PDA

View Full Version : Bạch Mã



Pages : 1 [2]

BachMa
03-30-2018, 01:19 AM
Tại Sao Tôi Bỏ Quân Đoàn I
Lê Bá Chử

Ngày 13 tháng 3 năm 1975, được lệnh vào Sài Gòn họp. Tôi vào đến Sài Gòn nhưng với sự ngạc nhiên là chỉ có mình tôi vào gặp Tổng Thống và Thủ Tướng (Trần Thiện Khiêm) mà thôi. Ngoài tôi ra, không có ai khác. Thường lệ, khi được lệnh về Sài Gòn họp thì đều có đầy đủ mặt các vị tư lệnh quân đoàn và tư lệnh các quân binh chủng khác. Lần này, thì chỉ một mình tôi thôi. Tôi thắc mắc lo lắng. Nhưng khi Tổng thống Thiệu cho biết ý định của ông ta là phải rút bỏ Quân Ðoàn 1 ngay hôm nay thì tôi mới vỡ lẽ, cay đắng, và uất ức vì lệnh ra quá đột ngột ngoài sức tưởng tượng và ngoài ước muốn của tôi. Thật ra, lúc đó tình hình tại Huế, Quảng Ngãi, và Ðà Nẵng tuy có hơi nặng nề vì địch tấn công liên tiếp, tuy nhiên tôi đủ sức chống giữ và sẽ tăng cường Sư Ðoàn Dù cùng với Thủy Quân Lục Chiến ra những vùng đó để lấy lại ưu thế. Tôi trình bày cặn kẽ những ý kiến cũng như dự định của tôi lên Tổng thống và Thủ tướng nhưng không được chấp thuận. Lệnh bất di dịch là: Phải rút khỏi Quân Ðoàn 1 càng sớm càng hay.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1517861877-TaiSaoToiBoQuanDoanI_LBC1.jpg
18/5/1972, Trung tướng Ngô Quang Trưởng, kiểm tra vũ khí của người lính. 900 binh sĩ Sư đoàn 2 đã được trực thăng vận vào
căn cứ pháo binh Rakkasan, 15 dặm phía Tây của Huế, để tạo thành “vòng tròn thép” bảo vệ cố đô – Hình ảnh của ©Bettmann / CORBIS

Trở ra Quân Ðoàn 1, tôi cho triệu tập tất cả các vị Tư lệnh sư đoàn, Tỉnh trưởng, Tiểu khu trưởng, và các sĩ quan tham mưu quân đoàn để họp. Thái độ khác thường của tôi làm các sĩ quan trong buổi họp hôm đó có vẻ nghi ngờ, thắc mắc. Nhưng rút cục tôi chỉ hỏi sơ qua tình hình và nói vu vơ quanh quẩn. Chứ làm sao tôi có thể ra lệnh thẳng khi chỉ nói với một mình tôi là Tư lệnh quân đoàn mà thôi. Vì vậy, cuộc họp hôm đó cũng chẳng mang lại kết quả nào mà tôi mong muốn. Lệnh của Tổng thống Thiệu yêu cầu tôi rút khỏi Quân Ðoàn 1 vào ngày 13 tháng 3, và rút Quân Ðoàn 2 vào ngày 14 tháng 3. Ông Thiệu cho biết là rút hết về Phú Yên, lấy Quốc Lộ 22 làm ranh giới. Việt Nam thu gọn sẽ chạy dài từ Phú Yên đến Hà Tiên.

Cái lầm của trung ương là không cho các thuộc cấp biết ý định của mình. Nghĩa là các vị Tư lệnh các quân binh chủng, Tổng bộ trưởng, Tư lệnh sư đoàn, v.v… đã không biết gì về lệnh rút quân của Quân Ðoàn 1 và 2 cả. Lệnh này chỉ có Tổng thống, Thủ tướng, Ðại tướng Cao Văn Viên, tôi (Tư lệnh Quân Ðoàn 1), và Tư lệnh Quân Ðoàn 2 (tướng Phạm Văn Phú) biết mà thôi. Do đó thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa tham mưu và các cấp, không có kế hoạch rút quân đàng hoàng, lệnh đột ngột không có cả thì giờ để xếp đặt kế hoạch, gây hoang mang cho binh sĩ, nhất là khi gia đình họ cũng không được bảo vệ đúng mức thì làm sao tránh khỏi hoang mang? Ai cũng lắng nghe tin tức thân nhân ở bên ngoài doanh trại. Thêm vào đó, tin tức Ban Mê Thuột, Pleiku, Kontum bị chiếm, Huế bỏ ngỏ, dân chúng Huế chạy vào Ðà Nẵng ngày một đông gây cảnh xáo trộn kinh hoàng cho dân Ðà Nẵng. Rồi sau đó là Chu Lai bị áp lực nặng.

Tôi ra lệnh cho tướng Trần Văn Nhựt rút Sư Ðoàn 2 từ Chu Lai ra trấn tại Lý Sơn (Cù Lao Ré) để kiểm soát đường bể, sợ địch ra chiếm đóng thì đường biển sẽ bị khó khăn. Trong khi đó, cảnh hỗn loạn đã xảy ra phần lớn do dân chúng hốt hoảng từ chỗ này sang chỗ khác làm cho binh sĩ nao núng và cũng chạy theo thân nhân. Mở miệng ra lệnh cho họ rút quân, trong khi mới hôm qua với lòng sắt đá và giọng nói cứng rắn hàng ngày buộc anh em phải giữ không để mất một cục sỏi ở Vùng 1.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1517861897-TaiSaoToiBoQuanDoanI_LBC2.jpg
Ngày 29 tháng 6/1972 Trung Tướng Ngô Quang Trưởng cùng 1,500 binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến
tại Tân Mỹ, chờ trực thăng vận đến một địa điểm phía đông Quảng Trị – nguồn: quora.com

Sau đó tôi suy nghĩ kỹ hơn. Tôi quyết định gọi Đại tướng Cao Văn Viên nhờ xin Tổng Thống cho tôi được dùng mọi cách để giữ Huế và Vùng 1. Làm sao tôi bỏ Huế và Vùng 1 được? Làm sao tôi bỏ được vùng đất sỏi đá này mà bao nhiêu chiến hữu của tôi đã đổ máu để gìn giữ? Nhất là trong vụ Mậu Thân.

Tổng Thống Thiệu rung động, chấp thuận cho tôi giữ Huế. Sáng 18 tháng 3 năm 1975, tôi ra Huế gặp tướng Lâm Quang Thi (tư lệnh phó Quân Ðoàn 1) đang chỉ huy tại Huế. Tôi ra lệnh: Giữ Huế cho thật vững. Chiều hôm đó về đến Ðà Nẵng, tôi nhận được một lệnh do Đại tướng Cao Văn Viên, thừa lệnh Tổng Thống yêu cầu tôi “bỏ Huế.” Thật làm cho tôi chết lặng người. Vì mới buổi sáng nay ở Huế tôi ra lệnh cho tướng Thi giữ Huế. Bây giờ đột nhiên được lệnh bỏ thì tôi biết nói làm sao với tướng Thi và anh em binh sĩ.

Nhưng vẫn phải đành thi hành theo lệnh trên. Tôi gọi điện thoại thông báo lệnh bỏ Huế cho tướng Thi. Tướng Thi trả lời ngay: “- Huế bây giờ xã ấp phường khóm tốt quá, đâu đâu tình hình cũng tốt cả mà tại sao anh bảo tôi bỏ là bỏ làm sao?” Tôi buồn bã trả lời: “Tôi biết rồi, nhưng xin anh bỏ Huế dùm tôi, đó là lệnh trên, không bỏ là không được.” Kết quả là tướng Thi thi hành lệnh, bỏ Huế, và dồn quân đến cửa Thuận An để được tàu Hải Quân rút về Ðà Nẵng.

Trong khoảng thời gian từ 13 đến 18 tháng 3, hàng đêm tôi gọi điện thoại cho Thủ Tướng Khiêm và báo cáo mọi biến chuyển từ công việc hành chánh đến quân sự. Tình hình khó khăn, địch tấn công, mà lại thêm cái lệnh “phải rút càng sớm càng tốt” lan truyền rỉ rả cho nên binh sĩ và công chức hết sức xôn xao. Tôi báo cáo mọi việc và xin thủ tướng ra quan sát tình hình. Sáng 19 tháng 3, 1975, Thủ Tướng Khiêm đến, tôi cho họp tất cả các vị Tư lệnh sư đoàn, Tỉnh trưởng, Thị trưởng, Bộ tham mưu, và các Trưởng phòng sở của hành chánh để Thủ tướng nói chuyện.

Trước khi Thủ Tướng đến, tôi đã nói chuyện với anh em có mặt tại hôm đó rằng tình hình khẩn trương, anh em phải nói lên sự thật đang xảy ra trong thực tế tại nơi này để Thủ tướng biết rõ tình hình và giải quyết cấp thời, chứ đừng có giữ thái độ “trình thưa dạ bẩm” trong lúc này nữa. Phải thẳng thắn mà nói lên sự thật. Nhưng sau khi Thủ Tướng nói chuyện xong, đến phần thắc mắc thì cũng chẳng ai nói gì cả. Tôi rất buồn vì anh em không chịu nghe lời tôi để nói Thủ tướng biết những sự thật về tình hình hiện tại. Duy chỉ có một mình Đại tá Kỳ, Tỉnh trưởng tỉnh Quảng Trị, có hỏi một câu: “Thưa Thủ Tướng, trong mấy ngày vừa qua, có một số công chức đã tự ý bỏ nhiệm sở không đến làm việc, thưa Thủ Tướng, phải dùng biện pháp gì để trừng phạt những người đó?” Câu hỏi thật hay, nhưng Thủ tướng không trả lời và nói lảng sang chuyện khác. Vì Thủ Tướng làm sao nói được khi lệnh trên đã muốn giải tán Quân Ðoàn 1 và Quân Khu 1 càng sớm càng tốt.

Ðúng ngày 22 tháng 3 năm 1975, tôi được lệnh trả Sư Ðoàn Dù và Sư Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến về giữ Nha Trang. Ngày 29 tháng 3, cộng quân tràn vào Ðà Nẵng với những trận giao tranh nhỏ. Tôi được chiến hạm HQ 404 đưa về Sài Gòn. Trên tàu cũng có một lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Khi tàu chạy ngoài khơi, Tổng Thống Thiệu liên lạc yêu cầu tôi ra tái chiếm lại Ðà Nẵng. Tôi trả lời ngay là bây giờ tôi lấy ai để theo chân tôi tái chiếm Ðà Nẵng? Lính tráng đã phân tán mỗi người một nơi. Cấp chỉ huy thì mạnh ai nấy thoát. Làm sao tôi có thể làm chuyện đó (tái chiếm Ðà Nẵng) được? Sau đó tôi được lệnh cho Hạm trưởng ghé tàu vào Cam Ranh, bỏ hết Thủy Quân Lục Chiến xuống, rồi chỉ chở một mình tôi về Sài Gòn. Tôi không chịu, mặc dù lúc đó tàu đã cặp bến Cam Ranh rồi.

Tôi nhờ Hạm trưởng gọi về Bộ tổng Tham Mưu xin cho anh em Thủy Quân Lục Chiến được về Sài Gòn tĩnh dưỡng nghỉ ngơi cùng tôi. Còn nếu không thì tôi sẽ ở lại Cam Ranh và đi theo anh em Thủy Quân Lục Chiến và cùng nhau chiến đấu. Sau đó, Sài Gòn bằng lòng cho tàu chở tất cả về Sài Gòn.

Về đến Sài Gòn, tôi được bổ nhiệm vào Bộ Tư Lệnh Hành Quân lưu động ở Bộ Tổng Tham Mưu. Khi vào đây, tôi gặp phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại (Tư lệnh Hải Quân Vùng 1 Duyên Hải) và Chuẩn tướng Nguyễn Văn Khánh (Tư lệnh Sư Ðoàn 1 Không Quân) đang ngồi viết bản tự khai, và Trung tướng Thi thì bị phạt quản thúc về tội bỏ Huế. Tôi không hiểu vì sao lại có chuyện kỳ lạ như vậy. Họ đâu có tội gì. Họ chỉ thi hành theo đúng lệnh mà lại bị phạt thì quả thật bất công. Tướng Thi thực sự là một người chống lại việc bỏ Huế. Lúc trước, khi nghe tôi cho biết là Tổng Thống đã ra lệnh bỏ Huế thì tướng Thi đã trả lời thẳng với tôi rằng: “Xã ấp tốt quá mà bỏ là sao?” Vậy mà bây giờ ông lại bị phạt giam quản thúc. Những vị tướng này bị phạt quá oan uổng vì họ xứng đáng gấp mấy trăm lần những ông tướng phè phỡn tại Sài Gòn.

Hôm sau trong buổi họp tại Bộ Tổng Tham Mưu, tôi có nói rằng: “Việc phạt tướng Thi cùng hai tướng Thoại và Khánh là không đúng, họ chỉ là thuộc cấp của tôi, họ chỉ làm theo chỉ thị của tôi mà thôi, họ không có tội gì cả, nếu có phạt thì xin phạt tôi đây này.” Phòng họp lặng ngắt. Ðại tướng Viên nhìn qua trung tướng Trần Văn Ðôn. Tướng Ðôn mới đi Pháp về, mới đảm nhận chức Tổng trưởng quốc phòng. Có thể vì vậy nên tướng Ðôn mới không biết là Tổng thống Thiệu đã trực tiếp ra lệnh cho tôi bỏ Huế, nên tướng Ðôn làm đề nghị phạt tướng Thi vì đã bỏ Huế và rút lui. Mà Tổng thống Thiệu lại không dám nói sự thật với tướng Ðôn, mà chỉ ký lệnh phạt. Sau đó, tướng Lê Nguyên Khang với giọng giận dữ đã buột miệng nói: “Anh em chúng tôi không có tội tình mẹ gì cả!”


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1517861915-TaiSaoToiBoQuanDoanI_LBC3.jpg
Di tản chiến thuật tại Đà Nẵng – nguồn: PennLive.com

Tiện đây, tôi cũng xin nói về trường hợp ra đi của tướng Thoại và tướng Khánh. Là vị tư lệnh trong tay, có hàng ngàn lính, hàng trăm chiến hạm lớn nhỏ, nhưng tội nghiệp thay, sau khi hỗn loạn, tướng Thoại đã bị bỏ quên không ai chở đi khỏi Bộ tư lệnh ở Tiên Sa, và ông đã phải đi bộ qua dãy núi phía sau bờ biển. May nhờ có một chiếc tàu nhỏ của Hải Quân mà anh em trên tàu lúc đó cũng còn giữ kỷ luật, thấy đề đốc Thoại ở đó, họ ghé vào chở tướng Thoại đi chứ nếu không thì cũng chẳng biết sau này sẽ ra sao. Còn tướng Khánh, Tư lệnh Sư Ðoàn 1 Không Quân, đã không đủ nhiên liệu để bay xa mà phải đáp trực thăng tại một bãi cát ở Sơn Trà rồi lội ra tàu. Cũng may lúc đó gặp tàu HQ 404 và đã cùng tôi về Sài Gòn.

Lê Bá Chử
ghi chép (Lịch Sử Ngàn Người Viết)
nguồn: http://www.generalhieu.com/nqtruong-u.htm

BachMa
04-04-2018, 02:47 PM
Tại Sao Tôi Bỏ Quân Đoàn I
Trần Vũ

Tôi khám phá tướng Ngô Quang Trưởng lần đầu qua bút ký Dấu Binh Lửa của Phan Nhật Nam. Một tướng Trưởng lo âu lặng cứng trong đồn Mang Cá khi Việt cộng chiếm Huế năm Mậu Thân. Việt cộng vào đầy Huế nhưng tướng Trưởng và bộ chỉ huy sư đoàn 1 bộ binh cương quyết chống trả, lập đầu cầu cho lữ đoàn Dù của Đại tá Lê Quang Lưỡng vào giải vây Huế. Cũng chính tướng Trưởng đã giữ vững Huế năm 1972 và tái chiếm Thừa Thiên. Một Patton của miền Nam. Nhưng khác Patton, tướng Trưởng không thô tục mà điềm đạm, cũng khác Patton, tướng Trưởng không đánh lính mà lập hội cứu trợ gia binh và gắn bó với binh sĩ, ông để lại trong lòng dân miền Nam hình ảnh của một vị tướng tài và liêm khiết.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1517861981-TaiSaoToiBoQuanDoanI_TV1.jpg
Trung Tướng Ngô Quang Trưởng

10 tháng 3-1975 Ban Mê Thuột thất thủ. Kể từ lúc này là một chuỗi tan vỡ dây chuyền. Tin chiến sự dội về Sàigòn liên tiếp những thành phố bỏ ngỏ. Việt cộng càng lúc càng áp sát xuống phía Nam. Bố mẹ tôi lo lắng cùng cực. Những bữa cơm chiều thay bằng cảnh cả nhà túm tụm trước tivi theo dõi tin tức, đôi khi mở radio cùng lúc. Toàn quân đoàn 2 với sư đoàn 23 bộ binh và 5 liên đoàn Biệt Động Quân tan vỡ trên cao nguyên. Quân đoàn 1 của tướng Trưởng rơi vào tình trạng bị chia cắt với Sàigòn. Mỗi ngày tivi phát hình dân chạy loạn gồng gánh đổ xô giành giật lên những chuyến tàu cuối cùng. Tôi còn nhớ nhật báo Sóng Thần chạy tít lớn: “Tướng Trưởng cố thủ ngoài Trung.” Ngô Quang Trưởng, tên ông như lá bùa hộ mệnh.

Chiều 18 tháng 3, lần đầu tiên tôi nghe giọng nói của ông. Cuộn băng ghi âm phát trên đài phát thanh Huế rồi phát về Sàigòn lúc 6 giờ chiều. Giọng ông trầm trọng nhưng chắc chắn: ông tuyên bố tử thủ Huế, nếu cần chết tại Huế. Tiếng nói của ông đem cho bố mẹ tôi niềm hy vọng. Gia đình tôi di cư từ Bắc, không ngừng tin vào quân lực.

Một tuần sau, 25 tháng 3-1975, u già nấu canh mồng tơi với cá chim trắng chiên vàng là món tôi ưa thích. Tin bỏ Huế đột ngột vang lên trên radio. Bố mẹ tôi buông đũa chết sững. Tô canh trở nên nguội ngắt. 4 ngày sau, đến phiên Đà Nẵng. Rồi Tam Kỳ, rồi Quảng Ngãi, rồi Sa Huỳnh…

Nhiều thập niên sau đọc Vì Sao Tôi Bỏ Quân Đoàn 1, tôi mới hiểu tướng Trưởng đã bất lực như thế nào khi phải thi hành lệnh của Phủ Tổng thống. Trong thâm tâm ông hẳn đã phải giận dữ tột bực. Vì sao Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu và Đại tướng Cao Văn Viên không hiểu lui binh khó khăn hơn tấn công? Vì sao cả hai quên những thất trận cay nghiệt của quân đội Pháp: Liên đoàn Sơn cước Bắc Phi và chiến đoàn Charton tan hàng trên đường biên giới tháng 9-1950. Liên đoàn 100 Lưu động bị phục kích tan nát trên quốc lộ 19 ngay khi rời An-Khê tháng 6-1954. Trận đánh diễn ra ngay trên đèo Mang-Yang ở cây số 15, không xa mặt trận Khánh Dương vừa xảy ra trận đánh khốc liệt suốt tuần lễ giữa Lữ đoàn 3 Nhảy dù với Sư đoàn 10 của Mặt trận Giải phóng miền Nam. Vừa xảy ra? Vì chỉ mới là hôm qua. Vẫn còn là ngày 29 tháng 3-1975 khi tướng Trưởng phải rời Đà Nẵng trong hỗn loạn và vẫn còn là ngày 30 tháng 3 khi Lữ đoàn 3 Nhảy dù phải lui về Dục Mỹ với thiệt hại 3/4 quân số. Phòng tuyến phía bắc Nha Trang tan vỡ.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1517861994-TaiSaoToiBoQuanDoanI_TV2.jpg
Trung Tướng Ngô Quang Trưởng giữa các cố vấn Mỹ

Vì sao cố Tổng thống Thiệu ra lệnh triệt thoái? Vì sao Đại tướng Cao Văn Viên không từ chức? Vì sao tướng Viên không nghiên cứu học thuyết chiến tranh hay chiến lược của Việt Minh trong chiến tranh Việt-Pháp, vì vẫn cùng một kẻ thù, cùng hàng tướng lĩnh Việt Minh đang cầm quân đánh miền Nam mà tướng Viên lại ghi danh Văn khoa Sàigòn? Chức Tổng tham mưu trưởng không đủ làm ông bận rộn? Và vì sao ông quan tâm văn chương trong lúc chiến tranh đã kề cận thủ đô? Tôi không giận tướng Trưởng vì trong lòng tôi giữ sự tôn kính đối với ông, nhưng tôi bực mình Đại tướng Cao Văn Viên đã không làm đúng phận sự là phải đề ra những kế hoạch khác một khi thấy quyết định của Phủ Tổng thống là sai lầm. Hoặc từ chức. Chậm rãi, tôi chú ý đến chi tiết: Cả hai Trung úy Nguyễn Văn Thiệu và Trung úy Cao Văn Viên, đồng khóa sĩ quan Nam Định, đều cùng theo học khóa tham mưu cao cấp do Trung tá Paul Vanuxem giảng dạy. Vanuxem chính là liên đoàn trưởng Liên đoàn 3 Lưu động bị vây tại Vĩnh Yên Tết Tân Mão 1951. Tuy là một chiến thắng, nhưng từ sau trận Vĩnh Yên này suy nghĩ quân sự của Vanuxem thay đổi. Trong các văn bản viết về chiến tranh Đông Dương, Vanuxem tin cẩn tuyệt đối tránh để bị vây. Nếu cần, bỏ đất một khi cán cân binh lực không cân xứng. Navarre đã không chọn Vanuxem chỉ huy Điện Biên Phủ vì ý niệm chiến thuật này. Mệnh lệnh triệt thoái của Tổng thống Thiệu và Đại tướng Viên có chịu ảnh hưởng tinh thần của Vanuxem?

Cá nhân tướng Ngô Quang Trưởng không thể thay đổi quyết định của Phủ Tổng thống nhưng ông vẫn mang trách nhiệm tổ chức lui binh không chặt chẽ. Sau thảm bại El Alamein, Thống chế Erwin Rommel lui binh 2,000 km trên sa mạc trước áp lực của Đệ Bát Lộ quân của Montgomery mà vẫn bảo toàn Quân đoàn Châu Phi về đến Tunisia để phản công chiến thắng trong trận Kasserine. Sau thảm kịch Stalingrad, Thống chế Erich von Manstein lui binh từ vùng núi Caucase trùng điệp về đến sông Don, rồi từ sông Don lui về sông Donetz, rồi từ sông Donetz lui về sông Dnieper mà vẫn giữ được tính hợp nhất của 6 Lộ quân để phản công hủy diệt Tập Đoàn quân Sô-viết tại Kharkov. Đứng về phương diện hành quân, tướng Trưởng là một tướng tài nhưng ông chưa vươn lên tầm cao hơn của một tướng lĩnh đảo ngược được thế trận.

Sang Hoa Kỳ tướng Trưởng giữ im lặng, vì quân cách của một quân nhân cần giữ, ngay cả sau bại trận. Cũng vì ông mang trong mình nỗi đau đã để mất Quân đoàn 1. Nỗi đau thật, là nỗi đau câm.


Trần Vũ
nguồn: http://baotreonline.com/tai-sao-toi-bo-quan-doan/

BachMa
04-08-2018, 08:45 PM
Ngày Cuối Cùng Của Sư Đoàn 5
Nguyễn Minh Tánh

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1517861566-NgayCuoiCungCuaSuDoan5_01.jpg

Lời nói đầu.

Ngày tàn chiến cuộc Việt Nam cũng là ngày tạm ngưng hoạt động của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa sau hơn 24 năm thành lập (Tôi nói tạm ngưng vì Quốc Gia chúng ta còn, chúng ta sẽ còn Quân Lực Quốc Gia). Ngày tàn binh nghiệp của chúng ta đã có những Tướng lãnh tuẩn tiết hi sinh thân mình nêu danh hậu thế. Các vị này, đã tượng trưng tinh hoa, anh hùng tính dân tộc của chúng ta, xứng đáng được dựng bia để con cháu ngày sau tôn thờ. Các vị này thà tự giải quyết sinh mạng của mình chứ không muốn rơi vào tay giặc cũng như không muốn phí sinh mạng Binh sỉ thuộc cấp một cách vô ich. Các vị anh hùng đó từ vị Tư Lệnh Quân Ðoàn IV, Trung Tướng Nguyễn Khoa Nam, Thiếu Tướng Lê Văn Hưng. Tư Lệnh Phó Quân Ðoàn IV, Thiếu Tướng Nguyễn Văn Phú cựu Tư Lệnh Quân Ðoàn II/V2CT, Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hai. Tư Lệnh Sư Ðoàn 7 Bộ Binh và cuối cùng là vị Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh đáng kính yêu của tôi, cố Thiếu Tướng Lê Nguyên Vỹ.

Các vị nầy nếu ra lệnh cho thuộc cấp tiếp tục chiến đấu thì chắc chắn tất cả sẽ tuân lệnh nhưng cũng chỉ tổn thất thêm sinh mạng một cách vô ích. Thiếu Tướng Hưng cũng từng là người hùng của trận An Lộc khi chỉ huy Sư Ðoàn 5 Bộ Binh năm 1972 người đã làm rạng danh Khóa 5 Vì Dân Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức của chúng tôi.

Có nhiều bạn bè tôi khi đi tù hàng chục năm về hơi khó tính từng nói là họ không tôn trọng và không xem các tướng lãnh rời miền Nam trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, trước khi miền Nam thất thủ, là các cấp chỉ huy của họ. Tôi thì thông cảm tình cảnh quí vị này nhất là những vị rời miền Nam ngay sau khi Dương Văn Minh đầu hàng. Một điều tôi và đa số bạn hữu đều công nhận là nhờ có những người thoát ra nước ngoài năm 1975 và hoạt động tranh đấu với quốc tế, với Hoa Kỳ và cả Cộng Sản Việt Nam nên “Chương Trình Ra Ði Có Trật Tự” (ODP) mới được thành hình và chúng tôi dân H.O mới sang được đất hứa.

Vì có những vị bỏ đi nên những người vĩnh viễn ở lại trong lòng quê hương, đã dùng những giọt máu đào của mình rải thắm đất mẹ rất xứng đáng được tôn vinh. Do đó chúng ta chỉ xếp hạng các người “hùng” và không “hùng” thôi. Chúng tôi chỉ xin quý vị sang trước đây, đã có một thời gian dài ổn định, con cái nên người, thành những người dân địa phương chánh gốc nếu không thể cưu mang các cựu chiến hữu của mình vì lý do nào đó đã ở lại miền Nam sau 30 tháng 4 năm 75, (Có người đã chết trong các ngục tù Cộng Sản) bị đối xử tàn bạo trong các ngục tù cộng sản mới sang đây thiếu thốn mọi bề, thì cũng đừng tuyên bố những câu đau lòng về những người tuẩn tiết và chúng tôi là những “Tên ngu dại không biết thời cơ.” Thế thôi ! Nhân danh là một người tù cải tạo 10 năm và mới sang đây tôi cũng xin cám ơn quý vị đó một lần.

Ðã có nhiều người viết về ngày cuối cùng của Ngũ Hổ Tướng (Các tướng Nam, Phú, Hưng, Hai, Vỹ) đặc biệt về Tướng Vỹ trong số KBC Ðặc Biệt vừa qua, nhưng còn nhiều chi tiết còn thiếu vì tác giả nghe người khác kể lại.

Hôm nay tôi xin bổ túc về cái chết oanh liệt của cố Thiếu Tướng Lê Nguyên Vỹ vì chính tôi và một số Sĩ quan cao cấp đơn vị trưởng của Sư đoàn đã ở gần cố Thiếu Tướng Lê nguyên Vỹ trong những giây phút cuối cùng.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1517861584-NgayCuoiCungCuaSuDoan5_02.jpg

Cuối tháng 9 năm 1974 tôi được thuyên chuyển từ Thiết Ðoàn 8 Kỵ Binh thuộc Sư Ðoàn 23 Bộ Binh (Đồn trú tại Ban Mê Thuột nhưng đang hành quân ở Vùng Pleiku KonTum), về Chỉ huy Thiết Ðoàn 1 Kỵ Binh sau hơn 9 năm rời khỏi đơn vị nầy lúc đó là tôi là Ðại Úy Chi Ðoàn Trưởng Chi Ðoàn 3/1 Thiết Quân Vận.

Vì bất bình vị Tư Lệnh Sư Ðoàn 23 Bộ Binh khi vừa xuống trực thăng trong vùng hành quân Pleime (Pleiku) đã “xài xễ” tôi trước mặt các Sĩ Quan thuộc cấp và tăng phái do một lý do tôi không thể nào kiểm soát nổi hoặc Chỉ huy được là Thiết Vận Xa bị mìn khi đơn vị được lệnh tiến nhanh, nên dò mìn không kỹ, tôi bỏ vào Bộ Chỉ Huy Hành Quân của tôi và đề nghị Chuẩn Tướng Lê Trung Tường Tư Lệnh tìm người khác thay thế tôi. Vị này đùng đùng bỏ về và bảo Ðại Tá Nguyễn Văn Ðồng Tư Lệnh Lữ Ðoàn II Kỵ Binh bổ nhiệm Thiếu Tá Nguyễn Văn Ðêm Thiết Ðoàn Phó Thiết Ðoàn 21 Chiến Xa M48 thay thế tôi và đặt tôi dưới quyền xử dụng của Lữ Ðoàn II Kỵ Binh dù tôi là quân số của Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp (nguyên Trưởng Khối Chiến Tranh Chính Trị BCH/TGB QLVNCH) trở lại chức vụ cũ của tôi vào tháng 4 năm 1974 là Thiết Ðoàn Trưởng Thiết Ðoàn 8 Kỵ Binh, đơn vị tôi phải rời bỏ cuối tháng 10 năm 1972 vì bị trọng thương.

Thiếu Tá Ðêm đã bị VC bắt làm tù binh khi chúng tấn công Ban Mê Thuột vào trung tuần tháng 3 năm 1975 và đã ở tù 7 năm. Chính ra, nếu Sư đoàn không dùng tôi thì phải trả tôi lại đơn vị gốc nhưng Chuẩn Tướng Tường muốn giữ tôi lại “Ngồi chơi xơi nước” tại Lữ Ðoàn II Kỵ Binh cho Ðại Tá Ðồng “trù” tôi. Nhưng nhờ có Chuẩn Tướng Lý Tòng Bá Chỉ Huy Trưởng Thiết Giáp Binh can thiệp và được Trung Tướng Nguyễn văn Toàn Tư Lệnh Quân Ðoàn II chỉ thị xuống, Tướng Tường mới thả tôi đi về Chỉ huy Thiết Ðoàn 1 Kỵ Binh khi Việt Cộng còn đang chiếm Căn Cứ Rạch Bắp thuộc Quận Bến Cát và Trung Tá Nguyễn văn Tá (Khóa 11 phụ VBQG Ðàlat) đã hy sinh ngày 5 tháng 9 năm 1974.

Khi được cho biết về Chỉ huy Thiết Ðoàn 1 Kỵ Binh (Một đơn vị “nát nhất” trong các Thiết Ðoàn Kỵ Binh) tôi muốn từ chối (Tôi được xếp Loại 2 sau khi bị thương nặng ngày 31 Tháng 10 năm 1972 tại Pleiku, do đó tôi có thể không đảm nhận chức vụ chỉ huy các đơn vị chiến đấu nếu tôi không thích ) vì khi tôi rời khỏi Thiết Ðoàn 1 Kỵ Binh năm 1965 lúc đó Ðại Tá Phạm Quốc Thuần là Tư Lệnh Sư Ðoàn, hiện lúc đó là Trung Tướng Tư Lệnh Quân Ðoàn III, Ðại Tá Lê Nguyên Vỹ đương kim Tu Lệnh Sư Ðoàn thì năm đó là Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 9 Bộ Binh, Ðại Tá Ðào Ðức Chinh (Hiện định cư tại Virginia) hiện là Tham Mưu Trưởng Sư Ðoàn thì trước kia là Trưởng Phòng Ba Sư Ðoàn đều biết tánh ba gai của tôi năm 1965 và có vẻ không thích tôi !? Nhưng Chuẩn Tướng Bá cho biết là tướng Thuần nói trước kia tôi không có lỗi gì cả‚ và đồng ý cho tôi về Sư Ðoàn 5 Bộ Binh. Chuẩn Tướng Bá Chỉ Huy Trưởng Thiết Giáp Binh còn khuyến khích tôi nói là tôi về chấn chỉnh lại Thiết Ðoàn 1 Kỵ Binh vì “nó” quá nát rồi nhất là sau cái chết của Trung Tá Nguyễn Văn Tá Thiết Ðoàn Trưởng.

Các vị trong quân đội nếu không biết rõ Thiết Ðoàn 1 Kỵ Binh “nát” như thế nào thì chỉ nghe tôi kể sơ sơ đây cũng đủ ớn lạnh rồi ! Không kể tiểu sử trước năm 1972 của Thiết Ðoàn, nhưng kể từ đầu năm 1972 khi Trung Tá Tôn Thất Hoàng (Khóa 14 VBLQ Ðàlat) rời chức vụ chỉ huy thiết đoàn đến tháng 9 năm 1974 tôi là vị Thiết Ðoàn Trưởng thứ sáu trong vòng chỉ hơn hai năm ! Trong thời gian này một Thiết Ðoàn Trưởng Trung Tá Nguyền Ðức Dương (khóa 11 phụ VBQG Ðalạt) bị đơn vị chiến xa CSBV bắt cùng cả bộ Chỉ huy Thiết đoàn làm tù binh tại mặt trận Lộc Ninh (Bình Long) vào tháng 3/72(?), được trao trả 13 tháng sau nhờ Hiệp Ðịnh Ba Lê; Thiếu Tá Bùi Thường, khóa 5 SQTB Thủ Ðức cùng khóa 5 SQTBTÐ với tôi chỉnh trang đơn vị lại vài tháng, Trung Tá Nguyễn Mạnh Lâm cũng khóa 5 SQTBTÐ chỉ huy vài tháng rồi cũng đi, Trung Tá Nguyễn Ðức Dương sau khi được trao trả‚ trở lại đơn vị cũ vài tháng rồi đi vì Cục An Ninh Quân Ðội không đồng ý, kế đến Trung Tá Nguyễn Văn Tá từ Vùng 1 CT thuyên chuyển vào Chỉ huy Chỉ hơn 3 tháng là tử trận.

Thiết Ðoàn này cũng có nhiều thành tích rất đặc biệt là đã từng nuôi dưỡng cả một ổ nội tuyến mà không hay. Tháng 4 năm 1965, khi tôi bị đổi đi khỏi Thiết Ðoàn thì Việt Cộng nội tuyến trong đêm 22 rạng 23 tháng 4 lấy đi 2 chiến xa M41, một chiếc chạy về bỏ tại ngã tư Bình Hòa (Gia Ðịnh) khi chúng định dùng chiến xa này tấn công phi trường Tân Sơn Nhất, còn một chiếc chúng đem lên chiến khu của chúng vùng Tây Bắc tỉnh Tây Ninh để nghiên cứu hành quân chống Thiết Giáp.

Trong trận nội tuyến này Thiết Ðoàn 1 Kỵ Binh đã tổn thất vừa chết, vừa bị thương gần 70 quân nhân các cấp trong đó có 1 Sĩ quan trực đơn vị. Ðau đớn nhất là toàn thể các Hạ sĩ quan Chi đội phó các Chi đội của Chi Ðoàn 3/1 TQV (Đang tập họp điểm danh tối) những người đã giúp tôi rất đắc lực trong trận Chiến Thắng tại Ấp 13bis Xã Ðinh Thọ Quận Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương (đêm 22 tháng 11 năm 1965),vì thời gian đó các Sĩ quan chi đội trưởng hầu hết mới ra trường và chưa hề đụng trận, đã hy sinh. (Chi Ðoàn 3/1 TQV đã được hấp lại sau hai trận Bình Giã, một Tháng Mười Một và một Tháng Mười Hai năm 1964.

Trận đầu, Ðại Úy Nguyễn Hữu Trung Ngọc (Khóa 14 Trường VBQG Ðà Lạt) Chi Ðoàn Trưởng tử trận, trận sau Ðại Úy Võ Văn Bẩm (Khóa 7 VBLQ Ðalat) bị trọng thương. Trong trận đầu, Chi Ðoàn 3/1 TQV tăng phái Chiến Ðoàn 5 Chiến Xa dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tá Nguyễn Thành Lý (khóa 4 SQTBTÐ), Ðại Tá Lâm Quang Thơ Chỉ Huy Trưởng TGB/Chiến Ðoàn Trưởng đã ở hậu cứ. Thiếu Tá Nguyễn Thành Lý cùng Trung Úy Nguyễn Văn Bảy (Khóa 5 SQTBTÐ) Chi Ðoàn Phó Chi Ðoàn 2/5 Chiến Xa cũng đã hy sinh. Rất nhiều Quân nhân các cấp thuộc Thiết giáp đã hi sinh trong hai trận này khi bọn VC bắt đầu triển khai giai đoạn trận địa chiến của chúng (Thời gian này tôi đang theo học khóa 2 Sĩ Quan Cao Cấp Thiết Giáp (niên khóa 1964-1965) tại Trường Thiết Giáp Fort Knox Kentucky Hoa Kỳ. Tin tức trên do một anh bạn tại BCH/TG viết cho tôi hay.

Xin cho phép tôi khỏi nêu tên các vị chỉ huy các đơn vị này từ Thiết Ðoàn Trưởng, Thiết Ðoàn Phó, hai Chi Ðoàn Trưởng Chi Ðoàn 1/1 CX và 3/1 TQV chỉ biết rằng Trung Tá Lý Tòng Bá cựu Thiết Ðoàn Trưởng đã rời đơn vị đảm nhận chức vụ Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Bình Dương và Thiếu Tá Nguyễn Xuân Hường đã bị thuyên chuyển lên Thiết Ðoàn 8 Kỵ Binh (Ban Mê Thuột) vài tháng trước đó.

Hai tên chủ chốt bị Việt Cộng móc nối này là Thượng Sĩ Phùng Văn Mười Hạ Sĩ Quan Quân Xa của Chi Ðoàn 1/1 CX và Trung Sĩ Nguyễn Văn Tiểng Hạ Sĩ Quan Tiếp Liệu của Chi Ðoàn 3/1 TQV. Cả 2 tên này đều đã dưới quyền tôi khi tôi Chỉ huy 2 Chi đoàn trên (Chi Ðoàn 1/1 CX năm 63-64, Chi Ðoàn 3/1 TQV năm 1965 (Tháng 7 đến tháng 12 1965) và tôi đã không dùng chúng vì lý do chúng lem nhem tiền bạc.

Nhưng sau khi tôi bị thuyên chuyển, chúng “mua chuộc” các người thế tôi trở lại đơn vị cũ để làm nội tuyến.

Sau này, trong chiến dịch “Junction City” Trung Ðoàn 11 Thiết Giáp Hoa Kỳ (U.S Army 11th Cavalry Regiment) tìm thấy chiến xa này tại khu rừng rậm Tây Bắc Tây Ninh.

Một chuyện khác khó tin nhưng có thật là trong trận Snoul thuộc lãnh thổ Miên tại một đồn điền cao su phía Bắc Quận Lộc Ninh Tỉnh Bình Long (Cuối Tháng 6 năm 1971) Thiết Ðoàn 1 Kỵ Binh tăng phái cho Trung Ðoàn 8/SÐ 5BB rút lui khỏi đồn điền Snoul bị Việt Cộng rượt chạy có cờ đến nỗi bỏ lại một Thiết Vận Xa trên QL 13 độ 20 Km Bắc Lộc Ninh trong đó có nhiều xác đồng đội kể cả xác Thiết Ðoàn Phó Thiết Ðoàn 1 Kỵ Binh và một Tiểu Ðoàn Phó Pháo Binh !
Nếu bảo là đơn vị Bộ binh bỏ xác đồng đội lại thì còn có lý, nhưng với một Thiết đoàn kỵ binh mấy chục xe vừa chiến xa và thiết vận xa bao nhiêu là hỏa lực mà bỏ lại xác đồng đội thì khó thể chấp nhận được ! Vì Chiến Ðoàn 8 Bộ Binh không chờ Lữ Ðoàn III Kỵ Binh lên giao tiếp đã di chuyển xuôi Nam về hướng Lộc Ninh (Xuyên qua khu vực chưa được giải tỏa trên QL13) nên mới bị tổn thất nặng nề như vậy (Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 8 Bộ Binh, trong thời gian này là Ðại Tá Bùi Trạch Dzần đã cho lệnh “Chạy”).

Do đó, dù Thiết Ðoàn 1 KB là một trong những đơn vị Thiết Giáp gần Thủ Ðô nhưng ít ai muốn về đơn vị này nhất là trong những tháng cuối cùng của năm 1974 khi các đơn vị chánh quy Cộng Sản Bắc Việt có chiến xa nằm cách Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh tại Lai Khê không xa hơn tầm đạn hỏa tiễn 122 hoặc 107 ly chứ không nói đến Ðại Bác tầm xa 130 ly của chúng.

Với tình hình như vậy tôi vào Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn trình diện Ðại Tá Lê Nguyên Vỹ Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bô Binh (Lúc này ông chưa thăng cấp chuẩn tướng) vào ngày 20 tháng 9 năm 1974.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1517861602-NgayCuoiCungCuaSuDoan5_03.png

Vừa gặp tôi câu nói đầu tiên của ông ta với một nụ cười, có Ðại Tá Ðào Ðức Chinh (cùng khóa 5 SQTB Thủ Ðức với tôi) Tham Mưu Trưởng Sư Ðoàn 5 Bộ Binh đứng bên cạnh:”Quả đất tròn, chúng mình lại gặp nhau, phải không anh Tánh.”

Câu đó vừa là một câu vui mừng chào đón mà cũng là một câu như hăm dọa vì năm 1965 (22/11) trong trận Dầu Tiếng lúc có đơn vị tôi thì thắng trận nhưng năm ngày sau Trung Ðoàn 7 Bộ Binh rời khỏi đơn vị tôi trên đường chuẩn bị hành quân lên núi Tha La (phía Bắc Dầu Tiếng) bị Trung Ðoàn Q 762 VC tấn công gây tổn thất rất nặng cho cả 3 Tiểu Ðoàn (Tiểu Ðoàn 1/7,Tiểu Ðoàn 3/7, và Tiểu Ðoàn 4/7). Trung Ðoàn Trưởng Trung Tá Nguyễn Văn Tư, Tiểu Ðoàn Trưởng TÐ 1/7, Thiếu Tá Nguyễn Văn Chuyên, Cố Vấn Trưởng Trung Ðoàn, Sĩ Quan Liên Lạc Pháo Binh v.v… tử trận. Số chết và bị thương lên đến hàng trăm.

Khi gặp Ðại Tá Phạm Quốc Thuần sau khi Trung Ðoàn 7 Bộ Binh tan tác, Ðại Tá Thuần nói một câu :” Hôm trước mình thắng, hôm nay thua, huề.” Tôi phản ứng lại ngay : “Ðâu có, Ðại Tá, hôm trước Thiết giáp thắng, còn bây giờ bộ binh thua chứ đâu có huề.” Vì câu nói thẳng tính này đã đưa tôi ra Vùng 2 Chiến Thuật gần 5 năm ! (Lúc đó Trung Ðoàn 1 Thiết Giáp còn là đơn vị biệt lập thuộc dụng QÐ III không thuộc Sư Ðoàn). Sau này tôi nghĩ lại là mình quá bồng bột nông nổi để làm phật lòng cấp Chỉ huy.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1517861619-NgayCuoiCungCuaSuDoan5_04.png

Khi bắt tay tôi xong, Ðại Tá Vỹ hỏi tôi cần gì. Tôi nói muốn đi phép. Ðại Tá Vỹ hỏi tôi cần mấy ngày thì tôi nói chỉ xin 4 ngày thôi. Tôi đã đi phép do Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp và Lữ Ðoàn III Kỵ Binh cho cả gần 10 ngày khi tôi từ Pleiku về Saigon nên tôi chỉ xin có bao nhiêu đó thôi (Tôi quên nói là cùng đi với tôi lúc đó có Ðại Tá Trần Văn Thoàn, Tư Lệnh Phó Lữ Ðoàn III Kỵ Binh, chưa về làm tư lệnh phó sư đoàn)..

Sau nầy tôi mới biết là Ðại Tá Vỹ quá ưu ái với tôi chứ với các Sĩ quan tiền nhiệm chỉ huy Thiết Ðoàn 1 Kỵ Binh không dám xin phép chỉ thỉnh thoảng “dù” thôi. Còn tôi mỗi tháng nếu không có hành quân tôi đều đi phép 48 tiếng. Do sự cởi mở lúc đầu nầy mà tôi quý mến Ðại Tá Vỹ và đồng thời tôi cũng trọng tánh tình thẳng thắn bộc trực của ông.

Thượng tuần tháng 10 năm 1974, Thiết Ðoàn 1 Kỵ Binh do tôi chỉ huy và Trung Ðoàn 9 Bộ Binh do Trung Tá Trần Phương Quế (Khóa 9 VBQG Dalat dường như cùng khóa Ðại Tá Vỹ) chỉ huy đã đẩy lui Việt Cộng khỏi các căn cứ chúng chiếm được từ mùa hè 74. Trung Tá Trần Phương Quế được thăng cấp Ðại Tá, và Ðại Tá Lê Nguyên Vỹ được thăng cấp Chuẩn tướng. Chiến Thắng Rạch Bắp được trình chiếu trên băng tần số 9 cũng như các chương trình phông vấn các vị chỉ huy hành quân (Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã đến thị sát chiến trường, gắn lon cho quân nhân thuộc đơn vị sau khi Sư Ðoàn 5 Bộ Binh chiến thắng), tôi thì chỉ được tưởng thưởng Anh Dũng Bội Tinh cấp Quân Ðội + Nhành Dương Liễu vì không đủ thời hạn chức vụ (dưới 6 tháng (!)).


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1517861635-NgayCuoiCungCuaSuDoan5_05.jpg

Cuối tháng 12 năm 1974, tỉnh Phước Long thất thủ vào tay quân Cộng Sản Bắc Việt. Ðơn vị của tôi đang hành quân vùng phía Nam Quận Phú Giáo chuẩn bị để tái chiếm Phước Long và tôi sắp sửa để “sinh tử” với địch theo lời của chuẩn tướng tư lệnh sư đoàn, nhưng lệnh tái chiếm không thành vì không còn quân để bảo vệ ven đỏ nếu Sư Ðoàn 5 BB rời bỏ căn cứ hiện tại để hành quân xa.

Thượng tuần tháng 3 năm 75 Ban Mê Thuột thất thủ kéo theo sau cuộc rút lui hỗn loạn trên Tỉnh Lộ 7 Pleiku Phú Bổn của các đơn vị thuộc Vùng 2 Chiến Thuật, cuộc “Tháo chạy tán loạn” ở Vùng 1 Chiến Thuật từ Quảng Trị chạy dài đến Nha Trang.

Khoảng gần hạ tuần tháng 3 năm 75, đơn vị tôi nhận nhiệm vụ mở đường từ Lai Khê lên Chơn Thành dọc theo phía Ðông Quốc Lộ 13, một con lộ huyết mạch đã bị bỏ cho VC kiểm soát từ mùa hè đỏ lữa năm 72 trong khi tại tỉnh lỵ Bình Long còn Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân Vùng 3 và Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân; ở tại Chơn Thành thì còn Chi Ðoàn 1/15 CX, và các đơn vị thuộc dụng của Tiểu Khu Bình Long và Chi Khu Chơn Thành. Nhiệm vụ của đơn vị tôi : Thiết Ðoàn 1 Kỵ Binh và Tiểu Ðoàn 3/9 Bộ Binh tăng phái do Thiếu Tá Ðổng Huy Hùng. chỉ huy là để mở đường và bảo vệ cho các cánh quân rút lui từ Chơn Thành về Lai Khê.

Vì hành quân cấp tốc và bất ngờ nên sau hai ngày phá vở các chốt dọc trục lộ 13 đơn vị của tôi đã bắt tay được các đơn vị ở Chơn Thành với tổn thất tương đối nhẹ. Nhưng vì các đơn vị ở Bình Long chưa di chuyển xuống kịp tại Chơn Thành nên Thiết Ðoàn của tôi phải trở về lại hậu cứ.

Cuối Tháng 3 năm 1975, Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn II cũng như Vùng 2 Chiến Thuật kể như tan rã và tỉnh Phan Rang đặt thuộc khu vực trách nhiệm của Quân Ðoàn III/V3CT. Một Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của Quân Ðoàn III do Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi cựu Tư Lệnh Vùng IV chỉ huy được thành lập và bố trí tại đây, cần có lực lượng cơ hữu của Quân Ðoàn III để phối hợp với đám tàn quân của Vùng 1 và Vùng 2 còn sót lại ! Do đó tôi lại phải mở đường lên Chơn Thành đón các đơn vị BDQ QK 3 về Lai Khê chuẩn bị cho ra Phan Rang. Do đó, tôi được lệnh trở lại vùng hành quân cũ với đơn vị tăng phái thường lệ là Tiểu Ðoàn 3/9 BB.Tôi còn nhớ lúc tan buổi họp hành quân vào lúc 22 giờ đêm ngày 27 tháng 3 năm 1975, Chuẩn Tướng Vỹ bắt tay tôi và nói : “Quân Ðoàn bây giờ trông vào anh đấy, anh Tánh. Anh cố gắng đem các đơn vị BÐQ về đây an toàn để họ ra Bộ Tư Lệnh Tiền Phương.”

Nhiệm vụ lần nầy thật khó khăn vỏ cùng ! Tuần lễ trước, địch chưa rõ ý đồ của ta nên chúng bị bất ngờ. Nhưng bây giờ, dù có “ngu” cách mấy chúng cũng biết là tôi sẽ lên lại vùng hành quân nầy vì tin tình báo của chúng cho chúng hay là các đơn vị phía Bắc của ta sẽ rút về hướng Nam và đơn vị hướng Nam sẽ đến giao tiếp, do đó chúng bố trí các ổ phục kích dày đặc dọc trục lộ và tôi phải dằng co với chúng trong ba ngày ba đêm mới hoàn thành được nhiệm vụ, sau khi tổn thất hai xe Thiết Quân Vận, một Sĩ quan hy sinh, một Sĩ quan khác bị thương cùng một số kỵ binh khác tữ trận hay bị thương, nhưng đã gây tổn thất khá nặng cho địch quân nhất là bắt được 7 tên tù binh CSBV mặt còn non choẹt vừa được bổ sung từ ngoài Bắc vào.

Khi tiếp đón được Bộ Chỉ Huy BÐQ Vùng 3 CT gồm có Ðại Tá Nguyễn Thành Chuẩn Chỉ Huy Trưởng BÐQ Vùng và Ðại Tá Nguyễn Văn Biết. Liên Ðoàn Trưởng Liên Ðoàn 3 BÐQ (sau 22 giờ đêm) tôi gọi âm thoại báo cáo cho Tướng Vỹ biết thì ông nầy rất mừng và nói âm thoại bằng bạch văn là đại diện cho quân đoàn cám ơn tôi. Một điều ông ít khi làm là nói bạch văn trong máy liên lạc âm thoại và mấy hôm trước đây ông đã gửi trả Thiết Ðoàn 22 Chiến Xa về lại Lữ Ðoàn III KB và phạt Thiết Ðoàn Trưởng 15 ngày trọng cấm Trung Tá Nguyễn Văn Liên Thiết Ðoàn Trưởng khi vị nầy sơ ý xin Sư Ðoàn cho phép ngày hôm sau mở đường ra Quốc Lộ 14 để tiếp tế xăng nhưng không “ngụy” (code) cẩn thận.

Cuộc hành quân thành công, đơn vị tôi trở về lại hậu cứ.

Các tuần lễ sau tôi có tham dự các cuộc hành quân vùng căn cứ “Ba Lê” thuộc xã Tân Hưng nhưng không có chạm súng và đến ngày 17 tháng Tư năm 1975 thì làm trừ bị tại Lai Khê.

Bây giờ Lai Khê là vùng tiền đồn vì Chơn Thành không còn lực lượng bạn. Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn Tư Lệnh Quân Ðoàn III lên Lai Khê nói với tướng Vỹ là nên di chuyển Bộ Tư Lệnh về Phú Lợi chỉ để một trung đoàn nào đóng tại đây thôi. Ðiều nầy rất đúng chiến thuật vì không khi nào một bộ tư lệnh sư đoàn lại làm tiền đồn bao giờ. Nhưng tướng Vỹ không đồng ý. Ông thường nói với các Sĩ quan thân cận là : ”Nếu tôi cho di chuyển Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn về Phú Lợi, lính tráng sẽ nói mình ‘Di tản chiến thuật’ sao ? Tôi ở mãi nơi đây và chết cũng tại đây !”

Một điểm son cho chuẩn tướng Vỹ là ông không hề ỷ lại vào Hoa Kỳ bao giờ và rất có tinh thần “Tự lực cánh sinh” hay có nhiều sáng kiến.

Trong một buổi họp bàn về phòng thủ, có một vị Trung đoàn trưởng báo cáo là thiếu kẽm gai, cọc sắt vì tiếp liệu loại 2 và 4 khan hiếm do Mỹ hạn chế viện trợ, Tướng Vỹ liền tức giận hét lên : ”Cái gì cũng Mỹ. Mỹ nó bỏ anh rồi biết không ? Vùng nầy thiếu gì tre gai, cho lính trồng dọc theo vị trí phòng thủ một thời gian sau sẽ thành một vòng đai tre gai dày đặc, đặc công nào vào được ?” Sáng kiến nầy của ông rất hay nhưng đáng tiếc là quá trễ.

Vì tôi kính mến tướng Vỹ khi tôi xin phép về lo đám tang bà mẹ vợ tôi từ ngày 20 đến ngày 24 tháng 4 năm 75 ông sẵn sàng cho ngay không phân bua gì cả nhưng chỉ đùa với tôi một câu là “Đừng bỏ tôi nghe anh Tánh.” Tôi đã hứa sẽ lên lại Lai Khê và đã giữ lời trong khi những người có quyền thế tại Thủ Ðỏ miền Nam đang rục rịch “Di tản chiến thuật” khỏi nước bằng đường thủy và đường không.

Ngày 28 tháng 4 năm 1975. Bộ Tư Lệnh nhẹ Sư Ðoàn 5 Bộ Binh do Ðại Tá Trần Văn Thoàn Tư Lệnh Phó chỉ huy cùng với Trung Ðoàn 8 Bộ Binh do Trung Tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng (Khóa 10 VBQG Ðàlạt hiện định cư tại CA) cùng Chi Ðoàn 3/1 Thiết Kỵ do Ðại Úy Nguyễn Văn Thiệp (hiện định cư tại CA) chỉ huy di chuyển về Phú Lợi. Cũng sáng nay, Chuẩn Tướng Vỹ cho chúng tôi biết là “Các anh em ai có thể cho vợ con đi nước ngoài được thì cho đi, còn các anh ở lại với tôi. Tôi cũng vậy cùng ở bên các anh.”

Sau nầy, đến ngày 21 tháng 5 1975 khi Việt Cộng đưa anh Thoàn từ Bình Dương lên Trại Tù GK3 của VC tại Long Khánh thì tôi được biết là trước ngày 30 tháng 4 năm 75 chị Thoàn (dân Pháp có Passport thường trực) đã đưa gia đình anh Thoàn và gia đình Chuẩn tướng Vỹ đi Pháp. Hiện giờ bà Vỹ đang định cư tại vùng Virginia.

Chiều ngày 29 tháng 4 năm 1975. Sau cuộc họp Tham mưu thường lệ xong vào lúc 17 giờ, các đơn vị được lệnh chuẩn bị bỏ Lai Khê về Bình Dương. Các quân dụng hư hỏng, cũng như các giấy tờ không cần thiết bỏ lại phải được tiêu hủy tại chỗ. Do đó trong căn cứ Lai Khê từng đám lữa đỏ rực các góc trời. Xa xa vùng Phú Giáo cũng thế vì Quận Phú Giáo đã di tản.

Màn đêm buông xuống trong nổi kinh hoàng. Nơi phía Quốc Lộ 14 các đoàn xe đủ loại kể cả chiến xa của VC di chuyển chạy để đèn sáng cả con đường dài. Tôi trở qua Bộ Tư lệnh Sư Ðoàn lúc 19 giờ để nhận lệnh thì được tướng Vỹ cho biết là do tin báo cáo có cái chốt của VC trong khu vực Xã Mỹ Thạnh phía Nam Bến Cát. Tôi nói Sư Ðoàn cho Ðại Ðội 5 Trinh Sát tăng phái cho tôi (Tôi không biết là Ðại Ðội 5 Trinh Sát đã ở Bình Dương với Bộ Tư Lệnh Nhẹ Sư Ðoàn) tôi dùng Chi Ðoàn 1/1 CX bức chốt đó cho, nhưng tướng Vỹ nói ban đêm khó phối hợp thôi để sáng hôm sau.

Tôi về hậu cứ của tôi và gọi điện thoại về Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp Trại Phù Ðổng về nhà tôi. Trong điện thoại tôi nghe có tiếng súng các loại nổ xa xa và tiếng động cơ trực thăng nổ rất gần. Vợ tôi đã di tản lên nhà ông anh tôi ở Nancy từ chiều chỉ có chú lính giúp việc nhà trả lời cho tôi biết là Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn III đã di chuyển về đóng quân tại đây. Vì trong thời gian đó, Tướng Toàn kiêm nhiệm chức vụ chỉ huy trưởng Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp nên có toàn quyền xử dụng cơ sở nầy.

Tôi liền cho Tướng Vỹ biết tin nầy.(Vừa rồi khi hỏi thêm tin tức về các giây phút cuối của tướng Vỹ khi tôi không có ở bên ông, tôi được Trung Tá Tống Mạnh Hùng (Khóa 5 Thủ Ðức, Pháo Binh Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Sư Ðoàn 5 BB) cho biết là trước đó tướng Vỹ đã gọi điện thoại về Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn không có ai trả lời, ông liền chửi thề : ” Ð.M tụi nó chạy trốn cả rồi.”)

Ðêm 29 tháng 4 năm 1975 là một đêm khủng khiếp nhất của đời tôi, một đêm mà tôi nhớ mãi. Các tiền đồn tiếp tục báo cáo quân xa địch các loại di chuyển nhưng chúng đi vòng không tấn công Lai Khê. Tôi đang chuẩn bị đón cái chết gần kề vì tất cả không còn gì để cứu vớt cả. Các vị từng hô hào sống chết với quân đội đã yên thân nơi nước ngoài rồi, còn tôi với trọng trách nhỏ nhoi là Chỉ huy một thiết đoàn kỵ binh tôi phải làm gì đây ?! Ngày tàn binh nghiệp của mình và niềm hãnh diện được chết trên xe Thiết giáp cùng binh sỉ trong đơn vị cũng như các Hiệp sĩ ngày xưa chết trên lưng ngựa !?

Ðêm 29 tháng 4 là một đêm dài nhất đối với tôi vì không chợp mắt được, chỉ nằm dài trên ghế bố xếp nhìn trời xanh, sao sáng ! (Giuờng ngủ đã được xếp lên xe GMC chờ di tản). Nhưng rồi đêm dài cũng qua đi nhưng các đốm lữa ở trong cũng như ngoài căn cứ vẫn sáng rực ánh hồng !

Bảy giờ sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, chúng tôi họp tại Phòng Hành Quân Sư Ðoàn. Không còn một nụ cười trên các đôi môi thường lệ hay khỏi hài. Tất cả đều lộ vẻ mất ngủ. Tình hình “Ðịch” dày đặc điểm “Ðỏ” trên Bản Ðồ Hành Quân. Tình hình bạn chỉ có nội bộ Sư Ðoàn, còn các đơn vị bạn thuộc Vùng 3 CT thì không tài nào biết được. Riêng Sư Ðoàn 25 Bộ Binh tại Củ Chi thì bị tấn công sáng ngày 29 vì có một thành phần Thiết Giáp chạy về Bình Dương tối ngày 29.
Từ sáng ngày 29 các khẩu Ðại Bác 175 nòng dài tại căn cứ Lai Khê đã tác xạ về hướng Củ Chi để yểm trợ tổng quát tăng cường cho Sư Ðoàn 25 BB nhưng không hiệu quả mấy.(Sau nầy tôi được biết Chuẩn Tướng Lý Tòng Bá Tư Lệnh Sư Ðoàn 25 Bộ Binh đã bị VC bắt làm tù binh đêm 29 tháng 4 năm 1975.) Nhưng Sư Ðoàn cũng vẫn họp và cũng chuẩn bị di chuyển xuôi Nam về Bình Dương.

Vừa họp xong Ðại Úy Nguyên, Chánh Văn Phòng Tư Lệnh xuống báo cáo tướng Vỹ là 10 giờ sáng Tổng Thống Dương Văn Minh sẽ đọc diễn văn quan trọng. Nghe thế, tướng Vỹ cho lệnh tất cả Sĩ quan chờ tại chỗ bên chiếc Radio Zenith và bên tách cà phê. Nhờ sự kiện nầy mà chúng tôi được nghe bản phát thanh đầu tiên của Big Minh trong khi có tiếng nhắc phía sau : “Ðọc đi.”

Sau nầy phối hợp các tài liệu do VC phổ biến tôi được biết là Dương Văn Minh khi gọi chúng vào Dinh để “bàn giao” đã bị chúng gạt dùng áp lực bắt đọc tuyên cáo đầu hàng theo ý chúng. Chớ theo bản “kêu gọi” đầu tiên, tướng Minh mời đại diện Mặt Trận Giải Phóng vào để bàn giao ! Nhưng chúng bắt ông ta đọc lại theo nội dung khác. Tức là bản tin thứ hai hoàn toàn khác bản tin đầu.

Theo báo chí của chúng, chúng tự đề cao là do “Sáng tạo lợi dụng thời cơ” khi chiếm Dinh Ðộc Lập là chúng nói với Dương Văn Minh :”Anh còn gì để mà bàn giao. Anh chỉ có một điều là đầu hàng vô điều kiện thôi !” ông Tướng Minh ơi ! Ông lại hại chúng tôi rồi !

Khi nghe lệnh tiếp của tướng Nguyễn Hữu Hạnh Tham Mưu Trưởng là các đơn vị ở tại chỗ chờ bàn giao thì tướng Vỹ cho lệnh Trung Tá Nguyễn Tấn Văn Tham Mưu Phó Chiến Tranh Chính Trị Sư Ðoàn (Anh đồng hao của tướng Vỹ) cho người ra cổng căn cứ treo cờ trắng đầu hàng, đồng thời ông nói : “Từ nay tôi không còn chỉ huy các anh nữa, các anh tự lo liệu lấy.”

Lúc đó Tướng Vỹ cho lệnh tìm Y sỉ Thiếu Tá Hiếu Tiểu Ðoàn Trưởng 5 Quân Y có lẽ định tìm thuốc tự tử nhưng ông sau nầy đã lánh mặt. Tất cả anh em chung quanh tướng Vỹ đều tìm cách dấu tất cả các súng cá nhân vì sợ ông tự tử. Các anh em khuyên ông thì ông nói : “Các anh chờ ở đây để cho tên Huyện ủy Bến Cát vào tiếp thu các anh à !” Lúc đó trong đầu óc tướng Vỹ chỉ có một ý định tự sát thôi.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1517861677-NgayCuoiCungCuaSuDoan5_06.jpg

Tôi quay về Thiết Ðoàn. Trong khi xe đang chạy về doanh trại của tôi thì Hạ sĩ Nguyễn Văn Sơn tài xế xe Jeep của tôi (Anh nầy sau năm 75 đã bị VC hạ sát trong một cuộc tranh chấp làm ăn gì với chúng) nói : “Trung Tá thay đồ xi vin đi hai thầy trò mình đi xe Vespa về Saigon.” Hạ Sĩ Sơn có để xe Vespa Ý tại Lai Khê đặng thỉnh thoảng anh ta đi phép về Saigon. Nhưng tôi không đồng ý.

Tội nghiệp anh này không bỏ tôi khi tôi di chuyển bằng M113, anh vẫn theo tôi và bỏ xe lại dù lúc đó tôi cho anh toàn quyền quyết định.

Vì như tôi đã nói ở trên là có một số Sĩ quan, Hạ sĩ quan, Kỵ binh của Thiết Ðoàn bị bắt năm 1972 và lại trở về lại đơn vị gốc năm 1973 sau khi được trao trả (Điều này trái với nguyên tắc an ninh nhưng tôi không hiểu do ai chấp thuận việc này ?). Tôi sợ thế nào cũng có người bị địch mua chuộc, móc nối nên tôi về tập họp thiết đoàn lại gồm có Bộ Chỉ Huy Thiết Ðoàn với Chi Ðoàn 1/1 CX (Chi Ðoàn 2/1 Thiết Kỵ tăng phái Trung Ðoàn 9 Bộ Binh, Chi Ðoàn 3/1 TK tăng phái cho Trung Ðoàn 8 BB).

Khi tôi tuyên bố là : “Tôi cám ơn tất cả các anh em đã giúp tôi trong thời gian qua đã chu toàn các nhiệm vụ đã được giao phó và giúp tôi, giờ đây tôi không còn chỉ huy các anh em nữa. ” Tôi nói bằng cả sự xúc động thật sự trong khi khóe mắt của tôi hơi cay cay. Nhìn thẳng vào gương mặt các anh em đối diện tôi thấy mắt nhiều người cũng nhuốm đỏ. Cùng lúc đó có những tiếng “nhao nhao lên” : “Trung Tá đi đâu chúng em xin đi theo đó.” Ðây là những lời tâm huyết của các thuộc cấp mà tôi nhớ đến suốt cuộc đời còn lại.

Không có một huy chương nào cao quý hơn các lời nói mộc mạc chân tình nầy trong khi tôi chẳng còn là gì cả ! Sau này khi nghĩ lại tôi thấy tôi thật quá liều lĩnh đùa giởn sinh mạng của các chiến hữu của mình trong khi tự mình không biết phải làm gì trong tương lai, trong khi không có chính phủ, không có cấp Chỉ huy ? Nhưng trong thâm tâm tôi lúc đó là rời khỏi đây đi về Vùng 4 Chiến Thuật chứ Lữ Ðoàn III Kỵ Binh và Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp thì không liên lạc bằng hệ thống liên lạc truyền tin được.

Tôi nói : “Các anh em đã tin tôi thì tôi cũng sẽ cùng sống chết với các anh em.”

Tôi cho lệnh Thiếu Tá Ðổ Cao Thượng (chú ruột Tướng Ðổ Cao Trí mấy năm trước định cư tại Maryland và Virginia, nhưng hiện nay đang định cư tại Georgia, Chi Ðoàn Trưởng Chi Ðoàn 1/1 Chiến Xa về doanh trại của anh ta chờ lệnh.

Tôi quay xe lại Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn để đón Ðại Tá Nguyễn Mạnh Tường Phụ Tá Hành Quân Sư Ðoàn và Trung Tá Tống Mạnh Hùng Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Sư Ðoàn (Hiện định cư tại San Francisco CA), cả hai cùng khóa 5 SQTB Thủ Ðức với tôi như đã hứa trước.

Ðến Bộ Tư Lệnh thì Hùng chạy ra gặp tôi nói :”Anh vào chào Chuẩn Tướng Tư Lệnh đi, người đã tự sát rồi !”

Tôi đứng chổ cửa “Trailer” nhìn vào thì thấy tướng Vỹ đã ăn mặc chỉnh tề, có huy chương trên túi áo và xếp tay lên ngực. Các viên đạn 6.35 ly của súng lục Beretta trổ từ dưới cằm lên trên đỉnh đầu. Tôi đã chào kính vị anh cả của Sư Ðoàn 5 Bộ Binh đồng thời cũng là một Anh hùng của Quân đội theo đúng lễ nghi quân cách rồi quay ra.

Sau nầy do anh Hùng kể lại là lúc tôi về rồi, tướng Vỹ cho gọi tất cả các anh em thuộc Bộ Tư Lệnh sang tư dinh cho lệnh dọn cơm ăn. Vừa ăn xong một chén cơm một cách hấp tấp, tướng Vỹ chạy vội vào “Trailer” mà không ai hay chỉ vì đang lo ăn. Thình lình có 2 tiếng súng nổ. Các anh em chạy vào thì thấy tướng Vỹ gục đầu trên vũng máu bị đạn như đã nói trên. Dù tất cả các súng được cất dấu kỷ nhưng còn một khẩu súng lục Beretta 6.35ly để trong Trailer không ai biết, trừ tướng Vỹ và Người đã dùng khẩu súng nầy để đi vào lịch sử. Chính Từ Vấn, anh Hùng và các anh em khác đã mặc quần áo tươm tất cho tướng Vỹ.

(Trong số báo Thời Mới Phụ Nữ Mới số 405 nhân tưởng niệm ngày 30/04/1975, nữ thi sĩ Ngô Minh Hằng có làm một bài thơ tứ tuyệt như sau :

Tướng Lê Nguyên Vỹ
Bình Long anh dũng góp tài năng
Làm tướng như Ông, mấy kẻ bằng
Quốc sĩ đầu hàng sao được giặc
Sân cờ Tư Lệnh, ánh sao băng !!!

Như tôi đã kể rõ cái chết của Tuớng Vỹ vì thế tôi đã đề nghị (Trong e-mail) và giờ đây tôi xin nữ thi sĩ sửa đổi lại câu gì khác chứ đừng để câu chữ nghiêng. Câu đề nghị của tôi nếu được thì xin nữ thi sĩ tạm dùng chứ để Tướng Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh tự sát ngay sân cờ Tư Lệnh trong khi có mặt rất nhiều Sĩ quan và Quân nhân thuộc Sư đoàn thì thấy không ổn. Câu thơ đề nghị thay thế là :

“Trailer” Trây lơ người gục, ánh sao băng !!!

Tường và Hùng theo tôi về Thiết Ðoàn. Khi xe bắt đầu lăn xích ra khỏi cổng trại của tôi thì thấy Ðại Tá Từ Vấn (Khóa 12 VBQG Ðà Lạt gốc BÐQ Tham Mưu Trưởng Sư Ðoàn), Trung Tá Nguyễn văn Khách (Khóa 10 VBQG Ðàlạt gốc Lực Lượng Ðặc Biệt) Trưởng Phòng Ba Sư Ðoàn, Thiếu Tá Nguyễn văn Nghĩa. Trưởng Phòng Nhất Sư Ðoàn, Thiếu Tá Nguyễn văn Hòe. Trưởng Phòng Nhì Sư Ðoàn cũng vừa đến tháp tùng lên các Thiết vận xa của chúng tôi. Tôi quên nói là đơn vị VC tại Bến Cát có vào hệ thống liên lạc Sư Ðoàn đòi gặp tôi ở đầu máy nhưng tôi đã báo hiệu thính viên trả lời là tôi không có ở đây.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1517861694-NgayCuoiCungCuaSuDoan5_07.jpg

Theo thứ tự di chuyển thì Chi Ðoàn 1/1 Chiến Xa dẩn đầu kế đến là Bộ Chỉ Huy Thiết Ðoàn của tôi. Khi ra khỏi căn cứ Lai Khê tôi thấy Chi Ðoàn 2/1 Thiết Kỵ do Ðại Úy Nguyễn Văn Thống chỉ huy (Anh nầy chết trong tù mấy năm sau 1975 tôi không rõ). Ðại Úy Thống vào hệ thống liên lạc hỏi tôi xem đi đâu. Tôi hỏi anh ta có muốn đi theo tôi không thì anh ta đồng ý. Tôi bảo gắn vải trắng ở đuôi ăng-ten và cho lệnh anh ta xem tôi làm gì thì anh ta làm theo.

Ðơn vị tôi ra khỏi căn cứ Lai Khê quay về hướng Ðông căn cứ băng đồng, chạy song song theo hướng Ðông Quốc Lộ 14. Tại vùng nầy, mới tuần trước Thiết đoàn tôi hành quân tại đây tìm đỏ con mắt không thấy một tên VC nào nhưng chiều nay sao đông thế ! Từ hướng Ðông trong khu rừng, từ hướng Tây bên Quốc Lộ chúng tủa ra nhắm vào đoàn xe Thiết Giáp di chuyển tác xạ tới tấp. Cũng may là đơn vị chúng tôi cách xa tầm bắn B40 và B41 nên không có xe nào trong đoàn xe của tôi bị trúng đạn. Một điều tôi hãnh diện về đơn vị của tôi và cũng nhờ ơn trên là không có một binh sĩ nào của Thiết Ðoàn 1 Kỵ Binh tác xạ lại. Họ rất giữ đúng kỷ luật là không tác xạ bừa bãi và không có “Một sự cướp cò” nào. Nếu không, có lẽ tôi khỏi đi tù và không còn để viết những dòng chữ nầy.

Ðoàn xe di chuyển được hơn 10 km thì Ðại Úy Thống Chi Ðoàn Trưởng Chi Ðoàn 2/1Thiết Kỵ hỏi lệnh tôi thế nào khi VC chận đầu xe. Tôi nói trong máy cho anh ta biết thôi trình diện họ đi còn tôi lên trên nầy gặp “Thằng Ba” tức Chi Ðòan 3/1 Thiết Kỵ (Đang tăng phái cho Trung Ðoàn 8 BB tại Bình Dương) cũng trình diện luôn (?).

Khi Chi Ðoàn 1/1 CX dẫn đầu đi qua cầu xã Tân Phước Khánh vừa sang được chiếc thứ 5 thì cầu sập. Lý do là cầu cây quá yếu và chiến xa lại di chuyển nhanh qua cầu và quá gần nhau, nên sức trọng tãi của cầu không chịu nổi sức nặng của chiến xa (Thường lệ, gặp trường hợp này trưởng xa phải xuống xe hướng dẩn cho xe chạy chậm qua cầu từng chiếc một). Toán đã qua cầu tiếp tục di chuyển ra đường Quốc Lộ 13. Toán còn lại quay trở lại nhập chung với Thiết Ðoàn.

Ðến cuối tháng 6 năm 1975 khi gặp tôi trong Trại 1 Cải Tạo Cát Lái (Trung Tâm Huấn Luyện Quân Khuyển của QLVNCH cũ) thì anh Thượng nói anh đi ra Quốc Lộ 13 thì gặp đoàn chiến xa T54 đang tìm hướng về Dinh Ðộc Lập và chúng đã nhờ anh chỉ đường (Thành Phần tiền phương của chúng là Lữ Ðoàn 103 Thiết Giáp đã đi với Ðại Tá Bùi Tín tiếp thu Dinh Ðộc Lập và nhận lệnh đầu hàng).

(Khi gặp lại tôi tại Virginia sau năm 1995, thì Thiếu Tá Thượng cho biết là nhờ sự khéo léo anh đã gạt được chúng và thoát khỏi bị bắt trong ngày 30 Tháng 4 1975. Anh đã nhờ tôi đính chính lại.)

Ðoàn xe của tôi quay vòng lại vào giữa xã Tân Phước Khánh. Việt Cộng đã tiếp thu xong xã này. Cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam treo đầy trước các căn nhà và dọc theo đường. Dân chúng ùa ra đường cản đoàn xe tôi lại. Lúc đó vào khoảng 17 giờ ngày 30 tháng 4 năm 1975. Tôi xuống xe thì tên chủ tịch xã tiến đến ôm chầm lấy tôi nói câu đầu tiên : “Chúng ta không ai thắng, ai bại, chỉ có Ðế Quốc Mỹ là thua thôi !

Các anh về với Cách Mạng (sic!) là có công rồi sẽ được biểu dương (Lần đầu tiên tôi nghe được danh từ “biểu dương”). Cũng lần đầu tiên, tôi biết thế nào là sự xảo trá của VC. Dù chúng biết rằng chúng tôi chạy trốn, không lọt nên mới tạt vào đây, nhưng chúng đã mở cho chúng tôi một lối thoát danh dự (?) bằng cách nói câu trên để tôi an tâm và đỡ mất mặt !

Cùng lúc đó một binh sĩ đến báo cáo là Thiếu úy Nguyễn Văn Tiền. Chi Ðội Trưởng Chi Ðội Súng Phun Lửa, ở sau tôi hai xe, đã tử trận. Vừa nghe câu này tên chủ tịch xã liền nói :”Anh cho tên anh ấy để ghi công vì anh ấy về với Cách Mạng mà bị hi sinh là thành liệt sĩ (Thêm một từ mới) rồi ! Trời ! Chúng giết mà lại thành liệt sĩ của chúng ?! Nhưng tôi cũng phục phương tiện liên lạc của chúng – không hiểu chúng liên lạc thế nào – mà thân phụ của Thiếu úy Tiền từ Bến Tre ngày hôm sau đã lên đến xã Tân Phước Khánh Bình Dương để đem xác con về.

Sau khi gom góp hết các súng cá nhân và các đồ dùng của chúng tôi như Radio Cassette, thùng đựng nước đá, v.v…của tôi mà chúng bảo là của “ngụy”, chúng cho chúng tôi tự do đến nhà dân chúng gần đấy để tắm rửa với sự kiểm sóat của chúng. Vì tôi là Chỉ huy nên chúng chỉ để ý đến tôi thôi. Anh Tống Mạnh Hùng. Pháo Binh vì theo sát tôi nên không thoát được; Ðại Tá Tường, Thiếu Tá Hòe, Thiếu Tá Nghĩa trốn thoát; Ðại Tá Từ Vấn và Trung Tá Khách cũng trốn nhưng bị bắt lại bởi du kích tại địa phương, (Những tên này lúc sáng còn là Nhân dân Tự vệ của Việt Nam Cộng Hòa nhưng đến chiều là du kích của Việt Cộng !)

Trừ chúng tôi, các Sĩ quan cấp Tá ra, chúng tập trung tất cả Quân nhân thuộc quyền tôi ngồi bẹp trước sân cờ của Văn Phòng Xã Tân Phước Khánh. Khi tôi đi ngang qua nhóm Quân nhân này, có một Hạ sĩ quan nói một câu tôi vẫn nhớ đến bây giờ, trong lúc đó trong tôi nỗi lên niềm xúc động lẫn chua cay. Anh đó nói : “Trung Tá, sao họ lấy súng của mình hết vậy ?” Tôi đã trả lời anh ta mà nước mắt cứ muốn trào ra : “Mình đâu còn cần các thứ đó nữa đâu anh, hết chiến tranh rồi !”

Tên chủ tịch xã cho chúng tôi ăn cháo gà và uống bia (Bia chúng lấy trên Thiêt Vận Xa chở hàng Quân Tiếp Vụ của Thiết Ðoàn) và nói một câu khách sáo :”Chúng tôi vừa tiếp thu nơi đây, cơ sở vật chất chưa có gì, các anh ăn tạm.” Ðó là bửa ăn cháo gà cuối cùng của cuộc đời tự do đánh dấu bước đầu đi tù Cộng Sản. Tôi chỉ có thể ăn lại cháo gà như thế này 10 năm sau !

Vừa ăn xong, có một tên VC người Nghệ Tĩnh mặc thường phục, tóc rụng gần hết trên dưới 50 tuổi gương mặt đầy sát khí đến chất vấn tôi với giọng hằn học chứ không có những lời nói dịu dàng như của tên Chủ tịch xã người miền Nam kia. Lúc đó, tôi cảm thấy hối hận là mấy giờ trước còn quân trong tay tại sao tôi không “Một mất một còn” với chúng thà rằng chết với vũ khí trong tay còn hơn bây giờ đang đợi quyền sinh sát của chúng ! Do các câu nói của tên này thì chúng tôi là những tên “Tội phạm chiến tranh, trời không dung, đất không tha, lá rừng xanh không ghi hết tội, còn nước đại dương chẳng rửa sạch thù, là công cụ đế quốc Mỹ v.v.. (Các câu đầu trong bài 3 ‘Quân Ngụy là Công Cụ của Ðế Quốc Mỹ kẻ thù của nhân dân Việt Nam v.v..’” trong 10 bài căn bản của chúng mà chúng tôi sẽ được chúng ‘lên lớp’ vài tháng sau đó).

Ðang lúc chúng đang điều tra tôi, thì có một chiếc xe Jeep A2 ngừng trước cửa, môt tên Cộng Sản Bắc Việt xuống xe (Sau này tôi mới biết tên này là Ðại úy thuộc cơ quan chính ủy của Công Trường 7 VC). Tên này hỏi ai chỉ huy Thiết Giáp ở đây. Tôi xác nhận là chính tôi thì chúng cho lệnh tất cả các Sĩ quan cấp Tá đi theo chúng.

Vì xe Jeep của hắn không đủ chỗ nên hắn chạy trước và cho tôi đem theo 2 M113. Trên mỗi xe M113 của chúng tôi chúng cho một tên VC ngồi trên thiết vận xa với chúng tôi trong khi các thùng đạn Ðại Liên 50 và 30 còn đầy đạn và súng vẫn ở trên giá súng. (Ðây là một hành động tương đối tốt của Công Trường 7 VC khi chúng cho người đến đón chúng tôi. Chúng sợ quân du kích hay địa phương của chúng vì muốn “trả nợ máu” đối với chúng tôi nên “làm bậy”‚ làm hại đến đường lối tuyên truyền chiêu dụ của chúng chăng ?

Chúng đưa chúng tôi về Trường Công Binh QLVNCH tại Bình Dương (Bản Doanh của Công Trường 7 lúc đó) và cho chúng tôi ngủ tại phòng của các Sĩ quan khóa sinh của các lớp học Công Binh đã trống vắng.

Ngày hôm sau, 1 tháng 5 năm 1975, Ðại Tá Từ Vấn Tham Mưu Trưởng Sư Ðoàn 5 BB đại diện đơn vị được chúng chấp nhận là “hàng binh”(?) dẩn chúng lên lại Căn Cứ Lai Khê để tiếp thu nơi đây vì các đơn vị của chúng chưa dám vào đó.

Cũng chiều hôm đó, các phóng viên của báo “Quân Ðội Nhân Dân” của chúng đến phỏng vấn, chụp hình chúng tôi gồm có Ðại Tá Từ Vấn. Tham Mưu Trưởng Sư Ðoàn 5 BB, tôi, Trung Tá Tống Mạnh Hùng. Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Sư Ðoàn, Trung Tá Nguyễn văn Khách. Trưởng Phòng 3 Sư Ðoàn, Thiếu Tá Nguyễn Văn Răng. Thiết Ðoàn Phó, Thiết Ðoàn 1 Kỵ Binh và Ðại úy Nguyễn Văn Vũ. Ðại Ðội Trưởng Ðại Ðội 5 Trinh Sát người đã lái chiếc xe Jeep A2.

Hinh ảnh chúng tôi được chúng cho trình chiếu trên TV là các tên tàn quân của Sư Ðoàn 5 BB bị chúng bắt ngày 30 tháng 4 năm 1975. Vào cuối tháng 6 năm 1975 khi chúng tôi tập trung về Trại Cát Lái thì chúng cho chúng tôi đọc được tờ báo Quân Ðội Nhân Dân có câu chuyện của chúng tôi và bức ảnh ghi trên.

Trong gần hết trang 3 của tờ Quân Ðội Nhân Dân của chúng, chúng đăng một bài báo với tựa đề : “Vây Diệt Sư Ðoàn 5 Ngụy.” hoàn toàn là hư cấu.

Trong đó chúng bịa ra giống như là tiểu thuyết trong đó có nêu đích danh tên tôi ra (Nhưng để tên là Nguyễn Minh Tránh) là đã đề nghị Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh thế này, thế nọ v.v… Có một điều quá nham nhở khi nó kể cái chết của Tướng Nguyễn Văn Vỹ, bằng những câu hạ cấp hòng hạ uy tính của ông nầy. Chúng viết đại khái như sau và vì lâu quá tôi không nhớ rõ.

Chúng bảo khi tự sát thì trên bàn của chuẩn tướng Vỹ, chuẩn tướng đã viết “Ðô la, đô la, đô la nhiều quá.” Vì sự kiện này cho chúng tôi thêm một bằng chứng là “Cộng Sản VN không có nói điều gì đúng cả.”

Trong thời gian “đi tù” nhất là trong các tháng đầu tôi bị “mệt” do các cuộc thẩm vấn tới tấp là tại sao tôi không ở Lai Khê (Hậu cứ của tôi) mà lại chuyển quân đi. Thêm vào đó, có nhiều bạn đã đổ lỗi cho tôi là dẩn họ đi nên tôi càng bị bọn cán bộ trại trù ẻo tôi dữ ! Tôi không buồn giận gì các bạn nầy và rất thương các anh em ấy là trong giờ phút “Thập tử nhất sinh” đó dám phó cả sinh mạng theo sự “bốc đồng”(?) của tôi ! Tôi đã phải tìm hết cách trả lời thật khôn khéo để làm nhẹ bớt các áp lực của chúng đối với tôi.

Kết thúc bài hồi ký tôi xin kính cẩn nghiêng mình bái phục vị Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh đáng kính mến của chúng tôi và thắp lên nén nhang tưởng niệm cũng như choàng một vòng hoa chiến thắng tưởng tượng lên vong hồn người. Chúng tôi cũng đã cám ơn người cũng như 4 vị Tướng khác, rất nhiều Quân nhân và nhân viên hành chánh, thành viên các đảng phái đã tự sát khi VC cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam về những điều sau đây:

1. Cho bọn Cộng Sản Bắc Việt cũng như các bạn bè năm châu biết chúng ta, dân miền Nam không phải đều là những tên hèn nhát !

2. Chứng tỏ cho thế giới biết quyết tâm của chúng ta là thà chết chứ không thèm sống với cộng sản.

Riêng cái chết của cố Thiếu Tướng Lê Nguyên Vỹ đã khuyên một dấu son cho Sư Ðoàn 5 Bộ Binh, một đơn vị Bộ binh chịu nhiều tổn thất chiến trận nhất trong chiến tranh VN được kể là một trong những Sư đoàn “yếu” của QLVNCH, một đơn vị mà trước kia các cố vấn Hoa Kỳ “rất sợ” khi bị đưa về đây nên đã gọi Sư Ðoàn này là Sư Ðoàn Máu” (Blood Division).

Còn tôi, tôi không ngờ là lại trở về Thiết Ðoàn 1 Kỵ Binh trong những ngày tàn binh nghiệp khi trước kia, nhờ 2 Chi Ðoàn 1/1 CX và 3/1 TQV đã giúp tôi được thượng cấp biết tiếng với các chiến công đã thu hoạch được. Một điều tôi mản nguyện là trong tuần lễ cuối cùng của tháng 4 năm 75 nhiều đơn vị QLVNCH đã rã ngũ nhưng Thiết Ðoàn 1 Kỵ Binh chỉ có 5 % binh sĩ đào ngũ.

Tôi cũng xin nhân dịp này, chân thành cám ơn tất cả quân nhân các cấp thuộc Thiết Ðoàn 1 Kỵ Binh những người đã giúp tôi hoàn thành nhiệm vụ khó khăn và đã không bỏ tôi khi nhà tan, nước đã mất. Tôi cũng đã hãnh diện vì các bạn, nhất là Thiếu Tá Nguyễn Văn Răng (Khóa 19 SQTBTÐ) (?).Thiết Ðoàn Phó của tôi, một con người bất khuất, một trong những Quân nhân hăng hái nhất trong ngày 30 Tháng Tư 1975 để theo tôi. Anh là một trong những người tù cải tạo can trường đã dám trốn trại và đánh bọn quản giáo khi chúng bắt anh chở trên xe Jeep về trại.

Tôi cũng nghiêng mình xin lỗi và chia buồn với gia đình cố Thiếu úy Nguyễn Văn Tiền. Chi Ðội Trưởng Chi Ðội Súng Phun Lữa, đã hy sinh ngày tàn cuộc chiến mà tôi không thể phúng viếng gia đình được (Khi tôi về Chỉ huy Thiết Ðoàn 1 Kỵ Binh, tôi đã hứa trong đầu là khi có một Sĩ quan thuộc Thiết đoàn hy sinh tại chiến trường, tôi sẽ đến phúng điếu (Với một phần lương của tôi + quỷ của Thiết đoàn nhưng đã không làm được).

Tôi xin phân ưu với gia đình cố Trung Úy Liêu A Thành. Chi Ðội Trưởng Chi Ðội Thám Xa V 100, Trung úy Nguyễn Văn Lệnh. Sĩ Quan Quân Xa, Trung Sĩ Nhất Nguyễn Văn Quan. v.v… những người đã đến thăm tôi khi nghe tôi được về khoảng đầu Tháng 10 năm 1984 và rũ tôi tham gia phục quốc, nhưng tôi đã biết là tổ chức này dỏm không tham gia và khuyên họ chớ bị mắc lừa nhưng họ đã không nghe và đã bị gài bẫy bắt vào đêm giao thừa Tết Ất Sữu 1985 và sau đó đã bị chúng tra tấn đến chết trong tù. Dù đã bị tra tấn nhưng họ không khai bậy tên tôi. Cám ơn các bạn !

Tôi đã hoàn thành nhiệm vụ của 1 Quân nhân và cấp Chỉ huy thời chiến của tôi một cách tốt đẹp đến cuối ngày 30 Tháng 4 năm 1975 và đã đi tù trong các trại tù cải tạo từ Nam ra Bắc rồi trở về Nam đến 10 năm sau.


Nguyễn Minh Tánh
nguồn: https://ongvove.wordpress.com/2014/04/28/ngay-cuoi-cung-cua-su-doan-5/

BachMa
04-14-2018, 03:08 AM
Cuộc Vượt Thoát Kỳ Diệu
(Hồi Ký từ Mặt Trận Khánh Dương. Đèo M’s Drak – Cuối Tháng 3/1975)
Mũ Đỏ BS. Nguyễn Thanh Liêm
Cựu Y Sĩ Trưởng/ Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1521573996-CuocVuotThoatKyDieu_01.jpg

Lời giới thiệu Của NT Trung Tá Bùi Quyền, TĐT TĐ5ND:

Bác sĩ Liêm là Y sĩ trưởng cuối cùng của TĐ5ND khi tôi là TĐT. Trong trận Khánh Dương, khi theo lệnh BCH/ LĐ3ND triệt thoái về sau tuyến II, tức phía sau khu vực TĐ6ND.Tôi quyết định cho TĐ đoạn chiến và triệt thoái vào ban đêm. Khi ĐĐ54 dẫn đầu cánh quân B chạm địch, BS Liêm lại đi cùng cánh quân này vì còn chuyện trò tâm sự với Đại úy Huỳnh Quang Chiêu, ở gần nhà BS Liêm và là SQ được tôi chỉ định kèm cho Trung úy Vũ, tân ĐĐT/ ĐĐ54. Tr.Úy Vũ hy sinh và Đ.Úy Chiêu cùng BS Liêm mất tích. Khi về đến Sài Gòn tôi đến nhà 3 SQ này để phân ưu. Không ngờ khoảng 1 tuần sau, Quân cảnh Vũng Tàu liên lạc với TĐ để xin xác nhận có 2 SQ tên Chiêu và Liêm theo thuyền dân cập bến Vũng Tàu và nhất là họ mang theo chiến lợi phẩm là súng AK-47 của VC. Sau khi xác nhận, ngày sau 2 vị này về Sài Gòn. Tôi rất vui song lúc đó BS Liêm chỉ kể qua loa chuyện vượt thoát của ông. Hôm nay được đọc bài BS Liêm viết chi tiết về cuộc vượt thoát này, tôi rất vui và xin giới thiệu với bạn đọc câu chuyện vượt thoát hy hữu của 1 y sĩ quân y nhẩy dù.

Đã 42 năm qua, tôi những tưởng câu chuyện vượt thoát y như phim ảnh nầy đã chìm vào dĩ vãng. Nào ngờ các bạn Mũ Đỏ gần xa yêu cầu tôi nên ghi lại để được tỏ tường Nhảy Dù là Cố Gắng. Tôi cố gắng nhớ lại để không phụ lòng anh em mong đợi.

Ngày 1 (28/3/1975): Trời chiều của Tháng 3 thật là nóng bức. TĐ5 ND đóng trên sườn đồi gần đèo M’Drak. Đó là khúc đường trên Quốc Lộ 21 dài khoảng 20 Km. Đầu đèo cách Ban Ma Thuột (hay Ban Mê Thuột) 96 Km. Đoạn đường đầu đèo dài 4 Km nằm giữa hai dãy núi khácao, vách núi dựng đứng. Núi Chu Kroa cao 958 m về phía Bắc. Các triền núi nhỏ hơn màđỉnh cao nhất là 609 m về phía Nam. Các bạn cũng biết, Quốc Lộ 21 nằm giữa Quận Khánh Dương và Quận Ninh Hòa. Từ trên đồi cao, tôi nhìn qua Quốc Lộ 21 là Buôn Làng M’Mo của người ÊĐê với chừng năm ba mái nhà sàn xưa cũ. Tiểu Đoàn có nhiệm vụ ngăn chặn địch từ Ban Mê Thuột kéo về Nha Trang. Tôi nhìn thấy nhiều Thiết Vận Xa M113 án ngữ trước Buôn M’Mo, gần cây cầu xi măng trên Quốc Lộ 21.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1521574025-CuocVuotThoatKyDieu_02.jpg

Tất cả đều ở tư thế sẳn sàng chiến đấu. Pháo địch bắt đầu rơi, băng qua ngọn đồi rồi rớt ầm đâu đó dưới chân đồi. Tiểu Đoàn vô sự. Đêm xuống dần, Trung Tá Bùi Quyền, TĐT TĐ5 ND tiên liệu địch sẽ trèo lên đồi theo chiến thuật tiền pháo hậu xung nên ra lệnh cho mọi người đều phải sẳn sàng. Trời tối đen như mực, dưới đồi có tiếng chân người đạp lá rừng nghe xào xạc, có vẻ như rất đông người đang bò lên đồi. Lệnh triệt thoái, đi hàng một, im lặng, súng cầm tay, đạn lên nòng; cả tiểu đoàn di chuyễn theo nhau về hướng Đông Nam. Lúc đó là 7 giờ tối. Tôi đi theo Tr. Tá Quyền, cố gắng đi gần ông. Phải cố gắng lắm vì trời tối quá, đường đồi nhiều cỏ tranh và khó bước vì trơn trợt. Cũng may có Đại Úy Chương lâu lâu gọi khẻ “Bác Sĩ đâu rồi”.

Khoảng 10 giờ đêm thì Tiểu Đoàn dừng lại trên một ngọn đồi thấp. Pháo địch từ chân đồi phóng lên, nhìn rất đẹp y như mấy trái hỏa châu, hướng về TĐ 5 và nổ loạn xạ. Phân tán nhanh. Phân tán nhanh. Mọi người phóng nhanh về điểm hẹn để trực thăng xuống bốc. Tôi lạc đàn từ phút ấy!!!

Ngày 2 (29/3/1975): Nhiều tiếng hét đồng loạt “hàng sống chống chết” vang lên hung bạo và đầy hận thù từ dưới đồi dần dần to hơn, rõ hơn. Miệng tôi đắng lạ thường, tay chân tôi luống cuống, mắt tôi may còn kính cận thị chưa bị rớt. Tôi chui lẹ vào đám rể cỏ tranh rậm rạp mọc cao hơn đầu người, sau khi còn đủ trí khôn lăn long lóc xuống chân ngọn đồi nhỏ. Lúc này, địch dàn hàng ngang, cầm AK có lưởi lê nhọn gắn đầu súng, vừa đi vừa xâm xoi tìm lính Dù để đâm cho chết hoặc bắt làm tù binh. Trong số đó không có tôi.

Tôi bình an vô sự. Lục soát đã ngưng, địch rút lui trong yên lặng. Suốt đêm đó tôi nằm yên, lạnh và ướt dưới đám cỏ tranh. Trổi dậy khi trời vừa sáng, tôi nghe có tiếng gọi của ai đó, nằm rất gần. Té ra là Minh, y tá Dù của tôi. Thầy trò mừng quá, ôm nhau và tôi lại có một túi cứu thương khá đầy đủ thuốc men do Minh trao lại “Em giao lại cho Bác Sĩ”. Hai thầy trò cứ nhắm hướng Đông mà đi vì nghĩ đó là hướng biển, hy vọng gặp lại những người cùng cảnh ngộ với mình. Băng rừng mà đi, bụng đói, miệng khát. Nhưng hai thầy trò may mắn gặp được Thiếu Úy H. và Trung Sĩ Q. cùng 3 lính Dù của TĐ5.

Riêng Th. Úy H. còn bản đồ hành quân và địa bàn, và mọi người vẫn còn súng M16 và lựu đạn. Ngày nghỉ, đêm đi, cả đoàn 7 người đều còn sức khỏe. Chúng tôi đạp nước theo dòng suối mà đi để địch không tìm ra dấu giày. Dọc đường dây điện thoại màu đen lẫn với lá rừng, nằm chơ vơ khi ẩn khi lộ thiên, đi không khéo đụng chạm, địch sẽ biết. Chúng còn khắc chữ K lên thân cây để chỉ hướng tiến quân về Nha Trang (dấu I và dấu < nhập lại thành chữ K, dấu < mủi nhọn là hướng tiến của địch) Nhờ có thuốc lọc nước Iodine mà chúng tôi uống nước dơ ngon lành. Lại có rau tàu bay và mấy con cua kẻ đá, chúng tôi ăn sống cho khỏi chết vì đói. Nhưng tôi bị kiết lỵ, dài dài cho đến ngày về đến Sài Gòn. Bình thường lính Dù ai cũng khỏe mạnh nên túi cứu thương không có thuốc trị kiết lỵ!

Ngày 3 (30/3/1975): Đêm nay cả 7 người tiếp tục băng rừng, đi đầu là Th.Úy H. kế đó là tôi, sau tôi là y tá Minh, rồi đến A Chãy (Chãy có nghĩa là Trai) và 2 lính Dù, Tr. Sĩ Q. đi đoạn hậu. Chúng tôi yên lặng đi cách nhau 2 sảy tay, vậy mà đôi lúc người không nhìn thấy bóng bạn phía trước. Tôi nhiều lần kêu khẻ “Th.Úy chậm bước chút xíu”. Cây rừng đan dày đặc, có cây to gốc 3 người ôm mới giáp vòng. Trong đêm tối có cây màu đen, có cây màu trắng do vỏ cây có lân tinh chiếu sáng. Tôi đưa tay vịn một sợi dây mây, ai ngờ “rột một cái” dây đó rút lẹ lên trên cành cây to, đó là một con rắn lớn thòng xuống rình mồi. Thật hú hồn! Đoàn người cả đêm đi không ngừng vì ngó lại hướng đóng quân cũ thấy ánh lửa sáng rực xa xa, chắc là địch đang đốt cháy tại nơi chúng vừa chiếm đóng. Th. Úy H. nói “mình phải đi thật nhanh hơn nữa”.

Ngày 4 (31/3/1975): Gần sáng, cả đoàn mệt và chân đã mỏi nhừ, tìm được một chổ ẩn núp khá an toàn là dưới một thân cây thật to bị đốn ngã nằm ngang do dân làm rừng để lại. Bố trí an toàn xong, cả đoàn nghỉ, nằm với lá cây phủ đầy người mà không dám thở mạnh. Đó đây, nhiều tiếng vượn hú “Húhu u u…Chóc chóc chóc” chúng gọi nhau trên các cây chà là rừng to cao để báo động có người. Lại còn có tiếng chim gì kêu nghe lạtai “cọc cọc cọc” y như điệp khúc, nghe cũng ơn ớn. Những con vắt, đỉa và sâu đo, mấy ngày qua hút máu ở kẻ ngón chân và trong nách được chúng tôi “giải phóng” với cái bụng no nê đầy máu sau khi chúng tôi cởi giày ra và giủ áo mới thấy chúng còn bám chặc trong nách và các kẻ ngón chân. Miệng tôi đã khô đến nỗi không còn đủ nước bọt mà quyện với cỏ để dùng tay rứt chúng ra!

Ngày 5 (1/4/1975): Đã xa vùng hỏa tuyến, chúng tôi thử đi ban ngày và ngủ vào ban đêm, nhưng vẫn cảnh giác đề phòng địch. Đang đi, bất chợt Th.Úy H. ra dấu dừng lại. Phía trước mặt, chỗ mấy cây cổ thụ to, có một đám lá rừng chất đống bất thường, một bầy ruồi nhăng bay lên với mùi hôi thối của xác chết!!! Địch đã giết chết nhiều lính Dù và lính Bộ Binh, tháo giày vì các xác đều chân trần, rồi phủ lá rừng che lại. Chúng tôi đứng nghiêm chào kính và ngậm ngùi chào tiễn biệt các anh hùng tử sĩ đã vị quốc vong thân. Mong các anh thông cảm cho chúng tôi phải vượt thoát lẹ, cầu mong các anh phù hộ cho chúng tôi về được đến nhà. Bước đi rồi, tôi mới thấy mặt mình sao ướt ướt! Có thể vì tôi vẫn còn nhớ khi học “Chinh Phụ Ngâm Khúc” của Đặng Trần Côn:

“Hồn tử sĩ gió ào ào thổi,
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi.
Chinh phu tử sĩ mấy người,
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn!”

Trên đường đi, chúng tôi còn gặp các tử sĩ dụm năm dụm ba, phủ lá đầy ruồi nhặng và đã phân hũy, do địch giết hại. Đếm được 4 chổ như vậy, chúng tôi nghĩ là còn nhiều nữa trong cánh rừng Khánh Dương này.

Ngày 6 (2/4/1975): Vẫn di chuyển hàng một với Th. Úy H. đi đầu và Tr. Sĩ Q. đoạn hậu. Ngày đi đêm nghỉ, chúng tôi đang đi vào vùng đất Cọp Khánh Hoà Ma Bình Thuận. Nhiều dấu chân Cọp được chúng tôi nhìn thấy gần các bụi tre gai rừng màu vàng sẩm. Đang đi cả đoàn phải ngồi thụp xuống, ô kìa, phía trước mặt, một bầy nai lông xám, chừng 8 con đang cúi đầu xuống uống nước hố bom, có một con nai đực có gạc to đứng canh chừng. Đừng bắn, đừng bắn, địch nghe tiếng súng M16 sẽ bao vây và chúng ta khó thoát. Cả đoàn nghe lời tôi, mặc dù ai cũng đói vì đã đi 5 ngày rồi. Đàn nai đánh hơi, thấy động, thoáng một cái đã biến nhanh vào rừng. Chúng tôi lấy bi đông ra lấy nước, sau khi bụm tay lấy nước rửa mặt và uống thật no. Tôi cảm thấy cũng không xong vì đói lâu ngày chỉ nên uống vài ngụm. Tiếp tục đi, độ nửa giờ sau, chúng tôi gặp một cái chòi che đậy bằng cành cây lá rừng.

Chắc là địch di chuyển nhanh về Nha Trang nên bỏ trống. Dưới nền đất đào sâu đủ cho 3 người núp, chúng tôi gom được nhiều lương khô, là các bánh cơm và các thẻ đường vàng bọc ngoài giấy in đầy chữ tàu. Bây giờ, đoàn gặp phải một cái hào nước không sâu nhưng chạy dài về hướng Đông. Thôi đành phải lội, nước ngập tới ngực, súng phải kê cao khỏi đầu, đoàn lội hàng dọc, vén lau sậy mà đi.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1521574043-CuocVuotThoatKyDieu_03.jpg

Vừa lên bờ, chúng tôi chạm trán 2 cán binh địch với 2 súng AK 47 chỉa thẳng vào và bắt tất cả chúng tôi buông súng. Gần đó có một ngôi chùa, chúng tôi bị 2 tên cán binh này dẫn độ về đó. Đến nơi chúng bắt chúng tôi ngồi chung một chổ ngoài hiên chùa. Chúng gom hết súng và lựu đạn của chúng tôi để một chỗ xa hơn trong chùa, xong cả 2 đứa bình tĩnh đi chiên cá chờ đơn vị bộ đội của chúng sắp về ăn cơm chiều. Chúng gác 2 cây súng AK gần bên chảo dầu đang sôi sùng sục thơm nức mùi cá chiên chừng 5 con vừa bắt ở dưới hào.

– Hành động ngay. Hành động ngay. Th.Úy H. và Tr. Sĩ Q. bàn chuyện cướp súng và hạ 2 tên này. Kế hoạch được thi hành ngay trong chớp nhoáng, 2 tên ngã quỵ vì đòn hội đồng với que củi tạ. Chúng tôi gom hết cá chiên vào 2 nón cối, quơ luôn 2 súng AK, dép râu cùng dây nịt bằng da nâu. Toàn là chiến lợi phẩm rất hữu dụng sau này trên đuờng vượt thoát gian nan. Thật nhanh và thật gọn, 7 người chúng tôi chạy nhanh ra khỏi chùa để tránh địch trở về biết được và truy lùng.

Trời đã về chiều, ống cống thông thủy gần quốc lộ hiện ra cứu chúng tôi. Cả đoàn chui ngay vào và chạy thật lẹ trong đường cống có đường kính cao hơn đầu người. Đường tối om om, chân tôi đạp nước cống bì bõm, mồ hôi nhể nhại, người nóng, tim đập thình thịch. Ra khỏi đoạn đường ống cống là khoảng đất trồng bắp của dân quê vắng ngắt, chúng tôi dừng lại, xúm nhau bốc cá chiên còn nóng và ăn vội vàng. Thật tuyệt vời làm sao! Đói quá nên tôi chưa kịp nhai đã nuốt, may mà không bị hóc xương cá, hay là đã nuốt luôn xương cá nhỏ rồi chăng?! A. Chãy còn đi vào rẩy bẻ trộm bắp non được vài trái, xong cả đoàn chạy bang vào lùm cây trước mặt, thì trời đã tối hẳn, bỏ lại sau lưng tiếng la của dân làng và tiếng chó sủa truy đuổi. Lại một đêm ngủ trong rừng lá thấp, chúng tôi lấy Iodine bỏ vào bi đông nước để lắng chết mấy con đỉa nhỏ, uống ngon lành, chia phiên gác xong, tôi ngủ thiếp đi.

Ngày 7 (3/4/1975): Khi mặt trời đã lên cao, chúng tôi tiếp tục đi về hướng Đông do địa bàn chỉ hướng. Khi qua một bụi tre cao có hai con chim nhỏ như chim cu, cứ bay trên đầu chúng tôi, một con kêu “te te”, con kia kêu “hoạch hoạch”, ai nuôi hay chim rừng? Chúng tôi sợ bị lộ nên cứ chạy thật nhanh để rút vào rừng cây trước mặt. Đến nơi, vừa lăng xuống đất nằm để thở, tôi nhớ lại chuyện Tấm Cám mà mỉm cười một mình “Te Te hoành hoạch, giặt áo chồng tao, phải giặt cho sạch, đừng phơi hàng rào, rách áo chồng tao” Đường đi bây giờ là con đường quanh co và xuống dốc, không còn những cây to và gai rừng cản trở nữa, nhưng vượt qua những khoảng trống thật không phải dễ.

Để tránh địch thấy và bao vây bắt trọn, chúng tôi ngụy trang, người cắm đầy cành lá cây rừng địa phương. Bảy bụi cây người di chuyễn chậm qua các khoảng trống. Đến chân một gò cao, ô kìa có cây cam rừng nặng chĩu trái chín xanh xanh vàng vàng. Thế là chúng tôi xúm nhau rung gốc cây, thu được vài chục trái cam chín rụng xuống. Thôi rồi! nước cam đắng như nước trái khổ qua! Đàng kia có một cái mương nước đã khô nhưng kẻ đá chặn có nước nhỏ giọt, chúng tôi hứng được nửa bi đông.

Đến chiều chúng tôi lọt vào vòng đai của Trung Tâm Huấn Luyện Dục Mỹ (Nha Trang). Tối hôm đó chúng tôi yên lặng nằm nghỉ bên mấy gò mả, nhưng lại thức giấc vì tiếng thở phì phò của vài con bò bị chủ chạy giặc bỏ lại. Tr.Sĩ Q. và ba lính Dù thịt con bò nhỏ, cắt một cái đùi bỏ vào ba lô và lấy lá gan còn nóng hổi chia cả đoàn cùng ăn sống cho đở đói. Gan bò sống, tanh, còn ấm, khó nuốt, nhưng đói quá, tôi cũng nuốt được. Bây gờ, bệnh kiết lỵ của tôi đã bớt nhiều, người gầy ốm và râu cũng mọc dài lưa thưa. Nhờ trời, hai chân tôi vẫn còn đi khỏe lắm.

Ngày 8 (4/4/1975): Trời gần sáng, chúng tôi chạy vội lên một ngọn đồi, lên cao, ngắm nhìn biển đã hiện ra về phía Đông. Xa xa có một hòn đảo nhỏ, bản đồ hành quân ghi là Hòn Bà Lớn. Mặc kệ là Bà Lớn hay Bà Nhỏ, bằng mọi cách cả đoàn phải bơi qua bên đó vì Nha Trang sắp mất hay đã mất. Qua hòn đó rồi coi có chiến hạm Hải Quân mình vớt hay không? Cả đêm nằm suy nghĩ liên miên, tôi khấn vái liên tục mỗi khi thấy một sao sa trên bầu trời đầy sao, rồi khấn nữa khi nhìn xuống quốc lộ xa xa, cả một đoàn xe Molotova chở đầy lính địch ngụy trang lá rừng tiến về hướng Nha Trang.

Ngày 9 (5/4/1975): Hừng sáng, cả đoàn chạy như điên xuống mé nước. Thật là kỳ diệu, nói ra không ai chịu tin, một chiếc ghe nhỏ cắm sào ở mé nước trong bờ lau sậy và rong biển. Tôi định gọi chủ ghe xin quá giang nhưng ghe vắng chủ. A. Chãy nhảy vào khoang ghe và kêu to “có cá kho. Có cá kho, Bác Sĩ ơi!” Thế là cả đoàn lại được một bửa tiệc Trời cho. Lập tức, 7 người chúng tôi leo lên ghe, nhưng A. Chãy xin ở lại về với bà Dì còn kẹt ở Nha Trang, nên cậu ta khóc từ giã, cởi hết quân phục bỏ lại, chỉ mặc áo thun quần đùi, đi chân không, chạy về phía cây số 4 trên quốc lộ hướng về Nha Trang.

Sáu người còn lại, chia nhau 2 tay chèo, 2 tay gở ván làm chèo phụ, còn 2 người thì dùng 2 nón cối tát nước trong ghe để ghe nhẹ đi nhanh. Chúng tôi hì hục, vội vã chèo ghe qua Hòn Bà Lớn. Nắng lên cao, sóng biển không to, nhưng gió thì mạnh và lạnh. Ghe lại bị lổ mọt, hở, nước biển tràn vô. Phải chèo gấp, nước vô ghe sẽ chìm giữa biển! Độ 30 phút sau, ghe cập bến cát và đá ngầm, chúng tôi ướt át hoàn toàn, đem chiến lợi phẩm vào gấp và núp trong một góc đá để nghe ngóng tình hình, chờ hết mệt mới tính tiếp. Đến 10 giờ sáng, cả đoàn họp lại bàn chuyện. Nếu không thoát khỏi đây, thì chắc 6 người sẽ là tù binh của địch.

Ngoài khơi, tuyệt không thấy bóng một chiếc tàu của Hải Quân Việt Nam mình. Mọi người buồn và suy nghĩ lung lắm. Tôi nghĩ không lẽ mình sẽ chết ở đây?! Ý nghĩ loé lên, đề nghị với Th.Úy H vàTr. Sĩ Q., tôi nói “Đã nằm trong lòng địch, tại sao mình không ăn mặc và nói năng giả làm địch, Th.Úy, Tr. Sĩ và tôi đội nón cối, mang AK và đi dép râu, còn 3 lính Dù thì trói lại, cởi giày làm như tù binh ngụy bị ta bắt được giải về Nam điều tra gì đó theo lệnh cấp chỉ huy. Tôi có cây súng lục nhỏ đi đầu làm chỉ huy, kế đó là Th. Úy, còn Tr. Sĩ cầm AK đi đoạn hậu canh 3 tù binh giả đi ở giữa. Tất cả quần áo Dù và giày, súng M16, nón sắt coi như chiến lợi phẩm, mình tọng vào cái bao tải lớn của bộ đội này rồi Tr. Sĩ mang đi sau chót. Phải đóng kịch cho thật khéo, lộ ra là chết cả đám”. Cả đoàn đồng ý làm theo kế hoạch của tôi, mọi sự phó cho Trời Phật giúp đở.

Hóa trang xong, cả đoàn theo thứ tự di chuyển về phía Nam trên Hòn Bà Lớn. Chúng tôi gặp một nhà sư tuổi chạc trung niên, mặc áo vàng, trong cái chòi nung than cây bán vào đất liền đang làm việc đốt than. Nhà sư thấy chúng tôi, đứng lên, từ tốn hỏi “quý vị có cần bần tăng giúp gì không?” Tôi trình bày là tiến quân vào Nam, bắt được 3 tên ngụy hết sức nguy hiểm, lệng Đảng chỉ thị dẫn độ chúng vào Nam, ở đây có phương tiện đường thủy gì không.

Sư bèn chỉ về cuối đảo này, có dân quân và dân làng chài có thể giúp đở cho các đồng chí. Chúng tôi cảm ơn nhà sư, và tiếp tục đi thong thả về phía cuối đảo mà trong lòng vô cùng căng thẳng, chưa biết lành dữ ra sao.

Lúc đó là 6 giờ chiều, trời nhá nhem tối. Đang đi, chúng tôi bị rất nhiều dân quân bao vây, chúng nổ AK đùng đùng chỉ thiên bắt chúng tôi dừng lại. Xong chúng tiến lại gần, tên chỉ huy trông có vẻ nhà quê, hắn hỏi, tôi trả lời y như khi gặp Sư làm than. Chúng tạm tin và dẫn chúng tôi về làng chài mà không hỏi giấy tờ gì cả. Độ 1 giờ sau, chúng thắp đèn dầu và mời tôi ngồi, rồi rót trà mời uống và nói chuyện. Đến 10 giờ đêm, tên chỉ huy cho mấy dân quân dẫn chúng tôi ra một chiếc ghe chài lớn, trên đó có vợ chồng chủ ghe và 1 em bé còn ẳm trong tay, còn có 1 cậu dân làng theo phụ. Đám dân quân chào tạm biệt chúng tôi y như chúng chào các đồng chí của chúng.

Ghe bắt đầu nhổ neo, chúng tôi thở phào thoát nạn. Máy ghe chạy tạch tạch thật mau, Nhưng Tr. Sĩ Q. vội la lên “Ê! chạy đi đâu? Tính chạy vào nội à?” Nhanh như chớp, Th.Úy H nhảy vào buồng lái, kê súng AK vào ngực chủ ghe bắt hắn lái về Nam theo hướng Sao Nam Tào đang loé sáng trên nền trời đêm. Cậu phụ ghe thấy mưu gian bị lộ, nhảy ùm xuống biển thoát thân Vợ chồng chủ ghe khai thật, là dân quân bắt họ lái ghe vào đất liền (nội) để giao cho bộ đội lập công. Bây giờ xin các ông tha cho, tụi tôi không dám về lại Hòn nữa, mà theo các ông về Nam, nhưng ghe sắp cạn dầu, không đủ dầu để về đến Vũng Tàu.

Sẳn ngụy trang là địch, chúng tôi phải liều một phen nữa. Th.Úy H. đứng đầu ghe, Tr. Sĩ Q. ghìm súng AK ở buồng lái canh chừng tên chủ ghe đang cầm tay lái. Ở phía ngược lại đi về hướng Nha Trang có một ghe chài lớn mang cờ đỏ sao vàng đang lướt tới, đầu ghe có một cán binh địch cầm AK. Th.Úy H. cho ghe chậm lại. Tr. Sĩ Q. hét tên chủ ghe hãm tốc. Ghe bên kia, chưa biết chuyện gì, cũng hãm tốc. Khi 2 ghe cập lại, Th. Úy H. xưng đồng chí, nhờ giúp dầu để về đến Vũng Tàu giao 3 tên ngụy nguy hiểm này theo lệnh đảng. Lập tức 4 thùng dầu được chuyển qua ghe chúng tôi. Nhờ vậy chúng tôi đi suốt đêm, hướng về Nam.

Ngày 10 (6/4/1975): Dọc đường biển, ghe chạy ngoài khơi, đất liền khó thấy. Nhưng Th. Úy H. canh địa bàn đúng hướng, im re không nói gì, tôi cũng yên bụng, nhưng lại ói vì say sóng. Uống thuốc vào thì bụng tôi lại yên. Ghe có ghé vào một đảo nhỏ để mua thêm dầu, chúng tôi kè sát vợ chồng chủ ghe vì sợ họ trốn mất. Cả đoàn bây giờ ăn mặc quân phục Dù lại như cũ. Chúng tôi cám ơn lẫn nhau cho màn đóng kịch gạt địch quá phiêu lưu mạo hiểm như thế này. Binh pháp Tôn Tữ chắc cũng có câu “phải đặt mình vào đường chết mới mong tìm ra lối sống”.

Ngày 11 (7/4/1975): Phải mất thêm một ngày ghe chúng tôi mới cập bến Bãi Trước (Bãi Tầm Dương) của Vũng Tàu. Sống thật rồi! Sống thật rồi! Cả đoàn hân hoan nhìn rất nhiều ghe chạy giặc đang bỏ neo, nhấp nhô lên xuống theo sóng biển vỗ vào bờ đá Bãi Trước. Lúc đó là 11 giờ đêm. 12 giờ đêm là giờ giới nghiêm. Sáu anh em chúng tôi từ giả và cám ơn vợ chồng chủ ghe, sau khi tôi tặng 1 số tiền vài ngàn gọi là đền ơn.

Chúng tôi phóng lẹ lên bờ, đi tìm một cái quán gần đó, gọi chủ quán nấu cho 1 nồi canh chua cá bông lau với chục trái ớt dầm nước mắm thật cay. Chủ quán chịu chơi còn mang ra 3 gói thuốc Salem và hộp quẹt. Chưa bao giờ anh em chúng tôi vui mừng ăn cơm canh chua và uống bia, hút thuốc đầy tinh thần Mũ Đỏ sống chết có nhau, tương thân tương ái đến như thế này. Giờ giới nghiêm đã tới. Chủ quán đóng cửa. Đường phố vắng tanh. Anh em chúng tôi lúc này vô gia cư nên đành nằm ngoài sân trước quán mà ngủ.

Ngày 12 (8/4/1975): Trời đã hừng đông, người qua lại thật tấp nập, lộn xộn, ngơ ngác. Loạn lạc có khác. Sáu anh em Nhảy Dù ra đón xe đò về SàiGòn. Mọi người nhìn chúng tôi với ánh mắt ngạc nhiên, chắc có một chút thán phục và thương hại vì Th. Úy H. luôn miệng nói “chúng tôi về từ mặt trận Khánh Dương và đây là Bác Sĩ Liêm, người về từ cõi chết”. Xe đò dừng lại, phụ xế mời anh em chúng tôi lên xe đang đông nghẹt khách, cho ngồi ghế “súp” vì xe hết chổ, không tính tiền vì nể lính Nhảy Dù.

Xe về đến Ngã Tư Hàng Xanh thì Quân Cảnh chận lại để xét. Chúng tôi ngồi yên. Quân Cảnh 204 (là Quân Cảnh của Sư Đoàn Nhảy Dù) lên xe và kêu “Ồ! Bác Sĩ Liêm còn sống à! Chào Bác Sĩ, cả Sư Đoàn đều nói Bác Sĩ đã chết. Mời BS và Th.Úy, Tr.Sĩ và 3 anh em đây lên xe Jeep về thẳng Bộ Tư Lệnh. Các nón cối, súng AK, dây nịt, dép râu của địch, tụi tôi xin phép mang về Bộ Tư Lệnh luôn”.

Tôi xin phép đi riêng về nhà để tắm rửa, cạo râu và mặc quân phục chỉnh tề, rồi tôi sẽ vào trình diện diện Thiếu Tướng Lê Quang Lưỡng và Trung Tá Bùi Quyền sau.

Vừa về đến nhà, chưa kịp hàn huyên với gia đình thì “Két” một cái, xe Jeep của Tiểu Đoàn 5 ND do đích thân Trung Tá Bùi Quyền lái, đến nhà đón tôi về hậu cứ củaTĐ là trại Ngô Xuân Soạn ở Tam Hiệp, Biên Hòa, mổ một con bò khao quân và mừng Bác Sĩ Liêm trở về bình an vô sự. Nhảy Dù Cố Gắng.

Mũ Đỏ BS. Nguyễn Thanh Liêm
Cựu Y Sĩ Trưởng/ Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù
nguồn: https://www.facebook.com/groups/1051752364862874/permalink/1691726094198828/

BachMa
04-25-2018, 05:31 AM
Tiếng Còi Xe Lửa
Đoàn Xuân Thu

Không phải chạy được ra tới nước Úc nầy đây tui mới làm thân lưu lạc, mà ngay hồi trong nước là tui đã lưu lạc triền miên rồi.

Vì lẽ thân phụ tôi làm công chức ngành Bưu Ðiện. Cứ bổ đồng hai năm lên một trật, là đổi đi từ Ty Bưu Ðiện nầy tới Ty Bưu Ðiện khác.

Ở một chỗ mới vừa hơi âm ấm, là cả gia đình phải bồng bế nhau đi thì không gọi là lưu lạc sao được hè?

Lưu lạc rày đây mai đó tưởng đã quen. Ngờ đâu giờ đây trôi nổi tận quê người. Hơn hai mấy năm rồi chưa trở lại dù lòng vẫn ngóng trông về quê cũ.

Ðêm nay, rót tràn ly rượu đỏ, trước bàn phím vừa gõ cóc cóc viết bài vừa nghe ca sĩ Hoàng Oanh ngâm thơ: “Ôi cố hương xa nửa địa cầu… Nghìn trùng kỷ niệm vẫn theo nhau… Ðêm nay ta đốt sầu lưu lạc… Trong khói men nồng hạnh phúc xưa …”

Tui lim dim thả hồn về ngày xưa quê cũ…Tui nghe tiếng còi xe lửa còn đọng lại ở đâu đây.


oooOooo

Cuối thế kỷ 19, ông bà mình muốn đi đây đi đó trên bờ, gần thì cuốc bộ, xa hơn một chút thì đi xe bò, xe ngựa.

Xuống sông gần thì đi xuồng ba lá, xa hơn một chút thì ghe tam bản. Xa hơn nữa thì ghe bầu.

Rồi Tây tới, nền văn minh cơ khí ăn đứt nền văn minh nông nghiệp, (con trâu đi trước, cái cày theo sau) vì: “Chớp nhoáng thẳng bon dây thép kéo/ Mây tuôn đen kịt khói tàu bay.”

Khói tàu bay là vì từ thuyền chạy bằng buồm giờ chạy bằng máy hơi nước nên thực dân Anh, Pháp, Tây Ban Nha… xua quân đi khắp thế giới chiếm nước người ta để làm thuộc địa, để cướp tài nguyên. Tài nguyên là chiến lợi phẩm phải được chuyên chở càng nhanh càng tốt. Vậy là hệ thống giao thông, đường bộ và đường hỏa xa ra đời.

Giữa năm 1881, thực dân tính đem vật liệu từ Pháp sang để làm đường rầy xe lửa từ Sài Gòn đến Vĩnh Long, sau đó sẽ nối với Nam Vang, thủ đô của Campuchia (cũng là thuộc địa của Tây). Dự chi khoảng 12 triệu Phật lăng (franc).

Sếp công trình là kỹ sư công chánh, sĩ quan Công binh của Pháp. Cu li là người Việt bản xứ lên tới 11 ngàn người.

Ðường rầy chạy qua vùng đất yếu, vốn là phù sa của dòng Cửu Long bồi đắp, nên phải tới ngày 20 tháng Bảy 1885, đường xe lửa Sài Gòn-Mỹ Tho dài 71 cây số, khổ đường rầy bề ngang 1m mới xong.

Từ Sài Gòn tới Mỹ Tho sông rạch chằng chịt chắn ngang. Do vậy, hãng Eiffel cùng lúc chế tạo nên 2 cây cầu gồm cầu sắt bắc qua sông Vàm Cỏ Ðông ở Bến Lức dài 550m và bắc qua sông Vàm Cỏ Tây ở Tân An dài 133m để cho xe lửa qua sông.

Thế nhưng 4 năm sau, đường rầy làm xong mà cầu vẫn chưa có. Vậy là các toa tàu đã được tạm tách rời để đưa lên phà qua sông; sau đó lại được nối vào rồi cho chạy tiếp.

Mãi đến tháng Năm, năm 1886, sau khi 2 cầu sắt được hoàn thành thì xe lửa có thể đi một mạch từ Sài Gòn đến Mỹ Tho.

Từ Sài Gòn về Mỹ Tho đường rầy xe lửa chủ yếu nằm phía trái, thỉnh thoảng có đoạn nằm bên phải của quốc lộ 4.

Rồi đôi khi từ bên trái quốc lộ quẹo sang phải là phải cắt ngang đường. Xe mô tô chạy không cẩn thận, đang trên đường nhựa bon bon bỗng lên trên hai đường rầy trơn lùi, là văng xuống sông Bảo Ðịnh như đã từng xảy ra ở Cua Ðạo Ngạn gần nhà tui ở, trước khi vào tới Mỹ Tho.

Rồi cũng vào năm 1963, lúc học đệ thất trường Petrus Ký, mỗi chiều tan học được anh chở sau “bọt ba ga” xe đạp.

Qua đoạn đường rầy từ đường Phạm Viết Chánh vào bùng binh Ngã Bảy Cộng Hòa, bao giờ anh cũng kêu: “Ê xuống đi mậy!” Rồi ảnh dắt xe qua đường rầy rồi mới leo lên yên chạy tiếp.

Vì sợ đường rầy sau mưa trơn trợt làm xe ngã thì thằng nhỏ, tức là tui té u đầu, là về bị má quánh với cái tội hổng thương em.

Hu hu! Tội nghiệp cho thằng anh của tui quá xá!


oooOooo

Chuyến xe lửa đầu tiên xuất phát từ ga Sài Gòn nằm ở đầu đường Lê Lai gần chợ Bến Thành, theo các đường: Cống Quỳnh – Phạm Viết Chánh – Hùng Vương – Hồng Bàng – Kinh Dương Vương – Ngã ba An Lạc rồi ra Quốc lộ 4.

Trên Quốc lộ 4, xe lửa dừng lại ở các ga, bổ đồng cách nhau. 4, 5 cây số như: Bình Ðiền, Bình Chánh, Gò Ðen, Bến Lức, Cầu Voi, Tân An, Tân Hương, Tân Hiệp, Trung Lương và kết thúc tại ga Mỹ Tho.

Ga Mỹ Tho là ga chót ở cuối đường Gia Long, đầu đường Trưng Trắc, gần vườn hoa Lạc Hồng, có cây da cũ bến đò xưa và một hàng dương dọc theo sông Tiền.
Hồi nhỏ được ba má dắt đi Sài Gòn vô Sở Thú coi khỉ có giống tui hông.Về lại Mỹ Tho, lúc đó đã có autorail, tối tân hơn, tiếng còi kêu “pin, pin”

Chớ hồi xưa nghe má tui kể lại khi xe lửa chạy bằng hơi nước thì tiếng còi nó kêu “hoét, hoét”!.

Từ Mỹ Tho lên, sản vật miệt vườn như mận hồng đào Trung Lương, dừa Bến Tre, chôm chôm mít, mãng cầu, sầu riêng miệt Vĩnh Long hay cá mắm từ miền Tây đi bằng tàu tới Mỹ Tho cũng lên xe lửa rồi đi tiếp về Sài Gòn, Biên Hòa.

Mới đầu nhà thầu tư nhân Joret đã thuê tàu biển chở được ba đầu máy 14 toa hành khách và 70 toa hàng. Sau làm ăn khá quá, lời khẳm chở qua thêm hai cái nữa. Ngày chạy lên xuống 5 chuyến cả thảy.

Năm 1896, tiền lời là 3.22 triệu francs, đến năm 1912, còn cao hơn đến 4 triệu francs nhờ hành khách lên đến vài ngàn người mỗi ngày.

Hình ảnh chiếc xe lửa dài ngoằng chạy “xì khói” ầm ầm trên 2 thanh sắt đã là “kỳ quan” đối với người dân miệt ruộng, miệt vườn.

Cũng nhờ có tuyến đường sắt này mà Mỹ Tho trội hơn so với các nơi khác ở Miền Tây, kể cả Cần Thơ.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1524634116-TiengCoiXeLua.jpg
Bảo Huân

oooOooo

Thực dân Pháp đứa nào làm lớn cũng khoái nịnh và được nịnh như Mông xừ Charles Le Myre de Vilers (1833 – 1918) làm Thống đốc Nam Kỳ từ 1899 tới năm 1882.

Ông Tây mũi lõ nầy là người chấp thuận dự án xây đường sắt Sài Gòn Mỹ Tho vào năm 1881 nên được đặt tên cho một trong những đầu máy xe lửa chạy bằng hơi nước đầu tiên.

Học giả Vương Hồng Sển, người Sóc Trăng chắc đã từng đi tàu khách tới Mỹ Tho rồi lên xe lửa tới Sài Gòn đèn ngọn xanh ngọn đỏ, chọc quê rằng: “Mỗi lần chạy, đầu xe lửa Le Myre de Villers vừa ho vừa khạc ra khói, vừa thét ra lửa, mà có khi không đủ trớn lên dốc cầu Tân An và cầu Bến Lức, trèo lên tụt xuống, lên dốc không nổi… trối kể, xe cặp bến cũng còi, cũng “xả hơi” ồn ào oai vệ khiếp”.

Không có gì hài hước, xỏ xiên một cách thâm trầm khi so sánh hình ảnh một đầu máy xe lửa chạy bằng hơi nước với một tay Thực dân hạng nặng làm tới chức Thống đốc Nam Kỳ như vậy.


oooOooo

Nhưng đến thập kỷ 50 của thế kỷ 20, xe hơi phát triển cùng hệ thống đường bộ Sài Gòn – Mỹ Tho được đầu tư gần như xa lộ nên người ta chuyển sang đi đường bộ. Có những ngày cả đoàn tàu chỉ có vài chục người.

Xe hàng xe đò chạy nhanh hơn nên tiện lợi hơn cho hàng hóa và hành khách không phải chờ chực đến ga. Phần hỏa xa cũng thiếu tiền đầu tư thêm. Hậu quả đương nhiên là sập tiệm. Chuyến xe lửa cuối cùng từ Mỹ Tho lên Sài Gòn vào ngày 30 tháng Sáu năm 1958.

Ðường rầy xe lửa Sài Gòn – Mỹ Tho hưởng thọ được 73 năm rồi vĩnh biệt cõi đời trong sự thương tiếc của biết bao người dân xứ Mỹ (Tho).

Lúc đó tui mới 7 tuổi, học lớp Tư (tức lớp Hai bây giờ) từ trường tiểu học Trung Anh đi bộ dọc theo đường sắt về nhà mà mãi mãi không còn được nghe tiếng còi tàu, tiếng ‘síp lê’ như con quái vật buồn chơi huýt gió nên tui cũng buồn thôi hết biết.

Có những điều trong tâm tưởng mình bao giờ cũng nghĩ là chắc chắn như tình em xứ Mỹ (Tho) vì dại khờ nghe em thề bán mạng rằng “Chừng nào xe lửa Mỹ bung vành; Tàu Tây kia liệt máy em mới đành xa anh!”

Nào ngờ thời thế đổi thay, vành xe lửa bằng thép cứng ngắc mà còn bung thì lời thề hẹn của em xứ Mỹ (Tho) cũng banh xà rông, thì ngu sao mà sầu chi hở bạn?


DXT – Melbourne
nguồn: http://baotreonline.com/tieng-coi-xe-lua/

BachMa
05-01-2018, 03:34 AM
Viết Tặng Cho Người Nằm Xuống Ngày 30/4/1975
Nguyễn Thanh Tâm
Để kỷ niệm 30 năm ngày Quốc Hận, tôi xin ghi lại đây cái chết hào hùng một người bạn cũng là một cộng sự viên thân tín, một nhân viên đắc lực đã từ chối ra đi di tản để ở lại tìm cái chết chứ không đầu hàng Cộng Sản. Tôi ghi lại chuyện này cũng để tự nhận mình là kẻ không xứng đáng, tuy là cấp chỉ huy trực tiếp nhưng không bằng một thuộc cấp đã hy sinh ở lại, trong khi tôi tìm đường để thoát thân với gia đình, bỏ lại người bạn thân tín và bao nhiêu thuộc hạ đã cùng tôi sát cánh bên nhau hằng bao nhiêu năm trời.

Bây giờ sau 30 mươi năm, tôi kể lại sự việc này để hy vọng linh hồn người bạn của tôi nếu có linh thiêng xin chấp nhận lời tạ lổi của tôi. Cũng trong bài này , tôi xin trả lời câu hỏi mà những nhà sưu tập những câu chuyện về ngày 30 tháng 4 năm 1975, đã hỏi: ngày 30 -4-75 năm đó bạn đang làm gì và ở đâu? Sau đây tôi xin kể lại những gì đã xảy ra sáng ngày 30/4/75 tại Cần Thơ và đã đưa đến cái chết của Thiếu Tá Lương Bông, một phụ tá rất đắc lực của tôi.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1525145460-30Thang4.jpg

Xin mời bạn đọc theo dõi câu chuyện.

Thiếu Tá Lương Bông làm Sĩ Quan Phụ Tá cho tôi khi tôi phụ trách cơ quan ANQĐ ở tỉnh Sa-Đéc. Sa-Đéc là một tỉnh nhỏ gồm có 4 quận, trước kia là Tỉnh, trong thời Đệ Nhất Cộng Hoà trở thành Quận trực thuộc Tỉnh Vĩnh Long, sau thời Đệ Nhị Cộng Hoà được trở lại thành Tỉnh như cũ, tuy nhiên bên phía VC thì họ vẫn coi Sa-Đéc là một huyện của Tỉnh Vĩnh Long, trong thời gian này tình hình tại Tỉnh Sa-Đéc tương đối có an ninh, không có những trận đánh lớn, tuy vẫn còn những trận nhỏ nhắm vào các đồn bót xa xôi hẻo lánh, đặc biệt là Quận Đức Tôn (ngày xưa gọi là Cái Tàu Thượng). VC tập trung nỗ lực vào công tác Binh Địch Vận và nội tuyến để phá hoại hàng ngũ xã ấp của ta. Trong thời gian này Thiếu Tá Bông phụ giúp tôi trong công tác ngăn chận và loại trừ các phần tử VC xâm nhập vào hàng ngũ ta rất là hữu hiệu.

Vào năm 1973, tôi được lệnh thuyên chuyển về Tỉnh Phong Dinh/Cần Thơ, đang ở một tỉnh tương đối nhỏ và có an ninh, nay về một Tỉnh lớn gồm 7 Quận và 2 Quận của Thị Xã Châu Thành mà Quận nào cũng có vấn đề. Hơn nữa, nơi đây còn có Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 4, Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng 4, Phi Trường Trà Nóc, Phi Trường Cần Thơ, Bộ Chỉ Huy 4 Tiếp Vận và hàng chục đơn vị Quân Đội trú đóng rải rác khắp trong Tỉnh lỵ, tuy các đơn vị này đều có Phòng An Ninh hoặc Sĩ Quan AN đơn vị phụ trách về an ninh nội bộ, tuy nhiên về mặt an ninh lãnh thổ thì cơ quan chúng tôi phải phụ trách với sự trợ giúp của Sở 4 An Ninh. Về phần VC thì họ tập trung mọi nỗ lực đánh phá về quân sự, một mặt họ tận dụng mọi cơ hội, bằng mọi cách, dưới mọi hình thức để đưa người của họ xâm nhập làm lũng đoạn hàng ngũ các cơ quan đầu não của ta, một nơi được mệnh danh là Thủ Đô Miền Tây. Nói về các cán bộ Tình Báo CS, theo tôi nhận xét thì những cán bộ cấp dưới thì có vẻ rất mù mờ, khờ khạo nhưng những cấp trên của chúng thì rất tinh khôn, quỹ quyệt vì một số họ có sang học về tình báo ở các nước CS như Liên Sô, Đông Đức chẳng hạn, cũng như chúng tôi được gửi đi du học ở Okinawa (Nhật Bản), Mã Lai hay ở Hoa Kỳ vậy.

Đảm nhận trọng trách rất nặng nề này, tôi thấy cần phải có một phụ tá đắc lực để đương đầu với địch, cho nên tôi đề nghị và được thượng cấp chấp thuận cho thuyên chuyển Thiếu Tá Lương Bông về với tôi, vì Thiếu Tá Bông rất có năng khiếu về Tình Báo, Phản Tình Báo như đã chứng tỏ lúc còn ở Sa Đéc. TT Bông quả thật xứng đáng cho tôi tin tưởng và khi về với tôi ở Tỉnh Phong Dinh/Cần Thơ đã chứng tỏ khả năng hoạt động chuyên môn, anh ta đã giúp tôi tiêu diệt và phá vỡ rất nhiều vụ binh vận, đặc công, nội tuyến rất ngoạn mục, bắt giữ nhiều cán bộ địch xâm nhập hàng ngũ ta và đặc biệt anh đã tổ chức đưa người của ta xâm nhập vào hàng ngũ địch chẳng những ở cấp Tỉnh Ủy mà còn lên cả BCH Miền của chúng để thu lượm tin tức. Những điệp viên này cung cấp cho ta rất nhiều tin tức rất có giá trị, đến nỗi cơ quan Tình Báo Quốc Phòng cũng như Tình Báo của Toà Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Cần Thơ phải đến nhờ tôi phối hợp và chia sẽ những tin tức quý báu cho họ. Nhân tiện đây, tôi cũng xin nói thêm về cái ngành rất là bạc bẽo của chúng tôi, chúng tôi âm thầm chiến đấu với địch, tuy không “dàn binh bố trận”như các đơn vị chiến đấu, nhưng chúng tôi đã dùng trí não để đối phó với địch, nếu thành công thì cũng chẳng được nhiều người biết nhưng để thất bại thì lãnh đủ.

Tôi còn nhớ hồi ở Sa Đéc, một buổi sáng sớm, Đại Tá Tỉnh Trưởng kêu tôi tháp tùng với Ông đi vào thăm một đồn ở Quận Đức Tôn mà đêm qua bị VC tấn công nặng nề, khi trực thăng đáp xuống sân đồn, một cảnh tượng vô cùng đau thương ở trước mặt chúng tôi, tất cả một Trung Đội hơn 30 người trú đóng trong đồn đều bị VC tiêu diệt, xác người nằm la liệt mọi nơi, chỉ duy nhất có một người còn sống sót, nhưng người đó lại là nội tuyến cho địch, lợi dụng lúc canh gác đêm khuya đã mở cửa đồn cho VC vào tàn sát tất cả đồng đội rồi đi theo họ luôn. Vụ này tôi bị “xát xà phòng”nặng nề, mặc dù trước đây tôi đã khám phá rất nhiều vụ tương tợ nhưng đâu có ai biết đến. Thành ra, nếu ngăn chặn được sự việc đừng để xảy ra thì ít người biết đến, nhưng nếu vì lý do gì đó mà không ngăn chặn được thì bị trách cứ là không chu toàn nhiệm vụ.

Sáng ngày 30/4/75, như thường lệ, tôi đến Tiểu Khu để họp mỗi buổi sáng, khi tôi đến phòng họp thì thấy các sĩ quan Tham Mưu của Tiểu Khu, thay vì vào ngồi trong phòng họp như thường lệ để chờ Đại Tá, Tiểu Khu Trưởng đến chủ tọa thì họ lại tụm năm, tụm ba ở ngoài hành lang hoặc rải rác trong phòng họp để xì xào bàn tán mà tuy tôi không nghe họ bàn luận về việc gì nhưng tôi cũng đoán được là họ đang bàn tán về một sự kiện quan trọng vừa xảy ra tối hôm trước. Sau khi tôi đến bắt tay chào hỏi một số người, có người hỏi tôi: Sao nghe anh đi đêm hôm qua rồi? Tôi chỉ cười và đáp lại: Chứ anh đang bắt tay ai đây? Số là 3 giờ sáng đêm 29 rạng ngày 30/4/75, tôi được tin là Bộ Chỉ Huy Hải Quân Vùng 4 đã kéo cả lực lượng này ra đi và có cả Chuẩn Tướng Ch.D.Q. là Tham Mưu Trưởng của Quân Đoàn 4 đi theo, đặc biệt lại có tin đồn (hoàn toàn là tin vịt) là trong nhóm người đi theo Hải Quân còn có Đại Tá Tỉnh Trưởng và tôi nữa, do đó mà các Sĩ Quan Tham Mưu Tiểu Khu mới bàn tán như đã nói ở trên. Sau khi họp xong, Đại Tá Tỉnh Trưởng gọi riêng tôi ra gần cột cờ (vì chỗ này không có ai đứng gần) để bàn chuyện và sau khi thảo luận, chúng tôi đồng ý là với tình hình này chắc phải ra đi và chúng tôi cũng dự tính là sẽ ra đi tối hôm đó (lúc này vợ và con của tôi còn ở bên Sa-Đéc). Trong lúc này, Đại Tá Tỉnh Trưởng cũng ngỏ ý là đang có tin đồn ngoài dân chúng là ông ta và tôi đã ra đi trong đêm vừa qua, nên ông ta yêu cầu tôi đích thân lái xe đưa ông đi một vòng thành phố để trước là quan sát tình hình, sau là để trấn an dân chúng là chúng tôi vẫn còn có mặt ở đây. Sau khi đi một vòng thành phố, tôi đưa ông ta đến Tòa Hành Chánh Tỉnh, còn tôi trở về cơ quan. Khi về đến văn phòng thì tôi nhận được 2 cái lệnh:

1.- Của Đại Tá S. (cấp chỉ huy trực tiếp của tôi trong ngành) yêu cầu tôi kiểm soát lại tất cả các Đơn Vị Trưởng trong thị trấn xem ai còn ở lại và ai đã ra đi .

2.- Lệnh từ Quân Đoàn gọi tôi đến họp gấp, tôi cũng nói thêm là lúc này chưa có lệnh đầu hàng hay buông súng gì cả.

Việc thứ nhất tôi giao cho Thiếu Tá Bông thi hành, việc thứ hai tôi lại giao cho Thiếu Tá Th. (một phụ tá đặc biệt khác) đại diện tôi đi họp bên Quân Đoàn, phần tôi cố tìm cách liên lạc với gia đình ở Sa-Đéc để thu xếp qua Cần Thơ cho kịp để ra đi tối hôm đó. Sau đó vì có lệnh đầu hàng, buông súng bất ngờ nên chúng tôi phải thay đổi lịch trình ra đi vào xế trưa ngày 30/4/75 Chúng tôi gồm có: Đại Tá, Tỉnh Trưởng Kiêm Tiểu Khu Trưởng Phong Dinh/Cần Thơ và phần lớn các sĩ quan ở Tiểu Khu, các công chức bên Tòa Hành Chánh, một số sĩ quan ở bên Quân Đoàn 4 và nhiều nữa mà lâu quá rồi tôi không nhớ hết, một số lớn trong nhóm di tản này đều đem được gia đình theo, tất cả chúng tôi đều lên một chiếc ghe đò máy để đi dọc theo sông Hậu Giang hướng ra biển và chi tiết về chuyến ra đi này tôi đã có tường thuật khá đầy đủ trong một bài trước đây có liên quan đến bài viết về ngày cuối cùng của Thiếu Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn 4. Trong khi chúng tôi còn lênh đênh trên dòng sông Hậu Giang thì có ai đó trên ghe bắt nghe được đài phát thanh Cần Thơ, đài này có loan tin là tàu của chúng tôi đã bị bắn chìm trên đường di tản rồi. Sau này tôi mới kiểm chứng lại thì được biết sự việc như sau: Số là sau khi chúng tôi rời Cần Thơ thì Thiếu Tuớng, Tư Lệnh Quân Đoàn 4 đề cử Đại Tá Th. làm Tỉnh Trưởng Kiêm Tiểu Khu Trưởng Phong Dinh/Cần Thơ để thay thế Đại Tá D., sau khi nhậm chức, ông này có đưa ra lời kêu gọi gì đó trên đài phát thanh Cần Thơ và cũng trong dịp này, Đài có loan một tin giựt gân (không biết do đâu mà có) là chiếc tàu chở chúng tôi đi trên sông Hậu giang đã bị bắn chìm chết hết, trong đó đã nêu đích danh Đại Tá D. và cá nhân tôi. Tôi cũng xin nói thêm là, sau khi có lệnh buông súng đầu hàng, tôi có tập hợp các nhân viên trong cơ quan lại, lúc này có một số nhân viên đã bỏ đi về với gia đình, tôi cho biết là với tình hình này thì coi như không còn gì nữa, anh em ai về nhà nấy và tùy hoàn cảnh của mỗi người mà quyết định nên ra đi hay ở lại, nếu ai muốn đi thì theo tôi để đi, thật ra trong lúc này tôi cũng chưa biết phải ra đi bằng cách nào vì chúng tôi dự định đến tối hôm đó mới đi nên chưa chuẩn bị kịp ghe tàu gì cả. Tôi có hỏi riêng TT Bông có muốn đi hay không thì anh ta lưỡng lự một hồi rồi trả lời với tôi là với tình trạng này anh chưa biết quyết định ra sao, thôi thì cứ ở lại xem tình thế diễn biến như thế nào rồi sẽ tính sau và anh cầu chúc cho tôi và gia đình đi được bình an. Tôi nhớ có một số nhân viên, trong lúc hốt hoảng đã đi theo tôi, nhưng khi ghe vừa ra gần đến cửa biển thì lại tìm cách quay về vì kẹt gia đình, hơn nữa họ thấy với chiếc ghe cũ kỹ đó thì khó mà tới nơi tới chốn được và một số khác vẫn theo tôi đến đảo Mã Lai rồi cũng nhớ nhà rồi theo mấy chiếc ghe để trở về, lúc này có một số người chủ ghe muốn trở về nên nhà chức trách Mã Lai đồng ý cho họ trở về VN, cũng nhân dịp này tôi mới nhờ những người quen nhắn lại giùm với gia đình là tôi đã tới nhà chú Mã (Mã Lai) bình yên. Khi tôi qua định cư tại Hoa Kỳ, tôi có nghe đồn Thiếu Tá Lương Bông đã tự sát vào chiều ngày 30/4/75 nhưng tôi không rỏ chi tiết như thế nào, mãi cho đến mấy năm sau tôi mới được Hạ Sĩ Thân (anh này vừa là cận vệ vừa là tùy phái cho tôi) viết thư kể hết ngọn ngành về cái chết anh hùng của TT Bông như sau (những chữ trong ngoặc là chú thích của tôi):

“Thưa Thầy thân mến, (Anh này thường gọi tôi như thế) Khi đặt bút viết thư này cho Thầy thì tự nhiên nước mắt của em lưng tròng, vì khi nhớ đến Thầy tự nhiên em phải nhớ đến người quá cố, người cao cả ấy không phải ai xa lạ là người kế Thầy đó, Anh Lương Bông ( TT Bông là người rất bình dân nên ngoài giờ làm việc các thuộc cấp đều xưng hô anh em với nhau). Cùng một ngày (30/4/75) mà 3 kẻ ra đi, Thầy đi miền đất lạnh, Anh Bông về lòng đất mẹ còn em trở lại xứ nghèo, em xin viết lại ngày quan trọng đó cho Thầy rõ. Lúc 10 giờ30 sáng ngày 30/4/75, sau khi tài xế Như đưa Thầy qua bên Tiểu Khu, nơi cơ quan mình chỉ còn lại Anh Bông, Phụng (một nhân viên thân tín khác) và em, ngoài ra không còn ai khác. Đến khoảng 11 giờ 30 thì ông Ấ. (Th/Sĩ này phụ trách trại giam của cơ quan) cùng một vài người trong trại gia binh phía sau lên đập cửa nhà của Thầy (ở cạnh văn phòng làm việc của tôi) để lấy tất cả đồ đạc, kể cả các đồ vật và mấy thùng rượu mà Thầy mua để chuẩn bị khao lon, chúng tôi chỉ đứng nhìn mà không dám nói gì. Độ 15 phút sau, Anh Bông và em cùng chú Phụng vô nhà thì đồ đạc, máy móc, quần áo v.v.. không còn gì cả, chỉ còn lại rác và những vật dụng không có giá trị nằm tung tóe khắp nhà xen lẫn cùng mấy tấm hình của cô và 2 cháu rơi rớt tùm lum. Em và Anh Bông có lượm mấy tấm ảnh cất làm kỷ niệm. Sau đó Anh Bông và em lấy xe của Thầy, chiếc xe jeep có gắn cần câu và hệ thống truyền tin đặc biệt đó, chạy vòng vòng thành phố và có chạy ra phía cầu Bắc Cần Thơ, khi đến nơi thì Bắc đã ngưng chạy, chúng em bèn quay trở về cơ quan. Lúc ấy khoảng 4 giờ chiều, Anh Bông bảo em lo nấu cơm và vào nhà Thầy coi có gì trong tủ lạnh để lấy ra nấu, trong nhà Thầy, đồ đạc thì tiêu hết nhưng thức ăn trong tủ lạnh vẫn còn. Sau khi nấu nướng xong, chúng em ăn uống trên đầu xe jeep đậu trong garage, ăn xong hơn 5 giờ chiều, Anh Bông vào phòng làm việc của Thầy mở máy lạnh và vặn đèn sáng choang cả phòng, Anh Bông lên ngồi đàng hoàng trên chiếc ghế của Thầy thường ngồi làm việc, lúc đó em còn đang dọn dẹp đồ ăn và ngó vào văn phòng xuyên qua cửa kính thì thấy Anh Bông đang “hý hoáy” viết gì đó, một lát sau tôi lại dòm vào thì thấy anh Bông lấy trái lựu đạn MK3 mà Thầy thường để trên kệ để phòng thân, ra và ôm vào bụng, lúc ấy em sợ quá nên chạy ra nhà xe la lớn lên cầu cứu nhưng lúc này trong cơ quan chẳng còn ai, thì ẦM một tiếng rất lớn, thế là Anh Bông đã ra đi một cách oanh liệt, khi em ôm anh ấy lên thì đôi mắt còn chớp lia và 2 giòng lệ còn lăn dài bên má. Em có nhặt tờ giấy mà anh Bông vừa viết khi nảy, thư này cũng bị cháy xém hết một phần, đại khái anh trăn trối lại với chị Bông là anh ấy xin lỗi chị ấy và cho biết là cả cuộc đời đã chiến đấu mà thất bại nay nay không thể sống để nhìn bọn cộng sản huênh hoang chiến thắng hay bắt tù làm nhục mình nên phải tìm cái chết này. Đến sáng hôm sau, em và Phụng khiên anh Bông ra ngoài để nằm ở nhà xe và tắm rửa, thay quần áo cho anh ấy xong, chúng em năn nỉ Tài xế Năm Lùn đưa giùm thi hài anh Bông về Sa-Đéc. Khi tụi này về đến Sa Đéc thì chị Bông qua Cần Thơ tìm anh Bông vì chị chưa biết tin anh Bông đã mất, khi được tin này và sau khi xem thư tuyệt mệnh của anh Bông để lại chị ấy ngất xỉu trong văn phòng của Thầy, lúc ấy đã hoang tàn đổ nát.”

Thưa quý độc giả, khi tôi ngồi viết lại chuyện này tôi tự lấy làm hổ thẹn, xấu hổ vì gần suốt cuộc đời trong quân ngũ mà không xứng đáng là một cấp chỉ huy, dù là cấp chỉ huy nhỏ trong Quân Đội, nhưng không có lòng cam đảm ở lại để sống chết với anh em vào lúc đất nước nguy kịch. Anh Bông, nếu linh hồn Anh có linh thiêng, xin tha thứ cho tôi, tôi xin hứa là khi nào tôi được trở về quê hương, tôi sẽ đến trước phần mộ của Anh để đốt nén hương trước là tạ tội sau là lạy Anh 3 lạy để tỏ lòng kính phục sự cam đảm của Anh.(không biết tôi còn sống đến ngày ấy không?).


San Fransisco, quốc hận 2005
Nguyễn Thanh Tâm
Ty ANQĐ / Phong Dinh / Cần Thơ
nguồn: https://www.facebook.com/groups/1051752364862874/permalink/1772002616171175/

BachMa
05-07-2018, 04:43 AM
Linh Hồn Của Ðất
Bùi Thượng Phong
Khoảng cuối năm 1967 tôi nhận được sự vụ lệnh về cầm một đại đội cho một tiểu đoàn mới thành lập chưa được bao lâu, thuộc SÐ25BB, lúc đó đang đồn trú tại quận Ðức Hòa.

Tiểu đoàn này trước đó mấy tháng, được đặt dưới quyền chỉ huy của một vị Thiếu tá rất nổi tiếng bên Biệt Ðộng Quân mới chuyển qua. Vì công sự phòng thủ chưa hoàn tất, Bộ Chỉ Huy/Tiểu Ðoàn (BCH/TÐ) phải tạm thời đóng trong ngôi biệt thự của một nhà máy xay lúa, chủ nhân là ông Sáu Ngô. Ông Sáu Ngô đã giữ kín một điều mà mãi sau này người ta mới biết, là ông có một người em bỏ nhà từ hồi còn nhỏ, theo VC.

Lợi dụng cơ hội hiếm có này, trong một đêm đen tối, VC đã bất ngờ dùng đặc công và nội tuyến, tràn ngập vào được tuyến đầu của BCH/TÐ. Chỉ sau vài phút đầu bối rối, các anh em binh sĩ của BCH/TÐ đã chống trả rất mãnh liệt và sau đó phản công, đánh bật chúng ra khỏi con đường mương mà anh em đã tạm dùng làm tuyến phòng thủ, khiến chúng phải vội vã tìm đường rút vì chúng dư biết lực lượng tiếp viện của ta đang trên đường tiến tới.

Tuy phải trả một giá rất đắt, VC cũng đã gây thiệt hại khá nặng cho bên ta, nhất là về phương diện tinh thần, vì trong số các chiến sĩ đã hy sinh ngay tại tuyến đầu đó, có cả vị TÐTrưởng can trường mà ai đã từng là Biệt Ðộng Quân cũng đều phải nghe danh: “Thiếu tá Cọp Ba Ðầu Rằn” !


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1524631653-LinhHonCuaDat.jpg
Thắm Nguyễn

Sau trận thất bại này, các anh em binh sĩ trong Tiểu Ðoàn (TÐ) có phần xuống tinh thần. Tiểu đoàn phải chờ bổ sung thêm quân số và cần được “hấp” lại. Và tôi được chuyển về đây cũng trong dịp này.

Ðược nương nhẹ rất nhiều, nhiệm vụ chính của TÐ lúc đó hầu như chỉ là hành quân mở đường và làm an ninh vòng ngoài cho Bộ Tư Lệnh/Sư Ðoàn 25 Bộ Binh tại Ðức Hoà. Lâu lâu cũng có hành quân, nhưng chỉ là những cuộc hành quân lục soát quanh vùng, sáng đi chiều về, như công chức!

Trong khoảng thời gian coi như nhàn hạ này, tôi đã quen biết một đứa bé gái tên là Hân, lúc đó khoảng 8, 9 tuổi, là cháu gọi bằng dì của cô Thanh, chủ ngôi nhà mà tôi đã xin phép để đặt Ban Chỉ Huy/Ðại Ðội. Tôi chọn nhà cô Thanh vì không những nhà có một sân lớn, tầm quan sát tốt, nó lại còn có cả một cái nhà cầu đàng hoàng. Cô Thanh, một phụ nữ khoảng trên dưới ba mươi, không đẹp cũng không xấu, ăn nói rất nhỏ nhẹ, dễ thương. Không thấy cô có chồng, nghỉ dạy học đã lâu để trông coi việc ruộng nương, nhưng bà con lối xóm vẫn quen gọi cô là Cô Giáo. Dĩ nhiên cô Thanh không hề là đối tượng của những sĩ quan còn rất trẻ như chúng tôi hồi đó.

Còn nhớ ngày đầu tiên gặp và nói chuyện với cô ở ngoài sân, về việc xin tạm dùng căn nhà làm BCH/ÐÐ, tôi thấy có một đứa bé gái đứng dựa lưng một gốc cau gần đó, đang nheo mắt nhìn tôi rất chăm chú. Thấy nó dễ thương, tôi quỳ một chân xuống ngang tầm nó và ngoắc nó lại. Nó phụng phịu lắc đầu, không chịu. Cô Thanh nói như hơi gắt:

Hân không được hỗn, lại cúi đầu chào Thiếu úy đi con!

Vẫn còn phụng phịu, nó tiến lại gần tôi và lí nhí nói mấy câu gì tôi cũng không nghe rõ!

Tôi thông cảm sự thay đổi quá đột ngột đối với gia đình cô giáo, đang vắng vẻ, neo đơn; nay bỗng dưng ồn ào náo nhiệt, ra vào toàn lính là lính!

Cô Thanh thì còn bận rộn với ruộng vườn, công thợ… chứ bé Hân thì ngoài giờ đi học, nó đụng độ tụi tôi suốt ngày. Mấy ngày đầu, nó có vẻ còn tránh né, nhưng rồi sau đó, quen hết anh hạ sĩ y tá này đến bác thượng sĩ thường vụ kia, nó trở nên vui vẻ và hòa đồng rất nhanh với cái không khí ồn ào nhưng kỷ luật của đời lính chúng tôi. Ðặc biệt, Hân quý tôi hơn cả, vì có mấy lần tôi đã giúp em giải một vài bài toán khó trong lớp. Nó quấn quít bên tôi suốt ngày, chuyện trò líu lo không ngừng nghỉ. Có những lần tôi đi hành quân về, nó núp trong bụi, rồi chợt chạy ùa ra ôm lấy chân tôi cười nắc nẻ … Mới 8, 9 tuổi, mà em đã biết dành dụm tiền để mua đường, nấu đãi chúng tôi những bát chè thật ngọt ngào ấm bụng! Bù lại, những lần đi phép, không lần nào tôi không mua cho em, khi thì đồ chơi, khi khác là sách, tập…

Hân mồ côi cả cha lẫn mẹ. Quê em ở mãi đâu vùng An Hiệp, Thái Mỹ. Em kể với tôi, nước mắt lưng tròng: Cha em một hôm đi làm ruộng, đạp nhằm phải mìn VC, chết không kịp trăn trối! Hơn năm sau, người mẹ cũng ra đi vì bịnh! Thế là em phải về núp bóng dì của em, là cô giáo Thanh.

Tôi lúc đó chưa lập gia đình, thực tình, tôi thương Hân như thương người em út, nó còn kém đứa em út của tôi ba, bốn tuổi.

Tuy ở với dì ruột, tôi biết Hân đang thiếu một tình thương phụ mẫu, nhất là hình bóng của một người cha. Và… không phải là một nhà Tâm lý học, tôi không thể biết nổi: ở tuổi nào sớm nhất, một đứa con gái có thể biết yêu? Vì có một lần, mấy cô bạn gái của tôi từ Sàigòn lên thăm. Khi họ ra về, bé Hân đã đối xử với tôi một cách rất khác thường. Nó lảng tránh và ít nói hẳn, không hồn nhiên như trước nữa! Hình như nó cũng biết hờn, ghen? Tôi nghĩ dù sao, nó chỉ là một đứa con nít. Mà đúng thế, chỉ được hai hôm là cô nàng đã quên hết! Lại giở trò nghịch ngợm, chọc phá như cũ…

Hồi đó cứ như thế, tôi lấy tình thương yêu của anh em binh sĩ dưới quyền và luôn của bé Hân như một hơi ấm gia đình. Ðang ở cái tuổi tràn đầy nhựa sống, mấy anh chàng sĩ quan lóc chóc như tụi tôi, có thì giờ là la cà tán tỉnh mấy em cỡ tuổi đôi tám, chợt nở rộ như những bông hoa đầy hương sắc miền thôn dã, chẳng hạn như hai chị em cô Huệ, cô Khanh con ông chủ nhà máy xay, hoặc Giáng Tiên, hoa khôi tỉnh Hậu Nghĩa.

Thế nhưng mấy tháng nhàn hạ qua nhanh như gió thổi, khi TÐ vừa có một sinh khí mới, thì biến cố Tết Mậu Thân xảy ra! TÐ hành quân mệt nghỉ, ngày nào cũng có hành quân, ngày nào cũng có đụng độ, mà trận lớn nhất xảy ra vào trước Tết khoảng 2, 3 ngày. Ðại Ðội (ÐÐ) của thằng bạn cùng khóa nhảy vào giữa một Tiểu Ðoàn VC. Chúng đang ếm quân trong khu vực Rạch Gấu, vùng phụ lưu sông Vàm Cỏ, chờ xâm nhập để đánh vào Phú Lâm ngày mồng một Tết. Hai trực thăng trúng đạn phòng không địch, phải quay về. ÐÐ của nó thành ÐÐ trừ! Không đủ trực thăng, ÐÐ của tôi phải lội bộ vào tiếp cứu. Ðịch áp đảo về quân số, vũ khí có thừa, nhưng mục tiêu của chúng là vùng Chợ Lớn, ngày Tết, không phải chúng tôi. Thế nên chúng chỉ cầm cự để bảo toàn lực lượng, chờ đêm xuống là rút. Vậy mà mãi mờ sáng hôm sau, tụi tôi mới thanh toán xong mục tiêu. Nhờ những phi vụ oanh tạc và pháo binh bắn suốt đêm, VC dù đã cố kéo theo, chúng cũng để lại rất nhiều xác đồng đội và vũ khí. Tuy vậy, chúng tôi cũng không vui gì khi phải đem ra xác thằng bạn Ðại Ðội Trưởng và bốn chiến hữu của anh! Tội nghiệp quá, anh quê ở Hóc Môn, ra trường là xin ngay về Sư Ðoàn 25 cho gần nhà!

Chúng tôi ra trường, một số người đã may mắn thoát khỏi làn tên mũi đạn, họ đã theo gương các bậc đàn anh, dùng tài thao lược và lòng dũng cảm của mình để làm nên nhiều chiến tích vẻ vang cho quân đội. Thế nhưng chiến trận hàng ngày cũng đã lấy đi không ít những người con yêu của Trường Mẹ, họ đã hy sinh khi còn rất trẻ, trong những trận đánh tuy khốc liệt, tàn bạo … nhưng cũng chỉ là thường tình trong chiến tranh! Không một ai biết, chẳng một ai hay, họ đã nằm xuống như hàng ngàn chiến sĩ vô danh khác, tên tuổi và thành tích không bao giờ được xuất hiện trên trang nhất các nhật báo. Có chăng, chỉ là mấy dòng tiếc thương cô đơn, ngắn ngủi của thân nhân, bè bạn trong những khung hình chữ nhật màu tang đen, nơi trang chót của tờ báo!

Qua hai đợt Mậu Thân, tôi được thăng Trung úy, nghĩa là sớm hơn quy định khoảng gần nửa năm, nhưng đến cuối năm 1969 tôi bị thương nặng, miểng mìn văng đầy người. Tệ nhất, có một miểng chém vào động mạch bên nách phải, máu ra rất nhiều và nếu không đã theo mấy thằng bạn … vui vẻ về “miền quá cố” rồi!

Khi cơn thập tử nhất sinh đã qua, tôi được chuyển về Tổng y viện Cộng Hòa ở Sài Gòn.

Một hôm, tôi đang nằm cho y tá rửa vết thương và thay băng thì có mấy anh em ban 5 Tiểu Ðoàn lên thăm. Tôi ngạc nhiên hết sức khi thấy có cả bé Hân trong đó, nó chạy ngay lại ôm lấy tôi, nước mắt đầm đìa… Ông Thượng sĩ thường vụ của tôi sau khi thăm hỏi xong, nói nhỏ vào tai tôi:

– Ngày nào nó cũng lên TÐ, xin bằng được nếu khi nào TÐ lên thăm thương bịnh binh, nhớ cho phép nó đi theo!

Tôi nhìn xuống con bé đang rúc cái đầu bé nhỏ vào bụng tôi, tấm thân mảnh mai của em thì rung rung theo tiếng nấc! Tôi cúi xuống hôn trên mái tóc mềm mại của nó và cứ để như vậy một lúc lâu, bởi vì chính trong lòng tôi cũng đang nghẹn ngào, xúc động…

Lúc sau, tôi nâng cầm nó lên, trấn an nó:

– Chú không sao đâu! Chỉ một thời gian ngắn nữa là chú sẽ lành vết thương và sẽ được xuất viện.

– Rồi Trung úy có trở lại đại đội không? Nó ngước mặt e ngại hỏi tôi điều mà nó quan tâm nhất.

– Chú cũng không biết nữa, chắc là phải ra một hội đồng quân y để họ giám định. Sau đó mới biết!

– Vậy khi nào xuất viện, chú xuống thăm Hân nha ?

Tôi mỉm cười nhìn nó:

– Chắc chắn là chú sẽ đến thăm Hân và các anh em trong đại đội, ngay khi nào chú có thể đi được.

Lúc này mới thấy nó nở một nụ cười, rồi cúi xuống nhấc lên một túi nhỏ và lấy từ trong đó ra một ít trái cây để trên chiếc bàn nhỏ đầu giường. Thì ra nó cũng biết đem quà cho thương binh!

Phái đoàn thăm viếng lúc này đã xin phép tôi để qua thăm các anh em thương binh khác. Trước khi ra khỏi phòng, ông thượng sĩ thường vụ cúi sát tai Hân dặn dò:
– Khoảng nửa tiếng nữa con ra chỗ đậu xe để về nha. Về sớm cho an toàn!

Nó ngoan ngoãn gật đầu, rồi bắt đầu bi bô:

– Bữa trước ai cũng tin là chú đã chết thiệt rồi. Sau mới biết chú còn sống, đang nằm bịnh viện Cộng Hòa. Dì Thanh có dắt Hân đi cầu nguyện trên chùa hoài. Dì con nói gởi lời thăm chú.

Ðến đây, nó bắt đầu quay qua nhìn mấy vị sĩ quan thương binh khác nằm cùng phòng. Chợt thấy chiếc nhẫn của tôi để trên mặt bàn lúc tháo ra cho y tá rửa vết máu trong các ngón tay, nó cầm lên ngắm nghía rồi hỏi:

– Nhẫn này của chú? Sao bự và đẹp quá vậy?

– Ừa, nhẫn của chú. Ðây là chiếc nhẫn lưu niệm của trường Võ Bị Ðà Lạt, lúc mãn khóa ai cũng có.

– Chú thích nó lắm hả?

– Chú rất quý nó, và chú đã đeo nó từ khi ra trường.

Nó nhẹ nhàng để lại chiếc nhẫn vào chỗ cũ, rồi quay ra ôm lấy tôi, như thể không muốn xa rời! Nó kể đủ thứ chuyện ở Ðức Hòa, đâu là đại đội đã có Ðại Ðội Trưởng mới nhưng không còn đóng ở nhà nó nữa, các chú trong BCH/ÐÐ vẫn thường ghé thăm luôn, rồi nó kể cả chuyện vợ lớn trung sĩ Hai ở Sàigòn lên đánh ghen, làm tôi không nhịn được cười…

Nửa giờ sau, ông thường vụ đã xuất hiện ở cửa phòng, nói với vào:

– Chào Trung úy đi Hân, đến giờ về rồi!

Hân bắt đầu lúng túng, vòng tay bé nhỏ, nó cố ôm lấy tôi. Mấy phút sau, tôi phải nhẹ nhẹ gỡ nó ra:

– Thôi Hân về đi không họ chờ!

Nó nhìn tôi như muốn khóc:

– Chú hứa nhen! Tới thăm Hân nhen, Hân chờ đó!

Nói rồi nó buông tôi, từ từ bước ra cửa, hình như nó đã khóc. Ðến cửa phòng, nó quay lại nhìn tôi, bàn tay bé nhỏ của nó đang cố chùi những giọt lệ…

Tôi không thể nào quên được ánh mắt của Hân ngày hôm đó! Trong đôi mắt thơ dại và rưng rưng lệ của em, chứa biết bao nhiêu là thiết tha, trìu mến… Nó nhìn tôi như nhìn một người thân yêu, mà nó ngờ rằng sẽ không bao giờ còn có dịp thấy lại thêm một lần nữa! Một ánh mắt của chia ly, của vĩnh biệt…

Không cầm lòng được, tôi gọi nó:

– Hân, lại đây với chú!

Ngoài bộ đồng phục rộng thênh thang của bệnh viện, tôi chẳng có gì ngoại trừ một thân thể đầy những vết thương và băng bó, tôi đành cầm chiếc nhẫn lưu niệm của tôi, nhẹ nhàng để vào lòng bàn tay của nó:

– Hân giữ cho chú chiếc nhẫn này. Giữ thật kỹ và đừng cho ai biết. Hân biết là chú quý nó như thế nào rồi. Khi nào xuất viện chú sẽ đến thăm Hân và Hân đưa lại cho chú. Thế có được không?

Thật không ngờ, cái ý kiến bất chợt đến với tôi lúc đó lại có tác dụng ngay! Hân vui mừng ra mặt, ít nhất nó đã có một vật làm tin kèm theo lời hứa. Lau hết nước mắt nó thủ thỉ:

– Dạ, con sẽ giữ thật kỹ, chờ khi nào Trung úy đến con giao lại!

Tôi xoa đầu nó rồi đẩy nhẹ nó về phía cửa. Lần này, nó quay lại mỉm cười nhìn tôi và rồi bóng nó từ từ lẫn vào với dòng người thăm viếng bên hành lang bệnh viện …

Tôi xuất viện sau đó chừng một tháng, và phục hồi mau lẹ. Tuy vậy, phải chờ đến Tháng Ba năm 1973 sau hai lần giám định tôi mới nhận được giấy tờ giải ngũ chính thức. Tôi may mắn toàn thân không mất mát gì, nhưng những ngón tay bên mặt nhất là ngón trỏ, không co duỗi bình thường được. Cầm tờ chứng chỉ giải ngũ trong tay, tôi biết mình đã vĩnh viễn giã từ vũ khí!

Trong khoảng thời gian chờ quyết định của Hội đồng quân y, tôi đã đi Ðức Hòa thăm lại chốn xưa. Ðại Ðội của tôi gần như hoàn toàn mới, chỉ trừ một vài anh em trong BCH/ÐÐ nhận ra tôi, còn lính tráng hầu hết là lính mới, nhìn tôi như nhìn một người xa lạ! Chiến tranh đã làm thay đổi nhanh không thể ngờ được.

Tôi lần mò đến nhà cô giáo Thanh để thăm cô giáo và bé Hân nhưng thật không may, người nhà cho biết hai dì cháu cô đã đi ăn đám giỗ bên Bình Thủy, có lẽ đến chiều mới về!

Tôi buồn rầu về lại Sàigòn, tự hứa sẽ trở lại vào một dịp khác.

Chiến tranh vẫn còn đó, chiến trận gia tăng khắp mọi nơi, nhưng Sàigòn vẫn còn là một mảnh đất khá bình yên! Nó như một hải đảo nằm giữa một biển lửa. Và tôi đã phải cố gắng để thích ứng với cuộc sống hoàn toàn thay đổi. Dù sao, tôi vẫn còn trẻ. Tôi làm việc như một cái máy, nhưng tôi không còn bị cô đơn, cái cô đơn của một người chỉ huy, dù chỉ là một cấp nhỏ; tôi tự do, không còn bị ràng buộc vào một trách nhiệm có liên can đến sinh mệnh của nhiều người khác! Tâm trạng thả lỏng này đã dẫn tôi đắm mình trong thụ hưởng, để bù lại cho bao năm tháng tuổi xuân đã qua đi trong quân trường và ngoài trận địa .

Bận rộn vì công việc lúc ban ngày, say mê trong ánh đèn mầu của các vũ trường vào ban đêm, tôi gần như đã quên hẳn Hân, một đứa bé đang ở một nơi thiếu an ninh, mà chỉ một năm trước đây thôi, tôi đã coi nó như một đứa em ruột thịt! Tôi đã tự khất lần, và ngần ngại không muốn ra khỏi Ðô thành, nơi mà lúc nào cũng có những cuộc vui đang chờ sẵn!

Khoảng đầu năm 1974, nhân một chuyến phải đi Trảng Bàng, tôi ghé vào Ðức Hòa và gặp lại Hân. Căn nhà vắng vẻ, khu xóm cũng thiếu bóng những người lính, có lẽ họ đang bận rộn trong một cuộc hành quân nào đó. Khi tôi đến, chỉ có mình Hân ở nhà.

Hân lúc này không còn bé nữa, em đang là một thiếu nữ tràn đầy nhựa sống với một vẻ đẹp tự nhiên và tuyệt mỹ mà Thượng Ðế chỉ dành cho những người con gái đương độ thanh xuân! Em mừng đến rơi cả nước mắt khi thấy tôi! Rót nước mời, em vẫn thân mật nhưng tỏ ra hơi e thẹn, cái e thẹn dễ yêu của các cô gái đang dậy thì.

Hân cho biết em đã trông mong tôi từng ngày, và rất ân hận vì lần trước tôi đến, mà em không được gặp! Lấy chiếc nhẫn giấu kín trong hộc tủ, Hân đưa nó sát mặt tôi, rồi nắm vội nó trong bàn tay và ấp lên ngực:

– Hân biết đây là chiếc nhẫn lưu niệm của chú, nó lưu lại những kỷ niệm của chú với quân trường Ðà Lạt; nhưng bây giờ, nó cũng đã trở thành một vật lưu niệm của Hân luôn! Nó đã lưu lại những kỷ niệm giữa Hân và chú! Hân muốn được giữ nó lâu hơn nữa, chú có cho phép Hân không?

Tôi hơi ngạc nhiên, nhưng rất cảm động trước những lý lẽ phát ra tự con tim của em:

– Hân cứ giữ nó đi, như vậy khi nào chú đến thăm Hân, chú sẽ được gặp cả hai!

Quá vui mừng, quên cả e thẹn, Hân chạy lại ôm tôi, và nói trong cảm động:

– Thực ra, khi có chiếc nhẫn bên mình, Hân có linh cảm là chú sẽ luôn luôn quay về tìm Hân, và như vậy Hân sẽ không bao giờ mất chú!

Tôi ôm chặt Hân, và hôn nhẹ lên trán em như vài năm trước, khi em còn rất nhỏ.

Hình như Hân muốn nhiều hơn thế ! Trong vòng tay tôi, cơ thể em đang ấm dần lên… Em từ từ ngước mặt lên để mong những làn môi gặp nhau, nhưng tôi đã tự dừng lại bằng cách buông lỏng em! Có phải tôi hơi bị ngu không, hay tôi vẫn còn bối rối giữa Hân, một đứa bé và Hân, một cô gái đang nồng nàn trong độ xuân thì?

Chúng tôi chia tay nhau khi ánh chiều vừa xuống. Tôi hứa với Hân sẽ lên thăm em thường hơn. Cả hai cùng bịn rịn, không nỡ rời nhau, nhưng rồi phút chia ly cũng phải tới, tôi lên xe về lại Sàigòn mang theo hình ảnh đôi mắt và những lời dặn dò đầy nước mắt của Hân:

… Nhớ lên thăm Hân nha! Hân chờ đó …

Những tháng ngày sau đó, thời cuộc biến đổi không ngừng… Tất cả đều thất lợi cho miền Nam chúng ta! Ngay cả con đường từ Sàigòn đi Ðức Hòa cũng không còn an ninh nữa! Tiếp đến là những biến cố dồn dập, nó đến nhanh quá, như dòng thác lũ, như cơn đại hồng thủy, nó cuốn đi hết cả… Không kịp nữa rồi, những gì ta không làm, hoặc chưa làm, đành phải xếp lại trong niềm hối hận khôn nguôi…

Câu “nước mất, nhà tan” thật là thấm thía với tâm trạng của những người bỏ nước ra đi ngày ấy! Ra đi là không bao giờ nghĩ đến ngày trở lại, ra đi là chấp nhận cả một trời mù mịt, đau thương! Tôi cũng ở trong số ít những người “bất hạnh nhưng may mắn” này! Còn lại tất cả nhân dân miền Nam coi như gẫy cánh nửa đường; có khác chăng, chỉ là mỗi người “gẫy”một kiểu!


oooOooo

Sau hơn ba mươi năm vật lộn với cuộc sống trên nước Mỹ, tôi quyết định nghỉ hưu vì đã thấm mệt, cả thể xác lẫn tinh thần. Những chuyện ngày xưa khi nhớ, khi quên. Nhiều chuyện quên hẳn, như gió thoảng, như mây bay!

Dòng đời đổi thay, cũng chỉ là thường tình của cuộc sống!

Những ngày, tháng buồn tênh, tôi chợt nhớ đến hai câu thơ, không biết đã đọc được ở đâu và ai là tác giả:

Khi ta ở, đất chỉ là đất ở,
Khi ta đi, đất đã hóa linh hồn!

Vâng, linh hồn của đất, của những nơi ta đã từng đi qua, những nơi đã hơn một lần ta dừng lại… Nó đã có một linh hồn, và linh hồn đó thường hay ám ảnh tim ta, những khi ta quay về nhìn lại quá khứ !

Tôi đã về thăm lại Sàigòn vào năm 2007!

Vẫn biết đổi thay là lẽ tự nhiên của cuộc sống, nhưng đổi thay một cách xô bồ, hỗn độn và … ngộp thở như Sàigòn hôm nay, chỉ làm tôi thêm tiếc nuối Sàigòn của những ngày xa xưa!

Tôi biết Sàigòn khi vừa ở tuổi có trí khôn. Những con đường thời niên thiếu ấy, với những hàng me, hàng phượng vĩ… muôn đời thơ mộng và sống mãi trong trí nhớ của tôi! Ðại lộ Trần Hưng Ðạo lần đầu tiên tôi biết, có tên là Galliéni, đường Nguyễn Huệ là Charner … Rồi đến thời Ðệ nhất Cộng Hòa, đa số đường phố đều mang tên Việt, nhưng không có con đường nào là Ðồng Khởi hoặc Nam Kỳ Khởi Nghĩa cả! Sàigòn chỉ có Tự Do và Công Lý! Có những bác tài xế taxi hoặc xích lô máy, kiếm đủ tiền nuôi vợ con rồi, không tiếp thêm ai nữa mà ngả lưng ngay trên nệm xe của mình, làm một giấc! … So với ngày nay, đời sống thời đó sao mà thanh bình và dễ dàng quá! Thì ra càng cách mạng, càng giải phóng … người dân chỉ càng thêm khốn khổ !

Lang thang mãi ở Sàigòn, chán! Một hôm, tôi trở lại thăm Ðức Hòa, chỉ vì tò mò muốn biết, nơi đã từng là chiến địa ngày xưa đó, giờ nó ra sao?

Hơn ba mươi năm trôi qua, đã có biết bao nhiêu là vật đổi sao dời, bèo dạt… hoa trôi… Và những người muôn năm cũ, giờ cũng chỉ như bóng chim tăm cá, không biết họ đã trôi dạt về những nơi đâu?!

Ðức Hòa đã thay đổi theo một chiều hướng đi xuống! Ngày xưa, dù đang là thời chiến tranh, nó vui nhộn biết là bao: hàng quán, lính tráng, người mua kẻ bán ồn ào, tấp nập. Những con đường, tuy chỉ nhỏ vừa cho hai xe nhà binh tránh nhau, nhưng đầy bóng mát của những hàng cây cao… Giờ đây, có những con đường mới thành lập, rộng thênh thang, thẳng tắp, nhưng trống trơn dưới ánh nắng như thiêu như đốt, không một bóng cây; xe cộ thì lẻ loi vài chiếc! Thị xã giống như một cô gái quê, xấu, đang cố làm dáng với những vết son vụng về tô vội!

Ðến khu Bình Tả, nơi ngày xưa tôi đã đóng quân. Cảnh vật cũng không thay đổi nhiều, nhưng sao trông thật hoang sơ, buồn thảm! Tại một ngã ba, ngày ấy có một cái quán lụp xụp, lúc nào cũng ồn ào những lính. Cho đến bây giờ, tôi vẫn còn nhớ chính tại cái quán lụp xụp đó, tôi đã ăn những tô hủ tiếu ngon nhất trong đời.

Ði vào sâu hơn khoảng trăm mét là ngôi biệt thự nhà máy xay. Rõ ràng là nó đang bị bỏ hoang, rêu phong nứt nẻ… Cảnh vật sao quá thê lương, ảm đạm! Hỏi thăm thì biết cô Huệ đã định cư bên Úc từ lâu! Cô Giáng Tiên, hoa khôi Hậu Nghĩa, nghe nói sau này lấy một sĩ quan Biệt động quân đẹp trai, giờ này không biết cuộc đời đã xô đẩy họ đến nơi đâu?

Ði sâu hơn nữa thì gặp tàn tích của một cái đồn, đồn này là của Tiểu Ðoàn chúng tôi hồi đó. Gần đấy có cắm một cái bảng nhỏ, trên đề: “Di tích lịch sử – Cấm đến gần” !

Tự nhiên, tôi thấy lạnh toát người! Có phải anh linh của bao nhiêu chiến sĩ ngày xưa vẫn như còn đang phảng phất đâu đây, trên những ngọn tre, những tàu lá chuối, hay trên những hàng mù u nơi xa xa kia?! …

Ra thăm khu trung tâm thị xã, ở đây có thay đổi chút ít. BTL/SÐ25BB nay đang là một công viên dành cho trẻ em, ngay trước cổng vào có một căn nhà nhỏ, trong đó trưng bày hình ảnh và những kỷ vật của một “đồng chí Võ Văn Tần” nào đó!

Chợ Ðức Hòa xây thêm một mặt tiền mới, quay về hướng khác, nhưng tôi thấy bức tường mặt tiền cũ vẫn còn để nguyên.

Ðang ngơ ngẩn nhìn ngó cảnh vật, tôi chợt để ý có một bà cụ cứ chăm chú nhìn tôi. Bước đi vài bước, bà lại quay đầu nhìn lại; cuối cùng bà cụ đến gần nhỏ nhẹ hỏi tôi:

– Nếu không phải, xin ông thứ lỗi! Phải ông đây là Trung úy Phong không?

Tôi giật bắn người! Chắc chắn đây là một người quen biết với tôi, nhưng nghĩ mãi, tôi đành chịu:

– Dạ, tôi là Phong đây! Xin lỗi, trí nhớ tôi hơi kém, bà đây là …?

– Trời đất, Mô Phật! Thiệt không ngờ cũng có ngày tôi lại gặp được Trung úy! Tôi là Thanh đây! Xưa Trung úy có đóng quân nhà tôi, Trung úy còn nhớ không?
Lúc này thì hình ảnh của một cô giáo Thanh ngày xưa đã lờ mờ lẫn vào khuôn mặt già nua của bà cụ, tôi mừng rỡ:

-… cô giáo Thanh! Tôi nhận ra rồi! tôi nhận ra rồi! Chà, cô trông còn mạnh lắm. Xin mời cô vô quán nước đây ta ngồi nói chuyện.

Ðôi mắt già nua của cô Thanh đã thấy có ánh nước, cô cầm tay tôi ân cần:

– Thôi! quán xá gì! Chắc là Trung úy ở nước ngoài về thăm quê hương? Trung úy có rảnh mời ghé lại tôi uống miếng nước. Nhà cũng gần đây thôi!

– Dạ! Tôi ra khỏi nước từ năm 75, giờ nghỉ hưu rồi mới có dịp về thăm lại. Hồi nãy đi ngang, tôi thấy khu nhà cũ của cô giờ dường như là một nhà máy gì đó ?

– Bị nhà nằm trong khu quy hoạch, nghe đâu họ đã bán đất đó cho Hàn quốc lập nhà máy may gì đó. Tôi phải mua bậy một căn nhà cũng gần chợ đây thôi, cho nó tiện! Mời Trung úy đi theo tôi, chút xíu là tới à!

Lẽo đẽo theo chân bà cụ đi vào một con đường nhỏ ngang hông chợ, tôi ngần ngại ngỏ ý:

– Tôi giã từ quân đội lâu lắm rồi, cô Thanh cứ gọi tôi bằng tên cho tiện!

– Không có sao đâu! Ở đây bà con cỡ tuổi tôi, ai cũng quý những người lính Cộng Hòa khi xưa. Lại bởi tôi quen miệng rồi, tôi nhớ Trung úy là Trung úy, gọi khác nghe kỳ lắm!

Ðến đây, mặc dù tận đáy lòng, như có một chút gì hơi hổ thẹn vì sự thất hứa năm xưa, nhưng tôi không thể quên được Hân:

– Thế cháu Hân giờ sao rồi? Chắc cũng con cháu rầm rề cả !?

Cô Thanh bỗng như chùng xuống, cô nói rất nhỏ, giọng run run:

– Cháu… cháu nó không còn ở với tôi nữa!

Vừa lúc đó, cô dừng lại trước một căn nhà, nhà của cô. Phải qua một cái sân nhỏ trước khi vào tới phòng khách. Cô Thanh giơ tay:

– Dạ, mời ngồi! Ðể tôi lấy nước trà mời Trung úy.

Trong nhà còn có hai vợ chồng người bà con của cô, tuổi khoảng ngũ tuần. Cô Thanh sai họ châm bình nước trà, đoạn rót ra trân trọng mời tôi. Không giữ được kiên nhẫn, tôi hỏi:

– Hồi nãy cô nói cháu Hân không còn ở với cô, vậy giờ cháu đang ở đâu?

Sau một hơi thở thật dài, cô Thanh bỗng bật lên khóc nức nở…Hai tay bưng mặt, cô nói trong tiếng nấc:

– Cháu nó đã mất rồi! Nó bỏ tôi đã gần ba chục năm rồi Trung úy ơi!

Tôi bàng hoàng, choáng ngợp như vừa bị dội cả một thùng nước lạnh vào người! Không biết tôi có nghe lầm không? Sao sự chết chóc lại có thể xảy đến với một người còn quá trẻ như Hân?!

Qua một phút chới với vì bất ngờ và xúc động đến tột cùng, tôi lấy lại bình tĩnh:

– Cháu nó qua đời như thế nào, cô có thể cho tôi biết được không?

Chuyện cũng hơi dài dòng, vì vậy tôi có ý mời Trung úy tới nhà, mình có nhiều thời gian hơn. Cô Thanh có vẻ đã lấy lại được chút bình tĩnh, cô tiếp:

– Tôi nhớ nó mất năm Mậu Ngọ, 1978. Lúc đó khó khăn lắm, cả nước đói! Ở quê như chúng tôi mà cũng phải ăn độn! Cháu Hân bỏ học ngay từ năm 75, nó nói học hành gì mà tối ngày họp tổ, họp đoàn, rồi chửi bới chế độ cũ… Vậy mà cũng không thoát, nó phải nhập vào cái gì kêu là thanh niên xung phong gì gì đó, đi làm thủy lợi! Nghĩa là đào kinh, đắp mương đó Trung úy!

Ngừng lại vài giây như để lấy thêm sức, cô tiếp:

– Hồi đó nó đang tuổi con gái, mà ăn uống thì thiếu thốn! Lại thêm thi đua này nọ, nó bị mất sức nhiều lắm. Rồi đào kinh đào mương, ngủ bờ ngủ bụi muỗi mòng… bị sốt xuất huyết! Bịnh cũng không đáng gì, nhưng thuốc men hồi đó hoàn toàn không có! Ăn còn không đủ, nói chi thuốc!… Lúc đó nó mới vừa 19 tuổi !

Ðến đây, cô lại ôm mặt nức nở… Tôi lại gần cô, vỗ về an ủi:

– Số phận đã an bài như vậy, không cho em qua được cơn khó khăn! Cô cũng không nên rầu rĩ quá không có lợi. Tuổi cô cũng như tôi, ngày một yếu kém…
– Tôi cũng biết vậy, và tôi cũng đã cố giữ gìn sức khỏe, để sống đến ngày hôm nay …

Nói tới đây, cô Thanh từ từ đứng dậy, hướng dẫn tôi đi về phía bàn thờ giữa căn nhà.

Phía trên bàn thờ, tôi thấy có treo hai tấm hình lớn mà tôi đoán là song thân của cô Thanh; đặt trên mặt bàn thờ phía bên trái, có ba tấm hình mà một trong ba tấm đó, tôi nhận ra là em Hân. Hình chụp có lẽ vào lúc em 17, 18 tuổi, trông xinh đẹp như một bông hoa đang nở.

Khi tôi nhìn em thì đôi mắt của em cũng đã nhìn vào tôi từ lâu lắm rồi, có lẽ ngay từ khi tôi bước vào căn nhà này! Thắp nén nhang, tôi biết tim tôi đang chảy ra thành nước, và dòng nước ấm đó đang chảy ngược lên phía đôi con mắt…

Khói nhang bốc lên không gian và lung linh tỏa rộng. Ánh sáng yếu ớt khúc xạ qua làn khói, làm như em đang mỉm cười nhìn tôi! Có lúc lại không phải là cười, mà đang nhìn tôi như trách móc!? …

Mắt tôi bỗng nhiên hơi mờ đi, hình ảnh của Hân, một buổi chiều nào xa xưa trong dĩ vãng bỗng hiện về, bé nhỏ lẫn trong đám người thăm viếng ở bịnh viện Cộng Hòa. Tôi vẫn còn nhớ mãi ánh mắt và nụ cười khi em quay lại nhìn tôi… Và rồi lần cuối cùng tôi gặp, cánh tay bé nhỏ giơ lên chào tạm biệt khi tôi trở về Sàigòn, mắt em đầy lệ …

Một dư âm mơ hồ như vọng lại từ một nơi nào xa, xa lắm:

… Ðừng quên đến thăm Hân nha, Hân chờ đó! …

Người tôi lúc đó như muốn rũ xuống, tôi cố gắng hết sức đứng thẳng người, nhìn tha thiết vào đôi mắt em, cầu xin một tha thứ !

Ngay trước bức hình của em, tôi thấy có một hộp nhỏ bằng nửa bàn tay, khảm xà cừ màu đen rất đẹp. Thấy tôi nhìn vào chiếc hộp nhỏ, cô Thanh nói như khuyến khích:

– Trung úy cứ cầm lên và mở ra coi!

Tôi nhẹ nhẹ cầm chiếc hộp lên bằng hai tay và mở nó. Một làn sáng như lóe lên: chiếc nhẫn lưu niệm trườngVõ Bị Ðà Lạt năm xưa của tôi hiện ra, sáng bóng, nằm trong hộp trên một miếng nỉ trắng.

Cầm chiếc nhẫn trên tay, tôi chợt rùng mình, dường như có một luồng điện nhẹ đang chạy qua khắp châu thân! Qua biết bao nhiêu năm tháng, chiếc nhẫn vẫn còn đây mà… người xưa đã mất! Chiếc nhẫn như nhắc tôi một lời hứa, một lời hứa tôi đã không giữ trọn!

Nhìn giọt nước mắt rơi, tôi mới biết mình đang khóc! Thực lòng, tôi cũng không biết tôi đang khóc vì vui mừng thấy lại một kỷ vật xưa, hay đang khóc vì tràn đầy ân hận!

Rồi trong một thoáng giây vô thức, tôi đưa chiếc nhẫn lên gần miệng, hà một hơi ấm vào viên hồng ngọc rồi chà xát nhẹ nhẹ vào ngực, phía trái tim.

Nhạt nhòa trong nhang khói, tôi thấy Hân như lại mỉm cười! Có phải tôi tưởng tượng không, hay đang thực sự có một thần giao cách cảm?

Cô Thanh từ nãy chỉ đứng yên lặng theo dõi, bỗng cô nói, giọng nhẹ như hơi thở:

– Những lúc còn tỉnh, cháu nó đã kể hết cho tôi nghe vì sao nó có chiếc nhẫn này! Trước đó, nó đã giấu cả tôi, giữ kín và âm thầm chờ mong cho đến những ngày cuối cùng! Trước khi nhắm mắt, nó còn dặn tôi phải để chiếc nhẫn này trong một chiếc hộp thật đẹp, ngay trước hình thờ của nó. Vì nó quả quyết là sẽ có một ngày, một ngày Trung úy sẽ tìm đến!

Ngừng một phút, cô nói thật nhỏ, như nói với chính mình:

– Cũng phải mất gần ba chục năm! Giờ thì châu đã lại về hiệp phố!

Ðặt lại chiếc nhẫn vào trong hộp và trân trọng để chiếc hộp vào đúng chỗ ban đầu, tôi quay qua cô Thanh:

– Thưa cô, chiếc nhẫn này có lẽ là một trong những kỷ vật quý nhất mà tôi còn có được, kể từ khi vội vã ra đi ngày ấy! Nó đã đánh dấu một thời chinh chiến tang thương của đất nước, nó nhắc tôi một thời tuổi trẻ mà lúc nào tôi cũng hãnh diện và trân quý. Và… nó cũng có cả hình bóng của em Hân trong đó nữa! Nhưng chắc nó không cần về “hiệp phố” nữa đâu! Tôi giữ nó chỉ có khoảng 5 năm, thế mà chiếc nhẫn này nó đã ở bên em Hân những trên ba mươi năm, những lúc em còn sống và cả những lúc em đã qua đời! Tôi không thể hình dung được rồi mai đây, bên hình của em sẽ chỉ còn là một khoảng trống! Tôi còn biết khi xưa,em luôn luôn muốn có chiếc nhẫn này ở bên cạnh. Xin cô cho phép tôi, cứ để chiếc nhẫn bên hình của em. Nó ở đây cũng là nó đang ở mãi mãi, trong tim tôi …

Không biết mắt tôi có ướt đẫm như đôi mắt cô Thanh không, nhưng giọng nói của tôi, sao bỗng thấy quá nghẹn ngào:

… Vẫn biết âm dương là muôn đời cách trở, nhưng tôi muốn mượn chiếc nhẫn này, như một vật xúc tác giữa hai linh hồn, một linh hồn đang còn phiêu bạt nơi đất khách quê người, và một linh hồn đang an nghỉ ngàn đời trên quê hương …


oooOooo

Cô Thanh ân cần mời tôi ở lại dùng cơm chiều, nhưng tôi phải từ chối vì không muốn trở lại Sàigòn khi quá tối. Tôi hẹn tuần sau sẽ lên để thăm và thắp nén nhang tại mộ phần, nơi an nghỉ cuối cùng của em Hân.

Khi tiễn tôi qua chợ, cô Thanh cười nói với tôi:

– Trung úy biết không, khi mua lại căn nhà gần chợ này, tôi cũng có chủ ý là được thấy thật nhiều du khách Việt kiều. Thấy ai có dáng Việt kiều là tôi ngó thiệt kỹ.

Không dè cũng có ngày Trời Phật run rủi, mà cũng có thể do vong hồn của cháu Hân khiến, tôi lại gặp được Trung úy. Tôi cảm thấy như vừa trút được một tảng đá đã đè nặng trên vai tôi qua bao nhiêu năm tháng… Xin cám ơn Trung úy!

Tôi mỉm cười trước những ý nghĩ chân chất và đôn hậu của một người miền Nam như cô Thanh. Tôi nắm hai tay cô, rồi ôm cô thật chặt trước khi giã từ. Theo tỉnh lộ 10, tôi trở về Sàigòn qua ngả Phú Lâm. Trước kia con đường này hầu như không bao giờ sử dụng được, nó luôn luôn bị đắp mô, mìn bẫy, đôi khi có cả phục kích …

Thương hải biến vi tang điền! Ngàn xưa đến ngàn sau, dù muốn hay không, đổi thay vẫn cứ là một bản chất tự nhiên của đời sống!

Chỉ có tình cảm của con người, có những thứ tình cảm mà suốt cả một đời, không bao giờ thay đổi!

… Vậy mà nhiều khi tôi vẫn đinh ninh rằng: Ðã mất hết cả rồi!

BTP – Memorial Day, 2013
nguồn: baotreonline.com/linh-hon-cua-dat/

BachMa
05-18-2018, 06:13 PM
Những Ngày Đen Tối (30 tháng 4 năm 1975)

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1526616391-NhungNgayDenToi.jpg
Hình minh họa

Viết lại tâm trạng của người lính thất trận.
Phi trường Tân Sơn Nhất, nơi đồn trú của bộ tư lệnh Không Quân VNCH và Sư Đoàn 5 Không Quân trân mình chịu đựng những cơn pháo kích của Cộng quân . Những chiếc phi cơ đủ loại phơi mình trong nắng như thách thức đạn pháo của địch, một vài chiếc C123 đang bốc cháy vì trúng đạn pháo. Lực lượng phòng thủ phi trường đang cố gắng chống đỡ trong tuyệt vọng.

Trên bầu trời xanh cuối tháng Tư, khoảng chín giờ sáng chiếc AC119 (*) vẫn lầm lũi, bướng bỉnh đảo vòng quanh phi trường rải những lưới đạn đại liên xuống những vị trí chung quanh vòng đai phi trường nơi đám Cộng quân đang điên cuồng cố gắng thanh toán nốt mục tiêu cuối cùng. Quân cộng Sản cố gắng triệt hạ chiếc AC119 cô đơn bằng nhữnh lằn đạn phòng không. Chung quanh phi cơ, những nấm khói trắng vội vã nở bung như những bông hoa tiếp theo những tràng đạn chát chúa nhưng chiếc phi cơ vẫn lầm lì coi thường đáp trả lại bằng những cơn mưa đạn hung thần xuống đầu bọn chúng mà chẳng cần bay lượn tránh né.

Bỗng một tiếng nổ xé trời, vệt khói trắng bay thẳng như mũi tên lao thẳng vào chiếc phi cơ. Chiếc AC119 nổ tung trong trái cầu lửa, thân phi cơ gẫy vụn làm nhiều mảnh, những mảnh nhôm vỏ bọc phi cơ bay lờ lững trong không gian như những chiếc lá vàng mùa thu trong cơn cuồng phong, không một bông dù được bung ra. Đất nước vừa có thêm những anh hùng vô danh: Phi Hành Đoàn AC119 đền nợ nước bởi hỏa tiễn Sam hay SA7 của Việt Cộng.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1526617160-NhungNgayDenToi_02.jpg
Hình minh họa

Người lính kỹ thuật Không Quân trào nước mắt, tay cầm mũ ấp vào ngực cúi đầu chào vĩnh biệt đồng đội vừa anh dũng hy sinh trên chiếc AC119. Động lực nào mà các anh đã dũng cảm chiến đấu một cách vô vọng trong lúc các anh có thừa phương tiện đào thoát trong tay ? Các anh đã vĩnh viễn ra đi bỏ lại mẹ già,vợ dại, con thơ và những người thân ? Chỉ có câu trả lời duy nhất: Thà chết vinh hơn sống nhục, các anh không chịu đầu hàng một cách tủi nhuc như lệnh của ông Tổng Thống cuối cùng sau khi lên nắm quyền chưa đươc 24 giờ.

Lầm lũi rời khỏi cổng Phi Long (cổng chính phi trường TSN), khẩu súng M16 trên vai và hai kẹp đạn trong túi, tâm hồn tan nát như những mảnh vụn của chiếc C119 vừa nổ tung, hắn quên luôn cả lệnh buông súng đầu hàng, quên luôn những nguy hiểm chung quanh hắn, chỉ một tên “cách mạng 30” với vũ khí vừa nhặt được trên đường phố hay những nòng súng bắn sẻ đâu đó từ những con hẻm, góc phố hay từ sau những cánh cửa nào đó cũng dễ dàng đưa linh hồn hắn gặp các đồng ngũ của hắn vừa ra đi. Dù chợt nhớ tới lệnh buông vũ khí nhưng hắn cũng bất cần, nếu bị bắn sẻ mà ra đi trong lúc này thì chắc còn dễ chịu hơn phải sống như bây giờ.

Bước chân vô định qua những đống quân phục, nón sắt, giầy bốt, vũ khí của đầy đủ các quân chủng bỏ ngổn ngang trên đường phố, những tiếng súng lẻ tẻ hay từng loạt đạn nổ chát chúa cũng không kéo được hắn ra khỏi cơn mộng du. Ký ức lôi kéo hắn trở lai những ngày sau cùng của cuộc chiến. Mất Ban Mê Thuột, Pleiku, Huế. Đà Nẵng di tản với bao hãi hùng đã rơi vào tay địch, trận Khánh Dương với các chiến binh Dù được tải thương về bằng C130. Hắn đứng nhìn những thương binh được tải xuống từ những chiếc xe bus, những thương binh còn tự lo liệu đươc đã cố gắng lê lết trên những thân hình tàn tạ, bê bết máu hay cõng nhau để lên những chiếc GMC đưa về bệnh viện của đơn vị bên trại Hoàng Hoa Thám, những cánh tay mệt mỏi đưa ra xin hắn vài điếu thuốc. Hắn sót sa chia sẻ bao thuốc cuối cùng cho các chiến thương binh kém may mắn, hy vọng những điếu thuốc sẽ xoa dịu cho bạn đồng ngũ phần nào những đau đớn thể xác.

Rồi tin KQVN vừa thả xuống mặt trận Xuân Lộc hai trái bom CBU 55 đã tiêu diệt trọn vẹn hai sư đoàn Cộng quân làm mọi người phấn khởi. Nhưng rồi tin vui cũng như đốm lửa chợt bừng sáng rồi tắt lịm, Nha Trang thơ mộng không còn nữa, Bình Long, Biên Hòa cũng mất và giờ này thì căn cứ Tân Sơn nhất, cứ điểm sau cùng của quân lực VNCH chỉ còn là bãi chiến trường hoang vắng. Bước chân lang thang như một thói quen đưa hắn đến nhà người bạn đồng ngũ thân nhất gần căn cứ, ở đó đã có thêm một đồng ngũ ngồi ủ rũ, gặp nhau một cách đột ngột, cả ba đứa đột nhiên ôm chặt lấy nhau cùng òa lên khóc, bọn hắn khóc nức nở như những đứa trẻ thơ, như chưa bao giờ được khóc dù chưa kịp nói được một lời hỏi han.

Sau cùng thì cũng là những trao đổi xem ai còn, ai mất. Chợt nhận ra cây M16 hắn còn đeo trên vai, bạn hắn nói: “mày điên hay sao mà giờ này còn mang súng?, bọn khốn nạn đó thấy sẽ giết mày không thương tiếc đâu”. Hắn cười, nụ cười khinh bạc, héo hắt: “có lẽ chết giờ này sướng hơn sống”. Giã từ bạn đồng ngũ, hắn lê thân xác nặng nề trên đường phố hoang vắng, đâu đó vẫn lẻ tẻ những tiếng súng cầm cự của lưc lượng Biệt Kích không chịu buông súng đầu hàng một cách nhục nhã. Biết đi về đâu ? Định mệnh tàn ác vừa chụp lên đầu hắn và nhiều triệu dân miền Nam Viêt Nam những ngày đen tối nhất.

nguồn: https://www.facebook.com/photo.php?fbid=589437981429846&set=gm.1783597051678398&type=3&theater

BachMa
05-31-2018, 06:23 PM
Bán Tiểu Đội Biệt Cách Dù
& Trận Đánh Sau Lệnh Đầu Hàng Ngày 30/4
Hải Triều / Trung Nghĩa bốn

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1526616294-BanTieuDoiBietKich.jpg
Thiếu úy Biệt Kích Dù Vũ Văn Tư trằn trọc không ngủ được. Đơn vị anh được lệnh chuyển quân về đóng ở Tam Hiệp, Biên Hòa, nơi mà tinh thần chống cộng của đồng bào Thiên Chúa giáo vững vàng như sắt, như đá. Sự có mặt của những toán Biệt Cách Dù làm các đơn vị quân dân phòng thủ ở đây lên tinh thần. Tư đi hết nhà dân đến nhà thờ. Có những đêm Tư âm thầm vào nhà thờ nhìn chăm chăm vào tượng Chúa để cầu xin một phép lạ, không phải cho anh, mà cho quê hương, để Bắc quân bị tan biến trong trận Long Khánh và không một tên nào mò qua Tam Hiệp để vây Sài Gòn. Anh thấy tượng Chúa buồn buồn, anh thấy tượng Đức Mẹ dường như muốn khóc. Anh về lại đơn vị trùm poncho ngủ. Giấc ngủ vỡ tan theo tình hình tin tức chiến sự căng cứng cứ một ngày gần về phía Sài Gòn.

Sáng ngày 28 rạng 29 tháng Tư, đơn vị anh được tin cho biết về các hướng chuyển quân của địch, trong đó có một đơn vị cộng sản có chiến xa sẽ di chuyển từ Tân Phong hướng chiến khu D tiến về vòng đai phi trường Biên Hòa theo lộ trình quốc lộ 1 vào Hố Nai. Tất cả đơn vị đã sẵn sàng trong tư thế chiến đấu. Các đơn vị địa phương và nhân dân tự vệ, súng đủ loại bỗng nhiên thành những người lính tử thủ. Họ phân công, tăng cường phòng thủ và di chuyển đồng bào khỏi vùng có thể sắp xẩy ra những cuộc đụng độ đẫm máu.

Sáng sớm 30 tháng Tư, Tư và các sĩ quan được đơn vị trưởng mời họp khẩn cấp, chờ lệnh Sài Gòn. Trời Tam Hiệp vẫn chờ cơn bão lửa trong tinh thần chuẩn bị cho cuộc thư hùng chết bỏ. Đến khoảng vừa sau 10 giờ sáng, các sĩ quan quay quanh chiếc radio, im lặng, đợi chờ một cái gì vô cùng nghiêm trọng. Bỗng tiếng tướng Dương văn Minh ồn ồn vang lên lệnh buông súng. Tư đập tay xuống bàn. Chiếc đồng hồ vỡ tung, đứt dây văng xuống đất. Các sĩ quan có mặt, người chửi thề, kẻ ôm mặt khóc. Vị sĩ quan Dù, cấp chỉ huy của Tư đang gục mặt xuống bàn, hai vai ông run lên. Một lúc sau, ông đứng dậy nói trong hai hàng nước mắt:

- Định mệnh oan nghiệt! Định mệnh oan nghiệt! Thế là hết! Anh em tan hàng và thoát khỏi vùng này gấp! Chiến xa địch có thể đang rất gần!

- Sao dễ dàng vậy ông thầy? Mơ hay thực ông thầy! Hỏa ngục An Lộc mình coi như pha! Sao bay giờ chưa bắn phát đạn lại tan hàng? - Tổng thống đã bó tay hàng, lệnh chúng ta buông súng. Làm sao chuyển xoay thế nước? Làm sao xoay chuyển lịch sử? Công chuyện bây giờ là cứu mạng anh em? Anh em nghe rõ?

Không khí im lặng, tịch mịch, thê lương. Không một ai trả lời. Một thứ im lặng nặng nề, uất nghẹn. Tư bỗng lên tiếng:

- Không! Tụi em nghe rõ nhưng không buông súng! Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng là chuyện của ông Dương Văn Minh. Tụi em không thể quăng súng! Biệt Kích Dù không bao giờ quăng súng! Ông thầy mặc tụi em!

- Thế cậu làm gì?

Tư không trả lời người chỉ huy của mình. Anh đứng phắt day chào tay người đơn vị trưởng và bỏ ra khỏi phòng:

- Vĩnh biệt ông thầy và anh em!

Đây là lần đầu tiên trong đời binh nghiệp mà Tư hành sử như vậy đới với cấp chỉ huy. Đơn vị trưởng Tư lặng lẽ nhìn Tư đi cho đến khi bóng anh khuất ở một góc đường dẫn về vị trí công sự phòng thủ của toán Tư trách nhiệm. Ông thở dài và mọi người giải tán.

Thiếu úy Tư về vị trí anh em đang bố trí chờ địch. Họ thấy nét mặt Tư như căng ra, căng thẳng và quyết liệt. Anh nói với anh em:

- Thằng cha Minh Bự ra lệnh buông súng rồi! Mấy ông đại bàng lớn nhỏ đã chấp nhận lệnh của Dương Văn Minh. Tôi thì không. Anh em nào theo tôi thì gom hết súng đạn và M72 xếp hàng theo tôi. Anh em nào nặng gánh gia đình thì ngay từ lúc này, bẻ súng, hay chôn súng, rời khỏi nơi đây gấp! Tôi còn chỉ huy anh em.

Đây là lệnh! Lệnh sau cùng trước khi chia tay!

Thầy trò Thiếu úy Tư nhom vào nhau, ôm nhau, kẻ khóc, người gạt nước mắt khi chia tay. Tư gom còn lại anh em khoảng một bán tiểu đội chịu ở lại với Tư, mỗi người hai ống M72, lựu đạn, súng cá nhân và ba lô. Tư dẫn anh em di chuyển nhanh về xứ đạo Kim B... Đó là quê quán của một số anh em trong toán không buông súng của Tư. Tư đưa anh em lẩn vào một dãy nhà quen. Dãy nhà chỉ còn lại một bà cụ già:

- Bác Tám! Cháu là Vũ Văn Tư! Bác còn nhớ cháu? Bà con đâu hết rồi?

- À, tôi nhớ rồi! Cậu Tư Biệt Kích Dù! Cậu Tư về đây làm gì, bà con tản cư về Sài Gòn, vì nghe nói cộng sản có thể vô đây! Mà mấy cậu đói không?

- Sáng giờ tụi con chưa có gì trong bụng hết...

- Còn nồi thịt kho sau bếp. Tôi nấu nồi cơm cho mấy cậu ăn!

Mặt tiền nhà thờ Kim B... bên trái là cột cây số 6 tính từ Biên Hòa lên, bên phải là những căn nhà dân bỏ hoang, cách đó không xa là trường tiểu học Hải Phòng có một địa thế che khuất thuận tiện cho một cuộc phục kích. Tư ra lệnh anh em đào hầm và ngụy trang gấp để sẵn sàng cho một cuộc tấn công chớp nhoáng và rút nhanh theo kế hoạch.

Các Biệt Kích Dù còn lại mặt trận không có lệnh hành quân do Thiếu úy Tư chỉ huy, không có đại bàng trên trời, dưới đất, cũng không có hệ thống truyền tin, không Tổng Tham Mưu, không dinh Độc Lập... Chỉ có thầy trò Tư, Văn, Lễ, Hùng, Sự và Bảy đang dàn trận đối đầu với Bắc quân vào xế 30 tháng Tư, 4 tiếng đồng hồ sau lệnh cho quân đội buông súng của tướng Dương Văn Minh. Lúc này, trên mặt những Biệt Kích Dù không còn nước mắt buổi sáng, mà mặt họ lại đăm đăm chờ giặc như những lần phục kích năm xưa, bất chấp cái gì xẩy ra cho họ.

Tư phân phối vị trí tác xạ cho từng anh em và chỉ thị:

- Trận này chỉ xi M72! Không dùng súng nhỏ và lựu đạn, thứ này chỉ để tự vệ trên đường tàng hình mà thôi! Nếu địch xuất hiện trong tầm hiệu quả, xe nhỏ và Molotova vận tải, chơi trực xạ một M72. Nếu T54, tập trung tối thiểu là 2 M72 một chiếc cùng lúc để con cua bị rang muối ngay tức khắc, nếu nó còn sống, nó quay đại liên thì mình không thoát được theo kế hoạch, không về được với vợ con. Tất cả phần đuôi của đoàn xe địch còn lại, chơi xả láng tất cả M72 còn lại vào mục tiêu, kể cả bộ binh tùng thiết... Và tàng hình thật nhanh trước khi địch tỉnh hồn phát giác vị trí tấn công và đường thoát của tụi mình!

- Rồi sau đó tụi em gặp Thiếu úy ở đâu?

- Tại nhà thằng Hùng ở Ngã Ba Hàng Xanh tối ngày mai nếu tụi mình không thằng nào rách áo hay đi phép dài hạn! Nhưng mình chơi cú này như ma như quỷ, bố tụi nó cũng không ngờ! Nhớ! Tụi mình phải gặp nhau lần cuối trước khi chia tay mà không biết bao giờ gặp lại!

Đúng như nguồn tin hôm trước và dự đoán hôm nay, dưới ánh nắng gay gắt, trước nhất là một chiếc jeep đi đầu, ngay sau là tiếng xích sắt nghiến trên mặt đường của một chiếc T54 nòng đại bác kềnh càng chỉa về trước, hai bên hông xe là một số bộ đội, có cả du kích dép râu có lẽ lần đầu tiên được "cưỡi" xe tăng, rồi tiếp theo là 2 chiếc Molotova đầy bộ đội miền Bắc và du kích dép râu, mũ tai bèo, lá ngụy trang. Họ di chuyển dường như khá chủ quan là sau cả buổi lệnh buông súng của Dương Văn Minh loan báo trên đài, các ổ kháng cự của quân đội VNCH đã rời vũ khí, bỏ trống chiến trường. Họ chuyển quân như đi duyệt binh, như phô trương lực lượng.

Tư và bán tiểu đội Biệt Kích Dù chỉ chú ý đến phần đầu kể từ chiếc xe jeep để có thể tấn công chớp nhóng và rút nhanh trước khi địch hoàn hồn. Đoàn xe tiến ngày càng gần vào vị trí ổ phục kích. Tư bình thản nói nhỏ vào tai các xạ thủ:

- Jeep có sĩ quan đi đầu, cậu chơi chính xác 1 quả cho tôi!... Chiếc T54 kế, hai cậu chơi hai quả trực xạ ngang hông cùng một lúc!... Hai Molotova đi sau, mỗi chiếc một quả chính xác cho tôi!... Các ống phóng còn lại, các cậu xả láng hết vào bất cứ đoàn xe hay đám tùng thiết nào xuất hiện trong tầm tác xạ! Và ngay sau đó, biến nhanh theo tôi! Không chần chờ ở lại xem kết quả! Hổ nhanh như ma như biến mới sống!

Tiếng xích sắt chiếc T54 nghiến đường kềnh càng mỗi lúc một gần. Chiếc jeep có một sĩ quan và hai nhân viên truyền tin cùng chiếc T54 vừa lọt vào tầm tác xạ hữu hiệu, có thể nói là quá sát vị trí phục kích, Tư ra lệnh khai hỏa.

- Ầm!

Một vệt lửa vụt đi, quả M72 lao như điện xẹt vào mục tiêu. "Tiến về Sài Gòn. Ta giết sạch giặc thù" chưa thấy đâu, nhưng chiếc jeep đi đầu bị thổi tung lên như con diều giấy bốc cháy. Bị tấn công bất ngờ, chiếc T54 hoảng hồn nã một phát đại bác lên tháp chuông nhà thờ. Tháp chuông bị vỡ sụp một góc. Nhanh như chớp, trước khi đại liên và đại bác tác xạ vào các vị trí nghi ngờ khác, hai quả M72 phóng thẳng vào hông phải chiếc T54:

- Ầm! Ầm!

Chiếc T54 lật ngửa sang một bên, bốc cháy bên vệ đường. Ba quả M72 tấn công quá nhanh, chỉ trong vòng không tới 30 giây, bộ đội Bắc Việt và các du kích bám trên xe không phản ứng kịp, bị văng xuống như sung rụng. Trong một tích tắc tiếp theo đó, hàng loạt M72 phóng thẳng vào hai chiếc Molotova chở đầy lính đủ loại, nón cối, mũ tai bèo và vài chiếc đi sau.

- Ầm! Ầm! Ầm...!

Nguyên một đoạn đường còn lại trong tầm tác xạ của M72 bỗng chốc thành bãi chiến lửa khói đầy xác xe và người chết. Tiếng súng AK khai hỏa từ phía sau đoàn "con-voi" nhưng họ không biết họ bị tấn công từ đâu. Không một tiếng súng nhỏ M16 bắn trả. Bỗng chốc chiến trường thành một thứ chiến trường im lặng chết người. Trong cái khoảnh khắc im lặng mà Bắc quân còn nằm chết dí trên mặt đất bắn lung tung, chưa nắm vững tình hình địch và thiệt hại của các chiếc xe đi đầu, bán tiểu đội Biệt Kích Dù đã biến đi tự lúc nào.

Sau khi không nghe thấy gì nữa, các đơn vị Bắc quân và chiến xa còn lại thận trọng dàn quân thành một vòng cung bọc tròn khu vực nhà dân, nhà thờ và trường tiểu học. Họ di chuyển chậm và họ nghĩ rằng trận phục kích kế tiếp sẽ diễn ra. Nhưng không! Tiếng nổ lác đác còn lại chỉ nghe thấy từ lòng chiếc T54 với những đạn loại nhỏ bị cháy và còn phát nổ. Vòng vây khép lại như một mẻ lưới, càng lúc càng nhỏ dần.

Bắc quân uất giận bắt đi vị linh mục già chánh xứ co ro trong nhà thờ và mấy người dân đau ốm tá túc trong nhà thờ. Họ lục soát trong nhà dân, bắt thêm vài người. Tháp chuông nhà thờ đổ nát nhưng tượng Chúa và tượng Đức Mẹ vẫn còn, một tên VC lia vào tượng một tràng AK và ra ngoài, hắn lầm lừ như con hổ bị trọng thương. Một tên chỉ huy hạch hỏi hai người dân điều gì không rõ, song sau đó, họ bắn cả hai ngay trước cổng nhà thờ.

Toán quân cộng sản tiếp tục di chuyển, áp tải theo linh mục chánh xứ và những người dân vô tội, đến ngay tại cây số 7, họ dừng chân, họ bàn chuyện gì không biết, nhưng sau đó họ lôi ra bắn tiếp 2 người nữa và vứt xác bên vệ đường. Người dân miền Nam, những người bị bắt còn sống chưa bị hành quyết tại cây số 7, những người còn sống trong các nhà bên đường... kinh hoàng, vài người đã la hét trong cơn hoảng loạn tâm thần. Họ thấy cái chết lắc lư trên đầu họ. Và dường như Bắc quân thấy một cái gì không ổn trong hành động của họ trước những tiếng gào thét tuyệt vọng của đồng bào, họ ngưng hành quyết những người còn lại.

Trên quốc lộ 1, đoạn đường từ cây số 6 trước nhà thờ Kim B đến cây số 7 cũng chính là một phần của đoạn đường "Tiến về Sài Gòn, ta giết sạch giặc thù!" Bài hát "Tiến về Sài Gòn" của Huỳnh Minh Siêng đã hiện thực trên những vũng máu của người dân vô tội.

Ngày 1 tháng 5, thủ đô Sài Gòn tang tóc. Chiều, gió nhe ïthổi từ sông Sài Gòn như hơi thở tàn hơi trên từng sợi tóc của những người dân phờ phạc, âu lo, trên từng tàng cây hai bên đường như cảm nhận một mùa xuân tang tóc. Sài Gòn thoi thóp thở. Đâu đó, người ta thỉnh thoảng còn nghe tiếng súng, tiếng lưu đạn nổ.

Tiếng nổ của những người tự tử chết theo thành. Tiếng súng của những anh em còn chiến đấu tuyệt vọng từ những hẻm hóc giữa thủ đô liệm chết.

Tư lần mò đến địa điểm hẹn anh em ở Ngã Ba Hàng Xanh. Thầy trò Tư lặng lẽ ôm nhau, cùng nhau ăn một bữa cơm ly biệt sau cùng. Tư bùi ngùi nói với anh em:

- Trách nhiệm của chúng ta đối với Tổ Quốc đã tròn. Không ai lệnh cho chúng ta phải đánh trận sau cùng khi Dương Văn Minh đã đầu hàng. Tôi tạ ơn Thiên Chúa, tạ ơn Đức Mẹ đã bảo bọc chúng ta để còn gặp đủ anh em đêm nay. Nhưng ngay trong đêm nay, tôi không còn là người chỉ huy anh em, anh em mỗi người tự thay tên đổi họ để về nguyên quán, lo cho gia đình, vợ con. Tôi sẽ còn ở lại Sài Gòn ít hôm coi tình hình, và có thể trở lại coi tận mặt chiếc T54 bị bắn cháy trước khi về lại Cao nguyên.

- Em còn độc thân! Ông thầy cho em ở lại và tháp tùng ông thầy!

- Không! Em về với bà cụ! Tình hình vô cùng nguy hiểm! Thôi, chúng ta chia tay! Coi chừng mấy thằng 30 nằm vùng!

Đèn trong trong phòng vụt tắt. Bán tiểu đội Biệt Kích Dù không còn quân phục, không còn vũ khí của thiếu úy Vũ Văn Tư ôm nhau trong bóng tối. Người ta không thấy nước mắt, chỉ nghe những tiếng nấc ly biệt, nghẹn ngào...

Mấy hôm sau, Tư lẻn về lại Hố Nai một mình. Địch vẫn chưa áp đặt gắt gao sự kiểm soát trong vùng. Tư mặc đồ rách rưới như một nông dân lần đến thăm nhà thờ Kim B và khu vực trận địa. Tư lựa một góc nhà khuất, dựa lưng nhìn chiếc T54 và xác chiếc jeep nằm tan nát bên cạnh. Tư được biết một sĩ quan cấp đại tá và hai người lính truyền tin đã tử thương trong trận phục kích, số thương vong trên các chiếc Molotova và đoàn quân phía sau không rõ. Về lại Sài Gòn, Tư gặp một số bạn thân kể lại trận đánh và anh biến mất khỏi Sài Gòn sau đó.

Một năm sau, Tư hoàn toàn thay tên, đổi họ và sống như một người dân không biết gì về lính tráng. Lặng lẽ, âm thầm, uất ức và chán đời về sống ẩn dật về sống ở Cao nguyên. Thiếu úy Biệt Kích Dù Vũ Văn Tư đã không còn trên cõi đời. Dần dà, anh trở thành người thất chí rồi mất trí. Anh không điên, nhưng người nhà cho biết anh Tư ngày nào cũng như ngày nào, suốt ngày cứ lầm bầm... những câu " Tại sao đầu hàng? Tại sao đầu hàng? Quân phản bội! Quân hèn nhát! Tại sao đầu hàng? Tại sao đầu hàng?..." Và trong một đêm mưa Cao nguyên sấm động rung trời như hét lời hận uất giữa không trung, mưa như trút nước, anh Tư nằm liệt giường, mê sảng. Trong cơn mê, anh cũng cứ thều thào... " Tại sao đầu hàng? Tại sao đầu hàng?..." Và sáng hôm sau, anh nằm yên, vĩnh viễn ra đi không bao giờ trở lại.

Thiếu úy Biệt Kích Dù Vũ Văn Tư mất năm 1976 dưới một cái tên hoàn toàn xa lạ, không vinh thăng, không phủ cờ, không huy chương, không một cánh hoa dù có mặt cạnh áo quan. Anh nhắm mắt nhưng mối hờn không chết trên quê hương, và chỉ một mình anh mang theo niềm hận uất khôn nguôi của riêng mình xuống đáy huyệt sâu. Khối hờn chung trong hơn bốn mươi năm vẫn còn vẫn còn bàng bạc trên từng ngọn cây tấc đất... dẫu dấu tích của cuộc chiến bi hùng đã tàn phai theo tháng, theo năm.


Hải Triều / Trung Nghĩa bốn
nguồn: https://www.facebook.com/groups/1051752364862874/permalink/1792182960819807/

BachMa
06-07-2018, 04:58 AM
Cái Thẻ Bài
Phi Ngọc Hùng

Trời sui đất khiến, bỗng dưng không đâu tôi hỏi: “Mày có mối tình lớn nào không?”. Nó nhướng mắt nhìn tôi từ trên xuống dưới, như nhìn người hành tinh. Lừ lừ nốc hết ly rượu mầu hổ phách, ra cái điều tửu phùng tri kỷ thiên bôi tửu. Xong nó lặng lờ như gió thoảng mây bay:

- Văn sĩ Nga Tourgueien, trong ngày ra mắt quyển “Mối Tình Lớn”, ông được độc giả và giới văn học ca ngợi như một tác phẩm của thế kỷ. Nhưng bị văn hào Dostoiewsky phê bình: “Nếu tôi có mối tình lớn như vậy, tôi sẽ chẳng bao giờ dại dột kể cho ai nghe hết”.

Nó đặt cái ly xuống…Bố khỉ, tôi ngọng trông thấy!


***

Bạn bè có nhiều thằng tôi phục sát đất thì thằng này là một, mở miệng ra với một mớ kiến thức đóng hộp từ thập niên 60 qua André Camus, Jean Paul Sarte, John Steinbeck. Nhưng ấn tượng mà tôi ghi nhận được là nó có trí nhớ thần sầu và nói thao thao bất tuyệt, nếu cần là nó…bấm cò đi một tràng “ra-phan”.

Đi một tràng…”ra phan” là có dây dưa đến chuyện súng đạn, truyện xưa tích cũ thì nó cũng một thời khóac áo trây di, lại khóai mầu áo hoa rừng, chỉ vì cái mặc cảm “sữa” từ những ngày còn đi học. Về phép, việc đầu tiên là lên khung bộ quần áo ủi hồ cứng ngắc để bát phố. Nhưng nó chỉ là thằng bám đuôi, cùng lắm là một cái húyt gió bâng quơ. Không sơ múi gì bèn ngồi đồng ở La Pagode nhìn theo tiếc nuối. Khổ một nỗi, nó cũng chỉ nhìn từ đằng sau, một tà áo mờ nhân ảnh nào đó.

Rồi những mùa thu đi, nó vẫn là con bà cả đọi. Lại nữa, có một số các cô các bà tính khí cũng khác người. Một là chỉ thích kết mái tóc muối tiêu đầy…phong trần tiến để “chú chú, cháu cháu”. Hai là nhúm mấy đấng nhi đồng mặt búng ra sữa để “thấy anh nhỏ xíu em thương”. Và nó. Thằng bạn mà tôi mới gặp lại đây…trong một mùa thu chết có lá vàng rơi, nguyên đại úy mũ nâu biệt động quân, với số ruồi nên nằm chết dí không ngóc đầu lên được ở cái khỏan…thứ hai khốn khổ khốn nạn này. Thế nên mới thành chuyện…

Ngày ấy, nó mới chỉ là Thiếu úy.

Một lần, nó kể chuyện tình quán cóc bên đường của nó cho tôi thưởng lãm, chuyện “thiếu úy” đang uống bia tới bến, nhậu tới khuya…Thấy tôi cười tình, nó chửi đổng: Sư mày, mày biết đíu gì chuyện lính tráng. Rồi nó lên giọng dậy đời: Không uống rượu như máy, chửi thề như đĩ thì chỉ huy chó gì lính, thằng nhà quê. Và nó nheo mắt hỏi tôi: Mày có hiểu tao nói gì không. Tôi chưa kịp hiểu gì thì nó đã sàng sê là nó không cải lương. Chuyện sao kể vậy là nó đang đánh vật với chai bia, nó được mợ chủ quán nháy nhó lên lầu để ngắm “mây bay gió thổi”. Mặc dù “quan” mới ra trường, nhưng nó không đến nỗi chậm tiêu cho lắm, lại vừa mới hành quân về thế nên nó lóc cóc bò lên. Trong khi mợ yêu đời ca ong ỏng “Tưởng giếng sâu em nối sợi dây dài, ai ngờ giếng cạn em tiếc gòai sợi dây”, vừa xuống sáu câu xong, đang sửa sọan lâm chiến, bỗng nó nhìn thấy tấm ảnh treo trên tường, một hảo hán đang…tập tạ vai u thịt bắp như Hercule thời La Mã. Hỏi ai? Mới hay là chồng mợ chủ, trung sĩ nhẩy dù. Hỏi chồng đâu? Nó chớ phở, hóa ra đang ở trại Hòang Hoa Thám, chẳng xa cái quán ở Hóc Môn này cho lắm, bắt cái xe lam cũng khoảng mươi phút phù du vì vậy nó…dọt lẹ.

Nhưng không quên vật bất ly thân là: Cái thẻ bài.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1526616245-CaiTheBai.jpg
Hình minh họa

Lên Trung úy vẫn số con rệp, tiểu đoàn nó đụng trận ở Đông Hà. Thua banh càng, nó chạy chết bỏ, lết tới trước cửa nhà dân thì lăn đùng ra…chết giấc. Nó được chị chiến sĩ gái hương đồng cỏ nội vực vào nhà, tắm rửa, lại còn hiếu khách, nấu cháo gà cho nó bồi dưỡng. Nó kể, tắm táp cũng có chút đỉnh sào khô sào nước, qua chiếc áo ẩm ướt, bộ ngực trời cho nổi cộm như cái cù lao ông Đạo Dừa. Quất xong tô cháo. Nó sắp tính chuyện phải quấy với chị chiến sĩ giải phóng. Nhìn qua cửa sổ, nó tá hỏa tam tinh vì thấy một thằng huyện ủy hay K- trưởng gì đó, ngang hông là khẩu K 54 đang lò dò đi tới. Nó lại thêm một lần…”vượt thoát”. Tôi bật cười khan vì nghĩ chắc cung mệnh nó như có sao thiên di với tả phù hữu bật, nên chuyện lính tráng của nó, láo liên mắt trước mắt sau là chạy vắt giò lên cổ, sau này có thêm màn…cháo gà nữa.

Như đoán được ý nghĩ của tôi, nó lại lầu bầu: Sư mày, tao cũng bắt được cái bằng “Rừng núi sình lầy” chứ bộ. Rồi nó huyếch: Mưu sinh thoát hiểm tao là bậc thầy, nghề của tao mà mày, nhờ đó tao nắm đại đội trinh sát là vậy. Và vẫn chứng nào tật ấy: Mày có hiểu tao nói gì không. Nó cũng không quên nổ như tạc đạn:

Cọp ba đầu rằn mà mày.


***

Khôn nhà dại chợ, tôi lại dại dột hỏi chuyện mưu sinh thoát hiểm của nó mới chết một cửa tứ. Mà hình như từ nẫy đến giờ, nó rình rình mãi cái cơ hội trời cho một thưở, một cõi này.

Nhấc ly rượu lên, rất ư từ tốn và chẳng thể thiếu phần chậm rãi:

“…Tao không nhớ ngày nào trước 30 tháng Tư, ngay sau khi ông Thiệu từ chức. Liên đoàn 32 BĐQ của tao đang đóng quân ở quận Chân Thành, được lệnh rút về Lai Khê thế chỗ cho Sư Đoàn 5 lui về tỉnh Bình Dương. Tao nghĩ chỉ là cuộc chuyển quân bình thường, nhưng khi nghe được khẩu lệnh phá hủy mọi vũ khí nặng, thì tao hơi rét. Vì nhớ lại, tao sém được “Tổ quốc ghi ơn” trong cuộc triệt thóai thê thảm của Chiến Đoàn 5 BĐQ năm 71, trong trận Kratie ở Cao Miên. Ngay sau đó là lệnh mới, có thể phối hợp với Sư Đoàn 5 tử thủ Bình Dương. Mẹ kiếp, nghe hai chữ “tử thủ”, sao tao hãi quá thể.

Lủng củng lỉnh kỉnh đập với phá, tháo với gỡ từ sáng đến chiều, lại phải đợi một tiểu đòan nằm kích ở suối Tầu Ô về, tụi tao mới lục đục rời quận lỵ. Như có linh tính, hồi trưa trong lúc họp hành quân bỏ túi, dục tất bất đạt, tao đã nói tại sao không để đến sáng mai hãy rút, vì ban đêm là trận địa của tụi nó, bị phục kích là bỏ mạng sa trường. Sư tụi nó, đíu thằng nào chịu nghe. Y như rằng, trời mới sập tối, đi được gần mười cây số thì vướng mấy cái mô và tụi tao bị tụi nó dằn mặt ngay tức thì. Từ mấy cái dạt làng, phía rừng cao su Dầu Tiếng, tụi nó bắn ra sối xả, đòan quân xa ngừng lại trong rối lọan, thay vì bung ra lọan cào cào như …đàn vịt thì đã đỡ khổ. Tụi tao, quan cũng như lính, co cúm lại chịu trận, dính chùm sau mấy chiếc quân xa, đạn bác 82 ly rơi vãi tứ tung. Tao dùng ống nhòm thấy rõ như ban ngày cái đế súng sơn pháo, tụi nó đặt trong sân nhà dân, từ hướng bắc quốc lộ rót qua. Tụi nó nhởn nhơ thụt từng trái một, còn chỉ chỏ nữa mới tức điên người, tao mà còn cối 57 ly không giật đặt trên xe díp là tụi nó kể như thác”.

Nghe đến vịt…Ắt hẳn là mặt tôi đang đực ra như vịt đực vì uýnh nhau gì mà lạ vậy cà. Như đoán được ý tôi, nó bèn vén môi lên chửi đổng: “Sư mày thằng nhà quê, mày cứ tưởng gặp cọp ba đầu rằn là Việt Cộng dạt ra đứng ngó chơi gãi háng cho đỡ buồn chắc. Tao báo đời cho mày biết, ngòa trận địa bên nào nhiều tay súng hơn là chiếm thế thượng phong. Giản dị và dễ hiểu vậy thôi, thằng con”. Thấy mình ngồi đồng đã lâu, tôi hỏi cho phải phép: Mày gặp tụi chính quy ?

Nó lại ngóac mồm lên chửi thề: “Sư nó, đụng tụi Mặt Trận Giải Phóng mới đau. Gặp công trường 5, 7 hay 9 thì tao đâu có ngồi đây với mày. Dám leo lên…”

Nó khựng lại như suy nghĩ, giọng nhát gừng:

- Tao đã leo lên bàn thờ ngồi một lần rồi…

Tôi ngớ người ra, láo ngáo hỏi:

- Mày nói gì…Bàn thờ…?

Nó gật đầu: “Ừ, chuyện đó để tao kể sau cho mà nghe, thằng khỉ…”

“…Vì mấy cái mô lù lù như cái mả Đạm Tiên, tụi tao lại được lệnh tiêu hủy nốt mấy cái xe cơ giới còn lại, ngay cả GMC…Lệnh với lạc, đã bị cụt tay, nay còn cái chân cũng bị chặt nốt. Tao nói với thằng trung tá liên đòan trưởng, để tao dẫn đại đội trinh sát của tao lên quét dọn, là đường ta, ta cứ đi, dễ ợt, có mẹ gì đâu. Thằng gà chết chỉ cho tao hai mươi thằng em, vừa quay lưng đi thì cái thằng tối dạ này ra lệnh đốt ngay đòan quân xa, trong đó có xe díp của tao với lương khô đầy mì gói. Khốn nạn, cứ ngao ngáo nghe lệnh “đại bàng” sỉa xuống, gọi dạ bảo vâng, nói sao làm vậy, tự dưng vạch áo cho người xem lưng. Mẹ, chán gì đâu mấy bố văn phòng nhẩy bổ xuống ruộng cầm quân, cầm đến cái ống liên hợp hết “Dạ…Đại bàng” đến “Vâng…Đại bàng”. Vâng với dạ mãi bộ Việt Cộng nó tha tào sao.

Y trang, nhân bảo như thần bảo, lửa vừa bùng lên là trung liên RPD của tụi nó quạt như điên. Và tao biết, tụi nó cũng đã gần lắm rồi, có cả đại bác bắn thẳng 75 ly, hỏa tiễn 107, đại pháo 130 .Và tao nghĩ, cú này mà đụng tụi trung đòan tân lập Lộc Ninh, trang bị vũ khí cận đại ngập răng, thì từ chết đến bị thương, chắc thân bại danh liệt quá. Để tránh tên bay đạn lạc, tao dẫn lính lên phía trên quốc lộ, kệ thằng trung tá gà mờ đang hò hét ầm ĩ như gà mắc đẻ. Tao vừa tiến được mấy trăm thước thì nghe tiếng AK “chóc chóc” ròn rã. Nhào xuống lề cỏ tụi tao bắn trả, bắn hỏang bắn tiều vậy thôi, vì đâu biết tụi nó nấp ở đâu. Đến lọat đạn kế, qua ánh lửa của đoàn quân xa bị đốt cháy sáng rực như rừng. Tao thấy một chùm ba thằng đang đong đưa ở trên cây như…khỉ đeo cây, chí chát một hồi thì…Mẹ, hai thằng rụng cái độp như sung rụng. Với thằng còn lại. Tao sẽ tính chuyện phải quấy với nó nên tao tao ra hiệu cho mấy thằng em ngưng bắn để tao hành sử”.

Nó hóng mỏ: “Mày có hiểu tao nói gì không?”. Vẫn chưa kịp hiểu. Nó tồ tồ tiếp:

“….Thực tình lúc ấy, không hiểu tại sao cái đầu tao lại có ý nghĩ cùng hình ảnh những ngày còn bé, tay cầm khẩu súng cao su, con chim đang đậu trên cành…Thấy thằng xạ thủ súng cối đang cầm khẩu Carbine M2 xớ rớ gần đấy. Thế là….thế là tao luận về vũ khí căn bản nhập môn cho mày nghe ti nhá, thằng con: Súng trường để bắn xa như mày biết đấy, nhưng trong tất cả đạn đạo của súng không phải đường thẳng mà là…đường cong. Trừ khẩu Carbine M2 có đạn đạo thẳng.

Rồi, nhìn cái bản mặt nhà quê của mày tao biết mày đíu hiểu gì cả. Nghe cho kỹ nha: khẩu Garant M1 và M16 bắn xa nên đường bắn nó…cong. Khẩu Carbine M2 bắn ngắn nên đạn đạo nó…thẳng. Nói cho mày hay, những ngày ở sân bắn, tao bắn Carbine M2 như để. Cách 50 thước tao bắn cái loong bia bung lên từng phát một. Lon bia vưa rơi xuống đất chưa kịp thở, bụp thêm phát nữa là lại nhẩy dựng đứng lên. Mười phát như một. Như Dăng-gô vậy mày.

Vô tình thấy thằng lính đang xớ rớ cầm khẩu Carbine M2 đúng ý tao. Hỏi thì nó cho biết xách cối 57 ly ê càng, được lệnh xếp lớn bỏ lại vũ khí nặng, nó mượn đỡ nhân dân tự vệ khẩu Carbine cho…nhẹ hều. Tao quơ khẩu súng của nó. Trong vòng 50 thước. Nheo mắt nhắm một đạn đạo…”

- “Mày biết không?”. Nhấp ly rượu, nó nheo mắt nhìn tôi cười cười:

“…Đột nhiên từ trên chạc cây, tiếng nó vọng xuống, giọng giá sống miệt vườn pha giọng đặc Bắc kỳ rau muống: “Ông tha cho con...Ông tha cho con“. Tao đâm chưng hửng và bật cười nền đành buông súng. Nó leo xuống. Tao chưa biết tính gì với thằng du kíck chết tiệt này thì vừa đến trước mặt tao, nó nói: “Ông cho con ăn…cháo gà đi ông ”.

Tôi nhìn nó. Nó nhìn tôi lừ đừ: Sư mày nghĩ tao ”chế” hả. Mà mày biết đếch gì thằng nhà quê, chưa thấy quan tài chưa đổ lệ, chưa gần giữa cái sống và cái chết. Để thấy những ý tưởng lạ kỳ, khôi hài và bi thảm. Từ từ tao kể cho mà nghe…Khỉ thật, lâu ngày không gặp. Bây giờ thằng mũ nâu này ngầu và hung khiếp, lại còn hung hãn bốc nhằng, bầy đặt triết lý nhân sinh với nhân bản này nọ. Nó lại lều bều:

“…Sau tao mới ngộ ra: Nó nằm trong ban đặc công, vẫn rình mò tụi tao hay tụ họp ngòai quán và thấy tụi tao hay…ăn cháo gà nên nó…nhập tâm. Nay gặp lại cố nhân trong tiếng súng, cái bao tử nó đòi hỏi theo…quán tính vậy thôi. Nghĩ cũng may. May mà nó chưa quẳng vào chỗ tụi tao đàn đúm một trái lựu đạn ắt hẳn chạy trời không khỏi nắng là nhờ…bát cháo gà. “Ăn mày…” chẳng hẳn lúc nào cũng “…đánh đổ cầu ao” là thế đấy. Mày có hiểu tao nói gì không? Hiểu hay không kệ tía mày. Tao chẳng biết làm gì hơn với nó là tao trói nó vào gốc cây để nhìn tụi tao bắn nhau, để nó quên đi…cái đói của nó. Từ đó tao tìm ra một chân lý bất biến muôn đời là úynh cho lắm cũng vậy thôi, cả hai bên, quan cũng như lính đều…đói cả. Chả được cái nước mẹ gì sất”.

Triết lý củ khoai xong, nó lại lâm trận:

“…Quay lại đằng sau…khói lửa kinh thành rực một góc trời, pháo nổ ì ầm. Cờ đang dở cuộc, bạc chửa thâu canh, chắc phải tính quá. Tình hình lúc này coi mòi không xong, mà tương lai thì cũng chẳng sáng sủa gì cho lắm và tao nghĩ đến chuyện tam thập lục kế tẩu vi thượng sách. Thân thằng nào thằng ấy lo, tao cóc ngán thằng trung tá văn phòng bửu giám này, vì tao cứu nó mấy lần rồi. Cú chót nó bị thương bên kia cầu, đạn vẩy như chấu, tao vẫn tỉnh bơ bay qua vác nó về, đạn đuổi theo “chóc chóc”. Và tao nghĩ dọt đã, sau này gặp lại nó cứ giả ngu giả điếc như…lạc đường vào lịch sử là êm, trên răng dưới lựu đạn, mửng này tao làm hòai, mày có hiểu tao nói gì không....”

Giọng nó nghiêm và buồn:

- Và tao lùi lũi xách hai mươi tay súng “xuống núi” trong đêm. Để rồi mày sẽ thấy, “mảnh đời rách nát” sau của tao được quẹo ở “khúc quanh” đẹp như mơ này.

Tôi đang nghĩ : Vừa phải thôi chứ, làm gì mà chơi khó với nhau quá vậy, hết “mảnh đời…” đến “ khúc quanh…”, chữ nghĩa gì mà rắc rối, tối mù mù như đêm củ mật vậy…Nó lại báng bổ tiếp:

“..Tụi tao lầm lũi đi trong đêm về hướng đông nam. Vì theo kinh nghiệm “đào thóat” của tao, địch đang dồn quân về phía đông, thì hướng nam đương nhiên được bỏ ngỏ. Tao cứ nhắm hướng Lai Khê mà đi, khi nào thấy cái bồn nước là gặp bộ chỉ huy sư đòan 5. Đến rạng sáng thì tao dừng quân ở giữa một cánh đồng, xa xa là là một dạt làng. Không một tiếng gà gáy, không một tiếng chó sủa , tứ bề vắng ngắt, lúa non cao cả thước xanh rì, cao hơn cả đầu người. Tao thấy nằm ngủ rải rác ở đây chẳng ai thấy và đợi tối đến đi tiếp, chấm tọa độ trên bản đồ cũng chẳng còn bao xa, ăn uống qua loa, tao yên chí làm một giấc. Tỉnh dậy thì cũng quá trưa và thấy thiếu ba, bốn thằng con. Hỏi ra thì tụi nó dắt díu nhau vào xóm làng đằng kia để kiếm chút cháo. Giữa cái êm ả, chỉ có tiếng sào sạc của cánh lúa. Bỗng tao nghe thấy tiếng gào, tiếng hét từ dạt làng vọng lại. Lúc dài rên rỉ, lúc tắc nghẹn…”

Cúi đầu nhấp ly rượu, nó hỏi tôi, giọng ngậm ngùi đâu đâu:

- Có bao giờ mày nghe tiếng tru ằng ặc của một người bị cắt cổ chưa?

Tôi lạnh người, không trả lời…Âm hưởng của nó trầm trầm:

- Không một tiếng súng nổ, im ắng, tao biết ngay là đám con tao đang bị tụi nó làm thịt. Từng thằng. Từng đứa. Bằng mã tấu. Bằng dao rừng…

“…Tao biết bị động nên âm thầm dọn dẹp, gom mấy thằng còn lại đi về hướng khác. Vừa lầm lũi cúi đầu bước, tao vừa giận mấy thằng con vừa ứa nước mắt…

Cho đến sẩm tối tụi tao táp vào một con rạch cuối bãi, sát một cái cầu gỗ lửng lơ giữa ánh trăng cuối tháng. Nhưng tao vẫn nhìn thấy mờ mờ mấy thằng du kích lóng ngóng đứng trên cầu, thỉnh thỏang bắn bâng quơ xuống mấy đám lục bình, đang bồng bềnh nổi trôi trên mặt nước. Trong cái tĩnh mịch, ắng lặng đến són đái này, đang nằm sát bên tao, đột nhiên gã thượng sĩ già chết bầm tuổi bằng bố tao, bung ra một tràng ho rũ rượi. Tao sợ muốn thọt dái lên cổ, vội bịt miệng gã lại, nhưng gã húng hắng như như người bị lên cơn suyễn. Như John Wayne, tao rút cái lưỡi lê ra cái rẹc và kê ngay vào cổ để hù gã: “Ông không câm, tôi cho ông …đi”.

Tôi hồi hộp chết người, nó nhếch mép “Mày biết không? Tao lỡ làm người hùng ci-né, không lẽ lại nhét cái lưỡi lê vào bao cũng chuế, bỗng dưng gã buông một câu làm tao cũng muốn bật cười, gã hổn hển hỏi tao: “Làm sao hết ho hả ông thầy ?”.

“…Lõm bõm đến sáng hôm sau thì tụi tao lạ vào một cánh đồng, tứ bề ngập nước. Ngơ ngáo chưa biết tính sao, thằng nào thằng nấy mờ người, lờ đờ như cá gặp nắng. Vất vưởng đi thêm một khúc nữa, gặp mấy cồn đất lấp sấp những nước là nước, nằm lăn quay ra nhưng cái lưng ướt nhẹp, loay hoay mãi không ngủ nghê gì được. Đứng dậy nhìn vẩn vơ, bỗng tao thấy một chiếc thuyền câu đi lại. Trên có một lão nông dân ngồi thu lu và một thằng bé vừa chèo vừa nhai nhóp nhép gì đó. Thuyền bơi nhẹ lướt ngang qua tao, cũng bình thường thôi.

Cả giờ sau, cái đầu củ chuối của tao mới chịu ngọ nguậy…Như có giác quan thứ sáu, tao chột dạ và thuỗn mặt ra ngẫm nghĩ. Lão nông dân này như cố tình, tảng lờ không nhìn thấy tao. Trong khi tao đứng như trời chồng giữa trời và nước, con cái tao thì lổn nhổn, đứa ngồi bó gối, đứa nằm la liệt như chết rồi. Cớ sao mắt lão cứ nhìn thẳng và ngó lơ. Ba giây sau, tao mới ngã ngửa người ra. “Bỏ mẹ…”

Tao hối đàn em sửa sọan “zulu”, nhưng không còn kịp nữa, tao hồn vía lên mây, ngực đánh trống ngũ liên. Sư chúng nó, người ngợm ở cái lỗ nẻ nào chui ra mà tụi nó đông quá thể, đông như đỉa đói. Từ đằng xa, cả hơn chục chiếc thuyền kéo tới, mỗi chiếc năm, sáu thằng súng ốc trang bị ngập đầu. Gần hơn một chút nữa, hai khẩu RPD đen thui đặt ngạo nghễ trên mui, như hai ông thần mặt sắt đen sì, dương mắt nhe răng, lầm lì cầm thanh xà mâu giữ đền. Đứng trên đầu mũi thuyền, một thằng cầm loa hét: Hàng sống chống chết…Hàng sống chống chết…”.

Tôi ngứa mồm, hỏi một câu ngớ ngẩn: Dọt…Nghề của mày mà!

Nó hơi cáu: Mày ngu như lợn. Ruộng nước mênh mông, mày bảo tao chạy đi đâu? Rót thêm chút rượu, nó kể lể giọng nghiêm và buồn:

“…Tao cho lính dàn hàng ngang. Vừa xong thì tụi nó ập lên như đĩ, la lối vang trời: “Hàng sống chống chết…Hàng sống chống chết”. Tiếng hò hét, tiếng đạn “chíu, chíu” sát mang tai, nghe rợn tóc gáy, RPD khạc đạn 7.6 ly thì còn đíu gì là người với ngợm nữa. Sau nghĩ lại, tụi tao thua, một phần vì quân số như tao vừa nói ở trên. Một phần có mấy thằng con mất tinh thần, dại dột lăn qua nằm sau mấy cồn đất, đạn hai khẩu trung liên bắn chéo rơi lỗ chỗ, đất cát bay tứ tung. Đồng thời tụi nó đạp nước nhào tới, nước bắn tung tóe, vuốt mặt không kịp…không thấy trời trăng mây nước gì nữa, thì còn đứa nào yểm trợ cho đứa nào”.

Đặt cái ly xuống, nó ngần ngừ: “Lần đầu tiên trong đời, tụi tao đánh cận chiến! “.

Và giọng nó trầm trầm:

“….Lâu lắm rồi tao mới thấy ớn lạnh của khẩu “Garant” gắn lưỡi lê…Sư chúng nó, giờ phút thứ hai mươi lăm này chúng còn chơi đồ cổ mới chết người, khẩu M-1 nặng bốn, năm kí lô, nòng dài ngoằng, cái bá súng gỗ to bự sự, nhìn phát khiếp. Lưỡi lê đâm sồn sột vào người như đâm vào thân chuối, máu phọt ra có vòi... Tiếng vũ khí chạm nhau..Tiếng nước văng tung tóe… Tiếng vật nhau hùynh hụych…”

Nó ngậm nhấm, như không có tôi ngồi đấy:

- Tao nghe thấy cả tiếng lưỡi lê phập lút cán vào da thịt, hòa lẫn với tiếng rú thất thanh, rên la. Nghe rợn người, không chữ nghĩa nào diễn tả nổi. Tôi không biết nói sao, hỏi cho có chuyện: “Mày bị…”

“…Không…Trong lúc hỗn quân hỗn quan, có thằng em bị đánh văng bật vào người tao. Tao cờ quạng ngã chúi xuống sát mặt đất, bấy giờ tao mới thấy máu loang và lan rộng trên mặt nước. Cũng vừa lúc tao nhìn thấy bàn tay của thằng em, tay nắm lấy ống quần tao, đôi mắt trắng dã, như tức tưởi trối chăn, như oán hờn trách móc Mặc dù đang bấn lọan, như có cái gì chắn ngang cổ họng, tao muốn ói, muốn ọe, muốn khóc. Cũng vừa lúc gã thượng sĩ già, mở chốt trái lựu đạn, dúi vào tay tao và cả hai cắm đầu chạy thục mạng, bất kể phương hướng…

Lấy ngày làm đêm, lấy đêm làm ngày. Cuối cùng thì hai thằng tao lạc vào một rặng cây dầy đặc khá rộng, như một cánh rừng nhỏ, mặc dù tối khuya, cũng không đi nổi nữa. Hai đứa chui vào cái bụi dầy nằm vật ra đấy và lăn ra ngủ như chết, gần như bất tỉnh nhân sự…”

- “Có kể cũng không ai tin…”. Nó lắc đầu:

“…Như trong phim ci-né nào đó, tao không nhớ: Nửa đêm hôm ấy, tao đang mơ mơ màng màng thì có thằng của nợ nào đang bắc cầu vồng đái tồ tồ cả vũng, bụi nước đái rơi lấm tấm ngay sát mặt tao. Sư nó, không hiểu nó ăn uống cái đíu gì mà mùi nước đái khai nồng nặc, tao muốn cho nó một phát nhưng sợ bứt dây động rừng. Thấy không xong, đợi thằng du kích biến một lúc lâu. Hai thằng tao lồm cồm dậy đi tiếp, cho đến lúc mặt trời vừa mới nhú lên, cứ hướng đông mà tiến, cho đến khi thấy nhà dân và quốc lộ 13 trước mặt. Trông thì gần, gần tới nơi thì…

Thì để rồi hỡi ơi, khuất sau căn nhà ngay bìa đường, là hai thằng mặc quần xà lỏn tay lăm lăm khẩu AK, bên cạnh là chiếc xe díp, hai đứa đứng gác chiếc xe của phe ta như gác mả tổ nhà chúng nó. Trong khi tao có mỗi khẩu Colt 45, gã thượng sĩ già thủ cây M16 còn vài viên đạn. Gã bạn đời tao bò tới, men tới, lẽ dĩ nhiên không một tiếng động. Còn tao tụt hậu, khư khư ôm khẩu súng lục, sửa sọan…chém vè. Thì như tao đã kể lể, nhìn thấy cái xe díp tao lại nhớ đến mấy gói mì ăn liền. Tao lại thấy…đói. Thì “bụp”. Thêm một tiếng “bụp” nữa. Mẹ, chỉ hai tiếng “bụp, bụp” thân thương ấy thôi. Mắt tao mở thao láo nhìn hai cái thân người đổ xuống, như hai thằng say rượu. Chưa bao giờ gã thương sĩ già của tao “chặt” đẹp đến như vậy, bắn đíu gì như bắn bia ấy mới cha đời…Thóat cú này, chắc như bắp, tao phải đưa gã đến quán mợ Tư Ngựa, vợ thằng trung sĩ nhẩy dù, nhậu một trận guắc cần câu cho hết…cơn suyễn. Rồi đến đâu thì đến…hồn ai nấy giữ”.

“Súp-păng” quá mạng. Hồi hộp cứ như “xi-nê-ma” và tôi hỏi nó:

- Thế là mày thóat?

Nó hít một hơi thuốc rồi nhấm nhẳng:

“…Thoát đíu gì…Buổi sáng đầy nắng ấm, vừa vào đến cửa ngõ thị trấn, tao vừa đang đảo mắt đi tìm cái bồn nước của thị trấn Lai Khê. Chó dại từng mùa, người dại quanh năm vì tao vừa nhận ra mình đang…dại dột thật, đang phạm một lỗi lầm chết người. Ấy là: Gã thượng sĩ lái xe díp. Tao đứng trên xe như đang duyệt binh và tay cầm khẩu AK. Thế là “ầm” một tiếng long trời lở đất, viên đạn B40 thổi ngay vào xe và tao bung lên trời cũng cỡ cả một, hai thước và rớt bịch xuống đất…nằm thẳng cẳng”.

- Mày biết không, Sư Đòan 5 rút đi từ đời tám hoánh nào rồi. Bố ai mà biết!

“…Không biết bao lâu thì tao tỉnh dậy, nhưng vẫn nằm quay đơ. Gọi là tỉnh dậy thì không đúng lắm, chỉ nửa mơ nửa tỉnh biết mình nằm đấy và trên mặt được phủ mấy tờ l chuối. Mắt tao như bị bầm sưng nên chỉ mở he hé, nhưng vẫn thấy lóa tia nắng sáng ban mai, lọt qua vết rách mảng lá. Chân tay cứng ngắc, không cục cựa được. Nhưng tao vẫn có cảm giác hình như bị thương ở đâu đó. Mấy con ruồi, con nhặng vo ve quanh vết thương, bò bò, liếm láp, vừa nhột nhạt, vừa xót tê tê, hình như ở dưới ống chân quyển thì phải. Để rồi tao tái người đi, khi ngửi thấy mùi thơm của ba nén nhang cắm ngay sát đầu tao. Tao liên tưởng ngay đến bát cơm với quả trứng gà luộc, để bỗng dưng thấy bụng nôn nao cồn cào, vì mấy ngày nay chỉ lo chạy, chưa có gì trong bụng. Tao suýt bật cười nhưng cười không nổi vì xém nữa mình là…con ma đói.

Tỉnh dậy lần thứ hai, và lơ mơ nghe có tiếng ai đang quỳ bên tao đang lâm râm đọc kinh. Tao lờ mờ thấy bóng người ấy, chỉ ẩn hiện một mầu đen và trắng hòa nhập. Rồi lom khom lôi cái ví trong túi quần tao ra để sang một bên và lui cui dở tờ lá chuối, rồi tất cả với những động tác thật nhẹ nhàng và cũng thật khoan thai cúi xuống tháo cái thẻ bài. Qua đôi bàn tay, có một chút ấm êm lướt qua bên má, tao ngửi thấy mùi gì khác lạ, không phải là mùi nhang mà thoang thoảng mùi hoa nhài.

Một lát sau người ấy đứng dậy, qua khe lá, qua ánh nắng chói chang hắt vào của mặt trời. Tao chỉ thấy lung linh mờ nhân ảo đằng sau lưng với một dáng đi nghiêng ngả cùng hai mầu trắng, đen nhạt nhòa trên nẻo xa, đường vắng…”.

Nó đứng dậy lấy thêm ít đá lạnh, bỏ vào cái ly lắc nhẹ, rồi tiếp:

“…Tao chỉ bị thương nhẹ hều, chắc bị kích ngất đi vì tiếng nổ. Nên sau đó, tụi nó nhúm tao làm tù binh, đưa tao qua tận Snoul bên kia biên giới, vùng căn cứ chiến lược của “Mặt trận giải phóng miền Nam”. Mấy tháng sau mới đưa tao về, tụi nó tống tiễn tao thẳng vào trại cải tạo. Hơn một năm sau, tao mới liên lạc được với nhà.

Nhà tao đi thăm và kể chuyện. Chuyện kể sau này cứ như truyện “Nấm Mồ Hoang” của Jean Fougère”.

“Mồ mả gì mà nghe khiếp quá vậy mày?”. Tôi vừa buột miệng ra hỏi là đã thấy hố. Như ếch vồ hoa mướp, như lúc này nó chỉ đợi có vậy:

“…Jean Fougère được giải Courteline năm 1957 về truyện ngắn của hàn lâm viện Pháp. Viết về hai vợ chồng đi hưởng tuần trăng mật ở Châteaudun, miền Normandie. Hai người bị hư xe ngay tại thị trấn Chartres và ngồi đợi ở lữ quán Grand Monarque. Mãi đến tận chiều, ngồi đợi mà xe vẫn chưa sửa xong. Cô vợ mới cưới thấy một nữ tu còn trẻ ở tu viện bên cạnh, tay cầm giỏ hoa băng qua nghĩa trang bên kia đường. Vì ngồi đã lâu nên cô đi theo cho khuây khỏa, thấy người nữ tu đặt bó hoa lên một nấm mồ gần như bị bỏ hoang. Tò mò cô đọc dòng chữ khắc trên tảng đá thô, nằm sô lệch trên nấm mộ:

- “Thiếu úy Robert Fontant đã hy sinh tại đây để giải phóng thị trấn Chatres”.

Cô lặng người đi và chỉ mình cô hiểu: Chàng sĩ quan này là người yêu của cô, bị mất tích mới đây năm 54 của Đệ Nhị Thế Chiến”.

Mân mê cái ly, gịong nó rù rì như tụng kinh:

“…Ấy đấy, chuyện người nữ tu và nấm mồ hoang với người đi tìm kiếm như vận vào tao. Sau ngày sập tiệm, gia đình tao dọ hỏi khắp nơi nhưng chẳng có tin tức gì, nên nghĩ tao tử trận mất xác ở tận đâu đâu. Một hôm, có một nữ tu còn trẻ, đến gõ cửa và báo tin tao được “Chúa gọi” và đã “về chầu nước Chúa” ngày đó tháng đó và để lại giấy tờ tùy thân của tao. Cả nhà bò lê bò càng ra khóc lóc như mưa như gió, còn sùi bọt mép cầu khẩn có sống khôn chết thiêng thì về phù hộ cho gia đình. Thế là tao được rửa chân nhẩy tót lên bàn thờ ngồi chễm chệ như ông phỗng đá, đâu có ngo ngoe gì được để phù với phép. Chỉ tội nghiệp ông bà cụ tao, cơm nước nhang đèn, sì sụp khấn vái quá thể. Nhưng tao đâu dám hó hé, lỡ dại mồm dại miệng “lầu bầu” rồi hai cụ nghe được…lăn đùng ra tay bắt chuồn chuồn thì khốn!

Bà cụ tao Công giáo nhưng lại tin bói tóan. Tuần sau bà mò đến cô Tư Ma Gà ở dưới Hàng Xanh xem một quẻ, quẻ dậy tao vẫn còn sống nhăn răng và sẽ “đòan tụ” một ngày không xa. Gia đình tao bán tín bán nghi, bàn nhau đi xuống dòng tu Lai Khê của tòa giám mục Pháp cũ, nhờ người nữ tu đi tìm mộ tao. Đến nơi dòng tu đã bị tụi nó “phẹc-mê-bu-tích”, nên tất cả đều phải cởi áo nhà dòng. Riêng vị ân nhân của gia đình tao nghe đâu buôn thúng bán mẹt ở vùng Hóc Môn rất ư là nghèo túng nhưng hai cụ kiếm mãi không ra. Nhớ lại lời kể của người nữ tu, ông bà cụ tao trở ra đầu cửa ngõ của thị trấn và hỏi mấy nhà quanh đấy và họ chỉ đến nấm mộ chôn tập thể ngay sát quốc lộ 13. Sau này theo tao dò la thì trong nấm mộ ấy có thân xác gã thượng già của tao. Để rồi chẳng biết làm sao hơn, ông bà cụ tao đang loay hoay cầm bó nhang, nhìn quanh quất thì có bà hàng nước bên kia ven đường tới gặp và kể lể: Người nũ tu ấy trước đây vẫn thường ghé thăm mộ, lần nào cũng có một chậu hoa. Bị cởi áo nhà dòng thì để lại chuỗi thánh giá. Bà hàng nước sợ ai lấy mất nên giữ dùm, nhưng bà cũng chẳng biết đưa cho ai. Bà cụ tao Công giáo thuần thành, sợ phải tội nên cụ mang về.

Ra khỏi trại cải tạo, về đến nhà hình ảnh “lộng kiếng” tao đã được …liệng cống đi từ khuya. Trên bàn thờ, tao vẫn thấy còn cái ví, chuỗi thánh giá.

Nhưng không có…cái thẻ bài.

Tôi nghĩ thầm “Gì nữa với cái thẻ bài”. Như tiếc hùi hụi và nó phân bua:

“…Mày biết không, đi lính thằng nào cũng mắc một cái tật, không thế này thì thế kia, thằng đeo chân thỏ, thằng đeo nanh lợn rừng. Riêng tao thì đeo tấm thẻ bài nó quen rồi, không có thì ngứa ngáy, khó chịu, như thiêu thiếu một cái gì. Thấy chuỗi hạt tiện tay tao đeo vào cổ thế thôi. Như mày biết đấy: Tao đạo gốc, vì tao chưa ở cái tuổi gần đất xa trời mon men đến làm quen với Chúa để cầu cạnh một chỗ trên thiên đàng. Nói dại chứ gặp ngày đẹp trời lớ quớ leo lên cõi trên gặp ông thánh Phê-rô thì ông ấy cũng cấm cửa vì tội lỗi ngặp đầu. Rửa tội chẳng hết mà…tắm cũng không xong. Vì mấy em đầy ra đấy, theo đuôi cũng hết hai ngày cuối tuần nên còn thi giờ đâu dành cho Chúa. Nhưng vì bà cụ cằn nhằn mãi, tao đeo chuỗi hạt cho cụ vui vậy thôi, sau này tao mới thấy như “Chúa đã định…”. Khi không lại đâm đầu chui vào…cái thòng lọng”.

Lằng nhằng quá thể, ấy vậy mà vẫn chứng nào tật ấy. Nó lại câu giờ vào thăm bác Hồ một phùa nữa cho phải đạo. Về lại để “tọa đàm”, nó khật khừ với câu chuyện đang hương tàn khói lạnh và nó phe phẩy:

“…Lại chuyện bói toán nữa, kể cho mày nghe khùng luôn, thằng con. Nằm không trong trại cải tạo đuổi ruồi búng ghét mãi cũng khô người. Tao bèn nhờ vả một khứa bạn tù bấm cho một quả bói cho đời lên hương, cho có tí ti le lói cuối đường hầm. Bố khỉ, khứa hươu vượn thế này mới cha đời, khứa dậy số tao thân cư thê và được vợ nuôi báo cô. Ít nữa có quý nhân phù trợ nên mặc sức thong dong vì ngày về cũng chẳng xa là mấy. Thế nên đíu dấu gì mày, tao cũng có ý đợi…Mẹ, quý nhân đâu chẳng thấy, lớ quớ thế nào tao…đợi một quả chín năm chẵn trong tù mới điên người. Và thêm một lần, sau quả B40, tao nghĩ mình…dại dột thật, vì đi nghe thằng bói rùa. Bản mệnh khứa: Vào đây khứa không hay. Ra tù khứa chẳng biết. Huống chi cái thân…tao.

Hồi cố quận, trên răng dưới dế, tao múa bút để nín thở qua sông, vẽ riết quen tay nên bắt được tí danh còm. Chẳng hẳn là vua biết mặt chúa biết tên, nhưng một ngày cũng có người giới thiệu qua Hóc Môn trang trí một phòng họp một xưởng dệt mới mở. Trời xanh mây tím nắng vàng, qua cái cửa sắt là con đường lát sỏi, tao lững thững thả rong. Để rồi, không hẹn mà gặp, trước mặt tao là một tà áo lụa phất phơ trước gió qua một dáng đi thật thanh thản, một thứ rất hiếm hoi trong khỏang đất trời sô bụi này. Nhưng tao thấy quen quen, chẳng nhớ gặp ở đâu. Nghĩ mãi mới ra mảnh áo lụa ấy có điểm dăm đóa hoa huệ đầy rẫy trong nhà thờ. Chưa hết chuyện, tao lại lãng đãng thả hồn về “giữa đám đông, trong đám đông”, rồi “em có nhớ anh không” của những ngày bát phố Lê Lợi, Tự Do. Bỗng dưng tao chu mỏ…húyt sáo bâng quơ. Người đẹp quay lại, ngúyt tao một cái đến…tái tê”.

- “Rồi sao nữa”. Tôi hỏi:

“…Ông sao trên trời thì có…Tao đang ngồi đợi và ngộp thở vì “Lạy Chúa tôi” hình của Đức Mẹ và Chúa sao mà nhiều quá đỗi, chỗ đâu để treo tranh. Đang ngó tới ngó lui, tao quay lại thì ngã ngửa người ra vì người đẹp bước vào lại là…cô chủ hãng. Khi không chỉ vì cái húyt sáo, để bây giờ lấn cấn với hạt sạn vướng mắc trong đôi giầy. Vào chuyện, tao hươu vượn về trường phái ấn tượng, siêu thực qua dao, cọ và mầu sắc. Như đụng vào cái nút máy hát cũ rỉ, tao nói như…“hát”. Tao lan man về nghệ sĩ gắn liền với sáng tạo, với nhân sinh vị nghệ thuật này kia. Với yên sĩ phi lý thuần qua tà áo tung bay cùng gió và mây, tao nói với người đẹp, tao đang nhen nhúm…một sáng tác để đời cho mai hậu.

Vì bức tranh khổ lớn nên một tháng mới hòan tất. Như một tuyệt tác, tao vẽ trong mộng và mơ, tao chưa bao giờ đam mê cọ và dao đến như vậy, đường nét, mầu sắc như quấn qúyt và quyện vào nhau, từng mảng từng lớp, trải dầy trên khung vải. Tất cả những cảm hứng này, tao gửi gấm qua ánh mắt, nụ cuời đầy thánh thiện của cô ta. Nhưng cũng chỉ luyến lưu, mong với nhớ vậy thôi, để rồi tao chẳng dám nghĩ gì xa hơn. Nhưng hãng xưởng không phải là nơi chốn cho nghệ thuật, cho cái đẹp. Chẳng nói mày cũng thông, mỗi tác phẩm như có định mệnh của riêng nó, nếu được đặt đúng chỗ. Như dưới mái ấm gia đình căn nhà chẳng hạn. Rồi bức tranh cũng được mang về nhà cô ấy. Trong khi đứng ngắm tác phẩm thật hài hòa, trong tao chợt nao nao bứt rứt thấy thiếu thốn một cái gì, như một tách trà chẳng hạn.

Thế là tao đi lục lọi, mò mẫm tìm cái ấm để pha trà.

Ngay lúc ấy, qua khe hở của cánh tủ trà, dường như có bóng người đi lại. Như buổi sáng hôm nào, qua vết rách của tầu lá chuối, tao bắt gặp những tia nắng lung linh, hòa nhập cùng hai mầu đen trắng, và thoang thoảng đâu đầy có mùi hoa nhài. Nhưng tất cả những hình bóng và mùi hương ấy chỉ thoáng qua như áng mây trôi mà thôi. Vì lúc ấy tao đang loay hoay tìm thêm cái tao muốn tìm thì…hộp trà ướp hoa nhài có ngay đây. Ắt hẳn là tao bị tự kỷ ám thị nên chẳng gửi gió cho mây ngàn bay gì thêm. Thêm nữa, cũng có thể tao hoa mắt vì ánh nắng hắt qua khung cửa sổ. Thế nhưng cũng nhờ vệt nắng heo hắt này…thì.. ngay góc tủ, tao lặng người đến thẫn thờ, vì đập chát vào mặt tao là một vật rất gần gũi và cũng rất thân quen. Một vật đã vắng mặt lâu ngày nhưng vẫn vấn vương mong có ngày gặp lại như mong gặp lại người tình cũ. Tình cũ không hẹn mà tới khiến tao ngẩn ngơ cả một lúc lâu, vừa suy nghĩ mông lung vừa mân mê cái vật làm bằng thiếc mỏng …mang tên tao.

Đó là: Tấm thẻ bài.


***

Chó ngáp phải ruồi thế nào chẳng biết nữa, thằng bạn tù trong trại cải tạo bói rùa lạng quạng trúng phóc mới lạ.. Cũng chẳng lạ gì, từ dạo ấy cuối tuần nào tao cũng bám đuôi theo “thân cư thê” của tao đi lễ nhà thờ, cũng quỳ gối chí chát nát người, cũng đấm ngực bình bịch mới …đau. Nói thật với mày nói dối phải tội chứ, chứ tao hiếm khi vác xác hẻo lánh tới sân nhà thờ, nhà chùa…Có Chúa, có Phật ngự ở cõi trên hay không? Tao trèo không lên nên với không tới. Với nhang đèn hương khói, tao đã leo lên bàn thờ ngồi một lần rồi, rõ ra tao hiểu ra cái nhẽ của trời đất với gần đất xa trời là như thế này: Mặc dù ông trời ở xa, nhưng ông đã sắp sẵn cho mỗi người một cái số. Như số vợ chồng tao bây giờ chẳng hạn…

Như định mệnh đã an bài.

Phi Ngọc Hùng
nguồn: http://motgoctroi.com/StLichsu/LSCandai/VNCH/QLVNCH/Vietvelinh/Caithebai.htm

BachMa
06-19-2018, 04:20 AM
Đời Lính
NĐC

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1529381435-DoiLinh_01.jpg
Hình minh họa
LTG: Bài viết này của tôi sao buồn quá, nhưng biết làm sao được, bởi vì đó là sự thật, cho tôi viết một lần này thôi, như nhớ về một kỷ niệm, một kỷ niệm rưng rưng.


* * *

Anh ạ! tháng tư mềm nắng lụa,
Hoa táo hoa lê nở trắng vườn,
Quê nhà thăm thẳm sau trùng núi,
Em mở lòng xem lại vết thương,
Anh ạ! tháng tư sương mỏng lắm,
Sao em nhìn mãi chẳng thấy quê,
Hay sương thành lệ tra vào mắt,
Mờ khuất trong em mọi nẻo về.

Sau khi đọc bài thơ này của Nhà thơ Trần Mộng Tú, trong lòng tôi chợt cảm thấy bàng hoàng thảng thốt. Đã 37 tháng tư trôi qua, bao nhiêu nước đã chảy qua cầu, vết thương trong lòng tôi vẫn còn âm ỉ, tôi nghĩ nó sẽ chẳng bao giờ lành cho tới ngày tôi nhắm mắt. Ba mươi bảy năm về trước, đám sĩ quan trẻ chúng tôi chỉ mới ngoài 20, đến nay đầu đã lớm chớm bạc, “cùng một lứa bên trời lận đận”, sau cơn Đại hồng thủy tháng tư năm 75, lũ chúng tôi tản mác khắp bốn phương trời:

“Thằng thì đang còng lưng trong các Shop may tại Santa Ana Cali, thằng đang làm bồi bàn ở Paris, thằng đang chăn cừu ở New Zealand, thằng thì đang cắt cỏ ở Texas, và cũng có thằng đang đạp xích lô ở Sài gòn”(trích). Mỗi năm đến ngày 30-4, tất cả chúng tôi đều bàng hoàng ngơ ngác như kẻ mất hồn. Không còn ai trách cứ chúng tôi hết, chỉ có chúng tôi tự trách mình, chúng tôi đã làm gì cho Tổ quốc?.

Trước năm 75, tôi là người lính trong hàng ngũ Quân đội Miền Nam, với cấp bậc thấp nhất là Thiếu Úy, với chức vụ nhỏ nhất là Trung đội trưởng, ngoài số lương đủ sống mà tôi lãnh hàng tháng, tôi không hề nhận được bất cứ bổng lộc nào từ phía “triều đình”.

Tôi chỉ là một người lính vô danh tầm thường như trăm ngàn người lính khác, ngoài cuộc sống cực kỳ gian khổ và hiểm nguy, chúng tôi không có gì hết, kể cả hạnh phúc riêng tư của chính mình.

Cho nên, tôi không hề có một mơ tưởng nào về một hào quang của ngày tháng cũ, và tôi cũng không muốn tiếp tục một hành trình “Việt Nam Cộng Hòa kéo dài”. Tôi viết như để thắp hương tưởng niệm, những đồng đội của tôi đã nằm xuống cho tôi được sống, rộng lớn hơn hàng trăm ngàn người đã chết để chúng ta có cuộc sống ngày hôm nay tại hải ngoại này.

Mùa Hè năm 1972, người Miền Nam thời ấy gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa, mượn cái tên từ Tập bút ký chiến trường rất nổi tiếng của Phan Nhật Nam . Mùa Hè đỏ lửa năm 72 là năm Quân đội của hai miền Nam-Bắc dốc sức đánh một trận chiến sinh tử, bên nào kiệt lực bên đó sẽ bại vong. Niên khóa năm 71-72, tôi là Sinh viên Ban Sử Địa thuộc Đại Học Văn Khoa Saigon, năm đó tôi đi học trong một tâm trạng bồn chồn không sao tả được, và tôi cũng không còn tâm trí đâu để mà học hành, tin tức chiến sự từ các mặt trận gởi về dồn dập, lúc đó bạn bè tôi lớp chết lớp bị thương, lũ lượt kéo nhau về.

Sau này ngẫm nghĩ lại,tôi thấy miền Nam lúc đó không còn sinh khí nữa, những bài hát phản chiến của Trịnh Công Sơn được hỗ trợ bằng tiếng hát ma quái Khánh Ly, đã làm băng hoại chán chường cả một thế hệ thanh niên thời đó. Ngoài ra, còn khá nhiều những bài ca những tiếng hát đã đâm thấu lòng người “anh trở về trên đôi nạng gỗ, anh trở về bại tướng cụt chân, anh trở về hòm gỗ cài hoa, trên trực thăng sơn màu tang trắng…” Tại sao trong một đất nước đang có chiến tranh mà có những điều kỳ lạ này xuất hiện. Điềm Trời báo trước chăng?.

Chính quyền Miền Nam sau đó ra lịnh tổng động viên, tất cả các nam sinh viên đều phải nhập ngũ, trừ những người xuất sắc. Lúc đó những gia đình có tiền của, họ chạy đôn chạy đáo lo cho con cái của họ chui vào chỗ này chui vào chỗ nọ, miễn sao khỏi ra mặt trận. Đối với họ,chuyện ngoài mặt trận là chuyện của ai khác, không liên quan gì đến gia đình họ Hằng ngày họ xem TV thấy cảnh khói lửa ngập trời, người chết hàng hàng lớp lớp, họ coi đó là chuyện ở đâu đâu, chẳng ăn nhập gì tới họ.

Còn tôi thì ngược lại, tôi muốn ra mặt trận càng sớm càng tốt, hình như định mạng đã an bài cho tôi. Trong bài “Đại bác ru đêm” của Trinh Công Sơn có một câu rất “độc”, “đại bác đêm đêm dội về Thành phố, người phu quét đường dừng chổi đứng nghe”, tôi chính là người phu quét đường đó. Tiếng đại bác đã làm lòng dạ tôi nôn nao, tôi muốn ra mặt trận để chia lửa với những người bạn cùng thời với tôi, để chịu chung khổ nạn với đồng bào tôi, trong những ngày tháng điêu linh nhất của đất nước. Tiếng đại bác đã ầm ĩ trong lòng tôi, kéo dài mãi từ ngày đó cho tới tận bây giờ.

Thế rồi cũng đến phiên tôi nhập ngũ, giã từ Trường Văn Khoa với Đại Giảng Đường 2 bát ngát, giã từ những bài giảng rất lôi cuốn của Linh Mục Thanh Lãng, của Giáo Sư Nguyễn Thế Anh, thôi nhé giã từ hết những ước vọng của thời mới lớn. Tôi trình diện Khóa 4/72 tại Trường Bộ Binh Thủ Đức, năm đó quân trường Thủ Đức chứa không xuể các thanh niên nhập ngũ nên đã đưa một số ra thụ huấn ngoài Trường Đồng Đế Nha Trang, toàn bộ tinh hoa của Miền Nam được tập trung vào hai quân trường này, Miền Nam đã vét cạn tài nguyên nhân lực để đưa vào cuộc chiến.

Vào quân trường, Khóa 4/72 toàn là các sinh viên các trường ĐH tụ họp về đây, chúng tôi làng xoàng tuổi nhau nên đùa vui như Tết, tuổi trẻ mà, lúc nào cũng vui cũng phơi phới yêu đời, chuyện ngày mai đã có Trời tính. Thời gian 6 tháng quân trường gian khổ sao kể xiết, bởi vì sự huấn luyện nhằm biến đổi một con người dân sự thành một người lính thực thụ là điều không đơn giản.

Không phải chỉ có các kiến thức về quân sự, mà còn tạo dựng một cơ thể gang thép, rèn luyện gian khổ bất kể ngày đêm, bất kể nắng nóng nung người hay mưa dầm bão táp. Trong 5 tuần lễ đầu tiên vào trường, gọi là giai đoạn “huấn nhục”, đây là giai đoạn kinh hãi nhất trong đời lính mới của chúng tôi.

Hằng ngày chúng tôi tuân phục sự chỉ huy điều động của các huynh trưởng khóa đàn anh, khi ra lịnh họ hét lên nghe kinh hồn bạt vía, họ nghĩ ra đủ mọi hình phạt để phạt chúng tôi bò lê bò càng, trong giai đoạn này chỉ có chạy không được đi… các huynh trưởng quần chúng tôi từ sáng sớm tới chiều tối, buông ra là chúng tôi ngất lịm, ngủ vùi không còn biết gì nữa hết. Sau 5 tuần lễ huấn nhục, ai vượt qua được, sẽ tham dự lễ gắn Alpha, để chính thức trở thành Sinh Viên Sĩ Quan.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1529381449-DoiLinh_02.jpg
Hình minh họa

Ngày quì xuống Vũ Đình Trường để nhận cái lon Alpha vào vai áo, chúng tôi cảm thấy rất tự hào, vì đã lập một kỳ công là tự chiến thắng chính mình để trở thành một người lính, không còn hèn yếu bạc nhược như xưa nữa. Khi chúng tôi quá quen thuộc với các bãi tập như: bãi Cây Đa, đồi 30, bãi Nhà Xập, cầu Bến Nọc… cũng là lúc sắp đến ngày ra trường. Gần tới cuối khóa, chúng tôi còn phải vượt qua những bài học cam go như bài đại đội vượt sông, đại đội di hành dã trại…

Cuối cùng điều mà chúng tôi mong đợi từ lâu, đó là ngày làm lễ ra trường, tất cả chúng tôi trong quân phục Đại Lễ, xếp hàng ngay ngắn tại Vũ Đình Trường, rồi một tiếng thét lồng lộng của Sinh viên Sĩ quan chỉ huy buổi Lễ: “Quì xuống các SVSQ”, sau khi đọc các lời tuyên thệ và được gắn lon Chuẩn Úy, tiếng thét chỉ huy lại cất lên một lần nũa: “Đứng lên các Tân Sĩ Quan”. Trong số chúng tôi có người muốn ứa nước mắt, cái lon mới được gắn lên vai, đã đánh đổi bằng biết bao mồ hôi gian khổ sao kể xiết.

Ngày hôm sau chúng tôi tụ họp lên hội trường để chọn đơn vị, tới phiên tôi lên chọn có một điều làm tôi nhớ mãi. Đứng trước tấm bảng phân chia về các đơn vị, tôi định chọn về Sư Đoàn 7 cho gần Sài gòn, bỗng cái Ông Thượng sĩ đứng phụ trách tấm bảng bèn đưa ra lời bàn: “Chuẩn Úy nên chọn về Sư Đoàn 9 vì vùng trách nhiệm nhẹ hơn, SĐ 7 trách nhiệm vùng Cái Bè Cai Lậy rất nặng nề”. Oái oăm thay ngày hành quân đầu tiên của tôi là vùng Cái Bè, bởi lẽ đơn vị tôi tăng cường cho SĐ 7.

Tôi trình diện Bộ Tư Lịnh SĐ 9 tại Vĩnh Long. SĐ này có 3 Trung Đoàn: 14,15 và 16. Tôi được đưa về Trung đoàn 14. Tôi lại mang vác ba lô về trung đoàn 14 đang hành quân vùng Cái Bè. Từ Sài gòn qua Ngã ba Trung Lương, chạy thêm một đoạn xa nữa thì tới Cai Lậy rồi tới Cái Bè, xong quẹo mặt, chạy tít mù vào sâu bên trong khoảng 20 cây số, tới cuối đường lộ thì gặp một cái xã mang tên Hậu Mỹ, ngay tại đây chính là cái ruột của Đồng Tháp Mười, lính tráng hành quân vùng này nghe cái tên Hậu Mỹ là đủ ớn xương sống. Không hiểu sao, ở giữa ĐTM lại có một nơi dân cư sinh sống bằng nghề nông rất trù phú. Đám Tân SQ chúng tôi sau khi trình diện Trung Đoàn trưởng thì được giữ lại Bộ Chỉ huy vài hôm để tập làm quen với cách làm việc của nơi này.

Sau đó Ban Quân Số phân chia về các nơi. Vị Sĩ quan Quân số hỏi có Chuẩn Úy nào tình nguyện về Đại Đội Trinh Sát hay không? Tôi đáp nhận. Nói theo kiểu Cao Xuân Huy trong “Tháng Ba Gẫy Súng” tôi chọn về đơn vị tác chiến thứ thiệt này, mà trong lòng không có một chút oán thù nào về phía bên kia, mà chỉ vì cái máu ngông nghênh của tuổi trẻ, và kế đó là bị kích thích bởi cảm giác mạnh của chiến trường.

Một Trung Đoàn Bộ Binh có 3 Tiểu Đoàn và 1 Đại Đội Trinh Sát, đám chúng tôi có 12 thằng, được phân chia về các Tiểu Đoàn, chỉ có mình tôi về Trinh Sát. Sau khi chia tay ở sân cờ xong, chúng tôi ra đi biền biệt, hầu như không còn gặp nhau nữa. ĐĐ/TS cho người lên dẫn tôi về trình diện Đại Đội Trưởng, lúc đó đơn vị đóng ở ngoài căn cứ của Trung Đoàn.

