Chiêu Hồn

Hồn tử sĩ gió ù ù thổi

Nét chinh phu trăng dơi dơi soi

Chinh phu tử sĩ mấy người

Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn

(Chinh Phụ Ngâm Khúc)

 

Khóa 72A cho tới giờ phút nầy đă có ít nhất là 15 người ra đi, và trong số đă có những người ra đi rất sớm. Hăy kể tên những anh em đă khuất và cho họ một phút mặc niệm.

"Phút mặc niệm bắt đầu!"

1. Bùi Văn Bích (Mụn)

2. Nguyễn Văn Chiến (Răng Vàng) : Vị Quốc Vong Thân

3. Lương Thiện Cường

4. Nguyễn Văn Dân

5. Lê Minh Hải (Cải Lương) : Vị Quốc Vong Thân

6. Trần Đ́nh Long (Đui)

7. Nghiêm Xuân Mạnh

8. Lê Công Ngữ (Công Ngủ)

9. Nguyễn Thiện Nhượng

10. Ngô Hoàng Oanh

11. Nguyễn Thanh Quan (Đen)

12. Dương Hồng Sơn : Vị Quốc Vong Thân

13. Phan Vĩnh Thành

14. Quách Dũng Tiến : Vị Quốc Vong Thân

15. Trần Trung Tín

Hăy vinh danh bốn bạn đă hy sinh trong khi thi hành công vụ trước. Theo lời kể của một người trong 72A, sau khi tốt nghiệp ra Phi Đoàn 221 Biên Ḥa, Chiến Răng Vàng đă tử trận ở mật khu Mây Tào, Long Khánh trong một phi vụ đón Biệt Kích 81. Vinh danh bạn Nguyễn Văn Chiến đă hy sinh v́ quốc gia dân tộc.

Cũng theo lời người đó, Hải Cải Lương ra Phi đoàn 243 Phù Cát và đă chết vào cuối tháng 03/1974. Hôm đó Hải bay gunship thuộc Phi đội Hắc Sư khi đang bay tiếp tế cho một đồn bộ binh tại đèo Phù Ly thuộc quận Phù Cát th́ được lệnh về Nha Trang đáp. Hải Cải Lương cùng trưởng phi cơ cũng tên Hải ráng ghé về lấy đồ đạc và đă bị bắn rớt chết tại taxiway số 8.

Sau đây là lời Hải Ác Tăng nói về Dương Hồng Sơn:

"Dương Hồng Sơn th́ tôi gặp ở trại Thượng Sĩ Tiến và khi ra Nha Trang ở cùng phi đội và barrack. Tướng Sơn thư sinh, đẹp trai và rất Không Quân. Sơn hội đủ điều kiện hoăn dịch nhưng v́ mê làm phi công nên đăng lính. Gia đ́nh Sơn là một gia đ́nh nhà binh v́ bố là sĩ quan Thủy Quân Lục Chiến và bà chị cả là sĩ quan Nữ Quân Nhân. Có lần Sơn tâm sự là đă thầm yêu trộm nhớ một người bạn của bà chị cũng là một sĩ quan Nữ Quân Nhân nữa nhưng chưa dám tỏ t́nh và vấn kế phải làm sao. Tôi cười và nói: "Bả lớn hơn mày ba tuổi, bộ mày thích đồ cổ lắm hả ? Hôm nào về phép, mày phải ăn mặc cho thật là "lính", mời chị ấy đi xi nê, và chờ lúc nào trên màn ảnh họ hôn nhau th́ theo như thế mà làm". Không bao lâu sau đó, có lẽ để thực hiện chương tŕnh, Sơn đă cùng Nguyễn Hữu Roanh và Nguyễn Minh Tâm dù về Sài G̣n, và khi trở ra th́ bị Thiếu Tá Bé nhốt vào Cải Hối Thất và loại ra Bộ Binh. Khi ra trường Thủ Đức, Roanh về Địa Phương Quân đóng ở Long An, Tâm về Thủy Quân Lục Chiến ở căn cứ Sóng Thần và Sơn th́ chọn Lôi Hổ ra Pleiku. Năm 1974 tôi có gặp Sơn tại Sài G̣n trong bộ đồ đen với huy hiệu Lôi Hổ, tóc dài, đen đúa, và trong túi áo có hai trái lựu đạn mini. Ngồi trong quán nước qua điếu thuốc, Sơn đă nói: "Mỗi lần tao nhảy vào sào huyệt địch là một lần tao nghĩ không có ngày về". Đó có lẽ là lời trăn trối, v́ giữa năm 1974 khi tôi ghé thăm gia đ́nh Sơn ở Thị Nghè th́ được cho hay Sơn đă tử trận đâu đó nơi miền núi Cao Nguyên. Trong sự bàng hoàng cảm xúc, tôi đă thương cho Sơn ra đi với mối t́nh chưa kịp tỏ bày".

