Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Tội Ác "Bên Thắng Cuộc"

Collapse
X

Tội Ác "Bên Thắng Cuộc"

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Tội Ác "Bên Thắng Cuộc"

    Đây là bài viết mới vừa xong của em, kính gởi đến Anh và nhờ Anh Post lên HộiQuánPhiDũng vì Em bị trở ngại không Post lên được HQPD cứ hiện lên Không Vào Được! Cám Ơn.
    Kính




    Tội Ác “Bên Thắng Cuộc”
    Trịnh Khải Hoàng




    Tội Ác Của Việt Cộng Đối Với Dân Tộc Và Đất Nước Việt Nam:
    Có phải chăng:
    . Lý tưởng cao đẹp của nhân loại là Thống Nhất trong Bình Đẳng
    . Mục đích thực tế của Quốc Gia Dân Tộc là Độc Lập trong Thịnh Vượng
    . Mơ ước bình thường của con người là Tự Do và Hạnh Phúc.
    Vậy mà: Từ dấu mốc 30 – 04 – 1975 ngày tang thương của toàn thể Người Miền Nam: Quân Dân Cán Chính bị kẹt lại trong nước, phải sống dưới quốc sách đô hộ của bọn “Bắc Bộ Phủ” cai trị với chủ trương đê tiện là trả thù và làm cho tất cả trở thành nghèo hèn, bần cùng ngang tầm cỡ hoặc thua kém người dân miền Bắc đã là nạn nhân của chúng từ cuộc “cách mạng mùa thu” năm 1945, rồi không thể chạy thoát sau năm 1954 và sau nữa là năm 1975…! Để nói về tội ác của Việt Cộng thì tiếng nói của loài người có lương tri công chính với nhân loại không đủ lời để kết tội, ai oán lẫn ghê sợ chúng và phải viết thì từ ngữ chỉ là phương tiện giới hạn làm sao có thể diễn tả tận cùng nỗi đau thương, thống khổ của những nạn nhân đã, còn đang mang thương tật may mắn sống sót và không thể dưới con số 10 triệu thân xác đồng bào Việt Nam đã trở thành lớp phân bón hữu cơ cho đất đai, biển đảo mà hiện nay chúng đem dâng, bán cho Trung Cộng với văn kiện ngoại giao được trân trọng ký thác như món hàng để trao đổi, hoán chuyển…!


    Đất nước Việt Nam không phải là của riêng bất cứ ai có quyền sở hữu chủ? Có được Quốc Gia như ngày nay là do biết bao nhiêu công sức của Tổ Tiên đã khai khẩn khó nhọc để định cư và mở mang, đấu tranh với thiên nhiên chướng nghịch để tồn tại và tiến hoá, chiến đấu với quân thù bằng thân xác, máu đỏ, xương trắng phơi trải trên khắp chiến trường và bằng tài trí phương lược là kết tinh của tư tưởng, tinh thần, học thuật, thể nghiệm triền miên không ngừng nghỉ từ thiên niên kỷ xa xưa kinh qua bao thế hệ đến ngày nay mới có được lãnh thổ, biển đảo như thế là Quốc Gia Việt Nam. Quốc Gia là của chung của Nòi Giống Việt, đất đai, biển đảo là tài sản chung của Quốc Dân và là Sinh Mệnh của Quốc Gia. Không một ai, dù ở tầng lớp nào có quyền dâng bán, chuyển nhượng hay chia cắt Đất Nước Việt cho ngoại bang. Tất cả mọi người Việt Nam đều phải có Nghĩa Vụ bảo vệ và nỗ lực thu hồi những phần lãnh thổ bị cường quyền xâm lăng chiếm đoạt, để trả lại sự toàn vẹn lãnh thổ, cương vực của Quốc Gia. Như vậy, hỏi Đảng Cộng Sản Việt Nam đã phát động “công cuộc đấu tranh” chém giết người có tinh thần yêu nước trong các đảng phái hoặc ngoài đảng phái, hoạt động chống Pháp ở giai đoạn từ trước tháng 8 – 1945 để cướp công kháng chiến và giành lấy quyền bính cai trị cho mãi đến năm 1954 chia đôi đất nước, con số nạn nhân bị giết hại không thể dưới vài trăm ngàn… để rồi hiện tại đem dâng, bán lãnh thổ, biển đảo cho Trung Cộng là thành quả đấu tranh của Đảng Cộng Sản Việt Nam?


    . Nạn Nhân Bị Trừ Khử, Giết Hại Trong Kế Sách Thống Nhất Tư Tưởng, Lãnh Đạo, Kiện Toàn Đảng Cộng Sản Bắc Việt Qua Vụ Án Nhân Văn Giai Phẩm Và Cuộc Cải Cách Ruộng Đất:

    Để kiện toàn Đảng Cộng Sản và thực hiện Xã Hội Chủ Nghĩa tất phải có con người thuần Xã Hội Chủ Nghĩa, và phải loại khử trừ những kẻ có tư tưởng tiểu tư sản, mầm mống bất mãn, “phản động” trong hàng ngũ đảng viên, không đảng viên có ảnh hưởng với số đông quần chúng… nên chúng phát động phong trào “Trăm Hoa Đua Nở” mục đích để “phát hiện” trừ khử và đày ải, giết hại những “con” nai tơ chưa hiểu được bản chất của “người cộng sản”… và tiếp theo là phát động 6 đợt “chiến dịch” Cải Cách Ruộng Đất từ năm 1949 cho đến năm 1956 theo khuôn mẫu Thổ Địa Cải Cách của Trung Cộng (1946-1949) tổ chức với tinh thần đấu tranh giai cấp triệt để với sự chỉ đạo và giám sát trực tiếp của cán bộ quan thầy Trung Cộng để “Đào Tận Gốc, Trốc Tận Rễ” những “trí phú địa hào” theo qui định là truy thu, chiếm đoạt tận cùng của cải và khử trừ giới có “của ăn, của để” có tương đối giá trị, uy tín với xã hội và người dân trong thôn làng, huyện hạt chí gần đến tận thị thành… Với ”Cuộc Cải Cách Ruộng Đất” cán bộ Việt Cộng đã chủ trì đấu tố, qui tội và biến người dân thất học, ít chữ, ngu tối, tham lợi, phản phúc, ngây thơ… trở thành đồng loã với chúng cùng nhuốm tay vào tội ác, vấy máu dân lành, giết chết khoảng 600 000 sinh mệnh dân Việt sau khi bức màn Đỏ phủ chụp và địa ngục Cộng Sản có thực trên thế gian tại miền Bắc Việt Nam! Sự việc quá lớn vì số nạn nhân quá nhiều…Việt Cộng bị những quốc gia tự do, dân chủ trên thế giới lên án, theo thống kê của người Pháp số nạn nhân bị giết khoảng 500 000, tài liệu của Học Giả Hoàng Văn Chí là 600 000 (hai thống kê có nhiều thuyết phục và có thể xem như tương đối khá chính xác theo sự khảo sát của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hoà thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Theo lời thuyết trình của năm 1976 của Cụ Đào Đăng Vỹ). Nhưng Việt Cộng chúng đưa ra con số thống kê chỉ giết có 173 000 nạn nhân mà thôi (sic) và đây là con số thống kê của Nhà Nước Việt Nam (VC) do “Bên Thua Cuộc“ “phe Ta” truy lục:

    Thống kê chính thức của nhà nước Việt Nam được đăng trong cuốn Lịch sử kinh tế Việt Nam (tập hai) cho biết là đã có 172.008 người bị quy vào thành phần địa chủ và phú nông (trong đó có 123.266 người bị quy sai, hơn 70%, tức là bị oan). Theo quan điểm của những người thực hiện cuộc cải cách ruộng đất, đây là những người bị xếp vào loại kẻ thù của nhân dân, bị "đào tận gốc, trốc tận rễ". Điều này đồng nghĩa với việc họ sẽ bị tịch thu tài sản để sung công (trước khi được trả lại trong chiến dịch sửa sai).

    Về thành phần của con số 172.008 nạn nhân này, bảng thống kê ghi như sau: Địa chủ cường hào gian ác: 26.453 người, trong đó 20.493 người bị oan (77,4%). Địa chủ thường: 82.777 người, trong đó 51.480 người bị oan (62%). Địa chủ kháng chiến: 586 người, trong đó 290 bị oan (49%). Phú nông: 62.192 người, trong đó 51.003 người bị oan (82%). Tổng cộng: 172.008 người, trong đó 123.266 người bị oan: 71,66%. Số lượng này chưa kể đến thân nhân, gia đình của những người bị quy sai, cũng bị cô lập và phân biệt đối xử.
    Để khích động và cổ võ cho chiến dịch giết người cướp của, diệt chủng dân Việt, tên Tố Hữu (thi nô hít liếm giường chiếu) đã làm thơ ca ngợi:

    Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ
    Cho ruộng đồng mau tốt, thuế mau xong
    Cho đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng
    Thờ Mao chủ tịch, thờ Stalin…bất diệt”
    (Trăm hoa đua nở trên đất Bắc)

    Với “thành quả” giết đồng bào Việt qua quốc sách Cải Cách Ruộng Đất, đảng CS đã thành công hữu thể hoá tài sản, ruộng đất vào tay đảng là kiểm soát được nhân dân bằng cách chiếm đoạt và kiểm soát hầu hết nguồn hết lương thực rồi phân phát ra như ban phát ân huệ, chận đứng được những cuộc nổi loạn chống lại chế độ quản trị áp chế, để cho Đảng Cộng Sản kiện toàn với vị thế thống lãnh vững chắc. Việt Cộng giết người, cướp của như thế để rồi hiện tại đem dâng, bán lãnh thổ, biển đảo cho Trung Cộng là phương thức thắng lợi tiến lên Xã Hội Chủ Nghĩa?