Trung Úy Đại đội trưởng có biệt danh là Đại Bàng, dáng người cao to trông rất dữ dằn, cặp mắt ti hí luôn luôn nhìn chằm chằm tóe lửa, giong nói gầm gừ trong họng, tất cả đều toát ra một nét uy phong làm khiếp sợ người đối diện (trong đó có tôi). Tôi đứng nghiêm chào trình diện theo đúng quân phong quân kỷ: “Chuẩn úy NĐC, số quân 72/150181, trình diện Đại Bàng”. Ông ta nhướng mắt nhìn tôi, trên gương mặt hình như có nét thất vọng (mãi về sau này tôi biết điều đó đúng như vậy). Nhìn tôi một hồi, rồi ông ta phán cho tôi một câu nhớ đời: “Anh về làm Trung đội Phó Viễn Thám”.

Trời đất, tôi nghĩ thầm, cái bằng tốt nghiệp của tôi là Trung đội trưởng, mà giao cho tôi làm Trung đội phó là sao nhĩ? Lúc đó tôi không biết rằng làm Trung đội phó là còn may, các Sĩ quan về sau nữa có khi còn làm Trưởng toán Viễn thám, thiệt là chết dở.

Đai Đội lúc đó có khoảng trên trăm người, được chia làm 2 Trung đội Trinh Sát và 1 Trung đội Viễn Thám. Các Sĩ quan Trung đội trưởng ra trường trước tôi vài khóa mà trông rất ngầu, uống rượu như điên đồng thời nói năng rất bạt mạng.

Còn lính tráng nữa chứ, tôi nhìn họ mà sợ lắm, họ được tuyển chọn từ các nơi khác về đây, nên trông rất khiếp hồn, phần lớn họ là gốc nhà nông, chỉ biết đọc biết viết là nhiều. Lạ một điều là tất cả những người lính này đều đối với tôi rất lễ độ, có lẽ phát xuất từ kỷ luật quân đội chăng? Sau một thời gian sống gần gũi với họ, tôi thấy họ là những người rất đáng mến, thật thà chất phác, rất tôn trọng nghĩa tình, một khi họ quí trọng một cấp chỉ huy nào thì họ sẵn sàng xả thân, họ hoàn toàn không dễ sợ như tôi nghĩ lúc đầu.

Vài hôm sau, gặp bữa Đại đội tề tựu đông đủ, Đại Bàng đưa tôi ra giới thiệu trước ĐĐ, rồi bảo tôi phát biểu. Trời đất ơi! Tôi run quá, hai đầu gối cứ run lẩy bẩy, tôi có bao giờ nói chuyện trước một đám đông trông khiếp hồn như thế này bao giờ đâu, cho nên tôi ngượng nghịu lắm, vừa nói vừa ngó xuống đất, không dám ngó mặt ai, bẽn lẽn như cô dâu mới về nhà chồng, bây giờ nghĩ lại tôi không còn nhớ tôi nói cái gì nữa, nhưng tôi vẫn nhớ tiếng chắc lưỡi bực mình của Đại Bàng đứng sau lưng tôi, nói được chừng 10 phút thì tôi hụt hơi hết sức, Đại Bàng phải ra lịnh giải tán đám đông. Ông giận dữ kéo tôi ra chỗ vắng, rồi hất hàm hỏi tôi:

– Chuẩn Úy tốt nghiệp Trường Sĩ quan nào vậy?

Tôi biết ngay là có chuyện không ổn, bởi vì khi ông xếp gọi mình bằng cấp bậc là tai họa đến nơi rồi. Tôi đáp:

– Tôi tốt nghiệp từ Trường Bộ Binh Thủ Đức.

Ông ta bèn xáng cho tôi một câu nhớ đời:

– Vậy mà tôi tưởng Chuẩn Úy tốt nghiệp từ Trường Nữ Quân Nhân chứ!

Tôi nghe mà choáng váng mặt mày, ông ta đã điểm trúng tử huyệt của tôi, vì hồi còn là Sinh viên Sĩ quan trong Thủ Đức, chúng tôi coi là điều sỉ nhục, khi bị cấp trên mắng là Nữ Quân Nhân. Tối hôm đó khi đi ngủ tôi buồn lắm, hình như tôi bị quăng vào môi trường sống không phù hợp với mình, một nơi chốn mà tôi chưa từng biết bao giờ, bởi lẽ trước nay tôi chỉ là anh học trò, bấy lâu chỉ làm bạn với sách vở, với bạn bè với trường lớp. Bây giờ giữa chốn ba quân này, tôi bỗng nổi bật lên như cái gì đó không giống ai. Lúc đó, tôi nhớ Ba mẹ tôi ở nhà, và tôi nghiệm ra một điều rằng, ăn chén cơm của Ba Mẹ tôi sao mà sung sướng quá, bởi lẽ Ba Mẹ chớ hề sỉ nhục tôi, còn khi ra đời, ăn chén cơm của người đời sao đầy cay đắng, tôi lặng lẽ ứa nước mắt.

Tôi về làm Phó cho Chuẩn Úy Vương Hoàng Thắng, khóa 3/72. Anh ta là người trí thức có bằng Cử nhân CTKD, thấy tôi cà ngơ cà ngáo, anh ta thương tình kêu đệ tử giúp đỡ cho tôi mọi chuyện. Chiều hôm đó, tôi lại gặp một chuyện khôi hài dở khóc dở cười, không sao quên được. Chiều đến, lính tráng kéo ra bờ sông tắm giặt, tôi cũng đi tắm như họ, thay vì nhảy ào xuống sông bơi lội như mọi người, nhưng tôi lại rất sợ đỉa nên đứng trên bờ cầm nón sắt múc nước sông mà xối lên người.

Tắm một hồi, tôi cảm giác có cái gì đó là lạ, nhìn quanh thấy mọi người chăm chú nhìn tôi, và xầm xì bàn tán chuyện gì đó, rồi bỗng nhiên cả đám cười rộ lên, có tên lính lên tiếng: “Sao Chuẩn Úy không xuống tắm như tụi tôi mà đứng chi trên bờ, ý trời ơi! Sao da của Chuẩn Úy trắng nõn như da con gái vậy?”. Tôi ngượng điếng người, máu chạy rần rần trên mặt, muốn chui xuống đất mà trốn cho đỡ xấu hổ. Vậy mà đã hết đâu, có cái ông Thượng sĩ già đứng gần, còn đớp cho tôi thêm một nhát: “Ý cha! cái bàn chân Chuẩn Úy sao mà đẹp quá, bàn chân này có số sung sướng lắm đây!!!” Thiệt là khổ cho cái thân học trò của tôi, hết làm Nữ Quân Nhân, bây giờ lại giống con gái, thiệt là chán.

Miền Tây là vùng đất nổi danh sình lầy. Hậu Mỹ là nơi đã tiếp đón tôi trong những ngày đầu về đơn vị, cũng là nơi sình lầy ghê khiếp. Dân trong xã người ta cất nhà dọc kinh Tổng Đốc Lộc, ra khỏi mí vườn là ruộng lúa sạ ngút ngàn. Sáng sớm, lính tráng lo cơm nước xong xuôi là bắt đầu nai nịt lên đường, súng đạn ba lô trên vai, để tham dự cuộc hành quân thường ngày, bước ra khỏi mí vườn là bắt đầu lội ruộng, trước tiên nước đến ngang đấu gối, rồi khi qua những trãng sâu, nước cao tới ngực, và cứ thế quần áo ướt sũng từ sáng tới chiều, cho nên quần áo tụi tôi nhuộm phèn vàng chạch, trong rất kỳ quái.

Khi ở quân trường tôi tưởng nỗi gian khổ của người lính là cao nhất, sau khi ra đơn vị tôi mới thấy được rằng, nỗi khổ quân trường chỉ là khúc dạo đầu, không thấm thía gì so với ngoài thực tế. Vùng Hậu Mỹ là vùng lúa sạ nên rất ít bờ ruộng, khi đặt chân xuống ruộng là phải đi một mạch tới bờ bên kia cách xa vài cây số, không ngừng giữa đường được.

Đất ruộng người dân họ cày xới lên từng tảng to nhỏ như trái dừa, ngổn ngang lỗ chỗ, và nước lấp xấp. Tôi vừa đi vừa lựa thế để đặt chân xuống, sình lầy bám chặt nên rút bàn chân lên thật khó nhọc, mặt trời rọi ánh nắng gay gắt, mồ hôi tuôn ra đầm đìa, lúc đầu tôi còn lấy tay áo gạt mồ hôi, sau cứ để mặc, mồ hôi nhỏ lăn tăn lên mặt ruộng. Đó là tôi mang ba lô rất nhẹ, chỉ có quần áo đồ đạc cá nhân, còn lương thực lều võng đã có đệ tử mang vác phụ.

Tôi ngó qua những người lính đi chung quanh, thấy họ mang vác rất nhọc nhằn, họ phải oằn lưng mang lều võng, súng đạn, mìn bẫy, gạo, cá khô, đồ hộp, mắm muối… Người thì đeo trên ba lô cái nồi, người thì mang cái chảo, họ lặng lẽ bước đi, tôi không hề nghe một lời than van nào hết, họ cắn răng lại mà cam chịu, có than van cũng không ai nghe. Khi đi tới bờ kinh ở tít đằng xa, áo tôi ướt sũng mồ hôi, cho đến nỗi, tôi cởi áo ra vắt, mồ hôi chảy ra ròng ròng. Tôi mệt muốn đứt thở, bèn nằm vật xuống đất, tôi mặc kệ hết mọi điều, không còn biết trời trăng gì nữa hết, lúc đó tôi nghĩ có ai bắn cho tôi một phát súng ân huệ, chắc còn sướng hơn, đời lính sao mà khổ quá!

Theo Đặc San Cư An Tư Nguy (câu này là châm ngôn của Trường BB Thủ Đức) phát hành tại San Diego, thì Quân Trường này đã đào tạo 55 ngàn Sĩ quan, trong số đó có 15 ngàn SQ đã tử trận, và không dưới 10 ngàn người đã trở thành Phế-binh thương tật.

Trung đội trưởng là chức vụ đầu tiên của Sĩ quan mới ra trường, và là chức vụ duy nhất chỉ huy bằng miệng (các cấp cao hơn thì chỉ huy qua máy truyền tin). Khi xung phong chiếm mục tiêu, Trung đội trưởng cũng ôm súng chạy ngang hàng với lính, khi đóng quân phòng thủ đêm, Trung đội trưởng cũng nằm ngang với lính. Trước mặt Trung đội trưởng không có bạn nữa mà chỉ có phía bên kia. Cho nên lính dễ chết thì Trung đội trưởng cũng dễ chết y như vậy, súng đạn vô tình nên không phân biệt ai với ai, quan với lính đều bình đẳng trước cái chết. Đó là lý do giải thích tại sao Chuẩn úy mới ra trường chết như rạ là vì thế. Vậy mà tôi còn làm Trung đội phó, không biết nói sao nữa.

Có một bữa, tôi lội hành quân với đơn vị, đang bì bõm lội sình, thì tiếng súng nở rộ lên phía trước, Trung đội tản ra, tôi cùng Chuẩn úy Thắng và đám đệ tử tấp vào một lùm chuối khá lớn. Tôi đứng đó nhìn trời hiu quạnh một hồi rồi bỗng thấy làm lạ sao thấy C/U Thắng im lìm không có lịnh lạc gì cả. Bỗng tay lính Truyền tin nói với C/U Thắng: “Đại Bàng kêu C/U lên trình diện gấp.” C/U Thắng bỏ đi một đoạn, thì lính Truyền tin lại bảo tôi: “Đại Bàng muốn gặp C/U Châu”.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1529381465-DoiLinh_03.jpg
Hình minh họa

Tôi cầm ống nghe áp vào tai, thì nghe Đại Bàng chửi xối xả, giọng Ông lồng lộng một cách giận dữ, té ra là do C/U Thắng quá sợ nên không dám tấn công, ông hét lên bảo tôi: ” Nè! C/U Châu, tôi giao Trung đội lại cho ông, ông có dám dẫn quân lên đánh mục tiêu trước mặt hay không?”.Tôi nghe mà sợ muốn “té đái”, run lập cà lập cập, rồi trả lời ông xin tuân lịnh.

Tôi tháo ba lô quăng lên bờ ruộng cho nhẹ người, rồi vói tay lấy khẩu súng trường của người lính bên cạnh, miệng chỉ kịp kêu lớn: “Tất cả theo tôi”. Lúc đó tôi “quíu” quá, nên không nhớ bài bản chiến thuật nào mà tôi từng học ở quân trường, tôi xông lên vừa chạy vừa bắn vừa la (không biết la cái gì nữa). Cả trung đội hoảng hốt sợ tôi bị bắn chết, nên cũng vùng dậy chạy theo tôi. Phía người anh em bên kia, thấy tôi chạy dẫn đầu rất hung hãn, tưởng tôi bị điên, bèn lập tức tháo lui, trong lúc vội vã họ còn quăng lại tặng tôi mấy cây súng nữa chứ.

Tôi thanh toán mục tiêu chỉ đâu chừng 10 phút, ai cũng tưởng tôi gan dạ, chứ đâu biết rằng tôi làm thế vì quá sợ ông xếp của mình. Thiệt là khôi hài. Đại Bàng kéo quân lên ông nhìn tôi gườm gườm, có lẽ ông chưa thấy một Sĩ quan nào lập chiến công “khùng điên ba trợn” như tôi. Hết cơn giận, ông trả quyền chỉ huy lại cho C/U Thắng, tôi trở về vị trí cũ.

Sau đó tôi được điều qua các Trung Đội khác, phụ trách công việc tạm thời cho các Trung đội trưởng đi phép hay bị thương… Một điều may mắn cho tôi, (hay Trời đãi kẻ khù khờ), khi tôi nắm quyền tạm thời đó, những trận đánh mà tôi tham dự, tôi đều hoàn thành nhiệm vụ của mình một cách tốt đẹp. Đại Bàng đã nhìn tôi bằng cặp mắt đỡ ái ngại hơn ngày đầu mới gặp tôi. Đại Bàng sau đó được thuyên chuyển qua một đơn vị khác và một Đại Bàng mới đến thay thế.

Ông Trung úy mới đến này có dáng dấp thư sinh, ăn nói nhỏ nhẹ, khiến tôi rất có cảm tình. Trong bữa nhậu bàn giao chức vụ, Đại Bàng cũ giới thiệu các Sĩ quan trong đơn vị cho ĐB mới được biết. Sau khi điểm mặt 3 Trung đội trưởng, cuối cùng ông ta chỉ tôi là một Trung đội phó, rồi đưa ra một nhận xét làm sửng sốt mọi người: ”Đây là một tay Sĩ Quan xuất sắc, một tay chơi tới bến… “Hai người sửng sốt nhất hôm đó là tôi và ông Đại Bàng mới.

Đối với tôi, tôi chỉ cố gắng làm tròn nhiệm vụ của mình và cũng không hề muốn bươn chải về phía trước. Đối với ĐB mới, ông ta lấy làm lạ là phải, bởi vì ông cứ ngỡ SQ xuất sắc nhất phải là mấy ông Trung đội trưởng, sao lại là cái ông Trung đội phó trông hết sức ngớ ngẩn này. Tôi cũng không ngờ, cái lời nhận xét đó đã đẩy tôi vào một khúc ngoặt khác, đầy hung hiểm chết người.

Một thời gian ngắn sau đó, tôi được Đại Bàng mới cất nhắc lên làm Trung Đội trưởng thực thụ. Tham dự hết trận đánh này đến trận đánh khác, để sống còn, không còn con đường nào khác, tôi phải “động não” đến cao độ cho công việc của mình. Càng ngày tôi càng đạt được sự tin cậy cao nơi cấp Chỉ huy, chính điều đó đã đẩy Trung đội tôi vào nơi Tử địa.

Khi Đại đội tiến quân vào nơi nguy hiểm, Trung đội tôi được lịnh đi đầu, và khi rút quân từ nơi đó, Tr.đội tôi được lịnh bao chót. Khi tấn công tôi được giao chỗ khó gặm nhất, và khi phòng thủ Trung đội tôi được nằm ở vị trí nặng nề nhất. Người ta thường nói: “Nhất Tướng công thành vạn cốt khô”, tôi không phải là Tướng, chỉ là một Sĩ quan có cấp bậc và chức vụ thấp nhất, nhưng lính tráng dưới quyền tôi đã chết la liệt, có khi chết nhiều đến nỗi, tôi chưa kịp nhớ mặt người lính của mình nữa. Bởi sự tin cậy của Đại Bàng dành cho tôi, mà Trung đội tôi phải gánh chịu những tai ương này.

Ông ta rất quí mến tôi, ông chưa hề quát mắng tôi một tiếng nặng lời, có món nào ngon ông sai đệ tử đi mời tôi đến cùng ăn với ông, có Huy chương nào quí giá, ông cũng ưu tiên dành cho tôi. Ông quí tôi như vậy vì ông biết rằng, nếu ông cứ sử dụng tôi như vậy, trước sau gì tôi cũng chết. Làm sao tôi sống nổi, khi xua quân đi hết mặt trận này đến mặt trận khác, mà toàn là những nơi đầu sóng ngọn gió. Vậy mà tôi sống, mới kỳ.

Khi về đơn vị này, tôi có được một sự may mắn là đơn vị lưu động khắp các tỉnh Miền Tây. Khởi đầu của tôi tại Cái Bè -Cai lậy với các địa danh nổi tiếng như Hậu Mỹ, Mỹ Phước Tây, Bà Bèo, Láng Biển… Từ Cai Lậy đi về hướng Bắc khoảng 60 cây số là tới Mộc Hóa, từ Tuyên Nhơn kéo qua Tuyên Bình, có một chỗ tận cùng tên Bình Thạnh Thôn, đây là một trong những chiến trường ác liệt nhất của đồng bằng Sông Cửu Long.

Từ nơi này chúng tôi ngồi thiết giáp băng ngang qua Đồng Tháp Mười để tới Hồng Ngự, và chính cái lúc băng ngang này, tôi mới biết rõ về Đồng Tháp Mười, đây là một vùng đầm lầy kinh sợ nhất, đi suốt 1 ngày với xe thiết giáp, tôi không thấy một cây cỏ nào mọc nổi ngoại trừ loại cây bàng (một loại cây họ cỏ dùng dệt chiếu), không có một bóng chim, không có một con cá, nước phèn màu vàng chạch, tóm lại không có 1 sinh vật nào sống nổi trong vùng này, đừng nói chi đến con người. Vùng đầm lầy dài ngút mắt đến chân trời, khung cảnh im lìm đến ghê rợn.

Rời Mỹ Tho, chúng tôi băng ngang Sông Tiền bởi phà Mỹ Thuận, rồi băng ngang Sông Hậu với phà Cần Thơ, xuôi theo lộ tới Cái Răng – Phụng Hiệp, rồi rẽ vào Phong Điền – Cầu Nhím, tôi ngạc nhiên trước một vùng đất giàu có tột bực này. Ở đây người dân sinh sống bằng vườn cây ăn trái, sáng sớm ghe chở trái cây chạy lềnh trên mặt sông để đến điểm tập trung giao hàng đi các nơi, nhà cửa ở miệt vườn mà trông rất bề thế.

Rồi chúng tôi đến Phong Phú-Ô Môn, tiến sâu vào bên trong chúng tôi đến Thới Lai – Cờ Đỏ, sự trù phú không sao kể xiết, có khi chúng tôi ngồi Tắc-ráng đi từ Thới Lai đến Cờ Đỏ, 2 bên bờ kinh nhà cửa nguy nga tráng lệ, không hề có nhà tranh vách đất nào cả, nhà nào cũng có xe máy cày đậu trước sân. Tuy nhiên vào sâu hơn nữa, chúng tôi cũng gặp những vùng hoang vu như Bà Đầm -Thát Lát, dân chúng tản cư đi hết, nhà cửa hoang phế, trông rất âm u rợn người.

Trong tất cả những vùng mà tôi đã đi qua, có một vùng đất hết sức lạ lùng, và là một nơi đối với tôi đầy ắp kỷ niệm, vừa thích thú vừa buồn rầu. Mỗi khi hồi tưởng về một thời chiến trận, tôi đều nhớ về nơi ấy. Cuộc chiến đã ngừng 37 năm qua, vậy mà tôi chưa hề một lần nào trở về lại nơi chiến trường xưa, để thắp một nén hương tưởng mộ những đồng đội của tôi đã nằm xuống nơi này.

Mùa Khô năm 74, Đại Đội chúng tôi được trực thăng bốc từ phi trường Cao Lãnh, đổ xuống một cánh đồng bát ngát nằm cạnh biên giới Campuchia. Trung đội tôi nhảy líp đầu. Khi xuống tới đất tôi hết sức ngạc nhiên về vùng đất nơi đây. Cánh đồng khô khốc và phẳng lì, không hề có một bờ ruộng nào cả (sau này tôi được biết đây là vùng nước nổi, khi nước từ Biển Hồ tràn về, thì không có bờ ruộng nào chịu đựng nổi, nên người ta cứ để trống trơn như vậy, ruộng của ai người đó biết).

Trên cánh đồng lại có rất nhiều gò nổi lúp xúp ở khắp nơi. Khi Trung đội tôi rời khỏi trực thăng, tôi lập tức ra lịnh tiến quân theo thế chân vạc thiệt nhanh nhằm chiếm 1 gò nổi trước mặt, khi cách gò chừng một trăm thước, tôi cho tất cả dừng lại dàn hàng ngang yểm trợ, rồi tôi phóng 3 khinh binh vào lục soát, sau một hồi thấy không có gì, họ khoát tay cho cả Trung đội tiến vào.

Khi vào tới nơi, sau khi bố trí xong, tôi thấy trên gò có thật nhiều cây xanh che bóng mát, và có vài đìa cá, lính tráng lội ùa xuống xúm lại tát đìa, khi đìa cạn, cá lộ ra lội đặc lềnh như bánh canh. Một lát sau cả Đại đội theo trực thăng kéo tới kéo vào gò trú ẩn cũng vừa đủ. Đêm tới, chờ trời tối hẳn, Đại Bàng ra lịnh kéo cả đơn vị ra đồng trống để đóng quân đêm, vì vị trí ban ngày đã bị lộ.

Đêm đó chúng tôi không ngủ được gì cả, vì lũ chuột đồng ở đâu kéo tới, chúng bò ngang dọc, lùng sục chỗ đóng quân của chúng tôi, lại còn chui tọt vào mùng gặm nhắm chân tay của chúng tôi nữa chứ.

Tờ mờ sáng hôm sau, có 1 đoàn xe bò đông đảo khoảng mười mấy chiếc kéo ngang chỗ đóng quân. Lính tráng hỏi họ đi đâu, họ nói họ kéo nhau đi tát đìa, trời đất, tát đìa mà kéo một đoàn xe bò như thế này ư! Chiều đến, không biết họ đi đến đâu, mà khi kéo xe về, xe nào cũng đầy ắp cá, họ chứa lủ khủ trong thùng trong chậu lớn, sau đó họ kéo ra bờ sông giao cho ghe hàng chờ sẵn, chở cá về Hồng Ngự


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1529381480-DoiLinh_04.jpg
Hình minh họa

Hôm sau chúng tôi kéo vào xóm nhà cất dọc theo bờ rạch, có tên là Rạch Cái Cái. Khi vào đến nơi tôi lại đứng trố mắt ra nhìn, nhà gì mà kỳ dị như thế này. Người dân họ cất nhà cao lêu nghêu theo kiểu nhà sàn, tôi biết ngay là họ phải cất nhà như thế để sống cùng với lũ. Nơi đây đúng là cùng trời cuối đất, tiếng bình dân gọi là hóc-bà-tó. Đây cũng là vùng đất tranh chấp giữa hai bên, chiến trận nổ ra liên miên, nên người dân họ sống rất là tạm bợ.

Cả xã có vài ngàn người mà chỉ có vài người biết đọc biết viết. Họ thông thương với bên ngoài bằng các ghe hàng tạp hóa, hay ghe hàng bông (rau quả), được chở tới từ Hồng Ngự. Nhà nào cũng có một lu mắm cá, có nhà còn có lu mắm chuột đồng, đó là thức ăn phòng hờ cho mùa nước nổi. Ghé vào nhà chơi, chủ nhà rất hiếu khách và xởi lởi, bưng ngay ra một chai rượi đế, rồi hối người nhà xé mắm sống trộn giấm tỏi ớt đường, bưng ra mời chúng tôi ăn với khoai lang hay bắp luộc.

Lúc đầu tôi thấy sợ lắm không dám ăn, sau vì nhiều người ép quá nên tôi cũng nếm được. Còn mắm chuột đồng thì cho tôi xá, nhìn thấy đã hãi nói chi tới ăn. Đám lính chúng tôi đang lội sình mệt nghỉ, được đưa về một nơi khô ráo, lại đầy ắp thức ăn, thiệt là đã đời, chúng tôi hành quân mà như đi picnic. Nhưng trong tôi linh cảm điều gì đó không ổn, đơn vị chúng tôi luôn luôn được tung vào những nơi hiểm địa, chớ đâu phải đi chơi như thế này.

Sau một thời gian hoạt động đơn độc, chúng tôi được tăng cường 1 Chi đoàn thiết giáp, có khoảng 12 xe bọc sắt M113. Với sự phối hợp này vùng hoạt động của chúng tôi rộng lớn hơn. Hằng ngày, chúng tôi ngồi trên xe thiết giáp hành quân lục soát nơi này nơi nọ, vẫn yên bình, không hề có tiếng súng. Rồi cái ngày giông bão đó đã đến. Hôm đó, bình thường như mọi ngày, chúng tôi lên xe đi hành quân. Đi đến các điểm đã được chỉ định sẵn trên bản đồ, đi đến chỗ này lục soát, không có gì lại đi đến chỗ khác.

Cuối cùng đoàn xe đến 1 điểm, bất chợt đoàn xe dàn hàng ngang ngoài ruộng, hướng về mục tiêu là một bờ vườn rậm rạp. Lính Trinh Sát tụi tôi được lịnh xuống xe, tiến vào bờ vườn. Trung đội tôi tiến về phía bên trái của đội hình Đại đội. Đang đi tôi bỗng lên tiếng: ”Tất cả tản ra mau, đi túm tụm như vầy dễ ăn đạn lắm!” Không ngờ lời nói của tôi “linh như miễu”.

Đạn phát nổ vang trời dậy đất, tôi bị trúng đạn, bật người ngã xuống đất, máu ở đâu chảy xuống mặt tôi thành dòng, tôi ra lịnh bắn trả xối xả, nếu không phía bên kia họ thừa thắng xông lên thì thật là nguy khốn. Súng nổ một chập thì im lặng, lúc đó tôi mới rảnh rờ rẩm khắp người xem mình bị thương nơi đâu. Tôi giật mình kinh ngạc và cảm thấy hết sức lạ lùng, bởi vì tôi bị bắn trúng một lượt 2 viên đạn súng tiểu liên AK, một viên bắn trúng vào đầu mũi súng ngắn tôi nhét trước bụng, viên đạn bể ra văng tứ tán lên mặt lên cánh tay, nên máu tuôn ra thành dòng là vì thế, song phần còn lại của viên đạn chui tọt vào đùi, máu tuôn ra khá nhiều nhưng không nguy hiểm.

Viên đạn thứ 2, mới thật là ghê rợn, viên đạn bắn trúng vào cái bóp tôi để trên túi áo trái, ở phía trước trái tim, viên đạn quậy nát cái bóp, tôi để rất nhiều tiền vì mới lãnh lương, tiền và giấy tờ đã cuốn viên đạn lại, nằm yên trong đó, có lẽ viên đạn được bắn ra trong khoảng cách quá gần, làm viên đạn không đủ sức xuyên phá. Lúc đó tôi sợ lắm, bởi vì tôi nghĩ phải có một phép lạ thiêng liêng nào đó đã che chở cho tôi, chứ trên đời này hiếm có ai bị bắn trúng một lượt 2 viên đạn mà còn sống như tôi vậy

Cũng ngay lúc ấy, tôi chợt nghe một tiếng rên yếu ớt của người lính đệ tử của tôi: ”Thiếu Úy ơi! cứu em! “ Tôi nghe xong mà sợ điếng hồn, té ra nãy giờ đệ tử của tôi bị trúng đạn mà tôi không hay biết, bởi vì cỏ cao che khuất nên tôi không thấy anh ta nằm trước mặt, cách tôi chừng dăm ba thước. Thông thường các Sĩ quan Trung đội Trưởng có 2 người lính đệ tử, 2 người này có nhiệm vụ lo chỗ ăn chỗ ngủ và lo mang vác đồ đạc cho ông Thầy.

Những người lính đệ tử của tôi thường đối với tôi rất chí tình, họ sẵn sàng sống chết vì tôi mà không hề so đo tính toán. Khi tôi dẫn Trung đội xung trận, 2 người lính này theo sát để bảo vệ cho tôi. Hôm nay, một trong hai người đệ tử đã hứng đạn cho tôi, khi ngã xuống đã kêu lên lời cầu cứu đến tôi. Ít lâu sau thì anh ta chết, tiếng kêu thảm sầu của anh ta đã xoáy vào lòng tôi, và ở yên trong đó từ ngày ấy cho đến bây giờ. Vậy mà 37 năm đã trôi qua, tôi chưa có một lần nào về đứng trước mộ anh, để đốt một nén nhang nói lời cảm tạ. Anh ta là Hạ sĩ Nguyễn Văn Đồng, một cái tên vừa bình thường vừa vô danh, nằm lẫn khuất đâu đó trong một triệu người đã nằm xuống trong cuộc chiến tranh tức tưởi này.

Sau khi tôi bị thương, tôi giao Trung đội lại cho Trung đội phó là Chuẩn Úy Nguyễn Thọ Tường. Tôi ra ngoài, leo lên xe Thiết giáp ngồi nghĩ và ngó vào trận địa, tôi chợt thấy Chuẩn Úy Tường dàn đội hình hàng ngang xung phong vô mục tiêu, tôi kêu lên thảng thốt: ”Đừng làm thế, Tường ơi! “. Sau đó, Trung đội tôi bị bắn tan tác, Chuẩn Úy Tường bị trúng đạn chết tại mặt trận, mắt vẫn mở thao láo, có lẽ anh ta không biết sao mình lại chết như vầy. Trung đội tôi coi như tan hàng xóa sổ. “Tường ơi! Vĩnh Biệt!”

Không biết sao đại đội tôi đóng quân bên bờ Rạch Cái Cái rất lâu. Rồi tới ngày Mùa Nước Nổi kéo về, nước chảy ào ào một chiều duy nhất, không có cảnh nước ròng nước lớn gì nữa hết. Nước mỗi ngày dâng cao cả gang tay, đến lúc này đây mới thấy lúa sạ là một loại lúa kỳ diệu, nước dâng tới đâu thì lúa dâng tới đó, nước sâu 5-6 mét thì cây lúa cũng dài nhằng ra 5-6 mét, tôi chưa nơi nào cây lúa lại kỳ dị như vậy. Rồi đến lượt cá Linh tràn về, cá nhiều đến nỗi không biết cơ man nào kể cho xiết, có khi tôi thấy cá Linh nổi lềnh lên cả một khúc sông, và kỳ lạ một điều nữa là người dân ở đây thà ăn mắm ăn muối chớ họ không ăn cá linh, họ nói họ thấy cá Linh cả đời nên tự nhiên họ đâm ngán tới cổ.

Ô! nước cứ dâng lên mãi, khiến chúng tôi kiếm chổ đóng quân khá vất vả, chúng tôi rút lên gò thì rắn với chuột cũng kéo lên gò, ban đêm chúng cứ bò xục xạo trong mùng chúng tôi trông thật ghê khiếp. Cả đơn vị phải chẻ nhỏ ra thành từng toán. Vào hôm đó toán của thầy trò chúng tôi đi tới một cái gò còn khô ráo.

Đêm đó như thường lệ tôi ngủ dưới một mái lều, tới nửa đêm tôi đang ngủ mê mệt, thì cảm thấy có ai đang khều khều đầu mình.

Ở chốn trận tiền ai ngủ cũng phải thật nhạy thức, tôi cũng vậy, tôi tưởng lính gác báo động nên vội ngồi dậy ngay. Tôi ngó ra ngoài lều thì thấy dưới bóng trăng sáng vắng vặc một em bé gái khoảng 13-14 tuổi đứng nhìn tôi và mỉm cười thật tươi tắn. Tôi trố mắt nhìn ngẩn ngơ một hồi rồi mới biết đó là hồn ma, tôi sợ quá vội vàng nằm xuống kéo mền trùm kín đầu. Sáng hôm sau, tôi thấy chỗ tôi ngủ nằm kề bên 1 cái bàn thờ bằng gỗ xiêu vẹo mục nát.

Tôi bèn rảo bước vào xóm để hỏi thăm về cái gò này, được người dân cho biết, trước kia có một em bé nhà nghèo lắm, hàng ngày chèo xuồng ra đồng nhổ bông súng, đem vô xóm bán dạo. Một hôm em cũng chèo ghe ra đồng như hàng ngày, sau đó súng đạn nổ ran, em bị đạn lạc chết trên gò, em chết trẻ hồn thiêng không siêu thoát, đêm đêm hiện về khóc lóc thảm thiết, dân làng thấy vậy bèn làm cho em một cái bàn thờ gỗ để nhang khói cho em. Câu chuyện thật tội nghiệp. Ở nơi chốn tên bay đạn lạc này,đời sống người dân khốn khổ không sao kể xiết,nếu họ muốn đi đến một nơi chốn an lành khác, họ cũng không biết đi đâu, mà nếu có đi cũng không biết lấy gì mà sống.

Trong đời lính của tôi, tôi sợ nhất là phải đi báo tin tử trận hoặc thăm viếng những gia đình có người thân chết trận, vậy mà có một lần tôi đã phải làm chuyện này một cách bất đắc dĩ. Chuẩn Úy Nguyễn Mạnh Hà ra trường sau tôi khoảng một năm, lúc đó anh ta mới 19 tuổi, còn đặc sệt nét con nít. Tôi nhớ hồi tôi mới ra trường trông đã rất chán, anh chàng này trông còn chán hơn tôi nữa. Mặt của Hà còn đầy mụn trứng cá, suốt ngày chỉ thích ngậm kẹo, có ai rủ nhậu, nể lắm anh ta mới uống, vừa uống vừa chắc lưỡi hít hà như uống thuốc độc.

Điều đặc biệt nhất của Hà là anh ta rất sợ tiếng nổ, khi nghe súng nổ anh ta nhắm chặt mắt, bịt kín lỗ tai, và mặt mày thì tái mét. Anh ta về làm Phó cho tôi, làm giọng “chảnh”, tôi hỏi anh ta một cách xách mé: “Sao ông nhát như vậy mà xin về Trinh Sát”. Anh ta bèn phân trần, anh ta đâu có xin xỏ gì đâu. Ban Quân số thấy không có ai tình nguyện nên chỉ định bừa, dè đâu trúng ngay anh ta. Khi đụng trận tôi lo cuống cuồng đủ mọi chuyện, còn phải để ý đến anh ta nữa chứ, anh ta có biết gì đâu, thiệt khổ. Càng về sau các Sĩ quan rơi rụng dần dần, C/U Hà cũng được đưa lên làm Trung đội trưởng.

Cái ngày định mệnh dành cho Hà là tại mặt trận Mộc Hóa. Cả đại đội được lịnh tấn công vào mục tiêu. Trung đội của Hà và một trung đội nữa vỗ vào mặt chính diện, trung đội tôi thọc vào bên cạnh sườn. Hà dẫn tổ đại liên chạy đến ẩn nấp vào một gò mả bằng đá ong, ngay lúc ấy phía bên kia phóng ra 1 trái hỏa tiển B40, trúng ngay gò mả, viên đạn nổ tạt ra trúng ngay vào người Hà. Tội nghiệp Hà chết không toàn thây.

Lúc Hà còn sống, mỗi khi tôi về phép, Hà thường nhờ tôi ghé qua nhà Hà ở Sài gòn, để mang dùm quà của gia đình xuống cho Hà, vì thế tôi khá thân thuộc với gia đình của anh ta. Hà mất được chừng một tháng, thì tôi xin được cái phép 6 ngày về thăm gia đình. Tôi bèn ghé qua nhà Hà nhằm nói lời chia buồn với gia đính anh ta. Tôi vừa tới, Ba Má của Hà chạy ùa ra nắm lấy tay tôi, rồi hỏi dồn dập:

– Sao cái hôm em Hà nó chết, mà cháu lại không về đưa đám tang em?.

Tôi lúng túng trả lời:

– Thưa, lúc đó chúng cháu đánh nhau tưng bừng, làm sao cháu bỏ đơn vị mà về cho được.

Thế là vừa ngồi xuống ghế, hai ông bà khóc ngất ngất, lúc đầu ông bà còn lấy tay lau nước mắt, lúc sau thì để mặc, nước mắt tuôn ra xối xả làm ướt đầm cả ngực áo. Tôi kinh hoàng ngồi chết điếng, tôi chưa bao giờ gặp phải một trường hợp bi thương tột độ đến như vậy. Ông bà vừa khóc vừa kể lể tiếc thương cho đứa con không sao kể xiết.

Cha mẹ nào có con ra mặt trận, coi như đã chết nửa linh hồn, đêm ngày sống trong hốt hoảng lo âu, mong ngóng con mình, mãi về sau tôi mới nghiệm ra được điều này. Nghe ông bà than khóc một hồi, tôi không chịu đựng nổi nữa và tôi cũng không nói một lời phân ưu gì nữa hết, bởi vì lời nói nào cho đủ trước một mất mát quá lớn lao này. Rồi tôi nghĩ đến tôi, đến Ba Mẹ tôi, trong lòng tôi bỗng xộc lên một nỗi buồn khủng khiếp. Tôi lảo đảo đứng dậy từ giã hai ông bà để ra về. Trên đường về tôi ghé vào một quán cóc, ngồi uống rượu một mình, tôi buồn lắm.

Tối hôm đó tôi về đến nhà khá muộn, cả nhà chờ cơm tôi quá lâu nên đã dùng trước. Tôi ngồi vào bàn, Mẹ tôi bày thức ăn la liệt trên bàn cho tôi ăn. Vừa ăn tôi vừa nghĩ, mai kia nếu mình có chết, Mẹ cũng bày đồ cúng cho mình như thế này đây. Tôi chợt nhớ đến khuôn mặt đầm đìa nước mắt của cha mẹ Hà, lúc đó bỗng nhiên tôi thương Ba Mẹ tôi vô cùng. Tôi vừa ăn vừa lặng lẽ chảy nước mắt.

Cuối cùng vào tháng 2 năm 75, tôi bị thương một lần nữa tại mặt trận Mộc Hóa. Tôi được đưa về điều trị tại Bịnh xá Tiểu đoàn 9 Quân Y tại Vĩnh Long. Tại Bịnh xá, tôi theo dõi tình hình chiến sự trên cả nước, khi mất Ban Mê Thuột, tôi linh cảm có điều gì đó không lành. Đến ngày 30-4-75, khi nghe lịnh buông súng đầu hàng, trong lòng tôi nát bấy. Sáng ngày 1-5, tôi bước ra khỏi Bịnh xá, đứng trên Quốc lộ 4, tôi nhìn về hướng Cần Thơ, thấy mặt trời lên đỏ rực, báo hiệu một ngày mới. Lúc đó tôi không hề biết rằng, đó là cái ngày đầu tiên của một hành trình bi thảm khác, có tên gọi là “Mạt Lộ”.

Bài viết này của tôi sao buồn quá, nhưng biết làm sao được, bởi vì đó là sự thật, cho tôi viết một lần này thôi, như nhớ về một kỷ niệm, một kỷ niệm rưng rưng.

Viết xong ngày 1 tháng 6 năm 2012.
NĐC
Kỷ niệm ngày QLVNCH 19/06
nguồn: https://buonvuidoilinh.wordpress.com/2017/01/22/doi-linh-2/

BachMa
07-10-2018, 03:03 AM
Một Đời Binh Nghiệp Hai Màu Mũ

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1531191514-MotDoiBinhNghiep.jpg
Trương Út tức Út Bạch Lan
Buổi xế chiều ngày 15 tháng 10 năm 1970 là một buổi chiều chia ly ngậm ngùi với những lời giã từ không thành lời. Bầu trời Nha Trang quang đãng, với sóng biển hiền hòa hết đợt này đến đợt khác, tiếp tục xô vào bờ cát trắng chảy dài từ biệt điện đến Xóm Bóng. Cơn gió nhẹ từ biển khơi phây phất lá cờ VNCH trước sân trại Hải Quân Tây Kết, phía sau là trại Hoàng Diệu, Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 81 Biệt Cách Nhẩy Dù - Lực Lượng Đặc Biệt – QL/VNCH.

Chiếc Dương Vận Hạm 505 (thường gọi là tàu há mồm) rúc lên ba hồi còi luì dần ra biển khơi, trên bãi vẫn còn lố nhố người. Trên đường Duy Tân vẫn còn một dọc xe Jeep, Dodge, GMC, và không biết có bao nhiêu bàn tay vẫn còn vây vẩy tiễn đưa.

Trên tàu là ĐĐ 5/TĐ81 BCD và ĐĐ 6/TĐ81 BCD cùng với gia đình cha mẹ vợ con của binh sĩ. Xin giả từ Nha Trang. Xin giã từ quán cơm bình dân Chợ Đầm, Bar số 1, 2, 3, 4, 5, phở Chụt, phở Gà số 1, quán cơm Thanh Phong, nhà hàng Nautique, Hotel Nha Trang, Cafe Thu, quán rượu, Bar Mỹ, Tháp Bà, Hòn Chồng, Cầu Đá. Xin vẫy tay lần cuối Thiếu Tá Nguyễn-văn-Lân (K/17Đà Lạt) Tiểu Ðoàn Phó, người đã lót những viên gạch đầu đời binh nghiệp cho tôi, Đại Úy Bùi-Ngọc-Bích (Khoá11/TĐ) Chỉ Huy Hậu Cứ, người đã tận tình giúp đỡ chăm sóc vợ con tôi, khi Tôi hành quân. Xin vẫy tay lần cuối với tất cả quân nhân của Tiểu Đoàn 81BCD, những người còn ở lại, đang đứng trên bờ cát trắng Nha Trang mang vô vàn kỹ niệm thời chinh chiến. Xin giã từ, không phải giả biệt, vì sau này chúng ta còn hội ngộ trên những chiến trường khốc liệt nhất trong lịch sử chiến tranh cận đại. An Lộc, Kontum, Quảng Trị, Thường Đức.

Mới sáng nay, trên sân cờ tiểu đoàn, khi tôi (Đại Ðội Trưởng /ĐĐ5), Đại Úy Nguyễn-Chí-Thanh (K/12TĐ, ĐĐT/ĐĐ6) trao trả Hiệu Kỳ đơn vị cho Thiếu Tá Trần-Phương-Quế (K/10 Đà Lạt TĐT), tôi thoáng thấy nét buồn buồn trên gương mặt và đôi mắt của ông. Nét buồn buồn đó phảng phất một nỗi niềm của một người Cha hay một người Mẹ đang mất hai đứa con trong sáu đứa con mà Ông đã nuôi dưỡng dạy dỗ với tất cả tâm huyết trộn lẫn nước mắt của chính ông, Ông trao lại hai hiệu kỳ cho Thiếu Tướng Tư Lệnh Nguyễn-văn-Phú. Ban quân nhạc Bộ Tư Lệnh trổi lên khúc nhạc "ò e rô be đánh đu, tạc zăng nhảy dù ...", tất cả đơn vị trên sân cờ như rơi vào những giây phút lắng đọng nghẹn ngào không thành tiếng. Có giây phút chia ly nào mà không ngậm ngùi? Ngậm ngùi như tiếng kêu thất thanh của con chim Đa Đa sao không lấy chồng gần mà phải đi lấy chồng xa, để lại cha mẹ già biết bao giờ gặp lại.

Trên con tàu há mồm gần 800 nhân mạng, gồm Sĩ quan, Hạ Sĩ quan, binh sĩ và gia đình của hai Đại Ðội 5 và Ðại Ðội 6 của đơn vị 81BCD đang xuôi Nam.


***

Như thường lệ hằng năm, cứ vào khoảng tháng 11 các phái đoàn Quân Binh Chủng của QLVNCH lên truờng Võ B ị QG Ðà Lạt đê thuyết trình về cơ cấu tổ chức, cơ cấu nhân sự, phương tiện và kỹ thuật hành quân tác chiến cho các SVSQ sắp s ửa tốt nghiệp. Cũng giống như tâm trạng các bạn cùng khóa, tôi chỉ ngồi trong Hội Trường mà đầu óc cứ nghĩ vẫn nghĩ vơ cái gì đâu đó:

- Muốn "Trong lang miếu ra tài lương đống " thì chọn Công Binh, Quân Nhu, Quân Cảnh, Quân cụ...

- Muốn "Biên thùy rạch mũi can tương " thì chọn Nhảy Dù, TQLC, BĐQ, Lực Lượng Ðặc Biệt, các Sư Đoàn BB tinh nhuệ...

- Muốn "Hối tàng nơi bồng tất " thì chọn An Ninh QĐ, Đơn Vị 101, Cảnh Sát Đặc Biệt, Biệt phái ngoại ngạch...

Sao có nhiều cái "muốn" quá vậy?. Một SVSQ Đà Lạt khi nhập trường cho đến khi tốt nghiệp đều "ÔM " một giấc mộng như nhau:

"Làm sao bách thế lưu phương
Trước là Sĩ sau là Khanh Tướng"

Cho nên khi tốt nghiệp cũng cùng một quan niệm như nhau: "Hoặc xanh cỏ hoặc đỏ ngực". Chẳng có ai nghĩ rằng cũng chẳng xanh cỏ, cũng chẳng đỏ ngực, mà phút chốc có một ngày nào đó không xa mà rất gần, trở thành què cụt đui mù để trở thành kẻ báo cô cho gia đình và thân nhân. Và cũng chẳng có ai nghĩ rằng, cơn đại họa của Mệnh Nước Vận Nhà đổ ập xuống như cơn thác lũ, phải vất kiếm cung, cởi bỏ chiến bào cùng nhau lũ lượt rũ nhau vào tù, để sống những tháng năm dài bất tận thìên thu trong nỗi uất nghẹn của kẻ bại trận. Và cũng chẳng có ai nghĩ rằng, bỗng một buổi sáng hay một buổi chiều, mình phải lìa bỏ quê cha đất tổ, lìa bỏ cả cha mẹ vợ con gia đình để bắt đầu sống một cuộc sống lưu vong ê chề tủi nhục của một kẻ tha phương cầu thực .

Vào cuối tháng 11 năm 1967. Phái đoàn Lực lượng Ðặc Biệt đến thuyết trình. Cơ cấu tổ chức và nhân sự, sao mà quá nhiêu khê không giống như Nhảy Dù, BĐQ , TQLC , Sư đoàn Bộ Binh v.v. và v..v...Cái gì đâu là A Team, B, C, CIDG, MIKE Force, Delta, 91 Biệt Cách Dù...Xem một đoạn phim chiếu lại trận Pleime đẫm máu thấy toàn hình ảnh các chiến sĩ anh dũng Yra , Yđê , Ysàriêng, Thạch Khương, Thạch Phịch gì đâu không hà .

Nói thì nói vậy, chứ tôi đã mê cái binh chủng này từ lâu rồi.

Khi còn ở Trung Học, tôi nói dối Ba tôi cho tiền mua quyển sách đề thi Toán của giáo sư Nguyễn-văn-Phú và Đàm-Quang-Hưng, để đi xem ba xuất xi-nê cuốn phim " Les canon des Navaron ".

Trong phim mô tả lại cuộc xâm nhập của một toán Ranger của Liên Đoàn II Lực Lượng Ðặc Biệt Mỹ (tài tử Geogry Peck đóng vai Thiếu Tá trưởng toán, nhằm phá hủy những cỗ đại pháo cực kỳ tối tân của quân Đức Quốc Xã (Gun Battery) tại Point Du Hoc, chỉ cách nơi đổ bộ trên bờ biển Normandie một cây số bên trong đất liền. Nếu nhiệm vụ của toán này thất bại thì không có một chiếc tàu đổ bộ nào của quân đội Đồng Minh đặt chân lên bãi Omaha và Utah Beach .

Trung tuần tháng 12 năm 1967, trước ngày chúng tôi mãn khoá 2 tuần lễ, phái đoàn thứ hai của Bộ Tư Lệnh, LLĐB đến trường để chọn tân Thiếu Úy. Chỉ có 27 SVSQ Khoá /22 tham dự, lần lượt tôi cũng được gọi tên phỏng vấn. Đại Úy Bác Sĩ Trần-văn-Út là người trưởng phái đoàn.

-Chào Bác Sĩ.

-Ngồi xuống đi. Tên anh là Trương-văn-Út hả ?

-Dạ vâng!

-Tại sao anh thích Lực Lượng Đặc Biệt?

-Dạ, tôi không biết.

-Tại sao cha anh họ Trần mà anh là họ Trương ?

-Da, tôi cũng không biết nữa!

Câu hỏi lãng xẹt khiến tôi gần nỗi dóa, định đứng dậy chào rồi đi ra.

Nhưng:

Bác Sĩ nhìn Em Bác Sĩ cười
Em nhìn Bác Sĩ mộng hoa tươi
Sau này màu Mũ lá xanh đó
Bốn phương tám hướng mặc tung hoành

Ông Thượng Sĩ phòng Tổng Quản Trị đọc tuyên ngôn :

- Kính quí vị, ai có tên trong danh sách này xin ngồi lại, không có tên xin trở về doanh trại. Cám Ơn

Chỉ có tám (8) người còn ngồi lại, trong đó có tên tôi. Cũng dễ hiểu thôi, vì danh sách này đã có trước từ BTL, truớc khi phái đoàn (select team) đến trường.

Anh cột chèo chú bác ruột của tôi là Bác Sĩ Ngô-vi-Dương đang kiêm Y Sĩ Trưởng Bộ Tư Lệnh, LLĐB.

Tám tân Thiếu Úy Khoá 22 Võ Bị Ðà Lạt trình diện Phòng Tổng Quản Trị BTL/LLĐB ở Nha Trang, sau 15 ngày nghỉ phép.

- Trần-văn-Ni vác hành trang trình diện BTL/SĐ1BB...vì an ninh lý lịch.

- Xường, Chân, Xinh... trình diện BCH C4

- Út, Chẩn, Tiễn... trình diện BCH/TĐ 91 Biệt Cách Dù

- Đặng-văn-Lợi... trình diện Bộ Chỉ Huy TĐ MikeForce

Ở Nha Trang chỉ còn lại tôi, Chẩn, Tiễn và Lợi hưởng được những ngày cuối năm của Tết Mậu Thân. Tiếng pháo giao thừa trộn lẫn tiếng AK, B40, Beta. Tôi bị thương, nằm bệnh xá Bộ Tư Lệnh ba ngày, đơn vị của Chẩn và Lợi được ném xuống Khe Xanh. Họ không bao giờ trở về với bông mai vàng vẫn còn óng ánh trên vai áo trận giặt ủi hồ thẳng nếp. Có cái đơn vị nào kỳ cục bằng đơn vị này. Thiếu Úy "sữa" vừa ra trường, vừa trình diện Đại Ðội thì có lệnh đi Gác Hòm cho vị ĐĐT của mình (Đại Úy Nghi ĐĐT/ĐĐ3 ) vừa tử trận ở Kontum trước Tết chỉ hai tuần lễ , bây giờ phải đi gác hòm cho cố Trung Tá Lê-Như-Tú (TĐT/TĐ91 BCD) vừa ngã gục trong đêm Giao Thừa Tết Mậu Thân trên phố Độc Lập, Nha Trang, với những giòng nước mắt tưởng nhớ hai người bạn cùng khoá, chỉ cách đây một tuần ngồi uống bia với những con ốc buơu luộc chấm nước mắm gừng ở quán số 5 ven bờ biển.

Số mệnh an bài nghiệt ngã chưa chịu dừng lại ở đây. Hai tháng sau, trên mặt trận Cây Quéo, Cây Thị trong đợt tổng công kích đợt hai, tôi ôm xác Huỳnh Kim Tiễn mà không có thủ cấp. Một trái không giật đã lấy đi gương mặt hiền hòa cùng bộ não thông minh của người bạn cùng khoá còn lại của tôi, cùng TĐ 91 BCD. Tiễn chết không nhắm mắt, bởi còn mắt đâu mà nhắm, nhưng nụ cười hiền hoà như vẫn còn vương đọng trong tôi như một lời nhắn nhủ "Tao đã đền xong nợ nước thù nhà ".

Thời gian trôi qua như một giấc mơ. Chỉ hơn hai năm tôi phục vụ TĐ 91/ BCD (sau này đổi thành TĐ81 BCD vì xui quá chết như rạ) mà đã trải qua sáu (6) vị ĐĐT: Trần-Hoạt-Thành , Nguyễn-đăng-Lâu, Huỳnh-văn-Thanh, Ngô-Tùng-Lam, Nguyễn-văn-Lân, Phạm-Châu-Tài.

Một binh chủng như thế, một đơn vị như thế có xứng đáng để người đời ca tụng:

"Kinh Luân Khởi Tâm Thượng, Binh Giáp Tàng Hung Trung ".....


***

Ngồi trên mũi boong tầu Dương vận hạm 505. Tầu đang xuôi Nam, điểm đến là quân cảng Bạch Đằng. Ngày mai sẽ ra sao? Nào ai biết ra sao?! Bên cạnh tôi là Đại Úy Nguyễn-chí-Thanh (ĐĐT/ ĐĐ 6/TĐ 81 BCND) Trung Úy Hồng-Quang-Bảo (ĐĐP), Trung Úy Nguyễn-văn-Thinh (ĐĐP) của tôi. Bên dưới lòng tàu lô nhô nam phụ lão ấu chen chút nhau với rương hòm, valy, túi xách, lẫn lộn với ba-lô nón sắt súng đạn cùng hai chiếc xe Jeep của hai Đại Ðội. Trong lòng mỗi người, chắc hẳn đều có một suy tư riêng và cũng chắc rằng chẳng có suy tư nào giống suy tư nào. Những quân nhân và gia đình sinh quán ở Nha Trang mang một nỗi buồn mênh mang xa xứ. Những người gốc gác Sài Gòn, Gia Định, miền Đông, miền Tây tự an ủi mình: thôi gần gia đình sẽ có dịp thăm viếng nhiều hơn.

Chắc có lẽ, không có ai trong số người đang nằm đang ngồi, hoặc đi tới đi lui dưới lòng tàu kia nghĩ rằng: "Ngày mai hay ngày mốt còn nhìn thấy chiếc mũ Green Beret ngạo nghễ trên vầng trán của mình hay không ??? ". Một binh chủng đi đông về ít, đi ít về không... hoặc đi luôn không thèm về nữa ".

Ngày xưa trước khi Kinh Kha sang sông Dịch, còn được Thái Tử Đan khoản đãi yến tiệc linh đình với cung tần mỹ nữ. Ngày nay chúng tôi sang sông Dịch không kèn không trống, chỉ có chút ít thời gian ôm vợ con hôn từ giã với câu hỏi:

- Mẹ con mày còn đủ gạo ăn tháng này hay không ?

Hòm gỗ cài hoa đã có Tiểu đoàn Chung Sự lo toan. Còn khăn sô áo tang xe lăn, nạng gỗ, không biết mẹ mày liệu có lo toan được hay không?

Tôi quay sang hỏi Thanh:

- Anh đang nghĩ gì vậy?

Trước khi về TĐ 81 BCD, anh là Trung Úy, Tóan Trưởng Biệt Hải, xâm nhập bờ biển Hải Phòng năm 1966 bằng tàu đánh cá cải trang của Hải Quân QLVNCH.

Toán bị " bể ", được cứu thoát khi cánh tay phải của anh lặt lìa, cũng may nhờ Quân Y của Đệ Thất Hạm Đội Mỹ chắp vá cho nên cánh tay phải vẫn hoạt đông bình thường..

Vẫn cái giọng nói, cái giọng cười khàn đục của Anh, với cánh tay thương tật vung vẫy:

-Mẹ! Từ Biệt Hải, tự ái không thèm giải ngũ, lại về Biệt Cách, bây giờ về Trinh Sát Dù. Thôi cũng được, chứ đưa tao về Biệt Ly là tao Biệt Kinh Kỳ ngay.

Trung Úy Thinh hỏi:

-Biệt Ly là cái gì vậy Đại Úy?

-Là ĐĐT Chung Sự Nghĩa Trang Biên Hòa chứ còn con mẹ gì nữa.

Thanh thò tay móc bi đông mở nắp, hớp vài hớp, đưa sang cho tôi. Tôi cũng làm một hớp. Trời đất "Ông già đi bộ " (Jonhny Walker). Tôi giao bi-đông cho Hồng-Quang-Bảo, rồi cho Thinh.

Bảo tư lự chẳng nói năng gì, nhìn bâng quơ vào khoảng trời xanh vô tận. Chắc anh đang nghĩ đến giòng họ nhà Hồng Quang của Anh đang ở Đài Loan cùng với gia đình nhà họ Tống. Thinh nắm lấy tay tôi:

-Trung Úy! Có Tôi bên cạnh đây!


***

Rồi thời gian cũng qua mau như là một giấc mơ...

- ĐĐ5/81BCD...cải danh là ĐĐ2 Trinh Sát ND.

- ĐĐ6/81BCD...cải danh là ĐĐ3 Trinh Sát ND.

Mang cái tên Trinh Sát ND nhưng thịt xương máu huyết là 81 Biệt Cách Dù.

Trận Lam Sơn 719 Hạ Lào (1971). Thân xác của Đại Úy Nguyễn-chí-Thanh đã được gởi trọn ở một vùng đất xa lạ nào đó, không phải quê cha đất tổ của Anh. Anh không bị thuyên chuyển về Biệt Ly mà lần này là Biệt Xứ, Biệt Hải, Biệt Cách, Biệt Ly.

Biệt Xứ hay Biệt Biệt gì chăng nữa cũng là Vĩnh Biệt. Hồng Quang Bảo cũng theo anh. Thân xác dù được đồng đội gói ghém nhiều lần trong poncho rách tả tơi, mà vợ con gia đình không nhìn mặt được lần cuối. Có lẽ giờ đây thân xác các anh đã hòa tan vào những vùng đất phì nhiêu màu mở của núi đồi phía Tây Khe Sanh, Lao Bảo, trên dãy Trường Sơn trùng điệp ngút ngàn Hạ Lào xa lạ.

Charlie - Mùa Hè Đỏ Lửa - (1972). Mặt trận Tây Nguyên, Liên Đoàn 81 BCD, triệt xuất vùng Tam Biên, ĐĐ2 Trinh Sát ND (tiền thân của ĐĐ5-BCD) xâm nhập để đương đầu với SĐ Thép 320 của CS Bắc Việt, cùng với trọng pháo 130 ly, hỏa tiễn 122, xe tăng T-54. Nguyễn-văn-Thinh lúc ấy là ĐĐT/ĐĐ 111 của TĐ 11 ND (Song Kiếm Trấn Ải).

Khi Cộng quân tràn ngập Charlie, Thinh như một Rambo. Giầy saut, quần trận, áo thun ba lỗ, đầu chít khăn Viễn thám, ngực quấn đầy dây đạn, hai tay với khẩu M-60 quạt trái, quạt phải, đứng sừng sững trên giao thông hào, miệng không ngớt:

-ĐM chúng mày lên đây... lên đây!

Rồi thân xác của Thinh cũng rả rời từng mãnh vụn bởi hằng trăm nhát mã tấu thù hận của quân khát máu. Sau này tôi có dịp trở lại Nha Trang. Người mẹ già gầy rọp thân thể của Thinh hỏi tôi, tôi chỉ biết nghẹn ngào trả lời:

-Thinh vẫn còn ở lại Charlie với Trung Tá Nguyễn-đình-Bảo.

Trận Hạ Lào Lam Sơn 719... ĐĐ 3 Trinh Sát ND (ĐĐ6/ 81BCD) xem như xóa sổ!
Kontum kiêu hùng, Quảng Trị vùng lên... ĐĐ2Trinh sát ND (ĐĐ5/81BCD) thân xác còn đó, nhưng thịt xương rã rời, máu huyết tan loãng.


***

Tôi không thể nhớ hết, sao tôi còn có thể nhớ hết được khi thời gian quá ngắn, mà trang sử thì quá dài . Đã có bao nhiêu đồng đội thân thương của mình, cùng chung một chuyến tàu há mồm xuôi Nam, giã biệt trại Hoàng Diệu đã nằm xuống, mà tôi vẫn còn đây. Họ nằm xuống, xanh cỏ...để tôi được Đỏ Ngực. Đỏ Ngực vì Huy Chương đầy ngực hay đỏ ngực vì tim tôi rỉ máu. Bao nhiêu tháng năm qua, mỗi khi nhớ đến Họ.

Thượng Sĩ, Trung Sĩ Nhất, Trung Sĩ, Hạ Sĩ Nhất, Hạ Sĩ... Họ là những quân nhân ưu tú nhất của QLVNCH, Họ là những bậc thầy của tôi, hướng dẫn, chỉ bảo, trao truyền kinh nghiệm chiến trường cho tôi trong những bước chân đầu đời binh nghiệp. Có một lần đơn vị trực thăng vận vào mục tiêu Asha, Alưới. Chân chạm đất là chạm địch ngay, Hạ Sĩ Nhất tên Minh, mang máy PRC25, nắm cổ áo tôi vật ngã xuống đất và hét:

- ĐM! Thiếu Úy Đà Lạt gì mà ngu thấy mẹ!. Cứ la xung phong, xung phong. Ðưa ngực cho nó phạng, chết mẹ hết ráo còn lấy ai xung phong !!

Họ là những người lính già không bao giờ chết. Họ chỉ nhạt nhòa đâu đó, trong tim Tôi, trong óc Tôi, chung quanh Tôi, mờ mờ nhân ảnh ... Anh không chết đâu Anh, Anh chỉ vừa bỏ cuộc hôm qua… Hôm nay còn lại gì? Có còn chăng chỉ còn tình Huynh Đệ mong manh như những hạt mưa bong bong. Dễ kết dễ ly. Dễ hợp dễ tan. Cố gìn giữ được cái gì hay cái đó, ngày nào hay ngày đó. "Quân Tử Chi Giao Đạm Nhược Thủy". Tình Huynh Đệ hôm nay không cần vồn vập sôi nỗi, mà cần lắng kết vào bên trong, thông cảm tha thứ cầu mong điều lành cho nhau, sẵn sàng cứu giúp dù phải phá chấp hy sinh, không ra ngoài mục đích hài hòa những mối tương giao tình tự "Một ngày Lính là một đời Lính" Mũ Đỏ, Mũ Xanh, Mũ Nâu, Mũ Đen, Mũ Vàng, Địa Phương Quân, Nghĩa Quân, Dân Vệ, Võ Trang Tuyên Truyền... cũng giống như nhau, cũng cùng phơi thây nơi chiến địa dưới họng súng xâm lăng của quân thù không còn nhân tính. Nhưng tiếc thay hôm nay có những Huynh Huynh Tỷ Tỷ quên lãng đi, hay cố tình quên lãng đi: "Nhất Tướng Công Thành Vạn Cốt Khô”.

Họ quên đi thời thế thế thời đã đổi thay. Họ vẫn xênh xang áo mão hoàng triều, huy chương đầy ngực, lon lá lé l ói xum xoe trong những lễ hội hoa đăng. Nhưng Họ có bao giờ nghĩ rằng bao nhiêu linh hồn uổng tử đang ở bên cạnh Họ và nguyền rủa Họ.

Có những kẻ lúc nào cũng xum xoe khúm núm Đệ Đệ Muội Muội để trở thành "Thời Lai Đồ Điếu Thành Công Vị ". Dậu đổ bìm leo. Họ leo lên những bậc thang Danh Vị của Họ giống như những Công Công của thời vua chúa quân chủ đời nhà Tống, nhà Minh bên Tàu. Họ đạp thẳng chân, thẳng tay, vào mặt những người đàn anh của Họ, mà đáng lý ra Họ phải tôn kính và nhớ ơn.

Ngày nay, trong một cuộc sống quá xô bồ, hối hả, căng thẳng với gia tốc của nhu cầu vật chất, tôi được quyền có những giây im lặng, trầm tĩnh trong cuộc sống hằng ngày, để tự lắng vào bên trong, để có dịp gặp lại những hình ảnh thân thương của đồng đội, trên chiếc tàu há mồm xuôi Nam để từ mũ Xanh thành mũ Đỏ. Màu gì cũng là màu, nhưng màu máu của con người không ai thay được.

ĐĐ5/81 BCD và ĐĐ2 Trinh Sát ND, chỉ là một.

Trương Út tức Út Bạch Lan
(Khoá 22/TVBQGVB)
nguồn: https://www.facebook.com/groups/1051752364862874/permalink/1812697938768309/

BachMa
07-25-2018, 06:38 PM
Cái Chết Hào Hùng Ở Giờ Thứ 25
Thượng Sĩ Nguyễn Ngọc Ánh, SĐ 9 BB QL/VNCH

“Anh bỏ trường xưa, bỏ áo thư sinh, theo tiếng gọi lên đường
Anh đi vì đất nước khổ đau, anh đi … anh quên thân mình….”
(Nhạc phẩm “Cho người vào cuộc chiến”, nhạc sĩ Phan Trần)

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1532540042-CaiChetHaoHung_01.jpg
Từ xưa tới nay, khi nói về một chiến công, khi ca tụng một anh hùng, người ta thường có thói quen nhắc nhở đến những vị tướng tá trong quân đội hoặc những người có tiếng tăm trong xã hội mà nhiều người biết đến, chứ ít ai nhắc nhở hay đi tìm hiểu những hành động anh hùng của những con người, mà tên tuổi của họ còn xa lạ với mọi người… mà thực ra, nếu chúng ta đem những hành động dũng cảm của họ ra so sánh, chưa hẳn ai đã hơn ai. Tôi cho đây là một sự thiếu sót lớn lao của những người cầm bút, của những nhà viết sử trong thời gian qua.

Nếu viết về những hành động dũng cảm, gương hy sinh của những chiến sĩ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà (QL/VNCH) suốt 20 năm cầm súng chiến đấu để ngăn chặn làn sóng xâm lăng của bọn Cộng Sản phương Bắc, thì không phải chỉ có những sự hy sinh của cố Đại Tướng Đỗ Cao Trí, Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh, Đại Tá Nguyễn Đình Bảo, Trung Tá Phạm Phú Quốc… mà theo tôi, sự hy sinh của những vị tướng, tá trên đây cũng không khác gì những hành động và sự hy sinh đầy quả cảm của trên nửa triệu chiến sĩ QL/VNCH khác đã nằm xuống trên khắp chiến trường từ miền Nam ra đến miền địa đầu giới tuyến trong suốt 20 năm chiến đấu chống giặc vừa qua.

Cũng như tất cả mọi người, tôi khâm phục những hành động gan dạ, dũng cảm và ca tụng những chiến công hiển hách của những anh hùng đó, dù biết trước khi bước vào cuộc chiến sẽ gặp biết bao hiểm nguy, có thể hy sinh tính mạng. Thế nhưng, họ vẫn hăng hái vào cuộc, chấp nhận những rủi may và thua thiệt cho mình không ngoài mục đích cao cả: Ngăn chặn làn sóng xâm lăng của Cộng Sản, bảo vệ sự Độc Lập cho Tổ Quốc, Tự Do cho toàn dân.

Chiến tranh là những bất trắc, hiểm nguy luôn luôn rình rập vây quanh. Người chiến sĩ đã chấp nhận vào cuộc là đã chấp nhận đoạn kết của những sự rủi may xảy đến cho bản thân mình bất cứ lúc nào. Hành động lao lên phía trước trong lưới đạn của quân thù của người binh nhì bộ binh cũng có giá trị tương đương như hành động phác họa kế hoạch hành quân và thị sát mặt trận để chỉ huy của một ông tướng. Hai nhiệm vụ tuy khác nhau, nhưng đều có chung một mục đích: tìm và diệt quân thù!. Quân đội rất cần những cấp chỉ huy giỏi và cũng không thể thiếu những anh chiến sĩ gan dạ, kiên cường.


***

Nhân tưởng niệm 30 năm mất nước 1975-2005, tôi xin được kể về cái chết của một người lính chiến, một cái chết hào hùng ở vào giờ thứ 25…

...Là người quân nhân, trong cuộc đời lính chiến của mình, ai không một lần được chứng kiến những chiến công hiển hách của đơn vị hoặc một sự hy sinh anh dũng của đồng đội mình. Bởi vậy, suốt hơn 5 năm sống trong quân ngũ, tôi đã được chứng kiến khá nhiều gương hy sinh của cấp chỉ huy, bạn bè và những thuộc cấp của mình. Nhưng có lẽ ấn tượng sâu sắc nhất vẫn mãi mãi in đậm trong tâm hồn tôi cho đến bây giờ, chính là cái chết của Thượng Sĩ Ánh, người trung đội trưởng trẻ tuổi và tài năng của Đại Đội tôi…


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1532540052-CaiChetHaoHung_02.jpg

Thượng Sĩ Nguyễn Ngọc Ánh, 21 tuổi, Trung Đội trưởng Trung Đội 2, Đại Đội 4, Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 15, Sư Đoàn 9 Bộ Binh có lẽ là một Thượng Sĩ trẻ nhất của QL/VNCH.

Gặp và biết được Ánh, khi tôi được thuyên chuyển về Tiểu Đoàn 3/15, và được Tiểu Đoàn đưa xuống làm đại đội trưởng Đại Đội 4, thay thế cho vị ĐĐT tiền nhiệm vừa thuyên chuyển nhận công tác khác.

Cũng như các đơn vị trưởng khác, trước khi tiếp xúc với anh em binh sĩ trong đại đội, tôi cho mời tất cả các cấp chỉ huy từ Tiểu Đội trưởng trở lên, để làm quen và tìm hiểu tâm tình của anh em binh sĩ trong đại đội. Ấn tượng in đậm trong tâm hồn tôi mạnh nhất là hình ảnh một anh lính rất sữa: nhỏ con, dáng dấp trắng trẻo như một thư sinh, rụt rè, bẽn lẽn khi phải tự giới thiệu về mình: E…m, em Trung Sĩ Nhất Nguyễn Ngọc Ánh, số quân…

Trong lúc cậu ta đang tự giới thiệu về mình, Thiếu Úy Quang (ĐĐ phó) nói nhỏ vào tai tôi:

- Nó thì lúc nào cũng như con gái vậy, nhưng trung úy coi chừng lầm chết… mỗi lần đụng địch là tự nhiên nó lì lợm và dữ như cọp vậy.

Từ ấn tượng ban đầu tốt đẹp đó, dần dần tình cảm tôi dành cho Ánh không còn đơn thuần là tình cảm của một cấp chỉ huy đối với một thuộc cấp, mà tôi coi nó như một người em ruột của mình. Ngược lại, Ánh cũng rất qúi trọng và không hề giấu diếm tôi điều gì về cuộc đời và gia đình Ánh:

- Trung úy biết không?…

Tôi ngắt ngang:

- Lại Trung úy, em quên những điều anh dặn rồi à?

- Dạ, em nớ, nhưng tại em quen miệng… Thưa anh, ba em bị Việt Cộng giết chết (vì ông là Phó Xã trưởng An Ninh) lúc em mới 16 tuổi, mỗi lần nghĩ đến cái chết của ổng là em không sao học được nữa. Anh biết không, bọn nó tàn ác lắm, nó đập đầu ổng chết rồi còn tàn nhẫn moi óc ra ngoài… Sau khi chôn cất ba em xong, em đã tình nguyện nhập ngũ 3 lần, nhưng không ai nhận em cả vì họ cho rằng em còn quá nhỏ, và họ khuyên em lên về nhà tiếp tục đi học. Đằng đẳng 2 năm, nói là đi học chứ thật ra đầu óc em lúc nào cũng chỉ ẩn hiện những hình ảnh về cái chết thương tâm của người cha, và những căm thù món nợ máu phải trả cho ông già. 18 tuổi, em tình nguyện ngay vào sư đoàn 9, và được cho đi học khóa Hạ Sĩ Quan tại TTHL/Đồng Đế Nha Trang. Ra trường em may mắn được đổi về Tiểu đoàn này cho đến ngày nay…

Ánh không kể về những chiến công của mình, về sự gan dạ và cái lon Trung Sĩ Nhất đặc cách được gắn tại mặt trận của mình, chỉ sau một năm có mặt tại đơn vị. Càng gần gũi Ánh, càng chứng kiến sự gan dạ, khôn ngoan và tài lãnh đạo chỉ huy của Ánh, tôi càng khâm phục và thương nó nhiều hơn. Có nhiều lúc, chứng kiến những hành động quá hăng say của Ánh trong chiến đấu, tôi đã phải kêu máy dzũa cậu ta một cách thậm tệ. Cũng vì cậu ta vì quá hăng say chiến đấu, đôi lúc đã quên mình là cấp chỉ huy, lao lên tuyến đầu làm nhiệm vụ của một người lính khinh binh. Bất luận lúc nào, khi nghe tiếng súng nổ là cậu ta như con hổ dữ lao lên phía trước với hai trái lựu đạn trong tay, nhào vào những dãy hố phòng thủ của địch, mặc cho lưới đạn đan kín tứ bề. Chỉ tội cho cậu hiệu thính viên, vừa phải khó nhọc bám theo Ánh truyền và nhận lệnh, vừa phải nghe những lời la hét giận dữ của tôi… và lần nào cũng như lần ấy, điệp khúc: Xin Alfa thông cảm, em thấy mục tiêu ngon quá, phải tấn công nhanh mới kịp…


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1532540064-CaiChetHaoHung_03.jpg

Có một điều khá lạ lùng là, như có một phép mầu nào đó che chở: chẳng có một viên đạn nào thèm đụng đến cậu ta. Và một lần nữa, TSI Nguyễn Ngọc Ánh nhận cấp Thượng Sĩ đặc cách tại mặt trận sau một trận đánh giải tỏa tỉnh lộ từ quận Cai Lậy (Định Tường) vào tỉnh Kiến Tường, với thành tích: Tiêu diệt trọn vẹn một trung đội súng nặng của Việt Cộng. Tịch thu hàng chục cây súng, trong đó có 1 súng cối 82 ly, 1 Đại liên 12 ly 8, 2 B40… trong lúc cậu ta vừa tròn 21 tuổi.

Khi tiếng súng đã im bặt, Ánh lại trở về thế giới rụt rè, e lệ cố hữu. Nếu ai chưa từng chứng kiến những hành động gan dạ và dũng cảm của Ánh ngoài mặt trận, khó có ai lại tin được rằng cậu bé với dáng dấp thư sinh đó, lại là một cấp chỉ huy khôn ngoan, dạn dày kinh nghiệm, đã gây ra không biết bao nhiêu thiệt hại đáng kể cho bọn Cộng Sản xâm lăng…

Thượng Sĩ Nguyễn Ngọc Ánh, 21 tuổi đời, còn quá trẻ và cấp bậc thì quá nhỏ nhoi trong quân đội. Thế nhưng, anh có đủ tư cách, phẩm chất của một người lính chân chính. Hành động của anh thật xứng đáng là hành động của một anh hùng: Anh đã dùng súng tự kết liễu đời mình, sau khi nhận được lệnh tùy nghi của Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng, do tôi ban lại. Anh đã hành xử đúng phẩm cách của một cấp chỉ huy: thà tự xử mình, chứ không để kẻ thù xử mình.

Tiếng súng tuẫn tiết lúc 10 giờ 25 phút, ngày 1/5/1975 tại phi trường Mộc Hóa, tỉnh Kiến Tường của Thượng Sĩ Nguyễn Ngọc Ánh đã để lại ấn tượng không phai trong tâm hồn tôi, và là bài học nhắc tôi luôn nhớ: là chiến sĩ QL/VNCH, tôi phải luôn luôn sống xứng đáng với tâm niệm Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm.

Người chiến sĩ anh hùng Thượng Sĩ Nguyễn Ngọc Ánh đã oai dũng và hiên ngang ra đi không một lời giã biệt, không có lá Quốc Kỳ VNCH phủ ấm thân Anh, nhưng tấm gương hy sinh cao cả của Anh vẫn còn mãi lưu danh cho hậu thế nối tiếp.

https://www.facebook.com/groups/1051752364862874/permalink/1791988754172561/

BachMa
08-12-2018, 03:49 PM
Trực Thăng Võ Trang - Không Lực VNCH
KQ Trung Tá Trương Thành Tâm

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1533934807-TrucThangVoTrang_001.jpg
cố Trung Tá Trương Thành Tâm
KQ Trương Thành Tâm là một Trung tá trong Không Lực VNCH, xuất thân Khóa 16 TVBQGVN, Phi đoàn trưởng PĐ Thần Điểu 217 (1969-1973), Không đoàn trưởng KĐ64CT (1973-1975) tại SĐ4KQ (Vùng 4 Chiến Thuật).

Từ một sĩ quan xuất thân từ Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam (TVBQGVN) vào năm 1962 nhưng lại được chọn phục vụ cho KQVN từ ngày mãn khóa, tôi rất lấy làm hãnh diện được phục vụ trong ngành Phi Hành. Nhưng tôi đã rất thất vọng sau khi về trình diện Bộ Tư Lệnh Không Quân và được lệnh phải đi Hoa Kỳ ngay để học bay trực thăng. Vào năm 1963, trực thăng đang còn là một ngành bay còn sơ khai mà mộng tôi là được bay khu trục chiến đấu. Tuy nhiên tôi nghĩ số trời đã định, mình không thay đổi được. Giấc mơ của tôi tình nguyện vào TVBQGVN, làm một người sĩ quan hiện dịch với lý tưởng chống Cộng, gìn giữ cho miền Nam này không rơi vào tay Cộng Sản độc tài và luôn bip bợm người dân và quốc tế, đã bị giao động mạnh.

Vào năm 1963, trực thăng đang còn là một ngành bay còn sơ khai mà mộng tôi là được bay khu trục chiến đấu. Tuy nhiên tôi nghĩ số trời đã định, mình không thay đổi được. Giấc mơ của tôi tình nguyện vào TVBQGVN, làm một người sĩ quan hiện dịch với lý tưởng chống Cộng, gìn giữ cho miền Nam này không rơi vào tay Cộng Sản độc tài và luôn bip bợm người dân và quốc tế, đã bị giao động mạnh. Nhưng rồi trực thăng đã trở thành một loại phi cơ chiến đấu sát liền với quân bạn trong cuộc chiến, một khí cụ cần thiết và hiệu quả cho cuộc chiến với Cộng Sản sau những năm 1964 Ngoài những phi vụ quen thuộc như bay liên lạc, tải thương, tiếp tế, đổ quân ,v.v… thì năm 1970 đã đưa trực thăng lên một nấc thang quan trọng vô cùng cho Không Lực Việt Nam Cộng Hòa (KLVNCH) với những chiếc Trực Thăng Võ Trang (TTVT).


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1533934822-TrucThangVoTrang_002.jpg
Hình minh họa

Phi vụ TTVT đầu tiên của KLVNCH được thực hiện tại Prey Veng (5.1970), trong cuộc chiến xâm nhập Kampuchea (K) để diệt trừ quân CS vẫn lẩn trốn về bên quốc gia này một cách an toàn bao lâu nay dưới sự làm ngơ của Sihanouk, quốc trưởng nước Kampuchea lúc bấy giờ. Cuộc đảo chánh của tướng Lon Nol lật đổ Sihanouk ngày 18 tháng 3, 1970, đã cho phép quân đội chúng ta truy nã quân Cộng Sản (CS) qua tận vùng an toàn bên Cao Miên của chúng. Đây là diễn tiến của một phi vụ ra quân với TTVT của KLVNCH lần đầu tiên đã làm cho quân CS thất bại não nề, thiệt hại quân số nhiều vì bị hoàn toàn bất ngờ. Một Hợp Đoàn Trực Thăng vẫn thường gồm có một phi cơ bay chỉ huy (C&C), khoảng 6 trực thăng đổ quân (slicks) và 3 chiếc trực thăng võ trang (TTVT) để yểm trợ hỏa lực cho quân bạn. Cho đến ngày 28 tháng 5, 1970, TTVT yểm trợ luôn luôn là từ quân đội Mỹ

Những cuộc chiến vào K thì không được TTVT Mỹ yểm trợ vì TT Nixon lúc bấy giờ, chỉ cho quân Mỹ yểm trợ không được quá 7 km vào nội địa K. Prey Veng, thành phố K này nằm quá tầm bay 7 cây số nên quân Mỹ không thể yểm trợ bằng TTVT hay khu trục cho quân lực VNCH. Ngày 28 tháng 5, 1970, Phi Đoàn 217 được lệnh trình diện tại Neak Leung bên K để trực thăng vận quân Thủy Quân Lục chiến của Quân Lực VNCH giúp quân đội Miên giải cứu Prey Veng. Tôi bay C&C và với các sĩ quan chỉ huy của Lữ Đoàn B TQLC do Đại Tá TQLC Tôn Thất Soạn làm lữ đoàn trưởng. Vì không có TTVT yểm trợ nên để tránh tổn thất cho hợp đoàn, tôi đã không cho đổ quân gần sát thành phố được. Tiểu Đoàn 1 TQLC đã tiến quân vào rất nhanh dưới làn mưa đạn của quân CS đang chiếm các cao độ trong thành phố.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1533934834-TrucThangVoTrang_003.jpg
Hình minh họa

Vì là mùa khô nên các đồng ruộng là bãi đáp cũng rất khô và trống nên các anh em TQLC của chúng ta đã phải tiến vào thành phố dưới lợi thế của địch quân đang chiếm các địa thể có cao độ hơn. Sự thiệt hại của quân bạn thật rõ rệt&cuộc đổ quân chấm dứt sau khi TD 1 TQLC đã hoàn thành nhiệm vụ xuống bãi đáp và tiến quân vào Prey Veng. KLVNCH đã yểm trợ chiến trường bằng các đội khu trục A-37 của Sư Đoàn 4 KQ… Qua liên lạc vô tuyến, quân bạn TQLC đã xin yểm trợ TTVT để tránh bớt thiệt hại cho quân lính. Chiều lại, sau khi hướng dẫn hợp đoàn đổ quân PĐ 217 về lại hậu cứ Bình Thủy an toàn, tôi đã có thời giờ để suy nghĩ rất nhiều làm sao để tránh bớt thiệt hại cho quân bạn TQLC của chúng ta trong ngày mai khi phải đổ thêm Tiểu Đoàn 4 TQLC vào chiến trường nối tiếp với Tiểu Đoàn 1 ngày hôm nay.

Trên đường bay về hậu cứ, tôi giao phi cơ cho hoa tiêu phó Trung Úy Cao Minh Hoàng và ngồi suy nghĩ phải có giải pháp để TTVT có thể yểm trợ Tiểu Đoàn 4 TQLC trong ngày mai thì mới giảm thiểu được thiệt hại nhân sự cho quân bạn… Đêm 28 tháng 5, 1970, tôi tìm ra được giải pháp. Lần đầu tiên trong cuộc chiến VN, Hoa Kỳ mới bằng lòng cung cấp cho KLVNCH, TTVT cho chiến trường. Họ bắt đầu bằng cách đưa một nhóm huấn luyện viên TTVT với 6 phi cơ và chọn căn cứ KQ Bình Thủy làm nơi huấn luyện TTVT cho tất cả các Phi Đoàn Trực Thăng từ Vùng 1 đến vùng 4 Chiến Thuật. Phi đoàn 211 và 217 được chọn để học khóa huấn luyện đầu tiên về TTVT.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1533934847-TrucThangVoTrang_004.jpg
Hình minh họa

Tôi đã họp PĐ 217 và nói rằng: “Bao nhiêu lâu nay hành quân chúng ta đã là những miếng mồi ngon, bay chậm và thấp, không có hỏa lực mạnh. Nhưng tình thế này đã thay đổi, chúng ta có một cơ hội để bay TTVT với hỏa lực hùng hậu đề yểm trợ quân bạn và tiêu diệt địch quân trước khi mình bị bắn…” Anh em phi đoàn đồng ý và đã tình nguyện cùng tôi học lớp huấn luyện đầu tiên bay TTVT vào tháng 3, 1970. Sau khi mãn khóa học, PĐ 217 đã có 6 phi hành đoàn đầy đủ khả năng để bay TTVT trên chiến trường, yểm trợ cho hợp đoàn đổ quân và quân bạn. Tôi xin được gặp Đại Tá Nguyễn Huy Ánh là không đoàn trưởng Không Đoàn 74 Chiến Thuật, cấp chỉ huy trực tiếp của tôi. Tôi trình bày tình hình chiến trường tại Prey Veng ngày hôm nay và cho đại tá biết là quân bạn và có thể cả phi hành đoàn sẽ phải hy sinh rất nhiều ngày mai khi đổ quân mà không có TTVT yểm trợ.

Vậy tôi xin đại tá cho tạm ngưng chương trình huấn luyện TTVT trong một ngày để PD 217 được bay những chiếc trực thăng võ trang yểm trợ cho cuộc đổ quân TD4 TQLC ngày mai. Đại Tá Ánh nói: “Anh đòi hỏi tôi làm một quyết định ngoài thẩm quyền của tôi, để tôi gọi lên trung tướng tư lệnh Không Quân xin chấp thuận phi vụ này.” Trung tướng tư lệnh chấp thuận phi vụ TTVT đầu tiên của KLVNCH này. Về lại phi đoàn tối hôm 28 tháng 5, 1970, tôi lại họp trọn vẹn PĐ 217 và nói rằng: “Ngày mai chúng ta sẽ có cơ hội bay TTVT yểm trợ cho quân bạn lần đầu tiên trong lịch sử của KQVN, tôi sẽ tình nguyện bay chiếc số 1, có ai tình nguyện bay chiếc số 2 và số 3 không?” Sự đáp ứng của phi đoàn đã ngoài sức tưởng tượng của tôi. Ai cũng nhìn thấy sự thiệt hại của quân bạn hôm nay và đều muốn hy sinh bay TTVT ngày mai.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1533934859-TrucThangVoTrang_005.jpg
Hình minh họa

Tôi chọn 3 phi hành đoàn ngay tối hôm đó. Chiếc TTVT số 1 đó tôi làm trưởng phi cơ, số 2 là Thiếu Tá Dương Quang Lễ, bạn đồng khóa 16 với tôi, số 3 là Đại Úy Nguyễn Thanh Hải. Sáng hôm sau, ngày 29 tháng 5, 1970 PĐ 217 xin tình nguyện bay yểm trợ cuộc chiến ở Prey Veng. Hợp đoàn Phi Đoàn 217 Thần Điểu cất cánh với chiếc C&C, 6 trực thăng đổ quân và 3 TTVT. Lần đầu tiên trong cuộc chiến VN các trực thăng đổ quân của PD217 được yểm trợ bằng chính hỏa lực từ TTVT của đơn vị mình. Lúc cả hợp đoàn bay qua biên giới vào nước Miên, tôi cảm thấy một niềm hãnh diện lớn lao cho lực lượng trực thăng của KLVNCH.

Hợp Đoàn Thần Điểu đến trình diện Bộ Chỉ Huy Hành Quân của Đại Tá Tôn Thất Soạn, Lữ đoàn trưởng Lữ Đoàn B TQLC tại Neak Leung và được lệnh bốc Tiểu Đoàn 4 TQLC từ Neak Leung đổ vào Prey Veng tiếp nối với Tiểu Đoàn 1 quyết lấy lại thành phố Prey Veng cho Quân Đội Miên từ tay quân Cộng Sản Bắc Việt. Vì có TTVT yểm trợ bằng hỏa tiễn và súng mini-gun bắn ra hàng ngàn viên đạn trong một phút, nên trực thăng đổ quân bạn vào sát gần thành phố hơn, tránh thiệt hại cho quân bạn TQLC rất nhiều…

Sau khi toàn thể Tiểu Đoàn 4 TQLC đã xuống bãi đáp và tiến lên như vũ bão, thì tôi hướng dẫn chiếc số 2 TTVT tiếp tục yểm trợ quân bạn. Qua vô tuyến, các anh em TQLC cho chúng tôi biết quân Cộng Sản leo lên những cây xoài trong thành phố, lên hồ nước cao (chateau d’eau) (toàn những điểm có cao độ) để bắn sẻ các chiến binh TQLC từ ruộng khô và trống tiến vào thành phố. Được chỉ điểm rõ rệt như vậy, hai TTVT của tôi và Lễ đã bắn vào những mục tiêu quân Cộng Sản này và họ đã chết rớt từ trên cây xuống như sung rụng… Quân bạn thì reo mừng khi thấy như vậy nhưng mấy anh lính Bắc Việt thì không biết nghĩ sao??? Quân CS bắt đầu cảm thấy thất trận trước sự tấn công anh dũng của TQLC, họ từ từ rút ra khỏi thành phố theo quốc lộ và kéo theo những người dân Miên trong thành phố để làm bia đỡ đạn cho họ.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1533934871-TrucThangVoTrang_006.jpg
Hình minh họa

Tôi và Lễ lại tiếp tục bay theo truy nã và bắn chết những anh chàng VC còn ngơ ngác không ngờ quân đội chúng ta đã được trang bị đầy đủ hỏa lực như vậy. Quân VC chết và để lại xác rất nhiều trước hỏa lực của TTVT… Trong khi hăng say yểm trợ thì chiếc TTVT số 2 của Lễ đã bị trúng đạn, Lễ bị thương nhẹ nhưng anh xạ thủ phi hành Hạ Sĩ Hứa Văn Bá đã bị trúng đạn hư bàn tay. Tôi liền hướng dẫn Thiếu Tá Lễ bay ra khu trống và bay về Neak Leung. Chiếc TTVT số 3 của Đại Úy Nguyễn Thanh Hải lên thay thế. Chúng tôi lại tiếp tục yểm trợ quân bạn dưới đất và truy lùng những chàng VC đang chạy trốn rút lui khỏi thành phố. Ngay chiều hôm đó, thành phố Prey Veng đã được lấy lại từ tay quân CSBV nhờ 2 Tiểu Đoàn TQLC và Phi Đoàn Thần Điểu 217.

Cũng cần nói thêm là một tài liệu của Mỹ cho biết Prey Veng được quân Nam Vang phối hợp với quân Mỹ tái chiếm ngày 15 tháng 7. Tài liệu này không đúng sự thật, vì trận này chỉ có quân VNCH tham dự và hợp tác với quân của Nam Vang tái chiếm Prey Veng ngày 28 tháng 5, 1970. Cả hợp đoàn trực thăng vận của Phi Đoàn 217 Thần Điểu được lệnh bay trở về lại phi trường Bình Thủy để chuẩn bị cho một ngày hành quân kế tiếp. Riêng tôi, trên đường bay, tôi lại có thời giờ suy nghĩ trận chiến vừa qua. Nhìn thấy hỏa lực của những chiếc trực thăng võ trang của Phi Đoàn đã tác xạ hùng dũng và yểm trợ quân bạn kết quả vô cùng nên tôi bắt đầu nghĩ phải đặt tên cho Phi Đội TTVT của Phi Đoàn là Hỏa Điểu, người con hùng dũng của đơn vị Mẹ là Thần Điểu. Phi đội TTVT “Hỏa Điểu” đã tiêu diệt bao nhiêu quân Cộng Sản ở miền Tây nước Việt và làm vẻ vang cho KLVNCH.

Sau chiến thắng này, Đại Tá Nguyễn Huy Ánh đã gắn huy chương Anh Dũng Bội Tinh với nhành Dương Liễu tuyên dương công trạng của Phi Đoàn Thần Điểu 217 trước quân đội. Riêng tôi một năm sau đó đã được chọn làm Chiến Sĩ Xuất Sắc Nhất của Không Quân trong mặt trận Kampuchea và được tưởng thưởng đi Đài Loan một tuần để thăm viếng và “bồi dưỡng.”


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1533934886-TrucThangVoTrang_007.jpg
cố Trung Tá Trương Thành Tâm

Tôi đã rất hãnh diện được đóng góp vào cho Quân Lực VNCH với Phi Đoàn Thần Điểu 217 chống lại sự xâm lăng của quân CSBV. Rất tiếc là khi “Đồng Minh Tháo Chạy” thì quân lực của chúng ta bị trói tay lại vì không còn đủ súng đạn để chiến đấu. Tôi vẫn xem chuyện mất nước của chúng ta là một quốc nạn vì số Trời đã định.

KQ Trung Tá Trương Thành Tâm

BachMa
08-29-2018, 06:01 PM
Trung Tướng Dương Văn Đức Chọc Tức Cộng Sản
Trong Tù Cải Tạo
(Câu chuyện hơi tục nhưng khá hài hước)

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1535564695-TrungTuong_DuongVanDuc_01.jpg
Cũng nằm chung trại với chúng tôi, có nhiều Tướng Lãnh VNCH lắm. Có những vị Tướng lúc nào cũng giữ tư cách Tướng, anh em rất nể phục. Nhưng cũng có những Tướng Lãnh rất là nhàm chán. Tướng Đức là một trong ba Tướng . . . mồ côi, tức là không có thân nhân thăm viếng (Hai vị Tướng kia là Tướng Lam Sơn - Phan Đình Thứ và Tướng Hồ Trung Hậu).

Từ khi còn ở ngoài đời, sau vụ đảo chánh TT Diệm, sau vụ các Tướng Lãnh chỉnh lý lẫn nhau, Tướng Đức đã được coi như là một Tướng.. mát giây (điên). Chính tôi đã mục kích một lần, ông đứng ở góc đường Hồng Thập Tự và Thống Nhất, ngay góc Dinh Độc Lập, mà chửi bới Tướng Thiệu. Tuy nhiên, ông chửi bằng tiếng Pháp, nên tôi không rõ ông chửi những gì?

Trong một buổi sinh hoạt đặc biệt của trại tù, để kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ, một Đại Tá Việt Cộng, tên là Cao Nham, đã được Bộ Nội Vụ của chúng chỉ định đến trại để nói chuyện với các trại viên về chiến thắng này.

Từ sáng sớm, anh em đã phải thức dậy lo quét dọn, xếp ghế ngồi để chờ tên cán ngố này đến. Cũng như thường lệ, anh em chúng tôi, dù là ở trong trại tù, vẫn giữ quân phong quân kỷ của riêng mình, nên các Tướng Lãnh được xếp ngồi trước, rồi mới tới hàng Tá, Úy...

Tên Nham (nhở) nói chuyện vung cán cuốc, văng nước miếng tùm lum, ba hoa về cái mà chúng gọi là chiến thắng ĐBP. Nham vung tay la hét:

Chiến thắng Điện Biên Phủ là một chiến thắng thần thánh.

Chiến thắng Điện Biên Phủ là một chiến thắng to lớn của đảng cộng sản việt nam.

Chiến thắng Điện Biên Phủ đã đánh nhào Đế Quốc Pháp.

Trong khi hoa chân múa tay, y để ý thấy Tướng Đức có cuốn sổ tay, đã lúi húi ghi chép những lời nói của y. Y thấy vậy lại càng sung sướng, nghĩ bụng:

“Tên Tướng này . . . học tập tốt, nó phục tài ăn nói của mình nên mới ghi chép kỹ lưỡng như vậy, chứ thường thì mấy thằng tù cải tạo đâu có thèm để ý gì tới những lời nói của mình!”

Vì thế, thay vì nói có hai tiếng, tên này hăng tiết chó mà nói thêm cả tiếng đồng hồ nữa.

Khi nói xong, y theo thông lệ là tự vỗ tay khen thưởng một mình, rồi trịnh trọng hỏi các anh em Cải Tạo:

“Các anh ngồi hàng đầu, chắc là cấp bậc “Tướng”, phải không?

Khi được xác nhận như vậy, hắn vừa nói vừa chỉ tay vào Tướng Đức:

“Tôi thấy có anh gì đây này, học tập tốt lắm, ghi chép cẩn thận! Có vậy mới mong được chóng về với gia đình chứ! Anh tên là gì nhỉ?

Tướng Đức vẫn ngồi, trả lời lên:

“Tôi tên Đức”

Tên Nham hăng hái:

“Anh đã ghi được những gì trong bài nói chuyện của tôi? Anh có thể đọc lại cho tất cả hội trường cùng nghe được hay không?”

“Ấy, không được đâu! Tôi ghi chỉ cho một mình tôi thôi! Để tôi hiểu một mình tôi thôi, không ai được biết đâu!”

Nham nghĩ rằng, Tướng Đức còn khiêm nhường, nên thúc dục:

“Anh cứ việc đọc cho mọi người cùng nghe đi! Nếu có thiếu sót gì thì tôi bổ túc thêm cho anh, có gì đâu mà phải ngại ngùng! Đảng và nhà nước biết các anh chưa thấu triệt được những cái ưu việt của xã hội chủ nghĩa, nên không bắt lỗi gì đâu! Vì thế các anh mới phải học tập, chứ nếu các anh đã quán triệt rồi, đâu cần gì nữa! Cứ đọc cho mọi người nghe đi, tôi bảo đảm, không làm phiền gì anh đâu!

Tướng Đức nhắc lại:

“Tôi đã nói tôi viết thì chỉ có một mình tôi hiểu, một mình tôi đọc mà thôi! Tôi sợ đọc lên, mỗi người lại một ý kiến, phiền lắm! Thôi, cán bộ cho tôi miễn đi!

Tên Nham đang ở lúc cao hứng, đâu dễ gì buông tha:

“Thôi, nếu anh không muốn đọc, cứ đưa đây cho tôi vậy! Tôi sẽ xem qua và đọc lại cho mọi người nghe để cùng hiểu cho rõ!

Tướng Đức nói lần cuối:

“Được, tôi đồng ý đưa cho cán bộ xem. Nhưng tôi nói trước, đây là ý kiến riêng của tôi đó nha! Người khác muốn đọc, ráng mà hiểu, ráng mà chịu, đừng có đổ thừa tui”


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1535564711-TrungTuong_DuongVanDuc_03.jpg

Một tên quản giáo vội vàng chạy lại nhận cuốn sổ tay của Tướng Đức, khúm núm đưa lên cho tên Nham. Tên này hớn hở tiếp lấy, sửa soạn đọc những lời vàng ngọc của y mà Tướng Đức đã ghi.

Mọi người hồi hộp chờ đợi! Không biết Tướng Đức đã ghi những gì ở trong đó! Tên Nham vừa mới há miệng ra định đọc, thì mặt mày y đột nhiên tái xám lại!

Miệng y mở ra mà không đóng lại được nữa, cứ há hốc ra, khoe những cái răng đen thui bám đầy khói thuốc lào!

Tay y run lên, nước miếng từ trong miệng chẩy ra nhễu nhão! Mặt y đanh lại, cặp mắt quắc lên căm hờn! Y thở không ra hơi, nói không ra tiếng!

Cả hội trường nín thở theo y!

Một lúc sau, tên Nham mới bật ra được vài tiếng lắp bắp:

“Bắt .. Bắt.. lấy tên phản động này!

Bắt ngay lập tức!

Đánh . . . Đờ . . . Đờ . . . Đánh cho nó chết rồi đem chôn!”

Nó . . . Nó . . . dám hỗn láo với cách mạng! Nó dám chửi đảng cộng sản!

Bắt . . . Bắt! Các đồng chí đâu?

Bắt nó ngay lập tức cho tôi!”

Những tên vệ binh đứng gác chung quanh vội vàng chạy lại chỗ Tướng Đức, chĩa súng vào ông, lên đạn rốp rốp, làm như chúng bắn ông ngay lập tức.

Tướng Đức vẫn ngồi yên, bình tĩnh trả lời tên Nham:

“Đánh chết rồi . . . đem ra . . . ăn thịt thì mới đáng nói!

Chứ đánh chết rồi đem chôn thì có gì là lạ đâu!

Tôi đã nói trước cho cán bộ rồi, tôi viết thì chỉ mình tôi đọc thôi, ai muốn đọc thì nấy ráng chịu!

Cán bộ cứ muốn đọc thì tôi đưa! Sao cán bộ còn bắt lỗi tôi làm chi?”

Tên Nham lại một lần nữa phùng mang trợn mắt, lắp bắp nói chẳng nên lời!

Y ta cứ đứng đó, mặt mày tím bầm lại, mắt trợn trắng lên mà nhìn Tướng Đức, như muốn ăn tươi nuốt sống ông ta vậy.

Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, với tư cách là Trưởng Phòng tù cải tạo, đã vội vã đứng lên xin cho Tướng Đức:

“Xin cán bộ bỏ qua cho, không nên chấp nhất những ghi chú của anh Đức làm gì, anh bị . . . MÁT đấy mà, trong trại ai cũng biết cả!”

Tên Nham gằn giọng hỏi lại:

“Mát là cái gì?”

“Mát tức là . . . điên, là khùng đó mà! Hồi xưa, anh Đức đã chứi cả Tổng Thống Thiệu, Phó Tồng Thống Kỳ nữa đó! Ông Thiệu cũng đã giận dữ đòi bỏ tù anh Đức. Nhưng khi biết anh ta bị khùng, nên lại tha!

Xin cản bộ cứ hỏi tất cả anh em ở đây thì biết!”

Thế là cả trại nhao nhao lên, ai cũng nói:

“Anh Đức . . . Mát đấy mà, cán bộ chấp làm chi!”

Tên Nham thấy cả trại đồng lên tiếng, cho rằng Tướng Đức . . . khùng, không lẽ y còn chấp nhất làm chi! Một người khùng, dù có chửi đảng cộng sản, cũng không có gì đáng nói. Nếu cho Tướng Đức là tỉnh, lời ông ta chửi sẽ bay đi khắp các trại tù khác, còn nguy hiểm gấp mấy!

Suy tính một hồi, hắn . . . dịu giọng:

“Thôi, nếu các anh nói anh Đức này khùng điên, thì tôi cũng chẳng chấp nhất anh ấy làm gì! Các anh đem anh ta về trại, trị bệnh cho anh ta chóng khỏi, để mà học tập cho tốt!”

Rồi y chậm rãi xé nhó cuốn sổ tay của Tướng Đức đi.

Thế là buổi lễ kỷ niệm chiến thắng ĐBP của bọn VC bế mạc không kèn không trống!

Mấy ngày hôm sau, nhân một dịp đi làm lao động, vào lúc nghỉ trưa, anh em đã tụ họp chung quanh Tướng Đức để hỏi là, ông đã viết cái gì trong cuốn sổ tay, mà làm cho tên việt cộng tức giận tột cùng như vậy?

Tướng Đức chậm rãi trả lời:

Mấy em có nhớ cái thằng VC đó nó nói gì không?

Nó nói: “Chiến thắng Điện Biên Phủ là một chiến thắng thần thánh”, goa (Qua) móc sổ ra ghi:

“CON CẶC!”

Rồi đóng sổ lại.

Tới khi nó nói tiếp: “Chiến thắng Điện Biên Phủ là một chiến thắng vĩ đại của đảng Cộng Sản VN” goa lại móc sổ ra ghi:

“CON CẶC!”

Rồi lại xếp sổ lại.

Rổi nó lại nói: “Chiến thắng Điện Biên Phủ đã đánh nhào Đế Quốc Pháp”, goa lại móc sổ ra ghi:

“CON CẶC!”

Rồi lại đóng sổ lại.

Nó muốn đọc, goa đã nói trước rồi, không nên đọc, goa chỉ viết cho goa đọc mà thôi. Nhưng nó cứ muốn đọc, thì ráng mà chịu, bắt lỗi goa đâu có được!”..

Tất cả anh em có mặt lúc đó đều cười nghiêng cười ngửa vì những ghi chú mà Tướng Đức đã ghi trong sổ tay của ông.

Hèn chi khi tên Nham há miệng ra định đọc những giòng chữ này thì bị mắc quai. Hắn ta đã tức tối xám mày xám mặt lại mà không biết làm gì!

Cả bọn đã cười như chưa bao giờ được cười, không cần biết lúc đó đang đứng ở đâu? Và có ai rình mò gì hay không?

Ai cũng muốn nói ra, viết ra câu trả lời giống như Tướng Đực đã trả lởi, nhưng đã không dám nói, không dám làm.

Chỉ cỏ Tướng Đức mới dám nói, dám viết!

Một người trong bọn lại hỏi thêm:

Trung Tướng không sợ nó trả thù, nó . . . giết Trung Tướng hay sao?”

Tướng Đức đã khẳng khái trả lời, không có vẻ mát chút nào hết:

“SINH VI TƯỚNG, TỬ VI THẦN!

Khi còn sống thì goa làm Tướng, có chết đi thì goa cũng thành Thần, sợ chi cái tụi gủy (quỷ) này!”


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1532540441-TrungTuong_DuongVanDuc_02.jpg

Hồi còn cầm quân đánh VC, goa cứ đem quân đi gọm tụi nó lại một chỗ, rồi kêu pháo binh bắn tụi nó tan nát ra! Trận nào không gom được tụi nó, goa kéo lính về nghĩ khoẻ, chẳng chết người nào hết! Chỉ tiếc rằng hồi đó goa gom tụi nó hổng hết, để nay mới bị như dzầy! "

Hào hùng thay lời nói của Tướng Dương Văn Đức.

“ Trong chốn tù tội, có những ai dám viết ra những giòng chữ ngạo mạn, chửi bọn VC như Tướng Đức đã làm? Tính mạng đang ở trong tay bọn VC khát máu, đã có bao nhiêu người đã ngang nhiên trả lời bọn VC, như Tướng Đức đã trả lời bọn chúng?

Tôi nghe xong câu chuyện, cho rằng Tướng Đức xứng đáng được duyệt xét và chấp nhận là . . . “Đã phục vụ Tổ Quốc Việt Nam Cộng Hoà”.

Tiếc rằng Tướng Đức đã không có dịp qua định cư tại Úc.

Bọn VC không dám giết Tướng Đức ở trại tù cải tạo, chúng đã thả ông ra và tìm cách giết ông một cách lén lút, rất là hèn hạ. Chúng đã đã cho người đi rình mò và đánh chết ông, dìm xác ông ở dưới cầu Hàng Xanh.


* Nguyễn Khắp Nơi :

Tôi viết lên đây, những gì đã được Huynh Trưởng Lê Phước Khánh (khoá 13 Thủ Đức) đã kể lại những sự việc tai nghe mắt thấy ở trại tù cải tạo Hoàng Liên Sơn, nhất là về Trung Tướng Dương Văn Đức.

Đã viết thì tôi bắt buộc phải viết lại y hệt những gì tôi đã nghe. Nếu không, tôi sẽ có lỗi với Huynh Trưởng Khánh.

Nếu không ghi lại trung thực lời nói và viết của Trung Tướng Dương Văn Đức, tôi sẽ có lỗi với ông Tướng: Vì ông ta đã dám viết và dám kể lại, mà tôi lại không dám viết đúng những gì ông đã viết và đã nói.

Hơn nữa, câu chuyện này chỉ có giá trị ở những chữ mà ông đã ghi trong sổ tay mà thôi. Nếu không ghi đúng, câu chuyện sẽ mất hết cả lý thú đi, sẽ không còn là câu chuyện của Tướng Đức nữa.

Xin quý độc giả thông cảm, đừng cho rằng tôi viết bậy!


https://www.facebook.com/photo.php?fbid=610838352602980&set=gm.2251876208188148&type=3&theater

BachMa
09-04-2018, 04:05 AM
Khi chuyện ấy được tính bằng tiền
Bà vợ nói với chồng:
- Kể từ hôm nay, mọi việc tôi làm sẽ phải tính bằng tiền! Tôi chán làm không công lắm rồi.
- Cụ thể thế nào?
- Nấu ăn, 20 đô một bữa; giặt quần áo 30 đô một chậu; "lên giường".... 60 đô!
Đến tối ông chồng thì thào:
- Trong túi tôi chỉ còn 50 đô, bà bớt cho tôi lần này được không?
- Không bao giờ!
Hai người đi ngủ. Nửa đêm, ông chồng nghe có tiếng sột soạt, bật đèn lên thì thấy bà vợ đang lục túi xách nên hỏi:
- Bà tìm gì đấy?
- Tôi tìm 10 đô cho ông vay.


Dành dụm cả đời
Một ông 70 tuổi lấy cô vợ 25 tuổi và đi hưởng tuần trăng mật.
Đến ngày thứ tư, cô vợ trẻ trong rất phờ phạc vì chồng không cho rời nửa bước. Thừa lúc chồng vào nhà tắm, cô vợ lén xuống quầy cà phê của khách sạn để thư giản.
Chủ khách sạn hỏi:
- Sao? Cô thấy hạnh phúc chứ?
- Tôi mệt muốn chết đây! Ông ấy đã lừa tôi...
- ???
- Ông ấy nói là đã dành dụm cả mấy chục năm nay, không dám xài phung phí. Tôi cứ tưởng là ông ấy nói về chuyện tiền.


Tình Trong Thang Máy
Trong thang máy, khi ấn nút số tầng thì khuỷu tay của anh chàng nọ vô tình chạm vào “công tắc điện” của cô gái đứng bên cạnh. Anh chàng vội nói:
- Ối! Tôi xin lỗi cô! Nếu trái tim của cô mềm mại như bộ ngực của cô thì hy vọng cô sẽ tha thứ cho tôi.
Cô gái nhìn anh giây lát rồi trả lời:
- Nếu “cái đó” của anh cũng cứng như khuỷu tay của anh thì… tôi ở phòng số 301.


http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1405483401.gif

BachMa
09-19-2018, 07:21 PM
Đại Tá Nguyễn Viết Cần

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1532540221-DaiTa_NguyenVietCan.jpg
Đại Tá Nguyễn Viết Cần
Thiếu tá Nguyễn Viết Cần (sau là Đại tá) Tiểu đoàn trưởng đầu tiên của Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù. Ông là em ruột của Thiếu tướng Nguyễn Viết Thanh, Tư lệnh quân khu 4 và quân đoàn 4. Ông Thanh là 1 trong 4 tướng sạch, nhất Thắng nhì Chinh tam Thanh tứ Trưởng. Năm 1969 Tiểu đoàn 11 dù được đưa về trấn tại vườn Tao Đàn, sau lưng Phủ Tổng Thống phòng VC tấn công bất ngờ kiểu 1968.

Ông Cần và 1 số sĩ quan ra Tour D'Ivoire (Tháp Ngà) ăn nhậu. Có 2 MP của Mỹ vào quán bắt lính Mỹ, có lẽ họ tới số chết nên thay vì đi ra vì không có GI nào ở đó mà chỉ có đám lính dù phe ta, thì họ lại tới hỏi giấy ông Cần. MP Mỹ làm như thế là trái luật, vì thế có cãi cọ qua lại, ông Cần rút súng ra bắn chết 2 MP tại chỗ*, đám MP còn ở ngoài vây Tour D'Ivoir.

Bằng cách nào đó có người báo cho Tiểu đoàn 11 Dù ở Tao Đàn biết! Họ mang lính dù tới giải vây cho ông Cần. Sau đó ông Cần chỉ bị kỷ luật, mất chức Tiểu đoàn trưởng dù, có lẽ nhờ thế lực của ông Thanh, thêm nữa đám vũ nữ của Tour D'Ivoire (Có lẽ được mớm lời) đã khai rất tốt cho ông Cần!

Năm 1970 Tướng Thanh bị tử nạn phi cơ chung với 1 Đại tá Mỹ, người ta nói Mỹ trả thù, sau này qua đây rồi tôi mới biết chuyện đó khó xảy ra vì Mỹ coi trọng sinh mạng của 1 đại tá Mỹ hơn 1 tướng nước khác. Năm 1972 ông Cần lúc đó là Trung Tá Trung Đoàn Trưởng Trung đoàn 33 Sư đoàn 21 bộ binh, được tăng viện cho mặt trận An Lộc, ông tử trận tại Xa Cam do pháo của VC, năm đó ông 40 tuổi.

Người ta cũng nói Mỹ trả thù, điều này có thể xảy ra vì chỉ cần tiết lộ tọa độ của bộ tư lênh tiền phương của Trung Đoàn 33 là VC có thể tập trung pháo bắn nát khu vực đó.

Sau này đám VC phao tin là ông Cần dành gái đấu súng với Mỹ rồi chơi gian không đúng luật... đó là chuyện nhảm và hèn hạ. Tôi quen thân với nhiều sĩ quan cao cấp của Dù như Trung Tá Bùi Quyền, Trung Tá Nguyễn Lô (ông này là dân chơi thứ thiệt đó, biệt danh Lô lọ rượu, hỏi lính dù là biết câu "Nhất Mễ nhì Lô" liền, nổi tiếng trong trận Quảng Trị mùa hè đỏ lửa, anh được nhắc tên trong cuốn sách cùng tên của Phan Nhật nam nhiều lần).

Đại Tá Trần Đăng Khôi Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 3 Nhảy Dù, khi nhắc tới ông Cần tôi thấy họ đều lộ vẻ kính trọng, dù ông Cần không phải dân Võ Bị Đà Lạt. Nếu ông Cần chơi hèn thì không thể có được sự kính trọng đó.

* Không phải ông Cần rút súng bắn, mà hai ông Đại úy ĐĐT, đi cùng, rút súng bắn. Hai ông ĐĐT bị đi tù ở khám Chí Hòa, sau một thời gian ra SĐBB.

Kể lại theo lời của Vũ Cử Nhân
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=10204464188522116&set=gm.1811290578909045&type=3&theater

BachMa
10-07-2018, 09:01 PM
Phi Hành Đoàn Cuối Cùng Của
Không Quân VNCH Hy Sinh Cho Tổ Quốc
Lôi Bằng

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1538945642-PhiHanhDoanCuoiCung_01.jpg
Hình minh họa
Tháng Tư Đen lại đến sau 37 năm, tôi xin trích một bài từ Sử liệu CUỘC TỬ CHIẾN TRÊN KHÔNG PHẬN SAIGÒN của Thành Giang nói về chuyến bay của Tinh Long 7 trong giây phút cuối cùng của cuộc chiến để tưởng nhớ đến các anh hùng Không Quân Việt Nam Cộng Hòa đã Vị Quốc Vong Thân.

NGƯỜI HÙNG PHI CÔNG: TRƯỞNG PHI CƠ TRANG VĂN THÀNH VÀ BẢY DŨNG SĨ KHÔNG QUÂN

Phi công, trưởng phi cơ, trung úy Trang Văn Thành sinh ngày 16/9/1947 tại Rạch Gía, tình Kiên Giang. Mồ côi cha năm lên 9 tuổi. Cha của Thành là ông Trang văn Cánh, một nhân viên làm việc cho Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Tàu “bobo”của ông đã bị Việt cộng phục kích và tấn công. Ông Cảnh bị trọng thương rơi xuống sông, ông cố bơi vào bờ nhưng đã qua đời vì vết thương trầm trọng.

Cậu bé mồ côi cha Trang Văn Thành được mẹ gửi vào trường để theo học Thiếu Sinh Quân ở Vũng Tàu, Việt Nam. Trường luyện thép Thiếu Sinh Quân này đã trui luyện một Trang Văn Thành dũng cảm trong chiến tranh, có tinh thần chống cộng cao độ, quyết chiến đấu và đã tử trận cùng phi hành đoàn dũng cảm AC119K của ông, trong ngày Sàigòn thất thủ 29 tháng tư năm 1975.

Trang Văn Thành gia nhập Quân chủng Không quân Việt Nam Cộng Hòa năm 1968, ngành phi công. Ông du học Hoa Kỳ năm 1969 và trở về Việt Nam giữa năm 1970. Ông đã phục vụ cho phi hành Xích Long 413, vận tải cơ C119, loại phi cơ chuyên chở hành khách và hàng hóa với tư cách hoa tiêu phụ. Một năm sau, ông được thụ huấn hoa tiêu chánh và rổi trở thành trưởng phi cơ AC119K của phi hành đoàn Vận tải cơ Chiến đấu Tân lập Tỉnh Long 821. Sau khi phi đoàn Vận tải chuyên chở hành khách, Xích Long 413 giải tán vào cuối năm 1971.

Trung Úy Trang Văn Thành trong thời gian bay huấn luyện C-119 tại Hoa Kỳ

Trung úy Trang Văn Thành trong ngày nhận đôi cánh bay. Trung úy Thành đã chọn vận tải cơ tác chiến cho sự nghiệp quân đội của ông. Trong khi đó Trang Văn Thành có nhiều cơ hội và khả năng để về phục vụ trên một loại vận tải cơ không chiến đấu. Lúc đó, Trang Văn Thành đã kết hôn với chị Võ Thị Hòa là cháu gái của thiếu tướng Võ Xuân Lành, Tư lệnh Phó Không quân, nhân vật đứng hàng thứ hai của Không lực Việt Nam Cộng Hòa. “Đường chú chú đi, đường cháu cháu đi”. Thành đã không nhờ vả người chú vợ đầy quyền lực. Ông đã hiên ngang chọn lựa con đường chiến đấu trực tiếp trên chiến trường, để còn có cơ hội bảo vệ đất nước và “thù cha phải trả”.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1538945660-PhiHanhDoanCuoiCung_02.jpg
Hình minh họa

TRẬN CHIẾN CHƯA TÀN

Sau hai tiếng đồng hồ chịu đựng trận mưa pháo long trời lỡ đất do Cộng sản Việt Nam dội vào phi trường Tân Sơn Nhất. Khơi dậy cơn phẫn nộ của dũng sĩ Trang Văn Thành, con người không khuất phục định mệnh, không khoanh tay chờ địch đập pháo sát hại, không ngồi yên đợi kẻ thù tràn đến tàn sát “Còn nhân viên, còn phi cơ, còn súng đạn, phải còn chiến đấu”. Thành đã phân tích, so sánh và quyết định: Chết vì bị đạn pháo kích của địch ở phi trường hoặc chết vì đạn phòng không của giặc trên không trung cùng ý nghĩa của sự chết. Nhưng chiến đấu để chết là cái chết oanh liệt, vô cùng ý nghĩa của một quân nhân gan dạ có tránh nhiêm bảo vệ quê hương, vì dân, vì nước, vì sự an nguy của ngừoi thân, bằng hữu và bá tánh.

“Thù cha phải trả”giấc mơ bao năm trời, ông đã thức trắng thâu đêm bay tên toàn cõi quê hương, trên không phận đường mòn Hồ Chí Minh, để săn đuổi và diệt địch. Giờ đây, giặc đã tìm đến nhà. Tại sao lại phải cuối đầu rút cổ chờ chết trong bốn bức tường phi đoàn nhục nhã này? Trang Văn Thành đã quyết định phải bay lên không, chiến đấu và diệt địch trước khi ông gục ngã vì kẻ thù.

Trang Văn Thành mạnh dạn đứng lên, dõng dạc kêu gọi đồng đội, tự điều động phi hành đoàn dự bị của ông để bay lên không quyết tử chiến. Dù thời điểm đó, Bộ Tư Lệnh Không quân, Bộ Tổng Tham Mưu, Bộ Quốc Phòng và Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã tê liệt và đang trên đà tan rã.

Trong đám đông của hơn 40 nhân viên phi hành hiện diện tại phi đoàn Tỉnh Long 821, AC119K. Người ta đã nhìn ông trong sự ngạc nhiên, thương hại với ý nghĩ thầm lặng “Thằng điên”. Khi cuộc chiến VN đã hoàn toàn kết thúc và thua cuộc, ai ai cũng đang tìm đường bôn tẩu, kiếm cách đưa vợ con và thân nhân ra khỏi nước Việt Nam, để tránh một cuộc trả thù và tàn sát của Việt cộng.

Trong ý chí của Thành hoàn toàn trái ngược, với ông trận chiến vẫn chưa tàn và cuộc chơi chiến tranh chỉ mới bắt đầu. Ý nghĩ trả thù cho thân phụ đang bùng cháy mãnh liệt trong tâm tư người sĩ quan mang mối thù cha cao ngất. Cuồn cuộn dâng lên theo những tiếng nổ xé nát không gian của kẻthù.

Sự im lặng của mọi người vỡ tan. Trung sĩ nhất Phan Quốc Tuấn, người kỹ sư phi hành dũng cảm, tự cảm thấy mình phải có trách nhiệm thi hành phi vụ để bảo vệ thủ đô. Là một nhân viên phụ tá ngành Kỹ sư Phi hành, nghề nghiệp vững, nhiều tâm huyết phục vụ cho đất nước, đã năm năm chia xẻ những ngọt bùi và gian nguy cùng viên phi công Trang Văn Thành. Há, không sờn gian nguy! Tuy Quốc Tuấn không nằm trong danh sách phi hành đoàn dự bị của Trung úy Thành. Đồng ý nghĩ cứu nước, đáp lời kêu gọi của Thành, Tuấn bước ra khỏi đám đông, trước sự ngơ ngác của mọi người, Quốc Tuấn đã có hàng trăm phi vụ bay đêm với Trung úy Thành, người mà Tuấn vô cùng ngưỡng mộ, quý mến trong tình đồng đội, do tư cách của Trang Văn Thành đã đối xử tốt đẹp với anh em. Người làm việc rất “hợp rơ” với Tuấn.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1538945670-PhiHanhDoanCuoiCung_03.jpg
Hình minh họa

Tiếng xì xào vang lên trong phi đoàn. Lần lượt sĩ quan phi công Trung úy Trần Văn Hiền, Sĩ quan Điều hành viên, Sĩ quan Hồng ngoại tuyến, một Hạ sĩ quan Hỏa châu, Trung sĩ Chín và Hạ sĩ quan Vũ khí Phi hành dũng cảm khác, lặng lẽ đứng lên tỉến về phía Trang Văn Thành, theo tiếng gọi của non sông. Họ cùng hỗ trợ Trang Văn Thành đứng lên diệt giặc, sống và chết có nhau trong những giây phút tử sinh cuối cùng của cuộc chiến Việt Nam. Họ đã thành lập một phi hành đoàn bất thường, đoàn kết và gan dạ. Một phi hành đoàn thực sự có tinh thần chiến đấu duy nhất còn sót lại của Không lực Việt Nam Cộng Hòa. Họ đã chiến đấu thế cô, không có phi cơ đồng đội phụ trợ, không cần phi vụ lệnh, không được lệnh của cấp trên, từ Bộ Tư lệnh Không quân, Bộ Tổng Tham Mưu, Bộ Quốc phòng hay lệnh của Tổng Thống VNCH. Tất cả đều đã rã ngũ và đã bôn tẩu. Họ đã thi hành công tác theo mệnh lệnh lương tâm của một quân nhân có trách nhiệm.

Gương mặt đầy phẫn nộ cho vận nước đảo điên của trung úy Trang Văn Thành thể hiện lần cuối cùng tại cửa phi đoàn Tỉnh Long 821, trước khi họ lên đường chiến đấu và diệt địch, Thành buồn bã tuyên bố lời cuối cùng với viên sĩ quan này gạn hỏi ý kiến:

- Trung úy có cần tôi ghi tên phi hành đoàn của trung úy vào sổ trực hành quân và báo cáo lên Không đoàn không Trung úy?

- Ứ! Vô ích. Sổ trực hành quân phi đoàn tôi đã xé rồi, cơ quan đầu não còn nữa đâu mà báo cáo cho mất công chứ. Giờ đây, chúng tôi tự nguyện chiến đấu cho đất nước vì trách nhiệm của một quân nhân, mà không cần đến lệnh của cấp trên. Không làm phiền thiếu úy đâu. Chúng tôi phải gấp rút lên đường thôi!

NHỮNG GIỜ TỬ CHIẾN CUỐI CÙNG

Chiếc phi cơ AC119K của trung úy Trang Văn Thành gầm thét náo động phi trường Tân Sơn Nhất. Mang một chút sinh lực phấn khởi đến cho những tâm hồn đang bấn loạn với thể xác đã rã rời vì trận mưa pháo kéo dài hơn hai tiếng đồng hồ vừa qua và còn đang tiếp diễn ác liệt. Sức nổ và sự tàn phá khủng khiếp, chẳng những nó hủy hoại vật chất, cả tinh thần và hồn phách của những chiến sĩ Không quân đang hiện diện trong lòng trận chiến cũng tan biến.

Hòa lẫn tiếng động cơ là những loạt đạn pháo kích dữ dội của Cộng sản VN rơi vào sân bay Tân Sơn Nhất. Một bầu không khí hãi hùng của chiến tranh, Cộng sản Bắc việt đã có công triệt hạ Quân đội Việt Nam Cộng Hòa, cho mục tiêu chiến thắng cuối cùng để đoạt lấy chính quyền từ tay của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Hầu áp đặt một chế độ độc tài gian tham tại Miền Nam VN.

Phi cơ của trung úy Thành rời khỏi phi đạo, rẽ mũi bay về bên trái, hướng tây của Thủ đô Sàigòn. Tránh né đạn phòng không dầy đặc ở phía đông bắc phi trường Tân Sơn Nhất. Ông nhanh nhẹn cho phi cơ bay lên cao độ, làm các vòng chờ ở phía tây Thủ đô yên tĩnh, hầu quan sát tình hình chiến sự. Vừa mới bay lên không ông cần nhiều thời gian để quan sát, theo dõi và chọn lựa các mục tiêu trước khi ra tay sát thủ.

Sau khi phi cơ cất cánh, trong hai tiếng đồng hồ vắng bặt âm thanh của máy bay, người ta cứ ngỡ đó là chiếc vận tải cơ chiến đấu AC119K hèn nhát, đã cất cánh bay đi và đã di tản khỏi nước Việt Nam.

Mất gần hai tiếng đồng hồ bay lượn trên bầu trời Đồng Tháp Mười ven đô, phía tây của thành phố Sàigòn chờ trời sáng, đồng thời quan sát kỹ lưỡng các mục tiêu. Rồi con “Hắc đại bàng dũng mãnh” lại gầm thét ồn ào, lù lù xuất hiện trở lại trên bầu trời trong sáng Tân Sơn Nhất.

Bấy giờ, đã 7 giờ hơn. Mặt trời đang lên, thành phố Saigòn đang bừng sáng ở phía đông. Sân bay Tân Sơn Nhất đang bị sang bằng, mịt mù khói lửa. Vài đám khói trắng để lộ các mục tiêu dàn đại pháo của địch đang rót vào phi trường. Tọa độ phát hiện tại những cánh rừng thưa gần xóm mới, hướng Bắc của quận Gò Vấp ven đô.

Có lẽ Hà Nội đã rút tỉa kinh nghiệm sự thất bại nặng nề trong trận tổng tấn công Tết Mậu Thân năm 1968. Hàng trăm xác Việt cộng phơi thây trên quốc lộ 1, do hỏa lực của vận tải cơ chiến đấu AC47, phi đoàn Hỏa Long đã bắn hạ, khi họ tấn công vào Sàigòn bằng hướng tây bắc, đồng ruộng bằng phẳng, trống trải, ít dân cư, phi cơ dễ dàng tác xạ, rải đạn lên chúng. Lần này, chúng tiến chiếm Sàigòn bằng hướng đông bắc, gần rừng thưa, để trà trộn vào những khu đông dân cư, tránh né những cuộc không tập với hỏa lực hùng hậu của Không quân VNCH.

SAI MỘT VÁN CỜ

Khi chiến cuộc VN bắt đầu mở rộng, Quân đội Hoa Kỳ ào ạt đổ vào phục vụ ở VN. Họ đã bị tổn thất nặng nề qua hai chiến thuật “Du kích chiến, bắn sẻ rồi lẫn trốn an toàn, và Việt cộng đã dùng chiến thuật thứ hai “Tấn công biển người, càn quét địch quân hiệu quả và nhanh chóng. Gây nhiều tổn hại nhân mạng đối phương.

Để chống lại Chiến thuật Tấn công biển người vô cùng lợi hại, gây nhiều tổn thất cho Quân đội Hoa Kỳ. Quân đội Mỹ đã phải nghiên cứu và sáng tạo ra các loại Vận tải cơ Chiến đấu. Họ đã dùng phương pháp rải đạn trên một vùng rộng lớn, dài hàng cây số, bằng những loại vũ khí liên thanh, tác xạ bằng điện, mỗi khẩu bắn cùng một lúc bởi 6 nòng súng xoay tròn trên 6.000 viên đạn cho một phút. Khoảng cách của mỗi viên đạn đến mục tiêu đều đặn trên mặt đất độ ba tấc

Thoạt đầu, Quân đội Hoa Kỳ thí nghiệm bằng vận tải cơ có trọng tải nhẹ, đó là vận tải cơ chiến đấu AC47. Phương pháp rải đạn này đã đem đến nhiều kết quả lớn lao. Hoàn toàn bẻ gãy chiến thuật tấn công biển người vô nhân đạo của Cộng sản Việt Nam. Lùa dân sự (dân công) càn quét quân đội địch, trước khi lực lượng vũ trang chính quy của họ nhập cuộc, tiến vào mục tiêu và tịch thu chiến lợi phẩm.

Phát triển lớn hơn nữa, Quân đội Hoa Kỳ bắt đầu cải tổ các lọai vận tải cơ có trọng tải lớn hơn, đó là AC119G. Rồi dẫn đến, các loại vận tải cơ chiến đấu trang bị các dàn súng đại bác bắn liên thanh 20 ly, AC119K và AC130. Loại vận tải cơ chiến đấu AC130 tối tân nhất của Mỹ chỉ được sử dụng bởi không lực Hoa Kỳ hoạt động ở VN.

Cuộc chiến tranh VN mỗi ngày càng bộc phát và leo thang dữ dội. Sự tổn thất nặng nề của Việt Cộng do những phi cơ vận tải chiến đấu, trang bị vũ khí liên thanh chống biển người hữu hiệu do Hoa Kỳ chế tạo, Cộng sản Bắc việt đã phải cầu cạnh với Cộng sản Quốc tế Liên Sô tăng viện nhiều loại vũ khí tối tân hơn, nhằm chống lại các loại phi cơ lợi hại của Hoa kỳ. Cuối thập niên 60, cuộc chiến tranh VN đổi hướng. Phe Cộng sản cho xuất hiện nhiều loại hỏa tiễn phòng không tự động SAM và các loại hỏa tiễn tầm nhiệt cầm tay SA7. Những loại hỏa tiễn mới này đã gây khốn đốn cho cả Không lực Hoa kỳ lẫn Không quân Việt Nam Cộng Hòa.

Suốt giai đoạn Chiến tranh VN, để vô hiệu quả Không quân Việt Nam Cộng Hòa; Việt cộng đã luôn sử dụng hai chiến thuật: Điệu hổ ly sơn hoặc điệu hổ nhập hầm ( bẫy), hầu bảo toàn lực lượng trước sức mạnh của Không quân đối phương. Khi họ dùng một lực lượng chính quy đông đảo để tấn công, càn quét địch và để tránh khỏi một cuộc tàn sát do phi cơ đối phương gây ra.

Chiến thuật Điệu hổ ly sơn là một phương pháp chiêu dụ phi cơ đánh sai lạc mục tiêu. Chúng phải dùng đến những toán cảm tử cực nhỏ, chỉ 2 hoặc tối đa là 3 người. Họ sử dụng phòng không và vũ khí bắn ra toàn là đạn lửa chiếu sáng. Các nhóm cảm tử này được đặt ở những vị trí có địa thế bị phi cơ nghi ngờ, nhiều đồi và rừng, họ bố trí rất cẩn thận với hầm trú ẩn sâu và an toàn, gắn những mục tiêu họ đã dự định sẽ tấn công.

Toán quân “nhử địch” này có nhiệm vụ bắn máy bay bằng đạn lửa, để chiêu dụ phi cơ, các phi công lầm tưởng những nơi bắn máy bay đó là những lực lượng chính của Việt cộng. Phi cơ sẽ mất nhiều thời giờ đến tác xạ và thả bom các tọa độ giả tạo do họ dàn dựng, mà phi công quên đi mục tiêu chính là đồn bót hoặc căn cứ đang bị Việt cộng tấn công.

Trong khi đó, lực lượng chính quy tấn công đồn bót, căn cứ địch, lại xuất phát từ những địa điểm trống trải, yên tĩnh như đồng ruộng, ít bị phi cơ nghi ngờ là con đường chuyển quân. Chúng sẽ tấn công chớp nhoáng và nhanh nhẹn rút lui theo các lộ trình an toàn đó.

Chiến thuật “Điệu hổ ly sơn” này của Việt cộng đôi khi cũng bị tổ trác, khi họ gặp phải những phi công trực thăng vũ trang hoặc hoa tiêu vận tải chiến đấu đã sinh sống ở miền quê Việt Nam, biết rõ chiến thuật lừa phỉnh này, Họ luôn đi tìm những mục tiêu chuyển quân âm thầm, yên tĩnh, khu vực ít bị nghi ngờ. Đột nhiên rải đạn đánh phá, đã đem đến những kết quả mỹ mãn, nhiều xác Cộng quân phơi thây bất ngờ, không còn cơ hội mang xác ra đi.

Trung úy Trang Văn Thành đã rời vào cái bẫy của Cộng sản Bắc việt, ông đã bị trúng kế “Điệu hổ nhập hần (bẫy)”. Khi nãy quan sát trên không phận ở phía tây Thủ đô Sàigòn. Trung úy Thành chỉ khám phá và ghi nhận được những dàn trọng pháo và hỏa tiễn của Việt Cộng đang bắn vào Thủ đô. Chúng đã được đặt rải rác từ những cánh rừng thưa ở mạn Bắc của Xóm Mới, thuộc Quận Gò Vấp. Cho nên ông đã bất cẩn khi chọn lựa và bay ngang quận Gò Vấp để đánh lên mạn Bắc.

Cộng sản Bắc việt đã âm thầm mai phục phi cơ. Lén lút đưa những dàn phòng không và hỏa tiển tầm nhiệt vào bên trong quận Gò vấp. Một xóm nghèo nàn đông dân cư, thuộc ngoại ô hướng Bắc thủ đô Sàigòn. Một chốt chặn đường phi cơ hạ hoặc cất cánh tại đầu phi đạo Tân Sơn Nhất.

Cộng sản Việt Nam đã tiên đoán trước Không quân Việt Nam Cộng Hòa sẽ phải xuất phát và tấn công vào họ từ những vùng an toàn nhất. Việc âm thầm di chuyển những dàn phóng không và hỏa tiễn vào quận Gò Vấp là nhất sách với hai cái lợi của sự bất ngờ: Dù phi cơ có phát giác ra họ, phi công cũng không dễ dàng tác xạ vào nhà dân, gây tổn thương lớn đến sinh mạng người dân. Thứ hai là những dàn phòng không được đặt ở đầu phi đạo sẽ có thể bất ngờ bắn hạ, ngăn chận những phi cơ cất cánh để tấn công vào lực lượng quân sự của họ. Hoặc có thể bắn hạ các phi cơ di tản ra khỏi nước VN. Trung úy Thành đã bị trúng kế “điệu hổ nhập hầm”.

Giờ hành động đã điểm. Trước khi cho phi cơ bay vào mục tiêu, chuẩn bị trận đánh không địa của chiến đấu cơ AC119K. Trung úy Thành đã hội ý cùng phi hành đoàn lần cuối truớc khi ông quyết định đưa vào trận chiến.

- Các anh em có ý kiến gì? Chúng ta có nên tiến vào mục tiêu diệt địch bây giờ hay không?

Tất cả những gương mặt đều tự tin trong im lặng. Tất nhiên họ đã hiện diện trên phi cơ là họ chấp nhận một cuộc tử chiến, quần thảo với địch, cứu nguy thành phố Sàigòn đang trong cơn sốt sụp đổ, sắp rơi vào tay địch. Chính vợ con và thân nhân của họ cũng sẽ gánh chịu hậu quả của sự trả thù thê thảm sau một cuộc bại trận, do phe Cộng sản nham hiểm sẽ chiến thắng. Không còn chọn lựa nào khác, nếu phải hy sinh. Một giọng phát ra từ máy liên thoại phi hành đoàn:

- Quyết định thi hành phi vụ này là chúng tôi đã chấp nhận sự hy sinh. Tùy theo quyết định của Trung úy.

Trung úy Trang Văn Thành lái chiếc phi cơ bay bọc từ phái nam thủ đô Sàigòn vòng lên hướng bắc để đánh vòng bay đầu tiên vào các mục tiêu đã được phi hành đoàn ghi nhận. Một tràng liên thanh ầm ỹ, nòng súng minigun xoay tròn, khói bốc lên, lửa đỏ lóe sáng, 6.000 viên đạn tua tủa bay ra khỏi các nòng súng trong một phút, tạo thành những vệt đạn lửa trãi rộng gần một cây số, nằm trong tầm tác xạ của loại vũ khí độc hại này, địch sẽkhông còn cơ hội sống.

Tiếp nối các vòng bay tấn công và diệt địch thứ hai rồi thứ ba. Tiếp tục cuộc chiến đấu đầy dũng cảm, cam go để bảo vệ thủ đô. Mỗi một vòng bay trút hàng ngàn quả đạn đại bác 20 ly xuống đầu địch nơi ven đô. Ba vòng bay tác xạ đầu tiên của phi cơ vào các tọa độ đặt dàn trọng pháo và hỏa tiễn của địch. Việt cộng đã phải im bặt trong hơn nữa tiếng đồng hồ, kể từ khi con diều hâu xuất hiện và gầm thét ồn ào trên bầu trời Sàigòn. Chiến sĩ không quân đang hiện diện trong phi truờng Tân Sơn Nhất tìm được một ít phấn khởi, ngoi ra khỏi hầm trú ẩn ngộp ngạt, tìm những giây phút thoải mái. Hàng triệu đôi mắt hướng về chiếc phi cơ cứu tinh đang bay lượn ở hướng đông, sắp sửa nhả đạn, tác xạ vòng bay thứ tự xuống đầu địch.

Phi hành đoàn đã chiến đấu không mỏi mệt, không đầu hàng, không bỏ chạy. Mỗi lúc chiếc phi cơ AC119K lại tiến sâu vào trận địa dày đặc phòng không, trọng pháo của địch quân đang cố xâu xé Thủ đô Sàigòn.

60 GIÂY ĐỐI DIỆN TỬ THẦN

Trung úy Thành đã hạ phi cơ xuống thấp hơn các vòng bay trước, để đánh địch quân và điều chỉnh. Ông hy vọng cao độ 2.000 bộ, với tầm tác xạ và hiệu quả hơn. Nhưng cao độ này khá nguy hiểm cho một loại vận tải cơ bay chậm chạp, nó nằm trong tầm bắn trả của phòng không và hỏa tiễn tầm nhiệt của địch. Trung úy Thành dự định sẽ rải 2 thùng đạn đại bác liên thanh 20 ly để phá hủy và dập tắt các nòng súng thuộc dàn đại pháo của Việt Cộng, Những tọa độ ông vừa mới phát hiện được trong vòng bay đã qua.

Phi cơ của Trang Văn Thành chưa kịp tiến gần mục tiêu của địch. Nó đã bay và lọt vào ổ phòng không bí mật phía đông phi trường. Địch đã im lặng, giữ bí mật đặt dàn phòng không này trong quận Gò Vấp, một khu phố nghèo nàn phía đông, bên ngoài vòng đai phi trường Tân Sơn Nhất.

Tám nhân viên phi hành đoàn AC119K hiện diện trên phi cơ cùng một cảm nhận những tiếng nổ rung chuyển không gian, xung quanh chiếc phi cơ của họ. Dàn phòng không của địch đã đồng loạt nả đạn lên không, tấn công chiếc AC119K nổ rợp trời như pháo bông nổ giữa ban ngày. Đợt tấn công đầu tiên gồm bốn quả phòng không đã không gây thiệt hại nào cho phi cơ.

Mấy giây tử thần ngắn ngủi trôi qua. Phi hành đoàn lại cảm nhận một tiếng nổ đơn độc khác, ảnh hưởng trầm trọng trực tiếp đến phi cơ. Toàn thân chiếc máy bay rung chuyển dữ dội theo tiếng nổ. Họ đã kinh hoàng nhìn thấy lửa đỏ lẫn miếng đạn phòng không phóng ra, kèm tiếng nổ ấm và bịt kín từ trong lòng động cơ bên trái.

Không còn nghi ngờ gì nữa! Họ đã biết chắc chắn chiếc phi cơ đã bị trúng đạn phòng không SA7 của Việt Cộng.

Viên phi công Trưởng phi cơ dũng cảm, 28 tuổi. Trung úy Trang Văn Thành không hề nao núng. Ông rất tin tưởng vào tài nghệ lái máy bay của ông, với hơn 2.000 giờ bay, ông đã trải qua không biết bao nhiêu lần phi cơ bị hư hỏng phải đáp khẩn cấp an tòan. Một trách nhiệm đặt trên vai người Trưởng phi cơ, phải làm mọi cách để đoàn viên phi hành của ông được toàn mạng. Tám sinh mạng trên phi cơ hiện đang nằm trong bàn tay tài nghệ của viên phi công trưởng phi cơ.

Trung úy Trang Văn Thành bình tĩnh, một bản tánh chung của những người phi hành, họ đã được trui luyện lòng can đảm, ngay từ những giờ bay đầu tiên, đó là sự bình tĩnh, hành động chính xác và phải làm mọi cách để được đáp bình an và toàn mạng.

Thành dõng dạc trên máy điện thoại của phi hành đoàn. Ông công bố tình trạng phi cơ đang nguy ngập với lệnh đáp khẩn cấp.

- Phi hành đoàn, chú ý! Đây, Trưởng phi cơ! Phi cơ chúng ta đã bị trúng đạn phòng không. Tất cả nhân viên phi hành đoàn hãy bình tĩnh, ngồi vào ghế, buộc giây an toàn. Tôi đang làm thủ tục đáp khẩn cấp xuống phi trường Tân Sơn Nhất.

Vừa ra lệnh,Trung úy Thành vội vã hạ mũi và nghiêng phi cơ về bên trái, theo hướng phi đạo Tân Sơn Nhất, đang nằm ở hướng 3 giờ của chiến phi cơ. Trong ý nghĩ của Trung úy Thành đã có sẵn một quyết định rõ rệt. Ông bình tĩnh dặn dò các nhân viên trong phòng lái.

- Bằng mọi giá chúng ta phải mang phi cơ ra khỏi vùng đông đúc dân cư của Quận Gò Vấp. Nếu phi cơ của chúng ta không lết kịp đến phi đạo. Tôi sẽ quyết định cho phi cơ làm crash ngay tại các cánh đồng vắng xung quanh phi trường.

“THƯỢNG ĐẾ” CƯỚP LẤY TAY LÁI PHI CƠ

“Thượng đế” đã cướp lấy cần lái phi cơ từ tay người phi công Việt Nam Cộng Hòa tài ba và dũng cảm Trang Văn Thành. Phi cơ vừa nghiêng bên trái, gia tăng sức ép của không khí đè nặng lên vết thương vốn đã trầm trọng nơi động cơ trái vừa bị phòng không SA7 xé nát, những mối giáp của 3 phần cánh: cánh trong, động cơ và cánh ngoài của phi cơ đã bị rạn nứt khi đạn nổ, không còn chịu nổi sức ép của không khí.

Cánh ngoài, bên trái của phi cơ đột nhiên gãy xếp lên không, lôi động cơ trái gãy đổ theo, rồi rã ra. Nó giựt mạnh những đường dây cáp điều khiển cánh lái nghiêng của phi cơ, làm đứt lìa, khiến cần lái phi cơ vuột khỏi tầm tay của viên phi công, rồi đập mạnh về phía trước bảng phi cụ.Trung úy Trang Văn Thành kinh hoàng cảm nhận chiếc phi cơ không còn trong tầm tay điều khiển an toàn của ông nữa. Đồng lúc, 2 chiếc bàn đạp điều khiển cánh lái đuôi phương hướng cũng đập mạnh về trước, khi những dây cáp điều khiển nối liền từ cánh lái đuôi đến bàn đạp cũng bị giựt đứt lìa và rời khỏi phi cơ.

Phi hành đoàn bàng hoàng cảm nhận cái chết cận kề. Người này loạng choạng chụp lấy dù cá nhân, người kia tháo gỡ dây an toàn, người nọ mò mẫm đến cửa thoát hiểm. Đôi tay Trung úy Trang Văn Thành nhanh nhẹn chụp lấy lại cần lái, cố gắng điều khiển, đồng lúc chân ông chòi đạp trên cần điều khiển cánh lái phi cơ đều lỏng toát, không có một tác động nhẹ, khi toàn bộ hệ thống dây cáp điều khiển ba bộ cánh lái phi cơ đều đứt gọn. Trang Văn Thành rùng mình, toát mồ hôi lạnh, gào thét thất thanh trên máy liên lạc phi hành đoàn, Ông kinh hoàng, thúc giục đồng đội thoát thân.

- Tất cả nhảy dù ra khỏi phi cơ, mau lên, mau lên, mau lên…

Thân phi cơ bắt đầu nghiêng đổ hẳn về một bên. Các đồng hồ ngưng hoạt động, tốc độ phi cơ đứng hẳn giữa bầu trời và chuyển đổi sang trạng thái rơi tự do. Hệ thống điện bị cắt đứt. Tất cả bắt đầu im lặng theo sự rơi chao đảo trong 40 giây mặc niệm cuối cùng của sự chết!

Các động cơ đã hỏng vì sự rối loạn, tan rã của phi cơ. Tất cả kim đồng hồ dàn phi cụ, đồng loạt rớt xuống số 0. Cánh trái, thân nối liền đuôi phi cơ đã gãy đổ và rời khỏi phi cơ đang bay lơ lững trên không. Hệ thống điều khiển tê liệt. Phi hành đoàn kinh hoàng cảm nhận chiếc phi cơ của họ không còn là một chiếc máy bay thăng bằng, bay bổng trên không trung nữa. Đó là một khối sắt vô dụng đang rơi vùn vụt trên bầu trời Sàigòn.

Trung úy Trang Văn Thành tuyệt vọng, buông xuôi và đầu hàng định mệnh. Tám người phi hành đoàn cùng cảm nhận trong hãi hùng với cái chết cận kề trong sức rơi của vùn vụt của phi cơ xuống mặt đất, trên bầu trời trong sáng Tân Sơn Nhất của buổi sớm, ngày 29 tháng tư năm 1975. Cơ hội thoát hiểm của phi hành đoàn gần như chấm dứt khi họ đang ở vào trạng thái rơi tự do của hai vật thể riêng biệt: trọng lượng con người tách rời trọng lượng phi cơ, con người không còn là điểm tựa tên mặt phẳng của chiếc máy bay. Bàn tay của viên kỹ sư phi hành đã mấy lần đụng chạm đến cần khóa cửa thoát hiểm bên cạnh chiếc ghế ngồi của ông, được đặt dưới sàn trong lòng phòng lái phi cơ, bao lần nó đã vuột khỏi tầm tay vì sức rơi chao đảo, nghiêng ngã và lơ lửng trong lòng phi cơ.

Chiếc phi cơ nghiêng đổ hẳn về một phía, Những đôi mắt kinh hoàng của họ trừng trừng khiếp đảm nhìn xuống lòng đất cứng rắn hãi hùng, phút chốc nữa đây phi cơ của họ sẽ phải va chạm nổ vỡ tung. Những quả tim, bấn lọan hồi hộp theo cảm nhận của sự chết trong 40 giây ngắn ngủi còn sót lại qua sức rơi chao đảo của phi cơ từ 2.000 bộ xuống mặt đất.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1538945682-PhiHanhDoanCuoiCung_04.jpg
Hình minh họa

Tinh Long 821 AC-119 Phi hành đoàn cuối cùng của KhôngQuân Việt Nam Cộng Hòa hy sinh cho Tổ Quốc sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975, ngay trên không phận vòng đai phi trường Tân Sơn Nhất Thủ Đô Sài Gòn.

Tử thần đang chào đón họ trong 40 giây của sự sống cuối cùng, 40 giây để thở, tim vẫn đập, máu vẫn lưu thông, 40 giây của tâm hồn rối loạn, để cảm nhận sự chết của một con người, truớc khi tất cả đều dập tắt theo tiếng nổ kinh hoàng, sự va chạm của phi cơ vào lòng đất.

Mười giây sau cùng, Trung úy Thành đã nhắm nghiền đôi mắt đầy lệ thương xót cho người vợ trẻ và hai con dại vẫn hiện hữu trên thế gian. Họ đang lo lắng và chờ đợi một “cuộc di tản không bao giờ có” của chàng đã hứa. Viên kỹ sư phi hành ngồi ở chiếc ghế phía sau, trung sĩ nhất Phan Quốc Tuấn, người đã dũng cảm tình nguyện, chấp nhận chuyến bay trên phi vụ sinh tử cuối cùng của Trung úy Thành, ông đã cùng chung hoàn cảnh một vợ và hai con thơ đang mòn mỏi trông đợi cha về.

Tâm hồn phi hành đoàn chìm vào bóng tối theo tiếng nổ long trời, hồn biến, xác tan, để đi vào cõi an lạc, chấm dứt một đời người kiêu dũng trên không trung. Để rồi tên tuổi các anh vẫn sống mãi trong lòng người và lịch sử của Quân đội Việt Nam Cộng Hòa, với ý chí sắt đá “hiến thân cứu nước”và quyết tâm “vì dân diệt bạo”.

CHỐNG CHỎI TỬ THẦN

Kể từ khi xuất hiện loại vũ khí hỏa tiễn tầm nhiệt độc hại trên địa cầu, do khối Cộng sản Quốc tế yêu chuộng, chủ chiến, chuyên gây rối trên thế giới, xúi giục và yểm trợ những chính trị gia độc tài quốc tế, tham vọng gây chiến tranh để cướp giựt lãnh đạo, gạt bỏ những sự lựa chọn người tài ba ra điều hành đất nước của nguời dân, áp đặt những chế độ độc tài lên họ, đánh hỏa mù để hưởng tư lợi cá nhân. Chúng đã sáng tạo ra những loại chiến cụ mới gây khiếp đảm cho khối tự vệ, yêu chuộng tự do, công bằng và dân chủ. Trong đó có Miền Nam Việt Nam. Quân chủng Không quân Việt Nam Cộng Hòa đã gặp rất nhiều khó khăn và thiệt hại nặng nề với hàng lọat phi cơ bị bắn hạ bằng loại vũ khí tầm nhiệt SA7 lợi hại này.

Trong chiến tranh, không ai có thể lo lắng hơn những nhân viên phi hành của Không lực Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ. Những người phải đối diện trực tiếp với loại vũ khí ghê gớm SA7 này. Mỗi nhân viên phi hành của Không quân đều đã phải suy tính, tự học và luyện tập để chuẩn bị cho chính mình một con đường thoát hiểm nhanh nhẹn nhất truớc những đe dọa của loại vũ khí có sức tàn phá khủng khiếp, nhanh chóng và chính xác như loại hỏa tiễn tầm nhiệt của khối Cộng sản.

Phi hành đoàn của Trung úy Trang Văn Thành cùng tâm trạng lo âu và đã tiên liệu truớc những sự nguy hiểm của loại vũ khí hỏa tiễn tầm nhiệt, nó có thể xảy ra bất cứ lúc nào trên các phi vụ của chiến trường Miền Nam Việt Nam.

Ngay khi phi hành đoàn của họ đã cảm nhận phi cơ của họ đã bị trúng đạn phòng không. Tám nhân viên phi hành hiện diện trên phi cơ đều cùng có một cảm nghĩ và hành động tìm kiếm cá nhân, hay họ phải chú tâm đặc biệt đến những cánh cửa thoát hiểm gần họ nhất, ngỏ hầu nhanh chóng thực hiện một cuộc thoát hiểm cấp tốc khỏi phi cơ truớc khi nó không còn điều khiển được nữa. Trung úy Trang Văn Thành đã không tiên đoán trước được phi cơ của ông sẽ gãy cánh trong 10 giây sau tiếng nổ. Nhân tính dũng cảm và quyết tâm cố mang phi cơ ra khỏi khu phố Gò Vấp đông đảo, sự an toàn cho sinh mạng người dân. Ông đã kêu gọi đồng đội bình tĩnh, ở lại phi cơ. Bày nhân viên phi hành đã tuân lệnh, sáu người đã không thoát hiểm được khỏi phi cơ và chết tan xác theo chiếc máy bay định mệnh.

Tại phòng hàng hóa của phi cơ nơi trang bị 4 khẩu súng minigun 6 nòng và 2 khẩu đại bác liên thanh 20 ly, cùng hàng tấn đạn dược và hỏa châu. Phòng làm việc của các chuyên viên vũ khí phi hành.

Nhân viên phi hành chống chỏi tử thần dữ dội nhất để thoát khỏi bàn tay của thần chết, đó là trung sĩ Chín, nhân viên vũ khí phi hành. Ông đang bám chặt ở cánh cửa hành khách bên phải của chiếc phi cơ, kể từ khi chiếc máy bay của họ bị trúng đạn phòng không.

Trung sĩ Chín vẫn còn đủ bình tĩnh, bám chặt khung cửa, vật lộn với thời gian, chiến đấu với tử thần. Trung sĩ Chín vất vả, quần thảo để tháo gỡ chiếc chốt pin khóa chặt dàn phóng trái sáng vào chân, chúng án ngữ kín mít ở cửa phòng hành khách, ông không thể nào rướn người ra khỏi phi cơ.

Đã mất 10 giây trong sức rơi vùn vụt, cực nhanh của phi cơ. Trung sĩ Chín may mắn giật được chốt pin khóa dàn phóng trái sáng, nó rời khỏi chân dàn phóng rơi xuống mặt sàn phi cơ, để lộ một khoảng trống của khung cửa bao la. Đúng lúc chiếc phi cơ nghiêng đổ về bên phải, Trung sĩ Chín dùng hết sức bình sinh dồn lên đôi chân cứu rỗi, nhanh như cắt, ông búng mạnh đôi chân vào thành phi cơ, để truợt chân người rơi ra khỏi đống thép vô dụng đang lao vùn vụt xuống mặt đất.

Trung sĩ Chín rời phi cơ khi chiếc máy bay của ông đang rơi và cách mặt đất độ 600 bộ, chừng 200 mét. Trong 10 giây ngắn ngủi sau cùng còn sót lại cho sự sống. Chín đã lảo đảo trong không khí, đôi tay vẫn chới với, quờ quang tìm kiếm khóa giật để bung dù, chiếc dù đeo lủng lẵng chỉ một bên của thân người gây nhiều khó khăn.

Chiếc dù vừa bọc gió đúng lúc trung sĩ Chín cũng vừa rơi xuống mặt đất. Ông đã thoát nạn, nhưng đã bị chấn thương nhẹ nơi cột xương sống.

Đồng lúc một tiếng nổ rung chuyển trời đất, quả cầu lửa rựng lên, sức nóng bức của bom đạn hòa lẫn xăng cháy dữ dội, hắt vào người trong khoảng cách gần 100 thước, nơi Chín đã vừa rơi xuống từ phi cơ hư hỏng, vô phương cứu chữa.

Tuần lễ sau, trung sĩ Chín đã tìm đến nhà anh trưởng phi cơ Trung úy Trang Văn Thành. Lúc đó chị Võ Thị Hòa là vợ anh Thành đã đi vắng. Chín đã kể lại những chi tiết trên chuyến bay cuối cùng của Không quân Việt Nam Cộng Hòa với chị Bùi Võ Thanh, chị ruột của chị Hòa. Trung úy Thành và 6 đồng đội khác đã không thoát khỏi phi cơ và đã tử trận theo con tàu AC119K, lúc 8 giờ sáng ngày 29/4/1975 tại Tân Sơn Nhất.

Trung sĩ Chín xác nhận trung úy Thành đẽ đền nợ nước, chết theo phi cơ. Một hung tin mà gia đình chị Hòa đã biết mấy hôm trước do các nguồn tin từ những người bạn thân cùng đơn vị của anh Thành đã lén báo tin và xác nhận về cái chết anh dũng của anh Thành.

Trang Văn Thành đã tự điều động một phi hành đoàn còn đầy đủ tinh thần chiến đấu và tự nguyện hiến thân cho đất nước. Một phi hành đoàn duy nhất còn sót lại của Không lực Việt Nam Cộng Hòa và của Quân đội Miền nam Việt Nam. Họ đã làm nên trang chiến sử oanh liệt cuối cùng trong giây phút kết thúc chiến tranh Việt Nam, và Quân đội Việt Nam Cộng Hòa này đã tan rã và “bại trận”.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1538945700-PhiHanhDoanCuoiCung_05.jpg
Hình minh họa

KINH NGHIỆM HỎA TIỄN TẦM NHIỆT SA7

Nhiều nguồn tin, suy đoán không chính xác và họ cho rằng nhân viên phi hành đoàn của Trung úy Trang Văn Thành đã chết trên phi cơ, ngay sau khi đạn phòng không SA7 nổ tại động cơ. Họ đã chết trước khi phi cơ gãy cánh vàrơi xuống đất. Điều này đúng hay sai?

Qua kinh nghiệm nhiều chiếc phi cơ của Không quân Việt Nam Cộng Hòa bị phòng không hỏa tiễn tầm nhiệt SA7 bắn rơi, sự suy đoán này không chính xác.

Thứ nhất, trái đạn hỏa tiễn tầm nhiệt là một loại đạn cá nhân, nó nhỏ và nhẹ để dễ di chuyển, so với các loại bom miểng của đại bác hay hỏa tiễn khác có tầm sát hại rộng lớn. Mục đích chính của loại hỏa tiễn tầm nhiệt SA7 không chủ đích phát ra nhiều miểng đạn để sát hại nhân viên phi hành trên không trung. Mục đích chính là nó phá hủy phi cơ. Quả đạn nổ làm rối loạn và hủy họai động cơ máy bay, hủy diệt sức kéo hoặc đẩy phi cơ đi tới. Đồng thời, hỏa tiễn tầm nhiệt SA7 cũng làm rạn nứt lớp vỏ của cánh phi cơ, với những loại máy bay mang động cơ trên cánh. Nó hủy diệt sự chịu đựng sức ép của không khí đè lên mặt cánh và gây ra sự gãy đổ. Khiến phi cơ bị hủy hoại cả hai: sức kéo hoặc đẩy của động cơ và phá hủy bộ cánh lái điều khiển chiếc máy bay.

Lý do thứ hai, hỏa tiễn tầm nhiệt SA7 không thể phát ra nhiều miểng đạn để sát hại nhân viên phi hành. Loại hỏa tiển tầm nhiệt đặc biệt này chỉ tìm sức sống, chui vào và nổ bên trong lòng động cơ. Động cơ được bao bọc bởi một lớp vỏ thép cứng rắn, đã cản trở hầu hết miểng bom, sức công phá không văng tung tóe, rồi miểng quả đạn phải xuyên qua nhiều lớp vỏ của cánh và vỏ của thân phi cơ, khiến nó không thể sát hại quân nhân không quân phi hành như những loại bom đạn thường khác. Dựa trên những dữ kiện chính xác qua ba truờng hợp của Không quân VNCH bị bắn rơi bởi phòng không SA7. Phi hành đoàn đã bị tử nạn vì sự chậm trễ của họ. Phi cơ nhanh chóng chuyển đổi trạng tháng rơi tự do, tách rời trọng lượng con người ra khỏi điểm tựa trên mặt bằng phi cơ, họ không còn đứng vũng để mở cửa hoặc đến gần cửa để thoát hiểm. Chúng ta biết rằng, khi phi cơ đang ở trạng thái rơi tự do. Cả hai trọng lượng con người và trọng lượng phi cơ tách rời nhau như hai vật thể riêng biệt cùng rơi trên không gian, nên con người cũng ở trạng thái lơ lửng trong lòng phi cơ.

Trường hợp thứ nhất: Một chiếc F5 hai động cơ phản lực đã bị trúng đạn phòng không SA7. Một máy bay phản lực bị phá vỡ trên không, động cơ còn lại chỉ nằm cách động cơ kia không quá một mét, không bị hề hấn gì, máy nổ vẫn tốt. Ghế phi công đặt cách động cơ bị phá hủy độ 3 mét. Phi công vẫn bình an vô sự, ông đã không nhảy dù ra khỏi phi cơ, vẫn bay và cố mang phi cơ về đến phi trường và đáp khẩn cấp an toàn xuống phi đạo. Sỡ dĩ, hệ thống cánh lái điều khiển phi cơ bay về là vì động cơ phản lực F5 được đặt trên thân phi cơ, không liên hệ gì đến cánh và các bộ phận điều khiển chiếc máy bay. SA7 đã không hủy diệt được các hệ thống cánh lái điều khiển chiếc phi cơ F5 này.

Trường hợp thứ hai: Một chiếc EC47, Không thám điện tử, thuộc phi đoàn 718, phi cơ bị trúng đạn phòng không SA7 tại mật khu của địch. Chỉ một mình viên sĩ quan Điều hành viên có chuẩn bị, đã nhảy dù ra khỏi phi cơ truớc khi máy bay gãy cánh, rơi tự do. Ông đã sống sót, bị địch bắt làm tù binh. Vì thế chiếc ghế của điều hành viên đặt gần động cơ bị phá hủy nhất, độ hai thước. Viên sĩ quan này đã không bị miểng hỏa tiễn SA7 gây thương tích hoặc sát hại. Toàn bộ đoàn viên phi hành đoàn khác đều chậm trễ, trong trạng thái phi cơ rơi tự do, không thoát hiểm được và chết theo phi cơ.

Trường hợp thứ ba: tương tự chiếc phi cơ Không thám điện tử EC47. Trung sĩ Chín, vũ khí phi hành của phi hành đoàn AC119K, cũng đã nhảy dù thoát hiểm khỏi phi cơ, nhờ may mắn khi ông đang ở trong trạng thái rơi tự do, nhưng ông có chuẩn bị đã bám ở cửa phi cơ không có cánh cửa. Vị trí làm việc của ông trong phòng hành khách là nơi gần động cơ bị phá hủy nhất, ông đã không bị miểng đạn SA7 gây thương tích hoặc sát hại, tương tự viên sĩ quan Điều hành viên EC47.

Cả ba truờng hợp chứng tỏ quả đạn phòng không SA7 không có chủ đích sát hại phi hành đoàn bằng sức công phá của miểng đạn. Nó chỉ nhằm hủy hoại phi cơ để sát hại phi công và phi hành đoàn, những ai thiếu chuẩn bị, chậm trễ, không rời khỏi phi cơ truớc khi nó chuyển đổi sang trạng tháo rơi tự do.

Như vậy, phi hành đoàn muốn toàn mạng phải chuẩn bị sẵn dù và nhảy ra khỏi phi cơ trước khi phi cơ gãy cánh hoặc động cơ hư hỏng không còn sức kéo hoặc đẩy, đưa đến trạng thái phi cơ rơi tự do.

Nhận diện sự khác biệt giữa hỏa tiễn tầm nhiệt SA7 và các loại đạn phòng không khác ở chỗ, loại SA7 chỉ nổ ngay bên trong lòng động cơ với âm thanh tiếng nổ khác thường do động cơ đã bịt kín. Tiếng nổ ấm và nhỏ hơn các loại tiếng nổ của đạn phòng không khác. Các loại đạn phòng không thường khác chỉ có khuynh hướng chạm nổ và phá hủy mặt dưới của thân và cánh phi cơ, do dưới đất bắn lên không. Miểng đạn của nó không bị sự cản trở nào nên tầm sát hại rộng lớn hơn. Vả lại, các loại phòng không thường khác không nhất thiết phải trúng vào động cơ và cũng khó có thể đánh trúng chính xác vào phi cơ đang bay với tốc độ. Ngoại trừ, phi đạn SA7 sẽ bay đuổi theo sức nóng của động cơ, phát nổ và phá hủy.

CẢM PHỤC LÒNG DŨNG CẢM CỦA PHI HÀNH ĐOÀN AC119K

Lòng dũng cảm đáng kính của phi hành đoàn AC19K ở chỗ, giờ phút lâm nguy cuối cùng, tính mạng bị đe dọa. Xem nặng tính mạng của người dân. Tất cả nhân viên phi hành đều tuân lệnh trưởng phi cơ, nán lại, không rời bỏ phi cơ, tiếp sức trưởng phi cơ cố hoàn thành nhiệm vụ mang phi cơ ra khỏi thành phố đông đúc dân cư, có thể sát hại nhiều người dân. Để rồi phi cơ bị gãy đổ chỉ 10 giây sau tiếng nổ của đạn phòng không SA7, trước khi họ đạt đuợc ước nguyện mang phi cơ ra khỏi thành phố.

Trung sĩ Chín đã tìm đến cửa thoát hiểm ngay sau khi đạn nổ tại động cơ. Ông đã dừng lại khi nhận lệnh của trưởng phi cơ, chỉ 10 giây phi cơ gãy cánh đưa đến trạng thái rơi tự do. Trong sự tuyệt vọng, thúc dục đoàn viên thoát hiểm khỏi phi cơ của Trưởng phi cơ. Chín đã vất vả chống chọi với tử thần, mất một nửa khoảng thời gian lộ trình phi cơ rơi trong không trung. Ông may mắn thoát hiểm và đã bị trọng thương.


https://www.youtube.com/watch?v=dmIO8q_iYnE

US COPYRIGHT 2005, BY THÀNHGIANG

Sử liệu CUỘC TỬ CHIẾN TRÊN KHÔNG PHẬN SAIGÒN của Thành Giang là những tư liệu đã được cấp phát bản quyền Hoa Kỳ 2005. Tài sản của tác giả và thân nhân cung cấp tin tức cùng hình ảnh những vị anh hùng tử trận trên chuyến bay AC119K của Không lực Việt Nam Cộng Hòa tại Tân Sơn Nhất.

Lôi Bằng
nguồn: http://batkhuat.net/van-phihanhdoan-cuoicung-kq-qlvnch.htm

BachMa
10-23-2018, 03:51 AM
Vị Tướng Già Trong Nhà Dưỡng Lão
Huy Phương

“Anh hùng mưu sự chẳng nên
Cúi xuống thẹn Ðất, ngước lên thẹn Trời!”
(Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai)
DALLAS - Một người bình thường lúc về già sống cô đơn trong nhà dưỡng lão đã là một chuyện buồn, một vị tướng lãnh đã từng bao năm trận mạc, hôm nay sống trong một nhà dưỡng lão quạnh hiu đã gây không ít cho chúng tôi những cảm xúc bùi ngùi đau xót khi đến thăm ông.

Cùng với anh Thái Hóa Lộc, chủ nhiệm tuần báo Người Việt-Dallas, chúng tôi đến thăm Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai vào một chiều Chủ Nhật mùa Ðông tại “Pleasant Valley Healthcare and Rehabilication Center, 1525 Pleasant Valley Rd., Garland, TX 75040.” Khi chúng tôi bước vào phòng, thấy ông đang ngồi trên chiếc xe lăn, ông cho biết đang thay y phục, nên chúng tôi tạm lui ra chờ. Khi trở lại, ông đã tươm tất hơn trong bộ đồ mới.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1532540272-DoKeGiai_01.jpg
Ký giả Huy Phương và Thiếu Tướng Giai trong nhà dưỡng lão ở Dallas Ft Worth tháng 12, 2015. (Hình: Thái Hóa Lộc)

Nhận ra anh Lộc là người quen, thường thăm viếng ông, ông vui vẻ chuyện trò và nhờ chúng tôi đẩy ông ra ngoài phòng khách ngay lối ra vào, nơi mà các y tá có thể quan sát. Ở đây đã có nhiều ông bà già hiện diện, tất cả đều ngồi xe lăn. Ðây là một thói quen của ông, mỗi chiều, hoặc là ngồi đây vui hơn, hoặc là ông đang chờ ai đó, có thể vào thăm ông. Vào chiều Chủ Nhật, nhưng tôi không thấy có một thân nhân nào đến thăm những bệnh nhân ở đây, ngoài chúng tôi đang ngồi với Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai.

Ông chuyện trò rời rạc, khi đáp những của thăm hỏi của tôi, là người khách lần đầu đến thăm ông.

Lúc còn khỏe và tỉnh táo, trí nhớ tốt, mỗi tuần ba ngày, ông đến sinh hoạt tại Trung Tâm Sinh Hoạt Cao Niên tại thành phố Garland.

Bà Ðỗ Kế Giai qua đời vào tháng 11, 2012 sau khi ông vào bệnh viện được ba tháng. Từ bệnh viện, ông được chuyển thẳng về trung tâm này.

Ông bà có tất cả bảy người con, một gái và sáu trai. Bốn người đều ở các tiểu bang xa, chỉ còn lại ba người con trai ở gần ông. Hiện nay, ông còn có thể tự ăn uống và lo chuyện vệ sinh cho mình. Ông đã ở đây hơn ba năm, và tỏ bày: “Ở đây buồn quá!”

Những vị cao niên nằm trong viện dưỡng lão như hoàn cảnh của ông, còn nhớ chuyện này chuyện nọ, còn biết buồn, biết vui, có lẽ cảm thấy khổ hơn là những người đã mất trí nhớ hoàn toàn.

Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai sinh năm 1929 tại Bến Tre, trong một gia đình điền chủ, ông theo học khóa 5 Hoàng Diệu tại trường Võ bị Liên Quân Ðà Lạt, ra trường vào tháng 4, 1952, và đơn vị đầu tiên của ông là Tiểu Ðoàn 3 Nhảy Dù, đóng tại Bắc Việt.

Lần lượt ông đã giữ các chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù, Tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù, Chiến đoàn trưởng Chiến Ðoàn 2 Nhảy Dù (1962), Tham mưu trưởng Sư Ðoàn 25 BB, Tư lệnh Sư Ðoàn 10 BB (tiền thân của SÐ 18BB-1966). Năm 1967 ông mang cấp bậc Chuẩn tướng. Năm 1972, ông là Chỉ huy trưởng binh chủng Biệt Ðộng Quân và được vinh thăng Thiếu tướng vào tháng 4, 1974.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1532540284-DoKeGiai_02.jpg
Hình Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai 42 năm về trước. (Hình: Gia đình cung cấp)

Ngày 28 tháng 4, 1975, Tướng Times bên Tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ ngỏ lời sẵn sàng giúp đưa cả gia đình ông đi Mỹ, nhưng ông quyết định ở lại vì trách nhiệm của một tướng lãnh. Ngày 15 tháng 5, 1975, Cộng Sản đến nhà mời ông đi họp và đưa thẳng vào khám Chí Hòa, sau đó đưa ông cùng với các vị tướng lãnh khác ra Bắc Việt.

Ðến ngày 5 tháng 5 năm 1992, sau 17 năm ông mới được trả tự do, là một trong 4 vị cấp tướng cuối cùng ra trại với Thiếu Tướng Trần Bá Di, Thiếu Tướng Lê Minh Ðảo và Chuẩn Tướng Thiếu Tướng Lê Văn Thân.

Ông và gia đình được xếp vào danh sách H.40 nhưng cuối cùng được đôn lên H.07, đến Mỹ vào tháng 11 năm 1994 và định cư tại thành phố Garland, Texas.

Theo lời kể của anh Thái Hóa Lộc, không phải là thân thích của ông, người vẫn thường ghé thăm ông, cho biết ông thích ăn các thức ăn Pháp và thích nhâm nhi chút rượu, nếu có thể. Lúc còn khỏe, ông cũng sẵn sàng nói chuyện xảy ra trong thời loạn lạc, một số chi tiết về Ðại Tướng Cao Văn Viên liên quan đến vụ đảo chánh 1963, cái chết của Thiếu Tá Nhung và một số chi tiết nhưng ông yêu cầu không nên đưa lên báo chí.

Bây giờ có chuyện nhớ chuyện quên nhưng ông cho biết vào mùa Ðông thân thể thường đau nhức, “chỉ có Wishky mới trị nổi thôi,” điều mà bác sĩ hoàn toàn cấm, nhưng đôi khi các cô y tá cũng thông cảm cho ông, khi biết ông xưa kia là một tướng lãnh.

Ông tâm sự với chúng tôi, là ông đã nghĩ đến ngày ra đi và không sợ chết. Ngày ông mất, xin nhờ bên anh em thuộc binh chủng Nhảy Dù lo chuyện hậu sự cho ông tươm tất là ông cảm thấy mãn nguyện rồi.

Ông đọc cho chúng tôi nghe một bài thơ dài ông đã làm trong nhà tù Bắc Việt sau 9 năm bị giam cầm (khoảng năm 1984.) Bài thơ dài 65 câu, lời thơ đầy bi phẫn, xót xa của một tướng lãnh thất trận và là của một người tù không bản án, vô vọng không có ngày về.

Chỉ trong vòng mười lăm phút, ông đã đọc đi đọc lại cho chúng tôi nghe bài thơ này ba lần, điều này chứng tỏ ông đã đi vào thời kỳ lú lẫn. Anh Thái Hóa Lộc cho tôi biết, ông thường vào thăm ông, mang thức ăn cho ông, và lần nào, anh Lộc cũng nghe ông đọc bài thơ này. Ông cho biết trong nhà tù ông đã làm bài thơ và ghi nhớ trong đầu, đọc đi đọc lại nên thuộc nằm lòng, mà không dám viết ra giấy.

Trong khi Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai đọc đi đọc lại bài thơ viết trong nhà tù Việt Bắc, chúng tôi đã ghi âm lại và chép ra để các chiến hữu và độc giả hiểu được phần nào tâm sự của ông, một vị tướng già, thất trận đang sống những ngày cuối cùng xa quê hương, lẻ loi trong một nhà dưỡng lão xa lạ. Vì khuôn khổ của trang báo, chúng tôi chỉ xin trích một đoạn trong bài thơ của ông, bài thơ chưa đặt tên:

...“Ý thức hệ miền Nam kiếp nạn
Chín năm (1984) cố quốc dạ nào quên.
Không xoay thế cuộc, anh hùng lụy
Hào kiệt ngục trung, nợ nước đền.
Anh hùng mưu sự chẳng nên
Cúi xuống thẹn Ðất, ngước lên thẹn Trời.
Mài gươm rồi để hận đời
Chôn vùi thế hệ lụy người tù chung.
Oán thế nhân, xin đừng trách nữa
Lỗi lầm này hãy sửa sai chung.
Ðem xương máu học bài đắt giá
Chi đem thành bại luận anh hùng.

(Ðỗ Kế Giai-1984)
nguồn: https://hon-viet.co.uk/HuyPhuong_ViTuongGiaTrongNhaDuongLao.htm


& & &

Nỗi Buồn Cuối Năm, Nỗi Buồn Cuối Ðời
Huy Phương

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1532540296-DoKeGiai_03.jpg
Hình minh họa

Câu chuyện đi thăm Tướng Đỗ Kế Giai tại một nhà dưỡng lão ở Garland, Texas, đã ám ảnh tôi suốt một đêm khó ngủ. Đó là một buổi chiều Chủ Nhật vào cuối Tháng Mười Hai Dương Lịch, trời đã bắt đầu se lạnh, bãi đậu xe trống vắng bóng xe, gần như không có một người khách thăm viếng. Nhưng ông bà cụ già, ngồi trên xe lăn, dồn ra phòng khách, trên lối đi vào, với đôi mắt đờ đẫn không nhìn ai, hay gục mặt nhìn xuống thân mình, trong thói quen chờ đợi, hy vọng có một người thân của mình hiện ra trên ngưỡng cửa với một nụ cười, bó hoa hay món quà trên tay.

Tôi biết trên thế giới Tây phương có nhiều đứa con không dám đi du lịch xa, vì sợ con mèo, con chó hay bầy cá ở nhà không ai cho chúng ăn hay săn sóc, nhưng cha mẹ già thì đã có những nhà dưỡng lão. Thậm chí trong tình vợ chồng, người vợ còn mạnh khỏe, siêng đi lễ hay lên chùa, nhưng chồng thì cô đơn, trên chiếc xe lăn trong một nhà già quạnh hiu nào đó.

Chúng ta có bao nhiêu lý do để bào chữa, biện minh cho việc bỏ bê cha mẹ già trong một cơ quan y tế, được cho ăn mỗi bữa, áo quần có người giặt, vài ba ngày được đẩy xe vào phòng tắm, trần truồng và được cô y tá hay một nam nhân viên dội nước, xát xà phòng, vo đầu. Những việc săn sóc này dù có mang chút tình người đi nữa thì cũng là những công việc hằng ngày bắt buộc, thương ghét hay xúc động chỉ là những cảm tính vô ích.

Có những đứa con nại cớ bù đầu với công việc ở sở, và việc con cái bếp núc ở nhà nên không có thời gian dành cho cha mẹ già, đành phải đưa cha mẹ vào nhà dưỡng lão. Gần đây người ta lên tiếng hoan nghênh những người phụ nữ hy sinh lợi tức để ở nhà toàn thời gian chăm nom, săn sóc con cái, nhưng nào có ai nghe chuyện có những đứa con bỏ việc làm vì còn cha mẹ cần sự giúp đỡ lúc về già! Người ta thường kêu than không có thời giờ, “đầu tắt, mặt tối” nhưng còn có thời gian mua sắm trong các cửa hàng thời trang, mất một hai tiếng đồng hồ trong gym mỗi ngày, năm giờ cho một chương trình ca nhạc ở sòng bài, không tính thời giờ đi về. Đó là chưa kể thời gian “bắt buộc” phải ngồi trước máy điện toán, vào Facebook, hay trao đổi tin nhắn với bạn bè.

Người ta có thể mỗi năm tổ chức những chuyến du lịch bắt buộc, ra ngoài để mở tầm mắt trước thế giới, nhưng “nhắm mắt” làm ngơ về một lần sắp xếp thời gian đi thăm cha mẹ già.

Ngày xưa một người mẹ nuôi được năm mười đứa con, ngày nay cả năm mười đứa con không nuôi nổi được một mẹ, phải chăng vì vậy mà phải đẩy mẹ vào nhà dưỡng lão, để cho những người xa lạ trông coi. Ở đây có khi mẹ thiếu ăn, cơ thể mất nước, dơ bẩn trong mớ phân và nước tiểu, bị đối xử tàn tệ, cũng chẳng hề ai biết đến. Ngày xưa “bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn,” không có bậc cha mẹ nào có thể ngoảnh mặt trước cảnh con đói khát hay bị lăng nhục bởi một người khác.

Con biết giờ đây, “một ông già bằng ba đứa trẻ” cha “lẩm cẩm” bước đi, và mẹ phải nương lưng nhờ gậy chống.

Xưa kia khi các con còn thơ ấu, thân xác chưa trưởng thành và tâm hồn con yếu đuối, điều một điều hai vẫn là mẹ. Một đứa trẻ có thể biết lạnh, biết nóng, biết đói, biết khát, biết đau, nên khóc la, nhưng chóng quên, khóc đó rồi cười đó. Trái lại, một ông già còn biết buồn, biết tủi thân, biết xót xa mà chỉ biết gậm nhấm mang lấy nỗi buồn của riêng của mình, nên tuổi già cũng cần chăm sóc, gần gũi, ân cần như là một đứa trẻ, có khi còn hơn thế nữa!

Thói quen của người đời, người ta thường hỏi nhau có được mấy con, mấy ai quan tâm xem song thân còn hay mất! Đối với cha mẹ, con là tất cả, nhưng đối với con, cha mẹ là một thứ quá khứ cần xếp lại.

Ngày xưa, niềm vui của cha mẹ là nghe tiếng đứa con chập chững bi bô, hay toét miệng cười, ngày nay cha mẹ về già, các con ở xa, chỉ mong nghe tiếng điện thoại reo vui vào những ngày lễ, Tết, và đầu điện thoại bên kia có tiếng nói: “Mẹ ơi!” hay “Mẹ đó hả?”Trong cái tổ ấm cúng ngày xưa, và là cái tổ trống hoác ngày nay, khi các con đã đi xa, những cái phòng của các con vẫn để trống, biết đâu có ngày con về thăm bố mẹ. Con búp bê bằng nhựa, con gấu nhồi bông vẫn còn trên chiếc dương cầm phủ bụi của con gái, tủ sách, nhiều giải thưởng và những lá cờ kỷ niệm của trường đại học vẫn còn gắn trên bức tường trong phòng đứa con trai. Và ngôi vườn kia, đã đầy lớp lá vàng vào Thu hay phủ tuyết mùa Đông, cái ghế xích đu ngoài vườn ngày trước con thích ngồi, vẫn rung khẽ cùng cơn gió nhẹ.

Nhiều lúc cha mẹ muốn bán ngôi nhà cũ đầy ắp kỷ niệm, nhiều phòng, để đi tìm một cái condo, nhưng cứ nghĩ khi con về, và còn những đứa cháu nữa, sẽ ở đâu?

Cha mẹ Việt Nam tự an ủi, ru mình bằng bốn tiếng “nước mắt chảy xuôi” là mọi chuyện đều cho qua, nhận thức đời sống một phần cũng cho là duyên, là phước. Phải chi cha mẹ như cha mẹ nơi quê người, không hề lưu luyến, bịn rịn, ngay từ lúc đứa con đã trưởng thành rời mái ấm ra đi.

Nhưng có lẽ mọi điều không phải như vậy, dù bên trời Tây hay bên phương Đông.

Chúng tôi vừa được xem một đoạn phim rất ngắn kể chuyện một người già cô đơn ở phương Tây.

Những ngày lễ lớn năm nay, cô con gái tin cho biết là cô không về thăm cha được vì bận việc. Ông cụ lủi thủi một mình, cô đơn trong căn nhà nhỏ với những bữa cơm lặng lẽ hàng ngày. Nhưng rồi, cô con gái nhận được tin cha mình qua đời đột ngột, cô thu xếp cùng chồng trở về nhà.

Trên bậc cửa, cô thấy người cha thân yêu của cô hiện ra với tấm lưng còng và mái tóc bạc phơ. Cô bật khóc. Phải chăng vì nghe tin cha chết, cô mới trở về, trong khi còn sống, người cha cần có con, thì không có cô bên cạnh.

Nhưng cũng còn may. Cách đây mười mấy năm ở Paris, vào mùa Hè, có một trận nóng kinh khủng giết hàng trăm cụ già trong nhà dưỡng lão. Nhà nước thông báo cho những đứa con trở về lo chôn cất. Nhưng chúng, nhiều đứa đành xin lỗi, vì đang kẹt trong chuyến du lịch dài ngày ở xa!


Huy Phương
nguồn: https://hon-viet.co.uk/HuyPhuong_ViTuongGiaTrongNhaDuongLao.htm

BachMa
11-08-2018, 05:38 AM
Trại Hoàng Hoa Thám
Sư Đoàn Nhảy Dù, QL-VNCH Một Thời Để Nhớ
MĐ Vũ Viên

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1540346222-TraiHoangHoaTham_01.jpg
Mỗi độ tháng Năm về, lòng bồi hồi nhớ lại Mùa Hoa Phượng, màu hoa tươi thắm, đỏ tươi như màu Nón Đỏ mà Bố tôi và tôi đã từng đội, màu nón ấy gợi nhớ cho tôi biết bao là kỷ niệm, và dù có đi đâu, ở đâu hay bất chợt gặp những cây Phượng ở nơi nào đó, tôi vẫn không bao giờ quên được những hàng cây Phượng trong Trại Hoàng Hoa Thám. Những ai đã từng ở Sài Gòn cho đến tháng 04 năm 1975, chắc hẳn còn nhớ trên con đường LÊ VĂN DUYỆT, hướng từ Sài Gòn về Bà Quẹo, cách Ngã Tư Bảy Hiền khoảng non một cây số, về bên tay phải là Trại Hoàng Hoa Thám, nơi đặt bản doanh Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù, trong đó có Trại Gia Binh Hoàng Hoa Thám, nơi trú ngụ của vợ con và thân nhân các Chiến Binh Nhảy Dù.

Nơi đó, với tôi có thật nhiều kỷ niệm, kéo dài từ tuổi thơ cho đến ngày tôi trưởng thành và trở thành người lính Nhảy Dù. Tôi chỉ còn nhớ lờ mờ khi gia đình tôi theo sự di chuyển của Bố tôi từ Biên Hòa(TĐ7ND) về Trại Gia Binh, lúc đó Cổng “C” còn nằm tận bên trong, hai bên đường vào Cổng “C” dành cho Gia Đình Binh Sĩ ra vào vẫn còn là những bãi đất trống. Tuổi thơ của tôi và các bạn cùng trang lứa là những ngày bắt dế, thả diều, bắn bi, chơi cù, chọi đáo, đào chì (*), tắm Quân xa (**)… thậm chí chơi đánh trận giả đều nằm trong vòng dây kẽm gai của Căn Cứ Hoàng Hoa Thám.

Tôi học lớp Nhì(lớp 4) thầy giáo Hòe, lớp Nhất (lớp 5) thầy giáo Pháp và thi đậu vào Trường Công Lập Hồ Ngọc Cẩn năm 1966. Tôi còn nhớ cùng lớp có Hiệu, Hành (con ông Cúc); Lụa(con ông Tư); Chung(con ông Nhuần); Kim(con ông Thuận); Phụng, Lan(con ông Tán); Mỹ Hoa, Minh ”lừa”(con ông Hạnh); Thập, Dũng ”C”, Sáng ”sịt”, Lâm Bền, Khánh, Loan, Tấn, v.v..


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1540346235-TraiHoangHoaTham_02.png

Trong Trại Gia Binh có mái trường Thống Nhất do Cha Vũ Ngọc Đáng làm Hiệu Trưởng, nhờ Ngài mà tất cả con em của lính đều được đi học. Nếu đi học Tiểu học Ngài không lấy tiền học phí, học Trung Học Đệ nhất Cấp học phí chỉ đóng một nửa, rồi kế tiếp Ngài mở rộng lên đến Trung Học Đệ Nhị Cấp, thì Ngày Đen Tối ấy sập đến và ngôi trường Thống Nhất của Cha cũng bị xóa sổ, Ngài cũng bị đi tù vì cấp bậc của Ngài lúc ấy là Trung tá, sau đó Ngài đi HO qua Mỹ, tuy bên đó nhưng Ngài vẫn luôn nhớ đến các học sinh bé nhỏ ngày nào, nên vì thế hằng năm Trường Thống Nhất (SĐND) tổ chức họp mặt vào Ngày Thánh Micae(29-9)do Ngài yểm trợ và giúp đỡ. Con viết những dòng chữ này như một nén nhang kính cẩn dâng lên Cha và xin thay mặt toàn thể Cựu Học sinh Thống Nhất muôn đời tri ân Cha đã khai sáng, giúp đỡ cho chúng con có được con chữ để bước vào đời.

Ngài qua Mỹ định cư và ở cùng nhà với anh Ruân(Cựu ĐĐT 92/TĐ9ND) cho đến ngày Ngài qua đời(21-12-2007). Xin thay mặt toàn thể Cựu Học Sinh Thống Nhất, chân thành cám ơn anh Ruân cùng Gia Đình đã chia ngọt, xẻ bùi với Cha trong những tháng ngày qua.

Trại Hoàng Hoa Thám từ cấp Lữ Đoàn lên cấp Sư Đoàn nên vì thế phải mở rộng doanh trại, gia đình tôi cũng vì thế di chuyển dọn nhà trong Trại Gia Binh tất cả là 4 lần và lần thứ 5 là vĩnh viễn mất tên trại Hoàng Hoa Thám, gia đình tôi “Được” đi vùng Kinh Tế Mới đợt đầu và Trại Gia Binh Hoàng Hoa Thám ấy mãi mãi là ký ức dù rằng nó vẫn đang hiện hữu… sau đó, nơi ấy được phép đi vào vì đã trở thành khu dân cư, mỗi lần có dịp đi qua lòng bàng hoàng nhớ lại cảnh cũ người xưa, mỗi người mỗi ngả, kẻ ly hương người ở lại… ngậm ngùi, chua xót, có chút gì cay cay trên đôi mắt, nhớ những hàng cây Điệp Tây kéo dài từ Cổng A đến Khối Bổ Sung thỉnh thoảng chen lẫn vài cây Phượng nở rộ vào mùa hè, màu Hoa Phượng đỏ tươi như những chiếc Nón Đỏ, màu nón của Binh chủng Nhảy Dù mà tôi đã chọn để tiếp nối bước chân Bố tôi là người lính Nhảy Dù. Những trưa hè, đi dưới hai hàng cây, lác đác vài cây Phượng trổ hoa, tiếng ve sầu kêu inh ỏi, khung cảnh thật yên bình, người Chiến Binh còn nhớ đến mùa hè năm nao? Ít nhiều trong chúng ta, ai cũng có một mùa hè cho riêng mình và… giá như… nhớ… nhớ… nhớ lắm Hoàng Hoa ơi!!!


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1540346251-TraiHoangHoaTham_03..jpg

Vì nhà trong Trại Gia Binh nên những ký ức về chiến tranh luôn hiện hữu, nhớ Tết Mậu Thân, bác Thạch Phòng 2/Bộ Tư Lệnh ở đầu nhà đã hy sinh tại Ngã tư Bảy Hiền, tiếng khóc của vợ Bác Thạch và ánh mắt ngơ ngác của những đứa con Bác mãi mãi không bao giờ quên, tôi cũng theo chân gia đình bác lên Nghĩa Trang Gò Vấp để đưa tiễn Bác Thạch. Sau này, Quỳnh con trai bác cũng đi lính Nhảy Dù, Tiểu Đoàn 14 Nhảy Dù, Hồng, chị Quỳnh lấy chồng là Anh Minh Đại Đội 3 Trinh Sát Nhảy Dù, lứa chúng tôi, khi lớn lên phần đông đều chọn màu Nón Đỏ và các bạn tôi cũng đã hy sinh cho Tổ Quốc như Hưng, Thắng (Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù), Hòa (Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù), Toàn(Đại Đội 2 Công Binh Nhảy Dù), Khánh đi Hạ Sĩ Quan và Tử trận, Sơn(con ông Tuệ) đi Hạ Sĩ Quan và cũng Tử trận… lâu quá không còn nhớ được nhiều, nếu các bạn nào đã từng sống trong Trại Gia Binh còn nhớ ai xin tiếp tục ghi vào.

Còn nhớ khoảng thời gian khốc liệt của cuộc chiến như: cuộc hành quân Hạ Lào 71, An Lộc 72, tôi, mẹ tôi, và những người vợ lính trong Trại Gia Binh khắc khoải chờ tin Chồng, Con… từ chiến trường qua những người lính bị thương trở về. Lúc mùa Hè Đỏ Lửa nơi Sân Banh, kế bên là Bệnh Viện Đỗ Vinh vào khoảng chiều tối những chiếc trực thăng tản thương những người lính từ chiến trường An Lộc về, tôi, mẹ tôi, và những người vợ lính trong Trại Gia Binh cũng ùa lên đón thương binh và hỏi thăm tin tức người thân qua những người lính bị thương, di tản bằng trực thăng từ chiến trường về Bệnh Viện Đỗ Vinh(lúc đó Bố tôi ở Đại Đôi 81/Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù đang tham chiến tại Mặt Trận AN LỘC)… và như thế… những vành khăn tang vội vã, tiếng khóc của những người vợ, ánh mắt buồn nhớ của những người con, Nhảy Dù oai hùng lắm, thương vong cũng nhiều lắm…. Nếu ai đã từng sống trong Trại Gia Binh mới hiểu thấu những chịu đựng, mong chờ của người vợ lính. Tôi còn nhớ, khi Bố tôi đi hành quân, hàng tháng Mẹ tôi thường lên Hậu Cứ gởi Cafe, thuốc lá, loại mà Bố tôi thích, kèm theo 2 lon guigoz mắm ruốc xào với thịt ba chỉ hoặc những gì cần thiết do Bố tôi gởi thư về yêu cầu khi Mẹ tôi lên nhận lương từ ông Kế Toán Trưởng Đại đội. Sau này Mẹ tôi cũng vẫn làm như thế khi tôi trở thành người lính Nhảy Dù và cũng đi hành quân, xin cám ơn Mẹ đã luôn chu đáo cho Bố và con, và tôi càng thấm thía nỗi mong chờ của người vợ, người Mẹ có chồng, con là lính Nhảy Dù. Xin vinh danh những người Mẹ, Vợ, Chị có Chồng, Con, Em là Lính Nhảy Dù đã hy sinh trong cuộc chiến vừa qua, những mất mát đó không gì có thể bù đắp được và những chịu đựng ấy thật to lớn. Xin Kính Phục tấm lòng chịu đựng của Quý Mẹ, Vợ, và Các Chị. Xin Kính Cẩn thắp nén nhang lòng dâng lên tất cả các Chiến Sĩ đã hy sinh cho Tổ Quốc…. Luôn nhớ và Tri Ân các Chiến Sĩ đã bỏ lại một phần thân thể cho Quê Hương.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1540346262-TraiHoangHoaTham_04.jpg

Trại Hoàng Hoa Thám với những hàng cây Điệp chạy dài từ Cổng “A”, đi thẳng khoảng vài trăm mét, bên phải sẽ gặp Trại Trần Quý Mai, Hậu Cứ Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù, xích lên chút nữa, bên trái là Ngôi Thánh Đường(nhà thờ của Sư Đoàn Nhảy Dù) và mái trường Thống Nhất thân yêu, đi thẳng, bên trái là Phòng Sĩ Quan Trực Sư Đoàn, kế bên là nơi trưng bày những chiến lợi phẩm như: Thượng Liên 12.7 ly, Đại pháo 130 ly, xe tăng T54, và các súng Cộng Đồng khác cùng những hình ảnh về Đoàn Quân Mũ Đỏ đã tịch thu qua các cuộc hành quân, bên tay phải là Sân Cờ Bộ Tư Lệnh, rẽ trái là nơi làm việc của các Phòng 1, 2, 3, 4, và Phòng Tâm lý Chiến thuộc Bộ Tư Lệnh, rẽ trái lần nữa sẽ gặp Bệnh Viện Đỗ Vinh, Sân Đá Banh, đi thẳng nữa sẽ gặp Đại Đội 1 Quân Y, Tiểu Đoàn Truyền Tin, Phòng Huấn luyện Tae-kwon-Do, Ban Quân Nhạc, Nhà bếp Sư Đoàn, đằng sau là Phòng Khánh Tiết với những hàng cây Điệp thỉnh thoảng xen vào Cây Phượng Vĩ nở rộ vào mùa Hè kéo dài theo ký ức tuổi thơ của tôi, những ngày cùng các bạn đá banh, bắn chim, tắm Quân Xa(**), đào chì(*) trên sân bắn, lấy chì đổ chàm để chơi đánh đáo… nhớ lắm các bạn Trại Gia Binh ơi…. Trong Trại Hoàng Hoa còn có Trung tâm Huấn Luyện Nhảy Dù, có đài 11mét (thường gọi là Chuồng Cu), khi còn nhỏ, thường theo các bạn đi coi các Chú, các Anh học Nhảy Dù, thỉnh thoảng có Lực Lượng Mỹ đến nhảy Chuồng Cu, các bạn và tôi cũng Ô-Kê Salem với Lính Mỹ, chia nhau những hộp đồ hộp, những thanh kẹo Lính Mỹ cho…, nhớ lại thấy tếu, tuổi thơ của bọn mình sống trong Trại Gia Binh là như thế đấy, xin đừng cười.

Cuối con đường kéo dài từ Cổng “A” quẹo phải, đi qua hậu cứ TĐ8ND (đối diện là Câu Lạc Bộ Hoa Dù) là Khối Bổ Sung/SĐND(đối diện là Trại DAVID-UBLHQS [Ủy Ban Liên Hợp Quân Sự] Bốn Bên). Nơi đây những người lính Nhảy Dù được bổ sung về các Đơn Vị sau khi học dù xong. Đã là lính Nhảy Dù ít nhiều cũng một lần ghé chân Trại Hoàng Hoa Thám như học dù, bị thương điều trị tại Bệnh Viện Đỗ Vinh, hoặc những đơn vị đồn trú trong Căn Cứ Hoàng Hoa Thám như Bộ Tư Lệnh, Quân Y, Truyền Tin, Pháo Binh, Tiểu Đoàn Yểm Trợ, TĐ8ND, TĐ9ND, TĐ2ND, ĐĐ1TS [Trinh Sát], ĐĐ3TS… và các lý do khác để một lần đặt chân đến Trại Hoàng Hoa Thám…. Nhưng mọi việc không xảy ra như thế và có những trường hợp người lính Nhảy Dù chỉ đúng một lần ghé qua Khối Bổ Sung và vĩnh viễn không còn cơ hội để nhận rõ Trại Hoàng Hoa của mình như trường hợp mà tôi được biết, qua lời kể của Cựu Th/úy Dũng 93(khóa 4/71) mãn khóa ngày thứ Bảy và 118 Tân Sĩ Quan, về trình diện Sư Đoàn Nhảy Dù tại Khối Bổ Sung rồi lên đường ra mặt trận vào sáng ngày Chủ Nhật hôm sau, trưa Chủ Nhật đã có mặt tại chiến trường, và đã có những người bạn của anh, các Tân Sĩ Quan về Nhảy Dù, chưa được đi phép, chưa được học Dù… đã hy sinh…, [họ] cũng chưa biết rõ Hậu cứ của đơn vị mình, vì thế những người Lính không biết Hậu Cứ của mình và cũng chưa biết rõ về Trại Hoàng Hoa đã ra đi vĩnh viễn…. Đó là sự khốc liệt của cuộc chiến mà người Lính phải chịu đựng.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1540346300-TraiHoangHoaTham_05.jpg

Trong Trại Hoàng Hoa Thám có hai dãy nhà bán Cafe, quán cơm, ngôi chợ cho Vợ con Lính thường gọi là Chợ Sư Đoàn, nơi phục vụ cho các chiến binh khi bị Cắm trại, nơi lui tới của bạn bè trong Trại, cũng có quán nhậu lai rai, có bàn bi-da, cafe nhạc, điểm tâm, quán cơm… nơi này tôi cũng có dịp quen biết các anh, sau này nghe tin có anh đã hy sinh, có anh trở thành Thương Phế Binh… tôi còn gặp được TS1 [Trung sĩ] Kiệt 83 (hiện ở HOUSTON, TEXAS), anh Phương Kế Toán Trưởng 92, anh Cúc 204 QC [Quân Cảnh]… và cũng chính nơi này, những mối tình của các chàng Chiến Binh với các nàng thiếu nữ (con của Lính Nhảy Dù) đã nên duyên chồng vợ, và cũng có những mối tình không đoạn kết vì Chàng Chiến Binh đã đi mãi không về, Chàng đã hy sinh vì Quê Mẹ… và nước mắt khóc thầm của những nàng thiếu nữ cho những mối tình buồn trong cuộc chiến…. Thỉnh thoảng Phòng Tâm Lý Chiến Sư Đoàn tổ chức chiếu phim vào chiều tối cho vợ con Gia Đình Binh Sĩ xem như các bộ phim mà tôi và các bạn thường được xem “Ánh Sáng Miền Nam”, “Chúng Tôi Muốn Sống”, “Bốn Ngày Phép”, v.v. mỗi lần có chiếu phim là cơ hội gặp gỡ của đám nhóc tụi tôi, để tụ tập chọc phá mọi người….

Xin Quý Vị dừng lại, ghé vào một quán Cafe ở Chợ Sư Đoàn, uống một ly cafe, hút một điếu thuốc CAPSTAN, nghe một vài bản nhạc để sống lại quãng thời gian năm ấy…. Bản nhạc “Anh không chết đâu Anh” về người Sĩ Quan Pháo Binh Nhảy Dù, Đại úy Đương đã hy sinh tại Ngọn Đồi 31 trong cuộc hành quân HẠ LÀO, kiêu hùng lắm! Riêng bản nhạc “Người ở lại CHARLIE” nói về sự hy sinh của Cố Đại Tá [Nguyễn Đình] Bảo, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù tại Căn Cứ CHARLIE, trong đó có Người Tài Xế kiêm Cận Vệ là Chú Thạch Phi, cấp bậc Trung Sĩ, khi nghe bản nhạc này lòng chợt buồn, có gì nghèn nghẹn… vì nhà chú Phi ở cùng dãy nhà với tôi trong Trại Gia Binh, thỉnh thoảng Chú lái xe JEEP đi công tác và ghé thăm nhà, Chú thường chở 2 thằng con trai của Chú, Cà Ri Lớn, Cà Ri Nhỏ, và tôi trên chiếc xe JEEP lạng một vòng Sư Đoàn cho thỏa chí, đôi lúc Chú cũng kể chuyện hành quân cho tôi nghe, Chú rất hiền và thương vợ con. Ngày nhận tin Chú tử trận, vợ Chú xỉu lên, xỉu xuống vì một nách 4 đứa con, tôi thấy đôi mắt của 2 thằng Cà Ri đượm vẻ buồn buồn… rồi thời gian trôi qua, tôi cũng là người Lính Nhảy Dù và từ ấy tôi cũng mất liên lạc với gia đình Chú. Sau cái ngày Vỡ Tổ, không biết gia đình Chú và 2 thằng Cà Ri về đâu? Bỗng nhiên tình cờ tôi liên lạc được với Hùng (con ông Đoàn, Bộ Chỉ Huy Pháo Binh) nhà ở gần tôi và nhà Cà Ri Lớn, hiện ở Mỹ, Chicago, Illinois cho tôi biết vào đầu tháng 4/75 có gặp thằng Cà Ri Lớn, đi lính Nhảy Dù, Tiểu Đoàn 14, cùng Đại Đội 143 với Hùng, tên nó là Thạch Hùng và như thế nó cũng tiếp nối bước chân của Chú Phi, Bố nó, là đi lính Nhảy Dù, cho mãi đến bây giờ tôi mới biết được tên trong khai sanh của thằng Cà Ri Lớn là Thạch Hùng, mọi tin tức về nó và gia đình cũng chỉ có thế, cầu xin anh linh của Chú Phi luôn phù hộ cho vợ Chú và gia đình.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1540346311-TraiHoangHoaTham_06.jpg

Sau khi uống Cafe xong, lòng bồi hồi nhớ lại cảnh cũ người xưa… một chút hoài niệm về quá khứ, về đời Quân Ngũ…. Xin mời Quý Vị vui lòng trở lại Cổng ”A” để tiếp nối chuyến đi thăm Trại Hoàng Hoa Thám.

Từ Cổng ”A” đi thẳng khoảng vài trăm mét, bên phải là Trại Trần Quý Mại, hậu cứ của Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù, có đường đi qua Cổng Phi Long của Không Quân, cổng này các Lính Nhà Ta thường “chuồn” khi có lệnh Cắm Trại 100%, mời rẽ trái khoảng vài chục mét sẽ gặp Quầy hàng của Quân Tiếp Vụ bên trái, Bảo Sanh Viện, Chuẩn Y Viện dành cho Gia Đình Binh Sĩ, đối diện là Gia Binh của Công Binh, qua Cổng ”C” cũ, bên phải có một Lô Cốt là Gia Binh của Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù, thẳng lên bên trái sẽ gặp Chùa Hưng Pháp, đối diện là Gia Binh của Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù, tiếp tục sẽ gặp Hậu Cứ của Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù, Trại Thạch Văn Thinh đối diện là Trại Trần Thanh Phương Hậu cứ của Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù, kế bên cuối con đường là Hậu Cứ của Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh Nhảy Dù.
Bên hông Hậu Cứ Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù có một con đường đất đỏ, bên phải là Trại Gia Binh, nếu đi thẳng sẽ gặp Hậu Cứ của Tiểu Đoàn Yểm Trợ, đi tiếp sẽ gặp lại nhà bếp Sư Đoàn, đối diện là Sân Bắn thẳng nửa là Đại Đội Quân Xa(có cái Hồ Nước mà bọn tôi thường tắm) cũng con đường này, khi đi hết vòng rào của Hậu Cứ Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù, quẹo trái, thẳng lên là Hậu Cứ của Đại Đội 3 Trinh Sát Nhảy Dù, ngó qua là Đài 7, Sân Bắn, qua khỏi Ụ Đất sân bắn là Kho Đạn của Sư Đoàn và Đài 8 (vọng gác vành đai của Sư Đoàn và Bảo Vệ kho đạn).

Như vậy Quý Vị đã đi thăm một vòng Trại Hoàng Hoa Thám, vừa rồi Quý Vị đi thẳng từ Cổng”A” qua Sân Cờ quẹo trái, lần này đi lên chút nữa gặp Bồn Nước cao, rẽ trái sẽ gặp Bộ Chỉ Huy Pháo Binh Sư Đoàn, Đại Đội Kỹ Thuật bên phải, bên trái là Văn Phòng Chỉ Huy Căn Cứ Hoàng Hoa Thám, sau lưng Văn Phòng là Đại Đội 204 Quân Cảnh Nhảy Dù, từ Văn Phòng Chỉ Huy đi thẳng, bên trái là Bệnh Viện Đỗ Vinh mở rộng, có môt căn phòng dùng để Khám Sức Khỏe Học Dù, ngó qua là Sân Banh, nếu ai đã từng học dù còn nhớ, một lần khám là 10 người, bận Xà Lỏn, chạy từ Sân Banh, nơi để quần áo qua căn phòng khám sức khỏe học dù, sau khi đã sexy 100% trong phòng để Bác Sĩ khám. Đi qua Sân Banh, bên phải là Đại Đội Tổng Hành Dinh, đối diên là Hậu Cứ Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù, đi thẳng sẽ gặp Kho Quân Nhu, bên phải, đối diện là Phòng Khánh Tiết Sư Đoàn, đi thẳng thêm chút nữa sẽ có một ngã tư, bên phải là Đại Đội Quân Xa, bên trái là nhà bếp Sư Đoàn, đi thẳng tiếp là Kho Đạn, Vọng Gác Đài 8… như thế là giáp một vòng Trại Hoàng Hoa.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1540346324-TraiHoangHoaTham_07.jpg

Con đường từ Cổng “A” đi vào gặp Trại Trần Quý Mại rẽ trái, cuối con đường này là Hậu Cứ của Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh Nhảy Dù, con đường này tuy không đẹp vì không có những hàng cây Điệp thỉnh thoảng chen lẫn vài Cây Phượng như con đường trong Bộ Tư Lệnh vì mới mở rộng thêm sau này, nhưng con đường này, tôi và các bạn thường đi để ra ngoài như xem Cine, coi đá banh tại sân Cộng Hòa, đi tắm hồ tắm Chi Lăng bên Gia Định hoặc đi ra ngoài Trại Gia Binh mỗi khi có việc.

Kính thưa Quý Vị, với những ký ức này chắc chắn sẽ còn nhiều thiếu sót, vì thời gian cũng tương đối dài hơn 36 năm, trí nhớ phần nào bị mai một nhưng cũng hy vọng gợi nhớ lại phần nào với những ai đã từng sống hoặc một lần nào đó ghé chân qua Trại Hoàng Hoa….

Trại Hoàng Hoa Thám Sư Đoàn Nhảy Dù, đoàn quân đã làm quân thù khiếp sợ, chiến đấu vì an nguy của Tổ Quốc, đã bao chiến sĩ ngã xuống cho Quê Hương, cho màu cờ, sắc áo của Binh chủng và cuối cùng Đoàn Quân ấy cũng phải tan rã theo sự bội vong??? Phải chăng lịch sử đã lập lại, ngày xưa Cụ Đề Thám đã làm giặc Pháp kinh hoàng, ăn không ngon, ngủ không yên bởi các Nghĩa Binh của Cụ, Hoàng Hoa Thám được mệnh danh là Con Hùm Yên Thế… rốt cuộc Cụ cũng bị phản bội và bị giết chết. Ngày nay các Chiến Binh Hoàng Hoa Thám dù chiến đấu kiên cường nhưng cũng bị bội phản, và những cánh chim Dù bay muôn hướng, kẻ ở lại vướng vòng lao lý, bỏ mình nơi rừng thiêng nước độc, người người mưu sinh vất vả…. Trại Hoàng Hoa kể từ ngày ấy không còn nữa nhưng những hàng cây ít nhiều cũng còn hiện hữu, nhắc tôi rằng đã một thời đã cưu mang tôi và bao gia đình, những người đã từng trú ngụ nơi đây, những Chiến Binh của một thời lửa đạn, đã từng ghé qua đây, Trại Hoàng Hoa Thám.

Nếu ai đã từng là Lính Nhảy Dù, ít nhiều cũng có kỷ niệm về Trại Hoàng Hoa…. Với tôi là những hoài niệm không bao giờ quên, thời gian hơn 1/3 thế kỷ trôi qua, trí nhớ phần nào bị bào mòn, lời văn không suông sẻ nhưng những gì ghi lại ở đây là tấm chân tình từ đáy lòng của người con đã sống và trưởng thành từ nơi đây, Trại HOÀNG HOA THÁM.

Kính gởi đến tất cả những ai và các bạn đã từng sống ở Trại Hoàng Hoa Thám hãy yêu thương, đùm bọc lẫn nhau dù qua bao thăng trầm sóng gió của cuộc bể dâu….

Sài Gòn, cuối tháng Năm, mùa Hoa Phượng 2011
Người con Trại Gia Binh Hoàng Hoa Thám
MĐ 90

Chú Thích:

(*) Đào chì: trong Trại Hoàng Hoa Thám, đối diện với nhà bếp Sư Đoàn có một Sân Bắn, dùng để huấn luyện cho các Tiểu Đoàn về tập bắn, dài khoảng 250 mét, có ụ đất cao khoảng chục mét để dựng bia tập bắn, 8 thế bắn di chuyển từ 200 mét… sau khi bắn xong, những đầu đạn bằng chì bên ngoài bằng đồng ghim vào ụ đất, bọn tôi thường canh vào buổi trưa (lúc này không có mấy Chú An Ninh trong Trại đuổi) khi những người lính bắn tập xong, a… a… lê… nhào lên đào chì anh em ơi… ơi! Tay cầm lon sữa bò, tay kia cầm theo vật nhọn như con dao dài khoảng 20cm, đào vào ụ đất để kiếm những đầu đạn ghim vào, sau đó để đầu đạn vào lon sữa bò, nấu lên lấy chì, vỏ đồng bên ngoài, cân ký, bán ve chai, còn chì sau khi nấu đổ vào đít chén để làm chàm chọi đáo, nếu nhiều thì bán ve chai lấy tiền đi xem Cine, đi coi đá banh, đi tắm hồ tắm Chi Lăng…, nếu không có tiền thì đi tắm Quân Xa.

(**) Tắm Quân Xa: Kế bên nhà bếp Sư Đoàn là Đại Đội Quân Xa có một cái hồ dùng để rửa xe, [bề] ngang khoảng 2.5 mét, dài khoảng 3 mét, sâu khoảng 1.4 mét. Những trưa hè (lại buổi trưa vì buổi trưa các chú lính ăn cơm, nghỉ trưa) bọn tôi thường kêu nhau bằng ám hiệu: túc… túc a. a. là Tắm Quân Xa, lập tức có 3, 4 thằng hưởng ứng, theo nhau đến hồ Quân Xa. Khi tắm vì sợ ướt quần áo (khi về nhà sẽ bị ăn đòn) nên bọn tôi thường sexy 100% để tắm, mãi mê với kiểu bơi chó, bơi sải, thi nhau coi ai lặn lâu hơn…. Thình lình có chú lính hét lên ”bắt mấy thằng Quỷ con ưa phá này”… hoảng hồn bọn tôi nhào lên hồ, bỏ chạy quên cả lấy quần áo… thế là cả bọn long nhong không quần áo… về cũng không được, mà núp mãi cũng không xong… bàn tính một hồi, cả bọn cử tôi vào xin lỗi để xin lại quần áo, tôi không chịu mà bắt cả bọn phải theo tôi, không còn cách nào hơn, cả bọn theo tôi đi vào xin lại quần áo, tôi đi trước, hai tay bụm cái “của nợ”, cả bọn theo sau (4 thằng) tư thế giống tôi vào xin lỗi và lấy lại quần áo. Khi gặp chú lính cả bọn tôi mếu máo xin lỗi chú, chú lính nói: ”tụi mày vô đây tắm, lỡ xảy ra chuyện gì ai chịu trách nhiệm? Hơn nữa Sếp của tao la tao vì không trông nom cẩn thận để tụi mày vào đây tắm, nhớ chưa?” Cả bọn tôi dạ… dạ… lia lịa và hứa không tái phạm. Nhưng được khoảng một tuần lại nghe ám hiệu “túc, túc a.. a”, thế là lại lên đường, Hồ Quân Xa trực chỉ, lần này cử một em giữ quần áo, canh gác cho bọn tôi tắm nếu có chuyện gì, chạy được mà không sợ bị mất quần áo như lúc trước… đôi lúc cũng bị rượt đuổi nhưng chạy thoát… văng vẳng tiếng la từ đằng sau của chú lính: ”mẹ kiếp, mấy thằng con lính Nhảy Dù này, lì lợm quá!?!?!?”. Thưa Chú Lính, cho bọn cháu gởi lời xin lỗi chú, nếu tình cờ chú đọc được những dòng chữ này. Tuổi thơ của bọn cháu trong Trại Gia Binh, nhà nghèo, con đông nên niềm vui chỉ có thế, mong chú thông cảm. Chuyện này xảy ra vào khoảng năm 1966, 1967 lúc đó tôi và các bạn khoảng 11, 12 tuổi.

MĐ Vũ Viên
nguồn: http://lhccshtd.org/LHCCSHTD_LS/QLVNCH/ND/LHCCSHTD_LS_QLVNCH_ND_TraiHoangHoaTham_SDND_QLVNCH _2011DEC05.htm

BachMa
11-26-2018, 04:14 AM
Câu Chuyện Tù... Số Mạng (Phần I)
LTS. Sau tháng Tư 1975 tại Việt Nam , người viết loạt bài này từng lãnh án tử hình vì bị kết tội “phục quốc.” Đúng như quẻ bói đoán trước trong xà lim tử hình, người tù được giảm án xuống chung thân, hơn 8 năm sau, giảm thành 20 năm. Rồi nhà tù ăn có chính sách đổi mới, cũng đổi mới bằng cách cho tù đi phép để thâu tiền, người tù tử hình về nhà, và duyên số...


***
1. Án Tử Hình

Tôi lập gia đình năm 1977, vợ của tôi là cô bạn học chung lớp từ thuở lớp 10. Từ tình bạn đồng môn ban đầu, hai năm sau, năm lớp 12, một ngày nọ, bất chợt nhìn thấy ở cuối lá thư của nàng nhờ bạn học lén chuyền cho tôi trong giờ học, nội dung thư cũng chỉ là những chuyện tào lao, ta ri... ta ra... của tuổi học trò như hàng trăm lá thư mà chúng tôi đã gởi cho nhau trước đó, nhưng ở cuối thư nàng lại chấm dứt bằng ba chữ mới tinh: Em yêu anh!

Nàng đã ngỏ lời yêu tôi trước, còn tôi lại cúi đầu run run e lệ, thẹn thùng, ngoẻo đầu, cắn móng tay... chấp nhận.

Quen nhau năm 70, yêu nhau năm 72, nhưng mãi hai năm sau ngày “bể dĩa, tan hang” tháng Tư 1975, chúng tôi mới cưới nhau tháng12-1977. Không may, duyên số của chúng tôi lại quá ngắn ngủi vì đến tháng 4-1979, khi con gái đầu lòng của chúng tôi mới 8 tháng tuổi thì cả hai chúng tôi đều bị bắt vì tội "Chặt tre, chống Trời" (Chính trị) !


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1543116953-CauChuyenTu_011.jpg
Hình minh họa

Khi ra tòa, tôi bị lãnh một bản án kinh hoàng: Tử hình! Còn vợ tôi, tòa án xét vì cô ấy chỉ làm theo lời chồng và con gái của chúng tôi còn quá nhỏ, cần phải có mẹ nuôi dưỡng nên đã tuyên cho cô ấy một bản án tù ở bằng đúng với thời gian tạm giam cho tới ngày ra tòa, nghĩa là trả tự do ngay tại tòa ngày tuyên án.

Trong biệt giam tử hình, tôi có một người "bạn tù" cùng mức án, đã ở trong đó trước tôi và chờ ngày thi hành án là chú Ba P. tức là Tr/Tá Đinh Văn P. .

Sau ngày 30/4/1975, chú Ba đã không chịu ra trình diện mà còn dẫn cả một đoàn quân hỗn hợp đủ mọi quân binh chủng thuộc QLVNCH vào rừng, lập ra một chiến khu kháng chiến chống chính quyền CS.

Hơn một năm sau, vào đầu năm 1977, khi mật khu kháng chiến bị bao vây tấn công và tan rã, chú Ba bị bắt tại chiến trường, vì mải mê chiến đấu mà quên chừa lại viên đạn hay quả lựu đạn cuối cùng cho bản thân chú!

Vì là bạn đồng chí & đồng cảnh nên chúng tôi rất mau chóng thân thiết nhau. Chúng tôi vẫn bình tĩnh, vui vẻ sống trong một hoàn cảnh mà giờ đây khi nhớ lại, tôi vẫn còn rợn người, không thể hiểu được vì sao chúng tôi lại tỉnh bơ khi cái chết cận kề đến như vậy?

Cho đến một ngày kia, bên ngoài nổi cơn giông. Sau một hồi sấm sét rung rinh đất trời, cơn mưa tầm tã đổ xuống ầm ầm tưởng chừng như không bao giờ dứt.

Tôi ngồi bó gối, ngước lên khe cửa sổ tí xíu nhìn ra ngoài trời mưa gió...nhớ lại hoàn cảnh của bản thân, nhớ tới vợ con, nhớ tới gia đình...tự nhiên tôi tuôn nước mắt trong lặng thinh. Dưới ánh đèn bóng vàng vọt của cát-xô, chú Ba trông thấy tôi như vậy, ông buột miệng:

- Sao tự nhiên chú em có vẻ nản chí như vậy, chú em có chuyện gì mà buồn vậy?

- Sao không buồn được chú Ba, chuyện mong ước chưa thành, chưa làm được điều gì cho dân tộc mình nhờ, chưa xong bổn phận với gia đình, vợ con; mới có hai mươi mấy tuổi đầu thì bản thân cháu đã lãnh án tử, nằm chờ ngày chết ở pháp trường thì làm sao mà cháu không buồn?

Đang nằm, Chú Ba bật ngồi dậy, nhìn thẳng vào mặt tôi chăm chú một hồi rồi ông khẽ khàng nói:

- Chú em yên tâm đi, chú em không bao giờ chết vì cái bản án tử hình này đâu, đừng có nản chí.

- Trời đất, tòa đã tuyên án tử mà cháu thì không làm đơn xin tha tội chết, như vậy thì nay mai, sớm muộn gì tụi nó cũng sẽ xách cháu đem đi bắn là cái chắc rồi, làm sao mà cháu không chết vậy Chú Ba?

- Tao nói chú mầy không chết đó! Nếu muốn biết chắc chắn thì mình xích ra xa nhau một chút cho trống chỗ, tao coi cho chú mầy một quẻ là biết liền.

Sở dĩ ông nói vậy vì chúng tôi nằm trên nền tráng xi măng, cùng bị cùm hai chân vào một thanh sắt, hai tay của chúng tôi đều đeo đồng hồ Omega (còng số 8).

Do căn biệt giam quá hẹp, muốn có một chỗ trống giữa hai người, chúng tôi phải dọn dẹp bớt những tư trang ít ỏi, những keo hũ lọ đựng thức ăn gia đình đã thăm nuôi mới có được một khoảng trống cỡ một mặt bàn học trò mẫu giáo. Ông kêu tôi khấn vái một câu gì đi rồi nói cho ông biết, căn cứ vào đó, ông sẽ coi cho tôi một quẻ. Và tôi đã khấn:

- Cầu xin Trời Phật, những vị khuất mày khuất mặt... cho con biết tương lai, hậu vận của con ra sao.

Chú Ba dùng chai dầu gió Song Thập viết dòng chữ này xuống nền xi măng, khoảng trống mà chúng tôi vừa tạo ra, rồi chú gạch gạch, xóa xóa, viết ra thành một dề số chi chít, kín cả tấm bản xi măng. Sau mươi phút im lặng, nhìn vào dề số chằng chịt đó, mặt ông dãn ra, tươi hẳn lên, ông thở một cái khì như cậu học trò vừa giải đúng được một bài toán khó. Chú nói:

- Chuyện đầu tiên tao muốn nói với chú mầy là tao xác định chú mầy sẽ không chết trẻ như vầy đâu. Mạng của chú em mầy rất lớn vì nhờ luôn có ông Quan Đế Thánh Quân với lại nhiều vị Ơn Trên phò hộ. Chú em mầy thọ ghê lắm, tới gần ngót nghét một trăm tuổi lận đó! Hồi nhỏ thì hơi khó nuôi nhưng càng già thì càng mạnh giỏi, không có bệnh tật gì tầm bậy tầm bạ như người khác đâu. Từ bây giờ cho tới đó, có bỏ chú em vô cối mà giã thì chú em cũng văng ra, sống khỏe re. Bây giờ là tháng tư âm lịch phải hông, tới tháng mười, tức là sáu tháng nữa thì chú em sẽ thấy kết quả cụ thể là chú em sẽ không chết. Rồi đó, coi như chú em biết mình sẽ còn sống dài dài. Hễ còn sống tới già thì còn rất nhiều chuyện phải lo, vậy chú em muốn biết thêm chuyện gì nữa đây?

Không biết có phải vì trong hoàn cảnh tuyệt vọng nên khi tôi quớ được lời phán tiên tri đầy lạc quan của Chú Ba, kể từ giờ phút đó trở đi, tôi trở nên phấn chấn, yêu đời hẳn lên vì tin chắc chắn vào một tương lai tươi sáng (đã thoát chết án tử mà lại còn sống dai nữa) đang chờ đón tôi. Tôi vui vẻ hỏi:

- Vậy chú Ba cho cháu biết chuyện gia đình, vợ con cháu sẽ ra sao đi?

Nghe tôi hỏi như vậy, Chú Ba lại cắm cúi nghiên cứu tiếp, một lúc sau, chú trầm ngâm nói:

- Chú em mầy không có duyên nợ lâu dài với vợ con lần nầy đâu! Vợ chồng, con cái đều... khắc tử với nhau. Nếu ở gần nhau thì vợ chồng, con cái tụi bây sống chưa nát tấm chiếu là sẽ bị mất mạng đó. Con gái của hai đứa bây cũng vậy, nó khắc với cha mẹ ghê lắm. Cái số của nó là phải làm con nuôi của người ta, nó mới không gây hại số phần của cha mẹ và mới nên người được. Sau nầy khi lớn lên, nó vẫn biết chú mầy là cha của nó nhưng nó sẽ không ở chung nhà mà chạy đi, chạy về thăm chú mày thôi. Nói là con nuôi người ta nhưng những người đó cũng là ruột rà, máu mủ gần như cha mẹ ruột của nó vậy.

(Mãi sau này, tôi mới biết tin là khi chúng tôi bị bắt, vợ chồng người anh hai của vợ tôi đã đón con gái tôi từ nhà ba má vợ tôi mang về nuôi luôn, cho tới khi gả chồng năm nó 22 tuổi. Anh chị của vợ tôi chỉ có hai đứa con trai nên yêu thương, nuôi dạy nó như con ruột, nhưng khi nó vừa có đủ trí khôn, anh chị đã cho biết nó là con nuôi và đúng ra nó phải gọi anh chị là cậu mợ!)

- Còn vợ của chú mầy thì... nói thật chú mầy đừng buồn, thím nó không có số sống gần chồng con! Hiện thím được thả ra rồi nhưng không có ở gần để nuôi dạy con đâu. Thím nó đang bôn ba kiếm sống xa nhà lắm, rày đây mai đó, đầu đình xó chợ mới có cái ăn qua ngày. Chú mầy đừng buồn, đừng tự trách bản thân đã thiếu trách nhiệm với vợ con. Tao nghiệm trong lá số này, biết chú mày rất thương vợ con và rất nặng lòng muốn lo cho vợ con, nhưng chỉ tại vì cái số của tụi bay là như vậy đó. Trời định rồi, không cãi lại được đâu!

Và cũng rất lâu về sau, khi gặp mặt gia đình lúc được thăm nuôi, tôi mới biết vợ tôi khi đó đang đi theo một đoàn hát cải lương nhỏ của tư nhân, bán và soát vé vào cửa, vì vậy nên không thể mang con theo mà phải tiếp tục để nó lại cho anh chị hai nuôi và dạy học cho nó.

Anh chị hai của vợ tôi trước 75 là hai nhà giáo dạy Trung học đệ nhị cấp. Anh bị động viên đi SQ Thủ Đức, cấp bậc & chức vụ sau cùng là Đ/úy chỉ huy phó Căn Cứ tồn trữ nhiên liệu Gò Vấp, cục Quân Nhu /QLVNCH. Sau ngày mất nước, anh bị đi tù cải tạo hơn ba năm, khi trở về thì nhà cửa, cơ ngơi đã bị tiếp thu nên anh phải sống tá túc trong nhà ba má vợ tôi, ngày ngày cùng chị làm những công việc lao động không tên để nuôi sống bản thân anh chị và hai đứa con trai và con gái tôi. Sau đó anh chị bị bắt buộc đi kinh tế mới tận vùng rừng sâu, nước độc Dương-Minh-Châu, Tây-Ninh.

Đây lại là một câu chuyện dài có dính dáng, liên lụy tới vợ chồng, cha con tôi. Xin sẽ kể lại đoạn sau này.

Thấy tôi ngồi im lặng không hỏi thêm điều gì nữa, biết tôi đang bị nhiều điều đau đớn cào xé tâm can, chú Ba nói tiếp tới như muốn giúp tôi quên đi cái số phần quá hẩm hiu, đen đủi, oan trái của gia đình và bản thân tôi:

- Tao nói chú mầy đừng có buồn nữa, tại số Trời đã định như vậy rồi, có muốn cãi lại cũng không được đâu mà.

Sau ngày mất nước rồi thì còn có biết bao nhiêu gia đình khác bị rơi vô hoàn cảnh túng cùng, khổ ải hơn nhà chú mày nhiều! Tan nhà, nát cửa, mất hết vợ con, còn bị mất mạng luôn nữa, như... tao nè! Vậy mà tao có buồn đâu, số Trời đã định rồi chú ơi. Biết như vậy rồi thì chú mày hãy yên tâm, cam phận. Nếu chịu chấp nhận số phận rồi thì nghe tao nói tiếp chuyện "con vợ sắp tới" của chú mầy nè.

Vẫn chưa thoát khỏi ám ảnh tiên tri một số phận nghiệt ngã của gia đình, tôi ngơ ngác nhìn chú Ba:

- Vợ con... sắp tới là sao chú Ba, vợ con nào vậy chú Ba?

Chú Ba như không nghe câu hỏi ngớ ngẩn của tôi, chú cúi sát bản số tiên tri vận mệnh của tôi, tính toán một hồi thật lâu rồi nói chầm chậm, thật rõ như sợ tôi không chú tâm nghe:

- Tao nói trước 7 điều về người vợ sắp tới của chú mày nha:

1/ Năm 36 tuổi, chú mầy sẽ gặp người vợ thứ hai.

2/ Con nhỏ đó là một người lai nhiều dòng máu chứ không phải người Việt "chánh nòi" đâu.

3/ Bên cánh tay trái của nó, từ bắp vai xuống tới cùi chỏ, có một cái thẹo hay cái bớt, cái vá heo gì đó dễ thấy lắm.

4/ Nó ở gần nhà chú mày.

5/ Nó có quen biết gia đình gia đình chú mày, quen biết luôn gia đình cô vợ hiện nay của chú mày nữa đó.

6/ Con nhỏ đó chủ động tới tận nhà làm quen, chứ không phải chú mày là người tấn công nó trước đâu. Cái số của chú mày có trốn trong phòng riêng đi nữa thì cũng có đàn bà, con gái tụi nó tới ... kiếm mày hà. Tin tao đi!

7/ Hai đứa tụi bay làm đám cưới khi đang có... đại tang!

Tôi suy nghĩ một lúc rồi hỏi chú Ba:

- Cháu có thắc mắc này xin chú cho cháu biết, năm nay là 1981, cháu 28 tuổi, vậy năm cháu 36 tuổi là 8 năm nữa, năm 1989 phải không? Như vậy nếu cháu "bể án" tử hình xuống án chung thân, cháu chỉ mới ở tù có 10 năm thôi (tôi bị bắt năm 1979) mà án chung thân tội chính trị thì làm gì có chuyện được tha sớm để gặp gỡ rồi cưới vợ trong năm 1989 vậy chú Ba?

- Nếu muốn biết chi tiết như vậy thì phải tính toán thêm nhiều lắm, mà cái chỗ này viết kín mít rồi làm sao viết thêm đây? Nhưng tao cam đoan 100% năm 36 tuổi chú mày sẽ có vợ, qua năm sau nữa khi 37 tuổi, chú mày sẽ có một thằng con trai. Có... chặt đầu tao, tao cũng vẫn cam đoan đúng là như vậy.

- Chú cháu mình án tử hình, bây giờ tụi nó xử bắn không hà, chứ đâu còn xài máy chém hay mã tấu nữa, Chú Ba?
Cả hai chúng tôi vô tư cười lăn ra sau câu nói đùa rùng rợn của tôi...

Sau đó, tôi cũng quên hết buồn phiền, thản nhiên chờ đợi số phận, chờ đợi có một đêm nào đó, cánh cửa sắt cát-xô biệt giam này mở ra, rít lên ken két như tiếng nghiến răng của Tử Thần, tôi sẽ bị kêu tên để mang ra pháp trường khi trời chưa mờ sáng...

Những năm đó, án tử hình tội chính trị có nhanh gì cũng phải 2-3 năm sau khi kêu án mới bị bắn. Không phải bởi lý do gì gì khác như chờ thẩm tra lại hồ sơ, chờ cứu xét giảm án, v.v... mà mục đích chính cho chuyện "câu giờ" này là để phòng ngừa tử tội có liên quan tới một hoặc vài vụ án khác, nếu bắn sớm quá thì e rằng sẽ bị những bị can khác đổ thừa cho tử tội đã chết mà chạy tội cho mình. Chính vì vậy mà có những tử tội bị tuyên đến hai, ba cái án tử hình!

Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại. Câu nói đó có thể đúng với những người tù còn mong có ngày mãn án nên mới cảm thấy ngày tù quá dài. Ngược lại, người tử tù lại thấy sao một ngày trôi qua quá nhanh, cuộc đời mình sao quá ngắn ngủi. Những ngày nằm trong cát-xô tử hình, tôi "giải trí" bằng cách cố nhớ lại quá khứ, những ngày đã qua của cuộc đời mình, từ khi mới bắt đầu có ký ức của một đứa trẻ rồi từ từ lớn lên với bao nhiêu là kỷ niệm vui buồn.

Với những chuyện đáng tiếc trong quá khứ, tôi phân tách thật chi ly mọi khía cạnh, lỗi lầm, sai sót của tôi để suy ra phương cách hành xử hợp lý nhất cho chuyện đó kết thúc thật hoàn hảo, chứ không tệ hại như trong thực tế đã xảy ra. Với những kỷ niệm đẹp, tối cố tình "chế" ra thêm, tưởng tượng ra thêm cho nó được kéo dài như bất tận....

Cứ như vậy, tôi sống những ngày trong biệt giam mà tâm trí lại bay thoát tự do ra ngoài trời cao, không còn nhà tù, không còn phòng biệt giam tù túng, chật chội, tăm tối...không nghĩ tới ngày mai tôi sẽ còn cơ hội nhìn thấy ánh bình minh ban mai nữa hay không...

2. Nửa Đêm Đọc Lệnh

Cánh cửa phòng cát-xô biệt giam bật mở kêu lên ken két trong đêm khuya khu biệt giam tử hình nghe thật ớn lạnh đến rợn người...

Tôi và chú Ba ngồi bật dậy, hai cái vòng sắt cùm chân quá chật nghiến thịt tôi tóe máu mà tôi nào có biết đau đớn gì! Đứng ngoài cửa có ba tên cai ngục áo vàng, nón cối che sùm sụp tới tận sống mũi như sợ người tử tù trông thấy mặt rồi sau khi chết sẽ hiện hồn về đòi nợ máu vậy!

- Thằng nào "nà" Nguyễn Như Ý, đứng "nên", chuẩn bị ra ngoài, đồ đạc để "nại" đó.

Tôi đưa hai tay, đang bị đeo còng số 8, siết chặt hai tay chú Ba, run run nói:

- Vậy là cháu "đi" trước chú Ba rồi! Chú ở lại... mạnh giỏi nha chú Ba.

Chú nhìn thật sâu vào mắt tôi, rất chậm nhưng thật rõ ràng, chú nói lại câu nói ngày nào mà chú đã nói với tôi:

- Chú em yên tâm đi, chú em không bao giờ chết vì cái bản án tử hình này đâu.

Tôi choàng hai tay qua đầu chú Ba rồi ôm siết chú, như thay thế một lời vĩnh biệt mà tôi không sao nói lên được. Đó là lần sau cùng tôi còn nhìn thấy chú Ba...

Ba tên cai ngục dẫn tôi vào văn phòng của tay Giám thị trưởng trại giam, nơi vẫn thường làm cái thủ tục đọc lại bản cáo trạng và bản án mà tòa án đã tuyên cho tử tội nghe, cho họ ăn một bữa ăn và hút một điếu thuốc, trước khi làm nốt thủ tục sau cùng là mang ra pháp trường.

Trong phòng đã có ba tên nữa đứng dàn thành hàng ngang, chờ sẵn trước khi tôi bị áp giải vào. Tên Thượng tá trưởng trại tay cầm một xấp giấy tờ; tên Trưởng phòng chấp pháp trước kia đã từng trực tiếp "làm việc" với tôi trong thời gian lấy cung (đúng ra phải nói là khảo cung tôi) và một tay lạ mặt vận thường phục, mà sau này tôi mới biết là Thẩm phán đại diện cho tòa án. Tên Trưởng phòng chấp pháp nhìn mặt tôi rồi xác nhận tôi đúng là phạm nhân Nguyễn Như Ý và ký vô biên bản. Tôi thầm nghĩ: "Như vậy là...xong hồ sơ mình rồi!"

Tên Trưởng trại lạnh lùng ra lệnh cho tháo còng tay tôi rồi nói lớn:

- Phạm nhân Nguyễn Như Ý đứng nghiêm, nghe đọc quyết định của chủ tịch nước!

Cái đầu tôi đang trống rỗng không chút suy nghĩ, bỗng làm việc lại thật nhanh: "Sao lạ vậy ta? Mình không làm đơn xin tha tội chết, sao lại có quyết định của chủ tịch nước?"

Tôi chưa kịp nghĩ tiếp thì tên công an trưởng trại đã đọc một hơi cái quyết định. Thật ra hắn đọc lắp bắp, cà lăm cà lặp vì đọc chữ không thông, nhiều đoạn bị ngắt quãng, im lặng do hắn phải đánh vần thầm. Nội dung cái quyết định nhắc lại tội trạng "phản cách mạng, phản lại Tổ Quốc, phản lại Nhân Dân của tôi và tôi đã bị kết án tử hình.

Lúc đó có thể vì không còn gì để mà sợ trước cái chết đang hiển hiện chắc chắn không thể thoát khỏi, tôi tự nhiên đâm ra bực bội, nổi giận vì tên này đang kéo dài thời gian chờ chết của tôi và tra tấn tinh thần tôi vì sự dốt nát của hắn. Tôi hít một hơi dài, tính yêu cầu hắn bỏ qua những phần thủ tục rườm rà, đọc ngay cái phần quan trọng nhất cho rồi, khỏi mất thì giờ!

"Nhưng, xét vì tên Ý chưa gây ra nợ máu với nhân dân, chưa gây ra những hậu quả đặc biệt nghiêm trọng cho đảng và nhà nước, chưa đến mức cách ly vĩnh viễn cuộc sống (?), còn có thể được cải tạo lâu dài nên nay chủ tịch nước quyết định ân xá cho tên Nguyễn Như Ý từ án tử hình, thành án tù chung thân kể từ ngày bị bắt!

Tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân và công an nhân dân tỉnh....có trách nhiệm buộc tên Ý thi hành quyết định này"..........

Hà Nội ngày.....tháng 11 năm 1981,

Chủ tịch nước đã ký.....

(Tháng 11 đương lịch là tháng 10 âm lịch năm 1981)

Tôi bị áp giải ra phòng giam tập thể ngay sau khi nghe đọc quyết định nên không thể trở về cát xô nói lời từ biệt, vĩnh biệt chú Ba, nhất là nói cho chú Ba biết lời tiên tri đầu tiên của chú cho vận mệnh của tôi là hoàn toàn chính xác.

Sau vài tháng giam ở phòng giam tập thể, đầu năm 1982, tôi được chuyển ra miền Trung thụ hình án tù chung thân khổ sai tại trại tù A-20 Xuân Phước. Trại cải tạo A-20 này còn có tên do anh em tù nhân đặt cho nó là "Thung lũng tử thần" hay như KQ Đỗ Văn Phúc gọi, nó là "Tầng địa ngục cuối cùng".

3. Trại tù Chung Thân Khổ Sai

Trong trại tù A-20, tôi có quen biết rất nhiều các bác, chú, anh em đồng cảnh ngộ tù chính trị như tôi. Các vị đó gồm đủ thành phần trong chế độ VNCH từ một người Nông dân chân chất, anh Sinh viên, Giáo sư đại học, Luật sư, Bác sỹ y khoa, các vị SQ Hải- Lục- Không quân QLVNCH, các vị Bộ trưởng trong chính phủ, các Thầy dòng hay Linh mục, các Đại đức, các vị Mục sư, các vị Quản đạo Cao Đài, Hòa Hảo... Và trong số các "bạn tù" đó có vài người thân tình như linh mục Đ., đại đức T.T.S, Đ.Úy ĐPQ H.M.Q, Th/Tá Tiểu đoàn trưởng Công Binh H.Q.T... đã chấm cho tôi lá số Tử Vi. Có một điều lạ lùng là các vị đó đều nói y chang như chú Ba về người vợ trong tương lai của tôi.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1543116968-CauChuyenTu_012.jpg
Hình minh họa

Đọc những hồi ký của cựu tù từ trước tới nay, tôi thường thấy người ta than rằng đói khổ lắm. Điều đó ai mà không biết. Đã thế chúng tôi lại là những Tù Nhân Khổ Sai, bị án chung thân, trong khi cả nước thiếu ăn thì bọn tù no làm sao được!

Năm 1986, nhà nước CSVN thay đổi, đi theo chính sách gọi là "Đổi mới", xã hội và kinh tế VN như đang hạn hán gặp mưa rào, ngoi ngóp hồi dương sau hơn mười một năm hấp hối. Kinh tế VN khấm khá hơn. Ngoài xã hội "có ăn" thì trong nhà tù cũng được... ăn có!

Khoai mì lát, bo bo, cao lương đỏ, bột mì luộc... từ từ biến mất trong bữa ăn của tù nhân, thay vào đó là cơm gạo. Thức ăn mặn truyền thống "canh đại dương" (nước muối luộc rau muống) dần dần trở thành: đầu tiên là xác mắm thối kho nước muối, sau rất lâu sau đó là thức ăn mặn thật sự, dù khẩu phần rất là khiêm tốn, như cá tạp kho, thịt mỡ kho...

Đã đi qua giai đoạn thèm rau xanh tới mức vặt sạch cả cỏ kiểng để ăn, tới giai đoạn đội trồng rau xanh gánh sản phẩm củ cải trắng, cải bẹ xanh tù-xậy... từ ngoài đồng về bếp trại, cân để lấy số liệu báo cáo rồi lại gánh thẳng ra... hố rác đổ bỏ vì không còn bất cứ ai nuốt cho nổi nữa.

Các CA quản giáo nhận các lô đất khoán, chuyển qua trồng những loại nông phẩm thật sự có lợi ích kinh tế, nhận các ao nuôi cá, lò gạch... hay làm cai thầu nhận các đội tù nhân có tay nghề xây dựng, làm mộc ra ngoài làm thuê nhà cửa cho dân. Tù nhân đã thật sự làm giàu cho các cán bộ CA (thay vì "làm giàu" cho nhà nước) thì cách nhìn của họ đối với tù nhân cũng thay đổi, không còn cực kỳ tàn độc, bất nhân như trước... Đã có những bữa tiệc ăn nhậu thường xuyên được tổ chức trong các nhà lô của các đội với những lý do vu vơ nào đó như mừng vụ mùa bội thu, mừng cán bộ quản giáo mới tậu được chiếc xe Honda cúp (xe second hand nhập cảng từ các nước Đông Nam Á)... mà các cán bộ CA quản giáo và quản chế dẹp cất hết súng ống, ngồi bệt xuống đất chung chén, cụng ly với tù nhân.

Quà thăm nuôi không còn khống chế chỉ có 3 kí lô nữa mà xả cảng, tùy theo khả năng của gia đình cho bao nhiêu thì tù nhân được nhận bấy nhiêu. Định kỳ thăm nuôi từ ba tháng một lần tăng lên một tháng hai lần. Một nhà thăm nuôi mới khá rộng rãi, khang trang, có vườn hoa cây kiểng rất đẹp được chia ra thành nhiều phòng riêng có giường ngủ, bàn ghế để cho các phạm nhân "cải tạo tốt" được ở lại thăm gặp gia đình, vợ con có khi cả tuần lễ, ăn gần hết quà thăm nuôi mới chịu trở vô.

Nhà tù “ăn có” đổi mới. Bể án

Chính nhờ chính sách Đổi mới mà đến giữa năm 1988 có một chủ trương "cách mạng" trong chính sách cải tạo là: nếu các tù nhân đã thụ án được 1/2 bản án, không có thành tích trốn trại, không bị giam kỷ luật vì phạm nội quy trại, được gia đình làm giấy bảo lãnh... thì được phép "cải tạo không cách ly xã hội", nói nôm na là được trại giam cấp một giấy chứng nhận đang cải tạo không cách ly xã hội, mang về trình CA tại địa phương cư trú rồi ở lại nhà mình, đi làm ăn kiếm sống, nuôi gia đình như một người bình thường. Hàng tháng, tù nhân phải quay về trại đổi giấy chứng nhận và đóng cho trại một số tiền, gọi là tiền công lao động đóng góp cho quỹ của trại. Số tiền này không phải là nhỏ, nhưng có rất nhiều gia đình cắn răng ăn mắm húp dòi, chắt mót, tiện tặn để mua sự tự do(!) cho chồng con, cha anh. Chính sách cải tạo không cách ly xã hội này chỉ áp dụng cho tù chính trị phạm. Các tù nhân hình sự, dù chỉ còn dăm ba tháng của bản án cũng tuyệt nhiên không được hưởng chính sách này!

Năm 1988, tôi "bể án" chung thân xuống mức án 20 năm, sau đó được giảm thêm 6 tháng vào đầu năm 1989. Tính ra từ khi bị bắt đến thời điểm đó, tôi đã thụ hình được 1/2 bản án 20 năm. Như vậy là tôi đã lọt vào danh sách đủ điều kiện "cải tạo không cách ly xã hội".

Nguyễn Như Ý
https://www.facebook.com/search/top/?q=C%C3%A2u%20chuy%E1%BB%87n%20T%C3%B9%20%E2%80%A6 S%E1%BB%91%20m%E1%BA%A1ng%20(Ph%E1%BA%A7n%20I)

Còn tiếp Phần II

BachMa
11-27-2018, 03:56 AM
Câu Chuyện Tù... Số Mạng (Phần II)
4. Tù Đi Phép - Vợ Con - Duyên Số

Sau khi má tôi đứng tên bảo lãnh và qua hàng loạt những thủ tục "đầu tiên", tôi đã cầm được tấm giấy xác nhận cải tạo không cách ly xã hội do trại giam A-20 cấp, có hiệu lực một tháng và cho phép tôi... "đi lại trên khắp lãnh thổ Việt-Nam, làm ăn mọi ngành nghề mà pháp luật CHXHCNVN cho phép."

Không thể nào viết lại được niềm vui sướng tột độ của tôi khi cầm được tấm "bùa" sẽ giúp tôi trốn trại hợp pháp này. Đúng nghĩa đen là như vậy vì nhờ có được lá bùa này, đã có mấy chục anh em tù nhân chính trị trọng án như tôi, từ trại giam A-20 trốn trại, vượt biên thoát được ra nước ngoài an toàn. Sau đó họ lại nhờ tấm giấy bùa này, có đóng mộc đỏ chét của trại giam A-20, chứng nhận họ đang là tù Phản Cách Mạng, trọng án đang thụ hình mà họ và gia đình nhanh chóng được cứu xét cho đi tỵ nạn tại các nước tự do khắp thế giới. Chưa bao giờ và sẽ không bao giờ lại có một cơ hội như thế cho những tù nhân chính trị, gia đình và thân nhân của họ như thế nữa!

Tôi trở về ngôi nhà cũ của mình, nơi đã lớn lên cùng cha mẹ, anh chị em sau mười năm lưu đày biệt xứ. Đã có quá nhiều thay đổi, khung cảnh xưa nay đã gần như không còn lưu lại được mấy nên khi đứng trước con hẻm dẫn vào nhà mình, tôi cứ tần ngần, nhìn đi nhìn lại coi đã đứng đúng con hẻm nhà mình hay chưa? Tôi mở cửa bước vào nhà mà lòng nửa vui mừng, nửa hồi hộp tưởng như mình đang xâm nhập vào nhà của ai đó, vì ngay trong nhà tôi cũng đã thay đổi quá nhiều.

Nhà trước kia rất đông người, suốt ngày rần rần, rộ rộ nên tôi không thấy nó rộng lớn, nay thì anh em tứ tán bốn phương trời, ngôi nhà vắng ngắt như tờ, chỉ còn lại thui thủi một mình má tôi nên tự nhiên sao tôi thấy nhà mình rộng lớn quá chừng, phòng đâu mà nhiều phòng quá vậy? Nhà rất rộng nhưng gần như trống trơn, không có bao nhiêu đồ đạc vì sau 75, hưởng ứng chiến dịch "Nhà sạch nhà, phố sạch phố", bao nhiêu đồ gỗ như bàn, tủ, ghế, salon đều đã bị bán sạch trơn để đổi lấy cơm gạo! Ngay cái tủ chân quỳ bằng gỗ cẩm lai thật đẹp làm tủ thờ ông bà cũng đã biến mất, thay vào đó là một cái bàn thờ chân cao bằng gỗ tạp.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1543116981-CauChuyenTu_021.jpg
Hình minh họa

Tôi lặng lẽ thắp mấy nén nhang dâng lên, rồi đứng lặng im nhìn những di ảnh của những người thân yêu ngày nào, nay đã không còn nữa. Sau khi bị quy tội Tư sản mại bản và tịch thu hết cơ ngơi, tài sản, mọi xe cộ cơ giới, con cái thì bị đi tù cải tạo, ba tôi phát bệnh và mất năm 1977. Ba tôi trước 75 là một nhà khai thác lâm sản và đồng thời là thầu xây dựng cho Điện Lực Việt Nam , vì vậy nên bị kết tội "công tác với Ngụy quyền Sài-Gòn". Nhưng ngay khi thấy hình ảnh má tôi đang lúi húi nấu bữa ăn chiều sau bếp, cái cảm giác lạ nhà của tôi biến mất và tự nhủ "đúng nhà mình đây rồi"!

Má tôi biết trước là tôi sẽ về nhưng bà không biết chính xác là ngày nào nên bà rất bất ngờ, vui mừng vì thật sự đã thấy thằng Út đang đứng ngay cửa bếp, im lặng nhìn bà, nó cười rất tươi nhưng trên đôi má lại ướt đẫm hai dòng nước mắt.

Bữa cơm chiều được dọn ra bàn nhưng hai má con không ăn mà chỉ ngồi kể chuyện, đúng ra là tôi im lặng nghe má tôi kể lại chuyện gia đình. Khi nói đến vợ con tôi, bà ngập ngừng một lúc rồi khẽ khàng nói:

- Con gái của con vẫn đang sống với cậu mợ Hai của nó ở đâu miệt kinh tế mới Dương Minh Châu, Tây Ninh, từ hồi hai vợ chồng con bị bắt cho tới bây giờ. Nó được cậu mợ Hai dắt về thăm má mấy lần, nó cũng biết mình chỉ là con nuôi của cậu mợ và biết má là bà nội nó, nhưng khi má xin "bắt" về đây mà nuôi thì nó không chịu! Má nói về đây có trường học đàng hoàng, có tiện nghi đèn đuốc đầy đủ, tiện cho nó ăn học hơn ở vùng kinh tế mới thiếu thốn, khổ cực mọi bề... nhưng nó khôn lanh giống con lắm, nó nói rành rọt như người lớn vậy. Nó nói nó sống với Ba Má Hai từ nhỏ tới giờ nên nó thương như ba má ruột, hơn nữa là Ba Má Hai là hai giáo sư hồi xưa nên dạy cho nó hay hơn thầy cô giáo trong trường nhiều. Nó nói trong trường học cái gì thì nó học cái đó, không thiếu một môn gì nhưng không có hắc ám như trong chương trình của Nhà Nước đâu nội ơi! Ba Má Hai còn dạy con tiếng Anh, tiếng Pháp nữa đó nội, trong trường học cỡ lớp của con, họ chưa có dạy nên mấy lần con thử nói chiện bằng tiếng Anh & Pháp với mấy đứa bạn bằng (tuổi) con, tụi nó hỏng biết con nói tiếng gì hết đó nội! Mà thiệt đó con, má thử hỏi nó mấy câu chào hỏi xã giao bằng tiếng Pháp, nó trả lời nhanh như két mẹ vậy, mà lại đúng giọng Parisiène nữa chứ! Ba Hai của nó là giáo sư Pháp Anh cho mấy trường trung học lớn ở SG trước khi ổng là Đ/úy, con biết mà phải hôn?

Thấy tôi vẫn im lặng không hề hỏi hay nói một câu gì từ đầu câu chuyện, má tôi nói tiếp:

- Còn vợ của con thì... thì... nó chết rồi! Má nghe cậu Hai nói, vợ con sau khi ra tù, nó đi theo một đoàn hát cải lương, làm nhân viên bán và xét vé vô cửa để kiếm sống. Cách đây mấy năm, đoàn hát đang lưu diễn ở miền Trung, gặp mưa bão, nó bị sưng phổi rồi viêm phổi cấp tính gì đó rồi chết... Đoàn hát chôn nó ở ngoài đó, cả năm sau khi họ có dịp lưu diễn ở DMC, Tây Ninh mới tới nhà báo cho Ba Hai của gái con biết tin!

Sau đó, tôi có tìm gặp anh hai của vợ tôi, thăm con gái tôi. Anh cho biết vợ tôi mất năm 1985, tại tỉnh Phú Yên nhưng cũng không biết chính xác vợ tôi đã được chôn cất tại nơi đâu. Ngay cả ngày tháng vợ tôi mất cũng không biết, nên có muốn cúng giỗ cũng không biết phải làm vào ngày nào.

Bất chợt tôi nhớ lại lời tiên tri của chú Ba về vợ con tôi. Chú đã nói trước tám năm nhưng không sai một ly. Cái tâm trạng đau đớn, chua xót dằn xé tâm can ngày nào khi tôi nghe chú Ba tiên đoán vận mệnh cho tôi trong phòng biệt giam, bỗng bùng dậy làm đau thắt tim tôi, đầu óc tôi quay cuồng chao đảo, tự nhiên tôi thấy không ngồi vững, phải lấy hai tay bấu chặt lấy cạnh bàn. Ngày dấn thân vào con đường tranh đấu cho Lý Tưởng Tự Do, tôi đã chấp nhận ngay cả cái chết, nhưng định mệnh đã khiến tôi không chết mà lại đổ ập bao đau thương, khổ ải, ly tán... lên đầu vợ con tôi như thế này? Như vậy khi tôi thoát chết có phải là điều may mắn cho tôi?

Suốt cả tháng sau ngày trở về, tôi cứ thẫn thờ ra vô trong nhà, có khi ngồi hàng giờ một mình trong phòng nhìn ra cửa sổ, đầu óc trống không. Rồi có khi giữa đêm khuya, tôi lấy xe chạy ra công viên Hồ Con Rùa, ngồi ghế đá, nhìn cảnh đêm khuya cô tịch không bóng người, tôi lại cảm thấy lòng mình nhẹ đi.

Rồi từ từ tôi lấy lại quân bình tâm trí và sống trở lại với thực tế, chứ không như một người bị mộng du giữa ban ngày nữa. Tôi thấy nguy cơ sẽ có ngày nào đó bị bắt buộc quay trở lại nhà tù, giống như một con dao nhọn hoắc lơ lửng ngay trên đầu mình. Tôi vẫn còn bản án chín năm sáu tháng tù khổ sai chờ tôi trước mắt.

Tôi cảnh báo với má tôi nguy cơ ám ảnh này, tới lúc đó má tôi mới nói là bà đã lo trước tôi nữa kia. Bà đã âm thầm kiếm đường "binh" cho tôi vượt biên, trốn thoát ra nước ngoài rồi, nhưng vì thấy tôi chưa tỉnh hồn, tỉnh vía nên bà chưa dám "bấm nút". Bà nói sẽ gởi cho tôi đi ngay chuyến nào gần ngày nhất có thể, nhưng bà còn đắn đo vì nếu chẳng may mà tôi bị bắt lại thì phen này bị tăng án là chết chắc! Trời Phật, Thánh Thần không thích chuyện lặp lại hai lần đâu.

Từ đó, tôi đã nhiều lần vượt biên bằng ghe đánh cá, bằng đường bộ xuyên qua đất Cam-Bốt nhưng... không thoát được. Lần nào cũng bể, bị đuổi bắt quyết liệt, bị bắn hụt xém chết mấy lần! Nhưng đúng như chú Ba đã nói, mạng của tôi rất lớn nên lần bể nào cũng thoát nạn, trở về nhà bình yên vô sự. Chuỗi ngày tháng tôi cải tạo không cách ly xã hội là những chuyến vượt biên ly kỳ còn hơn trong phim nữa.

"Tận nhân lực, tri thiên mạng" Và rồi tôi đã đón nhận cái thiên mạng an bài cho tôi: gặp người vợ thứ hai!

Tôi không nhớ rõ ngày nào, chỉ nhớ là sau chuyến đi vượt biên hụt, trở về nằm nhà chờ... chuyến khác thì má tôi nói:

- Con đừng buồn, con người ta có số mà. Sao má thấy con lận đận quá, trong khi mấy đứa anh em mày hễ má lo cho đi là đi một cái một hà! Hồi lúc mới trở về, mày có kể cho má nghe chuyện chú Ba nào đó có bói là mày sẽ gặp con vợ thứ hai của mày trong năm nay phải hông? Hay là tại mày chưa gặp con vợ thứ hai của mầy nên mày mới... không đi được? Dám đúng là như vậy lắm à nha! Vậy để má dẫn con xuống chợ Bà Chiểu giới thiệu cho con một con nhỏ này ngộ lắm. (Ý bà nói là đẹp lắm) Má biết nó lâu lắm rồi. Nó cũng bán ở chợ Bà Chiểu, gần sạp vải của má. Nhà nó chỉ có ba chị em gái. Chị em của nó đều chồng con lâu rồi mà nó không chịu lấy chồng, cứ ban ngày lo buôn bán rồi tối tối thả đi... nhảy đầm với bạn bè. Má hỏi nó sao gần ba chục tuổi rồi mà không chịu lấy chồng đi, nó chỉ cười rồi nói là chưa thấy ai hạp với nó hết. Biết đâu duyên số khiến nó chờ... mày đó con. À nói vậy mới nhớ, mày có nói tới vợ hai của mày là người VN lai phải hông? Con này nó cũng... lai đó con, mà lai Ấn-Độ Bom-Bai hay sao đó mà nó đẹp ghê lắm, nhất là cặp mắt nó có lông mi dài như cánh con bươm bướm dậy đó.

Bà nói say sưa một hơi không ngưng, đến khi nhìn thấy mặt tôi nhăn nhó, bà mới khựng lại.

- Má à, con đang lo muốn chết luôn đây nè! Đi không được cứ bị bể riết, quay về hoài, tâm trí đâu mà nghĩ tới chuyện khác. Hơn nữa con vẫn còn là một thằng tù chính trị trọng án, ai mà thèm hay dám quen biết với con mà má tính giới thiệu chi cho mất công? Hơn nữa nếu nó có chịu làm vợ con thì chỉ khổ thêm vì con mà thôi. Cái thân con đã lo chưa xong, còn lôi kéo thêm người khác dính vô nữa. Con không muốn làm khổ lây cho ai đâu má ơi.

- Mày nói vậy chứ một khi thương rồi thì mày có là tù đi nữa, nó cũng thương như thường con ơi. À! Mà con nhỏ này nó cũng... vượt biên nhiều lần lắm rồi đó nha con. Nó có kinh nghiệm vượt biên lắm, bể hoài mà có bao giờ nó bị bắt đâu. Hỏng chừng số tụi bay hạp với nhau, nó sẽ... dắt con đi trót lọt thì sao? Dám đúng như vậy lắm à nha.

Bà nói xong, phớt lờ tôi cự tuyệt, bà bắt tôi phải chở bà xuống Chợ Bà Chiểu, nơi bà có một sạp bán vải trong nhà lồng, để dọn hàng ra bán phụ bà, mục đích là có dịp giới thiệu tôi với... con nhỏ lai Ấn Bom-Bai đó.

Xuống tới chợ, bà dẫn tôi vô khu tầng trệt nơi có nhiều quầy bán vàng bạc nữ trang, dừng lại trước một quầy khá bề thế, không thấy có ai nên bà gọi:

- Nga ơi, con đâu rồi?

Từ phía sau tủ kiếng, một cái đầu tóc mô-đen xù như bờm sư-tử nhô lên và... nàng xuất hiện!

5. Những Ngày Chưa Quên

Dù thật lòng không muốn tham gia vô cái vụ giới thiệu này chút nào và tôi có đi cũng chỉ để làm vui lòng bà già thôi, nhưng ngay trong 1% giây đồng hồ khi "đọ nhỡn" với nàng, cái PC trong đầu tôi đã ô-tô-ma-tích cho ra ngay lập tức một nhận xét tổng thể về nàng: Đẹp!

Đúng như má tôi nói, người con gái tên Nga này có một khuôn mặt và nhất là đôi mắt rất đẹp của những người mang trong mình hai dòng máu Việt - Ấn. Cao ráo, tướng người thon thả, nước da bánh mật, ăn vận rất hợp thời trang nhưng không quá lố lăng.

Sau khi tươi cười chào hỏi má tôi, nàng nhìn qua tôi:

- Dì Sáu, anh đây là...

- Thằng C. con trai út của dì đó con! Cái thằng mà dì đi thăm nuôi nó ngoài miền Trung hoài đó. Nó về rồi nè.

Quay qua tôi, bà nói:

- Con nhỏ này là con Nga mà má nói với con đó! Nó bán gần sạp vải của má, nó mua hàng vải của má hoài nên quen, xuống nhà mình chơi... tứ sắc với má cho vui rồi nó chơi thân với con Điệp nhà mình luôn (Điệp là em gái út của tôi). Hai đứa tụi nó rủ nhau đi chơi chung hoài à.

Nàng cười với tôi rất tươi:

- Em mừng cho anh. Anh về lâu chưa, sao em gặp dì Sáu hoài mà không nghe dì nói chuyện anh được về, nếu biết thì em đã xuống nhà bắt dì Sáu mở party ăn mừng rồi.

Chuyện buồn của vợ con vẫn còn sâu nặng và chi phối tinh thần tôi chưa nguôi ngoai. Đã mang mặc cảm tự ti nặng chình chịch trong lòng, nay lại bị bà già giới thiệu cho một cô chủ tiệm vàng xinh đẹp, tôi lại càng bị sốc nặng hơn nữa. Dù rằng gia đình tôi cũng không thua kém gì gia đình nàng, còn có phần nhỉnh hơn nữa kia. Các anh chị em tôi đều ở nước ngoài, còn lại mỗi mình tôi thì "giàu út ăn, nghèo út chịu". Nhưng bản tánh tôi rất độc lập, từ nhỏ đã không muốn lệ thuộc hay ỷ lại vào bất cứ ai, kể cả cha mẹ hay gia đình. Bất chợt tôi thầm nghĩ tôi giống như một tên lưu manh, đang âm mưu đào mỏ vàng với cả hai nghĩa trắng lẫn đen luôn.

Suy nghĩ như vậy nên tôi chỉ ậm ừ trả lễ một cách miễn cưỡng với nàng cho phải phép lịch sự tối thiểu, rồi tôi tảng lơ qua các quầy hàng khác.

Biết ý tôi nên sau vài câu xã giao với nàng, má tôi từ giã để kêu tôi vào dọn hàng phụ với bà bên sau nhà lồng. Trong khi hai mẹ con đang bày hàng, bà nói:

- Con Nga này ngộ lắm nha. Nhà nó ở gần nhà mình, kế bên rạp xi-nê-ma Đại Đồng đó. Nó có mua bán qua lại với bên nhà của vợ con ở gần nhà nó, nên nó có quen biết vợ con nữa mà. Không biết nó có duyên nợ gì với con hay không mà có nhiều lần nó xuống nhà mình chơi, thấy má đang nấu nướng đồ ăn hay đi mua sắm ba món đồ khô để chuẩn bị đi thăm nuôi con, thì tự nhiên nó cũng nhào vô bếp phụ xào mắm ruốc (cái món này ăn thì ngon mà làm thì cực lắm, lại quến mùi vô tóc hôi hám, tắm gội hai ba lần cũng còn mùi nữa đó) rồi kho thịt kho khô, làm thịt chà bông... lại còn đi mua kẹo bánh đủ thứ để gởi cho con nữa đó. Có một lần nó đòi đi theo má ra Xuân Phước thăm con nữa chứ. Má cản không cho nó đi vì đường xá xa xôi, đi về phải mất mấy ngày cơm hàng cháo chợ, cực khổ tội cho nó. Má phải giả bộ hù nó, nói không phải thân nhân thì họ không cho vô thăm đâu, nó mới thôi không đòi đi theo nữa. Mà nó chỉ thân quen với má và con Điệp thôi, chứ nó có biết mặt mũi của mầy ra sao đâu.

Biết là má tôi đang "châm" vô thêm nhưng tôi vẫn nín thinh không có ý kiến, ý mối gì hết. Vì thấy tôi hoàn toàn vô tâm, không để ý gì tới "con nhỏ Nga" nên sau đó hàng mấy tháng trời, má tôi không nhắc tới tên nàng với tôi, dù tôi biết rằng hàng ngày nàng vẫn gặp mặt má tôi và thỉnh thoảng có cùng bà đi hành hương chùa chiền, hoặc cùng bà làm từ thiện ở các trại tế bần, trại nuôi trẻ mồ côi nào đó. Sau khi tôi coi mắt nàng rồi trở về nhà, thì nàng cũng không còn lại nhà chơi đánh bài tứ sắc với má tôi nữa.

Cho tới một buổi chiều, tôi còn nhớ rõ lắm, một buổi chiều thứ bảy thật đẹp... Tôi đang ăn cơm chiều với má thì nàng dẫn đứa cháu, con của em gái nàng, bước vào chào hai má con tôi rồi rất tự nhiên, nàng bồng đứa cháu cùng ngồi trên cái võng mắc gần bàn ăn, nói chuyện với má tôi, sau khi từ chối lời mời ăn cơm vì... “con mới ăn xong ở nhà.” Nàng liếng thoắng kể câu chuyện phim "Dòng sông ly biệt" của Quỳnh Dao do hai diễn viên Tần Hán và Lưu Tuyết Hoa thủ vai chính cho má tôi nghe (Trời đất! Chuyện đã hơn hai mươi năm rồi sao tôi lại còn nhớ kỹ chi tiết quá như vậy cà? Phim Tàu, diễn viên Tàu không phải là cái gu của tôi mà. Hay là vì đó là "Định mệnh đau buồn khó quên" chăng? Mong sao nàng đừng đọc được bài này, nhất là đọc được câu tự nhủ đó của tôi thì... hậu quả sẽ thật không lường cho tôi).

Trong khi nàng kể rồi sau đó cùng bình phẩm truyện phim với má tôi, thì tôi vẫn im lặng lắng nghe chứ không hề góp vô một lời nào. Tôi thầm nhận xét kể ra thì cô nàng này ăn nói rất có duyên. Kể chuyện phim thuộc loại bi kịch mà lại có thể khôi hài hóa, khiến má tôi cười ngặt nghẽo (còn tôi cố làm nghiêm nhưng có lúc nín không nổi, cũng phải tủn tỉm cười theo) thì quả là nàng rất có khiếu hùng biện và vui tính.

Thấy tôi đã ăn xong từ lâu nhưng không rời bàn mà còn trầm ngâm, đăm chiêu bên ly nước, nàng quay qua... tấn công tôi:

- Anh C. ít nói quá hén dì Sáu. Từ khi anh về tới giờ cũng đã khá lâu rồi mà em nghe dì Sáu nói anh gần như không đi chơi ở đâu, hay có quen với ai hết. Sao vậy anh? Tù túng lâu ngày quá rồi, bây giờ có được chút tự do thì mình phải tận hưởng đi anh!

Không đợi tôi trả lời, nàng tỉnh bơ cười lém lỉnh, tấn công tôi tới tấp:

- Em nghe dì Sáu kể hồi xưa anh... bay bướm ghê lắm, nhiều đào nhất nhà mà phải hông? Dì Sáu nói hồi đó anh ghiền khiêu vũ lắm phải hông? Vậy để hôm nào em mời anh cùng đi chơi với tụi bạn em nha. Dancing của Caravelle có ban nhạc chơi xây tua rất hay, lại còn chơi đèn màu đúng theo điệu nhạc nữa. Chắc là anh sẽ thích lắm vì đúng gu hồi xưa của anh chứ không rầm rầm, tán loạn như mấy tụi nhóc bây giờ đâu anh. Nếu anh không có bận công việc gì thì sáng mai, em... mời anh đi uống cà phê với em nha. Quán cà phê Hồng ở Đinh Tiên Hoàng rất ngon mà khung cảnh, trang trí bên trong dễ thương lắm đó.

Một cô nàng ngộ như vậy, khả ái như vậy, thân thiện như vậy mà lại ngỏ một lời mời chân thật như vậy, thì bụt trên bàn thờ cũng phải... phóng xuống chứ huống hồ gì là tôi.

6. Lời Tiên Tri Thành Sự Thật

Sáng hôm sau, như lời đã mời, nàng chạy xe tới nhà đón tôi ra quán cà phê Hồng thưởng thức. Quả thật, khung cảnh và trang trí của quán rất dễ thương như nàng nói khiến cho ly cà phê đã ngon lại càng ngon hơn. Khi vừa nhấm nháp vài hớp cà phê thì bên ngoài trời đổ mưa. Tôi có rất nhiều kỷ niệm có liên quan tới "chủ đề mưa" nên trong khi nàng nhỏ nhẻ kể chuyện gia đình nàng thì tôi lơ đãng nghe nhưng trong lòng lại bay bổng về những khung trời kỷ niệm...

“...Ông nội em là người Ấn. Ông qua Cam-Bốt làm ăn và cưới bà nội em là người Cam-Bốt lai Tàu, sinh ra ba em. Ba em bỏ xứ qua VN sinh sống tại Long An và gặp má em tại đó. Như vậy là em lai tới 4 dòng máu lận đó anh..."


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1543117003-CauChuyenTu_022.jpg
Hình minh họa

Ngoài trời, một tiếng sấm nổ vang rền khi nàng vưa nói dứt câu... Tôi bàng hoàng sực tỉnh, không phải vì tiếng sấm mà chính là do câu nói cuối của nàng. Chỉ trong tích tắc, tôi vụt nhớ lại chú Ba với 7 điều tiên tri của chú. Tim tôi tự nhiên đánh dồn dập làm tôi muốn ngộp thở. Tôi hít một hơi dài để giữ bình tĩnh rồi hỏi nàng một câu chẳng ăn nhậu gì với câu chuyện nàng vừa kể:

- Hình như bên tay trái của em, từ vai xuống tới cùi chỏ có một cái thẹo hay bớt hoặc là một cái vá heo gì đó phải hông?

Với đôi mắt mở to nhìn tôi vẻ ngạc nhiên, nàng hỏi lại:

-Sao anh biết hay quá vậy?

Nói xong, nàng vừa vén cái tay áo mô-đen dài rộng đang che tới cổ tay nàng lên tận bả vai vừa nói:

-Hồi nhỏ em trồng trái (chủng ngừa bệnh đậu mùa) bị làm độc lan rộng ra, khi lành lại thành một cái thẹo tròn quay như đồng tiền nè!

Tôi không trả lời câu nàng hỏi mà lại nhìn trân trân vào cổ áo chữ V của nàng: một mảnh vải tang màu đen nhỏ xíu đang đính trên đó.

Chiều tối qua, nàng đong đưa trên cái võng hơi xa nơi tôi ngồi, lại còn bị thằng cháu nàng đang bồng che mất nên tôi nào thấy được nàng đang để tang. Hơn nữa, nàng hay mặc áo tuy mô-đen nhưng chỉ có các hoa văn đen trên nền vải trắng, phải ngồi gần và để ý, tôi mới thấy mảnh vải tang có chút chíu rất... mô đen này. Sau khi tôi hỏi, nàng cho biết đang thọ tang ba nàng từ hơn một năm qua. Còn má nàng đã mất từ khi chị em nàng còn bé.

Như một người đang mộng du đột ngột tỉnh giấc và cực kỳ tỉnh táo đầu óc, tôi bàng hoàng thầm "kiểm kê, đối chiếu" 7 điều tiên tri số mệnh của tôi với thực tế trước mặt:

..." Năm nay mình 36 tuổi... con nhỏ này lai nhiều dòng máu... ở gần nhà và có quen biết cả hai nhà mình và người vợ đã mất của mình... tay trái có một cái thẹo... mình đang ở nhà thì con nhỏ này tới làm quen... Trời đất ơi! Như vậy chỉ còn thiếu điều thứ 7 nữa là hai đứa sẽ làm đám cưới khi đang có đại tang là không sai một lai nào hết"...

Có bao giờ ai đó đã gặp một tình cảnh tương tự như tôi chưa?

Mới lần đầu tiên đi uống cà phê nghe nhạc với nhau chưa được nửa tiếng đồng hồ, trong lòng chưa hề dấy lên một tí xíu tình cảm nào chứ đừng nói chi tình yêu mà đã biết chắc chắn 100 % người bạn gái sơ giao này sẽ là người vợ "thiên định" của mình rồi.

Trên đời này chúng ta phải công nhận là có những sự trùng hợp ngẫu nhiên rất bất ngờ, nhưng với câu chuyện của tôi thì phải nói là cực kỳ hiếm, có một không hai với xác xuất tiệm cận Zê-rô. Không ít trường hợp các quý bạn nam nhi vừa gặp "nửa kia của đời mình" là bị tiếng sét ái tình giáng cho một nhát choáng váng đến nỗi tối tăm cả... lý trí và "hạ quyết tâm" phải chiếm hữu vĩnh viễn cho bằng được nàng cho riêng đời mình và họ đã thành công. Nhưng xin quý vị công tâm xét trường hợp của tôi thử xem đúng là có một không hai hay không?

- Anh ! Có chuyện gì mà anh có vẻ lo lắng quá vậy anh?

Tôi giật mình, bối rối, không biết nói sao cho nàng tin tôi đây và có nên nói hay không? Chỉ mới sơ giao mà lại đi nói một chuyện "thần thoại" như vậy với người bạn gái có phải là thời điểm thích hợp hay không? Ngay chính tôi cũng không muốn nói một tí gì cho nàng vì tuy biết trước "tương lai hậu vận" của nàng và tôi sẽ ra sao, nhưng tôi cần có thêm thời gian để tìm hiểu rất nhiều về nàng trước khi tôi xuôi tay, nhắm mắt, phó mặc đời mình cho định mệnh và duyên số đẩy đưa.

"Tận nhân lực, tri thiên mệnh". Đã biết con người có số thiên định rồi nhưng không có nghĩa là cứ nhắm mắt, há miệng chờ sung. Vận mệnh nằm trong tay ta.

Lòng đã quyết định như vậy nên tôi kiếm chuyện đánh trống lảng cho qua luôn, không nói gì với nàng hết.

Xong buổi cà phê, trở về nhà, khi tạm biệt nhau, nhìn nàng chạy xe đi mà tôi cứ bồi hồi nhìn theo, lòng tự hỏi... con nhỏ Nga đó sẽ là vợ mình sao ta?

Sao lại có thể như vậy được?

Nguyễn Như Ý
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=488110115031189&set=gm.2037738069597627&type=3&theater&ifg=1

Còn Tiếp Phần III

BachMa
11-28-2018, 02:25 AM
Câu Chuyện Tù... Số Mạng (Phần III)
7. Lễ Hỏi Để Vượt Biên

Một người con gái như Nga đâu phải quá khó kiếm một tấm chồng, tại sao bao nhiêu năm qua vẫn chưa tìm được? Chị và em của nàng đều đã lập gia đình từ năm họ 18, 19 tuổi. Còn lại có một mình nàng, đã gần ba mươi rồi mà vẫn cứ phây phây rong chơi với cuộc đời độc thân vui tính. Lúc đó tôi chưa biết là có rất nhiều quý ông cộm cán, có cơ ngơi, vai vế địa vị trong xã hội đã và đang rắp tâm bắn sẻ trái tim nàng (vài người trong số đó là bạn bè rất thân của nàng từ thời còn đi học chung lớp, chung trường) nếu biết được như vậy, chắc là tôi sẽ còn thắc mắc ghê hơn nữa cho một câu hỏi mà chỉ có Trời mới trả lời được.

Ngoài ra, còn có một người nữa, đó là chính nàng. Mãi về sau, khi đã là vợ chồng rồi, nàng mới chịu nói cho tôi biết lý do vì sao nàng đã chấm tôi... trúng tuyển, mà lại còn chấm rất lâu, trước khi tôi trở về nhà và gặp nàng kia. Xin được dành câu trả lời này cho phần sau của bài viết sẽ phù hợp hơn.

Nói thật với quý bạn, chính là xuất phát từ thắc mắc và tò mò muốn biết câu trả lời cho câu hỏi đó mà tôi đã bặm gan, liều mạng cho... tới luôn bác tài. Chứ lòng tôi vẫn chưa hề có một chút xíu nào gọi là phải lòng nàng, dù sau buổi cà phê kéo dài hết cả buổi sáng hôm đó, tôi đã thấy nàng có nhiều quan điểm, sở thích khá là phù hợp và tương đồng với tôi.

Tôi đã gia tăng cường độ giao tiếp với nàng bằng vô số cuộc hẹn hò đi cà phê, xem ci-né, dancing... thậm chí còn đi coi khỉ trong Thảo-cầm-viên nữa, bất cứ lúc nào có thể. Và kết quả là các bạn bè cũ của nàng bắt đầu thắc mắc và than phiền là nàng đã quên họ và xé lẻ đi chơi riêng với ai đó, mà hỏi thì nàng dấu biến không nói. Vì trước kia, nàng luôn luôn có mặt và là MC, là cây đinh trong các cuộc tiệc tùng, vui chơi nên vắng nàng là bạn bè biết liền.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1543117015-CauChuyenTu_031.jpg
Hình minh họa

Cho tới một buổi tiệc sinh nhật của một cô bạn thân tổ chức tại nhà riêng, nàng mới chịu dẫn tôi đến ra mắt bạn bè. Tới lúc đó tôi mới biết bạn của nàng ngót nghét quân số của hai đại đội.

Với bạn gái đã đành, đối với bạn trai hay kể cả vợ hay chồng của bạn cũng vậy, nàng đều xưng hô mầy tao hết ráo. Chính vì vậy nên khi thấy vài người bạn trai thay đổi cách xưng hô, nàng đốp chát liền:

- Chaa.a.a... hôm nay mầy thành người lớn hồi nào dzậy? Cứ Nga Nga với mình mình hoài! Sao không đổi luôn thành anh anh, em em như tao với anh C. luôn đi. Rớt mặt nạ rồi nha con. Nhưng mà mầy chạy đua không kịp với ảnh đâu con ơi. Chờ kiếp sau nộp đơn đi con...

Khi chỉ còn tôi với nàng, tôi hỏi vì sao nàng lại đốp chát thẳng tay với bạn bè như vậy thì nàng nói:

- Mấy đứa đó là bạn học với em từ hồi nhỏ, rất là thân, nhưng khi lớn lên, đứa thì đi CA, đứa thì làm cán bộ. Tiền bạc, địa vị thì có nhưng tụi nó bị đỏ rồi, chơi không vô. Em ghét tụi nó vì tụi nó cơ hội chủ nghĩa lắm.

Tôi lại biết thêm một quan điểm sống của nàng.

Có hôm, tôi xuống nhà nàng chơi mà không báo trước. Thấy nhà đang được sơn phết, chà rửa, trang trí lại để chuẩn bị mở thành nhà hàng ăn uống. Tôi đi ngang qua nhóm nhân công, thợ thuyền đang làm việc để lên lầu tìm nàng mà không để ý, khi nghe tiếng nàng gọi giật ngược lại, tôi mới thấy nàng mặc một bộ đồ lao động cũ mèm, không biết mới tìm ở đâu ra, đang... bò càng trên nền nhà, chà rửa chí chạp như một công nhân vệ sinh rành nghề vậy.

Trong khi chờ nàng lên phòng riêng tắm gội, thay quần áo để đi với tôi, mấy cô bé giúp việc nhà của nàng... nhiều chuyện với tôi, tôi mới biết nàng sống rất hòa đồng với người ăn, kẻ ở trong nhà.

- Chị Ba (nàng thứ ba) hay phụ giúp tụi em làm việc nhà lắm. Chỉ hay xuống bếp ăn cơm chung với tụi em, chỉ nói ăn chung để giỡn với tụi em cho vui nhưng tụi em biết chỉ muốn coi tụi em ăn uống có bị thiếu thốn hay không. Chỉ cứ cho thêm tiền đi chợ để mua thêm đồ ăn cho tụi em hoài à.

Biết thêm một đức tính của nàng, ngày qua ngày, tôi... phải lòng nàng lúc nào cũng không hay biết, chỉ biết rằng tôi khó mà tìm được một người nào khác ngoài nàng ra để nâng bóp, lục túi cho tôi.

Và rồi trước khi nàng dẫn tôi đi trốn trại bằng ghe đánh cá, hai gia đình đã quyết định làm lễ hỏi cho chúng tôi. Hai ngày trước lễ hỏi, gia đình nàng đã làm lễ xả tang cho nàng. Trong lễ hỏi, cả hai gia đình lại quyết định thông báo rộng rãi cho bà con biết là tháng 12 âm lịch sắp tới, sẽ làm lễ cưới cho đôi trẻ bền duyên giai ngẫu.

Ngay tối hôm lễ hỏi, nàng mở party tại nhà khi đó đã thành nhà hàng Thiên Hồng, Bình Thạnh để khoản đãi bạn bè. Khi nàng đang trong nhà tắm, nhờ tôi lấy dùm cái jupe soirée trong tủ áo. Tôi bất ngờ đến hoảng hồn, xém một chút là té xỉu khi trông thấy hai bộ võ phục đã bạc màu, một của Tae Kwon Do với đai đen... ba gạch (Tam đẳng) và một của Thiếu Lâm Bắc Phái với... Bạch Đai Sư Tỷ!!!

Khi tôi hỏi thì nàng mới ngỏn ngoẻn cho tôi biết nàng là Huấn luyện viên Tae Kwon Do và Thiếu Lâm của Trung Tâm Thể Dục & Thể Thao quận Bình Thạnh lâu lắm rồi... " Nhưng năm ngoái khi ba mất, em buồn quá nên thôi, không đi dạy nữa". Tới lúc đó tôi mới tá hỏa khi nàng cho tôi biết là trong các buổi party, có những người bạn gọi nàng là Sư Tỷ, những người bạn đó nguyên là võ sinh đệ tử của nàng trước kia.

Tại sao một tên tù tử hình ví dám làm chuyện "Đòi đội đá vá Trời", mà khi biết hôn thê của mình là một "Sư Tỷ" Thái Cực Đạo & Thiếu Lâm lại hoảng sợ muốn xỉu?

Như đã kể, tôi bẩm sinh rất nhát gái. Nhưng Trời cho cái số phận tiền định là luôn luôn được (bị) các vị tiểu thư... chiếu tướng. Mà tôi thì không nỡ phụ lòng người, nên nếu phu nhân tôi là một cao thủ võ lâm như vậy, sớm muộn gì cũng có ngày sẽ phải trả giá đắt, rất là đắt cho cái tánh nhân ái của tôi.

Xin thú thật là cho tới ngày tôi làm đám hỏi với nàng, nàng đã phải cất công "Bình Nam, Phạt Bắc" loại bỏ khỏi vòng chiến đấu... 4 con yêu nữ đã đeo theo rù quến tôi (Nguyên văn lời nàng nói, chứ tôi tuyệt nhiên không bao giờ dám cả gan xúc phạm bất cứ ai, nhất là các tiểu thư).

Nguyên do sạp vải của má tôi tuy không lớn lắm nhưng rất nổi tiếng vì thường hay có hàng độc, từ vải vóc cho tới mỹ phẩm, nước hoa .v.v. ở nước ngoài gởi về (của 6 anh chị em tôi gởi cho má tôi. Năm 1989 vẫn còn cấm gởi USD và các thứ ngoại tệ về VN nên người ở nước ngoài phải gởi quà về cho thân nhân ở VN bán lấy tiền chi dùng). Mà nơi nào có vải vóc, lụa là, y trang đẹp và độc đáo... là có các quý tiểu thư thường xuyên lui tới.

Một tháng má tôi nhận được ít nhất là 3 thùng hàng. Bà thông báo cho các mối quen tới tận nhà để họ chọn lựa trước khi má tôi mang ra chợ bán. Bởi lý do đó nên nhà tôi luôn luôn nườm nượp bóng dáng giai nhân.

Má tôi ra chợ bán vào buổi sáng, chiều nghỉ nên bà chỉ tiếp mối quen vào buổi chiều tối tại nhà. Ấy vậy mà từ khi tôi trở về, các mối quen lại hay đến nhà tôi vào... buổi sáng, dù biết rõ ràng là chỉ có mình tôi ở nhà, để hỏi mua đủ thứ hằm bà lằng trên đời, những thứ tối cần thiết cho người phụ nữ. Và trong một hoàn cảnh như thế, tôi sẽ không cần phải thề độc để các bạn tin tôi là đã có rất nhiều lần, các mối quen này thử các món phụ tùng rất độc... địa như các sản phẩm Victoria’s Secret... ngay tại chỗ, ý tôi nói là vào phòng khác để cởi ra, bận vào. Nhà tôi có rất nhiều phòng ngủ bỏ trống từ khi anh em tôi đi nước ngoài, và nhờ tôi ngắm dùm coi có vừa vặn, đẹp đẽ hay không? Chưa bao giờ tôi lại thấy nghề bán vải vóc, mỹ phẩm và y phục của má tôi lại hạp với tôi đến vậy.

Và chính là do không muốn tôi phải chịu cực, chịu khổ buôn bán, tảo tần phụ má tôi nên ngay sau khi vừa làm lễ hỏi xong, nàng đã xin phép má tôi cho nàng được gánh vác toàn bộ sinh kế của gia đình nhà chồng. Má tôi không cần phải ngồi sạp vải nữa, cứ dành trọn thời gian Ở NHÀ (xin nhấn mạnh hai chữ ở nhà. Coi như nàng nhờ bà làm... vú em trông coi, canh chừng tôi dùm cho nàng) mà điều binh khiển tướng tứ sắc cho vui thú tuổi già.

Cái sạp vải muôn vàn kính yêu của má tôi, cái sạp vải đã từng nuôi sống tôi trong tù và nó vừa mới dạy cho tôi chớm biết thế nào là tình yêu lao động, cần cù tảo tần buôn bán... được nàng công khai tuyên bố với các mối quen là: Dẹp tiệm ! Nàng còn ngăn ngừa hậu họa bằng cách xin các anh em tôi không cần gởi quà về cho má tôi nữa, vì đã có nàng xung phong tự nguyện gánh vác giang san nhà chồng rồi.