Về Quách Dũng Tiến th́ có Nguyễn Hữu Tín là bạn cùng học khóa 2 HTTT cùng về Phi Đoàn 225 Ác Điểu, Cần Thơ. Tín đă kể lại chuyện sau đây:

"Khoảng đầu năm 1975, Quách Dũng Tiến đi hành quân ở mật khu Hải Yến, Cà Mau. Chuyến đi nầy Tiến là co-pilot cho Trung úy Tuấn bay chiếc gunship số 2 hộ tống một chiếc slick. Trong khi đang yểm trợ tiếp tế cho một đồn quân bạn bị Việt cộng bao vây khoảng gần giữa trưa th́ tàu Chiến bị bắn rớt. Gunship số 1 và chiếc slick đă cứu được Cơ Phi và Xạ Thủ văng ra hai bên phi cơ  trên đám ruộng đầy nước. Từ đó đến tối các phi tuần A-37 thay nhau oanh tạc để bộ binh của Sư Đoàn 21 tiến vô, nhưng măi hôm sau họ mới đến được tàu.

Ngày hôn đó tao bay với Trung Tá Châu đáp tận nơi tàu rớt vào khoảng giữa trưa. Đầu trực thăng của Tiến cắm xuống ruộng nước và đă cháy rụi, chỉ c̣n một khung sườn sắt. Bộ binh lượm được một mảnh nhỏ áo bay của Trung Úy Tuấn c̣n bảng tên và miếng vải để đeo lon, nhưng cái lon th́ đă bị gỡ mất. Mảnh vải áo đó đă được t́m thấy trong vườn nhà dân cách tàu không xa lắm. Phần Tiến th́ không c̣n một di vật ǵ, có thể v́ Tiến mặc đồ bốn túi nên tất cả đă cháy ra tro. Sau đó tao có đến nhà Tiến ở khu gia binh Trường Quân Cụ G̣ Vấp cho gia đ́nh Tiến biết tin" (xem thêm chi tiết tại : http://hoiquanphidung.com/showthread.php?1958-Ác-Điểu-ngày-về-. , ghi chú của HQPD).

Hà Tấn Thông có ghi lại rằng Tiến đă gẫy cánh vào tháng 12/1974 tại Thới B́nh, Cà Mau v́ pḥng không 12,8 ly của Cộng Sản trên đường vào điểm đáp. Đây là nơi mà Hà Tấn Thông đă hành quân hôm trước đó. Vinh danh bạn Tiến đă hy sinh v́ quốc gia dân tộc.

Sau đây là những bạn đă qua đời v́ bệnh, tai nạn hay tự kết liễu đời ḿnh.

Người đầu tiên phải được nhắc tới ở đây là Nguyễn Thanh Quan tự Quan Đen, bởi cái chết của chàng có dính líu tới thời cuộc tháng 04/1975. Nguyễn Hữu Tín kể về Quan như sau:

"Tao biết khá rơ về Quan Đen trong những ngày chót. Ngày xưa ở B́nh Dương, Nguyễn Thanh Quan, Vơ Thanh Hà và tao học cùng lớp. C̣n Nguyễn Thanh Tâm th́ học chung với Ủ Văn Anh Dũng học Nông Lâm Súc. Dũng là người ở Biên Ḥa nhưng qua B́nh Dương học.

Số quân của Nguyễn Thanh Quan là 73/606400. Măn khóa 42 HTQS, Quan về Phi Đoàn 110 Đà Nẵng cùng Mai Đẹp Trai. Cuối tháng 03/1975 th́ Phi Đoàn 110 di tản về Biên Ḥa vài bửa rồi về Tân Sơn Nhất. Tao có gặp Quan ở B́nh Dương trong những ngày cuối cùng đó. Trong chiều 28/04/1975 là hôm Nguyễn Thành Trung bay A-37 đánh bom Tân Sơn Nhất, Quan chở tao xuống Tân Sơn Nhất bằng chiếc Rabbit của tao (*đây là mộc chiếc xe hai bánh giống như chiếc Vespa, máy 150 phân khối, xài demarreur để mở máy. Xe nầy xưa các cố vấn Mỹ và Cảnh Sát Đặc Biệt ưa dùng với bảng số ẩn tế). Tao có rủ Quan xuống Cần Thơ để có thể sẽ ra đi với tao nhưng nó từ chối. Sáng hôm sau th́ tao đến phi trường Trà Nóc. Sau hai ngày trong cảnh hoảng hốt và thiếu dự tính, tao đă không ra đi mà lại quay về B́nh Dương. Về tới nơi vào lúc hai giờ chiều th́ tao được tin Quan đă tự sát tại nhà nó ngày 30/04/1975 vừa mới chôn xong.