    . Việt Cộng Giết “Đồng Chí” Tập Kết Miền Nam Ra Bắc:

    Năm 1954, Hiệp Định Geneve chia đôi đất nước, 850 000 đồng bào miền Bắc yêu chuộng tự do di cư vào miền Nam sinh sống tạo dựng cuộc sống mới… Thống kê năm 1973 đã sinh sản, tăng trưởng đến số gần 3 triệu . Nhưng những người miền Nam là thế hệ thanh niên nam nữ theo Việt Cộng tập kết ra Bắc, số lớn được tàu hàng hải Poland (Ba Lan), Pháp, Liên Xô vận chuyển với Shipslist còn lưu trữ trong văn khố của Uỷ Hội Quốc Tế con số là 190 000 - 200 000 (có sai biệt do tắc trách và nhầm lẫn vì trở ngại trong điều hành chương trình) người xuống tàu ra Bắc, chưa tính số người tập kết ra Bắc bằng đường bộ khoảng từ 50 000 - 75 000, chỉ riêng tại thị trấn Cao Lãnh đã có hơn 10 000 “chiến binh” tập kết ra Bắc. Nhưng theo tài liệu thống kê của Nhà Nước Việt Nam là Sử liệu của Việt Nam Dân Chủ (VC) ghi nhận chỉ có 140.000 người di cư ra Bắc bằng phương tiện riêng, băng rừng Trường Sơn, hoặc đi trên các tàu của Ba Lan, Pháp, Liên Xô. Đa số những người tập kết ra Bắc là những cán bộ, binh sĩ kháng chiến của Việt Minh hoặc gia đình của họ. Sau 1975, theo Nguyễn Hộ thường khi tâm sự than vãn với người đồng chí thân cận trong hội “Kháng Chiến Nam Bộ”: “ Anh em lũ lượt kéo ra Bắc hơn 300 000 nhân mạng bị “nó” dập bờ, dập bụi… không có được cái lon sữa bò cắm nhang đưa tiễn, còn sống sót gặp mặt ngó tới, ngó lui… thấy con cá sống chỉ thân mình nói là con mắm, tai vách mạch rừng, nói dzậy mà không phải dzậy nghe mầy… mới giữ được mạng mà về Nam. Sau hơn 20 năm dắt díu bầy đàn thê tử đùm đề đếm tới đếm lui sàng xẩy trên thúng xuống nia võn vẹn còn được 75 000 …”! (câu chuyện nầy Dương Đình Thảo (chú Sáu) là Trưởng Ban Tư Tưởng Trung Ương Đảng, Võ Văn Kiệt (Sáu Dân) Thủ Tướng, Ca Lê Thuần Giám Đốc Văn Hoá-Thông Tin… nhóm “thành quỉ“ nầy khi Kiệt còn tại thế chưa đi “thăm Bác” thường ”hội hữu” tại tư gia của Hà Huy Giáp ở đường Duy Tân bàn hươu, tán vượn chè chén… bà Phượng vợ của Dương Đình Thảo đã ngao ngán, chán chê, bất mãn… trả lại thẻ đảng khiến cho Dương Đình Thảo sợ xanh mặt như tàu lá chuối hột!... thỉnh thoảng bà cứ nhắc nhở cảm hoài cùng bùi ngùi với Nguyễn Hộ …và “Sáu Dân” vẫn hiu hiu tự đắc cặp vai Ca Lê Thuần nhái lời nhạc của Phạm Duy mà ca rằng: “một ngày anh Sáu Dân nghé tai em Ca Lê Thuần mà bảo rằng vì đất nước, vì đồng bào, mình phải đổi mới, nghe lời anh đi em (sic)). Người dân miền Nam ra Bắc quá ngây thơ không thể biết được kế sách của Hồ Chí Minh và đám đồ tể cận thần dưới trướng của hắn thâm độc đến cỡ nào?! Để tránh phải khó khăn kinh tế nuôi ăn, phương tiện sinh sống khiếm khuyết, xã hội còn đang gặp nhiều khó khăn, phải để thành phần tập kết tiểu tư sản cộng sinh với dân chúng hậu phương, Đảng và Nhà nước sẽ phải đương đầu với nhiều khó khăn, bế tắc…sẽ gây nên ảnh hưởng tiêu cực và xáo trộn trong dân tình, bất mãn sẽ nẩy sinh dẫn đến sự nổi loạn của quần chúng làm hư hại kế hoạch tiến quân vượt Trường Sơn vào Nam chiến đấu. Nên chúng lên “phương án” thực hiện “kế sách” tiêu diệt “bọn Tiểu Tư Sản” (tạch tạch sè) vốn đã quen mùi thụ hưởng đời sống no đủ, sung túc, lè phè bởi điều kiện kinh tế trù phú ở miền Nam nên buổi sáng ngồi hàng quán nhâm nhi cà phê (café), hủ tíu, chè cháo, bánh bao, xíu mại… buổi chiều ngồi chồm hỗm nhậu nhẹt nước mắt quê hương (rượu đế Gò Đen, Bà Điểm) với món dưa cay là chim trời cá nước, gà vịt, ngan ngỗng, cu đồng, rắn rùa, cua đinh, cần đước… được vợ con khéo nấu nướng, ung dung hào sảng mời gọi bạn bè nhậu nhẹt cho đến mặt trời khuất bóng mà vẻ mặt đỏ gay chẳng thua kém chi vầng dương, ta nhậu, ta còn biết chi trên trời dưói đất có thằng nào là “bác”, đứa nào là “anh ba” với “đồng chí” đồng rận… tối đến đốt đèn măng-sông (manchon) tụ tập tài tử đàn kìm, đàn trích, ca vọng cổ hò xang xế xự, Dạ Cổ Hoài Lang, Trăng Thu Dạ Khúc, Đời Cô lựu, Lan Và Điệp, Phạm Công Cúc Hoa, Xàng Xê, Xuân Tình với Ngọn Cỏ Gió Đùa… trữ tình lãng mạn quắc cần câu… Bấy nhiêu là “cái” tội của “bọn tạch tạch sè” cần phải thủ tiêu! Nên chúng âm mưu, giàn “địa thế” đưa đám “tập kết miền Nam” vào trú đóng nơi rừng hoang vu, sơn lam chướng khí khắc nghiệt, doanh trại đơn sơ, phương tiện và điều kiện sinh sống cũng gần tương tự như trại tù “Cải Tạo” mà chúng đã nhốt Sĩ Quan, Cán, Chính Việt Nam Cộng Hoà từ năm 1975, thực phẩm thiếu thốn, bệnh tật không thuốc men lại còn bị chúng gian ác đầu độc bằng chất độc chiết xuất từ lá cây hang (rất độc, dân miền Nam không hề biết) pha trộn trong nguồn thực phẩm thức ăn, nước uống và sau cùng là xả súng giết hằng loạt trong đêm tối, rừng hoang… Không có ai, không còn ai hay biết để mà gióng lên tiếng nói tố cáo tội ác diệt chủng người tù tập kết miền Nam, thân xác của họ đã bón nên màu mỡ của vùng núi rừng hoang vu miền Việt Bắc…! Nhưng ta hãy xem một trường hợp điển hình VC giết tù “Tập Kết Miền Nam” như thế nào qua Tác Giả Vô Danh của Tập Thơ Vô Đề là chứng nhân của sự việc bọn đồ tể Bắc Bộ Phủ (Hồ Chí Minh và cận thần lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam) giam giữ và giết “đồng chí” Tập Kết Miền Nam:

    Anh Gặp Em
    Anh gặp em trong bốn bức rào dầy
    Má gầy, mắt trũng
    Phổi em lao, chân em phù thũng
    Gió lạnh từng cơn rú qua thung lũng
    Em ngồi run, ôm ngực còm nhom
    Y sĩ công an nhìn em, thôi nạt nộ om sòm
    Em ngồi lọt thỏm
    Giữa bọn người vàng bủng co ro
    Những tiếng ho
    Những cục đờm mầu
    Mớ tóc rối đầu em rủ xuống
    Mình em, teo nhỏ, lõa lồ…
    Em có gì đâu mà xấu hổ!
    Em là đau khổ hiện thân
    Ngấn lệ đêm qua còn dấu hoen nhòa
    Trên gò má tái
    Trong lòng anh bấy nay xám lại
    Nhìn em, lệ muốn chảy dài
    Anh nắm chặc bàn tay em hơi rút lại
    Em nhìn anh, mắt đen, tròn trẻ dại
    Nước da xanh mái thoáng ửng mầu.
    Trong quãng đời tù phiêu bạt bấy lâu
    Đau ốm một mình tội thân em quá!
    Chắc đã nhiều đêm em khóc như đêm qua
    Khóc mẹ, khóc nhà
    Khóc buổi rời miền Nam thơ ấu
    Chân trời hun hút nay đâu?
    Rồi đây, khi nằm dưới đất sâu
    Em sẽ hiểu một điều
    Là đời em ở trên mặt đất
    Đất nước đè em nặng chĩu hơn nhiều!
    Nghĩ những lúc thân mình bó trong manh chiếu
    Anh biết lòng em kinh hãi hơn ai!
    Khi gió bấc ào qua vách ải
    Những manh áo vải
    Tả tơi
    Vật vã
    Vào thịt da…
    Em có lạnh lắm không?
    Mưa gió mênh mông
    Thung lũng sũng nước bùn
    Bệnh xá mối đùn ẩm mốc
    Những khuôn mặt mặt xanh vàng gầy dộc
    Nhìn nhau, đờ đẫn không lời
    Nhát nhát em ho
    Từng miếng phổi tung rời
    Bọt sùi, đỏ thắm!
    Em chắc oán đời em nhiều lắm
    Oán con tầu tập kết Ba Lan
    Trên sóng năm nào
    Đảo chao
    Đưa em rời miền Nam chói nắng…
    Sớm qua ngồi, tay em anh nắm
    Muốn truyền cho nhau chút tình lửa ấm
    Mặc bao ngăn cấm đê hèn
    Sáng nay em không trống không kèn
    Giã từ cuộc sống
    Xác em rấp trên đồi cao gió lộng
    Hồn anh trống rỗng, tả tơi
    (Thơ Vô Đề, Khuyết Danh)