Cuối cùng, nàng xin phép má tôi cho nàng mua lại hết số hàng vải, mỹ phẩm, ba cái thứ Victorias Secret ác ôn... còn tồn kho mà tôi chưa kịp bán dùm má tôi để nàng nhổ cỏ tận gốc.

Nàng thì như vậy đó còn tôi thì lại như đó vậy, thử hỏi làm sao tôi không chết điếng khi biết nàng tuy nhỏ nhỏ mà lại giỏi võ.

Nhưng tôi đã lầm, nàng sẽ dùng bạo lực để trừng trị tội ăn vụng, cơm nhà không ăn mà đi ăn phở. Mỗi lần tôi bị Tam hợp chiếu, tôi nhiếm kín đến nỗi nàng không bao giờ biết được. Nhưng chính cái tánh thùy mị cùng những chăm sóc, yêu thương chồng, một lòng cung cúc lo cho gia đình hết mực của nàng luôn làm tôi tự cảm thấy ăn năn, hối hận vì đã lừa dối nàng, không xứng đáng với nàng... "Anh ơi, anh nhớ... anh ơi đừng quên... anh ơi trưa nay về ăn cơm nhà nha anh, em có nấu món ăn mà anh thích đó nha...".

Nàng vẫn hồn nhiên vô tư tin vào tôi tuyệt đối và tận tụy chăm lo cho tôi từng ly từng tí, trong khi cái thằng tôi đốn mạt lại nỡ nhẫn tâm lừa dối nàng. Chịu không nổi sự ray rứt, cào xé của lương tâm, tôi đã quyết định hồi chánh, tự thú tất cả tội lỗi của tôi, xin nàng tha thứ và thề (lời thề cá trê chui ống cống) sẽ không bao giờ tái phạm nữa trước ánh mắt, thoạt đầu là mở to ngơ ngác vì bất ngờ, rồi sau đó là nhạt nhòa lệ đẫm đôi mi... Nàng chỉ khóc và khóc nức nở thôi chứ không hề bao giờ đay nghiến, nói nặng một lời nào với tôi chứ đừng nói chi tới chuyện "xử đẹp" tôi bằng bạo lực. Nhưng chính nhờ nàng cư xử như vậy nên nàng mới... gông cổ, túm dây cương con ngựa bất kham tôi được tới ngày hôm nay.

Sau chuyến vượt biên... hụt, hai chúng tôi từ Cà Mau vừa trở về đến nhà tôi chừng mươi phút, thì thấy tên cán bộ quản giáo của tôi lù lù đứng trước cổng nhà bấm chuông inh ỏi. Tim tôi đau thắt lại vì biết ngay sẽ có tin dữ đến với tôi.

Tháng đầu tiên là thời gian thử thách, tôi phải đi trở ra trại A-20 đổi giấy phép hết hạn để lấy giấy phép khác. Sau lần đó là cứ ngày 20 tây hàng tháng, tên quản giáo sẽ vô SG, đến từng nhà trong nhóm anh em tù nhân cải tạo tại địa phương cư trú để thu tiền hụi chết. Nhưng hôm đó mới có 5 tây mà hắn xuất hiện đột ngột như vậy là tôi biết ngay có chuyện chẳng lành rồi.

8. Tiếp Tục Vô Tù

Quả là đúng như vậy! Hắn nói vì có thanh tra đột xuất nên trại phải thu gom tất cả các tù nhân đang cải tạo không giam giữ trở về trại gấp. Vừa nghe hắn tuyên bố như vậy, nàng nấc lên một tiếng rồi ôm chặt tôi khóc nức nở, còn tôi chỉ biết đứng chết lặng, lòng đau như cắt theo từng dòng nước mắt tuôn rơi như mưa của nàng. Hắn cười giả lả rất giả tạo, rồi gượng gạo nói:

- Không có dzì đâu, chuyện thường í mà. Chỉ mất mươi hôm thôi rồi sau khi thanh tra xong, đâu nại vào đấy. Anh C. sẽ trở về nhà như thường nệ thôi. Chị đừng có no!

Ngày 4/ 6/1989 xảy ra sự kiện Thiên An Môn bên Trung Công, tưởng đâu rằng anh em tù chính trị chúng tôi sẽ bị gom bi về trại để phòng ngừa một chuyện tương tự sẽ xảy ra ở VN. Nhưng rồi lần đó sóng êm biển lặng.

Ngày 9/11/1989, Bức tường ô nhục Bá-Linh sụp đổ lôi kéo theo hàng loạt biến động tại Đông Âu và Liên Xô. Bên VN, trông thấy tình hình các nước XHCN anh em đang hấp hối, chính quyền HN lập tức tung ra hàng loạt đối sách để phòng ngừa hiệu ứng Domino Dân Chủ lan sang VN. CA cơ động (cảnh sát dã chiến) được thay màu áo rằn ri dữ dằn, trang bị nón sắt, khiên và dùi cui... đứng đầy các ngã tư đường của các thành phố lớn, nhất là Sài Gòn và ngay cả Hà Nội.

Tôi đã biết ngay là cái quãng thời gian thần tiên thơ mộng của tôi và nàng sẽ chấm dứt. Cái bản án chín năm sáu tháng tù khổ sai lại hiện hình ra trước mắt tôi như một tên ác thần không sao tránh khỏi nanh vuốt của hắn. Tôi đã cố hết sức vùng vẫy để hòng thoát thân bằng những cuộc vượt biên đầy cam go, hiểm nghèo với nàng nhưng chạy đàng Trời cũng không khỏi số.

Sau cơn xúc động, tự nhiên tôi thấy nàng trở nên bình tĩnh dị thường. Với một khuôn mặt lạnh như băng, nàng trầm giọng nói nhỏ với tôi:

- Anh vô phòng thu xếp quần áo, đồ đạc vô vali đi. Để em ở đây nói chuyện với thằng nầy một chút.

Nhìn gương mặt kỳ lạ và nhất là đôi mắt của nàng, đôi mắt to rất đẹp với đôi hàng mi cao vút đã biến thành đôi mắt cá chết của những giai nhân máu lạnh trong các phim Hollywood mà tôi đã xem. Tôi hoảng hồn đến lạnh người, toàn thân nổi gai ốc vì đoán biết nàng chuẩn bị nói chuyện gì với tên CA quản giáo của tôi.

Tôi đã được nàng cho xem những tấm hình kỷ niệm chụp lúc nàng thi lấy bằng Huấn luyện viên Tae-Kwon-Do, nên tôi biết cái cần cổ của tên CA quản giáo không thể nào cứng hơn cả một chồng gạch nén Đồng Nai rắn như đá, mà nàng đã dùng cạnh bàn tay chém đứt làm hai được. Hắn có lận khẩu K-54 sau lưng nhưng chắc chắn là không bao giờ nàng cho hắn có cơ hội rút súng ra đâu. Chính nàng cũng biết hắn có súng nên nếu nàng có ra đòn, chắc chắn phải là một đòn duy nhất hạ gục hắn ngay tức khắc, mà hắn không kịp phản ứng: Đòn chết!

Tôi chụp lấy hai vai nàng, nhìn sâu vào mắt nàng, nói nhỏ thật nhanh trong hơi thở dồn dập:

-Không được đâu em! Đừng làm vậy. Còn một thằng nữa là của CA quận BT đi theo hỗ trợ cho nó, đang ngồi trong quán nước ngay trước cửa nhà mình nè. Hồi nãy ra mở cửa cho nó vô anh thấy. Nhà mình không có cửa sau, không thoát được đâu. Hơn nữa, chuyện anh đã làm, anh chịu. Anh không muốn em vì anh mà bị dính vô làm liên lụy tới em đâu.

Khi nghe tôi nói như vậy, toàn thân đang vận công căng cứng của một võ sư từ từ mềm nhũn ra, nàng lại ôm chặt rồi vùi đầu vào ngực tôi, khóc mướt trong uất hận.

-Eo ơi ! Hai anh chị mới yêu nhau mà khắn khít quá nhẩy! Chị yên tâm đi, anh C. chỉ đi vài ngày rồi nại quay về với chị ngay í mà.

Tên quản giáo vừa nói vừa cười rất xỏ lá mà không hề biết là Tử Thần vừa mới lướt qua sát đầu hắn.

Cũng cái kiểu nói đó, cũng luận điệu xảo trá đó mà tháng 6/1975, mấy trăm ngàn SQ, cán bộ, viên chức VNCH đã ra đi biền biệt không biết ngày trở về, có rất nhiều người đã không bao giờ trở về! Mười bốn năm sau, tôi lại nghe cái giọng điệu y hệt không thay đổi đó ngay trong nhà tôi. Nhưng có chút khác biệt là tôi biết rõ cái vài ngày hắn nói sẽ kéo dài... chín năm sáu tháng, mức án còn lại của tôi.

Thời điểm mà tôi bị tập trung trở về trại A-20 là gần cuối tháng 11/89 =>10 â.l. , như vậy chỉ còn chưa đầy 2 tháng nữa là đến ngày cưới của chúng tôi như hai gia đình đã ước hẹn cùng bà con!

Nàng đã hết lời van xin, thuyết phục tên quản giáo cho nàng đi theo tôi ra trại A-20 để chờ khi nào tôi được trở ra thì sẽ cùng theo tôi về nhưng hắn vẫn lạnh lùng từ chối.

Không thèm nói thêm một tiếng nào, nàng cởi tấm lắc vàng 18k là sính vật đính hôn tôi đã tặng nàng, đặt lên bàn ngay trước mặt hắn. Hắn trố mắt ngó lom lom tấm lắc, không dấu được vẻ thèm thuồng trong ánh mắt tham lam. Hắn thầm ước lượng giá trị. Hắn có ngu dốt lắm cũng phải biết là cả đời lương CA chết đói của hắn cũng không bao giờ với tới được. Nhưng hắn làm bộ thở dài, chép miệng nói:

- Theo đúng điều lệnh của CA thì..

Hắn chưa nói xong thì thêm một sợi dây chuyền có kèm mặt saphia hình trái tim màu xanh lóng lánh được nàng đặt nhẹ nhàng bên cạnh tấm lắc.

- Nhưng thôi ! Nể tình của anh C. là chỗ... quen biết với tôi lâu năm(!) chị chuẩn bị ngay đi, khoảng 10 phút nữa sẽ có xe của trại tới đón. Tôi sẽ bảo lãnh cho chị đi theo tiễn anh C. ra trại vậy.

Vừa nói hắn vừa lấy cả hai tay hốt hai món nữ trang sính lễ, đút thật nhanh vào túi quần.

Khi cùng thu xếp hành trang trong phòng với tôi, nàng nói:

- Em sẽ vọt về nhà, 30 giây sau em sẽ trở lên cùng đi với anh. Nếu xe trại có tới, anh cố câu giờ chờ em nha!

Tôi chưa kịp nói gì, nàng đã biến mất.

9. Cùng Chung Một...Còng

Loáng sau nàng đã xuất hiện, gọn gàng trong bộ đồ Jean với túi hành trang đeo bên hông.

Nàng ngồi xuống trước mặt tên quản giáo, lấy trong túi hành trang ra ba cây vàng, nói với hắn, giọng tỉnh rụi:

- Anh cho em... đổi lại hai món đồ sính lễ mà anh C. tặng cho em nha anh. Hai món đó coi rùm beng vậy chứ chỉ đáng chưa tới một cây rưỡi đâu. Đổi như vầy là anh... lời lắm đó!

Giống như một thằng ăn trộm bị bắt quả tang, tên quản giáo run run quơ nhanh ba cây vàng nhét ngay vào túi trước rồi mới móc (rất chậm chạp, khó khăn) hai món nữ trang đặt lên bàn, miệng lí nhí:

- Dzạ !... EM xin chị ạ !

Trong khi tôi đeo trở lại cho nàng hai món nữ trang, nàng nói nhỏ đủ cho tôi nghe:

- Nếu thằng giòi bọ đó mà đòi ba chục cây, em cũng thí cho nó chứ có xá gì ba cây!

Tiếng kèn xe vang inh ỏi trước đầu hẻm cùng lúc với tiếng tên CA quận BT gọi với vào nhà. Chúng tôi ra tới thì thấy một chiếc xe đò lớn 50 chỗ ngồi đã hầu như kín người bên trong, gần như toàn bộ là những anh em tù cải tạo tại địa phương như tôi, số ít còn lại là mấy tên CA quản giáo.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1543117042-CauChuyenTu_032.jpg
Hình minh họa

Lên xe mới biết chỉ có mỗi mình tôi là được ưu ái cho phép người nhà cùng đi theo ra trại A-20. Các anh em bạn tù sau khi hỏi thăm tôi, biết được nàng chỉ mới là hôn thê chứ chưa là vợ tôi, đều không dấu được niềm mến phục nhưng không kém phần ái ngại cho chúng tôi.

Thử thách cho nàng hãy còn nhiều lắm, lâu lắm vì các anh em đều biết rõ bản án còn lại của tôi. Dường như nàng hiểu được ánh mắt ái ngại của anh em. Rất bình tĩnh và đầy bản lãnh, vui vẻ, thân tình, nàng nói lớn cho cả xe đều nghe:

- Thưa các anh! Nếu lần này ra A-20 rồi đều được trở về nhà thì em kính mời tất cả các ANH EM BẠN của anh C. đây vui lòng nhín chút thời gian tới dự đám cưới của tụi em vào ngày...........tại nhà của tụi em số ..........vào lúc...........giờ. Em nghĩ là các anh cũng không chấp nhứt chuyện tụi em vì hoàn cảnh nên thất lễ, không gởi thiệp mà mời miệng như vầy phải hôn?

Cả xe (ngoại trừ mấy tên CA ra vì bọn nó biết nàng chỉ nói riêng với anh em bạn tù của tôi) vỗ tay hoan hô rần rần trong sự im lặng khó chịu của bọn CA.

Từ SG ra tới trại A-20 gần 600 Km, chúng tôi không được xuống xe ở các tiệm cơm đọc đường mà phải ngồi ăn cơm ngay trên xe. Nếu có đi vệ sinh thì phải đi từng nhóm 5 người có 5 quản giáo đi kèm sát bên. Thấy kiểu cách siết cứng chúng tôi như vậy, tôi biết ngay là chuyến đi này của tôi khó lòng mà có ngày trở về như mong đợi. Tuy không nói ra nhưng nhìn ánh mắt thất vọng của nàng, tôi biết là cái kế hoạch nàng đã âm thầm trù tính cho tôi trốn thoát dọc đường sẽ không thể nào thực hiện được.

Xe tới Đại Lãnh chuẩn bị leo đèo Cả gần nửa đêm, đột ngột dừng lại một nơi vắng vẻ. Đèn trong xe bật sáng soi rõ những gương mặt đăm chiêu, đầy ái ngại của anh em tù.

Như kế hoạch đã bàn tính trước, tất cả các tên CA ngồi bật dậy, hai tên nhảy xuống đường đứng hai bên phải và trái của xe, tay cầm đèn pin bật sáng, tay lăm lăm AK-47, phòng ngừa có người trèo cửa sổ phóng xuống đường trốn thoát. Mấy tên CA còn lại lấy còng số 8 ra còng từng cặp hai người tù lại với nhau. Nhưng khi tới tôi (ngồi băng ghế sau cùng của xe. Nàng đã cố tình xin đổi chỗ ngồi của anh em cho chúng tôi ngồi băng ghế sau xe để dễ trốn thoát) thì bị... lẻ do không còn anh em nào để còng chung tay với tôi. Nàng tỉnh bơ giằng lấy cái còng trong tay tên CA (còn đang lúng túng chưa biết xử trí ra sao) bóp vào tay tôi rồi vào tay... của nàng. Nàng đưa cao tay lên lôi theo cả tay tôi, nhứ nhứ trước mặt tên CA, nhìn thẳng vào mặt hắn, nói gằn từng tiếng:

- Như vầy anh yên tâm chưa?

Hắn càng thêm lúng túng, bối rối với hành động bất ngờ của nàng, miệng lí nhí:

- Nhưng mà... chị không phải là... không được phép....

Nàng cười khẩy:

- Chấp nhận làm vợ của tù thì phải chấp nhận cùng chung số phận với chồng. Đeo còng vô tay chứ đâu phải đeo huy chương mà phải cần có phép vậy anh?
Cả xe vỗ tay rầm rầm tưởng như không bao giờ dứt. Tên CA xớ rớ, ngần ngừ một chút rồi lẳng lặng bỏ về chỗ hắn ngồi!

Nguyễn Như Ý
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=488111788364355&set=gm.2037740256264075&type=3&theater

Còn tiếp Phần IV

BachMa
11-29-2018, 03:10 AM
Câu Chuyện Tù... Số Mạng (Phần IV)
10. Cùng Một Tử Vi Duyên Số

Chuyện nàng theo tôi ra tận trại giam, nhất là hành động và lời nói khí khái của nàng trên chuyến tù xa, đã thành câu chuyện truyền miệng mãi về sau của các anh em tù chính trị trại A-20.

Ra tới trại, trời vẫn chưa sáng. Xe dừng trước cổng nơi nhà thăm nuôi. Tên quản giáo gọi tôi và nàng xuống xe, dẫn vào giao cho tay CA quản lý khu thăm nuôi, nói là cho tôi được thăm gặp 24 giờ, sẽ nhập trại sau. Tên CA nhà thăm nuôi ngạc nhiên nhìn tay nàng đang bị còng dính tay tôi, cho tới lúc đó vẫn chưa được tháo ra. Thấy hắn đang trố mắt nhìn, nàng cười lớn:

- À ! Cái này là em mượn của anh N. (tên quản giáo) để giữ anh C. lại với em cho chắc ăn! Em sợ ảnh... lường gạt em, làm đám hỏi với em rồi quất ngựa truy phong đó anh. Bây giờ em xin... bàn giao ảnh lại để các anh canh chừng ảnh dùm em nha.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1543117056-CauChuyenTu_041.jpg
Hình minh họa

Tên CA nhà thăm nuôi ngớ ra một lúc vì chưa kịp hiểu ra lời xiên xỏ, chưởi khéo của nàng. Khi đã thấm ý, hắn cười mếu máo, lắc đầu, chắc lưỡi:

-Tôi chịu thua chị luôn! Ở đâu mà anh C. tìm ra được chị thật là xứng vợ, xứng chồng quá đi.

Khi chỉ còn hai chúng tôi trong phòng thăm nuôi, nàng mất hẳn vẻ lanh lợi, sắc xảo mà trở nên mềm nhũn trong vòng tay tôi, khóc trong câm lặng. Tôi không ngờ, hoàn toàn không thể nào ngờ được nàng là một người con gái có bản lãnh khác thường như vậy. Ngay trong nghịch cảnh không lối thoát, nàng vẫn bình tĩnh ứng xử quyền biến, khôn khéo mà không phải ai cũng có thể làm được như vậy.

Tôi đâu có chọn lựa và cũng không thể nào chọn lựa, chỉ nhờ duyên số tiền định mà thôi!

Một lúc sau, nàng gạt nước mắt, mở cái túi xách, lấy ra một quyển tập học trò cũ, bìa bên ngoài đã ố vàng vì thời gian, lật lật rồi chọn ngay một trang đưa cho tôi:
- Anh hãy đọc đi, đây là lá số Tử Vi trọn đời của em do một người bạn thân của ba em đã chấm và giải ra. Bác ấy là một SQ Hiến Binh thời ông Diệm chứ không phải chuyên làm nghề bói toán. Lúc em mới hai tuổi tức năm 1962, ông có tới nhà mừng sinh nhật của em. Không biết tại sao ổng bồng em một lúc rồi nói với ba em:

- Mầy rán nuôi dạy con nhỏ này nha Ch. (tên ba vợ tôi), sau này khi lớn lên, nó sẽ là đứa vượt trội hơn hết trong số mấy đứa con của mầy. Số của mầy đừng mong có con trai, nhưng con nhỏ này còn hơn ba thằng con trai cộng lại nữa đó. Để tao chấm cho nó một lá số Tử Vi rồi giải ra cho mầy coi tao coi tướng nó có đúng không nha.

Em đã gìn giữ lá số này bao nhiêu năm nay rồi và gần như em thuộc lòng nó luôn. Anh đã cho em biết 7 điều tiên tri số mệnh của anh rồi thì hôm nay, em sẽ cho anh biết số mệnh của em. Em muốn anh đọc ở cung Phu của em, tức nói tới người chồng của em, nhưng cái đèn dầu con cóc này lù mù lắm anh không đọc được đâu, để em đọc thuộc lòng cho anh nghe nha:

# Đương số là một người rất gan dạ, bản lĩnh hơn người, cương trực, rất căm ghét sự bất công, áp bức, giữa đường gặp chuyện trái tai, gai mắt hay ra tay nghĩa hiệp, cứu người thế cô. Mạng nữ nhưng do tánh khí như trang nam tử hảo hán nên khó bề lập gia thất sớm được, phải tới năm ba mươi mới gặp được ý trung nhân.

Chồng của đương số là một ... (xin phép bỏ qua vì không tiện nói về cái tôi) Do là người như vậy nên mới khắc chế, thu phục được đương số. THỜI GIAN ĐẦU, VỢ CHỒNG PHẢI GÁNH CHỊU TAI ÁCH LÀ BỊ MỘT THỜI GIAN DÀI SỐNG XA CÁCH, VỢ NAM CHỒNG BẮC HAI PHƯƠNG. Sau khi tái hợp mới hòa duyên sắt cầm, sống trọn đời hạnh phúc.

Chính tôi đây cũng đã...thuộc lòng lá số của nàng nên khi viết đoạn này, tôi gõ một mạch từ đầu tới cuối mà không cần phải mở ra đọc lại.

- Hôm vừa làm đám hỏi của tụi mình xong, anh có nhờ má kể lại cho em nghe chuyện anh đã nói trước với má 7 điều tiên tri về... em, để cho em thấy là anh không dựng chuyện. Em tức cười trong bụng lắm vì thấy sao mà lá số của anh và em giống như in khuôn với nhau vậy đó. Em muốn cho anh đọc lá số này của em rồi nhưng sợ anh nản chí. Em đã cố hết sức tận nhân lực cùng anh mong thoát số mệnh, nhưng cuối cùng thì mình cũng phải chịu thua! Thôi số tụi mình đã như vậy rồi thì anh cũng đừng buồn, đừng lo nữa. Thân cá chậu chim lồng, anh có lo cũng không có được gì đâu.
Nàng còn dặn thêm:

- Ở trong trại, em chỉ xin anh cố gắng giữ gìn sức khỏe để còn có ngày về với em. Em nghe má kể lại chuyện của anh trong trại thời gian trước khi anh về gặp em, anh rất là "cứng đầu, khó trị" nên cứ bị chiếu tướng hoài. Thôi bây giờ đã có em rồi, anh cố gắng sống sao cho phải đạo đi. Anh có thể vì nghĩ tới em mà chịu nhục, nhưng không thể vì em mà chịu hèn được. Anh cũng đừng sợ mất em. Như lá số của em đã nói thì không mong gì anh sẽ có mặt trong ngày cưới của tụi mình được đâu. Anh cứ để cho em lo, em sẽ thuyết phục gia đình hai bên cứ đúng ngày đã ước hẹn mà làm đám cưới, cho dù không có mặt... chú rể. Sau khi làm đám cưới xong, em sẽ ra đây hưởng “tuần trăng mật” với anh ở ngay nhà thăm nuôi này. Chịu hông? Cười cái đi em thương!

11. Án Chung Thân Mãn Đời

Nhìn cái cười méo xẹo trên gương mặt đau khổ giống như người bị bệnh trĩ kinh niên của tôi, nàng phá lên cười vang vô tư lự như không có chuyện gì bi đát đang xảy ra cho hai đứa, rồi vừa cười nắc nẻ vừa nói:

- Em nói cho anh biết nha, nhà nước kêu anh án chung thân còn giảm án rồi có ngày tha cho anh về, chứ lần này em kêu cho anh cái án chung thân thì đừng hòng em... giảm án cho anh nha. Em sẽ xiềng cổ anh tới mãn đời luôn đó.

Qua sáng hôm sau, tôi bị dẫn vào nhập trại, trở lại đội lao động khổ sai như ngày nào. Còn nàng thui thủi một mình trở về nhà báo tin dữ cho hai gia đình biết. Nàng đã thực hiện đúng như đã hoạch định với tôi đêm chia tay trong nhà thăm nuôi.

Gia đình đôi bên đã tổ chức một đám cưới linh đình với đông đủ bà con, quan viên hai họ nhưng không có... chú rể! Má tôi đã đóng vai chú rể, thay tôi để theo như tục lệ, trao nhẫn cưới, bông tai, dây chuyền cùng các thứ lễ vật cưới cho nàng.

Ngay sau lễ cưới, má tôi đã dẫn nàng ra thăm tôi và xin cho tôi được thăm gặp... mười ngày để cùng nàng "hưởng tuần trăng mật" ngay tại nhà thăm nuôi của trại tù A-20! (Xin nhắc lại: nhà tù thời đổi mới rồi, chuyện gì cũng có... thủ tục đầu tiên.)

Có một chuyện đáng nhớ là trong những ngày trăng mật, tôi có nhắn lời mời anh bạn tù rất thân là Th/Tá H-Q-T. (vị Tiểu Đoàn Trưởng Công Binh QLVNCH tôi đã nói ở phần trên. Hiện anh đang định cư tại CA, USA theo diện RD, tù chính trị) ra nhà thăm nuôi để tôi ra mắt vợ mới cưới của tôi cho anh biết mặt. Anh đã cho tôi biết từ năm 82 bảy điều tiên tri số mệnh của tôi giống y như chú Ba P. đã nói. Khi anh T. vừa an vị, tôi gọi nàng ra và nói:

- Em rất cám ơn anh đã tiên đoán 7 điều về người vợ của em từ 7 năm về trước. Hôm nay em xin được giới thiệu với anh, đây là vợ của em. Anh coi có... đúng là cô này không, hay là còn cô... nào khác để em còn liệu bề tính toán chuyện tương lai.

Anh T. phá ra cười trong khi tôi vẹo mình đi vì cái ngắt đau điếng một bên sườn non mà nàng tặng cho tôi. Sau tuần trăng mật, cứ mỗi ba tháng một lần, nàng đều đặn lặn lội, trèo đèo vượt suối (Đúng nghĩa đen! Những anh em nào đã từng ở trại tù A-20 và gia đình của họ sẽ rất thông cảm khi thấy tôi dùng câu thành ngữ này) ra thăm nuôi tôi cho tới ngày nàng không thể đi được nữa vì... cái bụng bầu đã gần tới ngày sinh nở, nàng mới bất đắc dĩ tạm giao lại chuyện thăm nuôi cho má tôi.

Năm 1990, nàng đã sinh cho tôi một đứa con trai đúng như phần số đã định. Khi con tôi được bảy tháng, nàng bồng nó ra A-20 thăm ba của nó lần đầu tiên. Ông Giám Thị Trưởng A-20 hay tin, ra tận nhà thăm nuôi, vừa bồng bế đùa giỡn với con tôi, vừa chúc mừng chúng tôi. Ông ta nổi tiếng là không ưa trẻ con nhưng không hiểu sao lại rất thích thằng con của một tù nhân như tôi. Hễ cứ nghe vợ con tôi ra thăm là thế nào ông ta cũng có mặt làm vú em trông coi con cho chúng tôi.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1543117069-CauChuyenTu_042.jpg
Hình minh họa

Suy gẫm lại, có thể ông ta sau lần xém chết năm 89 may nhờ có cha D. báo trước nên nay ông ta lại một lần nữa chứng kiến tận mắt chuyện "Con người ta có duyên số và định mệnh hay không" nên ông ta mới có ưu ái đặc biệt với con trai của chúng tôi chăng? Và có thể do chính tác động đó mà thay vì phải chịu chung đủ chín năm rưỡi án khổ sai, tôi chỉ phải trả nợ số kiếp thêm có... bảy năm tù! Năm 1996, nàng dẫn con trai tôi, khi đó đã được sáu tuổi, ra tận trại giam đón tôi ngày mãn án, mà nhất quyết không để cho tôi về một mình. Chắc có lẽ nàng đã biết rõ lá số của tôi rồi, nên nàng sợ có con... yêu nữ nào đó phỗng tay trên, uổng công nàng chờ đợi ròng rã suốt bảy năm trời ngày tôi trở về.

Từ ngày tôi mãn bản án chung thân sau 17 năm ba tháng thụ hình, tôi vẫn đang tiếp tục thụ hình bản án chung thân của chính nàng tuyên án, mà không bao giờ mong có ngày được ân xá!

Xin chân thành cám ơn các bạn đã đọc chuyện này của tôi và qua câu chuyện dài dòng này, chắc có lẽ các bạn đã có câu trả lời cho câu hỏi mà hàng triệu triệu người trên thế giới vẫn thắc mắc, không biết "Con người có duyên số và định mệnh hay không?"

Nguyễn Như Ý
https://www.facebook.com/search/top/?q=C%C3%A2u%20chuy%E1%BB%87n%20T%C3%B9

BachMa
12-14-2018, 06:37 PM
Thời Thế, Thiện, Ác, và... Con Người.
Vương Mộng Long - K20
Một ngày cuối tháng Ba năm 1970 Thượng Sĩ Woodell ghé Cư Xá Trần Quí Cáp- Pleiku đón tôi vào Bệnh Viện 71 Dã-Chiến Hoa-Kỳ để ghi tên xin khám bệnh. Hôm sau, tôi chính thức nhập viện để được giải phẫu một vết thương.

Đúng lý ra, hôm đó, tôi phải lên đường về trình diện Tổng Y Viện Cộng-Hòa theo quyết định của Bác Sĩ Trung, Giám-Đốc Quân Y Viện Pleiku. Chỉ vì sáu tháng trước đây, vết thương trên vai trái của tôi đã được mổ một lần. Lần đó bác sĩ chỉ lấy ra được hai mảnh đạn nhỏ, còn mảnh đạn lớn vì ở quá sâu lại dính với xương vai, nên tôi được xuất viện về đơn vị, chờ ít lâu, sẽ di chuyển xuống vùng sườn trái, khiến cả một vùng cơ bắp sưng tấy, và đang làm độc. Ban Giám Đốc Quân Y Viện Pleiku đã làm thủ tục chuyển tôi về Tổng Y Viện Cộng-Hòa vì nơi đây có nhiều phương tiện chữa trị hơn. Tôi về đơn vị trình bày việc này cho trung tá liên đoàn trưởng, lúc đó cũng có mặt ông trung tá cố vấn trưởng liên đoàn. Ông trung tá Hoa-Kỳ nêu ý kiến, giới thiệu tôi vào Bệnh Viện 71 Dã-Chiến Hoa-Kỳ trước, nếu chữa không xong, họ sẽ chuyển tôi ra Hạm Đội 7.

Bệnh viện 71 Dã Chiến nằm trong một thung lũng, bên cạnh con đường nhựa nối liền phi trường Cù-Hanh và Bộ Tư-Lệnh Quân-Đoàn II. Bệnh viện này là nơi tiếp nhận thương binh Mỹ từ các chiến trường Cao-Nguyên Vùng 2 chuyển về. Từ đây thương binh được cấp cứu, điều trị sơ khởi, sau đó tuỳ theo tình trạng nặng nhẹ, họ sẽ được chuyển về Sài-Gòn hay chuyển ra Hạm Đội 7.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1543777965-ThoiTheThienAc_01.jpg
Người lính Việt cộng bị trói, người lính VNCH phải đút bánh tét cho anh ta ăn

Thay quần áo xong, tôi được đưa vào phòng Quang Tuyến X rồi chuyển sang phòng chẩn bệnh.Nơi đây đã có mặt một nữ y sĩ trung tá già da đen. Bà y sĩ trung tá này chính là trưởng khoa giải phẫu của Bệnh Viện 71 Dã-Chiến. Hình dáng của bà ta thật là cao lớn và thô kệch, nhưng giọng nói của bà lại vô cùng ấm áp dịu dàng. Rất từ tốn, bà tự tay đo, và ghi trên hồ sơ, nhịp tim, mạch của tôi. Rồi bà bước ra cửa, nói nhỏ với cô điều dưỡng vài lời. Một phút sau ông đại úy bác sĩ phụ trách ca mổ của tôi có mặt. Ông y sĩ đại úy này da trắng, cũng hơi lớn tuổi, và mang kiếng trắng. Hai vị thày thuốc luân phiên quan sát hai tấm hình X Ray, rồi sờ nắn vùng đang sưng tấy bên nách tôi. Khi ngón tay của họ nắn bóp trên chỗ sưng, tôi cảm như nơi đó là một quả xoài đã chín nhũn, chứ chẳng thấy đau đớn gì cả. Công việc chẩn bệnh chấm dứt, tôi ngồi chờ người dẫn sang phòng mổ.

Chợt ngoài bãi đáp có tiếng động cơ của trực thăng tản thương. Hai điều dưỡng viên chạy ra khiêng chiếc cáng, trên đó là một thương binh băng kín nửa người phần dưới. Theo sau chiếc cáng là một sĩ quan Mỹ và một sĩ quan Việt-Nam. Người sĩ quan Việt-Nam đó là Đại-Úy Phạm Văn Tư Khóa 19 Võ Bị, tôi quen biết.

Anh Tư là dân Tình-Báo, đang tăng phái ngắn ngày cho ban thẩm vấn đặc biệt của Mỹ tại Hàm-Rồng. Thấy bệnh nhân là một người Việt-Nam, nên tôi thắc mắc hỏi anh Tư:

- Ủa! Sao Niên Trưởng không đưa người của Niên Trưởng vào Quân Y Viện Pleiku mà lại đưa vào đây?

- Có phải người của “moa” đâu? Việt-Cộng đó!

- Việt-Cộng à?

- Thằng Việt-Cộng này vướng Claymore ngoài rào trại Dak-Séang. Mỹ bắt được, đem về Camp Enari, giao cho Phòng 2 Sư Đoàn 4 (Hoa-Kỳ )

- Từ Camp Enari về đây có vài ba cây số sao không dùng xe mà phải xử dụng tới trực thăng?

- “Moa” thấy đùi của anh ta bị quấn “garô” sưng to quá, sợ xảy ra nội xuất huyết thì chết, nên đề nghị với Mỹ lấy máy bay của sư đoàn, đưa anh ta về đây.

Nhìn mặt người nằm trên cáng, tôi đoán chừng hắn cũng cỡ tuổi của tôi và anh Tư thôi.

- Hắn thuộc đơn vị nào vậy?

- Tụi “moa” vừa ký nhận đã phải đưa tới đây ngay. Chưa hỏi được câu nào.

- Bộ anh ta đi đánh nhau không mang theo giấy tờ gì sao?

- Có chứ! Nhưng tài liệu mình còn để trên bàn. Việc cứu người là trọng, phải lo trước. Chiều nay mình sẽ nghiên cứu tài liệu cũng chưa muộn.

- Ừ nhỉ! Dù gì thì hắn ta cũng là người Việt-Nam, chỉ không cùng chiến tuyến với chúng mình.

- “Toa” biết không? Trên đường đi, hắn cứ luôn mồm gọi “Xuân ơi! Xuân ơi!” Chắc hắn yêu thương người mang tên Xuân này lắm .

Tôi gật đầu, tán đồng,

- Dù là Quốc-Gia hay Cộng-Sản, thì con người nào cũng có một trái tim, biết yêu thương, và biết giận hờn.

Một năm trước đây, trong trận Dak-Tô (5/1969), tôi đã trải qua tình cảnh tương tự như người cán binh Cộng-Sản này. Ngày đó, vào giờ phút tuyệt vọng nhất, trái tim tôi chỉ còn hình bóng người mà tôi yêu thương nhất. Tôi đã gọi tên người này nhiều lần trước khi bị ngất đi.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1543777977-ThoiTheThienAc_02.jpg
Cảnh người lính VNCH đối xử với tù binh Việt cộng

Tên tù binh được chuyển vào phòng X Ray rồi sang phòng chẩn bệnh. Hai Quân-Cảnh Hoa-Kỳ được gửi tới canh gác trước phòng chẩn bệnh. Đại Úy Tư bắt tay tôi, rồi cùng viên sĩ quan Mỹ rời bệnh viện.

Khi tôi và tên tù binh được đẩy vào phòng giải phẫu thì trên bàn mổ đang diễn ra một ca phẫu thuật khá ồn ào. Một nam bác sĩ cùng hai nữ y tá cố gắng và kiên nhẫn lắm mới lấy được cái đầu đạn đồng A.K 47 ra khỏi đùi trên của một anh lính Hoa-Kỳ. Anh lính này da trắng, còn rất trẻ, tuổi chừng mười chín hai mươi là cùng. Anh chàng bị cột chặt nửa người dưới và hai chân xuống bàn mổ, để tránh dãy dụa, gây trở ngại cho bác sĩ.

Chắc việc mổ xẻ làm cho người trẻ tuổi đau đớn lắm, nên anh ta không ngớt khóc lóc, kêu la. Ông bác sĩ và hai cô y tá cứ phải luôn miệng, dỗ dành, an ủi anh.
Trước cảnh này tôi cũng thấy tội nghiệp. Mỗi khi hoàn tất một pha mổ, toán phục dịch vệ sinh lại nhanh tay thay cái khăn bàn mới, rồi đẩy vào phòng một khay đựng dụng cụ giải phẫu khác đã tẩy trùng. Ca mổ của anh lính Hoa-Kỳ chấm dứt thì tới phiên anh tù binh Cộng-Sản. Mỗi bên đùi của tên tù binh này bị hai viên chì Claymore ghim sâu tới xương. Bác sĩ phải đánh thuốc tê từng chân, mổ lấy đạn chì từ từng vết thương một. Do đó, thời gian hoàn thành công việc này khá dài.

Nhìn những giọt mồ hôi chảy thành dòng trên má hắn, tôi nghĩ hắn đang nén cơn đau. Trong suốt nửa giờ đồng hồ, hắn chỉ rên nho nhỏ trong miệng, trừ hai lần bác sĩ gắp đạn ra khỏi đùi phải thì y chịu không nổi, buột miệng hét lên:

“ Ối! Ối! Đau! Đau quá!... Ư!... Ư!... ư… ư…”

Với ca mổ này, cô điều dưỡng da trắng cũng tận tình săn sóc tên Việt-Cộng, không khác gì đã làm đối với anh lính Mỹ trong ca mổ trước. Cô dịu dàng lau đi những giọt mồ hôi trên mặt người tù. Dù biết rằng người được chăm sóc không hiểu cô nói gì, nhưng cô cứ dỗ dành:

“Don't worry! Don't worry! You will be Okay!”

Qua cử chỉ dịu dàng và giọng nói êm như ru của cô, không ai dám nghi ngờ rằng cô đang đóng kịch. Bốn viên chì đã được lấy ra rồi. Vết thương cũng được may vá và băng bó xong. Y tá chuyển người tù sang chiếc xe lăn, cạnh chiếc xe lăn của anh lính Mỹ.

Là bệnh nhân cuối cùng, tôi leo lên bàn mổ mà nửa người bên trái nặng như đeo chì. Tôi bị cởi trần, nằm hơi nghiêng về bên trái. Cô y tá vừa lau sạch đám bọt oxygen trên vùng sườn trái của tôi, thì ông bác sĩ bắt đầu dùng mười đầu ngón tay ấn nhè nhẹ quanh quanh, thăm dò. Rồi thật từ từ, ông dùng iode vàng xoa trên vùng đang mưng mủ, rộng dần ra thành một bề mặt cỡ lòng bàn tay. Ông y sĩ đại úy chích cho tôi ba mũi thuốc tê, rồi huyên thuyên cùng tôi đôi chuyện nắng mưa. Vài phút sau, ông mới bắt đầu ra tay. Dưới tay ông, lưỡi dao sắc như nước, nhanh như chớp, cắt ngọt hai nhát chéo chữ “X” xuyên da, thịt, chạm tới xương sườn của tôi. Sau đó, cứ thủng thỉnh, ông xẻ dọc, rồi xẻ ngang, như người ta đang băm một cái bánh mềm. Tới khi thịt da trên cái diện tích cỡ lòng bàn tay đó bị bấy ra rồi, ông bác sĩ mới dùng một lưỡi dao cong như lưỡi hái, mạnh tay cạo từng lọn thịt bầm màu xanh lẫn với máu mủ, cho rơi xuống một cái thau nhôm do cô y tá hứng.Vì nằm nghiêng về bên trái, tôi thấy cái thau nhôm chứa lổn nhổn những cục thịt pha máu đỏ, mủ xanh, mủ vàng, tanh hôi vô cùng.

Tôi chợt nghĩ, nếu như tôi cứ cứ ỷ y, không chịu nhập viện, chắc chỉ sau một thời gian ngắn nữa thôi, cả vùng sườn bên trái của tôi sẽ thối rữa thành mạch lươn, hết phương cứu chữa.Khi lưỡi dao đục khoét lớp da thịt bên ngoài, tôi chưa thấy đau đớn chút nào, tới lúc lưỡi dao cạo trên xương nghe, “Két! Két! Cột! Cột!” thì điếng người. Ngay cả khi ở ngoài mặt trận, bị mảnh đạn ghim vào, tôi cũng không thấy đau như thế này. Toàn thân tôi run lên bần bật như đang cơn sốt rét. Tôi bật người lên, oằn người xuống, đồng bộ với những nhát dao đang cào, nạo xương sườn của tôi. Tôi cắn chặt hai hàm răng vào nhau. Hình như môi dưới của tôi bị răng tôi cắn chảy máu mất rồi? Mồ hôi trên mặt tôi chảy như tắm, rớt ròng ròng trên tấm nhựa trắng trải bàn mổ. Tôi nghĩ, lúc đó có lẽ mặt tôi đã xám xịt như chàm? Nhưng tôi vẫn còn tỉnh táo lắm. Tôi biết, lúc này, có hai người đồng cảnh ngộ, một bạn, một địch, đang chăm chú theo dõi, đánh giá sức chịu đựng của một người lính Việt-Nam Cộng-Hòa. Một giọt nước mắt, một tiếng kêu la của tôi sẽ nằm trong trí nhớ của họ suốt đời.

Tôi nhắm mắt, nghĩ tới cảnh những thương binh Việt-Nam Cộng-Hòa khác đã từng lên bàn mổ, bị cưa chân, cưa tay, chắc họ phải chịu đau đớn vạn lần hơn tôi. Tôi tự an ủi rằng, mình còn may mắn hơn những người này rất nhiều...


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1543777992-ThoiTheThienAc_03.jpg
Tù binh Bắc Việt được VNCH đưa lên xe trao trả cho miền Bắc sau Hiệp Định Paris 1973

Rồi tôi hồi tưởng lại truyện Tam Quốc Chí đọc ngày còn bé, với huyền thoại Tướng Quân Quan Vân Trường cứ ung dung ngồi uống rượu, ngâm thơ không màng tới việc Hoa Đà đang xẻ thịt, cạo xương ông để rút mũi tên tẩm thuốc độc đang ghim trên vai ông ta ra. Ngày xưa làm gì có thuốc tê, thuốc mê? Vậy mà Quan Công không hé chút đau đớn nào, thì ông quả là người có sức chịu đựng phi thường. Càng nghĩ, tôi càng phục vị anh hùng thời Tam Quốc này quá!

Bỗng nhiên bác sĩ ngừng tay dao, đưa tay chụp cái kìm. Ông ngoáy mũi kìm vào cạnh sườn tôi, kẹp chặt một vật, rồi giựt mạnh! Theo phản xạ, tôi vội oằn mình, ưỡn người lên, nương theo hướng lôi kéo của mũi kìm.

“Bục!” thân mình tôi như bị móc lên cao, rồi rơi xuống mặt bàn. Tôi có cảm giác như vừa bị ông bác sĩ giựt đứt một phần thân thể. Đau thấu xương, đau tới ù tai, hoa mắt luôn! Quá sức chịu đựng, tôi xón đái ra quần mà không hay!

“Here it is!”

Ông bác sĩ vừa cười, vừa giơ cái mũi kìm cho tôi thấy một cục thịt to bằng đầu ngón tay cái, máu đỏ bầy nhầy. Đó là cái mảnh 82 ly vừa bị gắp ra từ khe hở giữa hai cái sương sườn. Thả cục đạn xuống cái khay trên bàn, ông bác sĩ lại tiếp tục cào nạo. Tay chân tôi bủn rủn không còn hơi sức. Tôi mệt lả người, nằm im như cái xác. Hồi lâu sau, ông bác sĩ ngừng tay, hất hàm ra dấu cho cô điều dưỡng đứng chờ bên tủ thuốc. Hiểu ý, cô điều dưỡng bưng ra, đặt trên bàn một hộp nhựa chứa hai cái lọ. Bác sĩ nhanh tay lau sạch máu trên vết mổ, rồi mở nắp cái lọ, rút ra một sợi bấc tẩm thuốc bột trụ sinh màu vàng như nghệ.

Với cái kẹp inox, ông khéo léo nhét hết hai lọ băng bấc đèn màu nghệ vào đầy vết mổ. Xong xuôi, cô y tá dán miệng vết thương bằng một tấm băng hai lớp chứa bông gòn ở giữa, rộng bằng bàn tay. Bên ngoài miếng băng này, cô còn quấn thêm một lớp băng cứu thương quanh ngực tôi để cho tôi bớt đau. Ông bác sĩ và hai cô y tá đều mang băng che miệng, tôi không thấy miệng họ cười, mà chỉ thấy mắt họ cười, khi ca mổ vừa hoàn tất.

Những gì xảy ra trong phòng giải phẫu buổi trưa hôm đó đã cho tôi thấy cái ý nghĩa cao quý của ngành y. Dưới mắt của người thầy thuốc, việc cứu người là mục đích tối thượng. Mạng sống của mỗi con người đều quan trọng như nhau: Dù người đó là bạn hay thù, là da trắng hay da màu, là Cộng-Sản hay Quốc-Gia.

Cô điều dưỡng vừa đẩy cái khay dụng cụ đi khuất thì bà y sĩ trung tá trưởng khoa bước vào. Bà nói đôi lời với ông bác sĩ, rồi cúi xuống bế tôi gọn trên đôi cánh tay to lớn của bà. Giọng nói của bà bên tai tôi, dịu dàng như giọng của một hiền mẫu: “Oh! My baby! My baby! You will be Okay! My baby...”

Anh lính Mỹ và tên cán binh Việt-Cộng cũng sững người, trố mắt. Bà bác sĩ bế tôi đi trước, hai cái xe lăn của anh lính Mỹ và tên cán binh Cộng-Sản được y tá đẩy theo sau.

Ra tới phòng hồi lực, bà đặt tôi xuống giường rồi lẳng lặng đi ra. Lúc sau bà quay lại, trên tay có gói Salem và cái kẹp diêm cây. Bà để gói thuốc lá và diêm quẹt trên đầu giường tôi, rồi dơ ngón tay trỏ điểm điểm một vòng, ngụ ý món quà này dành cho cả ba người. Giường tôi nằm ở giữa, bên trái là anh bạn Đồng-Minh, bên phải là tên cán binh Cộng-Sản. Chỉ có đầu giường tôi bị treo lủng lẳng dây nhợ chuyền nước biển pha thuốc trụ sinh. Còn giường hai bên không bị vướng vít gì, vì họ đã được chích Penicillin rồi.

Tôi đốt một điếu Salem đưa cho anh lính Mỹ. Anh ta lắc đầu, nhỏ nhẹ:

- Thank you!

Tôi đưa điếu thuốc lên môi, kéo một hơi dài, nhả khói. Tôi trao bao thuốc cho tên Việt-Cộng,

- Này hút đi! Salem đầu lọc nhẹ lắm!

- Không thèm! nhìn tôi với ánh mắt lừ lừ, gờm gờm, hắn ta gằn giọng. Tôi tỉnh như ruồi,

- Không hút thì thôi! Tớ hút một mình.

- Thuốc của đế quốc, không thèm hút!

- Thông cảm đi! Ở đây không có thuốc lào. Chỉ có thuốc thơm đế quốc thôi. Không hút thì nằm đó mà ngửi khói.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1543778004-ThoiTheThienAc_04.jpg
Đốt một điếu Salem đưa cho tên Việt-Cộng

Tới chiều, chúng tôi được cung cấp mỗi người một khay thức ăn, gồm một bánh mì kẹp thịt bò, một hộp sữa tươi, và một chùm nho. Tôi và chú GI ăn uống rất ư là tự nhiên, còn tên cán binh Bắc-Việt thì nằm quay mặt vào tường không thèm chạm tới cái khay.

Trước khi quay gót đem theo cái khay của tôi, cô điều dưỡng nhìn tên bộ đội một lúc, rồi dịu giọng,

- Take it! It's good for you!

Tôi chêm thêm,

- Ăn đi chứ! Không ăn thì chết đói! Muốn gì thì cũng phải sống trước đã! Ăn đi!

Cô y tá nhìn tôi, đồng tình,

- May you tell him to take it?

Tôi nghiêm mặt, hù cho anh cán binh sợ thêm.

- Thôi ăn đi! Anh không ăn, cô ấy dẹp mất thì đói đấy!

Anh chàng hình như cũng đói lắm rồi? Sau một phút ngập ngừng, chàng đưa tay cầm kẹp bánh mì, rồi vội quay mặt vào tường.

Buổi tối, trời trở lạnh, anh lính Mỹ nổi cơn, la hét, chửi bới om xòm. Cô y tá trực phải tới ngồi ở cuối giường, an ủi dỗ dành, rồi đọc truyện cho anh ta nghe. Tôi mồi một điếu Salem, đưa cho tên Việt-Cộng,

- Hút đi! Không nguy hiểm tới tính mạng đâu mà sợ.

Lần này thì hắn ta không từ chối nữa.

- Ừ! Có thế chứ! Này! Vì sao bị thương và bị “tó” vậy? tôi bắt đầu gạ gẫm.

- Đang điều nghiên mục tiêu thì bị vướng mìn.

- E mấy?

- Hăm Tám (28)

Tôi đã biết E 28 là tên của Trung Đoàn 28 Mặt Trận B3 Cộng-Sản Bắc-Việt, nên khai thác tiếp,

- Năm ngoái tớ có đụng E 28 ở Dak-Tô. Trận đó E 28 chết gần hết, cậu còn sống sót là may lắm đó

- Mới bổ sung về E 28 hai tháng thôi.

- Cấp chức gì?

- Trung úy Đặc-Công

- Quê ở đâu?

- Hải ... Rương

- Làng nào?

- Hỏi gì mà lắm thế?

- Thôi không hỏi nữa!

Thấy hắn sắp quạu, tôi không thèm nói chuyện thêm. Tôi xoay người lại, nằm ngửa, quay mặt sang anh bạn Đồng-Minh. Cậu bé đã ngáy khò khò.

Đêm vào khuya, tôi bị vết mổ hành, chỉ nhắm mắt, chập chờn. Thêm vào đấy, cứ ba tiếng đồng hồ, y tá lại đánh thức tôi dậy, nhét hai viên trụ sinh vào mồm bắt nuốt. Từ sau lần bị thương thứ nhì, cơ thể tôi không thể tiếp nhận Penicillin, nên kỳ này bác sĩ cho tôi uống Erythromycin với liều lượng cao gấp đôi để phòng ngừa vết mổ làm độc.

Hình như tên tù binh có tâm sự, không ngủ được. Chắc anh ta đang suy tính điều gì gay go lắm? Lâu lâu hắn lại mở mền, hé mắt quan sát quanh phòng. Có lúc hắn gượng gạo ngồi dậy thử đứng hai chân trên nền nhà, nhưng thấy không vững, y đành ngồi phịch xuống nệm, thở dài. Mấy lần y mở miệng gọi tôi:

“Này! Này!”

Tôi khoát tay ra dấu cho hắn ta im tiếng, đừng làm ồn lúc đêm khuya. Quá nửa đêm, ba, bốn y tá vào phòng hồi sức, chuyển anh lính Mỹ ra xe, chở đi.

Lợi dụng lúc căn phòng chộn rộn, ồn ào, anh cán binh hỏi nhỏ:

- Các anh có đem tôi đi bắn bỏ không?

Tôi ngạc nhiên

- Cái gì mà bắn bỏ? Ai nói với anh điều đó?

Anh cán binh trả lời với vẻ mặt hoàn toàn thật thà,

- Chính ủy nói mà! Chính ủy nói, nếu để các anh bắt, các anh sẽ đem xử bắn. Tôi phì cười.

- Ai mà bắn anh làm gì? Tuyên truyền bậy bạ thế mà anh cũng tin!

Anh Việt-Cộng ngẩn người, ra chiều suy nghĩ, rồi lẩm bẩm:

“Chẳng lẽ chính ủy nói sai?” tiếng anh ta nhỏ như thể là, anh ta nói, cho chính mình anh ta nghe thôi.

- Này! Có phải Xuân là vợ anh không? tôi hỏi dò.

- Đúng! Xuân là vợ tôi đấy! Xuân vừa đẻ đứa con gái đầu lòng thì tôi có lệnh đi B. Không biết kiếp này tôi có còn gặp lại Xuân và Bé Ty không?

Nghe tâm sự của anh ta, tôi không khỏi mủi lòng. Hai người ngừng trò chuyện khi cô y tá trở về phòng cho tôi uống thuốc. Ngày kế tiếp, sau bữa ăn sáng, hai Quân-Cảnh gác cửa phòng rút đi, Đại Úy Phạm Văn Tư và viên sĩ quan Phòng Nhì Sư-Đoàn 4 Hoa-Kỳ lại xuất hiện. Anh Tư bắt tay tôi, rồi ngồi xuống cạnh giường bệnh của tên tù Phiến Cộng.

- Hết lo chết rồi nhé! Giờ thì mình đi thôi!

Viên đại úy Mỹ cũng cúi xuống, vỗ vai người tù, xí xố vài câu hỏi thăm. Sau đó, hai sĩ quan Việt, Mỹ đỡ tên tù Cộng-Sản lên ghế lăn. Tôi đưa bao Salem còn hơn nửa cho tên cán binh.

- Này! Cầm lấy! Tôi cũng người Hải-Dương...

Anh trung úy Việt-Cộng rụt rè cầm bao thuốc lá nhét vào túi. Rồi, anh ta nắm lấy bàn tay phải của tôi, lắc lắc vài cái.

- Các anh đã cứu mạng tôi. Người ta nói rằng các anh độc ác lắm. Nhưng thật ra... các anh có độc ác đâu? Lúc này ánh mắt anh ta không còn vẻ gờm gờm, hằn học nữa. Tới cửa phòng, anh ta dơ tay vẫy tôi lần cuối.

Tới trưa, tôi được chuyền thêm một bịch nước biển pha trụ sinh rồi rời bệnh viện lúc hai giờ chiều, theo chế độ điều trị ngoại trú.

Bà bác sĩ trưởng khoa dúi vào tay tôi cái bao nylon, trong đó chứa cục đạn bằng gang màu đen đã được chùi rửa sạch.

“Don't throw it away! Keep it for memory!” bà dặn dò.

Bà không bắt tay tôi, mà xoay lưng đi về văn phòng.

“Take care! Good bye! My son!”

Phút chia tay, hình như bà tránh nhìn tôi, giọng nói của bà run run.

Khi đỡ tôi lên xe, cô y tá mới nói nhỏ vào tai tôi: “Her son was a Ranger like you!”

Hai ngày sau tôi trở lại bệnh viện để thay băng thì cô y tá quen báo cho tôi biết rằng bà y sĩ trung tá trưởng khoa vừa lên đường về nước vì bà đã mãn nhiệm kỳ phục vụ ở Việt-Nam.

Nhớ tới bà, lòng tôi chợt dâng lên một cảm giác lâng lâng, ngọt ngào.

Thế là bà đã về quê! Bà đã xa rời chốn hiểm nguy. Bà sẽ về đoàn tụ với người con trai của bà; anh ấy cũng là một “Ranger” như tôi. Bà cũng giống mẹ tôi: những lúc xa con, thấy anh lính nào cỡ tuổi con mình, cũng thấy thương, như là thương con mình


***

Cuối tháng Chín năm 1974 Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân xuống Đức-Lập tăng cường cho Tiểu-Khu Quảng-Đức để tham dự cuộc hành quân khai thông Liên Tỉnh Lộ 8 B. Thiếu Tá Phạm Văn Tư (lúc này là Trưởng Phòng 2 Tiểu-Khu) lại gặp tôi lần nữa. Nhớ chuyện năm nào ở Bệnh Viện 71 Dã-Chiến, tôi hỏi anh Tư.

- Ngày đó, vì cớ gì mà anh cứu thằng trung úy Đặc-Công Việt-Cộng?

- Đạo lý làm người mà Long! “Moa” cứu hắn, chỉ vì hắn sắp chết. Vả lại, hắn đâu phải là kẻ thù của chúng ta? Hắn chỉ là kẻ địch của chúng ta thôi. Tôi biểu đồng tình.

- Đúng! Kẻ thù là người có ân oán với mình. Những tên cán binh đang đánh nhau với mình thì có thù oán gì với mình đâu? Tôi hỏi tiếp.

- Sau này anh có còn gặp lại y không?

- Không. Vì khai thác xong thì tụi này chuyển giao anh ta cho Phòng Nhì Quân-Đoàn II ngay. Giữ lâu làm gì?

Tôi nhắc anh Tư.

- Anh có nhớ chuyện thằng Vi-Xi đó cứ gọi tên Xuân lúc hôn mê không? Và anh có biết Xuân là ai không?

- “Moa” không hỏi, mà cũng quên khuấy chuyện này rồi.

- Xuân là tên vợ hắn. Đứa con gái hắn vừa chào đời, thì hắn có lệnh vào Nam.

Nghe vậy, anh Tư bèn đưa bàn tay phải lên ngang ngực, dơ ngón trỏ ra nhịp nhịp.
- Ừ há! Chắc ngày trao đổi tù binh năm 1973 hắn đã về đoàn tụ với gia đình ngoài Bắc rồi.

Tôi chợt nhớ, tên cán binh ấy là người Hải-Dương, nên buột miệng.

- Thằng đó là người cùng quê với tôi đấy.

Anh Tư gật gù.

- Có khi hai người là bà con cũng nên?

Tôi cũng gật gù theo.

- Biết đâu chừng lại là anh em, họ hàng. Tôi có một bà dì và hai ông bác còn ở ngoài Bắc. Nếu như hắn là con của những người này, thì quả là “cốt nhục tương tàn”. Anh Tư phụ họa.

- Những thằng địch đang cầm súng chỉ là nạn nhân bị tụi đầu sỏ cầm quyền lợi dụng máu xương thôi. Mấy thằng Cộng-Sản “cội” đang ăn trên, ngồi trốc ở ngoài Hà-Nội mới là nguyên nhân gây ra cuộc chiến tranh “nồi da xáo thịt” này. Tụi đó mới chính là kẻ thù của chúng mình!


***

Đầu năm 1976, nghĩa là đúng sáu năm, sau ngày Đại Úy Phạm Văn Tư áp giải viên trung úy Đặc-Công Việt-Cộng tới Bệnh Viện 71 Dã-Chiến Hoa -Kỳ thì tôi và anh Tư đã thành hai trong số vài trăm tù nhân cấp thiếu tá của khu K 3 trại Tam-Hiệp, Biên-Hòa.

Thời kỳ này, giờ khắc trôi từ từ như đang đợi chờ ngày bầu cử Quốc-Hội nước Việt-Nam Thống-Nhất. Chúng tôi còn ở trong Nam, chưa bị đưa ra Bắc, chưa bị cưỡng bách làm các công tác lao động nặng.

Riêng anh Phạm Văn Tư và người cùng Khóa 19 Võ-Bị của anh là Trần Văn Bé được trại tuyển dụng làm thợ đóng bàn ghế trên ban chỉ huy. Tám giờ sáng, vệ binh vào mở cổng, dẫn hai anh đi làm công tác. Năm giờ chiều, hai anh tự động trở về K 3, không có ai dẫn độ. Anh Trần Văn Bé là người ở cùng Đại Đội B với tôi trong Trường Võ-Bị thời sinh viên sĩ quan. Anh Bé cũng là người đã huấn luyện tôi những ngày đầu đời lính, nên chúng tôi không lạ gì nhau. Chiều chiều, anh Tư và anh Bé thường rủ tôi tới Lán 2, nơi có cái bàn gỗ của Thi Sĩ Trương Minh Dũng để hút thuốc lào và tán gẫu. Anh Trương Minh Dũng là bạn cùng Khóa 5 Thủ- Đức với Trung Tá Hoàng Kim Thanh, Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân. Tôi đã gặp anh Dũng vài lần khi chúng tôi mới tới tăng phái cho tỉnh Quảng-Đức (9/1974). Lúc đó anh Dũng đang giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng Tiểu-Khu này. Bây giờ thì ông Thi Sĩ Tham Mưu Trưởng Tiểu-Khu ngày xưa đã mang biệt danh rất hợp thời là “Dũng Điếu Cày”.

Anh Tư biết tôi ghét thuốc lào, nên mỗi ngày anh đều vấn cho tôi vài điếu thuốc rê Cẩm-Lệ. Buổi trưa một ngày tháng Hai năm 1976, có tiếng súng liên thanh nổ ròn rã một tràng dài ngoài hàng rào. Tiếng súng ngừng lại vài giây, rồi tiếp tục, nhưng lơi đi, từng phát một, như ai đó đang thực tập bắn bia. Trên con đường nhựa bao quanh các khu cách ly, vệ binh chạy rầm rập nối đuôi nhau. Chúng vừa lên đạn “lách cách!” vừa gọi nhau ơi ới:

“Báo động! Báo động! Tù trốn! Tù trốn!”

Cổng chính của tất cả các khu giam giữ tù cải tạo liền bị đóng kín, khóa lại. Chòi gác nào cũng đầy lính canh, súng chĩa vào sân. Tù nhớn nhác nhìn nhau ngơ ngác. Rồi cửa hông được mở cho hai vệ binh ghìm súng A.K đi vào K 3 để kiểm tra. Tù cải tạo bị đuổi về lán. Vệ binh vào từng nhà, đếm đầu, nhận mặt từng người, với sự xác nhận của lán trưởng. Kiểm tra xong, trong sân trại sinh hoạt đã trở lại, nhưng không còn cái không khí ồn ào náo nhiệt thường ngày. Tù cải tạo vẫn tụm năm, túm ba, nhưng không phải để đánh cờ, chơi bóng chuyền, hay tập thể dục dưỡng sinh, mà để rì rầm với nhau về chuyện mới xảy ra lúc buổi trưa.

Chẳng ai biết vị sĩ quan nào của Việt-Nam Cộng-Hòa đã mạo hiểm làm nên sự kiện này. Trong sân trại, tiếng chim se sẻ nói chuyện với nhau nhiều hơn là tiếng người ta.

Khoảng hai giờ chiều, loa phóng thanh trên chòi cao ra lệnh cho các lán trưởng lên văn phòng nhận lệnh. Khi trở về, lán trưởng Lán 24 của tôi là Thiếu Tá Trần Thành Trai tập họp tất cả lán viên, rồi tuyên bố: “Trưa nay có hai cải tạo viên trốn trại. Tên Phạm Văn Tư bị bắt lại. Tên Trần Văn Bé còn tại đào. Các anh đừng hoang mang, nghe lời dụ dỗ của bọn phản động mà trốn trại, sẽ mang họa vào thân.”

Chẳng rõ câu tuyên bố này là do Lán Trưởng Trần Thành Trai ứng khẩu, hay anh ta đã sao y nguyên bản lời của cán bộ? Tôi ra sân bóng chuyền tìm gặp vài người quen để hỏi thăm tin tức của hai người đàn anh Khóa 19. Một anh lán trưởng tiết lộ: Khi anh ta lên họp trên ban chỉ huy trại thì nghe vệ binh nói với nhau rằng anh Phạm Văn Tư bị bắn trọng thương, nhưng vẫn còn bị bỏ nằm trong hàng rào kẽm gai, vì khu vực đó có mìn nên vệ binh không chịu chui vào lôi anh Tư ra. Xế chiều, anh bạn Bắc Hải ngoắc tôi ra góc sân thì thầm.

- Anh Bé thoát rồi! Còn anh Tư thì bị bắn nát bấy cả hai đùi và hai cánh tay. Người bắn anh Tư là “Thượng Sĩ Buồn” đó! Anh Tư thiệt là số xui. Thằng Thượng Sĩ Buồn đi đái, gặp ngay lúc anh Tư đang bị kẽm gai móc vào lưng áo, cách cầu tiêu có vài thước thôi. Nó chạy vào lấy khẩu A.K 47 nhắm hông và đùi của anh Tư, bắn hết một băng đạn ba mươi viên. Rồi nó ráp băng đạn thứ nhì, tì súng trên hàng rào, cứ nhắm tay, chân của anh Tư mà tiếp tục bóp cò từng viên một, cho tới viên cuối cùng. Chân tay anh Tư đã nát bấy, nên anh ấy chỉ còn nước nằm kêu la đau đớn chờ chết. Mãi tới ba giờ chiều chúng nó mới cho gọi mấy anh cải tạo viên bên K 1 chui vào hàng rào, lôi anh Tư ra. Họ khiêng anh Tư về bệnh xá, thằng thiếu úy trưởng trại không cho băng bó, nó còn bắn thêm ba, bốn phát K 54 vào bụng anh Tư, rồi bắt khiêng anh Tư bỏ trên miếng ván nằm trong cái nhà kho cũ của trại. Anh Tư khát quá, xin uống nước, anh em đi lấy nước cho anh, thì thằng Thượng Sĩ Buồn ngăn lại, không cho uống. Sau đó, nó đuổi mấy anh ấy về lán.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1543778017-ThoiTheThienAc_05.jpg
Tù cải tạo – nguồn youtube

Nói xong, Hải buột miệng chửi thề:

- Đù Má! Cái thằng Thượng Sĩ Buồn này độc ác dữ!

“Thượng Sĩ Buồn” là biệt danh của tên Việt-Cộng quản giáo K 3. Tên này tuổi dưới ba mươi, mặt mày sáng sủa như một thư sinh. Không rõ tên thật của hắn là gì, nhưng anh em trong trại thường gọi hắn là “Thượng Sĩ Buồn”. Mà cũng đúng! Lúc nào mặt y cũng phảng phất nét u sầu, như đang mang tâm sự không vui, như đang nhớ thương ai. Tôi nhớ hồi còn ở bên K 1, ông “Ba Gà Mổ”, tức ông lán trưởng Thiếu Tá Nguyễn Văn Lộc đã từng chỉ cho tôi thấy mặt một cán bộ Việt-Cộng “hiền hết xẩy” nhân dịp tôi theo ông Lộc lên khiêng gạo trên văn phòng trại. Ông “Ba Gà Mổ” có vẻ biết rành rẽ tên cán binh này lắm.

- Anh quản giáo này quê ở mãi ngoài Bắc-Thái lận! Ảnh mới vào Nam sau “ngày giải phóng”. Ảnh hiền hết xẩy! Cuối năm 1975 tôi được chuyển từ K 1 sang K 3. Khi thấy người phụ trách K3 chính là anh cán bộ “hiền hết xẩy” tôi cũng mừng.

Sáng sáng, Thượng Sĩ Buồn đứng nơi góc trại nhìn các anh tù tập thể dục dưỡng sinh. Chiều chiều, Thượng Sĩ Buồn rảo quanh trại đôi lần, thủng thẳng tản bộ trên con đường mòn sát hàng rào. Lâu lâu hắn dừng chân ân cần hỏi thăm sức khỏe của những tù nhân đang túm năm, tụm ba đánh cờ tướng hay đang bàn chuyện gẫu. Hắn rất sốt sắng liên lạc với cán bộ hậu cần giúp mua hàng cho anh em trong trại, mỗi khi được nhờ. Nói chung, hắn ta được lòng nhiều người. Không ai nghi ngờ lòng tốt của hắn cả.

Có một vị tù cải tạo nào đó đã “phịa” ra cái lý lịch đầy màu sắc tiểu thuyết của Thượng Sĩ Buồn, rồi chuyền tai nhau: Nào là, hắn ta vốn là sinh viên đại học Y-Khoa, ly khai vào “bưng” nhân Tết Mậu-Thân, ngày trở lại Sài-Gòn thì người yêu đã lấy chồng! Hoặc, cho hắn là con nhà địa chủ, cha mẹ chết hết trong thời cải cách ruộng đất, vì thế hắn buồn!

Chiều hôm đó Thượng Sĩ Buồn vẫn thủng thẳng tản bộ trên con đường mòn quanh trại. Nhưng không có người tù cải tạo nào dám nhìn anh ta cả. Vì ai cũng biết rằng, anh ta chính là người đã lạnh lùng bóp cò, nhắm bắn từng viên A.K 47 trên thân thể một người cùng màu da, cùng nguồn cội với anh ta. Giờ đây, anh ta đã lộ rõ nguyên hình một tên cuồng sát máu lạnh núp đàng sau một khuôn mặt điển trai. Cũng từ hôm sau, cho tới ngày tôi lên tàu ra Bắc (tháng 7/1976), tôi không còn trông thấy Thượng Sĩ Buồn xuất hiện trong vòng rào K 3 nữa. Hình như hắn được chuyển sang phụ trách khu K 4?


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1543778032-ThoiTheThienAc_06.jpg
Một lớp “học tập cải tạo” cho sĩ quan cao cấp gần Sài Gòn
(thứ hai từ bên trái qua là Tướng Nguyễn Hữu Có). nguồn manhhai flickr.comf

Tối đó tôi mở ba lô, véo một cục từ bánh thuốc rê đầy ắp mà anh Phạm Văn Tư đã đưa cho tôi chiều hôm trước. Tay tôi vân vê những sợi thuốc, trí óc tôi hiện lên khuôn mặt vừa nghiêm trang, vừa buồn rầu của người Niên Trưởng. Lúc đưa “rê” thuốc cho tôi, giọng anh thực từ tốn, nhưng vô cùng dứt khoát, anh nói.

- Từ mai, “moa” bỏ thuốc! “Toa” cầm nguyên bánh Cẩm-Lệ này về, rồi tự tay vấn lấy mà hút! “Moa” chán cái việc suốt ngày ngồi vấn vấn, vê vê này rồi! Chẳng làm nên tích sự gì cả!

Chuyện xảy ra trưa nay, đã cho tôi hiểu rằng, thực sự, người đàn anh của tôi đâu đã chán thuốc rê? Anh cho tôi cả bánh Cẩm-Lệ còn mới toanh, và tuyên bố “bỏ thuốc”, chỉ vì anh phải bắt đầu một cuộc phiêu lưu ít người dám làm: Trốn trại! Thật vậy, có ít người dám làm điều này lắm! Chỉ vì, trốn trại chẳng phải chuyện đùa! Mà trốn trại, chính là đem sinh mạng của mình ra đánh đổi lấy Tự-Do.

Hai ông đàn anh của tôi đều là dân Tình-Báo, do đó, dù thân thiết cách mấy, tôi cũng không hay biết mảy may mưu đồ của hai ông.

Tôi cũng chợt nhận ra một điều trái khoáy, oái oăm, đó là chuyện ngày xưa Đại Úy Phạm Văn Tư vì “Đạo Làm Người” mà cứu mạng một tên Việt-Cộng sắp chết vì nội xuất huyết trên những vết thương ở đùi. Rồi chỉ sáu năm sau, người tù cải tạo Phạm Văn Tư lại bị những tên Việt-Cộng khác bắn nát tứ chi, không băng bó, vứt trong xó nhà, để mặc cho máu chảy tới cạn kiệt. Không có ai làm “garô” cho anh; không ai lưu tâm tới chuyện hai đùi, hai tay anh đang bị nội xuất huyết, hay ngoại xuất huyết cả; chắc chắn anh sẽ chết dần với nỗi đau đớn tột cùng. Cảnh này cũng thật là trái ngược với hình ảnh cô y tá Hoa-Kỳ tận tâm chăm sóc một tù binh bị thương, không cùng màu da và ngôn ngữ với cô, vừa luôn miệng dỗ dành:

“Don't worry! Don't worry! You will be Okay!”

Ngày xưa, khi nhân loại còn dã man, có chuyện người chiến thắng đã đem địch quân ra tùng xẻo, hoặc trói kẻ thù lại, cột dây cho ngựa kéo lê tới chết.

Ngày nay, dù thế giới đã đổi thay, nhưng cung cách đối xử với người dưới ngựa của Việt-Cộng cũng không văn minh hơn chút nào.

Tôi đang suy nghĩ miên man, thì anh bạn Nguyễn Phong Cảnh ló đầu vào cửa sổ ngoắc tay,

- Lẹ lên! Lẹ lên!


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1543778044-ThoiTheThienAc_07.jpg
Từ trái: Đại tá Hứa Yến Lến, Thiếu tướng Lê Minh Đảo,
Trung tướng Phạm Quốc Thuần, Vương Mộng Long, Trung tá Xuân

Vừa chui lọt thân mình qua cái cửa sổ, tôi đã bị anh Cảnh lôi đi như chạy giặc. Cảnh dẫn tôi men theo bờ rào, đi về hướng nhà bếp, tới góc cuối của K 3, cách cái chòi gác hai lớp kẽm gai. Lúc đó trên chòi không có lính canh. Hai đứa ngồi núp mình, nghe ngóng. Từ căn nhà tôn bên kia, cách tôi bốn lớp kẽm gai và hai khoảng đất trống, rõ ràng là tiếng la rú đau đớn của anh Tư đang vọng ra.

“Ối!...Ối! ...Ối!...ôi!...ôi!...ôi!..ư...ư...ư..”

Tiếng la rú lanh lảnh, đứt quãng, quằn quại, từng đợt rợn người, của một sinh vật sắp chết đã phá vỡ cái yên tĩnh của một vùng không gian vào lúc trời chạng vạng. Chắc chắn trong suốt cuộc chiến tranh hai mươi năm vừa qua, khó có thương binh nào phải lâm vào tình trạng đau đớn khủng khiếp như tình trạng hiện thời của người thất trận Phạm Văn Tư.

Tôi nghĩ rằng, nếu có gom góp hết những đau đớn mà tôi đã từng trải, qua ba lần bị thương, cũng chẳng thấm gì với cái đau mà người đàn anh của tôi đang gánh chịu giờ phút này.

Bạn cùng lán của tôi, Thiếu Tá Nguyễn Phong Cảnh, là một sĩ quan thuần túy tham mưu, không quen với cảnh máu đổ, thịt rơi ngoài trận tiền, nên chỉ qua vài phút chứng kiến cảnh thương tâm này, anh Cảnh đã chịu đựng không nổi. Anh òa lên khóc tức tưởi, rồi ù té chạy về hướng sân bóng chuyền. Tôi vẫn ngồi sát bờ rào, theo dõi tiếp. Tiếng rú hạ thấp xuống thành tiếng rên, “Hừ!... Hừ!...hừ! ...hừ!...” Rồi hình như trong khi rên, anh Tư đã ú ớ gọi tên ai đó:
“Hừ!... Hừ!...Hừ!..Hường...ơi!...Hư...ường ...ơi!...ực!... ực!...ực!...”

Cuối cùng, chen lẫn với những tiếng nấc, bên kia rào chỉ còn những tiếng, “Ư! Ử!...Ư! Ử!...ư! ử!...” nhỏ dần.

Mấy chục năm sau, mỗi khi nhớ lại chuyện này, hai mắt tôi vẫn thấy nóng lên và mờ đi, tim tôi vẫn còn chùng xuống như một con tàu vỡ, đang bị nước tràn vào, đang tròng trành chìm dần xuống đáy biển khơi.

Mấy phút sau, hình như anh Tư đã kiệt sức, không rên được nữa. Thấy không nghe thêm được gì, tôi đành lầm lũi trở về nhà giam. Trong khu K 3, ngoại trừ những hôm có văn nghệ hay chiếu phim, thì sau tám giờ tối, cổng khóa, không còn vệ binh đi tuần tra trong vòng rào nữa.

Và cũng từ khi có kẻng báo ngủ (chín giờ tối) thì trên chòi canh, vệ binh bắt đầu các phiên gác đôi. Từ khi tắt đèn cho tới khuya, lâu lâu tiếng gào thét, la hét của anh Tư lại theo gió vọng về. Có lẽ tới gần hai giờ sáng mới hoàn toàn không còn tiếng rú đau đớn của anh Tư nữa.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1543778056-ThoiTheThienAc_08.jpg
Từ trái: Thiếu tá Hoàng Đình Hiệp, Đại tá Hứa Yến Lến, Thiếu tướng Lê Minh Đảo, Vương Mộng Long

Suốt đêm đó tôi cứ giả đò mắc tiểu, lâu lâu lại đi ra sát bờ rào nghe ngóng. Cũng đêm hôm đó, hình như có nhiều người trong khu K 3 cùng mang tâm trạng như tôi. Trong số này, ngoài Nguyễn Lành, Tạ Mạnh Huy và Ngô Văn Niếu ra, còn vài anh Võ-Bị bên Lán 17. Họ cũng thay phiên nhau ra hàng rào... đứng một lúc, nghe ngóng ... rồi đi vào.

Chúng tôi như chim cùng đàn, một con bị bắn chết, những con khác chỉ biết bay lòng vòng trên cao, cất tiếng kêu thương. Mờ sáng ngày kế tiếp, có sáu anh tù cải tạo được gọi lên văn phòng để đi chôn xác anh Tư.

Tuần sau, anh Trần Văn Bé bị Việt-Cộng bắt trở lại, và đem về nhốt trong connex đặt trên ban chỉ huy trại. Cùng thời gian này, một anh tù trốn trại khác cũng bị giải về đây nhốt chung với anh Bé. Anh bạn này là Đại-Úy Biệt Động Quân Phạm Hữu Thịnh. Anh Thịnh đã cùng anh Thiếu Tá Quách Hồng Quang, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân chui rào, tìm cách thoát đi từ Trại Hóc-Môn. Anh Quang bị vệ binh bắn chết ngay tại hàng rào, còn anh Thịnh thì bị bắt khi vừa chui ra khỏi lán. Anh Quách Hồng Quang là bạn cùng đơn vị với tôi thời chúng tôi còn là đại đội trưởng ở Liên Đoàn 2 Biệt Động Quân. Còn anh Thịnh lại là dân cùng ngành Tình-Báo với anh Tư và anh Bé.

Giữa tháng Tư năm 1976, anh Bé và anh Thịnh bị đưa ra tòa án của trại để xử tội. Hôm đó là một ngày nắng gắt. Khoảng hơn mười giờ sáng, khi loa phóng thanh truyền về trại âm thanh của những loạt đạn A.K kết thúc mạng sống của hai người thua trận, thì trời đang nắng bỗng tối sầm, một cơn giông kéo tới, bụi đất mù mịt. Tiếp theo, là một trận mưa rào xối xả, sầm sập trên mái tôn. Nước mưa vừa bốc thành hơi ngùn ngụt, vừa tuôn xuống đất ào ào. Nhưng chỉ vài phút sau, đột ngột, mưa ngừng. Cảnh vật lại trở về tình trạng cũ.

Hiện tượng khác thường này khiến người ta liên tưởng tới sự hiện diện của Đấng Vô Hình ở trên cao, đang theo dõi các hoạt động của con người dưới trần gian. Có phải cái chết oan ức của hai vị sĩ quan Việt-Nam Cộng-Hòa đã động tới lòng Trời? Khiến Trời phải nổi cơn giông phẫn nộ hay không? Tôi thì tin tưởng rằng, lúc cơn giông nổi lên, chính là lúc Thượng- Đế đưa bàn tay thương yêu của Người ra, để dắt dìu linh hồn các bạn tôi tới bến bờ Tự-Do.

Từ phút đó cho tới chiều tối, trong sân tập họp của khu K 3, tù cải tạo lại tụ nhau từng nhóm, thì thầm đọc kinh cầu nguyện. Những anh tù đại diện có mặt trong phiên tòa, khi về trại, đã kể lại, việc chôn cất hai người bại trận cũng diễn ra rất gọn, vì một ngày trước khi có phiên tòa này, thì hai cái huyệt để chôn người bị xử tử đã được ban chỉ huy trại cho người đào sẵn sàng rồi. Vậy là, chỉ trong một thời gian ngắn ngủi sau khi mất nước, bốn người bạn của tôi đã phải trả giá cho Tự-Do bằng chính sinh mạng của họ.

Sau ngày Ba Mươi tháng Tư năm 1975, thời thế đã đổi thay.

Cái Thiện đã nhường chỗ cho cái Ác.

Tự-Do, Bác-Ái, Công-Bằng chỉ còn là kỷ niệm.

Vương Mộng Long - K20
nguồn: https://hon-viet.co.uk/VuongMongLong_ThoiTheThienAcVaConNguoi.htm

BachMa
12-27-2018, 04:51 AM
Chuyện Đi Lính...
Cuối tháng 5/1970, vợ chồng tôi từ Nam vang về Sàigòn lánh nạn “cáp duồn”.

Được hoản dịch 18 tháng nên ngày đi làm ở L’UCIA, đêm đàn phòng trà, cuối tuần đàn đại nhạc hội do anh Duy Ngọc tổ chức tại rạp Quốc Thanh.

Tôi đã đàn cho anh Hùng Cường hát kích động nhạc với cô Mai Lệ Huyền nhiều lần.

Thấy anh mặc áo hoa rừng nên lân la hỏi “anh mặc áo lính gì vậy ?”.

Anh HC trợn mắt nhìn tôi một hồi rồi hỏi lại “Mầy mấy tuổi rồi mà không biết tao mặc đồ Biệt-Động-Quân ? Bộ trốn quân dịch hả ?”.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1544493937-ChuyenDiLinh_01.jpg
Hình minh họa

Tôi cười, nói ảnh biết tôi là Việt kiều hồi hương, được hoản dịch 18 tháng, đến tháng 3/72 mới hết hạn. Ảnh nhìn tôi vài giây rồi dụ “vậy mầy đăng lính BĐQ đi, tao sẽ kéo mầy về ban CTCT/BĐQ ở trại Đào Bá Phước”.

Tôi thấy có lý nên khi gần hết hạn hoản dịch, tôi ra chợ Bến Thành, tìm cái quầy tuyển mộ lính BĐQ xin ghi tên.

Lúc đó tôi không biết LĐ5/BĐQ ở đâu và cũng không biết là BĐQ có nhiều LĐ ở khắp 4 vùng chiến thuật. Về nhà khoe với vợ, em làm thinh, mặt buồn hiu.

Tối đó, lần đầu tiên, em cho con ngủ chung giường. Hai đứa nằm hai bên, ôm thằng con mới 2 tháng tuổi, thì thầm tới khuya. Em lặng lẽ chuẩn bị cho tôi cái túi xách nhỏ : một bộ quần áo ủi thẳng thớm, vài cái quần lót, một cái khăn tắm, một lon Guigoz thịt chà bông và một chai dầu nhị-thiên-đường.

Đến ngày hẹn, tôi ra chợ Bến Thành, cùng gần chục thanh niên leo lên xe GMC về hậu cứ Củ Chi làm thủ tục đi thụ huấn tại Trung tâm Dục Mỹ tuốt ngoài Ninh Hòa-Nha trang. Buổi tối đầu tiên xa nhà, ngủ trên tấm chiếu trải trên sàn ván, bên cạnh cả chục thanh niên xa lạ, hai ba anh đua nhau ngáy như đang hòa tấu nhạc tàu, tôi không thể nào ngủ được. Còn muổi nữa ... hình như máu thịt tôi ngon hơn mấy anh kia nên nó cứ nhè tay chân mặt mủi tôi ... mà chích. Vậy mà cũng thiếp đi một chút.

Sáng hôm sau qua Trung tâm 3 Nhập ngũ lấy số quân, nhận quân trang trong hoạt cảnh ... cười như mếu.

Quần áo rộng thùng thình, phải tìm sợi dây cột lưng quần, nếu không nó tuột xuống tới đầu gối. Rồi hớt tóc, trời ơi ... mái tóc tôi nâng niu cả chục năm, bị ông thợ hớt tóc có trái tim bằng đá đẩy mấy phát tông-đơ chỉ còn 3 phân. Tếu nhất là lúc tập họp điểm danh. Vì có nhiều người trùng tên nhau nên ông hạ sĩ quan quân số gọi tên tân binh xong, nói luôn tên cha mẹ. Chúng tôi không thể nín cười khi ổng hô : Trần văn Quá, cha Chơi, mẹ Sướng. Rồi tập vào hàng, phắc, tan hàng ... cho đến hết ngày hôm đó.

Hôm sau là ngày thứ Bảy, được ra vườn Vườn Tao Ngộ nghe nhạc sống. Không biết cô Tiên hỏi ai mà biết hôm đó cho thăm tân binh nên sáng sớm đã có mặt ngoài cổng với giỏ thức ăn. Hai đứa ngồi nghe nhạc như mọi người quanh sân khấu lộ thiên. Hổng dè có cô ca sĩ quen, đứng hát thấy tôi nên chạy xuống kéo lên sân khấu, yêu cầu tôi hát một bản.

Không từ chối được nên tôi giới thiệu nhạc phẩm “Lính Xa Nhà”, nói hát để tặng cô Tiên.

Dĩ nhiên là mọi người ở đó không biết cô Tiên là ai, chỉ có mình em nhìn tôi cười mủm mỉm ...

... Tôi có người yêu tuổi ngọc vừa tròn, vì chinh chiến ngược xuôi, ít về để hẹn hò.

Nơi phố cũ bây giờ em có thường nhìn hoa rơi cuối đường rồi buồn riêng cho mình không ?

... Xa lắm người ơi ! Kỷ niệm thật nhiều. Còn đâu tiếng cười vui, mắt nhìn thật đậm đà. Phương đó nếu bây giờ mưa gió nhiều, đường trơn chân gót nhỏ cậy nhờ ai đón đưa về ?

... Đọc thư em hay hờn hay dỗi, trách tôi yêu tay súng hơn nàng. Vì sao yêu sa trường hiểm nguy hơn phố phường với bao chiều lang thang.

... Thương quá là thương kỷ niệm ngọc ngà và yêu quá là yêu áo đẹp chiều hẹn hò. Nhưng thép súng đang còn say máu thù. Hẹn em khi khắp trời nở đầy hoa có tôi về....

Đầu tháng 8/72 mãn khóa huấn luyện, từ Dục Mỹ về trình diện tại trại Đào Bá Phước, nhận sự vụ lệnh mai lên trình diện tại hậu cứ LĐ5, lúc đó vừa chuyển về cổng số 6, căn cứ Long Bình. Hỏi thăm anh HC ở đâu, ông sĩ quan ban 1 nghiêm giọng nói : “Lúc này chiến trường sôi động, tất cả quân nhân đều phải cấm trại 100%, HC cũng vậy”.

Tôi thất vọng về nhà, trong đầu lảng vảng cảnh ghìm súng bắn nhau với Cộng quân. Đêm đó, em tắm cho tôi, em kỳ cọ, chăm chú nhìn tôi như người xa lạ. Tôi cười hỏi “bộ lạ lắm hả ?”. Em gật đầu “Toi đen hơn nhưng rắn rỏi hơn, mạnh mẻ hơn nhưng ... moi muốn coi toi có bị thương chỗ nào không ?”. Tôi cười ngất “moi học quân trường chớ đâu đã ra chiến trường”. Em vẫn kỳ cọ tôi một hồi nữa mới chịu lau mình cho tôi. Hai đứa ôm nhau ngủ tới sáng bét.

Hôm sau, tôi lên hậu cứ Long Bình, trình diện chỉ huy hậu cứ lúc đó là Thiếu-tá Nguyễn văn Bếp. Thiếu-tá Bếp nhìn tôi chằm chặp hồi lâu rồi hỏi liên tục “Mầy có bằng Brevet ? Mầy từng làm kế toán ? Mầy từng đờn phòng trà ?” Tôi đứng thẳng người trả lời “Thưa thiếu-tá, đúng”. Ổng lại nhìn tôi một hồi nữa rồi quyết định “Được, tao cho mầy về ban 5”. Tôi nghe nhẹ người, không có anh HC, tôi cũng được về Ban 5 là ban CTCT của LĐ, đúng như hy vọng lúc ban đầu.

Ban CTCT/LĐ5 lúc đó gồm Đại-úy Thái văn Nghiệp trưởng ban, ông Phó là Trung-úy La xuân Huệ, nhân viên gồm HS1 Tường Khắc Điện, HS Thạch Đức, một anh hạ sĩ viết/vẽ rất đẹp (sorry, quên tên anh này vì ít khi gặp), và tôi.

Mới ở Long Bình mấy ngày thì có lệnh phải cấp tốc lên An Lộc trình diện Liên-Đoàn-Trưởng, lúc đó là Trung-tá Ngô Minh Hồng. Thời đó đâu có mobile phone, tôi viết vội vài hàng báo tin em biết. Lúc đó, ai muốn vô An Lộc phải đi trực thăng từ Long Bình hay Biên Hòa đến Lai Khê, đổi trực thăng tại Lai khê bay vô An Lộc. Đáp xuống An Lộc được hay không còn tùy tình hình, nếu Cộng quân pháo kích dữ quá đành phải bay trở lại Lai khê.

Chuyến bay chúng tôi may mắn, sáng đi ... xế trưa là đến An Lộc. Ngồi trên trực thăng nhìn xuống, đất nước mình đẹp quá. Những ô ruộng xanh rì, xen với những mái nhà xám xịt, những vườn cây, những khúc sông nước biếc, cho người nhìn một cảm giác thật bình yên. Khi gần tới An Lộc, dấu vết chiến tranh hiện ra. Những hố bom B52 trải dài như những đóa hoa đỏ khổng lồ, nhiều khu rừng cao su chỉ còn thân cây trơ trụi lá.

Lúc leo lên trực thăng ở Lai Khê, chúng tôi đã được dặn dò trước là ... khi đến An Lộc, lúc trực thăng còn cách đất khoảng 1-2 thước là phải nhảy xuống nên khi đến sân bay (quốc lộ 13), trực thăng xà xuống cách mặt đường 1-2 thước là chúng tôi lần lượt nhảy xuống chạy ngay đến các gốc cao su ngồi xuống, không nghe tiếng pháo mới đi bộ về BCH/LĐ.

Từ đó đi bộ vài phút là tới đồn điền Xa Cam, nơi đóng quân của BCH tiền phương LĐ5/BĐQ lúc đó, cách thị trấn An Lộc khoảng 2 cây số.

Trình diện Trung-tá LĐT. Ông này nhìn tôi rồi vui vẻ nói “cố gắng ăn cơm sấy, làm việc giỏi nghe em”.

Ở An Lộc lúc đó (từ tháng 9/72), mặc dù Cộng quân đã bị đẩy về Lộc ninh, vòng đai an ninh quanh An Lộc đều có quân mình trấn giữ, nhưng An Lộc vẫn bị pháo kích sáng chiều mỗi tuần vài lần, mỗi lần vài chục trái hay cả trăm trái, trời kêu ai nấy dạ, nên tất cả quân nhân đều ăn ở dưới hầm.

Những người lính như tôi đều có hầm cá nhân, bề ngang 1 thước, dài 2 thước, sâu cạn tùy người đào nhưng ít nhất phải 1 thước. Nhìn nó như cái huyệt để chôn chính mình. Cực nhất là những tháng mưa, nước mưa đỏ lòm tràn vô hầm đến ngang đầu gối, phải kê miếng ván làm giường ngủ ngủ lên cao, ra vô phải bò.

Công việc của tôi cũng không có gì nặng nề, mỗi đêm ôm súng gác 2 tiếng, mỗi tháng nhận báo Tiền Tuyến để phát không, và đồ Quân Tiếp Vụ bán lại cho quân nhân từ LĐ đến các tiểu-đoàn.

Vài tuần sau, HS Hồng thuộc đại-đội Trinh sát hy sinh không mang được xác về kịp thời, phải chôn tại An Lộc. LĐ5 xin khoảng đất nhỏ trước nghĩa trang Biệt-Kích-Dù trong khuôn viên chợ An Lộc để làm nghĩa trang cho lính LĐ5. Tôi được lệnh ban đất cho bằng phẳng, làm cổng, xây tường xung quanh cao tới đầu gối và viết 2 câu thơ trước cổng nghĩa trang:

“Mô đất lạ chôn vùi thân bách chiến.

Máu anh hùng nhuộm thắm lá cờ Nam”.

Nhờ công tác này mà tôi được dịp đi quanh thị trấn An Lộc chụp hình, nói chuyện với những người dân đã ở lại hay mới trở về An Lộc. Được cơ hội uống cà-phê tại quán hai chị em cô ... (quên tên rồi). Nghe nói hai cô này dạy cùng trường tiểu học với cô giáo Pha, tác giả hai câu thơ bất hủ:

“An Lộc địa sử ghi chiến tích.
Biệt-Kích-Dù vị quốc vong thân”.

Tôi làm một mình gần một tháng mới xong. Vừa làm vừa hát nghêu ngao vì nhớ vợ con vô cùng.

Ở Xa Cam hơn 1 tháng thì BCH/LĐ chuyển về trường trung học Bình Long, nằm trong thị trấn An Lộc.

Công tác vũ-như-cẩn, thêm vụ gác xác ban đêm. Khi có những quân nhân trực thuộc LĐ hy sinh không đưa xác về Biên hòa kịp trong ngày, chúng tôi phải bắt thăm gác xác ban đêm, mỗi người hai tiếng. Được gác trước 12 giờ đêm là một may mắn. Các phiên gác từ 12đêm-2giờ sáng hay 2giờ sáng-4giờ sáng ... chua lắm, vì lúc đó mình hay ngủ gục.

Người gác xác đêm phải làm hai việc:

Việc thứ nhất là phải ôm súng ngồi thẳng người, thứ hai là phải coi chừng nhang, hễ nhang sắp tàn thì phải đốt nhang mới cắm vô cái lư hương bằng lon sữa bò có chút gạo, đứng thẳng người chào rồi ngồi gác tiếp.

Quí vị cứ tưởng tượng ... ngồi trong đêm đen, bên cạnh những cái poncho quấn xác người, trước mặt là mộ của hai cô nữ sinh bị pháo kích chết trước đó mấy tháng, nghe nói linh lắm ... thì mình đồng da sắt cũng nghe ớn ớn. Thêm mấy ông sĩ quan tuần phiên, mấy ông này ma-le lắm ... hổng biết mấy ổng rình ở đâu, mà ai vừa ngủ gục chưa kịp ngáy là đã bị nón sắt bay trúng đầu cái bốp.

Tôi may mắn, dù gác phiên nào cũng chưa bị ăn nón sắt vì tôi nghĩ ... những quân nhân vừa đền nợ nước hay hơn mình, đáng kính trọng hơn mình, nên tôi ngồi gác với cái tâm tỉnh thức ... luôn tỉnh táo để biết mình phải làm gì, đối phó ra sao trong những hoàn cảnh bất ngờ nhất.

Một ngày đầu năm 1973, trung-úy Huệ cho tôi biết “đã có hiệp ước ngưng bắn 3 ngày với Cộng quân nhân dịp Tết Quý Sửu 1973. Nhân dịp này, Trung-tá LĐT muốn tổ chức một đêm văn nghệ khoản đãi các chiến sĩ xuất sắc. Ban 5 mình phải lo mọi việc”.

Sân bóng rổ được chọn làm nơi tổ chức. Lính các tiểu-đoàn chặt tre trúc gởi về làm hàng rào hai lớp quanh sân bóng rổ, một cái dù hoa được căng lên bên trên, một máy điện được Chinook đưa lên để có đủ điện cho ban nhạc. Các ca sĩ thuộc TĐ5CTCT được mời. Lúc đầu, có tên cô Ngọc Đan Thanh, hiện làm MC cho trung tâm Asia, nhưng vào giờ chót, cô NĐT bận công tác gì đó, bạn của cô là ca sĩ Hồng Hải đi thay.

Khi trời sập tối, ban nhạc bắt đầu chơi, nhiều cặp ra sàn nhảy, ban 5 chúng tôi phục vụ ở quầy giải khát. Nhìn mấy ông sĩ quan khiêu vũ, tôi cứ ngở như mình đang ở Sàigòn. Ban nhạc chơi khoảng 15 phút thì trái pháo kích đầu tiên của Cộng quân bay qua đầu chúng tôi, tiếng pháo hú nghe rợn người, át hẳn tiếng nhạc, và nổ oành đâu đó cách chúng tôi khoảng 500m.

Tôi đoán như vậy vì lúc này tôi đã có kinh nghiệm nghe tiếng pháo kích. Ở An Lộc, ai nghe tiếng pháo là sống, ngược lại là chết. Tôi đoán 500m vì mặt đất dưới chân tôi không rung chuyển. Tôi thấy Đại-tá Nguyễn thành Chuẩn, tư lệnh mặt trận An Lộc đứng lên cùng mấy anh cận vệ ra về ngay. Ông Trung-tá cố vấn Mỹ ở lại. Trung-tá Hồng ra lệnh ngưng đàn và gọi tên các chiến sĩ xuất sắc lên tặng quà.

Tôi được tặng một hộp quẹt Zippo, có khắc chữ LĐ5/BĐQ. Ở An Lộc, hộp quẹt Zippo quý lắm, quẹt là có lửa dù bất cứ tình huống nào. Sau khi nhận cái hộp quẹt, tôi xin phép đại-úy Nghiệp qua nhà ăn sĩ quan hút thuốc. Nhà ăn sĩ quan chỉ cách sân bóng rổ vài bước chân, nóc lợp bằng các vĩ sắt dùng cho trực thăng đáp, thêm mấy lớp bao cát bên trên. Bàn ăn, ghế ngồi đều dùng vĩ sắt, tương đối an toàn hơn nơi tổ chức văn nghệ.

Vừa châm điếu thuốc thì trái pháo thứ hai bay qua đầu chúng tôi, nổ oành đâu đó gần hơn trái trước vì mặt đất rung chuyển dưới chân tôi. Lại im lặng, cái im lặng rợn người. Khoảng 10 phút sau thì nghe tiếng nhạc trổi lên, cô ca sĩ mới hát đến câu thứ hai thì ... tôi nghe tiếng rú của trái pháo thứ 3.

Nó nổ một tiếng ùm khủng khiếp, đâu đó ngay trên đầu tôi, và tiếng miểng pháo bay rào rào, như ai đó rải cát trên nóc nhà. Như một phản xạ tự nhiên, tôi lăn người nằm sát mặt đất, dưới cái bàn ăn. Hai lỗ tai tôi vo ve như tiếng muổi kêu ... rồi im phăng phắc, cái im lặng lạnh sống lưng.

Chỉ vài giây sau là nghe tiếng rên la của phụ nữ ... “Má ơi ! Máu ! Máu nhiều quá !!!”.

Tôi bật dậy, rờ mình mẩy tôi, coi có bị thương nơi nào không ? Hú hồn, cám ơn Trời Phật, thân thể tôi còn nguyên vẹn. Bèn đi qua sân bóng rổ. Trên đường đi, tôi thấy HS Thạch Đức lết trên mặt đất, tôi hỏi “Đức anh có sao không ?”. Đức không trả lời, mắt đã đứng tròng, miệng xùi bọt mép. Tôi la thầm trong bụng “không xong rồi” nhưng nhìn khắp người Đức không thấy máu, không thấy bị thương chỗ nào cả nên tôi chạy qua sân bóng rổ tìm hai ông xếp của tôi là Đại-úy Nghiệp và Trung-úy Huệ.

Sân bóng rổ lúc này tối thui. Những người bị thương nằm ngồi khắp nơi như những bóng ma. Tiếng rên của nhiều phụ nữ nghe lạnh người. Những quân nhân còn khỏe cỏng, khiên những quân nhân bị thương xuống trạm quân y.

Thấy hai ông đều ngồi dựa cái hàng rào tre, hỏi có bị thương ở đâu không, hai ông đều chỉ vô háng, nhưng không thấy máu me gì cả. Trung-úy Huệ chỉ qua đại-úy Nghiệp “mầy lo cho ổng, tao ok”. Tôi hỏi Đại-úy Nghiệp đi nổi không, ổng lắc đầu. Tôi bèn đi tìm cái băng-ca, nhờ một anh lao công giúp tôi khiên Đại-úy Nghiệp xuống trạm xá.

Y sĩ trưởng LĐ5 lúc đó là bác sĩ Chung, cũng là bạn thân của Đại-úy Nghiệp. Bác sĩ Chung tự tay cởi quần cho bạn, và bật đèn xem vết thương nhỏ xíu nơi háng Đại-úy Nghiệp. Vì lúc đó có cả chục quân nhân bị thương, trạm xá nhỏ xíu nên tôi ngồi chờ ngoài cổng.

Cộng quân tiếp tục pháo liên tục, tiếng nổ oành oành xung quanh tôi. Mọi người chạy vô hầm trú ẩn nhưng tôi không sợ, tôi vẫn ngồi tại cổng trạm xá, miệng lầm thầm cầu xin cho đại-úy Nghiệp tai qua nạn khỏi.

Khoảng nửa tiếng sau thì bác sĩ Chung gọi tôi vô nói nhỏ “anh Nghiệp bị miểng pháo cắt đứt động mạch chính dẫn máu về tim. Chỉ cần giải phẩu kẹp hai đầu động mạch là ok. Tiếc là ở đây, tao không có đủ dụng cụ để giải phẩu ảnh. Mầy đưa ảnh ra phi trường, tao đã xin một phi vụ đặc biệt đưa ảnh về tổng y viện Cộng hòa. Nếu ảnh về tới Cộng hòa trước 5 giờ sáng thì ảnh sống”.

Tôi lật đật chạy tìm anh tài xế ban 4, nhờ đưa Đại-úy Nghiệp ra quốc lộ 13. Tôi ôm súng ngồi bên băng ca, bụng thề rằng ... nếu anh VC nào léng phéng đến gần chúng tôi lúc này là tôi bắn nát óc. Khoảng nửa tiếng sau thì nghe tiếng trực thăng trên bầu trời đen kịt, đồng thời đạn pháo kích của Cộng quân cũng ào ạt bay vào. Tôi kéo cái băng ca đến gần gốc hai cây cao su, hy vọng tránh được miểng pháo. Tiếng trực thăng vần vũ trên trời nhưng không ai dám đáp xuống.

Cộng quân tiếp tục pháo kích cho tới gần 5 giờ sáng. Đại-úy Nghiệp thều thào gọi tôi, đưa cái bóp và cái đồng hồ đeo tay : “Mầy đem về cho vợ tao”. Tôi im lặng gật đầu. Đại-úy Nghiệp từ từ nhắm mắt, thở nhẹ vài cái sau cùng. Nhìn ông như đang ngủ. Lúc này, máu của ông đã chảy ra quanh người ông, ướt cả băng-ca. Tôi đứng thẳng người chào từ biệt ông theo lễ nghi quân cách.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1544493950-ChuyenDiLinh_02.jpg
Hình minh họa

Trời hừng sáng, tôi lếch thếch đi bộ về An Lộc, đầu óc trống rổng. Về tới BCH mới biết ông trung-tá cố vấn Mỹ chết tại chỗ. Ca sĩ Hồng Hải, người đi thay cô Ngọc Đan Thanh chết tại chỗ (cô NĐT có nhắc chuyện này trong một cuốn băng video Asia, hình như là Lá Thư Từ Chiến Trường). Một ca sĩ khác tên Kim chết tại chỗ. HS Thạch Đức chết tại chỗ. Đại-úy Thái văn Nghiệp hy sinh sáng hôm sau.

Nhiều người bị thương, tôi chỉ nhớ vài người: Trung-tá Ngô minh Hồng bị miểng chém mất tiêu đầu gối, Trung-úy Huệ bị một miểng nhỏ làm sướt đầu thằng em song sinh. Hai ông Thiếu-úy (không nhớ tên) gãy chân. Sau này gặp tôi, ông Huệ nói “lúc đó tao tưởng đâu mất giống rồi”. Cái may là ... sau khi trái pháo thứ hai nổ, các sĩ quan tiểu-đoàn đã dẫn lính mình về nơi đóng quân nên họ an toàn trên xa lộ.

Một tuần sau, tôi được đi công tác 7 ngày, để đem di vật về trao tận tay thân nhân của những người đã chết. Cho tới bây giờ, tôi không thể quên được những khuôn mặt vô hồn, những đôi mắt đứng tròng nhìn tôi trân trân khi tôi mang di vật của người thân đến trao tận tay họ.

Nói đi công tác nhưng cũng như nghỉ phép vì tôi được về nhà trong khoảng thời gian này.

Tôi về tới Sàigòn khoảng 2 giờ chiều, đi ngay đến nơi làm việc của cô Tiên. Tôi vẫn còn mặc đồ hành quân lấm lem bụi đỏ, lưng đeo cái ba-lô xơ xác ... chỉ có vài hộp sữa ông Thọ, nghĩ là đem về cho con (lúc đó tôi quên là con tôi bú sữa Guigoz).

Bước vào phòng em làm việc thấy có 5 người, 3 bà 2 ông. Em thấy tôi đầu tiên, liền bật dậy nhìn tôi trân trân, không nói tiếng nào. Người lên tiếng đầu tiên là chú Quỳnh ... “ahhhhh, người hùng An Lộc đã về rồi”. Chú chạy đến bắt tay tôi lắc lắc “vô An Lộc mà ra được là mạng lớn lắm ... chúc mừng, chúc mừng”.

Tôi xin phép cho em về sớm, và nắm tay em đi bộ về nhà. Suốt đoạn đường khoảng hơn cây số, em im lặng đi nhanh như gió, mặt ngẩn lên hảnh diện. Về đến nhà, em bắt tôi đi tắm liền. Em tắm cho tôi, em kỳ cọ những nơi đất đỏ còn lem luốt trên hai chân ... em vừa kỳ cọ vừa khóc. Tôi ôm em thủ thỉ “moi về rồi đây mà”.

Tối đó, em ôm tôi cứng ngắt, xoa xoa lưng tôi thì thầm “5 tháng 14 ngày rồi đó toi”.

Thì ra, từ ngày tôi lên An Lộc, em ở nhà đếm từng ngày. Tôi ở trong cảnh sống chết chỉ cách nhau mong manh như sợi tóc, nên không nhớ ngày giờ, chỉ cầu mong được sống trở về với vợ con.

7 ngày tràn trề hạnh phúc trôi qua nhanh chóng.

Tôi trở về hậu cứ trình diện ông trưởng ban 5 mới là đại-úy Nguyễn thanh Bình. Ổng nhìn tôi một hồi, hỏi những câu y chang như thiếu-tá Bếp trước đây, chỉ thêm 3 chữ “mầy mạng lớn”. Ổng im lặng suy nghĩ mấy phút, rồi ban lệnh “mầy biết kế toán, mầy có Brevet, mầy mạng lớn, mầy về làm thủ quỹ QTV”.

Từ đó, nếu tôi không được về phép thì cuối tuần em ẳm con lên hậu cứ thăm tôi.

Đầu năm 1974, LĐ5/BĐQ đổi số thành LĐ32/BĐQ. Qua năm 1975, tình hình chiến trường sôi động hẳn lên ... đến tháng 3/75 thì lãnh thổ VNCH thu hẹn dần dần. Nhiều người ở hậu cứ cũng âm thầm biết mất, quân số càng ngày càng ít, tôi phải ra gác mỗi đêm tại vọng gác sau lưng kho QTV, nhìn ra đường từ Tam hiệp lên Hố Nai. Nhiều đêm ngồi gác, thấy đồng bào gồng gánh nhau từ miền Trung về Sàigòn, một thúng thường là trẻ em, thúng bên kia là tài sản ít ỏi còn sót lại.

Họ thường dừng lại bên kia đường, đối diện với vọng gác, vì nơi này có đèn pha rất sáng. Nhiều người chỉ nghỉ chân cho khỏe ... rồi đi tiếp. Nhiều người đi chân trần, ngồi xuống cạy những viên đá nhỏ dính dưới bàn chân, viên đá rớt xuống mặt đường, máu chảy theo. Nhiều người mệt quá, ngủ luôn trên đường. Vì an ninh, tôi có quyền mời họ đi xa cái vọng gác nhưng tôi làm thinh và dặn anh em gác trước hay sau tôi đừng đuổi đồng bào đi ... tội nghiệp họ, chắc mệt quá rồi.

Lúc này, bà xã cũng không còn bồng con đến thăm tôi mỗi cuối tuần như trước. Em bận học nấu ăn. Em muốn có thêm cái nghề, biết đâu sau này ...

Sáng 29/4/1975 tôi được lệnh thiêu hủy tất cả hàng còn tồn kho QTV. Tôi thấy tiếc nên xin phép cấp trên cho tôi mở kho, cho quân nhân còn ở hậu cứ lúc đó ai muốn lấy cái gì thì lấy. Xong lên xe Jeep cùng tất cả mọi người về đóng quân tại rừng cao su Thủ Đức, bên cạnh Đường Sơn Quán. Trên đường đi, tôi thấy lính mình đánh nhau với Cộng quân tại cư xá Hải quân, bên bờ sông Đồng Nai (?). Nhìn như đang coi ciné.

Sáng 30/4, tất cả được lệnh lên xe về trại Lê văn Duyệt, Sàigòn. Tại đây, tôi nghe ông Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng trên đài phát thanh. Chia tay các chiến hữu trong đơn vi, tôi vẫn mặc đồ BĐQ, xách cây M16 đã nạp đạn, nhét thêm một trái lựu đạn vô túi quần, vai mang ba-lô tàng tàng ra cửa trại Lê văn Duyệt, đi bộ về hướng chợ Thái Bình.

Nhiều người chạy Honda quay lại nhìn tôi như nhìn con quái vật. Một anh can đảm dừng xe Honda lại, hỏi tôi đi về đâu, ảnh chở không lấy tiền với điều kiện ... tôi bỏ cây súng. Tôi nói với ảnh “cây súng này đã theo tôi nhiều năm, nhờ nó mà tôi còn sống tới bây giờ, tôi chỉ bỏ nó khi nào tôi thấy không cần nó nữa”.

Anh ta ngần ngừ vài giây rồi đồng ý chở tôi về chợ Thái Bình. Xuống xe, tôi móc tiền đưa anh, anh không nhận. Nhìn quanh, thấy không có bóng dáng anh VC nào, tôi quăng cây M16 vô thùng rác, đi bộ về nhà.

Nhà tôi khóa cửa kín mít, tôi kêu cửa.

Cô Tiên ra mở cửa. Vừa thấy tôi còn mặc đồ BĐQ, em kéo tôi mạnh đến độ tôi suýt té chúi nhủi vô phòng khách. Em thở hổn hển, nói không ra hơi ... “toi về rồi, toi về rồi ... moi mừng quá, moi mừng quá” rồi em ôm tôi hồi lâu, xong biểu cởi đồ ... đi tắm.

https://www.facebook.com/photo.php?fbid=561427800948140&set=pcb.2060829887288445&type=3&theater&ifg=1

BachMa
01-16-2019, 03:52 AM
Lẩm Cẩm Tuổi Già Của Tôi
Zen master

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1532540524-LamCamTuoiGiaCuaToi.jpg
Hình minh họa
Bạn già ơi, Tôi muốn kể cho bạn nghe câu chuyện về cái tuổi già của tôi .

Số là sáng hôm nay, một ngày chủ nhật đẹp trời, tôi đang ngồi nơi bàn ăn đọc báo với ly cà phê sữa nóng bên cạnh. Khi tôi ngước mắt nhìn ra cửa sổ tôi chợt thấy chiếc xe của mình quá dơ, cần phải rửa.

Thế là tôi bỏ tờ báo đang đọc dở xuống bàn, đi tới chỗ máng chìa khoá và lấy chùm chìa khoá xe. Trên đường ra ga-ra, tôi chợt thấy đống thư trên cái bàn nhỏ đặt cạnh cửa ra vào . Tôi quyết định đọc đống thư trước khi đi rửa xe. Tôi đặt xâu chìa khoá lên bàn, cầm đống thư lên, lướt đọc qua những cái bill và vất những thứ không cần thiết vào cái thùng rác để dưới gầm bàn. Tôi thấy cái thùng rác đầy nhóc.

Thế là tôi lại đặt đống thư xuống, cầm cái thùng rác định đem đổ. Nhưng tôi nghĩ, đằng nào tôi cũng đi bỏ thư vả sẽ đi qua thùng rác lớn, vì vậy tôi quyết định trả bill trước khi đi đổ rác. Tôi ngồi xuống bàn, mở hộc kéo lấy quyển check, mở ra định ký tiền bill. Quyển check còn đúng 1 tấm. Tôi đặt quyển check xuống, đi vào phòng làm việc định lấy quyển check mới.

Khi đi ngang qua nhà bếp, tôi bỗng thấy lon co-ca đang uống dở trên mặt bàn bếp. Tôi cầm lon co-ca lên thì nhận ra nó không lạnh. Tôi định đi về phía tủ lạnh để cất nó thì mắt tôi bỗng thấy cái chậu hoa trên nơi cửa sổ nhà bếp và dường như nó đang thiếu nước. Tôi quyết định tưới chậu hoa trước khi tôi quên.

Thế là tôi bỏ lon coke lại xuống bàn bếp và đi tìm cái bình tưới. Chợt tôi thấy cái kính lão của tôi mà tôi đã khổ công tìm nó suốt buổi sáng đang nằm chình ình trên mặt bàn bếp. Tôi nghĩ là tôi phải cất nó vào hộc bàn làm việc trước khi tôi quên nhưng tôi chợt nhớ là mỉnh phải đi tưới chậu hoa.

Bỗng tôi lại thấy cái remote control của cái TV trên mặt bàn. Biết rằng mình sẽ cần đến nó tối hôm nay, tôi cầm cái remote control lên và dợm đi về phía phòng xem TV để cất nó.

Bỗng tôi chợt nhớ là mình phải tưới chậu hoa cái đã. Thế là tôi lại để cái remote control xuống, và đi tìm cái bình tưới. Mở tủ lục lọi một hồi và cuối cùng tôi cũng tìm được cái bình đựng nước. Hứng nước đầy bình, tôi tiến lại chỗ chậu hoa định tưới nó thì bỗng tôi vấp phải chiếc giầy của ai trên mặt đất. Tôi loạng choạng suýt ngã và nước đổ đầy ra sàn bếp. Ðặt bình tưới xuống đất, tôi đi vào nhà giặt tìm cái khăn lau nhà. Lau xong cái sàn nhà, tôi đem cái khăn đi cất.

Sau khi cất được cái khăn, đứng trong phòng giặt, tôi hoàn toàn chẳng nhớ mình muốn làm gì … Tôi bóp trán suy nghĩ … a, nhớ rồi, tôi định đi rửa xe. Móc túi tìm xâu chìa khoá chẳng thấy. Tôi lại bóp trán … tôi chẳng nhớ là mình để nó ở đâu nữa… Thế là tôi lại đi vòng vòng quanh nhà, lên lầu, xuống lầu để tìm xâu chìa khoá ….Lúc này trời đã quá trưa … Bài báo đọc chưa xong, ly cà phê chưa uống hết bây giờ đã nguội ngắt, chiếc xe dơ chưa rửa, đống bill chưa trả, cái thùng rác vẫn đầy nguyên, lon coke vẫn nằm chình ình trên mặt bàn với cái remote TV và cặp kính lão, cái bình vẫn còn nằm trên sàn nhà, chậu hoa vẫn thiếu nước, quyển check cũng chỉ còn 1 tấm, và tôi vẫn ... chưa tìm được xâu chìa khoá !!!!

Tôi ôm đầu suy nghĩ không biết thì giờ đi đâu. Rõ ràng là tôi bận rộn suốt buổi sáng . Tôi cảm thấy mệt mỏi. Tôi biết là tôi có vấn đề. Tôi dợm đi lấy điện thoại định gọi để lấy hẹn gặp bác sĩ nhưng tôi phải đi viết thư cho các bạn tôi cái đã. Tôi muốn kể cho các bạn tôi nghe về cái tuổi già của tôi.

Bạn, Ðừng cười tôi, vì nếu những điều này chưa xảy ra cho bạn thì tin tôi đi, nó sẽ xảy ra. Vấn đề chỉ là thời gian mà thôi. Và nếu bạn nhận được thư này của tôi, xin làm ơn giúp tôi gời cho những người bạn khác vì tôi không nhớ là tôi đã gởi cho ai nữa.

Cám ơn bạn lắm lắm..

Zen master
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=790848674400007&set=a.781978115287063.1073741828.100004246450568&type=3&theater

BachMa
01-18-2019, 07:12 PM
Lính Nghĩ Gì ???
Châu Áp Tử

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1546462363-LinhNghiGi_01.jpg
Hình minh họa
Từ thưở ấu thơ, tôi sống và lớn lên với hình ảnh của người lính quân lực VNCH qua những câu chuyện mẹ tôi kể cho chúng tôi nghe vì ba đã đi tù cộng sản. Khi ấy, tôi còn quá bé nhỏ nên không nhớ mặt ba tôi ra làm sao nữa. Nhưng nhờ vài tấm hình còn sót lại trong nhà nên tôi nhìn thấy ba trong quân phục và các đồng đội của ba. Mẹ tôi hay kể là hồi xưa lúc có những đại hội chiến sĩ thì các nữ sinh từ những trường Gia Long, trường Trưng Vưng và các trường nữ trung học khác đến để tiếp đón, chào hỏi những người sĩ quan và lính VNCH trong những tà áo dài trắng thướt tha. Hồi xưa thì các trường nam và nữ học riêng. Cho nên chỉ nói tới trường Gia Long hay Trưng Vương là người ta biết ngay toàn là nữ sinh học trường đó hay nói tới trường Petrus Ký hay Cao Thắng thì toàn là nam sinh vậy.

Rồi mẹ cũng kể khi mẹ phải dắt anh Hai tôi bay ra ngoài chiến trường mà thường là ở miền Trung như Huế và Quảng Trị, nơi ba tôi đang đóng quân và tác chiến để thăm ba. Mẹ nói khi mẹ muốn có em bé thì phải đi thăm Ba cho nên mới có anh Ba tôi ra đời. Bởi vì ba là một sĩ quan tác chiến của binh chủng Thủy Quân Lục Chiến. Vì vậy ba thường xuyên đi chiến đấu khắp nơi và thường là đi hàng mấy tháng trời mới về nhà thăm gia đình. Có khi ba về nhà giữa đêm khuya, tự động mở cửa vào nhà mà mẹ vẫn chưa hay biết. Ba cũng hay nhắc lại những việc này và còn nói là ba vào nhà nhìn thấy hai mẹ con nằm chèo queo ngủ thấy thương lắm.

Nhờ những mảnh chuyện từ ba và mẹ tôi kể về thời xưa nên tôi mới hiểu và nhìn thấy được bức tranh và tâm sự của người lính trẻ mà nhạc sĩ Trúc Phương muốn chuyển tải trong bài hát “Người xa về thành phố.” Tôi như được nhìn thấy hình ảnh của một người thanh niên có thể là là một anh lính tác chiến VNCH hay một người sĩ quan tác chiến VNCH khoác trên mình bộ quân phục phủ bụi phong sương trong một chuyến về phép. Anh lính trẻ ngơ ngác giữa chốn phồn hoa đô hội và nhất là chốn ăn chơi. Anh nhìn đâu đâu cũng thấy toàn những gương mặt lạ hoắc bởi vì anh suốt ngày chỉ làm bạn với súng đạn và rừng núi bên cạnh đồng đội của mình quanh năm. Nhưng thời gian cực khổ, gian lao cần phải được bù đắp với chút thời gian thư giản, nghĩ ngơi.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1546462382-LinhNghiGi_03.jpg
Hình minh họa

Tuy lạc lõng, bơ vơ giữa chốn thị thành nhưng ở nơi này có một người mà anh lính luôn mong mỏi được gặp hằng đêm. Tôi mường tượng đó là một cô nữ sinh áo trắng mà anh có dịp gặp tại một trong những cuộc tiếp xúc, gặp gỡ với các nữ sinh trung học. Người con gái đó và anh mới sơ giao đã trao vội thông tin liên lạc và rồi từ đó cả hai đã viết hàng trăm lá thư cho nhau gởi gắm những mơ ước ngày hội ngộ. Người con gái đó và anh dường như đều hoàn toàn không có chút kinh nghiệm trên tình trường.

Tuy nhiên, anh đã thú nhận rằng bản thân anh đã lạc lối vào tình yêu lúc nào mà chính anh cũng không hay biết mặc dù anh là người rất kinh nghiệm trên chiến trường. Tất cả đều chỉ diễn ra qua những lá thư làm nhịp cầu nuôi dưỡng và phát triển tình yêu ngày càng lớn dần lên giữa anh và người anh yêu. Tuy cả hai đã viết hàng trăm lá thư cho nhau mà hai người vẫn chưa hề nói lên tiếng yêu đương. Thế nhưng cả hai người đều đã tự biết lòng nhau và hôm nay đây, khi hai người được tao phùng thì ngọn lửa yêu đương đã lên đến đỉnh điểm. Và rồi thì việc gì giữa những người chân thành yêu nhau đến thì tự nhiên nó đến.

Làm trai thời loạn lạc cho nên anh lính VNCH phải gánh vác trách nhiệm quốc gia, dân tộc trên vai. Mặc dù bén hơi men yêu đương quá ngọt ngào nhưng anh lính vẫn vòng về đơn vị sau khi hết kỳ nghỉ phép. Anh mạnh dạn bước đi vào chiến trường tuy tâm tư rất luyến tiếc vì không muốn rời xa người mình yêu và cũng có thể đây là lần cuối hai người được gặp nhau. Nhạc sĩ Trúc Phương dùng đại danh từ “mình” trong suốt tác phẩm của ông kết hợp với giọng hát da diết, truyền cảm của nam ca sĩ Trường Vũ, tôi như được nghe trực tiếp những lời tâm sự của anh lính VNCH đang thủ thỉ kể chuyện yêu đương thầm kín của mình với một người đồng đội bênh cạnh mình trong chiến hào vào lúc giữa đêm khuya. Đó cũng là những lúc anh nhớ đến người yêu nhiều nhất hằng đêm.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1547923552-HQPD_LinhNghiGi_02.jpg
Hình minh họa

Tôi nhìn thấy hình ảnh của anh lính VNCH thật là sống động, đáng yêu, đáng ngưỡng mộ và cũng thật là đáng thương làm sao. Không những anh là một người sống có lý tưởng sẵn sàng hy sinh tính mạng hay một phần thân thể vì quốc gia, vì dân tộc. Anh lại còn là người sống có đạo đức, người có tâm hồn cao thượng với phong cách đầy lòng tự trọng, nhẹ nhàng, sâu lắng trong tình yêu giữa người và người. Tuy có thể sống nay chết mai trên chiến trường nhưng anh không vì thế mà cố gắng sống chụp giựt. Anh không tham sống sợ chết, không chỉ biết nghĩ đến hạnh phúc riêng tư của bản thân và gia đình. Anh sống rất hiên ngang, có kỷ luật bản thân, rất thanh cao và cũng rất tình cảm.

Thời thanh niên thì ai ai cũng có những ước mơ, nhu cầu cho bản thân nhưng thanh niên thời trước 1975 ở miền Nam đa phần là những người sống có lý tưởng thật sự. Điều này đã được chứng minh khi đa số lực lượng quân lực VNCH đã chiến đấu tới giây phút cuối cùng để bảo vệ miền Nam Việt Nam mặc dù một số các tướng lãnh đã di tản. Những người lính và sĩ quan quân lực VNCH lại tiếp tục trả giá cho lối sống có lý tưởng của mình sau khi cộng sản Bắc Việt cướp nước tháng 4 năm 1975. Không riêng gì bản thân họ bị hành hạ trong ngục tù của cộng sản mà gia đình, vợ con của họ cũng cùng trả giá cho lối sống có lý tưởng này.

Nếu như chính phủ VNCH thắng cuộc tại Việt Nam thì tôi tin chắc rằng những chân giá trị làm người sống có lý tưởng như vầy sẽ được tiếp tục truyền bá khắp Việt Nam chứ không như thời nay. Nhắc đến công ơn của những chiến sĩ đã hy sinh cho quốc gia, cho dân tộc trong các trận chiến chống giặc Tàu phương Bắc cũng không được phép từ sách giáo khoa tới thực tế ngoài đời. Vậy hệ thống giáo dục XHCN của đảng CSVN đang đào tạo ra những con cừu non chỉ biết xôi thịt ăn chơi thôi hay sao? Chẳng biết nghĩ gì tới trách nhiệm của bản thân đối với quốc gia, với dân tộc? Ca dao Việt Nam có câu:

“Làm trai cho đáng nên trai,
Xuống Đông, Đông tĩnh, lên Đoài, Đoài yên”

Nếu sống đời trai mà không “đáng nên trai” thì làm cái gì đây?

New Hampshire, Wednesday March 22, 2017
Châu Áp Tử

https://www.facebook.com/photo.php?fbid=555246154946277&set=gm.2064100366961397&type=3&theater

BachMa
02-01-2019, 04:01 AM
Truyền Hình Việt Nam Trước Năm 1975

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1548730690-TruyenHinhVNCH_01.jpg

Ngày 7 tháng 2 năm 1966, vào lúc 19h là buổi phát hình đầu tiên của Đài Truyền hình Việt Nam và cũng là buổi phát hình đầu tiên trên toàn cõi miền Nam. Lần đầu tiên người dân Saigon, Danang, Quy Nhơn, Nha Trang, Cần Thơ được trực tiếp xem truyền hình đen trắng do Đài truyền hình Sài Gòn phát lúc 19 giờ, truyền qua máy bay. Đài phát sóng có công suất 225kw, bán kính hữu hiệu 75-90 dặm Anh ( 120-140km).


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1548730710-TruyenHinhVNCH_02.jpg

Chiếc máy bay dùng để phát sóng là loại máy bay cánh quạt có tên là BLUE EAGLE ( Đại Bàng Xanh) của quân đội Mỹ. Trên máy bay có máy phát hình, công suất 1kw do hãng RCA ( Mỹ) chế tạo, một studio đọc tin với một Camera, một máy Film Chain (hệ thống chiếu phim) và một máy video tape recorder ( máy ghi phát hình video băng trần, viết tắt là VTR) loại 4 đầu từ, dùng băng lớn 2 inches ( 50mm). Thời lượng phát sóng trung bình từ máy bay là 2 giờ/ đêm, bắt đầu từ 19 giờ và kết thúc lúc 21 giờ.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1548730731-TruyenHinhVNCH_03.jpg

Trong giờ phát sóng, máy bay BLUE EAGLE bay trên không phận Sài Gòn và vùng lân cận. Sóng phát đi từ anten Dipole đặt dưới bụng máy bay. Với tốc độ cao phát sóng vài ngàn mét, vùng thẩm hình khi đó rất rộng, gồm hầu hết các tỉnh Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Từ Phan Thiết đến Cần Thơ đều có thể thu rõ. Do phát hình từ máy bay nên sóng truyền hình rất dễ thu, không cần đến anten cồng kềnh phức tạp. Tuy nhiên, kiểu phát hình như vậy hết sức tốn kém. Có lẽ phát hình bằng máy bay như đã sử dụng ở Sài Gòn cũng là một trường hợp hiếm có trên thế giới....


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1548730747-TruyenHinhVNCH_04.jpg

Để đào tạo chuyên viên Việt Nam, chính phủ cử tám người sang Đài Loan thụ huấn trong 6 tháng cùng hai học viên khác do cơ quan Viện trợ Văn hóa Á Châu cử đi, tổng cộng là 10 người. Trong đó có một người là Tổng thư ký Bộ Quốc gia Giáo dục và hai cô nhân viên thuộc Bộ học về chương trình giáo dục bằng VTTH, hai người thuộc Thông tin Công giáo.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1548730760-TruyenHinhVNCH_05.jpg

Phía Nha VTTH có các nhân viên học về kỹ thuật, về làm chương trình và về đạo diễn. Đến Đài Bắc, các học viên được tập huấn tại Quang Khải Xã, đài truyền hình lớn nhất Đài Loan lúc ấy. Họ được làm quen với tất cả các công đoạn làm chương trình truyền hình như lập kế hoạch, viết bản tóm lược, phân cảnh, đạo diễn, quay phim, thu hình, âm thanh, bày trí phông, hướng dẫn diễn viên và hóa trang. Người hướng dẫn là chuyên viên thuộc Quang Khải Xã và từ hai đài truyền hình ở Đài Trung và Đài Nam.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1548730808-TruyenHinhVNCH_06.jpg

Họ được sử dụng máy móc giống như dàn thiết bị mới được trang bị ở Sài Gòn. Trong khi lưu lại, họ được dự các buổi phúc khảo hoặc việc sản xuất thực tế của các chương trình thường xuyên của Quang Khải Xã. Khóa huấn luyện kết thúc vào cuối tháng 3 năm 1967. Sau khi về nước, họ đã có thể sản xuất trọn vẹn một chương trình Việt Nam...


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1548730957-TruyenHinhVNCH_15.jpg

Đài THVN được phát trên băng tần số 9 trong khi đài Quân đội Mỹ AFVN phát tín trên băng tần số 11.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1548730824-TruyenHinhVNCH_07.jpg

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1548730840-TruyenHinhVNCH_08.jpg

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1548730864-TruyenHinhVNCH_09.jpg

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1548730880-TruyenHinhVNCH_10.jpg

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1548730895-TruyenHinhVNCH_11.jpg

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1548730910-TruyenHinhVNCH_12.jpg

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1548730927-TruyenHinhVNCH_13.jpg

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1548730942-TruyenHinhVNCH_14.jpg

https://www.facebook.com/photo.php?fbid=487285341675217&set=gm.2038382926199808&type=3&theater

BachMa
02-10-2019, 09:51 PM
Lấy Nhau Chẳng Đặng, Thương Hoài Ngàn Năm..

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1526617237-LayNhauChangDang.jpg
Hình người tỵ nạn vượt biển
Lần đầu gặp anh, chị mới 16 tuổi, nhỏ xíu, tóc bó đuôi gà, đôi môi mỏng lém lĩnh. Hôm ấy, Ba chị đưa về một thanh niên trẻ người Mỹ, giới thiệu người phụ tá của mình với gia đình, anh đã nhìn chị không chớp mắt, … đến khi chị vênh mặt hỏi … “ Tôi có chỗ nào không ổn ”... Anh mới ngượng ngùng sực tỉnh lí nhí …nói câu xin lỗi ….!

Không biết sao anh bị chị thu hút, đến mất hồn mất viá, Còn chị thì tỉnh rụi, chẳng để ý gì đến anh chàng người Mỹ đồng nghiệp của ba mình. Sau đó anh hỏi Ba chị thuê hẳn một tầng lầu trên cùng để ở, thì chị và anh gặp nhau mỗi ngày ...

Sống chung nhà, nhưng đường ai nấy đi, đối với chị, anh là bạn của Ba, người lớn rồi, nên chị không coi anh như bạn bè của mình, nhưng rồi chị cũng biết anh mới 24 tuổi, đến từ Washington DC, nhiệm sở ở VN này là công việc đầu tiên của anh sau khi tốt nghiệp Đại Học. Tuy còn bỡ ngỡ với xã hội VN, nhưng lạ một điều là anh nói tiếng việt giọng bắc rất chuẩn, và lưu loát như được đào tạo qua trường lớp đàng hoàng.

Anh ít nói nghiêm nghị, nhưng mỗi lần gặp chị, anh lúng túng, mặt mày đỏ gay, làm chị nỗi tính nghịch ngợm, muốn trêu cho anh …

.. Có lần trong bữa ăn, chị đưa cho anh quả ớt tròn đỏ, rất đẹp, chị bỏ nguyên trái vô miệng, nói ngon lắm, và đưa cho anh một trái, bảo ăn thử …, anh cũng tưởng thật, bắt chước chị, bỏ vô miệng nguyên trái, nhai rốt rột, rồi anh sặc, anh ho, anh khóc, còn chị, nhả trái ớt ra, ôm bụng cười ngặt nghẽo. Anh cay quá, có ý giận, cầm cốc nước bỏ lên lầu một mạch …

Đến tối không thấy anh xuống, thấy cũng tội nghiệp, chị sai thằng em, bưng lên cho anh ly nước đậu nành tạ tội, nhưng thằng em xuống nói, Anh ấy không có ở trên lầu, đi đâu rồi ??

Chị có ý đợi, muốn thử coi sau khi ăn trái ớt, mặt mũi anh ra sao ?? . Nhưng mấy ngày liền anh không về, nghe Ba nói với mẹ, anh đi công tác …
Cả tuần không gặp, chị thấy thiếu thiếu, chị nghĩ có lẽ tại mình chơi ác với người ta nên mình thấy có lỗi .. áy náy đó thôi.

Tuần sau Anh về, bước vô nhà thấy chị, còn tức nên vờ như không thấy, anh xách va li đi thẳng lên lầu, từ đó anh luôn giữ vẻ mặt lạnh lùng .. làm chị thấy .. tự ái ghê gớm luôn …

Một hôm chị đang học thi tú tài, ban đêm ở trường thầy Hai Ngô về, từ đường Nguyễn Huệ đạp xe về tới nhà chị cũng khá xa, vừa tới góc ngã ba hơi tối, xe chị tự nhiên trở chứng, phải dắt bộ về, đường tối chị thấy sợ ma ..

Vừa đi vừa run, vậy mà xui khiến sao gặp anh, đang lái xe đi ngang mặt, tài thật anh nhận ra chị ngay, và de xe ngược lại. Dù đang giận, nhưng chị cũng để anh giúp, đem xe về nhà. Trên đường về anh không nói, chị cũng không …(đang hờn mát mà).

Gần tới nhà, Anh quay qua nhẹ giọng hỏi chị :… ” sao em ghét tôi quá thế?? ”.

… Bị hỏi thình lình, Chị ấm ớ: ”Tôi có ghét anh đâu?.”

Anh nhìn vào mắt chị, (trời ạ, tối thui, sao mắt anh ấy sáng thế, xanh biếc như hai vì sao …) ... “thế sao em vẫn muốn tôi khóc, để em cười … ?”

Tự nhiên chị thấy lúng túng, …. May quá tới nhà rồi, chị cảm ơn, rồi vội vã xuống xe vào nhà, để anh ngẩn ngơ nhìn theo ….

Đêm ấy lạ ghê, không ngủ được, chị cứ thấy đôi mắt như hai ánh sao của anh chập chờn trước mặt, lần đầu tiên chị mất ngủ về một chàng trai …

Sáng ra, trước khi đi học chị có ý chờ xem có gặp anh không, nhưng không gặp, đến giờ, chị phải đi học thôi. Chiều về chị cũng không gặp. Ba chị nói, anh về nước có chuyện gấp.

Mấy ngày anh không có ở nhà, chị như người mất hồn, chị cứ ra vô, ăn ngủ không yên …Lạ nhỉ, sao tâm trạng mình bất ổn như vậy ??

Đến khi anh về, vừa thấy anh bước vô từ cửa, chị mừng như bắt được vàng, ánh mắt long lanh, chị cười nói huyên thuyên. Anh bỏ va li xuống, rạng rỡ nhìn chị, âu yếm lắng nghe, và cuối cùng hỏi chị một câu …:

”Em nhớ tôi lắm hả ??? …“

Câu hỏi bất ngờ, làm chị khựng lại mấy giây, đỏ mặt … như ăn trộm bị bắt quả tang. Xấu hổ quá, (sao anh ta có thể đọc được ý nghĩ của mình thế nhỉ ??? …), chị vờ có việc … kiếm cớ bỏ đi.

Sinh nhật 17 tuổi của chị, chị mời bạn bè tới nhà chơi, một đám choai choai con nít, nói cười ầm ỉ.. Tới tối tiệc tan, lúc về phòng ở lầu hai, chị thấy anh đứng đó, trong bóng tối, chìa ra cho chị một bó hoa hồng, rồi anh bỏ đi.

Ôm bó hoa, chị hồi hộp… Về phòng, cả đêm chị cứ ngắm bó hoa, từng cánh nhung mềm mại, đẹp ơi là đẹp, mở ra, trong cánh thiệp mỏng có bức thư ngắn kèm theo:

“Em của tôi.

Lần đầu gặp, em đẹp như một bức tranh,

Lần thứ hai gặp, em tinh quái như một con mèo,

Lần thứ ba gặp, con mèo đánh cắp trái tim tôi...
Bây giờ, tôi bắt đền …em để trái tim tôi ở đâu ???

Tôi muốn xin em trả lại …!”

Trời đất! phải làm sao đây, đọc xong bức thư, chị tái mặt … lại cả đêm trằn trọc, sáng ra chị không dám ra khỏi phòng, lỡ gặp anh chàng thì biết ăn nói làm sao ..?? ...

Mối tình của chị bắt đầu như vậy, dễ thương, nhẹ nhàng.

Năm ấy, chị thi tú tài IBM lần đầu ở Qui nhơn. Tràn đầy tự tin, chị xúc tiến thủ tục đi du học …

Nhưng một sáng đầu năm 75, Anh đi SG họp khẩn cấp và không trở về … toàn bộ nhân viên Ngoại giao Mỹ được lệnh rút khỏi VN. Anh gọi điện thoại cho Ba chị. Xin Ông đưa cả gia đình đi, anh sẽ sắp xếp chuyến bay, nhưng ba chị không chịu.

Anh lại xin Ba chị cho cưới chị để đưa chị theo, nhưng ba chị cũng không chịu, đời nào ông để con gái ông lấy Mỹ ?.

Những chi tiết này chị không hề hay biết, thấp thỏm chờ, và lòng chị có ý trách, sao anh nỡ bỏ đi không một lời từ giã …

Biến cố tháng 4/75 ập tới. Ba chị đi tù (Là nhân viên cao cấp Bộ ngoại giao), nhà cửa toàn bộ bị tịch biên hết, giấc mộng du học của chị vỡ tan.

Cả gia đình chị tan tác như chiếc lá rơi rụng cuối mùa, chị buồn đau một thời gian dài …

Rồi chị cũng gượng dậy giúp mẹ bôn ba, buôn bán nuôi đàn em dại. Và chị lấy chồng, hai vợ chồng tương đối hạnh phúc, nhưng lại gặp phải mẹ chồng khắc nghiệt, nên làm chị kiệt quệ tinh thần lẫn thể xác. Chị thất vọng về chồng mình, vì thấy anh rất sợ mẹ, không giúp gì được cho chị, dù bụng mang dạ chửa, chị cũng phải quần quật không khác gì con ở, nên với chồng chị có phần oán trách, và tình cảm chị dành cho chồng, do đó phai nhạt ít nhiều.

Đứa con gái ra đời, cũng không cứu vãn được vấn đề. Mẹ chồng lúc nào cũng chì chiết, hà khắc, chị cô đơn trong gia đình chồng, đến nổi có lần chị xin chồng ly dị, vì thấy mình khổ quá không chịu nỗi. Nhưng rồi … chị phát giác mình mang thai đứa con thứ hai ..

Đành vậy, có những lúc buồn, chị ôm con mà nhớ quay quắt về anh, với những thương yêu cũ, sau này chị đã biết rõ câu chuyện do ba chị trước khi đi tù, đã kể lại với giọng ân hận … ” …. Biết vậy Ba gả con cho nó ..”

Khi chị biết anh đã tìm đủ mọi cách có thể để đưa chị đi. Nhưng tình trạng hỗn loạn lúc đó, anh không làm sao hơn được, chị tin chắc anh cũng đau lòng như chị, khi phải đành phải xa nhau …và chị chấp nhận số phận, không còn oán trách anh nữa.

Sau đó không lâu, có một người lạ mặt tới đưa cho má chị ít tiền và địa chỉ & số điện thoại của anh bên Mỹ. Chị cầm đọc, mà hai hàng nước mắt chảy dài, chẵng biết để làm gì, nhưng chị vẫn cất kỹ số điện thoại và địa chỉ của anh, để thỉnh thoảng lấy ra nhìn, mà buồn vời vợi …

Mang thai lần này chị yếu hẳn, thai 7 tháng mà bụng chị nhỏ xíu, chị gầy, khô như que cũi, nhìn vô gương chị không nhận ra mình, đứa con gái xinh đẹp, nhí nhảnh, năng động năm xưa đâu rồi nhỉ ?.

Thình lình, một tối chồng chị về, mẹ con rầm rì to nhỏ, có chuyến đi vượt biên. Mẹ chồng muốn mẹ con chị ở lại, để chồng chị đi một mình. Nhưng anh không chịu, đi thì phải đi cùng, lần đầu tiên chị thấy anh cương quyết, cuối cùng mẹ chồng nhượng bộ. Vậy là vợ chồng, con cái chị, dắt díu nhau ra khơi.

Tàu gặp bão, giông tố tưởng đã nhấn chìm con tàu mấy lượt, vậy mà trời thương, may sao chiếc tàu rách nát vẫn còn tiếp tục chạy. Nhưng mấy hôm sau nữa thì máy hư, hết nước, hết thức ăn, lênh đênh vô định trên biển …

Môi nứt nẻ, rướm máu, sức làn lực kiệt. Mấy lần chị hôn mê tưởng chừng không bao giờ tỉnh lại, trong cơn mộng mị, chị thấy mình về lại ngày mới lớn, vui tươi, nhí nhảnh bên anh, những ngày lãng mạn, tươi đẹp, nhuộm xanh cả bầu trời.

Hình như giấc mơ đã giúp cho chị thêm chút sức lực, và trời thương, đã có lúc chị thấy mình mở mắt, để thấy đứa con gái bé bõng ngủ vùi trong lòng mình, và đứa con trong bụng có lúc quẫy đạp.

Có lẽ nhờ đó, mà ý chí phải sống trong chị trỗi dậy mạnh mẽ, nhưng tới lúc gặp được tàu cứu thì chị một lần nữa chìm sâu vào hôn mê …

Không biết bao lâu, khi chị tỉnh dậy, thấy mình đang nằm trong bệnh xá xa lạ, tâm trí hoang mang, mơ hồ, chị hỏi đây là đâu ? Qua người y tá bản xứ, chị biết đây là một đảo thuộc Mã lai .

Biết mình đã tới bến tự do, nhưng quá yếu, chị lại hôn mê, trước khi ngất, không hiểu sao trong tiềm thức, như một lời trăn trối, chị rút cái địa chỉ, giấu trong lai áo, đưa cho cô y tá, nhờ đánh giùm điện tín cho người này, nói chị đang ở đây.

Qua hôm sau, trong cơn thập tử nhất sinh, cái thai có triệu chứng sinh non, mà chị lại quá yếu, Bác sĩ đang lo lắng, không biết có cứu nỗi cả mẹ lẫn con không ? ..

Trong cơn mê, chị nghe tiếng khóc của chồng, và cảm giác hơi ấm bàn tay nhỏ nhắn của đứa con gái bé bõng vuốt ve trên mặt, chị như được được hồi sinh lần nữa …

Bác sĩ quyết định mổ.

Như cơn gió lốc..

Anh của những ngày tháng cũ, vẫn cao gầy, dáng thư sinh, tuy khuôn mặt bơ phờ, mái tóc nâu rối bời, và cặp mắt xanh lơ, giờ đã không còn sáng như hai vì sao nữa, bởi từ lúc nhận được điện tín, liên lạc được với Liên hiệp quốc để xác minh, anh đã không hề chợp mắt ...

Chuyến bay tốc hành đã đưa anh tới đảo nhỏ này, và giờ đây, đứng nhìn chị bé bỏng, hôn mê trên giường bệnh.

Trước khi đi qua đây, trong đầu anh không hề nghĩ tới chị đã có chồng, con, và một đứa nữa sắp chào đời …

Đứng đó nhìn chị, anh đau đớn, xót xa, đầu óc Anh tràn đầy xúc động, anh véo tay mình mấy lần, để biết chắc, đây không phải là một giấc mơ.

Khoảnh khắc, đau đớn, ngỡ ngàng rồi cũng qua đi, Anh thảo luận với bác sĩ, nói chuyện với chồng chị, giới thiệu sơ về mình, và anh khẩn cấp liên lạc bệnh viện lớn nhờ giúp đỡ.

Ngay ngày hôm đó chị được trực thăng, chuyển về bệnh viện lớn ở thủ đô Kuala Lumpur, với sự chăm sóc đầy đủ nhất Chị được cứu sống, cả mẹ lẫn con.

Biết chị đã vượt qua cơn nguy hiểm, lòng anh rộn rã. Đứng bên ngoài phòng, nhìn đứa bé gái sinh non, lớn hơn con mèo một chút, ngo ngoe trong lồng kính, cảm giác tràn ngập thương yêu như chính con mình. Anh ngỏ lời với chồng chị, xin làm cha đỡ đầu của đứa bé ...

Trước hôm về lại Mỹ, Anh & Chị lần đầu nói chuyện trực tiếp với nhau ở bệnh viện, khi chị đã tỉnh táo. Bên giường bệnh, nhìn chị, ốm xanh như chiếc lá. Ánh mắt yêu thương, anh như ngàn lời muốn nói, nhưng anh biết, có rất nhiều điều cần phải giữ lại cho riêng mình.

Chị nhìn anh cảm kích ?, biết ơn ?. Những thứ này có nghĩa gì với những điều chị đang chất chứa trong lòng. Nhưng cũng như anh, chị biết mình không thể nói, hay biểu lộ ra những gì mình đang nghĩ … , tự nhủ lòng … phải quên thôi … !

Ánh mắt nhìn nhau thăm thẳm như biển sâu, chị chỉ nói được một câu ” Em xin lỗi …..”

Có những niềm riêng một đời giấu kín ..
Như như rong rêu chìm đắm trong biển khơi
Có những niềm riêng một đời câm nín
Nên khi xuôi tay còn chút ngậm ngùi …

Trước lúc chia tay, anh trao riêng cho chồng chị một phong bì, bên trong có một xấp tiền mặt (USD). Chồng chị tự ái, không nhận, nhưng Anh cứ bắt chồng chị phải nhận, anh nói:

“Cứ coi như tôi cho mượn, sau này, anh có thì trả lại cho tôi …”

Bốn tháng sau, giữa năm 1980 gia đình chị chính thức định cư ở San Jose, California USA …

Thời gian qua nhanh, hai năm sau đó, chị có thêm một thằng cu Tí ra đời, nhìn ba đứa con, ngày mỗi lớn. Chị giờ đã bình thản hơn, sóng gió trong lòng đã dịu đi nhiều.

Mỗi năm đến ngày lễ lớn, hay sinh nhật của từng đứa con chị , Anh đều gửi thiệp, gửi quà. Nhưng hai bên không ai nói chuyện trực tiếp, chị thấy vậy cũng tốt, thôi thì … cố coi như “.. chỉ là giấc mơ qua”.. !

Hai vợ chồng chị đều đi học lại, có nghề nghiệp ổn định và đời sống kinh tế vững vàng. Món tiền 3 ngàn dollars năm xưa, chồng chị gởi trả lại cho Anh sau 3 năm tới Mỹ ..

… Nợ tiền đã trả được … nhưng nợ tình thì sao ??.

Có một điều làm chị bứt rứt là anh không lấy vợ, 40 tuổi anh vẫn sống độc thân …công việc của anh đi nhiều, và anh lấy công việc, bận rộn làm vui ...

Mẹ anh thỉnh thoảng nói chuyện với chị qua điện thoại Bà thương chị như con, dù chưa bao giờ gặp, tuy nhiên bà biết mặt chị, qua tấm ảnh trong phòng anh.

Những gì bà ấy nói, thường làm chị buốt nhói trái tim, làm chị cảm động đến khóc được, và qua bà, chị biết được toàn bộ cuộc sống của anh …

Hai người đàn bà, cùng nắm giữ trái tim một người đàn ông. Chị gọi bà bằng Mẹ, các con chị gọi bà là bà Ngoại (Grandma).

Một chiều mùa thu, Bà gọi cho chị biết Anh đang ốm nặng.

Chị muốn đi thăm lắm... nhưng vì công việc làm không thể nghỉ, hơn nữa có những lý do tế nhị, chị không đi được. Chị chỉ có thể gởi một bình hoa thật đẹp vào bệnh viện cho anh.

Hôm biết anh xuất viện, chị gọi điện thăm, nhưng anh còn yếu, chưa nói chuyện được. Mẹ anh, vừa khóc, vừa nói vớí chị:

Con biết không ? Họ hàng, bạn bè, đồng nghiệp gửi hoa tới bệnh viện rất nhiều... nhưng cho đến lúc xuất viện, ngồi trên xe lăn, còn rất yếu, mà nó chỉ ôm khư khư bình hoa của con, đem về nhà, để bên đầu giường”

Chị khóc !

Hai năm sau đang giờ làm việc mẹ anh gọi báo tin anh hấp hối, cuộc giải phẫu tim không thành công.

Chị bỏ hết công việc lên thăm anh lần cuối, đi cùng chị có con bé giữa, đứa bé năm nào nhờ anh mà được sống sót …

Nhìn anh thoi thóp trên giường bệnh, chị khóc như chưa bao giờ được khóc, lần đầu cũng là lần cuối, chị khóc thương cho tình yêu của Anh và của chị. Khóc thương cho người đàn ông, đã yêu chị bằng một tình yêu bền bỉ, không bao giờ ngưng nghỉ, chưa hề đòi hỏi ở chị một đều gì ..!

Trong một lúc hiếm hoi, tỉnh táo, anh bình thản, nhìn chị với ánh mắt tràn ngập thương yêu … Anh cười, bảo chị đừng buồn, đời sống có sinh, có tử. Anh cám ơn thượng đế, đã cho anh gặp và yêu chị. Chị đau đớn nghẹn lời, cũng chỉ nói được một câu ” Em xin lỗi ..”

Ánh mắt xanh lơ, cái nhìn đằm thắm, anh thu hết tàn lực nói với chị rằng:

Nếu có kiếp sau, em đừng nói câu xin lỗi ...”

Đám tang anh vào một ngày đầu mùa Đông ….. buồn. Anh ra đi ở tuổi 46 tuổi.

Chị trở về cuộc sống thường ngày, thế gian này từ nay thiếu vắng anh … nhưng trong lòng chị, anh vẫn có một chỗ …. đặc biệt dành riêng.

Ba tháng sau đám tang anh, chị nhận được thư mời của luật sư, sẵn dịp chị bay lên thăm mẹ anh, bà đã già đi nhiều sau cái chết của con trai.

Hôm mở di chúc của anh, chị mới biết, cả ba đứa con chị, đều có phần trong tài sản của anh để lại, số tiền không nhiều, nhưng dư đủ cho cả ba đứa, vào học những trường đại học danh tiếng nhất.

Chiều tàn, bên ngôi mộ anh, chị lặng lẽ thầm thì những lời thương yêu mà lúc anh còn sống, chị đã không thể nói.

Theo gió chị gửi tới anh, những lời của một tình yêu, mà chị biết, kiếp này và… cho tới kiếp sau chị vẫn ao ước được có, cũng như được gặp lại.

Văng vẳng bên tai chị nghe có tiếng anh thì thầm “Nếu có kiếp sau, xin em đừng nói câu “Xin lỗi”….


https://www.facebook.com/photo.php?fbid=589486998091611&set=gm.1783703311667772&type=3&theater

BachMa
03-02-2019, 07:51 PM
Bên Những Bờ Rừng
Phan Minh

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1548730625-BenNhungBoRung_01.jpg
Nhân vội vã bước lên tàu, bên cạnh những hành khách rời cao nguyên đất đỏ leiku, trên chuyến bay C 47 chiều cuối tuần, bên cạnh anh là một cô gái Huế, cô hay nhìn lên bộ áo bay đã ngả màu của anh. Trên hàng ghế dựa hai bên thân tàu, mọi người ai nấy đã vào ghế ngồi, và thắt giây an toàn, con tàu tiến dần ra phi đạo.

Nhân nhìn đồng hồ, như một thói quen mỗi lần tàu cất cánh. Cô gái hỏi anh trong tiếng ồn của máy bay đang bắt đầu tăng tốc độ để cất cánh, chàng không nghe rõ câu hỏi, nhưng nhìn theo cử chỉ của cô gái, chàng trả lời: " 3 giờ 02 phút thưa cô".

Con tàu cố gắng vươn lên để lấy cao độ, hành khách bị lôi theo độ dốc của con tàu, mái tóc thề của cô gái bị gió đưa về phiá sau, che một phần áo bay đã bạc màu của chàng, trông thật dễ thương. Chàng để yên và ngửi thấy mùi thật êm dịu của tóc nàng. Cô gái quay lại xin lỗi, với vẻ thẹn thùng. Nhân mở đầu câu chuyện trong tiếng ồn của máy bay đang rền ở bên ngoài.

- Cô về đâu? ...

Cô gái đáp ngay như đã sẵn sàng từ lâu:

- Dạ em về Huế, thế còn anh?...

Tiếng cô gái thật tươi vui, Nhân nhìn kỹ hơn qua vai nàng, đôi mắt tròn với hàng lông mi đen dài, sóng mủi thon và đặc biệt làn môi như những quả đào đang mùa.

Nhân trả lời:

- Tôi cũng về Huế, nhưng chắc là không còn xe để ra Huế, khi tàu về đến Ðà Nẵng chiều nay.
Nàng trả lời nho nhỏ:

- Dạ ...


***

Nhân nhìn ra bên ngoài - nghĩ ngợi mông lung. Chàng nghĩ về những ngày ra Pleiku, nơi vùng đất đỏ, có đồi Cù-Hanh, có con phố nhỏ thật dịu hiền. Những chiều trong cơn lạnh của núi đồi cao nguyên, chúng bạn của Nhân thường hay ra phố, để tìm vui bên ly cà phê đen của quán "Dinh Ðiền", hay đi bách bộ trên con đường dốc đỏ, nhìn theo bóng của các cô gái vùng Tây Nguyên đang tha thướt với những chiếc áo dài.

Nhân nghĩ về mấy tháng trước hồi còn ở Cần Thơ, phi trường Bình Thủy, nơi chàng đã sống bốn năm, bên dòng sông Hậu, với bao nhiêu vui buồn, với những chuyến bay đêm, những sớm mai bay dọc theo những hàng dừa xanh hai bên bờ kinh, băng qua những cánh đồng lúa. Nhân và các bạn của chàng thường cất cánh khi mọi người đang còn ngủ yên, để đến những điểm hẹn, trước lúc bình minh. Rồi những ngày ghé lại Tô Châu, Hà Tiên, bay dọc theo con kinh Vĩnh Tế. Có lúc ghé về Cà Mau, U-Minh nơi những đầm đầy những cây tràm, cây đước.

Có một lần chàng đã thả toán tại mủi Cà Mau; phần đất cuối cùng của dải đất hình chử "S". Từ trên trời cao nhìn xuống một màu xanh tươi của vùng đồng bằng với những làn sương mai đang còn lảng vảng trên mặt đất.

Trong khung cảnh thanh bình đó, cũng đang ẩn dấu những trận chiến khốc liệt, và bao người tranh nhau từng tất đất chiếm ngự.

Chợt cô gái quay lại hỏi:

-Anh đang nghĩ gì mà có vẽ đăm chiêu như thế?

Cô ta đang chăm chăm nhìn vào khuôn mặt thiếu vắng nụ cười của Nhân, chàng trả lời:

-Tôi đang nghĩ về những ngày ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Chàng và cô gái thật ngượng ngùng khi chưa biết được tên nhau, rồi chàng lên tiếng:

-Tôi tên Nhân, thế còn tên cô?

Cô gái có phần dạn dĩ hơn.

-Dạ em tên Hoá...

Nàng nói tên mình một cách rất tự nhiên và đang theo dõi người đối diện. Có lúc nàng bắt gặp ánh mắt của Nhân nhìn nàng, Hoá tỏ vẻ thẹn thùng, rồi cả hai bắt đầu những mẩu chuyện về mình, Hoá hỏi:

-Anh Nhân mới ra Pleiku?

Chàng trả lời trong niềm luyến tiếc:

-Vâng tôi ra Pleiku đã 3 tháng!... Thế còn Hoá?

Hoá cho biết nàng có người anh là một sĩ quan ngành Quân Cảnh Tư Pháp (QCTP), đang đóng tại Pleiku, anh Trương Hữu Lạc trưởng phòng QCTP Pleiku, Hoá nói:

-Em ghé thăm anh chị của em, và ở chơi với họ hơn một tháng; sau khi tan trường ở Huế.

Nhân cũng là học sinh của Huế, sau ngày Mậu Thân, chàng tình nguyện vào Quân chủng Không Quân để trở thành một Phi Công.Hoá đã bắt đầu dạn dĩ hơn, và câu chuyện mỗi lúc một vui hơn, rồi nàng quay qua hỏi Nhân:

-Anh Nhân có thường về thăm Huế không?

Nhân lắc đầu không nói, chàng nhớ ra mình đã ít về Huế, hầu như mỗi năm chỉ một lần. Chàng đã về Huế trước khi thuyên chuyễn lên Pleiku, lần này với lý do đặc biệt nên chàng lại được ghé thăm nhà 15 ngày trước khi trở lại đơn vị.


***

Trong tiếng ồn của con tàu chiều nay, Nhân im lặng nghĩ về một chuyến bay hai tuần trước đây (vào trung tuần tháng 6 năm 1974). Ngày đó chàng và Phương, một hoa tiêu về nước sau chàng nhưng đã lên Pleiku sau ngày về nước, còn chàng thì về trình diện Vùng IV, phục vụ nơi vùng đồng bằng sông Cửu Long. Số giờ bay của chàng trội hơn Phương, nhưng vì mới ra vùng cao nguyên nên Nhân phải ngồi ghế hoa tiêu phụ. Khi bay, Phương ngồi ghế hoa tiêu chính. Phương đã dí dỏm nói với Nhân khi ngồi vào ghế lái:

-Anh hôm nay là IP (huấn luyện viên) của Phương đấy nhé.

Nhân mỉm cười, vì ghế trái dành cho những IP (Instructor Pilot) của ngày nào tại các trường bay bên Mỹ; mà Phương và chàng đã trải qua trong thời gian huấn luyện hồi 69-70. Hôm ấy Phương và Nhân là phi hành đoàn thứ ba trong phi vụ thả toán. Trời vừa lờ mờ sáng cả đoàn trực thăng bay về đáp tại căn cứ thuộc lực lượng Lôi Hổ cạnh Biển Hồ trên đường đi Chu Pao. Trông nét mặt mọi người, ai nấy đều rất nghiêm trọng, vì tình hình hai toán Lôi Hổ vào lòng địch trước đây đã bị bắt, toán thứ ba vừa hoàn thành nhiệm vụ, thì bị phát giác, và đang trốn quanh căn cứ của Bộ Tư Lệnh tiền phương của địch; nằm sát biên giới Việt Lào.

Phương và Nhân vào phòng hành quân để tham dự buổi thuyết trình của sĩ quan quân báo. Ai nấy đều im lặng, vì sứ mạng hôm nay là bằng mọi giá phải bốc cho được toán thám sát thứ ba này. Toán sáu người này, sáng nay đã liên lạc về cho biết là họ đã hoàn thành nhiệm vụ, nhưng suốt đêm qua đã phải ẩn náu quanh các trại của địch quân tiếp cận biên giới.


***

Những tháng cuối năm 1971, Nhân đã có dịp bay những phi vụ với các toán Lôi Hổ từ căn cứ B-15 tại Quãng Lợi. Họ được đưa lên phi trường Lộc Ninh, để thả xuống vùng tiếp cận biên giới Việt Miên. Ðây là lần đầu Út và Nhân tham dự vào việc thả toán. Út, một người đàn anh về phi đoàn trước chàng, trước đó Út và Nhân đã cùng bay với hợp đoàn của Mỹ, cho nên hai người không thấy có gì nghiêm trọng cả. Họ từng bay chung với một hoả lực hùng hậu, có hai chiếc Cobra, và hợp đoàn hai chiếc UH-1, với một OH-6 mà chàng thường gọi là máy bay hột vịt, đây là một loại máy bay rất hữu dụng trong môi trường, vừa có thể oanh kích và bắt sống.

Trên vòm trời lúc ấy, còn có một máy bay điều động C&C và một máy bay thám thính L-19 để đánh trái khói. Út và Nhân thường băng qua biên giới để vào vùng Chipu phiá Bắc của Lộc Ninh hơn 60 dặm. Nhân chẳøng thấy có một chút e ngại nào, có lẽ vì "điếc nên không sợ súng chăng" ?... Bây giờ Út đã ra đi, còn Nhân thuyên chuyển ra Pleiku.

Tuần trước tại căn cứ Lực Lượng Ðặc Biệt này, Nhân đã được một anh em biệt kích cho chiếc áo tránh miểng lựu đạn, và chỉ cách lấy bột của lựu đạn cay, bỏ vào hộp đựng phim để phòng hờ cho việc mưu sinh. Hôm nay trở lại người anh em trong toán trinh sát đó vẫn còn đây, và đang chờ đợi cho chuyến nhảy toán kế tiếp. Những người lính thám sát này rất trẻ và vào lứa tuổi của em trai chàng. Trong khi những bạn đồng trang lứa với họ, đang vui sống phè phởn trong các đô thị, còn họ thì lặn lội trong chốn rừng đầy hiểm nguy, và không có dịp để nghĩ về tương lai của chính mình. Họ là những người lính âm thầm hoạt động trong những rừng sâu núi thẳm. Sau vài chuyến nhảy toán, họ được về thành phố sống vội, rồi trở lại căn trại nhỏ hẹp này để chuẩn bị đi vào lòng đất địch.


***

Hợp đoàn trực thăng cất cánh lên Kontum, chờ đợi phi vụ bay vào vùng biên giới. Ban truyền tin vẫn chưa nhậân được tín hiệu của toán sáu người đang len lỏi trong đám rừng già, nơi địch quân đang trú đóng. Mọi người được lệnh nghĩ để ăn trưa. Vị sĩ quan tiền sát cho biết: "Chắc đến 1 hay 2 giờ nửa mới có kế hoạch bốc, khi toán người này ra đến gần bãi đáp." Cả đoàn rủ nhau ra phố để dùng cơm trưa, sau đó Phương rủ anh em vào một quán nước nghèo nàn bên góc phố, uống cà phê để được tỉnh táo.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1548730639-BenNhungBoRung_02.jpg

Hôm ấy Phương tâm sự thật nhiều với Nhân, Phương đã tỏ bày những nỗi niềm của anh từ ngày anh xa vắng Sài Gòn, nơi người bạn gái anh hằng thư từ, và giao du trong những chuyến về phép. Phương nói về một mối tình của một cô nữ sinh, với anh.

Anh cùng cô bạn gái ấy, từng một thuở ở mái trường Ðại Học với nhiều lần hẹn hò. Giờ đây với nghiệp bay trên vai, anh hẹn với người bạn gái ngày anh thuyên chuyển về lại Thủ Ðô. Ngày ấy cũng là lúc em học xong Ðại Học Sư Phạm. Họ đã ước hẹn một tương lai thật đẹp với nhau. Lúc ấy, nàng đi dạy học và chàng quay về với nàng sau mỗi chuyến bay.

Họ sẽ sống với nhau đầm ấm bên các con của họ. Ðó cũng chính là những hình ảnh Phương và người bạn gái từng mong đợi. Họ sẽ thực hiện được ước mơ này, trong chuyến đổi về Sài Gòn vào dịp cuối năm này của Phương. Trong phi đoàn, Phương là người có một vóc dáng rất thư sinh, khuôn mặt với nước da trắng và nụ cười trên môi, anh được bạn bè quí mến, và tâm hồn luôn nghĩ về những niềm ước mơ của một nếp sống hạnh phúc thanh nhàn.

Hôm nay Phương và Nhân nhận lãnh phi vụ bay vào lòng địch để bốc toán thám sát sáu người. Ðáng lý ra, người bay chiếc số hai của phi vụ này là Huyên, nhưng hồi 1 giờ trưa Huyên đã nhận lệnh cất cánh đi tiếp tế tại một tiền đồn gần biên giới phía Tây Bắc Kontum. Phương và Nhân cùng xem lại các dụng cụ phi hành đem theo: chiếc bản đồ có đánh dấu toạ độ, và chiếc radio cấp cứu.

Tuần trước Nhân tìm cách đổi chiếc radio của mình, vì chỉ chiếc radio cũ chỉ có phát, nhưng không nghe được tín hiệu. Phòng Tiếp Liệu Cấp Cứu Phi Hành không có radio khác để thay thế, nên anh đã tiếp tục đi bay với radio không nhận được tín hiệu Ðúng 3 giờ chiều, khi sĩ quan tiền sát báo cáo là, đã nhận được tin tức toán trinh sát đang trên đường tiến về phiá mục tiêu.

Nhân cất cánh rời phi trường Kontum. Trên vòm trời ngoài chiếc C&C của Ðại Úy Hoàng, còn có chiếc U-17 của sĩ quan tiền sát, hai chiếc GunShip, chiếc slick của Trung Úy Minh và Tuấn đi lead, chiếc của Phương và Nhân đi số hai. Nhân rời phi trường Kontum được 15 phút, bay về hướng biên giới Việt Lào, phiá Bắc của tiền đồn Charlie nơi Tr/tá Nguyễn Ðình Bảo đã ở lại vào mùa hè đỏ lửøa 1972.

Nhân tiến sâu vào những vùng núi cao của dãy Trường Sơn, bên dưới phi cơ là những khu rừng dày đặc. Lâu lâu chàng thoáng thấy vài cánh chim đang bay lượn trên vòm trời hoang vắng này. Nhân đang tiến dần đến tọa độ điểm hẹn, tiếng của Ðại Úy Hoàng gọi trong vô tuyến:

-Số hai, vị trí bãi đáp bên phải của anh.

Nhân trả lời:

-Số hai, nghe năm.

Phương bảo Nhân: "Tôi thấy dấu trái khói trên bãi đáp bên phải của tôi, bác để tôi đáp cho...", Nhân trao cần lái cho Phương.

Khi con tàu đang hạ dần cao độ, Nhân nghe tiếng đạn AK-47 từ phiá dưới đất bắn lên, Phương báo cáo:

-Có ground fire!...

Bên kia vô tuyến Ð/uý Hoàng đáp lại:

-Số hai, có sao không?... Vào đáp đi!

Phương trả lời:

-Số hai, không sao. ... Nhận lệnh vào đáp.

Tiếng đạn bắn lên đã ngưng, con tàu tiếp tục tiến về hướng trái khói, và giảm dần tốc độ. Bãi đáp là một mảnh đất trống nằm lọt trong những rừng cây trên triền núi cao. Nhân thấy thêm một trái khói nữa vừa tung ra trên bãi đáp, và lố nhố những người lính thám sát đang đứng cạnh một thân cây mục giữa Bãi đáp. Trong suốt đoạn đường vào bãi đáp thật yên tĩnh, một thứ yên tĩnh rất đáng lo , vì lực lượng địch quân đang trú đóng quanh đây, và nơi này cũng là nơi gần bộ chỉ huy của họ.

Con tàu chưa chạm đất hẳn, sáu người lính Lôi Hổ vội vàng nhảy lên. Phương đang giữ tàu ở vị thế Hovering, và tiếp tục cất cánh. Nhân quan sát các đồng hồ, xong nhìn lên những thân cây cao trước con tàu. Ðấy là những thân cây cao chừng 30 mét , con tàu cố gắng ngoi lên khỏi đọt cây trong tư thế nhấc thẳng vội vã, Nhân vừa thở xoà khi vừa ra được khỏi bãi đáp.

Cùng lúc đó, có tiếng nổ chát chúa của đạn phòng không đang bắn trực xạ vào tàu, chàng nghe những tiếng bốp bốp bên phiá của Phương ngồi. Nhân thấy một lổ hổng thật lớn nơi cửa kính trước mặt của Phương, con tàu như khựng lại.

Chàng nhìn thấy Phương đã buông cần lái và đầu cúi gục xuống. Nhân chụp vào cần lái như một phản ứng tự nhiên, chàng cố kéo cần lái để nâng mũi chiếc tàu lên. Con tàu không còn sức nâng, cần Collective và Cyclic cứng ngắc. Hệ thống Hydraulic chắc đã bị trúng đạn!... Con tàu tiếp tục lao xuống, Nhân cố kéo cần lái để bình phi. Hệ thống thủy điều đã bị phá vở nên cần lái trở nên nặng nề và rất khó điều khiển. Sau khi bình phi được rồi, con tàu lại đâm đầu xuống.

Mọi người trên tàu nhốn nháo, ai nấy đều ở trong trạng thái kinh hoàng.

Một thoáng suy nghĩ qua nhanh, Nhân cố gắng đưa con tàu áp vào núi, bề mặt vòng cánh quạt song song với độ dốc của núi. Con tàu cứ thế lao tới, và trước mặt là một thân cây to cao.

Hai cánh quạt chính chặt vào cây, cánh quạt trước đã nổ tan tành, thân tàu đã xen vào thân cây. Càng đáp bên trái vừa chạm đất, thân tàu bên ghế phải của Phương gác tựa vào thân cây, đồng thời là tiếng hú của máy thật lớn!...

Sáu anh Lôi Hổ vội vàng nhảy ra khỏi tàu, kéo cả Ðại (Cơ phi) và Tài (Xạ thủ) theo họ. Phương vẫn ngồi gục đầu trên ghế bay, Nhân tiếp tục lo tắt máy để hy vọng tắt đi tiếng ồn.

Chàng tắt nút xăng và mọi nút khác bật vào vị trí OFF, nhưng tiếng máy vẫn hú vang cả một vùng rừng, nghe ghê rợn như một con thú bị cắt tiết.

Nhân nhìn qua Phương một lần nữa, rồi chàng tháo nịt an toàn bước ra phiá sau, kéo theo cái túi bay. Từ phiá đằng sau ghế ngồi của Phương, chàng chồm lên phía trước Phương, cố gắng tháo dây nịt an toàn cho người bạn của mình. Nhân dùng hai tay xốc nách Phương và rán hết sức để kéo Phương ra, sau mấy lần cố gắng, nhưng không làm sao nhấc Phương ra khỏi chiếc ghế bay được.

Nhân nhìn quanh để tìm người giúp, nhưng chung quanh chỉ còn lại mỗi mình chàng. Hai người cơ phi và xạ thủ cũng đã vội vàng đi theo các anh Lôi Hổ. Nhân đành bó tay, và có ý nghĩ rằng chính Phương đã không muốn chàng liên lụy trong hoàn cảnh gian nguy này.

Nhân nhìn lại Phương lần cuối, rồi quyết định lui bước ra phiá cửa sau để ra khỏi tàu!...

Khi đã ra khỏi tàu, Nhân quan sát kỹ tình trạng của con tàu, chiếc cánh quạt đuôi vẫn còn đang quay tít. Một cành cây đã đập vào phần sau máy cạnh ống khói, có lẽ đó là lý do tại sao tàu không tắt máy được. Nhìn ra bờ rừng thì cây cối dày đặc, tầm nhìn không quá 10 mét. Nhân lần bước tiến lên tìm một lối đi, chợt chàng nhìn thấy một cây súng cá nhân AR-15 không có đạn. Ai đó đã bỏ lại trên lối đi, Nhân cũng không màng lượm lên. Ði được một khoảng thời gian, cái túi bay trên tay chàng trở nên nặng nề, vì trong túi bay Nhân đã để dây nịt, dao, cây súng cá nhân P-38, cùng nón bay.

Ðể khỏi vướng bận chàng chỉ lấy ra chiếc radio rồi dấu chiếc túi bên lối đi, như trút đi một gánh nặng. Nhân tiếp tục bước lên dốc núi, với đầu trần và chiếc áo bay Nomex hai mảnh trên người. Càng lúc chàng càng bước xa dần tiếng máy hú bên dưới triền dốc. Nhân cố chen qua đám rừng già, leo lên dốc được một khoảng khá xa. Tiếng hú vẫn còn ở bên dưới chân núi vọng lên.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1548730650-BenNhungBoRung_03.jpg

Chàng len lỏi tiến bước, bỗng thấy trước mặt một khoảng trống thật rộng. Nhân nhận ra một thân cây mục ở giữa trảng, chàng nhớ lại đây chính là bãi đáp mà trước đó hơn 20 phút Nhân đã bốc toán Lôi Hổ. Nhận ra vị trí này, Nhân vội nép mình sau một bụi trúc tương đối rậm, và nhìn ra khoảng trống quan sát. Trên vòm trời có tiếng của chiếc U-17 đang bay trên một độ cao. Chàng chợt nhớ tới cái radio trong túi quần, Nhân lôi nó ra và mở máy liên lạc.

-Mayday, Mayday, Mayday, Lạc-long 389 gọi Thiên-Sứ (danh hiệu của chiếc U-17 trên vòm trời) - Nếu bạn nghe được tiếng của tôi, xin lắc cánh. ...

Nhân lập lại một lần nữa, thì thấy chiếc U-17 lắc cánh. Chàng cởi chiếc áo bay, để cởi chiếc áo lót màu trắng có loang vết máu của Phương văng vào người chàng, lúc Phương bị trúng đạn. Nhân vội mặc lại áo bay, vừa kéo chiếc áo lót trải trên một khoảng trống để cho chiếc U-17 định ra vị trí của chàng trên bãi vừa đáp.

Chiếc U-17 xuống thấp và nhận ra vị trí của chàng. Nhân bắt đầu báo cáo tình trạng của chàng dưới đất:

-Phương đã chết trên ghế lái, và xác còn ở lại trên tàu - Sáu anh Lôi Hổ đã dẫn theo Ðại và Tài, còn chỉ một mình tôi đang nằm cạnh bãi đáp. Khi chàng vừa nói tới đây thì thấy bên kia bờ rừng có bóng bốn người bước ra, Nhân vội thâu lại chiếc áo lót vào ngực, vặn nhỏ máy vô tuyến và gọi chiếc U-17:

-Thiên Sứ, yêu cầu bạn rời khỏi vùng để giữ an ninh cho tôi và các người bên dưới.

Gọi xong Nhân tắt máy, chiếc U-17 nghe điều này, vội vã rời khỏi vùng. Bốn người lạ từ bên kia bờ rừng đang tiến dần ra giữa trảng. Họ chia nhau ngồi trên khúc cây khô, rồi bắt đầu trò chuyện và chờ đợi. Nhân quan sát từng người trong bọn họ, chàng thấy người nào đầu tóc cũng được húi cao như mái tóc của lính tại Bộ Tư Lệnh, cùng với áo vàng quần xanh vải kaki Nam Ðịnh. Trên tay họ đang cầm súng cá nhân AR-15 loại ngắn nòng, dành cho những người lính Lôi Hổ. Nhân tự nhủ:

" Ðám này chính là những người lính Bắc Việt!... " Chàng vội nằm sát xuống đất không động đậy, mắt vẫn theo dõi những bóng người giữa bãi đáp. Không còn nghe tiếng máy bay ở trên trời nữa, bốn người lạ này vẫn ngồi chờ một hồi lâu. Bỗng dưng hai người trong bọn họ đứng dậy, và đi ngược dốc tiến về bờ cây để lùng tìm. Hai người này vừa đi vừa chĩa mũi súng vào các bụi cây, họ đi cặp theo bià của trảng, và dần đi về hướng bụi trúc nơi Nhân đang núp.

Tiếng hú của chiếc máy bay bên dưới đồi vẫn còn vọng lên, nghe thật ghê rợn. Hai người lạ này, càng lúc càng tiến tới gần nơi Nhân ẩn núp. Trong tay của Nhân chỉ có chiếc radio cấp cứu!... Chàng không có vũ khí để tự vệ, thì làm sao để đối phó đây? ... Những ý tưởng vút nhanh trong đầu Nhân:

" Chắc là không còn hy vọng gặp lại gia đình nữa rồi!... Hoặc là bị bắn hay bị bắt như số phận của hai toán lính Lôi Hổ kia!... Có ai ngờ rằng chàng nằm lại nơi bìa rừng này!... Chắc là Mẹ chàng sẽ không còn nước mắt khi nghe hung tin này, ..." Nhân vẫn không quên mỗi lần về phép, Mẹ chàng thường ngồi tựa cửa sổ nhìn ra sân, như chờ đợi bóng dáng đứa con đầu lòng của Mẹ. Ðôi mắt mẹ chàng nhạt nhoà lệ, đã khóc oà lên khi nhìn thấy chàng từ đầu ngõ.

Hai người lính Bắc Việt càng lúc càng tiến gần đến chỗ chàng nằm. Phiá bên kia bụi trúc có tiếng bước chân sột soạt, mỗi lúc một gần. Nhân như điếng cả người, thân thể chàng như dí xuống sát mặt đất, mắt vẫn không rời hai bóng người đang tiến lại gần. Chàng cúi sát mặt xuống nghe ngóng và chờ đợi, bỗng có tiếng từ giữa trảng vọng lên:

-Các đồng chí chờ chúng tôi.

Hai tên lính Bắc Việt quay trở lại trảng phía dưới đồi, để nhập cùng với đồng bọn. Nhân từ từ thở nhẹ, mắt vẫn không rời bốn bóng người đang vội vã hướng về con dốc phía dưới, nơi chiếc UH-1 đang hú lên vì mất đi đôi cánh. Bọn họ không ngờ rằng, vẫn còn có một người đang quan sát họ từng giây, từng phút.


***

Chờ cho bốn người kia đi đã khá xa, chàng đứng dậy và đi ngược lên về phía bên kia đồi. Chàng cảm thấy khát nước, nên với tay kéo các đọt trúc, cắn vào phần non, trắng, của lá tre, nhắp từng giọt nước hiếm hoi trong các đọt tre non này. Một lúc sau, chàng nhắm hướng Ðông-Nam (hướng Kontum) tiếp tục đi. Thuở nhỏ Nhân đã học được từ kinh nghiệm Hướng Ðạo, “dùng vết rêu trên thân cây để định hướng” bây giờ là lúc chàng áp dụng bài học mưu sinh thoát hiểm đường rừng.

Nhân nhớ lại ngày nào tại vùng rừng Savannah bên Mỹ, chàng đã cùng đám bạn học khoá mưu sinh thoát hiểm đường rừng. Kết thúc cuộc thực tập mưu sinh thoát hiểm, mọi người cùng được ăn món cháo rắn do mấy anh Cán bộ đãi, sau một ngày tập dợt mệt nhọc. Rừng ngày đó thưa thớt, tầm mắt có thể thấy xa 50 mét, còn rừng Trường-Sơn thì dày đặc, 10 mét đã không còn thấy lối đi!...

Nhân mò mẫm qua đến được ngọn đồi thứ hai, bỗng chàng nghe nhiều tiếng lựu đạn nổ về phía con tàu. Chàng chẳng biết chuyện gì đang xảy ra cho số phận của Phương?... Nhân lại tiếp tục lội trong đám rừng già. Có những khoảng rừng mây gai góc, Nhân phải tiến bước bằng cách đưa lưng ra phiá trước chịu đựng, để xông qua đám rừng mây phủ khắp lối đi này. Những cây gai hồng trong rừng móc vào mảnh vải Nomex chàng mặc trên người, nhưng chiếc áo bay vẫn dai dẳng chịu đựng như ý chí kiên trì của chàng.

Nhân vừa vượt qua khỏi khu rừng mây, thì thấy ngay trước mặt một bờ rừng thật trống toàn những thân tre. Chàng thấy quá trống trải nếu phải băng qua khu rừng tre này. Nghĩ vậy, Nhân tiếp tục bước cặp theo bờ rừng viền bên ngoài. Bên dưới những gốc tre, không một loại cây con nào có thể mọc, lá tre rụng trắng cả một bìa rừng. trong lúc đang tiến bước Nhân chợt nhận ra một cửa hầm cũ; phủ cây lá um tùm, chàng rụt rè bước qua cửa hầm.


***

Nhân chợt nghe đâu đó có tiếng suối nước chảy. Càng tiến lại gần, chàng nhận thấy những dấu đất đen, dấu vết của một sinh vật nào đó đã chuồi trên các lá tre khô trắng, để lộ ra các lớp đất đen bên dưới. Nhân tiến lên thận trọng hơn, mon men theo những dấu vết này, chàng còn nhận ra có một dấu vết, dường như ai vừa chôn một cái gì đó cạnh bên lối đi, không được khoả lấp kỹ lưỡng. Càng tiến bước, chàng càng nhận ra có nhiều dấu chân ngay hướng trước mặt mình. Bất chợt, chàng nghe có tiếng sạt sạt phía trước, Nhân vội cúi thấp người xuống vừa ẩn núp vừa quan sát. Chàng nhận thấy có nhiều bóng người thấp thoáng phiá trước.

Chàng đếm được tất cả là 7 người, và quan sát những người này từ đầu đến chân. Tất cả bọn họ đầu để tóc dài, và thắt một miếng vải xanh kaki, trên lưng có mang túi ba-lô và nhiều bình biđông nước. Nhìn xuống đất, chàng nhận ra các dấu giày của lính Cộng Hoà, Nhân quyết định nằm rạp xuống, và gọi vọng lên phiá trước:

-Các anh Lôi Hổ ơi, ... Trung Úy Nhân đây, chờ tôi đi với....

Nhân nghe một loạt tiếng đạn lên nòng, những bóng người phía trước chàng đều ngồi xuống trong tư thế sẵn sàng tác xạ, mũi súng hướng về phiá chàng, quơ qua, quơ lại. Nếu họ thấy bất cứ một di động nào, là họ sẽ nổ súng ngay. Nhân nằm sát đất, không động đậy, chờ một giây lát, rồi chàng lại lên tiếng gọi một lần nữa:

-Các anh Lôi Hổ. ... Trung Úy Nhân đây, ... chờ tôi đi với.

Trong rừng tiếng bị dội cho nên họ không định hướng được nơi xuất phát của âm thanh. Hai người đi sau cùng của toán là Ðại và Tài nhận ra tiếng của Nhân, nên Ðại đã la lên:

-Trung Úy Nhân đây rồi, ... Ðừng bắn, đừng bắn...

Lúc ấy Ðại đứng hẳn dậy, trong khi các người khác vẫn ghìm súng hướng về phiá tiếng vọng với tư thế sẵn sàng bóp cò nếu có gì nguy hiểm.

Nhân cất tiếng gọi lần thứ ba, rồi từ từ đứng lên. Ðại và Tài nhận ra Nhân, hai người ùa lại phía chàng và la lên:

-Ðừng bắn, đừng bắn...

Mọi người hú vía, vì trong rừng già, bất cứ một vật gì nghi ngờ lay động, vật này cũng có thể là mục tiêu để mọi người bóp cò. Ðại và Tài còn đeo cây Colt-45 của họ, còn Nhân thì đã để cây súng P-38 của mình trong tuí bay, cái tuí bay này đã nằm lại bên một bìa rừng!....

Trưởng toán Lôi Hổ là một Chuẩn Úy mới ra trường, anh Liêm xuất thân từ trường Sỹ Quan Trừ Bị Thủ Ðức. Gặp Nhân mọi người rất mừng, và tỏ bày ân hận là suýt nữa đã bóp cò. Người Chuẩn Úy trưởng toán còn cho biết đây là chuyến nhảy toán thứ ba của anh từ ngày ra đơn vị, anh lo lắng hỏi Nhân:

-Liệu có ai đến bốc mình không Trung Úy?

Nhân nhìn đồng hồ, đã 5:30 giờ chiều rồi, chàng nói:

-Các anh yên tâm. Ở nhà sẽ tìm cách bốc chúng ta ngay chiều nay.

Nhân nói như một phản ứng tự nhiên, và chàng chẳng biết sự thực sẽ được như vậy hay không?

Người trưởng toán thám sát đưa cho chàng bình bi-đông nước và dặn dò:

-Trung Úy uống từng ngụm nhỏ, và từ từ thôi, nếu không ông sẽ bị ngất xỉu đó. Chàng nhận bình bi-đông nước và làm theo lời của người trưởng toán, chợt Nhân nhớ ra các tiếng nổ lựu đạn, lúc nãy chàng nghe khi còn ở trong rừng, chàng hỏi:

-Sau lúc tàu rớt khoảng 1 tiếng, tôi nghe nhiều tiếng lựu đạn nổ về phía con tàu đang hú. Các anh có nghe thấy các tiếng nổ này không? Người trưởng toán kể lại:

-Ðó là tiếng lựu đạn do tụi em ném. Chúng em được lệnh phải trở lại tàu để tìm bốc Trung Úy, nhưng khi tiến gần tới con tàu, tụi em thấy có bóng bốn người đang đứng cạnh tàu, nên đã tung cả chục trái lựu đạn mini, bởi vậy Trung Úy mới bắt kịp tụi em, chứ không tụi em đã rút ra xa rồi. Nhân buột miệng:

-Thì ra là thế!...

Mọi người tiếp tục di chuyển băng qua một ngọn đồi đầy những giây leo chằng chịt. Cả bọn cũng khá vất vả, và đang dần đi xuống dốc để đi qua một ngọn đồi khác. Chợt mọi người thấy có một con đường mòn trước mặt. Tất cả tìm cách băng qua con đường mòn này, các anh trong toán thám sát chuẩn bị theo lệnh của người trưởng toán, Nhân, Tài và Ðại cùng bám sát theo người Chuẩn Úy trẻ tuổi này. Anh Trung Sĩ nằm núp gần con lộ nhất, từ chỗ núp anh chọi một hòn đá ra giữa đường và chờ đợi.

Mọi người đều im thin thít. Nhân quan sát con lộ, đây là một con đường đất đỏ, do xe Công Binh đã xén núi mở đường, bề ngang con lộ đủ để hai chiếc xe cam-nhông có thể chạy ngược chiều nhau. Một bên bờ vách đất đỏ cao nghệu, còn bên kia là vực núi. Sau vài lần chọi đá dò dẩm mà không thấy một động tĩnh, cả toán bắt đầu rời chỗ núp, cùng leo lên con đường đất đỏ.

Tài và Ðại đi theo người thứ ba và thứ tư leo lên đường, Nhân đi theo người trưởng toán cùng người cận vệ. Anh trưởng toán cùng với Nhân leo lên bờ tường đất trước mặt, hai ngón tay Nhân còn đeo lủng lẳng cái bình bi-đông nước, chàng cố gắng bám vào các rễ cây để leo lên. Leo được 2/3 bức tường đất, Nhân làm tuột mất bình bi-đông nước;!... Chiếc bi đông lăn ra ở giữa lộ, phía sau lưng chàng không còn ai bên dưới cả. Nhân nhìn qua anh trưởng toán, anh ra dấu, đừng bận tâm nữa, Nhân gật đầu hiểu ý và tiếp tục leo lên theo người trưởng toán và anh cận vệ của anh.

Vượt khỏi bờ tường đất xong cả đoàn lại nhắm hướng Ðông-Nam tiến bước. Chưa đầy 10 phút sau cả bọn phải dừng lại vì cơn mưa lớn đang kéo tới. Mọi người chia nhau ngồi dưới các gốc cây để trú mưa, anh trưởng toán cùng ngồi chung với Nhân dưới một gốc cây to. Cơn mưa trút nước xối xả, cả bọn ngồi co quắp lại cho đỡ ướt và đỡ lạnh. Nhân nhìn những giọt nước mưa chảy dài trên các lá cây trước mặt, chàng nghĩ bâng quơ về các chuyện vừa xảy ra trước đó.

Người Chuẩn Úy trưởng toán ngắt điếu thuốc Captain làm hai, trao cho Nhân một nửa và cùng châm lửa hút. Chàng rít một hơi thật dài, như thêm hơi ấm, để chống lại cái rét mướt của núi rừng. Tinh thần chàng cảm thấy sảng khoái, một thứ thú vị mà chàng không thể nào quên. Cơn mưa vẫn dai dẳng trút nước, Nhân co ro tìm hơi ấm qua nửa điếu thuốc được chia sẻ của người bạn đồng hành.

Bỗng dưng có tiếng xe đang chạy bên dưới, người trưởng toán ra dấu hiệu cho cả bọn ngồi im, và cố nép sát vào gốc cây để tìm sự che chắn. Bên dưới có một đoàn xe đang chạy, đoàn xe này bỗng dưng dừng lại. Nhân nghe có tiếng súng AK lên đạn, và tiếng người quát lên vọng về phía bức tường đất nơi còn để lại các vết giày và chiếc bi-đông lăn ra giữa lộ. Bọn chàng ngồi co rút bên các gốc cây và không rời chỗ núp. Có tiếng AK nổ lên hằng loạt trong cơn mưa vẫn nặng hạt.

Ðiếu thuốc đã tàn từ lúc nào trên tay chàng, Nhân ngồi cạnh người trưởng toán, chàng tin tưởng về sự đối phó của toán người trẻ này. Nhân chỉ biết sơ qua trong thời gian thụ huấn quân sự ở trường, và chưa bao giờ đụng trận để có những kinh nghiệm như các bạn trẻ này.

Khi đi rừng họ rất giữ kỷ luật, và rất rành rẽ về bổn phận của mình. Tài và Ðại cũng bám sát theo các bạn đồng hành đầy kinh nghiệm này, trong tay thủ sẳn cây Colt-45 của mình. Mười phút sau có tiếng máy xe rú ga hằng loạt súng bắn lên. Rồi đoàn xe lại tiếp tục lăn bánh, may cho bọn Nhân là bọn chúng không leo lên, lần theo dấu vết để lục soát và truy lùng. Anh trưởng toán ra dấu cho cả bọn tiếp tục hành trình trong cơn mưa chiều, nhờ cơn mưa và rừng rậm nên sự di chuyển có phần an toàn hơn. Người trưởng toán đưa chiếc radio cấp cứu của anh cho Nhân và nhờ gọi máy bay, chàng vừa bật nút công tắc lên đã nghe tiếng:

- .....Yêu cầu các bạn lên tiếng nếu không chúng tôi sẽ quay về.

Nhân vội đáp lời:

-Mayday, Mayday, Mayday, Lạc Long 389 nghe bạn rõ.

Mọi người ai nấy mừng rỡ, anh Chuẩn Úy lo lắng hỏi Nhân:

-Liệu họ có bốc mình ngay chiều nay không Trung Úy?...

Chàng gật đầu đáp:

-Hy vọng có chúng tôi ở đây, họ sẽ cố gắng bốc ngay chiều nay.

Chiếc máy bay L-19 đã nghe được tín hiệu của chàng, nên hỏi tiếp:

-Các bạn có thấy chiếc tàu bay nào trên không phận không? Nhân đáp lại:

-Chúng tôi đang ở bên duới, phiá cánh bên phải của anh.Nhân kêu mọi người:

-Mọi người trải các tấm panô vải màu cam lên trên các tàng cây để đánh dấu vị trí của mình. Xong Nhân gọi:

-Bạn có thấy những tấm vải panô màu cam chúng tôi đánh dấu không?

-OK... Chúng tôi đã nhận ra vị trí của bạn.

Chiếc L-19 reo lên trong chiếc radio tìm cứu, Nhân nói tiếp :

-Các bạn trên L-19 cho biết chỉ thị đi!...

Nhìn con tàu như cánh chuồn chuồn trên vòm trời chiều ảm đạm dưới cơn mưa, Nhân xót xa thương cảm cho những người bạn đang xả thân đi vào vùng binh lửa, để cứu vớt bạn đồng đội mình.

-Lạc Long, yêu cầu các bạn tiến về hướng Tây 50 mét, xong rẽ phải và chờ chỉ thị kế tiếp.Nhân thấy trời sắp tối rồi, nên vội đáp :

-Lạc Long nghe năm. Nhưng tôi yêu cầu bạn bay thấp, và định hướng cho chúng tôi di chuyển thì nhanh hơn. Bạn nghe rõ trả lời?... Sau vài phút chờ đợi, chiếc L-19 bay thấp qua đầu Nhân để chỉ hướng ra bãi bốc. Mọi người cùng chạy vội theo hướng chỉ dẫn này. Bãi bốc là một vùng đất khá rộng, chung quanh còn thấy các hố bom. Nhân và mọi người lựa một chỗ khá trống trải để làm bãi đáp.

-Lạc Long, bạn cho thả trái khói để trực thăng đến bốc các bạn

-Lạc Long, nghe năm trên năm.

Người trưởng toán Lôi hổ nghe theo liền tung ra trái khói đỏ, rồi một người nữa tung thêm một trái khói đỏ khi nghe tiếng trực thăng tiến lại gần.

-L-19, chúng tôi đã đánh dấu khói đỏ tại bãi đáp.

-Lạc Long, trực thăng đã thấy bãi đáp. Chúc các bạn An Lành trở về.

-L-19, cám ơn sự giúp đỡ của bạn.

Nhân quay lại nhìn những người đồng hành với mình, Ðại và Tài bám sát kế bên, trong khi đó toán Lôi Hổ canh gác bãi đáp. Nhân nhìn đồng hồ đã 7 giờ 50 tối, chỉ cần 10 phút nữa là trời sẽ tối hẳn, sẽ không còn sự an toàn để việc thực hiện việc tìm cứu như thế này. Nhân e ngại nhìn chiếc trực thăng đang tiến vào bãi đáp chật hẹp, bên dưới nhiều cây con lô nhô chĩa ngang chĩa dọc. Chiếc trực thăng tìm cứu từ từ hạ xuống, nhưng vẫn giữ ở vị thế hovering, để cả chín người cùng leo lên: Nhân, Tài, Ðại và sáu anh lính Lôi Hổ sau cùng đã lên tàu. Các anh em cơ-phi và xạ thủ trên tàu clear chung quanh để tàu cất cánh, và họ cũng không quên bắn hằng loạt đạn M60 vào bìa rừng, để uy hiếp.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1548730665-BenNhungBoRung_04.jpg

Nhân nhìn qua ghế lái thấy Trung Úy Nguyễn Ðình Minh, trưởng phi cơ và Lâm Minh Tuấn hoa tiêu phó. Khi tàu lấy được cao độ an toàn, Minh báo cáo trên vô tuyến xong rồi trao cần lái cho Tuấn. Minh nhìn mọi người tươi nụ cười hiền hòa. Minh quay ra sau bắt tay Nhân và Chuẩn Úy Liêm trưởng toán Lôi Hổ đang đứng sau lưng ghế lái. Tàu đổi hướng đi thẳng về Pleiku thay vì về đáp tại Kontum.


***

Miêng mang trong những kỷ niệm, Nhân quên cả thực tại, thời gian và không gian, quên cả sự hiện hữu của các hành khách trên chuyến C47 chiều nay. Bên cạnh anh cô Hoá vẫn thăm dò những cử chỉ và chờ đợi, rồi nàng cất tiếng:

- Anh đang miêng mang chuyện gì mà nét mặêt buồn vậy?...Nhân như được đánh thức trở lại với thực tại, và đáp lời cô gái:

- Tôi đã nghĩ về sự mất mát trong chiến tranh, và những chia cách của những người tình của “Lính”, và gia-đình của họ qua một phi vụ hai tuần trước đây.

- Anh kể lại cho Hoá nghe với.

Chàng gật đầu như thoả thuận. Chàng hứa hẹn với Hoá là sẽ kể trong những ngày ghé Huế, về những kỷ niệm trong phi vụ ấy, một chuyến bay với bao hiểm nguy, đã mất đi một người bạn - một chiến hữu và một con tàu. Chiếc C47 bắt đầu giảm tốc độ và chuẩn bị để đáp, con tàu sau khi lượn một vòng qua thành phố đã hạ cánh đáp nhẹ nhàng trên phi đạo, và đang tiến qua taxiway để vào đậu cạnh khu hàng hoá của trạm Hàng Không Quân Sự Ðà Nẵng. Hành khách theo nhau xuống tàu, Nhân chợt thấy một chiếc xe pickup màu xanh Không Quân chạy ra, chàng nhận ra Trung Úy Kim, một người bạn cùng khoá 7/68 Không Quân, anh cho xe chạy gần lại. Nhân nói nhỏ với Hoá:

- Hoá chờ một chút, để tôi nhờ anh Kim đưa chúng mình ra phố. Nàng gật đầu, và cố nán lại gần bên chàng thay vì đi theo những hành khách để đi vào trong.

Kim thấy Nhân cùng cô gái nên reo lên chào hỏi:

- Anh Nhân khoá 7/68 KQ đó phải không? Nhân trả lời:

- Nhân đây, Anh khoẻ không?

Kim gật đầu và nói:

- Anh chị đứng đây chờ tôi một chút nghe, để tôi ghé qua nói với phi hành đoàn, đểø cho hành khách lên, và họ sẻ bay trở về lại Sài Gòn ngay.

Nhân ghé qua Hoá nói:

- Anh Kim là bạn cùng nhập ngũ vào Không Quân, và hiện là trưởng trạm Hàng Không Quân Sự của phi trường Ðà Nẵng.

Nàng cúi đầu chào:

- Hoá chào anh Kim.

Kim chào và tiến về phiá phi hành đoàn vừa xuống tàu. Nhân hỏi thăm nàng:

- Chiều nay em về đâu?

Hoá trả lời:

- Em định ghé lại nhà người bà con ở đường Phan Thanh Giản, và sáng mai em đón xe ra Huế, còn anh?... Chàng trả lời:

- Tôi đi thăm mấy người bạn, và hẹn gặp lại Hoá tại Huế.Hoá viết điạ chỉ của gia-đình ở Huế trên tấm giấy nhỏ và đưa cho chàng:

- Ðây là điạ chỉ của em ở Huế, khi anh ra Huế mời anh ghé thăm.Chàng nhận mảnh giấy nhét vào túi áo bay và nói:

- Ngày mốt anh (bổng dưng chàng đổi cách xưng hô) ghé lại được không?

Nàng trả lời:

- Dạ được, em sẽ chờ anh...Chàng hứa hẹn:

- Anh sẽ đưa em đi thăm vùng Kim-Long, Thiên-Mụ và ghé quán bánh bèo bên dưới chân đồi Thiên-Mụ.Nàng cũng không quên nhắc chàng:

- Và nhớ kể lại chuyến phi vụ làm anh buồn nữa nghe, em chờ anh đó.Nhân gật đầu và đưa tay ra – như lối bắt tay của lính – Hoá cũng đưa tay ra bắt và họ ngầm như có một thoả ước. Nhân thấy xe của Kim tiến lại gần chào nói:

- Nhân và chị lên xe, tôi đưa ra phố...

Nhân và Hoá gật đầu cảm ơn, và ngồi vào băng ghế phía trước với Kim, xong chàng lên tiếng hỏi Kim:

- Anh ở lại làm việc trể quá vậy!

Kim đáp lại:

- Anh chị biết không, giờ giấc của chúng tôi bất thường lắm, chúng tôi tùy thuộc vào phương tiện theo các chuyến bay ghé đáp và rời Ðà Nẵng, để xếp đặt di chuyễn hàng hóa, quân nhân và gia-đình.Kim nói tiếp:

- Tôi đã liên lạc máy và cho hành khách ra tàu rồi. Nhân thấy một xe buýt chở hành khách tiến về chiếc C47. Kim nán chờ cho đến khi các hành khách lên tàu xong, chiếc C47 đóng cửa và mở máy cất cánh lúc ấy Kim mới cho xe chạy, chàng quay qua:

- Xin lổi Nhân và chị nghe, tôi đã bắt hai người phải chờ, anh chàng cũng dí dỏm:

- Lâu quá hôm nay mới được làm tài xế cho ông bạn phi-công và chị đây!...Nhân xoay qua:

- Anh xong việc chưa? Nếu xong chúng ta ghé ra phố chơi được không anh Kim?...Kim trả lời:

- Tôi sẽ đưa anh chị đi!...

Hoá xen vào:

- Xin anh cho Hoá xuống đường Phan Thanh Giản, để hai anh chuyện trò lâu ngày gặp lại!...Nhân cũng phụ hoạ vào:

- Anh Kim, chắc Hoá cũng mệt với chuyến bay vưà rồi, anh chiều theo ý của cô, sau đó chúng ta đi phố.

Kim Tiếp:

- Tiếc quá, mấy khi gặp được Nhân và chị đây!...

Nhân tiếp lời cho Hoá:

- Không sao, còn nhiều dịp mà - phải không Hoá?...Kim cho xe rẽ qua đường Phan Thanh Giản, Hoá chỉ một căn phố gần ngã tư, Kim hiểu ý và tấp vào lề; dừng lại trước căn phố. Nàng cất tiếng:

- Hoá chào tạm biệt; hai anh đi chơi vui nghe, Hoá chào anh Kim...

Nhân vói tay qua mở cửa xe, Nàng và Nhân bước xuống. Nàng quay qua Nhân:

- Ngày mốt em chờ anh tại nhà mẹ em ở Huế, anh nhớ nghe?...

Nhân gật đầu, đưa tay ra bắt, cô nàng cũng đưa tay ra bắt và siết nhẹ với đôi mắt long lanh, và nụ cười hiền hoà. Chờ cho cô gái khuất vào trong nhà xong, Nhân lên xe, Kim cho xe chạy ra bến Bạch Ðằng và đậu bên một quán cặp bờ nước. Hôm ấy cả hai đã có dịp chuyện trò về những buồn vui của đời lính, về thân phận của mình trong từng vị trí hiện hữu, Kim cũng kể lại những cảm nghĩ vui buồn, và nhất là những mất mát mà anh đã chứng kiến trong những trận pháo kích vào phi trường vào đơn vị của anh. Hôm nay gặp lại bạn cũ họ đã vui tạm qua một chầu rượu, đễ rồi sau đó ai nấy trở lại với thực tại, với bổn phận và trách nhiệm của mình.


***

Trong hơi men Nhân nhìn ra bờ nước nơi những ánh đèn chập chờn, chàng lại đắm vào những miêng mang của phi vụ hiểm nguy trước đây, nhìn qua bóng đêm nơi xa kia là dảy Trường Sơn, phiá xa xa thành phố nhà nhà đã lên đèn. Trên trời cao những vì sao đã lấp lánh, bên dưới là dãy Trường Sơn, với những bờ rừng âm u đang chìm khuất trong bóng đêm đen như mực.

Nhân vẫn không tưởng tượng được phi vụ hiểm nguy ấy là có thật. Trung Úy Phan Văn Phương đã vĩnh viễn nằm lại dưới cánh rừng âm u kia. Ở Sàigòn, vào lúc này, vẫn còn một cô giáo đang chờ đợi Phương trở về, với lời ước hẹn sẽ cùng xây tổ ấm nơi phố thị vào dịp hoán chuyển cuối năm. Giờ đây người Không quân tác chiến này không bao giờ thực hiện được lời ước hẹn này với cô!...

Chiến tranh và số mệnh đã lấy đi tất cả những ước hẹn của Phương và một cô giáo đang mong chờ Phương. Chiến tranh cũng đang thản nhiên lấy đi một người bạn hiền của Nhân, và đang đổ sự tang tóc oan nghiệt đến gia đình Phan Văn Phương!.... Trung uý Phan Văn Phương bình thản, xuôi tay trong con tàu của mình, sau một phi vụ không hề biết trước được lúc kết thúc. Phan Văn Phương để lại sinh mạng của mình ở chiến trường Tây Nguyên, như bao anh hùng của thời đại, Nguyễn Ðình Bảo, Nguyễn văn Ðương, và nhiều người khác nữa ...

Những anh hùng không tiếc một điều gì cho đất nước, cho dân tộc, cho những chiến tích muôn đời nơi vùng biên giới này. Nguyện cầu cho Phan Văn Phương sẽ hoá thành một loài chim trên vòm trời xanh thật an bình. Nơi vùng trời này sẽ không còn hận thù, không còn những nổi niềm đau xót về đất nước, về thân phận con người, về số phận quá mong manh trước chiến tranh và bom đạn điêu linh.

Phan Minh
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=509935542848646&set=pcb.2091763807528386&type=3&theater

BachMa
03-08-2019, 05:58 AM
Chưa Đi Chưa Biết..

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1371892382.gif http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1371892382.gif http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1371892382.gif

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1552024013-ChuaDiChua Biet.jpg

Đến châu Âu mới biết đi shopping không sợ hàng giả

Đến Bắc Âu mới biết mặt trời cũng thích ngủ nướng

Đến Hong Kong mới biết minh tinh nào cũng đeo khẩu trang

Đến Hà Lan mới biết mực nước biển cao hơn mặt đất

Đến Thái Lan mới biết thì ra con cú cũng có gai

Đến Pháp quốc mới biết trêu hoa ghẹo nguyệt cũng cực kỳ có phong cách

Đến Nga mới biết Vodka chỉ là một loại nước giải khát

Đến Hawaii mới biết phụ nữ không cần phải mua áo dzú nga mi

Đến Hàn Quốc mới biết phụ nữ đẹp không phải do bẩm sinh

Đến Brazil mới biết mặc đồ thiếu vải cũng chẳng có gì phải thẹn thùng

Đến Anh quốc mới biết kết cục hạnh phúc mãi mãi về sau trong truyện cổ tích đều là hư cấu

Đến Nhật Bản mới biết ngay cả tội phạm cũng vô cùng lịch sự lễ độ

Đến Mexico mới biết có thể đi Mỹ bằng đường hầm

Đến Canada mới biết diện tích lãnh thổ lớn hơn Trung Quốc nhưng dân số còn kém Bắc Kinh

Đến Trung Quốc mới biết mười người hết chín người lừa đảo, người còn lại đang luyện tập ngày đêm

Đến Mỹ mới biết bất kể là ai, bạn đều có thể kiện họ ra toà

Đến Úc mới biết chuột túi và các loại động vật khác nhiều như quân Nguyên Mông dễ khiến con người phát điên

Đến Thuỵ Sĩ mới biết mở tài khoản ngân hàng, nếu có ít hơn 1 triệu USD sẽ bị cười thúi mũi

Đến Ý mới biết Gucci & Prada còn ít hơn Trung Quốc

Đến Áo mới biết người ăn xin nào cũng có thể đàn ít nhất một bản nhạc

Đến Vatican mới biết dù đứng ở bất kỳ vị trí nào trong nước cũng có thể bắn chết chim ở tận nước Ý

Đến VIỆT NAM mới biết....yêu quê hương là PHẢN ĐỘNG.

Tác dịch: Roger Doan
https://www.facebook.com/search/top/?q=an%20van%20hoang%20batavia&epa=SEARCH_BOX

BachMa
03-17-2019, 09:39 PM
Phòng Thủ Mỹ Chánh - Quảng Trị
Trần Vũ
September 25, 2018

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1552711479-PhongThuMyChanh_01.jpg
Hình minh họa
ĐẠI LỘ KINH HOÀNG
Phòng Thủ Mỹ Chánh - Quảng Trị

1. Thiếu Tá Huỳnh Văn Phú sinh năm 1940 tại Nha Trang, khoá 19 Võ bị Đà Lạt. Khoá 19 là khoá tình nguyện về Thủy Quân Lục Chiến đông nhất, với 30 sinh viên sĩ quan kể cả thủ khoa Võ Thành Kháng. Thiếu Úy Huỳnh Văn Phú về Tiểu Đoàn 5 TQLC làm Trung Đội Trưởng năm 62 rồi nhiều năm sau giữ chức Trưởng Phòng Tâm Lý Chiến TQLC cho đến 30 tháng 4. Sau 75 tù đày từ Nam ra Bắc, Thiếu Tá Phú còn là tác giả đã nhận giải thưởng Phóng sự Tiền phong 1972 do Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị QLVNCH trao tặng. Tuy nhiên, bút ký Chiến Trường Trị Thiên và Những người lính Mũ Xanh in tại Sàigòn tháng 4-1975 đã không kịp phát hành. Thiếu Tá Phú định cư tại Philadelphia từ 1990.

Cùng với tuần san Trẻ, xin phép ông cho đánh máy lại Thủy Quân Lục Chiến đã phòng thủ Mỹ Chánh như thế nào trong Tuyển tập Bút ký Phóng sự Chiến trường 1972 của NXB Văn Nghệ Dân Tộc in năm 73 mà tôi may mắn tìm lại được.
Trần Vũ

GIÒNG SÔNG MỸ CHÁNH


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1552711491-PhongThuMyChanh_02.jpg
Hình minh họa

Ðiều mà ít ai ngờ đến đã biến thành sự thật, một sự thật tàn khốc trong cuộc chiến tranh diệt chủng hiện tại. Ðó là việc Hà Nội công khai xua quân tràn qua con sông ngăn cách Bến Hải với hàng ngàn xe tăng, đại pháo 130 ly và hoả tiễn xâm lăng miền Nam. Và nếu chiến cuộc không bùng nổ lớn như thế, cái tên Mỹ Chánh cũng như bao nhiêu địa danh xa xôi khác trên phần đất khốn khổ này đã không trở thành quen thuộc với mọi người như hiện tại.

Vào những ngày đầu tiên của tháng 4-72 khi trận chiến bùng lên dữ dội, các căn cứ hoả lực của ta nằm dọc theo khu phi quân sự bị thất thủ, sự sinh hoạt ở Mỹ Chánh vẫn bình thường. Người ta vẫn tấp nập đi đi về về, và giòng nước vẫn lặng lờ chảy ra Phá Tam Giang. Và cũng không ai có thể nghĩ rằng một tháng sau đó, con sông Mỹ Chánh đã đi vào huyền sử đấu tranh của dân tộc.
Bây giờ thì bất kỳ người lính Thủy Quân Lục Chiến nào cũng có quyền hãnh diện khi nhắc đến địa danh đó. Nơi đây gót giày xâm lăng của quân Cộng Sản đã chùn bước và đã bỏ lại dọc theo giòng sông đó hàng trăm chiếc xe tăng đủ loại, hàng ngàn xác chết của đồng bọn khi chúng mưu toan tiến sâu hơn về phía Nam.

Trong bài viết này tôi sẽ ghi lại một cách tóm lược trong trường hợp nào mà con sông Mỹ Chánh trở thành phòng tuyến bảo vệ cố đô Huế từ sau cuộc lui binh của Sư Đoàn 3 Bộ Binh ra khỏi tỉnh Quảng Trị ngày 1-5-72 cùng những diễn biến tổng quát và những người lính TQLC đã chiến đấu như thế nào để giữ vững phòng tuyến này.

Ngày 15-4 tôi từ giã Sàigòn ra đơn vị trong khi học “nửa chừng” khoá học “điều chỉnh” rất ư là “Cultivateur” tại trường Bộ binh Thủ Ðức, một quân trường mà buổi sáng ngủ dậy đã có gánh hàng rong bán bánh cuốn, bún riêu la ơi ới ở đầu giường, buổi trưa thì đậu hủ và chè cháo loạn xạ. Khoảng thời gian này, từ 10-4 đến 30-4-72, Lữ Đoàn 369 TQLC với các Tiểu Đoàn 3, Tiểu Đoàn 5, Tiểu Đoàn 7 và Tiểu Đoàn 9 TQLC đang hoạt động ở phía Tây và Tây Bắc Mỹ Chánh trong một khu vực rộng chừng 200 cây số vuông gồm các căn cứ Nancy, căn cứ Barbara và căn cứ Ðộng Ông Ðô nhằm ngăn chặn sự xâm nhập của Cộng quân từ mặt Tây Nam Quảng Trị. Ðơn vị tôi thì đóng tại căn cứ Nancy nằm bên trái Quốc Lộ 1, cách cây cầu Mỹ Chánh chừng một cây số về phía Tây Bắc, sau đó di chuyển ra đóng ở một ngôi làng nhỏ, kín đáo sát bên cạnh đường rầy xe lửa.

Gần một tháng trời chịu trách nhiệm khu vực trên, các đơn vị thuộc Lữ Đoàn 369 TQLC đã chiến đấu trong những hoàn cảnh cực kỳ gian khổ. Hàng ngày chạm địch liên miên từ cấp Tiểu Đoàn trở lên, đại pháo 130 ly của địch nã như mưa bấc, mọi công tác tải thương đều phải di chuyển bằng đường bộ, khiêng hoặc cáng đi trên một quãng đường dài gần 10 cây số đường núi vì trực thăng không có. Nhưng dù thế nào mặc lòng, các chiến sĩ TQLC cũng đã chiến đấu hăng say trong hoàn cảnh eo hẹp đó và mọi cố gắng của địch tiến quân ra vùng đồng bằng thuộc quận Hải Lăng đều bị chặn đứng hoàn toàn.

Vì ai cũng hiểu rằng nếu để địch xâm nhập thì Quảng Trị bị cô lập ngay và Quốc Lộ 1 bị cắt đứt. Do đó địch quân cay cú, hằng ngày chúng gia tăng pháo kích các đơn vị của ta. Các pháo đội của Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh TQLC phải thay đổi vị trí đặt súng ngày một, nhưng di chuyển đi đâu cũng đều bị chúng pháo theo. Tiền sát viên của địch bám rất sát mọi sự xê dịch, di chuyển của ta. Lâu lâu quân ta bắt được một vài tên có máy móc vô tuyến đàng hoàng nhưng cường độ pháo kích của địch vẫn không hề suy giảm.

Tôi đã từng nghe những tiếng nổ, tiếng rít của các loại hoả tiễn 122 ly, 240 ly, nhưng lần này tiếng rít xé gió đi trong không khí cũng như tiếng nổ của loại đại bác 130 ly (bắn xa 27 cây số do Nga-Sô chế tạo) nghe thật khiếp. Tiếng rít xé gió bay qua đầu, tôi có cảm tưởng như là tiếng phản lực bay trên trời. Rồi tiếp theo là tiếng nổ thật lớn nhưng ấm, mảnh văng tung toé rơi trên những mái nhà tôn như có ai lấy thật nhiều đá ném lên. Mảnh nào mảnh nấy to bằng cái chén và văng ra xa trong vòng bán kính 200 thước. Chẳng có ai biết chúng đặt súng ở đâu cả (biết thì còn nói làm chi nữa) nhưng nghe được tiếng départ ở đâu trong dãy núi xa xa rồi sau đó khoảng chừng 5, 7 giây là đạn bay đến nổ ầm rồi.

Thường thì chúng cứ bắn hai quả một. Lính tráng hễ nghe hai tiếng départ ùng ùng thì la to “Một cặp” đó các anh em ơi! Thế là mọi người chui lẹ vào hầm. Ðịch bớt pháo thì chui ra. Cứ chui ra chui vào như thế suốt ngày. Cái hoạt cảnh lên hầm xuống hầm có lẽ tôi chẳng bao giờ quên được, nhất là khi một mảnh đạn văng rơi trên cái mũ sắt của tôi đánh cồng một tiếng như tiếng chuông chùa. Ôi ta thương cái mũ sắt biết chừng nào! Có hôm mấy trăm quả nã vào đơn vị của tôi, ôi thôi tơi bời hoa lá nhưng khi kiểm điểm lại thì chỉ có 1 chết và 3 bị thương vì đạn rớt trúng ngay hầm. Giữa lúc bị pháo kích, ai nấy ở trong hầm tinh thần căng thẳng nhưng khi nghe một quả bị rớt không nổ thì mọi người lại vỗ tay cười.

Tôi cũng không biết họ nghĩ sao mà lại cười như thế, có lẽ cười vì cái khôi hài của chiến tranh tự nhiên khi không bắn giết nhau. Riêng tôi thì tôi thương cái hầm của tôi hết sức, hôm nào đổi vị trí đóng quân, tôi không tiếc cái gì hết chỉ tiếc có cái hầm mà mấy thầy trò, anh em tôi đã đào đắp công phu. Nhiều khi nhìn nó, tôi nghĩ đến sự nhiệm mầu của đất. Ðất nuôi sống con người, cứu vãn con người và khi người ta buông xuôi cũng trở về với 3 thước đất. Trên cõi đời ô trọc và buồn phiền này có gì tồn tại hơn là đất cát. Và đó có lẽ là cái ý nghĩa sau cùng của con người, nhưng buồn thay không mấy ai để ý đến, chỉ lo đi tìm những cái ảo ảnh, danh vọng để lừa dối, phản bội và bắn giết nhau.

HÀNH LANG MÁU

Khoảng thời gian đó, ngày cũng như đêm đối với tôi thật dài. Ngày thì nóng, nóng tàn nhẫn. Trời không một cơn gió. Mồ hôi vã ra như tắm. Bên tai lúc nào cũng nghe tiếng súng, tiếng pháo của ta và tiếng pháo của địch xen lẫn những tiếng súng nhỏ của các đơn vị đang đụng độ. Ban đêm thì trời trong, sao giăng mắc. Chùm Ðại Hùng Tinh với ngôi sao Bắc Ðẩu in rõ trên nền trời, còn chùm sao Hiệp Sĩ nữa, cả hai đều chỉ về phương Bắc, nơi đó thành phố Quảng Trị đang cố đẩy lui các cuộc tiến công của Cộng quân. Hoả châu thả sáng đầy trời, thỉnh thoảng ở phía Ðông những lằn lửa xẹt lên ngang bầu trời rồi vụt tắt. Có lẽ đó là Hải Pháo đang bắn đi từ ngoài biển, đôi khi tôi cũng thấy những cụm lửa thật to của chiếc hoả tiễn SAM của địch bắn lên các phi cơ.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1552711504-PhongThuMyChanh_03.jpg
Hình minh họa

Cho đến giờ phút đó, phòng tuyến ở phía Tây Mỹ Chánh do TQLC trấn giữ vẫn vững như bàn thạch. Và không một ai nghĩ rằng Quảng Trị sẽ bị thất thủ cả. Nhưng đùng một cái, trong các ngày 28, 29 và 30-4, Cộng quân pháo kích dữ dội vào thành phố Quảng Trị. Thế là dân chúng hoảng hốt, bồng bế nhau chạy đi về Huế lánh nạn. Không thể nào kể hết những thảm cảnh của đám dân chạy nạn đó.

Trong hai ngày 29 và 30-4, trên quãng đường dài từ Quảng Trị đến Mỹ Chánh, người ta đi chen chúc nhau chật cả quốc lộ từ sáng đến chiều vẫn chưa dứt. Thôi thì đủ các loại xe lớn nhỏ nối đuôi nhau đi nườm nượp về Nam. Nhưng người đi bộ gồng gánh vẫn nhiều hơn. Dưới mắt tôi, đó là một “con rắn người” khổng lồ ngoằn ngoèo dài đến hàng mấy chục cây số. Ðây, một người thanh niên cõng một người mù vừa đi vừa thở, đàng kia là một người đàn bà gánh đôi thúng, trên đó một em bé chừng 4 tuổi đang vốc cơm ăn ngon lành.

Chỗ khác, hết cả một gia đình đang ra sức đẩy một cái xe bò chất đủ thứ áo quần, bàn ghế và một con heo nằm co quắp ở phía trước. Một ông già, hình như là chủ gia đình, đang kéo chiếc xe một cách mệt nhọc. Chiếc máy ảnh cầm trên tay, tôi đến trước mặt ông và bấm một “bô”. Ông cố nở một nụ cười đau khổ. Không biết ông cười vì được chụp ảnh hay cười vì cảnh đời dâu bể này? Và trong ánh nắng hoàng hôn của ngày 29-4, một bà già có tật đang khấp khểnh đi nhờ chiếc gậy trên tay, cái bóng đổ dài trên mặt đường. Bà ta đi chừng mười bước thì lại dừng. Xa hơn một chút, một ông già và hai cháu nhỏ đang ngồi thở dốc trên vệ đường.

Ngay trước vị trí đóng quân của Tiểu Đoàn 5 TQLC, các anh chiến sĩ đem mấy thùng nước ra để bên đường cho dân uống. Có anh đem cả phần gạo sấy của mình chia cho những gia đình đang đói lả. Dù sao, đây cũng là những người còn được ít nhiều may mắn vì đã vượt về đến Mỹ Chánh. Một số lớn dân chúng bị kẹt trong vùng giao tranh giữa ta và địch tại cây cầu Bến Ðá, 6 cây số bắc Mỹ Chánh. Ðó là khoảng đường “hành lang máu” của hàng ngàn dân vô tội chết oan trong khi đi lánh nạn. Lợi dụng một lỗ hổng nhỏ do sự rút quân của Tiểu Đoàn 7 TQLC để đi ra tăng cường mặt trận Quảng Trị, Cộng quân đã xâm nhập được cây cầu Bến Ðá và từ đó chận đốt những đoàn xe chở dân chúng cũng như bắn giết dân chạy nạn không tiếc tay.

Dân chúng đang đi trên đường thì bị hàng loạt đại bác 130 ly ngã ra chết. Những cái chết vô lý bủa chụp xuống đời họ như những nỗi kinh hoàng. Họ có biết gì đâu. Có cả một chiếc xe bị bắn lật nhào xuống hố kéo theo 30 mạng người và cái hố đó là mồ chôn chính họ luôn. Trên khoảng đường này không có một gia đình nào nguyên vẹn, kẻ mất người còn và thất lạc tứ tung. Ðấy, sự nghiệp giải phóng của đoàn quân miền Bắc là như thế đó. Giải phóng người sống mau về bên kia thế giới, giải phóng tất cả sự nghiệp của mọi người trở về hai bàn tay trắng.

Những hình ảnh đó, có lẽ suốt đời tôi không thể nào quên được. Mỗi ngày, tôi từ vị trí đóng quân ra ngồi trên con đường sắt, con đường mà ngày xưa xe lửa đã chạy ra đến Hà Nội, nhìn đám dân lũ lượt kéo nhau đi mà trong lòng nghe chua xót. Tôi cố tìm trong đám người đi đó xem có ai quen thuộc không, nhưng không, không có ai cả. Tôi muốn chia sẻ những nỗi khổ đau với họ nhưng tôi đã hoàn toàn bất lực.


***

2. Tháng 5-72, Thủy Quân Lục Chiến là hy vọng cuối cùng của Quân Đoàn I. Cộng quân đã vượt Hải Lăng áp sát sông Mỹ Chánh. Trong chưa đầy một tháng tin tức chiến trường ập xuống như bão lửa. Cồn Thiên, Khe Gió, Ba Hô, Gio Linh, Cửa Việt đồng loạt thất thủ. Tồi tệ hơn nữa: Trung Tá Phạm Văn Đính, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 56 VNCH mà về sau thành Trung Tá Việt cộng, đầu hàng tại Camp Carroll. Mất tấm khiên chắn phía Tây, Sư Đoàn 3 Bộ Binh không thể giữ Đông Hà và Ái Tử.

Với dân Thừa Thiên, an nguy trao hết cho người lính mũ xanh. Phần bút ký tiếp theo của Thiếu Tá Huỳnh Văn Phú ghi lại những ngày này.
Trần Vũ

BÊN NÀY SÔNG, BÊN KIA SÔNG

Giữa đoàn người đi hỗn độn đó, Tiểu Đoàn 5 TQLC tung quân lên cầu Ðập Ðá để giải vây áp lực địch. Tại đây, Tiểu Đoàn 7 TQLC khi đi tăng cường cho mặt trận Bắc Quảng Trị vẫn còn bị kẹt lại hai Đại Đội ở khúc đường này. Hai đơn vị phối hợp nhau đánh bật địch quân về phía Tây, cuộc giao tranh kéo dài suốt ngày, các chiến sĩ TQLC đã thanh toán hết các phần tử địch vừa xâm nhập ở đây.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1552711517-PhongThuMyChanh_04.jpg
Nguồn ongvove.wordpress.com

Cho đến giờ phút đó, mặt trận ở phía Tây Mỹ Chánh vẫn vững như vách núi Trường Sơn, nhưng việc gì đã xảy đến. Ngày 1 tháng 5-72 các đơn vị tử thủ Quảng Trị rời bỏ thành phố di chuyển về Nam. Cuộc lui binh mà trước đó mấy ngày ít ai nghĩ đến đã thành sự thật. Và tình hình bây giờ đổi khác, Lữ Đoàn 369 TQLC trở thành tuyến đầu ngăn chặn địch tại Mỹ Chánh, không còn một đơn vị bạn nào khác nữa.

Bám sát các cánh quân của ta vừa di tản chiến thuật ra khỏi tỉnh Quảng Trị, Cộng quân lần tiến theo cho đến quận Hải Lăng. Tại đây, các đơn vị thuộc Lữ Đoàn 369 TQLC một mặt “tiếp rước” các đơn vị bạn từ Bắc xuống, mặt khác cố đánh bật địch dội ngược trở lên. Nội trong buổi sáng ngày 1-5 Tiểu Đoàn 9 TQLC đã dùng súng M72 hạ một lúc 9 xe tăng T54 của Bắc Việt chặn đứng hoàn toàn sức tiến của địch. Tiểu Đoàn 9 và Tiểu Đoàn 2 TQLC đã quần thảo với địch suốt trong ngày dài nhất đó với một mục đích duy nhất: Không cho chúng tiến thêm một tấc đất nào nữa kể từ khu vực này.

Sau đó cây cầu Mỹ Chánh được giật sập ngay trong đêm và các đơn vị TQLC thiết lập một phòng tuyến mới ở bên này con sông. Theo sát những diễn biến, tôi đã nghĩ rằng nếu ngày hôm ấy mà không có các Tiểu Đoàn 2 và 9 TQLC kiên trì chận đứng được địch quân tại Mỹ Chánh giữa cơn ngặt nghèo đó thì không biết chiến trường trong những ngày kế tiếp sẽ diễn biến ra sao và đến đâu. Một Nguyễn Kim Ðể của Tiểu Đoàn 9, một Nguyễn Xuân Phúc của Tiểu Đoàn 2 TQLC tại mặt trận Mỹ Chánh ngày 1-5 cũng như một Ðỗ Hữu Tùng của Tiểu Đoàn 6 TQLC trong trận “xa chiến lớn” tại căn cứ Phượng Hoàng ngày 9 tháng 4 là những Đơn Vị Trưởng đã góp công không nhỏ trên chiến trường Trị Thiên suốt 60 ngày chiến đấu đẫm máu.

Họ là những sĩ quan có đầy đủ kích thước, tài ba và mưu lược để chỉ huy những đơn vị cỡ trung cấp. Ðại Tá Phạm Văn Chung, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 369, người chỉ huy trận đánh và đơn phương quyết định phải ngay tức khắc chận địch tại tuyến Mỹ Chánh cũng đã không tiếc lời khen ngợi hai đơn vị nói trên (bây giờ Ðại Tá Chung về Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn TQLC làm Tham Mưu Trưởng Hành Quân, Trung Tá Nguyễn Thế Lương thay thế).

Buổi chiều, khi tôi rời Mỹ Chánh để về đóng quân tại Phong Ðiền, ánh nắng vàng vọt buồn bã ngả dài trên những dãy núi phía Tây lỗ chỗ những vệt xanh vệt trắng. Nhà cửa hai bên đường không một bóng người, quang cảnh thật thê lương. Ðã nhiều lần tôi bắt gặp lòng mình lắng sâu trong cảnh vật bởi tôi đã đi trên cái hoang vắng đó. Trên con đường nhựa duy nhất một ông già với chiếc bị da đã ngả màu trên vai, đi âm thầm trong ánh nắng hoàng hôn sắp tắt.

Ông già đã đi giữa buổi hoàng hôn của cuộc đời và hoàng hôn của đất trời. Nhưng ai biết được ông đi về đâu? Tôi quay về phía sau, bóng những người lính in lên trên nền trời đang dần dần đổi sang màu đen của bóng đêm. Xa hơn, về phía Bắc những cụm khói đen khổng lồ bốc lên cao cùng những tiếng nổ ì ầm. Quảng Trị đã xa tầm tay! Ít ra trong phút này, niềm mơ ước có phút rỗi rảnh nào đó được “dzọt” lẹ về thành phố này uống một chai bia, ăn một tô bún đã không thể thành tựu được nữa.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1552711530-PhongThuMyChanh_05.jpg
Người lính cầu nguyện - Nhà thờ La Vang, Quảng Trị, 6/7/1972 - Photo by Michel Laurent/AP

Và cái truyện Bên Kia Giáo Ðường của tôi cũng tan thành mây khói, không biết đến bao giờ mới xong vì nhân vật chính đã phiêu bạt ở phương nào rồi. Tôi cũng ước mong được trở lại căn nhà mà tôi đã trú đóng bên kia sông Mỹ Chánh, không biết để làm gì, vì nơi đó không phải là quê hương của tôi nhưng tôi mong muốn như thế, sớm hơn. Niềm mong ước đó cũng giống như hàng vạn người dân Quảng Trị mong sớm được nhìn về giòng sông Thạch Hãn của họ. Nhưng tôi tin chắc rằng niềm mong ước của họ lớn lao hơn, to tát hơn. Trong buổi chiều đó, khi đi ngang qua cây cầu, tôi đã “tức cảnh sinh tình” và rất lẩn thẩn “mần” ra mấy câu “thi” thuộc loại siêu tự do, siêu khôi hài mà chỉ có những đại thi sĩ cỡ “khều mặt trời” mới mần ra nổi. Bài thơ như sau:

Tôi ở bên này sông Mỹ Chánh
Anh ở bên kia sông
Đứng bên này sông
Nhìn thấy bên kia
Đứng ở bên kia
Trông thấy bên này
Lội ra giữa giòng sông
Nhìn thấy cả hai bên
Lặn xuống nước
Chả trông thấy bên nào cả!

MỘT QUAN NIỆM VỀ PHÒNG THỦ TẤN CÔNG

Ðoàn xe chở chúng tôi rời Mỹ Chánh chừng 3 cây số về phía Nam thì thay vì chạy trên đường lại rẽ trái chạy trên khoảng đất song song với đường nhựa. Có lẽ khúc đường này bị đặt mìn chưa sử dụng được. Ðoàn xe chạy trên đường đất chừng 100 thước thì ầm ầm, những tiếng nổ vang dội ở trước đầu xe, bụi tung bay mù mịt không trông thấy gì cả. Ngay quả nổ đầu tiên, trong trí óc của tôi lúc bấy giờ, tôi tưởng rằng đoàn xe đã bị địch phục kích và trong giây phút, tôi cố chờ đợi những tiếng đại liên xổ ra như kinh nghiệm cho thấy những lần bị phục kích. Nhưng may quá, không có đại liên và súng nhỏ. Rồi những tiếng nổ ì ầm tiếp theo. Tôi nhận ra tiếng nổ ấm và rất quen thuộc của loại đạn M79. Tôi chợt yên tâm hơn, phía trước 3 chiếc xe chạy đầu vẫn tiếp tục chạy, một chiếc xe Jeep đã bị nổ lốp nhưng vẫn cứ phom phom. Tôi giục tài xế: “Tống hết ga chạy nhanh lên”.

Chiếc xe chồm lên chạy giữa đám khói mịt mù cùng những tiếng nổ tiếp theo. Khổ quá! Vài người “anh em thù nghịch” mò ra ở khu rừng thấp bên phía Tây bắn M79 vào đoàn xe của chúng tôi chơi cho vui giữa lúc bóng đêm sắp sửa xông lên từ lòng đất. Ðến quận Phong Ðiền, kiểm điểm lại chỉ hai người bị thương nhẹ ở đùi mà thôi. Những chiếc xe chạy ở phía sau cũng đã đến an toàn. Buổi tối đó, tại Chi khu Phong Ðiền, Thiếu Tá Bích, Quận Trưởng, một niên trưởng của tôi, đã mời chúng tôi mấy chai bia. Chưa bao giờ tôi thấy bia ngon như đêm hôm đó.

Vài ngày sau, tôi có dịp đi Huế để nhìn ngắm kết quả của cuộc lui binh ngày 1 tháng 5 ra khỏi Quảng Trị. Phố xá tiêu điều, hàng quán đóng kín cửa, chợ Ðông Ba bị đốt cháy nám đen. Huế lúc đó là một thành phố chết, không thể mua được một cái gì cả.

Giòng sông Hương đã vắng bóng những con đò, “Ðệ Thất hạm đội” của “chị em ta” lừng danh một thuở cũng đã xuôi giòng ra cửa biển mất tăm! Huế của lãng mạn, của thơ mộng với những tà áo trắng phất phơ bay trên cầu Trường Tiền, chiếc nón bài thơ e ấp không còn nữa. Ít ra là ở trong giây phút đó.

Tuyến phòng thủ Mỹ Chánh đã đứng vững và được kéo dài thêm ra đến biển với hai Lữ Đoàn 258 TQLC và Lữ Đoàn 369 TQLC chịu trách nhiệm. Với một quan niệm là phòng thủ nhiều khi cũng phải tấn công để gây rối loạn hậu tuyến địch, phá vỡ việc địch tập trung để tấn công Huế và cho địch hiểu rằng ta muốn lấy lại những phần đất đã bị mất bất cứ lúc nào: ngày 13-5-72 Lữ Đoàn 369 TQLC đã bất thần mở cuộc phản công vào quận Hải Lăng, bằng cách trực thăng vận đổ Tiểu Đoàn 3 và Tiểu Đoàn 6 TQLC xuống trận địa. Trong khi đó thì Tiểu Đoàn 9 TQLC lại vượt qua sông Mỹ Chánh tiến lên phía Bắc để giao tiếp với các đơn vị bạn.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1552711545-PhongThuMyChanh_06.jpg
Ông già đã đi giữa buổi hoàng hôn của cuộc đời và hoàng hôn của đất trời. Nhưng ai biết được ông đi về đâu?

Trước đó sự phối hợp yểm trợ hoả lực phi pháo cũng như của B-52 thật chặt chẽ. Trận đột kích đã gây náo loạn cho hàng ngũ Cộng quân, khi các trực thăng khổng lồ đổ những người lích TQLC xuống thì quân Cộng sản Bắc Việt tan rã hàng ngũ bỏ chạy tán loạn ra các cánh đồng, trong khi đó dân chúng cũng bắt đầu chạy về hướng TQLC. Một sự kiện lạ là trong khi Cộng quân bỏ chạy trước các cánh quân của Tiểu Đoàn 3 và Tiểu Đoàn 6 TQLC ở phía Bắc thì địch lại chịu chạm súng với Tiểu Đoàn 9 TQLC lúc đơn vị này vừa qua sông. Trung Tá Nguyễn Kim Ðể, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 9, người hùng trong trận đánh chận đứng địch tại Hành Lang Máu ngày 1-5 đã quyết định táo bạo khi cho các “con cái” của ông vượt sông lúc 5 giờ sáng thay vì 7 giờ như đã ấn định.

Chính quyết định này đã gây hoàn toàn bất ngờ đối với địch quân và giảm thiểu mức độ thiệt hại quân bạn. Cuộc hành quân đã gây những yếu tố tâm lý quan trọng hiện tại và là một cuộc hành quân được phối hợp tuyệt vời nhất, kín đáo nhất. Hơn một ngàn ba trăm dân đã được giải thoát nhờ cuộc hành quân này.

ĐỊCH MƯU TOAN CHỌC THỦNG PHÒNG TUYẾN MỸ CHÁNH

Cuộc hành quân kéo dài trong ngày và các đơn vị TQLC lại về phòng thủ tại tuyến Mỹ Chánh. Trong suốt một tuần lễ sau đó, lằn mức giao chiến giữa ta và địch tại con sông Mỹ Chánh cứ nhập nhằng, thỉnh thoảng địch cố mở vài mũi dùi dò la sức phản công của ta rồi im lặng. Cho đến ngày 22-5, trận chiến dữ dội mở màn ghi một điểm son trong pho quân sử của binh chủng TQLC.

Trận đánh đã xảy ra 24 giờ đồng hồ trước khi những nút chai sâm banh được mở ra để đãi vị Tổng Thống Hoa Kỳ R. Nixon trong một bữa tiệc tại thủ đô Nga Sô mà 23 xe tăng PT76 và T54 của Cộng sản đã bốc cháy cùng 130 xác đồng bọn bỏ lại trên trận địa dọc theo phòng tuyến.

Theo ước tính của tình báo, lẽ ra trận tấn công trên của địch diễn ra ngày 19-5-72 nhưng không biết vì trục trặc gì đó mà trễ mất 3 ngày. Và người ta nhận định rằng chỉ có khoảng thời gian đó là thuận tiện cho việc tấn công vì ý đồ của Hà Nội đã thấy rõ:
Muốn biến cuộc gặp gỡ thượng đỉnh Nga-Mỹ thành một hội nghị Genève mới. Và nếu để sau ngày Nixon Nga du thì mọi việc kể như xong rồi.

Ngày 21-5, Bắc Việt tung quân bộ chiến có xe yểm trợ tiến đánh một đơn vị Ðịa Phương Quân tại 9 cây số Ðông Bắc Mỹ Chánh. Lực lượng này không chịu nổi sức tấn công của địch đã phải tháo lui về phía sau phòng tuyến 2 cây số. Tiểu Đoàn 9 và Tiểu Đoàn 3 TQLC đã tức tốc đem quân chận đứng địch, đồng thời trám lại một lỗ hổng nhỏ trên tuyến phòng thủ chính. Hậu quả của sự tháo lui của lực lượng Ðịa Phương Quân này là một toán chốt của địch đã xâm nhập được phía Nam sông Mỹ Chánh. Do đó, con đường huyết mạch để tiếp tế cho các đơn vị TQLC từ quận Phong Ðiền đến phía Ðông Bắc phòng tuyến bị gián đoạn trong 3 tiếng đồng hồ.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1552711557-PhongThuMyChanh_07.jpg
Nguồn Philip Jones Griffiths @ Magnum Photos

Bộ Tư lệnh liền quyết định tung thêm Tiểu Đoàn 39 Ðịa Phương Quân tăng cường cho Lữ Đoàn 369 TQLC. Tiểu Đoàn này di chuyển bộ từ Phong Ðiền đến tiếp giáp với Tiểu Đoàn 8 TQLC đang trú đóng tại 3 cây số Nam phòng tuyến để phối hợp với đơn vị này càn quét và thanh toán chốt vừa xâm nhập đêm qua. Trong khi đó thì Tiểu Đoàn 3 và Tiểu Đoàn 9 TQLC vẫn giữ mặt Bắc không cho địch tràn xuống. Mục đích của địch là cho các toán chốt xâm nhập trước để quấy rối ta rồi sau đó các đơn vị hoả lực với tăng và pháo yểm trợ chọc thủng phòng tuyến.

Trong ngày 21-5, quân ta đã thanh toán xong các toán chốt của địch lẩn quất trong vùng. Bây giờ lằn ranh giao tranh giữa hai bên vẫn là con sông Mỹ Chánh. Ngay trong buổi chiều hôm đó, Tiểu Đoàn 3 TQLC tung thêm một Đại Đội xa hơn về phía Ðông vượt qua con sông Ô Lâu; nhánh của Phá Tam Giang ăn thông với sông Mỹ Chánh nằm chặn địch tại đó. 23 giờ ngày 21-5, khoảng 30 xe tăng PT76, T54 và PT85 của Cộng sản với tùng thiết (bộ binh tháp tùng xe tăng) chia làm 2 mũi dùi từ Bắc và Ðông Bắc Mỹ Chánh ào ạt tiến xuống. Trận chiến bắt đầu từ giây phút này.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1552711574-PhongThuMyChanh_08.jpg
Xác Cộng quân - Nguồn artnet.com

Ðêm ấy tôi hoàn toàn thức trắng ngồi tại T.O.C. theo dõi diễn biến trận đánh. Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3 TQLC Lê Bá Bình cho lệnh các Đại Đội của ông sẵn sàng M72 và chờ cho chúng đến gần 100 thước mới khai hoả. Ngay phút đầu tiên, 7 PT76 bị hạ. Nhằm không cho các đơn vị của ta tiếp ứng lẫn nhau, Cộng quân đã pháo kích dữ dội vào vị trí của các đơn vị Tiểu Đoàn 9 TQLC trong khi tiến đánh Tiểu Đoàn 3 TQLC. Sau 3 giờ giao tranh, một Đại Đội của Tiểu Đoàn 3 TQLC đã phải lui về phía sau con sông Ô Lâu một cây số. Một phi cơ soi sáng từ Ðà Nẵng được gọi lên vùng, hai bên lại tiếp tục quần thảo. Một mũi dùi khác thọc xuống phía Nam né tránh hoàn toàn giao tranh với Tiểu Đoàn 39 Biệt Ðộng Quân.
Ðến đây thì cái mấu chốt của sự thảm bại của Cộng sản Bắc Việt bắt đầu.


***

3. Mỹ Chánh là chiến thắng của Thủy Quân Lục Chiến. Để hiểu tầm quan trọng của chiến thắng này cần nhìn thấy rõ nỗ lực của Bắc quân. Đích thân Lê Trọng Tấn, tay Tướng được xem dũng lược nhất của Hà Nội nắm quyền Tư lệnh Chiến dịch Trị Thiên Xuân - Hè 1972. Cuối tháng 3, Lê Trọng Tấn ném 3 Sư Đoàn chính quy Bắc Việt 304, 308, 320B qua sông Bến Hải, tăng cường thêm 2 Sư Đoàn 324 và 325 sau khi chiếm Quảng Trị. Sư 304 là Sư Đoàn chuyên đánh đồng bằng. Sư 308 là Sư Đoàn đầu tiên của Việt Minh thành lập từ 1949 mà bộ chỉ huy Pháp đặt tên Division d’Acier, tức Sư Đoàn Thép. Sư Đoàn 320B thoát thân từ Sư Đoàn 320 là Sư Đoàn cũ của Văn Tiến Dũng. Sư Đoàn 324 “chuyên trị” “Nam-Ngãi-Bình-Phú” và Sư Đoàn 325 danh hiệu Đại Đoàn Bình-Trị-Thiên. Tất cả, nói lên ý chí chiếm Huế của Lê Duẫn.

Cả 5 Sư Đoàn trên đều dày dạn trận mạc. Nếu 304 và 308 từng đánh Điện Biên thì 3 Sư Đoàn còn lại am tường địa thế miền Trung. Bên cạnh, 2 Trung Đoàn chiến xa 202 và 203, rồi 4 Trung Đoàn Pháo binh gồm 408 đại bác mà 68 khẩu là pháo 130 ly, cộng 93 khẩu 122 ly Sô-Viết cùng 247 khẩu sơn pháo 76 và 85 ly, không tính súng không giật SKZ cũng như súng cối nặng 120 ly của bộ binh. Thêm 2 Sư Đoàn cao xạ 367, 376 và 2 Trung Đoàn tên lửa 238, 237 với hoả tiễn SA-2. Tỉnh Đoàn Thừa Thiên cung cấp thêm Trung Đoàn Độc lập 559 Chủ lực Miền. Một ưu thế tuyệt đối.

Chính với ưu thế này mà Lê Trọng Tấn đã tự tin đánh dàn trận bằng chiến xa và cũng lần đầu tiên Bắc-Việt sử dụng rộng rãi pháo 130 ly. Chỉ trong ngày đầu tiên của Chiến dịch Bão Táp, đã pháo 11,000 quả đạn đủ loại.

Phía VNCH, đầu tháng 4 gánh nặng trên vai Sư Đoàn 3 Bộ Binh, là một Sư Đoàn tân lập đã phải thâu nhận khá đông đào binh, quân phạm từ các Trung tâm Cải huấn. Không thể xem quân phạm tác chiến kém. Sau cải hối, mỗi người lính là một binh sĩ Quốc Gia ngang đồng vị trí. Nhưng các sĩ quan cần thời gian để tái huấn luyện, thiết lập kỷ cương. Chính thời gian là điều Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai không sở hữu, vì chưa đầy 6 tháng sau khi thành lập với đảm trách nặng nề của vùng hoả tuyến, đã phải đương đầu với tổng tấn công của Bắc Việt. Thêm nữa, sự bội phản của Trung Tá Phạm Văn Đính đầu hàng tại Camp Carroll đã tạo ra khoảng trống cạnh sườn phía Tây Quảng Trị. Từ đây, Bắc quân tràn vào như thác.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1552711589-PhongThuMyChanh_09.jpg
Xe lội nước PT 76 cộng sản Bắc Việt bị bắn cháy

Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai bị phòng Thanh Tra của Bộ Tổng Tham Mưu VNCH câu lưu và đưa ra toà án binh vì đã để mất tỉnh địa đầu. Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm bị cách chức, thay thế bằng Tướng Ngô Quang Trưởng. Các sự kiện trên, nói lên tình hình nguy ngập cùng cực khi TQLC nhận vùng trách nhiệm Mỹ Chánh. Nếu TQLC buông tay, Lê Trọng Tấn sẽ vinh quang vào giải phóng – thảm sát Huế thêm lần nữa. Nhưng chính tại Mỹ Chánh, vào tháng 5-1972, những người lính TQLC đã giữ vững phòng tuyến và cùng lúc giữ vững danh tiếng của binh chủng này. Chính chiến thắng Mỹ Chánh đã cho phép Tướng Trưởng củng cố Quân Đoàn I và tái chiếm Quảng Trị. Cũng chính Mỹ Chánh, đã giúp Tổng Thống Thiệu có thể quỳ xuống giữa giáo đường La Vang về sau. Mỹ Chánh, là một phá lam đã làm gẫy mũi giáo phương Bắc.
Trần Vũ

GÀI ĐỊCH VÀO VÙNG TẬP TRUNG HOẢ LỰC

Cánh quân thứ hai của địch tưởng rằng đã chọc thủng được phòng tuyến rồi nên chúng cố thọc sâu hơn về hướng Nam từ lúc 4 giờ sáng ngày 22-5. Vùng tập trung hoả lực của LÐ 369 TQLC tại hơn 3 cây số về phía Nam phòng tuyến với Tiểu Đoàn 8 TQLC, hai pháo đội của Tiểu Đoàn 3 PB/TQLC và một số chiến xa, 5 giờ, phi cơ bắt đầu soi sáng vị trí của Tiểu Đoàn 8 TQLC.

Khi trái sáng cuối cùng vừa dứt, tôi nhìn đồng hồ: 5 giờ 55 phút. Mặt trời chưa lên, đó là lúc “bình minh hàng hải” vừa để đủ trông thấy mọi vật một cách lờ mờ. Cánh quân của địch vừa thoát xuống chia làm hai mũi dùi tiến thẳng tới vị trí của Tiểu Đoàn 8 và hai pháo đội của Tiểu Đoàn 3 PB/TQLC. Lúc bấy giờ mọi người đã sẵn sàng. Xạ trường ở phía trước trống trải toàn là đồng ruộng, xa hơn chừng 500 thước là những lùm cây thấp. Xe tăng địch lù lù tiến đến với tác xạ dữ dội với đủ mọi loại súng đặt trên xe cũng như của quân di chuyển bộ. Các chiến sĩ Tiểu Đoàn 8 TQLC và Tiểu Đoàn 3 PB/TQLC vẫn bình tĩnh chờ đợi, không một ai nao núng.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1552711606-PhongThuMyChanh_10.jpg
Tổng Thống Thiệu cầu nguyện trong nhà thờ La Vang - Quảng Trị. Nguồn: Flickr.com

Xe tăng địch còn cách 500 thước, 400 thước, 300 thước, 200 thước rồi 150. Tất cả súng M.72 đồng loạt khai hoả, các khẩu pháo binh 105 ly thì bắn trực xạ. Ngay trong phát đầu tiên, các pháo thủ của pháo đội K do Trung Úy Vũ Quang Vinh chỉ huy đã hạ được một chiếc PT76 bốc cháy. Rồi lần lượt các chiếc chiến xa khác của địch trên một trận tuyến dài 500 thước đều bị bắn cháy.

Tiếng súng hai bên vẫn nổ dòn. Trước mắt tôi chừng 500 thước một chiếc PT76 bị bắn cháy nhưng vẫn còn chạy được trông không khác gì một con chuột bị người ta tẩm xăng đốt cháy. Chiếc hoả tiễn TOW, loại vũ khí chống chiến xa mới nhất do Hoa Kỳ cung cấp, đặt từ trong tuyến phòng thủ phóng bồi thêm một quả nữa. Chiếc xe tăng của địch đang chạy bỗng khựng lại, ngọn lửa bùng cháy cao hơn. Lúc bây giờ chung quanh tôi rào rào tiếng vỗ tay reo hò của lính.

Một chiếc T54 khác thì thê thảm hơn: Bị bắn cháy lật nằm nghiêng, ngọn lửa bùng lên từng chập như có ai đổ dầu thêm. Trong vòng 15 phút đồng hồ, tất cả xe tăng của địch đều bị hạ. Mọi người ai cũng thấy phấn khởi và lên tinh thần. Hai chiếc tăng khác hoảng sợ không dám tiến vào nữa mà ẩn núp sau lùm cây thấp và bị phát giác nhờ chiếc ống nhắm của hoả tiễn TOW khi thấy hai cái ăng-ten của hai chiếc xe ló lên. Lập tức, hai chiếc phản lực cơ được gọi đến hạ ngay tại chỗ. Lúc này thì trời đã sáng, ánh sáng tạm đủ để nhìn thấy cảnh vật qua lớp sương mờ mờ. Vài chiếc tăng không bị trúng đạn cố gắng tháo chạy về phía Bắc cũng bị phi cơ đuổi theo oanh kích cháy nốt.

Trải dài trước mắt tôi, dọc theo tuyến phòng thủ thành một hình vòng cung là 9 xác xe tăng của địch vừa PT76 vừa T54 nằm la liệt, lửa từ trong các xe bốc lên hừng hực. Trận chiến xảy ra như một cảnh trong cinéma. Tôi nghĩ rằng chỉ có trong ciné mới có thể có được những cảnh đó nhưng sự thật đã diễn ra trước mắt tôi và có lúc tôi tưởng rằng đó là cơn mê.

Một giờ sau, Trung Tá Nguyễn Thế Lương, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 369 TQLC tung quân truy kích địch. Cuộc chạm súng lẻ tẻ trong vòng bán kính 800 thước lại xảy ra. Các chiến sĩ Tiểu Đoàn 8 TQLC của Thiếu Tá Nguyễn Văn Phán như say men chiến thắng ào ạt tiến lên tiêu diệt nốt những tên còn sót lại. Thiệt hại về phía TQLC chỉ có 3 chết và 5 bị thương, một số tổn thất coi như không đáng kể. Tôi không nhớ rõ các chiến sĩ Tiểu Đoàn 8 TQLC đã tịch thu được bao nhiêu súng cộng đồng và cá nhân nhưng chỉ biết là khá nhiều.

Tôi cũng như bao nhiêu người khác lúc đó chỉ khoái chú ý đến những chiếc xe tăng của địch còn bốc khói nghi ngút. Ðặc biệt trong số này có một chiếc PT85. Thứ này na ná như chiếc M113 của ta nhưng “đẹp” hơn nhiều. Chiếc xe đó đang được kéo về triển lãm ở Huế.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1552711617-PhongThuMyChanh_11.jpg
Xe tăng T 54 của cộng sản Bắc Việt bị bắn cháy - Nguồn Photo by Bruno Barbey

Tôi cũng không thể hiểu được Cộng quân điều binh theo cái lối nào mà kỳ quặc đến thế: cho xe tăng dàn hàng ngang trước một tuyến hoàn toàn trống trải để đưa lưng mà nhận lãnh đạn. Ðiều đáng ghi trong trận đánh này là sự bình tĩnh vô cùng của các chiến sĩ TQLC. Một chi tiết đáng ghi khác là khi chiếc xe tăng đầu tiên của địch bị hạ, không một quân nhân nào của Tiểu Đoàn 8 TQLC còn núp ở trong hầm, tất cả đều đứng thẳng lên, M72 trên vai ngắm xe tăng mà bóp cò. Có anh bỏ vị trí chạy ra bờ ruộng để bắn gần cho chắc ăn.

Vài giờ đồng hồ sau đó, Chuẩn Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn TQLC đã có mặt tại trận địa bên cạnh những chiếc xe tăng của địch còn cháy nghi ngút để khen thưởng các chiến sĩ thuộc Lữ Đoàn 369 TQLC và đồng thời quyết định những kế hoạch kế tiếp.

Với chiếc máy ảnh trên tay, tôi mò ra chỗ những chiếc xe tăng bị hạ. Xác chết của địch nằm la liệt. Chung quanh những chiếc xe tăng, chỗ này 30 xác chết, chỗ khác 11 xác. Rất ít xác còn được nguyên vẹn. Có xác bị cháy đen thân thể co quắp lại như một đứa con nít. Nhìn họ, bỗng tôi nhớ đến buổi nói chuyện với một tù binh Cộng sản, Thượng sĩ Viên giữ chức vụ Ðại Đội Phó thuộc
Tiểu Đoàn K.2 Trung Đoàn 3 CSBV.

Anh nói với tôi:

- Tôi cũng biết rằng vào đây không có đánh Mỹ nữa vì Mỹ đã rút quân dần ra khỏi miền Nam rồi, nhưng lệnh bảo đi thì đi. Thế thôi, muốn cưỡng lại cũng không được. Rốt cuộc, chỉ chúng ta là những người Việt Nam ở cả hai miền Nam Bắc bị chết trong cuộc chiến này.

Cũng trong trận đánh trên, TQLC tịch thu được hai khẩu súng SA7 (còn có tên là STRELLA) đó là loại hoả tiễn giật tay “dò tìm hơi nóng” để bắn phi cơ. Ðây là lần đầu tiên, Quân lực Việt Nam Cộng Hoà tịch thu được loại vũ khí đó trên chiến trường. Thảm bại của CSBV lần này còn nặng nề hơn ngày 09-04-1972 mà Tiểu Đoàn 6 TQLC đã dùng súng M72 hạ hàng loạt chiến xa địch mở đầu cho chiến dịch thi đua diệt xe tăng Cộng sản Bắc Việt.

Những ngày kế tiếp, suốt dãy tuyến phòng thủ dọc theo Mỹ Chánh từ Quốc Lộ 1 ra đến biển, ngày nào cũng có xe tăng địch bị hạ, khi thì 2 chiếc, khi thì 3 chiếc. Nếu không bị các đơn vị của Lữ Đoàn 258 TQLC quất sụm thì cũng bị Lữ Đoàn 369 TQLC đốn ngã hay do phi cơ oanh kích cháy.

Ngày 25-05-1972, Lữ Đoàn 147 TQLC lại mở một cuộc tấn công khác sâu hơn vào hậu tuyến địch bằng trực thăng vừa đổ bộ bằng tàu của Ðệ Thất Hạm đội Hoa Kỳ, tung các Tiểu Đoàn 6, Tiểu Đoàn 7 và Tiểu Đoàn 4 TQLC vào khu vực 15 cây số Ðông Quảng Trị. Trước đó vài giờ, toàn bộ Ban chỉ huy của Trung Đoàn 66 CSBV bị B.52 cày nát. Mặc dù vẫn có giao tranh ác liệt giữa các đơn vị TQLC với Cộng quân khi tiến sâu về phía Bắc nhưng điểm chính yếu ghi nhận được là phần lớn địch đã cố tình né tránh các cuộc tấn công của ta và đã rời bỏ vị trí tháo chạy.

Cuộc hành quân trên đã đạt được một kết quả đáng kể: hơn 5000 dân chúng đã theo các đơn vị TQLC về quận Hương Ðiền an toàn. Ðiều đó một lần nữa chứng tỏ rằng dân chúng không thể nào sống trong vùng Cộng sản kiểm soát.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1552711629-PhongThuMyChanh_12.jpg
Xe tăng T54 - Nguồn picssr.com

Ðến nay thì sau những lần mưu toan chọc thủng phòng tuyến Mỹ Chánh để tiến về Huế của địch đã thất bại, thêm vào đó là Cộng quân nơm nớp lo sợ không biết ta tung quân tấn công lúc nào nên khi tôi viết những dòng này, chiến trường ở phía Ðông Bắc Mỹ Chánh đã bớt sôi nổi. Mặc dù vậy, địch cũng đang cố hướng mũi dùi về phía Tây, nơi đó Lữ Đoàn 258 TQLC đang ngày đêm chặn đánh kẻ thù và mọi cố gắng xâm nhập của địch đều hoàn toàn bị chặn đứng tại đây.

NGÀY MAI TRỜI SẼ SÁNG

Khác với mọi lời tiên đoán bi quan lúc đầu khi thành phố Quảng Trị bị thất thủ là cố đô Huế bị đe doạ nặng nề và không biết sẽ mất lúc nào, tình hình chung bây giờ đã sáng sủa. Những cố gắng của địch đều bị phá vỡ. Phòng tuyến Mỹ Chánh đã đứng vững.
Sự sinh hoạt ở Huế đã trở lại bình thường. Nếu bỏ qua một phần những giải pháp chính trị cho cuộc chiến Việt Nam (…) theo đó sự tái chiếm Quảng Trị chưa cần thiết thì trên bình diện quân sự, việc tái chiếm Quảng Trị và những phần đất đã mất chỉ là vấn đề thời gian. Việc tiếp liệu về lâu về dài cho các đơn vị CSBV trên chiến trường miền Nam đã là một vấn đề nan giải trong cường độ oanh tạc miền Bắc của không lực Hoa Kỳ hiện tại.

Mặt khác, theo một nguồn tin tình báo Hoa Kỳ thì Cộng quân sẽ đánh mạnh để chiếm Huế trong khoảng thời gian từ 03-06-1972 đến 10-06-1972. Tuy nhiên, dưới con mắt nhìn của các giới quan sát quân sự thì việc đó đối với Cộng quân khó có thể xảy ra trong thắng lợi được vì sự thiệt hại của địch quá lớn lao sau gần 2 tháng xâm lăng, tinh thần cán binh thấp xuống đến mức e ngại mà theo tin tức thì các vị Tư lệnh chiến trường của CSBV đã khuyến cáo Hà Nội cũng nên tìm một giải pháp nào cho chiến cuộc này khác hơn là ở trên chiến trường. Thế nhưng chiến trường nào cũng có thể có những diễn biến bất ngờ và sự bất ngờ đó đối với Hà Nội chỉ có trong trường hợp Tướng Võ Nguyên Giáp có được chiếc đũa thần.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1552711642-PhongThuMyChanh_13.jpg
Xe tăng của cộng sản Bắc Việt bị bắn cháy

Ðể kết thúc, tôi xin ghi lại ở đây nội dung buổi phỏng vấn Chuẩn Tướng Bùi Thế Lân, Tư Lệnh Sư Đoàn TQLC, của phái viên “đầu bạc” Nguyễn Tú của nhật báo Chính Luận ngày 27-05-1972, theo đó vị Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn TQLC cho rằng:

- Vấn đề chống địch, phản công địch, diệt địch không khó. Ðiều quan trọng là nắm vững tình hình địch, điều quân mau lẹ như chính ông (phái viên Chính Luận) đã thấy tại trận địa và nhất là sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị bạn. Ðiển hình là hành quân Sóng Thần 06-72 tấn công Hải Lăng ngày 25-5-72 đã được thiết kế và quyết định trong 24 tiếng đồng hồ.

- Còn tương lai?

- Ông không thấy trời rất đẹp sao?

Trần Vũ

https://www.facebook.com/photo.php?fbid=2031558566887288&set=pcb.2116815241689909&type=3&theater&ifg=1

BachMa
03-24-2019, 06:14 PM
Đít Em Mấy Lỗ..
http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1389577133.gifhttp://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1389577133.gif

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1553450738-DitEmMayLo_02.jpg
Sáng nay, trên đường đi làm, tôi ghé vào đổ xăng, ngay lúc đó có một cô gái trẻ cũng vào đổ xăng đứng bên cạnh tôi.
Thằng bơm xăng nhìn cô gái rồi hỏi:
- Em gái, đít em mấy lỗ ?
Tôi giật mình, chỗ nhạy cảm của con gái mà thằng này dám hỏi như vậy à.
Tôi càng bất ngờ khi cô gái cười tươi trả lời:
- Đít em hai lỗ !
Sau một thoáng giật mình, tôi chợt hiểu ra "ĐÍT EM MẤY LỖ" là "ĐỖ EM MẤY LÍT", cô gái trả lời "ĐÍT EM HAI LỖ" là "ĐỖ EM HAI LÍT". Không nhịn được cười, tôi ôm bụng cười to, bất ngờ thằng bơm xăng hỏi tôi:
- Đít anh mấy lỗ ?
Tôi cười lớn hơn rồi trả lời:
- Cả đời anh, đít có một lỗ, mày tìm lỗ thứ hai cũng không có ha ha ha!
Ngay lúc đó, có bác xe ôm chạy chiếc xe cà tàng vào, có lẽ không có tiền nên trông bác rất rụt rè. Thằng bơm xăng nhìn bác rồi hỏi:
- Bác xe ôm, đít bác mấy lỗ ?
- Chú ơi ! Đít tôi nửa lỗ !
Ha ha ha lần đầu tiên tôi thấy có trường hợp "đít nửa lỗ", tôi cười sắp ngất, thì lúc đó xuất hiện một anh chạy xe SH vào, thằng bơm xăng nhìn anh rồi hỏi:
- Anh SH, đít anh mấy lỗ ?
SH trả lời:
- "ĐÍT TÔI ĐẦY LÔNG" là "ĐONG TÔI ĐẦY LÍT" (đầy bình).
Nghe đến đây tôi cười ngất luôn !!!

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1369483239.gifhttp://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1369483195.gifhttp://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1369483142.gif

BachMa
03-28-2019, 08:07 PM
Bé Mốc Ngày Xưa
Nguyễn Thị Thanh Dương

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1553718140-HQPD_BeMocNgayXua.jpg
Hình minh họa
Từ phi trường Tân Sơn Nhất, Khoa được gia đình chú Tuyên đón về nhà ở Bà Chiểu chơi mấy hôm.

Hôm nay Khoa mới xách va ly trở về xóm cũ Gò Vấp. Mới rời xa Việt Nam 6 năm mà đường phố thay đổi lạ hoắc, cũng may vẫn còn những dấu vết hay chi tiết quang cảnh cụ thể khác để anh không đi lạc.

Cổng vào chùa Thiền Quang đây rồi, cũng là ngõ chính dẫn vào nhà anh, phải đi qua một khu mả bằng đá ong, những tảng đá ong nằm có, đứng có, cao hơn đầu người, người ta đồn rằng của người Pháp xây hồi xưa, nên lối xóm quen gọi là khu mả Tây. Trẻ con khu xóm vẫn chơi đùa ở đó, leo trèo lên những ngôi mộ. Nay khu mả Tây không còn, nên trông cái ngõ như rộng ra.

Gặp anh, nhận ra anh, ai cũng cất tiếng hỏi han thân mật, bù cho những tháng năm sống ở Mỹ hàng xóm lạnh lùng như người tình đang trong cơn hờn dỗi.

Căn nhà của anh được bao quanh bằng bức tường gạch thấp, phía trên cắm những hàng rào bằng sắt, và vẫn là hai cánh cổng sắt, nhưng không còn cây hoa giấy màu đỏ bên cạnh xòe cành lá và hoa đung đưa trong gío nữa.

Chưa kịp tra chìa khóa mở cổng thì một bà hớn hở từ đâu bước vội đến:

- Cậu Khoa mới về thăm nhà hả? Sống ở Mỹ vui lắm hả cậu?

Khoa chưa kịp nhận ra ai cũng mỉm cười đáp lại:

- Vâng, chào bác, sống ở đâu cũng có vui có buồn.

- Có nhớ ra tôi không nào? Tôi ở đằng sau nhà cậu đấy…

Khoa gật đầu:

- À, bác tên Năm, làm nghề thêu, nên thành tên Năm Thêu chứ gì? Bây giờ bác còn sống bằng nghề thêu, rua gì không?

- Theo nghề đó là chết đói luôn cậu ơi, thời buổi hiện đại, nghề thêu đan, may vá phải dẹp tiệm nhường cho sản xuất công nghiệp hàng loạt. Tôi chuyển “ngành” rồi, nấu cơm bán cho mấy em công nhân tạm trú ở xóm này, dân miền Trung, miền Bắc “di cư” vào, đói nghèo nên dễ tính, dễ chịu. Hàng cơm tôi cũng đủ sống qua ngày.

Bà Năm Thêu đon đã mời mọc một hơi:

- Cậu về đây bao lâu? khi nào đi chơi đâu ăn đó thì thôi, còn về nhà thì ăn cơm ủng hộ hàng tôi nghe? Tôi biết Việt Kiều thì chỉ ăn ở những nhà hàng nổi tiếng hay sang trọng, nhưng cậu thử ăn hàng tôi cho biết đá vàng, ăn bữa nào tính tiền bữa đó, đơn giản và sòng phẳng mà. Việt Kiều tôi sẽ nấu loại đồ ăn cao cấp tiêu chuẩn Việt Kiều, nhưng gía cả vẫn là tình làng nghĩa xóm.

Khoa cảm động, khiêm nhường và hào hiệp:

- Việt kiều mới là thèm những món ăn bình thường dân dã đó bác Năm Thêu. Nhiều người từ hải ngoại về Việt Nam chỉ để ăn cơm nhà rau dưa. Tôi đồng ý ăn cơm ủng hộ hàng bác, vì tôi sẽ ở Việt Nam khá lâu và thường xuyên ở nhà.

Bà Năm Thêu còn nhiều chuyện, hỏi tới luôn:

- Nghe nói cậu về bàn căn nhà này, phải hôn? Có gì tôi kiếm người “mai mối” cho mau lẹ…

- Uả, sao bác biết tôi về Việt Nam để bán nhà?

- Dễ ợt mà, mỗi lần ông chú của cậu đến quét dọn hay sửa sang nhà cửa tôi có nói chuyện và hỏi thăm về gia đình cậu hoài, nghe nói ở bển gia đình cậu ổn định, khá gỉa tôi cũng mừng giùm. Vừa rồi ông Tuyên nói là cậu sẽ về bán căn nhà này. Thế là ông Tuyên sẽ rảnh tay khỏi phải lò mò từ Bà Chiểu đạp xe xuống Gò Vấp để chăm sóc căn nhà vắng chủ nữa.

- Dạ, đúng thế. Đáng lẽ tôi bán nhà trước khi xuất cảnh, nhưng để lại cho gia đình thằng em vợ chờ đi xuất cảnh sau. Nó dùng dằng mãi mới chịu đi nên giấy tờ bảo lãnh trễ hơn tôi mấy năm.

- Nhờ vậy mà hưởng lời đó cậu. Đúng là số cậu trời cho hưởng mà, được gia đình vợ bảo lãnh đi Mỹ sung sướng mọi bề, ngay thời điểm này nhà cửa đang hút gía dữ dội lắm, căn nhà của cậu nằm trong khu đất rộng, có vườn cây, lại thuộc phạm vi thành phố nên khẳm tiền chứ không ít đâu.

Khoa đùa vui:

- Trời, bác Năm Thêu chuyển ngành nghề môi giới địa ốc, chắc sẽ thành công hơn nấu cơm tháng đấy.
Bà Năm Thêu nhắc lại:

- Thôi vậy nghen, chiều nay cậu ăn cơm nhà không? thì có cơm mang sang nhà cậu liền.

Khoa nể lòng bà hàng xóm:

- Vâng, chiều nay cho tôi mở hàng một bữa thử coi, nhớ là mấy món ăn nhà quê dân dã nhé. Tôi muốn ở nhà vài ngày, sống lại kỷ niệm rồi mới đi thăm bạn bè sau.
Bà hàng xóm nhanh nhẩu tốt bụng đi rồi, Khoa mới thực sự bước vào nhà mình, hầu hết những đồ đạc của vợ chồng Khoa để lại, gia đình người em vợ vẫn giữ y nguyên, có lẽ vì họ nghĩ cũng sẽ đi xuất cảnh nên chẳng cần thay đổi hay mua sắm thêm đồ mới làm gì.

Khoa ra vườn sau, khu vườn trồng nhiều cây mít và cây na, lá rụng quanh năm. Anh dẫm chân lên lớp lá khô tưởng như mùa lá cũ năm nào vẫn nằm ngoan hiền ở đây đợi anh về hội ngộ.

Những cây mít đang treo đầy qủa, anh còn nhớ cây này là mít dừa, cây kia là mít nghệ, múi mít loại nào cũng to bằng cả nắm tay. Còn những cây na cũng có giống na dai, giống na bở. Na để chín cây, mắt na nở ra, nhẹ tay bóp qủa na, ăn những múi na trắng thơm, ngon ngọt lạ lùng.

Trong vườn có một cái giếng sâu và trong, cạnh đó là buồng tắm. Khoa sung sướng được sống lại qúa khứ, anh ra quay nước giếng đổ đầy thùng trong buồng tắm và mang những thứ xà bông, dầu gội đầu vào tắm gội, tưởng như mình vẫn đang sống ở Việt Nam của 6 năm về trước.

Tắm xong Khoa vào nhà ngủ một giấc thoải mái, chưa tỉnh giấc hẳn thì đã nghe có tiếng gõ cửa rụt rè, Khoa vội ngồi dậy, vuốt sơ mái tóc và ra mở cửa, anh ngạc nhiên khi thấy một khuôn mặt xinh đẹp, một cô gái lạ, rất trẻ, đang khép nép bên ngoài. Trong phút giây này, khỏanh khắc này, anh bỗng nhớ đến bao năm về trước, Huyền cũng đã e ấp gõ cửa nhà anh, cho anh cảm xúc xao xuyến bất ngờ.

- Dạ, em chào anh…

Khoa bối rối:

- Cô tìm ai? Cô có đi lầm nhà không?

- Dạ, em tìm anh Khoa…má em sai em đến giao cơm chiều cho anh.

Bây giờ Khoa mới để ý đến gỉo cơm trên tay cô gái. Thì ra lúc nãy anh vào nhà và quên không khóa cổng nên cô gái mới đến thẳng cửa nhà anh như thế này. Cô có đôi mắt to đen như nhung mang phảng phất nét buồn, làm người khác nhìn mà phải u uẩn theo. Dáng cô thon thon cao ráo, không lẽ cô là con gái bà Năm Thêu ? người đàn bà suốt một thời tuổi trẻ chăm chỉ ngồi bên khung vải thêu, rua, đến nghọeo cả cổ và gù cả lưng ?

Thấy chủ nhà tần ngần chưa chịu tin, cô gái giới thiệu thêm về mình:

- Anh không nhớ em thì thôi, nhưng để em kể ra nhé, ngày xưa em hay sang nhà anh bồng em bé và đút cơm cho con anh đó, em là bé Mốc.

- Ôi, bé Mốc !!

Khoa reo lên, thêm một lần nữa ngạc nhiên, anh nhớ ngay ra con bé Mốc nhếch nhác ngày xưa, bây giờ lại biến hóa thành cô gái đẹp xinh, duyên dáng y như trong chuyện cổ tích. Giây phút gặp gỡ đầu tiên vẻ đẹp của cô làm anh chóang váng, bây giờ định thần nhìn kỹ lại, đúng là cô gái có những nét hao hao bé Mốc. Mà sao ngày xưa anh ghét nó thế? chỉ sợ nó lây cái vẻ xấu và bẩn của nó sang cho con anh thôi, nhưng Huyền vợ anh vốn thương người, muốn giúp nhà bà Năm Thêu chứ thuê mướn người bồng em đầy rẫy trong xóm, thiếu gì người khá hơn nó.

Cô gái thao thao kể tiếp:

- Nhà em nghèo, má em đã đưa em sang nhà anh chị, coi em, bồng em để anh chị cho chút tiền, được đồng nào hay đồng đó. Năm đó em 13 tuổi.

Khoa hỏi một câu ngẩn ngơ vì vẫn còn bối rối trước vẻ xinh đẹp của cô Mốc:

- Nhưng sao em lại là bé Mốc nhỉ?

- Má em nói hồi nhỏ em xấu xí, lại bẩn thỉu, mốc meo và ốm tong teo, bé xíu nên gọi em là bé Mốc chết tên luôn, còn tên thật của em không đẹp lắm, nhưng cũng…đỡ hơn. Em tên là Nguyễn thị Nâu.

Khoa thành thật:

- Dù bé Mốc ngày xưa hay cô Nâu ngày nay, cả hai tên đều lạ cả.

Cô Nâu mang giỏ cơm vào nhà, cô nhẹ nhàng và cẩn thận lôi ra chén bát, đũa thìa và cơm canh nóng hổi để lên bàn rồi nói:

- Mời anh dùng cơm kẻo nguội, má em nấu món dân quê theo ý anh, cần món gì anh cứ yêu cầu mỗi ngày nghe. Em về đây, lát nữa em sang thu dọn chén đũa.

- Sao cơm bình dân mà bát chén kiểu sang vậy cô Nâu?

Cô Nâu mỉm cười:

- Anh không nghĩ ra hả? vì anh là Việt Kiều thì cũng phải lịch sự với anh chứ, mấy chén đũa này má em mới sắm riêng để phục vụ anh đó.
Khoa cảm động ngẩn ngơ. Cô Nâu nói xong từ tốn cúi đầu chào và ra về, dù Khoa chỉ muốn cô ở lại nói chuyện, và dù có ăn cơm canh nguội lạnh anh cũng vui lòng.

Bà Năm Thêu cho anh ăn cơm với món đọt rau lang luộc chấm nước mắm tỏi ớt, và món tôm đất rim mặn. Qủa thật là ngon miệng..

Ăn xong Khoa rửa tất cả chén bát sạch sẽ và đợi chờ cô Nâu đến.

Cánh cổng ngoài vẫn chỉ khép để đợi cô vào tận cửa nhà, cô đến đúng hẹn, lần này cô lại thay cái áo khác. Thấy mọi thứ đã sạch sẽ sẵn sàng, cô Nâu không hài lòng:

- Kìa anh, sao anh lại rửa ?, lần sau anh cứ để em làm cho, đó là việc của em mà.

- Tôi rảnh cũng chẳng biết làm gì.

- Việt Kiều như anh hiền qúa chừng, người ta về Việt Nam là tưng bừng hoa lá ngoài đường, ngoài qúan đó anh.

Ngay từ đầu cô Nâu đã xưng hô “anh, em” nên Khoa cũng thoải mái, tự nhiên, dù ngày xưa con bé ranh này anh coi như đồ con nít.

- Nay mai anh cũng sẽ đi thăm bạn bè, họ hàng chỉ có gia đình ông chú chứ chẳng còn ai.

Lần này cô Nâu ngồi nói chuyện lâu hơn. Trong căn nhà vắng êm đềm cô gái như một bức tranh thiếu nữ rực rỡ bội phần làm tâm hồn đa cảm yếu đuối của Khoa bị choáng ngợp trước hào quang của cô Nâu.

Cô kể nhà cô từ xưa đến giờ vẫn nghèo, cô bỏ học khi xong bậc tiểu học, làm đủ thứ nghề lao động, và bây giờ thì ở nhà phụ với mẹ nấu cơm, bán cơm trong xóm lao động này. Đôi mắt cô có lúc lóng lánh như muốn khóc, Khoa phải chạnh lòng:

- Không ngờ hoàn cảnh em đáng thương thế.

Khi cô Nâu đứng lên chào tạm biệt ra về, Khoa tiễn cô ra cửa, khỏang cách hai người rất gần, mùi hương thơm nào đó từ người cô làm anh thoáng ngây ngất. Đôi mắt cô nhìn anh giùng giằng và sâu thẳm:

- Em về nhé. Mai anh có ăn cơm không?

Khoa trả lời không cần suy nghĩ:

- Coi như ngày nào anh cũng ăn cơm hai buổi, cho dù đi đâu anh cũng về ăn cơm…nhà.

Cô Nâu ngoan ngoãn:

- Dạ, em sẽ ngày hai buổi mang cơm phục vụ anh.

Cô Nâu về rồi, nhưng hình ảnh bé Mốc ngày xưa lại lần lượt hiện ra.

Dạo đó anh và Huyền ở trong căn nhà này, hai đứa con, đứa lên 4 và đứa lên 2. Vợ anh làm kế tóan tài chánh cho một công ty nước ngoài, còn anh là kỹ sư. Chiều đi làm về, mang hai đứa con từ nhà trẻ về, cả hai vợ chồng đều bận rộn nhiều chuyện khác. Thế là mới có chuyện con bé Mốc thỉnh thoảng sang nhà giữ em giùm để vợ anh nấu cơm, còn anh thì nghiên cứu đọc tài liệu bổ sung cho công việc đang làm tại hãng.

Bé Mốc qủa đúng là con bé nhà nghèo, quần áo lôi thôi cũ kỹ, đầu tóc rối ren, mặt thì nhem nhuốc, thế mà hai con anh lại thích bé Mốc, nó bồng bế hay đút cơm, đút cháo hai đứa đều ăn nhiều, có lẽ vì bé Mốc cũng trẻ con, biết cách chiều trẻ con?

Bé Mốc hay dẫn hai con anh ra chơi ở sân trước, chán lại ra vườn sau. Có lần anh thấy bé Mốc hái mấy dái mít non ở sau vườn chấm muối ớt ăn ngon lành. Tội nghiệp, con bé đói khát ăn rờ ăn rẫm, từ đó trở đi anh không còn ác cảm với nó nữa, cũng đồng tình với vợ anh để cho bé Mốc trông nom hai con khi vợ chồng anh bận bịu.

Những hôm không trông hai con anh, bé Mốc chạy ra khu mả Tây chơi đùa với lũ trẻ cùng xóm, mấy lần Khoa trông thấy nó leo trèo, nghịch ngợm hay lê la đất cát bẩn thỉu từ đầu đến chân.

Một buổi chiều anh ra vườn sau kéo nước giếng và tắm táp xong như thường lệ, vợ anh cũng đã xong công việc, chiều ấy Huyền thật xinh và tươi mát với bộ đồ mỏng mới may, làm Khoa bỗng dưng “thèm muốn”, anh kéo vợ vào phòng. Chợt trông thấy con bé Mốc bế em ở một góc nhà đang chăm chú nhìn theo vợ chồng anh, hình như nó hiểu chuyện và biết anh đang muốn gì?. Làm Khoa “quê”, liền bực mình gắt với nó:

- Bế em ra vườn chơi đi, chốc nữa hãy vào nhà.

Bé Mốc vội vã tay bế tay dắt hai đứa con anh ra vườn sau.

Nghĩ đến đây Khoa cười thầm, không biết cô Nâu có còn nhớ chuyện xưa ? Bây giờ anh sẽ “quê” hơn ngày đó nữa.

Từ ngày sang Mỹ, vợ anh trông coi một tiệm nail cho em gái mình, vì cô em có hai tiệm nail nên không thể ba đầu sáu tay qủan lý hết được. Cửa tiệm lâu năm, quen khách, đắt hàng nên cô em trả lương chị rất rộng rãi.

Còn Khoa học nghề trung cấp kỹ thuật hai năm và ra đi làm. Nhưng mới bị lay off , đang ngồi nhà ăn tiền thất nghiệp.

Gia đình thằng em vợ đến Mỹ mấy tháng nay, đúng là thời điểm thuận tiện cho Khoa về Việt Nam lo chuyện bán nhà cửa. Khoa về một mình vì Huyền bận 6 ngày một tuần với tiệm nail, không dứt ra được.

Căn nhà nhờ ông Tuyên đứng tên và chăm sóc giùm, hàng tháng vợ chồng Khoa vẫn tế nhị gởi biếu ông chú tiền coi như trả công lao chú hậu hỉ.

***

Cô Nâu đã trở thành hình bóng thân quen không thể thiếu, mỗi ngày mấy lượt đến giao cơm và lấy đồ về, lần nào cô cũng kín đáo tránh cho hàng xóm biết cô đã ở lâu với người đàn ông trong căn nhà vắng.

Hôm nào Khoa đi vắng về trễ thì anh hẹn mang cơm trễ, nên hầu như họ vẫn gặp nhau dù Khoa bận rộn đến đâu.

Đã có vài người khách đến xem nhà và đang thương lượng gía cả, Khoa không ngờ bà Năm Thêu nói đúng qúa, người mua sẵn sàng trả gía cao, nhưng anh còn chần chừ xem ai trả cao nhất mới quyết định. Mọi giấy tờ hợp lệ có sẵn, và ông Tuyên cũng sẵn sàng để ký tên.

Hôm nay Khoa về nhà hơi muộn, cô Nâu cũng vừa mang cơm đến. Dù đã ăn ở nhà bạn khá no, Khoa vẫn ăn cơm của cô Nâu cho cô vui lòng, và chính anh cũng muốn thế, để giữ chân cô. Nhiều ngày nay đã thân quen, cô ở lại đợi anh ăn cơm xong và dọn dẹp chén bát rửa ráy tại chỗ luôn. Họ đôi bóng như đôi vợ chồng son.

Khoa ngắm cô Nâu đang đứng rửa bát, cô mặc bộ đồ bộ lụa mát màu xanh nước biển nhạt, hở vai và đôi cánh tay trần giống như Huyền ngày nào đã làm anh bừng dậy một niềm khao khát. Hôm nay anh gặp lại niềm khao khát ấy.

Bất chợt cô Nâu quay đầu lại, nhìn nét mặt bần thần của anh, cô ngây thơ nũng nịu:

- Anh nhìn trộm em và chê em gì hả? hả?

Trong đôi mắt đen thăm thẳm của người con gái đầy vẻ bí hiểm và thông minh, có lẽ cô Nâu lại đọc được ý nghĩ trong đầu óc anh như khi cô chỉ là con bé Mốc 13 tuổi năm xưa.

Anh bối rối chưa biết nói sao thì cô gái nũng nịu tiếp:

- Bắt thền anh đó, anh nhìn em hoài làm em rửa chén không có sạch nè !!

Anh như bị mê hoặc đến bên cô Nâu và vòng tay ôm lấy đôi vai tròn của cô:

- Anh đền em đây…

Toàn thân cô gái tựa vào người anh, làm người anh nóng bừng lên, anh xiết chặt thân thể mềm mại của cô Nâu trong vòng tay của mình, thì thầm:

- Anh yêu em qúa Nâu ơi…

- Em cũng yêu anh…

Cô bạo dạn thêm:

- Em yêu anh từ hồi em còn là bé Mốc lận, anh không biết đâu, mỗi lần anh tắm em đều lẩn quẩn ở ngoài vườn, chỉ để ngửi mùi xà bông rất thơm tho của anh…

Cô áp mặt, dụi dụi vào ngực áo anh rồi hỏi:

- Sao bây giờ anh xài mùi xà bông khác ? em không thấy giống mùi cũ nữa…

Khoa càng mê man:

- Em yêu anh đến thế ư? Em nhớ cả mùi xà bông tắm của anh ư? Ừ, ngày xưa anh dùng xà bông Coast, qùa từ bên Mỹ gởi về, anh thích mùi ấy lắm, nhưng bây giờ anh qua Mỹ thì không còn xà bông hiệu này nữa, nên anh dùng loại khác.

- Có lần anh tắm xong, anh rủ chị Huyền vào phòng, em buồn lắm, em ganh với chị Huyền vì đã có anh.

- Trời ơi, em còn nhớ vụ ấy hả? Anh xin lỗi Nâu, hôm nay anh sẽ đền cho Nâu ….

Người Khoa như lên cơn sốt, quay cuồng, tối tăm mặt mũi, anh không biết gì đến trời đất bên ngoài. Chỉ có cô Nâu xinh đẹp và quyến rũ tuyệt vời trong căn nhà vắng đồng lõa, đồng tình.

Chiếm được thân thể cô Nâu với tình yêu đáp trả nhiệt tình của cô, Khoa bỗng là một chàng trai mới lớn đang yêu và si tình, ngày nào anh cũng mong chờ cô Nâu. Cách đây 6 năm làm sao Khoa có thể nghĩ sau này mình sẽ yêu con bé Mốc đến thế này?

Cánh cổng sắt ngôi nhà mở đón cô vào, và khép chặt để không bị ai làm phiền, ngoại trừ những lần có hẹn cho người môi giới dẫn khách đến coi nhà.

Anh yêu Nâu thật rồi hay chỉ là một cơn choáng ? anh chẳng tha thiết gì đến chuyện trở về Mỹ với vợ con. Khoa còn đang như một cánh buồm lênh đênh trên biển.

“Anh chỉ là một cánh buồm tuyệt vọng,
Giữa biển khơi không biết rẽ lối nào?
Ở nơi đâu cũng là em, là sóng,
Vỗ vào đời anh hạnh phúc, thương đau”

Tình yêu đã làm anh lãng mạn, anh làm 4 câu thơ ấy, đọc cho cô Nâu nghe, không biết cô Nâu có hiểu thơ không mà cô đã khóc trong lòng anh.

Khoa buồn bã và thành thật khuyên cô:

- Dù muốn dù không anh cũng phải về Mỹ. Anh yêu em, nhưng không thể bỏ vợ con được. Em hãy quên anh đi Nâu nhé ?

