Mọc Cánh



Từ cuối năm 72 là đă có nhiều sinh viên sĩ quan phi hành của khóa 72A được gửi đi học bay từ những tài khóa phản lực ở Mỹ, trực thăng tại Mỹ cũng như tại các phi đoàn tác chiến ở Việt Nam, và L-19 ở Nha Trang. Các khóa đàn em từ 72B tới 72F đă lần lượt kéo ra, và nhiều anh em 72A giờ đây phải thay các niên trưởng lo việc chăm sóc và điều hành trại Ngân Hà.
Sau khi tốt nghiệp, dù là Phi Hành hay Không Phi Hành, các anh em 72A đă về phục vụ tại các sư đoàn tác chiến sau:
• SĐ I KQ Đà Nẵng, dưới quyền Chuẩn Tướng Tư Lệnh Nguyễn Văn Khánh.
• SĐ II KQ dưới quyền Chuẩn Tướng Tư Lệnh Nguyễn Văn Lượng, với bản doanh ở Nha Trang và căn cứ ?????? Chiến Thuật Phan Rang.
• SĐ III KQ Biên Ḥa, dưới quyền Chuẩn Tướng Tư Lệnh Huỳnh Bá Tính.
• SĐ IV KQ dưới quyền Chuẩn Tướng Tư Lệnh Nguyễn Hữu Tần, với bộ chỉ huy đặt ở B́nh Thủy và căn cứ ?????? Chiến Thuật Trà Nóc.
• SĐ VI KQ dưới quyền Chuẩn Tướng Tư Lệnh Phạm Ngọc Sang, với bản doanh ở Pleiku và thêm căn cứ 60 Chiến Thuật Không Quân Phù Cát.

Riêng Sư Đoàn V Vận Tải ở Tân Sơn Nhất, dưới quyền Chuẩn Tướng Tư Lệnh Phan Phụng Tiên, th́ không có anh em 72A nào về.
Sau khi ra phi đoàn th́ cuộc sống của mỗi SVSQ phi hành gắn liền với một con số và cái tên của phi đoàn ḿnh phục vụ. Các phi đoàn Quan Sát th́ bắt đầu bằng số 1, tỷ dụ như 112, 124. Các phi đoàn Trực Thăng th́ bắt đầu bằng số 2. Các phi đoàn Khu Trục th́ bắt đầu bằng số 5. Những khóa học bay được kể lại sau đây theo thứ tự đó.

Vào đầu năm 73 gần tết con trâu th́ khóa 42 Hoa Tiêu Quan Sát bắt đầu khai giảng ở Trường Phi Hành thuộc Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang. Những huấn luyện viên là những thiếu úy mới ra trường từ Mỹ về. Các khóa sinh hơi vất vả v́ phải học bay vừa bằng tiếng Việt vừa bằng tiếng Mỹ. Triệt nâng th́ là stall, cận tiến là final approach, chong chóng là propeller, và cánh cản là flap. Khi cất cánh là lúc bận rộn nhất, các khóa sinh lại càng thêm lúng túng khi miệng đang lẩm bẩm “ḥa khí già, tay ga tống hết” trong khi huấn luyện viên ngồi cạnh ḥ hét những “mixture: rich, throttle: full”. Trong những buổi briefing, thằng học tṛ ngồi xanh mặt nghe đàn anh mắng mỏ mà không khỏi chạnh ḷng nghĩ tới những thành phần bourgeois gentilhomme mới lên của thời đại, những bourgeois gentilhomme hút Salem, Winston, Pall Mall thay v́ hút Con Mèo hay Ba Số 5 như thời trước. Các đàn anh đă không có th́ giờ rảnh vào phạn xá xem để biết rằng các tiêu chuẩn dinh dưỡng của các đàn em rất là thấp, khó mà vẽ được cái lazy eight cho được tṛn trịa như tiêu chuẩn mà khỏi run tay hoa mắt ù tai. Không nên la mắng đàn em quá, bởi đất nước đang chờ.

Khóa 42 Hoa Tiêu Quan Sát là khóa bay L-19 đầu tiên có sự hiện diện của 72A. Khóa này có 27 khóa sinh gồm có 23 anh em 72A, hai sĩ quan và hai SVSQ khóa 72E. Những SVSQ của 72A gồm có:


1. Lê Minh Bảo, PĐ 110 Đà Nẵng
2. Trần Quang Diệu, PĐ 110 Đà Nẵng
3. Nguyễn Văn Đích, PĐ 124 Biên Ḥa
4. Tạ Viết Đỉnh, PĐ 110 Đà Nẵng
5. Đặng Văn Hai, PĐ 120 Đà Nẵng
6. Kiều Công Ngọc Khuê , PĐ 112 Thanh Xà, Biên Ḥa
7. Nguyễn Tuấn Kiệt, PĐ 110 Đà Nẵng
8. Nguyễn Văn Năm, rớt bay bị loại ra bộ binh
9. Đinh Trọng Nghĩa, PĐ 124 Biên Ḥa
10. Đường Lập Nghĩa, PĐ 110 Đà Nẵng
11. Nguyễn Thanh Quan, PĐ 110 Đà Nẵng
12. Đào Thanh Sơn, PĐ 120 Đà Nẵng
13. Nguyễn Thanh Tâm, PĐ 120 Đà Nẵng
14. Vơ Văn Tấn, PĐ 124 Biên Ḥa
15. Vũ Văn Tân, PĐ 116 Cần Thơ
16. Trần Chung Thanh, PĐ 112 Thanh Xà, Biên Ḥa
17. Vơ Văn Thừa, PĐ 116 Cần Thơ
18. Mai Ngọc Trai, PĐ 110 Đà Nẵng
19. Phạm Quang Trung, PĐ 124 Biên Ḥa
20. Nguyễn Thanh Tùng, PĐ 114 Nha Trang
21. Nguyễn Long Tựu, PĐ 112 Thanh Xà, Biên Ḥa
22. Hứa Tỷ, PĐ 110 Đà Nẵng
23. Trần Văn Ứng, PĐ 110 Đà Nẵng

Trong khóa 42 HTQS, Trai Đầu Ḅ c̣n nhớ Tạ Viết Đỉnh là một anh chàng hơi gầy g̣ và có tật ưa nói cà lăm không kịp thở mỗi khi chàng đang hừng chí. Một hôm khi dẫn đào nhí ra Ḥn Chồng ngoạn cảnh, trong một lúc cao hứng chàng đă thao thao kể cho nàng nghe rằng trong khi đang bay mà buồn ngủ là chàng chui vào mây gác cánh lên đó mà ngủ, cho đến lúc mây tan máy bay rớt xuống th́ chàng mới giật ḿnh thức dậy mở máy để bay về đáp. Không may cho chàng là có mấy huấn luyện viên của Trường Phi Hành t́nh cờ ở gần đó nghe hết mà chàng không biết. V́ câu chuyện này mà Đỉnh bị kết từ hôm đó, ngày nào cũng bị đàn anh huấn luyện viên hỏi rằng “hôm nay có tính gác cánh lên mây mà ngủ hay không?”

Trong thời gian học bay của khoá 42 HTQS th́ câu lạc bộ của Đại Tá Thịnh khai trương. Mỗi buổi trưa các khóa sinh mặc đồ bay lấy khay sắp hàng chờ mấy cô đứng sau quầy múc cơm vô khay cho. Cơm ăn đủ no nhưng thịt thà rau cỏ th́ ít, cho nên thêm được chút nào hay chút nấy. Trai Đầu Ḅ v́ được cô Tuyết có cảm t́nh nên lần nào cũng được múc cho một cục thịt kho bự nhất. Dĩ nhiên th́ chuyện chả đi tới đâu v́ Trai chỉ lợi dụng t́nh thế đùa giỡn cho vui vậy thôi. Ít lâu sau th́ cô Tuyết cũng hiểu ra như thế, và từ đó là cục thịt mà cô múc cho Trai bao giờ cũng bé nhất. Bù lại th́ Mai lại được chị Trinh gốc người Hoa là chủ cái gian hàng tạp hóa cạnh quán ông Tá dành cho những cảm t́nh đặc biệt nên nó lúc nào cũng có xà bông Camay để tắm. Nhiều bữa thấy hai chị em Trinh-Trai tâm t́nh thủ thỉ mà anh em đâm ra ghen tị, v́ qua sự thân mật gắn bó đó người ta đủ biết rằng những nhu yếu phẩm th́ Mai không thiếu. Ǵ chứ những món đồ bày sau tủ kính của chị Trinh như xí mụi, thuốc lá, ḿ gói, cà phê, gương lược, bánh kẹo, v.v..., Mai muốn ǵ mà chị chẳng cho!

 

Có lúc khóa 42 HTQS được cho qua trại sĩ quan khóa sinh Hoàng Yến ở. Gian trại làm bằng sắt từ trần cho tới sàn, và cứ hễ từ trong bước ra hay ở ngoài bước vôâ là bị điện giựt nhẩy nhổm. Trại đó rộng răi thoải mái nhưng vắng vẻ xa đoàn SVSQ nên anh em hơi buồn cho rằng ḿnh bị đ́. Bởi ở xa Ngân Hà nên buổi tối nhiều thằng ưa dù ra phố chơi. Có một buổi tối Thiếu Tá Bé gọi những thằng c̣n lại lên tŕnh diện. Tôi v́ cao nhất làm trưởng toán dẫn anh em vô văn pḥng tŕnh diện xong th́ Thiếu Tá Bé hỏi: “Tôi cho các anh sang bên đó ở là ưu đăi lắm rồi mà tại sao các anh c̣n chống đối, các anh hăy trả lời đi!” Tôi đứng nghiêm hô to: “Tŕnh Thiếu Tá, chuyện đó chúng tôi không được rơ!” Thế là Thiếu Tá Bé đập bàn đuổi cả đám về, trừ tôi th́ cạo đầu nhốt một tháng. Cái conex của Ngân Hà đă nghiễm nhiên biến thành tư gia của tôi, ban ngày trần x́ một chiếc quần xà loỏng trong đó thỉnh thoảng cậy cửa đưa nón sắt nhờ đàn em nào t́nh cờ đi ngang múc dùm ít nước xối cho đỡ nóng, ban đêm th́ lạnh dă man, nhiều khi muốn tè nhưng teo đâu mất. Một tháng sau khi vừa được thả ra một hôm tôi được cắt đi với một ông sĩ quan huấn luyện kiểng không có dạy khóa sinh nào mà chỉ thỉnh thoảng bay kiếm giờ. Khi lên tàu ông ra lệnh, “Anh buông tay để tôi bay”, và thế là tôi buông tay cho ông bay là là dọc đường về Cam Ranh chơi, chẳng may v́ ông ngồi sau không thấy đường chui cha nó vào một cây đa suưt chết cả hai. Sau khi về đáp th́ ông ta đi méc Trung Tá Duy Chỉ Huy Trưởng Trường Phi Hành, và tôi lại vô pḥng giam gần phía ngoài bệnh xá nằm thêm một tháng nữa . Cứ thế mà nằm cho gần đến lúc măn khóa ra phi đoàn. May mà có một hôm cô tôi ở Sàig̣n ra chơi nhà ông anh họ xa bắn cà nông không tới đang là một phi đoàn trưởng khu trục. Bà nhờ ông gọi Thiếu Tá Bé xin cho tôi ra phép, và từ đó về sau th́ mới hết bị nhốt.

Trong những đêm hiếm hoi được thả ra th́ tôi nhẩy tường ra phố thăm cô Lan bán quán bà Tá. Lan khi đó ở với bà chị nuôi có ba con mà không chồng trong một đường hẻm cách cổng trước không xa. Đêm đêm nằm nghe gió biển thổi vi vu, tôi lải nhải khuyên Lan hăy về Huế trở lại ở với mẹ già để c̣n lo đi lấy chồng làm lại cuộc đời, và bữa nào khi ngừng nói tôi cũng đều nhận ra là Lan đă ngủ. Cùng khóa 42 HTQS của tôi có Đào Thanh Sơn ngày nào cũng chạy Honda rề rề theo Lan tới nhà để thả dê, nhưng với cái tên Đào Thùng Nước Lèo, hắn coi như là vô hy vọng.

Chiều nào tôi về trong sam 42 HTQS chờ giờ dù ra phố th́ cũng một hoạt cảnh cũ tái diễn. Nguyễn Long Tựu cứ ăn cơm xong về là nhẩy loi choi hai tay khuỳnh ra như gà mắc đẻ, và sau khi la “cục tác, cục tác” vài tiếng là lại ư ử bằng giọng mấy người đang lên đồng: “Con c̣ xanh nhẩy quanh đầu sói, chờ nước đục rỉa lông rỉa tóc.” Cứ chấm dứt chữ “tóc” là Tựu phải vùng chạy ra sân cho mau, v́ Trung Úy Thân đầu hói cùng khóa bay ở cuối pḥng cầm cây giăng mùng chạy tới đập. Ngày nào cũng màn đó mà Trung Úy Thân chưa bao giờ đập Trúng Nguyễn Long Tựu cả. Phần tôi và ông Thiếu Úy Hải th́ một màn khác. Bởi tôi cứ nằm tù conex hoài, ông lấy vần điệu tên tôi ra để gọi tôi là Tù Chung Thân, và tôi th́ dịch tên ông thành Dê Địt Bể.