    Nếu độc giả chỉ xem qua bài thơ Anh Gặp Em trong “thưởng thức” thường thường… thì sẽ dễ “lướt” qua như kẻ vô tình, vô tâm không để ý đến những câu thơ ở đoạn kết từ:” Em chắc oán đời em nhiều lắm, Oán con tầu tập kết Ba lan…” tấc sẽ “Vỡ” ra và hồi ức, hình dung trở lại bối cảnh khoảng thời gian từ khi thi hành Hiệp Định Geneve 1954, lấy sông Bến Hải làm ranh giới chia đôi hai miền đất nước Nam-Bắc Việt Nam và khoảng thời gian, khung cảnh đoàn người miền Nam lũ lượt kéo nhau xuống tầu Ba Lan tập kết ra Bắc…để rồi từ sau đó đến khoảng thời gian đến 1956, bọn Bắc Bộ Phủ đã xuống tay giết chết số lớn người tập kết được gọi là: “bọn chao đảo, tạch tạch sè, bọn Nam Kỳ ngồi xổm”… chúng chỉ lưu giữ và xung một số người tập kết có nhiều tiêu chuẩn chọn lọc cho vào đội ngũ “dùng được” mà thôi! Với bài thơ Anh Gặp Em trong tập Thơ Vô Đề, tác giả Khuyết Danh mà Nguyễn Chí Thiện người tự nhận là tác giả đến Mỹ năm 1995 đã lên “sân khấu” tại George Mason University diễn thuyết về Thơ Hoa Địa Ngục đã đọc và dẫn giảng:” Tôi ấy mà… như bài Anh Gặp Em tôi đã làm… vì bấy giờ trong tù tôi gặp cô gái, nói quí vị đừng cười… cô ấy tới kỳ có tháng, mình đứng gần đấy rất hôi hám, vì trong tù làm gì có băng vệ sinh như bây giờ… còn về tên công an thì tôi sửa lại y sĩ công an nhìn em thôi nạt nộ om sòm, chứ trước là y sĩ công an thôi nhìn em nạt nộ om xòm… cho nó có chất người một tí…” (sic)! Tuyệt nhiên Nguyễn Chí Thiện không “đá động” gì đến: “Em chắc oán đời em nhiều lắm, Oán con tầu tập kết Ba Lan”…! Vì bởi thực chất Nguyễn Chí Thiện không có hiểu biết, am tường tính chất và nội dung của bài thơ Anh Gặp Em, Thiện không thực thấu đáo bối cảnh người Tập Kết Miền Nam ra Bắc ở giai đoạn 1954… lại nữa theo lý lịch do chính tự Nguyễn Chí Thiện “trình làng” sinh năm 1939 tại Hải Phòng. Vậy đến năm 1954 Thiện chỉ mới được tròn 15 tuổi, thì làm sao và làm gì, như thế nào… hắn có thể là chứng nhân, đã từng ở tù chung với cô gái Tập Kết từ miền Nam ra Bắc, rồi bị chết trong trại tù, xác vùi nông khoả lấp rấp trên đồi cao gió lộng giá rét của ngày mùa đông u buồn để “ hồn anh trống rỗng tả tơi”…! Sau năm 1975, với “chiến thắng” từ “giời” ban xuống, cả lũ “bộ đội chính qui” chính gốc “Bắc Kỳ” và đám “tập kết miền Nam” từ rừng sâu tràn vào thành phố phồn thịnh miền Nam, chúng trổ hết mánh mung, gian kế thâm độc tha hồ giết người miền Nam, thằng tay cướp tài sản, vợ con, thân nhân và cầm tù đày đọa “Nguỵ Quân - Nguỵ Quyền” trong rừng hoang nước độc… Bọn “hầu nhân” Việt Cộng có tiến hoá ở dạng thể người, nhưng bản chất tâm tánh hãy còn nhiều thói tật của loài hạ đẳng… Nay vượt ngàn xanh về thành, bén mùi vật chất xa hoa, văn minh miền Nam, đang dần cởi lớp “rắn đỏ” biến dạng tựa người, và có phần yên tâm vì đã triệt hạ xong “cá trong rọ”, chúng không còn sợ hãi, nên tên Nguyễn Hộ mưu sự thành lập hội hè đình đám, ” Hội Kháng Chiến Nam Bộ” rồi kiểm kê lại tất cả “cái” đám Tập Kết Miền Nam luôn cả số vợ chồng kết hôn ngoài Bắc, con cái, cháu chắc sinh sản …thì hỡi ơi…tổng số cũng không hơn 75 000 nhân mạng! Rồi lại thêm một lần nữa đến cuộc chiến biên giới Việt – Hoa “môi cắn răng”(tình đồng chí môi hở răng lạnh, Mao đã nói như thế) năm 1979, “Bắc Bộ Phủ” điều Trung Đoàn Gia Định (có tiếng là thiện chiến của miền Nam) từ Saigon ra chiến trường Việt Bắc, mượn tay Trung Cộng khử giùm “lực” có thể sẽ là mầm mống “đương cự” trong chia rẽ nội bộ lãnh đạo Bắc Nam. Hỡi những “con người” Việt Cộng sinh trưởng từ miền Nam, những bài báo ca ngợi chiến công giả dối, những huy chương và lễ lộc có nghĩa gì so với thực tế chiến trường, xác người “chiến binh” Trung Đoàn Gia Định vung vãi trên đồi núi Lão Sơn và khắp vùng chiến địa Việt Bắc… có cảm thấu đau thương không và cũng chỉ là “cách riêng” khi còn phân địa phương Nam- Bắc để phơi bày tội ác của bọn đồ tể “Bắc Bộ Phủ” mà thôi, chứ Đồng Bào tính chất thiêng liêng tối thượng mà Tổ Tiên Việt đã hằng ký thác trong Lịch Sử Việt bằng máu xương, mồ hôi, nước mắt…cho hậu duệ, con cháu đời đời phải Đoàn Kết, Xả Thân để tranh đấu với ngoại xâm, giữ yên bờ cõi làm bản địa để sống còn, tiếp nối và tiến hoá với danh hoàn… Dẫu biết là thế! Nhưng đã ai vô trí mà không đồng cảm đau thương, oán hận, với tình người, thế nước trong giai đoạn đen tối như “thời đại Hồ Chí Minh” ngự trị, thời đại của loài Quỉ Đỏ.

    Đạo lý xứ đồng lầy
    Là lừa thầy phản bạn

    Âm mưu thâm độc, gian ác giết người Tập Kết Miền Nam có cùng một chiến tuyến như thế là thành quả để rồi hiện tại đem đâng, bán lãnh thổ, biển đảo cho Trung Cộng là “tình đồng chí, nghĩa đồng bào” ư?!


    . Việt Cộng Giết Thương Binh Việt Cộng:

    Để tránh không phải chịu trách nhiệm và gánh nặng kinh tế để săn sóc, nuôi nấng đám thương binh tàn phế vô dụng, báo cô trong cuộc chiến sẽ gây ảnh hưởng xấu, tiêu cực, bi quan giao động tinh thần, rối loạn hàng ngũ cán binh vào Nam chiến đấu và làm cho xã hội suy yếu, xáo trộn hậu phương vì điều kiện chiến trường khắc nghiệt, thiếu thốn tất cả phương tiện, nhân sự y tế và tiếp liệu để cứu chữa cho thương binh… Nên Bắc Bộ Phủ đã ra tiêu lệnh cho cán binh phải “ban phát ân huệ” là xử tử tất cả thương binh tại chiến trường từ giai đoạn 1 ở những năm trước 1945 -1954 và giai đoạn 2 từ 1954 - 1975… Vì thế có rất ít thương binh VC trong suốt 21 năm cuộc chiến Quốc - Cộng. Theo thống kê Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam (VC) Số liệu chính thức về thuơng vong của phía Việt Cộng được chính thức công bố gần đây là:
    1,1 triệu quân nhân chết; trong số đó có 300.000 quân nhân vẫn mất tích (chưa tìm được xác), 600.000 quân nhân bị thương hoặc bị bệnh. Theo tư liệu giải mã của Chính Phủ Việt Nam (VC) 1995 cũng như sự xác nhận của các viên chức chính phủ từng tham gia vào cuộc chiến.

    Như thế, chúng ta có thể biết với “quốc sách” giết thương binh do bọn đồ tể “Bắc Bộ Phủ” chủ trương đã xử tử tại chiến trường hơn 300 000 thương binh được ghi nhận là mất tích, và chắc chắn con số thật phải nhiều lần hơn “báo cáo” vì gian dối như “vẹm” là bản chất bất biến với thời gian, lại nữa như trên chỉ là số liệu của Việt Cộng công bố thành văn bản “đàng hoàng”từ năm 1954 – 1975 mà thôi, chúng không công bố tổng số thương binh (bị chúng xử tử) ở giai đoạn từ trước 1945 – 1954, con số nầy chắc chắn không thể dưới trăm ngàn hoặc cho đến nhiều trăm ngàn nạn nhân và bí mật vẫn nằm im dưới lòng biển sâu hay vùng núi rừng hoang vu trùng điệp… nào ai biết, nào ai hay, người chết không biết nói, chỉ có oan hồn vật vờ phiêu dạt trong cõi vô minh mịt mù…!