Cô Nâu trả lời trong nước mắt:

- Em chỉ lấy người đàn ông nào giống hệt như anh thôi, hoặc là em sẽ đợi chờ anh về Việt Nam thăm em, làm người vợ không bao giờ cưới của anh, giống như một tuồng cải lương cũ má con em hay coi….

- Tội em qúa ! mấy kiếp nữa anh cũng không đủ trả nợ tình cho em.

Khoa đã đồng ý bán nhà, vì không còn thời gian chần chờ thêm nữa. Khách hẹn sẽ đến coi lần cuối trước khi chồng tiền và tiến hành thủ tục giấy tờ.

Những ngày hiếm hoi còn lại anh càng say sưa yêu cuồng yêu vội cô Nâu hơn nữa.

Nhưng chiều nay người giao cơm không phải là cô Nâu mà là mẹ cô, bà Năm Thêu, làm Khoa thất vọng và ngạc nhiên.

Bà Năm Thêu theo Khoa vào trong nhà, tự động ngồi xuống ghế và lên tiếng trước:

- Tôi biểu con Nâu ở nhà để tôi sang nói chuyện với cậu.

Linh tính báo cho Khoa biết một điều gì đó không hay đang xảy ra cho Nâu và cho anh. Bà Năm Thêu nhìn thẳng vào mặt Khoa và tiếp như quan tòa lên án:

- Tôi đã biết chuyện tằng tịu giữa cậu và con Nâu nhà tôi. Bây giờ cậu tính sao?

Biết không thể chối cãi được, Khoa đành buông xuôi:

- Tôi trót yêu Nâu, yêu rất nhiều bác biết không?

- Nhưng cậu cũng phải tính sao chứ, không lẽ cậu hưởng con nhỏ cho đã đời rồi khơi khơi về Mỹ với vợ con cậu như không có chuyện gì xảy ra ?

Khoa khổ sở:

- Tôi cũng không biết mình phải làm gì nữa, thật tình tôi đau buồn khi chia tay Nâu.

Bà Năm Thêu đanh thép:

- Cậu phải cưới nó, giữ danh dự đời con gái cho nó.

Khoa hoảng hốt:

- Bác Năm Thêu biết tôi còn vợ, còn con mà…

Giơ cao đánh khẽ, bà Năm Thêu xuống giọng tử tế:

- Thôi, không ai nỡ làm gia đình cậu xào xáo ly tan, nhưng cậu phải đền bù đời con gái con tôi cho xứng đáng, cậu giúp nó một số tiền làm vốn, làm lại cuộc đời. Tôi sẽ bỏ qua chuyện này.

Khoa cũng đã nghĩ tới điều này, vì tình yêu anh dành cho cô Nâu chứ không phải vì bị cưỡng bức, đòi hỏi như bây giờ, nên Khoa đồng ý ngay:

- Điều này tôi có thể làm được, tôi cũng muốn giúp Nâu có cuộc sống khá hơn.

Bà Năm Thêu đòi hỏi huỵch toẹt:

- Cụ thể tôi đề nghị cậu cho nó 10 ngàn đô la Mỹ.

- Mười ngàn đô la Mỹ?

Thấy phản ứng của Khoa sửng sốt ngạc nhiên và không hài lòng bà Năm Thêu giáng một đòn đe dọa:

- Nếu cậu muốn trong ấm ngoài êm, chuyện tình của cậu và con Nâu hàng xóm láng giềng chưa ai hay biết đâu. Tôi thề sẽ giữ kín, cậu mới bán nhà được gía qúa mà, tiếc chi món tiền này.

Mười ngàn đô la là số tiền không nhỏ, ngoài dự tính của Khoa, nhưng tội anh to lớn qúa, làm hại đời con gái trinh trắng của cô Nâu, và anh cần bảo vệ hạnh phúc gia đình, với gía ấy vẫn còn rẻ.

Khoa ngẫm nghĩ và đồng ý. Cũng may anh chưa gọi phôn báo cho vợ về gía cả căn nhà mà anh vừa quyết định bán, nên anh có thể thêm đầu này bớt đầu kia cho hợp lý và Huyền sẽ tin, miễn là bán xong căn nhà cho rảnh tay.

***

Khoa về Mỹ, lại lao vào cuộc sống hàng ngày.

Một năm trôi qua, tình yêu nóng bỏng dành cho cô Nâu qủa là một cơn chóang, đã vơi dần theo ngày tháng vì xa mặt cách lòng. Khi lạc vào biển yêu trong hoàn cảnh trái ngang ai cũng chỉ là cánh buồm tuyệt vọng, ngẩn ngơ.

Bây giờ tỉnh người ra anh mới thấy mình hư qúa, vô tình đã phản bội vợ và hại đời con gái của cô Nâu .

.Anh thấy lòng tạm thanh thản, với 10 ngàn đô la, có thể đã giúp cô Nâu hay gia đình cô thay đổi cuộc sống khá hơn với một ngành nghề nào đó. Anh chỉ cầu mong cô Nâu sẽ gặp được người đàn ông giống anh, cho cô yêu và lấy làm chồng thì anh mới thật sự yên tâm.

Một hôm Huyền hỏi chồng:

- Anh có nhớ nhà bà Năm Thêu ở phía sau nhà mình ngày xưa không?

Khoa giật bắn người, tim anh đập thình thịch chỉ sợ nghe vợ nói ra những điều tội lỗi thầm kín của anh, nhưng Huyền vẫn vô tư kể tiếp:

- Bà Năm Thêu má bé Mốc, con bé ngày xưa bế con mình đó, nhớ ra chưa?

Khoa dè dặt:

- Biết rồi, sao?

- Chị bạn cùng xóm mới về Việt Nam qua kể lại là năm rồi nhà bà Năm Thêu trúng mối gì không biết, bỗng khá gỉa lắm, có tiền sắm ti vi, xe gắn máy và đồ đạc trong nhà. Nhưng sắm bao nhiêu bà lần hồi bán bấy nhiêu vì bài bạc và số đề…

Khoa buột miệng:

- Tội nghiệp qúa !

Vợ anh chép miệng theo:

- Chưa tội nghiệp bằng con Mốc, tên nó là Nâu, bây giờ người ta đồn nó bị bệnh Aids rồi, nên hàng cơm bà Năm Thêu bị ế ẩm, không ai dám ăn, cảnh nhà càng khốn khổ.

- Trời ơi ! cô Nâu bị..bị…??

Vợ anh lập lại:

- Bị bệnh Aids, tội con bé qúa hở anh? Bé Mốc hồi mới lớn, mới trổ mã đã đi bán bia ôm, làm gái rồi, nhưng kiếm tiền sao cho xuể với người mẹ ham mê bài bạc quanh năm suốt tháng. Trước sau gì cũng đi đến bước đường cùng này thôi.

Trong lời nói và cử chỉ của vợ, Khoa tin là Huyền không hề hay biết gì chuyện tình cảm của anh và cô Nâu. Bà Năm Thêu dù là người tệ hại thế nào, ít ra cũng biết giữ lời hứa, không xì ra chuyện anh đã ngủ với con gái bà, mà nói ra thì mẹ con bà cũng mang tiếng xấu chứ hay ho gì. Có lẽ đó mới là cái “tình làng nghĩa xóm” của bà, mà anh mong muốn nhất.

Bây giờ Khoa đã hiểu vì sao bà Năm Thêu đon đã hỏi thăm anh, mời anh ăn cơm hàng nhà bà và gài độ cho cô Nâu, đứa con gái đã từng bán thân nuôi miệng, nuôi cả gia đình, đến với anh, như một đứa con gái trong trắng con nhà nghèo hiền lành, để anh lọt vào cạm bẫy tình yêu của mẹ con cô.

Bây giờ anh cũng hiểu con bé Mốc thuở lên 13, không hề là đứa trẻ ngây thơ, nó đã tinh ranh, biết rình rập khi anh tắm và khi vợ chồng anh vào phòng ngủ.

Thảo nào khi hai người gần gũi, cô Nâu đã tỏ ra rất nhiệt tình, biết cách làm cho anh thêm say đắm.

Suốt mấy tuần lễ cô Nâu mang cơm cho anh, cô đã đóng vai kịch con nhà nghèo, ngây thơ, thật xuất sắc, qua mặt thằng đàn ông thật thà và nhiều tình cảm như anh dễ dàng. Những giọt nước mắt, những lời thổn thức yêu đương của cô dành cho anh, có lẽ cô cũng từng dành cho nhiều người đàn ông khác để làm họ hồn siêu phách tán. Đó là nghề của cô.

Khoa thấp thỏm lo âu lén vợ đi thử máu, xem có dương tính HIV không, có bị lây nhiễm từ cô Nâu không? mặc dù một năm qua anh không thấy có dấu hiệu gì khác lạ cho sức khỏe.

Kết qủa thử máu làm anh sung sướng như vừa được cứu sống từ cõi chết, anh bình thường không hề bị HIV.

Có thể cô Nâu bị bệnh HIV nhưng may mắn cho anh đã không bị lây nhiễm? hoặc có thể sau khi chia tay anh cô Nâu mới bị bệnh HIV, khi cô giao tiếp với những người đàn ông khác??

Thôi, dù vì lý do gì anh cũng hãy cảm tạ thượng đế đã che chở cho anh an toàn sau một cơn sốt tình mê dại.

Anh đã trả gía cho cơn sốt tình ấy 10 ngàn đô la, qúa đắt so với “gía cả” bình thường của cô Nâu “đi” với những người đàn ông khác, và suýt nữa bằng cả sinh mạng của anh và vợ anh, cũng như tương lai của hai con sẽ ảnh hưởng không biết tai hại đến chừng nào.

Nguyễn Thị Thanh Dương
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=495818244260376&set=a.170866793422191&type=3&theater

BachMa
04-04-2019, 02:24 AM
Xin Gởi Vào Thiên Thu
Đoàn Minh Chiếu
(phu nhân của một cựu Thiếu Tá khóa 11/SQTBTĐ)
Truyện được viết theo chuyện kể của một thương binh VNCH.

Người viết: bà Đoàn minh Chiếu thân hữu Hội Cựu QDCC& Hậu Duệ St Louis, Missouri
-Sinh năm 1943 Tại Nha Trang
-Nữ Sinh TH/Đệ nhị cấp Kim Yến Nha Trang
-Chuyên viên Tiếp Liệu Binh Đoàn TĐ631/Yểm trợ Truyền Tin
-Nhân viên MACV phòng cố vấn Mỹ tại TĐ 631/YTTT
-Nhân viên phòng Chiến Tranh Tâm Lý thuộc BTLHQ/QLVNCH
-Người chuyển bài Vũ Hải

Chiếc xe gắn máy do một người đàn ông lái chở Tuệ từ Sàigòn về hướng Biên Hòa, sau 30 phút đã dừng lại tại một điểm bên xa lộ. Tuệ rời xe với chiếc nạng gỗ, anh rút túi đưa tiền cho người lái xe ôm, nói lời cám ơn rồi vội vã nhấc từng bước đi vào nghĩa trang QĐ/VNCH Biên Hòa. Tuệ đưa mắt nhìn một lượt quang cảnh trước mặt, mọi vật còn giữ lại đôi nét cũ xưa. Cổng tam quan vẫn đứng sừng sững giữa trời mang dấu vết của hai hàng chữ kiên định trên hai thân cột, bên phải “ Vì dân chiến đấu”, bên trái “Vì nước hy sinh”. Những hàng chữ này trước 75 đã được sơn son thếp vàng trân trọng, ghi khắc lòng ngưỡng mộ tôn kính đối với những người con yêu của Tổ Quốc. mặc dù sau 30/4/75 bọn việt cộng đã vội vàng đục bỏ những khầu hiệu cao quý đầy ý nghĩa này, cũng như chúng đã kéo sập bức tượng “Thương Tiếc” người chiến sĩ Quốc Gia được đặt trước Nghĩa trang Quân Đội, nhưng dưới ánh mặt trời chúng không thể che dấu hay xóa bỏ được lòng dũng cảm của trên 14 ngàn Chiến Sĩ Quốc Gia đã vùi chôn thân xác trong lòng đất mẹ.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1553718156-NghiaTrang_01.jpg
Bức tượng "Thương Tiếc" Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa trước 1975

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1553718169-NghiaTrang_02.jpg
Bức tượng "Thương Tiếc" Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa sau 1975

Tuệ khó khăn bước lên từng bậc cấp với chiếc nạng gỗ trong tay, dưới chân anh là những vết rạn nứt bởi thời gian, vì mấy chục năm qua chính quyền việt cộng cấm không cho thân nhân được phép viếng thăm nói chi đến việc sửa sang hay trùng tu những mộ phần đã bị sụp đổ. Phải chăng chúng quá sợ hãi lòng ngưỡng mộ của đồng bào miền Nam dành cho những người đã chết vì Chính Nghĩa Quốc Gia.?

Sau nhiều cố gắng Tuệ cũng đã lên được nghĩa trang anh đưa tay áo thấm mấy giọt mồ hôi trên trán và dừng lại dưới một bóng mát nghỉ chân. Nắng vừa lên cao chiếu xuống những hàng cây còn đọng lớp sương mai, Tuệ liên tưởng đến những ngấn lệ của mẹ già, của những người cô phụ bên đàn con nhỏ đã từng dìu dắt đến đây với bao nỗi đau xót ngậm ngùi để tiễn biệt người thân yêu của mình trong một lần cuối…

Ngồi đây Tuệ có thể nhìn về một góc đồi xa, những hàng cây cao vút vẫn còn đó, chúng đã trải qua bao năm tháng dưới mưa dầm nắng cháy để minh chứng trước “hồn thiêng sông núi” cho hàng hàng lớp lớp người trai , đã hy sinh xương máu trong các cuộc chiến chống kẻ thù cộng sản miền bắc xâm lược.

Từ ngày miền Nam bị bức tử cũng là ngày toàn dân Nam hối hả bỏ nước ra đi , thêm một lần nữa súng đạn của kẻ thù cộng sản hung tàn đã làm tan nát quê hương này, gây ra bao cảnh máu lửa điêu linh cho hàng vạn dân lành vô tội trong ngày 30/4/75.

Nghĩ đến đây, Tuệ thấy lòng se thắt, một cái gì đang còn khuất tất trong tim. Anh cúi nhặt một hòn sỏi và ném mạnh vào hư không, chợt một cánh chim từ trên cành cao bay sà xuống rồi vút lên mất dạng trong vòm trời bao la. Tuệ ngước nhìn bầu trời xanh lơ, vài sợi mây trắng buông lơi giữa không gian huyền diệu , gợi anh nhớ đến những cánh dù căng gió, mang đầy ắp những kỷ niệm oai hùng trong đời quân ngũ.

Vừa tốt nghiệp Đại học xong, Tuệ quyết định dấn thân vào đường binh nghiệp để phục vụ đất nước. Cánh dù từng là tri kỷ đối với Tuệ, nó đồng hành bên anh trong các cuộc hành quân cam khổ khi chọn điểm để rơi giữa lòng địch, khi nương theo chiều gió và đáp xuống những vùng rừng thiêng nước độc, nơi chưa có dấu chân người khai phá, trước khi toán anh chờ lệnh đến tọa độ.

Nó đã bao lần cùng anh đặt chân lên những vùng đất giao tranh đầy lửa đạn, bao lần hoan ca trong chiến thắng huy hoàng, và cũng nhiều lúc đớn đau nghiêng mình trước những hy sinh cao cả của anh em đồng đội. Là chiến sĩ anh luôn đặt mình trong danh dự và trách nhiệm. Khi chiến trường sôi động, nhận lệnh, anh hăng hái lên đường đến vùng lửa đạn nơi đang xảy ra những cuộc tranh hùng, tử thủ của những người chiến sĩ can trường đã xông pha giành lại từng tấc đất cho quê hương này. Cuộc đời anh như cánh diều luôn bạt ngàn trong gió, ít nhiều đã làm thỏa chí tang bồng của người trai thời loạn.

Cho đến một ngày…ngày Tuệ bàng hoàng nuốt lệ rời xa cánh dù vĩnh viễn, khi anh để lại chiến trường Bình Long một phần thân thể của mình vào đầu (Tuệ mất chân trái khi anh đáp xuống trên bãi mìn) vào năm 1975.

Anh được đưa về điều trị tại Tổng Y Viện Cộng Hòa nơi đây anh được chăm sóc đặc biệt về thể chất đến tinh thần. Cùng phòng với anh có nhiều chiến sĩ toàn thân bị thương tích, nhưng các anh không một lời kêu than hay oán trách, có lẽ Danh Dự và Trách Nhiệm trên đôi vai người Chiến Sĩ Quốc Gia đã cho họ sự vững mạnh và chí khí?Tuệ còn nhớ, hôm ấy là ngày 30-4-75. Một sự thật não lòng đã bất ngờ xẩy ra tại Tổng Y Viện Cộng Hòa. Tin cộng quân cưỡng chiếm Sàigòn, không lâu chúng đã tràn vào Tổng Y Viện và yêu cầu tất cả thương bệnh binh “khẩn trương” rời khỏi bệnh viện theo lệnh của chúng.Trước một sự thật qúa phũ phàng, các anh không khỏi bàng hoàng do dự, nhưng chỉ trong thoáng chốc khi chạm phải những bộ mặt rừng rú, những người thương bệnh binh đã lấy lại sự bình tĩnh để chỗi dậy.

Họ chấp nhận ra đi đang khi thân thể mang đầy thương tích, còn hơn phải đối diện với kẻ thù trước cảnh thảm bại đầy tủi nhục này. Tâm hồn họ buốt đau như cánh chim bị đạn, họ cảm thấy bị chới với như con thuyền mất định hướng giữa trùng khơi . Trong lúc này không ai còn thốt lên được lời nào dù chỉ một lời chia tay. Tuệ cũng như số đông các anh em khác đang từ từ tiến ra khỏi phòng bệnh, họ cố dấu trong tim sự bẽ bàng tủi hổ của người đã từng cầm súng xông pha diệt thù bảo vệ non sông.

Từng bước di chuyển của mỗi người thương bệnh binh, là từng nỗi đau gậm nhấm trong tinh thần và trên thân xác đang mang đầy những vết thương còn rướm máu của chiến trường, nhưng họ vẫn thu hết can đảm trong hơi thở tàn để ngẩng mặt mà đi trước đôi mắt hằn học vô cảm của kẻ thù xâm lược, vì họ là những thương binh có Lý Tưởng và Danh Dự, bỗng chốc trở thành kẻ sa cơ lạc bước trên đường đời như đàn con mất mẹ sau lệnh buông súng đầu hàng nhục nhã của Dương văn Minh, để giao nửa phần giang sơn còn lại cho việt cộng.

Rồi đây họ sẽ về đâu, dưới một trời đầy giông bão? Nhất là một số các thương binh có gia đình còn kẹt trong vùng lửa đạn, vì bận đi chinh chiến lâu ngày họ không nhận được tin tức ở quê nhà. Nhiều anh đau đớn kéo lê khúc chân mới được băng bó còn rướm máu. Có những anh bị mất cả hai chân hay bị mù cả hai mắt phải nhờ bạn đưa ra cổng. Trong phòng hồi sinh còn nằm la liệt những thương binh từ chiến trường mới được tải thương về hôm trước, thân thể và trên đầu còn quấn những băng trắng thấm máu, họ đang nằm tiếp dưỡng bằng những ống dẫn thuốc và bình nước biển treo lủng lẳng trên đầu giường cũng phải đứng dậy mà đi, và còn rất nhiều thảm cảnh khác trong bệnh viện mà bất cứ ai có chút nhân tâm cũng thấy mủi lòng xót xa cho số phận những người thương bệnh binh trong ngày quốc nạn 30-4-75. Những sự kiện đau khổ ấy không chỉ đến với họ trong một ngày, nhưng các anh còn phải hứng chịu nhiều sự bạc đãi cho đến về sau.

“Hỡi Đấng chí Cao! Thù nước chưa trả xong, ai đã nhẫn tâm đem màn đêm bao trùm lên những mảnh đời tan tác này ?”

Thật đau lòng khi nghĩ đến những người thương bệnh binh VNCH phải sống một cuộc sống đầy tủi nhục dưới chế độ cộng sản.

Họ thiếu tình thương và sự nể trọng của mọi người, họ sống âm thầm trong cảnh cơ cực bần hàn giữa sự ghẻ lạnh đến tàn nhẫn của xã hội. Từng ngày qua, họ lê tấm thân tìm kiếm mưu sinh trên các hè phố đông người, để góp nhặt những chiếc lon hay bao nhựa rơi vãi trên lề đường, hầu mong có chút tiền độ nhât giữa lòng một thành phố mang tiếng là đổi mới với những cao ốc của các cấp cầm quyền quan lại tham ô, những dinh thự đồ sộ nguy nga ngày đêm luôn có người hầu kẻ gác của bọn tư sản đỏ thi nhau mọc lên như nấm. Một xã hội mất gốc đang lao mình học đòi theo lối sống vật chất xa hoa tội lỗi, mặc cho luân lý đạo đức suy đồi, có mấy ai còn biết tôn trọng nhân cách để quan tâm đến những con người cùng khổ này?

Họ là những ai?

Phải chăng họ là những người con yêu của đất nước, là những chiến sĩ can trường đã góp phần xương máu đẩy lùi những bước xâm lược của cộng sản vào miền Nam, suốt mấy mươi năm dài cho đến khi quê hương bị bức tử.

Tuệ cũng như các anh thương binh khác, ngày bị xua đuổi ra khỏi bệnh viện trong một bối cảnh lịch sử thật đau lòng. Tuệ lầm lũi đi trên đường Võ di Nguy Phú Nhuận để về nhà, lòng anh như dao cắt, khi nhìn nửa phần đất nước còn lại hôm nay đã rơi vào tay kẻ thù. Định mệnh sao qúa khắt khe với Dân Tộc Việt Nam, máu đã chảy thành sông, xương đã chất thành núi của một thế hệ vừa nằm xuống để cuối cùng phải nhận một hâu qủa đầy bi đát như thế này sao?

Xa vắng gia đình đã lâu, giờ đây Tuệ như cánh chim tìm về tổ ấm, nơi đó chính là nguồn an ủi duy nhất cho quãng đời còn lại của chàng…

Bỗng Tuệ dừng bước trước một địa chỉ thân quen, nơi mà trước đây từng đón anh với nụ cười nở rộng, những ánh mắt chan chứa tình thương của mẹ hiền và em dại. Hôm nay thì cửa đóng then cài như vô tình ném vào mắt anh một thái độ hờ hững lạnh lùng, một thách đố cuồng bạo, vô hình trung đã dập tắp trong anh niềm tin vừa nhen nhúm.

Tuệ đứng lặng người như kẻ mất hồn, cảnh cũ còn đây mà người xưa đâu thấy ? Bất giác hai hàng nước mắt tuôn dài trên má Tuệ, tâm hồn anh như đang rơi xuống tột cùng của một vũng sâu tăm tối. Lần đầu tiên Tuệ chảy nước mắt trước nghịch cảnh cuộc đời.

-Phải, Tuệ đã khóc !

Anh khóc cho ngày quê hương bị bức tử cho những bước chân tháo chạy bất chấp mọi hiểm nguy để tìm hai chữ “Tự Do”, và khóc cho nỗi cô đơn của chính mình!

Trong lúc Tuệ còn bối rối chưa biết xử trí thế nào, dù sao anh cũng cần có chỗ để nghỉ ngơi, Tuệ chợt nhìn thấy một người sửa xe bên lề đường anh liền đến mượn một thanh sắt nạy chốt cửa để vào nhà. Cảnh vật bên trong không thay đổi, chỉ có những ngăn tủ được kéo ra nửa chừng còn vung vãi đồ đạc ra ngoài, chứng tỏ gia đình anh đã ra đi trong giây phút vội vàng. Qua mấy ngày nghỉ ngơi yên tĩnh Tuệ đã lấy lại sức khoẻ phần nào. Tuy vậy lòng anh vẫn canh cánh một nỗi buồn vì thiếu vắng người thân, chàng không khỏi lo lắng cho sự ra đi đầy gian khổ của gia đình.

Mới độ nào, trong một ngày về thăm nhà, không khí gia đình thật vui vẻ, lúc nào bên anh cũng có những tiếng cười nói của cha mẹ và các em. Hôm nay căn nhà trở nên quạnh quẽ đìu hiu , tuy nhiên trong âm vang xa vời ấy như vẫn còn lưu lại chút nguồn sinh khí trong hơi thở của chàng, nó bồi đắp phần nào sự mất mát to lớn của người thương binh ấy.

Không ngờ sau một tuần được hưởng sự bình yên trong ngôi nhà ấm cúng của cha mẹ. Buổi sáng hôm ấy Tuệ đang nằm đọc sách, bỗng có nhiều tiếng đập cửa, chàng đứng lên và ra mở cửa, một toán người mặc quân phục và có mang súng bước vào nhà, chúng bảo Tuệ xuất trình giấy chủ quyển nhà.

Tuệ nói “gia đình đi về quê không để giấy tờ ở ngoài”.

Chúng thấy Tuệ không có giấy chủ quyền nhà, liền đọc lệnh tiếp thu của “Uỷ Ban Quân Quản” , buộc Tuệ phải ra khỏi căn nhà này ngay, và chúng nói “Nhà này thuộc thành phần tư bản đã bỏ chạy theo đế quốc, phải bị niêm phong”

Thế là một lần nữa, Tuệ phải ra đi trong tủi hận, anh ngậm ngùi quay lại nhìn ngôi nhà thân yêu một lần chót, nơi ấy đã chất chứa biết bao kỷ niệm thăng trầm trong cuộc sống của gia đình anh từ mấy chục năm qua, bỗng nhiên bị tước đoạt cách trắng trợn bởi lũ người tự nhận là giải phóng..Chúng đã giải phóng đồng bào ra khỏi sự bình yên bằng bàn tay bạo lực.

Thời gian trôi qua hơn một tháng trong cảnh lang thang không nhà, Tuệ phải bán chiếc đồng hồ đeo tay của anh để mua một chiếc bàn xếp nhỏ và một số thuốc lá để bày bán bên lề đường, khi đêm về Tuệ vào nghỉ trong lều chợ đến sáng hôm sau anh lại trở ra lề đường để kiếm kế sinh nhai. Và như thế cho đến một hôm, Tuệ vào trú mưa bên hè phố tình cờ anh đã gặp lại Tuyên, người bạn cũ trong đơn vị dù của chàng trước đây. Tuyên là thuộc cấp của Tuệ, hai bạn gặp nhau trong cảnh đời lam lũ họ xiết bao vui mừng, họ nóng lòng hỏi thăm tin tức của nhau như ruột thịt. Tuyên có vợ một con, anh hiện sống bằng nghề mua rau cải từ chợ cầu Muối đem bỏ mối cho các chợ nhỏ vùng lân cận. Tuệ cũng kể hoàn cảnh của mình cho Tuyên nghe, Tuyên rất cảm động không ngờ Tuệ bây giờ phải chịu một cuộc sống bi đát như thế! Bỗng Tuyên nhìn sâu vào mắt Tuệ với nét mặt chân thành Tuyên nói:

Tuệ, anh về nhà tôi ở.

Thấy Tuệ không trả lời Tuyên nói tiếp:

-Tụi mình là bạn với nhau trong quân ngũ anh còn ngại gì? Hơn nữa anh cứ ở ngoài chợ bất tiện lắm, nhỡ khi đau ốm thì sao?

Tuệ mỉm cười nhìn bạn anh nói;

-Tôi biết anh có lòng tốt muốn giúp tôi, nhưng anh còn…

Tuyên hiểu ý Tuệ còn ngại vợ Tuyên, anh vồn vã ngắt ngang lời Tuệ:

-Anh khỏi lo, vợ tôi hiền lành và tốt bụng…

Hiểu được chân tình của bạn, Tuệ vui vẻ bắt tay Tuyên để tỏ lòng biết ơn, hai bàn tay xương xẩu xiết chặt nhau như không muốn lìa xa. Chiều hôm ấy khi trời vừa dứt cơn mưa, Tuyên chở Tuệ về nhà chàng trên chiếc ba gác còn vươn lại những lá rau cải, họ tiếp nối câu chuyện trên đường cho đến khi xe rẽ vào một ngõ hẻm quanh co, dẫn đến khu nhà sàn ở ven sông cầu Trương minh Giảng, Tuyên đưa Tuệ vào nhà, đó là căn nhà sàn bằng ván được đắp vá bởi những miếng cartons. Tuyên liền giới thiệu Tuệ với Thanh vợ của chàng và cho Thanh biết ý định của mình là mời Tuệ về ở chung để anh em có nhau trong cảnh xế chiều.

Thanh nghe Tuyên nói, nàng vui vẻ tiếp lời chồng:

Phải đó anh Tuệ, anh nên về ở đây với anh Tuyên. Chúng ta bây giờ là những kẻ bị đắm tàu, mình nên đùm bọc nhau nếu không bằng vật chất thì ít ra cũng trong tinh thần “Huynh đệ chi binh”! Nghe Thanh nói với vẻ mặt ân cần, cả ba đều cười tươi vui vẻ.

Từ hôm ấy, Tuệ không còn đơn độc nữa, vợ chồng Tuyên đối với Tuệ như người thân trong gia đình. Phần Tuệ, sau một ngày kiếm sống bên lề đường với chiếc bàn con bán thuốc lá, tối về anh tìm nguồn vui trong việc dạy kèm cho đứa con trai của Tuyên đang học lớp 8.

Từ ngày gia đình Tuyên có thêm Tuệ, cảnh sống vẫn đơn nghèo nhưng hạnh phúc của họ được nhân lên trong tình người. Tuệ không ngờ việc làm nhỏ bé ấy đã mang đến cho chàng niềm khích lệ qua các cuộc thi sát hạch có thành qủa đáng khen ở trường của con trai Tuyên, nhờ đó Tuệ được nhiều người trong xóm biết đến và cảm mến anh qua vợ chồng Tuyên. Họ gởi con đến nhờ Tuệ kèm vào buổi tối, từ đó Tuệ trở thành ông giáo trong xóm nhỏ.

Môt buổi chiều trên đường về nhà, Tuệ nghe như có ai gọi tên mình, chàng vội quay lại. Thoa đang đứng trước cửa tiệm may của nàng chờ Tuệ đến, chàng vui vẻ hòi Thoa:

- Có gì không cô Thoa?

- Dạ em định nhờ anh kèm dùm toán cho Huy, em trai của em.

Tuệ hỏi: Huy đang học lớp mấy?

-Dạ nó đang học lớp 9, em nhờ anh giúp nó vào cuối tuần.

Tuệ nói: tôi chỉ rảnh vào buổi tối, vậy khi nào cô cho Huy đến học?

Thoa ngập ngừng vài giây và nói:

-Em muốn thưa với anh một việc không biết có trở ngại gì cho anh không?

Tuệ trả lời nàng: có gì cô cứ nói, nếu được tôi xin sẵn sàng.

-Em muốn mời anh đến nhà kèm nó, vì buổi tối nếu Huy đi vắng chỉ có một mình ở nhà em ngại lắm!

Tuệ suy nghĩ vài giây anh trả lời:

Được chiều mai tôi sẽ đến lúc 7 giờ.

Hai người chào tạm biệt và hẹn sẽ gặp lại.

Thoa có một tiệm may nhỏ gần mặt đường Trương minh Giảng. Thân phụ Thoa lúc sanh tiền là một Sĩ Quan Không Quân cao cấp. Ông đã anh dũng đền nợ nước khi lái oanh tạc cơ ra bắc cách đây gần 10 năm. Mặc dù thân xác không còn nhưng QLVNCH đã trân trọng vinh danh, làm lễ truy điệu theo quân cách và dựng tấm bia danh dự khắc tên của thân phụ nàng đặt trong nghĩa trang Quân Đội Biên Hoà.

Sau biến cố đau buồn đó, mẹ Thoa buồn rầu lâm bệnh và không lâu bà đã qua đời. Từ đó cuộc đời Thoa bị rơi vào những chuỗi ngày đau khổ, nàng tìm quên trong bổn phận làm chị thay mẹ để yêu thương và chăm sóc cho em trai của nàng.

Có lẽ vì thế mà từ lâu Thoa chưa nghĩ đến việc riêng tư của mình. Thoa năm nay vừa 28 tuổi, nàng có một vẻ đẹp dịu hiền và đôi mắt hồ thu. Cô ăn mặc kín đáo nết na so với một số bạn gái đương thời.

Từ khi gặp Tuyên, Tuệ như vớ đuợc chiếc phao giữa giòng, vợ chồng Tuyên đã đem lại cho anh một không khí gia đình đầm ấm qua những bữa cơm chiều bên dĩa rau cà đơn sơ, họ chia sẻ cho nhau những cay đắng ngọt bùi sau một ngày lao động vất vả.

Thời gian Tuệ kèm toán cho Huy thấm thoát đã gần hai năm tròn. Tình cảm giữa Tuệ và chị em Thoa ngày càng thêm thân thiết. Thoa và Huy xem Tuệ như một người thân trong gia đình. Riêng Tuệ anh luôn giữ một tác phong đứng đắn khi tiếp xúc với Thoa và Huy, điều đó đã làm cho Thoa luôn chú ý đến chàng hơn. Đôi lúc ẩn mặt trong phòng, Thoa nhìn Tuệ qua bức rèm thưa, thấy anh đang chăm chú chỉ bài cho Huy: Tuệ có vầng trán rộng và đôi mắt sâu cương trực, nhưng không dấu được nỗi buồn đang ẩn khuất sau hàng mi thâm đen của chàng, cũng với đôi mắt này, đôi khi đã để lại trong lòng Thoa một thoáng buồn vu vơ hay một chút thẹn thùng nơi tâm tư thầm kín của người con gái đang yêu. Thoa thầm mong có dịp ngồi bên Tuệ để nghe Tuệ nói về đời chàng.

Thế rồi trời như cũng chìu lòng người! Hôm ấy vào một đêm cuối tuần, trời bỗng giăng mây xám và đổ mưa, những giọt mưa nặng hạt kéo dài đến nửa đêm làm cả khu xóm đều bị mất điện, vì thế sau giờ dạy học cho Huy Tuệ phải ngồi nán lại chờ qua cơn mưa. Bên ngọn đèn dầu vàng nhạt, mùi trầm hương từ bàn thờ của song thân lan tỏa làm cho bầu khí trong gian phòng Thoa thêm ấm cúng và trang nghiêm. Qua những mẫu chuyện vui thông thường, hai người đã đi dần vào tâm sự của nhau. Thoa kể từ khúc nhôi đau buồn của gia đình mình cho Tuệ nghe. Sau cái chết của thân phụ, chẳng bao lâu, rồi mẹ cũng qua đời. Kể đến đây Thoa không nén được nỗi lòng, nàng úp mặt vào đôi tay thổn thức.

Tuệ nhìn Thoa lòng anh trĩu xuống những giọt buồn, từng ngấn lệ trong mắt Thoa cơ hồ như mời gọi lòng trắc ẩn của chàng. Tuệ không còn giữ khoảng cách của mọi ngày, anh đưa tay vén những sợi tóc lòa xòa trên trán Thoa và nói:Thoa, đừng khóc nữa, anh xin lỗi đã vô tình khơi dậy nỗi đau buồn trong em.Thoa ngẩng nhìn Tuệ với đôi mắt còn ướt lệ, đôi má nàng ửng hồng như cánh hoa tím trong nắng sớm. Thoa có một vẻ đẹp dịu hiền thanh tú, một vóc dáng sang trọng quý phái của con nhà khuê các. Nàng là hiện thân của người phụ nữ đoan trang mà trước đây Tuệ đã từng mơ ước. Tuệ không muốn để Thoa kể tiếp câu chuyện buồn của nàng, anh cắt ngang bằng một câu nói hóm hỉnh: Bây giờ đến lượt anh, Thoa muốn anh kể chuyện vui hay buồn? Nghe Tuệ hỏi, Thoa lau vội nước mắt, nàng lấy lại vẻ mặt tự nhiên và hỏi:

Em có thể nghe được cả hai không?

Vẫn giọng hóm hỉnh Tuệ trả lời:

Nếu muốn anh kể cả hai khi nghe chuyện buồn của anh Thoa không được khóc nhá!

Thoa mỉm cười không nói, nàng yên lặng chờ đợi.

Gương mặt Tuệ thoáng vẻ trầm tư, đôi mắt chàng như tìm về một qúa khứ xa xăm, nơi có những kỷ niệm êm đềm mà từ lâu Tuệ đã muốn chôn chặt tận đáy lòng. Bằng một giọng trầm buồn, Tuệ chậm rãi kể cho Thoa nghe mối uẩn khúc của lòng mình.

Từ khi Tuệ rời sân trường Đại học để đi làm nhiệm vụ của nguời trai, tình yêu của chàng cũng bắt đầu chấp cánh. Người con gái mà chàng đã đặt tất cả kỳ vọng trong tim yêu giờ đã sang ngang, để lại cho chàng nỗi cô đơn rã rời. Nhưng thời gian vẫn là phương thuốc nhiệm mầu đã xoa dịu những vết thương nơi lòng người.

Đôi khi trong đời lính chiến, có những tình yêu chợt đến rồi chợt đi như cơn gió thoảng, như một đám mưa rào, lòng anh vẫn thản nhiên không luyến tiếc. Thế mà hôm nay khi đối diện với một tâm tình đáng yêu, trước vẻ đẹp đơn sơ của người con gái dịu hiền, nàng cũng chung mang một số phận khổ đau vì đất nước, tự nhiên lòng Tuệ dấy lên sự đồng cảm dạt dào, chàng thấy mình không còn cô đơn như vẫn tưởng. Trái tim khô héo của chàng bỗng rộn lên một tình khúc yêu thương.

Chợt Tuệ cầm lấy tay Thoa và gọi khẽ tên nàng, Thoa e thẹn cúi đầu với đôi rèm mi xao động, mớ tóc dài óng mượt che khuất một bên khuôn mắt trái xoan làm tăng thêm vẻ đẹp mơ huyền dưới ánh đèn khuya. Thoa lúng túng muốn lấy tay về, nhưng Tuệ đã giữ bàn tay nhỏ bé ấy trong tay chàng.
Ngoài trời mưa vẫn êm đềm rơi trong màn đêm cô quạnh. Phải chăng mưa đang xua tan bao nỗi sầu nhân thế, mưa ru mộng đời bên giấc ngủ cô đơn, đem nồng say lên môi tình nở muộn, và như thế…

Xin mặt trời hãy ngủ yên cho đêm dài vô tận!


***

Lệnh giải tỏa khu nhà sàn ven sông khu cầu Trương minh Giảng từ lâu đã làm xôn xao dư luận của một số cư dân thường trú ở đó, thế nhưng trong cảnh cùng túng họ đành buông xuôi cho số phận…

Hôm ấy là một đêm vào hạ tuần tháng 5, đang lúc mọi người đắm chìm trong giấc ngủ sau một ngày lam lũ khó nhọc. Bỗng có tiếng kêu la cầu cứu của một người trong nhà còn thức, họ vừa phát hiện một đóm lửa từ mặt sông của ai đó quẳng về hướng khu nhà sàn. Ngọn lửa bùng cháy nhanh và lan toả trên mái nhà. Họ đánh thức nhau dậy và tận dụng nhiều cách để dập tắt ngọn lửa oan nghiệt, đang thản nhiên thiêu rụi những mảnh đời chắp vá này. Nhưng không kịp vì ván và carton là loại mồi bắt lửa dễ dàng.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1553718207-NghiaTrang_03.jpg
Đền Tử sĩ-Cổng Tam Quan trước 1975

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1553718222-NghiaTrang_04.jpg
Đền Tử sĩ-Cổng Tam Quan sau 1975

Đêm hôm ấy, Tuyên bận đi gác dân phòng bên khu xóm khác, Tuệ đã giúp vợ con Tuyên mang được một số đồ đạc ra ngoài an toàn. Chợt có tiếng kêu cầu cứu của một cụ già vừa chạy ra khỏi nhà, còn lại đứa cháu nhỏ hai tuổi đang ngủ say bên trong, cha mẹ cháu phải đi bán hàng rong ở ga xe lửa. Tuệ nghe nói liền bỏ chiếc nạng, anh phóng người vào trong, lập tức vực đứa bé lên và ném nó ra ngoài cho những bàn tay đang chờ sẵn. Trong phút chốc ngọn lửa đã bốc cao lên mái, Tuệ phải trườn thật nhanh trong đám khói đen mù để thoát thân, vừa lúc ấy một cây đà ngang rớt xuống làm Tuệ phỏng nặng trên vai.

Rạng sáng Tuyên mới về, chàng nhìn khu nhà sàn bây giờ chỉ còn lại đống tro tàn ngun ngút khói, lòng anh buồn vô hạn..

Thoa nghe tin cũng vừa đến thăm chia buồn với gia đình Tuyên và Tuệ, nàng ngỏ ý mời gia đình Tuyên và Tuệ về tạm trú nơi nhà nàng. Trước cử chỉ ân cần của Thoa, vợ chồng Tuyên và Tuệ rầt cảm động. Thật lòng họ không muốn làm phiền Thoa, nhưng trong bước đường cùng, họ đành phải nhận lời mời của Thoa. Chỉ vài hôm sau Tuyên đã tìm được chỗ ở chung với người bà con bên Khánh Hội, chàng mời Tuệ về ở với gia đình chàng như trước đây, nhưng Tuệ không muốn làm phiền Tuyên, anh tỏ ý sẽ tìm một nơi ở khác.

Riêng Thoa nàng cố giữ Tuệ ở lại lâu hơn vì vết bỏng trên vai chàng khá nặng. Trước khi dọn về Khánh Hội, Tuyên đã đề vào túi áo Tuệ một ít tiền đi xe và một mảnh giấy ghi đia chỉ mới của chàng. Tuệ ngồi yên nhìn bạn với ánh mắt đầy cảm động. Đến giờ phút này, trong cảnh mất nước nhà tan, bạn bè vẫn còn giữ được cái nghĩa khí thiêng liêng của ngày nào trong quân ngũ. Ý Tuyên không muốn rời xa Tuệ, nhưng làm sao Tuệ có thể thật tình đến thế được ? Khi gia đình Tuyên đang khốn đốn trong cảnh ở nhờ, lại phải cưu mang thêm Tuệ nữa ? Ngược lại, nếu Tuệ không ở với Tuyên sau khi rời nhà Thoa, Chàng sẽ đi đâu ? Câu hỏi được đặt ra, nhưng câu trả lời chỉ là những tiếng thở dài trăn trở của Tuệ giữa đêm trường.

Qua cử chỉ săn sóc hằng ngày, Tuệ hiểu được Thoa rất mến yêu chàng. Nhưng định mệnh khá trớ trêu, nếu cơn mưa chiều đừng đổ xuống để nước mắt người em gái không tuôn rơi theo kỷ niệm của giòng đời, để bàn tay không tìm đến một bàn tay và đôi môi chưa nói lời yêu đương thật thà, thì hôm nay có đâu trái tim chàng phải đau xót khi nói lời chia tay ?

Tuệ thầm nghĩ: “ nêú chàng đón nhận tình yêu của Thoa trong lúc này, vô tình chàng sẽ làm khổ cho Thoa, điều đó Tuệ không bao giờ muốn dù với bất cứ hình thức nào”. Vì thế Tuệ phải khẩn cấp làm theo quyết định của mình, cho dù trái tim chàng đang rướm máu, Tuệ vẫn không để cho Thoa phải khổ vì yêu chàng. Tuệ thấy mình nên ra đi sớm để tránh gieo vào lòng Thoa những khổ lụy về sau. Tuệ liền thu xếp vài vật dụng cá nhân để vào trong xắc đeo vai của chàng, còn các thứ khác Tuyên đã mang đi trước. Đợi đến giờ Thoa đi chợ, Tuệ mới thực hiện được ý định của mình, chàng tiến ra một ngã tắt đến mặt đường, gặp chiếc xe ôm vừa trờ tới, không còn sự chọn lựa nào khàc chàng đưa tay ra dấu, chiếc xe ôm dừng lại Tuệ bước vội lên xe và bảo người lái xe ôm chạy về hướng Khánh Hội.

Khi về đến nhà, Thoa không thấy Tuệ ngồi xem sách ở thư phòng như mọi ngày, mắt nàng bắt gặp một mảnh giấy xếp đôi để trên bàn , Thoa cầm lên đọc:

“ Thoa,em!

Anh phải viết gì cho em trong phút chia tay này ?

Một lời cám ơn, ngàn lời thương hay vạn lời yêu, tất cả chỉ là những gì rất nhỏ, so với ân tình em đã dành cho anh trong những ngày qua. Anh xin được mang theo trong tim mình để mãi nhớ đến em. Anh có việc phải ra đi, mong em hiểu và không buồn.

Em là tất cả!... Tuệ”

Thoa xếp thư bỏ vào túi áo, nàng ngồi im trong căn phòng vắng lặng. Tuệ đã rời xa Thoa thật rồi, nhưng hình ảnh chàng vẫn còn in đậm trong tâm tư nàng mãi mãi. Hình ảnh của một thanh niên giàu lòng yêu nước đang bị đoạ đày bởi một vết thương rất thiêng liêng trong tâm hồn, đó là “Tình Yêu Tổ Quốc”

Vết thương đó Thoa cũng chung mang qua sự hy sinh của thân phụ nàng. Thật ra, Thoa đã đoán biết ngày ra đi của Tuệ qua những lần ngồi trò chuyện bên nhau.
Tuệ vẫn còn giữ tư cách đặc biệt của một quân nhân VNCH dù ở hoàn cản nào chàng cũng không đánh mất danh dự và khí phách của một người, đã từng được rèn luyện trong môi trường đầy nhân cách có một truyền thống quảng đại kỷ luật biết quên mình cho kẻ khác. Thoa không nhìn Tuệ như một người khuyết tật, nhưng nhìn anh với đôi mắt sáng ngời, hiên ngang trong bộ quân phục hào hùng của người chiến sĩ “ Mũ Đỏ” đã một thời góp phần gìn giữ non sông, cho dân lành hậu phương được hưởng những tháng ngày bình yên. Có lẽ tình yêu của Thoa đã đến với Tuệ được bắt nguồn từ lòng ngưỡng mộ ấy.

Vì thế, trong thời gian Tuệ tạm ở nhà Thoa để chữa trị vết thương, nàng đã hơn một lần đến gặp vợ chồng Tuyên để bày tỏ mối quan tâm của mình đối với cuộc sống của Tuệ. Thoa cũng yêu cầu vợ chồng Tuyên giữ kín việc làm này của nàng không để cho Tuệ hay biết. Vợ chồng Tuyên rất cảm phục tình yêu chân thật và cử chỉ cao đẹp của Thoa.

Để làm theo lời Thoa, vợ chồng Tuyên đã tìm thuê một căn nhà nhỏ, vách gạch mái tôn trong khu xóm của chàng cho Tuệ ở. Họ đã cùng nhau xếp đặt một chương trình để che dấu sự thật, Tuyên nhận làm trung gian đứng ra giúp đỡ Tuệ qua nguồn tài trợ bí mật của Thoa.

Chiếc xe ôm chở Tuệ dừng lại bên lề đường, Tuệ rời xe , anh đi vào một ngõ hẻm chừng vài chục mét đã nhìn thấy địa chỉ của Tuyên, thấy Tuệ về Tuyên vui vẻ rót cà phê ra tách mời Tuệ, Tuyên nói:

Tôi định chiều nay qua thăm anh , không ngờ anh lại về đúng lúc quá!

Tuệ mỉm cười, nét mặt chàng hiện rõ những ưu tư, anh đáp:

Đúng ra hôm nay tôi chưa về vì vết bỏng còn ướt , nhưng ở lại nhà Thoa lâu tôi cũng ngại.

Tuệ nâng tách cà phê uống một hớp chợt nhớ lại câu nói của Tuyên vừa rồi, chàng hỏi:

-À! Anh vừa bảo tôi về đúng lúc, nhà có việc gì thế ?

Tuyên cố giữ nét mặt bình thường, anh chậm rãi trả lời:

Số là ông chú tôi có người con trai ở Pháp nó bảo lãnh ông sang chữa bệnh, nên chú tôi bảo tôi xem có bạn bè nào tử tế nhờ họ đến ở trông nhà dùm, tôi chợt nghĩ đến anh và chiều nay tôi định qua gặp anh để nói về việc đó. Nghe Tuyên trình bày, Tuệ ngồi yên như đang suy nghĩ , một hồi lâu Tuệ hỏi Tuyên:

-Ông chú của anh khi nào đi Pháp và ông sẽ ở lại bao lâu ?

Tuyên thản nhiên trả lời.

Chú tôi đã rời Việt Nam hơn tuần nay, hôm qua vợ tôi có qua nhà quét dọn sạch sẽ, nhà tuy nhỏ nhưng đủ tiện nghi, anh qua xem sẽ biết, còn về thời gian lưu lại Pháp chắc phải nhiều năm.

Thấm thoát đã trên mười năm Tuệ bặt tin với Thoa từ khi chàng đến ở căn nhà này. Đôi khi Tuệ muốn hỏi Tuyên về tin tức của Thoa nhưng chàng lại thôi, vì với khoảng cách thời gian qua chắc Thoa đã quên chàng. Tuệ cũng thường hỏi thăm sức khoẻ của ông chú Tuyên bên Pháp, lần nào Tuyên cũng bảo Tuệ cứ yên tâm ở đây, vì sức khoẻ của chú Tuyên chưa thể về được.

Phần Thoa, nàng yên phận sống an vui bên người em trai của nàng như những ngày chưa gặp Tuệ. Có khác chăng, Thoa đã cố gắng làm việc nhiều hơn để có thêm điều kiện tài chánh giúp cho Tuệ qua trung gian của vợ chồng Tuyên.

Nhờ ơn trời chiếu cố, tiệm may của Thoa ngày một đông khách, ngoài những thợ may phụ giúp, Thoa là chủ tiệm cũng bận suốt ngày, nhất là trong những tháng cuối năm.

Nhờ đó, sau hợp đồng thuê nhà 3 năm, nàng đã mua căn nhà nhỏ ấy cho Tuệ ở vĩnh viễn mà Tuệ không hề hay biết. Vì thế dù có vất vả Thoa cũng rất tự hào và mãn nguyện vì nàng đã âm thầm thực hiện được hoài bão của mình, nó cũng chính là niềm thao thức của Tuệ. Hơn nữa, ngoài tình yêu chân thành Thoa dành cho Tuệ, anh xứng đáng để nhận được tấm lòng qúy mến và chia sẻ của người khác.

Vào năm ngoái trong dịp tình cờ, Tuệ gặp lại người bạn cũ ở hải ngoại về, người ấy cho Tuệ biết một tin vui: chính quyền việt cộng hứa với một giới chức của nền Đệ Nhị Cộng Hòa, là họ sẽ chỉnh trang lại khu nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa. Nghe tin này Tuệ đã chắt chiu được một số tiền nhỏ để đi xe lên Biên Hòa vào sáng hôm nay cũng nhằm vào ngày 30/4.

Tuệ muốn được một lần nhìn lại cảnh cũ với bao thương tiếc ngậm ngùi, để nghe tim mình sống lại khúc hùng ca của nền dân Chủ Tự Do đã một thời thăng hoa giữa lòng đất Mẹ, để tận mắt nhìn thấy những ngôi mộ tại Nghĩa Trang Quân Đội được chỉnh trang trong danh dự, được tôn trọng đúng qui cách dành cho người Chiến Sĩ Quốc Gia đã bỏ mình vì Tổ Quốc, và cũng để lòng mình lắng xuống những cơn đau từ ngày Quốc Hận..

Nhưng chàng đã hoàn toàn thất vọng vì lời hứa suông. Trước mặt Tuệ, khu Nghĩa Trang Quân đội sau mấy mươi năm không được chăm sóc, giờ đây đã trở thành một bãi tha ma hoang phế. Chàng đau lòng lê bước trên lối đi đầy cỏ dại dẫn tới lễ đài “Chiến Sĩ Trận Vong” anh dừng lại lấy một bó hương trong xắc đeo vai và bật lửa, Tuệ trân trọng nâng nén trầm hương ngang mặt, đôi mắt chàng nhắm lại tưởng nhớ đến các anh linh chiến sĩ. Qua làn khói mong manh, tâm hồn chàng chợt trở về với phút giây rung cảm, anh thì thầm:

Hôm nay ngày 30/4, Tuệ bước chân đến đây để tìm về một quá khứ đau thương, nơi đó những trang sử oai hùng đã hơn một lần được tô thắm bằng máu đào của các anh. Những trang sử ấy tuy đã khép lại với một định mệnh không mong chờ, nhưng chính khí can trường của các anh luôn là niềm tự hào biết bao cho Dân Tộc Việt Nam (không cộng sản)? Và sự hy sinh cao cả của những người chiến sĩ VNCH không bao giờ bị lãng quên trong lòng ngưỡng mộ và biết ơn của hơn 40 triệu dân miền Nam yêu nước sau Ngày Quốc Hận 30/4/75.

Nơi đây Tuệ xin gởi lại nén hương lòng để ghi nhớ ngày “VIỆT NAM BUỒN THẢM”, ngày ấy các anh đã chẳng tiếc mạng sống của mình để vun đắp cho cây “TÌNH YÊU TỔ QUỐC” được xanh tươi.

Tình yêu đó xin “GỞI VÀO THIÊN THU” như ánh trăng rằm vằng vặc giữa đêm khuya, như ngọn đuốc thiêng muôn đời vẫn cháy sáng trong những tâm hồn còn thao thức đến vận mệnh đất nước của chúng ta.

Tuệ xin bái chào vĩnh biệt. Nói xong chàng giữ thế nghiêm, đưa tay nâng ngang tầm mắt và phắt tay xuống trong tư thế yên hùng của người chiến sĩ Quốc Gia.

Tuệ lần bước ra hướng cổng tam quan đi xuống đồi. Bên tai chàng tiếng côn trùng nỉ non những liên khúc thê lương, như tiễn chân người về với quạnh hiu bên nỗi sầu vong quốc! Một cảm giác buồn mênh mang vừa chiếm trọn tâm hồn, Tuệ chép miệng đọc một vần thơ hoài cổ:

“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc”(Bà Huyện Thanh Quan)

Chợt có tiếng chân dẫm lên xác lá vàng khô, từ phía dưới một người con gái ôm bó hoa trắng, nón lá che khuất nửa phần khuôn mặt đang tư từ bước lên trước mặt chàng, trong thảng thốt nàng kêu lên:

Anh Tuệ !

Tuệ giật mình dừng lại, chàng không khỏi ngạc nhiên khi nhìn cô gái trông rất quen… Nhưng chỉ trong giây phút, Tuệ ngỡ ngàng thốt lên:

Thoa !

Bốn mắt nhìn nhau như đưa nhau vào kỷ niệm, Tuệ cảm thấy bàng hoàng, nhịp tim chàng đập mạnh. Đôi mắt Thoa vẫn mơ buồn như ngày nào, áo dài lụa tím ôm sát thân mình thon thả của nàng làm nổi bật những đường cong tuyệt mỹ. Thoa tươi cười và tiến đến bên Tuệ với một cử chỉ thân mật nàng nói:

Lâu qúa ! Anh có khoẻ không?

Trước vẻ ân cần của Thoa, Tuệ không tránh khỏi mặc cảm cho thái độ trốn chạy của mình trước đây, tuy nhiên chàng đã lấy lại bình tĩnh để trả lời Thoa:

-Anh vẫn khỏe, em vào đây thăm mộ ai ?

_ Em đi viếng mộ bia của ba em. Em định chiều nay sẽ đến thăm anh.

Tuệ nghe Thoa nói, chàng không thể hiểu được ý định của Thoa, Tuệ tự hỏi: Làm sao Thoa biết được nhà mình ? Hơn 10 năm không găp, hôm nay Thoa bảo sẽ đến thăm với chủ đích gì ?

Bao nhiêu ý nghĩ làm Tuệ thấy lúng túng, dù sao Tuệ cũng không thể chạy trốn Thoa mãi được, anh nói \:

- À nếu không có gì trở ngại mời Thoa đến nhà anh chơi, chúng ta sẽ gặp lại sau Thoa nhé!

Thoa cúi mặt bước lên vài bậc cấp, bỗng nàng quay lại gọi:

-Anh Tuệ !

Nghe Thoa gọi Tuệ liền quay lại, chàng đứng chờ Thoa đang bước xuống gặp chàng. Thoa dịu dàng lấy ra trong xắc tay của mình một phong thư dày cộm, nàng đưa cho Tuệ và nói:

- Tiện đây em xin gửi anh phong thư này anh về xem sẽ rõ.

Nói xong Thoa bước vội lên đồi, trong khi Tuệ còn đứng ngẩn ngơ hồn anh như lạc vào cõi mộng. Cử chỉ ngượng ngùng của chàng lúc này trông thật đáng thương!
Tuệ thầm nghĩ: “Đây chắc là tâm sự của mười năm xa cách, cũng có thể là Thoa sắp lên xe hoa” ? Những câu hỏi cứ dồn dập trong trí tưởng khiến Tuệ càng bước nhanh hơn. Chẳng mấy chốc Tuệ đã đến mặt đường và đón xe về nhà. Tắm rửa xong, Tuệ liền bóc thư ra xem với một cử chỉ hấp tấp, chàng hy vọng sẽ được nhìn lại những giòng chữ thân quen với tâm tình đáng yêu của người em gái thuở nào.

Nhưng sự thật đã đi ngược với dự đoán của Tuệ, bên trong phong bì là một số giấy tờ liên quan đến địa chỉ chàng đang ở, Tuệ mở to mắt cố nhìn cho chính xác, trước mặt chàng là một bản gốc giấy chủ quyền nhà Thoa đã đứng tên mua căn nhà Tuệ đang ở, kèm theo là giấy “uỷ quyền vĩnh viễn” cho Tuệ được ở căn nhà này và được toàn quyền xử dụng như một người chủ. Bên dưới có chữ ký của 2 nhân chứng là Tuyên và Thanh. Cùng với một số giấy tờ thuế nhà đất và hợp đồng thuê nhà 3 năm trước đây. Tất cả các giấy đêu có dấu thị thực của đương kim chính quyền. Tuệ ngồi lặng người trước những giấy tờ chứa đầy tấm lòng cao quí của Thoa.
Chàng không ngờ người con gái có vóc dáng mảnh mai ấy đã âm thầm làm được một việc lớn ngoài sức tưởng tượng của chàng. Chợt Tuệ vừa chạm đến một tờ giấy mỏng, Thoa viết:

“Anh Tuệ thân mến!

Có lẽ em đang làm phí thì giờ của anh đây, xin anh tha lỗi!

Vì hoàn cảnh không cho phép lâu hơn, em xin mạo muội viết ít dòng này gửi anh.

Em và Huy sẽ đi Hoa Kỳ vào tối nay theo giấy bảo lãnh của Hạnh. Những giấy tờ em vừa gởi đến anh, xin anh xem đó như một món qùa lưu niệm của một người em gái đã hơn một lần nghĩ đến anh trong cuộc sống cô đơn của mình! Thế nhưng tất cả đều là định mệnh phải không anh ?

Nhân dịp này em xin gởi đến anh lời cầu chúc an mạnh trên quê hương yêu dấu với một trái tim luôn tự hào vì TÌNH YÊU TỔ QUỐC”

Thoa…

Tuệ bàng hoàng buông rơi bức thư trên bàn, chàng thẩn thờ nhìn qua song cửa. Nắng chiều vừa loé lên những tia sáng cuối cùng của một ngày tươi đẹp, gợi chàng nhớ lại những kỷ niệm đã qua khi còn ở nhà Thoa.

Ngoài việc chăm sóc chu đáo cho vết thương Tuệ được chóng lành, Thoa còn có tài nấu nướng. Những bữa cơm chiều họp mặt là những giây phút thân mật và đầy hạnh phúc, cũng là dịp để Thoa tỏ bày lòng quí mến của nàng đối với Tuệ. Nàng thường gắp những món ăn để vào chén Tuệ với một cử chỉ ân cần.

Hình ảnh của những bữa cơm chiều ấy, có bao giờ được sống lại trọn vẹn trong lòng Thoa không ? Giờ thì càng xa vắng hơn ! Nàng như cánh chim vượt trùng khơi bay về một khu rừng xanh mát.

Tuệ, người ở lại với trời bơ vơ !

Trong thinh lặng rất lâu, có lẽ Tuệ đang ôn lại những kỷ niệm ban đầu của một đêm mưa, để gởi hồn vào thương nhớ xa xăm…Bất giác Tuệ chép miệng: “ Xin những may lành và hạnh phúc luôn đến với người em gái tôi yêu, trên miền đất tự do”.

Tiếng động cơ từ đâu bay qua dưới vòm trời xanh thẳm, Tuệ ngước nhìn chỉ thấy những vì sao lấp lánh dưới nền trời bao la, chợt một ánh sao vừa ló dạng đã vụt đổi ngôi về phía trời xa, để lại không gian u buồn một thiếu vắng mênh mông, một mối sầu ly biệt mà ngàn năm mây bay vẫn không vơi những ngậm ngùi./.

Đoàn Minh Chiếu
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=549468065562834&set=pcb.2933291583379937&type=3&theater

BachMa
04-11-2019, 08:19 PM
Chuyến Vượt Biển Kinh Hoàng
Hồi ký - Topa

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1554574760-ChuyenVuotBienKinhHoang_01.jpg
Hình minh họa
Đêm nay là đêm rằm nên trăng sáng hơn mọi đêm, một điều xem ra có vẻ bất lợi cho chuyến vượt biển của chiếc ghe dài mười ba thước và bề ngang hai thước sáu mươi phân mà, chỉ trong giây lát nữa đây thôi sẽ chở theo những con người khốn khổ phải bỏ quê hương để ra đi, trong đó có tôi.Tuy nhiên, tôi tin tưởng sẽ không có chuyện gì xảy ra để có thể ngăn cản lòng quyết tâm của chúng tôi, vì cũng tại nơi này, trong những ngày tháng qua đã có trên mười chuyến ghe đưa những đoàn người khốn khổ ra đi và đã đến bến bờ bình an, bởi vì chúng tôi có tiền, vàng, mà công an biên phòng Việt Cộng thì lại rất khao khát muốn có.

Từ ngày tôi được tham gia vào công việc đưa những con người khốn khổ ra đi, những con người mà vị Tổng Thống của nền Đệ Nhị Cộng Hòa miền Nam Việt Nam đã từng cảnh báo trước: Một khi đất nước bị mất vào tay của cộng sản rồi là bị mất tất cả. Mất quê hương miền Nam thân yêu, mất gia đình, mất tài sản, mất nhân phẩm và, có khi mất luôn cả mạng sống…

Cũng tại nơi đây đã có hơn mười chuyến ra đi và không có một chuyến nào bị những trở ngại hay bị những thảm cảnh xảy ra trên biển cả. Bây giờ đang là mùa xuân và chỉ trong năm tuần lễ nữa thì cái Tết cổ truyền lần thứ sáu, cái Tết năm 1981 của dân tộc, của đồng bào miền Nam, của đồng bào miền Bắc, sẽ trở lại trên quê hương sau ngày bị bức tử vì quân đội Việt Nam Cộng Hòa phải đầu hàng theo lệnh của vị tướng không có tài và cũng không có một chút kiến thức về chính trị nhưng lại ham muốn quyền lực: Tướng Dương Văn Minh.

Đêm nay tôi quyết định phải ra đi, không thể chần chừ thêm được nữa trước khi quá trễ. Và như vậy, tôi tin rằng dù chuyện gì có xảy ra tôi cũng sẽ không đón cái Tết lần thứ sáu trên quê hương.

Năm mùa xuân đã đi qua, năm cái Tết cũng đã trôi qua trong sự khốn khổ và nghẹn ngào dưới sự đọa đày của người chiến thắng cùng màu da và tiếng nói xem ra là đã quá đủ cho tôi rồi.

Tại sao đêm nay khi phải rời bỏ quê hương mà trong lòng tôi lại rất hớn hở và không một chút lưu luyến hay muộn phiền? Ra đi khi không biết nơi mình sẽ đến với nhiều nguy hiểm đang chờ đợi, vậy mà mọi người và tôi vẫn háo hức ra đi tuy trong thâm tâm ai ai cũng nghĩ rằng, điều đó đã đem lại ít nhiều đau khổ.

Nhưng, thật ra thì không còn cách chọn lựa nào khác tốt hơn.

Trong đời mỗi một con người của chúng ta thường sẽ có nhiều chuyến đi, sẽ có rất nhiều lần rời bỏ, thay đổi, những nơi đã sống qua với ít nhiều kỷ niệm buồn vui. “Trong đời sống nhiều lúc chúng ta phải lựa chọn, nhưng, không có sự chọn lựa nào lại không đem đến khổ đau.” Câu danh ngôn mà tôi đọc được khi xưa vẫn luôn văng vẳng bên tai.

Đêm nay tôi đang ngồi đây, trong buồng lái dã chiến của chiếc ghe, tôi nhìn đoàn người đang bồng bế dìu dắt nhau bước lên ghe lớn từ những chiêc ghe nhỏ gọi là tắc-xi, đồng thời tôi cũng nghe rõ ràng tiếng sóng vỗ bập bùng vào thân ghe mà lát nữa đây chiếc ghe này sẽ đưa chúng tôi ra khơi và đi đến đâu thì chưa một ai trong chúng tôi có thể tiên đoán trước được.Tôi đưa tay lên làm dấu thánh giá và bỗng đâu hình ảnh những người thân yêu ruột thịt của tôi năm nào đã bị thảm sát trong một lần Việt Cộng tấn công vào xã, cái xã nghèo và nhỏ tí xíu đã hoàn toàn bị san thành bình địa.

Cái xã tọa lạc trong thành phố có con lộ định mệnh số 7 mà sau này khi miền Nam khởi sự rút quân và đi trên con lộ đó, để rồi quân và dân đã bị Việt Cộng thảm sát, rồi đưa đến một cuộc bại trận sau đó không bao lâu. Hình ảnh những người thân yêu của tôi hiện ra trong đầu làm tôi nhớ lại một thuở thật thanh bình trên quê hương miền Nam thân yêu mà tôi đã cùng vui cùng sướng khổ với gia đình trong mái tranh nghèo nàn nơi vùng đất mới vừa được khai hoang theo chương trình khẩn hoang lập ấp của vị Tổng Thống Đệ Nhất Cộng Hoà miền Nam Việt Nam.


***

Mùa mưa năm xưa xa xôi ấy, mùa mưa năm một ngàn chín trăm sáu mươi hai, trên con đường trơn trợt giữa núi rừng, và tôi, một thằng nhóc con mười tuổi ngồi trong chiếc xe đò của hãng xe Sanh Hòa đi từ Pleiku về Sàigòn. Lần đầu tiên trong cuộc đời tôi đã biết thưởng thức một bản tình ca mà tôi sẽ không bao giờ quên được, đó là bản Mưa Rừng và hình như được trình bày qua tiếng hát của nữ ca sĩ Thanh-Thúy thì phải.Tôi buồn thật nhiều khi nhớ lại hai năm về trước tôi cũng phải rời xa nơi chôn nhau cắt rốn, phải rời xa một số bạn nhóc cùng trường và cùng xã để lên Đà-Lạt theo học trong một trường nội trú…

Pleiku ngày ấy còn quá hoang sơ với núi và rừng rậm bao la… toàn đất đỏ. Con đường chính của thị xã rất hẹp. Khi có hai chiếc xe chạy ngược chiều nhau thì một chiếc phải ngừng lại để chiếc ngược chiều chạy qua rồi chiếc kia mới được chạy.

Vào năm tôi học lớp ba trường tiểu học Pleiku tôi đã vô cùng thích thú khi được người bạn Thượng học cùng lớp “mời” tôi về buôn Thượng để chỉ lại những gì mà tôi đã học được cho các em trong buôn làng vì đã không có điều kiện đến trường. Nhớ lại ngày đầu tiên theo chân người bạn Thượng, tôi thật không ngờ người bạn này mỗi ngày phải đi bộ một quãng đường quá xa để đến trường. Tối hôm đầu tiên trong nhà người bạn Thượng tôi đã được ăn một bữa cơm mà chắc chắn tôi sẽ không bao giờ quên được trong cuộc đời.

Khi tất cả mọi người quây quần bên cái bếp lửa đặt giữa nhà sàn, thì ba của người bạn Thượng của tôi vói tay lấy cái ống tre đặt trên cao xuống và rồi ông lấy trong ống tre đó ra một gói thức ăn nhỏ được gói trong một cái lá lớn có lông nhỏ li ti; bỏ vào trong bếp lửa để nướng. Cơm thì đã được nấu chín từ lúc nào tôi không rõ và cũng được gói trong một cái lá rất lớn có nhiều lông nhỏ li ti giống như cái lá gói thức ăn. Khi gói thức ăn đã được nướng chín thì mọi người cùng bốc thức ăn trong cái gói đó và ăn với cơm – Người Thượng trong thời gian đó hoàn toàn không dùng đũa hay muỗng…. Cho đến hôm nay cái mùi của gói thức ăn đó tôi vẫn còn nhớ mãi tuy thời gian trôi qua cũng đã trên năm mươi năm rồi; chỉ vì cái mùi của nó quá xá thúi. Nó thúi lắm! Thúi kinh khủng! Thúi tàn nhẫn!

Lúc đó tôi còn nhỏ quá nên phản ứng của tôi cũng rất tự nhiên và không lịch sự. Người bạn Thượng thoáng nhìn tôi và anh hiểu ra nên anh đứng lên và đi nhanh đến cái ổ gà có con gà mẹ đang ấp những quả trứng, anh đỡ con gà lên và lấy một quả trứng, anh để quả trứng vào trong cái ca nước và đặt lên bếp để làm món trứng luộc chấm muối cho tôi ăn cơm… Hai ngày kế tiếp cũng cùng một thực đơn đó.

Trẻ em Thượng trong lớp rất thích tôi vì hiếu kỳ. Có lẽ vì tôi là “người da trắng” đầu tiên mà các em Thượng được gặp chăng? Để đáp lại lòng ưu ái mà các em đã đặc biệt dành cho tôi, tôi đã “rộng tay” cho các em rất nhiều điểm vào hai môn học toán và chính tả mà tôi phụ trách. Những ngày trong buôn Thượng tôi thích nhất là đi ra suối nhìn các cô gái Thượng tắm. Lúc đó tôi còn quá nhỏ nên không hề có một ý nghĩ tà đạo nào mà chỉ hiếu kỳ, vì, khi các cô gái Thượng tắm họ không kỳ cọ giống như tôi. Các cô gái Thượng dùng một khúc cây ngắn, nhỏ và tròn để kỳ đất trông rất là lạ mắt.

Ngày tôi xa rời nơi tôi đã sống với nhiều kỷ niệm của tuổi thơ, tôi không còn nhớ là ngày đó tôi đã gặp và từ giã những ai, nhưng, tôi nhớ là tôi buồn nhiều lắm… chứ không như đêm nay. Đêm nay tôi cảm nhận là phải bằng mọi cách xa rời nơi mà tôi đã có những tháng ngày làm việc và rong chơi với nhiều kỷ niệm trong đời.
Tôi sợ sẽ bị bắt lại để phải sống với những con người luôn mang sự căm thù trong tận đáy lòng bởi tôi không có cùng một ý thức hệ.

Chiếc ghe rời bến vào khoảng ba giờ sáng với hai người có nhiệm vụ hướng dẫn chiếc ghe ra cửa biển Vũng Tàu; ra khỏi khu vực gọi là “đèn trắng”. Hai người này không ngờ tôi cũng đi đêm nay nên hai người cố gắng thuyết phục tôi ở lại để “đánh” thêm vài chuyến nữa rồi hãy đi nhưng, chí tôi đã quyết nên tôi cũng cố gắng thuyết phục hai người cùng đi. Cuối cùng hai người đã nhảy xuống con sông lớn trên đường dẫn ra biển để bơi vào bờ khi tôi sơ ý nhìn đi nơi khác. Bốn con mắt nhìn tôi đầy giận dữ và căm thù khi cái đèn pha trong tay anh Thiếu tá Hải-Quân Phan Chánh Cương chiếu ngay mặt hai người. Tôi cũng sẽ không bao giờ có thể quên được bốn ánh mắt đó khi tôi còn hiện diện trong cuộc đời này.

Anh Phan Chánh Cương đã cố gắng lèo lái chiếc ghe ra đi nhưng anh không quen con đường này, vì vậy vào khoảng hơn bốn giờ sáng thì chiếc ghe bị mắc cạn.
Chúng tôi đã cố gắng chống sào để ra khỏi vùng bị nạn nhưng vô ích. Chiếc ghe dài mười ba thước vẫn nằm yên không nhúc nhích. Mệt mỏi, chán nản và lo sợ, nên tôi đã tiêu hủy hết những chứng từ có liên quan đến chiếc ghe và đến những người có liên hệ với tôi trong tổ chức. Khoảng gần năm giờ sáng chúng tôi đã cố gắng thử thời vận một lần chót theo lời đề nghị của chú Gao – chú em lái ghe nhỏ đưa khách ra ghe lớn – bằng cách chạy qua chạy lại bề ngang của chiếc ghe.

Đức-Chúa Giêsu. Đức-Mẹ Maria. Đức-Phật Quán-Thế-Âm Bồ-Tát từ bi đã cứu chúng tôi! Chiếc ghe đã chòng chành chuyển động mỗi lúc mỗi nhiều hơn nên tôi đề nghị với anh Cương:

– Anh cho máy nổ và thử chạy lùi để chuyển qua hướng khác được không anh Cương?

Anh Cương đã làm theo lời đề nghị của tôi và chiếc ghe đã chạy thoát vùng mắc cạn.

Lúc này trời đã quá sáng tỏ để chúng tôi nhìn thấy từ phía trong bờ có hai chiếc tàu nhỏ chạy ra về hướng chúng tôi và… những người đứng trước mũi của hai chiếc tàu đó đang phất cờ và bắn vài phát súng chỉ thiên.

Anh Phan Chánh Cương nói:

– Họ ra lệnh cho mình phải ngừng lại, nếu không họ sẽ bắn thẳng vào ghe.

Tôi nói với anh Cương:

– Anh cứ cho máy chạy hết tốc lực đi và nếu phải chết thì chúng ta cùng chết chứ không thể để bị bắt lại.

Một lần nữa anh Cương lại làm theo đề nghị của tôi. Chiếc ghe ngóc cao mũi và phóng thẳng về phía trước với vận tốc tối đa của nó.Tôi đứng dang hai tay gác trên cái mái chỗ làm phòng lái và nhìn về phía trước. Tôi hít một hơi thật dài cho không khí vào đầy hai cái lá phổi. Đã bao năm tháng qua, đây là lần đầu tiên tôi thật sự được hít thở không khí của tự do!

Có một anh thanh niên lạ đến đứng bên cạnh tôi, anh nhìn biển một lúc rồi quay nhìn tôi và nói:

– Biển yên quá, hy vọng họ sẽ không đuổi theo kịp được mình.

Tôi nhìn anh và đề nghị:

– Anh hãy giúp chúng tôi nói với mọi người dưới hầm ghe là ai nằm ở đâu thì nằm yên ở đó chứ đừng có lên trên này nguy hiểm lắm.

Khi anh chàng thanh niên vừa quay lưng đi và chui xuống hầm ghe thì tôi cũng vừa chợt nhận ra lời đề nghị của mình quá thừa thãi. Những người nằm dưới lòng ghe, phần thì mệt vì thiếu ngủ, phần thì say sóng vì ghe chạy quá nhanh nên mọi người vẫn nằm yên tại chỗ… như chết.

Khoảng một giờ trưa thì chúng tôi không còn thấy hai chiếc ghe của biên phòng rượt đuổi theo nữa. Chúng tôi bị rượt đuổi hơn năm tiếng đồng hồ. Anh Phan Chánh Cương cũng vẫn đang cho chiếc ghe chạy với vận tốc tối đa để tránh những chiếc ghe đánh cá quốc doanh đang lởn vởn chung quanh.

Gần bảy giờ tối. Lúc này màn đêm đã phủ chụp lên vạn vật nhưng chiếc ghe thì vẫn lao thẳng về phía trước. Chiếc ghe đang phóng ngon trớn thì bất ngờ cái máy ghe bỗng “ho” lên khục khặc vài tiếng rồi không chịu chuyển động nữa. Tôi phải tạm cầm lái để anh Cương và người phụ thợ máy cố gắng mò mẫm trong ánh sáng yếu ớt của cái bóng đèn nhỏ wat để sửa chữa cho máy nổ lại. Trong lúc mọi người đang hồi hộp thì bỗng tôi nhìn thấy ngọn sóng biển đột ngột dâng lên thật cao và đồng thời gió thét ầm vang cả một vùng biển rộng.

Đây là lần đầu tiên trong đời tôi nhìn thấy sóng biển cao như vậy. Ngọn sóng đã đưa chiếc ghe lên cao – lên thật cao – rồi thình lình hạ thật thấp xuống làm đáy của chiếc ghe va chạm vào mặt nước biển và phát ra cái âm thanh thật hãi hùng mà tôi tưởng chừng như chỉ trong một vài lần va chạm như vậy nữa là chiếc ghe sẽ bị bể tan ra từng mảnh nhỏ rồi chìm xuống đại dương. Những ngọn sóng tiếp nối nhau như muốn phủ chụp lên chiếc ghe của chúng tôi làm cho tôi phải nhắm mắt lại và đồng thời tôi nghĩ: Không ngờ cuộc đời tôi lại chấm dứt như thế này, ở đây, giữa biển khơi.

Lúc này không phải chỉ có riêng một mình tôi mà tất cả mọi người trong ghe không còn một ai dám nhìn những ngọn sóng nữa… ngoài anh cựu Thiếu tá Phan-Chánh-Cương vì anh đang phải cầm lái. Tôi nằm co rút người lại trong phòng lái, bên cạnh anh Cương và cầu nguyện. Tôi không còn can đảm nữa khi nghĩ chỉ trong giây lát nữa đây thôi là tất cả mọi người, và tôi, sẽ bị những ngọn sóng dữ kia nhận chìm xuống đáy biển.

– Anh Ba dậy cầm lái cho tôi một lúc. Tôi mệt quá rồi. Tôi không thể chịu nỗi nữa rồi.

Anh Cương vừa nói vừa lay tôi dậy. Tôi đã thiếp đi lúc nào không biết. Tôi đã ngủ được một giấc.

– Bây giờ là mấy giờ anh Cương?

– Hơn mười hai giờ đêm.

– Tôi phải giữ lái như thế nào?

– Anh cứ giữ như tôi đang để. Bão vẫn còn mà máy thì đã chết nên cũng không thể làm gì hơn
được nữa.

Tôi ngồi dậy và cầm lái. Nếu có ai hỏi, trong đời tôi lúc nào là lúc mà tôi thấy kinh hoàng nhất, thì có lẽ là lúc này đây. Tôi đã hơn một lần chạy trong vùng lửa đạn chiến tranh nhưng tôi không kinh hoàng. Tôi đã một lần bị một tên Việt Cộng kề súng vào đầu tôi hăm dọa bắn khi tôi định nhảy khỏi toa xe lửa trong một lần đi buôn vì chính sách đại sai lầm ngăn sông cấm chợ của tên Tổng Bí Thư ngu xuẩn Lê Duẫn. Dù quá sợ nhưng tôi vẫn nhảy và chẳng may tôi bị an ninh tóm cổ khi chạy vào ngõ cụt… tôi cũng chưa kinh sợ nhiều.

Nhưng, đêm nay với những ngọn sóng quá xá cao, ngọn sóng đã đưa chiếc ghe lên thật cao rồi hạ thật nhanh và thật mạnh xuống làm đáy ghe đập thật mạnh xuống mặt nước biển mà mỗi lần như vậy trái tim tôi, ngực tôi, như bị tay lực sĩ nào đó đấm thật mạnh vào làm tôi cứ bị đau nhói lên. Tôi đã quá kinh hoàng và sợ hãi nên tôi gọi anh bạn thanh niên đã nói chuyện lúc ban sáng với tôi khi bị rượt đuổi, lại ngồi với tôi. Có hai người tôi bớt sợ phần nào. Chúng tôi hút thuốc thật nhiều vì gió lạnh, và, dĩ nhiên cũng vì quá sợ hãi.

Mọi chuyện rồi cũng qua. Sóng biển đã không còn những cơn giận dữ nữa. Ánh mặt trời cũng đã bắt đầu ló lên ở phía bên trái của chiếc ghe. Anh Cương đã thức dậy. Anh nhìn vào hải bàn và tỏ ý hài lòng với tọa độ mà anh đã tính. Anh nói:

– Với vận tốc và thời gian mà chiếc ghe đã chạy trước khi bị chết máy, tôi bảo đảm với anh Ba Hùng là chúng ta đã qua khỏi đảo Côn Sơn rồi.

Tôi quay qua nói với người thanh niên đã ngồi bên cạnh tôi suốt đêm:

– Anh đi gom lại những túi thức ăn và những cây mía xem mình còn lại bao nhiêu.

Một lát sau anh thanh niên đem lại vài túi xách nhỏ và cho biết:

– Khi bị rượt, các túi thức ăn đã rớt xuống biển nhiều, còn lại đây chẳng có bao nhiêu.

Tôi lấy trong những cái túi thức ăn đó ra ba cái bánh chưng nhỏ. Một cho anh Cương, một cho anh thanh niên, và một cho tôi. Chúng tôi pha café và cùng ăn uống với nhau.

Khi mặt trời đã lên khá cao, tôi chui xuống lòng ghe để kêu người thợ máy dậy sửa máy. Người thợ máy không thể nào nhúc nhích được nữa vì anh ta quá say sóng và ói rất nhiều. Anh ta chỉ có thể hé mở được một con mắt thôi.Vâng, đúng là anh ta chỉ hé mở được có một con mắt thôi, và, anh thều thào trong cổ họng yêu cầu chúng tôi khiêng anh đến bên cái máy. Đến bên cái máy rồi anh ta cũng không thể cử động tay chân nỗi nữa. Anh nằm đó nhắm hai con mắt lại và chỉ dẫn người phụ máy cùng hai anh em chúng tôi phải làm những gì theo lời anh. Sau khi chúng tôi đã làm tất cả mọi động tác theo lời anh, và, sau khi đã thử cho máy nổ rất nhiều lần, nhưng vô hiệu. Cuối cùng anh thợ máy nói:

– Cái “rờ-le” đã bị cháy vì bị quần áo cuốn vào cây láp làm tung nước vào đó. Em đã quên mang theo cái “rờ-le sơ cua” nên không còn cách nào khác nữa!

Tôi nhìn anh Cương. Anh Cương nhìn tôi. Chúng tôi không nói gì với nhau. Anh Cương chui ra khỏi hầm máy. Tôi cũng chui ra theo anh. Ngay lúc đó tôi nghe tiếng một người đàn ông trong lòng ghe la khóc rất lớn:

– Bố đã giết con rồi con ơi! Giời ơi là giời! Tôi giết con tôi rồi!

Tôi chui lại vào trong lòng ghe với sự bực tức và nói thật lớn với người đàn ông đang khóc:

– Anh kia! Anh không được làm mọi người hoang mang và lo sợ nghe không! Tại sao anh phải khóc? Nếu chết thì tất cả cùng chết chứ có riêng gì gia đình anh đâu. Anh làm gì trước đây?

Người đàn ông nhìn tôi thoáng chút ngạc nhiên nhưng rồi ông cũng trả lời:

– Dạ… trước đây tôi là Trung úy thông dịch viên mới đi cải tạo về.

– Thôi… anh đừng làm ồn nữa. Kể từ hôm nay anh lãnh nhiệm vụ phát nước cho mọi người.

Còn anh kia! Tôi chỉ tay về phía một người đàn ông trung niên và khá to con.

– Trước kia anh làm gì?

– Tôi là Đại úy bộ binh cũng mới đi cải tạo về.

– Từ nay nhiệm vụ của anh là… phát cơm cho mọi người nghe.

Phân công xong tôi chui ra khỏi lòng ghe. Tôi đến bên anh Cương. Anh Cương đang cầm trong tay những món đồ nghề đi biển, anh nói:

– Với sức trôi của chiếc ghe mà tôi đã đo được thì khoảng… mười ngày nữa là ghe mình sẽ trôi vào đất Thái Lan.

Mười ngày nữa ? Mười ngày nữa thì làm sao có đủ thức ăn và nước uống cho chừng này người? Mà chiếc ghe này có bao nhiêu người ? Tôi nghĩ vậy và nhìn quanh để tìm người phụ giúp. Hướng trước mặt tôi có một người đàn ông có dáng vẻ rất quê mùa và rất đáng nghi ngờ. Tôi ngoắc anh ta lại và hỏi:

– Anh làm gì trước đây ở…Việt-Nam?

Thật bất ngờ khi nghe anh nói:

– Tôi là Trung úy An-Ninh Quân-Đội.

– Anh có giấy tờ gì đem theo không?

– Dạ có!

Anh lấy từ trong bóp ra một tờ giấy mà anh đã cẩn thật để vào trong mấy lớp nylon và đưa cho tôi xem. Tôi cầm và đưa qua cho anh Cương. Anh Cương nhìn vào một lúc nhưng anh không nói gì mà chỉ gật đầu như xác nhận. Tôi nói với anh Trung úy An-Ninh quân đội:

– Từ nay anh giữ trật tự trên ghe này. Bây giờ anh đi kiểm cho tôi xem trên ghe mình có tất cả bao nhiêu người nhé.

Khi ghi lại ký ức về chuyến đi này tôi đã giận tôi vô cùng. Tôi giận tôi vì đã quên hẵn tên ba người cựu sĩ quan của quân lực Việt-Nam Cộng-Hoà đó. Những người đã cùng tôi đi trên chiếc ghe mang số SS 1050 IA trôi dạt đến bờ biển Mã Lai ngày 03/02/1981. Trong tận cùng trái tim tôi, tôi vẫn luôn nhớ về các anh, những người đã góp sức để giữ cho chiếc ghe không bị hỗn loạn cho tới ngày đến được bến bờ tự do.

Ngày đầu tiên xem như chúng tôi đã tạm sắp xếp xong mọi trật tự trên ghe. Tôi đã dọa là sẽ quăng xuống biển những ai làm mất trật tự. Ngày đầu tiên tôi cho phát nước một ngày hai lần. Một lần mỗi người hai nắp “bidon” của quân đội Việt-Nam Cộng-Hoà. Không ai được hơn quy định đó, kể cả anh Cương và tôi. Tôi cho gom các bao khoai lang lại và chia ra làm mười phần, cho mười ngày, mỗi ngày ăn một lần. Anh Trung úy an ninh quân đội cho tôi biết đã đếm đi đếm lại rất nhiều lần và con số chính xác là một trăm mười ba ( 113 ) người hiện diện trên ghe.


***

Đến hôm nay thì chiếc ghe của chúng tôi đã trôi được bảy ngày rồi. Nồi khoai lang bây giờ khi nấu lên nó có một màu đen và… kinh khủng quá! Vào ngày thứ năm tôi đã cho rút phần phát nước xuống mỗi ngày một lần, mỗi lần mỗi người cũng chỉ được một nắp “bidon” thôi. Chúng tôi đã tháo tấm bạt che trên mui ghe ra làm buồm. Có một điều thật không thể hiểu được là từ khi “giương buồm” lên thì chiếc ghe tự động quay đầu và trôi theo tư thế lùi. Hễ tháo “ buồm” ra thì chiếc ghe trôi theo tư thế thuận. Cuối cùng thì anh Cương cũng quyết định là “giương buồm” vì dù sao chiếc ghe cũng trôi nhanh và theo hướng mong muốn, tuy phải trôi theo thế lùi.

Trưa ngày trôi thứ bảy.

Anh Phan-Chánh-Cương bỗng tươi tỉnh nét mặt khi anh nhìn vào ống dòm và báo là có một chiếc tàu đang chạy về hướng chiếc ghe của chúng tôi. Sau một lúc, anh nói lớn như muốn cho mọi người cùng nghe:

– Có chiếc tàu đang chạy về hướng chúng ta và có lẽ là chiếc tàu thuộc toán cấp cứu của Tây Đức.

Khi chiếc tàu đến cách chiếc ghe của chúng tôi một khoảng cách đủ để chúng tôi nhìn thấy những người trên chiếc tàu đó là những người có nước da ngâm đen và… quấn xà rông. Anh Cương không còn nét mặt “hồ hởi phấn khởi” như lúc ban đầu nữa nhưng anh cũng không nói gì. Người thuyền trưởng bên chiếc tàu đó muốn nói chuyện với thuyền trưởng của chiếc ghe chúng tôi. Anh Cương với cương vị đó nên anh đã qua bên chiếc tàu gặp tên thuyền trưởng. Một lúc sau anh Cương trở về và cho biết là người thuyền trưởng bên chiếc tàu muốn cứu chúng tôi để chở vào bờ. Họ yêu cầu mang tất cả hành lý qua tàu của họ.

Tất cả mọi người đã qua hết bên chiếc tàu “cấp cứu” và được đối xử rất tử tế như cho thức ăn và nước uống. Đang khi mọi người còn vui vẻ vì tin rằng đã được cứu thì một tên trong bọn họ bắn chỉ thiên một phát súng và yêu cầu tất cả theo hàng một đi vòng chiếc tàu từ đầu ra cuối rồi vòng về chỗ cũ. Một trăm mười hai người – Anh Cương được miễn – đi vòng từ đầu mũi tàu ra đến phía sau tàu là có một bọn năm tên đã đứng sẵn ở đó để khám xét và lột sạch những gì mà bọn chúng nghĩ là đáng giá. Khi đã lột sạch những gì mà bọn chúng lột được, bọn chúng ra lệnh cho những con người khốn khổ chúng tôi trở về lại chiếc ghe và bố thí nửa thùng phuy nước, một bao gạo và khá nhiều cá rồi sau đó chiếc tàu “cấp cứu” lại thẳng hướng ra khơi.

Nhiều người trong chúng tôi đã chửi thề và nguyền rủa bọn cướp biển là tàn ác… nhưng tất cả cũng rất vui vì đã được một bữa cơm rất ngon, đúng nghĩa là cơm!
Ba anh cựu sĩ quan có nhiệm vụ trên ghe đã hăng hái làm tròn nhiệm vụ! Sau một tuần không có cái gọi là cơm, chiều nay tất cả chúng tôi đã tận hưởng được một bữa cơm ngon nhất trong đời!

Trưa ngày trôi thứ tám.

Từ xa xuất hiện hai chiếc tàu với nhiều lá cờ đủ màu sắc đang tiến về chiếc ghe của chúng tôi. Khi hai chiếc tàu đến gần, chúng tôi nhận biết ngay đây cũng là bọn cướp người Thái Lan. Bọn cướp rất đông vì chúng đến một lúc hai chiếc tàu và đứa nào mặt mũi cũng rất dữ tợn. Bọn chúng với mã tấu và súng ngắn đã tràn qua ghe của chúng tôi và bắt đầu cướp phá. Bọn cướp tháo gỡ những bộ phận của chiếc máy ghe và mang qua tàu của bọn chúng. Bọn chúng bắt tất cả đàn bà con gái qua tàu của bọn chúng và phát cho mỗi người một cục xà bông rồi bắt thoát y đứng tắm trần truồng trên sàn tàu. Ai không chịu tắm là chúng đá vào người.

Sau khi những người đàn bà khốn khổ kia tắm xong, lập tức bọn cướp cùng chia nhau hãm hiếp ngay tại sàn tàu. Một trong hai tên thuyền trưởng đã “may mắn” dẫn một cô gái thật đẹp người Huế vào phòng riêng. (Sau này tôi được biết cô gái Huế đã tốt nghiệp đại học môn Anh văn và chưa lập gia đình. Khi lên trại tỵ nạn, cô gái Huế phụ trách dạy môn Anh văn).

Đến nửa khuya bọn cướp biển thả những người đàn bà khốn khổ về lại chiếc ghe sau khi cho mỗi người một hộp sữa.

Cũng như chiếc tàu trước, hai chiếc tàu này cũng cho ghe chúng tôi gạo, nước, cá tươi và cá khô.

Từ khi được thả trở về lại chiếc ghe cho đến sáng, những người đàn ông chúng tôi phải bị nghe tiếng âm thanh rên la thật buồn não của những người đàn bà xấu số. Không chỉ những người đàn bà khóc mà có cả tiếng đàn ông khóc nữa. Trên ghe có khoảng bốn chục người đàn bà, cộng thêm khoảng gần bốn chục tiếng khóc của những người đàn ông kèm theo nên âm thanh đó rùng rợn và buồn thảm vô cùng giữa biển khơi im lắng.

Ngày trôi thứ chín.

Sáng hôm nay anh Cương và tôi rất ngại nhìn cũng như nói chuyện với những người đàn bà. Hầu hết những người đàn bà đã lên mui ghe ngồi… phơi nắng. Một số người đã tỏ ra như có kinh nghiệm nên họ đã bôi dầu máy tàu lên mặt và khắp người. Nhìn những người đàn bà lúc này thật buồn cười mà tôi không dám cười. Chú Gao, tên của chú em ở xã Phước-Hòa thuộc tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu làm nghề đưa khách vượt biên từ ghe taxi ra ghe lớn, và cũng là người đã đề nghị chạy qua chạy lại sàn ghe hôm bị mắc cạn; đến bên tôi và kể lể với gương mặt như khóc:

– Anh Ba Hùng biết hôn, em thương con bồ của em lắm, em hỏi cưới nó thì ông già nó nói nó mới mười bảy tuổi đợi sang năm đủ mười tám thì cho cưới. Em thương nó quá nên rủ nó đi vượt biên luôn. Đụ mẹ không ngờ mấy thằng Thái Lan nó hưởng trước em. Đụ mẹ tụi nó chứ!

Sáng sớm ngày trôi thứ mười.

Anh Cương bây giờ không còn ống dòm để nhìn xa nữa. Tất cả đồ nghề dùng đi biển đã bị bọn cướp lấy mất. Anh lại gần tôi và chỉ tay về phía bên phải. Nhìn theo cánh tay anh, từ xa có ba chiếc tàu đang chạy đến. Khi ba chiếc tàu đến gần hơn tôi thấy những chiếc này cũng có treo nhiều lá cờ đủ màu sắc như những chiếc trước. Ba chiếc tàu cặp gần hai bên hông chiếc ghe của chúng tôi. Bọn chúng kêu anh Cương qua tàu của bọn chúng nói chuyện và hỏi có vũ khí, tiền bạc, để trả cho bọn chúng thì bọn chúng sẽ kéo vào bờ. Anh Cương trình bày hiện trạng của chiếc ghe vượt biển vừa dứt lời thì lập tức bọn chúng rú lên như khỉ giả nhân rồi tràn qua ghe của chúng tôi.

Một màn cướp phá tàn khốc lại diễn ra. Lần này bọn cướp đến với ba chiếc tàu nên sự cướp phá dĩ nhiên là tàn bạo hơn. Có những tên cướp đã hãm hiếp những người đàn bà ngay trong lòng ghe. Một số phụ nữ thì bị dẫn về tàu của bọn chúng. Bọn chúng vừa lôi kéo phụ nữ vừa nhảy vừa hú cứ y như những con khỉ đột.Tôi nhìn thấy chú Gao đang ôm cô bạn gái đã bất tỉnh vì quá sợ hãi. Thân hình cô bạn gái của chú Gao quá nhỏ, nhỏ như đứa bé con và hơn nữa đã được bôi khắp thân thể dầu mỡ của máy ghe nên những tên cướp đã… tha.

Buổi chiều cùng ngày, bọn cướp thả những người đàn bà về lại ghe và cũng cho thức ăn và nước uống.

Ngày trôi thứ mười một.

Khoảng giữa buổi trưa có một anh thanh niên thật trẻ tuổi đến bên tôi và hỏi:

– Anh Ba Hùng ơi, anh có đọc truyện người tù khổ sai Papillon chưa?

Quyển sách rất nổi tiếng của tác giả Henry Charriere tôi đã đọc qua rất nhiều lần.Tôi chưa hiểu anh chàng này muốn gì thì anh chàng đã tiếp:

– Papillon đã vượt ngục trong điều kiện hết sức khó khăn và rồi đã thành công. Ở trên ghe này có nhiều những can nhựa trống, em xin anh cấp cho em những can không đó và ít nước uống để em thả trôi vô bờ trước. Em sẽ thông báo cho Cao ủy biết để Cao ủy cho người ra cứu.

Đề nghị quá táo bạo và… quá hấp dẫn! Tôi bàn qua với anh Cương và mọi người trên ghe. Tất cả đều đồng ý và sau đó tôi quyên góp được nửa “bình ton” chanh và đường. Tôi cấp cho anh chàng “Papillon” hai “bình ton” nước, cột mười can nhựa lớn lại với nhau và đặt lên trên đó một miếng ván. Anh Cương viết một lá thư tiếng Anh và bỏ vào một cái chai đậy nắp lại thật kín, cột vào cánh tay anh “Papillon”. Khi chiếc bè làm gần xong thì có một anh chàng khác đến xin tháp tùng theo anh “Papillon” và anh “Papillon” xin tôi cho hai người cùng đi chung cho vui. Tôi đồng ý.

Khi chiếc bè được thả xuống với hai anh chàng bên trên thì nước ngập ngang lưng quần của hai anh nhưng hai anh đã yêu cầu tháo giây cột giữa chiếc bè với chiếc ghe để hai anh ra đi. Khi giây đã được tháo ra khỏi chiếc ghe thì rõ ràng chiếc ghe tuy lớn, nhưng đã trôi qua mặt chiếc bè. Chiếc bè có lẽ đang đứng một chỗ chứ không trôi vì chiếc ghe đã trôi qua mặt chiếc bè rất xa. Chúng tôi đã hỏi lại là có thay đổi ý kiến gì không thì hai cánh tay của hai anh chàng đưa lên cao vẫy vẫy ra dấu từ giã chúng tôi.

Khi chiếc bè được thả xuống với hai người bạn trẻ bên trên thì lúc đó trời còn sáng lắm vì đang là buổi trưa. Khi hai cánh tay của hai người bạn trẻ ra dấu từ giã chúng tôi thì khoảng năm phút sau – Tôi nghĩ không quá năm phút – trời bắt đầu âm u và giông tố nổi lên ầm ầm báo trước một cơn bão sẽ đến. Lúc này thì không còn cách nào nhìn thấy hai người bạn trẻ đó nữa rồi. Cơn bão đã kéo đến thật nhanh, rồi sóng to gió lớn nổi lên cuồn cuộn y như ngày đầu ra đi. Tôi không còn can đảm để nhìn những ngọn sóng tàn bạo đó nữa. Tôi nhắm mắt lại vì sợ hãi và rồi một giấc ngủ đã đến với tôi. Giấc ngủ với những cơn ác mộng kinh hoàng!

Ngày trôi thứ mười hai.

Sáng nay không ai nói với ai về chuyện hai người bạn trẻ của ngày hôm qua. Mọi người đều hiểu rằng hai người bạn trẻ đã không qua được cơn bão quá lớn như ngày đầu ra khơi. Phải chăng hai người bạn trẻ đó đã hy sinh cho mọi người được sống? Có ai đó đã nêu ra con số một trăm mười ba người trên ghe là con số không may mắn. Những người theo đạo Phật thì đang xầm xì về những cái gọi là hiện tượng. Tôi làm dấu thánh giá và đọc kinh cầu cho linh hồn hai người bạn trẻ đó. Tôi tin một cách xác quyết là Đức Mẹ sẽ giúp chiếc ghe đến bến bờ bình an, mặc dù có nhiều khó khăn.

Theo lẽ thì tôi đã đi trong chiếc ghe của tôi chứ không phải chiếc ghe này. Trước đó, tôi thường đến cầu nguyện ở nhà thờ Fatima Bình-Triệu. Trong lời cầu xin tôi có khấn: “Nếu Đức Mẹ thấy việc con ra đi sẽ có những trắc trở thì xin Đức Mẹ hãy làm những trở ngại xảy ra trước để con không phải đi.” Trước ngày dự tính ra đi trên chiếc ghe của tôi, tôi đã cho kéo chiếc ghe đó lên ụ và cho bọc nhôm xung quanh lườn ghe. Tôi trang bị một chiếc máy mới và thật mạnh.

Đến hôm ra đi, khi mọi người vào hết trong lòng ghe thì có người lên tiếng, trong ghe có nhiều nước. Tôi cho thợ máy nổ máy để bơm nước ra. Thật không thể ngờ được, một cái máy thật mới có thể nói là hoàn hảo nhất và vừa ý nhất trong các cái máy, thế mà đêm ấy không làm sao cho nó chuyển động được. Trời bắt đầu sáng tỏ dần và tôi phải ém người lên bãi vắng thôi. Khi mọi người đã tản mác lên các bãi vắng thì cái máy lúc này bỗng dưng chịu nổ. Tôi cho người tài công lái chiếc ghe ra biển để tìm chỗ rỉ nước và sửa chữa. Trưa hôm đó, từ Sàigòn, tôi bàng hoàng nhận được tin là chiếc ghe của tôi đã bị chìm ở ngoài khơi vì cái lỗ rỉ nước bị nước phá càng lúc càng lớn hơn và không thể nào trám lại được.

Ngày trôi thứ mười ba.

Đã hai ngày trôi qua tạm coi như bình yên vì không bị một vụ cướp nào.Chiếc ghe vẫn trôi theo thế lùi như lúc ban đầu. Nhiều người đã lên trên sàn ghe nằm hoặc bơi lội xung quanh chiếc ghe. Có người thanh niên đến bên tôi thủ thỉ:

– Có mấy chiếc ghe ở ngoài xa kia, mình hãy nổi lửa lên để gọi họ lại… cướp đi anh Hùng.

Tôi nhìn người vừa nói và phản đối:

– Anh điên sao? Anh không sợ cho mấy người đàn bà à?

Lúc đó có mấy chị đang nằm trên sàn ghe vội lên tiếng:

– Kệ nó anh Hùng à! Cứ đốt lửa lên kêu tụi nó lại cướp rồi tụi nó sẽ cho mình gạo, nước và cá. Mình cũng không còn nhiều thức ăn.

– Các chị không sợ… bị à?

– Còn gì nữa mà sợ anh Hùng! Nó… xong rồi thì mình sẽ có ăn để cầm cự chứ!

Tôi quay mặt nhìn về hướng các chiếc ghe đang ở ngoài xa và thầm nghĩ: “Nếu sau này mà mọi người đến được bến bờ tự do là nhờ ở sự hy sinh của các người đàn bà này.” Tôi đồng ý cho đốt lửa trong cái thùng phuy. Cái thùng này giờ đây có hai công dụng. Một, để nổi lửa lên cầu cứu các tàu lớn của Tây phương và tàu cướp. Hai, dùng để chứa nước nếu tàu cướp cho.

Lửa vừa lên thì có một chiếc tàu từ xa chuyển hướng chạy về phía chúng tôi. Chúng tôi đã chuẩn bị sẵn sàng để đón nhận những điều kinh khủng sắp xảy đến. Các người đàn bà thì đã lấy dầu mỡ bôi khắp thân mình và mặt mũi.

Cảnh cướp phá và hãm hiếp lại diễn ra khi chiếc tàu đánh cá của bọn cướp Thái Lan cặp sát vào chiếc ghe đi tìm tự do của chúng tôi. Lần cướp này thì người bạn gái của chú Gao không thoát được nữa. Bọn cướp quá hung bạo! Có lẽ vì bọn chúng, sau khi lục soát đã không cướp được gì nên tỏ ra giận dữ. Bọn chúng cởi trần truồng chạy nhảy trên chiếc ghe như những người đang lên cơn điên. Gặp người đàn bà nào là chúng hiếp ngay tại chỗ, bọn chúng không có một chút gì là e thẹn.
Tiếng khóc la vang inh ỏi, tiếng đánh đập người để tra khảo của, rồi tiếng van lạy bọn cướp khi bọn chúng đập phá ghe… cùng hòa chung với tiếng cười và tiếng la tiếng hét của bọn cướp tạo thành một thứ âm thanh hoảng loạn mà tôi chưa bao giờ được nghe qua, chưa bao giờ được chứng kiến cảnh tượng hãi hùng này.

Mọi chuyện rồi cũng lại qua! Ngày hôm đó anh Phan Chánh Cương và tôi không còn thiết gì đến cơm và cá nữa. Tàn nhẫn quá! Vô nhân đạo quá! Không thể tưởng tượng nỗi lại có ngày được chứng kiến cái cảnh dã man tàn bạo này! Ba lần cướp trước đây bọn cướp tỏ ra rất tôn trọng anh Cương trong vai thuyền trưởng, nhưng, lần này thì bọn cướp đã đánh anh Cương và nhiều người đàn ông để khai thác của. Dĩ nhiên tôi cũng bị bọn chúng đấm đá tơi bời hoa lá. Khi bọn cướp đang hành động thì có một anh chàng kêu tên một người bạn là Nam, lập tức tên Thái Lan thuyền trưởng kê súng vào đầu anh ta và hỏi : “Mày biết tiếng Thái Lan?” Dĩ nhiên tên thuyền trưởng hỏi bằng tiếng Thái. Anh chàng nọ ú ớ, anh Cương phải thông dịch cho tên thuyền trưởng hiểu. Tên thuyền trưởng Thái Lan nói với anh Cương là hắn tưởng anh chàng nọ xin nước. Như vậy tiếng Thái Lan, nước gọi là nam! (Đúng 100%)

Ngày trôi thứ mười bốn.

“Lại một chiếc tàu cướp đến!” Anh Cương chán nản nói với tôi. Bây giờ là vào khoảng giữa trưa.

Khi chiếc tàu Thái Lan xáp đến, tên thuyền trưởng người Thái sau khi nói chuyện với anh Cương, hắn đã nhốt tất cả một trăm mười người – Anh Cương được miễn – xuống hầm cá. Sau này anh Cương nói lại với tôi là, khi mọi người bị nhốt hết xuống hầm cá thì bọn cướp đã qua ghe lục soát rất kỹ. Lục soát xong, chúng kêu từng người một lên và khám xét kỹ. May mắn quá, bọn này không hãm hiếp một người phụ nữ nào. Ai bị khám xong thì được trở về lại ghe. Trước khi bỏ đi, bọn này cũng cấp cho ghe chúng tôi gạo, cá và. . . nam!

Chiều đến thì anh cựu trung úy an ninh quân đội cho tôi biết là trên ghe mất một người. Chúng tôi yêu cầu tất cả đàn ông lên sàn ghe để kiểm người. Lúc đó thì có một bà xẩm già lên tiếng:

– Thằng con tôi nó giấu trong mình nó ba cây và trốn ở lại trong hầm cá của chiếc tàu hồi trưa rồi.

Tôi hỏi bà xẩm già:

– Tại sao con bà trốn lại trong hầm cá?

– Với ba cây mà nó giấu trong mình, nó sẽ đưa cho tàu đó để được đưa vào bờ.

Khoảng thời gian ba tháng trên đảo, ngày tôi đi định cư, Cao Ủy tị nạn vẫn chưa có tin tức gì về người con của bà xẩm già.

Ngày trôi thứ mười lăm.

Từ sáng sớm, một vài người thanh niên đã tự động nổi lửa khi nhìn thấy từ xa một chiếc tàu đang kéo lưới. Khi chiếc tàu đến gần thì những người thanh niên đến đánh thức anh Cương và tôi dậy. Chiếc tàu đang kéo lưới đã quăng dây qua cho chúng tôi để chúng tôi cột chặt vào ghe. Chiếc tàu chạy trước kéo lưới và kéo theo chiếc ghe của chúng tôi. Ông thuyền trưởng của chiếc tàu có lẽ là người Trung Hoa. Ông cũng quấn xà rông. Ông đứng khoanh tay nhìn chúng tôi một lúc rồi ra dấu cho hai người bơi qua tàu của ông. Ông dẫn hai người đó vào nhà bếp và chỉ cho hai người chỗ nấu cơm để nấu cho tất cả người trên ghe của chúng tôi ăn. Ông cũng cho kêu thêm hai người nữa qua tàu ông để chuyền nước về ghe đồng thời ông cũng liệng qua ghe những lon thuốc lá thơm. Hơn mười ngày không được hút, chúng tôi đã “rít” những hơi thuốc cho thật đầy lồng phổi. Có vài người đã… nằm thẳng cẳng vì bị say thuốc.

Khi những thùng cơm và cá đã được chuyển qua ghe của chúng tôi. Ông thuyền trưởng tốt bụng vẫy tay ra dấu từ giã chúng tôi rồi cắt dây và cho tàu chạy thẳng ra khơi.

Chiều cùng ngày hôm đó, một chiếc tàu cướp chạy về hướng chúng tôi. Lại cướp và hãm hiếp! Đến khuya thì bọn cướp bỏ đi sau khi cũng cho gạo, cá và… nam!

Ngày trôi thứ mười sáu.

Chiều hôm nay chúng tôi nhìn thấy từ xa có một lằn ngang dài thật nhỏ màu vàng. Chúng tôi với những con mắt không còn trong sáng, không còn tinh tường nữa nên không biết đó là cái lằn gì. Bao nhiêu sự suy đoán được đưa ra với nhiều hy vọng.

Đang nhìn về phía trước và bàn tán nên không một ai để ý có một chiếc tàu cướp từ phía sau đã đến gần ghe của chúng tôi. Những người trên chiếc tàu này cố làm ra vẻ hiền lành và thân thiện. Người thuyền trưởng của chiếc tàu đó nói với anh Cương là hắn chỉ cần có hai (2) lượng vàng thôi thì khi đêm xuống hắn sẽ kéo chiếc ghe của chúng tôi vào bờ. Ông ta cố làm ra vẻ thật thà khi nói với anh Cương:

– Khi vào đến bờ rồi thì nhớ đừng khai là tàu tôi kéo nhé, nếu tiết lộ thì tôi sẽ bị bắt đó.

Người Quốc Gia của chúng ta dù sao cũng là những con người lương thiện! Vì bản chất lương thiện nên mới bị gạt năm Mậu-Thân và sau đó là… một tháng học tập. Qua lời nói và thái độ quả quyết của anh Phan-Chánh-Cương, mọi người chỉ trong có mười phút đã gom góp đủ số vàng mà tên thuyền trưởng đòi hỏi. Sau khi anh Cương thông báo đã gom đủ số. Tên thuyền trưởng nói cứ giữ đó để khi nào vào gần bờ thì giao cho hắn.

Năm giờ sáng ngày trôi thứ mười bảy.

Cô gái Huế tốt nghiệp đại học môn Anh văn là người từ đầu đã chiếm một chỗ nằm trước mũi ghe, nơi để thùng chứa nước nguyên thủy của chiếc ghe. Tại nơi đó, cô đã giấu được những món nữ trang mà bọn cướp không thể nào tìm ra được. Tin ở sự quả quyết của anh Cương, cô gái Huế đã đóng góp ba chỉ vàng.

Sáng sớm hôm nay khi thấy chiếc tàu cướp quăng giây qua chiếc ghe, cô nhìn đồng hồ mà cô còn giữ được. Cô nghĩ: “Tại sao tụi này không kéo vào ban đêm như tụi nó lo sợ mà lại kéo vào lúc này? Hay là… ” Vừa khi cất giấu xong cái đồng hồ và những món nữ trang thì bọn người trên chiếc tàu cướp kia, lúc này không còn một chút gì là thân thiện nữa. Bọn chúng nhảy qua ghe của chúng tôi và bọn chúng bắt anh Cương đưa vàng rồi thẳng tay đánh đập tất cả mọi người để mong lấy thêm vàng. Bọn chúng đang cướp phá thì từ bên tàu của bọn chúng có một tên chạy ra nói gì đó, thế là tất cả bọn cướp đang ở bên ghe của chúng tôi lập tức nhảy hết xuống biển lội qua tàu của bọn chúng và chạy mất.

A! Cái lằn màu vàng mà mọi người thấy hôm qua, bây giờ đã hiện ra rõ ràng hơn, đó là dãy cát của bờ biển.

Mười giờ sáng ngày trôi thứ mười bảy.

Dãy cát đã hiện ra rất rõ ràng. Anh Cương cho biết đây là bờ biển của Mã-Lai chứ không thể của Thái-Lan được. Thôi thì của nước nào cũng được miễn là đừng của Việt-Nam là vui rồi. Tất cả mọi người hầu như đã lên hết trên sàn ghe. Có những chiếc xuồng nhỏ của những người dân đi câu cá chạy ngang qua ghe của chúng tôi và còn vẫy tay chào rất là… thân thiện.

Mười một giờ ba mươi ngày trôi thứ mười bảy.

Từ trên trời có một chiếc trực thăng từ xa bay đến lượn hai vòng trên ghe của chúng tôi và rồi nó đáp xuống một trại binh nằm cạnh bờ biển cách đó không xa lắm.

Mười hai giờ ba mươi phút ngày trôi thứ mười bảy.

Đúng mười hai giờ ba mươi phút của ngày trôi thứ mười bảy, chiếc ghe của chúng tôi… bị mắc cạn trên bờ biển của Mã-Lai-Á. Tôi là người sau cùng lên bờ. Vì ảnh hưởng vật lý của những ngày trên ghe nên khi chạy được vài bước tôi bị té nằm sõng soài trên bãi cát. Những người đàn ông lúc này cũng đã lên hết trên bãi cát. Một số đang lo cho những người phụ nữ vì họ không còn đủ sức để bước đi nữa. Họ nằm nửa người trên cát nửa người dưới nước. Nhìn những người đàn bà đó bây giờ trông chẳng khác gì những bộ xương cách trí mà ngày còn cắp sách đến trường học sinh nào cũng nhìn thấy và học qua. Họ tiều tụy quá sức. Nhiều người không còn sức để đứng lên và bước đi… Nhưng, chính những con người đáng thương đó đã hy sinh, đã chịu đựng tủi nhục để tất cả mọi người trên ghe có được miếng ăn để có sức sống cho đến ngày hôm nay.


***

Cuộc chiến ý thức hệ do miền Bắc chủ xướng với vũ khí của Nga Tàu đã ngưng từ lâu, nhưng, cuộc chiến vẫn chưa tàn. Thời gian trôi qua nhanh như mũi tên bay, vậy mà giờ đây trên quê hương Việt-Nam thân yêu vẫn còn cảnh đói nghèo và bất công. Người Việt-Nam vẫn phải tìm đủ mọi cách để rời bỏ xóm làng, rời bỏ ruộng đồng, rời xa nơi chôn nhau cắt rún… để tìm sự sống nơi xứ người. Nhưng, người Việt-Nam thì vẫn còn chia rẽ và hận thù mà chỉ khi nào cái đảng cộng sản Việt Nam man rợ không còn nữa thì người Việt Nam mới hết thù hận và hết chia rẽ!

Giờ đây một trăm lẻ chín người trên chiếc ghe mang bảng số SS 1505 IA hiện đang ở đâu trên khắp quả địa cầu này? Những ai còn và những ai đã ra đi vĩnh viễn?

Chúng ta rồi đây lần lượt cũng sẽ mất tất cả!

Mất gì ? Chắc Chắn Một Điều, Chúng Ta Sẽ Không Bao Giờ Để Mất Quê Hương và Mất Tình Người Việt Nam. /.

Hồi ký - Topa (Hòa-Lan)
https://vantuyen.net/2016/08/13/topa-chuyen-vuot-bien-kinh-hoang/

BachMa
04-18-2019, 03:38 PM
Nhờ Anh
Ngô Tấn Nghĩa

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1554574792-NhoAnh_01.jpg
Hình minh họa
Hai chữ “NHỜ ANH“ hay “NHỜ ĐẠI TÁ“ đã đem lại cho Bình Thuận sự an ninh và phát triển cho dân trong tỉnh, thốt ra không phải chỉ từ người dân mà cả các cấp Quân, Cán, Chính, không chỉ trong tỉnh nhà mà đã được loan truyền qua các tỉnh khác, đến cấp chánh phủ. Thêm vào đó Cố vấn Mỹ cũng báo cáo hàng ngày theo hệ thống của họ.

Nên trường hợp Bình Thuận đã được các giới nêu lên làm đề tài nghiên cứu và học hỏi. Đặc biệt là cuối năm 1973, đại sứ Williams Colby, thuộc cơ quan CIA, ngưòi có trọng trách cho nhiều chương trình quan trọng tại Việt Nam, đã có thơ mời tôi qua Mỹ nói là để tham quan các Thống đốc Tiểu bang Mỹ nhưng sự thật hoàn toàn khác hẳn vì thời gian đó là lúc Quốc Hội Mỹ tranh cãi về giải pháp - “Cúp viện trợ và tháo chạy khỏi Việt Nam” nên ông Colby muốn đem tôi làm nhân chứng sống chứng minh cho sự thành công của chương trình PHÁT TRIỂN & VIỆT NAM HOÁ CHIẾN TRANH, hầu chinh phục Quồc Hội Mỹ yểm trợ cho các chương trình của ông được tiếp tục.

Tuy nhiên qua năm 1974, mặc dầu việc du hành đã được sẵn sàng nhưng phải bị hủy bỏ vì các lý do sau:

#1 - Tôi được tiết lộ là Quốc hội Mỹ đã biểu quyết “trói tay” TT Nixon, không được đơn phương viện trợ cho bất cứ nước nào nếu không có sự đồng thuận của Quốc Hội, dầu chưa công bố rõ ràng là quyết định cắt hết viện trợ cho Việt Nam.

#2 –Con trai lớn cuả tôi, Ngô Quang Lý, Đại úy phi công, chuyên trách theo dõi, chụp hình các đoàn xâm nhập của Cộng sản, máy bay đã bị bắn hạ trên bầu trời Bến Cát.

#3 - Mặc dầu phía Mỹ cứ hối thúc là nên đi nhưng Tổng Thống không chấp thuận viện lẽ tình hình rất sôi động, sự vắng mặt của tôi trong ba tuần lễ sẽ có tác dụng không tốt, trong khi đó Tổng Thống đã gởi qua Mỹ một Phái đoàn của Hạ viện do dân biểu Đinh Văn Đệ , Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng hướng dẫn qua cầu viện, xin số tiền rất khiêm tốn là ba trăm triệu cho đạn dược, xăng và phụ tùng tạm đủ đề cầm cự nhưng cuộc cầu viện lần cuối cùng này đã hoàn toàn thất bại.

Trên đây là tóm lược vô đề cho bài “NHỜ ANH” vì hai chữ này là một khích lệ, là một huy chương quí giá nhất cho đời binh nghiệp của tôi, dầu là Bảo Quốc Huân Chương cũng chỉ là một bằng tưởng lệ treo trong nhà nhưng câu NHỜ ANH là một bằng tưởng lệ nói lên bao lời cảm kích, cám ơn thốt ra từ các cấp hàng ngày, và ngay cả bây giờ, bốn chục năm sau cuộc chiến trong những lần gặp mặt trong hội hè, hoạt động cộng đồng, đồng hương Bình Thuận tôi vẫn được nghe những lời “TUYÊN DƯƠNG” này và những bản tuyên dương có thể đọc được trong những tập san ÂN TÌNH, đặc biệt trong ÂN TÌNH V, Người lính già 229 đã nêu câu hỏi “BẰNG VÀO CÁI GÌ” mà Đại tá Tiểu khu trưởng Ngô Tấn Nghĩa đã lập được kỳ công này !? “Đây không phải là câu hỏi của Người lính già 229 mà thôi nhưng là của tất mọi nơi, mọi cấp và mọi giới".

Cho tới nay tôi vẫn không thể viết lên trang sử này vì còn kẹt một số nhân chứng đã giúp tôi rất nhiều về tình báo vẫn còn sống tại Phan thiết cho tới cuối năm 2012 .Giờ đây tôi thấy không còn vướng víu vào những liên hệ này nữa nên có thể bộc lộ tâm tình, nói lên bí quyết để thành công ,với những tình tiết bí mật mà một số nhân vật đã cộng tác với tôi.

Bài viết có thể dài nhưng vì trong khuôn khổ một đề tài cho tập san Ân Tình nên tôi sẽ hết sức ngắn gọn nhưng không để thiếu nhiều chi tiết.

1 -SỰ CHỈ ĐỊNH BẤT NGỜ - Chưa bao giờ việc chỉ định một sĩ quan đi đảm nhiệm chức vụ Tỉnh/Tiểu khu trưỏng lại có thể quyết định mau chóng chỉ sau cuộc họp cấp Quân đoàn với 2 bộ tham mưu Mỹ Việt kéo dài 3 giờ đồng hồ. Đó là một ngày vào tháng 10 năm 1969, dưới sự chủ tọa của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.

Như thưòng lệ, tôi là Trưởng Phòng 2 lên mở màn buỏi họp cao cấp Mỹ Việt bằng thuyết trình về tình hình địch bằng ngoại ngữ (được T.Thống cho phép ). Trong phiên họp T.Thống đã tiết lộ mục đích buổi hội là thảo luân với các Tướng Việt Mỹ về chương trình “VIẸT NAM HÓA CHIẾN TRANH” . Vào giờ giải lao, Tổng thống hỏi tôi sao từ 5 năm qua tôi vẫn thấy anh còn ở Pleiku mà ít có sĩ quan nào ở lâu như vậy, tôi thưa rằng tôi không muốn xin thuyên chuyển vì đây là vùng hỏa tuyến mà tôi đã làm việc rất hữu hiệu với chuyên môn tình báo điện tử, phối hợp chặt chẽ với ngành tình báo Hoa Kỳ đem lại kết quả khích lệ cho Quân đoàn. Kế đó là cuộc họp riêng giữa cấp tưóng Việt Mỹ và Tham Mưu Trưởng Quân Đòan để thảo luận về chưong trình Việt Nam Hóa và phối trí các lực lượng cùng cấp chỉ huy các đơn vị và các Tiểu Khu Trưởng.

Sau cuộc họp quan trọng này và sau khi T.Thống ra về thì tôi đựơc Trung tướng Tư lệnh vùng cho hay là tôi được chỉ định đi làm Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trửơng Bình Thuận. Trung tướng kêu Phòng Tổng Quản Tri liên lạc với Phủ Thủ Tướng và Phòng Tổng Quản Tri Bộ Tổng Tham mưu để làm lệnh thuyên chuyẻn và Nghị định. Thật là tiếng sét bất ngờ, tôi rất ngạc nhiên với cảm súc lẫn lộn vui mừng và lo ngại. Vui vì đây là một chức vụ có tầm cỡ ngang hàng với một Tư lệnh cấp Sư đoàn mà theo bình thường thì tôi chẳng thể nào “vói tới” nhưng nay với hoàn cảnh khó khăn hiểm trở tôi lại phải là người tiền phong – lo ngại vì tôi biết chắc đây là một nhiệm vu bất khả thi ( mission impossible ) vì đã 5 năm là Trưởng Phòng 2 Quân đoàn, tôi đã cùng Phòng 3, phối trí lượng tăng cường và yểm trợ cho các Tiểu khu thì hai Tiểu khu nặng nề nhất là Bình Định ở phía Bắc và phía nam là Bình Thuận - tại hai Tỉnh này ngày nào cũng có giao tranh, tấn công các đồn lẻ tẻ, các đòan Xây Dựng Nông Thôn, Nghĩa Quân và đôi khi cấp đại đội ĐPQ cũng bị tổn thất khá nặng nề trong các cuộc phục kích,có khi ngay sát nách thị xã .Với hoàn cảnh này tôi vô cùng lo ngại biết rằng khi tới Bình Thuận thì tất cả các đơn vị chính qui của các Trung đoàn chính qui đóng quân tại miền Bắc Bình Thuận, các lực lưọng Mỹ, gồm đơn vị đặc biệt, chiến xa, trong pháo và không quân yểm trợ đóng tại miền nam Bình Thuận với sự trợ lực hùng hậu của Hải quân Mỹ, chạy dài theo bờ biển sẽ rút hết.

Vì ngày nhận nhiêm vụ đã quá gần Tết tôi cố gắng xin đáo nhậm sau Tết. Trong suốt thời gian trước khi lên đường tôi rất băn khoăn lo ngại không biết rồi đây tôi sẽ đối phó ra sao? Mấy đêm gần như không ngủ, ngồi trước bản đồ Bình Thuận với những điểm VC chốt, thu thuế, những khúc Tỉnh lộ, Quốc lộ không thể lưu thông, xe đò phải nằm ụ, đời sống của giới chuyên chở đã bị khó khăn, mọi di chuyển từ Bắc vào Nam Tỉnh phải dùng đường biển. Từ năm 1966, tôi cũng đã theo dõi tình hình chính trị và tôn giáo đa dạng tại Bình Thuận - tại đây ta phải chiến đấu với thù trong, giặc ngoài, tất cả những biến cố tranh đấu, biểu tình bạo động, diễn ra tại Miến Trung, tại Huế đều diễn ra tại Bình Định và Bình Thuận. Những vi Tỉnh trưởng /Tiểu khu trưởng khi về đáo nhậm các tỉnh này đều bị coi là “bọn tàn dư, tay sai của Mỹ-Thiệu về để đàn áp phật giáo”.

Tôi không có người quen thuộc tại Bình Thuận nên không có tin tức và người có thể góp ý kiến, may sao đã kiếm được mối dây liên hệ với Bình Thuận là lúc đó con gái học tại trường dược cho biết có ông thầy người Bình Thuận là giáo sư Trương Văn Chôm tôi lập tức xin gặp giáo sư để làm quen, giáo sư rất vui vẻ cởi mở và khi tôi tiết lộ rằng tôi có nhiệm vụ lo cho an ninh và phát triển tỉnh Bình Thuận nên cần có được những nhân sĩ địa phương để cộng tác lo cho dân thì giáo sư tỏ ra rất tán thành ý kiến này và tiết lộ rằng ông có ông anh vợ là một cư sĩ Phật Giáo có uy tín trong cộng đồng Phật Giáo là ông Bảy Hoành và ông sẽ giới thiệu tôi cho ông này. Không đầy một tuần sau tôi gặp ông Bảy Hoành tại Sài Gòn . Việc đầu tiên của tôi là tấn công “Tình cảm” bộc lộ tâm tư của người “Phật tử” có “cơ duyên” ra phục vụ đồng bào Binh Thuận. Tôi hứa liên lạc mật thiết với Phật Giáo, lắng nghe ý kiến của đồng bào để áp dụng đường lối thích hợp. Anh Bảy tỏ ra rất hoan hỉ tiếp đón đề nghị của tôi với niềm hân hoan khi chia tay, riêng về phía tôi cũng rất mừng đã đặt căn bản để hòa dịu hy vọng vô hiệu hóa chiến tranh chống “giặc trong”.

Trước khi đáo nhậm Tỉnh và Tiểu khu tôi đã thảo luận rất kỹ càng với Cố Vấn của P.2, người đã cùng tôi áp dụng mọi kỹ thuật tinh vi của điện tử để chụp hình, theo dõi các vị trí đóng quân, mọi sự xâm nhập di chuyển của địch và xin phi tuần B52 trải thảm xuống đầu địch. Chúng tôi đã đạt được kết qua vô cùng giá trị. Tôi trình bày giờ đây tôi phải đi lãnh trọng trách khó khăn mà các đơn vị chính qui của Việt Nam cũng như các đơn vị yểm trợ hùng mạnh của Mỹ sẽ rút đi nên chỉ còn mong đợi vào sự hỗ trợ của tinh báo kỹ thuật. Họ rất hoan hỷ để yểm trợ với sự tham gia của mọi đơn vị chuyên môn, họ là thành phần đầu tiên tiết lộ cho tôi biết là nơi mà tôi tới sẽ có đơn vị tình báo Hải Quân với các chiến hạm của Hạm Đội 7 chạy dọc theo bờ biển Việt Nam với những khẩu hải pháo có tầm xa có thể bao trùm toàn lãnh thổ Bình Thuận, họ hứa sẽ biệt phái cho tôi một chuyên viên để phối hợp khi cần biết rằng về kỹ thuật tôi đã tham dự hai khóa tình báo Mỹ tại Okinawa Nhật và khóa Tình báo cao cấp cho đồng minh tại Fort Hollabird tại Hoa kỳ.

Ngày đáo nhậm Bình Thuận đã đến, trên máy bay tôi băn khuăn lo lắng, thấy tương lai còn mờ mịt, tự hỏi có phép lạ nào có thể giúp đảo ngược được tình thế như vậy, nhưng thôi hãy cương quyết ôm hai chữ “CHẤP NHẬN” vì “DANH DỰ và TỔ QUỐC” và tin tưởng vì không còn cách nào khác ngoài sự dấn thân.

Cảm tưởng đầu tiên khi đặt chân tới Tỉnh thấy đây đâu phải là Tòa Tỉnh mà là một tiền đồn vì chung quanh toàn là bao cát chất cao nghệu và hàng rào kẽm gai chằng chịt chung quanh, ngăn cách các nơi làm việc giữa Văn Phòng Tỉnh và Trung Tâm Hành Quân Tiểu Khu mà vị tiền nhiệm khi qua lại đã dùng xe jeep với cận vệ sẵn sàng trong tư thế chiến đấu.

Trong những ngày bàn giao, ngoài giờ thảo luận tôi đã ra ngoài đi thăm dân cho biết sự tình, quan sát các hoạt động hàng ngày, tới chiều tối đi ra vòng đai thị xã và đã chứng kiến những đoàn người về thị xã ngủ cho được an toàn. Những đoàn xe Honda chở đôi, chở ba, trên xe có đủ loại màu sắc: binh sĩ, cảnh sát, cán bộ XDNT, kể cả cấp Trung và Đại Đội Trưởng. Ngày sau thuật lại chuyện quan sát cho anh tiền nhiệm nghe, anh khuyên tôi nên thận trọng và muốn ra tới cầu Phú Hài thi hãy cần xe cơ giới yểm trợ. Tuy nhiên, tôi vẫn đơn phương tiếp tục du hành quan sát những ngày kế tiếp. Những nhận định này đã giúp việc thiết kế được sát với hoàn cảnh hơn.

QUAN NIỆM HÀNH QUÂN – Quan niệm rằng ta không thể có cơ thắng thế về quân sự vì các lực lượng yểm trợ đã bi lấy đi theo chương trình VNHCT khiến binh sĩ bị giao động về tinh thần chiến đấu vì khi lực lượng hùng hậu còn ta vẫn bi thụ động mà nay lực lượng yểm trợ không còn nữa nên địch sẽ lên tình thần và sẽ tăng cường tấn công và phá hoại. Vì lý do chính yếu và thực tế đó tôi phải chuyển qua chương trình “GIẢI ĐỘC”, nói cách khác là “PHẢN TUYÊN TRUYỀN” nhưng giải độc hay phản tuyên truyền đã là công việc hàng ngày của các cơ quan chính phủ và quân đội chỉ đem lại những kết quả khiêm tốn nay với tình thế đặc biệt khẩn cấp tôi phải nâng lên thành chiến tranh cân não hay chiến tranh Ý THỨC HỆ và muốn thi hành ý nguyện này tôi phải là người dấn thân hướng dẫn thi hành . Lúc này người dân và quân đều mù mờ vế ý thức chống cộng nên cộng sản đã dùng chiêu bài “CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC” để tuyên truyền lôi cuốn gây tác hại đáng kể cho ta.

Kế hoạch đã định , tôi ra lệnh triệu tập cuộc họp “CẤP TRƯỞNG” nghĩa là bên Hành Chánh, Xã Ấp cũng như quân đội ĐPQ + NQ + CS và XDNT bất cứ người nào chức vụ có chữ trưởng đều được mời. Cuộc họp đã có được trên 2500 người tham dự. Trong buổi họp kéo dài tôi đã trình bày rõ tình hình và hoàn cảnh hiện tại và nói rằng nếu ta không có sự thay đổi dấn thân thì tình hình càng ngày càng bi đát hơn hiện nay với các trục lộ giao thông bị bế tắt, CS công khai thu thuế nhiều nơi, viêc chuyển vận từ Nam lên Bắc phải dùng ghe thuyền, đêm thì các đồn bót co rút trong đồn, ngoài âp CS mặc tình thao túng, tôi cũng không giấu giếm là các lực lượng chính qui và Mỹ sẽ rút đi hết rất gần đây mà ta phải tự lực cảnh sinh vậy chúng ta phải đặt nặng tinh thần trách nhiệm và hy sinh hướng về các ấp dùng chiến thuật của CS là “GIẶC LÙI TA TIẾN, GIẶC TIẾN TA LÙI” để phản công chúng nhưng ta quyết không lùi mà chỉ có tiến. Tôi biết các em đã có số người bị giao động, tinh thần hoang mang nhưng các em sẽ không bị cô đơn vì tôi là người xung phong đi với các em đến các ấp, bất kể gần xa, hẻo lánh sẽ có sự hiện diện của tôi trong giờ phút khẩn trương.

Những ngày sau buổi hội ,tôi bắt đầu thực hành liền, bất thần tới những đồn cấp Trung đội và Đại đội khi vừa xẩm tối, vì bất thần đơn vị chạy tán lọan thay quân phục để vào hàng trình diện, trong những ngày đầu có những đơn vị bị thiếu quân số đáng kể nhưng rồi tiếng báo động truyền khẩu đã loan đi tới các đơn vị khác cho nên những ngày sau đó sự vắng mặt đã giảm thiểu . Tôi tỏ ra thân thiện, thương yêu binh sĩ và tâm tình, thăm viếng vỗ về, ủy lạo các cấp nên chẳng bao lâu các em đã tặng cho tôi biệt hiệu “ÔNG GIÀ” độ lượng đầy tình thương. Sau này tôi đi ngủ ấp binh sĩ không còn sợ sệt mà tỏ ra mừng rỡ.

Trong khi tôi kiểm tra đơn vị và tâm tình với các em quân nhân thì giàn loa phóng thanh được thiết trí, đầy đủ cho cả ấp nghe sau khi đồng bào đi làm đồng áng về vừa cơm nước xong là tôi bắt đầu lên tiếng vấn an đồng bào và chiến sĩ trong xã, ấp, buổi nói chuyện nhấn mạnh về đề tài CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC.

Anh chị em ấp……..thân mến, tôi Đại tá Ngô Tấn Nghĩa, Tỉnh trưởng Bình Thuận, đêm nay về ấp thăm và tâm tình cùng anh chị em, để chia sẻ nỗi niềm tâm sự, giải toả những thắc mắc, khó khăn và bực tức mà đồng bào phải chất chứa trong lòng, không dám tỏ cùng ai, đó là nguồn gốc nảy sanh ra sự căm thù, oán hận. Vi vậy nên tôi đã quyết đi từng ấp và tất cả các ấp trong tỉnh để hoàn thành nhiệm vụ.

Tôi biết đồng bào đang gánh chịu một cổ hai tròng,CS đã sách nhiễu ,bắt đóng góp quá nhiều để nuôi quân và nhất là cho qũy CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC . Vi vậy tôi thấy rất quan trọng nêu ra đây một số câu hỏi rất thực tế và giản dị để đồng bào hiểu được sự láo khoét cuả chúng.

Nước nào đã đánh bại nhóm quân phiệt Đức -Nhật đề chấm dứt chiến tranh thế giới lần thứ hai ? Sau chiến tranh các nước Á châu đã được đã được trả lại độc lập cho xứ sở họ và đã củng cố nền độc lập , bẩu cử tự do nhưng tại sao HCM lại bắt dân tộc ta phải tiếp tục chém giết nhau, phải cưỡng nhận chế độ Cộng sản, tiêu diệt tất cả những ai không theo chúng, hãy kiểm điểm lại ấp mình đây đã bao nhiêu ngưòi bị áp sát, bắt cóc và bao nhiêu gia đình giờ này còn tang chế.

Ta hãy nhìn kỹ tấm gương sáng tại 2 nước láng giềng là Nam Hàn và Nhật Bản .Nhật Bản là tội phạm chiến tranh, đã chiếm đóng hà khắc trên nhiều nước Á Châu kể cả Việt Nam ta nhưng khi bị Mỹ đánh bại rồi Mỹ đã không chiếm cứ, đô hộ Nhật mà trái lại đã giúp cho Nhật nhân tài, kỹ thuật chuyên môn để sản xuất đủ mọi thứ từ máy thâu thanh nhỏ cầm tay tới xe hơi, cơ giới hạng nặng và bất cứ những gì nước Mỹ có thì Nhật cũng sản xuất được mà sản xuất mạnh ngang hàng với Mỹ nhưng sức tiêu thụ lại mạnh và mau hơn vì giá thành lại rẻ hơn đồ Mỹ nên chẳng bao lâu sau chiến tranh nước Nhật đã thành một cường quốc kinh tế sắp hạng nhất nhì trên thế giới. Tại vùng thôn quê hẻo lánh này giờ này quí vi hãy ngó chung quanh nhà, thấy tất cả vật dụng ta dùng, từ máy thâu thanh lớn nhỏ, máy truyền hình đến những món lớn như Honda, máy cày phương tiện phổ thông di chuyển tất cả đều sản xuất từ Nhật Bản.

Tấm gương thứ hai với hoàn cảnh rất giống Việt Nam ta đó là nước Triều Tiên với hai vùng gọi Nam Hàn và Bắc Hàn .Hai phần đất này cũng được độc lập tự do sau Đệ nhị thế chiến năm 1945 nhưng 2 Miền có hai ảnh hưởng khác nhau, Bắc Hàn thì thiên về Cộng sản Nga –Tàu , trong khi Nam Hàn cương quyết giữ thể chế tự do thân phương tây nhưng chỉ được 5 năm sau tức năm 1950 tháng 6 - Quân Trung cộng đã xúi Bắc Hàn phải “GIẢI PHÓNG NAM HAN” để CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC với quân của hai nước dùng chiến thuật biển người tràn xuống Miền Nam như nưóc lũ chỉ trong mấy ngày đã chiếm được thủ đô Hán Thành và đang tiếp tục tiến về nam gần tới điểm cuối cùng ra biển thì Mỹ đã kịp thời phản công, lộ quân Mỹ dưới quyền Tư lệnh tướng MacArthur đã đổ bộ cắt ngang giữa Nam và Bắc Hàn, đánh xuống tiêu diệt đại bộ phân liên quân Trung Cộng -Bắc Hàn và tiếp tục đánh ngược lên Bắc, cuộc chiến qua lại đã kéo dài ba năm 1950 -1953, rốt cuộc Bắc Hàn phải cố thủ tại vĩ quyến 38, ranh giới cũ nhưng đã sát hại trên hai triệu dân. Rồi 17 năm sau cho tới hiện tại, Bắc Hàn với chế độ cộng sản độc tài hà khắc khiến dân Bắc Hàn phải chịu khốn đốn và hàng triệu người chết đói triền miên năm này qua năm khác ngay cả trong hiện tại trong khi đó Nam Hàn đã thành quốc gia có nền kinh tế, kỹ nghệ gần theo kịp với Nhật Bản. Đó là những bằng chứng cụ thể, trước mắt, không thể chối cãi.

Mong đồng bào lắng nghe, ngay cả cán bộ CS , giờ này có thể các anh ở trong hay ngoài ấp hãy nhìn thẳng vào thực tế, suy nghĩ cho chín chắn và sâu xa , nhìn rõ sự thật và hãy trở về làng cũ lo cho gia đình và cha mẹ. Bài tâm sự này của tôi sẽ được in ra rất nhiều bản, được phổ biến rộng rãi không những trong các ấp mà sẽ được rải trên các vùng rừng núi trong toàn tỉnh. Tôi thiết tha kêu gọi sự hồi tỉnh của các anh, tôi biết các anh còn đắn đo, nghi kỵ sợ bị lường gạt kêu gọi các anh về rồi bị hãm hại nhưng tôi bảo đảm với các anh đây là lời gọi tâm huyết, các anh có thể cầm thơ kêu gọi của tôi tới bất cứ nơi nào xã, ấp hay thị xã và cho hay rằng các anh đáp lời mời cuả tôi về thăm bà con trong 15 ngày ,hay nhờ bà con liên lạc trước với tôi ,trong dịp này các anh có quyết định ở lại luôn hay tự do trở về lại chiến khu.

Rồi lời tâm huyết với bốn chữ CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC đã được rải trên các mật khu trong toàn tỉnh ,trong khi đó tôi đã phối hợp các cơ quan đến các ấp lo Dân Sự Vụ, nhất là lúc chương trình NGƯỜI CÀY CÓ RUỘNG vưà mới được ban hành . Lần lượt dù ngày hay đêm tôi đã đi qua được hết 173 ấp trong toàn tỉnh. Kết quả kêu gọi của tôi đã thành công bất ngờ nhưng rất bí mật và âm thầm . Không ai ngờ là các là các bô lão tại Phan Thiết thường ngày không ưa chính quyền và tới văn phòng tỉnh với vẻ mặt sát khí đằng đằng nay lại tới tâm tình với Đại tá Tỉnh trưởng, thì ra các cụ thổ lộ là có thằng cháu muốn đáp ứng lời kêu gọi cuả Đại tá trở về và tôi đã bảo đảm với nó là lời kêu gọi cuả Đại tá rất thành khẩn và tôi sẽ bảo đảm cho nó.

Tới đây thì tôi lại dùng xảo thuật khác nói tôi sẽ giúp các cháu nhưng cần phải lo an toàn cho nó vì nếu nó về thẳng Phan Thiết thì sợ VC sẽ ám hại gia đình nó nên tôi đề nghị các ông là cho cháu về Sài Gòn, tại một đia điểm như Cầu Ông Lãnh , nơi lui tới của các ghe cá, mắm của Phan Thiết rồi mình sẽ kín đáo gặp nó , ở đó tôi sẽ nghe nó nói tại sao nó muốn về và tinh thần của những người còn lại như thế nào ? Thế rồi những cuộc gặp đã được sắp đặt, mỗi tháng tôi phải về Sài Gòn.

Tôi đã cố giữ bí mật bằng cách cho tài xế và con trai Lễ đi du hí, tôi tự lái xe đi tới chỗ hẹn với 2 cảnh sát chìm của Ty Cảnh Sát quận 5 theo dõi ngầm từ xa xa. Mặc dầu bảo mật tối đa nhưng bất ngờ cũng bị lòi đuôi vì các cụ tới nhà tôi tình cờ gặp tài xế và anh hỏi: Thưa Đại tá có việc gì mà có các ông như Năm Tho, Phan Vũ Lộc v.v. tới tìm Đai tá ? - đó là chuyện lạ đối với chú tài nhưng tôi chỉ phớt tỉnh trả lời vì các ông có hứa khi có dịp đi Sài Gòn sẽ ghé thăm thôi. Trong dịp gặp gỡ với những cán bộ muốn hồi cư tôi vận dụng hết tình cảm để thâu đưọc những chi tiết quí giá như: những đêm phát thanh ở ấp của tôi rất hữu hiệu, CS cứng họng không thể có lập luận phản biện, chúng đã ra lệnh cho các cán bộ hạ tầng địa phương rút về vùng an toàn, các đồng đội phải dòm ngó nhau di chuyển cặp kè chận đứng mọi sự đào ngũ nhưng có nhiều trường hợp đào ngũ đã xảy ra.

Tinh thần bộ đội giao động vì các cuộc pháo kích quá chính xác, lại thường xuyên hơn trước kia nên chúng nghi có nội gián phải di đông bất ngờ. Các mũi công tác bị tổn hại nhiều vì mìn tự động, sợ đến nỗi khi xâm nhập ấp phải đem theo một xấp giấy trắng dễ thấy ban đêm, người tiền đạo phải rải trên đường xâm nhập vô ấp và khi đi ra cũng phải ngó theo đường cũ nhưng vẫn bị chạm mìn. Hiện tình họ rất lúng túng, hoang mang, giao động. Lúc này là lúc tôi “đầu độc” trở lại đưa ra những tin kinh hoàng như: “anh biết tại sao pháo kích lại quá chính xác không vi tôi được trang bị nhiều máy điện tử tối tân thí dụ như máy phát giác những điểm nóng, chỗ nào có đóng quân là có nấu nướng, máy tầm nhiệt sẽ phát hiện điểm nhiệt lên trên màn hình ,thêm vào đó cũng có máy theo dõi sự di chuyển của các đoàn quân hay tiếp tế dầu đêm hay ngày nên đã làm tê liệt được mọi mưu toan tấn công. Tinh thần như vậy còn đâu ý chí tấn công mà chỉ lo chạy. Bình thuận được an toàn ngày đêm là vậy.

Trên đây là sơ kết thành tích trong sáu năm cho Bình thuận, nhưng một con én làm sao đem lại được muà xuân.tôi đã thành công nhờ sự cộng tác chân thành của mọi giới và các tôn giáo.

a-QUÂN ĐÔI – Đoàn kết keo sơn với tinh thần kỷ luật cao độ,mặc dầu có số sĩ quan xuất thân từ các khóa đàn anh tại trường VÕ BỊ QUỐC GIA như Trung tá Phong khóa 3, Trung tá Út khóa 7, Trung tá Luông khóa 8, một khóa với Thiếu Tướng Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn. Tôi thuộc khóa 9 nhưng sắp về tuổi tác tôi lại là người cao niên và giàu kinh nghiệm hơn hết.

b -HÀNH CHÁNH – Tôi đã có được những Đốc sự, trẻ tuổi, can đảm dấn thân, hăng say tham gia mọi công tác dân sự và hành quân theo quân đội. Có lần để thay thế ông phó Tiên xin thuyên chuyển về Bình Dương, Bộ Nội Vụ gởi ra một Đốc Sự cao niên, ông đã đi nhiều tỉnh và tại Bộ Nội Vụ, có gốc lớn ở Trung ương mà tỉnh nào cũng phải vị nể. Bắt đầu làm việc được hai tháng, một hôm ông đem chồng giấy tờ qua văn phòng tôi và bắt đầu đòi hỏi điều kiện, ông nói Đai tá ủy nhiệm cho tôi ký giấy tờ để tôi có thể “Lo” cho Đai tá, tôi trả lời ông “ Cám ơn ông phó, khỏi cần lo cho tôi vì tôi muốn ký những giấy tờ gì thuộc về quyền hạn và trách nhiệm của Tỉnh trưởng.

Tôi không dám phán đoán về chữ lo mà ông sử dụng vì nó có thể bao hàm dụng ý khác nhau, nhưng ngày sau tôi bay vào trình với Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm xin thuyên chuyển ông phó vì ông không có khả năng đi hoạt động với tôi tại xã ấp, Thủ tướng chỉ hỏi tôi một câu bây giờ anh đề nghị ai? Tôi trình ra tên ông Phạm Ngọc Cửu, Chánh Văn Phòng, người tôi đã quan sát từ ngày nhậm chức và trước đó đã có nhiều thành tích xông pha cho Bình thuận. Thủ tướng ra lệnh cho ông Chánh Văn Phòng gọi Bộ Nội Vụ làm lệnh. Kể từ đó ông phó đã phối hợp, điều hòa nền hành chánh với với các ty sở với sự đoàn kết khăng khít giữa các ngành chuyên môn, phối hợp nhịp nhàng và thương yêu giữa các Đốc Sự trẻ tuổi.

c -TÔN GIÁO – Tôn giáo thì nhiều nhưng không phức tạp ,từ ngày đầu tôi đáo nhậm đã đi từng đơn vị chính như nhà thờ, chùa Phật và chùa Chàm và đâu đâu tôi cũng đưọc sự đón nhận thân tình. Phía ngưòi Hoa được phép tổ chức “RƯỚC ÔNG” một tục lệ cổ truyền nhưng họ không được phép thực hiện từ nhiều năm qua, nay họ được phép làm lễ mà lại được RƯỚC ÔNG vào cả tòa tỉnh họ vui mừng xiết kể, tôi không ngại đêm tối và an ninh tôi đã tới chủ tọa cuộc đấu bóng rổ với Chợ Lớn. Với giới ngư phủ, mỗi khi có cá ông “lụy” tôi đều tới tham dự lễ phát tang, chôn cất.

Khi tới Phan thiết anh Bảy Hoành đã ân cần giới thiệu tôi với các giới có uy tín với Tỉnh hội Phật giáo. Món quà đầu tiên cuả tôi là số thực phẩm CARITAS được đem tới chùa Tỉnh hội tặng cho Phật tử. Tại sao lại có việc trái khoáy như vậy? vì tôi đã bay ra Nha Trang trình với Đức cha (Hồng Y) Nguyễn Văn Thuận kế hoạch hài hòa tôn giáo của tôi làm sao vô hiệu hóa vấn đề TRANH ĐẤU, xuống đường. Nghe xong Đức cha rất đồng ý và ngài đã vượt qua giới hạn của Tòa thánh, chấp nhận lời thỉnh cầu của tôi. Đức cha đã có cảm tình với tôi từ trước từ sau ngày Tổng thống Diệm bi thất xủng, tôi đã lo cho gia đình ngài và khi người em ruột ngài là Thiếu tá Nguyễn Linh Tuyên, một sĩ quan Quân cụ bị đày đi Pleiku với lệnh cho đi đơn vị tác chiến nhưng khi tới Pleiku tôi đã bảo lãnh đi theo tôi làm tại Phòng 2.
Với Tỉnh hội Phật giáo tôi leo thang hơn nữa bằng cách tiết lộ kế hoạch thiết trí tượng Phật bà cao 12m trên lầu Ông Hoàng, tượng dơ tay, đăm chiêu nhìn ra biển lo âu, như sẵn sàng đón nhận, độ trì cho những đứa con ngư phủ trong lúc gặp phong ba bão táp.

Khi pho tượng đã hoàn thành bên Tỉnh hội đề nghị mời bên Ấn Quang ra khánh thành tôi cũng tán thành. Buổi lễ an vị tượng đài đã được diễn ra vô cùng long trọng với hàng ngàn Tăng Ni và Phật tư cung nghinh. Các bạn bè trong Sài Gòn rất lo ngại cho tôi hỏi tại sao dám gồng mình như vậy không sợ bị “bay” sao ? Tôi nói tôi có bổn phận nắm dân tạo hậu thuẫn càng nhiều càng tốt.

Cộng sản tỏ vẻ tức tối về vụ này đã tung tin đầu độc vào Trung ương xuyên tạc việc làm của tôi nhưng đa số đều tán thành cho đây chỉ là một xảo thuật chính trị được tán đồng. Cộng sản vẫn không chịu buông tha, chặt đầu này chúng mọc đầu khác, không bao lâu sau đó chúng đã xúi học sinh trường Phan Bội Châu đi rải truyền đơn kêu gọi nhân dân chống chánh quyền và kêu gọi tham gia phong trào CHỐNG MY CỨU NƯỚC, hai học sinh đã bi Cảnh sát bắt, Ông Cò Nhị đã cho tôi hay là đám này hoạt động do xúi giục mà không có tổ chức đằng sau, trong lúc đó thầy Vĩnh Giêng đã xăng xái theo dõi diễn tiến cuộc điều tra nhưng hậu ý không phải là để lo cho học trò mà có ý tìm kẽ hở nếu học sinh bị tra tấn hay bi xử tù thì sẽ có phong trào sinh viên xuống đường chống chánh quyền đàn áp sinh viên. Nhưng tôi đã biết nguồn gốc đấu tranh của thầy nên lạnh lùng trả lời còn đang đợi cuộc điều tra kết thúc.

Bất ngờ cho dân chúng Phan thiết là tôi đã trả tự do cho hai học sinh bằng cách tập họp toàn trường PBC với tất cả các thầy cô và học sinh lại để nghe hát bài CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC trước khi trả tự do cho hai học sinh này với lý do các em học sinh ngây thơ đã bị bọn CS lợi dụng nhưng chính quyền không nỡ trừng phạt các em, e sẽ cắt đứt tương lai thăng tiến của các mầm non cho thế hệ mai sau. Nghe đâu hai học sinh này cũng có mặt tại Mỹ. So sánh với thực tạị ngày nay ta nhận thấy trường hợp của sinh viên Phương Uyên ngày nay mà CS hành hạ và truy tố đã làm vang dội thế giới với mọi thất lợi cho chúng.

Đối với Công giáo bất cứ hoạt động ở ấp nào tôi cũng đến thăm nhà thờ hàn huyên vớí các Cha tôi cũng đã yểm trợ trong các ngày lể,có vài Cha như Gò Bồi,Thuận Nghĩa , nhất là cha Thiện Gíáo, trước những ngày lễ Cha đều tới Đại tá : Đại tá ơi, giáo dân đi làm ngoài rẫy phát hiện được VC cấp Tiểu đoàn đóng cách đây vài cây số , biết rằng thầm ý Cha chỉ muốn che dù trước khi mưa nhưng tôi cũng vui vẻ trả lời Cha cứ yên chí đêm thánh lễ thế nào cũng có Đại tá Tỉnh trưởng tham dự và rồi tôi đã đến và được phường “TRẮC” dàn chào danh dự. Đối với Công giáo không hề có chuyện gì xảy ra xích mích với chánh quyền và đã sống với nhau như một gia đình. Tôi là vị Tỉnh trưởng đầu tiến đạt cho được một dân biểu Công giáo.

Năm 1972 thì số giáo dân Bình thuận đã thêm được 5000 người đó là đồng bào từ Cambodia chạy về do Phủ Khẩn hoang lập ấp gởi tới dưới sự dẫn dắt của hai linh mục, một Việt là cha Sanh và một Mỹ là cha Devlin.

Tôi không thể không nhắc đến trường hợp đặc biệt của cha Mỹ vì ngài là người khuyết tật nhưng đầy lòng bác ái, tình nguyện qua Việt Nam để cứu giúp những đứa con đau khổ. Khi tới Bình Thuận ngài đã từ chối sống trong căn cứ bảo đảm với đoàn Cố Vấn mà nhất định sống với con chiên ngay tại khu rừng khẩn hoang cách thị xã 3 cây số, chỉ trong một trailer thiếu tiện nghi đủ mọi thứ. Đây là mồi nhử cho Cộng sản vào giết hoặc bắt cóc ngài. Biết vậy tôi đã dùng ngài để nhử Cộng sản vào để tiêu diệt, sắp đặt hàng rào chiến lược bằng mìn claymore gài với đường giây nối nhau bao ấp trong khi chỉ có một Trung đội lo an ninh trong. Hàng rào mìn là hệ thống Ấp Chiến Lược rất nguy hiểm cho CS, vì chỉ thiết trí sau khi đã đi tuần vùng xung quanh và khi về mới thiết trí hàng rào mìn. Quả nhiên CS đã mắc bẫy, hai lần trước chúng còn mang được thây đồng đội đi đến lần thứ ba chúng phải bỏ lại 5 xác chết vì không còn dám vào để lôi thây.

Cho tới ngày di tản, cố vấn tỉnh đem xe ra đón ngài lên máy bay về Sài Gòn, ngài nhất định từ chối và nhứt định ở lại chết với con chiên. Ngài tới trình bày kế hoạch di tản với con chiên bằng cách đề nghị với tôi là mình gom hết lực lượng và dân chúng thành một đoàn quân vĩ đại và đi chuyển bằng chân (đưòng bộ) về Sài Gòn, tôi trình bày với ngài là không thể được vì khu Rừng Lá và Định Quán địch đã chiếm và chốt rất gay go, nếu mình tới đó sẽ rớt vào hoàn cảnh di tản cuả Quân Đoàn II qua Phú Bổn. Ngài đã khóc vì phẫn uất đưa cho tôi xem bài thơ “CHỬI MỸ - MỸ ƠI ĐỪNG NGOẢNH MẶT – AMERICA ! DON’T TURN BACK” . Rồi ngày 10 tháng 4 năm 1975, cố vấn đòan đã được lệnh bắt và áp giải ngài lên trực thăng bay về Sài Gòn.

Về tới Saigon ngài lại trốn ra ngoài sống với dân chúng trong khi đó những ngày chót radio Sài Gòn của Việt Mỹ ra rả kêu suốt ngày đêm tìm cha Devlin vẫn bặt tăm nhưng cuối cùng ngài cũng đã bị bắt và chở về Mỹ. Về tới Mỹ vẫn một lòng nhớ tới đàn con chiên đang bơ vơ dưới gông cùm CS, ngài liền tình nguyện qua Thái Lan để lo cho đồng bào Việt Nam tỵ nạn tại trại Sông Khả mãi đến năm 1989 vì quá già và bịnh hoạn ngài đã trở về quê nhà và qua đời tại Utah.

Đối với sắc tộc Chàm, tôi cũng chia sẻ đồng đều thăm viếng như các tôn giáo khác, tôi rất thương mến các “CẢ” và ngược lại cũng được các “CẢ” quí mến, đã đi sâu vào các chùa tham dự các lễ quan trọng,cũng tham gia đám ma của dân tộc Chàm, theo tục lệ chôn người nằm xấp mà dân bản địa nói là khi nào có xét đánh thì thây sẽ được lật ngửa trở lại. Tôi nhớ mãi những nụ cười cuả các Cả, nhất là cả Tào và cả Thường Hòn mỗi lúc tôi tới thăm chùa đều nói “Đại tá rất thực tế”. Tôi không hiểu thế nào là thực tế, có lẽ mỗi khi tới thăm chùa tôi “dúi” chút ít gọi là để cúng kiến và tu bổ chùa.

Đảo Phú Quí là nơi xa đất liền xưa nay vẫn ít có vị Tỉnh trưởng thăm viếng vì muốn liên lac phải dùng ghe thuyền, sóng gió bất thường nên rất khó khăn cho việc tải thương, bệnh nhân cần cứu cấp cũng như sản phụ gặp khó khăn trong khi sinh nở, đã có những trường hợp phải tử vong. Tử khi về Bình thuận nhờ có sự ngoại giao mật thiết với Cố vấn đòan Mỹ, tôi đã nhờ cung cấp trực thăng của USAID để thực hiện những cuộc viếng thăm đảo để tiếp tế, chở phái đoàn y tế lo sức khoẻ cho đồng bào, lúc đầu có Mỹ đi theo chứng minh là họ sử dụng vi họ tính mỗi giờ trực thăng trên trời phải chi phí 400 đô la, sau lần hồi tôi được sử dụng tự do vì sự kính nể của họ đối với sự hoạt động hăng say và tận tình của tôi.

Năm sau tôi đã được biệt phái một trực thăng của Không Quân Việt Nam để dùng làm máy bay chỉ huy, tôi đi thăm Phú Quý thường hơn và mỗi lần đều chở về tỉnh những cán bộ ,nhân viên, bệnh nhân và sản phụ, trực thăng đã trở thành phương tiện thông thường cho người dân trên đảo, mỗi khi có trường hợp khẩn trương đều ới ông “GIÀ” nên tôi đã tạo được nhiều thiện cảm và biết ơn của người dân ngoài đảo. Vì quá thương tiếc nên sau ngày tháng tư,1975, khi bị đày đọa trong tù người dân Phú Qúy vẫn còn kể cho nhau những chuyện hoang đưòng nào là ĐT Nghĩa vẫn còn chỉ huy anh em trong vùng Bình Tuy - Bình Thuận, nào là cán binh Cộng sản nói là vẫn còn thấy trực thăng ĐT Nghĩa bay trên đầu v.v.

Tôi đã mời Tổng thống Thiệu ra thăm dân tình ngoài đảo, và trong lúc hàn huyên tôi đã đề nghị kiến thiết đảo, thành môt phi trường bao hết chiều dài của đảo, phi trưòng này sẽ có tác dụng cho các công ty dầu hoả lập văn phòng điều hành và phi trưòng có thể sử dụng như một Hàng không Mẫu hạm cố định, chứa các phóng pháo cơ cho đơn vị không quân đồng minh, có thể dùng căn cứ này để đi trừng phạt địch quân trên các nước liên bang không cần phải mướn những căn cứ chiến lược như Utapao ỏ Thái Lan,Phi Luật Tân v.v. Tỉnh sẽ có nguồn lợi vĩ đại, có thể chi viện lớn cho quốc gia, nhưng Tổng thống nói là đã quá muộn màng.

Chuyện dài Bình Thuận còn quá nhiều nhưng trong bài này chủ yếu chỉ để trả lời câu hỏi hiếu kỳ của đồng bào và chiến hữu: BẰNG CÁI GÌ MÀ ĐẠI TÁ TIỂU KHU TRƯỞNG NGÔ TẤN NGHĨA LẬP ĐƯỢC KỲ CÔNG NÀY? Trong bài ngắn gọn “CHUYẾN SĂN ĐÊM” người lính già 229 đã cô đọng những diểm chính trong kế hoạch của tôi như: Khi về nhậm chức năm 1969, việc đầu tiên của Đại Tá Nghĩa là bằng mọi gíá phải lập lại an ninh trong toàn lãnh thổ Tính. Con đường QL1 xuyên qua Bình Thuận được khai thông hoàn toàn vào năm 1970 những xe đò có thể hoạt động trở lại, những đoàn quân xa di chuyển hàng ngày không còn bị phục kích. Đời sống người dân trong Tỉnh trở lại bình thường.VC bị đẩy lui về các mật khu của chúng. Cũng chừng đó đơn vị cơ hữu chiến đấu nhưng dưới sự chỉ huy quả cảm, biết dấn thân mình tới các tiền đồn heo hút. Sự có mặt của vị đầu Tỉnh là liều thuốc kích thích tinh thần binh sĩ chiến đấu lên cao độ. Họ không còn cảm giác bị bỏ rơi, vì biết cấp chỉ huy cao cấp của mình cũng đang có mặt nơi nào đó, nơi tiền đồn heo hút, hoặc đang có mặt ở một thôn xã hẻo lánh như La Gàn, Lương Sơn, Chợ Lầu, Cây Số 25, Gió Ngàn Phương hay Vĩnh Hảo.

Những đêm thăm viếng bất ngờ như thế làm cho các đơn vị trưởng địa phương không dám lơ là bỏ đơn vị, và quân số phải luôn luôn đầy đủ trong tư thế sẵn sàng chiến đấu.Trong đời binh nghiệp tôi chưa thấy vị chỉ huy nào phục vụ tân tụy như thế. Tôi đã chứng kiến nhiều lần Đại tá đến với đơn vị tôi âm thầm lặng lẽ, nhiều lúc vào tám, chín giờ tối làm các vi Tiểu đoàn trưởng hoăc Liên đội trưởng phải ngạc nhiên. Sau khi ông đi qua Chợ Lầu bằng chiếc Jeep do con trai Lễ lái, anh cũng là ngưởi cận vệ tin cẩn của cha mình, cùng với hai âm thoại viên. Đường từ Chợ Lầu đến Phan Rí Cửa phải băng qua Quán Mía, Khu ba Liêm Bình, khi trời xụp tối vạn phần nguy hiểm, thế mà ông vẫn đi một cách bình thường.

Một lần vào mùa hè năm 1971. Đại tá đến Yếu khu Phan Rí Cửa bất thần khoảng 8 giờ tối. Đại úy Nguyễn Đình Thụy, Liên Đội Trưỏng 2/8 ĐP hỏi Đại tá và anh em tùy tùng có ăn gì chưa, Đại tá trả lời không cần lo và ông nhắc lại chỉ thị của ông mối khi tới thăm đơn vị là với “HAI KHÔNG = Không dàn chào và không ăn uống vì lý do “bất ngờ và bảo mật”. Đại Tá hỏi tình hình bố phòng khu vực thế nào nhất là khu Lâm Lộc, Thưọng Văn. Dĩ nhiên Liên Đội Trưỏng phải nói là rất tốt, các mũi đột nhập vào Lâm Lộc đã bị chận đứng, với 4 Trung đội Nghĩa quân bảo vệ Lâm Lộc và Đại đội 730 /ĐPQ bảo vệ Hội Tâm thật an toàn. Đại tá rất lấy làm hài lòng và nói hôm nay tôi muốn đi săn tại dốc Hội Long….Nếu đổi lại tôi với cương vị của ông tôi không dám đi săn như vậy; Nghe anh em Nam Bình thuận kể lại, có lần ông đã cùng TT Nguyễn Văn Thiệu đi săn ở cây số 25. Thú thật tôi áí mộ sự can đảm của hai vị vô cùng. (hết trích )

Nói tới cây số 25, sở dĩ tôi vào rừng đó nhiều lần vì tôi đã đặt đựợc vị trụ trì ở đó theo dõi và báo cáo đồng đều cho nên tôi mới mạnh dạng mời TT Thiệu đi để chứng kiến việc làm tình báo cao siêu. Có lần tôi ra lệnh cho Đại úy Sâm Đại đội 290 ĐPQ hành quân tảo bạch hóa khu CS25, Đại úy Sâm tỏ vẻ ngại ngùng, không phải vì sợ địch nhưng nói rằng em ngại vì em là người Công giáo nếu vào tảo thanh trong chùa e có phản ứng bất lợi, tôi bảo đảm đây là theo lời yêu cầu của chính vị trụ trì trong chùa, ông tiết lộ là không chịu nỗi VC vì chỉ có 7 thằng ở đây có 4 tiểu liên và 3 súng trường để đón nhận tiếp tế và đoàn xâm nhập đổ bộ lên đây và bọn này có nhiệm vụ làm liên lạc hướng dẫn về mật khu ĐĂNG GIA, nhưng bọn này rất hỗn xưọc, ăn cả gạo và rau cỏ của nhà chùa trồng, nhiều khi còn bắt thầy khiêng vác phụ nữa, cho nên vì uất ức thầy muốn tiêu diệt tụi nó. Tôi cũng đã cho thày biết là Hải quân Mỹ đã toan san bằng chùa nhưng tôi không cho, nói là phải để làm mục tiêu theo dõi, hơn nữa theo đức tin của ngưòi VN thì phá chùa hay nhà thờ là điều cấm kỵ. Vụ này Đại úy Sâm đã trường thuật trong tập san Ân tình trước, đọc giả có ít ngưòi để ý và đã hỏi tôi và tôi đã xác nhận.

Hồng nào mà chẳng có gai, mề đay nào không có mặt trái, đâu phải lúc nào cũng được thuận buồm suôi gió , nên trong nhiệm vụ vào rừng vuốt râu cọp làm sao tránh khỏi lúc bị cọp vồ, trường hợp của tôi cũng không là ngoại lệ, trong những lúc mạo hiểm ở Bình Thuận tôi đã nhiều lần bị tấn công điển hình nhất là:
Khi đi hoạt động tại ấp Bình An và Bình Lâm xã Tùy Hoà Quận Thiện Giáo là hai ấp sôi động nhất của quận, luôn luôn có mặt VC hoạt động ngày đêm, đặt mìn , ám sát, thu thuế công khai nên tôi đã đặt ưu tiên hoạt động tại hai ấp này. Trong lúc đi thăm từng nhà dân do đoàn trường CBXDNT Nguyễn Phương hưóng dẫn thì VC ở ngoài rào ấp nhắm bắn sẻ ,tôi vô sự nhưng tội nghiệp anh Phương đi xong xong với tôi đã bi tử thương. Tôi vẫn ở lại xã và sáng ra yêu cầu đồng bào trước khi ra đồng nghe tôi nói chuyện.

Sau khi ca bài Chống Mỹ Cứu Nước, tôi vận dụng hết tình cảm nói lên điều thực tế địa phương, thấy người dân tỏ vẻ thấm thía có người đã chảy nước mắt nên tôi biết tôi đã chinh phục được nhân tâm. Cũng tại Thiên Giáo trong năm 1970 trong cuộc hành quân trong quận, trong khi tôi theo dõi hành quân tôi leo đứng trên một đống rơm để dùng ống nhòm theo dõi cuộc tiến quân, tôi đã đứng trên đống rơm khá lâu mới di chuyển, và chỉ sau đó chừng vài chục phút chiếc xe bò phải leo qua đống rơm để ra đồng chở lúa thi xe bò đã bị mìn nổ tung, đây có thể là mìn chống chiến xa nên con người tôi không đủ nặng để đủ sức ép cho mìn nổ.

Lần kế đó trong khi đi dời một ấp độc nhất ở phiá bắc tỉnh ở La Gàn quận Tuy Phong , một ấp gai góc nhất trong tỉnh ở cách xã trên ba cây số vào trong rừng sâu VC hoàn toàn kiểm soát ngày đêm, các Tỉnh trưởng tiền nhiệm đã nhiều lần tính đời về gần xã nhưng đã bị dân biểu địa phương phản đối với nhiều lý lẽ mị dân, phi lý nhưng tới phiên tôi, tôi đã quyết định dứt khoát là phải dời để lo cho dân. Ngày tôi quyết định khởi sự và trong khi chạy gần vào ấp tôi đã bị phục kích và trái B40 bắn trực diện cũng chỉ sớt qua mà không gây thương tích, ngay cả xe cố vấn chạy kế sau cũng vô sự.

Trái B40 thứ nhì bắn trực diện tại mật khu Lê Hồng Phong cũng không gây thiệt hại. Thật ra thì hiếm có bao giờ vị Tỉnh trưởng nào lại đi hành quân trong mật khu Lê Hồng Phong nhưng tôi quả quyết đi vì lúc đó tôi được tin tình báo cho biết là VC sẽ có mặt tại mật khu này để tiếp nhận và hộ tống một số cán bộ cao cấp từ Miền Bắc đưa vào Quân khu 6 đóng giáp ranh giữa Lâm Đồng và Bình Thuận. Sau khi đụng độ không lâu cách khoảng đó không xa Thiết Vận Xa bị xụt hầm, ta không để ý và vẫn tiếp tục đi nhưng sau này được biết là dưới hầm đó đã có 41 thằng chết ngộp, nhưng không có tên cán bộ mới xâm nhập nào. Năm tên cán bộ xâm nhập đã được tàu ngầm Nga đưa đi lọt và đổ lên mật khu. Tin này đã được đăng trên tờ Quân Đội Nhân Dân tại Hà Nội.

Trong những lần di chuyển về Sài Gòn để tiếp súc với dân hồi chánh tôi luôn luôn thay đổi màu xe và di chuyển thất thường nhưng có một lần tôi đã bị phục kích ở Rừng Lá , lúc tôi đi vào thì dung chiếc xe đen của tỉnh nhưng lúc ra về tôi có mời một bạn ra chơi, anh đã dùng xe màu trắng . Khi ra đi tôi ngồi trong xe trắng và xe đen chạy theo, ra khỏi Sài Gòn nửa chừng tôi ngừng lại trước một quán dọc đường, đợi đến khi xe du lịch chạy tới khá đông, tôi xen vào giữa đòan xe, cho xe đen chạy trước, đằng sau tôi còn mấy xe đen trắng chạy sau, khi qua Rừng Lá xe tôi chạy trước, qua khu rừng thì VC nổ súng vào mấy xe sau nhưng tôi không biết có xe nào bị nạn không? Vì đây là ngoài ranh giới Bình Thuận nên không thể đoán chắc VC đã phục kích mình hay không.

Trực thăng rớt – Tôi còn nhớ ngày Thứ sáu 13, ngày xui xẻo nhưng năm nay lạ thường là có ba ngày Thứ sáu 13 trong một năm nhưng làm sao tránh được khi phải đi hội tại Quân đoàn .Trên đường về cùng ngày khi còn cách ranh giới Bình Thuận khoảng nửa giờ thì trực thăng bị bể ống dầu phi công cho tôi hay có thể bị nguy hiểm nhưng nếu trực thăng chết máy thi cố gắng cho hạ bằng cánh quạt được, tuy nhiên cũng cố gắng bay dọc theo trục lộ, khi về tới Sông Mao thì trực thăng không còn bay nổi phải rớt xuống nhưng may thay rớt trên một vũng xình kế cạnh con rạch chạy theo Sông Mao, vô sự và gọi đơn vị địa phưong chở về, trực thăng hủy tại chỗ.

Trong đời quân ngũ, không biết bao nhiêu lần gặp nạn nhưng không có khi nào gặp trực diện như thời gian ở Bình Thuận. Trước khi đi Bình thuận hai tháng cũng đã gặp một tai nạn nhưng cũng từ xa bắn tới. Ở Pleiku trong một ngày Chúa nhật, đơn vị Mỹ tai Dakto thông báo cho Quân đoàn là đã hạ sát nhiều tên CS Bắc Việt và thu được rất nhiều tài liệu, Tham Mưu Trưỏng Quân đoàn cho Phòng nhì và Phòng ba đi khai thác. Bên Phòng 3 có hai sĩ quan Mỹ, bên Phòng 2 thì có tôi và Cố vấn Mỹ. Khi bay lên đến Dakto thì trời mây mù bao phủ không thấy đưọc khoảng trống để đáp, phi công tìm mãi mới thấy được lỗ trống và hạ cánh xuống căn cứ, rồi phi công nói rằng thời tuyết xấu bao phủ anh sẽ bay về Kontum và khi xong thì gọi hắn ta trở lại đón.

Xế chiều trời có vẻ quang đãng, bốn chúng tôi ra bãi đáp đợi, cách 20 phút khi trực thăng tới thì một quả pháo 130 ly cuả CS bắn trúng ngay địa điểm chúng tôi đứng, sau tiếng nổ tôi thấy cố vấn cuả tôi nằm rạp xuống đất tôi tưỏng anh nằm để tránh viên đạn kế tiếp nhưng anh đã bị trúng mảnh đạn cứa ngay cổ và cuống họng nên đã từ trần, tôi may mắn có lẽ là nhờ lùn mà mảnh đạn có thể bay cao hơn nên tôi thoát chết, tôi rất thương tiếc một Trung tá dễ thương, vừa hết nhiệm kỳ làm tùy viên quân sự ở Nga Sô, về hưởng những ngày phép với gia đình và khi hết phép được chỉ định đi Việt Nam và đã tới với tôi, tôi rất thương tiếc anh và cũng chỉ biết an ủi “Âu cũng là định mệnh”.

Đôi khi tôi cũng tin ở Định mệnh nhưng vì nhiệm vụ phải liều, liều đây không có nghĩa là liều lĩnh mà là liều chết hy sinh cho lý tưởng cố đạt được mục tiêu đề ra, tôi cũng có bạn là Đại tá Đặng Hữu Hồng, Tỉnh trưởng Quảng Đức người cũng liều, gan dạ nhưng vì định mệnh anh đã bị hy sinh khi liều mình dẫn đoàn quân đi tiếp viện.

Tôi cũng liều trong các công tác tình báo , Hải quân Mỹ đã rải bằng trực thăng những máy dò điện tử xuống nhiều vùng trong tỉnh,có ngày họ đã giao những máy điện tử (sensors) cho mình đi rải nhận định rằng mình sẽ rải chính xác hơn họ .Cố vấn trưởng cho hay là chiều nay Hải quân sẽ gởi vào một trực thăng do phi công của đội cảm tử (Navy seal) lái vào Tiểu khu để chở sĩ quan đi hướng dẫn mục tiêu các mật khu, trực thăng tới Cố vấn nhờ tôi chỉ định sĩ quan đi hướng dẫn, tôi vỗ ngực, nói người sĩ quan đó là tôi, thế rồi tôi và con trai Lễ mang máy truyền tin lên trực thăng đi thi hành nhiệm vụ, thấy thế Cố vấn Phillip Cook cũng nhảy lên theo. Suốt hai giờ quần thảo qua các mật khu, phải bay sát ngọn cây, nhiều chỗ VC đã bị bất ngờ, còn nằm trên võng, máy bay “rẹt” qua bỏ chạy. Những máy điện tử này, giống y hệt như một khúc cây, có lá cũng một màu với lá cây rừng nên dầu có đi tìm cũng khó phát giác được. Rồi kế đó đêm đêm ta nghe những trái đại bác hạng nặng nổ trên các mật khu nhưng ngưòi dân đã nhàm chán với những tiếng nổ hàng đêm chẳng ai cần biết là ở đâu và là gì ?.

Ban ngày thì VC cũng không được yên thân, những đợt phản lực A 37 của không đoàn “Ó ĐEN” từ Phan Rang, từng đoàn 4 chiếc tung hoành trên các mật khu vùng nào cũng là vùng oanh kích tự do ,cứ vài ba ngày dân Phan thiết lại chứng kiến những đoàn phản lực,với những tiếng kêu xé trời nhào thẳng xuống tòa tỉnh làm như để thanh toán một mục tiêu chỉ định nhưng trong máy truyên tin chỉ phát ra những lời báo cáo “ Bố ơi ! nhiệm vụ thi hành xong chúng con chào bố” lời nói rất cảm động và dễ thương và chỉ trong khoảng khắc đoàn phản lực lấy lại cao độ và biến mất dạng về hướng Phan Rang.

KẾT LUẬN - Với tuổi già gần kết liễu cuộc đời , an hưởng cuộc sống thanh bình nơi đất tạm dung, đôi khi hồi tưởng lại tôi vẫn tiếc những ngày nào oai hùng chống giặc, có những đêm nằm mơ tôi vẫn thấy đang hành quân diệt cộng tại tỉnh nhà và tỉnh dậy đã vô cùng tức giận kẻ gọi là đồng minh nhưng đã phản bội ,trong lúc túng quẫn họ đã bán rẻ danh dự họ và giết hại một quân đội hùng mạnh của chúng ta. Trong khi bán nước Việt Nam, TT Nixon và Kissinger đã hy vọng rằng nếu bang giao kinh tế với Trung Cộng họ sẽ có nguồn lợi khổng lồ so với hàng trăm tỷ đã tổn phí cho chiến tranh VN, Nixon đưa ra những thí dụ ấu trĩ như nếu dân Trung Cộng mua một bàn chải đánh răng, một viên Aspirin cho trên môt tỷ dân thì cũng đã có trên một tỷ đồng lợi nhuận và mơ tưởng một nền kinh tế vĩ đại và trong cuốn Beyond peace (viễn ảnh hoà bình) Nixon tiên đoán sau này Trung cộng sẽ trở lên một cường quốc kinh tế.

Tiên đoán này đến nay tỏ ra đúng nhưng với Mỹ thì cả là một thảm bại, những sản phẩm của Mỹ đã cung cấp công thức cho Trung cộng và Trung cộng đã sản xuất bán lại cho Mỹ và toàn thế giới với giá rẻ mạt nên ngày nay TC đã lắm tiền nhiều bạc đi mua nhiều nuớc trên thế giới. Mỹ trái lại nghèo mạt nhưng vẫn tiêu sài như công tử nhà giàu vẫn dùng tiền nợ đi mua chuộc các nước giàu, nghèo trên thế giới, không tiền đi cho nhưng phải vay mượn để cho nên nay đã mắc nợ các nước đàn em và nhiều nhất là Trung cộng tất cả lên tới trên một ngàn tỷ đô la, cho tới năm nay Quốc hội Mỹ vẫn chí chóe về việc được phép tăng nâng cao tột đỉnh mức nợ và nhiều phen đã xiểng niểng trong vấn đề phá sản, và nếu bị phá sản thì những gì sẽ xảy ra ?...

Ngày nay đã sáng mắt ra, vội vàng tuyên bố trở lại Thái Bình Dương, nhưng hãy nhìn kỹ nanh vuốt Trung cộng đã bấu tới đâu ?! tiền “Chú Ba” vung ra không hạn chế, hãy nhìn xem chỉ một việc xúi Cambodia không ra thông cáo chung sau khi bế mạc hội nghi các nưóc Á Châu để tránh việc tố cáo với Tổ chức Quốc Tế -Trung Cộng chiếm biển đông bất hợp pháp, Trung Cộng đã dúi cho Cao Miên tám tỷ đô la với lý do là món nợ vay không hoàn trả. Cứ đà này thì con cháu chúng ta sẽ phải bị nướng dã man trong một cuộc chiến tranh thế giới thứ ba.

Thời gian trôi quá mau nay đã 40 năm, đành rằng Bình Thuận chúng ta cũng bị lôi theo định mệnh cuả đất nước bị xoá nhòa nhưng chúng ta người chiến sĩ kiên cường của Bình Thuận vẫn hãnh diện ngửa mặt với những gì chúng ta làm cho Bình Thuận, vẫn tin tưởng chính nghĩa quốc gia là lý tưởng, nhờ sự dã man mọi rợ của CS đối với dân lành nên ngày nay ta vẫn thấy không thế nào chúng tồn tại được vì ngưòi dân đã phẫn uất tới cực độ. Đúng như lời nhận xét của tướng pháp Vanuxem, người đã chạy đôn đáo trong giờ phút cuối cùng tháng tư 1975 để tìm giải pháp cứu Việt Nam, ông nhận định rằng muốn giải phóng Việt Nam thì hãy để CS chiếm trọn và cai trị đất nước, khi đó người dân sẽ thấy rõ CS là gì, chúng sẽ tàn ác, độc đoán vơ vét dân sẽ nghèo khổ, chúng hết đường tuyên truyền, người dân sẽ nổi dậy và tiêu diệt chúng. Sự tiên đoán này nay đã thể hiện đúng như dụ trù và nay chúng ta cần yểm trợ cho người dân trong nước và ngày trở về sẽ đầy hứa hẹn ,tôi chỉ tiếc là không thể sống đến ngày đó để dự ngày khải hoàng ca cùng các chiến hữu.

Từ ba năm nay năm nào tôi cũng từ giã chiến hữu nói đây là năm chót nhưng hết năm Thượng đế lại “gia hạn” cho tôi thêm năm nữa, khi còn lái xe,tập thể dục, đi lại không khó khăn thì tôi không thể không đi tìm các em được, nhưng năm nay thì thật tình là năm chót, với tuổi 90 bước qua 91 thấy quá yếu, đi đứng không còn vững chãi như xưa nên dầu Thượng đế có gia hạn thêm cho năm nữa thì cũng không còn nghị lực đi nữa, tôi đã tham dự buổi họp với hội Thân hữu Binh Thuận/Houston tháng ba năm nay 2013, tôi rất thích dự hội này vi thành phần tham dự gồm số đông các vị cao niên, một số sĩ quan thuộc các cấp Quân, Cán, Chính, những người đã chứng kiến những gì tôi đã làm cho Bình Thuận và cũng các vị này đã ban cho tôi bản Tuyên Dương “NHỜ ANH”.

Tạm biệt chiến trưòng và quí chiến hữu.

Ngô Tấn Nghĩa
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=192780998360658&set=a.106745060297586&type=3&theater

BachMa
04-28-2019, 02:19 AM
Bên Những Bờ Rừng
Phan Minh

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1554574730-BenNhungBoRung_01.jpg
Hình minh họa
Nhân vội vã bước lên tàu, bên cạnh những hành khách rời cao nguyên đất đỏ leiku, trên chuyến bay C 47 chiều cuối tuần, bên cạnh anh là một cô gái Huế, cô hay nhìn lên bộ áo bay đã ngả màu của anh. Trên hàng ghế dựa hai bên thân tàu, mọi người ai nấy đã vào ghế ngồi, và thắt giây an toàn, con tàu tiến dần ra phi đạo.

Nhân nhìn đồng hồ, như một thói quen mỗi lần tàu cất cánh. Cô gái hỏi anh trong tiếng ồn của máy bay đang bắt đầu tăng tốc độ để cất cánh, chàng không nghe rõ câu hỏi, nhưng nhìn theo cử chỉ của cô gái, chàng trả lời: " 3 giờ 02 phút thưa cô".

Con tàu cố gắng vươn lên để lấy cao độ, hành khách bị lôi theo độ dốc của con tàu, mái tóc thề của cô gái bị gió đưa về phiá sau, che một phần áo bay đã bạc màu của chàng, trông thật dễ thương. Chàng để yên và ngửi thấy mùi thật êm dịu của tóc nàng. Cô gái quay lại xin lỗi, với vẻ thẹn thùng. Nhân mở đầu câu chuyện trong tiếng ồn của máy bay đang rền ở bên ngoài.

- Cô về đâu? ...

Cô gái đáp ngay như đã sẵn sàng từ lâu:

- Dạ em về Huế, thế còn anh?...

Tiếng cô gái thật tươi vui, Nhân nhìn kỹ hơn qua vai nàng, đôi mắt tròn với hàng lông mi đen dài, sóng mủi thon và đặc biệt làn môi như những quả đào đang mùa.

Nhân trả lời:

- Tôi cũng về Huế, nhưng chắc là không còn xe để ra Huế, khi tàu về đến Ðà Nẵng chiều nay.
Nàng trả lời nho nhỏ:

- Dạ ...


***

Nhân nhìn ra bên ngoài - nghĩ ngợi mông lung. Chàng nghĩ về những ngày ra Pleiku, nơi vùng đất đỏ, có đồi Cù-Hanh, có con phố nhỏ thật dịu hiền. Những chiều trong cơn lạnh của núi đồi cao nguyên, chúng bạn của Nhân thường hay ra phố, để tìm vui bên ly cà phê đen của quán "Dinh Ðiền", hay đi bách bộ trên con đường dốc đỏ, nhìn theo bóng của các cô gái vùng Tây Nguyên đang tha thướt với những chiếc áo dài.

Nhân nghĩ về mấy tháng trước hồi còn ở Cần Thơ, phi trường Bình Thủy, nơi chàng đã sống bốn năm, bên dòng sông Hậu, với bao nhiêu vui buồn, với những chuyến bay đêm, những sớm mai bay dọc theo những hàng dừa xanh hai bên bờ kinh, băng qua những cánh đồng lúa. Nhân và các bạn của chàng thường cất cánh khi mọi người đang còn ngủ yên, để đến những điểm hẹn, trước lúc bình minh. Rồi những ngày ghé lại Tô Châu, Hà Tiên, bay dọc theo con kinh Vĩnh Tế. Có lúc ghé về Cà Mau, U-Minh nơi những đầm đầy những cây tràm, cây đước.

Có một lần chàng đã thả toán tại mủi Cà Mau; phần đất cuối cùng của dải đất hình chử "S". Từ trên trời cao nhìn xuống một màu xanh tươi của vùng đồng bằng với những làn sương mai đang còn lảng vảng trên mặt đất.

Trong khung cảnh thanh bình đó, cũng đang ẩn dấu những trận chiến khốc liệt, và bao người tranh nhau từng tất đất chiếm ngự.

Chợt cô gái quay lại hỏi:

-Anh đang nghĩ gì mà có vẽ đăm chiêu như thế?

Cô ta đang chăm chăm nhìn vào khuôn mặt thiếu vắng nụ cười của Nhân, chàng trả lời:

-Tôi đang nghĩ về những ngày ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Chàng và cô gái thật ngượng ngùng khi chưa biết được tên nhau, rồi chàng lên tiếng:

-Tôi tên Nhân, thế còn tên cô?

Cô gái có phần dạn dĩ hơn.

-Dạ em tên Hoá...

Nàng nói tên mình một cách rất tự nhiên và đang theo dõi người đối diện. Có lúc nàng bắt gặp ánh mắt của Nhân nhìn nàng, Hoá tỏ vẻ thẹn thùng, rồi cả hai bắt đầu những mẩu chuyện về mình, Hoá hỏi:

-Anh Nhân mới ra Pleiku?

Chàng trả lời trong niềm luyến tiếc:

-Vâng tôi ra Pleiku đã 3 tháng!... Thế còn Hoá?

Hoá cho biết nàng có người anh là một sĩ quan ngành Quân Cảnh Tư Pháp (QCTP), đang đóng tại Pleiku, anh Trương Hữu Lạc trưởng phòng QCTP Pleiku, Hoá nói:

-Em ghé thăm anh chị của em, và ở chơi với họ hơn một tháng; sau khi tan trường ở Huế.

Nhân cũng là học sinh của Huế, sau ngày Mậu Thân, chàng tình nguyện vào Quân chủng Không Quân để trở thành một Phi Công.Hoá đã bắt đầu dạn dĩ hơn, và câu chuyện mỗi lúc một vui hơn, rồi nàng quay qua hỏi Nhân:

-Anh Nhân có thường về thăm Huế không?

Nhân lắc đầu không nói, chàng nhớ ra mình đã ít về Huế, hầu như mỗi năm chỉ một lần. Chàng đã về Huế trước khi thuyên chuyễn lên Pleiku, lần này với lý do đặc biệt nên chàng lại được ghé thăm nhà 15 ngày trước khi trở lại đơn vị.


***

Trong tiếng ồn của con tàu chiều nay, Nhân im lặng nghĩ về một chuyến bay hai tuần trước đây (vào trung tuần tháng 6 năm 1974). Ngày đó chàng và Phương, một hoa tiêu về nước sau chàng nhưng đã lên Pleiku sau ngày về nước, còn chàng thì về trình diện Vùng IV, phục vụ nơi vùng đồng bằng sông Cửu Long. Số giờ bay của chàng trội hơn Phương, nhưng vì mới ra vùng cao nguyên nên Nhân phải ngồi ghế hoa tiêu phụ. Khi bay, Phương ngồi ghế hoa tiêu chính. Phương đã dí dỏm nói với Nhân khi ngồi vào ghế lái:

-Anh hôm nay là IP (huấn luyện viên) của Phương đấy nhé.

Nhân mỉm cười, vì ghế trái dành cho những IP (Instructor Pilot) của ngày nào tại các trường bay bên Mỹ; mà Phương và chàng đã trải qua trong thời gian huấn luyện hồi 69-70. Hôm ấy Phương và Nhân là phi hành đoàn thứ ba trong phi vụ thả toán. Trời vừa lờ mờ sáng cả đoàn trực thăng bay về đáp tại căn cứ thuộc lực lượng Lôi Hổ cạnh Biển Hồ trên đường đi Chu Pao. Trông nét mặt mọi người, ai nấy đều rất nghiêm trọng, vì tình hình hai toán Lôi Hổ vào lòng địch trước đây đã bị bắt, toán thứ ba vừa hoàn thành nhiệm vụ, thì bị phát giác, và đang trốn quanh căn cứ của Bộ Tư Lệnh tiền phương của địch; nằm sát biên giới Việt Lào.

Phương và Nhân vào phòng hành quân để tham dự buổi thuyết trình của sĩ quan quân báo. Ai nấy đều im lặng, vì sứ mạng hôm nay là bằng mọi giá phải bốc cho được toán thám sát thứ ba này. Toán sáu người này, sáng nay đã liên lạc về cho biết là họ đã hoàn thành nhiệm vụ, nhưng suốt đêm qua đã phải ẩn náu quanh các trại của địch quân tiếp cận biên giới.


***

Những tháng cuối năm 1971, Nhân đã có dịp bay những phi vụ với các toán Lôi Hổ từ căn cứ B-15 tại Quãng Lợi. Họ được đưa lên phi trường Lộc Ninh, để thả xuống vùng tiếp cận biên giới Việt Miên. Ðây là lần đầu Út và Nhân tham dự vào việc thả toán. Út, một người đàn anh về phi đoàn trước chàng, trước đó Út và Nhân đã cùng bay với hợp đoàn của Mỹ, cho nên hai người không thấy có gì nghiêm trọng cả. Họ từng bay chung với một hoả lực hùng hậu, có hai chiếc Cobra, và hợp đoàn hai chiếc UH-1, với một OH-6 mà chàng thường gọi là máy bay hột vịt, đây là một loại máy bay rất hữu dụng trong môi trường, vừa có thể oanh kích và bắt sống.

Trên vòm trời lúc ấy, còn có một máy bay điều động C&C và một máy bay thám thính L-19 để đánh trái khói. Út và Nhân thường băng qua biên giới để vào vùng Chipu phiá Bắc của Lộc Ninh hơn 60 dặm. Nhân chẳøng thấy có một chút e ngại nào, có lẽ vì "điếc nên không sợ súng chăng" ?... Bây giờ Út đã ra đi, còn Nhân thuyên chuyển ra Pleiku.

Tuần trước tại căn cứ Lực Lượng Ðặc Biệt này, Nhân đã được một anh em biệt kích cho chiếc áo tránh miểng lựu đạn, và chỉ cách lấy bột của lựu đạn cay, bỏ vào hộp đựng phim để phòng hờ cho việc mưu sinh. Hôm nay trở lại người anh em trong toán trinh sát đó vẫn còn đây, và đang chờ đợi cho chuyến nhảy toán kế tiếp. Những người lính thám sát này rất trẻ và vào lứa tuổi của em trai chàng. Trong khi những bạn đồng trang lứa với họ, đang vui sống phè phởn trong các đô thị, còn họ thì lặn lội trong chốn rừng đầy hiểm nguy, và không có dịp để nghĩ về tương lai của chính mình. Họ là những người lính âm thầm hoạt động trong những rừng sâu núi thẳm. Sau vài chuyến nhảy toán, họ được về thành phố sống vội, rồi trở lại căn trại nhỏ hẹp này để chuẩn bị đi vào lòng đất địch.


***

Hợp đoàn trực thăng cất cánh lên Kontum, chờ đợi phi vụ bay vào vùng biên giới. Ban truyền tin vẫn chưa nhậân được tín hiệu của toán sáu người đang len lỏi trong đám rừng già, nơi địch quân đang trú đóng. Mọi người được lệnh nghĩ để ăn trưa. Vị sĩ quan tiền sát cho biết: "Chắc đến 1 hay 2 giờ nửa mới có kế hoạch bốc, khi toán người này ra đến gần bãi đáp." Cả đoàn rủ nhau ra phố để dùng cơm trưa, sau đó Phương rủ anh em vào một quán nước nghèo nàn bên góc phố, uống cà phê để được tỉnh táo.

Hôm ấy Phương tâm sự thật nhiều với Nhân, Phương đã tỏ bày những nỗi niềm của anh từ ngày anh xa vắng Sài Gòn, nơi người bạn gái anh hằng thư từ, và giao du trong những chuyến về phép. Phương nói về một mối tình của một cô nữ sinh, với anh.

Anh cùng cô bạn gái ấy, từng một thuở ở mái trường Ðại Học với nhiều lần hẹn hò. Giờ đây với nghiệp bay trên vai, anh hẹn với người bạn gái ngày anh thuyên chuyển về lại Thủ Ðô. Ngày ấy cũng là lúc em học xong Ðại Học Sư Phạm. Họ đã ước hẹn một tương lai thật đẹp với nhau. Lúc ấy, nàng đi dạy học và chàng quay về với nàng sau mỗi chuyến bay.

Họ sẽ sống với nhau đầm ấm bên các con của họ. Ðó cũng chính là những hình ảnh Phương và người bạn gái từng mong đợi. Họ sẽ thực hiện được ước mơ này, trong chuyến đổi về Sài Gòn vào dịp cuối năm này của Phương. Trong phi đoàn, Phương là người có một vóc dáng rất thư sinh, khuôn mặt với nước da trắng và nụ cười trên môi, anh được bạn bè quí mến, và tâm hồn luôn nghĩ về những niềm ước mơ của một nếp sống hạnh phúc thanh nhàn.

Hôm nay Phương và Nhân nhận lãnh phi vụ bay vào lòng địch để bốc toán thám sát sáu người. Ðáng lý ra, người bay chiếc số hai của phi vụ này là Huyên, nhưng hồi 1 giờ trưa Huyên đã nhận lệnh cất cánh đi tiếp tế tại một tiền đồn gần biên giới phía Tây Bắc Kontum. Phương và Nhân cùng xem lại các dụng cụ phi hành đem theo: chiếc bản đồ có đánh dấu toạ độ, và chiếc radio cấp cứu.

Tuần trước Nhân tìm cách đổi chiếc radio của mình, vì chỉ chiếc radio cũ chỉ có phát, nhưng không nghe được tín hiệu. Phòng Tiếp Liệu Cấp Cứu Phi Hành không có radio khác để thay thế, nên anh đã tiếp tục đi bay với radio không nhận được tín hiệu Ðúng 3 giờ chiều, khi sĩ quan tiền sát báo cáo là, đã nhận được tin tức toán trinh sát đang trên đường tiến về phiá mục tiêu.

Nhân cất cánh rời phi trường Kontum. Trên vòm trời ngoài chiếc C&C của Ðại Úy Hoàng, còn có chiếc U-17 của sĩ quan tiền sát, hai chiếc GunShip, chiếc slick của Trung Úy Minh và Tuấn đi lead, chiếc của Phương và Nhân đi số hai. Nhân rời phi trường Kontum được 15 phút, bay về hướng biên giới Việt Lào, phiá Bắc của tiền đồn Charlie nơi Tr/tá Nguyễn Ðình Bảo đã ở lại vào mùa hè đỏ lửøa 1972.

Nhân tiến sâu vào những vùng núi cao của dãy Trường Sơn, bên dưới phi cơ là những khu rừng dày đặc. Lâu lâu chàng thoáng thấy vài cánh chim đang bay lượn trên vòm trời hoang vắng này. Nhân đang tiến dần đến tọa độ điểm hẹn, tiếng của Ðại Úy Hoàng gọi trong vô tuyến:

-Số hai, vị trí bãi đáp bên phải của anh.

Nhân trả lời:

-Số hai, nghe năm.

Phương bảo Nhân: "Tôi thấy dấu trái khói trên bãi đáp bên phải của tôi, bác để tôi đáp cho...", Nhân trao cần lái cho Phương.

Khi con tàu đang hạ dần cao độ, Nhân nghe tiếng đạn AK-47 từ phiá dưới đất bắn lên, Phương báo cáo:

-Có ground fire!...

Bên kia vô tuyến Ð/uý Hoàng đáp lại:

-Số hai, có sao không?... Vào đáp đi!

Phương trả lời:

-Số hai, không sao. ... Nhận lệnh vào đáp.

Tiếng đạn bắn lên đã ngưng, con tàu tiếp tục tiến về hướng trái khói, và giảm dần tốc độ. Bãi đáp là một mảnh đất trống nằm lọt trong những rừng cây trên triền núi cao. Nhân thấy thêm một trái khói nữa vừa tung ra trên bãi đáp, và lố nhố những người lính thám sát đang đứng cạnh một thân cây mục giữa Bãi đáp. Trong suốt đoạn đường vào bãi đáp thật yên tĩnh, một thứ yên tĩnh rất đáng lo , vì lực lượng địch quân đang trú đóng quanh đây, và nơi này cũng là nơi gần bộ chỉ huy của họ.

Con tàu chưa chạm đất hẳn, sáu người lính Lôi Hổ vội vàng nhảy lên. Phương đang giữ tàu ở vị thế Hovering, và tiếp tục cất cánh. Nhân quan sát các đồng hồ, xong nhìn lên những thân cây cao trước con tàu. Ðấy là những thân cây cao chừng 30 mét , con tàu cố gắng ngoi lên khỏi đọt cây trong tư thế nhấc thẳng vội vã, Nhân vừa thở xoà khi vừa ra được khỏi bãi đáp.

Cùng lúc đó, có tiếng nổ chát chúa của đạn phòng không đang bắn trực xạ vào tàu, chàng nghe những tiếng bốp bốp bên phiá của Phương ngồi. Nhân thấy một lổ hổng thật lớn nơi cửa kính trước mặt của Phương, con tàu như khựng lại.

Chàng nhìn thấy Phương đã buông cần lái và đầu cúi gục xuống. Nhân chụp vào cần lái như một phản ứng tự nhiên, chàng cố kéo cần lái để nâng mũi chiếc tàu lên. Con tàu không còn sức nâng, cần Collective và Cyclic cứng ngắc. Hệ thống Hydraulic chắc đã bị trúng đạn!... Con tàu tiếp tục lao xuống, Nhân cố kéo cần lái để bình phi. Hệ thống thủy điều đã bị phá vở nên cần lái trở nên nặng nề và rất khó điều khiển. Sau khi bình phi được rồi, con tàu lại đâm đầu xuống.

Mọi người trên tàu nhốn nháo, ai nấy đều ở trong trạng thái kinh hoàng.

Một thoáng suy nghĩ qua nhanh, Nhân cố gắng đưa con tàu áp vào núi, bề mặt vòng cánh quạt song song với độ dốc của núi. Con tàu cứ thế lao tới, và trước mặt là một thân cây to cao.

Hai cánh quạt chính chặt vào cây, cánh quạt trước đã nổ tan tành, thân tàu đã xen vào thân cây. Càng đáp bên trái vừa chạm đất, thân tàu bên ghế phải của Phương gác tựa vào thân cây, đồng thời là tiếng hú của máy thật lớn!...


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1554574746-BenNhungBoRung_02.jpg
Hình minh họa

Sáu anh Lôi Hổ vội vàng nhảy ra khỏi tàu, kéo cả Ðại (Cơ phi) và Tài (Xạ thủ) theo họ. Phương vẫn ngồi gục đầu trên ghế bay, Nhân tiếp tục lo tắt máy để hy vọng tắt đi tiếng ồn.

Chàng tắt nút xăng và mọi nút khác bật vào vị trí OFF, nhưng tiếng máy vẫn hú vang cả một vùng rừng, nghe ghê rợn như một con thú bị cắt tiết.

Nhân nhìn qua Phương một lần nữa, rồi chàng tháo nịt an toàn bước ra phiá sau, kéo theo cái túi bay. Từ phiá đằng sau ghế ngồi của Phương, chàng chồm lên phía trước Phương, cố gắng tháo dây nịt an toàn cho người bạn của mình. Nhân dùng hai tay xốc nách Phương và rán hết sức để kéo Phương ra, sau mấy lần cố gắng, nhưng không làm sao nhấc Phương ra khỏi chiếc ghế bay được.

Nhân nhìn quanh để tìm người giúp, nhưng chung quanh chỉ còn lại mỗi mình chàng. Hai người cơ phi và xạ thủ cũng đã vội vàng đi theo các anh Lôi Hổ. Nhân đành bó tay, và có ý nghĩ rằng chính Phương đã không muốn chàng liên lụy trong hoàn cảnh gian nguy này.

Nhân nhìn lại Phương lần cuối, rồi quyết định lui bước ra phiá cửa sau để ra khỏi tàu!...

Khi đã ra khỏi tàu, Nhân quan sát kỹ tình trạng của con tàu, chiếc cánh quạt đuôi vẫn còn đang quay tít. Một cành cây đã đập vào phần sau máy cạnh ống khói, có lẽ đó là lý do tại sao tàu không tắt máy được. Nhìn ra bờ rừng thì cây cối dày đặc, tầm nhìn không quá 10 mét. Nhân lần bước tiến lên tìm một lối đi, chợt chàng nhìn thấy một cây súng cá nhân AR-15 không có đạn. Ai đó đã bỏ lại trên lối đi, Nhân cũng không màng lượm lên. Ði được một khoảng thời gian, cái túi bay trên tay chàng trở nên nặng nề, vì trong túi bay Nhân đã để dây nịt, dao, cây súng cá nhân P-38, cùng nón bay.

Ðể khỏi vướng bận chàng chỉ lấy ra chiếc radio rồi dấu chiếc túi bên lối đi, như trút đi một gánh nặng. Nhân tiếp tục bước lên dốc núi, với đầu trần và chiếc áo bay Nomex hai mảnh trên người. Càng lúc chàng càng bước xa dần tiếng máy hú bên dưới triền dốc. Nhân cố chen qua đám rừng già, leo lên dốc được một khoảng khá xa. Tiếng hú vẫn còn ở bên dưới chân núi vọng lên.

Chàng len lỏi tiến bước, bỗng thấy trước mặt một khoảng trống thật rộng. Nhân nhận ra một thân cây mục ở giữa trảng, chàng nhớ lại đây chính là bãi đáp mà trước đó hơn 20 phút Nhân đã bốc toán Lôi Hổ. Nhận ra vị trí này, Nhân vội nép mình sau một bụi trúc tương đối rậm, và nhìn ra khoảng trống quan sát. Trên vòm trời có tiếng của chiếc U-17 đang bay trên một độ cao. Chàng chợt nhớ tới cái radio trong túi quần, Nhân lôi nó ra và mở máy liên lạc.

-Mayday, Mayday, Mayday, Lạc-long 389 gọi Thiên-Sứ (danh hiệu của chiếc U-17 trên vòm trời) - Nếu bạn nghe được tiếng của tôi, xin lắc cánh. ...

Nhân lập lại một lần nữa, thì thấy chiếc U-17 lắc cánh. Chàng cởi chiếc áo bay, để cởi chiếc áo lót màu trắng có loang vết máu của Phương văng vào người chàng, lúc Phương bị trúng đạn. Nhân vội mặc lại áo bay, vừa kéo chiếc áo lót trải trên một khoảng trống để cho chiếc U-17 định ra vị trí của chàng trên bãi vừa đáp.

Chiếc U-17 xuống thấp và nhận ra vị trí của chàng. Nhân bắt đầu báo cáo tình trạng của chàng dưới đất:

-Phương đã chết trên ghế lái, và xác còn ở lại trên tàu - Sáu anh Lôi Hổ đã dẫn theo Ðại và Tài, còn chỉ một mình tôi đang nằm cạnh bãi đáp. Khi chàng vừa nói tới đây thì thấy bên kia bờ rừng có bóng bốn người bước ra, Nhân vội thâu lại chiếc áo lót vào ngực, vặn nhỏ máy vô tuyến và gọi chiếc U-17:

-Thiên Sứ, yêu cầu bạn rời khỏi vùng để giữ an ninh cho tôi và các người bên dưới.

Gọi xong Nhân tắt máy, chiếc U-17 nghe điều này, vội vã rời khỏi vùng. Bốn người lạ từ bên kia bờ rừng đang tiến dần ra giữa trảng. Họ chia nhau ngồi trên khúc cây khô, rồi bắt đầu trò chuyện và chờ đợi. Nhân quan sát từng người trong bọn họ, chàng thấy người nào đầu tóc cũng được húi cao như mái tóc của lính tại Bộ Tư Lệnh, cùng với áo vàng quần xanh vải kaki Nam Ðịnh. Trên tay họ đang cầm súng cá nhân AR-15 loại ngắn nòng, dành cho những người lính Lôi Hổ. Nhân tự nhủ:

" Ðám này chính là những người lính Bắc Việt!... " Chàng vội nằm sát xuống đất không động đậy, mắt vẫn theo dõi những bóng người giữa bãi đáp. Không còn nghe tiếng máy bay ở trên trời nữa, bốn người lạ này vẫn ngồi chờ một hồi lâu. Bỗng dưng hai người trong bọn họ đứng dậy, và đi ngược dốc tiến về bờ cây để lùng tìm. Hai người này vừa đi vừa chĩa mũi súng vào các bụi cây, họ đi cặp theo bià của trảng, và dần đi về hướng bụi trúc nơi Nhân đang núp.

Tiếng hú của chiếc máy bay bên dưới đồi vẫn còn vọng lên, nghe thật ghê rợn. Hai người lạ này, càng lúc càng tiến tới gần nơi Nhân ẩn núp. Trong tay của Nhân chỉ có chiếc radio cấp cứu!... Chàng không có vũ khí để tự vệ, thì làm sao để đối phó đây? ... Những ý tưởng vút nhanh trong đầu Nhân:

" Chắc là không còn hy vọng gặp lại gia đình nữa rồi!... Hoặc là bị bắn hay bị bắt như số phận của hai toán lính Lôi Hổ kia!... Có ai ngờ rằng chàng nằm lại nơi bìa rừng này!... Chắc là Mẹ chàng sẽ không còn nước mắt khi nghe hung tin này, ..." Nhân vẫn không quên mỗi lần về phép, Mẹ chàng thường ngồi tựa cửa sổ nhìn ra sân, như chờ đợi bóng dáng đứa con đầu lòng của Mẹ. Ðôi mắt mẹ chàng nhạt nhoà lệ, đã khóc oà lên khi nhìn thấy chàng từ đầu ngõ.

Hai người lính Bắc Việt càng lúc càng tiến gần đến chỗ chàng nằm. Phiá bên kia bụi trúc có tiếng bước chân sột soạt, mỗi lúc một gần. Nhân như điếng cả người, thân thể chàng như dí xuống sát mặt đất, mắt vẫn không rời hai bóng người đang tiến lại gần. Chàng cúi sát mặt xuống nghe ngóng và chờ đợi, bỗng có tiếng từ giữa trảng vọng lên:

-Các đồng chí chờ chúng tôi.

Hai tên lính Bắc Việt quay trở lại trảng phía dưới đồi, để nhập cùng với đồng bọn. Nhân từ từ thở nhẹ, mắt vẫn không rời bốn bóng người đang vội vã hướng về con dốc phía dưới, nơi chiếc UH-1 đang hú lên vì mất đi đôi cánh. Bọn họ không ngờ rằng, vẫn còn có một người đang quan sát họ từng giây, từng phút.


***

Chờ cho bốn người kia đi đã khá xa, chàng đứng dậy và đi ngược lên về phía bên kia đồi. Chàng cảm thấy khát nước, nên với tay kéo các đọt trúc, cắn vào phần non, trắng, của lá tre, nhắp từng giọt nước hiếm hoi trong các đọt tre non này. Một lúc sau, chàng nhắm hướng Ðông-Nam (hướng Kontum) tiếp tục đi. Thuở nhỏ Nhân đã học được từ kinh nghiệm Hướng Ðạo, “dùng vết rêu trên thân cây để định hướng” bây giờ là lúc chàng áp dụng bài học mưu sinh thoát hiểm đường rừng.

Nhân nhớ lại ngày nào tại vùng rừng Savannah bên Mỹ, chàng đã cùng đám bạn học khoá mưu sinh thoát hiểm đường rừng. Kết thúc cuộc thực tập mưu sinh thoát hiểm, mọi người cùng được ăn món cháo rắn do mấy anh Cán bộ đãi, sau một ngày tập dợt mệt nhọc. Rừng ngày đó thưa thớt, tầm mắt có thể thấy xa 50 mét, còn rừng Trường-Sơn thì dày đặc, 10 mét đã không còn thấy lối đi!...

Nhân mò mẫm qua đến được ngọn đồi thứ hai, bỗng chàng nghe nhiều tiếng lựu đạn nổ về phía con tàu. Chàng chẳng biết chuyện gì đang xảy ra cho số phận của Phương?... Nhân lại tiếp tục lội trong đám rừng già. Có những khoảng rừng mây gai góc, Nhân phải tiến bước bằng cách đưa lưng ra phiá trước chịu đựng, để xông qua đám rừng mây phủ khắp lối đi này. Những cây gai hồng trong rừng móc vào mảnh vải Nomex chàng mặc trên người, nhưng chiếc áo bay vẫn dai dẳng chịu đựng như ý chí kiên trì của chàng.

Nhân vừa vượt qua khỏi khu rừng mây, thì thấy ngay trước mặt một bờ rừng thật trống toàn những thân tre. Chàng thấy quá trống trải nếu phải băng qua khu rừng tre này. Nghĩ vậy, Nhân tiếp tục bước cặp theo bờ rừng viền bên ngoài. Bên dưới những gốc tre, không một loại cây con nào có thể mọc, lá tre rụng trắng cả một bìa rừng. trong lúc đang tiến bước Nhân chợt nhận ra một cửa hầm cũ; phủ cây lá um tùm, chàng rụt rè bước qua cửa hầm.


***

Nhân chợt nghe đâu đó có tiếng suối nước chảy. Càng tiến lại gần, chàng nhận thấy những dấu đất đen, dấu vết của một sinh vật nào đó đã chuồi trên các lá tre khô trắng, để lộ ra các lớp đất đen bên dưới. Nhân tiến lên thận trọng hơn, mon men theo những dấu vết này, chàng còn nhận ra có một dấu vết, dường như ai vừa chôn một cái gì đó cạnh bên lối đi, không được khoả lấp kỹ lưỡng. Càng tiến bước, chàng càng nhận ra có nhiều dấu chân ngay hướng trước mặt mình. Bất chợt, chàng nghe có tiếng sạt sạt phía trước, Nhân vội cúi thấp người xuống vừa ẩn núp vừa quan sát. Chàng nhận thấy có nhiều bóng người thấp thoáng phiá trước.
Chàng đếm được tất cả là 7 người, và quan sát những người này từ đầu đến chân. Tất cả bọn họ đầu để tóc dài, và thắt một miếng vải xanh kaki, trên lưng có mang túi ba-lô và nhiều bình biđông nước. Nhìn xuống đất, chàng nhận ra các dấu giày của lính Cộng Hoà, Nhân quyết định nằm rạp xuống, và gọi vọng lên phiá trước:

-Các anh Lôi Hổ ơi, ... Trung Úy Nhân đây, chờ tôi đi với....

Nhân nghe một loạt tiếng đạn lên nòng, những bóng người phía trước chàng đều ngồi xuống trong tư thế sẵn sàng tác xạ, mũi súng hướng về phiá chàng, quơ qua, quơ lại. Nếu họ thấy bất cứ một di động nào, là họ sẽ nổ súng ngay. Nhân nằm sát đất, không động đậy, chờ một giây lát, rồi chàng lại lên tiếng gọi một lần nữa:

-Các anh Lôi Hổ. ... Trung Úy Nhân đây, ... chờ tôi đi với.

Trong rừng tiếng bị dội cho nên họ không định hướng được nơi xuất phát của âm thanh. Hai người đi sau cùng của toán là Ðại và Tài nhận ra tiếng của Nhân, nên Ðại đã la lên:

-Trung Úy Nhân đây rồi, ... Ðừng bắn, đừng bắn...

Lúc ấy Ðại đứng hẳn dậy, trong khi các người khác vẫn ghìm súng hướng về phiá tiếng vọng với tư thế sẵn sàng bóp cò nếu có gì nguy hiểm.

Nhân cất tiếng gọi lần thứ ba, rồi từ từ đứng lên. Ðại và Tài nhận ra Nhân, hai người ùa lại phía chàng và la lên:

-Ðừng bắn, đừng bắn...

Mọi người hú vía, vì trong rừng già, bất cứ một vật gì nghi ngờ lay động, vật này cũng có thể là mục tiêu để mọi người bóp cò. Ðại và Tài còn đeo cây Colt-45 của họ, còn Nhân thì đã để cây súng P-38 của mình trong tuí bay, cái tuí bay này đã nằm lại bên một bìa rừng!....

Trưởng toán Lôi Hổ là một Chuẩn Úy mới ra trường, anh Liêm xuất thân từ trường Sỹ Quan Trừ Bị Thủ Ðức. Gặp Nhân mọi người rất mừng, và tỏ bày ân hận là suýt nữa đã bóp cò. Người Chuẩn Úy trưởng toán còn cho biết đây là chuyến nhảy toán thứ ba của anh từ ngày ra đơn vị, anh lo lắng hỏi Nhân:

-Liệu có ai đến bốc mình không Trung Úy?

Nhân nhìn đồng hồ, đã 5:30 giờ chiều rồi, chàng nói:

-Các anh yên tâm. Ở nhà sẽ tìm cách bốc chúng ta ngay chiều nay.

Nhân nói như một phản ứng tự nhiên, và chàng chẳng biết sự thực sẽ được như vậy hay không?

Người trưởng toán thám sát đưa cho chàng bình bi-đông nước và dặn dò:

-Trung Úy uống từng ngụm nhỏ, và từ từ thôi, nếu không ông sẽ bị ngất xỉu đó. Chàng nhận bình bi-đông nước và làm theo lời của người trưởng toán, chợt Nhân nhớ ra các tiếng nổ lựu đạn, lúc nãy chàng nghe khi còn ở trong rừng, chàng hỏi:

-Sau lúc tàu rớt khoảng 1 tiếng, tôi nghe nhiều tiếng lựu đạn nổ về phía con tàu đang hú. Các anh có nghe thấy các tiếng nổ này không? Người trưởng toán kể lại:

-Ðó là tiếng lựu đạn do tụi em ném. Chúng em được lệnh phải trở lại tàu để tìm bốc Trung Úy, nhưng khi tiến gần tới con tàu, tụi em thấy có bóng bốn người đang đứng cạnh tàu, nên đã tung cả chục trái lựu đạn mini, bởi vậy Trung Úy mới bắt kịp tụi em, chứ không tụi em đã rút ra xa rồi. Nhân buột miệng:

-Thì ra là thế!...

Mọi người tiếp tục di chuyển băng qua một ngọn đồi đầy những giây leo chằng chịt. Cả bọn cũng khá vất vả, và đang dần đi xuống dốc để đi qua một ngọn đồi khác. Chợt mọi người thấy có một con đường mòn trước mặt. Tất cả tìm cách băng qua con đường mòn này, các anh trong toán thám sát chuẩn bị theo lệnh của người trưởng toán, Nhân, Tài và Ðại cùng bám sát theo người Chuẩn Úy trẻ tuổi này. Anh Trung Sĩ nằm núp gần con lộ nhất, từ chỗ núp anh chọi một hòn đá ra giữa đường và chờ đợi.

Mọi người đều im thin thít. Nhân quan sát con lộ, đây là một con đường đất đỏ, do xe Công Binh đã xén núi mở đường, bề ngang con lộ đủ để hai chiếc xe cam-nhông có thể chạy ngược chiều nhau. Một bên bờ vách đất đỏ cao nghệu, còn bên kia là vực núi. Sau vài lần chọi đá dò dẩm mà không thấy một động tĩnh, cả toán bắt đầu rời chỗ núp, cùng leo lên con đường đất đỏ.

Tài và Ðại đi theo người thứ ba và thứ tư leo lên đường, Nhân đi theo người trưởng toán cùng người cận vệ. Anh trưởng toán cùng với Nhân leo lên bờ tường đất trước mặt, hai ngón tay Nhân còn đeo lủng lẳng cái bình bi-đông nước, chàng cố gắng bám vào các rễ cây để leo lên. Leo được 2/3 bức tường đất, Nhân làm tuột mất bình bi-đông nước;!... Chiếc bi đông lăn ra ở giữa lộ, phía sau lưng chàng không còn ai bên dưới cả. Nhân nhìn qua anh trưởng toán, anh ra dấu, đừng bận tâm nữa, Nhân gật đầu hiểu ý và tiếp tục leo lên theo người trưởng toán và anh cận vệ của anh.

Vượt khỏi bờ tường đất xong cả đoàn lại nhắm hướng Ðông-Nam tiến bước. Chưa đầy 10 phút sau cả bọn phải dừng lại vì cơn mưa lớn đang kéo tới. Mọi người chia nhau ngồi dưới các gốc cây để trú mưa, anh trưởng toán cùng ngồi chung với Nhân dưới một gốc cây to. Cơn mưa trút nước xối xả, cả bọn ngồi co quắp lại cho đỡ ướt và đỡ lạnh. Nhân nhìn những giọt nước mưa chảy dài trên các lá cây trước mặt, chàng nghĩ bâng quơ về các chuyện vừa xảy ra trước đó.

Người Chuẩn Úy trưởng toán ngắt điếu thuốc Captain làm hai, trao cho Nhân một nửa và cùng châm lửa hút. Chàng rít một hơi thật dài, như thêm hơi ấm, để chống lại cái rét mướt của núi rừng. Tinh thần chàng cảm thấy sảng khoái, một thứ thú vị mà chàng không thể nào quên. Cơn mưa vẫn dai dẳng trút nước, Nhân co ro tìm hơi ấm qua nửa điếu thuốc được chia sẻ của người bạn đồng hành.

Bỗng dưng có tiếng xe đang chạy bên dưới, người trưởng toán ra dấu hiệu cho cả bọn ngồi im, và cố nép sát vào gốc cây để tìm sự che chắn. Bên dưới có một đoàn xe đang chạy, đoàn xe này bỗng dưng dừng lại. Nhân nghe có tiếng súng AK lên đạn, và tiếng người quát lên vọng về phía bức tường đất nơi còn để lại các vết giày và chiếc bi-đông lăn ra giữa lộ. Bọn chàng ngồi co rút bên các gốc cây và không rời chỗ núp. Có tiếng AK nổ lên hằng loạt trong cơn mưa vẫn nặng hạt.
Ðiếu thuốc đã tàn từ lúc nào trên tay chàng, Nhân ngồi cạnh người trưởng toán, chàng tin tưởng về sự đối phó của toán người trẻ này. Nhân chỉ biết sơ qua trong thời gian thụ huấn quân sự ở trường, và chưa bao giờ đụng trận để có những kinh nghiệm như các bạn trẻ này.

Khi đi rừng họ rất giữ kỷ luật, và rất rành rẽ về bổn phận của mình. Tài và Ðại cũng bám sát theo các bạn đồng hành đầy kinh nghiệm này, trong tay thủ sẳn cây Colt-45 của mình. Mười phút sau có tiếng máy xe rú ga hằng loạt súng bắn lên. Rồi đoàn xe lại tiếp tục lăn bánh, may cho bọn Nhân là bọn chúng không leo lên, lần theo dấu vết để lục soát và truy lùng. Anh trưởng toán ra dấu cho cả bọn tiếp tục hành trình trong cơn mưa chiều, nhờ cơn mưa và rừng rậm nên sự di chuyển có phần an toàn hơn. Người trưởng toán đưa chiếc radio cấp cứu của anh cho Nhân và nhờ gọi máy bay, chàng vừa bật nút công tắc lên đã nghe tiếng:

- .....Yêu cầu các bạn lên tiếng nếu không chúng tôi sẽ quay về.

Nhân vội đáp lời:

-Mayday, Mayday, Mayday, Lạc Long 389 nghe bạn rõ.

Mọi người ai nấy mừng rỡ, anh Chuẩn Úy lo lắng hỏi Nhân:

-Liệu họ có bốc mình ngay chiều nay không Trung Úy?...

Chàng gật đầu đáp:

-Hy vọng có chúng tôi ở đây, họ sẽ cố gắng bốc ngay chiều nay.

Chiếc máy bay L-19 đã nghe được tín hiệu của chàng, nên hỏi tiếp:

-Các bạn có thấy chiếc tàu bay nào trên không phận không? Nhân đáp lại:

-Chúng tôi đang ở bên duới, phiá cánh bên phải của anh.Nhân kêu mọi người:

-Mọi người trải các tấm panô vải màu cam lên trên các tàng cây để đánh dấu vị trí của mình. Xong Nhân gọi:

-Bạn có thấy những tấm vải panô màu cam chúng tôi đánh dấu không?

-OK... Chúng tôi đã nhận ra vị trí của bạn.

Chiếc L-19 reo lên trong chiếc radio tìm cứu, Nhân nói tiếp :

-Các bạn trên L-19 cho biết chỉ thị đi!...

Nhìn con tàu như cánh chuồn chuồn trên vòm trời chiều ảm đạm dưới cơn mưa, Nhân xót xa thương cảm cho những người bạn đang xả thân đi vào vùng binh lửa, để cứu vớt bạn đồng đội mình.

-Lạc Long, yêu cầu các bạn tiến về hướng Tây 50 mét, xong rẽ phải và chờ chỉ thị kế tiếp.Nhân thấy trời sắp tối rồi, nên vội đáp :

-Lạc Long nghe năm. Nhưng tôi yêu cầu bạn bay thấp, và định hướng cho chúng tôi di chuyển thì nhanh hơn. Bạn nghe rõ trả lời?... Sau vài phút chờ đợi, chiếc L-19 bay thấp qua đầu Nhân để chỉ hướng ra bãi bốc. Mọi người cùng chạy vội theo hướng chỉ dẫn này. Bãi bốc là một vùng đất khá rộng, chung quanh còn thấy các hố bom. Nhân và mọi người lựa một chỗ khá trống trải để làm bãi đáp.

-Lạc Long, bạn cho thả trái khói để trực thăng đến bốc các bạn

-Lạc Long, nghe năm trên năm.

Người trưởng toán Lôi hổ nghe theo liền tung ra trái khói đỏ, rồi một người nữa tung thêm một trái khói đỏ khi nghe tiếng trực thăng tiến lại gần.

-L-19, chúng tôi đã đánh dấu khói đỏ tại bãi đáp.

-Lạc Long, trực thăng đã thấy bãi đáp. Chúc các bạn An Lành trở về.

-L-19, cám ơn sự giúp đỡ của bạn.

Nhân quay lại nhìn những người đồng hành với mình, Ðại và Tài bám sát kế bên, trong khi đó toán Lôi Hổ canh gác bãi đáp. Nhân nhìn đồng hồ đã 7 giờ 50 tối, chỉ cần 10 phút nữa là trời sẽ tối hẳn, sẽ không còn sự an toàn để việc thực hiện việc tìm cứu như thế này. Nhân e ngại nhìn chiếc trực thăng đang tiến vào bãi đáp chật hẹp, bên dưới nhiều cây con lô nhô chĩa ngang chĩa dọc. Chiếc trực thăng tìm cứu từ từ hạ xuống, nhưng vẫn giữ ở vị thế hovering, để cả chín người cùng leo lên: Nhân, Tài, Ðại và sáu anh lính Lôi Hổ sau cùng đã lên tàu. Các anh em cơ-phi và xạ thủ trên tàu clear chung quanh để tàu cất cánh, và họ cũng không quên bắn hằng loạt đạn M60 vào bìa rừng, để uy hiếp.

Nhân nhìn qua ghế lái thấy Trung Úy Nguyễn Ðình Minh, trưởng phi cơ và Lâm Minh Tuấn hoa tiêu phó. Khi tàu lấy được cao độ an toàn, Minh báo cáo trên vô tuyến xong rồi trao cần lái cho Tuấn. Minh nhìn mọi người tươi nụ cười hiền hòa. Minh quay ra sau bắt tay Nhân và Chuẩn Úy Liêm trưởng toán Lôi Hổ đang đứng sau lưng ghế lái. Tàu đổi hướng đi thẳng về Pleiku thay vì về đáp tại Kontum.


***

Miêng mang trong những kỷ niệm, Nhân quên cả thực tại, thời gian và không gian, quên cả sự hiện hữu của các hành khách trên chuyến C47 chiều nay. Bên cạnh anh cô Hoá vẫn thăm dò những cử chỉ và chờ đợi, rồi nàng cất tiếng:

- Anh đang miêng mang chuyện gì mà nét mặêt buồn vậy?...Nhân như được đánh thức trở lại với thực tại, và đáp lời cô gái:

- Tôi đã nghĩ về sự mất mát trong chiến tranh, và những chia cách của những người tình của “Lính”, và gia-đình của họ qua một phi vụ hai tuần trước đây.

- Anh kể lại cho Hoá nghe với.

Chàng gật đầu như thoả thuận. Chàng hứa hẹn với Hoá là sẽ kể trong những ngày ghé Huế, về những kỷ niệm trong phi vụ ấy, một chuyến bay với bao hiểm nguy, đã mất đi một người bạn - một chiến hữu và một con tàu. Chiếc C47 bắt đầu giảm tốc độ và chuẩn bị để đáp, con tàu sau khi lượn một vòng qua thành phố đã hạ cánh đáp nhẹ nhàng trên phi đạo, và đang tiến qua taxiway để vào đậu cạnh khu hàng hoá của trạm Hàng Không Quân Sự Ðà Nẵng. Hành khách theo nhau xuống tàu, Nhân chợt thấy một chiếc xe pickup màu xanh Không Quân chạy ra, chàng nhận ra Trung Úy Kim, một người bạn cùng khoá 7/68 Không Quân, anh cho xe chạy gần lại. Nhân nói nhỏ với Hoá:

- Hoá chờ một chút, để tôi nhờ anh Kim đưa chúng mình ra phố. Nàng gật đầu, và cố nán lại gần bên chàng thay vì đi theo những hành khách để đi vào trong.

Kim thấy Nhân cùng cô gái nên reo lên chào hỏi:

- Anh Nhân khoá 7/68 KQ đó phải không? Nhân trả lời:

- Nhân đây, Anh khoẻ không?

Kim gật đầu và nói:

- Anh chị đứng đây chờ tôi một chút nghe, để tôi ghé qua nói với phi hành đoàn, đểø cho hành khách lên, và họ sẻ bay trở về lại Sài Gòn ngay.

Nhân ghé qua Hoá nói:

- Anh Kim là bạn cùng nhập ngũ vào Không Quân, và hiện là trưởng trạm Hàng Không Quân Sự của phi trường Ðà Nẵng.

Nàng cúi đầu chào:

- Hoá chào anh Kim.

Kim chào và tiến về phiá phi hành đoàn vừa xuống tàu. Nhân hỏi thăm nàng:

- Chiều nay em về đâu?

Hoá trả lời:

- Em định ghé lại nhà người bà con ở đường Phan Thanh Giản, và sáng mai em đón xe ra Huế, còn anh?... Chàng trả lời:

- Tôi đi thăm mấy người bạn, và hẹn gặp lại Hoá tại Huế.Hoá viết điạ chỉ của gia-đình ở Huế trên tấm giấy nhỏ và đưa cho chàng:

- Ðây là điạ chỉ của em ở Huế, khi anh ra Huế mời anh ghé thăm.Chàng nhận mảnh giấy nhét vào túi áo bay và nói:

- Ngày mốt anh (bổng dưng chàng đổi cách xưng hô) ghé lại được không?

Nàng trả lời:

- Dạ được, em sẽ chờ anh...Chàng hứa hẹn:

- Anh sẽ đưa em đi thăm vùng Kim-Long, Thiên-Mụ và ghé quán bánh bèo bên dưới chân đồi Thiên-Mụ.Nàng cũng không quên nhắc chàng:

- Và nhớ kể lại chuyến phi vụ làm anh buồn nữa nghe, em chờ anh đó.Nhân gật đầu và đưa tay ra – như lối bắt tay của lính – Hoá cũng đưa tay ra bắt và họ ngầm như có một thoả ước. Nhân thấy xe của Kim tiến lại gần chào nói:

- Nhân và chị lên xe, tôi đưa ra phố...

Nhân và Hoá gật đầu cảm ơn, và ngồi vào băng ghế phía trước với Kim, xong chàng lên tiếng hỏi Kim:

- Anh ở lại làm việc trể quá vậy!

Kim đáp lại:

- Anh chị biết không, giờ giấc của chúng tôi bất thường lắm, chúng tôi tùy thuộc vào phương tiện theo các chuyến bay ghé đáp và rời Ðà Nẵng, để xếp đặt di chuyễn hàng hóa, quân nhân và gia-đình.Kim nói tiếp:

- Tôi đã liên lạc máy và cho hành khách ra tàu rồi. Nhân thấy một xe buýt chở hành khách tiến về chiếc C47. Kim nán chờ cho đến khi các hành khách lên tàu xong, chiếc C47 đóng cửa và mở máy cất cánh lúc ấy Kim mới cho xe chạy, chàng quay qua:

- Xin lổi Nhân và chị nghe, tôi đã bắt hai người phải chờ, anh chàng cũng dí dỏm:

- Lâu quá hôm nay mới được làm tài xế cho ông bạn phi-công và chị đây!...Nhân xoay qua:

- Anh xong việc chưa? Nếu xong chúng ta ghé ra phố chơi được không anh Kim?...Kim trả lời:

- Tôi sẽ đưa anh chị đi!...

Hoá xen vào:

- Xin anh cho Hoá xuống đường Phan Thanh Giản, để hai anh chuyện trò lâu ngày gặp lại!...Nhân cũng phụ hoạ vào:

- Anh Kim, chắc Hoá cũng mệt với chuyến bay vưà rồi, anh chiều theo ý của cô, sau đó chúng ta đi phố.

Kim Tiếp:

- Tiếc quá, mấy khi gặp được Nhân và chị đây!...

Nhân tiếp lời cho Hoá:

- Không sao, còn nhiều dịp mà - phải không Hoá?...Kim cho xe rẽ qua đường Phan Thanh Giản, Hoá chỉ một căn phố gần ngã tư, Kim hiểu ý và tấp vào lề; dừng lại trước căn phố. Nàng cất tiếng:

- Hoá chào tạm biệt; hai anh đi chơi vui nghe, Hoá chào anh Kim...

Nhân vói tay qua mở cửa xe, Nàng và Nhân bước xuống. Nàng quay qua Nhân:

- Ngày mốt em chờ anh tại nhà mẹ em ở Huế, anh nhớ nghe?...

Nhân gật đầu, đưa tay ra bắt, cô nàng cũng đưa tay ra bắt và siết nhẹ với đôi mắt long lanh, và nụ cười hiền hoà. Chờ cho cô gái khuất vào trong nhà xong, Nhân lên xe, Kim cho xe chạy ra bến Bạch Ðằng và đậu bên một quán cặp bờ nước. Hôm ấy cả hai đã có dịp chuyện trò về những buồn vui của đời lính, về thân phận của mình trong từng vị trí hiện hữu, Kim cũng kể lại những cảm nghĩ vui buồn, và nhất là những mất mát mà anh đã chứng kiến trong những trận pháo kích vào phi trường vào đơn vị của anh. Hôm nay gặp lại bạn cũ họ đã vui tạm qua một chầu rượu, đễ rồi sau đó ai nấy trở lại với thực tại, với bổn phận và trách nhiệm của mình.


***

Trong hơi men Nhân nhìn ra bờ nước nơi những ánh đèn chập chờn, chàng lại đắm vào những miêng mang của phi vụ hiểm nguy trước đây, nhìn qua bóng đêm nơi xa kia là dảy Trường Sơn, phiá xa xa thành phố nhà nhà đã lên đèn. Trên trời cao những vì sao đã lấp lánh, bên dưới là dãy Trường Sơn, với những bờ rừng âm u đang chìm khuất trong bóng đêm đen như mực.

Nhân vẫn không tưởng tượng được phi vụ hiểm nguy ấy là có thật. Trung Úy Phan Văn Phương đã vĩnh viễn nằm lại dưới cánh rừng âm u kia. Ở Sàigòn, vào lúc này, vẫn còn một cô giáo đang chờ đợi Phương trở về, với lời ước hẹn sẽ cùng xây tổ ấm nơi phố thị vào dịp hoán chuyển cuối năm. Giờ đây người Không quân tác chiến này không bao giờ thực hiện được lời ước hẹn này với cô!...

Chiến tranh và số mệnh đã lấy đi tất cả những ước hẹn của Phương và một cô giáo đang mong chờ Phương. Chiến tranh cũng đang thản nhiên lấy đi một người bạn hiền của Nhân, và đang đổ sự tang tóc oan nghiệt đến gia đình Phan Văn Phương!.... Trung uý Phan Văn Phương bình thản, xuôi tay trong con tàu của mình, sau một phi vụ không hề biết trước được lúc kết thúc. Phan Văn Phương để lại sinh mạng của mình ở chiến trường Tây Nguyên, như bao anh hùng của thời đại, Nguyễn Ðình Bảo, Nguyễn văn Ðương, và nhiều người khác nữa ...

Những anh hùng không tiếc một điều gì cho đất nước, cho dân tộc, cho những chiến tích muôn đời nơi vùng biên giới này. Nguyện cầu cho Phan Văn Phương sẽ hoá thành một loài chim trên vòm trời xanh thật an bình. Nơi vùng trời này sẽ không còn hận thù, không còn những nổi niềm đau xót về đất nước, về thân phận con người, về số phận quá mong manh trước chiến tranh và bom đạn điêu linh.

Phan Minh
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=509935542848646&set=pcb.2091763807528386&type=3&theater

BachMa
05-05-2019, 07:54 PM
Chuyến Bay Cuối Cùng Phi Đoàn A-37
Thiên Lôi 524

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1557080165-ChuyenBayCuoiCungA37_01.jpg
Hình minh họa
Tám giờ tối 28 tháng tư 1975, sau bữa cơm chiều vội vã ở một câu lạc bộ gần khu gia binh TSN, tôi trở về ụ đậu phi cơ đầu phi đạo 07 phải nơi tạm trú ba phi đoàn 524, 534, 548 di tản về từ căn cứ Phan Rang, bước xuống xe tôi thấy các nhân viên phi đạo đang bận rộn kéo các A37 trang bị đầy bom đạn từ trong vòm trú ẩn ra đậu hàng ngang dài phía trước cách ụ năm chục bộ Anh (50 Feet). Tôi bước đến hỏi Trưởng phi đạo tại sao dời phi cơ ra khỏi ụ? Anh ta trả lời theo lệnh Trung tá Kỹ thuật và Bộ Chỉ Huy Hành Quân. Tôi vào phòng trong ụ, nhắc điện thoại gọi Trung tâm hành quân, thì sĩ quan trực cho biết hình như lệnh của Bộ Tư Lệnh KQ hay Bộ Tổng Tham Mưu gì đó, tôi phát cáu, giũa anh một câu: Anh là Sĩ quan trực mà không biết lệnh lạc rõ ràng là như thế nào ? Anh có biết hồi chiều phi đạo 07 bị dội bom không ? Anh ta cầu hòa trả tời: Thưa thiếu tá, em thấy cũng vô lý thật, nhưng lệnh trên đưa xuống, em phải thi hành, nếu Thiếu tá muốn bìết rõ thì hỏi Đại tá Ước. Tôi cúp phôn rồi bấm số Đại tá Ước nhưng không có ở phòng giấy.

Tôi ra lại bãi đậu, nói với Trưởng phi đạo di chuyển phi cơ trở lại vòm trú ẩn, nhưng anh nói: Thiếu tá nói với xếp em, em mới thi hành được. Tôi gọi điện thoại cũng không ai trả lời. Đang đứng phân vân suy nghĩ, làm cách nào để liên lạc được môt vị có thẩm quyền hỏi cho ra lẽ lệnh của ai để yêu cầu di chuyển phi cơ về vị trí cũ. Sơn "húc" tiếc nuối vừa nói vừa chỉ tay bên kia hàng rào kẽm gai: “Đêm qua Thiếu tá đừng cản em thì đám CS Võ Đông Giang đã ra người thiên cổ rồi, còn đâu mà cho kế hoạch để đám thằng Trung mang A37 từ Phan Rang về bỏ bom TSN hôm nay!”.

Đêm 27 tháng tư tôi tập họp tất cả hoa tiêu 524 ăn tối ở câu lạc bộ gần trung tâm Truyền Tin điện tử, Sơn lên sân khấu bỏ túi cầm microphone và đề nghị tôi về lấy phi cơ bỏ bom Camp Davis nơi đồn trú các phe quân sự bốn bên, thật ra lúc đó chỉ còn độc nhất một bên là CS Bắc Việt mà thôi. Tôi chạy nhanh lên kéo Sơn xuống vỗ vai nói: “Chuyện đâu còn đó, từ từ rồi tính!”. Sơn vùng vằng kéo tay tôi ra vừa khóc vừa nói: “Không còn thì giờ nữa đâu Anh Tư ơi! Sau này Anh sẽ tiếc!”. Bây giờ đứng nhìn một hàng dài A37 bom đạn xăng nhớt đây đủ im lìm chờ đợi; một ý nghĩ thoáng qua trong đầu tôi hay là nói Sơn vào lấy nón bay đi số hai cùng tôi cất cánh hai A37 lên thanh toán mục tiêu Camp Davis xong dọt đi Utapao.

Chuyện đánh trúng cái barrack đó tôi tin tưởng Sơn và tôi lượm một cách dễ dàng như những phi vụ bay đêm tự do lượm công voa chở tiếp liệu của Bắc Việt trên đường mòn phía nam Pleime tháng 9 năm 1972. Tuy nhiên ở địa vị Trưởng phòng Hành quân tôi có nên làm không? Những trái bom 250 cân Anh vừa nổ chiều nay trên phi đạo TSN giờ lại nổ cạnh Bộ Tư Lệnh KQ? Sau đó chúng tôi sẽ dọt đi để lại mấy chục anh em phân vân xáo trộn nằm trực trong nhà vòm cuối phi đạo! Chưa kể đến ngàn ngàn chiến hữu và gia đình đang đồn trú trong căn cứ TSN. Tôi gọi Sơn lên xe chạy đi tìm Đại Tá Thảo và Trung Tá Cả. Hết câu lạc bộ Mây Bốn Phương đến các quán cơm trong khu gia binh cũng không thấy các vị đó ở đâu. Tôi đành quay trở lại biệt đội.

Sơn nhảy nhanh xuống xe chạy vào biệt đội xách hai cái nón bay ra, giục tôi vào xách dù ra phi cơ. Tôi đứng lặng nhìn Sơn lắc đầu vừa nói: “Không thể trút bom xuống Camp Davis được! Hành động này chỉ ăn miếng trả miếng cho hả giận chứ có lợi lộc gì đâu?”. Bước vào phòng hành quân phi đoàn nhìn thấy anh em tụm năm tụm ba rầm rì những biến cố xảy ra mấy ngày qua; nào việc di tản bên DAO, những chuyến C130 bên hậu trạm, đám anh em Đà Nẵng kẹt lại bị thằng Trung ép ngồi ghế trái có phi công Mig ghế mặt canh chừng oanh kích phi đạo TSN chiều nay. Thấy Trung tá Khôi đang đứng nói chuyện với Tuấn cuối góc phòng, tôi xáp lại hỏi: “Trung tá có biết Đại tá Thảo ở đâu không?”.

Anh trả lời: “Có lẽ Ông đi ăn tối với Cả và Thi chưa về”. Tôi hỏi Khôi: “Anh có biết tại sao tất cả phi cơ kéo ra khỏi ụ không?”. Khôi trả lời, “đâu có biết, chắc phải có lệnh trên, kỹ thuật mới di chuyển”. Nhưng phi cơ trang bị bom đạn, xăng nhớt đầy đủ đậu sát cánh nhau như thế có phần không ổn cho lắm. Sơn mang dù xách nón bay tới: “Sơn đi một mình nghe Anh Tư”. Tôi nực lên quát: “Không thể được Sơn ơi, có lên thì lên tất cả”. Trung tá Khôi nhìn tôi rồi hỏi: “Mục tiêu nào vậy?”. Khôi vừa nói vừa vỗ vai Sơn đừng nóng, hiện tình chưa đủ căng thẳng sao bạn?

Tôi tự hào trong hàng ngũ phi công khu trục Không Lực Việt Nam Cọng hòa nhất là Không đoàn 92 có PĐ 524, 534, 548; cho đến giờ phút này 22:18 tối 28 tháng tư 1975 tất cả phi công đều có mặt ứng chiến đầy đủ không thiếu một ai. Ngoại trừ Thiếu tá Chấn, Thiếu tá Liễn, Trung tá Thi và Thiếu tá Tứ, bay bốn A37 , hai trang bị bom nổ 500 lbs, hai trang bị CBU, ra căn cứ Phan Rang phá hủy phi đạo và Bộ Chỉ Huy đang chiếm đóng hầu tránh CS có thể kế hoạch lần thứ hai oanh kích TSN.

Suốt đêm tất cả anh em ba phi đoàn chờ đợi điều động cất cánh nhưng tuyệt nhiên không một tiếng chuông điên thoại reo, không khí oi bức ngột ngạc; mọi người mệt mỏi suốt ngày bao nhiêu xáo trộn xảy ra, nào đưa gia đình di tản ngoài hậu trạm, nào phi cơ đám Nguyễn thành Trung mang từ Đà Nẵng vào Phan Rang lấy nhiên liệu lên bom đạn về oanh kích phi đạo TSN, không cho các phi cơ có đường bay di tản.

Nửa đêm tôi lả người thiếp đi lúc nào không hay. Đến khi nghe tiếng còi hụ báo động liên hồi. Tôi chụp điện thoại hot line phòng hành quân chiến cuộc được biết có pháo kích; tôi hỏi cần phi tuần khẩn không? Sĩ quan trực trả lời chưa có tọa độ. Rồi chúng tôi nghe tiếng nổ lớn đàng trước ụ bên cạnh. Tiếng hét Trung tá Cả: Tất cả ra sau ụ nhanh lên. Trời tờ mờ sáng, liếc nhìn đồng hồ gần ba giờ sáng 29 tháng tư. Những trái pháo kích đầu nghe từ phía trái lần lượt gần lại và cuối cùng trúng một phi cơ, sau đó tiếng nổ ầm ầm liên tục trong màn lửa ngợp một góc phi trường. Mười mấy năm thả bom đây là lần đầu nghe bom đạn nổ; chát chúa dây chuyền, phi cơ bốc cháy theo. Sơn khiều vai tôi: “Anh Tư thấy chưa, chúng nó điều chỉnh pháo kích từ Camp Davis”.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1557080180-ChuyenBayCuoiCungA37_02.jpg
Hình minh họa

Ngồi bịt tai chịu trận đàng sau bức tường dài cao hơn mười thước Anh. Tôi nôn nóng lom khom đến cuối bức tường ló mặt ra nhìn phía trước bãi đậu, một cảnh tượng hoang tàn đang hủy diệt trước mắt, hơn năm chục chiếc A37 đang bốc cháy khói lửa ngút ngàn. Tôi quay trở lại tựa lưng vào tường sắt lạnh, đầu óc chùn lại. Những cánh thép A37 là huyết mạch của ba phi đoàn khu trục Phan Rang. Giờ đây hơn trăm phi công chiến đấu bằng tay không ư? Thế là hết! Cuộc chiến bên ta đã lâm vào ngõ cụt. Hèn gì cả đêm hôm qua không có một phi tuần nào được điều động cả. Trung tá Khôi và Cả hỏi Đại tá Thảo: “Giờ tính sao sư phụ?”. Không đoàn trưởng trả lời: “Đợi sáng hết pháo kích di chuyển anh em về Bộ Tư Lệnh Không Đoàn 33 rồi tính!”. 5 giờ 40 sáng, vẫn còn những trái pháo kích rớt rãi rác khắp phi trường. Chúng tôi vẫn ngồi tựa lưng bức tường sau ụ, hướng về phía bắc. Có mấy chiếc vận tải và U17 cất cánh quẹo trái phía Gò Vấp để lấy hướng tây đi Bình Thủy hay Utapao? Phòng không xịt lên liên tục. Một chiếc AC119 trúng cao xạ gãy làm đôi trước mắt chúng tôi.

Cảnh tượng thật bàng hoàng, anh em nhìn thấy lắc đầu bùi ngùi cho số phận những người có mặt trên tàu định mệnh đó. Sáu giờ mười lăm, mặt trời ló dạng. Đạn pháo thưa dần. Chiếc pick up và chiếc shuttle bus phòng dù xà tới bên hông phải ụ cuối. Tiếng Đại tá Thảo: “Mọi người lên xe”, nhanh như chớp tất cả chen lên đầy hai chiếc van. Trực chỉ Bộ chỉ huy Không đoàn 33. Đến nơi Đại tá Thảo xuống xe đi vội vào cửa, vài phút sau chạy ra; nhảy lên xe tiếp tục chạy về Bộ Tư Lệnh. Đến nơi các phòng vắng lặng không còn ai cả. Dọt trở lại sân cờ Không Đoàn 33 Đại tá Thảo tuyên bố tạm thời tan hàng, anh em rán tìm lấy phương tiện di tản.

Mọi người xuống xe nhưng chạy về đâu bây giờ? Tan hàng. Nghe thảm thiết quá. Một trong những đơn vị chiến đấu kiên cường nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, giờ đang bị bó tay, tước đoạt phương tiện duy nhất để chiến đấu. Lệnh ai sắp hàng ngang trên năm chục chiếc A37 cánh liền cánh, xăng nhớt, bom đạn trang bị đầy đủ để hủy diệt? Nếu không cho chúng tôi chiến đấu thì cũng để chúng tôi có phương tiện ra khỏi vòng đai đang bủa quanh phi trường chứ ?!!! Chúng tôi đâu có nản chí đầu hàng? Chúng tôi đâu có rã ngũ ? Cho đến sáng 29 tháng tư tất cả phi công khu trục Không Đoàn 92 đều có mặt, từ Không Đoàn Trưởng trở xuống, không thiếu một ai!

Nếu có ý đồ đào ngũ chúng tôi đã theo lời mời của vị Đaị úy Trưởng phi cơ C130 của Không Quân Hoa Kỳ hôm 23 tháng tư ngày tiễn vợ con lên phi cơ di tản. Lúc bước ra khỏi ramp, anh ta nói: “Why don't you stay with us?”. Tôi cười và trả lời: “Cám ơn đề nghị của anh. Tôi phải ở lại chiến đấu”. Anh ta lắc đầu và nói cho tôi vừa đủ nghe: “War is over!”. Tôi vẫy tay chào mọi người rồi lên xe chạy về phòng Hành quân gần đầu phi đạo 07R. Đang đứng tần ngần chưa biết đi đâu thì Lê Vàng xà tới chiếc lambretta giục tôi lên xe, vừa chạy Vàng vừa nói cứ chạy khắp parking thấy tàu nào nổ máy thì nhảy lên đi theo chứ ở đây chịu trận sao? Chạy ngược chạy xuôi thấy được chiếc C 47 trên đường vội vã tiến về đầu phi đạo 07, Vàng tống ga đuổi theo nhưng thấy phi cơ taxi càng nhanh không có vẻ ngừng lại bốc mình, vả lại nhìn qua các khung cửa nhỏ thấy lúc nhúc chật cả tàu.

Vàng quay xe trở lại. Chạy qua bãi tha ma A37 của chúng tôi, quá thảm não, không muốn nhìn. Camp Davis bên tay mặt làm tôi sôi máu, giá nghe Sơn đêm qua không chừng tình thế có thể khá hơn hôm nay? Ít ra cũng hả giận và còn ít phi cơ để anh em get out! Trong quân ngũ nhiều khi tuân thủ kỷ luật quá cũng không chắc là đúng mà còn tai hại đến đồng đội. Giây phút suy tư qua lẹ khi Vàng lắc xe vào bên trong chưởi thề: “Nó muốn cất cánh ngược chiều trên taxi way”. Tôi đưa tay vẩy vẩy; chiếc L19 cắt ga quay trở lại, Vàng xà xe vào nhìn lên phi cơ thấy có hai người, phi công ngoắc tay gọi lên. Vàng lắc đầu nói với tôi: “Cậu lên đi”. Tôi rời yên xe nhảy lên lom khom chung ghế với người ngồi phía sau. Vàng tống ga dọt mất. Pilot lại cất cánh cũng trên taxi way nhưng lần này đúng hướng.

Tôi khom người trên đầu hoa tiêu. Phi cơ lên gần cuối phi đạo bắt đầu quẹo trái phía bắc Gò Vấp. Tôi la lên: “Quẹo mặt, quẹo mặt, quẹo về phía Sài Gòn. Vì sáng nay tôi chứng kiến phòng không bắn lên từ hướng đó. " May quá Thiếu tá!", Hoa tiêu trả lời nhưng vẫn quẹo theo ý tôi. Tôi bảo lấy cao độ chui mây hướng 240 độ. Anh ta nói không biết bay phi cụ. "Anh bay tôi nhìn phi cụ", tôi trả lời. Lên năm ngàn bộ ánh sáng chan hòa. Hoa tiêu bình phi. Trời thủ đô hôm nay mây mù phủ kín như báo hiệu một cơn bỉ cực bắt đâu giáng xuống cho miền Nam thân yêu.

Tôi hỏi anh định đi đâu. Anh nói: “Không biết nên đi đâu Thiếu tá”. Rồi anh ta tiếp, anh vừa ra trường bay Nha Trang về phi đoàn chưa được xác định hành quân, người chung ghế phía sau với Thiếu tá là em ruột của em 16 tuổi. Tôi quay qua nhìn hành khách trẻ xúng xích trong chiếc áo bay quá cỡ có lẽ của anh đưa cho mặc. Tôi nói có hai nơi chúng ta có thể đến là Bình Thủy, Sư đòan 4 KQ hay Côn Sơn nơi tập trung di tản bằng đường thủy. Thiếu tá quyết định đi đâu thì em đến đó. Tôi nghĩ đi Cần Thơ hơn vì ở đỏ còn ba phi đoàn A37, bên căn cứ Trà Nóc còn có mấy phi đoàn trực thăng. Tôi nói anh cứ giữ cấp 240 đi Cần Thơ. Mười lăm phút sau Tân An trước mặt, bầu trời quang đãng không một cụm mây; nguyên miền Nam trải dài dưới cánh bạc, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Cần Thơ, Sóc Trăng... miền đất trù phú, ruộng vườn xanh ngát, sông lạch hiền hoà không lẽ rồi đây một sớm một chiều thay tên đổi họ?

Năm mươi phút bay, sông Bassat hiện trước mặt tôi nói với hoa tiêu qua tầng số Bình Thủy xin chỉ thị đáp. Sau khi nhận đầy đủ chi tiết, chàng phi công vào chiều gió xuôi rồi quẹo phải 180 độ vào cận tiến chỉnh mũi phi cơ thẳng phi đạo, chiếc L19 từ từ xuống thấp cuối cùng lước nhẹ trên đường bay. Chạy đến giữa, đài kiểm soát cho lệnh đổi qua tầng số dưới đất, và được lệnh taxi theo chiếc pick-up xanh Follow Me về bãi đậu gần cổng vào phi trường.

Chúng tôi lần lượt xuống phi cơ; thì một xe jeep Quân Cảnh chạy tới; người Trung sĩ này ngày trước đóng ở Nha Trang tôi và anh ta quen nhau; anh chào tôi rồi nói: "Thưa Thiếu tá, lệnh Ông Tướng tất cả phi cơ các nơi về, đậu tại đây; đổ xăng nhớt đầy đủ và chỉ được cất cánh khi có phi trình của Hành quân Chiến cuộc". Rồi anh kể cho tôi nghe sáng nay mấy Ông Khu trục AD5 và AD6 làm náo động cả phi trường. Tôi hỏi anh ta có xe cho chúng tôi mượn đi ăn trưa, đói bụng quá. Anh bảo tôi vào trạm gác anh sẽ kiếm cho tôi phương tiện. Năm phút sau anh chạy đến một chiếc jeep và nói với tôi một tiếng rưởi phải trả lại xe. Tôi trả lời cám ơn nhiều lắm và hứa về đúng giờ.

Tôi hỏi tinh hình Cần Thơ. Anh nói vẫn còn yên nhưng không nên đi xa quá. Sau khi ra dấu cho hai bạn đồng hành về từ TSN lên xe, tôi lái ra cổng chạy được một đoạn đường nhìn thấy có quán ăn hai bên, tôi ngừng lại nhìn quanh có vẻ tốt. Trong quán một vài bàn có mấy quân nhân trang phục Không quân ăn trưa trễ đang ngồi nói chuyện. Chúng tôi chọn một bàn góc trái . Sau khi gọi ba dĩa cơm tấm sườn đặc biệt có hai trứng ốp la và ba ly trà đá lớn. Tôi nói với chàng pilot L19, Cần Thơ có vẻ còn yên nhưng tình hình mỗi lúc mỗi thay đổi rất lẹ; tuy nhiên đến đây là tốt rồi. Ăn xong vào phi trường tôi sẽ bàn với anh chương trình kế tiếp chúng ta sẽ làm gì. Chúng tôi ngốn ngáo đĩa cơm nóng hổi, hai miếng sườn cốt lét nướng vàng và trứng gà thơm phức mùi bơ; nốc hết nửa ly trà đá, như chưa bao giờ được ăn ngon như vậy, có lẽ để quá đói và mấy hôm ở TSN đầu óc căng thẳng ăn uống bất thường, thêm vào đó cơm tấm sườn nướng Cần Thơ có tiếng ngon nhất nước.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1557080192-ChuyenBayCuoiCungA37_03.jpg
Hình minh họa

Xong bữa ăn trưa chúng tôi trở lại căn cứ. Vào trạm Quân Cảnh trả xe, bắt tay cám ơn và đưa cho anh bạn Không đoàn 62 ngày trước cây thuốc Salem đầu lọc tôi hỏi mua lúc trả tiền ở quán nhậu. Anh ta cười và nói: “Thiếu tá khách sáo quá làm em tổn thọ sớm”. Tôi vỗ vai anh: “Hân hạnh cho ta có người bạn tốt như anh!”.

Ba chúng tôi bách bộ về Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn. Qua bãi đậu phi đoàn quan sát; tôi đứng lại hỏi người phi công L19: “Anh có bản đồ miền Nam không?”. Anh ta rút trong túi dưới bên mặt ra một tấm tỉ lệ 500000 và nói: “Tấm này được không Thiếu tá?”. Tôi trải ra trên nền xi măng và nói: “Nếu chúng ta còn gặp nhau thì không có gì trở ngại; nhưng lỡ không gặp nhau lại thì anh nhớ là cất cánh Bình Thủy lấy cấp 300 độ trực chỉ Utapao, trời tháng này tốt; anh cứ ôm theo bờ biển ba tiếng sau sẽ thấy phi đạo lớn, chính đó Utapao". “Em không nói được tiếng Anh Thiếu tá", viên Thiếu úy cắt ngang tôi. "Cần gì liên lạc với đài không lưu, anh quan sát cờ gió hoặc nhìn phi cơ đáp hoặc cất cánh là biết phi đạo đang xử dụng, xong bay vào trên ngàn bộ lắc cánh, đài sẽ biết vô tuyến hư họ sẽ chớp đèn xanh cho anh ưu tiên vào đáp". Anh có thắc mắc gì nữa không?, tôi hỏi . Anh lắc đầu và xếp bản đồ bỏ lại túi. Tôi nói bây giờ chúng ta lên trình diện Tướng Tần. Anh ta xin phép ghé vào phi đoàn quan sát tìm gặp mấy người bạn cùng khóa về đây mấy tháng trước. Tôi bắt tay anh nói cám ơn, hy vọng chúng ta gặp lại.

Bước vào cửa lớn Bộ Tư Lệnh SĐ4KQ, gặp Nhân PĐ534, anh nói đu theo trực thăng về đây hồi 11 giờ, cũng có ý định vào trình diện ông Tướng. Hai chúng tôi đợi chánh văn phòng ba phút thì được Tướng Tần gọi vào gặp. Ông Tướng hỏi tình hình TSN và Bộ Tư Lệnh KQ xong Người nói: “Hai anh xuống gặp Đại Tá Ninh và đưa note này cho ông”. Tướng Tần trao tôi tấm giấy. Chúng tôi chào xong đi về Không Đoàn 74 CT, lúc gần đến nơi thì gặp Đại Tá Ninh lái xe vào chỗ đậu. Sau thủ tục chào kính tôi đưa note của Tướng Tần; Đại Tá Ninh hỏi: "Khoẻ không Cửu, lâu lắm mới gặp anh". Tôi cám ơn và trả lời vẫn bình thường.

Nhớ lại mười năm trước, 1965, lúc đó Đại úy Ninh Biệt đội trưởng Khu trục Phi Hổ ở Pleiku, được giao trọng trách cùng Đại úy Lạc về Không Đoàn 62 CT thành lập Phi Đoàn Thiên Lôi 524. Nguyễn Huy Bỗng, Trần Văn Nghĩa, Hoàng Dự và tôi xung phong rời Cọp Bay 516 về Nha Trang bổ sung quân số. Giờ đây mười năm sau, 29 tháng tư 1975, Đại Tá nói: “Tốt lắm, hai anh vào giúp tôi PĐ A37”; Đại Tá kéo chúng tôi vào giới thiệu với anh em trẻ 520. Xong ông rời phòng Hành quân. Các hoa tiêu vây quanh tôi và hỏi tình hình Sài Gòn. Tôi thuật lại cho họ nghe những biến chuyển xảy ra mấy ngày qua. Anh em nói cho tôi nghe tâm trạng, bàng hoàng, lo lắng sau mấy hôm khác lạ xảy ra trong các Phi đoàn, nhất là biến động sáng nay trên bầu trời căn cứ. Lệnh Tướng Tần truyền xuống để trấn an quân sĩ. Phi trường Bình Thủy đã xao động càng nghẹt thở thêm. Xe Quân Cảnh tuần tiểu liên miên chạy lòng vòng các bãi đậu phi cơ.

Tôi nhìn lên bảng phi lệnh và hỏi suốt ngày chưa có phi tuần nào cất cánh hả? Anh em lắc đầu. Vẻ mặt mọi người chán nản. Không khí có vẻ trầm lặng mang theo sự ngột ngạc nôn nóng. Họ nhìn nhau như muốn nói ra một điều gì trong tâm trí nhưng ai cũng ngại ngùng phát biểu. Tôi ngồi xuống ghế và ra dấu cho anh em cũng tìm chỗ an tọa. Rồi bắt đầu lên tiếng: “Nói cho anh em rõ, Bộ Tư Lệnh KQ đã bỏ ngõ. Trung tâm Hành Quân KQ cũng không còn hoạt động. Tôi nghĩ giờ này Sài Gòn đã bị CS tiến chiếm rồi. Bắt đầu bây giờ nếu có phi vụ điều động thì anh em phụ trách phi tuần nào cứ cất cánh lên target đánh xong đi thẳng Utapao không quay trở về nữa. Chắc các anh đã biết, từ Binh Thủy đi Utapao hướng 300 rồi chứ gì? Khoảng 45 phút là đến. Anh em nên lấy bản đồ ra kiểm soát lại và ghi các chi tiết, tầng số tower... Các bạn trẻ giờ đây rộn ràng hơn và đi lấy túi check list với bản đồ ra kiểm lại lần cuối. Nhìn họ, nhìn dấu bút ghi chép khoanh tròn lớn căn cứ Hoa Kỳ bên Thái Lan tôi biết họ cũng đã sữa soạn kỹ lưỡng đầy đủ từ trước rồi.

Nãy giờ tôi mãi nói chuyện với các bạn Thần Báo thì Nhân 534 bốc điện thoại gọi tìm mấy người quen ở Cần Thơ. Lát sau Nhân đến bảo tôi mượn xe chở anh ta ra phố cho anh gặp người quen. Tôi nói giờ phút này mà bạn còn luyến tiếc gì nữa. "Anh nói dưới này còn yên ổn lắm, tôi đi nửa tiếng sẽ trở về liền". Tôi trả lời: “Đại Tá Ninh căn dặn coi giùm anh em A37, mình đâu bỏ Phi Đoàn đi được?”. Anh đáp ngay: “Tôi đánh cá với bạn đi tới tối về vẫn không có gì xảy ra đâu, Bộ Tư Lệnh, Bộ Tổng Tham Mưu, Trung Tâm HQKQ đã im tiếng còn ai để xin phi vụ yểm trợ ? Vả lại mình đi một chốc thì về chứ có dọt đâu mà lo không hoàn tất trách nhiệm?”. Tôi nhìn vẻ mặt ra chiều năn nỉ của anh rồi cũng xiêu lòng. Tôi nói với Sĩ Quan trực mượn chìa khóa xe pick-up đưa Thiếu tá Nhân đi sẽ về ngay. Kéo hộc lấy chìa khóa, viên Thiếu úy trẻ giao cho tôi và nói: Xe đậu bên mặt cửa ra vào.

Lên xe chạy một khoảng đến Phi Trường Trà Nóc, Nhân bảo quẹo vào để anh nhờ mấy bạn Trực thăng đưa ra phố. Tôi định ngừng xe trước phi đoàn cho Nhân xuống xong sẽ dọt về ngay thì anh bạn của Nhân chạy Honda tắp vào và nói: “Mày mới xuống hả, tao vừa gặp Đại tá Thảo, Đại tá Ân, Trung tá Cả bên văn phòng Đại tá Bá”. Nhân giục tôi: “Mình phải qua trình diện mấy ông chứ?”. Tôi nhìn Nhân vừa nói vừa tống ga chạy về Bộ Chỉ Huy Căn cứ: “Trình diện gì nữa, hồi sáng Đại tá Thảo đã tuyên bố tan hàng, tự tìm phương tiện di tản rồi mà?”. Gặp được cấp chỉ huy thoát khỏi gọng kềm CS đang siết dần TSN, tôi cũng lấy làm mừng; sẵn dịp cũng nên chào Đại tá Bá xếp cũ mấy năm trước ở Phan Rang. Một chốc bảo Nhân: “Tôi phải về Phi đoàn 520, hơn 45 phút rồI”. Nhân gật đầu nói: "Gặp lại sau”.

Bảy giờ tối, một Thiếu úy thấy tôi ngồi xem truyền hình đến hỏi: “Ăn gì chưa Thiếu tá?”. Tôi lắc đầu, anh đề nghị chở tôi ra quán nhậu trước cổng. Tôi nói : Anh đi ăn tối đi, nếu tiện nhờ anh mua giùm ổ bánh mì gà. Tôi rút ra tờ năm trăm đưa nhưng anh không nhận.

Suốt đêm 29 rạng sáng 30 mọi người không ngủ, thao thức đợi phi vụ. Thỉnh thoảng nghe đại bác nổ và nhiều loạt súng nhỏ nhưng tuyệt nhiên phi trường Bình Thủy vẫn hoạt động bình thường, các ụ parking đèn sáng trưng, các chuyên viên kỹ thuật vẫn cắm cúi sửa tàu, tiếng động cơ A37 thỉnh thoảng nổ đều theo nhịp test của trưởng phi cơ. Tôi đứng nhìn phi đạo trong đêm, nghĩ đến các đầu não chiến đấu đã tự tan hàng, chỉ còn lại vùng bốn lẻ loi chiến đấu được bao lâu? Đạn dược, xăng nhớt, cơ giới... còn lại đủ chống cự không?

Mười giờ sáng đài truyền hình phát sóng các Tướng, Bộ trưởng của chính phủ Big Minh kêu gọi toàn quân bỏ súng rời đơn vị trở về nhà. Hiệu triệu của Tổng Thống "ba ngày" chỉ thị các Binh đoàn, công sở bàn giao tất cả cho "Quân Giải Phóng miền Nam".

Thế là Căn cứ Bình Thủy cũng tự động tan hàng. Chưa qua mười phút, cảnh rã ngũ xảy ra nhanh đến nổi tôi nhìn ra bãi đậu phi cơ vắng lặng, không còn quân cảnh, không còn chuyên viên kỹ thuật. Tôi rất thán phục anh em A37 Cần Thơ, có nôn nóng nhưng rất trật tự có thể nói là lịch sự. Tôi lên tiếng vì nhu cầu tất cả Hoa Tiêu A37 phải rời Việt Nam, anh em bắt cặp lấy, mỗi phi cơ phải đi được ba người, không dù nón, không hành lý, ngoại trừ Phi Công bay ngồi ghế trái phải đội helmet để liên lạc và tất cả phi cơ bay cao độ maximum 12 ngàn bộ không cần dưỡng khí. Tôi là người đầu tiên quăng cái cặp samsonite đựng nhiều kỷ vật qua hàng rào kẽm gai. Thế là anh em lần lượt tự động nhảy lên phi cơ.
Một Thiếu úy chạy đến hỏi tôi: “Còn vợ em làm sao Thiếu tá?”. Tôi quay qua đẩy anh ta và vợ lên chiếc tàu gần ụ bên đã có phi công ngồi ghế trái.Thấy mọi người đã an vị, không còn ai trên parking, tôi nói với Thiếu tá Danh, chúng ta cũng lên tàu chứ? Khi ngồi trên ghế mới thấy đa số phi cơ bình điện yếu không mở máy được. Tôi bảo Danh nhảy xuống giúp tôi đẩy chiếc APU (Auxiliaire Power Unit) qua cắm vào phi cơ gần nhứt; nhưng loay hoay hoài cũng không làm sao nổ máy "boost" bình điện được.

Nắng miền nam bắt đầu nóng, tôi tự giận mình bay mấy ngàn giờ mà không biết start APU, tệ thật! Kịp lúc đó Thiếu tá Kim, người bạn cùng khóa 63A, Liên Đoàn Trưởng Kỹ Thuật chạy lambretta đến gọi tôi: "Cửu cho "moi" đi với!". Tôi mừng quá và chụp tay anh: "Chắc chắn anh phải đi, start APU dùm coi". Kim đưa hai ngón tay bấm, tiếng nổ dòn APU vang lên, tôi giục Kim và Danh đẩy máy "boost” đến tất cả phi cơ bình yếu cho phi công mở máy. Gần chiếc cuối tôi thấy chỉ có hai người ngồi, Tôi nói Kim lên ngồi ké. Rồi tôi nói với Danh còn chiếc nữa ta có thể lên tàu.

Lúc trở lại phi cơ, tôi ra dấu cho Danh mang dù nón oxygen đầy đủ vì không có ai nữa để cho đi. Vả lại chúng tôi phải lên 25 ngàn bộ để liên lạc trước với Utapao tower. Vừa taxi ra khỏi ụ thì thấy Mậu và một người bạn chạy vespa gọi: “Cửu, cho "moi" đi với!”. Tôi nhìn thấy còn chiếc A37 đậu ụ cạnh. Tôi chỉ cho Mậu và người bạn lên bay chiếc đó. Bấm interphone nói với Danh hy vọng họ không cần APU. Dù sao chúng tôi cũng phải đợi cho họ mở máy taxi ra mới lăn bánh theo.

Khi phi cơ line up đầu phi đạo, nhìn lại căn cứ lần cuối vắng vẻ không thấy một bóng người. Tôi mang tâm trạng bùi ngùi, luyến tiếc phải bỏ ra đi nơi một thời sinh động náo nhìệt. Bao kỷ niệm hiện về, những sáng tinh sương phi tuần nối đuôi nhau rầm rộ bay vào không gian đi chu toàn nhiệm vụ Bảo Quốc Trấn Không, những buổi chiều sầu thảm khi hay tin một cánh chim đã lìa đàn đền nợ nước. Những đêm thức trắng vần vũ trên trời tây cover cho các bạn trực thăng vào kéo đồng đội lên trong thửa ruộng xanh phía bắc phố thị Tân An.

Danh kéo tôi về thực tại: "Cất cánh được chưa Cửu?". Tôi gật đầu ra dấu tống ga 100%. Danh đưa phi cơ lên thẳng đứng. Cao độ kế quay vùn vụt, mấy phút sau phi cơ bình phi 25 ngàn bộ, hướng 300. Tôi lắc cần lái đồng thời qua interphone nói với Danh, tới phiên tôi bay. Danh buông tay để tôi điều khiển phi cơ. Trên tầng số guard tôi nghe được nhiều phi cơ trực thăng "may day" với các chiến hạm Hải quân Mỹ xin xác định tọa độ, hướng bay để vào đáp. Vô tuyến ồn ào như họp chợ. Tôi đưa tay vặn qua tầng số tour Utapao, thì đã nghe anh em bắt đầu liên lạc nhưng không nghe được vì họ phải bay thấp và còn quá xa. Tôi xen vào : “Xin các A37 yên lặng!”. Tôi bắt đầu gọi đài Utapao báo cáo trong vòng 25 phút nữa, khoảng bốn chục phi cơ A37 xin chỉ thị vào đáp. Utapao Tower: "Welcome Sir, runway 18 headwind 10 miles, vibility 25 miles, altimeter setting 29.92 reporting each flight when ready for landing. Thunder 524 Roger”. Tôi báo lại chi tiết cho anh em, mọi người bấm nút gọi cho biết nhận rõ.

Đến Hà Tiên đánh mấy vòng ngắm phố thị, ruộng vườn. Tôi nói với Danh nhìn quê hương lần cuối đi trước khi qua không phận Cao Miên, chắc phải lâu lắm mới có dịp được thấy lại. Danh mỉm cười: “Anh đang di tản hay bay du hành cross country đây?”. Rời không phận Việt Nam, tôi nói Danh cầm cần lái tiếp tục trực chỉ Utapao.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1557080208-ChuyenbayCuoiCungA37_04.jpg
Hình minh họa

Đến căn cứ Thái Lan sát bờ biển Danh xin chỉ thị đài vào đáp. Danh lướt nhẹ trên phi đạo 18 và để phi cơ chạy đến cuối đường bay thì tower cho tầng số ground, quẹo mặt đã thấy chiếc pick-up Follow-Me đợi sẵn, taxi theo họ đến bãi đậu tạm khoảng trăm feet từ runway thì hai airmen nhảy xuống xe, một ra dấu full stop, tắt máy, một quăng hai khúc gỗ chặn bánh phải. Xong anh ta đến chào tôi rồi đưa giấy bút yêu cầu điền vào tên họ phi hành đoàn, số đuôi phi cơ từ đâu đến cùng lúc đó người lính KQ Hoa Kỳ cầm hộp sơn xì xóa mất lá cờ sau đuôi. Sau đó họ mời chúng tôi xuống tàu lên xe pick-up để họ đưa vào bàn đón tiếp, họ cũng không quên nhắc nhở chúng tôi vì điều luật an ninh căn cứ vũ khí và nón bay được để lại sau thùng xe để chuyển vào kho.

Đến bàn ghi tên họ lần nữa rồi được phát một cái khăn tắm, hộp xà phòng, kem bàn chải đánh răng. Bàn bên cạnh có các thức uống, bánh ngọt. Mấy anh em đến trước đang nhâm nhi cà phê trò chuyện, mỗi người mang một tâm trạng, trên nét mặt đăm chiêu nhưng có phần thư thả hơn hồi sáng; hết còn cảnh bồn chồn ngồi đứng không yên. Thời tiết Thái Lan nóng bức như Cần Thơ mặc dù ở đây sát bờ biển. Thấy vòi nước trên bãi cỏ cạnh văn phòng tôi tiến tới mở ra đưa hai tay hứng nước vụp vào mặt.

Nhóm hoa tiêu Bình Thủy thấy tôi vẫy tay chào, vài bạn đưa ngón trỏ lên có ý nói chúng ta hoàn tất di tản tốt. Một thiếu úy từ Đà Nẵng về Cần Thơ kéo tôi ra một góc dúi vào tay hai tờ trăm đô la, tôi ngạc nhiên nhìn rồi đút trở lại túi anh ta; anh phân trần: “Em ở Mỹ mới về một tháng, còn một ngàn rưởi, Thiếu tá giữ mà xài!”. Tôi nói cám ơn anh, nhưng bây giờ có nhu cầu gì mà cần đến tiền bạc. Đêm hôm qua anh có nói chuyện, vừa đổi về SĐ 1 KQ chưa được check out hành quân thì phải chạy. Tôi nói với anh yên chí, Bình Thủy tương đối yên, phi cơ còn đầy đủ, tất cả chúng ta sẽ rời Việt Nam an toàn.

Quá mệt mỏi tôi ngồi bệt xuống sàn xi măng bãi đậu, lấy chiếc khăn tắm vừa lãnh cuộn tròn làm gối, ngã người đánh một giấc cho đến khi nghe tiếng phi cơ, tôi choàng tỉnh nhìn lên bầu trời thấy chiếc L19 lắc cánh. Tôi nghiêng mặt chống tay đứng thẳng dậy hướng về đài kiểm soát, “green light" chớp chớp, tôi tự cười thầm thỏa mãn: “Hai anh em nhà họ rồi chứ ai vào đây nữa!”. Chiếc phi cơ quan sát tà tà một phần ba runway mới chạm bánh, đến cuối phi đạo quẹo mặt, taxi theo "Follow-Me" cho đến bãi đậu chung với các tàu vận tải cách chỗ đứng chúng tôi ba trăm thước. Phi cơ tắt máy, tôi nhìn hắn ta bước ra rồi đến người em và thêm một vị mặc áo chùng đen, có lẽ là một linh mục? Lúc họ xuống xe pick-up, đi về bàn làm giấy tờ theo chỉ dẫn ra dấu của người lính Hoa Kỳ, tôi tiến lại vỗ vai, hắn ta quay lại thấy tôi mừng quá: “Đúng như Thiếu tá nói, ba tiếng bay thì nhìn thấy phi trường Utapao, em vào lắc cánh đèn xanh bật cho vào đáp ngay. Tôi định hỏi vị linh mục đó anh gặp ở đâu nhưng thấy anh ta loay hoay làm giấy tờ tôi bước về chỗ cũ. Mấy anh em Cần Thơ giục tôi vào ghi tên cho kịp chuyến bay tới đi Guam.

30 tháng tư 2005, ba mươi năm sau. Nhân ngày họp mặt Khu Trục, tôi ngồi viết lại "đoạn đường” đã qua này để cám ơn trên đã cho tôi gặp nhiều bạn tốt, tôi mới hoàn thành được chuyến đi mang nhiều ý nghĩa của đời mình. Tuổi quá lục tuần, trí nhớ bắt đầu sức mẻ đến nổi tên họ những người bạn đã gặp cũng đi Utapao). Trong khi gần trăm hai mươi Phi Công Khu Trục Phan Rang tại TSN từ 20 đến sáng 29 tháng tư không một phi công khu trục bay khỏi phi trường bằng A37 đi Thái Lan cả, vì tất cả A37 như phần trên đã viết, “Lệnh ai kéo phi cơ ra khỏi ụ để cho VC pháo kích rạng sáng 29 tháng tư?”. Nực cười nhất là một số quân nhân phía ta sau này viết lại tháng tư đen cũng vấp những lỗi lầm y như vậy, có lẽ họ có đọc "The fall of Saigon" rồi "copy" lại chăng?không còn nhớ. Trong ý nguyện viết lại khúc chuyện xưa này cũng mong ước được hội ngộ với anh em ngày trước.

Những Anh em đã từng cùng nhau vì lý tưởng tự do, vẩy vùng trên Không Gian đất Việt. Thời trai trẻ mang sứ mạng được Tổ Quốc quê hương giao phó, chúng tôi đã hãnh diện chiến đấu đến cùng, luận thành bại ngoài tầm tay quân đội. Cũng bài viết này xin nhắc lại cho ký giả "salon" David Butler, mấy tuần cuối tháng tư 75, quanh quẩn trong các bar, hộp đêm Mỹ gom góp tin tức chiến sự từ các cọng sự viên tòa đại sứ, DAO,... kể lại để dựng đứng những tin thất thiệt trong cuốn "The fall of Saigon": Trang 380, David viết, “April 29, 04:00 tại TSN tất cả các Phi Đoàn A37 đã cất cánh di tản.

Written by Thiên Lôi 524
Sunday, 12 July 2009 06:51
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=805991989783779&set=a.139493593100292&type=3&theater

BachMa
05-15-2019, 06:09 PM
Những Người Tù Áo Hoa
Phạm Gia Đại

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1554574820-NhungNguoiTuAoHoa.jpg
Hình minh họa
Thời gian ở trong tù quả thật đúng nghĩa là thời gian chết.

Khoảng thời gian vô bổ, vô nghĩa vì không biết lấy cái gì để lấp đi được hết cái khoảng trống đó hay làm sao để giết đi được hết cái thì giờ thừa thãi đó. Đâu phải nó chỉ là mười ngày hay một tháng như lời tuyên truyền lừa bịp của Quân Quản thành phố khi Sài Gòn đã mất, mà nó kéo dài lê thê và pha lẫn với những máu, nước mắt và mồ hôi của hàng trăm ngàn người tù chính trị hết năm này qua năm kia hình như không có giới hạn về thời gian nữa.

Lúc tôi còn ở trại cô nhi Long Thành, hơn ba ngàn người hầu hết là dân sự trong các Phủ Bộ của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) đang ở trong tù. Sau mười ngày, rồi sau một tháng trôi qua không động tĩnh thì họ cũng không còn biết bám víu gì vào ngày tháng nữa và thời gian chỉ còn là một khoảng trống không vô tận.
Cái chính sách "khoan hồng nhân đạo" của Đảng và Nhà Nước Cộng Sản đối với các viên chức chế độ cũ đã bị rơi cái bộ mặt giả nhân giả nghĩa khi sau một tháng rồi mà vẫn giam giữ các "cải tạo" viên.

Chính sách đó đã biến miền Nam thành một nhà tù lớn nhất thế giới.

Những người dân miền Nam , nhất là các quân dân cán chính chế độ cũ VNCH qua một thời gian ngắn sống dưới chế độ Cộng Sản, bắt đầu hiểu lờ mờ thế nào là Xã Hội Chủ Nghĩa (XHCN); và khi mà thức ăn dành cho súc vật là bo bo cũng không có đủ cho những người tù lao động khổ sai nữa thì mọi người bắt đầu nhìn thấy một hiểm họa đói kém và một tương lai đen tối đang đổ ụp xuống trên quê hương mình.

Có điều chúng tôi đều không hay và đều không hề biết rằng những khoảng thời gian ấy là những tháng ngày hiếm có mà còn được những giây phút thoải mái và thong dong một chút trước khi bị đưa ra miền Bắc XHCN, bị ném vào "hỏa ngục" trên trần gian - là những trại "tập trung cải tạo" với nhiều hình thức lao động khổ sai khác nhau- đang được từ từ dựng lên như nấm khắp Nam chí Bắc VN, dập khuôn theo các trại ở Siberia hay Tân Cương.

Những buổi chiều tại trại cô nhi Long Thành, chúng tôi chẳng biết làm gi hơn là cứ lững thững đi bộ dọc theo các con đường đất nện chung quanh các căn nhà chỉ còn là cái xác, không cửa sổ mà cũng chẳng có cửa ra vào.

Một số thì ngồi trên gò đất cao nhìn ra hướng xa lộ chạy về thành phố vừa nhớ về gia đình vợ con vừa tự hỏi tại sao lại ra nông nỗi này?

Tại sao lại cả một chế độ đang Tự Do no ấm trong miền Nam chui hết cả vào tù như thế này? Tại sao hầu như tất cả những thành phần tinh hoa của VNCH đều vào trong cái rọ này hết? Ai, những ai là người đã gây ra cái thảm trạng này, chúng tôi chăng?

Câu hỏi đó cứ mãi xoáy vào trong đầu tôi và có lẽ cũng trong đầu mọi người đang ở chung quanh tôi bởi vì chúng tôi đã mất một miền Nam trù phú thịnh vượng và văn minh văn hóa vào tay bọn người mà trước kia VNCH gọi nó là loài quỷ Đỏ từ miền Bắc vào, vừa vô tôn giáo vừa vô tổ quốc, vừa nghèo đói vừa gian manh, tàn bạo, đầy thủ đoạn và xảo quyệt.

Nhưng loài quỷ Đỏ gian manh xảo trá đó lại là kẻ chiến thắng và chúng tôi văn minh văn hóa hơn mà lại là kẻ thất trận.

Điều nhức nhối là nằm ở chỗ đó, và mỗi thời gian qua đi trong tù thì chúng tôi lại học được những kinh nghiệm mới và hiểu rõ hơn về cái gọi là XHCN - là cái xã hội dậy cho con người ta bề ngoài phải sống dối trá thì mới có thể tồn tại được.

Trong khi từ ngàn xưa chúng ta đã bị ảnh hưởng nhiều từ hai luồng triết học của Khổng giáo và Phật giáo. Sau ngày di cư vào Nam chúng ta còn được học Công Dân Giáo Dục và Đức Dục tại trường học. Các môn trí dục đó đều dậy chúng ta trở thành những con người vừa có tài năng vừa có đức hạnh, ngay thẳng, thành thật và biết thương người.

Đem hai lối sống đối chọi nhau như vậy ra cân đo, một đàng Cộng Sản chỉ biết một điều là chém giết và phá hoại không nương tay tất cả mọi thứ trên đường chúng đi để cướp chính quyền bằng mọi thủ đoạn - và một bên chúng ta những người Quốc Gia đã hành động như những người quân tử có lòng nhân đạo và không biết phòng bị đối với kẻ tiêu nhân - thì chúng ta đã hiểu vì sao Việt Minh đã thành công trong việc âm thầm hay công khai thủ tiêu hầu hết các nhà cách mạng trong các phong trào và đảng phái yêu nước thời chống Pháp và họ đã cướp được chính quyền.

Sau năm 1954 đất nước bị chia hai và khi Hiệp Định Genève ký chưa ráo mực, CSVN vẫn dùng một sách lược như cũ, theo đúng lời dậy bảo của quan thầy chúng là Nga-Tầu, là phát động cuộc chiến võ trang, xé bỏ ngay Hiệp Định mà chúng vừa ký kết để xua quân xâm nhập trái phép vào miền Nam qua vùng Phi quân sự và sử dụng cả đất Lào và Miên cho đường chuyển quân của chúng.

Trong tù, anh em có lúc nói chuyện với nhau rằng nếu ngày trước hành quân bắt được tên VC hay Bắc Việt nào bắn bỏ hết thì chúng đâu còn lực lượng đâu mà tấn công chúng ta nữa? Nhưng là người Quốc Gia chúng ta thượng tôn luật pháp đâu có thể làm thế được. Cho nên chỉ giam giữ tù binh VC một thời gian, cho một bản án, rồi lại thả và chúng lại trốn vào bưng, như cóc bỏ dĩa vậy.

Thời gian còn ngoài Bắc, có những em bé chăn trâu hay những trẻ đang mót lúa trên đồng nhìn thấy chúng tôi thì lạ lắm. Vài hôm sau quen dần thì mon men lại gần hỏi chúng tôi biết đọc chữ hay sao khi có vài anh cầm trên tay cuốn sách. Bởi Các em và các dân làng bên đều bị tiêm nhiễm sự tuyên truyền của Cộng Sản rằng các lính "Ngụy" chỉ biết ăn gan hút máu người mà thôi.

