chấm dứt hành quân vùng Đơn Dương rút về nghỉ trong đồn điền Michelin, em với thằng Đạt đã thay “civil”, chui lên núp dưới sàn xe be chở cây. Dự trù tới Phương-Lâm thì nhảy xuống, chuyển sang xe Lamb về Hố Nai. Nhà bác em ở Hố-Nai. Đâu ngờ, lúc xe be đi ngang cổng trường Nông Lâm Súc, Blao, em thấy trung úy đang đứng nói chuyện với đại úy tiểu đoàn trưởng, em nghĩ trung úy đã xuất viện, về lại đại đội, nên em và Đạt nhảy xuống xe, bỏ ý đào ngũ. Phong chợt cười khì, – Nếu hôm đó em không nhìn thấy trung úy thì bây giờ em đã ở nhà, lấy tên cũ, khai sinh cũ, đi học lại lâu rồi, đâu có bị thương gãy chân nằm đây! Phong bóp bóp bàn tay tôi mấy cái, rồi nghẹn ngào, – Trung úy có nhớ ngày đại đội mình leo Ngô-Sơn không? Ngày đó trung úy giúp em, vác thùng đạn đại liên 30 và khẩu Garant lên núi… – Ừ! Nhớ!… Ngày đó…

Có một chú bé mặc rằn ri ngồi khóc bên tảng đá lớn nơi triền núi. Ngọn núi vừa cao, vừa dốc. Ông đại đội trưởng leo tới chỗ cậu bé, – Sao ngồi khóc đây? – Trình trung úy em mệt lắm “gồi”! Thùng đạn nặng quá, em vác “hổng” nổi. – Rồi! Đưa cây Garant đây! Đưa thùng đạn đây! Chút nữa lên tới đỉnh, nhớ đến ban chỉ huy đại đội để nhận lại. Khẩu Garant cao gần bằng thằng bé. Còn thùng đạn này là một trong bốn thùng đạn tăng cường cho khẩu đội đại liên, được giao cho trung đội trực, đang di chuyển cùng ban chỉ huy đại đội. Tôi đã quàng vai khẩu Garant M1, xách thêm thùng đạn đại liên leo lên núi. Chú bé giờ đó chỉ còn cái ba lô nhẹ tênh trên vai.

Nhưng chú vẫn vừa đi, vừa khóc rấm rứt không thôi. Khi cậu bé tới nhận lại súng đạn, tôi hỏi, – Này nhỏ! Tên gì? Mấy tuổi rồi? – Trình trung úy, em là Nguyễn Đăng Phong, em mười sáu. Em lấy khai sanh giả, mang tên Nguyễn Văn Phong, tăng hai tuổi, tình nguyện đăng lính Biệt Động Quân. Tôi biết và nhớ tên của nhỏ này từ ngày đó. Bây giờ nó đã cao lớn, mập mạnh hơn nhiều, so với ngày nó mới về đơn vị. Nó đã lên Binh Nhứt và có vẻ chững chạc lắm. Khi nói chuyện, nó cũng bỏ bớt những tiềng “gồi”, “hổng”, mà thay vào đó là “rồi”, “không”… Tôi vỗ nhẹ lên vai Phong, mồi cho anh một điếu thuốc, rồi lên võng. Nửa đêm, nghe tiếng rên, tôi lại chui vào lều y tá Đức, – Gì đó Đức? – Trình trung úy. Vết thương làm độc. Thằng Phong đang lên cơn. Nó bị sốt mê man, ngất đi hoài. Nghe tiếng tôi, Phong giơ tay, – Trung úy cho em nhờ chút! Tôi nhích lại đầu võng của Phong. Phong đưa cho tôi cái bóp của anh, – Đây là giấy tờ và lá thư em mới viết hôm qua.

Nếu em chết trước khi trực thăng tới. Em nhờ trung úy gửi giùm cho tía má em . – Đừng nói gở! Gắng chút nữa trời sáng, có máy bay, vài phút là về tới Đà-Lạt. Phong ngước mặt nhìn tôi, dưới ánh lửa, tôi thấy nước mắt nó dàn dụa, – Trung úy! Em thấy ngực nặng như chì, khó thở lắm rồi. Em không biết nói gì để tỏ lòng yêu quý của em đối với trung úy. Trung úy… đừng quên em nhé! – Ừ! Không quên! Anh không quên chú đâu… Bên bếp lửa chập chùng, tôi ngồi bó gối nơi đầu võng của người thương binh đàn em. Đêm dài như không muốn sáng. Lúc tỉnh, lúc mê, khi gà rừng eo óc gáy, Binh Nhứt Nguyễn Văn Phong không tỉnh lại nữa. Tôi cầm tay thằng em, tay nó đã lạnh giá. Tôi vuốt mái tóc cho thằng em, – Ừ! Không quên! Anh không quên chú đâu…

Tháng Chín ngậm ngùi…

Lại một cuộc hành quân chấm dứt, chúng tôi rời Buôn Ma Nôi vào buổi chiều. Pháo binh Hoa-Kỳ được cơ giới vận chuyển, còn đại đội tôi phải đi bằng chân. Tối mò chúng tôi mới tới làng Klong A bên Quốc Lộ 20. Vì sân nhà nào cũng đầy phân trâu, phân bò, nên tôi đành đóng quân qua đêm trên một gò đất bên đường. Mười giờ sáng hôm sau bốn chiếc GMC tới đón chúng tôi về phi trường Liên-Khương, nằm ứng chiến.

Chiều hôm ấy Trung Tá Sâm ghé thăm và báo cho tôi một tin không vui: “Anh Đào vừa tử nạn trực thăng ở Đức-Lập!” Nghe tin này, tôi lặng người đi vài phút. Tôi thấy hình như đôi mắt ông Sâm ướt lệ. “Tội nghiệp anh Ân!” giọng ông hơi run. Tôi biết ông Sâm và ông Ân có mối quan hệ gì đó với nhau. Bề ngoài họ là thượng cấp, thuộc cấp. Nhưng bên trong, họ là bạn cùng trang lứa, thân thiết lắm. Trung Tá Sâm là một cấp chỉ huy rất đặc biệt, mười người dưới quyền thì chín người sợ ông và ghét ông. Tôi là người ngoại lệ, lúc nào cũng được ông mến thương và thân thiết, chẳng biết vì sao? Bốn mươi năm sau chiến tranh, có lần trò truyện bằng điện thoại với anh Chung Thanh Tòng, người từng làm phụ tá cho Trung Tá Sâm một thời, tôi nghe anh Tòng cười hì hì, – Ông Sâm khó thấy mồ! Làm phó cho ông ấy mà tôi cũng sợ ổng chết luôn.

Ông Sâm chỉ nể có mình chú, thương có mình chú. Có lẽ tại chú vừa giỏi, vừa đứng đắn. Có lẽ Trung Tá Sâm đã giới thiệu tôi với Tướng Ân, nên tôi được ông Tướng này để ý tới cũng nên? Thời gian hành quân dưới quyền Task Force South, vài anh bạn cùng khóa của tôi vừa thấy bóng dáng Anh Đào đàng xa đã lo tìm đường lủi. Có anh đang lái xe lạng lạng quanh Hồ Xuân Hương, ngửng mặt lên, phát giác ra có cái đầu húi cua trên hiên lầu 2 của Quân Trấn Đà-Lạt thì lo mau mau vặn tay lái quẹo lên hướng Nha Địa Dư ngay. Có bạn đang hiên ngang, mũ dắt cầu vai, khoác tay đào dạo phố, bỗng thấy xe Quân Cảnh Sư Đoàn 23 chạy trước, theo sau là chiếc Jeep với cái bảng đỏ một sao trắng, bèn giả đò cúi xuống cột lại dây giầy để dấu mặt. Với Tướng Ân, có lẽ tôi là một ngoại lệ. Có lẽ vì thế mà ngày đó, khi nghe tin Anh Đào tử nạn đã có hai người khóc, đó là Trung Tá Sâm và tôi.


Vương Mộng Long, K20
Seattle tháng Tư năm 2017
nguồn: https://buonvuidoilinh.wordpress.com/2017/12/17/task-force-south-va-nien-truong-cua-toi/#more-3620

BachMa
02-03-2018, 08:04 PM
Chào Cô ... Em Gái Biệt Kích Dù
Bao Bất Đồng

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1515705530-ChaoCoEmGaiBietKichDu.jpg
LĐ81 Biệt Cách Dù trở về hậu cứ Lai Khê từ chiến địa An Lộc, 1972

Nửa đêm về sáng... Bao Bất Đồng đang thả hồn bay bướm mà mơ mình là Triệu Tử Long, đang thả phách lang thang mà mộng mình là Võ Tòng đả hổ. Bỗng có tiếng điện thoại réo inh ỏi. Bèn bốc máy, cứ ngỡ là mấy ông bạn đời chợt nổi cơn đồng bóng nên gọi tới để kháo chuyện thời sự. Nào ngờ bên kia đầu giây lại là một trong những con phượng hoàng của Quân Lực: cựu đại-tá Phan Văn Huấn, nguyên chỉ huy trưởng Liên-Đoàn 81 Biệt-Kích-Dù.

Bao mỗ cực kỳ cảm khái nên vội nhảy phóc xuống đất, miệng vừa hô nghiêm, tay vừa giơ lên chào, xem ra rất là lễ nghi quân kỷ. Rằng :
- Xin trình diện Đại tá.

- Miễn lễ. Nhưng hãy vứt giùm ta vào sọt rác hai tiếng "Đại tá".

- Bẩm, đệ tử không dám.

- Sao lại không dám. Thời buổi này đến vua mà còn bị mời xê ra chỗ khác chơi huống chi là tướng, tá...

- Vậy thì bẩm sư phụ.

- Càng không được. Ta gốc chỉ là con đom đóm trong số một triệu quân đứng dưới cờ mà lại tự xưng mình là sư e thất kính với các bậc tiền bối. Bây giờ giữa chúng ta, những người đã từng mặc áo lính chỉ còn là anh với em, diễn nôm ra là huynh đệ. Ta là huynh, mi là đệ. Nhận rõ ?

Bao Bất Đồng bắt rơm rớm nước mắt :
- Rõ ! Thưa... Anh Cả.

- Tốt. Ta từ bên xứ Huê Kỳ gọi qua, thứ nhứt là để hỏi thăm các bạn hữu trong binh chủng Lực Lượng Đặc Biệt, các chiến hữu trong Liên-Đoàn 81 Biệt-Kích-Dù, thứ nhì là cảm ơn ký giả Chu Văn và tờ VNTN, đã viết và đã đăng tải thiên ký sự để đời "Huyền sử ca Liên-Đoàn 81 Biệt-Kích-Dù" ròng rã suốt một năm.
Đem in thành sách cũng xấp xỉ 300 trang khổ lớn.

- Bẩm, đó chẳng qua là bổn phận.

Anh Cả cười ha hả :
- Chí khí, chí khí... đúng là tác phong của Biệt Kích. Vẫn biết là bổn phận, nhưng mấy ai trong cõi lưu vong còn cho chữ nghĩa xuống đường để ghi lại những chiến tích của một thời xưa lừng lẫy của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòạ Bút ký "Huyền sử ca Liên-Đoàn 81" là một bản văn đáng đồng tiền bát gạo. Là một thông điệp máu để cho thế hệ trẻ hôm nay biết cha ông của họ ngày trước đã chiến đấu như thế nào.

- Xin đa tạ.. xin đa tạ.

Anh Cả hỏi :
- Mi còn nhớ... cô giáo Pha ?

- Bẩm, là cô gái An Lộc. Kẻ đã bốc hai câu thơ bất hủ :

"An Lộc địa sử lưu chiến tích
Biệt-Kích-Dù vị quốc vong thân".

- Đúng ! Xưa, năm mùa hè đỏ lửa, trong tiếng đạn pháo vỡ trời của Bắc quân, cô Pha đã tận mắt chứng kiến sự hy sinh cao cả của những người lính Biệt-Kích mà xuất thần cảm đề được 2 câu thơ tuyệt cú đó.

- Hoan hô cô giáo Pha.

- Phải nói là muôn năm cô giáo Pha. Bởi chính từ hai câu thơ đó mà cả nước biết danh Biệt-Kích-Dù, mà khiến hàng triệu người phải nhỏ lệ khóc cho 62 chiến sĩ mũ xanh đã nằm xuống trong mặt trận Bình Long.

- Hay thật !

- Hay quá đi chứ ! Vậy đố mi, giờ cái cô giáo vĩ đại ấy đang ở nơi mô ?

- Bẩm, chắc đã được lên... thiên đàng.

- Thiên đàng ???

- Còn tục gọi là đã sớm tiêu diêu nơi miền cực lạc. Bởi, ngay cả những người lính thép, sau trận đánh, cũng chẳng còn được bao người nguyên vẹn hình hài, đừng nói là dân, đừng nói là một người con gái.

- Lầm chết, lầm chết ! Được sự che chở của lực lượng Biệt Kích, cô Pha đã thoát nạn trong đường tơ kẽ tóc. Hiện nay, cô đã có gia đình và đang sống phây phây ở Mỹ.

- Phúc đức thay... phúc đức thay.

- Quả đúng là phúc đức. Thoát chết được trận An Lộc phải là phúc ông Bành Tổ. Mới đây hai vợ chồng có đến viếng ta. Chị, giờ đã hơn tứ tuần, nhưng vẫn còn duyên dáng, nhưng vẫn còn xinh đẹp, và nhất là vẫn còn nặng ân nghĩa với Biệt Kích Dù.

- Bẩm Anh Cả, em út còn nhớ... ngoài hai câu thơ "An Lộc địa sử lưu chiến tích, Biệt Kích Dù vị quốc vong thân", hồi đó, cô giáo Pha còn quỳ trước nghĩa trang Biệt Kích tại An Lộc, vừa khóc, vừa dùng ngón tay vẽ trên cát một bài thơ ???

- Mầy số một ! Lần gặp lại mới đây, cô Pha có đọc lại cho ta nghe. Thơ rằng...

"Anh Biệt Kích hề ngàn xưa bất hứa
Em thục nữ hề trong trắng ngoài xinh
Ta quen nhau hề Lý Bạch lưu linh
Khi chợt tỉnh hề khối tình trong mộng
Em chỉ muốn hề thương chàng qua bóng
Để rồi mơ hề rồi mộng rồi mơ
Biệt Kích ơi hề tâm ý thành thơ
Xin gửi đó hề chừ thương nhớ mãi".

Đọc xong, Anh Cả hỏi :
- Hay không ?

- Hết xẩy.

- Chỉ có đi lính, nhất là lính Biệt Kích thời mới cảm được chất thơ. Mi họa được không ?

- Đệ vốn kiến văn dốt nát. Ngâm thì có thể chứ họa thì xin lỗi. Nhưng đệ cũng có một bài thơ xin nhờ đại huynh chuyển lại cho cô giáo Pha...

- Của ai ?

- Của một người lính Biệt Kích vô danh. Anh là một hạ sĩ trẻ của biệt-đội I. Tháng 1/75, theo Đường Sơn Đại Huynh Vũ Xuân Thông và Mãnh Long Quá Giang Nguyễn Sơn nhảy vào Phước Long. Bị thương và bị bắt. Trong giờ phút cuối cùng của đời người, anh đã cố viết được một bài thơ rất cảm động.

Anh Cả Huấn hỏi như khóc :
- Vậy là thằng em đã hy sinh ?

- Vâng, anh ấy đã chết sau đó 8 ngày và bài thơ đã được giao lại cho một người bạn đồng cảnh ngộ.

- Và anh bạn ấy đã học thuộc lòng ?

- Dạ, y chang. Cách đây không lâu, em út do một sự tình cờ gặp lại đấng bạn đó và thế là... có bài thơ.

- Tựa đề ?

- Tựa là "Gửi em... cô gái Bình Long". Thơ rằng :

"Nhớ theo Hổ Xám vào An Lộc
Đội pháo trên đầu như đội mưa
Múa kiếm đứng ngăn thù cửa Bắc
Mà tưởng mình là Nguyễn Huệ xưa.

Trong tiếng đạn reo mù khói trận
Bỗng gặp em, cô giáo như mơ
Em ngồi rũ tóc trong hầm tối
Đọc tiếng kinh cầu, như đọc thơ".

"Lạy Chúa con là người ngoại đạo
Nhưng tin có Chúa ngự trên trời
Chúa ơi, Biệt Kích là thi sĩ
Thi sĩ cầm gươm như đi chơi".

"An Lộc địa sử lưu chiến tích
Biệt Kích Dù vị quốc vong thân"
Lời thơ hôm ấy sao hay quá
Nghĩa trang buồn như tiếng lá rơi.

Pha hỡi, bây chừ em đâu nhỉ ?
Cô giáo hôm xưa đã lấy chồng ?
Chúc em hạnh phúc răng long bạc
Còn anh hôm nay vào Phước Long.

Anh theo quân vào nơi hiểm địa
Hét tiếng xung phong đến vỡ trời
Bắn cháy xe tăng như uống rượu
Mà tưởng em đang rót chén mời.

Bóng địch chập chùng nơi cửa ngõ
Ba trăm quân đánh một sư đoàn
Mãnh hổ nan địch quần hồ bại
Anh thối binh về mà thấy oan.

Nửa chừng lại gặp cơn bão lửa
Toán Delta bị kích giữa đàng
Ôi lại Phước Long lưu chiến tích
Anh bị trúng đạn giữa rừng hoang.

Và chừ giờ đang ngồi bó gối
Tay xích chân xiềng trong trại giam
Máu bụng vẫn tuôn ra như suối
Anh biết mình thôi thế là tan.

Nhưng giây phút cuối anh vẫn nhớ
Màu áo hoa dù nón mũ xanh
Nhớ dáng em xưa cô giáo nhỏ
Họa bút thành thơ như tiếng oanh.

"Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lại chinh chiến kỷ nhân hồi"
Xá gì một cõi đi về đất
Biệt Kích lưu danh, Biệt Kích đời".

Và ơi.. cô giáo Pha ! Giờ, ở cõi trần thế chả hiểu cô có còn nhớ người lính Biệt Kích năm xưa ấy ? Thôi thì chào cô.. em gái Biệt Kích Dù !

Bao Bất Đồng
nguồn: http://www.nvbonphuong.com/forums/showthread.php?248239-Chào-Cô-Em-Gái-Biệt-Kích-Dù

BachMa
02-06-2018, 08:36 PM
Đại úy Trần Thế Vinh

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1517860913-DaiUy_TranTheVinh_01.jpg
Trong trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 khi cùng cả nước ra sức ngăn chận cuộc xâm lăng của Bắc quân trên cả ba mặt trận chính Quảng Trị, Komtum và Bình Long, các đơn vị và chiến sĩ KQVNCH đã tạo được nhiều thành tích chói ngời cho quân sử Không Quân Việt Nam Cộng Hòa góp phần quan trọng trong những chiến công giữ vững miền Nam. Tuy nhiên trong năm này Không Quân VNCH cũng phải chịu nhiều mất mát và một trong những cái tang gây nhiều tiếc thương cho cả trong lẫn ngoài Quân Chủng là sự ra đi của Đại úy Trần Thế Vinh Phi Đoàn 518 Phi Long trên vùng trời Quảng Trị.

Đại úy Trần Thế Vinh sinh ngày 27-9-1946 tại Ninh Cường, Nam Định, Bắc Việt. Cùng gia đình di cư vào Nam năm 1954. Anh gia nhập Không Quân cuối năm 1964 khi đang theo học Đại học Luật Khoa.

Sau khi mãn khóa hoa tiêu quan sát tại quân trường Nha Trang, Trần Thế Vinh được gửi theo học khóa phi công khu trục AD-6 tại Hoa Kỳ. Anh tốt nghiệp thủ khoa khi cùng học với nhiều phi công ngoại quốc khác. Được coi là một phi công “AS” sau các bậc đàn anh như Quốc, Chấn, Tế, Huề, Du . . . Về nước Trần Thế Vinh phục vụ tại Phi Đoàn 518 Phi Long, bên cạnh những bậc đàn anh lừng danh qua những phi vụ Bắc phạt. Anh lần lượt mang cấp bậc Thiếu úy từ tháng 3 –1967, thăng Trung úy vào tháng 3-1969. Đại úy từ tháng 1-1972, giữ chức Phi tuần trưởng A-1 và từng được thưởng rất nhiều huy chương các loại, đáng kể nhất là những huy chương Anh Dũng và Phi Dũng Bội tinh các cấp cùng Chiến Thương Bội tinh.

Khi chiến cuộc vùng Trị Thiên sôi động vì Bắc quân vượt vĩ tuyến mở cuộc tấn công đại quy mô vào Quảng Trị. Ngày 01-4-1972 Phi đoàn 518 được biệt phái ra Sư Đoàn 1 KQ để trực tiếp yểm trợ cho các cánh quân vùng địa đầu giới tuyến, và ngay lập tức Trần Thế Vinh hăng say tình nguyện tham dự tất cả các phi vụ không ngơi nghỉ bất kể thời tiết xấu như thế nào và phòng không địch đan kín bầu trời.

Ngày 2-4-1972 Trần Thế Vinh thực hiện phi vụ đầu tiên tại vùng giới tuyến, hạ 5 chiến xa Bắc quân ở phía bắc Đông Hà, phi cơ của anh bị trúng đạn phòng không 12 ly 7 bên cánh trái nhưng anh vẫn trở về căn cứ an toàn. Liên tiếp 3 ngày tiếp theo sau đó, ngày nào Đại úy Vinh cũng cất cánh bay và ngày nào cũng bắn hạ được xe tăng địch. Tổng cộng chỉ trong vòng 3 ngày 2, 3 và 4-7-1972 anh hạ tất cả 20 chiến xa Cộng quân, nhiều lần phi cơ bị trúng đạn phòng không nhưng anh vẫn trở về căn cứ an toàn.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1517860926-DaiUy_TranTheVinh_02.jpg

Để động viên tinh thần chiến đấu của quân đội. Bộ Tư Lệnh KQ/VNCH đã phối hợp với Cục Tâm Lý Chiến thực hiện một chương trình truyền hình về các chiến công của quân chủng phát trên đài truyền hình quốc gia tại Sài Gòn vào hai ngày 7 và 8-4-1972. Trong chương trình này Thiếu tá Lê Quốc Hùng, Phi đoàn trưởng PĐ 518 đã giới thiệu Đại úy Trần Thế Vinh là phi công anh dũng và xuất sắc nhất của đơn vị. Ông hứa với khán giả rằng trong tuần lễ kế tiếp sẽ đưa Đại úy Vinh về giới thiệu trực tiếp với công chúng. Trong khi mọi ngườI hân hoan và nóng lòng chờ đợi được thấy mặt viên phi công anh dũng một mình trong ba ngày liên tiếp bắn hạ 20 chiến xa CS Bắc Việt tại Quảng Trị thì bất ngờ sáng ngày 9-4 Đại úy Trần Thế Vinh gãy cánh trong khi thi hành phi vụ khẩn cấp giải vây cho căn cứ Phượng Hoàng lúc ấy do Tiểu đoàn 6 Thủy Quân Lục Chiến phòng thủ đang bị Cộng quân vây chặt và tấn công dữ dội bằng pháo binh, chiến xa và bộ quân.

Cùng Phi tuần viên Đại úy Phan Công Định, phi tuần trưởng Đại úy Trần Thế Vinh cất cánh rời phi trường Đà Nẵng vào lúc 8 giờ sáng Chủ nhật 9-4 trong lúc thời tiết rất xấu, trần mây rất thấp. Tầm nhìn xa không quá 50 mét khiến Đại úy Vinh đã quyết định áp dụng chiến thuật táo bạo là cả hai phi cơ bay rất thấp gần đến mục tiêu mới bốc lên cao và từ đó lách mây đâm xuống oanh kích để tạo yếu tố bất ngờ. Chiến thuật gan dạ nhưng đầy liều lĩnh này đã khiến địch quân không kịp trở tay và các chiến xa Cộng sản không thể tránh kịp phơi mình làm mục tiêu ăn bom và có 4 chiến xa trúng bom từ phi cơ của Đại úy Vinh ngay khi anh vừa đâm bổ xuống. Tuy nhiên vì xuống quá thấp, phi cơ của anh đã bị trúng đạn phòng không và bốc cháy không kịp bay ra khỏi khu vực nguy hiểm. Đại úy Phan Công Định đã báo cáo phi cơ của Đại úy Vinh đâm xuống đất và không thấy có chiếc dù nào bay ra.

Đại úy Trần Thế Vinh, Chim Thiêng đã bỏ trời xanh, bỏ người tình bỏ bạn bè . . . Chim Thiêng đã về ngàn. . . Vinh đã anh dũng hy sinh đền nợ nước khi tuổi đời chưa tròn 26. Anh ra đi trong sự xúc động của cả nước, từ dân đến quân, cả trong lẫn ngoài quân chủng. Chiến tích một mình trong một tuần lễ hạ 21 chiến xa địch đã khiến anh trở nên một huyền thoại có thực của Không Lực VNCH. Ngay sau đó chân dung Đại úy Trần Thế Vinh xuất hiện trên những tấm bích chương cổ động nhằm nâng cao tinh thần chiến đấu của quân dân được trưng bày khắp mọi ngả đường trên toàn quốc. Chưa bao giờ hình ảnh và tên tuổi một phi công được nhắc đến với lòng tiếc thương yêu mến mãnh liệt như thế !


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1517860939-DaiUy_TranTheVinh_03.jpg

Đại úy Trần Thế Vinh sống mãi trong Quân Sử hào hùng của Không Quân VNCH và Quân Lực VNCH !


Bài Vinh Thăng Cho Một Loài Chim (Thái-Thanh hát)
Trầm-Tử-Thiêng viết cho Đại úy Không Quân Trần-Thế-Vinh gãy cánh tại Đông Hà. Mùa Hè Đỏ Lửa 1972
https://www.youtube.com/watch?v=J5z4Q9bdORM

BachMa
02-09-2018, 01:33 AM
Người Giữ Chìa Khóa Kho Vàng
Huỳnh Bửu Sơn

LTS.- Người giữ chìa khóa kho vàng lúc đó là ông Huỳnh Bửu Sơn - làm việc trong ban lãnh đạo Nha Phát Hành Ngân Hàng Quốc gia. Dưới đây là hồi ức của ông về cuộc kiểm kê kho vàng lần cuối cùng trước khi bàn giao cho chính quyền mới.

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1515705545-ChiaKhoaKhoVang_01.jpg
Hình minh họa

Khi lịch sử sang trang Sài Gòn ngày 30-4-1975

Đó là những giờ phút mà sau này tôi mới thấy hết ý nghĩa trọng đại của nó đối với lịch sử dân tộc, nhưng vào lúc đó tôi vẫn còn chưa hết bàng hoàng.

Những ngày đầu tháng 5-1975, tôi vào trình diện tại Ngân Hàng Quốc Gia ở 17 Bến Chương Dương cùng các đồng nghiệp khác, chỉ thiếu vắng một vài người. Chúng tôi được lệnh của Ban Quân Quản Ngân Hàng Quốc gia là chờ phân công tác. Trong khi chờ đợi, mỗi ngày mọi người đều phải có mặt tại cơ quan.

Phải nói đó là những ngày rất thảnh thơi đối với tất cả anh em chúng tôi, hầu hết ở độ tuổi trên dưới ba mươi. Chúng tôi vui vẻ, yên tâm. Thái độ của các anh cán bộ trong Ban Quân Quản rất lịch sự, đúng mực nhưng khá xa cách. Vào thời điểm đó, nhiều người trong chúng tôi chưa nghĩ đến tương lai như thế nào. Mong muốn của tôi cũng như những người khác vào lúc đó là an ninh trật tự sẽ được vãn hồi, mỗi người sẽ có một vị trí làm việc trong chế độ mới và tiếp tục đóng góp theo khả năng của mình cho xứ sở.

Cuối tháng 5-1975, chúng tôi được lệnh trình diện tập trung đi học tập cải tạo tại Trường Nữ trung học Gia Long (bây giờ là Trường Nguyễn Thị Minh Khai). Nhóm viên chức Ngân Hàng Quốc gia được xếp vào mấy tổ, tôi thuộc tổ 32. Trong ba ngày tập trung tại Trường Gia Long, chúng tôi được phục vụ ăn uống khá chu đáo. Chiều ngày thứ ba, sau khi dùng cơm chiều xong, vào khoảng 6 giờ, loa phóng thanh đọc danh sách những người phải thu dọn đồ đạc và tập trung tại sân cờ nghe lệnh. Tên tôi có trong danh sách đó.

Lúc đó tôi cảm thấy rất lo lắng, không hiểu chuyện gì sẽ xảy ra, nhất là khi thấy danh sách người được gọi tên chiếm không đến 10% sĩ số. Nhưng khi đến tập trung tại sân cờ, tôi cảm thấy nhẹ nhõm khi nghe ban chỉ huy trại thông báo là do số người trình diện quá đông nên một số được cho về nhà vào tối đó, hôm sau đến để nhận giấy tờ tùy thân và trình diện cơ quan đang công tác, chờ lệnh tập trung mới. Bảy giờ sáng hôm sau, tôi quay trở lại Trường Gia Long, thấy ngôi trường vắng lặng như tờ.

Như vậy là trong đêm trước mọi người đã di chuyển. Một lần nữa số mệnh đã cho tôi ở lại. Tôi đến trình diện tại Ngân Hàng Quốc Gia và được phân công tác tại Vụ Phát Hành và kho quĩ. Những ngày tiếp theo, Ban Quân Quản tổ chức học tập tại chỗ ba ngày cho các viên chức ở lại và cấp giấy chứng nhận học tập cải tạo. Lúc đó, giấy chứng nhận này chính là một lá bùa hộ mệnh.

Sau này, vào cuối tháng tám, khi có lệnh gọi tập trung lần thứ hai cho những người được trả về đợt trước, tôi có đến gặp và hỏi ý kiến anh Ba Sáng, cán bộ Ban Quân Quản. Sau khi tham khảo ý kiến Ban Quân Quản, anh thông báo cho tôi biết trường hợp của tôi đã được Ban Quân Quản xem xét, tôi được bố trí tham gia chiến dịch đổi tiền Sài Gòn cũ và cải tạo tư sản nên không phải đi trình diện học tập tập trung.

Lần kiểm kê cuối cùng

Vào đầu tháng 6-1975, tôi được lệnh của Ban Quân Quản Ngân Hàng Quốc Gia tiến hành kiểm kê kho tiền và vàng của chế độ cũ, các kho tiền và vàng của Ngân Hàng Quốc Gia thuộc quyền quản lý của Nha Phát Hành, nơi tôi làm việc trong ban lãnh đạo từ năm 1970 với tư cách là Kiểm Soát Viên. Anh giám đốc Nha Phát Hành đã đi cải tạo tập trung, do đó trong số người còn ở lại chỉ có tôi là người giữ chìa khóa và anh Lê Minh Kiêm - chánh sự vụ - là người giữ mã số của các hầm bạc.

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1515705556-ChiaKhoaKhoVang_02.jpg
Hình minh họa

Việc kiểm kê kho tiền và vàng là việc chúng tôi làm thường xuyên hằng tháng, hằng năm nên cảm thấy không có gì đặc biệt. Chỉ có một điều là tôi biết lần kiểm kê này chắc chắn là lần kiểm kê cuối cùng đối với tôi, kho tiền và vàng sẽ được bàn giao cho chính quyền mới. Tôi không lo âu gì cả vì biết chắc rằng số tiền và vàng nằm trong kho sẽ khớp đúng với sổ sách.

Trong những ngày hỗn loạn, các hầm bạc của Ngân Hàng Quốc Gia vẫn được chúng tôi quản lý một cách tuyệt đối an toàn. Cần nói thêm là các hầm bạc được xây rất kiên cố với hai lớp tường dày, mỗi lớp gần nửa thước, các cửa hầm bằng thép có hai ổ khóa và mật mã riêng, được thay đổi định kỳ, mỗi cửa nặng trên 1 tấn.

Đại diện Ban Quân Quản là một cán bộ đứng tuổi, khoảng 50. Cùng tham gia với ông trong suốt quá trình kiểm kê là một anh bộ đội còn rất trẻ, trắng trẻo, đẹp trai và rất thân thiện. Anh hay nắm tay tôi khi trò chuyện. Sau này tôi mới biết tên anh là Hoàng Minh Duyệt - chỉ huy phó đơn vị tiếp quản Ngân Hàng Quốc Gia.

Số vàng đúc lưu giữ tại kho của Ngân Hàng Quốc Gia vào thời điểm đó gồm vàng thoi và các loại tiền vàng nguyên chất. Có ba loại vàng thoi: vàng thoi mua của Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED); vàng thoi mua của một công ty đúc vàng ở Nam Phi - Công ty Montagu; và vàng thoi được đúc tại Việt Nam, do tiệm vàng Kim Thành đúc từ số vàng do quan thuế tịch thu từ những người buôn lậu qua biên giới, phần lớn từ Lào.

Tất cả những thoi vàng đều là vàng nguyên chất, mỗi thoi nặng 12-14kg, trên mỗi thoi đều có khắc số hiệu và tuổi vàng (thường là 9997, 9998). Các thoi vàng được cất trong những tủ sắt có hai lớp khóa và được đặt trên những kệ bằng thép, mỗi kệ được xếp khoảng năm, sáu thoi vàng. Nhưng qua năm tháng, bị nặng trĩu trước sức nặng của vàng, các kệ thép cũng bị vênh đi.

Các đồng tiền vàng được giữ trong những hộp gỗ đặt trong tủ sắt. Đó là những đồng tiền vàng cổ có nhiều loại, được đúc và phát hành từ thế kỷ 18, 19 bởi nhiều quốc gia khác nhau... Ngoài giá trị của vàng nguyên chất, các đồng tiền này còn được tính theo giá trị tiền cổ, gấp nhiều lần giá trị vàng nội tại của nó. Tất cả số vàng thoi và tiền vàng cổ đều được theo dõi chi tiết từng đơn vị, số hiệu, tuổi vàng, số lượng ghi trong một sổ kiểm kê do bộ phận điện toán của ngân hàng theo dõi định kỳ hằng tháng và hằng năm, hoặc bất cứ khi nào có thay đổi xuất nhập tồn kho.

Chúng tôi thực hiện công tác kiểm kê trong hai ngày liền. Thật ra công việc cũng khá đơn giản. Số giấy bạc dự trữ giữ trong các thùng bằng gỗ thông được niền bằng đai sắt và niêm chì, mỗi thùng ghi rõ mệnh giá, loại giấy bạc, số lượng. Do đó chỉ cần kiểm kê số lượng thùng bạc, các chi tiết tương ứng và đối chiếu với sổ sách được điện toán hóa là biết khớp đúng ngay.

Lúc đó, loại giấy bạc mệnh giá cao nhất chỉ có 1.000 đồng, thuộc xêri mới phát hành, có in hình các con thú hoang dã trong rừng rậm Việt Nam. Ngoài ra vẫn còn tồn kho và tiếp tục phát hành loại giấy bạc nổi tiếng có in hình danh tướng Trần Hưng Đạo, mệnh giá 500 đồng. Tổng giá trị giấy bạc dự trữ trong kho lúc đó (nếu tôi nhớ không lầm) khoảng hơn 1.000 tỉ đồng, gấp đôi lượng tiền lưu hành tại miền Nam vào thời điểm 30 tháng 4 năm 1975.

Chỉ trong một buổi sáng, chúng tôi đã kiểm kê xong số lượng giấy bạc dự trữ. Việc kiểm kê số vàng chiếm nhiều thời gian hơn vì phải kiểm kê từng thoi vàng một để xem trọng lượng, tuổi vàng và số hiệu có khớp đúng với sổ sách hay không.

Cuộc kiểm kê kết thúc, ai nấy đều vui vẻ thấy số lượng tiền vàng kiểm kê đều khớp với sổ sách từng chi tiết nhỏ. Tôi ký vào biên bản kiểm kê, lòng cảm thấy nhẹ nhõm. Việc bàn giao tài sản quốc gia cho chính quyền mới đã hoàn tất. Sau chiến tranh, ít nhất đất nước cũng còn lại một chút gì, dù khiêm tốn, để bắt đầu xây dựng lại. Về phía chúng tôi, điều này cũng chứng minh một cung cách quản lý nghiêm túc của những người đã từng làm việc tại Ngân Hàng Quốc Gia.

Huỳnh Bửu Sơn

Bảng kê thoi vàng đựng trong các tủ sắt:

Hầm số 3:
Tủ số 40: 80 thoi
Tủ số 41: 80 thoi
Tủ số 42: 80 thoi
Tủ số 43: 80 thoi
Tủ số 44: 80 thoi
Tủ số 45: 80 thoi
Tủ số 46: 80 thoi
Tủ số 47: 73 thoi
633 thoi

Hầm số 6:
Tủ số 202: 35 thoi
Tủ số 203: 80 thoi
Tủ số 204: 80 thoi
Tủ số 205: 80 thoi
Tủ số 206: 79 thoi
Tủ số 207: 89 thoi
Tủ số 215: 88 thoi
Tủ số 216: 70 thoi
601 thoi

Tổng cộng: 1.234 thoi vàng
(Nguồn: Nha Phát hành, tháng 4-1975)

nguồn: http://www.quocgiahanhchanh.com/nguoigiuchiakhoa.htm

BachMa
02-10-2018, 08:33 PM
Hồi Ký Của Vợ Người Tù
Mai Thy

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1514433857-HoiKyVoNguoiTu_01.jpg
Hình minh họa
Vào thời thập niên 60 – 70, ở Sài Gòn, những rạp hát như Rex, Eden thường hay trình chiếu những cuốn phim ngoại quốc như: Ben Hur, Samson Dalida. v.v… Những nam minh tinh màn bạc có thân hình như tượng đồng những bắp tay cuồn cuộn, vòng vai, vòng ngực nở rộng, bắp thịt bụng rắn chắc hiện thành 6 múi… có thể che chở và chống lại những bão táp phong ba đến với họ, đã làm cho tôi ngưỡng mộ những người hùng trong những cuốn phim đó. Không biết có phải tôi bị lậm phim ảnh quá không?

Có lẽ ước mộng của tôi về người yêu của mình cũng giống như bao cô gái khác, ở vào tuổi mới lớn. Nhưng sự mơ ước của mỗi người đều khác nhau về đối tượng của mình. Ước mộng của tôi tuy rất bình thường, nhưng hơi khó thực hiện…

Một hôm, tôi đi vào Nhà sách Khai Trí để tìm mua vài cuốn sách Văn Phạm Anh Ngữ để trau dồi thêm cho phần Anh Văn, tôi rất say mê đọc sách đủ loại truyện và mê học Sinh Ngữ từ nhỏ, nên tôi đã ghi tên đi học thêm ở Hội Việt Mỹ và London School, mong là sau khi tốt nghiệp Văn Khoa môn Sinh Ngữ tôi sẽ có cơ hội đi du học Mỹ Quốc.

Trong thời gian này tôi cũng có ghi tên học Trường Quốc Gia Âm Nhạc với nhiều bộ môn: Ca Kịch Cổ Nhạc, Tân Nhạc, và Chèo Cổ Bắc Phần. Ba tôi thì rất mê nghe tôi hát chèo lắm, vì ông là người Bắc.

Tôi lướt qua kệ sách của những Nhà văn Việt Nam, tôi thấy tên của một nhà văn nghe hơi lạ: Võ Hà Anh & Dung Saigon, tôi bèn cầm lên, đọc thử xem họ viết gì nào. Ồ! Ông ta đang nói về sự Huấn luyện gian khổ của Người Nhái. Nhưng mà Người Nhái là ai vậy? Họ như thế nào? Lúc đó tôi chưa thể mường tượng được Người Nhái, sao không giống như những sự tập luyện của những Binh chủng khác mà chúng ta thường thấy ở những Quân trường? Tôi đang đọc say sưa, quên cả việc vào tìm mua những cuốn sách Anh Văn mà tôi đã dự tính lúc ban đầu, thì có tiếng cô bán hàng hỏi:
– Cô có thích cuốn đó không? Cô có mua không?

Tôi vội gật đầu và nói:
– Dạ! Mua chứ!

Chắc cô ta để ý thấy tôi đứng đọc lâu quá! Chắc sợ tôi coi chùa. Tôi tìm mua thêm vài cuốn sách Văn Phạm và vội về nhà ngay để đọc tiếp đoạn hấp dẫn của cuốn sách vừa rồi…!


***

Năm 1966, tôi đã được xem Diễn hành Ngày Quân Lực 19 tháng 6 của tất cả các Quân Binh Chủng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Tôi cũng có ý muốn chờ xem Người Nhái ra sao, và tôi đã thấy đoàn diễn hành của Liên đội Người Nhái, trang phục rất lạ ngồi trên chiếc xuồng Cao su, còn chiếc xuồng khác thì các anh thân hình trần không áo, màu da sạm nắng, hàng đứng bốn thanh niên với thân hình lực sĩ giống như tôi thường thấy trong những cuốn phim mà tôi đã kể ở trên, mình trần, quần Short vàng, da sạm nằng bóng như những tượng đồng đen, tay cầm khẩu Tiểu Liên trông thật oai hùng.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1514433872-HoiKyVoNguoiTu_02.jpg
Hình minh họa

Kể từ đó, tôi bắt đầu mơ màng về Người Nhái, nhưng làm sao mình có thể quen và được tiếp xúc với họ. Nhưng rồi thời gian đi qua tôi không còn ở tuổi mơ mộng đó nữa, nhưng vẫn cứ mộng mẫu người trong mơ!

Tôi đang cố gắng hoàn tất chương trình Văn Khoa và song song trong thời gian nầy tôi cũng vẫn tiếp tục học Anh Văn để thực hiện ước mộng của mình.
Nhưng, ước vọng của tôi không thể thực hiện được! Vì Ba tôi đã mất trong khoảng thời gian nầy, nên ước vọng của tôi cũng tan theo, tôi phải nghỉ học để đi làm, nhưng không dám thi vào làm trong Tòa Đại Sứ Mỹ, (Vì lúc còn sống, Ba tôi sợ tôi sẽ lập gia đình với người Mỹ nếu vào làm việc trong đó).

Vì tình trạng gia đình đang gặp khó khăn sau khi Ba tôi là cột trụ của gia đình đã về miền vĩnh cửu! Tôi phải xin vào hát những Phòng Trà ở Saigòn vào mỗi tối. Sau đó, tôi đi làm việc trong Đoàn Văn Nghệ Hoa Tình Thương. Trong Đoàn công việc cũng nhàn nhã, mỗi tháng chỉ đi công tác xa một lần. Đoàn văn nghệ chúng tôi đi viếng thăm, trình diễn Văn nghệ giúp vui cho các anh Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa trên bốn Vùng chiến thuật, đến những nơi tiền đồn hẻo lánh và những vùng Duyên hải xa xôi…

Có những vùng mà chúng ta nghe địa danh cũng đã thấy não nuột rồi, đó là Dãy Phố Buồn Thiu. Trực thăng chở chúng tôi lướt qua vùng miền Trung nghèo nàn nầy, trên một vùng rộng mênh mông cát vàng như sa mạc, giáp cận bờ biển, cây cối không sống nổi với vùng đất cát khô cằn nầy…

Giữa vùng cát vươn lên một dãy phố chợ dài khoảng 10 căn, với vài căn nhà lợp Tôle rải rác. Nơi đây bán toàn là hải sản được đem về từ biển cả… Nhìn cảnh vật đìu hiu đó thật đúng với địa danh Dãy Phố Buồn Thiu..!


***

Chuyến viếng thăm trên căn cứ Hỏa Lực An Đô nhìn xung quanh cảnh vật thật hùng vĩ, núi đồi trùng trùng, điệp điệp quanh năm sương mù phủ khắp triền núi, triền đồi, vì vị trí căn cứ nằm trên đỉnh núi thật cao, chúng tôi được các anh Quân nhân tại Căn cứ hướng dẫn và giải thích những điểm đặc biệt về vị trí chiến lược nầy là nhằm bảo vệ cho các ngọn đồi Chiến thuật án ngữ con đường mòn Hồ Chí Minh giáp Biên giới Hạ Lào, các ngọn đồi Chiến thuật đó đều nằm trong vòng bảo vệ tác xạ của xạ biểu đồ Sơn Pháo. Việc di chuyển đều nhờ vào trực thăng. Còn đi đường bộ rất nguy hiểm vì đường cong của các đèo và thung lũng, các anh Quân nhân trú đóng nơi đây 3 tháng mới được thay toán khác. Thức ăn thì toàn là lương khô và chúng tôi cũng được khoản đãi một bữa bằng lương khô của Quân đội. Tôi còn nhớ chúng tôi đến nhằm vào mùa Hè mà cũng bị lạnh run vì những cơn gió thốc từ bên dưới triền núi… Các anh lính ở đây đều phải mặc áo lạnh quanh năm suốt tháng…

Vào thời điểm này, chiến tranh đang xảy ra thật tàn khốc khắp nơi, những lần đi công tác xa ở những vùng chiến trận thật sôi động như tại Quảng Trị. Vào thời đó miền Nam chúng ta đã bị mất phần đất từ Vĩ tuyến 17 đến bờ sông Thạch Hãn. Khi Đoàn Văn Nghệ Hoa Tình Thương chúng tôi đến viếng thăm và tổ chức Văn nghệ để ủy lạo các Chiến sĩ thuộc đơn vị Thủy Quân Lục Chiến đang trấn đóng tại đây, chúng tôi được các anh Quân nhân đưa ra bờ sông Thạch Hãn để được nhìn về phía bên kia, cảnh vật điêu tàn đổ nát sau trận chiến lấn đất dành dân và những cuộc khẩu chiến giữa hai bên vẫn xãy ra hàng ngày… Chúng tôi đến Huế, Đà Nẳng, Pleiku, Kontum, Đà Lạt, Ban Mê Thuột, Bình Long, Củ Chi, Trảng Bàng v.v…

Ban Mê Thuột, địa danh của vùng đất đỏ mưa mùa gió núi! Quả thật vậy, chúng tôi đã đến trong một buổi sáng khi đặt chân xuống phi trường giữa cơn mưa gió lạnh của mùa Đông. Nhìn xa xa những hạt mưa rơi xuống phản chiếu ánh sáng mù mờ của buổi ban mai như những sợi tơ dài phất phơ theo chiều gió lộng mang theo luồng giá buốt… Chúng tôi vào Câu lạc bộ tại Phi trường uống Cà phê đặc sản của vùng nầy. Chúng tôi ngồi thu mình ở một góc phòng tránh gió cho đỡ lạnh, mặc dầu có đem theo sẵn áo len ấm. Vì là Phi trường vùng đồi núi Cao nguyên không có hành khách bao nhiêu, thường thường là cho Quân sự sử dụng. Chúng tôi ngồi chờ xe của Tiểu khu ra đón.

Đêm nay chúng tôi trình diễn cho các anh được đổi phiên từ các đỉnh đồi Chiến thuật về chung vui… Họ bước vào Hội trường với gương mặt tái lạnh vì giá buốt… Họ xúc động với tình người Hậu phương mang tình thương an ủi sưởi ấm đến cho họ trong đôi giờ giải trí… giữa vùng đồi núi hoang vu sương mù đất đỏ?

Sau khi đi thăm viếng các nơi. Tôi cảm thấy thương những người lính, những người đã đem xương máu và mồ hôi tưới lên khắp Chiến trường để cho người dân có được sự yên ấm, an lành. Những buổi chúng tôi trình diễn cho các anh Chiến sĩ trở về từ mặt trận, những gương mặt còn vương mùi khói súng, những bộ đồ trận còn dính đầy sình, rách tả tơi, và những anh thương binh nằm dưỡng thương nơi Hậu cứ, đang nằm trên những băng ca xem chúng tôi hát, ôi! thương làm sao, những người đã góp máu giữ quê hương…!

Trong một buổi thu thanh thơ cho Ban Thi Văn Mây Tần của chú Thi Sĩ Kiên Giang Hà Huy Hà, tôi có dịp gặp chú Nhạc sĩ Lê Dinh đang làm Chủ Sự phòng điều hợp của Đài, sau khi nghe tôi đọc lời giới thiệu của Ban Thi Văn, chú Lê Dinh cho tôi biết là tôi có khả năng làm Xướng ngôn viên, chú mời tôi qua phòng thi…Và sau khi thi đọc qua nhiều thể loại, tôi được tuyển chọn vào Ngành. Và cũng từ đó tôi nghỉ việc trong Đoàn Văn Nghệ Hoa Tình Thương.

Một buổi trình diễn quan trọng tại Trường Quốc Gia Âm Nhạc của Bộ Văn Hóa Giáo Dục do Quốc vụ Khanh – ông Mai Thọ Truyền tổ chức để trình diễn bộ môn Văn Nghệ Cổ Truyền của Dân Tộc cho các phái đoàn Ngoại Giao đến tham dự… Chúng tôi đang tập dượt ca hát trước khi trình diễn màn hợp xướng ba nhạc phẩm Hòn Vọng Phu của Nhạc Sĩ Lê Thương. Tình cờ, tôi thấy một số người đi ngang qua cửa sổ phòng nhạc của chúng tôi, trong số đó có một người gương mặt hơi ngâm đen sạm nắng, tóc anh dợn quăn nhẹ. Có vẻ giống như cầu thủ của đội bóng tròn, gợi cho tôi sự chú ý đặc biệt. Tôi có cảm giác hình như tôi đã gặp ở đâu rồi nhỉ! Họ đang nhìn vào và cười với chúng tôi, như là muốn làm quen thì phải. Và sau cùng các anh ngỏ ý muốn mời chúng tôi qua Câu Lạc Bộ của Phủ Tổng Thống, tôi cũng đánh bạo đi theo các cô bạn, nhưng trong lòng hồi hộp… và cũng hơi run.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1514433888-HoiKyVoNguoiTu_03.jpg
Hình minh họa

Lúc đó, chúng tôi mới được biết các anh cùng làm việc trong Khối Cận Vệ của Phủ Tổng Thống đang kiểm soát lại vấn đề An ninh, bảo đảm an toàn cho các vị yếu nhân trong đêm nay. Nhưng anh chàng có nét đen sạm rắn rỏi đó, theo sát và nói chuyện riêng với tôi mãi, làm cho tôi thật là hồi hộp và cảm thấy ngượng ngùng. Tôi tự hỏi “Không biết có phải anh là người mà tôi mong được gặp gỡ hay không? Nhưng sao trong lòng nghe rung động chi lạ!” Đang say sưa với ý nghĩ lạ lùng đó, tôi… giật mình… khi nghe các anh đề nghị mời chúng tôi đi Cát Lái chơi Ski Nautique (trượt nước), mọi người đều đồng ý. Trên đường đi, anh có kể chuyện cho tôi biết, trước khi ở trong ngành này (Sĩ Quan Cận Vệ) anh đã xuất thân từ đơn vị Người Nhái. Tôi bỗng giật mình.. nghe xao xuyến… nhớ lại… mộng ước… và “đối tượng” của tôi từ hồi còn thơ ngây…

Khi đến nơi, bạn của anh là anh Trương Nghĩa Thành ra đón chúng tôi vào chơi Ski. Trong lúc anh đang lái chiếc Ca-nô, để cho anh Thành chạy Ski, thì trong đầu tôi đang xáo trộn dấy lên với nhiều ý nghĩ…

Bỗng chiếc Ca-nô chao mạnh nghiêng qua như muốn lật, tôi giật mình… chụp ngay cánh tay của anh…cánh tay của anh.. thật rắn chắc… như sắt thép. Luồng hơi nóng ấm từ anh chuyển sang tôi như mang theo cả sức mạnh lan truyền… Trong lúc đó anh đang giữ vững tay lái để giữ thăng bằng chiếc Ca-nô. Tôi đỏ mặt, ngượng quá! vội buông tay anh ra, và …không dám nhìn anh… Anh Thành đổi tay lái với anh, đến phiên anh chạy Ski…

Và sau buổi gặp gỡ đó, chúng tôi cảm thấy như có tiền duyên và chúng tôi bắt đầu yêu nhau với những buổi hẹn hò tiếp nối…Chúng tôi đã làm lễ thành hôn tại Câu Lạc Bộ Sĩ Quan An Đông, vào thời Mùa Hè Đỏ Lửa nên chỉ diễn ra trong vòng thân mật giữa gia đình, các bạn học và những bạn Nghệ sĩ rất thân mà thôi.


***

Đến ngày 30 – 4 – 1975 Miền Nam: VNCH bị mất vào tay bọn Cộng Sản khát máu… Những tên Việt cộng nằm vùng lộ mặt theo dõi chúng tôi từng giây từng phút…Tôi còn nhớ rõ anh như con cọp lìa rừng bị loài lang sói giỡn mặt… nhiều lúc tôi thấy mặt anh như đanh lại đôi mắt anh như rực lửa căm hờn …

Rồi anh cũng phải vào tù như những Sĩ Quan khác…”Học tập để biết đường lối mới của Đảng”. Còn tôi cũng bị đi “Học tập” trong ngành Truyền Thông tại Đài Phát Thanh Saigon. Họ bảo, tôi là Xướng Ngôn Viên, tôi đã “gián tiếp có tội ác với Nhân dân” vì bản tin viết ra tôi đã đọc cho thính giả nghe đó “cũng là có tội”. Nói chung, đối với Cộng Sản thì tất cả đều có tội, chỉ ngoại trừ Đảng Cộng Sản của họ.

Sau tháng Tư, 1975. Tôi là một người vợ của “Ngụy quân” hay là tù “cải tạo”. Tôi chỉ biết nhớ thương chồng qua hình bóng của con (Vì nó giống anh như đúc) Tôi thường thầm nhủ: Cảm ơn anh đã cho…em đứa con, nó như là sức mạnh nung đúc nghị lực cho em. Có nhiều lúc em nhớ anh…nhưng không dám nghĩ đến những gì có thể xảy ra..! Tôi lo sợ vì biết tánh của anh rất can cường…

Lúc đó, con trai tôi được 6 tháng, không biết lấy gì để nuôi con? Tôi đã gom hết những áo dài cũ, mới và tất cả đồ trang sức luôn cả những vật gì trong nhà có thể bán được, đưa cho một người bạn đem bán ở chợ trời để có tiền mua sữa cho con, nhưng rồi cuối cùng tôi không còn vật gì để bán, tôi đành dứt sữa cho con, và tập cho nó ăn cơm gạo mục và mốc (Lúc đó dân sắp hàng dài chờ đợi để được mua gạo như vậy đó, nên khi vo gạo phải vo nhẹ nhẹ nếu không sẽ bị nát). Tôi cố gắng nuôi con bằng đủ mọi cách để chờ chồng.

Hoàn cảnh của tôi thật không còn con đường nào để tính, vì không biết buôn bán như các chị em khác, bao nhiêu nhọc nhằn, cay đắng tôi nhận lãnh thật bất ngờ sau tháng Tư đen -1975. Đã hơn ba tháng rồi mà tôi không nhận được tin tức gì của anh, chớ đừng nói đến thăm nuôi, lúc đó bên ngoài gia đình và dân chúng đã hoang mang than oán. Đến tháng thứ Tư, tôi nhận được thư anh gởi về từ “Trại cải tạo” tôi vui mừng biết rằng anh vẫn còn yên lành. Nhưng… chỉ có 2 ngày sau tôi nhận được tin anh đã trốn thoát trại tù Thành Ông Năm và đang ở tạm nhà người Dì của tôi. Anh không về nhà vì biết bọn Việt Cộng đang theo dõi.

Tôi vừa mừng vừa lo sợ, buồn vui lẫn lộn. Nhưng anh không thể ở đâu được lâu, vì bọn Việt Cộng thường hay lùng xét để bắt phản động, Việt Cộng thường dùng “bọn 30″ theo dõi hành động của dân. Anh cho biết anh muốn đi tìm những đường dây kháng chiến để sát nhập với anh em cùng chống lại bọn Việt Cộng cho nên anh tìm cách trốn ra. Anh phải sống như những người dân du mục nay Saigon, mai Miền Tây, mốt Miền Đông mà trong người thì không tiền. Với chiếc xe đạp mượn của một người bạn, anh đạp cả ngày từ Chợ lớn ra Saigon hay ngược lại, anh phải sống nhiều ngày với nải chuối trên xe, vì nếu ngừng lại thì sẽ bị Công an khám xét. Vì anh không muốn liên lụy đến những người bạn nên có nhiều đêm không có chỗ ngủ, anh phải mướn chiếu để ngủ ở Nhà Ga Xe Lửa Saigon hay Xa Cảng Miền Tây. Có những lúc mang con, gặp lén anh ở những quán Café vỉa hè và các quán ăn, anh cho biết đêm nay anh không biết trú ngụ ở đâu… Trời ơi! Lòng tôi thật đau đớn vô cùng, tôi cố nén lòng, mà như ai bóp nát tim tôi, cố dằn nhưng nước mắt cứ đoanh tròng…, tôi không biết làm sao để giúp được cho anh…

May mắn tôi được sự giúp đỡ của một người bạn thân của anh tôi trở về từ Thụy Điển giúp cho vào làm việc cho một Công ty của ông ta với số tiền lương nhỏ.

Tai ách lại đến với anh.

Một hôm, anh hẹn tôi gặp anh ở một điểm hẹn gần Sở làm của tôi để giao lại cho tôi chiếc xe đã gắn cái yên nhỏ để chở con phía trước thay vì phía sau sợ con bị kẹt chân. Khi đến điểm hẹn, anh giao chiếc xe cho tôi rồi bảo: “Chạy gấp đi vì anh đang bị theo dõi”, tôi không dám đứng lâu vội lên xe chạy đi… Anh nói vói theo như một lời trối trăn:… Cố gắng nuôi con nghe em…!!

Trên đường về nhà tôi thật lo lắng! vì anh chỉ có giấy giả… mà lại mang tên giả! Người tôi như chùn xuống không còn sức chịu đựng nữa, đêm đó tôi bồn chồn thao thức, hình như đả xảy ra chuyện không may đến anh, tôi buồn rầu vật vả mãi cho đến sáng…

Sáng hôm sau, vào Sở làm, tôi vẫn còn nhiều câu hỏi trong đầu về anh, thì anh bạn gọi tôi vào Văn phòng và cho tôi biết, chồng tôi đã bị bắt tối hôm qua và hiện đang bị giam trong phường Công An Huyện Sĩ, họ mời tôi qua gặp họ, để điều tra. Tôi vừa nghe, nước mắt tôi đang chực để trào ra, tôi ngồi phệt xuống ghế, và không biết tôi đang làm gì!… Tâm trí tôi lúc đó đang quay cuồng, lo sợ họ sẽ xử tử anh vì biết anh đã vượt tù…Phần thì lo sợ nếu tôi bị mất việc sẽ không có tiền nuôi con… Đang miên man suy nghĩ thì hình như anh bạn của anh tôi cũng hiểu sơ ý tôi nên anh nói: “Cô đừng lo! qua thăm anh ấy đi, có cần gì anh sẽ giúp cho, rồi trở lại làm việc sau”. Tôi vội qua Phường Công An thăm anh, tôi gặp tên Công an trưởng, và hắn cho biết:
– “Chồng chị, đã trốn trại học tập, về Saigon, sao chị không báo cáo cho Chính Phủ Cách Mạng? Dám đánh Công An để chạy trốn nhé “

(Lúc đó, tôi nổi nóng nên không sợ gì cả) – Xin lỗi! Tôi không thể báo cáo được, vì các anh đã hứa học tập chỉ có 10 ngày, nhưng không đúng như lời hứa, nên chồng tôi phải trốn ra…

Thì vừa lúc đó chúng dẫn chồng tôi ra, anh đi không nổi, tên lính Công an dìu anh ra. Nhìn anh với thân hình tiều tụy và gương mặt trỏm lơ vì thiếu ngủ, lòng tôi se thắt lại, tôi không cầm được nước mắt (Sau này anh kể lại đêm đó sau khi bắt được anh, chúng treo anh lên hổng mặt đất và 2 tên Công An thay phiên nhau đánh đấm vào ngực, bụng anh túi bụi, sau khi chúng thả anh xuống, hai tay anh không dở lên được…) Tôi đau xót vô cùng, nhưng anh sợ tôi khai không giống như lời khai của anh, sợ liên lụy đến anh em cùng hoạt động trong Thành phố, nên anh vội nói khi gặp tôi:
– Em nói cho mấy anh này biết là anh nhớ Mẹ con em nên anh trốn trại về. Và ngủ ở nhà ga xe lửa…

Sau khi được anh nhắc, tôi cũng lập lại lời anh nói với bọn Công an. Thấy không khai thác gì được ở tôi, nên tên Công an trưởng bảo dẫn chồng tôi vào và cho tôi về. Ngày hôm sau tôi đến đó hỏi thăm, thì họ cho biết, đang chuyển anh qua trại tù Quận Nhì Saigon. Chúng không trả anh trở về “trại học tập” cũ, có lẽ bọn chúng sợ anh sẽ trốn nữa. Tôi vội chạy đi mua một số thức ăn đi thăm anh, nhưng bọn chúng không cho gặp mặt, chỉ cho gởi thức ăn vào thôi! Cũng cùng lúc đó, thì chiếc xe chở tù cũng vừa ngừng lại trước cổng Quận Nhì, tôi vội chạy theo đưa thức ăn cho anh và chỉ kịp nhìn bóng anh khuất sau cánh cửa trại tù. Ôi! Cánh cửa oan nghiệt đó đã đóng kín chia cắt tôi và anh, tưởng như là vĩnh viễn… không gặp lại anh. Anh ơi!

Kể từ đó, tôi bặt tin tức của anh, buồn bã, thất vọng, tôi không biết tâm sự cùng ai! Nhưng, trong nỗi thất vọng đó, tôi cũng rất tin tưởng ở anh, và hãnh diện ở anh, Người hùng của tôi.

Lần vượt tù thứ nhất anh đã vượt qua những hàng rào kẽm gai kiên cố bao quanh trại học tập. Được biết theo lời “Ban Quản Giáo” của bọn Việt Cộng mỗi khi bắt lại được những Sĩ Quan nào trốn trại chúng đem ra sân cờ xử bắn để hăm dọa những người còn lại: “Các anh đừng hòng trốn thoát khỏi nơi đây, cho dù một con kiến cũng không lọt được”. Nhưng chúng đã lầm! Sau bốn tháng, tại Thành Ông Năm, Hóc Môn, bất chấp lời hăm dọa của bọn chúng, đã có một Người Nhái vượt được khỏi vùng kiểm soát của lính canh và mười mấy lớp kẽm gai bao bọc. Anh đã cho chúng thấy sự gan lì của một Sĩ Quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã không e ngại vì những lời hăm dọa đó anh đã ra khỏi trại mà chúng cũng không hay biết.

Tôi luôn nghĩ, anh vẫn còn sống và anh sẽ tranh đấu để sống còn, để còn có một ngày…Anh thường suy nghĩ rất nhiều về thế hệ tương lai con… cháu…sau này.
Sáu tháng sau khi bị bắt lại, chúng giam anh ở Quận Nhì… tôi nhận được thư anh là bọn chúng cho phép lên thăm nuôi, nhưng không phải ở Quận Nhì mà lại là “trại Phản Động K3” ở Gia Rây, tỉnh Long Khánh. Tôi vội vàng làm những món ăn để anh có thể giữ ăn được lâu và mang con theo lên thăm anh. Trong thư anh dặn mang theo Café và vài đòn bánh tét.

Sáng sớm ngày Chúa Nhật, tôi và con tôi đi xe lửa từ Saigon đến Gia Rây, Long Khánh thăm anh. Trưa thì đến nơi, trại tù này nằm trên một ngọn đồi cao, chung quanh có nhiều hàng rào kẽm gai bao bọc thật kiên cố. Tôi phải chờ đợi đến gần chiều tối tôi mới được thăm anh, Trông anh sức khỏe khá hơn lúc gặp ở trại tù Quận Nhì, chúng tôi được gặp nhau trong vòng 15 phút, thằng bé lâu quá không gặp mặt Ba nên lạ, cứ nhìn Ba mà khóc hoài, tôi thật xót xa. Anh hỏi qua loa về những chuyện nhà, khi thấy tên Công An lơ đãng anh ghé vào tai tôi nói thì thầm:
– Khi nào trời có mưa, em nhớ cầu nguyện cho anh!

Tôi giật mình tôi hỏi nhỏ giọng lo lắng: – Anh…anh định… trốn nữa hả!

Anh không trả lời, nhưng tôi thấy ánh mắt sáng ngời của anh hiện lên nét cương quyết… Tôi gật đầu nhẹ vì tôi rất hiểu ý của chồng tôi khi mà anh quyết định việc gì thì có thể nói là không có gì lay chuyển anh được!…

Anh chỉ lấy Cà phê với mấy đòn bánh tét nhỏ, còn lại bao nhiêu đều để lại cho tôi đem về, vì anh biết khi đi thăm nuôi là tôi phải bán đi một vật kỷ niệm nào đó của chúng tôi… Tôi nghẹn ngào…

Tôi đứng lên từ biệt anh mà lòng đau như dao cắt. Trời đã bắt đầu tối, tôi bồng con đứng nhìn theo anh đang lầm lũi theo đoàn tù “cải tạo” hướng về trại giam… mà dòng nước mắt tuôn tràn… Anh ơi!!

Tôi bồng con vội vã ra nhà ga xe lửa cho kịp giờ khi đến nhà ga thì cũng vừa kịp chuyến xe lửa từ Nha Trang tới, khi lên được xe lửa thì trời tối đen như mực, đưa bàn tay lên không nhìn thấy gì cả, vì xe lửa không có đèn.

Tôi rất lo lắng cho anh lòng tôi đang rối loạn vì không biết lúc nào thì anh sẽ vượt tù?…Và anh vượt ra có an toàn không?

Vì tôi cũng có nghe vài người vượt tù bị bắn chết bọn chúng đem thây người chết mà vùi dập tại chỗ…Tôi miên man với nhiều ý nghĩ lo buồn bỗng giật mình vì nghe tiềng mưa rơi…Trời ơi…

Anh… Anh ơi! Em đang thầm cầu nguyện cho anh …

Vì tối quá, con tôi nó khóc mải cho đến khi về tới Saigon. tôi về đến nhà thì đã 12 khuya dưới cơn mưa tầm tã…

12 giờ trưa hôm sau, tôi được một người em bà con cho hay anh đã trốn thoát một lần nữa và đang có mặt tại Saigon. Anh đến tìm người em của tôi nhờ cho tôi hay!