Theo lời bạn bè lối xóm kể lại th́ sau khi đưa tao đi xong, Quan đă trở lại B́nh Dương lấy chiếc Rabbit của tao chạy ṿng c̣ng cùng mấy đứa bạn học cũ, và trong cốp xe lúc nào cũng có cây P-38 của nó. Trưa 30/04/1975 khoảng 11 giờ rưởi Quan chở hai thằng bạn ra trụ cờ ở chợ B́nh Dương xem họ hạ cờ vàng xuống và treo cờ xanh đỏ sao vàng của MTGPMN lên. Sau khi chở hai thằng bạn về, nó về nhà tắm rửa leo lên giường đắp mền và sai đứa em trai tên Lâm đi mua mấy điếu Capstan. Em nó đi rồi th́ nó lấy súng bắn vào tim. Khi ở nhà t́m được xe đưa vào bệnh viện th́ nó đă chết.

Ngày nay ba má và em trai của Quan đều đă chết. Gia đ́nh chỉ c̣n một cô em tên Ngọc Dung lấy chồng tên Châu sau năm 1975 và hai vợ chồng đă đi Pháp vào năm 1978 (* lời bạn Tín : "Châu tên thật là Lâm Minh Châu, học Nông Lâm Súc cùng lớp với Dũng và Tâm. Ai có liên lạc được với Dung hoặc Châu làm ơn cho Tín biết)".

Nói về cái chết của Quan Đen, không ai có thể ngờ được rằng một người bạn vô tư hay nghịch phá như Quan Đen lại có một thái độ nghĩa khí như thế. Nghĩ cũng đáng buồn cho người quân tử trong lúc cùng đường ( xem thêm bài viết về Nguyễn Thanh Quan tại http://hoiquanphidung.com/showthread.php?3592-Tưởng-niệm-Anh-Hùng-NGUYỄN-THANH-QUAN. , ghi chú của HQPD).

Cuối năm 2000, trong khi mọi người đang chuẩn bị nghỉ ngơi và thở phào v́ vẫn chưa tận thế th́ Lê Công Ngữ ở San Diego mướn pḥng khách sạn uống thuốc ngủ tự tử chết để lại một lá thư tuyệt mạng. Trước đó Ngữ đă có viết một lá thư gởi bạn bè 72A. Lá thư nầy chàng đề ngày 12/09/2000, gửi qua bưu điện cho Đỗ Tiến Như và được chép lại nguyên văn sau đây:

"Những gịng chữ nầy đến Như th́ ḿnh đă đi xa rồi, xa lắm. Ở đó ḿnh sẽ gặp Hải Cải Lương, Chiến, Mạnh, Dân và có lẽ vài thằng bạn nữa. Lần cuối ḿnh gởi đến Như lời chào vĩnh biệt và nhờ Như cho ḿnh nhắn lời từ giă tới đám "đầu trâu mặt ngựa 72A". Ḿnh đi trước vài năm hoặc vài chục năm. Ở đó ḿnh sẽ đợi chờ các bạn. Hy vọng lúc các bạn tới ḿnh đă trờ thành siêu siêu đại cồ và ḿnh hứa săn sóc kỷ các bạn".

Kể ra th́ Lê Công Ngữ có ḷng lắm, v́ chàng ta đă kư là SVSQ 72A với cái tên "Công Ngủ" bất hủ mà anh em đă đặt cho. Lời thư tỉnh táo, mạch lạc, lại c̣n đượm nét khôi hài chứng tỏ một cái chết có dự tính chứ không phải v́ một phút giây nóng giận. Ngữ, nếu dùng chữ mà mầy hay dùng ngày xưa để nói, th́ mày ra đi như thế là "vô hậu". Cái chết của người bạn xuề x̣a vui tính nầy có nên là một điều đáng cho anh em suy nghĩ hay không? Khi Lê Công Ngữ đă chết rồi th́ một số anh em có góp tiền phúng điếu. Bạn Đỗ Văn Bính bảo rằng cái chết của Ngữ đă làm cho chàng suy nghĩ nhiều. Dù Bính có đóng góp như các anh em khác, chàng đă ngậm ngùi nói lên nỗi tiếc đă không giúp được bạn ḿnh khi c̣n sống qua hai câu ca dao: "Khi sống th́ chẳng cho ăn, đến khi chết xuống làm văn tế ruồi".