Ở trại Hoàng Yến lúc đó ngoài khóa 42 HTQS, và Khóa 17 Bảo Tŕ Phi Cơ ra th́ hầu như chẳng có ai, và v́ thế tụi tôi rất cẩu thả trong vấn đề ăn mặc. Có những buổi trưa cuối tuần nóng nực, tụi tôi thằng nào cũng chỉ trần x́ một chiếc xiệp . Lâu lâu cứ hễ cô Tuyết ở quán Đại Tá Thịnh tới t́m Trai Đầu Ḅ mà nó đi vắng th́ Nguyễn Văn Đích và Nguyễn Thanh Quan cùng hai ba chàng nữa chạy ra hỏi thăm tíu tít và thân ái mời “em vô nhà chơi để tụi anh đi kiếm nó...” trong khi mặt cô nàng đỏ bừng lên và cứ cắm cúi nh́n xuống đất như đang t́m bạïc cắc rơi. Kiệt Lặc th́ ưa đạo đức giả, những lúc đó cứ hay lải nhải phê b́nh về tư cách những thằng đang săn sóc kỹ cô Tuyết với Lê Minh Bảo. Tội nghiệp thằng Bảo hiền lành nói ǵ th́ hắn cũng ừ. H́nh như nó là người bạn duy nhất mà Kiệt có.

Khóa 43 Hoa Tiêu Quan Sát h́nh như không có anh em 72A nào.

 

Khóa 44 HTQS có những anh em 72A sau:


1. Diệp Vĩnh Trí (Bộp, tức là nhẩy Bebop giỏi)
2. Huỳnh Văn Chín (Đen)
3. Nguyễn Văn Hiếu (Gà Tây)
4. Phạm Văn Hiếu
5. Lưu Khải Minh (Chè)
6. Đỗ Trọng Nhâm
7. Nguyễn Phước
8. Trịnh Vĩnh Thụy
9. Huỳnh Văn Trọng (hay là Trần B́nh Trọng???? Khóa 72A có hai Trọng là Vũ Đức Trọng học khóa 2 HTTT và một Trọng nữa. Trọng kia họ là ǵ?????)

Sau đây là những giai thoại của Khóa 44 Hoa Tiêu Quan Sát ghi lại theo lời kể của Đỗ Trọng Nhâm.
Trong thời gian Khóa 44 HTQS đang học bay T-41, một buổi sáng trong khoảng tháng 9/74, bốn bạn 72A trong khóa đă v́ ham vui mà bị nhốt. Số là trên con đường nối từ cổng Long Vân chạy dài tuốt qua Phi Dũng, giữa khoảng trại Ngân Hà và trường Phi Hành, trước khi tới chỗ dạy bay phi cụ cạnh trường Phi Hành, có một quán trong đó chỉ có vỏn vẹn hai cái bàn bi da đă cũ x́. Dù là đă vô trường bay rồi nhưng tật ham cá độ của vài anh em 72A vẫn chưa chịu bỏ. Một buổi sáng thứ bẩy các khóa sinh 44 HTQS phải lên trường Phi Hành chào cờ. Trên đường đi, bốn chàng gồm có Chín Đen, Minh Chè, Nhâm, và Thụy đă rủ nhau vào đánh bi da độ với giải thắng là một ly cà phê và một gói xôi. Bởi ham tranh giải, bốn chàng đă trễ giờ chào cờ, và bị trường Phi Hành cạo đầu và nhốt vô trại giam quân cảnh gần phía pḥng lương và câu lạc bộ của Đại Tá Thịnh.

Trong cái trại giam của quân cảnh này có hai pḥng giam, một pḥng có một chiếc giường sắt hai tầng và một pḥng có lưới không có giường ghế chi cả. Bốn chàng có máu đỏ đen nhà ta đă bị nhốt vô cái pḥng thứ hai hết sáu ngày trời. Xui làm sao lúc đó Nha Trang lại đang bị băo lớn mà căn pḥng giam lại bị dột ướt mẹp chỉ ngồi được co ro ở dưới sàn xi măng. Đă vậy mà không có ǵ ăn, mấy chàng phải nhằm lúc được cho đi ra làm tạp dịch dọn dẹp cây cối bị băo rơi xuống để nhờ anh em đi mua thức ăn dùm.

Trong thời gian sáu ngày mưa băo mà bốn chàng bị nhốt, Hiếu Gà Tây ở nhà lấy hết mấy cái giường của bốn chàng ra chắn mưa trên mấy cửa sổ của barrack. Ngoài mớ giường ra chưa đủ, Hiếu nhà ta c̣n lấy cả va ly của Minh Chè ra xài đỡ vào việc chống băo luôn. Khi về thấy vậy, Minh Chè nộ khí xung thiên bèn đập Hiếu Gà Tây một mách tơi bời, dù chàng này đă hết lời giải thích và năn nỉ. Sau đó Hiếu đă chạy đi đâu kiếm được một khẩu M-16 mang về lên đạn chĩa thẳng vô Minh Chè làm cho chàng này vội nhẩy núp sau cái tủ gỗ nhỏ cạnh đầu giường. May mà nhờ có một thằng nào đó chụp được súng chứ không th́ chắc Minh Chè đă sớm thăng thiên.

Sau khi được thả ra, tật nghịch ngợm của bốn chàng cao thủ bi da vẫn chưa chịu bỏ. Một tối kia bốn thằng rủ thêm được Dân Già ra bờ biển trên đường Độc Lập nhậu, đến khi về th́ trời đă khuya. Lúc đi qua một quán cóc kia, thấy mấy anh phu xích lô đạp đang chúi mũi vào một cái vô tuyến truyền h́nh coi một tuồng cải lương mùi mẫn, Thụy nhà ta đă đỡ nhẹ một chiếc đưa cho Dân Già đạp. Anh phu xe bất đắc dĩ này đă chở được hai hành khách là Chín Đen và Thụy về tới cổng Long Vân th́ vứt xe ở đó và ba chàng điềm nhiên dẫn nhau vào cổng.

Lần đó không phải là lần duy nhất mà Dân Già nghe theo lời xúi làm bậy của Trịnh Vĩnh Thụy. Trong một lần về Tân Sơn Nhất chờ ra khóa bay trước đó, Thụy đă dụ dỗ Dân làm bậy rồi. Một hôm khi Dân đang ngồi ngáp gió vặt th́ Thụy ở đâu lù lù lái chiếc Toyota của ông già vô. Thấy Dân, Thụy ra vẻ mừng lắm và xúi Dân đi gỡ mấy con chuột đèn néon cho hắn. Dân Già nghe xong nổi máu quân tử Tàu lên bèn lên giọng mắng mỏ rằng "Tao không quen ăn cắp!" Nhờ mau mắn miệng mồm, Trịnh Vĩnh Thụy đă phát ngôn vài lời đường mật rằng "Tao nhờ mày gỡ đây là gỡ cho tao, chứ có phải đâu là tao xúi mày gỡ cho mày..." Dân Già nghe nói bùi tai bèn trèo lên gỡ sạch hết vài trăm cái đưa cho Thụy. Thụy xách mớ con chuột đi đâu một lát trở lại với bia và mồi lủ khủ. Thế là anh em được một bữa nhậu xả ga mà không tốn công đi vay mượn hay kư sổ đồng nào.

Trở lại chuyện học bay của Khóa 44 Hoa Tiêu Quan Sát. Dù gọi chung là Khóa 44 HTQS nhưng thật ra một nửa số khóa sinh học L-19 và một nửa học T-37. Số 30 khóa sinh sau khi học xong T-41 đă được chia làm hai, 15 người ở lại trường Phi Hành Nha Trang học bay L-19, và 15 người kia đi Phan Rang theo Khóa 3 Quốc Nội T-37. Trong số chín anh em 72A đă kể ở trên, có năm người đi Phan Rang là Huỳnh Văn Chín, Phạm Văn Hiếu, Lưu Khải Minh, Đỗ Trọng Nhâm, và Trịnh Vĩnh Thụy. Trừ Hiếu ra th́ bốn ông thần phá làng phá xóm ở Nha Trang trước kia tiếp tục ở chung với nhau.

Những anh em học bay L-19 của Khóa 44 HTQS đă ra trường và về phi đoàn trước tháng 4/75. Riêng những anh em học T-37 th́ chưa kịp ra phi đoàn, dù chương tŕnh học th́ coi như đă hoàn tất. Một lư do là v́ các anh em đó phải học Giai Đoạn II Quân Sự tới hai lần. Lần học thứ nhất là khi c̣n ở Nha Trang, nhưng học không đủ sáu tuần nên sau đó phải về học thêm.

Bây giờ bước sang các khóa bay đào tạo hoa tiêu cho các phi đoàn có mang số 2 ở đầu, tức là các phi đoàn trực thăng. Theo lời kể của Phan Văn Út, Khối Huấn Luyện của Bộ Tư Lệnh Không Quân đă đào tạo được 6 khóa trực thăng quốc nội chia làm hai đợt. Đợt thứ nhất gồm Khóa 1 ở Sư Đoàn III Biên Ḥa, Khóa 2 ở Sư Đoàn IV Cần Thơ, và Khóa 3 ở Sư Đoàn I Đà Nẵng. Đợt thứ nh́ gồm Khóa 4 ở Sư Đoàn III Biên Ḥa, Khóa 5 ở Sư Đoàn IV Cần Thơ, và Khóa 6 ở Sư Đoàn I Đà Nẵng.

Cũng theo lời bạn Út, khi mỗi khóa bay trực thăng hoàn tất th́ 60% khóa sinh tốt nghiệp sẽ ở lại sư đoàn huấn luyện họ, 20% sẽ ra Sư Đoàn II Nha Trang, và 20% sẽ về Sư Đoàn VI Pleiku. Bởi khóa sinh học ở ba sư đoàn, với sự phân chia như thế th́ mỗi sư đoàn đều nhận được số hoa tiêu trực thăng quốc nội bằng nhau.

 

Khóa 1 Hoa Tiêu Trực Thăng Quốc Nội đă rời Ngân Hà đi học bay vào khoảng tháng 9/73. Khóa này đỡ hơn khóa 42 HTQS ở chỗ không phải nghe tiếng Mỹ nhiều từ các huấn luyện viên mới ở Mỹ về, nhưng ngược lại th́ phải học ở hai nơi khác nhau. Theo lời Nguyễn Đ́nh Ḥe kể th́ sau thời gian xuyên huấn ở Phi Đoàn 116, ở Sư Đoàn IV Không Quân Cần Thơ, với U-17 để làm quen với phi cơ, cao độ, phi cụ, cùng các cảm giác bay bổng, các khóa sinh đă học bay trực thăng tại Phi Đoàn 245 ở Sư Đoàn III Không Quân Biên Ḥa. Nơi đây th́ họ đă được chia làm hai toán, A và B, cứ toán nào học địa huấn buổi sáng th́ chiều học bay và ngược lại. Trong số 41 khóa sinh, có 37 SVSQ khóa 72A và bốn SVSQ khóa 72B. Những anh em 72A được kể ra sau đây.


1. Đỗ Văn Ban, PĐ 215 Thần Tượng, Nha Trang
2. Hứa Văn Bảo, Phi Đoàn 251, Biên Ḥa
3. Đỗ Văn Bính, PĐ 221 Lôi Vũ, Biên Ḥa
4. Nguyễn Văn Bực, PĐ 215 Thần Tượng, Nha Trang
5. Nguyễn Công Chánh, PĐ 221 Lôi Vũ, Biên Ḥa
6. Nguyễn Văn Châu, ra bộ binh ở Long Thành
7. Ngô Đ́nh Chi, PĐ 221 Lôi Vũ, Biên Ḥa
8. Nguyễn Văn Chiến, PĐ 221 Lôi Vũ, Biên Ḥa
9. Nguyễn Văn Cửu, PĐ 251, Biên Ḥa
10. Vơ Đức Di, PĐ 235 Sơn Dương, Pleiku
11. Ủ Văn Anh Dũng, PĐ 221/245, Biên Ḥa
12. Trần Văn Duy, PĐ 221 Lôi Vũ, Biên Ḥa
13. Nguyễn Văn Đại, PĐ 231/245, Biên Ḥa
14. Đinh Đông Định, PĐ 221 Lôi Vũ, Biên Ḥa
15. Huỳnh Thanh Hải, PĐ 251, Biên Ḥa
16. Lê Minh Hải, PĐ 243 Mănh Sư, Phù Cát
17. Châu Minh Hoàng, PĐ 229 Pleiku
18. Nguyễn Văn Hóa, PĐ 215 Thần Tượng, Nha Trang
19. Nguyễn Đ́nh Ḥe, PĐ 221 Lôi Vũ, Biên Ḥa
20 Nguyễn Đ́nh Hồng, PĐ 223, Biên Ḥa
21. Châu Thiên Huệ, PĐ 229 Pleiku
22. Nguyễn Quang Hưng, PĐ 223, Biên Ḥa
23. Đinh Sỹ Hưng, PĐ 251, Biên Ḥa
24. Hoàng Hữu Khuê, PĐ 251, Biên Ḥa
25. Hoàng Đ́nh Lai, PĐ 223, Biên Ḥa
26. Đặng Thanh Liêm, PĐ 223, Biên Ḥa
27. Trần Đ́nh Long, PĐ 223, Biên Ḥa
28. Lê Văn Nguyên, PĐ 223, Biên Ḥa
29. Đỗ Tiến Như , PĐ 231, Biên Ḥa
30. Phùng Văn Ninh, PĐ 251, Biên Ḥa
31. Vơ Kim Phi, PĐ 215 Thần Tượng, Nha Trang
32. Liêu Huỳnh Phong, PĐ 251, Biên Ḥa
33. Đỗ Văn Quá, PĐ 243 Mănh Sư, Phù Cát
34. Vũ Xuân Quảng, PĐ 251, Biên Ḥa
35. Nguyễn Văn Sơn, PĐ 221/245, Biên Ḥa
36. Nguyễn Xuân Sơn, PĐ 251, Biên Ḥa
37. Phạm Duy Sơn, PĐ 215 Thần Tượng, Nha Trang


Nhiều chàng có biệt danh từ khi ở Nha Trang, nhưng Nguyễn Công Chánh của Khóa 1 HTTT th́ đă có biệt danh khi đang học bay U-17 ở Cần Thơ. Một hôm sau khi hết phép trở lại, Hải Ác Tăng đă nói với các bạn rằng, “Ê tụi bây hồi nẫy lúc ngồi xe đ̣ tao thấy thằng lơ xe coi y chang như thằng Chánh.” Cả bọn cười ồ lên, và cái tên Chánh Lơ Xe đă có từ hôm đó, dù Hải không cố t́nh đặt, nhưng Chánh phải mang cho đến bây giờ. Kể ra với tướng tá “thư sinh trắng trẻo” như Chánh mà bị cái tên này th́ hết sức là oan uổng...

