Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Góc Truyện Tình HOÀI HƯƠNG...

Collapse
X

Góc Truyện Tình HOÀI HƯƠNG...

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #16
    Ngọt Ngào Niềm Luyến Lưu



    Ngọt Ngào Niềm Luyến Lưu
    Tình Hoài Hương
    ***



    Sáu giờ sáng. Phố nhỏ chìm trong biển sương mù trắng xóa, khí trời ban mai khoáng đạt tỏa lạnh cùng khắp, thoáng mát. Thoang thoảng hương bưởi thơm từ ngoài vườn bay vào. Thật dễ chịu. Mười thức dậy, mở tủ lấy áo lạnh mặc vào, rồi xuống bếp cắm điện nấu nước sôi. Pha cà phê cho anh Khánh uống, đi làm sớm. (Anh Khánh làm việc tại Hotel Palace, anh nổi danh là một cây đánh ténnis xuất sắc, anh thường giật cúp vàng, bạc, mỗi khi thi đấu cùng các cao thủ từ Thủ Đô đến dự tranh. Mấy chiếc cúp danh dự chưng bày nơi phòng khách. Anh có biệt danh là Tư Cóc. Giới thể thao Đà Lạt và khu xóm nầy, không mấy ai không biết tên anh). Anh Khánh ngạc nhiên hỏi:
    - Sao hôm nay cô đặc biệt thế?

    Nàng ngại ngùng ghê. Làm sao nói được! Làm sao nói hết những xôn xao trẻ dại của người con gái trước cảnh đời rộng mở hôm nay! Sau đó cả nhà thức dậy khi mặt trời bừng lên ở phương đông. Mười mặc áo dài ''hắc y nữ hiệp", Mười thích màu tím, màu đen, màu vàng. Không hiểu tại sao!? Vừa mặc thêm áo lạnh màu xanh cẩm thạch, chị Khánh gọi:
    - Út à! Ra đây chị biểu cái nầy.
    - Dạ.

    Trống ngực đánh loạn xạ. Nàng hồi hộp lo sợ, khi vào nhà kho gặp chị. Đang kiểm lại kho lương thực, chị nhìn em từ đầu đến chân, rồi nói:
    - Đi đóng tiền huê ngoài cô Ba Chỉ cho chị, lúc về em mua một bóng đèn tròn, mua hai chục hoa hồng. Nhớ chưa?
    - Dạ nhớ.
    - Tính đi đâu đó?
    - Em trả phù hiệu, trường cho mượn, chưa trả, chị à.

    Không nói gì, đưa tiền cho em, chị nhìn nàng y như lần trước. Lồng ngực bé tí xíu của cô em nổi lên nhịp trống, mạnh đến nỗi em sợ chị nghe thấy, thì phiền lắm. Đây là lần đầu Mười nói dối ngọt xớt. Ra ngã ba Đào Duy Từ và Yersin, Mười thấy Nam mặc bộ complé đen đi tới đi lui ở điểm hẹn, điếu thuốc đỏ gài trên môi, từng làn khói vờn quanh khuôn mặt, vật vờ bay lên. Nhìn thấy nàng, anh vứt điếu thuốc xuống lề đường, lấy gót giày dậm tắt. Tiến về phía nàng, Nam cười vui. Mười hỏi:
    - Anh chờ Mười có lâu không?
    - Mười phút thôi, nhưng thấy… lâu ơi là lâu.
    - Em đi đúng giờ mà.
    - Đồng hồ tự động biết anh sốt ruột. Nên co giản kiểu cao su ấy mà.
    - Nó hợp gu với hoàn cảnh của mỗi người. Anh nhỉ.

    Nhìn nhau mỉm cười âu yếm, ánh mắt trao đưa nồng nàn. Đón taxi ra phố. Nam nghiêng đầu trên mái tóc nàng. Giọng nói êm ái, hơi thở ấm áp len vào tóc nàng:
    - Đêm qua, em ngủ có ngon giấc không?
    Nàng nũng nịu lắc đầu không nói, anh tiếp:
    - Anh cũng vậy, trằn trọc mãi không sao ngủ được, khiến hai bạn mất ngủ luôn. Thạch, Trung, dậy trêu phá anh một hồi lâu. Họ pha cà phê uống, hút thuốc. Ra balcon ngắm thành phố mờ ảo, ẩn hiện trong biển sương mù. Bây giờ hai anh đó ngủ li bì. Mười có biết tại sao. Chúng mình ngủ không được. Hả em?

    Tại sao? Nàng biết rồi. Biết, nên em nép đầu bên vai anh, e ấp kéo mái tóc dài che bớt bên má, dấu nỗi thẹn thùng cho Nam đừng trông thấy. Bởi vì, có nhiều điều quá sức lạ lùng, đến nỗi tim mình như chạm dòng phún thạch. Xe ngừng ở đầu tiệm Vĩnh Hòa, hai người làm công việc chị Khánh dặn xong. Nam mua quyển sách "Kim chỉ nam của học sinh" do Nguyễn Hiến Lê" viết. Mua tờ nhật báo. Mua kẹo, chewing gum. Chocolate. Anh định đón taxi, nhưng nàng gạt đi, sợ anh tốn tiền. Vả lại tản bộ bên nhau thú vị biết mấy. Dù cõng thêm chiếc nón lá bài thơ và mấy thứ đồ đạc lỉnh kỉnh lủng củng. Mặc kệ! Chả sao cả.

    Qua khỏi cầu Ông Đạo rẻ về lối Thủy Tạ. Nam nắm tay nàng dừng lại, chờ chiếc xe hàng qua mặt. Có thế thôi. Thế mà, đôi bàn tay hai người chợt nóng chợt lạnh, như có dòng điện vút qua. Khiến tay nàng run rẩy trong tay anh. Dù chỉ có thế thôi. Nam mỉm cười thầm nghĩ: “Từ giờ phút nầy, tâm tư anh và em, sẽ chẳng bao giờ lặng yên nữa”.

    Hai người thả bộ xuống cuối Thao Trường, ngồi dưới chòm thông cao xanh ngắt, ngút ngàn. Nhìn xéo về hướng Bích Câu Kỳ Ngộ ở bên kia hồ. Thỉnh thoảng Mười bóc chewing gum cho Nam. Chàng bóc chocolate đưa nàng. Chiếc nón lá kè kè cắp bên hông vô tình bị gió giật tung bay lông lốc xuống hồ! Hai anh chị ngỡ ngàng nhìn chiếc nón xoáy vòng trên mặt nước mà không kịp trở tay! Chả biết lát nữa về nhà Mười sẽ ăn nói làm sao với chị? Anh đốt điếu thuốc thơm, gió lộng thổi không cháy được. Nàng lấy tờ báo che chiều gió. Vẫn không cháy, lần nầy nàng lấy chiếc veston của Nam vắt trên băng ghế đá trùm trên đầu hai người, phía trước che tờ báo. Đánh hai cây diêm một lúc Nam cười, nói:
    - Lần nầy nếu không có lửa, anh bỏ hút thuốc thật.
    - Anh nói thật nhe.
    - Ơ... nghe hù vậy, sợ anh giận. Gió ngừng thổi, anh có lửa để hút thuốc kià. Em có bắt chước gió. Dỗ dành khi anh giận không?
    - Em không thèm dỗ người thích hút thuốc.
    - Khổ thật.

    Chàng quàng chiếc áo veste lên vai nàng cho đỡ lạnh, âu yếm cụng nhẹ vào đầu nàng. Hơi thở ấm nồng vương trên làn tóc rối, như làn sương mong manh. Cầm tay nàng, Nam muốn nhìn Mười có đôi má đào ửng hồng, hai hàng mi cong cong chơm chớp, bẽn lẽn ngại ngùng, hàm răng Mười trắng bóng đều đặn, e dè cắn lấy làn môi. Anh yêu nàng, vì nét ngây thơ hồn nhiên pha chút bối rối thẹn thùng tuổi thơ xanh ngát, đôi mắt sáng long lanh chưa vương bụi đời, nụ cười rạng rỡ làm thắm khuôn mặt. Nhất là Mười thông minh, hiểu anh. Mười cảm nhận sâu sắc điều anh chưa diễn tả về vấn đề nào đó.

    Ôi! Nam yêu Mười như trời yêu đất, như suối yêu ngàn, như chim yêu cánh, như cây yêu cành, như đồi thông yêu tiếng thông reo, như dãy trường sơn yêu mây tím lưng trời, như tinh tú yêu hằng nga, như sao yêu đêm, như cá yêu nước. Nam yêu Mười rất nhiều, mình cùng nhau đếm từng sợi tóc cuả anh và của em cộng lại, rồi nhân, rồi lủy thừa lên, và sẽ bện chặt lại. Mười chịu không? Anh yêu em như những nàng yêu những chàng yêu nhau ở trên trái đất. Ôi! Đôi mắt ấy đã quyện hút lòng anh, soi dọi vùng hào quang rực rỡ huy hoàng, là bến bờ hạnh phúc đời mình. Là suối mát, tình yêu bất diệt. Là giấc mơ hoa không lụi tàn.

    Từ ngày hôm nay của anh là của em. Tương lai cuộc sống của Nam là của Mười. Đếm được bao nhiêu sao trên trời, anh sẽ gom lại, trao về em bằng ngần ấy tình yêu tha thiết, nâng niu và trân trọng. Tất cả. Bầu trời, tinh tú, gió mây, sông nước, biển cả, núi non, ao hồ trên vũ trụ nầy, là của chúng ta. Của muôn người yêu nhau say đắm trên trái đất. Ta theo nhau suốt đời, dù có "ráng vàng thì nắng, ráng trắng thì mưa". Cũng đành. Anh muốn nói với em điều nầy, đừng giận anh nhe: "Phải rồi em ạ! Trên đời nầy, nếu không có em, thì từ nay sẽ không còn anh. Chúng ta hãy xiết chặt tay nhau, đi hết cuộc đời, có khi phẳng lặng bình an, hay có lần dốc đá cheo leo gian nan cách trở. Em nhé. Em có muốn anh thổ lộ tâm tư thầm kín trong đáy lòng? Hay là em đã biết tỏng tong rồi! Khiến anh cảm thấy ngại ngùng, không dám nói ra”.

    Nhìn chiếc áo veste khoát trên vai, Mười nói:
    - Tóc em cùng màu với chiếc áo anh.
    - Về nhà nhớ em, anh chỉ biết đem chiếc áo ra nhìn.
    - Thiệt hở anh?
    - Anh đã nhớ em thật nhiều… À, có mấy câu thơ nầy trong: “Những bức thư tình hay nhất thế giới”. Anh đọc lại em nghe nhé: "Anh nhớ nụ cười, gương mặt, suối tóc, làn môi, Anh nhớ em ngay từ buổi chia phôi. Anh mong mỏi ngày về, gặp gỡ".
    Hai người thảo luận hồi lâu, sau đó làm bài thơ kỷ niệm Tiễn Anh:
    Bút trần nào tả được lưu luyến.
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên.
    Ngưu Lang Chức Nữ, cầu Ô Thước
    Mưa Ngâu ly biệt khóc ngoài hiên

    Em ơi! thơ sầu dâng lên mi,
    Nghẹn ngào khi rời tay chia ly.
    Tình cờ gặp nhau trong giây phút,
    Rồi người Sơn cước, kẻ Kinh kỳ.

    Biết viết gì đây! Biết nói gì?
    Lệ sầu loang lỗ, lúc phân ly.
    Kẻ về, người ở. Hồn thương nhớ.
    Vương vấn tràn lan, mỗi bước đi.

    Em tiễn anh đi, lúc xế chiều,
    Một mình trở lại chốni cô liêu,
    Xa xôi cách trở, ngàn thương cảm.
    Bỗng thấy tâm tư mến thương nhiều.

    Linh hồn ôm ấp hoa Violette ,
    Lê gót rời xa chốn viễn phương.
    Bến Tầm Dương trời xám sa lệ.
    Anh bước chân xa khúc Nghê Thường.

    Thương cho duyên kiếp mối tầm tơ,
    Ướt áo nàng Thơ, đứng đợi chờ
    Khói thuốc thả hồn theo ánh mắt,
    Nghẹn ngào vuốt mặt, tưởng mình mơ. (*)


    Bàn tay vấn vít bàn tay cho tim Mười tan ra trăm ngàn mảnh, lòng dạo khúc hoan ca mừng vui cuống quýt. Mười một giờ trưa, họ dìu nhau trở về trên con đường lộng gió. Bóng mát hai hàng cây xá lị ven đại lộ quạnh vắng. Dẫn qua lối Hotel Palace nên thơ. Họ không thấy mỏi mệt, lòng chợt lắng xuống với niềm vui thả bộ. Ôm mấy thứ lỉnh kỉnh, tay kia Nam nắm tay Mười như sợ em "thất lạc" mất:
    - Nếu em bị mệt mỏi, vì phải đi bộ nhiều hôm nay. Lát nữa về nhà, em pha khoảng trăm gram muối, vào nước ấm mà tắm. Hoặc ngâm chân trong xô nước ấm có pha muối. Em sẽ thấy dễ chịu ngay.

    Chưa kịp trả lời anh, nghe tiếng gọi tên mình ơi ới sau lưng. Mười giật mình quay nhìn: Nhan chở Nga bằng xe gắn máy, chạy về đường Trần Hưng Đạo. Hai cô nhìn Mười và cười tít mắt. Nhan giơ cao nắm đấm dọa nàng. Nga giơ cạnh bàn tay cứa lui cứa tới, ngang gáy Nhan. Chỉ về phía nàng. Họ cười ngất. Mười ngẩng nhìn anh, thỏ thẻ nói:
    - Chết rồi! Bị bắt gặp, mai mốt tha hồ họ làm tội, làm thịt em. Anh à.
    - Em có sợ không?
    - Ồ! Có chứ. Thầy Đệ còn sợ, nữa là em. Họ nghịch như "quỷ xứ". Nhưng... anh biết, ai là đầu đảng không?
    - Chắc là... em rồi đó.
    Mười nhìn anh, phì cười:
    - Anh đoán hay thật.
    - Không hay! Sao ngày đó, anh quen em được kià.

    Nàng kể nhiều chuyện đùa nghịch trong lớp, cho chàng nghe. Họ khoái chí cười to. Lúc đi ngang qua bưu điện, Mười ghé vào lấy thư lưu trữ. Đúng như dự đoán, có thư Nam. Thư Nam đã gửi trước khi đi cả tuần. Sau đó anh mới lên Đà Lạt. Thế mà người đã đến trước thư. Nàng nói “Nam đọc thư cho em nghe đi”. Chàng mỉm cười, cặp mấy quyển sách báo dưới nách, đưa chục hoa hồng, nhờ nàng cầm hộ. Xé thư ra, hắng giọng mấy lần lấy hơi. Như trêu đùa, Nam bắt đầu đọc:

    Saigon, ngày 26 tháng 10 năm l9.
    Thương Mười thân ái,

    Vừa ở thư viện về, Toma cho anh biết có thư Mười. Anh mừng quá, định lấy thư xem. Nhưng Toma không chịu đưa. Cầm phong thư, nó chạy lên lầu ba, lên sân thượng. Bắt anh chạy theo năn nỉ bằng một chầu ciné, ăn cơm tiệm ở Victory. Em ấy mới chịu đưa thư cho anh. Thế đấy.

    Mười ơi! (Em dạ dạ... đi) Khỏi cần dài dòng, em biết là anh nhớ em như thế nào rồi. Nhất là buổi chiều trời mây vần vũ trên Đô thành. Con đường Duy Tân xám ngắt như cuộc đời của chàng trai nhớ người yêu. Anh nhớ Mười. Anh yêu em. Lòng anh cố gắng gượng để khỏi thổn thức giữa cơn buồn. Anh ngồi đây giữa cánh thư màu xanh, với loài hoa Daisy. Tulip. Pensée. Mimosa. Violette. Forget Me Not. Cả loài hoa phù dung rất đẹp. Hoa qùy cánh lá toả rộng mọc dễ dàng, ở bất cứ nơi đâu. Không cần ai chăm sóc, vẫn xanh lá vàng hoa bốn mùa nữa chứ! A ha! Nói đến hoa phải nghĩ đến Đà Lạt. Nhớ đến hoa phải nhớ Đà Lạt. Chỉ vì ở nơi đây mới có đầy đủ một vườn hoa thành phố núi, đủ mọi loài tuyệt diệu. Trong thành phố hoa đó có cả người con gái diễm kiều độc đáo. Mà, anh rất yêu.

    Nàng ưa ép hoa trong trang sách học trò, đã trao tặng anh. Anh ngồi đây với suy tư chất chồng, qua phong cách viết đặc biệt. Lời lẽ em giàu chất thơ, pha lẫn tính bông đùa tươi trẻ của mạch văn. Khiến người đọc cảm thấy mình sống lại tuổi thơ rong chơi thuở thiếu thời. Em như viên đá lóng lánh chói sáng hơn viên đá qúy, mà anh đã gặp. Bởi thế, khi em phân vân hỏi anh: "Sao ở nơi xa hoa hào nhoáng. Anh không chọn ai, mà chọn em, giữa chốn gió núi mây ngàn nầy?"
    - Theo anh nghĩ, đó là một cách nói của người tự biết mình, và biết người nữa.

    Thương Mười yêu! Trăng đêm nay buồn như ánh đèn ngoài phố. Sao rơi rụng từng mảng u sầu. Mây xám nhạt từng cuộn lang thang trôi. Đại lộ càng về khuya, càng ít người qua lại. Khuya về trắng cả tâm tư. Tiếc rằng thiếu một cơn mưa phùn, cho trọn vẹn khúc nhạc thê lương đang trổi. Ngồi trên sân thượng, anh miên man nghĩ đến em. Nghĩ đến bóng hình tha thiết, bắt anh lo âu chờ đợi khi chưa nhận thư. (Dư âm đó, bây giờ còn thấy sợ. Mặc dù anh vừa đọc thư em). Nầy nhé! Anh ngắt em một cái, đền cái tội bắt anh đi bộ, theo em trên con đường mưa phùn. Anh nhéo em hai cái, đền tội giận anh, không thèm viết thư đều đặn như đã hứa. Cào em ba cái, bắt đền (nhè nhẹ thôi mà, hổng đau đâu) vì anh nhớ mong và trông chờ. Cấu. . . _______

    Coi kià! Sao em giựt cây bút, không cho anh viết tiếp hở? , anh giận em thật à. Ta giận nhau. Còn ai viết để anh lén đọc thư tình trong lớp học? Còn ai ngắm nhìn em, cho tình hồng dâng lên sóng mắt? Ai dìu em đi giữa buổi hoàng hôn sương trắng núi đồi? Ai đưa em về trên vũng nhạc, rừng thơ? Hai người cùng che chung một áo mưa, mặc cho gió bão gào thét trên đôi mái đầu! Ai đón em đi xem thắng cảnh Đào Nguyên thơ mộng: Cam-Ly, Prenn, Liên Khương, Gougah, Pongour, Suối Vàng, Suối Bạc, hồ Xuân Hương, hồ Lãng Ông, hồ Than Thở, Sân Cù, Rừng Ái Ân, Thung Lũng Tình Yêu, Đồi Thông Hai Mộ, cùng nhiều con đường mòn ngoằn ngoèo lượn khúc, uốn lên uốn xuống quanh sườn đồi có cỏ nâu vàng mịn óng như nhung?

    Thương Mười ơi! Anh yêu buổi chiều trời mây vần vũ. Thích lang thang theo cánh gió lạc giữa phố phường. Yêu cơn mưa phùn thật nhỏ vướng theo gót chân, trên con đường khuya vắng độc hành. Có lúc anh ngừng lại giữa lòng thế kỷ, kiếm điếu thuốc lá gài trên môi, ngửa mặt thổi ngụm khói tròn như chữ O, dần tản mạn trong không gian. Anh vuốt mái tóc phiêu bồng, rồi lặng lẽ thả gót giày trên phố hoang vắng. Trong tâm tư anh mang theo hoài bão, mộng ước thời mới lớn. Và một bóng hình bé nhỏ thân yêu, canh cánh bên lòng. Với biến cố lịch sử, qua bi hài kịch trong cuộc đời anh đã dự kiến. Tất cả... Anh cố tìm nguồn an ủi từ người em nhỏ ở phương xa. Nhưng sao anh không đủ can đảm viết thư. Dù trong thư anh chỉ viết vỏn vẹn có ba chữ: "Anh nhớ Em". Hoặc "Anh yêu em".

    Vì rằng... Mười tiết kiệm ngôn ngữ, bút từ ghê gớm. Khiến anh phải dè dặt. Nhưng... em hé mở cho người nhận thư một khung trời suy tư, mơ mộng, dạt dào cảm xúc dật dờ… Với hoài vọng và hy vọng. Có thế thôi.
    Vâng! Chỉ có thế thôi. Em không thể hồi đáp lòng khao khát, mòn mõi nhớ nhung nầy hơn, qua ba tiếng: " Mười ghét Nam”, hoặc “anh dễ ghét". Nếu em nói "phản nghĩa" ba tiếng trên, thì qúy gíá biết bao! Cay đắng với niềm xót xa muộn màng. Anh vẫn thầm bên tai Mười ba dấu: chấm chấm chấm ... (tùy em muốn nghĩ gì ở ba dấu chấm nầy thì ...) Mười ơi! (em hổng thèm dạ nữa nghen, cứ dạ hoài mệt lắm).

    Hôm nào nghỉ lễ, anh và hai bạn tên Ngọc Thạch và Tấn Trung, sẽ lên Đà Lạt quan sát tình hình vài ngày trước khi chọn lên học tại Viện Đại Học. Lúc ấy em có chịu đi dạo phố phường? Có vui vẻ chuyện trò? Có nhớ nhung, trong nỗi nhớ nhung tràn ngập cõi lòng anh? Có vui cho anh cùng vui ? Có cười cho anh tận hưởng dung nhan mùa xuân tươi mát. Nơi thiên nhiên đặc biệt ưu ái đến các kiều nữ xứ hoa đào? Có yêu, một tình yêu hồn nhiên, ngây thơ, trong sáng màu lá non?

    Anh mong Mười là gió, hầu thổi về dự định sông hồ, của người trai trước ngưỡng đời. Anh mong em là mây chở anh đến bến sông Ngân Hà ước mơ và hy vọng. Em là con thuyền vững chãi đưa nhau ra tận đại dương mênh mông. Nơi có nắng chói, biển cả, bầu trời. Lục địa ở phương xa. Có bến bờ tự do, hạnh phúc vĩnh cữu một đời. Có Anh và Em – Thương Mười có chịu để hai chúng ta ngồi chung thuyền không?

    À, nhớ viết thư đều nhe. Mười không viết thư, (nói nhỏ bên tai em nghe thôi, nhỡ các cháu nghe được, cười an, anh mắc cỡ, xấu hổ chết được, em à!) Anh sẽ lên Đà Lạt và khóc nhè ra, rống tướng lên. Cho em coi! Em dỗ mệt nghỉ à nha. Anh kính lời thăm gia đình chị Khánh, chị Lê, chị Hạnh, Thùy, các cháu. Riêng Mười của anh vui vẻ, mạnh khỏe, trẻ đẹp, vững tiến trên con đường học vấn.
    Thương nhớ chào em.

    Phương Nam.


    Thong thả dạo bước trên đường, vừa đọc xong, Hoàng bỏ thư vào phong bì, cất trong quyển "Kim chỉ nam của học sinh". Anh nghiêng đầu trên mái tóc Mười, mỉm cười, dịu dàng hỏi:
    - Còn "ghét" anh. Như em đã viết không?
    - Nếu em nói "phản nghĩa" lại... anh nghĩ sao?

    Nam muốn ôm Mười vào lòng, hôn nàng giữa lòng đại lộ thênh thang, nơi thanh thiên bạch nhật thế nầy, nhưng, anh sợ Mười mắc cỡ, dỗi hờn, viền mắt ướt long lanh, ngấn thủy tinh tròn bên khóe. Sợ nắng ấm thấp thoáng dưới đôi má ửng hồng, càng e thẹn. Anh sợ! nên không dám, chỉ âu yếm xiết nhẹ bàn tay, nhìn Mười nồng nàn, nụ cười dịu ngọt biết bao. Nam thân ái nói:
    - Chaneolier Oxenstierin đã nói: "Thân thiết mở cửa Ái tình, và đóng cửa Tình bạn". Em thấy sao?
    - Tình yêu có tình bạn hậu thuẫn. Tình bạn không nên kèm song song tình yêu, thì tình bạn sẽ vô tư, chân thật, bền lâu. Anh nhỉ!
    - Đồng ý.

    Tay trong tay, chàng khe khẽ ca bài "Mộng dưới hoa" của Đinh Hùng. Ồ. Thật không ngờ! Anh ca rất hay. Thế mà không biết, để Mười bắt anh ca hoài cho nghe. Tình xanh nhẹ như hơi thở, mỏng như làn sương, êm ái như nệm cỏ nhung mềm trên đồi, dịu mát như dòng suối quê hương, hồng thắm như cành hoa anh đào hé nở, tô điễm vòm trời Cao Nguyên thêm sắc, thêm duyên, thêm thơ mộng. Hai người mỉm cườI âu yếm chia tay ở đầu ngõ.

    Mười cất quyển sách, thay quần áo, rồi đi lấy nước cắm hoa. Bây giờ nàng mới thấy tờ giấy báo gói hoa hồng, rách te tua. Chục hoa cái gãy lìa cuống. Cái xù cánh rơi lả tả, trơ nắm nhụy vàng. Có búp chưa kịp nở, cuống hoa mềm èo, lúc lắc như chiếc răng rụng. Chỉ có năm hoa còn tươi. Nhìn bó hoa thảm hại hết chỗ nói. Mười loay hoay cắm hoa. Chị Khánh vào phòng khách, dừng lại nhìn, chị la em một hơi dài:
    - Trời đất qủy thần ơi! Con nhỏ nầy, sao ngu quá? Mua hoa, phải lựa từng cái. Đem về cắm ngay. Mang xuống hết dưới bếp, đổ đầy xô nước. Ngâm một tí. Rồi cắm vô lọ. Làm ăn như vậy. Có chết tui không! La cà ở đâu bây giờ mới mò về nhà, để hoa héo hết trơn vậy! Hả?!

    Mười sợ chị Khánh, chị khó tính và dữ như cọp! Nàng buồn cười khi nhìn bó hoa thật dễ sợ, cái gục đầu, cái xù cánh. Thấy mà ghê. Hoa hồng đi ngao du thắng cảnh với tình yêu. Nó cảm động. Thông cảm đến độ “gục gặc”. Xù cả tai cả tóc ra. Thế là nhất rồi. Còn gì bằng!

    Buổi chiều, Nam đến chào gia đình. Chị Khánh sai các em hái rổ mận giống Trại Hầm, chàng ra vườn hái mận giúp nàng. Vừa làm việc, nàng kể lại chuyện "Hoa hồng gục gặc xù lông nhím" cho Nam nghe. Hai người cười thật tươi. Quên cả mọi sự trên đời. Chị Khánh gói hai kí trà La Ba loại bạch mao, gói mận. Gửi chàng đem về làm quà biếu gia đình. Hai bạn nhỏ len lén nhìn nhau nheo mắt âu yếm mỉm cười. Ra dấu về bó hoa hồng như thầm nói: "Nếu chúng mình không đi bên nhau. Có lẽ hoa tươi không ủ dột, tàn úa nhanh. Trước thời gian đâu nhỉ!" Họ bắt gặp thoáng mắt trong veo, liếc nhanh về phía chị Khánh, nói với nhau lời chia tay thầm lặng. Mắt môi đã nói thay lời, họ quên hết mọi chuyện trên đời, quên cả trời choạng vạng, dù chưa tối, mà nhà nhà đã lên đèn.
    ***

    Nếp sinh hoạt bình nhật ở Đà Lạt, thành phố trên cao, sương mù mỗi sáng mỗi chiều. Đa số người dân sống êm ái hiền hòa, lặng lẽ, không huyên náo. Họ quây quần trong nhà, đêm đêm đi ngủ sớm. Ít khi la cà ngoài phố vắng. Khoảng mười giờ đêm thành phố hầu như chìm trong giấc mộng. Ngoại trừ những đêm có đoàn cải lương, đại hội ca nhạc kịch, phố thị huyên náo giây lát, lúc vào xem hoặc khi ra về. Sau đó sự yên tĩnh cố hữu, của thành phố thơ và mộng, được trả về với canh khuya đơn điệu ngàn đời. (Trừ người có công kia việc nọ). Ăn ngủ đều hòa, đa số người ta trắng da dài tóc, mập mạp hồng hào! Nếp sống người dân Đà Lạt hiền hòa như thảo mộc, ít khi có chuyện "động trời" khuấy động tính hiếu kỳ, hoạ huần nếu có chuyện gì xảy ra, chỉ mười ngày nửa tháng, rồi mọi chuyện rơi vào quên lãng. Thiên nhiên ưu ái đãi ngộ con người. Ban cho khí hậu thoáng mát. Tiết trời thuận lành, man mác, trong veo, vương đọng trên đầu cây ngọn cỏ. Tạo thành một Đà Thành lãng mạn đa tình, thơ mộng, duyên dáng và quyến rũ dường bao. Nên tâm hồn họ cũng có ít nhiều chất thơ. Chất nhạc đầy men tình nồng đượm hương yêu.

    Buổi sáng dậy sớm, Mười chui qua phòng chị Hạc, nằm nói chuyện. Chị đi làm thư ký đánh máy, kiêm bán hàng cho nhà sách Họ Nhà Thờ Chính Tòa. Chị hiền lành đôn hậu, chất phác nhất trong gia đình có mười người con. Chị dạy bảo em điều hay lẽ phải ôn tồn hoà ái. Không nghiêm khắc, la lối om sòm, như chị Khánh. Ai cũng sợ chị Khánh một phép. Mặc dù đôi khi cao hứng, chị Khánh kể chuyện vui buồn ngày trước, thuở gia đình còn ở làng quê. Năm 1925, ba má đi khai phá đất hoang ở vùng đất "Hoàng Triều Cương Thổ" Chị kể những gian truân khốn khó thăng trầm. Từ ngày gia đình thực sự bước vào con đường "vạn sự khởi đầu nan". Chị kể chuyện lưu loát, duyên dáng thu hút người nghe tài tình. Gia đình ngồi quây quần bên nhau vào lúc "trà dư tửu hậu". Há hốc mồm nghe chị nói. Chị pha trò khá hấp dẫn. Nhiều lần cười ngất, cười ra nước mắt. Thỉnh thoảng hoàng hậu Nam Phương, cho gọi chị vào dinh thự, để nhận lãnh phần đan, thêu, may, móc, cho bà và hoàng tử, công chúa. Tay nghề chị, ít có ai theo kịp.

