TỔ CHỨC KHÔNG-QUÂN (51-56)
CỦA QUÂN LỰC VIỆT-NAM CỘNG HÒA
Gman
CỦA QUÂN LỰC VIỆT-NAM CỘNG HÒA
Gman
Đây là một đề tài khô khan, lại đưa ra nhiều tranh luận, nhưng rất cần cho nhu cầu quân sử. Nó cũng giúp cho nhiều anh em trong KQVN giải quyết được nhiều thắc mắc. Vì vậy, người viết bài này cố gắng sưu tầm tài liệu, hỏi han nhiều người nay đã ẩn dật, và nhất là tìm nhớ lại trong ký ức của mình. Chắc chắn còn nhiều khuyết điểm và cần đến sự bổ túc của nhiều người. Vì sự bao la của đề tài nên chỉ bằng lòng với cách "nhớ đến đâu, viết đến đó". Và như vậy, không bảo đảm rằng một bài có thể nói lên hết được những gì cần nói về lịch sử quân chủng của chúng ta.
Tại Sao Phải Thành Lập Quân Đội Quốc Gia?
Sự trao trả độc lập cho các thuộc địa cũ là một nhu cầu chiến lược khi Thế Chiến Thứ Hai chấm dứt.
Thế Chiến Thứ Hai đã nhằm mục đích tiêu diệt Phát Xít Đức, Phát Xít Ý và Phát Xít Nhật. Trong Thế Chiến Thứ Hai, Liên Sô là Đồng Minh của Mỹ, Anh, Pháp và Trung Hoa. Đồng Minh vì sự sống còn của các nước này trước sự đe dọa của phe phát xít mà còn được gọi là phe Trục. Muốn tiêu diệt Đức Quốc Xã phải có sự tham gia của Liên Sô từ lúc đầu. Trung Hoa là nước bị Nhật xăm chiếm đầu tiên, vì Nhật thời ấy đã làm chủ tại Triều Tiên và Mãn Châu và gọi là mượn đường Trung Hoa để đánh róc xuống tới Nam Dương. Khi Nhật tấn công Trân Châu Cảng (Pearl Harbor) thì Mỹ bắt buộc tuyên chiến với Nhật, trong khi đó, Mỹ đã phải giúp Anh Pháp giữ nguyên trạng tại Âu Châu là vì quyền lợi của Mỹ tại đây không chấp nhận để nhà độc tài Hitler thống nhất Âu Châu dưới sực chuyên quyền của dân Đức. Giải quyết được Phát Xít rồi thì cuộc chiến khác lại nẩy mầm. Đó là sự tranh chấp ý thức hệ giữa hai khối Tư Bản và Cộng Sản, là cuộc chiến tranh lạnh kéo dài từ 1945 cho đến 1989. Khi giải quyết Thế Chiến Thứ Hai, người ta thấy rõ rằng Liên Sô nhân cơ hội bành trướng ảnh hưởng của mình, xua quân chiếm nhiều lãnh thổ của các nước bị chà qua sát lại trong Thế Chiến Thứ Hai như các nước Đông Âu. Về hướng Đông của Liên Sô, chỉ vào phút chót khi thấy Mỹ sắp sửa thắng Nhật thì Liên Sô cũng tuyên chiến với Nhật để giành lấy một số đất đai phía Bắc Trung Hoa và các hải đảo của Nhật. Phải nói là không ai bằng Liên Sô nhân cơ hội cướp lấy nhiều chiến tích mà phần lớn đều do công của Mỹ. Ảnh hưởng của Liên Sô từ Đông sang Tây chiếm đến 12 múi giờ, giống như trước kia Hoàng Gia Anh tự hào "Mặt Trời không bao giờ lặn trên lãnh thổ Hoàng Gia". Lẽ dĩ nhiên, bọn cộng sản không khi nào dừng chân ở đó, và thế lực bành trướng gia tăng theo chiêu bài "vô sản các nước, đoàn kết lại" của bọn Đế Quốc Đỏ.
Những nước kế tiếp, mồi ngon của chủ nghĩa cộng sản, là các cựu thuộc địa, vừa nghèo, vừa có trình độ văn hóa thấp kém, vừa có nhu cầu dành độc lập, đánh đũi thực dân ra khỏi bờ cõi quê hương mình. Và họ sẽ sẵn sàng giúp đỡ qua phong trào "nghĩa vụ quốc tế" của họ. Vì vậy, Mỹ thôi thúc Anh và Pháp là hai nước có nhiều thuộc địa nhất phải thành lập quân đội cho các thuộc địa cũ trước khi trao trả độc lập cho họ. Nói cách khác, một quân đội không có đối tượng quốc phòng mà chỉ là một biểu tượng cho một nước có độc lập tự chủ. Tuy vậy, vì đã trả tự do cho các thuộc địa cũ, các nước đó vẫn duy trì được mối quan hệ chính trị và kinh tế mật thiết với các nước đô hộ cũ, còn hơn là để các nước đó rơi vào sự kềm kẹp không thể nào rứt ra được của cộng sản. Để làm gương, Mỹ đã trả độc lập cho Phi Luật Tân, đã cho dân chúng Phi Luật Tân chọn lựa, hoặc là độc lập, hoặc là trở thành một tiểu bang của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, và dân chúng Phi Luật Tân đã trưng cầu dân ý để trở thành một quốc gia độc lập từ sau Thế Chiến Thứ Hai. Anh cũng đã trả độc lập cho Ấn Độ, Mã Lai Á,...và nhiều nước khác ở Phi Châu và Nam Mỹ. Hòa Lan cũng trả độc lập cho Nam Dương...Chỉ có Pháp là chậm trễ trong việc thi hành kế sách này.