Ở đời nhiều khi bên dưới những mặt nước trầm lặng âm thầm là những cơn sóng ngầm chảy xiết. Một trường hợp điển h́nh là bạn Nguyễn Văn Bực. Trong suốt thời gian mười mấy năm ở cùng thành phố với bạn này ít có ai được hắn cho diện kiến. Nếu bạn nào muốn gặp Bực trong tương lai, tôi đề nghị là cứ đến nhà hắn đập cửa vào khoảng nửa đêm, và nếu hắn không mở cửa th́ cứ đứng lỳ ra đó và kêu rầm lên để đánh thức tất cả hàng xóm dậy như là đi đ̣i nợ vậy. Đó chính là cách tôi dùng để lấy bài viết của bạn này...

Bây giờ tôi xin nhường lời cho Bạn Bực nói về thời mọc cánh


"Cái ǵ đến th́ nó phải đến, và do đó tớ được học bay. Nếu nói bay U-17 th́ tớ đă được Đại Úy Nhơn truyền cho trên dưới 100 giờ bay ở B́nh Thủy, Cần Thơ. Thời kỳ này tớ khoái nhất. Thần ưng cũng cất cánh hạ cánh taxi ào ào ra phết. Có lần trong phi vụ huấn luyện làm triệt nâng có máy và triệt nâng phụ ở gần phi trường Rạch Sỏi là tớ nhớ để đời. Hôm đó Đại Úy Nhơn đă cho tớ chạy bộ ở phi trường v́ không thuộc bài. Lúc cất cánh tớ đă đạp phía trên hai pedal để thắng thay v́ đạp phía dưới để điều khiển bánh lái và cánh đuôi .

"Sau tớ chán bay U-17 v́ lư do giản dị là sau 100 giờ mà không solo được . May mà tớ lết được về theo anh em học bay trực thăng ở Biên Ḥa.
"Anh em 72A trong Khóa 1 Hoa Tiêu Trực Thăng thân mến, đây là khúc quanh của đời tớ. Cái chiếc trực thăng sao mà nó dễ thương lạ lùng. Chiếc U-17 trước kia đă ĺ lợm ngựa chứng bao nhiêu th́ chiếc UH-1 nó nhẹ nhàng êm ái bấy nhiêu. Trung Úy Sơn đă truyền biệt nghệ cho tớ, chỉ sau 11 giờ bay là tớ đă nghiễm nhiên thành một trong bốn thằng solo đầu cùng với Nguyễn Văn Châu, Đỗ Tiến Như, và Đinh Sỹ Hưng. Một lần tớ bay huấn luyện với Thiếu Tá Hùng trên Long Thành làm cất cánh hạ cánh b́nh phi và hovering. Trên đường trở về Biên Ḥa th́ Thiếu Tá Hùng khám phá ra rằng máy đă tắt trong khi tớ đang chăm chú nghe tổng đài liên lạc để vào phi đạo. Ở cao độ 1200 bộ tớ định làm một cái standard auto landing nhưng vừa down pitch th́ Thiếu Tá Hùng bảo tớ để cho ông bay. Tớ nói 'OK, thưa Thiếu Tá' chưa dứt câu th́ tàu đă hạ càng trên một miếng ruộng hoang ở Long Thành. Bằng một giọng ấm áp, ôn ḥa, Thiếu Tá Hùng đă hỏi tớ có sợ hay không. Tớ không biết làm sao mà ông ấy đă b́nh tĩnh được như vậy trong khi tớ th́ quá bàng hoàng. Ông chỉ nói giản dị 'Anh Bực ơi, chắc tàu bị găy đuôi' trước khi hai thầy tṛ lên một chiếc khác để về lại phi trường Biên Ḥa. H́nh ảnh đó tớ ngồi đây một ḿnh trong đêm ôn lại giống như đang ở trước mặt.

"Trong những lần bay huấn luyện sau đó v́ đă nếm mùi hiểm nguy tớ dè dặt hơn và học hành cũng kỹ càng hơn. Tớ check P-1 với Trung Úy Út. H́nh như ông này cũng là thầy của AC Nuôi. Sau đó tớ check P-2 với Trung Úy Dũng."


Sự nghiệp văn nghệ của Xuân Sơn vẫn tiếp tục trong thời gian nằm trong Khóa 1 HTTT học bay ở Phi Đoàn 245. Ở ngoài phố Biên Ḥa, Sơn đă từng hát ở rạp Thanh B́nh và sân patin Lôi Hổ. Xưa ở Nha Trang Sơn đă được nhắc nhở qua bài Thu Vàng thế nào th́ ở Biên Ḥa chàng đă thành công với bản Giết Người Trong Mộng thế ấy. Khi ra phố có nhiều cô nữ sinh trường Ngô Quyền đă theo Sơn nhắc nhở bài này. Sau này khi ra Nha Trang học bổ túc giai đoạn 2 quân sự, Sơn đă hát ở matineé (xuất trưa) tại một vũ trường ở đường Độc Lập.
Bố mẹ của Xuân Sơn th́ ở ngoài Phan Thiết, nhưng Sơn có bố mẹ nuôi ở Biên Ḥa. Bởi vậy, trong thời gian học bay, các bạn có gia đ́nh ở xa như Đỗ Văn Bính, Lê Minh Hải, và Nguyễn Văn Hóa đă hay về nhà Sơn nghỉ ngơi, nhất là trong các ngày lễ tết.

Trong số khóa sinh của Khóa 1 HTTT, trừ Châu Đá bị loại v́ lư do sức khỏe ra th́ tất cả đều được gắn cánh bay. Như đă liệt kê bên trên, những phi công xuất thân từ Khóa 1 HTTT hầu hết bay ở Biên Ḥa, trừ vài người ra Pleiku, Phù Cát, và Nha Trang.

Khoảng một tháng sau Khóa 1, Khóa 2 HTTT đă khai giảng ở phi trường Trà Nóc Cần Thơ. Những anh em sau đây đă có tên trong khóa này:


1. Nguyễn Văn Dân, PĐ 255 Cần Thơ
2. Trần Hữu Du
3. Mai Thanh Hoàng, PĐ 255 Cần Thơ
4. Nguyễn Đ́nh Hồng (Già), PĐ 225 Ác Điểu Cần Thơ
5. Nguyễn Thành Hơn, PĐ 229 Pleiku
6. Nghiêm Xuân Mạnh, PĐ 227, P/Đội 259H Cần Thơ, PĐ 211 Thần Chùy Cần Thơ
7. Lê Công Ngữ, PĐ 243 Mănh Sư Phù Cát
8. Trương Tấn Phát, PĐ 255 Cần Thơ
9. Lê Quang Sang, PĐ 225 Ác Điểu Cần Thơ
10. Phạm Hoàng Tảo
11. Nguyễn Thành Tài, PĐ 225 Ác Điểu Cần Thơ
12. Hoàng Văn Thanh, bị loại về Nha Trang
13. Phạm Văn Thế, PĐ 225 Ác Điểu Cần Thơ
14. Nguyễn Hoàng Thọ, PĐ 227 Cần Thơ
15. Nguyễn Thái Thọ, PĐ 227 Cần Thơ
16. Hà Tấn Thông, PĐ 255 Cần Thơ
17. Quách Dũng Tiến, PĐ 225 Ác Điểu Cần Thơ
18. Nguyễn Hữu Tín, PĐ 225 Ác Điểu Cần Thơ
19. Vơ Văn Triên
20. Vũ Đức Trọng, PĐ 227 Cần Thơ
21. Trương Đ́nh Tuyền


Khóa 2 HTTT đă kết thúc vào đầu năm 74. Trong thời gian học, Lê Công Ngữ v́ ham đánh bài với Tài Miên mà đói dài dài đến nỗi phải đi ṃ khoai của các quân nhân cơ hữu trồng mang về luộc ăn cầm hơi để hôm sau đi học bay tiếp. Trong khi Ngữ v́ không có tay nghề kiếm không đủ khoai ăn th́ Nghiêm Xuân Mạnh ra khoét dọc theo chân các luống khoai moi từng thùng khoai non mới lớn bằng ngón tay cái và chặt những buồng chuối non đem về buồng treo lên chơi. Khi Trọng Đen hỏi Mạnh rằng “mày không ăn tha về để làm ǵ” th́ Mạnh chỉ toét miệng ra cười, bởi chính đương sự cũng không biết để làm ǵ nữa.

Khóa 3 Hoa Tiêu Trực Thăng Quốc Nội có ba anh em 72A là


1. Huỳnh Văn Dũng, Phi Đoàn 215 Nha Trang
2. Đặng Chấn Kỳ, Phi Đoàn 213 Song Chùy Đà Nẵng
3. Đào Huy Thái, Phi Đoàn 253 Sói Thần Đà Nẵng


Theo lời kể của Đặng Chấn Kỳ:

"Khóa 3 học bay ở Đà Nẵng. Khóa 3 khai giảng sau Khóa 2 một tháng, tức là khoảng cuối năm 73, và ra trường tám chín tháng sau đó, lúc trời đang nóng như đổ lửa.
Tiểu sử của Khóa 3 HTTT cũng khá ly kỳ. Vào khoảng giữa năm 73, hơn 40 sinh viên sĩ quan đă về Sài G̣n chờ đi Mỹ. Khi về tới nơi, v́ nóng ḷng về thăm nhà sau gần một năm xa cách, tất cả đều bỏ đi về hết. Trung Úy Tấn không có cách ǵ hơn là phải làm thủ tục báo cáo với pḥng nhân viên rằng cả đám vắng mặt không có giấy phép.

Một tuần lễ sau cả đám, kể cả Đặng Chấn Kỳ, trở lại trại ông Quế th́ được cho hay rằng sau khi vắng mặt không có giấy phép 48 tiếng đồng hồ là coi như đă đào ngũ, và thế là tất cả cứ ở trong trại mà không được ai điểm danh cả. Một tuần sau nữa th́ tất cả được đưa qua pḥng An Ninh Quân Đội ở số 7 đường Nguyễn Bỉnh Khiêm để thẩm vấn. Sau khi thẩm vấn xong, sở An Ninh Quân Đội đă kết luận rằng cả đám đều thuộc thành phần vô kỷ luật. Trong số hơn 40 thằng về chỉ có mấy thằng con ông lớn là được ở lại đi Mỹ, số c̣n lại dồn hết vô Khóa 3 trực thăng. Ngoài 3 bạn 72A ra c̣n có hai niên trưởng cán bộ là Út h́nh như từ khóa 70A và Viết từ khóa 71. Phần c̣n lại là các khóa đàn em."

Để bổ túc cho lời kể của Đặng Chấn Kỳ, bạn Đào Huy Thái cùng trong toán về Tent City lần đó kể rằng

" trong số anh em 72A c̣n có Huỳnh Văn Dũng, Phó Hoàng Trí, và Đoàn Anh Tú. Cả toán nằm dưới sự hướng dẫn của Thiếu Úy Tấn về tŕnh diện Bộ Tư Lệnh. Sau khi C-130 đáp xuống Tân Sơn Nhất, Thiếu Úy Tấn đă ra lệnh tập trung điểm danh. V́ hôm đó nhằm ngày thứ sáu, tất cả anh em đă lên tiếng xin cho về thăm gia đ́nh đến sáng thứ hai sẽ vô tŕnh diện. Khi bị từ chối, tất cả đă đồng ḷng tan hàng và hẹn gặp lại sáng thứ hai tại cổng sau gần Tent City để vào tŕnh diện.

Đúng như lời hẹn, tất cả đă tụ tập tại điểm hẹn vào sáng thứ hai. Sau khi sắp hàng điểm danh xong th́ Phó Hoàng Trí đến cổng gặp quân cảnh tŕnh bày xin vào tŕnh diện nhưng quân cảnh đă trả lời là phải chờ Bộ Tư Lệnh quyết định. Đến khoảng một giờ trưa th́ cả toán được cho vào làm thủ tục nhập trại và làm thủ tục chào sân...

Sau khi nhập trại rồi, ngày qua ngày gần một tháng không có ai thèm đếm xỉa ǵ tới. Có vài SVSQ trong các khóa đàn anh không biết nghe tin ở đâu về cho biết có lẽ tất cả sẽ ra bộ binh. Th́nh ĺnh trưa hôm đó có một văn thư từ Bộ Tư Lệnh gửi tới trại cho biết có ba người được làm thủ tục theo học tại trường Sinh Ngữ Quân Đội. Ba người này là Phó Hoàng Trí, Đoàn Anh Tú, và một người khóa đàn em. Số anh em c̣n lại rất giận dữ, và nêu thắc mắc là tại sao chỉ có ba người. Sau bữa ăn chiều hôm đó, tất cả đă họp lại để hỏi xem có phải v́ ba người này đă vào tŕnh diện trước, nhưng tất cả đều phủ nhận. Theo lời yêu cầu anh em trong toán, ba người đă xác nhận trên giấy trắng mực đen là đă không có vào tŕnh diện Bộ Tư Lệnh hôm thứ sáu. Với bằng chứng này, tất cả anh em đă yêu cầu Bộ Tư Lệnh giải thích lư do.