    Chín giờ sáng, Mười, chị Hạc, đi ra chợ mua hộp dâu tây, trái hồng Đà Lạt tặng Nam để trả lễ hôm trước chàng mua quà biếu gia đình. Ngồi trên xe đò thấy chị em Mười đến, Nam vui mừng giới thiệu họ với hai anh: Trung dáng người trung bình không mập không ốm, da trắng trán cao, miệng rộng, mắt mí lót hơi nhỏ. Coi như Trung “lù đù”, nhưng coi chừng “lù đù có ông Cù độ mạng! Anh Trung có mộng ước sẽ trở thành bác sĩ, tận hiến muôn điều đã đạt được trong kiến thức, hầu giúp đời. Có thể thành công, vì anh xuất sắc từ mọi lĩnh vực. Thạch dáng người cao ráo, da ngăm ngăm, vài chiếc răng khểnh trông ngồ ngộ mỗi khi anh cười. Anh là thi sĩ My Sơn, có nhiều bài thơ Mười rất thích như "Viết tên Em" hoặc "Tôi sẽ kể", v.v...
    Nếu tôi xin phép viết tên em
    Gần với tên tôi gần một đêm.
    Em sẽ mỉm cười không nói.
    Hay yêu cầu đừng ai bán bút nghiên.
    Nếu tôi nói thật “tôi mến em”
    Em có bao giờ mở ngỏ tim
    Cho tôi cung kính vào thăm viếng...
    Để viết thành thơ và nhạc tiên?


    Hoặc bài thơ "Tôi sẽ kể" :
    Tôi sẽ kể, dù cho em có trách
    Chuyện chúng mình cho thiên hạ giải sầu.
    Bởi phụ phàng nào có lạ gì đâu!
    Yêu, đau khổ, vẫn thường trong thiên hạ.
    ... Nếu em biết: Tôi yêu em tình thứ nhất...


    Như bạn, anh học giỏi, làm thơ hay. Tuy vậy, anh thích trở thành một tổng lãnh sự. Một nhà ngoại giao. Một nhà chính trị lỗi lạc. Nam ước mộng sẽ trở thành phi công, giang hồ qua bốn bể, phỉ chí tang bồng hồ thỉ nam nhi! Ba người bạn chí thân có sở thích, sở trường, lý tưởng, hoài bão khác nhau. Thế mà vẫn hợp ý nhau kinh khủng.

    Mặc hai bạn nói với chị về chuyện nắng mưa Đà Lạt. Nam nhìn Mười tần ngần đứng nép bên hông xe. Em nhìn vu vơ lên khoảng trời cao lồng lộng. Anh thấy nắng yếu vương trong lòng mắt nàng. Gió bâng khuâng ngại ngần tiễn đưa nhau. Có khói lam cuộc tình quấn quít trên bờ môi vụng dại. Em đứng bên anh, nhưng bẽn lẽn vô cùng, đơn điệu vô cùng. Nhút nhát vô cùng. Bơ vơ vô cùng. Thương em, người yêu đơn sơ bé nhỏ, trước tương lai mù mịt xa xăm của hai người. Và vì thế, bỗng dưng nỗi buồn se sắt, thấm thía, dâng ngập hồn chàng thư sinh mặt trắng tay trơn trước đài danh vọng. Nam gục đầu trên đôi cánh tay, đan vào băng ghế trước khá lâu. Trung ngồi giữa, lấy cùi chỏ húc vào người Nam mấy cái, ra dấu cho Nam nên lịch sự, không buồn rầu gục mặt trước chị em Mười. Mười đá nhẹ hàng mi, mỉm cười thân ái. Xe từ từ lăn bánh. Hai anh bạn vẫy tay chào nói lời từ biệt với chị em nàng. Nam chào chị Hạc, rồi nhìn Mười đắm đuối, Nam thò tay ra hông xe xiết nhẹ tay nàng, qua tiếng thì thầm:
    - Tạm biệt em yêu dấu.

    Nam gục đầu lên thành ghế phiá trước, không nói thêm lời nào. Chị em đứng lại trên lề phố Hàm Nghi, trước cửa tiệm cà phê Domino. Họ nhìn theo lớp bụi nhỏ vướng theo bánh xe lăn. Mây chia ly phủ trên mảnhtim cô gái nỗi buồn nhẹ nhàng đằm thắm. Khởi đi từ phiến đàn lòng thứ nhất Mười đã biết ưu sầu từ đó, nhớ nhung từ đó, thiết tha từ đó.

    Phải rồi Nam ạ! Mười yêu chàng không biết nhân chia trừ cộng, không hề tính toán suy nghĩ thiệt hơn, một tình yêu chân thành, hồn nhiên vô vụ lợi. Em yêu anh, từ ánh bình minh đầu tiên bừng lên tia hào quang lấp lánh, xuyên qua kẻ lá chiếu trên đồi cỏ xa. Em yêu anh khi thành phố tỉnh giấc mộng. Chuyển mình qua mọi sinh hoạt thường ngày. Em yêu Nam khi gác chuông giáo đường cao vút tôn nghiêm thánh thót ngân nga. Mỗi sáng, trưa, chiều, tiếng chuông chiêu mộ con chiên trở về trong vòng tay từ ái, rộng mở của Chúa. Em yêu anh giữa biển sương mù trắng xóa núi đồi. Em yêu anh qua tiếng còi hụ báo hiệu giờ ngọ trên đỉnh nóc phố Khu Hòa Bình. Em yêu anh khi tia nắng cuối cùng chen lẫn màu hoàng hôn, và màu ven đêm lấp ló trên nóc chùa Sư Nữ. Khi cánh sao hôm nhấp nháy trên bầu trời bảng lảng gờn gợn lớp sương dày bao phủ núi rừng.

    Em yêu anh khi đêm sa hẳn trên phố phường, khuya về lạnh buốt, gió lồng lộng thổi quanh dốc đồi cao. Có con đường mòn chật hẹp bóng láng nằm duỗi mình giữa tháng năm dài. Có bước chân ai cô quạnh âm thầm đi về mỗi ngày buồn tênh. Từng mùa Thu lá rụng xào xạc bên suối vẵng tiếng mưa dầm rã rích suốt ngày đêm không biết mệt. Em yêu anh khi tiếng xe thổ mộ đầu tiên lóc cóc báo hiệu hừng đông, để người người đi họp chợ. Mặc dù em mỏi mệt gục đầu trên đôi cánh tay vòng trên bàn học. Trong giấc mộng thiêm thiếp chập chờn em biết ngày ngày qua tháng tháng, năm rồi lại qua năm... Trong cơn mơ, em vẫn gọi tên Phương Nam, và em yêu anh mãi mãi...

    Tiễn anh về quê mẹ, chưa bao giờ Mười buồn đến thế! Anh đã chia nửa hồn em, mang con tim đi trên lộ trình thiên lý, khuất xa nghìn trùng. Tình yêu nầy còn đọng lại trên giếng mắt, trên bờ môi vụng dại nụ cườI ngời sáng tin yêu. Trên đôi bàn tay em nâng niu, trang trọng. Tình yêu sống mãi trong tư tưởng, đầy luyến-lưu hồi tưởng trong tiềm thức từ hoài niệm Thương Mười...
    ***

    (*) Thơ Tình Hoài Hương


    Tình Hoài Hương
    Last edited by Tinh Hoai Huong; 11-22-2019, 08:11 PM.
    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

    Comment


    • #17
      Những Giọt Sương Giao Tình… Xứ Hoa Đào



      Những Giọt Sương Giao Tình… Xứ Hoa Đào
      Tình Hoài Hương
      ***




      Đêm Noel! Đêm về thật sâu lắng. Sương muối hạt to to mòng mọng tròn tròn lung linh là đà rơi đầy trên thành phố trầm lặng mà huyễn hoặc, nên thơ, thi vị và mơ mộng. Từng bè mây trắng xoá bay bay về cuối rừng phiêu lãng, cuộn thành từng lọn trắng bồng bềnh nhấp nhô lờ lững trôi trên không trung nhợt nhạt tan loãng. Gió lồng lộng lũ lượt thổi qua vườn thông sau đồi nhà, nhạc thông reo vi vu nghe lao xao, rì rào bất diệt.

      Bầu trời tỏa lạnh cùng khắp mạch núi rừng hoang dại, cái lạnh xoáy buốt se se thịt da mà ăn sâu vào lòng người buốt giá vô cùng. Phố núi Lâm Viên chìm sâu vào giấc mộng đào nguyên muộn màng, nhưng đầy thi vị và hữu tình biết bao! Mùi thơm muôn hoa trong vườn quyện lẫn mùi nhựa thông thoang thoảng đưa vào phòng, bất giác lòng tôi se lại qua khe rèm hở giữa hai cánh cửa chớp. Tôi hồi tưởng không biết bao nhiêu buồn vui xếp lớp lăn tăn, và nhịp tim dập dồn đập mạnh cuồng quay trong những phím loan.

      Sau khi các bạn đã đi rồi. Tôi tỉnh ngủ, nhưng vẫn leo lên giường nằm đắp mền kín cổ, nhìn mấy con thạch sùng cắn đuôi nhau chạy quanh ánh đèn néon. Lòng cảm thấy trống trải, ưu phiền, bâng khuâng vô ngần, chen lẫn nỗi buồn chán tiếc nhớ vẩn vơ, nghẹn ngào muốn ứa lệ. Tôi không thể hiểu tôi cần gì, muốn gì!? Bây giờ… Có thể “người ta” đang vui, tưng bừng rộn rã đón mừng đêm Noel, đang hoà mình vào làn sóng người lượn trên phố như trẫy hội. Chứ chả ai ngu dại trầm mình vào nỗi cô quạnh không cùng như tôi. Tôi hiểu rằng: Từng nầy cảm xúc, buồn phiền, tủi hờn, có thể quật ngã một con người khỏe mạnh, vui tươi nhanh chóng như vậy!

      Ừ nhỉ! Lẽ ra mình không nên “ác” với Phú trước mặt các bạn. Không nên diễu cợt tình cảm với Nam đến thế! Để làm gì? Tất cả những thứ đó chỉ là đùa trò trẻ con và lố bịch. Vì những tha thiết mặn nồng yêu thương chân thật, tôi có thể tìm thấy ở Phú (nếu không phải là người xưa, hay là ai khác). Thế nhưng, tại sao tôi lại chối từ Phú? Sao tôi nỡ lòng quay lưng ngoảnh mặt, “tự dày vò và làm khổ nhau” đến vậy không biết?! Tại sao? Hay chả còn bao lâu nữa, tôi sẽ lạnh lùng quay mặt về hướng khác, vứt bỏ sau lưng quãng đời dài thân thiết nhất? Dù những chuyện đó sâu thẳm như thung lũng tình yêu, hấp dẫn đầy ắp như chân trời hứa hẹn một tương lai tươi sáng đang bừng tỉnh?

      Bỗng chú kiến lửa cắn vào cổ tôi nhức nhối đau nhói. Tôi nhăn mặt xuýt xoa, vụt ngồi dậy. Tung mền ra, tôi quay quắt chà xát vào chỗ sưng vù và đau nhiều lần. Sợi dây chuyền (ngày xưa “chàng” trao tặng) vướng vít vào ngón tay, bị đứt lìa ra hai đoạn. Sợi dây chuyền nầy vào dịp Noel năm xưa, chàng đã ưu ái đeo vào cổ tôi, ân cần nói những lời âu yếm nồng nhiệt yêu thương xiết đỗi. Kỷ vật đó suốt tháng năm tôi mang trong cổ, dù qua thời gian bao giông tố vẫn không rời. sợi dây chuyền vàng có chữ H, là quà tặng đính ước của hôn phu đêm giáng sinh đã nói với tôi điều gì!? Tôi thấy trước mắt là những đợt sóng ngầm lạnh lùng xô bờ, vùi dập tan biến hình ảnh người yêu đã mất hút tầm nhìn vào vùng kỷ niệm tháng ngày qua.

      Nay đã xa rồi, nhưng bừng sống lại, khiến tim tôi đau thắt và sợ hãi kinh khủng. Tôi ngẩn người cầm hai đoạn dây chuyền đưa ra ánh đèn xem xét, lòng cảm thấy tiếc ngẩn tiếc ngơ. Dường như tôi vừa đánh mất một cái gì quý giá nhất đời: hầu như tôi vừa đánh mất một cánh tay, một bàn chân, một nhịp thở lỗi nhịp, một mãnh tim vỡ, một chéo mộng quan hoài. Trời! Xin đừng nhắc lại làm gì chuyện cũ, để vết thương lòng thêm héo hắt hơn.

      Bởi vì chuyện chia xa nầy rất phi lý là: do chính tôi đoạn tuyệt mối tình nên thơ êm đẹp rất trong sáng, đứng đắn đàng hoàng; cả hai người đối với nhau chẳng hề có lỗi lầm nho nhỏ nào (chỉ vì chàng ưa có thói buông thả tình cảm lả lơi đùa cợt tíu tít với mấy cô! Do lỗi tại tôi quá ghen, tức bực tự ý từ biệt, mà ra nông nỗi)! Muốn như thế, thì đừng khêu to đống tro tàn bên lò sưỡi. Đừng đốt thêm ngọn bạch lạp bên góc phòng xưa. Dư vị quá khứ đắng cay đọng trên lệ nến nầy. Khung ảnh gỗ xinh xinh lồng tấm ảnh chàng ngày ấy, nay còn trống chỗ, vẫn ở trên mặt bàn lạnh từ bao năm.

      Bản tính muôn thuở của tôi vốn dĩ không thích thay đổi, tôi rất mến yêu kỷ niệm, thủy chung. Kỷ vật đã yên ổn an vui trong vị trí tôi đặt để: Lọ hoa màu huyết dụ còn cánh nhung hồng héo úa gục đầu đơn lẽ. Bàn viết, ghế dựa, sách vở, bút viết, tạp chí, giấy trắng với bình mực tím vơi cạn. Những phong thư bạn bốn phương nằm im trong hộp đựng. Tủ quần áo, giường nệm độc thân y chỗ cũ. Chúng lẵng lặng nhìn chân dung bột màu do Kim Oscar vẽ hình tôi rất đạt, nét ủ dột thẩn thờ đã treo trên bức tường vàng lạnh lẽo. Tôi tin rằng mình không sai lầm khi con búp bê biết cười nói đặt trên giá sách do anh Phong gửi từ Mỹ về.

      Cạnh ô cửa là chú mèo lông xù của Thắng. Bên đàn gà mẹ gà con lít chít của Đan. Phía dưới là chú nai tơ xinh xắn của Phú ngơ ngác nhìn tôi buồn rầu đau đớn. Cạnh đó là gấu đen của Nam bừng giận lúc tôi chán chê cuộc đời. Trên tường là ống sáo đồng của Sanh. Mấy cành hoa giấy đỏ của Yến Nga. Lọ thủy tinh của Trúc. Hộp kính đựng cô gái Phù Tang của cô bạn Triều Nghi cúi đầu rơi lệ khi tôi khóc. Còn đây, gần khung cửa sổ là những kỷ vật của “người xưa”.

      Những món quà vô tri vô giác nhưng thiết tha trìu mến vô ngần: Chúng từng theo gót chân tôi phong trần đi đó đây suốt quãng đời dài, lẵng lặng “đồng cảm” vui buồn thương giận, yêu và đau khổ không thốt nên lời chăng!? Sáng, trưa, khuya, chiều, sớm, tối; “chúng” đã lặng câm chia sẻ nỗi niềm. Tôi yêu chúng, vì chúng đã tận hiến cho tôi bao kỷ niệm đắm say yêu kiều dịu ngọt lẫn vò xé nỗi đớn đau tận cùng. Chúng trọn vẹn tận hiến tôi một lần duy nhất trong cuộc đời vô tri, rồi lặng lẽ xếp đời vào niềm vui kỷ vật lăn lăn sóng gợn. Chúng trân trân nhìn tôi đắm chìm trong cơn mê, như muốn nhắn nhủ tôi điều gì!? Gợi lên lòng mình những bài học đã bị vùi quên vào dĩ vãng xót xa. Chúng nhìn tôi như thầm trách bao điều không thể nói được. Vì thế, chúng lạnh lùng câm nín giận dỗi giương đôi mắt nai tơ chối từ thân thiện.

      Cùng với sự giận dữ vô cớ bừng bừng dâng cao, phản ứng tuy vô tình nhưng chớp nhoáng, nhanh hơn nhịp đập tim co giật trong lồng ngực cuồng quay. Tôi nhảy phóc xuống giường, chạy đến mở cửa sổ, mạnh tay quăng hai khúc dây chuyền lủng lẳng chữ H vào đêm tối, xa thật xa khu vườn thông rợp bóng đêm. Gió lạnh ùa vào phòng tê buốt, khiến toàn thân tôi co ro, cúm rúm, mặt mày dúm dó, tái xanh, tay chân nổi ốc trâu sần sùi, hai hàm răng lập cập va vào nhau lộp cộp. Tôi bàng hoàng, xúc động, run rẩy ngẩn ngơ tựa lưng vào tường, đăm đăm nhìn giá sách mập mờ đong đưa kỷ niệm vàng son một thuở.

      Tại sao thế nhỉ?! Nhất cử nhất động hôm nay, là bước lại những bước chân quá thuộc lối trên nẽo đường mòn hôm qua. Ở mỗi lối ngoặt trong cơn lốc đều hiện rõ từng nét mặt thân thiết, ân cần mời gọi, nhớ nhung, mơ hồ, hay tuyệt vọng!? Cho dù sóng thần có cuốn phăng đi chân dung người tình và gió bão uà về xua mây mù che khuất nẽo tương lai. Thì cái thế trong tôi vẫn không nao núng cơ mà! Tất cả kỷ niệm xa xưa về cuốn phim tình ẩn hiện chập chờn trên sóng nhấp nhô, bừng sống trong lòng tôi, dù chỉ khoảnh khắc, nhưng rõ đến nỗi tôi nhìn trân trân vào bóng tối mà hình dung bước tình xưa rón rén bên hiên nhà, có tiếng thì thầm rất khẽ lời tỏ tình vụng dại giữa đêm đông!

      Bầy dế quay cuồng bay lượn reo hoan ca hát trong đêm muôn trùng, và bu quanh trên những ngọn đèn đường vàng vọt trước cổng nhà, vòng bay mỗi lúc một nhanh, khi chúng bay toả rộng ra, khi thu nhỏ lại, rồi bất thần chúng rơi phịch xuống đất. Ngay chỗ tôi đứng trên lầu một con cánh cam có lớp vỏ cứng bóng láng, ánh lên màu biếc xanh, trông rất đẹp, nó xòe đôi cánh cứng, bên trong lộ ra hai cánh màu nâu mỏng te, có nhiều sợi gân nổi trên lớp cánh thưa mềm mại, xinh xinh. Nó khéo léo uyển chuyển khép dần bốn cánh, coi thật gọn ơ. Nó lạI bay vù vù và bỗng dưng đập đầu vào ô cửa kính kêu cái cộp. Tôi mở cửa sổ ra, len lén thò tay nhón bắt con cánh cam, cúi xuống nâng niu trong hai bàn tay khẽ khàng bụm lại.

      - Thụy! Làm gì mà ngẩn ngơ ra vậy? Em?

      Giật bắn người, tôi bàng hoàng nhìn xuống đường, ngơ ngác ngó kỹ tìm kiếm trong bóng đêm khi ngờ ngợ nghe Cảnh gọi. Tôi cứ tưởng người đứng thấp thoáng dưới cánh cổng cao dày kia là kẻ trộm định leo tường vô nhà, mà run run. Con cánh cam thừa lúc tôi sơ hở không bụm chặt tay, nó vuột ra khỏi lòng bàn tay tôi, bay đi mất dạng. Những giọt sao đêm Noel qua ô cửa lấp lánh nghiêng mình vẫy gọi tôi vui mừng bước xuống lầu. Tôi đi trên lớp sỏi trắng nghiến lạo xạo dưới đôi dép da dọc theo khu vườn hoa đã thấm đẵm sương đêm, con lối rộng dẫn ra cánh cổng sắt rất to, dày và cao lút đầu người. Tôi do dự có chút ngỡ ngàng giây lát chào Cảnh, nhìn chàng chằm chằm, và tới gần cổng ngoài, tôi lách cách mở ổ khoá, rồi né qua một bên cho chàng vào. Cảnh bấm ổ khóa, quay nhìn tôi mỉm cười, e dè hỏi:

      - Trong nhà đi lễ hết rồi sao? Em!?
      - Dạ vâng. Chẳng còn ai.
      - Anh đến bất ngờ. Xin lỗi em.
      - Ư hừ…
      - Em dám ở nhà một mình?
      - Sao lại không.
      - Ghê ha.
      - Lẽ là người thì xa lạ. Còn ma quỷ sợ em, chẳng dám tới đây quậy phá.
      - “Yên hùng” hơn anh rồi.

      Cười tít mắt, tôi đi dẫn đường trước, anh theo sau bước vào phòng khách, tôi trêu ghẹo Cảnh:
      - Anh không sợ gì bằng sợ bị ký củ ngày Thứ Bảy, Chủ Nhật. Nên anh thấy em “yên hùng” hơn anh. Ha!?
      - Em nhảy dô trong tim đen của anh rồi còn gì…
      Tôi cười, nụ cười ngọt hơn mía lùi. Tôi nói:
      - Mời anh ngồi tạm, để Thụy đi “pha chút ấm áp” nha.

      Cảnh cười hì hì. Cảnh ngồi vào chiếc ghế bành da. Tôi loay hoay dưới bếp cắm điện, pha cho anh ly cà phê sữa bốc hơi thơm phức. Bưng ly cà phê ra đặt trên bàn, tôi mỉm cười thân thiện mời anh. Cảnh mồi diêm hút thuốc, anh nhả khói thuốc thành từng vòng chữ O uốn khúc bay lượn lên trần nhà. Dường như anh gắn chúng với dòng suy nghĩ, đắn đo nào đấy. Tôi lại trở vào bếp làm cho anh bốn miếng bánh mì lát kẹp thịt nguội quẹt bơ và ba tê. Khệ nệ bưng dĩa bánh ra, tôi vui vẻ ngồi xuống ghế đối diện Cảnh. Chúng tôi nhìn nhau mỉm nụ cười vu vơ. Tôi cũng hồn nhiên ăn lát bánh lạt phết chút đường và bơ.
      Bất ngờ tôi nghe anh nói:

      - Ngày lễ trọng đại, vui vẻ vậy, mà em không đi chơi đâu sao?
      - Biết đi đâu bi giờ! Anh!
      - … Anh được trường cho phép đi ra phố. Cố ý đến thăm em, anh cứ do dự, lo lo, thắc mắc riết. Anh đi qua đi lại ngoài đại lộ mấy vòng rồi. Anh thấy nhà tối đen, tưởng là không có ai ở nhà. Nào ngờ có em. Vui quá và may mắn thật.

      Bây giờ tôi mới để ý thấy trên góc kệ cạnh cái bàn tròn có gói quà nho nhỏ thắt nơ hồng. Cảnh để xuống đó từ lúc nào.
      - Anh có món quà mọn nầy gửi tặng em.
      - Anh đến thăm em, dù bất ngờ... nhưng vui rồi, quà bánh làm gì anh.
      - Em vui là anh mừng húm.

      Tôi mỉm cười nhìn Cảnh giả vờ trợn mắt lên, rồi nheo nheo chớp chớp. Cảnh cũng không vừa, anh đá lông nheo kịch kịch. Chúng tôi cười to.
      - Thụy nghĩ sao về việc chúng ta được quen biết nhau?
      - “Được” quen biết nhau?!
      - Chính vậy.
      - Nếu anh nói “được”, thì em trả lời “rất hân hạnh”. Còn anh nói “bị”, thì em trả lời “không có chi”.
      - Một câu đáp lễ sâu sắc.
      - Còn anh nghĩ sao khi hỏi em câu đó?
      - Sau bóng mây đen cùng cơn gió lộng, sẽ có trận mưa dầm ấm áp mát mẻ, giống như trời Đà Lạt luôn trong lành thoáng mát thi vị ấy em à.
      - Chưa hẳn thích.
      - Bởi vì chưa quen. À... Ngày mừng Tết Dương Lịch, anh có nhã ý mời em vào trường Võ Bị dự buổi dạ tiệc. Hen!
      - Sao anh mời em? Em thiết nghĩ chị Dung thân anh hơn em nhiều.
      - Thân không có nghĩa là thương. Thương lại chưa hẳn là yêu say đắm. Nhất là Dung kia không phải là Thụy nầy.
      - Em chịu thua.
      - Có nghĩa là em từ chối khéo ha?
      Tôi cười cười, vui vui nhìn Cảnh giả lả:
      - Anh nghĩ sao về việc kia?
      - Dễ thương đến thế là cùng.

      “Dễ thương” theo nghĩa của Cảnh vừa vang lên nghe hay hay thế nào ấy! Nó ẩn chứa cái gì đó vừa hờn mát, trách yêu, lẫn dịu ngọt, hóm hỉnh ân cần vẫy gọi nhau thân thiết, như nước suối giao hoà rì rào se sẻ chảy qua bờ bụi lau lách. Giống vết điêu khắc thần tiên sống động của nghệ nhân tài ba tạt trên đá. Không có nét “dễ thương” thì bức vẽ sẽ vô cảm, vô hồn. Tuy thế tôi không thể dễ dàng, tự do, nhanh chóng, đường đột nhận lời Cảnh đi vào trường Võ Bị ngay. Vì; đây là lần đầu tiên tôi trực diện Cảnh, (trong căn nhà vắng lặng đến rợn người và… khuya khoắt hoang sơ thế nầy) cùng trao đổi chuyện trò với người thanh niên mới quen biết vài tháng trước, cũng là điều quá đáng lắm rồi.

      Chúng tôi ngồi nói chuyện về gia đình cha mẹ, bầy em của anh, Cảnh là anh Hai, trai trưởng mà! Tôi cũng nói về gia đình cha mẹ, anh chị, các cháu của tôi. Chúng tôi vui cười về vài sự kiện nào đó. Tếu tếu dí dỏm vui đùa nói với nhau những câu vớ vẩn, không thân mà chẳng nhạt, đôi khi đắt ý qua vài vấn đề nào đó, lại nhìn nhau đá long nheo kịch kịch khúc khích cười. Thế rồi không ngờ trong “tâm đầu ý hợp” vô tình và vu vơ pha chút thi vị lãng mạn, chúng tôi chụm đầu vào nhau, luyến lưu viết thành bài thơ:

      Tình Sương Cỏ

      Muôn thuở tình anh sương về bên cỏ.
      Thao thức đêm trường chuyện ảo không thôi.
      Cọng cỏ rung rinh môi hứng sương rơi.
      Thời gian lắng đọng sương giao tình đó.

      Bẽn lẽn thẹn thùng cùng sương nói nhỏ.
      Trăng tàn sao rụng sương giọt tinh mơ.
      Sương rơi lốt đốp lá cỏ đợi chờ.
      Cỏ ẩn vào sương bên bờ sông ướt.

      Đào Nguyên thơ mộng cỏ non xanh mướt.
      Đà Lạt ru đời hòa nhịp hoan ca.
      Cọng Cỏ dầm sương kết lá đơm hoa.
      Dãi dầu mưa gió giao tình muôn ngả.

      Mộng ước đêm dài luyến thương nhánh cỏ.
      Nhạc sương gieo tình cọng cỏ tơ vương.
      Nhún nhảy dưới trăng hoa cỏ ngậm sương
      Sương rơi rụng ướt cỏ vườn đêm vắng.

      Bông cỏ ngậm sương nở hoa trăng trắng.
      Tình yêu thiên nhiên quyện lẫn cỏ cây.
      Nghê Thường luân vũ tấu khúc đêm nầy.
      Sương tưới cỏ đời ngạt ngào hương ngát...
      (*)

      Chuông giáo đường rộn ràng ngân vang báo hiệu giờ tan lễ nửa đêm Noel. Biết anh chị Tuế đi lễ sắp về, từ giã tôi, Cảnh đi ra phố, anh đến tạm nghỉ ở nhà của anh chị bạn ngoài đường Phan Đình Phùng.

      _ * _

      (*) Thơ Tình Hoài Hương


      Tình Hoài Hương
      Last edited by Tinh Hoai Huong; 11-22-2019, 08:12 PM.
      Bút trần nào tả được lưu luyến!
      Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
      Tình Hoài Hương

      Comment


      • #18
        Hương Trầm Dạ Khúc NOEL



        Hương Trầm Dạ Khúc NOEL
        Tình Hoài Hương
        ***




        Noel xưa anh nhớ
        Khi hãy còn yêu nhau
        Nhà thờ nơi cuối phố
        Thấp thoáng sau ngàn dâu
        Anh chờ em đi lễ
        Chung dâng lời nguyện cầu...
        Mimosa mimosa bừng nở
        Đẹp như tình ban đầu


        Đêm Noel Đà Lạt khai sinh Mười với tuổi xuân hồng phới phới rót mật vàng từ thinh không xuống lòng phố nở hoa mùa đông. Gió cuối đông lồng lộng thổi về làn hơi buốt giá tê người. Bầu trời ướt đẫm sương đêm, một Noel tuyệt vời ngọt ngào ngây ngất, đầy hương vị tình yêu miền núi. Từng hồi chuông dài ngân nga giữa đỉnh đồi bay qua các sườn dốc, các khe thung: tiếng chuông mừng vui réo gọi hoan hỉ reo vang cùng thế nhân. Một đêm hội lịch sử đón chào Chúa Giáng Sinh 24 tháng 12: là đêm lạnh lẽo buốt giá hạnh phúc vui vẻ tưng bừng rất mùa xuân. Mười chợt bừng tỉnh giấc ngủ nồng say. Sau mùa Thu héo úa, rồi mùa đông buốt giá gần tàn. Thỉnh thoảng gió thổi qua mát rượi khiến lòng cô em xôn xao, đủ làm cho da người con gái xứ lạnh càng thêm thắm hồng, dấy động từng thoáng nhớ đắm say, vấn vương, ngọt ngào mãi không rời, qua tiếng tơ lòng dìu dịu rung ngân trên mỗi phím loan.

