Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Trận Ấp Bắc: Thực tế và huyền thoại

Collapse
X

Trận Ấp Bắc: Thực tế và huyền thoại

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Trận Ấp Bắc: Thực tế và huyền thoại


    TRẬN ẤP BẮC: THỰC TẾ và HUYỀN THOẠI


    Của Chuẩn tướng Lý Tòng Bá
    Nguyên Chỉ huy Trưởng Thiết Giáp
    Tư lệnh Sư Đoàn 23 và Sư Đoàn 25 Bộ Binh


    (Trích trong Chiến sử THÉP VÀ MÁU của Đại-tá Thiết-giáp HÀ MAI VIỆT)



    Trận Ấp Bắc được ghi vào quân sử trong cuộc chiến Việt Nam. Báo chí quốc-tế và kể cả sách báo Việt Cộng cũng nhắc nhiều về Ấp Bắc. Đó là một trong những trận đụng-độ quan trọng giữa Đại đội 7 M113 của Việt Nam Cộng Hòa và quân Việt Cộng tại Khu Chiến thuật Tiền Giang. Nói rõ hơn là tại Mật khu Đồng Tháp Mười thuộc miền Tây Nam Bộ của Việt Cộng, cách xa quận Cai Lậy, Mỹ Tho trên dưới chỉ 10 cây số về hướng Đông Bắc.

    Không giống như những lần trước, với những cuộc đụng độ cấp Trung đội hay Đại đội, lần này, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ Binh QLVNCH đã phải sử dụng cả một Trung đoàn, lần đầu mở ra cuộc hành quân “Trực Thăng Vận” với một Tiểu đoàn Bảo-An của Tiểu khu Mỹ Tho tăng cường mà Đại đội 7 M113 của Sư đoàn 7 làm nỗ lực chính để đối đầu với Việt Cộng.

    Và cũng là lần đầu tiên mở rộng chiến-tranh, Cộng quân đã bất ngờ tung vào trận Ấp Bắc một lực lượng đáng kể gồm có Tiểu đoàn 514 chủ lực Mỹ-Tho, Tiểu đoàn 263 chủ lực Miền, chưa kể những thành phần dân quân du kích khác. Lợi dụng địa thế hiểm yếu quen thuộc, Ấp Bắc không khác gì hơn là một cái làng bỏ trống nằm giữa khu đồng ruộng ngập nước quanh năm, chằng chịt kinh rạch và cũng là nơi mà Việt Công luôn có mặt kiểm soát với nhiều lần chạm trán trong cuộc chiến 1945-1955, một lần nữa tại Ấp Bắc, họ đã áp dụng lối đánh lén, phục kích, bắn sẻ để trì hoãn thế trận và gây thiệt hại cho các cánh quân VNCH bạn trong giai đoạn đầu, hầu có thể tập trung lực lượng về một vị trí chọn lựa với hầm hố của cái gọi là “Chiến thuật Công kiên chiến” đánh cầm cự để tùy nghi khai thác chiến quả nếu được, bằng không khi thấy thế yếu, họ lần lượt trốn chạy, rút nhanh theo kiểu họ thường gọi là “Chém Vè” trong đêm tối, rút lui mất dạng. Ý đồ và hoạch-định trận Ấp-Bắc khi ấy là vậy.