Đêm qua tôi về đến Saigon cũng là lúc anh trốn trại vượt qua bao hàng rào kẽm gai kiên cố và nhất là Bãi Mìn đầy nguy hiểm để tìm tự do. Anh chạy bộ 35 cây số dọc theo đường rầy xe lửa từ Gia Rây về Long Khánh với một anh Trung Úy Bộ Binh, cả hai cùng ôm vai nhau làm thành khoảng cách như giữa 2 bánh xe lửa, rồi cùng chạy trên đường rầy…Khi về đến Long Khánh, hai anh đáp xe lửa về Saigon vào trưa hôm sau.

Tôi thầm nghĩ: “Người Nhái Hải Quân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã làm cho bọn Cộng Sản thấy rõ ý chí can cường Bất khuất của một người Lính thiện chiến VNCH.

Sau đó, anh lẩn trốn rất nhiều nơi và cũng suýt bị bắt mấy lần, trước khi được một người bạn giúp đỡ tìm cách rời khỏi Việt Nam để tìm thuốc “Chữa bệnh”.


***

Cuộc vượt biên đầy nguy hiểm

Một đêm hồi hộp phập phồng, vì mấy tên Công an đi dòm ngó vòng quanh, vì tất cả những người vượt biên đều ngủ tạm tại bến xe đò Cần Thơ để chờ sáng, khoảng 4 giờ sáng được người liên lạc của trong tổ chức tại địa phương hướng dẫn xuống bến Ninh Kiều và tất cả đều xuống đò đưa ra trên hai chiếc ghe chài đậu ở giữa sông, sau khi kiểm soát người đủ chiếc ghe chài trực chỉ ra cửa biển Tranh Đề, trên đường đi tất cả đều chun xuống khoang ghe, còn trên thì được ngụy trang đồ đạc chất đầy… Ghe chạy gần tới biển thì gặp chiếc ghe đánh cá Kiên Giang cập vào, tất cả leo qua ghe đánh cá nầy để vượt biên, khi qua chiếc ghe nầy mọi người cũng phải trốn dưới khoang chứa cá… Khi ra đến cửa biển thì trời đã tối, tất cả mọi đều vui mừng vì được ló đầu ra khỏi khoang ghe để thở không khí trong lành. Nhưng ghe chạy chưa được bao lâu thì lại vướng lên cồn cát, tất cả mọi người đểu xôn xao lo sợ vì có nhiều người đi trên ghe nầy đã bị bắt nhiều lần, có người bị bắt lại 9 – 10 lần, nên họ đã mất hết tài sản rồi, nếu bây giờ mà bị lần nữa thì hết mong vượt biên… Còn về phần chúng tôi được người bạn thân gởi đi nhờ nên anh không phải là tài công…

Vì cùng đi chung một chiếc thuyền nên phải tự cứu mình, anh đứng ra kêu gọi tất cả trên ghe phải nghe theo anh sắp xếp tất cả đàn ông và thanh niên. Chỉ định cứ hai người làm thành một tổ… anh nói:
– Bắt đầu các anh xuống nước lấy chiếc ghe làm chuẩn, mỗi tổ chia ra đều xung quanh ghe, hướng mặt ra ngoài và đi ra khỏi ghe khi nào các anh gặp chỗ sâu ngang cổ thì la lên…

Tất cả đều làm theo, trong lúc đó tiếng cầu Kinh của các bà thì thầm khấn vái trong gió biển dạt dào…

Khoảng độ 15 phút sau nghe có tiếng la to: “Chỗ nầy nước sâu lắm bà con ơi…!” Tất cả vui mừng cùng đẩy chiếc ghe đến chỗ nước sâu rồi anh tài công mở máy chạy thẳng ra biển… Nhưng chỉ chạy được vài trăm thước thì máy bơm nước trong ghe ra bị bể, mọi người lại lo sợ nữa… Anh liền lựa ra ba người lớn tuổi làm trưởng Toán rồi chia Thanh niên ra làm ba toán thay phiên nhau tát nước trong ghe ra ngoài…

Kể từ giờ phút đó anh trách nhiệm lái chiếc ghe vì anh có hỏi qua tài công không rành đường đi trên biển? (Hay có ý riêng tư?!) Anh vào phòng lái mà lái ghe đi theo hướng anh đã định…

Đến sáng hôm sau trời còn lờ mờ nhưng mọi người vì lo lắng nên đã thức dậy. Anh chỉ cho mọi người thấy hòn đảo Côn Sơn phía bên trái của chiếc ghe và nói:
– Mình đã đi đúng đường rồi! Ghe sẽ đi thêm ba tiếng đồng hồ nữa thì đến Hải phận Quốc tế…
Mọi người trên ghe đều vui mừng.

Giữa cảnh trời nước bao la tôi cảm thấy mình như quá nhỏ bé so với mặt Đại dương mênh mông… nhưng tôi đã có anh bên cạnh nên những hãi hùng lo sợ đã nhường lại cho bóng mát của niềm tin yêu…

Tôi ôm con ngồi dựa cột cờ nhìn anh làm việc mà lòng xúc động…Anh vẫn hiên ngang trước mọi biến cố…Rất cương quyết bất chấp hiểm nguy nhận lãnh trách nhiệm…và anh đã hoàn thành. Đưa tất cả là 59 người đến bến bờ Tự Do…Trên một chiếc ghe hư hại nặng mang số KG. 0660 không được sửa chữa, chai trét ghe đã bị sóng biển vỗ tróc ra nên nước biển vào rất nhiều, ba toán thanh niên phải vất vả tát nước suốt Hải trình từ Việt Nam đến Mã Lai hai ngày hai đêm rưỡi, trên ghe độc nhất chỉ có la bàn…

Khi anh lái ghe theo lộ trình của Hải Tiêu vừa vào đến bờ chiếc ghe ủi lên cồn cát thì ghe rã ra và chìm xuống nước. Tất cả mọi người đều nhảy xuống biển, mặt nước ngập sâu đến ngang cổ…mọi người đều bồng bế nhau và lội vào bờ của đất nước Mã Lai…

Chúng tôi đứng nhìn chiếc ghe tan rã chìm vào lòng biển cả, cảm nghĩ đó như thân hình bệnh hoạn yếu đuối của Mẹ Việt Nam nhưng vẫn cố gắng đưa đàn con thân yêu thoát khỏi vòng tù ngục Cộng sản…và đã trút hơi tàn…để vĩnh viễn trở về với lòng biển lạnh ngàn đời..! Hỡi ơi! Mẹ Việt Nam…!


***

Chồng tôi đã sống lại từ cõi chết của ngục tù Cộng Sản, tôi nghĩ mình còn được may mắn hơn những chị em đã phải nhận xác chồng qua trận chiến tranh tàn khốc, hoặc tìm xác chồng trong các trại “Cải tạo” xa xôi qua cuộc trả thù người đồng chủng của bọn Cộng Sản tàn ác vừa qua…

Tôi ngậm ngùi thương cho thân phận người Việt Nam chúng ta…Tôi rất hãnh diện và tự hào về anh nói riêng và nói chung cho tất cả các anh Chiến sĩ Quân Lực VNCH, những người vợ lính đã chịu đựng những sự nhọc nhằn, ngược đãi của chế độ phi nhân.

Trong cuộc đời nầy và… mãi mãi chúng ta vẫn hãnh diện là người vợ lính VNCH. Chúng ta đã khổ sở, phải chịu nhục nhã và vợ chồng phải sống cách xa nhau… Những cảnh phân ly chồng vợ do bọn Cộng Sản gây nên, chúng ta may mắn vì đã được đoàn tụ. Vậy thì chúng ta phải quý mến những chuỗi ngày còn lại cho đến ngày tàn của cuộc đời chúng ta, phải không các Chị? Đó là câu tâm niệm của tôi.

Chúng ta đã vượt qua mọi trở ngại mọi khó khăn mới có được ngày hôm nay thì xin hãy quý trọng giữ gìn hạnh phúc và lo cho con cháu chúng ta sau nầy… và nếu hoàn cảnh đã không cho phép để thực hiện những gì mà chúng ta muốn, thì hãy cố gắng gầy dựng cho thế hệ mai sau nối tiếp con đường mà cuộc đời của các anh Chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa và của chúng ta phải bỏ dở dang…

Mẹ Việt Nam ơi! Chúng con cầu mong sẽ có một ngày trở về Việt Nam trong quang đãng, Thanh bình, Ấm no, Hạnh phúc và Tự Do… Nghĩa là trên toàn cõi đất nước Việt Nam không còn bóng dáng của lũ ác quỷ Cộng Sản dã man…!


Mai Thy
nguồn: https://buonvuidoilinh.wordpress.com/2016/12/11/mai-thy-hoi-ky-cua-vo-nguoi-tu/

BachMa
02-14-2018, 10:19 PM
Kính chúc quý độc giả, cùng quý anh chị thành viên HQPD
năm mới dồi dào sức khỏe, an khang thịnh vượng.
BachMa

http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1406731797.gif

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1518646470-cộimai.gif

BachMa
02-16-2018, 06:58 AM
Một Giao Thừa Trong Ðời
(Hồi ký của Vương Mộng Long K20)

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1517872654-MotGiaoThuaTrongDoi.jpg
Trại tù Suối Máu – Biên Hòa
Từ cuối năm 1975, hàng ngàn tù nhân Sĩ quan cấp tá của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa từ nhiều trại tập trung quanh Sài Gòn đã bị chuyển về nhốt tại trại tù Suối Máu, Tam Hiệp, Biên Hòa.

Vào một đêm giữa tháng 10, 1975, từ Long Giao, tôi bị chuyển tới đây trên một chiếc Molotova bít bùng kín mít. Tôi bị dẫn vào khu K2. Hai tuần sau có lệnh “biên chế,” tôi lại bị chuyển sang khu K3. K3 chỉ chứa Sĩ quan cấp Thiếu tá. Tôi bị giam ở đây từ ngày 1 tháng 11, 1975 cho tới ngày lên tàu Sông Hương ra Bắc (Tháng 7, 1976). Thời gian này, tin tức truyền thanh, truyền hình về tình hình thế giới càng lúc càng xấu đi. Người ta đồn rằng, hình như Cộng Sản Việt Nam đang trên đường tiến chiếm Thái Lan. Thế Giới Tự Do như càng lúc càng xa chúng tôi hơn.

Anh em chúng tôi gặp nhau thường ngày, tụ tập từng nhóm, đánh cờ tướng, tán gẫu, bàn chuyện nhà cửa, gia đình, nước non, thời quá khứ. Trong những lúc tụ tập chuyện trò, chúng tôi nghe bạn bè rỉ tai rằng, chính quyền giải phóng đang nghiên cứu hồ sơ cá nhân của từng người, để xét tha (?).Cũng có tin bi quan, cho rằng chúng tôi sắp bị đưa ra Tòa án Nhân dân để xử tội. Chúng tôi thực sự hoang mang, chẳng biết tương lai mình sẽ đi về đâu.

Tôi ở lán 24 thuộc K3 (Lán là nhà, K là Khối, danh từ VC). Mỗi lán chứa khoảng hơn 40 tù nhân, trong lán 24 đó có vài cựu Sĩ quan Ðà Lạt gồm anh Trần Ngọc Dương (K10), Nguyễn Lành (K16), Hoàng Thế Bình (K18), Tạ Mạnh Huy (K19), khóa 20 có Ngô Văn Niếu và tôi (Vương Mộng Long). Lán tôi cách lán 17 vài thước. Lán 17 có ba anh Biệt Ðộng Quân K20 Võ Bị là Nguyễn Cảnh Nguyên, Trịnh Trân, và Quách Thưởng. Trong cảnh thiếu đói thường xuyên, chúng tôi phải chia nhau từng mớ rau rền, tán đường thẻ, miếng cơm cháy.

Lán 24 lúc nào cũng hôi thối đầy ruồi nhặng, vì nó nằm trên đường đi ra cầu tiêu, mà bệnh kiết lỵ của tù ở đây hầu như bất trị. Anh trưởng lán 24 tên Trần Thành Trai nguyên là Y sĩ Thiếu tá làm việc tại Quân y viện Duy Tân, Ðà Nẵng. Bác Sĩ Trai luôn luôn xác định lập trường của anh là quyết tâm “Học tập tốt” để được tha về với vợ con, vì vậy mỗi lệnh của ban chỉ huy trại đưa xuống, anh luôn luôn tìm cách thi hành đúng đắn.

Thằng Niếu, bạn tôi, được một chân làm bếp, nó ăn uống dưới bếp, nên phần cơm của nó dư, được mang về tiếp tế cho tôi và anh Nguyễn Phong Cảnh (K10/TÐ) người nằm cạnh tôi.

Vào những ngày cuối năm Ất Mẹo, không khí ở đây trở nên rộn rịp vô cùng. Những người liên lạc được với gia đình thì có những gói quà nhỏ gởi vào cho ăn Tết, những kẻ ít may mắn hơn thì đành trông chờ vào những gì ban chỉ huy trại ban cho. Thời gian này, các lán gấp rút tập văn nghệ để trình diễn đêm giao thừa.

Ðể khỏi tập ca hát nhảy múa, tôi tình nguyện làm công tác tạp dịch, quét tước. Trong khi mọi người ca múa, xả rác, tôi đi lượm rác và xách nước về cho bạn cùng lán rửa mặt rửa tay.

Hai ngày trước Tết, lán tôi phải tập họp đi làm cỏ ngoài rào K3.

Trại Suối Máu vốn dĩ là trại tù Phiến Cộng Tam Hiệp của Quân Ðoàn 3. Trại có hai khu, hai hệ thống hàng rào. Lớp rào trong nhốt tù, rồi tới khu canh tù, ngoài cùng là rào mìn phòng thủ. Trại tù Phiến Cộng này có sáu khối. Mỗi khối cách biệt nhau bởi một khoảng đất trống, có rào mìn. Từ khối này muốn liên lạc với khối kia chúng tôi phải hét lên mới nghe tiếng nhau. Ra khỏi hàng rào thứ nhất, tôi chứng kiến vài sự đổi đời.

Cái miếu thờ Thổ Ðịa trở thành cái chuồng nuôi heo. Nhà Thờ và Niệm Phật Ðường của trại tù binh đã thành chuồng gà sản xuất. Sư và Cha, Tuyên úy của trại này, chắc cũng đi tù đâu đây không xa! Ngoài xa, bên kia hàng rào mìn là bãi cỏ trống rồi tới đường Quốc lộ 1.

Trên Quốc lộ, xe Lam chạy xuôi ngược; người người vội vàng buổi chợ cuối năm. Có vài bàn tay giơ lên ngoắc ngoắc về hướng trại tù, đôi người dân có liên hệ, hoặc ai đó còn nhớ tới chúng tôi, những Sĩ quan cấp tá của QLVNCH, những người bảo vệ chế độ đến giờ cuối cùng, và những người chậm chân, chạy không kịp, đang bị nhốt ở đây, trong khu nhà tù do chính tay Công Binh Việt Nam Cộng Hòa xây dựng lên trước đó nhiều năm.

Sáng nay bầu trời mầu xanh, không một gợn mây. Từ hướng phi trường Biên Hòa, bên kia cánh đồng trồng khoai mì, những chiếc F5 thực tập lên, xuống, lượn vòng.

Ðưa tay chỉ những cánh chim sắt đang bay trên trời cao, anh bạn Thiếu Tá Không Quân, Trần Chiêu Quân nói với tôi rằng, sau 30 tháng 4, có một số phi công của Việt Nam Cộng Hòa bị trưng dụng để huấn luyện cho phi công Bắc Việt lái những máy bay chúng ta còn để lại. Những chiếc F5 sáng như bạc đảo lộn trong không gian. Tiếng rít của phi cơ làm cho tâm hồn người cựu chiến binh nao nao.

Làm sao quên được? Lần đầu ra trận (Tháng 2, 1966). Hôm đó, cũng vào một sáng đầu Xuân, đơn vị tôi án binh dưới chân núi Trà Kiệu (Quảng Nam) chờ lệnh xuất phát. Tôi ngồi bên bờ Nam sông Thu Bồn, say sưa nhìn những cánh F-4C, F-5A Hoa Kỳ đan nhau trên vùng trời Bắc. Bên kia sông, vùng trách nhiệm của Trung Ðoàn 51 Biệt Lập, khói đạn bom cuồn cuộn…

Rồi tới trận Mậu Thân (1968) với những chiếc AD 6 Skyrader dềnh dàng, chậm rãi phóng từng trái Napalm dài như chiếc xuồng màu trắng, lướt trên đỉnh 1632 cuối phi đạo Cam Ly, Ðà Lạt. Khi bom chạm mục tiêu, từ đó, những sợi lửa lân tinh trắng xanh, trông giống như những cái vòi bạch tuộc, vươn cao…

Còn nữa…

Nhớ thời chống giữ Pleime, ngày ngày, tôi nghe quen tiếng L19 lè xè của Võ Ý (K17). Chiếc L19 như cánh diều mảnh khảnh, lững lờ quanh đỉnh Chư Gô, hay trên Ya Drang, thung lũng Tử Thần. Chúng tôi trông chờ đôi lúc trời trong, những phi tuần A-37 theo nhau tuôn bom… chờ những chiếc trực thăng rà sát đọt cây, lướt trên ngọn cột cờ căn cứ. Xạ thủ trên tàu chỉ kịp đạp vội xuống sân trại vài thùng pin, đạn, gạo sấy, con tàu đã lật bụng đảo một vòng, thoát chạy về Đông. Phòng không như lưới, thảy xuống cho nhau được thùng nào, hay thùng nấy! Thảy đồ xong là chạy. Ðồ tiếp tế, có thùng còn nguyên dạng, có thùng vỡ tan, có thùng bay vào bãi mìn. Như thế cũng quý hóa lắm rồi! Cám ơn người anh em Nguyễn Công Cẩn (K21) và phi đoàn 229 Lạc Long.

Rồi đêm xuống, cứ như “Đúng hẹn lại lên,”

“Thái Sơn đây Hỏa Long gọi!”

Chiếc AC-47 của anh Trần Bạch Thanh (K16) đã có mặt trên vùng. Những đóm hỏa châu lập lòe, vừa trải rộng tầm quan sát cho người trấn giữ tiền đồn, vừa làm cho họ cảm thấy ấm lòng.

Ðã mất rồi, ngày xưa ấy!

Giờ này tôi đang đứng nhìn những cánh chim sắt chao lượn trên đầu, người lái không phải là quân bạn.

Tiếng động cơ F5 nghe sao quá xót xa!


***

Tôi đang nhổ cỏ thì thấy một đoàn người từ hướng ban Chỉ huy trại hò nhau khiêng một cái cổng gỗ rất to vừa đóng xong.

Tấm bảng nền đỏ chữ vàng “Không Có Gì Quí Hơn Ðộc Lập Tự Do” được nâng niu như trứng trên vai những người tù nhễ nhại mồ hôi. Những người tù đang bị sức nặng của cái cổng đè trĩu trên vai. Họ phải lên gân chân mỗi lúc bước tới trước.

Mới vài tháng trước đây họ còn là những vị Chỉ huy oai phong lẫm liệt. Giờ đây đành cam thân sống cảnh đọa đày, đóng vai những anh thợ mộc bất đắc dĩ không công. Ngày nào họ cũng ra đi rất sớm, chiều tối mới trở về trại. Họ dựng những cái cổng chào. Họ tu sửa, sơn phết những khẩu hiệu trên tường. Họ trồng lại hàng rào trại.

Mọi việc làm này là để chào đón ngày Quốc Hội Việt Nam Thống Nhất ra đời. Những vị Sĩ quan cao cấp này đã khởi đầu nghề thợ mộc của họ bằng những cái bảng “Không Có Gì Quí” ở trại tù Tam-Hiệp.

Tôi có quen vài người trong số những người hằng ngày xuất trại làm mộc, như cựu CHT/BÐQ/ QLVNCH là Ðại Tá Trần Công Liễu (K8 VB) và cựu Tiểu Ðoàn Phó Nhảy Dù là Thiếu Tá Trương Văn Vân (K20 VB). Cả hai vị đó, sau này nơi đất Bắc, đã thành hai ông đội trưởng nổi tiếng. Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh!

Chín tháng sau ngày chế độ Cộng Hòa sụp đổ, tôi đang chứng kiến một hoạt cảnh chẳng bao giờ ngờ:

Trên trời, phi công Việt Cộng đang lái F5, trước cổng trại tù, Sĩ quan cấp tá VNCH đang dựng cổng chào, quanh rào trại tù, Sĩ quan cấp tá VNCH đang làm cỏ. Nơi nơi, người người, chuẩn bị đón Xuân. Mỗi người mang một tâm sự riêng…

Tới trưa, khi nghe tiếng kẻng phát cơm của nhà bếp, chúng tôi được dẫn trở lại trong vòng rào trại K3. Khi đi ngang qua sân bóng chuyền, tôi thấy người ta đang cá độ nhau trận đấu tay đôi đang diễn, một bên là Thiếu Tá Trần Ðạo Hàm, Thủ khoa K17/VB, bên kia là một tay Thiếu Tá Không Quân. Anh Lê Hữu Khái (K15) và thằng bạn tôi, thằng Nguyễn Bích (K20) đang nhảy tưng tưng cổ vũ cho anh Hàm. Cái miệng thằng Bích lớn lắm, nó la hét vỗ tay, bình luận ào ào. Anh Hàm thật là may mắn, có cái loa phóng thanh cỡ bự Nguyễn Bích cổ vũ nên anh có vẻ như đang dẫn điểm.

Tôi thấy nhiều người đã để ghế “xí” chỗ tốt cho buổi TV văn nghệ tối; ngày nào cũng thế, cứ đến trưa là bà con đem ghế ra đặt sẵn trên sân bóng để “xí” chỗ xem phim TV của đài Sài Gòn Giải Phóng. Ai chậm chân thì không còn chỗ tốt. Thời gian này TV Sài Gòn Giải Phóng liên tiếp chiếu bộ phim nhiều tập “Trên Từng Cây Số” và “Ðại úy Ðen” của Ba Lan.

Trong các lán, có nhiều bạn tụ tập bóc lột nhau bằng những con bài. Xì phé, sập xám và mạt chược là những môn chơi phổ thông khắp nơi trong trại. Tôi đã chứng kiến nhiều anh thua bạc phải bán cả những quà cáp từ gia đình gởi vào, như kem đánh răng, thuốc lào, thuốc tây để trừ nợ.

Sau Tết ít lâu, tôi nghe một câu chuyện đau lòng ở K3 năm ấy: có một vị Thiếu tá Quận trưởng khi cắt bánh thuốc lào làm đôi để chi cho chủ nợ một nửa, thì phát hiện ra một bức thư “chui” của người nhà giấu trong ruột bánh thuốc lào. Bức thư vắn tắt đôi lời làm đau lòng người đọc,

“Chị ấy đã gởi hai đứa con của anh cho bà nội của chúng nuôi. Chị đã đi lấy chồng rồi! Anh đừng buồn, ráng học tập lao động cho tiến bộ để sớm được thả về mà nuôi dạy con anh.”

Cái tin bất ngờ sét đánh ấy đã làm cho ông Quận sững sờ, buông rơi những con bài cơ, rô, chuồn, bích. Từ đấy, tôi thấy ông suốt ngày thẫn thờ bên rào, nhìn về phía xa xôi. Ðôi lúc tỉnh táo, ông ôm cây đàn Guitar Solo những bài nhạc xưa, buồn đứt ruột.

Tôi bồi hồi nhớ lại lời tổng thống nói ngày nào:

– “Ðất nước còn, còn tất cả. Ðất nước mất, mất tất cả!”

Ôi! Lời Tổng thống nói thật là hữu lý!

Tổng thống ơi! Chúng tôi đã cố gắng hết sức mình để giữ nước, nhưng chúng tôi đã không thể giữ nổi.

Chúng tôi lấy làm xấu hổ vô cùng.

Sao Tổng thống không ở lại giữ nước với chúng tôi?

Lúc này chúng tôi đã mất tất cả rồi Tổng thống ơi!

Về tới lán tôi nhận được một vỉ thuốc ho, một nắm xôi đậu xanh, và mười cục đường tán do anh bạn BÐQ Bắc Hải (Phan Văn Hải) ở lán 22 gởi cho. Tôi, Phan Văn Hải, cùng Phan Ðộ (K20), Huỳnh Bá An (K20), Trần Hữu Bảo (K20), xuất thân từ trường Nam Tiểu Học Ðà Nẵng. Chúng tôi là học trò của cô giáo Phạm Thị Tịnh Hoài, lớp Nhất C.

Hải là Sĩ quan khóa Đặc biệt Thủ Ðức, anh về phục vụ cùng đơn vị BÐQ của tôi ở Pleiku. Những ngày cuối của cuộc chiến, Thiếu Tá Phan Văn Hải giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng TÐ89/BÐQ. Khi đi tù, bạn tôi không có ai thư từ, tiếp tế, nhưng hắn bài bạc rất giỏi, nên lúc nào cũng sung túc.

Chiều hôm đó, anh lán phó hậu cần, Hải Quân Thiếu Tá Bùi Tiết Quý thâu tiền của trại viên trong lán, gởi cán bộ trại mua giùm mì gói, tương, chao, xì dầu và đường tán để ăn bồi bổ thêm trong ba ngày Tết. Tối đến, sau khi đã chia hết phần đường cho người mua, anh Quý cạo được một chén đường chảy dính trong thùng giấy và bao giấy gói đường. Anh ung dung ngồi thưởng thức nồi chè đặc biệt, nấu bằng đường mót được với hột su su và mấy hạt bắp non anh trồng được bên rào. Làm đội phó hậu cần cũng có chút bổng lộc!

Sáng ba mươi Tết, lại gặp ngày tổ tôi trực lán, tôi và một số bạn bị chỉ định xuống làm việc tăng cường cho lán 9 nhà bếp. Tôi phụ việc vo gạo cho thằng Niếu và anh Cung. Những tạ gạo đựng trong bao viền chỉ xanh rất cũ được chuyển về từ bưng biền. Gạo thì mốc vàng, mốc xanh. Những tổ sâu gạo to như nắm tay.

Khi tôi tách những cái tổ sâu ra từng phần nhỏ thì những con sâu gạo trắng ngần có khoang, béo núc, to gần bằng đầu đũa và dài cả phân, ngo ngoe, ngo ngoe…Anh Cung không cho phép tôi vứt bỏ những cái tổ sâu ấy, anh nói rằng nếu vứt bỏ sâu đi thì hết gạo.

“Nếu vứt sâu đi thì còn cái gì mà ăn? Cứ nấu tưới đi! Sâu cũng bổ béo, cũng nhiều ‘Prồ-tê-in’, sâu gạo chứ có phải là dòi ở ngoài chuồng xí đâu mà ngán!”

Khi chảo cơm bắt đầu sôi thì nhiều khách khất thực nước cơm đã cầm ca đứng đợi. Anh Cung cho vài người, mà cũng từ chối đôi người. Người có phần, thì riu ríu cám ơn, người không có phần tiu nghỉu ra về, miệng lầm bầm, “đ.m, đ.m…”

Những trại viên nhà bếp gọi đám người chờ xin nước cơm là “Đội quân cầm ca.” Chữ “cầm ca” ở đây không có nghĩa là ca sĩ, ca hát, hay ca kỹ mà có nghĩa đen chỉ sự cầm cái ca U.S dùng để đựng nước uống, cái ca nằm dưới cái bi-đông bộ binh ấy mà! Dân cầm ca phải đứng xếp hàng cả giờ đồng hồ trước cửa lò cơm để chờ xin một ly nước cơm. Chuyện xếp hàng trước, xếp hàng sau, đôi lúc cũng gây ra ẩu đả. Nước cơm có Vitamin B1 chữa được bệnh phù thũng (?).

Sau này, khi ở trại tù Phú Sơn 4, Thái Nguyên, tôi có đọc một tài liệu nói về cái chất độc của nấm cúc vàng từ gạo mục, gạo mốc. Nấm cúc vàng có chứa một loại chất độc nguyên nhân gây ung thư gan. Nước cơm lại là phần đậm đặc nhất của chất độc nấm cúc vàng từ gạo mốc. Không biết có bao nhiêu nạn nhân của bệnh xơ gan sau này có mặt trong đội quân “cầm ca” ngày ấy?

Chiều ba mươi Tết, bữa ăn có thịt heo kho. Thằng Niếu đem thêm về cả phần lòng heo bồi dưỡng nhà bếp của nó.

Thời buổi khó khăn, thuốc lá bắt đầu khan, những tay nghiền miền Nam bắt đầu nói chuyện thuốc lào.

Những danh từ “điếu cày,” “điếu bát,” “Cái Sắn,” “Hố Nai,” “Vĩnh Phúc,” “Tiên Lãng” nghe mãi cũng quen tai.

Anh Hoàng kim Thanh, Liên Ðoàn Trưởng LÐ24/ BÐQ của tôi, từ bên K4 nhờ ai đó chuyển cho tôi được một bao 555 và một lạng cà phê.

Trong khi thằng Niếu và anh Cảnh lo bếp núc cúng Tất Niên thì tôi đi vòng vòng tán dóc với Lưu Văn Ngọc (K20), cựu Sĩ quan Quân Pháp Quân Ðoàn 2.


***

Tối ba mươi Tết ở K3 Suối Máu không khí thật là rộn rã tưng bừng. Mọi lán đều đã chuẩn bị sẵn sàng chương trình văn nghệ chào đón Chúa Xuân. Sân khấu văn nghệ được thiết lập giữa sân tập họp. Ðèn điện sáng choang. Cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam che kín cả sân khấu.

Trước giờ văn nghệ, loa phóng thanh truyền đi những bản nhạc từ đài Sài Gòn Giải Phóng mà Tô lan Phương là giọng ca chính. Những nghệ sĩ tù cũng ăn mặc tươm tất để sẵn sàng trình diễn giúp vui. Ðàn ghi ta, trống, sáo đều làm bằng vật liệu lấy từ kho của nhà bếp như tôle, củi, ván gỗ…các nghệ nhân tự đẽo gọt, cắt xén, dán, ghép thành các nhạc cụ.

Tám giờ tối, buổi “Liên Hoan Văn nghệ” đêm ba mươi Tết bắt đầu.

Mở màn chương trình là bài đồng ca “Như Có Bác” tôi không nhớ do lán nào trình diễn.

Kế tiếp, người Thiếu Tá Không Quân Hoàng Ðình Ngoạn (K17 VB) lên đài trong tiếng hoan hô vỗ tay của “đồng bọn” tù Võ Bị. Anh vừa hát được nửa bài tình ca, nhạc vàng “Mùa Xuân Trên Ðỉnh Bình Yên” thì bị “Cán bộ” chặn lại, đuổi xuống đài. Lý do, “Nhạc Ngụy ủy mị!” Sau đó, chỉ những bài hát “giải phóng” được phép trình diễn.

Tiếng sáo trúc Tô Kiều Ngân lâm ly bài “Mùa Xuân Trên Thành Phố HCM” hòa ca cùng tiếng sáo miệng của Nguyễn Tuyên Thùy. Tôi nghe vọng lại từ các khu khác, đại để, bạn tù cũng chỉ hát những bài ca eo éo, nghe rợn tóc gáy, như “Cô Gái Vót Chông,” “Tiếng Ðàn Ta Lư,” “Năm Anh Em Trên Chiếc Xe Tăng” vân vân… Khắp sáu K sáng rực ánh đèn, vang rền tiếng nhạc…

Năm mới đang từ từ tiến về…

Ðến khi màn trình diễn của lán 24 vừa được giới thiệu, thì tôi bỏ chạy về lán. Tôi ngồi một mình trong cái nhà tôle vắng tanh. Nỗi đau đớn nhói tim tôi!

Ngoài kia, bạn cùng lán của tôi, không tự nguyện, đang phải đóng vai “dân quân chống Tầu, chống Tây, chống Mỹ, chống Ngụy” trong một vở trường kịch. Khi họ tập bài bản trong lán, tôi biết họ cũng đau lòng lắm.

Bạn Võ Bị của tôi, Tạ Mạnh Huy vì là Tây lai phải đóng giả làm Tây cho người ta trói. Thằng Niếu phải đóng vai BÐQ “Ngụy” giơ tay đầu hàng để anh Dương Bắc Kỳ đóng vai ông bô lão nông dân Việt Nam “đả đảo”. Mỗi lần tập xong, các bạn tôi đều buồn, họ đề nghị anh lán trưởng Trần Thành Trai cho tập một kịch bản lịch sử “Vua Quang Trung diệt quân Thanh” nhưng anh lán trưởng không đồng ý.

Anh Trai nói, “ban chỉ huy trại đã ra lệnh” cho anh phải thực hiện cho được trường kịch này để mừng Giao Thừa, vì nó có tính cách “Lô gích lịch sử”(?). Và đêm ấy, anh Đội trưởng Trần thành Trai đã thực hiện thành công xuất sắc vở trường kịch “Việt Nam 4000 năm anh hùng.”

Ngay sau khi bế mạc buổi văn nghệ mừng xuân Bính Thìn, mùa xuân đầu tiên của nước “Việt Nam Thống Nhất” (Mùa xuân đầu tiên quân và dân Miền Nam mất nước) anh đội trưởng Trần Thành Trai đã được “ban Chỉ huy trại tuyên dương công lao” trước trại.

Khi trên sân khấu người diễn kịch bắt đầu hát bài “Tiến Quân Ca” thì tôi bật khóc. Một mình, ngồi trong đêm tối, tôi nức nở khóc vùi. Tôi chưa bao giờ thấy cái khóc lại có hiệu lực chữa đau đớn hiệu nghiệm như đêm ấy! Chợt tôi nghe tiếng chân ai ngoài cửa lán. Rối tiếng lên đạn súng AK…

Thình lình, tia đèn pin chiếu ngay mặt tôi, làm mắt tôi chói lóa.

– “Anh kia! làm gì ngồi khóc đấy? Sao không đi “rự nễ” mừng Xuân?”

Tên bộ đội đi tuần tra lớn tiếng hỏi.

Tôi lấy tay che mắt, nhưng không nhìn thấy gì. Tôi lặng thinh. Tiếng quát lại tiếp:

– “Anh có mồm không thì bảo? Câm à? Sao không giả nhời tôi?”

Tôi vẫn ngồi im. Ánh đèn đảo một vòng quanh vách lán rồi tắt. Căn phòng tối om. Tôi nghe tiếng chửi:

“Ðịt mẹ thằng câm! Mới xa nhà có mấy tháng mà đã nhớ nhà phải khóc. Ông đây xa nhà hai ‘lăm’ rồi mà ông có khóc đâu! Ðồ không biết xấu hổ!”

Tôi vẫn lặng thinh.

“Rầm!”

“Chảng!”

Tên bộ đội giận dữ, đóng sập cửa lán. Nó còn bồi thêm một cái đá cật lực vào vách tôle. Vài giây sau, tôi nghe tiếng dép râu bước đi xa dần về hướng sân. Tôi nhìn đồng hồ tay (Khi đó chưa có lệnh thu giữ tư trang của tù) lúc ấy hai cái kim lân tinh chập nhau trên số 12: Giao Thừa!

Ngoài sân tiếng ca hát còn đang tiếp tục. Tôi mồi một điếu thuốc 555. Trong trí óc tôi, hình ảnh những Giao Thừa đã qua trong đời hiện về, mờ nhạt như từ thế giới nào rất xa…

Ngày xưa, mỗi độ Giao Thừa, cho dù lúc đó tôi đang đi hành quân với một toán Biên Vụ (Viễn Thám) quân số chỉ có năm người, lần mò trên những nhánh của hệ thống “đường mòn Hồ chí Minh” trên đất Lào, hoặc len lỏi trong rừng tre gai Plei-Trap Valley, hay lúc tôi đang chỉ huy cả năm, sáu trăm quân trấn giữ Pleime, hoặc ải địa đầu Bu-Prang miền biên giới Việt Miên, tôi không lần nào quên nghe chương trình Giao Thừa của Ðài Phát Thanh Quân Ðội.

Giao Thừa Xuân Bính Thìn là Giao Thừa đầu tiên trong đời, tôi không tìm thấy lá cờ nước tôi, không nghe được câu hát: “Này công dân ơi! Ðứng lên đáp lời sông núi…”

Bài quốc ca này đã đi vào lịch sử.

Một thế hệ đã hát nó với cả bầu máu nóng trong tim. Bao nhiêu người thân của tôi, bao nhiêu bạn bè của tôi đã cống hiến tuổi trẻ và cả thân xác mình cho bài ca đó.

Một thế hệ đã lớn lên thành người với bài ca đó.

Một thế hệ sẽ mang theo nó xuống tuyền đài…

Chợt tiếng anh lán trưởng Trần Thành Trai vọng lại trên loa phóng thanh,

“Ðổi đời đã tới! Cách mạng đã thành công!”

Tiếng hô lặp lại hai chữ “Thành công!” của trại viên vang dội đêm Trừ Tịch. Tôi cảm thấy tiếng hoan hô đã làm rung những tấm tôle trên mái.

Trời đêm Trừ Tịch tối đen.

Tôi không biết những vạt đen ẩn hiện sau hè, là bóng những bụi rau rền, giàn mùng tơi hay những hồn ma đói cuối năm chập chờn.
Ngoài xa vẳng lại, từ bên K4, ai đó bắt đầu hát bài “Lá Ðỏ”…


***

Vài năm sau, tôi nghe tin, cựu Y sĩ Thiếu tá quân y viện Duy Tân, Ðà Nẵng, Trần Thành Trai đã được tha khỏi trại cải tạo. Bác Sĩ Trai đã cùng Bác Sĩ Trần đông A, cựu Y sĩ Thiếu tá Nhảy Dù, nổi tiếng sau những ca mổ tách rời trẻ song sinh ở Sài Gòn. Tôi cũng đã nghe tin, giờ này, Bác Sĩ Trai đang là một “Dân biểu” của “Quốc Hội nước CHXHCNVN”.

Nhân ngày đầu Xuân Ất Dậu (2005), tôi nhớ lại chuyện xưa, ba mươi năm trước. Nhớ những bạn Võ Bị, cựu tù lán 24 K3 Tam Hiệp. Trong số những người bạn đó, thì hai người đã qua đời, là Hoàng Thế Bình và Ngô Văn Niếu. Còn những bạn khác như Dương, Lành, và Huy thì đang ở Mỹ, không rõ họ có còn nhớ chuyện ngày xưa hay không? Riêng tôi, cái đêm Giao Thừa ba mươi năm trước ấy đã trở thành không thể nào quên, vì đó là lần đầu trong đời, tôi đón năm mới với thân phận một người tù mất nước…!!!

(Seattle, Lập Xuân)
Vương Mộng Long (K20)
nguồn: https://baovecovang2012.wordpress.com/2016/02/07/mot-giao-thua-trong-doi-vuong-mong-long-k20/

BachMa
02-17-2018, 04:50 PM
Trễ Bắc Làm Sao Qua
Đoàn Xuân Thu

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1515466648-TreBacLamSaoQua.jpg
Năm rồi, cuối năm, ngày áp lễ Giáng Sinh, hai thằng ‘cu’ con của tui nghỉ cày, cao hứng lấy xe chở tui và em yêu cùng 4 đứa cháu nội của tui quánh một vòng từ phía Tây, Queenscliff trên bán đảo Bellarine xuống phà qua Sorrento trên bán đảo Mornington về phía Ðông của thủ phủ Melbourne.

Hải trình của chiếc phà ngoài cửa Vịnh Port Phillip, tiểu bang Victoria, Úc Châu nầy dài 10 cây số, mất 40 phút.

Từ 7 giờ sáng, hai chiếc phà biển nầy luân phiên chạy qua chạy lại tới 6 giờ chiều thì nghỉ.

Một chiếc xe tốn 62 đô. Người lớn 12 đô, thẻ giảm giá 10 đô. Con nít từ 4 đến 15 tuổi 8 đô; nhỏ hơn nữa thì được miễn.

Xe xuống phà đậu, hành khách phải rời xe, leo lên lầu thượng ngắm cảnh trời mây nước.

Từng đàn cá heo (dolphins) hụp lặn bơi theo phà như biểu diễn tài bơi lội. Mấy đứa cháu nội của tui chỉ chỏ, cười hi hi vì khoái quá trời hè!

(Ở nước Úc tư bản nầy đây kinh tế thị trường không có lòng thòng cái đuôi xã hội chủ nghĩa gì ráo, khi ngân sách của chính phủ Liên bang và Tiểu bang không kham nổi thì để công ty tư nhân nó làm.

Qua phà là trả tiền, không qua thì phải chịu khó chạy xa hơn, mất thời giờ hơn, tốn xăng hơn. Quyền chọn lựa là của mình chớ không có thằng cha căng chú kiết nào nhào vô nắm đầu mình trấn lột; không đi cũng phải trả như những đường ăn cướp trên quốc lộ Một ở Cai Lậy rùm beng mấy bữa nay đâu.)


oooOooo

Ðêm nay, đêm tháng Chạp cuối năm, tui nhớ chuyến phà xứ người năm ngoái; lòng tui lại nhớ những chuyến phà của quê mình năm cũ!

Ôi! Tháng của những ngày ly biệt, rồi ra đi biền biệt, dẫu quê lòng tha thiết nhớ… nhưng làm sao biết tới ngày nào mà về quê cũ?

Ðúng là Lục tỉnh Nam Kỳ mình sông rạch chằng chịt! Nào là đò dọc, đò ngang, xuôi dòng hay băng ngang qua bến khác, rồi lại quay về bến cũ.

Thủ đô Sài Gòn muốn qua bên Thủ Thiêm thuở ấy là mình phải đi đò. “Bắp non mà nướng lửa lò/Ðố ai ve được con đò Thủ Thiêm.”

Như vậy chiếc ghe trọng trọng một chút để đưa hành khách từ bên nầy sông qua bên kia sông gọi là đò, đò ngang.

Ðể chở được nhiều người, xe đạp, xe gắn máy, tàu có tài công, thì gọi là phà.

Còn bự kinh hơn nữa, chở cả chục chiếc xe hơi mỗi lần, trọng tải tới 100, 200 tấn thì mình gọi là bắc.

Như vậy theo ngu ý của tui, là xếp từ nhỏ tới lớn, từ thô sơ chèo tay đến chạy máy diesel hiện đại. Mình có đò ngang, rồi phà và ‘number one’ là chiếc bắc (âm tiếng Tây là Bac).

Nhưng sau 75, thì gọi búa xua bắc là phà. Sao vậy cà? Vì các nhà thơ, nhà nhạc ưa chữ phà hơn, vì vần điệu dễ hát; dẫu đã làm mất dần sự trong sáng của tiếng Việt đi! Hi hi!

(Chẳng hạn như xưa giờ, tui chỉ nghe trai cưới vợ; gái lấy chồng. Vậy mà báo chí quốc doanh trong nước dám viết là: em người mẫu chân dài đầu ngắn nầy ‘cưới’ chồng (?!)

Ðọc xong, tui cũng tự mình vò đầu bứt tai tự hỏi: “Ủa trong nước theo chế độ mẫu hệ hồi nào vậy cà?” Té ra không phải mà là dùng chữ tầm bậy tầm bạ, đụng đâu xắn đấy mà thôi!)

Tiếng Việt mình dĩ nhiên không ai hoàn hảo cả, nhưng làm cái nghề bán chữ thì cũng nên kỹ kỹ chút đi kẻo chúng nó khi!

Trước 75, khi viết về thời VNCH mình, mà dùng chữ phà thay cho chữ bắc là trật lất rồi! Bằng cớ là soạn giả Viễn Châu trong bài vọng cổ: ‘Người Ðánh Ðàn Trên Sông Mỹ Thuận’, toàn là chữ bắc Mỹ Thuận không hè, tui tìm đỏ con mắt mà hổng thấy chữ phà Mỹ Thuận nó nằm ở đâu?


oooOooo

Ôi nhớ xưa! Xe đò đi miền Tây như: Ðức Hiệp chạy Cần Thơ, rồi Thuận Thành, Lộc Thành, Nhan Nhựt, Quang Minh, Ðại Hưng, Thuận Hiệp, Vĩnh Phát, Thuận Lợi, Liên Hiệp, Nhơn Hòa, Phi Long, Hiệp Hưng, Kim Long, Nam Thành, Hữu Phước, Quang Minh, Hiệp Thành, Tam Hữu chạy tới Bạc Liêu, Cà Mau.

Tất cả các hãng xe nầy phải chờ qua cầu Bến Lức và cầu Tân An (chỉ cho chạy một chiều) rồi xuống tới Bắc Mỹ Thuận quẹo về tay phải đi Sa Ðéc qua Bắc Vàm Cống để về Long Xuyên và Rạch Giá.

Qua Bắc Mỹ Thuận, quẹo tay trái trước khi vô chợ Vĩnh Long là bà con mình phải qua cái quận Long Hồ. Nằm ép bên chân cầu là một cái chợ nhỏ tên là Trường An thuộc làng Tân Ngãi.

Trường An và Long Hồ là tên hai nhân vật trong tuồng cải lương ‘Tuyệt Tình Ca’ mà bà con mộ điệu cải lương đặt tên tuồng lại là ‘Ông Cò Quận Chín’ (do Út Trà Ôn đóng) của soạn giả Hoa Phượng và Ngọc Ðiệp. Trường An, vai chị, do Bạch Tuyết; Long Hồ, vai em, do Thanh Sang đóng!

Ðó là thời hoàng kim của sân khấu cải lương, của đoàn Dạ Lý Hương của bầu Xuân dù đất nước vẫn còn chìm đắm trong cuộc chiến tranh bảo vệ Miền Nam trước cuộc xâm lược của quân CS Bắc Việt.

Sau nầy, mất miền Nam, sân khấu cải lương cũng bị lụi tàn theo vận nước!


oooOooo

Tui vốn là dân “vưỡn”, dân miệt vườn, lớn lên một chút đã lội nát nước Nam Kỳ Lục Tỉnh! Ðã qua biết bao lần Bắc Mỹ Thuận, Bắc Cần Thơ và Bắc Vàm Cống.

Cái bắc cuối cùng tui qua là Bắc Rạch Miễu (nối Mỹ Tho với Bến Tre) và Bắc Hàm Luông về Mỏ Cày để đêm vừa xuống, leo lên thuyền xuôi Ba Ðông vượt biên cuối năm 1988; vì tháng Tư năm 1989 các trại tỵ nạn khắp vùng Ðông Nam Á sẽ bị đóng cửa.

Tui đi nhưng trong lòng vẫn thương nhớ những chiếc bắc ngày xưa cũ!

Nhớ Bắc Mỹ Thuận, ngang sông Tiền mênh mông, vàng quạch phù sa như màu của chè sương sa mình ăn hồi nhỏ vậy, mà Tây đặt tên là “les bacs de My Thuan”.

Nhớ Bắc Cần Thơ, ngang sông Hậu dài 1,840m! Phía Cần Thơ, cầu Bắc tại Cái Khế! Phía Vĩnh Long, cầu Bắc tại Cái Vồn, quận Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long.

Tài công của chiếc bắc ngồi trong buồng lái trên cao cho dễ quan sát thuyền bè qua lại hay lúc cặp vào bờ, giựt dây, chuông kêu leng keng, nắm cây ‘cần’ giảm tốc độ để Bắc từ từ ráp vào gờ phao nổi.

Rồi một nhân viên trên chiếc Bắc kéo một cái dây cáp móc vào cái trụ trên ‘ponton’ để ngăn không cho chiếc Bắc tuột ra, để xe đang ‘đề pa’ không rớt tuốt xuống sông!

Ðêm quê người, trong cơn mơ về quê cũ, trong tiếng mưa rơi lộp độp ở hiên nhà tui vẫn nghe văng vẳng tiếng: “Tới Bắc Cần Thơ rồi, bà con xuống xe đi bộ, qua Bắc”.

Tui tuột xuống giường cái rột làm em yêu giựt mình hỏi tui đi đâu đó: “Lẹ lẹ lên em ơi! Trễ Bắc, làm sao mình về lại Úc cho được! Hu hu!”

Em yêu đợi tui tỉnh ngủ, bình tâm lại, bèn vỗ về an ủi: “Mai anh phải đi khám bác sĩ tâm thần mới được!”

“Bắc Mỹ Thuận, nay đã nghỉ chạy; vì Úc đã giúp xây xong cầu Mỹ Thuận.

Bắc Cần Thơ, nay đã nghỉ chạy; vì Nhựt đã giúp xây xong cầu Cần Thơ.

Thì còn chiếc Bắc nào đâu mà anh sợ trễ chớ?”

“Phần hai vợ chồng mình đã bỏ xứ đi luôn rồi việc gì phải sợ trễ Bắc, trễ máy bay, kẹt lại ở Việt Nam đó anh yêu?”


oooOooo

Từ Cần Thơ đi Sài Gòn chỉ có 171 cây số bây giờ xe chỉ chạy mất 3 giờ 24 phút. Chớ hồi xưa cũng khoảng đường ấy qua sông nên phải lụy đò, phải qua hai lần bắc! Rồi VC đào đường, đắp mô nên mình rời Cần Thơ lúc tuổi thanh xuân vô tới cầu An Lạc ở Sài Gòn đầu muốn bạc.

Mất 8, 9 tiếng đồng hồ là thường. Cùng khoảng thời gian đó, bây giờ bằng mình leo lên máy bay ở phi trường Tullamarine, Melbourne đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhứt để đi uống bia ôm như thằng bạn nhậu (mất nết) của tui hay làm vào những ngày cuối năm giáp Tết.

Nó rủ tui về hè hoài. Nhưng tui lắc đầu quầy quậy, bà con mình đang đói khổ mà mình ỷ rủng rỉnh chút tiền đô, về để du hí thì thiệt là tệ hơn con khỉ.

Tỉnh cơn mộng du, trời chưa sáng (như quê mình vậy). Tui lui cui rót ra ly rượu đỏ làm một hơi để nhớ về người chiến hữu thương binh ngày cũ trên Bến Bắc Cần Thơ: “Chiều qua phà Hậu Giang tiếng ai hát dạo buồn thay/ Tiếng ca sầu mênh mang như khơi niềm đau năm tháng xưa/ Chân nạng gỗ thấp cao kéo lề đời theo dòng nhạc đưa/ Mảnh chiến y phai màu khúc ca nào gợi sầu khôn nguôi!”

Ðêm cuối năm về sáng quê người sao buồn quá Má ơi?!

Đoàn Xuân Thu
nguồn: http://baotreonline.com/tre-bac-lam-sao-qua/

BachMa
02-19-2018, 10:37 PM
"Nữ hổ tướng" Hồ Thị Quế - The Tiger Lady

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1517872592-NuHoTuong_HoThiQue.jpg
Hồ Thị Quế là vợ của Thiếu tá Nguyễn Văn Dần, vị Tiểu đoàn trưởng của Tiểu đoàn 44 Biệt Động Quân QL VNCH, đây là một tiểu đoàn ưu tú của VNCH vì có lực lượng rất thiện chiến và tinh nhuệ.

Hồ Thị Quế được các đồng đội miêu tả là con người quyết liệt trong việc chống Cộng. Được đa số quân lính nể phục vì bà hay bỏ tiền ra trợ cấp cho lính dưới quyền, bà Quế thường được tung hô là "Nữ Hổ Tướng". Hồ Thị Quế cũng nhận được rất nhiều huy chương danh dự của QLVNCH cũng như Quân đội Mỹ.

Trong một lần đối đầu với Quân Giải phóng, Tiểu đoàn BĐQ 44 tổn thất gần hết quân số, 1 cố vấn Mỹ cũng bị giết. Hồ Thị Quế đã cạo đầu, nguyện sẽ rửa hận cho các chiến hữu đã ra đi.

Tuy nhiên, chưa kịp ra chiến trường sau đó thì nữ tướng này bị chồng bắn chết. Trước toà, Thiếu tá Nguyễn Văn Dần khai rằng vợ ông đã tấn công ông bằng dao trước vì bắt gặp ông ngoại tình.:

"Trong cơn ghen bả còn dữ hơn lúc bả xông pha chiến trường".


Nguồn: Ký ức chiến tranh VN (chưa rõ link?)
Sưu tầm bởi Cộng tác viên Nguyễn Tài
nguồn: https://www.facebook.com/TimHieuVeChienTranhVietNamVietNamWar/photos/a.361094067294852.77411.361089103962015/1099636796773905/?type=3&theater

BachMa
02-21-2018, 06:27 PM
Chiếc Máy Bay Do Người Việt Nam Chế Tạo
Brown Sugar

Máy bay đó có tên là “Tiền Phong 001” có nghĩa là “ngọn gió đi trước”, tên là “Tiền Phong 001”, vì dự định sau đó sẽ chế tạo thêm Tiền Phong 002, Tiền Phong 003 và 004 v.v.

Kỹ sư trưởng của công trình này là ông Nguyễn Tú.

Máy bay dùng để huấn luyện căn bản các phi công Việt Nam, vì vậy loại máy bay này được chế tạo theo kiểu máy bay cánh thấp giống khu truc, máy bay có hai ghế ngồi gần nhau với hai cần điều khiển song hành và có khả năng nhào lộn nhẹ nhàng thích hợp cho một chiến đấu cơ căn bản.

Chuyến bay thử nghiệm được thực hiện vào ngày 01/7/1972 (hoặc 1973), phi công đầu tiên bay thử là ông Võ Xuân Lành và ông Nguyễn Tú, máy bay đã bay nhiều vòng trên bầu trời Sài Gòn.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1517861421-MayBay_TienPhong_01.png

Chiếc máy bay đầu tiên được chế tạo tại Việt Nam, nó được sản xuất ở 3 căn cứ khác nhau và được ráp khâu cuối ở Tân Sơn Nhất.
Buổi giới thiệu chiếc máy bay đầu tiên do Không quân Việt Nam chế tạo.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1517861436-MayBay_TienPhong_02.png

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1517861471-MayBay_TienPhong_03.png

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1517861489-MayBay_TienPhong_04.png

BachMa
02-23-2018, 10:14 PM
Người Ở Lại Charlie, Đại Tá Nguyễn Đình Bảo
Nguyễn Bảo Tuấn

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1517861749-NguoiOLaiCharlie.jpg

https://www.youtube.com/watch?v=y5uTQxAtTiE
(Click attached link với nhạc phẩm “ Người Ở Lại Charlie”)
LTS - Rất đông độc giả liên lạc tòa soạn, hỏi về gia cảnh cố Ðại Tá Nguyễn Ðình Bảo, người mà chúng ta đã quá quen thuộc qua nhạc phẩm “Người Ở Lại Charlie,” của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh. Qua tìm hiểu, chúng tôi được biết gia đình bà quả phụ Nguyễn Ðình Bảo hiện sinh sống tại Sài Gòn. Bà Nguyễn Ðình Bảo nay 76 tuổi, vẫn minh mẫn và khỏe mạnh. Hai ông bà có ba người con. Trưởng nam, Nguyễn Bảo Tường, là một bác sĩ Nhi Khoa. Thứ nữ, Nguyễn Bảo Tú, làm việc tại Tòa Lãnh Sự Anh Quốc tại Sài Gòn. Con trai út, Nguyễn Bảo Tuấn, kiến trúc sư và đang giảng dạy tại một đại học ở Sài Gòn. Dưới đây là bài viết hồi năm 2012 của anh Nguyễn Bảo Tuấn, về thân phụ mình. Tòa soạn tìm thấy bài viết này trên trang Facebook riêng của Nguyễn Bảo Tuấn, xin trân trọng giới thiệu cùng độc giả.


oooOooo

Trên FB tôi thấy đại đa số thường chọn hình mình hoặc hình con mình để làm avatar, ít hơn một chút thì lấy hình của người yêu, vợ hoặc chồng, hoặc một hình gì đó mà mình yêu thích. Riêng tôi thì tôi lại chọn một đối tượng khác mà hình như tôi thấy chưa một ai chọn giống như tôi: Một người mà đã không giữ lời hứa với mẹ tôi.

Tôi sinh ra và lớn lên trong một hoàn cảnh đầy phong ba bão táp. Cả nhà 6 người mà chỉ có một chiếc xe đạp thay phiên nhau đi, gạo thì chạy ăn từng bữa, anh trai tôi ngày ngày cứ 5 giờ sáng phải chạy lên Gò Vấp để lấy bánh đậu xanh về đi bỏ cho các tiệm bánh rồi mới về đi học trong suốt 7 năm trời, từ năm học lớp 11 đến hết năm thứ 6 Y Khoa. Khó khăn là vậy nhưng tôi vẫn trưởng thành một cách đầy kiêu hãnh. Ðôi khi nhìn lại tôi tự hỏi là điều gì đã giúp tôi mạnh mẽ mỗi khi đương đầu với những khó khăn? Và câu trả lời là do trong huyết quản tôi vẫn đang mang một dòng máu nóng trong mình và tôi đã chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ người đã cho tôi dòng máu ấy: Một người mà đã không giữ lời hứa với mẹ tôi.

Tôi cũng không biết tại sao tôi và người đó chỉ gặp gỡ và tiếp xúc trong có vài chục ngày, chính xác là từ ngày 6 tháng 1, 1972 đến ngày 25 tháng 3, 1972, mà tôi lại luôn luôn thương mến, cảm phục, tự hào và luôn lấy người làm tấm gương soi để tôi có đủ nghị lực vượt qua mọi khó khăn. Có lẽ là do cuộc sống của người quá vĩ đại và tôi đã được thừa hưởng một phần của nó. Mặc dù khi ra đi người đã không thực hiện được một lời hứa với mẹ tôi mà cho tới bây giờ tôi vẫn hỏi:

“Tại sao?”

Charlie, tên nghe quá lạ!

“Toàn thể những địa danh nơi hốc núi, đầu rừng, cuối khe suối, tận con đường, tất cả đều bốc cháy, cháy hừng hực, cháy cực độ... Mùa Hè 1972, trên thôn xóm và thị trấn của ba miền đồng bốc cháy một thứ lửa nhân tạo, nóng hơn, mạnh hơn, tàn khốc gấp ngàn lần, vạn lần khối lửa mặt trời sát mặt...
Kinh khiếp hơn Ất Dậu, tàn khốc hơn Mậu Thân, cao hơn bão tố, phá nát hơn hồng thủy.

Mùa Hè năm 1972 - Mùa Hè máu. Mùa Hè của sự chết và tan vỡ toàn diện.

Nếu không có trận chiến mùa Hè năm 1972 thì cũng chẳng ai biết đến Charlie, vì đây chỉ là tên quân sự dùng để gọi một cao độ nằm trong chuỗi cao độ chập chùng vùng Tân Cảnh, Kontum.

Charlie, “Cải Cách,” hay “C,” đỉnh núi cao không quá 900 thước trông xuống thung lũng sông Pô-Kơ và Ðường 14, đông-bắc là Tân Cảnh với mười hai cây số đường chim bay, đông-nam là Kontum, thị trấn cực bắc vùng Tây Nguyên.”
(Trích trong “Mùa Hè Ðỏ Lửa” của Phan Nhật Nam)

"Charlie bỗng trở thành một địa danh được nhắc nhớ từ sau 4,000 quả đạn pháo tới trong một ngày, từ sau người mũ đỏ Nguyễn Ðình Bảo nằm lại với Charlie."
(Trích lời giới thiệu trong CD Chiến Tranh và Hòa Bình của Nhật Trường Trần Thiện Thanh)

Cho đến bây giờ cũng ít người biết rằng tôi chính là “đứa bé thơ” với “tấm khăn sô bơ vơ “ trong bài hát “Người Ở Lại Charlie” của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh. Và tôi lớn lên cùng với ký ức về một người Cha hào hùng như vậy.

Tôi không thần tượng Cha tôi từ một bài hát viết về người, cũng không thần tượng từ một hai trận đánh trong cuộc đời binh nghiệp của người, mà tôi thần tượng Cha mình từ chính cuộc đời của Người.

Trải qua biết bao thăng trầm đời binh nghiệp và cuối cùng người đã được giao làm tiểu đoàn trưởng của tiểu đoàn “Song Kiếm Trấn Ải” (biệt danh của Tiểu Ðoàn 11 Nhảy Dù), một trong những tiểu đoàn được xem là thiện chiến nhất của quân lực Việt Nam Cộng Hòa thời bấy giờ. Nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc Cha tôi là một người khát máu hung tàn, mà ngược lại hoàn toàn, mọi người đều nhớ về hình ảnh Cha tôi như là một võ sĩ đạo đúng nghĩa: Giỏi võ, dũng cảm và cao thượng.

Thời bấy giờ có mấy ai dám đánh một sĩ quan của Mỹ, vậy mà Cha tôi đã làm điều đó khi người sĩ quan đó dám làm nhục một người lính Việt Nam (chuyện này tôi được nghe bác ruột tôi kể lại). Có tiểu đoàn nào trong quân đội mà luôn gọi Tiểu Ðoàn Trưởng bằng tên thân mật “Anh Năm”?, nhất là trong binh chủng Nhảy Dù, việc phân chia cấp bậc luôn được tôn trọng và đặt lên hàng đầu. Vậy mà trong Tiểu Ðoàn 11 Nhảy Dù, tất cả mọi người, từ lính đến sĩ quan, chẳng ai gọi Cha tôi là Trung Tá cả, mà luôn gọi là Anh Năm, và “Anh Năm” thường hay nói với mọi người trong tiểu đoàn rằng: “Tụi mày thì chẳng biết mẹ gì, nhưng tất cả tụi mày tao đều coi là em tao hết.”

“Anh Năm,

“Ngoài đời anh sống hào sảng, phóng khoáng và thật ‘giang hồ’ với bằng hữu anh em, còn trong quân ngũ, anh như một cây tùng ngạo nghễ giữa bão táp phong ba, Anh không nịnh cấp trên đè cấp dưới, anh chia sẻ vinh quang buồn thảm với sĩ quan và binh sĩ thuộc cấp.

“Anh sống hùng và đẹp như thế mà sao lúc ra đi lại quá phũ phàng!?

“Tôi về lại vườn Tao Ðàn, vẫn những hoa nắng tròn tròn xuyên qua khe lá, lấp loáng trên bộ đồ hoa ngụy trang theo mỗi bước chân. Cây vẫn xanh, chim vẫn hót, ông lão làm vườn vẫn lom khom cầm kéo tỉa những chùm hoa loa kèn, những cụm hoa móng rồng và những bụi hồng đầy màu sắc. Bên gốc cây cạnh căn lều chỉ huy của anh hồi tháng trước khi còn đóng quân ở đây, tôi thấy có bó hồng nhung đỏ điểm vài cánh hoa loa kèn trắng. Chống đôi nạng gỗ xuống xe, tiếng gõ khô cứng của đôi nạng trên mặt đường khiến ông lão ngẩng đầu và nhận ra tôi. Siết chặt tay ông cụ, trong ánh mắt già nua chùng xuống nỗi tiếc thương, chòm râu bạc lưa thưa phất phơ trước gió. Ông cụ đọc báo, nghe đài phát thanh nên biết anh đã ra đi, nên sáng nào cũng để một bó hoa tưởng nhớ và tiễn đưa anh.

Cụ mời tôi điếu thuốc Quân Tiếp Vụ, rồi ngồi xuống cạnh gốc cây, tay vuốt nhẹ trên những cánh hồng, sợi khói mỏng manh của điếu thuốc nhà binh quện trong tiếng nói:

“- Thuốc lá ông Quan Năm cho, tôi vẫn còn đủ dùng cho đến cuối năm. Mấy chục năm nay tôi mới gặp một ông quan nói chuyện thân mật và tốt bụng với những người dân như tôi. Người tốt mà sao ông Trời bắt đi sớm như vậy!?”
(Trích trong “Máu Lửa Charlie” của Ðoàn Phương Hải)

Cha tôi đã sống như thế nào mà những người ít ỏi còn sống sót trở về sau trận chiến tại đồi Charlie đều nói là họ thật hối tiếc khi không được nằm xuống cùng Cha tôi ở đó.

“Tô Phạm Liệu cảm thấy lẻ loi ở cái đại hội y sĩ có nhiều những người ‘mặc quần mới áo đẹp’ và ‘ăn to nói lớn,’ thích ‘nhảy đầm’ và ‘xếp hàng để lên hát’...

Trong cơn say, anh nói là phải chi trước kia, mười mấy năm trước kia, anh được ‘ở lại Charlie’ với Trung Tá Nguyễn Ðình Bảo, với các bạn nhảy dù thì ‘sướng hơn nhiều.’”
(Trích trong “Tô Phạm Liệu: Người trở lại Charlie” của Phạm Anh Dũng)

Viên sĩ quan cố vấn Mỹ Duffy cho tới tận bây giờ vẫn còn luôn mang trong người những hoài niệm về Cha tôi và trận chiến tại Charlie. Mỗi lần tham gia các cuộc gặp gỡ của Hội Cựu Chiến Binh Việt Nam (trong đó có một số hiện đang là tướng lãnh cao cấp trong quân đội Mỹ) ông ta đều hỏi mọi người, “Tụi mày có từng tham gia trận Charlie không, tụi mày có ai từng chiến đấu cạnh Colonel Bao (Trung Tá Bảo) chưa? Thế thì tụi mày còn xoàng lắm. Và hàng năm cứ mỗi lần sinh nhật của mình, ông ta đều đặt một ổ bánh kem làm hình một ngọn đồi và ghi chữ Charlie lên đó. (Chuyện này do chú Ðoàn Phương Hải khi về Việt Nam năm 2011 thuật lại cho tôi nghe).

Cha tôi đã sống như thế nào để một người Mỹ phải luôn khắc trong tâm khảm những hoài niệm như vậy?

Tôi chỉ có thể kết luận một câu: “Cuộc đời của Cha thật vĩ đại.”

Ngày hôm nay khi viết về Cha, tôi không biết viết gì hơn, chỉ xin dâng về hương hồn Cha một vài câu thơ nói về khí phách của Người và nơi mà Cha đã gửi lại thân xác vĩnh viễn cho núi rừng Charlie. Ở đây tôi xin dùng từ “Cởi áo trần gian” vì tôi tin rằng Cha vẫn đang khoác một chiếc áo khác và vẫn đang nhìn tôi từ một nơi rất xa...