        Hàng cây tối mờ trong lớp sương mù dày bao bọc vòm trời ẩn hiện ánh đèn vàng vọt mờ nhạt ở đầu phố, tạo thành nhiều đóm sáng bất động. Các mái nhà dưới thấp trên cao chênh vênh bên sườn đồi thoai thoải. Những con đường mòn chạy dài xuống thung lũng âm u, văng vẳng đâu đây tiếng lao xao cười nói ồn ào. Nhiều tốp nam nữ thoáng chốc đến nhanh tấp nập ra phố đêm đi dự lễ. Trên các nẻo đường lớn trong thành phố, người đi kẻ lại đông vô số kể. Họ khoác bộ cánh rực rỡ, áo lạnh khăn quàng, găng tay, mũ len đủ mọi màu sắc. Phố phường tưng bừng rộn rã hoan ca khác hẳn ngày đầu đông ở xứ lạnh. Người người vui vẻ cười đùa chuyện trò ríu rít, họ đi lại ngược xuôi chen lấn nhau trên đại lộ. Không chiếc xe nào có thể qua lọt giữa rừng người đang bách bộ đông như kiến. Người ta vui vẻ nói cười, không cần biết những ông cảnh sát đang vất vả làm việc lưu thông không ngưng nghỉ.

        Ở trong nhà: Bảo, Quốc Toàn, Thịnh, Trình loay hoay trang hoàng cây thông cao quá, đọt đụng trần nhà bị cong hẳn lại, Bảo phải cưa bớt một đoạn dài. Sau đó các cháu móc đầy dây kim tuyến, ngôi sao, quả cầu đủ màu sắc, thiệp Noel, thiên thần, ông già Noel, và giăng nhiều đèn màu chớp tắt. Dưới gốc thông có những gói quà nho nhỏ, xinh xinh, gói bánh, kẹo, đồ chơi linh tinh... Nhạc giáng sinh trỗi lên tưng bừng nhộn nhịp, hoan hỉ vui vẻ trong căn nhà ấm áp. Tiếng cười con cháu vang khắp nơi, ngôi nhà bây giờ vui như mở hội. Sau nhà ngang: chị Khánh, bà bếp chiên xào nấu nướng các món ăn thơm phức. Họ chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ, lát nữa đi lễ về là gia đình ăn réveillon. Ăn cơm tối xong, Mười quét dọn, lau chùi nhà cửa sạch sẽ tươm tất. Mười ủi áo quần cho gia đình, Mai vừa lau bụi trên các kệ sách, nó nói:
        - Hồi chiều, có anh Phú, Lễ, Tài, Vinh, đến nhà mời chị em mình, chín giờ rưỡi lên Couvent xem lễ, chứ ở nhà thờ con gà đông lắm! Rồi kéo nhau về nhà họ ăn réveillon, mở party... Em chưa kịp nói gì, thì anh Nam đến.
        Ngạc nhiên, Mười ngừng ủi áo, ngẩng nhìn em, hỏi:
        - Anh Nam gặp Phú? Họ nói chuyện vui vẻ há?
        - Coi chừng cháy áo. Chị "táp pi" em tới tấp à? Họ chào hỏi nhau, vui vẻ cả làng.

        Hồi chiều Mười bất ngờ thấy Nam ngoài phố, lòng Mười đã rộn ràng, xao xuyến, mừng rỡ. Về nhà Mười dấu kín niềm vui, giả vờ như chưa biết gì. Phần các cháu muốn Mười có chút bất ngờ thú vị, nên chúng cũng không nói Nam từ Sài Gòn đã lên Đà Lạt. Tâm trạng Mười lúc này thật kỳ, vừa mừng vừa lo, bồi hồi, quắt quay với nỗi mong chờ. Bây giờ nghe cô em vừa nói, lòng nàng nao nao, băn khoăn bồi hồi. Lãng mạn không? Nhắc đến Nam, Mười quên hết mọi sự, tươi vui nét mặt ngay, mọi thứ bỏ sang một bên. Khi tình yêu đến có khác gì cây khô gặp mưa thuận gió hòa trở nên xanh tốt. Muốn sớm gặp người yêu, nàng nôn nao, vui mừng, thấp thỏm, không yên ổn ấy mà.
        - Chị cũng đi lễ với các anh kia chứ?
        - Đi sao được!
        - Đến nhà Phú xí, rồi chị về đi lễ với anh Nam. Không có chị, chẳng vui.
        - Đủ rồi. Em không chuẩn bị gặp người yêu sao?

        Mai cười hì hì, nàng mặc sẵn áo dài mới màu xanh nhạt, điểm cánh hoa vàng nhỏ rải rác trên tà, quàng chiếc manto đen. Từ khi có "bồ", thì vấn đề ăn mặc trở nên cần thiết với Mai, quần áo tuy lèng xèng giản dị, nhưng tươm tất. Nàng nghĩ: Dù sao nên "giữ kẽ" một tí, diện một tí, xuềnh xoàng quá coi cũng mất mặt bầu cua. "Quen sợ dạ, lạ sợ áo quần" mà!

        Mười đi lên, đi xuống con dốc mờ tối năm bảy lần, chờ đón, ngóng trông Nam kinh khủng. Ruột nóng như lửa đốt. Dưới ánh đèn vàng vọt đầu phố, hàng cây tối mờ, bụi qùy cánh lá xòe to nham nhám, thấp thoáng nhiều bông hoa màu nghệ, nhụy nâu nở hết cánh trông vui mắt, chúng nép mình dưới chân vách đá. Các mái nhà dưới thấp, trên cao, chênh vênh bên sườn đồi thoai thoải, chạy dài xuống thung lũng âm u, có ánh đèn mờ nhạt chiếu ra, tạo thành nhiều đóm sáng bất động, lớp sương mù dày bao bọc cả vòm trời. Cuối sân sau trường kỹ thuật Lasan, bờ khe nhỏ ăn xuống phiá dưới, khe mương nước chảy một bên đường.

        Thỉnh thoảng có vài hòn đất, đá lăn trên khe cao rơi xuống. Một tiếng "bủm" khô khan to và lạnh lùng. Mười dừng lại, nhìn về phía đó đăm đăm, văng vẳng đâu đây tiếng lao xao cười nói ồn ào, thoáng chốc đến nhanh. Tốp nam nữ tấp nập ra phố đêm đi dự lễ, hình như có tiếng ai nói gì trong bóng tối, nơi ánh đèn đường không dọi tới. Ai nói gì vậy!? Coi vậy nàng nhác gan ghê! Có cái gì khiến Mười nhìn ra đầu đại lộ Yersin? Năm ba cây anh đào hoa nở rộ cài cánh hoa mong manh, ẻo lả, trên cành trơ trụi lá. Đồi thông rì rào trò chuyện dưới thung lũng, khu đất nhà ông Nguyễn Đệ rộng mênh mông, thì có gì để nàng phải đăm đăm nhìn về hướng đó, lòng thấp thỏm bồn chồn âu lo quá đỗi?

        Chiếc taxi ngừng lại ở đầu dốc; Nam bước xuống, chàng mặc bộ veston mùa đông màu đen, cà vạt mầu nâu non ôm kín cổ áo sơ mi vàng nhạt, áo pardessuis màu kem vắt trên vai như khách lữ hành ngày xưa mà Mười mới gặp. Nam mang đôi giày da thời trang cùng màu với bộ veste. Mười cười rạng rỡ, rảo bước về phía Nam. Dưới cột đèn đường khi Nam nhìn thấy Mười, anh âu yếm trao nàng nụ cười tươi thắm, Nam nhận tình em yêu bằng cách chàng tìm bàn tay Mười trong bóng tối, ánh mắt tha thiết nồng nàn hơn. Nam nắm tay Mười đi xuống dốc. Nàng líu lo:
        - Sao anh không viết thư, báo tin trước. Em sẽ đi đón?
        Nam im lặng đưa Mười quyển album, hộp bánh, quyển "Trau Dồi Ý Chí" của Claude Maillard, một hộp nho nhỏ bao giấy kính vàng, cột nơ hồng (quà gia đình các anh chị, các cháu, thì Nam đã đem đến hồi chiều).
        - Anh lên đây hồi nào vậy. Nam?
        Chàng siết chặt tay nàng, khẽ thở dài, Nam không nói: Mặc cho Mười ríu rít hỏi chuyện, anh chỉ cười cười siết chặt tay Mười im lặng. Dừng lại dưới ánh đèn, nàng giựt tay ra khỏi tay Nam, ngẩng lên, hỏi:
        - Giận em à, hở anh?
        - Mười đi đâu, từ sáng sớm đến tối mịt vậy em?
        - À, em đi xuống Cầu Đất với mấy nhỏ bạn, làm chuyện tào lao, ngu ngốc. Anh lên đây, em rất mừng, anh à.
        - Biết có "họ", thì anh hổng thèm lặn lội từ Sài Gòn lên Đà Lạt để dự lễ Noel đầu tiên của chúng mình đâu. Mười có vài chàng trồng cây si, cây mơ. Thì… nhớ gì đến anh, mà mừng vui hé. Các bạn ấy đã chờ em suốt buổi chiều đó.
        - Tự họ qúy mến cả nhà. Chẳng riêng ai. Không vì ai, anh ơi!
        - Chưa chắc à. Hai người tiếp tục đi xuống con dốc nhà:
        - Anh thấy Nghi “là bà con xa xa" của em đã đến đây.
        - . . .
        - Ủa! không bà con sao? Vậy không lẽ… họ là “bạn yêu” của chị Hạc?
        - Mỉa mai gì ác thế? Em yêu anh nhiều mà.

        Cảm động trước câu nói bất ngờ, Nam nhận tình em yêu bằng cách chàng tìm bàn tay Mười trong bóng tối, ánh mắt tha thiết nồng nàn hơn. Nam không nỡ trêu chọc nàng, sợ Mười hờn dỗi, thì mất vui. Họ sợ chị Tư "nom thấy" nên vội buông tay nhau khi đứng trên thềm nhà.

        Nam, Mười, cùng các cháu đi lễ đêm Noel. Họ đi trong lòng phố giá băng buốt lạnh, mang trong lòng niềm hân hoan yêu đời, vui vẻ hạnh phúc, bình an, tuyệt vời nhất. Thỉnh thoảng gió đông thổi qua mát rượi, đủ làm cho da người con gái xứ lạnh càng thêm thắm hồng. Noel khai sinh tuổi xuân hồng phới phới đang rót mật vàng từ thinh không xuống: lòng phố nở hoa mùa đông trên đỉnh đồi mù mịt sương muối và trong cánh đồng thương yêu của Nam và Mười. Một Noel tuyệt vời ngọt ngào ngây ngất, đầy hương vị tình yêu miền núi. Từng hồi chuông dài ngân nga giữa đỉnh đồi, qua các sườn dốc, các khe thung tiếng chuông mừng vui réo gọi, hoan hỉ reo vang cùng thế nhân đón chào ngày Chúa giáng trần.

        Hai vì sao sáng nhất thân ái quỳ gối bên nhau trò chuyện trên bến Ngân Hà. Vành trăng khuyết lơ lửng như chiếc thuyền con trôi đi trôi về giữa các tầng mây. Noel là một lễ giáng sinh tuyệt diệu, hạnh phúc nhất của đời cô gái mười sáu tuổi chớm lớn. Và, có lẽ là một Noel tươi đẹp thú vị nhất của một chàng trai mười chín tuổi. Lòng Nam và Mười xôn xao dấy động, họ vui không thể tả. Tay trong tay tình nồng trong mắt biếc trao đưa, đôi mái đầu xanh chụm lại, cùng dạo bước bên nhau quanh khu trường học.

        Các cháu vào hội trường xem học sinh trường trình diễn văn nghệ. Triển lãm tranh ảnh. Bích báo. Tuần san. Máng cỏ. Riêng “hai anh chi”̣ ngồi ngoài băng ghế đá, cạnh vườn hoa trước nhà thờ Dòng, chàng lấy trong túi áo veste ra hộp sơn mài nhỏ, có sợi dây chuyền vàng l8k, mặt chữ NM. Anh đeo sợi dây chuyền vào cổ Mười, âu yếm nói:
        - Kỷ niệm dù bé nhỏ, vẫn có giá trị về hạnh phúc một đời. Ta cảm ơn Chúa cho chúng mình gặp nhau, yêu nhau. Em nha.
        - Dạ phải.
        Vuốt lọn tóc buông dài trên bờ vai Mười:
        - Mái tóc em dài, anh rất thích, đừng cắt ngắn nghen.
        - Anh khen quá, em bể lỗ mũi, chết à.
        - Ơ kìa! Ai khen em mà bể mũi. Mắc cỡ chưa!
        - À há. Chi mà dị dạng rứa hè. Anh là khách lữ hành, dù đất lành chim vẫn chưa đậu. Rồi chốn phồn hoa đô hội cũ sẽ gọi anh quay về thôi. Có gì mà không bể mũi em chứ.
        - Phượng hoàng đã gãy cánh trên đôi vai nầy rồi.

        Vỗ vỗ trên vai Mười, Nam nói lời dịu ngọt, Nam nâng niu lọn tóc dài xõa bên má và đưa lên môi hôn. Mười cắn nhẹ làn môi, đầu nghiêng hẳn lên vai chàng. Hơi thở Nam ấm nồng, phả nhẹ vào mái tóc Mười như làn hơi sương nhút nhát mà ấm áp. Ngón tay thư sinh trắng trẻo mềm mại truyền qua làn tóc mỏng xõa trên vai Mười cảm giác đằm thắm, lâng lâng ngọt ngào dễ chịu. Nam biết, nếu anh cúi xuống đặt lên môi Mười nụ hôn đầu tiên, có thể nàng không phản đối; Nam đắm mình trong hạnh phúc bất tận, ngây ngất niềm vui dạt dào. Nam nâng niu, trân trọng mối tình nên thơ, hồn nhiên nở hết cánh trong đôi trái tim chân thật. Sao lạ quá! Cũng như lần Nam gặp gỡ Mười trước kia, ý nghĩ về việc Nam muốn ôm ghì Mười vào lòng mà hôn, cho thoả những nỗi niềm nhớ nhung bấy lâu Nam vẫn nung nấu trong lòng. Nhưng rồi… Nam nhìn Mười hồn nhiên và giản dị ngây thơ, thì Nam cố gắng “đè nén” xúc cảm và rạo rực… chìm xuống xí. Cứ vẩn vơ nghĩ đến là Nam cảm thấy người mình nóng rang trong trạng thái lâng lâng dật dờ rất khó chịu…

        Tiếng chuông báo hiệu nửa đêm ngân dài giữa vùng núi đồi trùng điệp chập chùng. Biển sương mù trắng xóa, thì hai người dìu nhau vào giáo đường xem lễ. Nam dâng cuộc đời, tình yêu nầy và tương lai cho Chúa Hài Đồng gìn giữ. Sau lễ Nam về nhà chị Khánh ăn mừng, không khí gia đình ấm cúng, thân mật. Ba giờ khuya, chàng từ giã Mười để về nhà Tuấn ở cuối đường Hoàng Diệu. Chàng sẽ không bao giờ quên kỷ niệm vàng son một thuở yêu nhau, không thể nào quên… dù mai đây thời gian trôi chảy mãi, đời mỗi người trong hai chúng ta sẽ xa cách, phai mờ đi. Cuối cùng tình yêu nầy vẫn sống mãi trong tiềm thức, trong tư tưởng mỗi người.

        Một mình Nam đi trên lòng phố vắng hồi lâu, chàng còn nghe rõ tiếng gót giày cô đơn thong thả gõ lóc cóc lộp cộp đều đặn trên mặt nhựa đẫm sương mù, giống như Nam đang đi trên dòng thác vừa tráng thêm lớp men tình. Sương rơi lốp đốp trên cành, hạt sương mọng tròn long lanh như ngấn lệ đọng, sương đậu lại đầu ngọn lá rung rinh dưới ánh trăng nhạt nhòa. Sương phủ trên thân Nam tê buốt thịt da. Nam dừng lại giữa lòng thế kỷ, lần tay tìm trong túi quần gói thuốc, hai lòng bàn tay Nam lạnh lẽo khum khum che đốm lửa, điếu thuốc gài lên môi. Nam ngửa mặt lên trời thả ngụm khói tản mạn trong không trung quyện lẫn hơi sương ngút ngàn bay bay.

        Nam cảm thấy đơn điệu cô độc lạ thường đang choàng vô cái khuya buốt lạnh, giá băng, im ngắt đến ghê rợn. Đường về khuya tại thành phố Đà Lạt trữ tình càng hiu hắt hoang vu, khuya thăm thẳm, sắc bén ăn sâu vào lòng du khách, khuya lạnh lùng vây bọc nhận chìm Nam trong đam mê ngút ngàn phong thổ. Ngàn đời xứ Cao Nguyên Lâm Viên vẫn không thể mất đi vẻ thơ mộng, hữu tình, tràn lan quyến rũ, trọn vẹn những tấu ca hương trầm dạ khúc đêm trường qua cung đàn đắm say trần thế: Thôi thì anh xin hưá: Anh là Sương, em là Cỏ: chúng ta sẽ vĩnh hằng nha em:
        Mây lang thang tình chẳng nhạt phai
        Cỏ tàn rồi sương rớt với ai?
        Mọi chuyện từ nay sương xin hứa
        Đến cùng nhau, thôi nói chuyện dông dài.

        Tuy vui tính nhưng ta chưa hề
        Đến với ai kết mối duyên thề
        Đem ân tình gửi theo sương gió
        Nếu không tin: Cọng cỏ đã nghe.

        Lời hẹn hò từ thuở bến mê
        Có lần quên mất lối sương về
        Nay trao nghĩa cỏ ân tình trọn
        Đào nở Đà Lạt cảnh suối khe.

        Anh và em vui tình nước non
        Câu thơ tiếng nhạc mảnh trăng tròn
        Tha phương vẫn giữ lòng chung thủy
        Ấp ủ suốt đời một tấm son.

        Đôi kẻ dìu nhau dưới bóng trăng
        Rì rào sóng vỗ cuối trường giang
        Yêu anh em kính, luôn trân trọng
        Sương muộn trong tim cỏ vĩnh hằng. (*)

        (*) Thơ Tình Hoài Hương
        ***

        Tình Hoài Hương
        Last edited by Tinh Hoai Huong; 11-22-2019, 08:23 PM.
        Bút trần nào tả được lưu luyến!
        Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
        Tình Hoài Hương

        Comment


        • #19
          Hương Tình Ngất Ngây Lắng Đọng Niềm Khát Vọng…



          Ngất Ngây "Tình Tu Huýt"
          Tình Hoài Hương
          ***




          Nhiều cuộn mây trắng lững lờ gợn trên lưng trời sáng bạc thêm óng ánh, mây là đà in bóng trên mặt hồ Than Thở, thoáng chốc mây trôi về chân núi Lâm Viên. Khi nắng ươm hồng những cành hoa anh đào lả lơi chúm chím nụ hồng xinh xinh, cánh lá nhung lam mông mốc mươn mướt rung rinh, từng chùm mimosa vàng lác đác phấn e ấp run run theo gió, hoa mimosa tỏa mùi hương thoảng nhè nhẹ là lạ vì mùi hoa hơi hăng hắc. Từng đàn chim én thoăn thoắt chao liệng trên không trung, chúng bay bướm vẽ những đường cong khá lả lướt, ngoạn mục. Bao tiếng chim ríu rít rủ gọi nhau về mở hội ngày đầu năm mới ở hiên ngoài.

          Cảnh đến thăm tôi vào một ngày Chủ Nhật. Cảnh: Dáng người to to, cao cao, mái tóc quăn quăn gợn sóng cắt ngắn ép sát vào gáy, dưới vầng trán rộng và cao là cặp lông mày rậm nhưng không dữ dằn, đôi mắt hai mí to và đẹp, hàng mi cong cong, miệng rộng, nụ cười tươi với hàm răng trắng bóng khá đều, mũi lân to bè khoan khoái, làn da Cảnh ngăm ngăm nhuốm ít phong trần. Nói chung chung gương mặt và thân thể Cảnh tạo thêm phần hiên ngang, đĩnh đạc, an hoà & toát lên một vẻ gì độ lượng, mực thước, chững chạc, hiền hậu, ân cần mời gọi, mà tính anh lại thẳng thắng, trang nghiêm, làm cộm lên trong lòng tôi niềm thương thương, oai dũng, dạt dào trìu mến, hay hay sao sao ấy. Cảnh là chàng trai sinh trưởng ở miền sông Hậu. Ba của anh ấy ở miệt Cầu Kè (Trà Vinh) quê mẹ anh ấy ở Sóc Trăng (Long Phú). Nên Cảnh hấp thụ lối sống hồn nhiên, chân thật, vui tính, bộc trực, ăn nói thẳng thắn, thành thật. Cảnh không khách sáo, không ngại ngùng tự nhiên gõ cửa phòng riêng, khi ngày Chủ Nhật tôi cần nghỉ ngơi, đang chập chờn trong giấc ngủ trưa.

          Cảnh cởi tấm áo quân-phục sinh-viên sĩ quan Võ Bị đã mặc ra, chàng máng chiếc áo có cầu vai đỏ lủng lẳng dây biểu chương lên lưng ghế dựa. Cảnh cởi bỏ cà vạt đen lủng lẳng trước ngực áo sơ mi trắng ngần, áo quần thẳng nếp ly hồ ủi cẩn thận. Chàng chỉ mặc áo thun trắng và mặc quần tây, chân mang đôi giày đen bóng loáng. Có một lần đến thăm tôi, Cảnh đã cởi đôi giày ra, chàng nhìn lui nhìn tới ở trong phòng (phòng phụ nữ độc thân thì làm gì có đôi dép loại đàn ông nào, mà tìm). Cảnh muốn đi chân không cho thoải mái, mát mẻ nhẹ nhàng xí. Tôi hiểu ý và tinh nghịch cầm đôi dép cao gót của mình giơ ra trước chân chàng. Cảnh tủm tỉm cười, ung dung xỏ ba ngón chân vào chiếc dép, còn ngón kế và ngón út thì chìa ra ngoài, cọ quệt xuống nền gạch. Rồi Cảnh hóm hỉnh đứng lên đi ưỡn ẹo, nhoi nhoi cái đít như… như đít vịt, ì ạch uốn éo vặn vẹo thân hình, Cảnh đủng đỉnh đi lui đi tới, hai tay đánh đằng xa giống mấy cô người mẫu điệu hạnh. Cho tới lúc đôi dép không chịu nổi sức mạnh “trăm cân”, đã xẹo qua một bên, khiến Cảnh đo ván nằm chổng cù đơ ngã lăn cù cù trên sàn gỗ.

          Chúng tôi cùng cười rộ. Bốn mắt đã âu yếm lắng đọng say sưa niềm khát vọng yêu thương trong bể tình. Tôi cảm thấy xôn xao niềm hứng khởi vui thích, tự tay mở rộng cánh cửa đón nhận một hình ảnh tin yêu, nung nấu cồn cào “chất đam mê” đang âm ỉ cháy rực trong lòng. Gợn tình hây hây phơi phới mang nhiều luyến thương dĩ vãng mờ phai đã xốc đứng tôi dậy. Hiện tại khẽ khàng ỏn ẻn và líu ríu nhí nhảnh đọng lại ở giếng mắt tôi; kể từ khi chúng tôi tíu ta tíu tít rón rén nhón gót… nhè nhẹ lâng lâng ríu rít thầm hẹn nhô rủ rê nhau đi vào đời.
          Cảnh nheo nheo mắt, cười cười:
          - Hồi tối đi ăn trộm ở đâu, mà bi giờ ngủ say quá vậy. Em?
          Vào phòng rửa mặt, tôi khúc khích cười, nói vọng ra:
          - Ấy! Em “dừa dô” trong “Dõ” Bị, “ginh” anh “dìa” nè. Anh hổng thấy sao!
          - Khỏi cần rinh anh. Anh cũng phải đến. Vì Ngân Thụy đó.
          - Anh nhớ ai... mà ưa gọi em là “Ngân” Thụy há!?
          - Ừa. Vì đôi mắt em long lanh như ngấn thụy… tinh.
          - Ơ! ...Em?
          - Chúc mừng em ngày đẹp năm mới và… happy birthday em mười tám tuổi, nửa tháng và ba ngày lẻ.
          - Trời! Anh còn tính kỹ hơn cả em nữa.
          - Có những điều… chính mình chưa nghĩ đến. Thì có thể người khác đã nghĩ thay cho em rồi.

          Cảnh đến bên cạnh nâng tay tôi lên, chàng đặt gói quà to tướng vào lòng bàn tay tôi mát lạnh. Tôi ngỏ lời cảm ơn anh, khệ nệ bưng tới chiếc bàn rộng, từ tốn mở ra. Có hộp kẹo dâu nhỏ thơm ngon. Quyển “Đắc Nhân Tâm” của Dale Canergie. “Cách Mạng Con Người” của Krishnamurti. “Ba Chàng Ngự Lâm Pháo Thủ” của Alexandre Dumas. Mấy quyển sách nầy là do Cảnh đã mua vào trường, để đọc sau giờ giải trí, nay chàng mang ra cho tôi. Nhưng còn bức tranh lụa của Tạ Tỵ, như gợi lên lòng tôi bao nhớ nhung. Mỉm cười chỉ bức tranh, tôi hỏi:
          - Anh thích bức tranh nầy sao?
          - Hôm trước đi xem triển lãm, anh thấy em đứng ngẩn người, biến thân vào cả cái nhìn. Anh cho rằng: em thích bức tranh hoàng hôn bên suối, mà hoạ sĩ đã ghi lại rất thần bút. Phải không nào!?

          Quả thật bức tranh sinh động, tuyệt vời, phong cảnh hoàng hôn chiếu trên bãi cát ươm vàng bên suối, thật mơ màng, trông rất đẹp. Trải tranh lên bàn rộng, thuận tay Cảnh ghi hai câu thơ của V.S. Yeats:
          Dưới chân nhau, ước mơ ta dàn trải
          Hãy êm đềm nhẹ bước, kẽo mơ phai”.


          Tôi thầm nghĩ: “Có lẽ anh chàng nầy thật xứng-hợp với mình”. Cảnh tự động xuống lầu lấy đinh búa ở dưới garage lên, chàng lúi húi đóng đinh, rồi treo bức tranh trên tường gạch:
          - Treo thêm bức tranh, trong phòng coi sinh động lên đôi chút. Chớ không thì… căn phòng của em quả là buồn. Ha em.
          - Anh chu đáo lắm. Cảm ơn anh.

          Cười khà khà, Cảnh ngồi lên mép chiếc bàn vừa trải tấm tranh lúc nãy, chân phải gác lên ghế dựa, một tay chống ngang hông, tay kia có hai ngón kẹp điếu thuốc lá. Chỉ khung ảnh bỏ trống và lọ hoa hồng héo tàn từ lâu quá lâu, Cảnh nheo nheo mắt… kịch kịch. Chàng nhướng cao cặp lông mày nhúc nhích lên xuống, tỏ ý trêu ghẹo, anh ngạc nhiên nhìn tôi dò hỏi:
          - Hư vô trong khung ảnh nầy ha!?
          - Vô duyên như Thụy, thì làm gì có ảnh đối diện chứ.
          - “Ảnh” có hai nghĩa chính: “ảnh” có nghĩa là tấm hình, tấm ảnh. Có nghĩa nữa là “anh ấy”. “Nhà tôi” hay “ông xã” đó Thụy à. Còn khung ảnh ở trên bàn nầy chưa có hình ai: có nghĩa là em chưa chọn một “ảnh” tâm đầu ý hợp, để lộng kiến ngắm nhìn. Phải không em?
          - Dạ... Anh muốn hiểu sao thì hiểu.

          Sau cơn bão lòng hấp hối gần kề vực sâu, tôi thường có trạng thái vật vờ dật dờ trôi từ hiện tại về quá khứ, rồi lơ lửng bay vào hư vô. Tôi đã im lặng đóng khung đời mình mấy chục tháng câm nín hờn giận rồi!? Vết rạn lớn nhất về mối tình đầu tiên ấy, làm hỏng niềm tin yêu, đó là: đam mê duy nhất một mối tình rất trong sáng. Tôi tôn “người ấy” lên hàng thần tượng, lý tưởng cao vời. Nhưng khi biết ra… thì tôi và "hoàng tử ấy" quá khác biệt, “cố nhân” đa tình bay bướm... lẽo lự lừa dối. Rất trái ngược tôi; thực chất tình cảm ấy giống cục đá, giống như con heo đất, nếu có mỹ cảm chăng, thì chỉ đáng đồng bạc nằm ngửa trên đất. Thật quá thất vọng!
          - Thụy có nghĩ rằng: Nếu em có vài tấm ảnh của “chàng trai tập sự làm Lính” ở trường Võ Bị trong tập album của em, ấy là thời trang của mỗi thiếu nữ, sẽ tăng phần thi vị hoá cho cuộc sống hiện tại không? Em?!
          - Anh có ý tưởng ngộ nghĩnh ghê à nha.
          - Mong rằng em hãy “lộng kiến” hình anh nhe, chớ đừng “liệng cống” thì … đau khổ đời trai.
          - Hay nhỉ!
          - Nếu anh có nhã ý tặng em…
          - Em nghiêng đầu nói: Rất hân hạnh.
          - Không khách sáo chớ.
          - Cũng tùy.
          - “Ong độc là ở cây kim.
          Độc nhất vẫn là con tim đàn bà…”

          - Hứ! Nè anh, em là cô gái, chứ chưa phải... núi Bà Nà!
          - “Em là cô gái anh yêu.
          Nhớ em khôn tả sớm chiều bâng khuâng”.

          - Anh xuất khẩu thành thơ đó à.

          Cảnh tủm tỉm cười, dí dỏm và hồn nhiên tự tiện lồng tấm ảnh của chàng vào trong khung hình trống để trên bàn. Rồi Cảnh xuống lầu ra vườn hoa tự tay cắt mấy đoá hồng nhung. Cảnh đem vô cắm vào cái lọ, (vừa rửa sạch và thay nước mới). Cảnh đến gần bên tôi, tự nhiên đến nỗi… tôi cảm thấy như việc Cảnh quen biết tôi… cứ coi như thân thiết từ lâu lắm ở kiếp nào rồi. Cảnh nhìn tôi mỉm cười, nhẹ đá hàng lông mi dài cong cong, chàng tình tứ cười cười quàng tay qua vai tôi. Tay kia chàng chỉ bức ảnh và lọ hoa:
          - Em thấy sao?
          - Thanh lịch lắm. Anh biết cách cắm hoa.
          - Không. Em hãy quan sát anh ấy chớ. Em thấy anh ra sao kìa?
          - À. “Lính Võ Bị” oai hùng và khá dễ coi.
          - Dễ thương không?
          - Không biết nữa.
          - Không biết là phải.
          - Sao cơ?
          - Vì… khi anh đã yêu, thì “Lính Võ Bị chưa sĩ quan” rất dễ thương.
          - À ra vậy.
          - Anh xin em cho “Lính ấy” ở mãi trong ngôi nhà nầy. Em chịu không?
          - Anh không sợ chứ.
          - Không có gì cản được, khi tình yêu chân thật đến.
          - Anh tin như vậy à?
          - Hẳn nhiên rồi.