    Dù muốn hay không, Việt Cộng đã biết lợi dụng những kẽ hở của quân VNCH mà người chỉ huy phía ta không để ý hoặc không tiên liệu những biện-pháp thích-ứng…để bất ngờ khai thác tình hình theo nhu cầu “Tâm lý chiến và Chính trị” trong chủ trương một cuộc chiến tiêu hao lâu dài theo kiểu “Tằm ăn lá”, nhất là trong thời gian đó, Việt Cộng có nhu cầu phải gây lại uy tín và tinh thần cán binh đã mất trong vài tháng trước, khi Tiểu đoàn 502 Chủ Lực tỉnh Sa Đéc bị loại khỏi vòng chiến, tổn-thất hàng trăm quân tại ranh giới Mỹ-Tho–Sa Đéc trong trận đụng độ ác liệt với Đại đội 7 M113 vào ngày 18-2-1962. Trong trận đánh này, một nửa quân số của Tiểu-đoàn 502 bị loại khỏi vòng chiến ngay từ trong giây phút đầu của trận đánh, một nửa còn lại phải ngụp lặn trong các ruộng nước để tìm cách chém vè trong đêm tối. Thế nhưng số Việt Cộng định chém vè này đều bị bắt sống. Kiểm điểm tổn thất, Đại đội 7 M113 chỉ có 1 tử thương là Thượng sĩ Ninh, Trung đội Trưởng và 1 binh-sĩ khác tử thương. Tại sao sự tổn thất giữa hai bên chênh lệch như thế vậy? Nguyên nhân, chúng ta phải hiểu là các đơn vị Việt Cộng không biết được khả năng của loại xe M113 do hãng Chrysler của Mỹ chế tạo, nó hoàn toàn không giống loại xe được cho là những con cua lội nước, hay “Crabe” của quân Pháp cũng do Mỹ chế tạo, được sử-dụng trong Đệ Nhị Thế Chiến và được trang bị cho các chiến đoàn lội nước gọi là GA - viết tắt từ chữ “Groupement Amphibies” - mà có lần một đơn vị của nó bị chính Tiểu đoàn 502 nói trên của Việt Cộng đánh thiệt hại. Cũng tại vị trí mà hôm nay ngày 18-2-1962, Tiểu-đoàn 502 tổ chức cuộc phục kích theo kinh nghiệm gặt hái được để đánh Đại-đội 7 M113, nhưng kết quả lại khác đi.

    Từ những yếu tố không biết về khả năng với cơ động nói trên của M113, các đơn vị Việt Cộng đã dàn trận. Đúng như lời của một anh tù-binh kể lại, thì tình thế quả không giống như lần phục kích đoàn xe “Crabe” của quân Pháp. Những gì Việt Cộng điều nghiên, dàn thế trận, chuẩn-bị tinh thần cho cán binh lâm trận…đã không xảy ra như những gì họ hoạch định và mong đợi. Chẳng hạn như xe M113 không có lần nào bị súng trường bắn thủng như loại xe “Crabe” của Pháp, và cũng không một lần nào thấy bất cứ một xe M113 nào phải ngừng lại từng chập, để xa đội nhảy xuống ruộng gỡ rơm rạ, cọng lúa…kẹt trong bánh xích xe, làm xe không chạy được, để nhân cơ-hội Việt Cộng có thể chọn lựa vị trí phục kích và bất thần nổ súng tấn công.

    Khí-thế trận bùng ra, tôi (Lý-Tòng-Bá) đã ra lệnh cho các Trung đội khai hỏa, phóng thẳng ngay vào các ổ phục kích của Tiểu đoàn 502, đang dàn thành đội hình bán nguyệt ở giữa ruộng nước. Mũi tiến quân của Đại-đội 7 M113 như “diều gặp gió” xông vào không mấy chốc đã tràn ngập vị trí địch đang ngâm mình dưới nước, được đại liên và các trung liên BAR đặt ở giữa, trên các xuồng ba-lá bắn yểm-trợ. M113 đã tung hoành với những khả năng đa hiệu, bất ngờ ngoài dự liệu và sự hiểu biết của các cấp chỉ huy quân sự Việt Cộng, đã làm cho thế trận phục kích giăng bẫy của Việt Cộng tan vỡ thê thảm. Khi thanh toán chiến trường, không biết quân Việt Cộng đã bố trí ở đó lúc nào, nhưng trên mình của mỗi anh cán binh Việt Cộng còn sống sót bị bắt làm tù binh, mỗi anh ít lắm cũng phải đeo ba bốn con đỉa, loại đỉa trâu không nhỏ của đồng bằng sông Cửu Long, no tròn đầy máu, lớn bằng cỡ ngón tay cái, muốn dứt nó ra phải dùng điếu thuốc đang cháy chấm vào đầu nó, lúc các anh Việt Cộng được anh em binh sĩ kéo lên từ ruộng nước, đặt ngồi trên M113, đang ngơ ngẩn nhìn quanh quẩn như những kẻ mất hồn. Cũng là lần các anh Việt Cộng tham dự một trận đánh hoàn toàn không giống những gì cấp chỉ huy đã huấn thị và dạy trên sa bàn hành quân.