Sau một tuần lễ chờ đợi th́ câu trả lời đă không giống như anh em mong đợi. Tất cả đă được đưa đến số 2 Nguyễn Bỉnh Khiêm, tức là một pḥng an ninh quân đội trực thuộc Không Quân, trên một chuyến xe buưt để điều tra sự vụ.

Lúc tới nơi, tất cả đă được Thiếu Tá Thức phát cho mỗi người một tờ giấy ca rô và chỉ định mỗi người một góc tường tŕnh mọi chi tiết của chuyến đi về tŕnh diện Bộ Tư Lệnh. Sau khi khai xong, tất cả đă được đưa trở lại trại để chờ. Kết quả là Thiếu Úy Tấn bị kư củ và giam lon sáu tháng, bởi lúc đó đă có quyết định thăng cấp trung úy cho ông ta. Phó Hoàng Trí và Đoàn Anh Tú đă bị ra bộ binh. Tất cả số c̣n lại được cho học Khóa 3 HTTT quốc nội tại Đà Nẵng. Một người c̣n lại trong ba người có tên trong văn thư đầu tiên th́ nghe đâu là COCC nên không biết ra sao. Khóa 3 HTTT đă hoàn tất vào ngày 2/5/74".


Khóa 4 Hoa Tiêu Trực Thăng Quốc Nội học bay ở Biên Ḥa. Trong khóa này có các bạn 72A Trần Hớn Dân, Vũ Văn Ninh, Hoàng Văn Thanh, và Huỳnh Văn Tỵ.

Khóa 5 Hoa Tiêu Trực Thăng Quốc Nội học bay ở Cần Thơ. Chuyện anh em 72A trong khóa này đi kèm với giai thoại "13 Con Ma". Hăy nghe chính lời của một trong 13 Con Ma là bạn Út Small kể lại:


"Vào khoảng đầu năm 73, mười bốn anh em 72A sau đây đă về Trung Tâm Giám Định Y Khoa Tân Sơn Nhất khám để theo học khóa 2 HTTT Cần Thơ:
1. Vơ Thành Long Châu, Phi Đoàn 255 Xà Vương
2. Nguyễn Hữu Đức, Phi Đoàn 255 Xà Vương
3. Vơ Thanh Hà, Phi Đoàn 255 Xà Vương
4. Trần Thanh Hảo
5. Nguyễn Thành Hơn
6. Lê Văn Lâm (Chùa)
7. Nguyễn Văn Luông (Cả Luông), PĐ 255 Xà Vương
8. Nguyễn Văn Son (Cả Son), Phi Đoàn 255 Xà Vương
9. Trần Văn Thành
10. Lê Ngọc Thảo, Phi Đoàn 227 Hải Âu
11. Phan Văn Út (Small), Phi Đoàn 217 Thần Điểu
12. Trương Thanh Vân
13. Nguyễn Hồng Việt (Mắt Lồi)
14. Trương Văn Vĩnh

"Kẻ đă gây ra mọi chuyện rắc rối là người mang số 5 trong danh sách bên trên. Nguyễn Thành Hơn quê ở tuốt trong Hóc Bà Tó là địa danh cuối cùng của miền Nam.
"Sau khi khám bệnh xong, cả toán đồng ư dzù về thăm nhà cho đỡ... nhớ và hẹn đúng một tuần sau sẽ trở ra tŕnh diện ông Bé. Không hiểu v́ nhà ở quá xa Sài G̣n hay bị đào đá nên Ông Thần Nguyễn Thành Hơn quên đi lời hẹn ước lót tót ra Nha Trang một ḿnh tŕnh diện ông Bé. Thế là hư bột hư đường ráo trọi. Khứa Bé biết bọn này dzù dzọt nên lập tức cho toán khác về Sài G̣n khám sức khỏe trám vô.

"Một tuần sau đó y hẹn tất cả ra tŕnh diện đúng ngày, không ngờ ngày trở ra là ngày vô Cải Hối Thất Phi Dũng, lănh 26 ngày trọng cấm và bị loại ra khỏi Khóa 2 Hoa Tiêu Trực Thăng. Hơn ơi là Hơn, mày hại anh em mày hại bạn bè.
"Ôi không gian giờ đây ta mới biết,
"Chuyện dzọt dzù giết chết một đời ta .
"Sau đó chỉ có Nguyễn thành Hơn là được đi học bay , 13 tên c̣n lại chịu cảnh tù đày. Sau khi măn tù về lại đoàn SVSQ để tŕnh diện Thiếu Tá Bé, có lẽ v́ hối hận việc ḿnh đă làm hoặc trong thời điểm đó khóa đàn anh không c̣n ai nên 'khứa' nâng đỡ tụi này lên làm cán bộ để hướng dẫn các khóa đàn em. Tất cả đều nằm trong hệ thống cán bộ chỉ huy, duy chỉ có Vơ Thành Long Châu và Út Small tôi không chịu ra hàng nên ông Bé bắt làm tạp dịch ở văn pḥng ông ấy đôi ba ngày rồi cũng quên luôn.

"Trong thời gian chờ đợi đó, mặc dù cuộc sống có thoải mái là không phải tạp dịch, tập họp điểm danh, dzù ra phố chơi mút chỉ, nhưng v́ không biết tương lai đi về đau nên thằng nào cũng trầm lặng và ưu tư như những bóng ma với bao nỗi lo lắng... Thế là danh từ '13 Con Ma' hay '13 Thằng Lôi Hổ' ra đời. Trong 13 thằng đó có 2 không chịu hưởng cái ơn mưa móc do một người ban cho, mà người đó v́ sự bực tức nhất thời mà suưt chút nữa là đă hại cuộc đời của một nhóm người trẻ đầy nhiệt huyết nghe theo tiếng gọi của non song mà 'xếp bút nghiên theo việc đao binh' với mong ước rằng ít nhiều ḿnh sẽ góp một bàn tay để bảo vệ quê hương. Cả bọn phải chờ gần một năm sau khi ông Bé và Bộ Tư Lệnh Không Quân 'xóa bỏ hận thù' mới cho đi học khóa sau, dù sao th́ cũng c̣n hên...
"Mười Ba Con Ma là nhóm 72A cuối cùng rời đoàn SVSQ đi học bay. Chúng tôi đă nhập chung với các khóa đàn em để theo học Khóa 5 Trực Thăng Cần Thơ. Nhờ trời tất cả đều ra trường, trừ Trương Văn Vĩnh bởi 'lên tướng một sao' nên đă bị loại v́ lư do sức khỏe. Cả Luông solo đầu; Lê Ngọc Thảo chiếm thủ khoa. Mười hai anh em đă ra phi đoàn bay bổng được vài tháng cho đến ngày đứt phim 30/4.

" Các bạn ơi! Rủi ro thay cho vận nước, chúng ḿnh bị cái đại họa Cộng Sản nên giờ đây chịu kiếp sống lưu vong, canh cánh bên ḿnh với bao nỗi niềm hoài vọng cố hương."

Trong 13 Con Ma, chỉ có Vơ Thành Long Châu và Phan Văn Út là không ra làm cán bộ v́ thích lè phè. Bạn Út có bày một bàn cờ tướng chiêu mộ được nhiều anh em suốt ngày đấu trí với nhau.

Theo Vơ Thanh Hà th́ Trần Thanh Hảo sau khi tốt nghiệp ra Pleiku th́ đă bị bắn rớt tàu trong phi vụ hành quân đầu tiên và sau đó đă không c̣n đi bay nữa.

Khóa 6 Hoa Tiêu Trực Thăng Quốc Nội học bay ở Đà Nẵng. Trong khóa này chỉ có Lư Minh Trung là SVSQ 72A duy nhất. Ngày xưa Trung đă làm trưởng toán dẫn anh em khóa sinh về Trung Tâm Y Khoa Không Quân tại Tân Sơn Nhất khám sức khỏe để gia nhập Khóa 1 HTTT, nhưng b́ bị viêm xoan hàm (sinus), nên phải nhập viện khẩn cấp tại TTYKKQ điều trị. Sáu tháng sau khi Trung đủ sức khỏe để đi học bay th́ tên của chàng lọt vào Khóa 6 HTTT.

Lư Minh Trung là một người trong khóa 72A mà anh em ít gặp nhất. Chàng ta đă được ông Bé cho sự vụ lệnh ra làm việc ở ngoài phố Nha Trang cho đến khi đi học bay.
Theo lời Vơ Thanh Hà trong 13 Con Ma th́ các Khóa 4, 5, và 6 HTTT khai giảng cách nhau chừng một tháng từ khóa này qua khóa sau. Giai đoạn mà các khóa này sắp khai giảng là giai đoạn buồn nhất của Đoàn Sinh Viên Sĩ Quan Không Quân. Vào khoảng trước tết con cọp tức là khoảng đầu tháng 2/74, Bộ Tư Lệnh Không Quân thông báo danh sách của ba khóa 4, 5, và 6, và đồng thời cho biết rằng tất cả những sinh viên sĩ quan c̣n lại đều phải ra bộ binh. Con số này lên đến sáu bẩy trăm người.

Sau khi tin này được loan ra th́ không khí trong trại Thiên Nga hết sức buồn bă. Những anh em có tên đi học tối tối thường dù ra phố ngủ, một phần v́ muốn tránh mặt những người bạn thiếu may mắn không có tên trong danh sách tài khóa. Ăn tết con cọp vừa xong th́ một đoàn mấy chục chiếc xe GMC từ Đồng Đế chạy tới trại Thiên Nga để đưa những người bạn này rời trại và đồng thời cũng là rời khỏi binh chủng không quân.

Trong những đêm cuối cùng của đoàn Sinh Viên Sĩ Quan đó, Vơ Thanh Hà ngủ trong trại, một phần là v́ không quen ai ở ngoài phố, phần kia là v́ chàng là người chịu trách nhiệm cho toàn trại. Như vậy th́ Vơ Thanh Hà chính là người làm cán bộ lâu nhất trong Khóa 72A. Hà là một trong những anh em 72A làm cán bộ đầu tiên, và cũng là một trong những anh em 72A làm cán bộ sau cùng. Sau khi các khóa 4, 5, và 6 HTTT rời Thiên Nga là đoàn SVSQ đóng cửa luôn.

Khi mỗi một trong ba khóa 4, 5, và 6 HTTT hoàn tất huấn luyện th́ những khóa sinh tốt nghiệp về thẳng Nha Trang để học Giai Đoạn 2 Quân Sự. Sau đó cả ba khóa trực thăng, Khóa 2 T-37 , và Khóa 1/74 Quan Sát Viên cùng làm lễ ra trường tập thể ở Nha Trang. Trong buổi lễ ra trường vào tháng 12/74 có Chuẩn Tướng Lành tham dự. Ra trường xong là các anh em nhận sự vụ lệnh về phi đoàn tŕnh diện luôn.

Dù đa số phi công trực thăng xuất thân từ khóa 72A đă học bay tại Việt Nam, có những anh em học bay từ Mỹ về, và cũng đă ra phi đoàn tham dự hành quân. Bởi nếu tính từ ngày nhập ngũ cho đến lúc măn khóa học mà trên hai năm th́ được ra trường với cấp bậc thiếu úy, những bạn học bay ở Mỹ về thường là ra trường với cấp bậc này v́ có thời gian học thêm Anh ngữ ở Mỹ.


 

Vào tháng 7/73, 18 SVSQ đă lên đường đi du học Mỹ trong một tài khóa trực thăng. Trong số đó có những anh em 72A như Phan Hoàng Hải, Trần Bá Sơn, và Lương Tường Vân.
Nếu kể về dân 72A học trực thăng ở Mỹ và đă ra đơn vị đánh giặc th́ có 4 chàng sau:
1. Trần Minh Hiển, Khóa 74-22
2. Tạ Hoàng, Khóa 74-22
3. Nguyễn Tấn Thành (Cao), Khóa 74-22
4. Trần Bá Sơn, Thủ Khoa Khóa 74-24 , PĐ 255 XàVương


Khóa 74-24 trực thăng nhập học tại trường bay Ft. Rucker, tiểu bang Alabama tháng 10/73. Sau khi tốt nghiệp, Trần Bá Sơn đă về VN vào tháng 8/74. Sau khi chọn phi đoàn, Sơn trở lại Nha Trang học Giai Đoạn 2 Quân Sự cuối tháng 8/74. Sau khi tốt nghiệp, Sơn về tŕnh diện Phi Đoàn 255 Xà Vương Cần Thơ vào khoảng tháng 12/74.

Bây giờ kể tới phần anh em học bay phản lực. Trong số 14 anh em đậu Anh Ngữ về Sài G̣n ngay trong thời gian huấn nhục để đi Mỹ th́ chỉ có 11 là đi ngay. Qua trường bay sớm nhất là Trần Anh Tuấn và Trần Văn Phiêm. Kế tiếp là Lư Văn Ánh, Nguyễn Ngọc Châu Pḥng, và Nguyễn Trọng Tiến.

Đoàn Anh Thuấn là một trong 14 anh em đậu Anh ngữ về Sài G̣n đi Mỹ trong đợt đầu tiên. V́ đi sớm nên Thuấn ngại rằng các anh em khác cho rằng không có nhiều kỷ niệm chung với họ. Thuấn đă học T-37 tại Sheppard AFB ở Wichita Falls, Texas. Sau đó Thuấn theo học Khóa 74-07 là khóa bay A-37 cuối cùng có các khóa sinh VN ở Mỹ tại England AFB ở Alexandria, Louisiana. Lớp này có 13 khóa sinh người Việt, trong đó có bốn anh em 72A là Trần Ngọc Dương, Nguyễn Thiện Nhượng, Lê Hữu Thiện, và Đoàn Anh Thuấn . Thuấn và Trần Ngọc Dương cùng đậu thủ khoa. Cùng về Việt Nam trong tháng 7/74, Thuấn và Trần Ngọc Dương ra Phi Đoàn 520 Cần Thơ.