          Mém chút nữa thì tôi ...thì tôi ôm chầm cánh tay chàng. Và cũng xém chút nữa tôi ngâm những câu ca dao:
          Thân tui thui thủi một mình.
          Đêm đêm lạnh lẽo buồn tình lang thang.
          Nếu ai nghĩ chuyện đá vàng.
          Tôi xin được dạo cung đàn tình chung.

          * * *

          Câu chuyện “tình Lính Võ Bị” chợt đến, làm ngây ngất lòng nhau từ hai phía chúng tôi đã dừng lại ở đấy. Không thân thiết hơn qua vòng tay Cảnh buông hờ trên bờ vai áo len màu tím hoa sim. Cũng là lần đầu tiên Cảnh mời tôi đi ăn tối ngoài tiệm; trước khi tôi tiễn chàng lên xe taxi, để Cảnh trở vào quân trường. Nơi mà ngày thường Cảnh sẽ mặc quần áo kaki vàng, đội mũ nhựa, hoặc nhiều lần chàng kể cho tôi nghe:
          - Anh ẵm vợ con giơ lên đầu, chạy quanh cột cờ, có khi anh bị hít đất lia chia, thiệt mệt bá thở.
          - Ố! Anh nói sao? Dám ẵm vợ anh à!?
          - Ah ha! Có nghĩa: súng là vợ, đạn là những thằng nhóc con. Úi! Nặng kinh khủng em à. Các anh phải cặp súng đạn ở sát bên mình như… đầu gối tay ấp vợ vậy mờ!
          - Em ghét nhất là cái tướng cứng cỏi khi anh… ăn cơm.
          - Em không rõ, chớ đó là một “đặc thù” rất lịch sự tuyệt vời của con nhà tướng, giống gà nòi đó em à! Trước khi vào “phạn xá” tân sinh viên áo quần thẳng tưng, không sổng sểnh, ngực ưỡn ra, “ta” đứng trước cửa đọc thuộc lòng quân số của mình, đọc thật to, không vấp váp, không ấp úng. Sau đó mới ngồi vô bàn ăn. Anh kéo ghế ra, thanh lịch nhẹ nhàng thôi, không gây tiếng động sồn sột à nha. Ngồi ăn lưng thẳng đứng.
          - Coi giống người máy thấy mồ!
          - … Tay bưng chén cơm giơ lên ngang miệng, và-cơm ăn nhanh, lịch sự không húp rột rột, không hả miệng nhai ngồm ngoàm, hay cười nói ba láp. láp dáp khi còn thức ăn ở trong miệng nghe em.
          - Hứ. Ai… mà chẳng như vậy!
          - Đôi khi cũng có người quên, vì đói, vội vã ăn, nên ưa rớt đài, bị phạt hoài đó chớ!
          - Ui xà…

          Từ nay như đã ước hẹn, thỉnh thoảng bất đắc dĩ thì Cảnh mới vào nhà anh chị Tuế. Lúc nào bất ngờ Cảnh có phép xuất trại, không thể hẹn trước với tôi, vì nhà không có đường phone (khuôn viên khu đất ngôi biệt thự nầy nằm ngay ở đầu góc hai đại lộ: Yersin và Pasteur; từ trong nhà ra ngoài sân quá rộng, khá xa. Người ở trong nhà không thể nào nghe tiếng gọi, nếu họ không bấm chuông ở ngoài cổng lớn). Ngoài ra, khi Cảnh thấy cửa sổ (phòng riêng của tôi trên lầu) mở; ấy là lúc tôi có ở nhà. Cảnh sẽ dùng cái còi tu huýt hướng đạo thổi lên hai tiếng ngắn và một tiếng dài lê thê, để báo hiệu. Nghe “tiếng tu huýt gợi tình xuân”, tôi sẽ hiện ra bên khung cửa vui vẻ vẫy chào chàng. Đó cũng là một câu chuyện của "mối tình có đặc thù riêng". Ha ha ha...

          Nhìn thấy nhau rồi, Cảnh sẽ tà tà đi xuống đường Phạm Phú Thứ, chàng đi lui đi tới chờ đợi tôi nơi đó. Cái trò chơi cút bắt nầy khiến tôi thích thích, vui vui hẳn lên. Tôi đi dạo phố bên Cảnh kèm theo nhiều vui thích và cảm thấy thật hãnh diện, đôi má ửng hồng, tôi e lệ nép hờ bên cánh tay chàng. Tôi liếc nhìn thấy người người đang lượn phố, hầu như ai ai cũng quay đầu nhìn lại một kiều nữ thẹn thùng, ăn mặc model, đã sánh bước cùng một sinh viên sĩ quan Võ Bị tốt tướng. Họ không ngại trầm trồ xuýt xoa khen chúng tôi đẹp đôi.

          Thật ra tôi đã lớn khôn, sắp ra trường và đang đi làm việc, tôi có chút tự do, độc lập cho chính thân hoặc quyết định tình yêu đời mình. Ấy vậy mà… khi sống chung dưới mái nhà anh chị Tuế, tôi không muốn Cảnh đến nhà nầy nhiều, dù anh chị Tuế có ưa hoặc không ưa ai, thì có mắc mớ gì! Họ không hề tìm hiểu về tâm tư, tình cảm hay lối sống của người nào tôi quen biết ra sao. Nhưng chúng tôi e ngại anh chị Tuế la. Vã lại, cá tính anh rể buồn vui bất chợt. Có khi anh rể vui vẻ nồng nhiệt chào hỏi bạn của tôi. Và, khi nào “trái gió trở trời” ủ dột, giông tố kéo tới, thì anh Tuế bốc đồng trở chứng nổi cơn tam bành lục tặc lên. Nếu ai đến nhà có là quan, là tướng tá đi chăng nữa, anh rể cũng la, cũng mắng và xua đuổi, anh rể bất lịch sự chưởi như tát nước vô mặt khách. Tôi quê xệ và người bạn ê mặt quá chừng. Thật xấu hổ!

          Còn ý của tôi ngày nay đã nghiêng về Cảnh hơn vài ba bạn trai khác (bạn đúng nguyên nghĩa). Một cảm tình riêng tôi dành cho Cảnh khá đặc biệt, sâu thẳm từ từ vươn lên trong tâm hồn. Quả thật tình nhẹ như mây, đằm thắm như tơ trời vương trên đỉnh Lâm Viên… Cũng nhờ tiếng còi tu huýt thay tiếng chim cất giọng ngân vang réo gọi mời chào! Và, Cảnh là người con trai “dễ thương nhất” mà tôi muốn chọn, để bầu bạn. Tâm sự. Chia sẻ; hầu xoa dịu nỗi niềm. Đi bên nhau giữa khung trời thơ mộng, thoáng mát, từng giọt sương mọng rung rinh trên ngọn lá anh đào, rồi tí tách rơi xuống đám cỏ bồng bên vệ đường; Cảnh đã nói cho tôi nghe mấy câu sau:
          I have been waiting for you to return.
          To this home of yours and hear the enchanting heart.
          From spring through summer to chilling autumm.
          I have been consistent in keeping my thoughts for you only…
          _ * _


          Tình Hoài Hương
          Last edited by Tinh Hoai Huong; 11-22-2019, 08:32 PM.
          Bút trần nào tả được lưu luyến!
          Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
          Tình Hoài Hương

          Comment


          • #20
            Đà Lạt (vì kẻ xâm lăng) Bùng Lên Ngọn Lửa...!!!



            Đà Lạt (vì kẻ xâm lăng) Bùng Lên Ngọn Lửa
            (Nhớ về năm Mậu Thân 1968)
            Tình Hoài Hương
            ***



            Từng chòm thông tươi tốt mọc thẳng lên cao vút, xòe táng lá xanh mướt, um tùm, trông cao lớn, phơi phới, mát mẻ lạ thường. Tiết trời quang đãng, trong thanh ấm dịu, vừa xua tan đêm trừ tịch nơi thành phố Đà Lạt an hòa có lắm mộng nhiều mơ. Muôn ngàn chim én líu lo, xôn xao tưng bừng, ríu rít chao lượn từng đàn đông nghẹt trên mái ngói lầu cao. Tự lúc nào không biết gió xuân về mát rượi, khiến tôi cảm thấy trong lòng dâng lên nỗi an thư ngọt ngào lâng lâng, xao xuyến ngất ngây vô vàn, niềm vui đọng lại trên ngàn giọt sương long lanh, rưng rưng nơi hoa anh đào, hoa mimosa và nơi đài hoa mai chúm chím e ấp buổi giao mùa.

            Kể từ ngày 23 tháng Chạp mọi người nôn nao đưa Ông Táo về Trời, nhờ ông tấu trình với Ngọc Hoàng công việc làm ăn ở trần thế. Thì ngày xưa ở cung điện hoàng gia vua chúa nước ta, từ nhất phẩm đến cửu phẩm sắp hàng thứ tự trước điện rồng, để làm lễ bái tạ Trời. Đất. Vua, quan chức quyền trong triều đình tới hàng dân dã, ai nấy đều làm lễ trừ tịch, tống cựu nghinh tân. Các lễ trong triều thần quan trọng là: Nguyên Đán. Phất thức. Tịch điền rước thần nông. Tế xuân. Du xuân (hưởng: Xuân, Hạ, Thu, Đông). Cúng tam sinh: Trâu (hoặc, bò, dê). Ngoài ra còn có lễ tế cờ: Có ba bài vị gồm: một viên tướng cờ đi đầu. Sáu vị tướng cờ đi giữa. Năm vị thần cờ đi hai bên.

            Toàn dân đón xuân náo nhiệt, tưng bừng vui vẻ, linh đình. Người ta bày hương án bánh trái cúng gia tiên, mâm cổ đầy nhóc trên bàn: nào là xôi, gà, vịt, heo, bánh trái, vân vân... Sau đó họ đi thăm mồ mả. Đi lễ chùa hái lộc đầu năm, thăm đình đài lăng miếu. Dân gian được tự do chơi bài Chòi. Tam cúc. Cờ tướng. Xóc dĩa. Bài tây: xì lát, đánh xì tố, xóc bầu cua, vân vân... Sau ngày hạ cây nêu, thì có lễ hoá vàng, đốt vàng giấy, lúc giấy gần tàn, đổ ly rượu cúng vào là chấm dứt ngày Tết.

            Nay thì nghi thức nghinh xuân ấy được đơn giản rất nhiều. Nhưng vẫn theo phong tục cổ truyền Việt Nam, dù bận rộn, đa đoan với muôn vàn công việc chất chồng. Dù cách trở xa xôi đến đâu, thì ba ngày Tết người ta vẫn quay về mái nhà xưa, hầu gặp gỡ người thân tay bắt mặt mừng hân hoan chúc tụng nhau, chuyện trò thân mật, hưởng Tết Nguyên Đán linh thiêng đầm ấm, là ngày sum họp rất quan trọng. Họ mong quay về với gia đình, thong dong vui hưởng những niềm vui, mừng ngày trọng đại của cả dân tộc. Ngày Tết là ngày hưởng lộc đầu năm, ngày linh thiêng, thế nên ai ai cũng trân trọng, kiêng cữ, không làm điều sai quấy, nói năng bậy bạ. Cúng giỗ thờ kính tổ tiên, vui vẻ hân hoan chúc tụng nhau bao ý lành.

            Ngày mồng Một Tết, (tức là ngày 30, tháng Giêng, năm 1968, Mậu Thân). Gia đình tôi đi chúc tết ông bà Cương, và bà con thân nhân bên nội ở trong Hà Đông. Ai nấy chúc nhau:
            Năm mới Tết đến
            Rước hên vào nhà
            Quà cáp bao la
            Mọi nhà no đủ
            Vàng bạc đầy hủ
            Gia chủ phát tài
            Già trẻ gái trai
            Sum vầy hạnh phúc
            Cầu tài chúc phúc
            Lộc đến quanh năm
            An khang thịnh vượng.
            Đong cho đầy hạnh phúc
            Gói cho trọn lộc tài
            Giữ cho mãi an khang
            Thắt cho chặt phú quý…
            Cung chúc tân niên,
            Sức khỏe vô biên,
            Thành công liên miên,
            Hạnh phúc triền miên,
            Túi luôn đầy tiền,
            Sung sướng như tiên.
            (*)

            Xế trưa vợ chồng tôi chạy xe lên trên Couvent thăm hai gia đình anh chị Thái, Thiệu, rồi đến khu nhà Bò (Đào Duy Từ), qua bên Nhà Chung gần nhà thờ con gà thăm anh chị bên họ ngoại. Chúng tôi lại ra phố thăm hỏi anh chị, bạn bè xóm làng thân thương. Đâu đâu pháo cũng nổ dòn: đùng... đùng... đùng... thật vui vẻ rộn rã tưng bừng. Người người hớn hở tay bắt mặt mừng, muôn câu chúc tụng hân hoan ấm nồng luyến thương hoài nhớ. Nhà nhà người nào người nấy tụm lại gây sòng đánh xì phé, đánh chắn, xóc dĩa. Trẻ con chơi lắc bầu cua ở góc hiên nhà. Thanh niên nam nữ và tráng niên lại chúc:
            Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua
            Phúc lộc đưa nhau đến từng nhà
            Vài lời cung chúc tân niên mới
            Vạn sự an khang vạn sự lành.
            Đầu xuân năm mới chúc BÌNH AN,
            Chúc luôn TUỔI TRẺ chúc AN KHANG.
            Chúc sang năm mới nhiều TÀI LỘC
            Công thành danh toại chúc VINH QUANG.
            Các cô tuổi Tý chưa chồng.
            Năm mới sẽ hết nằm không một mình.
            Còn riêng các bạn học-sinh.
            Tương-lai sáng-lạng, quang-vinh một đời.
            (*)

            Cận khuya chúng tôi mới lò mò trở về nhà. Nhà tôi ở tại ngả Tư Trần Bình Trọng và Mai Hắc Đế, cạnh bên trái hông nhà tôi là khu Dân Y Viện Đà Lạt, ngược về hướng dòng Domain (là đi xuống trường Đa Nghiã và Khu số Bốn). Trong tận cùng im vắng của đêm trường đầu xuân mát rượi lẫn ngọt ngào hương vị ngày Tết, bỗng nhiên tôi nghe từ nơi xa xa đạn réo vù vù trên không trung. Súng lớn súng nhỏ đồng loạt khạc đạn, làm rung chuyển mặt đất, tung tóe lửa dữ dội. Khu đồi Domain de Marie yên tĩnh ở phía bên kia vực thẳm, sau lưng nhà tôi dội lại tiếng gầm thét dị kỳ: xì xì, xẹt xẹt… ùm… ùm…, pằng… pằng…, tạch tạch…, cắt bụp, cắt bụp… xè…! Đạn rạch đêm tối vút vút bay qua bay lại, đan chéo qua chéo lại. Những đóm mắt sáng đục hỏa châu lơ lửng trên không trung nở vàng bầu trời khuya. Quả sáng tụt nhanh xuống mặt đất, tắt đột ngột, trả lại bóng đêm tối thui, như khi nó chưa nở rực ra trên bầu trời khuya quạnh vắng đẫm ướt sương mù.

            Trong màn đêm đầy sương trắng xoá dày đặc bị xé rách bởi lằn đạn tóe lửa. Mặt đất phả ra làn hơi sương nhút nhát e dè lởn vởn bên mấy bụi cây. Ban đầu Lâm ngỡ là mình nằm mơ ngoài trời đốt pháo Tết, nhưng sau khi chàng thấy trái sáng rợp trời, súng đạn rạch không khí bay chíu chíu… xịt... xịt, có cả thứ súng “cắt, bụp, xè”; nên chàng tỉnh hẳn người. Lâm gọi mẹ, vợ con dậy ngay. Nhanh như chớp, vụt thoáng trong giây lát tôi và Lâm kéo nệm xuống gầm giường, hai chúng tôi lò mò trong bóng tối để giăng mùng cẩn thận, rồi Lâm bế hai đứa con mắt nhắm mắt mở chui vào. Chúng tôi nằm sát bên vách gỗ, đắp kín mền mà vẫn cảm thấy lạnh giá, hai hàm răng va vào nhau lụp cụp, tay chân run cầm cập. Tôi sợ hãi gần như nghẹt thở, lạnh toát cả người, bủn rủn tay chân. Súng nổ dập dồn không lúc nào ngơi hung hăng tống vào ngọn đồi thưa, nơi có mấy công xưởng, ty Hiến Binh hồi xưa (nay là chi nhánh của Ty Công An, nằm về phiá tay phải nhà tôi) nghe rát ù tai. Thật ghê hồn.

            Lâm bấm bấm vô cánh tay tôi, để ngón tay trỏ lên miệng anh, khoèo vào hông tôi và ra dấu cho tôi bò theo. Chúng tôi mò mẫm lồm cồm bò bò từ phòng ngủ ra phòng khách tối đen. Lâm nhón người nhẹ vén bức màn voan, nhìn ra đường quan sát. Đường phố im lìm vắng lạnh. Nhà nhà đều cửa đóng then cài cẩn thận. Tuy vậy tôi thấy nhiều tấm màn bên những ngôi nhà ấy khẽ lay động. Do tôi mãi nhìn đường phố vắng lạnh, thì Lâm vội bụm miệng tôi, anh kéo tay vợ nép vào góc tường.

            Khi ấy tôi thấy khoảng năm sáu tên đội nón cối, mặc đồ đen, đồ xanh rêu cháo lòng, hay mặc đồ lộn xộn, ống quần rộng thùng thình, lụng thụng cột túm vô mắt cá chân. Tay họ cầm súng lưng đeo đạn. Súng đạn va vô nhau kêu lộp cộp theo mỗi cử động của họ, tôi nghe mà sởn ốc trâu. Quanh thân dắt cành lá, họ cúi đầu lom khom lủi lủi gần sát bên hàng hiên của nhà tôi, họ chạy nhanh về phía đồn Công-an trên đồi. Tiếng kêu lách tách lạch cạch do súng đạn cặp bên hông va đập vào nhau lộp độp theo mỗi bước đi. Tôi nghe rõ, rùng rợn, hoảng sợ và ớn lạnh! khiến tôi càng rợn ngườI kinh khủng. Họ mò đi đêm thành thạo, hình như họ thích hợp, quen thuộc với bóng tối, hay do ý tất thắng chiếm đoạt, muốn vượt qua trở ngại, hầu đạt đến khát vọng xâm lăng điên cuồng? Hỏa châu đỏ nở rộ trên trời như những đôi mắt hung thần, soi rõ cảnh vật mồn một. Trên trời liên tục bừng sáng và hoả châu rơi xuống, chìm lẫn vào bóng đêm. Giây lát sau tôi nghe ở cửa cổng đồn Công An (rất gần khu nhà dân) có tiếng quát hỏI:
            - Ai đó???. Đứng lại.
            - Đứng lại, không tôi bắn.

            Không trả lời, lập tức đạn nhỏ súng lớn đồng loạt bay vèo vèo Pằng… pằng… pằng… Đùng… Đùng… Đùng… Oằng… Ùm… vút vút bay tới tấp trên đầu người dân. Thành phố Cao Nguyên Lâm Viên truyền cảm xiết bao đã bị xâm lăng, thành phố Đà Lạt nổi danh là thành phố thơ mộng hiền hoà thực sự đã đi vào binh đao, và bùng lên ngọn lửa chiến tranh hung tàn rồi! Đạn nổ lốp đốp, rơi rào rào, loảng xoảng, ào ạt rớt xuống mái tôn nhiều nhà lân cận nghe sắt và lạnh. Khi chiến cuộc bước vào con đường an cư hòa ái của xứ lạnh hiền hậu nầy, dân cư ngơ ngơ ngáo ngáo và bàng hoàng lo sợ ghê lắm (ở nơi nầy yên bình ít chiến tranh). Vài phút trước đó trong xóm kêu gọi nhau chui xuống gầm giường, gầm bàn trốn đạn inh ỏi. Tiếng kêu rú khóc la, xen lẫn tiếng súng bắn, mìn nổ thật gần, nghe rợn xương sống, đinh tai nhức óc, tức ngực quá chừng.

            Ôi lạy Chúa! Trẻ con bên hàng xóm cứ khóc thét toáng lên từng hồi, giống như có người nào ngắt nhéo chúng, hay cắt tay chặt chân chúng nó vậy. Còn đàn ông con trai thì im thin thít. Bây giờ có tiếng la giọng nói của đàn ông, là càng làm người khác lo sợ gấp ngàn lần. Người ta lo sợ sự giao tranh súng đạn ngoài kia, và tiếng đàn ông núp ở trong xó nhà lắm. Có khác nào mấy ông tự tố cáo "lạy ông tui ở bụi nầy". Việt-cộng sẽ chĩa súng vào ngực họ, mà bắt đàn ông thanh niên đi làm bia đỡ đạn. Hay bị bắn cái đùng. Thì khốn.

            Nhưng khi căn nhà gỗ của bác Thao bị sập một bên, càng khiến cư dân trong khu xóm hoảng hốt la to, kêu rống, hét tướng lên réo gọi tên nhau, kêu khóc ồn ào huyên náo bội phần. Bảy căn nhà vách ván đơn sơ ở xóm nầy đã đứng chênh vênh, lẻ loi, trống trải, cô độc trong địa bàn giao tranh, bất lợi từ mọi phía, không ai có một tấc sắt để tự vệ. Biết lấy gì chống đỡ! Họ vẫn phơi bộ mặt cơ hàn, giơ cái bụng lép xẹp ra trước thời gian ở nơi lằn đạn mũi tên thế! Trốn tránh thế nào được! Khu xóm cao chênh chếch như một cù lao đứng giữa hai lằn đạn thì... có mà chạy trốn lên đằng trời. Chưa việc gì mà! Phải! Phải! Nhưng lạy Chúa! Sao tôi run lẩy bẩy, lo sợ tột cùng, miệng lưỡi co cứng, cổ họng đắng chát, khô khốc, hai bờ môi khô lông lốc dính chặt vào niếu, không một giọt nước miếng, không thốt được một âm!

            Bầu trời bỗng dưng lặng ngắt như tờ, im ắng bao trùm còn đe dọa rùng rợn hơn cả sự chết chóc. Sương mù và bóng tối không đồng ý với bình yên, nó bốc đồng và phản bội con người lúc nào. Chẳng rõ. Bây giờ không còn dòng suối mát, không ao hồ, thác nước thơ mộng đầy quyến rũ mang vẻ duyên dáng nên thơ Đà Lạt với danh lam thắng cảnh xứ hoa đào rồi. Biết đâu sẽ diễn ra “u mê ám chướng chiến tranh”. Súng đạn chằn chịt theo khói lửa bay về thành phố nổi danh quyến rũ nên thơ! Đạn vèo vèo bay, xoắn tít hình trôn ốc ghim vào lòng đất, khiến địa hình Đà Lạt thi vị trở nên xấu xí, nhăn nhúm, biến dạng lởm chởm hẳn đi. Nhìn thấy nó mình mất cả hồn cả vía, chứ thơ mộng duyên dáng, gợi cảm cái nỗi gì nữa không biết.
            * * *

            Ánh nắng rực rỡ bừng lên. Lớp sương mù dày đặc đọng lại trên các cành hoa anh đào, chạy suốt con suối cạn gần khu Domain de Marie mọc đầy lùm dã qùy to lá, vàng hoa, nhụy nâu, hoa nở dọc theo bờ đất lỡ cuối vườn nhà tôi. Nước rỉ rả chảy xuống hố, rồi uốn lượn quanh co trong nhiều đám sậy nhấp nhô. Một ngày mới lại bắt đầu trong cuộc sống bất trắc âu lo. Phiền muộn. Hãi hùng âm thầm mà đau, đầy băng giá, mang mùi vị tởm lợm chết chóc và chiến chinh. Cái chết đe dọa từng giờ trên đầu mỗi người, ở trong thành phố Đà Lạt nổi tiếng hiền hòa thơ mộng xinh đẹp đang bị vây hãm. Súng đạn khiêu khích từng ngày, từng đêm, từng giờ, tệ mạt hơn là người dân phải chịu đựng những cơn xoáy lốc bốc lửa rít lạnh tê người khôn nguôi. Không vì trận gió từ đỉnh đồi Lâm Viên thổi về. Mà vì nhiều loạt súng của kẻ xâm lăng đùng đùng đùng… Cắt bụp cắt bụp… Xè xè… và loại súng bắn trả: Pằng pằng pằng… Tạch tạch tạch… vang lên tứ phía liên tục luôn mãi, nhức nhối tai. Tim mọi người đập thình thịch không ngừng.

            Mỗi ngày khoảng ba giờ chiều, bà con cô bác từ các đường: Hoàng Diệu, Trần Bình Trọng, Mai Hắc Đế, Yết Kiêu, Số Bốn, Số Sáu, Hai Bà Trưng, vân vân… lại ùn ùn chạy lên nhà thờ Domain xin các bà dòng tu cho tạm trú dưới từng hầm. Họ mong tìm đến với nhau cho vơi sợ hãi và quên âu lo. Họ mong xích lại gần nhau tìm chút hơi ấm qua đêm. Sáng sáng họ lại lục tục kéo nhau đi, ai về nhà nấy. Từ trên dòng Domain về nhà, tôi nhìn trước ngó sau dáo dác như kẻ trộm. Căn nhà đêm trước bỏ hoang mở toang hoác cửa ngõ, chẳng cần cửa đóng then cài làm chi! Vì đã có súng đạn giữ gìn hộ rồi, chả lo gì mất của cải! Thời buổi nầy, lo giữ gìn bản thân chưa xong, chả an toàn, hơi sức đâu ai thèm đi giữ gìn của chìm của nổi, và hôi của người khác nữa không biết.

            Tôi nấu vội nồi cơm thật lớn cho cả nhà ăn một hoặc hai ngày, rồi thấp thỏm tất tả chạy ra chợ xép ở đường Hoàng Diệu bòn mót đủ thứ đồ uống thức ăn cho có chất rau tươi. Tôi giành giật ở ngoài chợ mua nhặt từng chục trứng vịt, vài bó rau, dăm ba ký gạo. Thịt, cá, thì mắc như vàng! (còn khu chợ lầu Đà Lạt to lớn là thế, mà nay leo teo mươi hàng rau đậu héo uá, dập nát). Có bao giờ người dân phố núi nghĩ ra: nơi thành phố thơ mộng quyến rũ nầy, lại có bộ mặt cuả kẻ xâm lăng vô Nam khuấy nhiễu gây ra chiến tranh, hầu ngườI dân tích trữ thực phẩm khô, trong mùa xuân dồi dào nhựa sống chứ! Các tay đầu tư thì cất dấu thực phẩm thật kỹ, cửa đóng then cài kín mít. Thỉnh thoảng có vài tiệm buôn lớn he hé cửa ra, họ “bố thí” nhỏ giọt từng ký gạo cho đồng bào, rớ vào muốn phỏng tay với giá tiền cao cắt cổ kinh khủng. Đại lý gạo Sơn Hà lớn nhất thành phố, tuyệt nhiên không thấy xuất đầu lộ diện, không có một hột gạo nào thoát ra khỏi khe cửa. Người ta đồn tiệm nầy “kinh tài” cho Việt Cộng (!?) Ô ô hô... gạo thơm để nuôi dân lành cần cù lam lũ làm ăn, hay nuôi ong tay áo nuôi khỉ đốt nhà hử!?

            Mấy ngày đầu năm mới (trong cuộc chiến Mậu Thân), người ta mang theo vào tầng hầm trú ẩn nào là: bánh chưng, bánh tét, xôi, thịt, cơm gà cá gỏi. Đủ loại mứt, trái cây, hạt dưa, vân vân... Hương vị ba ngày Tết chưa kịp ăn. Nhà nhà đều dư thừa thức ăn ê hề, không thiếu món gì! Sau đó thực phẩm ứ đọng, thiu thối, hư hại sạch. Mọi người hồi hộp lo sợ, băn khoăn ngao ngán, nên không nuốt trôi, nhịn đói mà khóc, không thể ăn. Họ đem ra vứt sau sườn đồi cạnh khu trường học, tha hồ cho lũ chuột cống, ruồi bọ tranh nhau lúc nhúc loi nhoi giành ăn.

            Bất kể lúc nào, hễ nghe tiếng súng dồn dập, xa xa, về hướng Cam Ly. Khu Số 6. Khu Số 4. Dòng Chúa Cứu Thế. Lạc Dương. Là bà con trong xóm tôi tê tái, hoảng hốt, ơi ới gọi nhau, sẵn sàng tay ôm tay xách, cổ đìu lưng cõng con cháu chạy nhanh lên ngôi nhà thờ kiên cố trên đỉnh đồi, cần sự xích lại tương thân tương trợ ấm áp, mong xích lại gần nhau, tìm chút an tựa, cần sự lân mẫn tự nhiên của người đồng cảnh ngộ. Khoảng ba giờ chiều, người người lục tục kéo nhau đi đến các nơi kiên cố và đông đúc. Tại khu hầm trú mỗi gia đình "xí phần" một góc, vừa đủ trải vuông chiếu ngả lưng sơ sài. Trên manh chiếu nương thân, họ dùng làm chỗ ngồi, ngã lưng nằm, và ăn uống. Cả nhà ăn qua loa chén cơm với lọ mắm tương chao cà ghém, rau luộc, để cầm hơi. Cũng tại trên vuông chiếu nầy, người ta chồng chất đủ thứ lặt vặt cần thiết đã vội vàng mang theo.