    Nhân viết lại những dòng này, chúng ta một lần nữa có thể nói, đây không phải là lần duy nhất chạm trán với QLVNCH, địch đã bị tổn thất nặng nề, không phải chỉ có một lần, chỉ có Đại đội 7 M113 đạt được, song thường ít khi giới truyền thông bạn triệt để khai thác mà chính Neil Sheehan, người phóng viên chiến trường đã viết quyển “The Bright Shining Lie” nói về Chiến tranh Việt Nam đã nhiều lần nghe nói đến. Có lần, anh theo xe M113 với tôi trong một vài cuộc hành quân tại Mỹ Tho. Nhưng những lần đó lại không đụng độ với Việt Cộng, vì thế, anh ta vẫn chưa chịu hiểu và chưa thấy sự thật và vẫn mang nặng tinh thần trái ngược khi đề-cập tới cuộc chiến đấu tự vệ của QLVNCH, mà thường chỉ tìm và chú trọng tới chiến thắng dù lớn hay nhỏ của Việt Cộng để phóng đại, cho nên mãi đến bây giờ dù Neil Sheehan, tôi coi là một người bạn quen thân, tôi cũng chẳng biết Sheehan có chủ trương hay mục đích gì… Một người chịu khó, khá thông minh, đỗ-đạt từ Harvard nổi tiếng, thích tự do mà chỉ viết những bài báo lập luận, phê bình ác ý và không chính xác nhắm vào QLVNCH, nhất là sau ngày 30-4-1975, anh ta đã xuất bản quyển “The Bright Shining Lie” với những biện luận bất công, nhắm vào QLVNCH, một quân lực bị bất ngờ ngã ngựa vì sự phản bội của đồng minh.

    Sau khi xuất bản quyển sách nói trên, có một lần Sheehan đã viết bài khá lịch sự liên quan đến tôi trên tờ “The New Yorker”, đó là bài “After The War Was Over” xuất-bản ngày 18-11-1991, và anh ta đã gửi tặng cho riêng tôi tờ báo đó. Phải chăng đây là lần cuối, Sheehan gián tiếp mong tôi bỏ qua những lỗi lầm, mà anh ta đã viết về tôi khi chỉ huy Đại-đội 7 M113 trong trận Ấp Bắc, với lập luận quá lỗi thời, vô căn cứ và lệch lạc, khi được vài cố vấn Mỹ thời đó kể lại câu chuyện, với dụng ý bào-chữa những khuyết điểm nông nổi của mình. Chúng ta phải hiểu, cũng vì trận Ấp Bắc mà trung-tá J.P. Vann, đã bị chính quyền Mỹ thời đó cho về hưu non.