Vũ Xuân Quảng nói đă có gặp Ngữ trong thời gian 1983-1985 ở chợ trời Sài G̣n sau khi Quảng đi "học tập" về khoảng cuối năm 1980. Khi Ngữ và Quảng gặp lại nhau trong lần họp khóa năm 1999 ở miền nam California, Ngữ có kể rằng làm ăn thua lỗ và vợ không vui vẻ. Vào đầu năm 2000, một buổi tối Ngữ đă gọi Quảng bảo rằng muốn từ San Diego lên Orange County ở gần Quảng, và Quảng đă bảo rằng hăy cứ lên, có cơm ăn cơm, có cháo ăn cháo, nhưng sau đó không thấy Ngữ dọn lên. Trong đám cưới con gái Na tháng bẩy cùng năm đó, Quảng thấy vợ chồng Ngữ rất b́nh thường nên cho rằng vợ chồng dù có lúc giận hờn nhưng đêm nằm ngủ đụng nhau là huề thôi, không ngờ đến cuối năm th́ được tin không lành về Ngữ. Quảng rất ân hận đă không t́m hiểu thêm về bạn ḿnh trước khi việc đáng tiếc xảy ra.

Lê Công Ngữ và Nguyễn Hữu Tín học chung khóa 2 HTTT. Theo lời Tín kể th́ sau khi qua Mỹ, Ngữ là người sống gần gũi với Tín nhất. Trong thời gian Ngữ bị vợ hắt hủi, Tín cũng đă nhiều lấn cố gắng khuyên can. Tín đă viết về Ngữ như sau:

"Ngữ ở San Diego với Dân Già, Thụy, Dương và tao. Trong những lần vượt biển t́m tự do Ngữ đă mất mẹ, mất đứa con, đứa em gái. Con của đứa em gái đă bị bắn chết khi Ngữ đang bồng trên tay. Khi vô được trại Mă Lai và t́m được xác con, Ngữ đi gom củi và thiêu xác con ngay trên băi biển. Ngữ đến San Diego khoảng năm 1991. Trên xứ tự do gia đ́nh nó tan vỡ. Nó đă t́m đến cái chết một lần nhưng được cứu thoát. Trong lần thứ hai th́ nó đă ra đi."

Ngữ có gửi một lá thư cho Huỳnh Thanh Hải. Lá thư đó được chép gọn lại sau đây:

"San Diego, 15/10/1999

Ác Tăng thân mến,

Chiều hôm qua thằng Dân đưa tao cái áo mà tao gởi mua cho mày, sáng nay tao sẽ đi gửi cho mầy, kèm theo h́nh đám cưới của tao hồi 1989 ở Sài G̣n cùng h́nh tao, vợ tao và bốn con. Đây là gia đ́nh nho nhỏ của tao.

Ác Tăng mến, khi đi lính gặp mầy, sống với mầy, mầy là thằng bạn thân nhất của tao. Khi mày đi Biên Ḥa học khóa 1 thú thật tao chỉ muốn vác sắc theo mầy thôi. Sau nầy suốt một thời gian dài sóng gió tới nay những lúc mơ về dĩ văng h́nh bóng mày luôn hiện diện với tao và tao mỉm cườĩ. Cuộc đời bầm dập quá phải không mày? Nhưng mầy yên tâm, bạn mầy vẫn sống, vẫn đùa giởn với số phận. Tao chỉ muốn bạn tao biết rằng: tao sống luôn lương thiện, hợp đạo lư.

Với cuộc đời phức tạp cần nghị lực và sự tính toán th́ tao không có được những điều đó. Tao vẫn như ngày nào sống cẩu thả vô tính toán th́ làm sao khá được? Khi Như về cùng mấy thằng bạn khóa ḿnh nhậu ở nhà Tín th́ tao có chạy ngang nhưng không vào. Đêm đó tao ngủ trong xe nghe sương rơi lộp độp.

Hải ơi, mai kia mốt nọ dầu bất cứ chuyện ǵ xảy ra cho tao mầy cứ nghĩ đó là số mệnh.

Bạn thân của mầy,

Lê Công Ngữ".