Thế rồi vài anh đã chỉ cho các cháu tập đọc và cách giữ gìn vệ sinh tránh bệnh tật nữa và các em bé này khi về tới làng loan truyền lại rằng các người tù này rất hiền lành và tử tế chứ không hung dữ như các cán bộ huyện xuống tuyên truyền đâu, và mỗi lúc đội chúng tôi đi lao động bên ngoài trại thì các em lại mon men đến gần vì rất thích nghe các chú kể truyện trong Nam.

Những ngày mà đội được điều về sửa sang hay xây lại cái sân hay gian trái của nhà tay trưởng trại là Thiếu Tá Dũng thì cậu bé cháu nội của tay trưởng trại này mới lên bẩy thường khệ nệ vác ra cái điếu cầy, ít thuốc lào cho các chú hút thuốc "giải lao" cho vui.

Nó thường nhìn trước sau không có ai là bê nguyên bình rượu Mai Quế Lộ của ông nội nó ra cho các chú mỗi người tu một hớp, rồi ngồi bên cạnh há hốc mồm ra nghe một cách say sưa các chú vừa lao động vừa kể chuyện đời xưa trong Nam, những chuyện lạ lắm nó chưa từng được nghe bao giờ.

Hỏi là lớn lên cháu thích làm gì thì nó trả lời không do dự:

-"Cháu muốn làm các người tù áo hoa như các chú"

-"Tại sao không muốn làm cán bộ như ông nội con đó?"

-"Tại vì tù áo hoa có nhiều quà lắm. Mỗi lần thăm nuôi là một xe đầy quà à!."

Chúng tôi dù đang trong hoàn cảnh lưu đầy cũng không nhịn được và phá ra cười.

Sau khoảng hai tuần lễ sửa chữa nhà cửa cho tay trưởng trại này xong thì những người tù áo hoa này không còn có dịp gập lại chú bé con dễ thương đó nữa, nhưng vẫn không thể nào quên được tình cảm thương mến mà chú bé đã dành cho các anh em trong đội xây dựng nhất là hớp rượu Mai Quế Lộ hiếm có trong hoàn cảnh đó.

Dân làng chung quanh cũng quen gọi chúng tôi là tù áo hoa vì mặc đồ treillis, còn bà vợ của tay trưởng trại này thì gọi chúng tôi là "những tù quốc tế":

-"Các anh cứ đưa tiền đây cho tôi, tôi sẽ mua trứng gà và thịt thà cho. Ăn vào cho nó khỏe chứ các anh là tù quốc tế mà sợ gì tụi nó".

Tụi nó ở đây là đám cán bộ an ninh và trực trại và những anh em tù nhân cả bên hình sự và chính trị được cho chức vụ như tự giác, thi đua luôn đứng lục xét từng người tù một ngay tại cổng trước khi cho nhập trại, nếu họ có gì nghi ngờ.

Bà ta nói thì rất là mạnh miệng nhưng có lần trong đội thường cử ra một anh làm "sĩ quan liên lạc" để đi lấy hàng về, khi vừa đến cửa nhà tay trại trưởng thì anh định kêu bà đem hàng ra thì thấy ông ta ngồi lù lù cạnh cái bàn đang rít điếu thuốc lào, còn bà vợ ở phía sau thì xua tay rối rít. Anh "sĩ quan liên lạc" này vội dọt lẹ.

Hôm sau gập bà ta lấy hàng thì bà phân bua:

-"Các anh không biết chứ ông ấy cứ hay lên lớp tôi là mua bán “móc ngoặc” như thể là làm ăn không tôn trọng nội quy và làm ông ta mang tiếng. Hôm qua tôi bèn nói cho ông ta biết rằng nếu tôi không làm ăn buôn bán thế này thì lấy đâu ra ngày ngày thịt lợn luộc cho ông ấy ăn, rượu Mai Quế Lộ cho ông ấy nhắm?"

Bà vợ tay trại trưởng này tuy người gầy đét như que củi và hàm răng thì cả một tiểu đội trú mưa cũng còn dư nhưng được cái không hiểu sao rất là tốt với những người tù áo hoa này, có thể vì họ sẵn sàng mua hàng với bất cứ giá nào dù là cao hơn nhiều so với ngoài chợ, miễn là có hàng cho họ để bù vào cái khẩu phần ăn quá thiếu thốn.

Vậy mà trong một thời gian dài bà ta cũng đã giúp cho chúng tôi rất nhiều trong dịch vụ cung cấp "chất tươi" - để chỉ các loại thịt và nhất là trứng gà.

Hễ có con gà nào vừa đẻ là bà ta dành dụm lại thành một chục để bán cho tù chính trị và chỉ bán cho tù chính trị mà thôi. Có anh em hỏi tại sao không bán cho tù hình sự thì bà chỉ lắc đầu không nói nhưng chúng tôi hiểu ngầm là bà chỉ tin tưởng vào đồng tiền của người tù áo hoa thôi.

Mãi cho đến khi các gia đình trong Nam ra thăm nuôi chúng tôi được thường xuyên hơn thì những dịch vụ buôn bán của bà vợ tay trại trưởng này mới thưa dần đi.
Dù thời gian đã xóa nhòa đi nhiều kỷ niệm nhưng tôi vẫn không bao giờ quên được cái dáng gầy đét như cây sậy và đôi chân trần nứt nẻ của bà vợ tay trưởng trại này và cái tay bà khua khua trên không khí:

-"Các anh không biết chứ ngày xưa tôi là hoa khôi trong làng cho nên ông ấy mới mê tít đi mà cưới hỏi đấy."

Dầu sao cũng phải công nhận là bà ta có cái Tâm khá thành thật và không hề bị ảnh hưởng bởi luận điệu tuyên truyền của Nhà Nước XHCN nên đối xử với chúng tôi có chút tình người.

Những hôm mua được "hàng" từ nguồn cung cấp của bà vợ trưởng trại này, và qua mặt được sự khám xét ở cổng trại để đem "hàng" vào được trong trại yên lành là những thời gian "vàng son" của người tù.

Chúng tôi chia nhau có thể năm mười người một con gà luộc để có một bữa ăn cho bõ ghét. Nằm ngay trước mặt tôi là một anh bạn khác đội, pilot ngày xưa và cao lớn. Anh ăn rất khỏe bởi thế lại là người đau khổ nhất mỗi khi nhận phần ăn chưa đầy một bát bo bo hay lưng bát cơm. Thấy tôi nhỏ con nên anh thường hay qua đổi cơm lấy bo bo để ăn cho nó nặng bụng hơn một chút vì bo bo vỏ dầy ăn vào thì lâu tiêu hơn là cơm nên có cảm giác đỡ đói hơn.

Hôm ấy, anh dành tiền và mua được nguyên một con gà và buổi tối sau khi vào buồng, anh mượn cái chậu thau phát cơm của buồng để đựng con gà, bầy nó nguyên con ra trước mặt để làm một bữa đánh chén có một không hai cho thỏa những ngày bụng xẹp lép quanh năm.

Tôi ngồi ngay trước mặt anh ở sàn trên nên không muốn cũng phải nhìn qua sàn bên kia từ đầu đến cuối, từ lúc anh bắt đầu ngồi xuống chiếc chiếu, sắn tay áo lên bê cả con gà lên, nghĩ sao lại bỏ xuống rồi chỉ bẻ một cái cánh ra nhấm nháp trong khi cặp mắt thì lim dim lại như để tận hưởng cái khẩu vị êm ái và ngọt ngào đó.

Nhìn cách anh chậm rãi "xơi tái" con gà một cách ngon lành mà tôi không nhịn được cười, dù là vui vì bạn mình có một bữa no nê để trả thù cái đói kinh niên đáng nguyền rủa cứ bám chặt lấy người tù. Thình lình anh mở mắt ra nhìn thấy tôi bèn chỉ vào chiếc đùi gà, tôi lắc đầu chỉ vào phần thịt gà mà tôi vừa chia được.
Sau hai tiếng đồng hồ anh mới xong bữa tối. Bình thường thì chỉ vài phút đồng hồ là chúng tôi ăn xong phần ăn của mình bởi chỉ có độc nhất ít bo bo hay khoai tây nhỏ bằng ngón tay út hay lưng chén cơm, không có canh, không có cả nước muối hay rau cỏ gì nên thanh toán rất nhanh.

Anh rửa qua loa cái chậu thau, bỏ nó ra gần cửa xong leo lên giăng mùng chui vào giấc ngủ đến thật êm đềm. Tối đó tôi tin là anh ngủ rất say không nhiều mộng mị. Người tù đó vừa có một ngày vui bất ngờ, một bữa ăn thịnh soạn như trên trời rơi xuống, và ngày mai muốn ra sao hãy tính sau.

Vài năm sau khi vào trại thì họ phân phát cho chúng tôi các bộ đồ treillis mầu hoa rừng của QLVNCH trước kia, một phần để tiết kiệm ngân quỹ, mặt khác cũng có thâm ý để cho chúng tôi mặc quấn áo đó như là QLVNCH đang bị chúng giam giữ vậy.

Thiên bất dung gian cho nên họ không ngờ rằng với bộ treillis mầu hoa rừng đó của các binh chủng TQLC, Nhẩy Dù, BĐQ, các người tù đã đi khắp đó đây trong núi rừng trùng trùng điệp điệp của Hoàng Liên Sơn chặt cây đem về cho trại - và vô hình chung QLVNH như bừng sống lại giữa núi rừng từ miền trung du lên các tỉnh miền thượng du.

Trong mắt của dân làng nhất là dân tộc thiểu số qua những lần tiếp xúc tuy ngắn ngủi với các người tù chính trị chế độ cũ thì họ nhận thấy những người tù này hoàn toàn khác hẳn so với những tù hình sự và dân chúng bắt đầu gọi chúng tôi là "người tù áo hoa" từ đó để phân biệt với tù hình sự. Tù áo hoa là những con người hiền hòa dễ mến và hay giúp đỡ không phải là hình ảnh những kẻ giết người, ăn gan người như tuyên truyền.

Khi ra Bắc được khoảng hai năm thì vào một ngày cuối Thu, trời chợt chuyển lạnh thình lình rồi mưa xuống xối xả như thể bao nhiêu nước trên trời đều tuôn xuống vùng núi rừng hoang vu này.

Nước từ trên nguồn cũng tháo xuống qua thung lũng, qua khe núi, từ trên rừng đổ về. Chỉ mấy ngày sau là cả vùng ngập lụt trong nước trắng xóa. Những ngôi làng dân tộc thiểu số người Thái chìm trong biển nước. Hoa mầu mất sạch và nương rẫy đều biến mất dưới làn nước trắng xóa, trâu bò xổng chuồng và bị nước lũ kéo phăng đi.

Nước cuồn cuộn đổ về tàn phá xóm làng, cả một vùng mênh mông không còn gì ngoài nước lũ, sức nước xoáy về quả thật là ghê gớm như cơn thịnh nộ của trời đất. Tất cả hầu như không còn gì dưới dòng nước trắng đục.

Miền Bắc nhất là các vùng mạn ngược của đồng bào thiểu số vốn dĩ đã nghèo xác xơ, quanh năm suốt tháng chỉ trông chờ vào hoa mầu và nương rẫy bây giờ tay trắng. Dân làng đứng trước một nạn đói không thể tránh được.

Địa phương thì nơi nào lo nơi đó và họ không hề quan tâm đến dân làng, nhất là khu vực làng của những sắc dân thiểu số.

Những người tù áo hoa bảo nhau nhập cuộc.

Hàng ngày mỗi khi ra lao động đi ngang qua khu vực làng mạc bị thiên tai, người cái áo, người cái quần, cái mùng hay đôi dép, lon Guigoz, cái nón lá và ngay cả khẩu phần ăn ít ỏi của họ nữa, góp lại và kín đáo bỏ lại bên gốc cây còn khô ráo và chỉ cho dân làng đến lấy về dùng.

Một thời gian sau, khi qua được thiên tai đó, mỗi lúc dân làng người dân tộc, thấy những người tù áo hoa lao động đi qua khu vực làng xóm thì họ chạy ra, bồng bế con cái và chắp tay lại cúi đầu xá những người tù này từ xa như xá những ông thần của họ vậy. Họ đem ra nải chuối, củ khoai củ sắn bỏ bên cạnh các gốc cây, nhưng những người tù trong mầu áo hoa rừng đó đều ra hiệu cám ơn, khoát tay và bảo nhau không nhận - bởi thấy người dân làng họ nghèo quá, nghèo đến độ mà những người tù thân còm cõi trong hoàn cảnh lưu đầy nhìn thấy cũng còn phải xúc động.

Nói về con người giam giữ con người thì trong lịch sử bốn ngàn năm của chúng ta, các vua chúa thời xưa cũng dựng lên nhiều loại ngục thất dành cho các kẻ tạo phản hay để trừ khử những thành phần chống lại triều đình, nhưng chưa bao giờ lại có một hình thức kỳ lạ và quái dị như các trại tập trung "cải tạo" như Cộng Sản VN du nhập vào từ các nước "quan thầy" của họ là Nga-Tầu để giam giữ nhiều trăm ngàn người dân một lúc.

Cho nên trong trại tôi ở miền Bắc có một bác rất là hiền lành và ít nói tên là Vỹ, người quắc thước để râu bạc phơ. Bác thuộc về bên đảng phái nên bị đi "cải tạo", có hôm ngay tại "hiện trường" lao động bác đã quá bực tức vì cái án tập trung "cải tạo" vô hạn định này mà la lên rằng:

-"Tôi cũng đã bị ở tù nhiều lần trước kia nhưng chưa bao giờ thấy cái tù nào nó kỳ quặc như lần này."

-"Ông Trời không biết có thấu không chứ tôi hết chịu nổi cái tụi này rồi.".

Bác cứ la inh ỏi cả một góc khu vườn trồng rau cải bẹ xanh, bác bỏ cả cái cuốc cái thúng mủng bên cạnh mà đập tay đập chân xuống đất mà la đến khản cổ. Nhưng chỉ có chúng tôi nghe thấy mà thôi vì tay quản giao lấy xe đạp chạy đi mất từ sáng nên không xẩy ra chuyện gì.

Bởi thế khi mà chúng tôi bước vào trại tập trung, chính mình cũng không ngờ rằng mình đang mang bản án còn hơn tù chung thân vì tập trung - là hình thức sao chép nguyên bản lại từ Liên Xô - có nghĩa là không có thời gian hạn định và họ muốn giam giữ đến bao giờ thì giam.

Người tù không hề được ra trước tòa để biện minh cho mình, không hề được thông báo cho biết hạn tù là bao lâu và không bao giờ có quyền thắc mắc.

Cứ hết hạn ba năm thì trên Bộ Nội Vụ của họ tự động chồng thêm ba năm nữa và người tù không hề hay biết.

Một điều người tù có thể biết là tù nhân chỉ là một công cụ sản xuất để "làm ra của cải vật chất cho trại" qua cái từ ngữ lừa bịp là "lao động vinh quang" với một khẩu phần ăn nếu chỉ ngồi không, không phải lao động ngoài nắng mưa giá rét, thì cũng khó mà tồn tại.

Cứ lao động cứ "vinh quang" như vậy cho đến hơi thở cuối cùng và được cho một bộ ván sáu miếng rồi khênh lên nghĩa trang trên ngọn đồi là xong một kiếp người.

Một điều rất oái oăm và đau lòng là khi sống người tù chẳng bao giờ được ăn một bữa ăn tương đối no bụng nhưng khi nằm xuống thì được đặt trước mộ một bát cơm trắng đầy và một quả trứng gà luộc. Chỉ ngay tối hôm đó chưa qua ngày hôm sau thì bát cơm và quả trứng ấy cũng biến mất và chỉ còn lại nấm mồ đơn sơ nhiều khi cũng không có cả tấm bia mộ đề tên người quá cố.

Giòng đời vẫn cứ trôi và ngàn năm mây vẫn bay và người tù vẫn kéo lê cuộc đời lao tù, sống dở chết dở.

Quả thật chẳng có gì chán nản và dễ mất tinh thần hơn là ở tù dù là tù chính trị, chẳng thế mà ông bà ngày xưa đã nói "nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại" và "nhất tội nhì nợ". Thời gian này là thời gian chết trong đời sống mỗi ngày của người tù, nó như kéo họ xuống đáy sâu của hỏa ngục, mà họ vẫn cứ phải lê bước đi cho đến hết con đường buồn thảm đó, không có cách nào khác.

Lâu lâu, vào những dịp lễ Tết thì trại lại thả một số người, khi thì vài anh lúc thì vài chục người và những người không có tên thì tiếp tục trong bốn bức tường và ở lại trong một tâm trạng buồn chán hơn và mất tinh thần hơn.

Mục đích họ có những đợt thả, dù là nhỏ giọt, là nhằm thúc đẩy những người tù "cải tạo" tích cực hơn, nhưng trên thực tế thì hiệu quả lại ngược chiều vì mọi người đều nhận thấy một sự thực là bản án nặng hay nhẹ, ở tù lâu hay mau chính là dựa vào lý lịch chứ không hề dựa vào sự "cải tạo" nào cả.

Những người trong các "diện" liên quan đến tình báo, ANQĐ, cảnh sát đặc biệt thì chẳng hề thấy tên mình trong danh sách được thả sớm bao giờ.

Thêm vào đó là những đợt Bộ Nội Vụ xuống trại thẩm vấn liên tục, mỗi đợt kéo dài hàng tháng. Họ bắt người tù đa số là nằm trong các "diện” nêu trên phải nhận tội trong các bản gọi là "Tự Khai".

Tôi cũng nằm trong số đó và họ đã thẩm vấn không biết bao nhiêu lần, mỗi lần cách nhau chỉ vài tháng cũng một nội dung như vậy.

Bắt người tù khai đi khai lại một câu chuyện bao nhiêu lần, khai vừa xong thì lại nhận được một sấp giấy và cái bút chì bắt khai lại vì chưa đủ “thành khẩn”. Ban đầu thì chúng tôi những người bị thẩm vấn lấy làm rất khó chịu và suy nghĩ rất nhiều vì không biết họ muốn cái gì, nhưng dần sau này hiểu ra cách “làm Việc” của họ nên cứ bản cũ sao chép lại là xong dù họ có hài lòng hay không cũng vậy.

Phương pháp thẩm vấn của họ đều giống nhau là tìm mọi cách khủng bố tinh thần người tù, rồi dụ dỗ để khai ra càng nhiều tội càng tốt chứng tỏ lòng “ăn năn hối cải” của mình để được "khoan hồng" sớm.

Nhưng thực tế, bản án dành cho người đó đã có sẵn.

Họ bắt khai nhiều lần để xem có vô tình khai ra điều gì mới hay không, bởi thế khi khai xong lần đầu thì tôi kín đáo viết lại vào nhiều chỗ khác nhau các chi tiết để ghi nhớ lần sau khai đúng như vậy.

Phải ghi lại nhiều chỗ và phải viết tắt vì thường xuyên họ có đợt kiểm tra “đôt xuất” chỗ nằm và tư trang. Tôi rút kinh nghiệm vì có lần họ bất ngờ xộc vào buồng hỏi chỗ nằm của tôi để kiểm tra “nhạc Vàng”. May mà tôi hay nằm trên góc sàn từng trên nên kịp thời tẩu tán hai cuốn Kinh Phật trước khi tay trực trại leo lên bắt đổ hết mọi thứ trong ba lô ra. Có thể họ đã thấy tập chép tay các bài hát của thời VNCH mà tôi cho anh bạn buồng bên cạnh mượn. Cuối cùng chẳng tìm được gì, họ chỉ nói vài câu cảnh cáo rồi leo xuống.

Để rút kinh nghiệm cho việc đấu trí với cách thẩm vấn của họ nên mỗi buổi chiều, chúng tôi các người được gọi ra "làm việc" trong lúc đi bộ trước sân thường trao đổi với nhau.

Anh Quang 'sừng", người thợ thật khéo tay tạc các bức tượng Phật và tượng Chúa, hay các kỷ vật bằng sừng trâu đã kể cho tôi nghe khi ra thẩm vấn ban sáng là tay cán bộ thẩm tra hỏi anh ý như khoe về “chính sách khoan hồng" của họ:

-"Anh nhận xét sao về chính sách này mà nhà Nước đã tạo cơ hội cho các anh?" Anh Quang bình tĩnh trả lời một cách thản nhiên:

-"Tôi chỉ biết rằng trong chế độ VNCH chúng tôi trước kia nếu giam giữ mà không có án thì còn hơn là tù chung thân, bị tù mà còn bị lao động như vậy là tù khổ sai, bị đưa ra khỏi miền Nam là lưu đầy."

Tên cán bộ bị khựng lại và đổi qua đề tài khác.

Phần tôi khi ra "làm việc", tay cán bộ của Bộ Nội Vụ tóc đã hoa râm rót chén trà nóng mời tôi theo thủ tục, châm điếu thuốc lá hút rồi hỏi có vẻ mỉa mai là tôi có lúc nào nghĩ rằng trước kia như vậy mà nay ngồi ở đây hay không. Tôi trả lời nhẹ nhàng rằng nếu biết như vậy thì tôi đã đi từ lâu chứ không có ngồi như ngày nay ở đây đâu. Tôi cũng cho họ biết rằng họ đã chiếm được miền Nam, họ có thể kiểm chứng nhiều nguồn tin nhưng tôi chẳng có gì cần phải dấu diếm như họ kết tội tôi; còn như nếu mà họ cứ không tin thì tôi cũng đành chịu chứ khai tới khai lui cũng chỉ có thế mà thôi.

Suốt bốn năm đầu, vừa đói khát vừa xuống tinh thần vì lo nghĩ đến gia đình lại chồng thêm cái mất ngủ do những buổi "làm việc" liên tục và căng thẳng với Bộ Nội Vụ của họ nên chúng tôi sa sút thấy rõ nhưng vẫn trước sau khai như một.

Có lẽ thấy cũng tốn thời gian mà không khai thác được gì thêm nên từ đó họ bỏ hẳn không còn xuống "làm việc" nữa.

Không biết có phải nghiệp chướng tù đầy của chúng tôi đã được Trời Đất thuyên giảm cho hay không, hay vì chúng tôi đã nhẫn nhục chịu đựng mọi gian khổ thử thách một cách can trường, mà cùng lúc với việc họ không xuống trại làm nhức đầu chúng tôi nữa thì gia đình cũng được tin cho vào trại thăm nuôi để mở ra một chương hoàn toàn mới và nhiều thay đổi lạ kỳ cho người tù.

Chị Liên, bà chị con bác Phán, từ Hà Nội vào thăm tôi lần đầu tiên và hai chị em sau một phần tư thế kỷ gập lại nhau thì chị vẫn giả lả nói những lời khuôn sáo rỗng tuyếch như khuyên tôi cố gắng lao động, chấp hành tốt nội quy, nhưng khi thấy tên cán bộ bỏ ra ngoài cửa thì nắm lấy tay tôi nói:

-"Sao em gầy thế, chị nhớ hồi chị ra thăm Ba Mợ ở Hải Phòng trước khi Ba Mợ di cư vào Nam thì em bụ bẫm lắm. Em phải cẩn thận giữ sức khỏe nhe, còn lâu đấy!". Rồi chị lau nước mắt ra về.

Các chị con bác Phán, bác là chị Cả và Ba tôi là thứ Hai nhưng là trưởng tộc, vẫn mang ơn Ba Mẹ tôi vì ngày xưa khi gia đình Ba Mẹ tôi giầu có ở cái dinh thự lớn nhất nhì Hải Phòng thì Mẹ tôi rất biết ăn ở và có lòng thương người kể cả họ hàng và ngay cả các chị vú nuôi chúng tôi cũng xem Ba Mẹ tôi như gia đình của các chị vậy.

Ngày xưa thì tình cảm rất là gắn bó giữa người vú nuôi và người con trong gia đình, người vú được coi trọng như là người mẹ thứ hai vậy. Nhiều khi các chị vú thương chúng tôi quá đến nỗi Mẹ tôi dục dã mãi mới bịn rịn về thăm quê ngày Tết hay giỗ chạp.

Ngày mà Ba Mẹ tôi khá giả bắt đầu từ căn nhà mà Mẹ nói là "nở hậu" ở đường Cát Dài thì Mẹ tôi cũng đón về nuôi luôn hết gia đình Bà Hai của ông Đốc khi ông mất, để trả lại ơn ngày xưa trên Yên Bái lúc Ba Mẹ tôi còn hàn vi cũng nhờ ông Đốc lúc đó mở phòng mạch cưu mang một thời gian.

Mẹ tôi thường cho tài xế đi đón các chị con bác Phán từ Hải Dương ra Hải Phòng chơi, và mỗi lần như vậy thì Mẹ tôi lại dắt các chị đi mua sắm áo quần, vòng vàng, giầy dép đủ thứ, và được đi ăn ở những hiệu ăn sang trọng nữa nên các chị rất quý mến Mẹ tôi.

Khi quyết định di cư vào Nam thì Ba Mẹ tôi để lại hết ngôi dinh thự này cùng tất cả tài sản xe cộ cho gia đình người chị ruột là bác Phán vì bác trai không muốn bỏ xứ ra đi. Vì lý do đó mà gia đình bác Phán nhất là các chị vẫn mang ơn Ba Mẹ tôi, các chị gọi Ba Mẹ tôi là Cậu Mợ nhưng mà thương cũng như Bố Mẹ ruột mình vậy.

Khi Mẹ tôi nhờ chị Liên đi dò đường trước để vào trại thăm tôi thì chị nhận lời ngay dù là lúc đó dân chúng ngoài Bắc họ rất sợ dính vào chính trị nhất là di thăm tù chính trị từ trong Nam.

Đến khi Mẹ tôi và em Tuyết kế tôi ra Bắc thăm tôi lần đầu tiên thì các chị con bác Phán đón tiếp Mẹ tôi như bà hoàng.

Các chị hỏi Mẹ tôi thích ăn gì để đãi cơm, Mẹ tôi nghĩ Hà Nội cũng như Sài Gòn nên nói là bún chả. Báo hại các chị chạy khắp Hà Nội để mua ít than quả bàng về mới quạt được mẻ thịt nướng. Khi biết ra thì Mẹ tôi cứ xin lỗi mãi vì có ra tận ngoài Bắc thì mới hiểu được cái nghèo khổ thiếu thốn và sự túng quẫn nó như thế nào mà người dân đã phải sống dưới chế độ XHCN từ năm 1954 đến bấy giờ là một chín bẩy chín.

Trong thời gian tôi ở tù kể ra thì cũng có nhiều quý nhân giúp đỡ ngoài các anh chị con bác Phán. Một ông anh rể bên vợ tôi lúc đó ở Hà Nội cũng vào thăm tôi và nói thẳng rằng:

-"Anh có bạn quen ở Bộ Nội Vụ và anh có nhờ họ xem dùm hồ sơ của em và thấy ghi trên đó là CIA." Anh ngừng một chút rồi nói tiếp:

-"Anh vào thăm em lần này để cho em biết, nếu không lo thì anh sợ em sẽ phải ở rất lâu đấy. Em hãy nói với Mẹ em đi nếu chịu thì anh sẽ lo cho."

Tôi nhìn anh một lát. Lúc đó tôi đã gập Thầy Tâm là người thầy đã dậy cho tôi về đạo Phật và về nghiệp lực. Trong lòng tôi suy nghĩ rất nhanh, tôi bèn nói với anh:

-"Cám ơn anh đã vào thăm em. Em biết ở nhà em bây giờ bán hết rồi các xe cộ và cả các bộ vest cũng bán luôn. Mẹ em thì chẳng còn tiền sau khi anh Hai và cậu em út của em đi vượt biên bị bắt lại. Thỉnh thoảng Mẹ em gom được ít tiền gửi qua bưu điện vào đây cũng là quý lắm rồi, làm gì còn "cây" nào nữa đâu mà "chạy". Họ nghi em là CIA thì đành chịu thôi biết làm sao”.

Tôi vào trại kể lại cho thầy Tâm nghe, thầy nói tôi đã quyết định như thế là đúng và cứ chuyên tâm niệm Phật. Từ đó tôi kiên nhẫn đếm từng ngày qua đi trong bốn bức tường trong khi học hỏi thêm về đạo Phật, quan sát nhận xét và thâu thập kinh nghiệm qua những người bạn tù mà tôi quý mến.

Các điều chúng tôi phán đoán việc thả nhanh hay chậm là do lý lịch chứ không do "cải tạo" tốt hay xấu dần dần càng sáng tỏ.

Có những anh vừa bị kỷ luật xong thì vài bữa sau có tên tha về, cho nên sự tuyên truyền của họ về "khoan hồng", về "cải tạo" thành người công dân tốt đều tan ra mây khói. Không còn ai tin nữa; và anh em mỗi người đều tự cố gắng giữ gìn sức khỏe cho con đường lưu đầy còn dài thăm thẳm trước mắt.

Đến lúc đó thì chúng tôi mới bàng hoàng nhận ra một sự thực đau lòng là mình trước kia chống Cộng mà kết cuộc lại thì chính mình cũng không hiểu Cộng Sản là như thế nào.

Nếu biết thực chất của Cộng Sản tàn bạo, vô tổ quốc, vô tôn giáo và vô dân tộc và người Cộng Sản chỉ cần có cái chủ nghĩa xã hội của họ mà thôi thì chúng tôi sẽ chiến đấu đến cùng chứ không chịu nghe theo lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh để rơi vào tay họ như thế này.

Phạm Gia Đại
(Trích hồi ký NHỮNG NGƯỜI TÙ CUỐI CÙNG )
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=516095268899340&set=gm.2107029582668475&type=3&theater&ifg=1

BachMa
05-25-2019, 03:26 PM
Chuẩn Tướng Trần Quốc Lịch
Ngày N Của Lữ Đoàn 2 Dù
khieulong

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1555692411-ChuanTuong_TranQuocLich_02.jpg
Chuẩn Tướng Trần Quốc Lịch
Lữ đoàn trưởng Trần Quốc Lịch và 5 tiểu đoàn Nhảy Dù tại mặt trận Quảng Trị Hè 1972

Như Việt Báo (VB) đã trình bày trong bài viết về cuộc chiến Mùa Hè 1972 tại Quảng Trị, vào đầu tháng 5/1972, trước áp lực nặng nề của 3 sư đoàn Cộng quân, lực lượng bộ chiến VNCH tại phòng tuyến Quảng Trị đã triệt thoái khỏi thị xã tỉnh lỵ để bảo toàn lực lượng. Ngay sau đó, Lữ đoàn 368 Thủy quân Lục chiến đã lập phòng tuyến tại bờ Nam sông Mỹ Chánh nhằm chận đứng cuộc tiến quân của CSBV. Ngày 8 tháng 5/1972, bộ Tổng tham mưu QL/VNCH đã điều động 5 tiểu đoàn Nhảy Dù thống thuộc quyền điều động của Đại tá Trần Quốc Lịch, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 2 Nhảy Dù tăng viện cho lực lượng phòng thủ tuyến bờ Nam sông Mỹ Chánh mà cầu chính bắc ngang sông này nằm trên Quốc lộ 1 cách thị xã Quảng Trị khoảng 20 km đường bộ về hướng Nam của tỉnh lỵ này. Trước khi tiếp ứng cho mặt trận Trị-Thiên, Lữ đoàn 2 Nhảy Dù dưới quyền chỉ huy của Đại tá Trần Quốc Lịch đã tham chiến tại chiến trường Bắc Kontum từ giữa tháng 3/1972 đến ngày 20 tháng 4/1972, sau đó về Sài Gòn để tái chỉnh trang, chuẩn bị hành quân ra phía Bắc Quân khu 1.

Đại tá Trần Quốc Lịch, xuất thân khóa 4 phụ Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức, phục vụ tại binh chủng Nhảy Dù từ khi mới ra trường, lần lượt giữ các chức vụ chỉ huy cấp đại đội, tiểu đoàn (tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3 Nhảy Dù), lữ đoàn. Tháng 9/1972, Đại tá Trần Quốc Lịch được bổ nhiệm giữ chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 5 Bộ binh, được thăng Chuẩn tướng vào đầu tháng 11/1972, tiếp tục giữ chức vụ nói trên đến tháng 11/1973. Sau đây là bài viết về trận chiến của 5 tiểu đoàn Nhảy Dù tại quận Hải Lăng, Quảng Trị, do Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 2 Nhảy Dù Trần Quốc Lịch chỉ huy. Phần này dựa theo chiến sử của Sư đoàn Nhảy Dù, bài viết của cựu Trung tướng Ngô Quang Trưởng dành cho Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ, tài liệu của tác giả Trương Dưỡng, một số bài viết trong KBC và tài liệu riêng của VB.

Phòng tuyến của Lữ đoàn 2 Nhảy Dù

Sau khi đến Huế, toàn bộ Lữ đoàn 2 Nhảy Dù đã được giao trách nhiệm phòng ngự hướng Tây của bờ Nam sông Mỹ Chánh. Vào giữa tháng 5/1972, Cộng quân đã mở nhiều đợt tấn công bằng chiến xa và bộ binh vào tuyến phòng thủ của đại đội 111 thuộc Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù nhưng đã bị thảm bại: nguyên 1 tiểu đoàn chiến xa và 1 tiểu đoàn chủ lực của CQ bị loại ra khỏi trận chiến.

Đầu tháng 6/1972, Cộng quân lại mở trận trận tấn công vào cụm tuyến phòng thủ của toàn Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù bằng chiến xa và bộ binh. Sở dĩ các chiến xa của CQ qua sông dễ dàng là vì công binh địch quân đã làm một cầu ngầm, nước chỉ sâu đến cổ chân, với độ dốc bờ sông khoảng 30 độ. Cộng quân núp sau các chiến xa xe T 54, PT 76 và thủy xa BRT-85 cố tiến về tuyến phòng thủ của Nhảy Dù. Ngay trong đợt đầu, binh sĩ Nhảy Dù đã hạ ngay 2 chiếc T 54 bằng súng chống chiến xa M 72 và XM 202 bốn nòng.

Để triệt hạ hỏa lực chiến xa của CQ, Thiếu tá Lê Văn Mễ, tiểu đoàn trưởng 11 Nhảy Dù đã yêu cầu Pháo binh tác xạ đầu đạn chạm nổ, từ trên không chụp xuống, với phương thức hỏa yểm này, có thêm 2 chiến xa CQ bị bắn cháy, thành phần CQ tùng thiết phải rút về hướng bờ sông. Đoàn chiến xa còn lại của CQ cũng tháo chạy trong hỗn loạn, đã đâm húc vào nhau, nhiều chiếc bị lật trên sông. Thấy đối phương hốt hoảng lui binh, tiểu đoàn trưởng 11 Nhảy Dù cho lệnh binh sĩ rượt theo truy kích. Các chiến binh Nhảy Dù phóng nhanh ra khỏi các hố chiến đấu, đuổi theo địch quân qua khỏi bờ sông phía Bắc mới quay trở lại.

Trong trận đánh này, trên 100 Cộng quân bị hạ, 5 bị bắt tại trận. Theo cung từ, những tù binh này thuộc trung đoàn 66 CSBV. Về chiến xa CQ có 4 bị bắn cháy, 7 chiếc bị bỏ lại sau khi các tổ Cộng quân trên xe đã nhảy xuống chạy về hướng sông, 9 chiến xa bị lật nghiêng ở gần bờ. Chỉ trong vòng 16 ngày, tiểu đoàn 11 Nhảy Dù đã bắn cháy 46 chiến xa (số chiến xa trang bị cho hơn 2 tiểu đoàn thiết giáp CQ), riêng trong trận chiến giữa tháng 5/1972, tiểu đoàn này đã bắn cháy 26 chiến xa T54. Về phía lực lượng Nhảy Dù, tiểu đoàn 11 bị tổn thất 20 chiến binh, trong đó có thiếu úy Trần Văn Lý. Sau đó, bộ chỉ huy tiểu đoàn đã đặt tên anh cho ngọn đồi vừa xảy ra trận đánh.

Ngày N của cuộc phản công

Ngày 28 tháng 6/1972, trong kế hoạch phản công tái chiếm Quảng Trị, Lữ đoàn 2 Nhảy Dù điều động 5 tiểu đoàn tiến quân ở phía trái của Quốc lộ 1 về hướng Tây, (Thủy quân Lục chiến ở phía phải về hướng Đông). Theo kế hoạch, đúng 5 giờ sáng ngày nói trên, tiểu đoàn 1 và tiểu đoàn 2 Nhảy Dù đã vượt sông Mỹ Chánh. Bị tấn công bất ngờ, Cộng quân ở bờ sông phía Bắc đã kháng cự yếu ớt và sau đó tháo chạy về tuyến sau, bỏ lại nhiều vũ khí nặng, trong đó có cả các giàn pháo phòng không trang bị đại bác 57 ly có ghế ngồi cho xạ thủ quay vòng để bắn. Tiểu đoàn 1 Nhảy Dù do Thiếu tá La Trinh Tường chỉ huy, đã tịch thu được 14 xe phòng không và nhiều vũ khí cá nhân và cộng đồng khác, bắt tại trận 5 tù binh.

Cánh quân của tiểu đoàn 2 Nhảy Dù do Thiếu tá Nguyễn Đình Ngọc chỉ huy, vượt sông ở phía trái đã tấn công ngay vào bộ chỉ huy của trung đoàn 203 chiến xa CSBV. Trận đánh diễn ra lúc trời tờ mờ sáng, toán gác tiền đồn của CQ vừa đổi phiên thì bị một tiểu đội Nhảy Dù tấn công chớp nhoáng, cả toán tháo chạy. Cùng lúc đó, hai đại đội của tiểu đoàn 2 Nhảy Dù đánh thẳng vào tuyến phòng thủ của đơn vị CQ bảo vệ bộ chỉ huy. Vừa tràn vào mục tiêu, chiến binh Nhảy Dù xung phong triệt hạ các cụm kháng cự chính. Bị tấn kích bất ngờ, toàn cụm tuyến phòng ngự của địch quân bị vỡ, cả đơn vị bảo vệ và thành phần chỉ huy hốt hoảng chạy về tuyến sau, bỏ lại 3 chiến xa T 54 máy vẫn đang nổ và đèn còn chiếu sáng. Tiểu đoàn 2 Nhảy Dù này đã tịch thu được hơn 10 khẩu súng cối 61 và 82 ly còn đang để nguyên tại vị trí trên tuyến bố phòng của địch quân. Hai ngày sau, các chiến xa này được binh sĩ Nhảy Dù lái đưa về căn cứ Quyết Thắng (bộ tư lệnh hành quân Sư đoàn Nhảy Dù) ở cây số 17 trên đoạn từ Huế ra Quảng Trị.

Ngày 1 tháng 7/1972, cuộc hành quân của lữ đoàn 2 Nhảy Dù bước vào giai đoạn 2. Tiểu đoàn 9 và tiểu đoàn 11 Nhảy Dù được trực thăng vận đổ quân xuống phía Bắc sông Nhung, con sông nhỏ này chạy qua Trường Phước, Mai Đằng, Thượng Xá để vào sông Thạch Hãn (sông chính đi ngang thị xã Quảng Trị). Trong cuộc tiến quân này, tiểu đoàn 11 Nhảy Dù tiến quân ở phía phải, tiểu đoàn 9 ở phía phía trái. Sau đó, tiểu đoàn 7 Nhảy Dù cũng nhập trận để cùng với đơn vị bạn triệt hạ các cụm tuyến phòng ngự của CQ bên bờ sông Nhung.

Trong 3 ngày liên tiếp kể từ khi xuất quân, các cánh quân Nhảy Dù ở phía Tây quận Hải Lăng đã đụng độ với các đơn vị Cộng quân cơ động sư đoàn 304 CSBV. Do nhiều khu vực trọng yếu của quận Hải Lăng bị Cộng quân chiếm giữ từ ngày 2 tháng 5/1972 sau khi Quảng Trị thất thủ, nên đối phương đã bố trí quân trấn đóng ở các xã gần quốc lộ 1, đoạn từ Trường Sanh ra Diên Sanh, với hệ thống công sự kiên cố và giao thông hào liên hoàn quanh vòng đai Diên Sanh, quận lỵ quận Hải Lăng. Tại nhiều vị trí, chiến binh Dù đã đánh cận chiến với binh lính CSBV để chiếm mục tiêu. Không quân đã yểm trợ mạnh cho các đơn vị Dù trong các trận giao tranh quyết liệt với Cộng quân từ sáng đến tối. Tuy nhiên, hệ thống phòng không của Cộng quân dày dặc, khiến việc tiếp tế tải thương của các các phi đội trực thăng VNCH gặp nhiều khó khăn.

Mục tiêu trọng điểm đầu tiên của lữ đoàn 2 Nhảy Dù là tái chiếm quận lỵ Hải Lăng, quận cực Nam của tỉnh Quảng Trị. Từ đó, theo lệnh của lữ đoàn trưởng Trần Quốc Lịch, các đơn vị Nhảy Dù tiến về thị xã Quảng Trị theo kế hoạch tấn công như sau: một đơn vị sẽ tái chiếm khu vực La Vang ở phía Tây, một cánh quân thứ hai sẽ tiến vào ngã ba Long Hưng gần thị xã, để tái chiếm quận lỵ Mai Lĩnh. Riêng mục tiêu ở phía Tây, nỗ lực chính là Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù. Đơn vị này được lệnh phải tái chiếm La Vang, cách thị xã Quảng Trị khoảng 5 km về phía Tây.

Ngày 1 tháng 7/1972, các đơn vị Dù còn cách thị trấn Diên Sanh (quận lỵ quận Hải Lăng) khoảng 3 km. Để tiến vào Diên Sanh, lữ đoàn 2 Dù phải triệt 2 trung đoàn Cộng quân đang bố trí trên một phòng tuyến có chiều ngang hơn 4 km. Để cản bước tiến của Nhảy Dù, Cộng quân đã pháo liên tục vào lộ trình tiến quân. Khi các đơn vị Dù dừng lại bố trí, thì súng cối của Cộng quân từ các vị trí ở tuyến sau bắn dồn dập, làm thành một hàng rào pháo chận phía trước. Đồng thời Cộng quân đã điều động 1 tiểu đoàn đặc công tổ chức các cụm chốt chận cách Diên Sanh khoảng 2 km về hướng Nam quận lỵ. Cứ thế trận chiến kéo dài đến suốt ngày 1 tháng 7/1972. Với kinh nghiệm trận địa chiến và được sự yểm trợ của Pháo binh và Không lực Việt-Mỹ, lữ đoàn Nhảy Dù đã phá được một số vị trí tiền tiêu của Cộng quân.

Đến tối ngày 1 tháng 7/1972, một đơn vị của lữ đoàn 2 Nhảy Dù đã chiếm được một số công sự phòng ngự của địch. Tuy nhiên các ngõ yết hầu trọng điểm tiến vào quận lỵ vẫn còn bị CQ tổ chức chốt chận cố thủ. Cộng quân tiếp tục pháo súng cối vào khu vực bố trí quân của các đại đội Nhảy Dù. Để giành thế chủ động, lực lượng Nhảy Dù đã mở cuộc tấn kích đêm. Giao tranh đã diễn ra ác liệt dưới ánh hỏa châu soi sáng của Không quân Việt-Mỹ. Ngày 2 tháng 7, lực lượng Lữ đoàn 2 Nhảy Dù đã làm chủ chiến trường.

vietbao.com
khieulong

BachMa
05-28-2019, 04:25 AM
Tổng thống Nguyễn-văn-Thiệu bán vũ khí cho Việt cộng
và nỗi oan khiên của Chuẩn tướng Trần-quốc-Lịch
Nguyễn Văn Tín
Chuẩn Tướng Trần Quốc Lịch, thời kỳ nắm chức Tư Lệnh Sư Đoàn 5 sau Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, bị qui tội cho một đoàn xe chứa đựng quân trang, quân cụ bán cho Việt Cộng ở vùng tỉnh Phước Long. Ông bị đưa ra tòa án quân sự, bị giáng xuống chức đại úy và bị cầm tù cho đến ngày mất nước.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1555692398-ChuanTuong_TranQuocLich_01.jpg
Chuẩn Tướng Trần Quốc Lịch

Đầu đuôi câu chuyện không đơn giản như người ta từng biết. Hai người nhân chứng và nạn nhân của sự vụ còn sống là Chuẩn Tướng Trần Quốc Lịch, hiện sống ở California và Thiếu Tá Nguyễn Văn Tước, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 Tiếp Vận, hiện sống tại Falls Church, Virginia. Độc giả có thể kiểm chứng sự thể với hai người này. Đại Tá Nguyễn Chí Hiếu, phụ tá của Tướng Lịch, vì dính líu vào vụ này, bị phạt giáng xuống cấp bậc thiếu úy thì đã mất ngày 5 tháng 12 năm 2007 tại Canada.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1555692439-DaiTa_NguyenChiHieu.jpg
Đại Tá Nguyễn Chí Hiếu

Tại sao Chuẩn Tướng Lịch lại to gan giám phạm một tội tầy trời như vậy: bán súng ống cho địch. Vào thời đó, người ta nghĩ là ông cần tiền để nuôi bệnh cờ bạc của ông. Nhưng sự thật không phải vậy. Ông làm vậy là làm kinh tài cho phe nhóm tham nhũng của Tổng Thống Thiệu. Người đưa môi giới cho đoàn công voa này là bà Sáu Huyết, một bà cô của Tổng Thống Thiệu.

Việc chuyển giao hàng quốc cấm này được nhân viên Phòng 7/ Tổng Tham Mưu theo dõi chụp hình. Các hình ảnh tang chứng được giao cho Đại Tá Lưu Yểm, Tỉnh Trưởng Phước Long. Đại Tá Lưu Yểm không thông báo cho Quân Đoàn III mà báo cáo thẳng lên Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm là cậu của Đại Tá Yểm.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1555692427-DaiTa_LuuYem.jpg
Đại Tá Lưu Yểm

Sau khi sự việc đổ bể, Chuẩn Tướng Lịch ̣được Tổng Thống Thiệu bao che không bị đưa ra tòa mà chỉ bị thuyên chuyển về làm Chánh Thanh Tra Quân Đoàn IV.

Bẵng đi gần một năm, một hôm, sĩ quan chánh văn phòng thông báo cho Chuẩn Tướng Lịch là có Tổng Thống gọi điện thoại muốn nói chuyện. Chuẩn Tướng Lịch trước khi bốc điện thoại văng tục và gọi Tổng Thống là “thằng hời” (thằng chàm). Ngay sau đó, Chuẩn Tướng Lịch bị đưa ra tòa án quân sự xử vụ buôn bán vũ khí cho địch xảy ra từ năm xưa trước.

Chắc là Chuẩn Tướng Lịch phải lấy làm ngạc nhiên khi đọc những hàng chữ này, sao mà – ngoài ông và chánh văn phòng của ông - có một người thứ ba nghe được ông xúc phạm đến Tổng Thống, khiến cho ổng nổi cơn thịnh nộ trả thù vặt một cách thật là quá oan uổng.

Nguyễn Văn Tín
Ngày 30 tháng 6 năm 2015
generalhieu.com
Nguồn: http://www.generalhieu.com/lich_oan_khien-u.htm

BachMa
06-01-2019, 03:29 AM
VNAF Class 72A
<iframe width="850" height="485" src="https://www.youtube.com/embed/pu9UOVuyykM" frameborder="0" allow="accelerometer; autoplay; encrypted-media; gyroscope; picture-in-picture" allowfullscreen></iframe>

BachMa
06-04-2019, 03:08 AM
Ðôi Mắt Phượng
Nguyễn đạt Thịnh

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1559530421-DoiMatPhuong_01.jpg
Hình minh họa
Tôi là một quân y sĩ ra trường năm 1974; đơn vị đầu tiên, cũng là đơn vị cuối cùng của tôi, là một tiểu đoàn Nhẩy Dù. (Xin bạn đọc cho phép tôi được bất chấp văn phạm, viết hoa hai chữ “Nhẩy Dù”, vì đó là những chữ tôi thương yêu nhất.)

Tôi lập gia đình năm 22 tuổi, ngày còn là một sinh viên quân y. Mẹ tôi bảo “chờ ra trường, có việc làm, có lương nuôi vợ, rồi hẵng cưới vợ.” Tôi biết mẹ tôi có lý, nhưng tình yêu cũng không vô lý. Tình yêu thúc dục tôi cưới Phượng ngay. Nàng quá đẹp! Thằng Quỳnh, thằng Khương, thằng Ðịnh, những đứa bạn cùng lớp bảo tôi, “Phượng đẹp ngây ngất.”

Phượng là nữ sinh đệ nhất Trưng Vương; nàng cũng yêu tôi nhưng xin một năm đính hôn để học hết trung học. Tôi chờ. Một năm dài được chia thành 52 tuần lễ ngắn hơn, đánh dấu bằng 52 ngày chủ nhật chúng tôi gặp nhau.

Không phải là một nhà văn, tôi không mô tả được nét đẹp của Phượng. Tôi chỉ biết là Phượng rất đẹp, và nhất là có một sức hút dễ sợ; chỉ cần gặp Phượng một lần là không người đàn ông nào quên được nàng.

Xin đừng hiểu lầm Phượng là “típ” người nở nang, ăn mặc khêu gợi. Sức hút của Phượng là sức hút ngầm do duyên dáng, do tình ý, chuyển đi từ đôi mắt. Ðôi mắt thật là tình. Mẹ tôi phán là đôi mắt lẳng lơ. Tôi không thích hai chữ này vì nó làm mất đẹp cặp mắt trữ tình của Phượng.

Trước hôn nhân tôi mê mệt với đôi mắt ấy. Sau hôn nhân tôi khổ sở, bực bội cũng vì đôi mắt ấy. Không một người đàn ông nào, dù chỉ gặp Phượng lần đầu, không có cảm tưởng đã yêu nàng và tình yêu của họ không bị nàng hất hủi. Ít nhất Phượng cũng không xua đuổi, không vô tình với họ. Tôi mất một số bè bạn cũng vì Phượng, vì một vài lần gặp Phượng, chạm mắt với Phượng cũng đủ để họ thầm nghĩ là tôi đã mọc sừng.

Dĩ nhiên vợ tôi không thể có tình ý với tất cả mọi người, nhưng cái khổ là đôi mắt đắm đuối của Phượng không nhìn mọi người một cách thản nhiên như người ta nhìn những vật vô tri quanh mình.

Giờ này, vợ tôi không còn trên cõi đời trần tục nữa tôi mới thấm thiá hiểu được một việc rất giản dị, rất tầm thường là không tạo ra đôi mắt của chính mình. Phượng không có trách nhiệm gì về những đổ vỡ đôi mắt gây ra. Chỉ có tác giả đôi mắt đó, ông Thợ Tạo, mới đúng là người tôi oán trách.

Ði đôi với cặp mắt tình tứ là một đồng tiền rưỡi (một ở bên má trái, và một nửa ở cạnh môi dưới) trên khuôn mặt tươi như hoa, trắng mỏng manh. Cái đồng tiền rưỡi ấy, dù chỉ có đồng rưỡi, cũng đủ ma lực giết người. Xin hiểu hai chữ “giết người” theo nghĩa trắng của nó. Chỉ riêng tôi biết cũng đã có 2 người chết đuối trong cái vũng thịt sâu không đầy nửa ly này.

Một trong 2 người xấu số là bạn thân của tôi. Nó tự bắn vỡ toang đầu ngay trên bậc cửa nhà tôi. Lá thơ tuyệt mạng trong túi nó chỉ có mấy chữ “hình dung em đang nằm trong tay một người đàn ông khác, anh không còn can đảm sống nữa.” Tôi cũng không bao giờ đủ can đảm để tìm hiểu xem vợ tôi có nằm trong vòng tay nó không. Hai giòng chữ nó viết không cho phép tôi hiểu khác được.

Tôi chạy trốn trước mọi ngờ vực. Tôi quan niệm đã không tránh được bão cát thì thà vùi đầu xuống cát để không còn biết tới giông bão bên ngoài nữa. Tôi hèn nhát? Có thể, nhưng tôi làm gì hơn được? Không chỉ yêu thương vợ, tôi vẫn còn say mê vợ tôi sau 3 năm chăn gối.

Mẹ tôi, chị tôi đề quyết vợ tôi đã cho tôi ăn bùa mê, thuốc lú. Tôi hiểu quan điểm những người thân của tôi. Tôi hiểu cả định mệnh của tôi, của vợ tôi, và của cả những người say mê vợ tôi nữa.

Tôi vừa nói tôi hiểu định mệnh của vợ tôi. Ðiều đó cần được giải thích rõ hơn. Đôi khi tôi nghĩ Phượng cũng đáng trách, nhưng trong đa số những đổ vỡ quanh nàng, Phượng chỉ thụ động, đáng thương. Phượng sợ và tránh né tất cả mọi gặp gỡ. Những buổi liên hoan của đơn vị tôi, những cuộc họp khóa, họp bạn của tôi, luôn luôn Phượng cáo bệnh hay tìm cớ bận con để không tham dự.

Cũng như tôi, Phượng sợ hậu quả của những cuộc giao tiếp, sợ cái bản chất đa cảm, đa tình của chính mình. Không phải là một người đàn bà trắc nết, vợ tôi thật sự chỉ là nạn nhân của bản ngã.

Sở dĩ tôi phải dài lời nói về vợ tôi như vậy, là để người đọc hình dung được cái ray rứt, khổ sở của tôi trong 14 tháng tù khổ sai được cộng sản đánh bóng bằng hai chữ “cải tạo.”

Cũng như mọi sĩ quan cấp úy khác, tôi bị cộng sản lừa bằng cách chơi chữ. Trên đài phát thanh, chúng kêu gọi binh sĩ trình diện và đem theo 3 ngày ăn. Sau 3 ngày học tập, thành phần binh sĩ được ra về yên ổn. Tiếp theo đó, chúng kêu gọi các sĩ quan cấp úy trình diện với 10 ngày tiền ăn. Chúng tôi tin tưởng, hoặc ít ra chúng tôi cũng mong mỏi là thời gian cải tạo chỉ kéo dài 10 ngày. Ðó là cái lầm của tôi, cái ảo tưởng đưa đến chỗ tự diệt của mọi cán bộ chỉ huy.

Cộng sản hiểu rằng mặc dù nhất thời thất trận, lực lượng quân sự của miền Nam vẫn còn là một đe dọa nghiêm trọng đối với nền thống trị mà lúc ấy chúng mới rắp tâm đem đặt lên lưng người dân Nam Việt. Một triệu quân nhân bị đặt vào hoàn cảnh thất thế vì những lừa đảo, phản phúc chính trị, những dốt nát chiến lược đã bị những mũi dùi tấn công của 15 sư đoàn Bắc Việt xé thành từng mảng nhỏ. Muốn ngăn ngừa sự kết hợp lại của những mảng quân lực, cộng sản chủ trương đánh vỡ đầu rắn: chúng phải tiêu diệt bằng mọi giá hệ thống cán bộ chỉ huy của QLVNCH. Trong 3 ngày học tập, chúng đối xử hết sức nhã nhặn lễ độ với anh em hạ sĩ quan, binh sĩ. Không một hình thức hành hạ giam cầm, không một lời nói nặng, một đe dọa.

Sau 3 ngày học tập binh sĩ đem loan truyền với chúng tôi cái tin tưởng học tập qua loa, ra về đúng kỳ hạn. Ðiều đó làm đa số sĩ quan cấp úy chúng tôi yên lòng khăn gói lên đường với 10 ngày tiền ăn. Nhiều anh lười, không đem theo cả mùng mền, tính ngủ nhờ với bạn bè cũng đủ qua khoảng thời gian 10 ngày ngắn ngủi.

Dĩ nhiên là chúng tôi đã lầm. Chỉ ngay sau khi cái bẫy xập xuống đầu chúng tôi, cộng sản trắng trợn vứt bỏ mặt nạ “đại đoàn kết dân tộc, xóa bỏ hận thù.”

Bài học đầu tiên chúng tôi được nghe qua giọng nói hằn học căm hờn của một anh cán bộ quản giáo Bắc Việt. Anh ta oang oang bảo chúng tôi, “Các anh quên hết địa vị xã hội của các anh đi. Kể từ ngày hôm nay, vợ con các anh sẽ ngửa tay xin nhân dân từng hột cơm và vài tháng sau vợ các anh chỉ còn nước đi làm đĩ để sống.”

Chúng tôi thắc mắc về thời gian 10 ngày, hắn cười khẩy, vẻ mặt câng câng, đểu cáng, “Các anh chỉ có 10 ngày ăn thôi ư? Ðừng lo, cứ ăn hết 10 ngày đó đi đã. Sau đó ăn bám vào sức sản xuất của nhân dân.”

Trước mỗi cửa phòng giam, cộng sản cắc cớ bắt chúng tôi phải dán lên khẩu hiệu “Không có gì quý bằng độc lập, tự do.” Cán bộ Việt Cộng còn phụ giải “người đi trên sa mạc thấy không có gì quý bằng nước uống. Các anh sẽ thấy đối với các anh thì không có gì quý bằng tự do.”

Ðề cao cái giá của tự do trong nhà giam quả là việc làm vừa châm biếm, vừa độc ác. Nhưng không phải chỉ trong nhà giam tôi mới thấm thía hiểu tự do là quý. Sau này ra khỏi trại cải tạo, sống trong cái nhà giam lớn hơn là nguyên cả Miền Nam Việt Nam tôi càng thấy rõ không phải chỉ một mình tôi, mà cả 20 triệu người dân Nam Việt đều đang khắc khoải giữa sa mạc thống trị, thèm khát ngụm nước tự do.

Xin trở lại với trại cải tạo và với vợ tôi. Tôi bị giam 2 tháng hơn thì một buổi chiều nghe loa gọi lên văn phòng. Tôi tái người, nghĩ ngay đến những vụ thủ tiêu, biệt giam, thường xẩy ra đối với những thành phần cộng sản gọi là ngoan cố.

Bản chất hiền lành, tôi không ra mặt chống đối bọn giảng viên, quản ngục. Cái tội của tôi chỉ là không nuốt trôi được mớ lý thuyết rẻ tiền, lẩm cẩm của cộng sản. Nhưng đối với chúng, đó không phải là một khinh tội. Tôi lo lắng chờ đợi một hình thức trừng phạt vì trọng tội trí thức.

Lên đến văn phòng, tôi được một anh binh ba Bắc Việt, mặt non choẹt, đưa vào phòng chính ủy. Và tôi đã chết đứng khi thấy Phượng trong đó.

Giọng đầy cải lương, nhân vật số một của trại giam bảo tôi, “Xét thành tích học tập tốt của anh, nhân dân đặc biệt cho anh được nhận sự chăm nuôi của gia đình.”

Tôi học tập tốt? Thật là mai mỉa. Những âm thanh giảng huấn chan chát của bọn cán bộ cộng sản đối với tôi không một mảy may khác những tiếng cuốc đất trong giờ lao động sản xuất. Tôi đoán hiểu cái lý do đã khiến “nhân dân đặc biệt cho phép” tôi được nhận sự thăm nuôi của gia đình.

Cặp mắt nẩy lửa vì giận, tôi nhìn Phượng. Vợ tôi đã đến cái nước đi làm đĩ như bọn cộng sản tiên đoán rồi ư? Phượng cũng nhìn tôi, đôi mắt vẫn tình tứ, nhưng buồn thăm thẳm và ướt đẫm. Những giọt lệ lăn dài trên đôi má nhưng mịn màng, làm lòng tôi se thắt. Tôi thèm bước tới, ôm Phượng vào vòng tay, và hôn dài trên đôi mắt đắm đuối ấy. Nhưng dĩ nhiên ngoại cảnh không cho phép tôi làm việc tôi thường làm đó.

Vợ tôi nghẹn ngào, “Bé Mai nhớ anh lắm.”

Bé Mai! Ðứa con gái 2 tuổi của tôi, báu vật của vợ chồng tôi! Tôi đứng khựng như trời trồng trước cái hình ảnh nhỏ bé, thương yêu mà vợ tôi vừa gợi ra.

Suốt 10 phút gặp gỡ, tôi không nói được một lời nào với Phượng cả. Cổ họng tôi nghẹn cứng, rồi bên tai tôi văng vẳng thật xa có tiếng nói của tên chính ủy: “Thôi, xách đồ ăn về phòng đi, tuần sau lại được thăm nuôi nữa.”

Ðêm đó tôi không chợp mắt. Tôi hình dung những chuyện đã xẩy ra giữa vợ tôi và tên chính ủy cộng sản trước khi tôi được dẫn vào và sau khi tôi bị đưa ra khỏi văn phòng hắn. Tôi không tin đã có gì quá đáng trong phòng làm việc. Nhưng sau đó hắn có thể đến nhà tôi hay bảo vợ tôi đến một chỗ nào đó.

Tuần sau và những tuần kế tiếp, Phượng đều đều đến thăm tôi, mỗi lần đem theo một món ăn mà trước kia tôi ưa thích. Tôi nuốt những món khoái khẩu mà có cảm tưởng như mình đang ăn rơm khô, không mùi, không vị. Mỗi lần thăm viếng chúng tôi được nói chuyện với nhau 10 phút. Toàn những chuyện bâng quơ. Cả hai đứa chúng tôi đều không dám đả động tới điểm ngờ vực đau xót của tôi.

Có lần Phượng nói với tôi bằng cái giọng thiết tha nhưng nghiêm trọng, “Em chỉ xin mình tuyệt đối tin tưởng là em yêu mình. Suốt đời em, em chỉ yêu có một mình mình. Mặc dù những gì đã xẩy ra hay sẽ xẩy ra thì tình em yêu mình vẫn mãi mãi là sự thật duy nhất.”

Qua tâm linh, tôi biết Phượng nói thật. Tôi muốn quên những việc đáng buồn đã xẩy ra. Quên không được, tôi cố gắng bào chữa cho Phượng. Nhưng ghen tương, ích kỷ, cũng không phải là những cảm nghĩ nhỏ trong lòng người chồng.

Những cuộc thăm viếng kéo dài được 4 tháng thì một hôm Phượng bảo tôi, “Tuần sau em về Long Xuyên với má. Sống ở thành phố, không có sinh kế gì hết.”

Tôi hăng hái khuyến khích vợ tôi xa lìa Saigon . Ít nhất về ruộng sống với mẹ Phượng cũng đỡ phải lo 2 bữa ăn hàng ngày, cái lo to lớn của người thị dân sau ngày bị giải phóng.

“Mỗi tuần được gặp em là niềm an ủi lớn cho anh,” tôi bảo vợ. “Nhưng cái nhìn ngờ vực, khó chịu của 2,000 anh em đồng đội, đồng cảnh trước việc anh được ưu đãi làm anh khổ sở. Anh muốn chịu chung những đầy ải với họ.”

Tuần sau Phượng không đến thăm tôi nữa. Cuộc sống khổ sai không hạn định trở thành dài hơn vì thiếu sự chia cắt của những tiêu mốc ngắn hạn. Tôi trở lại vị trí của cái máy người, vô tri giác, không phản ứng, bảo đi thì đi, bảo học thì học, bảo lao động thì lao động.

Những bạn nào đã sống trong trại cải tạo của Việt Cộng hẳn đồng ý với tôi là cộng sản đã thành công trong việc làm chúng tôi mất hết tri giác. Không vui, không buồn, không hy vọng, thất vọng, không mong chờ bất cứ một điều gì nữa. Cuộc sống hàng ngày như một bộ máy được điều động bằng những tiếng còi, những khẩu lệnh. Phần ăn quá đói làm tất cả chúng tôi tìm được cái khôn ngoan của loài vật: không làm một cử động thừa, không nói một câu thừa để không phí phạm bất cứ một phần thật nhỏ nào cái sinh lực còn le lói trong xác người.

Chính trong trạng thái vật vờ của một xác chết chưa chôn ấy, tôi nhận được giấy phóng thích. Cầm tờ giấy chấm dứt cuộc sống tù ngục của mình trong tay, tôi dửng dưng như cầm một tờ truyền đơn học tập. Nói dửng dưng cũng vẫn chưa đúng. Tôi không ý thức được những thay đổi tờ giấy mang lại cho tôi. Nhẩn nha nhơi từng hột bắp của bữa ăn trưa đói khổ, tôi nghe cơ thể khoan khoái với chút bồi dưỡng ít oi. Trái bắp có trong tay vẫn quý hơn hai chữ “tự do” mới viết trên giấy.

Một cán bộ bảo tôi, “Chiều nay anh khỏi lao động. Về sửa soạn nóp, chén trả lại nhà kho.”

Khỏi lao động, một tin mừng khác. Tôi trở về căn phòng giam hôi hám nhưng mát rượi như một thiên đàng so sánh với cái hỏa ngục lao động sản xuất mà các bạn tôi đang chịu đựng ngoài trời.

Bốn giờ chiều, Phượng đón tôi ngoài cổng trại giam. Người vợ đài các của một bác sĩ mặc cái áo bà ba vải bông và cái quần đen, đứng vịn một chiếc xe đạp đàn ông cũ kỹ. Có thể tôi sẽ ít ngỡ ngàng hơn nếu từ trong thế giới tù ngục bước ra được gặp lại thế giới cũ của mình với xe honda, với áo dài. Tôi đang bước vào một thế giới hoàn toàn khác lạ sau chưa đầy 2 năm mất nước.

Thế giới bên ngoài nhà tù không phải ít khe khắt, ít đọa đầy. Suốt một năm trời, tôi phải sống trong chế độ “quản chế của nhân dân”. Tôi xin giải thích những chữ văn hoa này. Chế độ “quản chế của nhân dân” có nghĩa là tôi phải làm mọi không công, phải sợ sệt tất cả mọi người. Bất cứ ai trong phường cũng có quyền phán xét là tôi chưa giác ngộ, cần học tập thêm, là tôi lại đi tù nữa.

Tôi cúi mặt trước tất cả mọi người, dù đó chỉ là một đứa con nít. Tôi vâng dạ, tôi tuân lệnh, không cần biết lệnh đến từ đâu. Một bà hàng xóm gọi tôi đến coi chứng bệnh cho thằng con tám tuổi. Sau khi quan sát kỹ mọi triệu chứng, tôi bảo bà là con bà bị thương hàn và không có cách nào hơn là đưa nó đi bệnh viện. Bà quắc mắt, “Anh đi học tập ra mà còn như vậy đó hả? Nhân dân có quá nhiều nhu cầu để bệnh viện thừa chỗ trống cho một đứa con nít nóng lạnh. Anh không biết cách nào khác nữa sao?”

Tôi đề nghị bà đừng cho con ăn gì hết để ruột không hư. Bà ta cáu kỉnh nạt, “Lang băm tư bản.”

Sau khi tôi về không hiểu bà có nghe lời tôi khuyến cáo không, nhưng rất may là đứa trẻ lành bệnh. Suốt nửa tháng trời tôi hồi hộp lo sợ: cái chết của đứa trẻ vì thiếu thuốc, thiếu chăm sóc có thể đưa tôi trở lại trại cải tạo như không.

Nguồn an ủi của tôi là số người thiếu ý thức như bà hàng xóm mà tôi vừa kể tương đối rất ít. Đa số dân Saigon sống trong một tình đoàn kết ngấm ngầm nhưng khắng khít. Một bà cụ dúi cho tôi gói gạo nhỏ qua câu nói chí tình, “Bác sĩ phải ăn thêm mới sống nổi, tôi già rồi, thiếu thốn chút đỉnh cũng không đến nỗi nào.” Bà vợ của một công chức còn đang tù tội cho tôi đôi giầy. Ông hàng xóm sát vách cho cái áo.

Nhưng mọi nguồn vui của tôi đến từ Phượng thì nàng cũng là nguyên nhân của mọi buồn khổ. Phượng làm đĩ ra mặt, không còn e dè gì tôi nữa cả. Vợ tôi không chỉ tống tình cán bộ cộng sản để thăm nuôi tôi nữa, mà xuống đến tận chân thang của xã hội. Mỗi ngày, vài lần, những anh phu xích lô đến gọi Phượng đi khách. Những lần đầu tiên Phượng còn ngượng với tôi, nhưng sau quen dần, nàng chỉ bảo tôi, “lát em về.”

Phần tôi, tôi vẫn phải tình nguyện xung phong trong mọi công tác nặng nhọc của phường như hốt rác, quét đường, trồng cây, thông cống... Tôi xung phong để được chấm điểm, xung phong để khỏi trở lại lao tù cải tạo. Ðôi khi nghĩ quẩn tôi cho rằng đi tù mà còn tự do hơn chế độ nhân dân quản chế.

Thêm một lần nữa, tôi tuyên dương sự thành công của cộng sản. Chúng đã hoàn toàn đập tan uy thế của giới chỉ huy, giới trí thức miền Nam . Suốt một năm ra khỏi tù, tôi không được phép làm bất cứ một việc gì cả. Nói một cách khác, tôi phải ăn bám vào đồng tiền vợ tôi ngày ngày bán thân tạo ra. Sau 31 năm, nghĩ lại tôi vẫn rùng mình khiếp sợ.

Tôi xin độc giả ngưng đọc một phút để hình dung cái nhục nhã của tôi, của tất cả giới trí thức miền Nam . Tôi không đủ can đảm để nói bất cứ câu gì với vợ tôi về việc làm của nàng. Cả hai chúng tôi cúi đầu, chịu phép trước guồng máy xã hội mới.

Nếu một ngày tù dài bằng một ngàn năm sống tự do thì 365 ngày bị trói tay, thất nghiệp, sống đói khổ dưới quyền quản chế của nhân dân, và nhìn vợ đi làm đĩ chắc phải dài hơn sự hiện hữu của cả hệ thống vũ trụ.

Giữa hai vợ chồng tôi nẩy sinh ra một tình trạng ngượng ngập khó tả. Ít khi tôi dám nhìn thẳng vào mắt Phượng, và gần như không bao giờ tôi dám nói với nàng chuyện gì khác hơn là những câu đối thoại tầm thường quanh sinh hoạt nho nhỏ trong nhà.

Thỉnh thoảng bà mẹ vợ tôi lén lút đem được ít gạo, ít thịt lên cho chúng tôi. Qua những cuộc tiếp tế lậu này, tôi khám phá thêm được một bí mật: vợ tôi không hề về Long Xuyên với mẹ như nàng đã nói với tôi. Phượng đã làm gì, ở đâu, trong 7 tháng trời tôi nghĩ nàng về quê sống với mẹ? Cả đến câu hỏi này cũng chưa lần nào tôi dám hỏi Phượng. Tôi trốn chạy một sự thật phũ phàng nào nữa đó sẽ đến, nếu Phượng phải trả lời tôi.

Tối 30 tháng Chín 1978, sau khi theo một anh xích lô “đi khách” về, Phượng kéo tôi vào phòng trong cùng với bé Mai. Trên bộ ván thay cho cái giường nệm đã đi vào chợ trời từ hai năm trước, Phương mở gói thịt quay ra rồi bảo tôi, “Mình ăn với em.”

Từ sau ngày mất nước đây là lần đầu tiên tôi lại được nhìn thấy miếng thịt quay; Phượng lăng xăng bới cơm, và vợ chồng con cái chúng tôi ăn uống ngon lành như chưa bao giờ được ăn ngon đến như thế.

Những đó không phải là điều ngạc nhiên duy nhất của tôi. Ăn uống xong, vợ tôi kéo từ trên đầu tủ xuống một gói giấy: bên trong là một bộ đồng phục thanh niên xung phong. Tay chân run rẩy, Phượng trải bộ quần áo lên mặt bộ ván, rồi giọng nói cũng run rẩy nàng bảo tôi, “8 giờ sáng mai, mình mặc đồng phục này đứng đón tàu ở bến Bạch Ðằng.”

“Ðón tầu? Ðể đi đâu?”

Không trả lời câu hỏi của tôi, vợ tôi chỉ lập cập nói, “Em đã đóng đủ 10 cây cho họ rồi.”

Mười cây vàng! Tôi choáng váng với con số lớn khiếp đảm đó.

“Vàng đâu mà em có đến 10 cây?” Câu hỏi buột miệng không nuốt trở vào được nữa, tôi chỉ còn biết nhìn vợ tôi, câu xin lỗi ngầm chứa trong ánh mắt. Phượng cũng nhìn tôi, đôi mắt thăm thẳm tình tứ trên khuôn mặt vẫn còn đẹp dù đã gầy đi và dạn dầy phong trần.

Sau một phút im lặng, nàng nghẹn ngào, “Em không biết mình có tin hay không, nhưng sự thật lúc nào em cũng yêu mình.”

Tôi ôm Phượng vào long. Giữa một xã hội thù hận, cái bóng mát yêu thương nhỏ bé thật là vô giá. Mặc dù Phượng chưa nói, nhưng tôi cũng đoán hiểu mục đích vượt thoát của chuyến đi ngày mai, và hiểu 10 lượng vàng, giá của chuyến đi là kết quả của những canh dài Phương đem thể xác ra cho thiên hạ dầy vò để góp nhặt từng đồng hầu mua tự do cho tôi.

Cổ nghẹn lại, tôi không nói được một tiếng nào cả. Tôi vừa sung sướng trước những bằng chứng hiển nhiên của một mối tình to lớn, bền chắc, vừa xấu hổ nhận những hy sinh nhục nhã của vợ.

Phượng bảo tôi, “Em chỉ đủ tiền đóng cho mình, nhưng em với con vẫn đi theo mình.” Nàng giải thích cho tôi hiểu chuyến tầu vượt thoát là tầu thầu việc chuyên chở thanh niên xung phong đi làm rừng ở cửa Cần Giờ. Sáng mai, tôi sẽ cùng với 30 người nữa, đội lốt thanh niên xung phong xuống tầu tại bến Bạch Ðằng. Ðàn bà, trẻ con đi đường bộ xuống ngã ba Ðồng Chanh, chờ tại đó và sẽ đổ lên tầu. Họ là những người đi lậu, không đóng vàng.

“Người ta đi lậu nhiều lắm,” Phượng bảo tôi. “Em cũng trà trộn vào đám người đó. Không lẽ người ta xô mình xuống sông. Sợ gì?”

Tôi sợ. Rùng mình tôi nghĩ đến cảnh “người ta xô vợ con tôi xuống sông”, nhưng có sợ tôi cũng không giải quyết được cái khó không tiền và đành theo mọi xếp đặt của Phượng.

Ðêm đó tôi trằn trọc không ngủ, Phượng cũng không ngủ. Vào khoảng gần sáng nàng hỏi tôi, “Mình đã đủ tin vào tình em yêu mình để tha thứ hết mọi việc cho em chưa?”

“Anh tin. Anh yêu mình.”

“Em còn một tội nữa, chưa thú nhận được với mình.”

Trong bóng đêm, tôi lặng thinh lo lắng. Ngần đó bất hạnh chồng chất vào một cuộc sống ngắn ngủi, cay cực, còn chưa đủ nữa hay sao.

Vợ tôi thở dài, “Lúc đó em còn khờ quá nên chuyện mới xẩy ra. Em phải nói dối mình là em về Long Xuyên với má. Thật ra em không muốn mình buồn.”

Dù vợ tôi chưa nói ra, nhưng tôi cũng đoán hiểu.

“Em có con?” tôi hỏi.

Rúc đầu vào ngực tôi, vợ tôi thút thít khóc, “Mình tha cho em.”

Ðứa con chỉ là hậu quả đương nhiên của những việc làm mà tôi đã nhìn vợ tôi hàng ngày đi theo những bác phu xích lô để làm. Bây giờ tôi lại hiểu mục đích cao cả của việc làm đê tiện đó. Tôi thương Phượng hơn là trách nàng.

“Ngày mai em muốn cho con cùng đi?”

“Nếu mình đồng ý.”

Dĩ nhiên tôi đồng ý; đồng ý đưa những người thân nhất đời mình vào chuyến đi địa ngục, vào vòng tay tử thần..

CÒN TIẾP PHẦN CUỐI

Nguyễn đạt Thịnh
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=489985971510270&set=a.170866793422191&type=3&theater

BachMa
06-04-2019, 03:12 AM
Ðôi Mắt Phượng
(Phần cuối)
Nguyễn đạt Thịnh

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1559530442-DoiMatPhuong_02.jpg
Hình minh họa
Trước 5 giờ sáng hôm sau, trong bộ đồng phục thanh niên xung phong, tôi chở Phượng và bé Mai trên chiếc xe đạp mà mấy tháng trước Phượng đã dùng để đón tôi ra khỏi trại tù cải tạo. Mặc dù giờ hẹn là 8 giờ, nhưng tôi vẫn đi sớm để hàng xóm đừng để ý đến bộ đồng phục của tôi. Hơn nữa, Phượng còn ghé Phú Nhuận, nơi nàng gởi nuôi thằng Vinh, đứa trẻ ra đời trong thời gian tôi ở tù.

Mọi việc xuôi lọt và tương đối dễ dàng. 7 giờ sáng tôi đến điểm hẹn. Nhiều người cũng mặc đồng phục như tôi đã có mặt. Nhìn thái độ ngỡ ngàng, dè dặt của họ, tôi hiểu họ cũng như tôi, ngoài bộ áo thanh niên xung phong, chúng tôi không xung phong làm gì hết.

Phượng bảo tôi, “Mình chờ ở đây, em qua Tân Thuận đón đò máy.”

Nhìn vợ lưng đai một đứa con, chở đứa thứ nhì trên thanh ngang xe, ra sức đạp chiếc xe cót két, tôi nghe đứt ruột. Nửa tiếng đồng hồ sau tôi xuống tàu, chọn chỗ ngồi ngay bên hông, hy vọng giúp đỡ Phượng đưa con lên. Khoảng 8 giờ 45, tàu đến ngã ba sông Ðồng Chanh.

Bốn chiếc đuôi tôm xáp lại, đàn bà trẻ con ồn ào dành nhau leo lên. Tôi đỡ bé Mai trên tay Phượng, rồi kéo Phượng, tay còn bồng thằng Vinh lên theo. Cuộc đổ bộ của khoảng 70 đàn bà, trẻ con lên tàu không những đã công khai mà còn ồn ào, hỗn độn, tranh dành, la lối, đính chánh hùng hồn cái huyền thoại gán cho cộng sản một hệ thống an ninh bao trùm và hữu hiệu. Hàng chục khách thương hồ và ít nhất là 4 người tài công đuôi tôm đã chứng kiến và chắc chắn cũng đã biết mục đích của chuyến đi, nhưng cộng sản vẫn không bắt buộc được họ khai báo, phản phúc đồng bào ruột thịt.

Mười rưỡi, tàu ra đến cửa biển Cần Giờ, và trưa hôm đó quê hương thương yêu chỉ còn là một vệt dài dậm hơn mầu biển. Ðến lúc này các “giới chức” trên tàu mới hò hét chửi mắng những người vượt thoát lậu. Họ bảo chỉ dự trù lương thực và nước uống cho những người có ghi tên và có góp vàng. Những người khác sẽ không có khẩu phần.

Phần ăn và nhất là phần nước uống ít oi của tôi được chia làm 4. Bao tử trống nhưng tâm tư vợ chồng chúng tôi tràn đầy hạnh phúc. Vợ tôi ngồi sát bên tôi, tay ẵm thằng Vinh, bé Mai nằm gọn trong lòng tôi; đầu vợ chồng tôi đội chung một cái áo, vừa làm nón cho người lớn, vừa làm mái nhà cho trẻ con.

Ngồi bó rọ trong cái cảnh mà nếu được nhìn thấy, chắc mọi người phải gọi là địa ngục trần gian, vợ chồng tôi bàn chuyện thiên đàng mộng tưởng. Cái thiên đàng của chúng tôi rất giản dị: bất cứ nơi nào cho tôi được đem sức đàn ông ra đi làm, làm bất cứ việc gì để nuôi vợ, nuôi con.

Tôi bảo Phượng, “Anh sẽ làm việc, làm ngày, làm đêm, để không bao giờ em và con còn phải thiếu thốn khốn khổ nữa.”

“Em thương mình,” Phượng thủ thỉ bên tai tôi. “Không bao giờ em còn làm mình buồn nữa.”

Tất cả những cam kết, hứa hẹn, dự tính đẹp như mộng ấy, chúng tôi đem ra làm thức ăn để đánh lừa cơn đói. Khẩu phần của tôi mỗi bữa khoảng 2 chén cơm chỉ vừa đủ cho 2 đứa nhỏ. Phượng và tôi nhắp một đầu đũa để cầm hơi.

Qua đến ngày thứ 3, vì đói quá, khi đi lãnh cơm tôi thò tay vào nồi, vừa bốc thêm một nắm cơm vừa nói, “Cho tôi xin thêm chút cơm.”

Một quả đấm bay vào mặt tôi; yếu đuối sau 14 tháng bị giam cầm đói khổ, yếu đuối sau 3 ngày thiếu cơm, thiếu nước, tôi té ngửa dưới sức mạnh của quả đấm trời giáng.

“ÐM quân ăn cướp. Ðã đi lậu mà còn đòi ăn nữa hả.”

Quả đấm tuy đau, nhưng tôi vẫn mừng vì cà mèn cơm chưa đổ. Bưng cà mèn đầy cơm hơn nhờ bốc thêm được một nắm về mái lều to bằng manh áo. Tôi sung sướng nhìn Phượng được ăn thêm miếng cơm thứ nhì. Tôi an ủi vợ, “Mình đi được 3 ngày rồi, nhiều lắm 2 ngày nữa cũng phải đến Thái Lan hay Mã Lai.”

Héo hắt cười, Phượng nhìn tôi. Tôi muốn thuyết phục cho vợ yên lòng, nhưng chính giọng nói của tôi cũng không vững.

Mũi tàu vẫn hướng về phía Nam , điều làm tôi thắc mắc. Mặc dù không có cả đến một tấm địa đồ nhỏ trong tay, nhưng tôi vẫn mường tượng được vị trí của Thái Lan và Mã Lai so với Việt Nam . Tôi góp ý với những người điều khiển tàu là nên cho mũi tàu chếch thêm về hướng Tây Nam . Tôi chưa nói dứt lời, một ông vạm vỡ nạt ngang, “Anh biết gì mà nói.”

Ðến ngày thứ 5 của chuyến hải hành, vợ tôi lả đi vì đói, vì mệt và say sóng. Phượng dựa vào thành tàu, mắt nhắm nghiền, đầu gục xuống.
Tôi van xin ông ngồi cạnh nửa thước khoảng trống để vợ tôi có thể ngả lưng trong thế nằm co quắp. Hai đứa bé không còn khóc được nữa. Tiếng khóc của chúng trở thành những tiếng rên nho nhỏ.

Tôi mò xuống bếp tán tỉnh xin phụ việc. Khoản thù lao tôi mong mỏi chỉ là mỗi bữa một chén nước cơm cho trẻ con uống. Chúng không còn sức để nhai và nuốt vật cứng nữa. Một ông “giới chức” hất hàm hỏi tôi, “Trước kia anh làm nghề gì?”

Dĩ nhiên việc đi cải tạo không phải là một nghề, mà cũng không phải là việc đem ra khoe được, tôi đành khai, “Thưa ông, tôi làm bác sĩ.”

“Biết chích không?”

“Dạ biết.”

Thế là tôi biến thành thầy Hai chích dạo. Bà vợ ông giới chức bị bệnh đái đường; ông đem theo một xách thuốc cần thiết cho bà, nhưng thiếu thầy Hai chích. Ðường lên, bà nằm mê man từ 2 ngày nay. Tôi được đưa vào khoang để chích insuline cho bà. Bữa đó không những có được chén nước cơm, mà trong cà mèn còn thêm được một miếng thịt.

Ðược dinh dưỡng, vợ tôi và 2 đứa trẻ cũng tỉnh táo hơn. Chiều hôm đó tôi lại có thêm một thân chủ: gia đình một người Trung Hoa nhờ tôi chăm sóc cho đứa con bị cảm nắng. Họ tạ thầy một hộp Sumaco, khiến bữa ăn chiều của chúng tôi có thể nói là thịnh soạn.

Cà mên cơm đầy ăn với cá hộp giúp Phượng đủ sức ngồi dậy săn sóc con. Hai đứa trẻ vẫn đuối, nhưng nhờ được uống nước cơm nên không đến nỗi bị lả đi như hôm trước nữa.

Sáng hôm sau tôi trở lại chích thuốc cho bà giới chức. Nhờ insuline làm tan đường, bà đã ngồi dậy được, tỉnh táo hơn. Uy tín lang băm của tôi gia tăng nhanh chóng, số thân chủ cũng gia tăng vì sau 5 ngày ngồi bó rọ phơi nắng, gần như tất cả mọi người đều cảm thấy mệt đuối, đau nhức, nhiều người sốt, cảm và ho.

Nỗi khổ tâm của tôi là trị bệnh không dược liệu. Đem kinh nghiệm 14 tháng giúp bạn tù trị bệnh bằng phương pháp kháng bệnh, tôi chỉ dẫn mọi người cách hô hấp, cánh tập trung tư tưởng để tự kỷ ám thị.

Nhờ hành nghề bác sĩ, khẩu phần của gia đình tôi trở nên sung túc hơn rất nhiều. Mỗi gia đình vượt biển đều có thủ theo một vài thứ thực phẩm khô, họ chia cho tôi một ít để thù lao bác sĩ.

Ðến ngày thứ 7, nhờ được ăn no hơn vợ tôi đã bình phục và hai đứa trẻ cũng tỉnh táo. Trưa hôm ấy chúng tôi gặp hoạn nạn: chiếc áo mái nhà của tôi bị gió biển cuốn đi, vợ tôi lục giỏ tìm cái áo khác ra căng lều. Lần này tôi có ý cột kỹ tay áo vào thành tầu.

Tối hôm đó, đang gục đầu trong thế ngủ ngồi tôi nghe như một biến chuyển lớn đang xẩy ra. Giật mình tôi thức dậy trong tiếng reo hò của mọi người.

“Tới rồi. Thấy đất rồi.”

“Cảm ơn Trời Phật. Chuyến đi quá dài nhưng rồi cũng đến.”

Giọng quát của một giới chức, “Ngồi cả xuống! Chạy tới, chạy lui, mất thăng bằng lật tàu chết cả đám bây giờ.”

Mọi người ngoan ngoãn ngồi trở xuống, nhưng tiếng ồn ào vẫn không ngớt. Người ta bàn tán, “Chắc là Mã Lai.”

“Có lẽ như vậy, vì nó là hòn đảo, chứ Thái Lan thì đã thấy lục địa.

“Không chừng Nam Dương.”

“Rất có thể là Úc.”

Vợ tôi nắm tay tôi bóp mạnh. Tôi nghe như những mừng vui của Phượng đang được truyền sang tâm hồn tôi mà không cần một lời nói.

Mọi người mừng vì chuyến hải hành 8 ngày đã đến đích. Cuộc hành trình của riêng tôi và Phượng đã kéo dài gần 4 năm, mà mỗi ngày là một cơn ác mộng bất tận cho cả 2 chúng tôi cũng đang chấm dứt với chuyến đi này. Nỗi mừng của chúng tôi, vì vậy mà to lớn hơn tất cả.

Chúng tôi mừng đến không nói được nên lời, không hò reo được như mọi người. Tôi ngồi yên, không buồn chồm lên nhìn hòn đảo mà tàu đang tiến vào nữa. Niềm vui của tôi đã quá đầy từ ngày bước chân xuống tầu, rời bỏ quê hương địa ngục, trên những bằng chứng xác nhận tình yêu tuyệt vời của Phượng đối với tôi. Không một người bạn đồng thuyền nào thỏa mãn bằng tôi.

Ông bạn ngồi cạnh gợi chuyện, “Hình như hòn đảo nhỏ quá.”

“Vâng,” tôi lơ đãng đáp.

“Không chắc đã có người trên đảo.”

“Vâng.”

Mũi tàu vẫn hướng vào hòn đảo cô đơn trong khi niềm lạc quan trên tàu lắng xuống. Khoảng cách thu ngắn dần làm mọi người thấy rõ kích thước nhỏ bé của hải đảo. Nhưng giữa khoảng ngàn trùng của đại dương nhấp nhô hòn đảo kia vẫn là đất, vẫn bảo đảm vững vàng.

Hơn nữa, nó cũng lớn tối thiểu bằng 20 lần con tàu dài 15 thước, rộng 3 thước với 140 người trong lòng tàu.

Ða số góp ý kiến nên ngừng lại đảo.

“Biết đâu bờ bên kia lại không có một làng chài lưới.”

“Ghé nghỉ ngơi một ngày, đi lại cho dãn gân; ngồi bó gối mãi, mỏi quá.”

“Có thể tìm nước ngọt, đánh cá tăng thêm thực phẩm trước khi tiếp tục đi nữa.”

Cuối cùng, những giới chức trên tầu quyết định cho tầu chạy một vòng quanh đảo để quan sát trước. Và đó là quyết định cuối cùng của họ với tư cách chỉ huy chiếc tiểu hạm tử thần. Mới chạy được nửa vòng đảo, tàu chạm đá ngầm, vỡ đáy, lật nghiêng qua 30 độ.

Phượng văng từ thành tàu bên này sang thành tàu bên kia, thằng Vinh tuột tay mẹ, rơi thẳng xuống biển. Trên đà nghiêng của con tàu, tôi phóng nhanh đến bên Phượng, trao vội bé Mai cho nàng và nhẩy xuống biển để chỉ vừa kịp nắm tay đứa bé chưa đầy năm, theo nó ngụp vào một đợt sóng lớn. Sóng đưa tôi và thằng Vinh vào gần bờ, và do đó tôi trở thành người đầu tiên đặt chân lên hòn đảo san hô thê lương, sau này biến thành nơi gởi xác của nhiều người trong chúng tôi.

Việc làm đầu tiên của tôi là bồng thằng Vinh đưa lên cao để vợ tôi nhìn thấy mà yên lòng. Cách bờ khoảng 15 thước, mọi người nhốn nháo; tiếng kêu khóc thật là thê thảm, nhiều người nhẩy xuống nước chạy vào bờ.

Sau khi bị vỡ đáy, con tàu mắc cạn đang từ từ trở lại thế thăng bằng, mặc dù vẫn còn hơi nghiêng. Những người trên tàu không đến nỗi phải bám cứng vào thành tàu để khỏi rơi xuống biển nữa.

Nhờ người coi chừng thằng Vinh, tôi lội xuống nước trở ra mạn tàu bồng bé Mai, và xách gói hành lý khiêm tốn của chúng tôi, rồi dắt Phượng lên đảo. Nhiều người khác cũng làm như chúng tôi. Họ lìa bỏ con tàu mà không cần biết là đi đâu, nhắm mắt đưa chân, như 8 ngày trước rời bỏ quê hương Việt Nam.

Ðó là sai lầm của chúng tôi. Hòn đảo san hô khô cằn, lởm chởm, không dung nạp chúng tôi. Tìm được một chỗ bằng phẳng để ngồi xuống cũng đã khó chứ chưa nói đến việc ngả lưng.

Sau gần một tiếng đồng hồ loay hoay tìm kiếm, tôi chọn được một hốc đá tương đối rộng rãi để định cư. Cái áo làm mái nhà đổi vai trò trở thành tấm chiếu cho trẻ con ngồi.

“Ðau đít quá ba ơi,” bé Mai nhăn nhó nói.

Tôi ẵm con lên, đặt nó ngồi trên bọc quần áo, rồi bảo Phượng, “Em coi chừng con, anh đi quanh tìm xem có con ốc, con sò nào không.”

Tôi ngỡ mình là người nhanh chân trong việc đi kiếm ăn, nhưng hơn chục người khác cũng đã lom khom trong các hốc đá tìm kiếm như tôi. Cái may của tôi là trong một kẹt đá nhỏ, tôi chụp được hai vợ chồng một chú tôm hùm khá to, mỗi con khoảng hai kí.

Phượng reo mừng, “đồ biển sẵn thế này là không phải lo đói nữa.”

Phượng lầm, mà tôi cũng lầm. Ðồ biển không sẵn như chúng tôi tưởng, hoặc ít ra thì đó cũng không phải là nguồn thực phẩm đủ cung cấp cho 140 người đói khát.

Tôi đi nhặt rác và rong biển về làm củi nướng tôm; tôi cũng tìm được một mảnh ván nhỏ cho Phượng ngồi. Bữa ăn đầu tiên trên hoang đảo, cách tìm thực phẩm, nướng và ăn bốc theo kiểu thượng cổ, vừa ngon lại vừa vui. Vợ chồng, con cái chỉ ăn hết một con tôm, con thứ nhì để dành.

“Em chưa thấy con tôm hùm nào lớn đến như vậy,” Phượng vừa chôn vỏ tôm xuống cát vừa bảo tôi.

Mới 6 giờ chiều, mặt trời còn cao mà gió biển nghe đã lạnh. Tôi lo lắng bảo Phượng, “Có bao nhiêu quần áo em lấy mặc hết cho con. Cả em nữa.”

Gói hành lý được mở ra, tắp hết lên người. Mỗi đứa trẻ mặc 4 áo, 3 quần. Phượng được 3 áo, 2 quần. Tôi mặc thêm cái sơ mi nữa ra ngoài bộ đồng phục chưa thay từ ngày đi.

Gia đình ông hàng xóm sát hốc đá nhà tôi định xuống tầu tránh lạnh nhưng bị đuổi trở lên. Một số thanh niên tổ chức chiếm độc quyền cư ngụ trên tầu. Họ cũng ngưng, không phát thực phẩm như trước nữa.

Ðêm hôm đó một người đàn bà chết, có lẽ vì quá lạnh. Chúng tôi xuống tầu mượn được một cây xà beng và một cái búa để đục đá chôn người xấu số. Ðó là người đầu tiên và người cuối cùng được chôn. Lý do thứ nhất khiến chúng tôi không chôn người chết nữa là vì đục đá làm mồ là một công trình quá khó mà lại không hiệu quả. Lớp đá vụn lấp xác chết không chặt được như đất nên chỉ một ngày sau mùi thối đã xông lên nồng nặc. Lý do thứ nhì chua chát hơn: người ta không muốn vùi đi mấy chục kí thịt của người chết trong lúc tất cả đều đói.

Xác chết đầu tiên tôi thấy bị xẻ thịt là xác một thiếu nữ trắng trẻo, xinh xắn. Tôi đang đi nhặt ốc thì nhìn thấy xác cô, khuy áo bị cổi banh ra, chỗ đôi nhũ hoa chỉ còn thịt lầy nhầy và mấy rẻo xương lồng ngực. Một tiếng đồng hồ sau, tôi trở lại, cô đã bị lột truồng, bắp vế, bắp chuối bị xẻo mất.

Tôi rùng mình. Suốt 2 năm chinh chiến tôi cũng đã chứng kiến nhiều cái chết ghê rợn do súng đạn gây nên, nhưng quả thật chưa một xác chết nào làm tôi khiếp đảm hơn.

Thượng Ðế ơi, người đã sinh ra con người như sinh vật khôn linh hơn mọi sinh vật khác, sao người lại còn bày ra những thử thách trớ trêu đó để làm gì? Ðể chứng minh là con người cũng không hơn gì loài cầm, loài thú ư?

Tôi trở về hốc đá với khuôn mặt chắc phải vô cùng sầu thảm. Nhìn tôi, Phượng bảo, “Mình đuối lắm rồi, để em đi kiếm thực phẩm thay mình.”

“Em không đi đâu hết,” tôi gạt phăng.

Vợ tôi nhìn tôi lo sợ. Có thể Phượng thấy phản ứng của tôi không bình thường, chưa bao giờ tôi gắt gỏng với nàng, ngay cả những lần nàng theo bác phu xích lô đi khách. Quanh chúng tôi, người ta phát điên, người ta đánh nhau chỉ vì những chuyện không đâu. Tình trạng tuyệt vọng, kinh hoàng làm chúng tôi thành hốt hoảng. Có thể Phượng nghĩ tôi cũng đang có những triệu chứng bắt đầu. Tôi an ủi vợ,

“Anh không muốn em đi đâu hết. Quanh chúng ta đang có trên 100 người mất tự chủ. Em phải ở cạnh anh.”

Thật ra tôi chỉ muốn tránh cho Phượng khỏi nhìn thấy xác người thiếu nữ không vú, không đùi. Kéo đầu Phượng gục vào vai, tôi vỗ về, “Rồi mọi chuyện sẽ khá hơn. Thế nào chẳng có một thương thuyền đi qua đây.”

Tôi nói để mà nói, nhưng tôi nghĩ Phượng không mấy tin, không mấy quan tâm đến những điều tôi nói.

Chúng tôi đã đói khát gần 1 tuần lễ. Quanh bờ biển không còn một cái vỏ hào nào nguyên vẹn. Người đầu tiên vừa đập vỡ con hào để lấy ruột, thì chỉ vài phút sau đã có người đến đập lần thứ nhì, hy vọng vớt vát một chút gì còn xót lại.

Ðến tuần thứ nhì không ai còn dấu diếm chuyện ăn thịt người nữa. Gần như tất cả mọi người đều đã ăn thịt đồng loại. Tệ hơn là họ không chờ nạn nhân chết hẳn mới xẻ thịt. Ðể thịt và ruột gan không lạnh tanh, họ xẻ thịt những người đang thoi thóp, ngắc ngoải. Xương và đầu người chết bị ném xuống biển, cám dỗ hàng bầy cá mập.

Nhìn những con cá hung hãn chồm vào đến tận bờ để chia phần thịt người, tôi bàn với ông hàng xóm phương pháp bẫy cá mập. Chúng tôi đào một vũng cạn, rồi lấy đá be bờ khá cao. Sườn vũng nước nghiêng vào bờ, bên trong sâu hơn bên ngoài bờ biển.

Mượn cái đầu của một bà lão vừa bị xẻ thịt, chúng tôi thả mồi chờ cá mập. Thời gian chờ đợi không lâu hơn 20 phút. Theo đà sóng một con cá mập nhỏ, khoảng trên dưới 40 kí, trườn vào bẫy.

Sóng rút ra, cá mập mắc cạn và chết ngay sau vài chục nhát búa và xà beng của chúng tôi. Chúng tôi lôi cá lên cạn xẻ thịt; khoảng vài chục người đến hôi món thịt cá mập. Việc xẻ thịt chưa xong, con cá mập thứ nhì đã lại trườn vào bẫy trước tiếng reo hò mừng vui của hơn 100 con người đói khổ.

Thịt cá mập béo ngậy và tanh rình, nhưng vẫn giúp chúng tôi tránh được ăn thịt người, và cái bẫy cá mập của tôi trở thành nguồn cung cấp thực phẩm khá dồi dào cho những nạn nhân mắc cạn.

Cái khổ của chúng tôi là trên đảo san hô không còn một thứ gì có thể sử dụng thay củi nữa cả; một vài người liều lĩnh xách búa ra định bửa tầu lấy gỗ, nhưng chỉ cần một phát súng bắn chỉ thiên của nhóm thanh niên khỏe mạnh, ăn uống đầy đủ, lại có võ khí, đang chiếm giữ con tàu, cũng đủ làm những người liều nhất trở thành khôn ngoan, lui nhanh vào bờ.

Cầm miếng cá sống, vừa xệu xạo cắn, Phượng vừa hỏi tôi, “Mình có còn tin được câu người ta thường nói ‘trời xanh có mắt’ nữa không?”

Tôi thở dài. Nếu quả trời có mắt thì cặp mắt đó đã nhắm lại từ 4 năm nay rồi. Bé Mai chỉ còn là một cái xác nhỏ xíu, gầy ốm, thoi thóp níu vào cuộc sống. Thằng Vinh khá hơn đôi chút, nhưng cũng nằm lả, đôi mắt gần như không bao giờ hé mở.

Tôi nhai miếng cá trong miệng đến thành nước rồi cúi xuống mớm cho con. Phượng thút thít khóc. Cũng như tôi, vợ tôi hiểu mạng sống của đứa con gái chúng tôi thương yêu, nâng niu, đang tàn lụi dần và sẽ tắt hẳn, khi gió biển, nắng cháy, và thiếu dinh dưỡng, cướp đi những sinh lực cuối cùng.

Bé Mai bỏ đi tối hôm đó. Ôm con trong tay tôi nghe hơi thở nó yếu dần, yếu dần trước khi tắt hẳn. Cơ thể của đứa con yêu thương vẫn mềm mại nhờ chút hơi ấm của tình phụ tử ủ ấp.

Tôi lặng đi ngồi ôm xác con trong gió biển cắt da. Khoảng một tiếng đồng hồ sau Phượng hỏi tôi, “Con có khá hơn không mình?”

Tôi hiểu nghĩa câu hỏi này: Phượng muốn biết bé Mai đã chết chưa, nhưng chữ “chết” ghê rợn không phát ra được trên đôi môi người mẹ.

Tôi lặng thinh để vợ tôi ngỡ là tôi đã thiếp đi trong mòn mỏi. Nhưng rồi tôi thiếp đi thật. Sức chống đỡ của cơ thể chỉ có giới hạn. Giữa những hoàn cảnh phi lý nhất, thể chất vẫn giữ nguyên những đòi hỏi bình thường của nó. Ôm xác con trong tay, ngồi giữa một cô đảo Thái Bình Dương, tôi ngủ ngon lành.

Tôi bị mặt trời nhiệt đới đánh thức. Mở mắt dậy trong ánh nắng chói lòa, tôi hốt hoảng nhận ra là bé Mai không còn nằm trong tay tôi nữa. Phượng cũng không thấy đâu cả. Tôi cất tiếng gọi vợ, tiếng sau lớn hơn tiếng trước, những tiếng cuối cùng trở thành tiếng gào kinh hoảng.

Những người chung quanh nhìn tôi. Cặp mắt họ không thiện cảm, nhưng cũng không ác cảm, mà chỉ là những cập mắt vô can mất hết khả năng xúc động. Cái khổ đau, bất hạnh của tôi, tôi cứ tự gánh lấy. Phần riêng của họ cũng đã quá lớn, họ không thể chia xẻ thêm với ai chút gì nữa cả.

Tay ẵm thằng Vinh, tôi phóng nhanh xuống bờ biển vừa chạy quanh đảo, vừa gọi Phượng. Vợ tôi ngồi xẹp trên một phiến đá, vẻ mặt sầu khổ. Ôm chầm lấy vợ, tôi hỏi, “Em đi tìm con?”

Vợ tôi không nói được một tiếng nào cả.

“Họ đã xẻ thịt bé Mai?” Phượng gật đầu rồi gục vào vai tôi thút thít khóc. Tôi lặng đi, tê tái.

Nguyên ngày hôm đó vợ chồng chúng tôi không nói thêm với nhau một câu nào nữa. Trước những đổ vỡ, thương đau toàn diện, chúng tôi không còn khả năng khóc than.

Sáng hôm sau, sau một vòng đi tìm thực phẩm thất bại như từ nhiều ngày nay, tôi trở về hốc đá và tình cờ khám phá ra nguyên nhân giúp bé Vinh còn tương đối mạnh khỏe: Phượng đang cho con bú. Tôi ngạc nhiên vì từ trước đến giờ Phượng không hề làm việc đó. Cả bé Mai cũng bú sữa bò từ khi mới lọt lòng.

Phượng bối rối nhìn tôi, trong lúc tôi nhìn bé Vinh: môi đứa bé đỏ lòm. Tôi kéo vú Phượng ra để thấy một vết cắt còn mới trên đầu vú. Tôi tìm thấy nhiều vết cắt khác ở đầu ngón tay, ở cổ tay người mẹ khốn khổ. Thở dài, tôi cúi đầu. Phượng đang trút tàn lực sang để nuôi một mầm sống. Việc làm vô cùng đáng kính phục đó chắc chắn sẽ làm tôi trở thành góa bụa sớm hơn.

Dĩ nhiên tôi không ngăn cản, cũng không phiền trách gì Phượng. Ðiều độc nhất tôi có thể làm là cố gắng hơn nữa trong việc tìm kiếm thực phẩm để nuôi Phượng và bé Vinh, nhưng số người đói khát thì đông mà số thực phẩm lại giới hạn nên gần như chúng tôi không còn tìm ra bất cứ một thứ gì, dù chỉ là cỏ, là cây, để nhai trong miệng.

Bốn ngày sau ngày bắt gặp Phượng cho con bú bằng máu, tôi tìm được một con cua khá lớn. Phượng ăn gượng gạo rồi lại nằm ngay. Vợ tôi đuối đến mức tôi phải xé từng miếng thịt cua, đút vào miệng cho nàng.

Suốt tuần sau, tôi chỉ tìm được vài con ốc. Nhìn những triệu chứng sắp chết của vợ, tôi nghe đứt ruột. Tôi không dám đi kiếm thực phẩm xa nữa, sợ người ta đến ăn thịt Phượng.

Hai ngày sau, đang nửa mơ, nửa tỉnh, tôi chợt nghe nhiều tiếng sung. Tiếp theo là tiếng reo hò. Bàng hoàng choàng dậy, tôi nhìn theo hướng nhìn của mọi người và thấy một chiếc tàu đang từ từ tiến lại.

Tim tôi ngừng đập. Cuối cùng trời vẫn còn có mắt. Chúng tôi sắp được cứu sống, và tôi vẫn còn Phượng, còn người vợ mà trong hoạn nạn tôi thấy tình yêu trở thành to lớn hơn, bền chặt hơn. Tôi sẽ lại được mê mệt, được khổ sở với cặp mắt đa tình của Phượng.

Trong tiếng reo hò của những người đồng cảnh ngộ, tôi cúi xuống thủ thỉ bảo vợ, “Hôm trước em hỏi anh có còn tin là ‘trời xanh có mắt nữa không’. Bây giờ anh trả lời em là anh tin. Anh tin cuối cùng rồi ông trời vẫn có mắt.”

Nhưng tôi đã lầm. Ðối với những kẻ bất hạnh, vô phước như tôi, ông trời (nếu có ổng) đã vĩnh viễn nhắm mắt, quay mặt đi.

Con tầu tôi đang nhìn theo là một ngư thuyền của Ðài Loan. Họ neo xa bờ chừng 2 cây số, rồi cho ghe nhỏ vào chở người đại diện của chúng tôi ra thương lượng. Cuộc thương lượng, nói trắng ra chỉ là một cuộc trả giá.

Người đại diện trở về cho chúng tôi biết tầu Trung Hoa đòi một số vàng lớn mới chịu cứu chúng tôi. Số người có vàng đề nghị chia số người Trung Hoa đòi hỏi trên đầu người; những kẻ trắng tay như tôi ngồi lặng thinh, dự thính.

Chiều hôm ấy người đại diện của chúng tôi trở ra ngư thuyền Trung Hoa với một phản đề nghị. Cuộc trả giá kéo dài cho đến tối, và ông ta ngủ lại trên tầu đánh cá. Sáng hôm sau ông trở lại với 3 người Tầu, và bắt đầu cuộc ghi danh, góp vàng.

Những người có vàng để góp lần lượt được xuống ghe máy để ra tàu trước cặp mắt thèm thuồng của chúng tôi. Khoảng xế chiều việc đưa những người góp vàng ra tàu hoàn thành. Người Trung Hoa chở vào cho chúng tôi một thùng cá và bảo, “Các anh ăn uống tạm tối nay.

Sáng mai chúng tôi sẽ vào chở tất cả ra tàu.”

Thì ra họ chỉ muốn làm khó dễ để lột một số vàng của những người có tài sản. Sáng hôm sau toàn bộ chúng tôi được chở ra tàu. Một thủy thủ Trung Hoa giúp tôi bồng bé Vinh, trong lúc tôi bồng Phượng xuống ghe.

Yếu đuối, tôi ngã mấy lần. Phượng mở mắt nhìn tôi, cặp mắt tình tứ, đắm đuối ngày xưa, giờ này đã mất thần.

Xuống tầu, tôi xin một ly sữa, đút cho Phượng, nhưng vợ tôi không còn nuốt được nữa. Tôi biết cơ thể nàng đã mất hết nước hydrate.
Giải pháp độc nhất còn lại là nuôi bằng nước biển, nhưng làm gì có thứ đó trên một ngư thuyền.

Phượng lịm dần và hơi thở thật sự tắt hẳn vào đêm hôm đó. Xác nàng bị chuồi xuống biển theo hình thức thủy táng.

Tôi dứt câu chuyện vào lúc 11 giờ sáng ngày 30 tháng Tư năm 2004, rồi bảo thằng Vinh, “Ba hứa ngày con học xong, ba sẽ kể lại câu chuyện về mẹ con cho con nghe. Ba đã thực hiện lời ba hứa.”

Nó bước đến trước ghế tôi ngồi, quỳ xuống, gục đầu lên đùi tôi, “Ba đau khổ nhiều quá!”. Lời nó nghẹn lại. “Con thương ba.”

Tôi vuốt tóc nó, “Ba thương con.”

“Con muốn vinh danh mẹ,” thằng Vinh bảo tôi. Năm đó nó 26, vừa ra trường thuốc Austin , và đang tập sự tại nhà thương Memorial Hermann, Houston, nơi tôi làm việc.

“Bằng cách nào?” tôi hỏi nó.

“Con muốn về Việt Nam để cùng bác sĩ Nguyễn Ðan Quế tranh đấu giải thể chế độ cộng sản dã man đã giết mẹ con, giết chị Mai, và làm ba buồn khổ suốt cuộc đời.”

“Môi trường tranh đấu tại hải ngoại thuận lợi hơn môi trường quốc nội,” tôi bảo Vinh. “ Tiếng nói của con sẽ lớn hơn, vì có một đối tượng rộng hơn, quyền hạn hơn.”

Nó nghe lời tôi, và giờ này bác sĩ Trần Phượng Vinh, con của bác sĩ Trần Quang trở lại trường đại học. Môn học mới của nó là điện ảnh.

Họa sĩ Thương Thương, hôn thê của nó đã vẽ xong từ năm ngoái bức tranh quảng cáo cuồn phim đầu tay: ÐÔI MẮT PHƯỢNG của tài tử kiêm đạo diễn Phượng Vinh.

Nó đóng vai Trung úy quân y của Sư Ðoàn Nhẩy Dù, Trung úy Trần Quang.


Nguyễn đạt Thịnh
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=489988191510048&set=a.170866793422191&type=3&theater

BachMa
06-08-2019, 05:05 PM
Xui
Cô gái đang tắm thì có tiếng gõ cửa:
- Có ai ở nhà không?
- Ai đấy?
- Tôi là Tuấn mù hàng xóm đây!
Thấy vậy, cô không mặc đồ, ra mở cửa:
- Có việc gì không anh Tuấn?
- Xin báo cho cô tin mừng. Tôi đã mổ mắt thành công rồi!


Điều Kiện
Một cô ca sĩ lớn tuổi kể với đồng nghiệp:
- Mình hát bài thứ hai thì có ông khách lên sân khấu đưa phong bì $500
- Ổng nói gì không?
- Có
- Ổng nói sao?
- Ổng nói: Nếu cô hát nữa thì tôi đòi tiền lại đấy!


Không Lo
Một tù nhân trẻ mới vào, tù cũ hỏi:
- Cậu lãnh án bao lâu?
- 10 năm.
- Cậu không sợ trong thời gian này vợ cậu bỏ cậu à?
- Không bao giờ có chuyện đó!
- Cô ấy yêu cậu đến thế cơ à?
- Không. Nhưng cô ấy bị kết án 12 năm.


Phản Tác Dụng
Hai vợ chồng đi ăn tối thì cô vợ chợt huých tay chồng:
- Anh có nhìn thấy người đàn ông đang tu rượu ở góc quầy bar đằng kia không?
- Thấy! Sao?
- Người yêu cũ của em đấy! Anh ta đã uống như thế này từ 10 năm nay rồi, kể từ khi chia tay với em.
- Đâu cần phải ăn mừng lâu đến thế!


Định Lý Đảo
Hai người bạn đọc sách trong thư viện. Một người khều:
- Câu này hay lắm “Tìm được một người bạn chẳng khác gì tìm được một kho báu”.
- Cũng có thể là như vậy. Nhưng nếu tớ tìm được một kho báu, lập tức sẽ có rất nhiều bạn.


http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1405483401.gif

BachMa
06-13-2019, 12:53 AM
Nụ Cười Khó Hiểu Của Điệp Viên Vũ Ngọc Nhạ
Bùi Anh Trinh

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1554574773-HuynhVanTrong_01.jpg
Huỳnh Văn Trọng (giữa) và Vũ Ngọc Nhạ đùa vui sau khi lãnh án 20 năm
Cố vấn của Ngô Đình Diệm ?

Vũ Ngọc Nhạ tên thật là Vũ Xuân Nhã, sinh năm 1928 tại Thái Bình. Thuở nhỏ có vài năm theo học trường dòng. Năm 1945 đang học cấp 2 tại Hà Nội. Tháng 12 năm 1946 quân Pháp đuổi Hồ Chí Minh lên rừng, Nhạ về Thái Bình tham gia kháng chiến chống Pháp. Năm 1951 được bầu làm thị ủy viên Thị xã Thái Bình.

Nhưng cũng năm 1951 Mao Trạch Đông cho dựng lại ĐCSVN, cố vấn Trung Quốc là La Quý Ba phát động chiến dịch thanh trừng thành phần “trí phú địa hào” trong tổ chức Việt Minh. Nhạ bị liệt vào loại “cường hào tôn giáo” cho nên năm 1952 Nhạ phải chạy về Phát Diệm tham gia tổ chức “Tổng bộ tự vệ Phát Diệm”, một tổ chức chống cộng của Công giáo.

Năm 1953 đăng ký làm thông dịch viên cho quân đội Pháp, mang lon Trung sĩ. Năm 1954 quân Pháp rút về nước, Nhạ theo chân quân đội Pháp về sinh sống tại ngoại ô Paris nhưng sau đó tìm cách sang làm việc cho Tòa thánh La Mã. Tại Tòa thánh ông làm việc rất siêng năng cần mẫn nên được Đức Giáo Hoàng ban cho phép “Chết lành” ( Một nghi thức của Công giáo, khi hấp hối không cần làm phép rửa tội ).

Năm 1955 về lại Việt Nam, làm thư ký đánh máy trong Ty Công chánh tỉnh Gia Định. Cuối năm 1958 bị Mật vụ Miền Trung phát hiện là cán bộ Việt Minh tại Thái Bình nên bắt giam vào trại tập trung Phú Cam, Huế ( Một hình thức trại học tập chính trị dưới thời Ngô Đình Diệm, nhằm tập trung và thanh lọc các phần tử nghi ngờ còn hoạt động cho Cộng sản ).

Tại trại Phú Cam, tất cả những ai được xác minh là đã hồi chánh thì được thả ngay, còn những người có lý lịch không rõ ràng thì phải chờ điều tra. Trong thời gian này Nhạ có dịp làm quen với Mười Hương và Lê Hữu Thúy là hai ông trùm tình báo của CSVN được cài lại Miền Nam sau Hiệp định Geneve 1954. Mười Hương và Thúy bị bắt trước Nhạ vài tháng.

Vào giữa năm 1961 Nhạ được thả, ông trở lại sinh sống tại Sài Gòn. Nhờ giấy ban phép “Chết lành” của Đức Giáo Hoàng, ông mon men tiếp xúc với Linh mục Hoàng Quỳnh và lần hồi chiếm được sự tin cậy của linh mục Quỳnh.

Cố vấn của Nguyễn Văn Thiệu ?

Năm 1965 Tướng Nguyễn Văn Thiệu lên nắm Chủ tịch Hội đồng lãnh đạo quốc gia, ông nhờ cố vấn chính trị Nguyễn Văn Ngân liên lạc với các đảng phái và đoàn thể để xin mỗi đoàn thể cử một người liên lạc với Văn phòng Chủ tịch để có thể thông báo cho Phủ chủ tịch những yêu cầu và nguyện vọng của đại diện dân chúng ( Tất cả có 43 đoàn thể ). Linh mục Hoàng Quỳnh đề cử Vũ Ngọc Nhạ làm người liên lạc giữa khối “Công giáo di cư” và Phủ chủ tịch.

Năm 1967 Tướng Nguyễn Văn Thiệu đắc cử Tổng thống, những liên lạc viên của các đảng phái hay đoàn thể ( gồm 43 người ) được biến thành “cố vấn chính trị của Phủ tổng thống” nhưng chỉ cố vấn riêng về đoàn thể của mình. Nghĩa là Vũ Ngọc Nhạ chỉ cố vấn về những vấn đề có liên quan tới “Khối công giáo di cư” mà thôi.

Các cố vấn đoàn thể làm việc trực tiếp với ông Cố vấn chính trị của Phủ Tổng thống là Nguyễn Văn Ngân nhưng thường ngày vẫn làm việc với đoàn thể của mình ở ngoài dinh Độc Lập; thỉnh thoảng cố vấn Nguyễn Văn Ngân mời các cố vấn đoàn thể vào họp trong dinh Độc Lập để nghe thông báo về một số chính sách mới của Chính phủ, hoặc để nghe ý kiến của dân chúng qua đại diện của các đoàn thể.

Sau trận Mậu Thân lực lượng vũ trang của Mặt trận giải phóng Miền Nam hoàn toàn tan nát, một số lãnh đạo nằm trong Trung ương Cục Miền Nam ( Võ Văn Kiệt, Trần Bạch Đằng, Mai Chí Thọ ) muốn tiếp xúc thẳng với giới lãnh đạo VNCH, họ cho người tiếp xúc với Tướng Dương Văn Minh ( qua Thiếu tá CSVN Dương Văn Nhật ), Trung tá Trần Ngọc Châu ( qua Đại úy CSVN Trần Ngọc Hiền ).

Và cho điệp viên Lê Hữu Thúy tiếp xúc thẳng với Tổng thống Thiệu qua Cố vấn chính trị Nguyễn Cao Thăng và ông Huỳnh Văn Trọng, là Phụ tá đặc trách Bình định phát triển của Văn phòng Tổng thư ký phủ Tổng thống ( Nguyễn Văn Hướng là Tổng thư ký phủ Tổng thống, ông Trọng là 1 trong 4 phụ tá của ông Hướng ).

Điệp viên của CSVN ?

Để tổ chức đường dây tiếp xúc, Cố vấn an ninh của Tổng thống Thiệu là Tướng Đặng Văn Quang biết được Vũ Ngọc Nhạ từng quen biết với trùm tình báo CSVN Mười Hương cho nên nhờ Nhạ tìm cách bắt liên lạc với Mười Hương. Kết quả Nhạ bắt liên lạc được với Lê Hữu Thúy là người đang phụ trách đường dây Huỳnh Văn Trọng. Thúy giao cho Nhạ nhiệm vụ làm giao liên giữa Huỳnh Văn Trọng và Thúy.

Đầu năm 1969 Trọng nhận được một bản “Kế hoạch Bình định phát tiển nông thôn năm 1969” do cơ quan Bình đình phát triển nông thôn ( CORDS ) của Hoa Kỳ soạn thảo. Trọng sao ra 1 bản rồi nhân dịp Nhạ vào Dinh Độc Lập họp, Trọng giao cho Nhạ mang tài liệu về cho Thúy ( Để gây tin tưởng ). Đây là thành tích đầu tiên và cũng là thành tích duy nhất của “điệp viên” Vũ Ngọc Nhạ.

Sau vụ tài liệu “Kế hoạch Bình định phát triển năm 1969” bị tiết lộ, CIA lần ra đường dây thẩm lậu tin tức từ trong dinh Độc lập. Và đến khi cảnh sát bắt Trần Ngọc Hiền, rồi công bố vụ CIA liên lạc với CSVN qua Trần Ngọc Châu và Trần Ngọc Hiền, thì CIA trả đũa bằng cách rình bắt Lê Hữu Thúy cùng với tổ chức hoạt động của ông ta gồm có 42 người, trong đó có “Cố vấn” Vũ Ngọc Nhạ.

Rốt cuộc chuyện siêu điệp viên Vũ Ngọc Nhạ và Huỳnh Văn Trọng chỉ là kết quả “chơi nhau” giữa và CIA và Phủ Tống Thống VNCH.

Trần Ngọc Hiền bị kết án 4 năm tù, Trần Ngọc Châu bị kết án 20 năm sau giảm xuống còn 10 năm. Huỳnh Văn Trọng và Vũ Ngọc Nhạ bị kết án chung thân, sau giảm xuống còn 20 năm. Nhưng cả 4 không bị giam tại trại tù Cộng sản ở Phú Quốc mà lại bị giam ở Côn Đảo. Tuy nhiên tại Côn Đảo cả 4 ông sống như nghỉ mát ở đảo chứ không phải ở trong tù.

Đến tháng 4 năm 1973 trao trả tù binh tại Lộc Ninh thì Ủy ban tiếp nhận tù binh của CSVN chỉ nhận Trần Ngọc Hiền chứ không nhận 3 ông kia bởi vì họ không phải là người của CSVN. Bí quá Tổng thống Thiệu phải nhốt cả 3 ông vào Chí Hòa nhưng điều kiện sinh hoạt không phải là tù. Được vài tháng thì thả Trọng và Nhạ, còn Châu thì mãi tới cuối năm 1974 mới thả.

Đến tháng 4 năm 1975 Châu được nhân viên CIA lên danh sách những người cần được đưa ra khỏi Việt Nam ( nhân viên CIA ) nhưng Trưởng nhánh Viễn Đông của CIA thời đó là Shackley bác bỏ, do đó Châu phải vào trại tù cải tạo vì là nhân viên của chế độ cũ. Vũ Ngọc Nhạ phải đi kinh tế mới Phạm Văn Hai, còn Trọng thì chạy thoát sang Pháp. Riêng Trần Ngọc Hiền thì sau khi trao trả tù binh bị tước hết cấp bậc, tước hết đảng tịch và bị trục xuất ra khỏi Đảng vì tội đã khai báo hết những bí mật của tổ chức (ĐCSVN) cho địch.

Trong khi đó cấp trên của Vũ Ngọc Nhạ là điệp viên thứ thiệt Lê Hữu Thúy cũng không khá gì hơn. Năm 1973 ông được trao trả cho CSVN nhưng ông chỉ nhận được quân hàm thượng úy và được cho ngồi chơi xơi nước. Đến năm 1975 thì ông bị tước đảng tịch và cho nghỉ việc vì tội làm lộ đường dây tình báo A.22 tại Sài Gòn. Mãi đến khi người ta phong thiếu tướng cho Vũ Ngọc Nhạ thì ông mới được phục hồi đảng tịch và được phong đại tá cho tương xứng với cương vị ngày xưa là cấp chỉ huy của Nhạ.

Thiếu Tướng tình báo ?

Về phần Vũ Ngọc Nhạ , sau 30-4-1975 ra trình diện chế độ mới, bị đưa đi “Phòng tình báo quân sự” để nơi đây xác minh lý lịch hoạt động của ông ta. Sau khi xác minh thì được nhận được giấy khen về thành tích nhưng đồng thời cũng nhận được quyết định “kỷ luật” vì tội làm đổ bể đường dây tình báo tại Dinh Độc Lập. Đây là một cách “phủi ơn” đối với Vũ Ngọc Nhạ, do đó ông ta và gia đình phải đi kinh tế mới Phạm Văn Hai.

Đến năm 1985 xưởng phim truyện Thành phố Hồ Chí Minh cho dựng bộ phim “Ván Bài Lật Ngữa” từ quyển tiểu thuyết cùng tên của ông Trần Bạch Đằng. Ông Đằng lên đài phát thanh xác nhận ông Nhạ là 1 trong 5 nhân vật cấu thành siêu điệp viên Nguyễn Thành Luân. Biết được chuyện này nhà báo Hữu Mai từ Hà Nội vào Sài Gòn tìm ông Trần Bạch Đằng để hỏi thăm về “điệp viên cố vấn của Tổng Thống Thiệu” . Ông Đằng dẫn Hữu Mai lên kinh tế mới Phạm Văn Hai gặp Nhạ.

Sau đó Hữu Mai về Hà Nội viết thành quyển tiểu thuyết “Ông Cố Vấn” nói về cuộc đời của ông Nhạ với nhiều sửa đổi, thêm thắt để cho có vẻ “có hậu”. Theo đó thì sau khi được Phòng tình báo xác minh lý lịch ông được thu dụng trở lại với cấp bậc Thượng tá, rồi sau đó thăng Đại tá (Chỉ là tiểu thuyết hóa chứ sự thực không có).

Đến năm 1992 có một ông cựu tướng tình báo Hoa Kỳ đến Sài Gòn để thiết lập bang giao giữa hai quốc gia. Ông tướng Hoa Kỳ ngỏ ý muốn gặp hai nhân vật tình báo CSVN mà ông ta rất ngưỡng mộ là Phạm Xuân Ẩn và Vũ Ngọc Nhạ. Chính quyền CSVN vội cho tìm Vũ Ngọc Nhạ từ khu kinh tế mới.

Sau đó ông Tướng HK ngỏ ý muốn được đi thăm Tướng Nguyễn Hữu An đang làm Hiệu trưởng Học viên quân sự tại Đà Lạt để trao đổi về quân sử chiến tranh Việt Nam. Cùng đi có cả Phạm Xuân Ẩn, Vũ Ngọc Nhạ. Tại Học viện quân sự Đà Lạt, Trung tướng Nguyễn Hữu An nhân danh Quốc hội CSVN gắn cấp bậc thiếu tướng cho điệp viên Vũ Ngọc Nhạ ( Giấy tờ ghi là Quốc hội đã chuẩn thuận năm 1988 ).
Đồng thời tại Sài Gòn, cấp trên của ông Nhạ là điệp viên thứ thiệt Lê Hữu Thúy được phong vượt cấp từ thượng úy (1973) lên đại tá.

Khi ông Nhạ trở lại Sài Gòn, ông Trần Bạch Đằng viết một bài báo kể rõ cuộc sống khó khăn của Thiếu tướng Vũ Ngọc Nhạ trên khu kinh tế mới và ông hô hào quyên góp giúp đỡ. Riêng Thành đoàn Thanh niên Cọng sản Thành phố Hồ Chí Minh bỏ tiền ra in lại cuốn tiểu thuyết “Ông Cố Vấn”, tiền lời bán sách sẽ giao cho gia đình ông Nhạ.

Chỉ là màn kịch được giàn dựng.

Ngày nay báo chí còn lưu lại bức hình ông Trọng và ông Nhạ cười rất tươi sau khi lãnh án 20 năm; lại còn bông đùa gởi lời thăm sức khỏe Tổng thống Thiệu (sic). Không ai hiểu nổi những bí ẩn đằng sau nụ cười và những lời bông đùa đó. Mãi cho tới năm 2009 cơ quan CIA đưa ra tài liệu “CIA and The Generals” thì sự thật mới được phơi bày:

Theo CIA thì chỉ có Huỳnh Văn Trọng mới là điệp viên Cộng sản nằm trong Dinh Độc Lập nhưng năm 1975 ông Trọng lại chạy sang Pháp, chứng tỏ ông ta không phải là điệp viên của CSVN. Như vậy cấp dưới của ông ta là Vũ Ngọc Nhạ cũng không phải. Trong khi đó tài liệu của CIA lại xác nhận người cọng tác với CIA trước Mậu Thân là ông Trần Bạch Đằng (!).

Đến năm 1986 Nguyễn Văn Linh lên làm Tổng bí thư; vì không ưa ông Kiệt cho nên ông ta cho phép tiết lộ một phần nào về chuyện ông Kiệt, ông Đằng lén bắt tay với CIA trước 1975, nhằm vận động không cho ông Kiệt làm Thủ Tướng sau khi Phạm Hùng qua đời. Vì vậy mà ông Đằng và ông Kiệt mới giàn dựng ra màn hỏa mù để hướng cho dư luận tin rằng Phạm Ngọc Thảo, Vũ Ngọc Nhạ, Huỳnh Văn Trọng là những người được hai ông cài vào Dinh Độc Lập với sự đồng ý của Lê Duẩn ( Lúc này LD đã chết cho nên chẳng ai biết có thật hay không ).

Tóm lại, nếu những người nói trên thực sự là điệp viên của CSVN thì ngay từ năm 1975 người ta đã đã phong tặng anh hùng và cho cải táng hài cốt của Phạm Ngọc Thảo cũng như phong tướng cho Phạm Xuân Ẩn, Vũ Ngọc Nhạ, Huỳnh Văn Trọng… chứ không đợi tới sau khi Lê Duẩn chết mới làm.

Bùi Anh Trinh
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=175030816802343&set=a.106745060297586&type=3&theater

BachMa
06-15-2019, 05:46 PM
Vì Anh Là Lính!

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1560620635-HQPD_ViAnhLaLinh.jpg

BachMa
06-20-2019, 04:35 AM
Thân Phận Của Đại Tá Cao Văn Viên Trong Cuộc Đảo Chính 1-11-1963
(Tác giả bài viết dưới đây là Ông Đặng Kim Thu, cựu SVSQ/TVBDL/K19,
cựu tùy viên của Đại Tướng Cao Văn Viên, cựu quận trưởng quận Chợ Gạo)

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1554574864-ThanPhanDaiTuongCaoVanVien_01.jpg
Chân dung Đại Tướng Cao Văn Viên
Từ đơn vị tác chiến ( tiểu đoàn 41 BĐQ), tôi được lệnh về làm Sĩ quan Tuỳ Viên cho Đại Tướng Cao văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng vào cuối năm 1966. Vì tôi không có nhà ở Sài Gòn nên ông bà Đại Tướng cho tôi tạm ở trong tư dinh thời gian đầu.

Với công việc hoàn toàn mới lạ, nhiều bỡ ngỡ, cộng thêm sự gò bó ở trong dinh của Đại Tướng, mới đầu tôi hơi nản lòng, nhưng nhờ sự giúp đỡ, chỉ dẫn tận tình của người tiền nhiệm của tôi là Quách Tinh Cần K20//TVBQGĐL, và sự cởi mở của ông bà Đại Tướng nên tôi cảm thấy an tâm đôi chút.

Những ngày đầu về ở trong dinh của Đại Tướng, cứ sau bữa cơm tối ông xuống phòng tùy viên chỉ rõ cách sinh hoạt trong nhà, cách tiếp nhận đìện thoại từ bên ngoài gọi vào, an ninh vòng ngoài, an ninh vòng trong, và v.v…

Ông bảo tôi:

– Thông thường các tướng lãnh khác tôi đều tiếp họ tại văn phòng, ngoài giờ làm việc tôi không tiếp ai ở nhà riêng cả, nếu có vị tuớng tá nào muốn gặp tôi ngoài giờ làm việc, mà không có hẹn, chú không được mở cổng, mà phải báo tôi trước để tôi quyết định có tiếp họ hay không, đặc biệt chú phải quan sát, xem vị tướng đó có đem theo lính hộ tống hay không. Trong mọi trường hợp chú đừng cho lính hộ tống vào bên trong dinh, cổng phải luôn luôn khóa chốt . Nhưng đặc biệt có hai vị cựu tướng lãnh khi tới nhà muốn gặp tôi bất cứ lúc nào, chú cũng mở cổng mời vào phòng khách rồi báo tôi ra tiếp, không cần phải hỏi tôi trước, hai vị đó là Trung tướng Trần Văn Đôn và Trung tướng Tôn Thất Đính. Mà chú có bao giờ thấy hai vị tướng đó chưa?

Tôi trả lời “dạ chỉ biết qua hình ảnh trên báo chí”. Ông bảo: “Cũng tốt, vậy thi ráng nhận diện nếu hai vị đó tới.”

Xong ông nhìn tôi thấy có vẻ như tôi muốn tìm hiểu lý do nào mà hai ông cựu tướng này được đại tướng ưu ái như vậy.? Ông nói thêm:”chú muốn biết tại sao tôi đối xử với hai ông đó đặc biệt như thế chứ gì, được rồi để mai tôi kể cho chú nghe vì mai là chúa nhật có nhiều giờ rảnh hơn”

Hôm sau ăn cơm trưa xong ông xuống phòng tôi và bắt đầu kể:

“Ngày 1 tháng 11 năm 1963 là ngày Lễ Các Thánh, quân nhân, công chức nghỉ buổi sáng khoảng 10 giờ sáng tôi được điện thoại của chánh văn phòng Thiếu tướng Khiêm mời vào Bộ Tổng Tham Mưu họp ở phòng họp số 1, và phải có mặt trước 1 giờ. Tôi tới lúc 1 giờ kém 10 phút, thấy có đông các đơn vị trưởng sẵn đó rồi, nhìn mặt toàn là các sĩ quan thân tín của ông Diệm. Đúng 1 giờ. hai qưân cảnh ở ngoài đóng cửa phòng họp và khoá lại, mọi người trong phòng ngơ ngác nhìn nhau, Đại tá Lê Quang Tung nói lớn:

– Họp hành khỉ mẹ gì, ai chủ toạ phiên họp sao chưa tới mà họ khoá cửa nhốt mình rồi, chuyện gì đây!

Vài phút sau đó có tiếng mở cửa, Đại úy Nhung cận vệ của Trung tướng Dương văn Minh đứng ngoài cửa nới với vào:

– Mời Đại tá Lê quang Tung – Lực Lượng Đặc Biệt và D0ại tá Cao văn Viên Nhẩy Dù lên lầu gặp Trung tướng Dương văn Minh.

Vì Đại tá Tung ngồi gần cửa nên bước ra trước, tôi ở trong xa cửa hơn nên đi ra sau. Khi tôi ra khỏi phòng họp thì nhìn thấy Đại tá Tung đã bị Đại úy Nhung còng tay dẫn xuống xe, còn tôi cũng bị 1 sĩ quan khác còng nhưng mới vừa bị còng 1 tay thì tình cờ Thiếu tướng Tôn thất Đính trên lầu đi xuống chợt thấy vậy, ông bảo tháo còng tôi ra, rồi sĩ quan đó cùng tướng Đính dẫn tôi lên lầu gặp Trung tướng Minh .

Tướng Minh nói:

– Hôm nay “moi” và một số các tướng lãnh đảo chánh ông Diệm “toi” nghĩ sao?

Tôi trả lời:

– Chuyện quan trọng như vậy mà tới giờ này Trung tướng mới cho tôi biết thì tôi đâu có quyết định được gì.

Lúc đó Trung uý Trương (hay Trần) Tự Lập sĩ quan tùy viên của Trung tướng Minh lăm le khẩu súng carbine chĩa vào lưng tôi như sẵn sàng bắn tôi. anh ta hỏi tôi :

– Đại tá có theo Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng không?

Tôi đáp:

– Tinh thần của quân nhân thuộc binh chủng nhẩy dù không trả lời trước áp lực.

Thiếu tướng Đính thấy vậy bảo tên Trung úy Lập đừng hỗn với cấp trên, rồi tướng Đính dẫn tôi về lại phòng số 1 đóng cửa lại.

Vài vị sĩ quan đang bị nhốt chung trong phòng tới hỏi tôi chuyện gì vậy? Tôi nói họ đảo chánh Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Có người hỏi: “còn Đại tá Tung đâu? tôi nói “bị còng dẫn đi chỗ khác rồi”.

Khoảng 15 phút sau tôi lại bị dẫn lên gặp Trung tướng Minh lần nữa, lần này Trung tướng Minh nói với tôi:

– Có 1 tiểu đoàn nhẩy dù theo “Chiến Đoàn Vạn Kiếp” của Trung tá Vĩnh Lộc từ Bà Rịa về tới Sài Gòn, nhưng không chịu tấn công vào Dinh Gia Long, đòi phải được liên lạc trực tiếp với “toi”, vậy nếu “toi” chịu làm 2 việc như sau: Thứ nhất tuyên bố theo Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, thứ hai ra lệnh cho tiểu đoàn nhẩy dù ở Bà Rịa về tấn công vào Dinh Gia Long, khi thành công “moi” gắn lon Thiếu tướng cho “toi” liền.

Tôi trả lời rằng chuyện của Trung tướng làm, tôi không chống đối, nhưng bảo tôi phản lai “thầy” tôi thì tôi không làm, Trung tướng thông cảm cho tôi (lời người viết: xin nói rõ thêm, trước khi chỉ huy lực lượng nhẩy dù, Đại tá Viên là Chánh Võ Phòng rồi Tham Mưu Trưởng Biệt Bộ Phủ Tổng Thống);

Tôi được dẫn trả lại phòng họp số 1, các vị sĩ quan trong phòng lại hỏi, tôi trả lời chưa hết thì chánh văn phòng của Thiếu tướng Khiêm xuống dẫn tôi lên văn phòng giữ riêng tôi ở đó.

Sau khi đảo chánh thành công tôi được cho về nhà, rồi hằng ngày tôi phải lên Bộ Tổng Tham Mưu chờ lệnh . Độ 5,6 ngày sau Trung tướng Khiêm “lên Trung tướng ngày 2 tháng 11 năm 1963” tự ý quyết định cho tôi trở về chỉ huy Lữ đoàn nhẩy dù như cũ, còn các vị sĩ quan bị nhốt chung với tôi đa số bị giải ngũ hoặc bị hạ tầng công tác.

Rồi sau đó không lâu tôi được Trung tướng Đôn cho biết: sau khi tôi từ chối lời yêu cầu của Trung tướng Minh thì trung tướng Minh bàn với trung tướng Đôn định đưa tôi theo số phận của Đại tá Lê Quang Tung, nhưng Trung tướng Đôn không đồng ý và nói rằng:

– Trước khi tiến hành cuộc “cách mạng” anh (ông Minh) có hứa với chúng tôi hạn chế tối đa vìệc gây đổ máu các sĩ quan cấp tá không ủng hộ chúng ta, anh đã cho giết Đại tá Hồ Tấn Quyền, giết Đại tá Lê Quang Tung, bây giờ anh muốn giết luôn Đại tá Viên nữa sao? Hơn nữa dù “lui” không hợp tác với mình nhưng “lui” đâu có chống mình mà giết “lui”.

Tôi nghĩ dường như Tướng Khiêm cũng biết ý định đó của Tướng Minh nên mới ra lệnh đem tôi lên văn phòng của ông giao cho Chánh văn phòng là Đại úy Phạm Bá Hoa giữ riêng tôi ở đó, rồi ông Khiêm bảo:”Ai muốn kêu Đại tá Viên đi đâu phải có lệnh của tôi mới cho đi”

Đấy là 3 người ơn cứu tử tôi đó !”

Vai Trò Của Đại Tá Cao Văn Viên Trong Cuộc Chỉnh Lý ngày 30-1-1964

Một lần tôi theo Đại Tướng Viên ra Đà Nẵng thăm các đơn vị thuộc Quân Đoàn I. Tối lại, ngủ ở Tòa Thị Chính Đà Nẵng, lúc đó Trung tá Lê Chí Cường gốc nhẩy dù làm Thị Trưởng.

Đầu hôm thời tiết còn nóng, thầy trò tôi chưa ngủ được nên Đại Tưóng kể chuyện Đảo Chánh, chỉnh lý cho tôi nghe. Giờ đây thì chuyện dù đã xa xưa, nhưng thiết tưởng còn nhiều người chưa biết rõ, hoặc biết không chính xác, không đầy đủ, nên tôi mạo muội thuật lại những gì Đại Tá Viên kể cho tôi nghe với ước mong giúp quí vị độc giả đánh giá được 1 phần sự thực của 1 giai đoạn của Đất Nước.

Nguyên nhân đưa đến cuộc chỉnh lý 30-1-1964

Đại Tướng Viên kể rằng :

“ Trong nội bộ các tướng lãnh: sau ngày Đảo Chánh 1-11-1963 thành công, trong hàng tướng lãnh trụ cột của cuộc đảo chánh có những bất đồng ý kiến về việc thành lập chính phủ mới, về việc sắp xếp nhân sự và quan trọng hơn là sự tranh công tranh quyền giữa các tướng với nhau, cho nên dẫn tới sự chia rẽ.

Ngoài ra Trung tướng Minh ỷ quyền là chủ tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng nên tỏ ra độc đoán trong mọi quyết định.

“ Chẳng hạn như ông Minh muốn đưa ông Nguyễn ngọc Thơ nguyên Phó Tổng Thống của ông Ngô Đình Diệm ra làm thủ tướng, nhìều tướng lãnh không đồng ý, vì cho rằng nguyên Phó Tổng Thống của chính phủ vừa bị lật đổ ra làm thủ tướng của chính phủ mới thì thật là vô lý, nhưng ông Minh cứ làm theo ý ông.

“Về phía Tòa Đại Sứ Mỹ thì ông Đăi Sứ đề nghị với ông Minh nên cử ông Trần quốc Bửu Chủ Tịch Tổng Liên Đoàn Lao Công ra lập chính phủ với lý do ông Bửu có nhiều uy tín trong giới bình dân và hiện trong tay ông Bửu có hơn 20 ngàn doàn viên của Tổng Liên Đoàn Lao dộng là lực lượng hùng hậu sẽ hỗ trợ cho chính phủ. Ông Dương văn Minh chẳng những không nghe mà còn ra lệnh cho thìếu tướng Đỗ Mậu bắt giam ông Trần quốc Bửu với lý do rất mơ hồ.

Thêm nữa, ông Minh lại gọi 2 người đã rời khỏi quân đội hồi năm 1955 đang lưu vong bên Pháp( vì chống ông Ngô đình Diệm) trở về hợp tác, đó là Thiếu tướng Nguyễn văn Vỹ và Đại tá Trần đình Lan (phòng2) trong quân đội Liên Hiệp Pháp; đìều này có vài tướng trẻ mới được thăng cấp như Thiếu tưóng Nguyễn hữu Có, Đỗ Mậu, Thiếu tướng Dương Ngọc Lắm, Trung tướng Trần Thiện Khiêm đều không đồng ý, bởi các vị này cho rằng ông Nguyễn văn Vỹ và ông Lan đã lỗi thời và đã rời khỏi quân đội lâu rồi, không còn thích hợp với quân đội hiện giờ nữa. Các ông Khiêm, Có, Lắm cho rằng, hiện nay trong quân đội có nhiều cấp tá trẻ có nhiều năng lực và được đào tạo chánh quy, cứ mạnh dạn giao việc cho họ, chứ cần gì phải gọi 2 người đó về hợp tác.

Ông Dương văn Minh chẳng thèm nghe mà vẫn cứ hành xử theo ý riêng mình dựa trên tình cảm cá nhân.

“Phần tôi (Đại tá Cao văn Viên) thì mỗi ngày trình diện ở Bộ Tổng Tham Mưu, nghe nói ông Minh định cho tôi giải ngũ, nhưng nhờ Trung tướng Khiêm tự ý cho tôi trở về nhẩy dù ngày 6-11-1963 mà không hội ý với ông Minh, vì việc này nằm trong thảm quyền của ông Khiêm.

Về sau mới biết, sở dĩ ông Khiêm hành động như vậy vì ngày 5-11-1963, ông Minh nói với ông Khiêm rằng Đại tá Nguyễn Chánh Thi ở Campuchia sắp về, ông Minh sẽ cho ông Thi chỉ huy lại Lực Lượng Nhẩy Dù, diều này chính ông Khiêm không muốn, nên hành động trước một bước, vì nếu để ông Nguyễn Chánh Thi chỉ huy nhẩy dù thì khi ông Khiêm muốn mưu đồ gì cũng không thể xử dụng lực lượng nhẩy dù được vì ông Khiêm với ông Thi không thân nhau, vả lại cũng còn ngờ vực không biết ông Thi còn ôm mối hận ngàỳ 11-11-1960 cách 3 năm trước hay không.

Ngày 8-11-1963 Đại tá Nguyễn Chánh Thi từ Nam Vang đi đường xe về tới Gò Dầu Hạ, được ông Khiêm cho trực thăng đi đón về Tổng Tham Mưu, sau đó ông Khiêm cử ông Thi làm chủ tịch Ủy Ban Điều Tra tài sản và tội ác của ông Ngô đình Cẩn, thế là ông Thi trở ra miền Trung làm việc.

Từ những việc như vậy đưa đến những xích mích giữa ông Khiêm và ông Minh, rồi một ngày vào hạ tuần tháng 12-1963, ông Minh cử ông Khiêm đi công du qua Nhật và Đài Loan, ở nhà ông Minh giao cho Trung tướng Lê Văn Kim thay thế Trung tướng Khiêm giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng Liên Quân (không làm lễ bàn giao), đến khi ông Khiêm trở về thì ông Minh chỉ định ông Khiêm làm Tư Lệnh Quân Đoàn III chia bớt nhiệm vụ của Trung tướng Đính đang kiêm nhiệm Bộ An Ninh. Thời gian này Quân Đoàn III còn nằm trong trại Lê văn Duyệt Sài Gòn chưa dời lên Biên Hoà. Vậy là ông Khiêm bị hạ tầng công tác nên ông Khiêm trở nên bất mãn.

Nguyên nhân bên ngoài

Ông Dương văn Minh gây cho Đại Sứ Mỹ cú “sốc” đầu tiên là không nghe theo đề nghị của Đại Sứ Mỹ đề cử ông Trần Quốc Bửu làm thủ tướng mà ông Bửu còn bị bắt giam với tội danh mơ hồ.

Sau khi đảo chánh thành công, ông Minh thường liên lạc với đại sứ Pháp ờ Sài Gòn, hơn là đại sứ Mỹ, và có vài lần ông Minh mời Đại Sứ Pháp đến dinh “Hoa lan” của ông Minh dùng cơm tối, có sự hiện diện của ông Đôn, ông Kim, ông Xuân …mà không có sự hìện diện của viên chức Mỹ nào cả. Việc này không qua khỏi cặp mắt “cú vọ” của cơ quan CIA ở Sài Gòn khiến họ đâm ra hoài nghi.
Ngoài ra mỗi khi có việc phải giao tiếp với viên chức của toà đại sứ Mỹ và Bộ Tư Lệnh M.A.C.V, các ông Minh, Đôn, Xuân, Kim …chỉ nói toàn tiếng Pháp mà không nói 1 câu tiếng Anh nào, điều này cũng gây khó chịu và tự ái đối với các viên chức Mỹ không ít, và họ nghĩ là các tướng có khuynh hướng thân Pháp.

Tổng hợp những chuyện kể trên đưa đến cuộc chỉnh lý ngày 30-1-1964.

Chiều ngày 29-1-1964 tướng Khiêm mời tướng Khánh ở Đà Nẵng về Sài Gòn, nói có chuyện cần bàn với tướng Khánh, rồi tướng Khiêm gặp tôi (Đại tá Viên) chỉ thị cho tôi chuẩn bị lực lượng nhẩy dù đi bắt 5 vị tướng: Đôn, Kim, Xuân, Đính,Vỹ và người thứ 6 là Thìếu tá Nhung (người đã giết ông Ngô đình Diệm và ông Ngô đình Nhu), Thiếu tá Nhung đang ở trong nhà Trung tướng Dương văn Minh.

Tôi đề nghị với Trung tướng Khiêm nên giao người khác đi bắt ông Đôn và ông Đính, chứ tôi rất khó xử nếu phải đi bắt 2 người mà cách đây 3 tháng đã là ân nhân cứu tử tôi. Trung tướng Khiêm thấy đề nghị của tôi hợp lý nên giao cho tiểu đoàn 2 TQLC lúc đó do Thiếu tá Cổ Tấn Tinh Châu làm TĐT đi bắt tướng Đôn và tướng Đính.

Lệnh tổng quát của Trung tướng Khiêm cho 2 tôi và Thiếu tá Châu là không được liên lạc hoặc tiếp xúc với bắt cứ ai cho đến khi hoàn thành nhiệm vụ.

Thời gian này tất cả mọi đơn vị muốn vào lãnh thổ Biệt Khu Thủ Đô phải có lệnh của Tư Lệnh QĐIII, và riêng TĐ2/TQLC vì đang đóng quân bên ngoài lãnh thổ Biệt Khu Thủ Đô nên Trung Tướng Khiêm ký sự vụ lệnh giao cho 1 đại úy thuộc QĐIII đem đến cho TĐT/TĐ2/TQLC để di chuyển tiểu đoàn vào BKTĐ mà không bị ngăn cản.

Trung Tướng Khiêm ra lệnh cho Thiếu tá Phạm bá Hoa chuẩn bị 1 xe dodge truyền tin để theo dõi việc đi bắt 5 ông tướng mà chính Thiếu tá Hoa phải trực máy truyền tin.

Giờ xuất phát đi bắt là 23 giờ và các đường giây điện thoại ở nhà 5 ông tướng đã bị ông Khiêm cho lệnh cắt đứt hết rồi, không liên lạc được với ai cả.

Đúng 23 giờ tôi được lệnh xuất phát để bắt 3 ông tướng: Mai hữu Xuân, Lê văn Kim và Nguyễn văn Vỹ, rồi sau cùng đến bắt Thiếu tá Nguyễn văn Nhung tại nhà của ông Dương văn Minh.

Tiểu đoàn 2/TQLC được giao nhiệm vụ đi bắt 2 ông tướng Tôn thất Đính và Trần văn Đôn , cả 2 đơn vị xuất phá cùng một lúc.

Đến khoảng 2 giờ sáng 5 vị tướng : Đôn, Kim, Xuân, Đính, Vỹ được đưa vô Bộ Tổng Tham Mưu, riêng th/t Nhung thì tôi đưa về trại Hoàng Hoa Thám bản doanh của lữ đoàn nhẩy dù.

Trung tướng Nguyễn Khánh ở Đà Nẵng được Trung tướng Khiêm mời về Sài Gòn từ chiều, đang ở nhà chờ, đến bấy giờ mới được tướng Khiêm mời vào BTTM cho biết:”Nhiệm vụ của tôi (tướng Khiêm) tới đây đã xong, phần còn lại tôi giao cho anh (tướng Khánh) chuẩn bị sáng mai anh họp báo.

Tướng Khánh nói: ”công của anh thì anh làm luôn đi”. Tướng Khiêm vẫn khước từ và gợi ý với tướng Khánh, khi họp báo cứ nói các ông đó có ý định “trung lập thân Pháp” nên mình phải ra tay ngăn chặn.

Trung tướng Khánh liền gọi ra Quân Đoàn I Đà Nẵng dặn dò chuyện gì đó, rồi Đại tá Thi nghe được lièn bay vô Sài Gòn kịp sáng sớm vào TTM ngồi họp báo chung với tướng Khánh, điều này khiến báo chí và dân chúng tưởng rằng ông Khánh và ông Thi làm cuộc chỉnh lý, chứ không biết rằng trong đêm 1 mình tướng Khiêm đích thân chỉ huy 2 vị sĩ quan cấp tá là tôi và Thiếu tá Cổ Tấn Tinh Châu đi bắt 5 ông tướng và Thiếu tá Nhung, xong rồi mới giao cho ông Khánh.

Tóm lại ông Khiêm dọn sẵn “mâm cỗ” cho ông Khánh hưởng.

Hôm saụ 5 vị tướng bị chỉnh lý được phi cơ chở ra Đà Nẵng rồi vài ngày sau lại chở vô quản thúc ở Đà Lạt. Ông Khánh lên làm thủ Tướng từ lúc đó.

Số phận của Thiếu tá Nhung

Đại Tướng viên kể lại rằng:

“Khi tới nhà ông Minh để bắt Thiếu tá Nhung thì tôi gặp ngay tướng Minh, ông hỏi lệnh của ai biểu bắt,

Tôi (Đại tá Viên) trả lời: lệnh của Trung tướng Trần thiện Khiêm.

Ông Minh hỏi: ông Khiêm hiện giờ ở đâu?

Tôi trả lời: thưa Trung tướng tôi không biết.

Ông Minh lại hỏi tiếp:vậy đại tá nhận lệnh của ông Khiêm từ lúc nào? lý do nào bắt cận vệ của tôi.

“Tôi đáp: xin tr/t hỏi ngay Trung tướng Khiêm, còn tôi chỉ thi hành lệnh.

Liền đó tướng Minh bốc điện thoại gọi ai đó, nhưng gọi không được, bèn dằn mạnh điện thoại xuống bàn, thấy vậy tôi nói :”điện thoại bị cắt giây rồi, trung tướng không gọi được ai đâu”, tôi chào tr/t Minh rồi dẫn Thiếu tá Nhung ra xe đưa về trại Hoàng Hoa Thám.

Tại đây tôi giao Thiếu tá Nhung cho sĩ quan an ninh nhẩy dù hỏi cung th/t Nhung, chủ yếu ở điểm: ai ra lệnh giết Tổng Thống Ngô đình Diệm và ông cố vấn Nhu? Sĩ quan an ninh nhẩy dù đưa giấy, viết bắt ông ta tự viết lời khai để làm chứng cớ. Sau khi lấy lời khai xong, khuya ngày hôm sau sĩ quan an ninh (cấp bậc trung úy) cho người vô phòng giam bóp cổ Nguyễn Nhung chết rồi lấy giây giầy”saut” của chính ông Nhung thắt vòng treo cổ Nguyễn Nhung lên trần nhà.

Đêm đó tôi về nhà ngủ, sáng sớm hôm sau, sĩ quan trực ở trại Hoàng Hoa Thám đìện thoại báo cáo tôi: Thiếu tá Nhung thắt cổ tự tử chết rồi, tôi bảo sĩ quan trực gọi bác sĩ Văn văn Của, lúc ấy là Thiếu tá y si trưởng Nhảy Dù ráng cứu chữa ông ta coi có thể sống lại được không? .

Sau đó y sĩ thiếu tá Văn Văn Của điện thoại báo tôi: “Thưa Đại tá hết phương cứu chữa rồi” và ông Của làm bản báo cáo, y chứng xác nhận, “Thiếu tá Nhung đã chết do thắt cổ tự tử”. Cuộc điện đàm này tôi có cài máy ghi âm để thủ thân về sau này.

Trong lời tự khai của Thiếu tá Nhung, ông ta nói rằng ông Dương văn Minh ra lệnh cho ông ta giết ông Nhu trước khi đoàn xe về tới Bộ TTM, ngoài ra trên đường di chuyển nếu có sự bất trắc gì xẩy ra thì chỉ nghe theo lệnh của Thiếu tướng Mai Hữu Xuân mà thôi, khi ông Nhung đâm ông cố vấn Nhu thì bị ông Diệm chống cự quyết liệt nên buộc lòng ông Nhung phải giết luôn ông Diệm

Ngoài ra khi khám tử thi của Thiếu tá Nhung, sĩ quan an ninh lấy ra được một mẩu giấy viết sẵn giấu trong quần, định tìm cách gửi về nhà, nhưng chưa gửi được. Nội dung như sau:”Em ơi! Bọn Diệm, Nhu sống lại rồi, chắc anh phải chết, nếu anh có mệnh hệ gì,em phải ráng nuôi các con cho khôn lớn, anh đang bị nhốt trong lữ đoàn nhẩy dù”.

Lời tự khai và cái thơ riêng gửi cho vợ của Thiếu tá Nhung được đưa cho Trung tướng Khánh giữ.”

Nhận định riêng của người viết:

Về cái chết của Thiếu tá Nhung, tôi nghĩ rằng vị sĩ quan an ninh nhẩy dù không dám tự ý hành động, mà phải có lệnh của 1 trong 3 vị: Tuớng Khánh, Tướng Khiêm hoặc Đại tá Viên? Nhiều lần tôi muốn hỏi Đại tướng Viên nhưng lại rụt rè không giám hỏi vì sợ Tướng Viên giận và cho rằng tôi tò mò.,

Theo tôi cuộc chỉnh lỷ 30-1-1964 chắc chắn phải có bàn tay “phù thủy” của Mỹ thúc dẩy cho Tướng Khiêm thực hiện, mà nguyên nhân chánh là do Trung tướng Dương văn Minh làm phật lòng người Mỹ, nhưng ông Minh không bị loại vì lúc bấy giờ dân chúng và khối phật giáo Ấn Quang vẫn còn xem ông Minh như người hùng ”cách mạng” nếu loại hẳn ông Minh sợ e có xáo trộn xã hội và sợ Thượng toạ Thích trí Quang sách động Phật tử “xuống đường”ủng hộ ông Minh . Còn 5 ông tướng bị chỉnh lý vì thân tín với ông Minh nên bị làm vật tế thần, bị chụp lên đầu cái mũ”trung lập thân Pháp”, để chặt hết tay chân của ông Minh, biến ông Minh thành “con cua bị gẫy càng” ngồi đó nhìn ông Khánh tung hoành.

Phụ chú;

Những điều tôi thuật lại cho quý độc giả trên đây là tôi được nghe đại tướng Viên kể lại lúc tôi đang là sĩ quan tùy viên của ông,

Sau này vào tháng 8 năm 2004, tôi từ Cali qua Virginia thăm Đại tướng Viên trong 1 nursing home, tình cờ có Đại tướng Khiêm tới, ông Viên, ông Khiêm và tôi cùng ngồi nói chuyện chung, đây là dịp may hiếm có, tôi hỏi Đại tướng Khiêm vài điều mà tôi ấp ủ từ lâu vì không biết hỏi ai cho chính xác.

Tôi hỏi:

-Thưa Đại tướng, em nghe nói ngày đảo chánh 1-11-1963 có 1 người Mỹ ở trong phòng của Đại tướng ngay từ giờ phút đầu để theo dõi cuộc đảo chánh, em muốn biết lời đồn đó co đúng không?

Đại tướng Khiêm nói:

– Lời đồn đó đúng, người Mỹ đó là Trung tá Conein, ông ta ở trong 1 phòng nhỏ sát phòng làm việc của tôi sau tấm vách ngăn mà không hề bước qua phòng tôi trong thời gian tiến hành đảo chánh. Tôi cho chú biết thêm, ông Conein này là 1 sĩ quan trưởng của 1 toán tình báo Mỹ đã từng nhẩy dù xuống vùng Việt Minh kiểm soát ở miền Bắc, Việt Nam năm1945 để giúp Hồ Chí Minh đánh Nhật, ông ta là người biết nhiều về Hồ Chí Minh và mặt trận Việt Minh.

Tôi hỏi tiếp :

– Thưa Đại tướng, em được biết, sau khi Đại tướng làm cuộc chỉnh lý ngày 30-1-1964 Thiếu tá Nhung đã khai, ông Minh ra lệnh cho ông ta giết ông Diệm, ông Nhu , lời khai đó chân thật không? Liệu sau lưng ông Minh có 1 thế lực nào khác thúc đẩy ông Minh làm chuyện đó không?

Đại tướng Khiêm trả lới:

– Chú nghe kỹ tôi nói đây:”trước ngày đảo chánh (1-11-1963) tôi đưa ra 1 điều kiện tiên quyết với ông Minh, liên quan đến Tổng Thống Diệm như sau: phải bảo đảm sinh mạng Tổng Thống Diệm và để T/T Diệm bình an xuất ngoại. Ông Minh và ông Kim đều đồng ý, sở dĩ có ông Kim vì mới đầu ông Kim có 1 nhóm riêng cũng âm mưu đảo chánh, về sau 2 nhóm mới kết hợp lại.

Khi biết ông Diệm , ông Nhu bị giết, lúc ấy tôi mới biết luôn Đại tá Quyền, Đại tá Tung và em của Đại tá Tung là Lê Quang Triệu cũng bị giết, còn ông này (ông Khiêm vừa nói vừa nhìn qua ôngViên) cũng bị còng tay, may mà ông Đính thấy kip chứ không thì cũng theo Hồ Tấn Quyền và Lê Quang Tung rồi (ông Viên và ông Khiêm cùng cười).

Ông Khiêm nói tiếp:

– Tôi ở văn phòng của tôi trên lầu. Còn ông Minh, ông Kim, ông Đôn ngồi ở phòng của Đại tướng Tỵ, lúc đó Đại tướng Tỵ đang dưỡng bệnh, nên ông Đôn làm quyền Tổng Tham Mưu Trưởng. Họ hành động lén lút, giấu không cho tôi biết rồi họ quyết định với nhau tôi có hay biết gì đâu.

Chú nghĩ coi: ông Diệm đã gọi đìện thoại bảo cho xe đến đón ông về TTM, như vậy nghĩa là ông đã đầu hàng rồi, tại sao lại giết người đầu hàng. Ông Minh, ông Kim độc ác quá! Cho nên tôi bất mãn với 2 ông ấy từ lúc đó.

Còn chú hỏi liệu có thế lực nào khác thúc đẩy ông Minh giết ông Diệm, tôi cho chú biết thêm chi tiết này: khi ông Conein ở trong phòng nhỏ bước ra phòng tôi, trung tướng Minh cho ông ta biết ông Diệm và ông Nhu chết rồi, ông Conein tỏ ra tức giận không nói với ông Minh một lời,ông quay trở vào phòng và thốt lên một câu:”Do a terrible thing”rồì một lúc sau ông Coneil bỏ ra về. Thế đó chú tự suy nghĩ”.

Tôi cám ơn Đại tướng Khìêm, rồi chúng tôi tiếp tục nói chuyện linh tinh khác suốt cả buổi sáng hôm đó.

Thân phận của một Quốc Gia nhược tiểu là như vậy.


Đặng Kim Thu
Cựu Sĩ quan tùy viên
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=542473786223514&set=gm.2030858403618927&type=3&theater&ifg=1

BachMa
06-23-2019, 03:36 AM
LHTong Viết Về Lập-Bụng Cơ Phi 231 Biên-Hòa - 235 Dê-Cụ Pleiku
LHTong

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1561260514-HQPD_LapBungCoPhi231.jpg
Hình chụp năm 2013 tại nhà Tài
Nhớ đến Lập-Bụng, tôi quên mất Lập-Bụng đang ở Texas. Nhớ Lập-Bụng hồi còn ở phi đoàn, thường ngày, mỗi sáng lên Tây-Ninh nằm chờ bay đánh bên Kampuchia. Có những trưa hợp đoàn lại bị điều về hành quân ở Hậu-Nghĩa hay Củ-Chi, rồi lên nằm lại Tây-Ninh ăn cơm trưa. Tôi bỏ chiếc Gunship mò xuống đám Slicks đậu bên dưới kiếm mấy bạn mình trò chuyện. Đi ngang thấy mấy anh chen chúc trên một con tàu binh xập-xám ồn như đám chợ, xuống gần chiếc trail thì thấy Lập-Bụng ngồi dựa ngữa vào vách transmission đang ăn bịch gạo sấy của ảnh, hộp thịt ba lát và cá tuna để gác trên bụng ảnh mà không nghiêng đổ. Tôi ghé lại cười hỏi :

- Sao giờ này mới ăn, Lập-Bụng?

- Cơm hăm nóng dưới exhaust bây giờ mới chín a !

Lập-Bụng hề hề cười trả lời. Anh ngồi thẳng dậy mà hai hộp thịt vẫn không lật đổ, đủ biết cái bụng của ảnh bự cỡ nào rồi, thật là tiện lợi, ăn cơm hay uống cà phê không cần kê bàn.

Lập-Bụng dễ thương lắm, cái gì cũng hề hề, vừa cười vừa vổ cái bụng.

Có một lần ở phòng hành quân, Lập-Bụng đứng bên bàn trực trước bảng phi lệnh xem phi vụ ngày mai. Sĩ quan trực muốn nhìn bảng phi lệnh để ghi vô sổ trực, nhưng vì bị cái bụng của Lập-Bụng che khuất, anh không kêu hắn tránh đi mà cứ đẩy miết cái bụng của hắn, anh Sĩ quan trực đẩy một hồi Lập Bụng mới la làng:

- Cái gì mà cứ cái bụng của tui Thiếu-úy đẩy đi đẩy lại hoài dzậy!

- Ha... Ha... Ha...

Nghe Lập-Bụng kể phi vụ bay cho Dù bên Kampuchia, hôm đó phi hành đoàn gồm Tr/u Hùng là Trưởng phi cơ, copil là Th/u Khoái, gunner là Hoàng, khi tàu lên vùng theo lệnh đúng ra phải chờ gunship đến cover rồi cùng vào bãi nhưng không hiểu sao anh Hùng không chờ mà tự một thân một tàu low-level vô, không thấy bãi đáp vì đã quá target phải làm 180 độ quay ra dưới hỏa lực kinh hoàng của lũ vẹm:

- Tao thấy rõ mồn một cả bộ kaki vàng của chúng mặc trên người, AK cứ chĩa lên bụng tao nhả đạn không ngừng. Lập-Bụng nói tiếp:

- Đạn ghim vào thân tàu nghe lốp bốp lẫn tiếng la của Tr/u Hùng trong nón bay. Tàu trúng đạn nhưng Tr/u Hùng vẫn điều khiển cho tàu lết được vào sát chỗ phòng thủ của bạn Dù mới làm một cái ầm xuống bùn lầy. Tụi tao chạy bán sống bán chết mới vô tới bộ chỉ huy Dù nhờ vào đám bạn Dù mình nằm thủ ở vòng ngoài yếm trợ. Rồi thủ ở đó một đêm chờ đến sáng Th/u Quá mới bay vô bốc về.

Anh Khoái kể lại phi vu này xẫy ra vào cuối trận đổ quân vào Kampuchia:

- Hôm đó phi hành đoàn trực spare nhận lịnh tản thương cho Dù vào lúc 5 giờ chiều. Phi vu không có Gunships cover, nhưng có C&C, chúng tôi không đổ xăng ở Tây-Ninh, lên đến Thiện-Ngôn, qua biên giới rồi 180 độ vòng lai xuống low- level vào final LZ. Vì anh Hùng quẹo trái theo C&C luôn, tàu lách qua những cây cao không thấy panel bên phải. Phòng không 12.7 ly trên chán ba bắn trực xạ vào trươc mặt chúng tôi. Tiếng đạn xé lủng thân tàu khiến tàu rung lên. Bảng phi cụ tất cả warning caution light, fire detecor ré ầm trong tai nghe! Máy tắt, hydrolic off, control lock.. Tôi gọi Mayday 555 normal! Tàu trường đi với tốc đô tối đa. Tôi khoá shoulder harness! Giây phút tử thần đang gọi, tôi chỉ còn nhớ đến Mẹ tôi mà thôi.. Chúng tôi cùng kéo cyclic tàu đã lao vào bãi sình lăn quay hai ba vòng. Tôi và anh Hùng còn seatbelt nên vẫn giử yên trên ghế, Lập và Hoàng văng ra ngoài. Chắc lúc đó đến vẹm cũng không nhìn ra chúng tôi vì người đầy bùn sình...

Anh Quá đã đón về ở Trại Bí trên biên giới tối hôm đó. Cả phi đoàn đón chúng tôi tại runwa y Spartan. Không biết phép lạ nào che chở chúng tôi giây phút đó? Tôi thực sự thấy tử thần từ chối chúng tôi nên vui mừng lắm! Anh Hùng, Lập, Hoàng đang ở nơi đâu trên thế giới này còn nhớ đạn bay trực diện, nhưng đạn tránh mình, ở trên, dưới, bên phải bên trái mà thôi! Hãy lên tiếng nhé!

Có lần tôi hỏi Lập-Bụng về Tân-Sơn-Nhất xin đi pilot hắn mới kể:

- Tao thi lại Tú-Tài1 đã đậu hồi năm 1971 mãi đến năm 73 tao thấy Lưu-Văn-Tiên và Trần-Văn-Điệu về Tân-Sơn-Nhất ghi tên đi Pilot thì cũng hùa theo.

Lập-Bụng nói không may cho hắn vì Phòng Nhân Viên Ban Hồ Sơ tra ra hắn bị ký củ 7 ngày nên bị loại không cho đi sĩ quan.

Nguyên do 31 thằng cơ phi chúng tôi khi mãn khóa cùng về Biên Hòa, trong khi chờ Phi Đoàn 231 tân lập thành hình thì tụi này biệt phái cho phi đạo. Lúc này Tài-Sòi làm trưởng toán huớng dẫn anh em đi ký "xuyệt-ki", ngày ngày lên xuống Sài Gòn Biên Hòa mà Bắc-kỳ Hà-Đăng-Thăng hay dụ dỗ, hắn cứ lãi nhãi:" mai nễ, mai nễ ! " ( "lễ" mà nó nói thành "nễ", ý nghĩa ngày mai là ngày lễ nên anh em nghỉ ), và anh em "nghỉ nễ " thiệt, bởi vậy lúc về lại trình diện thì cả đám bị chở hết ra Quân Cảnh nhốt ở Cổng số 1. Nhớ lại mấy chục thằng bị dồn trong bốn bức tường không đủ không khí nóng khát khô cả cổ phải nhờ đến Nguyễn-Nùng-Sơn, thân người hắn như con cá lẹp, chỉ có hắn mới chui lọt song sắt bò ra ngoài lấy nước cho anh em uống, nhưng anh em chỉ bị nhốt đến chiều tối thì được thả về. Riêng Lập-Bụng vì dzọt quá lâu, hắn về đến nhà ở Rạch-Giá nên bị ký nặng 7 ngày tù và bị ghi cả vô hồ sơ.

Thế là mộng Pilot của Lập-Bụng tan theo trái khói, hắn chỉ biết gục đầu lầm bầm kêu ... mẹ...! Sau này chỉ có Tiên và Điệu về trường sinh ngữ bổ túc tiếng Mỹ, Tiên tiếng Mỹ điểm cao kịp lúc đi học A-37, còn Điệu đi sau học UH-1. Qua đến bển cho đến lúc miền Nam Việt Nam bị Mỹ bỏ rơi cúp cả viện trợ thì lúc đó Tiên đã phi huấn xong nên được giữ lại, còn Điệu đang phi huấn bị trả về.

Nhắc lại khi Lập-Bụng mang hận trở về lại phi đoàn tiếp tục cái định-nghiệp cơ phi của hắn, rồi một ngày rất xấu hắn lại bóc trúng cái thăm bị đổi đi Pleiku.

Ôi là cái xứ mây mù buồn muôn thuở có tiếng, cái xứ quan với lính hay bất mãn vì coi như bị đì. Từ đó hắn tự an ủi nên thuờng hay ca bài nhạc "Em Pleiku má đỏ môi hồng", thôi thì "may mà có em, đời còn dể thương", hắn lủi thủi xách "xắc-ma-ranh" ra ngồi C-123 bay đi Tây- nguyên về Phi Đoàn 235, một Phi đoàn có huy hiệu "con Dê Xồm" hay "Dê Cụ" dzậy mà mang cái tên thật hung là Thiên Lôi hay là Sơn Dương!

Nhưng thật cũng may, trên đó Lập-Bụng không có một mình mà một điều an ủi cho Lập-Bụng là trên đây đã có Quan-The House, Thị-Hầu, Huỳnh-Quang-Thọ cũng từ 231 đi trước coi như sẳn có "phe ta" sớt bớt nỗi cô đơn trong hắn. Phút giây đầu tiên bước chân mới đặt xuống phi trường Cù-Hanh là Lập-Bụng có cảm giác đất này không thể dung thân mình được rồi. Gió cát mịt mù, bụi mờ hay sương đang giăng kín những ngọn núi xa xa kia càng nhìn sao mà càng thúi ruột.

Lập-Bụng nói mình ở Biên Hòa quen làm lính con nhà giàu, có barrack đầy phòng trống lại sạch sẽ, có phòng trực máy lạnh giường nệm và cả giàn stereo thiệt là con ông cháu cha. Giờ ra đây, mẹ ơi... ở tập thể, tao trình diện xong về phòng thì hết giường cho tao ngủ cũng may có một số anh em đi phép tao mới có chỗ ngã cái lưng, đồ đạc thì nhét tạm vô tủ của Thị-Hầu.

Thiệt không quen cái xứ Thượng này nên trong buổi họp ở Phòng Hành Quân khi Phi Đoàn Trưởng hỏi mấy anh em cơ phi xạ thủ, nhất là mấy anh mới về có ý kiến gì không? Lập-Bụng liền ủi một câu thẳng thừng:

- Thưa Th/tá, bây giờ nếu Th/tá cho tôi về thì tôi về luôn Sài Gòn liền không trở lại nữa. Tôi chịu hết nổi cái xứ sình lầy đất đỏ nhìn đâu cũng thấy sương mù này rồi!

Vậy mà Lập-Bụng cũng biết mang lại một phút thư giãn cho cả Phòng Hành Quân đến Th/Tá PĐT cũng phải động lòng không ngừng an ủi anh em binh sĩ của mình.

Pleiku gió núi mưa rừng
Mây Trường Sơn phủ mù vương cuộc đời.
(Trần Ngọc Nguyên Vũ)

Chiến trường Vùng Cao Nguyên hay khắp cả các nơi cuối năm 1973 không ai mà không biết, bắt đầu những trận chiến một mất một còn mà Lập-Bụng kể phòng không của địch nó bắn thế nào mà không còn thấy gì hết chỉ thấy khói với lửa, tao ngồi chiếc C&C bay cả 9000 bộ mà phòng không 57 ly của chúng cứ nổ quanh, hợp đoàn có chiếc nào còn chiếc nào mất cũng chả thấy, một hồi lâu mới thấy anh em từ trong đám khói chui ra lúc đó mới biết là còn sống mà trở về.

Lập-Bụng hiện ở Texas. Hắn điện thoại thăm tôi, hai anh em nói chuyện vui lắm. Để kể các anh em mình nghe. Lập-Bụng nói:

- Tao cũng tơi bời hoa lá lắm Tống ơi. Năm 2001 bà chị với ông anh rể cũng là pilot L-19 ở Mỹ bảo lãnh cho gia đình tao đi Mỹ nhưng khi làm thủ tục qua được phỏng vấn rồi mà cái mặt tụi tao méo mó như cái bánh bèo vì mấy đứa con không được đi, lý do tụi nó đã quá tuổi trưởng thành. Trời ơi, hai vợ chồng tao qua đến Mỹ cũng đã già quá rồi, tiếng Mỹ lại không biết một chữ chẳng biết làm cái gì, hồi đi học thì tao chọn sinh ngữ Pháp nên chỉ biết được vài tiếng Pháp thôi. Vợ chồng tụi tao làm bao nhiêu tiền cứ điện thoại về VN cho con cái còn không đủ thì lấy đâu mà ăn ngon mặc sướng.

Nghe Lập-Bụng than mà tội. Giờ thì sau cơn mưa trời đã nắng rồi!

Hắn kể lại có lần bị công an kêu lên nói anh là Đại úy sao khai là Thượng sĩ.

- Chời ơi, tao có đeo lon Đại úy hồi nào đâu mà bây giờ bị chỉ điểm là khai gian. Công an cứ kêu tao lên lấy lời khai quài mậy. Ba hồi nói Đại úy, ba hồi nói tao Trung úy. Tao hỏi tại sao nói tao là Đại úy Trung úy? Tụi nó nói hàng xóm thấy ông mặc áo bay, mặc áo bay thì quá gõ gàng gồi, ông là sĩ quan mà!

Tao mới tá hỏa, thì ra từ trước tới giờ tao chỉ mặc đồ lính hai mảnh chứ có bao giờ tao mặc đồ bay đâu, hôm đứng gác quan tài anh Ngọc-Già thì Th/sĩ1 Hưởng kêu tao mặc đồ bay nên khi về nhà hàng xóm nó thấy mới nghĩ tao là sĩ quan. Còn Đại úy Trung úy tụi nó tự cài cho tao. Dzậy mà khi làm xuất cảnh tao cũng bị nghi ngờ nữa. Rồi thì người ngay gặp may, mọi sự trắc trở đều qua!

Mấy anh mấy bạn mình nghe mà càng thương cho Lập-Bụng. Tôi thích nghe hắn càm ràm đủ thứ chuyện cả 2 tiếng đồng hồ mà chẳng ngán chút nào!

Ha... Ha... Ha...


LHTong
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=450969079014258&set=a.122067898571046&type=3&theater&ifg=1

BachMa
06-28-2019, 03:26 AM
Thôi ! Mình Về Linh Xuân Thôn, Đi Em !
Phan Công Tôn

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1561691640-HQPD_LinhXuanThon.jpg
Hình minh họa
Chiếc xe Jeep nhà binh chạy thật khó khăn giữa luồng xe cộ tấp nập từ đường Trần Hưng Đạo đổ vào đường Lê Lợi, nhất là lúc ngang khu bùng binh trước chợ Bến Thành. Lúc đó vào khoảng 10 giờ đêm, nhưng khu vực từ chợ Bến Thành dọc theo đường Lê Lợi vẫn đông nghẹt người ta! Hôm nay là ngày 25 tháng Chạp, gần cao điểm của thời gian Chợ Tết!

Hùng lái xe, bên cạnh là Hoàng và băng sau là chú tài xế, luồng xe cộ chạy thật là chậm, phần vì quá nhiều xe đang lưu thông, phần khác gây nhiều khó khăn và căng thẳng hơn, vì khách bộ hành cứ băng đại ngang đường bất cứ chỗ nào họ muốn. Cả 3 người trên chiếc xe Jeep đang thắc mắc và trao đổi nhau những câu hỏi liên quan đến việc rất nhiều người vẫy gọi Taxi dọc đường, nhưng các tài xế Taxi cứ khoác tay từ chối, mặc dù trên xe không có khách! Họ đã có khách hẹn trước ở một địa điểm nào đó chăng? Họ không muốn đón khách trong khu vực này vì không có khoảng trống để tấp vào? Hoặc họ không muốn đón những người khách với quá nhiều đồ đạc cồng kềnh vừa mua sắm?

Khi xe đang chạy trên con đường trước Khách sạn Caravelle (bên hông tòa nhà Quốc hội), bỗng một toán người vẫy tay gọi, hình như họ muốn xin “quá giang”, Hùng đã lái trờ tới bỏ lại phía sau nhóm người này, vì khúc đường này không còn bị kẹt xe nên tốc độ khá nhanh. Hoàng nói lớn: “Hùng! Hùng! Ghé lại cho họ ‘quá giang’ làm phước!”. Nghe vậy, Hùng tấp vào lề và lui xe lại. Toán người xin “quá giang” chạy ùa tới, họ gồm có 4 người, một cô gái khoảng 17, 18 và 3 cô, cậu bé khoảng từ 12 tới 14 tuổi.

Hoàng nhảy xuống xe để lo sắp xếp chỗ ngồi, thấy cô chị trồng trộng nên Hoàng tỏ ra “galant”, mời cô ta ngồi ghế phía trước với một bé gái, Hoàng chui ra băng sau với chú tài xế và 2 “nhóc” kia. Dĩ nhiên rất là chật vì băng sau có tất cả 4 người với quà mới mua ở chợ Tết, các “nhóc” không ai than phiền gì cả, ngược lại rất là vui và cảm thấy rất hạnh phúc và biết ơn.

Qua lời cô chị lớn cho biết, sau khi mua sắm xong, mấy chị em ra về. Bắt đầu đón Taxi từ đầu đường Lê Lợi, đợi hoài đợi mãi, chẳng có Taxi nào chịu ngừng. Cuối cùng phải đi bộ dọc theo đường, vừa đi vừa đón xe để cầu may, nhưng vẫn không có. Khi tới khúc đường này, thấy cái xe “nhà binh”, cả toán cứ vẫy đại, cô chị lớn nói “mấy ông nhà binh ‘chịu chơi’ lắm, có thể họ giúp mình ... ” May quá, toán này được giúp thật!

Hùng hỏi nhóm này muốn đưa về vùng nào thì được biết ở Gia Định, gần khu chợ Bà Chiểu. Khi xe chạy ra tới đường Thống Nhất, Hùng ngỏ ý với Hoàng là cần phải ghé qua Đại đội để xem có việc gì không, trước khi đưa toán “quá giang” này về Bà Chiểu.

Hùng và Hoàng đang phục vụ tại một Tiểu Đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Hùng, Trung úy, Đại Đội Trưởng, Đại đội tác chiến, Hoàng, Trung úy thuộc Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn, kiêm Trung Đội Trưởng Trung đội súng cối 81 ly. Đơn vị đang hành quân ở Vùng 4 Chiến thuật từ mấy tháng nay, cách đây 4 ngày, đang hành quân ở Vĩnh Long thì được lệnh cấp tốc chuyển về Saigon.

Sau khi lật đổ cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm năm 1963, chính quyền SàiGòn thường bị rơi vào tình trạng “chỉnh lý”, “biểu dương lực lượng” của các vị Tướng lãnh. Mỗi lần có những “sự kiện đặc biệt” như vậy, các đơn vị Tổng Trừ Bị như Nhảy Dù hoặc Thủy Quân Lục Chiến được điều động về Thủ đô để kịp ứng phó với tình huống mới.

Lần này cũng vậy, Tiểu đoàn được điều động về SàiGòn một cách bất thường chứ không phải được về nghỉ dưỡng quân tại hậu cứ ở Thủ Đức như thường lệ sau một cuộc hành quân dài. Đại đội của Hùng được đóng quân tại Sở Thú SàiGòn và Sở Thú tạm thời ngưng hoạt động trong thời gian này.

Hơn 1 giờ trước đây, Hoàng từ Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn (tạm đóng bên Trại Nguyễn Văn Nho, ở Thị Nghè) “dzọt” qua thăm Hùng và rủ Hùng đi “nghễ” một vòng SàiGòn vì lâu lắm chưa được “ngửi” mùi SàiGòn. Hoàng gốc người Quảng Trị và thích dùng chữ “nghễ”, được hỏi về nghĩa của chữ này thì Hoàng nói “cứ coi như là rửa mắt vậy mà !”.

Nói của đáng tội, chỉ đi một vòng vậy thôi chứ có “nghễ” hoặc “rửa mắt” cái gì đâu! Một phần vì ban đêm, phần thì lo tập trung lái xe qua cái “SàiGòn đẹp lắm, SàiGòn ơi! SàiGòn ơi!” đã thấy nhức đầu rồi, và trên đường về Sở Thú thì gặp cái toán “quá giang” này.

Hùng ghé vào Đại đội để xem tình hình có gì không và nhân tiện lấy thêm một cái máy truyền tin bỏ lên xe cho tiện việc liên lạc với Tiểu đoàn và các Trung đội. Sau đó, tất cả lại lên xe để Hùng đưa dùm toán “quá giang” này về nhà bên Bà Chiểu.

Qua sự giới thiệu lúc còn ở trong sở thú, được biết cô gái “đàn chị” này tên là Khánh Tâm, một “nhóc” gái là em ruột của Khánh Tâm tên là Khánh Hằng và hai “nhóc” kia là đàn em lối xóm. Gần đến khu chợ Bà Chiểu, Hùng gợi ý rủ mọi người cùng đi ăn mì, mấy “nhóc” hoan hô hết mình vì từ tối đến giờ phải lội bộ nhiều và đang đói bụng!

Khi tô mì được đem đến bàn của Tâm, Hùng cầm bình dấm chế vào tô mì một vòng rồi ngưng lại. Tâm vội nói: “Xin ông cho thêm”. Hùng lại rưới thêm một vòng nữa rồi ngưng. Tâm lại nói: “Ông cứ cho thêm, khi nào tôi ra dấu thì ông ngưng cũng còn kịp”. Hùng tiếp tục rưới dấm vào tô mì và nói diễu: “Cái này là dấm ‘xủ’, chua lắm à nghen!” Tâm trả lời tỉnh bơ: “Dạ, tôi biết”. Và cứ thế, Hùng tiếp tục rưới dấm vào tô trong khi vẫn nhìn vào mắt Tâm để xem chừng nào có thể ngừng. Một hồi lâu, áng chừng cũng đến gần nửa bình dấm, lúc bấy giờ Tâm mới đưa tay làm dấu cho Hùng ngưng, kèm theo lời cám ơn. Hùng tỏ ra rất ngạc nhiên, vì lần đầu tiên mới biết được có người ăn “dấm xủ” nhiều đến như vậy và càng thích thú hơn khi quan sát, thấy Tâm thưởng thức tô mì một cách rất ngon lành!

Tiếp theo chầu hủ tiếu mì là chầu chè tráng miệng, mọi người có vẻ “ấm bụng” nên Hùng đề nghị đưa mấy chị em Khánh Tâm về nhà. Nhà cách chợ Bà Chiểu không xa, gần một trạm đón khách của các xe đò SàiGòn - Thủ Đức. Lúc bấy giờ cũng đã quá nửa đêm !

***

Trưa hôm sau, nghe anh lính gác tại cổng (trên đường Hồng Thập Tự) báo Hùng có người nhà muốn gặp, Hùng vội lái xe ra cổng. Vô cùng ngạc nhiên khi thấy Tâm đến thăm, vì đêm qua sau khi chia tay, không ai có lời hẹn hoặc ngõ ý sẽ gặp lại ! Tâm cho biết, hôm nay Chủ Nhật, cô đi lễ ở Nhà thờ Đức Bà. Sau khi tan lễ, cô muốn đến thăm và cám ơn về việc đã cho mấy chị em “quá giang” về nhà đêm qua và còn đãi thêm một chầu hủ tiếu mì, làm mấy đứa nhỏ khen nức nở :

- “Mấy anh lính thật tốt bụng và dễ thương quá chừng chừng...”

Hùng, với tánh tiếu lâm cố hữu, vội ngắt lời :

- “Mấy đứa nhỏ thì khen nức nở, nhưng bà chị tụi nó có thèm khen câu nào đâu ?”

Khánh Tâm thẹn đỏ mặt, nhìn xuống đất, nói mấy lời nho nhỏ :

- “Cái ông... này !”

Vì Tiểu Đoàn đang trong tình trạng ứng chiến nên Hùng không dám đi đâu xa, chỉ chở Tâm đi một vòng trong sở thú. Trong khi xe đang chạy vòng vòng, Tâm vụt hỏi :

- “Ông có thể chạy một chút ra đằng phía trước cổng? Tôi muốn chỉ cho ông thấy cái trường tôi đang học?

- Cô học trường nào?

- Dạ, Trưng Vương.

- Ồ, cũng gần, để tôi đưa cô đến đó!

Hùng lái xe ra cổng trước và chạy tới trường Trưng Vương, chỉ đi một vòng vậy thôi vì phải vội về Đại đội. Tuy vậy cũng đủ thì giờ nghe Tâm nói sơ sơ về lớp Đệ Tứ của mình, vị trí của lớp mình, tánh tình của các vị Giám thị và một số các thầy cô. v.v...

Từ hôm qua đến giờ, nghe Tâm nói giọng Nam, Hùng mới thắc mắc:

- Cô là người Nam, sao cô được học ở Trưng Vương?

- Không, tôi là người Bắc mà! Bắc Kỳ 54!

Trời ơi ! Sao cô nói rặc giọng Nam Kỳ! Ở trường cô nói giọng gì?

Thì giọng cũng y như tôi đang nói chuyện với ông!

Hùng hình như tìm được một điều gì thích thú, vội nói:

- Cô phải cẩn thận, tôi sợ có ngày trường sẽ đẩy cô về bên Phan Thanh Giản!

Chưa kịp hiểu câu nói đùa của Hùng, Tâm hỏi vặn:

- Tại sao phải về bên Phan Thanh Giản?

Hùng cười cười giải thích:

- Vì họ tưởng cô là người Nam nên họ thảy cô về bên trường Gia Long ấy mà!

Tâm hiểu câu nói châm chọc của Hùng, cười xòa và buột:

- “Cái ông... này !” rồi hỏi tiếp :

- “Bộ ông không biết bên Gia Long vẫn có một số học sinh Bắc Kỳ hay sao?”

Hùng rất ngạc nhiên về điều này và nói :

- Vậy mà tôi cứ tưởng, bên Trưng Vương toàn là Bắc Kỳ, còn bên Gia Long chỉ toàn là giá sống!

Về đến sở thú, Hùng ngỏ lời xin lỗi vì không thể đưa Tâm đi ăn trưa được vì bận trực ứng chiến, Hùng gợi ý hỏi xem Tâm có thích pizza không, Tâm trả lời : “Tôi cũng thích pizza lắm” nên Hùng nhờ chú tài xế và một chú “đệ tử” chạy ra tiệm pizza trên đường Lê Thánh Tôn, đối diện với La Pagode để mua pizza và spaghetti vì Hùng rất thích pizza và spaghetti của tiệm này !

Khi thức ăn được mang về và đem đến một cái lều dựng lên bên một hồ nước, từ lều này có thể nhìn thấy “cây cầu lịch sử” của Sở Thú SàiGòn (gần 10 năm về trước, nhân dịp có Hội Chợ tại Sở Thú này, vào buổi tối, trong khi cả ngàn du khách đang nườm nượp kéo tới Hội Chợ... vì một “báo động” lầm lẫn sao đó, khiến cả ngàn người tranh nhau chạy qua cầu, việc này đã gây ra cảnh hỗn loạn khủng khiếp với kết quả là hơn mười người bị chết và cây cầu bị sập.

Hồi trước, Hùng có vài lần vào Sở Thú với cái thú vui riêng cùng đùa vui với bạn bè và nhất là để coi... người nhiều hơn coi... thú và dĩ nhiên không để ý nhiều đến cảnh trí chung quanh ! Hôm nay, nhân dịp Sở Thú đóng cửa và với sự vắng lặng, mới có thể thưởng thức được những nét đẹp hài hòa giữa cái đẹp nhân tạo hòa nhập với cái đẹp thiên nhiên của vùng này ! Đặc biệt, có Tâm, người con gái mới quen và còn rất ư là “nóng hổi” ngồi cùng ăn bên cạnh, Hùng thành thật trình bày cảm nghĩ của mình :

- “Đơn vị anh mới về đây được 2 ngày, quá bận rộn vì công việc nên anh không để ý đến bối cảnh chung quanh. Hôm nay có em đến đây, cùng ngồi ăn chung trong cái lều này anh thấy cảnh vật chung quanh rất đẹp, có lẽ vì ảnh hưởng của... người đẹp ngồi bên cạnh !”

- Tâm coi câu nói của Hùng như một lời nói “nịnh” nhưng cũng đủ làm Tâm thẹn đỏ mặt, vội cúi đầu và nói nho nhỏ: “Cái ông... này !

Hùng ghi nhận được câu điệp khúc “Cái ông... này” của Tâm và coi như một lời mắng yêu hay một tán thán tự mà Tâm có thói quen thường dùng. Hùng thấy cũng hay hay và dễ thương với nét chấm phá này để tạm kết thúc một đàm thoại, biểu lộ cái tâm trạng ngạc nhiên pha lẫn buồn, vui và ngay cả (đôi khi) giận dỗi... Sau khi ăn uống xong, ngồi nói chuyện thêm một lúc, Tâm xin phép về, Hùng đưa Tâm về và vội trở lại đơn vị vì đang ứng chiến...

Sáng 28 tháng Chạp, toàn bộ Tiểu đoàn của Hùng được chuyển về vùng Tân Quí Đông trong nhiệm vụ: “giữ an ninh vòng đai Đô Thành”. Qua sự liên lạc và sắp xếp trước, chiều 30 Tết Hùng cho xe đón Tâm tại cầu Tân Thuận để đưa vào vị trí đóng quân của đại đội, vì hôm đó Hùng có tổ chức một cái tiệc nho nhỏ cùng với anh em trong đơn vị, và nhất là để chuẩn bị đón Giao Thừa. Đặc biệt đây là lần đầu tiên đơn vị Hùng được về “hưởng Xuân” tại vùng ven đô. Ban đêm được nhìn thấy vùng ánh sáng của Thủ Đô bên kia sông SàiGòn, cứ tưởng tượng như đang được “ngửi” mùi Tết của SàiGòn với lời an ủi muôn thuở: “có còn hơn không”!

Sau khi tiệc tùng xong, Hùng hỏi Tâm có muốn đưa về nhà trước giao thừa hay ở lại đây để “thưởng thức” giao thừa với lính? Với tánh hiếu kỳ, Tâm quyết định ở lại để xem mấy ông lính này đón giao thừa như thế nào và sẽ nhờ đưa về nhà sau khi đón giao thừa xong.

Lúc chiều, trong phiên họp của Tiểu đoàn, vị Tiểu đoàn Trưởng đã “hăm mẻ răng” về việc các Đại đội Trưởng phải kiểm soát thuộc cấp, triệt để cấm binh sĩ không được dùng súng bắn thay pháo để đón giao thừa như đã xảy ra vài lần trong các vùng hành quân khác mấy năm về trước. Năm nay, về nằm vùng ven đô, gần “Mặt Trời”, Biệt Khu Thủ Đô đã ra lệnh cấm và đơn vị phải tuyệt đối thi hành!

Đúng giờ giao thừa, vùng Tiểu Đoàn bố trí vẫn im lặng, nhưng vài cây số ở phía Bắc và phía Tây, súng nổ râm ran và đồng loạt trong vòng hơn 15 phút, mọi người kéo ra sân để coi và nghe “pháo súng”. Nhìn những vết đạn lửa bay mới biết các đơn vị ở vùng đó đã dùng súng thay pháo để đón Xuân!

Tâm tỏ ra rất thích thú với cái hoạt cảnh này vì đây là lần đầu tiên trong đời, cô được thật sự gần gũi với một đơn vị của lính tại vị trí đóng quân, nhất là đúng vào giờ đón Giao Thừa!

***

Sự gặp gỡ và quen biết giữa Hùng và Tâm bắt đầu là như vậy. Cái liên hệ tình cảm đã gắn bó và quyện lẫn giữa hai người qua thời gian, đã tạo ra những tố chất cấu thành một tình yêu “thật đặc biệt” và “hơi khác thường” giữa hai người.

Những cái “hơi khác thường” trong chuyện tình này mà những bạn thân của Hùng quan sát và ghi nhận được cũng khá thú vị và ... “không giống ai” ! Về cách xưng hô, ngay từ ngày đầu mới quen nhau, Hùng vẫn xưng “anh” và gọi Tâm bằng “em”. Còn Tâm vẫn xưng “tôi” và gọi Hùng bằng “ông”. Về sau này, chỉ một lần đầu tiên và duy nhất, sau khi biết mình đã yêu Hùng, trong một lá thư dài viết bằng 2 tờ giấy đôi của cuốn vở học trò, Tâm gọi Hùng bằng “anh” và xưng là “em”.

Hùng nhận được thư Tâm khi đơn vị đang hành quân vùng đèo Mang Giang, Pleiku. Đọc thư, nghe Tâm nói về tình yêu và nỗi nhung nhớ dành cho Hùng, chàng nghe hồn mình và thân thể mình như ấm lại trong cái giá lạnh nơi xứ núi ! Càng nghe ấm hơn với lời kết của lá thư :

- “Em yêu anh. Em rất nhớ anh và rất mong ngày mình gặp lại nhau tại SàiGòn” !

- Với biết bao háo hức và trông chờ, vậy mà, sau cuộc hành quân đó, trở về, gặp lại nhau ở SàiGòn, Tâm vẫn “bổn cũ soạn lại”, vẫn gọi Hùng bằng “ông” và vẫn xưng mình bằng “tôi” và... cứ như thế !

Có một lần, trong một quán ăn, trong khi chờ đợi nhà hàng mang thức ăn ra, Hùng nửa đùa nửa thật nói :

- “Chữ ‘ông’ và chữ ‘tôi’ em thường dùng với anh, bán bao nhiêu, anh mua phức cho rồi ?!”

Tâm nguýt một cái và vội trả lời :

- “Không. Không bán đâu !”

Và kèm theo câu, như một tán thán tự mà Tâm vẫn thường dùng theo thói quen : “Cái ông ... này !”

Hùng ghi nhận các cá tính đặc biệt của Tâm và cho điểm Tâm như là có tánh khí của một cậu con trai thành thật, bạo dạn, hơi bương bướng, có chút ngỗ nghịch và nhất là có những quyết định bất ngờ vào phút chót.

Những lần, Hùng chở Tâm bằng xe Vespa, khi chạy qua cầu Bình Lợi, ngang đoạn cầu ghép bằng ván, vẫn giữ nguyên tốc độ nhanh, vespa bị trượt, chạy xẹt qua xẹt lại thật nguy hiểm, Tâm chẳng những không sợ, ngược lại, còn rất khoái có được những cảm giác ú tim như vậy ! Nói tóm lại, Tâm rất thích “tìm mua cảm giác mạnh”, những màn hồi hộp, ú tim thường có nơi các chàng trai trẻ ...

Tâm có nét mặt khá đẹp, ưa nhìn và đầy quyến rũ, cộng với vóc dáng nở nang, khỏe mạnh, mái tóc ngắn kiểu “a la gạc xon” (à la garçonne) và thích bận các loại Jupe ngắn nên trông rất ư là “xì po” và dĩ nhiên rất ư là hấp dẫn!

Môn thể thao Tâm rất mê là bơi lội, Tâm là hội viên và bơi thường trực tại Cercle de Sportif ở đường Hồng Thập Tự, SàiGòn; nhưng vẫn thường theo bạn bè đi bơi ở các hồ bơi trong Chợ Lớn hoặc tại hồ bơi Lido, gần Ngã Năm Bình Hòa. Hằng năm, Tâm thường tham dự các cuộc thi bơi ở SàiGòn và Chợ Lớn; Tâm từng nhiều lần đoạt giải hạng nhì nhưng chưa bao giờ chiếm được giải nhất cả. Tâm rất lấy làm khổ tâm về việc này và vẫn ao ước, ngày nào đó sẽ đoạt được giải nhất cho thỏa ước mơ!

Từ ngày quen và thân với Hùng, mỗi lần đơn vị trở về hậu cứ ở Thủ Đức sau những cuộc hành quân, Hùng thường đưa Tâm đi bơi trên Biên Hòa và Thủ Đức. Đặc biệt ở Thủ Đức, Tâm rất thích bơi ở hồ bơi Ngọc Thủy; hồ bơi này có một cảnh trí rất dễ thương, phía Bắc của hồ bơi là một triền đồi có nhiều cây rậm đầy bóng mát và những “nhà chòi” ở các cao độ khác nhau, nhìn bao quát cả hồ bơi bên dưới thật nên thơ và hữu tình.

Một lần, sau khi bơi xong, Hùng và Tâm trở lên “nhà chòi” ngồi nghỉ và nhâm nhi ăn uống; sau khi quan sát thân hình của Tâm qua bộ đồ tắm 2 mảnh, Hùng nói đùa:

- “Đến bây giờ anh mới hiểu, tại sao em thi bơi hoài mà chưa bao giờ đoạt được giải nhất!”

Đang ngồi dựa lưng vào ghế, nghe câu đó, Tâm bật ngồi thẳng lên nhìn chằm chặp vào Hùng rồi vội hỏi:

- “Bộ ông đã khám phá được những điểm kỹ thuật hay thao tác nào tôi làm không đúng do đó làm tốc độ bơi bị giảm lại chăng?”

Hùng vội phân bua kèm với nụ cười hóm hỉnh:

- “Không, không phải vậy, em bơi thì giỏi lắm, nhưng sở dĩ chưa chiếm được giải nhất vì... vì có... “độ cản” lớn quá!

Mới nghe như vậy, Tâm ngớ người, đăm chiêu suy nghĩ; một lúc sau, nhìn xuống ngực mình, như hiểu ý, mặt đỏ lên, vội đưa tay đấm vào lưng Hùng với câu cố-hữu: “Cái ông... này !”

Cứ mỗi dịp Hùng được về SàiGòn, hẹn Tâm cùng đi chơi (ban ngày) đó đây ở SàiGòn, hoặc đi ăn nem và trái cây ở Lái Thiêu, hoặc đi ăn thịt rừng ở Tân Vạn và đi tắm ở Biên Hòa v.v... Mỗi lần như vậy, Hùng đưa Tâm về nhà bên Bà Chiểu khoảng buổi chiều hoặc cùng lắm là vào lúc chạng vạng tối. Hôm nào được xin phép đi chơi ban đêm, như đi xi nê hay đi phòng trà thì phải trở về trước nửa đêm. Và lúc nào tới nhà cũng có người nhà hoặc mấy “đứa nhóc” lảng vảng trước sân hình như đang “đợi chị Tâm về ”!

Nhưng có một lần, lần này coi như “lịch sử” và “kỷ niệm nhớ đời”! Tối hôm đó, sau khi rời phòng trà Queen Bee, Hùng đưa Tâm đi ăn ở khu Hai Bà Trưng xong, sau đó đưa Tâm về nhà như thường lệ.

Chẳng có ai, ngay cả mấy “đứa nhóc” đứng đợi trước sân ! Hùng ngừng vespa, tắt máy, đứng trước nhà khoảng gần 10 phút. Vẫn không thấy ai ra. Khi Tâm định đi vô nhà, Hùng đạp nổ Vespa, Tâm bước đi được mấy bước rồi bất ngờ quay ra, ngồi vội lên yên, vỗ vào lưng Hùng và nói:

- “Mình về Linh Xuân Thôn, đi ông!”.

Như một phản xạ, Hùng rú ga Vespa và vọt đi. Định quay vòng lại để ra chợ Bà Chiểu rồi ra xa lộ Biên Hòa, đi về Thủ Đức cho lẹ. Nhưng Tâm vội chồm ra phía trước, chỉ về hướng Ngã Năm Bình Hòa và nói “Mình đi đường trong đi ông!” Thế là Hùng chạy về hướng cầu Bình Lợi để đi về Thủ Đức. Khi chạy qua khỏi cầu Băng Ky, Tâm vỗ vào lưng Hùng, chỉ vào ánh trăng đang treo trên đầu, Hùng mới nhận biết đêm nay là đêm trăng tròn. Lúc chạy qua cầu Bình Lợi, quang cảnh thật là hữu tình nhưng nước sông bốc lên quá lạnh; Tâm ôm sát vào eo Hùng và áp má vào lưng Hùng như để tìm chút hơi ấm nhưng vẫn kêu lên:

- “Ông Hùng ơi, tôi lạnh quá!”

Hùng biết Tâm bị lạnh nhiều lắm vì đang mặc cái mini jupe, phần Hùng với cái sơ mi mong manh, cũng cắn răng chịu lạnh trong khi đang rú ga tối đa trên con đường vắng vẻ, mong nuốt ngắn đoạn đường để mau mau về Linh Xuân Thôn ...

***

Linh Xuân Thôn là địa danh của một vùng rất rộng, bao gồm khu đồi thuộc Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức (sau này đổi tên là Trường Bộ Binh Thủ Đức) và vùng Chợ Nhỏ. Lần đầu tiên, rời quê hương Nha Trang vào Trường Thủ Đức; tại vùng này, Hùng bắt gặp 2 cái tên rất là chỏi nhau : Linh Xuân Thôn, nghe sao êm đềm, tình tứ; trong khi Chợ Nhỏ, nghe sao thiệt thà, chất phác (y chang cái kiểu Nam Kỳ Quốc, có sao nói... dzậy !)

Hùng tình nguyện gia nhập binh chủng Thủy Quân Lục Chiến. Hậu cứ của đơn vị khi thì Thị Nghè, Gia Định, khi thì Cầu Đá, Nha Trang. Mãi mấy năm sau, đơn vị mới dời hậu cứ về Thủ Đức. Theo sự giới thiệu của Ba Má nuôi (nhà ở khu ngã tư Xa Lộ), Hùng mướn được một căn nhà ở vùng Linh Xuân Thôn (ông chủ nhà là một nhà thầu xây cất, có người con trai đang du học ở ngoại quốc nên tạm cho mướn căn nhà này với giá đặc biệt).

Trên đường đi vào Trường Thủ Đức, chưa tới Chợ Nhỏ, có một con đường nhựa quẹo trái chạy vào trong xóm. Nhà cách đường lộ chính hơn 200 thước. Khu này yên tĩnh. Cái mà Hùng thích nhất là khu này nửa tỉnh, nửa quê. Trước nhà Hùng mướn, chỉ vài thước bên kia đường là một ruộng lúa. Hơn trăm thước bên kia bờ ruộng lúa là một xóm nhà kiểu xưa, mái ngói. Nhà nào cũng có một vườn điều và hàng cau phía trước. Đến mùa điều chín, đứng bên này vẫn thấy được màu đỏ của những trái điều bên kia ruộng.

Tiếp nối sau xóm nhà này về phía Bắc, là những xóm nhà hiền hòa, mà lúc trước khi còn học trong Trường Thủ Đức, mỗi lần đi ra bãi học chiến thuật hoặc ra sân bắn, Hùng và các bạn phải lội bộ qua vùng này...

Sống ở đây, nhìn lại cảnh cũ, gợi nhớ bao kỷ niệm lúc mới chập chững vào đời lính; do đó cái tên Linh Xuân Thôn sao nghe nó gần gũi, thân thiết và đáng yêu biết mấy đối với Hùng.

Từ ngày quen biết với Tâm, Hùng đã giới thiệu, còn hơn thế nữa, đã quảng cáo về cái Linh Xuân Thôn của mình. Sự quảng cáo này xem ra rất “ép phê” đối với Tâm, Tâm như bị “thẩm thấu” và “nằm lòng” về những cái đáng yêu của Linh Xuân Thôn này mất rồi ! Và cái điều quan trọng và chính yếu Hùng muốn truyền đạt khi nói “Linh Xuân Thôn” có nghĩa là nói về căn nhà Hùng đang mướn và đang ở tại thôn này !

Một trong những điều Hùng “ca” về cái Linh Xuân Thôn của mình là sự thuận tiện về không gian “Ở đây đi vào đơn vị cũng gần. Còn lúc nào nghỉ, đi chơi, chỉ ‘rẹt’ ra xa lộ Biên Hòa là ‘vèo” tới SàiGòn !”

***

Tâm đã nhiều lần ghé về Linh Xuân Thôn. Chỉ ghé về “thăm nhà” (tiếng của Hùng) trong vòng tiếng đồng hồ để sửa soạn, “cụ bị” đồ đạc, dụng cụ trước khi cùng Hùng đi chơi miệt Bình Dương, Lái Thiêu, Biên Hòa hay đi bơi ở Thủ Đức. Và chỉ có thế ! Chưa bao giờ Tâm ở lại đêm tại Linh Xuân Thôn. Đêm nay là lần đầu tiên !

Tâm duyệt lại “đoạn phim” khi Hùng đưa Tâm về nhà, không thấy ai ra đón. Đợi một lúc. Quyết định vào nhà. Bước đi mấy bước. Vụt quay trở ra và quyết định đi về Linh Xuân Thôn.

Tâm cũng biết chắc rằng, từ ngày quen biết Hùng đến nay, chưa bao giờ Hùng “gợi ý” (chớ đừng nói tới “gạ gẫm”) rủ rê Tâm về nhà ban đêm ! Tâm cũng đang lo, không biết ngày mai về nhà, sẽ nói với cha mẹ như thế nào ? Làm sao trả lời được những câu hỏi Tâm tự vẽ ra. Đi đâu ? Đi với ai ? Làm gì ? Tại sao không về nhà ? Đang bị khuấy động với biết bao câu hỏi đang nhảy múa trong đầu thì tiếng xe Vespa ngừng nổ. Định thần lại, Tâm mới biết hai người đã về đến Linh Xuân Thôn !

Phần Hùng, cũng đang lo trong bụng, vì từ ngoài đường phố quẹo trái vào nhà, sao thấy tối om ! Loay hoay một lúc, mở được cửa phòng, bật công tắc. Vẫn tối om. Đêm nay Linh Xuân Thôn bị cúp điện ! Vào nhà, bật hộp quẹt, lúi húi đi tìm đèn cầy. May quá còn được mấy cây.

-“Thôi đành đốt đèn cầy cho nó có vẻ ‘rô măng tích’ một chút, em há !”

Hùng nói đùa với Tâm như vậy, thật ra cũng muốn như tự an ủi lấy mình trong hoàn cảnh bất khả kháng này!

Sau khi đốt đèn cầy trong phòng tắm, Hùng hướng dẫn Tâm vào, đưa kem đánh răng và cái bàn chải đánh răng mới cho Tâm. Tiện thể, Hùng cũng đưa cho Tâm một bộ khăn tắm chưa dùng và một bộ đồ ngủ màu xanh lá mạ và nói : “Bộ Pyjama này anh chưa mặc, còn mới cáu cạnh, mời em khai trương”. Tâm vội đưa tay tiếp nhận và nhanh nhẫu trả lời :

- “Ông thật chu đáo. Tôi cám ơn ông nhiều lắm !”

Trong lúc Tâm đang tắm, Hùng ra nhà trước, kéo một cái bàn tròn và 2 cái ghế ra trước hàng hiên. Vào tủ lạnh lấy ra mấy lon bia, một chai nước ngọt và một ít trái cây ra bày biện trên bàn. Có lẽ điện mới bị cúp tối nay cho nên thức ăn và đồ uống trong tủ lạnh vẫn còn lạnh và mấy dĩa nước đá vẫn còn xử dụng được !

Sau khi tắm xong, Hùng mời Tâm ngồi trước hàng hiên và nói :

- “Em ngồi nhâm nhi lai rai và ngắm trăng trong khi anh đi tắm. Em thấy không, nhờ bị cúp điện nên dưới ánh trăng, ruộng lúa và xóm nhà bên kia trông thật hữu tình !”

Sau khi tắm xong, Hùng ra ngồi hút thuốc và nhâm nhi mấy chai bia. Tâm chỉ uống nước ngọt, ăn qua loa ít trái cây và cứ than vì mới ăn dưới SàiGòn trước khi về nên còn no quá !

Dưới ánh sáng trăng và qua ánh sáng đèn cầy trong nhà hắt ra, trong bộ đồ ngủ màu xanh lá mạ, Tâm trông lạ và đẹp hẵn ra, làm Hùng buột miệng khen:

-“Anh vẫn quen mắt nhìn em qua hình ảnh khi thì bận Jean, khi thì mini jupe, khi thì bận deux pièces. Còn đêm nay em bận Pyjama, trông rất lạ mắt, em thật là đẹp và chưa bao giờ em đẹp như đêm nay !”

Qua cung cách và lời nói của Hùng, Tâm biết anh nói thiệt tình chứ không phải cố ý “nịnh”. Nhưng với thói quen cố hữu, Tâm đập vào cánh tay chàng rồi nói “Cái ông... này !”

Tâm mắt lim dim nhìn cảnh vật, hai cây vú sữa và hàng rào dâm bụt thấp trước sân nhà, ruộng lúa sát bên kia đường, xóm nhà bên kia bờ ruộng với những cây cau vút cao lên như điểm thêm những nét chấm phá trên nền trời xanh sáng. Bên ngoài, cảnh vật thật yên bình và thật mơ mộng trong khi đó bên trong, tình cảm Tâm như đang khuấy động, đang rạt rào, dâng sóng ...

Tâm gục đầu vào vai Hùng, hai vòng tay siết mạnh ngang hông Hùng và thều thào :

-“Ông Hùng...”

Ngồi thêm một lúc khá lâu, cả hai cùng thấm lạnh. Lúc đó đã quá khuya, hơn 1 giờ sáng rồi còn gì! Hùng đưa Tâm vào phòng ngủ, ra dọn dẹp bàn ghế vào nhà, rồi nằm ngủ trên ghế sofa. Vì lúc nãy Hùng để cửa mở nên muỗi bay vào nhà nhiều quá. Hùng tìm được một cái quạt, cứ quạt xoành xoạch hoài mà không sao ngủ được. Trong phòng ngủ, chắc Tâm nghe tiếng động của quạt nên bước ra ngoài phòng khách và nói :

- “Tội nghiệp ông quá, ông nhường giường ngủ có mùng cho tôi, trong khi đó nằm đây chịu trận với đám muỗi làm tôi áy náy quá. Hay là ông cứ vào ngủ trong giường cũng được !”

Được lời như mở cờ trong bụng, Hùng ngồi bật dậy, liệng cái quạt xuống sofa rồi diễu :

- “Thôi, xin giã biệt Cà Mau. Ta đi về Linh Xuân Thôn đây!”

Vào ngủ chung giường, cái này hơi rắc rối! Chưa ai nghĩ đến điều này, ngay cả Hùng cũng vậy! Mặc dù Hùng và Tâm không phải răm rắp như lời các cụ ngày xưa truyền dạy “Nam nữ thọ thọ bất thân!”

Không! Họ đã từng hôn nhau, đã từng trong tay nhau rồi kia mà! Nhưng nằm chung giường với Tâm như thế này, thì quả thật, ngoài sức tưởng tượng và ngoài dự trù; mặc dù Hùng đã có kinh nghiệm qua những lần “thử lửa” với các cô gái khác!

Khi lên giường, Hùng dùng bàn tay vạch một đường tưởng tượng giữa hai người rồi trịnh trọng tuyên bố: “Đây là sông Bến Hải. Là vĩ tuyến 17. Em Bắc Kỳ, em ở phía Bắc; còn anh ở phía Nam. Hiệp định Genève đã ký. Hai bên không được xâm phạm lãnh thổ của nhau. OK?”

Tâm cũng thấy vui vui và hơi yên bụng, nên hỏi vặn:

- “Ừa, hiệp định Genève đã ký. Ông phải giữ lời. Không được vượt tuyến. Không được xâm lăng đó nghe?”

Hùng cũng diêu diễu đáp lại:

- “Ký trên giấy tờ là một chuyện, còn xâm lăng hay không, thì hạ hồi phân giải!”

Tâm ký vào đầu Hùng một cái kèm theo “Cái ông... này !”

Nói thì nói như vậy, ranh giới thì vạch ra như vậy, nhưng Tâm đang nằm trong vòng tay của Hùng. Môi kề môi. Họ từ từ rơi vào giấc ngủ...

Không biết họ ngủ vùi như vậy được bao lâu, cho đến khi trong cơn nửa mê nửa tỉnh, Tâm mơ hồ như bộ pyjama màu xanh lá mạ không còn dính trên người mình. Tâm đang ôm ghì lấy Hùng. Chạm mạnh và trọn vẹn khắp vùng da thịt Hùng. Họ đang hôn nhau. Họ đang xoắn xuýt trong nhau. Tâm cảm giác được những tung vỡ, những tê điếng trong cơ thể mình. Nhận biết được những quằn quại và nhức nhối trên phần thân xác mình. Tất cả như đang bùng nổ, tung hê. Và Tâm cảm nhận như đang được hưởng, được nhận lãnh trọn vẹn những đê mê, những tuyệt vời trong lần hiến dâng đầu tiên đời con gái! Trong cơn mê đó, Tâm mơ hồ như đang kêu gào, đang rên rỉ, đang thảng thốt với những lời đứt quãng, ngập ngụa trong mênh mông với tràn đầy yêu thương, chất ngất “Anh Hùng. Anh Hùng. Em yêu anh!”

***

Đối với Tâm, đêm Linh Xuân Thôn vẫn hằn đậm nét và cho dù, sau này, cuộc tình có chuyển hướng ra sao, kỷ niệm này vẫn nhớ mãi một đời! Về phần Hùng, đêm Linh Xuân Thôn là một trong những kỷ niệm đáng nhớ và khó nhạt nhòa. Thời gian còn bên nhau, cho dù đi chơi ở đâu, Hùng vẫn thường đùa lấy tay khều nhẹ vào tay Tâm rồi nói: “Thôi. Mình về Linh Xuân Thôn. Đi em!” Dĩ nhiên, câu này, Hùng không hàm ý muồn rũ Tâm đi về nhà mình ở Linh Xuân Thôn; mà chỉ muốn gợi lên một hình ảnh, một kỷ niệm thật đậm nét về một không gian mà hai người đã có với nhau! Và, lúc nào cũng vậy, Tâm nguýt Hùng một cái và lập lại điệp-khúc-muôn-thuở: “Cái ông... này!”

Năm Khánh Tâm lên lớp Đệ Nhị ở Trưng Vương, cuộc sống có nhiều đổi thay ập đến. Lúc đang hành quân ở Quảng Ngãi, Hùng nhận được một thư ngắn của Tâm, chỉ một trang giấy học trò, qua nội dung lá thư, được biết vì công việc, ba Tâm và cả nhà phải chuyển về Nha Trang và Tâm phải ở nhờ tại nhà một người dì ở SàiGòn để tiếp tục đi học. Trong khi chuyện buồn trong gia đình chưa nguôi ngoai thì Tâm lại tìm hiểu và phát giác thêm việc Hùng đang có mối liên lạc khá đặc biệt với một người bạn cũ ở Làng Đại Học Thủ Đức.

Tâm cho biết thêm, hiện đang bị rối bời, rất buồn, rất khổ tâm và sẽ có một quyết định mới cho hướng đi của đời sống mình trong một tương lai rất gần. Và không quên gởi lời chúc “móc họng”: “Chúc ông được nhiều hạnh phúc trên ‘đường xưa lối cũ’!” Cuối thư, Tâm còn ghi thêm 2 hàng “Người đang quen, Khánh Tâm” và “Lúc nào tôi cũng yêu ông!”

Lần đó, đơn vị Hùng hành quân liên miên trong hơn 4 tháng, từ Quảng Nam vô Quảng Ngãi rồi ra lại Quảng Nam, sau đó mới được về lại hậu cứ Thủ Đức. Dịp này, Hùng đến nhà cũ của gia đình Tâm ở Bà Chiểu để hỏi thăm tin tức. Người chủ mới ngôi nhà này không biết gì thêm ngoại trừ: “Nghe nói họ đổi ra Nha Trang”. Lần thứ 2, Hùng trở lại tìm, may quá gặp được “mấy đứa nhóc lối xóm”, mấy đứa nhóc cho đi quá giang năm nào, chúng cho biết “Chị Tâm đã đi lính rồi!”. Đó là tin tức cuối cùng và rất mơ hồ mà Hùng ghi nhận được khi hỏi về Tâm.

Vào mùa Thu năm 1967, đơn vị Hùng đang hành quân trong vùng đèo Phù Cũ, Bình Định, một hôm, trong một chuyến tiếp tế cho đơn vị hành quân, Hùng nhận được một số thư từ và sách báo do một chú đệ tử từ hậu trạm ở Bình Định gởi ra. Khi mở thư của chú đệ tử, chú ấy cho biết vắn tắt hôm chú ấy vào Tiểu Khu, thật bất ngờ gặp lại cô Tâm. Cổ hỏi thăm tin tức ông thầy. Em cũng cho cổ biết bây giờ ông thầy đang ở đâu. Cổ cũng gởi cho ông thầy một lá thư, em kèm theo đây luôn”.

Mở thư Tâm, một cái “note” thì đúng hơn, Tâm cho biết một số tin vắn tắt nàng tình nguyện gia nhập Khóa Hạ Sĩ Quan/Nữ Quân Nhân/VNCH. Khi mãn khóa, xin đi phục vụ ở những đơn vị thật xa như Đông Hà, Quảng Trị hoặc Thừa Thiên nhưng ngoài đó không có nhu cầu, đành phải chọn nơi xa nhất là Bình Định. Mới phục vụ tại đây được mấy tháng. Sắp đi công tác tại Bồng Sơn và Tam Quan. Khi nào ra ngoài đó sẽ liên lạc với Hùng, nếu anh không vào vùng hành quân, có thể ghé thăm ông để xem bây giờ ông ra sao! Và cuối cái “note” Tâm viết:

- “ Phần tôi. Tôi vẫn thế!”

Đọc xong cái “note”, Hùng ngồi thừ người với rất nhiều câu hỏi và thắc mắc đang nhảy múa trong đầu... Nhớ lại, mấy đứa nhóc hàng xóm của Tâm đã nói: “Chị Tâm đi lính rồi!” Hùng tưởng tụi nó nói bậy bạ, nói tào lao; ai dè sự thật đúng như vậy!

Như Hùng đã biết về tánh khí của Tâm, nàng giống như một đứa con trai thành thật, bạo dạn, hơi bương bướng, có chút ngỗ nghịch, có những quyết định bất ngờ vào phút chót... Qua thư cuối cùng của Tâm mà Hùng nhận được ở Quảng Ngãi trước đây: “đang bị rối bời, “rất buồn”, “rất khổ tâm”, “sẽ có một quyết định mới cho hướng đi của đời sống”...

Có lẽ trong lúc đang bị ngụp lặn trong bối cảnh rối ren, phức tạp về mặt tâm lý và tình cảm, đã dẫn đưa Tâm đến quyết định thật bất ngờ vào giờ phút chót: Nhập ngũ! Và Hùng nghe thêm nhức nhối khi tự hỏi mình có phần trách nhiệm trong việc thay đổi hướng đi cuộc đời Tâm?

Với tâm trạng rối bời, Hùng chưa biết phải phản ứng như thế nào đối với Tâm trong hoàn cảnh này, nên thông cảm để chấp nhận, hoặc nên giận, hoặc nên thương?

***

Đơn vị Hùng mới trở ra vùng đèo Phù Cũ được 2 ngày sau một cuộc hành quân. Qua sự liên lạc trước, trên đường đi công tác ở Bồng Sơn, Tâm và một người bạn gái (cùng đơn vị) ghé thăm Hùng tại vị trí đóng quân, sát Quốc lộ 1. Sau hơn một năm mới gặp lại, qua bộ Treillis, trông Tâm chững chạc hơn, nhậm lẹ hơn, rắn chắc hơn. Thấy Tâm vui vẻ, thoải mái và tự tin hơn làm Hùng hơi yên bụng! Cô bạn gái cùng đi với Tâm là một Hạ sĩ, rất xinh xắn, nhanh nhẩu và liến thoắng; cô này nói chuyện vui vẻ, dễ gây cảm tình. Qua sự giới thiệu của Tâm, cô này gốc Hoa, có cái tên ngồ ngộ, nhưng hơi khó đọc “Triệu Bửu Huởn”. Sau khi nói chuyện với nhau khá lâu, biết về nhau thêm, nói chuyện vui vẻ và nhất là có thiện cảm với nhau qua lần sơ ngộ này. Với cái tánh tiếu lâm cố hữu, trong khi nói chuyện với Tâm và cô bạn gái, Hùng nói : “Huởn có cái tên thật đặc biệt, bắt đầu bằng 3 chữ “Tê Bê Hát” nhưng, hơi... líu lưỡi. Thôi để anh đặt cho em một cái tên mới cho rồi!”

Huởn nhanh nhẩu hỏi:

- “Anh định đặt cho em tên mới là chi, vậy anh?”

Hùng cố làm mặt nghiêm, không cười trả lời: “Trẹo Bảng Họng!”

Tâm bật cười ngặt nghẽo, thụi một mạnh vào lưng Hùng rồi buông “Cái ông... này!”

Riêng Huởn, cũng ôm bụng cười lớn, rồi nói: “Chị Tâm đã nói với em về ‘Ông Hùng’ của chỉ thật nhiều, chỉ nói anh rất vui tánh, khoái tiếu lâm. Bây giờ em mới xác nhận được. Anh thiệt là... ‘hết sẩy’!”

Từ đó, giữa 3 người, ngầm đồng ý và vui vẻ dùng cái-chết-tên “Trẹo Bảng Họng” mà Hùng đã đặt cho Huởn.

Tối hôm đó, Tâm và cô “Trẹo Bảng Họng” ở lại nơi Đại đội Hùng đang đóng quân, trên đồi. Các chú đệ tử làm thêm một cái lều riêng cho cô “Trẹo Bảng Họng”. Cũng may mà ngày hôm trước, đơn vị mới nhận được tiếp tế, nên mấy chú đệ tử cũng xoay xở để có được một bữa cơm “thịnh soạn” rất ư là hành quân để đãi khách !

Sau khi ăn xong, tiếp theo là chầu trà, cà phê, bánh ngọt và ngay cả trái cây để tiếp tục nói chuyện... đời ! Qua những lời thuật lại của cô “Trẹo Bảng Họng”, Hùng mới biết Tâm đã “trút hết bầu tâm sự” cho cô bạn này! Ngoài những sự việc đã xảy ra trong gia đình Tâm (về mặt nổi) và những ngóc ngách sâu lắng trong tình cảm của Tâm (về mặt chìm) hầu như cô “Trẹo Bảng Họng” đã biết tường tận, có thể nói là... từ kẻ tóc đến chân tơ!

Tới giờ đi ngủ, Hùng nói với cô “Trẹo Bảng Họng”:

-“Anh đã coi lại, trong lều em, đã có đủ mọi thứ cần thiết: mùng, mền, gối v.v... Chỉ rất tiếc là không thể nào tìm được cái “gối ôm” cho em thôi!”

Cô “Trẹo Bảng Họng” biết Hùng nói diễu để “méo mó” về cái “gối ôm”, nên cô cũng trả đũa với chữ nghĩa rất ư là lính:

- “Em thì cô đơn quen rồi, không có “gối ôm” cũng không sao! Em chỉ mong đêm nay sẽ được ngủ ngon và sẽ không bị quấy rầy vì ‘pháo kích’!”

Khi cô “Trẹo Bảng Họng” đã chui vô lều, Hùng khều khều vào tay Tâm và nói:

- “Thôi ! Mình về Linh Xuân Thôn. Đi em!”

Tâm khẽ đấm vào lưng Hùng, và vẫn với lời mắng yêu “Cái ông... này!”.

Tuy vậy, Tâm vẫn lom khom đi theo Hùng, cùng chui vào cái... “Túp lều lý tưởng” Qua quãng thời gian dài không gặp, với tình yêu bị dồn nén trong cô đơn với biết bao khổ đau, quặn thắt, dày vò... Bây giờ. Đêm nay, tất cả như đang tung vỡ, tất cả như đang ngập ngụa.

Tiếng dội như vang vang khắp vùng đèo Phù Cũ im lìm, cô quạnh qua lời thảng thốt trong đêm vắng: “Anh Hùng. Anh Hùng. Em yêu anh... Em mãi yêu anh... Và chỉ mình anh thôi !”

Sau đêm ở lại với Hùng, trưa ngày hôm sau, cả Tâm và cô “Trẹo Bảng Họng” tiếp tục lên đường đi công tác ở Bồng Sơn và Tam Quan.

Được biết, sau lần công tác đó (khoảng 10 ngày), họ trở về Bình Định bằng trực thăng từ Phi trường Quân sự Đệ Đức (phía Bắc Bồng Sơn).

Không ai ngờ được rằng, cái đêm “hội ngộ” ở vùng đèo Phù Cũ năm 1967... Đó là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng Hùng gặp và làm quen với cô “Trẹo Bảng Họng”. Và đó cũng là lần cuối cùng Hùng gặp lại Khánh Tâm!

***

Tết Mậu Thân (1968) đến. Cộng sản Bắc Việt và tay sai của chúng, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đã vi phạm lệnh hưu chiến trong thời gian Tết Nguyên Đán. Chúng đã tấn công trên hầu hết các tỉnh lỵ, các Thành phố lớn và quan trọng của Việt Nam Cộng Hòa. Đơn vị của Hùng sau cuộc hành quân giải tỏa Thành Nội và Cố Đô Huế, được không vận gấp về SàiGòn để giải tỏa áp lực của Việt Cộng vào vùng SàiGòn - Chợ Lớn trong Tổng Công Kích đợt 2 vào tháng 5 và tháng 6/1968. Đặc biệt tại vùng Thị Nghè, Đồng Ông Cộ, Ngã Năm Bình Hòa, Gò Vấp, Bình Lợi v.v... đã nổ ra các trận đánh lớn. Có trận Việt Cộng đã ra đầu hàng hàng loạt hơn 200 người...

Hôm đơn vị Hùng được lệnh giải tỏa áp lực địch trong vùng các trại cưa gần cầu Bình Lợi. Khi chiếm xong vùng mục tiêu này, đơn vị Hùng đã gây một thiệt hại lớn cho địch với gần trăm xác còn nằm tại trận địa. Được lệnh tiếp tục truy kích địch tại khu đường rầy gần cầu Bình Lợi và trong đợt tấn công này, Hùng bị thương nặng vì đạn B40 vào ngực và bụng. Sau đó Hùng được chuyển ngay về Bệnh Viện Cộng Hòa ở Gò Vấp.

Trong tuần lễ đầu, Hùng được giải phẫu nhiều lần, tình trạng rất là nguy kịch, Hùng được chuyển đến một phòng đặc biệt để được Bác sĩ và Y tá săn sóc cấp thời khi cần. Chú đệ tử thân cận nhất của Hùng cũng được đặc biệt ở lại trong Bệnh viện để giúp đỡ và săn sóc thêm cho Hùng. Khi vào thăm, thấy Hùng với bịch máu bên hông, giây nhợ chằng chịt nối liền với các y cụ khác chung quanh, qua các y cụ này, hiện lên các tín hiệu và các biểu đồ .. Hùng được trang bị và nai nịt như một phi hành gia... thứ thiệt!

Mấy hôm sau, tình trạng của Hùng có vẻ khá hơn, các giây nhợ bớt chằng chịt hơn, cái mặt nạ và ống nối với bình dưỡng khí cũng không còn bị đeo thường trực. Hùng có thể giơ tay làm hiệu hoặc nói nho nhỏ với chú đệ tử, y tá hoặc bác sĩ! Tình trạng Hùng được đánh giá như “có một số dấu hiệu khả quan được ghi nhận”.

Một hôm chú đệ tử của Hùng chạy về hậu cứ Thủ Đức, lấy lên cho ông thầy một ít đồ dùng theo yêu cầu của Hùng và một xấp thư hậu cứ Tiểu Đoàn mới nhận được. Chú đệ tử lấy dao rọc sẵn các bao thư để cho ông thầy đỡ mất công và đỡ khó khăn khi phải mở từng bì thư. Chú đệ tử lăng xăng dọn dẹp các ly tách và dụng cụ trên các bàn trong phòng vì từ sáng đến giờ mắc đi về hậu cứ, tuy nhiên vẫn theo dõi nét mặt ông thầy, để xem có gì buồn, vui hay không?

Hùng đọc một số thư trong trạng thái bình thường chẳng có gì vui hoặc buồn hiện lên nét mặt. Nhưng đến một lá thư khá dày, khi nhận ra tên người gửi, nét mặt Hùng vụt vui hẳn lên. Hùng cười có vẻ thích thú và nói nho nhỏ một mình: “Ồ! Thư của cô Trẹo Bảng Họng”

Nội dung thư, phần đầu, Hùng được biết thêm một số công tác và sinh hoạt của Tâm và cô “Trẹo Bảng Họng” đã làm trong mấy tháng vừa qua. Cô ta cũng nhắc đến một số vấn đề quan trọng giữa hai gia đình (dĩ nhiên Tâm đã “xì” những tin tức “bí mật” này) : Như việc gia đình Hùng ở miệt Thành, Nha Trang đã đến thăm gia đình Tâm hiện đang sống ở khu Xóm Mới, Nha Trang, hai gia đình muốn làm một nhịp cầu để “hai cháu” có thể cùng nhau tay trong tay tiến xa hơn : đến hôn nhân, đó là điều cả hai gia đình đều trông chờ... Điều này Hùng cũng đã biết qua thư của gia đình mình và qua thư của Tâm, Hùng nhận được cách đây hơn 2 tháng.

Cô “Trẹo Bảng Họng” nói thật nhiều và cố tình diễn đạt rõ ràng như một thông điệp khẳng định về việc cô ta biết tận tường về tình yêu của Tâm đã dành cho Hùng. “Em biết một cách rất chắc chắn và dứt khoát rằng, trên cõi đời này, không có một người con gái nào yêu anh ghê gớm, dữ dội như chị Tâm đã yêu anh” Hùng ngưng đọc, mỉm cười và nói một mình “Cái kiểu này, chắc cổ muốn ăn cái đầu heo đây” !

Khi đọc đến phần cuối thư, mắt Hùng như hoa lên làm nét chữ trong thư như nhạt nhòa. Hùng đọc thư nhưng có cảm giác như khi được, khi mất, lúc ẩn, lúc hiện. Hùng quên mất thực tại, không biết mình đang làm gì, đang ở đâu! Bên tai, hình như đang văng vẳng nghe lời một người nào đó, ai oán, kể lể:

- “ Chắc giờ này anh đang tiếp tục hành quân ngoài Huế? Còn tụi em, tưởng đã thoát khỏi những ngày đen tối của Tết Mậu Thân vừa qua, nhưng không. Hôm đầu tháng 6, một đơn vị Việt Cộng, như để trả thù cho lần thảm bại trong dịp Tết Mậu Thân, đã trở lại tấn công qui mô vào một tiền đồn phía Tây Bắc tỉnh Bình Định. Lần tấn công đó, chúng không đạt được mục đích như vẫn tuyên truyền : muốn xóa sạch tên đơn vị này, nhưng chúng đã gây cho đơn vị anh hùng này một số tổn thất đáng kể. Mấy hôm sau, tụi em cùng phái đoàn tỉnh đi lên thăm và ủy lạo đơn vị này. Không may, khi còn khoảng hơn 3 cây số mới tới đơn vị thì phái đoàn bị phục kích. Lực lượng phục kích của Việt Cộng thì không nhiều, nhưng hỏa lực trên đồi bắn xuống, nhất là hỏa lực súng cối của chúng thật ồ ạt và khủng khiếp.

Chính hỏa lực này đã gây cho phái đoàn một số thương vong. Em chỉ bị thương nhẹ ở vai và lưng nhưng cũng cố lê lết kéo chị Tâm vào núp dưới một gộp đá cạnh lề đường. Xui một cái là chị Tâm bị thương quá nặng vì bị nhiều mảnh đạn ghim vào ngực. Em đỡ chị Tâm bằng hai tay, em sợ quá, chỉ biết kêu gào và khóc nức nở trong khói lửa mịt mù! Chị Tâm đã chết trong tay em. Trước khi chết, trong lúc hấp hối, chị Tâm vẫn sảng sốt và thều thào gọi mãi tên anh”.

Chú đệ tử thấy ông thầy mặt như trắng bệch, buông rơi những tờ thư, tay run rẩy ôm lấy ngực và kêu lên ú ớ. Hoảng quá, chú chạy ào đến phòng y tá trực gần nhất để kêu cứu. Mấy người y tá rầm rập chạy đến phòng Hùng. Xúm nhau, mấy người đẩy, mấy người phụ cầm theo những y cụ. Họ chạy như bay qua phòng cấp cứu gần đó ...

***

Hùng thấy mình như đang bềnh bồng, đang lửng lơ, đang bay bổng. Mà sao lạ quá, Hùng có cảm giác như mình đang tung vút lên cao, và bên tai, nghe mơ hồ như có tiếng sáo diều réo rắt, như tiếng nhạc thiên thần đầy huyền bí, gọi mời.

Và ơ kìa, Khánh Tâm vụt hiện ra. Vẫn với dáng nét thân quen. Vẫn với nụ cười rạng rỡ!

Tâm nâng và vung hai cánh tay về phía Hùng như vẫy gọi, như đón chào. Hùng có cảm tưởng như hai người đã bị xa cách từ nghìn trùng, qua ngút ngàn thời gian với rất nhiều chướng ngại và điệp trùng thay đổi; giờ đây mới có dịp gặp lại !

Hùng cố nhoài người vươn tới cho đến khi chạm vào cánh tay Tâm, và như sực nhớ một huyền sử của kiếp nào xa lắc, Hùng khều nhẹ vào cánh tay Tâm và với lời nhẹ nhàng như gió thoảng nhưng đầy khêu gợi và đầy tha thiết gọi mời: “Thôi. Mình về Linh Xuân Thôn. Đi em!”

Khánh Tâm, vẫn với cái nguýt làm ngọt đuôi con mắt, vẫn với lời như âu yếm, như dỗi hờn; giống như điệp khúc nào của ngàn năm huyền thoại qua lời vi vu: “Cái ông... này!”

Tâm, cứ làm như mình là chủ nhà, như muốn chứng tỏ mình đã sống ở đây từ lâu, đã rành rẽ mọi đường đi lối về nơi không gian đầy thiên sắc này !

Tâm nắm chặt bàn tay Hùng để kéo Hùng đi. Lướt những bước nhẹ nhàng trên đỉnh những cụm mây bềnh bồng đang bay bay, cùng nhau hướng về vùng ánh sáng ửng hồng nơi cuối chân trời...

Ở đó, không còn chia xa, không giận hờn, không khổ đau, không thù hận.

Ở đó. Chỉ toàn một màu hồng, với ngập tràn:

Hạnh phúc.
Thương yêu.
Và... Miên viễn


Phan Công Tôn
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=2483294175027629&set=gm.2389003274471103&type=3&theater&ifg=1

BachMa
07-02-2019, 02:28 AM
Nhớ Bạn Cũ
Tùy bút - Phạm Minh Xuân
Để nhớ về 7/68 Lê Văn Độ

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1561916821-HQPD_NhoBanCu.jpg
Hình minh họa
Tôi là chứng nhân của những chuyện xẩy ra ở Phi Đoàn 530 thời 1971-1974.

Trong Phi Đoàn 530 trước khi có Thiếu Úy Vĩnh Thuận về (1973) thì chỉ có Lê Văn Độ và tôi là dân Huế chính cống bị thuyên chuyển lên Pleiku cùng một lúc. Trong Phi Đoàn thường hay trêu chọc hai thằng tôi là dân 'Huệ' mà bày đặt đi Không Quân và bay 'Khù-Trục'(?) không trách gì bị tống cổ lên ‘Plề-Cu’ vì thiếu ‘piston’.

Hồi đó trong 3 phi đoàn khu trục còn lại của KQVNCH 514, 518, và 530 hầu hết là người Nam và Bắc. Hai phe nầy kèn cựa, chia bè chia đảng, đòn phép ganh đua, và chơi nhau hằng ngày. Chỉ có mấy thằng Huế thủ phận con rơi con rớt, làm... thinh và suốt ngày làm... tầm bậy cho đỡ buồn!

Bên cạnh người bạn nối khố trong quân trường của Lê Văn Độ là Nguyễn Văn Trường ra, tôi cũng là một thằng bạn Huế gốc 7/68 chí thân của Lê Văn Độ trong cuộc đời bay bổng. Độ đã gắn liền với tôi từ khi ở trong trường bay cho đến khi Độ được hạ huyệt.

Độ cùng đi Mỹ và được sắp xếp vào cùng 'K' Flight với tôi ở trường bay Keesler AFB (MS.). Ra trường Độ có điểm 'academic' và tôi có điểm 'flying' cao của 'K' Flight vì vậy hai thằng là hai candidates duy nhất của 'K' Flight... bị chọn đi Skyraider, vì hồi 1969-1970 US-Navy bắt đầu chính thức chuyển giao toàn thể Skyraider cho USAF và USAF phải mở trường tự huấn luyện Skyraider cho USAF ở ngay tại S.O.G Center / Hurburt Field (Eglin AFB, FL.).

Bốn khóa trước bọn tôi (71-01; 71-02; 71-03; 71-04 - See attached pictures) Pilot bị ra cỏ và đập máy bay khá nhiều cho nên trước ngày Class 71-05 bọn tôi mãn khóa, Col. Yeally và Staff của ông ta đích thân bay qua Keesler AFB cho đám T-28 Instructor Pilots biết là Trường Huấn Luyện A-1 không muốn nhận graduated-pilot 'yếu' nữa!

Trong dịp nầy, để khuyến khích và động viên tinh thần, đám nầy cho tôi và Độ leo lên 'tham quan' hai chiếc AD-5 đồ sộ, dơ bẩn và 'ugly SOB' bám đầy dầu mỡ mà họ đã dùng để bay qua Keesler. Không ngờ họ đã làm tôi và Độ quá 'khủng' và muốn đái trong quần luôn! Lòng buồn rười rượi vì cái dơ dáy và uy hiếp tinh thần của chiếc A-1. Không biết với trình độ hơi non tay lái, mới ra trường của mình, rồi có thể chế ngự được con 'trâu điên' nầy chăng?! (USAF called it 'A DUMP TRUCK')

Về Pleiku Tôi còn được 'adopted' bởi các tay đàn anh cô hồn các đảng: Phạm-Văn-Thặng 'Fulro', T.K.Long 'Lăng Quăng', Phúc 'Gandhi', Phùng 'Django' v.v... để tiếp tục quậy và say sưa vô kỷ luật. Còn Độ thì rất hiền từ và chừng mực. Độ cực kỳ chăm chỉ trong việc bay bổng. Trời xấu là thầy mang DASH-1 ra thầy đọc để toan tính học thuộc lòng luôn cả Emergency Procedure section. Tuy khác lối sống nhưng hai thằng tôi rất thương nhau. Có lẽ là vì có chung Huế và 7/68 DNA, và ở chung phòng.

Độ và tôi 'shared' chung một phòng ở cư xá của Mỹ để lại cho PĐ-530 trên đồi cao phía Bắc của căn cứ nhìn xuống phi-đạo, ATC Tower và Tarmac của 2 Phi Đoàn Trực-Thăng.

Đêm đầu tiên sau khi Độ bị tai nạn (See the last attached picture) người ta đem bộ đồ bay của Độ từ bệnh xá về quăng vào dưới gường của Độ. Mùi khét của da thịt Độ làm tôi không thể nào ngủ được, phải vác mền mùng qua phòng của Tiến Chỉnh ngủ.

Sáng sớm hôm sau, được tin Độ đã qua đời tại Long Bình, Phi Đoàn Trưởng Tr/T Mười 'Lung' kêu tôi vào và yêu cầu tôi đem thi hài Độ về Huế để lo một đám tang thật đàng hoàng cho Độ.

Tr/T Mười 'Lung' bảo: "Tôi biết ông anh rể của anh là Đ/T Tôn-Thất-Khiên làm Tỉnh-Trưởng Huế. Anh ráng làm đám tang cho anh Độ càng trịnh trọng chừng nào càng tốt chừng đó để gia đình của người anh em Jupiter chúng ta được vui lòng và thỏa nguyện".

Ông thân sinh của Độ rất thật thà và chất phát giống như Độ. Khi tôi gặp và xin được biết ước nguyện của gia-đình thì ông cụ cho biết chỉ muốn lúc hạ huyệt có được một dàn kèn của ban quân-nhạc tiểu-khu thổi bài Chiêu Hồn Tử Sĩ.

Ngày hạ huyệt 2 GMC với đầy đủ kèn trống của Tiểu Khu đã làm ông cụ và bà con ở Bao-Vinh/Huế hãnh diện và vui lòng.

Kỷ niệm buồn vẫn không bao giờ quên: Những chiều gần Tết thật vắng lặng ở mọi công sở ở Biên Hòa. Tôi theo trực thăng đưa thi hài của Độ về Tử Sĩ Đường Tân Sơn Nhất. Từ Burn-Treatment-Center của Long-Bình Hospital, Trực Thăng dropped tôi xuống Tarmac Khu-Trục A-1 ở Biên Hòa AFB để tôi mượn xe Honda của 1 người bạn Khu-Trục 518 chạy đi ra Tòa Hành Chánh Tỉnh làm giấy khai tử cho Độ trước khi đưa Độ về Huế (vì Độ chết ở Long Bình chứ không phải ở Pleiku).

Phòng sở nào cũng có bàn thờ cúng kiến ngay trước cửa để rước Ông Bà về ăn Tết, chạy tìm người muốn hụt hơi mới xong 1 giấy khai tử có đủ chữ ký cho Độ.

Tối hôm đó tôi ngồi với ông cụ của Độ trong Tử-Sĩ-Đường cho tới 9:00 đêm. Thật là rợn người, không chữ nghĩa nào có thể diễn tả được cái khung cảnh ghê rợn nầy và lòng thương con vô bờ bến của một người cha.

Sau khi đem quan tài vào Tử-Sĩ-Đường, quan tài được kê lên hai 'con ngựa' gỗ thô sơ, một bát nhang và hai cây đèn cầy ở hai đầu quan tài. Mọi người đều biến mất chỉ còn lại hai bác con, một ông già đang đau khổ và một thằng pilot Khu-Trục, tay dao tay súng, trông oai phong lẫm liệt nhưng nhát gan, thỏ đế, sợ ma còn hơn sợ cọp.

Thú thật hôm đó tôi cũng không biết phải giải quyết sự việc bằng cách nào!? Rồi sau đây mình phải làm gì nữa đây?? (lần đầu tiên trong đời lo cho 1 thằng bạn mới chết, không biết mô tê gì cả!!!!).

Hôm đó quan tài của Độ là chiếc quan tài duy nhất trong căn phòng rộng lớn và ma quái của Tử-Sĩ-Đường. Sự đơn lẻ càng làm cho không khí lạnh lẽo hơn. Tiếng gió hú qua mái hiên ở đằng sau nhà càng làm cho khung cảnh thêm ghê rợn như những chuyện ma quái mà tôi đã đọc lúc còn nhỏ.

Hai Bác Con ngồi trong bóng tối của Tử-Sĩ-Đường. Cuối cùng tôi phải lên tiếng và hỏi: "Thưa Bác, Độ về tới đây là cũng tạm thời xong được một bước trước khi chiều mai máy bay C-123 đưa Độ về Huế. Vậy con xin mời bác về nhà con ở Chợ Lớn ngủ qua đêm rồi ngày mai mình trở lại".

Ông Cụ cám ơn và từ chối: "Tui muốn ngồi ở chỗ ni với con tui cho hết đêm ni, để hắn nằm một mình lạnh lẽo không đành. tui không đi mô cả. Tết 'dức' tui hiểu, anh đi về với gia đình đi rồi mai trở vô với tui cũng được".

Trong những tình huống như thế nầy mới thấy được tình cha thương con. Tôi chạy vội ra ngoài cổng Phi-Long mua một ổ bánh mì thịt và một chai xá xị cho ông cụ của Độ trước khi thắp một nén nhang khấn thầm với Độ: "Độ, mầy biết tau ham chơi nhưng tau đã đưa mầy về tới đây rồi, mầy cho tau chạy về thăm nhà một chút trong ba ngày Tết rồi ngày mai tao vô lại với mầy".

Vái xong ba vái là tôi đi lui, trông ông cụ ngồi một mình bên quan tài con, tôi không thể nào đủ mạnh để cầm lại nước mắt của mình vì kính phục lòng hy sinh và tình cao cả của Cha và Con.

Ngày hôm sau, sau khi giải thích cho ông cụ, tôi cho phép đục 4 lỗ trên quan tài (để release the pressure trong hòm lúc lên cao độ) để đưa Độ về Phú-Bài Huế và gác hòm 3 ngày 3 đêm trước khi hạ huyệt.

Có thể nói Độ là người bạn 7/68 mà tôi đã có duyên gắn bó nhất và dành nhiều thì giờ nhất cho nhau trong cuối cuộc đời binh nghiệp. Nhân một lỗi nhỏ trong bài viết của Hà 'cà-chớn' Trần-Ngọc Nguyên-Vũ mà tôi lại có dịp ngồi ôn lại một kỷ niệm xưa cùng chia sẻ với anh em. Cũng là một cái duyên để nhớ bạn cũ.


Phạm Minh Xuân
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=2480651215291925&set=gm.2386106441427453&type=3&theater

BachMa
07-04-2019, 08:43 PM
Chập chững "Đời Phi Công"
Hoài Phong
Lời mạo muội... Tiếp theo câu chuyện “Mai mốt ông cũng sẽ như chúng mày” kể lại những ngày đầu nhập ngũ, và lần lượt những ngày Quân Trường rồi cũng qua, những lo sợ sẽ “Không thể nào bay được” như lời dọa dẫm của vài NT trở lại Quân Trường sau trên dưới một năm huấn luyện nơi xứ người, những mong đợi rồi cũng đến, nỗi lo sợ rồi cũng qua ...


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1561916660-HQPD_ChapChungDoiPhiCong.jpg
Hình minh họa

Sau khi mãn Khóa T-28 và xuyên huấn C-47, chúng tôi 10 thằng về trình diện KĐ/33 tại TSN. Những Thiếu úy mới tinh, mới tinh khôi không thể nào dấu được, dù đã cố gắng làm cho cái lon Thiếu úy mờ tịt không còn chút gì sáng chói màu đồng, trong những ngày này, sau nhiều tháng năm miệt mài thụ huấn bây giờ thực sự như những chú chim non xổ lồng tung tăng và hung hăng bay nhảy, chúng tôi có cảm tưởng đã nắm chặt bầu trời, “Không Gian” đã nằm trong lòng bàn tay…

Đã hơn 1 tuần, cứ mỗi sáng vào trình diện điểm danh xong là tan hàng đến hôm sau, quả là quá rãnh rổi nên chúng tôi đã gây ra không ít chuyện động trời, mà có lẽ những khoá đàn anh chẳng thể nào biết được. Chẳng hạn như có lần mấy “ông” Thiếu úy mới về này đã làm nhốn nháo cả đoàn QC Quân trấn, lẫn QC Không Quân và biết đâu cả Không đoàn 33 cùng BTL/ KQ (Lúc này Sư đoàn 5/KQ chưa được thành lập)…

Qua bao nhiêu năm tháng, những khổ cực, những lo âu và cuối cùng là niềm hãnh diện đã đến với chúng tôi, với đôi cánh bạc trên ngực áo, những nhớ nhung, ray rứt những thèm muốn, những ước mơ đã đến và tôi đã cố gắng thuyết phục để cùng các bạn thực hiện giấc mơ từ bao lâu tôi hằng ôm ấp…

-“Quyết định vậy đi nhé… 2 giờ chiều”, sau khi trình diện phụ tá KĐT 33, chúng tôi mỗi anh mỗi ngả, đường ai nấy chạy, đào ai nấy đón, 2 giờ chiều phải có mặt tại “Cái chùa“ La Pagode , “Tụi bây nhớ chưa ngay góc Tự Do và Lê Thánh Tôn đó nha!”

Lúc xưa, còn là một thanh niên mặt trắng, một “Bạch diện thư sinh” tôi đã tập tành, lâu lâu được theo các bậc đàn anh vào đây ngồi “thiền” mắt xớn xác, và tai mở lớn để nghe, để thâu thập những chuyện đào kép, những kinh nghiệm quý báu làm thế nào để “đốn ngã” được em. Nhất là những mẩu chuyện chiến tranh các anh người Biệt Động, kẻ Nhảy Dù, TQLC… kể chuyện trong rừng, những pha chiến đấu, những cuộc đổ quân, tưởng chỉ có thể xảy ra trong Ciné.

Oai hùng và thần thánh nhất là anh Hoàng, anh của người bạn học, một phi công trong Phi đoàn rất đặc biệt thời đó. Anh thường mặc áo bay đen với khăn choàng tím của Phi Đoàn Thần Phong, chỉ mới nghe tên, chỉ thấy người, tôi là một thanh niên mới lớn đã muốn “mê” huống gì những em gái hậu phương, những nữ sinh trường Việt, trường đầm… Anh lại có lối kể chuyện duyên dáng, hấp dẫn, luôn luôn là những chuyện mới thực hiện xong hôm qua, hay hôm nay, lúc sáng cách đây vài giờ, những chuyện chim trời, những cú nhào lộn, đánh bom… Tôi cứ há hốc mồm chiêm ngưỡng, quên cả liếc nhìn các “đàn chị” tươi đẹp, nõn nà như tài tử Kiều Chinh, như Thẩm Thúy Hằng… đang mân mê trong tay các anh ngồi im, và yên lặng một cách ngoan ngoãn.

Thế nào rồi mình cũng như vậy, thế nào mình cũng sẽ oai hùng như vậy… Và hôm nay tôi đã thuyết phục các bạn vào “Chùa”, với tuổi trẻ, thời gian không gì vướng bận và với niềm tin ngất trời làm sao không tán thành, sợ gì ai nhỉ?... Thế là gần chục thằng Thiếu uý mặt búng ra sữa, mới toanh như những tấm “Phi bào” mới sửa cấp tốc hôm qua, tuy chưa có bên dao bên súng, vì đâu đã về đơn vị mà có được súng ống dữ dằn… Thôi như vậy cũng đủ Ground show lắm rồi, với những người yêu nhỏ bé, cùng các “Em gái hậu phương” có cô mới quen chưa đến… 1 ngày, chúng tôi ngang nhiên và ồn ào bước vào “Đất thánh ngày xưa” mà quên lững là nhiều đàn anh, sư phụ, sư tổ cũng rất có thể đang có mặt.

Chàng chưa hết nửa chai 33… bé, đào vừa xong vài muỗng kem dâu, chợt nhìn quanh, sao lạ quá, chẳng thấy cái gì gọi là “Không khí chiêm ngưỡng”, sao đâu đây sương khói nặng nề, nhìn qua phải, thấy toàn, những ánh mắt ái ngại phớt qua vội vàng nhưng không dấu vẻ xót xa, có khi bắt gặp những ánh mắt như… khi dễ, nhưng bao dung, tha thứ, quay qua bên trái hình như gặp vài khuôn mặt giận dữ… thôi rồi, phải zulu sớm thôi,

Tuy không có tí kinh nghiệm về trận mạc, nhưng có lẽ trời thương nên cuộc “triệt thoái” của chúng tôi hoàn toàn thành công, lực lượng được bảo toàn tuyệt đối, đào kép ai về nhà nấy, và không biết rằng lúc nãy, sau một cú điện thoại của ai đó trong La Pagode, Quân trấn Biệt Khu Thủ Đô đã phối hợp với Quân Cảnh / KQ có đến gần chục xe Jeep đã bao vây quyết tâm “rinh” mấy ông nội này về TTM, nhưng có lẽ sự “chần chờ cố ý” của bên KQ đã cứu chúng tôi, có lẽ nhờ sự rộng lượng của những cấp Chỉ huy bên BTL/KQ quyết định… bỏ qua, “Các anh hên lắm đó”, theo lời Thiếu tá Phương, phụ tá KĐT/KD 33.

(Sau này nói chuyện với ông anh của 1 người bạn cùng khóa, là một Sĩ Quan Chánh án bên Tòa án Quân sự, thì theo vị đó, có lẽ BKTĐ được “Báo cáo lầm” thế nào đó, mới “huy động” một lực lượng hùng hậu như vậy vì thật ra chúng tôi chẳng có lỗi gì cả, ngoài việc mặc “quân phục tác chiến” dẫn đào vô nhà hàng, và việc này thì hai, ba mai vàng, mai bạc, cũng vẫn thường làm.)

Rồi chuyện cũng xong, Trần Khương và tôi, 2 đứa ham chơi nhất trong số 10 thằng, không biết chè lá hay chạy chọt, chả thiết gì đến những lân la, ăn nhậu với những “thẩm quyền”, chỉ vào cho Thiếu Tá Phụ tá KDT điểm danh, có mặt xong là dzọt ra ngay, đến ngày cuối hai thằng đều méo mặt cầm sự vụ lệnh về Phi đoàn 716. Theo các vị tiền bối, đó là Phi đoàn với một Chỉ Huy Trưởng (Lúc này chưa gọi là Phi Đoàn Trưởng) “hắc ám” nhất Việt Nam Thiếu Tá Nguyễn Anh Tuấn. Phi đoàn 716 lúc này chiếm cứ một nơi riêng biệt, nơi cũ của Phi đoàn Thần Phong.

Sau khi đưa Sự vụ lệnh cho văn thư, chúng tôi ra Câu lạc Bộ của Phi đoàn ngồi chờ, hai con ma mới ngồi đồng hơn một tiếng, thấy 1 Tr/sĩ ốm nhom, lang thang, lếch thếch, nhưng giọng lại sang sảng:

- "Hai Th/u mới về, vào trình diện Th/sĩ Sáng gấp”. Ngồi chờ dài người hơn 1 tiếng, nghe đến đây, tôi không thể kềm được, nổi nóng quát ngay:

- “Trình diện Th/Tá hay Th/sĩ?”, tôi gằn giọng hỏi lại, hắn vẫn xác định là Th/sĩ Sáng gọi chúng tôi vào trình diện… Mẹ cha nó, ngày đầu tiên về Phi đoàn, có nghĩa là ngày đầu của đời chiến binh, ngày đầu của “Dấu binh lửa”, bước chân tôi đã lỗi nhịp, chắc hậu vận không khá được, tôi dằn mạnh chai Coca muốn nát luôn ra mặt bàn, và phá vỡ luôn những tiếng ồn ào của phòng ăn sáng.

- “Anh vào kêu anh Th/sĩ của anh ra đây trình diện hai Th/úy mới về, không có Th/úy nào đi trình diện Thượng sĩ, nghe chưa, cút!”

Khương nhỏ nhẹ… "mày làm quá mày", “Tao đếch cần tới đâu thì tới”, tôi nạt luôn cả Khương. Dù gì thì Quân trường cũng vừa dạy cho mình Quân Phong, Quân Kỷ, mới mang lon Th/úy, một cấp bậc thấp nhất của Sĩ quan thì sao có thể quên nhanh thế được!

Và cứ như thế, ngày đầu tiên về Phi đoàn, tôi đã mang tiếng ba gai, tôi đã thách đố số mệnh, dù tôi cũng nghe phong phanh, mấy ông Th/sĩ văn thư, quyền hành lắm, là tay mặt, tay trái của Chỉ Huy Trưởng, hại mình dễ như chơi… nhưng tôi đếch cần!

Ngày tháng lần qua, coi vậy mà không phải vậy, Thiếu Tá Nguyễn Anh Tuấn Chỉ Huy Trưởng đầu đời tác chiến thật sự của tôi không phải là một vị Chỉ huy “hắc ám” mà phải gọi là vị chỉ huy “réc lô” nhất thì đúng hơn.

Trong khi các Th/úy Co Pilot vận tải mới về của các Phi đoàn “ngon ăn” khác, như 415, 413 hay kể cả Hỏa Long 417, nếu chưa xác định hành quân, thường bị đì đúng theo… "Ngành vận tải”: “Sĩ Quan Trực Phi đoàn” hay “Gác quan tài” mút mùa, đó là nhiệm vụ chính dù chỉ một, hai Sĩ Quan mới về Phi Đoàn, thì cũng chỉ “Mình ta với ta”.

Không như thế, Phi đoàn 716 dưới quyền Thiếu tá Tuấn rất giản dị: Sĩ Quan Trực là Sĩ Quan… trực, Sĩ quan có chức vụ như PĐ Phó, Trưởng Phòng Hành Quân, An Phi được miễn làm Sĩ quan trực…

Ngoài ra tất cả, không cần biết Trưởng phi cơ, Hoa tiêu chánh, Hoa tiêu phó cũ mới gì không cần biết, đã là Sĩ Quan, tới phiên là phải… trực! Trong khi những Phi đoàn khác gần như không có vụ điểm danh, dù cho cầm lệnh cắm trại của căn cứ là 50%; Phi đoàn 716 không vậy, cắm trại 50% là 50% phải có mặt, và có mặt có nghĩa là phải ngủ lại tại Phi Đoàn, 1 hai giờ sáng ngài buồn buồn không ngủ được, lang thang ra đánh kẻng điểm danh là chuyện bình thường… Không có mặt lúc đó, kể cả trễ 15 phút thôi, lập tức hôm sau trình diện và lãnh ngay 30 ngày ăn ngủ tại Phi đoàn.

Ngoài những tên be bé hạng ruồi như chúng tôi không đáng kể, nạn nhân còn gồm cả những ông TPC hạng nặng như Đ/úy Huỳnh Minh Thoại, sau này là Tr/tá PDT 716); chắc hẳn quý đàn anh cũng như đàn em, đêu biết, sau Mậu Thân, khoảng thời gian đó, cắm trại 100% là chuyện bình thường, bình thường đến nỗi ông Hùng Cường suốt ngày kếu réo: “…em ơi chiều nay một “chăm” phần “chăm”... em ơi chiều nay lại cắm “chại… dzồi”

Và suốt những năm tháng quân ngũ từ Mậu Thân đến tháng Tư tan hàng, hình như Tân Sơn Nhứt chưa bao giờ có chuyện “xả trại chăm phần chăm”, sau này sống khoảng đời tị nạn đôi khi có gặp lại những xếp sòng hân hạnh ngồi chung bàn tiệc, thắc mắc đặt câu hỏi, thì quan to cười ha hả: “Đ.m. Ngu sao “toa”? các "toa" còn trẻ không nói, mấy tụi “mỏa” vợ con nó níu chặt, xả trại 100% để một tuần đủ 7 ngày bảy đêm “cơm nhà quà vợ sao toa?” … À ra thế!

Cũng sau Mậu Thân, cuộc chiến đã bắt đầu sôi động, phi vụ huấn luyện rất hiếm hoi, chưa được xác định hành quân, Khương và tôi mỗi tháng làm Sĩ Quan Trực độ 2 ngày, bay bổng thì mỗi tháng 1 hay 2 phi vụ Huấn luyện khoảng… một tiếng rưỡi, thế thôi. Tất cả giờ còn lại, buổi sáng áo liền quần, súng dao, đạn lửa… đầy người, Khương Vespa Italy, tôi Lambret twist đưa “Em đi học” khi thì Lái Thiêu vào vườn ăn trái… cấm, lúc Thủ Đức “Nai Vàng Ngơ Ngác” uống môi em ngọt… cứ thế ngày lại ngày, và cũng cứ thế, đến tối mới về lại Phi đoàn để đúng tám giờ tối, điểm danh xong đi… chơi tiếp, ghé qua Pasteur làm tô phở chín gầu, ít bánh nhiều thịt, thường nhâm nhi đến nửa đêm, còi hụ giới nghiêm đợt 2 mới vào lại TSN, về Phi đoàn ngủ, hay chưa ngủ được, lại đánh bi da, chơi cờ tướng… đến ngày hôm sau.

Tuy đã bắt đầu bận rộn, Không đoàn lúc này vẫn nghĩ đến thuộc cấp, vẫn giữ chuyện “Nghỉ mát hằng tháng” trong Chủ nhật tuần đó, nếu không có nhiệm vụ. Quân nhân KQ/KĐ 33 được ghi tên thân nhân, vợ con hay đào kép… sẽ có hoặc C-47 hay C-119, khi thì Nha Trang, lúc Đà Lạt, Côn Sơn, Phú Quốc tắm biển nghỉ mát… cứ thế ngày lại ngày, tuần lại tuần, những ngày tháng mới về, thật đẹp, chiến tranh với chúng tôi lúc ấy như vẫn còn xa vời…


Hoài Phong
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=2484907274866319&set=gm.2390727224298708&type=3&theater&ifg=1

BachMa
07-09-2019, 06:23 PM
Ba Trái Thúi
Trần Ngọc Toàn

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1561005495-HQPD_BaTraiThui_01.jpg
Hình minh họa
Giữa năm 1974, Tiểu Đoàn 4 TQLC được lệnh rời vùng biển Mỹ Thuỷ, Quảng Trị chuyển quân bàn giao vị trí phòng ngự ở vùng núi rừng ở phía Tây Quốc Lộ 1, dưới chân rặng Trường Sơn với căn cứ Hoả lực "Barbara" do TQLC Hoa Kỳ giao lại sau cuộc giao tranh đẫm máu giữa lực lượng Nhảy Dù và quân Cộng Sản Bắc Việt vào mùa Hè năm 1972, trên đường tiến quân tái chiếm Quảng Trị.

Từ Quốc Lộ về phía Tây, những ngọn núi cỏ trọc, nằm nhấp nhô bên bờ Bắc sông Mỹ Chánh nối liền vào chân dãy núi Trường Sơn với rừng cây rậm rạp nay đã trơ trụi vì thuốc khai quang do quân đội Mỹ rải xuống để tránh bị địch xâm nhập đột kích, Tù căn cứ Hoả lực "Barbara" nhìn về hướng Tây là con đường dọ quân Cộng Sản mới khai mở sau năm 72 nằm vắt vẻo, uốn khúc nối liền trục xâm nhập với tên gọi là Đường mòn Hồ Chí Minh. Ở đây, quân lính TQLC ngày và đêm nhìn từng đoàn xe chở lính và đại pháo của Cộng quân lũ lượt xuôi Nam, ngang nhiên dưới bóng tàng của Hiệp Định Đình Chiến Paris ký kết giữa Mỹ và Hànội năm 73.

Người lính nào cũng biết sẽ còn ít nhất một trận đánh long trời lở đất nữa mới mong hết chiến tranh. Thuỹ Quân Lục Chiến là lực lượng Tổng Trừ Bị của miền Nam, trước đấy đã nhẩy vào các trận địa nóng bỏng trên khắp các mặt trận từ Mũi Cà Mau lên Pleiku, Kontum ra tận Bồng Sơn, Tam Quan, Huế, Quảng Trị, nay đã trở thành lính địa phương chống giữ phần đất địa đầu giới tuyến của Miền Nam.

Ngày và đêm, ngoài các cuộc tuần tiễu, phục kích chống xâm nhập còn tự đặt ra các chương trình huấn luyện, thao dượt để luôn sẵn sàng ứng chiến. Việt Cộng cũng không ngừng luồn người vào trong các địa bàn hoạt động, móc nối sơ sở cũ và quấy rối trị an như pháo kích, gài mìn, bắn tỉa. Thậm chí, có khi chúng bất thần đánh thốc qua tuyến phòng ngự của TQLC để thăm dò. Quân Đoàn I lại càng chắc mẩm xin giữ giữ chân TQLC tại Quảng Trị để "bảo toàn lãnh thổ".

Tuy vậy, công việc giữ đất dành cho TQLC ngày càng nhàm chán. Hầu hết quân lính vốn quê ở tận trong Nam. Mỗi ngày một chuyến bay liên lạc C. 130 của Không Quân cho người đi phép, tiếp tế, bổ sung cũng không đủ khoả lấp khoảng trống của người lính xa nhà. Được một tuần lễ sau, khi cuộc điều quân đã ổn định, một buổi chiều mưa dầm ở Quảng Trị, Thiếu Tá Nguyễn Tri Nam, Sĩ quan Hành quân của Tiểu Đoàn, nguyên xuất thân khoá 22 Võ Bị, đã mời vị Tiểu Đoàn trưởng vào ỏõ hầm hành quân ỏõ để tiếp chuyện với ỏõ Đại Bàng Thái Dương ỏõ. Thạch vừa chui ra khỏi cửa hầm ngủ vừa lẩm bẩm:

- Không hiểu có chuyện gì nữa đây?

Cái thằng "Thày Đồ tẩm ngẩm" này! "Đại Bàng Thái Dương" là Trung Tá Đỗ Hữu Tùng quyền Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 147 (LĐ147) TQLC. "Cái thằng Thày Đồ" là bạn cùng khoá Võ Bị với Thạch, ra trường về cùng đơn vị và trải qua cuộc chiến 10 năm nay lại gặp nhau. Tùng là cấp chỉ huy của Thạch.

- Tuyên Đức tôi nghe Thái Dương.

- Qua tần số cùi nhỏ, tao có chuyện muốn nói với mày.

- Cùi nhỏ, năm trên năm. Dứt.

Ở vùng hành quân, qua hệ thống máy liên lạc vô tuyến AN/PRC25, đám bạn cùng khoá Võ Bị của Thạch ở các đơn vị đã nghĩ ra hai hệ tần số liên lạc riêng dựa vào Khu Bưu Chính (KBC) 027 của Trường Võ Bị ngày xưa, cùi nhỏ là 4025 và cùi lớn là 4030. Thạch chuyển qua máy dự bị vặn cần vào tần số 4025.

- Thái Dương đây Tuyên Đức.

- Một chút nữa sẽ có trực thăng "Slick" vào đón mày ra ngoài này ăn tối chung với tao và thằng Tây Sơn. Có cả Kilô ở Saigon mới ra nữa.

- Nhận rõ. Còn gì tiếp.

- Gặp mày sau. Dứt.

"Thằng Tây Sơn" là Trung Tá Nguyễn Đằng Tống, Lữ Đoàn phó LĐ 147 TQLC và cũng là bạn cùng khoá Võ Bị với Thạch, ra cùng đơn vị từ đầu năm 1963 đến nay. Tống, Tùng và Thạch là 3 Thiếu Uý vừa ngoài 20 tuổi, tốt nghiệp khoá 16 của Trường Võ Bị Đà Lạt, tình nguyện về TQLC sau ngày mãn khoá. Hai ngày sau khi trình diện Bộ Tư Lệnh Liên Đoàn TQLC ở Thị Nghè, cả ba được phát quân trang rằn ri của TQLC, rồi được đưa thẳng ra bến Bạch Đằng xuống tầu Hải Quân HQ 401 để đáo nhậm đơn vị lúc ấy đang hành quân ở vùng Năm Căn, Cái Nước ở Cà Mau. Tống sinh sau Thạch một ngày ở tại Nha Trang, nên khi đổi sang số quân Hải Quân cả hai đã mang hai con số khít nhau là 701.162 và 701.163.

Ông Cụ của Tống là một thâm nho, từ Quảng Nam vào Nha Trang để dạy học và sau đó được đổi vào Sàigòn làm cho Bộ Giáo Dục chuyên về cổ học Hán Nôm. Tống có khá đông anh chị em, vốn dòng dõi hoạt động yêu nước trong các Chi bộ Quốc Dân Đảng. Anh Chị của Tống khá lớn tuổi đã làm việc và dạy học, lập gia đình khi mẹ của Tống đã mất sớm. Sau Tống, còn có một cô em gái và một người em trai. Tống học ở trường Trung Học Võ Tánh tại Nha Trang. Sau khi đỗ Tú Tài, Tống đã tình nguyện vào trường Võ Bị. Khi tốt nghiệp vào cuối năm thứ 3, Tống là một trong mười người đứng đầu của một khoá với 226 sĩ quan ra trường.

Với vóc người cao tầm thước, ứng biến nhanh lẹ và mau mồm mau miệng, Tống đã thành công trong việc lãnh đạo chỉ huy đơn vị từ một Trung đội trưởng với hơn 40 người lính lên đến một Tiểu Đoàn TQLC với quân số gần 900 tay súng thiện chiến. Năm 65, khi hành quân ở Điện Bàn, Quảng Nam, Tống bị trúng đạn vào bụng được chuyển về Quân Y Viện Qui Nhơn. Khi gặp lại Thạch, Tống kể: "Lúc tao bị trúng bụng, ngã xuống, không cục cựa gì được, chợt nhớ đến mày bị ba phát đạn ở Bình Giã còn bò mấy ngày mấy đêm được". Thạch bị đạn vào đùi và bắp chân. Còn viên đạn thứ ba cháy xém ngoài da ngực trái. Đạn vào bụng như Tống gây phá nguy hiểm hơn, thường dễ bị lưu huyết nội mà chết.

Tống sống sót trở về trình diện Bộ Tư Lệnh lúc ấy đã dời về trại Lê Thánh Tôn, sau lưng bến Bạch Đằng. Thạch bị lõm thịt đùi ở Bình Giã nên được đi học khoá 3 Sĩ Quan Căn Bản Quân Cảnh ở Vũng Tàu rồi về làm Đại Đội Trưởng Đại Đội 202 Quân Cảnh của Binh chủng TQLC. Trong lúc ấy còn dưỡng thương, Tống được vị Tiểu Đoàn trưởng cũ là Thiếu Tá Nguyễn Kiên Hùng, nguyên tham dự đảo chánh 11/11/60, thất bại chạy sang ẩn náu ở Cao Miên rồi trở về thay Thiếu Tá Lê Hằng Minh làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 4TQLC. Thiếu Tá Hùng được bổ nhiệm ra làm Tỉnh Trưởng Nha Trang đã đem Tống theo, lúc ấy Tống còn là Trung Uý, ra làm Quận Trưởng Quận Ninh Hoà.

Vốn là Sĩ quan Tác chiến kiên cường và liêm chính, Thiếu tá Hùng không ngồi lâu ở nơi "xôi thịt" đã bị trả lên Quân Đoàn II và sau đó ông xoay sở về làm Huấn Luyện Viên cho trường Chỉ Huy và Tham Mưu. Còn Tống từ đơn vị 2 Quản trị đã nhất quyết đòi về lại TQLC và cuối cùng được toại nguyện. Dù trên da bụng của Tống còn dấu vết con rết dài sau cuộc giải phẫu, Tống nói đùa với Thạch :

"Bụng tao có cái Fermeture để lâu lâu mở ra coi". Hồi Tống đi làm Quận Trưởng ở Ninh Hoà, do quân số còn ở TQLC nên đã uỷ nhiệm cho Thạch hàng tháng đến phòng Quân lương lãnh tiền gửi ra cho Tống. Tống viết thư bảo: "Mỗi tháng tao cho mày một ngàn xài chơi, còn bao nhiêu gửi ra cho tao".

Làm Quận Trưởng chỉ vài tháng với tuổi trẻ độc thân lại khẳng khái, Tống chẳng dư dả được bao nhiêu. Vốn tính gan lì và dũng lược, Tống cầm sự vụ lệnh đi Tiểu Đoàn TQLC trở lại làm Đại Đội Trưởng. Với các công trận lừng lẫy trên khắp các mặt trận từ Miền Tây ra Miền Đông lên đến Đức Cơ, Pleime, Tống đã từng bước lên cho đến ngày được bổ nhậm làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1/TQLC.

Năm 68, Tiểu Đoàn của Tống đã vây bắt được 120 tên Việt Cộng xâm nhập vùng Ngã Ba Cây Thị, cầu Bình Lợi. Tống được đi học khoá Amphibious Warfare ở Quantico, Virginia, Hoa Kỳ rồi trở lại đơn vị hành quân tái chiếm Quảng Trị. Bị thương lần thứ hai, Tống được kéo về làm Chánh Văn Phòng cho Thiếu Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn TQLC. Vẫn thích cười cợt, vui đùa, Tống bảo: "Bây giờ tao làm Skinman tức là gia nhân đó!". Người hùng coi thường tử sinh đó cuối cùng đã trở ra đơn vị tác chiến và làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 4/TQLC, lên cấp Trung Tá với Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương sau cuộc hành quân tái chiếm Quảng Trị năm 72.

Lúc ba Thiếu Uý trẻ măng xuống tàu HQ.401 trực chỉ Cà Mau, leo lươí xuống tàu LCU đổ bộ lên Rạch Ông Năm với quân phục mới tinh chưa cắt chỉ, balô đời Pháp từ trường Võ Bị mang theo cồng kềnh đủ thứ trên lưng và hai bàn tay không, cúi đầu chạy theo đám lính TQLC râu tóc xồm xoàm, chiến phục bạc màu nước muối, đổ bộ lên bờ sông nhão nhoẹt sình lầy với rừng cây Đước, cây Mắm xoải rễ dài chằng chịt như muốn níu kéo đôi chân người lính vốn đã trơn trợt. Trình diện Đại Uý Bùi Thế Lân, Tiểu Đoàn Trưởng xong, cả ba được lãnh ba cây súng Shotgun với dây đạn như phim cao bồi và được phân ra đi theo Ba Đại Đội tác chiến để "quan sát".

Nhờ đã trải qua khoá Rừng Núi Sình Lầy của Biệt Động Quân ở Dục Mỹ nên cả ba đều thích ứng nhanh chóng. Chấm dứt cuộc hành quân gần một tháng sau, đơn vị được rút trở về Hậu cứ ở Vũng Tầu.

Ba người bạn lại càng khắng khít với nhau hơn, dù ở ba Đại Đội khác nhau, đi đâu cũng như hình với bóng.

Khi được cấp giấy phép một tuần lễ, cả ba cùng rủ nhau đi chung xe đò về Sàigòn. Đầu tiên ghé thăm nhà ông Cụ của Tống đang ở trong một hẻm nhỏ bên Đakao. Gặp cô em gái của Tống là Trúc,
Thạch đã ngã lòng. Trúc lúc ấy đang học ở Gia Long, vừa đẹp, vừa thuỳ mị, hiền. Về lại đơn vị, Thạch mới nói vài câu ý muốn xin bàn tay cô em gái của Tống. Tống đã giẫy nẫy la lối: "Thôi đi mày. Mày bê bối, chơi bời bừa bãi. Không được đâu!". Thạch không vừa đáp lại: "Từ hồi nào tới giờ, tao đi đâu cũng có mày mà, làm gì nói tao bê bối, chơi bời bừa bãi".

Ở tuổi mới lớn, thấy cô gái đẹp nào cũng mê. Anh Chị lớn bận bịu gia đình riêng, nên Trúc vừa đi học vừa lo chăm sóc Cha già và đứa em trai không Mẹ. Còn Thạch lặn lội hành quân. Khi trở về hậu cứ nghỉ quân, bô ba Thạch, Tống và Tùng đi đâu cũng dắt díu nhau như anh em ruột thịt, luôn cả xóm Ngã Ba nước mắm ở Vũng Tàu.

Đi ăn uống, nhảy đầm cả ba gom chung tiền túi giao cho một người giữ trả. Lúc lãnh tiền "rappel" Thiếu Uý được 7, 8 ngàn, Thạch và Tùng mua hai chiếc Vélo Solex để đèo nhau đi chơi chung. Có khi vào quán Càphê có người đẹp. Lúc lại thả rong theo chân mấy cô bé Trung học Vũng Tàu. Lúc nào Thạch cũng tỏ ra nhường nhịn hai bạn, nếu chỉ có hai người đẹp phải theo. Từ đó, mấy cô gái mới lớn ở Vũng Tàu mới đặt cho ba anh chàng Thiếu Uý nhỏ tuổi có tên cùng vần chữ T. là "Ba Trái Thúi" trong lúc ba chàng tự nhận mình là "Ba Chàng Ngự lâm Pháo Thủ".


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1561005509-HQPD_BaTraiThui_02.jpg
Hình minh họa

Đỗ Hữu Tùng xuất thân trong gia đình gia giáo, đông anh em ở Đà Nẵng, lớn hơn Thạch và Tống, một tuổi, dáng vẻ thấp bé hơn nhưng thâm trầm, kín tiếng với nét đạo mạo "Cụ Non", nên bị hai người bạn đặt tên là "Thày Đồ". Tùng ít nói nhưng khi mở miệng thì tuôn ra câu cú văn hoa ý nghĩa thâm thuý. Lại còn có tật để bụng không thích nói ra. Khi cần chàng lôi cuốn sổ tay ra có ghi chép mọi "sự việc" đầy đủ, đâu ra đó. Với nước da ngăm ngăm, Tùng có nét mặt và dáng vẻ thư sinh hơn là võ biền, khoan thai và từ tốn. Mãi một năm sau, khi đến đơn vị, hai người bạn mới phát giác ra Tùng đã có người yêu từ hồi còn ở Trung học, khi nàng bất chợt ghé xuống Vũng Tàu.

Người thiếu nữ tên Lan còn giữ nguyên dáng vẻ, giọng nói và cử chỉ của một cô gái Huế, dù lớn lên ở Đà Nẵng với Tùng. Hồi mới ra trường, sau cuộc hành quân "thử lửa" ở Cà Mau trở về, Tống và Tùng đều được các Đại Đội Trưởng lo chu đáo từ việc sắp xếp đặt phòng ngủ bên cư xá Sĩ Quan độc thân trước mặt doanh trại. Riêng Tùng có được một căn phòng riêng rẽ nằm kín đáo phía sau. Thấy Thạch chưa có chỗ tạm trú, Tùng rủ bạn cho ở cùng phòng. Tính Thạch lại bừa bãi, cẩu thả nên ngày nào nghỉ ở hậu cứ Tùng cũng lo dọn dẹp gọn gàng sạch sẽ cho bạn. Thậm chí còn đi mua sắm khăn phủ giường, gối và mền cho Thạch "Đâu phải ra đó như hồi còn trong trường Võ Bị". Khi Lan đến thăm với quà cáp tươm tất và thức ăn, bánh trái đầy giỏ, Tùng chia phần cho hai bạn rất đồng đều và không quên nhắc khéo Thạch.

- "Tối nay, mày có quyền ở nhà chị Ba Cây Dừa qua đêm được rồi".

Chị Ba Cây Dừa nuôi nhiều em út. Có một em chừng 17, 18 tuổi tự khoe mình là tay đã tạt át xít vào mặt cô Cẩm Nhung là người tình của Trung Tá Trần Ngọc Thức năm 61, 62 gì đó. Sau lần gặp đầu tiên, cô nàng bảo Thạch: Anh không cần cưới em đâu. Chỉ khi nào hành quân về ghé ở lại với em là được rồi. Thế cũng đỡ phiền lòng và mất thì giờ theo tán tỉnh mấy cô học sinh Trung học trong trắng.

Ở đơn vị tác chiến đâu biết số Ông chết ngày nào. Thạch vui vẻ đáp ứng ngay yêu cầu của Tùng trước cặp mắt dò hỏi của Lan. Đã thế, Tống còn bồi thêm một câu:

- "Thằng này chỉ giỏi ăn chơi trác táng".

Làm cho Lan càng thêm thắc mắc. Hết hy vọng "cua" em gái của Tống rồi. Lần sau hành quân trở về hậu cứ, Tùng vọt ngay về Sàigòn thăm bạn gái. Nên khi có lệnh cấp tốc đưa quân lên SàiGòn chống đảo chánh của Tướng Lâm Văn Phát chỉ có hai Đại đội của Thạch và Tống lên máy bay Air Viet Nam từ phi trường Vũng Tàu về Tân Sơn Nhất. Dù vậy, khi Tiểu Đoàn lên nằm ứng chiến ở Thị Nghè,
Tùng cũng theo hai bạn đi ăn và đi nhảy đầm ở Tour D'Ivoire. Dưới thời Tổng Thống Diệm, lương Thiếu Uý khá dư dả đối với ba chàng tuổi trẻ độc thân.

Chẳng bù sau này lên đến cấp Tá với phụ cấp này nọ cũng không dám ghé vào nhà hàng Tây. Do hành quân liên miên sau ngày đảo chính 1/11/63, "Ba Trái Thúi" dù có những ngày về nghỉ ở hậu cứ theo đuổi cô này, cô nọ nhưng chẳng đâu vào đâu cả. Cuối cùng chỉ ghé thăm chị Ba Cây Dừa rồi lại lên đường ra "biên ải".

Ở mặt trận Bình Giã, khi Tùng được lệnh đem Đại Đội vào rừng cao su Quảng Giao tìm xác chiếc trực thăng và phi hành đoàn 4 người của Mỹ, Thạch và Tống lo lắng dặn dò bạn phải cẩn thận, Tùng bảo:

- "Tin tức mấy ngày nay đã rõ là quân số Việt Cộng tập trung lên đến cả Trung Đoàn. Nếu tụi nó còn quanh quẩn tại đây, Đại Đội của tao vào là bị tụi nó nuốt chững. Lệnh của cấp trên ra là tao phải vào thôi" !

Thạch nói như an ủi bạn:

- "Thôi được, có gì tao với thằng Tống sẽ nhào vô ngay"!

Chỉ một tiếng đồng hồ sau, Thạch đã nghe tiếng súng nổ ran ở phía Đông của làng Bình Giã, tức tốc ra lệnh cho Đại Đội của mình ra quân tiếp cứu sau khi đã gọi máy cho Tống bên Đại Đội 4. Cuối cùng, Tống và Tùng thoát về làng không hề hấn gì sau cuộc giao tranh đẫm máu trong vườn cao su Quảng Giao. Là Đại Đội tiến sâu vào vùng địch nhất, Thạch bị kẹt lại, bị thương với ba phát đạn trên người, bò xuyên rừng với khẩu AR15 trọn hai ngày ba đêm mới đến cổng làng Bình Giã. Trong khi ấy, Tống và Tùng gom quân phòng thủ chờ tiếp viện.

Mỗi đêm, cả hai thắp nhang đứng ngoài trời cầu nguyện xin nếu Thạch có chết linh thiêng nằm ở đâu về báo cho bạn biết để lấy xác. Đến ngày thứ Ba, khi dẫn quân cùng với Tiểu Đoàn Nhảy Dù vào trận địa thu lượm xác quân bạn, Tống và Tùng đã gặp lại người bạn sống sót với hai vết thương đã thối rữa và chiến phục rách tã tơi.

Từ đó, những biến đổi đã xảy ra theo thời gian. Ba người trôi nổi theo định mệnh, nhưng vẫn còn chung trong một binh chủng. Hễ có dịp họ lại tìm thăm nhau. Tình bạn ngày càng bền chặt, Tống bị thương hai lần, nhưng Tùng không một mảy may thương tích, rời Tiểu Đoàn 4 qua Tiểu Đoàn 5, rồi làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 6/TQLC. Vốn tính cẩn trọng, điềm đạm và kiên cường, Tùng nối dài bước đường hành quân suốt từ ngày ra trường với bao nhiêu chiến công tích luỹ và thăng cấp ngoài mặt trận từ Đại Uý lên đến Trung Tá.

Năm 1972, khi hành quân tái chiếm Quảng Trị, Tiểu Đoàn của Tùng là một trong nỗ lực chính đã thanh toán tên địch cuối cùng để dựng lại lá Quốc Kỳ trên đỉnh Tháp Cổ Thành giữa cảnh khói lửa còn nồng nặc mịt mù. Trong cuộc khao quân mừng Chiến Thắng Quảng Trị tại Huế, Tùng đã gặp " KI LÔ" trong buổi tiệc khoản đãi. Lửa tình đã bùng cháy không có gì dập tắt được. "KiLô" đã nổi danh từ những dòng nhạc khắc khoải và lời ca như tiếng thơ của Trịnh Công Sơn. Người lính trận kiệt xuất Đỗ Hữu Tùng đang khát khao trong sâu kín niềm an ủi, vỗ về sau những ngày tháng dài ngụp lặn trong gió mưa bom đạn, khói lửa binh đao. Bất chấp hoàn cảnh nghiệt ngã, cả hai đã sôi nổi trong lửa tình nồng cháy.