Pháp Thành Lập Quân Đội Quốc Gia Việt Nam :
Trong Thế Chiến Thứ Hai, Pháp là một nước bại trận, bị Đức Quốc Xã xăm chiếm, đất nước bị tàn phá nhiều vì chà qua sát lại, nên chi sự tái thiết hậu chiến tương đối cam go. Phần lớn tài sản của Pháp trong nước đều đã bị cướp phá. Chỉ còn tài nguyên thiên nhiên phong phú của các thuộc địa, nên thật là không đành khi bảo Pháp trả độc lập, nhất là Đông Dương là nơi trù phú nhất. Đồng bạc Đông Dương lúc đó là đồng "Piastre" có giá trị bằng 17 quan Pháp gọi là "Franc". Vì thế, Pháp đã theo gót quân đội Anh sang giải giới quân Nhật ở Việt Nam để đưa quân tái chiếm vùng đất này từ ngã sông Tiền Giang (Mekong) và từ đó bành trướng ra khắp nơi một cách nhanh chóng vào năm 1945. Trung Hoa giải giới Nhật ở Bắc vĩ tuyến 17 , sau đó rút quân về phương Bắc, trả lại vùng đất cho Pháp. Ở Việt Nam, Mặt Trận Việt Minh(Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội) gồm nhiều đảng phái chính trị đứng lên dành độc lập cho Việt Nam, trong đó có Đảng Lao Động do Hồ Chí Minh lãnh đạo mà Pháp cũng biết rõ, vì Hồ Chí Minh đã gia nhập đảng cộng sản Pháp. Các đảng phái không cộng sản đều bị Hồ Chí Minh mượn tay Pháp thủ tiêu dần dần. Và Pháp phải tốn nhiều nhân lực và tài lực để chiến đấu xa xôi với một sự tiếp vận càng ngày càng suy yếu vì chiến tranh du kích là một cuộc chiến bắt đầu làm tiêu hao lực lượng đối phương để đi dần đến vận động chiến khi đã có đủ thực lực. Dù Pháp được Mỹ yểm trợ về vũ khí đạn dược, nhưng cuộc chiến trở thành lỗ vốn với thời gian nên Pháp đành phải ký Hiệp Định Genève 1954, chia đôi Việt Nam thành hai mãnh trên dưới vĩ tuyến 17.
Người viết bài này không nghĩ rằng Pháp đã muốn thành lập quân đội quốc gia cho Việt Nam, nhưng vì thiếu quân nên phải sử dụng lính Việt Nam thay vào chỗ lính Lê Dương, Maroc, Senegal vì vấn đề chuyển vận từ Phi Châu và Pháp sang rất khó khăn. Do đó, các tiểu đoàn bộ binh Việt Nam từ từ được thành lập từ những năm đầu thập niên 50. Người Việt bị bắt lính từ Nam ra Bắc. Trong Nam Kỳ là thuộc địa của Pháp thì không có sự chọn lựa nào cả, bắt buộc phải đi lính. Bắc phần và Trung phần thuộc Bảo Hộ Pháp. Lực lượng Việt Nam các nơi đó được gọi là Bảo Chính Đoàn ở Bắc phần, Việt Binh Đoàn ở Trung phần, và Vệ Binh Đoàn ở Nam phần. Thường là gia nhập các lực lượng đó, hai là trốn vào chiến khu theo Việt Minh. Tùy lập trường từng người, và tùy có biết được là Cộng Sản đứng sau lưng bình phong của Việt Minh hay không, nên có số người theo Việt Minh. Những người gia nhập vào Quân Đội Quốc Gia thường là những người ở các thành thị, những người có gia đình hoặc là tư sản hoặc là địa chủ, hoặc có chút học thức (trí thức) nên không thể sống chung với cộng sản được, và cũng không thể tránh né chế độ động viên (draftees). Thành phần gia nhập Quân Đội Quốc Gia là thành phần không chấp nhận sống theo chế độ cộng sản. Song song với sự thành lập đơn vị Lục Quân, Không Quân cũng có Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang là một trong các đơn vị đầu tiên. Tuy vậy, các đơn vị Việt Nam trước được chỉ huy bằng một nhóm nòng cốt cán bộ Pháp rồi lần lượt trao quyền chỉ huy sau, và còn giữ lại một số cố vấn quân sự mãi cho đến tháng 6-1957. Do đó, khó mà nói được rằng Không Quân Việt Nam được thành lập từ năm nào. Tại sao lại có người được huấn luyện trước khi KQVN được thành lập? Sở dĩ cho huấn luyện các đơn vị Việt Nam là vì để lợi dụng giúp Pháp giải quyết vấn đề nhân lực cho chiến tranh phục hồi ách thống trị của Pháp, và cũng phần nào lấy cớ phải huấn luyện lâu dài mới thành lập quân đội được. Cái cớ thứ hai là vì Việt Minh có nhiều thành phần Cộng Sản, nên không thể trả độc lập để Việt Nam lọt vào phe cộng. Mâu thuẫn giữa Mỹ và Pháp rất gây go. Mỹ bỏ tiền giúp đỡ Pháp hoàn thành công cuộc xây dựng quân đội quốc gia Việt Nam bằng cách trả tiền cho Pháp để huấn luyện chuyên viên Không Quân, và ta đã thấy có nhiều khóa huấn luyện tại Maroc và tại Pháp. Trong bài viết về "Các Khóa Học Trường Pháp" có liệt kê tất cả khoảng 60 người được gửi sang Marrakech(Maroc) để học lái máy bay và 60 người được gửi sang Salon (Pháp) để học các ngành sĩ quan phi hành và không phi hành khác. Ngoài ra, rất nhiều người theo học tại Rochefort, Auxerre, Chamberry, Fez về các chuyên môn cơ khí, điện tử, truyền tin...trên đất Pháp và Maroc, gồm hằng ngàn khóa sinh. Những khóa lẻ tẻ như khóa ở Aulnat và Bordeaux của Phạm Phú Quốc học cũng lên đến 50 người tuy chỉ có 13 người tốt nghiệp ngành lái. Tại TTHLKQ/Nha Trang cũng đào tạo được vài khóa hoa tiêu và quan sát viên, và một số chuyên viên kỹ thuật. Trong thời gian này, Trung Tướng Nguyên Văn Hinh là vị Tham Mưu Trưởng Liên Quân của Quân Đội Việt Nam, tuy ai cũng biết rằng ông là công dân Pháp. Như thế, nhìn mặt ngoài thì cũng có tổ chức một quân đội quốc gia, nhưng tình thật thì do Pháp chỉ huy tổng quát và hành quân đánh Việt Minh là một mặt trận cộng sản.
Mãi cho đến khi Hiệp Định Genève ký kết, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm về nước vào năm 1954, cho đến 1956 mới thành lập nền Đệ Nhất Cộng Hòa, bầu cử Tổng Thống, và từ đó(năm 1956), mới có thể nói là có quy chế quân đội quốc gia hẳn hoi, với phù hiệu và cấp hiệu sĩ quan riêng biệt của mình. Và vị Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa là Tướng Lê Văn Tỵ. Từ 20-7-1954, quân số miền Nam là 250,000 người. Vào năm 1956, đáng lý ra, theo Hiệp Định Genève, có tổ chức bâøu cử để thống nhất đất nước. Nhưng vì nhiều lý do riêng, hai miền đã đổ lỗi cho nhau để hủy bỏ cuộc trưng cầu dân ý này. Cũng từ đó, Tổng Thống Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam tỏ thiện chí hòa bình với miền Bắc, giảm quân số xuống còn 150,000, do đó có một số người trừ bị đã được giải ngũ (100,000 quân). Quân số Không Quân trước khi chính thức thành lập có thể lên đến gần 3,000 người, kể cả thành phần còn đang thụ huấn bên Pháp.