    Sau gần 13 năm ở tù Cộng Sản ra, tôi gặp Neil Sheehan một lần tại Việt Nam. Đến Mỹ năm 1991, tôi gặp lại Neil Sheehan tại Las Vegas, khi hắn tham dự một “Convention” với sự có mặt của tướng C.Poowell. Đó là lần gặp mặt lâu nhất, trong đó tôi kể lại tình tiết và sự thật của trận Ấp Bắc ngày đó cho anh nghe, sau đêm cuối cùng Đại đội 7 M113 rời thị xả tỉnh Mỹ Tho, đến quận Cai-Lậy, xuất-phát theo đội hình hàng dọc (để giảm làm thiệt-hại lúa) hướng về mục tiêu. Đại-đội 7 M113 ít lắm cũng phải vượt qua hai con kinh ngang, trước khi vào vùng tiếp-giáp với mật-khu Ba Bèo của Việt Cộng, nằm dọc theo hai bờ kinh “Tổng đốc Lộc”, mà Ấp Bắc là một trong những vùng ven biên. Cùng lúc, tôi nhận lệnh từ Bộ Chỉ huy Hành Quân nhẹ của Tiểu khu Mỹ Tho đặt ở thị xã quận Cai Lậy, là phải nhanh chóng đưa Đại đội 7 M113 đến mục tiêu, vì nơi đó đã có trực thăng bị rơi trong cuộc đổ quân lần đầu, mà nguyên nhân có thể là lỗi vụng về kỹ-thuật của phi-công chớ chưa chắc là do đạn Việt-Cộng bắn. Đó là những chiếc H-21, hình thù như quả chuối già, quá cũ gần đến ngày phế-thải. Vì theo Trung-úy Chỉ huy toán quân nhảy đợt đầu xuống mục-tiêu Ấp Bắc cho tôi biết, là anh không nghe bất cứ một tiếng súng nào nổ lúc phi cơ trực thăng đáp xuống mà chỉ nghe vài tiếng súng nhỏ sau đó…

    Không lâu trước đó, cũng là đầu đề của Trận Ấp Bắc, với ăn thua do báo chí Mỹ phản-chiến bày ra, khi Đại đội 7 M113 phải đối diện với con kinh thiên nhiên, mà nông dân địa phương gọi là “Kinh Lạn” không bờ ác nghiệt. Lần đầu dưới mắt tôi, nó như một dòng nước chảy xuôi qua một bãi ruộng bằng phẳng, lởm chởm vài bụi cỏ với lá, rũ mình quặt què theo nước. Quả thật, nếu là một thi sĩ, con Kinh Lạn trước mặt sẽ là nguồn cảm hứng của muôn bài thơ… Nhưng ở đây, nó như là khúc xương khó nuốt của những con trâu sắt M113 mà tôi đang cỡi. Canh cánh với trách nhiệm, lo cho sự an nguy của phi hành-đoàn lâm nạn, mà tôi đã nhận lệnh phải nhanh chóng đến nơi tiếp cứu họ, tôi phân vân chưa biết xử trí ra sao? Có lần tôi đưa ra ý kiến lên ban cố vấn cũng như Bộ Chỉ huy Hành Quân là nên chỉ thị cho một cánh quân bạn - tôi biết ở gần đó - mở cuộc hành quân bộ đến nơi chiếc trực thăng bị rơi; dù chậm, nhưng chắc hơn là sử dụng Đại đội 7 M113. Lý do là không làm sao chúng tôi quyết định được thời gian vượt qua Kinh Lạn, để tiến tới mục tiêu phải mất bao nhiêu thời gian. Xa đội chúng tôi thay nhau từng bước mò mẫm dọc bờ kinh, nhưng chưa lần nào, trước một lần may mắn cuối cùng đã cho xe băng ngang được, vì lòng kinh toàn là bùn không đáy. Vì không hiểu và nhận ra yếu tố đặc biệt này, mà phía cố-vấn Mỹ đã hiểu lầm, cho tôi là thiếu tinh thần trách nhiệm, không hăng hái chiến đấu, đụng độ với địch quân. Đó là một nhận định phiến diện, cạn cợt với mặc-cảm kỳ-thị, không hiểu thực trạng của địa thế chiến trường. Lối suy nghĩ và nhận định ấu trỉ ấy, tôi không hề hay biết. Theo tôi, nó được xuất-phát từ cái lưỡi vô trách-nhiệm của anh Đại úy Cố-vấn J. Scanlon của Đại-đội 7 M113, chỉ vì anh quá sợ đối với một Trung-tá J.P. Vann, vị cố-vấn của Sư đoàn 7, quá hăng và quá nóng.