Lặng lẽ ngàn năm chẳng danh xưng
Bỗng chốc một hôm hóa lẫy lừng
Charlie gầm thét trong lửa đạn
Gọi mãi tên người nước mắt rưng
Trai thời nỗi chết tựa trên lưng
Khí phách hiên ngang bước chẳng dừng
Charlie vẫy gọi người ở lại
Cởi áo trần gian tặng núi rừng
(Kính dâng tặng hương hồn Cha)

Sinh nhật mẹ tôi ngày 11 tháng 4. Trước khi hành quân vào Charlie ngày 25 tháng 3, Cha tôi đã đặt một chiếc bánh sinh nhật cho mẹ với lời hứa là sẽ về dự sinh nhật mẹ. Ðến ngày sinh nhật, mẹ đã không tổ chức mà vẫn chờ Cha về, và cho đến tận bây giờ mẹ vẫn chờ...

Tuy nhiên Cha đã thất hứa với mẹ vì ngày 12 tháng 4 Cha đã cởi áo trần gian và nằm lại vĩnh viễn với Charlie. Còn tôi, tôi chỉ biết hỏi là tại sao Cha lại không giữ lời hứa với mẹ tôi? Tại sao và tại sao...?

Nguyễn Bảo Tuấn
nguồn: http://www.nvbonphuong.com/forums/showthread.php?251200-Người-Ở-Lại-Charlie-Đại-Tá-Nguyễn-Đình-Bảo

BachMa
02-25-2018, 06:33 AM
Chiếc Áo Phong Sương Tình Anh Nặng
Thân tặng các anh em Lôi Hổ và Lực Lượng Đặc Biệt…
Trường Sơn Lê Xuân Nhị

Câu chuyện ngắn sau đây, tuy dựa trên những sự kiện của lịch sử, nhưng, ngoài Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, tất cả các nhân vật khác và chi tiết khác đều là một sản phẩm của tưởng tượng. Nếu có một sự trùng hợp ngẫu nhiên nào, đó là hoàn toàn ngoài ý muốn của tác giả.
Trân trọng.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1517860857-ChiecAoPhongSuongTinhAnhNang.jpg
Thiếu Tướng Phạm Văn Phú

Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II và Quân Khu II rút điếu thuốc lá 3 con 5 ra khỏi cặp môi đen sạm, phà khói vào tấm bàn đồ trước mặt. Như thường lệ, mỗi khi có gì cần phải suy nghĩ, mặt ông tướng Phú nhăn lại một cách thảm hại…

Trước mặt ông ta là tấm bản đồ tình báo tối mật với những tin tức mới nhất của phòng II quân đoàn vừa trình lên cho ông, chi chít những hình vuông, tròn, tam giác và những mũi tên dấu xanh dấu đỏ vẻ bằng bút chì mở. Màu Xanh là biểu hiệu của phe mình, còn màu Đỏ là Việt Cộng. Đứng bên phải ông là ông là đại tá Vân, Tham mưu trưởng quân đoàn II. Bên trái ông là đại tá Phùng, Chiến Đoàn Trưởng Chiến Đoàn III Xung Kích Lực Lựơng Đặc Biệt. Bên cạnh ông đại tá Phùng là Trung Tá Khiếu, trưởng phòng II của quân đoàn, “tác giả” của tấm bản đồ bí mật.

Tất cả các cặp mắt đều đổ dồn vào cái hai đường gạch đỏ kẻ bằng bút chì mỡ rất đậm nét bắt đầu từ một mép ngoài bản đồ, phía bên kia của biên giới Việt Nam, trong khu cao nguyên Boleven của đất Lào. Xuất phát từ đây, một con đường bút mỡ đỏ bò ngoằn ngoèo, chạy xuống phía Bắc của Daksut rồi tẻ ra làm hai nhánh. Một nhánh đi xuống phía Bắc của Dakto, còn nhánh kia rẻ phải một chút, bò qua Thanh An, Thuần Mẫn và chấm dứt ở Băng Đôn, một quận lỵ nằm ở phía Bắc thành phố Ban Mê Thuột khoảng 50 cây số đường chim bay.

Con đường bút đỏ thứ hai chạy xuôi về phía Nam theo đường mòn Hồ Chí Minh ở bên kia biên giới rồi bất ngờ rẻ vào mật khu Bù Gia Mập. Tại đây con đường tẽ ra làm hai, một đi ngược lên phía bắc, xuyên qua quận lỵ Đức Lập rồi tiến về phía Nam Ban Mê Thuột, đường kia đi xa hơn lên phía Đông Bắc, xuyên qua Quảng Nhiêu và ngừng lại ở phía Tây Ban Mê Thuột.

Ở cuối con đường thứ nhất, có một hình vuông có “nhốt” một ngôi sao, dấu hiệu của sư đoàn bộ binh và con số 968. Ở cuối con đường thứ hai thì có tới ba hình vuông nhốt ba ngôi sao với những con số 316, 10 và 3…

Tướng Phú có vẻ không khoái những cái ngôi sao này nên mặt ông nhăn lại một cách khổ sở. Thỉnh thoảng, ông ho lên sù sụ. Bốn người đứng yên, nhìn chằm chằm vào tấm bản đồ một lúc, không ai nói với ai một lời nào. Cuối cùng, tướng Phú cầm cây gậy chỉ huy gõ nhẹ nhẹ vào cái con đường chỉ đỏ thứ hai trên tấm bản đồ:

-Pourquois? Ban Mê Thuột… Ban Mê Thuột… Merd… có lẽ nào chúng nó muốn đánh Ban Mê Thuột? Tôi biết tụi nó đang chuẩn bị tấn công mùa khô nhưng tại sao lại đánh Ban Mê Thuột? Qu’est ce que la raison… Merd…

Tướng Phú ít khi chửi thề, trừ những khi gặp những vấn đề gì quá rắc rối. Và ông không chửi tiếng Việt mà bằng tiếng Pháp. Tiếng “Merd” là ngôn ngữ nặng nhất của ông tướng.

Đại Tá Phùng và Trung Tá Khiếu liếc nhìn nhau trao đổi một cái nhìn bí mật. Trung Tá Khiếu tính nói gì đó nhưng tướng Phú đưa tay ngăn lại, rồi tướng Phú lại… nhăn mặt nói tiếp:

-Merd, không khéo là mình bị lừa. Tôi nghi là chúng nó muốn làm cho mình rối lên thôi… Chúng nó chỉ muốn kéo quân về đó để làm nghi binh. Coi chừng Ban Mê Thuột chỉ là diện, còn Pleiku mới thực là điểm. Dĩ nhiên Ban Mê Thuột dễ đánh hơn, nhưng, đánh Ban Mê Thuột thì chúng nó được lợi gì? Chỉ toàn cà phê không thôi chứ có mẹ gì… Merd…

Không có ai có thể trả lời nổi câu hỏi của tướng Phú. Phải, đánh Ban Mê Thuột thì chúng nó được lợi gì?

Tướng Phú xoay người ngồi xuống chiếc ghế tư lệnh rất đồ sộ bằng da cọp. Chiếc ghế đó là món quà tặng đặc biệt của ông Tư Lệnh Sư Đoàn 23 năm rồi. Đám Sĩ Quan liền đứng vây chung quanh bàn giấy ông. Ông dụi điếu thuốc, lý luận tiếp:

-Tôi nghĩ chúng nó chỉ đặt nghi binh để chia lực lượng của quân Khu II mình ra thôi. Cứ theo dõi những trận đánh mấy tháng gần đây, tôi thấy chiến dịch mùa khô năm nay chúng nó sẽ đánh như thế này: Trước hết, về phía Tây, chúng nó sẽ cắt quốc lộ 19 để chặt con đường tiếp viện duy nhất của mình với miền duyên hải và hải cảng Qui Nhơn. Đồng thời ở đây, chúng nó sẽ làm mọi cách để làm tê liệt Phi trường Phù Cát… Phía Bắc, Kon Tum sẽ bị đánh. Phía Nam, chúng sẽ cắt quốc lộ 14 nối liền với Ban Mê Thuột. Cũng có thể, một vài quận lỵ nhỏ ở đây sẽ bị tấn công như Buôn Hô, Thuần Mẫn v.v… Nếu chúng nó thực hiện được chuyện này mà mình không chia quân ra giữ thì Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn sẽ bị vây hãm. Còn nếu mình chia quân để tăng cường Ban Mê Thuột thì bộ tư lệnh sẽ bị tràn ngập trong vòng một đêm…

Nói đến đó đột nhiên Tướng Phú đưa mắt nhìn ông trung tá Khiếu, ngừng một chút rồi lại nói tiếp. Hình như cái chữ Ban Mê Thuột cứ trở về ám ảnh lấy ông:
-Tuy nhiên, nếu chúng nó xuất kỳ bất ý đánh Ban Mê Thuột, thì tôi thấy thành phố này khó mà đỡ nổi. Khó lắm, trừ phi mình có tiếp viện. Nhưng, chuyện… tận cùng, nếu mất Ban Mê Thuột, mình còn có thể gởi quân xuống lấy lại được. Còn để mất Pleiku là cả cái quân đoàn II này coi như mất. Anh Khiếu này, lúc nãy anh tính nói gì?

-Trình thiếu tướng, phòng II chúng tôi có thêm tin tức là một trung đoàn xe tăng và một trung đoàn cao xạ nặng cũng đã xuất hiện ở khu Bù Gia Mập.

-Như vậy thì chung quanh Ban Mê Thuột có tới 4 sư đoàn chính qui Bắc Việt và 1 trung đoàn cao xạ và 1 trung đoàn xe tăng?

-Thưa Thiếu Tướng, đúng vậy nhưng tôi chưa vẽ trên bản đồ vì chưa kiểm chứng được.

-Đó là chưa nói tới hai trung đoàn 95A và 95B vẫn thường xuyên quấy nhiễu vùng Kontum?

-Thưa thiếu tướng đúng như vậy.

Tướng Phú xoay chiếc ghế tư lệnh, nhìn vào tấm bản đồ nơi có cái ngón tay của ông Trung Tá Khiếu đang chỉ. Bố khỉ, ngón tay đó lại nằm ở phía bắc của Ban Mê Thuột nữa.

Tướng Phú chau mày, thò tay móc điếu thuốc lá, châm lửa, trán nhăn lại…

Ông không nói ra nhưng tướng Phú xưa nay có cái tật không tin… người Việt Nam lắm, nhất là những tin tức tình báo. Tướng Phú là một vị tướng thuộc vào hạng khá của QLVNCH, nhưng suốt quãng đời quân ngũ của ông, ông chỉ làm việc với người Pháp và Mỹ. Xuất thân là một sĩ quan nhảy dù Pháp, làm việc với Pháp, ông tập được lối đánh giặc và suy luận theo lối Pháp. Sau Điện Biên Phủ, ông Phú vào Nam. Quân đội VNCH bấy giờ được Mỹ tái huấn luyện và trang bị nên trong các chức vụ đơn vị trưởng, chung quanh ông luôn luôn có cố vấn Mỹ. Tất cả mọi chuyện, từ quân xa cho đến yểm trợ cho đến tin tức tình báo, ông luôn luôn nhờ người Mỹ lo liệu. Đến khi ông về nắm Tư Lệnh Lực Lựơng Đặc Biệt thì cái bịnh “tin Mỹ” của ông lại càng trở nên nặng vì đơn vị này do Mỹ thành lập và yểm trợ 100 %. Khi ông ra nắm Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh, bệnh này vẫn không thuyên giảm vì nếu không có sự yểm trợ ồ ạt và táo bạo của không quân Mỹ thì cái sư đoàn ở vùng địa đầu giới tuyến này chắc đã bị tràn ngập nhiều lần rồi. Bây giờ, không còn tin tức tình báo của Mỹ, là một vị tư lệnh quân đoàn, tướng Phú cảm thấy trách nhiệm của mình nặng nề và khó khăn vô cùng.

Nhìn ông Trung Tá Khiếu, tướng Phú phải công nhận rằng đây là một sĩ quan trẻ, rất có tài và làm việc rất tận tâm nhưng ông vẫn cho rằng khả năng và kiến thức của một ông Trung tá trưởng Phòng II của Quân Đoàn vẫn chưa đủ để phán đoán hay nhận xét về những cuộc điều binh cấp sư đoàn hay quân đoàn. Chỉ có ông. Phải, chỉ có ông hoặc là những sĩ quan cấp tướng như ông mới đủ khả năng để lượng định.

Tướng Phú nhìn quanh một lượt rồi hỏi trống không:

-Bon, các anh em ở đây, có ai có ý kiến gì không? Đừng quên một chuyện là chúng nó cũng có thể đánh Quảng Đức. Về chiến lược, Quảng Đức càng dễ đánh hơn nữa vì ở gần Phước Long hơn, gần quân đoàn III, gần Sài Gòn hơn.

Không có tiếng trả lời…

Ngay lúc đó, như một kẻ nhô ra từ trong bóng tối, ông đại úy sĩ quan tùy viên xuất hiện bên cạnh tướng Phú như muốn làm dấu nhắc nhở một điều gì đó. Tướng Phú hiểu ý, nhìn đồng hồ tay rồi dụi tắt điếu thuốc, đưa mắt làm dấu cho người sĩ quan tùy viên chuẩn bị cái cặp táp rồi nói:

-Cám ơn các anh em đến tham dự buổi giải trình hàng tuần của phòng II. Không ngờ hôm nay lại có chuyện quan trọng như vậy…

Nghe vậy thì tất cả các ông sĩ quan cấp tá trong phòng liền đứng thành một hàng ngang trước mặt tướng Phú để chờ lệnh. Tướng Phú nhìn quanh một lượt. Người đầu tiên được ông tướng Phú để ý tới là trung tá Khiếu. Ông nhìn trung tá Khiếu nói:

-Cám ơn anh Khiếu đã cho tôi những tin tức vô cùng quý giá. Anh tiếp tục theo dõi, bám sát, ghi nhận và nếu có thêm tin tức gì thì anh cho tôi biết liền. Sur tout, anh đưa báo cáo và bản giải trình của anh cho phòng truyền tin để họ chuyển sang mật mã gởi về Tổng Tham Mưu và dinh Độc Lập gấp cho tôi nội trong ngày hôm nay.

-Nhận rõ, thưa Thiếu tướng.

-Bon. Anh Vân, anh đánh công điện mời tất các Tiểu khu trưởng của Quân đoàn II về họp tại Nha Trang trong vòng 48 tiếng đồng hồ. Riêng hai ông Tiểu khu trưởng của Ban Mê Thuột và Quảng Đức, tôi muốn họ mang theo đầy đủ kế hoạch phòng thủ của tiểu khu họ. Tôi muốn tất cả các Tiểu khu trưởng phải có mặt trong buổi họp này.

-Trình thiếu tướng tôi nhận rõ.

Tướng Phú ngừng một chút. Người cuối cùng chưa nhận được lệnh lạc gì cả là đại tá Phùng, Chỉ huy trưởng chiến đoàn III xung kích Lôi Hổ.

-Anh Phùng…

Ông tướng Phú bỏ dở câu nói. Đại tá Phùng đứng thế nghiêm.

-Tôi nghe phòng Quân Cảnh và người ta than phiền mấy thằng lính của anh… ba gai, đánh lộn, phá quán tùm lum… Anh về coi lại chúng nó. Tôi sẽ không tha thứ những chuyện đó.

-Trình thiếu tướng tôi sẽ thi hành theo chỉ thị.

Tướng Phú lắc đầu:

-Chưa hết đâu…

Ông ta đứng lên, từ từ tiến tới tấm bản đồ ở phía sau lưng. Đại Tá Phùng thấy tim mình đập nhanh hơn.

Tướng Phú đứng yên ngắm cái bản đồ một lúc rồi đưa cây gậy chỉ huy chỉ vào một điểm phía bắc của quận Dakto, nơi một nhánh của con đường đỏ chấm dứt ở đó:

-Tôi muốn anh cho con cái anh nhảy vào đây cho tôi. Ít nhất là 2 toán. Tôi muốn tìm hiểu xem lực lượng của chúng nó ở đó có bao nhiêu quân? Bao nhiêu tăng? Nhà cửa và trang bị thế nào?

Đại tá Phùng ghi nhanh mấy cái tọa độ vào sổ tay rồi nói:

-Thưa thiếu tướng tôi nhận rõ.

-Còn nữa, chưa đã hết đâu…

Cái cây gậy chỉ huy của tướng Phú lại chỉ xuống cái chỗ tẻ hai của con đường bút đỏ thứ hai, trong khu Bùi Gia Mập. Ông gõ vào đấy mấy cái thật mạnh, giọng đanh lại:

-Đây là ổ tập trung quân an toàn nhất của tụi nó, anh cho 2 toán nữa nhảy xuống đây cho tôi. Ngay chỗ này này. Phải ráng làm sao bắt được vài thằng lính, nếu sĩ quan càng tốt của chúng nó đem về đây cho tôi. Đó là một bằng chứng xác đáng nhất về sự có mặt của chúng nó.

Đại Tá Phùng gật đầu:

-Nhận rõ, thưa thiếu tướng.

-Bon. Anh có 24 tiếng đồng hồ để chuẩn bị. Trễ lắm là tối mai, tôi muốn con cái anh phải nhảy xuống và có mặt ở vùng làm việc. Trong giai đoạn này, tôi chỉ muốn biết quân số cùng trang bị của chúng nó như thế nào thôi. Nhớ lấy điểm đó.

-Nhận rõ, thưa thiếu tướng.

Tướng Phú đội cái mũ lưỡi trai lên đầu, đeo giây súng vào người:

-Trung tá Khiếu!

-Thưa Thiếu tướng tôi nghe.

-Anh làm việc chung với ông đại tá Phùng, phối kiểm các tin tức tình báo của anh và tin của Lôi Hổ rồi làm cho tôi một tờ báo cáo. Đồng thời, làm việc đắc lực với Không quân, cho chụp càng nhiều không ảnh càng tốt. Tôi muốn anh chụp bất cứ cái gì mà anh có thể nghi ngờ. 3 ngày nữa, sau khi tôi đi họp ở Nha Trang về, tôi sẽ đọc báo cáo kế tiếp của anh.

-Tôi nhận rõ.

-Đại tá Văn!

-Tôi nghe.

-Anh cho mời 2 ông tư lệnh Sư đoàn, các ông Trung đoàn trưởng và Liên đoàn trưởng Biệt Động tối mai về họp tại đây lúc 18 giờ. Nhớ mời luôn ông tướng Nhân Không Quân và mấy ông Không đoàn trưởng qua luôn. Tôi có nhiều chuyện muốn bàn.

-Tôi nhận rõ.

Lúc này thì tướng Phú đã đứng ở cửa văn phòng mình. Ngoài sân, chiếc UH-1 có gắn bảng đỏ và hai ngôi sao bạc của tướng Phú bắt đầu quay máy. Hai người phi công đang bận rộn với mấy cái công tắc. Hai cánh quạt dài khẳng khiu đang chậm chạp liếm từng luồng gió một và từ từ tăng tốc độ…

-Ngoài ra có ai còn hỏi gì nữa không?

Không có tiếng trả lời.

-Bon, chào tất cả các anh.

-Tất cả… Nghiêmmm.

Đại tá tham mưu trưởng hô to và nghiêm trang dơ tay lên chào theo đúng thủ tục của quân đội. Tướng Phú gật đầu có vẻ hài lòng, dơ tay lên chào lại. Thì Đức Khổng Tử đã chẳng bảo là khi người nước nào còn biết được giữ được lễ nghĩa thì nước đó sẽ còn tồn tại được mà? Tướng Phú mỉm cười nhẹ nhàng khi nghĩ đến đó.

Ông bước từng bước một nhẹ nhàng ra khỏi phòng, tiến về phía chiếc phi cơ…

Lúc cánh quạt chiếc trực thăng tăng tốc độ để bốc máy bay lên, tướng Phú nhìn qua đám cuồng phong của bụi mù đất đỏ phía dưới con tàu và lại lẩm bẩm: “Ban Mê Thuột, Ban Mê Thuột… đất Buồn Muôn Thuở, xứ Bụi Mịt Trời…” Ông lẩm bẩm như vậy và mặt ông nhăn dúm lại một cách thảm hại…

* * *

Tại Ban mê Thuột, trong căn gác nhỏ nhưng sạch sẽ và tươm tất ở số 74 B đường Lý Thường Kiệt, người đàn ông mặc quần đùi nhà binh và áo thun trắng nằm nghiêng mình trên chiếc giường nhỏ đọc say mê cuốn truyện. Trên đầu giường có treo bộ đồ rằn ri, một cây súng lục, một con dao đi rừng. Chiếc áo rằn ri có huy hiệu con cọp ở ngực và cặp lon đại úy màu đen nơi cổ. Dưới giường là một đôi giày bốt đờ sô tuy cũ nhưng được đánh bóng cẩn thận.

Bên cạnh giường, trên chiếc ghế làm bằng gỗ thùng đạn, một người đàn bà xinh đẹp ngồi vòng tay trước ngực tư lự nhìn ra ngoài. Hai người vừa làm tình với nhau xong. Mặt người đàn bà vừa như giận dỗi và vừa như còn luyến tiếc hương vị của cuộc ân ái vừa qua…

Một lúc sau, người đàn ông xoay người hỏi:

-Em có đói bụng không Diễm?

Diễm lắc đầu không nói gì.

-Em muốn đi ăn không?

Diễm cay đắng:

-Đi ăn với người đã có vợ, thiên hạ cười chết.

Người đàn ông vất cuốn sách xuống giường, nhăn mặt có dáng mệt mỏi và hơi khó chịu. Tuy vậy, giọng nói của anh ta rất dịu dàng:

-Em cứ đay nghiến anh mãi.

Rồi anh ta ngồi dậy, thò tay với lấy gói thuốc Capstan trong túi áo, châm lửa mồi thuốc rồi uể oải đứng lên.

Người đàn ông đã đứng sau lưng Diễm, vòng hai tay ôm lấy nàng. Diễm tính hất tay anh chàng ta ra nhưng nghĩ sao lại để yên. Nàng ngã người vào bộ ngực rắn chắc của người đàn ông, nói như qua hơi thở:

-Em khổ lắm anh Huân ơi, anh có biết không?

Huân gỡ điếu thuốc ra khỏi môi, hôn nhẹ vào má nàng:

-Anh hiểu. Anh xin lỗi em.

-Bây giờ anh tính sao đây?

Huân lắc đầu, bất lực:

-Anh ước muốn nếu mình có một quyền năng gì đó…

Vừa nói đến đó, Diễm gỡ tay anh ra rồi bất ngờ tát đến bốp một cái vào mặt Huân:

-Đồ đểu, đồ khốn nạn…

Rồi Diễm ôm mặt bật khóc. Huân đưa tay lên xoa mặt, nhưng không hề biểu lộ một sự giận dữ.

-Anh cút đi, anh đừng động đến tôi… Anh là đồ khốn nạn…

Huân ngồi xuống giường trở lại. Mặt u buồn. Đấu điếu thuốc lại lóe lên liên tiếp. Bên ngoài, trời đã chạng vạng tối.

-Tại sao hôm đó anh lại tán tôi?

Huân cảm thấy tim mình đau nhói, không trả lời nỗi. Ừ thì mình bậy thật, ai bảo mình tán tỉnh nàng làm chi để đến ra nông nỗi này? Nhưng mình là lính xa nhà, gặp con gái đẹp mà không tán thì biết làm gì? Chẳng lẽ chỉ đứng xa mà nhìn rồi tối về nhà thầm yêu trộm nhớ như hồi còn đi học ở trung học?

Hai người quen nhau cách đây gần năm. Hồi ấy Huân còn đeo lon Trung úy, từ Bộ Chỉ Huy ở Sài Gòn vừa được đổi lên Ban Mê Thuột. Buổi chiều đầu tiên nhậu ở căn cứ say túy lúy. Buổi chiều thứ hai, chàng phóng xe díp ra phố để mua vài thứ lặt vặt và cũng để rửa mắt, coi thử thành phố Ban Mê Thuột tròn méo thế nào, dân tình ra sao. Huân thấy thành phố dễ thương lắm. Và dân Ban Mê Thuột hình như có một vẻ đẹp đặc biệt.

Trong một tiệm tạp hóa, chàng chỉ cây bút máy Pilot trong tủ kính hỏi cô hàng trẻ tuổi đang ngồi mơ màng, không biết đang mơ mộng hay suy nghĩ chuyện gì:
-Xin phép cô, nếu được, cô làm ơn cho tôi xem cây viết pilot.

Đáng lẽ, Huân sẽ chẳng bao giờ thèm để ý đến nàng nếu nàng không ngước mặt lên nhìn chàng, rồi nhìn bộ đồ rằn ri như muốn hỏi tại sao một người mặt mũi lịch sự thanh tao như vậy lại có thể mặc được bộ đồ rằn ri dữ tợn. Lúc ấy, Huân mới để ý là cô nàng duyên dáng thật. Lại ăn bận lịch sự và đúng mốt, hợp thời trang nữa. Bộ quần áo của nàng đang mặc Huân nhìn thấy không nhiều ở đất cao nguyên này. Nhưng tất cả những cái đó không bằng cặp mắt. Ánh mắt của nàng như muốn nói cho Huân biết là nếu chàng chịu khó tán tỉnh, chàng sẽ chiếm đoạt được nàng. Đời Huân, Huân đã gặp ít nhất vài ba người đàn bà như vậy.

Diễm mở cửa tủ kính, lấy cây viết đưa cho Huân. Chàng cầm lấy, ngắm nghía rồi hỏi:

-Cô cho mượn lọ mực, tôi viết thử được không?

Diễm khoanh tay đứng nhìn Huân, ngần ngừ một lúc rồi xoay động đôi vai nói:

-Đúng ra thì lệ ở đây không cho khách thử viết nhưng với ông thì… đặc biệt.

Huân cười:

-Tiệm này cũng có chương trình đặc biệt dành cho quân nhân chăng?

-Không! Tại vì tôi thấy ông lịch sự và trang nhã.

Huân cười nhẹ:

-Riêng tôi, nói thật với cô hàng, tôi mua bút cũng đã nhiều nhưng chưa bao giờ muốn thử cả. Cô có biết vì sao tôi muốn thử cây bút này không?

Diễm cười lên khanh khách, hàm răng thật trắng vào đều đặn:

-Thôi đi, ông muốn nói tại vì tôi đẹp phải không?

-Cô lầm rồi. Tôi không có thói quen khen người khác phái là đẹp. Tôi nghĩ một người đàn bà đẹp luôn luôn biết rằng mình đẹp, tất cả những lời khen tặng đều là dư thừa cả.

Diễm mở nắp một bình mực, hút một tí mực vào bút. Nàng đưa cây bút cho Huân và để ý và nhìn thấy những ngón tay dài đầy lông măng của chàng không có đeo nhẫn cưới:

-Vậy thì tại sao, ông lính?

-Tại vì hồi nãy tôi để ý thấy cô cứ nhìn chằm chằm vào người tôi. Tôi biết cô có… cảm tình với tôi.

Diễm đỏ bừng mặt, cặp mắt “ngổ ngáo” lúc nãy bây giờ chẳng dám nhìn thẳng vào mặt người khách. Ông lính đẹp trai này quả là một nhà tâm lý tài tình, Diễm nói với lòng mình như thế. Một lúc sau đó, nàng mới lấy lại được bình tĩnh để nói:

-Hay nhỉ, có cảm tình với ông. Sao mà ông lại tự tin lắm vậy?

Huân cười, vẫn nụ cười ngạo nghễ, nửa như châm chọc, nửa như vuốt ve:

-Không phải tự tin mà là linh cảm. Linh cảm của một người lính cô đơn và xa nhà.

-Ông vừa mở máy tán?

-Tại sao lại không nhỉ? Thật là bất lịch sự và ngu xuẩn nếu đứng gần một người đẹp như cô mà không chịu tán. Cô, à, cô gì nhỉ?

-Diễm.

-Diễm, hay quá. Tôi tên Huân.

Diễm không nói gì, vòng tay lại nhìn Huân chờ đợi. Huân nhún vai, hỏi:

-Cô Diễm cho tôi xin miếng giấy.

-Ông tán gái hay lắm.

Huân lắc lắc cho cây bút xuống mực, cúi người trên tủ kính rồi gạch vài gạch vào miếng giấy trắng. Rồi chàng xuống hàng, ngón tay đầy nhựa thuốc lá nắn nót viết chữ… “CAPSTAN” thật đều và thật đậm nét. Viết xong, Huân thẳng lưng lên, nhìn ngắm chữ CAPSTAN mình vừa viết như một ông cụ đồ nho ngắm câu đối tết vừa vẽ xong. Chàng xoay người đưa tờ giấy cho Diễm coi, hóm hỉnh nói:

-Cô Diễm thấy chữ tôi viết có… đẹp không?

Diễm bật cười, gật đầu, bắt đầu cảm thấy thích anh chàng. Nàng chưa gặp được một người nào tự nhiên và lại tự tin đến như vậy:

-Kể ra thì đẹp thật. Nhưng trên đời này có thiếu gì chữ để viết, tại sao lại viết CAPSTAN là tên của một loại thuốc lá?

-Cô Diễm cho thử một câu đi để tôi viết?

Diễm cười:

-“Anh Là Lính Đa Tình, ” được không?

Huân cũng cười, nhưng nhún vai:

-Đó là đầu đề của một bài hát, nhưng nghe thấy ghê quá cô Diễm ạ.

-Vì sao thế?

-Vì lính là những người cô đơn nhất trên trần gian này. Lính chẳng bao giờ có thể đa tình được cả.

-Đáng buồn thật, thế mà Diễm cứ tưởng các anh lính đa tình lắm. Thế thì “Những Đồi Hoa Sim” được không?

-Nghe buồn quá.

-Thế “Xuân Này Con Không Về Mẹ Ơi” có được không? Nghe có vẻ … “hiền lành hiếu thảo” vô cùng.

-Nghe ủy mỵ và yếu quá. Cô Diễm cho câu khác đi.

Diễm suy nghĩ một lúc rồi lắc đầu, nhún vai:

-Tôi chịu!

-Thế thì để tôi thử lại xem. Tôi vừa nghĩ ra một câu.

Huân cười với ý nghĩ của mình. Chàng nhích người đứng sát bên nàng, rồi cúi đầu xuống, cố ý để ống tay áo rằn ri để cạnh tay áo màu xanh của Diễm. Diễm thấy hơi lạ nhưng để yên, coi thử ông khách hàng “âm mưu” gì. Huân nắn nót viết trên tờ giấy: “Chiếc Áo Phong Sương Tựa Áo Nàng.”

Huân lại đưa miếng giấy cho Diễm coi:

-CAPSTAN là ý nghĩa của câu này.

Diễm nhìn mảnh giấy rồi nhìn Huân và cười thích thú, bảo:

-Hay quá nhỉ? Rất đúng hoàn cảnh mà cũng hay nữa. Diễm không ngờ dân hút thuốc lá có nhiều thiên tài… thi sĩ đến như vậy? Ông đã tựa bao nhiêu chiếc áo nàng rồi?

Huân không trả lời, đóng nắp cây bút lại, mắt vẫn không rời tờ giấy:

-Cô Diễm biết xuất xứ cái câu này như thế nào không?

-Bắt chuyện hay lắm. Ông kể cho tôi nghe đi.

-Ngày xưa, có một ông Tây đi lính đánh trận sang Việt Nam…

Huân ngừng lại ở đó, đưa cây bút cho Diễm:

-Cô Diễm chọn cho tôi một màu khác đi, tôi không thích cái màu đỏ này. Nó hung dữ quá, không hợp với những người… có tâm hồn thi sĩ như tôi.

-Nhưng ông chưa kể hết chuyện mà. Ông phải kể thì tôi mới chọn màu hộ ông được.

-Chuyện hay lắm, nhưng kể trong không khí này mất cái hay đi. Tối nay, nếu Diễm có rãnh, mình gặp nhau ngoài công viên, tôi kể tiếp cho Diễm nghe…

Ánh mắt Diễm thoáng lên một ngọn lửa hoan lạc. Nàng mỉm cười sung sướng, đứng lặng một chút rồi nói:

-Dân nhà binh có khác. Đốt giai đoạn mau lắm. Tối nay thì không được nhưng chiều mai thì Diễm rảnh. Khoảng 2 giờ được không?

Vậy là hai người quen nhau buổi chiều hôm sau. Dễ dàng và thơ mộng. Đi với Huân lần đầu trong công viên, nàng thấy bên trong lớp áo rằn ri dữ tợn của chàng là một tâm hồn thật trẻ trung, vui tính và yêu đời. Dưới mắt chàng, hình như, chẳng có chuyện gì là quan trọng cả. Đi ngang đám trẻ đang đá banh, anh chàng ngứa giò, xin phép Diễm rồi cởi giày chạy ra sút vài quả bóng với bọn trẻ. Nàng đứng im nhìn Huân lừa bên này lách bên kia với đám trẻ và mỉm cười thích thú.

Diễm không biết trên thế giới này có được bao nhiêu người đi chơi với đào lần đầu tiên mà lại xin phép cởi giày để đá bóng vài phút với bọn trẻ. Đi dưới những tàng cây to lớn có đến hàng trăm tuổi, chàng chỉ và đọc tên vanh vách cho Diễm nghe từng loại cây. Có vài con chim bay lướt trên cao, Huân ngước nhìn rồi nói rõ lai lịch chúng nó. Kể cả những loại tre loại trúc, Huân cũng biết rõ xuất xứ. Hình như, với chàng, rừng rậm là một thứ mà chàng biết rất nhiều. Hình như, rừng rậm và cây cối mới là quê hương, là nơi mà chàng có thể sống thoải mái được.

Diễm chỉ để ý đến một điều là anh chàng hút thuốc hơi nhiều. Một lần, Huân mồi thuốc và nói với Diễm:

-Mỗi lần mua bột bao thuốc lá mới, anh luôn luôn bị ám ảnh bởi câu “Chiếc Áo Phong Sương Tình Anh Nặng” của gói CAPSTAN.

-Nghe có vẻ buồn hơn “Chiếc Áo Phong Sương Tựa Áo Nàng.”

Huân phà khói thuốc, hỏi:

-Em có tin dị đoan không?

-Thỉnh thoảng.

-Hồi xưa, anh có một thằng bạn. Nó có đeo một cái nanh heo rừng trong người. Nó bảo anh là ngày nào nó còn mang nanh heo rừng thì súng đạn không đụng đến nó được…

Huân bỏ lửng câu nói. Diễm nhận ra là nàng thích cái lối nói chuyện này. Nó làm cho người ta trở nên hồi hộp:

-Rồi sao nữa?

Chàng nhìn ra xa xa:

-Một ngày nó đi nhảy toán, bị bắn chết, bạn bè đem xác về được. Anh liệm nó vào hòm, mò mẫm tìm cái nanh heo rừng nhưng không thấy.

Ngừng một chút, Huân tiếp:

-Em biết nó ở đâu không?

-Không?

-Anh cũng chẳng biết, cứ nghĩ là anh chàng nào đó đã lấy rồi. Chiều đó anh đi tắm, mới thấy cái nanh heo rừng nó bỏ quên, treo lơ lửng trên vòi nước.

Diễm rùng mình. Huân nói:

-Ở trên đời này, có nhiều chuyện mình không thể giải thích được mà nó vẫn xảy ra.

-Chuyện nanh heo rừng em đã nghe vài lần, nhưng cái câu gì đó thì dị đoan gì?

-Chính nó dạy cho anh. Nó bảo, khi mày yêu ai, đi mua thuốc lá đừng nói “Bán cho tôi gói Capstan mà phải nói bán cho tôi một “Chiếc Áo Phong Sương Tình Anh Nặng…”

Diễm cười:

-Nếu không thì sao?

-Tình yêu sẽ tan vỡ.

Diễm lắc đầu:

-Em không ngờ mấy ông nhà binh lại lẩm cẩm như vậy. Mà từ lúc gặp em, anh đã đi mua thuốc lá lần nào chưa?

-Rồi!

-Anh nói thế nào?

-Anh bảo cô hàng bán cho tôi một “Chiếc Áo Phong Sương Tình Anh Nặng.”

Diễm nhìn xuống đất, dấu nụ cười:

-Sao anh lại nói vậy? Anh đã yêu Diễm đâu? Mình mới quen nhau mà…

Huân cười:

-Gặp được một người như Diễm mà không yêu thì thật là bất lịch sự…

Diễm bật cười, nói theo với Huân:

-Và ngu xuẩn… Diễm hỏi thật anh, anh đã nói câu đó với bao nhiêu người đẹp rồi?

-Không nhiều lắm, chỉ với những người mà anh thật thích như là Diễm.

-Đơn giản thật. Anh nói chuyện hay lắm. Anh kể chuyện đời anh cho Diễm nghe đi?

-Chuyện đời anh nghe chán lắm, chỉ sợ em buồn ngủ.

Diễm đưa mắt liếc Huân:

-Xin anh chớ quên là từ chối lời yêu cầu của một người đàn bà trong hoàn cảnh này là bất lịch sự và ngu xuẩn đấy nhé.

Huân cười:

-Anh cũng định nói vậy. Thôi được, vậy em muốn bắt đầu từ lúc nào?

-Từ lúc anh còn bé.

-Xa quá, làm sao anh nhớ hết.

-Thế thì từ lúc anh đi học.

-Tuổi học trò anh chẳng có gì đáng nói. Từ lúc đi lính được không?

-Chuyện mấy ông lính nghe chán chết.

Tự nhiên, Huân xoay người đưa mắt nhìn Diễm. Ánh mắt người sĩ quan Lôi Hổ trẻ vừa lóe lên một tia nhìn đau khổ. Đau khổ nhưng tha thiết một cách lạ lùng. Diễm giật mình. Tia mắt đau khổ ấy trong mắt Huân dù rất nhỏ, dù rất tha thiết nhưng Diễm nhìn thấy được ngay. Nàng thấy xót xa và bối rối. Diễm cúi đầu, cấm lấy tay Huân:

-Anh Huân, Diễm xin lỗi anh.

Huân cười. Nhưng nụ cười hơi méo đi, đôi mắt vẫn còn đọng chút đau thương. Chàng búng điếu thuốc ra xa rồi đưa tay mình úp lên bàn tay của Diễm.

-Diễm vô duyên quá, Diễm quên anh là lính.

-Anh không trách. Nhưng Diễm có biết ai là người giữ cho thành phố làng mạc được yên bình không?

-Mấy ông lính.

-Ai là người bỏ gia đình, bỏ vợ con, bỏ tất cả ra sống ngoài rừng ngoài rú, kề cận với tử thần hằng ngày?

-Cũng mấy ông lính.

-Ai là người chịu thiệt thòi nhất trong cuộc chiến này?

-Cũng mấy ông lính… Mà thôi, anh đừng hỏi nữa, Diễm hiểu rồi.

Huân im lặng một lúc rồi nói thật dịu dàng:

-Bây giờ để anh kể chuyện đời lính của anh cho Diễm nghe…

-Thôi anh ạ, để lúc khác đi, Diễm hết muốn nghe rồi.

Huân lại móc gói thuốc. Diễm cầm lấy điếu thuốc trong tay Huân, gõ gõ vào cái hộp quẹt Zippo một cách rất sành điệu. Huân nhìn nàng ngạc nhiên, không hiểu nhờ đâu mà Diễm lại gõ thuốc tài tình đến như vậy.

Nàng ngồi sát vào Huân, đưa điếu thuốc cho chàng và khẽ nói: “Chiếc áo phong sương tình anh nặng…”

Huân cắm điếu thuốc vào môi mình, nghiêng người xuống. Diễm đưa cái hộp quẹt Zippo của Huân lên, dùng ngón tay mở nắp rồi bật lửa cho chàng, tay kia đưa ra che gió.

Huân rít một hơi thuốc dài, nhả khói ra, hỏi:

-Em học ở đâu mà nhồi thuốc hay quá vậy?

-Ngày xưa, bố em làm biếng, mỗi lần hút thuốc mà không tìm ra hộp quẹt hay bắt em xuống bếp mồi thuốc cho bố.

-Ngoan quá nhỉ. Em kể chuyện đời em cho anh nghe đi.

Diễm cười:

-Bắt đầu từ lúc nào?

-Lúc nào em thấy dễ nhớ nhất.

Diễm ngước mắt nhìn lên trời, rồi lại cúi xuống, rồi lại nhìn lên:

-Đời Diễm buồn lắm…

Huân nghe vậy thì thấy xót xa trong lòng. Không hiểu sao, chàng đã mơ hồ đoán ra chuyện này.

-Nhà em ở Nha Trang. Mấy cha con em đang sống an bình vui vẻ bỗng một ngày, năm Diễm học đệ tứ, bố em bỏ mẹ con em đi đâu mất biệt. Mẹ bảo bố đi theo vợ bé vào miền Tây sinh sống. Có một điều mẹ em không nói là ngày bố đi, bố nghe lời vợ bé, bao nhiêu vàng bạc trong nhà bố vét sạch đem theo…

Huân hít thuốc lá liên tục. Diễm nhìn ra xa xa, tiếp, giọng đều đều:

-Thế là em phải nghỉ học để phụ giúp mẹ. Bố đi rồi, mình mẹ lo không nổi mọi chuyện. Tội nghiệp mẹ lắm anh ạ. Em thương mẹ ở chỗ, dù bị bỏ rơi như thế, mẹ không hề mở miệng ra than thân trách phận, không hề chửi bố lấy một lời, dù sau lưng bố. Điều làm cho em đau khổ nhất là mẹ vẫn còn hy vọng một ngày nào đó bố sẽ về. Em biết bố sẽ không bao giờ về nhưng mẹ thì vẫn muốn tin như thế…

-Sao em biết?

-Đàn bà có một linh tính đặc biệt của trời cho anh ạ. Hơn nữa, em gần gũi bố nhiều, em biết tính bố. Bố đã quyết định chuyện gì rồi là không bao giờ thay đổi ý kiến… Em nghĩ mẹ em cũng phần nào biết được như thế nhưng mẹ không muốn tin như vậy…

-Bản chất của con người. Trong cơn đau khổ hay nguy khốn, người người ta luôn luôn muốn tìm một cái gì đó để hy vọng, để tin vào…

Diễm tiếp:

-Buôn tần bán tảo mấy năm, để dành được ít vốn, mẹ em và bà dì hùn nhau lên Ban Mê Thuột mở cửa tiệm hàng xén. Ở đây làm ăn dễ quá anh ạ, người mua thì nhiều mà người bán thì ít. Em ở đây ba năm rồi, và cảm thấy thích cái thành phố nhỏ này.

Huân nhìn xa xa phía trước. Bên kia công viên, cách con đường quốc lộ là một cái nhà thờ nhỏ nhưng rất dễ thương với cái tháp chuông cao vút.

-Ở đây ba năm, em nhận xét thấy thành phố này như thế nào?

-Hồi mới lên đây Diễm thấy hình như ai cũng… ở dơ hết vì đất đỏ kinh khủng. Đi ra ngoài đường một vòng là bụi đỏ bám đầy đầu tóc. Nhưng ở lâu rồi mới biết dân Ban Mê Thuột là dân sạch sẽ nhất nước vì ở đất đỏ mà hai ngày không tắm thì sẽ biến thành mọi ngay.

Huân cười, hỏi:

-Em có nhớ biển không?

-Cũng nhớ nhưng không nhớ biển bằng nhớ bạn bè anh ạ. Hồi đó Diễm cô đơn và buồn kinh khủng, chẳng quen biết ai cả. Bạn bè cũng khó kiếm nữa. Nếu anh lên đây trước chừng… 3 năm thì Diễm đỡ khổ rồi…

Cả hai người cùng cười. Rồi Diễm bảo:

-Thôi mình đi về anh, chiều rồi…

Chiều thứ bảy đó, Diễm nhận lời mời đi tham dự buổi dạ vũ Giáng Sinh trong căn cứ của Chiến đoàn. Hai người quấn quít bên nhau như đôi chim nhỏ…

Tháng sau, Huân mướn căn gác số 74 B đường Lý Thường Kiệt để làm chỗ hẹn hò. Mới đầu Diễm còn giấu mẹ nhưng sau thì mẹ nàng biết. Bà cũng chẳng cấm cản gì, chỉ bảo: “Con lớn rồi, con đủ trí khôn để quyết định lấy chuyện mình làm. Mẹ chỉ khuyên con nên cẩn thận.”

Ba tháng sau, Diễm khám phá ra một chuyện động trời: Huân đã có vợ…

Tối đó, Huân đang nằm ngủ trên giường thì Diễm lôi anh dậy. Huân chưa kịp mở mắt thì đã thấy hơi thép lạnh băng của họng súng Colt .45 chĩa vào thái dương mình. Trong lúc chập chờn, Huân tưởng mình đang đi nhảy toán và bị Việt Cộng bắt. Chàng đang suy nghĩ tìm cách thoát thân thì giọng Diễm rít lên:

-Ngồi dậy đi! Anh là thằng khốn nạn.

Huân chưa mở mắt nhưng nghe giọng nói đó thì biết chuyện gì đã xảy ra. Từ lúc quen nhau, Huân đã âm thầm chờ đợi một ngày như ngày hôm nay. Cái giọng đay nghiến đó không làm chàng ngạc nhiên lắm. Đàn bà khi ghen thường trở thành những con người lạ lùng. Huân chỉ ngán cây .45 của chàng đang nằm trong tay Diễm. Đạn Colt .45 của Lôi Hổ mà nổ gần vậy và nhè nổ ngay vào chỗ thái dương thì nhất định chết rồi mà người bị bắn vẫn chưa biết mình chết.

Huân hít một hơi thở cho đầy lồng ngực rồi mở mắt ra. Chàng nhìn thấy Diễm đầu tóc rồi bù, nước mắt ràn rụa, cây Colt .45 trong tay nàng run lên từng hồi theo tiếng nấc.

-Dậy đi, sao anh dám lừa tôi?

Mồ hôi toát ra đầy trán nhưng Huân vẫn nằm im không cử động gì cả. Chàng biết Diễm chỉ muốn dọa chàng nhưng súng đạn là một thứ… rất dễ bị cướp cò bất tử. Nhất là khi nó lại nằm trong tay một người đàn bà chưa hề biết sử dụng súng và tâm hồn lại đang bị giao động mạnh như lúc này.

Huân xoay đầu từ từ, giọng rất bình tĩnh:

-Em cho anh hút điếu thuốc được không?

Diễm gầm lên, đau đớn pha lẫn phẫn nộ:

-Không có thuốc thang gì cả. Anh trả lời tôi đi, tại sao anh lại lừa tôi?

Huân đâu có cần nghe câu trả lời của nàng, chàng chỉ hỏi vậy để có cớ tránh cái họng súng quái ác đang chĩa vào ngay thái dương mình và coi thử coi cái khóa an toàn cây súng có mở không. Huân tái mặt khi nhìn thấy cái khóa an toàn đã mở sẵn. Đúng ra là lỗi ở chàng. Huân không bao giờ khóa an toàn cây súng của mình. Trường tình báo dạy cho chàng biết cây súng khi hữu sự mà bị khóa an toàn thì chỉ là một miếng thép vô dụng.

Huân nuốt nước bọt, cất giọng nhẹ nhàng:

-Coi kìa, em muốn anh dậy thì để anh ngồi dậy, nhưng phải nhích ra một chút chứ…

Diễm đang phân vân chưa biết phải làm gì thì trong một tích tắc đó, Huân đã chòm dậy nhanh như cắt, đưa tay chụp lấy cây súng trong tay nàng chĩa lên trời. Một tay chàng ôm Diễm, tay kia chàng lẹ làng gỡ cây súng ra thảy xuống một góc giường.

Hú hồn

Diễm gục đầu vào vai Huân và bắt đầu khóc. Mới đầu chỉ tấm tức nhưng trở thành nức nở chỉ trong vài giây đồng hồ. Huân ôm lấy Diễm, để những giọt nước mắt thấm ướt chiếc áo thun nhà binh. Chàng dỗ dành:

-Anh xin lỗi em. Lỗi của anh, lỗi của anh hoàn toàn.

Diễm lại khóc to hơn, đay nghiến:

-Em khổ quá! Đời một người con gái, anh phải biết chỉ có được một lần làm con gái… Tại sao anh lại lừa em?

Huân nhắm mắt lại, thấy đau đớn tận cõi lòng. Chàng vuốt ve lưng nàng:

-Lỗi của anh hoàn toàn.

-Tại sao anh lừa em?

-Đừng bắt anh trả lời Diễm ạ, anh xin em…

-Anh phải trả lời.

Huân thở dài:

-Anh đâu có lừa em, anh chỉ… chỉ… dấu em.

Đột nhiên nàng xô Huân ra:

-Đàn ông các anh chỉ rặt toàn là một bọn người khốn nạn. Tất cả đều khốn nạn…

Cứ như thế, từ 10 giờ tối cho đến quá nửa đêm, Diễm lúc thì khóc, lúc thì im, lúc thì đay nghiến Huân bằng những lời lẽ nặng nề. Diễm chỉ ngừng lại khi có vài tiếng gõ vào bức vách báo hiệu sự khó chịu của người hàng xóm ở ngay phòng bên cạnh.

Huân lắc đầu, đứng lên bước ra ngoài ban công, nhìn vào bóng đêm trước mặt. Diễm lưỡng lự một chút rồi bước theo. Hai người ngồi im lặng bên nhau trong bóng tối nhìn xuống con đường tối mù phía dưới. Xa xa, mãi gần đầu đường mới thấy ánh sáng vàng vọt hiu hắt của ngọn đèn đường. Tiếng côn trùng rên rỉ, tiếng gió thổi lồng lộng, phủ ngập cái khoảng không gian tối tăm bé nhỏ và u buồn của hai người. Huân đốt thuốc lá liên miên.

Nhìn Huân hút thuốc, chưa bao giờ Diễm thấy ghét cái câu “Chiếc áo phong sương tình anh nặng” bằng lúc này. Láo khoét. Rẻ tiền. Cải lương. Kịch.

Cơn bão đã đi qua và để lại sự tàn phá thê lương trong lòng Diễm. Diễm thấy đau đớn và chua xót vô cùng. Nàng chợt nhận ra rằng, dù biết rằng Huân đã có vợ, Diễm vẫn không thể bỏ chàng được. Nàng đã yêu Huân mất rồi, đã cho Huân hết rồi. Diễm lại khóc lên rưng rức trong bóng tối khi nghĩ mình chẳng còn gì cả. Không ngờ đời mình lại có lúc như thế này. Muốn nói gì thì nói, mình chỉ là một thứ vợ hai, vợ bé của người ta thôi.

Huân kéo ghế ngồi sát bên Diễm, tiếp tục dỗ dành và vuốt ve. Diễm nín khóc, hỏi:

-Trở lại thực tế đi, bây giờ anh tính thế nào?

-Anh sẵn sàng ra đi để cho em được hạnh phúc.

Diễm lắc đầu và thở dài, không nói gì. Một lúc, nàng cầm lấy tay Huân hỏi:

-Sao anh đã có vợ rồi mà còn cả gan đi tán tỉnh em?

Huân đau đớn:

-Anh chẳng biết nữa. Tại anh xa nhà, anh yếu đuối, anh vô liêm sỉ.

-Anh làm vậy lỡ ở nhà chị biết thì sao? Anh không sợ chị ấy buồn à?

-Không!

Diễm hất tay Huân ra:

-Diễm không tin đâu. Anh đừng nói những câu bạc tình nghĩa như thế.

Huân nghiến răng lại:

-Em khỏi cần phải tin nhưng anh nói thật. Anh không yêu vợ anh…

Diễm không nói gì. Huân lại thở dài, nhìn xuống đường, nơi xa xa có vùng ánh sáng mờ mờ của ngọn đèn nhỏ. Tiếng gió đêm miền cao nguyên thổi rì rào. Cây cối quanh căn gác nhỏ quặn mình trong bóng tối, kêu xào xạc.

-Mà thôi, anh có nói gì em cũng chẳng tin, anh nghĩ, hay nhất, vì tương lai của em, hai đứa mình nên chia tay nhau. Em còn trẻ, còn tương lai, thiếu gì người sẽ theo đuổi em…

Diễm vẫn không nói gì.

-Đời anh coi như xong rồi. Anh sẽ về để tập yêu thương lại vợ anh. Còn em, tương lai em còn sáng sủa lắm, đừng vì một lỗi lầm nhỏ của mình mà bỏ phí cuộc đời đi. Mình chia tay nhau nhé?

Huân im lặng chờ đợi nhưng chỉ có tiếng khóc thút thít trả lời cho chàng. Huân lại vỗ về, giọng nói và thái độ như người anh an ủi đứa em:

-Anh biết em yêu anh, nhưng em sẽ quên anh được. Em phải nghĩ đến tương lai của mình. Em phải tập quên anh và anh cũng phải tập để quên em.

-Anh nói thật hay anh chỉ làm bộ?

-Anh đau lòng lắm nhưng anh chưa bao giờ thật bằng lúc này.

Diễm lại bật khóc. Rồi, thật bất ngờ, nàng đưa hai tay ôm kín Huân vào lòng mình, xiết thật chặt, nghẹn ngào:

-Trễ quá rồi anh Huân ạ, Diễm không thể nào bỏ anh được nữa rồi.

-Diễm…

-Nói đi anh, nói đi.

-Nói gì?

-Chiếc Áo Phong Sương Tình Anh Nặng…

-Nhưng… nhưng… tụi mình…

-Quên chuyện đó đi anh. Anh nói với Diễm đi anh, nói đi, nói “Chiếc Áo Phong Sương Tình Anh Nặng”. Diễm năn nỉ anh. Nói để cho thần linh chứng giám chuyện tình của hai đứa mình, nói đi để cho chuyện tình của hai đứa mình sẽ không bị tan vỡ… Nói đi anh, nói mau đi… coi chừng thần linh sẽ giận.

Huân nói liền, giọng thẫn thờ như người chưa thoát ra khỏi sự dày vò của suy tư: “Chiếc Áo Phong Sương Tình Anh Nặng…”

Thế là, truyện tình với người đàn ông… có vợ của Diễm lại tiếp diễn. Buồn phiền cũng lắm mà say đắm cũng nhiều. Diễm không rời xa Huân được và ngược lại, Huân cũng không thể nào làm khác hơn. Cả hai sống như vậy và không ai dám nghĩ đến tương lai. Vợ Huân lạnh lùng, cả năm trời mới gởi được cái thư chữ viết rời rạc, vô nghĩa lý. Huân nhìn lá thư, nhớ đến con, nghĩ đến người vợ và lắc đầu.

Khoảng hai tháng trước lễ Giáng Sinh, Diễm thấy cơ thể khó chịu, ăn uống không được, ói mửa bất thường. Một chiều, Huân về nhà sau 15 ngày hành quân nơi vùng tam biên, chưa kịp cởi áo ra thì Diễm đã cho nổ một trái bom nguyên tử với sức mạnh cỡ 200 megaton ngay trước mặt chàng, trong căn gác số 74 B đường Lý Thường Kiệt. Diễm bảo: “Em có thai.”

Bom nguyên tử nổ thật là khủng khiếp. Huân thấy trời đất quay cuồng, vũ trụ đảo lộn. Chàng bị quật ngã xuống đất rồi lòm còm bò lên giường nằm bất động, không nói được một tiếng.

Không phải chỉ có Huân mới bị ảnh hưởng của bom nguyên tử, Diễm cũng bị lây. Nàng chết trong lòng khi thấy Huân không lộ một chút vui mừng nào. Dù sao, đó cũng là giọt máu của chàng. Diễm bỏ mặc Huân nằm trên giường rồi lẳng lặng mở cửa bước ra khỏi nhà.

Nàng khóa cửa, nước mắt trào ra, cổ họng nghẹn cứng. Diễm đứng không muốn vững. Nàng phải vịn vào thành cửa một lúc thật lâu mới lấy lại được sự thăng bằng. Diễm lắc lắc chùm chìa khóa nhỏ trong tay rồi mím môi ném nó tuốt ra phía sau vườn, thật xa, nơi có mấy khóm chuối hoang, mấy cây tầm duột chẳng bao giờ có trái và cỏ dại cao lên tới đầu.

Diễm nghẹn ngào nói nhỏ: “Vĩnh biệt anh Huân. Vĩnh biệt.”

Rồi nàng bước từng bước một xuống cầu thang, tự nhủ với lòng mình rằng mình sẽ chẳng bao giờ trở lại nơi này nữa. Nàng cũng tự nhủ sẽ chẳng bao giờ còn gặp Huân nữa. Không bao giờ.

Gần chiều Huân giật mình tỉnh giấc và khám phá ra Diễm đã đi đâu mất rồi. Chàng ra ngoài ban công ngồi chờ. Chiều, Diễm cũng không về. Tối, 8 giờ nàng cũng không về. Huân thay quần áo, ra cái quán cóc đầu phố ngồi kêu bia uống để chờ. Uống đến chai bia thứ tám, đồng hồ trên tường gõ mười tiếng dài não ruột. Huân biết Diễm sẽ không đến vì đã tới giờ giới nghiêm.

Chàng lắc đầu, thở dài một tiếng…

Bà chủ quán đi ra đi vào, không dám than phiền nhưng dáng điệu rất khổ sở. Bia uống hết ngon, Huân liền kêu tính tiền rồi lạng quạng bước ra. Thành phố Ban Mê Thuột giờ giới nghiêm vắng ngắt như một bãi tha ma. Gió đêm thổi lên từng cơn rùng rợn. Huân lủi thủi bước về lại căn gác, lên lầu lấy cây Colt .45 nhét vào bụng rồi xuống đường mở máy chiếc xe díp. Chàng lái xe xuống nhà Diễm.

Chiếc xe díp của Chiến Đoàn III Lôi Hổ phóng băng băng giữa thành phố vắng người…

Đèn trong nhà Diễm tự nhiên tắt ngấm khi Huân vừa thắng chiếc xe. Huân lắc đầu ngao ngán. Chàng biết có vào gõ cửa cũng bằng thừa nhưng quyết định vào.
Huân gõ đến lần thứ tư thì cánh cửa bật mở. Má Diễm ló đầu ra bảo: “Cháu về đi. Diễm nó mệt.”

Huân chưa kịp nói thì cánh cửa đã đóng sầm một cái. Chàng đứng yên trong bóng tối một lúc rồi ngồi ngay xuống thềm nhà Diễm, dựa lưng vào vách đốt thuốc. Đàn muỗi đói xông tới tới công. Huân nới ống tay áo và kéo cao cổ áo lên. Muỗi vẫn tấn công tới tấp. Chàng bỏ mặt. Cứ coi như trực thăng đến trễ một ngày. Cứ coi như tối nay mình còn nằm trong rừng.

Một lúc nào đó, Huân cảm thấy mệt nhoài. Sự mệt mỏi của gần tuần lễ trong rừng thẳm, sự tàn phá của trái bom nguyên tử và men rượu của tám chai bia lớn đẩy chàng nằm xuống. Huân ngủ thiếp đi trước thềm nhà Diễm, một tay thọc sâu vào bụng nắm chặt lấy cán cây súng Colt .45. Tay kia để ngược ra sau trong tư thế chuẩn bị. Đàn muỗi đói vẫn bay vo ve nhưng đối với Huân bây giờ chúng chẳng còn có nghĩa lý gì nữa. Lính Lôi Hổ muốn ngủ là ngủ được, dù ở bất cứ chỗ nào.
Huân ngủ rất ngon, không một tiếng gáy, không một lần trở mình như chàng vẫn thường ngủ ở trong rừng mỗi khi đi nhảy toán.

Bỗng, trong một khoảng thời gian nào đó trong đêm, tai người sĩ quan Biệt Kích nghe được tiếng động lạ. Huân tỉnh giấc liền và nhận ra ngay đó là tiếng mở cửa. Ngón tay đang bám cứng vào cò súng của chàng liền nới lỏng ra. Nhưng Huân vẫn nằm im, chờ đợi. Rồi tiếng dép khua lẹp kẹp. Huân nhận ra bước chân của Diễm. Chàng vẫn nằm im, miệng lại nở lên một nụ cười.

Diễm xách cây đèn dầu đến bên Huân, cúi nhìn người lính mặc đồ rằn ri đang nằm ngủ trên thềm nhà. Rồi nàng để cây đèn dầu xuống bên cạnh, ngồi xuống bên cạnh Huân, nâng đầu chàng lên để lên đùi mình…

Trong một khoảnh khắc, nàng quên hết. Quên những gì vừa xảy ra chiều nay, quên giọt máu của Huân trong bụng mình, quên cái tương lai đầy bất trắc trước mặt để chỉ biết một điều: Nàng đã yêu đắm đuối cái con người đang nằm trong vòng tay nàng đây và không thể nào bỏ chàng được…

Rồi chuyện đâu cũng vào đấy. Diễm lại trở về với Huân. Trở về với cái bào thai đang từ từ lớn dần trong bụng mình và chờ đợi. Cuộc sống hai người không còn như xưa nữa. Diễm vui buồn bất chợt. Có lúc vừa cười xong thì lại khóc ngay sau đó. Vừa mới âu yếm nhau thì lại gây gổ liền. Mỗi lần Diễm phản ứng như vậy Huân thấy đau đớn tận đáy lòng.

Chiều nay cũng vậy, Huân nhói trong người không phải vì cái tát mà vì sự thay đổi tính tình bất thường của Diễm. Đàn bà có thai mà bị xúc động nhiều quá không tốt. Chàng nghĩ đến đứa con trong bụng mình và cảm thấy lo sợ…

Rồi hai người lại làm lành với nhau. Diễm đã thôi khóc, thôi đay nghiến. Huân đang ngồi vuốt ve an ủi Diễm thì có tiếng xe díp thắng trước nhà. Huân nhóm người lên nhìn xuống và nhận ra đó là xe của Chiến Đoàn. Người trung sĩ tài xế trên xe phóng xuống như bay, chạy lên gác.

Huân lắc đầu toan đứng lên nhưng Diễm đã ghì chặt lấy chàng, úp mặt vào ngực chàng, nói nhỏ:

-Anh cứ ngồi đây với em, chừng nào ông ấy lên thì đứng dậy cũng chưa muộn…

* * *

Đám sĩ quan Lôi Hổ quay quần bên tấm bản đồ để trên bàn. Đại tá Phùng chấm dứt phần nói chuyện:

-Còn ai có ý kiến hay thắc mắc gì nữa không?

Không ai nói gì. Thực ra, người đáng lý ra phải có ý kiến nhiều nhất là Huân vì tất cả các sĩ quan có mặt đều được giao một công tác ngoại trừ chàng. Nhưng Huân không thèm mở miệng. Chàng biết, đã được gọi vào đây để tham dự phiên họp này thì trước sau gì tên mình cũng được nhắc đến, khỏi cần “mua việc” hay thắc mắc làm chi cho mất công.

Đại tá Phùng đứng lên:

-Vậy cứ theo kế hoạch mà làm. Ý của ông tướng Phú rất đơn giản. Ổng muốn xác nhận sự có mặt của sư đoàn 10 và sư đoàn 316 trong các khu vực đó. Anh em chỉ cần tóm một vài thằng đem về đây là xong công tác. Bây giờ anh em có thể giải tán được…

Mọi người dơ tay lên chào, Huân cũng bình thản tính dơ tay lên chào để đi ra nhưng đại tá Phùng lại nói:

-Khoan, Đại úy Huân ở lại chờ tôi một chút.

Đã chuẩn bị từ trước, Huân thản nhiên bỏ tay xuống chờ đợi. Còn hai người trong phòng, Đại tá Phùng chỉ cái ghế gần mình. Huân ngồi xuống. Ông chiến đoàn trưởng nhìn Huân, giọng thân mật:

-Gia đình anh lúc này thế nào?

Huân hơi ngạc nhiên vì câu hỏi:

-Cám ơn đại tá, vẫn thường thôi.

-Vợ anh thế nào?

Huân bối rối:

-Cám ơn đại tá, cũng thường, nhưng lâu quá chưa liên lạc được.

-Sao lâu lắm rồi không thấy anh đi phép về Sài gòn?

-Tôi có nhiều việc làm ở Ban Mê Thuột quá…

Huân không muốn nói nhiều hơn. Hai người im lặng. Đại tá Phùng tính nói một câu gì đó nhưng lại thôi. Cả hai đều đột nhiên cảm thấy là bầu không khí trong phòng đang trở nên ngột ngạt.

Ông đại tá liền đổi đề tài:

-Anh biết tại sao tôi mời anh ở lại đây không?

-Tôi có linh cảm một chuyện đặc biệt nhưng không biết đặc biệt… cỡ nào.

-Anh có một nhiệm vụ quan trọng hơn. Xác nhận sự có mặt của chúng nó chỉ là chuyện phụ… Tôi và ông Trung tá Khiếu phòng II biết rất rõ và có bằng chứng là chúng nó đã tập trung 4 sư đoàn ở mặt trận cao nguyên này…

-Nếu biết vậy thì mình còn cho người đi bắt lính chúng nó về đây làm gì?

Ông Phùng lắc đầu:

-Để trình diện Quân đoàn, để làm đẹp lòng tướng Phú, khổ là như vậy. Ông tướng này có vẻ không mấy tin tưởng vào các tin tức tình báo của bọn mình đưa lên. Ổng muốn chứng minh, ổng muốn mình phải bắt được vài thằng lính của chúng nó làm bằng chứng. Nhưng chuyện này chẳng có gì khó, nghề của bọn mình mà. Xưa này mình đã làm bao nhiêu vố rồi, làm thêm một vố đâu có sao. Nhưng mà…

Huân chờ đợi. Chàng biết những gì chàng sắp nghe quan trọng vô cùng.

-Anh Huân, cái chuyện chính, chuyện tôi muốn nói với anh là cái chiến trường cao nguyên, đúng hơn, cái mặt trận B3 theo lời gọi của chúng nó sẽ bùng nổ rất lớn sau tết. Chúng nó sẽ đánh. Đánh cú chót cạn láng. Chúng nó sẽ ta pi mình một lần nữa như cái kiểu mùa hè năm 72…

Đại tá Phùng ngừng nói. Ông nhìn xuống tấm bản đồ để trên bàn, lắc lắc cái đầu:

-Chấp tụi nó. Biết nó đánh thì mình chuẩn bị, nó đánh lớn thì mình chuẩn bị lớn, đánh nhỏ thì chuẩn bị nhỏ, chuyện này cũng chẳng có gì đáng nói. Cái đáng nói nhất, chuyện quan trọng nhất đang làm ông tướng Phú và toàn ban tham mưu mất ăn mất ngủ là không biết chúng nó sẽ đánh chỗ nào. Ban mê thuột hay Pleiku?