Tùng đã kết hôn với Lan từ sau ngày Lan tốt nghiệp và được làm việc ở Bệnh Viện Từ Dũ Sàigòn.Chẳng có đám cưới linh đình, vì từ năm 65, phép tắc ở đơn vị tác chiến như một món xa xỉ phẩm. Đứa con đầu long của Tùng ra đời khi người Cha đang lặn lội hành quân dẹp giặc Tết Mậu Thân từ Sàigòn, Chợ Lớn rồi ra đến Huế. Tùng cứ miệt mài hành quân. Sau này, khi gặp nhau lại ở vùng địa đầu giới tuyến Quảng Trị, Tùng có nói với Thạch đã gặp Lan đang tình tứ với một Bác Sĩ trực Bệnh viện, khi Tùng bất chợt trở về sau cuộc hành quân ghé tìm Lan ở Từ Dũ, rồi im lặng bỏ về lại doanh trại của đơn vị.

Sau khi bị thương được đưa về phục vụ ở hậu tuyến, Thạch lẽo đẽo theo chân hai người bạn qua nhiều chức vụ. Cho đến lúc du học từ Hoa Kỳ trở về, Thạch bướng bỉnh không chịu ở lại đàng sau làm Chánh Văn Phòng cho vị Tướng Tư Lệnh, cuối cùng đã chấp nhận trở ra đơn vị tác chiến, dù chân bị thương còn tập tễnh vì mất thịt đùi. Tống nói: "Thôi kệ nó. Bây giờ đang đình chiến, mày cứ ra nắm chức vu chỉ huy với tụi tao cho vui".

Lúc ấy, trong binh chủng TQLC, đám bạn cùng khoá Võ Bị của Thạch có Tùng làm Quyền Lữ Đoàn Trưởng, Phúc giữ chức Lữ Đoàn Phó LĐ 258, Hiển nắm TĐ6, Kim ở TĐ 7, Để ở TĐ9, Sắt ở Tiểu Đoàn Yểm Trợ Thuỷ Bộ, Cảnh coi TĐ3, Tống làm Lữ Đoàn Phó cho Tùng.

Mỗi lần có buổi họp hành quân, bạn bè túm tụm lại với nhau vui vẻ như một đại gia đình. Cấp bậc gì không cần biết. Mày tao chi tớ um sùm. Tất cả thân thiết với nhau đến nỗi bên ngoài có dư luận chê bai đám sĩ quan khoá kỳ thị phân biệt Đà Lạt, Thủ Đức. Điều tiếng xấu ấy không khuất lấp được sự thực đã xảy ra ở các đơn vị do các sĩ quan này chỉ huy.

Khi trời đã chạng vạng tối và sương mù lãng đãng dưới chân những ngọn núi cỏ trọc mấp mô quanh khu vực đóng quân của Bộ Chỉ Huy TĐ 4/TQLC, chiếc trực thăng từ hướng Đông tà tà đáp xuống trên đỉnh núi. Tiểu Đoàn Trưởng Thạch lom khom chạy ra leo lên hàng ghế vải phía sau lưng phi công. Chỉ trong vòng phút sau phi cơ đã đáp xuống Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn ngay phía bên kia cầu Mỹ Chánh.

Tùng đứng tười cười đón bạn rồi đưa vào căn hầm dựng bằng bao cát. Tùng cười mỉm nhìn bạn nói:

- "Thằng Tống đang đấu láo trong đó. KíLô nói biết mày từ hồi còn ở ĐàLạt. Đúng không?".

Thạch nhìn thấy hạnh phúc như bao trùm lên gương mặt của Bạn, gật đầu đáp:

- Ừ, từ hồi ở La Tulipe Rouge trên ĐaLạt kìa. Lúc ấy KiLô chưa nổi tiếng.

- Thôi được, nếu vậy tao khỏi giới thiệu.

- Cô nàng ra hồi nào vậy.

- Hôm qua. Theo máy bay của Không quân.

Thạch suy nghĩ rồi ngập ngừng nhìn bạn, hỏi:

- Thế chuyện mày với Lan ra sao ? Còn thằng con của mày nữa.

Tùng im lặng không trả lời. Tính vẫn thế. Chỉ để bụng thôi.

Mấy tháng sau Tùng bị mất chức vì khi về phép ở Sàigòn đã đụng chạm với người chồng cũ của Kilô, khiến báo Trắng Đen chạy tít lớn ngay trang đầu. Tùng âm thầm về làm Lữ Đoàn Phó cho bạn cùng khoá là Nguyễn Xuân Phúc, nguyên Á Khoa của khoá 16 Võ Bị, xuất thân từ Tiểu Đoàn Trâu Điên. Cho đến ngày 29/3/75, cả Phúc và Tùng ngồi trên chiếc trực thăng di tản bị bắn rơi, đã đền nợ nước trong cảnh chết chóc tang thương của đồng đội.

Tống lên làm Lữ Đoàn Trưởng LĐ 468/TQLC những ngày tháng cuối cùng của cuộc chiến kẹt lại với người vợ đang mang thai đứa con trai đầu lòng. Khi bị đưa ra một trại tù cải tạo ở Yên Bái, Tống đã bị vết thương cũ ở bụng làm độc, không được chữa trị đã vong mạng giữa rừng thiêng nước độc Thượng Du Miền Bắc Việt Nam. Người vợ trẻ của Tống đã lặn lội ra tận nơi hốt cốt hoả táng cho vào bình lọ mang theo tận Mỹ với đứa con Tống chưa hề gặp mặt.

"Ba Trái Thúi" nay chỉ còn lại một mình Thạch lưu lạc xứ người, ôm mộng trở về quê hương vinh danh những người bạn chiến đấu đã nằm xuống cho đất nước, những đồng đội và chiến hữu đã ngã gục tức tủi cho cuộc chiến bảo vệ Miền Nam và đòi lại DANH DỰ cho những người đã cầm súng giữ quê hương ở Miền Nam.


Trần Ngọc Toàn
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=491355768039957&set=pcb.491360061372861&type=3&theater

BachMa
07-12-2019, 07:12 PM
Nỗi Bất Hạnh Đời Tôi
Thùy Nhiên

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1560487652-HQPD_NoiBatHanhDoiToi_01.jpg
Hình minh họa
Đôi lời vào truyện: Tôi tên Nguyễn Bá Quang, là một sĩ quan QLVNCH cấp bậc Đại Úy thuộc đơn vị 101 P2/Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH. Ở tù CSVN tại trại tù Tiên Lãnh, Quảng Nam, Đà Nẵng suốt hơn 12 năm. Qua Mỹ với diện H.O.5 năm 1991. Hiện cư ngụ tại California. Trong thời gian tôi ở tù chưa được thả, gia đình vợ con tôi vượt biển tìm tự do tại Cà Mau tỉnh Minh Hải. Trong chuyến vượt biển hãi hùng ngày 22.2.1985 vợ và sáu người con trai của tôi đã bỏ xác trên biển cả vì bọn hải tặc làm đắm thuyền. Ngoài ra còn có cả nhạc phụ của tôi và các em vợ cùng các cháu đã chết một cách tức tưởi trên chuyến tàu đau thương ấy. Chỉ còn sống sót người con gái yêu thương của tôi tên Thùy Nhiên và dì ruột của cháu là Phạm Thị Sa.

Năm 1975 mất nước, con gái tôi mới có tám tuổi, khi CS Bắc Việt chiếm miền Nam chúng dọa nạt, đầy ải gia đình của các sĩ quan QLVNCH đi cải tạo tại các trại lao động khổ sai. Vợ con tôi phải đi kinh tế mới tại Cà Mau, Minh Hải, việc học hành khó khăn, cháu chỉ học tới lớp bảy rồi phải bỏ lỡ dở đi buôn cá tại vùng ven sông thuộc Cà Mau để kiếm tiền nuôi gia đình và các em trai còn nhỏ tiếp tục đi học, vì thế nên cháu chỉ có thể thuật lại “Nỗi bất hạnh của đời tôi” một cách trung thực. Là ba của cháu tôi cũng chỉ sửa những lỗi văn phạm, chính tả.

Qua sự thúc bách của tôi, cháu mới có thể thuật lại câu chuyện thương tâm, vì mỗi lần nhớ lại những cảnh đau thương tang tóc của gia đình thì cháu đâm thẫn thờ, ngơ ngẩn hết mấy ngày, và lòng tôi cũng quặn đau vô vàn. Hiện cháu đã lập gia đình và sống với chồng con tại Úc.


***

Sau bao tháng ngày mẹ và các anh chuẩn bị ghe thuyền, từng can dầu, tom góp từng gói lương khô như gạo sấy, thuốc men v.v... một cách bí mật, ông ngoại, gia đình bà dì ruột, gia đình của cha Liêm, từng tốp, từng tốp len lỏi trong đêm tối lần lượt đến điểm tập trung tại bãi Đá Bạc, Cà Mau thuộc tỉnh Minh Hải.

Tất cả chúng tôi yên lặng lên thuyền, gồm có 22 người đã có mặt đầy đủ. Tiếng nổ dòn của máy lướt sóng ra khơi, mọi người chúng tôi nín thở hồi hộp.

Qua mấy giờ lầm lũi chạy trong đêm, trời đã sáng, ánh nắng chan hòa, chúng tôi đã rời khỏi hải phận Việt Nam, mọi người thở ra nhẹ nhỏm, vui mừng, bồi hồi xúc động vì đã thoát qua được chặng đường đầu đầy nguy hiểm và bất trắc nhất, vì nếu chẳng may mà bị VC bắt lại, thì bị tù tội, tịch thu tài sản, tất cả đều mất sạch. Niềm vui thoát được khỏi bọn công an VC đang miên man trong đầu óc mọi người, bỗng nhìn đằng xa có chiếc tàu lớn hiện ra, tim tôi đánh thình thịch, tàu của ai đây? Của CS hay của thế giớ tự do? Càng lại gần thì càng hồi hộp, một thoáng chán nản và sợ sệt hiện rõ trên nét mặt mọi người khi nhìn rõ màu cờ máu Liên Xô, Thuyền của chúng tôi cố ý lái chệch hướng chiếc tàu lớn, cứ thế tiến thẳng, đã qua thêm một sự nguy hiểm, và cũng vì thế thuyền đã chệch hướng đi như ban đầu đã định trước của mình. Chạy thêm vài giờ nữa thì đằng trước hiện lên một chiếc thuyền đánh cá treo cờ VC (cờ đỏ sao vàng), bên hông tàu thấy hai chữ Kiên Giang. Giây phút trọng đại, mọi người như nín thở, từ thuyền bên kia phát loa yêu cầu thuyền chúng tôi ngừng lại để cho họ kiểm soát.

Không thể để bị bắt, rồi phải ngồi tù, tài sản bị mất sạch, nên thuyền chúng tôi quyết định mở hết tốc lực. Một loạn đạn AK nổ dòn bắn về phía chúng tôi, tài công lúc đó là anh Hai Liêm của tôi bị thương ở cánh tay, Mẹ bị thương ở bả vai, ông Ngoại bị thương nhẹ ở đầu. Thuyền bắt buộc phải ngừng lại. Tất cả bàng hoàng chờ đợi những gì xấu nhất sắp xảy ra. Thuyền Kiên Giang là thuyền đánh cá nhưng có cán bộ VC, công an mang theo súng, bọn chúng bước qua thuyền chúng tôi lục soát từng người một kể cả những em bé 3, 4 tuổi, tịch thu một số vàng và tiền bạc (đô la) mà mọi người mang theo, chúng lấy một máy lớn của thuyền chúng tôi và dọa sẽ đưa trở lại vào bờ giao công an địa phương “xử lý”. Ông ngoại tôi là người lớn tuổi nhất trong thuyền, ôm vết thương còn chảy máu trên đầu loang xuống mặt, cố gắng năn nỉ giải thích: "Các anh cho chúng tôi đi, nếu đưa chúng tôi trở lại bờ Việt Nam thì các anh chẳng có lợi gì cả, chúng tôi bị tù tội, tiền, vàng của các anh vừa tịch thu thì cũng phải giao nạp cho công an thôi." Sau đó bọn họ cho chúng tôi đi, và chỉ hướng cho tàu chạy.

Còn lại một máy nhỏ, thuyền tiếp tục chạy một cách nặng nhọc, châm chạp lướt sóng tiến về vùng biển Thái Lan. Chạy được một giờ đồng hồ nữa thấy có một chiếc thuyền giống thuyền đánh cá xuất hiện. Khi thuyền này tiến lại gần không thấy treo cờ nước nào cả, nhưng dấu hiệu trên mạn thuyền được bôi lem, chạy với tốc độ nhanh rồi quay đầu chận ngang thuyền chúng tôi. Đã trải qua nhiều hiểm nguy, lần này tôi hồi hộp và lo sợ, tất cả như nín thở. Những đứa nhỏ cũng biết được những gì nguy hiểm sắp xảy ra nên chúng ngồi thu mình vào thành ghe im re trông thật tội nghiệp. Tất cả không một tiếng động. Tiếng nói ở thuyền bên kia là một tiếng lạ không ai hiểu gì, lúc đó cha Liêm là người biết tiếng Anh nói xin họ giúp đỡ.

Toán người kia như không nghe biết, với cử chỉ hung hăng dữ tợn, cặp vào thuyền chúng tôi la hét lục soát từng người một. Một lần nữa vơ vét sạch những gì tàu Kiên Giang VC vơ vét còn sót lại. Thấy kết quả lục soát chúng chẳng được là bao, chúng đi tìm những bộ mặt một, nhất là nhìn chằm chằm vào những người đàn bà con gái. Mẹ tôi còn trẻ đẹp nhưng vừa bị thương mất máu co ro, mặt mày tái mét nên chúng bỏ qua không để ý tới. Chúng đến gần tôi và chị H, bạn gái của anh Hai, chúng liền nắm áo chúng tôi kéo qua thuyền chúng nó.

Trước cảnh dã man này mấy anh tôi không kềm hãm được nên đã có phản ứng binh vực em mình (tôi lúc đó mới được 18 tuổi, cô kia xấp xỉ tuổi tôi hoặc lớn hơn một tuổi), nên đã la ó phản đối. Mẹ tôi cúi lậy xin chúng tha. Ông ngoại, cha Liêm năn nỉ nài nỉ chúng chẳng nghe.

Chúng đẩy chúng tôi qua thuyền chúng. Phẫn uất trước hành động tàn bạo này, mấy anh tôi đánh trả lại chúng. Chúng rút súng lục ra uy hiếp và chế ngự mấy anh. Lúc đó chúng lôi chúng tôi xuống nhốt dưới hầm tàu tối đen. Từ đó không hay biết chi nữa những việc xảy ra bên ngoài.

Sau khi bắt chúng tôi, chúng nổ máy cho tàu chạy, sau đó quay trở lại đâm vào thuyền chúng tôi làm vỡ thuyền, thuyền chìm, chuyện xảy ra tôi sẽ kể tiếp phần sau, khi tôi gặp lại người dì ruột tại trại SongLa.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1560487676-HQPD_NoiBatHanhDoiToi_02.jpg
Hình minh họa

Ngồi trong hầm tầu tối đen mà lòng tan nát, tôi trấn tĩnh mình bằng lới cầu nguyện với Đức Trinh Nữ Maria, hiện ra trước mặt tôi là hình ảnh của mẹ, các anh, em tôi và ba tôi. Ba mẹ, các anh em tôi giờ đây trên biển cả mênh mông đã trôi dạt về đâu rồi? Đã được tàu của thế giớ tự do vớt chưa? Ba tôi trong trại tù CS tại trại Tiên Lãnh, Quảng Nam Đà Nẵng, ba là sĩ quan QLVNCH ở tù 10 năm rồi tương lai sẽ ra sao đây. Tôi nhớ hết những người thân thương, đầu óc tôi rối bời như có trăm ngàn mũi kim nhọn đâm vào quả tim bé nhỏ của tôi tan nát.

Chưa bao giờ tôi nghĩ đến hoặc tưởng tượng ra hoàn cảnh mà tôi phải gánh chịu như hôm nay. Nước mắt tràn đầy ra má mà chẳng hay biết gì, nước mắt đã làm dịu cơn khủng hoảng của tôi. Một niềm hy vọng loé lên trong đầu, chắc mẹ và các anh em của mình còn sống sẽ được tàu vớt, sẽ vượt qua nguy hiểm để đến bến bờ tự do và mình sẽ được gặp lại.

Ở trên tàu của bọn cướp được vài hôm, chúng chuyển tôi qua tầu đánh cá thứ hai, còn chị H. thì ở lại trên tầu của chúng. Chúng nói tiếng Thái với nhau tôi không hiểu một tí gì cả chỉ biết cảm nhận theo linh tính của mình, thấy tầu này chuyên lo đánh cá, chắc là họ vừa đánh cá vừa làm hải tặc ăn cướp chăng? Một tuần sau chúng lại chuyển tôi qua tầu khác, cứ thế lênh đênh trên biển cả qua ngày thứ 51, ngày này chúng chuyển qua một tàu khác nữa, người trên tàu có vẻ hung tợn dữ dằn hơn những chiếc tàu trước đây.

Vào khoảng nửa đêm một tên đàn ông vào kéo tôi dậy, nhìn cặp mắt nó, thấy dễ sợ như muốn ăn tươi nuốt sống tôi. Người tôi run bần bật, miệng thầm đọc kinh xin ơn trên phù hộ cứ giúp. Chúng nó sờ mó và bắt cởi hết quần áo, chúng nói gì với nhau tôi không hiểu, chỉ biết kẹp hai chân cứng lại, hai tay ôm chặt lấy ngực, và nhìn vào vết thẹo nổi đỏ trên cánh tay tôi. Lúc nhỏ khoảng hai tuổi bị tai nạn phỏng dầu làm đường đến 50% khi chữa lành vẫn còn vết thẹo luôn ửng đỏ. Không biết ai xui khiến cho tôi cứ nhìn vào vết thẹo ấy và kêu la thảm thiết. Bọn chúng nói với nhau những điều gì, tôi cảm nhận như chúng e ngại về vết thẹo cuả tôi là bị bệnh phong cùi gì chăng? Sau khi bàn bạc chúng đã xô tôi xuống biển không cho một vật gì có thể trôi nổi trên mặt biển.

Nước lạnh làm tỉnh hẳn người, tôi đã thoát qua những bàn tay con quỷ dữ, cố gắng đạp hai chân để người mình nổi lên trên mặt nước (ở Cà Mau tôi sống bên sông nên bơi lội cũng khá giỏi). Trên biển giữa đêm đen, không có gì ghê rợn bằng. Tôi cố sức mình chống chọi với bao ý nghĩ bi thương, bản năng sinh tồn lại đến với tôi mãnh liệt, tôi kêu xin mẹ Maria bổn mạng hãy cứu giúp tôi. Một lần nữa hình ảnh của mẹ, anh, em và Ba tôi ở trại cải tạo lại hiện ra như khuyến khích tôi hãy ra sức cố gắng chống chọi với tử thần để ráng sống may ra có người cứu vớt. Vì thế mà đã qua được năm tiếng đồng hồ dưới biển lạnh.

Trời đã hừng đông, một tia hy vọng đến với tôi, nhưng người càng ngày càng bị lạnh cóng, sắp sửa không chịu đựng nổi nữa rồi, thì may thay, nghe có tiếng động cơ của thuyền chạy đến. Tôi cố giơ tay lên nhưng thân hoàn toàn cóng cứng, rất may trên thuyền nhìn thấy, dừng thuyền lại và vớt tôi lên. Nguyện xin đây là một chiếc thuyền làm ăn lương thiện để tôi còn được sống an bình. Thật quả như lòng mong ước, tôi được những người này săn sóc tận tình, cho quần áo để mặc, cho ăn uống đàng hoàng và dùng máy vô tuyến gọi cảnh sát Thái cho tàu ra đón tôi vào bờ và đưa đến trại Song La và trại Sikiw.

Hằng ngày ở trại, cô đơn lạc lõng, thân gái dặm trường, hằng đêm nguyện cầu cho lòng vơi đi ít niềm đau. Mong chờ mẹ, anh em sẽ đến với mình, nhưng càng ngày càng thấy bặt tăm vô âm tín, lòng buồn rười rượi. Mỗi khi có người mới nhập trại tôi thường đến để cầu mong gặp người thân. Hôm nay bất thần tôi thấy dì Sa em mẹ thất thểu bước vào trại, dì cháu gặp lại nhau, nước mắt tuôn trào như mưa, và Dì đã kể lại những gì xảy ra kế tiếp khi tôi bị hải tặc bắt qua tàu của chúng.


***

Sau khi bọn hải tặc bắt con và H qua tàu của chúng. Vì không chịu nổi những uất ức các anh con đã phản ứng mãnh liệt đánh lại chúng nó. Nhưng chúng có súng, nên các anh con đánh thúc thủ. Chúng lồng lộn lên lục soát nát bét trên tàu, bắt mọi người cởi bỏ hết quần áo chỉ cho mặc một quần lót mỏng, lấy hết những gì còn lại trên tàu, rồi rú máy cho tàu chạy.

Mọi người chư kịp hoàn hồn thì thấy tàu hải tặc quay đầu trở lại, và chạy rất nhanh đâm thẳng vào hông thuyền của mình đánh rầm, thuyền vỡ làm đôi, một số người văng xuống biển. Đồ vật nặng chìm xuống nước, những vật nhẹ nổi lềnh bềnh. Trong lúc hỗn loạn, mỗi người đều bơi lội, vớ lấy can đựng dầu, đựng nước làm phao. Các anh con, Chương, Long bơi vớt những tấm ván để kết làm bè, kèm lên phần thuyền còn lại nổi trên mặt nước. Phần bè và thuyền nổi cho mẹ, dì, con của dì và Đạt, Hoài, hai em con. Ông ngoại và anh Liêm đã vĩnh biệt ra đi trong lúc thuyền bị đánh chìm vì cả hai đều bị thương.

Trời bắt đầu sập tối, nỗi kinh hoàng xâm chiếm lòng người. Màn đêm đem đến sự sợ hãi cho mọi người trong cảnh thập tử nhất sinh, lạnh đói và khát, nhưng vẫn cố gắng bu lấy bên nhau, cùng nhau sống chết. Thấy các em con vì đói khát và lạnh, quá tội nghiệp nên Chương liều bơi, lặn xuống lòng thuyền may ra tìm được nước uống hoặc thức ăn. Nhưng đã lâu không thấy Chương trở lại, mẹ và Dì kêu gào thật lâu chẳng có tiếng trả lời. Hễ người nào chịu không nổi buông tay ra là đi vĩnh viễn. Thấy những người thân lần lượt ra đi, lòng mẹ và dì tan nát nhưng biết làm sao đây hỡi trời, chỉ biết đọc kinh cầu nguyện Chúa, Mẹ cứu giúp, hộ phù. Phía bên kia có Linh mục Hồ Quang Liêm và người em Hồ Quang Lập cùng mấy người bà con của cha trong đêm đó cũng ra đi.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1560487702-HQPD_NoiBatHanhDoiToi_03.jpg
Hình minh họa

Ngày thứ hai kể từ ngày đắm thuyền chỉ còn có dì, mẹ và mấy đứa nhỏ vì được ngồi trên bè, nên chống được sự lạnh cóng. Mẹ con bị thương máu ra nhiều, không ăn, không uống nên người mệt lả đi, hơi thở yếu dần, dì gọi mẹ không trả lời nổi, rồi mẹ con tức tưởi ra đi.

Đạt, Hoài hai em của con ôm mẹ khóc thảm thiết, dì đứt cả ruột gan. Các cháu cứ muốn giữ mẹ lại bên cạnh không xa rời, dì khuyên nhiều lần các cháu mới chịu để mẹ con xuống lòng đại dương. Còn lại con Châu, con Xuân của dì mềm người vì đói khát cũng lặng lẽ ra đi. Dì như người mất hồn, không còn biết gì nữa, đặt con mình xuống nước cho dòng nước trôi xuôi, đau đớn vô cùng...

Ngày thứ ba chỉ còn lại Dì và em Đạt của con. Nó mệt quá gục trên tấm ván, bỗng nó ngồi nhổm dậy nói: "Để con lấy nước cho dì, con thấy có dòng suối trong xanh, nước ngọt lắm dì ơi”. Nói xong nó định bước xuống nước để đi. Dì cầm tay nó kéo lại: "Con ơi không có đâu, đó chỉ là ảo ảnh mà thôi, con ngồi xuống đây đọc kinh với dì xin ngài ban phước”. Sau khi kinh nguyện, yên tĩnh được một lúc, nó lại kêu lên khát nước quá dì ơi con chịu hết nổi rồi. Dì nói trong vô thức hay con uống đại một hớp nước biển xem có chống chọi được không? Sau khi uống một miếng nước vào bụng, tức thì cháu ôm bụng rên la khủng khiếp, nước bọt trào ra miệng, nước bọt giống như bọt xà phòng trào ra, trào ra, cháu lịm người dần và nằm bất động. Vậy là người cuối cùng ở bên cạnh dì cũng ra đi...

Còn lại một mình đang nằm chờ chết dưới ánh nắng như thiêu như đốt bỗng thấy có đám mây đen kéo đến trời đột nhiên dịu xuống, một vài giọt mưa rơi trên mặt dì, dì liếm từng giọt nước, nhưng người dì đã kiệt sức không còn hay biết gì nữa cả. Khi tỉnh dậy thì thấy mình đang nằm trên thuyền đánh cá của người Thái Land. Dì theo tàu họ trên biển, 15 ngày sau thì được đưa vào trại Batani, qua trại SongLa và dì gặp con tại đây.


***

Ôi! Những biến cố đó trong đời tôi làm tôi điên dại, sống dưới ánh nắng mặt trời mà như trong hang âm u. Tôi đã mất mẹ, mất anh, mất em, mất ông ngoại, cậu, cháu và những người thân yêu. 18 người đã chết tức tưởi, bỏ mình trên biển cả đó là tất cả NỖI BẤT HẠNH CỦA ĐỜI TÔI.

Mẹ ơi! Sao mẹ nỡ xa lìa con, xa lìa ba, ba đã chịu bao nhiêu điều cay đắng tủi nhục trong ngục tù Cộng Sản. Các anh ơi! Các em ơi! Tất cả đã xa lìa tôi, vĩnh viễn li biệt tôi một cách tức tưởi: Khổ đau tột đỉnh, hận thành non cao.

“Biển xa sóng lớn dạt dào,
nhớ anh, em, mẹ có ngày nào nguôi”.


Thùy Nhiên
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=491902894651911&set=pcb.491903571318510&type=3&theater

BachMa
07-17-2019, 06:53 PM
Những Chuyện Chưa Được Kể Ra
Lê Phi Ô
Sống và lớn lên trong lửa đạn, gian lao và tù đày… thời gian đã tạo cho tôi một hình hài già nua… cằn cỗi.

Bây giờ thì bạn bè mỗi đứa một phương, người tình rồi cũng bỏ tôi mà đi… Xen lẫn trong quá khứ kiêu hãnh là một hiện tại… trống vắng, cô đơn và nhiều… nuối tiếc!

Có nhân…! Cố nhân… xa rồi! Biết đến bao giờ ta gặp lại cố nhân để được sống lại những lúc huy hoàng trong sắc mùa chinh chiến cũ…!!!


“Người ta đi lính mang lon,
Chồng em đi lính mang xoong mang nồi!”

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1561916844-HQPD_NhungChuyenChuaDuocKeRa_01.jpg
Hình minh họa

Hạ Sĩ I Thí, hỏa đầu quân, cùng binh nhì Long đang khiêng cái chảo gang to tổ bố lên gần tới đỉnh đồi… bỗng ông nghiêng vai hất cái đòn gánh làm cái chảo vừa to vừa nặng rơi xuống đất nghe một cái… “bịch,” và B2 Long khiêng phía đàng trước suýt té ngửa theo cái chảo. Hạ Sĩ I Thí chửi thề: “Tiên sư cha thằng nào mới nói đó?” rồi ông quắc mắt nhì
n chầm chập vào mặt B1 Niên đang đi gần đó.

Ông chửi tiếp: “Mẹ… mày, mày mang chỉ mỗi cái ba-lô. Ngoài cái ba-lô, tao còn mang ruột tượng gạo và khiêng cái chảo nữa… Mệt thấy mẹ, mày không khiêng phụ… còn móc lò nữa hả thằng khốn kiếp?! … Lát nữa, tao đéo nấu cơm, cho tụi mày đói thấy mẹ tụi mày luôn!” Chửi xong, ông vất cái ba-lô đang mang xuống đất thật mạnh làm cái xoong cột trên ba-lô méo một bên.

B1 Niên nín khe. Nó không ngờ câu nói đùa đã khiến Hạ Sĩ I thí nổi cơn điên như vậy! Mà không điên sao được. Từ sáng đến giờ, Hạ Sĩ I Thí lu-bu với các vật dụng nhà bếp không có cả thì giờ ăn sáng, bụng đói còn phải khiêng cái chảo to nặng lên đồi cho kịp nấu cơm trưa cho cả đại đội… ăn. Mặc dù đã đổi phiên cho hai anh hỏa đầu quân khác khiên chảo rồi, nhưng vì… HS1 Thí lớn tuổi, người lại gầy nhom ốm yếu và lại còn leo đồi giữa trưa nắng cho nên ông mệt muốn… đứt hơi mà lại còn bị cái “thằng khốn nạn” chọc quê, không tức sao được!

Tối hôm đó, thằng Niên mon men lại gần HS1 Thí, ông Thí trừng mắt ngó nó như muốn đổ lửa. Thằng Niên ấp úng: “Bố, hồi trưa…” HS1 Thí giận dữ: “Bố cái con c…, ai cho mày gọi tao là bố. Mày mà còn giở trò chọc ghẹo nữa, tao phang cho cái xẻng chết mẹ bây giờ!” Thằng Niên thành khẩn: “Hồi trưa con lỡ nói chơi khiến bố giận, con xin bố tha lỗi cho con!” Nó ấp úng tiếp: “Bố đừng buồn con… nha bố!”

Vẻ mặt thằng Niên thành khẩn đến độ thiểu não. HS1 Thí có vẻ nguôi giận, ông nín thinh một hồi rồi đột nhiên ông thấy tủi thân, ông… khóc. Thằng Niên hoảng hốt, nó ôm chầm hai vai HS1 Thí và nó cũng khóc!

Lỗi này là do nơi ông đại đội trưởng. Mới đổi về, ông có ý tốt, chọn những người ốm yếu, lớn tuổi, và nhất là HS1 Thí cũng sắp giải ngũ vì lý do gia cảnh nên ông cho họ ở ban hỏa đầu vụ để đỡ phải hành quân, phục kích đêm,… Có lẽ ông nghĩ công việc này nhàn hạ, chỉ ngày hai buổi đi chợ nấu cơm, mà đâu dè cũng là gánh nặng mà ông không biết.

Người ta nói “quả báo nhỡn tiền” đôi khi cũng đúng. Ðơn vị tôi đột kích vào mật khu Việt Cộng. Bọn du kích bỏ chạy, chúng tôi tịch thâu được vài khẩu Carbine, súng Mas. 36, 3 bao gạo, vài chục ký cá khô và cá hộp, v.v… B1 Niên tịch thu được một cái thau nhôm thật lớn, định bụng sẽ tặng ban hỏa đầu vụ, có lẽ tặng HS1 Thí thì đúng hơn.

Nó ôm cái thau trước bụng. Khi di chuyển người đi trước chạm vào nhánh cây thấp và nhánh cây bật ngược đập vào cái thau nghe leng keng. Trung đội trưởng bảo nó úp cái thau vào phía sau đít mà đi, tránh gây tiếng động kẻo bọn Việt Cộng sẽ nghe thấy. Lúc leo dốc, không hiểu B1 Niên trợt chân thế nào mà lại té ngồi lên cái thau… và cứ thế, cái thau như một vật trượt tuyết chở nó lao xuống đồi thật nhanh, va vào hết cây này đến cây kia, các nhánh cây thì quất vào thau, vào người nó tơi tả. Mọi người cố chạy theo cứu nó nhưng không kịp. May sao, một bụi gai tre chận nó lại… cái thau thì móp méo và thủng cả đáy, đít thằng Niên bị trầy trụa rướm máu, còn cái mỏ nó thì bị so le vì bị cây đập vào môi trên sưng vù. Nếu không có bụi gai tre cản lại có lẽ cái thau đã lôi tuột nó xuống đường thông thủy đầy đá lởm chởm thì chỉ có chết hoặc ít ra cũng gãy tay gãy chân. Mọi người vừa thương hại vừa tức cười. Thật đáng đời cái thằng hay nghịch ngợm, hay chọc phá người này đến người nọ. Một người nói:


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1561916857-HQPD_NhungChuyenChuaDuocKeRa_02.jpg
Hình minh họa
“Ðúng là người gian mắc nạn!”

Chưa hết…

Cạnh đồn có nhà ông Năm Giáp. Ông có hai đứa con trai lớn đều đi lính ở xa, ở nhà chỉ còn hai vợ chồng già và cô con gái út. Cô Thơm vừa tròn 17 tuổi trông rất… mát mắt. Mấy ông lính nhà ta, nhất là… mấy ông nhóc quân dịch tuổi chừng 19, 20 thường lân la đến nhà cô Thơm thăm… hai bác!

Thằng Long là một trong đám lính đó. Nó “lết bánh” vì cô Thơm. Ngày nào không ghé qua nhà ông Năm Giáp là ngày đó nó thẫn thờ như người mất hồn. Nó thường khoe với bạn là nó thương cô Thơm lắm, thương cũng bằng thương má nó ở nhà và cô Thơm cũng thương… nó nữa! Bất cứ một tân binh nào mới đổi về nó cũng rủ ra nhà cô Thơm… thăm ông bà Năm.

Một hôm, nó vừa bước ra sau vườn thì thấy cô Thơm đang hái me, vừa nhảy cao vừa lấy cây đập nhưng cô Thơm vẫn không làm sao hái được me. Thấy thế, thằng Long nhào tới giúp liền. Nó ấp úng:

“Thơm để đó, tôi… hái ‘giùm’ cho” và nó nhanh nhẹn cởi giày, cởi quần trận ra, leo một thoáng là đã ngồi trên cháng ba của cây me.

Nó đứng trên một nhánh lớn, tay trái vịn vào một nhánh khác, tay phải với tìm những trái me “giốt,” loại me gần chín, hái lia lịa và liệng xuống cho cô Thơm lượm.

Nhưng… khi nhìn xuống thì không thấy cô Thơm đâu cả! Nó hỏi thằng bạn đứng dưới gốc: “Ê, Xuân! Thơm đâu rồi?” Thằng Xuân trả lời: “Ði rồi!” Thằng Long ngạc nhiên: “Ủa! Ði đâu vậy?” Thằng Xuân ái ngại: “Tao không biết, nhưng chắc đi luôn rồi. Thôi… xuống đi.”

Nghe Xuân nói vậy, Long vội tuột xuống, mắt nhìn dáo dác: “Sao bỏ đi đâu vậy?” Thằng Xuân thấy tội nghiệp bạn mình: “Gặp tao, tao cũng đi nữa là… cô Thơm.” Thằng Long chưa hiểu, lẩm bẩm: “Sao bỏ đi vậy cà!?” Giọng thằng Xuân trở nên gắt gỏng: “Mầy là cái thằng cà chớn! Leo cao hái me mà lại mặc quần xà lỏn, cái quần… rộng rinh. Cô Thơm đứng dưới nhìn lên thấy mẹ nó… hết rồi!” Thằng Long lại vẫn chưa hiểu: “Thấy cái gì?” Tức quá, Xuân nói như gây lộn: “Thấy trái me… của mầy chứ thấy gì!” Lúc nầy, thằng Long mới hiểu, nó sượng chín người, mặt đỏ bừng lên nhưng cặp mắt thì như đứng tròng. Nó lúng ta lúng túng trông thật tội nghiệp, rồi bất thần nó nhắm hướng đồn đi nhanh như chạy, làm thằng Xuân chạy theo muốn hụt hơi.

Từ đó, cô Thơm tránh mặt nó. Mỗi lần đi chợ, ngang qua cổng đồn thì cô Thơm đi vòng ra sau dãy nhà đối diện đồn để khỏi đụng mặt thằng Long. Và thằng Long thì không dám đến nhà ông Năm Giáp nữa… Mỗi khi bất chợt thấy bóng dáng một người con gái xa xa là nó vội tránh mặt liền vì sợ phải gặp mặt cô Thơm. Cũng từ đó, suốt ngày nó lẩn quẩn trong sân đồn, thỉnh thoảng liếc mắt nhìn về hướng nhà cô Thơm, buông những tràng thở dài nghe mà đứt… ruột. Và cũng từ đó, hai người xa nhau, xa nhau chỉ vì một lý do… thật lãng nhách!

Rồi…

Ðơn vị tôi di chuyển vào trong rừng để truy lùng một đơn vị địch quân cấp tiểu đoàn mà cách đây hai ngày chúng đã phục kích quân ta tại khu vực cầu Lăng Quăng, ranh giới của xã Vỏ Xu, Hoài Ðức, và xã Duy Cần thuộc quân Tánh Linh, Bình Tuy, gây thiệt hại trung bình cho ta, trong đó có hai sĩ quan bị tử thương là Ðại Úy Hiếu, Chi Khu Phó CK Tánh Linh, và Ðại Úy Khải, Ðại Ðội Trưởng ÐÐ.720/ ÐPQ.

Khoảng 9 giờ sáng, đang di chuyển thì bỗng nhiên cánh quân phía trước khựng lại, tôi chụp ống liên hợp từ tay âm thoại viên hỏi cánh quân đi đầu: “Một… Trung Hiếu… gọi.” (Im lặng vô tuyến). Tôi gọi tiếp… cũng không nghe tiếng trả lời. Tôi lại gọi với giọng gắt gỏng: “Trung Hiếu gọi Một nghe rõ không, nói đi.” Vẫn im lặng, tôi điên tiết… phóng vội lên phía trước định đập anh âm thoại viên Trung Ðội 1 một trận, vì đối với đơn vị tác chiến nhất là đang di chuyển trong vùng có địch thì sự liên lạc vô cùng quan trọng, gọi chưa dứt lời là phải có sự đáp trả tức khắc.

Vừa được mấy bước thì thấy vài anh lính chạy ngược lại, mặt mày hơ hãi… Tôi ngạc nhiên! Lại một tốp lính nữa chạy ngược về phía sau và mặt mày người nào cũng có vẻ hốt hoảng, tôi quát khẽ: “Ðứng lại, cái gì đó?” Họ không trả lời mà còn chạy nhanh hơn. Thật là quái đản!? Tôi chưa kịp hỏi tại sao thì cả đám lính phía trước ùa chạy ngược lại phía sau… mặt họ trông càng khiếp đảm hơn! Lập tức, tôi cho dàn đội hình tác chiến.

Chuẩn Úy Minh, Trung Ðội Trưởng Trung Ðội 1, đi đầu, tay ôm mặt, tay vịn nón sắt chạy vụt qua mặt tôi ngược chiều. Tôi vói tay chụp cái ba-lô kéo giựt Chuẩn Úy Minh lại và nói như thét: “Ðứng lại! Tại sao chạy?” Chuẩn Úy Minh không nói mà lại đưa một ngón tay chỉ về phía sau lưng hướng lên trời và lại bỏ chạy thật nhanh.

Tôi quá đỗi kinh ngạc! Cái gì làm cho họ sợ đến như vậy?! Nếu gặp Việt Cộng thì họ nổ súng, đàng này… hoàn toàn không có một tiếng súng nào cả! Hay họ gặp thú dữ? Ðiều này cũng không đúng vì rừng này làm gì có cọp beo, chỉ có voi thôi. Nhưng lính tráng súng ống đầy trời như vậy thì cả trăm con voi đi nữa cũng đâu có thể làm họ sợ đến như vậy!? Hay là họ gặp… ma? hoặc gặp… quỷ gì đó?!

Nhưng quỷ ma thì chỉ sợ lính chứ lính làm gì sợ ma quỷ!!! Và cứ thế, cả đoàn quân âm thầm bỏ chạy gần hết. Phía trước tôi… bỏ chạy, phía sau tôi… bỏ chạy, chính giữa… ngay cả anh truyền tin mang máy cho tôi cũng… bỏ chạy! Tôi bắt đầu rúng động bởi hiện tượng kỳ quái này mà chỉ có trong sách kiếm hiệp của Kim Dung may ra mới có… Thì, một cái gì, một vật gì thì đúng hơn, nhỏ cỡ ngón tay,… Không phải một mà… là hai, rồi … ba, chạm mạnh vào má, vào trán tôi đau đến nhảy dựng lên và nước mắt, nước mũi tôi túa ra… Tôi chợt hiểu và bây giờ thì tới phiên tôi… bỏ chạy!!!

Thì ra thằng ôn dịch nào đi đầu… không biết mắt mũi để ở đâu mà nó lại lủi nhằm phải ổ ong vò-vẽ. Lũ ong giật mình hốt hoảng bay túa ra và khi nhận diện được… kẻ thù, bọn chúng xông vào tấn công tới tấp. Khổ nỗi là cánh quân của tôi lại quàng khăn đỏ. Trong rừng, màu đỏ tương phản với màu xanh của cây lá nên bọn ong thấy rất rõ “kẻ thù” nên tấn công rất chính xác. Chạy tới đâu, bọn chúng rượt theo tới đó. Có người bị chích rồi… con khác lại bu vào chích tiếp… quyết không tha.

Ðang chạy trối chết thì có ai đó la lớn: “Liệng trái khói… Liệng trái khói!” thế là đủ các màu vàng, đỏ, tím,… tuông ra mù mịt… Lính tráng lớp bị ong chích, lớp bị hít phải khói màu ho sặc sụa, rên hù hù, trong đó có tôi! Nhưng tất cả phải gồng mình ráng chịu… vì ra khỏi vùng có khói thì sợ ong chích. Khói màu làm lũ ong sợ hãi, chúng không dám đáp xuống tấn công nữa mà lại bay tít tận ngọn cây, quầng qua quầng lại cả ngàn con trông thấy phát ớn lạnh. Tôi từng xem phim The Longest Day… cảnh máy bay đồng minh tấn công quân Ðức tại mặt trận Normandi nhưng vẫn còn thua xa đám máy bay… ong này.

Chưa hết! Trong khi anh em liệng khói màu để cản bầy ong thì… một ông tân binh đứng cạnh tôi hoảng hốt, đưa tay lôi trái lựu đạn đeo nơi dây ba-chạc phía trước ngực định rút chốt, may mà tôi nhìn thấy và ngăn cản kịp lúc nếu không thì… chắc chết cả đám. Vì, thấy người ta liệng khói màu, ổng cũng tưởng là ổng có… khói màu!

Coi như cuộc hành quân… thất bại! Cánh quân trên trăm người chạy tán loạn trong rừng và lạc nhau gần hết. Tới 4 giờ chiều tối chỉ gom lại được phân nửa. (Ong vò-vẽ thường làm ổ ở các lùm bụi thấp chứ không làm trên cao như loại ong mật.)

Ðịnh bắn súng gọi những người đi lạc nhưng lại sợ lộ mục tiêu cuộc hành quân nên tôi gọi pháo binh xin bắn đạn khói. Ðài tác xạ gọi tôi xin cho tọa độ, tôi bảo: “Bắn đâu cũng được… không cần tọa độ!” Họ tưởng tôi điên nên không chịu bắn. Tôi gọi tiếp, họ trả lời là… Họ chưa bao giờ gặp một đơn vị hành quân nào xin bắn pháo binh mà không cho biết… tọa độ! Nghe họ nói, tôi hơi bị “quê” một phút, và tôi bắt đầu giải thích… Văng vẳng trong máy, nhiều chuỗi cười rộ làm tôi thấy “quê” thêm. Thực ra, tôi chỉ muốn anh em chạy lạc trong rừng họ nghe được tiếng súng đại bác 105 ly depart họ sẽ biết hướng chi khu nằm ở đâu để họ tìm đường về. Thế thôi.

Người tôi mệt lả vì cả ngày chẳng có hột cơm vì còn phải lo chạy giặc… ong, phần bị ong chích bắt đầu lên cơn sốt. Loại ong này độ 20 con thôi… chích vào một con trâu thì trâu cũng chết huống chi là con người. Cả đoàn quân khi ra đi thì… Trời nghiêng Ðất lở… bây giờ thì chỉ còn lại một đám bại xụi, đứa thì rên, đứa thì khóc hu… hu vì đau nhức quá không chịu nổi!

Ðêm đó, bệnh viện Quân Dân Y đầy ắp người. Cả hàng trăm người tụ tập ở đó, vừa lính… “bại trận,” vừa thân nhân của họ. Có điều khác lạ là thân nhân không khóc, không kể lể rên rỉ như những lần lính được tải thương từ mặt trận, mà lần này… lính càng rên thì thân nhân, cười rất… vui vẻ, cười rất sảng khoái. Kiểm điểm lại, có bảy ông “bại binh” phải chở vào Tổng Y Viện Cộng Hòa, hơn 20 chục ông phải nằm lại bệnh viện Quân Y để điều trị tiếp, còn lại bao nhiêu trở về hậu cứ để cho y-tá tiểu đoàn chăm sóc.


***

Ðã 32 năm trôi qua… kể từ tháng 4, 1975 mà nỗi đau thương, bất hạnh đã đổ chụp xuống đất nước và trên đầu dân tộc chúng ta. Cho dù có còn kéo dài bao lâu đi nữa… tôi vẫn không bao giờ quên được những năm tháng tuổi trẻ trong đời, những tháng năm mà tôi đã sống cho lý tưởng, cho tình yêu và cho những nồng ấm trong tình chiến hữu, cho đời lính buồn nhiều hơn vui và đầy bất trắc.

Mỗi tháng 4 về là thời gian làm cho hoài niệm trong tôi bùng lên mãnh liệt nhất. Tôi nhớ bạn bè tôi, tôi nhớ đồng đội tôi, và tôi cũng thấy nhớ chiến trường xưa loang lửa đạn. Những chuyện tôi kể trong bài này là những đặc điểm của từng người làm tôi không bao giờ quên họ được. Ðã 32 năm rồi, đây là lần đầu tiên tôi mới kể ra, kể ra để san sẻ, để vơi bớt trĩu nặng tâm tư và cũng để… biết đâu, tôi sẽ không còn dịp để kể.

Tôi không muốn kể những chuyện vui nhất là trong Tháng Tư Ðen, đối với tôi đây là những chuyện buồn… Vì những người tôi vừa đề cập đến… họ đã không còn nữa! Họ đã ra đi vĩnh viễn vào một thế giới nào xa xăm khác với thế giới chúng ta đang sống, và… tất cả những người này đã gục ngã vì đạn thù trên bước đường lui binh trong trận chiến Võ Ðắc tháng 3 năm 1975!


Lê Phi Ô
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=490732508102283&set=a.170866793422191&type=3&theater

BachMa
07-23-2019, 05:01 AM
Con Bướm Đen
Bút ký của ông Nguyễn Quang Thành
Nguyên Giáo sư trường nữ trung học Đà Nẵng

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1561916718-HQPD_ConBuomDen_03.jpg
Hình minh họa
Lời người viết:

-Bài viết này là nén nhang thắp lên để tưởng nhớ anh tôi là Nguyễn Quang Khóa, nguyên Trung tá phi công phản lực, Trưởng phòng kế hoạch Không đoàn 41 Chiến thuật, xuất thân khóa 61A SVSQKQ đã chết tại trại tù số 3 Kỳ Sơn, Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.

-Chân thành cảm ơn anh Phan Trừng, và anh Đan Hoài Bửu (Phượng Hoàng Kim Cương), nguyên Trung tá phi công phản lực, bạn học cùng khóa của anh tôi, đã giúp tôi hoàn thành bút ký này.

-Quý vị nào là bằng hữu, chiến hữu hoặc cựu tù binh biết về cái chết và mộ phần của anh tôi, xin liên lạc với tôi qua địa chỉ email: nguyenpierre24@yahoo.com.

Xin đa tạ.

Gia đình tôi ít anh em. Không phải do ba mẹ tôi hiếm muộn mà do thời gian ba tôi ở Pháp khá lâu. Hơn mười năm từ khi mẹ tôi sinh ra anh, hai ông bà mới gặp lại nhau, nên tôi kém anh tôi đúng một con giáp.

Mặc dù khoảng cách tuổi tác sai biệt khá nhiều, nhưng anh em tôi đều có điểm tương đồng là yêu thích toán học và ôm mộng viễn du. Vì thế chúng tôi đều học ban khoa học toán và tình nguyện gia nhập quân đội sau khi đậu tú tài toàn phần:

“Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc
Nợ tang bồng vay trả, trả vay
Chí làm trai, nam bắc đông tây
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể”


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1561916677-HQPD_ConBuomDen_01.jpg
Hình minh họa

Mùa hè 1960, anh tôi nhập học khóa 61A SVSQKQ. Khoảng tháng sau lại có giấy báo nhập học ban Toán của trường Đại học sư phạm gửi về nhà, ba tôi mở ra, đọc đi đọc lại nhiều lần, mặt đăm chiêu, ra chiều nghĩ ngợi nhiều lắm.

Mười năm sau, tôi cũng vừa thi vào đại học sư phạm, đồng thời làm đơn xin gia nhập trường Võ bị Đà lạt để được sống và học tập trong khung cảnh hào hùng và thơ mộng của vùng đất cao nguyên, mà tôi đã bị quyến rũ trước đây qua bài “Ai Lên Xứ Hoa Đào” của nhạc sĩ Hoàng Nguyên và một số hình ảnh của người sinh viên sĩ quan Đà Lạt trong đoạn phim giới thiệu về trường Võ Bị Quốc Gia Đà lạt, đã chiếu tại trường vào dịp cuối năm lớp Đệ nhất ( lớp 12 ) tại trường Quốc Học, Huế.

Tôi đã trúng tuyển vào trường đại học sư phạm nhưng không thấy giấy báo nhập học trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt gửi về nhà. Vì thế, sau này tôi đã trở thành một giáo sư khoa học tại một trường nữ trung học đúng theo ý nguyện của ba mẹ tôi, nhưng tôi không bao giờ quên được hình ảnh hào hùng và lịch lãm của người trai thế hệ mà mình mơ ước.

Sau khi học đại học sư phạm được vài tháng, nhân một buổi ăn tối của gia đình, ba tôi mới ôn tồn cho tôi biết là ông đã nhận được giấy báo của trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt gửi về nhà, nhưng ông không cho tôi biết, vì anh tôi đã là pilote de guerre vào sinh ra tử trên bốn vùng chiến thuật (ba tôi có thói quen nói nửa Việt nửa Pháp, như ông thường viết các toa thuốc cho bệnh nhân).

Anh tôi du học tại Hoa Kỳ năm 1961. Gia đình tôi đều đặn nhận được thư từ và hình ảnh của anh tôi, chụp tại các trường huấn luyện phi công, luôn luôn kèm bên chiếc phi cơ đã bay, hoặc các hình ảnh chụp tại các tiểu bang đã đi qua nhân dịp cuối tuần hoặc các dịp lễ lạc. Tôi ước mơ một ngày nào đó mình cũng được như vậy.

Ngoài thư từ gửi cho gia đình, anh tôi còn gửi cho chị M.T., sinh viên trường CSYT, con gái của một người bạn của ba tôi, mà ba tôi đã chấm theo tiêu chuẩn “Công-Dung-Ngôn-Hạnh” cho anh tôi, trong lúc hai người chưa một lần gặp gỡ.

Nhiều lần tôi cảm thấy xót xa cho chị, khi chị đưa lá thư anh gửi cho tôi xem với hai câu thơ mở đầu:

“Người ơi, gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không”

Năm 1963 anh về nước. Hai câu thơ trên trích trong tập truyện Kiều của cụ Nguyễn Du mà anh đã lồng vào trong bức thư, gửi cho chị M.T. như một định mệnh đã an bài.

Ba tôi đã phải nói lời xin lỗi với cha mẹ chị, vì việc đi hỏi chị là do ba tôi đơn phương quyết định.

Một lần nữa, ba tôi lại đăm chiêu, suy nghĩ nhiều lắm.

Dĩ nhiên, anh tôi từ đó không về nhà, cứ ở mãi Sài gòn. Lúc đầu, anh ở Liên Phi đoàn 33 Vận tải tại căn cứ Tân Sơn Nhứt, sau đó chuyển qua Phi đoàn 518 Khu trục tại căn cứ Biên Hòa.

Thỉnh thoảng anh gửi thư cho ba mẹ tôi nói rằng anh quen một người con gái gốc Bắc, con của một sĩ quan cấp tá, bạn của cậu tôi. Chị là sinh viên trường Đại học Luật khoa Sài gòn và cũng là bạn cùng học tại ĐHLK với anh tôi (sau khi ở Hoa kỳ về, anh lại ghi danh học ĐHLK).

Chị có tên rất ấn tượng: Phạm Chất L.

Thư từ giữa hai anh chị chất đầy như núi. Một lần vào cư xá thăm anh, tôi tò mò đọc được một lá thư của chị gửi cho anh, với bài thơ mà tôi chỉ nhớ được hai câu:

“Đời phi công có mấy người chung thủy
Mỗi đường bay thay một cánh hoa yêu”

Hay một lá thư khác:

“Oublie, c’est le nom d’une fleur
N’oubliez pas, c’est le vœux de mon cœur”
( Xin người giữ lấy hoa quên
Và đừng quên nhé lời nguyền trong tâm )

Chị cũng không quên ép vào những trang thư tình màu tím một con bướm đen đậu trên nhánh hoa Forget Me Not. Điều này làm tôi liên tưởng đến sự trùng hợp màu sắc một cách ngẫu nhiên: Bộ áo bay của anh tôi màu đen với khăn quàng cổ màu tím, tôi thường thấy anh tôi mặc trong những phi vụ đặc biệt.

Đời phi công thật hào hùng và bay bướm. Trong tủ sách anh tôi để lại cho tôi học, tôi thích thú khi đọc cuốn Đời phi công của Toàn Phong, Chuyến bay đêm (Vol de nuit), Cõi người ta (Terre des hommes) của nhà văn phi công Saint Exupery. Càng thích thú hơn, khi biết Toàn Phong là bút hiệu của Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh, tác giả cuốn Hình học Không gian không thua kém gì các cuốn Géométrie dans L’espace của Le Bosse hoặc của Caronner mà anh em tôi xem như là quyển Tự điển Toán Hình học Không gian.

Suy cho cùng, toán học và văn chương tuy thuộc hai phạm trù khác nhau nhưng luôn luôn có sự tương quan logic. Toán học tuy khô khan, nhưng nhà toán học lại là người rất nhạy cảm. Sự nhạy cảm là khởi đầu cho bao đề tài lãng mạn trong văn chương.

Thời gian dần trôi, tình hình chiến sự ngày càng ác liệt, anh tôi được điều động ra căn cứ Đà nẵng. Ác liệt nhất là trận đánh Tết Mậu Thân 1968 và sau đó là Mùa Hè Đỏ Lửa 1972.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1561916703-HQPD_ConBuomDen_02.jpg
Hình minh họa

Phi vụ oanh tạc, giải tỏa cố đô Huế dịp Tết Mậu Thân, chiếc Khu trục cơ Skyraider AD6 do anh tôi lái bị bắn với chi chít lỗ đạn phòng không của Bắc quân, đặc biệt là bánh đáp bị bắn gãy nhưng anh tôi đã đáp bụng an toàn.

Phi vụ oanh tạc, giải tỏa cổ thành Quảng Trị, chiếc phản lực cơ A 37 của anh tôi bị bắn rơi trên bầu trời cổ thành, anh đã nhảy dù thoát hiểm và may mắn được một trực thăng cứu thoát, đưa về căn cứ Đà Nẵng an toàn.

Năm đó, tôi đang học năm thứ hai. Vừa ra khỏi giảng đường, một con bướm đen to bằng bàn tay, bay lởn vởn và đậu trên vai tôi vài tích tắc rồi biến mất. Sau đó tôi gặp một viên thiếu úy phi công trực thăng đến trường tìm một người bạn, vô tình kể lại chuyên anh ta vừa cứu thoát một thiếu tá phi công phản lực A 37 bị bắn rơi tại Quảng trị, tôi nghe chuyện và hỏi tên người phi công lâm nạn, thì ra người phi công phản lực đó chính là anh tôi.

Sau này, trong tập san Lý Tưởng của binh chủng Không quân có đăng bài Cánh Thiên Thần Trên Bầu Trời Cổ Thành Quảng Trị của ký giả L.R.viết về anh lúc cánh dù bung ra từ chiếc phản lực cơ lâm nạn trên vùng trời lửa đạn.

Bạn bè cùng khóa 61 A SVSQKQ và các khóa sau đã có nhiều người ra đi không bao giờ trở lại như tráng sĩ Kinh Kha qua sông Dịch không hẹn ngày về. Chiến tranh đồng nghĩa với mất mát, đau thương, cô đơn và giá lạnh:

“Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
Chinh phu, tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn”

Biến cố khó quên đối với gia đình tôi xảy ra vào ngày 29/3/1975 sau khi tôi nhận bằng tốt nghiệp và sự vụ lệnh bổ nhiệm làm giáo sư tại trường trung học được vài tháng. Đà nẵng đang trong cơn hấp hối.

Tình hình chiến sự vô cùng căng thẳng.

Anh tôi một mình lái xe jeep ra nhà, hối hả chở cha mẹ tôi vào phi trường Đà nẵng, còn tôi không liên lạc được phải chạy một mình ra cảng Tiên sa mong thoát thân bằng đường biển.

Vừa đến cảng thì bị pháo kích dồn dập, tôi chỉ kịp nằm bẹp xuống một mương nước, và chiếc vali trong tay tôi rơi lúc nào cũng không hề hay biết. Một quả đạn pháo kích rơi ngay trước mặt tôi chừng mươi thước, đúng lúc một chiếc xe jeep trờ tới, mọi người trên xe bị hất tung lên và trở thành tro bụi trong phút chốc.

Quá hoảng sợ, tôi chạy lùi theo một số người tìm đường ra biển Sơn Trà.

Lúc này có một vài chiếc phi cơ bay vút qua, hướng ra biển Đông. Tôi ngửa mặt lên trời, ước gì ở trên cao có anh tôi thấy để cứu vớt tôi. Thế nhưng, tất cả đều đã bay xa cho đến khi chỉ còn là vài chấm đen trên nền trời ảm đạm.

Lúc này tôi đã ra đến bờ biển Sơn trà, gặp được một chiếc tàu đánh cá đang đậu cách bờ chừng vài trăm thước. Mừng quá, tôi cởi vội quần áo và lao nhanh xuống biển. Lúc tay tôi chạm vào mạn tàu cũng là lúc trên bờ xuất hiện vài người có vũ khí cầm tay, ra hiệu cho tàu vào bờ. Một số người trên tàu vội vã kéo tôi lên đồng thời tàu nổ máy chạy thẳng ra khơi.

Nhóm người võ trang nhắm thẳng vào tàu bắn liên tục nhưng chỉ làm bị thương một người trên tàu, còn lại đều vô sự.

Một tiếng sau, tàu này được tàu Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa cứu vớt và chuyển lên một chiến hạm của hải quân Hoa Kỳ.

Trên boong tàu, tôi đưa mắt nhìn vào phía đất liền. Mịt mù trùng khơi. Biển vây kín biển cả. Tiếng sóng vỗ ào ào. Tàu lắc lư chao đảo. Tôi ngửa mặt lên trời, tự nhủ: Có phải đây là giờ phút vĩnh biệt của anh em tôi? Đột nhiên bầu trời trở nên u ám, vài hạt mưa đã rơi nhanh xuống sàn tàu.

Sau này, qua một người quen cho biết: khuya 29/3/1975 anh tôi đã lên và lái một chiếc phản lực cơ A 37 ra phi đạo nhưng không thể cất cánh được vì đã bị hư hại. Vì thế anh tôi đã trở thành tù binh tại trại tù số 3 Kỳ Sơn, Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.

Hơn một năm sau, trong lúc gia đình đang ăn cơm trưa, bỗng nhiên có một con bướm đen to bằng bàn tay, bay vòng vòng trong phòng và đậu trên vai từng người rồi cuối cùng đậu ngay chính giữa bàn thờ gia đình. Năm phút sau, nhận được tin báo là anh tôi đã chết, nằm trong một bụi cây bên ngoài trại tù chừng 800 mét. Mọi người đều sửng sốt, bàng hoàng nhưng không dám bật thành tiếng khóc.

Đến khi bình tĩnh lại, nhìn về phía bàn thờ, con bướm đen cũng đã vỗ cánh bay ra khỏi nhà.

Đêm hôm đó, tôi nằm mơ thấy anh tôi mặc bộ áo bay màu đen với khăn quàng cổ màu tím, đang lái chiếc xe jeep về nhà nhưng máu đã đẫm ướt phi bào.

Sáng dậy, nhớ lại giấc mơ đêm qua, tôi cảm thấy một vị đắng, chua cay tràn ngập cổ họng. Tôi nghe như đâu đây phảng phất tiếng hát .của một nữ ca sĩ nỗi tiếng một thời:

“Ngày xưa khi anh vừa khóc chào đời
Mẹ yêu noi gương người trước đặt lời
...
...
Người phi công giữ khung trời
Vẫn còn mang số phận con người”

Bất giác hai dòng nước mắt tuôn trào lúc nào không hay.

Hai mươi năm sau, một mình tôi trở lại vùng rừng thiêng nước độc, nơi anh tôi đã bị lưu đày, khổ nhục. Trại tù giờ đây chỉ là một vùng lau lách đầy cỏ dại, rất khó xác định.

Nghĩ mình đã vượt núi, băng rừng, lội suối trong mùa nước lũ, chẳng lẽ bó tay trở về.

Trời đã nhá nhem tối, tôi thì thầm khấn nguyện anh tôi. Bỗng từ đâu một con bướm đen to bằng bàn tay bay đến trước mặt tôi, như có ý dẫn đường. Tôi tiếp tục khấn nguyện. Con bướm đen bay vòng vòng, tôi chạy theo và bị té sấp vào một bờ đất.

Sau phút hoảng hốt, tôi lồm cồm bò dậy và nhận ra một số nấm mộ nho nhỏ nằm khuất dưới đám cỏ dại. Tất cả gồm 12 nấm mộ vô chủ. Người dân địa phương cho biết đó là mộ của tù binh tại trại 3 Kỳ Sơn. Tôi vội vàng hốt 12 nắm đất bỏ vào 12 bao nilon nhỏ và đánh dấu theo số thứ tự, rồi đến nhà dân xin ngủ tạm qua đêm.

Sáng hôm sau về lại Tam Kỳ, tìm đến nhà một thầy ngoại cảm. Thầy cho biết anh tôi nằm ở ngôi mộ số 3.

Tuy nhiên tôi vẫn mong trong tương lai, khi bài viết này của tôi được nhiều người biết đến, tôi có thể có nhiều tin tức hữu ích và cụ thể để xác định chính xác mộ phần của anh tôi.


Nguyễn Quang Thành
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=2481416745215372&set=gm.2387001431337954&type=3&theater

BachMa
07-30-2019, 04:48 AM
Người Chiến Sĩ VNCH - Ngày Cuối Cùng Của Cuộc Chiến
Những Người Lính Không Quân VNCH

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1561340615-HQPD_NguoiChienSiVNCH.jpg
Hình minh họa
Vào ngày cuối cùng của cuộc chiến, khi mà mọi giới đều hiểu rằng không còn gì có thể cứu vãn được nữa thì người chiến sĩ VNCH vẫn chiến đấu dũng cảm. Một vài tài liệu sau đây cho chúng ta khẳng định như thế:

1- Tài liệu của Không Lực Hoa Kỳ – chương trình di tản “Frequent Wind” có viết rằng: Trong khi phi trường bị tấn công thì 2 chiếc Al (Skyraider chiến đấu có cánh quạt của Không Lực VNCH) đã bay lượn trên không phận Sài Gòn để truy lùng các vị trí pháo kích của địch. Một trong hai chiếc bị hỏa tiễn SA-7 bắn hạ. Trong khi đó, nhiều người đã không e sợ, đổ xô ra ngoài để nhìn một chiếc phi cơ “Rồng Lửa” AC-119 đang nhào lộn và xả súng (đại liên 6 nồng Gatling) bắn một vị trí của bộ đội Bắc Việt ở ngay gần cuối hướng Ðông Tân Sơn Nhất. Vào khoảng 7 giờ sáng 29 Tháng Tư, chiếc phi cơ anh dũng của VNCH đã bị trúng hỏa tiễn SA-7 của địch và bốc cháy rồi đâm nhào xuống mặt đất.

Trong một bức thư của một phi công VNCH gửi cho Clyde Bay ở Trung Tâm Di Tản Nha Trang, kể lại chuyện những phi công của Không Lực VNCH vào sáng ngày 29 Tháng Tư, vẫn tiếp tục thực hiện các phi vụ tấn công vào các đoàn xe tăng địch, khi chúng tiến về phía thủ đô Sài Gòn. Theo lời của Trung Úy Coleman “ít nhất những người này đã là những chiến sĩ đã chiến đấu một cách anh dũng và hi sinh đến giọt máu cuối cùng của cuộc đời binh nghiệp, trong một trận chiến biết chắc là thua, nhưng vẫn sẵn sàng hy sinh.”

2- Tài liệu trích trong cuốn Việt Nam và Chiến Lược Domino của Bạch Long (từ trang 312 đến 314): Nhưng sự bất ngờ cho Cộng Sản đã xảy ra ngay tại cửa ngõ vào Saigon. Khoảng gần một ngàn chiến sĩ của Chiến Đoàn 3 Biệt Kích Dù và một số biệt kích, Nhảy Dù và quân nhân khác, có nhiệm vụ bảo vệ bộ Tổng Tham Mưu từ ngày 26 Tháng Tư, đã sẵn sàng chờ “đón” quân Cộng Sản. Trong ngày 29 Tháng Tư, Tướng Lâm Văn Phát đã có can đảm đứng ra nhận chức Tư lệnh Biệt Khu Thủ Đô với mục đích cầm quân chiến đấu bảo vệ Sài Gòn. Tướng Phát đã ra lệnh cho các cánh quân Nhảy Dù, Biệt Cách, Biệt Động Quân, Thủy Quân Lục Chiến… phải ngăn chận quân Cộng Sản kéo vào Sài Gòn từ hai ngả tư Bảy Hiền và Hàng Xanh… Tướng Phát kể lại rằng ông chỉ còn vỏn vẹn 60 xe tăng M-41 và M-48 với những đơn vị lẻ tẻ để đối đầu với 16 sư đoàn Bắc Việt và 3 sư đoàn Việt Cộng với hàng ngàn xe tăng, đại pháo và tấn công từ hai ngả vào Sài Gòn. Nhưng dù ở trong tình thế tuyệt vọng như vậy, Tướng Phát và những người đầu hàng. Họ vẫn phải chiến đấu đến cùng! (Cần phải nói rằng các đơn vị lớn Thủy Quân Lục Chiến cực kỳ anh dũng và đã bị tan rã gần hết trước ngày 30 Tháng Tư, ở Vùng 1 và Vùng 2, và trong những trận rút bỏ khác).

Những người lính chiến đấu này không có… radio! Họ không cần biết rằng quân Cộng Sản đang thắng thế. Họ không cần biết Tổng thống tạm thời Dương Văn Minh đang sửa soạn đầu hàng, dâng miền Nam cho Cộng Sản. Họ không cần biết rằng tình hình đã hoàn toàn tuyệt vọng, không còn một chút hy vọng ngăn chân quân đội Bắc Việt. Họ chỉ biết chiến đấu chống Cộng và tiêu diệt quân Cộng Sản, và hình như họ chưa bao giờ có tư tưởng bỏ chạy hay đầu hàng! Họ hờm súng đợi quân thù Cộng Sản và sẵn sàng nhả đạn. Các xe tăng Cộng Sản hứng những loạt đạn đầu tiên và bất ngờ. Trong thành phố đang hỗn loạn tinh thần, tiếng đạn nổ như mưa bão xen lẫn với tiếng súng lớn, đã làm cho sự hỗn loạn gia tăng.Trong thời gian thật ngắn khoảng hơn 1 giờ đồng hồ, 17 xe tăng Cộng Sản bị trúng đạn cháy đen nằm rải rác từ ngã tư Bảy Hiền đến cổng trại Phi Long và đến đường Cách Mạng… Pháo tháp xe tăng T-55 bằng thép dầy 12inches (30 phân tây) bị bắn thủng như bằng… bột, chứ không phải bằng thép! Lỗ đạn không lớn lắm. Hình như vào giờ chót người Mỹ viện trợ cho một loại súng bắn xe tăng đặc biệt, loại 106 ly (?), để bắn xe tăng. Đạn xuyên phá qua thép dầy nhất và lực cản của thép đã làm cho nhiệt độ gia tăng tới gần 3000 độ C, nướng chín quân lính Cộng Sản ở trong xe tăng.

Cánh quân Cộng Sản từ Long Khánh kéo về Sài Gòn qua Hàng Xanh, Thị Nghè bọc xuống trước Sở Thú để tiến vào dinh Độc Lập thì bị quân Nhảy Dù án ngữ. Quân Nhảy Dù bị dồn về bảo vệ vòng đai Sài Gòn. Họ không còn việc gì khác hơn là chiến đấu đến cùng từ đường vòng đai xa lộ Đại Hàn đến ngã tư Hàng Sanh về đến đại lộ Thống Nhất, nhà thờ Đức Bà. Hầu như những cánh quân Cộng Sản đầu tiên tiến vào Sài Gòn theo ngả này đều bị Nhảy Dù tiêu tiệt hết. Tổng cộng trong khoảng từ 7 giờ sáng đến 10 giờ 15 ngày 30 Tháng Tư, khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, hơn 20,000 quân Bắc Việt, 32 xe tăng và gần 30 quân xa (Molotova) chở đầy lính Cộng Sản bị bắn cháy, chết hết, trong phạm vi thành phố Sài Gòn. Tất cả hai cánh quân Việt Cộng đều khựng lại.

Bộ chỉ huy Cộng Sản cuống cuồng vội giục Dương Văn Minh phải đích thân ra lệnh cho Tướng Lâm Văn Phát, Thiếu Tá Tài để ra lệnh cho Biệt Cách Dù và quân Nhảy Dù ngưng chiến đấu. Tất cả những người lính chiến đấu can trường nhất của VNCH lúc đó mới hiểu rằng miền Nam đã bị kẹt vào cái thế phải thua. Họ ném bỏ súng đạn trút bỏ quần áo trận và lẫn lộn vào dân chúng, tìm đường về nhà.

Một câu chuyện khác do Tướng Lâm Văn Phát kể lại là sau khi Dương Văn Minh điện thoại cho ông phải ra lệnh ngưng bắn thì ông xuống dưới nhà. Dưới chân cầu thang, một người Quân Cảnh đã đứng nghiêm chào ông và nói: “Vĩnh biệt Thiếu tướng,” rồi rút súng bắn vào đầu tự tử. Khi vị tư lệnh cuối cùng của Biệt Khu Thủ Đô đến Tổng Tham Mưu thì thấy chung quanh cột cờ lớn có khoảng hơn 300 binh sĩ Biệt Cách và sĩ quan chỉ huy họ đang đứng thành vòng tròn và hờm súng vào… lưng nhau, sẵn sàng nhả đạn tự tử tập thể. Tướng Phát phải nói với họ trong nước mắt rằng quân đội VNCH đứng vững cho đến giờ chót là nhờ tinh thần kỷ luật. Vậy lúc này đã có lệnh buông súng thì anh em ai về nhà nấy mà lo cho gia đình. Tự tử không có ích lợi gì cho mình cả. Các quân nhân nghe lời, chỉ có một vài sĩ quan trẻ tuổi đã tự tử. Đến 1 giờ trưa, Tướng Phát bàn giao Biệt Khu Thủ Đô cho tướng Việt Cộng Ba Hồng. Sau đó Tướng Ba Hồng mời Tướng Phát đến Tổng Tham Mưu. Tại đây, khoảng 500 chiến xa T. 55 của Cộng quân nằm kín chung quanh cột cờ. Đáng lẽ những chiến xa này đã đi thẳng sang Tây Ninh theo đườngvòng đai Sài Gòn. Nhưng sự đầu hàng của Dương Văn Minh đã thay đổi hết kế hoạch tiến đánh Thái Lan của Cộng Sản (Tướng Lâm Văn Phát đã từ trần trong tuổi già tại Santa Ana, California ngày 30 Tháng Mười, 1998).

Nhưng hai trận đánh trên đây cũng chưa phải là trận đánh cuối cùng trong ngày 30 Tháng Tư. Trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu đã chiến đấu mãnh liệt từ trong khuôn viên trường cho đến khoảng 2 giờ trưa. Lúc này, Cộng Sản đã cầm chắc cái thắng trong tay nên chúng không muốn chết thêm nữa. Chúng ngưng bắn và điều đình với các em. Các em đòi chúng phải ngưng bắn và rút ra xa để các em tự giải tán. Khoảng ba giờ chiều, các em hát bài quốc ca, làm lễ hạ cờ. Xong rồi bỏ đồng phục, mặc quần áo thường và từ từ ra khỏi trại, nước mắt ràn rụa trên má…

3- Tài liệu: báo Wall Street Journal số ngày 2 Tháng Năm, 1975: Bài bình luận của ký giả Peter Kahn, từng đoạt giải Pulitzer, có tựa đề “Truy Điệu Nam Việt Nam” “…Nam Việt Nam đã chống cự hữu hiệu trong 25 năm, và họ đã không phải luôn luôn được người Mỹ giúp. Tôi nghĩ ít có xã hội nào bền bỉ chịu đựng được một cuộc chiến đấu lâu dài như vậy… Quân lực VNCH đã chiến đấu can đảm và vững mạnh trong một số trận đánh mà chúng ta còn nhớ, thí dụ như trận An Lộc. Quân đội ấy đã chiến đấu giỏi và can đảm ở nhiều trận đánh khác mà chúng ta không còn nhớ địa danh. Quân lực ấy đã can đảm và chiến đấu trong hàng ngàn trận đánh nhỏ, và giữ vững hàng ngàn tiền đồn hẻo lánh ở những nơi mà cái tên nghe rất xa lạ với người Mỹ. Hàng trăm ngàn người của quân lực ấy đã tử trận.

Hơn nửa triệu người của quân lực ấy đã bị thương. Và trong những tuần lễ chót, khi mà người Mỹ nào cũng biết là cuộc chiến đấu đã thua rồi thì vẫn còn những đơn vị của quân lực ấy tiếp tục chiến đấu, thí dụ tại Xuân Lộc. Nhờ có những sự chiến đấu ấy mà người Mỹ và một số người Việt lựa chọn mới an toàn thoát đi được. Rốt cuộc, quân lực ấy đã tài giỏi hơn sự ước lượng của người ta. Phía mạnh hơn chưa chắc đã là phía tốt hơn.”

4- Tài liệu của ký giả người Pháp Jean Larteguy: Đã chứng kiến những giờ phút cuối cùng ở Saigon ngày 29 và 30 Tháng Tư, 1975. Thứ Hai, 28 Tháng Tư, 1975, Saigon sáng nay yên tĩnh. Các đơn vị của một lữ đoàn Dù chiếm đóng vị trí của họ trong thành phố, sau bức tường, trong những khu vườn. Họ không buồn rầu và không tuyệt vọng. Họ điều động như thể đang dự một một thao dượt. Đôi lúc họ còn cười với nhau và liệng cho nhau những chai Coca Cola. Họ không nuôi một ảo tưởng về số phận của họ, về kết quả của trận đánh tối hậu này. Nhưng tôi có cảm tưởng là họ nhất định chiến đấu tới cùng, và sẽ tự chôn mình trong những đổ nát của Saigon. “Và những binh sĩ tuyệt vời này vẫn còn có được các cấp chỉ huy ở bên họ. Một trong các cấp ấy là một đại tá. Tôi hỏi ông ta xem tình hình ra sao? Ông trả lời: “Chúng tôi sẽ chiến đấu, và chúng tôi sẽ là những người lính cuối cùng chiến đấu. Hãy nói cho mọi người biết rằng chúng tôi chết không phải vì Thiệu, vì Hương hay vì Minh.”

Sau khi Dương Văn Minh đã tuyên bố đầu hàng. Larteguy lại được chứng kiến tận mắt trận đánh cuối cùng của các đơn vị VNCH tại Sài Gòn, và ghi lại như sau: “Gần Lăng Cha Cả, quân Dù đánh trận chót. Họ chiến đấu tới 11 giờ 30 trưa, cho tới khi các cấp chỉ huy của họ từ dinh Tổng Thống trở về sau cuộc gặp gỡ bi thảm với Tướng Minh.

Các sĩ quan này khuyên họ nên ngưng chiến đấu. Họ vừa hạ được 5 xe tăng T-54. Những xe ấy còn đang cháy ngùn ngụt. Một chiếc nổ tung vì đạn trong xe. Quân Dù không để lại trên trận địa một thứ gì, dầu là vũ khí, đồ trang bị, người bị thương hoặc người chết.” Larteguy cũng được thấy tận mắt các sinh viên trường Võ Bị Đà Lạt, lực lượng trừ bị chót của QLVNCH, tiến ra trận địa. “…Và trong những bộ đồng phục mới, giầy chùi xi bóng láng, các sinh viên anh dũng của Trường Võ Bị Đà Lạt đã đi vào chỗ chết. Họ ra đi thật hào hùng, đi như diễn binh, chỉ thiếu có cái mũ diễn hành và đôi bao tay trắng.”

Một đồng nghiệp của Larteguy là Raoul Coutard đã thu được cảnh xuất quân bi tráng ngay vào máy quay phim và cố nén xúc động để hỏi các sinh viên sĩ quan: “Các anh có biết là sắp bị giết chết không?” Một thiếu úy trả lời: “Chúng tôi biết chứ!” Vì sao? – Tại vì chúng tôi không chấp nhận Chủ Nghĩa Cộng Sản! “…Các xe tăng đầu tiên của Cộng Sản vào Saigon từ phía Đông, qua tỉnh lộ Thủ Đức và Biên Hòa…”

Bộ binh thì tiến từ phía Bến Cát và Tây Ninh. Tuy vậy, bọn này chỉ tới được trung tâm Sài Gòn vào lúc 5 giờ chiều.Từ ngày hôm trước các đơn vị cộng quân này đã bị chận tại gần Hóc Môn, gần nơi có Trung Tâm Huấn Luyện Nhảy Dù do Lữ Đoàn 4 của Sư Đoàn Dù trấn giữ dưới sự chỉ huy của Đại Tá Vinh, sĩ quan to con, mặt phong trần, nhất định bất chấp lệnh ngưng bắn. Các đơn vị Cộng quân bị thiệt hại nhiều. Sau đó chúng còn phải giao tranh 2 lần trên đường phố Sài Gòn. Một lần trước trụ sở Cảnh Sát Công Lộ, nơi đây chừng 100 cảnh sát viên chiến đấu oanh liệt trong hơn một giờ, trước khi bị xe tăng Cộng Sản đề bẹp. Lần thứ hai ở ngã tư Hồng Thập Tự và Lê Văn Duyệt, là nơi chỉ có 4 người lính Dù võ trang đại liên và Bazzoka mà chiến đấu được trong 50 phút. Đến khi hết đạn, họ đi ra ngoài, nắm vai nhau, lập thành vòng tròn rồi cho nổ một tràng lựu đạn tự sát. “Đến chiều tối 400 chiến sĩ Mũ Đỏ (Dù) được gom từ trận Hốc Môn và từ phi trường, tụ lại quanh đại tá Vinh, và còn chiến đấu gần chợ chính và các nơi có ruộng lúa của tỉnh Chợ Lớn. Đến 10 giờ đêm, Đại Tá Vinh cho lệnh các binh sĩ chia thành toán nhỏ, lợi dụng bóng đem để rút về đồng bằng…”
Darcourt cho biết Đại Tá Vinh đã ở lại vị trí và tự sát.


(Người lính cũ tổng hợp tin từ báo chí nước ngoài)
Nguoi-Viet.com
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=487247495379730&set=gm.2113910752061413&type=3&theater

BachMa
08-03-2019, 05:54 PM
Những Xác Chết Trên Mảnh Đất Hình Cong Chử "S"
J.Nguyễn

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1554574836-NhungXacChetTrenHinhCongChuS.jpg
Hình minh họa
Vào khoảng 3 giờ chiều ngày 25 tháng 6 năm 1975, đoàn xe chở chúng tôi đến Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia tỉnh Long Khánh cũ; đã có một số anh em đến trước đứng trong hàng rào vẫy tay chào đón chúng tôi. Ngoài sân rất đông du kích, công an lăm le những cây súng AK.47, M.16 (USA) trên tay, làm hàng rào bao quanh, la hét bảo chúng tôi phải ngồi tại chỗ theo 4 hàng dọc. Tiếp theo cứ 4 người lên một lượt để các công an bắt đầu khám xét các đồ dùng cá nhân chúng tôi đem theo, những con dao nhỏ, những cái nĩa, những vật dụng bằng sắt có mũi nhọn đều bị tịch thu.

Buồng ngủ là những dãy nhà tôn dài, bên trong có sạp ván, mỗi người được chia 7 tấc vừa đủ cho một chiếc chiếu nhỏ. Tính đến ngày vào tù tôi chưa đầy 24 tuổi. Với lứa tuổi đầy hào khí nầy, trước 30-4-75 đã một thời oanh liệt, băng suối vượt rừng, có những người đã tung mây lướt gió, vượt trùng dương, hiên ngang chiến đấu trên 4 vùng chiến thuật, xem thân mình tựa lông hồng, quyết tâm bảo vệ quê hương.

Nhưng hôm nay khí phách đó còn đâu! Một kẻ bại trận, một người hàng binh, thân xác này dành cho kẻ thắng trận dày xéo, thống trị???

Bắt đầu nhập cuộc một trò chơi mới, chúng tôi nhận được một thông điệp mà trong xã hội loài người văn minh chúng ta chưa từng nghe bao giờ. Thông điệp mà người Cộng Sản phát ra ở đây bằng những lời lẽ cộc cằn, thô lỗ, với bản chất đầy hằn học, hận thù, những câu nói không văn hóa, tục tĩu và đầy sát khí. Cộng sản là kẻ chiến thắng nhưng họ vẫn sợ : Cái mặc cảm vì ngỡ ngàng vì miền Nam quá phồn vinh! Họ so sánh vì miền Nam tiến bộ hơn miền Bắc gấp trăm lần! Họ tính toán làm sao và bằng cách nào để vào miền Nam vơ vét của cải đem về miền Bắc. Họ bóp trán suy nghĩ, tính toán nát óc bằng mọi cách phải làm cho được, nếu rủi thay cho người nào đó trong khi ngược về Bắc mà không mang được số của cải nào, trước hết làm sao ăn nói được với “người cha già dân tộc Hồ chí Minh, ông nội Lenine, ông tổ Karl Marx”, sau đó làm sao ăn nói với đảng Cộng sản Việt Nam trong 30 năm đã dày công tuyên truyền, cổ võ, dạy dỗ và làm sao ăn nói với tổ tiên ông bà đã chết, với đại gia đình, thân tộc, xóm làng.

Đời sống của chúng tôi giờ đây bị thu hẹp lại, bị trói chặt lại, không có quyền mở. Những sinh hoạt, những bước đi, những tiếng nói, những tiếng cười, những hơi thở, những ánh mắt và cả không gian xung quanh chúng tôi đều bị gò bó và giám sát. Điều chúng tôi biết rất rõ ràng là chúng tôi bị tước đoạt mất quyền làm người, quyền tín ngưỡng, quyền thờ cúng ông bà tổ tiên, thậm chí đến cả những người đã chết, thân xác cũng không được nằm yên dưới lòng đất vì bị người Cộng Sản cày xới, vung vãi như tại nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, nghĩa trang Quân Đội (VNCH) Biên Hòa. Chúng tôi bị tước đoạt bớt khẩu phần ăn, bị khâu hẹp lỗ miệng, may nhỏ cái bao tử. Ba giác quan cần phải khép kín: không nghe, không thấy, không biết, mới mong còn sống sót trong những trại lao tù của Cộng sản vô thời hạn này. Giờ đây đời sống của chúng tôi như những con thiêu thân bay quanh bếp lửa.

Cuộc Cách Mạng tháng 10 năm 1917 ở Nga, hàng triệu triệu người bị đày đến miền cực lạnh Sibéria. Họ đã bị chết mòn trong miền hoang vu băng giá này.

Sau năm 1945, gần 50 triệu người ở Trung Quốc bị chết vì bị trả thù và đói khát.

Ở Việt Nam sau năm 1954, hàng triệu người cũng đã bị chết vì bị đấu tố trong chiến dịch cải cách ruộng đất và đói khát.

Và ở miền Nam Việt Nam sau 30-4-75, tập đoàn cộng sản Hà Nội tiếp tục cuộc thanh trừng những thành phần đối kháng. Những sĩ quan quân đội, cảnh sát, những viên chức của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, đều bị tập trung vào các trại lao động khổ sai, được ngụy trang dưới hình thức “trại cải tạo”. Người Cộng sản đã la to hét lớn, gầm thét giống như những tiếng thú dữ giữa rừng hoang. Họ vung tay la lớn :

Giết! Giết! Giết! Giết sạch! Giết lầm hơn bỏ sót! Giết cho máu chảy thành sông,cho xác chất thành núi như Lénine đã nói: Chỉ có bạo lực và họng súng mới đem lại được hòa bình!

Những ngày tháng đầu, chúng tôi còn nếm được mùi vị của cơm trắng, nước mắm và cá khô nướng, lấp lửng được phần nào cái bao tử.

Những ngày tháng kế tiếp từ tiêu chuẩn 3 chén cơm mỗi bữa ăn xuống còn 2 chén, rồi còn một chén. Đến tháng thứ tư, thay vì một chén cơm trắng thì được một chén bo bo, nên phải nhai lâu hơn và được no bụng lâu hơn vì nhờ vỏ bo bo không bao giờ tiêu. Chúng tôi thường nhặt những phần gốc rau muống đã bị “anh nuôi” vứt bỏ trong sọt rác, rửa sạch, chẻ làm hai ngâm với nước muối và nước vo bo bo trong những thùng đạn M.16, có thể lấy từ các kho hợp tác xã trong huyện.

Từ ngày ăn bo bo trở về sau, chúng tôi không còn được thưởng thức mùi cá nướng và nước mắm nữa, thay vào đó là nước muối nấu pha trà để có màu đỏ như nước mắm thật, thỉnh thoảng trong tuần có vài bữa rau muống luộc hay củ cải trắng nấu canh. Xen kẽ vào các bữa ăn mì lát, nhà bếp làm bánh trôi nước bằng bột khoai mì được lấy từ các kho mì lát hợp tác xã. Loại bột này có các con mọt đục khoét từ các lát khoai mì rớt ra; bột và mọt lẫn lộn với nhau, đôi khi còn có cả đất cát nữa, nên bánh sau khi đã được luộc chín trở thành màu xám của mọt.

Mỗi trưa và tối mỗi người được lãnh một cái, còn buổi sáng chỉ được nửa cái mà thôi. Loại bánh này nếu để sau 15 phút trở thành khô cứng và có thể ném chết con chó.

Một loại bánh mà chúng tôi chưa từng thấy trong xã hội miền Nam trước đây, vì thế chúng tôi gọi đó là “BÁNH XE LỊCH SỬ HIỆN ĐẠI”.

Những ngày tháng cuối năm 1975, chúng tôi vừa lao động vừa học tập chính trị do Ba Kiều và Ba Ý hướng dẫn. Một tuần, hai tuần rồi ba tuần cũng quanh quẩn những đề tài:”Cách mạng thành công, đánh cho Mỹ cút ngụy nhào, các anh là tội đồ của nhân dân, đảng Cộng sản là đỉnh cao trí tuệ..”

Tất cả toàn là những sáo ngữ, tiếng nói của loài vẹt, người trước nói người sau sao y bản chánh, nhưng có một điều mà Ba Kiều nói đúng “Mỹ buông ra để nắm lại”.

Hầu hết các trại tù nào cũng vậy, ban giám thị bắt chúng tôi viết đi, viết lại tờ khai lý lịch và quá trình hoạt động nhiều lần. Mục đích của họ là muốn làm cho chúng tôi rối loạn tinh thần, lo sợ để kê khai nhiều “tội lỗi của mình”. Họ bảo chúng tôi phải “thành thật khai báo và học tập tốt để sớm được sự khoan hồng của nhân dân.” Nhưng họ đã lầm và đánh giá quá thấp sự hiểu biết của các sĩ quan, viên chức của VNCH. Trong những ngày “học tập và thảo luận” những đề tài chính trị, có nhiều anh em chúng tôi hiên ngang nói lên lập trường của chế độ VNCH trước đây và còn trưng dẫn những tội ác của Cộng sản đã gây ra trong suốt 21 năm từ 1954 đến 1975. Như “cuộc tổng công kích và nổi dậy” của Cộng sản vào mùa xuân Mậu Thân 1968 trên toàn lãnh thổ miền Nam, quân Cộng sản đã giết hại biết bao nhiêu dân lành vô tội. Riêng tại thành phố Huế sau 24 ngày đêm chiếm giữ, Cộng sản đã giết và chôn sống gần sáu ngàn người trong những hầm chôn tập thể gồm các binh sĩ, Cảnh Sát, Viên chức chính quyền VNCH và dân chúng thuộc thành phần đối kháng lại họ (CS), trong đó có những ông già bà lão, trẻ con, thậm chí những phụ nữ đã mang thai họ cũng không tha.

Trong quá khứ họ đã đốt bao nhiêu làng xã, trại định cư và còn pháo kích bừa bãi vào các trường học giết hại trẻ thơ vô tội.

Trại K.4 Long Khánh gồm hai khu vực, khu vực A bằm tại BCH. Cảnh sát Quốc Gia tỉnh Long Khánh cũ, khu B tại trại gia binh của trung tâm yểm trợ tiếp vận cũ (VNCH).

Hàng ngày chúng tôi lao động quanh khu vực trại: nhổ cỏ tranh, khiêng đất đá chất thành bờ, nhặt cỏ. Ngày 30-4-75 là ngày đen tối nhất trong lịch sử đối với trên 20 triệu dân miền Nam VN. Lịch sử đã sang trang, nhưng đời sống xã hội miền Nam đã lùi lại thời kỳ đồ đá.

Họ bắt chúng tôi ngồi bết dùng hai bàn tay không nhổ những đám cỏ tranh nằm giữa những hàng rào kẽm gai chằng chịt, thỉnh thoảng chúng tôi bắt gặp những quả lựu đạn, những đầu đạn M.79 (USA) chưa nổ, những loại đầu đạn M.79 này khi bắn ra khỏi nòng súng chưa đủ vòng tua để kích nổ, nhưng nếu chúng ta nhặt lên chuyền qua tay nó sẽ nổ ngay rất nguy hiểm. Chỉ qua một buổi lao động, hai bàn tay của chúng tôi bị kẽm gai cào và cỏ tranh cắt rướm máu. Trại bảo chúng tôi dùng những cây cọc sắt đập dẹp một đầu bẻ cong lại 90 độ dùng để cuốc đất, lên luống khoai, làm những luống cải. Với bàn tay trần chúng tôi không thể nào cầm cây cọc sắt để cuốc đất, nên phải dùng bao cát quấn quanh cọc sắt để bảo vệ đôi bàn tay.

Vào một buổi chiều, trong lúc chúng tôi đang cấy những cây cải con vào luống. Út Nhân đi ngang qua thấy chúng tôi đang cấy những cây cải chỉ có ba hàng dọc, hắn đứng lại quát lớn:

-Tại sao các anh trồng ba hàng? Ai tổ trưởng ở đây? Ai bảo các anh trồng ba hàng? Cách mạng đã tha chết cho các anh, các anh đã vào đây mà còn mơ tưởng đến “cờ ba que”?

Hắn hét lớn:

-Nhổ lên, nhổ lên trồng lại!

Rồi hắn lầm lũi, mặt đầy sát khí, bàn tay phải luôn áp chặt vào bá súng Colt 45 mang trước ngực, bước đi không quay lại. Đã hết giờ lao động nhưng chúng tôi phải nhổ lên trồng lại. Tối đến Út Nhân bắt chúng tôi họp đội, lên lớp chửi chúng tôi thậm tệ và bắt làm tự kiểm từng người . Út Nhân là bí thư ban giám thị trại, người nhỏ thó, chân đi chữ bát, ít học, ăn nói ồn ào, nhưng nét mặt lúc nào cũng đầy thù hận.

Còn những tên du kích, công an con, mặt lầm lì sát khí, trên tay lúc nào cũng lăm le những cây súng; trước đây chúng chưa từng có dịp nạt nộ sai khiến ai, nay có đối tượng là tù nhân nên chúng cảm thấy khoái trá lắm, chúng viết trên các bức tường: “Trong đời không có gì sung sướng hơn được đi chăn tù”.

Trải qua 30 năm sau cũng không sao quên được hình ảnh những người trai trẻ thời bấy giờ phải cắn răn chịu đựng những lời sỉ vả nhục nhã, những ngày tháng lao động khổ sai trong những trại lao tù Cộng Sản. Còn những người lớn tuổi trông thê thảm hơn, thân hình tiều tuỵ, gương mặt hốc hác, đã thiếu ăn lại suy nghĩ nhiều về cha mẹ, vợ con, anh chị em, người thân đang sống ở xã hội bên ngoài, đời sống của những người ấy chẳng khác nào những người tù bị giam lỏng. Hằng ngày chúng tôi lao động vất vả dưới ánh nắng như thiêu đốt, áo quần bê bết màu đất đỏ, mong sao có những trận mưa rào tưới lên những tấm thân khô cằn này để xoa dịu những nỗi nhọc nhằn, suy tư.

Đây chỉ là những bước đầu và thời gian tiếp nối có lẽ sẽ không có dấu chấm hết! Số tiền 20.620 đồng theo như thông báo chỉ để lừa gạt thiên hạ. Chân lết, tay nhổ cỏ, nhưng đầu óc quay cuồng bởi hàng trăm câu hỏi được đặt ra. Anh em chúng tôi trong lúc nghĩ ngơi thường tụm ba, tụm bốn xầm xì to nhỏ bàn tán, hỏi rồi lại đáp, nhưng không có một ai trong chúng tôi có thể giải đáp được bài toán không có đáp số này. Theo tôi cho rằng thời gian tù ít nhất là 3 năm, có anh em cho rằng miệng tôi ăn mắm, ăn muối nên nói bậy bạ. Mà quả thật trong các trại tù chỉ có ăn nước muối chứ làm gì có mắm mà ăn, nếu có cũng chỉ là những loại mắm thúi ở các vựa cá hợp tác xã dùng để nuôi gia súc. Chúng ta hãy dựa vào bản chất độc ác, lừa dối của Cộng sản để suy đoán ra điều này. Từ năm 1930 đến nay, Cộng sản đã lừa dạt cả dân tộc Việt Nam, con tố cha (như Trường Chinh), vợ tố chồng, anh em tố lẫn nhau. Họ không có tính người vì tổ tiên của họ do loài vượn mà ra:

Xưa kia khỉ ở trong rừng,
Ngày nay tiến bộ, khỉ mừng khỉ vui.
Từng đàn khỉ xuống miền xuôi,
Dạng hình thay đổi, nhưng đuôi vẫn còn.

Trung Uý Ba Kiều, cán bộ chính trị của trại K.4 đã tâm sự với chúng tôi rằng: Hai vợ chồng anh đi ngược về Bắc để thăm gia đình, bà con thân hữu xóm làng tới thăm vợ chồng anh, đã trầm trồ khen ngợi những sản phẩm tơ lụa và đồ dùng của miền Nam. Chiếc Honda dame mà anh mang về là một chiến lợi phẩm được cán bộ cả huyện đến xem (sự phồn vinh giả tạo của miền Nam!). Hằng ngày những đoàn xe khách chạy từ Nam ngược Bắc chở theo rất nhiều xe đạp, xe Honda, bàn ghế, Tivi, tủ lạnh, quạt máy, chưa kể những vật dụng có giá trị khác.

Tôi nghe nói nếu có cán bộ nào ngược về Bắc, chẳng may không mang được của cải gì, thì bị người thân mắng chửi thậm tệ và gia đình cảm thấy xấu hổ với bà con hàng xóm. Bây giờ gần 1 triệu đảng viên Cộng sản và dân chúng miền Bắc đã thấy rõ bộ mặt thật sự lừa bịp của tập đoàn Cộng sản Hà Nội trong những thập niên qua do Hồ Chí Minh lãnh đạo hay chưa? Nhà văn nữ DƯƠNG THU HƯƠNG, tháng 4 -1975, lần đầu tiên bà đặt chân đến thành phố Sài Gòn, ngồi trên vỉa hè bà đã ôm mặt khóc nức nở, vì bà đã tận mắt nhìn thấy xã hội phồn vinh của miền Nam, thì ra cái xã hội của kẻ chiến thắng đang ngự trị là xã hội man rợ, một xã hội không tính người.

Đã vậy, tập đoàn Cộng sản Hà Nội vẫn ngoan cố, không công nhận chân giá trị hiện hữu của miền Nam, vẫn còn tiếp tục giở trò lừa gạt nhân dân miền Bắc: Những người miền Bắc muốn xuôi Nam để thăm bà con, thì phải được học tập một thời gian cách nói láo về xã hội chủ nghĩa giàu sang tại miền Bắc (tivi, tủ lạnh chạy đầy đường…) và còn chỉ những mánh khoé để vào miền Nam xin của cải. Thế còn dân miền Bắc đem vào cho nhân dân miền Nam những gì? Dân miền Bắc dành dụm, chắt chiu những hộp sữa Ông Thọ, từng gói mì ăn liền, từng cái tô sành để đem vào Nam và họ đã nhận lấy LÒNG THƯƠNG HẠI TỪ DÂN CHÚNG MIỀN NAM!!!

Hầu hết trong các trại tù nước rất khan hiếm, vì vậy trại đã chọn 40 anh em còn trẻ, khoẻ để đào giếng, được chia làm hai ca, mỗi ca đào một ngày. Công việc thật vất vả và nặng nhọc, vì vùng đất bazan Long Khánh lớp phía dưới toàn đá xanh. Lớp đá dày 10 mét nên phải dùng đến thuốc nổ TNT để đánh phá, đã đào suốt tháng trời cũng chưa có mạch nước. Một số anh em đã nản chí vì bị thương tích nhiều nhưng lại thiếu thuốc men chữa trị, vả lại chế độ ăn uống không hơn bao nhiêu nên anh em đã kiệt sức.

Nước không đủ tắm và giặt giũ quần áo hằng ngày, vì thế chúng tôi bị ghẻ lở rất nhiều, thân hình gầy ốm, xông ra mùi hôi tanh khó chịu và ảnh hưởng đến những người chung quanh. Ban đêm chúng tôi không sao ngủ được, phần bị ghẻ ngứa nên đánh bài cào sồn sột. Trên đầu nằm, từng đàn dán ngửi thấy mùi hôi của ghẻ, chúng tấn công trên hai cánh tay, dưới bàn chân, chúng gậm nhấm vào da thịt cảm thấy ghê sợ. Cùng đồng minh với gián, hàng trăm chú rệp từ trong gối và sạp ván bò ra đồng loạt tấn công từ đầu cho đến chân, chúng bò ở cổ, tay, ở lưng, ở chân, cảm thấy rợn người.

Khu vực lao động thứ hai rộng 60 mẫu tây, nằm về hướng đông của trại. Trước 30-4-75, khu vực này của Tướng Lê Văn Tỵ. Hai mươi mẫu sát quốc lộ 1 là vười cây ăn trái, vườn cà phê và bảy hồ nuôi cá. Khu vực còn lại 40 mẫu dùng chăn nuôi bò, khoảng 200 con lớn nhỏ. Sau khi tiếp quản, cán bộ Cộng sản huyện Xuân Lộc đã đem bò cống nạp trong qui hoạch sản xuất của trại, chúng tôi được tắm rửa, giặt giũ thoải mái hơn, nên bệnh ghẻ lở cũng giảm bớt phần nào.

Trại đưa kế hoạch xuống bắt chúng tôi phải đào 6 hồ nuôi cá. Hồ lớn nhất có bề dài 220 mét, rộng 63 mét, sâu 3 mét, tại khu vực ruộng sình dày hơn 5 tấc, lớp dưới toàn đá cuội và nhiều tảng đá xanh rất lớn. Có một việc không làm sao chúng tôi quên được ngày hôm đó, 80 anh em chúng tôi phải tìm cách đưa một tảng đá nặng khoảng 3 tấn lên khỏi bờ hồ cao 2 mét. Chúng tôi phải dùng dây kẽm gai quấn thành những dây thừng lớn đan thành mặt võng bọc lấy tảng đá, dùng những đòn bẩy lên, phía trên anh em dùng đòn kéo tới, tảng đá lên được phần ba, bất ngờ dây cáp bị đứt, tảng đá rơi xuống lại gây cho nhiều người bị thương, kẻ dập tay, dập chân, người bị va đầu vào đá, khoảng 15 người bị cụp xương sống không thể đi được nên phải nhờ anh em dìu lên bờ. Thật ra muốn đem những tảng đá lớn lên bờ cách nhanh chóng, trại chỉ cần dùng nhừng xe cẩu hay dùng chất nổ TNT đánh phá tảng đá bung ra từng mảng. Nhưng ở đây người Cộng sản muốn đày đọa chúng tôi phải làm những công việc nặng nhọc quá sức người, để thân xác chúng tôi chết dần chết mòn trong đau khổ.

Trong 4 năm trời, những tù nhân trại K.4 đã bị cưỡng bức dùng chính thân xác mình làm những tảng đá, dùng máu và nước mắt của mình hòa lần với hồ để hoàn thành một công trình thật vĩ đại: Một hồ lớn nuôi cá giữa có nhà thủy tạ hình chữ T, năm hồ nuôi cá khác được xây nhỏ hơn. Một khách sạn 3 tầng và nhiều cây ăn trái và cây kiểng.

Điều đáng nói ở đây là đã xây bức tường thành bao quanh 60 mẫu và chung quanh khu vực trại K.4. Tù nhân đã chẻ những tảng đá lớn thành những khối đá hình chữ nhật để xây một “THIÊN LÝ TRƯỜNG THÀNH” dưới chân rộng 5 mét, bề mặt trên rộng 3 mét, cao 3 mét.

Đây là một chứng tích lịch sử có một không hai trong những trại tù Cộng sản từ Nam chí Bắc. Một trại khổ sai nặng nề nhất, máu và nước mắt tù nhân đã đổ ra nhiều nhất.

Để đánh đổi cho sự thành công này, để đánh đổi nụ cười ngạo mạn, đắc ý của bà vợ ba bí thư Lê Duẩn và các cán bộ từ trung ương xuống địa phương trong ngày cắt băng khánh thành công trình, trong những nhà biệt giam, trong những xà lim chứa hàng trăm người.

Những tù nhân chết không nhắm mắt, chết còn mang theo nỗi hận thù không bao giờ chịu khuất phục dưới lưỡi đao hay họng súng của kẻ thù Cộng sản:

-Anh Nguyễn Văn Hải bị nhốt chết khô vì sức nóng của thùng sắt Mỹ sau 4 tháng trời biệt giam.

-Anh Bùi Thiện Thọ, huấn luyện Vovinam trường Chí Linh-Vũng Tàu, anh bị cùm hai chân, hai tay bị xiềng và treo trên sàn nhà đá, tay anh bị nhiễm trùng, thịt bị vữa, dòi rút đầy người và cuối cùng anh đã chết.

-Anh Lê Văn Tý, Điều Xiểng, anh Hợi, anh Quyền và 5 anh em khác (tôi không nhớ tên) bị biệt giam và tra tấn cho đến chết.

Ban giám thị trại K.4 còn dùng thủ đoạn lập ra ban tư tưởng do tù nhân Huỳnh Tấn B. làm trưởng ban, cắt được mỗi tổ 1 người để theo dõi anh em và báo cáo cho trưởng ban hàng ngày.

Vào một buổi trưa đầu năm 1978, trong lúc chúng tôi đang ăn trưa, nghe tiếng báo động họp khẩn cấp, chúng tôi vứt chén đũa chạy vội đến sân dãy nhà tập họp một hàng theo từng đội, đa số chúng tôi ở trần phơi những tấm lưng dưới ánh nắng trưa gay gắt. Tư Hằng, tên trưởng trại mới đến thay Ba Xuân. Hắn bị chột mắt trái, trông hắn cũng thuộc loại người có máu lạnh, gian ác. Đứng trong hiên nhà, hắn nói lớn:

-Tôi biết các anh 99% không ưa gì Cộng sản.

Hắn đưa mắt đảo một vòng qua chúng tôi để xem có phản ứng gì hay không và nói tiếp:

-Nhưng tôi khuyên các anh đừng có chống đối trong lúc này. Các anh được tha về rồi hãy chống, các anh chống giỏi thì sống, nếu chống dở thì chết.

Hắn gằn từng tiếng và nói đi nói lại hai lần. Sau đó hắn cho đọc lệnh bắt nhốt 5 người về tội tổ chức cướp trại do anh Đặng Chiên làm tham mưu. Sở dĩ Tư Hằng nói như thế là để đánh động tâm lý chúng tôi cho rằng hắn nói đúng và đừng có ý đồ chống đối trong thời gian hắn làm trưởng trại. Tư Hăng bắt chúng tôi đào những đường hào chạy vòng sát những hàng rào phía sau, bề đáy rộng 1 mét, bề mặt rộng 3 mét, sâu 1 mét. Dưới đáy và hai bên thành hào đều được cắm chông tre và chông sắt. Bên ngoài được rào một hàng kẽm gai, mỗi tối được găm điện vào. Dù hàng rào và hầm hố có nguy hiểm đến đâu cũng không cản được sự quyết tâm của con người khi bị áp bức, vì thế vào ngày mùng năm Tết năm 1978 (?), năm tù nhân đã vượt trại, kết quả 3 anh đã trốn thoát, 1 anh bị bắt lại và 1 anh bị chết.

Một thời gian sau Út Nhân lên làm trưởng trại thế Tư Hằng. Hắn là một tên đao phủ giết người không gớm tay, hắn còn độc ác và tàn bạo hơn những tên trước. Hắn đã ra lệnh nhốt rất nhiều tù nhân vào nhà đá và xà lim. Có nhiều tù nhân đã bị biệt giam từ 1 năm đến 2 năm.

Tôi chỉ còn nhớ những anh em quen biết như Trần Phước H, Nguyễn Văn Đ, Trương Phước X, Nguyễn Trọng T, Đỗ V. B, Đỗ Minh G, anh Năm H. Bảy anh em này bị công an trại dùng bao bố bịt miệng và mũi đổ nước vôi vào cho đến khi ngộp thở. Cột tù nhân vào ghế dùng điện găm vào người nhiều lần làm cho người co quắp lại. Cột tay và chân tù nhân và treo chân ngược lên sàn nhà, dùng cây hay roi sắt đánh và quất vào người đến nứt da nứt thịt. Bốn là rút kiếm Nhật giống như một võ sĩ đang rút kiếm đeo sau lưng. Tay trái choàng ra sau ngang thắt lưng, tay phải để trên vai phải bẻ ngược về phía sau, 10 ngón tay được cột lại với nhau bằng những sợ dây và siết chặt hai đầu bàn tay lại làm cho hai cánh tay và xương sống có thể bị gãy, đau đớn vô cùng, người nào chịu không nỗi cực hình này nên khai bậy cho người khác như trường hợp anh Đỗ Minh G. đã khai cho vợ con, khiến cả gia đình anh đều bị bắt nhốt.

Bất cứ tại những trại Cộng sản nào, trại thường dùng những thủ đoạn bắt nhốt như vậy để răn đe và trấn áp những tù nhân khác. Anh Đỗ Văn B và Đỗ Minh G. sau khi được ra khỏi nhà biệt giam, thân hình rất tiều tuỵ, chỉ còn da bọc xương, không còn khả năng đi đứng được phải nhờ anh em cõng về trại. Dù vậy, Út Nhân chưa chịu buông tha cho hai anh, chỉ được nghỉ dưỡng sức vài ngày và sau đó, hằng ngày hai anh bị xiềng một tay vào trụ sắt còn 1 tay cầm búa đập đá, nhìn hai anh như xác không hồn .Đây có phải là sản phẩm hòa bình, nhân đạo, độc lập tự do hay là chứng tích của sự độc tài, tàn bạo của tập đoàn Cộng sản Hà Nội theo chủ thuyết ngoại lai??

Ngày Chủ nhật đầu tiên được phép thăm nuôi tại K.4, hầu hết anh em nào cũng ra ngồi dưới những gốc cây me nhìn ra cổng trông ngóng hình bóng của người thân, hay ngồi đợi nhừng trật tự vào gọi tên. Những anh đã được tin của gia đình có vẻ phấn khởi, còn những anh chưa được tin, nét mặt đăm chiêu, buồn rầu. Nhưng có điều anh em nào cũng nghĩ giống nhau là không biết bây giờ cha mẹ, vợ con, anh chị em có được mạnh khoẻ không? Hay tất cả những người ấy chỉ còn những tấm thân tiều tuỵ, xanh xao bởi vì phải vật lộn với cuộc sống bên ngoài, cũng ăn bo bo, ăn khoai mì, đi chân đất, đầu trần và còn nhiều áp lực đè nặng đôi vai.

Đời sống của những người thân rất vất vả, lo toan đủ thứ để nuôi con, nuôi cha mẹ, còn phải chắt chiu dành dụm một ít thức ăn, thuốc men để thăm nuôi cha, nuôi anh….Hầu hết những người vợ của chúng ta ở bên ngoài phải đối mặt chống chọi với nhiều cơn bệnh: nghèo đói, đau yếu, xa vắng tình cảm của người thương yêu nhất, những lời yêu thương ngọt ngào, những nụ hôn nồng ấm giờ đây như bị chôn vùi vào dĩ vãng chỉ còn miếng ăn cái mặc là thực tế! Đã vậy hàng ngày những người vợ tiểu thơ đài các còn phải đấu tranh với những cám dỗ tình cảm. Nhiều người đã dùng cái chết để bảo vệ lòng chung thủy đối với chồng sau khi bị những “cán bộ địa phương” dùng quyền thế của kẻ chiến thắng để áp bức và tống tình.

Những tên lòng lang dạ sói này đã trắng trợn cướp ngày không đủ tranh thủ cướp đêm: cướp nhà cửa, cướp xe cộ, cướp đồ dùng, cướp tiền bạc châu báo, cướp tờ hộ khẩu, cướp luôn quyền làm người để tống những người đàn bà thân liễu yếu đào tơ và những đứa con thơ dại với hai bàn tay trắng lầm lũi lên tận vùng kinh tế mới. Nơi đây không có nhà cửa, không có họ hàng thân quen, không dụng cụ canh tác, không đồ ăn thức uống, không thuốc men. Trên là trời, dưới là đất, chung quanh là núi rừng.

Đêm cũng như ngày chỉ nghe tiếng vo ve của loài muỗi và tiếng kêu của muôn thú. Tất cả các thanh niên nam nữ không có quyền lựa chọn tương lai cho mình và bị ép gia nhập thanh niên xung phong, bị đưa đến những vùng rừng núi xa xôi, khai phá rừng để sản xuất lương thực, hay bị đưa đến những vùng sình lầy nước độc để đào kênh rạch.

Đối với những thanh niên này trước mắt cả bầu trời u tối là con đường không lối thoát. Chính cũng tại nơi đây nhiều mối tình oan trái, nghiệt ngã đã xẩy ra. Xã hội băng hoại, một số học sinh không được thi vào đại học vì lý do của “Ngụy quân, Ngụy quyền”, con của những gia đình “đau khổ”. Những tà áo trắng ngày nào tung bay trong các sân trường đầy phượng vĩ, cái hồn nhiên trinh trắng thủa học trò nay còn đâu! Bây giờ chỉ là những nét đăm chiêu trên những vầng trán hằn suy tư.

Hãy trả lại cho tôi tâm hồn người thiếu nữ
Mười tám tuổi đầu ngỡ kết mộng băng trinh.

Trong thời gian 3 năm ở K.4 gia đình tôi thăm nuôi được 3 lần. Có những lý do mà vợ tôi không thể thăm nuôi đều đặn và chính tôi cũng không muốn vợ tôi phải chịu nhiều cực khổ trong lúc phải nuôi dưỡng hai con dại, gia đình cha mẹ cùng 3 người em tại vùng căn cứ, đất đai không được màu mỡ, của cải không có. Bản thân tôi trước 30-4-75 là một người chỉ biết chiến đấu phục vụ lý tưởng để bảo vệ Quê hương, sau khi vứt bỏ vũ khí trở về đời thường ngoài bản thân ra không có gì để bán.

Mười Vân, giám đốc công an tỉnh Đồng Nai thời bấy giờ bị kết án tử hình, Út Nhân đàn em của Mười Vân cũng bị rớt chức và sa thải về đời thường dân. Người xưa thường nói :”gieo gió thì gặt bão” quả không sai! Trong thời gian làm trưởng trại, Út Nhân đã làm biết bao nhiêu điều tàn ác, đã bắt nhốt, giam cầm và tra tấn một số tù nhân cho đến chết, chết không nấm mồ, chết đơn độc, lẻ loi, thân xác được quấn trong những chiếc chiếu không nguyên vẹn và đã vùi lấp nơi cánh rừng hoang vắng. Đời sống của gia đình Út Nhân giờ đây đã băng hoại, hắn như người điên khùng không một ai hỏi han, ngó ngàng đến dù là bạn thân hay những đồng chí của hắn trước đây. Hai người con gái xinh đẹp của hắn cũng lần lượt bị chết thảm : đứa thứ nhất bị côn đồ hãm hiếp tại suối tre Long Khánh, đứa thứ hai bị cháy xăng.

Tháng 4-1978, chúng tôi khoảng 20 người được chuyển đến trại Z30C, thuộc huyện Hàm Tân – Thuận Hải. Trại nằm cạnh chân núi Mây Tàu, đất đai cằn cỗi, nước độc địa, nơi nào cũng thấy cây lá buông nên gọi là rừng lá. Tôi và anh Nghĩa được bổ sung vào đội mười nông nghiệp. Chúng tôi là những người đến sau được anh đội trưởng Huỳnh Tấn Công ưu ái chỉ định chỗ ngủ sát vách cầu tiêu. Nằm nơi đây suốt đêm không sao ngủ được vì những âm thanh và tiếng động bên kia vách, lúc thưa thớt, lúc vội vàng, lúc xối xả, cộng với “mùi hương thơm của thời đại, hương thơm của XHCN, hương thơm của đỉnh cao trí tuệ” xông ra. Tệ hại nhất là vào những ngày mưa gió, không thể nào ra bên ngoài để ăn “cơm mì không”, đành phải ngồi ngay tại vị trí ưu tiên này, không thể ăn mà cũng không thể nuốt nước miếng trong lúc cái bao tử đang kêu gào cứu nạn.

Suốt 3 năm qua chưa có lúc nào bi đát, thê thảm như lúc này và bắt đầu từ ngày hôm nay: hết cơn bỉ cực đến ngày thê lương!!! Vì trưa không có gì trong bụng nên buổi chiều tôi chặt củ hủ buông ăn, ban đầu mới ăn thấy ngon như củ hủ dừa, nhưng khoảng vài ngày sau thấy yếu hẳn đi, không còn sức đối kháng, hai quả thận như bị suy liệt, củ hủ buông thật độc hại vô cùng.

Điều làm cho chúng tôi khó chịu nhất ở trại Z30C là mỗi khi xuất nhập trại, tất cả tù nhân phải lấy nón, mũ xuống để chào tên công an gác cổng ngồi trên vọng gác. Lần đầu cũng là lần cuối, những ngày sau tôi không hề đội mũ nữa.

Những đội nông nghiệp hàng ngày phải đào gốc cây buông cho ngã xuống, vào mùa nắng ráo đất rất khô cứng nên chúng tôi đào rất vất vả. Những vùng đất này chỉ thích hợp tỉa bắp và trồng khoai mì, nên mỗi năm chỉ canh tác được 1 vụ. Những đội đào hồ cá và những đội chẻ đá rất nặng nhọc, đôi khi nguy hiểm đến tính mạng. Còn những đội trồng rau xanh hằng ngày phải gánh phân, được lấy từ những hầm cầu ở cuối mỗi buồng ngủ, đến khu vực trồng rau cải, dùng xẻng xúc phân rải xuống những hồ rau muống hay dùng gáo múc phân trải dọc theo những luống cải, luống mồng tơi, luống khổ qua….sau đó gánh nước tưới cho phân tan ra.

Những ngày làm công tác này phải bịt miệng và mũi lại để khỏi bị nôn mửa. Những nông sản và rau xanh sau khi thu hoạch được, trại đem bán cho hợp tác xã bên ngoài, trại chỉ cho chúng tôi hưởng những loại rau cải hạng hai, hạng ba mà thôi để hàng ngày nấu canh với cá thúi. Suốt năm này qua năm khác, họa hoằn lắm chúng tôi mới thấy những tốp mỡ trôi dạt bồng bềnh trong nồi canh cả đội.

Một năm chỉ có 2 ngày: mùng 2 tháng 9 và Tết âm lịch, mỗi người chúng tôi được 2 lát thịt mỡ bằng ngón tay út. Khi có dịp làm thịt heo, ban giám thị trại chia lấy những phần thịt, còn xương và mỡ bố thí cho chúng tôi ăn theo tiêu chuẩn quá thê thảm, nên những nơi nào có trại tù mọc lên các loài côn trùng nơi đó sẽ bị diệt chủng như rắn, ếch, nhái, ễnh ương, cóc, chuột, rắn mối, châu chấu, bọ cạp, ốc sên, ốc lá và các loại rau, lá rừng, gì có thể ăn được đều bị chúng tôi bắt sạch và hái sạch. Đó là những thức ăn phụ trội mà chúng tôi cần phải có mới mong chống chọi lại những ngày tháng trong lao tù.

Trong thời gian này chúng tôi vẫn tiếp tục ăn mì lát, mỗi bữa chỉ được 1 chén, không sao lấp lửng cái bao tử nghèo đói này, vì thế hàng ngày tại khu vực lao động, trong lúc không có “cán bộ quản giáo” ở đó, tôi thường hay tìm đào những loại khoai mài, khoai mỡ rừng, khoai chùm hay hái những loại lá dạng, lá cốc, lá lành ngạnh, lá cánh bướm, hoặc rau cải trời, rau tàu bay v.v… đôi khi bắt được những con tắc kè thường nằm trong các bẹ cây buông, đem về nấu những món “hầm bà lằng” để ngốn cho đầy bụng vào những bữa ăn trưa hay ăn tối.

Trong vùng đất Mây Tàu có rất nhiều loại rắn độc như hổ đất, hổ mèo, rắn lục, nẹp nia, hổ lửa….nhiều nhất là rắn chầm quặp, thân hình chỉ bằng ngón tay cái, màu da đen như màu đất, có thể đổi màu tùy theo vị trí nằm của nó. Nó hay nằm dưới những đống rác mục hay dưới những gốc cây buông. Nếu những ai bị nó cắn phải thì khó có thể sống sót. Rắn và tắc kè là hai loại tôi thường thu hoạch được, thịt của chúng đem nướng hoặc kho xả cho chúng ta mùi thơm hấp dẫn và ăn rất ngon lại giúp cho cơ thể thêm chất proteine.

Cuối năm 1979, đội 10 chuyển qua khu B cách khu A (Z30C) trên 2 cây số. Trại nằm sát khu rừng rậm Mây Tàu và suối nước lạnh. Suối này có độ lạnh buốt như nước đá, nếu người nào không có sức khoẻ tốt không thể nào dám xuống tắm.

Vào những ngày nghỉ lao động, chúng tôi hay nấu nướng ngoài trời ở phía cuối những dãy buồng, có đắp những bếp cá nhân. Có người nấu ăn một mình, có nhóm năm, sáu người đậu gạo nấu chung, ăn uống nói cười vui vẻ hầu quên bớt những khổ cực trong những ngày lao động. Phần ăn uống này đa số chúng tôi nhận được từ những bàn tay thăm nuôi của gia đình, mà người vợ, người mẹ, người chị, người em đã đổ ra bao mồ hôi nước mắt chan hòa với những ngày tháng vất vả, lặn lội, gom góp để có một ít lương khô mang đến cho chúng tôi.

Chúng tôi phải cám ơn những bàn tay nhỏ bé ấy, bàn tay đầy tình thương, bàn tay đầy tình người. Những bàn chân yếu đuối, những bàn tay run rẩy, đã băng rừng lội suối từ miền Nam ra miền Trung hay ra tận miền Bắc, dù dài nắng dầm mưa, còng lưng mang những túi lương thực để tiếp tế cho người thân và điều duy nhất chỉ mong được gặp mặt lại, để nghe được tiếng nói, để nghe được nhừng hơi thở nồng ấm phát ra từng những con tim yêu thương của người chồng, người con, người anh, người em đã xa cách trong thời gain qua.

Trong thời gian chưa có tin tức về gia đình, có những người vợ chân yếu tay mềm làm thân cò lặn lội nhiều nơi để nghe ngóng, dò la tin tức của chồng và không chống chọi nỗi với thời gian khắc nghiệt trong cuộc sống đầy nghiệt, nên ngã bệnh và cuối cùng lìa khỏi cõi đời mà không gặp được mặt chồng lần cuối! Có những người đi không quay trở lại, những thân xác yếu mềm này đã bị quên lãng ở tận rừng sâu hay dưới vực thẳm hoặc tận đáy sông. Những người rủi ro gặp phải những cơn bệnh đọa đày hay những dòng nước cuốn trôi hoặc bị thú dữ phanh thây? Dù những người này chết thế nào chúng ta vẫn khẳng định rằng: CHÍNH TÌNH YÊU THƯƠNG ĐÃ GIẾT CHẾT HỌ TRONG MỘT XÃ HỘI ĐẦY MAN RỢ!!!

Vào những ngày Chủ nhật, chúng tôi thường ngồi nghe anh Lộc kể những chuyện tiếu lâm thời đại với những đề tài “con người từ loài vượn biến thể”. Anh kể những chuyện làm cho chúng tôi không thể nhịn cười được, cười nghiêng ngữa, cười đến nỗi đau bụng. Anh Xuân, còn rất trẻ, chuyên kể chuyện kiếm hiệp Kim Dung, anh có biệt tài kể vanh vách không sai hay thiếu một chi tiết nào. Từ giọng nói, điệu bộ, anh thay đổi tùy theo nhân vật và thời gian. Mỗi lần được nghe anh kể chuyện, anh em thường pha trà, góp bánh ngọt để thết đãi anh. Nhờ anh Lộc, anh Xuân đã đem lại cho chúng tôi những nụ cười say mê làm vơi bớt những nỗi buồn chán trong tù.

Vào giữa năm 1980, tôi có dịp quen biết Nguyễn Văn H, tuổi đời trên 60, da thịt hồng hào, trông người anh có vẻ bất cần đời. Tôi hỏi anh tại sao da thịt anh tốt như vậy?

Anh cho tôi biết ngày nào anh cũng bẫy được vài con chuột, thỉnh thoảng còn bắt được cóc, nhái và tắc kè nữa. Hôm tôi gặp anh lần đầu, thấy anh đang nấu nồi cháo cóc, không biết anh đã làm ruột chưa, nhưng tôi thấy con cóc vẫn còn nguyên đầu và da, bốn chân cóc dang ra chồi lên lặn xuống trong nồi cháo đang sôi, giống như người sắp chết chìm vì không biết bơi lội. Chúng tôi cười ngặt nghẽo, cười nức bụng, cười vỡ tung cả không gian đang buồn thảm, thế nhưng anh H vẫn ngồi tỉnh bơ như không có việc gì xảy ra, đôi mắt anh vẫn đăm đăm nhìn con cóc đang trôi nổi trong nồi cháo. Có lẽ anh nhìn con cóc trong cháo cũng giống như số phận con người đang trôi nổi theo dòng đời.

Vào một ngày đầu tuần của tháng tư nắng ráo, năm 1980, trong lúc đội đang giẫy cỏ, một “cán bộ bảo vệ” gọi tôi lại và hỏi rằng:

-Anh đã “an tâm cải tạo” chưa?

Tôi trả lời:

-Đã an tâm rồi.

Nhưng người “cán bộ” này cho rằng tôi nói “náo”. “Cán bộ” cầm điếu thuốc trên tay đưa cho tôi xem và nói:

-Đây là điếu thuốc “cáp ten”, thuốc miền Nam của các anh đấy, trong lúc tôi hút nó tôi cảm thấy chưa an tâm, có nhiều sự suy nghĩ, huống chi là các anh….Tôi biết các anh phải trả lời như vậy, thôi ráng lao động để chờ ngày về.

Trong lúc tôi quay lưng đi thì “cán bộ” nói với theo:

-Các anh nhớ đừng trốn trại là tôi bị cúp phép một năm đấy.

Trong những ngày “cán bộ bảo vệ” này theo đội, tôi thường thấy “cậu ta” ngồi lủi thủi một mình, súng ít khi cầm trên tay, mặc kệ chúng tôi làm hay chơi cũng không nói lời nào. Có lẽ những lời nói trên đã biểu hiện sự suy nghĩ chân thật của một công an miền Bắc tuổi đời còn rất trẻ, sau khi được đưa vào Nam để giữ tù. Họ cũng có những suy tư, những trăn trở khi đã nhìn thấy tận mắt, nghe tận tai về đời sống của nhân dân miền Nam trước đây và so sánh với đời sống của nhân dân miền Bắc thời bấy giờ. Những cán binh và công an còn trẻ tuổi này bị ràng buộc bởi những liên hệ gia đình nên họ không dám đột phá, bởi vậy họ đành chấp nhận làm công cụ cho tập đoàn Hà Nội để đổi lấy những miếng ăn thức uống cho chính bản thân và cho cả gia đình.

Theo lời anh Du phụ trách nấu nước đội 10 kể lại, vào đầu năm 1978, chuẩn uý Tám-cán bộ quản giáo đội 10- đã móc nối với 2 tù nhân: một người trước đấy là giáo sư Anh văn, một người là thiếu uý phi công, cả 3 đều trốn trại và đã vượt biên. Cán bộ Bạch Ngọc Phượng về thay thế CB Tám. Cán bộ Phượng lúc nào cũng thấy đói khát, hắn thường hay sai đội trưởng Công và đội phó Tú nhổ trộm mì, đào khoai, bẻ trộm bắp để nấu cho hắn ăn tại nhà lô, nếu ngày nào không có gì cho hắn ăn, trông mặt hắn cau có khó chịu, tính tình trở nên hung hăng và kiếm chuyện chửi mắng chúng tôi.

Vì không chịu nổi sự sai khiến để làm những chuyện phi pháp, nên vào tháng 6 năm 1980, đội trưởng Công đã họp đội tố cáo và lên án những hành vi xấu xa của cán bộ Phượng. Cuộc họp đã kéo dài từ 7 giờ tối đến 2 giờ rưỡi sáng, biên bản được viết trên 12 tờ giấy học trò.

Trong đội có 9 anh em lên tiếng chỉ trích cán bộ Phượng gắt gao, mà chúng tôi gọi là ” nhóm 9 tên”, gồm đội trưởng Huỳnh Tấn Công, Bùi Văn Phi, Châu Tá Hải, Nguyễn Ngọc Anh, Nguyễn Văn Mùi, Nguyễn Văn Danh, Nguyễn Văn Ngân, anh Long (?) và tôi.

Trong biên bản, anh Phi là người có ý kiến táo bạo nhất: Yêu cầu ban giám thị trại đưa cán bộ Phượng đi cải tạo. Vì thế trong giờ lao động ngày hôm sau, cán bộ Phượng gọi anh Phi vào nhà lô một mình, dùng súng dí vào đầu anh và đánh anh tới ngất xỉu, đến trưa chúng tôi phải cõng anh về trại. Bắt đầu từ trưa hôm ấy cả đội 10 chúng tôi tuyệt thực và không đi lao động để phản đối việc anh Phi bị đánh và yêu cầu đổi “cán bộ quản giáo” mới.

Đến hai ngày sau chúng tôi mới chịu đi lao động trở lại khi cán bộ Phượng đã đổi đi nơi khác. Khoảng 3 tuần lễ sau, cán bộ Quỳ, an ninh khu trại B, gọi chúng tôi làm việc.

Mỗi anh được gọi một ngày khác nhau, tôi là người được gọi cuối cùng, hôm ấy tôi đã làm cán bộ Quỳ tức tối, vì tôi đã phân tích cho hắn thấy về nền kinh tế của miền Nam Việt Nam trước và sau ngày 30-4-75. Sau khi cán bộ Quỳ đã làm việc với 9 người chúng tôi, hắn thấy những sự việc chúng tôi chỉ trích cán bộ Phượng là đúng sự thật, nên trại không có lý do gì để nhốt chúng tôi, mà chỉ âm thầm cúp thăm nuôi mỗi người 2 lần. Đến tháng 7-1980, tôi bị liệt vào danh sách A1 cùng với 127 anh em khác chuyển về lại khu A (Z30C).

Cuối năm 1979, năm anh thuộc đội lâm sản khu B đã bị biệt giam về tội liên hệ với tổ chức Phục Quốc bên ngoài, nhưng đó chẳng qua là cái bẫy mà Cộng sản đã đặt ra để gài những người tù chúng tôi. Tháng 10-1980, các anh này bị đưa ra toà xử tại huyện Hàm Tân, mỗi anh lãnh thêm từ 18 đến 20 năm khổ sai và bị đày đến trại trừng giới A30 tại Phú Yên. Tháng 8-1980 anh H. đội rau xanh đã cướp súng của “cán bộ bảo vệ” chạy vào khu rừng lá, một tuần lễ sau anh quay trở lại khu vực mà đội anh đang làm và bắn xối xả vào hai công an bảo vệ và chạy trở vào rừng.

Tháng 10-1980, có 3 tù nhân trẻ lợi dụng trong lúc hết giờ lao động buổi chiều, đã đánh công an bảo vệ, cướp súng chạy vào rừng, sau khi bắn hết đạn chạy không thoát nên bị bắt lại và bị cả trung đội Công an đánh gãy xương sống, bể xương đầu, gãy xương bả vai, gãy cả tay. Công an dùng dây cột tay ba anh và lôi xồng xộc về trại, một anh đã chết còn hai anh kia có lẽ cũng khó sống sót.

Trong thời gian từ năm 1979 đến cuối năm 1980 tại trại Z30C có rất nhiều tù nhân đã trốn trại, phần đông đi được trót lọt, một số ít có lẽ không biết tìm phương hướng hay mưu sinh thoát hiểm, khi đói quá bò ra các làng dân nên bị bắt lại. Như trường hợp anh Phạm Viết Vinh, Phó đốc sự hành chánh, người ốm yếu, thân cao lều khều, sau khi anh ra khỏi khu vực trại không biết hướng đi, lẩn quẩn mãi trong rừng và bị công an bắn chết.

Trường hợp hai anh Đại uý biệt kích Mai Bá Trác và Trung Uý Trần Văn Thiện. Hai anh ở hai khu khác nhau nhưng hai anh đã liên lạc và cùng trốn trại một ngày, sau đó cả hai đã vượt biên.

Toàn dân miền Nam sống trải qua dưới chế độ Cộng sản, dần dà nếm được mùi vị sự lừa dối, láo khoét, tráo trở, tham lam, lưu manh, gạt gẫm, cướp bóc, chiếm đoạt, độc ác, tàn bạo, chuyên chính.

Bên trong độc ác bạo tàn,
Bên ngoài lừa dối nhân dân cực hình!

Suốt 30 năm qua chúng ta thấy chế độ Cộng sản đã làm được những gì? Chắc hẳn tất cả chúng ta đều đồng ý rằng: chúng ta chỉ có thấy: “Không có gì!…KHÔNG CÓ GÌ QUÝ HƠN ĐỘC LẬP TỰ DO!!!, con đường BÁC ĐI LÀ CON ĐƯỜNG BI ĐÁT!!!”

30 năm là một thời gian tạm đủ dài, nhưng chúng tôi không thể nào quên được những chứng tích trong những trại lao động khổ sai của Cộng sản. Chúng tôi xin đốt những nén hương mong được cắm trên những nấm mộ của các chiến sĩ đã bỏ mình trong các trại lao tù cộng sản trên khắp miền đất nước từ Cà Mau đến tận Nam Quan. Các anh đã chết ngoài đồng ruộng, chết trên rừng xanh, chết bên bờ vực thẳm, chết dưới dòng sông, chết tận cùng ngõ hẻm, chết không miếng ăn, chết không thuốc uống, chết vì họng súng, chết vì tra tấn, chết không thấy người thân, chết không người vuốt mặt, chết không kẻ cầu kinh, chết không nấm mồ, chết giữa những tiếng cười man rợ của loài quỷ đỏ hút máu người!

Các anh đã nằm xuống ngàn thu trong những nấm mồ hoang lạnh trên khắp miền của dãy đất hình cong chữ S. Các Anh đã chết nhưng hận thù vẫn còn đó, vẫn còn hằn trên những vầng khăn tang của các người vợ hiền và những đứa con thơ:

Xin trả cho tôi linh hồn người thiếu phụ
Tấm áo hàng tang chế nhuộm đơn côi


J.Nguyễn
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=500710010437866&set=gm.2068493036522130&type=3&theater&ifg=1

BachMa
08-12-2019, 02:16 AM
Kinh Đô Thất Thủ và Nguồn Gốc
Ngày Cúng Cô Hồn Lớn Nhất Ở Thừa Thiên, Huế

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1561916736-HQPD_KinhDoThatThu.jpg
Hình ảnh Trấn Bình Đài (Đồn Mang Cá) nơi quân Pháp đồn trú và diễn ra trận đánh
Có lẽ chẳng nơi nào trên thế giới cúng âm hồn mà quy mô tổ chức lại có tính cách toàn dân trong một thành phố như ở Huế trong ngày lễ cúng âm hồn 23 tháng 5 âm lịch. Đây là một hình thức cúng tế mà đơn vị tổ chức nghi lễ vừa có tính chất đơn lẻ trong từng gia đình, lại vừa có tính chất cộng đồng trong từng đoàn thể, tổ chức, tập thể những người cùng chung một ngành nghề, cùng ở trong một thôn, xóm, phường.

Tai sao toàn dân Huế lại tổ chức cúng âm hồn trọng thể như vậy, và lý do nào tập tục cúng lễ này lại còn giữ được qua bao nhiêu biến động của cuộc sống. Chúng ta hãy giở lại trang sử cũ của đất nước.

* Ngày 1-8-1883, Pháp nã đại bác vào Thuận An. Tối 20 tháng 8, Thuận An thất thủ; đột phá khẩu vào kinh thành đã mở. Triều đình hoang mang lo sợ, chỉ có Tôn Thất Thuyết cương quyết lập trường đánh Pháp. Cuộc chiến đấu tự vệ mà ông và các đồng sự ráo riết chuẩn bị từ lâu đã đến lúc phải bùng nổ.

* Tối 22 qua rạng ngày 23 tháng 5 năm Ất Dậu tức là đêm mồng 4 rạng ngày mồng 5 tháng 7 năm 1885, Thượng Thư Bộ Binh Tôn Thất Thuyết và Đề Đốc Trần Xuân Soạn đã chỉ huy 20.000 binh lính mở cuộc tổng tấn công vào thành lũy của quân Pháp ở Toà Khâm và Mang Cá, sào huyệt giặc bên sông Hương. Quân ta chiến đấu rất gan dạ. Tôn Thất Thuyết bố trí cuộc tấn công rất chu đáo nhưng vũ khí giới thua kém, hoả lực thua thiệt nên đã bị thất bại.

Rạng sáng, quân Pháp bắt đầu phản công dưới sự chỉ huy của Pernot. Pháp chia quân làm 3 cánh để tiến vào kinh thành. Họ xung phong từng đợt một, chiếm lĩnh các vị trí cửa chắn then chốt, để tràn vào các cửa Đông Ba, Thượng Tứ, Chánh Đông, Chánh Tây, An Hòa… Một toán từ Cửa Trài phá cầu Thanh Long, vượt sông Ngự Hà tiến vào Lục Bộ, cố tấn công cửa Hiển Nhơn để mở đường vào Đại Nội. Toán quân thứ hai vượt Cầu Kho, tấn công quân Nam đang tử thủ ở vườn Thượng Uyển, đồng thời cũng để tiếp ứng cho toán quân đang tìm cách phá vỡ cửa Hiển Nhơn (cửa phía Đông vào Đại Nội).

Bị bất ngờ phản công, ban đầu quân Nam chống cự rất anh dũng, bắn thủng ruột thiếu úy Pellicot. Các vọng lâu được sử dụng làm pháo đài, trên thành, quân Nam bắn xuống xối xả. Quân Pháp đánh vào một pháo đài có chứa thuốc súng, nhưng pháo đài bốc cháy, một toán quân Phi và một chỉ huy bị nổ tung, chết cháy ngay tại trận.

Về bên phía Tòa Sứ, đoàn quân của Cheroutre cũng tiến sang... Họ cố tràn lên, nhưng bị quân Nam nổ súng chặn lại. Trung úy Lacroix bị thương; thiếu úy Heitschell khi sắp qua cầu thì một thùng thuốc súng phát nổ, bị chết cháy tại chỗ. Cuối cùng, quân Pháp cũng tiến được vào thành, cùng lúc đó, quân của Bornes và Sajot cũng vừa tiến vào.

Trước sự phản công của quân Pháp, quân triều đình không giữ được thành, cả hai đạo quân của triều đình ở bên trong và bên ngoài chống không nổi, tan vỡ, tháo chạy về phía Lục Bộ và tràn ra cửa Đông Ba. Lính Pháp tràn vào thành và cuộc giết chóc, hãm hiếp tàn bạo, man rợ chưa từng có đã xảy ra: hơn 1.500 người dân và binh lính triều đình đã ngã xuống trong đêm hôm đó vì bị trúng đạn của Pháp, hay một số do chen lấn, giẫm đạp lên nhau khi cố vượt ra khỏi Kinh thành. Hầu như không có gia đình nào không có người bị tử nạn trong đêm binh biến này.

Từ đó về sau ngày 23 tháng 5 âm lịch (05.7.1885) đã trở thành ngày giỗ lớn, ngày "quẩy cơm chung" hàng năm của cả thành phố Huế. Họ cúng cho tất cả những người tử nạn: quân sĩ, dân chúng, quan lại, thợ thầy, do nhiều nguyên do: hoặc dày đạp, chen lấn nhau mà chết, hoặc bị đạn Pháp hoặc bị ngã xuống thành khi tìm cách leo ra khỏi thành, hoặc sẩy chân rơi xuống hồ ao dày đặc trong thành, nhất là hồ Tịnh Tâm… trong khoảng từ 02g đến 04g sáng 23.5 năm Ất Dậu.

Ngày chính cử hành nghi lễ là ngày 23 tháng 5 Âm lịch. Người ta thường dựng rạp hoặc bày bàn cúng ngoài trời. Lễ cúng ít nhiều tùy gia đình nhưng tối thiểu phải có chè, cháo, gạo, muối, hoa quả, nhang, trầm, trà, giấy tiền vàng bạc, hột nổ, áo binh, giấy ngũ sắc, cau trầu, rượu. Ðặc biệt, trong lễ cúng 23 tháng 5 này, từ gia đình cho đến tập thể phải nhớ có một bình nước lớn và một đống lửa đốt bên cạnh bàn thờ cúng. Người ta tin rằng các âm hồn sẽ đến uống nước và sưởi ấm bên đống lửa, vì nhiều người trong biến cố đã chết khát, chết lạnh lẽo dưới ao, hồ, sông, suối trong rạng ngày 23 tháng 5.

https://www.facebook.com/toiyeudathue/photos/a.530353973685434/2211639155556899/?type=3&theater

BachMa
08-21-2019, 03:22 AM
30/4 – Tro Tàn Bay Trắng Đầu
Ngô Văn Thu
Tác giả sinh năm 1939. Trước 1975, là sĩ quan QLVNCH. Bị bắt tù binh ngày 16/04/1975 tại mặt trận Phan-Rang. Ra tù 1984. Vượt biên 1986. Bị bắt giam ở nông trường dừa 30/04, tỉnh Trà-Vinh. Năm 1987 trốn trại về Saigon. 1989 tái vượt biên đến Malaysia tháng 07/1989. Tháng 05/1993 định cư tại Houston, Texas.

***
Thời gian đủ để đứa bé trưởng thành, đủ cho quê hương khập khiễng đổi thay, không còn nhìn ra làng xưa xóm cũ nữa. Ký ức oan khuất 39 năm, như vết hằn đậm nét, như thỏi sắt nung chẩy, tro tàn bay trắng đầu.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1560485329-HQPD_TroTan_BayTrangDau_01.jpg
Hình minh họa

Ngày ấy, 16 tháng 4 năm 1975, lúc 10 giờ sáng. Các loại súng lớn nhỏ nổ vang xa gần quanh phi trường Phan Rang. Đạn pháo kích của cộng quân đã rót vào cứ điểm nầy nhiều hơn, gây áp lực lên các đơn vị phòng thủ căn cứ, cũng như các Bộ tư lệnh tiền phương đang trấn đóng nơi đây. Trên bầu trời của phi trường, máy bay các loại cất cánh bay lên như đàm chim vỡ tổ. Dấu hiệu của sự bay xa, không ngày trở lại…

Đơn vị tôi, vừa đánh cầm chân địch, vừa có lệnh rút dần về phía Nam ở Mũi Cà Ná (Bình Thuận), vì nơi đó đang có tàu hải quân đón để theo đường biển xuôi Nam.

Thế nhưng khi chúng tôi đến nơi, mũi Cà Ná đã bị cộng quân chiếm. Một trận đánh lại diễn ra tại đây, sau đó buộc phải tản hàng vì cạn nguồn tiếp tế đạn dược. Lợi dụng bóng đêm, tôi tìm một hốc đá sát bờ biển ẩn mình, chờ đến mờ sáng bơi ra tàu hải quân đang có mặt quanh đó. Nhưng tiếc thay, chỉ bơi được một quãng thì tàu càng lùi dần ra xa… vì chính họ cũng bị pháo binh cộng quân bắn đuổi theo, buộc phải di chuyển.

Mất nguồn hy vọng, lại bị kiệt sức, do mấy ngày qua phần di chuyển, phần chạm địch nên không có gì ăn uống khiến thân xác rã rời, đành quay vào bờ. Suýt buông tay chìm xuống biển thì một cơn sóng mạnh đánh tạt vào ghềnh đá. Bị va chạm mạnh, bất tỉnh, nằm mê cho đến trời sáng hẳn. Bỗng có cảm giác một vật gì lành lạnh đè lên bụng.

Hoá ra mũi súng AK.47 của cán binh cộng sản gí vào. Phản xạ tự nhiên tôi vùng chạy, nhưng quá yếu, không chuyển mình được, đành bị bắt!

Tối đó, tôi bị gom lại một trường tiểu học ở mõm Cà Ná, trong khi hải quân cuả ta ngoài biển vẫn còn bắn pháo vào quấy rối địch.Tất cả chúng tôi được lệnh ngồi im tại chỗ, có du kích canh gác cẩn mật vì Việt cộng sợ chúng tôi tìm đường trốn thoát khi có biến.

Dưới ánh đèn manchon, tôi thấy có mấy sĩ quan quen trong đơn vị đã có mặt, như vậy họ cũng bị bắt như tôi. Mừng cho họ và tôi còn sống, còn thấy nhau trong giờ phút ngậm ngùi nhất của đất nước.

Thế là hết! Thế là giã từ vũ khí, giã từ chiến trường từ đây, cuộc chiến xem như đã tàn. Tàn theo nghĩa của tình thế lúc đó.

Tôi khai là lính (hạ sĩ) thay vì sĩ quan để giấu tung tích cá nhân khi lọt vào tay địch. Đêm đó Việt cộng dọa sẽ đem “bắn bỏ 100 tên” vì tội man khai lý lịch. Tôi cười thầm: họ chỉ nói khoác. Họ từ miền Bắc xâm nhập vào, tôi từ Chu Lai đến, tất cả đều xa lạ chỉ gặp nhau tại chốn “không hẹn ngoài kế hoạch”nầy, làm sao biết được ai là sĩ quan mà bắn. Mấy hôm sau tôi được đưa lên xe 18 bánh chở muối (Cà Ná có ruộng muối biển bao la) đưa vào lao xá Phan Rang giam giữ cùng với bao người khác.

Đêm đầu được ngả lưng trên thềm xi măng trong tù, cảm giác thấy “sảng khoái” phần nào, dù trước mắt chưa biết chuyện gì sẽ xảy ra. Một ước mơ nhỏ nhoi của người lính là được nằm thẳng lưng trên mặt bằng. Vì trong cuộc chiến, đêm về, người lính thường cong lưng đong đưa trên võng như vượn bám cành, có đêm vừa di chuyển vừa ngủ (ngủ trong tiềm thức, vì thiếu ngủ triền miên).Thế mà ước mơ đó chỉ đạt được khi tàn cuộc. Nơi ngả thẳng lưng bây giờ là nhà tù. “Hạnh phúc” sao oan nghiệt quá!.

Nằm đó, nhớ lại hai năm trước. Đơn vị chúng tôi cũng đã từng bắt giữ hằng trăm tù binh cộng quân tại hải cảng Sa Huỳnh, khi họ vi phạm hiệp dịnh Paris 1/1973 tràn xuống lấn chiềm cảng nầy, nhưng đã bị đơn vị chúng tôi phối hợp với các đơn vị bạn đánh bại, bẻ gãy âm mưu trên.

Hai năm sau,tháng 1/1975 mức viện trợ tiếp liệu ngày càng teo tóp thiếu hụt nặng nề, trong khi phía địch quân với sự viện trợ dồi dào của toàn khối Cộng sản quyết đánh chiếm Miền Nam bất cứ giá nào.

Vì theo lời tổng bí thư Lê Duẩn nói lúc đó: ”Chúng ta đánh Miền Nam là đánh cho Trung quốc và Liên Xô” (lời nầy khắc trên lăng của Lê Duẩn ở Hà Tĩnh). Qua sự kiện đó cho thấy: tại sao toàn khối Cộng sản ra sức viện trợ cho CSVN.

Những đêm kế tiếp nhớ về gia đình vợ con. Tôi đã bị cách ly với thế giới bên ngoài bằng bốn bức tường của nhà tù, không biết diễn biến gì xảy ra cho gia đình tại Sài Gòn khi tình hình ngày đang phức tạp thêm. Vợ và đứa con đầu lòng bốn tháng tuổi của tôi, từ khi sinh ra cho đến nay chưa một lần gặp mặt, mẹ con họ sẽ nương tựa vào đâu khi không có họ hàng thân thích. Thế rồi thời gian đi tới. Cuộc chiến đã chấm dứt ngày 30/04/1975 trong nghẹn ngào buồn thảm của người dân Miền Nam. Chúng tôi không hay biết gì lệnh bi thảm sau cùng của Sài Gòn ban ra, vì đã yên phận của người tù ngoài mặt trận trước khi Sài Gòn ”thất thủ”.

Sau ngày 01/05/1975. Để giải quyết nạn kẹt chỗ ở của nhà tù, ban quản trại cho anh em binh sĩ theo học chính sách gọi là “5 điều bảy điểm” của “mặt trận” rồi phóng thích.

Hai ngày một đợt năm mươi người. Với tiến độ ấy, tôi dự trù sau ngày 10/05 sẽ đến đợt mình.

Cùng thời gian đó trong trại tù đã có người rỉ tai mua bán đồng hồ và các vật quý khác như vàng, tiền Miền Nam, v.v.. vì họ biết người về cần tiền chi phí xe cộ và, ngược lại cán bộ cũng cần đồng hồ, vàng, tiền Miền Nam v.v….

Thế nhưng… chữ nhưng đầy oan nghiệt như một định mệnh với tôi! Một buổi sáng, tôi đang ngồi ngoài sân điểm danh sinh hoạt thường lệ, sau đó ban quản trại đọc danh sách người được thả. Một người lính cùng đơn vị có tên được ra tù, mừng quá, cậu ta thấy tôi đang ngồi hàng đầu chạy qua buộc miệng nói: “thẩm quyền, thẩm quyền” (tiếng gọi được mã hoá chức vụ của người sĩ quan). Thẩm quyền ở lại, mai em về.

Tôi ngây người chết trân tại chỗ, vì bao cặp mắt đều hướng về tôi, họ tỏ dấu ngạc nhiên khi được một người lính (vì mất cảnh giác) xưng hô như vậy. Có khác nào cậu ta tố cáo tôi trước mọi người.

Chuyện xảy ra rất nhanh, khiến đời tôi rẽ vào khúc quanh nghiêm trọng khác sau nầy.

“An-ten” trại làm việc. Sáng hôm sau, khi sắp hàng điểm danh, nhận phần xôi sáng, có người trên ban quản trại xuống gọi tôi lên văn phòng “làm việc” (thẩm vấn). Tôi biết chuyện chẳng lành sẽ xảy ra trong lần đi trình diện nầy. Để chuẩn bị đối phó với tình huống xấu nhất, tôi quyết định mang theo chiếc đồng hồ quý giá mà tôi còn cất giấu được trong đáy quần lót khi bơi ra tàu. Hy vọng nó sẽ là món “vũ khí lợi hại”, có thể sử dụng nó tánh mạng lâm nguy.

Tại phòng của quản giáo trại giam, một người đàn ông trạc tuổi 50 đang ngồi đợi sẵn, hai bên có hai vệ binh súng AK47 kẹp hông đứng trong tư thế tác chiến. Tôi được lệnh ngồi xuống bằng giọng Bắc của người đối diện. Một phút trôi qua đủ để đôi bên trao nhau ánh nhìn dò xét, không khí nặng nề. Bỗng người quản trại hất hàm bảo:

– “Cách mạng” kêu anh lên đây (nà) là có vấn đề, có tin báo anh (nà) là “sĩ quan ngụy” man khai cấp bậc để trốn tránh cải tạo. Anh phải thành thật khai báo, “ngoan cố” nà sẽ bị trừng trị. Bây giờ anh khai tên tuổi, đơn vị và, nhiệm vụ trong đơn vị của anh.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1560485350-HQPD_TroTan_BayTrangDau_02.jpg
Hình minh họa

Tôi chưa làm theo lời yêu cầu đó, mà từ từ đưa tay mở chiếc đồng hồ Seiko tôi đang đeo ra để bên góc phải của bàn, xong trả lời:

– Xin cho tôi biết cách xưng hô, vì tôi chưa biết cách xưng hô phía bên “cách mạng”như thế nào.

– Hãy gọi chúng tôi là “cán bộ”, người đàn ông trả lời.

Xong người cán bộ nhìn vào chiếc đồng hồ của tôi và không cần ý tứ nữa, anh ta với tay nắm đồng hồ lên xem một cách chăm chú.

Qua cơn biến động của tâm tư trước một vật thể hấp lực, người cán bộ lấy lại bình tĩnh nói:

– Nào, anh khai báo đi, tên gì, đơn vị gì, cấp bậc và nhiệm vụ gì?

Tôi bình tĩnh trả lời:

– Thưa cán bộ. Tôi tên… đơn vị… cấp bậc: hạ sĩ, nhiệm vụ khinh binh (lính chiến).

– Không đúng, có người bảo anh là sĩ quan, anh che giấu. Người cán bộ quát.

– Thưa cán bộ: có lẽ người giống người, ai đó nhìn lộn tôi với người khác.

Trong khi hỏi chuyện như vậy, người cán bộ vẫn cầm chiếc đồng hồ của tôi trên tay và, bỗng dưng dừng câu chuyện, quay qua hỏi về đặc tính của đồng hồ:

– Đồng hồ nầy tiền miền Nam giá bao nhiêu?

– Thưa cán bộ: Tôi mới mua cách đây 4 tháng giá 45 ngàn đồng.

– Chà, giá trị nhỉ? Có điện đài gì trong nầy không? Tốt, xấu thế nào mà đắt thế?

– Dạ. Đồng hồ của Nhật, hiệu Seiko đời mới, màu mắt nai, không có điện đài gì cả, chỉ thuần là đồng hồ mà thôi. Có hai cửa sổ (ô xem ngày, ô xem giờ) có hai người lái (kim chỉ giờ, kim chỉ ngày).

– Hiện đại nhỉ? Rõ ràng anh là sĩ quan mới có tiêu chuẩn, mới có giấy giới thiệu của cơ quan, mới mua được đồng hồ đắt giá nầy.

– Thưa cán bộ: Không phải vậy, trong Nam ai có tiền đều mua được cả, hàng hoá bày bán tự do ngoài tiệm không cần giấy giới thiệu gì cả.

Người cán bộ nhìn vào mắt tôi để dò xét lời nói của tôi. Bỗng ông hỏi tiếp:

– Trong Nam ai đủ tiêu chuẩn đeo đồng hồ?

Tôi đáp:

– Thưa cán bộ, bất cứ ai cũng có thể đeo đồng hồ được cả nếu họ có tiền để mua.

– Náo (láo) thật nhỉ! “Mỹ Ngụy” bóc nột (lột) nhân dân thế mà vẫn có tiền mua đồng hồ. Rồi ông trả lại chiếc đồng hồ về vị trí cũ và nói:

– Buổi làm việc đến đây chấm dứt. Anh về dưới trại, ngày mai “nàm (làm) việc” tiếp.

Tôi cầm đồng hồ và theo người vệ binh về lại trại giam. Đêm đó tôi trằn trọc mãi để phân tích sự việc xảy ra, xem mình còn “hở” chỗ nào khi trả lời các câu hỏi không, và đồng ý rằng: nhờ có chiếc đồng hồ mà có thể giảm nhiệt được câu chuyện tưởng rằng sẽ căng thẳng hơn.

Tôi chỉ thắc mắc tại sao ông ta chấm dứt cuộc thẩm vấn khá đột ngột, (một chiến thuật điều tra, hay nghiệp vụ chưa sành sỏi?) mà đúng ra còn diễn tiến thêm nữa.

Trong những ngày Miền Nam vừa bị mất, câu chuyện được loan truyền là mấy mặt hàng được toàn thể cán binh miền Bắc yêu thích nhất là:

– Cái hồ (đồng hồ), cái đài(Radio) cái đạp (xe đạp). Cho nên không lấy làm lạ người cán bộ khi thấy đồng hồ của tôi, ông ta không khỏi choáng ngợp trước sức quyến rủ đầy mê hoặc đó.

Chiều hôm sau, khi cơm nước xong, người lính tìm đến tôi báo tin: Em bị ban quản giáo gọi lên bắt xác nhận cho kỹ một lần nữa xem “thẩm quyền” có đúng là sĩ quan không. Sau khi đã trót lỡ khai: “thẩm quyền” là sĩ quan rồi, nên em báo tin lại để “thẩm quyền” biết hầu tìm cách đối phó. Theo cậu ta, nếu không khai đúng sẽ bị giữ lại không cho về. Tùy “thẩm quyền quyết định”. Câu nói tùy “thẩm quyền quyết định” của người lính tuy đơn giản nhưng đã làm cho tinh thần của tôi rối bời, vì phải tìm cách đối phó trước lời khai của mình trong tay địch.

Hai hôm sau vệ binh lại xuất hiện trước phòng giam và dẫn tôi đi thẩm vấn lại. Vẫn khuôn mặt cũ của người thẩm vấn tôi ngày trước.

Khi ngồi vào bàn ông liền hỏi bâng quơ:

– Này mấy giờ rồi nhỉ?

Một sự nhắc khéo về chiếc đồng hồ của tôi chăng?

Tôi lại tự động cởi đồng hồ từ tay ra để bên phải của bàn như lần trước và, câu chuyện thẩm vấn bắt đầu:

– Sao? Anh vẫn là sĩ quan đấy chứ? Có hầm ngầm, điện đài gì khai báo ra hết đi.

Anh ta đặt câu hỏi ở thể xác định khiến người bị thẩm vấn dễ bị bối rối. May thay tôi vẫn bình tĩnh trả lời:

Thưa cán bộ: tôi vẫn là lính, là hạ sĩ khinh binh.Tôi từ xa đến đây như cán bộ vậy, làm sao biết được nơi đâu có điện đài (đài truyền tin), và hầm ngầm (hầm bí mật) để khai báo.

– Anh nà nính à? nương (lương) của anh bao nhiêu một tháng?

– Thưa cán bộ: lương căn bản của tôi là…

Tôi trả lời “rất ngọt”. Vì trước đây, sau khi bị thương, từ bệnh viện về nghỉ dưỡng thương, tôi được làm việc nhẹ một thời gian trong công tác sĩ quan tuyển mộ lính, nên tôi thuộc nằm lòng các mục quyền lợi của người lính để giải thích cho thanh niên biết khi họ muốn nhập ngũ.

(Khen quân sư nào đó đã vẻ đường cho hưu chạy, nhưng đã chạy vào đúng đường tôi đón).

– Phụ cấp vợ con của anh nữa? cán bộ hỏi tiếp.

– Thưa cán bộ: phụ cấp vợ là … và con là …

Cặp lông mày của viên cán bộ có vẻ nhíu lại chút đăm chiêu, vì lời khai của tôi như đúng sự thật mà ông ta đã kiểm chứng được với ai đó trong hàng binh sĩ (hoặc “an ten” đang có mặt trong tù). Ông dã-lã, cầm lại chiếc đồng hồ ngắm nghía khen đẹp và hỏi:

– Lương nính (lính) ngoài việc phải nuôi vợ, con. Anh để dành bao nâu (lâu) mới mua được đồng hồ nầy?

Câu hỏi rất hóc búa, nhưng tôi trả lời không do dự:

– Thưa cán bộ: Tiền mua đồng hồ nầy tôi đã thắng qua canh bạc đỏ, đen với bạn bè. Bị hành quân liên miên, lâu ngày chưa có dịp gởi tiền về cho vợ, đành mua tạm đồng hồ mang cho gọn.

– Anh vẫn thắng canh bạc hằng tháng đấy chứ?

Cán bộ hỏi tiếp, (câu hỏi ngụ ý bảo: – lương sĩ quan các anh là đấy chứ thắng bạc thế nào được).

Tôi trình bày và lái câu chuyện qua hướng khác:

– Thưa cán bộ, canh bạc có lúc thắng lúc thua, cũng như tình hình hiện nay. Đất nước đã hoàn toàn “giải phóng” rồi. Cán bộ cho tôi về để tìm lại vợ con đã bị thất lạc không biết nơi nào, có gì quý nhất tôi biếu cán bộ để làm quà (ý tôi muốn hối lộ chiếc đồng hồ để mua tự do).

Nhìn chiếc đồng hồ trong ham muốn lần chót rồi y trả lại vào vị trí cũ và nói: Anh về lại trại, ngày mai “nàm (làm) việc” tiếp.

Lại chấm dứt câu chuyện trong đột ngột, chưa có hồi kết thúc khiến tôi càng phân vân thêm. Cứ thế, chuyện vẫn dằng co, vờn nhau quanh chiếc đồng hồ của tôi qua vụ thẩm vấn. Dù cố kiềm chế lòng ham muốn thế nào đi nữa, nhưng qua ánh mắt của y, tôi cũng đọc được lòng háo hức của con người, trước sự vật đầy cám dỗ đang bày ra phơi phới trước mắt mà cả đời người, nếu không vào Nam làm sao y có thể tiếp cận, thấy được.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1560485381-HQPD_TroTan_BayTrangDau_03.jpg
Hình minh họa

Đêm đó chắc là đêm khó ngủ cua y, vì phải “đấu tranh” tư tưởng trước sự chọn lựa giữa tôi và chiếc đồng hồ đầy quyến rủ. Phần tôi cũng không sao chợp mắt được với bao nỗi ám ảnh, không biết câu chuyện sẽ kết thúc ra sao. Trong cơn vật vờ mê thiếp, tai tôi bỗng nghe nhiều loạt đạn nổ và cả trại nhốn nháo. Sau đó là tiếng chân chạy, tiếng quát tháo ồn ào từ các khu trại khác, tiếng xích rơi loảng-xoảng từ các xà lim, và sau cùng là tiếng ra lệnh cho các tù phải sắp vào hàng điểm danh xem ai còn ai mất.

Đó là hồi kết của một màn trốn trại. Nửa đêm, hai người vượt rào. Một bị bắn chết, một bị bắt lại.

Sau đêm hãi hùng đó, mấy ngày sau, tôi bị đưa qua hàng sĩ quan và “biên chế” qua bên trại ở chung với các sĩ quan đồng đội cũ của tôi.

Khi chuyển khu, chiếc đồng hồ tôi vẫn còn mang theo vì chưa kịp thương thuyết. Khi sang khu mới, có lệnh phải nạp nó cho đồng chí quản kho. Sau này mới biết cả đồng chí lẫn đồng hồ cùng… bốc hơi. Khi hỏi, chỉ được trả lời là không biết. Đồng chí quản kho chuyển đơn vị khác, không thấy bàn giao lại.

Ba tháng sau chúng tôi bị chuyển trại từ lao xá Phan Rang ra Đồng Bà Thìn (Cam Ranh) Khánh Hoà. Trại nầy trước đây là trung tâm huấn luyện của Lực Lượng Đặc Biệt nằm sát quốc lộ một. Hằng ngày chứng kiến từng đoàn xe quân sự hàng chục chiếc Molotova, trần bịt bùng chở hàng từ hướng Sài Gòn chạy ra Bắc. Chúng tôi bị giữ tại đây để khai báo lý lịch và, giao công tác hằng ngày chia nhau đi gỡ mìn bẫy ngoài rào. Một công tác cực kỳ nguy hiểm có tính cách trả thù. Một tháng sau đã thấy kết qủa. Một đại úy Dù bị mìn nổ cắt mất một chân khiến chúng tôi phản ứng, tranh đấu không chịu thi hành lệnh sau đó nữa.

Cách trại nơi tôi ở 5km, có ngôi chợ tên Bảy Giếng cũng gần quốc lộ một, dân đang trở lại chợ mua bán lưa thưa, một hình thức thăm dò cách sinh hoạt của chế độ mới.
Đám tù chúng tôi vì còn trong vòng quản chế của bộ đội nên hằng ngày chúng tôi được 2 vệ binh thay nhau dẫn bốn anh em đi chợ mua rau cá, gánh về tự nấu ăn theo quy chế tù binh.

Phần tôi thật quá uổng phí một lần nữa, khi có cơ hội trốn thoát mà không làm được, vì không liên lạc được với gia đình nên không có phương tiện thực hiện ý định. Lý do dễ trốn, vì khi vệ binh đưa chúng tôi ra chợ xong, họ thay nhau tìm các cô bán hàng tán dốc, đã có phần mất cảnh giác quản lý tù. Muốn trốn thoát phải có người bên ngoài đưa đường chỉ lối, phải có tiền chi phí khi cần. Tôi dự định nếu trốn, sẽ thuê ghe chài đi đường biển vào Sài-Gòn an toàn hơn là đi đường bộ có nhiều nút chận, có nhiều rủi ro. Nhưng tôi hoàn toàn bất lực, vì mù tịt tình hình bên ngoài nên không dám liều.

Cái liều của người trốn trại trong lao xá Phan Rang là một bài học cho tôi phải cân nhắc khi hành động. Không thể chấp nhận loạt đạn từ sau bắn tới, chết oan mạng khi không tính toán chu đáo thua, thắng trong hành động của mình. Hơn nữa, phần gia đình tôi, xem lại không ai có bản lĩnh đứng ra thực hiện công tác liều lĩnh nầy.Thế là cơ hội thứ hai lại đôi nón ra đi.

Bốn tháng sau. Một ngày âm u của mùa đông miền Trung, mưa dầm rét mướt, tôi lại bị đưa lên xe bịt bùng chở đi, đi không biết về đâu.

Sau khi xe chạy suốt một ngày đêm, xe dừng lại trong cánh rừng già. Tất cả xuống xe ngồi xếp hàng đợi lệnh. Mưa và rét vẫn bao trùm lấy số phận của anh em chúng tôi.

Trong tư thế cảnh giác, tôi nhìn xem quanh mình có gốc cây nào gần, nếu bị bắn bỏ phải lăn mình qua đó hoạ chăng tránh được lằn đạn oan nghiệt. Nhưng may thay, biến cố đó không xảy ra.

Trời sáng hẳn. Đoàn xe chở chúng tôi vào một doanh trại của quân đội cũ, hoá ra đây là Trung tâm huấn luyện ở tỉnh Khánh Hoà, nơi trước đây dùng để huấn luyện tân binh. Chúng tôi được sát nhập với một số lớn quân nhân khác của tỉnh ra trình diện với mỹ từ “học viên cải tạo”. “Học viên cải tạo” bị cấm tiếp xúc với chúng tôi vì lẽ chúng tôi là “tù binh ác ôn”, chống phá cách mạng đến cùng. Nhưng rồi sau đó, anh em hiểu ra đây là đòn tuyên truyền gây chia rẽ giữa chúng tôi với nhau mà thôi.

Những ngày tháng sau đó, công việc của bọn tù là “bốn món ăn chơi”, gồm: Tranh, Tre, Kè, Gỗ. Tù được chia thành toán, mỗi toán cả trăm người có vệ binh kèm theo xuất trại “lao động”. Toán cắt tranh tuy có phần nhẹ nhàng, nhưng khi vào rừng tranh thường hay bị ngộp thở, ngất xỉu vì tranh cao quá đầu khiến thiếu dưỡng khí. Toán chặt gỗ có hai loại, loại gỗ củi, gỗ đốt than chỉ quanh quẩn gần trại, toán gỗ danh mộc thì phải lên núi cao hơn và phải ở lại cả một, hai tháng mới về một lần, (có vệ binh theo canh giữ). Gỗ quý thường dùng đóng tủ, bàn ghế, cho cán bộ trại làm quà cho cấp trên và làm “chiến lợi phẩm” cho mình chở về Bắc.

Đáng nói là toán đi “kè” và tre. ”Kè” còn gọi là lá Kè, lá Buông có tàn lá rộng lớn dùng để làm nón, lợp nhà. Cây buông cao như cây dừa nhưng bẹ kè rậm rạp sắc nhọn hơn. Có người đã chết vì bẹ kè rơi từ cao xuống đâm thủng bụng.

Rừng kè, rừng buông nghe thấy lạ. Nghe tre, thấy quen hơn, thân thương làm sao. Nhưng khu rừng tre nơi bọn tù phải chui phải đốn thì chằng chịt gai góc. Muốn đốn được tre phải đổ máu. Bảy người trong toán thay nhau “khoét lỗ chó” để vào gốc. Khi chui khi chặt, gai tre cào xước cả mặt. Chặt xong phải tỉa cành cho gọn, vậy mà cả toán 7 người cùng kéo vẫn không lôi nổi một cây tre ra khỏi bụi.

Trọn ngày lao động mỗi người chỉ có trong tay hai cây tre già đặt ruột tòn- ten mang về, nhìn tưởng là nhàn lắm. Sự thật là thiên nan vạn nan.

Cứ thế “năm tháng ngậm ngùi” trôi qua trong rừng. Ngày ngày chỉ thấy “ta với ta”, những khuôn mặt lần hồi bị biến dạng, những thân hình lần hồi bị teo tóp do thiếu dinh dưỡng, khiến con người dễ bị sa sút, suy sụp.

Bỗng có một lần, khi toán lao động điểm danh xong để xuất trại, một cán bộ chận lại nơi cổng hỏi lý lịch quê quán của tù. Ai sinh ra từ Đà Nẵng hoặc Huế đứng qua một bên đi công tác ngoài trại chưa biết đi đâu. Khi đủ số 10 người thì lên xe GMC chờ sẵn, số còn lại vẫn xuất trại lao động thường lệ. (Sau nầy mới biết xe đi Nha-Trang, sợ người quê cùng điạ phương dễ trốn).

Chúng tôi được xe chở vòng vèo trong rừng ra cặp đường nhựa rồi chạy về hướng Nha Trang. Chao ơi! Đã bao năm rồi không thấy đường nhựa, không thấy phố xá, nay được GMC chở đi, vẫn thấy thú vị như thuở ngồi xe Jeep.

Xe chạy đến kho gạo trong Nha Trang để lãnh gạo, bị trục trặc thủ tục gì đó, người cán bộ ở lại làm việc. Để “tranh thủ” xe chạy đến chợ Đầm Nha Trang cho mấy vệ binh mua sắm đồ của trại gởi.

Chúng tôi trên xe bị dồn lại một góc có vệ binh canh giữ.

Nhìn xuống lề chợ, thấy có số người đứng nhìn lên, họ xì xầm gì đó một hồi. Chắc họ biết chúng tôi là sĩ quan đi “tù”, nên thoáng chốc họ liệng lên xe như mưa nào bánh mì, chuối, rồi khoai sắn, đường thẻ, đường cục, có cả xà phòng, khăn mặt, bàn chải răng, dầu gió, mọi thứ tù cần. Thấy vậy vệ binh ngăn cấm, không cho liệng lên nữa.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1560485410-HQPD_TroTan_BayTrangDau_04.jpg
Hình minh họa

Chúng tôi đứng nghẹn ngào rưng rưng hàng lệ đón nhận tình cảm cuả đồng bào dành cho mình. Thật không ngờ đã bao năm qua mà họ vẫn còn dành cho chúng tôi tấm lòng yêu thương như vậy. Nay 30/4 về, qua mấy dòng nầy, xin gởi lời cảm tạ qúy vị ân nhân vô danh chợ Đầm Nha Trang thời đó, đã cứu đói chúng tôi một tuần hã hê trong tù.

Trở lại chuyện trong trại

Để chống nổi loạn và chống trốn trại do tuyệt vọng đường về, những ngày đầu nhập trại họ tung tin: Không nên trồng cây lâu dài, chỉ trồng khoai, bắp, sáu tháng ăn liền mà thôi. Anh em lại bàn nhau, chắc chỉ ở đây chừng đó ngày rồi về. Nhưng sáu tháng trôi qua, ăn hết đợt nầy, qua đợt khác cũng không có dấu hiệu gì khả quan. Quả bóng hy vọng lại eo xèo xì hơi…

Ban quản trại lại bày trò tăng “dây cót” khác độc đáo hơn cho anh em hy vọng tiếp. Trại cho lệnh nhà bếp nấu cơm gói (đùm) ba ngày, rồi đem nồi niêu, soong chảo đi trả.

Tù lại “hồ hởi” bàn tán: Trả dụng cụ nhà bếp là hết nấu, ba ngày cơm gói là ba ngày đi đường, là ngày về rồi còn gì nữa, chí lý quá mà! Cứ vậy mà bàn cãi, hy vọng. Nhưng rồi, ngày về vẫn chỉ là bánh vẽ. Hết ba ngày cơm gói, ăn và giậm chân tại chỗ. Trại cho lệnh, vào làng mượn nồi niêu soong chảo khác về nấu lại trong lặng thinh như không có việc gì xảy ra.

Cảnh tuyệt vọng có hồi làm bùng lên phong trào “tự đua” (trốn trại). Khởi đầu là chàng phi công L.T. Đúng là tuổi trẻ tài cao, trong trại anh tự khổ luyện lấy bản lãnh đội trời, đạp đất (đầu không đội nón, chân không mang giày) để chiụ đựng trong hoàn cảnh nghiệt ngã khi gặp phải bên ngoài. Anh đã thoát ra khỏi trại bằng mưu mô chước qủy cuả mình, trốn lên đến Buôn Mê Thuột, dự trù sẽ vượt Trường sơn qua Thái Lan. Nhưng rủi to đã bị bắt lại ở bến xe Buôn Mê Thuột khi đang trà trộn ngủ qua đêm với khách ngược xuôi tại đây.

Bị giải về lại trại và bị nhốt trong thùng sắt (Conex của Mỹ) dòng dã mấy tháng. Bị hành hạ đủ kiểu mà anh vẫn sống sót, khi ra khỏi thùng sắt chỉ còn là bộ xương. Nhưng ý chí anh bạn phi công này vẫn bền vững.

Kế tiếp, có đôi chàng chăn bò cũng “tự đua”. Sau giờ quy định của trại không thấy đưa bò về chuồng. Cả hai đều là Trung tá. Một Lực Lượng Đặc Biệt, một Biệt Động Quân. …

Mấy tháng sau, chàng trung tá Biệt Động Quân, được vệ binh súng kềm hông, tay bị trói chặt, mặt mày sưng vù, chân bước khập khiễng vì bị tra tấn, được “đưa về dinh” trở lại, (sau đó mới biết sự sai lầm của gia đình, thường xuyên tiếp tế đến điểm ẩn trốn, bị điạ phương theo dõi bắt được). Bài học phải trả bằng máu.

Thêm một cuộc vượt trại khác xảy ra. Lần nầy là một Thiếu tá trưởng ty An Ninh Quân Đội của một tiểu khu vùng I. Ông ta bị bắn trọng thương ngoài rào, sau đó bị xử bắn cho chết luôn trước sự chứng kiến của các “nhà trưởng” mà trại tập trung lại cho thấy (để dằn mặt). Một người bị bắt lại nhưng “vô sự” vì nghe đâu hắn là ”cò mồi” của trại gài để dụ tù trốn.

Qua những bất an của trại là những cuộc ”biên chế” xáo tung, trộn lộn, quậy đều tù trong trại, mục đích không để cho những người sống gần nhau lâu năm có cơ hội “rù rì” tìm đường trốn trại. Đêm ngủ một giờ phải điểm danh một lần, mỗi lán trại phải có người trực canh gác lẫn nhau, bên ngoài có vệ binh thay phiên tuần tiểu rất nghiêm ngặt.

Tưởng chừng những biện pháp cứng rắn đó có thể áp đảo, ngăn chặn được “âm mưu trốn trại”của tù.Nhưng họ đã lầm. Lần nầy hai người tù gốc người Bình Thuận lại trốn ngoài rừng khi đi lao động.

Chuyến nầy tôi được rủ theo, vì tôi và hai người dự mưu cùng trong ban điều hành của lán trại, một nhà trưởng, một nhà phó, và tôi là thư ký. Họ thấy tôi ”mồ côi”(không thân nhân thăm nuôi) nên muốn cho tôi cơ hội. Vị thấy mình không chủ động được việc trốn nên dù tiếc rẻ không dám theo. Chỉ đến khi bị tù vượt biên năm 1986 sau nầy, tôi chủ mưu trốn, mới dám dẫn theo 5 người cùng trốn thoát với tôi). Mấy tháng sau có tin vui. Hai người đó đã xuống tàu “đi cứu nước” bình an.

Thoát một cảnh đời tù đày tăm tối

Một cuộc trốn tù khác ngoài rừng cũng lắm ly kỳ. Lần nầy là một trung úy nghe đâu cháu cuả thủ tướng T.T.K. Ngày đó là chủ nhật, bỗng dưng người tù nầy có lệnh xuất trại lao động cùng vài anh em khác. Người trung úy có dàn xếp thăm nuôi chui ngoài rừng. Hết giờ lao động khi trở về người tù ấy đã cao bay xa chạy, nghe đâu vụ nầy có mua chuộc từ cán bộ trại.

Trong cảnh đường cùng vô vọng, cơn sóng ngầm trốn trại vẫn chuyển động và, cơn sóng nổi (đàn áp) vẫn vờn lượn trong biển tù mênh mông.

Trước viển ảnh nguy biến đó, bỗng dưng có phép lạ. Một ngày, tù được lệnh nghỉ lao động ở lại trại để khai báo lại lý lịch cho chính xác. Tù tự hỏi màn gì xảy ra nữa đây?

Thế rồi một nhóm tù được phóng thích, trong đó có cả người đang bị giam trong xà lim (thùng conex Mỹ) vì tội chây lười lao động, vì tội chống đối “cách mạng” phao tin đồn thất thiệt v.v… Rồi cứ thế từng đợt phóng thích khác tiếp tục.Tôi cũng được phóng thích trong các đợt kế tiếp sau đó. Riêng các tù bị ghép vào thành phần “nợ máu của nhân dân” được chuyển qua trại khác sinh hoạt chờ đợi…

Sau này, khi ra bên ngoài mới biết, có sự can thiệp của Mỹ đối với tù nên được thả, sau hằng chục năm tù.

Những ngày tháng sau, tù lại ra đi, đi vì nước mất nhà tan, vì không có chốn dung thân trên chính quê hương của mình. Đi vì đại họa con số oan nghiệt 30/4 hiện về. Đi khi “tro tàn đã bay trắng đầu”, khi sức đã cạn, lực đã kiệt bởi tù đày của Cộng sản. Riêng tôi vượt biển nên phải “ngậm ngùi” thêm 4 năm nữa ở đảo mới thấy “cổng thiên đường” Mỹ.

Và rồi, bây giờ 39 năm sau. Khơi lại ký ức, chẳng biết từ bao giờ, tro tàn của tháng Tư năm xưa đã bay trắng cả đầu.


Ngô Văn Thu
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=577454712763395&set=pcb.577456076096592&type=3&theater

BachMa
08-30-2019, 06:07 PM
Những Phi Vụ Trao Trả Tù Binh
Hồ Viết Yên

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1557082593-NhungPhiVuTraoTraTuBinh_01.jpg
Hình minh họa
Qua email chuyển tiếp, tôi đọc được bài viết "Nhớ Lại Cuộc Trao Trả Tù Binh 30 Năm Trước" của tác giả Cán bộ Việt Cộng (VC) Nguyễn Hoàng Long đề ngày 7/3/2003.

Bài viết chỉ vỏn vẹn một trang giấy, nên tôi tò mò muốn biết thực hư ra sao, mức độ chính xác như thế nào về câu chuyện trao trả tù binh ngày 10-3-1973, tại thôn Long Quang, xã Ân Tín, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định của vị "Cán ngố" này.

Cũng vẫn giọng điệu tuyên truyền, những con số đưa ra không chấp nhận được vì không phản ảnh tính trung thực cộng thêm những lời lẽ thù hận, nhục mạ Dân Quân Việt Nam Cộng Hoà (VNCH) và Đồng Minh dầu rằng cuộc chiến đã chấm dứt hơn 27 năm rồi. Thật đáng buồn và ai oán cho kẻ cầm bút thiếu lương tâm, thiếu đạo đức.

Ngày nay con người Cộng Sản và Việt Cộng đã hiện nguyên hình, ai cũng thừa biết họ là thứ người thế nào. Họ vinh thân phì da, họ quỵ lụy Tàu Cộng, họ xiết chặt và áp bức dân nghèo. Nỗi buồn cho vận nước, nỗi xót xa cho Dân tộc Việt Nam cứ mãi âm ĩ trong tôi. Càng cố quên, không nghĩ tới những việc đã nằm trong quá khứ, nhưng chuyện xưa cứ chập chờn trong trí nhớ, kéo tôi trở về những Phi Vụ xa xưa.

Muốn hay không muốn thì những chuyến bay trao trả tù binh vẫn còn đây và ăn sâu trong tiềm thức nên tôi muốn ghi lại để chia sẻ cùng các bạn.

Hiệp định Paris được ký kết, lệnh ngưng bắn bắt đầu có hiệu lực và kế đến là việc trao trả tù binh giữa hai miền Nam Bắc mà tôi đã có mặt trong nhiều phi vụ này. Cảm nghĩ của tôi lúc đó thật vui vì cuộc chiến sắp chấm dứt, những ngày thanh bình sắp đến trên quê hương. Vui vì sẽ không còn thấy chết chóc, thương tật bởi bom đạn. Vui vì những anh em tù binh của mỗi bên sẽ được trở về sum họp với gia đình, vợ con.

Thời gian đó Phi Đoàn 237 mỗi ngày biệt phái hai máy bay Chinook để thi hành phi vụ trao trả tù binh. Những phi vụ này được đặt ưu tiên hàng đầu. Tù binh sẽ lần lượt được trao trả theo thứ tự. Thành phần quân Chính quy Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) trước. Sau đó đến những thành phần của mặt trận Giải phóng, VC nằm vùng và những phần tử hoạt động cho VC.

Mỗi ngày 2 chiếc Chinook cất cánh từ Biên Hoà lên đáp phi trường Trảng Lớn, Tây Ninh. Tại đây Phi Hành Đoàn (PHĐ) đợi chỉ thị của Ủy Ban Quân Sự 4 bên (Gồm: Hoa Kỳ, VNCH, Mặt Trận Giải Phóng và CSBV). Mọi chuyến bay được điều động, thu xếp, và đặt dưới quyền kiểm soát của Ủy Ban Quân Sự 4 bên. Tôi được biết những phi cơ C-130 sẽ chở các tù binh từ Côn Sơn hay Phú Quốc về đây. Họ sẽ qua thủ tục trao trả và sau đó lên Chinook để chúng tôi chở tới địa điểm bàn giao.

Nhìn các phi cơ C-130 lần lượt đáp, những đoàn tù binh xuống máy bay. Họ được Quân Cảnh VNCH hướng dẫn và sắp xếp mỗi toán 45 người theo sức chở của Chinook.

Tôi thấy họ không có vẻ gì khác thường ngoại trừ vài người phải chống nạng vì bị thương ở chân, họ nối đuôi nhau, và không ai nói với ai lời nào. Khuôn mặt họ không biểu lộ vẻ vui hay buồn phiền.

Kế phi đạo, là một khu dành riêng dùng làm địa điểm cho thủ tục trao trả. An ninh, trật tự ở đây là phần vụ của lực lượng Quân Cảnh.

Những người tù binh khi đến đây họ có quyền quyết định xin ở lại hay tiếp tục trở về phía bên kia. Ranh giới "Đi hay Ở" chỉ là 1 lằn vẽ, hay những sợi dây. Quyền lựa chọn dành cho mọi tù binh, điều này chứng tỏ sự yêu chuộng Tự Do và lòng nhân đạo của Chính quyền miền Nam Việt Nam.

Mỗi toán đều được đưa đến lằn ranh "Đi hay Ở". Nếu bước qua lằn ranh thì sẽ được ở lại, còn đứng yên trong hàng thì sẽ lên Chinook để tới địa điểm bàn giao. Mỗi toán đều có vài người xin ở lại. Một số ít người vì đứng cách xa lằn ranh, muốn chạy qua để xin ở lại nhưng không kịp, họ đã bị kéo lại và ăn đòn. Nếu không bước qua được lằn ranh thì Quân Cảnh cũng không được quyền can thiệp. Đó thật là điều oái ăm, tội nghiệp cho ai không may mắn, bị kéo lại. Nhiều lúc ngồi đợi, tôi hỏi chuyện những người lính Quân Cảnh và được nghe họ kể những câu chuyện tù binh CSBV trừng trị nhau trong tù và có nhiều câu chuyện thật ghê rợn. Nghe để thấy con người Cộng Sản thật tàn ác.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1557082612-NhungPhiVuTraoTraTuBinh_02.jpg
Hình minh họa

Có lệnh cất cánh bay đến Căn cứ Thiện Ngôn, gần biên giới Campuchia (Lúc này đang ở dưới sự kiểm soát của Việt Cộng). Tôi đã từng đáp vào căn cứ này hằng ngày dưới thời của Đại Tướng Đỗ Cao Trí. Thiện Ngôn là bộ Chỉ huy của Lữ đoàn Dù trong trận săn đuổi và triệt hạ nguồn dự trữ, kho súng đạn và đồ tiếp tế của VC trên đất Miên.

Chúng tôi cất cánh bay sau chiếc trực thăng UH-1 có sơn màu cam của Ủy Ban Quân Sự 4 bên. Khi đáp xuống Thiện Ngôn, chúng tôi tắt máy và chờ lệnh, tôi bước ra khỏi phòng lái, nhìn về phía những tù binh theo nhau xuống phi cơ.

Dưới đất đã có các cán bộ VC đến nhận tù binh. Vài người đầu tiên vừa đụng chân tới đất thì bắt đầu cởi quần áo quăng xuống đất, thế là tất cả những người còn lại đều cởi quần áo quăng đầy trong máy bay. Tôi bắt đầu thấy họ không còn như khi từ C-130 xuống nữa. Họ giơ tay, la ó, hò hét những khẩu hiệu, nào hoan hô, nào đả đảo, số tù binh đông, nên tôi không nhìn thấy được ai ra lệnh và những khuôn mặt tôi mới nhìn thấy bình thường kia giờ đây trở nên đằng đằng sát khí. Tôi nghĩ là chúng ta đã lầm và đang thả cọp về rừng. Nhưng đây là điều quan trọng trong hiệp định Paris thì dầu muốn dầu không cũng phải thực hiện.

Bên trong chiếc Chinook giờ đây giống như phòng chứa rác. Không những quần áo mà còn những đồ mà Chính phủ VNCH cho. Anh em Cơ Phi, Xạ Thủ và Áp Tải phải ra công dọn dẹp vì nếu để, khi quay máy những quần áo này sẽ bị hút lên dính vào cánh quạt, làm hư hại máy bay. Mỗi chuyến đáp đều phải dọn dẹp, đều phải nghe và đều phải thấy những điều chướng tai gai mắt. Trong lúc chờ đợi lệnh được cất cánh, tôi đi vòng chung quanh máy bay để kiểm soát, quan sát cánh quạt và toàn thân của máy bay.

Khi tôi quay lại thì thấy cô Phóng viên VC đang chụp hình tôi. Rồi trong những lần đáp khác cũng thấy cô chụp hình. Có lúc cô đứng xa chụp, có lúc cô lại gần chụp. Máy hình hiệu Canon, coi cũng có vẻ “Pro” lắm. Nhưng sau đó tôi để ý và suy nghĩ thì hình như cô cốt ý chụp chiếc Chinook ở những góc cạnh khác nhau hơn là chụp hình tôi.

Tôi muốn chọc nên tôi đợi cô đến gần máy bay thì làm bộ đi ngang và nói “Nếu trong máy có phim thì tôi sẽ cho địa chỉ để gởi hình”. Cô không nói không rằng bỏ đi một nước. Thế là “Thúy đã đi rồi”, và từ đó tôi không còn được cô chiếu cố chụp hình nữa.

Chở trả tù binh CSBV thì nhiều nhưng nhận lại bạn mình không được bao nhiêu. Cứ vài ngày thì nhận được năm hay mười người. Lâu lâu nhận được một toán vài chục người. Trong một bữa trưa để chờ nhận khoảng 15 hay 16 anh em, nghe nói họ đang được dắt đi bộ từ sáng sớm bên kia Biên giới Campuchia và băng rừng về đây. Tôi ngồi đợi mà lòng bồn chồn, náo nức vì nghe nói trong danh sách có 2 Hoa Tiêu của Phi Đoàn 237 Chinook. Đó là Thiếu Tá Trọng và Trung Úy Thanh, đã bị bắn rớt và bị bắt làm tù binh, còn anh em Cơ Phi, Xạ Thủ và Áp Tải đã không may phải hy sinh cho Tổ quốc. Bất chợt, 2 chiếc F-5 bay rất thấp qua căn cứ Thiện Ngôn.

Trong lúc chúng tôi còn đang ngơ ngác, nhìn theo, không biết lý do gì họ lại bay thấp như vậy. Lúc ngó lại sân bay và những căn lều tranh thì không còn thấy một bóng dáng nào trên mặt đất. Tôi định lên quay máy để liên lạc với UH-1 của Ủy Ban Quân Sự 4 bên.

Nhưng súng ống từ đâu đã chỉa vào chúng tôi, những khẩu phòng không cũng đã được lộ ra, đang chỉa lên trời. Chúng tôi bị giữ lại Thiện Ngôn hơn cả giờ, trong suốt thời gian chờ đợi Ủy Ban Quân Sự 4 bên điều đình và thuyết phục đơn vị VC đang đóng tại đây cho chúng tôi cất cánh về Tây Ninh, và điều buồn hơn hết là trong ngày hôm đó các anh em đáng lẽ được trả về với gia đình thì đều bị giữ lại.

Sau khi đã trao trả hết tù binh chính quy CSBV, chúng tôi lại bắt đầu chở tù của những thành phần Mặt Trận Giải Phóng, VC nằm vùng và những phần tử hoạt động cho VC trong đó có cả thành phần Sinh viên hoạt động cho VC. Đây là đám người “Ăn cơm Quốc Gia, thờ ma Cộng Sản”.

Những chiếc xe GMC bít bùng chở họ vào phi trường Biên Hoà, rồi được sắp xếp lên Chinook để chúng tôi chở lên Lộc Ninh, một tỉnh nằm sát biên giới Miên Việt, đã bị VC chiếm giữ. Nhắc đến Lộc Ninh không bao giờ tôi quên được Phi Hành Đoàn của Đại Úy Trần Tấn Thọ và Thiếu Úy Ngô Kim Hoàng cùng anh em Cơ Phi, Xạ Thủ và Áp Tải. Khoảng đầu năm 1971 khi đến đây đáp, móc hàng và bay tiếp tế cho Căn cứ Snoul, Phi Hành Đoàn đã bị phòng không bắn cháy khi vừa tới Snoul. Phi Hành Đoàn bị phỏng nặng, nhưng may mắn không ai bị thiệt mạng. PĐ 237 mất đi 1 Chinook.

Khác với những lần trao trả trước ở Tây Ninh, địa điểm trao đổi lần này diễn ra tại Lộc Ninh, thuộc vùng kiểm soát của Việt Cộng cho nên sự quyết định “Đi hay Ở” của những tù binh VC gặp nhiều khó khăn hơn bởi vấn đề an ninh không được chặt chẽ như ở Tây Ninh.

Khi bị kéo lại là bị đánh tơi bời. Tôi chở những người về Biên Hoà mà mặt mày bầm dập, còn dính máu, dầu đã được bên mình băng bó.

Trong kỳ trao trả này, chỉ có trả mà không có nhận, thêm điều buồn là một Nhân viên phi hành của PĐ237 đã hy sinh cho Tổ Quốc vì trúng đạn VC bắn lên khi Chinook đang giảm cao độ để vào đáp Lộc Ninh. Điều này làm cho cả PĐ237 rất đau buồn. Nhưng vì lệnh từ trên đưa xuống cho nên các phi vụ vẫn phải tiếp tục.

Qua những phi vụ trao trả tù binh, đối diện với những điều mắt thấy tai nghe, nhìn thấy rõ con người CSBV và VC, thấy đồng đội bị bắn chết, dầu hiệp định Paris đã ký kết, lệnh ngưng bắn đã ban hành, tôi thấy buồn và chơi vơi vì đàn cọp dữ nay được thả về rừng. Sớm muộn gì cũng sẽ tới phiên chúng tôi, cũng sẽ lãnh những viên đạn thù từ những kẻ mà chúng tôi đã chở trả về.

Thật vậy, thời gian không bao lâu, vào cuối năm 1973 trong ngày lễ Chúa Giáng Sinh thật đẹp, Phi Hành Đoàn chúng tôi đã nhận viên đạn phòng không đầy hận thù gởi tặng ở cao độ 4.500 bộ tại mật khu Đồng Xoài và chỉ trong gang tấc thân xác chúng tôi đã bị nổ thành tro bụi, nhưng Thượng Đế vẫn còn thương và cho tôi sống để tôi có cơ hội kể lại chuyện này.

Hồ Viết Yên
K7/68KQ/PĐ237 / PĐ241 Chinook
https://www.facebook.com/groups/1051752364862874/permalink/2069383096433124/

BachMa
09-04-2019, 08:41 PM
Người Ấy
Không Quân Phạm Đắc Giáp

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1567629068-HQPD_NguoiAy.jpg
Hình minh họa
Hàng đêm những lúc tay ấp đầu kề bên nhau, vợ tôi thường thủ thỉ: “anh kể chuyện người ấy cho em nghe đi”, tôi không nói gì cả, nàng không được vui, phụng phịu “chuyện nầy em biết hết rồi nhưng em muốn chính miệng anh kể, để em chia sẻ cùng anh chớ!”. Không biết nàng có chia sẻ cùng tôi hay không hay sau khi tôi nói ra, nàng sẽ buồn?. Tôi hẹn với nàng “trước khi nhắm mắt xuôi tay hoặc một ngày nào đó có thể bằng chính miệng hoặc anh mượn giấy thay lời nghe em”. Điệp khúc đó được nhắc mãi cho đến lúc….

L thua tôi một tuổi. Nhà chúng tôi ở kề bên nhau, hai đứa quen biết qua tình hàng xóm, tình bạn học, mặc dầu không cùng chung mái trường, không cùng lối về. Những năm cuối trung học, chúng tôi thường trao đổi cho nhau những bài toán khó những bài văn hay, những mẫu chuyện vui buồn của đời học sinh. Tình bạn của tôi và nàng chỉ có thế không gì hơn, không vượt qua giới hạn nào khác. Năm tôi đậu tú tài nàng là người đầu tiên chúc mừng tôi thành “ anh Tú”. Năm sau đến lượt nàng thi đậu, nàng cũng trỡ thành “cô Tú” giống tôi.

Thanh niên thời bây giờ ở độ tuổi ”quân dịch”, thi rớt không còn hoản dịch được là khăn gói lên đường tòng quân cứu nước, tôi học thêm vài năm chẳng ra gì đành “xếp bút nghiên theo việc đao cung “ để được trãi chí tang bồng của người trai thời chiến.

Chiều hôm ấy một buổi chiều mùa đông, trời ảm đạm mưa phùn dai dẳng, L. tiễn tôi lên đường với đôi mắt đậm buồn không nói lời nào, chỉ vẫy nhẹ tay chào, nhưng cũng đủ cho lòng tôi xao xuyến.


***

Những ngày học tập quân sự ở quân trường, mồ hôi thấm đổ, để đổi lấy và trao dồi cho mình một sức khỏe chắc chắn và một bản lĩnh vững vàng của người lính. Sau tám tuần lễ “huấn nhục”chịu đựng mọi gian khổ, chúng tôi trưởng thành và chai lì hơn nhiều so với lúc còn ở ngoài dân sự. Cuối tuần là thời gian dành cho các chàng lính trẻ về Sài Gòn dạo phố, thăm thân nhân, thăm người yêu nếu có, hoặc ở lại quân trường vui chơi với các bạn độc thân xa nhà. Buổi đi phép đầu tiên được dạo phố, trong bộ quân phục Sinh Viên Sĩ Quan với dáng dấp oai hùng của người lính sao thấy oai quá, bao ánh mắt nhìn vào với nhiều thiện cảm, làm cho mình tự tin và mạnh dạn hơn lên.

Lần đó và nhiều lần sau, tuần nào tôi cũng cố gắng về Sài Gòn hoặc dạo phố hoạc theo bạn bè vui chơi để tìm thêm những niềm vui mới, đồng thời trút bỏ mọi mệt nhọc sau một tuần học tập ở quân trường và cũng để quên đi nổi nhớ nhà, nhớ người thân trong bao tháng ngày dài xa cách.

Học ở quân trường đã sáu tháng, tôi (một trong 50 bạn ) đầy đủ sức khỏe được lựa chọn chuyển qua Quân chủng Không Quân học lái máy bay trở thành phi công sau nầy. Lại xa Sài Gòn trong bao luyến tiếc, nơi đây đã để lại bóng hình mà mình mới quen trong những lần đi phép, dầu sao đó cũng là ít nhiều kỷ niệm cho đời lính để gói trọn vào hành trang mang theo bên mình.

Tại Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân ở Nha Trang, chúng tôi làm lại từ đầu của một thanh niên mới vào quân ngủ, học nhiều và nhiều hơn những gì đã học ở quân trường củ. Chúng tôi đã và đang trở thành một người lính thực thụ, sau tám tuần lễ “tái huấn nhục” chúng tôi được gắn lại “alpha” và phục hồi cấp bậc Sinh viên Sĩ quan như củ. Những sáng chủ nhật đi phép với bộ quân phục kaki màu vàng thật rắn rỏi, thật đẹp, hòa nhập cùng quân trường Hải Quân bạn với màu trắng nhẹ nhàng. Trắng vàng hòa hợp vừa hùng mạnh vừa thanh nhả, lả lướt khắp đường phố, vẽ lên và tạo cho Nha Trang một vẽ đẹp hào hùng của người lính. Hai màu sắc quân phục rắn rỏi và trang nhả ấy vừa đắt khách lại vừa đắt giá nhất cũng vừa khoe sắc thắm, sự hùng dũng của mình để dể bề chinh phục mỹ nhân thành phố biễn.

Nha Trang với con đường Duy Tân thẳng tấp song song cùng bờ biễn. Biễn và đường thật thơ mộng chạy dài từ bắc xuống nam, nơi đâu cũng cát trắng với những hàng dương xanh cụt ngọn đổ bóng, cộng thêm ánh mát của bao hàng dừa bao phủ. Biễn Nha Trang đã đẹp lại mát mỗi khi trời chiều đổ bóng. Sinh viên Sĩ quan chúng tôi thường mượn nơi đây để hẹn hò, gặp gỡ với các cô bạn gái mà biết bao lần xuất trại mình mới được làm quen.

Thời gian trôi qua, chúng tôi lần lượt ra trường. Bạn bè mỗi đứa một phương trời xa cách, mỗi lần nhắc lại Nha Trang với bao kỷ niệm tình cảm sống lại trong tôi, nơi đây là chốn “tình trường” nên phải xông pha chiền đấu cùng những chàng trai oai hùng khác, thắng cũng lắm mà thua cũng nhiều, gây sóng gió thì nhận sóng gió, đời trai lính chiến tình cảm thật chứa chan, thắng thua trong tình trường là chuyện bình thường, chẳng lấy gì làm buồn cả! Chuyện tình chỉ là kỷ niệm, làm đẹp cho đời lính làm dày thêm nhật ký tình yêu, hết mối tình nầy, chạy theo mối tình khác, không biết chán chường không biết mỏi mệt.

Sau khi tốt nghiệp khoá bay, tôi lên phục vụ đơn vị đóng ở Pleiku phố núi, đất bùn níu chặt chân người chiến sĩ, mây mù giăng khắp lối, làm khó khăn cho những chuyến bay vào mục tiêu. Nơi núi rừng trùng điệp heo hút, với những phi vụ hành quân liên tục, những gian nan cực khổ của một phi công trên vùng trời lửa đạn mà lưới đạn phòng không luôn chực chờ. Tôi bị phòng không địch bắn nhiều lần, số vẫn hên nên chưa lần nào người dính đạn.

Ở Pleiku hay những nơi biệt phái, từ Ban Mê Thuột, Kontum Phú Bổn xuống thành phố biễn Qui Nhơn Tuy Hòa, nơi đâu chúng tôi cũng có nơi hò hẹn với những em gái thân thương. Cuộc đời lính bay độc thân chúng tôi là thế và chỉ có thế mới lấp đi nổi cô đơn của người lính xa nhà.


***

Đã mấy năm xa nhà, lần nầy tôi về phép. Đà Nẵng khơi lại trong tôi với bao kỷ niệm của thời thơ ấu, của những năm cuối trung học, và nhất là đôi mắt đậm buồn của người con gái tiễn tôi đi. Tôi rất mừng khi gặp lại nàng, nàng không phải là L., tôi cũng không phải là G. của ngày ấy, chúng tôi đã trưởng thành, đã chửng chạc và đã...người lớn hơn xưa rất nhiều.

L kể cho tôi nghe sau một năm ngày tôi nhập ngủ, L mạnh dạn xếp bút nhiên theo chí hướng nam nhi, nàng đi vào quân ngủ. L được huấn luyện ở quân trường Sĩ Quan Nữ Quân Nhân, cũng cực khổ cũng dầm mưa dãi nắng chẳng thua gì các đấng nam nhi. Rồi nàng ra trường, cũng mang lon thiếu úy như ai lai được ở đơn vị gần nhà nữa chớ.

Gặp tôi, nàng bảo “chúng mình bây giờ là lính cả, thật là vui phải không anh?. L là thiếu úy trước anh đó nghe, lần sau gặp nhau anh phải chào L trước nhớ không, thưa ông “pilot “! Niềm vui của chúng tôi vừa là bằng hữu vừa là chiến hữu nên tự nhiên, và dể đồng cảm nhau hơn.

Về lại Pleiku tôi mang theo một niềm vui mới đó là L, chúng tôi liên lạc bằng thư từ thường xuyên, những chuyện vui buồn của đời lính, những ước mơ tươi đẹp ngày mai gỡi cho nhau, nhũng lần về phép kế tiếp hai tôi hiểu nhau nhiều, tình cảm gắn bó nhau hơn, rồi đến lúc tình cảm cũng nhường chỗ…Tại căn phòng nầy khi xưa là phòng học của nàng, chúng tôi từng trao cho nhau những bài toán, bài văn hay những mẩu chuyện của đời học sinh, và cũng căn phòng nầy giờ đây… lại chứa đựng bao ước mơ bao hạnh phúc của hai con tim đồng nhịp và cũng tại đây...nàng đồng ý nhận lời cầu hôn chân tình của tôi. Vâng, chúng mình đã lớn cả rồi phải không L phài không G?

Được sự đồng ý của má của chị và cũng là là sự mong mỏi nhất của hai người, vì tôi là con trai duy nhất đã 28 tuổi rồi, bao lần má hối thúc tôi lấy vợ cho có cháu nội má ẳm má bồng ở tuổi già lẻ bóng, có lần má vào tận Nha Trang nơi tôi đóng quân lúc mới ra trường, má biết nơi đây tôi cũng có dăm ba mối tình chi đó, tôi chưa chịu nên má lại về không. Lần nầy má rất vui vì biết được L là người như thế nào, L đã để lại nhiều cái đẹp cho gia đình tôi theo năm tháng ở gần kề nhau. L cùng tôi hướng về tương lai với nhiều mộng đẹp, lễ đính hôn sẽ ra sao? rồi thành hôn phải như thế nào cho tươm tất…đó là những câu hỏi thật hạnh phúc và thích thú quá phải không L? phải không G?.

“Con ngồi đây má nói chuyện nầy một tí”, giọng má nhỏ hơn mọi lúc, sắc mặt đăm chiêu và buồn tôi không biết má nói chuyện gì đây? sao mặt má căng thẳng và buồn thế?

Tôi ngồi xuống bên má tâm tư cũng lo lắng theo sự không bình thường và buồn bả của má, hồi hợp tôi chờ đợi…má nói trong sự xúc động, trong sự tiếc thương.

“Má chỉ có mình con, bao nhiêu hy sinh bao nhiêu mất mác má từng kể, con biết đó, cũng vì con chỉ có con má mới sống nổi đến ngày hôm nay, má rất thương L, má và chị con rất mừng khi hai con đến với nhau, nghỉ một lác cho cơn xúc động bớt đi má tiếp, “con với L chỉ có duyên mà không có nợ, má cùng chị Hai con vừa đi coi thầy về, tuổi hai con khắc nhau đến chết, mạng con yểu lắm nếu hai đứa lấy nhau thì con chết thôi, con mà chết má cũng chết theo mất, con thương má nghe con, nghe con, không vợ nầy thì vợ khác, đâu phải chỉ có một mình L đâu, đàn ông mà con”. Nghe đến đây, hai tai tôi ù lên, đầu như có ai cầm búa bổ vào, lúc nầy tôi cứ tưởng ai đang nói chớ không phải má. Mặt cúi xuống, tôi cố dằng cơn sốc đến thật bất ngờ với mình, cố kiềm sự xúc động và vội bước ra sau rữa mặt cho tỉnh người, cố đè nén những xúc động, những mất mác mình đang và sẽ gặp phải.

Phải, cuộc đời của má tôi từ đau khổ nầy đến đau khổ khác, từ mất mác nầy sang mất mác khác, từ bà chủ nay thành kẻ trắng tay, bao nhiêu lần hoạn nạn là bấy nhiêu lần má đều cố gượng dậy vượt qua bao khó khăn gian khổ dầu đi làm thuê, ở mướn hay một người “culi” chăng nữa má vẫn vui má không thấy buồn, chỉ để nuôi nấng, để chị em tôi có nơi nương tựa, được nên người. Càng nghĩ về má tôi càng yêu quí má vô cùng, vẫn biết những điều má vừa nói là hoàn toàn vô lý chỉ là mê tín không hợp với khoa hoc chút nào, tôi không cãi không dám nghịch lại ý má sợ má buồn, tôi chỉ buồn cho tình duyên của mình thôi.

Gặp lại nhau cũng trong căn phòng nầy, ngày xưa ấy hai tôi cùng ngồi học bên nhau và cũng nơi nầy chỉ cách mấy ngày thôi chúng tôi đã thêu dệt bao ước mơ bao hạnh phúc, bao lời ngọt ngào cho nhau và cứ tưởng sự thật sẽ đến trong tầm tay mình. Và giờ đây cũng nơi nầy chốn nầy, nước mắt tràn đầy cho nhau để khóc cho mối tình chưa hợp mà đã tan mau. “Hảy khóc đi em cho vơi tình sầu, hảy khóc đi em cho quên mộng ước ban đầu, hãy khóc đi em cho tình tan vỡ, khóc đi em…nghẹn ngào mình xa nhau”.

Những lời nghẹn ngào trong nước mắt của nàng: “chuyện nầy em nghe má anh nói rồi, thôi mình xa nhau anh nhé, em đã dứt khoát rồi!”.

Và đó là những giọt nước mắt sau cùng chúng tôi gỡi cho nhau.

Về lại Pleiku, nghĩ về L bao nhiêu tôi lại càng nhớ má càng nhiều bấy nhiêu. Má hy sinh một đời cho con mà phận làm con tôi chưa một lần tôi báo đáp cho má, chưa một lần tôi làm cho má vui lòng. Vẫn biết tình yêu là do con tim mình mách bảo nhưng tôi không dám làm theo con tim, không dám cãi lại trí óc mình trong lúc nầy, và chỉ có má, má là tất cả má ơi má ơi…

Mấy kỳ phép liền không về Đà Nẵng, ở lại trên nầy cho tình cảm trong tôi lắng dịu lại, mặc dầu nhớ má lắm. Không thấy tôi về thăm, má lặn lội đi xe đò lên thăm, cho dù đường bộ lúc nầy nguy hiểm, má kể: “từ khi tôi đi L cũng không trở về nhà, má cứ tưởng L bỏ nhà lên với tôi”.

Không không má đừng nghi cho L tôi nghiệp cho nàng má ơi. Và từ đó chúng tôi xa nhau.


***

Nhìn qua một lượt trên sạp áo quần, mợ chỉ tay hỏi cô bé bán hàng: - Quần đùi nầy cháu bán bao nhiêu? Dụi đôi mắt cho tỉnh hẵn giấc ngủ chập chờn buổi trưa nóng nực, cô bé ngước nhìn mợ cháu tôi, nở nụ cười chào khách:

- Dạ thưa bác mua một cái?”

- Bác mua đủ cặp. Bé báo giá mợ mua ngay không mặc cả và tặng tôi. Thắc mắc, tôi hỏi nhỏ sao đắt thế, mợ cười pha chút khôi hài:

- Giá rẽ đó con, nụ cười của cô bán hàng đây mới đáng ngàn vàng, phải không cháu gái?. Cô bé mắc cở tủm tỉm cười cám ơn, mợ hỏi thêm bé được bao nhiêu tuổi?

- Dạ mười tám ạ .


***

- Ngồi đây má nói chuyện nầy nghe con. Lại ngồi đây ngồi đây mãi để cho con yên đi má! tôi càu nhàu trong miệng không dám nói ra.

Không biết lần nầy má lại nói chuyện gì đây. Ngồi sát bên, nhìn sắc mặt má lần nầy tôi thấy già đi hẵn nhưng không thấy sự đăm chiêu và căng thẳng như lần trước, những nếp nhăn hiện rõ trên khuôn mặt, ừ má già rồi còn gì nữa đã gần 70 chớ ít đâu.

Con à, con nhỏ bán áo quần con gặp hôm qua con thấy có được không? vừa dễ thương, vừa đẹp, hiền lành lại biết buôn bán, quan trọng hơn cả tuổi hai con rất hợp nhau từ cung mạng đến số mạng, hai tuổi nầy đều hổ trợ cho nhau trong việc xây dựng vợ chồng.

Má nói một hơi dài như ông thầy bói đang mở chiêu dụ khách xem số mạng, tình duyên cho đôi tình nhân vậy, nghe má nói cô ấy biết bán buôn tôi cười thầm: “ biết buôn bán nên hai cái quần xà lỏn giá gần ngày lương của tôi mà mợ cho rẻ, mua được nụ cười mới quan trọng, mợ còn nhấn mạnh bác mua đủ cặp, mợ nói đúng lắm”.

Phải, nụ cười ấy ánh mắt ẩy đã để lại cho tôi những rung động của giây phút ban đầu mới gặp, cô bé ấy vừa đẹp vừa dể thương và duyên dáng đấy chớ, má nhắc lại: - sao con?, nghe lời má bằng lòng đi con, lớn tuổi rồi kén chọn gì nữa. Tôi nói cô ấy còn nhỏ thua con cả chuc tuổi khó coi quá má ơi – biết bao người lớn tuổi lấy vợ trẻ đó sao? đàn bà đẻ vài đứa là già liền con khéo lo, sợ con bé chê con không chịu đó thôi. Má nói cả hơi dài để khen cô bé và cũng thuyết phục tôi. Tôi mỉm cười gật đầu đồng ý.

Cậu tôi và bố nàng là chổ quen biết ở cùng đường phố, thường gặp nhau nên tôi cũng bớt ngỡ ngàng khi tiếp chuyện, cậu giới thiệu tôi là cháu ở xa mới về thăm nhà. Tôi ngồi nghe hai người nói chuyện và chỉ trả lời những gì họ hỏi, trong lúc chuyện trò bố nàng cũng có ít nhiều cảm tình dành cho tôi. Trước khi ra về bố siết chặt tay và mời tôi có dịp lại thăm bố.

Trước khi lên Pleiku những chiều kế tiếp tôi “lì đòn” trở lại gian hàng nàng để mua thêm ít đồ không cần thiết chủ yếu để nhìn, để ngắm cái đẹp và nụ cười “đáng giá ngàn vàng”. Hình như linh tính báo cho nàng biết trước điều gì, nên nàng rụt rè e thẹn khi tiếp chuyện cùng tôi, càng e thẹn càng rụt rè bao nhiêu thì cái đẹp cái duyên dáng của nàng lại nổi bật bấy nhiêu, tôi năn nỉ và cuối cùng xin được địa chỉ để viết thư cho nàng.

Những lần về phép sau, tôi mạnh dạn tới thăm ba mẹ nàng hay đúng hơn gặp nàng để nhìn tận mắt hình bóng mà mình đã mang theo trong suốt thời gian về phép. Ban đầu, nàng còn e thẹn không mạnh dạn, dần dần nàng cũng thích thú nghe tôi kể những chuyện của đời phi công trên bầu trời tây nguyên, ngang dọc bay qua với biết bao hiểm nguy nơi chiến trường, tàu dính bao nhiêu vết đạn mà vẫn lao vào vòng chiến, những lúc trời xấu mây bao phủ cả vùng trời vẫn cố gắng bay qua không hề sợ hiểm nguy nào cả, nàng càng nghe từ chổ lo lắng sợ sệt đến chổ càng thích thú say mê, cái nhút nhác thẹn thùng ban đầu của nàng cũng bớt, dạn dỉ dần và có ….cảm tình với tôi nhiều hơn.

Sự thúc đẩy của má, má nói cưới vợ phải cưới liền tay, chớ để lâu ngày thiên hạ dèm pha , tôi trì hoản mãi cũng không được má còn bảo hôn nhân đi trước hạnh phúc theo sau là chuyện thường, nếu con yêu thương thật thì tình yêu sẽ đến ngay, đừng chần chờ gì nữa nghe con.

Tại nhà nàng chúng tôi có một không gian riêng để gặp nhau, để tìm hiểu nhau thêm, và nơi đây lời cầu hôn cùa tôi được nàng chấp thuận với một yêu cầu:- thong thả tiến tới hôn nhân nghe anh, em mới mười tám còn nhỏ quá anh ơi, rồi nàng hỏi anh được bao nhiêu tuổi, tôi không dám trả lời thật, bớt lại năm tuổi nàng vẫn hồ nghi nhưng không sao, yêu nhau tuổi tác đâu có thành vấn đề phải không anh? đừng gọi anh bằng chú nghe em? chúng tôi cùng cười và ….nụ hôn đầu đời nàng đón nhận cho một tình yêu mới nở vâng, tình yêu của một người con gái mới lớn mới chập chửng vào đời, nụ hôn còn vụng về còn sợ sệt trong vòng tay siết chặt, thì làm sao tôi không cảm nhận được tình yêu, không ngất ngây theo nhịp đập của tim nàng.

Chọn được ngày lành tháng tốt hai bên gia đình quyết định tổ chức lễ đính hôn, buồn thay những ngày trước và sau lễ, chiến trường ở tây nguyên trở nên sôi động hơn bao giờ hết, tất cả nhân viên phi hành chúng tôi bay liên tục từ sáng đến chiều để yểm trơ chiến trường cho sự sống còn của quân bạn, cho sự cư an tư nguy. Vì tình đồng đội vì tình chiến hữu, tôi phải vắng mặt đám hỏi quan trọng của đời mình, để phục vụ cho đại sự cho bình an tổ quốc, nên ngày lễ hứa hôn chỉ có cô dâu còn chú rễ chẳng thấy đâu. Em có buồn không em? không có anh bên để dìu em từng bước trong bộ đồ cưới đẹp nhất, cho em mạnh dạn bước ra trình diện hai họ không em? Chắc em không buồn đâu nhỉ, dầu không có anh, em vẫn mạnh dạn vẫn vui vì em biết anh hy sinh tình riêng để lo cho đại sự là cuộc chiến hôm nay phải không em? phải không em?

Em phụng phịu với giọng trách yêu “hổng chịu đâu, hổng chịu đâu” anh gạt em, mới đám hỏi đó chưa được mấy ngày đã lo tính chuyện đám cưới, em mới mười tám để cho em lớn chút nữa đi, em mắc cở lắm nghe anh. Càng phụng phịu bao nhiêu cái duyên dáng nét dể thương càng hiện rõ trên khuôn mặt nàng. Hơn bao giờ hết tôi mới cảm nhận được người vợ thật sự của mình là đây sẽ cho mình và gia đình những gì mình mong ước nhất.

Nhờ sự giúp đở của hai bên gia đình, những ngày cận tết của năm ấy đám cưới chúng tôi được tổ chức thật tươm tất thật trang trọng, một đám cưới mọi người nhìn vào ai ai cũng không tiếc lời khen ngợi.

Để bù lai sự vắng mặt của chú rễ trong ngày đính hôn, thì hôm nay từ Pleiku chỉ huy trưởng lái máy bay chở sáu vị chức sắc trong phi đoàn về dự tiệc cưới của chúng tôi, thật hạnh phúc quá phải không em, người vợ yêu quí của anh. Và từ đây cô dâu đã biết mặt người anh cả cùng những đồng đội của chú rễ trong phi đoàn.

Cưới nhau xong là đi, vâng là trai thời chiến chúng tôi chỉ gần nhau được bốn ngày, bốn ngày ấy thật hạnh phúc và quí giá quá, mình đã đưa nhau đến đỉnh tuyệt vời của tình yêu, của bến bờ hạnh phúc, mặc dầu chưa có một tuần trăng mật cho nhau sau ngày cưới nhưng nàng không buồn nàng vẫn vui bởi chồng mình là lính.

Mới cưới nhau đã vắng chồng ở nhà một mình, thật buồn, bao nhớ nhung bao lo toan biết nói cùng ai, may cũng còn mẹ và chị chồng thương yêu, đùm bọc chỉ vẽ cho những gì chưa biết, sự yêu thương đùm bọc ấy làm cho cả ba gần gủi lại nhiều hơn xem nhau như ba mẹ con ruột rà thật sự, một hoặc hai tháng tôi cũng có năm bảy ngày phép về thăm em để lấp đi bao nhớ nhung trống vắng của những ngày xa cách, tôi xin phép má đưa em lên đơn vị sống cùng tôi vài tháng.

Dãy phòng chúng tôi ở trên đồi tận cuối đường bay nên lúc nào cũng thấy rõ máy bay phi đoàn mình lên xuống, phòng độc thân dành cho một người vừa kê đủ một giường một tủ cá nhân và một bàn nhỏ đọc sách hoặc viết thư, xung quanh phòng được che chắn nhiều lớp bao cát để chống pháo kích. Từ ngày có vợ, phòng ốc trở nên ngăn nắp, gọn gàng, sạch sẻ nền nhà luôn luôn sạch bóng không còn lộn xộn như trước. Cũng chừng đó vật dụng nhưng khi qua tay vợ sắp xếp sao thấy rộng rãi, mát mẻ hơn nhiều.

Bữa cơm nào cũng ngon cả tôi khen tài nghệ làm bếp của nàng đáo để. Nàng không nhận lời khen, đổ thừa má dạy em nấu cho anh ăn đó, câu trả lời khôn khéo và dể thương quá hở em?

Chiều chiều sau giờ rảnh em đứng nhìn từ đồi xuống cuối đường bay, những con chim sắt sau một ngày uốn lượn mệt mỏi với những phi vụ hành quân trở về tổ ấm, từng chiếc rồi từng chiếc đáp nhẹ xuống đường băng chạy dài đến khuất tầm mắt, chắc trong số đó cũng có chồng mình đang ngồi lái, mình hảnh diện chồng biết lái máy bay, mình cũng biết lái phi công như chồng đấy chứ.

Ở trong cư xá không quân Pleiku thời gian, em biết được gần hết chiến hữu cùng các chị vợ yêu thương của bạn chồng, nơi đây em đã chứng kiến bao nhiêu đòng đội bạn ra đi không trở lại, cái vui cái buồn đời lính em cũng chia sẻ ít nhiều, đôi lúc suy tư có chồng pilot sao mà hồi hợp quá mỗi lần chồng hành quân là mỗi lần lo lắng, em luôn cầu nguyện cho chồng và tất cả đồng đội của chồng được bình an trong mọi phi vụ hành quân.

Tình hình chiến sự trở nên khốc liệt hơn, hàng đêm không biết bao đợt pháo kích phóng vào phi trường, những tiếng rít kéo dài của tầm đạn, tiếng nổ kinh hồn làm nàng sợ sệt nằm co ro bên chồng thầm cầu nguyện. Nàng lúc nầy đang mang thai đứa con đầu lòng, chạy vội theo chồng xuống hầm trú ẩn bị té nhào, may mà không sao.

Sợ nguy hiểm sẽ đến vợ con nên hôm sau tôi đưa vợ về lại Đà Nẵng. và từ đó căn phòng không còn tiếng cười tiếng nói chào đón rồn rả mỗi khi chồng về. Vắng em căn phòng lai buồn bả, đâu còn ngăn nắp nữa, đâu còn những bữa cơm ngon em nấu cho chồng, chỉ còn chăng là gạo sấy cùng thịt hộp cho qua bữa thế thôi.

Từ ngày mới bước chân lên Pleiku thấm thoát gần hai năm rưởi rồi, nơi đây phi trường còn vắng vẻ lưa thưa, hôm nay đã nhộn nhịp hẵn, bao nhiêu dãy nhà mọc lên bao nhiêu máy bay đậu kín chổ. Tôi được lệnh chuyển đơn vị. Cầm lệnh thuyên chuyển trên tay, với biết bao kỷ niệm vui buồn trổi dậy, nơi đây tôi cùng đồng đội sát cánh bên nhau, những địa danh như Pleime Dakto BenHet Charly Tân Cảnh rồi qua tận đất Lào, nhà thủy tạ Biển Hồ Cam Pu Chia..., nơi đâu cũng để lại dấu ấn của cánh bay mình, những phi công như Huỳnh Mười người bạn cùng khóa cùng chịu đựng số phận “vịt đẹt” như tôi, nào Đoàn Phan, Khải lửa Mr Di ( Ổi ) Việt bị đạn dịch bắn vào bụng cũng ráng đáp an toàn để nhập viện rồi đi đâu cái bị nylon cũng ở bên mình …. Quan sát viên như Đức (người cày cỏ ruộng) Đoàn Lương, Xuân, Nu, Minh Nguyệt, Đôn (lò) và biết bao nhiêu bạn nữa là những người thân thương nhất cùng tôi sống chết trên bầu trời đầy lữa đạn, giờ đây tôi chia tay các bạn, giã từ phi trường, các địa danh quen thuộc, thành phố Pleiku và các biệt đội là nơi đã để lại cho tôi biết bao vui buồn của đời lính.

Về lại Đà Nẵng của đất Quảng mến yêu, tôi cũng tiếp tục chiến đấu như các bạn đang chiến đấu ở đây vậy. Chiến trường miền trung sôi động hơn nhiều, tôi lao mình vào nơi khói lửa ngay từ chiến trường nầy đến nơi biệt phái khác, vẫn nhớ Pleiku thân yêu, vẫn nhớ những nơi biệt phái mình đã qua, để lại nơi đây biết bao kỷ niệm, biết bao tình cảm của người lính độc thân xa nhà mà khó ai tránh khỏi.

Lấy vợ thấm thoát được ba năm, đã có hai con một trai một gái thật hạnh phúc quá. Nhớ lại lời má “ hôn nhân tới trước hạnh phúc theo sau” thật không sai chút nào, có vợ biết yêu thương lo lắng cho vợ, cũng biết chìu chuộng khi em làm nủng, có cho nhau tình yêu thì mới nhận được hạnh phúc phải thế không em? Vợ tôi lúc nầy vừa buôn bán vừa lo con dại bận rộn tối ngày mà chẳng đòi hỏi nơi tôi một sự giúp đở nào cả, ngày qua ngày cuộc sống vẫn hạnh phúc êm đềm trôi qua, một hôm vợ nói nhỏ vào tai em có bầu đứa nữa anh, độ sáu bảy tháng thôi anh có con bồng, như vậy là ba năm ba đứa đó, chừa và tha bớt cho em đi nghe ông chồng yêu của em, rồi em cười ôi hạnh phúc quá.

Một hôm tôi ghé qua nhà L gặp em nàng cho biết, chị L có chồng sau anh một năm bây giờ chị có được hai con. Vợ chồng chị thuê nhà ở xa đây lắm, em hỏi anh còn nhớ chị không? “Nhắc chi chuyện đau lòng ấy em ơi” tôi ngậm ngùi không trả lời được gì cả. Tôi cũng xót xa cũng đau lòng cho một mối tình đẹp đã qua trong đời mình.


***

Tình hình chiến sự lúc nầy trở nên bi đát, tin xấu từ mọi nơi dồn dập đến, Ban Mê Thuột, Pleiku mất rồi đến Đà Nẵng, và cuối cùng lịch sử cũng sang trang. Chiến tranh chấm dứt, đồng đội tan rã mạnh ai nấy chạy, tôi không thể bỏ vợ bầu con thơ trong lúc nầy mà chạy tìm đường thoát thân được, đành ở lại chịu chung số phận cùng những người bại trận. Một điều thật cay đắng bây giờ mới thấy được chúng ta là những con ong thợ hút nhụy về xây tổ hì hục từ sáng đến chiều tạo những chiến công về dâng cho thượng cấp, khi tan hàng thượng cấp âm thầm bỏ chạy không một lời từ biệt đồng đội anh em.

Tôi lên núi cùng anh em bại trận, để trãi dài những ngày tù tội, sáu tháng sau như lời vợ nói, thằng cu thứ ba ra đời. Vừa sung sướng lại vừa lo lắng cho hoàn cảnh khó khăn của vợ chưa đầy hai mốt đã ba đứa, đứa dắt đứa bồng đứa khóc o oe trong nôi đòi sữa mẹ mà phải bôn ba chịu khó xoay xở cho qua ngày khi không có chồng bên cạnh. Với thân gầy lặn lội hai vai gánh nặng tìm kế mưu sinh cùng mẹ chồng già yếu để lo cho con dại, cho chồng ở tù trên núi xa. Cái tuổi của em đáng lẽ em còn bay còn nhảy còn hồn nhiên như bao người con gái khác vẫn còn vui chơi với bạn bè thỏa thích, nhưng em không buồn em không trách phận, em vẫn vui chịu đựng mọi khó khăn để nuôi con thăm chồng khi được phép. Mình cứ tưởng đàn ông mới là cực khổ gian nan cận kề cái chết qua từng đường tơ kẻ tóc lúc ra mặt trận hoặc gian nan lội suối trèo non lao động vất vả tay xướt chân trầy bởi gai rừng của những ngày tù tội, đâu có thể so bằng cái khó khăn cái thiếu thốn lo toan từng bửa cho con trẻ, khi con ốm đau một mình chữa trị cho con, cái cần thiết cho bản thân cũng chẳng cần, bên tai luôn nghe những lời xỉ mắng nào vợ sĩ quan ngụy nào giặc lái ác ôn, em cũng cúi mặt làm ngơ chỉ lo chắt chiu từng đồng từng cắt để bới xách cho chồng, thật vĩ đại quá phải không em?

Sự chịu đựng khó nhọc và cố gắng làm ăn cũng đươc đền đáp công lao, cố xoay xở em mua được căn nhà nhỏ ngay đường phố có chỗ buôn bán, có chỗ cho mẹ già cùng bốn mẹ con trú ngụ.

Sau hai năm tù “cải tạo”, tôi được trở về sum hợp với gia đình, ngạc nhiên cùng mừng rỡ em ôm chồng mừng mừng tủi tủi, nghẹn ngào không nói được lời nào cả.

Mọi quá khứ đã đi qua bây giờ chúng tôi bắt đầu cuộc sống mới, cuộc sống của tù binh trở về với nhiều nghề bị hạn chế nên tôi chỉ biết phụ giúp vợ buôn bán, chăm lo các con, dần dần cuộc sống cũng thay đổi, sự hạn chế nghề nghiệp của chúng tôi cũng bớt đi đáng kể. Tôi cùng vợ ra sức làm, trời không phụ lòng chúng tôi mua được nhà khác khang trang rộng rãi hơn, con cái cũng lớn dần theo thời gian cũng có được trình độ để vào đời có công ăn việc làm có vợ có chồng, tất cả có cháu cho chúng tôi ẳm bồng để đợi tuổi già ghé đến.

Tình cờ tôi gặp lại L ở nhà người thân, mặt giáp mặt mà lòng xót xa cho một mối tình đỗ vỡ, tôi cố tình thờ ơ lạnh lùng như không biết những gì nàng nhắc lại, lý trí vẫn còn sáng suốt, tôi cố tình làm vậy cốt để nàng quên tôi, xem tôi như người tình phụ bạc để nàng được hạnh phúc bên người chồng thân yêu của mình, để tôi được hoàn toàn là lá chắn là chỗ dựa vững chắc nhất của vợ con trong lúc nầy và mãi mãi.

Nghĩ lại tình cảm trải qua trong cuộc đời dù chai lì cho mấy rồi cũng có một phút nào đó để tâm tư lắng đọng để cho mình ngẫm nghĩ…..

Chuyện đã qua đi tình cảm hạnh phúc bên nhau trên bốn chục năm rồi, mình chưa một lời nói nặng cho nhau chưa một lần làm buồn cho nhau phải không em? hạnh phúc luôn bao quanh bên ta phài không em?.

Anh đã trãi hết lòng mình trên giấy để em hiểu tận đáy lòng anh như anh đã hứa là sẽ kể cho em nghe về “Người Ấy” rồi đó, vợ yêu dấu của anh.


Không Quân Phạm Đắc Giáp
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=2491130820910631&set=gm.2396794917025272&type=3&theater

BachMa
09-12-2019, 07:12 PM
Ðại Ðội 4 - Tiểu Ðoàn 248 - Liên Đoàn 925 Ðịa Phương Quân
Trung Úy Nguyễn Tấn Hợi

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1561340628-HQPD_NguyenTanHoi.jpg
Hình minh họa
Tôi Nguyễn Tấn Hợi, cựu Trung úy, Đại đội trưởng Ðại Ðội 4/Tiểu Ðoàn 248/ÐP thuộc Liên Ðoàn 925 DP/BT, do Ðại Tá Lại Văn Khuy làm Liên đoàn trưởng, phụ trách an ninh lãnh thổ 4 quận miền Bắc tỉnh Bình Thuận. Liên đoàn có 3 tiểu đoàn DP tác chiến: TÐ 248 ở Tuy Phong, TÐ 212 đóng tại Lương Sơn và TÐ 229 phụ trách vùng Hải Ninh.

Riêng TÐ 248/ÐP đóng tại Tuy Phong là quận cực Bắc Bình Thuận, từ Mũi Cà Ná vào đến Bầu Ðá giáp ranh quận Hòa Ða, trên một lãnh thổ phức tạp, đầy núi non, bãi biển, nhiều đảo và những cánh đồng mênh mông. TÐ có 4 đại đội tác chiến và 1 đại đội chỉ huy công vụ: ÐÐ1-Trung Úy Hàm, ÐÐ2-Trung Úy Quý, ÐÐ3-Trung Úy Ðức, và ÐÐ4 là tôi. ÐÐT/Chỉ Huy Công Vụ lúc bấy giờ là Trung Úy Thức, trưởng Ban 3 là Ðại Úy Tuân, phụ tá là Thiếu Úy Thiện, trưởng Ban Truyền Tin là Trung Úy Hải. BCH TÐ đóng tại cầu Ðại Hòa thuộc Quận Tuy Phong. Thiếu Tá Nguyễn Văn Xuân, thuộc binh chủng LLDB về thay thế Thiếu Tá Lê Văn Trung, là tiểu đoàn trưởng cuối cùng.

Ngoài ra TÐ còn có Ðại Úy Nguyễn Văn Ngọc, nguyên trưởng Phòng 2/TK Bình Thuận, không biết sao bị thuyên chuyển tới chốn này để ngồi chơi xơi nước. Sau tháng 5,1975, Ðại Úy Ngọc bị tù tận miền Bắc và về Nam vẫn ở tù tại trại Z30 Hàm Tân gần 13 năm, giống như Phó Tỉnh Trưởng BT – Phạm Ngọc Cửu..

Ngày 15 tháng 4 năm 1975, Ðại Ðội 4/248 ÐP nhận được lệnh trở về BCH/TÐ 248, trong lúc đang tăng phái hành quân cho TÐ 212 ở Lương Sơn, đóng tại đập Ðồng Mới, vì lý do áp lực địch tại khu vực này quá mạnh. Là một đơn vị tăng phái hành quân, Ðại đội của tôi lại đóng bên kia sông Lũy, nên chỉ tự lo lấy thân thôi, dù cách BCH của Liên Ðoàn 925 ÐP tại Lương Sơn khoảng vài cây số. Nói chung là không có được một sự tiếp viện nào ngoại trừ pháo binh và không quân yểm trợ khi cần thiết.

Sáng hôm đó, tôi rút ÐÐ qua sông và ở trên quốc lộ 1 chờ phương tiện di chuyển. Chi khu Phan Lý Chàm có tăng cường cho 2 xe GMC chở quân. Tôi nghĩ cũng là chở một đại đội với quân số cùng trang bị đầy đủ mà chỉ có 2 xe thì làm sao chuyển hết? Tôi có hỏi thì được trả lời, ráng mà sắp xếp sẽ có xe thêm. Lúc này thì cuộc chiến đã nóng bỏng rồi. Lệnh mà thôi, có bao nhiêu sử dụng bấy nhiêu.

Ðợt đầu tôi đem 2 trung đội và một tiểu đội viễn thám; Nói về tiểu đội viễn thám này tuy chỉ có 12 người nhưng có tầm vóc tác chiến bằng một trung đội. Chuyến đi phục kích và bảo vệ BCH/ÐÐ được trang bị súng đạn, truyền tin cũng như một trung đội, còn lại 2 trung đội tôi giao cho đại đội phó là Trung Úy Ðạt để chờ di chuyển về sau.

Trên đường di chuyển về Tuy Phong tới Bầu Ðá ranh giới của Quận Hòa Ða và Quận Tuy Phong vắng vẻ thì bị phục kích. Tôi ở chiếc xe đầu và ngồi kế bên tài xế, khi súng nổ tôi thấy những trái B40 bay qua đầu xe, tài xế đạp thắng, tôi bèn rút cây Colt 45 ra và ra lệnh cho tài xế cứ chạy, cứ giữ vững tay lái, bằng một động tác cực nhanh tôi hất chân gas của tài xế để tự tôi đạp gas chạy hết tốc độ. Ðạn B40 vẫn tiếp tục băng qua đầu xe, tất cả binh sĩ trên xe đều nổ súng bắn trả; Nhờ ơn trên phù hộ, 2 chiếc GMC đã thoát được phục kích và chạy về BCH/TÐ, xe dừng tôi kiểm soát lại thì không có một ai chết hay bị thương, riêng cái bao đựng cây ăng ten bảy đoạn thì lủng hết không còn sử dụng được.

Sau khi nhận bổ sung đạn dược và lương khô, ÐÐ tôi, lại được lệnh tiếp tục di chuyển ra Cà Ná. Ðiều này cũng lạ, tôi tự nhủ, như vậy 3 đại đội kia đâu? Tại sao phải chờ tôi về để đem ra Cà Ná trong lúc chiến trường Phan Rang, đang dầu sôi lửa bỏng ? Ðiều này đã làm cho tôi có suy nghĩ: “Ðã tăng phái ÐÐ tôi cho TÐ 212 đem tôi ra đóng quân tại đập Ðồng Mới, là một nơi đồng không mông quạnh chỉ có cây với những bãi đất khô cằn, không một ngọn cỏ mọc, rồi bây giờ họ chờ cho bằng được tôi về rồi thảy ra tuyến đầu. Còn 3 vị ÐÐT kia đâu rồi mà phải chờ tôi di chuyển ra Cà Ná?. Tuy nhiên lệnh là lệnh tôi phải thi hành, tôi tiếp tục thẳng tiến, nhìn lại những người lính thân yêu mà tội nghiệp cho họ, linh tính và sự suy nghĩ của một cấp chỉ huy chiến trường, tôi tự nhủ rằng có thể kỳ này ra đi là không có ngày trở lại. Nhưng thân phận của Người Lính VNCH là thế đó, không thế lực gửi gấm, không tiền bạc lo lót, thì tác chiến muôn năm là cái chắc, lon lá huy chương, chức vụ văn phòng, bốn bên liên hợp, này này nọ nọ, người lính nghèo đâu có bao giờ mơ ước, thậm chí trại gia binh cũng tước đoạt để cấp cho phe đảng… Nghĩ tới niềm đau và nước mắt như vậy, song vẫn cứ đi, tôi ra lệnh cho xe khởi hành.

Trung Úy Thức ÐÐ/CHCV, hiện ở Texas-Hoa Kỳ, có kể cho tôi nghe qua điện thoại: Tại BCH/TÐ, Thiếu Tá Xuân và Trung Úy Hải Truyền Tin cho biết là phải đi họp ở Phan Rí hay tại BCH Tuy Phong, và đã đem tất cả máy truyền tin theo (?), cho nên Thức không có máy để liên lạc được với tôi đành chịu. Khi tình thế thật nguy ngập, Thức cùng với Thiếu Úy Thiện chạy về Chi Khu Tuy Phong vì nơi đây còn vợ và 3 đứa con của Thức. Thức cõng 1 đứa, Thiện cõng 1 đứa và vợ Thức dẫn 1 đứa chạy ra biển để tìm ghe di tản. Khi đến nơi thì chỉ có Thức và Thiện là quân nhân nên được cho ra tàu, còn vợ và 3 con ở lại; gạt nước mắt, vợ Thức dẫn 3 đứa con trở lại, kể từ đó mất liên lạc không còn biết tin tức gì nữa. Nghĩ cũng thật đau thương cho cuộc đời của những người lính, trong khi đó vợ và con của những quan quyền, thời nào, cũng hưởng được mọi sung sướng, cho tới lúc tàn cuộc cũng may mắn hạnh phúc như thuở nào.

Trở lại trận chiến. Cà Ná là ranh giới của TK Bình Thuận và TK Ninh Thuận, qua khỏi bảng chia ranh giới chừng vài chục thước là có quán Cà Ná Quán, nơi đây xe chở hành khách từ Sài Gòn ra thường hay ghé vào quán này ăn cơm trưa. Sở dĩ tôi biết là vì đã từng đóng quân ở đây. Vùng này có một ngọn núi đối diện với Cà Ná Quán, kế bên là Dinh Cô, muốn lên phải leo 99 bậc thang xây bằng đá. Từ tấm bảng chia ranh giới về hướng Phan Thiết, một bên là núi, một bên là biển, mà hiểm trở nhất là cây cầu có tên là cầu Ðá Chẹt.

Cầu này nằm trên quốc lộ 1, giữa một bên núi cao, một bên biển thấp, nối tiếp có thêm mấy cây cầu nhỏ, thật hiểm trở vô cùng. Nhiều lúc tôi đã có những suy nghĩ là phải triệt hạ mấy cây cầu này để làm chậm bớt sự di chuyển của quân CSBV, vì cầu sập muốn đi qua, Công Binh của quân CS phải cần có thời gian tái tạo, nhưng rồi còn người dân họ muốn đi tìm tự do thì sao?, nghĩ thì nghĩ vậy nhưng rồi mất đi như một ảo tưởng. Vì tình hình biến chuyển quá nhanh, nên sau khi liên lạc nhận lệnh từ BCH/TÐ, Ðại đội tôi bỏ Cà Ná rút về xóm Vĩnh Hảo, nhưng nhận thấy đây không phải là vị trí phòng thủ, nên tôi lại di chuyển tiếp tới Sở Nước-Suối Vĩnh Hảo. Ðối diện về phía bên kia QL1, có một hòn núi không cao lắm, nguyên là căn cứ pháo binh của Mỹ. Tôi chọn đóng quân ở đây, vì nó là một vị trí phòng thủ thiên nhiên rất lý tưởng. Hơn nữa, nếu nguy cấp, DD có thể rút ra phía sau núi, gần sát bờ biển. Chuyện đã đến nước này rồi, thân phải lo thân, không những mình tôi mà toàn bộ số lính thân yêu đã theo tôi trong suốt đoạn đường gian khổ.

Khoảng 10 giờ sáng ngày 16 tháng 4, 1975, tôi đang ở trên ngọn núi đối diện Sở Nước Suối Vĩnh Hảo, đặt ống dòm tôi thấy đoàn xe bụi mù mịt. Ngó lại mấy cây cầu, phải chi trước đó tôi đã có nói là phải tính toán nó đi, thì giờ đây, dĩ nhiên chận đứng được đoàn xe này rồi . Việc này chính tôi có đề nghị với BCH/TÐ và nơi đã trình lên Chi Khu cùng Tiểu Khu, nhưng không thẩm quyền nào quyết định nổi, vì lúc đó Mặt Trận Phan Rang còn đang tiếp diễn, làm sao có thể phá cầu, trên đường rút lui của đoàn quân?

Rồi tới lúc nguy ngập, tôi lại xin lệnh phá Cầu Ðá Chẹt nhưng cũng không được chấp thuận. Sau này gặp lại cựu Trung Úy Thức, anh cho biết là BCH/TD có xuống BCH Tuy Phong để bàn thảo chuyện này, nhưng không thấy thực hiện gì hết. Tới khi tôi liên lạc về BCH/TÐ, báo cáo, là đã nhìn thấy xuất hiện đoàn xe bụi tung mù trời, gần xóm Vĩnh Hảo, cách chỗ tôi đóng quân chừng 5-6 cây số và cách BCH/TÐ khoảng hơn 10 cây số và xin phi vụ giội bom đoàn xe trên. Lúc đó, tuy đã được Trung Tâm Hỏa Lực chấp thuận, nhưng vì tình hình chiến trường đang sôi động khắp nơi, nhất là tại các mặt trận Phan Rang, Phan Thiết và Xuân Lộc. Hơn nữa, phi trường Phan Rang thì đã mất, chỉ còn phi trường Biên Hòa. Tôi cố liên lạc về BCH/TÐ, kể cả BCH Tùy Phong nhưng không nơi nào trả lời, vì đã di tản ra chiến hạm Hải Quân 503 trước khi đoàn xe CS tới, vì vậy mới gặp Thiếu tá Quận trưởng Tuy Phong là Hà Văn Thành ở trên tàu.

Thật sự lúc đó, đơn vị của tôi chưa hề chạm địch, nên khi liên lạc được phi vụ, khoảng 10 giờ sáng. Tôi đã liên lạc với phi công và báo cáo mục tiêu xin oanh kích nhưng không hiểu vì lý do gì, hai chiếc F-5 lại thả hai trái bom xuống vị trí đóng quân của tôi, rồi bay mất về hướng Nam. Cũng may, bom lạc ra ngoài nên không có ai bị thương vong. Ðây có lẽ vì áp lực phòng không lúc đó rất nặng, nên phải bay cao ngoài tầm pháo của địch, vì tôi vẫn còn nghe họ gọi danh hiệu của tôi lúc đó là Bản Thế theo đặc lệnh truyền tin, song tôi không dám lên tiếng, vì sợ lại bị KQ thả bom lầm như trước.

Lúc này ÐÐ chỉ còn 2/3 quân số, vì khi rời Lương Sơn, tôi đã giao cho ÐÐP chỉ huy 2 trung đội còn lại, trong lúc chờ phương tiện. Ðây cũng là điều may mắn đã xui khiến Chi Khu Phan Lý Chàm cung cấp không đủ xe để di chuyển toàn đại đội về Tuy Phong. Nếu không, tại trận phục kích ở Bầu Ðá, có nhiều xe thế nào cũng dính. Ngoài ra nếu đủ quân số, phải rải quân rộng, chắc chắn sẽ bị ăn bom của KQ bỏ lầm.

Lúc này tại Tuy Phong chỉ còn có một mình ÐD4 (-) của TÐ248 ÐP mà thôi, chính tôi cũng không biết sẽ đi về đâu vì mọi liên lạc với BCH/TÐ và Chi Khu coi như bị cắt đứt. Ðứng trên núi cao, qua ống dòm tôi thấy trên quốc lộ 1, dân chúng chạy lánh nạn đầy đường, bằng đủ loại phương tiện, kể cả xe đạp.Thấy vậy, tôi xuống dọ hỏi, mới biết đó là dân chúng Vĩnh Hảo, khi thấy đoàn xe của VC tới, nên rủ nhau bỏ nhà di tản. Họ còn cho biết đoàn xe của bộ đội Cộng Sản rất dài, trong số này có nhiều xe GMC tịch thu của TK. Ninh Thuận bỏ lại, khi mặt trận Phan Rang tan vỡ, hiện đang ngừng ngay trước chợ.

Tôi có nghĩ là sẽ rút về Phan Thiết nhưng làm sao được, vì phải di chuyển cả một chặng đường xa xôi, mà tôi là tuyến đầu. Bởi vậy, tôi đem 2 trung đội xuống nằm ở sát chân núi, trước mặt là 1 giao thông hào, dùng thoát nước mưa, để khỏi hư mặt lộ. Nhờ nó, mà đơn vị đã rút an toàn ra bờ biển, bởi vì xe hay chiến xa cũng không vượt qua được cái giao thông hào. Tôi để lại Tiểu Ðội Viễn Thám, nằm kích ở lưng chừng núi có gì yểm trợ, vì ở trên cao không sợ lạc đạn. Tới đường cùng rồi, những nghẹn ngào uất ức không làm sao giải tỏa được. Tôi xuống chận dân để hỏi tình hình tiếp, vì lúc đó đoàn xe còn đứng chưa di chuyển và được trả lời là có 1 chiếc xe Jeep sắp sửa chạy trước để đến đây, tôi nghĩ đoàn xe chưa đi, tôi đặt ống dòm nhìn thì thấy vẫn yên tĩnh, nếu 1 chiếc xe thì tôi lượm liền, chứ 1 đoàn quân thì vô vọng, tính cho cùng thì cũng chỉ trứng chọi với đá.

Nói thực lính ÐPQ chúng tôi làm gì có kinh nghiệm đánh chiến xa, chính bản thân tôi là đại đội trưởng cũng chưa có kinh nghiệm đánh chiến xa ngoài lý thuyết, nhưng rất có kinh nghiệm về bộ chiến.

Tôi ra lịnh 1 chính, 1 yểm trợ, dù tôi biết rằng sau lưng tôi không có ai, chỉ có cây cối, đồi núi chim muông và những loài thú lạc lõng trong tiếng bom nổ. Thân tự lo thân, tôi chuẩn bị để tiêu diệt chiếc xe Jeep này, nằm chờ, chờ đến khi trong tầm nhìn thì không có chiếc xe Jeep nào hết mà là 1 đoàn xe, chạy đầu là chiếc PT76 thì phải. Việc gì đến đã đến, không thèm sự đợi chờ một người yêu không đáng yêu. Súng nổ, vẫn cứ nổ, đoàn xe dừng lại, súng vẫn cứ nổ, tôi thấy chung quanh mình toàn là lửa với lửa.

Tôi ra lệnh cho tất cả theo đường thông thủy, từ đó an toàn có cây cối và đá bảo vệ, che kín, lâu lâu dùng súng cối bắn ra quốc lộ, chúng cứ bắn vào, nhờ thế mà tôi đã hướng dẫn đơn vị ra tới bờ biển. Chính tôi ra lệnh bỏ tất cả quân trang mang theo cho nhẹ, chỉ súng đạn, lương khô, đi theo con đường thông thủy đâu phải chuyện dễ.

Nói tới vùng biển từ Cửa Xuất tới Long Hương (Chi Khu Tuy Phong) tôi nằm ở giữa, đến khi ra được tới bờ biển thì đã gần tối rồi. Chạy dọc bờ biển có đủ loại cây mọc, nào cây Ma Vương thấp có gai nhưng trái ăn rất ngon, thêm những bụi rù rì mọc từng đám nhưng có khoảng cách, đây chính là sự an toàn cho cho đơn vị, tôi ra lệnh đào hầm trong những bụi rù rì và hy vọng Tàu Hải Quân chạy qua.

Nhờ còn có máy và các loại đặc lệnh truyền tin, nên tôi đã gọi cầu cứu khắp nơi, nhưng chẳng một ai hồi đáp. Không lẽ số phận tôi sinh ra làm bia đỡ đạn, còn những lính tráng khác của mình nữa cũng chung số phận sao? Những người mà bao năm sương gió, khổ cực, đã theo tôi trong suốt đoạn đường chinh chiến.

Trời càng về đêm, càng âm u thê lương không thể tả, những khuôn mặt lính mệt mỏi, cay đắng xen lẫn ngậm ngùi, cho số phận của con người VN bất hạnh, nhưng không một oán hờn gì cả, nếu có chỉ trong lòng. Tôi cảm nghĩ tất cả lính của tôi cũng có những cảm nghĩ gì đó, nhưng mà có một điều tôi cam đoan rằng là có tôi, tôi là cấp chỉ huy không bỏ họ, bằng mọi giá phải đưa họ đi dù chỉ là phương trời vô vọng. Họ thấy an tâm, dù sao ở giữa cõi trời đất mênh mông, thê lương còn có tôi. Tôi rất tự hào điều này. Tất cả như bất động giữa đồng vắng, trong lúc đó, biển cả vẫn phẫn nộ, nổi sóng, không biết biển cả nổi sóng phẫn nộ vì thương hại giùm cho những người lính bất hạnh, nên cùng hòa nhịp cho kẻ khốn cùng, đã tới được bờ biển và gọi cấp cứu, không biết bao nhiêu lần nhưng đếu vô vọng. Trong lúc đó, có nhiều toán du kích di chuyển về hướng Long Hương, quận Tuy Phong nhưng tôi ra lệnh không nổ súng. Xa xa vọng lại, những tiếng nổ long trời, tôi đoán là những kho hậu cứ của Chi Khu Tuy Phong bị nổ.

Lúc đó không biết đã mấy giờ rồi nhưng trời tối đen như mực, sóng biển vẫn phẫn nộ, đập vào bãi cát như có vẻ tức giận một điều gì ? Cái đồng hồ của tôi trong lúc di chuyển theo đường thông thủy đã bị vướng mất, đó cũng là một kỷ niệm, bởi vì nó đã theo tôi suốt đoạn đường chinh chiến, mất một cái đồng hồ đã sử dụng tới 7 năm thì không tiếc, mà mất một vật kỷ niệm mới ngậm ngùi.

Sau khi đào hầm hố xong, Tôi suy nghĩ đêm đã xuống rồi, rút băng qua QL1 để về Phan Thiết thì chỉ là vô vọng, không lương thực, mà đạn dược thì thiếu thốn, có đi thì cũng chả biết đi về đâu. Tôi vẫn gọi, đến nước này thì cũng bước đường cùng, nhưng có sự thân yêu, dầu sao cũng còn số lính của tôi, tới giờ chót vẫn nghe lệnh tôi, đó cũng là một an ủi cuối cùng.

Giữa lúc tuyệt vọng não nề, thì gặp được tiếng trả lời, tôi không rõ tại vì tôi không có tần số đó, sau này tôi mới biết là họ đã rà vì nghe tôi gọi quá chừng. Xưng danh là Giang Ðoàn 27 từ Phan Rang vô, nhưng họ bảo tôi nếu có ai xác nhận anh là Bản Thể là tôi vô bốc anh liền. Kể cũng thật may, lúc đó tôi nhận được tiếng của Thiếu Tá Hà Văn Thành, đã xác nhận tôi là Bản Thể tức là danh hiệu của đại đội trưởng lúc đó theo đặc lệnh truyền tin. Nhờ vậy chúng tôi được cứu sống.

Trong lúc đợi chờ tàu HQ vào vớt, tôi có dặn lính khi gác thì nằm xuống, đêm tối như mực, không thể nào đúng gác mà thấy được, tại vì ở bờ biển mà, chỉ có nằm xuống mới thấy dạng người ở ngoài biển vào thôi. Cùng lúc, nhìn về hướng Chi Khu Tuy Phong tiếng nổ vẫn không dứt. Mông lung suy tư và chờ đợi, lúc này phải nói là tâm tôi rối bời, không biết Hải Quân hứa vào “bốc” chúng tôi có hay không, hay là chờ chết, chỉ đến sáng mai thôi, bình minh vừa ló dạng đem bao nhiêu nguồn vui cho mọi người là lức tôi chỉ chờ chết. Chết với tôi lúc đó thì cũng không có một ý niệm nào, mà lúc đó tôi rất căng thẳng. Nói là hầm trú ẩn chứ đó chỉ là một cái hố đào sâu che cái poncho cho tôi ngồi ở dưới rọi đèn pin gọi các nơi. Gọi Hải Quân tôi chấm tọa độ và Hải Quân hứa sẽ vào bốc ra, chờ và chờ.

Tôi không nhớ rõ thời gian chắc có lẽ là nửa đêm thì phải, sương biển đã thấm lạnh đôi vai người lính, thực ra đời lính chiến tôi có đụng chạm những chuyện như thế này tuy vậy còn có những đơn vị bạn yểm trợ, sương lạnh bờ vai cũng chỉ là những đêm đóng trên những ngọn đồi dọc theo QL1 có đủ thời gian ngồi nhìn trăng lên mà lòng cảm thấy một cái gì lý thú trong gian khổ. Còn cái này thì hết biết rồi. Tôi dặn lính gác rất là cẩn thận bởi vì từ ngoài biển khơi có người vào là phe ta.

Có 1 người lính chạy tới báo tôi biết là có 2 người từ ngoài biển đi vô và yêu cầu gặp tôi. Tôi bước tới, 2 người mới tới trong đêm vắng của biển cả, tôi thấy họ mặc đồ gì lạ quá, 2 người hỏi tôi có phải anh là đại đội trưởng không thì tôi nói là tôi. Rồi 2 người 1 phải 1 trái xốc nách tôi nhảy xuống biển và đi luôn, tôi nghe 1 trong 2 người nói anh ngước mặt lên để khỏi bị nước vô mũi, miệng, tôi đưa anh đi, tôi độ chừng chắc cũng nửa tiếng đồng hồ thì bước lên trên một vùng đá san hô, lúc đó tôi mới hiểu là chiếc tàu họ đem vào vì đêm tối đã cỡi trên rặng san hô rồi. Họ bảo vì đêm tối không thấy rặng san hô. Họ báo cho biết là họ chỉ được lệnh “bốc” tôi ra thôi, tôi năn nỉ xin vui lòng cứu những đồng đội của tôi nữa, sau này khi vào Vũng Tàu tôi có gặp 2 vị trung úy đó nhưng đã quên tên, xin cảm ơn 2 vị.

Cuối cùng 2 vị trung úy đồng ý cho lính tôi ra nhưng phải lội ra chứ không bốc được vì lúc đó tàu còn nằm trên rặng san hô. Tôi mượn máy truyền tin gọi vào bờ và ra lệnh cứ lội ra trước mặt gần lắm, tàu đã bị mắc rặng rồi, toàn bộ súng đạn, máy truyền tin cứ đội lên đầu đi ra đến khi nào bắt đầu lội là thả hết xuống biển, tuyệt nhiên không để lại một cái gì ở bờ biển hết. Lại một lần nữa, ơn trên phù hộ cuối cùng toàn bộ đơn vị tôi cũng ra được. Hóa ra đó là Duyên Ðoàn 27 đóng tại Phan Rang, và sau đó đưa chúng tôi ra chiếc Duyên Vận Hạm 503 đang nằm ở gần Vịnh Cà Ná.

Mờ sáng là đơn vị tôi đã lên chiếc Duyên Hải Vận 503, lúc đó tôi có gặp Thiếu Tá Thành – quận trưởng Quận Tuy Phong, tôi có đôi lời cảm ơn cứu tử. Nếu không có Thiếu Tá Thành xác nhận thì tôi cũng không bao giờ ra được chiếc 503 mà mấy vị trung úy HQ đã phải lặn lội dưới nước biển trong đêm khuya để mang tôi ra ngoài tàu. Ðó cũng là một ý niệm tình huynh đệ chi binh. Trong khi tôi đã ở với các ông không biết bao nhiêu lâu, buồn có vui có, đủ mọi chuyện trên đời tuy tôi không kể ra đây. Nhưng với 2 vị trung úy HQ, tôi đâu có ở với 2 vị Hải Quân đó mà chỉ gặp nhau bằng liên lạc truyền tin mà họ đã “bốc” tôi rồi, như vậy LÐ 925/ÐP và TÐ 248/ÐP nghĩ coi thế nào?

Ðứng trên chiếc Duyên Hải Vận 503, khoảng 10 giờ sáng, con tàu đang bấp bênh trên biển với những cuộn sóng thật dữ dội, tôi nhìn vào đất liền thấy những mảnh kiếng chiếu ra nhiều vô kể như sao lấp lánh trên giải Ngân Hà trong bầu trời đêm. Vì Cửa Xuất không phải là cảng cập bến cho loại tàu lớn như chiếc HQ. 503, nên tôi thấy các vị sĩ quan Hải Quân trên tàu, đã chận những chiếc ghe đánh cá lúc đó, cho họ dầu và nhờ chạy vào bờ bốc lính ra. Những hành động trân quý này, thật đúng tình huynh đệ chi binh của QLVNCH.

Khi công tác cứu vớt lính còn đang tiếp diễn, thì những đạn pháo từ trong bờ bắn ra, bởi vì chiếc HQ-503 ở rất gần Vịnh Cà Ná. Ðó là đạn 130 ly bắn trực xạ của CS, những trái đầu tiên bay qua tàu và rớt ở xa, tôi nghe chiếc loa trước pháo đài chỉ huy kêu cầu cứu, rồi những trái sau có lẽ là trúng pháo tháp chỉ huy đầu tiên và sau đó là trên boong, trên tàu lúc này thì ít người thôi, nếu lúc đó có vào khoảng vài trăm người thì thương vong rất là nhiều, dầu tôi là Bộ Binh nhưng không biết chỗ nào để ẩn núp, đành chịu trận, những tiếng nổ thật chát chúa như muốn bể tung đầu. Bỗng dưng tôi thấy 1 nắp hầm bật lên, tôi và số ít chạy xuống lòng tàu, lúc này tàu lắc dữ lắm. Tôi chạy ra trước mũi rồi lại chạy lên boong trong tư thế vừa đứng vừa ngã nghiêng, vì con tàu đã bị thương. Rồi nó lắc lư dữ dội, có lẽ tàu ở sóng ngang nên khi sóng đập vào mạn hông là tàu nghiêng, hết đập là tàu đứng, cứ thế tôi phải vịn vào lan can tàu để rồi cùng lắc lư với nó, nhìn ra ngoài khơi thấy có 5 cột khói bốc cao (lúc đó chiếc 503 gọi cấp cứu), cứ thế hải pháo bắn vào bờ như một bầy kên kên, quà quạ.

Trong tình huống như the , mà lính của tôi còn lo lắng cho cấp chỉ huy của mình, khi đưa cho tôi 2 cái bi đông không, có dây đeo, để tôi tròng vào cổ làm phao khi tàu chìm. Nhưng “phước bất trùng lai,” đây là lần thứ 3, ơn trên phù hộ. Tiếng súng bắn từ bờ biển đã im bặt vì hải pháo bắn vào rất dữ dội, nên VC chịu không nổi đã rút hết.

Tàu bị thủng ở bên hông nhưng nhờ có 5 chiến hạm khác tới cứu, hai chiếc dìu bên hông nên dần dần chiếc 503 trở lại bình thường và bơm nước ra và cột tàu để kè chiếc bị thương đi trong đêm tối. Mệt mỏi ê chề, tôi đã thiếp đi, đến khi tỉnh dậy đã thấy gần đất liền và tàu cập bến Vũng Tàu vào khoảng 10 giờ sáng.

Ðầu tiên là 9 chiếc băng ca phủ drap trắng. Xin 1 phút mặc niệm cho hương hồn những vị đã vì Tổ quốc vong thân. Khi đơn vị chúng tôi lên bờ thì đã có Quân Cảnh túc trực tại chỗ để thu súng đạn.

Súng đạn gì nữa, đã bỏ hết dưới biển rồi, duy nhất một kỷ vật luôn luôn mang theo trong người là tấm thẻ bài cũng đã yên vị trong lòng biển cả mênh mông, còn tấm kia đưa cho bà xã cất giữ, phòng khi có mệnh hệ gì còn có nó để nhận xác, và giờ đây tấm thẻ bài kỷ vật này tôi còn đang giữ khi đi định cư ở Mỹ.

Quân Cảnh hướng dẫn đơn vị tôi lên chiếc GMC và chạy. Khi đến nơi họ cho biết đây là Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp, nơi đây họ báo rằng TK Bình Thuận chưa mất và phải tìm đường trở về. Lạ quá, lúc đó là buổi sáng ngày 18 tháng 4, 1975 đúng là Bình Thuận chưa mất, mà mất vào ngày 19 tháng 4, 1975 trong khi tôi ở tuyến đầu. Tôi có trình bày là không thể nào về lại Bình Thuận được vì ngày tôi đi là Cà Ná đã mất rồi. Tôi ở lại trong TTHL Vạn Kiếp nhưng hình như là khu tiếp tân. Cuối cùng họ bảo tôi xem có ai để nhận dạng tôi hay không? Thật ra thì lúc ấy chưa có ai ở Bình Thuận vào cả mà chỉ có đơn vị của tôi và một số ít sĩ quan và binh sĩ của TÐ tôi và CK TuyPhong đã lên chiếc 503 ngày trước như đã kể trên thôi.

Ðến đây thì tôi nhớ lại lúc trước nguyên tôi là đại đội phó của Ðại Úy Lộc khi tôi mới là thiếu úy, đến khi lên trung úy anh Lộc khuyên tôi còn trẻ nên đi học khóa đại đội trưởng và cũng chính anh Lộc đã lập văn thư cho tôi, sau đó anh Lộc cho tôi biết anh đổi về TTHL Vạn Kiếp, nhờ vậy nên tôi báo cho họ là trước kia đại đội trưởng của tôi là Ðại Úy Lộc, ở Sông Mao có vợ là chị Thu xin họ thông báo tên tôi và khoảng chừng nửa giờ sau anh Lộc chạy ra nhận, vậy là ơn trên phù hộ một lần nữa, mọi thủ tục giấy tờ, và lính tráng nhận phần ăn cũng đều do anh Lộc, rồi từ đó các đơn vị Bình Thuận cũng đến.

Nhân đây, mặc dù anh đã là người thiên cổ ở trại tù ngoài Bắc, xin một chút hoài niệm về anh, vì anh đã giúp đỡ tôi tận tình, để nhớ đến người xưa là đại đội trưởng của tôi, xin chân thành cảm ơn anh, cầu nguyện hương hồn anh siêu thoát, xin ơn trên phù hộ cho chị và mấy cháu.

Giờ đây đã hơn 30 năm, tuy không nhớ hết từng chi tiết, nhưng khúc phim trận đánh Sở Nước Suối Vĩnh Hảo vẫn như đang diễn ra từng khúc. Tôi không phải nhà văn, chỉ nhớ đâu viết đó, viết lách thì mông lung, không thứ tự thiếu đầu đuôi tuy nhiên có nhiều điều vẫn nhớ nhất là, khi nằm trong trại tù Quân Khu 7 ở Long Khánh vào khoảng trưa ngày 30 tháng 4, 1975, lính CS đem lại một cái radio bảo để nghe Dương Văn Minh đọc lệnh đầu hàng. Nhớ lúc kho đạn nổ trước ngày bầu cử Quốc Hội của CS, nhớ nhà máy xay lúa bị cháy trơ xương, chỉ còn cái trục quay là không cháy nổi, nhớ những nhà tiền chế sau cơn nổ, sườn nhà cong như sợi dây kẽm, nhớ mặc bộ đồ tù có sọc y như tù binh Mỹ bị nhốt ở Hỏa Lò Hà Nội, nhớ những bao đựng quần áo phát cho những con người phải nói là “cá đã vào rọ ”mà tôi đọc được là “Nhân dân Trung Quốc thân tặng tù binh Việt Nam.”

Không biết nhân dân Trung Quốc có biết điều này không, đó là anh tặng tôi để che thân thể, nhưng chắc gì nhân dân Trung Quốc đã đủ ấm no đâu, mà phải lo cho những người ở đâu đâu; Nhân đạo ư! Không. Cộng Sản làm gì có nhân đạo. Ðoạn hồi ký này tôi viết ra, song ở trong đây, tâm tư tôi không có gì là hằn học cả, mà chỉ muốn nói lên những suy tư đã ở trong tôi hơn 30 năm. Ðiều này không có nghĩa là tôi muốn khơi dậy một quá khứ. Mà tôi chỉ muốn cho mọi người biết rằng trong những giờ phút cuối cùng ở đầu phía Bắc tỉnh Bình Thuận, vẫn còn ít nhất 1 đơn vị đang chiến đấu chống lại đoàn xe CSBV và tìm đường triệt thoái để bảo toàn cho mạng sống của những người lính đã can trường chiến đấu cũng như cha ông và đồng đội tôi đã đổ nhiều xương máu, chống lại miền Bắc hiếu chiến để gìn giữ miền Nam Việt Nam tự do.

Ðây là trận đánh có tên trong Quân Sử VNCH: Trận Sở Nước-Vĩnh Hảo (Bình Thuận).

Ðây là trận đánh có Ðại Bàng Chỉ Huy, đó là tôi: Trung Úy Nguyễn Tấn Hợi ÐÐT/ ÐÐ4/ TÐ248 ÐP thuộc Liên Ðoàn 925 ÐP/BBT. Ngoài ra còn có Ðại Bàng Lớn là Thiếu Tá Hà Văn Thành, quận trưởng kiêm CKT.Chi khu Tuy Phong-BT, không có xác nhận, được DÐ27 và HQ-503 cứu vớt, ngày nay chúng tôi không còn sống.


Ðó là sự thật của lịch sử, không ai bóp méo được.
Viết xong mùa Thu năm 2006
Trung Úy Nguyễn Tấn Hợi
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=857923911273093&set=gm.2334258339945597&type=3&theater&ifg=1

BachMa
09-15-2019, 08:51 PM
Tầng Địa Ngục
Uyên Nguyên

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1554574851-TangDiaNguc_01.jpg
Hình minh họa
Nơi Gặp Gỡ Không Hẹn Mà Ðến:

Ðiểm gặp gỡ không hẹn mà đến của nhóm “Ngụy Quân Ngụy Quyền Sài Gòn” thoạt tiên là Trại Cải Tạo Long Thành, tọa lạc tại Long Thành Tỉnh Ðồng Nai do Ủy Ban Quân Quản quản lý. Sau trở thành Trải Tạo 15 NV do Bộ Nội Vụ quản lý.

Sáng ra, chúng tôi mới định thần và chuẩn bị tinh thần cho một sống đổi đời bắt đầu. Tôi được phân bổ ở nhà 6. Ðội trưởng Ðội 3 là Phạm Ngọc Cửu. Nhà Trưởng là Trần Tấn Toan.

Ngày đầu đến trại chúng tôi nhận diện được những nhân vật có tên tuổi sau đây:

Về phía đảng phái gồm có Nghị Sĩ , LS Trần Văn Tuyên, Vũ Hồng Khanh...

Về phía Nghị sĩ , có Trần Tấn Toan, nguyên trước là chủ tịch Hội Ðồng Tỉnh Gia Ðịnh.

Về phía dân biểu có Ông Nguyễn Bá Lương, chủ tịch hạ Viện, Quốc Hội Ðệ Nhị Cộng Hòa, Dân biểu Lê Minh Ðăng, Khiếu Thiện Kế, Trần Ngọc Châu....

Về phía toà án thì có rất nhiều Chánh Án, Biện Lý, Dự Thẩm các toà án ở Sài Gòn và các tỉnh ở Miền Nam Việt Nam. Trong đó có những ông chánh án mà người viết biết tên, biết mặt như ông Trần Ðại Khâm, Nguyễn Cần ( tức Tú Gàn), Ðào Minh Lượng, Nguyễn Ðắc Trọng, Ngô Văn Cân, Biện Lý Trần Thành Ðô, Dự Thẩm Nguyễn Thành Hương, Trần Cẩm Tựu, Phạm Minh Tâm, Hoàng Phùng Võ, Dương Lân, Ðặng Xuân Nhẫn, Nguyễn Công Ðàn ( tục là “Bò Ðàn” , tiếng chúng tôi hay gọi thân thiết vì anh ta phụ trách giữ mấy con bò cho trại), Trần Gia Tá, Cao Quãng Chơn....

Về phía Phó Tỉnh Trưởng Hành Chánh : Phạm Ngọc Cửu ( Bình Thuận); Nguyễn Thanh Sử ( Bình Tuy, Trần Huỳnh Thanh, Nguyễn Văn Thích ( Bình Ðịnh); Nguyễn Chí Vy ( Quảng Ngãi ) Nguyền Văn Hoàng ( Phú Yên ) và còn nhiều phó tỉnh trưởng hành chánh khác nữa mà tôi quên tên và nơi phục vụ rồi.

Về phía hành chánh cao cấp : Kỹ sư Dương Kích Nhưởng, Phó Thủ Tướng; Lê Văn Trường, Bộ Trưở ng Tài Chánh; Nguyễn Văn Chi, Tổng Giám Ðốc Trung Tâm Chuẩn Chi- Bộ Tài Chánh; Bùi Hữu Tiển, Tổng Giám Ðốc Ðiền Ðịa; Trần Huỳnh Châu, Tổng Thư Ký Bộ Nội Vụ; Nguyễn Văn Tương, Ðặc Ủy Trưởng Hành Chánh, Kỹ Sư Ngô Trọng Anh, Cưụ Tổng Trưởng Công Chánh Nội Các Nguyễn Cao Kỳ, Kiến Trúc Sư Ngô Viết Thụ, Ông Phạm Trọng Nhân, cựu Ðại Sứ Việt Nam Cộng Hoà tại Lào và các Phó Tổng Giám Ðốc Thuế Vụ, Kế Hoạch thuộc các Bộ nữa mà tôi quên mất tên rồi. Ngoài ra còn có rất nhiều Giám Ðốc Nha Sở thuộc Hành Chánh Trung Ương, một số Quận Trưởng các Quận như Trung Tá Kiều Văn Út mà người viết biết mặt, biết tên và cũng như các Ty, Sở Trưởng, Phó Quận Hành Chánh thuộc hành chánh địa phương, các tỉnh thành cũng có mặt trong nhóm này.

Về phía cảnh sát thì ngoài những cấp chỉ huy cảnh sát trung ương như Thiếu Tá Ðoàn Ðình Từ,Trung Tá Phấn Bộ Tư Lệnh Cách Sát Quốc Gia... còn có một số Trưởng Ty Cảnh Sát điạ phương mà người viết được biết như Trung Tá Phan Trần Bảo... và còn nhiều người nữa, lâu quá quên tên.

Ngoài ra cũng có một số nhân viên thuộc Trung Ương Tình Báo, Thiên Nga...,

Những nhân vật này lần lược được chuyển trại dưới hình thức mà chúng tôi gọi là Bao Bố . Ở đây tôi xin mở một dấu ngoặc để giải thích tại sao có tên là Bao Bố. Những đợt chuyển trại lớn, đông người thường xảy ra trong đêm khuya để dễ bề kiếm soát an ninh lộ trình , người ngoài không ai hay biết. Ðợt chuyển trại đầu tiên đi ra Bắc gọi là Bao Bố I vì sau khi có lệnh tập trung trong đêm khuya, và gọi tên từng người rồi sau đó trao cho mỗi người môt cái bao bố đựng gạo để bỏ hành trang đi tù vào. Ðợt chuyển trại nầy gồm những nhân vật cao cấp trong chính phủ cũng như trong hàng ngũ đảng phái, cảnh sát, trung ương tình Báo.... Ðợt di chuyến ra Bắc lần thứ hai được gọi là Bao bố II đa phần gồm những giám đốc, nha sở thuộc trung ương.

Ðể trấn an các trại viên cũng như để bảo dảm an ninh lộ trình, Ban Chỉ Huy Trại đã động viên tất bằng cách nói láo rằng các anh được di chuyển đến những địa điểm học tập an toàn hơn. Nếu có người thắc mắc hỏi có phải chuyển đi Bắc không thì được cán bộ trấn an bằng cách trả lời không thật là các anh sẽ được đưa về miền Nam như Rừng Ðước, Năm Căn... Nhưng thật tình là xuống tàu ra Bắc cải tạo mút mùa lệ thủy.

Sau hai đợt chuyển trại ra Bắc, Trại chỉ còn độ 250 trại viên. Chúng tôi được tái phân bổ lực lượng lao động và tôi đã được công tác trong tổ Vệ Sinh cho đế n ngày chuyển lên trại Xuyên Mộc Ðồng Nai và tiếp lao động cải tạo trong Ðội trồng trọt, rồi tiếp đến là Ðội Văn Nghệ cho đến khi “ học tập tiến bộ” đượ c trại xét tha về vào cuối tháng 8 năm 1989.

Trong thời gian đầu học tập chính trị, chúng tôi có dịp học chung với những chịnh trị gia quen thuộc. Trong đó phải kể đến LS Trần Văn Tuyên, Vũ Hồng Khanh . Không biết mấy ông này trình diện vì lý do gì . Chắc thuộc đảng phái thì phải. Nghe nói Luật Sư Tuyên vì liên hê đến bà vợ nhỏ nên bị kẹt lại và đi tù luôn. Nhiều chánh khách, nhà ngoại giao, hành chánh cao cấp cũng đã rơi vào trường hợp này, hối không kịp vì đã vào rọ rồi. Ngày trở về còn xa lắm nếu không muốn nói là bỏ thây nơi những trại giam nổi tiếng là hắc ám nhất ở miền Bắc. Ls Trần Văn Tuyên là một điển hình. Tôi còn nhớ khi lên lớp học chính trị, sau khi giảng xong bài , cán bộ giảng huấn kêu Ls Trần Văn Tuyên đứng dậy và dùng lời lẽ thô bạo để mắng chưởi ông ta. LS Tuyên đã nói một câu rất bất hủ: “Việc tôi làm chỉ có lịch sử phán xét chứ không ai có quyền phán xét tôi” . Sau bữa lên lớp đó, thì chúng tôi không thấy mặt của LS Tuyên nữa vì người ta đã dẫn ông ta đi đâu mất rồi.

Làm ở đội rau xanh một thời gian tôi được xung vào Ðội Văn Nghệ Trại. Tôi nhớ không lầm đội Trưởng là nhạc sĩ Vũ Thành An. Vì chức vụ cuối cùng của anh ta là trưởng cơ sở Dân Vận & Chiêu Hồi Tỉnh Gia Ðịnh, cho nên anh phải đi trình diện học tập cải tạo theo diện “Ngụy Quân Ngụy Quyền” .

Có một điều cũng nên nói ở đây mặc dù Vũ Thành An nổi tiếng với những ca khúc không tên trước 75 nhưng khi vào trại bên cạnh ca khúc anh viết nhân đêm giao thừa năm đầu tiên ở trại 1975 có đoạn rất hay và rất “ tiểu tư sản” và được mọi người chấp nhận : “Thắp nến hồng lên em, giao thừa về rồi đó. Ánh sáng bừng trong đêm. Như bình minh đã lên....” Nhưng khi anh viết theo nhu cầu chính trị tuyên truyền anh lại viết một ca khúc lạc lõng, không giống ai. Lời ca như một lời xưng tội và sặc màu “vô sản chuyên chính” . Tôi nghĩ rằng chỉnh những ngườ i bị rối loạn tâm thần, đánh mất bản ngã, lương tri thì mới viết một ca khúc tồi như thế. Vì vậy anh đã bị hết thảy trại viên chê trách và lên án dữ dội.. Ca khúc có đoạn: “ Nếu biết rõ đế quốc Mỹ là quân xâm lược. Lũ ngụy quyền là bọn tay sai. Bao nhiêu năm cặm cụi miệt mài...”.

Ðộc hại hơn nữa là các trại viên bị bắt buộc phải hát ca khúc này trong những lần sinh hoạt vă n nghệ. Nhưng dù anh có viết trăm ngàn bài ca tôn vinh chế độ đáng nguyền rủa kể trên thì cộng sản cũng không tha cho anh đâu và thực tế anh phải ra Bắc sau đó và cải tạo dài dài hơn mười năm mới được tha về vì anh thuộc diện “ác ôn” ( dân vận chiêu hồi bên hành chánh- chiến tranh chính trị hay chiến tranh tâm lý bên quân đội ) . Kịp đến khi Vũ Thành An bị chuyển ra Bắc thì người thay thế anh ta là anh Trần Thiên Ân. Anh nầy là một người còn rất trẻ, xuất thân từ học viện quốc gia hành chánh, chức vụ cuối cùng là phó quận trưởng ở đâu đó. Vì có một thời gian học ở chủng viện khi còn nhỏ, nên nhạc lý anh ta rất rành và rất vững. Anh viết hòa âm cho những bài hợp xướng rất dễ dàng và rất hay.

Kịp đến khi nhóm hình sự di chuyển về đây thì Ðội Văn Nghệ có sự tăng cường nam và đặc biệt là nữ trại viên thì sinh hoạt văn nghệ trại khởi sắc hơn. Có những giọng ca trẻ tân nhạc cũng như cổ nhạc, kịch.. dưới sự dìu dắt và hướng dẫn của anh em trại viên thuộc diện chính trị chúng tôi. Trong đó có tôi dù sau này tôi không còn ờ trong Ðội Văn Nghệ nữa mà ở trong Tổ Vệ Sinh.

Chuyện anh Nguyễn Văn Tri:
Anh Tri là người cũng xuất từ học viên quốc gia hành chánh, làm giám đốc hành chánh Tổng Nha Ðiền Ðịa do kỹ sư Bùi Hữu Tiển làm Tổng Giám Ðốc. Sau khi học tập cải tạo ở trại một thời gian thì anh Tri có triệu chứng bất bình thường. Cứ vào lúc trời mưa, chúng tôi thấy anh ta ra ngồi ngoài mưa. Miệng thì lẩm bẩm những câu gì không ai hiểu cả. Một thời gian sau đó không biết sao anh ta được trại thả về.

Không biết vì lý do bị bệnh tâm thần hay anh thuộc ngành mà cách mạng đang cần người hay không hay vì nguyên do khác không ai hay biết. Chỉ biết rằng sau khi được thả về một thời gian sau thì người ta thấy anh ở Sài Gòn và không có biểu hiện gì bất bình thường cả. Ðược thêm sau đó anh và gia đình qua Mỹ theo diện HO.

Chuyện Cụ Nguyễn Bá Lương, cựu chủ tịch Hạ Viện, Quốc Hội Ðệ Nhi Việt Nam Cộng Hòa:
Cụ Nguyễn Bá Lương, vốn là một dân biểu. Người ta thường gọi cụ là “Dượng Năm Xe Ðò Bủu Hiệp”. Cụ có người con trai -thiếu Tá Nguyễn Bá Di. Khi cụ nhập trại thì tuổi của cụ khá cao, sức khỏe yếu kém nên chỉ có thể lao động nhẹ mà thôi. Ở tù được mấy năm trại xét tha cụ và cho cụ về. Trước đó Ban Giám Thị trại đã mời cụ lên dùng trà và mời thuốc đồng thời thông báo cho cụ hay là cụ đã được nhà nước cách mạng xét tha. Nhưng ói ăm thay về đâu chẳng thấy mà chỉ thấy bỏ thây nơi rừng thiêng nước độc- trại Xuyên Mộc Ðồng Nai.

Số là như vầy: sau khi mời cụ ra trại và thông báo quyết định tha cụ, Giám Thị trại dự tính là sáng hôm sau sẽ ký lệnh xuất trại .. Nhưng chưa kịp ký lệnh thì thành phố gọi giám thị về họp khẩn. Cho nên lệnh xuất trại chưa được ký và sẽ được ký khi họp xong. Nhưng than ôi, sau khi đi họp về thì lệnh xuất trại của cụ đã không được ký vì quyết định tha cụ đã bị đình hoãn lại trong một thời gian nữa cho đến khi có lệnh mới của trung ương. Thế là hy vọng được sớm trở về sum họp với gia đình tiêu tan theo mây khói. Kịp đến khi nhóm hình sự đã “đủ lông đủ cánh” để điều hành trại thì toàn bộ trại viên “khối chính trị” còn lại ở Trại Long Thành phải chuyển lên Trại Xuyên Mộc Ðồng Nai.

Một thời gian sau đó vì không chịu nổi thời tiết khí hậu khắc nghiệt của núi rừng Xuyên Mộc, cụ đã ngã bệnh và qua đời.

Sáng cụ ra đi vì tôi bị bệnh nên tôi đã có mặt nơi chỗ cụ nằm, vuốt mắt cho cụ và nguyện cầu hương linh cụ sớm về nơi chín suối chấm dứt những chuỗi ngày đen tối nhất của cuộc đời. Trong thời gian ở Trại Xuyên Mộc, tôi có dịp đàm đạo với cụ và được cụ kể nhiều chuyện thuộc loại “thâm cung bí sử” ít ai biết trong cuộc đời tình ái và sinh họat chính trị chính em của cụ. Rất sôi nổi vì theo diện tướng số cụ có khuôn mặt tướng hầu. Ngoài ra giới “thân cận” của cụ có nói cho tôi biết cụ có thêm một cái ẩn tướng khác là “gậy”, “của quý” của cụ chạm đất khi cụ ngồi chổm hổm. Không biêt có đúng không. Nếu đúng thì cụ từ một thư ký đồn điền rồi lên làm Dượng Năm Xe Ðò Bủu Hiệp , rồi đắc cử dân biểu Hạ Viện. Rồi đắc cử chủ tịch Hạ Viện cũng là lẽ thường tình dễ hiểu thôi. Như ông Thiệu có tướng hầu như cụ, làm đến chức cao nhất nước thì cũng không ngoa gì. Tướng số nhiều khi cũng đúng cho nhiều người lắm.

Ăn mà cấm không được nói cho ai biết. Thế mới là lạ chứ.

Những ngày bên Thành:
Vào khoảng cuối năm 1978 trong khi các trại viên thuộc diện chính trị còn lại ở Trại Long Thành phải chuyển trại lên Trại Xuyên Mộc Ðồng Nai, tôi và Phạm Ngọc Thành được “may mắn” ở lại trại để tiếp tục gánh vác một số công việc mà chưa thể giao ngay cho nhóm hình sự vừa mới chuyển đến từ các trại như Bù Ðăng , Bù Gia Mập ....

Nhóm này bị tù từ sau ngày Sài Gòn mất. Sau một thời gian dài bị giam trong các trại lao động khổ sai, thiếu đủ mọi thứ nên khi chúng nó về đây chúng nó chết như rạ. Do đó với nhu cầu “đột xuất”, tổ Vệ Sinh của chúng tôi phải làm một lúc hai công tác. Một là công tác đổ phân . Hai là công tác “khâm liệm” cũng như “di quan” người vừa mới chết ra nghĩa địa liền tù tì. Có ngày có đến hơn 5 đứa “mò- cua” ( tiếng lóng là chết ). Có khi cả chục đứa cho nên tổ Vệ Sinh của chúng tôi rất đắt khách . Chúng tôi phải “ khẩn trương” đem đi chôn mệt nghỉ cả ngày lẫn đêm.

Nhiều khi phải đem đi chôn vào giữa ban đêm ngày rằm. Không có một chút ánh sáng gì ngoài ánh trăng chiếu vằng vặc. Vào những đêm như thế này, không biết các bạn của tôi nghĩ ra sao chứ riêng tôi tôi rất thích vì bản tính nghệ sĩ, ưa mơ mộng của tôi dù phải lao động cật lực để có thể về trại sớm để ngày mai có sức “đi cày” tiếp . Chuyện sợ ma thì không thể nào nghĩ đến vì làm việc bở hơi tai thì giờ đâu mà nghĩ chuyện vu vơ. Phải nói mệt nhất là việc đào huyệt vì nghĩa địa, nói cho oai chứ thực ra là một mô đất cao toàn là đá ong, cứng như đá nên đào huyệt không thể nào đào sâu được, khoảng chừng độ hơn nửa thước là cùng. Không có vật dụng gì khác ngoài mấy cái xẻn cùn.

Sức người là chính. Sở dĩ tôi phải dông dài như vầy là vì có liên hệ đến việc đi chôn cất Thành sau này.

Vì phải di chuyển khiêng phân hằng ngày hay phải khiêng quan tài đem đi chôn nên tôi thường gặp Thành trong bồ đồ lính được nhuộm đen và trên đầu đội một cái mũ “phở” không giống ai đi rảo trong trại. Chúng tôi chỉ chào nhau rồi ai làm phận sự người ấy. Thành vốn người dong dỏng cao, nước da tái tái . Nước da này vốn dĩ như vậy kể cả lúc còn làm Phó Quận Hàm Thuận rồi Hòa Ða. Ngoài ra không có biểu hiện gì là bệnh hoạn cả.

Thời gian cứ trôi đi. Rồi đến kỳ thăm nuôi . Bà xã của tôi và bà xã của Thành đi thăm nuôi chúng tôi cùng một ngày vào dịp cuối năm 1978 . Tôi được Trại bố trí thăm nuôi trước, Thành thăm nuôi sau. Trước đó bà xã của tôi cũng đã gặp Thành ở nhà thăm gặp , có chào hỏi đôi điều và cũng không thấy Thành không có biểu hiện gì là bệnh hoạn trầm trọng cả.