    Nhà Văn Xuân Vũ tên thật là Bùi Quang Triết, tham gia kháng chiến chống Pháp từ khi 15 tuổi, tập kết ra Bắc. Sau năm 1968 trở về hồi chánh với đaị gia đình dân tộc VNCH, Xuân Vũ đã viết và xuất bản những tác phẩm: Vượt Trường Sơn, Đường Xương Trắng, Đường Đi Không Đến và những bài viết ngắn đã có đăng tải trên các báo… như hồi ký chứng nhân và một trong những tác phẩm văn chương của Ông đã có viết kể rõ ràng bọn Bắc Cộng đã dy lý (đưa đi) những thương binh đã may mắn thoát chết, còn sống sót là phục viên trở về được cư trú tại hậu phương, rồi lại bị bắt tập trung trong đêm tối, chúng chở họ bằng tầu thuỷ ra biển rồi giết chết bằng chày sắt tựa như cái búa, nhưng lưỡi buá là một khối kim loại tròn như quả trứng gà oval, chỉ cần đập vào đầu là vỡ sọ mà không bị xương sọ cứng giữ kẹt lại, xong vứt quẳng xác thương binh xuống biển! Thật kinh khiếp với sở đắc của những bộ óc thông minh quán quân của bọn đồ tể Bắc Bộ Phủ, chúng đã phát minh được một thứ vũ khí giết người hiệu quả không cần hao tốn đạn dược, tiết kiệm kinh phí quốc phòng. Trong suốt quảng thời gian từ 1945-1974 tên Đại Tướng Võ Nguyên Giáp được Hồ Chí Minh cất nhắc từng giữ các chức vụ: Ủy viên Bộ Chính Trị, Bí Thư Quân Uỷ Trung Ương, Phó Thủ Tướng kiêm Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng, Tổng Tư Lệnh Quân Đội Nhân Dân, còn được cán binh, “bộ đội cụ Hồ” ưu ái xưng tụng là “người anh cả Trường Sơn” (sic) tấc nhiên hắn biết rõ sự việc giết thương binh là những “người em Trường Sơn” thân thương “Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây”... Nhưng hắn đã làm gì để cứu những thương binh dưới trướng…?! Hắn trong ban chủ mưu là bọn đồ tể xử tử “đàn em”! Cả đời quân nghiệp của Giáp chỉ đánh thắng Pháp và thành danh với trận Điện Biên Phủ, mà những yếu tố thuận lợi hậu đãi cho hắn trong đó phải đề cập tới “thế thời phải thế” Nữ Thần Tự Do từ bên kia bờ Đại Tây Dương quơ đuốc để “dọn đường” cho con cháu Ông Tây mũi két De Gaulle phải cuốn gói ra khỏi Đông Dương. Từ sau đó, phải đương đầu với Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, Giáp bị bại binh triền miên… điển hình với hai trận Tổng Công Kích Tết Mậu Thân 1968, Giáp đã nướng hơn 120 000 cán binh Việt Cộng (thống kê của Quân Đội Nhân Dân), Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, Giáp đã nướng hơn 180 000 cán binh Việt Cộng (nguồn tài liệu của Quân Đội Nhân Dân) làm tiêu biểu…Sau những thất bại không thể biện minh, Giáp đã bị cho “về vườn” đuổi gà cho vợ, và đúng là số mệnh của Giáp gặp buổi thời suy, công danh lộn ngược; phú quí giật lùi, sau 1975 Giáp bị phe Lê Đức Thọ chơi đểu bèn “bổ nhậm” Võ Đại Tướng “lên” làm Bộ Trưởng Bộ Kế Hoạch (bộ cai đẻ, đặt vòng xoắn ngừa thai cho chị em phụ nữ), cả người dân miền Bắc cợt cười chế diễu, cũng có kẻ thương xót chỉ cười thầm mà thôi…!!! Nhà thơ Bút Tre đã có làm bài thơ châm biếm khôi hài đen:

    Ngày xưa đại tướng công đồn
    Ngày nay đại tướng bịt l… chị em.

    Và quả thật là “đau xót” cho thân phận của “đại tướng Giáp ta” cũng bởi vì Đảng và Nhà Nước ưu ái công thần “lỡ” bổ nhậm Đại Tướng làm “bịt lờ” chị em cả nước xong… cho đến ngày 26 tháng Chạp năm Canh Dần tức nhầm ngày Thứ Bẩy 29-01-2011 dương lịch, “Giáp ta” đã giã từ dương thế theo “bác”. Nội bộ Đảng còn nhiều “tang gia bối rối” im thin thít, dấu biệt không dám “khấp báo” và cứ bình im như vại, cứ tứ thời bát tiết lại đưa tin hết phái đoàn nầy tới viếng, hội đoàn kia đến thăm chúc Võ Đại Tướng bằng an vô sự và chỉ “lên hình” duy nhất một tấm ảnh chụp hình thể “Giáp ta” tiều tuỵ choắt lại như đứa bé lên năm, mặc “võ phục” Đại Tướng mầu cứt ngựa, trên giường trải dra trắng, có ống “chuyền khí” cắm vào mũi, mắt lạc thần, miệng há hốc ra như muốn ú ớ kêu cứu, tay cố với lên bắt chuồn chuồn… trông rất thảm hại cho một kiếp nhân sinh vốn đã tạo tác, gây nên nhiều tội ác, đã xua hằng triệu con người vào lò sát sinh làm mồi cho bom đạn được sản xuất từ Âu Mỹ…! “Cái” khó sử sự cho Đảng và Nhà Nước từ đầu năm 2011 cho đến hiện nay là làm sao để có thể làm Lễ Quốc Táng cho “Giáp ta” vì Võ Đại Tướng là công thần có Chức Quyền Quốc Gia là “bậc quốc công” và chức vụ sau cùng lại là Bộ Trưởng “Bộ Đặt Vòng Xoắn” mà cử hành Lễ Quốc Táng thì còn gì là Quốc Thể…?!!! Không lẽ giờ phải bổ nhậm cho hồn Võ Đại Tướng về đơn vị Hồ Gươm để hầu mấy cụ rùa đá đội bia tiến sĩ trong Văn Miếu, được hít ngửi chút hương thơm Văn Hoá, rồi cử hành Lễ Quốc Táng mới là mới đúng với Protocol, thể hiện một chút ít ảnh hưởng Văn Minh của “Bên Thua Cuộc” miền Nam sau gần 4 thập niên bị đô hộ bởi bọn “Bắc Bộ Phủ”…?!!! Đau thật !!!

    Chỉ có Việt Cộng mới làm được việc ác độc giết thương binh như thế là thành quả để ngày nay đem dâng, bán lãnh thổ, biển đảo cho Trung Cộng là “đỉnh cao trí tuệ” chăng ?


    . Việt Cộng Giết Hồi Chánh Viên:

    Nền Đệ Nhất Cộng Hoà, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã ký ban hành Chính Sách Chiêu Hồi là một trong những phương thức tạo sự đại đoàn kết dân tộc, và với chương trình Chiêu Hồi được thi hành triệt để, hướng thượng, nghiêm chỉnh, thể hiện sự nhân đạo, tôn trọng sinh mệnh và nhân phẩm của ngưòi dân của Chính Quyền Miền Nam, đã tạo được uy tín, lòng tin cẩn của những cán binh Việt Cộng, nên họ đã mạnh dạn trình diện trở về với hàng ngũ Người Quốc Gia, và nhận được sự giúp đỡ tận tình để cho người hồi chánh viên tạo dựng lại đời sống mới bình yên mưu cầu hạnh phúc tại hậu phương an cư, lạc nghiệp… trong thể chế tự do, dân chủ, cộng hoà như bao nhiêu toàn thể công dân miền Nam đang sinh sống an bình dưới sự bảo vệ của luật pháp hiện hành theo Hiến Pháp Quốc GiaViệt Cộng Hoà qui định, và trong vòng an ninh lãnh thổ, biển đảo được Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà chiến đấu bảo vệ. Tính từ năm 1963 đến 1973 chương trình Chiêu Hồi đã nhận được hơn 194.000 người hồi chánh, tương tự như chúng ta đã hoá giải được bấy nhiêu quân tay súng đối phương khỏi chiến trường. Để ghi lại dấu ấn thành công của Chương Trình Chiêu Hồi, ngày 18 – 2-1973 cơ quan Bưu Chính Việt Nam Cộng Hòa đã phát hành con tem Chiêu Hồi kỷ niệm Hồi Chánh Viên Thứ 200000… Sau 1975 Việt Cộng đã truy lùng gắt gao để bắt thành phần Hồi Chánh Viên rồi tập trung, đêm tối áp giải vào rừng thủ tiêu, chỉ có một số ít may mắn bị áp giải về Bắc nhốt chung với Sĩ Quan, Cán, Chính VNCH trong các trại tù được nguỵ trá với danh “Trại Học Tập Cải Tạo”, số tù Hồi Chánh nầy hiện còn sống sót chưa tới trăm người…!


    . Việt Cộng Giết Cán Bộ Đảng Phái Quốc Gia:

    Từ trước năm 1945 cho đến 1975, Việt Cộng đã tổ chức ám sát thủ tiêu trong bóng tối và sau năm 1975, với quyền bính trong tay khi chiếm trọn cả nuớc, chúng tha hồ tróc nã giết hại hầu hết tất cả những đảng viên hoạt động trong những đảng phái Quốc Gia như: Quốc Dân Đảng, Đại Việt Cách Mạng Đảng, Tân Đại Việt, Việt Nam Cách Mạng Dân Tộc Đảng, Đại Việt Duy Dân Đảng, Dân Xã Đảng,… đã từng chống lại chúng thời quá khứ, chỉ có những đảng viên may mắn chạy thoát ra khỏi nước, định cư tại nước ngoài mới tránh khỏi cuộc tàn sát trả thù và triệt tiêu mầm mống có thể phản phục trong mai hậu…! Không thể thống kê chính xác vì khiếm khuyết tài liệu và phần lớn những thành phần còn sống sót đã là may mắn nói chi đến có đủ phương tiện để truy tầm rồi tổng kết con số cán bộ Quốc Gia hoạt động đảng phái bị Việt Cộng tàn sát, thủ tiêu trong bóng tối… và chắc chắn không thể dưới vài trăm ngàn sinh mạng đã bị giết, vùi nông dưới lớp đất thành phân bón cho đám rợ hoang đua chen xanh mướt lá suốt chiều dài của đất nước…! Sau năm 1975, hai vị Dân Biểu của Quốc Hội Việt Nam Cộng Hoà là Ông Trần Văn Sơn (Trần Bình Nam), Trần Văn Thung (báo chí tại Saigon trước 1975 xếp 2 Ông vào loại có lập trường thiên Tả) đã qua được Mỹ tỵ nạn và đưọc Quốc Hội Mỹ mời điều trần, hai Ông đã trình bày chi tiết trước các quí vị Dân Biểu, Nghị Sĩ của lưỡng viện về sự việc Việt Cộng bắt tập trung cán bộ đảng pháp Quốc Gia và tàn sát tất cả, mỗi nơi mà hai Ông biết được, chúng giết vài chục ngàn người vứt xác trong rừng sâu, điển hình như tại Phú Yên, Qui Nhơn. Hy vọng trong tương lai chúng ta sẽ có được tương đối nhân sự, phương tiện, tài liệu, đối chiếu rồi sẽ tìm ra được số thống kê chính xác những nạn nhân đảng phái Quốc Gia bị bọn đồ tể “Bắc Bộ Phủ” hạ lệnh tàn sát.