Sau đây là những lời Hải Ác Tăng viết về Lê Công Ngữ:

" Lê Công Ngữ tánh t́nh ba gai nhưng rất trung hậu với bạn bè. Trong năm 1973 khi Thiếu Tá Bé chuẩn bị tổ chức hội chợ th́ có cho một SVSQ 73A về phép với điều kiện khi ra phải mang theo sáu con bọ, một loài vật bốn chân lông trăng trắng lớn hơn con chuột, để chờ dùng trong hội chợ. Sau khi bọ được mang ra th́ chúng được cất trong pḥng Thượng Sĩ Hội. Ngữ bảo tôi: "Mầy canh cho tao vào chôm mấy con bọ đó nhậu chơi!" Thế là nó lấy hết sáu con bọ mang ra sau trại Ngân Hà nhờ một bà rô ti đêm đó nhậu với rượu nếp than. Dĩ nhiên là Thiếu Tá Bé chưa bao giờ t́m ra thủ phạm cả.

Cho đến năm 1975 khi ra Nha Trang học bổ túc giai đoạn 2 quân sự, Ngữ và tôi thuê một căn pḥng ở gần chợ Nguyễn Hoàng. Một buổi chiều hai thằng đang đi bộ từ trại Phi Dũng về gần tới bến xe đ̣ Nguyễn Hoàng th́ thấy một em bé trai cụt tay đứng khóc. KHI Ngữ hỏi tại sao th́ em vừa khóc vừa chỉ một đám năm sáu tên thanh niên đang đứng trước một quán nước và trả lời: " Em từ Pleiku về vừa xuống xe th́ bị tụi nó lột hết đồng hồ và tiền", Ngữ kéo tay cậu bé băng ngang đường đến gần đám thanh niên và hỏi "Thằng nào?" bằng một giọng gằn nặc mùi Quảng Trị. Khi em bé chỉ vào một tên trong bọn th́ Ngữ lập tức nắm ngực áo tên ấy lôi ra giữa đường đánh túi bụi. Khi mấy thằng c̣n lại nhẩy vô th́ tôi cũng nhảy vào ṿng chiến. Lúc đó tôi thấy Ngữ anh hùng thiệt, và đó là Lê Công Ngữ, một kẻ "giữa đường gặp chuyện bất b́nh ra tay".

Khi viết những gịng chữ về Sơn và Ngữ, tôi đă đốt một nén hương ḷng cho một bạn chết cho quê hương tổ quốc trong khi bạn kia đă ra đi bởi ḍng đời nghiệt ngă. Khi để lại bốn đứa con thơ, đối với tôi th́ Ngữ như một đào binh trốn trách nhiệm. Tôi cầu mong cho hai bạn cũ sẽ b́nh yên hơn ở bên kia thế giới."

Tưởng cũng cần phải nói đôi gịng về người viết những đoạn trên. Hải Ác Tăng mà viết thư t́nh th́ chắc là anh em phải cuốn gói chạy dài sau khi để lại cho chàng tất cả tiền trong bóp để "cúng tổ". Bạn nào không tin xin đọc tiếp những gịng sau:

"Hôm nay trời Virginia cứ mưa rỉ rả, không gian như u ẩn nỗi ḷng, ngổi viết những ḍng chữ nầy tôi đang quay ngược lại ḍng thời gian sống lại khoảng đời thân thương trong cuộc đời quân ngũ, tuy có gần 3 năm ngắn ngủi. Vâng ba năm. Ngắn hơn phi đạo Dĩ An, buồn hơn phi đạo An Lộc và thảm sầu hơn phi trường Lộc Ninh trong những chiều cuối Thu. Tuy vậy nhưng tất cả vẫn c̣n ghi lại sâu đậm trong kư ức, bồng bềnh theo mây trời và thương nhớ mông mênh cho tới bây giờ."

Nói về chuyện viết thư t́nh đă đành, c̣n chuyện viết văn tế để cúng những bạn đă ra đi th́ như đă thấy bên trên, Hải cũng phải thuộc hàng cao tăng, dù là Ác. Nhưng tại sao lại là Ác Tăng cơ chứ?

" Tôi nhớ buổi chiều ngày đầu nơi trại Thượng sĩ Tiến, bọn ḿnh hớt tóc để làm lính và chuẩn bị ra Nha Trang thụ huấn. Tôi muốn hớt thật ngắn, thật nhà binh. Nh́n tôi thằng Nguyễn Trọng Tiến cười và đặt ngay cái tên AC Tăng với ư nói là Air Cadet Tăng, tức là Air Cadet Thầy Chùa, nhưng thằng mắc dịch Mai Ngọc Trai đă sửa thành Ác Tăng là thầy chùa gian ác. Cả bọn đă cười ồ lên và cái tên Ác Tăng bắt đầu từ đó."

Khi nghe Hải Ác Tăng than phiền, Trai Đầu Ḅ chẳng những đă không xin lỗi bạn mà c̣n ngang ngược trả lời rằng:

" Lư do tao đặt mày là Ác Tăng là v́ hớt trọc, cái đầu mầy đẹp như đầu mấy ông Tăng, nhưng con mắt của mầy cứ liếc dọc liếc ngang mấy mụ nữ quân nhân, th́ tao nghĩ chỉ có phường ác tăng mới như vậy mà thôi."

