Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Quân lực Hoàng Gia Úc và cuộc chiến Việt Nam

Collapse
X

Quân lực Hoàng Gia Úc và cuộc chiến Việt Nam

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Quân lực Hoàng Gia Úc và cuộc chiến Việt Nam


    Quân Lực Hoàng Gia Úc Đại Lợi
    và cuộc chiến Việt Nam.

    Nguyễn Hữu Thiện



    Lời nói đầu: Khởi đầu vào tháng 8 năm 1962 và chấm dứt vào tháng 12 năm 1972, cuộc tham chiến của Lực lượng Úc Đại Lợi tại miền Nam Việt Nam đã được ghi nhận là "cuộc tham chiến dài nhất trong Lịch sử Quân Lực Hoàng Gia Úc Đại Lợi". Không chỉ dài nhất mà còn gây tranh luận gay gắt nhất, và gây chia rẻ trầm trọng nhất tại quốc gia này.
    Vào thời gian của cao trào phản chiến, những năm đầu thập niên 1970, mỗi khi có phi cơ chở các lực lượng Úc rút quân về nước đáp xuống Căn cứ Không Quân Fairbairn ở gần Thủ đô Canberra, cho dù đã phải đáp trong đêm tối, đã luôn luôn bị các lực lượng phản chiến thiên tả "dàn chào" ở ngoài cổng để nhục mạ.
    Nhưng cuối cùng, chính nghĩa luôn luôn thắng, cho dù không thắng ngoài chiến địa cũng thắn trên chính trường, trong lòng người. Giữa thập niên 1990, cùng với phong trào "Welcome Home" ở Hoa Kỳ để vinh danh các Cựu chiến binh Mỹ từng tham chiến tại Việt Nam, danh dự của các chiến sĩ đồng minh Úc cũng được phục hồi, mà cao điểm là cuộc tuần hành vĩ đại vào ngày 3 tháng 10 năm 1997 tại Sydney thành phố lớn nhất nước Úc, với sự góp mắt của trên 25,000 Cựu chiến binh Úc từng tham chiến tại Việt Nam, dẫn đầu bởi thân nhân ruột thịt của trên 500 chiến binh đã hy sinh, trên tay mỗi người cầm một lá Quốc kỳ Úc "thay mặt cho người đã chết", trước sự hoan hô nồng nhiệt của hàng trăm nghìn người dân Úc xuống đường để chào đón. Tiếp theo là các cuộc tuần hành tương tự tại Thủ đô Canberra, tại Thành phố Melbourne, thủ phủ tiểu bang Victoria, và các thủ phủ tiểu bang khác.
    Hiện nay, 18 tháng 8 hàng năm, ngày kỷ niệm Chiến thắng Long Tân (Long Tan Day) để đời của lực lượng Úc vào năm 1966, đã trở thành Ngày Cựu Chiến Binh Úc tham chiến tại Việt Nam (Vietnam Veterans Day).
    Tháng 9 năm 2012, kỷ niệm 50 năm (1962-2012 ngày Quân lực Hoàng Gia Úc Đại Lợi tham chiến tại Việt Nam, người Việt Quốc Gia tại Úc đã tổ chức nhiều sinh hoạt đặc biệt, để vinh danh và tri ân các lực lượng Úc, đã góp phần mồ hôi, xương máu trong công cuộc chiến đấu bảo vệ lý tưởng Tự Do tại miền Nam Việt Nam, chống lại cuộc xâm lược của Cộng sản Bắc Việt.
    Qua bài viết dưới đây, chúng tôi mời độc giả cùng điểm lại cuộc tham chiến đầy chính nghĩa ấy.

    *****

    Tiền đồn của Thế Giới Tự Do

    Năm 1957, thời gian cuộc Chiến tranh Lạnh giữa hai khối tư bản và cộng sản đã tới giai đoạn gay gắt, Việt Nam Cộng Hòa trở thành tiền đồn chống Cộng của Thế Giới Tự Do. Ông Ngô Đình Diệm, vị Tổng Thống tiên khởi của Việt Nam Cộng Hòa, mở cuộc công du Hoa Kỳ và một số quốc gia đồng minh.
    Ngày 2 tháng 9, ông Ngô Đình Diệm tới Úc, đượccả đảng Tự Do của đương kim Thủ tướng Robert Menzies lẫn đảng Lao Động hết lòng ủng hộ. Sau khi đọc diễn văn tại lưỡng viện Quốc Hội, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã được trao tặng Huân chương Danh Dự Knight Grand Cross of the Order of St Michael and St George, là huân chương cao quý nhất dành cho những người không phải là thân nhân của Nữ Hoàng Anh.
    Tới năm 1962, sau khi đảng Cộng sản Việt Nam (lúc đó núp dưới danh xưng đảng Lao động Việt Nam) cho thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam (MTDTGPMN), mở màn cho cuộc chiến tranh du kích với âm mưu lật đổ chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã chính thức yêu cầu sự trợ giúp của các nước đồng minh trong Thế giới Tự Do. Hoa Kỳ là quốc gia đầu tiên đáp ứng qua việc gửi các cố vấn quân sự tới miền Nam Việt Nam. Sau đó là ần lượt 4 thành viên khác trong khối SEATO (Southeast Asia Treaty Organisation - tiếng Việt gọi là Liên Phòng Đông Nam Á, thành lập năm 1955), gồm Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan, Phi Luật Tân và Thái Lan. Về phía các đồng minh không nằm trong khối SEATO có Đại Hàn Dân Quốc (Nam Hàn) và Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan).
    Trong số 7 đồng minh nói trên, chỉ có Hoa Kỳ, Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan, Nam Hàn và Thái Lan gửi các đơn vị tác chiến. Còn Trung Hoa Dân Quố c chỉ gửi một Phái bộ Cố vấn Chiến Tranh Chính Trị, và Phi Luật Tân gửi các toán Dân Sự Vụ.
    Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan cũng là hai thành viên thân thiết với Hoa Kỳ, bởi vì trước đó, vào năm 1951, ba quốc gia này đã cùng nhau ký kết Hiệp ước An Ninh Hỗ Tương ANZUS (Australia - New Zealand - United States).
    Sự tham dự của Úc Đại Lợi vào cnuộc chiến Việt Nam được thực hiện qua hai lãnh vực: Cố vấn Quân Sự và Tác Chiến.