    . Việt Cộng Giết Chức Sắc, Hàng Giáo Phẩm, Tín Đồ Và Huỷ Hoại Tôn Giáo:

    Tiến trình sinh sống của nhân loại phải trải qua hằng nhiều triệu năm tự thời hồng hoang, giống hầu nhân sống bầy đàn, trú ẩn trong hang động tránh thời tiết nóng bức, mưa gió bão bùng, giá rét lạnh lẽo… kinh qua cảnh ngộ và thời gian dài đăng đẳng… cho đến khi biết tạo dựng gia đình, tư hữu của cải, thành lập xã hội, quốc gia… biết tôn thờ Thần Linh hình tượng Người, bỏ dần bái vật, thực nghiệm hiện tượng, hiểu lý luật tắc thiên nhiên là đã tiến rất xa… cho đến khi có Tôn Giáo tất yếu nhân loại đã Văn Minh rất nhiều. Văn Hoá có trước Tôn Giáo, Văn Hoá đồng hành với dòng sinh mệnh con người, văn hoá có khác biệt, cần đãi lọc và học hỏi, cầu tiến để giúp cho con người sống hướng thượng trên tiến trình là người và làm Người. Nhưng văn hoá chưa phải là đích điểm để loài người hướng tới. Tôn Giáo vẫn là khát vọng tâm linh của nhân loại. Sự khác biệt giáo lý của những giáo phái trong “cái” Chung Tối Linh Thiêng, Thượng Đế, Trời, Allah, Thiên Chúa,…”Đạo khả Đạo phi thường Đạo, Danh khả Danh phi thường Danh”, Huyền chi hựu Huyền…đem cái bao la hằng chuyển vô thuỷ vô chung huyền diệu của vũ trụ … “nhốt” vào, định nghĩa là thói tật xấu, ngạo mạn, vô trí,… là phàm tính của con người! Những “thuật sĩ” lắm lời hoa ngôn chưa đạt tầng giác ngộ, đem đóng khung “cái” vô hạn vào kiến văn hữu hạn chật hẹp rồi khoa trương dẫn giảng Giáo Lý nên Tôn Giáo vẫn còn trong vòng tranh cãi, đối chất, đúng sai… làm hoang mang cho con người và vẫn còn “ở thế” chưa dung, chưa Chung được với nhau, mặc dù đa phần hướng thượng. Chỉ cần vô trí, ngu xuẩn đốt một quyển kinh Coran (Qur’an) có thể tạo dấy nên cuộc bạo loạn chết người, Allah nào muốn thế ?! Giáo chủ Muhamad đã kinh lịch và thấu triệt bản chất nhân sinh tính và xã hội tính, bản sắc dân Trung Đông còn đang du mục trên những đồi cát bạt ngàn… Nên để răn đe, ngăn ngừa tệ trạng, giữ trật tự trong khuôn phép… Ngài đã chế tác Giáo Luật khắt khe và giáo lý đồng hành giáo luật để điều hành xã hội, giữ cho đời sống an sinh… là nét Văn Minh Trung Đông đáng khen ngợi chứ không thể hiểu biết phiến diện rồi phê bình chê bai, đã phá hay vứt bỏ…! Nhưng dòng tiến hoá của con người đã tiến lên đã thay đổi, không thể giữ mãi những giáo luật đã cầm giữ thân phận con người trong ốc đảo bị tụt hậu, kém văn minh bằng mớ quan niệm cổ xưa đã có nhiều lạc hậu, phải đãi lọc để gìn giữ những tinh hoa làm hữu ích thăng hoa con người và loại bỏ những điều làm trì trệ, cản bước tiến của loài người trên tiến trình mưu cầu hạnh phúc của dân Trung Đông theo Hồi Giáo (Muslim). Tại Việt Nam những tín đồ Hồi Giáo là thiểu số so với đa số tín đồ của những tôn giáo lớn đang hiện hành. Nhưng nét son đặc biệt nhất của tín đồ Hồi Giáo Việt Nam là họ sinh sống và hành đạo rất hiền hoà… song cũng bị Việt Cộng bách hại trong thế cô… và tín đồ Hồi Giáo Việt Nam vẫn luôn nguyện cầu Đấng Allah giúp họ được sống bình an !

    Ở đâu, thời gian nào trên trái đất nầy, Tôn Giáo đích thực như ý nghĩa Tối Linh vẫn luôn là cần thiết cho con người, Tôn Giáo giúp hoàn thiện con người, những luật tắc của vạn pháp thế gian do vô minh nên lầm tưởng là hữu Ngã, thành trụ bất biến với thời gian, không gian là tự huyễn ảo như phù du và nền khoa học thực nghiệm ứng dụng không ngoài luật tắc, giải trình được chỉ phần nhỏ vật chất trong “kho tàng” vô tận của vũ trụ như bí mật muôn đời và khoa học đang tiệm tiến mà thôi… Con người vẫn luôn khao khát Tâm Linh và cô đơn nhỏ bé như hạt vi sinh trong “bể” bao la vũ trụ nầy…! Khoa học thật tân tiến với nhiều phát minh làm lợi ích cho con người rất nhiều phương diện , đã giúp cho đời sống chúng ta tiện dụng và thoãi mái hơn, nhờ khoa học chúng ta đã mở mang kiến thức, học thuật phong phú hơn…nhìn lại quá khứ chỉ mới trăm năm qua đã như là tiền sử. Nhưng cũng chính bởi những phát minh khoa học tân tiến, tiện dụng chưa hoàn thiện cũng đã gây xáo trộn, rối loạn môi sinh, những trật tự tuần hoàn của thiên nhiên bị đảo lộn và sai biệt tạo nên những hư hoại mà chính chúng ta và khoa học là thủ phạm năng nổ tiền tiến… loài ong đang biến mất dần trên hành tinh nầy. Khoa Học Gia Albert Einstein đã tiên liệu và báo động: ”Khi loài ong biến mất thì trái đất nầy đang trên đà huỷ diệt gần kề…”! Con người vẫn còn dọ dẫm trên tiến trình hiểu biết tương lai, vẫn cô đơn trên hành tinh nầy và sợ hãi trước sự Chết, phải xa rời thế gian là một khủng hoảng luôn ám ảnh trong trí não, chỉ tạm quên đi khi thân thể đang sinh hoạt với những nhu cầu tất bật của đời sống thường ngày… Đức Phật Thích Ca Muni với lời nhắc nhở cuối cùng: ”Các pháp hữu vi vô thường không bền vững…”, Chuá Jesu đã dạy bảo với Thánh John: ”Hãy để kẻ chết chôn người chết, còn ngươi hãy theo ta…”. Ôi… với trí óc phàm phu của chúng ta làm sao có thể với cao Triều Thiên mà luận bàn Thiên Tính của Chúa, Ngôi Lời của Đấng Tối Cao, nhưng chỉ dám thành khẩn, mạo muội nói đến chỉ phần cách riêng Nhân Tính thôi, lời dạy bảo trên đã kinh lịch rốt ráo cả tiến trình của Nhân Sinh và Vũ Trụ và theo Ta là đường sáng, đường sống không như kẻ thường nhân mãi lo toan tìm thủ đắc, tận hưởng vật chất, huân tập thói hư tật xấu chất chứa đầy tấm thân chỉ là sự vận hành của hữu cơ sẽ theo thời gian trở thành phế vật, và để chỉ Tâm con người Chúa đã “ban công án” với đám người hung nộ kết tội người đàn bà ngoại tình: ”Ai trong các người là người không có tội, hãy cầm đá và ném người đàn bà kia”? Với người đàn bà phạm tội ngoại tình: ”Ta không bắt tội bà đâu, hãy đi đi và đừng làm tội nữa” và Từ Bi thay: ”Xin Cha tha tội cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm…”! Vì thế, đã qua hơn 2000 năm Chúa vẫn Ngự trên trên bàn thờ của từng tâm hồn, từng gia đình con chiên thiện lành thờ phượng Chúa và theo Chúa là tối hậu của hành trình đến Nước Trời, cho dù cho 1000 năm hội thánh Roma Catholic quản chiên đã phát động cuộc Thập Tự Chinh (Cursed Crusade) đã gieo rắc tang thương từ Âu Châu đến Trung Á . Dòng sông Nil đã bồi Thiên Khí cho toàn thể vùng đất Trung Á Đông, một xóm làng nhỏ bé Nazareth thời bấy giờ chỉ vỏn vẹn không quá 50 nóc gia đơn sơ mộc mạc với một hài nhi Jesu đã làm nên một Thiên Triều vô tiền khoáng hậu trên trái đất và là kết tinh của hơn 2000 năm Văn Minh Tây Phương.

    Đức Huỳnh Phú Sổ với trách nhiệm và bổn phận công dân, không quên cội nguồn đã dõng dạc tuyên ngôn trong giáo điều: “Ơn Tổ Quốc, Ơn Đồng Bào”… Thật là khuôn vàng, thước ngọc cho một Giáo Chủ lịch lãm với Tâm vẫn còn cưu mang Dân Tộc - Đất Nước “Tâm chưa vô Ngã vì còn nặng tình với Nước Non”. Làng Hoà Hảo miền tây Nam Việt nơi triền lưu chảy ra biển của dòng sông Cửu Long chảy ra biển Thái Bình Dương với thế Địa Lý bắt nguồn từ băng tuyết hằng triệu thiên niên kỷ tích tụ trên đỉnh vân sơn Hymalaya , đã đón nhận “dòng” chuyển vân phong từ đại đương bao la thổi qua rặng tuyết sơn xoáy trôn ốc trên chóp đỉnh, rồi theo tính chất vật lý giảm cường lưu vận hành đến 7 vòng theo áp xuất hạ xuống chân núi, đã mang theo năng lượng Khí phân bố cho những dòng băng tuyết tan chảy mà thành những dòng sông lớn chảy về đại dương, Thế Địa Lý: Sơn chỉ, Thuỷ giao, Tàng phong, Huyệt tụ, Địa Linh Sinh Nhân Kiệt: Tú Khí của Dòng Cửu Long đã sản sinh cho Việt Nam biết bao Tuấn Kiệt, Anh Thư… Nhưng gặp thời hôn ám phải thiện tàng để lưu giữ tấm thân cho sự nghiệp nước nhà khi mai hậu, Ngài Huỳnh Phú Sổ nhận thấy Dân Tộc Việt như con thơ trong nhà cháy, do dự là Trí mà không Bi và sao được là Hùng? Phải mau mau cứu lấy nòi giống Việt và đã chiêu hoạ tấm thân, lũ sài lang quỉ đỏ đã lên “phương án” và bọn thủ hạ của Trần Văn Giàu đã hạ sát Ngài!