Nhắc đến Trai Đầu Ḅ, hăy nghe chàng kể về Nguyễn Thanh Quan:

" Trong năm 1974 là năm mà khóa 42 Hoa Tiêu Quan Sát bắt đầu tham gia cuộc chiến. Một hôm Quan Đen thi hành phi vụ hướng dẫn khu trục tại khu vực Thường Đức thuộc tỉnh Quang Nam, cách Đà Nẵng khoảng 80 cây số về hướng Tây Nam. Sau khi rời tần số Panama của đài Kiểm Báo Sơn Chà th́ Quan vào vùng. Đang chăm chú bay th́ bổng có tiếng la "Úi cha" từ ghế của Quan Sát Viên phía sau làm cho Quan sửng sốt v́ không biết việc ǵ đă xẩy ra cho hắn. Chưa kịp hỏi th́ bổng Quan thấy một mùi thật khó chịu xông vào mũi. Khi Quan ngoảnh lại th́ hỡi ôi, bởi cái bộ mông đít to tướng của anh ta đang làm việc khẩn cấp theo tiếng gọi của thiên nhiên để đưa những phế liệu vào cái bao nylon dùng để chứa xăng. Trong khi Quan vội vă mở cửa sổ, đưa mũi vào ống hơi gió để thở và chửi thề ỏm tỏi th́ anh ta túm gọn bao ném ra ngoài và lẩm bẩm mấy lời xin lỗi, lỡ có người nào đang đi dưới đất không may bị bao rớt trúng...

Phi cơ lúc đó đang bay ở cao độ bẩy ngàn bộ so với mặt biển nhưng thực sự cách mặt đất không bao nhiêu v́ núi cao hiểm trở. Dù tin t́nh báo cho hay là vùng có nhiều quân địch tập trung nhưng anh quan sát viên nh́n măi mà không thấy động tịnh ǵ cả. Trong khi đó th́ mấy chiếc A-37 đang làm ṿng chờ và đă sẵn sàng để đánh. Khi Quan hạ xuống thấp trên rừng cây th́ bổng thấy Việt Cộng chạy tán loạn và bắn túi bụi vào chiếc L-19 mỏng manh. Anh quan sát viên bây giờ đă nhẹ nhỏm, ung dung hướng dẫn các phi tuần A-37 của Hổ Cáp, Phi Hổ và Nhện Đen làm việc liên tiếp. Tiếp theo đó là pháo binh nă tơi bời.

Khi về đáp và vào pḥng hành quân kư sổ phi lệnh, tất cả Phi đoàn từ Phi Đoàn Trưởng trở xuống đều ra bắt tay hai người hùng. Kết quả sơ khởi cho biết lá cả tiểu đoàn địch quân bị tiêu diệt và nhiều tiếng nổ phụ đă được ghi nhận. Sự khen ngợi nồng nhiệt th́ Quan nhận được c̣n huy chương có lẽ đă được dành cho tên người khác không có dính líu ǵ với chiến công đó cả. Xin bạn Quan Đen thông cảm nhé!"

Một bạn tự quyết nữa là Lương Thiện Cường.

Ủ Văn Anh Dũng đă có lần đưa Cường vô làm cùng hăng. Cái kết cuộc của Cường cũng tương tự như của Ngữ ở chỗ có vấn đề với gia đ́nh mà giải quyết không xong.

Bạn Nguyễn Thiện Nhượng đă được Nguyễn Tiến Cường nhắc tới trong một chương trước. Sau đây là lời của Đoàn Anh Thuấn:

" Nguyễn Thiện Nhượng là người rất hiền lành nên anh em thường gọi là ông linh mục. Khi đậu Anh văn về đi Mỹ, Nhượng c̣n nợ ít tiền ghi sổ ở quán cô Thương mà sau nầy đi Mỹ về ra Nha Trang học Giai Đoạn 2 Quân Sự, chàng đă tự t́m tới trả. Nhượng là người duy nhất của khóa 72A phải ra Bắc Việt học cải tạo tới sáu bẩy năm. Điều bất công nầy có lẽ v́ hai lư do. Thứ nhất, bố của Nhượng là một mục sư, tức là đă có tội dưới một chính thể vô thần. Thứ nh́, khi làm tờ tự khai, Nhượng đă đề rằng "tháp tùng tử". Những cán ngố vốn đă dốt mà Nhượng lại cho đọc chữ Hán th́ họ lại càng sợ hăi nên phải t́m cách đàn áp cho mau.