Một thời gian ngắn sau khi thăm nuôi nhất là gần Tết năm đó sức khỏe của Thành có triệu chứng giảm sút thấy rõ. Mắt và da trở nên vàng nhiều, triệu chứng của bệnh viêm gan. Mặc dù Thành được BS cán bộ tên Hùng cũng như BS trại viên Tùng giúp đỡ rất nhiều nhưng không có kết quả gì vì thiếu thuốc đặc chế. Vì vậy thể theo đề nghị của BS trại Viên Tùng và được đồng ý của BS Hùng, trưởng trạm xá đã ghi cho Thành một toa thuốc và xin cho người nhà của Thành đem lên cho Thành. Nhưng than ôi! chưa kịp đem lên thì Thành đã ra người thiên cổ. Tôi nhớ không lầm là Thành ra đi vào ngày mồng một Tết (nhằm ngày 28 tháng giêng) năm 1979 .

Nghe tin Thành qua đời tôi tìm cách để viếng thăm anh. Ðược biết xác Thành được để ở bệnh xá Trại, trong một gian phòng tối như bưng.

Tôi cứ nhớ mãi cây đèn cầy duy nhất mà tôi đã thắp lên quan tài của Thành. Cây đèn cầy này tôi đã cất kỹ trong gói “hành trang” khi đi tù vì nghĩ rằng sẽ có dịp để xử dụng nó. Nhưng chưa có dịp nào để xử dụng thì nay lại đem ra cắm trên quan tài của người bạn đồng môn hành chánh và cũng là người bạn thiết thân lúc còn làm việc chung với nhau ở tỉnh Bình Thuận. Dù cây đèn cầy đã bị gãy nhưng dù sao cũng là vật quý báu và rất cần thiết trong lúc này. Chắc Thành cũng thông cảm cho tôi vì cây đèn cầy không phải đơn thuần là một vật vô tri vô giác nhưng nó biểu tượng cho sự tiếc thương cũng như gói ghép một tình cảm thiết thân không thể phai nhòa.

Một điều hy hữu là khi Thành mất tổ Vệ Sinh của chúng lo tẩm liệm và đem Thành ra nghĩa địa. Chúng tôi chỉ biết ngậm ngùi thương tiếc cho người bạn xấu số đã ra đi quá sớm như vậy. Chúng tôi cố ngăn những dòng lệ nhưng không thể nào được. Những giọt nước mắt cứ tuông chảy, cứ lăn dài trên má . Khóc cho Thành một phần mà khóc cho số phận của kiếp đọa đày của những người tù còn lại như chúng tôi thì nhiều.

Thành đã từ giã cõi đời bỏ lại vợ con và các bạn tù. Bây giờ Thành có thể yên phận về phần nơi chín suối, không bị ràng buộc với những hệ lụy khổ đau nơi trần thế nữa.
Còn lại chúng tôi tiếp tục chịu đựng số kiếp đọa đày nơi chốn tù ngục. Còn lại gia đình với vợ và các con trong nỗi thương đau chất ngất...

NHỮNG CHUYỆN BÊN LỀ:

Chuyện Nhà Văn Nguyễn Mạnh Côn:
Nhà văn Nguyễn mạnh Côn , nổi tiếng với tác phẩm “Ðem Tâm Tình Viết Lịch Sử” cũng được mọi người biết đến khi ông ta tuyệt thực để phản đối chính sách giam cầm của cộng sản. Rồi ông bệnh, ông chết ở đây.

Chuyện ông Hồ Hữu Tường:
Khi chúng tôi đến đây thì có gặp nhà văn Hồ Hữu Tường. Ông Tường nổi tiếng với “Phi Lạc SangTàu”.

Hằng ngày, tập họp đi lao động thấy ông gánh đôi gánh. Nghe nói ông bị bệnh phù nên ông được bố trí làm công việc nhẹ là nấu nước cho đội uống. Ông Tường dáng người thấp lùn vả lại ông bị chứng phù thủng nên hai chân ông phù ra. Dáng đi chậm chạp uể oải. Biết ông là nhà văn, là người hiểu biết rộng nên trại đã trao giấy bút để ông viết “thu hoạch, hiến kế.” Nghe nói sau một thời gian sợ ông chết trong trại nên trại đã cho ông về nhà và một thời gian sau thì ông mất.

Lại chuyện Ông Nguyễn Bá Lương, dân biểu quốc Hội, chủ tịch Hạ Viện:

Sau khi ông mất một cơ hội trở về sum họp với gia đình ờ trại Cải Tạo Long Thành, ông phải theo chúng tôi lên Khu B Xuyên Mộc Ðồng Nai. Ông được bố trí ở cùng phòng với chúng tôi. Lúc này ông bị bệnh thường hay ở nhà. Khi có dịp rảnh rỗi tôi thường là cà đến nói chuyện với ông. Ông kể cho tôi rất nhiều chuyện thuộc diện “thâm cung bí sử”. Ðiển hình là gán ghép ông và Bà DS Nguyễn Cao Thăng.

Không biết ông nói có thật không hay ông phịa ra nhưng chính tai tôi nghe được như vầy: Khi ông Nguyễn Cao Thăng qua đời, giới dân biểu thân chính quyền muốn gán ghép ông với Bà Thăng nhưng chuyện không thành.

Ở Khu B một thời gian thì ông bị bệnh nặng và qua đời. Ngày ông mất tôi bệnh phải ở nhà và đã đến tại chỗ nằm của ông để vuốt mắt cho ông .

Cuộc vui nào rồi cũng tàn. Chúng tôi đã đi vào giấc ngủ với nhiều mộng đẹp và ước vọng tương lai khi đèn của trại tắt.

Sáng sớm hôm sau, chúng tôi đuợc lệnh trịệu tập, mang theo hành lý để di chuyển sang Khu B làm thủ tục xuất trại.

Chúng tôi đã đến văn phòng làm việc của trại lúc 9 giờ sáng hôm đó. Lần lượt các trại viên ký tên nhận lệnh xuất trại, giấy ra trại và 10 đồng lộ phí đi đường.

Khi đã xa cách trại một khoảng khá xa rồi thì tôi bắt đầu vẫy các xe đi qua để xin quá giang. Từng chiếc rồi từng chiếc xe đủ loại đủ cỡ đi qua nhưng không có chiếc xe nào dừng lại cả. May thay cuối cùng có một chiếc xe chở rạ còn ướt vì vừa mới gặt ngừng lại và cho tôi quá giang. Nhìn cách phục sức của tôi, Anh ta hỏi tôi có phải là dân tù cải tạo mới ra không và định về đâu. Tôi trả lời tôi về Sài Gòn. Anh ta bảo tôi chỉ về Biên hòa mà thôi. Tôi đồng ý .

Trong khoang xe chất đầy người nên tôi phải ngồi, rồi nằm ngất ngưởng trên đống rạ. Ngước nhìn trời cao và hít thở không khí tự do mà từ lâu vắng bóng và nghĩ về một cuộc đoàn viên trùng phùng sắp đến.

Ðến ngã ba Biên Hòa tôi xin anh tài xế cho tôi xuống xe và từ đó tôi lên xe để về Sài Gòn. Vì trong túi tôi chỉ có vỏn vẹn 10 đồng trại phát nên tôi đưa ra cho anh tài xế xe lam. Anh ta nhìn tôi rồi hỏi “dân tù cải tạo mới về hả? rồi anh ta nhận tiền và mời tôi lên xe và không nói thêm một lời nào nữa.

Xe đến đường Ðinh Tiên Hoàng, tôi xin tụt xuống và không quên ngỏ lời cám ơn anh tài xế tốt bụng. Trên đường về tôi hình dung đến bài học thuộc lòng của Thanh Tịnh rồi lẩm bẩm trong miệng “cảnh vật xung quanh tôi hoàn toàn thay đổi như chính lòng tôi đang có một sự thay đổi lớn hôm nay tôi trở về lại mái nhà xưa”.

Vì cha mẹ của tôi ở xa lắm tận Cam Ranh nên địa chỉ tôi về là nhà của Cha Mẹ vợ của tôi.

Bước vào nhà người đầu tiên tôi gặp không phải là bà xã của tôi vì bà đi làm chưa về,mà là ông gia của tôi. Ông ôm tôi với ràng rụa nước mắt. Rồi đến mẹ vợ tôi, cũng với hai hàng nước mắt . Rồi đến con trai út của tôi. Hai đứa lớn đi học chưa về. Nhìn đứa con trai út của tôi thấy thân hình nó gầy ốm tôi không cầm được nước mắt.

Trong đêm trước khi từ giã trại, tôi mường tượng cảnh đoàn viên và cứ tưởng người tôi gặp đầu tiên là vợ tôi và tôi sẽ ôm vợ tôi vào lòng hôn lên môi lên má cho vơi đi những nhớ thương. Nhưng tất cả những sự kiện vừa mới xảy ra ngoài sự tiên đoán của tôi. Nhưng tôi không ân hận điều gì vì trước sau gì tôi cũng sẽ gặp lại vợ con tôi dù hơi muộn màng, không như mình tưởng.

Cuối cùng tôi đã gặp vợ con tôi trong sự xúc động đến nghẹn ngào. Tôi ôm hôn vợ tôi, các con tôi cùng với những giọt nước mắt trào dâng vì sung sướng. Hy vọng những ngày tiếp theo sẽ là những ngày hoan ca, hạnh phúc dù tôi biết sẽ rất ngắn ngủi vì sẽ phải đối đầu với những khó khăn, bất trắc, hiểm nguy chực chờ bủa vây trước mặt..


SanDiego
Uyên Nguyên
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=192812708357487&set=a.106745060297586&type=3&theater

BachMa
10-24-2019, 03:19 AM
Mẹ Tôi & Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ
Nguyễn Kiên

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1562034557-HQPD_MeToiVaLaCoVang.jpg
Hình minh họa
Mẹ tôi chỉ là một thư ký cho một công sở ở Sài Gòn trước năm 1975. Vào cái trưa ngày 30/04/1975, khi biết chắc miền Nam đã thất thủ và bọn giặc cướp cộng phỉ đang từ từ tiến vô Sài Gòn, Mẹ tôi lặng lẽ mở tủ lấy lá Cờ Quốc Gia VNCH, bỏ vô chiếc thau đồng vẫn thường để đốt vàng bạc trong các dịp cúng giỗ trong gia đình, rồi đem xuống bếp, thắp ba cây nhang lâm râm khấn vái trước khi châm lửa đốt.

Lúc đó, chúng tôi cũng biết việc cất giữ những gì thuộc về chế độ cũ sẽ mang tới tai hoạ cho gia đình, huống chi là lá Cờ Quốc Gia, nên Mẹ tôi phải đốt đi; nhưng những điều mà Mẹ tôi giải thích sau đó về việc khấn vái trước khi đốt lá cờ mang một ý nghĩa khác hơn mà suốt đời tôi không quên được. Mẹ tôi nói:

- «Biết bao nhiêu anh Chiến Sĩ Quốc Gia đã chết dưới lá cờ ni, chừ vì thời thế mà mình phải đốt đi, mình cũng phải xin phép người ta một tiếng!».

Thế rồi, những năm tháng sống dưới chế độ cộng sản man rợ bắt đầu đến với người dân miền Nam. Như bao nhiêu gia đình khác, gia đình tôi ngơ ngác, bàng hoàng qua những chiến dịch, chính sách liên tiếp của bọn Việt cộng; hết “chiến dịch đổi tiền”, “chính sách lương thực, hộ khẩu”, đến “chính sách học tập cải tạo đối với nguỵ quân, nguỵ quyền”, “chiến dịch đánh tư sản mại bản”, «chính sách kinh tế mới » … và nhiều nữa không thể nào kể hết.

Ai nói lũ cộng phỉ ngu ngốc, chứ riêng tôi thì thấy bọn chúng chỉ là một loài vô đạo đức, vô học, vô nhân cách và kém văn hoá, kỹ thuật; chứ thủ đoạn chính trị thì thật thâm hiểm, lưu manh, gian trá, quỷ quyệt, tráo trở, lật lọng! Chính sách nào của lũ cộng phỉ cũng cốt là để làm cho người dân miền Nam khốn đốn, kiệt quệ, nghèo đói, dìm sâu con người miền Nam xuống đến tận bùn đen để không còn sức phản kháng lại bọn chúng.

Đầu tiên là «chiến dịch đổi tiền», bọn chúng phát cho mỗi gia đình một số tiền bằng nhau, như vậy mỗi gia đình đều nghèo như nhau, không ai có thể giúp ai được. Để ăn cướp của người dân miền Nam, bọn chúng trắng trợn và trâng tráo tuyên bố vàng, bạc, quý kim, đá quý là thuộc tài sản của nhà nước, ai mua, bán, cất giữ thì bị tịch thu.

Kế đến là «chính sách hộ khẩu», tức là mỗi gia đình phải kê khai số người trong gia đình để được mua lương thực (tức là gồm khoai, sắn và gạo mốc) theo tiêu chuẩn, nghĩa là mỗi người (mà chúng gọi là «nhân khẩu») được 13 kg lương thực mỗi tháng. (Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Kiên)

Bao vây như vậy vẫn chưa đủ chặt, bọn cộng phỉ sau đó còn ban hành lệnh cấm người dân mang gạo và các loại hoa màu khác từ vùng này sang vùng khác, bất kể là buôn bán hay chỉ là để cho bà con, con cháu. Thành thử các vùng thôn quê miền Nam (vốn dư thừa lúa gạo) mà lúc bấy giờ cũng không thể đem cho bà con, con cháu ở thành phố; nhiều bà nội, ngoại phải giấu gạo trong lon sữa guigoz để đem lên thành phố nuôi con cháu bị bệnh hoạn, đau ốm…

Như vậy là bọn chúng đã hình thành một cái chuồng gia-súc-người khổng lồ, con vật-người nào ngoan ngoãn thì được cho ăn đủ để sống, con nào đi ra khỏi cái chuồng đó thì chỉ có chết đói. Chính sách này của bọn chúng còn thâm hiểm và ác độc ở chỗ mà miền Nam ngày trước không có là không thể có cái việc «các má, các chị nuôi giấu cán bộ giải phóng trong nhà» như lũ giặc cướp cộng phỉ đã đĩ miệng, phỉnh phờ lừa gạt những người dân nhẹ dạ theo chúng trước đây.

Ba tôi rồi cũng đi tù lao động khổ sai như bao nhiêu sĩ quan, công chức miền Nam khác, Mẹ tôi ở lại một mình phải nuôi bầy con nhỏ. Bây giờ mổi khi hồi tưởng lại đoạn đời đã qua, tôi vẫn tự hỏi, nếu mình là mẹ mình hồi đó, liệu mình có thể bươn chải một mình để vừa nuôi chồng trong tù, vừa nuôi một đàn con dại như vậy không? Trong lòng tôi vẫn luôn có một bông hồng cảm phục dành cho Mẹ tôi và những phụ nữ như Mẹ tôi đã đi qua đoạn đời khắc nghiệt xưa đó.

Từ một công chức cạo giấy Mẹ tôi trở thành “bà bán chợ trời” (bán các đồ dùng trong nhà để mua gạo ăn), rồi sau khi kiếm được chút vốn đã “tiến lên” thành một «bà bán vé số, thuốc lá lẻ» đầu đường.

Thời đó, cái thời chi mà khốn khổ! Mẹ tôi buôn bán được vài bữa thì phải tạm nghỉ vì hễ khi có «chiến dịch làm sạch lòng, lề đường», công an đuổi bắt những người buôn bán vặt như Mẹ tôi, thì phải đợi qua “chiến dịch” rồi mới ra buôn bán lại được. Có khi Mẹ tôi đẩy xe vô nhà sớm hơn thường lệ, nằm thở dài, hỏi ra mới biết Mẹ tôi bị quân lưu manh lường gạt, cụt hết vốn.

Thời bấy giờ, do chính sách «bần cùng hoá nhân dân» của lũ giặc cướp cộng phỉ đã tạo ra những tên lưu manh, trộm cắp nhiều như nấm. Có tên đến gạt Mẹ tôi đổi vé số trúng mà kỳ thật là vé số cạo sửa, vậy là Mẹ tôi cụt vốn; có tên đến vờ hỏi mua nguyên một gói thuốc lá Jet (thời đó người ta thường chỉ mua một, hai điếu thuốc lẻ, nên bán được nguyên gói thuốc là mừng lắm), thế rồi hắn xé bao lấy một điếu, rồi giả bộ đổi ý, trả gói thuốc lại, chỉ lấy một điếu thôi, vài ngày sau Mẹ tôi mới biết là hắn đã tráo gói thuốc giả!

Một buổi tối, tôi ra ngồi chờ để phụ Mẹ tôi đẩy xe thuốc vô nhà, thì có một tên bộ đội, còn trẻ cỡ tuổi tôi, đội nón cối, mặc áo thun ba lỗ, quần xà lỏn (chắc là đóng quân đâu gần đó) đến mua thuốc lá. (Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Kiên)

Hồi đó, bọn bộ đội cộng phỉ, vốn bản chất xảo trá, quỷ quyệt cộng với cái hèn, nên thường che giấu không mang quân hàm, nên chẳng ai biết lũ chúng là cấp bậc nào, chỉ đoán là tên nào trẻ, mặt mày ngố ngố đần độn là lũ bộ đội thường, cấp nhỏ, tên nào người lùn tẹt, răng hô, môi tím tái, da xanh bủng, mặt mày thâm hiểm, quắt queo như mặt loài chuột bẩn thỉu thì có thể là lũ công an hay chính trị viên…

Tên bộ đội hỏi mua 3 điếu thuốc Vàm Cỏ, rồi đưa ra tờ giấy một đồng đã rách chỉ còn hơn một nửa. Mẹ tôi nói:

- «Anh đổi cho tờ bạc khác, tờ ni rách rồi, người ta không ăn».

Tên bộ đội trẻ măng bỗng đổi sắc mặt, cao giọng lạnh lùng:

- «Chúng tôi chưa tuyên bố là tiền này không tiêu được!».

À, thì ra những thằng oắt con cộng phỉ rừng rú, lếu láo và vô nhân cách này cũng biết lên giọng của kẻ chiến thắng (nhờ làm tay sai đánh thuê cho bọn ngoại bang Trung Cộng – Liên Xô), giọng của kẻ nhân danh một chính quyền ! Lúc này, tôi mới sực thấy cái quần xà lỏn màu vàng mà tên rừng rú này đang mặc được may bằng lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ !

Mẹ tôi lẳng lặng lấy tờ tiền rách và đưa cho hắn 3 điếu thuốc. Khi hắn đã đi xa, Mẹ tôi vò tờ bạc vất xuống cống và nói nhỏ đủ cho tôi nghe:

- «Thôi kệ, một đồng bạc, cãi lẫy làm chi cho mệt! Thí cho bọn cô hồn ăn cướp đó đi! Hắn mặc cái quần… làm chi rứa, thắng trận rồi thì thôi, sỉ nhục người ta làm chi nữa, con hỉ?».

Thì ra Mẹ tôi cũng đã nhận ra cái quần hắn mặc may bằng lá Cờ Quốc Gia và điều mà Mẹ tôi quan tâm nhiều hơn là lá cờ, chứ không phải tờ bạc rách!

Khi bọn cộng phỉ mới xâm chiếm và ăn cướp miền Nam, nhiều người vẫn ngây thơ tưởng rằng bọn cộng phỉ cũng là "người" Việt, không lẽ chúng lại đày đoạ đồng bào.

Nhưng sau nhiều năm tháng sống dưới chế độ cộng sản, tôi hiểu ra rằng bọn cộng phỉ xem dân miền Nam như kẻ thù muôn kiếp, chúng "tự sướng" và tự cho rằng chúng là phe chiến thắng «vẻ vang» và có quyền cai trị tuyệt đối đám dân xem như không cùng chủng tộc này.

Một hôm, đang ngồi bán thuốc lá, Mẹ tôi tất tả vô nhà, kêu đứa em tôi ra ngồi bán để mẹ đi có việc gì đó. Một lúc sau Mẹ tôi trở về và kể cho chúng tôi một câu chuyện thật ngộ nghĩnh. Mẹ kể:

- «Mẹ đang ngồi ngoài đó thì nghe mấy bà rủ nhau chạy đi coi người ta treo Cờ Quốc Gia trên ngọn cây. Té ra không phải, có cái bao ny-lông màu vàng có dãi đỏ, chắc là gió thổi mắc tuốt trên ngọn cây cao lắm, người ta tưởng là Cờ Quốc Gia. Mà lạ lắm con, có con chó nó cứ dòm lên cây mà sủa ra vẻ mừng rỡ lắm, rứa mới lạ, chắc là điềm trời rồi!».

Mẹ tôi là vậy đó, bà hay tin dị đoan, nhưng chính ra là Mẹ tôi nhìn mọi việc bằng tình cảm trong lòng mình.(Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Kiên)

Thời gian trôi mãi không ngừng… Cuối cùng rồi Ba tôi cũng may mắn sống sót trở về sau gần 10 năm trong lao tù khổ sai cộng sản, Mẹ tôi vẫn bán thuốc lá lẻ, chúng tôi sau nhiều lần bị đánh rớt Đại Học, đành phải tìm việc vặt vãnh để kiếm sống.

Đôi khi tôi tự hỏi, cuộc đời mình sẽ ra sao, liệu mình có thể có một mái gia đình, vợ con như bao người khác không trong khi mà cả gia đình mình không hề thấy một con đường nào trước mặt để vươn lên, để sinh sống với mức trung bình!? «Mọi người sinh ra đều bình đẳng… và ai cũng được quyền mưu cầu hạnh phúc…»

Câu ấy nghe có vẻ hiển nhiên và dễ dàng quá; nhưng phải sống dưới chế độ cộng sản, việc gì cũng bị truy xét lý lịch đến ba đời, mới thấm thía ý nghĩa và hiểu được vì sao người ta dùng câu ấy để mở đầu cho bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền bất hủ.

Một ngày khoảng đầu năm 1990, bọn công an phường đến đưa cho Ba tôi một tờ giấy có tiêu đề và đóng dấu của công an thành phố, nội dung vỏn vẹn “đến làm việc”. Gia đình tôi lo sợ là Ba tôi sẽ bị bắt vô tù lại, Ba tôi thì lẳng lặng mặc áo ra đi, hình như các ông sĩ quan đi tù khổ sai của bọn cộng phỉ về đều trở thành triết gia, bình thản chấp nhận thực tại. Hay là thân phận của con cá nằm trên thớt, thôi thì muốn băm vằm gì tuỳ ý.

Rồi Ba tôi về nhà với một tin vui mà cả nhà tôi có nằm mơ cũng không thấy được, bọn công an thành phố kêu Ba tôi về làm đơn nộp cho Sở Ngoại Vụ vì gia đình tôi đã được cho đi định cư ở Hoa Kỳ!

Thật không sao kể xiết nỗi vui mừng của gia đình tôi với tin này, đang từ một cuộc sống tuyệt vọng nơi quê nhà mà nay được ra đi đến một quốc gia tự do, giàu mạnh nhất thế giới! (Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Kiên)

Những ngày sau đó lại cũng là Mẹ tôi đi vay mượn, bán những món đồ cuối cùng trong nhà chỉ để có tiền làm bản sao photocopy các giấy tờ “Ra Trại” của Ba tôi, khai sinh của chúng tôi, đóng tiền cho “Dịch Vụ”… để làm thủ tục xuất cảnh.

Chỉ khoảng 6 tháng sau là gia đình tôi lên máy bay để bay qua trại chuyển tiếp bên Thái Lan. Tôi lên máy bay, ngồi nhìn xuống phi trường Tân Sơn Nhất dưới kia mà nước mắt cứ trào ra không ngăn được.

Thế là hết, đất nước này của tôi, thành phố Sài Gòn này của tôi, nơi mà tôi sinh ra và lớn lên, một lát nữa đây sẽ vĩnh viễn rời xa, bao nhiêu vui buồn ở đây, mai sau chỉ còn trong kỷ niệm! Tôi quay lại nhìn thấy Ba tôi mặt không lộ vẻ vui buồn gì cả, còn Mẹ tôi thì nhắm mắt như đang cầu nguyện và Mẹ tôi cứ nhắm mắt như thế trong suốt chuyến bay cho đến khi đặt chân xuống Thái Lan, Mẹ tôi mới nói:

- “Bây giờ mới tin là mình thoát rồi!”.

Sau khoảng 3 tuần ở Thái Lan, gia đình chúng tôi lên máy bay qua Nhật, rồi đổi máy bay, bay đến San Francisco, California, Hoa Kỳ.

Ngày đầu tiên đến Mỹ được người bà con chở đi siêu thị của người Việt, thấy lá cờ Việt Nam Cộng Hòa bay phất phới trên mái nhà, Mẹ tôi nói:

- «Úi chao, lâu lắm mình mới thấy lại lá cờ ni, cái Lá Cờ Quốc Gia VNCH của mình răng mà hắn hiền lành, dễ thương hí?»

Rồi Mẹ kêu tôi đi hỏi mua cho mẹ một lá Cờ Quốc Gia VNCH bằng vải, đem về cất vào ngăn trên trong tủ thờ. (Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Kiên)

Chúng tôi dần dần ổn định cuộc sống, cả nhà đều ghi tên học College, Mẹ tôi cũng đi học College nữa và xem ra bà rất hứng thú với các lớp ESL (English as a Second Language); đặc biệt là các lớp có viết essays (luận văn).

Mẹ tôi viết luận văn rất ngộ nghĩnh, thí dụ đề tài là «Bạn hãy nói các điểm giống nhau và khác nhau của một sự việc gì đó giữa nước Mỹ và nước của bạn» thì Mẹ tôi lại viết về lá Cờ Quốc Gia. Ý Mẹ tôi (mà chắc chỉ có mình tôi hiểu được) là nước Việt Nam có đến hai lá cờ khác nhau với hai chế độ tương phản nhau mà người Mỹ thời này hay ngộ nhận cờ Việt Nam là cờ đỏ sao vàng của Việt cộng; trong khi lá cờ đó không phải là lá cờ thiêng liêng của người Việt tại Mỹ.

Rải rác trong suốt bài luận văn dài tràng giang đại hải của Mẹ tôi là những mẩu chuyện thật mà Mẹ tôi đã trải qua suốt thời gian sống dưới chế độ Việt cộng. Mẹ tôi kể là mẹ thấy bà giáo Mỹ đọc say mê (tôi nghĩ có lẽ là bà giáo Mỹ sống ở nước tự do, dân chủ không thể ngờ là có những chuyện chà đạp, bức hiếp con người như thế dưới chế độ cộng sản).

Khi bài được trả lại, tôi cầm bài luận của Mẹ tôi xem thì thấy bà giáo phê chi chít ngoài lề không biết bao nhiêu là chữ đỏ: «interesting!», «Narrative», «I can’t believe it!”… . và cuối cùng bà cho một điểm “D” vì… lạc đề!

Cuộc sống chúng tôi dần dần ổn định, vô Đại Học, lấy được bằng cấp, chứng chỉ, rồi đi làm, cuộc sống theo tôi như thế là quá hạnh phúc rồi. (Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Kiên)

Dạo đó, có anh chàng Trần Trường nào đó ở miền Nam California, tự nhiên giở chứng đem treo lá cờ đỏ sao vàng bẩn thỉu của bọn cộng phỉ trong tiệm băng nhạc của anh ta làm cho người Việt quanh vùng nổi giận,

Đồng bào tỵ nạn đã đem cả ngàn Lá Cờ Quốc Gia, Nền Vàng Ba Sọc Đỏ đến biểu tình trước tiệm anh ta suốt mấy ngày đêm. Mẹ tôi ngồi chăm chú xem trên truyền hình và nói với tôi:

- “Tinh thần của người ta còn cao lắm chớ, mai mốt đây mà về thì phải biết!”

Ý Mẹ tôi nói là sau này khi không còn cộng sản ở Việt Nam nữa thì chắc đồng bào sẽ hân hoan trở về treo lên cả rừng Cờ Quốc Gia chớ không phải chỉ chừng này đâu.

Thời gian trôi nhanh quá, chúng tôi đã xa quê hương gần 20 năm, Việt cộng vẫn còn đó, vẫn cai trị đất nước tôi. Sau này do chúng tôi, kể cả cha chúng tôi nữa, đều học xong và ra đi làm, không ai có thể chở Mẹ tôi đi học ESL nữa nên Mẹ tôi phải ở nhà thui thủi một mình, buồn lắm. Có lần tôi hỏi mẹ có muốn về Việt Nam một chuyến để thăm bà con lần cuối không, Mẹ tôi nói:

- “Không, về làm chi, rồi mình nhớ lại cảnh cũ, mình thêm buồn; khi mô mà hoà bình rồi thì mẹ mới về!”

Ý mẹ nói “hoà bình” nghĩa là khi không còn cộng sản nữa.

Rồi Mẹ tôi bệnh, đưa vô nhà thương, bác sĩ chẩn đoán Mẹ tôi bị ung thư phổi, cho về nhà để Hospice Care đến chăm sóc (Hospice là các tổ chức thiện nguyện ở khắp nước Mỹ, nhiệm vụ của họ là cung cấp phương tiện, thuốc men miễn phí nhằm giảm nhẹ đau đớn cho những người bệnh không còn cứu chữa được nữa). Mẹ tôi mất không lâu sau đó. Mẹ nằm lại đất nước Mỹ này và vĩnh viễn không còn nhìn thấy lại quê hương mình lần nào nữa.

Trong lúc lục giấy tờ để làm khai tử cho mẹ, tôi tìm thấy chiếc ví nhỏ mà Mẹ tôi vẫn thường dùng để đựng ít tiền và các giấy tờ tuỳ thân như thẻ an sinh xã hội, thẻ căn cước… Trong một ngăn ví là lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ bằng giấy, khổ bằng chiếc thẻ tín dụng mà có lẽ Mẹ tôi đã cắt ra từ một tờ báo nào đó. Tôi bồi hồi xúc động, thì ra Mẹ tôi vẫn giữ mãi lá Cờ Quốc Gia bên mình, có lẽ lá Cờ Vàng hiền lành này đối với Mẹ tôi cũng thiêng liêng như linh hồn của những người đã khuất để bảo vệ Tự Do cho miền Nam Việt Nam. (Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Kiên)

Nguyễn Kiên
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=1681341505344008&set=gm.2390973397607424&type=3&theater&ifg=1

BachMa
11-08-2019, 06:41 PM
Thiếu Tá Nguyễn Thanh Thủy
Biệt Đội Trưởng Biệt Đội Thiên Nga [Tình báo VNCH]

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1573238355-ThieuTa_NguyenThanhThuy.jpg
Hình Thiếu Tá Thủy trước và sau khi ra tù.
Chuyện kể rằng trước ngày di tản, Trung Tá KVP, Phi Đoàn Trưởng Phi Đoàn Trực Thăng 215, là anh em bà con với Thiếu Tá Thủy đến mời Bà đi chung. Bà đã từ chối để rồi một ngày trước ngày mất nước, Bà đã về văn phòng của Biệt Đội và chính tay thiêu hủy tất cả giấy tờ, tài liệu của Biệt Đội nhằm bảo vệ các Thiên Nga và các cộng sự viên của Biệt Đội.

Sau ngày mất nước, Thiếu Tá Thủy cùng Phu Quân, Đại Úy Lê Thành Long, đều phải đi tù, riêng Bà bị 13 năm qua các trại tù lớn nhỏ.
Kính mời quý vị và quý bạn theo dõi về những năm tù đày của Bà.
==========
Thiếu Tá Thủy nhớ lại, “Vài hôm sau ngày 30 tháng Tư, 1975, tôi bị gọi đến nơi làm việc của Ủy Ban Quân Quản của chế độ Cách Mạng (tức Văn Phòng Khối Đặc Biệt, đường Cộng Hòa cũ) để hỏi cung từ 8 giờ sáng đến 4 giờ chiều. Cán Bộ Cộng Sản cho biết, lẽ ra giam cầm tôi luôn, nhưng vì các con tôi còn quá nhỏ, nên mỗi ngày tôi đến đây làm việc rồi về. Họ cho tôi xấp giấy, cây viết, và muốn tôi viết lại quá trình hoạt động. Mỗi ngày tôi chỉ viết lý lịch của mình, rồi tôi nộp, nhưng họ không bằng lòng.

Tôi có cho họ biết là tôi không nhớ gì cả, và yêu cầu họ cho tôi thời gian để tập trung trí nhớ. Sau đó, họ giúp tôi bằng cách dẫn tôi đi vòng quanh khối Đặc Biệt, vào những phòng làm việc của Khối để nhìn từng nơi xem thấy cái gì còn, cái gì mất. Tôi chú ý đến Văn phòng của Trưởng Cơ Quan E4, nơi còn những bản sơ đồ vẽ hệ thống hoạt động, những bản thuyết trình có ám danh công tác, bí số nhân viên, nhưng không có tên tuổi thật. Tôi nghĩ trong đầu một kế hoạch để đối phó với Cộng Sản khi bị hỏi cung.”

Trong suốt thời gian bị giam một mình, Bà đã canh cánh sợ bị bọn võ trang muốn làm hỗn nên không bao giờ dám chợp mắt, đã nơm nớp khiếp sợ mỗi đêm khi cai ngục lẻng kẻng xâu chìa khóa đâu đó giữa rợn rùng thăm thẳm tối. “Vì đêm trước có ai bị đưa đi, thì sáng hôm sau coi như mất tích,” Bà nói. Hơn nữa, phương tiện vệ sinh căn bản nhất cũng không có. Bà hồi tưởng, “Nói đến nơi tiểu tiện bằng những cầu dã chiến ngoài trời, mưa dầm là nó lầy lội, và những con vòi trắng lềnh bềnh mà nữ thì làm sao dám ngồi để tiểu tiện, nên tôi đành nín, nhịn khát, đợi tối mới ra cái nhà tắm che bằng bốn vách lá, đi xong cho vào hố rác. Nhớ tới cảnh này, tôi luôn rùng mình, sao tôi chịu nổi dơ bẩn như thế.”

Bà nói tiếp, “Đầu tháng 10 năm 1975, tôi bị chuyển về trại giam Thủ Đức (tức 16NV). Chỉ có một người nữ bị chuyển là tôi. Tôi ở một mình trong phòng giam và bắt đầu các cán bộ thẩm vấn, điều tra từ trung ương đến. Tôi bị kêu lên đêm có, ngày có, bị hỏi liên tục, hỏi xong rồi bắt viết, thu bài. Những tháng ngày này, đầu óc tôi quá căng thẳng. Cả đêm không buồn ngủ, tựa lưng vào vách tường, kê túi quần áo và gối nằm để làm điểm tựa viết bài họ điều tra.”

Bà nhớ lại, “Tôi phải cải tạo khổ sai ở đây nhiều năm, không đủ vệ sinh và thiếu thốn. Ăn thì độn khoai mì có vỏ đỏ quấy, gọi bột ngàng phệt, hột bo bo, mì sợi luộc có cả con chuột chết vớt ra bỏ đi, lại tiếp tục chia mì sợi cho người một phần để ăn, không thì đói. Cả ngày cuốc xới mỏi mệt, tối đến vào phòng ngủ gần người lao phổi (xuất huyết phổi tới thời kỳ chót), bệnh giang mai thời kỳ thứ ba, phổ có nước thời kỳ chót. Tôi phải sống chung với họ cho tới khi họ được tha, và không bao lâu thì họ chết. Tôi phải may những nệm ngồi bằng vải vụn riêng để tránh lây nhiễm. Lúc ngủ, các bạn khỏe xếp gần nhau, chừa một chiếu cách người bệnh, xây đầu khác hướng với người bệnh và xây lưng về phía người bệnh để tránh lây nhiễm.”

Trong hoàn cảnh lao tù khổ sai, người nữ tù chịu nhiều khó khăn và khổ sở hơn người tù nam, nhất là về phần vệ sinh hằng tháng, và sự an toàn bản thân. Không chỉ những nữ tù cải tạo mới bị dòm ngó và hãm hiếp, mà những phụ nữ bị bắt vì vượt biên cũng bị lính gác bạo hành về tình dục. Sự căng thẳng của người tù nữ, vì vậy, cao gấp nhiều lần so với bạn tù nam. Bà lại kể, “Trại giam có nước máy, nên vệ sinh cá nhân cũng đỡ, nhưng vấn đề phụ nữ hằng tháng, không có băng giấy, tôi phải dùng quần áo cũ xé ra để lót, rồi giặt không xà phòng (vì không được thăm nuôi).

Ăn uống, mỗi buổi sáng được một ly nước nóng, trưa một phần khoai độn, buổi chiều nửa chén cơm, một chút rau muống luộc với nước muối. Lễ lớn có một miếng thịt bằng ngón tay. Hơn một năm, một số tù cải tạo chuyển đi Bắc, một số tù cải tạo ở nơi khác chuyển tới, lúc đó mới có một số chị em phụ nữ ở trại Long Giao, trại giam Chí Hòa, Phan Đăng Lưu tới. Đa số là tù phản động. Tôi mới thoát cảnh ở một mình mà sống tập thể với bạn tù cũ, bạn tù mới. Tôi bắt đầu đi lao động, làm cỏ chung quanh trại giam, và trồng rau muống.”

Cảnh lao động vất vả của trại tù, dù sao, cũng cho người tù cơ hội được thấy ánh sáng mặt trời, mà không bị vây hãm gò bó giữa bốn bức tường bức bối. Nhưng trồng rau bằng phân người và nước tiểu người là những cực hình mà người tù phải gánh chịu, và ăn rau do chính mình trồng nhưng không được rửa sạch làm cho người tù bị tiêu chải kinh niên. Nhu cầu nha chu hay y tế căn bản cũng không được đáp ứng, nên bạn tù phải mượn kềm của tù nam hình sự, khi họ về ăn cơm trưa trong một tiếng, để nhổ răng cho nhau, khi răng đã hư quá nặng và không thể giữ được. Họ phải cầm máu bằng nước muối, vừa rát, vừa đau.

Bà kể tiếp, “Hai năm sau, tức tới tháng Bảy, 1977, chúng tôi chuyển lên trại tù cải tạo Căn Cứ 5 Rừng Lá, tức trại Z30D Hàm Tân, Thuận Hải. Đã di chuyển xa, nên việc phải gặp chấp pháp ít hơn, vài ba tháng một lần. Mà chủ yếu là lao động, cả đội mấy chục cô cầm cuốc, cầm xẻng, thùng tưới nước, chia nhau công tác để làm. Mới đầu chẳng biết cuốc, cả ngày trời cuốc một khoảng cỏ trước sân cơ quan mà thấy vẫn y nguyên. Lần lần gánh tranh, trồng rau muống, khoai lang, củ cải. Rau tưới bằng một lon nước tiểu pha một thùng nước suối, phân người bỏ dưới rãnh, lấp đất, trồng rau lên.

Tôi yếu sức nên đứng múc nước tiểu, pha cho người khỏe trẻ tưới. Cả ngày làm lao động mệt, chiều hết giờ chạy về bờ suối tắm 20 phút, vừa giặt giũ vừa tắm, không có quản giáo nữ canh gác. Cán bộ nam và võ trang canh gác khi đội nữ tắm. Bọn cai tù nói, “Các chị cứ coi chúng tôi như các chị, cứ thế mà tắm.” Thật là trơ trẽn. Chúng tôi cứ nhúng cả người xuống nước rồi lên giống như vịt rỉa lông. Những ngày mưa, nước suối đục ngầu, vẫn phải tắm, vì nước tiểu và phân dính cả người. Tới mùa nước suối cạn, bọn Cộng Sản chuyển đội nữ về lại trại cải tạo Long Thành. Nơi đây là trại hình sự, máy nước bị hư, không tiền sửa chữa. Mỗi ngày phát một gô nước uống, một tuần lễ mới ra suối cạn tắm một lần, giặt giũ rồi xách nước về. Về tới trại rửa cát bụi đi đường là thấy hết sô nước. Trại này trồng táo Thái Lan, dền, rau muống, cũng dùng nước tiểu, phân người làm phân bón. Chỉ trồng táo mới tưới bằng phân urê.”

Nhưng sau đó, Bà bị chuyển trại, và bị đưa vào biệt giam hơn một năm để hỏi cung. Đây là gian đoạn gian nan nhất trong thời gian mười ba năm khổ sai của bà. Tuy nhiên, Bà vẫn luôn giữ trong đầu một điểm đến: cố sống sót, đối diện với nghịch cảnh, để có ngày đoàn tụ với con. Bà ôn lại, “Ăn thiếu thốn, đói khát, bị vây quanh mấy tên cán bộ chấp pháp, tôi muôn điên lên vì thần kinh quá căng thẳng. Tôi sẽ gặp đau thương khi đối đầu với địch nên trước ngày cuối, để bảo mật, tôi đã hủy hồ sơ của Biệt đội Thiên Nga. Tôi cũng được bọn Cộng Sản đưa đi xem các văn phòng có liên hệ. Nhưng tôi vẫn lo lắng cho các nhân viên. Tôi muốn bảo toàn cho các bạn nữ đồng khóa, các nhân viên, và cộng tác viên.

Tôi tâm niệm trong lòng mỗi lần phải gặp mặt cán bộ, tôi đều thầm nhủ đây là địch, đây là Việt Cộng, làm cho tôi thêm nghị lực, bình tĩnh hơn, mạnh dạn hơn để trả lời. Tôi ở biệt giam một mình hơn một năm, vì phải làm việc bằng đầu óc, trại giam gọi là động não quá nhiều, ăn uống thiếu thốn, ngủ nền xi-măng, tôi bị liệt một chân, phải lần vách. Tôi mới xin lau chùi quét dọn hành lang và xin phơi nắng nửa giờ mỗi ngày trừ thứ Bảy và Chủ Nhật. Tôi tập giật chân kinh và tự xoa nắn lấy chân bị liệt teo cơ do suy dinh dưỡng gây ra. Tôi tự nhắn nhủ, không nhớ con nhiều nữa, phải rán chịu đựng mọi khó khăn để có sức khỏe trở về với con.”

Thời gian biệt giam này đã dài như thế nào? Những chi tiết về gian đoạn này sẽ khiến nhiều người không thể tưởng tượng ra được, Thiếu Tá Thủy đã làm thế nào để sống sót. Bà nói, “Tháng 4 năm 1981, tôi bị đưa từ trại tù cải tạo Long Thành về trại tù biệt giam X4 (Bộ Công An Cộng Sản đường Võ Tánh, Sàigòn). Tôi ở xà lim, chung quanh tối om, ngoài một bóng đèn điện cho cả dãy xà lim, mỗi xà lim có một khoảng trống bằng một cục gạch trên sát trần nhà để thở.

Trời tháng Tư ở Việt Nam, nóng bức, mồ hôi chảy như tắm, quần áo vo cao cho bớt nóng. Tuần lễ đầu tiên tôi bị xỉu, thiếu dinh dưỡng, thời tiết quá nóng. Cán bộ trại giam phát hiện do người ở cạnh xà lim đập tường hỏi thăm sức khỏe, không thấy tôi trả lời, họ đập tường gọi cán bộ cấp cứu. Sau lần cứu tôi tỉnh dậy, trại giam đưa một lọ thuốc tim nhỏ giọt để khi mệt nhỏ vào miệng và gọi cấp cứu.

Về ăn uống, sáng để gô ra, họ cho một gô nước nóng. Trưa và chiều để ít cơm trong cái thau và một chén canh ngoài song sắt xà lim, rồi tự mình mang cơm canh qua song sắt để ăn. Phải kiếm thế nghiêng thật nhanh, mang tất cả cơm canh vào. Vì không có muỗng, nên phải ăn bốc bằng tay.

Lúc mới tới, Cán Bộ chấp pháp cho biết tôi sẽ được ăn tiêu chuẩn quốc tế, dành cho người về làm việc, ngày 3 lần: sáng, trưa, chiều. Nhưng tôi chưa bao giờ nhận được buổi ăn nào như thế. Các tù nhân đi với Cán Bộ trại giam giao phần ăn không được mặc áo, phải ở trần và bận quần xà lỏn (quần đùi), họ không được nói bất cứ lời nào. Muốn hỏi gì, họ chỉ tay về phía Cán Bộ, người Cán Bộ mới có quyền nói chuyện với tù nhân.

Về phần vệ sinh cá nhân, mỗi ngày được tắm một lần, 20 phút. Tù không bao giờ gặp mặt nhau, cứ người này tắm xong, mới mở cửa phòng khác cho tù ra tắm. Tiểu tiện đi vào thùng sắt đựng đạn của Mỹ, cứ đi tắm mang ra đổ, rửa sạch dùng lại.

Đưa tôi về nơi này, bọn Cán Bộ chấp pháp làm áp lực để tôi viết cam kết, với chồng hồ sơ thu thập được của nhân viên Thiên nga, cấp chỉ huy, bạn bè để trước mặt, cho thời hạn suy nghĩ là 3 ngày. Trên đường trở về xà lim, tôi nhờ chấp pháp trình lại với lãnh đạo của họ, 6 năm tù cải tạo đủ để suy nghĩ, không cần thêm 3 ngày. Tôi trả lời:
Không, không bao giờ.

Thế là tiêu chuẩn ăn hàng ngày bị giảm đến mức tối thiểu, chỉ còn một chút cơm với vài hột muối hột. Thời gian này, bệnh nặng không được chữa, có lần ói từ nửa đêm đến sáng. Khi họ kiểm tra thấy nằm ói toàn mật xanh, Bs y tá tới, cho thuốc uống liền tại chỗ. Người y tá đưa thuốcd nói thật nhanh, thật khẽ, “Đừng uống.” Tôi vội nắm chặt thuốc trong lòng bàn tay, đưa tay giống như bỏ thuốc vào miệng và vội vàng uống nước. Sau này, tôi gặp người y tá đó khi khám sức khỏe đi Mỹ tại Bv Cảnh Sát. Người ấy mới kể, trước là y tá Bv Cảnh Sát Quốc Gia VNCH, có thân nhân liệt sĩ, nên được giữ làm lại, biết tôi và tránh cho tôi bị thuốc.

Họ giữ tôi tại cơ quan X4 bốn tháng nhưng không khai thác được gì. Bọn chấp pháp đem cán bộ nữ ra dụ dỗ vì thương con tôi, mới khuyên tôi cam kết để tha về. Tôi khẳng định tôi về khi nào có chính sách của lãnh đạo nước, chứ về riêng lẻ không bao giờ có. Thấy tôi kiên quyết không khai, bọn chấp pháp biểu tôi đứng xa họ ba thước, nghe đọc lệnh án. Lệnh án có nội dung như sau: Do quyết định ngày… tháng… năm, Tên Nguyễn Thanh Thủy có thái độ ngoan cố không chấp hành cải tạo lao động nên tuyên án tập trung cải tạo tiếp 3 năm và quyết định có hiệu lực vô thời hạn.

Hai chân tôi bị nhốt ở xà lim, nên bị liệt không đi nổi. Trở lại xà lim, lấy quần áo chiếu mền theo họ chở về trại tù cải tạo Long Thành. Trước khi lên xe, họ đưa cái giỏ nhỏ nói là quà gia đình gửi. Sau này gặp chồng tôi, anh kể mấy ngày trước khi tôi trở lại trại cải tạo Long Thành, họ đưa một miếng giấy có chữ viết của tôi, vỏn vẹn, “Thăm anh và các con. Em vẫn khỏe mạnh.” Xong họ dặn chồng tôi mua cho tôi ít quà khô. Họ biểu đem đến cổng. Anh không biết chỗ, hỏi thăm gác cổng, họ bắt anh nhốt cho tới tối mới thả anh ra.

Sáng hôm sau là tôi chuyển trại. Họ phải xách tất cả một xách quần áo, sô đựng vài thứ linh tinh, một giỏ thức ăn. Vì tôi đi không nổi, mặt mày xanh xao, không ánh nắng mặt trời bốn tháng, màu da vàng của người VN rất đúng không sai tí nào. Nói đến hình phạt kỹ luật cho nữ, cái nhà kỹ luật là nhà có 2 lớp, giống như cái hộp có hai lớp, một lớp là phòng giam nóc bằng, cách khoảng chừng 1 thước, lớp ngoài cũng xi măng cốt sắt.

Mỗi phòng giam kỷ luật có một cái bệ. Cuối bệ có cây sắt thông ra ngoài để khóa bằng ống khóa sắt. Trên cây sắt có những cái cùm. Cái bệ xi măng có một cái lỗ để thùng đạn của Mỹ. Thùng trống không, làm chỗ tiểu tiện. Đặc biệt là kể từ ngày vào phòng giam kỹ luật cho đến ngày ra không được tắm. Khôn được tắm từ 1 tuần cho tới 3 tháng, 6 tháng, hay cả năm, chỉ những ngày kinh nguyệt phụ nữ mới được 40 phút thay quần áo.

Tùy theo hình thức phạt, đa số hai chân đều phải cùm lại, hỏng trên cái bệ, nên rất đau đớn vì tê chân và sét ăn vào cườm chân. Muỗi đốt suốt ngày đêm, bóng tối cả ngày đêm… Những hình thức này tôi đều trải qua, hằn sâu trong da thịt tôi.”

Chính thời gian biệt giam này đã gây ra nhiều tổn thương trên thân thể Bà nhất, từ việc bị bại liệt một bên người, phong thấp, các chứng bệnh đường ruột và tiêu hóa, cho đến sự căng thẳng đầu óc đến cao độ. Từ việc bị giam trong phòng tối cả ngày lẫn đêm, cho đến việc bị điều tra hỏi cung 24/24, cho đến việc Bà bị trừng phạt không cho ăn uống, chỉ có chút nước và ít muối hột, hay bị phạt không được tắm, những ngày có kinh nguyệt Bà cũng chỉ được 40 phút thay quần áo rồi bị cùm lại – tất cả đã khiến Bà rụng gần hết răng và cơ thể Bà hoàn toàn kiệt sức, không đứng được.

Tôi thắc mắc, sau những đằng đẵng đói lạnh và lao động quá sức, không biết trong những lúc quá cùng cực và bị bệnh thập tử nhất sinh, Bà có bao giờ cảm thấy tuyệt vọng không? Mười ba năm khổ sai đã cho Bà nhiều kinh nghiệm đắt đỏ và một cái nhìn thấu đáo về chế độ chính trị đang nắm quyền trên quê hương Bà. Và khi Bà rời nhà tù nhỏ của trại Hàm Tân Z30, bà tiếp tục bị dồn bức cho đến giây phút gia đình Bà đứt ruột rời bỏ người thân và quê hương để đi Mỹ qua diện H.O.

Bà kiên trì, giữ vững tôn nghiêm của người lính, giữ tinh thần lạc quan. Cho nên “Cả 13 năm tù, tôi không muốn kẻ địch thấy giọt nước mắt của tôi. Nên khó tìm thấy nét buồn, cho tới ngày em tôi lên trại, báo tin Ba tôi mất, tôi xỉu ngay tại phòng thăm nuôi và tôi rơi nước mắt.”

Nhưng dù không biết tương lai mình ra sao, Thiếu Tá Thủy vẫn luôn nghĩ đến người khác, những người bạn tù của bà. Chính vì nghĩ đến người khác, nên ngay từ đầu, Bà đã không khai những bí mật Thiên Nga khi bị hỏi cung, mà mới bị trừng phạt nặng nề và chịu nhiều tổn hại về sức khỏe. Đến những ngày cuối cùng, Bà vẫn giúp các bạn tù, “Mấy năm trước ngày ra trại, tôi làm đội trưởng kỹ thuật may, chỉ cho các em hình sự án cao biết may gia công để đỡ cuốc đất trồng rau cực khổ trong thời gian thụ án, sau có tay nghề may.”

Là người nữ tù cuối cùng rời trại cải tạo vì bị cho là ngoan cố, Thiếu Tá Thủy rời tù nhỏ, về tù lớn của xã hội Việt Nam hậu 1975, với hai hàm răng đã rụng, nên các con không dám tới gần bà. Con gái Bà bảo, “Kỳ quá, Mẹ không có răng!”

Tôi tự hỏi, đối với Bà, đâu là nỗi đau lớn nhất trong 13 năm này: những đau khổ về thân xác trong trại cải tạo, hay nỗi đau tình cảm phải chia lìa với gia đình và con dại?
Thời gian có xoa dịu được những nỗi đau này không? Hay mất mát sẽ vĩnh viễn là mất mát?

(Sưu tầm)
==========
https://www.facebook.com/tymnVNCH/photos/a.335754613868872/597193721058292/?type=3&theater

BachMa
11-22-2019, 05:47 PM
Khu Rừng Yên Tỉnh
Lôi Hổ Nguyễn Văn Hải
Chiến Đoàn 1 Xung Kích

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1561005614-HQPD_KhuRungYenTinh_01.jpg
Hình minh họa
Canh bạc đã đến hồi quyết liệt. Chỉ mới vừa từ sáng nay thôi sau khi Toán lãnh tiền thưởng hành quân. Chúng tôi từ một bệnh viện của quân đội Mỹ về đến căn cứ CCN ngày hôm qua sau chuyến xâm nhập vùng hạ Lào (kết quả không giống ai!).

Tự dưng bật cười, tôi quay mặt vào trong tránh hình ảnh những con người máu đen đỏ, mà phần đông đặt “ăn ké” Xập xám chướng. Trong cái trại Biệt kích này… tự do được đặt lên hàng đầu (âu cũng là một khuyến khích… mại dô…) Có những quyền mà bất cứ một quân đội nào cũng ngăn cấm nhất là trong những giờ làm việc… Nhậu, nổ súng, đánh bạc, đánh lộn thậm chí cả đến sử dụng chất ma túy v.v… Tôi bật cười thêm về chuyến công tác vừa qua…

Sáng ngày thứ ba trong mục tiêu vừa leo lên con dốc suối toả hơi lạnh êm êm. Đưa tay vuốt giọt mồ hôi đang lăn xuống má. Một làn gió len lỏi đến chợt lạnh run da thịt nhưng trong áo lúc này tôi biết là đang đẫm mồ hôi. Gió lại đưa tiếp vào người “cái gai gai… giật mình…” mà tay chân hình như bủn rủn. Người đi đầu ngồi xuống nghỉ tuy chưa có lệnh của Trưởng Toán… nhưng hầu như cả mọi người đều đồng ý đặt phịch người xuống đất! Thời gian nặng nề trôi. Giò vẫn thỉnh thoảng và mặt trời trên ngọn cây toả ánh nắng xuyên lá. Thiếu Úy Điệp nhìn tôi như dò hỏi và quanh đây đã có tiếng rên run.

Lượng tình hình tôi cho là nghiêm trọng trong khi tay chân mình nặng nề không còn hơi sức và tôi nói khẽ với Điệp “dù sao cũng phải chờ Covey” rồi dựa lưng hẳn vào gốc cây.

Tiếng kêu rống và gầm gừ của hai con thú làm chợt tỉnh theo sau động cơ của chiếc Covey đang đến. Phản ứng mạnh trỗi dậy trong cơ thể khi tôi nghĩ đến triệt xuất và bãi đáp. Tôi gọi Covey báo tình hình và xin triệt xuất khẩn. Thế rồi sau bao cố gắng gượng sức tìm bãi đáp… Toán được cứu dưới ánh nắng đang ngả về tây với người y tá Mỹ dìu từng người lên trực thăng bay thẳng về một bệnh viện của quân đội Mỹ tại Quảng Trị… Điều trị bảy ngày với bồn nước đá và truyền dịch có thuốc. Hỏi ra bệnh án ghi “nhiễm vi rút”.

Trung Úy Trần Đình Ngọc ào vào phòng như cơn gió lốc. Ông ta vừa thay thế Đại Úy Trấn Trung Ginh trong chức vụ Đại Đội Trưởng Đại Đội Thám sát “CCN Recon Company” theo sau vẫn là Trung Sĩ Lê Nam… Thường Vụ Đại Đội. Đến chỗ tôi ông bảo:

- … hai giờ chiều lên Trung Tâm Hành Quân trình diện.

Đám đánh bài cũng thoả thuận chơi ván chót để cơm trưa. Cô giúp việc của Toán tay ôm mớ quần áo mới khô váo phòng để ủi.

Giấc ngủ trưa bị đánh thức sau những bước chân chạy rấm rập ngoài hành lang. Nhìn ra cửa phòng ba người tay súng mặt hầm hầm miệng chửi thề:

- Đm. Xin cặp giò nó…

Đã có người bao quanh hỏi chuyện. Tôi lắng nghe và được biết Toán Adder (Toán Mỹ) có người bị Sĩ Quan An Ninh Trại đánh mấy bạt tai ở nhà ăn, thế là cả Toán xách súng tìm Đại Úy… Xin cặp giò!

Tôi chặc lưỡi xoay mặt vào trong ngủ tiếp… Nằm nhưng cũng nhún đôi vai vì nơi đây đó cũng chỉ là chuyện bình thường, chuyện cơm bữa và nhớ lại cách đây hai năm cả một xe GMC chở đầy Biệt Kích với súng ống đầy đủ ra đánh nhau với Cảnh Sát ngoài Thị xã Đà Nẵng… Tấn công hẳn vào đồn tìm địch thủ. Anh hùng tính được khuyến khích và nghiễm nhiên nẩy nở rất nhanh trong cuộc sống đầy nguy hiểm của nhiệm vụ.

Nhận lãnh công tác tại Trung Tâm Hành Quân với thời gian hai tiếng chuẩn bị đồ đoàn. Nhiệm vụ thay thế người Thông ngôn Toán Hải Điểu bị bệnh bất thường. Người ta đẩy cho tôi xem bệnh án từ Căn cứ xuất phát ghi đậm những chữ… ”Hạ bộ sưng tấy… có dấu hiệu côn trùng cắn.” Rất bình tĩnh tôi nhân định… ”Mẹ kiếp, lại đút “chim” vào ổ kiến để tránh công tác? Cái trò này nhiều khi cũng hữu dụng nhưng hiển nhiên bị khinh khi… Miệng chửi thề, bụng tức lộn ruột lên được, chân bước lên nhà kho lãnh đồ hành quân.

Chiếc xe Jeep đón tôi từ sau chiếc C130 của Thủy Quân Lục Chiến Mỹ. Người Trung Sĩ da mầu đon đả trong lời mời thuốc hút… hỏi uống beer hay nước ngọt có trong thùng nước đá. Xe vụt đi vào khoảng mờ tối dưới ánh đèn lấp loáng trong tiếng gấm rú của động cơ máy bay vừa cất cánh. Ngang qua một Câu lạc bộ đêm nay có nhạc sống và xe chạy một đỗi nữa chiếc Jeep quẹo vào căn cứ. Vừa xuống xe tôi đã thấy Thiếu Úy Dứa đi nhanh ra đón rồi đưa vào phòng Toán. Trung Sĩ Kim Hoàng, Biệt Kích Cao văn Hoàng Biệt Kích La văn Vượng Biệt Kích Dương Bửng đưa tay chào và chỉ cho tôi chiếc giường bố.

Mây trời thật thấp lững lờ theo làn gió Đông nhẹ. Mặt trời vừa lên đã hắt tia nắng đổ xoài người xuống sân trực thăng. Toán đã yên vị trên tầu chờ Phi Hành Đoàn và Toán Trưởng đự thuyết trình Không Quân. Trực thăng đầu có chỗ cho tôi và Trưởng Toán sẽ đổ bộ trước cùng ngay giữa chiếc chiếu pháo cuộn tròn nằm ngang. Toán còn lại bốn người xâm nhập từ chiếc tầu thứ hai. Hai trực thăng đậu tiếp nhau theo hàng dọc đang được hai người Mỹ gắn vào sáu Biệt Kích bằng hình nộm… chiếc hai, chiếc bốn. Dùng làm kế nghi binh. Sáng nay lúc 6 giờ Toán chúng tôi được thuyết trình mục tiêu và kế hoạch xâm nhập. Giờ đây đoàn người túa ra từ phòng hành quân và chúng tôi đeo ba lô vào vai sẵn sàng.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1561005630-HQPD_KhuRungYenTinh_02.jpg
Hình minh họa
Đoàn trực thăng nhanh chóng bay theo đội hình và tôi chắc rằng ông mặt trời đang tà tà theo sau… Viên Trung Úy người Mỹ ngồi trong lòng trực thăng nhiệm vụ thả Toán đưa tay chỉ hai trực thăng chở hình nộm trông như thật.

Rừng xanh bạt ngàn và dãy Trường Sơn bất tận chắn ngang chờ chúng tôi leo qua. Một đám mây ập vào tầu và tôi nghĩ ngay đến nhiệm vụ đầu tiên là kiểm chứng kết quả trận đánh của chiếc C130 mang theo trái bom 15.000 cân anh mới vừa được thả từ đêm qua để lấy chỗ cho bãi đáp trực thăng xâm nhập vì khu này đặc kín rừng rậm.

Mặt trời đã ngang tầm như đuổi theo khi ẩn khi hiện bởi phải vật lộn với những đám mây dần trôi. Ngoái lại phía sau không còn thấy biển và giờ chỉ toàn mầu xanh núi rừng chen sương trắng. Tiếng máy trực thăng như gượng lại có tí đanh sắc hình như không muốn lao về phía trước. Và tôi đã nhìn rõ chiếc OV10 cùng hai chiếc Cobra với cánh chém gió loang loáng bên dưới.

Sĩ quan thả Toán giơ tay mắt nhìn hai bên xem và ra thêm dấu chuẩn bị. Càm giác nao nao nơi bụng theo những tiếng o o rít lên từ bộ máy trực thăng và tôi biết rằng nó đang theo lệnh xuống bãi thả.

Mầu xanh cây lá nhanh chóng dâng lên rõ dần rồi trực thăng như ồ lên đứng khựng theo tay vỗ của Trung Úy ra lệnh xuất phát. Tôi xoay người tay ghì sợi dây hãm cùng đôi chân vừa bung khỏi càng trực thăng tay xả dây hãm tụt ào xuống…

Thời gian vừa đủ để siết dây hãm nhằm làm giảm sức rơi rồi đôi mắt đưa tìm mặt đất với cú siết dây thứ hai chân vừa chạm bãi.
Tháo vội sợi dây khỏi bụng tôi lao ngay vào gốc cây đổ chuẩn bị tình thế tác chiến. Thiếu Úy Dứa cũng vừa xuống đang thực hiện nhiệm vụ tháo chốt từ cuộn chiếu pháo theo sau chúng tôi từ trực thăng thả xuống. Chiếc thứ hai lập tức đã đứng trên đầu thả bốn người còn lại, tích tắc họ đã tháo khỏi dây tụt và hợp đoàn.

Trưởng Toán đã trải xong chiếu pháo và giật dây nổ chậm rồi khoác tay di chuyển. Tôi nhanh chóng làm bổn phận mình là ước lượng hiện trường… bao xa ngoài khu vực bị tàn phá rồi xoáy vào cái hố rộng khoảng gấn 50 mét có chiều sâu ước chừng 10 mét.

Toán vội vã di chuyển cùng chui lòn qua những cây đổ dọc ngang trong 10 phút chờ chiếu pháo sẽ nổ… khởi đầu cho giai đoạn hai của kế hoạch…

Thời gian trôi nhanh trong vội vã chóng mặt giờ đã nhìn thấy rừng và bên cánh phải một cây cổ thụ vụt lao vút lên cao như thách thức. Đúng lúc này tiếng nổ liên tục như một cuộc chạm súng. Tôi vội báo Covey xâm nhập an toàn vào chiếu pháo đang nổ. Xong gấp rút Toán tiếp tục di chuyển. Muỗi ở đâu kéo đến lăn xả váo mặt bất chấp làn thuốc trừ muỗi bóng lưỡng trên từng gương mặt.
Tiềng trực thăng sau lưng lúc một rõ để rồi từ hố bom xâm nhập họ sẽ thả xuống và câu lên… sáu Biệt kích hình nộm bằng hai trực thăng thẳng về căn cứ để… cất vào kho.

Đoàn trực thăng rời khỏi khu vực trả lại vẻ nguyên si của rừng. Chiếc OV10 cũng sau hết rời khu vực khi biết rõ cuộc xâm nhập thành công. Tôi bỗng cười trong bụng khi nghĩ tới trái bom 15,000 cân anh được thả từ đêm qua chỉ để tạo khoảng trống cho trực thăng đáp… Đánh giặc kiểu nhà giầu, kiểu này thật phí của! Và chỉ tạo cảnh cây rừng gẫy đổ chồng chéo bằng sức tàn phá ước chừng 200 mét đường kính tính bởi bước chân chúng tôi đi qua từ hố bom còn đỏ au mầu đất.

Một quả hạt trước sức nóng mặt trời trên cao tầng cây nổ bỏ hạt tạo ấn tượng thời gian và bất giác bụng kêu đói… nhìn đồng hồ 11 giờ 20. Rừng cây cao liền lạc bóng cả che phủ gần hết ánh mặt trời tạo quang cảnh tối đường hầm cho cây chồi non mọc dầy khó di chuyển nhưng lại che chắn tốt cho hành tung của Toán.

Hoàng đi đầu dừng lại bên gốc cây và Thiếu Úy Dứa ra lệnh ăn trưa. Đã có gió trên tầng cây cao lao xao rồi ào ạt hình như quanh quẩn rắc vội những lá rơi tới tấp chao đảo kèm theo tiếng đàn chim hốt hoảng kéo nhau ùa xà xuống tầng cây chồi quẩn quit. Gói cơm từ sáng giờ đã nguội ngắt nhưng hộp thit ba lát được hâm nóng bằng mẩu C4 loại chất nổ dạng bột dẻo có mầu trắng mà lính Biệt kích chúng tôi dùng để nấu nướng…

Lại một sự phí của! Miếng cơm nhai và tiếng con chim đất từ phía sau gáy rúc lên não nuột âm vang một chặp như dục chúng tôi tiến bước… Rừng vẫn một mực im hơi lặng tiếng.

Mặt trời đang chen xuống núi, vùng sáng mầu da cam dần nhoà trên biển xanh cây lá khi cái lạnh gờn gợn của rừng sâu dần bủa xuống. Bữa cơm chiều nhẩn nha chờ trời nhá nhem và chúng tôi có phần lạc quan… Khu vực không một tiếng súng truyền tin hay săn bắn thường gặp trong sinh hoạt vùng địch. Con đường mòn được phát hiện không dấu vết mới sử dụng.

Một tiếng nổ lớn âm vang truyền sóng dào dạt như đứt quãng vẻ rất xa hoà cùng thú kêu hú thênh thang báo hiệu rừng trở mình vào đêm. Ngọn gió mang hơi lạnh như muốn đẩy lùi những bước chân đang đi theo địa thế lên cao tìm chỗ nghỉ đêm trong khi bóng tối ập đến rất nhanh phút chốc đã mờ mịt mặt nhau. Toán dừng lại. Thiếu Úy Dứa đến bên báo cho chúng tôi có một cái hang trước mặt có thể làm chỗ nghỉ đêm nhưng còn phải chờ động tĩnh. Muỗi quá nhiều ào vào mặt và xa xa tiếng sấm chợt nghe vang rền chạy từ đông sang tây. Hoàng vừa thám thính xong chỗ nghỉ đêm và thật tuyệt vời giữa đêm rừng giá lạnh một nơi nghỉ ấm áp được an toàn một nửa chỉ phòng thủ một mặt với hai trái mìn được gài.

Đêm của những chập chờn giấc ngủ. Trong cái áo đi mưa ấm áp đã bao lần thu mình để chống lại cơn gió thốc vào hang mang theo những hạt mưa. Đã quá nửa đêm, giật mình thức giấc giữa tiếng gió hú và mưa ào ạt. Đồng hồ chỉ bốn giờ và thế là lũ gà rừng chết rét không cất nổi tiếng gáy. Nhìn ngoài hang màu đen kịt trong ánh chớp lan dài và tiếng sấm rền rền giờ ở trên mây trong khi mưa thì ấm ào như trút nước.

Hoàng bên cạnh dựa hẳn vào người tôi chìm trong giấc ngủ… biết vậy tôi vẫn để yên chiều vì rõ rằng giấc ngủ rang hay nướng là cả một tuyệt vời… Thiếu Úy Dứa và Trung Sĩ Kim Hoàng hai khuôn mặt theo ngọn lửa từ đáy ca nước tuy rằng chất dẻo C4 đốt lên chẳng bao giờ loang xa. Cặp Dương Bửng với La Văn Vượng đang xoắn xuýt ca cà phê toả múi thật dễ chịu.

Trời mờ sáng, bớt gió và mưa nhỏ. Nhìn ra tôi mới biết thêm về địa thế. Toán đang ở trên nơi cao mà trước mặt thoai thoải cánh rừng xa tít ít cây chồi phô toàn gốc lớn vươn thẳng tắp dễ chừng có đến cao khoảng 30 mét. Rừng im như tờ chỉ thấy gió và mưa.
Mắt tôi vừa chạm ngoài xa mái nhà lá… tuy trong mưa nhưng nhìn rất rõ vì không bị những cây chồi án ngữ. Báo cho Toán biết tôi gọi Hoàng dậy. Mưa lại bắt đầu lớn ào ào và gió đi qua những tầng cây chạm ngả nghiêng vào rừng lá ken dầy tiếng hú.

Con nước bất ngờ đổ xuống băng đi qua những mốc đá lúc vỡ oà lúc hoà nhập trong mưa gió nhưng vẫn tạo nên điệu đàn giao hưởng… ”mưa rừng…” Toán vào bữa sáng sau khi bàn định tình hình… Tuy bất ổn trước mái nhà lá và những cơn mưa cứ tuấn tự kéo đến, mưa trái mùa sao dai dẳng đến thế? Riêng tôi đang nghĩ đến một loại mưa… mưa nhân tạo!

Để có thể khó dễ và làm ngưng trệ hệ thống chuyển vận của địch quân… Người Mỹ đang tận dụng khoa học kỹ thuật phục vụ cho chiến tranh. Một cành cây rắc ầm gẫy trước hang ào chụp xuống chặn ngang dòng nước làm nó tung lên sô đẩy cứ thế lật từng vòng chầm chậm trôi rồi tấp vào gốc cây. Tôi liên tưởng đến nếu không có cái hang trú ẩn này biết đâu cành cây gẫy cũng trở thành sát thương… to chuyện. Và tin có bàn tay Thượng đế luôn theo phù hộ bên mình. Cơn mưa chợt ngớt nhưng chưa tạnh, còn gió thì lúc này hung hãn bất ngờ… Nó làm ngả nghiêng cây lá để lộ tí bầu trời cơn đen.

Đã qua đêm thứ hai trong mục tiêu. Tiếng gà gáy cất vang như là một thay đổi tất nhiên… ”Sau cơn mưa trời lại sáng”. Mưa cả ngày qua làm khựng lại bước chân. Toán chỉ tập trung vào phòng thủ và quan sát động tĩnh. Tất cả đều đồng ý với nhau… thời tiết như vầy ai mà đi ra khỏi nhà! Và an tâm tại nơi trú ẩn… Cái hang đá của trời ban. Thiếu Úy Dứa ra lệnh phải rời khỏi hang trước khi trời sáng.

Mìn phòng thủ đã gỡ và trong bóng đêm âm thầm khởi hành.

Biệt Kích Cao Văn Hoàng thỉnh thoảng dừng lại canh địa bàn để bảo đảm vào đúng mục tiêu. Lũ gà rừng gáy đua như bù lại cho ngày hôm qua. Sương lạnh đeo dính gương mặt may mà gió thì đứng im.

Một gốc cổ thụ lờ mờ cùng làn sương trắng. Nhìn đồng hồ đã sáu giờ cũng vừa lúc Trưởng Toán chỉ cho Hoàng gốc cây có nhiều rễ bạnh để Toán ăn sáng. Công việc diễn tiến rất tuần tự giờ trên tay, ca cà phê nghe tiếng chim cháo ngày mới… Chóng vánh và đã no đủ quả đúng là… nhanh như lính. Tôi đã nghe tiếng Covey nhưng ở rất xa. Xem bản mật mã… bật lại tần số trong ngày và chờ đợi. Đàn khỉ trên cây vừa ném cái gì xuống chỗ chúng tôi rồi nhe răng cười. Rất nhanh đã liên lạc xong rồi Covey qua bao vùng khác. Trong bụng lấy làm lạ khu vực không một tiếng súng đi săn thường vào buổi sáng như những mục tiêu khác.

Sáng ngày thứ năm trong vùng. Nhiệm vụ Reconnaissance Team gần hoàn tất sau Bomb Damage Assessment (Toán thàm sát khu vực và kiểm chứng kết quả trận đánh bom). Ngoài ra còn phải tìm cho ra hố bom thứ hai để triệt xuất theo đúng kế hoạch vì nơi đây không một chỗ trống để làm bãi đáp. Những phát hiện trong mấy ngày qua chỉ toàn là những con đường mòn bỏ không, những căn nhà lá ngồi cả tiếng quan sát chẳng có động tĩnh.

Đặc biệt một khu cánh rừng cây rậm cao lớn che phủ, bên dưới trống trải vì cây chồi bị phá quang cạnh một con đường xe chạy nhưng vắng tanh cùng gió quẩn… chỉ có thể là địa điểm tập trung chuyển vận và được Toán lưu trong máy ảnh. Rừng ken dầy cây cao xum lá, không có chỗ cho nắng lọt xuống. Chiếc áo diệp lục rộng lớn nguyên sinh rập rớn xanh sóng biếc thật phiêu diêu và cũng thật sâu đắm lắng đọng những cảm thức nghiệm suy. Nắng trên tầng lớp ngàn xanh, tiếng Covey sau lưng như đuổi theo những bước chân đang dò dẫm di chuyển. Một cơn gió bất chợt ào ạt khi tôi nói với Trưởng toán kiếm chỗ nghỉ để liên lạc… Đúng lệnh tôi phải gọi Covey trước với tần số và mật mã trong ngày.

- Whisky Oscar… Romeo Bravo… over.

- Romeo Bravo đây Whisky Oscar… hãy chờ khi nào thi hành kế hoạch tôi sẽ báo cho bạn… sẵn sàng OK.

Covey vừa ra khỏi khu rừng chồi phía trái… một chiếc O2 như treo trên bầu trời trong xanh. Thiếu Úy Dứa đang canh lại bản đồ theo đường di chuyển từng ngày qua và ước lượng khoảng cách phù hợp.

Đàn khỉ tự dưng tụ tập trên cây lơ láo nhìn chúng tôi tay chỉ trỏ nhe răng khịt khịt.

- Romeo Bravo đây… Whisky Oscar hãy chuẩn bị. Tôi bắt đầu đếm số và xuống bải thả xâm nhập. Khi đếm đến OK có nghĩa là mức khởi đầu để tới bãi triệt xuất.

- Whisky Oscar rõ 5/5.

Màn chỉ điểm bãi đáp đã được hoạch định trong kế hoạch hành quân và tiếng đếm số của Covey vang lên trong máy rồi OK để Toán chuẩn bị.

- Whisky Oscar… bingo.

Thiếu Úy Dứa dõi theo hướng bay để biết bãi triệt xuất và Bingo là tiếng tôi vừa báo cho Covey Toán đang ở trước mũi bên dưới máy bay… Nó vụt qua rồi nhanh chòng bốc lên.

- Romeo Bravo… chỗ ở của bạn chỉ còn cách bãi đáp khoảng 10 km cứ thẳng hướng Tây… thoát.

Mặt trời ửng lên những tia nắng hồng. Chim hót vang trên cành và lũ khỉ lô nhô trên cây. Ngày hôm qua Toán không phát hiện gì mới. Khu rừng càng lúc càng bí ẩn cùng vẻ nguyên sinh. Cao Văn Hoàng được lệnh chuẩn bị di chuyển sau khi Trung Sĩ Kim Hoàng gỡ xong trái mìn phòng thủ. Nắng đã lên chiếu ánh vàng choé trên cây, Thiếu Úy Dứa canh lại bản đồ và chỉ hướng đi cho Hoàng, còn tôi nhiệm vụ bảo đàm về tần số trong máy liên lạc và mật mã trong ngày…


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1561005647-HQPD_KhuRungYenTinh_03.jpg
Hình minh họa
Ngày hôm nay Toán xong nhiệm vụ và triệt xuất. Làn gió nhẹ khuấy động mảng sương mù bay bay bên hai tay áo tôi đã đẫm ướt lành lạnh. Covey lên bao vùng và tiếng động cơ như dội ấm lòng. Thiếu Úy Dứa luôn chỉ hướng đi cho Hoàng vì chúng tôi đều biết rằng bãi đáp chỉ ở đâu đây thôi. Một vách đá chắn ngang vẫn còn hơi sương bừng mở sắc mầu Phong lan. Rừng vẫn là một bí ẩn. Và cảm thức sự bé nhỏ của con người được lật mở, khơi gợi. Toán dừng lại để tôi liên lạc Covey. Vừa ngồi xuống tôi đã nhìn thấy nắng rõ hơn ngang tầm cây cao lao vút cành lá.

- Kilo Hotel… Xray November gọi

- Đây là Kilo Hotel… anh là ai?

- Xray November… Xray November… Xray November.

Ba lần xưng danh và mật mã trao đổi… nghĩa là liên lạc được nối kết. Thời gian này đơn vị chống Biệt kích của địch hoạt động rất hữu hiệu và nguy hiềm nhất là họ được trang bị máy dò làn sóng.

- Kilo Hotel đây Xray November… tôi cần giai đoạn kế hoạch phụ… anh chỉ cho tôi.

Covey vừa ngang và nó vòng lại bay mở một cánh rộng như quan sát.

- Xray November… xin chú ý.

Tôi báo cho Toán chuẩn bị thế rồi từ Covey trái rocket khói được bắn xuống chỉ điểm bãi đáp. Tiếng nổ không to lắm nhưng cũng đủ để chúng tôi xác định hướng đi cũng như khoảng cách. Trên địa bàn lần này đi về hướng Nam có nghĩa mục tiêu ở bên hông.
Có một điều Toán chỉ nghe được tiếng nổ chứ không thấy khói đâu bởi cây cao rậm lá nhưng mừng thầm vì không phải leo qua vách đá kia thơm nức mùi hoa lan.

Thời gian được đếm trên những đôi chân vội vã nhưng cẩn thận đề phòng. Ngọn gió trên tầng cây cao rắc vội những cánh hoa tim tím từ cây Bằng lăng dễ chừng phải hai người ôm mới hêt vòng nơi gốc.

Muỗi trên mặt và vắt dưới chân ngọ ngoạy. Thiếu Úy Dứa và Hoàng dừng lại quan sát và đưa tay ra sau với dấu hiệu số 1… Tôi hiểu ngay bãi đáp được tìm thấy… Tiếng Covey bao vùng nơi xa và mặt trời xuất hiện ngang tấm đầu. Đảo mắt tôi thấy ngay vòng tròn cây rừng khoe gốc thân vút lên cao với dấu tích một hố sâu chính giữa… cây chồi mọc thấp chen cùng cây đổ sóng soài có cây gác lên nhau trơ gọng.

- Kilo Hotel đây Xray November. Tôi đã ra được bãi đáp.

- Xray November… tôi sẽ đến ngay.

Thiếu Úy Dứa canh lo bố phòng… Trung Sĩ Kim Hoàng và Biệt kích Dương Bửng cũng gài xong hai trái mìn phòng thủ.

- Xray November… mở cửa sổ khi anh thấy tôi… OK

Trung Sĩ Kim Hoàng cầm gương nơi tay và lấy ánh sáng vào… chuẩn bị.

- Kilo hotel… đã thấy anh và tôi sẽ mở cừa sổ…

Gương được chớp liên tục… đó là mật hiệu Toán phải theo nếu không muốn bị cho là địch quân.

- OK, Xray November Rõ 5/5 anh có thời gian 40 phút chuẩn bị triệt xuất… Dứt.

Mặt trời như đếm thời gian nhích dần như kim đồng hồ. Đứng trên đỉnh đầu toả sáng khắp ngàn xanh và lũng sâu chạy dài bất tận. Non cao thật bí hiểm, thâm u và lạnh lùng. Bầu trời yên tĩnh cùng chiếc Covey đã ra khỏi vùng chắc chắn để đổi tua chiếc khác…
Một con heo rừng to lớn đen trụi dẫn bầy theo sau dễ chừng có đến mười con be bé… Nó đứng lại hít hà chúng tôi rồi ụt ịt đi thẳng. Chim trên cành lanh chanh thưởng thức mồi ngon, có con thích thú hót véo von. Tiếng Covey tôi nghe rất rõ và tiếng gọi vang trong máy.

- Xray November đây Kilo Hotel gọi.

- Kilo Hotel đây Xray November… Xray November… Xray November…

Mật hiệu được trao đồi và rồi Covey xuất hiện nhanh chóng gần tới.

- Xray November… cho tôi cửa sổ nhà anh và panel mật hiệu.

Toán đã đáp ứng lời yêu cầu của Covey và lúc này trên bầu trời hướng đông những hạt đậu vãi rõ dần theo cơn gió quẩn… muốn đẩy chúng tôi vào lại rừng… trong cái cười mỉm của hố bom như không có sự sống và nhạt dần mầu đất. Đoàn trực thăng nhanh chóng trên đầu và Kim Hoàng cùng Dương Bửng cũng gỡ xong mìn phòng thủ.

- Xray November… bạn chuẩn bị triệt xuất 2 rồi 4 OK… Stabo.

Yên tâm hơn vì hai Cobra đang dọn bãi bằng những loạt đại liên. Trung Sĩ Kim Hoàng và La Văn Vượng cũng đứng vào vị trí câu dây. Một trực thăng đứng bên trên rồi thả xuống hai dây câu rồi tích tắc sau cái ra hiệu của Kim Hoàng lên phía trên… trực thăng dần lên rồi bay đi. Loạt đạn 40 ly nổ dài ấm áp không đanh nhọn như đại liên sáu nòng theo sau là trực thăng thứ hai xuống đón… thả xuống bốn dây câu từ hai cửa. Bốn người còn lại móc khoá từ dây câu vào chốt ở hai vai. Thiếu Úy Dứa kiểm soát xong ra hiệu lên trực thăng.

Chân vừa rời khỏi mặt đất bằng cái rút nhanh nhưng sao lại đưa hẳn chúng tôi vào gần phía cây rừng? Tôi chuẩn bị đưa tay che chắn đầu mắt nhìn quan sát phía trên và hoảng hốt bật thét lên “Hoàng ơi…ơi…” Nhành cây de hẳn ra bìa rừng như khoe với ánh nắng vừa vặn chạm vào cổ của Hoàng và kéo xuống… Đẩy người vào sát bên tôi bằng khuôn mặt tức khắc biến dạng dị thường… đầu cúi gập, mắt trợn trừng, bộ lưỡi đưa khỏi miệng có cùng chất giãi hoà máu… nhiễu cả vào tay và mặt tôi. Tôi lặng người qua phút giây giờ trực thăng đã ở trên cao đang bay về căn cứ. Gió vẫn thỉnh thoảng mang theo chất nước từ miệng Hoàng thoảng mùi tanh.

Lòng tôi bỗng đau xót từ cái bấn loạn khởi đầu từ chân, mắt không dám nhìn lên trên thật gần gũi và có khuôn mặt của Hoàng… Biệt kích Cao Văn Hoàng. Một cái chết êm đềm, yên tịnh khi chiến trường không một tiếng súng địch và khu rừng… Thâm u giữa đại ngàn, lạnh lùng mang đầy bí ẩn có hai hố bom 15,000 cân anh. Cái chết của những người trẻ trong chiến tranh mà chưa hề một lần nắm tay thiếu nữ cũng như bao cô gái còn ngây thơ đi lãnh tiền tử của chồng vừa khóc vừa đếm tiền… ”Ông ơi, đổi cho tôi đồng này rách…”

Lôi Hổ Nguyễn Văn Hải
Chiến Đoàn 1 Xung Kích
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=2234799526636208&set=pcb.2372292339475530&type=3&theater

BachMa
12-11-2019, 07:56 PM
Chuyện Tình Của Một Phi Công
(Chuyện thật được viết lại)
Nguyễn Trà

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1561005541-HQPD_ChuyenTinhCuaMotPhiCong_01.jpg
Hình minh họa
Biến cố Ba mươi tháng Tư năm một ngàn chín trăm Bảy mươi lăm, sau khi nghe Tướng Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, giống như trời sập, mất nước nhà tan, người lính đang chiến đấu hăng say ngoài tiền tuyến lại rã ngũ, mang súng đạn đầu hàng địch. Khi đất nước lâm vào cảnh màn trời chiếu đất vận nước đã đến mạnh ai nấy làm, nghe nói Cộng sản thì ai cũng khiếp sợ không muốn thấy mặt thật gian ác dã man của chúng, ai cũng hoảng hốt lật đật, không có thì giờ để từ giã vợ con, người thân, rời Việt Nam trong khoảnh khắc đầy hiểm nguy.

Sau khi đã ra khỏi nước và được Chính phủ Hoa Kỳ bảo trợ hầu hết các Hoa tiêu trực thăng trở về mái trường xưa, gặp Thầy cũ từng quen biết của thời Huấn luyện bay bổng tại Hoa Kỳ, một Căn cứ Bộ binh của Hoa Kỳ Hunter Air Field ở trong Thành phố cổ kính thuộc Tiểu bang Geogia ở Đông bắc Hoa Kỳ.

Hơn năm trăm Phi công trực thăng của Việt Nam Cộng Hòa, người có vợ có con, kẻ độc thân, ai cũng xơ xác, thơ thẩn lang thang giống như người điên người khùng mất hồn, mất trí cố sống bám víu quây quần bên nhau, nhờ những người Sponsors cũ lui tới an ủi và giúp đỡ trong những ngày chân ướt, chân ráo mới đến Hoa Kỳ. Nước nhà đã rơi vào tay Cộng sản, không biết bao nhiêu chuyện nghiệt ngã ập đến dần dần ai cũng phải tìm công ăn việc làm để kiếm cơm manh áo cho qua ngày tháng, kẻ đi người ở phân tán khắp năm mươi Tiểu bang, cũng có một số đã gắn bó và mang nhiều kỷ niệm với căn cứ ở lại chọn nơi đây làm quê hương thứ hai cho đến ngày hôm nay.

Anh bạn cùng khóa bay học tại Hoa Kỳ vào những năm cuối thập niên sáu mươi tên là Ánh, giống như nhiều người khác để vợ và một con lại Việt Nam, anh là người mà ở Việt Nam người ta thường đặt cho cái tên đào hoa phong nhã, người đã điều khiển con chim sắt trên không trung bay lượn ngang dọc một thời chinh chiến để bảo vệ không phận miền Nam nay bị sa cơ thất thế nên phải chịu nhục nhã, nhưng anh cố sống một cách gượng ép cho cuộc đời còn lại. Sau vài năm làm quen với thực tại và ngán ngẩm cuộc sống cô đơn, không còn hy vọng liên lạc với gia đình vợ con từ Việt Nam, nên anh tiếp tục tạo dựng hạnh phúc gia đình nơi xứ lạ quê người. Anh bạn vốn là người mang danh tài sắc đào hoa với chí trai khí phất khi sa cơ vấp phải nên phải khoanh tay mang đầy kinh nghiệm tuổi đời nên làm quen với con gái xứ người rất dễ dàng.

Một cô gái thuộc dòng dõi qúy tộc Anh Quốc mang tên Linda thùy mị, nết na đôi mắt xanh, mũi cao nước da trắng toát tuyệt vời hình như thắm đượm hạnh phúc mà tạo hóa đã an bày cho đôi uyên ương xứng đôi vừa lứa, nàng đá lông nheo với chàng Phi công Việt Nam đã trải nghiệm trên chiến trường và đời sống gia đình. Đôi uyên ương cơ duyên lại đến, với lứa tuổi nữa đời người không còn yêu cuồng sống vội, tình yêu như một cơn gió thoảng, tựa một áng mây bay không khác một ánh hoa rơi, ngây ngất say sưa nồng nàn trao tặng cho nhau với nỗi niềm khao khát, giống như một vườn hoa thơm ngát rập rờn ông bướm trên cõi thiên đàng, tình yêu đến với nhau trong khoảnh khắc nhưng đã trở thành bổn phận trách nhiệm vợ chồng cùng nhau xây dựng tổ ấm, hai con tim xa lạ người từ phương Đông kẻ từ phương Tây không hẹn hò, giống như duyên nợ trùng phùng nơi xứ lạ quê người chứa chan tràn đầy hạnh phúc.

Chuyện tình của kẻ thất thế bại trận đựơc chắp nối trong một hoàn cảnh éo le khắc nghiệt nghèo khó dù đã trải qua một thời anh dũng vinh hiển ngoài biên thùy suốt thời chinh chiến kéo dài hàng chục năm trên đất mẹ. Những chiến thắng vẻ vang vinh quang lẫy lừng một thời, đã mờ phai và quên lãng theo thời gian và cuối cùng trở thành kẻ chiến bại thua trận.

Cặp vợ chồng Mỹ Việt sống hạnh phúc với công việc làm ăn nhàn nhã, chàng làm việc ở một Bệnh viện tại địa phương, nàng ở nhà nội trợ săn sóc con cái, hơn mười năm chung sống cơm lành canh ngọt hạnh phúc đầm ấm gia đình sum vầy, sinh được hai cháu một trai và một gái kháu khỉnh. Thời thế đổi thay, chuyển biến chính trị, thế cờ được xóa đi và sắp lại, chính phủ Hoa Kỳ lại gở bỏ cấm vận và chuẩn bị bang giao với Việt Nam từ những kẻ cựu thù chém giết nhau không gớm tay những thập niên trước, nay lại trở thành những người bạn.

Vì thế vợ chồng anh Ánh liên lạc được với gia đình ở Việt nam và làm bảo lãnh cho chị Kim Hoa cùng cháu qua Hoa Kỳ đoàn tụ, đầu Thập niên chín mươi chị Kim Hoa cùng cháu trai qua Mỹ theo diện ODP.

Trong thời chinh chiến chị Kim Hoa đi dạy học taị một trường Tiểu học ở Thị xã Cần Thơ, sau khi Việt cộng chiếm miền Nam không cho chị tiếp tục đi dạy học vì chị thuộc chế độ “Mỹ ngụy” trong những năm không biết tin tức về chồng chết hay sống lại bị đuổi việc thất nghiệp, đời sống kềm kẹp vô phương cứu chữa cho đời sống, chị quyết định bồng con về sống với gia đình quê ngoại, ở một vùng quê cách Thị xã Cần Thơ hàng chục dặm, cuộc sống vất vả hàng ngày chị ra chợ buôn thúng bán bưng chân lấm tay bùn để nuôi con qua ngày tháng, chị không phải đi nuôi chồng vất vả các trại tù cải tạo mà bao nhiêu người vợ lính phải làm, nhưng cũng bị chế độ xã hội chủ nghĩa trả thù đày đọa chui dũi cuộc sống hơn mười lăm năm giống như bị đọa đày, nô lệ.

Rồi gặp ngày đoàn tụ chị hân hoan sung sướng đón nhận những ngày tươi đẹp, ngày đến Hoa kỳ được sửa soạn và trang điểm lại, gái một con sồn sồn trông mòn con mắt và quyến rũ như cô gái đương Xuân, khuôn mặt thanh tâm và mái tóc uốn lượn mượt mà, óng ả mềm mại như nhung phủ với đôi mắt long lanh ngời sáng xỏa xuống vai uốn éo thật duyên dáng. Khi bước xuống phi trường chị dang hai tay ôm chặt lấy người chồng vào than mình trong cảnh sung sướng nhẹ nhõm vô cùng như vừa trút xong một gánh nặng vô hình với nước mắt rơi ràn rụa trên đôi mắt quen thuộc đã xa cách hơn mười lăm năm.

Chuyện tình nghiệt ngã và oái ăm vào một mùa xuân vùng Đông Nam Hoa Kỳ khi cảnh vật đang chen nhau đâm chồi trổ lá, khí hậu dịu mát mọi người đang hưởng thanh bình cuộc sống giàu sang phú qúy của dân bản xứ, chị Kim Hoa cùng cháu được hân hoan chào đón ngày hội ngộ và sum họp gia đình. Cuộc vui hội ngộ chưa tàn thì án mạng xảy ra khi biết chị kim Hoa cùng cháu đến Savannah để gặp lại người chồng, người cha, chị Linda muốn trả chồng lại cho chị Kim Hoa, chị Linda viết một bức thư định mệnh tuyệt mạng nhắn nhủ và khuyên răn chồng săn sóc các con và hưởng hạnh phúc gia đình. Chị thanh thản tự tại đến cầu Savannah thuộc Tiểu bang Geogia cầu cao gần 400 Ft vào một buổi sáng định mệnh khi sương mù đang bao phủ của màn đêm, trên cầu xe cộ qua lại lưa thưa, đèn điện vẫn còn sáng bên dưới dòng nước phẳng lặng lấp lánh phản chiếu bởi ánh đèn điện, chị an nhiên tự tại can đảm nhảy xuống cầu tự vẫn, chị đã chọn cái chết để kết liễu cuộc đời, để giải quyết vấn nạn gia đình, để lại hai con, một trai và một gái.

Câu chuyện náo động gây xôn xao dư luận trong dân chúng các đài Truyền hình và báo chí địa phương đăng tải mấy ngày liền, dân bản xứ cả vùng Đông nam Hoa Kỳ bàng hoàng bàn tán xôn xao băn khoăn và tiếc nuối, rồi lại truyền khẩu nhau thương tiếc chị Linda, một người phụ nữ Hoa Kỳ có tinh thần cao thượng tự trọng và can đảm hy sinh cuộc đời mình để lại hạnh phúc cho chồng, cho con.

Chị Linda đã tiêu diêu nơi miền cực lạc, kết thúc cuộc đời bởi chuyện tình cao thượng, bởi tình yêu chân thật chị đủ can đảm tự vẫn để nhường chồng cho người khác, cuộc đời mỏng manh vô thường cái sống, cái chết thay đổi từng sát na trong xã hội từ Đông sang Tây có ít người phụ nữ làm được. Chị đã mang thiện cảm nghĩa hiệp bao la vô bờ vô bến cho khối người tỵ nan Việt Nam lúc đó, vì ái tình mà phải hy sinh tính mạng để nhường chỗ cho một người khác, chị là người để lại cho chúng ta mến phục để lại một tiếng thơm vô giá, một tấm gương trong sáng cho người đời vì người chồng, người yêu, người thương mà phải hy sinh tính mạng làm cho người tỵ nạn băn khoan và quý mến, người bản xứ động lòng xót thương, từ dạo đó tên tuổi chị Linda được người đời nhắc nhở và thương tiếc chị đã ngang nhiên tự tại thanh thản bình yên về một thế giới vĩnh hằng vô hình.

Chúng ta ít thấy một người phụ nữ Tây phương biểu lộ tình yêu và hạnh phúc vì quá yêu say sưa mê mệt và cuồng loạn, trái tim rỉ máu thắm đượm men ái tình nên đã hy sinh. Khi còn ở Việt Nam chúng ta thường nghe những vụ tự tử như lao mình vào xe hơi, treo cổ tuyệt mạng trong những căn nhà nơi xóm vắng, bởi tình yêu ngang trái, đôi khi trở thành khờ dại, điên cuồng thất vọng không có cách nào để tìm đời sống và hạnh phúc chính mình.

Đấy là những chuyện bồng bột của tuổi trẻ, của những người thiếu tự tin và cảm thấy mất mát về tình yêu không thể tìm kiếm một hình ảnh, một bóng dáng giống như người mình yêu. Ở xã hội Việt Nam xưa cũng như nay cứ nghĩ rằng yêu đương của người Á Đông chúng ta thường xảy ra trong dân gian hay nhắc nhở trong tiểu thuyết là tình yêu sâu sắc, đậm tình đắm đuối hơn là người Tây phương.
Nhưng khi chúng ta đã lăn lộn đi sâu vào xã hội Tây Phương mới thấy được sự thật và sức mạnh tình yêu của người Tây Phương.

Chị Kim Hoa cùng cháu từ Việt Nam khi xuống phi phi trường được anh Ánh đón tiếp trong tinh thần chồng cha hơn mươi lăm năm xa cách ngày hội ngộ thật là ngậm ngùi thương mến anh ôm lấy vợ con vào lòng. Cuộc gặp gỡ tái ngộ tràn đầy nước mắt bởi những mong mỏi và ao ước chất chứa lâu ngày đến ngày đoàn viên xúc động để lộ ra không thể giấu giếm, che đậy được tình cảm và nước mắt của mình.

Khi còn ở Việt Nam chúng ta thường nghĩ tình yêu lứa đôi, tình cảm có chiều sâu vô tận đặt nặng tình yêu về tình cảm bất chấp ngang trái, tuổi tác, nghề nghiệp, cần nhiều thời gian lui tới tìm hiểu nhau phải mất nhiều thời giờ, mất cả vài ba năm có khi vẫn chưa đủ, cho nên dân gian thường có câu tục ngữ “Một túp lều tranh hai quả tim vàng” chỉ cần thương yêu trăm năm hạnh phúc không quản ngại giàu nghèo sang hèn, chỉ biết thương nhau là đủ để xây dựng tổ ấm. Khi ra hải ngoại mới thấy tình yêu của người Tây Phương, chỉ quen nhau vài tháng có thể ăn ở chung đụng với nhau, mặc dù chưa chính thức hôn nhân nhưng sống với nhau xây dựng gia đình tình cảm còn sâu đậm gắn bó chẳng thua kém so với người Á Đông chúng ta.

Trên đời này chẳng hề có chuyện yêu thương bất diệt. Ái tình chẳng qua là một cảm xúc nhất thời, cảm giác này tuyệt đối sẽ theo thời gian, hoàn cảnh và biến thiên thay đổi. Nếu người yêu bất diệt rời bỏ ta rồi, hãy chịu khó nhẫn nại một chút, để thời gian dần dần trôi qua, để tâm tư từ từ lắng động, cái đau khổ từ từ nhạt nhòa đi, không nên cứ ôm ấp cái ảo ảnh yêu thương mãi, cũng không nên quá bi lụy vì thất tình (Tôn Vận Tuyền thủ tướng Đài Loan thư để lại cho các con).

Anh Ánh mất người vợ Linda còn lại hai cháu một trai và một gái, vợ chồng anh Ánh đã nuôi nấng săn sóc hai cháu, mãi đến năm 2012 cô con gái đầu đã tốt nghiệp Bác Sĩ còn người con trai tốt nghiệp ngành Kỹ sư Điện tử, công ăn việc làm bảo đảm, hai cháu vẫn còn độc thân.

Anh Ánh cùng vợ là chị Kim Hoa chỉ có một cháu mang từ Việt Nam qua và gia đình hạnh phúc công việc làm ăn cũng khá giả.

Chiến tranh Việt Nam giữa Nam và Bắc tang thương và đẫm máu đến hồi kết thúc, cuộc chinh chiến kéo dài hai mươi năm bom đạn đã tàn phá và dày xéo đất mẹ, hàng triệu chiến sĩ đã bỏ mình bảo vệ lý tưởng, hàng triệu người dân vô tội đã chết ngoài biển khơi tìm tự do, hàng chục ngàn Quân Cán Chính VNCH bị trả thù giam cầm tù tội, đất biển bị lấn chiếm, gia đình phân tán vợ chồng phân ly đồng bào đói khổ, thiếu cơm thiếu áo, nhà nước vẫn ngang nhiên độc tài cai trị ác nghiệt.

Phe thắng cuộc phải có bổn phận với Tổ quốc phải chịu trách nhiệm với Lịch sử, bất hạnh thay chiến tranh vẫn không buông tha đất nước, quê hương vẫn tiếp tục chiến tranh không phải bằng súng đạn mà vẫn chiến tranh bắt bớ giam cầm, nhà nước cai trị độc tài Đảng trị bán đất, bán biển cho ngoại bang làm cho đời sống người dân lúc nào cũng hồi hộp, thấp thỏi, phập phồng, lo sợ.

Tình yêu đối với Dân tộc, tình yêu đối với gia đình, con người cũng có lúc khi lên voi khi xuống chó là chuyện buồn vui khổ đau trong cõi ta bà, con người cố tạo dựng và mong ước cuộc sống hạnh phúc an lạc, tình yêu coi như duyên nợ, thuận duyên gặp diễm phúc, hạnh phúc, nghịch duyên sẽ mang đến khổ đau, dù có than van trách móc số phận vẫn an bài, thôi đành lấy cái nghiệp mà trời đất đã gắn cho mình.

Đã mang lấy nghiệp vào thân.
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.
Truyện Kiều, Nguyễn Du.

Chuyện tình của một Phi công được viết lại, câu chuyện thật đã xảy ra hơn ba mươi năm theo ký ức của người viết, chuyện đầy thương đau và bất hạnh không chỉ trong giới Không Quân mà ngay cả khối đồng bào tỵ nạn Cộng sản tại Hải ngoại khi nghe đến đều bàng hoàng xúc động thương xót và cảm mến một người phụ nữ Tây Phương đầy dũng cảm có sức mạnh tinh thần vô thường, tự chọn cái chết tự tử để nhường lại hạnh phúc cho người khác thật là câu chuyện hiếm hoi đã xảy ra.

Câu chuyện oái ăm sau cuộc chiến Nam Bắc của Việt Nam đau thương chưa nguôi ngoai, chưa hàn gắn lại vết thương tất cả đều quy tội bởi chiến tranh. Nếu con người khi đạt được sự hòa bình tuyệt vời và chia sẻ lòng tự do với một tâm hồn quãng đại vị tha nhất, thì Xã hội này không còn ganh tỵ mà lại Hỷ Xả cho nhau bằng tâm hồn vị tha và thương yêu.

Con người sẽ được tồn tại và phụ thuộc theo định luật vô thường của tạo hóa. Theo thuyết của đạo Phật tự tử cũng là phạm giới một trong năm giới cấm của đạo Phật là sát sanh. Chị Linda kiếp trước đã mắc nợ chị Kim Hoa nên kiếp này chị Linda đã phải trả. Mong rằng thế giới ngày nay mang lại hoà bình và an lạc cho tất cả nhân loại.


Nguyễn Trà
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=579302639245269&set=a.170866793422191&type=3&theater

BachMa
12-23-2019, 06:43 PM
Merry Christmas & Happy New Year
:40: :40: :40:

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1577126304-HQPD_2017.jpg
/uploadpics/mp3pdf_2019/1577126556-FelizNavidad_VoThuong.mp3

BachMa
01-04-2020, 07:38 PM
Đầu Năm Cười Chút Chơi..

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1578165415-41483978_2112996882352098_1651061565467656192_n.jp g

:kk: :kk: :kk:

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1578165505-NganHayDai.jpg

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1371892382.gif http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1371892382.gif http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1371892382.gif
https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1578165719-66690468_1162566803948577_3446930835243008000_n.jp g

:icon_crying: :icon_crying: :icon_crying:

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1578165741-72273765_466945463906892_5922523974335463424_n.jpg

:5: :5: :5:

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1578165863-72888488_137360214258789_8113432842664411136_n.jpg

:ukliam2: :ukliam2: :ukliam2:

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1578166042-18268659_1918528778361214_8267412031310088226_n.jp g

http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1405483401.gif

BachMa
02-05-2020, 08:11 PM
Hương Tràm Trà Tiên
hoànglonghải

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1574445388-HuongTramTraTien.jpg
Hình minh họa
So với các vùng quê khác ở Miền Tây Nam Bộ, đời sống dân vùng Cái Sắn cao hơn thấy rõ, từ cách sinh hoạt, ngôn ngữ, tôn giáo v.v… tuy bên cạnh đó, có những sự việc, những nhân vật có những hành vi khá đặc biệt, làm cho người dân bất mãn không ít.

Sở dĩ họ có đời sống cao là nhờ ba yếu tố: Xã hội, tôn giáo, giáo dục.

Về miền Tây, ở những làng mới hình thành trong vài ba trăm năm trở lại đây, vì dân làng là dân lưu tán mới tụ lại, phong tục tập quán chưa định hình, hoàn chỉnh, đó là chưa nói tới cách sinh hoạt và tư tưởng còn hủ lậu, mê tín dị đoan nên có nhiều điều xấu xảy ra.

Cái Sắn thì khác. Dân Nam địa phương, có tính ưa cờ bạc là điều đáng chê trách. Tuy nhiên, vùng Cái Sắn trước kia cũng không phải là vùng hoang dã, dân cư thưa thớt, mà lại là vùng làng xã từng hình thành, từng tiếp xúc với hoàn cảnh sống văn hóa cao hơn, nhất là đạo Phật của dân chúng vùng Long Xuyên, Châu Đốc, Rạch Giá. Dân chúng thờ phượng ông bà, tổ tiên, phật thánh và biết “tu hiền” (Tiếng thường dùng ở địa phương) nên không có gì gọi là hủ lậu. Bên cạnh đó, người di cư từ Bắc vào Nam, trong cuộc hành trình trốn chạy Cộng Sản, họ mang theo cả phong tục, tập quán, lề thói, do tổ tiên xây dựng lâu đời, nên trong đời sống tinh thần, họ có nhiều điểm đáng ca ngợi.

Điều đáng lưu ý ở đây là người Bắc biết trọng sự học hơn nên về mặt học vấn, nhìn chung con cái họ có nhiều người thành đạt.

Khi thành lập khu dinh điền chính quyền đã không quên mở trường để cho trẻ em được cắp sách đi học. Ban đầu, trường tiểu học được mở ra ở quận, ở xã. Trong mỗi kinh, tương đương với mỗi ấp chỉ có trường sơ cấp.

Nhờ dân chúng trong khu dinh điền biết trọng sự học, số lượng học sinh càng ngày càng đông, trường ốc không đủ, các linh mục ở mỗi kinh mở thêm trường tư dạy học. Công việc tiện lợi cả hai mặt. Học sinh không phải đi xa, thường bằng ghe xuồng nguy hiểm, nhà chung thâu học phí. Trẻ em học tiểu học ngay tại kinh, lên trung học mới học ở trường quận hay trường tư ở ngoài trục lộ.

Đến đầu thập niên 1970, trường trung học quận đã mở đến cấp ba (Đệ nhị cấp), nhưng chưa có lớp 12, và trong mỗi kinh, như đã nói, mỗi kinh tương đương với mỗi ấp, đã có trường trung học.

Trường trung học lâu đời nhất có lẽ là “trường của cha Uyển”, – Linh mục Nguyễn Thượng Uyển ở kinh 6 Rọc Bà Ke, bên cạnh trục lộ Long Xuyên – Rạch Giá. Những học sinh cũ của trường nầy, trước 1975, đã có người tốt nghiệp đại học, hoặc vào quân đội, lon lá lên tới cấp tá, một số là phi công. Sân bay ở quận, nhiều khi bỗng nhiên có máy bay trực thăng đáp xuống: Phi công về thăm nhà. Trước khi đáp xuống, họ cho máy bay lượn quanh nhà. Có nghĩa là họ sắp về thăm. Người nhà đem xuồng ra quận lỵ đón họ về nhà ở trong kinh.

Về giáo dục, việc tranh chấp tôi phải phân xử là giữa một người bạn học cũ của tôi, anh Khôi. Tôi biết anh ấy khi anh vào Đại Học Sư Phạm Huế, ban Cấp Tốc (1 năm học) năm 1958. Không rõ do đâu, anh ta được bổ nhiệm về làm hiệu trưởng trường Trung Học Đệ Nhị Cấp Kiên Tân. Một số giáo sư ở đây, nguyên là học sinh cũ của trường, nay tốt nghiệp đại học sư phạm, về dạy trường cũ, không chịu để cho một giáo sư trung học đệ nhất cấp (Sư phạm một năm) làm hiệu trưởng một trường cấp ba. Đó chỉ là lý do họ đưa ra, mục đích là tranh giành chức hiệu trưởng. Mặc dù ngạch trật là điều thiết yếu, nhưng trong ngành giáo dục, nhiều khi người ta trọng những vị lớn tuổi, tuy ngạch trật nhỏ hơn nhưng tuổi tác ngang hàng với thầy dạy của những người trẻ. Có lẽ đó là lý do người bạn tôi được cử giữ chức vụ hiệu trưởng trường nầy. Tuy nhiên, người bạn tôi tốt nghiệp ở Huế, mấy năm trước dạy học ở miền Trung, không phải là thầy dạy trực tiếp của họ nên họ muốn “đảo chánh” ông.

Người Nam, đất rộng dân thưa, đời sống dễ dàng, ít chăm lo tới việc học của con cái. Đến khi người Nam người Bắc ở chung, chịu ảnh hưởng lẫn nhau, xã hội càng ngày càng phát triển, học vấn trở thành nhu cầu cần thiết, lần lần ai ai cũng thấy không thể lơ là việc học, phải lo chăm sóc việc học của chúng. Do đó, nhìn chung, việc học ở vùng nầy phát triển nhanh, học sinh các cấp ngày càng đông, trường học ngày càng nhiều, nhất là trường tư, vì chính phủ không đủ khả năng đáp ứng nhu cầu giáo dục của dân địa phương.

Một điều không hay là các trường học của các cha ở trong kinh là các “ổ trốn quân dịch”. Nhiều thanh niên, không thấy cái trách nhiệm của mình đối với đồng bào, tổ quốc, lại hèn nhát nên thường không thi hành lệnh động viên. Không có công ăn việc làm, họ xin dạy ở các trường của các cha với giá lương rẻ mạt. Các cha thì ham rẻ, vả lại họ là con chiên trong họ đạo của các cha, các cha khó từ chối khi họ xin việc. Thứ nữa, trả lương cho thầy giáo rẻ thì thu học phí rẻ, học trò dễ theo học, chưa kể nhờ rẻ thì sĩ số càng thêm đông.

Một hôm, cuộc cảnh sát xã Tân Hiệp bắt một thanh niên tội trốn quân dịch. Anh chàng nầy gặp xui. Thông thường, thanh niên khi trốn quân dịch, họ chỉ quanh quẩn ở trong kinh. Các cơ quan chính quyền, kể cả Cảnh Sát, sợ đụng chạm với các cha nên ít khi “hành quân cảnh sát” trong đó. Từ đầu tới cuối kinh, hầu hết là người Bắc di cư cư ngụ, làm gì có Việt Cộng mà hành quân bắt giữ. Lợi dụng tình trạng đó, mấy ông trốn quân dịch cứ ở riết trong kinh, không ló mặt ra khỏi xã, khỏi ấp là an toàn. Anh chàng bị bắt nói trên vì ham chơi, đi theo một con nhỏ nào đó ra chợ Tân Hiệp uống cà phê.

Cha Toàn, chánh xứ họ đạo kinh 3, kiêm hiệu trưởng trường trung học kinh 3 của cha, ra gặp tôi xin trả tự do cho người bị bắt. Anh ta cũng là thầy giáo dạy ở trường của cha Toàn. Để tránh phiền phức, tôi đã cho giải giao anh ta về tiểu khu Kiên Giang. Cha Toàn giận tôi, ông ta bảo: “Thầy giáo của tôi đấy, ông làm sao thì làm.” Tôi thấy bực mình. Tôi chưa truy tố cha về tội “tán trợ bất phục tòng”. Anh ta trốn quân dịch, sao cha dám cho anh ta dạy học ở trường của cha. Vậy mà ông ta còn dọa tôi!?

Có điều đáng buồn, ra khỏi khu vực Dinh Điền Cái Sắn, tới xã Mông Thọ sát bên cạnh, việc giáo dục không được phát triển và chăm sóc như vậy.

Về tôn giáo, tình hình ở đây khá phức tạp. Đối với đạo Hòa Hảo, việc tu tập của quần chúng tín hữu không có gì đáng nói nhưng với hàng “chức sắc” là cả một vấn đề rắc rối. Tại quận lỵ, tín đồ Hòa Hảo có một ngôi chùa, dân chúng sinh hoạt bình thường, lui tới đông đảo. Những ngày vía lễ, chùa khói hương nghi ngút.

Nhưng chức sắc thì chia làm ba phe, phe nào cũng muốn giành ngôi chùa cho mình. Ba phe đó là: Phe ông Lương Trọng Tường, phe ông Lê Quang Liêm, phe ông Lê Trường Sanh. Mấy ông này lập phe ở trung ương của họ, – ở Long Xuyên – Ở Kiên Tân là những người theo phe của ba ông ấy, nổi tiếng nhất là ông Lê Minh Châu, người theo phe ông Lương Trọng Tường.

Lê Minh Châu có lần tụ tập phe nhóm của ông đông đảo, rồi “chiếm chùa.” Sợ các phe kia tới chiếm lại, ông cho đem lựu đạn vào chùa “phòng thủ”. Cũng may, việc quăng lựu đạn, giết nhau chưa xảy ra. Các phe kia bị lấy mất chùa, bèn thưa kiện lung tung. Nhờ thiếu tá quận trưởng Huỳnh Đầm Sắn cũng là người theo đạo Hòa Hảo nên ông mời mọi người vào quận đường để dàn xếp. Ba phe thỏa thuận thành lập một “Ban Tế tự”, coi việc thờ phượng trong chùa. Quyền lợi ba phe ngang nhau, không phe nào được chiếm chùa.

Tuy vậy, phe Lê Minh Châu thỉnh thoảng lại chiếm chùa để cho bọn trốn quân dịch vào ở trong đó. Dĩ nhiên, tấn công hay lục soát chùa là một vấn đề hết sức phức tạp và dễ bị thưa gởi, cấp trên khiển trách, nên không ai tính tới việc đem lực lượng an ninh kiểm soát chùa.

Trong chùa không có giếng nước nên các thanh niên trốn trong chùa phải ra khỏi chùa, băng qua đường cái để xuống kinh lấy nước hoặc tắm rửa. Các Cảnh Sát Đặc Biệt của tôi mặc đồ dân sự, núp ngoài chùa. Tên trốn quân dịch nào ra khỏi chùa đều bị tóm cổ. Bọn trẻ sợ hãi bèn bỏ đi. Việc chiếm chùa của Lê Minh Châu giải quyết xong.

Khoảng đầu năm 1974, Hai Ngoán, cánh tay mặt của Lương Trọng Tường thành lập cái gọi là “Tổng Đoàn Bảo An”, là một lực lượng quân sự và chính trị để chống Cộng Sản nhưng không dưới sự chỉ huy, lãnh đạo của chính phủ trung ương. Người ta đồn phía sau việc thành lập lực lượng nầy có “bàn tay lông lá” – Cũng chỉ là lời đồn đãi.

Vài đơn vị Địa Phương Quân gốc giáo phái Hòa Hảo thuộc tiểu khu Long Xuyên, tăng cường hoạt động ở các tỉnh bên cạnh, có lần “đụng trận” báo cáo tổn thất 100%. Thực ra, vũ khí và máy móc truyền tin của các đại đội nầy lén đưa về Long Xuyên để trang bị cho các lực lượng thuộc Tổng Đoàn Bảo An.

Tại Kiên Tân, Lê Minh Châu tự ý dựng ngay một tấm bảng trước cổng chùa viết là “Quận Đoàn Bảo An Kiên Tân”. Chính quyền phải khuyến khích các phe phái khác, căn cứ vào bản cam kết việc thành lập ban tế tự để dẹp tấm bảng nầy.

Mặc dù có sự chia phe phái như vậy, tín đồ Hòa Hảo họ không theo hẳn phe phái nào.

Những người trước kia từng tham gia lực lượng quân đội Hòa Hảo của Ba Cụt, Năm Lửa… mỗi năm họ gặp nhau nhiều lần tại trụ sở Dân Xã Đảng, một ngôi nhà lá nhỏ, đơn sơ, nằm sâu trong một con hẽm kế quận lỵ, để làm lễ giỗ kỵ các vị tướng tá cũ của họ, nay đã qua đời như tướng Ba Cụt, Năm Lửa, Trương Lương Thiện, v.v….

Họ dựng tại trụ sở một tấm bảng lớn bằng cở tấm bảng đen ở lớp học, trên đó họ chưng đủ hình các vị chỉ huy cũ của họ trước kia. Bây giờ, hàng năm, họ họp mặt tưởng niệm cấp chỉ huy chứ chẳng có hoạt động quân sự, chính trị nào, không gây phiền nhiễu cho chính quyền. Nhìn họ, những người một thời cầm súng chiến đấu trong lực lượng giáo phái, người ta thấy họ chẳng khác gì những người dân chất phác bình thường của đất Nam Bộ, không một chút gì gọi là “dữ dằn” như báo chí thời Ngô Đình Diệm tuyên truyền về họ. Nói về lý tưởng và công trạng chiến đấu chống thực dân Pháp, chống Việt Minh, họ là những người đáng kính, đáng yêu.

Tôi không rõ việc bầu bán dân biểu thời Đệ Nhứt Cộng Hòa ra sao, nhưng thời Đệ Nhị Cộng Hòa, trước cũng như sau khi trung tướng Nguyễn Văn Thiệu làm tổng thống thì có vẽ tự do đến … lung tung.

Trước hết xin nói tới sự ngưỡng mộ của dân chúng trong khu dinh điền đối với cố tổng thống Ngô Đình Diệm. Trong số họ, không ít người tin “Ngô Tổng Thống còn sống”, cho rằng nhứt định “Ngài không chết” như dân chúng ở Tam Tòa (Đà Nẵng) đã tin chắc như thế hồi mới đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963. Tuy nhiên, lòng tôn kính cua họ đối với Tổng thống Ngô Đình Diệm thì còn sâu sắc lắm. Điều đó rất dễ hiểu. Dân chúng trong khu dinh điền bây giờ sung túc, khá giả, con cái được học hành đàng hoàng, .v.v… Công lao đó là của ai, nếu không phải là Tổng thống Ngô Đình Diệm? Ông đề ra chương trình Dinh Điền, Khu Trù Mật, đặc biệt quan tâm tới việc xây dựng nó, giúp đỡ và giải quyết những khó khăn cho Dinh Điền, lại thường đích thân tới thăm viếng, khuyến khích dân chúng trong Dinh Điền.

Người ta có thể thấy việc “Nhớ ơn Ngô Tổng Thống” trong việc trồng hoa vạn thọ. Không hiểu do đâu, bỗng người ta đồn với nhau rằng Ngô Tổng Thống rất thích hoa vạn thọ. Có phải tổng thống thích câu biểu ngữ “Ngô Tổng Thống Muôn Năm”. Vạn thọ cũng có nghĩa là muôn năm. Thời ông Bảo Đại còn làm vua, – làm vua chớ không phải làm quốc trưởng – nhân một dịp “tứ tuần đại khánh” vua hay thái hậu gì đó, bọn học trò lớp đồng ấu chúng tôi được phát quà và tập nói câu “Vạn thọ Vô Cương”. Nghe câu đó, cậu (cha) tôi nói đùa là “Vạn Thọ Vô Cương: Trong xương ngoài nạc”. Vì câu chuyện cũ đó nên tôi bỗng chú ý thấy dân chúng trong kinh, trong sân nhà thờ, nhứt là nhà thờ linh mục Nguyễn Bá Lộc, kinh 1 Cái Sắn, trồng nhiều hoa vạn thọ. Có phải người ta trồng loài hoa nầy để “tưởng nhớ Ngô Tổng thống”? Tổng thống đã qua đời, nhưng hoa vạn thọ thì vẫn còn đó!

Không những hoa vạn thọ còn ngoài sân mà ngay trong phòng khách của cha Lộc. Ở đó, còn có một bức hình rất lớn, lồng kính, treo ngay chính giữa phòng. Hình màu, vẽ lại từ một bức hình chụp, chân dung Tổng thống Ngô Đình Diệm. Tấm hình vẽ đẹp mà tổng thống, khi chụp bức hình nầy cũng còn trẻ và đẹp trai.

Lần đầu tiên thấy bức hình nầy, tôi nhớ lại một vài ngày sau khi đảo chánh lật đổ và giết anh em Tổng thống Diệm, Hội đồng Quân nhân Cách Mạng của tướng Dương Văn Minh ra lệnh hạ hết hình ảnh, tượng đài tổng thống Ngô Đình Diệm ở công viên, trong công sở và ngay cả tại tư gia.

Hình như lệnh cấm đó không “phê” (effet) gì tới cứ địa của cha Lộc. Không những thế, tôi còn thấy cha chưng mấy bức hình ông chụp chung với hai ông Tướng Thiệu, Kỳ khi mấy ông nầy “bay” xuống Cái Sắn vận động tranh cử. Hình chụp cha Lộc đứng giữa. Hai ông tướng, một ông là Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia, một ông thì Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương, ông nào cũng mặc đồ lính, lon lá đầy mình đeo sao tùm lum, (ông Kỳ mặc đồ bay), cười toe toét khi đứng bên cạnh cha Lộc. Đó là “Những nụ cười kiếm phiếu.”

Xin nhớ rằng đối với đồng bào trong kinh, và cả những đồng bào gốc miền Nam, không phải dân di cư, sống ở đầu kinh (1) hay dọc theo trục lộ, không phải tín đồ đạo Thiên Chúa, họ cũng kính trọng các cha, nói chung, và bỏ phiếu cho ai nếu cha yêu cầu, vận động cho người ấy, giống như con chiên các cha trong kinh vậy, nhứt là cha Lộc, người có uy tín lớn ở Kiên Tân, và thường hay giảng ở nhà thờ, có kèm thêm phần “phụ diễn” nên bỏ phiếu cho ai khi có bầu bán.

Thông thường, người đắc cử thường là con chiên của cha.

Khi chế độ Đệ Nhị Cộng Hòa mới hình thành, bầu cử tổng thống, nghị sĩ, dân biểu, v.v… Hồi đó tôi chưa về Cái Sắn nên không biết trong các buổi lễ vào thứ bảy, chủ nhựt, mấy ông cha, sau khi giảng kinh, có “phụ diễn” phần bỏ phiếu cho ai hay không: Liên danh 9 (Thiệu Kỳ), hay Phan Khắc Sửu, Nguyễn Đình Quát… Về thượng viện thì bầu cho liên danh Sư Tử Cầm Bút, Bông Sen hay Bông Huệ… Nhưng ngay từ đó thì người đắc cử dân biểu ở đây là ông Mại, con chiên của cha Lộc nhà ở đầu kinh 2.

Thế rồi tới cuộc bầu cử năm 1971, ông Nguyễn Tấn Đời, ông chủ Thần Tài Tín Nghĩa Ngân Hàng thay chỗ ông Mại.

Sao kỳ vậy?

Có gì kỳ đâu!

Ông Nguyễn Tấn Đời đâu phải là tín đồ đạo Thiên Chúa như thông thường những người đắc cử ở đây. Ông Đời cũng không phải là dân địa phương. Hỏi thêm nữa, cha Lộc vận động cho ông Đời ghê lắm, bỏ nhiều công sức cho ông Đời đắc cử.

Nếu không có cha Lộc, dân chúng, nhất là đồng bào trong kinh biết ông Đời là ai! Họ làm ăn khá giả, có tiền thì… mua vàng đem cất, chẳng thèm biết ngân hàng là cái gì thì làm sao biết Tín Nghĩa Ngân Hàng hay ông Thần Tài Tín Nghĩa. Trong chiều hướng đó, chắc chắn đồng bào không biết ông Đời là cha căng chú kiết nào để mà bầu ông ta làm đại biểu cho họ ở quốc hội.

Tình cờ, một hôm đi công tác ngang nhà ông Mại, tôi vào thăm ông ta. Lúc ấy tôi vẫn không biết tại sao ông Mại, cựu dân biểu, tranh cử lại thua ông Đời, người không phải là dân địa phương.

Ông Mại không có một lời than phiền cha Lộc, chỉ nói với tôi một câu: “Thôi đừng nói tới cha Lộc nữa.” Tôi nghĩ ông ta oán cha Lộc lắm. Có gì đâu: “Nén bạc đâm toạc tờ giấy” như tuc ngữ thường nói vậy thôi! Nhưng tôi biết một việc khá quan trọng: Lúc ấy cha Lộc đang xây lại nhà thờ kinh 1 của cha. Nhà thờ rất lớn. Dĩ nhiên, cha cần phải có tiền!

hoànglonghải
nguồn: https://vantuyen.net/2014/09/24/hoanglonghai-huong-tram-tra-tien-bai-26-phat-trien-mot-chieu/

BachMa
02-21-2020, 09:50 PM
Mái Trường Xưa
Nguyễn Trung Nam

(Viết lại bài cũ, hy vọng các thế hệ sau biết được lịch sử
của một ngôi trường tiểu học cộng đồng Tham Tướng ở Cần Thơ từ năm 1956).

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1574447367-MaiTruongXua_01.jpg
Thiếu úy Nguyễn Văn Độ. Trước sân trại lính Nguyễn Huệ. Năm 1955.
Thuở còn cắp sách đến trường, ngôi trường như một mái ấm gia đình thứ hai của tôi. Trải qua bao nhiêu năm, tôi vẫn nhớ hoài đến một ngôi trường tiểu học nhỏ bé, khiêm tốn tại khu Tham Tướng, Cần Thơ.

Ngôi trường này đặc biệt trong cuộc đời tôi, vì cha tôi là người sáng lập ra ngôi trường này. Năm 1955, cha mẹ tôi về cư ngụ tại Cần Thơ, cha tôi là chỉ huy trưởng trại lính Nguyễn Huệ. Chức vụ của ông lúc đó là thiếu úy. Thiếu úy Nguyễn Văn Độ.

Cha tôi thuở nhỏ không có dịp đi học đến nơi đến chốn vì nhà nghèo giản dị. Nên ông rất trọng sự học. Ông thông minh, hiếu học, lúc ra trường sĩ quan Thủ Đức khóa 5, ông là “thủ khoa” của đại đội.

Năm 1956, ông sáng lập ra trường tiểu học cộng đồng Tham Tướng. Gia đình cha mẹ tôi sống ở trong thành lính này. Khi tôi 5 tuổi, cha tôi dắt tôi đi học trường tiểu học Tham Tướng. Ngôi trường nằm phía sau thành lính, sau lưng nhà cha mẹ tôi. Tôi học từ lớp 5 đến lớp nhất. Ban đầu, ngôi trường chỉ gồm một dãy nhà ngang đơn sơ. Các lớp nằm theo thứ tự từ trái sang phải, lớp 5 đến lớp nhất.

Trong sân trường, có những cây bàng to lớn, cành lá xum xuê mát mẻ. Chung quanh trường, nhà cửa còn thưa thớt. Vùng đất bên hông trường còn hoang sơ với những con rạch với đám sậy mọc lên che lối. Có một lần vào ngày hè, tôi thơ thẩn đi trên con đường đất gần trường, khi tới cuối đường thì gặp một cái ao nước. Tôi ngớ ngẩn nhìn những cây cỏ dại mọc vươn lên trên mặt nước trong veo. Tôi nói với thằng bạn: “Chắc là ao cạn, không sâu đâu”.

Nói xong bước chân xuống, để rồi…té cái đùng! Ao sâu nên tôi chới với, đưa tay bám đám cỏ khô trên bờ. Cỏ khô đứt từng khúc, tay tôi tuột trôi, thân tôi càng chìm sâu.
Tôi la lớn kêu mấy tên bạn đi cùng kéo lên. May quá, tụi nó đưa tay lôi tôi lên bờ. Quần áo ướt nhẹp, tôi không dám về nhà, đành đi lòng vòng cho đến khi quần áo khô mới dám mò về. Một trong những thú vui ngày nhỏ, tôi cùng mấy đứa bạn lang thang trong đám lau sậy, đi tìm những con dế lửa hay dế than thật to, đem về cho các thi đá “dế” với nhau. Xem có con dế nào là “dế vô địch”.

Chúng tôi lục lạo trong các lùm cỏ, gốc cây, mong bắt cho bằng được những chú dế nào to nhất. Bắt được rồi, hí hửng đem về nuôi trong hộp quẹt giấy, rồi gặp nhau cho một cuộc chơi đầy hứng khởi. Thả 2 con dế vào trong hộp lớn, kích thích chúng để rồi hồi hộp xem con nào vô địch. Muốn cho khích tướng dế của mình, tôi dùng sợi tóc, xoay xoay vào mặt con dế. Lập tức, con dế dương cao hai cánh cọ xéo tạo ra tiếng kêu rít rít, 2 càng banh rộng, và xông vào đối thủ. Cả hai con chỉ cần một cú là đủ. Con nào thua thì cụp cánh, chạy de ra 1 góc. Kẻ chiến thắng la to vui sướng, kẻ chiến bại tức mình đem dế mình về, rồi lại kiếm con khác.

Ngày đó dế rất nhiều, đủ loại khắp nơi. Dĩ nhiên dế nhũi thì bị chê. Không phải là loại để chọi đá. Tết Trung Thu, tôi bắt chước các bạn hái những lá bàng to rồi dùng chính cành khô ghim vài nhánh lá thành một cái lồng đèn. Tùy theo sự khéo tay, chúng tôi có cái lồng đèn tinh xảo hay vụng về. Ở ngoài chợ thì những lồng đèn con cá, con thỏ, ngôi sao bằng giấy kiếng màu với đầy màu sắc treo lủng lẳng trông mà thấy mê nhưng không mấy đứa nào có tiền mà mua. Vì tôi sống biệt lập trong trại lính nên các bạn thân chỉ là những đứa trong các lớp. Năm lớp 4, thằng tôi thân nhất là thằng Tình. Nhà nó trong hẻm 2 trên đường Tạ Thu Thâu. Nó và tôi hay đi chơi với nhau trong những ngày hè.

Một hôm, hai đứa tôi vào trong hẻm nhà nó, gặp 3 đứa con gái học chung lớp đang đứng trước nhà lá của một đứa trong nhóm. Thấy 2 đứa tôi, một đứa ngoắc lại gần, rồi chỉ tay xuống đất, nói: “Tụi tao viết tên 2 đứa bây rồi chôn dưới đất nè”. Hồi đó, chúng tôi tin vào những dị đoan như bị “thư yếm”. Nếu tên mình mà bị người khác viết lên giấy xong rồi chôn xuống đất là kể như tiêu đời, chết sớm. Hoặc nếu các ngón tay mà vị nhiều nắp nhăn thì sẽ bị “xui xẻo”. 2 đứa tôi nghe xong hoảng hồn nhìn xuống đất.

Khoảng đất nhỏ ướt nhẹp dưới chân con nhỏ. Tôi và thằng Tình vội vã lấy một nhánh cây khô, ngồi xuống đào thật lẹ để tìm cho ra “miếng giấy sinh tử” ấy. Đào chưa được bao lâu, cây gẫy, không thấy gì. Tôi quăng nhánh cây, dùng tay đào và móc. Thằng Tình cũng bắt chước theo. Hai đứa dùng 2 tay móc từng miếng đất. Tự nhiên mấy đứa con gái cười ré lên xong chạy đi. Cái con nhỏ ngoắc tôi lúc đầu, nói lớn trước khi bỏ chạy. “Tụi tao mới đái lên trên chỗ đó, lêu lêu”. Tôi và thằng Tình dở khóc dở cười, vội chạy đi tìm cái lu nước để rửa tay cho sạch. Từ đó, hai đứa tôi sợ quá nên lánh mặt mấy con nhỏ đó.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1574447385-MaiTruongXua_02.jpg
Lớp nhất với thầy Sanh. Trung Nam ngồi hàng đầu thứ nhì từ trái sang. Niên khóa 1965.

Trong trí óc thơ ngây, tôi mơ hồ nghĩ về con gái, hình như trời sanh con gái ra để “ăn hiếp” con trai chúng tôi thì phải. Ở trường học, mỗi tháng các học sinh được nhà trường cho uống sữa tập thể. Sữa chỉ là sữa bột pha nước. Do hội Hồng Thập Tự cung cấp. Cả trăm đứa học sinh đứng ngoài sân, sắp hàng để được uống sữa. Tôi không thích sữa bột này tí nào. Ở nhà, khi nào bị cảm bệnh là má tôi không cho ăn cơm, chỉ uống sữa đặc pha nước sôi. Cứ khi nào bệnh là uống sữa cho đến khi lớn. Tôi ghét uống sữa từ dạo đó.

Ngày xưa đi học, mỗi đứa xách 1 bình mực vào lớp. Viết chữ bằng ngòi viết lá tre. Trên bàn gỗ có đục một vòng tròn, vừa vặn cho cái bình mực đặt vào. Mấy ngày đầu, còn vụng về khi viết chữ, mực văng ra tùm lum, dính trên tay trên áo, hay trên mặt. Hồi đó học sinh không được dùng viết nguyên tử hay viết bi, vì các các thầy cô quan niệm viết chữ bằng ngòi viết lá tre mới giúp học sinh viết nên chữ đẹp. nét đậm, nét nhạt, nét cứng cỏi hay dây thung. Tựa như viết thư pháp vỡ lòng với bút lông. Viết nguyên tử là thứ bị cấm dùng. Cái bình mực tím và ngòi viết lá tre là bạn thân với tuổi thơ chúng tôi.

Đi học tiểu học phải mặc đồng phục. Áo trắng bỏ vào trong quần cọc. Trên cổ quàn khăn quàn xanh. Lên trung học công lập thì thay bằng quần dài, bỏ khăn quàn, nhưng có thêm phù hiệu trường. Trước khi vào lớp, chúng tôi đứng sắp hàng hai trước cửa. Khi bước vào lớp phải trả bài cửu chương. Một tên trưởng lớp đứng trước cửa, chận từng đứa, bắt đọc thật to: “Hai lần một là hai Hai lần hai là bốn Hai lần ba là sáu Hai lần bốn là tám… Đọc cho thật lẹ, đến cuối câu thì kéo một hơi dài cho đúng vần điệu. Xong rồi mới được vào lớp. Đứa nào không thuộc, đứng lại mà ráng “rặn” cho ra.

Bắt đầu là số hai, từ từ học cho thuộc lòng bảng cửu chương này tới số 9, cũng theo vần điệu như thế. Cái màn học thuộc bảng cửu chương vậy mà có hiệu quả giúp chúng tôi rất nhiều và lâu dài. Vì khi lớn lên, bài học này đã ăn sâu vào trí óc chúng tôi, nên mỗi khi làm bài tính nhẩm, giúp chúng tôi giải đáp nhanh chóng. Cuối tháng, học sinh phải kẽ trên 1 trang giấy một bảng khuyên điểm cho từng tháng. Một trang vẽ tùy theo khiếu thẩm mỹ của từng đứa. Có đứa thì cứ theo một kiểu mẩu từ sách vẽ một ô vuông rộng bằng khổ giấy, chính giữa để trống để ghi điểm hạng.

Tôi rất thích vẽ vời trang trí công phu. Niềm đam mê học vẽ bắt đầu từ các năm học này. Bắt đầu từ lớp 5, chúng tôi học môn quốc văn, công dân và đức dục (hay là công dân giáo dục), và toán cộng trừ. Lên lớp 4 trở đi, học thêm sử ký, địa lý và tập làm văn. Học quốc văn thì lúc đầu phải học thuộc lòng những bài thơ về tình cảm gia đình, tình yêu thương loài vật, tình cảm bạn bè, tình nhân loại, đặc biệt là lòng yêu quê hương, dân tộc Việt. Một trong bài vỡ lòng của lớp 5 như sau:

“Hỡi các cậu bé con
Đang lúc tuổi còn non
Các cậu phải chăm học
Có học mới nên khôn”

Còn một bài tiêu biểu đạo làm người thì có:

“Thấy người hoạn nạn thì thương
Thấy người tàn tật lại càng trông nom
Thấy người già yếu ốm mòn
Thuốc thang cứu giúp, cháo cơm đỡ đần
Trời nào phụ kẻ có nhân
Người mà có đức, muôn phần vinh hoa”.

Hay bài về lá cờ:

“Lá cờ là cờ của ta
Công khó ông cha làm ra
Cháu con ta gìn giữ lấy
Muôn năm nhớ nước non nhà”

Bài này về sau được chế ra như sau, cho “hợp tình hợp cảnh”:

“Lá cờ là cờ của ta
Công khó ông cha làm ra
Chúng em hay chào buổi sáng
Trong khi lớp nhất kéo cờ”.

Về thầy cô thì tôi còn nhớ có 2 cô giáo dạy lớp 3 và lớp nhì. Cô Xiếu Ngó và cô Hảo. Riêng cô Hảo thì tôi còn nhớ hoài về cô. Cô đẹp như một vị thiên thần dưới con mắt tên học trò 8 tuổi lúc bấy giờ. Thân hình cô mảnh khảnh. Gương mặt xinh tươi. Giọng cô trong vắt. Cô luôn tươi cười. Cô đối xử với đám học trò nhẹ nhàng êm dịu. Không thấy cô la mắng la rầy.

Tôi nhớ có một lần cô bảo tôi lên văn phòng lấy cho cô ly nước. Khi tôi đem về, cô hỏi tôi có rửa cái ly hay không. Tôi ấp úng nói không, cô chỉ cười nói: “Không rửa ly thì vi trùng vào người cô đó”. Tôi định bào chữa là có tráng ly nước nhưng vì mắc cở quá nên thôi. Khi lớp tổ chức tiệc tất niên vào năm lớp nhì, cô Hảo tuyên bố sẽ thưởng cho học sinh nào ca hay nhất trong lớp. Tôi đã mạnh dạn ra đứng trước lớp hát 1 bài. Bài hát mà tôi rất thích bấy giờ, đó là bài “Tôi Đi Giữa Hoàng Hôn” của Văn Phụng. Kết quả tôi đoạt giải nhất. Phần thưởng là một viên kẹo mứt mãng cầu. Đó là phần thưởng đầu tiên trong đời học sinh của tôi. Lớp 5 cho đến lớp 3 có nam có nữ. Bên con gái ngồi bên trái. Bên con trai bên tay phải.

Ngồi đầu bàn bên con gái có một con bé tên Thúy. Học giỏi nhất bên con gái. Còn tôi học giỏi nhất nhì bên con trai. Tôi hay liếc nhìn con bé Thúy đôi lần. Con bé này đặc biệt lắm. Mái tóc ngang vai. Gương mặt trắng trẻo thông minh. Nhưng con nhỏ nghiêm trang như người lớn, không cười giỡn, không lớn tiếng. Không bao giờ thấy con bé quay xuống lớp để đùa giỡn với bạn. Tôi chú ý đến nó, tôi ganh tỵ nên thi đua ngầm. Lớp học có một cái điều lệ.

Cứ vào đầu tháng đứa nào bị điểm thấp thì bị phạt đánh vào bàn tay. Người đánh là đứa có điểm cao. Tôi và con Thúy thường được chọn đứng trên bảng, tay cầm cái thước đánh vào tay đứa bị điểm thấp hay hạnh kiểm xấu. Dĩ nhiên tôi đánh rất nhẹ vào tay bạn mình. Lòng tôi không vui tí nào. Con Thúy chắc cũng có tâm trạng như tôi. Có một ngày gần tới tết Trung Thu, thầy Thanh cầm một phần tư bánh trung thu, thầy đi xuống dưới bàn nói: “Đứa nào nhà nghèo đưa tay lên?”. Tự nhiên tôi nhảy đứng trên ghế, dơ tay thật cao, một điều ai cũng ngạc nhiên (ngay cả tôi cũng không hiểu động cơ nào tôi “mát” như vậy), tôi la lớn: “Dạ thưa thầy nhà con nghèo”. Thầy Thanh cười nói: “Nhà con mà nghèo hả? Thầy biết rành nhà con mà”. Tôi tiu nghỉu ngồi xuống. Lòng ấm ức không dám nói gì. Những tháng hè, ba tôi cho tôi đi học ở nhà thầy Thanh, cũng là thầy giáo dạy chúng tôi trong trường.

Nhà thầy ở trong khu Rạch Bần. Mỗi buổi sáng trước khi đi học, má tôi bắt tôi ăn sáng bằng những củ khoai mì nóng hổi. Có hôm nào sang lắm thì được khúc bánh mì kẹp trứng. Rồi tôi đi bộ đến nhà thầy. Ngôi nhà tranh mộc mạc. Lớp học nằm phía sau căn nhà. Nhỏ xíu chỉ đủ chỗ cho 4, 5 học trò. Nhà nền đất với những bàn ghế gỗ đơn sơ.

Sau lưng lớp học là khu vườn cây ăn trái, vườn rau và các mương nước hoang sơ. Cô (vợ thầy Thanh) thường lấy bắp chuối non xắt ra trộn với cám nuôi con heo ục ịch ngoài sân. Giờ ra chơi, tôi cùng bạn ra sau vườn ngồi rình bắt mấy con còng từ trong các khe nước. Một thú vui “tao nhã” của chúng tôi lúc bấy giờ. Thầy Thanh người cao, ốm, hiền lành ít nói. Thầy thương tụi học trò. Hình ảnh thầy như các thầy giáo làng trong truyện “Quốc Văn Giáo Khoa Thư”. Tận tâm, mẩu mực và thương yêu học trò như con.

Lần cuối cùng khi tôi gặp thầy. Thầy đi ngang qua nhà tôi trước trường tiểu học Tham Tướng, thầy đã già, tóc bạc. Tôi chào thầy. Thầy ân cần hỏi tôi đang học lớp mấy.
Tôi trả lời đang học lớp 11 Phan Thanh Giản. Thầy cười khen tôi giỏi. Nụ cười hiền lành trên gương mặt. Sau này, tôi ân hận hoài vì tôi không có đến thăm người thầy đã dạy tôi từ tấm bé.

Còn cô Xiếu Ngó, sau này cô là giám thị trường Đoàn Thị Điểm. Riêng cô Hảo thì ba tôi cho tôi biết thêm về cô. Cô Hảo có một người anh trai, khi lớn lên đi lính không quân. Anh trai cô khi đi học huấn luyện lái máy bay ở Algeria thì bị tử nạn khi thực tập. Xác được đưa về Việt Nam và quàn tại nhà. Ông được truy thăng thiếu úy. Lúc đó có cái lệ là quân đội thường cử 2 người thiếu úy đứng canh trước quan tài. Một trong hai người đó là ba tôi. Lúc đó ông mới biết và quen cô Hảo. Cô còn học trung học.

Sau khi ba tôi về làm việc tại khu Tham Tướng và lập trường tiểu học thì cô Hảo về dạy trường này và tôi là học trò của cô. Cô Hảo sau này trở thành hiệu trưởng trường Thọ Nhơn cho đến năm 75. Cô đã về hưu và hiện nay sống ở Cần Thơ. Cô vẫn sống độc thân.

Lên đến lớp nhất thì thầy Sanh dạy lớp tôi. Một lớp 44 đứa con trai. Thầy Sanh người to con mập mạp. Nhưng thầy hiền hòa vui tánh. Nhà thầy bên cạnh khu sân banh. Tôi có đến học tư nhà thầy để chuẩn bị thi vào trung học. Mỗi ngày đến học, khi có giờ nghỉ, tôi hay ra trước lớp học, nhìn ra căn nhà ở phía trước, xem người ta làm bún. Một cảnh tượng đầy thú vị. Trong lớp nhất tôi chú ý đến một tên to con cao lớn trong lớp. Gương mặt nó có nét của “Trư Bát Giới”. Sau này mới biết nhà nó chuyên giết và bán thịt heo.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1574447399-MaiTruongXua_03.jpg
Trường mới ngày nay, đổi tên thành Trường Tiểu Học Trần Quốc Toản.

Đứng đầu lớp 5 có tôi và Tuấn (gương mặt nó giống như tên, tuấn tú đỉnh ngộ), ba nó cũng là một sĩ quan. Cuối năm lãnh thưởng, tôi cùng các học sinh giỏi được đứng trong sân trường, trước mặt một bàn đầy phần thưởng, rồi chờ các thầy cô hiệu trưởng trao tận tay, phần đông là tự điển hay sách giáo khoa. Tôi nhớ lúc nhận quà, thầy hiệu trưởng ra lệnh đứng im, hai tay đưa ra nhận quà từ quý thầy cô nhưng phải giữ nguyên tại chỗ để chụp hình. Tôi cầm một lát mỏi tay, trời thì nóng, nắng lên cao, chói lói đỉnh đầu, nên tôi nói với thầy giáo đang trao quà: “Thầy cho con cầm về chỗ ngay nhe?”. Dĩ nhiên thầy từ chối. Tôi đành ấm ức đứng im chịu trận.

Vị hiệu trưởng đầu tiên của trường tiểu học cộng đồng Tham Tướng là thầy Lai. Sau này ông về trường Phan Thanh Giản làm giám thị. Khi tôi học trường Phan, thằng bạn thân lớp 11B2 là Quang ốc tiêu, là con trai của thầy Lai. Chúng tôi thân nhau lắm. Tôi hay tới nhà nó học bài luyện thi Tú Tài 1. Ba má Quang thương tôi vô cùng.

(Năm tôi trở lại Cần Thơ năm 2013 để tìm Quang thì biết nó đã chết hơn 20 năm rồi. Quang chết trong sự thất chí, chán đời. Cuộc đời của nó sau năm 75 chỉ toàn là những chua cay thất bại. Thầy Lai cũng mất đã lâu).

Cái ngày tôi trở lại Cần Thơ sau 39 năm xa cách, ngẩn ngơ đứng trước căn nhà cũ trên đường Tạ Thu Thâu, nay là đường Mậu Thân. Căn nhà cũ nằm đối diện với trường tiểu học Tham Tướng, bây giờ là một khách sạn 4 tầng Phú Uy, hoàn toàn xa lạ. Còn ngôi trường xưa của tôi nay là trường Trần Quốc Toản. Kiến trúc đồ sộ nguy nga, nhưng không thấy sân trường. Mái trường xưa không còn dấu tích. Cây bàng chắc đã chết từ lâu. Dẫu biết cuộc đời dâu bể đổi thay, nhưng những kỷ niệm của thuở cắp sách đến trường, vẫn không bao giờ phai nhạt.

Khi tôi về, tôi đã già. Còn thầy cô ngày xưa ấy, không biết ai còn ai mất?
Tôi nhớ đến cô Hảo, cô Xiếu Ngó, thầy Sanh, thầy Thanh… với niềm thương kính khôn nguôi.

https://www.facebook.com/photo.php?fbid=338451853746065&set=pcb.2444882345756671&type=3&theater&ifg=1

BachMa
03-10-2020, 05:45 PM
Mối Tình 30/4/75 Giữa Chàng Tây Đức Thân Cộng
và Nàng Xướng Ngôn Viên Đài Truyền Hình VNCH.

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1561005664-HQPD_MoiTinh30-4_01.jpg
Hình minh họa
Chàng là một người cộng sản Tây Đức (CHLB Đức) và là một nhà quay phim trẻ, tên là Stephan Köster, 27 tuổi. Anh là thành viên của nhóm sinh viên cộng sản tại thành phố Cologne (Köln) thành lập ra “Ủy ban khởi xướng tăng cường ngành điện ảnh cách mạng Việt Nam” (Initiativkomitee für die Stärkung des revolutionären vietnamesischen Filmwesens), viết tắt là IK.

Nhờ thông thạo 6 ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Pháp, và từng có kinh nghiệm tiếp xúc với du kích Nam Mỹ khi sống ở Bolivia, nên Stephan Köster được IK cử sang Sài Gòn.

Stephan Köster kể lại: “Vào khoảng đầu tháng 4/1975, các đồng chí của IK từ Hà Nội trở về đã gặp tôi hỏi, liệu tôi có nhận nhiệm vụ đó không?

Tôi đồng ý ngay, thế là ngày 26/4/1975 tôi nói dối bố mẹ là đi Tây-Ban-Nha, rồi đáp máy bay đi Bangkok. Tại đây, tôi hầu như là hành khách duy nhất, chẳng còn ai muốn bay về thành phố Sài Gòn đang bị bộ đội Bắc Việt và du kích miền Nam bao vây.

Tôi đến miền Nam Việt Nam với nhiệm vụ bí mật là quay phim cho đài truyền hình Bắc Việt cuộc rút lui của quân đội Mỹ khỏi thành phố Sài Gòn đang bị bao vây và được chứng kiến cuộc chiến. Không có nhà quay phim Bắc Việt nào có thể thực hiện một kế hoạch như vậy, họ sẽ bị bắt và bị tra tấn cho đến chết. Để không bị nghi ngờ, tôi đã ngụy trang như một nhà báo Tây Đức và không mang bất cứ một thứ gì có thể lộ ra rằng tôi là người của Việt Cộng”.

Nàng là Đào Thị Ngọc Xuân, xướng ngôn viên của đài truyền hình Việt Nam Cộng Hòa tại Sài Gòn. Bố mẹ Xuân là chủ một hãng bào chế thuốc Tây tại Sài Gòn. Stephan Köster đã mô tả Xuân bằng ngôn ngữ sặc mùi cộng sản:

“Xuân, nàng là người phía bên kia, làm xướng ngôn viên cho đài truyền hình phản động ở Sài Gòn, hình như có lần nàng khiêu vũ với Tướng Westmoreland của Hoa Kỳ.

Bố mẹ nàng đã đi di tản bằng trực thăng bay ra tàu sân bay Mỹ, và nghĩ rằng nàng sẽ cùng tôi xuất cảnh. Bà vú nuôi của Xuân kể như vậy qua điện thoại.

Dĩ nhiên nàng không hề biết tôi làm việc cho Mặt trận Giải phóng. Xuân hỏi:

– Anh làm việc cho ai?

Tôi nói dối:

– Cho truyền hình Tây Đức.

– Em hãy giúp anh!

Và tôi quyết tâm sẽ ở lại với nàng nơi đây”.

Ngày 28/4/1975 – Tiếng sét ái tình!

Ngày 28/4/1975 là ngày định mệnh, lần đầu tiên chàng cộng sản Tây Đức và nàng xướng ngôn viên đài truyền hình VNCH tình cờ gặp nhau tại một tiệm chụp ảnh trong thương xá TAX trên đường Nguyễn Huệ. Chàng Stephan Köster cần chụp ảnh vì khách sạn Caravelle, nơi chàng trú ngụ, đề nghị người nước ngoài phải nộp ảnh để làm giấy tạm trú theo lệnh thiết quân luật. Còn Xuân cần có ảnh để làm thủ tục xin xuất cảnh.

Tại tiệm chụp ảnh, Stephan Köster bị thôi miên bởi ánh mắt của một cô gái Việt đang nhìn mình. Xuân có cảm tình ngay với chàng trai Đức đang nói chuyện với chủ tiệm bằng giọng Pháp rất êm. Tiếng sét ái tình!

Stephan Köster kể lại: “Câu chuyện của tôi với Việt Nam và câu chuyện một cô gái Việt với tôi bắt đầu bắt đầu trong một tiệm chụp ảnh.

Nàng cần một tấm ảnh để xuất cảnh, còn tôi cần một tấm ảnh để ở lại đây. Nàng có một chiếc xe con cóc VW (xe ô tô Volkswagen của Tây Đức) màu trắng và có thời gian rảnh rỗi. Nàng thích giúp tôi quay phim và đồng ý để tôi tự lái xe”.

Tối hôm đó (28/4/1975) số ít ỏi phóng viên nước ngoài còn ở khách sạn Caravelle quyết định chuyển sang khách sạn Continental, nơi có đông người phương Tây hơn, để có thể bảo vệ lẫn nhau. Stephan Köster vẫn còn nhớ như in vào đầu đêm khuya hôm đó:

“Ngày 28 tháng Tư 1975. Khuya. Tôi đã ở Việt Nam được hai ngày. Vài tiếng súng lác đác ở những con đường Sài Gòn không đèn. Dẫu là lệnh giới nghiêm 24 tiếng đồng hồ. Chúng tôi nằm trong phòng tắm không có cửa sổ để tránh đạn lạc và những mảnh nổ sắc nhọn. Xuân ngồi dậy và dựa lưng vào bồn tắm. Khuôn mặt nàng sưng húp do khóc, không son phấn trông thật lạ. Nàng nói:

– Tụi Mỹ bỏ rơi chúng ta.

Tôi nghĩ nhưng không nói ra:

– Bọn chuột đang tháo chạy khỏi chiếc tàu sắp chìm.

Ở cửa phòng tắm tôi đã chuẩn bị sẵn trang bị thoát hiểm. Máy quay phim của tôi, đôi giầy bốt chắc chắn và một gói băng cứu thương. Và cả đôi giày cao gót nhỏ nhắn, cao 10 cm của Xuân. Khi ngủ thiếp đi, tôi thấy những vẻ mặt không tán thành của các đồng chí của tôi ở Tây Đức”.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1561005679-HQPD_MoiTinh30-4_02.jpg
Hình minh họa

Ngày 29/4/1975 cả thành phố Sài Gòn thức dậy trong căng thẳng và sợ hãi, những ngày cuối cùng của cuộc chiến ba mươi năm, những ngày đầu tiên của một cuộc cách mạng. “Ngày 30/04/1975 tôi chạy xuống đường kịp lúc việt cộng đang chiếm tòa nhà Hạ Nghị Viện VNCH và hạ lá cờ vàng sọc đỏ. Các lực lượng vũ trang Việt Nam Cộng Hòa đã buông súng. Tôi mới ở đây ba ngày rưỡi và cuộc chiến tranh Việt Nam 30 năm đã chấm dứt.

Khi đó tôi cũng quay phim Xuân thật ngắn chỉ 4 giây. Nàng là con gái của gia đình tư sản giầu có và bảo thủ phải đối mặt với chính quyền mới như thế nào?

Nàng quay sang tôi. Gương mặt cực kỳ hốt hoảng”, Stephan Köster kể.

Quay bộ phim “Giải phóng Sài Gòn”.

Từ cửa sổ khách sạn Caravelle, nơi trú ngụ đầu tiên khi đến Sài Gòn, Stephan Köster đã quay cảnh đầu tiên cho bộ phim tài liệu về trận đánh Sài Gòn tháng 4/1975.

Trong hai tháng ở Sài Gòn, anh ta đã phải cưỡng lại sự thất vọng ê chề về cái-gọi-là cuộc cách mạng của bọn MTGPMN và mối hoài nghi mới nẩy sinh, để quay bộ phim tuyên truyền “Giải phóng Sài Gòn” cho đài truyền hình Bắc Việt. Một phim tường thuật ngây ngô và ngớ ngẩn về cái thắng lợi may mắn của những kẻ xâm lược từ phương bắc, hoàn toàn không đúng với tình hình lịch sử và cũng không đúng với trải nghiệm riêng tư mà anh đã từ từ nhận thấy: “Giờ đây Việt Nam bị chia cắt, không phải về địa lý nữa, mà về tâm hồn và có lẽ sẽ không bao giờ có chuyện hòa hợp giữa hai miền”.

Xuân đã phụ giúp anh ta quay bộ phim này. Có lần, trong một bữa ăn sáng, Xuân nói với Stephan Köster:

– Em nghĩ rằng anh là một người cộng sản – cộng sản chính cống.

Anh ta trả lời:

– Đúng vậy, nhưng chỉ khi nào cách mạng Việt Nam hoàn toàn thành công.

Các đồng chí nôn nóng của Stephan Köster ở Tây Đức cũng trông chờ bài “tường thuật về thắng lợi” của anh ta. Họ đánh điện tín nói anh ta phải về ngay, họ đang cần tư liệu.

Sau khi từ Sài Gòn trở về Tây Đức vào đầu tháng 7 năm 1975, bộ phim tuyên truyền của Stephan Köster đã được hoàn thành đúng hạn.

Một bản gửi về Hà Nội, một bản giữ ở Đức. Ngày nay, xem lại phim này, anh ta có cảm giác như đang bị bịt mắt. Stephan Köstler cho biết một trong những nguyên do tại sao hồi đó sau ngày 30/4/1975 anh ta thất vọng não nề:

“Không chỉ bởi vì chủ nghĩa xã hội ở Đông Dương đã không giữ đúng những gì mà chúng ta mong đợi, nên ngày nay tôi cảm thấy nhạt nhẽo vô vị khi nghĩ về công việc tuyên truyền của mình. Có phải đó là sự ảo tưởng chính trị của chúng ta? Người đàn ông với máy quay phim là ai? Điều gì đã xảy ra trong đầu anh ấy và trong tâm trí của những đồng chí của anh ấy? Về những câu hỏi này sẽ không bao giờ có một câu trả lời nhanh chóng. Chỉ nói cho tôi thôi: Tôi quan tâm đến sự ngây ngô của tôi, sự cống hiến của tôi, sự ngạo mạn của tôi và tính cơ hội của tôi. Tôi cảm thấy bất an khi tôi phải làm công việc tuyên truyền.

Những tên cán bộ này bỗng từ đâu kéo vào miền Nam VN nhỉ? Đó không phải là những việt cộng mà tôi vẫn yêu. Sự ngạo mạn của chúng sẽ làm hỏng cuộc cách mạng. Trong khi các bậc tiền bối không đeo quân hàm, thì con cháu của chúng phải lớn lên trong các bộ đồng phục với khăn quàng đỏ và đứng nghiêm khi hát. Vậy mà tôi vẫn quay cảnh đó và quyết dùng nó làm cảnh kết thúc hùng tráng cho cuốn phim “Giải phóng Sài Gòn” tường thuật về thắng lợi của cuộc cách mạng. Một nước Việt Nam mới, trẻ trung. HẾT PHIM”. Sài Gòn trong tôi/ netfile21.

Trở về lại Tây Đức – Chia ly

Stephan Köster và Xuân đã cố gắng làm thủ tục giấy tờ kết hôn tại Sài Gòn, nhưng không được. Xuân thất vọng nói:

– Họ sẽ không cho em theo anh về Đức, đó đúng là kiểu cộng sản mà.

Anh ta đáp lại:

– Họ còn bận nhiều việc khác hơn việc cưới xin cho người khác. Ngay sau cách mạng làm gì có người bình thường nào lại đòi cưới.

Stephan Köster còn nhớ lại không khí nặng nề trong thời gian cuối khi sắp rời khỏi Việt Nam:

“Việc tôi phải trở về Đức làm cho mọi thứ trở nên vô nghĩa, partir c’est mourir, ra đi là chết trong lòng. Sự bất lực của mọi cử chỉ của tôi, của mọi cố gắng giải thích của tôi. Sự thù nghịch trong lòng tin của nàng. Đôi mắt nàng cảm thấy tôi sẽ phụ bạc nàng.

Tôi rời Sài Gòn và Xuân sau hơn 2 tháng ở đó, vào ngày 01/07/1975. Sài Gòn – Vientiane – Bangkok – London”.

Các đồng chí cộng sản ở Tây Đức

Stephan Köster cảm thấy đầu óc trống rỗng khi nghĩ đến việc gặp lại các đồng chí của mình ở Tây Đức. Công việc chung mà đã gắn bó chúng tôi là cái gì nhỉ? Cái tổng thể bao trùm? Cái tổng thể bao trùm tất cả là sự lạnh lẽo của vũ trụ. Ngồi trên máy bay từ Sài Gòn về Đức, trên trời cao, anh ta nghĩ như vậy.

Tổ chức IK ở Colonge (Köln – Tây Đức), tức là “Ủy ban khởi xướng tăng cường nghành điện ảnh cách mạng Việt Nam”, được đảng cộng sản Tây Đức KDP thành lập từ mùa hè năm 1972, đã tổ chức nhiều cuộc quyên góp nhằm trang bị cho cách mạng Việt Nam những thiết bị như máy quay phim truyền hình v.v. Khoảng Tết ta đầu năm 1975 tổ chức IK đã tặng cho đài truyền hình Hà Nội 3 chiếc xe truyền hình lưu động. Sau đó Stephan Köster được IK cử sang Sài Gòn quay phim “Tường thuật về thắng lợi” như đã nêu trên.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1561005695-HQPD_MoiTinh30-4_03.jpg
Hình minh họa

“Khi trở lại Tây Đức, tôi bỗng thất đảm: Một kẻ nào đó đã mạo danh tôi viết các bài tường thuật. Trong thời gian tôi đang ở nơi xa xôi tại Sài Gòn, các đồng chí thiếu kiên nhẫn của tôi ở Cologne Tây Đức đã nghĩ ra các bài tường thuật nhân chứng giàu trí tượng tưởng. Họ đem ra đọc như những lá thư của tôi trong các buổi tổ chức lớn mà có cả bố mẹ tôi tham dự và sau đó họ còn đem đăng báo dưới tên của tôi.

Để không trừng phạt họ vì sự dối trá này và không làm hại cho tổ chức, tôi không dám kể câu chuyện rối rắm của mình ở Việt Nam nữa, cũng như những mâu thuẫn do sứ mạng của tôi mang tới cho tôi”, Stephan Köster cho biết nguyên do tại sao anh ta “lui về ở ẩn” không còn tích cực hoạt động cho cộng sản nữa.

Các "đồng chí" của anh ta ở cái-gọi-là Ủy ban đoàn kết Việt Nam đăng trên báo một bức ảnh hồi thời anh còn hoạt động chung với nhau; nhưng chúng lại đểu cáng xóa hình anh đứng ở ngoài cùng phía bên trái.

Rồi mấy tên "đồng chí" của anh cũng cho đăng trên báo bức ảnh về một cuộc hành quyết dã man của Khmer đỏ, kèm theo lời bình xảo trá và trơ trẽn: "Ảnh giả đểu cáng". Mặc dù cả thế giới đều biết rõ tội ác diệt chủng của bọn Polpot là có thật.

Với tâm trạng chán chường và thất vọng về lý tưởng mà đã theo đuổi bao năm nay, Stephan Köster băn khoăn tự vấn: “Tôi đã làm việc gì đó vì những lý do chính đáng, nhưng như thế nào đó rốt cuộc kết quả lại sai, tuy nhiên vẫn tốt hơn là chẳng làm gì cả. Nghiền ngẫm vấn đề này sẽ nẩy sinh ra hàng nghìn câu hỏi mới. Bởi vì chúng ta đã hình dung mọi việc quá đơn giản: Cái thiện sẽ chiến thắng cái ác”. Sài Gòn trong tôi/ netfile21.

Phụ bạc – Phản bội

Sau khi trở về Tây Đức từ Sài Gòn, Stephan Köster vẫn giữ chặt lấy Xuân, anh ta muốn đón nàng sang châu Âu, đến tháp Eiffel. Anh ta muốn giữ lời hứa. Anh ta đã đến Đại sứ quán Việt Nam ở Đông Berlin xin kết hôn với nàng. “Đồng chí phải kiên nhẫn chờ 1 năm”, tay bí thư đại sứ quán cs nói và ghi chép tất cả.

“Tôi chẳng tin chút nào, mọi việc trở nên vô nghĩa. Nhưng tôi không buông tay. Những bức điện tín của tôi gửi đi Sài Gòn đầu tiên là thề thốt yêu đương, tôi khuyên nàng kiên nhẫn. Nàng không tin tôi, nhưng nàng không bỏ cuộc. Nhưng những bức điện tín sau này, lúc đầu là khuyên can và kết thúc bằng sự phản bội. Tôi yêu một người khác”, Stephan Köster thú nhận.

Stephan Köster nghĩ rằng Xuân sẽ không bao giờ được cho rời khỏi Việt Nam, và như thế sẽ tốt hơn cho cô ấy. Khi còn ở Sài Gòn, Xuân kể, lúc còn nhỏ nàng đã từng sang Paris và nàng là hậu duệ của vị vua cuối cùng Bảo Đại và muốn tìm hiểu thế giới, thì anh ta bảo nàng là một người mơ mộng và tốt hơn là nàng nên theo cách mạng và tham gia xây dựng xã hội chủ nghĩa.

Với một bức điện tín có dụng ý xấu xa là cắt đứt liên lạc với Xuân, Stephan Köster viết: “Từ trong tim, anh tôn trọng quyết định của em ở lại phụng sự tổ quốc. Anh ôm em”.

Ngày 28/4/1976 Xuân được cấp visa xuất cảnh sang Pháp

Trái với lời tiên tri trên của Stephan Köster, sau một năm Xuân bất ngờ được phép xuất cảnh. Khoảng tháng 5 năm 1976, tình cờ anh ta biết tin Xuân đã sang Paris. Điều đáng ngạc nhiên, Xuân ra phi trường Tân Sơn Nhất lên máy bay rời khỏi Việt Nam vào ngày 28/4/1976, đúng 1 năm sau ngày Xuân và Stephan Köster lần đầu tiên gặp nhau ở Sài gòn (28/4/1975). Sài Gòn trong tôi/ netfile21.

Nhưng việc Xuân được phép xuất cảnh không phải là do đại sứ quán Việt Nam cs ở Đức giữ lời hứa, vì Xuân được xuất cảnh sang Pháp chứ không phải sang Đức. Đại sứ quán Việt Nam tại Đức không có chút quyền hành hoặc thẩm quyền gì liên quan đến việc Xuân được phép rời Việt Nam để định cư ở nước Pháp.

Ngày 28/4/1981 tái ngộ sau 7 năm xa cách

Mặc dù biết tin Xuân xuất cảnh sang Paris hồi tháng 5 năm 1976 nhưng mãi đến 6 năm sau hai người mới gặp lại nhau. Stephan Köstler tự bạch:

“Ngày 28/4/1982 Việt Nam xa vợi bên kia thế giới, tôi sang Paris thăm Xuân. Nàng kể với tôi qua điện thoại rằng nàng đã trở thành một nữ doanh nhân thành đạt. Tôi chẳng tin chút nào. Hồi đó nàng chẳng phải là đã luôn sống trong một thế giới mộng mơ?


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1561005709-HQPD_MoiTinh30-4_04.jpg
Hình minh họa

Đến Paris. Quả thật, Xuân có một cửa hàng quần áo mode. Trước ống kính, tôi và nàng đã có cuộc trò chuyện nghiêm túc đầu tiên từ bảy năm qua. Chúng tôi rất vui mừng gặp lại nhau. Và Xuân muốn được xem cuốn phim hai chúng tôi làm hồi đó. Trên màn hình chiếu phim tuyên truyền “Giải phóng Sài Gòn”, Xuân trông thật xinh đẹp trong cơn giận dữ của nàng. Xuân thấy bộ phim đó cũng chẳng hay ho gì. Sài Gòn trong tôi/ netfile21.

Xuân đọc cho tôi nghe một đoạn bằng tiếng Việt về cảm tưởng của nàng khi được xuất cảnh rời khỏi Việt Nam. Tôi nói:

– Anh chẳng hiểu một từ nào hết!

Nàng đáp:

– Hồi đó ở Sài Gòn anh cũng quay phim mà có "hiểu" chút gì đâu!

Đây là lần đầu tiên nàng chỉ trích tôi.

Tôi hỏi:

– Hồi đó ở Sài Gòn em có thực sự yêu tôi, hay em chỉ muốn kết hôn với tôi để được giấy phép xuất cảnh?

Nàng trả lời một cách nghiêm túc:

– Đó sẽ luôn là bí mật của em.”

Trường hợp Stephan Köster không phải là trường hợp đơn lẽ, mà là một trường hợp điển hình cho cả những kẻ theo phong trào phản chiến tại CHLB Đức, đươc gọi là “phong trào 68”.

Sau ngày 30/4/75 tương tự như Stephan Köster, hầu hết những kẻ phản chiến tại Tây Đức lúc đó đều đã vỡ mộng, tỉnh ngộ, chán chường, thất vọng về cái-gọi-là cuộc cách mạng Việt Nam sau khi nhận ra sự thật chỉ là một sự xâm lăng ăn cướp miền Nam của bọn cộng sản miền bắc, thực chất là bọn tay sai đánh thuê cho khối cộng sản quốc tế Tàu - Nga.

Kể từ đó họ giữ một khoảng cách đối với Việt Nam như Stephan Köster: “Sự cúi mình của tôi trước người Việt Nam đã không phải là một sự xích lại gần …Tôi hy vọng có thể nhìn lại Việt Nam, từ trên máy bay, tít trên cao, từ một khoảng cách xa”.

- Sài Gòn trong tôi/ netfile21/st
- Hiếu Bá Linh compiled
- Bài viết của Stephan Köster: https://www.arsenal-berlin.de/…/download/erfolgsbericht.html
- “30.4.75- nhìn từ một góc khác” của Tho Nguyen

https://www.facebook.com/photo.php?fbid=1650407251770767&set=pcb.2331890130182418&type=3&theater&ifg=1

BachMa
03-22-2020, 05:31 PM
12 Tháng Anh Đi
MX Giang Văn Nhân

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1584897828-HQPD_12ThangAnhDi.jpg
Hình minh họa
Đoàn xe quân vận nối đuôi nhau trên quốc lộ 4, bỏ lại sau lưng thị xã Cà Mau với những tà áo dài trắng thướt tha vào lúc tan trường. Trên xe vài anh lính quân phục màu sóng biển dùng hai ngón tay đưa vào miệng làm còi trêu đùa, các cô gái miền Nam hồn nhiên nở nụ cười, cùng giơ tay vẫy chào. Trung tuần tháng 5 năm 1970, Tiểu Đoàn 3 Thủy Quân Lục Chiến tăng phái cho quân Kiến Văn, hoạt động bảo vệ Liên Tỉnh Lộ 30 từ ngã ba Giáo Đức đi về Cao Lãnh. Cả bốn đại đội hàng ngày lưu động, lục soát rộng trong vùng trách nhiệm với nhiều mìn bẫy.

Tuần lễ sau thì được lệnh di chuyển về Cần Thơ, rồi Chương Thiện, tại đây cả tiểu đoàn được trực thăng vận xuống quận Cái Nước tỉnh Cà Mau. Tiểu đoàn chạm địch, Tiểu Đoàn Phó điều động hai đại đội tiếp ứng cho đơn vị bạn, tảo thanh truy lùng thành phần thuộc đơn vị chủ lực miền thì được lệnh tìm bãi đáp và trực thăng bốc toàn bộ về phi trường Quản Long. Tại đây các sĩ quan nhận bản đồ và lộ trình phải di chuyển gấp đến Châu Đốc. Đoàn xe qua thị xã Bạc Liêu khi thành phố đã lên đèn.

Đến Sóc Trăng, rồi ngã bảy Phụng Hiệp, gió đồng nội mát lạnh, sự mệt nhọc làm các anh ngủ gật gù trên xe. Trên khoảng đường từ Cầu Trắng qua Ngã Ba Cái Tắc, khu vực nhà máy xay lúa gần kinh So Đũa, mọi người được đánh thức, tỉnh táo, trong tư thế sẵn sàng tác chiến vì đây là khu vực cần phải cẩn thận. Ban đêm sự hoạt động cũng như tầm quan sát của các đơn vị bạn bị hạn chế, không có phi cơ bao vùng, chỉ khi nào lâm trận thì sẽ có Hỏa Long tiếp ứng. Tới Cần Thơ theo Liên Tỉnh Lộ 27 qua Ô Môn (Phong Phú) , Thốt Nốt rồi vào Long Xuyên. Đoàn xe tẽ qua Liên Tỉnh Lộ 10 rồi thẳng đường đến Châu Đốc vào lúc 8 giờ sáng. Đường lộ trên thế đất đắp cao, nhà sàn dọc hai bên, đất trũng thấp. Mùa khô, bên dưới là chuồng gia súc, vào mùa nước nổi từ Biển Hồ Cao Miên đổ xuống, nước sẽ ngập lấp xấp. Một tấm ván vững chắc bắc làm cầu từ mé đường vào nhà.

Hai tỉnh Long Xuyên và Châu Đốc có cuộc sống an bình, không một ai theo Cộng Sản có thể được tồn tại trong vùng đất của đạo Hòa Hảo. Mọi người được một ngày rảnh rổi, giũ sạch bụi đường bên bờ sông Hậu Giang. Sông Mékong mang đất phù sa màu mỡ từ thượng nguồn Tây Tạng, xuyên qua Trung Quốc, Lào, Cam Bốt rồi vào Việt Nam. Mùa này người dân dùng cái vợt to (nhà nào cũng có) bằng kim loại để cào ốc gạo lẫn lộn trong cát dưới lòng sông. Đặc biệt là tháng này cá rô phi tập trung về Biển Hồ đẻ trứng, cá con mới nở theo dòng nước trôi về Châu Đốc.

Sau khi giỡ đáy, cá được chứa trong thùng và đem về nhà. Cá được san qua những chậu nước to, người dân dùng vợt vải, lựa cá rô phi để riêng ra rồi bán cho mối lái. Cá Rô Phi được bán cho các tỉnh khác của miền Nam và giá cả tùy theo kích thước của nó. Nếu cá con không được vớt bắt ở đây, thì sẽ trở thành nguồn thực phẩm cho các loài cá khác trong đồng bằng. Ở tạm trên căn nhà sàn, Thảo được chủ nhà cho biết là lễ Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam vào mấy ngày hôm trước. Hàng năm cứ đến khoảng thời gian từ ngày 23 đến 27 Tháng Tư âm lịch là dân chúng tứ xứ đổ xô về Châu Đốc, đoạn đường dài năm cây số từ thị xã đến núi Sam chật cứng người và xe cộ đủ loại. Tương truyền Bà rất linh thiêng, những bạn hàng thường đến xin lộc, khi thành công họ trở lại cảm tạ thật hậu hỷ. Lễ Vía chính thức vào nửa đêm 25 rạng 26 âm lịch và lễ hội kết thúc vào chiều ngày 27. Tuy vậy thị xã Châu Đốc vẫn còn nhộn nhịp khách thập phương.

Thảo cùng một số anh em đến xem cho biết, mở rộng kiến thức, dù muộn màng nhưng đây là dịp may hiếm hoi, trùng hợp với sự hiện diện của đơn vị tổng trừ bị TQLC . Dọc theo bờ sông có bến đò mà bên kia bờ là xã Châu Giang. Sống ở thành phố nhất là Sàigòn thủ đô của Việt Nam Cộng Hòa, ít nhất ai cũng một lần trông thấy những người có nước da ngâm ngâm đen, đến từng nhà rao bán vải lụa “Satin”. Loại vải này bóng láng ở mặt trên và thô mờ mặt dưới,đặc biệt là “Lãnh Mỹ A” một loại satin được nhuộm từ vỏ cây mặc nưa trồng tại Tân Châu. Những người bán thường kéo căng vải ra thật mạnh, cho thấy độ bền chắc đôi khi co dãn do đặc tính của loại tơ tầm. Họ bằng lòng bán chịu, có nghĩa là họ sẽ trở lại nhận tiền vài tháng sau. Người dân thường cho rằng họ có tài ăn nói do “Ngải”, và bùa “Thư” nếu ai đó mua và quịt tiền không trả.

Với suy nghĩ đó, sau khi đồng ý giá cả, người mua trả tiền ngay. Hầu hết không ai muốn mắc nợ, nhất là dính líu đến người Chà Châu Giang xa lạ, tiềm ẩn nhiều nét thần bí. Đối diện với nhà lồng chợ lúc chập tối, một quán nhỏ có nhiều thực khách vây quanh, đến gần mới biết những người này đang chờ đợi ổ bánh mì nướng dòn thơm phức nhét đầy thịt jambon từ tay hai cô gái trắng trẻo và trẻ đẹp.

Có lẽ biết chúng tôi lần đầu tiên đến đây, hai cô nở nụ cười: - Mời các anh bánh mì đặc biệt ở đây. Lúc trao bánh, hai cô còn dặn dò: - Nếu có dịp, xin mời các anh ghé lại. Thảo và mấy anh em thưởng thức bánh mì, nhìn bảng hiệu Luyến Lưu, nhớ lại lời nói của hai cô gái mỹ miều, mà thầm hiểu ý nghĩa của tên quán. Ngày mai chúng mình lên đường qua Cam Bốt và biết bao giờ có dịp trở lại để được thưởng thức hương vị bánh mì thịt nguội này nữa. Người lính tổng trừ bị miệt mài nơi chiến trận, bước chân in dấu trên bốn vùng chiến thuật, đã chọn màu áo sóng biển, đội mũ beret xanh là chấp nhận tất cả. Có những mộng mơ mà đường hành quân đơm hoa kết trái, ngược lại có những mối tình tàn phai theo năm tháng đợi chờ.

Thảo nhớ đã có dịp đọc được trong tạp chí Khởi Hành bài thơ “Tường Trình Cho Em” của anh Phạm Văn Bình. Lời thơ đã diễn tả đúng tâm trạng và thể hiện hình ảnh cuộc sống của người lính TQLC. Hành trang chỉ vỏn vẹn cái ba lô, lúc trên rừng núi cao, khi thì vùng sình lầy nước đọng, khắp mọi nơi đâu cũng là nhà, lẽ sống là đem sự an bình cho người dân, tâm hồn vương vấn theo vạn nẻo đường. Năm 1959, Tổng Thống Ngô Đình Diệm cắt băng khánh thành đường xe lửa Sàigòn thông suốt tới Đông Hà, sau bao năm bị VC phá hoại. Hướng Tây QL1 là đồi nhấp nhô nối liền với dãy Trường Sơn, đất khô cằn sỏi đá. Hướng Đông là cồn cát xen lẫn cánh đồng lúa trải rộng ra biển. Chính nơi đây anh Phạm Văn Bình đã mở mắt chào đời. Tuy hoàn cảnh khắc nghiệt, cuộc sống lam lũ nhưng tuổi thơ được đến trường, vì đó chính là niềm vui và mong ước của cha mẹ.

Thời gian đó Đông Hà là một thị trấn nhỏ, nên sau khi xong Tiểu Học phải vào học tiếp ở Quảng Trị. Hoàn cảnh gia đình không có đủ tài chánh cho việc ở trọ, mỗi ngày anh Bình phải đạp xe vô Quảng Trị cách nhau trên 15 cây số, và buổi chiều thì ngược lại.

Thật khó khăn với cơn gió Lào nóng rát khi mùa Hè đến, lúc sang Đông mưa rỉ rả không dứt hột, dai dẳng ngày này qua ngày khác, mưa phùn gió bấc, lạnh buốt từ trong cơ thể. Thức dậy thật sớm từ 5 giờ sáng, một giờ sau rời nhà mang theo mo cơm có cá khô và vài con tép do mẹ bới, hôm nào bán ế, mẹ cho cơm và gói muối mè nhỏ. Thương con Mẹ buôn bán tảo tần, dành dụm cho tương lai con trẻ, đến lớp đệ tam anh được Mẹ cho trọ học ở Quảng Trị, trường trung học Nguyễn Hoàng, sau đó trường Quốc Học và Đại Học Văn Khoa Huế. Cộng Sản phá tan cảnh thanh bình, mở rộng chiến tranh, bành trướng Chủ Nghĩa Cộng Sản, bao nhiêu nhân lực cùng vũ khí ồ ạt đưa vào Nam, gieo đau thương tang tóc.

Cuối năm 1966, anh lên đường, rời xa hơn nữa nơi chôn nhau cắt rún, từ giã Mẹ hiền, gia nhập khóa 24 Trường Bộ Binh Thủ Đức. Chín tháng mồ hôi hòa lẫn đất cát ở thao trường, bầu nhiệt huyết được nung sôi muốn vỡ tràn dưới nắng Hè đồi Tăng Nhơn Phú, anh chững chạc bước hiên ngang theo nhịp quân hành trong Thủy Quân Lục ChiếN VN buổi lễ tốt nghiệp vào tháng 9 năm 1967.

Anh được bổ sung về binh chủng TQLC, phục vụ ở Phòng Tâm Lý Chiến, phụ trách thông tin và báo chí. Bên cạnh có anh Hoàng Đại Long (Khóa 23 đàn anh), hàng ngày theo dõi tình hình chiến sự của các đơn vị hành quân để phổ biến cho các hảng thông tấn, đặc biệt phụ trách chương trình phát thanh mỗi tuần của Sư Đoàn TQLC trên Đài Phát Thanh Quân Đội với thời lượng ba mươi phút.

Anh còn viết bài phóng sự về các đơn vị, phỏng vấn các chiến sĩ xuất sắc được đơn vị đề cử. Anh cũng là thư ký tòa soạn cho Đặc San Sóng Thần mà Tư Lệnh Sư Đoàn là Chủ Nhiệm, Trưởng Khối Chiến Tranh Chánh Trị là Chủ Bút. Thỉnh thoảng anh được đề cử tháp tùng theo các cuộc hành quân, làm phóng viên chiến trường tại các mặt trận nóng bỏng như Tết Mậu Thân ở Huế, cuộc hành quân ở Cà Mau gần cuối năm 1968, hay chiến trường Cam Bốt năm 1970.

Chính sau những lần tham dự này anh đã sáng tác bài thơ “Tường Trình Cho Em” . Khi có người tò mò hỏi động lực nào giúp anh có những vần thơ mà người đọc cảm giác thấy được những hình ảnh (Họa trung hữu Thi) sống thực đó trước mặt. Giọng từ tốn anh cho biết: - Bài thơ “Tường Trình Cho Em” đã được đăng trên tạp chí Khởi Hành, viết được bài thơ đó do tôi nghĩ và tôi đã tham dự.

Người lính Tổng Trừ Bị TQLC quanh năm từ tháng Giêng cho đến tháng Chạp khi nào cũng đi hành quân với ba lô, súng đạn ở trên vai, hết vùng này đến vùng khác, bốn vùng chiến thuật khi nào cũng có mặt TQLC cả, do đó tôi xúc động, và lấy hứng khởi làm bài thơ mà Phạm Duy đã phổ nhạc đổi lại là “Mười Hai Tháng Anh Đi”, và có cái tên nữa là “Hành Trình của anh TQLC” Sau cuộc hành quân Cam Bốt, Tiểu Đoàn 3 TQLC về dưỡng quân ở Vũng Tàu, rồi lên đường ra Quảng Trị. Từng tiểu đoàn, rồi lữ đoàn, kể từ đó vùng trách nhiệm giao các Lữ Đoàn TQLC bao gồm căn cứ hỏa lực A2 Dốc Miếu, A4 Cồn Thiên, C1, C2 từ sông Bến Hải và Động Toán, Ba Ho, Holcomb dọc theo thung lũng Ba Lòng. Năm 1971 Sư Đoàn TQLC tham dự cuộc hành quân Lam Sơn 719 qua Hạ Lào,

Năm 1972 toàn bộ Sư Đoàn TQLC di chuyển ra Huế trong cuộc chiến phòng thủ bảo vệ phòng tuyến Mỹ Chánh, và phản công chiếm lại Quảng Trị. Sau Hiệp Định Ba Lê 1973, TQLC trở thành đơn vị diện địa, đóng chốt đối diện ngày đêm với địch. Những quân nhân bổ sung về Binh Chủng sau năm 1973 khi nghe bản nhạc “Mười Hai Tháng Anh Đi” tưởng chừng như một huyền thoại.

Còn đâu nữa bước chân ngang dọc của người lính Tổng Trừ Bị. Đôi khi chợt nghe giọng ca thánh thót của người ca sĩ, Thảo mường tượng những vùng đất đã đi qua từ cuối năm 1967: Bình Định, Sàigòn, Cần Thơ, Tây Ninh, Vĩnh Long, Vĩnh Bình, Gò Dầu Hạ, Kiến Phong, Kiến Hòa, Mỹ Tho, Rạch Giá Chương Thiện, Cà Mau, Bình Long, Phước Long, Bình Dương, Biên Hòa, Bến Cỏ Phú Hòa Đông, Bến Lức Lương Hòa Thượng, Phước Tuy, Long Khánh Kế Sách Ba Xuyên, Châu Đốc, Cam Bốt, Hạ Lào, Cùng các mật khu, và cuối cùng chôn chân tại Quảng Trị, Thừa Thiên tới ngày bị bức tử.

Tình cờ gặp anh Bình trong ngày Đại Hội TQLC tại San Jose 2010, và Dallas 2011, được biết thêm thơ văn của anh đăng trên các tạp chí Văn, Bách Khoa, Khởi Hành, Quần Chúng, Tuổi Ngọc và Ngàn Khơi. Anh đã cùng với Phạm Lê Phan xuất bản thơ “ Chiến Ca Mùa Hè” cũng do Phạm Duy phổ nhạc.

Xuất bản chung tập truyện ngắn ‘Dòng Sông Trước Mặt” với nhà văn Song Linh, Trần Ngọc Toàn và Huỳnh Văn Phú. Tuyển tập truyện ngắn “Lối Xưa Thiên Đường” đã được Tuổi Ngọc ấn loát và phát hành. Tháng 4/1975, anh bị đi tù 7 năm, 2 năm ở miền Nam và 5 cuốn lịch ở miền Bắc, Tháng Giêng năm 1997, được định cư tại Hoa Kỳ. Anh dự định sẽ xuất bản tập thơ “Lối Xưa Thiên Đường” và sau đó là tuyển tập thơ nhạc lấy tên là “Khi Hoa Xương Rồng Nở” gồm có 12 tình tự khúc, và những bài thơ đã đăng trước và sau năm 1975.

Trong ngày Tiền Đại Hội ở Dallas 2011, do lời yêu cầu một phu nhân của TQLC hát bản nhạc “Chuyện Tình Buồn” do Phạm Duy phổ nhạc từ bài thơ của anh, quá bất ngờ không chuẩn bị trước, chị lúng túng trên sân khấu vì chỉ nhớ một ít lời ca. May mắn được anh Bình chép lại nguyên văn bài thơ đó. Các động tác và đối thoại rất tự nhiên của chị và anh Bình làm những người có mặt trong hội trường ngỡ rằng đây là hoạt kịch ngắn, tiếng ca vừa dứt, tiếng vổ tay tán thưởng nhiệt liệt.

Năm năm rồi không gặp
Từ khi em lấy chồng
Anh dặm trường mê mải
Ðời chia như nhánh sông
Năm năm rồi trở lại
Một màu tang ngút trời
Thương người em năm cũ
Thương góa phụ bên song...

Bài thơ gói ghém kỷ niệm mối tình đầu của anh, vì không cùng chung một tôn giáo, người con gái đã lên xe hoa về nhà chồng, một người bạn học cùng trường. Chuông giáo đường thánh thót giờ hôn lễ, Chúa kết hợp hai tâm hồn làm một (mà loài người không thể phân chia). Anh cuộn mình trong chăn như trốn chạy, mắt nhìn khoảng tối, tai chỉ còn nghe tiếng thở của chính mình cùng sự thổn thức con tim.

Nghe tin người bạn cùng trường đã hy sinh vì tổ quốc, anh tìm đến để tiễn biệt, nhìn những vành khăn tang trắng của gia quyến, anh bồi hồi cảm xúc qua vần thơ”Chuyện Tình Buồn”. Lời ca “Mười Hai Tháng Anh Đi” từ bài thơ “Tường Trình Cho Em” của anh làm sống lại hình ảnh người lính Tổng Trừ Bị TQLC, hy sinh tuổi đời trai trẻ và hạnh phúc riêng tư cho quê hương.

Trước mặt các anh là rừng sâu núi thẳm, sình lầy muỗi đỉa, từ sông Bến Hải đến mũi Cà Mau mà kẻ thù hung hãn giựt mìn, pháo kích, sát hại dân lành, phá hoại cảnh thanh bình. Các anh tiến tới, bảo vệ phía sau cuộc sống an vui, nhộn nhịp, ánh đèn tỏa sáng khắp phố thị. Thời chinh chiến, có mấy ai biết chắc chắn khi ra đi sẽ có ngày trở lại!

Cám ơn các anh, kính cẩn tri ân những chiến sĩ đã nằm xuống cho quê hương tự do, những Thuơng Phế Binh đã để lại máu và phần thân thể của mình trên khắp nẻo đường hành quân.

MX Giang Văn Nhân
Trích hồi ký “Người Lính Tổng Trừ Bị”
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=419321621910039&set=pcb.1886584054713030&type=3&theater&ifg=1

BachMa
04-01-2020, 08:07 PM
Những Anh Hùng Vô Danh
Trường Sơn Lê Xuân Nhị

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1583865462-HQPD_NhungAnhHungVoDanh_01.jpg
Hình minh họa
“Đường ra trận mùa này đẹp lắm” Đại úy Ngọc thòng một câu đùa trong chiếc Phi Cơ L19 ở cao độ 8 ngàn bộ, hôm chúng tôi cất cánh từ Nha Trang đi Kontum với hành trang cho 15 ngày biệt phái. Đồng ý đó là một câu đùa, nhưng tôi không cười được chút nào cả vì lòng tôi đang héo hon như cái vỏ xe bị xì lốp.

Đang vui vẻ với đám bạn bè từ Ban-Mê-Thuột về Nha Trang nghỉ mát, ngày nào cũng sáng tiểu yến với cà phê, phở, thuốc lá 555, chiều đại yến với la-de, nem nướng, sò huyết mà phải khăn gói qủa mướp ra đi như thế này thì thật là đau khổ vô cùng, lại mới bị Thủy giận, tôi chưa có dịp làm hòa. Tính vốn lo xa, tôi đâm ra hãi. Đi biền biệt 15 ngày mà không từ gĩa em được, em tưởng mình… rớt máy bay chết rồi bèn đi cặp khác thì hết một đời trai.

Cứ tưởng tượng cái cảnh Thủy cặp tay một chết tiệt nào đó đi coi hát bóng, đi nhảy đầm vung vít là tôi cảm thấy… hết muốn bay bổng. Đời phi công sao khổ thế nầy, tôi than thở. có lẽ thấy được những cái vẻ đau khổ khó chịu trên khuôn mặt Thiếu úy trẻ, anh Ngọc cười. Nhìn thấy cái bản mặt táo bón của chú mầy tao nhớ đến cái thuở huy hoàng của những ngày..chưa lấy vợ. Tôi phản đối “ở Phi Đoàn 114 mà không biết phản đối thì chẳng bao giờ lớn được”.

Chưa lấy vợ thì khổ bỏ xừ đi chứ huy hoàng gì anh?. Bị đào hành lên hành xuống, quay vòng vòng như con mắm có gì mà huy hoàng,. Lại còn phải đi biệt phái lâu ngày như thế này, xát thân ở nơi tiền tuyến không sợ mất mà chỉ sợ… mất đào ở nhà. Đại úy Ngọc bật cười lên khoái chí. Hậu sinh…. chẳng biết mẹ gì cả. Mày lấy vợ đi rồi mới thấy cái gía trị của những ngày biệt phái. này nhé, ở nhà với vợ, có chó nào dám ti teo, đi phải thưa về phải trình, tiền bạc phải “báo cáo” đầy đủ.

Ấy là chưa nói đến chuyện ở gần mặt trời thì phải sống có qui củ, có nề nếp, gặp xếp từ xa là phải cung tay chào rốm rốp. nào cũng muốn kiếm thêm tí điểm thì phải biết điếu đóm v..v.. Đi biệt phái, nói một cách văn chương, đó là “những ngày nghỉ mát” vì thứ nhất mình thoát khỏi vòng cương tỏa… bà tư lệnh , muốn làm gì thì làm, gặp bất kỳ cô thôn nữ yêu kiều nào cũng có quyền đấu tưới hột sen, muốn khoe mình chưa vợ hay vợ… mới chết thì đó là quyền của mình. Các cô thôn nữ vốn dễ dãi và cả tin, chẳng ai thèm khiểm chứng hay thắc mắt lôi thôi.

Thứ hai, đi biệt phái, cuộc sống không gò bó như ở phi đoàn. Mình tự chỉ huy lấy, đời sống thoải mái hơn, chỉ làm sao đừng bê trể công việc, thứ ba, làm việc trực tiếp với bộ binh có nhiều cái thú. Mười tám tuổi bỏ nhà đăng lính đâu phải để suốt ngày dòm ba cái đồng hồ phi cơ rồi cứ hết cất cánh rồi hạ cánh. Phải có “Action” phải có đánh bomb, có ăn pháo kích v..v. Nghe anh Ngọc thuyết một lúc là tôi đã thấy xiêu lòng. Mẹ, tôi đâu biết là lấy vợ sẽ khổ như thế này. Sống bị kềm kẹp vậy chả trách gì ông nào cũng có vẻ chán đời. Anh Ngọc cảm thấy hình như tôi đã thấm ý, nên kết luận.

– Đó là những cái khác nhau giữa hai thế hệ, Thế hệ chưa vợ và thế hệ có vợ. Bây giờ nhìn lại mấy chú, anh thấy tiếc hùi hụi. Rồi hứng tình, anh chơi thêm hai câu thơ, giọng vịt cồ nghe không có tính chất…văn học chút nào hết.

Tình chỉ đẹp khi còn dang dở
Đời hết vui khi đã vẹn câu thề

Sau hai câu thơ là một chuỗi cười hì hì nghe rất ngứa lỗ tai. Men rượu của buổi tiệc gĩa từ tối hôm qua còn ngây ngất trong máu tôi, làm đầu óc cứ dật dờ. Tôi tắt radio, bảo anh Ngọc:

– Anh bay hộ, em buồn ngủ quá.

Anh Ngọc dễ dãi:

– Ngủ đi, tao bay cho. Ráng ngủ lấy sức, xuống đến Kontum chuyến này có nhiều chuyện lắm.

Tôi kéo tuột ghế ra sau, nhắm mắt làm một giấc ngon lành…. Biệt đội Kontum lần ấy, các phi hành đoàn ở trong cư xá vãng lai Sĩ Quan của Tiểu Khu. Cả thành phố Kontum như một trại lính khổng lồ, đi đâu cũng chỉ gặp toàn lính là lính. Từ lính không quân đến lính bộ binh, lính nhảy Dù, lính Lôi Hồ, lính Biệt Động Quân, lính Biệt Kích….., ai nấy võ khí trang bị tới răng trông phát khiếp.

Lâu lâu, phải chịu khó tìm tòi và chờ đúng giờ tan học mới nhìn thấy được vài tà áo dài phất phơ cuả các em nữ sinh, Những tà áo dài bé nhỏ xinh xinh coi có vẻ vừa lạc lõng vừa hiền lành làm sao trong cái thế giới đầy dẫy súng đạn của thành phố địa đầu này. Cũng như một con én không làm được mùa xuân, một chiếc áo dài tha thướt cũng không làm mất đi được cái vẻ chinh chiến của quê hương khốn khổ. Đứng nhìn ngắm những tà áo này, tôi thấy nhớ Thủy chi lạ, buổi chiều cơm nước xong về khu tạm trú thắp đèn cầy đánh bài cho hết giờ.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1583865475-HQPD_NhungAnhHungVoDanh_02.jpg
Hình minh họa

Buổi tối, cái khổ nhất của chúng tôi là hai cây cà nông 175 ly to tổ bố của thiết đoàn 14 Kỵ Binh đặt cách dẫy nhà chúng tôi ở chừng 500 thước. Hai cây súng mắc dịch này, ban đêm, giữa lúc mọi người đang ngủ say, cứ thỉnh thoảng nổ một vài phát bắn quấy rối rồi nằm im. Đang mơ màng giấc diệp, tiếng súng đại bác ở sát bên bắn một phát làm chúng tôi nẩy tung muốn văng ra khỏi giường ” Đêm hôm khuya khoắc, bắn con C…gì mà bắn độc thế? Sao không về nhà mà bắn… bà xã cho được việc”, một giọng càu nhàu cất lên. Lại có giọng khác hăm dọa ” ngày mai tao phải “phản đấu”mới được.

Đó là tiếng nói của Đại úy Bá, trưởng biệt đội. Ông đại úy này người dân xứ Quảng, lâu lâu phải để cho ông ấy “phản đấu” ai một lần thì ông ăn cơm mới ngon. Mất cả tiếng sau mới dỗ được giấc ngủ. Nhiều khi vừa mới chợp mắt thì lại “ầm” một tiếng như trời long đất lở tiếp theo, lỗ tai như bi ai tống vào một cây đinh. Đến lúc này thi đại úy Bá không nhịn được nữa, chửi thề um sùm “Đ..” mọa nó, bén chi mà bén miết..”. Thế là hết mẹ nó một tiếng đồng hồ nữa rồi…

Tôi không hiểu các anh em bộ binh làm sao mà sống được như vậy không phải chỉ trong 15 ngày biệt phái như tôi mà tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác.

Phải đi biệt phái những nơi như vầy mới hiểu được và thương các anh em bộ binh. Người lính bộ binh Việt Nam khổ qúa. Khổ đến độ sự khác biệt giữa sự sống và cái chết hầu như không có ranh giới. Cuộc đời là địa ngục thì chết chắc cũng chẳng có ai sợ. Và có lẽ, chết sẽ là một giải thoát. Tôi đã tận mắt nhìn thấy nhiều người sống suốt mấy tháng trong giao thông hào nước ngập tới háng. Đó là nơi mà anh em vừa ăn, ỡ ngủ v.v.. Các anh cũng là người với những cảm giác bình thường, biết lạnh, biết nóng, biết thèm ăn ngon, biết sợ đau khổ, sợ chết.

Mãnh lực nào. sức lôi cuốn nào đã khiến anh em từ bỏ gia đình ôm cây M16 để trở thành người lính bộ binh. Trở thành người linh bộ binh để “chết thay dùm dân tộc” để chấp nhận mọi đắng cay, mọi hiểm nguy, Chắc chắn không phải để lãnh số lương mười mấy ngàn , chỉ đủ mua bao gạo.

Cũng không phải vì sợ cảnh sát bắt đi quân dịch ở đầu ngõ. Cũng càng không phải vì mủi lòng bỡi vài cái bích chương kêu gọi rẻ tiền của chính phủ dán trong thành phố, hay vì câu hát của Hùng Cường, Mai Lệ Huyền. Tôi nghĩ, anh em đã ra đi chỉ vì lòng yêu nước.

Vì, anh em nghĩ rằng cầm súng chiến đấu là bổn phận của ngững người trai thời ly loạn. Chỉ biết rằng đi để thể hiện chữ “Yêu” yêu Quê Hương yêu Tổ Quốc, không cần tính toán, không đo lường gía cả. Chỉ vài ngày đi bay mà anh em ai cũng bị hốc hác thấy rõ. Đêm mất ngủ, lên trời gió mát, chỉ muốn nhắm mắt. Cùng tắc biến, biến tất thông, mấy hôm sau chúng tôi biết cách trị.. Pháo Binh. Trước khi leo lên giường ngủ, chúng tôi lấy bông gòn nhét kín hai lỗ tai. Thế là mấy chú thiết giáp cứ mặc sức mà bắn.

Có Thiếu úy tên On nằm gần giường tôi, mới được cho đi hành quân lần đầu nên lẩm cẩm không chịu được. Tên nghe đã lẩm cẩm mà người lại còn lẩm cẩm hơn. Đang đêm, tôi thấy nó thỉnh thoảng ngồi dậy, móc bông gòn ra khỏi hai lỗ tai, nghe ngóng một chút rồi lại nhét vào, nằm xuống. Mặt mày nó làm ra vẻ quan trọng lắm. Trằn trọc không ngủ được, tôi thắc mắc:

– Mày làm cái trò khỉ gì đó ông Thiếu úy On?

Nó đáp tỉnh queo:

– Tao phải thức dậy để nghe ngóng xem có pháo kích không.

Tôi suýt bật cười. Đúng là lẩm cẩm, nó làm như Việt Cộng chờ nó tháo bông gòn ra khỏi hai lỗ tai rồi mới thèm pháo. Tôi phịa một câu:

– Tao có ý kiến này hay hơn. Mày chỉ cần rút bông gòn ra khỏi một lỗ tai thôi. Một tai bịt kín để khỏi nghe pháo binh mình, tai kia bỏ trống để nghe VC pháo kích.

Một thoáng êm lặng, rồi như biết được câu móc lò của tôi, On chửi thề:

– Đ.. M.. mất dạy. Mày mà đòi móc lò tao sao được. Tao đâu có ngu.

Thấm thoát mà 15 ngày biệt phái của tôi trôi qua mau. Con người qủa thật là dể thích ứng với hoàn cảnh mới. Tôi chỉ còn nhớ Thủy… sơ sơ thôi chứ không còn “nồng nàn da diết” như những ngày mới đến đây nữa. Cuộc đời biệt phái cũng có nhiều niềm vui khác như đi uống cà phê đêm, nhậu nhẹt, gặp lại bạn bè cũ, kết bạn bè mới. Với lại, chúng tôi vừa khám phá ra một quán cà phê mới khai trương.

Cô Cashier coi xinh không chịu được. Thế là chiều chiều cơm nước xong, chúng tôi bảy tám người chất nhau lên chiếc xe Jeep ra quán cà phê ngồi… lì đến tới tối. Giữa khu rừng núi hoang dại này, dể gì kiếm được một cành hoa. Tôi để ý thấy Thiếu úy On yêu đời ra mặt. Không hiểu nó tính dợt le với ai mà đi biệt phái ở nơi rừng sâu núi thẩm này cũng mang theo được mấy cái khăn quàng cổ đủ các màu. Đi uống cà phê những lần sau này nó nhất định phải đóng thêm cái khăn quàng cổ màu tím vào cho ra cái điều như là… màu tím hoa sim, coi chán đời không chịu được.

Vào quán cà phê, Thiếu úy On ăn nói chững chạc đàng hoàng, không láu cá nham nhở như tôi.. Có mấy lần tôi tính thò tay ra sờ mông em thì bị nó gạt phắt đi, điệu hung hãn làm như nó… chưa sờ đít ai bao giờ. Nó muốn mang khăn quàng màu gì hay tán tỉnh gì thì kệ nó, tôi không để ý tới. Cái làm tôi thích thú nhất là mỗi lần ra về, cu cậu nhất định dành trả tiền cho kỳ được. Dĩ nhiên, tôi không bao giờ phản đối cái mục này. Tôi biết khỉ này nó có bao giờ trả tiền cà phê cho ai đâu. Hóa ra là con người khi yêu ai cũng trở thành dễ thương hết.

Chả trách gì nhà văn Shakespeare đã phán một cau “everybody loves the lover”. Cả thế giới đều yêu một kẻ si tình. Đúng thật. Tôi ước giá phi đoàn có chừng chục như Thiếu úy On thì tôi khỏi sợ tốn tiền cà phê thuốc lá. Được trớn, tôi xúi dại nó, bảo hay là mầy xin ở lại Kontom luôn cho anh em nhờ. Nhưng nó quắc mắt lên, cười khỉnh ”Vừa phải thôi… tám. Tao tuy ngu nhưng đâu có ngu hơn mày.”

Lần biệt phái này, trái với lời anh Ngọc tiên đoán, sư đoàn 23 BB không có đụng trận nào ra hồn cả. Thỉnh thoảng một bọn ” giặc cỏ” đến quấy rối rồi lặn mau như chuột.

Dường như cả hai bên đang nghỉ ngơi dưỡng sức. Dưới đất mà không thèm đánh nhau thì trên trời biết ăn thua với ai. Những phi vụ air cover nhàn rỗi, tôi hỏi đại úy Ngọc đi ”duy trì khả năng” bắn rocket. “duy trì khả năng” là một danh từ không quân dành cho những anh chàng phi công văn phòng, sợ lâu quá không bay thì lúc leo lên tàu, thì quên béng nó mất cái cần lái nằm chỗ nào nên phải bay “duy trì khả năng” cho khỏi quên. Tôi thì khoái tập bắn rocket sao cho nó đẹp như ‘Dăng gô” bắn súng. Chỉ đâu bắn trúng đó.

Cái kiểu bắn rocket của tôi phi đoàn ai cũng chán vì lối bắn mất dạy. Bay trên mục tiêu, tôi cắt ga cho tàu rơi cái rào nhiều khi gần như cắm đầu thẳng xuống. Cứ thế mà bóp cò. Bắn thì dể nhưng khi kéo tàu lên mới là cực hình. “G” đâu mà lắm thế, mặt mũi cứ dài ra cả thước. nhưng đại úy Ngọc chịu chơi, lần nào cũng cho tôi bắn.

Nhiều khi anh còn nhìn “tác phẩm” của tôi phê bình “Số mày sinh ra để bay khu trục mà bị trời bắt lái .. L19. Đúng là con nhà vô phúc”. Ngày cuối cùng của cuộc biệt phái, chúng tôi cất cánh phi vụ thứ hai vào khoảng 3 giờ chiều. Lên trời, làm vài vòng, tôi hỏi đại úy Ngọc:

– Hay mình làm vài vòng, nếu không có gì thì đi kiếm cái chòi thượng nào đó “duy trì khả năng” rồi về đáp. Mai đổi biệt đội khác rồi.

Đại úy Ngọc tự nhiên phản đối:

– Thôi cứ để đó, mày bay dọc lên Dak Pek đi. Tao đi quan sát lần chót để bàn giao vùng trách nhiệm cho phi hành đoàn mới.

Có cái gì thắc trong đầu anh mà tôi không nghĩ ra. Lát sau anh nói:

– Mày để ý thấy chiến trường lần này, đặc biệt là cách mấy ngày hôm nay yên lặng một cách quá đáng không?

Tôi chả biết gì, trả lời:

– Yên thì có yên đó, nhưng mà có gì không anh?

– Thường thường mà yên quá như thế này là thế nào cũng có đánh lớn.

Tôi nói xuôi:

– Mai mình về rồi, nhằm nhò gì.

Khoảng 5 giờ chiều tôi đang lơ lửng gần một cái đồn nhỏ gọi là đồn Dakseang, phía Nam của Dakto. Đại úy Ngọc chợt giật cần lái, quẹo một vòng.

– Để tao coi. Đ.M. hình như đồn này đang bị pháo kích.

Chỉ một thoáng sau anh la lên:

– Đ.M. đúng rồi. Đ.M. nó đang pháo vô đồn.

Anh Ngọc gọi máy về Trung Tâm Hành Quân, báo cáo những gì mình thấy và xin tần số liên lạc ngay. Chỉ trong vài phút, Trung Tâm Hành Quân xác nhận với chúng tôi là đồn bị pháo kích, và có nhiều dấu hiệu cho thấy đồn sẽ bị tấn công. Chúng tôi được chỉ thị ở lại làm việc với đồn. Bắt được liên lạc, trao đổi danh hiệu xong là chúng tôi giảm cao độ. Vừa tà tà bay vô thì bổng hàng chục cây phòng không nhắm vào chúng tôi nổ tới tấp. Chắc chắn phải có vài viên trúng tàu vì tôi nghe lên vài tiếng bụp bụp. Tôi càu nhàu: ”15 ngày biệt phái không sao, ngày cuối cùng mà lãnh một viên vào.. đít là xui quảy..” vô không nổi, tôi quẹo ra. Đại úy Ngọc phê bình:

– Trên trời mà phòng không “kèm cứng một rừng” như vậy là dưới đất nó đã chuẩn bị trận địa pháo rồi. Lạng quạng thì đồn này chắc mất tối nay. Anh giở tấm bản đồ, ba cái FM trên phi cơ được sử dụng liên tục. Cái gọi pháo binh, cái trực với đồn Dakseang, cái nói thẳng với Bộ Tư Lệnh chiến trường. Cường độ pháo kích càng ngày càng trở nên khốc liệt,

Tôi lên cao chút xíu rồi rình rình lại chui vào từ một hướng khác. Bố khỉ, tôi lúc ấy mới khám phá ra là khu vực làm việc bị mây “broken” từng cụm nhỏ bao phủ khoảng từ 5 đến gần 8 ngàn bộ trên trời.

Đang quan sát, tàu chui vào mây là coi như mù. Ra khỏi mây thì phải mất một lúc mới trở lại được chổ quan sát cũ. Đại úy Ngọc chửi thề “Đ.M. mây mà cũng bị VC dụ dỗ đâm sau lưng chiến sĩ. Trời đất bao la sao không kiếm chỗ bay mà cứ lẩn quẩn làm con C.. ở đây.” Tôi đã cắt ga xuống dưới trần mây mấy lần nhưng vừa xuất hiện là bị hàng chục họng phòng không thổi rào rào vô mặt, đuổi trở lên “súng đâu mà chúng nó lắm thế” Tôi đành vật lộn với mấy cụm mây…VC này.

Bi thảm hơn, giặc bắt đầu nả 130 ly vào đồn, Hai cây đại pháo, một cây đặt ở ven làng cách đó chừng 15 cây số, cây kia ở hướng đối diện cứ tà tà nã từng trái một vào đồn.

Từ trên, tôi nhìn thấy rõ ràng những quả đạn rơi rất chính xác vào trong đồn. Cứ mỗi quả đại bác rơi xuống là có chừng mười mấy trái súng cối nổ kèm theo “phụ diễn”. Tôi và anh Ngọc lồng lộn trên tàu bay. Máy vô tuyến gọi đến gần nát cả họng, nhưng bất ngờ quá, chả thấy phi tuần xuất hiện, anh Ngọc gọi pháo từ căn cứ pháo binh gần đó nhất để yểm trợ. Vừa nhận được tọa độ, đã nghe ở dưới đất kêu trời:

– Vô ích bạn ơi. Xa quá, bắn tới… Têt cũng huề.

– Thì bạn quay nòng xuống thổi đại cho một chục tràng đi, bắn dọa nó cũng được.

– Xong rồi, để tôi cho yếu tố tác xạ – Yếu tố mẹ gì, bắn đi bạn….

Khoảng 5 giờ rưỡi chiều, người chỉ huy đồn Dakseang có vẻ bối rối:

– Bạch Ưng, đây Thanh Trị.

– Nghe 5 bạn

– Báo cho bạn biết đến giờ phút này con cái tôi đếm được là 500 trái rồi đó bạn. Hầm hố tôi 50% thiệt hại.

Tôi muốn nhảy nhổm trong tàu bay. 500 trái vừa cối vừa pháo xuông một diện tích tí teo như thế kia thì còn hầm còn hố nào.

Anh Ngọc bổng nẩy ra một kế…chết người.

– Nếu để nó pháo điệu này thì chừng tí nữa quân mình chẳng còn gì hết. Mình phải “chiến tranh chính trị” mới được. – Có học trường chiến tranh chính trị ngày nào đâu mà đòi…chiến tranh chính trị anh?

Người phi công chiến tranh chính trị bất đắc dĩ lên mặt dạy dỗ.

– Từ từ để tao cắt nghĩa. Chiến tranh chính trị nghĩa là…có là không, không là có. Bây giờ chưa có phi tuần thì mình phải làm như có phi tuần. Mình phải xuống ngay trên đầu mấy cây pháo làm bộ như phi tuần sắp tới thì pháo nó mới câm được.

– Xong rồi.

Mặc dù vẫn còn ngán mấy chục họng phòng không nhưng trong hoàn cảnh này, đạn tránh người chứ người làm sao tránh đạn? Tôi cắt ga cho tàu rơi cái rào, cứ nhắm họng đại bác bay tới. Đạn nổ tùm lum chung quanh tàu. Anh Ngọc trấn an tôi:

– Mầy đừng lo, tao có bùa nanh heo rừng. Đạn nó né tao.

Nghe sao mà chán đời, Tàu bay chỉ có 2 người, đạn nó bay vào đây mà né anh Ngọc thì nhất định nó phải kiếm người khác để chui vào. Người đó còn ai khác hơn tôi. Bỗng nhớ ra điều gì, anh sờ tay vô ngực quờ quạng rồi rú lên:

– Bỏ mẹ rồi, nanh heo rừng đíu có đem theo. Đ.M. hôm qua đi tắm treo nó chỗ phuy nước quên đeo vô rồi. Nhưng anh nói ngay:

– Nhưng tử vi nói tạo sống thọ lắm, yên chí lớn đi em.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1583865489-HQPD_NhungAnhHungVoDanh_03.jpg
Hình minh họa

Tôi nghiệm ra rằng con người, lúc ở trong những hoàn cảnh nguy hiểm đều kiếm ra một lý do gì đó để tự tin và hy vọng. Càng đi xa đồn thì phòng không càng bớt dần. Thấp thoáng con gà cồ của giặc đã nằm ngay dưới cánh, chúng tôi xuống thấp thêm tí nữa, lượn vòng chung quanh cây pháo. Đúng y như anh Ngọc đoán, pháo im bặt. Rồi như một cơn mưa rào đổ xuống mùa hạn hán, một hợp đoàn Cobra của Tây xuất hiện. Đại úy Ngọc qua được tần số của Tây xí xa xí xồ một chập, tôi nghe được mấy tiếng “everywhere”.

Vừa vào vùng là mấy anh Cobra làm ăn liền. Tôi ngạc nhiên thấy họ thay phiên nhau bắn rào rào chung quanh đồn. Như vậy con cháu họ Hồ đang “tùng thiết” đi vô chăng?

Dĩ nhiên phòng không giặc bây giờ đổi mục tiêu, nhắm mấy anh Cobra nhả đạn. Trận thư hùng coi rất đẹp mắt nhưng ngắn quá. Mấy ông Tây bắn chừng 5 phút là hết đạn, quay lui. Khốn nạn hơn cái món chiến tranh chính trị xem ra hết ép phe. Có lẽ giặc biết chúng tôi chỉ dọa giả nên cây pháo bắt đầu nổ trở lại. Đại úy Ngọc gầm lên:

– Đ.M. tụi mày, lát nữa khu trục lên tao cho nó…bỏ bomb thấy mẹ mày.

Tức quá mà không làm gì được thì…chửi cho đã tức. Chúng tôi chỉ có 4 quả Rocket khói, chẳng sơ múi gì được. Rồi Peacock gọi thông báo sẽ có phi tuần khu trục A-1 đang cất cánh khẩn cấp từ Pleiku lên làm việc với chúng tôi. Đại úy Ngọc hớn hở gọi máy:

– Thạnh Trị, đây Bạch Ưng.

– Nghe 5 bạn, gần ngàn trái rồi. Tụi nó mới xung phong đợt đầu đó bạn.

– Có sao không bạn?

– Không, mấy * chuồn chuồn tới đúng lúc với lại con cái tôi đánh giặc còn “tới” lắm bạn ơi. Tụi nó rút hết rồi. Khoảng chùng 50 xác nằm dài dài. Mấy * Tây đánh đẹp lắm.

– Chúng tôi sẽ có 2 phi tuần lên liền bây giờ với bạn.

– Bạn ráng dùm, hầm hố gần nát hết rồi bạn.

– Tôi hiểu bạn.

Cây 130 ly quái ác vẫn đì dạch phọt ra từng cụm khói đen. Tôi bảo anh Ngọc. – Anh để em lên làm đại một trái khói vô đó coi, may ra…. – Ờ, may ra….

Tôi làm vòng bắn, nghiêng cánh quẹo vào, nhắm và bóp cò. Oành cái Rocket nổ…gần cây đại pháo. L-19 mà bắn được vậy là nhất rồi, nhưng có chết * chó nào đâu? Không chết nhưng cây pháo lại im tiếng một lần nữa. Tốt! Tôi tính cứ lâu lâu nhào xuống xịt cho tụi nó một trái để mua thời gian chờ khu trục lên. Rồi tiếng rè rè thử vô tuyến của mấy ông khu trục A-1 nghe lên bên tai. Phải thú nhận, cái tiếng rè rè đực rựa lúc này nghe sao mà nó…đáng yêu thế. Đó là thứ tiếng nói của hy vọng, của niền tin, của sức mạnh, của tình chiến hữu. Anh Ngọc trao đổi vô tuyến với phi tuần khu trục rồi gọi máy cho quân bạn.

– Thạnh Trị, đây Bạch ưng.

– Nghe bạn 5.

– Chim sắt của tôi lên rồi đó bạn. bạn muốn tôi đánh đâu?

– Bạn lo dùm mấy con gà cồ trước đi.

– OK! Roll.

Phi tuần khu trục vừa xuất hiện thì cả bầu trời biến thành một biển lửa. Số lượng phòng không bây giờ không biết là bao nhiêu cây, nhưng dòm hướng nào cũng chỉ thấy lửa và lửa. Trời đã về chiều nên những viên đạn lửa bay vút lên cao càng được thấy rõ ràng hơn. Phi tuần đầu nhào lên nhào xuống mấy lần vẫn không làm câm họng được cây pháo phòng không vì trời quá xấu.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1583866633-HQPD_NhungAnhHungVoDanh_05.jpg
Hình minh họa

Những đám mây…phản quốc, khốn nạn vẫn chình ình khắp nơi. Khó khăn lắm họ mới kiếm được cái lỗ chui xuống, bay giữa những loạt đạn phòng không trùng điệp, để tới mục tiêu, bấm rơi bomb, rồi kéo lên. Còn 2 trái cuối cùng, người phi công A-1 “để” vào ngay trên ổ súng chính xác như để bi vào lỗ. Ầm một tiếng vang lên rồi tiếp theo là nhiều tiếng nổ phụ. Cha con nó đang đền tội. Xong một cây. Anh Ngọc hướng dẫn phi tuần thừ hai đang làm ăn thì tôi nghe tiếng gọi:

– Bạch ưng, đây Thạnh Trị.

– Nghe 5 bạn
– Báo bạn biết, hầm chỉ huy tôi xập rồi. Tôi ra giao thông hào với mấy đứa con.

– Bạn nhớ giữ liên lạc với tôi.

– Bạn…

Không có tiếng trả lời. Tôi hoang mang. “ra giao thông hào với mấy đứa con” vậy là bi đát lắm rồi. Anh Ngọc bảo tôi:

– Anh đang bận hướng dẫn khu trục, em qua FM gọi thẳng TTHQ xin gấp cho anh ít nhất là 2 phi tuần nữa, lên liền lập tức, nếu không kịp là tụi nó sẽ “over run” Dakseang trong vòng nửa tiếng đồng hồ.Tôi đổi tần số FM, anh Ngọc cẩn thận dặn dò thêm:

– Phải nhớ la ơi ới lên như là đang bị bóp…dái thì cha con nó mới chịu chạy dùm.Tôi phì cười, ông đại úy nầy lúc nào cũng đùa được. Khỏi cần bị ai bóp dái tôi cũng la được vì hò hét và tả oán là sở trường của tôi. Tôi gọi máy và có kết qủa ngay. Anh Ngọc mừng rú lên khi được thông báo có một phi tuần F4 của Hải Quân Mỹ sẽ cất cánh ngay từ hàng không mẫu hạm vào làm việc. Giọng nói từ dưới đất bây giờ nghe có vẻ hốt hoảng:

– Bạch ưng, đây Thạnh trị.

– Nghe bạn 5.

– Bạn cho mấy con chim sắt đánh sát quanh đồn gấp đi bạn. Tụi nó đang “à lát xô” lên.

Anh Ngọc la ùm lên trong tần số khu trục. Hai chiếc khu trục A-1 còn mấy trái bomb bỏ dở cây, hối hả trở về đồn nhào xuống đánh sát chung quanh rào. Một ông la to khi kéo tàu lên.

– Tụi nó đông như kiến bạn ơi.

– Còn phải hỏi.

Khu trục đánh hết bomb nhưng vẫn bay trên mục tiêu để bắn hết những tràng cà nông 20 ly. Tình hình lúc này đã bi đát lắm rồi. Giặc xung phong lên ào ào. Thạnh trị thông báo là một góc phòng tuyến đã bị vỡ và con cái anh đang xáp lá cà với giặc. Tôi nghe Trung tâm hành quân “TTHQ” thêm ba căn cứ khác cũng bị tấn công một lúc. Anh Ngọc bảo tôi: Tao còn lạ gì cái trò này, tụi nó đánh nghi binh để dứt điểm Dakseang đó. Phải cẩn thận. Trong vô tuyến, tiếng tàu bay gọi nhau tiếng trao đổi gã trên trời và dưới đất nghe loạn cào cào..

Bởi trong những tiếng ồn ào đó, có tiếng gọi của mấy ông F 4 Hoa Kỳ. Mấy ông Tây trang bị vũ khí tận răng. Hai chiếc F4 mỗi chiếc mang 18 trái 500 pouds đang làm vòng chờ ở khoảng 20 ngàn bộ. Anh Ngọc chỉ “briefing” một tí, mấy ông “Roger” và “Sir”lia lịa nhào xuống làm ăn liền. Khu trục Việt Nam đánh đã đẹp, mấy ông Tây đánh cũng không thua ai. Từ khoảng 15 ngàn, mấy ông nhào xuống dưới trần mây, để những trái bomb thật chính xác. Phòng không bắn dữ dội nhưng xem ra không ăn thua gì với mấy chiếc F4 này. Đang đánh ngon lành thì tôi nghe tiếng gọi từ dưói đất:

– Bạch ưng, đây Thạnh trị.

Giọng nói lúc này không có vẻ hốt hoảng mà bình tĩnh lạ thường.

Anh Ngọc bấm máy:

– Nghe bạn 5, cho biết tình hình đi bạn.

– Tôi yêu cầu Bạch ưng cho đánh ngay vào trong đồn.

Cả hai chúng tôi giật nẩy mình, chỉ hy vọng là mình nghe…lộn. Chúng tôi sững sờ không trả lời được. Người chỉ huy phía dưới đất xác nhận lại:

– Bạch ưng, tôi xác nhận lại, tôi xin bạn đánh xuống đầu tôi.

– Bạn nói bạn xin đánh thẳng vào đồn?

– Đúng 5. Hết hy vọng rồi bạn ơi. Cứ đánh vào đây để tụi nó chết chùm luôn với chúng tôi.

– Bạn suy nghĩ kỹ chưa?

– Giọng nói dưới đất lúc này nghe có vẻ hết kiên nhẫn:

– Không còn lựa chọn nào khác bạn ơi. Bạn đánh lẹ giùm. Chúc bạn may mắn. “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” mà bạn…

Đó là những tiếng nói cuối cùng tôi nghe được từ đồn Dakseang “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”. Anh Ngọc hốt hoảng gọi máy về xin chỉ thị quân đoàn. Quân đoàn trả lời phải xác nhận với đồn Dakseang một lần nữa rồi cho biết kết qủa. Chúng tôi gọi muốn đứt hơi nhưng không còn liên lạc được với Thạnh Trị nữa.

Báo cáo trở lại, quân đoàn quyết định: cho đánh thẳng vào đồn nhưng phải… cẩn thận. “Cẩn thận con C… ông” anh Ngọc lẩm bẩm chửi thề rồi gọi máy thong báo cho mấy ông Tây, bảo đánh thẳng vào đồn. Người phi công hải quân Mỹ vừa kéo con tàu lên sau một loạt tấn công cũng bối rối không kém:

– Roger! Sir, Did you say…right on it? Over.

– Yes sir, it’s all over. I said you salvo right on it. Over.

– Roger, sir, I understood, sir, Over.

Chỉ có vậy thôi, đồn Dakseang biến thành một biển lửa sau hai đợt bomb salvo của mấy chiếc Phantom. Tôi đang chứng kiến một hình ảnh mà có lẽ suốt đời sẽ không bao giờ quên được. Tôi biết nói gì lúc này đây cho những người chiến sĩ Địa Phương Quân QLVNCH? Tất cả những ngôn từ, những ý nghĩ đều trở thành vô nghĩa trước cảnh tượng bi thảm hào hung này.

Bay cách đó chừng 5 cây số với cao độ 5 ngàn bộ mà con tàu tôi như rung lên dưới tiếng nổ và sức ép khủng khiếp của mấy chục trái bomb 500 cân Anh nổ một lần. Làm sao còn có ai sống sót sau cơn tàn phá khủng khiếp này?. Những thịt, những xương, những máu của các anh hùng Dakseang đã tung bay khắp nơi rồi rơi xuống lẫn lộn với bụi, với đá, với sắt, để rồi nằm im trên mặt đất.

Cũng trên mặt đất nầy của quê hương, ở một nơi nào đó, những người vợ, những đứa con, những bà con thân bằng quyến thuộc của các anh đâu biết người thân của mình vừa anh dũng đền nợ nước, vừa ” Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” như lời trăn trối cuối cùng của người đồn trưởng, vừa chết để cho cả dân tộc được sống, được hít thở không khí Tự Do dù chỉ trong một khoảnh khắc…

Ngày mai đây, những chiếc khăn tang trắng sẽ được chít vội vã lên đầu những người thiếu phụ nghèo nàn khổ sở kia, những khuôn mặt bầu bĩnh vô tội của trẻ thơ. Nước mắt nào khóc cho hết nỗi bi thương của người vợ lính VNCH đây hỡi ông trời xanh thẩm? hình ảnh nào có thể thay thế được hình ảnh ngọt ngào của Cha chúng nó, suốt khoản đời còn lại của những em bé hồn nhiên vô tội kia hỡi ông trời?


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1583865503-HQPD_NhungAnhHungVoDanh_04.jpg
Hình minh họa

Dân tộc tôi đã làm gì nên tội, “Tử biệt sinh ly” câu nói nghe được từ thuở học trò bầy giờ mới thấy trọn nghĩa ý đau thương. Máu nào chảy mà ruột không mềm, mắt tôi bỗng chan hòa nước mắt. Tôi tống ga bay trở lại đồn. Qua màn lệ nhạt nhòa, tôi chẳng còn thấy gì, ngoài những cụm khói đen bốc lên giữa đồn. Những cụm mây oan khiên vừa rồi vẫn còn vần vũ như những chiếc khăn tang trắng lồng lộng bao phủ cả bầu trời. Mây ơi là mây, còn sống chẳng chịu giúp nhau, bây giờ người đã chết, đồn đã mất sao còn lảng vảng để khóc thương.

Trời chiều cao nguyên vốn đã thê lương cô quạnh lại càng trở nên tang tóc sầu thảm hơn. Hai chiếc Phantom Hoa kỳ ráp thành một hợp đoàn tác chiến bay những vòng tròn thấp chung quanh đám đất đá điêu tàn không hiểu để quan sát hay để chào vĩnh biệt những chiến sĩ gan dạ anh hùng của Địa Phương Quân QLVNCH. Dưới trời chiều nắng tắt, trông hợp đoàn Phantom như hai con chim hải âu ủ rủ lượn từng vòng quanh xác chết của đồng loại. Sau khi nhận kết oanh kích của anh Ngọc, giọng nói xúc động của người phi tuần trưởng Phantom vang lên:

– Sir, may I reach out across the fires and destructions of today to tell you this: Those people down there have fought like men and have gone in honor.

Giọng anh Ngọc run run nghẹn ngào:

– Yes sir, they have gone in honor. That was an Alamo by all means, sir. An ever greater Alamo than ours, Over.

Tôi thấy hai hàng nước mắt chảy dài trên má anh Ngọc.

– Roger! We have thousand of Alamo like that every day in our country.

– Roger, I believe that, sir, God bless you all. Over.

Hai chiếc Phantom liếc cánh chào vĩnh biệt rồi bốc lên cao, mất hút giữa bầu trời ảm đạm. Alamo, cái tên nghe đã đi vào huyền sử của dân tộc Hoa Kỳ mà bất cứ công dân Mỹ nào nghe cũng phải hảnh diện. Alamo, làm tôi nhớ đến bài học Anh văn năm đệ ngũ. Alamo, đúng ra là một ngôi nhà thờ “Y pha nho” mà hai ngàn chiến sĩ kỵ binh Hoa Kỳ đã tử thủ khi chống cự lại với hàng chục ngàn quân Mễ Tây Cơ cho đến giây phút cuối cùng.

Không ai đầu hàng và tất cả đã bị tàn sát. Người Mỹ chỉ có một thành Alamo trong suốt 200 năm lập quốc mà cả thế giới đều biết, đều mến phục. Đất nước tôi có bao nhiêu thành Alamo còn tàn khốc hơn, đẩm máu gấp ngàn lần hơn suốt bao nhiêu năm chinh chiến.

Sáng hôm sau tôi và anh Ngọc bay thêm một phi vụ sớm trước khi bàn giao biệt đội. Tối đêm qua một trận mưa bomb của B52 đã cày nát khu tập trung quân giặc. Dù biết là vô ích, chúng tôi vẫn mở lại tần số cũ để gọi cho Thạnh trị. Nhưng chả còn Thạnh trị nào để trả lời cho Bạch ưng nữa. Đồn Dakseang chỉ còn là đống đất vụn điêu tàn. Gió thổi lên từng cơn cuốn theo những lớp bụi đỏ mù. Tôi nhìn xuống đó, tưởng nhớ đến những cái chết oai hùng chiều qua.

Trong một quê hương khói lửa, kiếp người quả thật mong manh như gió, như đám bụi mù kia. Mới nói nói cười cười mà giờ đây đã ngàn thu vĩnh biệt. Bay thêm vài vòng quanh đồn để tưởng nhớ ngậm ngùi cho các anh rồi cũng đến lúc phải từ giã để ra đi. “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” Thôi thì xin thành kính nghiêm trang giơ tay chào vĩnh biệt các anh.

Những người lính Địa Phương Quân âm thầm của một tiền đồn xó núi. Địa Phương Quân, cái tên nghe khiêm nhường và hiền lành như đất, như bộ đồ xanh bạc màu của các anh. Địa Phương Quân, thứ lính…âm thầm nhất trong các thứ lính của quân lực; không màu mè, không áo rằn ri, không có những huyền thoại khủng khiệp, không “truyền thống, binh chủng” không có đến những khẩu hiệu nẩy lửa chết người.

Nhưng Địa Phương Quân Pleiku chiều hôm qua đã bình tỉnh xin “cho nó nổ trên đầu tôi”. “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi bạn ơi” Xin vĩnh biệt và cảm tạ. Cảm tạ các anh đã đem cái qúi giá nhất của cuộc đời là mạng sống mình để đổi lấy cho quê hương dù đã rách nát tả tơi còn có được những ngày xanh hy vọng. Cho buổi hợp chợ ban mai, dù nghèo nàn thưa thớt vẫn còn được an bình. Cho ngôi trường quận lỵ thấp lè tè những mái tôn cháy nắng còn rộn tiếng trẻ thơ cười. Cho mái chùa cong cong nơi sườn núi còn được ngân lên những hồi chuông tín mộ. Và cho những người ở lại như tôi đây biết rằng mình sống tức còn nợ phải trả….

Các anh chính là những người được mô tả trong một bài học thuộc long tôi thuộc làu làu lúc còn là một đứa bé:

Họ là kẻ khi quê hương chuyển động; Dưới gót giày của những kẻ xâm lăng? Đã xông vào khói lửa quyết liều thân? Để bảo vệ tự do cho tổ quốc? Trong chiến đấu không nài muôn khó nhọc? Cười hiểm nguy bất chấp nỗi gian nan? Người thất cơ đành thịt nát xương tan? Những kẻ sống lòng son không biến chuyển? Tuy tên họ không ghi trong sử sách? Tuy bảng vàng bia đá chẳng đề tên? Tuy mồ hoang xiêu lạc dưới trời quên? Không ai đến khẩn nguyền dâng lễ vật? Nhưng máu họ đã len vào mạch đất? Thịt cùng xương trộn lẫn với non sông? Và linh hồn chung với tấm tình trung? Đã hòa hợp làm linh hồn giống Việt.

Xin thành kính viết lại một phần bài thơ của Đằng Phương để tặng các anh. Các anh chính là những “Anh Hùng Vô Danh”. Tổ Quốc Việt Nam, dân tộc Việt Nam ngàn đời sẽ còn ghi ơn các anh. Xin vĩnh biệt và cảm tạ!!!


Trường Sơn Lê Xuân Nhị
https://www.facebook.com/groups/644316002354236/permalink/2076119692507186/

BachMa
04-13-2020, 03:40 PM
Chuyện dài sau 30 tháng 4/1975..

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1586792157-BoDoi.jpg

Sau 30/4/75, anh bộ đội đứng bên cạnh chiếc xe đạp thồ
(phương tiện vận chuyển thời Pháp thuộc) nói:
"..Ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa chúng tôi Ti Vi chạy đầy đường,
cà rem ăn không hết phải đem phơi khô,
uống toàn sữa ngoại như sữa Honda, Suzuki.." kinh chưa...

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1371892382.gif http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1371892382.gif

BachMa
04-18-2020, 07:48 PM
“Tự Tử Đi Anh Em! Tao Không Đầu Hàng!”
(Hào Kiệt Phương Nam) Những Chiến Sĩ Anh Hùng của Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù VNCH
Tự sát chứ không đầu hàng giặc (30/ 04/ 1975)

“Tuy mạnh, yếu có lúc khác nhau
Song, ‘Hào Kiệt’ thời nào cũng có”
(Bình Ngô Đại Cáo - Nguyễn Trãi)

---oo0oo---

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1586978958-HQPD_TaoKhongDauHang_01.jpg
Hình minh họa
Sáng sớm ngày 29 tháng 4, 1975, chúng tôi tiếp tục công việc như mọi ngày nhưng trong lòng nôn nao khôn tả. Từng đoàn dân chúng hoặc quân nhân của Sư Đoàn 18 Bộ Binh ào ạt kéo về hướng Sài Gòn, chúng tôi kêu gọi họ ở lại tiếp sức trấn giữ cây cầu nầy nhưng họ nói là được lệnh về bảo vệ Thủ Đô Sài Gòn.

Còn căn cứ Giang Thuyền của Hải Quân tại bờ sông Đồng Nai cạnh cây cầu nầy ngày hôm qua còn có bóng người thấp thoáng, đến hôm nay sao im vắng như vậy? Dưới sông còn mấy chiếc giang đỉnh nằm yên trên sóng nước lăn tăn dưới làn gió nhẹ.

Anh em tôi kéo đến hỏi ý kiến Trung Sỹ Ngôn là người có cấp bậc cao nhất và cũng lớn tuổi nhất trong bọn tôi:

- Tính sao Trung Sỹ?

Trung Sỹ Ngôn đáp tỉnh bơ:

- Không tính gì cả, giặc đến thì đánh chớ còn tính gì nữa, lúc trước ta phải sang Campuchia, sang Lào, đi ra Vùng I, Vùng II tìm giặc mà đánh, nay chúng kéo đến đây thì ta phải đánh chứ còn nghĩ ngợi gì nữa.

Lời nói khẳng khái của TS Ngôn khiến anh em Nhảy Dù và các chiến sĩ Công Binh, Địa Phương Quân cũng lên tinh thần. Một vài người phát biểu ý kiến:

- Trung Sỹ Ngôn đúng là một chiến sĩ can đảm của quân đội, lẽ ra anh phải có cấp bậc khác hơn mới đúng, quân đội cần phải có những chiến sĩ đảm lược như vậy.

Trung Sỹ Ngôn khoát tay bảo đừng nói tiếp nữa, ông nói:

- Các bạn đừng cho tôi uống nước đường tưởng tượng nữa, đời binh nghiệp của tôi nếu có được kéo dài thì cũng thế thôi, một tên quân phạm được Bộ Tổng Tham Mưu cho tiếp tục phục vụ thì còn lên xuống gì nữa!!!

Ai nấy đều không tin câu nói của Trung Sỹ Ngôn, ông ta phải xác minh tới lui mấy lần mà chưa có ai tin.


***

Riêng tôi thì tôi tin ông nói thật vì tôi là HSQ quân số của Tiểu đoàn, tôi nắm giữ hồ sơ lý lịch của quân nhân trong đơn vị nên tôi biết nhiều về quân nhân trong đơn vị.

Tôi xin mở dấu ngoặc nói về người Hạ sĩ quan nầy:

Sau những trận “Mùa Hè Đỏ Lửa” năm 1972, vì nhu cầu bổ sung quân số cho các đơn vị tác chiến đang thiếu hụt, Bộ Tổng Tham Mưu nghiên cứu và quyết định cho tiếp tục phục vụ các quân phạm được coi là thường phạm hiện đang bị giam giữ trong Quân Lao Gò Vấp. Ông Trung Sỹ Ngôn được xuất lao trong đợt đầu tiên và được bổ sung về Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù.

Ngày tôi đến Khối Bổ Sung nhận về 30 quân phạm trong đó có Trung Sỹ Ngôn, vừa gặp ông là tôi có thiện cảm liền. Tôi đưa các quân nhân nay về Hậu cứ Tiểu đoàn ở cổng số 9 trong Căn cứ Long Bình, Biên Hòa, trang bị cho họ và chờ ngày tăng cường hành quân.

Trong những ngày chờ đợi tôi có dịp tiếp xúc với các quân nhân nầy để tìm hiểu và giúp đỡ chuyển thư từ, nhắn tin người nhà đến thăm, tiếp tế cho họ, phần các quân nhân ở xa hoặc ở trong vùng mất an ninh thì chỉ gởi thư theo đường bưu điện thôi.

Riêng Trung Sỹ Ngôn, quê ở Hốc Môn, tuy không xa lắm nhưng xã ấp ở vùng xôi đậu nên tôi không thể đem thư đến nhà cho ông được, tôi cố gắng đi đến chợ quận Hốc Môn, rồi hỏi thăm tìm những người cùng xã ấp với ông nhờ họ chuyển thư về gia đình ông.

Cuối cùng, thân nhân của ông cũng đã tìm đến thăm ông được. Và nhờ vậy ông mang ơn tôi, có tâm sự gì ông đều phun ra hết, và con đường tù tội của ông như sau:

“Sau Tết Mậu Thân, Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến gần như thường xuyên có mặt tại Quân Khu I và Quân Khu II, các người lính Tổng Trừ Bị nầy hầu như là “Trấn thủ lưu đồn” của thời xa xưa, có khi hai ba năm chưa được về thăm gia đình một lần, Trung Sỹ Ngôn tuy là đã có gia đình, nhưng vì lính xa nhà trong lúc sức lực phương cường, nên thường lén rời đơn vị đi thăm “Đệ Thất Hạm Đội” cắm sào trên sông Hương.

Một lần, sau khi lãnh lương, anh đi lả lướt trên sông Hương, Đến sáng ngày tỉnh dậy mới hay bị mất ví cả giấy tờ tùy thân và tiền lương tháng mới lãnh chưa kịp gởi về cho vợ. Còn chiếc thuyền thì đã cập bến nhưng người lái không có ở đó.

Trên đường trở về vị trí đóng quân bị Quân Cảnh xét giấy tờ không có nên bị bắt giữ rồi giải giao về đơn vị thọ phạt. Quá uất ức, nên sau khi thọ phạt xong Trung Sỹ Ngôn cầm một quả lựu đạn tìm đến bờ sông thì rất may anh gặp lại cô lái đò hôm trước. Anh đòi lại cái ví và số tiền anh đã bị đánh cắp, cô lái chối cãi là không có lấy, anh đập trái lựu đạn vào đầu cô ta phun máu, cô ta mới chịu nhận là có lấy nhưng gã anh trai ma-cô của cô ta đã cất giữ rồi, theo lời cô lái đò nói lại là nếu anh có tiền chuộc mới được trả lại.

Quá tức giận, anh lại cầm trái lựu đạn đập vào đầu cô ta khá mạnh khiến cô ta kêu thét lên rồi ngất xỉu luôn. Các người trên thuyền bên cạnh tri hô lên là có án mạng nên lính Quân Cảnh và An Ninh Quân Đội đến bắt anh, anh kháng cự đưa ra trái lựu đạn dọa nếu ai đến gần sẽ cùng chết với anh. Anh về đơn vị trình diện và bị An Ninh Quân Đội của đơn vị bắt giải về Sài Gòn đưa ra tòa án Quân Sự Mặt Trận Quân Khu III.

Tôi hỏi chen vào:

- Anh có mướn luật sư bào chữa cho anh không? Tòa án xử anh có nặng lắm không?

Trung Sỹ Ngôn thở ra, chán nản nói:

- Tiền đâu mà mướn luật sư, tiền của mình nó lấy hết rồi nên mình mới gây nên tội. Tôi trình bày tất cả sự việc để ông Chánh Án quyết định chứ không thèm xin ân giảm gì hết.

Tôi tò mò hỏi anh về quang cảnh của phiên Tòa, anh đáp:

- Đầu tiên, họ điệu tôi ra giữa phòng xử, các viên chức trong tòa lần lượt đi ra, cuối cùng tới ông Chánh Án, là một vị Trung Tá trong QĐVNCH. Đầu tiên họ đọc cáo trạng về trường hợp phạm pháp của tôi, tiếp theo ông Ủy viên Chính Phủ tức là Công Tố lên án tôi, tôi bị khép vào 3 tội.

Tội thứ 1: Phạm vào điều Giáo lệnh thứ 5: Không được bê tha, rượu chè, cờ bạc, trai gái, và nghiện hút.

Tội thứ 2: Can tội sát nhân, đánh chết người phụ nữ chân yếu tay mềm không thể tự vệ.

Tội thứ 3: Dùng vũ khí để chống lại nhân viên công lực làm nhiệm vụ. Cuối cùng Ủy viên Chính phủ xin ông Chánh Án lên án thật nặng đối với quân nhân vô kỷ luật để làm gương.

Đến phần luật sư biện hộ, vì không có luật sư của bị cáo nên Tòa chỉ định một luật sư tình nguyện giúp tôi, tôi nói là tôi không cần, tôi tự trả lời lấy.

Về tội thứ 1: Các điều bê tha, rượu chè, cờ bạc, nghiện hút tôi không có, còn vấn đề trai gái thì tôi sống theo luật tự nhiên, giải quyết sinh lý, vì một người bình thường mà phải xa nhà cả hai, ba năm, thậm chí bốn năm năm thì bị mất quân bình, họ còn lo chiến đấu, sống chết bất ngờ, ăn uống thiếu thốn, nằm rừng ngủ bụi, thì làm sao chịu nổi.

Tôi đặt ví dụ: Một người công chức mỗi ngày làm việc 8 giờ, tan sở đã có công xa đưa đón, về nhà có vợ con săn sóc, họ được ba bữa ăn nóng. Còn giới quân nhân thì sao, có nhà mà cả mấy năm không được về, có vợ mà phải đi ngủ với gái điếm lại còn bị tội bê tha, trai gái.

Về tội thứ 2: Tôi nhìn nhận có nóng nảy, quá mạnh tay với cô đó. Nhưng thưa quan Tòa, tôi ăn bánh trả tiền sòng phẳng. Tại nó lấy tiền, lấy giấy tờ của tôi khiến tôi bị bắt, bị phạt kỷ luật, sau đó nó còn đòi tiền chuộc thì tôi không nóng sao được.

Về tội thứ 3: Tôi dùng lựu đạn để gây áp lực chứ không hề mở khóa an toàn, không gây thương tích hay nguy hiểm cho nhân viên công lực, tôi không để nhân viên công lực bắt tôi vì tôi không muốn để những người phè phỡn ở thành phố bắt những thằng đi tác chiến, tôi quyết về đơn vị để cấp chỉ huy định đoạt. Phần trình bày của tôi đã xong.

Tôi hỏi anh:

- Sau đó thì sao, Công tố viên còn nói gì không? Tòa tuyên bố thế nào? Có nặng lắm không?

- Khi tôi nói, Ủy viên Chính Phủ có vẻ bất bình, muốn ngăn lại, nhưng ông Chánh Án không tỏ thái độ gì nên ông ta cũng nín luôn, cuối cùng Ông Chánh Án thay vì kết án là tôi “cố sát” hay ít ra là kết tội “Cố ý đả thương, nhân thương trí mạng” gì gì đó, thì Ông Chánh Án đã lên án là “ngộ sát” và hình phạt là năm năm tù ở. Nhưng mới hai năm thì được cho ra ngoài tiếp tục phục vụ. Tôi nói thiệt, nếu có được đi ra ngoài đó nữa, tôi sẽ vẫn đi thăm “Đệ Thất Hạm Đội” đó nữa”.


***

Vậy mà giờ đây, trước giây phút hấp hối của Thủ đô VNCH anh vẫn hiên ngang đóng tại cửa ngõ vào thành phố, vẫn cùng 6 người thương binh tự đặt dưới quyền điều khiển của anh, cạnh đó, các quân nhân Công Binh, Địa Phương Quân cũng lây cái hào khí của anh, họ hứa sẽ ở lại cùng chiến đấu với anh em Nhảy Dù.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1586978973-HQPD_TaoKhongDauHang_02.jpg
Hình minh họa

Và bây giờ chúng ta hãy nghe Binh Nhất Hào Hoa của Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù kể tiếp:

"Từ buổi trưa đến chiều ngày 29 tháng 4, 1975, các quân nhân của Sư Đoàn 18 BB đi về càng nhiều, có người thì đi lẻ tẻ, có tốp thì đi chung nhiều người. Tôi nghĩ đây là họ “di tản chiến thuật” để sẽ được “tái phối trí” ở một vùng nào đó". Nhiều người dân di chuyển trên đường giục chúng tôi:

- Mấy chú Nhảy Dù ơi, bọn Việt cộng tràn tới rồi kìa !

"Nghe họ nói, tôi cũng cảm thấy lo ngại, hàng đoàn quân còn chạy, thì mấy mươi người chúng tôi có nghĩa lý gì với cơn thác lũ của chiến cuộc. Tôi liếc nhìn các bạn Nhảy Dù tại đó, thấy họ vẫn bình tĩnh chứ không có vẻ lo sợ gì cả". Tôi nghĩ họ đã dày dạn phong sương, đã tôi luyện trong máu lửa nên lòng họ đã chai lì rồi chăng?


***

"Từ ngày Tổng Thống Nixon lên chức, ông quyết định rút hết quân về nước trong “Danh dự”. Ông đưa ra áp dụng kế hoạch “Việt-Nam Hóa Chiến Tranh” là (bỏ của chạy lấy người). Quân Mỹ và Đồng Minh ào ạt đến rồi cũng ào ạt rút lui". Các căn cứ quân sự được chuyển giao lại cho QĐ VNCH, trong các căn cứ đó có căn cứ Long Bình là rộng lớn và ở gần thủ đô Sài Gòn nhất.

Trong khi đó Chính Phủ Việt-Nam Cộng Hòa cũng đã có kế hoạch chỉnh trang thành phố, mà hai doanh trại của Nhảy Dù là trại Nguyễn Trung Hiếu của Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù nằm trên đường Lê Văn Duyệt đối diện với Nghĩa Trang Đô Thành Sài Gòn và doanh trại Phạm Công Quân của Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù nằm trong vườn cao su của nhà thờ Chí Hòa tại ngã tư Bảy Hiền là bị ưu tiên chiếu cố để chuyển đi. Cả hai Tiểu Đoàn 1 và 3 Nhảy Dù đều được giao cho một số nhà tole tại Cổng số 9 trong căn cứ Long Bình để làm doanh trại cho đơn vị mình.

Vì doanh trại cũ của TĐ 3 ND sẽ được ưu tiên xây Bệnh Viện Vì Dân, nên toàn bộ trại nầy được chuyển về doanh trại mới gần cuối năm 73, còn TĐ 1 ND chưa kịp chuyển về căn cứ nầy, nên chỉ đưa một bán đội sáu người đến tiếp nhận và trông chừng doanh trại, và tôi là B.I “Hào Hoa” là một trong sáu quân nhân được phái đến giữ trại đó.

Sáu người anh em chúng tôi thường hay sang doanh trại của TĐ 3 ND chơi với các quân nhân phụ trách về các việc chuyên môn của đơn vị nầy.

Lý do tôi được đến giữ doanh trại mới nầy là trong lúc cùng đơn vị tham dự Hành quân tại Quảng Trị, tôi bị thương, được di tản về Bệnh Viện Đỗ Vinh để điều trị, khi vết thương đã bình phục, tôi chuẩn bị tăng cường HQ thì gặp lúc Tiểu đoàn cần một số quân nhân đến tiếp nhận và trông coi doanh trại mới vừa được chuyển giao và tôi được chọn cùng với 5 anh em khác.


***

Vì vậy mà tuổi chiến trường, kinh nghiệm chiến trận của tôi còn kém cỏi, nên khi nghe dân chúng bảo chạy đi tôi cũng thực sự lo ngại lắm, các binh sĩ kia cũng có vài người dao động, lo lắng trước những việc diễn biến quá nhanh. Binh 2 Kha rụt rè hỏi TS Ngôn mà cũng có thể hỏi chung anh em Nhảy Dù.

- Làm sao bây giờ Trung Sỹ?

Trung Sỹ Ngôn đáp không do dự:

- Như tôi đã nói ngày hôm qua, lúc trước ta tìm giặc mà đánh, bây giờ chúng nó tới thì ta phải đánh chứ còn tính gì nữa, nếu anh em nào sợ thì chạy theo đoàn người di tản đó đi, tôi không cản trở, còn anh em nào không sợ thì ở lại chúng ta cùng nhau chiến đấu tới cùng.

Trước lời nói quyết liệt của Trung Sỹ Ngôn, anh em lên tinh thần trở lại, họ hứa sẽ ở lại chiến đấu tới cùng với TS Ngôn. Riêng tôi không có ý kiến, ai làm sao tôi làm vậy thôi.

Trọn đêm đó tiếng súng nổ từ xa đến gần, hướng Sài Gòn thỉnh thoảng có tiếng pháo kích rải rác đó đây tuy không nhiều lắm.

Chúng tôi cũng thay nhau ngủ gà ngủ gật trong các công sự bằng bao cát.

Trời vừa hừng sáng ngày 30 tháng 4, 1975, Trung Sỹ Ngôn đốc thúc anh em tìm chỗ có thể vừa ẩn nấp vừa chiến đấu bên dưới gầm cầu, chứ mấy cái công sự bằng cát đó chẳng có nghĩa lý gì đối với xe thiết giáp T-54 của bọn cộng phỉ. Trung Sỹ Ngôn còn phái Hạ Sĩ Đắc và Binh Nhất Tân sang bên kia đầu cầu lấy thêm một ít súng chống chiến xa M.72 để tăng cường cho đầu cầu bên này, hai người đi một chập trở lại với mấy khẩu M.72.

Trung Sỹ Ngôn chưa kịp có ý kiến gì thì chợt có tiếng động cơ của xe thiết giáp chạy rần rần từ xa. Dân chúng chạy tán loạn vào vệ đường la hoảng lên:

- Bọn Việt cộng tới, nó có xe tăng nữa.

Chúng tôi thấy giữa đường có 2 chiếc xe thiết giáp treo lá cờ thổ phỉ xanh, đỏ và ngôi sao vàng ở giữa, hai bên đường, bọn cộng phỉ xâm lược hộc tốc chạy theo. Chợt chiếc xe chạy đầu dừng lại và bắn vào ụ cát làm công sự trên cầu, sau tiếng nổ lớn ụ cát đó biến mất, chúng lại bắn tiếp các ụ khác.

Chúng tôi nấp ở gầm cầu nên không bị thương tích gì, 3 người chúng tôi thủ M.72 bốn người kia thủ M.16 đồng loạt nhả đạn khiến lũ giặc xâm lược sợ hãi nằm rạp xuống vệ đường, chiếc xe chạy đầu sau khi bắn mấy phát liền chạy tới bị trúng đạn M.72 bị đứt xích đang xoay tròn trên xa lộ. Chiếc xe T.54 còn lại và lũ giặc cộng phỉ bắt đầu phản công, chúng đã biết chỗ ẩn nấp của chúng tôi nên tất cả đều nhắm bắn vào chỗ chúng tôi.

TS Ngôn vừa chiến đấu vừa bảo anh em tôi:

- Súng M.16 bắn vào bọn vc chớ đừng bắn vào xe thiết giáp chỉ gãi ngứa cho nó thôi, còn súng M.72 bắn vào xích của nó có kết quả hơn.

Chúng tôi bắn xong một loạt liền thay đổi vị trí mới nên bọn vc tuy đông người hơn nhưng chưa bắn trúng anh em chúng tôi một viên nào. TS Ngôn và HS Đắc bảo anh em tôi bắn phủ đầu bọn nó cho hai anh sử dụng súng M.72. Chúng tôi làm y lời họ và hai anh đã bắn cháy chiếc T.54 thứ 2.

Tuy áp lực trên 2 chiếc T.54 không còn, nhưng bọn giặc xâm lược tràn tới càng lúc càng đông, Trung Sỹ Ngôn căn dặn anh em:

- Các bạn hãy tiết kiệm đạn, chúng ta phải chiến đấu lâu dài đó, không có ai tiếp viện đâu!


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1586979007-HQPD_TaoKhongDauHang_03.jpg
Hình minh họa

Chúng tôi bắt đầu bắn dè sẻn từng loạt một cũng có thể chận đứng bọn cộng quân xâm lược được chốc lát. Nhưng kìa, hai chiếc PT.76 khác lại ào ào chạy đến, chúng tôi chỉ còn có hai khẩu M.72. TS Ngôn thủ một khẩu, HS Đắc thủ một khẩu, chúng tôi lại bắn ào ạt yểm trợ cho hai người bắn chiến xa, nhưng phía cộng quân cũng bắn rát quá nên hai anh bắn không trúng chỗ hiểm, hai chiếc thiết giáp liền chạy thẳng qua bên kia cầu, bọn bộ đội cũng nương đà đó chạy theo xe qua cầu, một số quây tại đầu cầu gọi chúng tôi đầu hàng, bọn tôi đáp lời lũ giặc xâm lược từ phương bắc bằng những phát đạn thật chính xác, vì thế chúng không dám xông vào chỗ ẩn nấp của chúng tôi.

Chúng tôi mong các quân nhân của đơn vị bạn giật sập cầu hoặc dùng súng M.72 bắn hạ mấy chiếc xe vừa thoát chạy sang bên đó, nếu để nó thoát được thì tai hại lắm.

Nhưng chờ mãi mà chẳng thấy động tịnh gì cả, chúng tôi nghĩ là họ đã bỏ trốn hết rồi. Quá thất vọng TS Ngôn nói:

- Chúng ta muốn góp sức để ngăn chận đường tiến của bọn cộng phỉ xâm lược, nhưng chúng ta cô đơn chiến đấu, sức chúng ta chỉ có hạn, đạn dược sắp hết rồi, bây giờ các bạn muốn tiếp tục chiến đấu hay muốn trốn đi đâu tùy ý. Riêng tôi quyết chiến đấu đến viên đạn cuối cùng.

Ai nấy lên tiếng quyết chiến đấu, không lùi bước, riêng tôi có hơi do dự. Thấy vậy, Trung Sỹ Ngôn nói với tôi:

- Em có thể chui vào đám lục bình trên mặt nước kia để rút đi, bây giờ còn kịp.

Tôi cảm thấy bị chạm tự ái nên quyết ở lại. Bây giờ, bọn cộng phỉ xâm lược trên cầu kêu lớn:

- Hàng sống, - chống chết!

- Hàng sống, - chống chết!

Chúng tôi trả lời bọn thổ phỉ xâm lược bằng mấy loạt đạn. Chống trả thêm một lúc, chúng tôi đã thực sự hết đạn.

Bây giờ đến quyết định cuối cùng, Trung Sỹ Ngôn nói:

- Anh em nào vì gánh nặng gia đình, muốn rút lui để giữ mạng sống thì cứ tự nhiên.

HS Đắc hỏi lại:

- Còn Trung sĩ thì sao?

TS Ngôn đáp:

- Tao không đầu hàng!

Đắc nói:

- Tôi cũng không đầu hàng!

Cả bốn anh Lương, Tân, Kim và Kha cũng đồng lên tiếng:

- Chúng tôi cũng vậy, không đầu hàng, còn mấy viên đạn bắn hết rồi tính.

Thế là chúng tôi lại tiếp tục bắn tỉa những tên nào ló đầu vào gầm cầu.

Rồi viên đạn cuối cùng cũng đã được bắn đi.

Trung Sỹ Ngôn tuyên bố:

- Chúng ta không đầu hàng giặc, cũng không để cho giặc bắt. Vậy chúng ta cùng nhau chia cái nầy.

- Tự tử đi anh em ! Chúng ta dứt khoát không đầu hàng !

Trung Sỹ Ngôn cầm trái lựu đạn M.26 đưa ra đoạn bắt tay từng người, xong tất cả ngồi quây vòng tròn quanh trái lựu đạn. Tôi cũng ngồi xuống như mọi người nhưng bất chợt Trung Sỹ Ngôn cầm cái ba-lô để trước mặt tôi và đẩy tôi ngã ngửa ra, tôi vội đưa tay ra dẹp cái ba-lô nhưng không còn kịp nữa...


***

Khi tôi tỉnh dậy, cảm thấy mặt mũi tay chân đau buốt vì những vết thương, tôi khẽ rên lên, và một người thợ câu chèo thuyền nghe được đã ghé vào cứu giúp cho tôi. Từ đó đến nay tôi vẫn còn buồn anh em TĐ 3 ND đã chơi xấu với tôi, đã làm cái việc: “ăn đồng, chia... không đều” vì nhờ có cái ba lô Trung Sỹ Ngôn để trước mặt tôi mà tôi đã không chết cùng anh em.


(SGtt-MĐ. Nguyễn Văn Nơi)
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=576950066147193&set=pcb.576951262813740&type=3&theater

BachMa
04-26-2020, 08:28 PM
Những Phi Vụ Trao Trả Tù Binh
Hồ Viết Yên

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1587667921-HQPD_NhungPhiVuTraoTraTuBinh_01.jpg
KQ - Hồ Viết Yên
Qua email chuyển tiếp, tôi đọc được bài viết "Nhớ Lại Cuộc Trao Trả Tù Binh 30 Năm Trước" của tác giả Cán bộ Việt Cộng (VC) Nguyễn Hoàng Long đề ngày 7/3/2003.
Bài viết chỉ vỏn vẹn một trang giấy, nên tôi tò mò muốn biết thực hư ra sao, mức độ chính xác như thế nào về câu chuyện trao trả tù binh ngày 10-3-1973, tại thôn Long Quang, xã Ân Tín, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định của vị "Cán ngố" này.

Cũng vẫn giọng điệu tuyên truyền, những con số đưa ra không chấp nhận được vì không phản ảnh tính trung thực cộng thêm những lời lẽ thù hận, nhục mạ Dân Quân Việt Nam Cộng Hoà (VNCH) và Đồng Minh dầu rằng cuộc chiến đã chấm dứt hơn 27 năm rồi. Thật đáng buồn và ai oán cho kẻ cầm bút thiếu lương tâm, thiếu đạo đức.

Ngày nay con người Cộng Sản và Việt Cộng đã hiện nguyên hình, ai cũng thừa biết họ là thứ người thế nào. Họ vinh thân phì da, họ quỵ lụy Tàu Cộng, họ xiết chặt và áp bức dân nghèo. Nỗi buồn cho vận nước, nỗi xót xa cho Dân tộc Việt Nam cứ mãi âm ĩ trong tôi. Càng cố quên, không nghĩ tới những việc đã nằm trong quá khứ, nhưng chuyện xưa cứ chập chờn trong trí nhớ, kéo tôi trở về những Phi Vụ xa xưa. Muốn hay không muốn thì những chuyến bay trao trả tù binh vẫn còn đây và ăn sâu trong tiềm thức nên tôi muốn ghi lại để chia sẻ cùng các bạn.

Hiệp định Paris được ký kết, lệnh ngưng bắn bắt đầu có hiệu lực và kế đến là việc trao trả tù binh giữa hai miền Nam Bắc mà tôi đã có mặt trong nhiều phi vụ này. Cảm nghĩ của tôi lúc đó thật vui vì cuộc chiến sắp chấm dứt, những ngày thanh bình sắp đến trên quê hương. Vui vì sẽ không còn thấy chết chóc, thương tật bởi bom đạn. Vui vì những anh em tù binh của mỗi bên sẽ được trở về sum họp với gia đình, vợ con.

Thời gian đó Phi Đoàn 237 mỗi ngày biệt phái hai máy bay Chinook để thi hành phi vụ trao trả tù binh. Những phi vụ này được đặt ưu tiên hàng đầu. Tù binh sẽ lần lượt được trao trả theo thứ tự. Thành phần quân Chính quy Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) trước. Sau đó đến những thành phần của mặt trận Giải phóng, VC nằm vùng và những phần tử hoạt động cho VC.

Mỗi ngày 2 chiếc Chinook cất cánh từ Biên Hoà lên đáp phi trường Trảng Lớn, Tây Ninh. Tại đây Phi Hành Đoàn (PHĐ) đợi chỉ thị của Ủy Ban Quân Sự 4 bên (Gồm: Hoa Kỳ, VNCH, Mặt Trận Giải Phóng và CSBV). Mọi chuyến bay được điều động, thu xếp, và đặt dưới quyền kiểm soát của Ủy Ban Quân Sự 4 bên. Tôi được biết những phi cơ C-130 sẽ chở các tù binh từ Côn Sơn hay Phú Quốc về đây. Họ sẽ qua thủ tục trao trả và sau đó lên Chinook để chúng tôi chở tới địa điểm bàn giao.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1587667937-HQPD_NhungPhiVuTraoTraTuBinh_02.jpg
Hình minh họa

Nhìn các phi cơ C-130 lần lượt đáp, những đoàn tù binh xuống máy bay. Họ được Quân Cảnh VNCH hướng dẫn và sắp xếp mỗi toán 45 người theo sức chở của Chinook.

Tôi thấy họ không có vẻ gì khác thường ngoại trừ vài người phải chống nạng vì bị thương ở chân, họ nối đuôi nhau, và không ai nói với ai lời nào. Khuôn mặt họ không biểu lộ vẻ vui hay buồn phiền.

Kế phi đạo, là một khu dành riêng dùng làm địa điểm cho thủ tục trao trả. An ninh, trật tự ở đây là phần vụ của lực lượng Quân Cảnh. Những người tù binh khi đến đây họ có quyền quyết định xin ở lại hay tiếp tục trở về phía bên kia. Ranh giới "Đi hay Ở" chỉ là 1 lằn vẽ, hay những sợi dây. Quyền lựa chọn dành cho mọi tù binh, điều này chứng tỏ sự yêu chuộng Tự Do và lòng nhân đạo của Chính quyền miền Nam Việt Nam.

Mỗi toán đều được đưa đến lằn ranh "Đi hay Ở". Nếu bước qua lằn ranh thì sẽ được ở lại, còn đứng yên trong hàng thì sẽ lên Chinook để tới địa điểm bàn giao. Mỗi toán đều có vài người xin ở lại. Một số ít người vì đứng cách xa lằn ranh, muốn chạy qua để xin ở lại nhưng không kịp, họ đã bị kéo lại và ăn đòn. Nếu không bước qua được lằn ranh thì Quân Cảnh cũng không được quyền can thiệp. Đó thật là điều oái ăm, tội nghiệp cho ai không may mắn, bị kéo lại. Nhiều lúc ngồi đợi, tôi hỏi chuyện những người lính Quân Cảnh và được nghe họ kể những câu chuyện tù binh CSBV trừng trị nhau trong tù và có nhiều câu chuyện thật ghê rợn. Nghe để thấy con người Cộng Sản thật tàn ác.

Có lệnh cất cánh bay đến Căn cứ Thiện Ngôn, gần biên giới Campuchia (Lúc này đang ở dưới sự kiểm soát của Việt Cộng). Tôi đã từng đáp vào căn cứ này hằng ngày dưới thời của Đại Tướng Đỗ Cao Trí. Thiện Ngôn là bộ Chỉ huy của Lữ đoàn Dù trong trận săn đuổi và triệt hạ nguồn dự trữ, kho súng đạn và đồ tiếp tế của VC trên đất Miên.

Chúng tôi cất cánh bay sau chiếc trực thăng UH-1 có sơn màu cam của Ủy Ban Quân Sự 4 bên. Khi đáp xuống Thiện Ngôn, chúng tôi tắt máy và chờ lệnh, tôi bước ra khỏi phòng lái, nhìn về phía những tù binh theo nhau xuống phi cơ.

Dưới đất đã có các cán bộ VC đến nhận tù binh. Vài người đầu tiên vừa đụng chân tới đất thì bắt đầu cởi quần áo quăng xuống đất, thế là tất cả những người còn lại đều cởi quần áo quăng đầy trong máy bay. Tôi bắt đầu thấy họ không còn như khi từ C-130 xuống nữa. Họ giơ tay, la ó, hò hét những khẩu hiệu, nào hoan hô, nào đả đảo, số tù binh đông, nên tôi không nhìn thấy được ai ra lệnh và những khuôn mặt tôi mới nhìn thấy bình thường kia giờ đây trở nên đằng đằng sát khí. Tôi nghĩ là chúng ta đã lầm và đang thả cọp về rừng. Nhưng đây là điều quan trọng trong hiệp định Paris thì dầu muốn dầu không cũng phải thực hiện.

Bên trong chiếc Chinook giờ đây giống như phòng chứa rác. Không những quần áo mà còn những đồ mà Chính phủ VNCH cho. Anh em Cơ Phi, Xạ Thủ và Áp Tải phải ra công dọn dẹp vì nếu để, khi quay máy những quần áo này sẽ bị hút lên dính vào cánh quạt, làm hư hại máy bay. Mỗi chuyến đáp đều phải dọn dẹp, đều phải nghe và đều phải thấy những điều chướng tai gai mắt. Trong lúc chờ đợi lệnh được cất cánh, tôi đi vòng chung quanh máy bay để kiểm soát, quan sát cánh quạt và toàn thân của máy bay.

Khi tôi quay lại thì thấy cô Phóng viên VC đang chụp hình tôi. Rồi trong những lần đáp khác cũng thấy cô chụp hình. Có lúc cô đứng xa chụp, có lúc cô lại gần chụp. Máy hình hiệu Canon, coi cũng có vẻ “Pro” lắm. Nhưng sau đó tôi để ý và suy nghĩ thì hình như cô cốt ý chụp chiếc Chinook ở những góc cạnh khác nhau hơn là chụp hình tôi.

Tôi muốn chọc nên tôi đợi cô đến gần máy bay thì làm bộ đi ngang và nói “Nếu trong máy có phim thì tôi sẽ cho địa chỉ để gởi hình”. Cô không nói không rằng bỏ đi một nước. Thế là “Thúy đã đi rồi”, và từ đó tôi không còn được cô chiếu cố chụp hình nữa.

Chở trả tù binh CSBV thì nhiều nhưng nhận lại bạn mình không được bao nhiêu. Cứ vài ngày thì nhận được năm hay mười người. Lâu lâu nhận được một toán vài chục người. Trong một bữa trưa để chờ nhận khoảng 15 hay 16 anh em, nghe nói họ đang được dắt đi bộ từ sáng sớm bên kia Biên giới Campuchia và băng rừng về đây. Tôi ngồi đợi mà lòng bồn chồn, náo nức vì nghe nói trong danh sách có 2 Hoa Tiêu của Phi Đoàn 237 Chinook. Đó là Thiếu Tá Trọng và Trung Úy Thanh, đã bị bắn rớt và bị bắt làm tù binh, còn anh em Cơ Phi, Xạ Thủ và Áp Tải đã không may phải hy sinh cho Tổ quốc. Bất chợt, 2 chiếc F-5 bay rất thấp qua căn cứ Thiện Ngôn.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1587667962-HQPD_NhungPhiVuTraoTraTuBinh_03.jpg
Hình minh họa

Trong lúc chúng tôi còn đang ngơ ngác, nhìn theo, không biết lý do gì họ lại bay thấp như vậy. Lúc ngó lại sân bay và những căn lều tranh thì không còn thấy một bóng dáng nào trên mặt đất. Tôi định lên quay máy để liên lạc với UH-1 của Ủy Ban Quân Sự 4 bên. Nhưng súng ống từ đâu đã chỉa vào chúng tôi, những khẩu phòng không cũng đã được lộ ra, đang chỉa lên trời. Chúng tôi bị giữ lại Thiện Ngôn hơn cả giờ, trong suốt thời gian chờ đợi Ủy Ban Quân Sự 4 bên điều đình và thuyết phục đơn vị VC đang đóng tại đây cho chúng tôi cất cánh về Tây Ninh, và điều buồn hơn hết là trong ngày hôm đó các anh em đáng lẽ được trả về với gia đình thì đều bị giữ lại.

Sau khi đã trao trả hết tù binh chính quy CSBV, chúng tôi lại bắt đầu chở tù của những thành phần Mặt Trận Giải Phóng, VC nằm vùng và những phần tử hoạt động cho VC trong đó có cả thành phần Sinh viên hoạt động cho VC. Đây là đám người “Ăn cơm Quốc Gia, thờ ma Cộng Sản”.

Những chiếc xe GMC bít bùng chở họ vào phi trường Biên Hoà, rồi được sắp xếp lên Chinook để chúng tôi chở lên Lộc Ninh, một tỉnh nằm sát biên giới Miên Việt, đã bị VC chiếm giữ. Nhắc đến Lộc Ninh không bao giờ tôi quên được Phi Hành Đoàn của Đại Úy Trần Tấn Thọ và Thiếu Úy Ngô Kim Hoàng cùng anh em Cơ Phi, Xạ Thủ và Áp Tải. Khoảng đầu năm 1971 khi đến đây đáp, móc hàng và bay tiếp tế cho Căn cứ Snoul, Phi Hành Đoàn đã bị phòng không bắn cháy khi vừa tới Snoul. Phi Hành Đoàn bị phỏng nặng, nhưng may mắn không ai bị thiệt mạng. PĐ 237 mất đi 1 Chinook.

Khác với những lần trao trả trước ở Tây Ninh, địa điểm trao đổi lần này diễn ra tại Lộc Ninh, thuộc vùng kiểm soát của Việt Cộng cho nên sự quyết định “Đi hay Ở” của những tù binh VC gặp nhiều khó khăn hơn bởi vấn đề an ninh không được chặt chẽ như ở Tây Ninh. Khi bị kéo lại là bị đánh tơi bời. Tôi chở những người về Biên Hoà mà mặt mày bầm dập, còn dính máu, dầu đã được bên mình băng bó.

Trong kỳ trao trả này, chỉ có trả mà không có nhận, thêm điều buồn là một Nhân viên phi hành của PĐ237 đã hy sinh cho Tổ Quốc vì trúng đạn VC bắn lên khi Chinook đang giảm cao độ để vào đáp Lộc Ninh. Điều này làm cho cả PĐ237 rất đau buồn. Nhưng vì lệnh từ trên đưa xuống cho nên các phi vụ vẫn phải tiếp tục.

Qua những phi vụ trao trả tù binh, đối diện với những điều mắt thấy tai nghe, nhìn thấy rõ con người CSBV và VC, thấy đồng đội bị bắn chết, dầu hiệp định Paris đã ký kết, lệnh ngưng bắn đã ban hành, tôi thấy buồn và chơi vơi vì đàn cọp dữ nay được thả về rừng. Sớm muộn gì cũng sẽ tới phiên chúng tôi, cũng sẽ lãnh những viên đạn thù từ những kẻ mà chúng tôi đã chở trả về. Thật vậy, thời gian không bao lâu, vào cuối năm 1973 trong ngày lễ Chúa Giáng Sinh thật đẹp, Phi Hành Đoàn chúng tôi đã nhận viên đạn phòng không đầy hận thù gởi tặng ở cao độ 4.500 bộ tại mật khu Đồng Xoài và chỉ trong gang tấc thân xác chúng tôi đã bị nổ thành tro bụi, nhưng Thượng Đế vẫn còn thương và cho tôi sống để tôi có cơ hội kể lại chuyện này.


Hồ Viết Yên
K7/68KQ
PĐ237 / PĐ241 Chinook[/B]
https://www.facebook.com/groups/1051752364862874/permalink/2069383096433124/

BachMa
05-08-2020, 06:54 PM
Kết Quả Trận Hạ Lào
BÙI ANH Trinh

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1587668032-HQPD_KetQuaTranHaLao.jpg
Hình minh họa
24 Mar 1971, Laos-South Vietnam Border --- Laos-South

Về tổn thất nhân mạng, phía VNCH có 1.146 chết, 4.326 bị thương, mất tích 246. Phía Mỹ có 102 phi công hoặc nhân viên phi hành bị chết, 215 bị thương và 53 mất tích, mất 92 trực thăng và 5 máy bay chiến đấu.

Trong khi đó tin tức của phía CSVN do CIA thu thập được tại Vạn Tượng là số thiệt hại của Bắc Việt rất nặng. Và nguồn tin tình báo tại Hà Nội cho biết con số người chết chính xác là 16.224 người.

Số vũ khí của CSVN bị tịch thu là 1.968 vũ khí cộng đồng, 4.545 vũ khí cá nhân. Phá hủy và tịch thu 128.000 tấn đạn dược, 1.300.000 phuy xăng dầu, phá hủy 8 cây số đường ống dẫn dầu, 100 xe tăng, 291 xe tải. (Tài liệu của Ngũ Giác Đài do Tướng Nguyễn Duy Hinh công bố).

Đối với phía Hà Nội

Tuy nhiên con số 16.000 bị chết không nghĩa lý gì đối với Hà Nội, con cái ai chết chứ con cái các ông không chết (đều đi du học hoặc vào binh chủng phòng không đóng tại Hà Nội).

Đối với Hà Nội thì lính chết như gà vịt chết, họ không phải tốn tiền bồi thường tử tuất cho gia đình người chết cho nên họ vô tư với con số bộ đội bị chết. Họ cũng không lo với những bộ đội bị thương, bởi vì người bị thương nặng thì sẽ chết dọc đường trong rừng núi do không có phương tiện cứu chữa cũng như không có thức ăn, nước uống.

Còn những người bị thương chạy về được chỗ an toàn thì coi như là những người mạnh khỏe, lại được đẩy trở vào chiến trường !!

Nhưng Hà Nội thực sự mất hồn đối với số vũ khí và khí tài bị mất mát trong trận chiến vừa qua (Hằng trăm ngàn tấn đạn dược, hằng triệu phuy xăng dầu ). Nếu Liên Xô và Trung Quốc nản lòng không tiếp tục viện trợ nữa thì hy vọng chiến thắng của họ trở thành quá xa vời, trong khi đó không biết lấy đâu để trả nợ chiến phí cho các chủ nợ).

Rồi lấy đâu gạo thóc để tiếp tục nuôi dân Miền Bắc trong khi lấy cớ chiến tranh nền sản xuất nông nghiệp của Miền Bắc đã bị tê liệt. *(Thực ra mùa màng tê liệt là do cái phi lý của chế độ sản xuất Xã hội chủ nghĩa, người rờ tay vào thì có nhưng người thực sự làm thì không).

Hà Nội sẽ thực sự lâm vào tình trạng vỡ nợ và đói kém như Bắc Hàn hay Cuba ngày nay nếu Washington đánh giá được rằng quân VNCH đã chiến thắng oanh liệt, nghĩa là vừa mới đập tan mọi khả năng xâm chiếm Miền Nam của tập đoàn lãnh đạo Hà Nội.

Chiến thắng được cố tình xem như chiến bại

Tài liệu lưu trữ của Đại sứ Bunker do Stephen Young phổ biến:

“Ngày 9-3 Thiệu tuyên bố kết thúc cuộc hành quân Lam Sơn. Phải nói rằng, chưa bao giờ có cuộc thắng lợi to lớn như cuộc hành quân này…(Bản dịch của Nguyễn Vạn Hùng trang 407).

“Sau cuộc hành quân Lam Sơn 719, trong suốt năm 1971 địch quân hoàn toàn tê liệt và không có một cuộc tấn công quan trọng nào xảy ra tại Miền Nam Việt Nam. Chẳng những thế, lúc này Bắc Việt chỉ lo tự vệ trước những cuộc hành quân do phía Miền Nam Việt Nam thực hiện tại Cam Bốt và Lào”.(Bản dịch của Nguyễn Vạn Hùng, trang 410).

Nhưng tài liệu của Đại sứ Bunker cũng cho thấy Washington không thừa nhận chiến công của quân đội VNCH

“Giới truyền thông báo chí theo dõi tin tức cuộc hành quân Lam Sơn 719 đã lừa đảo dân chúng bằng cách tường thuật quân đội Miền Nam Việt Nam như kẻ bị đánh bại…

Ngay cả Tòa Bạch Ốc cũng tỏ ra khốn đốn trong suốt cuộc hành quân này diễn ra. Mặc dầu Bunker luôn luôn cung cấp và liên lạc với Kissinger để thông báo tình hình hành quân đang lạc quan nhưng ngay từ đầu, Hoa Thịnh Đốn cũng thiếu tin tưởng và xem việc quân đội Miền Nam rút quân là một sự thất bại”. (Stephen Young, Victory Lost, bản dịch của Nguyễn Vạn Hùng trang 410).

Mãi về sau này Bunker vẫn không hiểu nổi thái độ của Washigton trong khi người tổng chỉ huy trận đánh là Tướng Abrams đã liên tục báo tin thành công của chiến dịch Lam Sơn 719 cho Bunker, và Bunker liên tục báo về Washington, thế nhưng Washington cố tình không công nhận các báo cáo của Buker để một hai cáo buộc Thiệu đã để thua tại Hạ Lào.

Tiếc là hồi ký của Tướng Haig đã ra đời quá trễ cho nên Bunker chết trước khi biết được sự thực rằng chính Nixon và Kisinger mới là những nhà thiết kế của cuộc hành quân. Nhưng theo thiết kế của Nixon thì quân VNCH phải đóng chốt tại Tchepone khoảng hai tháng để nhử cho quân CSVN tập trung lại chung quanh Tchepone như đã từng tập trung tại Điện Biên Phủ.

Mưu đồ của Nixon và Kissinger là đợi sau khi quân CSVN tập trung hết xung quanh Tchepone thì B.52 sẽ hủy diệt toàn trận địa. Vì vậy mà Nixon và Kissinger đã rung đùi khi xem trên báo thấy hình ảnh Tướng Phạm Văn Phú đứng chụp hình với các phóng viên chiến trường ngay trong thành phố Tchepone đổ nát vào ngày 8-3 năm 1971.

Trong cơn đắc chí Nixon và Kissinger hoàn toàn không ngờ là chỉ qua ngày hôm sau Thiệu đã cho lệnh rút quân khỏi Tchepone đã đành mà còn rút khỏi Hạ Lào, chấm dứt cuộc hành quân.

* (Lệnh rút lui của Tướng Thiệu không trái với lệnh hành quân của Ngũ Giác Đài bởi vì thời gian quân VNCH lưu lại Tchepone dự trù là 2 tháng nhưng sẽ do phía VNCH tùy tình hình quyết định. Trong trường hợp không có trực thăng tiếp tế thì Tướng Thiệu bắt buộc phải cho rút sớm chứ không thể nào làm khác hơn. Có điều không ai ngờ là ông ra lệnh chỉ cần vào Tchepone đái một bãi rồi rút).

Mãi đến ngày 16-3 phía VNCH mới xin trực thăng của Mỹ để di tản Tiểu đoàn 1/4 Bộ binh thì Abrams lờ mờ hiểu được kế hoạch rút quân của Tướng Thiệu nhưng ông giả vờ không biết và bay sang Thái Lan thăm vợ. Đúng 1 tuần sau ông trở về và giả cớ uống rượu từ trưa tới tối để khỏi phải nghe báo cáo về diễn tiến rút quân của VNCH.

Nixon và Kissinger hoàn toàn thất vọng

Đến ngày 23-3-1971, khi B.52 bắt đầu thả bom hủy diệt quân CSVN lẫn Tiểu đoàn 4 TQLC/ VNCH thì Kissinger mới biết được là tất cả các cánh quân của Sư đoàn 1 BB, Sư đoàn Dù và Lữ đoàn 1 Thiết kỵ đã về bên này biên giới, chỉ còn 1 Lữ đoàn TQLC đang cách biên giới 5 cây số, cuộc hành quân sắp hoàn tất.

Biết được tin này Kissinger chạy vào Bạch Ốc đòi Nixon cách chức Abrams. Nixon ra lệnh cho Chuẩn tướng Haig ( phụ tá của Kissinger ) ngày mai sang VN thay thế cho Đại tướng Abrams. Hồi ký của Haig cho biết ông đã thoái thác và khuyên Nixon bình tỉnh lại, nhờ vậy Nixon mới tha cho Abrams nhưng dứt khoát không công nhận kết quả chiến thắng của trận Hạ Lào.

Trong khi đó thì CIA đã lỡ thuê báo chí tung tin quân đội VNCH hèn nhát không dám tử chiến với quân CSVN. Nay nhân dịp rút lui của VNCH báo chí Mỹ bèn kết luận là VNCH thua trận. Đối với chuyện này, trong cuộc trả lời phỏng vấn cho báo Spiegel của Đức vào năm 1979, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho biết:

“Ba ngày sau khi mở cuộc hành quân, Mỹ đã tổn thất nhiều phi công trực thăng, và nếu không có không lực và hỏa lực yểm trợ thì họ không chịu tiếp tục cất cánh để di tản thương binh kịp thời và trọn vẹn! Đó là một vấn đề nan giải cho quân mình…”

“Ông Thiệu cố tránh không đổ tội cho người Mỹ. … sự thật là một số phi công trực thăng Mỹ đã thiếu tinh thần chiến đấu trong cuộc hành quân đó”.(Trả lời phỏng vấn cho báo Der Spiegel, Đức, ngày 1-2-1979. Bản dịch của Cung Thúc Tiến).

Có lẽ cho tới những ngày cuối đời ông Thiệu cũng không thấy ra sự thực là lúc đó Nixon và Kissinger muốn dùng báo chí Mỹ kích cho quân đội VNCH phải tử chiến để dụ địch tập trung nhiều hơn nữa. Vì tự ái dân tộc mà các chiến binh VNCH sẽ quyết tâm tử chiến để chứng minh quân đội VNCH không hèn nhát. Và quan trọng nhất là không cho phép Tướng Thiệu viện lý do không có trực thăng mà ra lệnh rút lui, hễ rút lui là hèn nhát…!!

Nếu ngày đó quân VNCH trụ lại Tchepone trong thời gian khoảng từ 1 đến 2 tháng theo như mong đợi của Nixon thì chắc chắn quân CSVN sẽ khóa chặt đường về và đương nhiên Tchepone trở thành Điện Biên Phủ thứ hai, lúc đó người ta chỉ còn có một cách hay nhất là thả bom nguyên tử như người ta đã từng dự trù thả xuống Điện Biên Phủ năm 1954 hay dự trù thả xuống Khe Sanh năm 1968; hoặc tốt hơn hết là dùng bom rải thảm B.52 hủy diệt toàn trận địa.

Cũng may là Tướng Thiệu đã giải quyết vấn đề rất kịp lúc. Phải nói rằng cả đoàn quân 17 ngàn người đã thoát chết trong đường tơ kẽ tóc mà không hay. Không chết vì 8 sư đoàn quân CSVN thì cũng chết vì bom B.52.

Nhưng không ai lường được sự ác nghiệt của số phận. Nếu thuở đó 60 ngàn quân CSVN chết cùng với 17 ngàn quân VNCH thì chiến tranh đã ngã ngũ ngay từ ngày đó, không đến nỗi quân CSVN phải chết thêm 724 ngàn người và quân VNCH chết thêm 100 ngàn người (sic). Và Mỹ không đến nỗi mang tiếng thua trận….!!


ANH Trinh
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=1954312978200237&set=a.1394577564173784.1073741828.100008646605552&type=3&theater

BachMa
05-13-2020, 06:19 PM
Ổ Bánh Mì Cuối Cùng
Cao Nguyên 569
(Tưởng niệm bạn đồng đội Nguyễn Anh Văn)
(Chuyện về khóa 5/69 HSQ/Cơ Phi là một chuyện dài, nói đến những nhân vật của 5/69 nếu không khai ra nickname thì không phải là ma 5/69; Văn ông cụ tức Nguyễn Anh Văn là một nhân vật hiền lành, mới 18 tuổi mà tánh đã như một ông cụ 70. Nhưng chiến cuộc đã không từ một ai, Ông cụ Văn đã hy sinh đúng một tháng trước ngày 30/4/1975 ).


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1589219243-HQPD_OBanhMiCuoiCung_01.jpg
Hình minh họa

...Đó là những ngày mà người dân Sài Gòn chộn rộn với việc đi và ở; cùng lúc đó, hàng trăm ngàn dân từ miền Trung và Tây nguyên cũng bám theo các đơn vị quân đội “di tản chiến thuật” kéo về. Sài Gòn trở nên chật chội, hổn độn. Tháng ba, khuôn mặt của Hòn Ngọc Viễn Đông đã mang dáng dấp của một người hấp hối.

Từ tháng giêng 1975, đã có lệnh cấm quân 100%, Quân cảnh ở các cổng Sư đoàn canh gác thật nghiêm nhặt; tuy vậy, với các anh lính KQ đi mây về gió luôn có đủ mọi cách để qua khỏi cổng vù về Sài Gòn, bởi Sài Gòn-Biên Hòa chỉ cách khoảng 30 cây số.

Nhóm chúng tôi có 4 HSQ phi hành được lệnh thuyên chuyển từ Sư đoàn 1KQ về miền Nam. Tôi và Văn xin về Biên Hòa, Giao và Thống, hai Thượng sỉ đều về Cần Thơ, cả bốn đều là những Cơ phi gạo cội của PĐ 239, bởi hết hạn đi xa được xin về gần theo nguyện vọng. Tôi, Thống và Văn cùng khóa nghiệp vụ ra trường đi Đà Nẳng năm 1971, Giao là nhóm Cơ phi đầu tiên được đào tạo từ KQ cơ hữu ra trường năm 1969 nên còn chút hơi hám H-34 của Phi đoàn kỳ cựu 219, trưởng thành từ 213 và sau cùng trụ lại tại 239 đến lúc đổi về SĐ4KQ.