Tóm lại, cũng như quân đội quốc gia, Không Quân được thành lập dưới thời thuộc địa theo nhu cầu thành lập một biểu tượng quốc gia độc lập để chóng cộng, theo sự khuyến cáo của Hoa Kỳ và sự thực hiện nửa vời của chánh phủ Pháp. Trong thời gian từ 1950 đến 1954, những cánh chim đầu tiên Việt Nam bay hành quân dưới sự chỉ huy của quân đội Pháp, và hầu hết đều do Pháp chỉ huy. Sau Hiệp Định Genève, từ 1954 đến 1956, Không Quân Việt Nam toàn quyền chỉ huy các đơn vị mà Pháp bàn giao, dưới sự cố vấn quân sự Pháp cho đến 1-6-1957. Người viết bài này không thể xác định được ai là những vị chỉ huy đầu tiên của các đơn vị KQVN và chi tiết về các đơn vị này. Theo cựu Đại Tá Huỳnh Minh Quang, người đã có mặt trong tổ chức Phòng Không Quân (Département Air) thuộc Bộ Tham Mưu Liên Quân do Tướng Nguyễn Văn Hinh làm Tham Mưu Trưởng Liên Quân, chính ông Nguyễn Khánh là người đầu tiên được Tướng Nguyễn Văn Hinh bổ nhiệm vào chức Trưởng Phòng Không Quân. Ông Nguyễn Khánh tốt nghiệp Trường Võ Bị Lục Quân Pháp Saint Cyr. Có người cho rằng KQVN được chính thức thành lập vào ngày 1-7-1956 và vị Phụ Tá Không Quân đầu tiên là Trung Tá Trần Văn Hổ (Paul).
Trên đây là bối cảnh chính trị của đất nước khi KQVN của QLVNCH được thành lập. Sau đây là thành phần tổ chức khi KQVN vừa được thành lập:
Quan Niệm:
KQVN được tổ chức theo mẫu mực của Pháp để lại. Theo Pháp, phối trí các căn cứ trợ lực làm đầu cầu tiếp vận tiếp đón các đơn vị chiến đấu từ khắp nơi biệt phái đến theo nhu cầu chiến trường. Các đơn vị chiến đấu có khả năng hoạt động, xuất phát từ hậu cứ hoặc biệt phái bổ sung tùy nhu cầu chiến trường đến một căn cứ khác. Cấp bảo trì và tiếp liệu tùy thuộc từng đơn vị, đoàn, liên đoàn, không đoàn hay sư đoàn. Tại chiến trường Việt Nam từ 1945 đến 1954, Pháp chỉ tổ chức đơn vị chiến đấu cấp đoàn hay liên đoàn. Các đơn vị chiến đấu được điều động qua một hệ thống chỉ huy hành quân của GATAC nơi mình đồn trú. Nói cách khác, GATAC (Groupe Aérienne Tactique) là đơn vị chỉ huy chiến thuật vùng, như GATAC Nord thuộc Vùng Bắc, và GATAC Sud thộc Vùng Nam, và GATAC có quyền điều động các đơn vị chiến đấu và ban hành chỉ thị tiếp vận cần thiết cho các CCTLKQ.
Căn Cứ Trợ Lực Không Quân(CCTLKQ):
Pháp gọi loại đơn vị này là "Base aérienne de support".
Nhiệm vụ là bảo đảm mọi yểm trợ về tiếp vận cho các đơn vị chiến đấu đồn trú trong căn cứ, như
- Cung cấp một cơ sở an toàn và vững chắc cho hoạt động hàng không quân sự: phi đạo, sân đậu, cứu hỏa, cứu thương, cấp cứu, tổ chức không lưu/khí tượng (gồm cả các thiết bị yểm trợ không hành như ăng-ten radio-compas, các đài Radio-Range, Gonio vv...)và duy trì hoạt động hữu hiệu để tiếp đón bất cứ phi cơ quân sự nào lên xuống tại phi trường liên hệ, ngày cũng như đêm.
- Dự trữ và cung cấp xăng nhớt, bom đạn với mức độ tồn trữ ấn định. Bảo trì kho trong tình trạng tốt.
- Cung cấp và bảo trì tốt cơ sở, doanh trại, từ chỗ chứa máy bay cho đến nhà cửa cho nhân viên trực thuộc và nhân viên các đơn vị đồn trú.
- Cung cấp phương tiện truyền tin trong nội vi căn cứ và tiếp nối đến các cơ quan địa phương, cũng như viễn liên khắp nước cho các đơn vị.
- Tổ chức an ninh và phòng thủ trong vòng rào căn cứ.
- Gìn giữ kỷ luật, trật tự lưu thông đường phố.
- Tổ chức và kiểm soát các nhà thầu ẩm thực, quán ăn để bảo vệ an ninh và sức khỏe nhân viên.
- Bảo đảm nuôi ăn cho tất cả nhân viên trực thuộc và nhân viên các đơn vị đồn trú.
- Bảo đảm trả lương cho toàn thể nhân viên trực thuộc và cho tất cả nhân viên đơn vị đồn trú, kể cả phụ cấp vãng phãn.
- Cung cấp phương tiện quân y, cấp cứu, chữa trị và khám bệnh.
- Tổ chức sinh hoạt văn nghệ và thể thao, và duy trì đời sống tâm linh cho mọi người. Trong thời buổi chiến tranh chống cộng, còn có hoạt động thông tin tuyên truyền phù hợp với đường lối trung ương về chiến tranh tâm lý, lúc đó gọi là "Tố cộng".
Các Căn Cứ Trợ Lực Không Quân gồm có:
- Căn Cứ 1 Trợ Lực Không Quân ở Nha Trang.
- Căn Cứ 2 Trợ Lực Không Quân ở Biên Hòa.
- Căn Cứ 3 Trợ Lực Không Quân ở Tân Sơn Nhứt.
- Cứ 4 Trợ Lực Không Quân ở Đà Nẳng.
(Theo thiển ý thì các căn cứ trợ lực không quân được đánh số theo thứ tự thành lập.)
Ngoài các căn cứ trợ lực không quân nêu trên, có hai phi trường được sử dụng biệt phái hành quân là phi trường Cù Hanh(Pleiku), và phi trường Sóc Trăng. Tại các phi trường này, có thể đáp máy bay C-47 và AD-6. Các phi trường bằng đất nện thì có nhiều ở các đồn điền của Pháp làm chủ, và KQVN cũng có thể lên xuống các máy bay C-47 hoặc MS-500 hay L-19A sau này.