Trần Văn Tỵ thuộc đợt hai đậu Anh văn và từ Nha Trang về đi Mỹ trong tháng 12/72. Nhóm này gồm có mười người là: Huỳnh Đ́nh Chí, Lư Anh Dũng, Chu Văn Hùng, Đỗ Minh Hùng, Nguyễn Thanh Phương, Trần Văn Tỵ [mới có 6, c̣n ai???]

Khóa 74-09 học T-37 khai giảng vào cuối tháng 1/74 ở Sheppard Air Force Base ở Texas gồm có các anh em 72A sau: Lê Văn Cảnh, Huỳnh Đ́nh Chí, Chu Văn Hùng, Đỗ Minh Hùng, Nguyễn Thanh Phương (Mập), Trần Văn Tỵ Bắc Kỳ. Trong một khóa T-37 khác của năm 74 có Nguyễn Hoàng Tân và Nguyễn Tấn Thành.
Trần Văn Tỵ ra Phi Đoàn 532 Gấu Đen ở Phù Cát. Nguyễn Thiện Nhượng đă về phi đoàn này trước.

Sau đây hăy nghe Đỗ Minh Hùng kể chuyện học bay ở Mỹ.


"Sau khi tốt nghiệp khóa Anh ngữ ở căn cứ Lackland, tôi có tên trong danh sách di qua trường bay Hondo để được huấn luyện giai đoạn 1 phi hành, tức là học bay T-41. Ḷng tôi tuy vui mừng nhưng không khỏi lo lắng. Đây là bước rẽ của đời bay bổng. Tôi lân la t́m hiểu về những ông thầy bay. Mỗi người một tính. Trong nhờ đục chịu. Lo cho lắm, tắm cũng cởi truồng. Đa số thầy bay là dân sự, v́ thiếu thầy quân sự. Nam 72 là cao điểm cho khóa sinh Không Quân Việt Nam đi ngoại quốc lấy cánh bay. Mỹ Việt phải vội vàng v́ hiệp định Paris có đoạn về b́nh thường hóa quân đội Việt.

 

"Ở Hondo, có một thầy bay khét tiếng tàn nhẫn. Hắn là người Mễ Tây Cơ, tên Volander mà phe ta gọi la Vơ Lang Đài. Mỗi ông thầy sẽ chọn 4 khóa sinh. Riêng tên này luôn luôn cho rớt 2 khóa sinh, bất kể họ bay giỏi cỡ nào. Khóa tôi không ai muốn học với hắn. Ngày đầu tiên tŕnh diện thầy bay là ngày lạnh lùng nhất trong đời bay bổng của tôi. Sau màn giới thiệu, thầy bay bắt đầu chọn đệ tử. Tên nào trúng thầy hiền th́ vui như trúng số, chưa học mà đă thấy đậu rồi. Tôi được Vơ Lang Đài chọn. Cả khóa nh́n những đệ tử của hắn với ánh mắt phân ưu.

"Các điểm phê ở trường bay như sau: U đỏ là unsatifactory, U đen là unable, F là fair, G là good, và E là excellent. Hai U đỏ liên tiếp là ngừng bay, chờ ngày ra hội đồng. Tùy theo khả năng, khóa xinh có thể được học lại khóa sau hoặc đi không phi hành nếu có tài khóa, hoặc đi về nước làm cái ǵ đó không biết. Hai U đen liên tiếp là thành một cái U đỏ. Ngạc nhiên thay, trong sáu bẩy phi vụ huấn luyện đầu, hắn đều cho tôi E. Cái cánh bay coi như đă chắc đeo trên ngực, tôi xoay sang ái ngại cho 2 con vịt đẹt–h́nh như Nguyễn Thanh Phương ở trong nhóm của tôi.

"Đến bài slow flight là bài dễ nhất trong các thao diễn, không hiểu sao tôi bị ngọng. Đáp th́ không có ǵ trở ngại, dù trong bài đáp có kèm slow flight, nhưng khi làm slow flight riêng rẽ th́ ngọng. Máy bay không quá tốc độ th́ lại đâm nhào. Vơ Lang Đài cho tôi U đen.

"Đến ngày hôm sau, làm lại bài slow flight, tôi lại thất bại. Vơ Lang Đài chán nản không tập thêm cho tôi những thao diễn khác. Hắn quay máy bay về phi trường. Tôi được han cho thêm 1 cái U đen. Như thế là thành 1 cái U đỏ.
"Một cái U đỏ nữa là chấm dứt nghiệp bay. Tôi buồn bă không chuyện tṛ với ai trong khóa, và cũng chẳng ai muốn nghe tâm sự của tôi. Người nào cũng có nỗi lo, dù một số đă solo.
"Ngày định mệnh đă tới. Tôi đi ra phi đạo như cái xác không hồn. Có thể đây là phi vụ cuối trong đời bay bổng của tôi. Cho dù tôi có làm được slow flight đi nữa, tôi cũng sẽ bị liệt vào 1 trong 2 con vịt đẹt. Kết quả trong hôm đó không khá ǵ hơn ngày hôm trước, v́ tôi vẫn không bay được slow flight. Vơ Lang Đài la ó um xùm, rồi chửi rủa, miệt thị. Nào là bà nội hắn hơn 80, mắt đă nḥa xỏ kim không qua, nhưng bay slow flight nhuyễn như cháo. Nào là con khỉ nếu được huấn luyện như tôi th́ có lẽ đă solo từ đời thuở nào rồi.

" Vơ Lang Đài tha hồ nói. Tôi không nghe nữa. Ḿnh sẽ thu dọn hành lư chờ ngày về nước. Nhục nhă quá chẳng c̣n biết nói ǵ. Bất chợt hắn chồm qua bóp cổ tôi. Theo phản ứng tự nhiên, tôi gạt mạnh tay hắn ra. Hắn sững sờ nh́n tôi. Tôi lặng lẽ nh́n hắn. Hắn rút x́ gà châm lửa. Hắn có thói quen là khi trên tàu lúc nào điếu x́ gà cũng gắn trên môi. Tôi thầm nghĩ, đây là chuyến bay cuối, hắn hút th́ tôi hút. Tôi bỏ cần lái, moc túi lấy thuốc hút. Hắn nh́n tôi. Tôi nh́n hắn. Hai ánh mắt chạm nhau. Hắn quay mặt đi. Tôi quay mặt về.

"Chiếc máy bay không người điều khiển từ từ chúi xuống. Nước mắt bắt đầu lăn trên đôi má tôi. Tôi chẳng c̣n ǵ để sống, thôi th́ 'đi không ai t́m xác rơi'. Vơ Lang Đài cũng chẳng động đậy. Tốc độ con tàu mỗi lúc mỗi tăng. Mất đất gần lại. Tôi nhớ tới mẹ tôi, người yêu tôi, và những người thân hôm tiễn tôi đi Mỹ. Tôi nhớ chiếc bong bóng đỏ của cậu bé lúc bị kim chích nổ tung... Tôi nghĩ tới tên thầy bay Mễ Tây Cơ khốn nạn. Cũng v́ mày mà bao nhiêu mộng tan tành. Thôi th́ ḿnh chết với nhau.

"Những con ḅ dưới cánh đồng càng lúc càng gần. Đă quyết định xong, tôi không chụp cần lái. Không chịu được tṛ chơi ú tim, hay v́ có lẽ chưa muốn chết, hoặc do phản năng sinh tồn tự nhiên, hắn giơ tay chụp cần. "Kéo mũi con tàu lên trở lại, hắn gào như cha chết: 'mother fucker'. Chiếc máy bay trực chỉ phi trường Hondo. Hắn và tôi không trao đổi một lời nào. Hắn châm điếu x́ gà. Tôi châm điếu thuốc. Tôi thấy hài ḷng.

"Sau khi Vơ Lang Đài taxi tàu vào băi đậu, tôi đi thẳng vào pḥng bay. Thường th́ sau khi đáp là khóa sinh phải cột tàu lại rồi xách hai cái gối cho hắn. Thân thể hắn không dài quá thước sáu, khi bay, hắn cần 2 cái gối. Một lót mông và một lót lưng. Hôm nay hắn phải làm những công việc đó.

"Vào pḥng bay xong, tôi đứng chờ hắn. Ve vẩy tờ giấy phê điểm, hắn nhờ tôi lấy cho hắn ly cà phê với nửa cà phê nóng và nửa nước lạnh như lệ thường sau mỗi chuyến bay. Tên này hơi quan liêu. Không có th́ giờ nhiều, tôi mang cho hắn một ly cả hai nửa đều là cà phê nóng. Nhắp môi vào là phun tung tóe, hơi bất lịch sự. Thêm một tiếng chửi thề ḍn. Hắn đưa mắt nh́n tôi. Để giúp hắn, tôi ném lên bàn cây viết đỏ. Cả pḥng bay im lặng nh́n.

"Hắn trả tôi cây viết và rút trong túi ra một cây viết đen. Hắn ghi điểm xuống: good. Hắn nói với tôi: 'Mày là một thằng cao bồi Việt Nam.' Tôi cảm ơn và yêu cầu hắn đừng la lối khi tôi bay.

"Đến hôm sau, tự nhiên tôi làm slow flight ngọt ngào. Hắn ngạc nhiên, và tôi phục tôi quá. Những phi vụ huấn luyện sau đó dễ dàng. Chỉ ưu tư không biết ai sẽ thành con vịt đẹt.

"Đa số các bạn trong khóa đă hoàn tất giai đoạn 1 chờ ngày đi giai đoạn 2 tức là học bay T-37 ở Sheppard. Huỳnh Đ́nh Chí tốt nghiệp với số điểm 94%. Thầy hắn tuyên bố nếu ai hơn điểm sẽ được tặng hai thùng bia. Tôi thích những thách đố, bởi vàng thiệt không sợ lửa. Một ông đại tá Mỹ đă check ride tôi với kết quả hơi lạ. Tôi ra trường với 97% và hai thùng bia.

"Lạ lùng hơn nữa là trong bốn thằng đệ tử của Vơ Lang Đài, không ai làm con vịt đẹt. Tất cả đều mọc cánh. Từ khóa tôi trở đi, Vơ Lang Đài trở thành ông già Noel. Ai được hắn chọn là coi như đă đeo được nửa cánh bay. Mỗi đời người có nhiều khúc rẽ, nhưng chắc ít khi mà một chuyến bay đă là hai khúc rẽ, cho cả Vơ Lang Đài lẫn chính bản thân tôi.

"Sau khi ra trường, tôi được bổ xung về Phi Đoàn 520 Cần Thơ nhưng không thích lắm. Tôi muốn ra Đà Nẵng để gặp Nguyễn Hữu Thiện Tuấn nhưng không có ai sắp về Đà Nẵng chịu đổi. Chỉ có một người ở Phan Rang thích về Cần Thơ đề nghị đổi cho tôi và các cho tôi ít tiền uống cà phê. Tôi nghĩ mặt trận ở vùng đó có lẽ sôi động hơn ở Cần Thơ và sẽ cho tôi nhiều sự hào hứng hơn nên tôi chịu đổi. Thế là tôi về Phi Đoàn 534 Không Đoàn 62 Chiến Thuật Phan Rang."


Sau khi học T-41 xong th́ các khóa sinh tốt nghiệp đă qua Sheppard để học bay T-37. Thời gian học ở đây tuy bận nhưng cũng có những lúc thoải mái.

Hăy để cho Đỗ Minh Hùng hồi tưởng lại một ngày cuối tuần ở Sheppard:
 

"Ở căn cứ Shepard, các sinh viên sĩ quan phi hành nh́n có vẻ phi công lắm. Không vui sao được, v́ đă xong nửa cánh bay rồi c̣n ǵ. Hiếm lắm mới có thằng rớt bay phản lực. Dù cho có rớt ở Mỹ th́ về Việt Nam học tiếp rồi cũng đeo cánh. Đời sống thoải mái hơn lúc học Anh văn và bay T41 v́ lương từ khoảng 240 dọt lên 420 đô. Tiền pḥng một tháng chỉ trả 30, gọi là có chút quà cho các em Mễ dọn pḥng. Ăn ở câu lạc bộ sĩ quan sáng tốn 25 xu, trưa 50 xu, và tối 75 xu. Đi chợ 10 đô la đầy tủ lạnh.

Đa số phe ta thích nấu nướng lấy, vừa hợp khẩu vị vừa ít tốn kém. Đi từ xa đă ngửi thấy nồng mùi nước mắm. Phe ta ở khu nào là ở đó ít bóng ngoại quốc văng lai.

"Như các cuối tuần khác, dẫy barrack ồn ào hẳn lên. Tiếng nhạc um xùm. Túm năm tụm ba nhậu nhẹt. Đêm về th́ không khí yên lặng hơn. Có băng vào câu lạc bộ nghe nhạc uống nước. Có băng ra phố để t́m bạn bốn phương, dù hơi hao pin. Phí tổn taxi th́ chia đều, c̣n tiền hotel và em út th́ phần ai nấy trả. Đoàn Anh Thuấn văn nghệ hơn, ôm đàn xuống phố thăm các nữ quân nhân để làm kiếp ca hát ngày tháng cho người mua vui. (Giọng ca của Thuấn hay tuyệt vời, chỉ thua tôi một chút thôi.) Riêng phần tôi th́ tuần này phải đi ăn tiệc ở nhà Huỳnh Đ́nh Chí.