    I- Cố vấn Quân Sự 1962-1972:

    Có thể viết mà không sợ bị quá lời, trong cả khối Thế giới Tự Do, không quân đội nước nào có khả năng "chống du kích" chuyên nghiệp và hữu hiệu cho bằng quân đội Úc. Khả năng ấy có được là nhờ truyền thống có sẵn và tích lũy kinh nghiệm trong thời gian tham gia cuộc chiến chống phiến quân Cộng sản tại Mã Lai, từ năm 1955 tới 1960.
    Cuộc chiến này được người Anh gọi là "The Malayan Emergency", khởi sự vào năm 1948. Lực lượng địch là "giải phóng Quân" của đản Cộng sản Mã Lai. Tên gọi "giải phóng Quân" đã cho thấy có bàn tay của Trung Cộng nhúng vào. Trên thực tế, lãnh tụ Chin Peng va đa số "giải phóng Quân" cùng những người ủng hộ đều là người gốc Hoa.
    Thời gian mấy năm đầu, tình hình ngày càng trở nên tệ hại với các cuộc tấn công của quân phiến loạn nhắm vào lực lượng Anh - Mã Lai, cùng với các cuộc khủng bố, ám sát (trong số người bị ám sát có cả Cao Ủy Anh tại Mã Lai).
    Nhưng từ khi quân Úc được đưa sang thì gió bắt đầu xoay chiều. Lợi thế của hình thái chiến tranh du kích dựa vào yếu tố "ta thấy địch mà địch không thấy ta". Từ đó, người Úc nhận định: Nếu cứ giữ thế thủ, sẽ không bao giờ đánh bại được du kích quân cộng sản, mà phải săn lùng địch và chủ động tấn công. Những gì xảy ra tại miền Nam Việt Nam sau này đã chứng minh khả năng chống du kích "thần sầu quỷ khốc" của quân Úc; qua đó, yếu tố "ta thấy địch mà địch không thấy ta" thay vì là sở trường của "du kích quân" Việt Cộng đã trở thành ưu điểm của "phản du kích quân" Úc! Theo cuốn "Vietnam" của sử gia quân đội Paul Ham, trong một cuộc hội thảo giữa hai phía Hoa Kỳ và Úc diền ra tại Canberra vào tháng 5 năm 1962, chính Ngoại trưởng Mỹ, Dean Rusk, đã phải nhìn nhận "lực lượng quân sự Mỹ biết rất ít về chiến thuật chống du kích trong rừng núi", và yêu cầu sự trợ giúp của phía Úc.
    Kết quả, một đơn vị Cố vấn Úc tại Việt Nam được cấp tốc được thành lập, với danh xưng "Australian Army Training Team in Vietnam - AATTV), thường được người Úc gọi một cách ngắn gọn là "The Team", do Đại tá Francis Philip "Ted" Serong, một người hùng quân đội (huân chương OBE), chuyên gia chống du kích bậc nhất của Úc cầm đầu.
    Ngày 31 tháng 7 năm 1962, Đại tá Serong tới Sài Gòn, và ba ngày sau, toán cố vấn đầu tiên của The Team gồm 30 người (15 sĩ quan và 15 hạ sĩ quan) có nhiều kinh nghiệm chống du kích ở Mã Lai đặt chân tới Việt Nam. Nhiệm vụ chính của The Team là phối hợp với các cố vấn Mỹ (MACV) trong việc huấn luyện quân đội VNCH về chiến thuật chống du kích; vì thế, đa số các thành viên của The Team đã được ưu tiên đưa tới các trại Dân sự Chiến Đấu (CIDG - Civilian Irregular Defense Group - người Việt thường gọi là Biệt kích Mỹ).
    Nhìn chung, sự phối hợp giữa The Team và các cố vấn Mỹ được mô tả là tốt đẹp, tuy nhiên cũng không thể tránh khỏi những bất đồng, thậm chí đụng độ, từ cấp thấp nhất đến cấp cao nhất. Hiện nay, tài liệu quân sử của Úc vẫn còn ghi lại cuộc "đụng độ nẩy lửa" (violent challenger) trong một buổi hội thảo về đề tài "chống du kích quân cộng sản", tổ chức tại Ngũ Giác Đài ngày 23 tháng 5 năm 1963, giữa Đại tá Ted Sarong với Trung tướng Victor "Brute" Krulak - một người hùng của TQLC Mỹ trong chiến tranh Triều Tiên.
    Thế nhưng trên chiến trường, hai phía đồng minh luôn luôn sát cánh. Ngày 6 tháng 7 năm 1964, trong lúc chống trả cuộc tấn công của lực lượng Việt Cộng và quân chính quy Bắc Việt vào trại Biệt kích Nam Động, gần biên giới Lào, Chuẩn úy Kevin Conway của The Team và Thượng sĩ Nhất Gabriel Alamo của Special Forces, tức Green Berets) đã anh dũng hy sinh, xác nằm bên nhau trong một cái hố chiến đấu ở hàng rào phòng thủ.
    Chuẩn úy Kevin Conway được ghi nhận là quân nhân Úc đầu tiên hy sinh trong lúc chiến đấu tại Việt Nam
    Cũng theo tài liệu của Úc, Thượng sĩ Nhất Gabriel Alamo bị tử thương ngay trong đợt tấn công đầu tiên của qiân cộng sản; còn lại một mình, Chuẩn úy Kevin Conway đã bình tĩnh sử dụng khẩu súng cối để "rót" một cách vô cùng chính xác lên đầu địch quân. Địch quân càng tới gần, tầm đạn càng thu ngắn; cuối cùng khi địch quân tràn vào hàng rào phòng thủ, Kevin Conway đã bắn thẳng lên trời, để đạn cối rớt xuống đầu địch, và xuống cả cái hố của mình. Kết quả, địch quân đã không thể tiến xa hơn và phải rút lui trước sức chiến đấu của lực lượng phòng thủ.
    Trước hành động chiến đấu dũng cảm và gương hy sinh anh hùng của cố Chuẩn úy Kevin Conway, Đại tá Ted Sarong đã gửi bản đề nghị về Bộ Quốc Phòng Úc, xin truy tặng Huân chương Victoria Cross - Huân chương cao quý nhất của Úc do vị đại diện Nữ Hoàng quyết định và trao gắn, nhưng đơn đã bị bác.
    Theo hồi ký của Đại tá Ted Sarong (sau này lên cấp Chuẩn Tướng), nguyên nhân đơn bị bác là vì trên nguyên tắc, việc người Mỹ sử dụng Lực lượng Dân sự Chiến Đấu (Biệt kích Mỹ) là bất hợp pháp, cho nên họ đã giữ bí mật tới mức tối đa. Vì thế, việc trao tặng huân chương Victoria Cross cho cố Chuẩn úy Kevin Conway cùng với bản tuyên dương công trạng (bắt bộc phải có), chẳng khác nào "vạch áo cho người xem lưng"!
    [Viết thêm: Ngày ấy, cũng vì hoạt động bí mật của lực lượng Dân sự Chiến Đấu (Biệt kích Mỹ), cho nên đã không có cơ quan truyền thông nào tường thuật đầy đủ về trận phản công đẫm máu ở trại Biệt kích Nam Động, cách Đà Nẵng 50 cây số về hướng Tây, nằm sát biên giới Lào - Việt. Trong hai ngày 5 và 6 tháng 7 năm 1964, một lực lượng địch khoảng 1,000 tên, gồm quân chính quy Bắc Việt và Việt Cộng địa phương, mở cuộc tấn công Trại, do 300 biệt kích người Kinh, 60 biệt kích người Nùng, 12 quân nhân LLĐB Mỷ và một Cố vấn Úc trấn giữ. Kết quả, sau hai ngày giao tranh đẫm máu, địch vẫn không chiếm được trại, phải rút lui để lại 63 xác chết tại trận (chưa kể số xác chết được mang theo); thiệt hại củ lực lượng bạn gồm 115 biệt kích Việt chết và bị thương, 10 quân nhân đồng minh tử thương - 9 người Mỹ và một người Úc duy nhất có mặt tại trại - Chuẩn úy Kevin Conway]