    Nghĩ lại, trong cảnh đầu tắt mặt tối của tôi và anh em các xa đội, ông Đại úy với cái tên J. Scanlon của chúng tôi, luôn ngồi trên xe với chiếc máy truyền tin, không nhúc nhích một bước, đã nói gì với Trung-tá J.P. Vann, cố-vấn Sư đoàn 7, đang bay trên đầu với chiếc L19. Sau khi Scanlon đưa ống nói cho tôi, lần đầu tiếp chuyện thẳng với Vann, tôi chỉ nghe được một câu hắc búa của J.P. Vann như sau:

    - Anh Bá! Nếu anh không cho xe qua kinh thì tôi sẽ nói Đại tướng Lê Văn Tỵ bỏ tù anh.

    Câu nói này tôi không bao giờ quên. Lúc vừa nghe, dù tức giận nhưng âm thầm tự nhủ, tại sao ông Vann này lại có thể thốt ra một câu như vậy, đối với một Đại đội 7 chưa lần có ai khiển trách trước khi tôi thẳng thắn trả lời:

    – Trung tá Vann! Tôi rất mong thấy ông đáp xuống đây để tận mắt nhìn thấy những khó khăn thực-tế và những gì mà tôi và anh em đang làm. Bằng không, vì lý do nào đó mà tôi phải đi ở tù, thì đó chẳng qua là danh dự của người lính.

    Khi đó, trong đầu tôi bỗng thấy thấp thoáng cái câu “Một ngày lính là chín ngày tù” của ai đó đặt ra, và bây giờ tôi thấy như rất đúng. Tôi nói lời chào cám ơn Trung tá Vann rồi cúp máy. Theo tôi đó là đầu dây mối nhợ của câu chuyện “Ăn thua tùy trận Ấp Bắc”.

    J.P. Vann, một sĩ quan cố vấn, nóng nảy quá độ, hăng say quá trớn, sợ bị quy trách nhiệm, “ăn thì OK, thua thì đổ thừa”, mà thực ra trong trận Ấp Bắc đâu có gì phải quan trọng hóa việc ăn thua, ngoài những trở ngại, những khó khăn chồng chất, chết chóc xẩy ra khi phải đánh nhau với kẻ thù dùng du kích chiến kiểu “nói láo, đánh lén, bắn sẻ, chém vè...” Ngày đó trong trận cuối cùng, Việt Cộng cũng đã bị Đại-đội 7 M113 quật ngã, đẩy lui, để lại 8 xác tại chỗ, kể cả một anh chỉ huy. Nếu không có ruộng vườn, cây-cối chằng chịt, chắc bọn Việt Cộng lần đó khó mà chạy thoát hết được.

    Không bao giờ tôi quên những khó khăn gian khổ, mà tôi và những anh em binh sĩ thuộc quyền, tưởng là không tài nào vượt qua được với nhiều lần các M113 thay nhau kẹt xích, kẹt bùn, loay hoay giữa ruộng. Có lần hơn cả hai ngày đêm, anh em các xa đội với các quần áo trận đang mặc, từ ướt rồi khô, rồi từ khô đến ướt. Cứ miệt mài thay nhau, liên tiếp móc kéo xe ra khỏi từng vùng bùn, khỏi vùng nguy-hiểm để tiến tới mục tiêu, để quay về căn cứ.