Ghi chú:
- Các căn cứ trợ lực không quân như đã trình bày ở trên có trách nhiệm và quyền hạn về lãnh thổ, đối nội (với các đơn vị Không Quân khác đồn trú trong căn cứ) và đối ngoại (với các cơ quan quân dân sự trong vùng liên hệ).
- Trái lại, căn cứ trợ lực không quân không có quyền điều khiển các đơn vị đồn trú trong lãnh thổ của mình về phương diện hành quân và cũng không được xen vào hệ thống chỉ huy của các đơn vị này. Ví dụ, bắt đơn vị cung cấp phi cơ để thi hành một phi vụ do cơ quan quân hay dân sự ở địa phương yêu cầu. Mọi đơn xin không trợ đều phải qua hệ thống chỉ huy hành quân trung ương. Trái lại, vì nhu cầu phòng thủ phi trường, chỉ huy trưởng căn cứ có thể phối hợp hành động của mình với cấp chỉ huy lãnh thổ liên hệ trong vùng trách nhiệm để xin không trợ, sẽ được ưu tiên chấp thuận, vì nếu căn cứ không bảo đảm được an ninh thì làm sao cung cấp không trợ cho các nơi khác.
- Trong tổ chức của Pháp còn có "căn cứ chiến thuật". Chỉ huy trưởng một căn cứ chiến thuật còn có quyền điều động các đơn vị đồn trú, đại diện cho Không Quân tại căn cứ liên hệ, khi thỏa mãn nhu cầu yểm trợ của mọi đơn vị Hải Lục Không Quân khác. Mô thức tổ chức này cho ta một sự thống nhất chỉ huy giũa đơn vị yểm trợ và đơn vị chiến đấu, nhưng thẩm quyền chỉ huy hành quân thời Pháp vẫn thuộc GATAC (và sau này thì thuộc Trung Tâm Kiểm Soát Không Chiến ở Tân Sơn Nhứt.)
- Một đặc điểm khác của Việt Nam là trong suốt thời gian xây dựng nền cộng hòa, chúng ta đều phải đối phó với một cuộc chiến tranh không quy ước (unconventional warfare). Chiến tranh không có chiến tuyến(bơmb line). Không phải nước ta đánh với một nước khác từ bên ngoài biên giới đánh vào(frontier). Điều đó cho thấy không có chỗ nào tuyệt đối an toàn, vì có an toàn mới đặt căn cứ ở đó để yểm trợ nơi khác. Nói như vậy cho thấy rằng, nếu Pleiku chỉ là một căn cứ trợ lực và xung quanh phi trường Pleiku không bảo đảm được an ninh, không biết mất vào lúc nào, thì các đơn vị chiến thuật đồn trú tại căn cứ Pleiku phải được rời về nơi khác ngay lập tức để bảo tồn lực lượng. Đúng ra, phi trường Pleiku chỉ tốt dùng làm một phi trường vãng lai mà thôi (staging). Phi cơ có thể đáp xuống đó để tiếp tế xăng nhớt, bom đạn rồi bay lại yểm trợ trong vùng, chứ đặt nơi đó làm nơi đồn trú vĩnh viễn cho một đơn vị phi cơ chiến thuật là không bảo đảm an toàn, và rất khó khăn về tiếp vận.
Đơn Vị Chiến Đấu:
Có thể chia làm hai giai đoạn:
- Giai đoạn tiếp thu từ các đơn vị Pháp để lại;
- Giai đoạn bổ sung bằng phi cơ mới từ Mỹ.
Các đơn vị được tổ chức từng phi đoàn (escadron hay squadron) hoặc từng liên phi đoàn (groupe hay group). Mỗi đơn vị gồm có ba thành phần tổ chức chính yếu là phòng hành quân, phòng vật liệu và phòng hành chánh.
*Phòng Hành Quân với các phần hành như sau:
- Sắp lệnh bay và thống kê hoạt động đơn vị;
- An Phi;
- Quân báo;
- Huấn luyện đơn vị;
- Tác xạ (nếu có);
*Phòng Vật Liệu với các phần hành như sau:
- Bảo Trì cấp phi đạo và kiểm kỳ;
- Vũ Khí (nếu có);
- Vô Tuyến phi cơ;
-Tiếp liệu.
*Phòng Hành Chánh:
- Văn Thư;
- Hồ Sơ nhân viên trực thuộc.
Các đơn vị Không Quân Đầu Tiên:
- Phi Đoàn 1 Quan Sát: sử dụng phi cơ Morane Saulnier MS-500 đồn trú tại Đà Nẳng do quân đội Pháp chuyển giao từ 1ier GAO (Groupe Aérienne d’Observation).
- Phi Đoàn 2 Quan Sát: sử dụng phi cơ MS-500 do 2ème GAO chuyển giao , đồn trú tại Nha Trang.
- Phi Đoàn Khu Trục và Liên Lạc, do Pháp chuyển giao từ đơn vị GCL (Groupe de Chasse et Liaison) tại Nha Trang, sử dụng phi cơ Marcel Dassault MD-315, hai động cơ, có trang bị đại liên và dàn thả bom.
- Phi Đoàn 1 Khu Trục và Trinh Sát, sử dụng máy bay Bearcat F-8F do Không Quân Pháp chuyển giao tại Vũng Tàu, sau rời về Biên Hòa.
- Liên Phi Đoàn Vận Tải, sử dụng phi cơ C-47 do Pháp chuyển giao tại Tân Sơn Nhứt.
Sau đó, Mỹ đã viện trợ quân sự cho VNCH và thay thế các phi cơ MS-500 bằng L-19A, giải tán đơn vị MD-315. Ngành trực thăng cấp cứu và tản thương lúc đầu chỉ có vài chiếc H-19. Ngành radar, chúng ta có một đài tại Biên Hòa thuộc loại "điền khuyết" (Gap Filler).
Tóm lại, khi KQVN được thành lập, chỉ có các đơn vị như vừa kể trên.
Tổ chức KQVN còn có các đơn vị trung ương như sau:
-Bộ Tư Lệnh Không Quân, tại Tân Sơn Nhứt.
-Trung Tâm Quản Trị Không Quân, phụ trách kế toán lương bổng cho cả KQ, đặt tại Tân Sơn Nhứt.
-Nha Kỹ Thuật Không Quân, thuộc Bộ Quốc Phòng, đảm trách mua máy bay và những tiếp liệu cần thiết cho Không Quân.
-Trung Tâm Kiểm Soát Không Chiến, tại Tân Sơn Nhứt, để điều hành hành quân Không Quân.
-Trung Tâm Giám Định Y Khoa, tại Tân Sơn Nhứt, để khám sức khỏe tuyểm mộ và định kỳ cho nhân viên phi hành.
-Công Xưởng Không Quân, để trùng tu máy bay và tiếp liệu cho tất cả các đơn vị Không Quân, đồn trú tại Biên Hòa.
-Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân, huấn luyện quân sự, kỹ thuật và phi hành, sử dụng máy bay MS-500, hoặc L-19A, đặt tại Nha Trang.
So với các nước quanh vùng Đông Nam Á thì VNCH đã có một lực lượng Không Quân tương đối hùng hậu. Ví như Phi Luật Tân vào đầu thập niên 60, Không Quân chỉ có 1,000 người trong một quân đội chỉ 30,000 người.
(còn tiếp)
Tại Sao Phải Thành Lập Quân Đội Quốc Gia?
Sự trao trả độc lập cho các thuộc địa cũ là một nhu cầu chiến lược khi Thế Chiến Thứ Hai chấm dứt.
Thế Chiến Thứ Hai đã nhằm mục đích tiêu diệt Phát Xít Đức, Phát Xít Ý và Phát Xít Nhật. Trong Thế Chiến Thứ Hai, Liên Sô là Đồng Minh của Mỹ, Anh, Pháp và Trung Hoa. Đồng Minh vì sự sống còn của các nước này trước sự đe dọa của phe phát xít mà còn được gọi là phe Trục. Muốn tiêu diệt Đức Quốc Xã phải có sự tham gia của Liên Sô từ lúc đầu. Trung Hoa là nước bị Nhật xăm chiếm đầu tiên, vì Nhật thời ấy đã làm chủ tại Triều Tiên và Mãn Châu và gọi là mượn đường Trung Hoa để đánh róc xuống tới Nam Dương. Khi Nhật tấn công Trân Châu Cảng (Pearl Harbor) thì Mỹ bắt buộc tuyên chiến với Nhật, trong khi đó, Mỹ đã phải giúp Anh Pháp giữ nguyên trạng tại Âu Châu là vì quyền lợi của Mỹ tại đây không chấp nhận để nhà độc tài Hitler thống nhất Âu Châu dưới sực chuyên quyền của dân Đức. Giải quyết được Phát Xít rồi thì cuộc chiến khác lại nẩy mầm. Đó là sự tranh chấp ý thức hệ giữa hai khối Tư Bản và Cộng Sản, là cuộc chiến tranh lạnh kéo dài từ 1945 cho đến 1989. Khi giải quyết Thế Chiến Thứ Hai, người ta thấy rõ rằng Liên Sô nhân cơ hội bành trướng ảnh hưởng của mình, xua quân chiếm nhiều lãnh thổ của các nước bị chà qua sát lại trong Thế Chiến Thứ Hai như các nước Đông Âu. Về hướng Đông của Liên Sô, chỉ vào phút chót khi thấy Mỹ sắp sửa thắng Nhật thì Liên Sô cũng tuyên chiến với Nhật để giành lấy một số đất đai phía Bắc Trung Hoa và các hải đảo của Nhật. Phải nói là không ai bằng Liên Sô nhân cơ hội cướp lấy nhiều chiến tích mà phần lớn đều do công của Mỹ. Ảnh hưởng của Liên Sô từ Đông sang Tây chiếm đến 12 múi giờ, giống như trước kia Hoàng Gia Anh tự hào "Mặt Trời không bao giờ lặn trên lãnh thổ Hoàng Gia". Lẽ dĩ nhiên, bọn cộng sản không khi nào dừng chân ở đó, và thế lực bành trướng gia tăng theo chiêu bài "vô sản các nước, đoàn kết lại" của bọn Đế Quốc Đỏ.
Những nước kế tiếp, mồi ngon của chủ nghĩa cộng sản, là các cựu thuộc địa, vừa nghèo, vừa có trình độ văn hóa thấp kém, vừa có nhu cầu dành độc lập, đánh đũi thực dân ra khỏi bờ cõi quê hương mình. Và họ sẽ sẵn sàng giúp đỡ qua phong trào "nghĩa vụ quốc tế" của họ. Vì vậy, Mỹ thôi thúc Anh và Pháp là hai nước có nhiều thuộc địa nhất phải thành lập quân đội cho các thuộc địa cũ trước khi trao trả độc lập cho họ. Nói cách khác, một quân đội không có đối tượng quốc phòng mà chỉ là một biểu tượng cho một nước có độc lập tự chủ. Tuy vậy, vì đã trả tự do cho các thuộc địa cũ, các nước đó vẫn duy trì được mối quan hệ chính trị và kinh tế mật thiết với các nước đô hộ cũ, còn hơn là để các nước đó rơi vào sự kềm kẹp không thể nào rứt ra được của cộng sản. Để làm gương, Mỹ đã trả độc lập cho Phi Luật Tân, đã cho dân chúng Phi Luật Tân chọn lựa, hoặc là độc lập, hoặc là trở thành một tiểu bang của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, và dân chúng Phi Luật Tân đã trưng cầu dân ý để trở thành một quốc gia độc lập từ sau Thế Chiến Thứ Hai. Anh cũng đã trả độc lập cho Ấn Độ, Mã Lai Á,...và nhiều nước khác ở Phi Châu và Nam Mỹ. Hòa Lan cũng trả độc lập cho Nam Dương...Chỉ có Pháp là chậm trễ trong việc thi hành kế sách này.
Pháp Thành Lập Quân Đội Quốc Gia Việt Nam :
Trong Thế Chiến Thứ Hai, Pháp là một nước bại trận, bị Đức Quốc Xã xăm chiếm, đất nước bị tàn phá nhiều vì chà qua sát lại, nên chi sự tái thiết hậu chiến tương đối cam go. Phần lớn tài sản của Pháp trong nước đều đã bị cướp phá. Chỉ còn tài nguyên thiên nhiên phong phú của các thuộc địa, nên thật là không đành khi bảo Pháp trả độc lập, nhất là Đông Dương là nơi trù phú nhất. Đồng bạc Đông Dương lúc đó là đồng "Piastre" có giá trị bằng 17 quan Pháp gọi là "Franc". Vì thế, Pháp đã theo gót quân đội Anh sang giải giới quân Nhật ở Việt Nam để đưa quân tái chiếm vùng đất này từ ngã sông Tiền Giang (Mekong) và từ đó bành trướng ra khắp nơi một cách nhanh chóng vào năm 1945. Trung Hoa giải giới Nhật ở Bắc vĩ tuyến 17 , sau đó rút quân về phương Bắc, trả lại vùng đất cho Pháp. Ở Việt Nam, Mặt Trận Việt Minh(Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội) gồm nhiều đảng phái chính trị đứng lên dành độc lập cho Việt Nam, trong đó có Đảng Lao Động do Hồ Chí Minh lãnh đạo mà Pháp cũng biết rõ, vì Hồ Chí Minh đã gia nhập đảng cộng sản Pháp. Các đảng phái không cộng sản đều bị Hồ Chí Minh mượn tay Pháp thủ tiêu dần dần. Và Pháp phải tốn nhiều nhân lực và tài lực để chiến đấu xa xôi với một sự tiếp vận càng ngày càng suy yếu vì chiến tranh du kích là một cuộc chiến bắt đầu làm tiêu hao lực lượng đối phương để đi dần đến vận động chiến khi đã có đủ thực lực. Dù Pháp được Mỹ yểm trợ về vũ khí đạn dược, nhưng cuộc chiến trở thành lỗ vốn với thời gian nên Pháp đành phải ký Hiệp Định Genève 1954, chia đôi Việt Nam thành hai mãnh trên dưới vĩ tuyến 17.