    *****

    Trở lại với The Team, tới tháng 9 năm 1964, tổng số lên tới 73 người, rồi 112 người vào tháng 6 năm 1965 và cao nhất là 217 người vào tháng 11 năm 1970.
    Nhiệm vụ chính của The Team là cố vấn trực tiếp tại mặt trận - hay viết một cách cụ thể hơn là vừa cố vấn vừa tác chiến - cũng có khi chỉ huy các toán Biệt kích người Thượng. Các thành viên của The Team được phân bố đi khắp nơi, thường hoạt động riêng lẻ (như trong trường hợp Chuẩn úy Kevin Coway), hoặc hai người; chỉ trong trường hợp đặc biệt mới kết hợp thành toán, nhưng cũng không quá 10 người. Lần duy nhất có sự tham dự đông đảo của các thành viên là buổi lễ đón nhận huân chương cao quý US Army Meritorious Unit Commendation của Hoa Kỳ, do Đại tướng Abrams, Tư lệnh Quân Đội Hoa Kỳ tại Việt Nam, trao tại Thị xã Vũng Tàu ngày 30 tháng 9 năm 1970.
    Đầu năm 1971, The Team mở khóa huấn luyện chống du kích đầu tiên cho các quân nhân QLVNCH tại Jungle Warfare Training Centre ở Núi Đất thuộc tỉnh Phước Tuy - một công việc mà lẽ ra phía Hoa Kỳ đã phải nhờ người Úc từ giữa thập niên 1960!
    Năm 1972, khi toàn bộ Lực lượng Đặc Nhiệm của Úc đã rút về nước, The Team tiếp tục ở lại Việt Nam, với nhiệm vụ huấn luyện chiến thuật chống du kích cho phía VNCH và Quân đội Quốc Gia Khmer (FANK - Forces Armées Nationale Khmer)
    The Team chỉ chấm dứt hoạt động vào ngày 18 tháng 12 năm 1972, được ghi nhận là đơn vị Úc phục vụ tại Việt Nam lâu nhất (trên 10 năm), và cũng là đơn vị có tỷ lệ quân nhân được ân thưởng huy chương cao nhất, trong đó có bốn người được huân chương cao quý Victoria Cross.

    II- Lực Lượng Tham Chiến 1965-1972:

    Ngày 8 tháng 8 năm 1964, một phi đội vận tải cơ Caribou hạ cánh xuống phi trường Vũng Tàu và đặt căn cứ tại đây, được ghi nhận là đơn vị đầu tiên của Quân lực Hoàng Gia Úc Đại Lợi tới tham chiến tại Việt Nam. Từ đó cho tới cuối năm 1972, hơn 61,000 quân nhân thuộc Hải, Lục, Không Quân Úc đã lần lượt tới phục vụ tại Việt Nam, và trong số ấy, 521 người đã bỏ mình nơi miền đất lạ.

    1- Lục Quân:

    Ngày 29 tháng 4 năm 1965, Thủ tướng Úc Robert Menzies (đảng Tự Do) loan báo việc chính phủ Úc nhận được yêu cầu từ phía Hoa Kỳ trong việc gia tăng yểm trợ quân sự, và chính phủ Úc quyết định gửi một tiểu đoàn bộ binh sang chiến đấu tại Việt Nam, vì theo lời ông Menzies, "việc Cộng sản chiến thắng tại miền Nam Việt Nam sẽ là một mối đe dọa về mặt quân sự trực tiếp vào nền an ninh của Úc".
    Hơn một tháng sau, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn Hoàng Gia Úc Đại Lợi (1st Batallion, Royal Australian Regiment - viết tắt là 1 RAR), cùng với một Chi đội Thiết vận xa M-113 và các đơn vị tiếp liệu, đã được mẫu hạm HMAS Sydney vận chuyển sang Việt Nam.
    Sau khi tới nơi, 1 RAR hoạt động với tư cách một đơn vị trực thuộc Lữ đoàn 173 Nhảy Dù Hoa Kỳ, địa bàn hoạt động là lãnh thổ tinh Biên Hòa.
    Mặc dù 1 RAR cũng đã đánh vài trận với tư cách một đơn vị độc lập, sau đó cả hai phía Mỹ - Úc đã cùng nhau thỏa thuận: Các đơn vị Úc được đưa tới Việt Nam trong tương lai sẽ được trao toàn bộ trách nhiệm lãnh thổ một tỉnh nào đó, để họ có thể "đánh giặc theo kiểu Úc", không dính dáng gì tới các đơn vị của Hoa Kỳ.
    Tháng 4 năm 1966, Lực lượng Đặc Nhiệm 1 Úc Đại Lợi (1st Australian Task Force viết tắc là 1ATF) tới Việt Nam, đặt bản doanh tại Núi Đất, tỉnh Phước Tuy, và 1RAR (Tiểu đoàn 1 Trung đoàn Hoàng Gia) chấm dứt trực thuộc Lữ đoàn 173 Nhảy Dù Hoa Kỳ để trở thành một đơn vị trong Lực lượng Đặc Nhiệm.
    Lực lượng Đặc Nhiệm (LLĐN) này tương đương với cấp Lữ Đoàn của Hoa Kỳ, gồm 3 Tiểu đoàn Bộ Binh (gồm các Tiểu đoàn 1RAR, 3RAR, 4RAR, 5RAR, 6RAR, 7RAR và 8RAR luân phiên phục vụ), cộng với một Chi đoàn Thiết vận xa M-113, một Biệt đội Biệt Kích SAS, cùng nhiều đơn vị yểm trợ, đặt dưới sự điều động của Liên đoàn 1 Yểm Trợ Tiếp Vận (1st Australian Logistics Support Group) đặt căn cứ tại Vũng Tàu. Tới cuối năm 1967, LLĐN được tăng cường một Thiết đoàn Chiến xa hạng trung Centurion.
    Một cách ngắn gọn, LLĐN Úc được trao toàn bộ trách nhiệm gìn giữ an ninh lãnh thổ tỉnh Phước Tuy, trừ một vài thị trấn lớn do phía VNCH chịu trách nhiệm.