-Ban Mê Thuột hay Pleiku?

Huân lập lại như người chưa tỉnh cơn mộng và thấy đau nhói trong tim mình. Ban Mê Thuột, thành phố nhỏ bé hiền hòa này không phải là thành phố của chiến tranh. Người dân Ban Mê Thuột chưa sẵn sàng để hứng đạn đại pháo. Dân quân Ban Mê Thuột chưa được trang bị đầy đủ để chống tăng. Quan trọng nhất, Diễm và đứa con trong bụng nàng chưa chuẩn bị đầy đủ cho một cuộc chạy loạn.

-Như tôi đã nói, ông tướng muốn bắt sống vài thằng tù binh, mình sẽ bắt đem về cho ông tướng đẹp lòng, nhưng đồng thời, lợi dụng việc đó, tôi cũng vừa nghĩ ra một cách để giải quyết mối lo trong gan ruột ông tướng…

Ông ngừng nói, nhìn Huân như muốn ước lượng xem thử người sĩ quan thuộc quyền có thể đoán được những gì mình muốn nói. Đại tá Phùng kéo ghế ngồi gần sát Huân:

-Sở dĩ tôi giữ anh lại đây là vì tôi muốn dùng anh vào việc này. Trong chiến đoàn của mình, nếu không có anh thì không ai có thể làm được việc này. Anh muốn giúp tôi không?

Huân gật đầu liền. Đại tá Phùng khoái cái lối gật đầu kiểu này. Nó không điếu đóm, không kịch, và chắc chắn như một lưỡi dao chém sâu xuống mặt bàn.
-Mình có bắt được một trăm thằng lính bộ đội ông Hồ cũng không biết được mấy thằng chóp bu của chúng nó đang âm mưu cái gì. Chắc anh cũng biết, Cộng sản làm gì cũng có chuẩn bị, có kế hoạch, có học tập, có nghị quyết v.v… Nếu chúng nó muốn đánh Ban Mê Thuột hay Pleiku, chắc chắn mấy thằng Sư trưởng của chúng nó không thể nổi hứng rồi quyết định đánh khơi khơi được. Lệnh phải xuống từ Bắc Bộ Phủ cho mấy mấy thằng này thi hành. Rồi tiếp theo, các Trung đoàn trưởng phải biết, đúng không?

Huân phần nào hiểu được công tác mình sắp được giao phó.

-Đúng.

-Rồi chúng nó phải học tập, phải thiết lập sa bàn, phải tập trận v.v… Vậy thì, nếu mình gài được con mắt mình ở trong “hậu phương” của chúng nó trong một thời gian dài, mình sẽ biết được ý đồ của chúng nó, đúng không?

-Đúng, tôi đồng ý với đại tá.

-Tốt. Anh nói vậy thì anh… biết công tác của anh rồi. Tôi muốn anh “Đặc Biệt” nhảy xuống mật khu Bù Gia Mập, nơi dưỡng quân của sư đoàn 316 rồi nằm trong đó chừng hai tuần lễ để quan sát và theo dõi. Anh sẽ theo dõi và điều tra thật kỹ cho đến khi nào anh nắm được trong tay một vài bằng chứng gì về ý đồ của chúng nó. Ví dụ một vài tài liệu về vấn đề di chuyển, hay những công điện truyền tin hoặc cái sa bàn tập trận hoặc là bất cứ một cái gì có thể nói cho mình biết về âm mưu của chúng. Công tác của anh tới đó là hết… Cũng có thể, nếu cần thiết, nếu không tìm được bằng chứng gì, anh phải tìm cách tóm cổ một thằng Trung Đoàn Trưởng hay tiểu đoàn trưởng đem về đây để khai thác.

Ngừng một chút cho Huân thấm ý , ông tiếp:

-Anh nên nhớ, việc tóm cổ một thằng trung đoàn trưởng hay tiểu đoàn trưởng chưa chắc phải là chuyện quan trọng. Bắt được chúng nó đem về đây mà không khai thác được thì cũng thành công cốc. Cái quan trọng là làm sao tìm biết được chúng nó sẽ đánh ở đâu, Ban Mê Thuột hay Pleiku. Anh phải biết cái tầm quan trọng của công tác này. Quan trọng vô cùng. Nếu mình biết được chúng nó đánh đâu, mình có thể dàn quân sẵn để chờ. Nếu chúng nó bị thảm bại thêm một cú nữa vào mùa xuân năm nay, chúng nó sẽ hết xíu quách. Cũng như mùa hè năm 72, chúng nó phải mất cỡ 3 năm nữa mới âm mưu chuyện khác được. 3 năm, biết đâu chính quyền mình sẽ đổi khác, biết đâu lòng người sẽ đổi khác, biết đâu cục diện thế giới sẽ thay đổi, biết đâu dân tộc mình rồi sẽ được ít nhất cũng sống được như nước Đại Hàn. Nhưng, ngược lại, mùa Xuân năm nay, nếu mình mắc mưu chúng để bố trí quân tầm bậy thì hậu quả sẽ không thể nào lường được…
Ông đại tá ngừng nói ở đó, nhíu mày tư lự. Huân nói đỡ lời:

-Nếu mình biết nó đánh đâu, mình có đỡ nổi cú này không?

Cặp mắt đại tá Phùng rạng lên một ánh lửa:

-Chẳng những đỡ mà mình còn dập chúng nó tan nát ra. 4 sư đoàn vào đây thì mình sẽ nướng hết cả 4.

Huân thấy vui lây cái niềm vui của ông. Ông tiếp:

-Vậy thì, anh Huân, sau khi nghe giải thích, anh có thể giúp tôi được không?

-Xin Đại tá cho biết kế hoạch của chuyến công tác.

Đại tá Phùng chỉ và mấy điểm trên tấm bản đồ:

-Như sau đây, và tôi có bàn với ông trung tá Khiếu phòng II rồi… Chiều hôm nay, theo lệnh của ông tướng, tôi sẽ thả xuống mấy toán xuống khu Bù Gia Mập.
Tôi sẽ cho chúng nó quậy nát một cách thật ồn ào rồi chụp vài thằng tù binh đem về…

Đại tá Phùng mồi điếu thuốc rồi tự nhiên đổi đề tài, nhìn Huân hỏi:

-Lôi Hổ xưa nay chuyên môn nhảy Trực Thăng, nhưng anh có bao giờ nghe Lôi Hổ nhảy… xe Lam chưa?

Huân cười:

-Trình đại tá là nhảy xe Lam thì lính tôi nhảy hoài, lúc nào về phép hết tiền mà chúng nó chẳng nhảy…

Đại tá Phùng không để ý đến câu pha trò, ông đưa ngón tay chỉ xuống quận lỵ Đức Lập, một quận lỵ nằm giữa Ban Mê Thuột và Quảng Đức, phía Đông Bắc của mật khu Bù Gia Mập khoảng vài chục cây số:

-Trong khi mấy toán ban nãy lục soát ở Bù Gia Mập, anh lẳng lặng dẫn toán của anh nhảy… xe Lam xuống chỗ này cho tôi.

Huân nhìn vị chỉ huy:

-Nhảy xe Lam? Lúc nãy tôi tưởng đại tá nói đùa.

-Không đùa! Anh cho cả toán mặc đồ dân sự đón xe lam lên Đức Lập rồi tập trung tại đây cho tôi. Ở đây một một cái rẩy nhỏ có thể chứa các anh được, chi tiết sẽ cho anh biết sau.

Huân sửa lại thế ngồi, chăm chú theo dõi.

-Mình phải nhảy xe Lam bởi vì cái tầm quan trọng vô cùng của công tác. Việt cộng xưa nay biết biệt kích nhảy trực thăng, nhảy C-130 nhưng nó chẳng bao giờ ngờ là mình còn biết nhảy… xe Lam nữa. Vì chẳng ngờ cho nên chúng nó mới không đề cao cảnh giác, không chuẩn bị, không đề phòng. Các anh cứ nằm im trong cái rẩy này trong lúc các toán kia lục soát ở gần mé ngoài mật khu. Lúc rút các toán này về, tôi sẽ đình chỉ tất cả mọi hoạt động thám thính, kể cả của Không Quân. Sau khi không nghe thấy trực thăng của mình trong vòng 5 ngày, chúng nó sẽ yên chí lớn. Đó là lúc mà cái tài quyền biến của anh mới được đem ra áp dụng.

Câu “Cái tài quyền biến” mà ông chỉ huy trưởng dùng làm Huân thích thú mỉm cười. Ông tư lệnh này cũng biết khích tướng đấy chứ.

-Tại đây, Khi thời tiết tình thế cho phép, anh sẽ nhận được đồ tiếp tế và trang bị rồi xâm nhập bằng đường bộ vào vùng làm việc. Tại đây, anh cứ nằm yên một chỗ để quan sát tất cả những sinh hoạt của chúng nó. Theo sự suy nghĩ của tôi, nếu chúng nó sắp đánh lớn thì thế nào chúng cũng cho tập trận. Anh cứ nằm yên đó quan sát cho đến khi nào nắm vững được vấn đề. Tôi nghĩ, nếu chúng muốn đánh Ban Mê Thuột thì chúng sẽ thiết lập sa bàn. Nếu thấy sa bàn của chúng nó, chụp thật nhiều hình đem về đây cho tôi. Có được những tấm hình đó trong tay, mình có thể giải quyết mối lo trong ruột gan tướng Phú được. Mà anh có chuẩn bị được một chuyến đi dài không?

Huân đốt điếu thuốc lá đầu tiên kể từ khi bước vào phòng họp:

-Khoảng 3 tuần lễ?

-Ừ.

Đối với Lôi Hổ, 3 tuần lễ là quá dài so với những lần nhảy trung bình từ 3 hay 4 ngày nhưng Huân biết thời gian công tác không phải là một vấn đề có thể mặc cả trong trường hợp này. Chỉ có đồng ý đi hay không thôi. Chàng nhún vai:

-Cũng phải chịu vậy.

-Một điểm nữa là mình sẽ áp dụng “Im Lặng Vô Tuyến” tối đa để bảo mật. Mỗi ngày một lần, L-19 sẽ bao vùng cách chỗ anh khoảng… 100 cây số. Từ 8 giờ đến 9 giờ, anh chỉ cần mở máy theo phương thức số 3 của mình. L-19 cũng chẳng biết anh ở đâu nhưng sẽ thông báo tín hiệu về chiến đoàn để chúng tôi theo dõi.
Huân gật gù cái đầu. Phương thức số 3 của Lôi Hổ là một trong những phương thức tối mật. Đúng vào giờ hẹn trước, thường thì trong khoảng thời gian một tiếng đồng hồ, người ở dưới chỉ mở máy lên đúng tần số, bấm hai cái vào ống liên hợp. Sau đó chờ đúng năm phút lại bấm thêm mấy cái nữa, tùy theo công điện mình muốn chuyển. Sau đó, lại bấm thêm nữa. Người nhận được vô tuyến sẽ giở cái “khóa” âm thoại truyền tin ra để dịch tin theo những cái bấm. Những tin này phát đi rất giới hạn, thường thì chỉ cho biết là tình trạng an toàn hay có những chuyện gì quan trọng xảy ra không. Nếu có chuyện gì quan trọng, người gởi điện sẽ sắp xếp một cuộc nói chuyện trong thời gian kế.

-Tôi dự đoán là công tác rất nguy hiểm nhưng cũng có thể không. Cực chẳng đã, nếu không tìm thấy gì thì mới bắt cóc người của chúng nó. Tôi muốn cứ để cho chúng nó tưởng rằng mình không biết gì thì tốt hơn bởi vì nếu chúng có nghi ngờ thì chúng sẽ chuẩn bị kỹ càng hơn.

-Nếu tôi hoàn thành công tác hoặc nếu nhận được hàng tốt (bắt được tù binh như ý muốn) thì kế hoạch du lu (dọt) sẽ như thế nào?

-Nếu anh lấy được tài liệu và bằng chứng về cuộc tấn công của chúng hay nếu tóm được giá chót là Tiểu đoàn trưởng của chúng nó thì mình break, gọi L-19 thẳng kêu chuồn chuồn lên bốc anh về. Mười ngày sau kể từ ngày hôm nay, chúng tôi sẽ có sẵn một hợp đoàn và một L-19 để chuẩn bị cho việc này.

-Còn hàng xấu?

Đại tá Phùng lắc đầu:

-Không có vấn đề hàng xấu ở đây đại úy Huân ạ. Nếu anh muốn đi, anh phải tìm được bằng chứng hay đem được hàng tốt về, còn không thì anh có quyền ở nhà. Chuồn chuồn sẽ không lên để chở hàng xấu đâu. Anh biết được vấn đề sinh tử của công tác này mà.

-Đại tá nói vậy có nghĩa là tôi có quyền chọn lựa để… không đi?

-Đúng. Như những công tác thông thường thì anh không có quyền nhưng chuyến này rất đặc biệt, rất nguy hiểm và đòi hỏi một thời gian khá lâu nên tôi chỉ muốn chọn những người tình nguyện… Tình nguyện và có khả năng, dĩ nhiên.

Huân dụi điếu thuốc, đầu óc chìm trong sự suy tư. Ở “hậu phương” thì đào có thai, chưa biết phải giải quyết như thế nào. Công tác sắp phải thi hành thì rặt toàn là những thứ tin mà mình không muốn nghe: Kéo dài 3 tuần lễ, xâm nhập bằng… xe Lam rồi bằng đường bộ, phải lấy được hàng tốt, không tốt thì không về v.v…

Đại tá Phùng nhìn thấy Huân như vậy bèn đứng lên đi đi lại lại trong phòng như muốn tôn trọng sự suy nghĩ của chàng. Huân đốt một điếu thuốc khác. Tuy đang vận hết sức để suy nghĩ nhưng chàng có suy tư gì nổi đâu? Cứ nghĩ đến Diễm là mấy sợi thần kinh như cứng đơ lại, hết co giãn nổi.

Đại tá Phùng đã đứng bên Huân, vỗ vai chàng:

-Anh Huân, anh có muốn tình nguyện đi chuyến này không?

Ngừng một chút, ông tiếp, dù giọng nói rất là… khó khăn:

-Tôi lập lại là anh có quyền từ chối. Nhưng anh nên nhớ, ngoài anh ra, tôi không còn thấy ai ở trong chiến đoàn mình có thể làm được việc này.

Huân vẫn trầm ngâm không nói gì. Trước một cái quyết định quan trọng như vậy thì người ta phải suy nghĩ và đắn đo. Người mà. Mà đã là người thì ai chẳng sợ chết?

Đại tá Phùng nhìn đồng hồ rồi nói:

-Tôi phải đi. Những gì cần nói tôi đã nói hết. Buổi họp đến đây coi như chấm dứt. Tôi cho anh suy nghĩ tới sáng mai để quyết định. Nếu anh không muốn đi cũng không sao cả, tôi sẽ tìm một phương cách khác. Còn bây giờ, chúc anh… về nhà vui vẻ.

Ông đại tá chìa tay ra. Huân đứng lên dơ tay chào rồi bắt tay ông ta. Ông lại nói:

-Nếu anh quyết định nhận công tác, tôi cần có cái danh sách 5 người đi chung với anh để trên bàn giấy tôi trễ nhất là 800 giờ sáng mai. Tôi sẽ đích thân đi gặp từng người để nói chuyện. À, còn chuyện này nữa, tôi có bảo phòng lương bổng ứng trước cho anh hai tháng lương, lát nữa nhớ ghé lấy về, cũng sắp đến Noel rồi… Thôi, vui vẻ nhé…

Huân đứng nghiêm chào vị Đại tá. Nhưng ra tới cửa phòng, ông dừng lại, suy nghĩ giây lát rồi cúi đầu bước trở lại, đến gần Huân vỗ vai nói:

-Anh Huân này, những gì tôi sắp nói không phải là của một Đại tá mà của một người anh em, một người lính nói với một người lính…

Huân không biết ông muốn nói gì. Đây là lần thứ hai ông vỗ vai Huân, một việc mà ông ít khi làm.

-Đất nước mình chiến tranh đã gần hai mươi năm rồi. Riêng tôi, đời tôi cũng gần 20 năm quân ngũ. Tôi biết, đứng trên cương vị và với danh dự của một người sĩ quan, mình luôn luôn cảm thấy khó khăn khi phải từ chối một trách nhiệm được giao phó. Nhưng, là một con người, mình có quyền thắc mắc. Cái thắc mắc đơn giản và thường nhất vẫn là: Tại sao lại tôi? Tại sao tôi phải hy sinh? Hy sinh cho ai và để làm gì? Hoặc giả, tôi hy sinh mà không biết có ai hy sinh chung với tôi không?

Ông ngước mặt nhìn lên cái lá cờ vàng ba sọc đỏ vĩ đại treo ở giữa phòng, nói tiếp:

-Ai cũng biết chiến tranh là tàn khốc nhưng ai cũng quên một điều quan trọng khác của chiến tranh là sự bất công. Bất công vô cùng. Đừng kiếm đâu xa, anh cứ ra trước cổng trại thì nhìn thấy ngay liền. Tại sao có những thằng sống phè phỡn ăn chơi và làm giàu nhờ cuộc chiến và lại có những thằng sống cực khổ như anh và tôi? Tại sao lúc nãy tôi ngồi đây để thuyết phục anh mà không chịu thuyết phục bao nhiêu người khác hy sinh?

Ông đại tá nhìn Huân, giọng rất thành thực:

-Ý tôi muốn nói, là một người chiến hữu, tôi khuyên anh đừng ngại ngùng nếu cần phải từ chối nhiệm vụ. Người ta luôn luôn có những lý do chính đáng để từ chối như vì chuyện gia đình, chuyện vợ con v.v… Mong anh đừng quên những điều ấy.

Rồi ông cúi đầu bước ra. Bước thật mau như sợ người ta nhìn thấy mình vừa nói chuyện với Huân vậy…

Xế trưa một chút ngày hôm đó, Diễm đang bán hàng ở tiệm thì giật mình khi nhìn thấy chiếc xe díp của Huân đỗ xịch lại trước cửa. Nàng đã tính ít nhất thì phải ba bốn ngày Huân mới về được. Huân bước vào, đi rất mau, mặt mày nửa rạng rỡ nửa lo buồn.

-Sao anh về sớm vậy? Không đi công tác hả?

-Anh được rảnh chiều nay. Em giao cửa hàng lại cho mẹ, đi với anh có được không?

-Em tưởng anh phải mấy ngày mới về chứ.

-Chuyện dài lắm, lát anh nói. Anh mới lãnh lương, mình đi bát phố, đi uống cà phê nghe nhạc, đi sắm đồ, đi coi xi nê rồi anh kể cho nghe…

Diễm thấy lòng mình rộn lên một niềm vui khó tả. Niềm vui của cô học trò nhìn người tình đến chở đi chơi vào một buổi chiều thứ bảy.

Xong ngay. 15 phút sau, hai người đã ngồi trong quán cà phê Tường Vân. Thành phố Ban Mê Thuột vào tháng 12 thì trời đã lạnh từ lâu. Diễm đẹp sắc sảo trong chiếc áo len tím. Đôi má nàng hồng lên tự nhiên. Hai người cười nói huyên thuyên.

Từ ngày quen Huân, Diễm nhớ, đã lâu lắm rồi mình chưa có một buổi chiều thơ mộng ấm cúng như chiều hôm nay. Với Huân thì cà phê Ban Mê Thuột pha đậm, uống chung với… khói thuốc lá Capstan, bên cạnh người tình bé bỏng thì chẳng còn gì thú bằng.

Rồi Huân chở Diễm đi chợ sắm một ít quần áo cho đứa đứa bé. Đi chợ ra đói bụng, hai người ghé vào tiệm tàu ăn mì, rồi chui vào rạp chiếu bóng LoDo xem phim “Tình chàng mãi mãi” của David Lean. Buổi tối, khi Huân dìu Diễm bước trở lên căn gác nhỏ thân thuộc thì chàng đã có quyết định: Ngày mai, chàng sẽ đi.
Huân chờ cho đến lúc hai người lên giường ngủ, chàng mới nói, cố làm cho giọng mình thật tự nhiên:

-Diễm ạ, ngày mai anh đi sớm.

Diễm đã buồn ngủ, mắt ríu lại, rúc đầu vào ngực Huân, hỏi rời rạc:

-Đi.. công… tác?

-Ừ.

-Chừng… nào… về…

Huân không trả lời liền. Biết Diễm sắp chìm vào sắp ngủ, chàng không muốn phá giấc. Huân vòng tay ôm lấy vai nàng, và chờ đợi. Quả như ý chàng nghĩ, nhịp thở của Diễm trở nên đều hòa rồi nhỏ dần. Một buổi chiều giải trí vui vẻ làm người đàn bà có thai mệt nhoài.

Huân ngắm người yêu ngủ một lúc rồi nhẹ nhàng đỡ đầu nàng lên gối. Chàng tốc mùng ngồi dậy, ra ngồi nơi chiếc bàn con bật đèn lên, lấy cây bút ra hí hoáy viết vào tập vở học trò:

Ban Mê Thuột Thứ hai ngày 2 tháng 12 năm 1974,

Diễm yêu dấu,

Lúc em đọc những dòng chữ của lá thư này thì anh đang ở một nơi nào đó trên đường đi thi hành công tác. Anh ra đi nhưng để lại lòng anh ở đây. Chuyến đi này khá lâu, khoảng 3 tuần lễ hoặc hơn và không biết anh có về kịp vào lễ Giáng Sinh hay không. Em đừng buồn, đừng trách anh vì sao đi lâu vậy mà không nói cho em biết. Lúc chiều, anh không dám nói vì anh sợ buổi chiều cuối cùng của hai đứa mình sẽ trở nên buồn tẻ. Anh tính chờ khi lên giường rồi nói nhưng nhìn thấy em ngủ ngon lành như một đứa trẻ, anh lại đổi ý vì sợ em lại giật mình lo lắng suốt đêm. Anh đã làm khổ em quá nhiều, cho nên, anh muốn em có được một buổi tối an bình bên anh trước khi anh ra đi. Đừng buồn anh nhé, ráng hiểu cho anh.

Và đừng khóc, Diễm ạ. Cũng đừng đay nghiến anh, tội nghiệp anh.

Diễm ạ, lý do anh viết lá thư này vì có một chuyện rất quan trọng anh muốn nói từ khi hai đứa mình mới quen nhau nhưng anh chưa hề dám. Bây giờ, nếu em cho phép, anh xin mượn trang giấy này để giãi bày: Đó là chuyện đời anh…

Từ hồi còn nhỏ đi học, đọc các bài thơ của các thi sĩ ca ngợi tình yêu, anh thấy tình yêu đẹp thật và thường ngồi mơ mộng hàng giờ. Anh mơ ước sau này lớn lên anh sẽ yêu và sẽ nếm được mùi vị của tình yêu.

Chuyện đó bình thường quá phải không em, ai lớn lên mà chẳng mơ ước được như vậy? Nhưng để anh kể tiếp…

Thế mà lớn lên, khi anh bắt đầu biết chải đầu cho láng, biết ủi quần áo cho thẳng để đi học thì lệnh đôn quân, lệnh bắt lính, lệnh gọi nhập ngũ ào ào đổ xuống đầu bọn anh. Bọn anh học ngày học đêm, học phờ cả mặt mày để đuổi theo cái tờ giấy hoãn dịch cứ lơ lửng ở trước mặt vào mỗi dịp bãi trường. Học ở trường ban ngày xong ra lại lọc cọc đạp xe đi học cour thêm, rồi về nhà chong đèn đến khuya để làm bài. Vừa học vừa đập muỗi chí chóe…

Nhiều đêm, học mệt đừ, nằm vắt tay trên trán, anh cũng không thể tránh khỏi những thèm muốn rạo rực, những đòi hỏi thầm kín của người con trai ở tuổi mới lớn. Anh thèm xiết bao một bàn tay, một đôi môi, một giọng nói ngọt ngào, một lá thư với dòng chữ mềm mại nghiêng nghiêng… Nếu đất nước mình thanh bình, nếu nhân loại không bị họa Cộng sản, thì những mơ ước ấy thật là đơn giản và dễ dàng, nhưng, với bọn anh lúc đó, những chuyện tự nhiên ấy đã trở thành khó khăn diệu vợi.

Bây giờ nghĩ lại anh mới thấy giựt mình. Thật chưa có một thệ hệ tuổi trẻ nào bị thiệt thòi nhiều bằng tuổi trẻ Việt Nam thời ấy. Chẳng ai có một tí thì giờ nào để dành cho tình yêu cả.

Bọn anh học đến sì khói ra như thế mà cứ mỗi độ hè về thì thấy lớp học cứ vơi đi một cách đáng ngại. Thằng khoác áo đi Thủ Đức, đứa hành trang ra Nha Trang Đồng Đế. Bạn bè anh, có khi từng đứa, có khi từng nhóm một, lẳng lặng lên đường ra đi đáp lời sông núi. Tuy thân thiết nhau lắm nhưng những thằng ở lại không có thì giờ để nghĩ đến những kẻ ra đi. Bọn anh còn hàng trăm thứ khác phải lo nếu không muốn “noi gương” chúng nó vào mùa hè năm sau. Anh nhớ, ngày coi bảng đậu trung học xong thì bọn anh còn nghỉ được một tháng để vi vút nhưng coi bảng Tú Tài I xong thì chẳng có được một ngày nghỉ, phải lo mượn sách Đệ Nhất để gạo và chuẩn bị thi tú tài 2 ngay từ mùa hè năm ấy liền.

Nhờ cần cù học ngày học đêm, anh lọt qua nhiều cửa ải cho đến năm Đệ Nhất…

Ôi cuộc đời mình thật có nhiều cái bất ngờ. Năm đó, vào lúc anh tưởng mình là một trong những người may mắn nhất còn lại thì tấm bi kịch của đời anh mới bắt đầu. Em đừng cười. Anh bị gia đình bắt đi… lấy vợ. Chuyện thật là khó tin nhưng nó đã xảy ra ở thế kỷ 20 này.

Một buổi sáng thứ bảy, ông nội dắt anh đi ăn sáng. Ngồi trong tiệm phở, ông anh đưa cho anh coi một tấm hình của một người con gái… xấu ỉn. Rồi ông bảo hai gia đình đã đồng ý cho bọn anh lấy nhau, ăn xong chở ông đi may quần áo cưới rồi lên nhà đàng gái để hai đứa làm quen nhau.

Mới đầu, anh tưởng ông nội anh đùa. Anh là con trai, có học thức và lại đang sống ở thế kỷ 20, đâu phải là cô Loan trong Đoạn Tuyệt của thế Kỷ 19? Ông anh lắc đầu bảo chuyện thật đấy, không đùa đâu. Anh phản đối dữ dội. Ông anh chẳng nói chẳng rằng, bỏ đũa đứng lên bảo: “Con cháu bất hiếu như thế thì tao đâm đầu vào xe tao chết đi chứ sống làm gì.” Rồi ông bỏ chạy ra ngoài, cứ đòi đâm đầu vào cái dòng xe cộ đang đi lại như mắc cửi ở đường Trương Minh Giảng. Anh phải can mãi mới được.

Tối về nhà, anh nói chuyện với bố, bố anh bảo: “Tao cực khổ suốt một đời nuôi mày khôn lớn, mày chưa làm gì đền đáp bây giờ lại cãi tao à? Nhà người ta cũng là chỗ môn đăng hộ đối chứ có phải cùi hủi gì đâu.” Anh bảo: “Con không dám cãi thầy nhưng con còn đang đi học, con chưa nghĩ đến chuyện ấy.” Bố anh lại bảo: “Lấy vợ về học cũng được. Ý tao đã quyết mày đừng có gàn dở.”

Mãi sau này anh mới biết là anh được “gả” để trừ đi số nợ nhà còn thiếu người ta hồi ở miền Bắc.

Anh buồn khổ đến sinh bệnh nhưng chẳng tìm được một lối thoát nào cho mình cả. Anh đành phải “vâng lệnh song thân” mà lấy vợ như người ta thường đề trong mấy cái thiệp cưới.

Lúc đứng làm lễ tế gia tiên, anh dâng hương mà không làm sao ngăn được hai dòng nước mắt cứ trào ra, anh sụt sùi khóc. (Vợ anh thấy thế liền bắt chước khóc theo, và còn khóc to hơn cả anh nữa.) Anh khấn rằng: “Ông bà tổ tiên linh thiêng về đây chứng giám cho con. Đạo làm trai của người Việt là Trung và Hiếu. Con đã vâng lệnh song thân lấy vợ để làm tròn chữ Hiếu. Lấy vợ xong, con sẽ đi lính để giữ trọn chữ Trung.”

Tiệc cưới to lớn, ai nấy mặt mày hả hê sung sướng. Riêng anh, anh có cảm giác như bài thơ của đời mình mới làm được hai câu, chưa kịp đọc lại thì bị một bàn tay vô hình nào xé toạc mảnh giấy ấy vất đi. Anh nhìn hai họ vui cười mà mơ ước được vui vẻ như họ. Tàn tiệc, bố anh đến bên anh, vỗ vai anh bảo: “Rồi mày sẽ quen đi con ạ.” Cho đến bây giờ, anh vẫn không thể nào quên được câu nói ấy.

Rồi anh đi lính. Rồi anh gặp em…

Mới đầu, gặp em, anh chỉ muốn đùa một tí với em nhưng không ngờ anh yêu em thật. Đây là lần đầu tiên anh khám phá ra sự tuyệt vời của tình yêu. Nhờ tình yêu mà thế giới này tồn tại được, thi sĩ làm thơ được, người thợ mộc đóng bàn ghế được, thầy giáo dạy học được v.v… Anh biết yêu trễ đến hơn 10 năm nhưng anh cảm ơn trời đã cho anh biết được mùi vị của tình yêu. Tuyệt vời lắm. Mỗi lần nhìn em, anh quên hết. Quên chiến tranh, quên hận thù, quên luôn cả tấm bi kịch của đời mình nữa để chỉ nghĩ đến em.

Diễm yêu dấu,

Bây giờ là 2 giờ sáng rồi. Anh vừa kể lại chuyện đời mình cho em nghe, không phải để chạy tội, không phải để em thương xót mà để chứng tỏ tấm lòng của. Dù tốt hay dù xấu thì anh cũng là nạn nhân. Anh hiểu trách nhiệm nặng nề của mình đối với em và anh đã có một quyết định dứt khoát: Xong chuyến công tác này trở về, anh sẽ dắt em về nhà nói với bố mẹ anh là anh là đã yêu em, đã có con với em và sẽ ly dị vợ anh để cưới em.

Em có tin không? Nếu bố mẹ anh không chịu, anh vẫn cưới em như thường. Sau 6 năm ở lính, anh học được một điều quan trọng: Con người ta chỉ sống có một lần, cho nên, đừng để bố mẹ hay bất kỳ ai sống giùm mình cuộc đời mình.

Thôi, anh dừng bút. Nhớ đừng khóc, đừng buồn và ráng ăn thật nhiều. Anh đi chuyến này là để kiếm một món quà vô giá tặng thành phố Ban Mê Thuột. Anh không tiện nói ra bây giờ nhưng anh sẽ nói khi anh trở về. Và anh sẽ về trước lễ Giáng Sinh. Anh hứa.

Yêu em,

Anh…

* * *

Thiếu Tướng Phạm Văn Phú gấp tập hồ sơ lại để trên bàn họp rồi đứng lên tiếng gần tới tấm bản đồ sau lưng. Ngồi dài theo hai bên dãy bàn họp trước mặt ông là 4 ông tướng: Tư lệnh phó Quân đoàn, Tư lệnh Sư đoàn 22 và 23 bộ binh, ông tướng Tư lệnh Sư đoàn 6 Không Quân và khoảng 25 ông tá, toàn là sĩ quan tham mưu của quân đoàn II. Ai nấy nghiêm trọng nhìn lên chờ nghe tướng Phú.

Tướng Phú vỗ cây gậy chỉ huy trong tay rồi nói:

-Cách đây hơn tuần, tôi được thông báo của phòng II quân đoàn là họ phát hiện được một lực lượng khá đông quân số của các sư đoàn 320 và 968 ở phía Tây và phía Nam Pleiku, sư đoàn 10, sư đoàn 316 và sư đoàn 968 chính quy Bắc Việt ở mật khu Bù Gia Mập. Thêm vào đó, còn trung đoàn 3 cao xạ nặng, 1 trung đoàn pháo nặng và 1 trung đoàn xe tăng cũng ở khu Bù Gia Mập.

Cả phòng họp… nín thở. Nét ưu tư hiện rõ trên từng khuôn mặt của mỗi vị sĩ quan. Tướng Phú liếc nhìn đại tá Phùng rồi tiếp:

-Để xác nhận tất cả chuyện này, tuần trước, tôi cho Lôi Hổ mình nhảy xuống phía bắc của KonTum và xuống Bù Gia Mập để “tìm hiểu.” Anh em Lôi Hổ đã bắt được nhiều tù binh và đã xác nhận được tất cả chuyện này. Những tin tình báo mới nhất của phòng II cũng tái xác nhận chuyện này, và không ảnh của Không quân cũng xác nhận. Đây là một bất ngờ đối với tôi…

Tướng Phú ngừng nói và nhăn mặt lại. Rồi ông chỉ cây gậy vào mật khu Bù Gia Mập:

-Điều khó hiểu hơn cả là tại sao chúng nó lại ở đây?

Ông lại… nhăn mặt, lắc đầu nói tiếp:

-Đây là câu hỏi nằm trong gan trong ruột tôi suốt tuần lễ qua. Chúng nó muốn đánh Ban Mê Thuột hay đánh Quảng Đức? Hay chúng nó không đánh cả hai mà chỉ muốn lừa mình để đánh Pleiku? Nói về sự kiện thì chúng nó sẽ đánh Ban Mê Thuột hay Quảng Đức, còn theo sự suy luận của tôi thì Ban Mê Thuột hay Quảng Đức chỉ là diện, còn Pleiku mới là điểm…

Tướng phú tiến trở lại bàn họp, bỏ cây can lên bàn, ngồi xuống mồi điếu thuốc:

-Bon. Tôi mời anh em tới đây để thảo luận vấn đề này. Vậy thì, anh em có ý kiến gì, cứ tự nhiên trình bày…

Chỉ chờ có thế là cả phòng họp có nhiều bàn tay dơ lên xin phát biểu liền. Ai cũng muốn cho tướng Phú thấy cái tài kinh luân của mình. Tướng Phú chỉ từng người một để cho ý kiến. Ai nói sao ông cũng gật đầu nhưng chỉ trả lời rất ít.

Khoảng một tiếng sau, tướng Phú dơ tay làm dấu cho mọi người im lặng. Ông đứng lên bục gỗ:

-Cám ơn các anh em đã bàn thảo thật sôi nổi và hào hứng. Bây giờ tôi quyết định như thế này. Trước hết, tôi nhờ Tham mưu trưởng quân đoàn gọi điện thoại cho tỉnh trưởng Ban Mê Thuột, và tỉnh trưởng Quảng Đức bảo hai ông này ngày mai đem hết sơ đồ cùng kế hoạch phòng thủ mới nhất của tiểu khu mình lên đây gặp tôi. Tôi muốn biết rõ chi tiết từng viên đạn và từng trái mìn, từng vị trí của các đơn vị phòng thủ.

-Nhận rõ thiếu tướng.

Tướng Phú chỉ cây gậy vào bản đồ:

-Anh Thịnh, anh cho một thành phần của thằng 45 (Trung đoàn 45, sư đoàn 23 bộ binh) của anh hành quân lục soát từ chỗ này, phía Nam của Đức Lập về tới phía Bắc của Quảng Đức cho tôi. Đồng thời, cho một thành phần của thằng 53 (Tr/Đ 53/SĐ 23 BB) cũng hành quân lục soát từ Ban Mê Thuột về hướng Nam. Tướng Nhân Không Quân lo đầy đủ trực thăng để vận chuyện hai toán quân này nội trong ngày mai.

-Nhận rõ Thiếu tướng

-Nhận rõ.

-Anh Tài, anh cho thằng 21 Biệt Động của anh di chuyển gấp về án ngữ ở phía Nam Ban Mê Thuột, ngay chỗ này để làm trừ bị cho tụi 23 bộ binh.

-Nhận rõ…

-Anh Viễn, về phía Bắc KonTum, anh cho thằng…

Tướng Phú ra lệnh và chỉ thị một thôi không ngừng nghĩ. Đại tá Phùng nhìn ông Khiếu trao đổi một cái nhìn thỏa mãn. Cuối cùng, ông tướng có vẻ bắt đầu nghĩ tới Ban Mê Thuột rồi. Tuy nhiên, đại tá Phùng biết, ông tướng vẫn chưa hoàn toàn tin tưởng. Ở địa vị ông, ông phải thận trọng để điều quân đi thăm dò như vậy. Tướng Phú ra lệnh “một phần của trung đoàn” tức là 1 hoặc 2 tiểu đoàn. Phần còn lại ông vẫn còn muốn bố trí để giữ Pleiku. Theo ông, chỉ có Pleiku mới quan trọng thôi, còn ngoài ra đều có thể cứu được hết. Kể cả Ban Mê Thuột, kể cả Quảng Đức. Tuy nhiên, Đại tá Phùng cùng Trung Tá Khiếu đã liệu trước việc này. Hai người sẽ có trưng bằng chứng cho tướng Phú biết về ý đồ của Cộng Sản.

Và tất cả chuyện quan trọng này đều nằm trong tay một sĩ quan Biệt Kích tài giỏi của ông: Đại Úy Huân. Phải, chỉ có Đại úy Huân mới cứu Ban Mê Thuột được.

* * *

Khi chiếc trực thăng chở toán của Huân đáp xuống bãi đậu của Chiến đoàn, chàng chẳng ngạc nhiên chút nào khi nhìn thấy, ngoài đại tá Phùng cùng toàn bộ ban tham mưu của chiến đoàn ra đón còn có cả có cả Thiếu Tướng Khấn, Tư lệnh phò Quân đoàn II và ít nhất là 3 ông Đại tá khác của Quân đoàn. Huân hiểu những gì nằm trong chiếc máy hình và những gì chàng ghi nhận được suốt 20 ngày qua trong mật khu Bù Gia Mập sẽ có một giá trị to lớn mà không ai có thể ước lượng được. Nhưng Huân không có thì giờ để suy nghĩ nhiều. Đầu óc chàng đang bận rộn để chuẩn bị cho bài thuyết trình về chuyến công tác vừa qua của chàng.

Huân thò tay ra bắt hai người phi công trực thăng rồi nhảy xuống. Đại Tá Phùng dơ tay đáp lễ cái chào của Huân rồi giới thiệu chàng với ông tướng và mấy sĩ quan cấp tá của Quân Đoàn. Huân chào họ và đón nhận những cái bắt tay vồn vã và những cái nhìn thán phục.

Một tay bắt tay Huân, tay kia nắm lấy vai chàng, Đại tá Phùng nói:

-Chúc mừng anh. Kết quả sơ khởi mà tôi nghe được rất là khích lệ, lát nữa mình nói nhiều.

Đại tá Phùng quay nhìn ông tướng Tư Lệnh Phó:

-Kính mời Thiếu tướng cùng phái đoàn vào Câu Lạc Bộ dùng cơm trưa, chừng nửa tiếng nữa chúng tôi sẽ có mặt ở phòng họp Chiến đoàn để thuyết trình cho Thiếu tướng cùng quý vị.

Phái đoàn ông tướng bước về phía Câu Lạc Bộ. Đại tá Phùng phóng lên chiếc xe díp, Huân leo lên ngồi bên cạnh, ông Trung tá Khiếu cũng leo lên ngồi phía sau. Đại tá Phùng chưa kịp đề máy xe thì Huân đã hỏi liền:

-Đại tá… cho xin điếu thuốc.

-À, xin lỗi, tôi quên… Anh giữ nguyên cả gói mà hút.

Huân nhận gói CAPSTAN còn đầy từ tay người chỉ huy trưởng, kẹp một điếu vào môi rồi chẳng cần khách sáo, thản nhiên bỏ nguyên gói thuốc vào túi áo mình. 20 ngày qua trong rừng rậm, không biết bao nhiêu lần Huân mơ ước chỉ được cầm một điếu thuốc lá trong tay như thế này.

Đại tá Phùng đưa thêm cho chàng cái bật lửa. Chiếc xe phóng vút đi. Ông Phùng cố gắng để giữ cho giọng mình được bình tĩnh để hỏi câu hỏi quan trọng nhất của chuyến công tác:

-Ban Mê Thuột hay Pleiku?

Huân mỉm cười, chưa thèm trả lời vội. Chàng hít thêm một hơi thuốc lá cho đầy hai buồng phổi, rồi mới đủng đỉnh trả lời qua làn khói:

-Ban Mê Thuột!

Đại tá Phùng nghiến răng sang số xe thật mạnh như muốn bộc lộ một sự giận dữ nào đó:

-Chắc không?

-Chắc như bắp Đại tá. Không trúng tôi nghĩ ăn lương chính phủ.

Đại tá Phùng tiếp tục nhăn mặt lại nhưng Trung tá Khiếu lại gật gù cái đầu:

-Quả đúng y như bọn mình dự đoán.

Chiếc xe díp thắng lại trước ban II của Chiến đoàn. Một người sĩ quan chạy vội ra như đã chờ đợi sẵn từ lâu. Huân đưa cho anh ta hai cái máy hình và cái túi đựng tài liệu cùng phim ảnh của chuyến công tác. Đại tá Phùng hỏi người sĩ quan:

-Nửa tiếng xong không?

Vị sĩ quan gật đầu:

-Thưa hình thì chúng tôi sẽ rửa được nhưng sẽ còn hơi ướt. Về tài liệu thì chúng tôi chỉ phối kiểm những tin quan trọng trước thôi.

-Tốt. Hình ướt cũng được. Phần tin tức thì giải trình được bao nhiêu đem hết sang tôi liền.

Chiếc xe lại lao vút đi. Huân mồi điếu thuốc thứ hai. Ba người sĩ quan bước vào phòng giải trình của Chiến đoàn. Đại tá Huân mở tủ lạnh, khui cho mỗi người một chai bia 33:

-Ăn mừng. Phải ăn mừng chuyến công tác này mới được.

Huân ngửa cổ tu một hớp bia. Tiên sư, trên đời sao lại có những thứ thức uống ngon đến như vậy nhỉ? Âu đây cũng là một phần thưởng trời dành cho những người lính như chàng. Ở trong rừng gần một tháng không được uống bia, không được hút thuốc, lúc cầm lại điếu thuốc hay chai bia mới thấy giá trị của nó và mới thấy được làm người, được… uống bia hút thuốc, được hít thở khí trời tự do quả thật là thú. Chàng lắc lắc chai bia trong tay rồi lại đưa lên cao. Lần này Huân uống hết sạch. Đại tá Phùng đưa thêm cho chàng một chai nữa.

“Cám ơn Đại tá” Huân nói rồi từ từ tiến tới tấm bản đồ treo trên tường, cầm cây thước trong tay để chuẩn bị phần giải trình nhưng ông Phùng đã gạt đi:

-Khỏi, cứ ngồi xuống đây, chờ lát nữa sang thuyết trình với ông Tướng anh trình bày cặn kẽ luôn cũng được.

Xong ngay, đại tá muốn vậy thì đỡ mất thì giờ với phần thủ tục. Ông chiến đoàn trưởng đi thẳng vào vấn đề:

-Tóm tắt, chuyện gì làm anh quả quyết là chúng nó sẽ đánh Ban Mê Thuột?

-Sa bàn.

-Sa bàn thành phố Ban Mê Thuột?

-Đúng. Chỗ chúng tôi nằm là khu tập trung không phải của tụi 316 mà của trung đoàn 95 B.

Đại tá Phùng nhìn Trung tá Khiếu. Ông Khiếu gật đầu như xác nhận sự xuất hiện đó là đúng.

-Chúng nó tập trận liên miên cả tuần lễ. Riêng tiểu đoàn gần tôi nhất thì chúng nó thực tập đánh cổng trước Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh.

-Sao anh biết đó là cổng trước của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23?

-Tôi ở Ban Mê Thuột này gần năm rồi. Đường đi vào Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 có cái cái công viên, bên cạnh công viên là cái nhà thờ Quân Đội… Chúng nó có cả hình dáng cái nhà thờ này. Lát nữa hình rửa xong đại tá sẽ thấy…

-Về cái sa bàn của thành phố, anh thấy ở đâu?

-Trong phòng họp của bộ chỉ huy Trung Đoàn. Tôi chụp được hình ảnh đầy đủ, lát nữa đại tá sẽ thấy.

-Ngoài ra anh còn biết gì nữa không?

-Chúng tôi phát giác và nghe lóm được đường dây điện thoại giữa trung đoàn và sư đoàn, tôi có ghi lại nhiều chi tiết. Lát nữa phòng II đưa qua trung tá sẽ thấy…
Đại tá Phùng thở dài, mồi điếu thuốc. Ông quay sang Trung Tá Khiếu:

-Anh Khiếu có gì hỏi không?

-Thưa có!

-Mời Trung Tá tự nhiên…

-Trước hết, tôi xin cám ơn và chúc mình anh về chuyến công tác đầy cam go. Chiều nay tôi và đại tá Phùng sẽ tháp tùng tướng Khấn về Pleiku để gặp tướng Phú liền. Thực ra bọn tôi đã nghi ngờ chuyện này từ lâu, nhưng kẹt một cái là ông tướng Phú… Anh biết, ông Tướng có vẻ không tin tưởng những tin tức tình báo của chúng ta đưa lên lắm… Ngoài những gì anh nói, anh nghĩ anh có tấm hình hay bằng chứng nào để tôi có thể thuyết phục được tướng Phú không?

Tự nhiên, Huân bỗng nỗi giận. Mình và lính vừa lội vừa nằm gần đúng 20 ngày trong lòng đất địch, sự sống như treo chỉ mành hằng ngày để khám phá ra cái tin tức quý giá này đem về. Nhưng như vậy chưa đủ, ở trên còn muốn mình phải tìm cách chứng mình hay thuyết phục họ. Chuyện đánh Việt Cộng là chuyện của ai nhỉ? Khôi hài thật. Chẳng khác gì một nhà buôn ngọc, sau khi tìm ra viên ngọc quý, không đem bán mà lại đem cho, nhưng trước khi cho người ta còn phải mất công thuyết phục người nhận ngọc đó là viên ngọc thật…

Chàng nhìn Trung Tá Khiếu:

-Thưa Trung tá, tôi được giao một bổn phận và đã làm xong, những gì còn lại như vấn đề ở trên có tin hay không không thuộc thẩm quyền của tôi.

Trung tá Khiếu gật gù cái đầu ra dấu thông cảm.

Ngay lúc ấy có tiếng gõ cửa rồi vị sĩ quan phòng phim ảnh của Chiến đoàn xuất hiện với một núi hình ảnh trên tay. Mặt mày anh ta vừa hớn hở vừa… tái mét, nhìn đại tá Phùng nói nhưng giọng lạc đi vì xúc động:

-Tụi mình phải cho vợ con đi khỏi Ban Mê Thuột này càng sớm càng tốt Đại Tá ơi. Em coi mấy tấm hình chụp em muốn lạnh gáy…

* * *

Huân và Diễm tối hôm ấy lại trở về ngồi trên chiếc ghế đá công viên của thành phố Ban Mê Thuột. Ngay trên chiếc ghế cũ mà hai người đã ngồi ngày mới quen nhau. Chỉ khác hơn là, lần này họ ngồi sát nhau, cùng nhìn về hướng ánh đèn sao chổi sáng lừng từ cái tháp chuông của Nhà Thờ Quân Đội ở bên kia đường chiếu ra…

Tự nhiên, Huân hỏi:

-Em biết nhà thờ đó tên là gì không?

-Không!

-Vậy là em thua anh rồi. Đó gọi là nhà thờ Quân Đội.

-Ừ. Anh đi đạo lúc nào mà rành quá vậy?

-Không đi nhưng anh biết. Em biết đằng sau ánh đèn sao chổi đó là gì không?

Diễm co ro vì lạnh, áp người thật chặt vào lưng Huân:

-Không…

Huân lại nhớ đến cái sa bàn của Việt Cộng ở trong mật khu Bù Gia Mập. Theo đúng kế hoạch, khu vực này được giao cho trung đoàn 95 B và một đại đội xe tăng. Sau cỡ 5 ngàn trái pháo, chúng nó sẽ đi diễn hành trên quốc lộ mà vào, làm một mũi dùi chính đánh thẳng vào đây để nuốt gọn Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn. Huân nhăn mặt:

-Là Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh.

Diễm cười rất vô tư:

-Tưởng chuyện gì, anh thì lúc nào cũng hết Bộ Tư Lệnh rồi đến Bộ Chỉ Huy… Ở bên em anh tạm quên mấy thứ đó đi có được không?

Huân đốt điếu thuốc lá, lòng se lại khi nghĩ đến vùng đất hiền hòa này sẽ trở thành một bãi chiến trường đẫm máu nay mai. Chàng thấy thương cho Diễm cũng như cho tất cả những người dân của cái thành phố này.

Diễm cầm tay Huân:

-Quên chuyện đó đi anh, anh viết thư hay lắm, cứ như văn sĩ.

Huân cười:

-Ở gần một người đẹp như em mà không trở thành văn sĩ thì thật là bất lịch sự và ngu xuẩn. Mà này, nói thật đi, sáng hôm ấy em có khóc không?

-Có.

-Anh cũng đoán vậy.

Rồi Huân đứng lên:

-Em muốn đi bách bộ một lát không?

-Đi thì đi.

Hai người đi bên cạnh nhau. Diễm cúi đầu đến bước, quàng hai tay qua tay Huân. Huân thọc hai tay vào túi, cứ ngước mặt lên nhìn cái sao chổi làm bằng mấy trăm cái bóng đèn chạy dài từ trên tháp chuông xuống. Tới cuối công viên, Huân rủ:

-Mình đi bộ qua nhà thờ chơi..

-Ý kiến hay!

Vừa băng qua đường, Huân nghe được tiếng tập hát từ trong nhà thờ vọng ra: “Cao cung lên, khúc nhạc Thiên Thần Chúa…” Huân hỏi:

-Mau quá, tối ngày mốt là Noel rồi nhỉ?

Huân dừng bước trước hang đá Đức Mẹ trước nhà thờ, hỏi Diễm:

-Em biết cầu kinh không?

Diễm lắc đầu:

-Không nhưng trông bà ấy đẹp và hiền hậu ghê nhỉ? Em nghĩ ai đến cầu bà này điều gì bà ấy cũng cho hết. Bả hiền quá.

-Vậy thì em cầu thử đi.

-Anh phải cầu với em.

-Ừ. Nhưng phải bỏ tay anh ra và đứng nghiêm trang lại, chắp lên ngực như cái ông đang đứng đàng trước em kia kìa.

Hai người chấp tay. Diễm lẩm bẩm mấy lời cầu rồi cúi đầu vái mấy cái. Huân cười, bảo:

-Đừng có vái, người ta cười. Ở đây em thấy có ai vái đâu?

Diễm vẫn tiếp tục vái và nói:

-Ai cười mặc họ, Diễm muốn tỏ lòng tôn kính. Cầu mà không vái thì mất linh đi.

Hai người đi dạo một vòng rồi trở về công viên. Huân hỏi:

-Lúc nãy em cầu gì vậy?

-Cầu cho hai đứa mình được nên duyên vợ chồng. Em lo quá.

Huân cười:

-Muốn nên duyên vợ chồng thì em phải cầu cho vợ anh nó… trúng gió chết.

-Anh chỉ nói bậy. Những gì anh nói trong thư có thật không anh?

-Thật, thật lắm.

-Còn anh, lúc nãy anh cầu gì vậy?

-Cũng cầu như em nhưng anh có thêm một lời cầu đặc biệt…

Huân bỏ lửng câu nói, đứng lại cầm tay Diễm:

-Diễm, em nghe cho kỹ đây. Sau Noel, anh muốn em và má dọn hết đồ đạc về Nha Trang ở tạm một thời gian…

Diễm sững sờ:

-Sao vậy anh?

Huân kéo Diễm ngồi xuống ghế, nói thật chậm, thật rõ ràng và thật tha thiết:

-Những gì anh sắp nói, em phải thề giữ tuyệt đối bí mật.

-Mà chuyện gì vậy… rồi, em hứa

-Em có biết chuyến đi công tác 20 ngày vừa rồi của anh không?

-Sao?

-Anh biết được một chuyện rất quan trọng. Việt Cộng đã đem 4 sư đoàn vào đây để chuẩn bị đánh Ban Mê Thuột.

Một cái tin động trời như vậy, cái tin làm cho cả quân đoàn II từ ông tướng Phú xuống đến anh lính hạng bét mất ăn mất ngủ mà với Diễm thì chẳng có nghĩa lý gì. Đánh nhau thì hai bên ngày nào lại chẳng đánh, sao lại lo sợ vậy nhỉ? Giọng Diễm vẫn tỉnh bơ, chẳng có chút gì hốt hoảng hay sợ hãi:

-4 sư đoàn là nhiều lính không anh?

Huân lắc đầu chán nản. Hình như lúc trời sinh ra đàn bà, ngài quên nhét vào đó một chút óc nhà binh. Huân kiên nhẫn giải thích:

-4 sư đoàn là cỡ vài chục ngàn thằng lính bộ đội. Mỗi thằng một cây AK. Khi vào đây rồi, chúng nó sẽ tàn phá, sẽ bắn giết, sẽ cày nát cái thành phố thơ -ộng này ra như cám hoặc trước tết hoặc sau tết.

Diễm tròn mắt:

-Anh nói thật?

À, thế này thì có ép phê rồi. Huân tiếp tục:

-Chưa bao giờ thật bằng. Em tưởng tượng đi, hai chục ngàn thằng lính vào đây, mỗi thằng chỉ cần bắn một phát thôi thì Ban Mê Thuột cũng đủ tan hoang. Đó là chưa nói tới xe tăng, chưa nói tới đại pháo… Vì vậy cho nên lời cầu đặc biệt của anh lúc nãy là cầu cho Ban Mê Thuột, cầu cho thành phố yêu dấu này. Cầu cho ông tướng Phú được sáng suốt để đỡ trận này. Nhưng quan trọng nhất là em và mẹ phải đi khỏi nơi đây. Đi liền càng sớm cáng tốt. Đang thai nghén như em, ở lại đây không tiện chút nào hết.

Giọng của Diễm trở nên hơi gay gắt, nhưng Huân chưa để ý đến:

-Anh muốn em đi. Nhưng còn chuyện thành hôn của hai đứa mình như anh nói trong thư thì thế nào?

-Mình không còn thì giờ nữa! Nội trong tuần tới, em và má phải thu xếp cho xong đồ đạc và dọn đi liền.

Nói xong thì Huân đọc ngay được vẻ bất mãn trong đôi mắt Diễm. Hình như đã có chút nước mắt trong đó rồi. Giọng nàng như cố giấu một nỗi chua xót trong lòng:

-Em thì sao cũng được, nhưng má em chắc không chịu đi đâu…

Huân nắm tay Diễm:

-Em phải bắt má đi.

Diễm hất tay Huân ra, quay nhìn đi nơi khác để che giấu một giọt nước mắt:

-Má em cứng đầu lắm…

Huân lại nắm tay Diễm. Diễm lại hất tay chàng ra. Rồi quay lại nhìn Huân, hai hàng nước mắt chảy dài trên má:

-Anh Huân, nếu anh đổi ý, không muốn cưới Diễm nữa thì cũng được, anh cần gì phải bày vẽ 3 sư đoàn với 4 sư đoàn Việt Cộng làm gì. Chẳng thà anh nói thật đi, Diễm thông cảm anh. Diễm tha thứ cho anh. Dù sao, Diễm cũng chỉ là người đến sau… Diễm biết thân phận mình, Diễm không có quyền…

Huân tròn cặp mắt lại:

-Diễm, em nói gì vậy?

Diễm nghẹn ngào, vừa nói vừa khóc:

-Diễm nói anh muốn cưới Diễm thì cưới, còn không thì cứ việc đi đi, không ai giữ anh đâu. Làm gì phải đem Việt Cộng vào đây mà dọa nhau…

Rồi nàng đứng dậy bỏ đi mau như chạy. Huân bước mau theo và thấy cổ họng mình muốn tắt nghẹn. Trời cao có mắt về đây chứng giám cho thằng Huân này.

Huân bắt kịp Diễm, níu lấy tay nàng. Diễm lại hất ra. Nước mắt tiếp tục chảy đầm đìa trên mặt nàng. Huân khổ sở:

-Diễm, em phải hiểu. Anh thương em nhất trên đời này.

-Tôi không cần. Anh về với vợ anh đi. Anh đi đi, và đừng bao giờ trở lại đây gặp tôi nữa. Con tôi, tôi sẽ nuôi được. Nếu tôi đẻ con gái, tôi sẽ cấm nó tuyệt đối không được quen với lính, không được yêu lính, nhất là thứ lính… Lôi Hổ… con cọp bạc tình bạc nghĩa như anh…

-Diễm, anh năn nỉ em… Em nghĩ lại, lòng anh, em biết…

-Tôi không cần thứ lòng đó. Anh bảo anh đi công tác 20 ngày. Anh về Sài Gòn với vợ anh 20 ngày chứ công tác gì. Anh sợ trách nhiệm, sợ nuôi con, muốn dứt tình thì cứ nói, việc gì phải đem Việt Cộng vào tận Ban Mê Thuột để dọa mẹ con tôi…

Huân thấy trời đất quay cuồng chung quanh mình. Chàng đứng sững người lại làm như nếu bước thêm một bước nữa thì sẽ nhào xuống liền tức thì. Rồi đột nhiên, chàng nổi giận. 20 ngày công tác đói rét nguy hiểm trong rừng, một trái tim rướm máu vì tình yêu, một tuổi thơ đầy dẫy bi kịch và chưa hề được yêu, được sống như một người bỗng bùng dậy trong lòng người đại úy Lôi Hổ trẻ tuổi…

Huân chạy theo nắm lấy tay Diễm kéo lại thật mạnh. Diễm mất đà khựng người lại, cả cánh tay đau nhói lên vì bị cú kéo ngược bất ngờ quá đau. Nàng kêu lên một tiếng kêu đau đớn, loạng choạng mất thăng bằng. Huân đỡ được nàng ngã vào lòng mình. Chàng giữ chặt lấy Diễm.

Nhìn những giọt nước mắt trên mặt Diễm, lòng Huân lại mềm ra. Diễm dùng hết sức để xô Huân ra và đay nghiến:

-Anh cứ việc giết tôi đi. Sao anh không giết tôi đi? Anh giết người quen rồi, anh cứ việc giết tôi đi…

Rồi Diễm khóc lên nức nở. Huân ghì chặt lấy Diễm, lắp bắp:

-Không, Diễm, anh yêu em, anh yêu em… Em đừng nói thế… anh yêu em… Anh xin lỗi…

Diễm toan đay nghiến nữa nhưng bỗng im bặt khi nhìn thấy những giọt nước mắt long lanh trong mắt và trên má chàng. Nàng ngạc nhiên lắm. Không ngờ ông đại úy dày dạn phong sương này cũng khóc được.

Huân ôm lấy Diễm, tha thiết nói như một người trong tận cùng của sự thống khổ:

-Diễm, anh yêu em… Anh yêu em… Anh xin lỗi…

Diễm không trả lời, luồn tay vào tóc Huân, kéo đầu chàng xuống, đặt lên đôi mắt u buồn ướt lệ ấy một cái hôn.

Nàng biết, biết từ lâu rằng Huân yêu mình thật…

* * *

Tướng Phú ngừng nói. Phòng họp Bộ Tham Mưu Quân Đoàn im lặng như tờ. Ông nhìn cả phòng họp một lúc rồi tiếp tục:

-Như vậy, tất cả những thắc mắc của tôi đã được giải đáp thỏa đáng… Và câu trả lời đã trở nên rõ ràng như ban ngày: Chúng nó sẽ đánh Ban Mê Thuột…

Đến đó, tướng Phú ngừng nói và bỗng bật lên một cơn ho sụ sụ. Lát sau, Tướng Phú lại hỏi khi dứt cơn ho:
-Có ai thắc mắc gì hay có điểm gì không đồng ý với tôi không…

Không có tiếng trả lời.

-Bon, bây giờ tôi có thể an tâm để dồn hết sức lực chuẩn bị cho chiến trường Ban Mê Thuột. Tôi muốn phòng III trình cho tôi một kế hoạch phòng thủ toàn diện thành phố Ban Mê Thuột trong vòng 24 giờ đồng hồ. Kế hoạch các anh em làm, phải trả lời và đi sâu những chi tiết sau đây cho tôi:

Thứ nhất, mình có cách nào để ngăn chặn cuộc tổng tấn công điên cuồng này trước khi nó bắt đầu hay không? Hãy nghĩ đến lực lượng và những ưu điểm mà mình có trong tay, hoặc bằng Không quân, hoặc bằng bộ binh, hoặc bằng Pháo v.v… Hoặc giả, mình có thể kiếm một cái vùng giao tranh nào khác ngoài Ban Mê Thuột để ép chúng nó nhận làm chiến trường không?

Thứ hai, nếu không ngăn chặn được, mình phải bố trí lực lượng như thế nào để chuẩn bị đón đánh và tiêu diệt được 4 sư đoàn bộ, 2 trung đoàn địa phương, 1 trung đoàn pháo, 1 trung đoàn cao xạ nặng, 1 trung đoàn xe tăng và một tiểu đoàn đặc công của chúng. Anh em chớ quên một yếu tố quan trọng là bây giờ lá bài nằm trong tay mình. Mình đã biết đâu là điểm đâu là diện. Yếu tố bất ngờ đã mất, chúng nó đưa vào bao nhiêu thì mình sẽ nướng hết mấy nhiêu.

Thứ ba, tôi sẽ xin tăng viện từ Sài Gòn, anh em nghiên cứu cho tôi mình bao nhiêu lực lượng. Theo tôi nghĩ, mình phải được tăng cường ít nhất là 4 lữ đoàn Dù hoặc TQLC đang nằm nghỉ mát ở miền Trung. Các lực lượng trừ bị tinh nhuệ này hoặc sẽ làm búa tấn công chúng nó trước, hoặc sẽ làm đe để chận đường rút của chúng. Về Không Quân, tôi sẽ xin tăng cường 2 phi đoàn trực thăng và 2 phi đoàn khu trục. Tướng Nhân lo chỗ ăn ở cho 4 phi đoàn này và trình cho tôi một kế hoạch để sử dụng những lực lượng tăng phái này.

Thứ tư, quan trọng nhất, Việt cộng đã biết đánh nghi binh suốt mấy tháng qua để dụ mình thì mình cứ để cho nó… dụ. Đại tá Long Công binh cho tăng cường xây thật nhiều công sự phòng thủ ở Kontum, và anh Tài, anh cho 2 liên đoàn Biệt Động của anh cứ tiếp tục hành quân lục soát dữ dội ở phía bắc Dakto để cho chúng nó tưởng rằng nó dụ được mình. Tất cả các lực lượng đang hành quân lục soát ở phía Nam Ban Mê Thuột của Sư Đoàn 23 cho rút về hết để chờ lệnh mới.
Thứ năm, trong vòng một tuần lễ, các tiểu đoàn Địa Phương Quân của các tiểu khu Pleiku, Bình Định, Ninh Thuận và Bình Thuận sẽ trở thành lực lượng chính để bảo vệ lãnh thổ mình. Tôi sẽ đưa tất cả quân số của hai sư đoàn 22 và 23 và các liên đoàn Biệt Động Quân lên Ban Mê Thuột để chuẩn bị cho trận đánh sắp tới.

Thứ sáu, anh Vân cho bí mật thiết lập một bộ chỉ huy tiền phương của Quân Đoàn tại thành phố Ban Mê Thuột cho tôi. Chính tôi sẽ về đó để chỉ huy trận này…
Tướng Phú dừng lại ở đây một chút, rồi ông tiếp tục, mắt long lên:

-Mình sẽ thiết lập một lò thịt sống để chờ chúng nó. Mất 20 năm nhưng cuối cùng tôi vẫn trả thù được trận Điện Biên Phủ…

Ngồi xen lẫn với khoảng chừng 30 ông tá và 4 ông tướng ở phía dưới, mặt mũi Đại tá Phùng cùng Trung tá Khiếu trở nên rạng rỡ. Riêng đại tá Phùng, trong đầu ông vừa nẩy ra một ý nghĩ táo bạo khác. Khi lập kế hoạch, ông sẽ đề nghị tướng Phú cho Lôi Hổ nhảy xuống phía sau khu tập trung quân để hướng dẫn phi cơ oanh kích. Chỉ có Lôi Hổ bám sát chúng nó thì mới oanh kích chính xác được. Và không phải oanh kích ngay bây giờ mà chờ cho đến khi chúng nó sắp sửa tấn công, khi chúng nó tập trung quân số lại mới làm. Một trái bom thả ở giờ phút này có giá trị bằng mười trái bom lúc bình thường…

Buổi họp hôm ấy chấm dứt vào lúc 7 giờ chiều ngày 24 tháng 12 năm 1974. Sau buổi họp là buổi dạ tiệc và khiêu vũ Giáng Sinh do Quân Đoàn II khoản đãi. Tất cả mọi người,từ ông tướng Phú cho đến ông đại úy Quận Trưởng, ai nấy đều hả hê vui vẻ. Riêng Tướng Phú thì khỏi nói. Ông không ở lâu trong một nơi ngộp khói thuốc được nhưng chưa bao giờ có ai nhìn thấy ông vui vẻ như vậy kể từ lúc về nắm Quân Đoàn II. Trước khi ra về, ông đến vỗ vai đại tá Phùng:

-Toa hay lắm, moa cám ơn toa rất nhiều.

-Thưa Thiếu Tướng, tôi chỉ làm bổn phận.

-Très bien, xong trận này thì công của toa nhiều nhất đấy. À, đại úy Huân, moa định móc Thiếu Tá cho nó, toa nghĩ thế nào?