    Tại Ấp Bắc, cuối cùng Đại đội 7 M113 cũng vượt qua được con Kinh Lạn ác-nghiệt, để tiến đến mục tiêu Ấp Bắc khoảng xế trưa, lúc 1 giờ. Sau khi gặp được anh Trung úy Bộ-binh, Chỉ huy toán quân nhảy trực-thăng đầu-tiên xuống trận-địa, với một vài trực thăng bị rơi còn nằm đó, cho tôi biết sơ qua tình hình tại chỗ, tôi ra lệnh cho cố Chuẩn úy Nguyễn-Văn-Nho (anh là cây vợt vô-địch bóng bàn của binh-chủng Thiết Giáp) đưa Trung đội 1 áp sát vào Ấp Bắc để dọ dẫm. Trung đội Chỉ Huy và các Trung đội khác tiếp theo, theo hướng hàng dọc. Trước khi tôi ra lệnh mở rộng đội hình hàng ngang, quân Việt Cộng đã bất thần nổ súng cách Trung đội 1 chỉ khoảng 30 thước, mở đầu trận đánh Ấp Bắc, một trận lần đầu với “giằng co” vì những khó khăn được kể sau.

    Nhân cơ hội tôi cũng xin nói rõ một điều, là so với những trận đầu của đầu năm 1962, trong đó có trận Ấp Bắc, thì quân Việt Cộng còn dám nằm cách Đại đội 7 M113 trên dưới vài chục thước thì nổ súng. Nhưng sau đó, với những trận mà các đơn vị Việt Cộng bị Đại đội 7 M113 rút kinh nghiệm đánh nhiều lần tan tành, khoảng cuối năm 1962, qua đầu năm 1963, thì quân Việt Cộng không còn dám nổ súng ở khoảng cách quá gần kể trên, mà chúng phải mở rộng ra khoảng 70, rồi đến 100 thước. Trước khi chỉ dùng đại bác 75 ly không giật, không khác một loại súng dùng để “bắn sẻ” nhắm vào Đại đội 7 M113. Để rồi sau đó, bọn chúng không còn dám xuất hình, lộ diện khi thấy Đại đội 7 M113, chuẩn-bị đội-hình hàng ngang tiến vào mé làng, thì bất cứ một đơn vị nào của bọn chúng đều nhanh chóng rời vị-trí trốn chạy, dù những lần đó họ đã được trang bị loại đại bác 57 và 75 ly không giật chống chiến xa từ khoảng cuối năm 1963, trước khi bọn chúng được Trung Cộng cung cấp các loại B40, rồi hỏa tiễn AT3 chống chiến xa. Kể từ 1965 trở đi, lúc tôi không còn chỉ huy các đơn vị Thiết Giáp, để lãnh những nhiệm vụ khác và trước khi được thượng cấp giao quyền chỉ huy các Sư đoàn 23 năm 1972, và Sư đoàn 25 đầu năm 1975 cho đến hết tháng Tư đen.

    Trở lại Ấp Bắc, trong những giây phút khai hỏa đầu tiên của địch, Chuẩn úy Nguyễn Văn Nho của Trung đội 1, Thượng sĩ Nguyễn Văn Hào của xe Chỉ huy bị hy sinh, chưa kể một số xạ thủ đại liên 50 của các Trung đội khác vừa chết vừa bị thương. Tổng số thiệt hại của Đại đội 7 M113 từ phút đầu, cho đến tàn trận là 8 chết và 7 bị thương, số thiệt-hại này, phần lớn do các khẩu đại-liên thời đó không có trang-bị tấm lá chắn đỡ đạn. Sau trận Ấp Bắc, các loại lá chắn này mới được thực hiện, để che đạn phần nào cho các xạ thủ đại liên 50 của xe M113 khi lâm trận.