    2- Không Quân:

    Tính tới năm 1967, Không Lực Hoàng Gia Úc đã có 3 phi đoàn tại Việt Nam gồm:
    - Phi đoàn 35 Vận Tải (No.35 Transport Squadron). Tiền thân là phi đội vận tải cơ Caribou đã tới Vũng Tàu vào tháng 8 năm 1964. Do nhu cầu đòi hỏi, ngày 1 tháng 6 năm 1966, phi đội này được nâng cấp với danh xưng No.35 Transport Squadron (Phi đoàn 35 Vận Tải), đồn trú tại Luscombe Field gần Că cứ Núi Đất. Tuy nhiên với đa số quân nhân Úc phục vụ tại Việt Nam, họ thích gọi - và cho tới nay vẫn còn nhớ - phi đoàn này bằng nickname "Wallaby Airline" ( con Wallaby cùng họ "đại thử" với con kangaroo nhưng nhỏ hơn).
    Với khả năng đáp và cất cánh trên những phi đạo thô sơ, cực ngắn (STOL: Short Take-off and Landing) của vận tải cơ Caribou, nhiệm vụ chính của Phi đoàn 35 Vận Tải là tiếp tế cho các Trại Biệt Kích Mỹ ở Vùng 2 và Vùng 3 Chiến Thuật, cũng như cho các toán Cố vấn Úc (của The Team) ở vùng Tây Nguyên.

    - Phi đoàn 9 Trực Thăng (No.9 Helicopter Squadron). Nhân viên phi đoàn cùng với các trực thăng UH-1 được mẫu hạm HMAS Sydney vận chuyển tới Vũng Tàu ngày 6 tháng 6 năm 1966, và tới cuối tháng, bay tới đồn trú ở Căn cứ Núi Đất.
    Nhiệm vụ của Phi đoàn 9 Trực Thăng rất đa dạng, từ đổ quân, vận chuyển thương binh, tới tiếp tế đạn dược cho chiến trường, từ rải truyền đơn kêu gọi hồi chánh cho tới xịt thuốc khai quang tiêu diệt hoa màu trong các mật khu Việt Cộng.
    Từ năm 1967, sau khi được trang bị loại UH-1 mới, có trọng tải lớn hơn, Phi đoàn 9 Trực Thăng cò phối hợp với Phi đội Trực Thăng Hải Quân Hoàng Gia Úc tại Việt Nam (Royal Australian Navy Helicopter Flight - Vietnam) và lực lượng trực thăng của Lục Quân Hoa Kỳ, thực hiện những phi vụ cực kỳ nguy hiểm là đổ và bốc những toán tiền sát của VNCH trong lãnh thổ Vùng 3 Chiến Thuật, và sang cả bên kia biên giới Việt - Miên. Trong lúc thi hành nhiệm vụ này, một số phi cơ của Phi đoàn 9 Trực Thăng đã bị hỏa lực địch bắn hạ và bị thiêu hủy hoàn toàn.
    Tính tới ngày 17 tháng 12 năm 1971, ngày phi đod65i cuối cùng của Phi đoàn 9 Trực Thăng rời Vũng Tàu, đã có 7 nhân viên phi hành hy sinh.

    - Phi đoàn 2 Oanh Tạc (No.2 Bomber Squadron). Được trang bị oanh tạc cơ tầm trung Canberra (tức B-57 trong Không lực Hoa Kỳ và Không lực VNCH), tới Việt Nam năm 1967, đồn trú tại Căn cứ Không Quân Phan Rang. Hoạt động phối hợp với Không đoàn 35 Chiến Thuật (35th Tactical Fighter Wing) của Không lực Hoa Kỳ trong các nhiệm vụ oanh tạc cơ sở hậu cần, vị trí đóng quân của Việt Cộng và Cộng sản Bắc Việt trong nội địa Việt Nam, đôi khi sang cả bên kia biên giới Việt - Miên, đồng thời oanh kích các lực lượng địch trên chiến trường.
    Phi đoàn 2 Oanh Tạc rời Việt Nam ngày 14 tháng 7 năm 1971. Trong thời gian 4 năm phục vụ tại Việt Nam, Phi Đoàn 2 đã mất 5 nhân viên phi hành.

    Ngoài 3 phi đoàn đồn trú thường trực tại Việt Nam đã kể trên, Không lực Hoàng Gia Úc còn có những biệt đội vận tải gồm các vận tải cơ C-130 Hercules của hai Phi đoàn 36 và 37 Vận Tải (No.36, No.37 Transport Squadron) đặt hậu cứ ở Úc. Nhiệm vụ chính của Phi đoàn 36 Vận Tải là chuyển vận binh sĩ, vũ khí, tiếp liệu cho các đơn vị Úc và đôi khi vận chuyển quân nhân và thường dân Việt Nam.
    Phi đoàn 37 Vận Tải với các phi cơ C-130 được trang bị đặc biệt, có nhiệm vụ chính là cấp cứu, chuyên chở thương binh.