"Chuyện khá đơn giản. Chí ta quen một em quân nhân tóc vàng mắt xanh. Chàng muốn tiến xa hơn ranh giới bạn bè, nhưng c̣n hơi mắc cở. Chàng tổ chức một buổi tiệc nhỏ, tính nhờ miếng rượu để mở đầu câu chuyện ḷng. Tôi có nhiệm vụ đi trước lót đường đụng rượu với em một tăng, và sau đó Chí sẽ kết thúc buổi tiệc. Hy vọng khi cân tửu lượng của hai thằng, em sẽ không c̣n biết đường về.

"Sau khi hầu tiếp em đâu khoảng nửa chai whiskey, tôi viện cớ cáo lui để Chí bắt đẩu tổng tấn công...

"Đêm đi dần vào khuya. Tôi không có ǵ làm nên c̣n thức xem ti vi lai rai. Chợt thấy có bóng ai ngoài cửa sổ, tôi mở cửa để nh́n cho kỹ: th́ ra là cô bạn của Chí. Tôi ngạc nhiên hỏi: 'Sao về sớm vậy?'
"Cô em xinh đẹp mỉm cười ngây thơ: 'Chí say quá. Đừng lo, tôi đă vực anh ấy vào giường và đắp chăn cẩn thận. Mai tôi sẽ gọi anh ấy sau. Good night.'"


Số học bay T-38 ở Mỹ th́ gồm có hai anh em 72A là Huỳnh Đ́nh Chí và Chu Văn Hùng trong khóa 75-05 sau khi đă tốt nghiệp T-37 tại Sheppard. Khóa T-38 này đă nhập học vào ngày 8/1/74 ở Webb Air Force Base ở Texas. Khóa gồm có 6 người Việt và 24 người Mỹ. Họ đă bắt đầu học bay T-38 vào tháng 7/74, và tốt nghiệp bay vào tháng 1/75. Riêng Chu Văn Hùng th́ ngoài chứng chỉ măn khóa ra c̣n nhận được thêm một Distinguished Graduate Certificate. Theo lời tờ báo Prairie Pilot ra ngày 31/1/75, những khóa sinh tốt nghiệp T-38 ở Mỹ xong sẽ được huấn luyện bay F-5 ở Việt Nam.

Sau đây là lời Chu Văn Hùng:


"Riêng về nghiệp bay tao chỉ muốn nói đây là cái nghề nếu ai không yêu th́ không nên theo. Bay nhiều th́ mệt, không bay th́ nhớ, nhớ lâu th́ thèm. Đối với tao, bay phi cụ là một cái môn chơi khó, hấp dẫn, và hồi hộp nhất, v́ ḿnh phải mang chính sinh mạng ḿnh ra thử lửa. Nó không cho phép ḿnh làm sai một lần nào cả.

"Về việc bay phi cụ, tao đă nghiên cứu rất nhiều tài liệu mà sau khi về Việt Nam tao chắc chắn phải xài đến v́ thời tiết ở đó thường rất xấu. F-5 là phi cơ khó đáp nhất bởi lư do là cánh nhỏ nên cần chạm bánh ở vận tốc trên 135 knots. Phi cơ nào cũng có cái ưu điểm riêng của nó, nhưng nói chung bay là một cảm giác rất cao độ. Nó làm cho ḿnh vừa mệt vừa sướng."


Sau đây hăy nghe Hoàng Văn Trung kể chuyện “học bay trên đất Mỹ”:


"Song-song với những tháng ngày "được" quân trường huấn-nhục, chúng tôi dự khóa huấn-luyện quân-sự giai-đoạn một. Đó là lúc cũng đeo ba-lô, đội nón sắt, đeo dây đạn, b́nh nước, ḅ, lết, nhắm, học cách tháo gỡ và xử-dụng các loại súng thông-dụng, học cách ném lựu-đạn... Đây là môn tôi ớn nhất. Nói thật t́nh, nếu tôi có trái lựu đạn thật trong tay chắc tôi cũng không đủ gan rút chốt!

Các khóa học Anh-văn tại trường sinh-ngữ Không-quân ở Nha-trang là những tháng ngày êm-ả như thuở học tṛ. Giám-đốc là Trung-tá Toàn, anh hay em ǵ của ông Lê bá Kông th́ phải. Huấn-luyện-viên gồm cả sĩ-quan và hạ-sĩ-quan như: Thượng-sĩ Vàng, Thượng-sĩ Nhan, Thượng-sĩ Em... C̣n sĩ-quan th́ nhiều quá, nhớ không hết. Sư-phụ của tôi là Trung-úy Trỉnh.


Quân-trường Không-quân không phải như những quân-trường khác là Sinh-viên Sĩ-quan cùng vào và cùng ra trường một ngày. Có những cái nhiêu-khê rắc-rối xẩy ra trước khi một khóa-sinh được tuyển đi Mỹ học lái máy bay. Có người bị kẹt ngoài quân-trường với lư-do hồ-sơ an-ninh không được thông-suốt v́ gia-đ́nh có ai đó h́nh như không biết rơ được tung-tích. Có người bị kẹt v́ lư-do không đủ điểm Anh-văn.

Đang khi "được" huấn-nhục bầm-dập, đột-nhiên có mười mấy anh chàng tốt số, giỏi tiếng Anh, có sự-vụ-lệnh gọi về Sài-g̣n tŕnh-diện đi Mỹ dù nhóm đó chưa học bắn một phát súng, chưa biết cây súng là ǵ và cây kim kích hỏa dài ngắn ra sao...

Các chàng khác lận-đận ́-ạch học hoài. Có khi bạn cùng khóa đă có cánh bay, đeo thiếu-úy, bay đánh bom tơi-bời ở chiến-trường rồi, vậy mà các bạn cùng khóa vẫn đang "hùng-dũng" học Anh-văn, thi hoài vẫn chưa đủ điểm đi Mỹ.

Tuy tôi chưa phải là vịt đẹt, nhưng v́ thời trung-học chỉ học Pháp-văn nên thi xếp hạng Anh-văn chẳng ra cái thể-thống ǵ cả. May nhờ trời, chỉ học có bốn tháng là đủ điểm ECL (English Comprehension Level) đi Mỹ.

Ngày lên máy bay, chúng tôi mặc bộ vét nỉ xanh của Không-quân, đeo hai cầu vai vàng rực, phù-hiệu con rồng của Không-quân, dây biểu-chương màu xanh lá cây choàng qua cả hai chữ Việt-Nam đỏ tươi, rực-rỡ trên cánh tay áo xanh đậm. Những chiếc khuy to bằng nhôm sáng bóng, nổi hẳn lên bộ vét xanh của Không-quân.

Chúng tôi đến phi-trường San Francisco lạ nước lạ cái. Tiếng Anh chỉ biết lơm-bơm vài tiếng đủ để rời Việt-Nam mà thôi. Thấy hai chữ "rest rooms" tôi cứ ngỡ là pḥng nghỉ-ngơi cho hành-khách. Có đứa vội mua post-card bỏ ngay vào thùng rác gởi cho bồ! Đến đâu đâu cũng có sĩ-quan Mỹ ra chào hỏi đưa đón. Cái choáng ngộp đầu tiên của tôi là xa-lộ ǵ mà to rộng quá xá quà xa! Đi máy bay có mấy đứa bị ói. Tôi cũng 'lắc-lư con tàu' nhừ-tử, vừa lo sợ lẩm-bẩm:
"Chết thật! Thế này làm sao mà lái máy bay cho được."
Đến trường sinh-ngữ Lackland làm thủ-tục xong, gặp bà bồi pḥng hỏi:
"Do you have key yet?"
Tôi ngớ ra hỏi thằng bạn:
"Bả hỏi cái ǵ vậy mày?"

Thằng này nhắc tôi nhưng lại không đủ can-đảm há mồm trả lời. C̣n tôi, sau khi hiểu ra th́ rất hăng-hái:
"Dét. Dét. I have it. Thank you."
Bốn tháng sau ngày đó, tôi đủ điểm Anh-văn qua trường bay; c̣n thằng con "biếng ăn biếng nói" kẹt lại khóa sau.
Qua trường bay T-41, là loại giống máy bay bà già mà các bạn cùng khóa của tôi "bị xui" nên "trúng tuyển" học lái khóa 42 ở Nha-trang.

Những ngày mùa đông năm ấy không thể nào quên: kho xăng Nhà Bè bị Việt cộng phá-hoại cháy tan-tành; khối OPEC không bán dầu cho Mỹ. Cả nước Mỹ nhốn-nháo. Một chiếc tàu chở dầu sang Việt Nam viện-trợ bồi-hoàn theo hiệp-định Paris bị cản-trở ở cảng. Dân Mỹ mua xăng phải xếp hàng xin thẻ. Bộ-trưởng Không-quân lên đài trấn-an là với số xăng dự-trữ của Không-quân, dân Mỹ có thể vẫn xài phủ-phê đến ba, bốn năm nữa.

Chúng tôi không có nước nóng tắm. Trước khi tắm là phải sửa-soạn trước mền và giường, rồi cùng nhau chạy một, hai, ba, bốn cho nóng người trước khi ào vào pḥng tắm mở nước, chà xà bông, xả, chạy mải về pḥng đắp mền và run lên lập-cập. Tôi vẫn không thể quen được cái lối tắm chung-chạ kiểu Mỹ như vậy.

Học lái T-41 là giai-đoạn "khốn-khổ" nhất của tôi. Trong khi những đứa khác vừa lái vừa giỡn, cười đùa, enjoy th́ mặt tôi cắt không c̣n giọt máu. Hưng, người vẫn lái máy bay ṿng ṿng hai lần cho hội chợ Xuân ở San Jose, là bạn cùng khóa với tôi. Khóa T-41 này, Hưng rất giỏi, được solo đầu. Coi như đậu hạng nhất. Tôi tụt xuống hạng chót. Cũng may mà c̣n đậu vớt. Đậu vớt là v́ không thể đánh rớt được chứ cũng không đáng chấm đậu. Ông thầy tôi là phi-công oai-hùng của thời đệ-nhị thế-chiến với gần 20 ngàn giờ bay. Bay giỏi kinh-khủng và dậy dở không ai bằng. Sau này, khi tốt-nghiệp khóa phản-lực A-37 tôi mới thấy rằng tôi đậu khóa T-41 với cái lối dậy như thế chỉ là nhờ phước-đức ông bà để lại. Không rớt tàu bay chết đă là may. Mà tôi cũng chán tôi quá: đang bay bốn ngàn bộ th́ tôi tàn-tàn tụt từ-từ xuống c̣n ba ngàn rưởi rồi lên lại ba ngàn tám. Kêu đổi hướng qua 270 th́ tôi đổi đến 280. Khi cất cánh, dù thầy đă dậy bao nhiêu lần, chiếc máy bay do tôi điều-khiển vẫn niểng đầu qua một bên... Phạm lỗi hoài nhưng chưa bao giờ có th́-giờ nhận thấy lỗi v́ thầy đă chụp cần lái, hét ầm lên và sửa ngay khi lỗi vừa nhen-nhúm. Mà gào thét cho lắm th́ thầy tôi vẫn phải thả tôi solo (đơn phi). Nếu không thả được tôi solo sau khi đă đánh rớt hai đứa khác th́ coi như thầy tôi cũng bị lay-off luôn.

Lần solo hôm đó thật hăi-hùng làm sao! Bốn lần đáp th́ một lần bị đài đuổi go around v́ quá nguy-hiểm. Lần thứ nh́ bánh bên trái chạy lên cỏ. Lần thứ ba, bánh bên phải lăn lên cỏ. Lần thứ tư, xém chút nữa là lủi vô hàng rào ở đầu phi-trường Hondo nếu tôi không chịu "căi lời thầy" mà nâng đầu máy bay lên, tống ga cho con tàu nấc lên một tiếng kêu ai-oán trước khi rơi đánh phịch một cái bên kia hàng rào và run-rẩy lết-lết về cuối phi-đạo để nh́n thấy bóng dáng ông thầy đang thểu-năo lủi-thủi đi theo một ông pi-lốt trong hội-đồng chấm thi vào pḥng họp:
"Nó bay yếu như vậy mà sao dám thả solo?"

Sau ngày đó, h́nh như tôi đă mường-tượng thấy một cái ǵ kỳ lắm trong cái kỹ-thuật dạy bay của thầy tôi nhưng chưa cảm thấy rơ được.

Đau-khổ là như thế mà cái "tánh hào-hoa" của con nhà Không-quân cũng chẳng bỏ. Tôi quen được rất là t́nh-cờ một em Mễ tên Julie Tôi hỏi chuyện và khen em có giọng nói quá truyền-cảm dễ thương. Thế là hẹn gặp nhau đi chơi. Tôi nhớ nhất là khi đi dạo trong cái thành lịch-sử Alamo, và dưới gầm cầu bên ḍng sông êm-ả. Tôi chưa kịp ngỏ lời tỏ t́nh th́ đă bị em gh́... ra tay trước. Đàn bà con gái ǵ mà... mà... dễ thương quá!

Ngày rời cư-xá Medina đi Wichita Falls học T-37, tôi t́m mọi cách ra từ-giă Julie. Buổi tối, cầm 100 đô đưa cho thằng bạn, tôi dặn:
"Mày ra PX mua dùm tao cái va-li. Vào pḥng tao, gặp cái ǵ cũng tộng hết vào. Tao sẽ về trước khi trời sáng."
Nhưng tôi chỉ trở về bốn tiếng đồng-hồ sau khi trời đă sáng chỉ để kịp nhẩy lên xe buưt rời cư-xá trong tiếng càu-nhàu nhiếc-móc của thằng bạn:
"Mày chỉ chết v́..."
Tôi hỏi lại:
"Cho mày được chết v́ cái đó... mày muốn chết không?"
Khóa chúng tôi chia làm hai. Toán của tôi đi Sheppard, toán kia đi Webb. Học phản-lực mới chính-thức là vào cuộc chơi. Bay T-41 chỉ là cho có chút ít khái-niệm về máy bay. C̣n lần phản-lực này th́ có quy-củ hơn nhiều. Ôm một đống sách "giáo-khoa" thấy mà ngao-ngán. Cơn ác-mộng T-41 vẫn ám-ảnh tôi không phút nguôi-ngoai:
"Chắc ḿnh không có khiếu bay bổng quá."