-Trình thiếu tướng, tôi cũng tính đề nghị với thiếu tướng như vậy. Nếu Thiếu tướng móc Thiếu tá cho Đại úy Huân, đề nghị thiếu tướng cho mỗi người trong toán lên một cấp luôn.

-Coi như xong, moa sẽ nhớ chuyện này. Thôi ở lại chơi vui vẻ… Joyeux Noel…

-Joyeux Noel Mon Général…

Đại tá Phùng đứng nghiêm chào. Tướng Phú cùng người sĩ quan tùy viên bước ra khỏi phòng. Cây gây chỉ huy trong tay ông ta đánh lên đánh xuống một cách trẻ trung và vui vẻ…

* * *

Sau chuyến công tác thành công, Huân được thưởng một tuần phép vào dịp lễ Giáng Sinh. Trước khi chia tay lên đường đi Pleiku họp với tướng Phú, đại tá Phùng gọi Huân vào văn phòng chúc mừng, vẻ mặt ông hân hoan, phấn khởi:

-Tướng Phú đã đồng ý với tụi mình rồi. Như vậy là Ban Mê Thuột sẽ giữ được. Công của anh trong vụ này sẽ không nhỏ.

Huân cũng không giấu được vẻ vui sướng trên nét mặt:

-Đó là công chung của chiến đoàn chứ đâu phải riêng gì tôi Đại tá. Nhưng nếu trời còn thương nước mình thì Ban Mê Thuột sẽ vững như bàn thạch…

Đại tá Phùng chợt nhìn Huân đăm đăm. Làm gì mà Huân không nhận ra được ánh mắt này? Chàng cười:

-Đại tá sắp có công tác mới cho tôi?

-Anh đeo đại úy mấy năm rồi?

-Hơn một năm nhưng thực thụ thì mới 6 tháng. Đại tá muốn thay lon cho tôi?

-Anh… dám đeo lon Thiếu tá không?

-Tôi nhát lắm nhưng nếu có ai gắn cho mình thì cũng làm gan đeo thử.

Hai người bật cười lên. Đại tá Phùng lại tiến tới tấm bản đồ, chỉ vào khu Bù Gia Mập:

-Đi phép về, anh cùng với đại úy Tú trưởng ban III Chiến Đoàn soạn cho tôi một kế hoạch nhảy liên tục, bám thật sát vào chúng nó. Nếu biết được vị trí đóng quân chính xác, Không Quân có thể tiêu diệt gọn một nửa lực lượng của chúng trước khi chúng bắn được một phát súng. Phần còn lại để dành cho bộ binh mình. Ông tướng Phú đang nấu sẵn một cái chảo nước sôi lớn để chờ chúng nó vào. Mình sẽ luộc sống không còn một mạng.

Huân gật đầu phấn khởi:

-Coi như xong đại tá, nghề của bọn tôi mà.

-Tốt. Bây giờ, anh về nghỉ Noel cho vui vẻ… Có lẽ tôi sẽ bị kẹt khoảng 1 tuần lễ ở Pleiku để thiết lập kế hoạch phòng thủ Ban Mê Thuột, khi anh hết phép trở về chắc tôi cũng về tới, vào văn phòng gặp tôi để nhận chỉ thị liền. Mình không có nhiều thì giờ.

Huân gật gù cái đầu.

-Anh ráng lợi dụng kỳ phép này để dưỡng sức vì khi trở lại, chúng mình sẽ có rất nhiều việc để làm. Cho đến khi nào dập xong tụi nó, mình ngủ chưa nhắm mắt được.

-Tôi hiểu Đại tá!

Đại tá Phùng lờ luôn cái vụ thay lon và Huân cũng chẳng muốn nhắc đến. Không phải Huân… chê cái bông mai bạc nhưng đầu óc chàng lúc ấy đang bị xâm chiếm bởi một chuyện quan trọng hơn: Làm thế nào để bám sát chúng nó và chỉ điểm chính xác cho Không quân tiêu diệt. Tiêu diệt trước khi chúng mò được tới Ban Mê Thuột…

Một tuần lễ phép nhân ngày Giáng Sinh trôi qua êm ả. Huân và Diễm sống với nhau những ngày thật đầm ấm, hạnh phúc. Cuối cùng thì chàng cũng thuyết phục được Diễm rời khỏi Ban Mê Thuột sau lễ Giáng Sinh để tránh cuộc binh đao sắp sửa xảy ra. Diễm chịu đi nhưng mẹ nàng nhất định ở lại. Diễm có nhiều bạn bè ở Nha Trang nên việc “tị nạn” cũng coi như một cuộc nghỉ mát nhỏ…

Sáng hôm hết phép, Huân lái xe díp vào trại. Diễm ở nhà lo sắp xếp và dọn dẹp đồ đạc. Hai người sẽ sống với nhau một đêm cuối cùng trước khi Huân đưa Diễm lên trực thăng về Nha Trang.

Buổi sáng, Diễm về ở nhà với mẹ nàng. Mẹ đưa cho Diễm mấy lượng vàng để phòng thân. Buổi chiều, Diễm về nhà tiếp tục lo thu dọn đồ đạc…

3 giờ chiều, Diễm vừa nhét xong bức hình của Huân vào vali thì có tiếng xe thắng gấp ngoài cửa. Diễm ngạc nhiên nhìn ra và thấy Huân cùng một người sĩ quan Lôi Hổ khác từ trên xe bước xuống…

Nhìn hai người, Diễm ngạc nhiên đến độ sợ hãi vì nàng chưa bao giờ thấy Huân hung dữ như vậy. Cả người bạn chàng cũng vậy. Mắt chàng ngầu đỏ, tóc tai rối bù.

Như thường lệ, Diễm đứng trên gác nhìn xuống, mỉm cười và vẫy tay chào nhưng Huân nhìn thấy mà không thèm đáp lễ. Diễm mơ hồ đoán ra rằng người yêu mình đang bị một chuyện gì bực mình lắm…

Lúc hai người xuống xe bước vào thì có con mèo đen phóng lên chiếc xe díp ngồi. Con mèo này vẫn đến như thường lệ nhưng không hiểu sao hôm nay Huân lại thấy ngứa mắt. Chàng nhìn thấy thì liền đứng lại, chửi thề, bảo:

-Đù mẹ cái giống mèo đen này thật là xúi quẩy, không bắn mày thì để làm gì?

Huân quay lui. Nhanh như cắt, một tay chàng chụp cổ con mèo đưa lên cao, tay kia móc cây Colt .45 trong bụng ra kê vào giữa hai con mắt xanh lè của con vật bóp cò oành một phát. Máu óc và sọ con mèo đen bay tuốt lên cao rồi rớt lả tả xuống đường.

Từ trên lầu, Diễm rú lên một tiếng thảm thiết…

Hai ba người hàng xóm nghe tiếng súng nổ, bung cửa chạy ra. Một trong những người đó là một gã cảnh sát, mặt mày coi khó chịu thấy rõ. Gã đang mặc áo thun liền quay trở vào khoác chiếc áo cảnh sát vào rồi hùng hổ xông ra, tay chỉ, miệng nói:

-Anh… Đại úy kia, sao lại nổ súng bừa bãi thế? Anh tưởng đây là đâu? Tôi phải gọi Quân Cảnh mới được…

Người bạn của Huân rít lên một tiếng, toan xông tới nhưng Huân làm dấu cản hắn lại. Chàng xoay người đưa mắt nhìn người cảnh sát.

Cái nhìn của một ông Đại Úy Lôi Hổ, một tay còn cầm con mèo đen máu nhỏ từng giọt, tay kia còn thủ cây Colt .45 quả có thần lực đặc biệt. Chỉ một cái nhìn đơn giản vậy thôi mà gã cảnh sát đã mất hết hồn vía, mặt mày tái mét.

Dưới cặp mắt thất thần của gã, chàng lù lù tiến tới phía gã, chẳng nói chẳng rằng. Gã cảnh sát lúc ấy mới biết mình vừa hơi… quá lời, đưa cặp mắt tuyệt vọng nhìn Huân như chờ đợi hình phạt sắp đổ xuống đầu mình.

Cũng chẳng thèm nói năng, Huân nhét con mèo đẫm máu vào tay gã ta rồi đứng yên… nhìn. Gã kia sợ quá, không nói năng gì được, mặt méo đi thảm hại. Huân đưa nguyên cái bàn tay còn dính đầy máu mèo chùi vào ngực gã, rồi quẹt mấy cái lên mặt:

-Tập ăn thịt mèo cho quen đi là vừa, mai mốt Việt Cộng nó vào đây thì cả thành phố này phải ăn thịt mèo.

Rồi Huân quay gót, nhét cây súng vào bụng mình, bình thản tới chỗ rô bi nê rửa tay.

Huân mở cửa phòng bước vào. Diễm đứng nhìn sững Huân và không biết phải nói gì. Từ ngày quen nhau, nàng chưa bao giờ nhìn thấy Huân hung dữ như vậy.
Nhưng nhìn ánh mắt ngầu đỏ đầy uất hận của hai người sĩ quan trẻ, Diễm biết họ vừa gặp phải một chuyện gì rất bực mình hay đau đớn.

Huân chỉ nhìn Diễm chứ không cười, không chạy đến hôn nàng như mọi lần:

-Đây là Tú, bạn anh.

-Xin chào chị.

-Không dám, chào anh.

Rồi hai người ngồi xuống bàn. Đại úy Tú lấy chai Martel cầm theo ra, mở nắp. Huân lật ngửa hai cái ly.

Hai người lính trẻ uống rượu trong im lặng, bốn con mắt ngầu đỏ, bắn ra những tia lửa tuyệt vọng và uất hận. Hết ly này đến ly kia, không ai nói với ai một lời nào.

Diễm ngồi nhìn hai người một lúc, đứng lên bảo “Để em đi mua khô mực” rồi bỏ xuống nhà. Huân không thèm nói năng gì. Nàng xin lỗi người cảnh sát lúc nãy rồi ra đầu hẻm mua mấy con khô, một ít nước đá.

Lúc Diễm trở về thì chai rượu đã gần cạn. Diễm nướng mấy con khô mực. Tự nhiên, nước mắt nàng ứa ra. Nàng đưa vạt áo lên chùi nước mắt rồi bảo “Khói quá”.

Diễm lấy cán dao đập mấy con khô rồi bỏ vào đĩa, để trên bàn. Lúc ấy Huân mới chịu mở miệng, nhìn nàng:

-Em ngồi đây, anh có chuyện muốn nói.

Nhà chỉ có hai cái ghế, Diễm đành ngồi trên giường.

-Ngày mai em đi?

-Vâng.

-Em có quen ai ở Sài Gòn không?

-Có, bên nội. Sao anh hỏi vậy?

Huân thở dài:

-Anh nghĩ em về Nha Trang rồi phải tìm đường về Sài Gòn luôn.

Diễm hốt hoảng:

-Sao vậy anh?

Huân lắc đầu, nói như khóc:

-Ông tướng Phú hủy bỏ kế hoạch phòng thủ Ban Mê Thuột rồi. Vậy là xong. Thành phố này sẽ chìm trong cơn Đại Hồng Thủy của máu lửa và bom đạn. Ban Mê Thuột sẽ chẳng bao giờ còn như xưa nữa.

-Nhưng tại sao lại hủy bỏ? Hủy bỏ hồi nào?

Huân lắc đầu tính không nói nhưng không hiểu sao lại trả lời:

-Hai ngày sau Noel… Một phái đoàn của dinh Độc Lập gồm báo chí và chuyên viên tình báo Mỹ của DOA lên Pleiku thăm ông Phú. Nhà báo Phạm Xuân Ẩn, “cố vấn đặc biệt” của Tổng Thống và các “thiên tài tình báo” Mỹ thuyết phục được tướng Phú là Việt cộng sẽ không đánh Ban Mê Thuột mà đánh Pleiku…

Rồi Huân lại lắc đầu, nâng ly rượu lên uống cạn. Tú rót thêm rượu vào ly. Diễm còn muốn hỏi nữa nhưng hình như Huân không còn muốn nhắc đến chuyện ấy nữa. Chàng bảo:

-Em phải về Sài Gòn. Nếu mẹ không đi thì em về một mình. Đây là cái địa chỉ nhà anh, em nhớ lấy.

Diễm đứng dậy tới sát bên Huân:

-Còn anh thì sao?

-Nếu trời còn thương, mình sẽ gặp nhau…

Diễm gào lên, đau đớn:

-Anh nói vậy nghĩa là sao?

-Đừng bắt anh nói gì nữa Diễm ạ. Anh cũng chẳng hứa hẹn được gì. Đừng quên một điều quan trọng là anh là một người lính. Anh còn có bổn phận của anh.

Diễm thẫn thờ, đứng nghệt mặt ra. Hạnh phúc mới vừa đó mà đã bay vút đi. Huân đưa tay nắm tay Diễm, vuốt ve gò bàn tay, cúi đầu xuống. Giọng chàng thật mềm mại và thật ấm:

-Anh chỉ nói được một điều trong lúc này là anh yêu em, anh sẽ yêu em mãi mãi…

Kể từ khi quen nhau, Diễm chưa bao giờ thấy mình thật gần Huân mà lại thật xa Huân như lúc này. Nàng mơ hồ mường tượng ra rằng, chia tay lần này, chắc sẽ không còn bao giờ còn gặp nhau nữa. Diễm nhẹ nhàng rút tay ra khỏi tay Huân, gạt nước mắt rồi bỏ ra ngoài ban công đứng nhìn xuống đường. Huân nhìn theo, cặp mắt như ngây dại. Chàng lắc đầu, nghĩ thầm rằng trời sinh mình ra để bị đàn bà làm khổ và làm khổ đàn bà. Ai gặp mình rồi cũng khổ cả, dù có tình yêu hay không.

Huân quay mặt lại, mồi lửa một điếu thuốc, nói với Tú:

-Thôi uống đi mày! Phần số nước mình nó như vậy rồi, có lo lắng cũng chẳng làm được gì. Bọn mình phải chuẩn bị để chết. Nhưng dù có chết đi nữa thì mình cũng tự an ủi được một điều là mình đã làm hết bổn phận mình… Xuống dưới suối vàng, thằng nào lạng quạng mình… đá thấy mẹ.

Nụ cười nở nhạt trên môi Tú rồi tắt đi ngay. Chàng nâng ly nhưng lại bỏ xuống, cất giọng buồn buồn hỏi:

-Mày nhớ bọn thằng Thành thằng Xú không?

-Nhớ, chết trận An Lộc. Sao mày hỏi vậy?

-Không ngờ rằng rốt cục, tụi nó chết trước mà lại sướng hơn mình. Chúng nó còn được thiên hạ lập mộ chí và được nhân dân miền Nam nhớ đến qua hai câu thơ:

“An Lộc Địa Sử Ghi Chiến Tích, Biệt Kích Dù Vị Quốc Vong Thân”… Riêng bọn mình, sau trận Ban Mê Thuột này thì chỉ mong mỗi đứa có được một nấm mộ cho đỡ tủi thân mà thôi…

-Nhằm nhò gì, chết là hết. Uống đi mày, “Túy ngọa sa trường quân mặc tiếu, Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi…”


Trường Sơn Lê Xuân Nhị
nguồn: https://lengoctuyhuong.wordpress.com/category/trường-sơn-le-xuan-nhị/

BachMa
03-01-2018, 08:37 PM
Đường Vào Mật Khu Tam Giác Sắt
Kỵ Binh Vũ Đình Lưu

Lời giới thiệu của KB NgụySaigon:

Trong Bản Tường Trình của Thiếu Tướng John Muray , Trưởng văn phòng Tùy Viên Quân Sự, Tòa Đại sứ Mỹ cho biết: Vào lúc cao điểm của cuộc chiến Quân Đội Mỹ và Đồng Minh có 433 Tiểu Đoàn và Quân Cộng Sản Bắc Việt xâm lược (CSBVXL) có 180 Tiểu Đoàn. Năm 1974, Khi Quân Đội Mỹ rút quân về nước thì QLVNCH có 189 Tiểu Đoàn. Quân số CSBVXL tăng lên 330 Tiểu Đoàn. QLVNCH không còn được Hoa Kỳ yểm trợ Hải Pháo, Không Quân chiến lược B52 và KQ chiến thuật F4. Quân viện bị cắt giảm chỉ bằng 2% tổng số kinh phí đã sử dụng cho Quân Đội Mỹ. Thượng Đế dĩ nhiên nghiêng về phe có nhiều Tiểu đoàn hơn. Thượng Đế đã mĩm cười với quân CSBVXL. Biết được điểm yếu của QLVNCH cho nên sau khi thất bại thê thảm tại đồn Biên Phòng Đức Huệ, Sư đoàn 5 CSBVXL đã bị Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh/LLXKQDIII đánh tan chỉ trong một ngày, vào tháng 5 năm 1974 Quân CSBVXL đã đồng loạt tấn công và tràn ngập 2 tiền đồn Rạch Bắp, Căn cứ 82 và sau đó tấn chiếm An Điền tại khu Tam Giác Sắt.Đây là một trận chiến lớn trong lảnh thổ Quân Đoàn III. Trước tình hình quân viện bị cắt giảm thảm thiết, QLVNCH đã mất đi ưu thế di động và hỏa lực yểm trợ dồi dào. Các đơn vị Tổng trừ bị bị cầm chân trong thế diện địa.

Trong hội nghị Diên Hồng khi được hỏi “Thế nước yếu lấy gì lo chiến chinh”. Các bô lảo đồng thanh trả lời “Hy Sinh“. Gần 800 năm sau, không có Hội nghị Diên Hồng, không có cả câu hỏi năm xưa. Nhưng người lính chiến QLVNCH đã thể hiện lòng dũng cảm , tinh thần bất khuất và sự Hy Sinh vô bờ bến đã chiến đấu trong thế cùng lực tận để Bảo Quốc An Dân.

Đọc bài viết “Đường Vào Mật Khu Tam Giác Sắt , tác giả Đại úy Vũ Đình Lưu, con chiến mã đầu đàn của Chi Đoàn 2/5 Thiết Kỵ lừng danh sông núi để ngậm ngùi, để tưởng nhớ, để vinh danh những Kỵ Binh Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh đã Hy Sinh thân mình cho Tổ Quốc Việt Nam. Xin đốt một nén nhang để tưởng niệm hai người bạn thân: Kiến trúc sư Thiếu úy Công Binh Vũ Văn Dũng , và Thiếu úy Kỵ Binh Nguyễn Trung Đồng Dinh đã đền xong nợ nước tại mặt trận An Điền năm xưa.

Cuộc chiến năm xưa dù đã qua đi nhưng tinh thần chiến đấu dũng mảnh và sự Hy Sinh cao cả của những chiến binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bất diệt. Tổ Quốc Ghi Ơn.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1517860994-DuongVaoMatKhuTamGiacSat_01.jpg
Hình minh họa

Lời nhận xét của Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi:

Trong trận An Điền-Rạch Bắp chống lại SĐ9CSBV, vì địa thế chiến trường không thuận lợi đối với Thiết Giáp, nên QĐ3 sử dụng trong giai đoạn đầu SĐ18BB tiến chiếm An Điền. Trong giai đoạn 2, sử dụng SĐ5BB tái chiếm Rạch Bắp. Trong cả 2 giai đoạn, LĐ3KB chủ yếu dùng hỏa lực yểm trợ (PB 105 + 155 của LĐ và M48). Chiếc T54 mà Tr.Đ52/SĐ18 kéo về (chiến lợi phẩm) là do hỏa lực của đại bác M48A3 bắn hạ.

Bài viết của Đại úy Vũ Đình Lưu khá chính xác nhưng chỉ trong phạm vi của SĐ18. Về sau phải đến cuối tháng 8/74 SĐ5 mới thanh toán xong Rạch Bắp. SĐ9CSBV bị tổn thất rất lớn.


“Vó câu muôn dặm không sờn chí,
Xích sắt nghìn miles chẳng sợ mòn”
Lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, Cộng Sản Bắc Việt đã xua Chiến xa tiến gần Thủ Đô Sài Gòn nhất. Chúng dùng Chiến xa cùng Bộ Binh với trọng pháo tầm xa yểm trợ tiến chiếm xã Phú Thứ (Quận Phú cường,Tỉnh Bình Dương). Một địa danh cực Nam của vùng mà Cộng Quân gọi là Vùng Tam Giác Sắt cách Sài Gòn 30 Km về hướng BắcTây Bắc vào thời điểm giữa tháng 5 năm 1974.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1517861010-DuongVaoMatKhuTamGiacSat_02.jpg
Hình minh họa

Tam giác Sắt, vùng đất hình tam giác nhọn nằm về hướng Tây của Bến Cát. Một địa danh nổi tiếng với rừng cây rộng lớn khoảng 80 cây số vuông, Cộng Quân gọi là vùng bất khả xâm phạm vì nơi đây là căn cứ hậu cần của chúng tại miền Đông Nam Phần. Nhìn vào bản đồ vùng Tam Giác Sắt tựa như đầu một mũi tên sắt nhắm thẳng vào tim của miền Nam Việt Nam.

Vì tầm mức quan trọng chiến lược của vùng Tam Giác Sắt; năm 1967, Liên quân Việt Mỹ đã huy động một lực lượng hùng hậu gồm Sư Đoàn 5 BB, Chiến Đoàn Đặc Nhiệm của Quân Đoàn 3 và một phần lực luợng Tổng Trừ Bị tăng phái. Lực luợng Hoa Kỳ có Sư Đoàn 1và Sư Đoàn 25 Bộ Binh, Lữ Đoàn 173 Dù và Thiết Đoàn 11 Kỵ Binh. Lực lượng Việt Mỹ đã đánh tan căn cứ hậu cần nầy của CQ sau 17 ngày đêm hành quân tiêu diệt.

Năm 1974, một năm đẫm máu tại vùng Tam Giác Sắt. Không có cuộc hành quân hay chiến dịch nào lâu dài hơn, dữ dằn hơn hay tổn thất hơn là trận đánh vùng Tam Giác Sắt. Tại đây, một vùng tương đối bằng phẳng, cầy nát bởi vô số bom đạn, soi thủng bằng một hệ thống đường hầm chằng chịt. Loang lỗ bởi những vết thẹo của trăm, ngàn cuộc đụng độ lớn nhỏ đã diễn ra khắp cùng mọi nơi của khu rừng An Sơn dày đặc bụi rậm, cây gai suốt 20 năm qua.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1517861027-DuongVaoMatKhuTamGiacSat_03.jpg
Phóng Đồ Hành Quân Tái Chiếm An Điền – Rạch Bắp Tháng 6 Năm 1974

Nếu chiếm được vùng này, Cộng quân sẽ đặt Khu Quân Sự Tân Sơn Nhất và các vị trí phòng thủ của QLVNCH tại Phú Cường, Củ Chi, Lai Khê trong tầm đạn của đại pháo.

Quận Bến Cát nằm về phía Đông Mật khu Tam Giác Sắt, cách Biên Hòa 35 Km hướng Bắc Tây Bắc. Một Thị trấn nhỏ nằm cạnh Quốc lộ 13, bao lâu nay đồng bào được sống yên bình, sinh hoạt bán buôn thịnh vượng.

Ngày 16 tháng 5, hai Trung Đoàn của Sư Đoàn 9 Bắc Việt cùng Chiến xa với trọng pháo yểm trợ chiếm Rạch Bắp ( là căn cứ cuối cùng của QLVNCH trấn giữ mạn Bắc của vùng Tam Giác Sắt ) và tràn ngập Căn Cứ 82 cách xã An Điền 4 km về hướng Tây. Sau đó, ng ày 17 th áng 5, gần năm ngàn thường dân An Điền, Bến Cát lũ lược tháo chạy từ bỏ làng xã,Thị Trấn, khi CSBV dùng đại pháo và Súng cối xua đuổi tàn bạo. Tiếp theo Trung Đoàn 95C Cộng Quân tấn chiếm xã An Điền. Trung Đoàn 272 đâm thẳng xuống phía Nam chiếm Phú Thứ để tiến về Phú Cường nhưng QLVNCH đã chận đứng bước tiến tại đây.

Xã An Điền, nằm về phía Tây Thị trấn Bến Cát một cây số rưỡi nối liền bằng một con đường độc đạo đất đỏ là Hương lộ 7, với chiếc cầu sắt yếu ớt bắc qua sông Thị Tính hiền hoà, nước trong vắt. Chung quanh xã, từ hướng Bắc qua Đông xuống mạn Nam là ruộng lúa, sình lầy. Đây là địa danh cực Đông của vùng Tam Giác Sắt.

Tướng Phạm Quốc Thuần Tư Lệnh Quân Đoàn 3 dàn Sư Đoàn 18 Bộ Binh ra nhiều cánh quân phản công tái chiếm các vị trí đã mất. Sự phản công khởi sự khoảng ngày 22 tháng 5. Các Chiến Đoàn Thiết Kỵ của Lữ Đoàn 3 Xung kích( LĐ3XK) tham chiến. Chiến Đoàn 322 gồm Thiết Đoàn 22 Chiến xa và Tiểu Đoàn 2/43 Bộ Binh tấn công từ hướng Nam lên đồi 82 và Rạch Bắp. Chiến Đoàn 318 tiến công từ Bến Cát vào An Điền. Cùng một lúc 3 Tiểu Đoàn của Liên Đoàn 7 Biệt Động Quân từ hướng Bắc tấn công xuống Căn cứ 82. Tất cả mọi nỗ lực tái chiếm đều không đem lại kết quả và bị tổn thất nặng nề. Đại tá Dư Ngọc Thanh Tư Lệnh phó L Đ3XK bị thương hư một mắt tại khu vực chiếc cầu phao đuợc Công Binh can đảm bắc qua sông Thị Tính dưới đạn pháo của địch quân. Chiếc cầu phao chiều dài khoảng 50 mét dùng cho Chiến xa xử dụng vì chiếc cầu sắt Thị Tính không chịu nổi sức nặng của Chiến xa. Bốn ngày sau tức ngày 26 tháng 5 Tướng Thuần quyết định thu quân đề chuẩn bị cho một kế hoạch mới.

Tại Bộ Tư Lệnh Tiền phương của Sư Đoàn 18 Bộ Binh cạnh Quốc Lộ 13 cách Bến Cát chừng 5 Km về hướng Nam. Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Lê Minh Đảo,Trung tá Ngô Kỳ Dũng Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 52 Bộ Binh ( TR/Đ52BB ) các Tiểu ĐoànTrưởng Bộ Binh, Pháo Binh cùng Chi Đoàn Trưởng Chi Đoàn 2/5 Thiết Kỵ ( CĐ2/5 TK ) nhận lệnh tấn công tái chiếm An Điền. Và từ đây làm bàn đạp cho các đơn vị QLCVCH tái chiếm Căn Cứ 82, Rạch Bắp.

Trên Quốc Lộ 13 từ hướng Nam, CĐ2/5 TK cộng một Chi Đội Chiến xa M41cùng Đại Đội 52 Trinh Sát ( ĐĐ52/TS ) tùng thiết di chuyển trong đêm tối. Đoàn Thiết Kỵ chỉ được mở đèn “ mắt mèo” và im lặng vô tuyến. Theo sau là đoàn xe GMC chở Tiểu Đoàn 1/52 Bộ Binh ( TĐ1/52BB ) tiến vào Thị Trấn Bến Cát lúc 5 giờ sáng ngày 1 tháng 6 năm 1974.

Thị Trấn Bến Cát nhỏ bé, trong thời gian này càng thấy bé bỏng hơn vì không còn sự sinh hoạt nào của dân chúng, một Thị Trấn chết, quá vắng lặng. Không còn ánh sáng đèn điện nào, đây đó một vài đám cháy do đạn pháo kích của CSBV ngày hôm qua.Trên không trung những hỏa châu treo lơ lửng rọi ánh sáng vàng vọt yếu ớt xuống thành phố. Nhà nhà cửa đóng then gài. Đây đó gặp những toán Biệt Động quân (BĐQ) tuần canh trong thành phố. Chúng tôi tiến xuyên qua thành phố và hướng đến bờ sông Thị Tính. Trong lúc di chuyển thỉnh thoảng vài trái đạn pháo kích rơi rải rác khắp nơi vì bọn chúng biết có một lực lượng mới đến đây. Trấn giữ thành phố là một Đại Đội BĐQ, còn Tiểu Đoàn BĐQ (-) trấn giữ mạn Bắc. Chi Khu Bến Cát phụ trách phòng thủ mạn Nam của Thị Trấn.

CĐ 2/5 TK và ĐĐ 52 TS (cánh quân 1) tiến sát bên này chiếc cầu phao. Đơn vị bố trí sát nhà máy xay lúa rất lớn đã bị hư hại vì đạn pháo của CSBV . TĐ1/52 BB ( cánh quân 2 ) dàn quân hai bên trái phải của Chi Đoàn, dọc theo bờ sông Thị Tính. Trục tấn công chính diện từ Bến Cát vào An Điền lấy con đường độc đạo làm chuẩn.

Theo kế hoạch, hai Tiểu Đoàn 2/52BB và 3/52BB ( cánh quân3 ) sẽ đánh từ hướng Nam lên Bắc để cùng cánh quân 1 và 2 tái chiếm xã An Điền.
Đúng 5 giờ 30 sáng ngày 1 tháng 6 -1974, ba cánh quân của Chiến Đoàn 52 bắt đầu vượt tuyến xuất phát tấn công vào An Điền cửa ngỏ vào mật khu Tam Giác Sắt.

Tôi điều Chi Đội 4 Chiến xa M41vượt cầu phao, kế tiếp là xe Chỉ huy, và lần lược các Chi Đội Thiết Kỵ theo sau. Đơn vị di chuyển hàng dọc vì chỉ có1con đường duy nhất để vào An Điền. Hai bên con lộ đất đỏ nhỏ bé là ruộng lúa, nước và sình lầy. Một địa thế hoàn toàn bất lợi cho Thiết Giáp, mặc dù là loại xe M113 cũng không thể nào vượt qua được cánh đồng bề ngang một cây số này. Bất lợi hơn nữa là xữ dụng đội hình Chi Đoàn hàng dọc để trực diện tấn công mục tiêu khá rộng lớn.

Áp dụng chiến thắng cuộc tấn công giải tỏa tiền đồn cấp Đại Đội Địa Phương Quân bị 1 Tiểu Đoàn của Trung Đoàn Bình Giả bao vây tại Xà Bang, Bình Giả tháng 3 năm 1973. Tướng quân Lê Minh Đảo và Đ/tá Trần Bá Thành đã dùng Tiều Đoàn 2/48 ( Th/tá Phúc ) của TR/Đ 48 BB cùng CĐ2/5 TK tấn công vũ bão chiếm mục tiêu thật nhanh chóng. Thà có thể bị thiệt hại vào giờ phút đầu, nhưng về sau thì bảo toàn nhân mạng. Không thể tấn công nửa vời vì trên trục tiến quân Cộng Quân bao giờ cũng đặt chốt kiền và trận địa pháo. Sau khi chọc thủng cụm phòng tuyến ngoại vi sẽ bung rộng đội hình đánh mục tiêu kế tiếp.Chúng tôi áp dụng phương thức tấn công này.

Ba chiếc M41cùng với ĐĐ52/TS tiến quân 2 bên trái phải con lộ, đã qua bên kia sông, cách cầu phao khoảng 500 mét. LLCSBV bắt đầu pháo vào đoàn quân bằng Súng cối 82 ly. Chi Đội Chiến xa nới rộng khoảng cách và tiếp tục tiến tới nhanh chóng cùng chiến sĩ Trinh Sát. Tôi thấy chiếc Chiến xa M41 dẫn đầu khựng lại một cách bất thường, và nhận báo cáo của trưởng xa là gặp một chiếc cống sập bề dài bằng CX M41, khá sâu, không thể băng qua được. Tôi gọi lên Chiến Đoàn để báo cáo. Tiếp liền theo Chiến xa T54 từ An Điền khai hỏa nhắm vào đội hình Chi Đoàn. Từng cục lửa đỏ hực liên tiếp bay đến với tiếng rít rợn người của đạn Đại bác 100 ly trên Chiến xa T54. Tôi liền cho lệnh Đại bác 76 ly trên CX M41tác xạ, dựa vào điểm lóe sáng khởi đầu của Đại bác trên T54. Thật tình nói rằng tác xạ để anh em binh sĩ lên tinh thần chứ không thấy được chiếc T54 nào vì chúng nằm dưới hầm và nguỵ trang. Hơn nữa bên An Điền mịt mù khói lửa bởi hàng trăm quả đạn đại bác 105 ly,155ly của các Pháo Đội đang trút xuống hầu đè bẹp mục tiêu.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1517861047-DuongVaoMatKhuTamGiacSat_04.jpg
Hình minh họa

Ngoài bìa làng có nhiều chốt của chúng sát cánh đồng lúa, chúng dùng Đại bác 82 ly không giật của Liên Sô tác xạ vào đội hình Thiết Giáp và Bộ Binh. Trong bìa làng thì Thượng liên khạc lửa. Những khẩu Đại liên 50 bây giờ được khai hỏa vì các chốt nằm trong tầm sát hại của Đại liên 50 là 800 mét. Các chốt này ngay giữa đồng trống nên bị Đại liên, Súng cối 81ly và Đại bác 76 ly tiêu diệt dễ dàng. Tiếp liền sau đó chiếc M41 thứ 4 bị T54 bắn trúng pháo tháp ngay trên chiếc cầu phao. Chiếc M41, bị xô lệch nằm chênh vênh một nửa trên cầu phao, một nửa chấm nước làm chiếc cầu nghiêng một góc 30 độ.

Hởi ôi!!! một tình huống nguy hiểm không lối thoát, tiến không được, thoái cũng không còn đường. Sông thì sâu làm sao Chiến xa M41 có thể băng qua được. Trong lòng tôi lo lắng và bối rối vô cùng, nhưng vẫn cố giữ bình tỉnh để tìm một cách cứu nguy nhanh nhất. Tôi nghĩ ngay đến kế dùng “Hỏa Mù” đề che mắt địch nên bảo anh Th/úy Tiền Sát Viên Pháo Binh xin bắn đạn khói. Được Chiến Đoàn đáp ứng ngay tức khắc. Một màn khói dày đặc bao phủ bìa làng An Điền, hiệu quả tức thời, T54 ngưng tác xạ vì chúng không còn thấy chúng tôi nữa. Việc cấp cứu xa đội CX bị nạn thực hiện ngay. Các chiến sĩ Trinh Sát và Kỵ Binh bất chấp hiểm nguy, chạy như bay và nhảy phóc lên xe cứu bạn, rất may xe không bị nổ và cháy.

Một HSQ Trưởng xa và tài xế bị thương nặng, hai KB hy sinh. Chiếc M 41 lủng pháo tháp một lổ bằng cái chén!

Tất cả các cánh quân của TRĐ52BB bây giờ đều nằm trong trận địa pháo của địch. Hệ thống liên lạc Truyền Tin bắt đầu bận rộn với những báo cáo thiệt hại về nhân mạng của 3 Tiểu Đoàn. Trước mắt tôi, mũi tiến công của TĐ1/52 BB hai bên trái phải của con lộ 7 bị ngưng lại vì bãi mìn “cóc” trước mặt, cách bìa làng An Điền khoảng 800 mét ( Mìn “cóc”, một loại mìn nhỏ hình trụ cao khoảng 5cm, đường kính khoảng 6cm không đến nổi nguy hiểm đến tính mạng nhưng khi đạp phải, bàn chân chắc chắn không còn).

Một vài chiến sĩ gục ngã, tiếp đến cả chục người, rồi hàng chục người ngã gục xuống ruộng lúa sình lầy vì mìn và đoàn quân đang hứng pháo của CSBV. Tất cả đơn vị bây giờ là mục tiêu quá lộ liễu của địch. Phía trước là bãi mìn dầy đặc, rộng lớn được đặt sẳn bởi Cộng Quân từ trước. Trên không những quả đạn pháo đủ loại trút xuống đoàn quân. Từng cột bùn đen liên tiếp bắn lên cao khắp nơi trên cánh đồng lúa.

Một tình huống khốn đốn, nguy kịch, hàng trăm chiến sĩ bì bõm dưới sình lầy quá đổi gối, không thể chần chờ, các cánh quân của BB bắt đầu lui binh để tránh bị tiêu diệt. Một chiến sĩ bị thương kèm theo một chiến sĩ xách nách dìu lê lết trong bùn lầy để mau chóng thoát khỏi bàn tay Tử Thần oan nghiệt. Có hành động nào can đảm và cảm động bằng, có hình ảnh nào đau thương hơn! Tình đồng đội, tình chiến hữu cao cả tuyệt vời.

Tôi cho Chi Đoàn Phó (Đ/Úy Hồ Thúc Hạ) điều động các Chi Đội phía sau rút lui về nhà máy xay lúa cạnh bờ sông bố trí chờ lệnh. Tiếp đến tôi tìm cách để 3 CX M41 lui về bên này sông.

Có ba cách, thứ nhất là ủi chiếc M41 nằm chênh vênh trên cầu phao rớt xuống sông nhưng xe nào leo lên được chiếc cầu nghiêng như thế này! Cách thứ nhì dùng Chiến xa bắn, nhưng nếu chẳng may làm lủng phao, chiếc cầu chìm thì càng thêm nguy.Thứ ba có thề thực hiện được bằng cách móc “ cáp” kéo cho nó rơi xuống sông dù rất nguy hiểm vì đạn pháo kích đang nổ khắp nơi.

Tất cả các cặp mắt của những Kỵ Binh và Bộ Binh ngồi trên xe Chỉ huy đều nhìn tôi đợi chờ một quyết định cuối cùng. Họ mong cho bạn bè đồng đội về bên này sông càng nhanh càng tốt. Tội nghiệp thay, với những ánh mắt nhìn tôi chia sẽ, chia sẽ những gì tôi đang lo lắng, hồi họp. Tôi điều Xa Đội M 86 ( loại xe phóng cầu, gắn lưỡi ủi đất, có sợi dây cáp thật dài cuộn trong một cái trơi dùng lực của động cơ ) tiến lại chiếc M 41 bị nạn và bắt đầu công việc dưới đạn pháo của Cộng Quân. Nhưng…

Trong chốc lác một loạt Hỏa tiễn 122 ly của CSBV với tiếng xé gió đầy uy hiếp bay đến đâm xuống giòng sông nổ tung toé nước gần chiếc cầu phao. Với sức dội mạnh mẽ chiếc cầu bị chấn động gần như bung lên khỏi mặt nước. Chiếc M41 chao qua chao lại rồi nhào xuống giòng sông, chiếc cầu nổi trở lại vị trí cân bằng. Trong cái xui tận mạng cũng còn có cái hên đến với mình, trường hợp này Chi Đoàn gặp may mắn một cách quá bất ngờ. Tôi và mọi người trên xe chỉ huy đồng ồ lên một tiếng thật lớn như trút bỏ một sức nặng ngàn cân đè bẹp thân người.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1517861114-DuongVaoMatKhuTamGiacSat_05.jpg
Hình minh họa

Ba Chiến xa M41 lần lượt lui về bên này sông Thị Tính. Các cánh quân của TRĐ52 BB cũng lui binh, bố trí phía Đông giòng sông để thực hiện công việc tải thương. Ngoài các chiến sĩ tử thương vì pháo, các thương binh hầu hết bị mất một bàn chân hoặc cụt giò vì đạp phải loại mìn cóc nguy hiểm. Thế là nỗ lực tấn công tái chiếm An Điền không thực hiện được.

Chiếc cống bị giật sập đêm qua, nhưng lực lượng chúng tôi tấn công quá sớm nên chưa nhận được một báo cáo nào. Nên tình hình cánh quân Thiết Giáp mới ra nông nổi. Mới hôm qua đây thôi, Tướng Tư Lệnh quyết định dùng Thiết Giáp tấn công vào An Điền kèm theo lời khích lệ: “… Cặp lon Thiếu tá của em…trong An Điền…”. Riêng tôi cũng tin tưởng dùng Chiến xa cùng Bộ Binh đánh chớp nhoáng làm địch trở tay không kịp, bám lấy bờ làng, làm bàn đạp tấn công mục tiêu kế tiếp.

Kế hoạch này có thể thực hiện được, nhưng phải chấp nhận một tổn thất rất lớn về Chiến xa và nhân mạng vì tôi biết CX M41 không phải là đối thủ của T54. Chi Đòan có 3 khầu Đại bác 106ly không giật và 2 khầu Hỏa tiển Tow được tăng phái gắn trên M113. Nhưng Hỏa tiển Tow muốn bắn được, nhanh nhất cũng phải sau 15 phút vì chờ trên BộTổng Tham Mưu chấp thuận, ngán ng ẩm thay! ( ?) còn Đại bác 106 ly tác xạ cũng không nhanh chút nào, dùng để phá vỡ công sự kiên cố thì tốt hơn.

Quân lệnh phải thi hành, dù hy sinh mạng sống.

Cách đây mới hơn một tuần lễ, Chiến Đoàn 318, lực lượng Thiết Giáp có nguyên 1 Chi Đòan Chiến xa M41và 2 Chi Đoàn M113 cùng Bộ Binh. (So sánh Thiết Giáp, Chiến Đoàn 318 mạnh gấp 4 lần hơn chúng tôi ) cũng tấn cống hướng chính diện từ Bến Cát vào An Điền nhưng đã thất bại. Huống chi bây giờ chỉ có một Chi Đoàn M113 và 4 chiếc Chiến xa M41.

Đến bây giờ, tôi nghĩ rằng ví như không có chiếc cống sập cản trở Chiến xa, không có bãi mìn chận đứng BB. Đoàn quân có thể chiếm được An Điền, nhưng e rằng CĐ 2/5TK sẽ mất tên! BB phải đánh cận chiến với địch và thiệt hại ít nhất cũng phân nửa. Vì sau khi vào An Điền chúng tôi nhận biết số Chiến xa T54 trên 10 chiếc có hầm ẩn núp ngụy trang. Hầm hố địch quân kiên cố cấp Trung Đoàn.

Với hàng Tướng, Sĩ có thể nghĩ rằng những con “Tốt” đã qua sông, có Xe Pháo Mã hổ tương yểm trợ. Theo luật trên bàn cờ bằng mọi giá phải tiến dù bị loại khỏi cuộc chơi, không hề có nước lui. Nhưng ở đây thì không. Hoàn toàn không thể nào hy sinh những con “Tốt” đó, bằng mọi giá phải về bên này sông. Giòng sông có tên Thị Tính. Vì với nhiệm vụ chỉ huy cánh quân 1gồm ĐĐ52/TS và các M41, đó là những Xe, Pháo, Mã,Tốt thiện chiến, nhanh nhẹn, ngang dọc vẫy vùng, hữu xung tả đột, tiến hoặc thối và chúng không bao giờ là những con Tốt thí mạng.

May mà tôi không được “thêm lon giữa 2 hàng nến trong” với Đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương kèm Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu! Người thân của tôi không phải nhìn tôi qua làn nước mắt:

“Chiếc quan tài phủ cờ màu
Hằn lên ba vạch đỏ au phủ phàng”
– thơ Lê Thị Ý-

Chiếc cống sập, đã làm hỏng hoàn toàn cuộc tấn công của CĐ2/5TK và ĐĐ52 TS. May mắn hay kém may mắn (?)

Tôi vẫn còn nhớ một sĩ quan cao cấp trong Bộ Tư Lệnh sau buổi họp hành quân mời tôi một ly rượu trước khi tôi quay trở về đơn vị. Đó là ly rượu whisky bình thường nhưng được mời lúc bấy giờ được xem như “Bồ Đào mỹ tửu..”.mặc dù tôi không hề uống rượu từ năm 1971 sau khi bị thương nặng tại chiến trường đồn điền cao su Mimot, Kampuchia.

Không có tiếng “Tỳ Bà dục người ra đi” tôi vẫn Thiết Kỵ lên đường.Mong rằng tôi và tất cả chiến hữu ngày mai ra đi không như “Kinh Kha Tráng sĩ”. Tôi biết rằng An Điền chiếm đóng cả một TR/Đ Cộng Quân có cả Chiến xa. Nên phần thắng về ta không dễ dàng chút nào.

CĐ 2/5 TK và ĐĐ 52TS r út lui bố trí ven theo bờ sông Thị Tính sát nhà máy xay lúa bên này chiếc cầu nổi.

Nửa đêm ngày 2 tháng 6-74, thêm một lực lượng mới mạnh mẽ dày dạn chiến trường, đó là Trung Đoàn 48 BB ( TR/Đ 48BB ) của Đ/tá Trần Bá Thành. Đại Đội 48 Trinh Sát làm mũi dùi và 3 Tiều Đoàn 1,2,3 khởi động các cuộc tấn công tốc chiến. Xuất phát từ hướng Nam cách An Điền 2 cây số, bằng rất nhiều toán nhỏ đột kích chớp nhoáng , không gặp trở ngại vì bãi mìn cóc như cánh quân của TR/Đ 52BB.

Khoảng 4 giờ sáng ngày 3-6 chúng tôi nhìn thấy xuyên qua màn đêm một CX T54 lù lù xuất hiện, chạy vội vàng từ An Điền theo con đường độc đạo hướng về Bến Cát vì bị các chiến sĩ của TR/Đ48BB oanh liệt truy kích. Tôi cho lệnh 3 Chiến xa M41 và 3 M113 có trang bị Đại bác bắn thẳng 106 ly sẵn sàng và chờ lệnh tác xạ. Tôi cũng thừa biết rằng T54 không thể nào vượt qua chiếc cống sập.

Chiếc T54 chạy đến chiếc cống sập và nhào đầu lọt xuống đó. Khói đen mù mịt tuôn ra vì chúng có gắng bò lên, nhưng vô ích. Tôi nhìn bằng hệ thống hồng ngoại tuyến chỉ thấy có cái pháo tháp nhô lên khỏi mặt đường. Kế tiếp thêm một T54 nữa cũng từ An Điền chạy ra, tiến lại sát đồng đội bị nạn, tìm cách kéo lên. Những tràng đạn Pháo Binh ta bắt đầu nổ chung quanh 2 chiếc T54. Chiếc T54 thứ nhì loay hoay một lúc rồi quay đầu bỏ chạy về hướng An Điền, chúng thất thần vì những quả đạn pháo nổ quá gần nên lọt xuống ruộng sình cách bìa làng khoảng 200mét. Thế là hai chiếc T54 nằm chết cứng nơi đây. Nhiều đơn vị báo cáo lên Sư Đoàn về hai chiến xa T54 bị lầy ….

Đến trưa ngày 3 tháng 6 chiếc T54 sa lầy dưới cống mới thật sự bị khống chế sau nhiều tiếng đồng hồ khi diệt được tên xạ thủ Thượng liên bị xích trong pháo tháp. Xa đội 2 chiếcT54 đã tẩu thoát trong đêm. Một số chiến sĩ tử thương và bị thương khi bò lại gần Chiến xa vì cây Thượng liên trên xe nhả đạn. Phóng viên nhà báo chụp bức ảnh T54 này đầu tiên là một phóng viên của báo chí Hoa Ngữ. (Tôi đã giữ tờ báo có hình chiếc T54 bị nạn đến 30-4-75 trong xe M113. Đó là một sự thật nhưng rất tiếc đến bây giờ không còn).


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1517861139-DuongVaoMatKhuTamGiacSat_06.jpg
Hình minh họa

Đến chiều Bộ Chỉ Huy TH/Đ5KB và Công Binh cấp tốc trục kéo chiếc T54 và lấp chiếc cống để lực lượng tiếp tục tấn công vào An Điền. Chiếc T54 này về sau được trưng bày trước Dinh Độc Lập.

Ngay lập tức CĐ2/5TK cùng ĐĐ52/ TS, các cánh quân 3 Tiều Đoàn của TR/ Đ 52BB và TR/Đ48BB ồ ạt chiếm cứ hoàn toàn xã An Điền. Liền sau đó truy kích chúng gần đến đồi 82, đoàn quân bị khựng lại vì vào trận địa pháo của chúng bắn chận. Phải nói rằng vùng đất An Điền thì đúng hơn vì có còn gì để có thể gọi là một Xã. Đến nổi không còn viên gạch nào nguyên vẹn, nói chi đến một bức tường nhà. Một bình địa ngổn ngang nghi ngút khói lửa, nhiều xác địch quân nằm rải rác khắp nơi, mùi xú uế xông lên nồng nặc. Chung quanh những hầm của Chiến xa T54 còn rơi rớt nhiều vỏ đạn đồng sáng bóng và nhiều bó thuốc bồi hình đủa dùng cho đạn Đại bác. Các Kỵ Binh thâu lượm vũ khí còn sót lại và không quên mang về cả chục vỏ đạn đồng của Đại bác 100 ly đã kích hỏa. Riêng tôi, các Kỵ Binh cũng có tặng 4 vỏ, đem về hậu cứ làm kỹ niệm và dùng làm bình để cắm cành Mai.

An Điền đã giải tỏa xong trưa ngày 4 tháng 6 -1974. TR/Đ48 BB cấp tốc rút về Long Giao, để phòng thủ Long Khánh vì các Quận Định Quán, Tánh Linh ( Bình Tuy) bị áp lực nặng của CSBV. TR/Đ 52 BB và CĐ 2/5 TK vẫn phòng thủ và chờ kế hoạch tấn công đồi 82.

Đêm ngày 5 rạng sáng ngày 6 tháng 6 Cộng Quân lại mở cuộc tấn công dữ dội vào lực lượng phòng thủ An Điền hướng tấn công chính nhắm vào Bộ Chỉ Huy TR/Đ 52BB, một Tiểu Đoàn BB và CĐ2/5 TK bằng 2 Tiều Đoàn trừ bị, mặc dù cách đó 2 ngày chúng bị tổn thất nặng nề. Chúng dùng 4 chiếc máy cày giả dạng T54 để “hù” chiến sĩ ta. Chỉ vài loạt Đại liên 50 chính xác, 4 chiếc máy cày bốc cháy nghi ngút. Lực lượng phòng thủ đánh trả tơi bời, làm sao xuyên thủng vị trí của các chiến sĩ TR/Đ52 BB đầy kinh nghiệm chiến trường cộng với hỏa lực kinh hồn của một Chi Đoàn cộng ( cộng 4chiếc M41 )Thiết Giáp. Đến gần sáng chúng tháo chạy về hướng đồi 82 sau khi bị tổn thất trầm trọng.

Tổng kết trong 6 ngày, CĐ2/5 TK có một Sĩ quan tử trận, đó là Th/Úy Nguyễn Trung Đồng Dinh. Thương tiếc một Sĩ quan trẻ, học lực cao và cá tính rất văn nghệ đã ra đi quá sớm để trả nợ nước non. Anh đã hy sinh như biết bao nhiêu lớp người trẻ tuổi tài cao đã phải nằm xuống vì Tổ Quốc, cho cuộc chinh chiến điêu linh. Bên Thiết Giáp có 3 hy sinh (một SQ, một Trung sĩ, một Hạ sĩ ), 3 bị thương nặng. Một M41 lủng pháo tháp, một M113 bất khiển dụng. Phía Bộ Binh phải đến con số hàng trăm bị loại khỏi vòng chiến đấu.

Đến bây giờ nhắc lại lòng còn ngậm ngùi. Nén hương lòng của những KB còn lại thắp lên để nhớ, để thương các Chiến Sĩ can trường đã anh dũng hy sinh, tri ân các Anh đã một thời cùng chia sẽ hiểm nguy với chúng tôi.

Sau đó vài ngày Tướng Đảo,Tướng Khôi và Tr/tá Dũng lên xe M113 chỉ huy của tôi thám sát địa thế để mở cuộc tấn công Căn cứ 82 cách An Điền 4 cây số về hướng Tây. Đến khi xe tiến gần bìa rừng cùng hai Chi Đội hộ tống thỉ bị pháo liên tục gần xe nên phải đưa 3 vị trở về căn cứ.

Tiếp theo các lực lượng của Sư Đoàn thay nhau tấn công tái chiếm đồi 82 nhưng không đem lại kết quả nào. Không Quân bị hạn chế bởi mùa mưa, mây thấp và hệ thống Phòng không dày đặc, mặc dù các Phi Tuần đã nổ lực oanh tạc các vị trí Đại pháo, Hỏa tiễn, Súng Phòng Không nhưng kết quả không như ý. Cũng như lực lượng VNCH chỉ có một hướng tấn công duy nhất vào đồi 82 là trực diện, xuất phát từ An Điền với địa thế cây rừng, giai góc và giây leo chằng chịt. Thiết GiápBinh bị hạn chế tầm nhìn, quan sát chỉ trong vòng vài, ba mét. Chung quanh Căn Cứ 82 hệ thống giao thông hào, mìn và giây kẽm gai bao phủ rộng lớn. Khi các lực lượng tiến vào vùng trận địa pháo của chúng bị tổn thất nặng nề, và là mục tiêu quá lộ liễu vì chúng quan sát lực lượng ta từ địa thế cao là đồi 82.

Chiến Đoàn 52 BB trấn giữ An Điền hơn 3 tháng , không có ngày nào pháo địch không rơi xuống vị trí chúng tôi, không hàng loạt thì cũng 5,7 trái pháo mỗi ngày. Không có ngày nào các chiến sĩ Bộ Binh không nhảy vội vã xuống hầm hố cá nhân; các Kỵ Binh vội vàng chạy vào trong xe để tránh pháo. Sau khi An Điền được giải tỏa đồng bào Bến Cát lần lượt hồi hương, những quán ăn, quán Café bắt đầu mở cửa, nhịp sống đang hồi phục. Nhờ vậy những người lính trẻ chúng tôi mới có được ly Café nóng ấm lòng người. Tạm thời quên đi lửa đạn mặc dù trong giây phút ngắn ngủi, đó cũng là hạnh phúc, tuy nhỏ nhoi của người lính chiến nơi trận mạc.

Đến ngày 7 tháng 9 TR/Đ 9 của Sư Đoàn 5 BB và TH/Đ 10 KB vào An Điền thay thế TR/Đ 52BB và CD2/5 TK. Các cuộc tấn công mới bắt đầu và cho đến xế trưa ngày 4 tháng 10-1974 quân ta mới cắm cờ trên đồi 82.

Đơn vị tôi di chuyển khỏi An Điền, đóng quân tại trường Trung Học Bến Cát. Theo lệnh Sư Đoàn, một Chi Đội M113 ( Th/úy Hòa ) di chuyển xuống xã Phú Thứ phối hợp cùng Bộ Binh (TR/Đ 43BB) phòng thủ vì nơi đây áp lực địch vẫn còn nặng. Chi Đội báo cáo ngày nào cũng hứng pháo của CQ. Và “chịu trận” pháo hơn 45 ngày đêm ròng rã.

Và đến 6 tuần lễ nữa ( ngày 20 tháng 11-1974 ) QLVNCH mới đánh bật Công Quân ra khỏi Rạch Bắp địa điểm cuối cùng của vùng Tam Giác Sắt.
Cuộc chiến vùng Tam Giác Sắt tạm thời kết thúc, sau khi kéo dài đến 7 tháng của năm 1974. Nhưng TĐ/5KB vẫn “Rền tiếng xích sắt thét vang…”, tiếp tục bước quân hành đến vùng trách nhiệm mới. Nhưng, kém may mắn thay! chỉ trong một đêm của năm 1974 sắp tàn, Thiết đoàn đã phải gánh chịu đau thương nghiệt ngã và đầy tang tóc.

Ngày 19 tháng 12-1974 Bộ Chỉ Huy TĐ/Đ 5KB ( Tr/tá Trần Văn Nô: Thiết Đoàn Trưởng, Th/tá Mai Văn Thân: Thiết Đoàn Phó ) và CĐ 2/5 TK ( Trừ CĐ3/5TK, đã cùng TR/Đ 48BB di chuyển về Long Khánh từ trước ) chuyển quân về Ngã Ba Ông Đổn – Núi Chứa Chan lúc 6giờ chiều tăng phái cho TR/Đ 48 BB phòng thủ Long Khánh và chuẩn bị tiếp ứng cho Quận Tánh Linh Tỉnh Bình Tuy bị Cộng Quân tấn công và sắp bị tràn ngập.

Bộ Chỉ Huy Thiết Đoàn và một Đại Đội BB đóng quân đêm trong một Căn Cứ Pháo Binh dưới chân núi Chứa Chan. CĐ 3/5TK ( Đ/úy Lê Sơn ) và một Đại Đội BB đóng quân cách BCH/TĐ khoảng 3km về hướng Tánh Linh. CĐ 2/5 TK và một Đại Đội cũng đã được chỉ định đóng quân cách BCH/TĐ 5 km về hướng Bắc.

Khoảng 2 giờ sáng ngày 20 tháng 12-1974 Bộ Chỉ Huy TH/Đ 5 KB bị Cộng Quân đột nhập tấn kích.

Nhiều tiếng nổ lớn xé màn đêm tĩnh mịch phát xuất từ hướng Bộ Chỉ Huy Thiết Đoàn. Tôi bật dậy leo lên xe quan sát, nhìn về hướng Thiết Đoàn, từng lằng đạn lửa đan chéo nhau dày đặc. Nhất là trên lưng chừng núi Chứa Chan Cộng quân dùng Đại bác 57 ly, 75 ly và Thượng liên12ly8 bắn xối xả xuống vị trí đóng quân. Tôi bấm máy liên lạc với BCH/TĐ nhưng im hơi lặng tiếng. Gọi mãi chẳng có thẩm quyền nào trả lời, ban Truyền Tin cũng im bặt.Trong lòng như dầu sôi lửa bỏng. Tôi cũng như Sơn muốn kéo Chi Đoàn về để phản công, chúng tôi gọi lên Chiến Đoàn 48 để xin di quân nhưng Chiến đoàn cho biết cũng không liên lạc được với Thiết Đoàn nên đành chờ lệnh.

Đến nửa tiếng đồng hồ sau chúng tôi mới liên lạc được với Chiến Đoàn và cho biết Thiết Đoàn bị đánh Đặc Công. Tôi xin Chiến Đoàn cho Chi Đoàn xuống tiếp ứng nhưng Đ/tá Chiến Đoàn Trưởng không chấp thuận vì lý do địch đánh từ bên trong vị trí chứ không có từ ngoài tấn công vào. Chúng tôi kéo quân xuống sợ thêm rối ren vì hỏa lực Đại liên của Thiết Giáp, nên để BB thanh toán từng tên một trong vị trí . Ông cho biết các Chi Đội Chỉ Huy đã phản công hiệu quả bằng súng cá nhân và lựu đạn.Và ông bảo tôi sẳn sàng hành quân truy kích khi có lệnh….Tiếp ứng với phản công! tất cả đã quá muộn màng! Trong vòng 15 phút đầu tiên BCH/TĐ đã bị tê liệt, vì địch đánh bằng lựu đạn và B40 từ bên trong vị trí phòng thủ. Kết quả vô cùng đau đớn.

Riêng bên Thiết Giáp: Th/tá Mai Văn Thân Thiết Đoàn Phó, Th/tá Viễn Sum Trưởng Ban 3/ HQ tử thương. Đ/Úy Lê Văn Nhơn phụ tá Ban 3/ HQ bị thương nặng. Và nhiều KB các cấp tử thương hoặc bị thương. May mắn Tr/tá Thiết Đoàn Trưởng thoát khỏi lưỡi hái của Tử Thần trong gang tất. Hai M113 ( có M113 của TH/Đ Phó ) 1M577 ( xe ban Tuyền Tin ) bị hư hại.

Nguyên một Trung Đội Đặc Công địch bỏ xác tại chỗ cùng vũ khí, chấc nổ, 3 tên bị bắt sống.

Chiến tranh đồng nghĩa với tang tóc, đau thương. Sau 37 năm, thời gian dài bằng nửa đời người. Nhìn lại chỉ có 6 tháng cuối năm 1974, tim vẫn nhói đau, nước mắt vẫn lưng tròng. Thiết Đoàn 5 KB đã mất đi 4 Sĩ Quan ưu tú, nhiều HSQ và KB can trường đã ra đi, bỏ bạn, bỏ bè.Trong tim, trong óc, mọi người còn hằn lại những đau xót, nhớ nhung và thương tiếc.

Với cái chết đầy thương tâm của Th/tá Thân mọi người đều rơi lệ nghẹn ngào. Anh, một cấp Chỉ huy ưu tú trong Binh chủng Thiết Giáp. Kỵ Binh các cấp trong đơn vị đều mến thương và kính phục. Nhưng, khi ra đi vĩnh viễn Anh không kịp giã từ vợ con, bè bạn. Đớn đau thay! vợ Anh, chị LCH nhìn biết được xác chồng tại Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa qua chiếc quần cộc màu đỏ chị đã may cho Anh cách đó 2 tuần. Anh đã thật sự muôn đời, mãn kiếp là chồng của người vợ hiền thục thủy chung. Các con Anh còn quá thơ ngây, dại khờ, nhưng giờ đây chinh chiến đã cướp đi một người cha quý mến.

“Chim xa rừng còn thương cây nhớ cội
Người xa người tội lắm người ơi”

Có ai cầm được 2 giòng lệ tuôn! Có ai chận được tiếng nấc uất nghẹn từ đáy lòng vì thương vì tiếc các Anh.

Than ôi! với mẫu tự có 26 chữ cái, tôi cũng không biết cách sắp xếp thế nào để diễn tả hết ý nghĩa, sự hy sinh đầy cao cả của những người lính trong QLVNCH. Làm sao viết lên hết những nghiệt ngã các anh đã chịu, làm sao nói lên hết được lòng can trường xã thân vì 4 chữ Bảo Quốc An Dân trong suốt những tháng năm chiến tranh tàn khốc.

Chiến chinh đã cướp đi niềm hạnh phúc của những người Cha, người Mẹ, người Vợ. Chiến chinh đã lấy mất hạnh phúc của tuổi trẻ dại khờ. Nhưng chiến chinh không thể đốt cháy hết được những khổ nạn đời sống của người hệ lụy.

Các Anh đã trả nợ nước non, nay các anh đang được vui sống muôn đời. “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời” – Kinh Hoà Bình- Nguyện cầu Thượng Đế xoa diệu nỗi đau và phù trợ cho những người còn lại.

( Những nén hương lòng thắp lên, kính dâng đến Anh Linh của Cố Tr/tá Mai Văn Thân, Cố Tr/tá Viễn Sum, Cố Tr/úy Nguyễn Trung Đồng Dinh và những Chiến Sĩ VNCH anh hùng Vị Quốc Vong Thân trong trận chiến năm 1974 ).


Vũ Đình Lưu CA – 2011
nguồn: http://www.thietgiapbinhvnch.com/WebDoc/TR-duongvaomatkhutamgiacsat.htm

BachMa
03-04-2018, 05:26 AM
Cố Đại tá Phạm Phú Quốc

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1519418369-DaiTa_PhamPhuQuoc_01.jpg
Hình minh họa
Cố Đại tá Phạm Phú Quốc, Anh Hùng Không Lực Việt Nam Cộng Hòa (1935-1965) anh gốc làng Đông Bàn, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, là cháu gọi ông Phạm Phú Thứ là ông cố, một đại thần triều nhà Nguyễn và là con của ông Phạm Phú Phò (một doanh nhân rất thành công và nổi tiếng trên thương trường tại đất Đà Nẵng trong thập niên 1930-1940), (gốc họ Đoàn của cụ tổ Đoàn Thế Thân).

Thưở nhỏ, anh Quốc học tại trường Chasseloup-Laubat (bây giờ là trường Lê Quý Đôn). Thời gian còn là học sinh, anh Quốc rất đam mê về máy bay, bao nhiêu tiền mẹ ông cho để ăn quà, anh Quốc đều dành để gởi mua tận bên Pháp các sách kỹ thuật dạy cách chế tạo các loại máy bay nhỏ (tạp chí Mécanique populaire) lắp ráp đem ra thực dụng trên bầu trời thuộc Tân Sơn Nhứt bây giờ.

Sau khi thi tốt nghiệp trung học, gia đình định cho anh Quốc sang Pháp để tiếp tục con đường học vấn, nhưng Quốc cũng vì quá ham thích máy bay nên xin gia đình được đầu quân vào quân chủng Không Quân.

Sau đó anh Quốc được gởi sang học lái máy bay chiến đấu tại một trường huấn luyện của Pháp tại Marrakech thuộc Maroc, và đã tốt nghiệp với bằng cấp Chuẩn úy phi công.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1519418385-DaiTa_PhamPhuQuoc_02.jpg
Hình minh họa

Nhấn vào link bên dưới để xem thước phim hai phi cơ khu trục dội bom Dinh Độc Lập:
https://youtu.be/C4YPPFem0L8

Dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, vì bất đồng chính kiến, vào ngày 27-2-1962 Trung úy phi công Phạm Phú Quốc cùng với bạn đồng đội là Thiếu úy Nguyễn Văn Cử, nhân một chuyến hành quân nhưng không thi hành nhiệm vụ mà quay về Sài Gòn để oanh tạc dinh Độc Lập (bây giờ là dinh Thống Nhất) đánh sập một góc dinh nhưng Tổng Thống đã may mắn thoát chết.

Máy bay anh Quốc bị phòng không của Hải Quân ở bến Bạch Đằng bắn trúng, anh Quốc phải đáp xuống sông Sài Gòn, gần một đồn bảo an vùng kho xăng Nhà Bè và bị bắt giam cầm cho đến năm 1963 thì được quân đảo chính giải thoát và phục hồi quân ngũ, thăng dần lên làm tới chức Trung tá và được cử làm Chỉ huy trưởng căn cứ Không Quân Biên Hòa.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1519418401-DaiTa_PhamPhuQuoc_03.jpg
Hình minh họa

Ngày 19-4-1965 Trung tá Phạm Phú quốc gãy cánh trong một phi vụ Bắc phạt,cách thị xã Vinh về phía đông nam 10 km. Lúc đó là 15 giờ 04 phút. Trung tá Quốc trong phi vụ này với nhiệm vụ đánh trục giao thông cách 10 cây số phía nam thành phố Vinh. Sau khi hoàn tất phi vụ, trên đường trở về thì phi đội của Trung tá Quốc đã đụng phải một lực lượng phòng không của QĐND Việt Nam, súng cao xạ bắn lên dữ dộI, một phi cơ trúng đạn phía đuôi thiệt hại nhẹ, phi cơ của Quốc lao vào lửa đạn, bị trúng đạn và bốc cháy.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1519418424-DaiTa_PhamPhuQuoc_04.jpg
Hình minh họa

Trung tá Phạm Phú Quốc Truy Phong Đại tá.