    Ngoài ra, Không lực Hoàng Gia Úc còn biệt phái một toán gồm 6 nhân viên phi hành tới bay chung trên phản lực cơ F-4 Phantom (2 chỗ ngồi) của Không lực Hoa Kỳ trong các phi vụ chiến đấu và không thám. Đồng thời, Úc cũng cung cấp những tiền sát viên phi hành (FAC: Forward Air Controlers) bay chung với phía Hoa Kỳ trong các phi vụ hướng dẫn phi cơ oanh kích và chấm tọa độ cho pháo binh.
    Cuối cùng, cũng không thể không nhắc tới đoàn Nữ Y tá Phi Hành của Không lực Hoàng Gia Úc (RAAF Nursing Service), đặc trách việc chăm sóc các thương binh trên phi cơ, di chuyển trong nội địa Việt Nam hay trên đường về Úc.
    Về lực lượng không phi hành tại Việt Nam, Không lực Hoàng Gia Úc có Phi đoàn 5 Tạo Tác (No.5 Airfield Contruction Squadron) đảm trách công việc xây cất hai căn cứ Vũng Tàu và Phan Rang; và lực lượng phòng thủ căn cứ (Air Defence Guards) tại hai căn cứ nói trên.

    *****

    Bên cạnh các lực lượng của Không Quân vừa kể, tại Việt Nam ngày ấy còn có hai đơn vị phi hành đặc biệt của Lục Quân và Hải Quân Úc. Đó là Phi đội Quan Sát Độc Lập 161 (161st Independent Reconnaissance Flight) của Lục Quân và Phi đội Trực Thăng Hải Quân Hoàng Gia Úc tại Việt Nam (The Royal Australian Navy Helicopter Flight - Vietnam).

    - Phi đội Quan Sát Độc Lập 161:
    Sau khi Tiểu Đoàn 1, Trung đoàn Hoàng Gia Úc đại Lợi (1RAR) tới Việt Nam vào tháng 6 năm 1965, mặc dù nằm dưới quyền điều động của Lữ đoàn 173 Nhảy Dù Hoa Kỳ, các giới chức Lục Quân Úc vẫn cho thành lập một phi đội quan sát để yểm trợ hoạt động của 1RAR, lấy danh xưng Phi đội Quan Sát Độc Lập 161 (161st Independent Reconnaissance Flight), bắt đầu hoạt động vào tháng 9 năm đó, đặt căn cứ tại Biên Hòa.
    Phi đội này có danh hiệu truyền tin (callsign) là "Possums" (một loại chuột sóc sống ở Úc châu), sử dụng nhiều loại phi cơ khác nhau, từ trực thăng Sioux cổ lỗ sĩ tới Cessna 180 (fixed-wing), từ O-1 Bird Dog (L-19) tới PC-6 Turbo Porter...
    Qua năm 1966, cùng với việc 1RAR sát nhập vào Lực lượng Đặc Nhiệm Úc, Phi đội Quan Sát Độc Lập 161 cũng di chuyển về Núi Đất. Bên cạnh nhiệm vụ chính là yểm trợ cho LLĐN Úc, Phi đội còn phối hợp yểm trợ các đơn vị Đồng Minh, như Sư đoàn 9 Đại Hàn, tức Sư đoàn Bạch Mã, đóng tại Tuy Hòa, Phan Rang, Bình Định...
    Trong hơn 4 năm hoạt động tại Việt Nam, Phi đội Quan Sát Độc Lập 161 đã mất 12 phi cơ và 3 phi công hy sinh.

    - Phi đội Trực Thăng Hải Quân:
    Vào thời gian giữa thập niên 1960, Hải Quân Hoàng Gia Úc chỉ có một phi đội trực thăng duy nhất, với nhiệm vụ dò tìm tàu ngầm địch trong vùng lãnh hải của Úc. Họ hoàn toàn xa lạ với nhiệm vụ yểm trợ hoặc phối hợp với các lực lượng trên đất liền. Việc thành lập một phi đội trực thăng của Hải Quân để tham chiến tại Việt Nam do đích thân Thủ tướng Tự Do Harolt Hold quyết định.
    Nguyên sau khi xảy ra trận Long Tân, trận đánh đẫm máu nhất của quân Úc trong chiến tranh Việt Nam vào tháng 8 năm 1966, chính phủ Tự Do đã cho tăng cường lực tham chiến. Thời gian này, Hải Quân Úc hầu như vẫn đứng vòng ngoài với những chiến hạm biệt phái cho Đệ Thất Hạm Đội của Hoa Kỳ, vì thế Thủ tướng Harolt Hold đã quyết định Hải uân Úc phải trực tiếp tham chiến bằng phi cơ.
    Kết quả, vào tháng 4 năm1967, 46 chàng trai ưu tú nhất trong ngành phi hành của Hải Quân Úc đã được gọivề New South Wales để thành lập Phi đội Trực Thăng Hải Quân Hoàng Gia Úc tại Việt Nam (The Royal Australian Navy Helicopter Flight - Vietnam). Họ gồm 12 phi công, 10 xạ thủ, và 24 cơ phi (cơ khí viên phi hành), hầu hết xuất thân từ Phi đoàn 723 của Hải Quân Hoàng Gia Úc. Tổng số nhân viên của Phi Đội về sau lên tới hàng trăm, tức là một lực lượng tương đương với một Phi Đoàn của Mỹ hay VNCH, cho nên cũng không có gì ngạc nhiên khi Phi đội Trưởng là một vị sĩ quan cao cấp: Hải Quân Đại Tá Neil Ralph.
    Sau mấy tháng trời thực tập để làm quen với những phi vụ trên đất liền, Phi đội Trực Thăng Hải Quân Úc được đưa tới Vũng Tàu vào tháng 10 năm 1967. Để tránh bỡ ngỡ trong thời gian đầu, Phi Đội này được Bộ Tư lệnh Đồng Minh tại Việt Nam cho hoạt động chung với Phi đoàn 135 Trực Thăng của Lục Quân Hoa Kỳ tại Vùng 3 Chiến Thuật. Phi đoàn này chuyên về tấn công yểm trợ hơn là chuyển quân, cho nên Phi đội Trực Thăng Hoàng Gia Úc đã rút tỉa được nhiều kinh nghiệm xương máu!
    Tháng 12 năm 1967, Phi đội Hải Quân Hoàng Gia Úc di chuyển vế căn cứ Blackhorse ở tỉnh Long Khánh để đặc trách việc yểm trợ Sư đoàn 18 Bộ Binh VNCH. Từ năm 1970, do nhu cầu chiến trường đòi hỏi cũng như do "tiếng thơm" đạt được, Phi Đội còn mở rộng hoạt động xuống tận U Minh ở Vùng 4 Chiến Thuật, và tham dự cuộc hành quân đại quy mô của QLVNCH sang lãnh thổ Cam-bốt, với nhiệm vụ khó khăn, nguy hiểm, là đưa đón các toán trinh sát của Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân.
    Qua thời gian 4 năm phục vụ tại Việt Nam, Phi đội Trực Thăng Hải Quân Hoàng Gia Úc đã được ghi nhận là đơn vị tham dự nhiều trận đánh đẫm máu nhất, và có tỷ lệ thương vong cao nhất trong số tất cả mọi đơn vị tham chiến tại Việt Nam.
    Phi đội cũng tạo thành tích với hai cái đầu tiên sau đây:

    * Ngày 19/11/1967, Hải Quân Trung Úy phi công Cassidio, lái một chiếc trực thăng võ trang UH-1C của phi đội, liều chết đáp xuống tiếp cứu hai chiếc UH-1H của phía Hoa Kỳ bị địch bắn hạ. Trở về, Trung úy Cassidio được Bộ Tư lệnh Quân Đội Hoa Kỳ tại Việt Nam ân thưởng Phi Dũng Bội Tinh Hoa Kỳ (American Distinguished Flying Cross) huân chương cao quý mà cho tới lúc đó, chưa một nhân viên phi hành nào của Phi đoàn 135 Trực Thăng Hoa Kỳ được ân thưởng! Điều đáng buồn là 9 tháng sau, ngày 21 tháng 8 năm 1868, trong phi vụ giải cứu một đơn vị VNCH bị lọt ổ phục kích địch ở Bình Tuy, phi cơ bị bắn rớt, Trung úy Cassidio cùng với một người xạ thủ bị chết cháy theo tàu!

    * Trước đó, vào ngày 12 tháng 2 năm 1968, trong phi vụ yểm trợ một lực lượng của Sư đoàn 18 Bộ Binh đang giao tranh với địch, chiếc trực thăng võ trang UH-1H của Hải Quân Trung tá Patrick Vicker bị trùng đạn phòng không của đdịch. Mặc dù bị thương nặng, Trung tá Vicker cũng cố gắng lái phi cơ về đáp ở đơn vị bạn gần nhất, để rồi vài tiếng đồng hồ sau đó tắt thở vì thương tích ở ngực và bụng.
    Ông được ghi nhận là phi công đầu tiên của Úc tử trận tại Việt Nam.

    3- Hải Quân:

    So sánh với Lục Quân và Không Quân, sự tham gia của Hải Quân Hoàng Gia Úc vào cuộc chiến Việt Nam được xem là mang tính cách yểm trợ nhiều hơn là tham chiến - trừ Phi đội Trực Thăng Hải Quân đã đề cập ở trên.
    Bắt đầu từ năm 1962, năm mà toán cố vấn Úc (The Team) tới phục vụ tại Việt Nam, các khu trục hạm của Hải Quân Úc cũng thay phiên nhau "cập bến Sài Gòn" với mục đích tuyên truyền, thể hiện sự ủng hộ của "Đồng minh Úc" dành cho VNCH.
    Tháng 5 năm 1965, "tuyến phà Vũng Tàu" (Vungtau Ferry) được "khai trương" với chuyến cập bến lần đầu tiên của mẫu hạm HMAS Sydney, chuyên chở Tiểu Đoàn 1, Trung đoàn Hoàng Gia Úc (1RAR), cùng với Chi Đội Thiết vận Xa M-113 và các đơn vị tiếp liệu.
    HMAS Sydney R-17 nguyên là một trong hai mẫu hạm của Hải Quân Hoàng Gia Úc, mua lại từ Hải Quân Hoàng Gia Anh sau Đệ Nhị Thế Chiến (chiếc kia là HMAS Melbourne R-21).
    Vì không có khả năng tiếp nhận các loại phi cơ hiện đại, tới đầu thập niên 1960, HMAS Sydney được biến cải thành tàu vận chuyển, và từ năm 1965 tới năm 1972, đã thực hiện 23 cuộc hành trình từ Úc tới Vũng Tàu, vì thế đã được các quân nhân Úc tặng nickname "Vung Tau Express" (tàu Tốc hành Vũng Tàu). Mỗi "chuyến tàu tốc hành" ấy đều được một lực lượng Hải Quân Úc hộ tống, có lần gồm cả mẫu hạm HMAS Melbourne.
    Về sau, vào năm 1975, HMAS Sydney được bán cho Nam Hàn và hơn 10 năm sau, tới lượt HMAS Melbourne cũng được bán cho Trung Cộng để lấy sát vụn.
    Về chiến hạm, từ năm 1966 tới năm 1971, bốn khu trục hạm của Hải Quâ Úc - gồm các chiếc Hobart, Perth, Brisbane và Vendetta - đã được biệt phái tới Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ. Nhiệm vụ chính của các chiến hạm này là sử dụng hải pháo để yểm trợ lực lượng bạn trên đất liền; và tham gia chiến dịch "Sea Dragon" (tên gọi của hoạt động tấn công lãnh thổ Bắc Việt bằng hải pháo).
    Tổng cộng trong thời gian hoạt động ngoài khơi Việt Nam, các khu trục hạm của Hải Quân Úc đã di chuyển 397,484 hải lý và bắn trên 100,000 viên đại bác.
    Bên cạnh hoạt động của các chiến hạm và Phi đội Trực Thăng Hải Quân Úc, không thể không nhắc tới hoạt động của các người nhái Úc trong toán CDT3 (Clearance Diving Team 3).
    CDT3 được đặc biệt thành lập để hoạt động tại Việt Nam, gồm những người nhái ưu tú tuyển chọn từ CDT1 và CDT2. Nhiệm vụ của CDT3 là kiểm soát tàu thuyền và dò tìm, khám phá, và phá hủy bom mìn của quân cộng sản, không chỉ chung quanh các chiến hạm và hải cảng mà còn cả trên sông ngòi. Chính nhiệm vụ nguy hiểm và khó khăn ấy đã khiến CDT3 được các đồng nghiệp Mỹ nể phục.