            Giống như những ngày hôm trước, sáng sáng tản mác mỗi người về mỗi nhà. Họ gồm đủ mọi thành phần trong xã hội, đủ khuôn mặt già trẻ lớn bé, xấu đẹp, ốm mập, đen trắng. Đặc biệt giữa đa số khuôn mặt bình dân thảng thốt ưu phiền, lo sợ, thì có bảy tám thanh niên thiếu nữ ưa náo nhiệt, xinh tươi ở đâu tập họp lại. Trước đó quần áo các cô cậu coi hợp thời trang, họ ung dung lượn quanh hầm, vui vẻ cười nói huyên thuyên, móng tay móng chân các cô đỏ chót. Vài ngày sau tôi dòm họ xộc xệch, túi vải lịu địu máng trên vai có tô thêm đất bùn lem luốc. Họ mệt mỏi cố vơ vét tất cả gia tài nhét trong xách da căng cứng bung hết dây kéo. Họ luôn mang kè kè bên hông. Họ không khóc được vì sự kinh sợ đã kéo dài khá lâu, vượt quá tầm mức chịu đựng của con người. Họ hãi hùng kêu tên nhau, i ỉ thút thít, nước mắt cạn khô, ráo hoảnh, ngơ ngáo bất động thì thôi.

            Riết rồi ngày ngày tháng tháng chung đụng, người ta biết mặt, biết tên nhau, biết biết, quen quen, thân thân, hỏi hỏi, nói nói, ồn ào như vỡ chợ, nhưng nét mặt mọi người mỏi mệt bần thần băn khoăn đầy ngao ngán buồn thiu. Người ta mất ăn từng ngày, mất ngủ từng đêm âu lo tột độ. Sự đông đúc đầy dị hợm bắt đầu tẻ ngắt trong căn phòng chen chúc chật cứng, ngột ngạt như lò hồ quang, thiếu ánh sáng, thiếu không khí, thiếu mọi tiện nghi. Cảnh di tản có đủ thứ chuyện vui buồn. Tin tức nóng bỏng nhất được truyền khẩu trong ngày, trong tuần lan từ đầu nầy đến đầu kia, nhanh như chớp. Không gian và thời gian im lặng tẻ ngắt, đầy ghê rợn suốt buổi trong căn phòng chứa khoảng hơn ba ngàn người. Họ chen chúc, ở nơi ngột ngạt, thiếu không khí, thiếu ánh sáng. Đôi lúc trên đầu loé lên tia lửa rạch không khí, bay vù vù trong không gian. Lằn đạn xẹt qua. Hai ba chiếc phi cơ không nhìn thấy rõ bay vút trong bầu trời, qua khung kính trên vòm mái cao. Giây lát sau đó là tiếng rền rú uồm uồm uồm… ghê rợn. Hàng loạt đại bác trút xuống đỉnh đồi, vào khe suối xa xa…

            Tôi xiết bao kinh hoàng lo lắng, và bồn chồn sợ hãi, vì Lâm đi trực về báo tin nhà ba mẹ tôi ở tại một Villa trên đường Pasteur, đối diện với Tiểu Khu Đà Lạt bị đốt cháy mất ¼. Ngôi nhà đồ sộ nay chỉ còn bức tường gạch (ở mặt trước đường Yersin), và bên mặt tiền phiá phải cuả ngôi nhà về hướng Pasteur) còn mấy hàng cột trơ trẽn (!?). Sau tiếng súng cắt, bụp, xè… thì mọi thứ bị đốt tan tành. Phố xá hỗn độn, khói lửa hừng hực bốc cao, khét lẹt bao ngày chưa dập tắt, kể từ khi cơn binh biến hùng hổ đến vỗ mãi những âm buồn. Nghe mà thật đau đớn bang hoàng hốt hoảng và lo âu xiết đỗi. (2)

            Đứng trên một góc tầng lầu nhà của ba má tôi đã bị sập gần hết một phần tư, trong nhà tối om, vắng tanh, đồ đạc ngổn ngang hư nát. Ba má và anh chị tôi đi đâu hết rồi? Họ có an toàn không?! Tôi lo lắng, bồn chồn, lấp ló thụt thò, dáo dác len lén nhìn sang phía bên kia đại lộ Pasteur, (đối diện nhà ba má tôi là cổng Tiểu Khu Đà Lạt/Tuyên Đức), hai mặt tiền nhà ba má tôi và Tiểu Khu chỉ cách một đại lộ, gần xịt. Những anh lính trong doanh trại Tiểu-khu vội vã chạy lui chạy tới, lăng xăng, bồn chồn làm cái gì đó, xem có vẻ cấp bách, cần thiết lắm. Việt Cộng đã dùng bangalore phá một góc rào cuả Tiểu Khu. Một chiếc xe thiết giáp bị trúng ba quả B40 vẫn bốc cháy ngay trên đường Pasteur (sát cuối hông vườn sau nhà ba má tôi). Việt Cộng lẻn vào khu nhà xây gần Viện Pasteur để bắn vào Tiểu-khu. Nhưng xem ra không mấy thiệt hại. Kho Quân Tiếp Vụ bốc cháy, sáng rực cả một góc trại. Ty Cảnh Sát Đà Lạt sát bên nhà thờ Chánh Toà cũng bị hư hỏng nặng. Khẩu đại liên 30 đặt đâu đó, có thể là ở khu Quân Cụ thỉnh thoảng quạt một hồi vài tràng bâng quơ, tôi nghe rát bỏng, sợ hãi và điếc ù hai tai.

            Trên bức rào cuả Tiểu Khu tôi thấy có ba thân thể cháy đen, mà rải rác gần đấy có năm cánh tay, ba bàn chân lủng lẳng quai dép râu. Những núm ruột người trắng hếu, dài lòng thòng còn lắc lẻo, đung đưa lắc lư vắt trên hàng rào gạch kiêm hàng rào B 40 rung rinh. Ruồi bọ lúc nhúc bu đông đen, rồi vụt ù ù bay lên đáp xuống, khi ấy có vài người rảo bước liếc nhìn vội vã đi qua. Úi trời ơi! Mùi thúi thì thật hôi ơi là hôi kinh khủng. Khiến tôi bịt hai lỗ mũi vẫn cảm thấy chịu không nỗi mùi thum thủm thúi hoắt. Có con chó lài hoang ốm tong ốm teo, lông lá lưa thưa nhô cao bộ xương sườn, từ góc đường Yersin + Pasteur nó rón rén lủi đi kiếm ăn, con chó rụt rè ngơ ngác nhìn quanh, nó vội cụp đuôi vô trong háng, cúi đầu cắm cổ chạy đến bên mấy xác Việt Cộng. Nó liếm liếm khúc ống quyển đen thui, và nó dỏng tai hếch mỏ lên... Trời ơi! Khúc ruột chỗ trắng chỗ đen vắt vẻo trên hàng rào gạch đong đưa, khúc ruột dài ngoẵng chui thật nhanh vào hai hàm răng con chó gầm gừ trắng trợn nhe ra.

            Tôi sợ dựng tóc gáy, xớn rớn, chao đảo, giao động mạnh, điên cuồng, dày vò, và đau đớn cào xé con tim, hãi hùng tột cùng muốn xỉu, hai đầu gối run rẩy va đập vào nhau lộp cộp, như người mắc bệnh parkinson luôn tiết ra chất dopamine, khiến mình bại hoại rã rời tứ chi, lồng ngực tôi nhô lên hụp xuống sâu hơn. Tôi run bần bật ngồi bệt xuống dưới góc balcon, chẳng hiểu sao tôi cứ ói ra nước, rồi ói ra hoài, và toàn thân muốn rệu xuống.

            Mấy tháng trước bà chị của tôi đã làm thịt chó, chị nấu đủ thứ, nào là: Rựa mận. Nướng. Hon. Thui. Thịt tái chanh. Thịt luộc. Xào lăn, vân vân... Hôm ấy có mấy gia đình anh chị em vui vẻ “xơi” thịt chó thơm phức ngon lành, chúng tôi ăn từ đầu chó tới đuôi chó, thậm chí cả bốn móng cẵng chân giò, xương chó cũng chặt ra làm nồi nước lèo xúp chó hầm ngon nhức nhĩ! Sao lúc ấy tôi chẳng thấy sợ hãi như bây giờ!? Bỗng dưng tôi sực nhớ tới chuyện rùng rợn ở Tây Tạng, nơi thủ phủ Lhasa đến một vùng hẽo lánh kia, có tục lệ rất kinh dị khủng khiếp. Họ thường làm nghi thức tiễn người chết rùng rợn từ lúc rạng đông: Họ từ tốn lấy dao lóc từng miếng thịt người chết ra miếng nhỏ, rồi để trên những tảng đá cho kênh kênh ăn. Lại có nơi lóc thịt người chết vất xuống nước cho cá ăn. Hoặc họ vạc một phần trên sọ, chẻ sọ người chết ra, dùng sọ người làm chén ăn. Họ nghĩ: hoả tang tốn kém than củi và tăng oxide carbone (CO) thì uổng. Thủy tang hại nguồn nước môi sinh, mất công uống cả xác tro người chết vô bụng. Chi bằng cho loài kênh kênh xực, cho chắc ăn! Do nghĩ như vậy, thịt chó và thịt người chết treo lủng lẵng nơi góc hàng rào kia; khiến tôi càng tởm lợm và nôn ọe ra mật xanh mật vàng!

            Chiến cuộc từ thời kỳ giặc giã đã tàn phá biết nhiêu mà kể xiết trong đất nước nầy, chiến tranh gây hận thù và chết chóc, bao đau khổ người dân còn kẹt lại trong cái thế trên đe dưới búa. Làm gì được lúc con người gây ra chiến tranh thật phi nhân, phi đạo đức. Làm chi được hỉ với con cáo, con hồ, con cọp, con chó sói, thậm chí cả con chó nhà đang nhe hai hàm răng trắng, hoặc giống như loài bò sát rắn độc?: nếu ta không biết “thời thế thế thời thời phải thế” khôn ngoan trầm tĩnh thu mình dẽo dai chịu đựng! Mặc dù loài vật hung ác, nhưng nó biết đối xử tốt và bênh đỡ đồng loại. Tuy beo, cọp, chó sói: là giống ăn thịt sống chẳng hạng; nhưng đối với đồng loaị chúng vẫn hiền lành lui về hang ổ (nơi an tựa ấm áp, thân tình), và chúng biết yêu quý hổ con, sói con cuả mình. Càng hơn nưã chúng nhận biết đồng bọn, luôn trấn giữ bảo vệ bè-đàn cuả mình, không để tên “dị chủng” khác chủng loại xâm phạm.

            Nhưng khi có những kẻ vượt lằn biên qua vĩ tuyến: táo tợn xâm lăng thành phố thơ mộng, họ ngang nhiên đặt chân vào miền đất hiền hòa, cẩu thả dùng súng đạn bay vèo vèo, ầm ầm, đùng đùng trút trên đầu nhân thế vui hưởng ngày Tết, lúc mọi người tưng bừng nôn nao rước tổ tiên ông bà về chung vui với con cháu, và dáng xuân huy hoàng êm đềm ngự trị trên thế trần. Thì xin mạn phép hỏi kẻ đi xâm lăng và xâm phạm tớI người khác, tàn ác gây ra đau thương tang tóc; thuộc về “hạng gì”?

            Lo lắng rón rén bò bò trên hành lang nhà, và tụt xuống những bậc cấp, tôi tất tả chạy rõ nhanh về nhà mình, vừa chạy vừa thở hồng hộc, khiến tôi mệt kinh khủng! Từ nhà ba má ở đại lộ Pasteur, tôi cắm đầu chạy bán sống bán chết xuống đường Bà Triệu, tới Cầu Bá Hộ Chúc, qua góc Cường Để và vòng ngược lên đường Thành Thái, chạy qua rạp ciné Ngọc Lan. Tôi hổn hển ngơ ngác đi ra phố Hòa Bình: Hai chiếc xe jeep (ở khu Hòa Bình) bị Việt Cộng núp đâu đó bắn mấy quả B40, hai xe nầy cháy rụi. Tất nhiên là có người chết thảm rồi. Tiệm Hồng Châu ở sát bên cây cầu cuả Chợ Mới cũng cháy rụi, đen thui. Mấy tiệm lân cận ở quanh khu Hoà Bình, đường Phan Bội Châu cháy khét, khói lửa mịt mù, mùi hôi kỳ lạ tỏa ra cùng khắp. Phố xá buồn thiu, vắng hoe, tan hoang, lạnh lẽo như một thành phố chết.

            Lác đác có mấy bộ hành tất ta tất tưởi, dáo dác lấm lét nhìn quanh, rồi dọt lẹ! Bốn người Thượng già: một người vạm vỡ đóng khố sọc ngang rằn ri. Một đàn ông trung niên thân quàng tấm mền len cũ. Một phụ nữ ở trần giơ bộ ngực no tròn có núm vú đen đen ra giữa lộ thiên, và một thằng bé con khoảng ba tuổi trần truồng. Họ thường bán hoa lan ở trên góc phố. Mấy người lớn đang khóc hụ hụ, họ hỉ mũi sột rột, họ bập bập cần tẩu cong cong như chữ S, mùi thuốc lá hăng hắc nồng nồng phả vào không trung mù khói đen xám, quyện lẫn làn sương núi mờ mờ vật vờ bay bay dưới nắng xuân chan hoà. Ông ta khạc nhổ bãi nước miếng văng xuống đất, coi gọn ơ:
            - Khu Du Sinh trên cuối đường Huyền Trân Công Chúa, đã bị lửa cháy rụi hết, khiến nhà cửa tui tiêu tan. Mất hết! Kể cả gà chó ngựa và con người. Hụ hụ hụ... Các ôn ơi!

            Tôi phiền não chạy riết về đường Minh Mạng, qua hướng Cẩm Đô, leo lên dốc ở nhà xác cạnh Nhà Thương. Chạy tắt trên đồi cỏ sau bệnh viện để về nhà, tôi nằm vật ra giường, thở hổn hển, mắt trợn ngược mở trừng trừng nhìn lên trần nhà, ngao ngán thở dài và lo lắng sầu khổ biết bao!
            *

            Tình Hoài Hương
            (*) Sưu tầm đó đây
            Last edited by Tinh Hoai Huong; 11-29-2019, 01:54 AM.
            Bút trần nào tả được lưu luyến!
            Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
            Tình Hoài Hương

            Comment


            • #21
              Dáng Xuân tại Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt



              Dáng Xuân tại Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt
              Tình Hoài Hương
              ***




              Trường Võ Bị Võ Bị Liên Quân Viễn Đông Đặc Biệt của Pháp thành lập tháng 7-1946 tại Đà Lạt. Trường Sĩ Quan Hiện Dịch thành lập năm 1948 bắt đầu ở Huế. Khóa 1 tháng 12 tại Đập Đá. & Khóa 2 tháng 9-1949.
              Tháng 4 năm 1949 có một hội-nghị đồng thuận bãi bỏ chế độ thuộc địa (do Pháp cai trị ở nước Việt Nam).
              Tháng 5 năm 1950 quốc hội Pháp thông qua dự luật: Cho phép thành lập một đội quân Việt Nam.Thế nên bước khởi đầu thì Thủ Hiến Phan Văn Giáo cho một số trường quân đội Việt Nam ra đời.

              Sau ngày 20-07-1954 khi hiệp định đình chiến ký kết tại Genève, Thụy Sĩ; thì Trường Sĩ Quan Việt Nam ở Huế đã được chuyển lên Đà Lạt, bắt đầu Khóa 3, và gọi là École Militaire Inter-Armes de Dalat. (Sát nhập vào trường Võ Bị Liên Quân Đặc Biệt của Pháp. Ngôi trường Võ Bị Liên Quân Đặc Biệt của Pháp, nay đương nhiên phải trao trả lại cho Việt Nam). Trường chánh thức đổi lại thành Trường Võ Bị Liên Quân (sau khi người Pháp rời Việt Nam năm 1955). Đầu tiên ngôi trường nầy lấy tên là: Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt. Cuối cùng Trường sĩ quan hiện dịch nầy chính thức đổi tên thành: Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt Việt Nam theo sắc Lệnh số 325-QP ngày 10.4.1963. Đất và Trường rộng mênh mông tọa lạc giữa vùng khu ấp Chi Lăng và khu Thái Phiên.

              Gần cổng trường là doanh trại sinh viên, khu Văn Học, khu Bộ Chỉ Huy... Cổng trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt Việt Nam còn có tên là cổng "Nam Quan", nơi nầy luôn náo nhiệt trong những ngày Thứ Bảy, Chủ Nhật, ngày hội, ngày lễ. Những lúc ấy tại Cổng Nam Quan trở nên vui vẻ náo nhiệt như ngày hội lớn, hân hoan tưng bừng hơn với những chàng sinh viên sĩ quan phong trần, và bao tà áo dài tha thướt e ấp tung bay trong gió lộng. Thỉnh thoảng ở phòng trực trong trường gọi tên sinh viên sĩ quan (được phát ra từ loa phóng thanh vang vang lên), thì sinh viên sĩ quan nào có tên gọi, hớn hở vui vẻ rảo bước ra Cổng Nam Quan: Đấy là nơi "gặp gỡ của tình thương".

              Khu doanh trại sinh viên ở gồm: bốn dãy ba-ti-măng có ba tầng lầu. Mỗi ba-ti-măng có hai đại đội sinh viên sĩ quan cư trú. Hai bên nầy là sân cỏ của Trung Ðoàn. Gần dưới thung lũng là khu vườn luôn luôn đầy hoa đẹp và cây cối xanh tươi, do sinh viên chung vui tay trong tay góp công sức làm nên, tạo thành một khu vườn thật ngoạn mục.

              Muốn gia nhập vào trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, thanh niên phải có:
              - Học lực tú tài.
              - Có sức khỏe tráng kiện.

              Ban đầu thì sinh viên thụ huấn hai năm (sau nầy trường Võ Bị Đà Lạt đã tăng thời gian cho sinh viên sĩ quan thụ huấn lên bốn năm học). Bao gồm các bộ môn học như: Văn Học. Quân Sự. Thể Chất. Chương trình sinh viên sĩ-quan học gắt gao, rất nặng, ấn định có quy củ rõ ràng. Mỗi ngày, sau giờ học đầy căng thẳng trí óc; và sau bữa cơm chiều, là sinh viên có hai giờ: > từ 6 giờ tối đến > 8 giờ tối, thì sinh viên sĩ quan tự do đi những nơi giải trí tùy thích như: Bên trái là Hội Quán sinh viên có nhiều sofa và bàn ghế tươm tất, để cho mọi người ngồi với nhau thoải mái hàn huyên tâm sự; nghe nhạc sống do ban văn nghệ sinh viên sĩ quan đảm nhận, hay tập dượt văn nghệ. Hoặc giả sinh viên sĩ-quan vào Thư Viện đọc sách. Hay có sinh viên khác đi Câu Lạc Bộ ăn uống. Nhóm sinh viên đến Hội Quán thụt bi-da, uống cà-phê. Có người đi tới sân sau để chơi bóng rổ, bóng chuyền bóng tròn, bóng bàn, vân vân… Sau đó là giờ tự học. Tiếng kèn 10 giờ đêm là giờ báo đi ngủ. Một số sinh viên lo chuẩn bị đi gác. Trường có tám đại đội sẽ luân phiên nhau gác mỗi đêm.

              Sinh viên sĩ quan đi bộ leo núi, luyện tập quân sự, chinh phục đỉnh Lâm Viên cao 2.163m rất lạnh giá, ngỏ hầu rèn luyện sinh viên sĩ quan dũng cảm kiên cường vượt thắng gian truân và chông gai. Khi các sinh viên sĩ quan đi tới đỉnh Lâm Viên xong, họ trở về trường; ấy là chuẩn bị ngày lễ gắn Alpha cho tân khóa sinh. Các cán bộ đến tại phòng của tân khóa sinh để trao: mũ cát kết, đai lưng màu đỏ, thắt lưng đại lễ, đôi găng tay trắng. Tân sinh viên sĩ-quan sẽ đọc lời hứa: Tôn trọng lá cờ của Trung Ðoàn sinh viên sĩ quan. Bảo vệ danh dự cuả Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam: "Tổ Quốc. Danh Dự. Trách Nhiệm"; thì khoá sinh ấy mới được chấp nhận đúng là sinh viên sĩ-quan của Trường Võ Bị Đà Lạt Việt Nam.
              *

              Hôm nay là ngày tất niên của trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt - Việt Nam. Tôi cùng Vân, Lan, Tâm, Mai bao chiếc taxi chạy thẳng vào ngoài cổng Nam Quan, thăm bạn thân. Đúng lúc đó, tôi gặp Oanh cùng Biên. Hồng cặp tay Đáo. Thúy Mai và Tin Tấn ở Phạn Xá, (còn gọi là nhà ăn). Chúng tôi hân hoan khôn xiết, nói cười tíu tít biết bao chuyện buồn vui xếp lớp lăn tăn. Chưa dứt câu nầy, bạn đã hỏi câu kia dồn dập. Oanh chỉ vào bạn trai của cô:
              - Oanh đã hứa hôn với Biên rồi.
              - Hồng sắp làm đám cưới với Đáo.
              - Cả Oanh và Thuận nữa. Ôi thật là vui quá vui.
              Oanh mở miệng:
              - Nầy, Thụy thì sao?
              Tôi cười buồn:
              - Oanh có bao giờ ghé qua ngỏ nhà thăm tui đâu, mà biết hỉ!
              - Xin lỗi nha. Tại Biên hết đó.
              - Thì phải mà. Có bồ, hổng đi đâu là đúng. Thụy chúc các anh chị sớm thành đạt trong tất cả ý nguyện. Nghe.

              Họ cười tươi, cám ơn tôi với hạnh phúc hân hoan ùa về. Tôi đến điểm hẹn hò với Cảnh. Chàng nở nụ cười hồng rõ tươi, Cảnh hớn hở đón tôi nồng nhiệt lắm. Trên khuôn mặt qua ánh mắt Cảnh hiện rõ sự mãn nguyện khi chàng giới thiệu tôi với bạn. Cảnh hãnh diện vì có bạn gái xinh tươi, hồn nhiên mộc mạc, duyên dáng không thua những bông hồng biết nói khác trong đêm hội tưng bừng nầy. Cảnh nhẹ nhàng nắm bàn tay tôi nóng hổi, tôi run run như con chim gãy cánh. Nửa ngập ngừng ưng chịu siết tay chàng, nửa tôi toan muốn rút tay về. Đây là cái “nắm tay thân tình đầu tiên”, từ khi chúng tôi quen biết nhau. Cảnh tinh ý nhìn thấy sự vô cớ dằng co và trầm mặc nơi tôi, chàng cố tìm hiểu nguyên nhân vì sao có sự thay đổi kia. Nhưng, tôi sẽ không kể cho Cảnh nghe, (kể cả những người thân yêu ruột thịt) về nỗi buồn đau vô hạn.

              Dù tôi rất muốn ngỏ lời tâm sự với ai đó, hầu vơi đi nỗi niềm dày vò, cay đắng ấy đang bóp thắt trái tim tôi. Sung sướng xiết bao, nếu tôi có thể viết lên trời tất cả suy tư của mình, mà có người khác đọc và thông cảm nhỉ! ít ra trong giai đoạn ngắn ngủi nầy, Cảnh là người xứng đáng nắm bàn tay tôi (đang run rẩy vì… sương gió giá rét?!). Chàng có hiểu phần nào về tâm tư, nguyện vọng, tình yêu của tôi không? Chàng có thể lấp được khoảng trống ráo hoảnh trong tâm hồn rét mướt, mà tôi hằng ngất ngây mong đợi cùng "ai đó" xe mộng tương phùng chăng?


              Dọc hai bên đường dẫn lối vào chính điện, những sinh viên sĩ quan ứng chiến đứng gác rải rác dưới những chòm cây thông cao ngất và tối đen. Họ đội mũ lưỡi trai, mặc áo jacket, quần treillis xanh lá cây sậm, áo quần hồ ủi thẳng nếp, giày đinh cao cổ ôm hai ống quần thon gọn. Trên sân hội, những sinh viên sĩ quan thân hình thẳng tắp, mặc quân phục dạ hội mùa đông, nổi bậc găn tay trắng nõn, gù vai màu đỏ, dây biểu chương màu vàng nghệ pha kim tuyến đọ̉ súng dài bồng lên tay, đôi khi tạo ra âm thanh do sắt thép khua vào nhau, nghe rập ràng đều đặn và chuẩn mực. Súng lại được vài phen kêu lên đều đặn, rập khuôn lúc bắt chào, và hạ súng xuống khi nào có những qúy khách đi vào khu đại lễ.

              Đến giờ khai mạc đại hội thì buổi lễ long trọng được diễn ra tuần tự từng nghi thức bắt đầu và thủ tục cuối đã xong. Trước mặt các khán đài đang trình diễn các phân binh chủng: Nhảy Dù, Bộ Binh, Thủy Quân Lục Chiến. Biệt Động Quân. Thiết Giáp. Pháo Binh, vân vân... diễn hành các xe hoa… Thỉnh thoảng vọt lên trời những ngọn pháo bông đủ màu sắc rực rỡ, đủ hình thể khác nhau. Trông rất đẹp khi có mục biểu diễn nhảy dù tiếp theo. Bao cánh dù hoa bung nở, đủ màu bay lơ lửng trên không trung, lủng lẳng nhiều anh chàng Nhảy Dù bay bướm, trông quá tuyệt vời trên cao tít lưng trời bàng bạc hơi sương, gió rét căm căm cùng tiếng thông reo rì rào vi vu thoảng lại. Không Quân Việt Nam Cộng Hòa biểu diễn những đường bay quá điệu nghệ với dáng vẽ oai dũng riêng: Bay solo, bay ba, bay năm… bay vòng cung, bay vút lên và bay lộn ngược đầu… Ôi! Đủ thứ đường bay oai dũng mà lả lướt. Phi cơ kèm những làn khói đủ màu vẽ những hình ảnh lạ mắt, kéo dài sau đuôi tàu bay, rồi tỏa rộng trong bầu trời đêm lấp lánh ánh sao. Trông vô cùng hứng khởi, duyên dáng và ngoạn mục hết biết. Mọi người ngẩng đầu nhìn lên trời cao, mắt họ mở lớn, miệng xuýt xoa trầm trồ vui vẻ khen ngợi.


              Những hàng ghế ở khu khán đài B kêu răn rắc, suýt gãy dưới sức nặng của khách ngồi xem mê mãi. Giàn quân nhạc sống vang lên rộn ràng làm huyên náo góc trời u tịch và giá rét. Tiếng hợp xướng, tiếng đơn ca, đồng ca… vang dậy làm cho người đứng tuổi nghĩ nhiều về mình, đồng thời hồi tưởng lại quá khứ oanh liệt vàng son một thuở. Làm cho người vào độ tuổi tráng niên tạm lãng quên phiền nhọc, bực bội, lo toan, để ôn tồn thoải mái, vui vẻ hoà đồng với đám thanh niên trẻ trung tuấn tú, phong lưu hào hoa trong ngày hội lớn. Một số sĩ quan lão luyện tay bắt mặt mừng chào hỏi nhau, họ ung dung đi rải rác từng điểm hội, tuổi tác họ khác nhau.

              Đa số đàn ông có khuôn mặt đượm phong trần, sương khuya gió chiều khiến mái tóc lấm tấm muối tiêu và thân thể rắn rỏi hơn. Họ mặc quân phục đại lễ mùa đông trông khác nhau, ai nấy đều lịch lãm oai hùng, phong độ theo mỗi dáng kiểu của từng binh chủng riêng. Nam nhân có những bộ râu quai hàm, râu mép, kính trắng đạo mạo tô điểm cho vầng trán cao, tạo thành khuôn mặt rắn rỏi thêm phần trí thức và trang trọng. Miệng nhiều ông ngậm thuốc lá thơm, xì gà, hay ống điếu. Đó là những cấp lãnh đạo, những cấp chỉ huy có đôi mắt sắc sảo tinh tường. Họ giàu kinh nghiệm, bản lĩnh để hướng dẫn thuộc quyền. Kiễu dáng họ ung dung thong dong thư thả pha chút cao ngạo, đôi khi vương chút bình dị hoà đồng vào cuộc vui chung. Họ cũng biệt lập về kinh nghiệm chiến trường, và cách điều binh khiển tướng khi xung trận. Bên cạnh bao quân nhân là những mệnh phụ phu nhân kiểu dáng chưng diện quần là áo lụa “đỏm đáng đài các” khác người. Cùng phụ huynh của sinh viên sĩ quan đa số thanh lịch, mềm mại, phục sức trông đoan trang mà giản dị, không lố bịch. Nhìn chung đa số quan khách cao sang, uyển chuyển qua nhiều kiểu cách hợp thời khác nhau.


              Bỗng một tiếng nổ giòn tan xé màn đêm, nghe như tiếng lọ thủy tinh gián mạnh xuống nền gạch, rồi nhiều tiếng súng cối bắn đi đâu đó, khiến tôi giật nẫy người, nép sát vào lòng Cảnh. Chàng nhìn quanh cũng thảng thốt giây lát, vòng tay Cảnh vội ôm qua thân thể tôi lúc nào, không nhớ. Mọi người đứng lên đồng loạt vỗ tay và la to:
              - Ấy dá dà…
              - Tuyệt vời quá!
              Họ cười vang, có nhiều tiếng hét to:
              - Giao thừa.
              - Tiễn biệt năm cũ, chào mừng năm mới.
              - Chúc mừng năm mới.
              - Mừng xuân đến.
              - Tết Nguyên Đán đến rồi.
              - Happy new year.

              Giờ phút linh thiêng nầy thật trang nghiêm, trân trọng. Họ nhìn lên bầu trời sáng rực pháo bông đủ mọi màu sắc và hình dáng. Ồ! Thì ra bây chừ đúng là giờ giao thừa: Súng lớn bắn đi để đón chào dáng xuân hồng thắm ngự trên vạn vật. Chỉ có rứa mà cũng khiến tôi giật mình mất hồn mất vía, run rẩy à! Mươi phút sau bắt đầu thủ tục khai hội dạ tiệc trong đại sãnh sang trọng. Những thức ăn bốc khói nóng sốt thơm ngon. Chuyện trò râm rang khắp nơi. Đêm dạ vũ tưng bừng và long trọng đã khai mạc. Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt khoản đãi mọi người đến dự tiệc tất niên tống cựu nghinh tân vui vẻ náo nhiệt tưng bừng biết chừng nào.


              Chúng tôi dìu nhau đi trong đêm giao thừa rộn ràng những tiếng pháo nổ rền vang khắp mọi nơi. Người người hứng khởi đón chào năm mới vui ơi là vui quá chừng chừng. Lòng tôi vui thích, say say theo cung đàn yêu thương, ngất ngây với nỗi ngọt ngào lâng lâng từ đâu ập đến. Một giao thừa và năm mới bắt đầu tuyệt vời nhất đời mình. Dù mai tôi sau có xa ơi là xa trong sự già thật là già, tôi vẫn trân trọng và mãi nhớ lần đầu tiên tôi vinh dự vô Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, để tiễn năm cũ và hân hoan đón chào năm mới, vui vẻ đón xuân. Chúng tôi dìu nhau đi thật chậm giữa khuya trăng sao muôn trùng rơi rụng, bên tai tôi tiếng pháo rộn rã nghinh xuân tưng bừng.