Về PĐ 231 Biên Hòa, Cụ Văn và tôi đều là tân binh nên được trưởng toán ưu ái cắt bay các phi vụ lẻ tẻ(slick). Chắc ông Th/sỉ 1 trưởng toán cơ phi cũng không cần biết trong số 2 tân binh kia lại có một tay gunship cừ khôi của vùng 1. Tôi cũng chỉ biết mang máng rằng người cầm sự vụ lệnh ra thế chổ tôi ở PĐ 239 là Đăng Cò cũng cùng khóa, cùng trung đội, cùng phòng với tôi từ năm 1969.

Nhưng sau đó nghe lại Đăng cò cầm Sự Vụ Lệnh nằm nhà chơi, mãi cho đến lúc Đà Nẳng “ over run” mới vô Bộ Tư Lệnh trình diện và đi Vùng 4 tỉnh queo ! May mà Đăng Cò không bị dính chưởng “quá 24 giờ báo cáo đào ngủ”, nếu không chắc cũng nằm quân lao rồi ra tòa án quân sự và bị đưa ra Bộ binh như ông bạn đồng ngủ Tống Lý Guns của tôi - ông bạn nầy thì xui xẻo hơn, hai lần được chiến thương bội tinh, bị dính hai lần báo cáo đào ngủ, hai lần ra tòa án quân sự, nhưng trong cái xui còn có cái hên, tòa án quân sự tuyên giử nguyên cấp bậc, lột chỉ số Phi Hành cho xuống đất, nhưng mà đất là của “tia chớp miền Đông – SĐ25BB” !


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1589219257-HQPD_OBanhMiCuoiCung_02.jpg
Tong LH - Cơ phi gunship 233

Khóa 5/69HSQ Cơ Phi chúng tôi lúc tỉnh táo ngồi kiểm tra lại sao mà quái đản, gian truân...

Bởi đã từng nếm mùi Hạ Lào-Khe Sanh với Lam Sơn 719, Bastogne, Quế Sơn, Ba Tơ, mùa hè đỏ lửa 1972, trong đó có cả việc tái chiếm cổ thành Quảng Trị..nên khi đổi về Biên Hòa tôi và Văn đều cảm thấy khá nhàn nhả trong công việc. Ba tháng làm việc tại PĐ 231 chúng tôi như thui thủi, có tên thì bay, không là dù về Sài Gòn mặc dù hơn 2/3 quân số cơ phi của phi đoàn là cùng khóa, nhưng mãi đến sau nầy khi tan hàng mới biết những cái tên ấy ở cùng phi đoàn với mình. Hoa tiêu cũng vậy, do có khoảng cách hơn so với hoa tiêu vùng 1, lại thay đổi phi hành đoàn thường xuyên nên hầu như chưa quen thân được ai !

Người bạn cơ phi đầu tiên tôi gặp ở PĐ 231 là Thạnh bà ruồi. Thạnh cùng khóa 2 CPTT với tôi, ra trường đi Đà Nẳng một năm thì xin hoán chuyển về Biên Hòa, lúc rời PĐ 233 bà ruồi Thạnh cũng Tr/sĩ như tôi, nhưng khi gặp lại thì hắn đã mang lon Th/sĩ, tôi hỏi ở Biên Hòa sao mày lên lẹ vậy , Thạnh chỉ cười nói:

- Ai biết, nó cho lên thì lên...

Còn tôi, nếu không nhờ cái phi vụ đặc cách tại mặt trận và cái Quân Công Bội Tinh với Nhành Dương Liểu Ngôi Sao Bạc chắc lúc đổi về Biên Hòa vẫn còn trinh nguyên hai cánh gà chiên bơ như lúc ra trường. Phân nữa Cơ phi K5/69 ra Đà Nẳng sau 4 năm vẫn dậm chân tại chổ bởi ông Phòng nhân viên Sư Đoàn làm việc rất tận tình, cứ trể phép là quất 8 củ ghi quân bạ; lon còn không cho lên nói gì chấp nhận đơn xin đi Sĩ Quan!

Hình như cả nhóm thuộc K5.69CP ra Đà Nẳng chỉ có một tên duy nhất được gọi đi Sĩ Quan sau khi đậu Tú tài 1 là Võ ngọc Trác PĐ 233, trong khi đó ở các vùng 3 và 4 số Cơ phi khóa 5/69 lần lượt được gọi đi Sĩ Quan khóa 72, 73 khá đông. Nhưng một ngày sau khi biết tin đi học Sĩ Quan trong phi vụ tiếp tế cuối cùng cho chi khu Ba Tơ - Quảng Ngãi trước khi chia tay Vùng 1, chiếc Slick của Trác bị nổ tung vì SA-7. Hôm đó tôi là cơ phi dằn thùng ở chiếc Guns.1, hốt hoảng khi nghe tiếng kêu may day..may day ..vang vọng của chiếc lead slick cùng một quả cầu lửa bùng nổ trước mặt. Trong intercom lúc nầy không biết là thông báo của lead guns. hay của ai :“ Slick bị SA7 .. hợp đoàn break phải ..” Quả cầu lửa ấy rơi rất nhanh và còn nổ bùng thêm lần nữa lúc chạm đất rồi tắt ngấm giửa rừng sâu ! Ánh sáng của thung lủng Ba Tơ xuống rất nhanh, khi hai chiếc Guns. 239 vòng lại xuống thấp tìm kiếm thì rừng già đã xám xịt, không còn nhìn được điều gì !

Tuần lể sau đó, chi khu Ba Tơ mất. LZ rescue quá hot, chuyện chiếc slick 233 bị SA7 và người bạn Võ Ngọc Trác của tôi cũng được xếp lại vào hồ sơ mất tích ! Nhưng hình ảnh chiếc slick bùng cháy và tiếng kêu “may day” lạc giọng của viên Phi công 233 vẫn luôn ám ảnh trong tâm trí tôi mãi cho đến bây giờ.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1589219272-HQPD_OBanhMiCuoiCung_03.jpg
Dũng Chim - Cơ phi gunship 233

Nhắc về chuyến bay định mệnh nầy, tôi cũng phải xin lổi cháu Tuấn - con của Hạ sỉ Khanh - xạ thủ chuyến bay này, cháu đã thất công tìm kiếm tung tích của cha mình suốt bao nhiêu năm qua, kể cả việc tìm được địa chỉ điện thoại của Tr/tá Chính Phi đoàn trưởng 233 lúc đó, nhưng tiếc thay ông Chính năm nay tuổi đã cao, không còn nhớ được gì để trả lời, còn tôi chỉ biết được khoảng không gian và thời gian cuối cùng của phi vụ ấy mà thôi, cho nên tuy cháu có gọi nhiều lần để hỏi thăm nhưng thật tình tôi cũng bó tay vì 45 năm qua chưa một lần trở lại.

Sinh ra và lớn lên ở vùng đất Nam bộ, nơi có tín ngưởng Phật giáo mạnh nên tôi cũng rất âm lịch, cảm thấy lo lắng khi biết mình đã có Sự Vụ Lệnh về Bộ Tư Lệnh Không Quân trình diện nhận quyết định đi học khóa 31 Sĩ Quan Đà Lạt, mà thật ra Sự Vụ Lệnh trình diện là từ tháng 2/1975, tôi thì thuyên chuyển đơn vị từ Đà Nẳng về Biên Hòa từ tháng giêng, có lẻ vì vậy mà cái Sự Vụ Lệnh nó lẻo đẻo theo sau mãi đến tháng 3/1975 tôi mới được tin, sau nầy tôi được biết Khóa 31 Đà Lạt đã làm lể gắn alpha từ giửa tháng ba, và lúc tôi nhận được Sự Vụ Lệnh cũng là lúc Trường Võ Bị bắt đầu di tản, thế nên cái sự nghiệp bay bổng của tôi vẫn còn kéo dài đến ngày 29 tháng ba với phi vụ bảo vệ không phận Sài Gòn; đây là chuyến bay đêm đầu tiên của tôi ở đơn vị mới 231 này nhưng cũng là phi vụ cuối cùng của đời binh ngủ.

Nói đến chuyện đi học Sĩ Quan, các bạn cùng khóa của tôi đến tuổi nầy vẫn còn ấm ức. Vào lính, cái ranh giới Sỉ quan và Hạ sỉ quan chỉ có một khoảng cách nhỏ là cái bằng Tú Tài 1. Năm 69 rớt Tú tài 396 thằng thư sinh đăng ký đi Hạ Sĩ Quan Cơ Phi, hai năm sau - 1971, hơn phân nữa thi đậu nhưng khi nộp đơn đi học Sĩ Quan thì bị từ chối theo hai lý do: - bị nhiều ngày trọng cấm trong quân bạ, thứ hai lại đúng vào lúc mùa hè đỏ lửa diễn ra, Vùng 1, Vùng 2 dân phi hành rụng như sung, Không Đoàn Tác Chiến có lệnh giử cơ phi lại chờ bổ sung và cứu xét sau.

Có lẻ do tự ái hơi cao nên tôi quyết tâm học và thi cho bằng được Tú tài 2, sau đó tôi và một số ít bạn cùng khóa đã thành công vào năm 1973; việc nầy đã làm tăng uy tín của Khóa 5/69CP chúng tôi rất nhiều. Hơn nữa, vì hàng ngày trực diện với thần chết nên phần lớn Phi công trực thăng Vùng 1 cùng với anh em phi hành đoàn rất có tình, rất cởi mở và chan hòa. Mãi đến hôm nay sau hơn bốn mươi năm, khi gặp lại anh em vẫn ôm nhau mà rưng rưng nước mắt.

Cuối năm 1973, tôi tiếp tục nộp đơn trở lại học khóa Sĩ Quan, nhưng là Sĩ Quan Đà lạt. Lần trước, đơn của tôi bị từ chối vì dính 12 ngày trọng cấm trong quân bạ, về Sư Đoàn 3 KQ được ba tháng bất ngờ lại có lệnh gọi, có lẻ cũng nhờ cái vụ đặc cách mặt trận và huy chương Quân Công Bội Tinh nên được xét lại. Nói là tình nguyện đăng ký đi Sĩ Quan chứ thật ra sau năm 72 dân đi bay dằn thùng như chúng tôi đã lạnh cẳng lắm rồi. Có Tú tài 2 đăng ký đi Phi công sợ không đủ thước tấc, thôi chui vô trường Võ Bị bốn năm cho yên thân, có khi ra trường thời cuộc đã yên, khỏe hơn.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1589219285-HQPD_OBanhMiCuoiCung_04.jpg
V.H.Hạnh và Đăng-cò - Cơ phi gunship 231

Và đêm 29 tháng ba, là phi vụ cuối của tôi với PĐ 231 để sáng hôm sau vác sắc-ma-ranh hiên ngang ra cổng về Sài Gòn.

Thường cuối tuần, trưởng toán cắt bay trước 2 ngày nên tôi đã biết trước công tác của mình. Xuống ca ngày thứ sáu, về Sài gòn thứ bảy, sáng sớm Chúa nhật tôi đã trở lên phi đoàn chuẩn bị cho chuyến bay lúc 5 giờ chiều.

Theo thông lệ, Phi hành đoàn thường ra máy bay trước 30 phút để check tàu. Check tàu là nghề của chàng nên sau 2 phút leo lên leo xuống rờ rẩm "bia ring", phủi cát ống "ét zốt" tôi báo cáo với Trưởng phi cơ Tr.úy K là tàu đã clear. Nhưng còn 5 phút đến giờ cất cánh vẫn không thấy anh xạ thủ đâu, Trưởng phi cơ nhắc tôi vào lại phòng nghỉ tìm, 15 phút sau vẫn bặt tin, thấy vậy Th/tá Phi đoàn phó ra lệnh :

- Anh vào phòng nghỉ xem có anh Cơ phi nào ở không kêu đi thế ..Xạ thủ vắng mặt để kỷ luật sau.

Đúng lúc đó Cụ Văn của tôi lù lù xuất hiện, anh mới nhảy tàu lửa từ Sài Gòn lên, cái túi helmet trong tay chắc có đồ ăn nên thấy hơi nằng nặng.

- Ê, Văn đi bay tối nay, mai khỏi đi hành quân !

Có lẻ cũng tại cái bệnh lạnh cẳng như tôi nên mặc dù có chống chế vài tiếng.

- Văn mới lên..chưa ăn cơm..

Nhưng sau đó do tôi níu kéo quá nên Văn cũng nhận lời và cùng tôi ra tàu ngồi vào ghế xạ thủ bay về Sài Gòn. Tôi còn hứa ngọt:

- Về Tân sơn Nhất mình mua bánh mì cho ăn trừ cơm.

Tàu đáp Tân Sơn Nhất trời vẫn còn sáng, phía sau chúng tôi là chiếc Gunship bệ vệ hai giàn minigun 6 nòng và hai pod rocket 17, Cơ phi chiếc gunship cũng là bạn cùng khóa tôi - Tăng Lê mặc bộ nomex oai vệ bước xuống :

- Ê Lùn mầy đổi về hồi nào tao không biết ! Ở đây covers cho slick chỉ có một chiếc gunship thôi, tối nay tụi tao bay với tụi mày. Ủa mà sao có thằng Văn Ông Cụ nữa ?

- Thì vắng Xạ thủ, Phi đoàn phó lệnh cụ Văn lên ngồi dằn thùng cho đủ bộ ! Ê mày có ăn bánh mì không để tao mua luôn ?

- Ừa, tao cũng đang đói bụng.

Vừa trả lời Tăng Lê, tôi vừa tiến tới ụ gác phi đạo hỏi muợn chiếc Honda 67 của một bạn phòng thủ phóng nhanh ra cổng Phi Long tìm mua bánh mì vì cái bụng tôi lúc nầy cũng đã có dấu hiệu biểu tình dữ lắm

Hoàng hôn ở sân bay Tân Sơn Nhất khá buồn, quanh hai chiếc UH chúng tôi đậu chờ phi lệnh là các ụ nổi chống đạn hình chử L dành cho F-5 và A-37, thỉnh thoảng lại có một chiếc AC-119 và AC-47 taxi ngang để ra phi đạo cất cánh, có những cánh tay đưa lên chào khi máy bay đi ngang, tôi đoán chắc đó là những con ma cơ phi 5/69 của của chúng tôi. - Ừ thì giờ tụi mày bay sớm ra tiền đồn thả hỏa châu đi. Đêm nay tụi tao ít nhất cũng phải 3 “rai” quanh Sài Gòn chớ chẳng chơi.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1589219296-HQPD_OBanhMiCuoiCung_05.jpg
Cố Th/s Nguyễn Anh Văn - Khóa 5/69 Cơ phi

Không hẹn mà gặp, tự lúc nào, ba chúng tôi lại cùng gối đầu trên chiếc càng đáp vừa nhai bánh mì, vừa kể chuyện mưa nắng, gió sương. Còn Cụ Văn, cứ lẩm nhẩm về quán cà phê Thạch Thảo-Đà Nẳng, bởi Cụ đã si tình nàng Nguyệt Duyên ngồi “két’ từ lúc nào. Hèn gì, hôm nào xuống ca ,nếu có ai muốn tìm Văn thì cứ đến cà phê Thạch Thảo.

Đêm đó chúng tôi lên vùng ba lần như phi lệnh. Sài Gòn giới nghiêm nên không khí như hoang vắng lạnh lùng. Đêm Sài Gòn ít đèn nên không gian như nhỏ lại. Hai chiếc UH cứ lầm lủi dọc theo sông Sài Gòn, cây xăng Nhà Bè, rồi lên Hóc Môn, Củ Chi.. Tay tôi điều khiển chiếc đèn chùm như cái máy. Trời chớm hè nhưng sao lành lạnh. Tôi bấm intercom hỏi cụ Văn :

- Lạnh không Văn !

Văn trả lời giọng như con gái 16:

- Hơi hơi lạnh.

Và đó cũng là lời nói cuối cùng mà tôi nghe được từ người bạn cùng khóa của đồng đội nầy.

….. Chiếc đồng hồ đeo tay của tôi dừng chạy lúc 4 giờ 59 phút sáng, là thời điểm chiếc slick của tôi rớt. Khi tôi tỉnh lại ở Tổng Y Viện Cộng Hòa, thấy Tăng Lê vào thăm, hắn nói :

- Mày bị văng ra khỏi tàu hơn trăm thước.

Mọi việc xẫy ra rất nhanh, hình như lúc đó bụi cát mù mịt, hai tai tôi vang lên những tiếng.o.o.o một cách lạ lùng.Trong mơ màng tôi nhớ hình như có Tăng Lê kêu..L. ơi !... L. ơi ! mầy ở đâu !

Chiếc slick của tôi khi rớt đã lật nhào sang trái, nơi có ông Cụ Văn ngồi dằn thùng . Bác sỉ nói tụ máu não không giải phẩu kịp! Tôi lặng đi rất lâu vì cái chết của Văn..Tôi cứ dằng dặt mãi về sau nầy:

- Phải chi mình đừng kêu Văn đi ! Ổ bánh mì tôi mua cho Văn buổi hoàng hôn ngày 29 tháng 3 năm ấy cũng lởn vởn theo tôi suốt nhiều năm liền.

Ông cụ Văn chết, tôi tiếp tục nằm bệnh viện thêm hai tuần, lúc cầm giấy chuyển viện về Trung Tâm Y Khoa KQ TSN thì đã 28 tháng 4…


Cao Nguyên 569
(Tưởng niệm bạn đồng đội Nguyễn Anh Văn)
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=450972995680533&set=a.122067898571046&type=3&theater

BachMa
05-22-2020, 04:07 PM
Gặp Ngày Hắc Đạo..
Diều Hâu NGUYÊN QUÂN
(Phần 1/2)

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1589401763-HQPD_GapNgayHacDao_11.jpg
Hình minh họa
Ngày 02 tháng Tư năm 1973, Phi đội II chúng tôi lên ca chánh : hành quân lần hai trong chu kỳ làm việc 5 ngày của chúng tôi. Chỗ nầy chắc tôi phải cắt nghĩa một chút vì nếu các anh là đồng nghiệp và bay ở Sư đoàn IV/KQ thì hiểu rõ cái lịch trình làm việc của chúng ta nhưng nếu bạn đọc khác thì hơi khó hiểu đấy.

Chuyện là vầy: Mỗi Phi đoàn có 4 phi đội, mỗi ngày 3 phi đội cùng hợp sức làm việc để một phi đội được nghỉ dưỡng sức 3 ngày ở ngoài đơn vị nghĩa là tại gia đình, hầu hết là ở Sài Gòn. Ba phi đội đó được phân định như sau: sau khi nghỉ phép, thì ngày đầu làm việc của bạn là ngày ưu tiên một hành quân, qua ngày thứ hai bạn sẽ được tăng cường bổ xung cho một phi đội khác đang là hành quân chánh, ngày thứ ba bạn vẫn tăng cường nhưng thuộc loại hai, thường là đảm trách những phi vụ nhẹ hoặc có khi không phải bay, coi như có một ngày nghỉ dưỡng sức tại đơn vị của bạn. Đoạn qua ngày thứ tư, bạn lại lên ca ưu tiên một hành quân chánh (đợt nhì), ngày thứ năm bạn lại được tăng cường hành quân (đợt nhì) và ngày thứ sáu là ngày đi phép nghỉ dưỡng sức ba ngày của bạn. Đi và về, nếu bạn ở Sàigòn thì có phi cơ đưa rước cho bạn.

Sáng nầy, tôi thức dậy khoảng 5 giờ rưỡi, sau khi vệ sinh cá nhân, mặc áo bay vào, xỏ chân vô đôi botte de saut, đeo dây súng P38 rồi vác áo giáp trên vai, xách nón bay đi tới quán cà phê của Phi đoàn gọi một ly cà phê và một thứ gì đó để ăn sáng qua loa, sau đó tới thẳng đến phòng hành quân. Nơi đây đã có một vài anh em đến trước tôi, chúng tôi chào hỏi nhau.

Nhìn vào bảng phi vụ lệnh thì tôi thấy Phi đoàn chúng tôi hôm nay làm việc cho Tiểu khu Kiến Hòa (Bến Tre), chúng tôi cũng đã sẵn sàng cho một package lớn (một hợp đoàn hành quân) do T/u Ẩn, P/Đội phó cắt bay từ chiều tối đêm qua, gồm: 1 C&C, 5 Slicks chuyển quân và 3 Gunships yểm trợ. Được phối trí như sau : Th/tá Đặng (P/đoàn phó) bay C &C (Control and Communication). Dù không nói ra, chúng tôi thấy khoái khi thấy mấy quan bay tàu C&C mà có cấp bậc cao, chẳng hạn như ông nầy, vì sao thế ? Bởi các quan Bộ binh ngồi ‘back seaters’ (ngồi ghế vải phía sau chỉ huy cuộc hành quân) thường là Đại Tá Trung đoàn trưởng (Đại bàng), Trung Tá Trung đoàn phó hay Đại Tá Tiểu khu trưởng (Tỉnh trưởng) , Trung Tá Tiểu khu phó v.v.. mà nếu phe ta cấp bậc quá nhỏ như một vài mai vàng thì tất nhiên dễ bị hiếp đáp.

Chính tôi đã chứng kiến bốn năm lần cái cảnh nầy. Thôi trở lại chuyện hành quân hôm nay : T/u Ẩn sẽ bay lead 5 chiếc đổ quân, chiếc số 2 : trưởng phi cơ T/u Ngô Vĩnh Viễn, số 3 : T/u Quân.L, số 4 : T/u Thành.H và số 5 (Trail) : T/u Hồng.N. Còn bên Gunship (Võ trang), bay chiếc số 1 : tác giả bài viết, T/u San bay chiếc số 2 , T/u Phát bay chiếc số 3. Vào thời điểm nầy hầu hết anh em hoa tiêu 225 đều mang cấp bậc Trung úy (T/u) bởi lẽ các anh ra trường vào khoảng cuối năm 1970, số giờ bay hiện tại của các anh đã trên hai nghìn giờ rồi. Cách nói chung chung thì phi công trực thăng của Sư đoàn IV/ KQ bay rất nhiều, mỗi năm các vị ấy bay khoảng một nghìn giờ. Sở dĩ T/u Ẩn cắt tất cả hoa tiêu thuộc P/Đội II bay ghế trưởng phi cơ hôm nay vì phi đội nầy lên ca chánh, tất nhiên phải có trách nhiệm nhiều hơn.

Khoảng 6:30 sáng chúng tôi cuốc bộ ra tàu bay của mình, mỗi tàu có 4 người, ai cũng có phận sự riêng trên con tàu nhưng xem xét con tàu (check) trước khi bay là việc chung. Kẻ leo lên nóc check hệ thống cánh quạt lớn, người đu lên ‘tail skid’ để check cánh quạt đuôi, rồi anh Cơ phi (Cơ khí viên phi hành) kiểm soát lại dầu máy, dầu hộp số có ở đúng cái vạch an toàn không, anh Xạ thủ coi lại súng ống hai bên thân tàu bằng cách lên đạn sống, tất cả phải sẵn sàng để lúc 6:45 (giờ mặt trời mọc) tất cả 9 chiếc đều quay máy. Tàu C&C cất cánh trước, kế đến 5 chiếc Slicks di chuyển ra phi đạo dưới sự chấp thuận của đài kiểm soát không lưu, rồi cất cánh, ngay sau đó 5 chiếc ráp thành hợp đoàn chữ V lớn (V5 formation). Sau cùng là 3 chiếc võ trang cất cánh và ráp thành hợp đoàn nấc thang trái (Left Echelon) tức là đội hình tác chiến.

Độ chừng 45 phút bay, tàu C&C đáp ở cầu tàu trước tòa Hành chánh tỉnh Kiến Hòa để rước các quan ngồi back seaters, còn tám chiếc của chúng tôi đáp xuống phi trường Bến Tre. Nơi đây có sẵn chừng một đại đội Địa phương quân, một xe GMC và một xe Dodge 4, cả 2 xe chở đầy ấp đồ tiếp tế. Chúng tôi tắt máy và chờ tàu C&C đến để biết mình sẽ làm gì hôm nay. Phi trường Bến Tre là một trong những phi trường khá đẹp của Quân khu 4, chúng tôi tụ 5, tụ 7 tán gẫu cho vui nhất là trao đổi những hiểu biết về vùng nầy.

Đây là vùng có rất nhiều du kích quân cộng sản, quê hương của hai gấu cái ‘thị Bình, thị Định’ mà lỵ , dừa rất nhiều, dọc theo hai mé các kinh rạch được bao phủ dày đặc bởi giống dừa nước lá xanh um, còn trên đất khô là bạt ngàn rừng dừa cây ăn trái và dường như thiếu sự chăm sóc nên phần lớn các cây bị lão, thân quá cao khoảng chừng 10 đến 15 thước, cho trái rất ít nhưng họ không đốn bỏ có lẽ vì thiếu cánh tay đàn ông chăng. Bởi vào thời buổi nầy đàn ông nếu không đi lính Quốc Gia thì cũng vào bưng đi lính giặc cộng, đâu có được ở nhà để mà o bế vườn tược.

Nói thật chúng tôi hơi ‘nhợn’ khi bay cái vùng nầy, nhất là Gunships thường bay thấp, bay rà sát ngọn cây nếu chẳng may tàu bị bắn cháy, cần đáp khẩn cấp rất khó tìm được khoảnh đất trống cho vừa ‎ý. Khoảng chừng 8:30 tàu C&C chở các quan ngồi back seaters đến. Chờ cho chiếc nầy tắt máy hẵn thì 8 trưởng phi cơ hợp đoàn kéo đến đây để nghe các quan Bộ binh cũng như Th/tá Đặng ‘briefing’ (thuyết minh) công việc phải làm hôm nay. Chuyện dễ thôi, cần hai Lifts (chuyến) chở Đại đội nầy vào hoán chuyển với Đại đội đang đống ở quận Bình Đại, rồi sau đó cần 2 teams (toán) mỗi team gồm hai Slicks chở đồ tiếp tế cho 2 cái đồn Nghĩa quân, một đồn ở gần Giồng Trôm và đồn kia ở gần Ba Tri. Như vậy thì chiếc Gunship số 3 có thể nằm nhà tiếp tục binh xập xám rồi đấy, chỉ cần Gunship 1&2 hộ tống hợp đoàn là được rồi.

Đâu chừng khoảng 10:45 thì mọi công tác đã xong, chúng tôi về đáp lại sân bay để ‘Stand By’ (chờ lệnh mới) trong khi đó tàu C&C đáp ở tòa Hành chánh. Đến đây tôi cũng xin lỗi độc giả vì tôi vẫn giữ nguyên English cho những từ ngữ chuyên môn cũng như nghề nghiệp. Xin cho tôi được giải bày để bạn đọc hiểu rõ vì sao, rồi thông cảm rồi tha thứ. Những English nầy do anh em phi công trực thăng đã học được từ ở trường bay, khi về đơn vị chiến đấu thì được nghe các huynh trưởng mình cũng nói y chang như vậy trong các cuộc hành quân, riết rồi đâm ra quen miệng. Thêm cái khổ nữa, nếu anh em trong giới KQ thấy tôi dịch nó ra tiếng Việt, thì họ bảo:

“Đọc thấy không “phê”, có vẻ giả tạo, không thể hiện đúng ngôn ngữ thường dùng của dân bay 'chuồn chuồn'.

Về phía bạn đọc thấy tôi giữ nguyên tên gọi bằng English thì cho là chướng mắt, dị hợm đúng vậy không? Thôi thì tôi cứ giữ nguyên từ ngữ chuyên môn bằng English cho phe ta, rồi mở ngoặc đơn ‘(’ để giải thích những từ nầy, xong rồi đống ngoặc đơn lại ‘)’, như vậy là trọn nghĩa trọn tình cả đôi đàng, các bạn hỉ ? Hay còn cách nữa, qu‎ý‎ vị cứ coi đây như là một cách ngụy ngữ hay mã hóa ngôn ngữ theo cách dân KQ, cốt là để Việt cộng không hiểu chúng ta nói cái gì trong lúc hành quân. Ngay ở đơn vị Bộ binh họ cũng xài ‘ngụy ngữ ’ nhưng giản dị hơn, thường họ đổi chuỗi từ nầy thành một chuỗi từ khác nhưng giữ nguyên những chữ cái ở đầu của mỗi từ. Thí dụ như ‘Chiến Tranh Chánh Trị’ (những chữ cái ở đầu từ là : C, T, C, T) thì họ đổi là ‘Con tôm con tép’, như ‘Lao công đào binh’ biến thành là ‘Lau chùi đại bác’, còn ‘Cán bộ xây dựng nông thôn’ thành là ‘Canh bầu xì dầu nước tương’, ‘Pháo binh’ thì thành ‘Phở Bắc’, ‘Việt cộng’ là ‘Vịt con’ v.v...

Vào lúc 11:15, tàu C&C đáp xuống gần tàu của chúng tôi, sau khi giảm ‘ga’ nhỏ lại rồi giao ‘controls’ cho hoa tiêu phó, Th/tá Đặng bước xuống bảo chúng tôi quay máy, bay qua phi trường Đồng Tâm Mỹ Tho đợi lệnh mới. Sau đó, ông Đặng lên lại phi cơ, tăng ‘tour’ cất cánh đi trước, có lẽ ông đáp ở hồ nước ngọt Mỹ Tho để rước mấy quan ngồi ‘back seaters’ của Tiểu khu Định Tường. Hợp đoàn 8 chiếc quay máy, tôi gọi 2 chiếc Gunships qua tần số VHF nội bộ : “ Diều Hâu 2 và Diều Hâu 3, đây 1 gọi ” . Hai bạn San và Phát đáp bằng thính hiệu : “nghe rõ” (bấm micro switch trên ‘Cyclic’ hai lần), tôi tiếp : “ Diều Hâu 2 và 3 qua Đồng Tâm trước, còn 1 sẽ lên cao liên lạc với Paddy (đài kiểm báo của SĐIV/KQ) để nhờ họ thông báo cho Phòng Hành Quân Chiến Cuộc (giống như Trung tâm Hành quân của Bộ binh) biết là hợp đoàn Hồng Mã (danh hiệu hành quân của PĐ 225 Ác Điểu) sẽ ăn cơm trưa tại phi trường Đồng Tâm Mỹ Tho ”.

Sở dĩ tôi phải làm việc nầy là nhờ phòng Hành quân chiến cuộc thông báo về phi đoàn tôi, để ông trưởng phi cơ bay tàu cơm biết chúng tôi hiện đang ở đâu mà đem cho đúng chỗ, nếu không gọi về, ổng cứ tưởng chúng tôi còn ở phi trường Bến Tre như ghi trên bảng phi vụ lệnh thì trưa nay anh em chúng tôi phải treo bao tử.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1589401775-HQPD_GapNgayHacDao_12.jpg
Hình minh họa

Phi trường Đồng Tâm chỉ cách phi trường Bến Tre chừng bảy, tám miles đường chim bay, bay sẽ mất mười phút nếu tính từ khi quay máy cất cánh đến đáp xuống tắt máy.
Chúng tôi không phải đổ thêm xăng, rồi 5 chiếc slicks và 3 chiếc võ trang chia nhau đậu hai bên phi đạo. Lúc nầy là ban trưa, nắng nóng lên rồi, anh em cảm thấy lười người ra, chỉ muốn ngồi yên trên ghế của mình đợi tàu cơm hơn là bước xuống đi lang thang như mọi khi. Tôi lấy bao thuốc lá ra, đánh lửa hút rồi thử quan sát cái toán quân phía trước mặt mà bọn tôi sắp phải thả họ xuống cái LZ ( Bãi đáp - Landing zone ) nào đó.

Tôi đoán đây là một Đại đội Địa phương quân có thể là đại đội Thám sát Tỉnh, đại đội nầy cũng có nét giống đại đội thám sát ở Cao Lãnh mà chúng tôi đã từng hành quân với họ, thoạt trông thì thấy rất là ô hợp, lính tráng gì mà ăn mặc xốc xếch, áo bỏ ngoài quần, có vài ông cắc cớ trên thì mặc áo treillis dưới thì mặc quần Mỹ A đen của vợ, đầu họ đội đủ loại mũ: nón sắt, nón nhựa, mũ rằn ri tai bèo kiểu biệt kích Mỹ và cả nón rộng vành kiểu quân đội Tân Tây Lan. Họ mang đủ loại giày : botte de saut có, giày bố có và có cả dép râu việt cộng. Do vậy tôi vẫn nghĩ rằng cái đám nầy chắc là đánh giặc khá lắm đây, giống như đại đội ở Cao Lãnh chăng ? bởi tôi thấy cũng có vài ông mang AK47 thay vì M16, chắc đó chiến lợi phẩm mà mấy ông đó lấy được của vc.

Không thấy ông nào mang ba lô trên lưng mà chỉ có súng và đạn, đặc biệt họ trang bị khá nhiều lựu đạn, lớp thì đeo lủng lẳng ở hai túi trên, lớp thì đeo ở dây thắt lưng to bản. Tôi đoán chắc cái kiểu nầy là thả mấy ổng vào, cho mấy ổng lục soát mục tiêu chừng vài giờ thôi, rồi phải bốc mấy ổng về. Mấy ổng thấy tàu chúng tôi vừa tắt máy xong, liền di chuyển đến để ngồi đụt nắng ở hai bên hông và sau đuôi tàu. Lại có năm bảy ông bày biện ra nhậu nhẹt, họ ngồi bẹp thành vòng tròn dưới đất cát, rượu đựng trong bi đông thay vì đựng nước uống, họ rót ra cái nắp rồi chuyền tay nhau uống cạn, nói cười ồn ào vui vẻ lắm. Trong đám đó có một vài ông chơi nghịch tung hứng trên tay mấy quả lựu đạn nhỏ cở trái chanh (M 67 ?) như các bé gái chơi banh đũa.

Nếu bạn không phải là lính tráng, thấy cảnh nầy chắc sợ té đái, chớ chúng tôi biết rõ vận hành trái lựu đạn, cũng giống như trái khói màu của chúng tôi thôi, không khi nào nó nổ bậy, trừ khi mình muốn nó nổ.

Khoảng 12:30, tàu cơm đến rồi đậu phía sau 3 chiếc võ trang. Chúng tôi đến đó lãnh cơm, mang về tàu mình ăn. Khoảng 12:45 tàu C&C chở quan back seaters đáp xuống và đậu nối đuôi tàu cơm. Ông Đặng thấy chúng tôi đang ăn cơm lở dở thì bảo:

“Cứ ăn tự nhiên đi, không có gì phải gắp gáp”.

Gần13:00, tám trưởng phi cơ cùng đến tàu ông Đặng để nghe briefing, tóm lược như sau : Chúng ta sẽ bốc một đại đội tại đây rồi thả xuống khoảng giữa quận Sầm Giang (Vỉnh Kim) và xã Ba Dừa (vc gọi là chiến khu Ba Dừa) nằm cách bờ sông Tiền Giang chừng 500m ở bờ bắc (tả ngạn) vì có tin chừng một trung đội vc thường xuyên hoạt động nơi nầy. Anh em chúng tôi đều biết đây là một vùng vô cùng nóng bỏng, nên rất chăm chú theo dõi phần briefing.

Nhìn vào bản đồ bộ binh có tỷ lệ xích lớn 1/25,000 tuy không phải ảnh chụp nhưng được vẽ rất khéo, mô tả chỗ nào là rừng rậm, sông rạch, bờ đê hay ruộng đồng ao vũng v.v… sau khi nghiên cứu kỹ vị thế bãi đáp trên bản đồ, tôi hỏi viên Th/tá bộ binh về cái hướng tiến quân, lục soát của quân ta ? Ông cho biết là hướng Bắc. Vậy là O.K rồi, tôi bàn với các trưởng phi cơ bay hợp đoàn chở quân là nên bay dọc theo bờ nam con sông Tiền, khi nào ngang với LZ thì bẻ góc 90 độ băng qua con sông vào đáp ngay, lift đầu cho 'full suppress' (bắn tự do vì chưa có quân bạn ở dưới) đường ra sẽ là ‘180 độ out’. Dù không nói ra, tôi tin các bạn tôi có‎ cùng ‎ý nghĩ giống như đề nghị của tôi.

Để giảm bớt không khí căng thẳng, một ông trưởng phi cơ nói đùa:

“Tôi không biết lội nghen anh Quân”

Tôi cũng đùa lại:

“Đợi anh uống đầy một bụng nước, tôi mới tới vớt anh lên”.

Quay sang anh Phát, tôi bảo:

“Gunship 3 theo chúng tôi, nhớ đánh hết rockets trước khi slicks vào đáp nghen”.

Quay qua Ẩn, tôi nói:

“Hợp đoàn các anh đến sau chúng tôi chừng 7, 8 phút, chúng tôi cần dọn kỹ LZ trước khi các anh vào đáp”.

Rồi tôi hỏi Th/t Đặng là :

“Tôi ‘plan’ (phác họa) như vậy, Th/t thấy có gì không vừa ‎ý? ”

Và Sếp của tôi gật đầu đồng ‎ý. Ông Đặng thường bay C&C cho phi đội chúng tôi, cả hai bên làm việc rất tâm đầu ‎ý ‎hiệp, ông biết anh em chúng tôi có khá kinh nghiệm bay hành quân bởi do tất cả rất chịu khó bay và có ‎tinh thần trách nhiệm cao, ít có cụ nào kiếm chuyện tránh né hay lặn vọt. Thế là mạnh ai trở về tàu nấy, đồng ‎ý với nhau làm sớm nghỉ sớm, tất cả 9 chiếc quay máy sửa soạn cất cánh vào vùng.

Tàu C&C cất cánh trước, tôi dẫn 2 chiếc võ trang theo sau, ba chiếc bay đội hình tác chiến. Trong khi đó hợp đoàn Slicks bang ra phi đạo cho lính leo lên, mỗi tàu 12 người nghĩa là chở được một nửa đại đội ngay chuyến đầu.

Đến vùng, tôi biết ngay đâu là bãi đáp, tuy nhiên chúng tôi tiếp tục bay hàng một làm vòng tròn giữ cao độ 1,500 bộ phía sau tàu C&C ở 2,000 bộ, để quan sát kỹ LZ và rồi tàu C&C bay vào bãi đáp, ném khói màu xuống, đợi khói bốc lên, ông Đặng nói :

-Diều Hâu có thấy ‘red smoke’ (khói đỏ) không? LZ là ở đó.

-Đáp nhận Ác Điểu 55. Diều Hâu 2 và 3 theo tôi, chúng ta bắt đầu vào đánh. Target đầu là con rạch phía tây bãi đáp, chúng ta đánh từ chỗ ngã ba sông, đánh dọc theo con rạch kéo dài lên phía bắc.

Tôi biết Phát đánh rocket còn yếu vì còn đang thời gian huấn luyện bay võ trang, chưa đánh chính xác lắm, vì vậy tôi bay ngay trên đỉnh con rạch, cao độ chừng 500 đến 700 feet, thì thế nào rockets của Phát cũng phải nổ ở hai hàng cây ở hai bên con rạch. Tôi nhắc Phát mỗi ‘pass’ nên đánh từ 3 đến 4 quả, nghĩa là sau 3 hoặc 4 ‘pass’ phải hết 2 bó rockets (14 quả loại 70 ly). Pass thứ hai, tôi chọn những lùm cây dọc theo con đê phía bắc bãi đáp và ‘pass’ sau cùng cũng sẽ là những lùm cây ở phía đông. Có nghĩa là 3 hướng bắc-đông-tây, chúng tôi đã dọn dẹp kỹ, còn hướng nam tương đối trống trải sẽ rãi đạn Minigun là được rồi.

Bây giờ tôi đã thấy hợp đoàn Slicks còn cách LZ chừng 2 miles, tôi bảo Gun 3 lên cao 1,500 bộ bay phía sau tàu C&C, còn tôi và Gun 2 bắt đầu xuống thấp bay rà sát mặt ruộng, đoạn tôi bay vào chỗ tàu C&C thả khói đỏ khi nãy, bảo anh cơ phi thả một trái khói để hợp đoàn Slicks biết mà quẹo phải vô đáp. Giờ thì hợp đoàn đã quẹo phải, tức là vào ‘final’(cận tiến) và tàu nào cũng cho tác xạ M 60 vào phía bắc cũng như hai bên bãi đáp, Gun 1 và Gun 2 bay ra rước họ vào, tôi bảo Gun 2 bảo vệ bên sườn phải của hợp đoàn, còn tôi sẽ bảo vệ bên sườn trái tức là phía tây của bãi đáp. Hợp đoàn bắt đầu giảm dần cao độ và tốc độ để touch down (chạm đất), hai chiếc Guns bay lướt qua họ và bay xa hơn bãi đáp chừng 50 thước, Gun 2 quẹo phải rồi sẽ bay hình quả trám theo chiều kim đồng hồ che chở bên sườn phải của hợp đoàn, trong khi đó bên sườn trái tôi cũng làm như thế, cũng bay quá bãi đáp rồi quẹo trái để bay hình quả trám theo chiều ngược kim đồng hồ thì tàu tôi bị ‘ground fired’(bị bắn), viên phi công phó bị thương.

Than ôi, đang lúc cơm sôi mà lửa tắt nghĩa là ‎trong khi hợp đoàn đang ‘touch down’ thì dù tàu tôi có người trúng đạn vẫn không thể rời vùng ngay được, tôi làm một vòng quả trám nữa để bảo vệ hợp đoàn, đưa họ ra an toàn rồi chừng đó tôi báo cáo với C&C, xin rời vùng. Tôi gọi chiếc Gun 3 theo tôi về đáp hồ nước ngọt, còn Gun 2 ‎thử hỏi ông Đặng muốn sao? Lên cao và ở đây với ông, hay theo hợp đoàn về Đồng Tâm đáp chờ tôi. Tôi cũng nói cho tất cả hợp đoàn biết là :

“Sau khi đáp hồ nước ngọt, tôi nhờ T/u Phát chăm sóc T/u Đắc.Hồ đưa đi Quân y viện cấp cứu, tôi mượn copil của chiếc Gun 3 lên bay với tôi tiếp tục hành quân”.

Th/tá Đặng rối rít hỏi tôi:

“Anh Đắc bị thương có nặng lắm không ?”.

Tôi trả lời :

“Tôi không thấy trầm trọng lắm, để xem xét kỹ, tôi sẽ gọi lại”.

Đắc bị đạn ở dưới cổ, phía sau ót, đường kính của vết thương nhỏ cở đường kính cây bút chì, máu không ra nhiều. Tôi bảo Đắc thử vận động hai tay, rồi hai chân, thử hít vào thật sâu rồi thở ra thật mạnh, khi làm như vậy Đắc có cảm thấy đau ở đâu không? Đắc thử đếm ngược từ 20,19,18…được không? Tôi nghe giọng nói của Đắc cũng bình thường không ngọng nghịu hoặc đớt đát gì cả nên tôi an tâm. Tôi và 3 anh trên tàu đều nghĩ tầm đạn đã đi quá xa trước khi trúng vào Đắc vì cả 4 đứa trên tàu không nghe tiếng súng nổ, chỉ nghe một tiếng ‘rẹt’ từ phía tay phải bắn qua và sau đó Đắc báo là bị thương. Thằng ‘vịt con’ nầy chắc chắn nấp ở con rạch chạy hướng nam-bắc, cái chỗ mà tôi dẫn Gun 2 và Gun 3 đánh đầu tiên.

Bây giờ tôi mới gọi lại ông Đặng, báo cáo rõ cho ổng biết tình trạng của Đắc và cũng báo luôn hợp đoàn biết :

“Hãy chờ tôi chừng 5 đến 10 phút vì tôi có vài việc phải làm như : giao Đắc cho Phát săn sóc, tắt máy kiểm soát lại tàu v.v…nếu tất cả đều o.k, chúng tôi trở qua Đồng Tâm tiếp tục thả toán thứ hai, cũng là toán chót”.

Chỗ nầy chắc có bạn hỏi : Tại sao không để Gun 2 dẫn Gun 3 thì không gián đoạn hành quân khoảng 5, 10 phút như vậy ? Xin thưa , lúc nầy trưởng phi cơ bay Gun 2 còn mới, chưa hề bay lead hành quân lần nào, qu‎‎ý vị ạ.

Còn tiếp....

Diều Hâu NGUYÊN QUÂN
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=495948197960135&set=a.127884628099829&type=3&theater&ifg=1

BachMa
05-24-2020, 05:14 AM
Gặp Ngày Hắc Đạo..
Diều Hâu NGUYÊN QUÂN
(Phần 2/2)

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1589401787-HQPD_GapNgayHacDao_21.jpg
Hình minh họa
Khi thấy tôi tới, 5 chiếc Slicks liền quay máy cất cánh. Tôi bay trước đến LZ để gặp Gun 2 của tôi đang bị ông Đặng giữ lại, bay orbit 1500 bộ quanh LZ như ông. Qu‎ý‎ vị cũng biết vùng nầy có rất nhiều phòng không, hai chiếc bay có nhau sẽ ‘ấm lòng chiến sĩ’ hơn. Bổng tôi nghe “Tàu số 2 bị bắn, tôi phải đáp khẩn cấp”. Chúa tôi ơi, chuyện gì nữa đây, tôi quẹo gắt trở lại thì thấy chiếc số 2 đang đáp nhanh xuống cái đồn phía dưới bụng rồi có một chiếc nữa đang đeo sát chiếc số 2, rồi tôi nghe “Coi chừng ground fired”, thì ra là tiếng của Ẩn (bay chiếc Lead), tôi còn cách họ cũng khoảng 3 miles.

Khi đến đó, tôi cho bắn tối đa chung quanh cái đồn rồi bay xoắn ốc xuống thắp, súng trái vẫn tiếp tục tác xạ những điểm nghi ngờ ở gần đó như bụi rậm, cây rơm, chòi vịt, giàn bầu, xuồng ghe v.v.., cái tôi sợ nhất là vc phóng B-40 vào hai chiếc đang đậu ở dưới. Nhìn lên thì thấy 3 chiếc Slicks bay không ra cái đội hình gì cả, tôi phải nhắc họ: “Một là bay V3, hai là bay ‘trail’ (hàng một), tạm thời số 3 làm ‘lead’ dẫn 2 chiếc kia bay về Đồng Tâm”. Dưới đất, chiếc số 2 tắt máy, tôi thấy T/u Hóa.P bước xuống chỉ huy đám lính đang làm gì đó.

Bây giờ thì tàu C&C và chiếc Gun 2 tới. Gun 2 hỏi tôi “Diều Hâu 1 có muốn 2 xuống thấp với 1 không?” Tôi trả lời “Diều Hâu 2 giữ cao độ 1000 bộ, bay vòng nhỏ chung quanh cái đồn nầy và cho minigun bắn xa xa một chút, phải để ‎ý chúng nó có thể pháo 61 hoặc 82 ly vào chỗ hai Slicks ở dưới”. Còn ông Đặng thì hỏi han Ẩn rất nhiều, nào là : “Có ai bị thương không? Sao mà ở dưới lâu thế?”. Tôi nghe Ẩn trả lời : “Trưởng phi cơ chiếc số 2 bị thương rất nặng, rất khó mang anh ra bởi vì cái tấm ‘armor blade’ móp méo khó đẩy về phía sau.

Anh Cơ phi lại bị skid (Cặp càn chịu đựng thân phi cơ) đè lên bàn chân, đang nhờ mấy ông bộ binh đào đất chung quanh để rút chân anh ra”. Nhờ Ẩn nói tôi mới biết thêm, chớ thấy bên dưới thì tôi thấy rất rõ nhưng không nghe được tiếng nói thì giống như là xem ciné phim câm, chỉ đoán mò mà thôi. Tôi vẫn tiếp tục bay thật thấp quanh đồn, thỉnh thoảng thì cho tác xạ hù dọa cầm chừng, rồi tôi thấy một ông bộ binh bị thương đang đứng tựa lưng vào phía sau cánh cửa lớn của khoang hành khách, cánh cửa nầy luôn luôn được mở ra, đẩy hết về phía sau trong lúc bay hành quân, rồi vòng kế tiếp tôi quan sát kỹ ông nầy, thì ra ông bị vật gì phải thật sắc bén lắm mới thẻo đứt một mảng da thịt ở bụng, ruột bung ra, ổng cứ lấy hai tay tự ấn ruột vào, trông rất thương tâm. Ông Đặng bảo Ẩn : “Hãy để mấy ông lính ở lại đồn nầy, mình chỉ chở phi hành đoàn chiếc số 2 về đáp hồ nước ngọt cấp cứu”.

Tôi cũng lên tiếng : “ Tôi thấy có một ông bộ binh bị thương rất nặng, đổ ruột ra ngoài, Hồng Mã Lead hãy chở ông luôn, làm phước nhé ”. Cuối cùng thì T/u Viễn cũng được khiên ra và chuyển qua chiếc Lead, anh Cơ phi bị thương ở chân cũng được quân bạn cổng lên tàu cùng một lúc với ông bộ binh bị thương đổ ruột, sau cùng T/u Hóa và anh Xạ thủ phi hành cùng bước lên tàu. Ẩn gọi tôi cho biết là Ẩn cất cánh, tôi bám sát bên Ẩn đến lúc cả hai có được cao độ an toàn. Bây giờ Ẩn mới báo cho mọi người biết là : “T/u Viễn ra đi rồi”. Chao ôi, tôi có nghe lầm không ? Tôi cảm thấy như là có cái đau buốc trong lòng, thật nghẹn ngào, hai mắt cay xè.

Tôi giao cần lái cho T/u Công, bảo anh bay theo chiếc Lead. Rồi tôi lại nghe ông Đặng ra lệnh :

“ Diều Hâu 1, 2 cũng theo chiếc Lead về đáp ở hồ nước ngọt ” .

Như vậy là đúng ‎ý của tôi vì tôi rất muốn nhìn thấy mặt T/u Viễn lần cuối. Lúc nầy mọi vô tuyến thật im lặng, hình như mọi người đang cầu nguyện cho Viễn, duy chỉ có máy FM là còn ồn ào bởi vì quân bạn đang điều quân để chiếm mục tiêu. Tôi chỉ vặn volume nhỏ lại chứ không tắt, vì cần phải theo dõi họ, cũng may họ chưa chạm địch nên họ chưa kêu réo chúng tôi. Thế rồi 4 chiếc nối đuôi đáp xuống hồ nước ngọt. Sau khi tắt máy, tôi bước nhanh đến tàu Ẩn thì nhìn thấy thi thể Viễn nằm sóng sượt trên sàn tàu, Viễn bị cắt đứt nguyên cánh tay phải đến tận bả vai, xương lòi ra và máu động thành vũng lớn nơi vết thương, mặt anh tái xanh vì mất quá nhiều máu, mắt nhắm nghiền và môi mím chặc, trông anh thật đau đớn trước lúc ra đi.

Tôi không cầm được nước mắt cứ để nó tự tuôn rơi, cổ họng như cứng nghẹn. Nhìn lại sau lưng thì thấy anh Đường, Cơ khí phi hành bị thương ở chân và ông bộ binh bị thương ở bụng đã được lên chiếc Jeep cải biên thành chiếc xe Ambulance chở ngay đến quân y viện, làm tôi sực nhớ, thử nhìn về chiếc Gun 3 đang đậu phía trước chiếc tàu Lead, xem Đắc và Phát đã trở lại đây chưa ? chắc là chưa. Bây giờ tất cả các phi hành đoàn của chiếc C&C, Gun 1, 2, 3, chiếc Lead tụ tập quanh đây cũng có cả Th/t bay back seater (có lẽ ông là Tham mưu trưởng Hành quân của Tiểu khu Định Tường) chúng tôi im lặng, vẻ mặt ai cũng đăm chiêu buồn bã, không nói với nhau nhiều, thỉnh thoảng chúng tôi hỏi thăm T/u Hóa, mọi người đều tấm tắc khen anh rất bình tỉnh để đáp an toàn xuống đồn Nghĩa quân.

Ông Đặng đã nhờ Th/t bộ binh giúp đở phương tiện là đưa thi thể T/u Viễn vào nhà xác để tắm rửa sạch sẽ, sửa thế nằm ngay ngắn và xin gởi vào phòng đông đá trong thời gian chúng tôi còn hành quân. Thật ra không phải di chuyển thân xác anh đi đâu xa vì ban tống táng, tẩn liệm của phòng Năm Tiểu khu nằm ngay trong khu hồ nước ngọt.

Dường như bên phía bộ binh, Th/t Tham mưu trưởng đã trình lên với Tiểu khu trưởng là đã có một sự tổn thất quá lớn bên phía KQ nên lệnh hành quân được hủy bỏ, có nghĩa không đổ thêm quân nữa nhưng chúng tôi phải bốc về cái toán quân đã thả xuống LZ. Ông Đặng ra lệnh tất cả chúng tôi trở qua phi trường Đồng Tâm, chỉ trừ Gun 3 vì chưa có hoa tiêu. T/u Hóa, anh Tùng (xạ thủ chiếc Slick ngộ nạn) xin ở lại đây. Tôi về tàu mình quay máy, nhưng luôn nghĩ về trường hợp tử thương kỳ quái của T/u Viễn cũng như cái kiểu bị thương lạ lùng của ông bộ binh, bổng đầu tôi chợt lóe ra một nghi vấn : rất có thể chiếc tàu Viễn không phải trúng đạn phòng không, mà có thể có ông bộ binh nào đó nghịch ngợm đã làm nổ lựu đạn trên khoang tàu ?

Tôi nghi là lựu nổ ngay kẹt cửa phía bên phải, khi đó Viễn ngồi nghỉ đang lúc T/u Hóa bay, tay phải Viễn gác lên trên tấm bửng chống đạn (armor blade) nên mới bị miễng cắt đứt cánh tay, chớ toàn thân còn lại thì không thấy có vết thương nào nữa cả. Còn chuyện lạ nữa là ngoài Viễn và ông bộ binh ra thì chẳng ai hề hấn gì. Có thể đây là trái lựu đạn nhỏ mà mấy ổng ‘chơi banh đũa’ lúc ở phi trường, chớ loại M26 thì khủng khiếp lắm. Tôi hứa với lòng là phải quan sát kỹ lại cánh cửa phía bên anh Viễn, nhất là phía ngoài coi có phải là trúng đạn phòng không khi tôi có dịp bảo vệ hai chiếc Slicks đáp xuống đồn để bốc 2 toán quân đã bỏ lại ở đó. Gần đáp Đồng Tâm, tôi gọi C&C cho biết là 2 tàu Guns cần ‘rearmed’ (trang bị thêm rockets và đạn 7.62 ly cho 2 súng Gatling guns).

Thế là hai chiếc Guns 1 , 2 đáp rồi tắt máy ngay mấy cái kho chứa đạn và rockets, tôi nhờ thêm vài anh cơ phi và xạ thủ bay Slicks gần đó đến phụ giúp chúng tôi ‘Loaded’ cho lẹ. Và rồi chuyện ‘rearmed’ cũng xong, hai chiếc Guns quay máy và cả hợp đoàn cũng quay máy theo. Tàu C&C cất cánh trước, hai chiếc Guns của tôi theo sau, sau cùng là 4 chiếc Slicks bay hợp đoàn đội hình ‘Diamond’ (hình thoi), lượng nhiên liệu mỗi tàu còn khoảng nửa bình, như vậy là rất tốt cho 4 Slicks phải cõng 60 ông bộ binh từ LZ đem về Đồng Tâm. Đường tới PZ [ Giờ thì không thể gọi là LZ được nữa mà phải gọi PZ có nghĩa là bãi bốc quân (Picking up Zone) ] cũng còn xa nên tôi bàn hai anh xạ thủ ‘ruột’ của tôi, đó là Tr/s nhất: N.Vũ Kính và Tr/s Diệp (Trưởng toán xạ thủ) ‎ý tôi muốn hai cụ lát nữa đây hãy tác xạ theo kiểu gục gặc nòng súng, chớ đừng bắn theo lối quét ngang, tôi muốn targets phải hứng đạn dày đặc hơn, hai cụ nầy rất đồng ‎ý cái khoảng nầy.

Tôi cũng nhắc chiếc Lead “Nhớ cho hợp đoàn vào ‘Trail’ (hàng một) lúc ở ‘Final’, sau khi bốc quân hợp đoàn làm hai lần quẹo trái đi ra ”. Bây giờ PZ cách tôi chừng khoảng 2 miles, tôi gọi quân bạn, xin họ thả một quả khói màu đánh dấu bãi bốc và hỏi kỹ “tất cả ‘con cái’ (toán quân) của bạn chỉ ở tại khói màu thôi phải không?” Họ đốt trái khói màu xanh lá cây và cho biết là con cái của họ chỉ ở gần quanh trái khói. Tôi và số hai xuống sát mặt đất, đầu tiên là bay tới toán quân phía dưới, thấy rõ là họ đang đứng chia làm 4 nhóm sẵn sàng để đợi Slicks xuống bốc về, như vậy là quá tốt. Tôi bảo họ cứ tiếp tục đốt khói màu để tránh ngộ nhận trong lúc hai Diều Hầu ra tay “bào láng” cái vùng nầy.

Nầy ‘vịt con’, tụi con hãy xem Diều Hâu trả thù, bọn ‘qua’ mà ‘quánh’ không đẹp là không phải Diều Hâu nữa. Tôi và Gun 2 sắp bay vòng tròn phía ngoài quân bạn, nếu lấy chỗ đứng quân bạn là tâm điểm thì vòng tròn thứ nhất có bán kính là 200 mét, chúng tôi đánh rockets theo lối cận chiến nghĩa là cho rocket nổ cách mình chừng 3,4 chục mét thôi, vì vậy phải bay low level (bay sát mặt đất) và chỉ phóng rocket lúc đang quẹo, tôi và San đã phải luyện tập lối đánh nầy rất nhiều lần nên mới chơi chiêu nầy được.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1589401802-HQPD_GapNgayHacDao_22.jpg
Hình minh họa

Cái thế đánh rocket nầy được mấy ông bạn xạ thủ Gunsip đặt tên là thế đánh ‘cẩu tè’ vì lúc đánh cũng là lúc quẹo, tất nhiên tàu phải nghiêng nghiêng, hình dạng giống như chú cẩu đang tè, còn hai ông phía sau đánh theo lối ‘lúc lắc cọng lạp xưởng’ (đàn ông sau khi tiểu xong). Vòng thứ hai chúng tôi nong cái vòng tròn rộng ra , bán kính bây giờ là 250 mét cũng tiếp tục lối đánh đó và đánh thật nhiều con rạch chạy hướng nam-bắc mà chúng tôi tin rằng bọn ‘chuột’ nấp nơi đó bắn sẻ chúng tôi, vòng thứ ba nong thêm 50 mét nữa thì đã thấy hợp đoàn Skicks đang ở ‘cross-wind’ (gió ngang), tôi bảo Slicks vào đáp ngay trái khói mà quân bạn đã đốt đó. Chúng tôi tiếp tục đánh một vòng nữa rồi ra rước Slicks vào, cũng như lần trước Gun 1 bảo vệ bên sườn trái của hợp đoàn đang bay hàng một, Gun 2 bảo vệ bên sườn phải. Thế là 4 Slicks bốc hết quân và ra được an toàn, mỗi Slick phải cõng đến 15 ông bộ binh đem về đáp lại Đồng Tâm. Bây giờ Gun 1 và Gun 2 cũng rời vùng rồi bay tà tà đến cái đồn mà tàu của T/u Viễn nằm dưới đó, chúng tôi chỉ bay vòng vòng thôi để chờ 2 Slicks tới bốc quân.

Tôi gọi chiếc Lead, chỉ muốn dặn dò là “ Khi đến bốc quân thì chiếc số hai nên bay xa chiếc Lead một chút vì bên dưới chỉ có mỗi một chỗ đáp mà thôi, phải đợi chiếc Lead lên, thì chiếc số hai mới xuống được ”. Khoảng 10 phút sau thì tôi đã thấy dạng hai chiếc Slicks tới, tôi gọi Ẩn và Hồng : “ Lead hãy làm ‘overhead approach’ (cúp ga, xuống lối xoắn ốc). Khi nào chiếc ‘Lead’ lên xong thì chiếc ‘Trail’ cũng phải làm như thế, Ok?”. Xong tôi gọi Gun 2 “ Diều Hâu 2 cứ ở trên cao như lần trước, hãy quan sát kỹ coi chừng bị chúng pháo ” và tôi bắt đầu xuống thấp bay chung quanh cái đồn bảo vệ mặt dưới.

Tôi cũng không quên là phải quan sát cánh cửa bên phía Viễn. Nhưng hởi ơi, cánh cửa ấy đã được T/u Hóa giật ‘Jettison cable’(chốt bản lề) cho rớt ra và thảy nó xuống dưới gầm tàu để trống chỗ, mang T/u Viễn ra cho dễ. Bây giờ chỉ còn một cách là có dịp hỏi lại Hóa như : Hóa thấy phía ngoài cánh cửa ra sao? có dấu vết gì là bị phòng không bắn lên không? Hay là tên lính say nào quờ quạng làm nổ lựu đạn trên tàu? Rất có thể thủ phạm là cái ông bị thương đổ ruột ra đó? v.v… Cuối cùng thì Ẩn và Hồng đã lần lượt làm ‘overhead landing’ mang tất cả quân bạn về lại phi trường Đồng Tâm.

Bây giờ thì công tác hành quân hôm nay của chúng tôi coi như hoàn tất. Cả 5 chiếc tàu lần lượt vô đổ xăng (C&C, 2 Gunships, 2 Slicks) còn 2 Slicks tắt máy nằm chờ, chắc là đã đổ xăng đầy rồi. Trong lúc đổ xăng thì Ẩn ra hiệu cho hai chiếc kia quay máy. Ông Đặng bảo : “Tất cả hãy bay qua hồ nước ngọt để anh em chúng ta chào T/u Viễn lần cuối. Sau đó, tôi sẽ mang xác anh về KQ Tử Sĩ Đường”. Gun1 và 2 cất cánh theo C&C bay qua hồ nước ngọt, hợp đoàn 4 chiếc Slicks cũng theo sau. Đáp xuống xong, tôi đã thấy Đắc, Phát và Đường, tôi liền đến hỏi thăm họ.

Đắc cho biết bác sĩ đã khám thật kỹ vòng quanh cổ, không thấy có đầu đạn nào nằm trong đó cả nên sát trùng vết thương, băng lại, yêu cầu ngưng bay 2 tuần, sau đó tái khám tại bệnh xá đơn vị và ông cho một mớ thuốc uống nào là chống nhiễm trùng, nào là thuốc đau nhức v.v... Tôi nghe vậy cũng mừng cho anh, rồi tôi rũ anh lát nữa lên tàu tôi về nhà vì nón bay, áo giáp, dây đeo súng của Đắc còn trên tàu tôi. Quay sang hỏi thăm Đường “Bác sĩ đã khám chưa mà ra sớm vậy ông?”. Đường mới thú nhận: “Khi vào đó, mới biết là còn phải chờ rất lâu mới tới phiên mình. Mình nghĩ là chỉ bị bong gân nhẹ thôi, anh. Kế đến, Đường thấy hai anh Đắc, Phát đi ngang qua, Đường mừng quá theo hai anh ấy về đây”.

Nghe ổng nói như vậy, tôi chịu thua ổng luôn. Hiện tại Đường đã tháo giày ra, đi chân không vì vậy tôi mới thấy bàn chân sưng vù của ổng, thấy thương ổng quá. Cũng may cho Đường, hôm nay mang đôi ‘botte’ mới toanh do bố vợ là Tiểu đoàn trưởng bộ binh tặng, nên cũng che chở bàn chân của ổng phần nào, vả lại đất vùng đó là loại đất phù sa xốp mềm, dễ lún. Tôi quên nói, chỗ hai ông Hóa và Ẩn đáp là những luống đất trồng khóm (thơm) của mấy ông lính Nghĩa quân trong đồn, khóm đã ra trái lớn bằng nắm tay rồi, thế mà hai ông nầy “quậy nát” đám khóm của người ta. Ông Đặng thấy Đắc và Đường đứng đây, ông tới hỏi thăm. Đắc kể với ông cũng giống như đã nói với tôi, tôi thấy ông Đặng có vẻ mừng cho Đắc, xong rồi quay qua hỏi thăm Đường, nghe Đường kể, ông rày liền : “ Không giởn mặt như vậy được, nếu bị infected (nhiễm trùng) bác sĩ cưa chân anh đấy.

Lên tàu tôi, tôi đưa anh về khám ở Tổng Y Viện Cộng Hòa”. Đến đây thì ban lo hậu sự của Tiểu Khu Định Tường đưa xác anh Viễn tới, thi thể anh được đặt trong ‘Zip Bag’ màu cam nằm trên ‘băng ka’, rồi họ cáng thi thể đưa vào khoang tàu của tàu của ông Đặng, hai ghế vải ‘back seaters’ đã được tháo ra trước đó, họ nhấc anh lên để họ lấy lại cái băng ka của họ và đặt anh nằm xuống sàn tàu. Tất cả anh em bay hôm nay đứng vây quanh đây, tất cả đều im lặng như cầu nguyện cho anh và rồi từng người đến chào anh lần cuối. Sau đó ông Đặng hỏi : “Trong anh em, có ai biết nhà anh Viễn ở Sài Gòn không?”, có một vài anh biết, nhưng không nhớ số nhà, nhưng cho biết nhà Viễn ở ngoài đường lớn rất dễ tìm, chỉ cần đến khu phố đó, hỏi thăm sẽ ra ngay. Ông Đặng ghi xuống giấy tất cả chi tiết đó để nhờ nhân viên phục vụ ở Tử Sĩ Đường thông báo với gia đình anh Viễn. Đến đây Ông Đặng quay máy cất cánh về Tân Sơn Nhất…Bọn chúng tôi uể oải trở lại tàu mình.

Trông tôi thật là chán chường, nhưng phải quay máy vì cái trigger (bộ phận mở máy) nằm trên ‘collective pitch’(cần điều khiển lên xuống) bên ghế phải, chớ bên phía copil không có. Tôi tăng tour lên đủ 6,400 rpm rồi giao controls cho T/u Công muốn làm gì đó thì làm. Tâm trạng tôi bấy giờ thật là chán nản, ê chề, tay phải luồn qua túi áo bay bên cánh tay trái, mở fermeture moi gói Capstan đầu lọc ra hút rồi kéo visor kiến râm xuống che mắt, đầu óc cứ nghĩ ngợi mong lung nhất là cảm thấy thật đau buồn vì đây là lần đầu tiên phi đội tôi gặp chuyện xui xẻo lớn như thế. Tôi nhận phi độ II từ khi T/u Chu rời PĐ 225 để đến PĐ khác nhận một chức vụ cao hơn.

Tôi rất hãnh diện vì đây là một phi đội giỏi, tất cà anh em bay rất khá, nếu bay lead thì không ai qua được: Luông và Ẩn, còn bay ‘Wing-man’ (hợp đoàn) thì đã có những : Hồng.N, Thành.H, Quân.L, Mến.N v.v...họ bay formation dính như sam vậy. Hôm nay, tôi mất Viễn. Tôi luôn hình dung về anh, thân thể to lớn khỏe mạnh, tóc tai luôn húi cao kiểu quân trường, có thể anh cao trên 1mét 80 mà lại mập mạp nên trông anh giống như ông cố vấn Mỹ, anh có nước da trắng trẻo của người Hoa, ít nói có lẽ vì anh nói tiếng Việt không thông thạo lắm nhưng bù lại anh rất vui vẻ, tươi cười bất cứ ai đến bắt chuyện với anh. Theo tôi biết thì phi đoàn chúng tôi có gần một chục anh người Việt gốc Hoa, gọi tắc là người Hoa giống như anh nầy và ngộ cái nữa là phần lớn các anh ấy lại ở trong phi đội tôi.

Tôi cũng nhờ tôi mê đọc truyện tàu cũng như lịch sử Việt cận đại nên mới hiểu người nhiều về người Hoa, càng hiểu tôi càng quí mến các vị nầy. Họ là hậu duệ, là chắc chít của những danh sĩ hay danh tướng lẫy lừng như : Trịnh Hoài Đức, Mạc Thiên Tứ, Võ Tánh, Ngô Tùng Châu, Châu văn Tiếp, Trương Minh Giảng, Tống Phước Hiệp, Phan Xích Long v.v…và tổ tiên của họ là những Thượng tướng ái quốc, những anh hùng của Minh triều, đó là : Trần Thượng Xuyên (Còn có cái tên nữa là Trịnh Thắng Tài, là ông nội của Trịnh Hoài Đức), Dương Ngạn Địch và Mạc Cửu. Ba vị tướng nầy rất bất mãn, thù ghét triều đại nhà Thanh, cho rằng người Mãn Châu vốn dĩ là dân Tiên Ti, là rợ Kim nên không đáng cho họ thần phục, họ hô hào chiến dịch “Phù Minh, diệt Thanh” nhưng cơ mưu bại lộ nên họ đem toàn bộ gia quyến cùng dân xóm làng xuống tàu xuôi về phương nam, làm di dân đi tìm đất sống mới.

May mắn thay cho 3 nhóm di dân nầy gặp được đấng minh quân đất Việt bấy giờ là chúa Hiền (Nguyễn Phúc Tần) là người nhân từ, đức độ cũng như người dân Việt giàu lòng bác ái, hảo tâm sẵn sàng dang rộng đôi tay cứu giúp họ, cho họ được an cư những nơi : Cù lao Phố-Đồng Nai cho nhóm Trần Thượng Xuyên, Mỹ Tho cho nhóm Dương Ngạn Địch và Hà Tiên cho nhóm Mạc Cửu. Khi viết đến đây tôi lại liên tưởng đến cái “Luật Nhân Quả” của Thích Ca Mâu Ni vì thế xin bạn đọc cho phép tôi lái xe leo lên lề một tí.

Đúng ba trăm năm về trước vị chúa nước Nam và tiền nhân của chúng ta đã gieo hạt ‘Nhân’ thật tốt đẹp là cứu giúp người di cư tị nạn, nên khi Cộng Sản cưỡng chiếm miền nam 1975, có hơn hai trăm nghìn dân quân bỏ nước ra đi thì cũng được chánh phủ và nhân dân các quốc gia như: Hoa Kỳ, Anh quốc, Pháp, Gia Nã Đại, Úc Đại Lợi v.v… ra tay cưu mang, giúp đở chúng ta, như thể là hạt giống năm xưa đã thành cây đơm hoa kết trái rồi chăng? Đây là một trong những lập luận vững chắc nhất để biện minh cho “Luật Nhân Quả” đúng vậy không? Thưa bạn đọc. Thôi tôi trở lại trang k‎ý‎ sự :

Tôi mãi mê nghĩ ngợi mong lung, tỉnh người ra thì đã về tới phi trường Sóc Trăng. T/u Công bay sau đuôi 4 Slicks và dẫn 2 chiếc Gun 2 và Gun 3 đáp xuống phi trường, xong hắn đem tàu tới P.O.L để ‘refuel’(đổ đầy xăng), sau đó đem tàu vô ụ tắt máy. Ba mươi anh em vác áo giáp, xách nón bay lếch thếch đi vào phòng hành quân, nơi đây có hơn mười anh em chờ đón chúng tôi để biết thêm về tai nạn ngày hôm nay. Tôi chỉ trả lời một cách nhát gừng nếu ai hỏi mình. Tôi nhắc Công ghi giờ bay vào sổ phi vụ lệnh, còn tôi trở về phòng mình. Bây giờ khoảng 17:30, tôi nghĩ mình nên đi tắm rửa, thay quần áo civil xem thấy có khỏe người ra không ? Xong rồi, cho dù bụng chưa đói nhưng chân vẫn bước về hướng Câu Lạc Bộ Sĩ Quan để gặp bạn bè tán gẫu cho đở buồn. Thôi thì ăn ít, ăn nhiều gì ở đó cho xong, chớ lỡ sót ruột vào giữa đêm thì làm sao làm sao ngủ được đây.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1590164789-HQPD_GapNgayHacDao_23.jpg
Hình minh họa

Ăn xong tôi cùng vài bạn bách bộ về khu ‘hangar’ 1, bên hông phòng hành quân của PĐ. Trước hangar là bãi đậu của các tàu bay bị bệnh, chờ được kéo vô trong sửa chữa, khu bãi đậu nầy rất rộng lớn, được tráng xi măng dày , sạch sẽ thoáng mát, vì mặt trước là phi đạo, phía bên kia phi đạo là hàng rào an ninh phi trường, bên ngoài là lộ xe đi Bạc Liêu và bên kia con lộ là đồng ruộng bao la. Chiều chiều gió đồng dạt dào thổi tạt vào đây làm cho con người cảm thấy khoan khoái dễ chịu, vì vậy nếu không ra phố Sóc Trăng chơi, chúng tôi thường tụ tập nơi đây, tán dóc hoặc xem các bạn chơi ‘volley’ ở sân cỏ bên cạnh đó.

Tôi gặp Đắc cũng có mặt với vài người bạn, trông Đắc có vẻ không vui, tôi hỏi thăm : “Đắc khỏe không?”. Đắc phàn nàn là hơi bị chóng mặt, cảm thấy mặt phía bên phải dường như nặng nề và đầu đổ nhiều mồ hôi, chảy xuống trán, Đắc đã lau ướt cả chiếc khăn mouchoir. Trong nhóm tôi có một anh khá hiểu biết, anh nói : “Đắc mới bị thương mà có những triệu chứng như vầy là không tốt. Hay là chúng ta đưa anh đến bệnh xá căn cứ xem sao”. Thế là ba bốn bạn 'hộ tống' Đắc xuống bệnh xá, cách đây chừng 50m thôi. Chúng tôi gặp anh quân nhân y tá trực, chúng tôi cho anh biết l‎ý do anh em chúng tôi đến đây. Anh y tá đi tìm ngay Bác sĩ Th/tá Y sĩ trưởng bệnh xá cho chúng tôi. Xin nhớ cho bây giờ đã hơn 19:00 giờ nghĩa là ngoài giờ làm việc hành chánh. Đợi chừng 15 phút thì bác sĩ T. đến, Đắc trình bày hết sự việc như bị thương thế nào, đã được QYV Mỹ Tho chữa trị ra sao v.v..và bây giờ thấy bị chóng mặt, ra nhiều mồ hôi ở đầu v.v..Bác sĩ T. khám Đắc tại bàn làm việc, chứ không đưa vô phòng khám và chúng tôi cũng được ở đây với Đắc.

Việc đầu tiên ông tháo băng ở vết thương của Đắc, xem xét xong, ông thay băng khác cho anh. Ông cũng ấn tay vào chung quanh cổ, hỏi Đắc có đau không. Đắc trả lời “thưa không”. Ông nghĩ là nên chụp “X ray” phía trước mặt của Đắc, ông gọi y tá trực đi kiếm ông chuyên viên chụp quang tuyến vào đây. Khoảng 10 phút sau ông chuyên viên nầy tới và đưa Đắc tới phòng quang tuyến chụp hình X ray như b/s yêu cầu. Chụp xong Đắc trở ra với chúng tôi. Trong lúc chờ đợi hình chụp, b/s T. vui vẻ hỏi thăm và nói chuyện với chúng tôi, ông có vẻ mến chúng tôi vì chúng tôi rất thường cho ông quá giang tàu về SG thăm gia đình.

Hình chụp đã khô, ông chuyên viên đem trình cho b/s T. và nói “ không tốt rồi ông thầy ơi”. B/s T. treo hình lên khung đèn, ông nhìn kỹ đã thấy đầu đạn ở soan mũi rồi chỉ cho anh em chúng tôi xem. Đắc rớt nước mắt, mặt tái xanh vì mất tinh thần. B/s an ủi “Cũng may trên đường đi, đầu đạn ác ôn kia không phá vở dây thần kinh nào nên anh không bị tê liệt hoặc câm điếc mù, có lẽ viên đạn đã đi hết tầm nên mới chịu nằm yên nơi đó”. Quay qua chúng tôi, ông nói “Tốt nhất là các anh đưa bạn về Tổng Y Viện Cộng Hòa càng sớm càng tốt, chứ ở đây ngay cả bên Trương Bá Hân (QYV/ SócTrăng) cũng không giúp gì cho anh ấy được”. Nói xong, b/s T. viết giấy giới thiệu nhập viện trao cho Đắc và luôn cả hình chụp X Ray.

Chúng tôi cám ơn bác sĩ, xong rồi vài bạn đưa Đắc về phòng soạn quần áo và những thứ cần dùng đem theo vì anh chắc phải ở nhà thương khá lâu. Còn vài anh khác đến tìm Tr/tá phi đoàn trưởng để tường trình sự việc cấp bách như vậy, nhưng không gặp ông. Chúng tôi nhớ lại cái ông số 3 của PĐ là Đ/úy Chừng, Sĩ quan Hành quân chắc còn đang chơi billard ở Câu Lạc Bộ, chúng tôi đến đó liền, may mắn gặp ông ta và nói cho ông ta biết cái chuyện của Đắc đi tái khám ở bệnh xá ra sao v.v…Đ/úy Chừng có vẻ hốt hoảng nói : “ Các anh nói Sĩ quan trực gọi liền qua Hành quân chiến cuộc xin gắp một chiếc tàu và số phi vụ, tôi sẽ đưa Đắc về TYV/CH ngay bây giờ.” Rất hoan nghênh niên trưởng …

Chúng tôi tiễn Đắc đến tận tàu bay, chúc Đắc thật nhiều may mắn. Tôi trở về phòng mình nằm vật ra giường, đầu óc cứ nghĩ ngợi mong lung, tâm tư như đang gặm nhấm một nỗi buồn da diết. Nhìn đồng hồ để bàn thì đã thấy 23:30 rồi, mình cần phải ngủ mới được vì ngày mai còn bay yểm trợ cho Hồng Điểu ( Phi đội tản thương ), phi vụ nầy cũng trần ai, khoai củ chớ chẳng chơi, nhất là nếu phải vô kinh Lai Hiếu ở vùng Phụng Hiệp thì luôn luôn có màn đấu súng với mấy ông du kích già việt cộng.

Tôi nhắm mắt rồi tưởng tượng mình đang chăn một bầy cừu vĩ đại tại một miền thảo nguyên nào đó, mình thử đếm chúng có bao nhiêu con tất cả, tôi đếm đây : một con cừu, hai con cừu, ba con cừu ….đã đếm tới con cừu thứ 819 rồi, mà vẫn chưa ngủ. Tôi chợt nhớ mấy cụ lốc cốc tử, mấy thầy xốc mu rùa họ thường bấm lóng tay để tính ra ngày nào là ngày hoàng đạo, tức là ngày lành tháng tốt, mọi việc rơi vào ngày nầy thì luôn được suôn sẻ, hạnh thông v.v... Ngược lại nếu rơi vào ngày hắc đạo thì ôi thôi vô cùng xấu, đen như đồ nhà khó, như mõm chó mực. Nếu thật vậy thì chắc ngày hôm nay phi đội mình “gặp ngày hắc đạo” ...

Chú thích._Đây là chuyện thật người thật, vì vậy những nhân vật trong truyện bởi do sự tế nhị phải đổi tên khác. Duy các anh nay đã mất, tôi mới dám viết tên thật của các anh : Đ/u Ngô Vĩnh Viễn, Đ/u Thành (Hà), Tr/u Phát, Tr/u Công, Th/S Nguyễn Vũ Kính, hầu để vinh danh các anh đã bỏ một quãng đời trai trẻ trong cuộc chiến giành chánh nghĩa của chúng ta.


Diều Hâu NGUYÊN QUÂN
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=495949271293361&set=a.127884628099829&type=3&theater

BachMa
05-26-2020, 07:56 PM
Hồi Ức Tuần Lễ Cuối Cùng Ở Sài Gòn
(30/4/1975 kết thúc chiến tranh Việt Nam)
Ngày 30 tháng Tư năm 1975, cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài 21 năm đã kết thúc, hai triệu ngưới Việt Nam ở cả hai miền Nam Bắc thiệt mạng, bên cạnh đó là sự hy sinh của 58 ngàn quân nhân Hoa Kỳ, đồng minh chính yếu của quân đội Việt Nam Cộng Hòa.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1589219215-HoiUcTuanLeCuoiCung_01.jpg
Phi trường Tân Sơn Nhất ở Sài Gòn hôm 30-4-1975. AFP PHOTO

Tháng 3/75 sau khi ra lệnh rút quân khỏi Pleiku Kontum, một quyết định dẫn tới sự sụp đổ hỗn loạn ở vùng cao nguyên trung phần và các tỉnh phía bắc VNCH, chạy dài từ Huế vào tới Phan Rang.

Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức

Ngày 21/4/1975 TT Nguyễn Văn Thiệu chịu áp lực từ nhiều phía và quyết định từ chức.

Ông nói: "Thưa đồng bào anh chị em chiến sĩ cán bộ các cấp, tôi tuyên bố từ chức Tổng Thống và theo hiến pháp Phó Tổng Thống Trần Văn Hương sẽ đảm nhận chức Tổng Thống."

Thưa đồng bào anh chị em chiến sĩ cán bộ các cấp, tôi tuyên bố từ chức Tổng Thống và theo hiến pháp Phó Tổng Thống Trần Văn Hương sẽ đảm nhận chức Tổng Thống.

Khi nhà giáo Trần Văn Hương lên nắm giềng mối quốc gia, thì lúc đó 6 sư đoàn quân cộng sản Bắc Việt đang khép chặt vòng vây thủ đô Sài Gòn, nơi có 3 triệu người sinh sống.

Nhận nhiệm vụ được 5 ngày, tới ngày 26/4 Ông Trần Văn Hương yêu cầu quốc hội tìm người thay thế mình, một người mà theo ông có đủ khả năng tìm giải pháp vãn hồi hoà bình hoà giải dân tộc.

Quốc hội ra nghị quyết chỉ định Đại Tướng Dương Văn Minh vào chức vụ Tổng Thống.

Chiều ngày 28/4/1975 Lễ Bàn Giao giữa hai ông Trần Văn Hương và Dương Văn Minh được tổ chức tại Dinh Độc Lập.

Lời Tổng Thống Hương liên tục với tường thuật của phóng viên: “ …Làm thế nào cho dân được sống yên…làm thế nào cho máu đừng đổ thịt đừng rơi thì công của đại tướng đối với hậu thế sẽ lưu lại đời đời, dầu thế nào tôi thiết nghĩ đất nước này không bao giờ quên công lao đó của Đại Tướng….(vỗ tay)….(tường thuật)

Sau khi nguyên Tổng Thống Trần Văn Hương đọc xong bài diễn văn trao nhiệm, chúng tôi nhận thấy một sĩ quan đã gỡ huy hiệu tổng thống hai con rồng bay xuống…và thay thế bằng một huy hiệu tổng thống mới…với hình một hoa mai năm cánh…

Đây là phóng viên Hệ Thống Truyền Thanh Việt Nam, quí thính giả đang theo dõi trực tiếp truyền thanh lễ trao nhiệm chức tổng thống VNCH giữa ông Trần Văn Hương và cựu Đại Tướng Dương Văn Minh…

…Làm thế nào cho dân được sống yên…làm thế nào cho máu đừng đổ thịt đừng rơi thì công của đại tướng đối với hậu thế sẽ lưu lại đời đời, dầu thế nào tôi thiết nghĩ đất nước này không bao giờ quên công lao đó của Đại Tướng….


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1589219229-HoiUcTuanLeCuoiCung_02.jpg
Xe tăng quân đội miền Bắc tiến vào dinh Ðộc Lập trưa ngày 30-4-1975. AFP PHOTO. Photo: RFA

Thưa quí thính giả vào lúc này bên ngoài dinh Dộc Lập chúng tôi nhận thấy trời đã bắt đầu mưa nhỏ và Sài Gòn đang trải qua một buổi chiều u ám như hoàn cảnh hiện tại của đất nước… ”

Những lời quí thính giả vừa nghe là của phóng viên Nguyễn Mạnh Tiến thuộc Hệ Thống Truyền Thanh Việt Nam. Như một sự tình cờ, phóng viên này đang làm việc cho Đài Á Châu Tự Do. Anh chính là Nam Nguyên của Ban Việt Ngữ.

Nam Nguyên: “Vâng ngày ấy tôi còn trẻ lắm 29 tuổi, bây giờ nghe lại hết sức xúc động. Không ngờ còn có người giữ được những đoạn băng đáng lẽ đã đi vào quên lãng.”

Thưa quí thính giả cho đến 30 năm sau, vẫn chưa có lời giải đáp là tại sao Nam Việt Nam lại tan rã nhanh chóng như vậy. Tuy nhiên theo nhiều nhà phân tích thời cuộc, thì kể từ lúc Tổng Thống Thiệu từ chức ngày 21/4 và vội vã ra đi 2 ngày sau đó, sự kiện chế độ VNCH cáo chung chỉ còn là vấn đề thủ tục.

Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng

Đại Tướng Dương Văn Minh được xem là người thích hợp nhất để nhận trách nhiệm ra lệnh đầu hàng. Mời quí vị nghe lại tuyên bố của Tổng Thống Dương Văn Minh được phát đi trên Hệ Thống Truyền Thanh Quốc Gia vào lúc 10 giờ sáng ngày 30/4/1975:

"Tôi tin tưởng sâu xa vào sự hoà giải giữa người Việt Nam để khỏi phí phạm xương máu người Việt Nam…vì lẽ đó tôi yêu cầu tất cả các anh em chiến sĩ VNCH hãy bình tĩnh ngưng nổ súng và ở đâu ở đó."

Chúng tôi cũng yêu cầu anh em chiến sĩ chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam ngưng nổ súng, vì chúng tôi ở đây chờ gặp chính phủ CMLTCHMNVN để cùng nhau thảo luận lễ bàn giao chính quyền trong vòng trật tự…tránh sự đổ máu vô ích cho đồng bào…"

Sau khi Đài Phát Thanh Saigon lập lại nhiều lần lệnh buông súng của Tổng thống Dương Văn Minh, cũng như nhật lệnh tương tự của Thiếu Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, người được bổ nhiệm làm Phụ tá cho Tổng Tham Mưu Trưởng sau cùng là Trung Tướng Vĩnh Lộc. Quân đội đã thi hành lệnh giao nạp vũ khí cho những người chủ mới của đất nước.

Xe tăng quân đội miền Bắc tiến vào dinh độc lập

Tôi tin tưởng sâu xa vào sự hoà giải giữa người Việt Nam để khỏi phí phạm xương máu người Việt Nam…vì lẽ đó tôi yêu cầu tất cả các anh em chiến sĩ VNCH hãy bình tĩnh ngưng nổ súng và ở đâu ở đó.

Xe Tăng Cộng Sản Bắc Việt tiến vào khuôn viên Dinh Độc Lập lúc 10g45 phút sáng ngày 30/4, đánh dấu sự cáo chung của chế độ VNCH. Một chế độ được xây dựng bởi những người không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản. Chế độ ấy trải qua hai nền cộng hoà tồn tại được 21 năm.

Cuộc chiến quốc cộng huynh đệ tương tàn làm thiệt mạng hơn hai triệu người Việt Nam ở cả hai miền Nam Bắc. Phía đồng minh của VNCH, 58 ngàn quân nhân Mỹ tử trận cùng hàng ngàn binh sĩ của các nước Nam Hàn, Thái Lan, Úc và Tân Tây Lan.

Thưa quí thính giả, cũng là một tình cờ lịch sử, khi cờ Mặt Trận Giải Phóng đã tung bay trên Dinh Độc Lập, thì các đại diện chính trị của bên cộng sản chưa vào Sài Gòn để tiếp nhận chính quyền.

Do vậy Đại tá Bùi Tín, một nhà báo quân đội BV đi theo cánh quân làm phóng sự, lúc đó đã được bộ đội uỷ quyền vào dinh gặp chính quyền Dương Văn Minh. Ông Bùi Tín hiện nay tỵ nạn chính trị ở Pháp. Từ Paris ông Bùi Tín kể lại giây phút lịch sử khi ông giáp mặt ông Dương Văn Minh:

"Tôi là người đầu tiên tiếp xúc, ông Dương Văn Minh và tất cả đứng dậy…ông Minh nói là chúng tôi chờ quí vị tới từ sáng nay, đặng chuyển giao chính quyền… tôi có trả lời rằng là, tất cả chính quyền các ông không còn nữa qua cuộc tấn công của chúng tôi…cho nên không thể bàn giao cái gì đã không còn nữa…"

Ðại Sứ Marin không muốn rời Sài Gòn

Vào những thời khắc sau cùng của chế độ VNCH, chuyện gì xảy ra ở Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ? Câu hỏi này đã được chúng tôi đặt ra với ông Robert Funsett, người vào thời điểm đó đang là Người Phát Ngôn cho Bộ Ngoại Giao Mỹ. Ông Funsett kể lại với Ban Việt Ngữ chúng tôi như sau:

Ðúng giờ này, tức là vào chiều ngày 29 tháng Tư năm 1975, giờ Washington, Sài Gòn bắt đầu sụp đổ. Từ Trung Tâm Ðiều Hành ở Bộ Ngoại Giao, ông Phụ Tá Ngoại Trưởng Phillip Habib và tôi nói chuyện lần cuối cùng với ông Ðại Sứ Graham Martin.

Ðại Sứ Martin không muốn rời Việt Nam, vì ông ta muốn kéo dài thì giờ để có thể cứu thêm những người khác. Cuối cùng, chúng tôi phải chỉ thị bắt ông đại sứ phải rời nhiệm sở. Ông đại sứ Martin nói chuyện với chúng tôi và tôi còn nhớ là ông ta bảo là sẽ lên sân thượng của Tòa Ðại Sứ, dùng trực thăng để ra hạm đội, và chúng tôi nói lời từ giã với nhau.

Không đầy một giờ đồng hồ sau đó, Ðại Sứ Martin gọi điện lại báo đã ra tới hạm đội bình yên.

Người VN đã phải trả giá cho chiến thắng 30/4/75 bằng cả nỗi đau và nhiều sự mất mát. Nhiều gia đình người dân miền Nam theo lời ông Kiệt, rơi vào hoàn cảnh có ngừơi thân vừa ở phía bên này, vừa ở phiá bên kia. 30/4 khi nhắc lại, vẫn theo ông Kiệt có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn.

Quan điểm của cựu Thủ Tướng Võ Văn Kiệt

Ông Võ Văn Kiệt, cựu Thủ Tướng nhà nước CHXHCN Việt Nam, vào thời điểm tháng Tư năm 75 là người phụ trách thành uỷ Sài Gòn cùng với ông Mai Chí Thọ. Tháng Tư năm nay ông Võ Văn Kiệt khi trả lời báo chí nhà nước, đã nhận định về quyết định gọi là sáng suốt của ông Dương Văn Minh.

Chúng tôi xin trích dẫn báo Quốc Tế, ông Võ Văn Kiệt cho rằng Ðại Tướng Dương Văn Minh nhậm chức ngày 28/4/1975, ngày mà một nhà quân sự như ông Minh có thể đoán được sự thất thủ của Sài Gòn.

Theo ông Võ Văn Kiệt, giả dụ ông Minh để cho các tướng lãnh dưới quyền tử thủ thì quân Bắc Việt sẽ vẫn chiến thắng, nhưng Sài Gòn khó mà nguyên vẹn, chưa kể biết bao sinh mạng và tài sản của người dân nữa. Nhà cựu lãnh đạo của chính phủ Hà Nội nhấn mạnh rằng, không thể quên vai trò của Ðại Tướng Dương Văn Minh trong việc giữ cho Sài Gòn được nguyên vẹn.

Thưa quí thính giả lần đầu tiên, một cựu lãnh đạo cộng sản nói rằng, người Việt Nam đã phải trả giá cho chiến thắng 30/4/75 bằng cả nỗi đau và nhiều sự mất mát. Nhiều gia đình người dân miền Nam theo lời ông Kiệt, rơi vào hoàn cảnh có ngừơi thân vừa ở phía bên này, vừa ở phiá bên kia. 30/4 khi nhắc lại, vẫn theo ông Kiệt có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn.

Ông Kiệt cho rằng đó là một vết thương chung của dân tộc cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm cho nó thêm rỉ máu. Cựu Thủ Tướng Võ Văn Kiệt còn nói là ông muốn lưu ý mọi người rằng, làm được một chiến thắng kỳ vỹ như 30/4/1975 mà say sưa, như tự mãn nguyện thì cũng đã từng phải trả giá. Theo ông thế giới đã đi rất xa, Việt Nam phải nhanh chân chứ đừng tự ru ngủ mình để rồi sẽ còn bị bỏ xa hơn nữa.


https://www.rfa.org/vietnamese/SpecialTopic/April30-1975/Memories_April30_NNguyen-20050430.html-10122007023241.html

BachMa
06-04-2020, 11:09 PM
May Mà Có Em..
Phạm Thị Kim Dung

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1590166404-HQPD_MayMaCoEm.jpg
Trung Úy Lữ Quốc Hùng (đứng bên phải). Đây là tấm hình kỷ niệm chụp ở Quảng Trị, Việt Nam.
Đã chụp chung với hai vị Cố Vấn Mỹ, và Ông xếp Thiếu Tá QLVNCH (đứng cạnh ông Cố Vấn Mỹ).
Hình chụp lúc mới ra trường, đeo lon Chuẩn Uý QLVNCH.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ năm 2017. Bà sinh năm 1951 tại miền Bắc VN, di cư vào Nam 1954, là thư ký hành chánh sở Mỹ Defense Attaché Office (DAO) cho tới ngày 29 tháng Tư 1975. Vượt biển và định cư tại Mỹ năm 1980, làm thư ký văn phòng chính ngạch tại City of San Jose từ 1988-2006. Về hưu vào tuổi 55, hiện ở nhà chăm nom các cháu nội ngoại. Tác giả nhận giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ năm 2018. Sau đây, thêm một bài viết mới của bà.


*****

Tôi vào quân ngũ Việt Nam Cộng Hoà năm 1966, theo học trường Sĩ Quan Thủ Đức, khoá 24. Khi ra trường, tôi đã được bổ nhiệm theo ngành Công Binh Kiến Tạo, vì bên kiến tạo cần thêm một Tiểu Đoàn để làm hàng rào điện tử McNamara bên đây bờ sông Bến Hải, thuộc tỉnh Quảng Trị, để ngăn chận nẻo đường mà cộng sản Bắc Việt xâm nhập vào Miền Nam Việt Nam.

Thân chinh ông Bộ Trưởng, Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ là ông Robert McNamara đã đến Miền Nam Việt Nam, để trực tiếp chỉ huy xây dựng công trường. Ông làm Bộ Trưởng dưới thời hai vị Tổng Thống Hoa Kỳ: John F. Kennedy 35th U.S. President, from January 1961 until his assassination in November 1963 and Lyndon B. Johnson 36th U.S. President, from 1963 to 1969 (John F. Kennedy là Tổng Thống thứ 35 của Hoa Kỳ, từ tháng 01 năm 1961 cho đến khi ông bị ám sát vào tháng 11 năm 1963, và Lyndon B. Johnson là Tổng Thống thứ 36 của Hoa Kỳ, từ năm 1963 cho đến năm 1969).

Ban đêm cộng quân thường xuyên pháo kích vào doanh trại, nên tính mạng của tôi và những đồng đội tựa như chỉ mành treo chuông. Nhưng may mắn thay, sau những năm đóng quân ở đây, tôi vẫn còn sống sót. Sau đó tôi được thăng chức Trung Uý, và được chuyển nhiệm về Sài Gòn, làm việc tại Đại Đội Địa Hình, Quận Gò Vấp (Đại Đội Địa Hình trực thuộc Cục Công Binh, toạ lạc ở trên đường Nguyễn Tri Phương/Trần Quốc Toản, Chợ Lớn. Đối diện với Trường Quân Y của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà).

Với những bệnh của tôi như: Cao đường, cao mỡ và cao máu, lại còn thêm bệnh hen suyễn và thận hư phải lọc thận mỗi đêm nữa! Nếu không được phái đoàn Mỹ cứu xét lại hồ sơ, và cho gia đình tôi định cư ở Mỹ, được hưởng phúc lợi y tế văn minh bậc nhất thế giới, thì tôi đã không còn có cơ hội sống sót cho tới ngày hôm nay. Chúng tôi xin chân thành tri ân lòng nhân ái và sự quảng đại của nước Mỹ đã cho gia đình chúng tôi được sống trong một đất nước Tự Do, giàu mạnh và đầy tình người.

Đã mấy năm nay, từ ngày tôi bị bệnh đau thận, nên người hay mệt và yếu hơn, lại thêm đi đứng khó khăn, phải dùng xe lăn hay xe đẩy, thì vợ tôi phải cơm bưng nước rót, lo lắng và ân cần chăm sóc tôi từng ly, từng tý, với tràn đầy tình nghĩa yêu thương. Nhiều khi tôi thấy em vất vả với tôi sớm tối, đổ bô tiểu tiện cho tôi mỗi ngày, mà không hề than thở buồn phiền gì cả. Tôi thấy thương em quá đi thôi! Tôi thường cầm tay em và nói “MAY MÀ CÓ EM....thương yêu, chia sẻ, chăm sóc cho anh, trong những ngày tháng yếu đau cuối đời.

Cám ơn em, người bạn đời đã đi bên cạnh anh, chia sẻ những năm tháng nhọc nhằn vui buồn, trong suốt bốn mươi tám năm trọn vẹn nghĩa thuỷ chung. Nếu có kiếp sau, tôi ước muốn được gặp lại em, để đền đáp ân tình sâu nặng của em đã cho tôi trong đời này.

Hôm thứ ba vừa qua, vợ tôi chở tôi đi Bác Sĩ, vì tôi có cái hẹn với Bác Sĩ Phillip Tse chuyên khoa về thận vào lúc 10:30 sáng, ngày 28 tháng 1, nhằm ngày mùng 4 Tết năm Canh Tý. Cách đây bốn năm, khi thận của tôi còn hoạt động 26%, thì cứ ba tháng một lần, tôi phải đến phòng mạch Bác Sĩ để theo dõi căn bệnh. Nhưng khoảng hai năm gần đây, thận của tôi chỉ còn hoạt động 15%, thì đây là giai đoạn phải lọc thận để duy trì sự sống còn.

Đã sáu năm trôi qua, chưa có ngày nào phòng mạch vắng người như mùng bốn Tết hôm nay. Có thể vì là ngày Tết đầu năm, nên bệnh nhân kiêng cữ, không dám xin hẹn.

Tôi ngồi ngoài phòng khách, chờ khoảng 5 phút, thì cô Y Tá gọi tôi vào cân, đứng lên bàn cân thì tôi nặng 80 ký, có lẽ sáu năm nay làm bạn với cái giường, không có vận động được, nên tôi lên ký. Khi đo áp huyết của tôi thì 112/90, đó là con số quá lý tưởng cho người bị bệnh áp huyết cao. Chắc hẳn là sáng hôm nay tôi mới uống thuốc hạ máu, nên mới được con số tốt như vậy.

Rồi cô Y Tá bảo tôi chờ thêm khoảng 5 phút nữa, thì Bác Sĩ vừa bước vào phòng khám. Ông có gương mặt phúc hậu luôn nở nụ cười rất thân thiện. Ông học biết vài câu tiếng Việt thông thường, để hỏi thăm bệnh nhân người Việt Nam, vì phu nhân xinh đẹp của ông là người Việt Nam, quê quán của bà ở Cần thơ.

Ông lên tiếng Chúc Mừng Năm Mới tôi bằng tiếng Việt thật rõ ràng.

-Anh Hùng có khoẻ không? Hôm qua tôi nghĩ đến anh.

Vì lúc này tôi phản ứng hơi chậm hơn mọi khi, nghe thì không được rõ lắm, nên đi đâu tôi cũng để vợ tôi trả lời dùm.

-Thưa, như vậy là Bác Sĩ nhớ tất cả những tên bệnh nhân?

-Ông bảo “Tôi nhớ tên, cả hình dáng và từng nét mặt bệnh nhân của mình!”

Ông chia sẻ với tôi là ông rất vui, khi đã quyết định chọn ngành Bác Sĩ chuyên khoa về thận, bởi hầu hết bệnh nhân của ông không thể chết vì thận hư, dù không có thận để thay thế. Rồi ông bắt đầu nghe phổi cho tôi, khi liếc nhìn thấy tay tôi bị sưng đỏ vì bệnh thống phong (gout), ông dặn dò tôi phải uống thuốc thống phong (Mitigare 0.6mg) 8 giờ đồng hồ một viên, thay vì tôi đang uống mỗi ngày một viên. Ông còn căn dặn, không nên ăn nhiều cơm và bún, vì nó rất nhiều đường, và cũng không nên uống các loại nước ngọt.

Nhân cơ hội này, vợ tôi cũng muốn nêu ra để “kể tội” là tôi bị bệnh tiểu đường, một ngày phải chích tới bốn lần, mà lại thích ăn ngọt. Có ý hỏi Bác Sĩ xem có thể dùng đường hoá học để thay thế cho đường, được không? Ông khuyên tôi là không nên dùng loại đường hoá học, nó không có lợi cho sức khoẻ; Loại đường này, nó ngọt hơn đường bình thường tới 300 lần.

Vào tháng 10 năm 2017, tôi đi khám bệnh, khi được biết kết quả thử nghiệm thận của tôi chỉ còn hoạt động 15%, thì Bác Sĩ đã cho biết tình trạng của tôi phải bắt đầu lọc thận. Để duy trì sự sống, bệnh nhân phải lựa chọn giữa lọc máu (Home Hemodialysis HHD) và lọc nước Dextrose (Peritoneal Dialysis PD). Suy nghĩ xem muốn làm ở nhà hay đến Center. Tôi xin Bác Sĩ cho lời khuyên, nên chọn phương pháp nào cho dễ dàng, mà sự lọc thận có kết quả hữu hiệu hơn nhất.

Bác Sĩ khuyên tôi nên lọc nước (Peritoneal Dialysis) và lọc ở nhà, thì cần phải có người chăm sóc. Bởi vì, lọc thận ở nhà sẽ lọc được 7 ngày 1 tuần, thì chất độc được thải ra hằng ngày. Muốn đi đến nơi trung tâm lọc thận thì 1 tuần, chỉ có 4 lần hay 3 lần tùy theo, nhưng phải tuỳ thuộc vào giờ giấc của trung tâm ấn định. Khi tôi đã quyết định xin lọc nước, thì Bác Sĩ gởi tôi đi đến Advanced Surgical Asociates, để mổ ngay lỗ rốn, để đặt một cái ống mềm vào, và có ống đưa ra ngoài bụng; Nó được gọi là Catheter.

Nếu muốn chọn lọc thận ở tại nhà, thì phải có người nhà đến trung tâm, học cách lọc thận. Thời gian học và thực tập khoảng một tháng rưỡi, sau khi đã biết làm đúng phương pháp để tránh nhiễm trùng cho người bệnh, trung tâm đó sẽ cấp cho người đến học một giấy chứng nhận. Sau đó, nơi trung tâm sẽ gởi một người Y Tá đến coi phòng ở tại nhà của người lọc thận, để kiểm xét xem phòng của người bệnh có đủ tiêu chuẩn vệ sinh không. Và họ chờ để xem lần lọc thận đầu tiên, khi ấy thì chưa có máy Cycler, nên phải lọc thận bằng tay (Manual), mỗi ngày phải lọc bốn lần. Cứ cho nước lọc thận vào Catheter lòng bụng (Exchange), rồi chờ bốn giờ sau cho thải ra (Drain).

Giai đoạn này rất khó khăn cho người bệnh, và người chăm bệnh, vì cứ lo tháo ra (Disconnect) rồi lại nối vào (Connect). Phải rất cẩn thận và làm đúng phương pháp đã được chỉ dẫn.

Hai tháng sau đó thì được lọc bằng máy, cả hai chúng tôi đều phải đến trung tâm để học cách thức sử dụng máy. Sau khi thực tập làm vài lần, thấy đã vững chắc, trung tâm đã cho đem máy về để lọc thận ở tại nhà (Peritoneal Dialysis PD). Hiện nay, mỗi đêm khoảng 7:30 tối, vợ tôi bắt đầu lọc thận cho tôi bằng máy suốt đêm, cho đến 6:00 giờ sáng hôm sau, mới tháo máy ra, nên rất thuận tiện, nhưng phải tuân thủ theo quy tắc:

*Đo huyết áp.

*Rửa tay là vấn đề rất quan trọng để tránh nhiễm trùng, phải rửa kỹ xoa hai bàn tay vào nhau 1 phút.

*Mở máy lọc thận lên.

*Xem xét bịch dung dịch: Ngày, tháng và coi lại nước có trong không?

*Gắn bộ dây vào máy.

*Sát trùng 1 phút đầu dây ở ổ bụng bệnh nhân rồi gắn vào dây ở máy.

Mỗi ngày đều làm những động tác như nhau, nên làm từ từ, không phải lo sợ như những lần đầu. Điều cần thiết là phải rửa tay, đeo mặt nạ y tế che miệng lại (mask), và bao tay là những điều cần thiết phải làm để tránh nhiễm trùng. Khi nhà có người lọc thận, không được nuôi thú cưng như chó mèo ở trong phòng và cũng không cho trẻ nhỏ vào phòng. Phải nhớ tắt quạt máy, máy lạnh, và lò sưởi, vì sức gió đẩy ra sẽ thổi cho vi trùng bay. Khi bắt đầu lọc thận cho người bệnh, cần phải đóng cửa sổ và cửa phòng lại, để tránh người ra vào mà không đeo mặt nạ y tế che miệng, và phòng ngừa khi người nhà đang mở dây ở ổ bụng của bệnh nhân ra (Catheter) để gắn vào máy lọc.

Tất cả những phương pháp để giữ gìn cho người bệnh lọc thận không bị nhiễm trùng, ở nơi trung tâm Davita đều chỉ dậy rõ ràng, và còn thường xuyên nhắc nhở. Bệnh nhân lọc thận, mỗi hai tuần phải đến trung tâm một lần để theo dõi thử máu và chích thêm những chất thuốc cần thiết. Bởi vì, khi lọc thận bệnh nhân đã bị thải ra ngoài nhiều protein. Thông thường tôi hay bị chích thêm chất sắt (Iron), và mỗi tháng tôi đều phải đến gặp Bác Sĩ chuyên môn điều trị về thận. Tôi hiểu rằng, nếu một ngày nào đó, người tôi mệt, mà muốn ngưng lọc thận, thì tôi sẽ phải từ giả những người tôi quý yêu nhất trên trần gian này, để thanh thản ra đi nhẹ nhàng.

Sau hơn hai năm lọc thận để duy trì sự sống còn, tôi luôn biết ơn những vị Bác Sĩ và Y Tá như những thiên thần áo trắng đã chăm sóc sức khoẻ cho tôi thường xuyên theo định kỳ. Những vị ân nhân y tế này đã cho tôi niềm hy vọng rất lớn lao vào những năm tháng cuối đời.

Tưởng rằng đã tạm yên thân! Nhưng cuối tháng 2 năm 2020 vừa qua, đại dịch Coronavirus xuất phát từ Wuhan, ngày càng nhiều ca nhiễm bệnh lây lan từ người qua người, cho nên Bác Sĩ của tôi đã cho biết là phải cẩn thận, không nên đi đến những nơi đông người. Bởi vì, người đang có nhiều thứ bệnh như tôi, nếu bị Covid-19 xâm nhập vào cơ thể, nguy cơ tử vong rất cao, chắc chắn sẽ khó qua khỏi. Trong lúc này, không ai đeo mặt nạ y tế che miệng (mask), kể cả Bác Sĩ và Y Tá. Ở Mỹ từ trước cho tới bây giờ, chỉ có người nào bị bệnh ho cảm tự động đeo mask, để tránh sự lây lan cho người khác.

Hôm nay ngày 28 tháng 3/2020, tôi trở lại phòng mạch tái khám định kỳ, thấy trong phòng ngồi đợi chỉ có một người bệnh nữa và tôi, trong lúc này đã có sắc lệnh của chính phủ ban hành, là mọi người phải giữ khoảng cách an toàn Social Distancing, có lẽ vì vậy mà Y Tá của phòng mạch đã lấy hẹn cho các bệnh nhân đến khám bệnh cách xa giờ nhau, không như lúc trước, bệnh nhân ngồi đầy trong phòng đợi. Từ bệnh nhân và Y Tá, ai cũng đeo mask, vì dịch bệnh Covid-19 đã đến từ Vũ Hán đang lây lan rất nhanh, gây chết chóc thê thảm cho nước Mỹ, Ý Đại Lợi, Anh, Pháp, Tây Ban Nha, và những quốc gia trên khắp thế giới.

Mọi người chân thành khẩn cầu, xin ơn trên phù hộ và gìn giữ những vị Bác Sĩ, Y Tá và những nhân viên làm việc nơi tuyến đầu đang khổ công chăm sóc và giúp đỡ cho những người bệnh nhân đã bị nhiễm Covid-19, nó đã đến từ Vũ Hán, gây nguy hiểm lây lan khắp mọi nơi.

Trước khi vào phòng trong, vợ tôi và tôi đều được hỏi xem có bị ho và nóng sốt không? Rồi cô Y Tá đo nhiệt độ cho cả hai người chúng tôi. Tôi không bị nóng sốt, nhiệt độ của tôi chỉ có 95 độ F. Đến khi chúng tôi được vào phòng khám bệnh, thì Bác Sĩ đã bảo Y Tá phải đo lại nhiệt độ cho tôi, vì nếu nhiệt độ mà thấp quá, là tôi bị bệnh thiếu máu Anemia, nhưng khi đo lại thì nhiệt độ là 97.2 độ F.

Sau một tháng gặp lại Bác Sĩ, tôi thấy ông có vẻ hơi ốm hơn một chút, sắc diện ông không được vui vẻ và phấn khởi như mọi lần gặp trước. Hôm ấy, Bác Sĩ đã phải đeo mặt nạ y tế che miệng mask N95. Trong lúc ông khám bệnh cho tôi, thì ông đã chia sẻ với tôi là, có một bệnh nhân lọc thận của ông đã bị nhiễm Covid-19 thử nghiệm có kết quả dương tính!! Người bệnh ấy đang nằm trong phòng hồi sức Intensive Care Unit (ICU) ở bệnh viện. Hy vọng bệnh nhân này sẽ được qua khỏi, hiện nay ở miền Bắc California, San Jose, bệnh viện còn đủ Bác Sĩ, Y Tá và giường bệnh để chăm sóc bệnh nhân nhiễm bệnh Covid-19.

Bác Sĩ đã ân cần dặn dò tôi thật kỹ lưỡng, là tôi phải tuyệt đối cách ly với mọi người, và cả gia đình con cháu nữa. Tôi thật xúc động vô ngần, vì Bác Sĩ luôn lo lắng săn sóc đến sự an nguy cho sức khoẻ của tôi. Tôi cho ông biết là tôi đang ở nhà riêng có hai người, và tôi đã hết mực tuân thủ lệnh cách ly Shelter-in-Place đã được ban hành từ ngày 16 tháng 3 cho đến nay, để ngăn ngừa dịch bệnh Convid-19 bớt lây lan. Tôi không hề tiếp xúc với ai. Tôi chỉ cần đến phòng mạch để gặp Bác Sĩ khám bệnh cho tôi, mỗi tháng một lần. Tôi cũng phải đến trung tâm lọc thận Davita mỗi tháng hai lần, để khám bệnh và chích thuốc cần thiết cho sự lọc thận có kết quả tốt thôi.

Tôi cũng kể cho Bác Sĩ biết, là thường ngày tôi vẫn theo dõi tin tức xem đài Việt Today, CNN và Fox News. Kể từ khi có bệnh dịch lan tràn cho đến nay, ngày nào tôi cũng canh chờ đến khoảng 2:30 pm chiều mỗi ngày, để nghe Tổng Thống Donald J. Trump họp báo tại White House, trực tiếp trên đài truyền hình Fox News, về đại dịch Coronavirus. Với sự hiện diện của Phó Tổng Thống Mike Pence, Bác Sĩ Giám Đốc viện dịch Hoa Kỳ Anthony Fauci, Bác Sĩ Deborah Birx chuyên giảng giải về bệnh dịch Covid-19, và những phóng viên các đài truyền hình Hoa Kỳ.

Tôi cũng coi Youtube của những vị Bác Sĩ người Mỹ gốc Việt chia sẻ, giảng giải về những loại bệnh thông thường và đặc biệt là Sars Cov-2. Bác Sĩ khuyên không nên lo lắng thái quá, sẽ làm giảm đi hệ miễn dịch. Như thế, cơ thể sẽ không có đủ kháng thể để chống lại dịch bệnh. Phải giữ khoảng cách an toàn, và đừng lấy tay rờ lên mặt, mũi, miệng và mắt. Hãy rửa tay, rửa tay thật kỹ ở những đầu ngón tay, và ở giữa cái khớp những ngón tay, trong khoảng 20 giây.

Hôm nay là ngày 16 tháng 4 năm 2020, như vậy là đã được 31 ngày, từ lệnh của Thống Đốc tiểu bang California ban ra đã có hiệu lực vào ngày 17 tháng 3, năm 2020. Mọi người phải ở nhà không được đi đâu, chỉ được ra khỏi nhà vì các nhu cầu thiết yếu như: Đi Bác Sĩ, bệnh viện, mua thuốc men và đi chợ...v.v..

Hôm qua là ngày 8 tháng 4/2020, Baxter Healthcare Corp vẫn đưa thuốc lọc thận đến nhà cho tôi cũng như mọi tháng. Nơi này họ cung cấp cho tôi 30 thùng nước Dextrose, mỗi thùng có 2 bọc và mỗi bọc chứa đựng 5,000 ML, 2 hộp găng tay, 1 hộp có 50 cái masks, và 2 chai sát trùng tay Hand Sanitizer. Nói tóm lại, tất cả dụng cụ để lọc thận, họ đều cung cấp miễn phí và đem giao đến tận nhà tôi, mỗi tháng một lần.

Hầu Hết những tiệm bán thuốc tây đều mở cửa, từ thuốc chích chữa bệnh tiểu đường, cho đến những loại thuốc chữa bệnh khác đều có đầy đủ. Vợ tôi luôn đeo mặt nạ y tế che miệng lại, và mang bao tay để đi chợ Lucky gần nhà. Nhìn thấy tất cả nhân viên bán hàng và khách hàng vào tiệm mua đều có đeo mask và bao tay để phòng ngừa bệnh dịch. Siêu thị mở cửa một giờ đồng hồ sớm hơn giờ bình thường, từ 6:00 giờ sáng cho đến 8:00 giờ sáng, để giúp những người cao niên hay người bị bệnh đi đến chợ sớm hơn, có ít người để đỡ bị lây lan bệnh.

Thành phố San Jose nơi tôi đang cư ngụ, ngoài Foods Bank ra thì có tám địa điểm Nhà Thờ Công Giáo có phát thực phẩm cho những gia đình nào cần, đến lãnh về để ăn. Khi người dân đến những nơi ngân hàng phát thực phẩm, chỉ cần lái xe đến nơi, mở cốp xe ra là những nhân viên tình nguyện sẽ bỏ những bao thực phẩm vào trong xe như: Trứng gà, sữa, rau, trái cây và nhiều loại thực phẩm khô để có đủ ăn trong một tuần.

Nhiều khi tôi thấy vợ tôi băn khoăn lo lắng, sợ thiếu thực phẩm, như những năm tháng còn sống dưới chế độ XHCN cộng sản, thì tôi thường hay nhắc nhở là mình đang sống ở nước Mỹ mà em!? Đừng quên rằng, mình đang sống ở Mỹ, một đất nước giàu mạnh bậc nhất, mùa màng nông sản phong phú, xuất cảng ngũ cốc nhiều nhất trên thế giới. Và nhất là sinh mạng con người rất cao quý, và luôn được tôn trọng.


*****

Tôi xin kể lại câu chuyện tình của tôi đã gần nửa thế kỷ...
Ngày xưa vào năm 1970, khi được chuyển nhiệm về làm việc ở vùng đất Gò Vấp khoảng hơn một năm, thì tôi tình cờ quen em vào một dịp gần Tết Nguyên Đán, khi tôi phải ở lại nhiệm sở ứng chiến tại Đại Đội Công Binh Địa Hình, nơi tôi đang phục vụ. Vì kể từ sau khi thảm cảnh Tết Mậu Thân xảy ra, nên Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã ban hành sắc lệnh cho toàn thể Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, phải phòng bị ứng chiến 24/24 (tức là ăn ngủ toàn thời gian tại nơi làm việc).

Chiều hôm ấy, tôi đang chờ mua bánh mì ở cổng trại cư xá gia binh Nguyễn Phi Khanh, tại Quận Gò Vấp, thì bất ngờ có một cô khả ái xinh đẹp đi chiếc PC Honda trên đường đi làm về, cũng ghé vào xe bánh mì! Cô vui cười nói chuyện với cô hàng bán bánh mì, nên tôi được biết cô nàng này tên Kim, và là bạn học với cô Ngọc Muội, chủ xe bánh mì, và hai người ở cạnh nhà nhau, là gia đình của các quân nhân đang cư ngụ trong cư xá Nguyễn Phi Khanh của Đại Đội, nơi tôi làm việc. Lúc ấy lòng tôi dấy lên một niềm vui khó tả, và tôi cũng đã được góp vài lời thăm hỏi cô, để làm quen.

Người ơi! Gặp gỡ mà làm chi, trăm năm biết có duyên gì hay không? Lỡ gặp rồi, làm tâm hồn tôi xao xuyến bâng khuâng, chập chờn không làm sao ngủ được, bởi hình bóng của em đã len vào tim tôi!! Hình như tôi đã kết em ngay từ giây phút đầu tiên gặp mặt. Sáng hôm sau vào nơi làm việc, tôi đã dọ hỏi, được biết anh Trung Sĩ Tiên là người làm cùng sở, lại quen thân với gia đình em, nên tôi đã nhờ cậy anh và vợ, là chị Hằng làm mai mối giúp cho tôi đến nhà thăm cha mẹ của em. Tôi cũng biết được ba của Kim là người quen cùng làm trong đơn vị với tôi, thường hay gặp nhau mỗi ngày, chứ đâu có xa lạ gì. Tôi xin phép được tới thăm viếng gia đình em thường xuyên cho thân hơn.

Mỗi khi tôi đến nhà Kim chơi, tôi luôn được ba của em tiếp chuyện rất niềm nở, thì lòng tôi hân hoan và vui sướng vô cùng. Rồi một ngày kia, tôi tự tin là mình đã được lòng thương mến của bác trai, và cả gia đình em, nên tôi đã xin phép dẫn cha mẹ tới để xin cầu hôn. Ba của Kim đã chấp thuận lời cầu hôn của tôi, vì cùng làm chung sở, nên bác đã phần nào biết tánh tình tôi, và cảm thấy tôi có thể tin cậy được để gởi gấm cô con gái quý yêu thứ nhì của ông cho tôi. Lễ cưới của chúng tôi được cử hành tại nhà thờ Mân Côi Đa Minh, Gò Vấp, vào tháng 10 năm 1972.

Một thời gian sau đó, tôi được đơn vị trưởng gởi đi học khoá Đại Đội Trưởng ở Tỉnh Bình Dương. Khi tốt nghiệp thì được chuyển đến Long Thành Quán Chim, để coi công trường khẩn hoang lập ấp, cho đến ngày ông Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, thì những anh em binh lính, mạnh ai nấy tản mác mỗi người một nẻo, còn tôi và những Sĩ Quan cùng Đại Đội đã chạy vào rừng sâu ẩn trốn được vài ngày thì đã bị việt cộng bắt trọn hết toán chúng tôi. Lúc ấy, mọi người hoảng sợ vô cùng, sợ rằng có thể sẽ bị họ thủ tiêu ngay trong rừng.

Nhưng nhờ ơn trên thương ban, một điều thật may mắn cho chúng tôi, bởi những cán binh việt cộng đã bao vây bắt chúng tôi, toàn là những người miền Nam Việt Nam đã tập kết ra Bắc, nên nhóm Sĩ Quan chúng tôi chỉ bị họ giam giữ mười ngày, rồi họ thả cả nhóm ra và phát cho mỗi người một bộ quần áo bà ba đen để mặc vào, thay cho bộ quân phục đang mặc ở trong người, để tự đi ra quốc lộ đón xe mà về nhà.

Sau ngày 30 tháng tư, năm 1975, số phận tôi cũng như tất cả các vị quân cán chính Việt Nam Cộng Hoà. Theo lệnh của những người đã xâm chiếm miền Nam Tự Do, tôi đã phải đến trình diện ở trường học Gò Vấp, và đã bị lùa đẩy vào trại tù tập trung cải tạo. Tôi vào tù mà chẳng hề có bản án, là bao lâu mới được thả ra? Tôi đi tù để lại vợ và hai đứa con thơ (cháu gái 2 tuổi và cháu trai mới được 8 tháng). Cũng may là vợ tôi còn việc đi làm tại bệnh viện Triều Châu ở Chợ Lớn, còn có đồng lương căn bản mà thay tôi nuôi con và bà nội của các cháu đang ở chung một nhà.

Tất cả những Sĩ Quan của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, đều chịu chung một số phận trong những trại giam như tù khổ sai đói khổ. Chúng tôi tự trồng trọt rau, sắn (khoai mì) ăn để sống cho qua ngày; Nó được bón bằng phân và nước tiểu của chính những người tù. Mọi người phải lên rừng đốn cây dựng nhà để ở, và sau đó lại còn phải đốn cả cây để cho bộ đội họ bán lấy tiền bỏ túi nữa!

Cũng hên là tôi không bị đưa ra miền Bắc lạnh lẽo. Tôi đã bị đầy ải đến Bù Đăng, Bù Đốp thuộc Sông Bé Phước Long, hộp thơ L4 T4. Vì ăn uống thiếu thốn, lại bị bắt ép làm việc lao động quá sức, nên tôi bị bệnh phù thủng, vì suy dinh dưỡng. Trong thời gian bị tù đày nơi rừng sâu nước độc, nên tôi đã bị bệnh sốt rét rừng cấp tính. Cũng may nhờ có anh Trung Uý Đặng Văn Tâm, là người bạn tù cải tạo, đã viết thư nhờ người dân đang ở vùng kinh tế mới gần đó giúp đỡ. Vì họ thương tù cải tạo lắm, nên đã làm ơn giúp chuyển tin ngay cho gia đình tôi biết, vợ tôi đã đem lương thực và thuốc Fansidar chuyên trị sốt rét rừng đến kịp thời. Nhờ vậy mà tôi đã thoát chết, trong đường tơ kẽ tóc.

Ở trong trại tù tập trung được hai năm và mười một tháng, thì tôi có lệnh được thả về, và phải hồi hương ở Chợ Gạo Mỹ Tho, nơi đó có chú thứ Mười của tôi, người đã làm đơn bảo lãnh, nhưng hằng tuần tôi vẫn phải đến trình diện ở xã. Có nhiều đêm, tôi đang ngủ giựt mình vì nghe tiếng chó sủa, trong lòng hồi hộp, lo lắng không biết có phải cán bộ họ đến bắt mình đi không? Sự thật thì tôi luôn bị ám ảnh, vì trước năm 1975, người cô thứ chín của tôi đã bị chúng gõ cửa mời đi lúc nửa đêm và đã thủ tiêu mất biệt luôn, không có trở về nhà nữa.

Đã có một lần tôi tìm đường đi vượt biên và đã bị bắt, nên tôi không dám quay trở lại Chợ Gạo (Vì vùng chợ gạo này đầy những cán bộ việt cộng ít học, xưa kia họ đã nằm vùng, nay thì họ lên nắm chính quyền) mà phải len lỏi để trở lại Sài Gòn, ở lén tạm trú với gia đình, để gần gũi mẹ già, vợ và hai con.

Thật phúc đức cho tôi, vì tôi có được người vợ thuỷ chung và đảm đang. Em đã cho tôi niềm hy vọng tin yêu, để tôi có thể vượt qua những chông gai nghẽn lối, mà mong đợi ngày trở về đoàn tụ với gia đình. Và xúc động nhất là khi được trả tự do ra về, tôi vẫn còn có mái ấm để nương thân.

Những năm sau đó, nhờ có tôi ở nhà phụ giúp, nên ngoài công việc làm Y Tá, vợ tôi còn có thời giờ rảnh để chạy mối buôn bán ngoài chợ trời kiếm thêm chút đỉnh tiền để lo cho gia đình. Phần thì cũng nhờ có em gái và chị của vợ tôi ở bên Mỹ gửi tiền về giúp đỡ, nên chúng tôi đã có thêm hai cháu nữa. Chúng tôi đã mất một cháu trai sanh năm 1974, trong lần vượt biển với cậu của cháu. Đó là sự mất mát, đau khổ suốt cuộc đời chúng tôi vô cùng hối tiếc, vì đã cho con đi để gặp phải sự chẳng lành.

Vào khoảng năm 1980, chúng tôi nghe đài BBC, rồi truyền tai nhau là Chính Phủ Hoa Kỳ sẽ cho tất cả những người tù cải tạo và gia đình được đi định cư ở Mỹ. Tôi đã phải nhờ bạn bè giới thiệu tôi đến công an thành phố để chạy chọt cho có tên trong sổ thường trú ở tại nhà của tôi, để tôi có chứng từ nộp giấy tờ đi Mỹ theo diện Humanitarian Operation (HO). Gia đình tôi được xếp vào danh sách HO 5. Đã phải chờ đợi mấy năm trời, nhưng khi đến lượt mình, thì lại nhận được cái thư bị phái đoàn Hoa Kỳ từ chối, với lý do là tôi đi tù cải tạo, còn thiếu một tháng, mới đủ ba năm.

“Còn nước, còn tát”. May mắn thay!! Vì tôi trân quý lắm, nên tiếc rẻ vẫn còn dám giữ lại có một tấm hình kỷ niệm duy nhất tôi chụp chung với hai vị cố vấn Mỹ và ông xếp Thiếu Tá, khi làm chung ở Quảng Trị, và cái bằng Y Tá, Certificate of Training Institute (CTI) USA Army, Mỹ đã cấp phát cho vợ tôi.

Tôi đã đến sở ngoại vụ ở trên đường Nguyễn Du, để cậy nhờ cô Thư Ký trao dùm cho phái đoàn Mỹ phỏng vấn, “Buồn ngủ, gặp chiếu manh” tôi đã gặp được quý nhân giúp đỡ, cô ấy nói sẽ giúp đưa cho người Mỹ phong bì hồ sơ của chúng tôi xin được cứu xét lại. Thế rồi một năm sau đó, chắc hẳn nhờ tấm hình tôi chụp chung với hai vị cố vấn Mỹ, mà gia đình tôi đã được gọi đi phỏng vấn, và được đi định cư theo chung với HO 10. Chúng tôi rất vui mừng đã được định cư ở Mỹ vào tháng 2 năm 1992.

Tôi chưa về lại Việt Nam, dù chỉ một lần. Chúng tôi xin nhận đất nước Hoa Kỳ Tự Do là Quê Hương thứ hai để sinh sống cho đến cuối đời, và chỉ muốn sống ở đây để quên đi những năm tháng tù đày còn in đậm nét đớn đau kinh hoàng, trên chính nơi quê cha đất tổ của tôi.


*****

Tháng Tư lại về, gợi nhớ ngày mất nước, nhớ chuyện tù đày khốn khổ năm xưa chợt ùa về trong ký ức của tôi!!

Kể từ cuối tháng 2 năm 2020 cho đến nay, bệnh dịch Covid-19 từ Vũ Hán đang gieo rắc tang thương khắp toàn cầu. Thật buồn thay! Có lẽ đến ngày Quốc Hận 30 Tháng Tư năm nay, hẳn những đoàn thể Quốc Gia chống cộng, sẽ không được cùng nhau hội họp tề tựu để vinh danh những chiến sĩ anh hùng bất khuất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đã hy sinh trọn vẹn cho Tổ Quốc dưới màu cờ vàng, và tưởng nhớ những người bạn đồng minh Hoa Kỳ đã vì đất nước Việt Nam mà hy sinh bao xương máu để bảo vệ tự do cho chúng tôi.

Nhân đây tôi muốn xin trân trọng gởi lời cảm tạ ơn sâu, nghĩa nặng của những thân nhân, những bậc cha mẹ, và quý hiền thê của những người tù cải tạo Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà. Vì tình quý yêu chúng tôi vô vàn, mà không quản ngại đường xa xôi, đã đi mất mấy ngày đường đi và đường về, mới đến nơi ngục tù giam giữ chúng tôi.

Từ những trại tù tập trung ở miền Nam, ra tới miền Bắc, đã vất vả lặn lội qua những con suối, đồng sâu, đã đi bộ trong đêm khuya qua những nơi thanh vắng, đầy sự hiểm nguy bất trắc. Chịu khó đi hằng mấy chục cây số, băng qua những con đường chông gai gập ghềnh trong rừng sâu núi thẳm, mà chỉ được nhìn nhau, thăm gặp mặt con, anh em, và người chồng thương yêu của mình, được một hay hai giờ đồng hồ ngắn ngủi thôi.

Chúng tôi thương và xót xa lắm, khi thoáng nhìn thấy trên đầu thì đội, trên vai những người thân yêu đã gồng gánh những đồng quà tấm bánh, và thuốc men để tiếp tế cho chúng tôi được tiếp tục sống kiếp người lây lất. Qua khỏi những cơn đau ốm, bị đói ăn khát uống dằn vặt trong thể xác kiệt lực hao mòn từng ngày một. Trong thời gian tù đày bị áp chế hành hạ dã man, tưởng chừng như đã bị bỏ thây nơi trại tù tập trung muôn đời.

Tuy ở trong tù thiếu thốn đủ mọi thứ, nhưng chúng tôi sống bằng tình thương nhau như anh em một nhà. Mỗi khi người nào có gia đình đến thăm nuôi tiếp tế thuốc men, thực phẩm, thì chúng tôi luôn chia phần ra để mời nhau cùng ăn. Dẫu rằng, mỗi người chỉ được một miếng nhỏ xíu thôi, cũng cảm thấy ấm lòng khi được quây quần bên nhau.

Nhìn những chùm bông hoa đua nở khoe sắc thắm rực rỡ, như báo hiệu một điều tốt đẹp đang xảy ra. Loài người sẽ có thuốc đặc trị để đẩy lùi cơn dịch bệnh, như lời Tổng Thống Donald J. Trump đã nói “We’re starting to see the light at the end of the tunnel“. Chúng ta đang bắt đầu thấy ánh sáng cuối đường hầm!!

Xin ơn trên phù hộ cho nước Mỹ. Rồi nước Mỹ vẫn mãi mãi là một cường quốc giàu sang, nhân ái và tân tiến bậc nhất thế giới. Mọi người dân Mỹ sẽ được sống hạnh phúc và an bình như những ngày trước...

Viết theo lời kể, và sự cho phép của người tù cải tạo Hát Ô 5.


Phạm Thị Kim Dung
https://vvnm.vietbao.com/p247397a247452/may-ma-co-em-

BachMa
06-15-2020, 01:51 AM
Sự Thật Ai Bắn Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan và Ở Đâu..
NGUYỄN VĂN ĐÁN
Đã hơn 2 thập niên qua thỉnh thoảng có điện thư gởi trên mạng ghi lại tiểu sử , nhất là hình ảnh Cố Thiếu Tướng Loan bắn tên đặc công cộng sản Nguyển văn Lém và ảnh Thiếu Tướng Loan bị thương trong đợt 2 Mậu Thân tháng 05/1968.

Việc Ông Tướng Loan hành quyết tên VC đến nay đọc giả trong và ngoài nước kể cả ký giả Eddie Adams, người chụp bức ảnh đều cho là hành động của một chiến sĩ yêu nước, yêu đồng đội và ghi công ông là một ANH HÙNG (Xin viết hoa vì theo thiện ý của tôi xin đứng nghiêm chào tán đồng). Thật vậy lúc xảy ra sự việc những kẻ phản chiến lên án, nhưng sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 thì người dân và thế giới đã thay đổi quan điểm khi nhớ lại miệng lưởi Cộng Sản tuyên bố hưu chiến dịp Lể Tết Dân tộc, nhưng đưa quân đánh phá khắp nơi, nhất là sự phản bội, tự hủy bỏ chữ ký trong Hiệp Định Paris 1973.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1592185513-HQPD_SuThatAiBanTuongLoan.jpg
Hình Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan bị thương

Về bức ảnh Cố Thiếu Tướng Loan bị thương ở chân kèm theo sự mô tả cảnh ông bị thương với tựa đề “Ai bắn nát chân Thiếu Tướng Loan”, không nhớ tên tác giả. Bài viết thật sự có nhiều tin tức, nhưng bí mật rất phong phú từ tiểu sử Ông Tướng Loan đến cuộc đi đêm của Hoa Kỳ với MTDTGPMN và quan điểm “chúng ta luôn cầm dao đàng lưởi để cho đối phương tuốt dao máu chảy thành vòi “.

Trong bài này, tôi không lạm bàn về những chi tiết hay tin tức tình báo mà vì là nhân chứng trong cảnh Ông Thiếu Tướng Loan bị thương, nên xin phép đóng góp chút ít để nói lên “SỰ THẬT AI BẮN NÁT CHÂN TƯỚNG LOAN VÀ Ở ĐÂU” và phần cuối xin có chút ưu tư về việc VNCH phải nắm dao đằng lưởi mà mãi cho đến nay chúng ta có thay đổi thế nắm dao được như thế nào ?

Trong đợt tấn công của bọn Việt Cộng lần thứ 2, tôi nhớ vào một buổi sáng tháng 05/1968 có tin nhân viên công lực báo có 2 tên đặc công CS đang trú ẩn trong nhà một người dân ở Khu Kho đạn (gần Đài Phát Thanh Sàigòn). Có thể vào địa điểm bằng hai ngả:

- Đường Đinh Tiên Hoàng
- Đường dưới chân cầu Phan Thanh Giản hay được gọi tắt là cầu Xa Lộ.

Hai bên đều có nhà nhưng cả hai bên không có những mái hiên hay địa thế để có thê tiến vào mà khỏi bị phát hiện. Chỉ ở phía hẽm dưới chân cầu dãy nhà sát bờ rạch Thị Nghè đối diện với Xóm Gà là có nhà, với vài mái hiên theo kiểu cánh gà được xây bảng gần mái nhà hơi to và nhỏ dần xuống đất. Sau khi được tin, chúng tôi gồm 6 thầy trò với carbine M1 và M2 tiến vào hẽm dưới chân cầu chưa kịp vào cuối hẽm .Khoảng gần 11 giớ sáng nhìn lại phía sau bổng thấy Ông Tướng Loan và 2 cận vệ cũng tiến vào. Chúng tôi, sau việc chào hỏi, có trình với Ông: “Xin Thiếu Tướng nép vào hiên nhà vì chưa xác định rõ ràng mục tiêu ở nơi nào.

Nghe xong ông quay lại hai cận vệ bảo rằng “Commando tiến lên”. Tuy nói vậy Ông cũng nép vào hiên như chúng tôi. Thấy phía bên trái có một mảnh đất trống chưa xây cất, tất cả đều tiến vào. Khi nhìn lại phía sau có hai người ngoại quốc, một đen và một trắng cũng đến từ phía sau chúng tôi. Đến đây xin ghi rằng vì thời gian đả gần 50 năm, hơn nữa là bức ảnh Cố Thiếu Tướng Loan bị thương trong tay nhân chứng mới được đưa lên mạng từ hơn 20 năm nay thôi. Quý vị có thể hỏi và tự đoán hai người ngoại quốc đó là ai và có vũ khí không.

Trong bãi đất trống có một đống xa cừ, loại cây tràm mà các nhà thầu xây cất thường dùng để làm lưng qui xây cột nhà khỏi bị lún.Lúc bấy giờ Ông Tướng, tôi, cùng một nhân viên Trưởng G2 (thường được gọi là anh Sáu) và một nhân viên nữa đều mặc dã chiến, lưng hưóng về cầu Phan Thanh Giản. Các người khác còn ở phía sau. Đang tìm cách leo qua đống xa cừ bổng nghe một tiếng bịch dưới chân tôi. Nhìn kỹ thấy anh nhân viên mặc dã chiến đã ngã sấp xuống trên lưng có một lổ thủng nhỏ máu đang chảy. Ông Trưởng G2 và tôi qùy xuống lật ngửa anh nhân viên thì thấy phía trước một lổ to hơn, máu chảy lênh láng .Tôi có nói là: “Anh Sáu lấy khăn cầm máu lại và kéo về phía sau. Lúc đó chỉ có Ông Tướng và tôi vừa qua khỏi đống xa cừ đến trước cửa đang đóng của một căn nhà kế bên thi bổng có một tiếng nổ như loại lựu đạn và ngay sau đó nghe tiếng Ông Tướng Loan đang qụy xuống bảo nhỏ với tôi: “Kéo fermeture áo giáp Moi xuống, Moi bị thương rồi”.

Tôi ôm Ông Tướng vào lòng làm theo lời ông yêu cầu. Xin ghi rõ, trước mái hiên nhà, nơi Ông Tướng Loan bị thương có một cây không nhớ cây gì nhưng cao độ hơn 3 thước che một phần phía trước mái nhà. Như vậy địa điểm Tuớng Loan bị thương là ở trong hẽm thay vì bị thương ở lan-can cầu Phan Thanh Giản. Sau đó Ông Tướng Loan được đưa ra khỏi hẽm nhưng là cả một việc đáng buồn. Lúc tôi ra khỏi địa điểm thấy có Cố Tr/tá Luận (Giám Đốc Nha CSát Đô Thành) và Tr/Tá S. Biệt Đoàn Trưởng Biệt Đoàn 5 CSDC đang đứng ngay đầu hẽm trên đường Đinh Tiên Hoàng. Việc cấp cứu và tìm nơi chữa thương cho Tướng Loan có lẽ nhiều người đã biết, ông được tạm điểu dưỡng tại Bệnh viện Grall (Đồn Đất) và sau đó biết bao khó khăn ông mới được đưa đi điều trị tại một quốc gia khác với quốc gia gọi là đồng minh. Âu cũng may cho Ông Tướng Loan chỉ bị thương không thiệt hại tánh mạng, vì nếu không bị loại tại hẽm Dakao gần kho đạn thì Ông có thể bị tử thương tại Trường Tiểu Học Phước Kiến trong Chợ Lớn sau đó vài ngày.

Chắc mọi người còn nhớ một trái hoả tiển đã giết chết toàn Bộ Tham Mưu Cảnh Sát và Quân Đội trong đó có Cố Đại Tá Văn Văn Của (Đô Trưởng Sài Gòn-Chợ Lớn), Cố Tr/Tá Nguyển Văn Luận (Giám Đốc Nha CSQG/Đô Thành), CốTr/Tá Nguyển Ngọc Xinh (Cựu Trưởng Ty, CSQG/Quận Nhì), Cố Tr/Tá Nguyển Ngọc Trụ (Cựu Trưởng Ty CSQG/Quận 5). Thật lòng, sau khi thấy Tướng Loan bị thương mà không thấy có phản ứng hay điều tra chi để làm sáng tỏ sự việc. Anh nhân viên tử thương không lâu vì vết thương khá nặng theo tôi là đã chết thế mạng cho Ông Tướng một lần. Khi Bộ Tham Mưu Liên quân bị tử thương trong Chợ Lớn thì tôi càng thấy rỏ hơn đành im lặng và giữ mãi nỗi uất ức cho đến nay.

Một cộng sự viên tử thương, một viên Tướng tài bị loại khỏi vòng chiến đấu không một lời xin lổi hay tiếc thương. Đến đây xin phép được nghiêm chỉnh chào một lần nửa Vị Huynh Trường anh hùng và chào xin lổi cộng sự viên đả tử thương, cám ơn các cộng sự viên cùng nhóm, không biết nay còn sống hay đã mất sau tháng 4/1975. Để rồi hơn thập niên qua nhận trên mạng hình ảnh bất ngờ này tôi vẩn im lặng vì không muốn nhắc lại nỗi đau của những vị đã xả thân cho tổ quốc. Nhưng vì thấy trên các diễn đàn vẫn còn nhiều người nhắc mãi hình ảnh đau buồn đó nên tôi xin phép được nói lên sự thật để mọi người hiểu được nỗi đau của “kẻ cầm dao đằng lưởi để đối phương tuốt dao máu chảy thành vòi” .

Đúng vậy sau ngày Hiệp Định Genéve 20/07/1954, VNCH dưới thời Cố TT Ngô Đình Diệm vì từ chối phải chọn bạn mà chơi nên phải hy sinh oan uổng tánh mạng. Đến 1963 thì VNCH bị bắt buộc chọn bạn đồng minh chơi dao hầu bảo vệ Miền Nam tự do để rồi có ngày 30 tháng 4 mà mọi người đều gọi là ngày Quốc Hận. Người bạn tuốt dao không chỉ một người bị thương máu chảy mà cả nước, cả một dân tộc vốn có chí khí quật cường chẵng những bị hành động tuốt dao của người bạn đồng minh, mà còn của người anh em cùng máu đỏ da vàng từ phương Bắc dưới danh nghỉa Đảng Cộng Sản VN, nhất là từ người bạn sống cùng chế độ như Mặt Trận Dân Tộc GPMN và cả những thành phần thứ ba đã giúp họ tuốt dao thật nhanh gọn để từ hơn 40 năm qua vết thương vẩn chưa lành, chưa phai mờ vết thẹo. Vết thương của các Vị Tướng đã quyên sinh không chịu đầu hàng quân giặc, cả triệu Quân Cán Chính phải bị đòn thù với mỹ từ “Học tập cải tạo”. Vết thương không dừng ở bao nhiêu người đó, còn có trên 500 ngàn người bỏ thây trên biển cả hay trong rừng thiêng nước độc.

Việc cầm dao đằng lưởi của chúng ta là ở thế bị bắt buộc, chẳng đặng đừng. Vậy Đảng CSVN có biết và hiểu rằng hiện nay đang cầm dao đằng lưởi không? Hậu quả đầu tiên là sau chiến thắng Điện Biên Phủ do Tàu và Nga cầm dao đằng cán nên HCM và Phạm văn Đồng mới ký Công Hàm 1958 xác nhận Hoàng Trường Sa là của Tàu Cộng. Con dao không chỉ làm tay chảy máu mà dao của quan thầy TC đang đâm thủng ruột không chịu rút ra cứ ngoáy dần ngoáy dần không tha mạng dù ĐCSVN đang khấu đầu quỳ gối lạy xin tha mạng nhưng có được đâu. Cụ thể là nhất động nhật tỉnh từ Bộ Chính Trị Trung Ương ĐCSVN và các Tướng tá đều phục tùng Hán triều, phải ký kết Mật Ước Thành Đô, phải buộc dân tiêu thụ các hàng hoá bị tấy chay, buộc dân sống trong cảnh ô nhục. Đau hơn nữa là khi dân tộc muốn phụ lực ĐCSVN rút dao thì CS chẳng những phải biết ơn dân mà trái lại bắt bớ dân đánh đập, bỏ tù bằng những luật rừng.

Dân biểu tình chống lại sự xâm lấn đất biển, và mới nhất là vụ án Công ty Formosa làm ô nhiểm môi trường, có thể là hành động “Rửa mặt cho ĐCSVN”. Người dân thay vì được yểm trợ ghi ân, ĐCSVN lại cho đám du thủ du thực đánh đập tàn nhẫn hầu làm vừa lòng kẻ cầm dao. Việc mà một ông Madze VN xưng danh là Thủ Tướng lại hổ hỡi chấp nhận cái khom lưng của hai ba anh chệt và 500 triệu đô để từ nay dân VN sẻ chết dần chết mòn vì nạn ô nhiểm trầm trọng kéo dài thêm hơn nửa thế kỷ.

Đến nay việc ĐCSVN chấp nhận hai tay để lưởi dao tha hồ giết chóc dân thì đó là hậu quả của kẻ tự chọn cách chơi dao đằng lưởi. Đau lòng là hiện nay có khá nhiều doanh nhân, ca nhạc sỉ cũng như một số cá nhân khác, vì chút danh lợi riêng, vì chút vui thú phù du với chùm khế ngọt, mà quên đi vết thương sau khi thoát được cảnh ngục tù CS nối giáo cho vòi bọ lên ngôi, tự mãn với danh xưng “Khúc ruột ngàn dậm”. Những việc quay đầu làm ngơ trước cảnh đau khỗ của dân trong nước có thể xem như hành động phụ cầm dao giặc giết hại đồng bào mình.

Do đó, quan trọng hiện nay là làm thế nào để rút lưởi dao mà không bị thương trí mạng. Cộng đồng người Việt tỵ nạn hải ngoại vẩn còn một số nuôi hy vọng nơi người bạn đồng minh để rút con dao nghiệt ngã đó, nhưng theo thiển ý, Đồng minh chỉ có thể băng bó vết thương của chúng ta khi chúng ta tự giải quyết gông cùm CS mà thôi. Hết rồi, thật sự hết rồi cảnh người bạn đồng minh chịu đưa vài trăm ngàn quân qua VN để rồi phải hy sinh một lần nữa hơn vài chục ngàn nhân mạng. Như vậy người sẻ rút được con dao hẳn ra, chỉ là Toàn dân quân trong nước với phương thức duy nhất là cùng đứng lên chấp nhận đau một lần cuối để còn sống sót mải về sau: TOÀN DÂN CÙNG ĐỨNG LÊN DẸP HẲN CHẾ ĐỘ CSVN GIẢI PHÓNG ĐẤT NƯỚC, vì ĐCSVN đến nay không còn đủ sức để rút được con dao của quan thầy Tàu đã đâm quá sâu. Chưa kể những lưởi dao của đồng chí anh em trong đảng tranh giành nhau vì tham vọng, quyền lực, tiền tài ....

Chỉ có Toàn dân trong nước tự quyết định vận mệnh của mình. Đã có 2 bước đầu tiên của 18.000 tín đồ Công Giáo xuống đường thành công ngày 26 tháng 9/2016 vừa qua tại Hà Tỉnh và ngày 03/10/2016 tại Sàigòn làm cho cảnh sát cơ động, công an vứt áo bỏ chạy là thời điểm đã đến để khắp nơi trong nước cùng đứng lên rút lưởi dao trí mạng đó. Xin đừng nghĩ theo lời nói của vài cá nhân là đến nay không còn CS nửa. Xin nhớ chỉ là CS cha với học lực lớp 3 trường làng mà đã gian ác nhờ tay giặc giết chết biết bao triệu đồng bào, nói gì đến CS con tiếp theo CS cháu có học lực từ nước ngoài sẻ gian ác thông minh hơn và đất nước sẻ chẳng những sẽ bị đô hộ 1 ngàn năm mà trở thành chệt hoàn toàn.

Tại Hải ngoại chỉ là hậu phương vững chắc của toàn dân mà thôi nhưng muốn được là hậu thuẩn, thật lòng cuối đầu cầu xin hải ngoại vui lòng chịu bỏ hết những tỵ hiềm cá nhân, không bưới móc đấu đá lẫn nhau, không vì chút tiền mà trở thành kẻ nô bút của CS hay VGCS. Hiện hải ngoại củng bị dao đâm tuy không trí mạng nhưng rất đau khi bị VC xem như con bò bị vắt sửa, hàng năm vì thương gia đình còn kẹt lại phải chuyển hàng tỷ đô, chưa kể số người Việt được gọi là xuất khẩu lao động, nguồn lợi không nhỏ của ĐCSVN. Biết bị vắt sửa nhưng không thể nào khác hơn được.

Rồi đây ĐCSVN đang lập mưu móc túi hải ngoại qua kế hoạch tu sửa Nhà Thờ Đức Bà Sàigòn. Chắc nhiều người còn nhớ cách nay khoảng 2 năm có điện thư tô son Nhà Thờ Đức Bà là tài sản văn hoá của VN và Unesco, rồi kế tiếp có điện thư kèm theo ảnh nhà thờ bị kẻ lạ vẻ bậy làm dơ bẩn tường . Nay CS lại báo là Nhà Thờ sắp đổ nát, và hù doạ nếu không trùng tu thì CS sẽ phá hủy để lập công viên xây tường HCM. Đảng CS biết là tín đồ công giáo và hải ngoại không bao giờ chấp nhận nhà thờ bị phá bỏ nên lên kế hoạch moi tiền “Khúc ruột ngàn dậm”...

Đó là hậu quả của người bị cầm dao đằng lưởi của cả hai phía VNCH và ĐCSVN. Hải ngoại luôn sẳn sàng yểm trợ cho toàn dân trong nước tự quyết định rút hẵn con dao của ĐCSVN và mã tấu của Tàu cộng và mong rằng mấy ông Tiến sỉ XHCN cũng phải thức tỉnh đừng hy vọng là đao hay búa tạ của quan thầy sẻ tha mạng khi toàn dân thật sự bất chấp hiểm nguy cùng đứng lên dẹp tan xiềng xích. Có thể đến nay hêt rồi cảnh đu dây thân Mỷ và thân Tàu vì tình hình đả thay đổi vì không ai cho mà không có điều kiện. Một lần nửa xin ghi nhớ: "Chỉ có Toàn Dân đứng lên lấy lại quyền cầm vận mệnh quốc gia mới mong thoát cảnh kẻ thù tuốt dao đổ máu” .

Trước khi hết lời, tôi xin quỳ nguyện cầu xin Chúa, Phật đã bỏ quên dân và đất nước Việt Nam từ bao năm, xin giúp dân VN sớm thoát được cảnh “Cầm dao đằng lưởi”, tránh được cảnh máu đổ thịt rơi vì kẻ ác đã gây quá nhiều tội khó quên và khó tha.


NGUYỄN VĂN ĐÁN
(Bộ Chỉ Huy Thủ Đô)
https://www.canhsatquocgia.org/p127a800/su-that-ai-ban-nat-chan-tuong-nguyen-ngoc-loan-va-o-dau-?fbclid=IwAR2bsNG_YXWPgV5PY-_RmMdarTzvV-BV60XfQ3udHoS9Zn2bxle26ruZhyc

BachMa
06-22-2020, 07:31 PM
Căn Cứ Sóc Trăng & Không Quân Tắm Búng
Hồng Điểu Jo Vĩnh SA

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1590164878-HQPD_CanCuSocTrang_01.jpg
Căn cứ Sóc Trăng
Khoảng giữa năm 1970 các quân nhân thuộc nhiều ngành nghề trong quân chủng Không Quân như: Phi công trực thăng, Cơ phi, Xạ thủ phi hành, kỹ thuật, tiếp liệu, kiến tạo được thuyên chuyển từ khắp các Không Đoàn, trên 4 vùng chiến thuật về thành lập căn cứ Không Quân Sóc Trăng do quân đội Mỹ vừa bàn giao.

Căn cứ Không Quân Sóc Trăng mới được thành lập, Đại tá Trần Minh Thiện được bổ nhiệm làm Chỉ huy trưởng, Trung tá Nguyễn Hồng Tuyền liên đoàn trưởng Liên Đoàn 84 Yểm Cứ.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1590164894-HQPD_CanCuSocTrang_02.jpg
Huy hiệu Phi đoàn 225

Phi trường Sóc Trăng có hai phi đoàn trực thăng tân lập là: Phi đoàn 225 Ác Điểu do Th/tá Lê Văn Châu Phi đoàn trưởng và Phi đoàn 227 Hải Âu do Th/tá Trần Châu Rết Phi đoàn trưởng.

Phi đoàn 225 đồn trú ở khoảng gần đầu phi đạo, hướng về thành phố Sóc Trăng, còn phi đoàn 227 đồn trú phía cuối phi đạo hướng đi Bạc Liêu.

PĐ225 được thành lập trước. Quân số của PĐ225 đã được bổ sung tạm đủ, nhân viên phi hành của phi đoàn, gửi đi bay xuyên huấn ở các căn cứ Bộ Binh Hoa Kỳ như:

Đồng Tâm Mỹ Tho, Vĩnh Long, Cần Thơ và ngay cả tại Sóc Trăng được gọi về phi đoàn để bắt đầu nhận lệnh tham gia hành quân.

PĐ225 được may mắn là BTL/KQ thuyên chuyển nhiều nhân viên phi hành kỳ cựu, kinh nghiệm, gan dạ trên chiến trường từ 4 vùng chiến thuật, xuống Sóc Trăng thành lập PĐ225. Vì thế PĐ225 được ưu tiên tham gia hành quân trước cùng với 2 phi đoàn trực thăng kỳ cựu của SĐ4KQ là: PĐ211 và PĐ217, yểm trợ cho quân đoàn IV, quân khu IV.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1590164910-HQPD_CanCuSocTrang_03.jpg
Huy hiệu Phi đoàn 227

Trong khi đó PĐ227 chỉ có 5 Sĩ quan trong Ban Chỉ Huy (Staffs) của Phi đoàn là kỳ cựu thâm niên như: Th/tá Trần Châu Rết Phi Đoàn Trưởng (cựu 217), Đ/úy Nguyễn Hoàng Sơn (cựu 211) Phi Đoàn Phó, Đ/úy Lê Công Quân (cựu 217) Trưởng Phòng Hành Quân; Đ/úy Huỳnh Văn Minh (cựu 211) Trưởng Phòng Huấn Luyện; Đ/úy Nguyễn Chính Tâm (cựu 217) Sĩ quan An Phi. Các vị Staffs này được thuyên chuyển từ hai PĐ211 và 217 xuống Sóc Trăng thành lập tân Phi đoàn 227, các phi công còn lại của Phi đoàn toàn là những tân Pilots mới ra lò, vừa từ Mỹ về.

Ngay lập tức PĐ227 đã gửi đa số các tân phi công sang các phi đoàn BB Hoa Kỳ (US Army) để bay xuyên huấn hành quân.

Một số ít được giữ lại huấn luyện tại chỗ và tham gia các phi vụ liên lạc, tiếp tế cho các đơn vị bộ binh và tiểu khu.

Từ đó, các quân nhân thuyên chuyển về căn cứ Sóc Trăng ngày càng thêm đông. Các phương tiện an sinh như: cư xá, nước dùng cung cấp cho các quân lính trong căn cứ ngày càng trở nên thiếu hụt. Nạn thiếu nước sạch để xử dụng hàng ngày là một vấn đề nan giải. Nhất là nước uống và nước tắm giặt. (Xin phép dài dòng một tí cho có đầu có đuôi)

Sau khi quân đội Mỹ rút khỏi Sóc Trăng. Các bồn chứa nước, các ống dẫn nước, vòi cung cấp nước bị hư hỏng và sút giảm.

Các cư xá độc thân của anh em PĐ225 kể cả cư xá kỹ thuật, toạ lạc gần đầu phi đạo hướng về TP Sóc Trăng, thì một số ít vòi nước còn hoạt động tương đối, chảy nhỏ giọt, nhưng tạm đủ dùng.

Các cư xá của PĐ227 thì ôi thôi! Các vòi nước đã bị tịt hết 60%, chỉ còn lại vài vòi nước gần nhà Th/tá Rết và Đ/ú Tâm là còn hoạt động, chảy rỉ rỉ như thằng bé đi tè.

Khu cư xá Sĩ quan, Cơ Phi, Xạ Thủ PĐ227 thì gần như "mậu thủy"… Mỗi lần, sau khi đi bay hành quân về, anh em cơ phi và xạ thủ phải lén ra phi đạo chôm nước, từ bồn chứa nước rửa phi cơ về tắm giặt.

Cầu tiêu công cộng bị tắc nghẽn, không có nước xả. Thỉnh thoảng ban kiến tạo cho xe vòi rồng xuống xịt rửa. Trời nóng, không có nước tắm, nên lính tráng bị ngứa, lác tùm lum.

Hàng ngày, sau giờ làm việc và giờ xuống ca. Đại tá Thiện cho hai chuyến xe GMC, còn gọi là xe buýt chở lính ra phố, mua sắm vật dụng cần thiết và tiện ghé nhà quen tắm giặt cho mát.

Khi Trời có mưa, chúng tôi phải lấy các thùng chứa đạn đại liên size lớn chứa đạn M60 của Gunships, đặt dưới máng xối mái nhà, hứng nước mưa để tích trữ cho dịch vụ nấu ăn và uống.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1590164923-HQPD_CanCuSocTrang_04.jpg
Hình minh họa

Trời mưa anh em hay rủ nhau cởi trần xếp hàng dưới mái hiên tắm mưa, cho sạch hèm.

Các câu lạc bộ thì được ban kiến tạo và tiếp liệu đem xe bồn đến cung cấp nước hàng ngày.

Mùa hè nóng bức, không có nước tắm, nên nhiều anh em bị lác, ngứa gãi như chơi đàn classic.

Chúng tôi rủ nhau ra tỉnh Sóc Trăng, ghé tiệm thuốc bắc mua thuốc xức lác hiệu “Ông Già” về xức cho bớt ngứa.

Quí bác KaQu nào, từng có kinh nghiệm về tiết mục “Lác nhẩy Disco” ở quân trường, thì biết được cái xót, cái rát khi bôi thuốc xức lác trên chỗ ngứa, nó sẽ thấm thía và đã như thế nào???

Với kinh nghiệm chiến đấu cho cái màn xức thuốc “Lác nhẩy Disco”, nên chúng tôi rủ nhau ra tiệm bán đồ điện ngoài phố mua vài cái quạt điện cổ lỗ sĩ Belair, loại để bàn đem về cư xá trị bệnh “Lác nhẩy Disco”

Trước khi xức thuốc lác, “vũ công” bệnh nhân phải chuẩn bị kỹ lưỡng:

-Quạt điện mở số 3 Maximum để sẵn trên bàn, nếu không có quạt điện, thì chuẩn bị sẵn một cái quạt tay.

-Sexy không quần toàn bộ phía dưới (đúng là dân Không Quần), dùng khăn tắm rằn ri quấn quanh eo ếch.

-Giai đoạn linh thiêng về chữa trị Lác thì thật là hấp dẫn, bắt đầu:

Mở nắp chai thuốc Lác, lấy cây tăm quấn bông gòn, chấm vào chai thuốc.
Vén khăn tắm, chê thằng cu lên cao

Lấy cây tăm quấn bông gòn đã nhúng thuốc, quét đều trên lớp da, nơi chỗ bị lác, 2 bên háng.

Khi quét thuốc xức lác trên chỗ da bị ngứa, thì màn nhảy Disco bắt đầu, miệng xuýt xoa úi cha!! Quá đã.

Quạt số 3 thổi vù vù, người nhẩy tưng tưng….

Thằng bạn tôi nhìn thấy hoạt cảnh “Xức Thuốc Lác” bèn hứng khẩu, nhái lên bài ca KQ Hành Khúc:

Không Quân Việt Nam có thêm thằng cu lác

Ù! U! U! U! Ủ! U! Ú….

Ôi! Không Quân chua léc, chua lè..

Không có nước tắm nên các chàng KaQu Sóc Trăng bị lác.

Không có nước tắm, nên KaQu Sóc Trăng chua léc, chua lè, đành phải TẮM BÚNG.

Nói đến tắm búng, thì có nhiều vị hỏi “Tắm Búng” là tắm cách nào?

Xin thưa! Tắm Búng, không cần nước, chỉ cần cởi áo, ở trần, sau đó xè bàn tay 5 ngón ra, lấy ngón giữa chà sát trên thân mình, cho tới khi nào bụi dơ và các tế bào khô cuộn với mồ hôi, vo tròn thành sợi chỉ, giống con trùng, rồi dùng ngón tay cái và ngón giữa bấu lại, búng một phát, cho cái cục hèm dơ văng ra ngoài không khí.

Người tắm búng dùng ngón tay, chà đi chà lại nhiều lần trên thân thể, rồi cứ thế búng hèm dơ bay lên không trung, cho tới khi chà lại, không còn hèm nữa…

Sóc Trăng thiếu nước uống, nước nấu ăn và tắm giặt. Lính tráng ca thán hoài. Nên cuối năm 1972, quân đội Mỹ rút khỏi VN. SĐ4KQ tiếp nhận phi trường 31st Cần Thơ gần lộ 20.

Hai PĐ225 và 227 ngay lập tức rút về Cần Thơ. Căn cứ Sóc Trăng bỏ ngõ, trao lại cho công binh tiểu khu Ba Xuyên.

Đáng lẽ hai phi đoàn 225 và 227 thuộc KĐ84CT phải rời về phi trường Trà Nóc đóng chung với phi đoàn 211 Thần Chùy cùng thuộc KĐ84CT.

Nhưng vì lý do bên phi trường Trà Nóc không đủ Ụ đậu phi cơ (parking) cho 3 phi đoàn trực thăng, nên phi đoàn 227 được dời về đóng đô trong phi trường 31st Cần Thơ, chung với các phi đoàn: 217, 249 Chinook, 255 và hai phi đội tản thương 259H & I – KĐ64CT…

Phi trường Cần Thơ đổi tên thành căn cứ 40CT do Đại tá Nguyễn Văn Bá từ Pleiku về làm Chi Huy Trưởng.

PĐ227 vẫn trực thuộc KĐ84CT. Bộ Chỉ Huy KĐ84CT đóng đô bên phi trường Trà Nóc, cách xa phi trường 31st Cần Thơ khoảng 15 – 20 cây số.

Các phi đoàn: 217, 249 và 255 + Phi Đội 259H Dust Off trực thuộc KĐ64CT đóng đô trong CC40CT Cần Thơ.

PĐ227 ở Sóc Trăng là phi đoàn gặp nhiều khó khăn về nước dùng hàng ngày. Nhưng lại hên và may mắn hơn PĐ225, sau khi rời từ Sóc Trăng về phi trường Cần Thơ, được ở gần thành phố.

Trong khi đó PĐ225 bad luck, phải rời về đóng đô trong phi trường Trà Nóc – Bình Thủy gần BTL/SĐ4KQ, gần BCH/KĐ84CT là gần mặt Trời.

Cư xá độc thân bên phi trường Trà Nóc là nhà trệt, ở tập thể, tường vách bằng gạch xi măng không tô vữa, không phòng riêng.

Từ Trà Nóc ra phố Cần Thơ khoảng 15 – 20 cây số, phải đón xe Daihatshu, Lambretta hoặc xe lôi.

Từ cư xá của các phi đoàn trực thăng, ra tới cổng chính, khá xa gần 2 cây số để đón xe, lên phố.

Các cư xá gần cổng phi trường Trà Nóc thì ưu tiên dành cho các phi đoàn quan sát và A37 Fixed Wing, vì các phi đoàn này có Ụ đậu máy bay gần cổng.

Trong khi đó, các VNAF đồn trú tại phi trường 31st Cần Thơ gần phố, cổng phi trường có nhiều quán xá, ra ngao du, phè phỡn, vì trước kia Mỹ đóng đô ở đây nên có nhiều quán và bar.

Nhất là các bác phi hành nhà ta. Buổi chiều nào cũng vậy, sau khi hành quân về, bà con tắm rửa, sạch sẽ, quần áo láng coóng, lội bộ ra bát phố Cần Thơ, xuống bến Ninh Kiều thả dê, dẫn đào vào Vườn ổi du hí, không cần phải xe cộ, cũng lội bộ ra phố được. Quân cảnh phi trường 31st cũng dễ dãi hơn bên Trà Nóc.

PĐ227 về phi trường 31st xa mặt trời BCH/KĐ84CT, cư xá khang trang, rộng rãi, có phòng cá nhân riêng, nước nôi đẩy đủ. Lại còn dư nước dùng để tưới cây, trồng cỏ nữa.

Trong phi trường Cần Thơ. BCH và Phòng Hành Quân của các phi đoàn trực thăng đóng đô ngay trước trạm Hàng Không dân sự Air Việt Nam.

Phòng họp của các phi đoàn đều ở trên lầu của các dẫy barrack, đối diện trạm hàng không VN Air lines. Bà con muốn thư giãn cứ lên phòng họp trên lầu của phi đoàn, ngồi nhìn ngắm khách thập phương đến Cần Thơ, nhất là được ngắm các Dì Tiếp Viên Air Rồng Lộn để rửa mắt.

Các cư xá trong phi trường Cần Thơ toàn là Barrack có lầu, xây cất thành từng hàng thẳng tắp, phòng ốc rộng rãi. Khoảng cách giữa các barrack của cư xá đều có lập sân bóng chuyền, cho anh em phi đoàn chơi thể thao, giải trí.

Kể từ ngày rời về phi trường 31st Cần Thơ, anh em PĐ 227 không còn phải Tắm Búng nữa.

Nhìn ai nấy đều sạch sẽ, thơm tho và hào hoa, đẹp trai hơn, không còn mùi chua hèm như lúc đóng ở Sóc Trăng trước kia.

Do đó anh em có thêm bài ca: “Có nước, thì thôi Tắm Búng”


Hồng Điểu Jo Vĩnh SA
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=495949807959974&set=a.127884628099829&type=3&theater

BachMa
07-05-2020, 09:12 PM
https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1593983197-21369441_744565682417297_1899273598182786197_n.jpg

:icon_banana: :icon_banana: :icon_banana:

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1593983210-20915632_736521713221694_6806795644733343517_n.jpg

:43: :43: :43:
https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1593983229-21751815_749052078635324_2269425264262543123_n.jpg

:ukliam2: :ukliam2: :ukliam2:

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1593983240-45111353_2142262846092168_563334941404823552_n.jpg

:Cheerleader: :Cheerleader: :Cheerleader:

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1593983250-89737652_788000178276252_5975455980220055552_n.jpg

:kk: :kk: :kk:

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1593983259-93414265_219127872748689_7066473150527045632_n.jpg

http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1405483401.gif

BachMa
07-21-2020, 04:28 AM
Chuyện Không Thể Đã Trở Thành Có Thể
---oo0oo---
Vào dịp cuối năm 1994, một buổi họp mặt các cựu tù nhân chính trị được tổ chức ở San Diego. Nhiều trại cải tạo ở miền Bắc được lần lượt xướng tên như “Phong Quang”, “Yên Báy”, “Vĩnh Phú”, “Thanh Cẩm”, “Lý Bá Sơ”, “Nam Hà”, “Phú Sơn” v.v Trại nào cũng có năm bảy anh đứng dậy và giới thiệu tên của mình. Khi xướng tên trại Nam Hà, tôi đứng dậy và có thêm bốn anh nữa , trong đó có một anh, tự giới thiệu tên của mình là Lê Trung Đạo. Tôi lẫm nhẫm Lê Trung Đạo, Lê Trung Đạo…sao tên nghe quen quá, hình như anh ấy ở chung đội với tôi thì phải. Khi phần giới thiệu các anh em trại Nam Hà chấm dứt, tôi đi đến bàn của anh Đạo, đứng đối diện và nhìn kỹ anh ấy.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1592185500-HQPD_ChuyenKhongThe_01.jpg
Hình minh họa

Tôi nhận ra anh Đạo ngay. Tôi ôm chầm lấy anh, và anh ấy cũng ôm tôi trìu mến. Tôi thì thầm bên tai Đạo : “Em còn nhớ anh không? ” Đạo trả lời ngay: “Anh Uyển, mà sao em có thể quên được, thật vui mừng được gặp lại anh. Em trông chờ ngày này đã lâu lắm rồi!”

Khi cùng sống trong cảnh đọa đày nơi trại Nam Hà, phân trại C, tôi và Đạo nằm gần nhau. Ra đồng, bắt được con cua, con cá, tôi và Đạo cùng chia sẻ với nhau. Đạo là một Thiếu Úy Cảnh Sát Đặc Biệt, mới ra trường, không biết làm Trưởng G hay H gì đó..mà bị đày ra cải tạo ở miền Bắc. Anh còn quá trẻ, khoảng 24, 25 tuổi. Tôi xem anh như một người em của tôi và tôi rất quý mến anh. Đạo chưa lập gia đình. Anh chỉ còn một mẹ già đang sống ở Vĩnh long. Anh sống hiền hòa, vui tính, nên anh em trong đội ai cũng mến .

Một hôm, đội được dẫn đi gặt lúa, khi đi ngang qua cổng cơ quan, Đạo thấy nhiều chiếc áo vàng đứng ở đó. Nhìn lướt qua, Đạo chợt thấy một nữ cán bộ nhìn anh mỉm cười. Anh không tin ở mắt mình, anh nghĩ rằng có thể cô ta cười vu vơ gì đó, chứ đâu phải cười với anh. Anh quay lại nhìn một lần nữa, vẫn thấy cô ta nhìn anh và mỉm cười.

Từ ngày ấy, mỗi khi đội đi ngang qua cỗng cơ quan, Đạo đều bắt gặp nụ cười của người nữ cán bộ dành cho anh. Vì vậy khi đi lao động, Đạo luôn luôn đi cuối hàng để dễ đón nhận nụ cười của cô nữ cán bộ. Đạo cũng cười đáp lễ với cô ta. Đạo bắt đầu thấy cuộc đời của mình, có một chút gì thi vị, đáng sống. Khi ăn, khi ngủ, nụ cười đó luôn luôn theo anh, cho anh niềm an ủi, và chút lạc quan để sống. Anh em trong đội đều biết mối tình mắt nhìn mắt và trao đổi nụ cười của Đạo và cô nữ cán bộ.

Vào một buổi sáng chúa nhật, chúng tôi được gọi ra sân để nhận quà của thân nhân từ trong Nam gởi ra. Thường thì 80 đến 90 phần trăm anh em đều nhận được quà. Riêng Đạo thì chưa bao giờ nhận được quà của thân nhân. Nhưng thật bất ngờ, hôm nay cán bộ lại kêu tên Đạo lên nhận quà, ai cũng ngạc nhiên và mừng cho Đạo.Anh nhận một gói quà bình thường, nhưng cách gói quà , khác với những gói quà từ trong Nam gởi ra. Đạo sững sốt nhận gói quà, đem về phòng, cẩn thận mở ra. Một mãnh giấy nhỏ nằm trên những gói đồ ăn, anh đọc vội hàng chữ “Trìu mến gửi anh Đạo – Em : Kim Chi”. Với mấy chữ ngắn gọn đó, Đạo biết ai gởi cho anh món quà tình nghĩa này. Anh ôm gói quà vào lòng. Anh không ngờ người nữ cán bộ có nụ cười dễ thương đó, lại dám liều lĩnh gởi quà cho anh. Hai hàng nuớc mắt chảy dài xuống má, đây là những giọt nước mắt hạnh phúc mà từ lâu anh không hề có.

Trại Nam hà, Phân trại C, nơi chúng tôi đang ở, phía sau là con đường làng. Trại chỉ ngăn cách với bên ngoài bởi những bụi tre thấp và hàng rào kẽm gai. Dân chúng đi ở ngoài, chúng tôi có thể thấy họ. Thường vào buổi chiều, sau khi ăn cơm xong , chúng tôi hay ra ngồi chơi ở sân sau đó, nhìn người qua lại. Một hôm, chúng tôi thấy cô cán bộ Chi đi lui, đi tới ở ngoài hàng rào, rồi thình lình quăng vào trong một cái gói nhỏ. Chúng tôi biết cô ấy gởi gì đó cho Đạo, chúng tôi mang vào cho anh. Đạo không biết Chi gởi gì cho anh, nhưng anh cảm động lắm. Anh em hiếu kỳ đứng quanh giường của của Đạo, để xem cô Chi đã gởi gì cho anh: đó là một gói xôi và một con gà vàng rộm.

Đối với tù nhân, đói triền miên như chúng tôi, thì gói xôi gà này là cao lương mỹ vị bậc nhất trên thế gian này. Đạo rất hào phóng, anh chia đều xôi, gà cho tất cả 32 anh em trong đội, mỗi người được một muỗng xôi và chút ít thịt gà. Có người ăn ngay, nhưng cũng có vài anh em để đó, hít hít mùi thịt gà cho đỡ thèm.

Đạo thấy thương Chi quá, vì yêu anh, nàng đã gan liều làm những việc như vậy, vì nếu bị phát giác, nàng ở tù như chơi. Đạo càng thương Chi khi nghĩ đến tương lai : một cán bộ công an yêu một sĩ quan cảnh sát ngụy..thì đời nào có thể sum họp được. Anh thở dài !

Vào một sáng chúa nhật, một anh trật tự đến phòng chúng tôi, bảo anh Đạo chuẩn bị ra có người thăm nuôi. Chúng tôi rất ngạc nhiên, vì từ bao năm nay, Đạo thuộc diện con mồ côi, chưa hề có ai gởi quà cho Đạo, nói gì đến chuyện thăm nuôi.Thế mà hôm nay, lại có người thân nào đó đến thăm Đạo. Chúng tôi mừng cho Đạo. Khoảng 9 giờ sáng, anh được cán bộ dẫn ra nhà thăm nuôi. Chúng tôi hồi hộp chờ Đạo trở vào để xem anh nhận được những quà gì của thân nhân đem đến.

Nhưng chúng tôi chờ mãi…đã ba , bốn giờ chiều rồi, vẫn chưa thấy Đạo trở vô trại. Thường một trại viên được gặp mặt thân nhân khoảng 15, 20 phút, tối đa là nửa giờ. Thế mà , Đạo ra nhà thăm nuôi đã hơn bốn, năm tiếng rồi mà chưa thấy vô. Chúng tôi bắt đầu lo lắng cho Đạo, không biết chuyện gì đã xảy ra cho anh, lành hay dữ. Và từ đó, chúng tôi không còn biết tin tức gì về Đạo nữa.

Hôm nay gặp lại Đạo, tôi đem chuyện ấy ra hỏi Đạo, anh đã kể cho tôi nghe câu chuyện sau đây:

“ Anh nhớ không, ngaỳ chúa nhật hôm đó, em được dẫn ra nhà thăm nuôi, nói là có thân nhân đến thăm. Em vô cùng ngạc nhiên vì em đâu có thân nhân nào từ trong Nam có thể ra thăm em. Bước vào nhà thăm nuôi, em thấy Chi và một ông Thượng Tá công an ngồi ở đó.Chi vội vã đứng lên giới thiệu : “Đây là cậu Du của Chi, đang công tác ở tỉnh Thái Bình, em nhờ cậu ấy đến thăm anh.” Đạo bối rối nhìn Chi, nhìn ánh mắt, nụ cười của Chi. Chi mặc đồ công an, trên cổ áo có đeo quân hàm Thiếu Úy. Chi biết Đạo ngõ ngàng, thắc mắc nên cô nói ngay : “Anh đừng lo, em bảo anh làm gì thì cứ làm theo, chớ có hỏi han gì hết”. Chi dẫn Đạo vào một căn nhà ở gần nhà thăm nuôi, nhà không có ai cả. Chi bảo tôi cởi bộ áo quần tù ra, và mặc ngay bộ đồ công an đã để sẵn ở đó; ngoài áo quần, có cả nón, cặp da và giấy chứng nhận đi công tác miền Nam.

Tôi như trên trời rớt xuống, nhưng không có thì giờ để hỏi Chi, việc gì đang xảy đến cho tôi. Khi tôi đã mặc xong bộ đồ công an, Chi nhìn tôi mỉm cươì , rồi kéo tôi ra ngỏ, bảo tôi leo lên một chiếc xe Jeep nhà binh đậu sẵn ở đó., và chạy ra ga xe lửa Phủ Lý. Chi bảo tôi cứ ngồi trên xe, Chi vào mua vé xe lửa đi về Sàigòn. Khi đưa tôi lên xe lửa, Chi ân cần căn dặn: “Không nên về nhà, cũng đừng liên lạc với mẹ, mà tìm một người bà con nào đó ở tỉnh khác xin trú ngụ vài ngày, rồi tìm đường vượt biên. Tốt nhất là đi đường bộ qua ngã Campuchia”. Chi đưa cho tôi một gói giấy và nói: “Đây là ít tiền để anh tiêu dùng, nhớ là phải vượt biên ngay nhé!”. Chi cầm tay tôi và chân thành nói : “Em là vợ của anh, anh đừng quên em!”. Tôi ôm Chi vào lòng, nước mắt ràn rụa. Chi cũng khóc trên vai tôi. Xe lửa từ từ lăn bánh, hình ảnh Chi cô đơn đứng một mình trên sân ga, nhỏ dần, nhỏ dần.. Tôi thấy nhiều lần Chi đưa tay lên lau nước mắt. Trong tim tôi, mối tình mà Chi dành cho tôi quá sâu đậm, đã chiếm trọn cuộc đời tôi.

Tôi vỗ vỗ vào trái tim của mình “Đạo, Đạo, mày phải sống xứng đáng để đền ơn đáp nghĩa cho Chi nghe chưa”

Khi xe lửa dừng lại ở ga Bình triệu, Sàigòn, tôi không về nhà tôi ở Vĩnh Long, mà đến nhà dì tôi ở Cần Thơ xin trú ngụ.Chồng của dì tôi là một Đại úy Công Binh Việt nam Cộng Hòa, trước năm 1975, ông phục vụ ở Tiểu Đoàn 24 Công Binh Kiến tạo, mới được trả tự do. Gia đình dì, dượng tôi đang âm thầm chuẩn bị vượt biên. Dì, dượng tôi vui vẻ chấp thuận cho tôi cùng đi theo. Tôi đã đưa gói tiền mà Chi trao cho tôi, cho dì tôi để bà tiêu dùng. Mở gói ra xem, dì bảo tôi : “Tiền đâu mà cháu có nhiều vậy?” Tôi trả lời ngay : “Của vợ con cho đó!”

Vào một đêm tối trời, ghe máy chở cả nhà ra cữa biển Đại Ngãi, vì tàu lớn đang đậu ở đó. Sau 3 ngày và 4 đêm, tàu của chúng tôi đã đến hải phận Thái Lan, được tàu tuần duyên của Thái Lan đưa về trại Sikiew. Trong cuộc phỏng vấn thanh lọc, nhân viên Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc hỏi tôi rất ít. Tôi nghĩ là họ có đầy đủ hồ sơ cá nhân của ngành Cảnh Sát Đặc Biệt. Họ chỉ hỏi tôi là làm Trưởng G hay Trưởng H, tôi trả lời. Người nhân viên đó lấy trong tập hồ sơ ra một tấm ảnh, anh nhìn tôi rồi gật đầu.Thế là tôi vượt qua cuộc thanh lọc. Mấy tháng sau, họ chuyển tôi qua trại Pulau Bidong ở Mã Lai, để chờ chuyến bay đi định cư ở Mỹ.

Tôi mau chóng gởi thư cho má tôi ở Vĩnh Long, báo tin tôi đã bình yên đến trại Pulau Bidong ở Mã Lai, đang chờ chuyến bay để đi định cư ở Mỹ. Khoảng 2 tuần sau, tôi vui mừng nhận được thư hồi âm của má tôi, và một bất ngờ thú vị đến với tôi là có cả thư của Chi nữa! Má tôi đã viết cho tôi : “Đạo con, má rất vui mừng nhận được tin con đã đến nơi bình yên. Má cho con biết là Chi đang ở đây với má. Chi đã kể cho má nghe hết mọi chuyện. Má rất hạnh phúc có được một con dâu hiếu thảo như Chi, má mừng cho con”

Đạo run run mở thư của Chi ra đọc: “ Anh Đạo yêu quí của em, nghe anh đã đến đảo và đang chờ chuyến bay để đi Mỹ, má và em mừng quá anh ơi. Khi anh đi về Nam chưa đầy một tháng, họ đuổi em ra khỏi ngành công an. Em đã về Vĩnh Long ở với má, em thay anh phụng dưỡng, săn sóc má, anh yên tâm ! “

Với lời lẽ chân tình, mộc mạc, tôi uống từng chữ, từng lời trong bức thư ngắn gọn của Chi, tôi áp bức thư vào ngực và đi vào giấc ngủ.

Năm 1982, tôi được đi định cư ở Mỹ. Khi có thẻ xanh, tôi đã làm hồ sơ bảo lãnh Chi. Trong thời gian ở với má tôi ở Vĩnh Long, không biết Chi hỏi thủ tục bảo lãnh ở đâu mà nàng ra Thái Bình, nhờ người cậu Thượng Tá Công An của nàng, làm một giấy hôn thú của tôi và Chi, có đầy đủ chữ ký và khuôn dấu đỏ xác nhận của chính quyền địa phương.

Năm 1987 khi tôi được nhập quốc tịch Mỹ, tôi đã bổ túc hồ sơ bảo lãnh. Chi đã nhanh chóng được phỏng vấn. Lúc này, những trường hợp gian dối chưa xảy ra nhiều, nên việc chấp thuận cho chồng bảo lãnh vợ tương đối dễ dàng nếu có đầy đủ giấy tờ chứng minh.

Vào một ngày se lạnh ở miền Nam Cali, tôi và vài bạn bè thân quen đến đón Chi ở phi trường Los Angeles. Tôi ôm Chi vào lòng, vì quá cảm động, tôi chỉ thốt lên được một tiếng “Em!” Chi cũng vậy, nàng thổn thức trên vai tôi “Anh!”. Chỉ 2 tiếng “Anh” “Em”, nhưng đã gói trọn cuộc tình mà chúng tôi nghĩ là không bao giờ có thể sum họp được. Tạ ơn Trời Đất !

Đạo xây qua người đàn bà ngồi bên cạnh anh, và giới thiệu với tôi : “Thưa anh, đây là Chi, vợ em” Chi bẽn lẽn cúi đầu, che dấu nụ cười đã đem lại sức sống và hạnh phúc cho Đạo.

Tôi đã được nghe , được biết nhiều mối tình ly kỳ, éo le lắm. Nhưng nếu nói đến một mối tình thật lãng mạn, mà người con gái đã dám hy sinh sự nghiệp và cả tính mạng mình cho người yêu, thì không thể không nói đến mối tình của nàng Kim Chi và chàng Trung Đạo.

https://www.facebook.com/photo.php?fbid=2726860970968466&set=a.1404212433233333&type=3&theater&ifg=1

BachMa
07-29-2020, 06:06 PM
Người Ta Đi Lính Mang Lon
Lê-Phi-Ô
Mới đọc qua ai cũng tưởng tôi kể chuyện vui, đối với tôi đây là những chuyện buồn... Vì những người tôi đề cập trong bài... họ đã không còn nữa! Họ đã vĩnh viễn ra đi vào một thế giới xa xăm khác với thế giới chúng ta đang sống, và... tất cả những người này đã gục ngã vì đạn thù trên bước đường lui binh trong trận chiến Võ Ðắt tháng 3 năm 1975 !

9 tháng quân trường,
12 năm chiến đấu,
7 năm trong trại tù “cải tạo” tập trung.

Sống và lớn lên trong lửa đạn, gian lao và tù đày... thời gian đã tạo cho tôi một hình hài già nua... cằn cỗi.

Bây giờ thì bạn bè mỗi đứa một phương, người tình rồi cũng bỏ tôi mà đi... Xen lẫn trong quá khứ kiêu hãnh là một hiện tại... trống vắng, cô đơn và nhiều... nuối tiếc !

Có nhân...xa rồi ! Biết đến bao giờ ta gặp lại cố nhân để được sống lại những phút huy hoàng trong sắc mùa chinh chiến cũ...!!! - LPO


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1595867938-HQPD_NguoiTaDiLinhMangLon_01.jpg
Hình minh họa

“Người ta đi lính mang lon,
Chồng em đi lính mang xoong mang nồi!”

Hạ Sĩ I Thí, hỏa đầu quân, cùng binh nhì Long đang khiêng cái chảo gang to tổ bố lên gần tới đỉnh đồi... bỗng ông nghiêng vai hất cái đòn gánh làm cái chảo vừa to vừa nặng rơi xuống đất nghe một cái... “bịch” và B2 Long khiêng phía đàng trước suýt té ngửa theo cái chảo. Hạ Sĩ I Thí chửi thề: “Tiên sư cha thằng nào mới nói đó?” rồi ông quắc mắt nhìn chầm chập vào mặt B1 Niên đang đi gần đó.

chửi tiếp: “Mẹ... mày, mày mang chỉ mỗi cái ba-lô. Ngoài cái ba-lô, tao còn mang ruột tượng gạo và khiêng cái chảo nữa... Mệt thấy mẹ, mày không khiêng phụ... còn móc lò nữa hả thằng khốn kiếp?! ... Lát nữa, tao đéo nấu cơm, cho tụi mày đói thấy mẹ tụi mày luôn!” Chửi xong, ông vất cái ba-lô đang mang xuống đất thật mạnh làm cái xoong cột trên ba-lô méo một bên.

B1 Niên nín khe. Nó không ngờ câu nói đùa đã khiến Hạ Sĩ I thí nổi cơn điên như vậy! Mà không điên sao được. Từ sáng đến giờ, Hạ Sĩ I Thí lu-bu với các vật dụng nhà bếp không có cả thì giờ ăn sáng, bụng đói còn phải khiêng cái chảo to nặng lên đồi cho kịp nấu cơm trưa cho cả đại đội... ăn.

Mặc dù đã đổi phiên cho hai anh hỏa đầu quân khác khiên chảo rồi, nhưng vì... HS1 Thí lớn tuổi, người lại gầy nhom ốm yếu và lại còn leo đồi giữa trưa nắng cho nên ông mệt muốn... đứt hơi mà lại còn bị cái “thằng khốn nạn” chọc quê, không tức sao được !

Tối hôm đó, thằng Niên mon men lại gần HS1 Thí, ông Thí trừng mắt ngó nó như muốn đổ lửa. Thằng Niên ấp úng: “Bố, hồi trưa...” HS1 Thí giận dữ: “Bố cái con c..., ai cho mày gọi tao là bố. Mày mà còn giở trò chọc ghẹo nữa, tao phang cho cái xẻng chết mẹ bây giờ!” Thằng Niên thành khẩn: “Hồi trưa con lỡ nói chơi khiến bố giận, con xin bố tha lỗi cho con !” Nó ấp úng tiếp: “Bố đừng buồn con... nha bố !”


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1595867954-HQPD_NguoiTaDiLinhMangLon_02.jpg
Hình minh họa

Vẻ mặt thằng Niên thành khẩn đến độ thiểu não. HS1 Thí có vẻ nguôi giận, ông nín thinh một hồi rồi đột nhiên ông thấy tủi thân, ông... khóc. Thằng Niên hoảng hốt, nó ôm chầm hai vai HS1 Thí và nó cũng khóc!

Lỗi này là do nơi ông đại đội trưởng. Mới đổi về, ông có ý tốt, chọn những người ốm yếu, lớn tuổi, và nhất là HS1 Thí cũng sắp giải ngũ vì lý do gia cảnh nên ông cho họ ở ban hỏa đầu vụ để đỡ phải hành quân, phục kích đêm... Có lẽ ông nghĩ công việc này nhàn hạ, chỉ ngày hai buổi đi chợ nấu cơm, mà đâu dè cũng là gánh nặng mà ông không biết.

Người ta nói “quả báo nhãn tiền” đôi khi cũng đúng. Ðơn vị tôi đột kích vào mật khu Việt Cộng. Bọn du kích bỏ chạy, chúng tôi tịch thâu được vài khẩu Carbine, súng Mas. 36, 2 bao gạo, vài chục ký cá khô và cá hộp, v.v... B1 Niên tịch thu được một cái thau nhôm thật lớn, định bụng sẽ tặng ban hỏa đầu vụ, có lẽ tặng HS1 Thí thì đúng hơn.

Nó ôm cái thau trước bụng. Khi di chuyển người đi trước chạm vào nhánh cây thấp và nhánh cây bật ngược đập vào cái thau nghe leng keng. Trung đội trưởng bảo nó úp cái thau vào phía sau đít mà đi, tránh gây tiếng động kẻo bọn Việt Cộng sẽ nghe thấy. Lúc leo dốc, không hiểu B1 Niên trợt chân thế nào mà lại té ngồi lên cái thau... và cứ thế, cái thau như một vật trượt tuyết chở nó lao xuống đồi thật nhanh, va vào hết cây này đến cây kia, các nhánh cây thì quất vào thau, vào người nó tơi tả. Mọi người cố chạy theo cứu nó nhưng không kịp. May sao, một bụi gai tre chận nó lại... cái thau thì móp méo và thủng cả đáy, đít thằng Niên bị trầy trụa rướm máu, còn cái mỏ nó thì bị so le vì bị cây đập vào môi trên sưng vù. Nếu không có bụi gai tre cản lại có lẽ cái thau đã lôi tuột nó xuống đường thông thủy đầy đá lởm chởm thì chỉ có chết hoặc ít ra cũng gãy tay gãy chân. Mọi người vừa thương hại vừa tức cười. Thật đáng đời cái thằng hay nghịch ngợm, hay chọc phá người này đến người nọ. Một người nói: “Ðúng là người gian mắc nạn!”

Chưa hết...

Cạnh đồn có nhà ông Năm Giáp. Ông có hai đứa con trai lớn đều đi lính ở xa, ở nhà chỉ còn hai vợ chồng già và cô con gái út. Cô Thơm vừa tròn 17 tuổi trông rất... mát mắt. Mấy ông lính nhà ta, nhất là... mấy ông nhóc quân dịch tuổi chừng 19, 20 thường lân la đến nhà cô Thơm thăm... hai bác !


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1595867967-HQPD_NguoiTaDiLinhMangLon_03.jpg
Hình minh họa

Thằng Long là một trong đám lính đó. Nó “lết bánh” vì cô Thơm. Ngày nào không ghé qua nhà ông Năm Giáp là ngày đó nó thẫn thờ như người mất hồn. Nó thường khoe với bạn là nó thương cô Thơm lắm, thương cũng bằng thương má nó ở nhà và cô Thơm cũng thương... nó nữa! Bất cứ một tân binh nào mới đổi về nó cũng rủ ra nhà cô Thơm... thăm ông bà Năm.

Một hôm, nó vừa bước ra sau vườn thì thấy cô Thơm đang hái me, vừa nhảy cao vừa lấy cây đập nhưng cô Thơm vẫn không làm sao hái được me. Thấy thế, thằng Long nhào tới giúp liền. Nó ấp úng: “Thơm để đó, tôi... hái ‘giùm’ cho” và nó nhanh nhẹn cởi giày, cởi quần trận ra, leo một thoáng là đã ngồi trên cháng ba của cây me.

Nó đứng trên một nhánh lớn, tay trái vịn vào một nhánh khác, tay phải với tìm những trái me “giốt,” loại me gần chín, hái lia lịa và liệng xuống cho cô Thơm lượm.

Nhưng... khi nhìn xuống thì không thấy cô Thơm đâu cả! Nó hỏi thằng bạn đứng dưới gốc: “Ê, Xuân! Thơm đâu rồi?” Thằng Xuân trả lời: “Ði rồi!” Thằng Long ngạc nhiên:

“Ủa! Ði đâu vậy ?” Thằng Xuân ái ngại: “Tao không biết, nhưng chắc đi luôn rồi. Thôi... xuống đi.”

Nghe Xuân nói vậy, Long vội tuột xuống, mắt nhìn dáo dác: “Sao bỏ đi đâu vậy ?” Thằng Xuân thấy tội nghiệp bạn mình: “Gặp tao, tao cũng đi nữa là... cô Thơm.” Thằng Long chưa hiểu, lẩm bẩm: “Sao bỏ đi vậy cà!?” Giọng thằng Xuân trở nên gắt gỏng: “Mầy là cái thằng cà chớn! Leo cao hái me mà lại mặc quần xà lỏn, cái quần... rộng rinh.

Cô Thơm đứng dưới nhìn lên thấy mẹ nó... hết rồi !” Thằng Long lại vẫn chưa hiểu: “Thấy cái gì?” Tức quá, Xuân nói như gây lộn: “Thấy trái me... của mầy chứ thấy gì!”

Lúc nầy, thằng Long mới hiểu, nó sượng chín người, mặt đỏ bừng lên nhưng cặp mắt thì như đứng tròng. Nó lúng ta lúng túng trông thật tội nghiệp, rồi bất thần nó nhắm hướng đồn đi nhanh như chạy, làm thằng Xuân chạy theo muốn hụt hơi.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1595867979-HQPD_NguoiTaDiLinhMangLon_04.jpg
Hình minh họa

Từ đó, cô Thơm tránh mặt nó. Mỗi lần đi chợ, ngang qua cổng đồn thì cô Thơm đi vòng ra sau dãy nhà đối diện đồn để khỏi đụng mặt thằng Long. Và thằng Long thì không dám đến nhà ông Năm Giáp nữa... Mỗi khi bất chợt thấy bóng dáng một người con gái xa xa là nó vội tránh mặt liền vì sợ phải gặp mặt cô Thơm. Cũng từ đó, suốt ngày nó lẩn quẩn trong sân đồn, thỉnh thoảng liếc mắt nhìn về hướng nhà cô Thơm, buông những tràng thở dài nghe mà đứt... ruột. Và cũng từ đó, hai người xa nhau, xa nhau chỉ vì một lý do... thật lãng nhách!

Rồi...

Ðơn vị tôi di chuyển vào trong rừng để truy lùng một đơn vị địch quân cấp tiểu đoàn mà cách đây hai ngày chúng đã phục kích quân ta tại khu vực cầu Lăng Quăng, ranh giới của xã Võ Xu, Hoài Ðức, và xã Duy Cần thuộc quân Tánh Linh, Bình Tuy, gây thiệt hại trung bình cho ta, trong đó có hai sĩ quan bị tử thương là Ðại Úy Hiếu, Chi Khu Phó CK Tánh Linh, và Ðại Úy Khải, Ðại Ðội Trưởng ÐÐ.720/ ÐPQ.

Khoảng 9 giờ sáng, đang di chuyển thì bỗng nhiên cánh quân phía trước khựng lại, tôi chụp ống liên hợp từ tay âm thoại viên hỏi cánh quân đi đầu: “Một... Trung Hiếu... gọi.” (Im lặng vô tuyến). Tôi gọi tiếp... cũng không nghe tiếng trả lời. Tôi lại gọi với giọng gắt gỏng: “Trung Hiếu gọi Một nghe rõ không, nói đi.” Vẫn im lặng, tôi điên tiết... phóng vội lên phía trước định đập anh âm thoại viên Trung Ðội 1 một trận, vì đối với đơn vị tác chiến nhất là đang di chuyển trong vùng có địch thì sự liên lạc vô cùng quan trọng, gọi chưa dứt lời là phải có sự đáp trả tức khắc.

Vừa được mấy bước thì thấy vài anh lính chạy ngược lại, mặt mày hơ hãi... Tôi ngạc nhiên! Lại một tốp lính nữa chạy ngược về phía sau và mặt mày người nào cũng có vẻ hốt hoảng, tôi quát khẽ: “Ðứng lại, cái gì đó?” Họ không trả lời mà còn chạy nhanh hơn. Thật là quái đản !? Tôi chưa kịp hỏi tại sao thì cả đám lính phía trước ùa chạy ngược lại phía sau... mặt họ trông càng khiếp đảm hơn! Lập tức, tôi cho dàn đội hình tác chiến.

Chuẩn Úy Minh, Trung Ðội Trưởng Trung Ðội 1, đi đầu, tay ôm mặt, tay vịn nón sắt chạy vụt qua mặt tôi ngược chiều. Tôi vói tay chụp cái ba-lô kéo giựt Chuẩn Úy Minh lại và nói như thét: “Ðứng lại! Tại sao chạy ?” Chuẩn Úy Minh không nói mà lại đưa một ngón tay chỉ về phía sau lưng hướng lên trời và lại bỏ chạy thật nhanh.

Tôi quá đỗi kinh ngạc! Cái gì làm cho họ sợ đến như vậy?! Nếu gặp Việt Cộng thì họ nổ súng, đàng này... hoàn toàn không có một tiếng súng nào cả! Hay họ gặp thú dữ?

Ðiều này cũng không đúng vì rừng này làm gì có cọp beo, chỉ có voi thôi. Nhưng lính tráng súng ống đầy trời như vậy thì cả trăm con voi đi nữa cũng đâu có thể làm họ sợ đến như vậy!? Hay là họ gặp... ma? hoặc gặp... quỷ gì đó?! Nhưng quỷ ma thì chỉ sợ lính chứ lính làm gì sợ ma quỷ!!! Và cứ thế, cả đoàn quân âm thầm bỏ chạy gần hết.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1595867995-HQPD_NguoiTaDiLinhMangLon_05.jpg
Hình minh họa

Phía trước tôi... bỏ chạy, phía sau tôi... bỏ chạy, chính giữa... ngay cả anh truyền tin mang máy cho tôi cũng... bỏ chạy! Tôi bắt đầu rúng động bởi hiện tượng kỳ quái này mà chỉ có trong sách kiếm hiệp của Kim Dung may ra mới có... Thì, một cái gì, một vật gì thì đúng hơn, nhỏ cỡ ngón tay,... Không phải một mà... là hai, rồi ... ba, chạm mạnh vào má, vào trán tôi đau đến nhảy dựng lên và nước mắt, nước mũi tôi túa ra... Tôi chợt hiểu và bây giờ thì tới phiên tôi... bỏ chạy!!!

Thì ra thằng ôn dịch nào đi đầu... không biết mắt mũi để ở đâu mà nó lại lủi nhằm phải ổ ong vò-vẽ. Lũ ong giật mình hốt hoảng bay túa ra và khi nhận diện được... kẻ thù, bọn chúng xông vào tấn công tới tấp. Khổ nỗi là cánh quân của tôi lại quàng khăn đỏ. Trong rừng, màu đỏ tương phản với màu xanh của cây lá nên bọn ong thấy rất rõ “kẻ thù” nên tấn công rất chính xác. Chạy tới đâu, bọn chúng rượt theo tới đó. Có người bị chích rồi... con khác lại bu vào chích tiếp... quyết không tha.

Ðang chạy trối chết thì có ai đó la lớn: “Liệng trái khói... Liệng trái khói!” thế là đủ các màu vàng, đỏ, tím,... tuông ra mù mịt... Lính tráng lớp bị ong chích, lớp bị hít phải khói màu ho sặc sụa, rên hù hù, trong đó có tôi! Nhưng tất cả phải gồng mình ráng chịu... vì ra khỏi vùng có khói thì sợ ong chích. Khói màu làm lũ ong sợ hãi, chúng không dám đáp xuống tấn công nữa mà lại bay tít tận ngọn cây, quầng qua quầng lại cả ngàn con trông thấy phát ớn lạnh. Tôi từng xem phim The Longest Day... cảnh máy bay đồng minh tấn công quân Ðức tại mặt trận Normandi nhưng vẫn còn thua xa đám máy bay... ong này.

Chưa hết! Trong khi anh em liệng khói màu để cản bầy ong thì... một ông tân binh đứng cạnh tôi hoảng hốt, đưa tay lôi trái lựu đạn đeo nơi dây ba-chạc phía trước ngực định rút chốt, may mà tôi nhìn thấy và ngăn cản kịp lúc nếu không thì... chắc chết cả đám. Vì, thấy người ta liệng khói màu, ổng cũng tưởng là ổng có... khói màu!

Coi như cuộc hành quân... thất bại! Cánh quân trên trăm người chạy tán loạn trong rừng và lạc nhau gần hết. Tới 4 giờ chiều tối chỉ gom lại được phân nửa. (Ong vò-vẽ thường làm ổ ở các lùm bụi thấp chứ không làm trên cao như loại ong mật.)

Ðịnh bắn súng gọi những người đi lạc nhưng lại sợ lộ mục tiêu cuộc hành quân nên tôi gọi pháo binh xin bắn đạn khói. Ðài tác xạ gọi tôi xin cho tọa độ, tôi bảo: “Bắn đâu cũng được... không cần tọa độ !” Họ tưởng tôi điên nên không chịu bắn. Tôi gọi tiếp, họ trả lời là... Họ chưa bao giờ gặp một đơn vị hành quân nào xin bắn pháo binh mà không cho biết... tọa độ! Nghe họ nói, tôi hơi bị “quê” một phút, và tôi bắt đầu giải thích... Văng vẳng trong máy, nhiều chuỗi cười rộ làm tôi thấy “quê” thêm. Thực ra, tôi chỉ muốn anh em chạy lạc trong rừng họ nghe được tiếng súng đại bác 105 ly depart họ sẽ biết hướng chi khu nằm ở đâu để họ tìm đường về. Thế thôi.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1595868006-HQPD_NguoiTaDiLinhMangLon_06.jpg
Hình minh họa

Người tôi mệt lả vì cả ngày chẳng có hột cơm vì còn phải lo chạy giặc... ong, phần bị ong chích bắt đầu lên cơn sốt. Loại ong này độ 20 con thôi... chích vào một con trâu thì trâu cũng chết huống chi là con người. Cả đoàn quân khi ra đi thì... Trời nghiêng Ðất lở... bây giờ thì chỉ còn lại một đám bại xụi, đứa thì rên, đứa thì khóc hu... hu vì đau nhức quá không chịu nổi !

Ðêm đó, bệnh viện Quân Dân Y đầy ắp người. Cả hàng trăm người tụ tập ở đó, vừa lính... “bại trận,” vừa thân nhân của họ. Có điều khác lạ là thân nhân không khóc, không kể lể rên rỉ như những lần lính được tải thương từ mặt trận, mà lần này... lính càng rên thì thân nhân, cười rất... vui vẻ, cười rất sảng khoái. Kiểm điểm lại, có bảy ông “bại binh” phải chở vào Tổng Y Viện Cộng Hòa, hơn 20 chục ông phải nằm lại bệnh viện Quân Y để điều trị tiếp, còn lại bao nhiêu trở về hậu cứ để cho y-tá tiểu đoàn chăm sóc.


*****

Ðã 44 năm trôi qua... kể từ tháng 4-1975 mà nỗi đau thương, bất hạnh đã đổ chụp xuống đất nước và trên đầu dân tộc chúng ta. Cho dù có còn kéo dài bao lâu đi nữa... tôi vẫn không bao giờ quên được những năm tháng tuổi trẻ trong đời, những tháng năm mà tôi đã sống cho lý tưởng, cho tình yêu và cho những nồng ấm trong tình chiến hữu, cho đời lính buồn nhiều hơn vui và đầy bất trắc.

Mỗi tháng 4 về là thời gian làm cho hoài niệm trong tôi bùng lên mãnh liệt nhất. Tôi nhớ bạn bè tôi, tôi nhớ đồng đội tôi, và nhớ chiến trường xưa những chiều loang lửa đạn. Những chuyện tôi kể trong bài này là những đặc điểm của từng người làm tôi không bao giờ quên họ được. Ðã 44 năm rồi, đây là lần đầu tiên tôi mới kể ra, kể ra để san sẻ, để vơi bớt trĩu nặng tâm tư và cũng để... biết đâu, tôi sẽ không còn dịp để kể.

Tôi không muốn kể những chuyện vui nhất là trong Tháng Tư Ðen, đối với tôi đây là những chuyện buồn... Vì những người tôi vừa đề cập đến... họ đã không còn nữa! Họ đã ra đi vĩnh viễn vào một thế giới nào xa xăm khác với thế giới chúng ta đang sống, và... tất cả những người này đã gục ngã vì đạn thù trên bước đường lui binh trong trận chiến Võ Ðắt tháng 3 năm 1975 !

Lê-Phi-Ô
Cựu Tiểu Đoàn Trưởng TĐ344/ĐP - Bình Tuy
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=2336853429942382&set=pcb.714955579051709&type=3&theater&ifg=1

BachMa
08-07-2020, 05:28 PM
Tháng Ba Định Mệnh
Võ Đức Nhuận
Với những dòng này, mong đóng góp chút ít tư liệu về cuộc chiến, và những gương hy sinh của các Sĩ Quan QLVNCH, những anh hùng không tên tuổi đã nằm xuống trong cuộc chiến, để giữ gìn miền Nam êm ấm thanh bình gần 3 thập niên từ sau 1945-1975...


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1590164964-HQPD_ThangBaDinhMenh_01.jpg
Hình minh họa

... Những ngày cuối tháng 3, trời mưa như trút nước, cả ngày lẫn đêm, như xót thương cho số phận non sông Bình Định đã rơi vào tay của lũ vô thần. Qua hơn 2 ngày đêm, chúng tôi không có gì để ăn, ruột đói cồn cào, quần áo ướt sũng, thật đói và lạnh. Chúng tôi đi ngang qua những đám gò trồng đậu phụng, nhổ lên hy vọng kiếm củ ăn cho đỡ đói lòng, nhưng vào mùa đó cuối tháng 2 Âm Lịch, củ còn rất non.

Chúng tôi rửa bằng nước mưa, nhai lấy nước mà thôi. Chúng tôi qua những cánh đồng bắp cũng thế , chỉ ngậm lấy nước. Qua ngày thứ 3, cả ba chúng tôi đều bị tiêu chảy, kiệt sức không còn đi nổi. Tôi thấy tình hình như vậy, chắc là số phận tôi không xong rồi, nên nói với hai anh bạn đồng hành:“Tôi không đi nổi nữa rồi, hai anh còn sức cứ đi theo hướng Đông ra biển may ra còn tàu của hải quân của quốc gia bốc các anh về Sài Gòn.”Thật là cảm động, tuy không cùng đơn vị nhưng hai anh lính nói:

“Đại Uý đi thì chúng tôi đi, ông ở lại chúng tôi ở lại. Chúng tôi không nỡ bỏ ông ở đây!”

Không còn cách nào khác, chúng tôi đành vào làng, may ra xin được thức ăn và dưỡng bệnh sau đó tiếp tục cuộc hành trình. Sau đêm thứ 3, chúng tôi đến một ngôi làng, trước vài thửa ruộng của ngôi làng có một cái chòi, chúng tôi vào chòi khoảng 2, 3 giờ sáng.

Chúng tôi vắt cho khô quần áo, nằm ngủ đợi trời sáng. Sau những ngày đói lạnh, bệnh tật, chúng tôi nằm thiếp đi cho đến khi mặt trời mọc. Sáng hôm đó chúng tôi vào một nhà dân gần đó, để nhờ họ cho cơm ăn và dưỡng bệnh, để có sức mà đi. Chủ nhà là một người đàn bà nhà quê trông cũng bình thường như những bà nông dân khác,không có gì phải nghi kỵ. Sau khi nấu cơm cho chúng tôi ăn xong, chủ nhà chỉ cho chúng tôi bộ ván để lên nằm nghĩ lưng. Ôi thật là một bữa cơm ngon nhất trong đời, dầu chỉ có cơm trắng với bầu luộc và mắm ruốc.

Nửa giờ sau, du kích đã vào nhà, súng AK chỉa đầu, bắt chúng tôi trói ké dẫn đi. Tâm trạng tôi lúc này chỉ còn biết tới đâu hay tới đó mà thôi. Sự sống còn phó mặc cho số mệnh. Chúng tôi bị dẫn đi nhiều nơi, đôi khi là trụ sở của làng, đôi khi là trường học, có khi là ngôi đình làng. Dần dần số người bị bắt cứ tăng lên. Nhiều khi một ngôi trường Tiểu học nhỏ, mà nhốt số người lên đến hàng trăm.

Đêm đến không có chỗ nằm, chỉ ngồi mà thôi. Ôi thật là những ngày ghê gớm nhất của cuộc đời, không biết còn có cảnh khổ nào hơn không?

Chúng tôi không được cho ăn uống chi cả. Tự ai có gì nấy ăn mà thôi. Ngày hôm sau, chúng tôi bị dẫn về hướng Tây, không gian vô định, ai biết mình sẽ bị đưa về đâu, và sống còn đến ngày nào. Khoảng thời gian này, không có một quy ước hay chính sách gì cả, hễ ai bất tuân bọn chúng, thì coi như bị bắn bỏ. Trong đoàn chúng tôi đi, có một binh sĩ còn trẻ, không dè dặt với chúng, đôi khi anh ta đi ngoài hàng một chút thì bị bọn chúng lôi ra bắn ngay. Thật là dã man! Chúng muốn bắn để khủng bố tinh thần của mọi người. Ôi sinh mạng con người nhỏ hơn là con ong, cái kiến. Dọc đường quốc lộ 19, từ Bình Khê lên đến chân đèo An Khê, trước kia có lực lượng của SĐ 22 Bộ Binh trấn đóng. Tôi không nhớ rõ là Tiểu Đoàn nào, nhưng thuộc Trung Đoàn 41.

Trước đây có một trận đánh thật là ác liệt, hai bên vệ đường tử thi của các chiến sĩ VNCH nằm la liệt, có lẽ đã xẩy ra gần nửa tháng rồi, cơ thể bắt đầu sình thúi chỉ thấy quân phục và sọ người trắng hếu. Một số tử thi khác thì còn loang lổ một ít tóc trên phần sọ đã rữa. Mùi tử khí xông lên nồng nặc khắp trời. Ôi chiến tranh và thân phận con người, tôi lại nhớ đến mấy câu thơ của bà Đoàn Thị Điểm:

Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi,
Chinh phu tử sĩ mấy người,
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn..

Vào thời gian này, tôi không còn nhớ rõ là mình đã nghĩ gì, chỉ có một con đường, chúng muốn đưa mình đi đâu thì mình theo đó thôi, mặc cho số phận đẩy đưa, cuối cùng cùng là giải thoát kiếp người. Chúng tôi đi đến ngày thứ 3 thì đến một trại trước kia là mật khu của chúng. Trại này nằm trong rừng sâu, cách đèo An Khê khoảng 50 km từ hướng Bắc. Cả mấy ngày đi, chỉ ăn được một lần, chúng tôi đi ngang 1 địa phương thì được đồng bào nấu cơm gói sẵn bằng lá chuối phát cho chúng tôi mỗi người một gói không biết là lệnh của họ hay lòng tự nguyện của đồng bào.

Đến gần phạm vi của trại, chúng dừng lại để nghĩ và chuẩn bị cho chúng tôi nhập trại, trong lúc này tôi gặp lại một số anh em binh sĩ trong Pháo Đội, thật mừng và thật tủi cho thân phận những kẻ chiến bại. Thời điểm này chúng bắt giao nộp hết tư trang như đồng hồ, bút máy, nhẫn….Tôi thấy chúng dùng nón để thu, không ghi sở hữu của ai cả. Tôi biết bọn này muốn lấy không rồi, tôi làm dấu cho anh thường vụ Pháo Đội giấu chiếc đồng hồ Boulevard Sport của anh, khi đi đến bờ sông có 1 số người Thượng đứng bán chuối hoặc cơm. Chúng tôi đổi chiếc đồng hồ lấy 1 nắm cơm muối mè gói lá chuối, hai thầy trò chia nhau ăn cho qua cơn đói lòng.

Thật là: “Đoạn đường ai có qua cầu mới hay”, vật chất chỉ có giá trị khi thời gian thích hợp. Còn với thời gian này, vật chất dù cao quáy thế nào cũng không qua nổi một gói muối mè.

Thế là chúng tôi lần lượt vào trại. Sĩ Quan đều bị đem đi cùm, từ Thiếu Úy trở lên là bị cùm. Số lượng SQ bị bắt mỗi ngày một đông, chúng thả cấp nhỏ, cùm cấp lớn. Bắt được Đại Uý cùm Đại Uý thả Thiếu Uý. Cứ như là cấp số cộng. Phải nói bạn nào có thời gian ở trại Vĩnh Thạnh khi đọc dòng hồi ký này, không thể nào quên được một nơi gọi là ĐỊA NGỤC TRẦN GIAN đúng nghĩa của nó, không nơi nào ghê sợ hơn. Vì trại nằm trong rừng sâu, lam sơn chướng khí. Tổng số binh sĩ bị bắt vào thời điểm cao nhất ở đây có thể lên đến cả ngàn người, nhưng sau hơn 4 tháng, số tử vong lên đến cả trăm. Sốt rét chết, đói mà chết, bị đánh mà chết. Các đơn vị bộ đội cộng sản ở đây đa số đều là những cán binh CS trở về từ Côn Đảo, lòng nung nấu thù hận.

Họ muốn trả những trận đòn thù trên các người lính Cộng Hòa còn chút sĩ khí đã ở lại chiến đấu để bảo vệ quê hương. Có 1 anh Trung Úy người miền Nam trước kia nguyên là giáo sư bị bắt vào trại cùng thời gian với chúng tôi, vì quá căm phẫn trước sự hành hạ của bọn chúng, nên chạy ra vọng gác giựt súng AK của tên bộ đội đang gác cổng nhưng không thành công vì cơ thể suy nhược, ăn uống thiếu thốn làm sao khoẻ bằng chúng.

Sau khi giựt súng không được, anh ta bị rược chạy vòng vòng trong trại. Vì trại quá đông người nên chúng không bắn được. Vì không còn đường thoát, anh ta chạy đến bên những chảo nước đang nấu để cho tù uống và nhảy vào chảo! Thật là rùng rợn và thương tâm! Chúng dập tắt lửa, mang anh ta ra ngoài, nhưng anh ta vẫn còn sống. Anh ta chửi rủa bọn CS luôn mồn:

“Đả đảo Cộng sản. Quân dã man khát máu”.

Chúng cho khiêng anh vào trạm xá. Thật ra chỉ là một cái nhà nhỏ, vài lọ thuốc, vài lọ cồn mà thôi. Anh ta vẫn chửi liên hồi. Chúng lấy đất sét cho vào miệng, lấy cây dộng cho đến khi hết thở. Ôi! các bạn có hình dung được con người hay là ác quỷ nhỉ. Tôi có người bạn ở cùng quê tên Phan Duy Liêm, cấp Tr/Uý ĐĐT/ĐPQ cũg bị bắt vào trại này, tôi không nhớ anh đã làm gì phật ý chúng mà buổi chiều hôm đó, tôi chứng kiến tận mắt, 3 tên bộ đội đứng 3 góc đánh anh từ góc này văng sang góc kia, như là người ta chuyền bóng.

Là thân phận tù sao dám chống trả chúng. Sau khi anh được thả ra, lục phủ đã bị dập nát, đã bị tổn thương. Mặc dù thời gian sau được gia đình tiếp tế thuốc men chữa chạy, sau hai năm hao tổn, anh đã lìa đời, bỏ lại một vợ và một con thơ, là bà con họ hàng với gia đình tôi.

Ở đây khí hậu chưa có một nơi nào dễ sợ hơn. Danh từ sơn lam chướng khí thật là đúng nghĩa của nó. Các nhà giam (lán) được cất dưới những tàng cây cổ thụ, suốt ngày ít khi thấy ánh sáng mặt trời, sương buổi sáng rất nặng và dày đặc, 9 hay 10 giờ mới thấy mặt trời, máy bay thám thính cũng chỉ thấy toàn màu xanh của rừng. Khoảng hơn tháng đầu chúng chưa cho đi làm, mỗi ngày chỉ phát hai nắm cơm bằng một bát trung bình, vơi chứ không đầy, mì khô hết 80%, vài hột gạo có thể đếm được, tất cả chúng tôi đều đói và sốt rét.

Ở đây trung bình một tuần sốt rét 3 lần. Sốt thì nằm, dậy được thì đi lao động, xuống trạm xá khai bệnh, cặp nhiệt độ 40 độ C, cho vài viên Nivaquine, 39 độ trở lui, thì chúng cho uống một thứ rễ cây tên là “mật nhân”. Trên đời nà y chưa có thứ nào đắng như thứ này, uống xong quay đi là nôn thốc, nôn tháo, nôn đến mật xanh, mật vàng, lần sau sốt hoặc nằm liệt không dám khai bệnh nữa, hết sốt thì dậy đi làm. Con người thiếu ăn, thiếu dinh dưỡng, sốt rét triền miên, nên chúng tôi trong như những thây ma còn sống. Da mặt thì vàng bệt, xám ngoét, mắt trũng sâu, chân đi siêu vẹo, quần áo tả tơi. Ôi! chúng tôi thật là tới tận cùng của địa ngục. Chúng tôi nào có tội tình gì, chỉ biết cầm súng bảo vệ quê hương không có một ý đồ bất chính, không có một tham vọng nào làm tổn thương đến giá trị vật chất hay tinh thần của con người, tại sao chúng tôi lại phải bị trừng phạt một cách khủng khiếp như thế? Có những lúc tuyệt vọng, anh em nói đùa:

“Chúa hay Phật gì cũng bỏ chạy hết rồi còn đâu mà cầu nguyện.”

Sau hơn 3 tháng tôi bị bắt, gia đình tôi mới được tin tức. Vợ tôi từ Phan Thiết ra Bình Định đến trại 3 Vĩnh Thạnh để thăm, thật là một chặng đường vất vả. Vì xe cộ không có, vợ tôi phải đi bộ khoảng 50km đường rừng, phải ngủ lại ở trại 2 rồi mới lên trại 3 được.

Biết bao nhiêu gian nan và sợ hãi, khi được gặp mặt, vợ chồng tôi nhìn nhau nước mắt lưng tròng, hỏi thăm vài câu sức khoẻ, đâu còn lời nào để nói. Và biết nói gì hơn khi mỗi bàn có hai bộ đội ngồi bên cạnh, súng AK lăm lăm, nói được gì đây. Về nhà, vợ tôi bị sốt rét chữa trị gần 2 năm mới bình phục. Thời gian ấy, vợ tôi phải chuyền sẻrum liên tục, thế mới biết rừng thiêng nước độc đến cỡ nào. Sau đó thân phụ tôi đi thăm một lần, về cũng bị sốt rét liên tục. Từ đó về sau, chỉ có em trai tôi còn khoẻ mạnh đi thăm mà thôi.

Có những lúc đói quá, mắt đổ đom đóm vàng khi nhì thấy các anh em khác có người tiếp tế, có đồ ăn. Muốn quên đi, tôi chỉ còn biết ra gốc cây ngồi luyện Yoga cho quên đi nỗi đói khát, bệnh tật. Ai có biết sách lược triệt hạ kẻ thù, không sợ chúng phản kháng là làm cho chúng đói triền miên, không bao giờ cho chúng ăn đủ no. Suốt ngày tư tưởng lẩn quẩn, mong có cái gì bỏ vào miệng, vào bụng mà thôi, không còn nghĩ được thứ gì khác trên đời. Ôi con người có những lúc phải như thế này ư? Tôi có đọc cuốn Tiểu Đoàn Trừng Giới của Erich Maria Remark, nhà văn Đức, tù binh Đức, cũng bỏ vào các trại tập trung cũng đói như chúng tôi, nhưng thời gian ngắn hạn và không bệnh tật. Còn chúng tôi đói dài hạn và bệnh tật triền miên. Tôi còn nhớ vào thời gian cò ở quân ngũ, tướng độc nhãn Mó Dayan của Do Thái có qua thăm trường Võ Bị Đà Lạt, đã nói:

“Muốn chiến thắng Cộng Sản, phải sống với Cộng Sản”.

Xin những ai, có làm chính khách, chưa bao giờ biết ngục tù Cộng Sản, thì xin nghĩ đến bao nhiêu anh hùng đã hy sinh, bao nhiêu triệu đồng bào còn đang sống vất vưởng nơi quê nhà, vật lộn với miếng cơm manh áo hàng ngày vì phương châm “làm cho tập thể, hưởng theo nhu cầu” của chúng. Và cả một thế hệ chúng tôi tù đày oan khiên, khổ nhọc, thì chớ nên phụ quá khứ một thời tự do, dân chủ, thanh bình của miền Nam Việt Nam.

Ở trại này có những cách giết người rất dã man. Các bạn có biết, một cái nhà cùm kín mít, bên trong là một dãy khóa lại, tất cả việc ăn uống vệ sinh đều tại chỗ, đó là cùm thông thường. Nếu chúng muốn tra tấn ai, cho hai chân vào hai lỗ chéo nhau, chân phải lỗ bên trái, chân trái lỗ bên phải, dưới mông ngồi có một cây đà vuông thông ra ngoài, xuyên qua một cây trụ thẳng đứng khoét một lỗ hình chữ nhật, để cây đà vuông có thể di chuyển được từ thấp lên cao, chúng gọi là cùm yên ngựa. Mỗi lần nâng cây đà lên là ống quyển bị ép vào lỗ cùm. Bên ngoài chúng dùng một miếng nêm hình tam giác để đóng, mới đầu đóng là tù nhân la thất thanh sau đó im dần…im dần, tù nhân đã hết thở. Ôi địa ngục ở đâu, có lẽ còn ít sợ hãi hơn nơi này. Chúng tôi bị nhốt trong một cái lán gần bên nhà cùm. Đêm đêm nghe tiếng la thất thanh xé tâm can, rồi dần , im dần và tắt hẳn… Thế là một người đã ra đi không biết là tốt hay xấu với chúng tôi, biết đâu vài hôm đến lượt mình.

Ở đây có những cái chết rất kỳ lạ, buổi sáng còn ngồi chơi nói chuyện, vì là ngày Chủ Nhật, anh bạn ở cùng quê, Đ/Uý Dậu TĐT/CB, ngồi ngã ra, quay quay như gà mắc toi, đem xuống bệnh xá, chừng 1 giờ đồng hồ sau thì chết. Khí hậu thật là rùng rợn, sinh mạng con người còn thua những loài côn trùng. So với tù binh của Đức Quốc Xã thời Đệ Nhị Thế Chiến đâu có khác gì nhau.

Sau một tháng nhốt một chỗ, chúng tôi được chia ra để đi lao động. Những công việc chính là nhổ mì, trồng mì, và làm cỏ mì. Buổi sáng tù tập trung do 1 hoặc 2 tên bộ đội dẫn đi tới những bãi mì trong núi hoặc trên đồi cao. Chúng tôi dàn hàng ngang, mỗi người một cái cuốc, dùng để cuốc cỏ xung quanh cây mì. Cây mì mới mọc cao chừng 5cm hay một tấc, rất dễ lẫn lộn với cỏ. Chúng tôi đâu phải nhà nông chuyên nghiệp, từ nhỏ cha mẹ đã hy sinh gian khổ, nuôi con ăn học, mong con sau này thành đạt đâu nghĩ đến việc phải dùng cái cuốc,cái cày. Ôi công lao của cha mẹ lo lắng nuôi con trong thời điểm này hình như đã sai đường. Nếu chẳng may chúng tôi cuốc gãy cây mì chúng thấy được, thì báng súng AK vào đầu, vào cổ, mũi súng thọc vào sườn, vào bụng.

Anh bạn tôi là Đ/Uý Dậu có lẽ bị đòn thù trong trường hợp này, nên đã mất đi vài tuần sau đó, trong bữa sáng Chủ Nhật mà tôi vừa nói ở trên. Thật là thê thảm, những tù nhân chẳng may mà mất đi, chúng quấn bằng miếng vải ni lông, dùng để làm áo mưa, xung quanh kẹp 7 nẹp tre, quấn lại như một khúc dồi lớn. Hai người khiêng, hai người đào lỗ ngoài rừng rồi lấp đi. Xong chúng cắm một cái bảng nhỏ viết tên tù nhân bằng sơn. Với 2,3 tháng nắng mưa, thì không còn biết ai là ai nằm đó nữa. Vì thế gia đình anh Dậu đã cố gắng nhiều lần, nhưng vẫn không tìm thấy xác anh ở đâu để đem hài cốt của anh về mai táng nơi quê nhà.

Rất may là khoảng tháng thứ 5 chúng tôi chuyển trại, lúc này đại đa số là Quân, Cán, Chính VNCH đã bị bắt hoàn toàn, không còn 1 lực lượng nào trong nước có thể đối kháng và phá hoại chúng được. Chúng thành lập những Tổng Trại Tù Binh để quản lý. Một Tổng trại như thế do cấp Trung Đoàn chính quy quản lý do Thủ Tướng Cộng Sản Phạm Văn Đồng ký, mục đích là để trấn an dân chúng và để trình làng với Quốc Tế.

Giai đoạn cuối ở địa ngục này, tôi bị sốt rét hành hạ liên tục, có lẽ đã xâm nhập vào gan, lá lách hay thận. Người tôi vàng vọt, xám ngoét, mắt trũng sâu, bụng ỏng, chân thì dần dần to ra như chân voi bước đi không nổi nữa. Chúng tôi được đưa xuống Tổng trại 4 An Trường. Ôi, thật là một cuộc di chuyển có khác nào như chở heo, chở gà ra chợ để bán! Một chiếc xe Motolova như vậy chở xấp xỉ cả trăm người, người sau phải bám người trước cho chặt, nếu không khi xe quẹo, quán tính của trọng lượng sẽ làm văng những người sau ra ngoài mà chết. Súc vật đem bán cần sống, cần khoẻ chứ chúng tôi thì không….


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1590164978-HQPD_ThangBaDinhMenh_02.jpg
Hình minh họa

Tôi được đưa xuống trại 1 của Tổng Trại 4, nhờ gia đình tiếp tế, thuốc men đầy đủ, và ở trại này, chế độ ăn uống có phần dễ thở hơn, nên tôi đã dần dần hồi phục và giữ được cái mạng còm cho đến hôm nay. Phải nói rằng sáu năm tù đày, thời gian ở trại này là tương đối dễ chịu nhất so với các trại khác. Vào thời điểm này, đa số anh em đều tin rằng sau 3 năm rồi thì thế nào cũng được thả về, nhưng thật sự là một sự lầm lẫn to lớn. Lời nói của chúng như những bó cỏ treo trước đầu con ngựa đang kéo xe, cỏ thì nhìn thấy đó, nhưng con ngựa có bao giờ ăn được đâu?….Những ngày kêu thẩm vấn, tự khai, ôi thật là khổ sở. Nói thế nào chúng cũng không tin.

Hỏi:

“Từ ngày anh tham gia nguỵ quân, ngụy quyền đến giờ giết bao nhiêu cách mạng?”

Tôi trả lời:

“Tôi là đơn vị Pháo Binh yểm trợ, họ yêu cầu tác xạ ở đâu, chúng tôi bắn ở đó. Kết quả do các đơn vị Bộ Binh tham gia họ ghi nhận và báo cáo, chúng tôi đâu có trực tiếp tham dự ”

Hỏi:

“Anh nói anh không giết cách mạng sao họ cho anh mang lon Đ/Uý sớm như vậy?”

Tôi trả lời:

“Theo chế độ đào tạo Sĩ Quan tại miền Nam, có bằng cấp mới được chọn, 1 năm Chuẩn Uý, được thăng Thiếu Uý, 2 năm Thiếu Uý được thăng Trung Uý. Sau đó khoảng 3 năm đủ điểm thì lên Đại Uý.”

Nhưng dù có nói thế nào chúng cũng chẳng tin. Và cứ như thế hết ngày này đến ngày khác, tôi cứ bị kêu liên tục, hỏi hơn cả tháng, chúng cứ xoáy vào một điểm là giết hại bao nhiêu cách mạng. Cuối cùng tôi phải moi một trận yểm trợ nhớ mang máng theo kết quả của Bộ binh báo cáo, là địch quân tổn thất vài chục chúng mới hết hỏi. Ai có ngờ đâu đó là cái giá treo cổ mà mình tự gánh vào, sau này chúng cho là thành phần ác ôn có nợ máu với nhân dân….

Thời gian ở Tổng trại này hơn 1 năm, sau đó có lẽ tình hình thanh lọc tù nhân giảm dần, chúng tôi chuyển từ tổng trại này sang tổng trại 5 thuộc các đơn vị tỉnh Phú Yên quản lý. Trại này cũng là một trại sắt máu, chúng tôi làm việc như lao động khổ sai, và cơm thì không bao giờ được ăn no. Có một vài anh em bỏ mạng vì đốn cây rừng cho chúng, cây đè mà chết hoặc thương tật suốt đời. Các bạn từng xem những phim La Mã thời Caesar, các nô lệ kéo gỗ hay kéo đá, chúng tôi cũng vậy. Một khúc gỗ súc dài 4 hoặc 5 mét, đường kính khoảng 7 tấc, xỏ 4 dây thừng, mỗi bên 4 người khiêng. Đường từ trên núi, leo dốc, xuống ghềnh hiểm trở, nếu rủi ro mà té ngã thì coi như cái mạng đi đoong. Súng AK thì lăm lăm, sẳn sàng nhả đạn nếu chúng tôi tìm đường chạy trốn. Ôi, nếu so sánh, chúng tôi và nô lệ thời Trung Cổ của La Mã có khác gì nhau đâu.

Tôi còn nhớ nằm cạnh tôi có ông bạn già là Tr/Tá ĐN Thanh trước 75 là CHT Quân Cảnh Quân Khu 2, và có thời gian Tr/Tá Thanh đã từng làm Trưởng trại giam tù phiến cộng ở Phú Quốc. Có một ngày họ phân công tôi và bác Thanh là 1 cặp trong toán chặt gỗ làm nhà, chỉ tiêu dài sáu mét, đường kính từ 1.5 đến 2 tấc, phải là gỗ tốt, lá nhỏ, vỏ mỏng. Tôi và bác Thanh phải lên núi cao tìm gỗ vì dưới thấp không còn nữa. Sau khi chặt xong, tôi và bác Thanh khiêng về trại. Vì lúc đó tôi còn trẻ nên nghĩ rằng mình khiêng phần gốc để bác Thanh phần ngọn nhẹ hơn. Từ trên triền núi cao, tôi lao xuống dốc vì nặng quá, không kềm được, nên đã té ngã nhiều lần.

Rốt cuộc để khỏi tai nạn, bác Thanh dành khiêng phần gốc vì thật sự mà nói, bác rất khoẻ và rất đô con. Tối về sinh hoạt kiểm điểm xong, bác nằm và than sao đau lưng và khổ quá. Bên cạnh tôi có anh bạn Luật sư Lê Đình Khang nói nhỏ:

“Bác khổ là vì hồi đó bác hà tiện quá mà.”

Bác càu nhàu hỏi:

“Hà tiện gì?”

Anh bạn Khang nói:

“Nếu hồi đó bác sắm bao tải cho nhiều, cứ mỗi chuyến C130 chở tù phiến cộng từ Sài Gòn ra Côn Đảo, bỏ hết vào bao ném xuống biển, thì đâu có ngày hôm nay.”

Bác và chúng tôi cùng cười, quên đi nỗi đau đớn nhọc nhằn.

Trong thời gian ở trại này, chúng tôi chứng kiến một cảnh thương tâm. Có một số anh em trốn trại nhưng không thoát được, tôi chỉ nhớ tên 2 người là T/Tá Giang và T/Tá Phước, 2 người còn lại tôi không nhớ được. Chúng cho làm mỗi người một cái lều, như lều cắm trại, sát mặt đất, có khung bằng ván để nằm, làm hệ thống cùm dưới chân bằng gỗ, khóa lại suốt ngày đêm, trông giống như những chiếc nhà mồ nằm ngay tại vọng gác trước mặt trại. Chúng tôi ngày nào lao động cũng phải đi ngang qua, trông thật đau xót và thương tâm, nhưng đâu biết làm sao khác hơn….

Vào một đêm, bỗng dưng lửa cháy các chòi, chòi của T/Tá Giang là nặng nhất. Họ được đưa đi bệnh viện Tuy Hòa để cấp cứu. T/Tá Giang phải cưa hai chân đến đầu gối. Các bạn khác đều bị phỏng nhưng cũng được lành. Chúng tôi đều nhận định rằng chúng muốn đốt cho chết rồi cho là tai nạn, vì các chòi nằm giữa miếng đất trống thì sao lại có hỏa hoạn.

Khoảng 5 tháng sau, họ thả anh Giang về. Gia đình từ miền Nam phải lo phương tiện di chuyển anh, sau 75 gạo còn không đủ ăn, làm sao mà sắm xe lăn. Tôi nghe sau này hình như anh đã quyên sinh vì nghịch cảnh gia đình. Ôi thân phận con người, thân phận của những kẻ chiến bại, dưới nanh vuốt của một lũ bạo tàn nhất trong lịch sử của nhân loại.

Và cuộc đời chúng tôi cứ kéo dài như thế thôi, niềm tin được thả về còn xa lắm, chỉ khi nào sức cùng lực kiệt, chúng bảo gì nghe đó, sự đối kháng không còn nữa, may ra mới được về, lúc đó liệu còn sống sót bao nhiêu người đây. Phần cá nhân tôi, có một hôm, tôi bị sưng chân phải đi cà nhắc, xuống trạm xá được cho làm việc nhẹ . Buổi sang 1 tên bộ đội vào kêu chúng tôi đi làm, thấy tôi không chuẩn bị, hắn hỏi tại sao, tôi trả lời đau chân, trạm xá cho làm việc nhẹ. Hắn trừng mắt, giơ súng lên và bắt tôi đi làm với đội. Tôi phải cà nhắc theo đội để đi làm. Đứng cuốc đất suốt ngày bằng 1 chân, ngày hôm sau chân kia sưng phù lên. Thế là tôi phải nằm liệt mấy ngày. Ôi, bạn có hình dung được chúng tôi phải chịu đựng như thế không?

Sau hơn 3 năm chúng tôi được chuyển giao cho ngành Công an quản lý. Chúng tôi thuộc loại tù chuyên nghiệp, được chuyển đến trại A30 ở Tuy Hòa. Trại này tập trung đủ các thành phần, hình sự, vượt biên, những người bị bắt năm 78,79 họ gọi là phản động, và chúng tôi từ các tổng trại 5, tổng trại 8, Trại Lam Sơn, Trại Thanh Bình, v.v….Cảm nghĩ của tôi khi đến trại này là thôi, thế là cuộc đời gắn liền với chữ Tù. Giống như nhân vật Papillon của Henrie Chariere. Ở tù không biết tại sao mình ở tù, ngoại cảnh đưa đến mà mình không tài nào vùng vẫy được. Hay gần giống như nhân vật chính trong tác phảm “Giờ thứ 25″ của một nhà văn Nga tôi không nhớ rõ tên. Hết ở tù bởi quân Đức, rồi đến Nga, rồi đến Đồng Minh, khi ra đi thì mới lấy vợ, khi về vợ đã 3 con rồi, mỗi quốc gia, một đứa.

Dưới tay Công An quản lý, thật là một sự xảo quyệt của con người, tinh vi đến mức không thể nào diễn tả được. Ở đây cũng thiếu thốn và đói như những trại khác, nhưng ở đây thì gia đình thăm nuôi, tiếp tế cho nhận thoải mái. Mục đích của chúng, cứ cho người nhà thăm nuôi ăn cho no, làm việc cho chúng vượt chỉ tiêu, thì đâu có gì tốt bằng đâu nào. Các trại khác thì thân nhân thăm nuôi chỉ cho đem quà, bánh, thức ăn không cho nhận gạo. Ở trại A 30 này, không tiếp tế gạo cho tù nhân là một thiếu sót lớn. Lần thăm ban đầu gia đình tôi không biết, sau mới hiểu ra gạo là chính. Đến A 30, chúng tôi khai phá những cánh đồng ngút ngàn. Tất cả những cánh đầm lầy biến thành ruộng xanh ngút tầm mắt, và những cánh đồng mía chỉ thấy đường chân trời, tầm mắt không thể nhìn hết.

Chúng lại lên lớp:

“Ta làm ta hưởng. Lao động là vinh quang.”

Ôi thật là bực lỗ tai. Sao có những con người, chỉ biết nói và không cần thái độ của người nghe. Chúng tôi làm cho họ hưởng, nếu gia đình chúng tôi không nuôi thì chúng tôi đã chết đói rồi.

Ở đây có một trường hợp, anh Đại Úy Thức đơn vị Dù, tôi không biết Lữ Đoàn mấy vì ở khác lán. Buổi chiều đi lao động về, anh gặp tên Tr/Tá Hạnh Công An Giám Thị trưởng Trại A 30 hỏi thăm và nói gì đó, sau lên lớp…Vì hắn quá trâng tráo và dối trá nên anh Thức dằn không nỗi nhảy vào đánh tên Giám Thị trại. Công an phòng vệ đã nhào vô bắt và đán anh Thức, không thể nào diễn tả được. Chỉ biết sau khi đánh xong, chúng bỏ anh vào xe cút kít đẩy vào chỗ biệt giam thì thấy anh như một đống thịt, máu me đầy mình! Ôi con người đến thế thì thôi! Tôi nghe sau đó họ đưa anh xuống bệnh viện Tuy Hòa để điều trị và nghe đâu hình như có người bà con làm lớn ở Hà Nội lãnh anh đem về nhà. Từ đó đến nay, không còn được nghe gì hơn nữa, không biết anh có còn sống, và nếu như có đọc những dòng này của tôi, thì xin anh nghĩ, lúc đó chúng tôi rất căm phẩn chúng nó, và xót thương anh nhưng chúng tôi đành bất lực……


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1590164996-HQPD_ThangBaDinhMenh_03.jpg
Hình minh họa

Tôi cũng không biết nói sao, vì mỗi con người có trình độ nhận thức khác nhau, phải nói rằng nếu nghị lực không đầy đủ thì sẳn sàng làm tay sai cho chúng. Có một ngày, chúng tôi đang cuốc cỏ thì tên Công An quản giáo kêu tôi ra giữa đám mì, giở trò giáo đầu là tôi lao động lấy lệ, sinh hoạt không chịu phát biểu, ù lì, là thành phần chống đối ngấm ngầm, như vậy làm sao tiến bộ, cách mạng xét cho các anh về. Tôi muốn bật cười nhưng không dám, vì nó đã nhàm với chúng tôi. Nghe bao nhiêu năm rồi. Tôi lặng thinh, hắn nói tiếp:

“Bây giờ anh muốn thể hiện cho chúng tôi thấy sự tiến bộ của anh thì anh phải theo dõi báo cáo tư tưởng của anh nào chống đối cách mạng, ai phát biểu những gì bất lợi cho cách mạng. Báo cáo trực tiếp với tôi, hay bỏ vào hòm thư trước trại.”

Tôi phải trả lời hắn theo sách vở:

“Thưa cán bộ, nhiệm vụ chúng tôi ngoài việc học tập lao động, tôi còn phải báo cáo ngay nếu phát hiện được những thành phần nào trốn trại.”

Hắn nói:

“Tôi yêu cầu anh báo cáo những anh nào phát biểu chống đối kìa.”

Tôi vâng lấy lệ. Khoảng tháng sau, hắn kêu tôi ra lần nữa vì không thấy báo cáo của tôi, hắn hỏi:

“Tôi không thấy báo cáo nào của anh hết, anh là thành phần ngoan cố, chống đối.”

Tôi nói:

“Tôi có để ý một hai bữa, thấy anh em ai cũng an tâm, đâu có nói gì, thành tôi không có gì để báo cáo.”

Hắn đơn cử một vài lời nói mỉa mai của vài anh em. Tôi nói:

“Anh em vui miệng nói đùa, tôi không để ý.”

Thế là hắn lôi tôi ra, dùng báng súng đập cho một trận. Tôi mang thương tích và nước mắt căm hờn về trại, cơm nuốt không vào. Không phải đau mà khóc nhưng uất hận làm cho nước mắt tuôn trào. Tối hôm đó một vài anh em mang thuốc giảm đau và dầu xoa bóp cho tôi, thật là an ủi. Dầu sao chúng tôi cũng còn có nhiều anh em nghĩa khí và có tình người.

Bọn hắn cũng có mắt chọn người lắm. Mỗi ngày chúng tôi đi cuốc đất, cả đội dàn hàng ngang, chỉ tiêu mỗi người 4 mét chiều rộng và 200 mét chiều dài, chúng chọn một tên kêu ra nói nhỏ:

“Anh ráng cuốc 250 mét, kỳ sau gia đình anh lên thăm nuôi tôi sẽ can thiệp với trại để cho anh được gặp gia đình ban đêm.”

Ôi, một sự hứa hẹn tuyệt vời. Tù nhân nào lại không muốn hàn huyên với gia đình sau bao nhiêu năm dài ngăn cách, bao nhiêu biến cố vật đổi sao dời. Có người suy nghĩ chín chắn thì thấy là chuyện đau khổ thêm cho vợ mình, có người chuộng vật chất thì cho đó là một đặc ân của Cộng Sản. Thật là một thủ đoạn quá tinh vi. Thế là hôm sau, tên được kêu cuốc vượt trội hơn anh em khác. Tối về họp kiểm điểm chúng nêu ra:

“Anh A cũng như các anh, cùng sức vóc, cùng tiêu chuẩn ăn uống như nhau. Người ta cuốc được 250 mét, các anh cuốc có 200 mét, lại kêu không đủ giờ, chứng tỏ các anh làm cầm chừng, lười lao động. Bao giờ các anh mới tiến bộ đây?”

Bắt đầu từ ngày đó, chỉ tiêu là 250 mét/ngày. Chúng tôi cuốc từ sáng sớm đến chiều tối, tay chân rã rời, tai như bốc khói. Trên đường đi về trại, thân thể rã rời ngất ngưỡng như người mộng du, vì sức đã cạn rồi. Chúng tôi chửi thầm, ôi những thằng ngu, nào dám chửi thẳng vào mặt, nó mà báo cáo một phát là biệt giam, hai chân vào cùm, làm bạn với gián…..

Ở đây cũng có tổ chức những đêm văn nghệ, diễn viên là các em vượt biên bị bẳt. Các em còn rất trẻ, có em đã bị bắt vào đây đến 3 lần, thật đáng thương. Họ cho tập dượt, và cho trình diễn những đêm thứ 7, chủ nhật hay các ngày lễ của chúng. Nội dung hình như chúng tôi gần như thuộc lòng, vì xem đi xem lại, tháng này qua tháng khác. Khi nào tổ chức văn nghệ là chúng lùa hết ra sân vận động, không được ở lại trong trại. Tôi và anh bạn Thắng đem áo mưa ra để nằm ngủ, chúng bắt gặp. Thế là hôm sau chúng họp kiểm điểm là chúng tôi không chịu tiếp thu văn hóa cách mạng, thành phần bướng bỉnh ù lì.

Có những trò khác, bọn chúng mị dân, mà ngay cả một số gia đình chúng tôi cũng nghĩ chúng là nhân đạo. Thí dụ sau khi cho vợ con thăm nuôi, tiếp tế, tối còn cho gặp.

Ngày hôm sau, gia đình về, chúng đưa sổ cho thân nhân viết cảm tưởng. Chúng đem trình làng với đồng bào ở ngoài hay các phái đoàn quốc tế viếng thăm. Chúng đem khoe khoang cũng như phổ biến trong trại, thế thì nhân đạo quá đi chứ, thử hỏi có thân nhân nào dám viết lời không tốt cho chúng đâu.

Ở trại này, trước khi chúng tôi chuyển đến, có nghe kể lại một chuyện thương tâm. Là có số anh em giựt súng tên Công An định bỏ chạy nhưng bị một tên Tr/Tá của ta ôm lại để cho Công An bắn chết 1 hay 2 đồng đội của ta. Cả trại rất căm phẫn và khinh bỉ tên này. Khi chúng tôi đến trại A 30 thì tên này đã được bọn Cộng Sản cho định cư vùng kinh tế mới Mai Liên do trại quản lý và được đem gia đình đến sinh sống vì hắn có công với cách mạng. Tên này là Tr/Tá Lập trước kia làm Quận Trưởng quận Vạn Ninh, tôi biết vì vợ của hắn có chút bà con xa với gia đình tôi. Những năm sau khi được phóng thích về, có một lần tôi ghé thăm gia đình cha mẹ vợ hắn, thì mới hay việc đời có vay, có trả, thời gian sau vợ hắn đã bỏ hắn, sống với người khác rồi.

Những khổ hình ở trại làm sao mà nói cho hết, tôi chỉ ghi lại những điều mình nghe, mình chứng kiến để bạn đọc suy nghĩ thấy cái bạo tàn, quỷ quyệt của chế độ để đem một chút ánh sáng cho những ai vì một chút quyền lợi riêng tư mà muốn cái gọi là ” hoà hợp hòa giải với Cộng Sản”. Các bạn có biết, cảnh đời tù tội là đắng cay, khổ nhọc nhưng cũng có lắm chuyện cười ra nước mắt. Chúng tôi là những thành phần gồm sinh viên, giáo chức, cán sự, hay hành chính bị động viên. Dẫu sao, với xã hội miền Nam thời đó chúng tôi cũng là thành phần gọi là trí thức chút ít. Từ nhỏ cha mẹ sinh ra đã hy sinh cho con ăn học những mong cho con mình đỗ đạt, cho cuộc sống vững vàng, chúng tôi nào có quen các cuốc, cái cày. Khi bị bắt vào đây chúng xem bọn tôi như một lũ ăn hại, vô tích sự.

Có một ngày đội chúng tôi đi cày lần đầu, các bạn có biết, trâu bò cũng quen với ngôn ngữ địa phương. Ở miền Trung từ Bình Định trở vào, muốn bò quẹo trái thì gọi Thá, muốn bò quẹo phải thì gọi Dí, muốn chúng dừng lại thì gọi Dò. Còn ở vùng Quảng Trị muốn quẹo trái thì gọi Tắc, muốn quẹo phải thì dùng Rị, và muốn dừng lại thì dùng Họ. Hôm đó mỗi người được phát một cặp bò và 1 cái cày, có một anh người Quảng Trị cầm cày và cầm roi điều khiển bò, cứ dùng hết Tắc rồi Rị, bò nó không biết đi đâu, nó quẹo lung tung. Bò đi mãi gần đến bờ rào đụng nhà dân, anh la Họ….Họ….., bò vẫn đi, hoảng quá anh la : “Stop, stop, stop”. May có vài anh em ra chận bò lại, chúng tôi có dịp cười nghiêng ngửa. Khi anh chàng trở lại chúng tôi nói:

“Bò nó đâu có đến trường mà biết tiếng Anh, ông bạn.”

Những kỷ niệm đau khổ cũng như là hạnh phúc của con người đều có giá trị ngang nhau trong tiềm thức, người ta khó mà quên được. Có những ngày chúng tôi đi làm ruộng tại cánh đồng tên là Đầm Sen. Cánh đồng đầm lầy bạt ngàn, bỏ hoang lâu ngày từ thời Pháp thuộc, thật xa xôi và hẻo lánh, bèo lát, điên điển, cỏ dại mọc như rừng, mỗi lần nhảy xuống ruộng, có chỗ sình ngập lên tới cổ.

Và có những đám ruộng nước đĩa ơi là đĩa….lội như bánh canh. Từ nhỏ tôi cũng như nhiều anh em khác, nói chung môi trường sống là thành phố, nên thấy đĩa rất là sợ. Lần đầu tiên nhảy xuống ruộng, thấy nhột nhột nhảy lên, là một vài con bám chân bám đùi, máu chảy tùm lum…..Úi trời ơi, thật là hãi hùng, bắt chúng xong lại nhảy xuống, vì nhảy lên bờ thì AK chĩa vào đầu.

Ngày ấy làm ruộng về, mặc dù đói, nhưng cơm nuốt không nổi vì tinh thần căng thẳng và hãi hùng quá mức. Mấy hôm sau, chúng tôi rút kinh nghiệm, chọn bộ quần áo nào mới nhất, không có chỗ rách, bỏ áo vào trong quần, cột hai ống chân cho chặt, cột quanh lưng, cột hai khuỷu tay, nhờ thế mà khi nhảy xuống ruộng, thấy đĩa bơi quanh người nhưng chúng không bám được, nhưng cũng có những trường hợp ngoại lệ, chúng vào tận chỗ kín để cắn, về nhà máu me tùm lum phát khiếp. Cũng có những chuyện vui đáng nhớ. Số là sau khi khai hoang xong, những đám ruộng bùn quậy lên rất nhiều cá nên anh em tha hồ bắt. Tôi thì chạm cá rất nhiều, nhưng chẳng bao giờ bắt được cả. Bắt nó lên là nó vuột, bắt một tay cũng vuột, hai tay cũng không xong. Chiều về hỏi mấy anh bạn chuyên nghiệp chỉ giùm cho một chiêu làm sao để bắt mà nó không vuột. Anh bạn cười:

“Bắt cá cũng như đi cua gái vậy, khi đụng nó phải từ từ mò từ đuôi lên tới đầu, khi vị trí của đầu nằm trong lòng bàn tay rồi, thì dịu dàng nắm lại, thật chặt và thật êm thì không bao giờ bị mất cả”.

Thế là hôm sau theo cách chỉ dẫn của anh bạn, tôi được mấy bữa bồi dưỡng ngon lành. Có những ngày làm cỏ ở những thửa ruộng cạn, chúng tôi không tìm được thứ gì để ăn. Vài ba người, mỗi người vài chú nhái, chiều về cải thiện, 1 vài con không đáng là bao, người nọ dồn cho người kia để ăn cho đủ. Các bạn biết sao không? Cho thì tiếc, bèn oảnh tù tì ai thắng thì ăn hết, ai thua thì nhịn. Ôi con người khi tới tận cùng đất đen rồi thì mới nhận chân được giá trị của nó. Chuyện đã 28 năm rồi, nhiều khi tôi nghĩ mình cũng nên quên đi để sống những ngày còn lại của cuộc đời. Nhưng thỉnh thoảng quá khứ lại hiện về, không sót một chi tiết nhỏ nào. Có những đêm ác mộng hãi hùng, bị đánh, bị tra tấn và những cơn trốn chạy dưới lằn đạn AK của chúng. Khi tỉnh dậy tinh thần bàng hoàng, đầu óc ngây ngô. Và không biết đến bao giờ tâm trí mới được bình yên đây. Đọc qua lịch sử biết bao sự hưng vong của chế độ Đinh, Lý, Trần,Lê….Biết bao nhiêu thi nhân đã tiếc thương một thời quá khứ êm ấm, thanh bình..

Tạo hoá gây chi cuộc hý trường
Đến nay thắm thoát mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Ngõ cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.

Hay:

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc.
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia..
(Bà Huyện Thanh Quan)

Hoặc:

Khắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ
Ây hồn Thục Đế thác bao giờ
Năm canh, máu chảy đêm hè vắng
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ
Có phải tiếc Xuân mà đứng gọi
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ
Đêm đêm ròng rã kêu ai đó
Dục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ..
(Nguyễn Khuyến)

Vận nước đã đổi thay, quê nhà chìm đắm trong cảnh bất công. Giới thống trị thì vàng son rủng rỉnh, xe pháo dập dìu, người dân còn lại phải vật lộn với cuộc sống đầy gian nan mới đủ cơm ngày hai bữa, và còn phải lo thuốc thang khi đau yếu. Không hiểu tiền nhân có đau khổ như chúng ta không? Nếu có thì chỉ có sự thay đổi thể chế xã hội và đau nỗi mất nước, không đến nỗi phải lưu vong như chúng ta, trên 15.000 dặm đường chim bay, xa hơn một nữa vòng trái đất. Muốn tìm một chút tình cảm thân thương nơi cha, nơi mẹ, nơi anh em, nơi bạn bè hay người thân thật là khó vô vàn. Thật là:

Đau lòng tử biệt sinh ly
Muốn cho tái ngộ chỉ nhờ mộng trung..

Chúng ta đã may mắn thoát khỏi ách bạo tàn, dung thân ở xứ tự do. Tuy không dễ, nhưng chúng ta có đầy đủ quyền tự do của một con người được pháp luật bảo vệ. Quê nhà còn biết bao người thân đang trầm luân với cuộc sống đoạ đầy và bất công, chỉ hy vọng chút tin vui khi có con cái, hay anh em gửi về chút ít quà hay tiền để mạch máu đang chảy không bị cạn….bởi một lũ vô thần, tham lam, ích kỷ và tàn bạo..

Với những dòng này, mong đóng góp chút ít tư liệu về cuộc chiến, và những gương hy sinh của các Sĩ Quan QLVNCH, những anh hùng không tên tuổi đã nằm xuống trong cuộc chiến, để giữ gìn miền Nam êm ấm thanh bình gần 3 thập niên từ sau 1945-1975. Và để cho thế hệ sau phân tích sự hy sinh gian khổ của cha ông. Và cũng mong quê hương dân tộc sớm khỏi ách bạo tàn của một lũ người vô thần thống trị,và mãi mãi thanh bình trong chiều hướng tự do dân chủ..

Võ Đức Nhuận
(Đây là những nhân vật có thật trong chặng đường chiến đấu cuối cùng, và những trại cải tạo đã đi qua)
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=2617949385118746&set=pcb.2617951558451862&type=3&theater

BachMa
08-17-2020, 02:41 AM
Khóa 17 & Không Quân
Bắc Đẩu Võ Ý - K17

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1561005592-HQPD_Khoa17VaKhongQuan.jpg
Hình minh họa
Vào trung tuần tháng 11 năm 1960, hơn hai trăm thanh niên khắp các tỉnh thành miền Nam đã hội tụ về thành phố sương mù Đà Lạt để tình nguyện gia nhập Khóa 17 (K17) Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam.

Ngày 30 tháng 3 năm 1963, 180 tân sĩ quan của K17 tốt nghiệp Thiếu Úy Hiện Dịch, trong đó có 30 sĩ quan đã được tuyển qua Không Quân từ năm học thứ 2, vào năm 1962.

Mùa xuân năm 1962, Bộ Tư Lệnh Không Quân đề cử một số sĩ quan Không Quân lên Trường Võ Bị Đà Lạt thuyết trình về tổ chức, hoạt động của Không Quân Việt Nam Cộng Hoà trong cuộc chiến tự vệ, để chiêu mộ một số Sinh Viên Sĩ Quan K17 chọn quân chủng nầy.

Hơn một trăm Sinh Viên Sĩ Quan K17 ghi danh chọn Không Quân. Thời gian ngắn sau, Bộ Tư Lệnh Không Quân đưa máy móc, thiết bị lên Quân trường để kiểm tra (TEST) về khả năng phản ứng tay chân của 100 Sinh Viên Sĩ Quan đã ghi danh.

Hình như khoảng 70 Sinh Viên Sĩ Quan qua (pass) được TEST nầy. Không lâu sau, 70 vị được mời về Trung Tâm Giám Định Y Khoa trong căn cứ Không Quân Tân Sơn Nhứt để khám nghiệm sức khoẻ tổng quát, tai mắt mũi họng, và tim gan phèo phổi. Mọi cơ phận phải tuyệt hảo để trở thành một phi công!

Cuối cùng chỉ còn 30 Sinh Viên Sĩ Quan qua được cửa ải khe khắt nầy. Ngay sau khi mãn khoá, 30 tân sĩ quan K17 được tuyển, về trình diện Bộ Tư lệnh Không Quân để nhận giấy nghỉ phép hai tuần, sau đó tất cả trình diện Đại Úy Truyền, Liên Đoàn Sinh Viên Sĩ Quan tại Trung Tâm Huấn Luyện.

Tại Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân, 30 tân sĩ quan được cải danh thành Sĩ Quan Khoá Sinh để theo học ESL (English as Second Language) tại Trường Anh ngữ thuộc Trung Tâm nầy. Để được tuyển chọn du học Hoa Kỳ, mọi khoá sinh phải đạt điểm 70 ESL qua một cuộc trắc nghiệm sau 3 tháng học tập.

30 Sĩ Quan Khoá Sinh đều “pass test ESL” nầy, nhưng thay vì học bay tại Mỹ, họ được (hay bị) học bay tại Nha Trang. Về điểm nầy, có bạn cho rằng, cánh cửa du học Mỹ ngày càng hẹp lại. Có bạn lại nghĩ, cấp trên muốn huấn luyện 30 sĩ quan Đà Lạt thành hoa tiêu sao cho nhanh!

Số là, vào năm 1963, Không Quân Mỹ áp dụng thử kế hoach huấn luyện cho các Không Quân Đồng Minh tại quốc gia sở tại thay vì tại Hoa Kỳ. (Cho đỡ tốn kém chăng?) Một toán huấn luyện lưu động (trainning mobile team) gồm các Huấn Luyện Viên địa huấn & phi huấn (ground school & fly school), chuyên viên cơ khí ,và máy bay Cessna U17 (máy bay huấn luyện, một động cơ, 6 chỗ ngồi) được gởi qua Nha Trang để huấn luyện phi công quan sát tại đây cho các khoá sinh Việt Nam.

Tất cả 30 tân sĩ quan Khoá 17 (và một số Sinh Viên Sĩ Quan Không Quân khác) được theo học Khoá L1 Cessna U17, khai giảng vào khoảng tháng 7 (hay 8) năm 1963, là khoá thí nghiệm đầu tiên, do Không Quân Mỹ huấn luyện phi công Việt Nam tại bản địa. Vì các Huấn Luyện Viên địa huấn và phi huấn đều là Không Quân Mỹ, nên khoá sinh Việt Nam bắt buộc phải học, phải hiểu và phải nói tiếng… Mỹ!

Chương trình địa huấn khoảng 3 tuần, gồm cấu tạo phi cơ, tác động của gió (khí động học), sức nâng, sức cản, công dụng của bình ổn ngang, bình ổn đứng, cánh cản, cánh phụ, v.v…

Mỗi khoá sinh phải học bay với Huấn Luyện Viên (instructor pilot) trung bình từ 10 đến 15 giờ bay. Các cựu Huấn Luyện Viên hoa tiêu phi cơ T41, Nguyễn Duy, K17 (Houston) và Nguyễn Văn Phúc, (Quận Cam) cho rằng, phải mất từ 25 giờ đến 30 giờ mới được thả bay một mình, còn gọi là bay solo. Khi thả học trò solo, coi như thầy tin tưởng vào khả năng bay bổng an toàn (safety first) của học trò của mình.

Ngày thả bay solo là một ngày khởi đầu vô cùng trọng đại của một phi công. Ngày đó, học trò (một mình một tàu) cất cánh và đáp liên tục 3 lần. Sau lần đáp thứ 3 (full stop) coi như xong và học trò taxi phi cơ (di chuyển) về bến đậu. Nếu phi vụ solo diễn ra tốt đẹp, nghĩa là safety, học trò sẽ nhận nghi lễ truyền thống là được thầy của mình dội một xô nước lạnh lên đầu!

Những tháng sau, khoá sinh học bay hoàn bị như điều khiển phi cơ quẹo gắt bên trái, bên phải, bay lượn thành hình số 8 (lazy eight), lấy lại thăng bằng khi phi cơ bị triệt nâng (stallrecovery)…

Thêm vào đó là học kỹ thuật đáp sân ngắn gió ngang, cất cánh trên sân ngắn, tập bay đêm, bay phi cụ (instrument flight) để có thể bay trong mây, trong mưa, ban đêm hay khi trời mù. Bài học quan trọng nhất vẫn là thực tập đáp khẩn cấp (emergency landing) trong trường hợp phi cơ gặp trục trặc kỹ thuật. Sau cùng học cách lập một phi trình để bay du hành (cross country) từ điểm A đến điểm B, điểm C…

Sau 5 tháng học bay (từ tháng 8 đến tháng 01/1964), 30 Thiếu úy Khoá 17 Lê Lai Trường Võ Bị Quốc Gia tốt nghiệp thành 30 hoa tiêu quan sát trên phi cơ U17 hay còn gọi là Cessna 185. Sau ngày tốt nghiệp, 30 tân phi công được chuyển về căn cứ Không Quân Biên Hoà để tiếp tục học bay hành quân trên phi cơ bird dog Mỹ (phi cơ O1- hay còn gọi phi cơ L19 hay máy bay bà già) trong vòng 1 tuần với các hoa tiêu của Lục Quân Mỹ (Army Aviation).

Sau một tuần học bay hành quân trên O1 (L19), 30 phi công Khoá L1 Không Quân Nha Trang sẵn sàng tung cánh. Họ được phân phối về 03 Phi Đoàn Quan Sát bấy giờ (1964) là:

Phi Đoàn 110 (Đà Nẵng): Lê Hoành Anh, Nguyễn Duy Diệm, Lê Sĩ Thắng, Hoàng Đức Thịnh, Bùi Văn Lợi, Trần Minh Vũ, Võ Ý.

Phi Đoàn 112 (Biên Hoà): Nguyễn Hữu Xuân, Lê Hữu Trí, Cao Ngọc Quang, Nguyễn Văn Hoàng, Võ Phi Hổ, Nguyễn Văn Hùng, Nguyễn Quang Kim, Huỳnh Văn Tòng, Trần Bạch Thanh.

Phi Đoàn 114 (Pleiku): Nguyễn Duy, Nguyễn Xuân Tám, Nguyễn Văn Xuân, Hà Thuyên, Vũ Khắc Huy, Dương Thanh Long, Nguyễn Phụng.

Khoảng đầu năm 1965, Phi Đoàn 114 chuyển về Nha Trang, đồng thời Phi Đoàn 116 được thành lập và đặt tại căn cứ Không Quân Trà Nóc, Cần Thơ.

Phi Đoàn 116 (Cần Thơ): Nguyễn Đức Gia, Ngô Nhơn, Huỳnh Cao Khải, Huỳnh Công Đặng, Hoàng Thiên Hựu, Nguyễn Minh Nhựt, Nguyễn Văn Thình.

Sau một năm phục vụ, nếu các hoa tiêu đạt trên 500 giờ bay hành quân trên các loại phi cơ quan sát (L19, L20, và U17), có thể làm đơn xin xuyên huấn qua các loại phi cơ khu trục hay vận tải.

Các Không Quân K17 xuyên huấn qua khu trục là: Lê Hoàng Anh, Nguyễn Hữu Xuân, Dương Thanh Long, Cao Ngọc Quang, Nguyễn Quang Kim, Nguyễn Văn Hùng, Võ Phi Hổ, Lê Hữu Trí, Bùi Văn Lợi, Huỳnh Cao Khải và Huỳnh Công Đặng.

Các Không Quân K17 xuyên huấn qua vận tải là: Ngô Nhơn, Nguyễn Minh Nhựt, Trần Bạch Thanh, Huỳnh Văn Tòng.

Một vài ghi nhận không chính thức là:

Khi các sĩ quan Võ Bị Đà Lạt về Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang để học Anh Văn, một số Sinh Viên Sĩ Quan cán bộ Không Quân tại đây rất muốn “lên mặt” ta đây là niên trưởng, là cán bộ, ra oai kiểm soát giày dép giường chiếu của các tân Thiếu Úy, nhưng không được! Khi các Không Quân gốc Đà Lạt được bổ nhiệm về đơn vị, các staff (tham mưu) của Phi Đoàn (Phi Đoàn Trưởng, Phi Đoàn Phó, Trưởng Phòng Hành Quân, sĩ quan An Phi, sĩ quan Huấn Luyện) không mấy chiếu cố. Bởi vì, trên thực tế, các vị staff đó có khi mang cấp Chuẩn Úy, hoặc Thiếu Úy giả định, trong khi các Không Quân gốc Đà Lạt mang Thiếu Úy thực thụ, hai năm sau tự động thăng cấp Trung Úy!

Trên lãnh vực chuyên môn (bay bổng) và kinh nghiệm chiến trường thì các vị staff coi như dày dạn hơn các ông Thiếu Úy Đà Lạt, nhưng trên lãnh vực lãnh đạo chỉ huy thì mấy Không Quân gốc Đà Lạt được đào tạo bài bản và chuyên nghiệp hơn.

Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang tuyển mộ hằng năm để đào tạo thành hoa tiêu, quan sát viên hay chuyên viên kỹ thuật…
Khi các Sinh Viên Sĩ Quan Không Quân nầy tốt nghiệp dù ở Mỹ hay tại Nha Trang, họ tự cho mình là “Không Quân truyền thống”, nghĩa là từ dân sự vào không quân, được không quân đào tạo thành… Không Quân truyền thống!

Như vậy có nghĩa là, khi các sĩ quan tốt nghiệp tại các trường bộ binh (như Võ Bị Đà Lạt hay Bộ Binh Thủ Đức) mà chuyển qua Không Quân, được Không Quân đào tạo thành hoa tiêu hoặc quan sát viên, họ được xem là “Không Quân lai giống”!

Chắc hẳn thượng cấp đã có kế hoạch trẻ trung hoá các Quân Binh chủng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà nên mới tuyển các Sinh Viên Sĩ Quan Trường Võ Bị Đà Lạt qua Hải Quân và Không Quân sau khi tốt nghiệp kể từ Khoá 16. Một điều khẳng định là, khi một thanh niên dân sự được đào tạo 4 năm để trở thành cấp chỉ huy Trung Đội Trưởng Bộ Binh trên cả hai lãnh vực về quân sự lẫn lãnh đạo chỉ huy, vẫn tốn kém hơn đào tạo một phi công.

Rất tiếc, kế hoạch chưa thành vì vận nước suy vong. Tự hào về màu cờ sắc áo của quân binh chủng mình là điều đáng trân trọng. Nhưng nếu tự hào thái quá sẽ thành tự kiêu. Giữa tự kiêu và kiêu binh nhiều khi không có ranh giới.

Người xưa bảo, ăn cây nào rào cây ấy. Những K17, gốc Đà Lạt được tuyển qua Không Quân, phục vụ quân chủng thân yêu với tất cả nhiệt tình và trách nhiệm của một Sĩ Quan Không Quân gốc Võ Bị Quốc Gia.

Trái tim của họ là Tổ Quốc Không Gian. Khối óc của họ là Tự Thắng Để Chi Huy! Họ tự hào là Không Quân của đất nước. Họ hãnh diện là phi công từ nguồn gốc Võ Bị Quốc Gia Việt Nam.

Cho đến cuối cuộc chiến, các Không Quân K17 đảm nhiệm những chức vụ sau:

- Nguyễn Duy Diệm: Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Tiền Phương Không Quân Phú Bài, Huế.

- Hà Thuyên: Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn Trợ Lực Không Đoàn Yểm Cứ Pleiku.

- Huỳnh Cao Khải: Liên Đoàn phó Liên Đoàn Phòng Thủ Không Đoàn Yểm Cứ Cần Thơ.

- Dương Thanh Long: Trưởng Phòng Hành Quân Chiến Cuộc Sư Đoàn 6 Không Quân, Pleiku.

- Huỳnh Công Đặng: Trưởng Phòng Hành Quân Chiến Cuộc Sư Đoàn 4 Không Quân, Cần Thơ.

- Huỳnh Văn Tòng và Trần Bạch Thanh: Phi Đoàn Trưởng và Phi Đoàn Phó Phi Đoàn Hoả Long 817, Tân Sơn Nhứt.

- Lê Sĩ Thắng: Phi Đoàn Trưởng Phi Đoàn 110 Thiên Phong, Đà Nẵng.

- Nguyễn Xuân Tám: Phi Đoàn Trưởng Phi Đoàn 114 Sơn Ca, Nha Trang.

- Nguyễn Đức Gia: Phi Đoàn Trưởng Phi Đoàn 116 Thần Ưng, Cần Thơ.

- Võ Ý: Phi Đoàn Trưởng Phi Đoàn 118 Bắc Đẩu, Pleiku.

Trong biến cố đau thương ngày 30 tháng 4/1975, có vị bay thoát Việt Nam, có vị bị kẹt lại và phải chịu cảnh tù đày như bao Quân Cán Chính Việt Nam Cộng Hoà khác. Hiện nay, hầu hết các Không Quân gốc K17 đều định cư tại Hoa Kỳ. Tuổi trung bình là 77 tuổi đời. Một cụ còn đi cày (Cụ Trần Bạch Thanh, khoẻ thật!), còn hầu hết đã ăn tiền hưu, có người ăn tiền già, sống trong nỗi hoài niệm về khung trời cũ núi sông xưa!

Những cánh chim K17 sau đây đã bay vào hư vô, trước và sau ngày 30 tháng 4 năm 1975: Nguyễn Văn Xuân, Lê Hoàng Anh, Hoàng Đức Thịnh, Bùi Văn Lợi, Lê Hữu Trí, Cao Ngọc Quang, Huỳnh Văn Tòng, Hà Thuyên, Trần Minh Vũ, Huỳnh Cao Khải.

Phi công Nguyễn Văn Xuân, tự là Xuân Mẫm, người hy sinh đầu tiên trên L19 (cuối năm 64 hoặc đầu năm 65) tại vùng biển Vũng Rô, Nha Trang.

Phi công Hoàng Đức Thịnh, trên đường bay chiếc Cessna U17 6 chỗ ngồi từ Saigon về lại Đà Nẵng, gặp thời tiết xấu nên bị crash gần Quảng Ngãi, bị Việt Cộng bắt làm tù binh và tử vong sau đó.

Phi công Trung Tá Hà Thuyên, sau khi ra tù (vào khoảng năm 1985), tổ chức vượt biển, gặp trời gió bão, vỡ thuyền đành vùi thân trong biển cả.v.v…

Hiện nay, duy nhất Khoá 17 trong 31 khoá, đã thiết lập được Bia Tưởng Niệm K17 đã nằm xuống tại Victor Memorial Veterans Park, thành phố Greer thuộc Tiểu bang South Carolina, USA.

Xin cầu nguyện cho hương linh của quý đồng môn hoà nhập vào hồn thiêng sông núi, phù hộ cho đồng bào, đồng đội và đàn chim tiếp nối, nuôi chí quật cường, để có một ngày mai, đàn chim Việt Tự Do tung cánh, bay rợp trời quê hương, từ ải Nam Quan đến mủi Cà Mâu và các hải đảo xa xôi…

Mong thay!

Bắc Đẩu Võ Ý - K17
Ngày Father Day 2017
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=2200102383439256&set=gm.2337028949668536&type=3&theater&ifg=1

BachMa
08-30-2020, 04:17 PM
Thương Tiếc Người Phi Công Trẻ
Hoàng Ánh Nguyệt
Cuộc chiến tranh Việt Nam đã khép lại 40 năm qua, nhưng những dư âm tang thương từ “Tháng Tư Đen” vẫn còn là nỗi đau vang vọng trong lòng chúng ta, trong lòng từng gia đình, nhất là những gia đình có những người thân yêu đã một thời khoác áo kaki…


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1598664040-HQPD_ThuongTiecNguoiPhiCongTre_01.jpg
Thiếu Úy Hồ Xuân Đạt

Gia đình tôi cũng không ngoại lệ. Anh, em trai hầu hết là quân nhân. Chồng tôi, Hoàng Ngọc Thái Đại Úy Công Binh, anh Hai Thiếu Tá Pháo Binh, anh Ba Chiến Tranh Tâm Lý, em thứ Năm Trung Tá Tiểu Đoàn Trưởng Công Binh, em thứ Sáu Trung Sĩ Pháo Binh, và em thứ Bảy Thiếu Úy Không Quân. Tất cả những quân nhân trong gia đình đã chiến đấu hào hùng vì lý tưởng, chính nghĩa Quốc Gia, sẵn sàng hy sinh mạng sống cho một Tổ Quốc Tự Do toàn vẹn.

Năm 1967, Em tôi, Hồ Xuân Đạt, khi vừa đậu xong bằng tú tài I, dù vẫn được hoãn dich vì lý do học vấn, vẫn tình nguyện lên đường theo tiếng gọi của non sông. Em đã xếp áo thư sinh, Từ giã học đường, gia đình, bạn bè…gởi lại sau lưng những kỷ niệm, những ước mơ thật đẹp, thật hồn nhiên của tuổi mới lớn.

Năm 1968, sau khi tốt nghiệp trường Sĩ Quan Bộ Binh Thủ Đức, em được chọn vào ngành Không Quân và được gửi đi Hoa Kỳ thụ huấn khóa đào tạo phi công trực thăng (Helicopter) tại tiểu bang Texas Hoa Kỳ.

Năm 1970, khi tốt nghiệp em về lại Việt Nam, phục vụ tại phi trường Biên Hòa thuộc Sư Đoàn III Không Quân QLVNCH. Ngay chính nơi chôn nhau cắt rún của mình.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1598664061-HQPD_ThuongTiecNguoiPhiCongTre_02.jpg
Bằng Lái Máy Bay

Hai năm sau, vì nhu cầu chiến trường, em nhận lệnh thuyên chuyển ra vùng I chiến thuật, công tác tại phi trường Đà Nẵng rất gần với đơn vị của chồng tôi. Khi ấy, chồng tôi, đại úy Hoàng Ngọc Thái, đại đội trưởng đại đội Biệt Lập 127 Cầu Nổi.

Hàng tuần vào những ngày nghỉ, em hay về nhà tôi chơi trong khu cư xá Phước Tường Đà Nẵng. Chị em có nhiều dịp gần gũi nhau hơn. Em hay kể cho tôi nghe về những chuyến bay tác chiến, những phi vụ tiếp tế và tải thương tại chiến trường về đêm đầy những hiểm nguy mà em tham dự. Về những người lính can đảm đã anh dũng chiến đấu, đã hy sinh bỏ mình cho tổ quốc.

Chiến tranh vẫn tiếp diễn và em tôi, vẫn hằng đêm thực hiện những phi vụ hiểm nguy để yểm trợ, sát cánh cùng chiến hữu các đơn vị để chiến đấu bảo vệ mảnh đất quê hương.


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2019/1598664083-HQPD_ThuongTiecNguoiPhiCongTre_03.jpg
Bằng Lái Máy Bay

Tháng 3 năm 1975, Đà Nẵng trong tình trạng dầu sôi lửa bỏng. Tin tức địch quân sắp chiếm Đà Nẵng làm dân chúng xôn xao, hỗn loạn tìm đường thoát chạy. Trong khu cư xá sĩ quan của Liên Đoàn 8 Công Binh, tôi không làm sao liên lạc được với chồng vì anh đang phải cấm trại tại đơn vị. Vừa lo lắng cho chồng, vừa lo cho Đạt em tôi, vừa lo cho chính bản thân mình và các con. Sau này nghĩ lại, thời gian ấy thật sự đáng sợ và kinh khủng nhất trong đời tôi.

Bỗng nhiên một buổi sáng trước ngày Đà Nẵng thất thủ, Đạt lái trực thăng đáp xuống khoảng sân rộng trước nhà tôi ở khu cư xá sĩ quan Công Binh Phước Tường. Khi bước vào nhà gặp tôi, trông em có vẻ căng thẳng và lo lắng. Em nói “Chị và các cháu chuẩn bi sẵn sàng. Em sẽ trở lại đón vào phi trường tìm đường về Sàigòn càng sớm càng tốt”.

Nói xong, em quay lưng bước vội về chiếc trực thăng vẫn còn đang nổ máy ngoài sân. Trước khi cất cánh, em nhìn tôi rồi gượng nở nụ cười qua khung cửa gió của con tàu..
Tôi không bao giờ ngờ rằng đó là lần cuối cùng tôi nhìn thấy Đạt. Cũng là lần cuối cùng tôi nhìn thấy nụ cười của em tôi. Một nụ cười buồn, rất buồn. Bởi, em chẳng bao giờ trở lại đón tôi như lời đã hứa.

Ngày 29/03/1975 Đà Nẵng thất thủ.

Ngày 05/05/1975 với nhiều vất vả, khổ cực, tôi một mình dìu dắt bốn đứa con nheo nhóc từ Đà Nẵng về nhà mẹ ở Sàigòn. Về đến nhà Mẹ thì mới hay Thái, ông xã tôi, đã có mặt ở nhà Mẹ cả tháng, vì nghĩ rằng chú các cháu đưa vợ con vào phi trường về Sài Gòn trước nên trong lúc thất thủ anh cũng vất vả tìm cách về Sài Gòn, anh có ngờ đâu vợ con anh còn kẹt lại Đà Nẵng. Bỏ ăn, bỏ ngủ với thân hình tiều tụy, vì nhớ thương vợ con, anh đã không từ một xác trôi nổi nào được tấp vào bất cứ bãi biển, bến tàu nào anh cũng tìm đến nhìn mặt, anh lang thang khắp nơi như người mất hồn

Tôi cũng không gặp được anh vì anh đã đi ngược ra Đà Nẵng tìm vợ con sau một tháng trời mất liên lạc. Giữa đường anh bị bắt, bị bịt mắt còng tay ra sau lưng, bị dẫn độ đi ngày đêm trong rừng sâu, và từ đó anh bặt tăm, một lần nữa tôi lại đi tìm chồng, không biết địch có để cho anh sống hay chúng đã giết anh rồi…Nhưng may mắn anh còn sống. Tôi đã gặp anh và anh đang bị tù mãi tận trong núi Kỳ Sơn Quãng Nam…

Ngày tháng trôi qua cả nhà tôi lại tiếp tục đi tìm em trai Đạt, hết trại tập trung này đến trại cải tạo kia, vẫn không nơi nào có tên em, cứ tưởng Đạt bay đi được ra khỏi Việt Nam và đang tị nạn ở Hoa Kỳ, Canada hay một nước nào đó trên thế giới, không ngờ đến tháng 11/1975 một anh quân nhân VNCH cùng đi trên chuyến bay định mệnh, sau khi máy bay bị bắn rớt, anh bị bắt đi tù gần 8 tháng về kể lại:

Máy bay cất cánh vội vàng với số lượng quá tải, cũng cố cất cánh bay cao rời khỏi phi trường Đà Nẵng với bao nhiêu người trên chuyến bay định mệnh trong những giờ phút mà đạn pháo quân thù bay ra xối xả, Đạt có ngờ đâu đó là phi vụ cuối cùng của cuộc đời binh nghiệp…

Khi phi cơ bay qua vùng Bồng Sơn thuộc tỉnh Bình Định thì bị một loạt mưa đạn AK của địch từ phía dưới bắn lên nhắm ngay buồng lái, Đạt bị trúng thương, người phi công nữa vào thay cũng bị bắn, trong lúc Đạt bị bắn trọng thương anh lính đã chăm sóc, Đạt biết mình không thể sống, nên đọc địa chỉ nhờ nhắn tin về nhà, cả hai phi công đều tử nạn, chiếc trực thăng không người lái, bay chúi xuống ruộng, sát chân núi. Những người trên chuyến bay còn sống đã bị địch bắt…

Vẫn giữ lời, sau khi ra tù anh quân nhân tốt bụng, đã tìm đến tận nhà báo tin về chiếc phi cơ của Đạt bị địch bắn và rơi xuống vùng Bồng Sơn (Bình Định) ngày 27/03/1975 như tôi đã kể trên. Và chỉ rõ địa điểm máy bay lâm nạn.

Quá bất ngờ lẫn đau sót và vô cùng bối rối, và cũng vì anh lính vội vã về gia đình nên anh lính chỉ báo tin cho biết và đi ngay, cả nhà tôi nghe tin sét đánh, đã lặng người, không còn nghe thấy gì, không còn nhớ tên anh lính cũng như địa chỉ hay quê quán nơi anh cư ngụ…

Theo lời anh lính chỉ đường, tôi và Má tôi đi xe đò ra Bồng Sơn, mặc dù không rành đường, nhưng khi xe chạy gần đến nơi tôi linh tính như có ai dẫn đường, tôi kêu xe ngừng lại đúng ngay địa điểm chiếc máy bay vẫn còn nằm dưới đám ruộng tuốt trong xa, gần chân núi, chỉ cần sơ ý xe chạy lướt qua, coi như không thể tìm thấy.

Xuống xe quan sát, tôi nhìn thấy ngay nấm mộ đất dưới bờ ruộng, sát lề đường QL.I. ,không mộ bia. Hai bên đường là ruộng, xa xa mới có một căn nhà. Má và tôi tìm đến căn nhà gần nhất để hỏi thăm, cũng may mắn chính ông chủ căn nhà là một trong số những người dân ở đó chôn em tôi khi bị nạn giữa đường mà không có thân nhân… Mộ em nằm cách nhà ông khoảng 50 m. Thuộc thôn Vân Cang, Xã Hoài Đức Huyện Hoài Nhơn, Tỉnh Bình Định.

Ông chủ nhà rất tử tế, khi được biết chúng tôi đi tìm mộ người thân, ông mời Má và tôi ở lại nhà ông,vì khi tìm đến nhà ông trời cũng đã chạng vạng. Một căn nhà tường xây thật lớn, coi như ông là người khá giả nhất vùng đó, tắm rửa xong, ông mời dùng cơm, một bửa cơm thịnh soạn, thật cảm động, ông kể:

Khi máy bay rớt ông là người đứng ra chôn cất em tôi và một phi công nữa cùng bị nạn chung trên chuyến bay này. Nhưng anh phi công đó được gia đình biết sớm nên đã di dời về quê. Đêm đó ông lại nhường phòng ngủ của ông cho hai má con tôi ngủ, cái đặt biệt nữa là cái bóp của Đạt, tôi đã nhận ra ngay vì khi em tôi du học Mỹ em mua về sử dụng tôi có biết cái bóp da có hình đầu con Ngựa được đóng nổi. Trong bóp lại còn có tấm hình em mặc bộ đồ bay, tôi mang ra và xin phép ông được nhận lại kỷ vật…

Ông rất vui vẻ. Ông cho biết khi ông chôn cất em tôi ông giữ lại kỷ vật này, ông vẫn để trên đầu giường (giường hộp) của ông.

Sáng hôm sau, Má tôi nhờ ông làm dùm tấm bia bằng gổ cắm trên mộ em tôi. Vì mộ mới nên không thể hốt cốt mang về. Và lần gặp này gia đình tôi rất mang ơn ông, mỗi khi có dịp vào Sài Gòn ông và các con ông đều ghé nhà chơi.

Năm năm sau Má tôi trở ra Bình Định hốt cốt em về và hỏa thiêu, sau đó gửi cốt vào chùa, Đạt mất khi em mới 25 tuổi.

Cái kỷ niệm đau thương, buồn rầu ấy cứ mãi đeo đẳng theo tôi đến tận bây giờ, trong trí tôi lúc nào cũng hình dung cái chết tức tưởi, đau đớn của em mình và trong lòng tôi như có một vết thương chưa lành hẵn…

Bài viết này, tôi ôn lại và ghi lại những gì tôi còn nhớ, những gì tôi được biết. Tôi chỉ còn nhớ và chắc chắn là không đầy đủ chi tiết.

Đã 40 năm qua, thời gian cứ trôi, bao kỷ niệm cay đắng vẫn còn, càng cố quên hình ảnh đứa em thân thương đó tôi lại càng cứ nhớ, càng yên lặng là lúc hồn tôi miên man nhớ về quá khứ, cái quá khứ đau xót mà gia đình tôi nhận lấy.

Có nhiều kỷ niệm, kỷ niệm vui buồn, nhiều thứ để quên, nhưng nỗi đau mất mát này không thể nào phai nhạt. Đạt là đứa em gần gũi tôi nhiều nhất.

Chiến tranh qua đi, là một nỗi đau hằn sâu vết thương lòng cho những người còn lại, sau cuộc chiến là sự mất mát tang thương, bao nhiêu người con yêu của tổ quốc đã xong nợ xương máu không trở về, bao nhiêu quả phụ chít khăn tang khi mái tóc còn xanh, trở thành góa phụ ngây thơ với nỗi buồn và sự mất mát to lớn.

Không có người Mẹ, người vợ nào trên thế giới lại không tan nát trái tim, trước sự mất mát quá lớn này, sự ra đi vĩnh viễn của những người con, những người chồng, người cha của mình “Vị Quốc Vong Thân” ! Đã hy sinh một cách âm thầm.

“Tổ Quốc Không Gian”, vùng mây trời mênh mông bao la đã vương giọt máu đào của em tôi, của Đạt, của những người anh hùng nghiêng cánh sắt. Cố bảo vệ, gìn giữ quê hương, đã đem sinh mạng đổi lấy hai chữ “Tự Do”.

Hồ Xuân Đạt một phi công trẻ của QLVNCH, đã chết vì quê hương, dân tộc. Là người thanh niên Biên Hòa, lớn lên trên dãy giang sơn hoa gấm thân yêu hình chữ “S”, một đất nước hiền hòa đầy tình dân tộc được dựng xây bằng xương máu của các bậc tiền nhân bốn ngàn năm văn hiến, sẽ mãi mãi làm trang sử QLVNCH đời đời sống dậy và người lính Việt Nam Cộng Hòa sẽ không bao giờ chết.

Xin chân thành biết ơn những anh em Thương Phế Binh VNCH đã hy sinh một phần thân thể cho quê hương, cho chúng tôi còn được nguyên vẹn.

Xin chân thành gởi nén hương lòng “Tưởng Niệm” đến những Anh Hùng QLVNCH. Những người nằm xuống trong cuộc chiến, những người tuẫn tiết vì quốc nạn 30/04/1975 và những người ngã gục trong lao tù cộng sản. Những Anh Hùng Bất Tử trong dòng lịch sử Việt Nam.

Hoàng Ánh Nguyệt
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=2481451551878558&set=pcb.2387038068000957&type=3&theater