Có một điều hết sức trớ trêu là một người hiền lành như Nhượng th́ lại gặp toàn chuyện rủi ro. Lắm kẻ đi vượt biên  như đi du lịch, tới nơi c̣n nước đá lạnh và nước ngọt, trong khi đó th́ bạn Nhượng sau khi ở tù về đă cố ra đi mấy chục lần không lọt. Không chết ngoài Bắc trong tù mà lại chết v́ ngă sông! Đời thật là có nhiều chuyện rủi may không lường được."

Sau đây là những gịng cảm khái của Nguyễn Văn Bực khi nhớ về Long Đui và Chiến Răng Vàng:

"Anh em 72A thân mến,

Tớ rất lấy làm thương tiếc Trần Đ́nh Long. Cái ngày bay U-17 ở B́nh Thủy chưa lănh lương anh em đói meo nó ra moi khoai lang non của người ta trồng về nấu, sao mà lúc đó ăn nó ngon làm sao. Một tối nằm ngủ nghe tiếng cá lóc đớp mồi rộn ràng. Ngày hôm sau mới biết một ông nào đó đem cá bỏ vô bồn câu.

Thời gian học bay tớ nhớ trời Cần Thơ h́nh như mưa nhiều hơn nắng. Ở đó buồn tận mạng nhưng vẫn c̣n thua Ban Mê Thuột anh em ạ. Cái buồn núi rừng là một cái buồn muôn thuở  không bút mực nào tả hết. Giờ đây ai từng về miền Tây th́ hát giùm tớ bài ca mà Nguyễn Văn Chiến tự Chiến Consolei (*Chiến Răng Vàng) thường hát: "Có ai về miền Tây... la la la". Nếu có ai từng về Ban Mê Thuột th́ nhắn lại với Nguyễn Văn Hóa rằng đừng quên ăn bắp nướng khi chiều chiều dạo phố Ban Mê Thuột với người đẹp. Nếu Hóa có đọc đến đây xin hăy điền vào cho đầy đủ cho tớ v́ lâu quá rồi tớ không c̣n nhớ chi nhiều. Anh em đừng nói tớ lằng nhằng. Tớ nhớ ǵ ghi nấy."

Cái chết của Nghiêm Xuân Mạnh đă là một bí ẩn cho anh em trong nhiều năm qua. Để giúp soi sáng một phần nào sự việc, Nguyễn Hữu Tín kể rằng Mạnh có một thời gian chạy tắc xi và bị xe đụng găy chân. Mạnh đă được bồi thường thỏa đáng và chân của chàng cũng đă hồi phục. Hai tuần trước khi Mạnh chết, chàng ta c̣n có gặp Nguyễn Quang Hưng. Nghe đâu một hôm Mạnh đă trượt chân té thang lầu trong lúc say sưa và đă mất v́ tai nạn nầy.

Trong chương nầy, Nguyễn Hữu Tín đă viết nhiều về mấy người bạn khuất núi. Chàng có lư do sau:

"Bởi trong đời tao chỉ có viết thư t́nh cho một người yêu mà tao quen từ thời trung học rồi sau đó thành vợ tao sau khi tao về lúc hết năm năm tù cải tạo ở Tây Ninh, tao phải cố gắng nhiều để viết cho 72A.  Thời tụi ḿnh ở trại Phi Dũng hoặc trại Ngân Hà th́ tao không nhớ nhiều nên tao viết về những thằng đă ra đi như để thay mặt toàn khóa 72A đốn nén hương ḷng cho tụi nó".

Trong danh sách 15 người kể ở trên đă bỏ sót một trường hợp hầu như chắc chắn, nhưng không ai dám xác nhận. Đó là trường hợp của bạn Nguyễn Thanh Liêm, tức là Liêm Cá Mập của 14 chàng đậu Anh văn đầu tiên. Liêm ra trường A-37 cùng với Đoàn Anh Thuấn. Sau 1975 có người nói là Liêm mất tích khi trốn trại cải tạo, có người khác lại nghe nói là bịnh chết trong trại. Sau đây là lời Đỗ Minh Hùng:

" Nguyễn Thanh Liêm được gọi là Liêm Cá Mập v́ tướng hắn to con, mập mạp.Hắn trốn trại cải tạo khoảng cuối năm 1975 hay đầu năm 1976. Không bị bắt lại. Khoảng năm 1984 t́nh cờ tôi quen được anh ruột của Liêm ớ Pullman, Washington State. Tôi có đến nhà anh của Liêm chơi. Trong nhà có để bàn thờ Nguyễn Thanh Liêm. Tôi kể chuyện về Liêm và chúng tôi đồng ư có lẽ Liêm đă chết trên con đường t́m tự do. Tôi có đốt vài nén hương cho Liêm trong lần đến thăm đó."