Người viết bài này không nghĩ rằng Pháp đã muốn thành lập quân đội quốc gia cho Việt Nam, nhưng vì thiếu quân nên phải sử dụng lính Việt Nam thay vào chỗ lính Lê Dương, Maroc, Senegal vì vấn đề chuyển vận từ Phi Châu và Pháp sang rất khó khăn. Do đó, các tiểu đoàn bộ binh Việt Nam từ từ được thành lập từ những năm đầu thập niên 50. Người Việt bị bắt lính từ Nam ra Bắc. Trong Nam Kỳ là thuộc địa của Pháp thì không có sự chọn lựa nào cả, bắt buộc phải đi lính. Bắc phần và Trung phần thuộc Bảo Hộ Pháp. Lực lượng Việt Nam các nơi đó được gọi là Bảo Chính Đoàn ở Bắc phần, Việt Binh Đoàn ở Trung phần, và Vệ Binh Đoàn ở Nam phần. Thường là gia nhập các lực lượng đó, hai là trốn vào chiến khu theo Việt Minh. Tùy lập trường từng người, và tùy có biết được là Cộng Sản đứng sau lưng bình phong của Việt Minh hay không, nên có số người theo Việt Minh. Những người gia nhập vào Quân Đội Quốc Gia thường là những người ở các thành thị, những người có gia đình hoặc là tư sản hoặc là địa chủ, hoặc có chút học thức (trí thức) nên không thể sống chung với cộng sản được, và cũng không thể tránh né chế độ động viên (draftees). Thành phần gia nhập Quân Đội Quốc Gia là thành phần không chấp nhận sống theo chế độ cộng sản. Song song với sự thành lập đơn vị Lục Quân, Không Quân cũng có Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang là một trong các đơn vị đầu tiên. Tuy vậy, các đơn vị Việt Nam trước được chỉ huy bằng một nhóm nòng cốt cán bộ Pháp rồi lần lượt trao quyền chỉ huy sau, và còn giữ lại một số cố vấn quân sự mãi cho đến tháng 6-1957. Do đó, khó mà nói được rằng Không Quân Việt Nam được thành lập từ năm nào. Tại sao lại có người được huấn luyện trước khi KQVN được thành lập? Sở dĩ cho huấn luyện các đơn vị Việt Nam là vì để lợi dụng giúp Pháp giải quyết vấn đề nhân lực cho chiến tranh phục hồi ách thống trị của Pháp, và cũng phần nào lấy cớ phải huấn luyện lâu dài mới thành lập quân đội được. Cái cớ thứ hai là vì Việt Minh có nhiều thành phần Cộng Sản, nên không thể trả độc lập để Việt Nam lọt vào phe cộng. Mâu thuẫn giữa Mỹ và Pháp rất gây go. Mỹ bỏ tiền giúp đỡ Pháp hoàn thành công cuộc xây dựng quân đội quốc gia Việt Nam bằng cách trả tiền cho Pháp để huấn luyện chuyên viên Không Quân, và ta đã thấy có nhiều khóa huấn luyện tại Maroc và tại Pháp. Trong bài viết về "Các Khóa Học Trường Pháp" có liệt kê tất cả khoảng 60 người được gửi sang Marrakech(Maroc) để học lái máy bay và 60 người được gửi sang Salon (Pháp) để học các ngành sĩ quan phi hành và không phi hành khác. Ngoài ra, rất nhiều người theo học tại Rochefort, Auxerre, Chamberry, Fez về các chuyên môn cơ khí, điện tử, truyền tin...trên đất Pháp và Maroc, gồm hằng ngàn khóa sinh. Những khóa lẻ tẻ như khóa ở Aulnat và Bordeaux của Phạm Phú Quốc học cũng lên đến 50 người tuy chỉ có 13 người tốt nghiệp ngành lái. Tại TTHLKQ/Nha Trang cũng đào tạo được vài khóa hoa tiêu và quan sát viên, và một số chuyên viên kỹ thuật. Trong thời gian này, Trung Tướng Nguyên Văn Hinh là vị Tham Mưu Trưởng Liên Quân của Quân Đội Việt Nam, tuy ai cũng biết rằng ông là công dân Pháp. Như thế, nhìn mặt ngoài thì cũng có tổ chức một quân đội quốc gia, nhưng tình thật thì do Pháp chỉ huy tổng quát và hành quân đánh Việt Minh là một mặt trận cộng sản.
Mãi cho đến khi Hiệp Định Genève ký kết, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm về nước vào năm 1954, cho đến 1956 mới thành lập nền Đệ Nhất Cộng Hòa, bầu cử Tổng Thống, và từ đó(năm 1956), mới có thể nói là có quy chế quân đội quốc gia hẳn hoi, với phù hiệu và cấp hiệu sĩ quan riêng biệt của mình. Và vị Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa là Tướng Lê Văn Tỵ. Từ 20-7-1954, quân số miền Nam là 250,000 người. Vào năm 1956, đáng lý ra, theo Hiệp Định Genève, có tổ chức bâøu cử để thống nhất đất nước. Nhưng vì nhiều lý do riêng, hai miền đã đổ lỗi cho nhau để hủy bỏ cuộc trưng cầu dân ý này. Cũng từ đó, Tổng Thống Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam tỏ thiện chí hòa bình với miền Bắc, giảm quân số xuống còn 150,000, do đó có một số người trừ bị đã được giải ngũ (100,000 quân). Quân số Không Quân trước khi chính thức thành lập có thể lên đến gần 3,000 người, kể cả thành phần còn đang thụ huấn bên Pháp.