Màn đầu là học nhẩy dù. Tôi lại cảm thấy là số tôi c̣n may quá nên đă không nổi hứng đi Nhẩy-dù như từng "ước-nguyện" theo gót ông anh tôi. Không-quân chỉ là học cách rớt dù xuống đất thôi mà tôi đă "lạnh" quá rồi nói chi tới từ trong máy bay nhẩy ra.

Sau đó thực-tập bằng cách đeo dù cho xe kéo lên như thả diều rồi huấn-luyện-viên buông dây. Chiếc dù lên cao khoảng một, hai trăm feet nhưng hồn phách tôi đă phiêu-diêu đến tận thiên-đàng! Ba lần té dập xương đủ ba. Từ đó mới biết, không phải dễ để được gọi là lính Nhẩy-dù.
Lư-thuyết về máy bay, cơ-khí, kỹ-thuật bay, nhào lộn, đối-phó với các trường-hợp hiểm-nguy và... thực-hành đi sát với nhau như h́nh với bóng. Học xong cách lấy tọa-độ, tính đường bay th́ chậm lắm là hôm sau đă lên máy bay thực-tập rồi.

Thi-cử rất gắt-gao. Bất cứ v́ lư-do ǵ, tổng-cộng chỉ được du-di cho thi-lại-ba-lần cho cả khóa, dù là bài lư-thuyết hay thực-hành hay là gộp lại. Lần thứ tư phải xách va-li go home. Bye!
Trong lúc nghỉ giữa giờ học là những h́nh ảnh blonde tóc vàng óng-ả và... cả 100% núi đồi cây cỏ chập-chùng được chiếu lên màn ảnh cho khóa-sinh rửa mắt, tỉnh ngủ và "tẩy-năo". Các cô thư-kư trong không-đoàn đang đứng bên ngoài xem và "học ké" chúng tôi, cũng xem luôn, vừa cười khúc-khích. Đâu có thấy thưa kiện ǵ là sexual harassment như bây giờ đâu?

Ông thầy thứ nhất dậy tôi T-37 với phương-pháp giống y ông trước. Te-tua. Chán-ngán. May quá, ông ta được đổi qua phi-đoàn khác và tôi được giao cho một ông đại-úy ân-nhân của cả cuộc đời tôi cho đến bây giờ và măi-măi về sau, đại-úy Shetter. Tôi học được ở ông quá nhiều và nhờ đó mà tôi thoát chết... đói dưới thời Việt Cộng. Vào cockpit (pḥng lái) ông ta chỉ nói với tôi mỗi một câu:
"You are on your own. Do whatever your book tells you to do. Tự ḿnh lái đi. Theo đúng sách vở."
"Yes. Sir."
Ông thầy chỉ cho tôi phải làm ǵ, làm ǵ và như thế nào rồi... mặc kệ tôi. Hễ bay sai, tôi tự nhận thấy và tự sửa. Cuộc đời bay của tôi phát lên thấy rơ, như máy bay phản-lực đang vun-vút trên trời. Khà khà! Ta cũng đâu đến nỗi quá đần! Hai mươi ngày sau đó, tôi oai-hùng solo trên chiếc phản-lực T-37. Đáp bằng tay mặt cầm stick và cất cánh bằng tay trái. V́ công-tắc đóng mở thắng gió -speed brake- của tôi bị hư nên phải nắm cần lái bằng tay trái c̣n tay phải th́ dùng công-tắc của bên thầy ngồi để rút thắng gió vào, rồi chụp lại cần lái bằng tay phải vừa lúc máy bay đă lại rời phi-đạo. Cất cánh đủ ba lần bằng tay trái. Trên thế-giới chắc chưa khóa-sinh "solo đầu-tiên" nào dám liều-lĩnh cất cánh ba lần bằng tay trái trong một t́nh-cảnh như vậy. Trước đó ông thầy tôi đă biết nhưng cũng chịu chơi nhắm mắt cho học tṛ liều mạng.

Tôi tự-tin vô cùng. Hăng-hái v́ tay tôi đă "phiêu"- feel- được cái cần lái để xem con tàu đang muốn cái ǵ. Solo một, solo hai rồi solo vùng trong một tuần. Cầm con tàu sao bây giờ thấy hứng-khởi quá. Bây giờ tôi mới nghiệm ra rằng lúc học bay T-41, tôi chẳng được cho bay ǵ cả, toàn là thầy giật cần lái của tôi rồi bay hết cả buổi mà thôi.

Một hôm, v́ là một hot stick - khóa-sinh bay giỏi - nên tôi được phi-đoàn-trưởng chỉ-định lấy con tàu solo cuối-cùng của phi-đoàn. Tôi rất hănh-diện để lấy con tàu cuối ngày. Đó là một buổi chiều với ánh nắng đă ngả bóng ở cuối chân trời. Lúc taxi cho tàu chạy ra phi-đạo, tôi bắt gặp bóng tôi in nghiêng-nghiêng trên mặt đất với cái nóc canopy mở cao, lưng hơi khum-khum, cái nón bay, cái ống dưỡng-khí lủng-lẳng bỏ rời đang lắc-lư theo nhịp nẩy của con tàu lăn bánh. Trông oai không thể tả! Hai ống phản-lực ngốn gió vào cuồn-cuộn, rít lên như xé tai. Trông thật giống tấm h́nh của một ông pilot A-37 mà bộ tư-lệnh Không-quân dùng để đăng thông-cáo tuyển khóa-sinh. Cũng v́ tấm h́nh đó mà tôi... lỡ dại đăng lính vào Không-quân.
"Đào ḿnh thấy cảnh này chắc nó yêu ḿnh c̣n dữ nữa."

Sau khi bay thật khá, chúng tôi phải bay không-hành -cross country-xuyên tiểu-bang. Đám bạn bên Webb đă hẹn tôi sang với đủ món ăn chơi. Tôi đă cùng với hai ông trung-úy, Tullis và Clark, xin phi-lệnh để cùng Xuân Tây Lai đi Webb và El Paso. Thế mà v́ thời-tiết, không thể qua được El Paso "giao-chiến". Đành phải hạ cánh ở San Antonio. Cư-xá sĩ-quan chật ních. Toàn là dân bay. Toàn là áo bay tấp-nập. Chúng tôi ra thuê khách-sạn ngoài phố. May quá, c̣n số điện-thoại của Julie trong ví.

Tôi thấy ngường-ngượng. Lúc qua Sheppard đă cố trốn rồi thế mà bưu-điện Mỹ cũng cố t́m cho được tên tôi theo yêu-cầu của cô nàng ngoài b́a thư và cho vào hộp thư tôi cái thiệp với những hàng chữ: "When the bird forgets how to sing, the bee forgets its honey, the duck forgets how to swim then I will forget you..." và thêm gịng chữ viết tay của cô nàng: "like you forget me!!!!" Nhận xong, thấy cảm-động quá nhưng cố kềm ḷng... bỏ luôn. Bây giờ đứng trở lại San Antonio, tôi bồi-hồi và bối-rối không biết có nên kêu không, hay là nó đă có bồ khác rồi, lạng-quạng bồ nó uưnh bỏ mạng.
Reng. Reng. Reng.
"Hello... Julie?"
"...Yes..."
"Hey. Anh đây, Julie..."
"Tre..eng?... Where are you?"
"Right here in San Antonio. Anh tới thăm được không?"
Cô nàng hối-hả:
"Được. Được. Nhưng mà em không có xe..."
"Th́ kêu taxi ra khách-sạn Tropicana đón anh. Anh mặc đồ bay đứng trong pḥng khách nghe, honey."
"OK. OK."
Một tiếng đồng-hồ sau tôi đă ở nhà nàng.
"Anh tệ quá. I hate you. You forgot me."
"Nếu anh quên em tại sao anh lại xin bay qua đây để thăm em."
Cô nàng lộ rơ vẻ cảm-động. Đàn bà sao kỳ vậy? Chỉ thích nghe những lời như thế. Đúng, sai mặc kệ. Nghe đă lỗ tai là được rồi.

Mười hai giờ đêm, nhất-định phải từ-giă nàng. Tôi biết, nếu nằm xuống là đi luôn một giấc tới sáng và chắc-chắn sẽ lănh cái búa tạ của Không-quân. Trong khi cột lại đôi bốt-đờ-sô, tôi nói Julie gọi lại chiếc Taxi lúc năy với tên tài-xế Mad Dog và dúi cho nàng một nắm tiền để em đi Macy shopping mua quà cho đỡ nhớ anh.

Tôi lau nước mắt cho Julie, cắn nhẹ lên bờ môi mỏng, khen nàng đẹp vô cùng, đội nghiêng cái nón ca-lô trên đầu rồi đi nhanh ra ngơ, nhập vào con đường Mathews tối đen. Xa xa chiếc taxi của Mad Dog đang chiếu đèn trờ tới.

Bốn giờ sáng lấy dù, nai-nịt sẵn-sàng, thuyết-tŕnh cho hai ông sếp nghe sẽ đi đâu, cao bao nhiêu, hướng nào, đổ xăng, gió xuôi gió ngược. Bốn giờ rưỡi xách nón bay, lấy tàu ra đầu phi-đạo chờ. Giọng của đài kiểm-báo vang lên trên vô-tuyến:
"Shep 25 clear to take off. Cất cánh."
Bốn ngọn đèn pha rực sáng dưới hai đôi cánh. Hai cái đèn đỏ xoay tṛn chớp-chớp trên lưng. Hai con tàu nhịp-nhàng d́u nhau trong tiếng ŕ-rầm của bốn động-cơ phản-lực. Hai tay tống ga, một cái gật đầu, bốn chân nhả thắng, các ống phản-lực gầm lên hung-hăn, đẩy hai con tàu vùn-vụt trên đường băng, lao thẳng vào màn sương đêm ướt-đẫm của thành-phố San Antonio...
Kéo cần... lên.
Lên.
Hai con tàu ngóc đầu rời phi-đạo.
“Ta là đoàn chim bay trên cao xanh.
“Đi nh́n qua khói những kinh-thành xa.
“Đôi cánh tung-hoành nhịp trên mây xanh.
“Ta là tinh-cầu bay trong đêm trăng...”



Tàu lấy dần cao-độ, êm-ả lướt trên cái đệm không-khí mát lạnh của buổi b́nh-minh. Hai bên tai bắt đầu tiếng kêu lụp-bụp, lóc-bóc. Rải-rác đó đây, vài cụm mây bông g̣n lẻ-loi, bềnh-bồng ngái-ngủ đang dựa-dẫm sưởi ấm bên những tia nắng ban mai vàng nhạt. Chiếc đèn beacon trên nóc tháp San Antonio Tower cũng c̣n chớp-chớp. Những dẫy đèn chia thành-phố ra từng ô thật rơ thật đều. Ở một góc nào đó của thành-phố này, nàng Julie yêu-kiều của tôi chắc đang ngủ vùi sau những tiếng đồng-hồ nồng-nàn tâm-sự.
"Em phải ngủ ít nhất đến 11 giờ sáng mới lấy lại sức. Chết rồi! Không biết nàng có nhớ dẫn con nàng đi học hay không? "
"Ngủ đi mộng vẫn b́nh thường
“À ơi có tiếng thùy-dương mấy bờ.
“Cây dài bóng xế ngẩn-ngơ.
“Hồn anh đă chín mấy mùa buồn đau..."
Đó là lần cuối-cùng tôi gặp lại Julie, một thiếu-phụ đa-t́nh của xứ Mễ Tây Cơ.

Tàu vụt lướt vào một cơn mưa. Chúng tôi quyết-định bay xuyên trong mây. Chung quanh tối mờ mờ. Một luồng mây theo lỗ gió tràn vào pḥng lái, thẳng tắp. Hai tay đeo găng chợt ướt lạnh. Tàu vẫn lừ-lừ ngóc đầu lấy cao-độ. Những giọt nước li-ti..., thật li-ti chảy bắn thành ḍng ngược lên đỉnh. Mắt đảo qua ba, bốn dẫy đồng-hồ phi-cụ. Tất-cả đều trong t́nh-trạng toàn-hảo. Mở heat. Hơi nóng tràn vào thật ấm. Mở luôn heat cho cái pitot tube kẻo nó đóng băng th́ đồng-hồ tốc-độ hết chạy. Nh́n qua tàu bên cạnh, Xuân Tây Lai vẫn đeo sát một bên, thật đầm.
"Thằng này bay formation cũng đẹp quá chứ!"

Pi-lốt đang bay coi oai thật! Nón bay trắng, cái kính visor nâu đen che trùm đến mặt nạ và ống dưỡng khí. Hai bên vai là những dây đai của chiếc dù. Lỉnh-kỉnh trước ngực nào là nút, nào là dây, nào là khóa và móc sắt, nào phẹc-mơ-tuya. Màu cam của ống-thuốc-nổ-tự-động-mở-dù nổi bật trên nền áo bay xanh xám. Rồi lại phù-hiệu xanh xanh đỏ đỏ cam cam trước ngực và trên cánh tay áo. Chết thật! Ai vẽ kiểu cái áo bay như thế này hèn ǵ "đám con gái" cứ măi xếp hàng ngẩn-ngơ trước cổng Phi-Long! Ở Nha-trang, các nàng ra tay trước, c̣m-măng sẵn ở cổng Long-vân của trung-tâm huấn-luyện Không-Quân. Đến là tội-nghiệp cho Không-quân, bị săn đuổi ráo-riết từ trên trời cho đến khi xuống đất! Có lẽ ngoài Không-quân chưa ai nghe rằng: "Mỗi đường bay là một cánh hoa rơi." Thật ra hoa như hồng, như lan, như lây-ơn... ai mà nỡ cho rơi. C̣n hoa cà-chớn th́... cứ tự-do rơi.