    Dòng sông Hằng nơi xuất thế của Bậc Siêu Nhân Đức Phật Gotama dòng Sakya đã chứng đắc Đạo, Quả Niết bàn (Nibbana) thấu triệt toàn thể vạn pháp thô và vi tế cấu bởi Nhân và Duyên và tính chất của các pháp là Vô Ngã, Vô Thường, Khổ Não, nên Pháp Thiền Quán (Vipassana) Tứ Niệm Xứ là cốt tuỷ, quán niệm các pháp qua ba tính chất Vô Ngã, Vô Thường, Khổ Não là Chánh Niệm bước đi ngàn dậm cũng phải kham nhẫn, tinh tấn khởi hành từ bước chân đầu tiên. Tôn Giáo là khẩn khoản, điểm tựa nương, mong chờ cứu giúp cuối đời. Sinh tử quan, vũ trụ quan chỉ là nhận định của kiến thức cũng chỉ là “sản phẩm” của hệ ngũ quan trong thân vật lý, phần tâm lý, hồn, linh hồn, … sẽ ra sao, đi đâu, về đâu theo lý giải của từng Tôn Giáo. Loài người vẫn thật cô đơn lẻ loi trong hành tinh nầy với hư vô lồng lộng! Ở đâu, thời điểm nào, Tôn Giáo vẫn luôn là cần thiết cho người. Dân Việt chúng ta là một Dân Tộc với bản chất đã có Chân nên dễ đón nhận điều Thật, có Thiện nên dễ đón nhận điều Lành, có Mỹ nên dễ đón nhận điều tốt Đẹp và luôn khao khát mở mang trí tuệ, nên sự khai trí và giáo dục luôn được xem trọng, vượt qua khỏi thân phận, giai tầng trong xã hội… nên người ham học, học giỏi luôn được cộng đồng thương mến quí trọng… và cũng bởi những yếu tố cầu tiến ham học hỏi, hướng thượng nên dân Việt đón nhận Tôn Giáo từ những quốc gia xa lạ một cách dễ dàng, hoà đồng và tín thành: Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, Khổng Giáo, Hồi Giáo,… và cắt tỉa bó hoa, thêm điều cần yếu, dung hợp, cộng hưởng phong tục, tập quán, dân tình, dân tính địa phương,… như Đức Huỳnh Giáo Chủ (Huỳnh Phú Sổ) đã khai sáng Đạo Hoà Hảo, Ngài Hộ Pháp Phạm Công Tắc đã khai sáng Đạo Cao Đài, và cho dù Dân Việt có chọn và theo những Đạo Giáo khác nhau, song Thờ Tổ Tiên vẫn là nền tảng trong tinh thần người Việt đã có trước tự bao đời… Tất cả Tốt Đẹp như thế đã “đối nghịch” với tà thuyết Cộng Sản, chúng qui tội: ”Tôn Giáo là thuốc phiện” (thuốc độc vì nghiện) phải triệt hạ và đám đồ tể Bắc Bộ Phủ đã phát động cuộc chém giết giáo dân, tín đồ là Dân Việt có tinh thần phản kháng và không cùng hệ Cộng sản với chúng, cuộc chém giết chức sắc, tín đồ Cao Đài, Hoà Hảo kéo dài từ trước năm 1945-1954 thật là kinh hoàng nhất trong “Lịch Sử Giết Người Giáo Phái Nam Bộ” do tên hung thần khát máu Trần Văn Giàu chỉ huy từ Qui Nhơn, Tây Ninh, Trãng Bàng, Củ Chi, Hốc Môn, Bà Điểm, Long An, Mỹ Tho, Bến Tre, Thục Chiêu, Tháp Mười, Rạch Sõi, Ba Chúc, Cần Thơ, Vĩnh Long, Sa Đéc, Châu Đốc, Long Xuyên, Cà Mau,… nhất là ở trại giam Rạch Sõi, đích thân Trần Văn Giàu giám sát trực tiếp thủ hạ bắt nhốt tín đồ Hoà Hảo, giết xong đem xác chết ra thả trôi ngoài biển cả…! Con số nạn nhân chắc chắn phải là trên hàng trăm ngàn. Nhưng rất tiếc chúng ta chưa có tài liệu thống kê chính xác nên không nêu lên con số…! Trước đây Ông Nguyễn Văn Trung khi sang Pháp định cư đã có mang theo được tập hồi ký của Trần Văn Giàu do chính Giàu gởi gấm với sự yêu cầu cẩn trọng là hãy chờ đến sau khi hắn chết mới được xuất bản và phát hành, Trần Văn Trung đem sang Mỹ đưa cho Đỗ Ngọc Yến và Yến ký check số tiền 10, 000 $dollars trả cho Ông Trung. Sau thời gian Trần Văn Giàu chết, quyển Hồi Ký Trần Văn Giàu vẫn không xuất bản! Bà Hoàng Dược Thảo biết rõ sự việc và đã lên tiếng trên báo Sàigònnhỏ, theo lời tiết lộ của Ông Trung trong quyển hồi ký nầy có ghi chép rất nhiều những biến cố và những sự việc bí ẩn cả quá trình “làm việc” của Trần Văn Giàu ở miền Nam… Nếu quyển hồi ký không bị Đỗ Ngọc Yến chuyển lại cho Việt Cộng, bán cho những nhân sự của những cơ quan “Bóng Đêm”, hoặc “thủ tiêu”… Chúng ta đã biết được ít nhiều sự việc giết hại tín đồ Tôn Giáo đã xảy ra suốt thời gian từ trước 1945 cho đến khi hắn viết Hồi Ký, cho dù tên Giàu sẽ cố tránh né hay biện minh tội ác của chính bản thân trong vụ việc…!

    Trong Phật Giáo Việt Nam: Cả ngàn ông “thầy Chùa” mới có được một Tu Sĩ, ngàn Tu Sĩ mới có được một Vị Sư, ngàn Vị Sư mới có được một Vị hành pháp Thiền dù là Thiền Định hay Thiền Quán và ngàn Vị Thiền Sư mới có được một Vị hành đúng Chánh Pháp… Nên Thiền Sư trong cõi thế gian hiện tại nầy quí như Sao Bắc Đẩu chỉ đường trong đêm tăm tối, hạt Ngọc Trí Tuệ thành quả của Pháp Hành, là Phật trong đời sống thế gian làm lợi ích biết bao cho hàng Phật tử. Vậy mà hiện tại qua những tin tức thời sự từ những phương tiện truyền thông báo chí và sở mục chứng thật riêng tư cá nhân… chúng ta ít nhiều đã biết từ trong nước đến hải ngoại: Việt Cộng đã tung gài cán bộ tình báo, công an đội lốt tu sĩ hoạt động tôn giáo vận vào cơ sở chùa chiền, nhà thờ, đình miếu… lung lạc, thao túng làm biến chất hàng giáo phẩm, tu sĩ, chức sắc… đang là tệ nạn “pháp nạn” thực sự làm nghi kỵ, huỷ hoại lòng tin của tín đồ hiền lương hướng tâm vào Tôn Giáo để tu sửa gội rửa thân, tâm hoàn thiện con người và tin tưởng rằng sẽ được hưởng phúc lạc ở thế giới tốt đẹp theo cách riêng của từng vị Giáo Chủ giảng dạy khi còn tại thế, được lưu giữ trong Thánh Kinh, Tam Tạng Kinh, Kinh Coran, … Đối với Thiên Chúa Giáo có hệ thống hàng giáo phẩm kỷ cương và giáo dân có niềm tin, đức tin vững chắc hướng tâm về Chúa là tối thượng nên tương đối Việt Cộng chưa thâm nhập được nhiều cho dù chúng cố dùng thế cường quyền áp đặt những “chủ chăn” thuần hoá để kềm kẹp, thao túng lèo lái hội thánh theo “lề phải” như chúng mong muốn và kết quả không nhiều, tầng lớp quảng đại giáo dân không ưu, bất cộng tác với tà quyền… Những họ đạo “ngoan cố, cứng cổ” như Tân Sa Châu (Nhà Thờ Tân Sa Châu), Chí Linh, Vinh Sơn,… vùng Tân Sơn Hoà cũ, Việt Cộng bí mật cho công an chiến đấu với vũ khí tân tiến, hiệu quả có tầm sát thương cao, bố trí gia cư sinh sống chung quanh khu vực nhà thờ và cài răng lược trong họ đạo, chúng luôn cảnh giác và sẵn sàng trấn áp nếu giáo dân nổi dậy chống lại chúng. Thế cô phải đành âm thầm nhẫn nhịn chịu đựng đấy thôi. Khi thời thay thế đổi “Ngày Phán Xét” sẽ đến… tất cả thành nguyên tử. Chờ xem.


    . Việt Cộng Giết Viên Chức Xã Ấp Việt Nam Cộng Hoà:

    Cán bộ viên chức xã ấp là những nhân sự dân sự do dân chúng trong ấp, trong xã bầu lên để phụ giúp điều hành công việc hành chánh cho dân cư trong thôn làng, họ không phải là thành phần chủ lực cầm súng chiến đấu nơi chiến trường. Nhưng cũng bởi tính cách am tường từng gia thế, sinh hoạt, nghề nghiệp, cư trú, nhân sự của từng gia đình trong phạm vi trách nhiệm, họ dễ phát giác những nhân sự và sinh hoạt bất thường của người dân có thân nhân là Việt Cộng trong thôn làng và trình báo với giới an ninh để loại trừ. Nên VC rất căm thù thành phần Viên Chức Xã Ấp, sau năm 1975 khi “cá đã nằm trong thớt” chúng tha hồ bắt và thủ tiêu hầu hết thành phần Viên Chức Xã Ấp VNCH… Con số nạn nhân không thể dưới 300 000 cho 44 tỉnh thành ở miền Nam! Chúng ta chưa có tài liệu thống kê chính xác, nên tạm chưa nêu lên con số. Nhưng thân nhân của những nạn nhân bị giết vẫn còn đó, chúng ta sẽ biết được trong mai hậu.