              Lòng tôi cảm thấy bình yên vui vẻ kỳ lạ khi bước chân hai người líu ríu đặt lên từng bậc cấp để vào nhà. Trước thềm năm mới, Cảnh êm đềm trao tặng tôi nụ hôn nho nhỏ phơn phớt trên mái tóc nồng ấm hương xuân đầu năm. Tôi cảm thấy hạnh phúc nhè nhẹ len lén lâng lâng đến trong chân tơ kẽ tóc và trong đời sống riêng mình. Tình cảm ấy tuy nhẹ nhàng, đơn sơ, mà trĩu nặng ân tình trìu mến, thiết tha vẫy gọi nhau biết mấy! Niềm vui thật ngọt ngào trong sáng, cùng sự liên đới kỳ diệu của Trời cao giao hoà tuyệt vời với Đất thấp gợi tình, muôn hoa ngát hương, cỏ cây hoa lá đâm chồi nẩy lộc giữa thiên nhiên cẩm tú. Đà Lạt thoáng mát, thi vị, nên thơ, lãng mạn, mơ mộng, tuyệt diệu ươm mộng xuân tình từ: trên đỉnh Lâm Viên êm đềm rót xuống lòng thế nhân niềm vui chất ngất xiết bao!

              _ * _


              Tình Hoài Hương
              Last edited by Tinh Hoai Huong; 11-29-2019, 01:55 AM.
              Bút trần nào tả được lưu luyến!
              Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
              Tình Hoài Hương

              Comment


              • #22
                Đàn Én Báo xuân & Nút Áo Chết Tiệt



                Đàn Én Báo xuân & Nút Áo Chết Tiệt
                Tình Hoài Hương
                ***




                Mặt nước hồ Xuân Hương dịu êm, phẳng lặng, xanh biên biếc, như loáng men thủy ngân long lanh dưới ánh mặt trời trong veo phả sương bàng bạc. Gió hiu hiu hây hây vừa đủ lạnh xua chiếc thuyền con như chiếc lá tre bồng bềnh đơn độc phơi mình trên mặt nước. Con thuyền độc mộc nhè nhẹ trôi lui trôi tới bên cọc cắm. Buồm cột không chặt đang rung khe khẽ, hoà cùng tiếng thông reo vi vu và tiếng tơ trùng hòa ngân muôn điệu. Bỗng chốc bầu trời vần vũ mây xám, ánh sáng yếu ớt nhợt nhạt khiến tiết trời càng giá lạnh, cái lạnh bén ngọt sắt như dao cau quệt phớt vào da, khiến các trẻ con và đàn bà cô gái Đà Lạt đều có đôi má phớt hồng, hồn nhiên tươi tắn, môi mọng đỏ như hạt lựu.

                Khi sương trắng đọng trên thành phố núi, tôi thích đứng bên ô cửa hà hơi vào những khung kính mà viết tên chàng. Khổ quá! Bất cứ đứng ngồi ở đâu, làm gì, tôi cũng gợi nhớ xôn xao đến tình xưa kinh khủng. Thời gian thấm thoát trôi qua, thế mà đã đến ngày bế giảng khóa hội thảo và huấn luyện thông tin dân vận. Tờ nguyệt san đầu tiên của khóa Một mang tên “Tự Nguyện” đã phát hành, gồm có những cây bút chuyên về văn, thi, hoạ sĩ... cây nhà lá vườn “sáng tác, chiều tác” những bài tùy bút, văn xuôi, thơ tình hay hay, thật dễ thương. Tôi cũng góp mặt trong tuyển tập I mấy bài văn và thơ. Đồng thời tôi sinh hoạt trong Ban Biên Tập cùng Thiên, Thanh, Thứ để viết những bài nhận định, thư ngỏ, bình luận và quan điểm lập trường của đoàn công tác thông tin dân vận Đà Lạt.

                Rồi; trường tổ chức nguyên ngày cho khoá sinh đi thưởng ngoạn thắng cảnh dưới Quận Đức Trọng, địa điểm là suối Bồng Lai. Từ mờ sáng trong phòng rộn lên những tiếng cười nói vui vẻ, náo nhiệt hết biết! Ai nấy đều mặt hoa da phấn, hớn hở kêu gọi nhau chuẩn bị hành trang lên đường. Họ chia ra từng tốp năm tốp ba đi ra chợ mua thêm trái cây, nước uống, bánh mì. Mặc dù nhà trường đã chuẩn bị đâu vào đó tươm tất. Hai chiếc xe đò do trường bao chuyến có hai tấm biểu ngữ móc ở hai bên hông xe bay phần phật, chở bốn mươi người dự thảo viên và mười ông thầy giảng viên đi picnic. Nào ca hát, nào đàn, nào kể chuyện tiếu lâm, trên xe cứ om sòm ỏm tỏi như đám rước ngày hội lớn, vui vẻ chưa từng thấy.

                Tới dòng suối Bồng Lai cắm lều. Con suối thong thả chảy lượn qua các mô đá nép mình bên những bụi sim tím, bên những đoá hoa dã quỳ vàng óng và những bụi hoa cỏ dại không tên. Nước trong xanh lấp lánh ánh mặt trời róc rách chảy dưới chân. Làn gió mát rung rinh thấp thoáng trong rừng thông rì rào đong đưa cành lá, và choài mình ra mé suối, thoang thoảng mùi hương hoa núi đồi dìu dịu thơm thơm lả tả hoa núi bay về. Lần đầu tiên các bạn thấy tôi mặc áo sơ mi trắng nõn, váy đầm đen, thắt nơ đen trên cổ, đi giày cao gót. Họ to nhỏ xầm xì với nhau là:
                - Trông con Thụy đẹp giống như cô đầm lai hí.
                - “Mi nhon” hết sẫy!

                Lại vẫn cái tính xầm xì bàn tán to thật to bất lịch sự như hồi nào í. Có một hôm tôi mặc bộ đồ ngủ mỏng, bên ngoài khoác thêm chiếc áo ki mô nô, thì tôi bị mấy “anh chàng và mấy cô nàng nhà quê” ở trong phòng ngủ xúi giục, nên con bé Nuôi tài lanh và ngu xuẩn cứ chạy đến bên tôi cười hì hì. Bỗng nó tốc áo kimono của tôi lên cao hoài, cho mấy tên con trai dòm vô. Họ xem tôi có mặc quần lót không! Thật bất lịch sự, lố bịch, vô duyên, mất dạy, thô bỉ hết biết ha!

                Trong đám bạn gái của tôi cũng có nhiều cô đẹp như: Thương Chi, nghe nói Chi đang mê Thư lắm. Chánh dễ thương có một đứa con gái ba tuổi, mà vẫn được Thanh làm cùng Ty mê tít thò lò. Anh chị nầy hẹn hò “nhảy dù đi đêm” hoài.
                Nào là: Hằng sắp làm đám cưới vội nay mai, dù ba mẹ cô ta không đồng ý cho cô lấy người chồng mà họ cho rằng không xứng đáng. Nhưng Hằng đã mê muội và “lỡ dại” sắp có con! Hằng khóc than với bạn: “Thà rằng chẳng biết cho xong. Biết ra như xúc, như đong lấy sầu”. Đã lỡ mất rồi. Tình yêu hai người ấy nay ra nông nỗi nầy: “Chưa được thì hứng bằng rá. Được rồi thì đá bằng chân”. Hằng gặp phải thứ chồng “không chức không phận thấp hèn mà cứ tưởng là “ta đây”…
                Huệ có chồng con đình huỳnh, nhưng hai vợ chồng không hợp, Huệ bỏ chồng về nhà sống với mẹ của cô. Nay Huệ được ông Tiến là Phó-giám-đốc khóa hội thảo thương yêu, hai anh chị “mùi” ráo riết.
                Cả em Nuôi mới mười lăm tuổi nhưng cũng có anh bồ gộc là Dzuật (giảng viên) và Trung, Phong cùng làm trong văn phòng yêu thương Nuôi da diết. Nay em hẹn đi ăn với Trung, mai em đi chơi phố với Dzuật, hoặc Phong. Tay ba nầy ghen nhau loạn xạ. Trung là học viên nên không dám làm gì to chuyện, chỉ ghen ì xèo khi Nuôi bỏ anh, mà đi bồ với Dzuật.
                Có Tuyết, cô em gái láng giềng Hà Đông của Thứ, Tuyết có anh bồ là Sao đang cặp kè, họ thề hẹn vài tháng nữa sẽ làm đám cưới. Có Lăng và Nở-Hoa cũng khắng khít “nhỏ to tâm sự riêng”. Ôi! Cứ loạn xà ngầu như đám bùi nhùi. Và, còn nữa… Còn tôi nữa…
                - Mời Thụy vào gốc cây nghỉ chân uống nước, ăn bánh ngọt với chúng tôi.
                - Cám ơn Dzưỡng, nếu có trái cây, thì tôi ghé. Còn ăn bánh uống nước, thì tôi no rồi.
                Thứ đi dạo xem phong cảnh cạnh bên tôi, anh sợ mất lòng bạn, nên vội đỡ lời:
                - Cô ấy đùa cho vui ấy mà.
                Tôi vừa đi vừa mỉm cười:
                - Thật đó. Bụng của tôi và các bạn lọc ọc bao nhiêu thức ăn, và cả lít nước rồi. Không biết sao mà còn mời lơi!

                Vì Dzưỡng không biết là tôi rất không ưa Dưỡng, tôi đang giăng bẫy để đưa Dzưỡng vào tròng, cho bỏ ghét. Tôi dừng lại khi Dzưỡng ồn ào nói:
                - Vậy chúng tôi gồm: Trung, Phương, Dzưỡng, Hạnh, Liễu, Thanh, mời Thụy và Thứ vào đây. Chứ làm gì mà hai anh chị “úp mở”, cố đi riêng lẽ thế!
                - Hứ! Cảm ơn mỹ ý của bạn. Tiếc là tôi ớn lên tới cần cổ.

                Đoàn học viên lên xe trở về Lữ quán thì tôi lanh lẹ vơ vội quần áo, rồi chạy đi xí phòng tắm. Bọn con gái giành hết mười mấy cái phòng tắm trước mấy bạn trai chậm chạp. Con gái bao giờ cũng có cái “ma lanh láu lỉnh” hơn con trai là gì! Ngày cuối cùng chúng tôi ăn cơm ở lữ-quán. Nhà bếp cũng tỏ ra biết điều, họ cho chúng tôi ăn cơm ngon hơn. Mọi ngày thì khẩu phần rất ẹ: Hôm nay nào gà rô ty, sườn heo nấu đậu, canh rau cải nấu tôm tươi, thịt bò trộn xà lách, cả món tráng miệng là chè hạt sen (thay vài bánh ngọt, hay chuối mỗi ngày).

                Đêm văn nghệ thật vui, thật sôi động qua nhiều tiết mục: Đơn ca, song ca, tam ca, hợp ca. Hai vũ khúc. Hai hài kịch. Tôi tham gia trong mục song ca, vũ khúc, và thủ diễn vai chính trong một hài kịch. Tất cả mọi người phải tự biên tự diễn một vài thứ, miễn là có tham gia văn nghệ, để chấm thi ngày ra trường. Ông Giám-đốc Tào cũng như ông Trưởng Ty Triết sẽ tùy thuộc vào khả năng của mỗi người, hầu phân phối chúng tôi đi làm việc ở ngay Ty, (trong thành phố), hoặc phải tỏa đi ba quận huyện lân cận xa xôi.

                Thứ ca bài “Đường Chiều” và “Con Thuyền Không Bến” và tự đánh đàn guitar, đàn Haiwaii. Ôi! Tiếng đàn trầm bổng thánh thót khi khoan khi nhặt, cùng tiếng hát trầm ấm ngọt ngào đầy tình người và rung cảm của anh, như xoáy sâu vào lòng người! Trong phòng không ai biết anh có biệt tài. Bây giờ cả hội trường đông nghẹt sinh viên học sinh và lớp hội thảo đang nồng nhiệt hoan hô Thứ, thì Trung, Phương, Thanh… hết thảy bọn họ đều rất thán phục, hết dám lên mặt làm “thầy đàn” khinh thường tài nghệ của Thứ.

                Bởi vì những buổi ca hát trong khoá hội thảo nầy, Thứ chỉ cười cười ngồi im lặng ở dưới làm khán thính giả, nghe họ múa rìu qua mắt thợ! Tuyệt nhiên anh không hề lên sân khấu biểu diễn tài nghệ (duy chỉ có tôi ở trong đoàn là biết anh rất có biệt tài lẫy lừng mà thôi). Sau những giờ phút làm chao đảo lòng người ấy, mặc các bạn la ó đòi Thứ đích thân đệm đàn cho ban nhạc tự phát, vì Trung, Phương, Thanh, đánh đàn không có phương pháp, không học theo sách vở với thầy bà nào. Họ chỉ “đàn mò, học lóm lỏm bỏm”. Các “ca sĩ miệt vườn” hát một đường, họ đàn đệm đánh một nẽo! Bùm búm bum… từng tứng tưng… tằng tắng tăng.

                Thứ học hai thứ đàn nầy đã chín năm do thầy nhạc sĩ kiêm hoạ sĩ Hoàng Hà dạy, anh đàn có căn bản hẳn hoi. Họ kêu gọi Thứ lên sân khấu, nhưng anh nhất định trốn vào phòng ngủ, không chịu ra hội trường. Hôm nay tình trạng giường nệm ở phòng ngủ rất lộn xộn, không sắp theo thứ tự như cũ, vì tất cả giường phải kê sát vào nhau, dồn vô trong góc vách, bên ngoài tấm phông che, vì cần có chỗ rộng để làm thêm sân khấu và làm sàn nhảy đầm. Nên ai muốn ngủ ở giường nào thì ngủ, thật ra không biết giường nào là của mình ở “góc mô” mà tìm.

                Ngoài kia dù đã khá khuya, nhưng các bạn tổ chức “đêm không ngủ” ca hát, ăn uống, chuyện trò vui vẻ. Tôi đi tìm giường của mình, mới khám phá ra một điều bí mật lý thú không thể ngờ: Khi tôi vô phòng ngủ chuẩn bị leo lên chiếc giường của mình, mới giật mình thấy Thứ đứng ở một góc mờ mờ tối dưới đất, anh ta đang ngửa mặt lên cao, vòng tay Thứ ôm lên cổ Thương Chi. Còn cô ta thì nằm sấp trên chiếc giường cao ở tầng hai, cô ta cúi mặt xuống trên mặt Thứ đã ngửa lên. Bất chợt thấy tôi bất ngờ vào phòng ngủ, họ vội vàng buông nhau ra. Vờ như không trông thấy cử chỉ của hai người, tôi lúi húi cúi mặt lặng lẽ leo lên giường của mình, và thả mùng xuống. Tôi không thể ngủ được, vì ngoài kia còn ồn ào náo nhiệt kinh khủng. Tôi đang lim dim mơ màng thì Mai và Huệ vào phòng, tốc mùng kéo giật tay tôi lôi xuống giường:
                - Lớp tổ chức cuộc chơi bắn tên, chơi mèo bắt chuột, trốn tìm. Có thưởng lớn. Thụy phải ra tham gia, không ai được ngủ cả.

                Quả thực lúc đó trong phòng chỉ có mỗi mình tôi đi ngủ. Họ đi đâu cả rồi? Nằm một mình trong phòng mờ tối, không ngủ được, dù bên ngoài vọng vô ồn ào, nhưng tôi hơi sợ ma. Nên tôi theo hai bạn gia nhập vào cuộc chơi trẻ con nầy. Nhưng lòng tôi cảm thấy buồn lắm. Sau đó tôi lẽn vào phòng kế bên, là leo lên đống nệm, gối, mền, thật cao của lữ-quán. Tôi nhảy tủm xuống bên góc kín đầy nệm tối và khuất ở phía trong, tôi dự tính để trốn mấy bạn, hy vọng không ai tìm ra, tôi có thể ngủ chốc lát. Nhưng, tôi giật nẩy mình toan hét tướng lên, khi thấy Thứ đứng phắt dậy ở một xó góc như cái hang ổ kia. Anh lanh tay lấy tấm mền phủ lên sau lưng. Tôi hoảng hốt khựng lại:
                - Úi chèn đét ơi! Anh làm cái gì đó?
                - Thì… đi trốn.
                - À… cái anh nầy! đã nói là “đêm không ngủ” sao định chui vào đây “ngủ lén” ha!? Có ra chơi với các bạn không thì bảo. Không thì tôi la lên. Họ vào đây lục soát, coi anh làm gì, thì chết đa. Ai nằm ngủ với anh đó?
                - Ha… à… Bạn.

                Tôi lại trèo lên đống nệm gối bị rách vứt bừa bãi, tôi nhặt mấy sợi lông vịt (những lông tơ vịt làm gối) đã dính trên tóc anh. Tôi kéo tay Thứ theo, anh nói:
                - Em đi ra trước đi, rồi anh… sẽ đi ra.

                Tôi tụt xuống đi ra ngoài hội trường và ca hát nghêu ngao. Gần ba giờ sáng khi Thương Chi từ trong phòng ngủ đi ra, cô ta lên sàn nhảy với bạn, tôi thấy vài lông vịt dính trên mái tóc dài của nàng, giống như lông vịt dính trên đầu Thứ lúc nãy. À… thì ra tôi đã hiểu… cô ta chính là “bầu bạn… Thứ”. Bốn giờ rưỡi sáng, hầu như không ai còn có thể thức trắng đêm như đã hẹn, nên họ lần lượt rút lui về giường ngủ. Tôi leo lên tầng trên một cái giường bỏ trống ở trong cùng, thả mùng xuống, tôi nằm yên và chợp mắt được một lát.

                Bỗng tôi giật mình thức dậy, vì phía dưới cái giường đôi nầy cứ rung lên từng chặp, từng chặp. Tôi bực tức chồm người cúi xuống nhìn vào cái giường dưới lưng mình. Vì chiếc mùng trắng vải thưa hơi dày, nên tôi không nhìn rõ người con trai trùm kín đầu hắn, là ai!?. Tôi chỉ thấy cái sọ dừa tên kia đang nằm trên thân Chi. Cô ta nằm ngửa và mở mắt trừng trừng nhìn lên cái giường đôi, (là nơi tôi đã nằm)… Tự nhiên tôi nổi sùng, (có lẽ là lúc đó tôi “bực tức, ghen bóng ghen gió” khi biết hai người nầy thân thiết nhau?!), nên khẽ gắt:
                - Thương Chi. Làm cái gì mà rung cái giường sắt dữ vậy! mầy?

                Sợ bị lộ, mấy người con trai khác nằm ở giường sát bên giường của Chi, đã kéo hai cái mùng nhập cho vào nhau, để cho tên con trai đang nằm ở giường Chi, chui tọt qua bên giường của hắn. Rồi cả mấy tên lồm cồm luồn đi các giường kế tiếp, ở nơi cuối góc phòng tối. Thì ra, mấy tay con trai ranh ma quái qủy nầy quá quắt lắm, họ cùng nhau ngồi chung một giường ở trong mùng, để nhìn qua bên giường Tương Chi “coi… màn kịch tình câm, hay để “bề hội đồng?”. Khiếp! Cái lớp tự nguyện tự do thoải mái đầy hào hứng nầy là như thế đó!
                * * *

                Lễ bế giảng khóa học được tổ chức khá linh đình, trang trọng dưới sự chủ toạ của ông phó Tỉnh-trưởng nội-an, qúy ông Giám-đốc, Trưởng-ty các ban ngành đoàn thể. Trong lớp học có học viên tên Lăng, ba mươi bảy tuổi, có lẽ anh là người già nhất trong đoàn thông tin. Lăng đại diện khoá sinh lên sân khấu lãnh bằng tốt nghiệp; (sau những ngày chúng tôi vùi đầu vào trang sách mở rộng, đây là quà lưu niệm của qúy ông phó Tỉnh-trưởng, các Giám-đốc, Ban-ngành trao cho nhóm người “Tự Nguyện”, các bạn đã được chính phủ thừa nhận tốt nghiệp). Tiệc tùng khoản đãi tưng bừng, vui vẻ không kém gì ngày hội lớn. Ấy là nhận danh hiệu cao qúy nhất mà mỗi người tốt nghiệp khoá I vinh dự thụ hưởng.

                Từ đầu đến cuối buổi lễ rất chu đáo, ông Châu phó nhòm chụp nhiều ảnh, quay thành phim tư liệu, mai mốt ông sẽ cho trình chiếu trên màn ảnh chương trình thời sự đó đây. Nhưng khi ông phó Tỉnh-trường và đoàn tùy tùng ung dung an vị trong những chiếc xe hơi đen bóng loáng ra về. Thì ở hội trường có ông đại diện Tỉnh-trưởng tai to mặt lớn nổi trận lôi đình với anh chị em khoá sinh. Chắp hai tay sau đít, ông đi lui đi tới:
                - Anh chị em hãy cho tôi biết: Sao không có tấm bích chương móc lên ở chỗ được quy định ở bên ngoài khuôn viên lữ-quán vậy? Phía tay trái kia kìa! Câu biểu ngữ mà tôi định cho dán thêm bên hướng trái của lữ-quán, đâu rồi!? (đại ý là tỏ lòng tri ân và tâng bốc các vị quan to chức lớn, nịnh nọt lố bịch, coi thiệt chướng tai gai mắt thật. Vài ba người trong nhóm học đã đồng lòng cố ý bóc vứt đi, cho rãnh mắt).
                Lăng đứng nghiêm chỉnh, cúi đầu thưa:
                - Thưa ông, chúng tôi đã dán câu biểu ngữ như ông căn dặn. Nhưng khuya hôm qua có lẽ “kẻ gian” rình mò, phá hoại xé toạt đi. Chúng tôi không ngờ, nên đã dọn dẹp dụng cụ cần thiết. Sáng tửng bưng không thể nào chạy ra chợ mua vải về, làm lại tấm khác, cho kịp.
                - Làm cái gì cũng phải phòng hờ chứ! Nước đến chân phải biết nhảy.
                - Còn dấu hồ dán và chút giấy màu đỏ trên tường… Chúng tôi có…
                - Tôi không phải là cha cố… để anh chị xưng tội lỗi của mình, xin tôi tha tội đâu!
                Ông ta lại đi tới rồi đi lui:
                - Tôi thấy chứ. Các anh chị tài giỏi, hay… hay lắm! Hệt như một…

                Định nói thêm câu xỉ vả gì đó cho hả giận, nhưng ông ta cố gắng kềm chế. Ông ta run run thò tay vào túi áo bành tô, rút chiếc khăn tay ra lau mồ hôi rịn trên trán. Chiếc kính mát vô tình rơi xuống đất, mà ông cũng không hề hay biết. Không ai kịp mở miệng nói, hoặc chạy đến nhặt lên dùm. Gót giày của ông dẫm phải, đã bể nát cái kính vỡ vụn dưới ánh mặt trời ấm áp lấp lánh, hai cái tròng không kính chổng cọng nham nhở giơ lên trời, trông dị hợm làm sao! Từ trong thâm tâm tôi cảm thấy bất mãn.

                Ông ơi! Không nên núp bóng cây cổ thụ lợi dụng quyền hành, để có thái độ kém tế nhị, to tiếng mắng kẻ dưới quyền ở ngoài công chúng. Khi bất ngờ họ có thể vô tình phạm ít sai sót lỡ lầm (đúng hay sai đến mức cần thiết) như thế! Ông đã lạm dụng quyền hành, lại tự hạ thấp mình vì chính bản thân chức vụ không cho phép ông đối xử kém tao nhã, thiếu phong cách một truyền nhân thông tin dân vận, như chúng tôi vừa học trong khoá hội thảo nầy. Mặc dù tôi biết bình thường ông là người khả ái ôn nhu cơ mà.

                Môi hở thì răng lạnh nhưng răng cứ tàn nhẫn cắn lấy môi đến chảy máu ra, mà vẫn khoe khoang với đời: răng với môi cùng xương cùng thịt trong một cái miệng, (cùng một dòng máu và nguồn gốc, chung lý tưởng, cùng sinh ký tử quy bên nhau, để bảo vệ quê hương). Là sao thế nhỉ! Thế là thay vì buổi tiệc thân mật giữa ban Giám-đốc, giảng viên, khoá tuyển sinh cùng bạn hữu gần xa đến tham dự, lẽ ra vui vẻ say sưa men hoan ca chiến thắng hương nồng, “trọn vẹn yêu thương” hay “đoàn kết và xây dựng”. Hôm nay đã bay vèo theo “bài học bích chương” mất toi!

                Tôi rầu rầu xách valy ra về với Huệ, Phương, Thứ, Luận, Thảo. Chúng tôi cùng chậm bước đi bộ xuống con dốc đường vòng trước mặt chùa Linh Sơn. Thứ hai tay bận rộn xách đàn, valy, amply cồng kềnh... vân vân… Thứ phải nhấc lên đặt xuống hoài. Bỗng dưng tôi nhớ lại mấy cái lông vịt dính trên đầu Thứ và Thương Chi, sau đó là chuyện cái giường cuả nó rung… Thành thật mà nói dù lúc ấy tôi chẳng luyến thương gì Thứ. Nhưng tôi cảm thấy muốn đoạt Thứ từ trên tay cuả Thương Chi luôn tỏ vẻ ta đây có bộ ngực to to. Cho bỏ ghét.

                Tự nhiên lòng trào lên nỗi ghen, giận, hờn tức vu vơ. Tôi muốn Thứ tài hoa, điệu nghệ, lịch sự, và khá bảnh trai sẽ thuộc về tôi, vĩnh viễn. Tương Chi phải đau khổ khi mất người nó yêu. Chuyện toan tính nầy tôi biết là dị hợm, nhưng tôi có thể chắc chắn làm… được. Trời rất lạnh và mưa phùn bay lất phất, mà chiếc áo veston của Thứ không gài khuy nút, gió lùa bay giạt hai vạt áo về hai nơi, trên ngực Thứ lộ chiếc áo sơ mi trắng mong manh với cà vạt nâu sọc đen ướt đẫm nước mưa. Tôi dừng lại đặt va ly của mình trên lề đường, vui vẻ bảo anh:
                - Sao anh không gài nút áo lại đi.
                - … Ồ! Phải. Nhờ em tiện tay vui lòng gài nút áo hộ anh tí.
                - Tôi tiện tay cũng định gài nút áo giúp anh đó.
                - Cảm ơn Thụy.
                Tôi chậm rãi gài nút áo cho anh. Nhìn Thứ, tôi thấy ánh mắt chàng ánh lên nét nồng nàn, xao xuyến, thân thiết, trữ tình kỳ lạ. Bốn mắt gặp nhau với niềm hân hoan trìu mến:
                - Có lẽ từ nay anh phải nhờ em đi về chung lối, hầu ngày ngày gài giúp anh mấy nút áo, cho anh bớt lạnh.
                Tôi mỉm cười trề môi ra, khẽ nhún vai:
                - Vậy chứ để bà Tương Chi và bà Tuyết lại cho ai hả?
                - Với họ, anh chỉ đùa cho vui…
                - . . .
                - Thật đấy.
                - Anh đừng có mà… đa tình lãng mạn quá.
                - Một người duy nhất khác, anh đã chọn, thì không bao giờ thay đổi…
                - Có ngày chết à.
                - Được chết với người mình thành thật yêu thương (mà chưa dám thổ lộ)… thì còn gì hạnh phúc bằng. Hở Thụy.
                - Chỉ khéo đùa dai và giỏi nịnh.
                - Thụy không tin anh sao?
                - Ai thèm tin cái người chẳng biết thủy chung.
                - Em quá lầm rồi, Thụy yêu cuả anh ơi!
                - Xiá. Hứ…


                Mỗi người leo lên một chiếc taxi riêng biệt chạy về hai hướng khác nhau. “Hai anh chị” lưu luyến trìu mến vẫy vẫy tay chào từ giã. Người con trai trở về hướng Hà Đông. Người con gái lên xe trở ra phố, về nhà ở đại lộ Pasteur. Tiếng gió lộng thổi vào tấm kính trên phòng bên góc lầu rít lên khô khan, nghe thật khó chịu. Đám mây mù đen đen buồn bã buông lơi xuống thấp, tạo thành từng cuộn khói trắng đục rồi lẫn khuất vào trong làn mưa xám đục. Chiều xuống thấp xe bon bon qua những hàng thông cao sừng sững đứng thẳng tắp làng mạc nương dâu lặng lẽ gật đầu lùi về nơi xa xôi với đêm buông.

                Chính vì có với nhau nhiều ngày cùng làm chung một công việc, mà tình cảm êm đềm và thật mơ hồ trong tôi đã len lén nẩy sinh với Thứ từ lúc nào, thật tình tôi không rõ! Tôi không thể nào ngờ -và không bao giờ nghĩ đến mấy cái nút áo chết tiệt kia- đã có sức mạnh xoay cả vận mệnh tương lai tình yêu của hai người. Giây phút định mệnh tình cờ (hoặc gọi là số phận “tài lanh và xí xọn”) trớ trêu đó đã mở to mắt, để cúi nhìn xuống đời dân dã, và bện quyện buộc chặt một sợi tơ vàng tuy mong manh; nhưng có đủ sức mạnh dẽo dai bền bĩ! Đó là ngày muà xuân có cơn mưa phùn buốt tê, có gió lồng lộng thổi về tràn ngập trên xứ hoa anh đào, có chiếc nút áo định mệnh chắc chắn của Thứ đã tình cờ trao vào tận tay tôi. Phải! Có nhiều điều khác nhau, vô cùng xa lạ, nhất là về quan điểm, tính tình, đồng cảm, tình cảm. Một sự thiếu thông cảm đầy bất công, mâu thuẫn, mà lại xen lẫn niềm vui, hạnh phúc chợt đến, chợt đi, chợt về.