Lê Văn Cảnh có lẽ là người gặp Liêm sau cùng:

" Lúc ở Đà Nẵng, tôi và Trần Thanh Liêm tức Liêm Cá Mập ở chung một Phi đoàn A-37 là Nhện Đen 550. Tuấn thuộc một trong hai Phi đoàn A-37 c̣n lại. Khi học quân sự giai đoạn 2 tại Nha Trang, tôi với Liêm ở chung một nhà. Nhà nầy là của một chiến hữu bạn của anh Sơn, là anh ruột của Liêm.

Trong các phi công A-37 của khóa 72A, Liêm là một trong những người tham gia nhiều chiến dịch trong những tháng cuối cùng của cuộc chiến. Các bạn A-37 tại Cần Thơ hoặc Phù Cát th́ tôi không rơ, nhưng Liêm Cá Mập đă tham dự nhiều phi vụ tác chiến, kể cả các trận đánh ác liệt tại Thường Đức. Nếu nghiệp bay không bị chấm dứt oan uổng, chắc chắn Liêm sẽ là một phi công xuất sắc, can trường.

Lúc ở Đà Nẵng có lúc hai đứa không c̣n tiền. Mồng hai mồng ba tết con mèo đầu năm 1975, tôi và Liêm đă ăn cháo trắng với tôm khô. Khi Đà Nẵng mất, tôi về Sài G̣n bằng C-130, nhưng Liêm mang được chiếc A-37 về đến Phù Cát và phải đáp khẩn cấp v́ bánh không bung ra. Chi tiết nầy do chính Liêm kể cho tôi nghe.

Sau 30/04/1975 Liêm và tôi đi bán xăng để sinh sống cho tới lúc đi tù cải tạo. Năm 1976 tôi đă gặp người bạn gái của Liêm học tại Mạc Đỉnh Chi trong đám cưới của một người bạn, tôi có hỏi thăm về Liêm nhưng cô không biết được tin ǵ. Đến nay đă hơn 25 năm qua. tôi nghĩ rằng hoặc Liêm bị bắn chết khi trốn trại, hoặc bệnh chết trong trại."

Trong con số 11 anh em qua đời sau chiến cuộc, có tới năm người chết v́ tự tử. Trừ Quan Đen ra, bốn người kia đều ở Mỹ. Những thanh niên hào hoa một thời nầy đă mỏi mệt đến như thế! Nguyên cớ ǵ đă gây ra thảm trang nầy, phải chăng v́ xă hội máy móc vô t́nh của ngày hôm nay đă thực sự chứng minh cho cái nh́n của Georghiu trong Giờ Thứ Hai Mươi Lăm, khi con người đă biến thành một bánh xe răng cưa trong một guồng máy, không quay đều lả gẫy? Hay chính những người bạn đời của họ, những con mèo ngày xưa nay đă trở thành cọp cái, đă đẩy họ tới chỗ không c̣n lối thoát? Những chiến hữu trung thành từ khi tất cả c̣n đầy nhiệt huyết, ngày nay không c̣n tương trợ ǵ được cho họ nữa hay sao? Cái truyền thống "không quên anh em, không bỏ bạn bè" có nghĩa là ǵ? Phải chăng nó chỉ được thể hiện sau khi một chiến hữu đă ra đi, rồi anh em kêu gọi nhau quyên tiền giúp cho thân quyến c̣n ở lại. Điều này làm cho ta dễ liên tưởng tới những gia đ́nh có cha mẹ già khi sống th́ không cho ăn, c̣n nói nặng nói nhẹ hàng ngày, đến khi chết th́ làm ma chay, cúng kiếng linh đ́nh. Đó có phải chăng là cách trả hiếu của những kẻ có tiền?

Một yếu tố chung cho những anh em đă tự kết liễu đời ḿnh là họ ít liên lạc với ai, và do đó khi quẩn trí th́ không ai nói được với họ đôi điều khuyên giải, hoặc để lắng nghe những bực tức trong đầu họ, hầu giúp họ vượt qua để tiếp tục kéo cày trả nợ đời và nuôi con nhỏ. Điển h́nh là trường hợp Lê Công Ngữ. Nếu Ngữ ở Anaheim gần tiệm dán kính xe của Vũ Xuân Quảng để thỉnh thoảng tạt qua hút một điều thuốc chửi đời ủng oảng vài câu th́ đă có khá hơn cho chàng hay không?

 

Mục lục