    . Việt Cộng Giết Sĩ Quan, Binh Sĩ, Cán, Chính Trong Trại Tù Được Nguỵ Trá Với Danh Hiệu“Trại Học Tập Cải Tạo”:
    . Chương “HO”:

    Từ sau năm 1975, người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản đã có mặt rồi định cư trên những quốc gia Tự Do-Dân Chủ, thành hình Cộng Đồng Ngưòi Việt Hải Ngoại trong vòng tay Nhân Đạo của dân chúng hào sản, giàu tình nhân ái bản xứ…! Sinh mệnh mới hồi sinh và đồng hành với sự phát triển ở nhiều mặt là một Nền Văn Hoá Việt Tỵ Nạn cũng thành hình trong đó sự đóng góp tài trí, công sức của những cây viết tiếng Việt và từ đây đã Nền Báo Chí Việt Ngữ đã thành hình rồi vững mạnh… nét đặc thù của dòng Văn Chương Hải Ngoại là Chống Cộng Sản (Việt Cộng là chính yếu), những ai đi nghịch chiều với lẽ Phải như thế, biện minh, bênh vực, đồng loã với Việt Cộng sẽ bị đa số đồng bào biểu đồng tình lên án, tố cáo trên công luận và xa lánh, và vô hình chung Lịch Sử Ngàn Người Viết đã được những cây viết chuyên nghiệp lẫn không chuyên nghiệp đã nở rộ với nét đặc biệt là: Người thật, việc thật, chuyện thật, văn chương thật, ít có điều hư cấu vì với số lượng Người Việt Hải Ngoại là Quân-Dân-Cán-Chính của thời qua có trình độ học vấn và trí thức sẽ truy tìm trong vô lượng khối tài liệu sống thực và ghi chép trong văn bản của sách vở, Net, … rất nhiều… chứng thật để đối chiếu và đối chất trên diễn đàn công luận. Số đông Sĩ Quan, Cán Bộ, Công Chức Chính Phủ đã bị Việt Cộng giam tù nguỵ trang với danh hiệu “Trại Học Tập Cải Tạo” gọi chung là “Dân HO” là nạn nhân trực tiếp gánh chịu nhiều đau khổ, bi thương nhất (khó có thể nói, viết làm sao cho đầy đủ, cho tận cùng…) và trên Văn Đàn Người Việt Hải Ngoại cũng như Lịch Sử Ngàn Người Viết… Họ đã viết với máu và nước mắt của thận phận chính mình và bạn đồng tù, viết với hồn thiêng đã vướng vít như còn đâu đây nhắc nhở hãy lên tiếng cho nhân loại thức tỉnh hiểm họa Cộng Sản đồng nghĩa với quỉ dữ và địa ngục có thật trên trần gian và cái chết của họ là minh chứng. Viết là trần tình, giải bày, ghi lại dấu ấn của bao nhiêu ân tình Huynh Đệ Chi Binh chở che, đùm bọc với nhau trong cơn hoạn nạn và ngạo nghễ thay hãy viết kể lại, truyền lại những Thiên Anh Hùng Ca của toàn thể Quân Dân miền Nam đã Chiến Đấu và Chiến Thắng Oanh Liệt với Bắc Quân trên khắp mặt trận để Bảo Quốc-An Dân trong suốt quảng thời gian từ 1954-1975. Người viết (tôi) Trân Trọng để dành phần Tố Cáo Tội Ác của Việt Cộng đã giết hại Quí Vị trong Chương “HO” cho Quí Chiến Hữu với sự Thành Kính. Con số thống kê của Mỹ: VC đã giết hơn 220 000 “Tù Cải Tạo”. Theo tôi con số sẽ nhiều hơn, trong đó có bạn thân của tôi là Th/U Lâm Hal Sĩ Quan Không Quân là tuyển thủ của Võ Đường Thần Phong, bị VC bắn chết trong trại tù Sóc Trăng, không thấy có tên trong danh sách Sĩ Quan VNCH bị giết là một điển hình.


    . Lời Kết:
    “Lời quê không nói dông dài”:
    Với “Bên Thắng Cuộc” hãy nói thật đi! Trong chiến tranh, đánh nhau với Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà có thắng, có thua. Nhưng thực tế “Bên Thắng Cuộc” đã dốc hết toàn chủ lực quân tung vào chiến trường tấn công hầu hết trên khắp diện địa miền Nam chúng tôi, điển hình như “Trận Tổng Công Kích Mậu Thân, 1968) và “Mùa Hè Đỏ Lửa” kết quả như thế nào? “Bên Thắng Cuộc” đã bị Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà phản công tiêu diệt gần hết số quân trong trận chiến…! Thống kê của “Người Mỹ” đã đưa lên con số 3000 000 (ba triệu) người Việt đã bị giết trong cuộc chiến, thống kê của Nhà Nước Việt Nam (VC) hơn 1100 000 quân dân Bắc Việt hy sinh và còn nữa (Quí Độc Giã có thể lên Net để xem thống kê) …! Con số thật nạn nhân bị Việt bị bom đạn được sản xuất tận các quốc gia Văn Minh Âu, Mỹ, Liên Xô, Tàu Cộng ,…phải nhiều lần hơn thế! Thế giới đã đồng loã với tội ác của “Bên Thắng Cuộc” vì nếu nói thật, viết thật, công bố thật số nạn nhân Việt Nam trong cuộc chiến Quốc Cộng chẳng khác nào như gián tiếp tố cáo “Tính Nhân Đạo,Trí Thức, Lương Tâm”… của “người” văn minh Tây Phương trước sự diệt chủng của Việt Cộng dẫu sao cũng đã mang đến lợi nhuận cho “họ” rất nhiều… và từ khi tiếng súng của quân Pháp bắn phá Đà Nẵng mở đầu cho nền đô hộ thực dân non một thế kỷ, dân Việt đã bị chết trong chiến tranh, loạn lạc, dưới họng súng của giống dân da trắng điển hình nền Văn Minh Tây Phương nguỵ biện, thực chất tốt đẹp của Văn Minh Tây Phương không thể hiện như thế! Chúng tôi người dân Việt đã hiểu thấu thế nào là Văn Minh đích thực và làm sao thế giới Tây Phương có được một Minh Triết để loài người noi theo mà sinh sống thanh bình hạnh phúc… Ngày nay “Siêu Cường” Mỹ có thể tốt hơn không? Với Chiến Tranh Việt Nam và bao nhiêu triệu tấn bom đạn đã trút xuống ruộng vườn, nương rẩy, nhà cửa, mồ mả gia tiên, súng đạn từ Nga,Tàu, Khối Sô Viết và những “quốc gia anh em Cộng Sản” cũng chỉ để tàn sát dân Việt. Người Việt chúng tôi là Người đó! Chứ không phải là cầm thú, hay loài thảo mộc vô tri… Có phải “Thượng Đế” tạo nên Dân Việt chúng tôi để dành cho “các ông” đến giết hại không?!

    Quốc Gia Việt Nam trong thế Địa Lý Chiến Lược giáp ranh Trung Hoa và là cổ họng, yết hầu, hướng bành trướng tiến về phương Nam của Trung Cộng để chiếm lĩnh toàn thể các quốc gia nhỏ bé Á Châu: Việt Nam, Miến Điện, Lào, Miên, Thái, Phi Luật Tân và thắng thế sẽ tiến chiếm Nam Dương, Đại Hàn, Nhật Bản… Úc Châu, Phi Châu sẽ tự thua cuộc rồi trở thành thuộc địa của “Hán Đế”. Với bối cảnh sau Đệ Nhị Thế Chiến, nước Nga với Chủ Thuyết Cộng Sản cùng với Trung Cộng phát động phong trào đấu tranh, “tuyên chiến” với thế giới tư bản Tây Phương đã rất thành công, nhiều quốc gia đã tự ngã theo hoặc bị chiếm đóng rồi trở thành những quốc gia trong khối Cộng Sản, chuyện nầy chúng ta đã hiểu biết qua rồi không cần thiết phải trình bày chi tiết. Theo sự tìm hiểu học hỏi và lãnh hội của tôi với Thầy: Những bộ óc “Ưu Hạng” của Nữ Thần Tự Do đã hoạch định, thiết kế “Chương Trình Phân Hoá Nga – Hoa “ và chọn Việt Nam làm chiến trường vì những tính chất chiến đấu tính ưu việt của Dân Tộc Việt đã chiến đấu qua hơn 4000 năm với Tàu phương Bắc và thế Địa Lý Đất Nước Việt Nam để thi hành kế sách. Họ đã đạt mục đích và phải hy sinh hơn 58, 000 chiến sĩ, gần 600 000 thương tật thể xác và thương tật tâm hồn, hao tốn hơn 300 tỷ dollars… Vết thương nầy như vết hằn trên bia đá đen được xây dựng phân nửa lộ thiên như nửa phần ngôi mộ ngầm nhắc nhở với thế hệ mai sau ý nghĩa cao đẹp của nước Mỹ… và hiện vẫn còn trong im lặng câm nín với thời gian bao lâu nữa…?! Cho dù mục đích của Mỹ có thực là cao đẹp hay chỉ là nguỵ biện để che đậy những “âm mưu” đen tối, khuất tất… dần… dần rồi Lịch Sử sẽ chiếu rọi, soi dấu với quang minh sẽ hiển lộ… Kết cuộc: Nga bị lừa, Trung Cộng bị lừa, cả thế giới bị lừa, Giới lãnh đạo Nam - Bắc Việt Nam bị lừa, Dân Tộc Việt Nam bị lùa vào lò sát sinh… đã hơn 10 triệu sinh mạng con dân nước Việt bỏ mình trên dãy đất thân yêu, mộ phần, xương thịt của người thân Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ, Anh Chị Em, Con Cái đã bị bom đạn cày sới tung toé, động mồ, động mả… có đau không?! Hãy khóc lên hỡi người Việt Nam…! Chúng ta được Tổ Tiên truyền dạy và ký thác với Ý Nghĩa phải luôn ghi nhớ với Huyền Sử cùng được sinh ra từ một thai bào nên gọi nhau là Đồng Bào.