Hai mươi ngàn bộ.
Ánh sáng bỗng vụt chan-ḥa, rực-rỡ chói-chang như cảnh thiên-đàng.
Trần mây giờ lại trở thành một thảm mây.
Không một ai cả! Chỉ có một tấm thảm mây mênh-mông và hàng ngàn hàng vạn những ngọn "núi mây" cao thấp chập-chùng, sừng-sững hiện ra trước khoảng không-gian xanh thăm-thẳm... ngút-ngàn... Hai con tàu chơi-vơi, bay giữa trời xanh mây xám. Hai con người Việt-Nam đang lướt trên mây ngàn của đất nước Hoa-kỳ! Ôi Không-gian vô-cùng vô-tận! Bao-la, hùng-vĩ biết là bao! Tôi bật cười nhớ lại thời huấn-nhục, các ông anh hành-hạ ước-mơ "pilot" của chúng tôi khi bắt chúng tôi vừa ḅ vừa lết vừa ngâm:
"Ôi Không-gian giờ đây ta mới biết.
“Mộng mây trời đă giết chết đời ta."
Tôi bỗng ước-ao có Tề-thiên Đại-thánh cầm thiết-bảng hiện ra cùng bay với chúng tôi cho vui. Tôi đẩy cần ga vụt lên trước bỏ lại Xuân Tây Lai sau lưng, lộn ngang hai ṿng. Đă quá!
Mây ơi là mây! Tôi muốn ôm mây mà cắn, muốn ngủ trong mây, hít một hơi mây thật dài thật sâu thật đậm. Tôi muốn nằm vắt-vẻo bềnh-bồng trong mây, muốn ḅ trong mây, chạy nhẩy tung-tăng trong mây. Tôi muốn đem một chút mây về cho cả thế-gian này làm kỷ-niệm của chốn thiên-thần.

Cầm phản-lực nhào lộn 20 ngàn bộ trên mây! Một ước mơ của bao người con trai trên thế-giới! Tôi may-mắn và sung-sướng biết là bao! Ôi các phi-diễn nhào lộn trên không đă từng một thời làm tôi mơ-tưởng: Cuban eight, clover leaf, loop, roll... Ôi những khi đem tàu quật ngang quật dọc vẫy-vùng, áp-lực của trọng-lực G và sức ly-tâm đè chặt cứng lên người..., thật... đă.
Tiếng Morse quen thuộc từ phi-trường vọng lại tai tôi. Tít tít tít. Tít ta ta tít. Tít tít tít.
Từ 25 ngàn bộ, chúng tôi đă thấy bóng phi-trường Sheppard. Tiếng Morse vẫn vọng lại đều đều trên vô-tuyến. Tít tít tít. Tít ta ta tít. Tít tít tít.
"Shep 25 gọi đài kiểm-báo Sheppard."
"Sheppard nghe rơ. Shep 25 xuống 5 ngàn feet. Ṿng qua Henrietta. Hướng 330. Vào đáp phi-đạo 15. Gió hướng 180, 10 knots. Over."
Cúp ga cho tàu trườn xuống. Áp-lực không-khí nặng ch́nh-chịch ở hai tai. Valsava. Valsava.
"Shep 25 trên Henrietta. Đang vào đáp. Over."
"Shep 25. On course. On glide path. On course. On glide path. Đúng hướng đáp. Clear to land. Over."
Đáp đôi.
Như hai con đại-bàng đang cong mỏ, quắc mắt, x̣e cánh, giương móng, chúng tôi cùng xuống.
Cùng xuống. Xuống thấp. Thấp.
Flare. Ngóc đầu lên.
Flare... Flare...
Kéo cần...Kéo...kéo...
Cúp ga.
Chạm đất.
Formation touch down.
Beautiful! Hăy cho tôi nghe bài hát của Không-quân!
“Ôi phi-công danh-tiếng muôn đời.
“Nh́n xa... Phi-trường Việt-Nam.
“Không-quân ra đi cánh bay rợp trời.”

Với cái trớn hăng-hái đó, tôi hùng-dũng ngốn hết các chuyến bay trong chương-tŕnh. Những kỳ thi dồn-dập tới-tấp. Thi academy lư-thuyết: gió nào mây nào, con ốc, con vít, nút kiểm-soát, cầu ch́ nào ở đâu, bị emergency th́ phải làm ǵ...mỗi hai tuần lại phải thi. Thi bay lúc đầu c̣n từ từ: căn-bản C-9, contact, rồi đến lúc gần măn khóa phải thi gấp nên bay cũng gấp, bay cả thứ bẩy chủ nhật, một ngày ba chuyến nhào lộn tưng-bừng. Thi phi-cụ instrument, link, formation (hợp-đoàn), không-hành... Thi đủ bài. Bay đủ giờ. Ngày gắn cánh, cấp bằng bay đă đến. Khoá-sinh chúng tôi cảm thấy thật là măn-nguyện cho cái ước mơ nghe qua tưởng chừng giản-dị nhưng có lúc hầu như đă quá tầm tay với:
Lễ gắn cánh bay. Quá cảm-động và hào-hùng.
Cám ơn đất nuớc và dân-tộc.
Cám ơn Quân-lực Việt-Nam Cộng-ḥa.
Cám ơn quân-chủng Không-quân.
Chúng tôi nghĩ đến nhiệm-vụ trước mắt, nghĩ đến những đàn anh, những hy-sinh và bây giờ, chúng tôi... những đàn em tiếp bước.


Đến đây là hết phần kể học bay T-37 ở Mỹ của Hoàng Văn Trung. Như đă kể về Khóa 44 Hoa Tiêu Quan Sát bên trên, có năm người học T-37 tại Phan Rang là Huỳnh Văn Chín, Phạm Văn Hiếu, Lưu Khải Minh, Đỗ Trọng Nhâm, và Trịnh Vĩnh Thụy.

Trong những anh em SVSQ Phi Hành, có những người đă được chuyển sang Không Phi Hành trong thời gian huấn luyện. Phần Đinh Văn Vượng th́ du học Mỹ năm 73. Đầu tiên là học Anh văn ở Lackland Air Force Base, Texas. Sau đó học bay trực thăng ở Fort Rucker, Alabama. Vượng, Lâm Ngọc Tuấn 72A, và một bạn khóa khác cùng học bay với một thầy. Tuấn trội nhất trong nhóm nên được thầy thả cho solo. Chẳng hiểu v́ rét quá hay vừa bay vừa nhớ đào mà ngay trong lần đầu tiên bay thử Tuấn đă rơi trong một rừng cây làm máy bay vỡ tan tành, may mà chàng chỉ bị gẫy chân. V́ vụ đó mà ông thầy dạy bay của ba chàng cứ bị lôi ra hội đồng kiểm thảo hoài! Phần Vượng và anh bạn c̣n lại hoặc v́ không có khiếu bay hoặc v́ thầy bị ê càng nên không dám thả cho solo. Nhờ gặp lúc có tài khóa, Vượng được chuyển qua học khóa không phi hành về ngành Điều Khiển Không Chiến ở Tyndall Airforce Base, Florida. Vượng về nước và học điều chỉnh sĩ quan ở Nha Trang năm 74.

Theo lời Nguyễn Na th́ 72A ngoài bạn Vượng ra c̣n có Na, Tống Văn Dũng, Trương Văn Hóa, và Nguyễn Văn Chín du học về cùng làm trong ngành Kiểm Báo. Những bạn này được gọi là Sĩ Quan Điều Không. Họ làm việc ở đài Kiểm Báo để intercept khi có máy bay lạ vô vùng chứ không phải là để liên lạc như nhiều người lầm tưởng.

Trong các anh em Không Phi Hành từ đầu th́ có bạn Hồ Đắc Tiến. Theo lời Tiến kể lại th́ khi các SVSQ PH qua Ngân Hà th́ các SVSQ KPH ở lại Phi Dũng, và Tiến làm SVSQ cán bộ phụ trách an ninh. Qua đầu năm 73 th́ Tiến được theo học khóa 17 Bảo Tŕ Phi Cơ. Khóa học có 10 giai đoạn, mỗi giai đoạn có 3 tuần. Có 13 SVSQ trong khóa 17 BTPC, kể cả các bạn sau.
1. Dương
2. Liêm
3. Nguyễn Đức Long
4. Tài
5. Hồ Đắc Tiến (sau chuyển qua khóa 18)
6. Nguyễn Văn Tiến
7. Từ Phước Thiện (sau chuyển qua khóa 18)


Khóa 17 cùng ở trại Hoàng Yến với khóa 42 HTQS. Trung Úy Hiển, trước kia làm Thiếu Úy Huấn Luyện Viên Quân Sự Phi Dũng, là Sĩ Quan Trưởng Trại Hoàng Yến. Ông Hiển là một thầy tu xuất thường giúp Cha Tuyên Úy làm các thánh lễ trong Trung Tâm Huấn Luyện. Sau khi các sĩ quan khóa sinh học khóa quan sát viên ở trại Hoàng Yến ra trường đi rồi th́ Tiến làm SVSQ cán bộ Trưởng Pḥng Nhân Viên Hoàng Yến. Trong thời gian này, SVSQ KPH Nguyễn Văn Tiến cùng khóa 17 BTPC đang làm SVSQ Không Đoàn Trưởng coi hết Ngân Hà, Hoàng Yến, và Thiên Nga. Ngày ngày bạn Nguyễn Văn Tiến phải về bên Ngân Hà làm việc, dù quân số của bạn này vẫn nằm trong sự cai quản của Hồ Đắc Tiến ở Hoàng Yến. Bạn Hồ Đắc Tiến là một trong sáu SVSQ ở trong căn nhà ṿm dùng làm pḥng trực. Nơi đây là nơi yết thị nhật lệnh. Những khóa sinh ở Hoàng Yến thỉnh thoảng mới có chào cờ và tương đối được thoải mái hơn các anh em ở các trại khác.

Bởi ở cùng dưới những căn “nhà ṿm” của trại Hoàng Yến, bạn Hồ Đắc Tiến quen biết nhiều các anh em 42 HTQS và thường đi ăn với Tạ Viết Đỉnh. Bởi thân quen và muốn che chở cho anh em nên Tiến đă bị một tai nạn. Một hôm Trần Văn Ứng của 42 HTQS dù về Sài G̣n chơi, và dù rằng đă biết như vậy, nhưng khi báo cáo quân số Tiến đă báo cáo đủ. Không may Trung Úy Hiển biết được và đă nhốt Tiến một tuần. Bởi v́ vắng mặt mất một tuần trong ba tuần lễ của Giai Đoạn 6 của khóa học, Thiếu Úy Nghiêm là huấn luyện viên đă thuyên chuyển Tiến từ khóa 17 qua khóa 18, làm cho Tiến ra trường trễ mất khoảng ba tuần lễ. Khóa 18 ra trường vào tháng 11/73, tức là khoảng cùng lúc với khóa 42 HTQS. Sau khi rời Nha Trang, có hai bạn thuộc khóa 18 đă ra Đà Nẵng. Hồ Đắc Tiến coi cơ xưởng Động Cơ Phản Lực, và Nguyễn Hữu Danh coi cơ xưởng Trực Thăng.

Trong những người đi học bay ở Mỹ, có ba anh em đă ở lại v́ hoàn cảnh riêng. Nguyễn Duy B́nh th́ v́ nợ nần một cô gái Mỹ c̣n trong lứa tuổi trung học. Bùi Mộng Lân và Nguyễn Trọng Tiến th́ không biết v́ lư do ǵ.

Sau này khi đoàn sinh viên sĩ quan dọn qua trại Thiên Nga th́ quán ông bà Tá cũng trung thành dọn theo, và những chiếc thẻ lương vẫn đều đặn lên nằm ở đó cho đến kỳ lương hàng tháng. Cuối năm 73 trời hay có giông băo, có đêm mưa bay thốc từng luồng nước từ cửa sổ bên này sang bên kia. Những bạn chưa có tài khóa đi học bay giờ này cũng đă thấy ngao ngán với các cuốn sách Anh ngữ 2100, 2200. Khóa 42 Hoa Tiêu Quan Sát phần v́ sắp ra trường phần v́ anh em 72A đă rời Nha Trang đi gần hết nên rất nôn nóng. Mấy thằng phá phách của Khóa 42 nhiều đêm thức trễ binh xập xám đói bụng đă cậy tủ của Trần Văn Ứng và Hiệp 72E ra lấy đồ hộp ăn cùng cà phê sữa đặc uống. Tối tối cứ hễ buồn không có chuyện ǵ làm th́ tôi lại lôi Quan Đen ra tập hát bản nhạc dịch Đồng Xanh. Câu chót của bài hát là “Và đă bao năm rồi ta đứng chờ giữa cánh đồng” mà Quan luôn luôn hát thành “Và đă bao năm rồi ta đứng chờ ai giữa cánh đồng”. Bởi Quan tự thêm vào một chữ “ai” đó mà lần nào nó hát cũng trật nhịp. Chỉ có một chút đó mà cho tới khi măn khóa chia tay ra phi đoàn nó và tôi sửa vẫn chưa xong.