Chức Vụ:
Trưởng phòng Hành Quân năm 1960
Chỉ huy trưởng phi đoàn 516 năm 1964
Tư lệnh Không Đoàn 23

Chiến Công:
2 Anh Dũng Bội Tinh với Ngôi Sao Đồng
5 Anh Dũng Bội Tinh với Ngôi Sao Bạc
1 Anh Dũng Bội Tinh với Ngôi Sao Vàng
1 Anh Dũng Bội Tinh với Ngành Dương Liễu
Phi Dũng Bội Tinh với Cánh Chim Vàng
Đệ Nhị Không Lực Huy Chương
Đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương với Ngành Dương Liễu
Với 12 lần được tuyên dương công trạng và nhiều lần khen thưởng

Cố Đại tá Phạm Phú Quốc có vợ và một con trai, ngày tử trận vợ anh Quốc mang thai đứa con đầu lòng được 3 tháng và đã di tản sang Mỹ trước năm 1975. Con trai ông hiện là bác sĩ khoa thẩm mỹ ở bên Mỹ.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1519418446-DaiTa_PhamPhuQuoc_05.jpg
Hình minh họa

Năm 1997 hài cốt của Phạm Phú Quốc được người chị ruột là Phạm Thị Xuân Cơ (Đông Hải) cải táng đem về chôn tại khuôn viên chùa Phước Lâm, Thành Phố Hội An, tỉnh Quảng Nam.

Nhà văn Triều Vũ từng viết một bài văn tế Phạm Phú Quốc. Cũng thời gian đấy, nhạc sĩ Phạm Duy viết nhạc phẩm "Huyền sử ca một người mang tên Quốc" để tưởng nhớ ông.

nguồn: https://www.facebook.com/CONGHOATHOIBAO/posts/1774929756078845

BachMa
03-06-2018, 07:01 PM
Mộ Cố Phi Công Đại Tá Phạm Phú Quốc
soncuongde

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1519418466-MoPhamPhuQuoc_01.jpg
Chùa Phước Lâm - Hội An
Ngày 19-4-1965, cách thị xã Vinh về phía đông nam 10km, lúc đó là 15 giờ 04 phút, phi cơ Phạm Phú Quốc bị rơi và ông đã tử nạn tại Hà Tĩnh làm sôi động một thời gian. Sự việc cùng thời gian trôi qua cho tới ngày Bắc-Nam thống nhất.

Sau khi cuộc chiến kết thúc, việc tìm hài cốt của đại tá Phạm Phú Quốc đã được sự giúp đỡ của đại tá Phạm Quế Dương, một sĩ quan phòng không của quân đội Bắc Việt.

Theo chính quyền huyện Thanh Hà tỉnh Hà Tĩnh được biết xác phi công Phạm Phú Quốc đã được chôn cất bởi dân chúng với quan tài chu đáo với bia ghi " mộ ông Phạm Phú Quốc".

Tuy được chôn cất cẩn thận nhưng một thời gian dài không người trông nom nên đã mất dấu tích. Đại tá Phạm Quế Dương đã giới thiệu cho gia đình Phạm Phú Quốc một người chuyên tìm hài cốt thất lạc: Ông Đỗ Bá Hiệp nổi tiếng có khả năng ngoại cảm (Telepathy) đã cùng gia đình về vùng Cồn Cỏ, Hà Tĩnh để tìm di hài phi công Phạm Phú Quốc.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1519418446-DaiTa_PhamPhuQuoc_05.jpg

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1519418491-MoPhamPhuQuoc_03.jpg
Mộ phi công Cố Đại Tá Phạm Phú Quốc trong chùa Phước Lâm

Dưới đây là bài tường thuật của ông Phạm Quế Dương:

"Năm 1990 gia tộc anh Quốc từ miền Nam ra Hà Tĩnh tìm xin hài cốt anh ấy đưa về quê ở Quảng Nam. Nhưng các cơ quan tỉnh, huyện, xã ở đây chỉ có thể xác nhận trong văn bản: "hài cốt của ông Phạm Phú Quốc đã được tỉnh đội Hà Tĩnh và huyện Thạch Hà cất bốc, trong khi cất bốc đều có quan tài chôn cất chu đáo. Cơ quan quân sự huyện Thanh Hà đã nhất trí vối gia đình Phạm Phú Quốc: "khi truy tìm được nơi chôn cất cụ thể sẽ thông báo sau".

7 năm sau -1997- được biết có ban liên lạc giòng họ Phạm trong UNESCO có thông tin nhờ ban liên lạc giúp đỡ. Tôi là thành viên trong ban liên lạc giòng họ Phạm được giao làm việc này...

Tháng 5-1997, ban liên lạc đã gửi văn bản tới các cơ quan chính quyền tỉnh Hà Tĩnh giúp đỡ việc xác minh địa điểm chôn cất anh Phạm Phú quốc. Sự việc vẫn yên lặng. Tháng 9 -tháng 12-1997 ban liên lạc gửi liên tiếp hai văn bản tới các cơ quan tỉnh Hà Tĩnh và cả Đoàn Đại Biểu Quốc Hội tỉnh Hà Tĩnh. Tháng 2, 3, 4-1998 ban liên lạc được các cơ quan xã, huyện tỉnh Hà Tĩnh trả lời hoàn toàn tán thành và ủng hộ việc tìm hài cốt phi công Phạm Phú quốc. Song thật sự chỉ biết mộ anh Phạm Phú Quốc đã được dời về nghĩa trang Cồn Cổ. Do thời gian quá lâu mộ thất lạc không xác định được nơi chôn cất cụ thể.

Ngày 01-5-1998 tôi và một anh bạn nhà báo vào Hà Tĩnh, được sự giúp đỡ tích cực của báo giới Hà Tĩnh, chúng tôi gặp các cấp. Họ đều tiếp chu đáo, thành thật trình bày sự việc như trên. Chúng tôi ra nghĩa trang Cồn Cổ mênh mông, bao nhiêu là mộ và không ai biết được mộ anh Quốc ở đâu. Chúng tôi xin phép địa phương mời ông Đỗ Bá Hiệp, một nhà ngoại cảm nổi tiếng đã giúp tìm mộ bao người thất lạc, giúp cho việc này. Họ nhất trí.

Ngày 07-5-1998, ban liên lạc đã thảo văn bản mời ông Đỗ Bá Hiệp, đồng thời báo cáo địa phương. Ông Đỗ Bá Hiệp nhận lời. Được tin ngay ngày hôm sau, 08-5-1998 , bà chị anh Phạm Phú Quốc đã 83 tuổi cùng cháu gái bay ra Hà Nội gặp ô. Đỗ Bá Hiệp.
Sáng 11-5-1998 , tôi làm liên lạc đưa ông Đỗ Bá Hiệp và ông Doãn Phú, nhà địa lý thân quen ô. Hiệp cùng bà chị, cháu gái anh Phạm Phú quốc vào Hà Tĩnh.

Sáng hôm sau, 12-5-1998 , ra nghĩa trang Cồn Cổ. Chúng tôi nghĩ ông Đỗ Bá Hiệp sẽ vào bên trong nghĩa trang, nhưng ông chỉ đi trên đường bên ngoài nghĩa trang. Khi ông nhìn lên trời cao, lúc ông nhìn xuống như nhìn cái gì đó sâu trong lòng đất. Chúng tôi vẫn đi theo phía sau ông. Bỗng ông rẽ vào phía đường bên kia nghĩa trang, một vùng đất rộng lồi lõm sát với ruộng nước và dừng lại chỉ xuống một chỗ đất bằng phẳng. Ông bảo : "Mộ anh ấy ở đây. Bên mô cát bên phải này hai bước, bên hố nước bên trái này một bước. Chú ý đánh dấu để khỏi lẫn. Đến ngày 10-10 ta mới được bốc." Một lát sau ông lại bảo : "số lính của anh ấy là số 0 gì đó rồi 4, hai số cuối cùng là 65 hay 56." Theo thói quen tôi ghi số hiệu trên vào tờ cart visit vì không mang theo sổ tay.

Ra về, khoảng nửa tháng sau tôi nhận được điện thoại gia tộc anh Quốc nhờ tìm hộ số quân của anh Quốc. Tuy nhận lời nhưng không biết tìm ở đâu. Mấy hôm sau tôi sang thư viện báo Quân Đội Nhân Dân nhờ lục tìm trong báo cũ. Trong số báo QĐND ngày 22-4-1965 tả việc máy bay anh Quốc bị bắn rơi, viết cụ thể : "Phạm Phú Quốc chứng minh thư số 007. 455 cấp 01-12-64 tư lệnh đoàn máy bay khu trục số 23, tư lệnh sân bay Biên Hòa, quân hàm trung tá ". Thật kỳ lạ ! thông tin của ô. Đỗ Bá Hiệp về số lính với số chứng minh thư của anh Quốc ghi trong báo gần giống nhau đến thế!

Ngày 09-10 Âm Lịch tức 27-11-1998 , ông Đỗ Bá Hiệp bận không vào Hà Tĩnh được, nhưng ông đã hướng dẫn tỉ mỉ việc đào tìm mộ. Tôi nhờ nhà tôi cùng đi với cháu gái anh Quốc vào lo việc này. Nhà tôi vốn rất thành tâm nên sẵn lòng giúp đỡ như việc nhà. Ngay chiều tối hôm đó, vào xã Thạch Trung. Chúng tôi xin phép địa phương và họ đã giao cho đội phục vụ nghĩa trang lo việc bốc mộ sáng sớm hôm sau.

Sáng hôm sau trời vẫn mưa, phải làm lều che nơi bốc mộ. Đào sâu gần nửa thước không thấy gì đã lo. Nhưng may sao chỉ thêm vài nhát xẻng nữa là một vũng nước đen rồi thấy Cốt hòa lẫn trong đất bùn. Đúng như địa phương nói từ năm 1976 hài cốt anh Quốc dời chuyển từ trong làng ra đây, cốt để trong tiểu gỗ và đã hơn 20 năm tiểu gỗ không còn chỉ còn xương cốt. Xương cốt anh Quốc được bới tìm chu đáo, rửa sạch bằng nước thơm rồi đặt vào tiểu quách. Bà con đến xem khá đông cùng thắp hương viếng Anh...

Ngay chiều hôm đó 28-11-1998. Hài cốt phi công Phạm Phú Quốc được đưa về quê quán, chùa Phước Lâm, thị xã Hội An tỉnh Quảng Nam...

Mộ anh Phạm Phú Quốc đã được xây cất nghiêm trang với bia đá khắc hình và tên tuổi Anh cùng những hàng chữ đầy nghĩa tình với Người đã khuất."

soncuongde
nguồn: http://soncuongde.blogspot.com/2010/07/chua-phuoc-lam-hoi-mo-phi-cong-co-ai-ta.html

BachMa
03-10-2018, 11:17 PM
Ride The Thunder: A Vietnam War Story of Honor and Triumph

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1517861788-Ride The Thunder 01.jpg
Ride the Thunder: A Vietnam War Story of Honor and Triumph. Nguồn: WorldNetDaily
Cưỡi Ngọn Sấm kể lại câu chuyện có thật về tình “huynh đệ chi binh” hiếm có của một toán nhỏ cố vấn Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ và các chiến sĩ Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam Cộng Hòa trên một mặt trận hết sức đặt biệt của Chiến Tranh Việt Nam: Quảng Trị – Mùa Hè Đỏ Lửa 1972. Nhờ sự phối hợp chặt chẽ của cả hai bên nên dù bị đẩy vào một hoàn cảnh hết sức khắc nghiệt họ vẫn làm nên một chiến tích lẫy lừng: chặn đứng bước tiến của Cộng quân tại cầu Đông Hà.

Tinh thần chiến đấu dũng cảm của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong trận đánh 1972 đã thể hiện trọn vẹn trên khắp các vùng bị Cộng quân tấn công. Vì thế phải cần nhiều cuốn sách mới có thể ghi nhận đầy đủ về tình hình chiến sự cũng như về nhân cách của các chiến sĩ đã tham gia trận đánh.

Riêng tác phẩm “Ride The Thunder” của Richard Botkin chú trọng tới mặt trận Quảng Trị – Đông Hà trong đó câu chuyện xoay quanh ba nhân vật chính: Trung Tá Gerry Turley, Đại Úy John Ripley và Thiếu Tá Lê Bá Bình.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1517861800-Ride The Thunder 02.jpg
Đại úy John Ripley (thứ hai từ trái sang) cùng Đại tá Gerald Turley (thứ hai từ phải sang) ngày trước khi bắt đầu
các cuộc tấn công của CSVN trong mùa Hè đỏ lửa (Easter Offensive 1972) tại một căn cứ quân sự phía Tây Đông Hà.
Nguồn: http://nobility.org/

Trung Tá Gerry Turley có mặt trong Trung Tâm Hành Quân Chiến Thuật Ái Tử hai ngày trước cuộc tấn công trong một cuộc viếng thăm bình thường dự tính chỉ chừng vài ngày. Nhưng khi cuộc chiến nổ ra, ông được cấp chỉ huy gọi riêng và trao cho quyền tạm thời đảm trách toàn bộ hoạt động tại trung tâm này.

Đại Úy John Ripley là một “skipper”- sĩ quan chỉ huy, của Đại Đội Lima 6 TQLC Hoa Kỳ tại VN. Ông trở thành cố vấn cho Tiểu Đoàn 3-Sói Biển TQLC cuối năm 1971. Ông đã sát cánh với hơn 700 chiến sĩ VNCH đồn trú tại căn cứ Alpha 2 nằm trong tỉnh lỵ Đông Hà. [Chức vụ sau cùng của TQLC John Ripley là Đại tá TQLC Mỹ (USMC) – DCVOnline]

Trung Tá Lê Bá Bình trình diện Tiểu Đoàn 3 TQLC cuối năm 1962 với chức vụ thiếu úy và đã tham dự nhiều trận đánh trên khắp các vùng chiến thuật. Ông từng được huấn luyện tại Trường Căn Bản Quantico tại Virginia năm 1964. Năm 1972, ông giữ chức vụ Thiếu Tá -Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 3 TQLC.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1517861813-Ride The Thunder 03.jpg
Thiếu tá Lê Bá Bình đứng ở Quảng Trị trước khi bị thương lần thứ 9, 1972. Nguồn: OntheNet

Trận chiến “Mùa Hè Đỏ Lửa 1972” (tên tiếng Anh: Easter Offensive) là một kế hoạch táo bạo của Bắc Việt nhằm đánh một trận quyết định để tiêu diệt nền Cộng Hòa miền Nam đang mất dần sự hỗ trợ của Hoa Kỳ. Giữa trưa ngày 30 tháng Ba 1972, quân đội Bắc Việt đã phối hợp bộ binh, thiết giáp, pháo binh cộng thêm hệ thống phòng không tối tân nhất của Liên Xô đã viện trợ, đồng loạt tấn công 12 căn cứ quân sự VNCH trải dài từ Đông sang Tây trong vùng phi quân sự và từ Bắc xuống Nam sát với biên giới Lào. Những đợt pháo kích đầu tiên nhắm vào các vị trí pháo binh VNCH mà chúng đã rõ. Đàng sau những cuộc pháo kích là hơn 30.000 lính Bắc Việt và – lần đầu tiên tại VN – xuất hiện hàng trăm chiến xa T-54 và PT-76 do Liên Xô cung cấp. Không chỉ hạn chế ở các mục tiêu quân sự, Cộng quân còn pháo kích vào các khu đông dân cư nhằm gieo rắc hoảng loạn và phá chặn các mạng lưới giao thông quan trọng, từ đó làm chậm thêm phản ứng của Quân Lực VNCH.

Với tình hình chiến sự thảm hại diễn ra khắp phía Bắc Vùng I Chiến Thuật, Tướng Vũ Văn Giai ra lệnh cho những người Mỹ phải rút ra khỏi TTHQCT Ái Tử. Riêng Trung Tá Gerry Turley, với tư cách là sĩ quan Hoa Kỳ thâm niên nhất, phải ở lại điều hành công việc với một nhóm nhỏ và tiếp tục hướng dẫn các hỏa lực yểm trợ cho đến khi nào tổng hành dinh mới được thiết lập xong. Dĩ nhiên Turley không đồng ý với quyết định ấy với lý do mình chỉ là “một thằng TQLC ghé thăm”. Thế nhưng, cuối cùng “gã TQLC” này vẫn phải nhận lãnh trọng trách.

Rạng sáng ngày Chúa Nhật-Lễ Phục Sinh, khi 10 căn cứ hỏa lực lớn đã bị Cộng quân chiếm đoạt, khi xe tăng địch đã tàn phá hết phía bắc sông Cam Lộ-Cửa Việt, khi trong vùng chẳng còn mục tiêu nào đáng cho chúng tấn công nữa, Trung Tá Turley nhận ra rằng mũi nhọn tiến công của chiến xa và bộ binh Bắc Việt đang nhắm thẳng tới Đông Hà. Nếu chúng vượt qua được cây cầu này thì toàn bộ tỉnh Quảng Trị, và rồi Huế, sẽ lọt vào tay bọn chúng. Không cần suy tính lâu, Turley quyết định: bằng mọi giá phải phá nổ cây cầu Đông Hà. Trớ trêu thay, vì thời tiết xấu không thể xử dụng lực lượng Không Quân để ném bom, do đó cách duy nhất là phải có người trèo lên cầu và đặt chất nổ.

Cầu Đông Hà đã được “Toán Ong Biển” – một tiểu đoàn Công Binh Hải Quân Hoa Kỳ, xây mới vào năm 1967. Đó là một con “mãnh long” kiên cố có bộ khung bê tông và thép khổng lồ với những phiến gỗ chắc nịch. Để chống lại sự phá hoại của bọn đặc công, những hàng rào xích sắt và dây kẽm gai được dựng lên dày đặc dưới gầm cầu. Muốn phá hủy cây cầu ấy dù trong lúc bình thường cũng không hề là điều dễ dàng, nên khi ra mệnh lệnh cho toán Alpha 2–Bình/Ripley: “somehow destroy the bridge”, Turley hiểu rõ rằng ông đã ký vào bản khai tử cho họ.

Để đến gần Cầu Đông Hà, toán Alpha 2 đã bắn hư một chiếc xe tăng T-54. Khi thấy Cộng quân không tỏ dấu hiệu tiến lên thêm, John Ripley, Jim Smock và Lê Bá Bình nhanh chóng chạy tới chân cây cầu. Bộ ba chỉ có chưa đầy 4 tiếng đồng hồ và 500 cân thuốc nổ để thực hiện sứ mạng. Ripley từng được huấn luyện tại trường US Army’s Ranger School. Tại đây, ông đã được học về cách xử dụng chất nổ. Do đó, trong toàn thể binh sĩ nhóm Alpha 2, Ripley là người duy nhất biết cách phá hủy cây cầu. Trước tiên, Ripley đu người qua những hàng rào kẽm gai sắc lẻm. Sau khi nhận khối thuốc nổ do đồng đội chuyển qua rào, ông phải thực hiện công việc khó khăn nhất: leo lên cầu. Với sức mạnh và sự dẻo dai không ngờ, Ripley bám lấy những thanh sắt chữ I, đu người lên, và cuối cùng, bò vào trong khoang cầu. Bên dưới cầu là dòng nước sông chảy xiết, sẵn sàng cuốn phăng đi kẻ nào không may tuột tay rớt xuống. Phải mất 12 lần “đánh đu tử thần”, Đại Úy John Ripley mới đặt được hết toàn bộ khối thuốc nổ dọc theo cầu. Bốn tiếng đồng hồ tưởng chừng vô tận! Và rồi đất trời rung chuyển với một tiếng nổ vang dội. Ngày 2 tháng Tư năm 1972, Cầu Đông Hà bị phá hủy.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1517861831-Ride The Thunder 04.jpg
Tranh của Đại tá Charles Waterhouse vẽ cảnh Đại úy John Ripley đu lủng lẳng trên cầu Đông Hà
ở sông Cửa Việt trong làn mưa đạn của cộng quân Bắc Việt.
Nguồn: http://nobility.org/

“Cưỡi Ngọn Sấm”, tuy nhiên, không phải là câu chuyện chỉ có cơ bắp và hành động, cũng không phải là truyện ca ngợi vài đấng anh hùng theo kiểu phim Viễn Tây. Để kể lại thấu đáo “Một Câu Chuyện Về Vinh Dự Và Chiến Thắng Trong Cuộc Chiến Việt Nam” thì bên cạnh những nhân vật sáng chói như Turley, Ripley, Bá Bình, tác giả đã không bỏ quên những con người khác. Họ là những chiến sĩ Mỹ và Việt như Phillip, Eisenstein, Goggin, Lương, Nhã, Lượm,.. Họ cũng chính là vợ con, cha mẹ của các chiến sĩ đang ngày đêm trông ngóng tin xa như Bunny, Moline, Bành Cầm. Họ còn là những người dân bất hạnh vô tên vô tuổi bị Cộng quân tàn sát trên đường chạy loạn mà hình ảnh thảm khốc của họ đã đập vào mắt những người lính đang cố thủ tiền đồn. Chính tình cảm, suy tư, hành động của những nhân vật tưởng chừng không quan trọng ấy đã tạo nên cái nền vững chắc để rồi trên đó những người anh hùng mới có đủ quyết tâm và dũng khí để làm những điều họ phải làm.

“Cưỡi Ngọn Sấm” – qua 700 trang sách, trong khi kể về Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 nhưng không quên nhắc lại Tết Mậu Thân 1968; trong khi kể về sự thành lập lực lượng Thủy Quân Lục Chiến VNCH nhưng vẫn nhắc đến các cuộc huấn luyện TQLC tại Hoa Kỳ, kể chi tiết về các trận đánh và cũng rất tỉ mỉ trong các vấn đề kỹ thuật. Cuộc sống và tâm tư của thân nhân các chiến sĩ được mô tả cặn kẽ dù đó là Bunny-vợ Turley, Moline-vợ Ripley, hay Bành Cầm-vợ Bá Bình, cho thấy dù Mỹ hay Việt bất kỳ người vợ lính nào cũng đều phải chịu đựng những thiệt thòi, lo sợ, đau đớn không khác gì nhau.

Những gì còn đọng lại trong tâm trí những người đã từng thấy, từng nghe, về trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa thường là cảnh tượng kinh hoàng của bom đạn, hỗn loạn và xác chết. Thế nhưng, ít ai biết trong những thời khắc đau thương tột cùng ấy đã từng có những câu chuyện cảm động về tình người, tình chiến hữu mà “Cưỡi Ngọn Sấm: Một Câu Chuyện Về Vinh Dự Và Chiến Thắng Trong Cuộc Chiến Việt Nam” là một.
Người viết bài này thuộc một thế hệ lớn lên sau chiến tranh, trong đời chưa từng nghe một tiếng súng nổ, một tiếng bom rơi dù sống ngay trong lòng nước Việt từ 1962. Cuộc sống hồn nhiên của đứa nhỏ ấy trong nhiều năm dài có được là do đâu? Nếu như năm 1972 miền Nam bị rơi vào tay Cộng quân thì nó sẽ ra sao? Những câu hỏi ấy chợt bùng lên sau khi đọc những dòng máu lệ Ride The Thunder, và rồi cứ ở mãi trong đầu…

Phải cần bao nhiêu hy sinh mới có được Tự Do?

Câu trả lời ở những chiến sĩ quyết tâm giữ vững bờ cõi thật đơn giản:

Chỉ cần duy nhất một hy sinh – Đó là hy sinh mạng sống của chính mình.

Những ngày cuối năm 2014
nguồn: http://svqy.org/2015/2-2015/cns/frame/cns.htm

BachMa
03-14-2018, 01:19 AM
Một Tài Liệu về Trường Võ Bị Quốc Gia
& Các Sĩ Quan Tốt Nghiệp
Nguyễn Kỳ Phong

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1513118393-TruongVoBiQuocGia.jpg
Hình minh họa

Trong hai năm 1973 và 1974, một tham vụ chính trị ở Tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ tên là James Nach, bắt đầu thâu thập một số chi tiết lịch sử về nguồn gốc các trường đào tạo sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH) và sĩ quan tốt nghiệp từ các trường đó. Tác giả ghi lại rất nhiều chi tiết về mười khóa đầu của Trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt và năm khóa đầu của Liên Trường Võ Khoa Thủ Ðức. Ðây là một tập tài liệu với nhiều chi tiết lý thú. Ông James Nach còn bỏ công ra ghi lại chức vụ đương nhiệm của một số sĩ quan tốt nghiệp. Theo sự hiểu biết của người viết bài này, tài liệu của James Nach là một trong hai tài liệu duy nhất của người Mỹ nghiên cứu về hệ thống đào tạo sĩ quan và xuất thân của sĩ quan QLVNCH. Năm 1970, cơ quan Advanced Research Projects Agency (một cơ quan nghiên cứu thuộc Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ) có thực hiện một nghiên cứu với tựa đề An Institutional Profile of the South Vietnamese Officer Corps. Tuy nhiên, nghiên cứu này có tính cách chính trị nhiều hơn là lịch sử, vì tài liệu chỉ nói đến hệ thống sĩ quan tướng lãnh và phân lọai họ có chiều hướng theo “phe” nào trong thời điểm đó. Tài liệu của James Nach được viết ở Sài Gòn và gởi về Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ với sự chuẩn hành của Đại sứ Graham Martin. Vì tài liệu nằm trong dạng công văn, nên chỉ được lưu trữ trong văn khố hay các trung tâm nghiên cứu về Việt Nam. Bài viết dưới đây sơ lược lại những chi tiết lý thú của tác giả James Nach trong The National Military Academy and Its Prominent Graduates và Origins of the Vietnamese National Army, Its Officer Corps and Its Military Schools.

The National Military Academy and Its Prominent Graduates

Trong phần nghiên cứu về Trường Võ Bị Quốc Gia và Những Sĩ Quan Tốt Nghiệp Danh Tiếng, James Nach sơ lược lại sự thành hình của trường Võ Bị Quốc Gia. Hai khóa đầu tiên Trường Sĩ Quan Hiện Dịch bắt đầu ở Huế, Khóa 1 tháng 12-1948, và Khóa 2 tháng 9-1949. Tháng 10-1950 trường dọn về Ðà Lạt và bắt đầu Khóa 3, với tên mới là Trường École Militaire Inter-Armes de Dalat. Trường chánh thức đổi lại thành Trường Võ Bị Liên Quân sau khi người Pháp rời Việt Nam năm 1955, và trở thành Trường Võ Bị Quốc Gia từ tháng 4 năm 1963 cho đến khi giải tán (Sắc Lệnh 325-QP, 10-4-1963).

Hai Khóa 1 Phan Bội Châu (53 sĩ quan tốt nghiệp) và Khóa 2 Quang Trung (97 tốt nghiệp) ở Huế ra trường một số sĩ quan sau này trở thành những tướng lãnh quan trọng của đầu thập niên 1960. Thủ khoa Khóa 1 là Trung tướng Nguyễn Hữu Có; Khóa 2 là Thiếu tướng Hồ Văn Tố (chết bất thình lình năm 1961 trong lúc chỉ huy Liên Trường Võ Khoa Thủ Ðức). Những tướng lãnh tốt nghiệp Khóa 1 như các Trung tướng Ðặng Văn Quang; Tôn Thất Ðính, Nguyễn Văn Thiệu; Trần Văn Trung. Một số sĩ quan cấp Thiếu tướng và Chuẩn tướng như, Bùi Ðình Ðạm; Phan Xuân Nhuận; Tôn Thất Xứng; Nguyễn Văn Chuân. Khóa 2 có chín sĩ quan trở thành tướng lãnh, Trung tướng Ngô Dzu và Nguyễn Văn Mạnh; các Thiếu tướng Trần Thanh Phong; Huỳnh Văn Cao; Hoàng Văn Lạc; Lê Ngọc Triển; và Chuẩn tướng Lê Trung Tường. Trung tá Vương Văn Ðông, một trong những nhân vật chủ mưu đảo chánh 11-11-1960, cũng ra từ Khóa 2 này.

Khóa 3 Trần Hưng Ðạo có 135 sĩ quan tốt nghiệp. Ðây là khóa đầu tiên khai giảng ở Ðà Lạt. Có chín sĩ quan trở thành cấp tướng — cấp tướng hạng “nặng ký.” Khóa có bốn Trung tướng Hoàng Xuân Lãm (tư lệnh Quân Ðoàn I; tốt nghiệp hạng 5); Nguyễn Xuân Thịnh (tư lệnh binh chủng Pháo Binh; hạng 8); Lâm Quang Thi (tư lệnh tiền phương Quân Ðoàn I; 12); và Lữ Lan (tư lệnh Quân Ðoàn II, 24). Hai sĩ quan tốt nghiệp trở thành tướng của Quân Chủng Không Quân là Chuẩn tướng Võ Dinh (tham mưu trưởng Không Quân VNCH) và Chuẩn tướng Nguyễn Ngọc Oánh (chỉ huy trưởng Trung Tâm Huyến Luyện Không Quân). Hai Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu (á khoa, tư lệnh phó Quân Ðoàn III khi bị tai nạn súng chết) và Lâm Quang Thơ. Tướng Thơ và Thi đều trở về trường mẹ, làm chỉ huy trưởng trường Võ Bị Quốc Gia.

Từ Khóa 4 (Khóa Lý Thường Kiệt, tháng 11-1951 – tháng 12-1951) đến Khóa 10 (Khóa Trần Bình Trọng, tháng 10-1953 – tháng 6-1954) trường đào tạo thêm 23 tướng lãnh. Phần lớn là những tướng hành quân/tác chiến, hơn là tướng tham mưu/ hành chánh. Khóa 4 có hai Trung tướng là Nguyễn Văn Minh (tư lệnh QÐ III, 1972) và cố Trung tướng Nguyễn Viết Thanh (tư lệnh QÐ IV khi tử nạn tháng 5-1970). Hai sĩ quan kia là Chuẩn tướng Ðỗ Kiến Nhiểu (Đô trưởng Sài Gòn) và thủ khoa Nguyễn Cao Albert (giãi ngũ). Riêng tên của cố Trung tướng Nguyễn Viết Thanh được đặt cho hai khóa tốt nghiệp sĩ quan của QLVNCH: Khóa 6/1970 Liên Trường Võ Khoa Thủ Ðức, và Khóa 26 Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt. Khóa 5 Hoàng Diệu (8-1951 – 5-1952), với 225 sĩ quan tốt nghiệp, là khóa đào tạo nhiều tướng lãnh nhất — 10 sĩ quan cấp tướng. Các Trung tướng Nguyễn Văn Toàn; Nguyễn Vĩnh Nghi; Phạm Quốc Thuần; Dư Quốc Ðống; Phan Trọng Chinh. Hai Thiếu tướng Trần Bá Di và Ðỗ Kế Giai. Các Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm; Chương Dzềnh Quay; Lê Văn Tư. Có ba Đại tá tốt nghiệp khóa này cũng được nhắc đến nhiều là Dương Hiếu Nghĩa (thủ khoa, liên hệ đến vụ đảo chánh 1-11-1963); Phạm Văn Liễu (ra trường hạng 19, liên hệ đến nhiều vụ đảo chánh); và Lê Ðức Ðạt (hạng 20, tư lệnh sư đoàn 22 bộ binh khi bị mất tích ở Tân Cảnh tháng 4-1972). Khóa 6 Ðinh Bộ Lĩnh (12-1951 – 10-1952; 181 sĩ quan tốt nghiệp) có ba Chuẩn tướng Lý Tòng Bá (thủ khoa); Trần Quang Khôi (hạng 6); và Trần Ðình Thọ (hạng 79). Nhà văn Trung tá Nguyễn Ðạt Thịnh cũng đến từ khóa này. Khóa 7 có Chuẩn tướng Trương Quang Ân (thủ khoa, tử nạn trực thăng năm 1968); Lê Văn Thân; và Trần Văn Hai. Khóa 8 có Thiếu tướng Phạm Văn Phú, và Chuẩn tướng Huỳnh Thới Tây (tư lệnh Cảnh Sát Ðặc Biệt). Khóa 9 không có sĩ quan tốt nghiệp nào lên tướng. Khóa 10 Trần Bình Trọng (10-1953 – 6-1954) là khóa đông nhất của 10 khóa đầu tiên, với 400 sĩ quan tốt nghiệp. Thiếu tướng Lê Minh Ðảo (hạng 18); hai Chuẩn tướng Vũ Văn Giai và Trần Văn Nhựt. Mười khóa đầu của trường Võ Bị Quốc Gia đào tạo tất cả 40 tướng trong số 80 tướng hiện dịch của năm 1974 (80 tướng hiện dịch không kể tướng của Quân Chủng Hải Quân hay Ngành Quân Y).

Trong khi 10 khóa đầu đào tạo nhiều tướng lãnh chỉ huy của QLVNCH, các Khóa 11 đến 20 đào tạo nhiều sĩ quan trung cấp, cột trụ của quân đội. Những sĩ quan cấp trung tá và đại tá của Khóa 14-18 hiện diện và chỉ huy hầu hết các đơn vị chủ lực của QLVNCH. Khóa 16 Ấp Chiến Lược (226 sĩ quan tốt nghiệp; thủ khoa Bùi Quyền) có nhiều sĩ quan đã lên đến cấp bậc trung tá hay đại tá, chỉ huy trung đoàn hay lữ đoàn trong quân đội. Hai Khóa 19 và 20 thì có nhiều sĩ quan tiểu đoàn trưởng. Khóa 19 có 394 sĩ quan tốt nghiệp và là khóa kém may mắn nhất: ba sĩ quan vừa tốt nghiệp vài ngày đã tử trận ngay ở chiến trường, trong đó thủ khoa Võ Thành Kháng (trận Bình Giả). Khóa 20 được coi là đông nhất (406 tốt nghiệp; thủ khoa Trần Thanh Quang). Khóa 22B là khóa đầu tiên ra trường với trình độ văn hóa bốn năm. Nhưng khóa cũng không được may mắn khi thủ khoa Nguyễn Thanh Phóng bị tử trận vài tháng sau đó, trong cuộc hành quân đánh qua Cam Bốt năm 1970.

Origins of the Vietnamese National Army, Its Officer Corps and Its Military Schools

Ðây là tài liệu nghiên cứu về Lịch Sử Quân Ðội Quốc Gia, Hệ Thống Sĩ Quan, và Các Trường Huấn Luyện Quân Sự. Tác giả James Nach đi ngược về năm 1939, khi Cao Ủy Ðông Dương, tướng Catroux, bắt đầu tuyển mộ và huấn luyện sĩ quan Việt Nam cho quân đội Pháp và cho quân đội thuộc địa trong tương lai. Ðây không phải là một thiện chí của chánh phủ Pháp đối với người dân thuộc địa, đây chỉ là một phòng hờ cho thế chiến thứ hai bắt đầu nhen nhúm. Tài liệu nói về một số trường đào tạo cấp chỉ huy quân sự từ năm 1939 trở đi như, Nội Ứng Nghĩa Ðinh và Nội Ứng Nghĩa Quân. Theo tác giả Nach, Trung tướng Văn Thành Cao và Trình Minh Thế của quân đội Liên Minh Cao Ðài được huấn luyện từ trường này. Người Pháp cũng lập ra một vài trường huấn luyện quân sự cho các giáo phái. Trường huấn luyện Cái Vồn của Hòa Hảo là nơi xuất thân của các tướng Trần Văn Soái, Cao Hảo Hớn, Lâm Thành Nguyên. Tác giả cho biết sau khi trường Cái Vồn bị đóng cửa, một số sinh viên được phép ghi danh nhập học trường Võ Bị ở Huế. Những trường khác được nhắc tên trong giai đọan này như Trường Móng Cáy, Trường Quân Chính, Trường Quốc Gia Thanh Niên Ðoàn (một trường quân sự chính trị do Nhất Linh Nguyễn Tường Tam lập).

Năm 1946-47 Ðảng Ðại Việt của Trương Tử Anh thiết lập trường huấn luyện quân sự Lục Quân Trần Quốc Tuấn. Trường khai giảng ở Thanh Hóa, nhưng sau đó vì áp lực của Việt Minh nên phải dời về Yên Bái, và sau cùng về vùng Chapa gần biên giới Việt-Trung. Trường này đôi khi còn được gọi là trường sĩ quan Yên Bái. Những người đã theo học trường này gồm có Thiếu tướng Phạm Xuân Chiểu; Đại tá Phạm Văn Liễu; Đại sứ Ðinh Trình Chinh (đại sứ ở Thái Lan); Đại sứ Ngô Tôn Ðạt (đại sứ ở Ðại Hàn); và ký giả Nguyễn Tú (Nhật Báo Chính Luận).

Cũng trong thời gian 1938-1940, quân đội Pháp thiết lập hai trường huấn luyện sĩ quan và hạ sĩ quan thành sĩ quan ở Thủ Dầu Một và Tong. Ðại tướng Dương Văn Minh, và Tổng trưởng Tư Pháp Lê Văn Thu theo học Trường Thủ Dầu Một; trường Tong thì có những sĩ quan tốt nghiệp như các Trung tướng Trần Văn Ðôn; Linh Quang Viên; Nguyễn Văn Vỹ; và Trần Văn Minh.

Sau đệ nhị thế chiến, Bộ Tư Lệnh Quân Ðội ở Dông Dương gia tăng tuyển mộ lính thuộc địa cũng như huấn luyện cấp chỉ huy để phục vụ ở những đơn vị này. Trường Võ Bị Võ Bị Liên Quân Viễn Ðông được thành lập tháng 7-1946 tại Ðà Lạt. Trường chỉ khai giảng một khóa duy nhất, với 16 sĩ quan tốt nghiệp. Những sĩ quan tốt nghiệp trường này gồm có hai Đại tướng Nguyễn Khánh và Trần Thiện Khiêm; Trung tướng Trần Ngọc Tám và Dương Văn Ðức; các Thiếu tướng Nguyễn Văn Kiểm (chánh võ phòng của Tổng thống Thiệu); Lâm Văn Phát; Bùi Hữu Nhơn; Cao Hảo Hớn; và Dương Ngọc Lắm. Năm 1947-1948 trường được dọn về Vũng Tàu và có tên mới là École Militaire Nước Ngot (Trường Võ Bị Nước Ngọt, Vũng Tàu). Những sĩ quan tốt nghiệp trường này có cố Trung tướng Ðỗ Cao Trí; Thiếu tướng Nguyễn Xuân Trang (Tham Mưu Phó Phòng Nhân Viên, Bộ Tổng Tham Mưu); Đại tá Trang Văn Chính (chỉ huy phó Chiến Tranh Chính Trị); và Đại tá Bùi Quang Ðịnh (Bộ Chiêu Hồi). Trong năm năm, 1949-1953, một trung tâm huấn luyện hoàn hảo sĩ quan được thành lập ở Cap St. Jacques. Trung tâm huấn luyện năm khoá. Khóa 1 có những sĩ quan tốt nghiệp như cố Đại tướng Cao Văn Viên; cố Trung tướng Nguyễn Chánh Thi; Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh; và Đại tá Vũ Quang Tài.

Như đã nói ở phần đầu bài viết, năm 1948 một trường đào tạo sĩ quan được thành lập ở Huế để bắt đầu lịch sử Trường Võ Bị Quốc Gia. Tác giả James Nach đã sơ lược về Trường Võ Bị Quốc Gia. Cũng trong cùng tài liệu, ông Nach sơ lược về lịch sử Trường Liên Quân Võ Khoa Thủ Ðức. Tài liệu này cũng công phu không kém tài liệu về Trường Võ Bị Quốc Gia. Vì khuôn khổ giới hạn của bài viết, ở đây chỉ tóm tắt lại những chi tiết đáng ghi nhớ. Nguyên thủy lúc thành hình là trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức và Nam Định (Les Écoles des Cadres de Réserve de Thu Duc et Nam Dinh), với Khóa 1 Lê Văn Duyệt được khai giảng ngày 1 tháng 10-1951 ở hai nơi, Thủ Ðức và Nam Ðịnh. Thủ Ðức có 278 sĩ quan tốt nghiệp; Nam Ðịnh có 218. Khóa 1 đào tạo tất cả 19 tướng lãnh cho QLVNCH, trong đó có bốn Trung tướng, Trần Văn Minh; Nguyễn Ðức Thắng, Lê Nguyên Khang, và Ðồng Văn Khuyên (á khoa). Sau Khóa 1, trường dời về Thủ Ðức. Trong mười khóa đầu tiên, Khóa 4 Cương Quyết (12-1953 – 6-1954) và Khóa 5 Vì Dân (6-1954 – 2-1955) có số sinh viên tốt nghiệp nhiều nhất, 1.148 sĩ quan cho Khóa 4; 1.396 cho Khóa 5. Khóa 4 có được năm sĩ quan lên cấp tướng: cố Trung tướng Ngô Quang Trưởng; Thiếu tướng Bùi Thế Lân; cố Chuẩn tướng Lê Quang Lưỡng và Hồ Trung Hậu; và Chuẩn tướng Nguyễn Văn Ðiềm. Khóa 5 có Chuẩn tướng Lê Văn Hưng. Trừ những sĩ quan tướng lãnh, Khóa 4 có nhiều sĩ quan cấp trung tá và đại tá chỉ huy những đơn vị chủ lực của QLVNCH. Nhìn lại lịch sử cuộc chiến, đây là những sĩ quan đứng mũi chịu sào của giai đọan khói lửa 1965-1972. Theo tài liệu của James Nach, từ năm 1951 đến năm 1965, Thủ Ðức đào tạo 20.927 sĩ quan. Ðến tháng 9-1973, có tất cả 80.115 sĩ quan tốt nghiệp từ trường.

Nguyễn Kỳ Phong
nguồn: http://www.quocgiahanhchanh.com/truongvobiquocgia.htm

BachMa
03-16-2018, 06:29 PM
Phi Vụ Bất Khả Thi
Nguyễn Thạch Giang

Vào cuộc

Khu phố nhỏ thuộc vùng ngoại ô, nhà nào cũng có sân trước vườn sau, khung cảnh yên tĩnh êm đềm.
Buổi sáng hãy còn sớm, ông Hai đã tắm rửa sạch sẽ sau khi đi bộ quanh xóm vừa tập thể dục vừa tán chuyện xưa chuyện nay với mấy người bạn mới vừa quen. Ông đứng trước nhà xem hoa ngắm cảnh, ngắm người ta ngắm xe cộ… sao lúc rày… đông nhiều vô kể.

Thằng Tâm Tư là cháu gọi ông Hai bằng cậu, lần nào cậu Hai từ Mỹ về chơi nó cũng lãnh phần hướng dẫn viên du lịch. Lần này cậu Hai về một mình, không có mợ Hai đi theo, hai cậu cháu tha hồ… Không ai càm ràm ý kiến bàn ra tán vào nên hay không nên, coi chừng hoá chất, coi chừng lường gạt, coi chừng chặt chém.
Thằng Tâm Tư từ trong nhà bước ra.

– Ðể bữa nay con dẫn cậu tới cái quán này mới mở, chuyên trị hủ tiếu, đặc biệt hủ tiếu bà Năm Sa Ðéc.

– Bà Năm Sa Ðéc ngày xưa là kịch sĩ nổi tiếng, sao bây giờ con cháu đi bán hủ tiếu khắp năm châu bốn biển, đi đâu cũng thấy. Mà con nói cái quán này sạch sẽ lắm phải không. Cậu bây giờ rất kỵ cái cảnh vừa ăn vừa đuổi ruồi, vừa nhìn người ta thảy xương xuống đất… có mấy con chó đứng chờ.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1515466562-PhiVuBatKhaThi.jpg
Thắm Nguyễn

– Dạ con biết, cậu bây giờ không giống cậu ngày xưa.

– Cháu ơi, mày đừng có thổi phồng quá đáng. Ăn xong hai cậu cháu mình kiếm quán cà phê ngồi nhâm nhi, tuần tới cậu về Mỹ rồi, cậu có chuyện muốn nhờ con.

– Dạ, mà cậu thích ngồi quán kiểu nào, dành cho người đứng tuổi hay cho giới trẻ. Cậu thích vô quán chém gió hay vô quán… để ngó… hì hì…

hay vô quán… để ngó… hì hì…

– Cậu muốn chỗ nào yên tĩnh, ngồi ngoài trời vừa mát mẻ vừa tránh ba cái khói thuốc mịt mù.

Chuyện bây giờ mới kể

Ông Hai chọn một bàn khuất cuối sân vườn, cẩn thận nhìn trước nhìn sau, kề tai thằng cháu nói nhỏ.

– Cháu à, mấy năm nay cậu gặp nhiều chuyện xui rủi, lúc nhà lên giá, mỗi tháng mỗi lên, lên thấy ham, cậu mợ vốn liếng để dành được bao nhiêu mót vét mua hai căn cho mướn chờ lên giá bán. Vừa mua xong, nó xuống giá tuột dốc không phanh. Cậu mợ ráng cầm cự, lỡ phóng lao thì phải theo lao chớ sao, theo riết theo hoài tới chừng theo hết nổi, buông tay, lỗ bao nhiêu cũng bỏ. Mẹ rượt, mới vừa bán xong, nhà nó lên giá trở lại, lên không ngừng nghỉ. Có phải mình xui không, nói hết thời mới đúng. Thằng con trai của cậu, tự nhiên dọn nhà qua tiểu bang khác, nói là hãng dời đi… nó phải đi theo. Mợ mày mới vừa nghỉ hưu, suốt ngày đi ra đi vô, than than thở thở, nhớ con nhớ cháu. Cậu buồn quá, sanh bịnh. Lo nghĩ vẫn vơ, lo đủ thứ, lại mang bịnh hồi hộp, cái gì cũng sợ, rồi bây giờ mang cái bịnh sợ chết.

Thằng Tâm Tư nghe vậy hết hồn hú vía, ngó ông cậu trân trân. Sao thấy cậu cũng giống y chang cậu của ngày hôm qua. Ðâu có gì khác.

– Cậu mang cái bịnh sợ chết từ lúc nào vậy. Cháu thấy cũng còn hơi sớm, cậu để chừng mười hai mươi năm nữa rồi sợ cũng vừa. Mà sức khỏe của cậu có vấn đề gì không?

– Thật ra cũng chưa có gì, tại cậu có cái tật hay lo trước thời hạn. Mới vừa đi khám tổng quát tháng rồi. Mọi sự trên dưới trong ngoài đều ổn. Tim mạch, huyết áp, mỡ trong máu, đường trong máu đều ở mức “bo đờ lai”, bác sĩ nói ráng ăn uống kiêng cữ, chịu khó tập thể dục thì khỏi cần uống thuốc.

– Bo đờ lai là gì vậy cậu.

– Là đang đứng ở cửa biên giới. Bên này thiên đàng bên kia địa ngục.

Thằng Tâm Tư gãi gãi đầu, lần đầu lâm vào tình thế không biết phải ứng xử thế nào cho đúng bài bản.

Cậu Hai vừa nói mà miệng cười gượng gạo thấy rõ.

– Có người giới thiệu cho cậu một ông thầy lừng danh, chuyên nghề giải xui giải hạn. Thầy nói có một bài thuốc chuyên trị… hê hê… khó nói quá… hê hê…
Cậu Hai ngó quanh mặt mày tay chân ngượng nghịu như con nít ăn vụng bị bắt gặp.

– Cháu à, cậu mợ hồi nào tới giờ tuy không giàu có gì…

– Dạ cháu biết, cháu không hề hỏi xin cậu điều gì.

– Không phải, ý cậu muốn nói là cậu tuy không phải là người khá giả gì nhưng cũng hưởng đủ cả. Ði du lịch đây đó, món ngon vật lạ nào cũng biết qua.

Cậu lại nhìn trước nhìn sau, ngập ngừng…

– Có một điều mà cậu chưa từng biết… khó nói quá…

– Cậu nói đại ra đi, ở đây không ai nghe.

– Cháu phải giữ kín, mợ mày biết được bả cạo đầu tao.

– ???

– Không phải cậu ham hố gì ba cái chuyện này. Người ta ăn chay ngủ mặn, còn cậu thì ăn mặn mà ngủ chay lâu rồi. Cái này là tại thầy phán. Thầy nói phải dùng hương trinh thì mới giải được hạn.

– Hương trinh… là cái con gì vậy cậu?

– Là con gái, gái còn trinh. Trời ơi, có vậy mà cũng không biết.

Thằng Tâm Tư bỗng cười hô hố, cười sặc sụa, vừa cười vừa nhìn cậu nó giễu cợt. Ông cậu thì ngượng như con nít vừa thú tội.

– Tội cho cậu của tui quá… để con ráng lo cái phi vụ này giúp cậu… trước khi mọi việc… quá trễ.

– Mày phải hứa là không nói cho ai nghe, không bao giờ, nhe, sống để bụng chết mang theo, bí mật của một người đàn ông, cái gì cũng biết qua… chỉ trừ một điều… hơi khó nói.

– Dạ hứa, nhớ.

Thằng Tâm Tư lại gãi gãi đầu, chắc cái điệu này phải hỏi đốc tờ gú gồ.

Cậu Hai tròn mắt. Hỏi đốc tờ?

Thằng cháu móc cái phone xịn ra bấm bấm bấm.

– Tưởng gì, gu gồ thì nói gu gồ, bày đặt lên xuống gú gồ, rồi còn gắn cho ổng học vị đốc tờ. Ổng có thi tuyển vào công chức biên chế đâu mà chạy bằng cấp cho ổng.

– Con bấm chữ trinh nữ. Ðể coi kết quả nhe. Hoa Trinh Nữ, một bài hát nổi tiếng của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh. Biết rồi, nghe hoài. Trinh Nữ Lầu Xanh, tuồng cải lương trước năm 1975, do Mỹ Châu, Ngọc Giàu, Tấn Tài… thủ diễn. Wow! Sao hồi xưa người ta đặt tên tuồng hay quá! Hé cậu, bá cháy, đỉnh của đỉnh, vô đối. Nào là… Tâm Sự Loài Chim Biển, rồi thì… Người Tình Trên Chiến Trận, điếc con ráy với…Yêu Người Ðiên, hôm nay thì cúi đầu bái phục, Trinh Nữ Lầu Xanh. Cái lầu xanh này mà khai trương, khỏi tốn tiền quảng cáo, bảo đảm thiên hạ xếp hàng bắt số.

– Cháu ơi, thằng cháu chuyên lạc đề lạc đường. Cháu làm ơn trở về con đường xưa em đi cho cậu mày nhờ.

– Dạ dạ, có ngay. Bấm chữ gì bây giờ cậu? Mình cứ việc bấm đại… nhe cậu…bấm là… phi vụ mua bán trinh… nhe cậu.

– Ừ, thì bấm đại đi, hỏi đốc tờ gú gồ, chớ bộ hỏi công an sao mày sợ.

Thằng cháu Tâm Tư lại bấm bấm bấm. Nó chu miệng, trố mắt, kêu trời. Thiệt… không thể tưởng tượng. Không thể tưởng tượng.

– Rồi, không kết quả, phi vụ bất khả thi.

– Không phải cậu ơi, đừng vội. Nhờ cậu mà hôm nay con mới biết một việc, một việc tưởng là người ta phải len lén nói nho nhỏ thì thầm, ngờ đâu nó nở rộ khắp bốn phương trời, để con đọc cậu nghe.

“Kiều nữ Jacky, 20 tuổi, muốn bán cái ngàn vàng hai mươi ngàn Bảng. Chỉ nhận tiền mặt. Cash only.”

– Hai mươi ngàn Bảng là cỡ bao nhiêu cậu? Nhiều hay ít?

– Nội cái Việt Nam Ðồng đây tao lo còn chưa xong, mày nói chi tới ba cái đồng Bảng Anh, thôi trở về cây nhà lá vườn đi con.

“Nữ sinh viên đại học học đại, tuổi vừa đủ vào quán ba uống rượu, lỡ dại theo bạn bè đập đá, giờ muốn trở về mái nhà xưa không khác xưa, bán cái quý nhất hai mươi triệu. Miễn mặc cả, giá đã hạ tới sàn.”

– Có hình không? Mà ở đây hay ở đâu vậy?

– Chắc cái mối này không xong, ở đâu xa lắc tí tè đi máy bay chớ đi xe đò biết chừng nào tới.

– Ở đây không có ai à?

– Chắc có, ở đâu mà không có, tại mấy người này không dám bỏ hình lên mạng.

Ðể cháu tìm thằng Tửng, thằng này cái gì nó cũng biết, hỏi nó có biết chỗ nào chỉ dùm. Bây giờ cậu về nhà nghỉ ngơi lấy sức. Khi nào xong việc con cho cậu hay. Mà cậu cho con biết ý thích của cậu như thế nào.

– Cậu thì chủ yếu là để giải hạn, không cần đẹp chỉ cần là đừng xấu quá. Cậu không thích người ốm quá, mà mập quá thì nhìn… hổng phê. Tuổi tác thì đừng cứng quá mà cũng đừng mềm quá. Con đừng tin ai, phải chính mắt con nhìn, thấy mới tin. Tuổi cỡ ba mươi thì cũng được, chỉ sợ cái đó nó đem rì biu lại thì coi như mình xài hàng si đa. Mà cậu sợ nhứt là mấy đứa tuổi nhỏ, nó túng cùng làm liều khai đội tuổi lên cho đủ tiêu chuẩn, tới chừng đổ bể mang tội làm tình với trẻ vị thành niên, cậu đọc báo thấy hoài.

– Cậu khỏi lo, con biết cậu rất cẩn thận. Con cũng vậy… Rồi, có gì con cho cậu hay.

Phi vụ không cần công chứng

Tâm Tư có hẹn với thằng Tửng tại cổng trường tiểu học, chỗ này vắng vẻ ít người qua lại, học sinh đang nghỉ hè, nó cải trang cho giống thám tử phim bộ Hồng Kông. Mang kính đen và đội mũ lưỡi trai. Thằng Tửng đi xe xịn đời mới từ từ ghé lại. Nó cũng đội mũ lưỡi trai mang kính đen. Ðụng hàng.

– Chào chú em. Anh là Tửng.

– Chào đại ca, em là Tâm, Tâm Tư.

– Biết mà, ở đây ai không biết chú mày Tâm Tư.

– Em có chuyện muốn nhờ đại ca. Chắc đại ca lo được.

– Vô đề đi, ngắn gọn.

– Có một người đàn ông, đang gặp một… có thể nói đang bị bao vây… bởi một đại hạn không gì gỡ nổi. Thầy Ba núi Ông Tà phán mau mau đi tìm mùi hương trinh nữ mà giải hạn.

– Người đàn ông đó chắc hẳn không phải là chú em?

– Chính xác. Nhưng em được ủy thác đứng ra đại diện thương thảo, đàm phán… cho cái phi vụ không cần công chứng này.

– Tốt, tốt, nhưng anh nói cho chú em mày biết điều này, anh không làm nghề dẫn gái, chưa từng, không hề. Nghe chú em mày than thở, anh cũng liều một phen giúp cái người đàn ông nào đó ham vui mà mang mặt nạ. Chú em mày cho biết yêu cầu như thế nào, ông anh sẽ cho biết giá.

– Biết là gặp đại ca thì thế nào cũng xong. Chỉ có một yêu cầu duy nhất là Ngọc nữ phải đủ tuổi làm chuyện người lớn. Xin lỗi, em phải xét căn cước.

– Ô Kê, theo như anh được biết thì giá cả từ khoảng hai mươi triệu cho đến một trăm triệu. Tuổi càng nhỏ thì tiền càng lớn, chân càng dài thì giá càng cao. Ðó là nói mấy em không tên tuổi. Còn mấy nàng thường xuyên xuất hiện trên in tờ nét thì nói thật, chúng mình không có cửa.

– Ô kê, vậy đại ca có sẵn hàng chưa? Có thể nào nhá nhá cho em thấy được không?

– Chờ chút, chờ coi anh mày làm việc.

Thằng Tửng móc phone ra bấm bấm bấm. Là em? Em muốn làm cái vụ này hả? Còn nguyên xi chưa bóc tem? Thiệt không đó? Hoàn tiền một trăm phần trăm nếu khách hàng không hài lòng. Ô kê, chờ chút có gì anh gọi lại sau.

– Có mối này tự động tình nguyện dâng hiến. Chỉ lấy mười triệu, giá cực thấp không nơi nào thấp hơn. Gái ba mươi nhưng vẫn còn nguyên. Ðây là bộ hình mới nhất chụp chưa quá ba mươi ngày. Nhìn thẳng nhìn nghiêng đủ kiểu. Mặc đồ xuyên thấu nhìn rõ nội y phô trương ba vòng đầy đủ.

– Nhìn hình thì quá bốc, trẻ như gái hai mươi. Nhưng nói thật, mình gặp hoài, bị hoài, hình trên phây với lại người thật khác nhau một trời một vực. Nếu tính theo phần trăm thì cũng phải đến tám chục. Em nói em ba mươi thì cộng thêm năm tuổi nữa là vừa.

– Chú em mày nhiều kinh nghiệm quá he, ở đời tiền nào của đó.

– Tiền bạc không thành vấn đề, quan trọng là ở chỗ hàng thật hay hàng giả. Giải hạn mà gặp đồ giả thì ăn làm sao nói làm sao với ông thần trù ẻo cho được đây.

– Thôi được, có chỗ này ngon lắm. Bảo đảm chín mươi chín phần trăm. Ðể anh mày liên lạc rồi cho chú mày biết. Ô kê.

– Ô kê.

Khách sạn hào hoa

Gọi là khách sạn Hào Hoa cho nó kêu bởi đó là tên một bộ phim nổi tiếng ai cũng biết, chánh thức có bảng hiệu đàng hoàng là khách sạn Ngàn Hoa, nhưng người dân ở đây gọi là nhà nghỉ. Nhà nghỉ ngàn hoa, hoa thật thì ít mà hoa biết nói thì nhiều.

Buổi trưa mùa hè nắng nóng đổ lửa có hai người đàn ông và một cô gái trẻ làm thủ tục mướn phòng. Họ xưng là người trong gia đình dù ba người ba họ khác nhau. Họ chỉ có nhu cầu nghỉ vài tiếng đồng hồ nên được hưởng giá đặc biệt. Nhân viên nhà nghỉ thì biết quá nhiều mấy cái chuyện này. Một nguyên tắc làm ăn hàng đầu của giới kinh doanh nhà nghỉ là không dòm ngó khách hàng.

Người đàn ông lớn tuổi kề tai cô gái trẻ nói nho nhỏ.

– Phòng số 35 trên lầu ba, cháu đứng đây chờ chú mở cửa vô trước, lát hồi cháu vô sau, nhe.

– Dạ.

Trước cửa phòng số 35.

Hai người đàn ông một già một trẻ, nhìn trước nhìn sau nhẹ mở cửa phòng, len lén bước vào như dân ăn trộm.

– Cháu vô phòng tắm núp trong đó, nhớ quan sát nghe ngóng. Hễ thấy có gì khả nghi bất thường, hoặc nghe cậu la cấp cứu thì nhào ra ứng cứu, thời buổi này không tin ai được, ghê lắm, báo ngày nào cũng có đăng.

– Dạ dạ… con lúc nào cũng cảnh giác. Hồi nãy có “chách ai đi” của con nhỏ đó rồi, chính xác hai mươi tuổi dư sáu tháng. Hình trong ảnh và người thật giống chín mươi phần trăm. Nói nó không được đem gì vô phòng kể cả phone cầm tay và nước uống. Ghê lắm, sợ nó bỏ thuốc mê vô trong nước, bị cái vụ này hoài. Con cũng cẩn thận rà soát khắp người nó rồi, không có gì nổi cộm.

– Vậy là tốt. Thôi vô phòng kiếm chỗ núp, nó lên tới gõ cửa kìa.

Ông Hai bước đến mở cửa cho người ngọc bước vào. Ðã lên chức ông ngoại rồi mà sao hồi hộp lúng túng còn hơn cái lần đầu tiên.

Cả hai nhìn nhau không biết phải bắt đầu như thế nào. Con Lành thì đã được anh Tửng dặn dò chỉ dẫn. Luôn nhớ là phải gọi chú bằng anh.

– Trời nóng quá mà sao anh mặc đồ nhiều vậy.

– Ờ ờ … tại cái thằng cháu… nó vẽ làm sao… thì chú…thì anh… diễn như vậy.

– Cái màn dạo đầu… là hai người ngồi cách xa… như vầy hả anh.

– Em nói còn y nguyên…chưa từng… sao cũng biết cái màn dạo đầu.

– Anh Tửng nói với em, ảnh dạy em là mới vô đầu thì phải làm như vậy như vậy.

– Bạn trai của em không có dạy em sao?

– Ðâu cần dạy, mấy cái chuyện này đâu cần ai dạy, tự biết.

– Bạn trai của em… ảnh dạo đầu như thế nào.

– Ảnh hả… cười… Ảnh hổng có màn đầu màn giữa màn cuối gì hết, nhập cục, ba hồi nhập một.

– Như vậy thì em đâu còn nữa.

– Dạ còn, còn y nguyên. Ảnh sung lắm, mới có ôm hun chút xíu là rồi, xong. Mau lắm lần nào cũng vậy.

– Bây giờ ảnh ở đâu?

– Dạ ảnh lên thành phố làm công nhân, hai ba tháng về thăm nhà một lần.

– Mai mốt ảnh về, rủi ảnh biết cái chuyện này thì sao?

Con Lành không nói gì, nó bắt đầu khóc. Ông Hai thật bối rối trước một tình cảnh không có trong kịch bản.

– Em ơi, em đừng khóc. Anh có bịnh, cái bịnh không thuốc chữa, anh đây rất khó chịu khi nhìn một người phụ nữ khóc. Dù đôi khi đó chỉ là những giọt nước mắt cá sấu.

Lành quệt nước mắt, cố nín.

– Bộ cá sấu cũng biết khóc nữa hả anh?

– Nghe người ta nói bắt chước nói theo, chưa từng thấy qua.

Ông Hai bước đến cửa sổ nhìn ra bên ngoài. Tự nhiên thèm một ly rượu.

– Anh ơi, nhà này có ma. Em thấy sao cánh cửa nhà tắm nó nhúc nhích.

– Không sao đâu đừng sợ, để anh đập con ma này cho nó tởn.

Ông Hai đi vô nhà tắm khép cửa lại.

– Mày làm cái gì mà thập thò, ló ra ló vô vậy.

– Cậu ơi, bề gì mình cũng đã trả tiền đầy đủ, nếu cậu nhắm cậu làm không xong, để con tiếp sức, bỏ uổng.

– Thằng khùng, mày nói cái gì vậy.

– Cậu nghĩ coi, sức trai trẻ như con, coi phim còn chịu không nổi, đằng này coi “lai”, thánh sợ còn nhịn không được nữa là con.

– Mày đừng có nhìn, nghe chưa.

– Anh ơi, hết màn dạo đầu chưa?

– Chi vậy em?

– Tới cái màn thứ nhì thì mình cởi ra nằm xuống phải không anh?

– Từ từ chút, anh đâu phải như cái thằng người yêu của em.

– Dạ, em chỉ hỏi để em chuẩn bị.

– Em ơi, sao tự nhiên tới đây cái nó ngừng. Tự nhiên sao tới đây cái nó nói thôi. Kể như xong, úm ba la giải hạn.

– Anh sao vậy, bộ yếu lắm hả, sao anh không uống cái thuốc gì đó, nghe nói ở bên Mỹ bán rẻ lắm, hay lắm mà.

– Cái gì cũng biết vậy mà nói em chưa biết gì.

– Lại nằm đây để em mát xa cho anh một hồi coi anh có khá hơn không.

– Ừ phải, anh thích.

Lành thò tay xuống gầm giường lấy cái phone, ông Hai thấy vậy người giận run lên.

– Em định làm gì vậy, cái phone này của ai, ở đâu em có cái phone này?

Ông Hai định nhào tới giật cái phone, em định chụp ảnh nóng của anh phải không?

– Anh ơi bớt giận, để em nói. Ðại gia người ta mới sợ có người tung ảnh nóng lên mạng khống chế. Chớ còn ảnh nóng của anh và em bốt lên phây, thì chỉ hai đứa mình thôi nhé… hốt đá mấy ngày cũng chưa hết.

– Phi vụ đến đây coi như là xong, nói chuyện đàng hoàng.

– Dạ, anh bớt nóng, em sợ nhất là nhìn một người đàn ông lúc nổi giận.

Ông Hai bước đến bàn lấy nước uống, nhìn ra bên ngoài không nói gì. Lành ngồi im lặng, không hiểu sao tiệc vui chưa tàn lại xảy ra chuyện đáng tiếc.
Ông Hai bước đến ngồi cạnh bên Lành.

– Tôi sẽ trả tiền sòng phẳng như cam kết. Ðừng bao giờ nhắc tới cái chuyện này nữa. Ðã biết trước, cẩn thận dặn dò vậy mà cái thằng chết tiệt đó cũng để lọt cái phone.

– Dạ em cám ơn anh rất nhiều, anh rất tốt.

– Từ giờ gọi tôi là chú, đừng bao giờ gọi chú bằng anh.

– Dạ chú, chú đừng trách anh Tâm Tư tội nghiệp ảnh. Ảnh có khám xét con kỹ càng.

– Khám sao để lọt cái phone vô đây.

– Dạ con có chỗ giấu.

– Giấu chỗ nào?

– Chú ơi, trên thân thể người đàn bà có chỗ nào kín hơn chỗ kín.

Ông Hai đưa tay lên trời, thiệt chưa từng thấy. Ngày xưa, người đàn bà đẹp khêu gợi, trong quán ba hay vũ trường, mặc áo hở cổ, một tay cầm ly rượu, một tay thò vào ngực từ từ rút đồng bạc trong áo cọt xê bo cho anh bồi, mà phải đẹp mới làm như vậy. Còn thời bây giờ, cái phone chần dần như vậy mà cũng… giấu được. Thiệt tình nghĩ không ra.

Thôi bỏ qua hết, coi như cái phi vụ này đã xong. Giải hạn được thì tốt, giải không được thì cũng thây kệ… mẹ. Con ma trong nhà tắm mày đâu rồi, sao nãy giờ có chuyện mày trốn mất dấu vậy hả con?