    Nhắc lại chuyện này, tôi vẫn phân vân thắc mắc, tại sao người ta chỉ chịu trang bị thêm phương tiện và vũ khí mới cho Quân đội VNCH, sau khi các đơn vị quân đội bị đối phương lấn áp. Do đó, mà các chiến sĩ và cán bộ chỉ huy dù tài giỏi, gan dạ nhưng thiếu phương-tiện chiến đấu thích hợp. Chỉ riêng một yếu tố là ở trận Ấp Bắc, nếu trên xe M113, các xạ thủ đại liên có những lá chắn đạn an toàn phần nào, thì số thương vong của chúng ta ở lúc ban đầu đâu đến nỗi phải gặp trở ngại. Đồng thời Đại đội 7 M113, có thể đã đưa Tiểu đoàn 514 chủ lực Việt Cộng tỉnh Mỹ Tho, tan tác đi theo Tiểu-đoàn 502 của tỉnh Sa-Đéc xuống âm-phủ là chắc chắn.

    Tôi nhớ rõ một lần trước trận Ấp Bắc, với kinh nghiệm đoán được ý đồ của Việt Cộng, là khi không còn cách nào khác để mở trận đánh mới với Đại đội 7 M113, thì họ chỉ còn dựa được vào ven làng, vào một thế đất được chọn lựa để có thể dễ dàng gây khó khăn cho Đại đội 7 M113, khi bất ngờ xuất hiện từ các hầm hố kiên cố được che khuất, nổ súng vào các xạ thủ đại liên 50 trên xe M113, chứ không dám nằm giữa đồng ruộng phục-kích, như lần Tiểu đoàn 502 của họ bị tiêu-diệt không sót một tên ở tỉnh Sa Đéc, cũng là nơi mà họ đã phục-kích gây thiệt-hại đáng kể cho một đơn vị lội nước (được trang-bị xe có tên là Crab) của quân Pháp, theo lời một tù binh VC kể lại.

    Tiên liệu điều như trên, tôi gửi lên cấp chỉ huy cũng như cố vấn Mỹ, một đề nghị khẩn-cấp và thiết-thực, việc trang bị lá chắn cho xạ thủ đại liên càng sớm càng tốt. Rất tiếc, đề nghị đó không được chấp-thuận. Tướng Stilwell của Phái bộ Viện trợ Mỹ đã trực tiếp trả lời cho Trung tá Nguyễn Văn Thiện, nguyên Chỉ huy Trưởng Binh chủng Thiết Giáp, bằng một câu mà tôi không bao giờ quên. Câu nói nguyên văn bằng tiếng Pháp của tướng Stilwell như sau:

    -Le meilleur moyen de défendre c’est tirer. (nghĩa là: “Muốn bảo vệ mình, người lính chỉ có bắn”.)

    Theo tôi, trên lý thuyết, học hỏi ở quân trường về chiến tranh quy ước, thì quá đúng hoặc trong phim xi-nê cao bồi hay tại Desert Strorm với sa mạc thì còn có lý. Chớ đối với chiến tranh du kích kiểu Việt Cộng, trên địa thế núi rừng, sông lạch Việt Nam, thì chưa chắc câu của tướng Stilwell là câu thần chú hộ mạng, mà trận Ấp Bắc là một thí dụ điển hình. Làm sao chúng thấy được bọn Việt Cộng nằm trong nước, dưới lá, dưới sình mà bắn trước để bảo vệ mình? Cho nên muốn đánh thắng chiến tranh du kích kiểu Việt Cộng, mà quân đội không đủ quân số, trù liệu đủ mọi phương tiện để đánh áp đảo cho mỗi lần đụng độ, thì về lâu dài làm sao thắng được đối phương?

    Nhắc lại, cả một chiến đoàn gọi là “GM100″ của quân Pháp, đã bỏ mạng trên đèo An Khê ở Pleiku, trong chiến tranh Việt Pháp trước đây, cũng đã ở trong tình huống trên. Tôi rất may đã sống sót trong trận Ấp Bắc. Từng tràng đạn địch, “tự nó thay nhau tránh né” khi bay qua đầu tôi, một điều kỳ lạ, mãi cho đến bây giờ tôi không …..


    Chuẩn tướng Lý Tòng Bá
    Last edited by chieutim; 02-06-2013, 04:48 PM.


Hội Quán Phi Dũng ©
Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




website hit counter

Working...
X