                Tình cảm đó không có cách gì hủy diệt được về cái ngày tiền định duy nhất: từ đàn én báo xuân khoảng chục ngàn con vượt vài trăm ngàn ki lô mét, từ phương Nam bay về tu viện San Juan Capistrano ; ấy là ngày 17 tháng 3 được mệnh danh: Swalows Day. Chính lúc đó có một chú én lạc đàn đã mang mấy cái “nút áo thần” bay xa, xa hẳn đàn. Nút áo chết tiệt có sức mạnh xoay cả vận mệnh. Đó là nút áo đen đen xinh xinh của Thứ đẹp trai, tao nhã, tài hoa, nhưng không hề có sự đồng cảm, thân mật hay truyền cảm cho lắm. Ối Giời ạ! Dạ phải đấy…
                * * *

                Tình Hoài Hương
                Last edited by Tinh Hoai Huong; 11-29-2019, 01:57 AM.
                Bút trần nào tả được lưu luyến!
                Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                Tình Hoài Hương

                Comment


                • #23


                  Ác-nhân tương-tàn Xứ Mai Anh Đào !
                  (Nhớ về năm Mậu Thân 1968)
                  Tình Hoài Hương
                  ***




                  Khung trời Đà Lạt se lạnh giữa lưng núi gom từng phiến mây bạc ùn ùn trôi dưới nắng vàng tươi rói. Mây phơi phới hào phóng bay bay khắp đỉnh đồi thông, quyện lẫn mùi hương hoa ngâu, hoa lý, hoa lài, hoa bưởi tỏa ra thơm thơm. Gió lồng lộng vỗ vào hàng hiên bên giại nứa sau hè nhà ba má tôi, phối hợp cùng bầy chim én lý lắc ríu rít vút vút bay lên bay xuống. Nắng và gió vô tình lùa tới, thi nhau đẩy khói lửa bốc cao vào cuộc chiến. Cho đến lúc chết vẫn tranh chấp kịch liệt những con đường nhấp nhô trồng nhiều hàng hoa anh đào óng ả lả lơi uốn khúc, lượn sóng vòng vòng quanh co ven đồi núi Đà Lạt. Khiến ta thèm những đồng bằng ruộng dâu đất đai phì nhiêu, cả những luống hoa muôn màu tươi đẹp, bao đồi thông ngút ngàn xanh um bóng mát.

                  Đến chân khu nghĩa trang số 6, Lâm lúi húi đốt hương trầm bên những nấm mồ tiên tổ. Nào ngờ nơi ấy phơi ra mấy thi hài lõa lồ lắc lẽo, rửa nát, tanh hôi, sình bủng, không trọn vẹn hình dáng ai rải rác bên vệ đường ở thành phố cao nguyên Lâm Viên từ hai ba hôm nay chưa có người kịp nhặt đi chôn.

                  Tiếng súng bên nầy lẫn bên kia rau ráu ầm vang nhức nhối nổ thật rát tai, quá kinh thiên động địa, tạo thành một chiến trường bi phẫn, bạt ngàn khói lửa tuông về, chết chóc, rùng rợn, thê thảm sẽ ập đến nữa mà thôi! Chiến tranh ngang nhiên ngốn đi biết bao thanh niên trai tráng, và ông già bà lão trẻ thơ vô tội; kể cả động vật có hai chân, bốn chân, hoặc không có chân nào như giun, rắn... và bất động vật. Bất kể “chủng loại” nào “nó” cũng chẳng từ nan. Chiến sự không tốt đẹp gì. Phía Việt Nam Cộng Hòa chưa thể ra tay! Nếu có đề phòng trước, không bị bất ngờ, và có quyền quyết định như người xưa “tiền trảm hậu tấu”, vị tất họ chẳng nhường cho “kẻ dị tộc” vô Nam xâm lăng một tất đất.

                  Lẽ nào chính phủ Việt Nam Cộng Hoà để “người lạ phương xa” tự do ra vào tung hoành, tranh phần lãnh thổ của riêng ta, mặc nó thao túng!? Vì chính bọn họ đã ngang nhiên vi phạm quy ước hiệp định “The 1954 Geneva Cease-fire Agreements” ấn định: chia đôi đất nước Việt Nam ra làm hai phần: miền Bắc – miền Nam tách bạch (riêng rẽ chủ quyền lãnh thổ). Lấy cầu Hiền Lương, vĩ tuyến 17, con sông Gianh làm mốc chuẩn mực. Dù phải chia lìa quê hương, xa nơi chôn nhau cắt rốn - Ngăn cách đôi bờ xót xa, tủi nhục, một sự tủi hờn điếng lặng đớn đau muôn đời khắc in vết chàm, không bao giờ gột rửa sạch!

                  Miền Nam Việt Nam Cộng Hoà vẫn tôn trọng quy ước, tuyệt nhiên không xâm phạm lãnh thổ của ai. Ấy vậy mà, những tên bố tổ cha kia đã làm động mồ động mả, động những ngôi cổ mộ tôn kính từ lăng Nguyễn Hữu Hào xa tít trên triền núi Cam Ly Thượng, chạy dài xuống nghĩa trang khu Số Bốn, động cả thánh thần muốn yên nghỉ giấc nghìn thu ngoài nghiã trang khu Số 6. Ngay trên bàn thờ mọi gia đình cũng bị lật tung, dựng đứng dậy! Nhất là hương hoa đèn nến nghi ngút toả ra tại các chùa chiền linh thiêng, am tự, nhà thờ, nơi đình đám hội hè, mọi nhà cư dân yên ấm vui vẻ ba ngày Tết Nguyên Đán cổ truyền, đâu đâu cũng bị bốc cháy, rụi tàn.

                  Thảng thốt. Bàng hoàng tột độ. Thật phi đạo đức! Tôi thương những người chân thật, mềm yếu rụt rè, phần nữa là họ cùng tôi có những nét tương giao đồng cảnh ngộ. Mặc dù sự phòng tránh bom đạn ở trong nhà tôi chẳng chắc chắn chu đáo gì, Lâm đã kê ở bốn chân giường lên những cục táp lô, rồi chất bao đất cát ở bốn phiá chung quanh cái giường đôi, làm thành căn hầm tạm trú. Nền xi măng lạnh lẽo đã quét sạch và lau đi lau lại bằng khăn lông vắt khô. Tôi trải tấm nệm xuống nền nhà để ngả lưng. Mới bốn giờ chiều mà cả nhà lo chui vô “hầm trú” nầy.

                  Buồn không nói nên lời! Ở thời buổi chiến tranh không biết nghỉ mệt, làm sao bây giờ? Không sáng tối nào mà tôi khỏi thấy đầu đạn mới, mìn cày xới trong vườn hoa trước sân nhà, trong phòng ngủ, phòng ăn. Có nhiều hôm đạn ghim vào nệm, vào gối. Dễ sợ chưa! Đầu đạn ghim vào vách ván thì không kể xiết. Tất cả cửa kính bể nát, tha hồ cho gió lạnh lộng hành rít vù vù, lật tung hết mọi trật tự trong gia đình. Mấy cái phuy chứa đầy nước uống đạn xuyên qua, nước chảy cạn xuống đáy thùng. Sáu bóng đèn điện trong nhà cứ vài hôm bị đạn "xơi tái" đi. Riết rồi trong nhà tôi, ngoài ngỏ, đường cái tối thui, không còn một bóng đèn nào. Không ai có thì giờ nghĩ đến chuyện dọn dẹp nhà cửa khang trang tươm tất hơn.

                  Thế rồi chúng tôi không thể nằm lì ở nhà, mà phải bồng bế nhau chạy lên khu nhà Dòng lánh nạn, vì đạn mìn nổ réo rát tai, tức lồng ngực kinh khủng. Sau ba tuần, cư dân trong thành phố tôi ai ai cũng đi đi về về lánh nạn (người dân ở vùng nào, thì tạm lánh ở những cao ốc an toàn nhất của vùng đó, (ví dụ khu ở nhà Chung, nhà Bò… họ sẽ chạy vô núp trong nhà thờ Chánh Toà). Dưới khu Điạ Dư thì dân vô ngủ nhờ ở trường Grand Lyce’), vân vân... Bảy gia đình ở khu Mai Hắc Đế cuả chúng tôi cư ngụ gần dòng tu Domain de Marie (dòng tu có biệt hiệu là: “Dòng Bà Xơ Xanh, và còn có tên là Dòng Nữ Tu Mai Anh, vì trên khu đồi nầy trồng toàn hoa Mai Anh Đào”).

                  Sau vài ngày sửng sốt bàng hoàng dáo dác lấp ló nhìn nhau; thì mấy ông mồ côi con nuôi (của các Bà Mẹ Dòng) không cho “cánh đàn ông ở ngoài Đời” (đây là “từ” mà các con cuả bà mẹ dòng Domain muốn ám chỉ về: Những người ngoài đời ấy không phải là con nuôi, con mồ côi “thuộc quyền cai trị” của các bà mẹ dòng tu). Mấy “ông mồ côi” không cho mấy “ông ở ngoài đời”, vào ngủ nhờ dưới tầng hầm nữa. Mấy “ông tướng mồ côi” nầy được các bà mẹ dòng Domain đi nhặt nhạnh ở đâu đó trong thành phố, hoặc vài nơi: Tỉnh, Thành nào… đã bị cha mẹ họ dã tâm bỏ rơi con. Rồi các bà dòng bác ái ấy cưu mang, ra tay làm phúc, gây đức, lụm khụm, tay bồng tay dắt đùm túm tha nhặt mang trẻ không cha mẹ, tứ cố vô thân về nhà dòng.

                  Khi các bà có “cục cưng” thì ôi thôi họ lo nuôi nấng, ấp ủ cho “đàn con côi cút” có cơm ăn áo ấm mặc, học hành tử tế. Nhưng dĩ nhiên các cục cưng cũng không khỏi bị các bà cho ăn cơm ngon với… ăn đòn (khi các con ưa quậy tưng trời)! Đàn con nuôi dần dà lớn lên thành nhân, thành tài, các bà mẹ dòng lại đứng ra dựng vợ gã chồng “hợp tác” cho con mồ côi có tổ ấm riêng. Các bà dòng làm một dãy nhà gỗ, hoặc nhà xây ở tít dưới thung lũng (khu đất rộng trong khuôn viên dòng). Các bà mong họ sống ấm no thoải mái, sanh con đẻ cháu ở đó cho tới già, tới chết. Khi họ lìa đời, mẹ dòng lại bưng họ đi chôn trong một góc tư điền tư thổ xa xa Dòng Domain nầy.

                  Trở lại chuyện mấy ông mồ côi: Mặc dù “mấy ông tướng mồ côi” dư biết bảy gia trưởng “ở ngoài đời” là những cư dân sống đàng hoàng, lương thiện, có công ăn việc làm cố định, có nhà cửa, đồng thời họ là hàng xóm láng giềng thân cận với khu đất dòng Domain. Ngày ngày mấy “ông tướng gia mồ côi” thường lui tới, ra vào nhà mấy ông “láng giềng bạn dân” ngoài kia; đôi bên tưng bừng vui vẻ la cà ăn nhậu lai rai. Chưa say, không đã, không xỉn, không quên nghêu ngao ca hát mà đưa lui đưa tới: “anh hân hoan đưa em về, rồi thì em lại dùng dằng chẳng chịu chia tay, lôi kéo em đưa anh ra”. Họ “khắng khít” với đàn anh ngoài đời chả chịu bò lết trở về nhà.

                  Thế mà hôm nay lúc bên ngoài súng đạn bay vèo vèo, nhưng bọn mồ côi ấy khoá chặt cửa nẽo, bình thản và tàn nhẫn đứng ở trong cửa hầm, vô tư lự nhìn ra nhóm đàn ông ở ngoài cửa. Dù mấy tay đàn ông đứng ở ngoài cửa ngoài trời hết hơi năn nỉ ba ông mồ côi thân quen gác cửa muốn gãy lưỡi, họ vẫn không cho mấy ông ở ngoài trời vào. Lâm giận run chửi họ một trận. Anh nổi cộc dùng tay không đấm rõ mạnh vào một ô cửa kính, khiến nó bể nát ra. Mảnh kính ghim vô bàn tay Lâm, máu tươi chảy ròng ròng. Tôi xanh mặt, ớn lạnh và run lẩy bẩy không thốt nên lời. Lâm xỉ tay vào bên trong cửa kính vừa bể, hét to:
                  - Không cho chúng tôi vào. Hãy mở cửa cho vợ con tôi ra ngay.
                  Bác Hải chống hai tay lên sườn:
                  - Ông không sợ lũ hèn nhát chúng mày. Nhớ nhá!
                  Báu rung mạnh cánh cửa bể:
                  - Bà dòng cho mọi người vào đó ở tạm. Chứ nào phải nơi nầy là của riêng bố tổ ...tổ cha chúng mày, mà không cho ông vào. Hử?
                  - Chúng mày là loài liu điu, nở ra dòng liu điu, cứ tưởng mình là chó sói, thị oai ở rừng ha. Có ngon, thì mở cửa ra đây. Sẽ biết tay ta.

                  May mà mấy cha nội mồ côi ác nhân đứng lấp ló ở bên trong hầm. Chứ nếu đám ông mồ côi đứng gần cánh cửa bể, thể nào cũng bị Lâm thộp ngực áo lôi ra ở ngoài tầng hầm, thì ...thể nào họ cũng bị “các ông ngoài đời” thẳng tay "nện, dần, đục, tộn" cho một trận nên thân.
                  Kẹt lại bên trong hầm không ra được, mẹ con tôi thấy cảnh tượng Lâm bị máu chảy ruột mềm, tôi đã chưởi vu vơ nhoi trời đất. Tôi bắt họ mở cửa lớn cho mấy gia đình chúng tôi (ở chung dưới xóm) đi ra. Nhưng tên giữ chìa khóa cửa lớn đã lủi trốn đi đâu, lúc nào không rõ. Đêm đó, bác Hải và Lâm nằm tơ hơ trống huếch trống hoác mà co quắp dưới chân bàn thờ bên hang đá Đức Mẹ, không mền chiếu. Vì có thiết quân luật sau 7giờ tối là không ai được phép đi ra ngoài đường.

                  Trời Đà Lạt lạnh vào khoảng 10/o C. Hai người cứng đơ như bị ướp đá. Lâm giơ tay vuốt bầy muỗi rơi khỏi khuôn mặt sưng vù, dày cộm. Muỗi tha hồ hút máu đông. Họ không còn cảm giác, gần như chết cóng. Hai anh em bạn láng giềng Hải, Lâm: dù cuống họng, lưỡi và môi không trỗi nhạc mà hai hàm răng va lộp cộp từng cơn. Họ thức trắng đêm thì thầm cầu nguyện, mong bình an và trời mau sáng. Họ nhìn chiến trường bốc lửa từ phía Khu Số 4. Khu Số 6. Họ lo sợ kinh khủng! Sau đêm đó, ban ngày Lâm vẫn đi làm việc, chiều chiều một mình Lâm đến nhà bác Chiểu ở đường Phan đình Phùng ngủ nhờ. Khi nào không có phiên trực ở Ty, choạng vạng tối Lâm ghé tạt về nhà thăm chừng mẹ con chút xiú, là đi. Nơi chốn nầy khá hẻo lánh, ai nấy đều thấy sợ.
                  * * *

                  Thỉnh thoảng hoả châu đỏ rực bầu trời suốt từ chập tối đến rạng sáng. Cứ mươi lăm phút thì súng lớn từ hướng Bắc câu đi đâu đó vút vút ầm ầm ầm. Súng nhỏ gần gần trong địa bàn thành phố lại nổ từng hồi pằng pằng pằng… Tạch tạch tạch… đùng đùng đùng. Ầm! Oành! Bầu trời rực sáng màu đỏ tía, do trực thăng bay vòng vòng rất gần đỉnh đầu chúng tôi đã khạc ra những tràng lửa đỏ lòm, những tia đạn dài ngoẵng vút vút lao xuống dưới, rồi bầu trời bỗng tối đen như đêm ba mươi. Trong đêm tối mà chứng kiến tận mắt những tia lửa từ nòng súng khạc ra, mới cảm thấy sự vô tri bạo tàn không kém phần oai dũng cuả súng ống lạnh tanh tua tủa bắn ra, để trừ kẻ gian kẻ xâm lăng. Khói bay toả trên tít tầng mây xám, không trung quyện lẫn màu khói pha sương mù mịt mùng. Mùi hôi theo gió lùa về khét lẹt, chua chua, thum thủm, hôi chịu không nỗi.

                  Suốt thời gian chiến cuộc, sau vụ Lâm đã đấm bể ô kính cửa ở nhà dòng Domain, dù bàn tay anh băng bó rồI, máu vẫn rỉ ra. Thỉnh thoảng mẹ chồng, tôi, và hai con trai nhỏ vẫn “làm mặt mo” lì lợm, thộn mặt mà mò lên ngủ nhờ dưới tầng hầm của nhà dòng Domain. Hôm nay thì chúng tôi bồng bế nhau lên ngủ nhờ trong dãy hành lang của Dân Y Viện Đà Lạt. Vào bệnh viện ngửi thấy mùi nồng nồng, hôi hôi, tanh tanh, mùi thuốc sát trùng thật khó chịu, hầu như ai nấy muốn nôn ọe. Nhưng gia đình chúng tôi phải ráng chịu đựng. Mẹ chồng, tôi và hai con trai nằm đất ẩm ướt lạnh lẽo luôn luôn. Các con bị ho, sỗ mũi, nóng lạnh. Nhất là bé Tuấn ọc sữa thường xuyên. Mặc dù tôi đã mặc cho bé Dzũng và bé Tuấn hai áo lót, áo cánh, hai áo ấm, quần nỉ dày, mũ len, bít tất, mền bông ủ kín cả người. Nhưng các con bé bỏng đã chịu cảnh gió sương, lạnh lẽo quá chừng không thể ấm hơn, vì hiên ngoài lồng lộng gió và sương muối đặc sệt giăng mắc. Tôi quá đổi buồn phiền, thương các con, đau khổ, lo lắng vô cùng. Tôi thương bé Tuấn tròn hai tháng, con nhỏ xíu, dù con còn đỏ hỏn mà ngày ngày tôi bế con đi ngủ nhờ ngoài hành lang lạnh lẽo lắm. Sáng sáng tôi lại bế con về nhà, giữa nắng mưa sương gió khuya chiều lạnh buốt xương sống.

                  Đêm đêm súng đạn vang rền, tôi vẫn chứng kiến quá nhiều cảnh đau đớn, rên siết, chết chóc của người già có, trẻ có, đang mang bệnh tật, kể cả thương binh trào máu tươi. Cảnh nào cũng đau đớn khổ sở, đắng cay như nhau. Thà ngủ gần người bệnh, ngủ gần nhà xác, còn hơn ngủ chung với người đang dẫy đùng đùng vặn mình chờ chết. Tôi cảm thấy sợ kinh khủng! Khi có quả bom dội xuống đất, (dù bom dội ở nơi khác) mọi người và vật vô phúc ở ngay đó, gần đó sẽ nát như như tương. Với phản ứng tự vệ tự nhiên, ai ai cũng ngồi bật dậy, lao xuống đất và chui vào gầm giường, gầm bàn. Trước muôn vàn chinh chiến điêu linh tang tóc, khổ sở đã vỡ bung ra trên mọi miền đất nước thân yêu, không một ai vô tình trong cơn quặn đau thắt ruột lịch sử dân tộc Việt Nam, là nỗi nhục nhã ê chề, đớn đau gớm ghiết, tủi hổ tột cùng. Triệu triệu người từng chứng kiến qua nhiều góc cạnh cuộc đời khác nhau, nơi bề trái lịch sử: Tham tàn, cuồng loạn vụng về núp bóng dưới lớp mây đen u tối nghịt trời, đang tỏa sức sống trên vòm trần kính.

                  Thời gian thấm thoát trôi qua… bé Tuấn vừa được ba tháng rưỡi, con biết lật vào một buổi tối nằm ngủ nhờ ở góc hiên ngoài bệnh viện. Mẹ chồng, tôi và bé Dzũng vui mừng sảng khoái cười la thật to, vỗ tay reo vui hoan hỉ. Khiến mấy cô y tá trực bệnh viện không hiểu chuyện gì, họ lo sợ mở cửa dáo dác nhìn quanh. Mẹ con bà cháu im bặt, chúng tôi sợ họ bực mình, sẽ đuổi đi không cho tá túc ở xó góc hành lang bệnh viện, thì biết trông cậy nương nhờ vào đâu! Đó là niềm vui mừng trong veo, duy nhất có tiếng cười hồn nhiên thoải mái kể từ hôm chạy giặc! Tôi vui mừng hết sức. Tôi cầu mong cho các con hay ăn chóng lớn, gia đình an mạnh một phần. Phần lớn nữa là mong quê hương sớm yên ổn, để chúng tôi và mọi người trở về ngủ dưới căn nhà bé nhỏ đơn sơ, tránh khỏi cảnh ăn đậu ở nhờ nơi đầu đường, xó xỉnh bẩn thỉu và buồn da diết thế nầy.
                  * * *

                  Kẻ xâm lăng thành phố Đà Lạt như thế đã hơn hai tháng ròng rã trôi qua… Chiến cuộc cứ thế bên thủ bên nằm, đôi khi quân lực Việt Nam Cộng Hoà tiến lên từng bước, từng bước tiến vào cửa ngỏ loạn ly. Dù lính có kế hoạch quy mô, có sách lược điều quân, và nguyên tắc phối hợp hành quân từ lăng kính thuần tuý quân sự. Nói nôm na hơn là sự tranh giành đất đai, quyền lực “với nhau”, việc nầy không phải đỗ lỗi là vì do chiến tranh hay không chiến tranh! Phía nào không củng cố, không bảo vệ, không cẩn trọng.

                  Nói một cách thẳng thắng lạnh lùng hơn: nếu không bổn phận trách nhiệm, mất cảnh giác– thì sẽ mất tất cả! Nhưng bắt buộc quân nhân Việt Nam Cộng Hoà phải uể oải nằm ù lì phơi nắng phơi sương dầm mưa nướng mình trên đất cỏ, để chờ đợi lệnh trên ban xuống. Lính ngao ngán mỏi mòn chờ đợi rồI đợI chờ… lệnh tổng tấn công. “Trò đánh giặc” nầy tương tự như “trò chơi đánh bạc”, ta cay cú vì thua mất tiền trong ván bài ấy, do ta không đoán biết trong lòng cuả cái tô úp trên diã đặt ở manh chiếu kia là: chẵn hay lẻ!? Thì khi ta thua, ta phải nghỉ vài ván để tìm “đối sách”. Tất nhiên người cầm cái tuyệt đối không muốn nghỉ, (nghỉ là đồng nghiã với thua). Họ nghỉ tức là buông mất cơ hội tốt lành vơ vét tiền khi “con bạc” đang say nước cờ đen đỏ!

                  Lính nằm dưỡng sức trên đám cỏ bồng cũng thế! Muốn thắng địch quân ngườI LÍNH TRUNG, TRÍ, NHÂN, DŨNG không những cần có vũ khí, mà còn cần: Kiên nhẫn, dũng khí và ý chí. Từng đường máu cộm phồng co giật bên mang tai người lính phong sương dãi dầu mưa nắng có một sự kiên định và vững chãi. Một số Lính Thủy Quân Lục Chiến các vùng khác biệt phái, Bộ-Binh, Biệt Động Quân nằm ép bụng sát đất, họ xã láng cuộc đời trên những thăng trầm đen đỏ số phận, xây dựng tình yêu nơi hoang tàn quê hương đổ nát. Mặc bao mưu toan đen đỏ trong cơn lốc chính trị lịch sử dùng dằng đẩy đưa, đầy cay đắng. Về phần dân thị thành Đà Lạt thì bị cô lập mọi mặt, mọi ngã đường. Cả bầu trời Đà lạt dường như thu gọn lại trong chiếc máy xay sinh tố cũ khô khan kêu cót két, rít rít, ù ù rột rột quay lông lốc, nghe điếc ù cả tai, xốn xang, nghẽn nghẹt buồng tim lá phổi.

                  Bầu trời bao la càng trống trải, trực thăng bay lừ đừ như con chuồn chuồn ốm, dễ làm mục tiêu cho các họng súng cối ở nơi xa xa dựng đứng dưới đất chĩa thẳng lên trời, súng bắn từng phát (nghe dường như về hướng khu Số 6 hay Tùng Lâm thì phải). Suốt hai ngày đêm, loa phóng thanh trên phi cơ chĩa xuống đất, kêu gọi người dân ai còn mắc kẹt giữa hai lằn đạn, hãy cố gắng di tản ra khỏi mục tiêu sẽ quầng thảo. Trực thăng bay lượn chậm chạp, từ trong lòng phi cơ tung thả vô số truyền đơn xuống đất, che mờ một góc trời miền núi. Thỉnh thoảng có nhiều tiếng súng rời rạc. Và Ùm… ùm… Ầm ầm… cắt… bụp… xè… rào rạo. Thật chói tai dễ sợ.

                  Thế mà đằng góc trời nầy, mấy chú chuồn chuồn sắt cứ điềm nhiên, tỉnh bơ lượn qua lượn lại trên đầu chúng tôi. Dường như họ coi đó là chuyện nhỏ, chả có gì quan trọng khi cơn binh lửa bừng bừng thổi về! Vì, phi vụ của họ là ủy lạo đồng bào, dùng truyền đơn từ trong lòng phi cơ vừa rải xuống đất, ngỏ hầu chỉ dẫn dân về cách di tản. Ấy là những tấm giấy phép có uy tín, hiệu lực, để mọi người dân còn mắc kẹt trong khu vực Số 4, Số 6, Tùng Lâm... vân vân… bị tạm chiếm, “dân ta” có thể đi ra an toàn khỏi vùng phong tỏa. Đồng thời loa trên trực thăng vẫn kêu gọi “bọn hàng binh” ra đầu thú, thì sẽ được chính phủ Việt Nam Cộng Hoà khoan hồng ưu đãi. Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà luôn khuyên "Vi ci":
                  - Hãy buông tha người dân vô tội đi.

                  Kết quả hữu hiệu là có nhiều thanh niên: bình tĩnh, khôn ngoan, kiên cường lủi trốn đi khỏi vùng số 4, số 6, Tùng Lâm. May mắn thoát ra, họ đã hổn hển kể lại:
                  - Đối phương chiếm nhiều căn nhà chắc chắn dùng làm nơi đặt biệt liên lạc với nhau.
                  - Việt-cộng đông lắm. Chúng tôi cố tìm mọi cách thoát thân. Nếu không may thì bị ai đó… bắn “cái đùng”.

                  Họ (Việt Cộng) tự động tổ chức nhân sự bị kẹt lại thành từng tổ tam tam. Họ vừa xoa, vừa tuyên truyền, vừa đánh đập, để kích động tâm lý trong lòng “kẻ bại”!? Họ bắt dân đen khiêng vác đất đá, đào hầm hố trú ẩn, rất cực khổ, ngỏ hầu trốn bom đạn, mà dân bị nhịn ăn. Vã lại ở trong vùng tạm chiếm nầy, làm gì có họp hành chợ búa đâu, không ai có thể mua lương thực ăn uống! May mà trong vườn của chúng tôi còn tí rau, củ, nên len lén ăn vụng trộm rau cải, mong cố sống còn, mà cầm cự qua ngày.

                  Xế trưa hôm ấy, vùng đồi núi Domain bị súng đạn đến thăm. Non vài giờ sau là cả đỉnh núi Lâm Viên tuyệt diệu xứ hoa đào thơ mộng cũng không được chú ý bằng mỏm đồi khu Số 4. “Khu Số Bốn”! Đại danh ngữ ấy mới thoảng nghe qua thiệt “quê quê”, nhưng đầy nồng ấm ngọt ngào mật thắm tình quê, dịu dàng êm ả thân thiết, chất phác, mộc mạc, đơn sơ gần gũi như tính ngữ danh xưng. Thân thương làm sao! Nồng thắm trìu mến dường bao! Ấy thế mà suốt bao ngày qua chiến tranh tàn ác đang bám riết lấy nó.

                  “Kẻ lạ” nhanh như sóc, lủi như chuột chù, chuột hôi len lỏi vào mọi ngóc ngách, họ ở lì trong mọi nhà. Bắt dân đào hầm hố, len lén trèo qua những hàng rào, lủi sâu vào vườn tượt nhà dân. Họ leo trèo lên cây quả, vụng trộm thập thò rình mò dáo dác dòm ngó coi rất gian, rù rì to nhỏ, nhìn trước ngó sau, lấm la lấm lét như kẻ cướp cạn. Trong khu Số 4, Số 6 đó, đa số dân lành còn bị kẹt lại vô tình làm bình phong, làm mấu chốt đỡ đạn từ hai phía.

                  Chiến tranh không tốt đẹp gì. Chưa thể phân định đâu đúng đâu sai, đâu là điều hay lẽ phải. Chưa thể chứ không phải là không thể. Nhưng chắc chắn một điều chính xác là “bên kia” đã hoàn toàn sai trái luật -do vi phạm hiệp định công ước quốc tế-, họ đã cố tình loang vết nhơ, sóng thần cào cuộn từng dòng máu chảy ruột mềm. Nếu không lầm thì hơn ba tuần sau ngày bé Tuấn biết lật, Quân đoàn II gửi một Tiểu Ðoàn Biệt Ðộng Quân. Tiểu Ðoàn của Trung Ðoàn 53 Bộ Binh tăng cường cho Thị-xã Ðà Lạt, để tiêu diệt tàn quân Việt Cộng ẩn nấp trong Khu Số 4. Khu số 6. Tùng Lâm, v.v… Toàn dân ở Đà Lạt Tuyên Đức nói chung và riêng khu xóm cùng gia đình tôi nói riêng trân trọng cám ơn qúy quân nhân Việt Nam Cộng Hoà.
                  * * *

                  Tình Hoài Hương
                  Last edited by Tinh Hoai Huong; 11-29-2019, 01:58 AM.
                  Bút trần nào tả được lưu luyến!
                  Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                  Tình Hoài Hương

                  Comment


                  • #24
                    Mùa Xuân Mây Xám Vắt Ngang Đời Cơ Cực



                    Mùa Xuân Mây Xám Vắt Ngang Đời Cơ Cực
                    Tình Hoài Hương
                    ***



                    Đàn bươm bướm trắng xanh vàng nâu lí lí lắc lắc, chập chờn, nhởn nhơ, trêu trêu, ghẹo ghẹo mấy đài hoa dã qùy e lệ nép mình dọc con sông um tùm lau sậy lô nhô. Cỏ lau bông trắng bay đầy bãi ruộng lúa chỉ còn trơ gốc rạ vàng lởm chởm. Trên chiếc cầu gỗ cũ được mang tên Cầu Bông Nhị Tân lấp loáng nhiều giọt nắng lung linh, long lanh từ mặt nước trong vắt, phản chiếu muôn tia nắng rạo rực luôn lấp lánh đổi màu. Bầu trời lơ lửng năm ba đám mây trắng dài lê thê, dài ngoẵng như sợi tơ len. Mây kéo từ thôn nầy vắt qua thôn khác, in xuống lòng sông biếc xanh. Phút chốc bóng mây trăng trắng dài lướt thướt loang tỏa ra trùm kín bầu trời, mây đổi thành màu xám đen nặng trĩu đang lững thững trôi về nơi vô định.