– Dạ con đây xin trình diện, con thấy cậu nổi giận sợ quá… chờ cậu bớt giận.

Từ trong góc phòng lù lù xuất hiện một con ma khác, thằng Tửng. Ông Hai nhìn thằng cháu, giỏi quá hé, ông con sê cu ry ty, ông làm ơn lập bảng báo cáo trình thượng cấp.

– Thưa chú, xin phép cho con nói trước. Lúc đầu con đánh giá chú là một người tử tế đàng hoàng. Có thể tin được. Sau con thấy chú với thằng cháu của chú hai người rù rì to to nhỏ nhỏ. Biết đâu được gián điệp gài độ. Con phải thủ một đường hạ cánh an toàn. Con nói con Lành giấu cái phone, có gì gọi con ứng cứu.
Con đi lòng vòng bên ngoài sao không thấy bóng dáng thằng Tâm Tư. Bụng bắt đầu đặt dấu hỏi. Thôi chết mẹ rồi. Nó ở trong phòng với chú. Con Lành thấy nó thập thò trong nhà tắm sợ điếng hồn, thừa lúc chú vô đó bàn tính điều gì với nó, lén mở cửa cho con vô.
Nãy giờ con làm con ma xó.

– Vậy là nãy giờ mày nghe hết, thấy hết.

– Dạ, lúc đầu giống như phim hài, lúc sau hết cười, cái lúc mà chú bước lại cửa sổ nhìn ra bên ngoài, thấy gương mặt chú buồn bã tội nghiệp. Con ứa nước mắt, biết chú không làm là tại chú không muốn chớ không phải chú không còn sức.

– Mấy cháu ơi, thôi lỡ rồi, cũng may, chưa xảy ra điều gì. Quên hết đi, đừng nhớ cũng đừng nhắc. Lành đâu. Dạ. Chú còn ở nhà một mớ, gom lại đâu cũng cỡ trăm triệu… cho con hết. Coi như chú mua đứt cái đó của con, đừng đem đi bán nữa nhe. Dạ, con hứa. Thôi, đừng khóc. Tâm Tư, dạ, mày biết tiền của cậu để đâu không. Dạ biết. Về nhà lấy hết dùm cậu, cậu ra quán nhậu ngồi chờ. Tự nhiên bữa nay thèm nhậu. Con ma xó có muốn đi theo không. Dạ muốn. Chú ơi cho Lành đi theo, cháu ăn mồi.

NTG Tháng 08-2016
nguồn: http://baotreonline.com/phi-vu-bat-kha-thi/

BachMa
03-20-2018, 06:22 PM
Kỵ Binh QLVNCH: Trận Cửa Việt
Kỵ Binh Đặng Hữu Xứng

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1517861233-KyBinh_TranCuaViet_01.jpg
Đã lâu lắm rồi, kể từ ngày trận đánh Cửa Việt xảy ra. Tất cả những người trong cuộc có lẽ đều có chung ý nghĩ đây là trận đánh cuối cùng trước giờ ngưng bắn! Nhưng thật sự, sau hơn 38 năm, trận đánh Cửa Việt vẫn còn hừng hực lửa “Chiến Thắng“ trên những đặc san, hồi ký hoặc bút ký chiến trường của cả các sĩ-quan, tướng lãnh của 2 phe tham chiến. Ai cũng cho mình là người chiến thắng, là kẻ anh hùng dù đơn vị dưới quyền chỉ huy của mình bị đối phương đánh cho tả tơi, tan tác… nhưng vẫn hiên ngang mà tuyên bố “Can trường trong chiến bại” chứ chưa bao giờ nghe ai tự nhận trách nhiệm về mình sau cuộc chiến!!…Riêng tôi là một trong hàng trăm chiến sĩ của QLVNCH có mặt trong trận đánh đó. Ở đây tôi không dám lạm bàn về Anh Hùng hay Bại Tướng mà chỉ muốn nóí lên niềm tự hào của môt người lính Thiết Giáp trên chiến trường giới tuyến vì đã tham dự nhiều trận chiến trong Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972 và trận đánh ác liệt, đẫm máu, phá tan tuyến phòng thủ kiên cố nhất, mở đường cho những trận tái chiếm tỉnh lỵ và Cổ thành Quảng Trị, và lại có mặt trong cuộc hành quân tái chiếm Cửa Việt: Một cuộc hành quân thần tốc do Thiết Giáp làm Lực Lượng Tấn Công chính, phải chiếm cho bằng được mục tiêu trong vòng 24 tiếng đồng hồ, vượt qua đoạn đường hơn 10 cây số với vô vàn chốt và tuyến chặn của địch mà trước đó các đơn vị bạn đã phải mất hàng tháng trời, khó khăn lắm mới tiến lên được vài trăm mét, sau cùng vẫn bị đẩy lui về vị trí ban đầu…….

“Truth is the only merit that gives dignity and worth to history.”
Lord Acton

Toàn bộ quá trình kế hoạch Hành Quân mang tên Tango bắt đầu từ buổi họp hành quân đặc biệt vào lúc 09:00 giờ ngày 26/01/1973 tại Phòng Họp Hành Quân BTL/Lữ Đoàn 147/TQLC tại Hội Yên, Hải Lăng, Quảng-Trị, gồm có:
– Tr/tướng Ngô-quang-Trưởng (TL/QĐ1)
– Ch/tướng Bùi-thế-Lân (TL/SĐ/TQLC)
– Đ/tá Nguyễn-thành-Trí (TLP/SĐ/TQLC)
– Các TL Lữ Đoàn 147, 258, và 369 TQLC

– Các Thiết Đoàn trưởng gồm:
– Tr/tá Ng-văn-Tá (Th/Đoàn trưởng Th/Đoàn20CX),
– Tr/tá Nguyễn-xuân-Dung (Th/Đoàn trưởng Th/Đoàn17KB),
– Th/tá Phan-văn-Sĩ (Th/Đoàn trưởng TĐ18KB)
– Các T/Đoàn trưởng TQLC
– Và Đ/u Đặng-hữu-Xứng (C/Đoàn trưởng CĐ1/20CX)

NHIỆM VỤ TỔNG QUÁT

Lệnh của Tổng thống Nguyễn-văn-Thiệu:
– Phải chiếm lại Cửa Việt trong vòng 24 giờ, tức là trước 08:00 giờ ngày 28/01/1973 (ngày ký Hiệp Định Paris)

TỔNG CHỈ HUY CUỘC HÀNH QUÂN TANGO

Đ/tá Nguyễn-thành-Trí (TLPhó/SĐ/TQLC)

CHỈ HUY CÁC CÁNH QUÂN

1. Cánh A (Nổ lực chính)
Do Đ/u Đặng-hữu-Xứng ((khóa 19 TBB/TĐ), C/Đoàn trưởng C/Đoàn 1/20CX chỉ huy. C/Đoàn phó là Tr/u Lê-văn-Điệp (khóa 1/69 TBB/TĐ).
Nhưng khi tham chiến thì Tr/u Lê-văn-Điệp được Đ/u Xứng cho ở lại tiền cứ là căn cứ Hòa Mỹ (Camp Evans – Phò-Trạch, Phong Điền) vì phải giải quyết chuyện cá nhân, và Tr/u Tống-huy-Kính (cựu C/Đội trưởng C/Đội 2/1/20CX) được Đ/u Xứng chỉ định thay thế.

Lực lượng gồm:

– C/Đoàn 1/20 CX M-48. Chỉ đoàn tham chiến chỉ gồm 12 CX [(BCH/C/Đoàn gồm 2 CX Chỉ huy + 1 M.577 – xe Truyền tin- + M.113) + Chi Đội 3/1/20CX của Th/u Đặng-văn-Quang (5 CX) + Chi Đội 3/3/20CX của Th/u Nguyễn-văn-Sa từ Chi Đoàn 3/20CX tăng phái (5 CX)]

Đơn vị tăng phái cho Đ/u Xứng:

– Chi Đoàn 2/17TK (22 xe M.113), C/Đoàn trưởng là Đ/u Trần-Cảnh (khóa 22B TVBQG/VN). C/Đoàn phó là Tr/u Thi (khóa 26 TBB/TĐ)
– ĐĐội4/TĐoàn2TQLC (Trâu Điên) của Tr/u Trần-đinh-Công (khóa 26 TBB/TĐ)

Nhiệm vụ: Tấn công càn lướt các mục tiêu dọc bờ biển để tiến chiếm Cửa Việt trước giờ ngưng bắn, tức là 8 giờ sáng ngày 28/01/1973: ngày ký Hiệp Định Paris.

2.Cánh B (Nổ lực phụ)

Do Đ/u Lê-bá-Nam (khóa 20 TBB/TĐ), C/Đoàn trưởng C/Đoàn 3/20CX chỉ huy. C/Đoàn phó là Tr/u Nguyễn-thanh-Hiền (khóa 23 TBB/TĐ).


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1517861249-KyBinh_TranCuaViet_02.jpg
Thiết Đoàn 20 Chiến Xa M48 – Quảng Trị 1972

Lực lượng gồm:

– C/Đoàn 3/20CX (- 1 C/Đội của Th/u Ng-văn-Sa) gồm12 CX M.48 + M.113

Đơn vị tăng phái cho Đ/u Nam:

– C/Đoàn 3/18TK (gồm 22 xe M.113) C/Đoàn trưởng là Đ/u Nguyễn-quang-Minh (khóa 14 TBB/TĐ). C/Đoàn phó là Tr/u Nguyễn-văn-Quyến (khóa 24 TVBQG/VN).

– ĐĐ3/TĐoàn4TQLC (Kình Ngý) của Tr/u Mai-văn-Hiếu (khóa 23 TVBQG/VN)

Nhiệm vụ: Tiến quân dọc theo các làng mé ruộng phía tây, song song nhưng tiến chậm hơn và cách Cánh A chừng gần 01 km, hổ trợ theo yêu cầu của Cánh A, cùng tiến chiếm mục tiêu Cửa Việt.

– T/Đoàn 4 (-) TQLC của Tr/tá Nguyễn Đằng Tống (khóa 16 TVBQG/VN), có nhiệm vụ phải tiến quân theo sau Cánh A, điền trám vào những mục tiêu đã được Thiết Giáp càn lướt qua và diệt những ổ kháng cự còn sót lại trong các mục tiêu.

– T/Đoàn 2 (-) TQLC của Th/tá Trần-văn-Hợp (khóa 19 TVBQG/VN) được tăng cường 3 Đ/Đội của T/Đoàn 9 TQLC do Th/tá Phạm-Cang (khóa 20 TVBQG/VN) chỉ huy, từ tuyến Long Quang, có nhiệm vụ phải tiến chiếm các mục tiêu dọc mé ruộng lên hướng bắc.

Giờ G (xuất phát tấn công): 07:00 ngày 27/01/1973

– Không tiếp tế, không tải thương, tức là, nếu TQLC hay TG bị thương thì bỏ lại tại chỗ cho đơn vị theo sau lên săn sóc tải thương.
– Không cần thu chiến lợi phẩm hay bắt tù binh.
– Không cần giao chiến khi gặp địch mà chỉ cần càn lướt, ngoại trừ trường hợp bất khả kháng.
– Hoàn toàn không có Không Quân yểm trợ.
– Chỉ có Pháo Binh yểm trợ.
– Lương thực mang theo gọn nhẹ cho 3 ngày.
– Mỗi quân nhân đều phải mang theo 5 lá cờ VN nhét vào trong nón sắt hay balô để cắm vào mục tiêu chiếm được tại Cửa Việt để phân ranh giới.

Cuộc Hành Quân Tango phải được giữ bí mật cho đến trước giờ xuất phát tấn công.

Sau khi Đ/tá Trí thuyết trình xong, tôi (Đ/u Đặng-hữu-Xứng) đã đứng lên trình bày:
“Thưa Đại tá, có lẽ tôi sẽ phải mất một khoảng thời gian chưa xác định được để vượt qua tuyến chặn đầu tiên của địch, vì đã hơn 1 tháng, các T/Đoàn TQLC đã nhiều lần thay phiên nhau tìm cách đánh thủng tuyến này nhưng vẫn không có kết qủa. Điều này chứng tỏ đây là một tuyến chặn rất vững của địch.”

Và Ch/tướng Lân nói:
“Tình hình là như thế nhưng giá nào cũng phải hoàn thành nhiệm vụ giao phó.”

Buổi họp Hành Quân kết thúc sau hơn 1 tiếng đồng hồ. Tôi nói với Tr/tá Tá bảo Đ/u Nam tăng phái Chi Đội của Th/u Ng-văn-Sa cho tôi và Th/u Sa cùng C/Đội của mình phải có mặt tại điểm tập trung này (tôi chỉ trên bản đồ lúc 17 giờ cùng ngày. Tôi nói với Tr/tá Dung bảo Đ/u Cảnh (C/Đoàn trưởng 2/17TK) cùng C/Đoàn 2/17TK cũng đến đó cùng ngày giờ.

(- Lý do tôi chỉ định Chi đội của Th/u Sa cũng rất dễ hiểu, vì Th/u Sa là một sĩ-quan đã từng phục vụ ở Ch/Đoàn 3/20CX kể từ ngày thành lập Th/Đoàn 20CX nên đã được huấn luyện kỹ từ khi Cuộc Chiến tại Quảng-Trị và Đông-Hà bùng nổ, cũng như đã trải nghiệm chiến trường.

– Còn Chi Đoàn Phó của tôi là Tr/u Lê-văn-Điệp lại nằm trong trường hợp đặc biệt: Vợ của anh ta đã từ Sàigòn ra thăm chồng, mang theo cái bầu bự hơn 3 tháng. Dân gian thường có câu: vợ mà có bầu thì chồng thường gặp điều xui xẻo. Có đúng như vậy hay không thì tôi chưa biết, nhưng trong trường hợp này thì tôi lại cho là đúng nên đã cho Tr/u Điệp ở lại tiền cứ và bảo liên lạc thường xuyên để biết tình trạng của 2 Chi Đội là Chi Đội 1 và Chi Đội 2 của tôi đang được tăng phái cho các T/Đoàn Nhảy Dù tại các tuyến ở hướng núi phía Tây Quốc lộ 1. Để thay thế, tôi chỉ định Tr/u Tống-huy-Kính (cựu C/Đội trưởng Chi Đội 2/1/20CX) phụ tá cho tôi trong cuộc hành quân này. Riêng tôi thì vợ tôi chỉ còn chừng gần 1 tháng nữa là sinh thêm cho tôi một đứa con, nhưng vì là “Đầu tàu” thì đành phải chịu thôi.)

Trên đường về, ngồi trên xe jeep, lòng tôi cứ ngổn ngang những thắc mắc không tìm được lời giải đáp:
– Tại sao lại chỉ định mình (chỉ với cấp bậc Đại-úy) chỉ huy Cánh A làm Nổ Lực chính trong một cuộc hành quân qui mô như thế này?

– Tại sao không để cho mình chỉ huy C/Đoàn (-), tức là 2 C/Đội cơ hữu của C/Đoàn mà chỉ để lại cho mình 1 C/Đội và lại tăng phái cho mình 1 C/Đội của C/Đoàn 3/20CX? Như vậy, chỉ huy một đứa em ruột với khả năng mình biết rõ và một đứa em nuôi mình chưa biết rõ thì làm sao có được sự nhịp nhàng và ăn khớp trong việc chỉ huy và điều động?

– Còn nói về tâm trạng riêng của tôi (và nhất định là tâm trạng chung của những quân nhân các cấp thuộc 2 Binh chủng TG và TQLC trong lực lượng tham chiến) thì khó có thể diễn đạt hết được. Chỉ còn hơn 1 ngày và 1 đêm nữa thì Hòa Bình rồi, vậy ai mà không muốn mình còn sống sót để hưởng những giờ phút quý báu nhất trong đời lính như thế chứ?.

Về đến tiền cứ, tôi bảo Th/u Đặng-văn-Quang kiểm tra C/Đội 3/1/20CX của anh để sẵn sàng di chuyển khi có lệnh, và nói 17 giờ sẽ họp, sẽ có cả Th/u Ng-văn-Sa và Đ/u Trần-Cảnh của C/Đoàn 2/17TK. Nghe như thế, Quang dĩ nhiên là lộ vẻ ngạc nhiên. Tôi liền nói luôn là C/Đoàn có nhiệm vụ đặc biệt và lực lượng sẽ có Th/u Sa từ C/Đoàn 3/20CX tăng phái cùng với C/Đoàn 2/17TK và 1 Đ/Đội TQLC của T/Đoàn 2 Trâu Điên tùng thiết, và dặn Quang không được tiết lộ với bất cứ ai.

Đến 16:00, từ tiền cứ tại căn cứ Hòa Mỹ (Camp Evans), BCH/C/Đoàn 1/20CX cùng C/Đội 3/1/20CX của chúng tôi bắt đầu di chuyển đến Hải Lăng và tiếp tục đến Mỹ Thủy, chuyển qua hướng bắc đến Thôn Thuận Đầu (vị trí của BCH/TĐoàn 4 TQLC), bung ra nủa vòng tròn bố trí, dành nửa vòng tròn còn lại cho C/Đội CX M.48 của Th/u Sa, còn C/Đoàn 2/17TK M.113 thì sẽ bố trí xen kẻ giữa những chiến xa.

Khoảng 17:20, các C/Đội và C/Đoàn TG đã đến đủ và bố trí xong và lo cơm nước buổi tối. Tôi gọi các sĩ-quan TG tham chiến đến và trình bày lại những gì đã nghe được trong buổi họp tại Lữ Đoàn 147/TQLC, nhưng dặn phải chỉ nói với anh em thuộc cấp rằng đây chỉ là một cuộc hành quân bình thường để giữ an toàn cho các đơn vị ở tuyến đầu mà thôi. Tuy nhiên, họ phải nổ lực và cẩn thận y như các cuộc hành quân họ đã từng tham dự. Riêng Đ/Đội TQLC tùng thiết sẽ có mặt vào sáng sớm ngày hôm sau trước 06:00 (ngày 27/01). Đến lúc đó mới có kế hoạch chi tiết

Tôi báo cáo về BTL/Hành Quân/SĐ/TQLC cho biết tình trạng và vị trí.

DIỄN TIẾN TRẬN ĐÁNH

Khoảng 05:30 ngày 27/01/73, Đ/Đội 4/TĐ2 TQLC của Tr/u Công đến trình diện. Tôi gọi Đ/u Cảnh, Tr/u Kính, Th/u Quang, Th/u Sa và Tr/u Công đến họp ngay sau xe M.113 thuộc Phân đội chỉ huy của tôi. Tôi chỉ vào bản đồ vị trí hiên tại, vị trí quân bạn, tuyến xuất phát, tiếp đến nói ngắn gọn về kế hoạch tiến quân của Cánh A, và mục tiêu chính là Cửa Việt. Cũng nói sơ về Cánh B (nổ lực phụ rôi bảo Tr/u Công cho lệnh TQLC tùng thiết lên M.113 của C/Đoàn 2/17TK và chờ lệnh.

Chúng tôi chỉ họp trong vòng khoảng 20 phút. Vào lúc này thì Pháo binh đủ loại bắt đầu TOT (time on target) vào các làng dọc theo bờ biển trên trục tiến quân của Cánh A của tôi.

Khoảng 06:20 ngày 27/01, tôi gọi về BTL/Hành Quân/ SĐ/TQLC để họ báo cho T/Đoàn 4TQLC ra lênh cho Đ/Đội TQLC đang giữ tuyến đầu rút lui để chúng tôi tiến đến tuyến xuất phát.

Khi Cánh A của tôi đến tuyến xuất phát, Pháo binh vẫn còn hoạt động. Chỉ tiếc một điều là đạn pháo chỉ rơi vào bên trong các làng mà VC thì lại đào giao thông hào để bố trí kháng cự hoàn toàn ở ngoài khoảng cát trống nhưng có những ụ cát mấp mô, rải rác những cây bụi nhỏ, phía trước làng. Tôi cho C/Đội CX của Th/u Quang dàn hàng ngang bên phải (song song và cách mé biển chừng 100m), và Th/u Sa dàn hàng ngang bên trái, mỗi chiến xa cách nhau chừng 50m vì còn phải có khoảng trống để cho những M.113 của C/Đoàn 2/17TK dàn hàng ngang xen kẻ giữa những chiến xa nhưng lui về phía sau với cự ly chừng 20m.

Tôi chưa kịp ra lệnh tấn công thì địch đã dồn dập nổ súng từ trong làng kèm với đạn cối 82 ly rơi nổ ngay trên tuyến xuát phát. Tôi tức tốc cho lệnh tấn công ngay, dồn hỏa lực đại liên 30 ly M.73 song hành và đại liên 50 ly của Chiến xa và của M.113 vào mục tiêu đầu tiên (làng Gia đẳng).

1). Nhưng địch vẫn bắn trả rất mảnh liệt bằng thượng liên và súng chống chiến xa AT-3 cũng như B-41. Điều này khiến tôi hồi tưởng đến trận đánh ở Quảng Tín (Quảng Nam) vào đầu Tết năm 1970, lúc tôi còn làm C/Đoàn Phó C/Đoàn 2/17TK.

(Đây là cuộc Hành Quân mang tên Dương Sơn 3 do Lữ Đoàn 1 KB cùng với Liên Đoàn 1 BĐQ do Đ/tá Phan-hòa-Hiệp (TL/Lữ Đoàn 1KB hồi đó) chỉ huy. Khi C/Đoàn tôi đang dàn hàng ngang trước mục tiêu chừng 100m và bắt đầu tiến vào mục tiêu thì địch đã tấn công trước vì chúng đã đào hầm hố và giao thông hào trước mục tiêu chừng 50m. Yếu tố bất ngờ này khiến C/Đoàn lúng túng, nhưng tôi đã ra lệnh tiếp tục tấn công bằng cách dùng đại liên 50 bắn vào mục tiêu, còn 2 khẩu đại liên 30 gắn 2 bên hông phía trên xe M.113 thì bắn vào các ụ đất và lùm cây nhỏ trên trục tấn công. Nhờ vậy mà C/Đoàn đã diệt được các chốt phía ngoài trống và xông thẳng vào chiếm được mục tiêu. Sau đó thì thả BĐQ xuống vào sâu lục soát tiêu diệt tiếp. Và tôi đã được thăng cấp Đại Úy đặc cách mặt trận do Đ/tướng Cao.văn-Viên gắn lon tại BTL/Hành Quân/Lữ Đoàn 1KB đóng tại đồi Hương Sơn, Quảng Tín).

Chính vì thế mà tôi ra lệnh cho Chiến xa M.48 và M.113 tấn công bắn phá theo chiến thuật đó. Đặc biệt là Chiến xa vẫn tiến liên tục cán luôn lên hầm hố và giao thông hào của địch, còn M.113 của C/Đoàn 2/17TK vẫn tiến theo sau, đồng thời thả TQLC trên xe xuống để dùng súng cá nhân thanh toán địch trong những hầm hố và giao thông hào đã bị Chiến xa cán lướt qua. Tiến được chừng hơn 200m thì lính TG trên M.113 thuộc Phân đội Chỉ huy của tôi đã nhảy xuống bắt sống một tên địch với khẩu súng bắn tỉa có máy nhắm. Tôi mới chợt nhớ ra tại sao hai bên tai của tôi đã có những tiếng nổ toác toác. Đó là đạn phát ra từ khẩu súng bắn tỉa này. Mục đích là muốn tỉa rụng cấp chỉ huy trước. Tôi nhảy xuống khỏi Chiến xa và hỏi tên địch: “Anh thuộc đơn vị nào?” Tên tù binh mặt mày xanh mét, trả lời, giọng miền Bắc run run: “Em thuộc Z6/304. Xin các anh cho em sống. Xin các anh cho em sống!” Tôi cho lệnh chở tên tù binh về phía sau để được khai thác tiếp, rôi lại tiếp tục tiến quân.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1517861268-KyBinh_TranCuaViet_03.jpg
Chiến Xa M48- Thiết Đoàn 20- Quảng Trị – 1972

Kể lại phần này thì chỉ mấy dòng và như chuyện đã xảy ra trong thoáng chốc, nhưng trên chiến trường, thời gian cần thiết để thực hiện bước tiến qua từng thước đất của địch rất khó xác định.

Cánh quân của tôi đã vượt qua được khoảng 400m, cách làng Gia Đẳng I khoảng70m, thì pháo 130 ly của địch bắt đầu dập xuống, tức là địch pháo chặn đường tiến của cánh quân do tôi chỉ huy, đồng thời cũng thí luôn quân của họ đang chống cự ngoài khoảng cát trống, còn trong làng thì địch vẫn liên tục bắn ra.
Ngay vào lúc này, Th/u Đăng-văn-Quang, C/Đội trưởng C/Đội 3/1/20CX, gọi máy báo đã bị thương. Mới bước đầu mà tôi đã mất đi một sĩ-quan thiện chiến rồi. Tôi lập tức ra lệnh cho Tr/u Tống-huy-Kính cùng với Chiến xa của anh lên thay thế và cho M.113 chở Th/u Quang về phía sau gần tuyến xuất phát để được tải thương sau khi đã liên lạc thông báo với T/Đoàn4TQLC đang tiến lên từ phía sau để điền vào phần đất cánh quân của tôi đã chiếm được nhưng rất chậm do pháo của địch cứ dồn dập.

Nhìn vào đồng hồ đeo tay, lúc này đã hơn 10:40, tôi ra lệnh cho Tr/u Kính và Th/u Sa tạt xéo về hướng Tây cách xa làng Gia Đẳng chừng 70m, chuyển thành hàng ngang như cánh cung rồi tiếp tục tiến, riêng Th/u Sa phải ra lệnh cho 2 chiến xa phía tận cùng bên phải tác xạ vào làng bên phải (làng Gia Đẳng, dọc sát bờ biển) bằng đại liên M.73 song hành (với đại bác) và đại lên 50 hướng về phía làng, vừa tác xạ vừa tiến về hướng bắc chứ không tấn công. Còn C/Đoàn 2/17TK của Đ/u Cảnh thì nhanh chóng cho TQLC tùng thiết lên M.113 tiến dọc phía bên trái (phía bên trái tức là phía tây thì đã có Cánh B của Đ/u Nam, vả lại chỉ là khoảng trống nên không có gì nguy hiểm.)

Cánh A của tôi, kể từ tuyến xuất phát, đã tiến được hơn 2km vào khoảng 13:00. Tôi liên lạc với cánh B để biết vị trí của họ thì biết họ cũng đang gần đến ngang với Cánh A của tôi (Dĩ nhiên Cánh B là nổ lực phụ, tức là phải hổ trợ cho cánh quân của tôi khi cần, nên dù không chạm địch cũng không được tiến nhanh hơn Cánh A, và qủa thật thì cánh B chẳng gặp trở ngại gì nhiều trên đường tiến quân vì bên phía trái của họ đã có T/Đoàn2 và T/Đoàn9TQLC trong các làng thuộc mé ruộng).

Tôi tự nghĩ: mới mức độ tiến quân như thế này thì khó có thể đến được Cửa Việt vào buổi chiều tối. Vả lại địch quân vẫn bắn trả ráo riết. Tôi ra lệnh tiếp tục tiến quân càng nhanh càng tốt, dù biết những làng dọc mé biển vẫn còn địch quân. Chính vì thế mà T/Đoàn4TQLC không thể nào hoàn thành nhiệm vụ điền trám quân kịp thời vào những mục tiêu mà cánh quân của tôi đã càn lướt qua.

Bỗng chiến xa của Th/u Sa bị súng chống chiến xa AT-3 của địch bắn nổ sớt qua pháo tháp nhỏ (của đại liên 50 ly) và nhân viên xa đội của anh báo Th/u Sa đã bị thương. Tôi bèn ra lệnh cho C/Đoàn dừng lại chuyển thành hàng ngang tác xạ vào làng Gia Đẳng 3 và Ba Lăng bên phải (dọc biển) để cho M.113 thuộc BCH/C/Đoàn của tôi (có y tá đi trên xe này) đến băng bó tạm thời cho Th/u Sa. Tôi hỏi tình trạng thì biết anh bị thương ở mắt và gãy cánh tay trái, tóc bị cháy xém. Sau khi Th/u Sa nhảy ra khỏi chiến xa lại còn bị miểng pháo 130 ly chém gãy luôn chân trái. Dù lệnh là không tải thương, nhưng cũng giống như tình trạng của Th/u Quang (C/Đội trưởng C/Đội 3/1/20CX của tôi), vả lại khoảng cách với tuyến xuất phát chỉ hơn 2km, tôi ra lệnh cho C/Đoàn 2/17TK của Đ/u Cảnh bung rộng yểm trợ cho M.113 chở Th/u Sa về phía sau và báo cho T/Đoàn 4 TQLC tiếp nhận tải thương. Nhưng vào lúc này thì họ lại điền trám quân chưa kịp với tốc độ tiến quân của chúng tôi nên hơn 40 phút sau xe M.113 mới trở lại. Và Th/u Thăng thay thế chỉ huy C/Đội của Th/u Sa (sau khi đã trực tiếp nói chuyện với Th/u Sa để hỏi tên của sĩ-quan này). Như vậy, C/Đoàn 1/20CX (-) của tôi chỉ còn Tr/u Kính là sĩ-quan kỳ cựu mà thôi. Chưa tiến quân được bao nhiêu cây số mà tôi đã thiếu vắng 2 sĩ-quan thiện chiến rồi. Thật không may chút nào!

Đến khoảng 17:40 thì Cánh A của tôi đã tiến được khoảng 5km. Trời đã sẩm tối vì đang là mùa đông. Tôi bèn cho lệnh ngưng tiến quân và tìm nơi bố trí đồng thời gọi cho Cánh B lên cùng phối hợp bố trí đóng quân (ngang với làng Long Quang).

Sau khi bố trí xong thì quân lính bắt đầu ăn uống vì đã không ăn trưa. Lúc này tôi mới gặp Th/tá Hoàng-Kiều, Th/Đoàn Phó Th/Đoàn20CX và mới biết được ông đã được lệnh đi theo để chỉ huy các cánh quân. Còn có cả Th/tá Phạm-văn-Tiền, T/Đoàn Phó T/Đoàn4TQLC nữa. Trời đât! Vậy mà trước đó tôi đã không được thông báo gì cũng như trong hệ thống liên lạc, tôi không nghe ông ra lệnh gì cả, vì BCH/Th/Đoàn 20CX đi theo Cánh B cho an toàn. Ông hỏi tôi: “Sao anh không tiếp tục tiến quân?” Tôi nói: “Trời sắp tối rồi thì TG làm sao mà tấn công được chứ. Vả lại, sáng mai là ngưng bắn, là Hòa Bình rồi. Mình đã chiếm được khoảng hơn 5km là tốt lắm rồi.” Ông chẳng nói gì thêm. Tôi nói: “Vậy bây giờ tôi báo cho Th/tá biết tọa độ vị trí đóng quân của toàn bộ 4 C/Đoàn để Th/tá báo về cho Đ/tá Trí.” Tôi lấy bản đồ và chỉ vị trí xong rồi nói tiếp: “Nếu họ bảo mình tiếp tục tiến quân thì Th/tá cứ nói là TG không hành quân vào ban đêm được.”

Tôi về lại BCH/C/Đoàn và nghĩ rằng ý kiến và lý do của mình nghe rất hợp lý trên mặt chiến thuật, cũng hy vọng là cuộc hành quân tạm thời có thể chấm dứt.
Nào ngờ, khoảng 20:45, Th/tá Kiều đi bộ đến BCH của tôi và nói: “Sý Đoàn TQLC ra lệnh bằng bất cứ giá nào cũng phải tiếp tục tấn công và chiếm cho được Cửa Việt trước 8 giờ sáng mai (tức là sáng ngày 28/01/1973), đúng theo lệnh ban đầu.” Ông chỉ nói có thế mà thôi.

Mọi suy nghĩ và hy vọng của tôi trước đó đều tan biến trong phút chốc. Nhưng đã là lệnh thì phải thi hành thôi. Tôi gọi máy cho Đ/u Nam, Cảnh, Minh cùng với các Đ/Đội trưởng TQLC tùng thiết đến xe tôi để họp khẩn cấp, đồng thời bảo họ cho các C/Đoàn và TQLC tùng thiết chuẩn bị.

Trong khi chờ đợi, tôi vào xe M.577, rọi đèn pin vào bản đồ suy nghĩ cho kế hoạch tiến chiếm Cửa Việt. Khi cả 3 Ch/Đoàn trưởng và 2 Đ/Đội trưởng đến, tôi nhắc lại lời của Th/tá Kiều về lệnh của Sý Đoàn TQLC rồi rọi đèn pin vào bản đồ và nói:
“- Mình chỉ còn cách Cửa Việt khoảng hơn 5km về hướng bắc, cách bờ biển chừng hơn 400m về hướng đông (sát nước biển). Muốn chiếm Cửa Việt thì bắt buộc phải tấn công bằng tốc độ mới kịp, tức là phải tiến ra sát bờ nước biển rồi phóng nhanh về hướng bắc.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1517861285-KyBinh_TranCuaViet_04.jpg
Chiến Xa M48- Thiết Đoàn 20- Quảng Trị – 1972

– Trên đường tiến quân ra sát biển, tất cả mọi loại súng trên Chiến xa M.48 và M.113 đều phải xen kẻ quay về bên trái và bên phải. Chỉ có những xe hướng súng về phía trái, tức là hướng bắc, mới tác xạ khi cần. Còn về hướng nam, tức là bên phải, thì phải cẩn thận vì có thể sẽ gây thiệt hại cho quân bạn, tức là T/Đoàn4TQLC, dù tôi biết họ không thể nào điền trám quân kịp.

– Sau khi ra đến sát bờ biển thì từng xe phải chuyển hướng qua trái và hướng mọi loại súng về bên trái vừa tác xạ vừa tiến theo hàng dọc (bên phải lúc đó là biển). Chỉ còn có một cách này mà thôi. Tôi sẽ không cho gọi Pháo binh bắn chiếu sáng vì như thế địch sẽ thấy rõ các xe của mình để nhắm bắn. Cũng không cần Pháo binh yểm trợ vì sẽ mất yếu tố bất ngờ. Chiến xa nào xuất phát đầu tiên ra hướng biển thì có thể dễ nhận ra đường đi vì là khoảng trống giữa 2 làng Bình An và Thanh Hội Phường, và chân trời phía biển thì mờ sáng. Khi ra đến bải cát sát bờ biển thì sẽ dễ thấy hơn nữa vì ban đêm thì cát thường sáng hơn (kinh nghiệm từ những lần đi tắm biển vào ban đêm của tôi).

– C/Đoàn của Đ/u Nam sẽ đi đầu, kế tiếp là C/Đoàn của tôi, sau đó là C/Đoàn 2/17TK và sau cùng là C/Đoàn 3/18TK. Khi di chuyển, mỗi xe chỉ cách nhau chừng 20m cho dễ thấy nhau. Bây giờ, tất cả trở về ra lệnh cho TQLC tùng thiết lên xe. Sau 40 phút sẽ xuất phát, tức là 22:40. Tất cả các C/Đoàn Trưởng đều phải vào hệ thống truyền tin của Th/Đoàn 20CX (ngoài hệ thống chi huy nội bộ của từng Ch/Đoàn)”

Cuộc họp khẩn cấp này chỉ gồm có 4 C/Đoàn trưởng và 2 Đ/Đội trưởng TQLC tùng thiết. Có lẽ vì quá vội, tôi quên mất Th/tá Kiều và Th/tá Tiền. (Thật ra thì ngay từ buổi họp tại Lữ Đoàn 147 TQLC, Đ/tá trí đã trực tiếp ra lệnh cho tôi chỉ huy Nổ lực Chính -Cánh A- chứ không đề cập gì đến việc có BCH/Th/Đoàn20CX đi theo. Vả lại, khi Th/tá Kiều chuyển lệnh của BTL/HànhQuân/SĐ/ TQLC cho tôi, ông cũng không đề cập gì đến vấn đề kế hoạch tiến quân).

Đúng 22:40 thì Ch/Đoàn 3/20CX của Đ/u Nam bắt đầu di chuyển, tiếp đến là những C/Đoàn khác đúng như kế hoạch.

Có lẽ vì địch quân không thể nào ngờ được TG lại tiến quân vào ban đêm. Lại không có Pháo binh bắn yểm trợ hay chiếu sáng, nên hoang mang và không trở tay kịp. Do đó hầu như địch không có phản ứng kịp thời để ngăn chặn bước tiến của TG trên đường tiến ra sát bờ biển.

Khi Đ/u Nam báo cáo C/Đội đi đầu đã ra sát bờ biển, tôi cho lệnh từng Chiến xa M.48 và M.113 sau khi ra sát bờ mới quay về trái và tiếp tục tiến, như vậy mới không mất đội hình di chuyển vào ban đêm. Và sau khi C/Đoàn 3/18TK báo cáo M.113 cuối cùng của họ đã quẹo trái, tôi cho lệnh nới rộng khoảng cách từng xe lên khoảng 30m, tất cả mọi loại súng đều hướng về bên trái, tức là vào dảy cây dương liểu dọc theo các làng dọc biển, cách bờ chừng 60 đến 70m và vừa di chuyển vừa tác xạ cầm chừng.

Tôi nhìn vào đồng hồ đeo tay, lúc này là 00:20 ngày 28/01/73 (tôi mang đồng hồ dạ quang kèm một địa bàn đeo tay do Cố vấn Mỹ đã tặng tôi năm 1970), ước tính chiều dài đội hình di chuyển của các C/Đoàn để biết khi nào thì Chiến xa đầu tiên đến Cửa Việt.

Đoàn TG tiến quân chừng hơn 1km thì địch bắt đầu khai hỏa mạnh. Đạn địch bay sớt qua các xe rơi lỏm bỏm ngoài nước biển. Tôi cho lệnh tất cả vẫn tiến quân và tác xạ nhiều hơn vào dọc các làng trên đường đi, đồng thời di chuyển nhanh hơn.

Đoàn quân tiến được hơn 1 km nữa thì Đ/u Nam báo cáo chiến xa đầu tiên bị sụp xuống giao thông hào địch quân đã đào trong đêm để chận bước tiến của chúng tôi. Tôi bảo Nam tiếp tục cho các chiến xa kế tiếp lách sát ra ngoài mé nước biển vượt qua chiến xa đó để tác xạ yểm trợ và cho Chiến xa khác đến dùng dây cáp ngắn để kéo xe lên (loại dây cáp ngắn này đều được trang bị trên mỗi Chiến xa M.48). Đoàn quân tạm thời phải dừng lại để giải quyết tình huống này.

Khi được bào cáo chiến xa bị sụp xuống giao thông hào đã được kéo lên, tôi ra lệnh cho đoàn quân tiếp tục tiến, nhưng bổng có một tiếng nổ lớn và ánh sáng chớp lên từ phía sau, và C/Đoàn 2/17TK báo cáo chiếc M.113 chỉ huy của Đ/u Cảnh đã bị bắn. Cũng may xe không cháy, vẫn còn chạy được và Đ/u Cảnh cũng chỉ bị thương nhẹ nên vẫn có thể chỉ huy (nếu bị thương nặng hơn thì cũng phải được mang theo mà thôi, vì không thể nào tải thương được), còn có 2 BS bị thương. Tôi cảm thấy yên lòng và bắt đầu tiếp tục di chuyển. Bổng một phát đạn chống chiến xa của địch trúng ngay vào xe tôi, chớp lên một bụm lửa sáng lóe, lọt vào khoang xe từ phía tài xế và chiến xa rung mạnh. Tôi búng người ra ngoài pháo tháp chiến xa, tiếp đến là HS Thẩm, xạ thủ chiến xa của tôi, trồi đầu ra báo HS Thìn, tài xế chiến xa, đã chết. Tôi bảo HS Thẩm cùng Binh 1 Đá, nhân viên nạp đan, kéo HS Thìn ra khỏi xe rồi nhảy vào lại trong pháo tháp và gọi máy cho xe M.113 của tôi đi theo sau đến để chở thi thể HS Thìn và ra lệnh cho đoàn quân tiếp tục tác xạ vào làng. Sau đó tôi bảo HS Thẩm nhảy vào lái chiến xa của tôi (điều này rất bình thường vì khi chỉ huy, C/Đoàn Trưởng thường kiêm luôn xa trưởng và có thể tác xạ thay cho xạ thủ bằng cò điện trên cần điều khiển của trưởng xa) Phát đạn chống chiến xa của địch đã trúng ngay vào mặt nạ đại bác và miểng đạn đã phủ xuống đầu tài xế, nhưng lại không xuyên thủng vào trong khoang chiến xa được vì giữa mặt nạ đại bác và thành pháo tháp còn có một khoảng hở. Chỉ kẹt một điều là đại bác xe tôi không còn hửu dụng vì không thể hạ thấp được do mặt nạ đại bác đã bị cong úp xuống chạm và thành pháo tháp. Như vậy thì cây đại lên 30 ly M.73 song hành với đại bác cũng không còn sử dụng được nữa.

Tôi bảo Đ/u Nam tiếp tục di chuyển với tốc độ nhanh hơn nữa, vì bây giờ đã là hơn 05:00 giờ (ngày 28/01/73).

Đoàn quân di chuyển thêm được khoảng 1km thì trời đã hừng sáng (ở vùng biển thì trời sáng sớm hơn trong đất liền), tuy nhiên sương mù dày đặc, tầm nhìn chỉ chừng 50m. Bổng nhiên Đ/u Nam báo là đã đến Cửa Việt. Tôi hỏi Nam: “Như vậy, chiến xa đầu tiên đã thấy được nước mênh mông trước mặt chưa?” Nhưng Nam lại khẳng định là Cửa Việt, còn nói là anh ta đã đến Cửa Việt nhiều lần hồi còn ở C/Đoàn 1/7CX M.41.

(Trước năm 1970, Th/Đoàn 7KB thường xuyên tăng phái một C/Đội chiến xa M.41 cho căn cứ Hải Quân Cửa Việt – Cảng Mỹ -, (Và hồi còn ở cấp Th/u thi Nam đã có thời gian ở C/Đoàn 1/7CX M.41) nhưng đãc biệt là hàng tháng thì hoán đổi với C/Đội CX M.41 khác. Lý thuyết thì thế, nhưng thực tế thì chỉ thay đổi nhân viên xa đội mà thôi, vì như thế sẽ đở tốn nhiên liệu và thời gian cho các CX M.41 di chuyển hoán đổi. Nói thật thì loại CX M.41, nếu di chuyển đường dài từ Huế ra đến Cửa Việt, thường bị hỏng hóc dọc đường).

Lúc này, đồng hồ của tôi đã là 06;35. Tôi lật bản đồ, sau khi tính tốc độ và thời gian di chuyển cùng với khoảng cách từng xe, tôi bảo Nam: “Phải hơn 1 clic (mỗi cạnh ô vuông trên bản đồ tỷ lệ 1/50.000 = 1km) mới đến mục tiêu”. Có lẽ vì có trục trặc gì đó, Nam đã không chịu tiến quân tiếp, tôi bèn bảo Nam: “Mày cứ ở đó đi để tao cho C/Đoàn tao qua mặt.”

Tôi ra lệnh cho Tr/u Kính tiến tiếp, qua mặt C/Đoàn 3/20 CX, đồng thời ra lệnh cho C/Đoàn 2/17TK theo sau. C/Đoàn 1/20CX của tôi và C/Đoàn 2/17TK vừa qua mặt C/Đoàn của Nam xong thì tôi cho lệnh tăng tốc. Trên đường tiến quân, Tr/u Kinh báo cáo có rất nhiều giao thông hào phía trước, nhưng tôi cho lệnh: “Thấy giao thông hào nào rộng thì lách ra mé nước để vượt qua, còn giao thông hào nào hẹp thì cho chiến xa cán qua luôn.”

Trời sáng dần và sương mù đã tan. Tr/u Kinh báo cáo đã nhìn thấy rõ cửa biển trước mặt. Tôi bảo; “Bây giờ mới đúng là Cửa Việt.” Rồi cho lệnh toàn bộ C/Đoàn cho chiến xa xoay về bên trái và nới rộng khoảng cách chuyển thành hàng ngang để cho M.113 của C/Đoàn của Đ/u Cảnh tiến lên và xen kẻ. Tôi cũng bảo Nam và C/Đoàn 3/18TK của Đ/u Minh cũng dàn quân y như thế và bắt đầu tấn công hướng về căn cứ Cửa Việt.

Đạn địch từ phía trước bay đến như mưa, nhưng điều này cũng là chuyện bình thường đối với một đơn vị xung kích như chiến xa. Toàn bộ 4 C/Đoàn đã tiến sâu vào đất địch được khoảng 400m thì tôi nghe Đ/u Minh, C/Đoàn trưởng 3/18TK, báo có chiến xa địch xuất hiện từ hướng trái, tức là hướng Tây Nam của chúng tôi, từ trong rừng dương. Dĩ nhiên, M.113 không thể chọi với Chiến xa của địch, dù có gắn đại bác không giật 106 ly (vì việc sử dụng đại bác này không đơn giản như lý thuyết, vả lại xoay xở rất chậm vì phải lệ thuộc vào hướng của xe). Tôi bảo Đ/u Nam theo dỏi để bắn hạ.

Thật ra thì đơn vị chiến xa của địch đang ở hướng nam từ trong làng mé ruộng bung ra để chạy về hướng bắc là căn cứ Cửa Việt. Với địa thế mấp mô lồi lỏm, nhắm canh chừng để bắn một mục tiêu di động không dễ chút nào, trừ phi phải có những xa đội M.48 đã từng hạ chiến xa địch. Vì những chiến xa của địch chạy rất nhanh nên C/Đoàn 3/20CX của Đ/u Nam đã không bắn kịp. Nhưng C/Đoàn của tôi, vì đang dàn hàng ngang xa về hướng bắc nên tôi đã tức tốc ra lệnh cho Tr/u Kính chỉ huy C/Đội đón bắn ngay (Tr/u Kinh là một trong những sĩ-quan nổi tiếng bắn đại bác rất hay kể từ ngày thành lập Th/Đoàn20CX vì đã được Mỹ huấn luyện rất kỷ và thực tập rất nhiều hồi ở căn cứ Ái-Tử. Với kinh nghiệm đã có, chính Tr/u Kính đã đón đầu bắn hạ 2 chiếc nằm im tại chỗ, chiếc còn lại bị một xa đội của C/Đội 3/1/20CX bắn hạ. (Những gì xảy ra trước mắt tôi nên không thể nào quên được).

Tôi liếc nhìn đồng hồ, lúc này là 07:43. Phía địch bắt đầu ngưng bắn nên tôi ra lệnh cho TQLC tùng thiết trên M.113 của C/Đoàn 2/17TK và 3/18TK nhảy xuống trước và bung ra phía trước cắm cờ, rồi bố trí, còn lính trên chiến xa và M/113 thì nhảy xuống sau và tiếp tục cắm cờ phía trước, cách chiến xa chừng 30m để phân ranh giới rồi lên chiến xa trở lại nạp đạn chài (canister- loại đạn đại bác dùng để chống biển người) vào đại bác để đề phòng. Chỉ trong thoáng chốc thì đồng hồ đã chi 07:57.

Không còn tiếng súng nổ. Tôi nhảy xuống khỏi chiến xa chỉ huy và vào xe truyền tin M.577 báo cáo thẳng về BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC là đã chiếm được Cửa Việt và đã cắm cờ, nhưng không thể tấn công vào căn cứ còn cách chừng hơn 500m được vì đã đến giờ ngưng bắn. Tôi hỏi tiếp vị trí của các cánh quân khác thì được biết cánh quân của T/Đoàn2 và T/Đoàn 9TQLC trong mé ruộng chỉ tiến vượt qua khỏi Long Quang chừng 200m, như vậy là cách chúng tôi khoảng 5km về hướng nam. Còn cánh quân của T/Đoàn 4 TQLC thì chỉ đến được gần Bình An. Như vậy thì còn cách chúng tôi đến hơn 5km.

Ngay lúc này, tôi nhìn ra biển thoáng thấy một chiếc L-20 đang bay lượn xa trên biển và bắn 2 qủa rocket xuống biển. Tôi gọi BTL/SĐ/TQLC và hỏi thì Đ/tá Trí bảo đó chỉ là bay ra để xác định chính xác vị trí đã chiếm được mà thôi.

Tôi cho Chiến xa chỉ huy của tôi cùng với chiếc M.577 truyền tin và chiếc M.113 lùi lại cách mé nước biển chừng 40m, báo cho các C/Đoàn vẫn lo việc canh gác như thường lệ, rồi cho lính pha cà phê trong C-ration (thùng lương khô) để uống và cho lo cơm nước.

Như vậy, BCH/C/Đoàn của tôi nằm xa nhất về hướng bắc. Lui về phía nam là BCH/C/Đoàn 2/17TK của Đ/u Cảnh, cách nhau chửng 70m. Xa hơn chừng 100m nữa về phía nam là BCH/C/Đoàn 3/20CX của Đ/u Nam + C/Đoản 3/18TK của Đ/u Minh + BCH/Th/Đoàn 20CX của Th/tá Kiều cùng với Th/tá Tiền, TĐP T/Đoàn 4TQLC và Tr/u Hiếu, Đ/Đội trưởng ĐĐ2/TĐ4TQLC tùng thiết cho C/Đoàn 3/18TK. Tôi bào Đ/u Nam phải cẩn thận đề phòng hướng nam vì chắc chắn còn lực lượng địch trong những làng mà trước đó chúng tôi chỉ dùng tốc dộ càn lướt qua mà không tấn công.

Tóm lại, chúng tôi chỉ có 2 mặt an toàn: phía biển Đông sau lưng và cửa biển bên phải về hướng bắc. Còn 2 mặt tây và nam thì đều có địch. Nếu cuộc chiến vẫn tiếp tục thì đường tiếp tế của chúng tôi đã bị chặn do TQLC không tiến kịp để điền trám các mục tiêu dọc trục tiến quân.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1517861306-KyBinh_TranCuaViet_05.jpg
02 May 1972, Quang Tri, Vietnam — South Vietnamese soldiers helping the wounded. — Image by © Henri Bureau/Sygma/Corbis

Dù sao thi Niềm Vui Hòa Bình đã đến, tức là không còn chiến tranh, không còn bắn giết, không còn phải chiếm mục tiêu này, mục tiêu nọ, không còn bị tấn công, không còn bị thương hay chết chóc, mà sẽ được cùng với người thân, bạn bè thoải mái vui chơi trong những ngày nghỉ phép, vân vân và vân vân…Tất cả đều được diễn đạt theo nhiều cách. Kẻ thì bộc lộ quá mức bằng cách reo hò, kẻ thì thầm lặng, dấu kín trong lòng và chỉ bộc lộ bằng nụ cười mỉm. Mùi thuốc súng chiến trường không còn lảng vảng trong bầu trời trong sáng và êm ả của vùng biển…

Khoảng 10:15, Tr/u Kính báo có cấp chỉ huy của địch muốn vào gặp cấp chỉ huy trận đánh này. Tôi gọi máy báo cho Th/tá Kiều, nhưng ông bảo là không nên gặp. Tôi nói: “Nhưng bây giờ là Hòa Bình rồi thì có gì phải sợ chứ.” Ông trả lời: “Câu muốn gặp thì gặp, nhưng phải cẩn thận.” Tôi bảo Tr/u Kính chỉ cho người đó và một lính truyền tin của ông ta vào mà thôi.

Khi họ đến, tôi xuống khỏi chiến xa và đến gần anh ta (lớn hơn tôi chừng hơn 10 tuổi), chưa kịp chào thì anh ta tự giới thiệu là T/Đoàn trưởng của đơn vị đang ở tuyến đối đầu với tôi, và hỏi tiếp có phải tôi là người chỉ huy cuộc tấn công này không. Tôi trả lời: Đúng như vậy. (Có lẽ anh ta ngạc nhiên khi thấy bộ mặt non choẹt của tôi mà lại chỉ huy một lực lượng lớn như thế. Còn hỏi tôi là người ở đâu. Tôi nói ở Huế. Anh ta nói là đã vào trong Thành nội Huế trong vụ Tết Mậu Thân. Anh ta tiếp tục hỏi tại sao tôi lại chiếm Cửa Việt. Vì đang trong tâm trạng vui vẻ nên tôi trả lời là tôi rất thích nơi này vì tôi rất thích tắm biển, nhất là nơi nào có cửa biển. Đặc biệt anh ta còn than phiền vì sao tôi lại cho lệnh bắn 3 chiến xa của họ. Tôi nói: vì lúc đó vẫn chưa đến giờ ngưng bắn. Tôi còn nói với anh ta nên cho vài người không được mang súng vào rồi đi xuống hướng nam để đào các giao thông hào đã bị chiến xa cán lướt xem ai còn sống thì mang về. Anh ta gật đầu và còn ngỏ ý mời tôi vào BCH/TĐoàn của anh ta chơi, đưa tay chỉ vào lùm dương cách vòng đai bố trí của chúng tôi chừng 500m. Tôi chỉ ừ è cho có lệ. Sau đó thì anh ta ra về. Tôi tà tà đi bộ dọc theo mé biển đến gặp Th/tá Kiều và kể lại chuyện này cho ông nghe. Ông nhắc nhở tôi phải cẩn thận vì ý đồ của anh ta có thể chỉ là vào để biết vị trí của BCH. Tôi chỉ nói: có thể là như vậy, nhưng Hòa Bình rồi thì lo làm gì cho mệt chứ.

Đến tối ngày 28/01/73, sau khi nhắc nhở toàn bộ 4 C/Đoàn trực máy và lo canh gác như thường lệ, thay vì ngủ trong xe M.577, tôi bảo lính căng ghế bố nằm bên hông chiến xa cho mát, nghĩ rằng bây giờ đã đến lúc phải hưởng một giấc ngủ êm ái nhất trong đời lính và hít thở không khí về đêm của biển, nhất là sau 1 ngày và 1 đêm vất vả chiến đấu và không ngủ.

Trong đời, thật chẳng ai biết được chữ ‘Ngờ’. Tôi đang ngủ say sưa thì bổng nhiên những tiếng nổ thật lớn khiến tôi bừng giấc, đứng vọt dậy từ chiếc ghế bố và phóng thật nhanh lên chiến xa chỉ huy, nhìn quanh, những tiếng nổ và chớp lòe khắp nơi. Tôi biết chúng tôi đang bị pháo. Lúc này tất cả đều đã vọt dậy phóng lên chiến xa và M.113. Tôi gọi các C/Đoàn thì tất cả cũng đã lên xe và nghe báo cáo đã có mấy anh em ở các C/Đoàn khác bị thương do bị pháo. Tôi ra lệnh tất cả sẵn sàng ứng phó, vì theo kinh nghiệm, địch có thể sẽ tấn công sau những đợt pháo.

Tôi nhìn đồng hồ: 23:25 (ngày 28/01/73). Như vậy là mình bị pháo lúc khoảng 23:10. Lo thì cũng có lo, nhưng đạn pháo thì giống như “Trời kêu ai nấy dạ” (câu chúng tôi thường đùa với nhau khi bị pháo, vì không sao né tránh gì được). Tôi tự hỏi: “Hòa Bình rồi thì tại sao chúng nó vẫn còn pháo mình. Như vậy là vi phạm Hiệp Định rồi còn gì!” Trên hệ thống truyền tin, tôi không nghe Th/tá Kiều lên tiếng gì cả bèn chuyển qua hệ thống của BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC và báo cáo cũng như nêu thắc mắc của tôi: “Hiện chúng tôi đang chịu những cơn mưa rất nặng hạt (bị pháo dữ dội). Như vậy là sao? Nếu chúng tấn công thì chúng tôi có được phép nổ súng không? Và điều này rất có thể xảy ra. Và thế thì mình có vi phạm Hiệp Định Paris không?” Ngay lúc này Tr/u Kính và Th/u Thăng báo lả đã thấy địch lố nhố phía trước nhờ ánh sáng của những lằn chớp của đạn pháo nổ. Tôi hỏi: “Cách xa bao nhiêu?” Tr/u Kinh nói: “Chừng 70m. Có bắn không, Hồng Nhạn?” Như vậy là cách tuyến của TQLC tùng thiết chừng 40m. Với phản ứng cấp thời, tôi nói: “Chưa nhận được lệnh. Nhưng nếu chúng nó tiến gần trong khoảng 50m thì phải nổ súng.” Lúc này Đ/tá Trí gọi máy và báo: “Nếu chúng nó tấn công và nổ súng trước thì phải chống trả”. Trời đất! Nếu chúng nó cứ ào ào tiến vào mà không nổ súng thì tình sao đây! Tôi biết tại BTL/Hành Quân/SĐ/TQLC, ai cũng có thể nghe và thấy được những tia chớp do đạn pháo nổ vì chỉ cách chúng tôi chừng hơn 8Km, vả lại đang là ban đêm, nhưng không biết rõ là do pháo hay do 2 bên đang giao chiến. Đây là lúc không cần và cũng không có thời gian để suy nghĩ vớ vẫn về Hòa Bình, về Hiệp Định Paris nữa, mà phải tùy cơ ứng biến thôi. Tôi báo cho Đ/u Nam (3/20CX) và Đ/u Minh (3/18TK) biết tình hình địch phía bên tôi và hỏi tình hình bên đó thì biêt là không có dấu hiệu địch hoạt động trước tuyến. Tuy vậy tôi vẫn bảo Nam và Minh phải cẩn thận quan sát. Đồng thời tôi cũng báo cho Tr/u Công (TQLC tùng thiết) là chỉ được nổ súng khi địch nổ súng tấn công trước. Tôi cũng thầm nghĩ: Chắc địch muốn tấn công vào tuyến phòng thủ của tôi trước vì là tuyến đầu nằm xa nhất về hướng bắc và còn ngay trước căn cứ Cửa Việt.

Tôi gọi về BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC và yêu cầu cho Pháo binh chuẩn bị để phản pháo vào những tọa độ tôi sẽ cung cấp, hy vọng địch sẽ vì thế mà giảm bớt cường độ pháo. Nhưng Đ/tá Trí bảo là không được. Tôi chẳng biết nói sao. Có lẽ ai cũng sợ vi phạm Hiệp Định và nếu thế thì số phận tương lai của cấp ra lệnh sẽ ra sao nếu bị kết tội. Pháo của địch vẫn dồn dập đủ loại vào vị trí của các C/Đoàn, ngoài loại 130 ly, còn có cả cối 82 ly. Cũng may chẳng có qủa nào rơi ngay trên Chiến xa M.48 hay M.113.

Tôi nhìn đồng hồ: đã là gần 05:00 ngày 29/01/73. Thời gian trôi thật nhanh khi người ta không cần để ý đến nó. Tôi mừng thầm và mong cho trời sáng nhanh hơn. Như vậy mới dễ quan sát và xoay xở hơn. Bổng Tr/u Công gọi máy báo địch chỉ còn cách tuyến của TQLC chừng hơn 10m. Tiếp là Tr/u Kính cũng báo địch đang tiến đến gần hơn nhưng lại không nổ súng. Không thể chần chừ được nữa, tôi bảo Tr/u Công cho lệnh TQLC bò lui về ngang với các Chiến xa M.48 ngay. Chỉ 3 phút sau, tôi bảo Tr/u Kinh và Th/u Thăng ra lệnh cho các xa đội bắn đạn chài và mỗi xe chỉ cần bắn 1 hay 2 qủa tùy phản ứng của địch. Một loạt đạn chài từ các các đại bác chớp sáng liền nhau. Tr/u Kính và Th/u Thăng lần lượt báo địch đã im lìm, không còn thấy lố nhố nữa. Tôi bảo: “Phải quan sát liên tục và cẩn thận hơn, vì chỉ còn chừng 1 giờ nữa là trời sáng rồi thì tụi nó chẳng dám tấn công đâu.” Cũng chừng hơn 5 phút sau thì Tr/u Kính báo đã quan sát thấy địch lại lố nhố nhưng hình như là đang tải thương vì chúng đang lùi lại. Tôi nói: “Thế thì tốt!”

Nhưng vẫn thầm lo không biết mình cho lệnh bắn như thế có vi phạm Hiệp định không. Mặc kệ! Với tình hình hiện tại, lo nghĩ vẫn vơ cũng vô ích. Phải tự cứu mình trước thôi! Không thể để “nước đến trôn mới nhảy”, như người xưa đã nói.

Địch vẫn pháo khắp vị trí của các đơn vị TG, nhưng vì lính TG đều ở trong chiến xa và M/113, và chỉ quan sát bằng tiềm vọng kính nên không bị gì. Còn TQLC thì đang ở gần sát với địch nên pháo hầu như không rơi nhiều ở tuyến này.

Trời bắt đầu sáng dần. Tôi nhìn đồng hồ: bây giờ là 06:30. Sương mù đã tan gần hết nên tầm quan sát xa và tốt hơn. Tôi cũng tạm thời yên lòng. Tôi gọi về BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC và báo cho biết những gì đã xảy ra trong đêm và hỏi xem có lệnh gì mới không thì Đ/tá Trí nói: “Tạm thời thì phải cố thủ. Sẽ có lệnh sau.”

Một điều đặc biệt là các đơn vị Pháo binh yểm trợ cho cuộc Hành Quân Tango hoàn toàn không phản pháo yểm trợ một viên đạn nào, ngoại trừ thời gian trước khi Cánh A của tôi bắt đầu xuất phát rồi thì ngưng luôn từ đó.

Mặt trời đã lên khá cao. Bây giờ là 08:05. Pháo địch bổng nhiên nổ thưa dần, rồi lâu lâu mới bay vào nổ 1, 2 qủa. Lính TG lợi dụng lúc này nhảy ra khỏi xe nấu nước sôi đổ cơm sấy, còn tôi thì chỉ cần cà phê nóng.

Đến khoảng 08:35 thì pháo địch ngưng hẳn. Tất cả chúng tôi đều thở phào nhẹ nhỏm. Tôi gọi máy cho Đ/u Cảnh, Nam và Minh và nói: “Có lẽ đã có sự can thiệp của mấy ông lớn về Hiệp Định Paris rồi nên tụi nó mới chịu ngưng pháo. Nhưng phải luôn cẩn thận đấy!” Tôi cũng gọi báo cho Đ/tá Trí về việc này.

Đến khoảng 09:15, sau khi nhắp hết cà phê được pha trong chiếc lon bằng thiếc trong xe M.577, tôi mồi điếu thuốc và hít vài hơi sảng khoái thì bổng nghe một tiếng nổ lớn trên tuyến và Tr/u Kính gọi báo 1 chiến xa M.48 của C/Đội 3/1/20CX đã bị trúng đan SS-11 (loại hỏa tiển chống chiến xa gọi là hỏa tiển địa-địa – surface-to-surface – và C/Đoàn chúng tôi đã từng bị bắn trong những cuộc hành quân với NDù trước đó). Tôi vọt ra khỏi M.577 và phóng lên chiến xa chỉ huy của tôi, ra lệnh cho Tr/u Kính và Th/u Thăng cho lệnh từng xa đội xả đại liên 30 ly M.73 song hành về phía địch nhưng chỉ cầm chừng vì phải tiết kiệm đạn sau khi đã sử dụng nhiều trên đường tiến quân. Th/u Thăng nói là không thấy địch, nhưng tôi bảo vẫn cứ bắn vì chúng đều ở trong hầm và giao thông hào nên mình không thấy được và phải bắn từng loạt để chúng không thể ngóc đầu lên để bắn mình. Tôi gọi luôn cho Đ/u Cảnh dùng đại liên 50 ly trên M.113 để bắn cầm chừng (vì vùng tác xạ hẹp hơn do xen kẻ và hơi thụt về phía sau các chiến xa.) Tr/u Kinh báo cáo toàn xa đội của chiến xa đã bị bắn đều bị thương: 1 nặng, 3 nhẹ. Tôi ra lệnh cho M.113 chỉ huy khiêng thi thể của HS Thìn (tài xế chiến xa của tôi đã chết trong đêm tiến quân) đặt xuống cát rồi chạy lên đến phía sau chiến xa bị bắn để cho y tá băng bó và báo cáo tình trạng bị thương. Tôi gọi cho Đ/u Nam và Đ/u Minh báo tình trạng này và nhắc nhở đề phòng.

Y tá báo 3 BS bi thương nhẹ còn tác chiến được, còn 1 BS bị ở chân năng phải chở về. Tôi cho lệnh chỉ chở BS bị năng về theo M.113. Vừa nói xong thì 1 chiến xa khác cũng bị trúng SS-11 và lại được báo cáo thêm 2 BS bị thương: 1 ở vai và 1 ở tay. Tôi cho lệnh y tá ở lại băng bó tiếp.

Rồi đến 1 chiến xa của C/Đoàn 3/20CX nằm giáp với tuyến của tôi cũng bị bắn. Đ/u Nam báo với tôi và tôi trả lời là tôi đã thấy rồi. Và tiếp đến thì pháo 130 ly lại của địch bắt đầu rơi nổ khắp nơi trên các vị trí của TG.

Lúc này đã là khoảng 11:00. Tôi thấy tình trạng này không ổn chút nào, vì địch chỉ muốn diệt các chiến xa M.48 trước bằng SS-11 vì là những hung thần chúng rợn nhất. Mà các chiến xa hiện giờ chỉ còn là những mục tiêu cố định nên rất dễ bị bắn, dù tôi đã cho các đại liên bắn cầm chừng để ngăn chặn vì còn phải giữ lại một số đan dược cho tình huống khẩn cấp có thể xảy ra trong khi chưa có tiếp tế.

Tôi gọi thẳng về BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC báo tình trạng này để xin được tiếp tế và tải thương. Đ/tá Trí nói: “Tôi đã biết tình trạng hiện giờ tại đó vì luôn theo dỏi hệ thống nội bộ của các C/Đoàn và BCH/Th/Đoàn 20CX kể từ lúc rời tuyến xuất phát. Nhưng giá nào anh cũng phải cố giữ vững tuyến. Sẽ có quân tăng cường.” Hy vọng lại nhen nhúm trong tôi. Tôi gọi báo cho các C/Đoàn biết tin này.

Pháo địch không còn liên tục như trước mà chỉ pháo từng đợt vào những giờ giấc không đoán trước được. Điều này sẽ không có lợi cho quân mình vì lính thường lợi dụng những lúc pháo địch ngưng để nhảy ra khỏi xe để nấu nướng hay cho những nhu cầu cá nhân cần thiết rồi không kịp nhảy vào xe trước khi pháo địch rơi xuống.