    III- Khả năng và Thành Tích

    Ngày ấy, vì toàn bộ trách nhiệm an ninh lãnh thổ tỉnh Bình Tuy được trao cho Lực lượng Đặc Nhiệm Úc, nên phía VNCH cũng không có nhiều người biết cách thức đánh giặc và tài thiện chiến của quân Úc. Hãy đọc một đoạn trong cuốn Vietnam của Sử gia Quân Đội Paul Ham viết về Tiểu đoàn 1, Trung đoàn Hoàng Gia Úc Đại Lợi (1RAR), khi còn nằm dưới sự điều động của Lữ đoàn 173 Nhảy Dù Hoa Kỳ:
    "Tiểu đoàn Úc được mô tả là lực lượng tác chiến an toàn nhất trong chiến tranh Việt Nam... Các chiến binh Úc đã cho thấy họ có khả năng truy lùng địch mà không trở thành mục tiêu của các cuộc phục kích đẫm máu đã khiến nhiều quân nhân Mỹ bỏ mạng..."
    "Các toán tuần tiểu của Úc không bao giờ sử dụng các con đường mòn hoặc băng ngang những nơi trống trải, mà họ cẩn thận, âm thầm lần từng bước qua từng bụi tre, hay cành lá rậm rạp... Không có gì bực mình cho bằng đi theo một toán tuần tiểu của Úc băng rừng. Nhiều khi mất 9 tiếng đồng hồ để tiến được một dậm. Họ di chuyển từng bước một, rồi dừng lại, rồi lắng nghe, rồi bước tiếp..."

    Cố ký giả Úc Neil Davis, người từng 10 năm làm phóng viên chiến trường ở Việt Nam và Cam-bốt, đã tuyên bố vào năm 1983:
    "Tôi vô cùng hãnh diện về quân Úc. Họ rất chuyên nghiệp, được huấn luyện rất kỹ lưỡng, và họ chỉ đánh nhau với những người mà họ được đưa tới để đánh: Việt Cộng. Họ cố gắng không để thường dân bị liên lụy, và thường có tỷ lệ thương vong thấp hơn phía Hoa Kỳ".
    Cựu Đại tá Mỹ, David Hackworth, quân nhân Hoa Kỳ được ân thưởng nhiều huy chương nhất trong chiến tranh Việt Nam (24 huy chương) do lòng dũng cảm, đồng thời cũng là một ký giả quân đội, đã nhận xét như sau:
    "Quân Úc chỉ sử dụng những toán nhỏ để tìm địch, sau khi tìm được mới gọi viện binh tới để thanh toán. Họ điều quân với sự tin tưởng: Chỉ cần một trung đội cũng đủ khả năng xoay sở khi đụng trận. "
    "Khả năng xoay sở khi đụng trận" ấy đã được chứngminh qua trận Long Tân - một chiến thắng để đời của quân Úc trướcmột lực lượng địch đông hơn gấp 10 lần.
    Trận đánh diễn ra trong hai ngày 18 và 19 tháng 8 năm 1966 gần làng Long Tân thuộc tỉnh Phước Tuy, giữa lực lượng Úc lúc ban đầu chì có 108 người và một lực lượng từ 1500 tới 2500 quân cộng sản của Trung đoàn 275 (Sư đoàn 5), Tiểu đoàn D445 Địa phương Cơ Động, với sự tăng cường của ít nhất một tiểu đoàn quân chính quy Bắc Việt.

    *****

    Vào thời gian này, Lực lượng Đặc Nhiệm Úc đại lợi mới tới đặt bản doanh ở Núi Đất được bốn tháng, công việc xây dựng căn cứ vẫn chưa hoàn tất.
    Bắt đầu vào lúc 2 giờ sáng ngày 17 tháng 8 năm 1966, quân cộng sản cho pháo kích như mưa vào căn cứ từ một vị trí cách đó hơn 2 cây số. Sau khi cộng quân ngưng pháo kích, qua ngày 18 tháng 8 năm 1966, Đại đội D của Tiểu đoàn 6 (6RAR) gồm 105 quân nhân Úc và 3 tiền sát viên pháo binh Tân Tây Lan được lệnh tiến quân tới đồn điền cao su Long Tân gần đó. Tới xế chiều thì Trung đội 11 đi đầu bị một lực lượng địch cấp tiểu đoàn bao vây, tấn công bằng súng máy, súng cối và vũ khí cá nhân. Chỉ trong vòng 20 phút, 1/3 quân số của trung đội đã bị tử thương, trong đó có Trung đội Trưởng. Hai trung đội còn lại là Trung đội 10 và Trung đội 12 tiếnlên tiếp cứu thì Trung đội 12 cũng bị l ục lượng áp đảo của địch bao vây, cô lập và tấn công, còn Trung đội 10 thì bị đánh bật trở lại.
    Trưóc tình thế tuyệt vọng ấy, quân Úc vẫn giữ vững tinh thần chiến đấu, bởi vì hơn ai hết, họ hiểu rằng nếu để địch tràn ngập (overun) thì sẽ không còn một mạng người nào.
    Một yếu tố không thể bỏ qua là sự yểm trợ với mức độ chính xác gần như tuyệt đối của các pháo đội Úc và Tân Tây Lan (tham chiến trong LLĐN). Nhờ đó, sau 3 giờ kịch chiến, đạn dược sắp cạn, chẳng những quân Úc không bị "overun" mà Trung đội 12 còn mở đường máu bắt tay với Trung đội 11, đưa các thương binh về vị trí của Ban chỉ huy Đại Đội.
    Cùng lúc đó, hai chiếc trực thăng UH-1 tiếp tế đạn của Phi đoàn 9 Trực Thăng (của Không quân Úc) tới nơi, rồi Đại đội A tới tăng cường. Sau khi Đại đội B tới nơi cùng với 7 thiết vận xa M-113 thì quân Úc hoàn toàn làm chủ tình hình, và trận đánh kết thúc với một trận mưa pháo trên đầu đoàn quân địch đang rút lui.
    Quân Úc không theo truy kích bởi vì mới chân ướt chân ráo tới đóng quân ở Núi Đất, họ chưa am tường địa thế cũng nhũ chưa biết nhiều về lực lượng địch.