Tóm lại, cũng như quân đội quốc gia, Không Quân được thành lập dưới thời thuộc địa theo nhu cầu thành lập một biểu tượng quốc gia độc lập để chóng cộng, theo sự khuyến cáo của Hoa Kỳ và sự thực hiện nửa vời của chánh phủ Pháp. Trong thời gian từ 1950 đến 1954, những cánh chim đầu tiên Việt Nam bay hành quân dưới sự chỉ huy của quân đội Pháp, và hầu hết đều do Pháp chỉ huy. Sau Hiệp Định Genève, từ 1954 đến 1956, Không Quân Việt Nam toàn quyền chỉ huy các đơn vị mà Pháp bàn giao, dưới sự cố vấn quân sự Pháp cho đến 1-6-1957. Người viết bài này không thể xác định được ai là những vị chỉ huy đầu tiên của các đơn vị KQVN và chi tiết về các đơn vị này. Theo cựu Đại Tá Huỳnh Minh Quang, người đã có mặt trong tổ chức Phòng Không Quân (Département Air) thuộc Bộ Tham Mưu Liên Quân do Tướng Nguyễn Văn Hinh làm Tham Mưu Trưởng Liên Quân, chính ông Nguyễn Khánh là người đầu tiên được Tướng Nguyễn Văn Hinh bổ nhiệm vào chức Trưởng Phòng Không Quân. Ông Nguyễn Khánh tốt nghiệp Trường Võ Bị Lục Quân Pháp Saint Cyr. Có người cho rằng KQVN được chính thức thành lập vào ngày 1-7-1956 và vị Phụ Tá Không Quân đầu tiên là Trung Tá Trần Văn Hổ (Paul).
Trên đây là bối cảnh chính trị của đất nước khi KQVN của QLVNCH được thành lập. Sau đây là thành phần tổ chức khi KQVN vừa được thành lập:
TỔ CHỨC KQVN 51-56
Quan Niệm:
KQVN được tổ chức theo mẫu mực của Pháp để lại. Theo Pháp, phối trí các căn cứ trợ lực làm đầu cầu tiếp vận tiếp đón các đơn vị chiến đấu từ khắp nơi biệt phái đến theo nhu cầu chiến trường. Các đơn vị chiến đấu có khả năng hoạt động, xuất phát từ hậu cứ hoặc biệt phái bổ sung tùy nhu cầu chiến trường đến một căn cứ khác. Cấp bảo trì và tiếp liệu tùy thuộc từng đơn vị, đoàn, liên đoàn, không đoàn hay sư đoàn. Tại chiến trường Việt Nam từ 1945 đến 1954, Pháp chỉ tổ chức đơn vị chiến đấu cấp đoàn hay liên đoàn. Các đơn vị chiến đấu được điều động qua một hệ thống chỉ huy hành quân của GATAC nơi mình đồn trú. Nói cách khác, GATAC (Groupe Aérienne Tactique) là đơn vị chỉ huy chiến thuật vùng, như GATAC Nord thuộc Vùng Bắc, và GATAC Sud thộc Vùng Nam, và GATAC có quyền điều động các đơn vị chiến đấu và ban hành chỉ thị tiếp vận cần thiết cho các CCTLKQ.
Căn Cứ Trợ Lực Không Quân(CCTLKQ):
Pháp gọi loại đơn vị này là "Base aérienne de support".
Nhiệm vụ là bảo đảm mọi yểm trợ về tiếp vận cho các đơn vị chiến đấu đồn trú trong căn cứ, như
- Cung cấp một cơ sở an toàn và vững chắc cho hoạt động hàng không quân sự: phi đạo, sân đậu, cứu hỏa, cứu thương, cấp cứu, tổ chức không lưu/khí tượng (gồm cả các thiết bị yểm trợ không hành như ăng-ten radio-compas, các đài Radio-Range, Gonio vv...)và duy trì hoạt động hữu hiệu để tiếp đón bất cứ phi cơ quân sự nào lên xuống tại phi trường liên hệ, ngày cũng như đêm.
- Dự trữ và cung cấp xăng nhớt, bom đạn với mức độ tồn trữ ấn định. Bảo trì kho trong tình trạng tốt.
- Cung cấp và bảo trì tốt cơ sở, doanh trại, từ chỗ chứa máy bay cho đến nhà cửa cho nhân viên trực thuộc và nhân viên các đơn vị đồn trú.
- Cung cấp phương tiện truyền tin trong nội vi căn cứ và tiếp nối đến các cơ quan địa phương, cũng như viễn liên khắp nước cho các đơn vị.
- Tổ chức an ninh và phòng thủ trong vòng rào căn cứ.
- Gìn giữ kỷ luật, trật tự lưu thông đường phố.
- Tổ chức và kiểm soát các nhà thầu ẩm thực, quán ăn để bảo vệ an ninh và sức khỏe nhân viên.
- Bảo đảm nuôi ăn cho tất cả nhân viên trực thuộc và nhân viên các đơn vị đồn trú.
- Bảo đảm trả lương cho toàn thể nhân viên trực thuộc và cho tất cả nhân viên đơn vị đồn trú, kể cả phụ cấp vãng phãn.
- Cung cấp phương tiện quân y, cấp cứu, chữa trị và khám bệnh.
- Tổ chức sinh hoạt văn nghệ và thể thao, và duy trì đời sống tâm linh cho mọi người. Trong thời buổi chiến tranh chống cộng, còn có hoạt động thông tin tuyên truyền phù hợp với đường lối trung ương về chiến tranh tâm lý, lúc đó gọi là "Tố cộng".
Các Căn Cứ Trợ Lực Không Quân gồm có:
- Căn Cứ 1 Trợ Lực Không Quân ở Nha Trang.
- Căn Cứ 2 Trợ Lực Không Quân ở Biên Hòa.
- Căn Cứ 3 Trợ Lực Không Quân ở Tân Sơn Nhứt.
- Cứ 4 Trợ Lực Không Quân ở Đà Nẳng.
(Theo thiển ý thì các căn cứ trợ lực không quân được đánh số theo thứ tự thành lập.)
Ngoài các căn cứ trợ lực không quân nêu trên, có hai phi trường được sử dụng biệt phái hành quân là phi trường Cù Hanh(Pleiku), và phi trường Sóc Trăng. Tại các phi trường này, có thể đáp máy bay C-47 và AD-6. Các phi trường bằng đất nện thì có nhiều ở các đồn điền của Pháp làm chủ, và KQVN cũng có thể lên xuống các máy bay C-47 hoặc MS-500 hay L-19A sau này.
Ghi chú:
- Các căn cứ trợ lực không quân như đã trình bày ở trên có trách nhiệm và quyền hạn về lãnh thổ, đối nội (với các đơn vị Không Quân khác đồn trú trong căn cứ) và đối ngoại (với các cơ quan quân dân sự trong vùng liên hệ).