Tôi lại nhìn vào đồng hồ. Lúc này đã là gần 15:00 giờ. Tôi bảo lính pha cho tôi 1 xuất cà phê nữa và nhâm nhi cùng với những điếu thuốc nối đuôi. Đây đã là “lon cà phê” thứ 3 trong ngày 29/03/73 rồi. Lòng tôi cứ thấp thỏm chờ đợi tin tốt lành từ BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC, chốc chốc lại nhảy vào chiến xa để quan sát tình hình phía trước, rồi lại nhảy xuống vào M.577 nhâm nhi cà phê tiếp. Lính đưa cơm sấy và thức ăn khô đến nhưng tôi chẳng còn bụng dạ nào để ăn được.

Đến khoảng 16:30 thì nghe Th/tá Kiều gọi và báo tin: “BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC đã dự trù tăng cường 2 lần 2 râu (2 tiểu đoàn) cho chúng ta, nhưng vì biển hơi động nên không thể nào đổ bộ vào vị trí của chúng ta được. Tuy nhiên họ đang tính một kế hoạch khác.” Tôi nhìn ra biển, nói: “Có thấy tãm hơi chiếc tàu nào đâu. Biển như thế này mà gọi là hơi động sao?” Th/tá Kiều trả lời: “Họ nói như vậy thôi.” Dĩ nhiên, trên hệ thống này thì các C/Đoàn đều nghe được như thế. Thế là hết! Hy vọng đã biến thành thất vọng. Tôi tự hỏi: “Họ đang cố an ủi mình chăng?” Những suy nghĩ miên man của tôi lại bị ngắt Quảng bởi một đợt pháo khác của địch. Tôi lại phóng lên chiến xa chỉ huy của mình, tiếp tục quan sát toàn bộ tình hình.

Trời đã ngả màu hoàng hôn. Lúc này đã gần 18:00 giờ. Tôi gọi máy nhắc nhở các C/Đoàn và Đ/Đội/TQLC tùng thiết lo việc canh phòng cẩn mật. Để đề phòng địch có thể tấn công vào ban đêm, tôi dặn dò các C/Đoàn trưởng: “Hảy cẩn thận đề phòng vì địch có thể dùng pháo, rồi đến đặc công, sau đó mới tấn công. Vì thế các chiến xa M.48 phải thay phiên sử dụng Hồng ngoại tuyến dùng để bắn đại bác trên xe để quan sát, nhưng chỉ trong vòng vài phút thôi, nếu không thì các bình điện sẽ không còn đủ cung cấp để nổ máy chiến xa cũng như để điều khiển hệ thống tác xạ bằng điện được. Tất cả đều phải thức suốt đêm để phản ứng cho kịp thời.”

(Trong thời gian thành lập Th/Đoàn20CX ở Ái-Tử, mỗi chiến xa M.48 đều được trang bị ống nhòm Hồng ngoại tuyến để cho các trưởng xa quan sát vào ban đêm. Nhưng sau khi mất Quảng-Trị và Th/Đoàn được tái thành lập ở Phú Bài – Huế để Tái chiếm Quảng-Trị thì các chiến xa không còn được trang bị loại ống nhòm này cũng như không còn Cố vấn Mỹ nữa).

Màn đêm đã buông xuống. Trong bóng đêm, chỉ có những khoảng trống có cát là vẫn sáng mờ. Còn nhìn vào hướng tây thì chỉ thấy một lằn đen kịt lô nhô tiếp giáp với chân trời xanh đen.

Pháo địch vẫn chỉ còn rơi lác đác, có lúc ngưng hẳn, rồi lại tiếp tục nhưng cường độ không cao. Tất cả chúng tôi đều không dám ngủ, chỉ chợp mắt vài phút do mệt mỏi. Những lo lắng của tôi (và cũng của tất cả vì thế lại cứ chồng chất vì chưa nghĩ ra được cách nào đối phó với tình huống hoàn toàn nằm trong thế bị động này.

Từng giờ phút nối tiếp trôi qua. Cứ khoảng chừng 30 phút, tôi lại gọi các C/Đội của tôi cũng như các C/Đoàn để nhắc nhở, đồng thời cũng để kiểm tra sự cảnh giác của họ. Pháo thì vẫn pháo, lo thì cứ lo, nhưng có lẽ có lúc tôi đã thiếp đi trong một giấc ngủ ngắn. Chỉ chắc chắn một điều là vào ban đêm thì địch chẳng thấy được chiến xa để bắn AT-3, SS-11 hay B-41.

Dần dần, bóng đêm nhường chỗ cho ánh sáng yếu ớt của ban mai. Tôi thức dậy bảo lính pha cà phê và lợi dụng thời gian ngưng pháo của địch để nấu nước sôi đổ vào cơm sấy. Từ trên Chiến xa chỉ huy, tôi quan sát khắp nơi và thấy lính của từng chiến xa M.48 và M.113 phóng lên rồi nhảy xuống xe của họ trong lúc nấu nước để đề phòng pháo bất ngờ rơi xuống. Điều này không thể nào tránh được. Ông bà mình thường nói: “Dỉ thực vi tiên” thật không sai chút nào. Ai biết được cuộc chiến sẽ như thế nào và sẽ kéo dài bao lâu nữa.

Tôi lại nhảy xuống khỏi chiến xa, ngồi ở xe M.577 để theo dỏi báo cáo trên máy và vừa nhắp cà phê, vừa hút thuốc, mắt nhìn đồng hồ đeo tay.
Phút chốc mà đã 07:50 ngày 30/01/73. Tôi tiếp tục suy nghĩ xem phải làm thế nào để thay đổi tình thế này. Thế rồi càng suy nghĩ lại càng lo, cứ thắc mắc hoài: “Không tiếp tế, không tải thương, rồi lại không có Pháo binh, Không quân yểm trợ. Như vậy là sao? Không lẽ họ bỏ rơi toàn bộ anh em mình?” Biết hỏi ai đây! Vì không thể gọi về BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC để lý lẽ với Đ/tá Trí. Biết đâu ông ấy cũng đang rối trí vì đến lúc này vẫn không có chỉ thị gì từ BTL/QĐ1 hay cấp cao hơn.

Đến khoảng 09:20, trong lúc tôi đang ở xe M.577 và nhân viên trong chiến xa chỉ huy đang ở bên ngoài xe để ăn cơm thì một tiếng xẹt kèm theo một tiếng nổ lớn. Tôi ngoái nhìn thì thấy chiến xa M.48 chỉ huy của tôi đang bốc khói từ trong pháo tháp. Trên máy, tôi nghe tiếng nói của Đ/u Nam: “Xe của Hồng Nhạn bị bắn cháy rồi, chắc Hồng Nhạn đã tiêu rồi.” Tôi bèn chộp ống nói và lên tiếng ngay: “Tao vẫn còn đây. Hảy bình tỉnh!” Tôi nhìn kỷ lại chiến xa của mình thì 2 cần ăn ten đã bị đứt cụt và khói vẫn tỏa ra nhưng không còn dày đặc như trước. Tr/u Kính và Th/u Thăng cũng gọi về hỏi và tôi nói sẽ kiểm soát lại và cho biết tình hình sau. Còn dặn dò họ phải cẩn thận hơn vì xe tôi đã bị SS-11.

Ngay lúc này, tôi đột nhiên cảm thấy sợ hãi khi một ý nghĩ dị đoan lẽn vào đầu óc: anten của máy truyền tin là linh hồn của đơn vị, hay nói đúng hơn là đơn vị trưởng. Nếu anten bị gảy hay đứt thì đơn vị trưởng cũng sẽ bị tiêu đời. Tôi tự hỏi: Không lẽ ngày 28/01 là sinh nhật của mình cũng là điềm gở báo trước ngày tử của mình sao? (tôi sinh vào ngày 28/01). Rồi tôi nhớ lại một người bạn đã nói: “Đã nói là dị đoan thì nếu tin thì có mà không tin thì sẽ không có.” Do đó tôi cố gạt ý tưởng dị đoan này, nhưng thật không dễ chút nào.

Chứng 10 phút sau, bổng HS Thẩm đến đưa cho tôi xem đoạn dây màu trắng nhỏ xíu nhặt được từ phía trước chiến xa của tôi. Tôi nói: “Đây là dây điều khiển của loại Hỏa tiển chống chiến xa SS-11.” HS Thẩm lại nhảy vào trong chiến xa một lúc rôi nhảy xuống và nói: “Pháo tháp xe đã bị thủng và lỏi hỏa tiển đã xuyên vào 2 máy truyền tin VRC-46 và VRC-47 nên cả 2 máy đều bị cháy mới bốc khói như vậy.” Tôi bảo kiêm tra ‘núm điện chính’ (Power switch) của bảng điều khiển trước mặt tài xế thì HS Thẩm nói là vẫn còn hoạt động. Tôi nói: “Như vậy là xe vẫn còn nổ máy được.” Và bảo lính gở thêm 1 máy PRC-25 trong M.577 ra khỏi giá khung và đặt vào khoang tài xế chiến xa để cho tài xế sử dụng khi cần.

Như vậy, lúc này địch đã dùng hỏa tiển chống chiến xa điều khiển từ xa để diệt các cấp chỉ huy khiến cho các C/Đoàn trưởng lo lắng hơn. Tình hình càng lúc có vẻ càng nguy ngập nhưng tôi vẫn không báo cáo về cho BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC vì biết Đ/tá Trí luôn theo dỏi trên các hệ thống chỉ huy của các C/Đoàn và Th/Đoàn20CX.

Khoảng 10:10, trên hệ thống nội bộ của C/Đoàn tôi bổng có tiếng gọi Hồng Nhạn (danh hiệu của tôi) nhưng nghe giọng nói có vẻ khác lạ. Tôi cầm máy trả lời thì mới biết đó là tiếng của Đ/u Tạ-quang-Trung báo C/Đoàn 1/17CX M.41 của anh ta đang tiến gần đến vị trí của chúng tôi, mang theo lương thực tiếp tế. Tôi liền báo cho các C/Đoàn biết để thông báo cho TQLC tùng thiết. Tôi gọi tiếp Đ/u Trung và hỏi trên đường đi có gì không và Trung nói chỉ gặp vài loạt súng lẽ tẻ thôi nên C/Đoàn vô sự. Tôi hỏi có tùng thiết không thì Trung bảo là có 1 râu (1 đại đội TQLC- đó là Đ/Đội 2/TĐoàn2TQLC của Tr/u Từ đức-Thọ.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1517861323-KyBinh_TranCuaViet_06.jpg

Khoảng 10:20, chiếc M.41 đầu tiên đến gần vị trí tận cùng phía nam của chúng tôi. Một đợt pháo nữa của địch, toàn là loại 130 ly, lại bắt đầu rơi xuống các vị trí. Tôi gọi và bảo Đ/u Trung cứ bình tỉnh tiếp tục cho C/Đoàn M.41 bố trí xen kẻ và nối thêm vào khoảng trống còn lại, quay đầu xe bố trí về hướng nam, còn BCH/C/Đoàn 1/17CX thì tiến thẳng về hướng bắc đến gần BCH/C/Đoàn 2/17TK và nằm ở đó. Tôi cũng báo cho các C/Đoàn cho anh em từng đợt đến nhận lương thực tiếp tế.

Dù muốn dù không, có thêm lực lượng tăng cường cũng khiến cho anh em vững tâm hơn. Nhưng tôi thì lại nghĩ khác: phòng tuyến vẫn rất vững vàng, địch không dám tấn công mà chỉ dùng pháo và súng chống chiến xa để làm tiêu hao quân mình, như vậy thì việc tăng cường lực lượng TG để phòng thủ có lẽ không có lợi lắm.

Như vậy, lực lượng TG đang cố thủ tại Cửa Việt kể từ 11:15 trưa ngày 30/01/73 gồm:
– C/Đoàn 1/20CX gồm 12 CX M.48 + M.113 + M.577 : 14 chiếc
– C/Đoàn 3/20CX gồm 12 CX M.48 + M.113 : 13 chiếc
– C/Đoàn 1/17CX gồm 15 M.41 + M.113 : 16 chiếc
– C/Đoàn 2/17TK gồm 22 M.113 : 22 chiếc
– C/Đoàn 3/18TK gồm 21 M.113 : 21 chiếc
– BCH/Th/Đoàn20CX gồm 5 M.113 + 2 M.48 : 07 chiếc
Tổng cộng: 93 chiếc

Và Lực lượng TQLC gồm:
– ĐĐội 4/TĐoàn 2 của Tr/u Trần-đình-Công tăng phái cho Đ/u Xứng
– ĐĐôi 3/TĐoàn 4 của Tr/u Mai-văn-Hiếu tăng phái cho Đ/u Nam
– ĐĐội 2/TĐoàn 2 của Tr/u Từ-đức-Thọ tăng phái cho Đ/u Trung
Tổng cộng: khoảng 200 người.

Khoảng 11:00, Đ/u Trung gọi máy báo cho tôi và các C/Đoàn trưởng khác đến M.113 của anh để lai rai vì có mang theo nhiều thức ăn đang chuẩn bị cho Tết. Chờ pháo địch ngưng rơi, chúng tôi chạy đến phóng vào xe M.113 của Trung, cùng nhau uống bia và ăn. Đã 1 ngày 1 đêm tôi chỉ uống cà phê và ăn bánh trong thùng lương khô, không thể nào nuốt nổi một muổng cơm sấy nào do vừa mệt vừa lo. Giờ lại có thức ăn tươi và anh em đầy đủ tôi mới ăn được mấy miếng. Th/tá Kiều và Th/tá Tiền không đến. Sau khi ăn xong, tôi dặn dò các C/Đoàn trưởng và các Đ/Đội trưởng TQLC: “Anh em phải rất cẩn thận và cố giữ vững tuyến. Với tình hình này, tôi sẽ báo cho Th/tá Kiều gọi xin lệnh rút quân và tôi cũng sẽ gọi thẳng về Đ/tá Trí xin lệnh rút. Đây là lúc tinh thần anh em BS không còn vững và ngay chúng mình cũng vậy. Tuy nhiên không ai trong chúng ta muốn trở thành một Phạm-văn-Đính thứ hai (Tr/tá Tr/Đoàn trưởng Tr/Đoàn 56/BB đã đầu hàng địch tại Carroll năm 1971). Còn nếu tự ý rút quân thì sẽ bị ra Tòa án quân sự và thế là ‘thân bại danh liệt’đó! Một điều rất quan trọng là: tất cả Chiến xa và M.113 tuyệt đối không được nổ máy xe, vì nếu chỉ có một xe nổ máy thì toàn bộ sẽ nghĩ là ‘bỏ chạy’ và sẽ chạy theo.”

Khoảng 25 phút sau, chúng tôi đều trở về BCH/C/Đoàn của mình. Tôi gọi và nói với Th/tá Kiều liên lạc với BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC xin lệnh rút quân vì nếu tiếp tục ở trong tình trạng bị động như thế này thì sớm muộn cũng chỉ bị thiệt hại thêm mà thôi. Và ông Kiều trả lời là sẽ gọi.

Từ khoảng 12:00 giờ đến gần 14:00 giờ ngày 30/01/73, pháo địch lại ngưng hẳn và cũng không nghe các C/Đoàn báo cáo bị hỏa tiển chống chiến xa. Tôi lại bảo lính pha cho tôi cà phê và vừa nhắp cà phê vừa phì phà thuốc, suy nghĩ: Ý nghĩ đầu tiên khá lạc quan, tức là, có lẽ mấy ông lớn đã thỏa thuận với nhau để xác định giá trị của Hiệp Định Paris nên ra lệnh cho tụi nó ngưng bắn. Như vậy là quá tốt! Rồi ý nghĩ thứ hai lại xen vào: biết đâu tụi nó đang dự trù một kế hoạch tấn công khác dử dội hơn hay đang cần thời gian để chuyển quân đến thêm hay đang vận chuyển thêm loại súng chống chiến xa để diệt Chiến xa và M.113 đang cố thủ và là mục tiêu cố định cho chúng nhắm bắn. Và chính ý nghĩ thứ hai này đã khiến tôi càng lo lắng hơn, nhưng cũng vẫn không kiếm ra cách giải quyết.

Chiến trường vẫn tiếp tục yên lắng. Ý nghĩ lạc quan của tôi chiếm chỗ của ý nghĩ bi quan và tiếp tục dâng tràn. Không lẽ mình đoán thế mà lại đúng sao? Tôi gọi BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC và báo cáo tình hình và hỏi xem có tin tức gì mới không, nhưng Đ/tá Trí nói là không có gì, còn nhắc nhở tôi cẩn thận cố giữ tuyến. Có lẽ Th/tá Kiều vẫn chưa liên lạc với Đ/tá Trí do tình hình im lắng của chiến trường trong mấy giờ liên tục.

Đến khoảng 15:05, bổng có một tiếng nổ lớn từ trên tuyến của C/Đội M.48 của Th/u Thăng và tôi nghe ông báo là 1 CX đã bị bắn bằng AT-3, tiếp đến là pháo 130 ly của địch rơi dày đặc và dử dội trên toàn vị trí của chúng tôi. Tôi bảo Th/u Thăng báo cho tôi biết chi tiết, nhưng ông bảo là không còn liên lạc được. Như vậy là hệ thống điện của CX đã bị bắn hỏng. Tôi ra lệnh cho Tr/u Kinh và Th/u Thăng cho dùng Đại liên 30 ly M.73 song hành bắn quét rộng phía trước rồi cho M.113 chỉ huy chở y tá phóng lên chỗ chiến xa bị bắn dưới cơn mưa pháo của địch. Chứng 10 phút sau mới nghe báo cáo toàn bộ nhân viên xa đội 4 người đều bị thương, kẻ ở chân, kẻ ở tay. Chiến xa này đã bị tê liệt toàn bộ hệ thống điện. Tôi ra lệnh: “Nhân viên nào trong xa đội còn leo lên chiến xa được thì dùng cuộn dây mang theo leo vào xe, cột chặt vào cần cò tay của đại bác rồi thả lần dây ra khỏi pháo tháp, kéo xuống phía sau chiến xa. Sau đó tất cả đều nằm vào dưới lườn chiến xa để tiếp tục quan sát phía trước. Chờ khi nào địch tấn công thì giật kéo dây cò bắn đạn chài đã nạp sẵn. Rồi leo lên nạp đạn tiếp và nhảy xuống. Như vậy thì an toàn hơn.” Chỉ phải như vậy thôi, vì không có nhân viên thay thế. Tôi bảo Th/u Thăng ra lệnh cho các xa đội bên phải và bên trái chú ý yểm trợ cho chiến xa đó.

Với tình hình hiện tại, một lần nữa tôi lại phải nhắc nhở các C/Đoàn bắn đại liên 30 và 50 ly rà quyết cầm chừng phía trước. (Không thể sử dụng đại bác khi không nhìn thấy mục tiêu phù hợp).

Bây giờ đã là gần 17:00 giờ, cũng gần hết ngày 30/01. Như vậy, chúng tôi đã chịu pháo và đạn chống chiến xa của địch 2 ngày và gần 2 đêm rồi. Riêng C/Đoàn của tôi bị tổn thất nhiều nhất do địch đặt trọng tâm vào đơn vị nằm ở tuyến đầu, xa nhất về hướng bắc. Và đã có 4 CX M.48 bị bắn AT-3 và SS-11 (2 của C/Đội 3/1/20CX + 1 của C/Đội 1/3/20CX + chiến xa của tôi). Có 9 HSQ và BS bị thương (1 nặng + 8 nhẹ -vẫn còn chiến đầu trên tuyến. Chưa nói đến thi thể của HS Thìn – tài xế chiến xa của xe tôi chết trong đêm tiến quân ra Cửa Việt)). Điều đặc biệt là không có M.48 hay M.113 nào bị cháy do bị bắn (chỉ không còn nổ máy hay liên lạc được nữa mà thôi). Nhờ vậy mà tinh thần anh em cũng không bị sa sút nhiều.

Lúc này tôi không muốn gọi các C/Đoàn báo cáo tổn thất vì nếu làm thế sẽ gây hoang mang và lo lắng thêm cho tất cả. Tôi lại gọi cho Th/tá Kiều nhắc ông xin lệnh rút lui, nhưng hình như ông không dám. Còn tôi thì vẫn còn do dự. Giá nào thì trời cũng sắp tối và như thế thì bớt bị đạn chống chiến xa hơn. Còn pháo địch thì như ‘cơm bữa’ rồi, lo lắng cũng vô ích. Tr/u Kính và Th/u Thăng thỉnh thoảng lại gọi tôi hỏi xem có lệnh gì khác không. Tôi đã đoán biết tâm trạng của họ, nhưng chỉ bảo họ cố gắng giữ tuyến, hy vọng tình hình sẽ chuyển biến tốt. Phải nói như vậy thôi, trong khi tâm trạng của tôi không tốt chút nào và tôi nghĩ rằng tất cả anh em các cấp cũng thế hoặc còn nản hơn.

Rồi màn đêm lại buông xuống. Một đêm nữa sắp đến và tất cả sẽ ra sao đây! Như một thói quen của một người lính đã từng lăn lộn trên chiến trường của vùng Hỏa tuyến, tôi lại gọi nhắc nhở các C/Đoàn cẩn thận và chịu khó thức để kịp đối phó ý đồ của địch. Cũng may, với chiến xa M.48, nguồn năng lượng của 6 bình điện trong xe tương đối dồi dào, có thể đã chịu nổi 2 ngày và gần 2 đêm mà hao hụt không nhiều, vì các máy truyền tin và hệ thống tác xạ đại bác cũng như đại liên 30 ly M.73 song hành đều cần có điện mới sử dụng nhanh được (dĩ nhiên là vẫn có thể sử dụng các loại súng bằng tay, nhưng máy tuyền tin thì không được). Ngoài ra, vào ban đêm thì phải dùng Hồng ngoại tuyến trên xe để quan sát. Rồi đạn dược dành cho đại liên 30 và 50 ly thì cũng đã gần cạn kiệt, dù các đạn đại bác vẫn còn, nhưng đạn chài (canister) chống biển người thì số lượng cũng hạn chế thôi. Hết lo cái này đến lo cái nọ để tìm cách giải quyết dự phòng! Có lẽ nhờ thế mà tôi không còn suy nghĩ vẫn vơ khiến mình lo lắng, sợ hãi.

Tôi nằm nghỉ trên xe M.577, tai luôn lắng nghe những động tỉnh trên các hệ thống truyền tin. Đến khoảng 21:00 giờ thì Tr/u Kinh và Th/u Thăng báo thấy địch dàn hàng ngang chuẩn bị tấn công chúng tôi, khoảng cách chừng 70m. Tiếp đến thì Đ/u Nam cũng báo cáo như thế. Tôi nhỏm dây ra lệnh cho Tr/u Công cho lính TQLC bò về ngang với chiến xa để cho chúng tôi đối phó. Tôi bảo Đ/u Nam cũng làm y như thế. Riêng C/Đoàn 1/17CX M.41 thì không bị như thế vì đang phòng thủ về hướng nam. Còn C/Đoàn 2/17TK và 3/18TK cũng chuẩn bị.

Tr/u Kính lại báo thêm là địch chỉ còn cách từ 40 đến 50m thôi, cứ tiến gần chúng tôi nhưng lại không nổ súng. Không cần suy nghĩ, tôi ra lệnh: “Nếu tụi nó đến gần trong khoảng 40m thì bắn đạn chài ngay, tiếp đến là sử dụng các loại súng đại liên.”

Pháo 130 ly của địch vẫn rơi đều trên khắp vị trí của chúng tôi, nhưng vào lúc này thì hầu như không ai còn để ý đến, vì đang phải lo đối phó với tình huống nguy hiểm trước mắt.

Đến khoảng 21:30, loạt đan chài từ các đại bác của chiến xa M.48 nổ rền, kèm theo từng loạt đại liên. Và phía địch cũng bắt đầu nổ súng nhưng rất yếu ớt, vì không chịu nổi hỏa lực của chúng tôi. Tr/u Kính báo cáo: “Đợt này ngả xuống thì chúng dàn hàng ngang đợt khác.” Tôi nói: “Cứ bình tỉnh. Tụi nó không chịu nổi đạn chài của mình đâu! Nhưng phải chờ chúng đến đúng tầm thì mới tác xạ!”

Phía C/Đoàn của Đ/u Nam cũng báo như thế và tôi cũng ra lệnh như thế. Để quan sát toàn bộ vị trí, tôi xách máy PRC-25 lên chiến xa chỉ huy (vì máy truyền tin trên chiến xa đã bị bắn hỏng) và chỉ nhìn thấy chớp sáng của những lằn đạn giao nhau từ phía địch và phía chúng tôi. Tôi lại nhảy xuống vào M.577 báo cáo tình hình về BTL/HànhQuân/ SĐ/TQLC và Đ/tá Trí nói: “Tôi vẫn đang nghe và theo dỏi. Phải cố giữ tuyến.”

Bây giờ đã gần 23:00. Bổng nhiên tiếng súng im bặt. Toàn bộ các đơn vị đều không bị tổn thất gì cả. Tất cả báo cáo đợt tấn công thứ hai của địch đã tiêu tùng và không còn thấy động tỉnh gì nữa. Tôi chỉ nhắc nhở như thường lệ vì có thể sẽ có những đợt tấn công khác. Riêng Tr/u Công thì tôi bảo phải chú ý hơn để diệt những tên địch còn sót có thể bò vào sát các chiến xa cũng như ngăn ngừa địch sử dụng những toán đặc công cảm tử.

Tiếng súng thì không còn, nhưng tiếng nổ của 130 ly vẫn còn lai rai.

Vào ngồi lại trong xe M.577, tôi miên man suy nghĩ: vừa mong cho trời nhanh sáng để địch không còn dám tấn công vì quá lộ liểu; vừa mong cho trời chậm sáng để địch không thấy rõ các chiến xa M.48 để bắn AT-3 hay SS-11. Đúng là mâu thuẩn!

Đến khoảng 02:15 ngày 31/01/73 thì đột nhiên tiếng 130 ly nổ dồn dập hơn. Còn có những tiếng nổ nhỏ hơn của cối 82 của địch. Tiếp đến thì Tr/u Kính và Th/u Thăng lại báo địch đang từng cụm bò vào. Tôi hỏi Đ/u Nam thì biết tình hình bên phía đó cũng như vậy. Tôi vẫn cho lệnh phản ứng như lần địch tấn công ban đầu trong đêm.

Chỉ khoảng 10 phút sau thì tiếng đại bác của chiến xa và đại liên nổ rền. Với loại đạn đại bác chống biển người thì địch dù đông bao nhiêu cũng không thể tràn qua tuyến phòng thủ của chúng tôi. Đợt trước ngả xuống thì lớp sau lại tiến lên, nhưng địch vẫn chẳng tiến được bước nào. Th/u Thăng còn báo 2 tên địch bò vào sát một chiến xa của C/Đội và định leo lên thì bị TQLC tùng thiết bắn hạ ngay.

Tiếng nổ của các loại súng rền vang trong khoảng hơn 15 phút rồi dần giảm bớt. Lúc này đã gần 03:00. Không cần các C/Đội và C/Đoàn báo cáo, tôi cũng biết địch đã không còn tấn công nữa. Chúng tôi vẫn không bị thiệt hại gì. Tuy nhiên, tinh thần anh em cũng có phần giảm sút, và ngay bản thân tôi cũng càng thêm lo lắng vì đạn dược dùng cho các loại đại liên trên chiến xa M.48 và M.113 cũng như của súng cá nhân của TQLC tùng thiết đang cạn kiệt dần, chưa nói đến sự giảm sút về sức lực sau hơn 2 đêm không chợp mắt. Tôi chỉ còn cách gọi nhắc nhở các C/Đoàn mà thôi và cũng không cần báo cáo về BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC vì chắc họ cũng đang theo dỏi nhưng không biết phải cho lệnh gì nữa.

Chỉ hơn 30 phút sau, khoảng 03:40, tiếng đại bác và đại liên của chúng tôi lại nổ rền một lần nữa. Địch lại tấn công lần thứ 3 trong đêm. Chỉ khác là lần này thì mức độ tấn công liên tục hơn. Súng nổ rền một chốc rồi lại giảm bớt rồi lại nổ rền. Quân địch, lớp này ngả gục lại đến lớp khác. Cho đến khi lớp thứ tý ngả xuống, chúng mới chịu ngưng. Tôi đoán biết phía địch đã tổn thất không nhỏ, mà chẳng thể nào phá thủng phòng tuyến của Chiến xa M.48 được. Tôi không gọi mà chỉ theo dỏi trên máy các C/Đội của tôi và của các C/Đoàn. Đãc biệt là hướng phòng thủ (hướng nam) của C/Đoàn 1/17CX M.41 của Đ/u Trung thì lại không bị tấn công do địa thế phía trước rất trống trải, chỉ là cát, không mấp mô những ụ cát và cũng không có những bụi cây nhỏ, còn cách xa ven làng Hà tây đến khoảng 400m.

Đồng hồ đeo tay của tôi đã chỉ 04:35. Nhận định tình hình, tôi đoán địch thế nào cũng cố chọc thủng phòng tuyến của chúng tôi để tràn ngập. Nhưng trời cũng sắp sáng rồi, không biết có lợi hay có hại đây! Lòng tôi cứ hoang mang vì không nghĩ ra được cách nào đối phó với ý đồ kế tiếp của địch.

Thế rồi thời gian cứ trôi qua. Pháo địch cũng giảm bớt và ngưng hẳn. Lúc này đã là 07:05 ngày 31/01/73. Sương mù đã tan hết từ lâu nhường chỗ cho ánh nắng ban mai. Tôi leo lên chiến xa M.48 chỉ huy quan sát kỷ toàn cảnh một lần. Phía trước mặt chúng tôi, quang cảnh trông hầu như không có chuyện gì xảy ra trong đêm ngoại trừ một số bụi cây nhỏ đã bị trốc gốc và một số đụn cát đã bị bắn banh ra. Có lẽ địch đã tải lính bị chết và bị thương trong đêm. Thật sự, tôi không thể đoán ra điều gì sẽ xảy ra.

Đến khoảng 07:40, tôi nghe máy gọi Hồng Nhạn và nhận ra tiếng của Binh 1 Thạch Minh, tài xế xe jeep của tôi. Tôi cầm máy, bảo: “Hảy qua số nhà cũ!” (đây là tần số riêng để tôi liên lạc về với gia đình khi cần). Binh 1 Minh nói: “Ở Huế, người ta đã loan tin rằng toàn bộ quân mình ở Cửa Việt đều đã bị bao vây, không ai về được cả. Chị rầt lo lắng nên bảo em ra Tiền cứ liên lạc với anh.” Dù trong lòng đang lo lắng, tôi vẫn điềm tỉnh trả lời (vì biết chỉ hai mươi mấy ngày nữa là vợ tôi đi sinh, nên không muốn gây lo lắng cho bà trước khi sinh): “Đừng nghe tin đồn bậy bạ. Anh vẫn bình yên. Nói với chị chuẩn bị đồ ăn mang ra cho anh và bạn bè lai rai. Khi nào anh gọi thì mang ra.” Đúng là chết đến nơi rồi mà vẫn còn nói xạo!

Tôi buông máy nhảy ra khỏi M.577 nhìn ra phía trước thì thấy số anh em bị thương trước đó đang dìu nhau lò cò đi về phía BCH/C/Đoàn của tôi. Tôi bảo anh em lên và tiếp dìu họ về. Thấy vẻ mặt của họ, lòng tôi thật xốn xang, nhưng biết làm sao đây. Sau khi y tá thay băng và chích thuốc cho họ xong, tôi nói: “Với tình hình này thì anh em cũng sẽ chết và tôi cũng sẽ chết. Chỉ có một con đường sống mà thôi. Đó là tiếp tục chiến đấu. Anh em phải cố trở lên tuyến và làm theo những gì tôi đã hướng dẩn hôm qua. Tụi nó sẽ không làm gì được mình đâu. Còn nếu ở lại BCH/C/Đoàn thì không còn ai sử dụng đại bác trên chiến xa của anh em và thế thì phòng tuyến sẽ bị thủng. Lúc này, lời tôi nói là lời khuyên chứ không còn là lệnh nữa. Tùy anh em suy nghĩ. Không thể dùng xe M.113 đưa anh em lên tuyến được vì tất cả các xe đều không được nổ máy.” Tôi không ngờ được rằng chỉ trong vòng không đến 1 phút, tất cả các anh em đang bị thương, có 2 người bị thương đến 2 lần, đều nhỏm dậy dìu nhau bước hướng lên tuyến. Tôi buồn bả nhìn theo, tràn đầy khâm phục, thầm nói: họ mới đúng là những anh hùng thật sự.

Tôi lại nhìn đồng hồ: đã 08:20 (ngày 31/01/73). Bổng một tiếng nổ vang lên từ phía tuyến của C/Đoàn 3/20CX, và tiếng của Đ/u Nam: “Thêm một xe nữa đã bị bắn AT-3”. Tôi chụp máy nói ngay: “Cứ bình tỉnh! Hảy cho y tá chạy bộ lên chãm sóc anh em bị thương đi! Không được dùng M.113, vì không xe nào được nổ máy.”

Tôi lại leo lên chiến xa của tôi để quan sát. Lúc này pháo địch chỉ rơi rất thưa thớt. Chỉ khoảng 3 phút sau thì tôi thấy một vệt sáng xẹt vào hướng về BCH/C/Đoàn 1/17CX M.41 và trúng ngay vào chiến xa chỉ huy của Đ/u Trung, tiếp đến là 2 Binh sĩ phóng ra từ trong chiến xa. Tôi vội nhảy xuống vào xe M.577 gọi Đ/u Trung thì nghe được tiếng của anh báo là xe bị bắn nhưng lúc đó anh đang ở trong xe M.113. Nghe thế, tôi cũng yên lòng phần nào. Nhưng nổi lo sợ của tôi lại càng tăng khi chợt nghĩ đến viêc địch đang và có thể sẽ dùng toàn bộ súng chống chiến xa các loại để tiêu diệt chúng tôi. Vì không thể tấn công bằng bộ binh hay thiết giáp được, địch sẽ sử dụng chiến thuật này.

Và tôi đã đoán không sai. Chỉ chưa đến 8 phút sau thì một qủa đạn chống chiến xa nữa bay vào trúng vào một xe M.113 của BCH/Th/Đoàn20CX. Tôi vội nhảy lên chiến xa của tôi để quan sát và thấy được tình trạng hổn loạn của đám lính của xe M.113 đã bị bắn tranh nhau chạy leo vào các xe M.113 khác của BCH nằm cạnh đó. Tôi gọi ngay cho Th/tá Kiều và nói ông gọi về BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC xin lệnh cho rút quân. Và chỉ 2 phút sau, ông báo: “Lệnh phải cố thủ. Không được rút quân vì đây là mục tiêu của tonton (Tổng Thống) và chỉ có tonton ra lệnh rút thì mới được rút quân.”

Địch đã hầu như ngưng pháo, và chỉ sử dụng các loại súng chống chiến xa mà thôi. Và chiến thuật này đã có hiệu qủa vì vừa gây thiệt hại cho Thiết giáp vừa khiến cho tinh thần của các lực lượng đang phòng thủ sa sút.

Tôi lại nhìn đồng hồ: 08:45. Tôi rất muốn ra lệnh rút quân nhưng lại không dám. Tử thần cứ như lảng vảng trước mắt. Đang lúc rối trí thì lại nghe một tiếng xẹt và thấy chiến xa M.48 chỉ huy của Đ/u Nam bị trúng một qủa đạn chống chiến xa. Và chiến xa này đột nhiên nổ máy quay đầu phóng chạy về hướng nam (hướng quân bạn). (Thật ra thì khi chiến xa M.48 chỉ huy của Đ/u Nam bị bắn, anh đang ở trong xe M.113. Do đó, tài xế chiến xa của anh quá hoảng mới nổ máy phóng chạy.) Thế là các loại xe khác đều nổ máy chạy theo. Tôi gọi Th/tá Kiều, rồi Đ/u Nam, rồi Đ/u Cảnh, rồi Đ/u Minh nhưng hệ thống truyền tin đã im lặng. Ngay cả khi tôi gọi máy cho Tr/u Kính khi thấy chiến xa của anh chạy ngang qua mặt tôi, tôi vẫn không nghe trả lời.

Tôi tức tốc bảo HS Thẩm lên chiến xa và tôi cũng cho mang 1 máy PRC-25 vào khoang trưởng xa để liên lạc, đồng thời cho khiêng thi thể của HS Thìn (tài xế chiến xa cũ của tôi) lên M.577. Tôi nhìn quanh, tất cả những loại xe còn nổ máy được đã chạy hết, trên tuyến của tôi chỉ còn lại 4 chiến xa M.48 đã bị bắn trước đó còn nằm tại chỗ. Tôi đang định ra lệnh cho BCH/C/Đoàn của tôi bắt đầu chạy thì thấy cách tôi chừng 30m, các anh em đã bị thương đang cố dìu nhau chạy bộ về. Tôi tức tốc ra lênh cho M.113 và M.577 thuộc BCH/C/Đoàn của tôi phóng đến đón họ vào hết trong 2 xe và ra lệnh: “M.577 sẽ chạy song song phía bên trái chiến xa của tôi (tức là sát mé nước biển) để được che chắn vì xe này không có trang bị súng. Xe M.113 sẽ chạy sau tôi chừng 20 đến 30m và quay súng đại liên 50 và 30 ly về phía bên phải và bắn cầm chừng khi chạy ngang qua các làng dọc biển. Tất cả đều phải phóng rất nhanh.”

Lúc này tôi không còn suy nghĩ gì nữa ngoại trừ việc ra lệnh cho HS Thẩm, tài xế chiến xa của tôi, xe M.577, và M.113 còn lại của tôi khi cần mà thôi. Trên đường về tôi còn thấy chiến xa M.41 của Đ/u Trung bị bỏ lại. Tôi phải phóng khoảng gần 500m mới hết ranh giới vòng đai phòng thủ của chúng tôi, và tôi mới thấy lính TQLC, vì không kịp leo lên xe của các C/Đoàn, đang chạy bộ về hướng nam, nhưng cách xa tôi về phía tây chừng 200m. Tôi không thể nào dừng lại để đón họ được, dù lúc này tôi nhìn lại thì tuyến vẫn chưa bị địch chọc thủng vào. Có lẽ những chiến xa M.48, M.41 và M.113 đã bị bắn tê liệt còn nằm lại khiến địch nghi ngờ chúng tôi đang chuyển một số quân qua hướng khác.

Mấy cụ thường dạy: “Tấn công thì nên đi sau, còn chạy thì nên chạy trước” thật không ngoa chút nào. Vì tôi chạy sau một khoảng thời gian, có lẽ chừng 15 đến 20 phút, do vị trí ở xa nhất về hướng bắc và còn phải đón anh em bị thương từ tuyến chạy về, nên địch còn nằm ở các làng dọc biển có thời gian chuẩn bị đón bắn chúng tôi. Súng địch từ trong làng bắn ra liên tục. Dọc đường, tôi còn thấy rõ 2 tên địch ngang nhiên đứng giang chân kê B-41 lên vai định bắn vào chúng tôi, nhưng đại liên 30 ly bên hông M.113 đã quạt ngả chúng. (chiến xa M.48 chỉ huy của tôi thì không còn bắn ai được nữa sau khi bị bắn 2 lần, nhưng tôi vẫn không rời nó được)

Tôi nhìn địa hình và đoán mình đã vượt qua được chừng 5km. Tôi gọi báo cho xe M.113 biết sắp đến tuyến của quân bạn rồi, vì không còn thấy trong làng bắn ra, và ra lệnh ngưng tác xạ. Chỉ chừng 15 phút sau, tôi đã thấy phía trước lố nhố rất nhiều lính bạn đang đứng sát mé biển trông về hướng bắc. Khi chiến xa tôi đến, họ reo hò: ‘Đ/u Xứng đã về rồi! Đ/u Xứng đã về rồi!”.

Thở phào nhẹ nhỏm, tôi ra lệnh cho tải thương ngay những anh em bị thương và đưa thi thể HS Thìn về Bệnh viện. Tôi bảo Tr/u Kính kiểm tra quân số về được thì được biết còn thiếu B1 Hoàng-Hoàng (tài xế, đã chết ngay trong chiến xa vào giờ phút cuối nên không kịp mang theo về, còn số chiến xa M.48 thì tôi đã thấy tại tuyến nên đã biết được.

Sau đó, tôi lại leo lên chiến xa của mình đang hướng đầu về phía biển, ngồi xuống phía trước ngang với nắp tài xế, nhìn ra biển. Trời se lạnh vì chỉ còn mấy ngày nữa là Tết. Tôi bảo lính đưa cho tôi chiếc mền mỏng thường đắp, rồi quàng lên hai vai, cố hình dung ra một người lính của mình đã hy sinh và bị bỏ lại. Một cái tên rất khó quên. Họ là Hoàng và tên cũng là Hoàng. Và cũng suy nghĩ không biết phải nói gì khi Đ/tá Trí hỏi tại sao lại chạy về.

Còn về TQLC thì chỉ có 3 Ban Chỉ Huy Đ/Đội và BCH của Th/tá Tiền (đã ở sẵn trên các M.113 chỉ huy của các C/Đoàn) cùng một số thì đã nhanh chân kịp leo lên M.113 mới về được. Số còn lại thì hoặc chết hoặc bị bắt sống phải trên 100 người.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1517861336-KyBinh_TranCuaViet_07.jpg
Thủy Quân Lục Chiến & Thiết Giáp – Quảng Trị 1972

Ngay lúc này, lính đến báo với tôi là xe jeep của tôi đã ra đến, mang theo đồ ăn do bà xả tôi chuẩn bị. Tôi lại nhìn đồng hồ: đã 10:10 sáng ngày 31/01/73. Binh 1 Minh đã bày hết mọi thứ ra trên nắp máy xe jeep. Thế là chúng tôi đến ăn uống lai rai. Có cả Đ/u Trung, Tr/u Nga, Tr/u Lân của C/Đoàn 1/17CX M.41 và vài sĩ-quan các C/Đoàn nữa. Mỗi người chỉ nhấm nháp được 2, 3 miếng là hết thức ăn, rồi chỉ nhâm nhi bia, nhưng niềm vui thoát được nguy hiểm đã tràn ngập tâm hồn.

Sau đó, Tr/tá Tá đến chúc mừng tôi. Tôi nói: “Chắc tôi phải về nhà nghỉ vài ngày. Việc lảnh chiến xa bổ sung và sửa chửa xe bị hỏng đã có Tr/u Điệp (C/Đoàn phó của tôi) lo.” Và ông đồng ý. Tôi vào BTL/HànhQuân/SĐ/TQLC gặp Đ/tá Trí. Ông bắt tay tôi và nói: “Tôi cứ ngở cậu không về được chứ. Nhưng theo dỏi trên máy vẫn còn nghe tiếng của cậu nên tôi vẫn hy vọng. Chúc mừng!” Tôi cảm ơn và cảm thấy yên lòng vì không nghe ông hỏi han gì về việc bỏ vị trí chạy về.

Trước khi lên xe jeep về nhà, tôi gọi Đ/u Nam và trả lại C/Đội chiến xa M.48 đã tăng phái cho tôi (nhưng giờ thì không còn đủ. Rồi dặn Tr/u Kính dẩn toàn bộ C/Đoàn với số chiến xa chỉ còn chừng 1 C/Đội về tiền cứ ở Hòa Mỹ.

Cuộc Hành Quân Tango đã kết thúc. Kể từ lúc Cánh A – Nổ lực chính- của tôi vượt tuyến xuất phát và C/Đoàn tôi đã đến Cửa Việt đầu tiên cho đến khi tôi là người trở về cuối cùng là 4 ngày + 4 đêm + khoảng 3 giờ 30 phút.

Ngang qua căn cứ Hòa Mỹ, tôi tạt vào dặn dò Tr/u Điệp những việc cần làm, nhất là phân phối cho anh em đi phép, rồi lên xe tiếp tục về Huế nghỉ ngơi để ngày hôm sau còn vào Bệnh viện thăm anh em bị thương và kiểm tra xem thi thể của HS Thìn đã được chuyển về quê nhà trong Nam chưa.

Vậy là tôi được nghỉ 3 ngày và ăn Tết tại nhà ở Huế, quá đầy đủ đối với một người lính tác chiến. Sau đó, tôi trở lại đơn vị tại tiền cứ tại Hòa Mỹ.

Khoảng 4 ngày sau, vào lúc gần trưa, tôi đang ở trong văn phòng C/Đoàn trưởng thì nghe có tiếng máy bay trực thăng. Tôi ra ngoài nhìn thì biết ngay là trực thăng của Ch/tướng Bùi-thế-Lân (TL/SĐ/TQLC). Tôi nghĩ rằng ông ghé xuống BCH/Th/Đoàn 20CX nên chẳng quan tâm gì. Không ngờ, chỉ mấy phút sau thì tiếng trực thăng đáp xuống vang lên rất gần, tôi nhìn ra và thấy trực thăng đã đáp xuống khoảnh đất trống trong vị trí của C/Đoàn tôi. Tôi vôi vả bước ra, chẳng kịp nai nịt súng ống gì cả, thì đã thấy Ch/tướng Lân và Tr/tá Nguyễn-kim-Để bước vào. Tôi chào và lúng túng kéo 2 chiếc ghế salon đóng bằng két đạn bằng gổ mời họ ngồi và kêu lính gọi nước uống từ Câu lạc bộ Th/Đoàn. Nhưng ông Lân khoác tay bảo không cần. Ông ngồi xuống và mỉm cười nói: “Bây giờ cậu muốn được thưởng gì đây? Muốn thăng cấp Thiếu tá hay nhận Bảo Quốc Huân Chương?” Tôi chẳng biết trả lời sao vì mọi chuyện xảy ra quá đột ngột. Tôi chỉ nói được: “Thưa Thiếu tướng, đơn vị tham chiến gồm 4 C/Đoàn và thêm 1 C/Đoàn tăng cường nữa. Và chúng tôi đã tự ý rút về.” Ch/tướng Lân nói: “TOC (Trung tâm Hành Quân) đã theo dỏi hệ thống truyền tin nội bộ của các đơn vị suốt cuộc hành quân. Cậu đã có kế hoạch và chỉ huy toàn bộ 4 C/Đoàn hoàn thành nhiệm vụ. Giai đoạn sau thì không tính.” Tr/tá Để xen vào: “Xin Thiếu tướng đề nghị thăng cấp Thiếu tá mặt trận cho Đại úy Xứng. Như vậy thì cụ thể hơn.” Và Ch/tướng Lân nói: “Như vậy cũng tốt. Chúc mừng cậu trước!” Ông đứng dậy bắt tay tôi. Tôi chỉ cảm ơn và mỉm cười. Chỉ trong khoảng 15 phút sau, tôi tiển ông và Tr/tá Để lên trực thăng bay luôn. Khi trở lại, tôi thấy Tr/tá Tá, nai nịt gọn gàng bước đến, hỏi tôi: “Ông Tướng xuống C/Đoàn anh có nói gì không?” Tôi nói dối: “Ông chỉ ghé xuống thăm và hỏi tình hình C/Đoàn mà thôi.” Và sau này ai hỏi, tôi cũng chỉ nói như vậy.

Chỉ khoảng hơn 2 tháng sau thì tôi (sĩ-quan duy nhất được thăng cấp) được mang cấp bậc Thiếu tá (thăng cấp đặc cách mặt trận) do SĐ/TQLC đề nghị.

Tôi chỉ đưa ra một Tổng kết tương đối chính xác của Lực Lượng Tấn Công Chính trong cuộc Hành Quân Tango như sau:

– Địch:
1 – Nhân mạng: 01 bị bắt sống. Chết và Bị thương khoảng trên 300 trên đường tiến quân của tôi và trong các loạt tấn công vào vị trí phòng thủ của các C/Đoàn tại Cửa Việt.
2 – Quân dụng: 3 T.54 hay T.59 bị bắn tê liệt

– Bạn (Lực Lượng Tấn Công Chính):
1 – Nhân mạng:
– Thiết giáp: 2 chết (1 bị bỏ lại Cửa Việt) khoảng 30 bị thương (trong đó có 2 sĩ-quan của Cánh A của tôi + 1 SQ của BCH /Th/Đoàn20CX)
– TQLC tùng thiết: Chết và Bị thương khoảng 30. Bị bắt sống khoảng trên 100.trên đường tháo chạy
2 – Quân dụng: -6 CX M.48 (4 của Cánh A và 2 của Cánh B); 1 CX M.41; 5 M.113 bị bắn tê liệt và bị bỏ lại tại Cửa Việt. Không có loại nào bị cháy.

Tổng cộng: 12 xe các loại.
– 3 CX M.48 bị bắn hư hỏng nhưng vẫn chạy về được.
– Phần đất Lực Lượng Tấn Công Chính đã tấn công càn lướt và TQLC theo sau đã điền trám được: hơn 5km (đến gần Bình An).
– Riêng về Kết qủa của các T/Đoàn TQLC thì tôi không rõ.

Mượn Tựa đề và Lời Mở đầu của Th/u Đặng-văn-Quang, tôi đã viết lại những hồi ức, mà lẽ ra đã muốn giấu kín trong lòng và giữ làm kỷ niệm cho quãng đời lính của mình, về Trận đánh Cửa Việt với toàn bộ sự thật, (nói là toàn bộ sự thật thì không đúng hẳn vì: thứ nhất, ngoài giờ giấc ngưng bắn là 07:57 ngày 28/01/73, các số giờ khác có thể có sự chênh lệnh về số phút nhưng không sai lệnh nhiều. Thứ hai, có một số chi tiết tương đối không quan trọng mà, vì tế nhị, tôi không tiện nêu ra vì muốn giữ lại những tình cảm rất đáng trân trọng của anh em thuộc cả 2 binh chủng đã dành cho tôi sau 36 năm dài dằng dặc) chỉ với mục đích xin dùng bài viết này thay cho:

– Ba nén nhang cắm vào trước mộ của HS Thìn, tài xế chiến xa chỉ huy của tôi, đã hy sinh trong đêm tiến quân ra Cửa Việt và đã phải được gói chặt trong poncho (áo mưa của lính) suốt hơn 3 ngày liền, nghe thêm tiếng pháo nổ đạn bay cũng như hòa quyện linh hồn mình với niềm vui và nổi lo của đồng đội trong cuộc chiến khốc liệt nhưng bế tắc này.

– Ba nén nhang cắm vào trước chiếc chiến xa M.48 của C/Đội 3/1/20CX do Binh 1 Hoàng- Hoàng làm tài xế và đã hy sinh anh dũng, yên nghỉ ngay trong khoang tài xế chiến xa của mình tại phòng tuyến Cửa Việt.

Xin cầu nguyện cho linh hồn hai em ở thế giới bên kia siêu thoát và cảm thấy thanh thản hơn, nếu đọc được bài viết này.

Bài viết này cũng để thay lời cảm ơn:
– Th/u Đặng-văn-Quang, C/Đội trưởng C/Đội 3/1/20CX, đã bị thương ngay sau khi đã đánh tan tuyến chặn đầu tiên và kiên cố nhất của địch.
– Th/u Nguyễn-văn-Sa, C/Đội trưởng C/Đội 1/3/20CX, được tăng phái cho tôi, đã bị thương nặng trên đường tiến quân và sau đó phải giải ngủ.
– Tr/u Tống-huy-Kính, người đã cùng tôi vượt qua suốt chặng đường đầy cam go tiến chiếm Cửa Việt.

Kỵ Binh Đặng Hữu Xứng
nguồn: https://ongvove.wordpress.com/2017/09/26/ky-binh-qlvnch-tran-cua-viet/

BachMa
03-24-2018, 07:36 PM
Cần Thơ Đi Dễ Khó Về
Đoàn Xuân Thu

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1521573968-CanThoDiDeKhoVe_04.jpg
Chữ rằng: “Cần Thơ đi dễ khó về! Trai đi có vợ; gái về có con!”

Đó đó! Đúng y hịt đời tui vậy đó bà con ơi!

Như ai nấy nếu để ý đều biết bất cứ thị trấn, thị xã nào của Lục tỉnh Nam Kỳ, quê mình, đều kề cận một dòng sông.

Vì cũng có câu rằng:

“Sông Cửu Long chín cửa hai dòng!
Người thương anh vô số, nhưng anh chỉ một lòng với em!”

Rồi thòng thêm câu hỏi nữa:

“Bên dưới có sông; bên trên có chợ.
Ta với mình chồng vợ nên chăng?”

Thì em yêu, dân Cần Thơ, tóc em dài em cài hoa thiên lý, nghe anh hỏi mi mí… là em biết tỏng cái tim đen, bèn trả lời móc họng anh, như vầy: “Biết rồi mà bày đặt hỏi lôi thôi!”

Có nghĩa là:

“Anh có thương em thì thủng thẳng em ừ!
Anh đừng thương vội mẫu từ ‘quánh’ em!”

Ha ha! Mẫu từ, mẹ hiền, mà roi vọt bất tử quá vậy ta? Nhưng có nhằm nhè gì! Quánh em; chớ có dám quánh thằng rể đu đủ tương lai trời đánh nầy sao mà mình sợ chớ?! Nên tới luôn bác tài…Vì em đã chịu đèn rồi!

Chẳng qua là tới tuổi quân dịch, tui vào lính; nhưng bị bịnh mộng du! Bác sĩ quân y thuộc Hội đồng giám định y khoa khám, cho tui về hoãn dịch vì lý do sức khỏe!

Vì tối nào tui cũng ngủ mớ, tuột cái rột, ra khỏi giường, đi vòng vòng doanh trại, dạo mát trăng thanh; nhưng không có ý thức gì ráo!

Mật khẩu không biết, đêm cà lơ phất phơ… lính canh nó phơ ẩu là bỏ mạng sa tràng…

Thôi lính chê thì mình về đi học nữa vậy!

Năm 1970, tui theo thằng bạn thân, sau Tết, mùng Bốn, đi

" Cần Thơ cho biết đó biết đây,
Ở nhà với Má biết ngày nào khôn?"


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1521573940-CanThoDiDeKhoVe_02.jpg

Từ Sài Gòn xuống Cần Thơ, trên Quốc lộ 4, qua Bắc, leo lên xe Lam, chạy một hơi thôi, khoảng 1300 mét, là tới Ngã ba Lộ tẻ. Rẽ trái vào trung tâm thành phố Cần Thơ! Rẽ phải vào liên tỉnh lộ dẫn đến Long Xuyên, Châu Đốc, Rạch Giá và Hà Tiên.

Tại Ngã ba Lộ tẻ, có Bến xe mới xe lên Sàigòn; hoặc xuống Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, chạy thẳng tắp từ đây tới tận quận Cái Răng; mà không phải đi qua trung tâm thành phố. Vào trung tâm Cần Thơ phải qua cây Cầu đôi bằng sắt, kiểu Eiffel, bắc ngang qua rạch Cái Khế.

Bên kia cầu là một ngôi biệt thự kiểu Pháp, xưa dành cho mấy ông Tây; sau nầy là Dinh của Tư lệnh Vùng 4 Chiến Thuật, Quân lực Việt Nam Cộng Hòa .

Đi tới là dinh Tỉnh Trưởng! Trước mặt là một bùng binh khá rộng, nơi hội tụ của nhiều con đường chạy vòng vòng để khỏi đụng nhau.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1521573928-CanThoDiDeKhoVe_01.jpg

Đường Phan Đình Phùng xuất phát từ đây, coi như là cái xương sống của thành phố, chạy ngang qua Ty Bưu điện, Tòa án, Tòa Thị Chính, Ty Cảnh Sát, Trường Tư thục Nam Hưng, v.v… xuống tận khu Cầu Xéo.

Một đường khác cũng từ dinh Tỉnh Trưởng hướng về Cầu Tham Tướng, là Đại lộ Hòa Bình. Nhưng dân quen gọi là đường Hàng Xoài, vì dọc theo đường có trồng xoài.

Đại lộ Hòa Bình, lớn nhưng ngắn ngủn, chấm dứt khi tới Bệnh viện Thủ Khoa Nghĩa (Nơi em yêu của tui làm đó nhe!). Đường Lý Thái Tổ, bắt đầu từ đây, chạy dài tới cầu đúc Tham Tướng.

Qua cầu, là đường Mạc Tử Sanh, phía bên trái là chợ chồm hổm, chỉ nhóm vào buổi sáng, nhưng tấp nập quanh năm vào buổi chiều tối vì có xề bánh cống, quầy hủ tiếu, gánh cháo gà cho dân nhậu bình dân.

(Tham Tướng là Mạc Tử Sanh, con của Mạc Thiên Tích (Hà Tiên), làm cận vệ cho chúa Ðịnh Vương Nguyễn Phúc Thuần.

Năm 1777, quân Tây Sơn ồ ạt tấn công xuống miệt Trấn Giang (Cần Thơ)! Mạc Tử Sanh bị vây, chết trận nơi khoảng rạch nhỏ đổ ra sông Cần Thơ! Sau nầy dân chúng đặt tên là rạch Tham Tướng!)

Rạch Tham Tướng chạy vòng vòng phía trong, cắt ngang đường Tạ Thu Thâu, chui qua cái cầu sắt nhỏ, cầu Rạch Bần, vốn là đường thoát nước mưa tự nhiên cho Cần Thơ! Sau nầy nghe nói đã bị lấp! Nên bây giờ mưa lớn một chút là Cần Thơ ngập thấy thảm… thương luôn?! Tội nghiệp mấy em mắc mưa, ướt luôn cái quần lãnh Mỹ A hết ráo!

Cầu Tham Tướng đã biến mất, đường Mạc Tử Sanh đi về hướng Cái Răng cũng bị mất tên luôn, thành đường 30 tháng 4.

Ngã ba Tham Tướng xưa có doanh trại của đại đội Quân vận 411, dưới hàng cây bã đậu. Sau nầy là quán cà phê và quán nhậu bình dân.

Ôi những ngày đói rách, lang thang sau khi mất nước, tui không biết làm gì; chỉ biết long nhong như ở không lắm vậy! Và từng đóng đô thường trực ở đó.

Ngồi tréo ngoảy, trước mặt ly rượu thuốc ngâm ô môi, có màu cho dễ ực; vì màu trắng mắt mèo, e nó có nhúng một đầu tăm thuốc trừ sâu cho rượu trong veo…

Thấy ớn quá hà!

Xa em, người đã cả gan bán chịu cho tui ngày cũ (mà không sợ bị giựt)! Biết giờ em giờ phiêu bạt tận phương nào, để tui gởi về em một, hai trăm đô Úc, bồi đáp cái ‘bát cơm phiếu mẫu’ ngày xưa?!

Phần để cho em có tiền mua trầu nhai bỏm bẻm, chống tay lên cằm mà nghĩ tui vẫn còn thương tưởng tới em?!

Nhưng nếu bà con mình ở tỉnh khác tới chơi; người ta khoái cái bến Ninh Kiều hơn là chợ Tham Tướng!


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1521573953-CanThoDiDeKhoVe_03.jpg

Bến Ninh Kiều, nơi nghĩa quân Lam Sơn đã đánh quân Minh xâm lược một trận tơi bời; nên nằm trên đường Lê Lợi.

Thế mới biết ông cha mình đặt tên đường, tên bến nước là đầy trí tuệ, có hậu ý; chớ không phải như sau nầy muốn đổi tên đường sao cũng được; tùy bữa say nhiều hay xỉn ít đâu nha mấy cha?!

Nhạc sĩ Lam Phương, là thầy giáo, miệt Rạch Giá, gần biển, nên 75, ông chạy sớm hơn ai hết thảy. Xa quê, tuốt bên trời hải ngoại, ông vẫn còn nhớ tới bến Ninh Kiều để:

“Một đêm anh mơ mình ríu rít đưa nhau về,
Thăm quê xưa với vườn cau thề,
Bàn tay anh đan dìu em bước trên cỏ khô,
Đi trong hoang vắng chiều Tây Đô!”

Đó là ông ước, ông mơ, ông nhớ về ngày tháng cũ:

“Bờ sông yêu xưa tà áo thướt tha mỹ miều
Sao anh không thấy về Ninh Kiều?
Dường như anh nghe đời nặng trĩu trong màu đen
Đen như manh áo buồn chưa quen!”

Rồi ông nhớ cái thuở học trò!

“Ngày xưa ta quen từng viên đá quanh sân trường
Nay nghe sao khác từ tên đường
Tàu đưa ta đi tàu sẽ đón ta hồi hương
Tây Đô sẽ sống lại yêu thương!”

Cái trường, ông Lam Phương, đã từng theo học, bây giờ vẫn còn nhớ, là trường Phan Thanh Giản, trường công lập lớn nhất ở miền Tây, được thành lập vào đầu thế kỷ 20.

Học sinh ở các tỉnh lân cận, như nhạc sĩ Lam Phương hay nhà văn Sơn Nam, miệt Rạch Giá, vẫn phải khăn gói đến trường Phan Thanh Giản để học tiếp bậc “Đút rơm trâu ăn mê” (Diplôme) tức Trung học Đệ nhất cấp!

Tới năm 1964, trường Phan Thanh Giản lại được tách ra để thành lập Nữ Trung học Đoàn Thị Điểm. (Em yêu của tui đã từng đi học ở đó!)
Sau 75, Trung học Phan Thanh Giản bị thay bằng Châu Văn Liêm.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1521573980-CanThoDiDeKhoVe_05.jpg

Mà không phải chỉ cái trường học bị đổi tên đâu mà những con đường chu vi trường cũng chịu cùng chung số phận. Cổng trường nằm trên đường Phan Thanh Giản bị đổi thành đường Xô Viết Nghệ Tỉnh. Đường Pasteur, giữa trường Phan Thanh Giản và trường Đoàn Thị Điểm, bị đổi tên là Võ Thị Sáu.

Ông Pasteur, dù là Tây; nhưng có công lớn là đã chế ra thuốc chủng ngừa, cứu mạng hàng triệu người, không phân biệt màu da sắc tộc, khỏi bệnh tật! Công lớn với nhân loại khó có ai sánh bằng vậy mà cũng bị đuổi đi… để thay bằng chị Sáu… ‘mùa lê kim ma’ nở?

Nhưng tui buồn nhứt có lẽ là đường Võ Tánh, dọc bên hông trường, từ đường Phan Thanh Giản tới đường Ngô Quyền; đã đổi thành đường Trương Định.

Không phải tui (dám) ghét bỏ ông Trương Định, một anh hùng kháng Pháp, gì đâu. Mà chẳng qua con đường Võ Tánh, dẫu ngắn, có một khúc tẻo tèo teo thôi; nhưng nó lại mang quá nhiều kỷ niệm…

Phía sau lưng đường Võ Tánh nầy là xóm Cả Đài (theo tên Hương cả Phạm Thành Đài), bắt đầu từ cái chợ nhỏ cũng gọi là chợ Cả Đài kéo dài dài đến chùa Cây Bàng; nơi tui từng ở trọ gần trường để tiện đường… đi gõ đầu trẻ hồi năm nẳm.

Tui nhớ quán Ngọc Lan, chuyên bán cơm tháng cho quân nhân và công chức. Năm 1973, nếu mua vé cả tháng, sáng ăn đưa một vé, chiều ăn đưa một vé, bữa nào hỏng ăn, lại đi ăn cháo, gỏi đầu cá lóc (bự ế kinh), ngon hết biết, với em yêu ở đường Nguyễn Trường Tộ thì khỏi đưa vé…

Ăn hết xấp vé đó mua xấp vé khác, tốn 4 ngàn đồng bạc, dằn túi; không sợ đói bất tử vì đôi khi hứng xài ẩu… (Hồi thanh niên, đứa nào hỏng vậy cà?)

Từ quán cơm Ngọc Lan, có ông chủ lúc nào cũng mang mặc áo bỏ vô thùng bảnh tỏn, đi vài căn nữa thì tới tiệm chụp hình Phúc Vinh, nơi em yêu làm duyên, chụp tấm hình cho anh lộng bóp; để lúc nào cũng phải nhớ tới em! Và nếu vắng em, có con ‘quỷ hó’ nào dám lục bóp anh, thì nó thấy tấm hình bà La Sát nầy là nó sẽ bỏ chạy sút dép luôn!

Sau 75, người ta đói xanh râu, đói đến lòi hai cái lỗ tai; nên tiệm Phúc Vinh không còn chụp hình nghệ thuật nữa mà quay sang bán cháo, gỏi gà… để kiếm cơm!
Tui đã từng theo Giáo M. dạy Việt văn, em Bác sĩ H. ở hẻm 5, đường Phan Thanh Giản tới đây nhậu.

Giáo M. có người em gái trắng như bông bưởi!
Tắm xong, em hay ra hàng hiên ngồi hong tóc,
Mà tui tình cờ trông thấy… phải há hốc cái mồm!

Thưa bà con! Dù Cần Thơ không phải là nơi chôn nhau cắt rún của tui nhưng là quê hương yêu dấu ngậm ngùi của em yêu. Cần Thơ là quê vợ, là người tui rất sợ; nên tui còn yêu Cần Thơ hơn cả quê tui nữa đó!

Vì nơi đó có em… và còn có mấy em khác (tui thầm thương trộm nhớ) nhưng vì đã có vợ rồi nên tui đành phải giữ mối tình câm…Nên riết rồi… tui bị ‘hâm hâm!”

Tui xa Cần Thơ… Đi và đi luôn mấy chục năm!

Người xưa bên ấy, mới đây, gởi cho tui câu ca dao nầy, tui lén vợ, tui học thuộc lòng, kẻo quên:

“Con chim buồn, chim bay về cội
Con cá buồn, cá lội trong sông
Em buồn em đứng em trông
Ngõ thì thấy ngõ, người không thấy người!”

Thôi xin tạ lỗi cùng em hẻm 5, đường Phan Thanh Giản!

Thân anh giờ như:“Chim vào lồng; như cá cắn câu! Cá cắn câu biết đâu mà gở; chim vào lồng biết thuở nào ra!”

Thôi đành “Hẹn nhau kiếp sau ta tìm thấy nhau!”

Đoàn Xuân Thu
Melbourne
nguồn: https://canhthep.blogspot.com/2017/01/can-tho-i-de-kho-ve-oan-xuan-thu.html