    Về sau, phối hợp các nguồn tin tình báo, người ta được biết, ngày ấy lực lượng cộng sản tại Bình Tuy dự trù một cuộc đại tấn công nếu không xóa sổ được Lực lượng Đặc Nhiệm Úc thì cũng cho một trận "dằn mặt", không ngờ kết quả hoàn toàn trái ngược.
    Phía Úc có 18 quân nhân thiệt mạng, gồm 17 người của Đại đội D và một người của Chi đoàn Thiết vận xa M-113. Phía cộng sản bỏ xác tại trận 245 tên, chưa kể vô số bị thương hoặc tử thương được đồng bọn mang đi.
    Cho tới nay, tỷ lệ thương vong cách biệt nói trên vẫn được website của Bộ Quốc Phòng Úc hãnh diện ghi nhận là "chưa từng có trên thế giới"!
    Trước khi xảy ra trận Long Tân, tại tỉnh Phước Tuy lực lượng cộng sản luôn luôn nắm thế chủ động, nhưng từ đó về sau, cho tới khi quân Úc rút đi, phía cộng sản chỉ còn những hoạt động du kích lẻ tẻ.
    Về phần quân Úc, cho tới ngày ngưng mọi hoạt động tác chiến và bàn giao Căn cứ Núi Đất cho Quân đội VNCH vào ngày 16 tháng 10 năm 1971, đã tạo thêm nhiều chiến thắng oai hùng khác, tất cả đều với tỷ lệ thương vong (death ratio) 4:1 trở lên - nghĩa là một mạng lính Úc phải đổi được ít nhất 4 mạng Việt Cộng - nhưng vì chiến thắng Long Tân vừa là trận đụng độ quy mô đầu tiên, vừa tạo một kỷ lục khó tin tới mức huyền thoại, cho nên mỗi khi nhắc nhớ tới sự tham dự vào cuộc chiến Việt Nam, người Úc đều liên tưởng ngay tới hai chữ "Long Tân". Cũng vì thế, Chính phủ Úc đã quyết định lấy ngày 18 tháng 8, ngày kỷ niệm chiến thắng Long Tân (Long Tan Day) hàng năm làm Ngày Cựu Chiến Binh Úc tham chiến tại Việt Nam (Vietnam Veterans Day).

    *****

    Cùng với phong trào phản chiến ở Úc (do tổ chức thiên tả Vietnam Moratoriums sách động) mà đỉnh cao là các cuộc biểu tình, xuống đường của hàng trăm ngàn người trong hai năm 1970 và 1971, trước áp lực của cử tri và ngay trong nội bộ đảng Tự Do, ngày 18 tháng 8 năm 1971, Thủ tướng William McMahon đã quyết định cho bắt đầu rút quân Úc về nước. Ngày 19 tháng 12 năm 1971, Tiểu đoàn 4, Trung đoàn Hoàng Gia Úc Đại Lợi (4RAR) là đơn vị lục quân cuối cùng lên mẫu hạm HMAS Sydney hồi hương.
    Trong khi đó các cố vấn trong The Team vẫn tiếp tục ở lại Việt Nam để huấn luyện chiến thuật chống du kích cho phía VNCH và Quân đội quốc gia Khmer. Nhưng đúng một năm sau, khi Thủ tướng khét tiếng thân Cộng Gough Whitlam lên cầm quyền, "The Team" đã được lệnh chấm dứt hoạt động vào ngày 18 tháng 12 năm 1972 để lên đường về nước.
    Ngày 11 tháng 2 năm 1973, nước Úc chính thức tuyên bố chấm dứt hoàn toàn mọi can dự vào cuộc chiến Việt Nam. Thủ tướng Gough Whitlam chính thức công nhận chế độ Cộng sản Hà Nội (ông ta cũng là nhà lãnh đạo phương tây đầu tiên công nhận chế độ Cộng sản Bắc Kinh).
    Cho nên cũng là một điều dễ hiểu khi quân cộng sản Bắc Việt chuẩn bị chiếm Sài Gòn, các vận tải cơ C-130 Hercules của Không quân Úc tới Việt Nam với nhiệm vụ di tản các nhân viên sứ quán Úc và 130 người Việt gồm nhân viên sứ quán và thân nhân (như đã hứa trước), Gough Whitlam đã tàn nhẫn ra lệnh cho các phi công Úc không được cho một người Việt Nam nào bước lên phi cơ, với lý do "chính phủ Úc đã quyết định không nhận người tỵ nạn Việt Nam".
    Nhưng cái rủi của người này đôi khi lại là cái may cho người khác, mà trong trường hợp này, "người khác" ấy chính là các em cô nhi trong chương trình nhân đạo "Babylift" (Operation Babylift) do Không lực Hoa Kỳ và Không quân Úc thực hiện, những chỗ trống ấy đã giúp thêm khoảng 100 em được đưa ra khỏi Việt Nam trong những giờ phút hấp hối của Sài Gòn, nâng tổng số được sang Úc lên 281 em, trong đó em nhỏ tuổi nhất mói lọt lòng mẹ được 10 ngày.
    Những người may mắn kế tiếp là thuyền nhân Việt Nam. Nguyên vào năm 1975, Lãnh tụ đảng Tự Do kiêm Lãnh tụ Liên Minh Đối Lập Malcolm Fraser đã không tiếc lời chỉ trích quyết định tàn nhẫn của Thủ tướng Lao Động Gough Whitlam. Sau khi đánh bại Lao Động vào cuối năm 1975 và trở thành Thủ Tướng, ông Malcolm Fraser đã "chuộc lỗi" của người tiền nhiệm bằng cách mở rộng vòng tay đón nhận thuyền nhân Việt Nam. Kết quả, chỉ tính thời gian 4 năm cao điểm 1979 - 1982, đã có khoảng 100,000 thuyền nhân Việt Nam được Úc nhận với tư cách tỵ nạn.

    Nguyễn Hữu Thiện
    Melbourne, tháng 11/2012



    Tài liệu tham khảo:
    1- Military History of Australia during the Vietnam War, Wikipedia
    2- Vietnam - Australia's Longest War, Vietnam War Veterans Association of Australia
    3- The Royal Australian Air Force and the Vietnam War, Ministry of Defense (RAAF)
    4- Phi đội Trực Thăng Hải Quân Úc - một phi đội bị quên lãng. Lý Tưởng Úc Châu, Xuân 2000

    (nguồn LTUC Xuân Quý Tỵ 2013)

    Last edited by Chopper; 04-06-2017, 02:42 PM.


Hội Quán Phi Dũng ©
Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




website hit counter

Working...
X