    .Nói với giới nhà văn “Bên Thắng Cuộc”:
    Giới nhà văn “Bên Thắng Cuộc” ít nhiều có trí thức mà Trí Thức đúng nghĩa thì phải có Lương Tâm đúng hạng, hãy trong sáng làm Ngôn Sứ, chớ làm mõ làng vì bã mía mà mải mê “theo lề phải”, hãy cố truy tìm nhiều hơn nữa và dấu “thủ” trong trí nhớ như in những tội ác của bọn lãnh đạo Bắc Bộ Phủ (Hán thất) để dành đấy, vì “nhà văn” hiện ở “trong lòng địch” có nhiều cơ hội “tiếp cận” thu hoạch tài liệu… chờ một ngày “tả trắng thắng cờ hồng”, “nhà văn” sẽ có dịp viết hết, nói hết với thế giới những gì của đảng Cộng Sản Việt Nam… Chắc chắn đứa con tinh thần trung thật của “nhà văn” sẽ được đón nhận nồng nhiệt và vinh dự vô cùng…! Chớ đừng làm “văn nô”. Một tên Tố Hữu đã sỉ nhục cho giới “sĩ phu Bắc Hà” nhiều quá rồi, Bắc Hà ngày nay phụ nữ tuột quần ngồi đái giữa đường phố không còn biết e thẹn, ngựợng ngùng, con nít lên 3 lên 5 tuổi mới nứt mắt còn ôm bình sữa bập bẹ tiếng đầu lòng là biết chửi thề “địt mẹ”… hiện tình như thế khiến cho chúng ta nghi ngờ trình độ kiến văn, đạo đức của “cái” gọi là giới “sĩ phu Bắc Hà” tức: hà vấn hà phương?!

    . Nói với Quân Đội Nhân Dân (VC) “Bên Thắng Cuộc”:
    Quân Đội là để bảo vệ Đất Nước và Dân Tộc trước ngoại xâm, chứ không chỉ để bảo vệ đảng Cộng Sản và Nhà Nước trấn lột, hà hiếp, cướp của, giết dân…! Chỉ có giới chóp bu quyền bính lãnh đạo Bắc Bộ Phủ ngả theo làm tay sai cho Tàu Cộng vì cần thế lực bao che để cai trị dân chúng mà thôi… còn lại đại đa số Dân Việt không bao giờ cam chịu làm dân bị nòi Hán đô hộ, tinh thần quật khởi và chống Tàu đã như Khí Hạo Nhiên chảy lưu trong huyết quản kết tinh tự ngàn xưa… sẽ tới thời điểm người dân nổi dậy cách mạng đánh đổ bọn “Hán thất Ba Đình”:

    Anh Hùng dậy khắp miền lau lách
    Tuấn Kiệt ra đầy chốn giáp lân…

    Và cũng đừng biện bạch: ”Quân Đội Nhân Dân không bắn giết dân Việt…” nhé! Nói như thế là gian lắm đó, điển hình thành quả cuả Quân Đội Nhân Dân chỉ có chiếm đóng tạm thời ở Huế một tháng Têt Mậu Thân năm 1968 đã thảm sát 5737 dân Huế, và cũng chính Quân Đội Nhân Dân đã nã pháo bắn giết dân chúng chạy loạn trên “Đại Lộ Kinh Hoàng” năm 1972, là đường lui xuôi Nam của gần 200 000 dân và hai mươi ngàn lính đang tháo chạy về phía Nam trong Chiến Dịch Xuân Hè 1972 của Quân Đội Nhân Dân (VC)…! Sau chiến trận, công binh đã phải xử dụng xe cày đào huyệt mộ để chôn cất hàng ngàn xác người đang dần phân huỷ…!

    Và đây là bài Thơ của Tác Giả Vô Danh viết dành riêng cho Quân Đội Nhân Dân:

    Khi Na Tra
    Khi Na Tra bị băm thành thịt nát
    Hồn bay về tìm Thái Ất chân nhân
    Quì khóc than kể hết chuyện dương trần
    Toàn khổ não, oan tình cùng uất hận!
    Thái Ất nghiêm trang truyền học trò: Thôi giận!
    Rồi buồn buồn giảng đạo lý cao xa:
    Hỡi oan hồn của Thái Tử Na Tra
    Ngươi đã thấy trần gian đầy khốn cực
    Ta cho ngươi hạ sơn tìm sự thực
    Sự thực thấy rồi, ngươi đã về đây
    Quì dưới chân ta, nước lệ tràn đầy
    Tình Sư Đệ thật lòng ta ái ngại
    Nhưng khi trao phép mầu ta buộc phải
    Để cho ngươi tắm gội giữa đau thương
    Cho linh hồn tinh khiết toả mùi hương
    Cho thể xác ố tì tiêu tán hết!
    Hỡi oan hồn Na Tra đã hết!
    Hãy nhập ngay vào trong đoá sen tươi!
    Đoá sen vụt nở hoá một người
    Quì phục xuống, hôn bàn chân Sư Phụ
    Thái Ất chân nhân ôn tồn huấn dụ:
    Bao oán thù kiếp trước hãy quên mau
    Lời Ta truyền, tim óc khắc ghi sâu!
    Thái Tử Na Tra vâng mệnh cúi đầu
    Nhưng mối buồn không tưởng tới
    Một mối buồn mênh mông vời vợi
    Từ lúc hồi sinh đã ngự trong tim
    Thái Tử lui ra nhìn mây núi như tìm
    Lòng yêu sống, yêu ngưòi trong kiếp trước !
    (Thơ Vô Đề-Khuyết Danh, 1972)

    Kính thưa Quí Độc Giả,
    Đứa con lớn Thái Tử Na Tra là lực lượng Quân Đội Nhân Dân của “Bác” và Đảng Cộng Sản đã bị lạm dụng và trở thành công cụ bảo vệ Đảng và Nhà Nước Việt Nam Cộng Sản, là lực lượng cầm súng đã vượt sông Bến Hải, lặn lội Trường Sơn đội bom vào chiến trường miền Nam, xông xáo trên trận mạc bắn giết đồng bào đồng chủng tộc không nương tay với “Nghĩa Vụ Cộng Sản Quốc Tế” và danh nghĩa “Chống Mỹ Cứu Nước”… Đấy chỉ là nguỵ biện và bào chữa cho hành động giết dân Việt bừa bãi để cuối cùng đi đến mục đích làm Việt gian, dâng lãnh thổ, lãnh hải, đảo quốc cho kẻ thù truyền kiếp là nòi Hán phương Bắc. Từ 1945-1954 chưa có người Mỹ tham dự vào Chính Quyền Việt Nam. Từ 1954-1963 vẫn chưa có Quân Đội Mỹ ở miền Nam, chỉ những nhân viên và cơ quan viện trợ Dân Sự và một số cố vấn Quân Sự vãng lai mà thôi, mãi cho đến 1964-1973 mới có Quân Đội Mỹ tham chiến tại chiến trường, đến 1973 thì Quân Đội Đồng Minh thi hành Hiệp Định Paris đã rút khỏi Nam Việt Nam và Quân VC vẫn xâm lấn đánh phá miền Nam… Không thể gọi là: “Chống Mỹ Cứu Nước” được. Nhưng như thân phận của Thái Tử Na Tra, Quân Đội Nhân Dân sau bao năm bắn giết đồng bào… nay nhìn xét lại cảm thấy có nhiều điều không đúng và phản tỉnh khi trở lại gặp Thầy chỉ bày Đạo Lý Cao Xa và hãy quên đi chuyện đau buồn, oan khiên bị Đảng lừa bịp nên gây nên tội ác, lên bồn gội rửa cho trong sạch như Sen trong bùn mà không hôi tanh mùi bùn, phục hồi thành sinh mệnh mới với nhiệm vụ mới thật đúng Nghĩa Vụ Bảo Quốc An Dân thay thế Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà nửa đường bị bức tử. Xin Quí Độc Giả lượng thứ đây là bài viết “dở” nhất của tác giả viết tham luận Chính Trị từ 1989 đến giờ! Viết với “chủ quan”, là ai mà biết âm mưu của Mỹ, “múa rìu qua mắt Lỗ Ban”… thôi hãy xem như tác giả giải bày khúc nôi ý như thế nào thì viết phơi bày như thế đấy, viết như bà nhà quê kể lể lè nhè bù lu, bù loa mép rãi…

    Bác Dương thôi đã thôi rồi…
    Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta..
    (Nguyễn Du)

    Án thượng hữu Thư
    Thư thượng hữu Sư
    Đã mấy ai viết Sách mà chưa từng “ngồi” trên đống sách? Ngàn người đời thường mới có một người đọc sách, ngàn người đọc sách mới có một người có tài văn chương viết được sách, ngàn văn thi sĩ viết tiểu thuyết mới có được một người viết Văn Hoá-Chính Trị. Người Cách Mạng cũng tương tự! Nên thật khó làm sao cho một “văn nhân” kém cỏi như tôi có thể viết trình bày những chuyện “Đại Biện Chứng” trong mơ mơ hồ hồ như hư, như thực… Viết như “Khiếu Nhất Thanh”…! Ôi bóng Nguyệt đã xế về tây, hành trang về biển Đông mà lặn lội thân Hạc Huyền 4000 năm cưu mang Huyền Quyển trông vời tin nhạn, trong đêm đen với tay tìm cổ kiếm, nhớ Anh Em Đồng Chí tấc dạ nao nao làm sao…!

    Chung trà cũ quê người sương sớm
    Nhớ đêm nao, đêm hội ngộ cố tri
    Đây đoàn tụ mà ai kia chia biệt
    Hương lan rừng vượt núi ta đi… Đi về đâu?

    Vì bởi:

    Đá đựng ngàn năm hoang đường khói độc
    Nhìn thăng trầm biển khóc tình duyên…!
    (TTA)

    Nếu không gặp gỡ ngày Ngô Thát
    Thì đã du nhàn chốn phố viên.
    (TD L ĐA)


    Trịnh Khải Hoàng (mùa Đông Virginia Jan 2013)
    Last edited by Phòng Trực; 01-13-2013, 12:00 PM.
    Mời bạn ghé thăm nhà:
    http://thovanyenson.com


Hội Quán Phi Dũng ©
Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




website hit counter

Working...
X