- Trái lại, căn cứ trợ lực không quân không có quyền điều khiển các đơn vị đồn trú trong lãnh thổ của mình về phương diện hành quân và cũng không được xen vào hệ thống chỉ huy của các đơn vị này. Ví dụ, bắt đơn vị cung cấp phi cơ để thi hành một phi vụ do cơ quan quân hay dân sự ở địa phương yêu cầu. Mọi đơn xin không trợ đều phải qua hệ thống chỉ huy hành quân trung ương. Trái lại, vì nhu cầu phòng thủ phi trường, chỉ huy trưởng căn cứ có thể phối hợp hành động của mình với cấp chỉ huy lãnh thổ liên hệ trong vùng trách nhiệm để xin không trợ, sẽ được ưu tiên chấp thuận, vì nếu căn cứ không bảo đảm được an ninh thì làm sao cung cấp không trợ cho các nơi khác.
- Trong tổ chức của Pháp còn có "căn cứ chiến thuật". Chỉ huy trưởng một căn cứ chiến thuật còn có quyền điều động các đơn vị đồn trú, đại diện cho Không Quân tại căn cứ liên hệ, khi thỏa mãn nhu cầu yểm trợ của mọi đơn vị Hải Lục Không Quân khác. Mô thức tổ chức này cho ta một sự thống nhất chỉ huy giũa đơn vị yểm trợ và đơn vị chiến đấu, nhưng thẩm quyền chỉ huy hành quân thời Pháp vẫn thuộc GATAC (và sau này thì thuộc Trung Tâm Kiểm Soát Không Chiến ở Tân Sơn Nhứt.)
- Một đặc điểm khác của Việt Nam là trong suốt thời gian xây dựng nền cộng hòa, chúng ta đều phải đối phó với một cuộc chiến tranh không quy ước (unconventional warfare). Chiến tranh không có chiến tuyến(bơmb line). Không phải nước ta đánh với một nước khác từ bên ngoài biên giới đánh vào(frontier). Điều đó cho thấy không có chỗ nào tuyệt đối an toàn, vì có an toàn mới đặt căn cứ ở đó để yểm trợ nơi khác. Nói như vậy cho thấy rằng, nếu Pleiku chỉ là một căn cứ trợ lực và xung quanh phi trường Pleiku không bảo đảm được an ninh, không biết mất vào lúc nào, thì các đơn vị chiến thuật đồn trú tại căn cứ Pleiku phải được rời về nơi khác ngay lập tức để bảo tồn lực lượng. Đúng ra, phi trường Pleiku chỉ tốt dùng làm một phi trường vãng lai mà thôi (staging). Phi cơ có thể đáp xuống đó để tiếp tế xăng nhớt, bom đạn rồi bay lại yểm trợ trong vùng, chứ đặt nơi đó làm nơi đồn trú vĩnh viễn cho một đơn vị phi cơ chiến thuật là không bảo đảm an toàn, và rất khó khăn về tiếp vận.
Đơn Vị Chiến Đấu:
Có thể chia làm hai giai đoạn:
- Giai đoạn tiếp thu từ các đơn vị Pháp để lại;
- Giai đoạn bổ sung bằng phi cơ mới từ Mỹ.
Các đơn vị được tổ chức từng phi đoàn (escadron hay squadron) hoặc từng liên phi đoàn (groupe hay group). Mỗi đơn vị gồm có ba thành phần tổ chức chính yếu là phòng hành quân, phòng vật liệu và phòng hành chánh.
*Phòng Hành Quân với các phần hành như sau:
- Sắp lệnh bay và thống kê hoạt động đơn vị;
- An Phi;
- Quân báo;
- Huấn luyện đơn vị;
- Tác xạ (nếu có);
*Phòng Vật Liệu với các phần hành như sau:
- Bảo Trì cấp phi đạo và kiểm kỳ;
- Vũ Khí (nếu có);
- Vô Tuyến phi cơ;
-Tiếp liệu.
*Phòng Hành Chánh:
- Văn Thư;
- Hồ Sơ nhân viên trực thuộc.
Các đơn vị Không Quân Đầu Tiên:
- Phi Đoàn 1 Quan Sát: sử dụng phi cơ Morane Saulnier MS-500 đồn trú tại Đà Nẳng do quân đội Pháp chuyển giao từ 1ier GAO (Groupe Aérienne d’Observation).
- Phi Đoàn 2 Quan Sát: sử dụng phi cơ MS-500 do 2ème GAO chuyển giao , đồn trú tại Nha Trang.
- Phi Đoàn Khu Trục và Liên Lạc, do Pháp chuyển giao từ đơn vị GCL (Groupe de Chasse et Liaison) tại Nha Trang, sử dụng phi cơ Marcel Dassault MD-315, hai động cơ, có trang bị đại liên và dàn thả bom.
- Phi Đoàn 1 Khu Trục và Trinh Sát, sử dụng máy bay Bearcat F-8F do Không Quân Pháp chuyển giao tại Vũng Tàu, sau rời về Biên Hòa.
- Liên Phi Đoàn Vận Tải, sử dụng phi cơ C-47 do Pháp chuyển giao tại Tân Sơn Nhứt.
Sau đó, Mỹ đã viện trợ quân sự cho VNCH và thay thế các phi cơ MS-500 bằng L-19A, giải tán đơn vị MD-315. Ngành trực thăng cấp cứu và tản thương lúc đầu chỉ có vài chiếc H-19. Ngành radar, chúng ta có một đài tại Biên Hòa thuộc loại "điền khuyết" (Gap Filler).
Tóm lại, khi KQVN được thành lập, chỉ có các đơn vị như vừa kể trên.
Tổ chức KQVN còn có các đơn vị trung ương như sau:
-Bộ Tư Lệnh Không Quân, tại Tân Sơn Nhứt.
-Trung Tâm Quản Trị Không Quân, phụ trách kế toán lương bổng cho cả KQ, đặt tại Tân Sơn Nhứt.
-Nha Kỹ Thuật Không Quân, thuộc Bộ Quốc Phòng, đảm trách mua máy bay và những tiếp liệu cần thiết cho Không Quân.
-Trung Tâm Kiểm Soát Không Chiến, tại Tân Sơn Nhứt, để điều hành hành quân Không Quân.
-Trung Tâm Giám Định Y Khoa, tại Tân Sơn Nhứt, để khám sức khỏe tuyểm mộ và định kỳ cho nhân viên phi hành.
-Công Xưởng Không Quân, để trùng tu máy bay và tiếp liệu cho tất cả các đơn vị Không Quân, đồn trú tại Biên Hòa.
-Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân, huấn luyện quân sự, kỹ thuật và phi hành, sử dụng máy bay MS-500, hoặc L-19A, đặt tại Nha Trang.
So với các nước quanh vùng Đông Nam Á thì VNCH đã có một lực lượng Không Quân tương đối hùng hậu. Ví như Phi Luật Tân vào đầu thập niên 60, Không Quân chỉ có 1,000 người trong một quân đội chỉ 30,000 người.
(còn tiếp)
Comment