                    Tôi lặng nhìn đám mây trắng xám im sửng trên trời, dường như mây giống một dải màn sô tang trắng viền chỉ len màu lam xám đã và đang vắt ngang kiếp đời cơ cực. Rồi bỗng đâu mây đen ùn ùn kéo cơn mưa dầm ào ạt trút xuống đời, suốt mấy ngày đêm, làm nặng nề thêm bầu trời u ám của:

                    “Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu Công Lý.
                    Đồng Khởi vùng lên mất Tự Do”.
                    (2)

                    Chúng tôi đã rớt xuống vực thẳm sâu hun hút, úp mặt xuống tận đáy xã-hội chủ-nghĩa. Dẫu vậy, các con trai tôi học hành ưu tú, xuất sắc. Hai con lớn dưới mười tuổi, ba giờ sáng các con đã thức dậy, lo chạy bộ đến lò bánh bò, lò cà rem, xa khoảng bốn cây số. Các con ngồi co ro cúm rúm ngoài vỉa hè, để chầu chực chủ mở cửa, hy vọng con có hàng bán chạy rong mời khách. Tháng nắng ngày mưa các con đều khổ cực lầm than như nhau. Ngày ế-ẩm, bánh bò bị thiu, cà rem chảy nước. Chúng tôi lặng-lẽ ngồi ở góc nhà, nhịn khát, nhịn đói, khóc thầm. Vì chồng, cha, là lính “ngụy” bị ở tù “cải tạo” (tôi dùng chữ "cải tạo" phải có hai ngoặt kép). Ai dám giúp! Nhưng, thiệt khổ là hầu như đa số dân lành cũng không có ăn, có mặc, thì lấy gì mà ai giúp ai!?
                    Đôi dép râu dẵm nát đời son trẻ.
                    Nón tai bèo che khuất nẽo tương lai”.
                    May không chút nữa em lầm.
                    Khoai lang khô xắt lát, em tưởng cao ly sâm bên Tàu
                    (2)

                    Vài ba năm sau, thì con trai đầu mỗi buổi sáng con đi học, chiều con đi bán bánh bò, cà rem, tối tối con theo chủ ra tận Long Khánh, Hàm Tân, Phan Thiết…, con cùi cụi vác trấu thuê, vác bó mía thuê. Con leo lên nóc nhà dỡ tôn, dỡ nhà, (do chủ mua) và chủ tớ đem đi bán. Con làm bất cứ việc gì dù nặng nhọc, khổ sở, miễn sao con có tiền đem về cho mẹ mua gạo nuôi nhau sống lây lất qua ngày. Ngày hè không đi học, các con phải đi nông trường Nhị Xuân lo trồng thơm, trồng mía. Hoặc con làm dân công thủy lợi đi đào kênh rạch trên Lê Minh Xuân. Tối về, Đảng phát cho một tờ phiếu, dân tự vét tiền túi ra mua gạo, mua mắm (dĩ nhiên!). Ráng đi con ôi!:
                    Phượng hoàng ở chốn cheo leo.
                    Sa cơ lỡ vận phải theo đàn gà.
                    Bao giờ gió thuận mưa hòa.
                    Thay lông đổi cánh lại ra phượng hoàng.
                    (2)

                    Con mẹ Thân là vợ của một sĩ quan Nhảy Dù ở “chế độ cũ”, miếng thịt Thân còn nhét trong kẽ răng, ấy thế mà bà ta đã toa rập với bọn cán bộ làm trong Xã Tân Thới Nhì, phản bội, lừa thầy phản bạn. Chúng cắt xén lương thực của dân đen đi làm thủy lợi đó. Dân muốn chết đói mà con mẹ ấy vẫn sống nhăn răng, phè phỡn và đú đa đú đởn. Thật xấu hổ! Sau giờ lao động nhọc nhằn, bà con lối xóm hò nhau xách tụng chạy đi, chen lấn vô cửa hàng, mắng nhiết nhau inh ỏi, vì sợ hết giờ, không có gạo đổ vô nồi. Bà Muôn, bà Cát, bà Liêm ơi ới gọi tôi:
                    - Cô đi mua gạo “liên xô”. Mau lên kẽo hết. Nhịn đói thì chết.
                    - Vâng.

                    Tôi lo ba chân bốn cẵng chạy theo mấy bà hàng xóm. Tôi rù rì nói nhỏ vào tai bà Cát (bà ta là người đàn bà đanh đá, chì chiết, hai hàm răng luôn nghiến lại, bà nói chuyện không hở môi. Bà luôn mồm nhắc tôi “giữ bí mật”. Ấ́y thế mà chính miệng bà ta bi bô không giữ được, và “bật mí” phun xì ra. Í dà da! Bà ta thèo lẽo, tò mò tọc mạch như con ma xó! Tôi trách chi bà.
                    - Sao chị dám nói là gạo Liên Xô hử?
                    - Chứ cô không thấy có bao giờ mình được mua gạo đàng hoàng, từ tốn đâu. Không “liên” tục chen lấn, giành giật, “xô” đẩy nhau, mà rách toạt cả quần ra, là gì!
                    Chị Dung cười toe:
                    - Ồ! Thì để cho… ông trùm sò dê Bảy De thèm một xí.
                    Tôi thật thà hỏi:
                    - Dê Bảy De là ai, hở chị Muôn?
                    - Là cái thằng cha mặt ngựa mỗi ngày rả rả trên “loa” phóng thanh, hắn ưa nói Dóc. Nói Dai. Nói Dở. Nói Dổm. Nói Dối. Nói Dốt… í mà.
                    - Ai vậy cà?
                    - Bộ thích ổng rồi hay sao, mà cô cứ hỏi tới dữ dậy he?!
                    - Hổng dám đâu.
                    - Bà Liêm, bà Muôn nhìn nhau nháy mắt, trêu tôi:
                    - À, cô giỏi văn, vậy tui nhờ ổng “nhất ngoặc, nhì thân, tam thần, tứ chế”. Ổng có thần thế, sẽ giới thiệu cô vô ngành giáo dục he.
                    - Hừ! Em mà giỏi cái nỗi gì.
                    - Cô nói láo một cây xanh dờn hén.
                    - Em hỏi chị chớ: Thầy cô đi dạy, ít ra cũng phải có ba bốn bộ đồ, để thay đổi. Còn em, chỉ có hai bộ dính da. Trời mưa em giặt đồ phơi, không kịp khô. Thì làm ăn cái nỗi gì!

                    - Tại vì: “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà.
                    Áo quần bán trước, cửa nhà bán sau.
                    Bác Hồ khuyên ăn cơm rau.
                    Đừng ăn thịt cá, mà đau dạ dày”
                    (2). Nghe ra chưa?
                    - Ui Trời! Chị dám rên la he. Em… hổng dám à nha.
                    Bà Liêm háy nguýt một cái dài lê thê, chanh chua:
                    - Cô nghe cho rõ nè:

                    Một năm hai thước vải thô.
                    Nếu đem may áo, cụ Hồ ló ra.
                    May quần thì hở lá đa.
                    Chị em thiếu vải, hóa ra lõa lồ.
                    Vội đem cất ảnh bác Hồ.
                    Sợ rằng bác thấy tô hô, bác thèm.
                    Có áo mà chẳng có quần.
                    Lấy gì hạnh phúc hỡi dân cụ Hồ?
                    Có đói mà chẳng có no.
                    Lấy gì độc lập, tự do hỡi người?
                    (2)
                    Bà Cát:
                    - Mắc mớ gì mà rên la. Tui có làm nên chế độ chế đá chi. Cô hổng thấy bên Tây, người ta có thịt, cá, ê hề, đầy nhóc, mà họ chỉ thèm ăn rau toàn là rau thôi đó sao.
                    - Thôi. Đừng nói nữa, không khéo bóp méo sự thật, nói lung tung beng, mang tội chống báng chế độ, thì bị tù mọt gông đa, mấy chị ui.
                    - Tui có hai cái cùi chỏ. Sức mấy dám “chống” đối ai. Chống gậy đi thủy lợi, thì có. Ai không đi thủy lợi, thì không có phiếu lương thực đã đành. Còn phải lên Ấp, lên Huyện “học tập cải tạo tư tưởng”. Hứ! Học tập cái ngữ gì hổng biết, một chữ bẻ đôi không rành, không biết, dốt còn hơn con bò tót, mà đòi đi dạy dỗ học tập “cải tạo” ai hử!? Đừng nên dùng chữ cải tạo nếu không có dấu ngoặt kép à nha.
                    - Đúng thế!
                    * * *

                    Có lần tôi bị đau nặng, không đi thủy lợi được, thì họ bắt bà mẹ già cuả Luật đi làm việc “bù” không công. Mẹ chồng hơn bảy mươi tuổi lặn lội mót lúa, mót sắn, mót khoai… . Vì “lao động là vinh quang”, mẹ đi bắt ốc mò cua, tửng bưng sáng mẹ mò mẫm ra đi khi trời còn đầy bóng tối. Rồi, tối mịt mù mẹ lò mò đội lúa trên đầu, mệt mỏi trở về. Mẹ làm việc nặng nhọc, cực khổ, nhưng mẹ luôn ăn cháo, không đủ sức “lao động phấn-đấu”. Nên đặc biệt ở trong nhà tôi chỉ một mình mẹ già được ăn cơm tấm pha ít cám chấm muối mè gói trong tàu mo cau! Sự thật 100%.

                    Hôm sau, hai đứa con nhỏ bé nhất của tôi có bổn phận phơi lúa, trở lúa, cào quét lúa đem vào nhà, không để mất sót hạt ngọc Trời ban. Chiều chiều, mấy mẹ con tôi lo giả gạo trong cái nón cối sắt (cuả “tàn dư đế quốc” ấy là nón “nhà binh”. Dù quân nhân chế độ cũ nay không còn, nhưng vẫn để lại những chiếc nón sắt, cho dân hữu dụng làm thành cái nồi để nấu thức ăn, hoặc giả gạo…). Mỗi lần tôi nâng niu chiếc nón sắt trân quý nầy, (vì đó là gia tài cần thiết nhất cuả chúng tôi sau ngày mất nước, thật sự tôi cảm thấy cảm động, thường trào nước mắt). Tuy lúa tươi còn mầm sữa, chúng tôi vẫn phải giả ra thành gạo. Sàng sảy thế nào vẫn bị trấu, cám, bám chặt vô hột tấm, vì lúa còn tươi, nghĩa là chưa phơi khô nên còn mầm sữa, đã vỡ nát. Đói quá, chúng tôi đành nấu nồi cháo tấm cám nham nhám độn củ mì rau dền, rau lang, rau đắng mọc hoang. Chúng tôi luôn ăn nồi cháo độn, bữa ăn quá sức tệ; thua bầy heo mập ú của nhà “con mẹ cán bộ xu thời xu thế Thân”.

                    Hết gạo ăn bo bo.
                    Học trò không có tập.
                    Độc Lập với Tự Do.
                    Nằm co mà hạnh phúc!
                    (2)

                    Nhà tôi” là một căn gia binh bỏ hoang trống-trơn từ trước ra sau, không có cửa lớn cửa sổ che kín lồng lộng gió. Không bàn, chẳng ghế, tủ, giường. Chúng tôi chỉ có: Một thau giặt, một thau rửa chén, một cái rổ, hai cái nồi đem theo từ ngày ở nhà thờ Huyện Sỹ: Nồi lớn chuyên dùng để nấu cháo, (họa huần lắm mới có một bữa cơm tấm pha xí cám. Một nồi nhỏ dùng luộc rau, hoặc kho tí muối quẹt. Một cái bình nhôm to nấu nước sôi. Đôi thùng gánh nước. Sáu tô nhựa lớn, sáu muỗng, sáu đôi đũa, vài cái dĩa sứt vành.

                    Một bao quần áo mặc thường ngày. Một bao cói đựng đồ vặt, một bao cói đựng hai chiếc mùng đôi màu xanh. Cái mền làm bằng bao cát Mỹ. Một valy da quý giá sang trọng mang theo từ ngày ở Đà Lạt di tản về đây (vì hồi xưa gia đình tôi ngồi trên nhung lục giàu sang với nhà lầu ba tầng gạch đúc, có xe hơi Peugeot 404 mới toanh, nhưng nhờ bác và đảng “giải phóng”, nên đã bỏ lại hết). Đó là tất cả gia tài quý giá của gia đình tôi trong XHCN. Chúng tôi phải giữ bo bo chằng chằng bên người những đồ vật cũ mèm ấy bất ly thân, vì hở ra một xí là bị mất trộm, kẻ cắp vờn quanh xóm nghèo như rươi!

                    Nằm dưới manh chiếu cũ nát láng đen và thô thiển, ngửa mặt nhìn trên nóc nhà, tôi thấy ngàn ánh sao xuyên qua lỗ tôn xi măng thủng vì bom đạn. Ngày nắng chói chang thì mặt trời soi rọi xuống vạt chiếu ẩm, khiến chiếc chiếu càng dòn đã bể nát vài chỗ, chiếu và nền xi măng hầm hập nóng, muốn lột da lưng. Mùa mưa ở trong nhà thì nước lụt ngập lên gần bắp chân. Nước trên mái tôn lủng trút xuống ào ào, nước ngoài sân cao hơn nền nhà ở tứ phía tràn vô. Mẹ, con, bà, cháu lội lủm bủm, bì bõm, chúng tôi cùng thi nhau cúi cúi tát tát nước, như tát ao, tát đìa. Chúng tôi cố gắng làm tận sức, vã mồ hôi hột trong cơn mưa, vẫn không thể ngăn nỗi cơn lũ ào ạt tràn vô căn nhà bị thấp hơn mặt đường. Trong nhà nầy đã giống như một cái ao. Nhiều lần chúng tôi đành chịu thua, bà cháu mẹ con vịn nhau, đứng dựa lưng vào tường, ngâm chân trong nước bùn hôi thối, mà ngủ gà ngủ gục.

                    Sau này biết khôn hơn, năm mẹ con tôi đi tìm các nhà gia binh bỏ hoang, con trai lớn mười hai tuổi mượn cái “búa tạ tày xồi” của ông bà Hùng, con dùng búa đập tường. Mẹ con khệ nệ ì ạch bưng từng viên gạch táp lô về, kê lên cao cao, để làm thành “cái giường”, hầu tránh nước lụt. Khổ nỗi, khi đã có cái giường “siêu tổ chức xã hội chủ nghiã” thì rệp, rận, gián, và muỗi núp dưới các khe hở, nhiều vô số kể, chúng luôn bòn rút máu của chúng tôi. Đó là “nhà của chúng tôi” luôn luôn nóng hầm hập như lò lửa, mưa ngập thành một cái ao bùn đầy nước bẩn trong chế độ xã hội chủ nghĩa thật. Đó là nơi nương thân của những kẻ không có tương lai, không có cuộc đời tươi sáng, không có ngày mai hứa hẹn hạnh phúc, tốt đẹp hơn.

                    Từ tửng bưng sáng mẹ già đi ruộng mò bắt được mươi con ốc, năm ba con cua, và một con cá lóc nhỏ bằng ngón chân cái. Về ngang bờ kinh, mẹ hái thêm chục dọc môn dại. Hôm đó, mẹ bảo tôi:
                    - Con nấu nồi cháo đặc, thật đặc nhá, chứ cả nhà ta luôn luôn ăn cháo lỏng bỏng, ruột mẹ cứ cồn cào, xót xa thế nào ấy.

                    Vâng lời mẹ, tôi cẩn thận nấu nồi cháo: độn một bó rau muống, ba phần củ sắn mì, hai phần dáu môn, và một phần gạo tẻ (gạo là do đi lượm mót lúa ngoài đồng, con trai đội về, tôi và con nhỏ giả bằng tay trong chiếc nón sắt, rất chu đáo và công phu). Các con tôi ra giếng công cộng tắm rửa xong. Các con gánh về hai thùng nước. Tôi múc ra sáu tô cháo, để xuống nền xi măng loang-lỗ vết đạn cày xới. Sau khi mời bà nội, mời mẹ, anh em vui vẻ mời nhau ăn cháo. Các con tôi hí-hửng cười reo dưới ánh trăng tròn, (chúng tôi sống ở “trong bóng tối”, chỉ nhờ trăng soi sáng, thì dùng đèn dầu làm chi, cho hoài phí của đi! Nếu ngày nào không có trăng tỏ, thì chúng tôi lo ăn cơm sớm).

                    Ai sinh ra cái củ mì?
                    Hỏi: Để làm gì? Đáp: Để mà ăn!
                    Nước nhà mãi mãi khó khăn.
                    Dân mình mãi mãi phải ăn củ mì
                    (2)

                    Cứ thế, các con của tôi sung sướng bưng tô cháo, hí hửng đưa lên miệng, húp rột rột, (vì hôm nay đặc biệt có thêm mùi vị của cá lóc) coi thật ngon lành. Bỗng, các con đồng thanh hét to. Đứa quăng tô xuống nền nhà. Đứa nằm lăn lộn trên nền nhà lỗ chỗ. Đứa dùng hai bàn tay cào móc cổ họn. Các con vật vã rên siết la làng, khóc lóc tru tréo inh ỏi. Mẹ già kêu rú lên quá to, bà dựa lưng vào tường, trợn trắng mắt, thở dốc và ho sặc sụa. Tôi đã húp ba bốn muỗng cháo, tự dưng cổ họng rát bỏng, ngứa cồn cào, ngứa điên cuồng, tôi cào móc khạc nhổ thế nào, cũng không bớt. Mặt, môi, lưỡi, họng, cả nhà chúng tôi đã phồng rộp, sưng vù, đỏ choét. Thì ra, chúng tôi bị dị ứng hay suýt bị ngộ độc, vì ăn phải mấy dọc môn dại hay sao!?

                    Tôi vội chạy ra thùng thiết dật dờ múc gáo nước, khuấy muối, vắt mấy trái chanh đưa cho mẹ già. Tôi kéo các con chạy đến thùng nước thứ nhì, cứ như thế, tôi bắt các con móc họng ói ra, súc miệng, nhổ đi nhổ lại nhiều lần. Bà cháu, mẹ con chúng tôi đều bị đau nhức cổ họng kinh khủng ghê lắm. Thân thể chúng tôi đều bần thần, bụng cồn cào vì ói ra mật xanh mật vàng, và nhịn đói, rị mọ vất vưỡng lọt tọt dìu nhau đi ra giếng tắm giặt. Lòng buồn xo như xé tâm tư.

                    Từ khi ta có Bác Hồ.
                    Nhân dân chẳng được ăn no ngày nào.
                    Lương chồng, lương vợ, lương con.
                    Đi ba buổi chợ chỉ còn lương tâm.
                    Lương tâm đem chặt ra hầm.
                    Với rau muống luộc khen thầm là ngon
                    . (2)

                    Ôi! khổ nỗi một miếng ăn độn tồi tàn hơn nồi cám của con mẹ Thân cho heo của bà ta ăn, thế mà cả nhà chúng tôi cũng không thể nuốt trôi vô khỏi cuống họng! Ngày Tết Nguyên Đán và suốt cả tháng Giêng nầy, gia đình tôi nằm co ro trên cái giường táp lô, chúng tôi bị đau đớn quá độ, không tiền thuốc thang, đành vật vã ôm bụng nhịn đói. Chúng tôi không thể ăn nồi cháo đặc khổ qua con cò rị mọ con rùa. Ôi! Bài học ăn cháo đặc ấy trong tận đáy xã hộI, chúng tôi ghi nhớ suốt đời. Ấy là lúc xuân xanh của tôi vừa tròn:

                    Trai ba mươi tuổi còn xoan.
                    Gái ba mươi tuổi đã toan về già”
                    Bác Hồ chết phải giờ trùng
                    Nên bầy con cháu dỡ khùng dỡ điên.
                    Thằng tỉnh thì đã vượt biên.
                    Những thằng ở lại nửa điên nửa khùng.
                    (2)
                    ***

                    Kính gửi quý anh chị... & xin thông cảm về nỗi đau của người vợ tù “cải tạo”. Anh thương ơi! Bây giờ anh ở tù “cải tạo” nơi nao!? Anh có thấu chăng cho hoàn cảnh đau thương, bi đát, khốn cùng của bà cháu mẹ con em bây giờ không hở anh!? Ôi! Mùa Xuân năm 76 - 85!!!:
                    Như một người già ngồi nuối tiếc dĩ vãng xa xưa...

                    Như một danh tướng ôn lại những chiến tích oai hùng!
                    Như chim trong lồng ai oán nhìn bầu trời bao la.
                    Tôi mất Sài Gòn, nhưng thành phố vẫn sống mãi trong tim tôi.
                    Nhưng tôi không là người già, thì vẫn còn tương lai.
                    Tôi không là danh tướng, nên chẳng chiến công nhiều.
                    Tôi không là chim trời mãi mãi mất tự do.
                    Tôi chỉ là con bệnh trong cơn đau chung nầy.
                    Rồi sẽ hết, rồi sẽ hết những tháng năm đau thương trong cuộc đời!
                    Rồi sẽ khỏi, rồi sẽ khỏi. Hãy uống chén thuốc đắng nầy.
                    Rồi sẽ thấy, rồi sẽ thấy những tháng năm đau thương trong cuộc đời.
                    Rồi sẽ khỏi, rồi sẽ khỏi. Hãy uống chén thuốc đắng nầy.
                    (1)
                    *
                    (1) “Uống chén đắng” Lời và nhạc: Cung Mi
                    (2) Lượm lặt sưu tầm
                    *

                    Tình Hoài Hương
                    Last edited by Tinh Hoai Huong; 11-29-2019, 02:05 AM.
                    Bút trần nào tả được lưu luyến!
                    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                    Tình Hoài Hương

                    Comment


                    • #25
                      XA... Xa. Xa... Là Nhớ Nhung Ngẩn Lòng!



                      XA...Xa Xa... Là Nhớ Nhung Ngẩn Lòng!
                      Tình Hoài Hương
                      ***



                      Tình yêu đã đem lại cho lứa đôi niềm an thư, vui vẻ, hạnh phúc trong mấy ngày, rồi cũng đem đến cho nhau bao nỗi ưu buồn, lo âu và run sợ. Do có gay gắt đột ngột giữa chị Khánh và chuyện hai người yêu nhau, nên Nam không xuống nhà chị Khánh nữa, mà “hai anh chị nhỏ” lén lén lút lút thụt thò hẹn nhau ở nhà anh chị Tuế (Hạc). Việc anh chị bao che “chứa chấp nàng, và chàng” có nghĩa là chị Hạc chỉ cho phép họ ngồi nói chuyện với nhau trong phòng khách mà thôi, cũng khiến chị Khánh nổi giận hơn. Chị Khánh gọi chị Hạc (vợ anh Tuế) qua nhà la cho một trận. Thế là con nhỏ hết đường đi. Chị Khánh dồn cô em vào ngỏ cụt không lối thoát, tiến thối lưỡng nan rồi.
                      Đêm đêm nằm úp mặt xuống giường con nhỏ khóc ướt gối. Khi nhỏ chạy qua được bên nhà chị Hạc, chàng đã đợi con nhỏ ở đó ba giờ liền. Nam và Hạnh đi lên giáo đường “con gà”, hai cô cậu quỳ bên nhau cầu nguyện thật lâu, mong cho lòng thanh thản, dịu êm đôi chút. Nhỏ không thể ngăn dòng nước mắt uất nghẹn tuôn trào, cô thì thầm van xin cùng Mẹ Maria cho mình thoát khỏi đắng cay, xin gìn giữ tình yêu bền chặt, lâu dài. Khi quá lo âu, đau khổ, buồn phiền, run sợ cùng tuyệt vọng, người ta thường tìm đến Đấng Tối Cao nhiệm mầu, xin Ngài mở rộng vòng tay từ ái. Ngài là nơi an hoà, bình yên, yêu thương tuyệt diệu, là điểm tựa vững chắc miên viễn. Nam cũng rướm lệ, uất ức, buồn phiền khi qùy trong giáo đường. Nam lấy khăn tay lau khô hàng nước mắt trên má cô, và tự lau nước mắt.
                      Ra khỏi giáo đường nàng và anh đến văn phòng hội quán, nơi chị Hạc làm việc giúp chị đánh máy thật nhanh, chị mừng lắm. Mấy chị em buồn rầu chuyện trò nho nhỏ, chị khuyên nhủ hai em cố chịu đựng, lo gắng học hành cho có tương lai. Chị nồng nhiệt an ủi,
                      nhỏ nhẹ vỗ về hai em, chị Hạc không to tiếng la hét em như chị Tư. Chiều đến ba chị em chia người đi mỗi nơi.
                      Nam trằn trọc trên giường, chàng đăm đăm nhìn qua khung cửa sổ đóng kín, vắt tay lên trán nghĩ ngợi mông lung. Nam không thấy gì hơn là nỗi tức giận, buồn phiền. Khi ngày chia tay gần kề, Nam muốn đến nói thẳng, nói thật, nói với chị Khánh về chuyện Nam thành thật yêu Mười. Nhất là Nam sẽ nói nhiều với nàng, nói với người con gái tha thiết hơn là bạn thân. Dù Mười chưa là vị hôn thê, chưa là vợ chàng, rằng:
                      - Anh yêu Hạnh – Em quan trọng hơn thế gấp ngàn lần, trong đời của Phương Nam nầy. Bởi vì em chính là Tình Yêu. Và, anh đã yêu em nhiều, yêu em nhiều lắm! Cho dù mai đây anh sẽ xa xa xa... Hồng Hạnh. Nhưng anh luôn nhớ nhớ nhớ... em. Anh mãi thương thương thương... em nhiều! Nhiều! Nhiều...! Tình yêu, là hạnh phúc duy nhất trong cuộc đời anh, sao bây giờ vô cùng mong manh bé nhỏ, đau buồn đến thế!? Như đám mây hồng thoáng bay qua nơi tầm tay, Nam không thể làm cho lòng mình yên vui thanh thảng lại tháng ngày hồn nhiên, nên thơ, yên vui xưa cũ. Hở em!?
                      Nhưng sao hôm sau khi gặp Hạnh trong chốc lát, thì những lời anh định nói: ngọt ngào như trái dâu chín nép bên lá xanh, bỗng dưng rụng rời, khô héo, tóp teo vì dâu đã bị hong khô trên giàn bếp! Bây giờ Nam không nói được, mai kia giữa Sài Gòn và Đà Lạt, hay giữa Sài Gòn và Huế xa xôi nghìn trùng, sẽ ngăn chia biết bao sông núi ao hồ, tít mù ngót nghìn cây số đường trường, xa xăm đến tận chân trời mút tầm mắt, đường dài như vô tận. Hạnh và Nam sẽ bị ngăn cách bởi không gian, thời gian, bởi đỉnh núi rất hiểm trở, biển đèo, hồ ao, sông ngòi vạn dặm, chia lìa bởi vực thẳm cheo leo hun hút. Mặt cách mặt, lòng xa lòng. Biết ra sao ngày sau!? Bây chừ muốn nói; mà anh sẽ nói gì đây?
                      Buổi trưa ngày thứ mười ba, Nam thấy Hạnh cùng mấy bạn đi học về ngang qua cầu Bá Hộ Chúc như mọi khi, cô không cười nói tung tăng vô-tư-lự như trước, nàng lầm lũi bước đi bên bạn. Nam vừa dợm bước tính qua bên lòng lề đường bên kia. Bỗng anh khựng lại khi thấy hai chị Lê, Khánh, từ trong ngỏ Đoàn thị Điểm đi ra, hai chị đứng sững, chỉ chỏ cô nhỏ em, họ nhìn Hạnh chằm chằm. Nam không hiểu cô có thấy hai chị không mà cứ cúi đầu lẫn trong các bạn đi lên con dốc Bà Triệu để về nhà?
                      Tựa lưng bên cầu Bá Hộ Chúc, cây cầu gỗ đen sì như tương lai hắc ám của hai người bạc phận, Nam nhìn theo bóng cô mãi. Khi bóng Hạnh dần khuất sau dốc vòng cao của trường dì phước Thiên Hương, Nam quay người chống hai tay lên thành cầu, anh cúi nhìn khá lâu xuống con suối chảy siết dưới chân cầu. Nước chảy qua cầu cuộn sóng, cuốn theo cây lá bồng bềnh lênh đênh trôi trên mặt. Tự dưng Nam cảm thấy buồn bã, đơn điệu, trống vắng vô ngần; một sự đau đớn phiền muộn nặng nề, đầy tức giận phủ chụp xuống tâm hồn Nam, khiến anh buông nhiều tiếng thở dài. Nam quên tiệt, và không thể ngờ bên kia quán cóc cô Lượm, có hai bà chị của cô còn đứng như trời trồng, họ đang dán mắt nhìn Nam, theo dõi từng cử chỉ nhỏ nhặt nhất của anh. Họ thì thầm nói với nhau:
                      - Hứ! chẳng lẽ thằng nầy muốn đâm đầu xuống suối tự tử sao ta?
                      Nam lững thững đến chào gia đình anh chị Lê, chị Khánh, chị Hạc, để ngày mai về Sài Gòn. Hạnh xin phép chị Khánh cho mình đi nói chuyện "dứt khoát với Nam". Ngày cuối cùng sánh bước bên nhau. Nam âu yếm hôn lên đôi mắt cô ứa lệ, anh không thổn thức như cô, nhưng hai hàng lệ từ trong tuyến nước mắt Nam tự động lăn trên má, uất nghẹn. Vì nhiều điều không thể nói hết, vì bao trăn trở ưu phiền, lo lắng buồn đau, tức giận chính thân Nam chưa đem đến cho Hạnh điều vui, mong cô là người trước tiên cần an hòa trong tâm hồn. Sau là để hai chị của Hạnh thấu hiểu, thông cảm, yêu thương cô em của họ hơn. Dòng lệ chảy từ đôi mắt dấu yêu từng nén lại nỗi nghẹn ngào, uất ức có tác dụng mạnh hơn cả ngàn lời chia tay. Nỗi đau của Hạnh, Nam, quá đột ngột, bất ngờ phủ chụp xuống đầu, khiến họ không thể chịu nỗi cuộc chia tay chưa hẹn ngày tái ngộ ở phương nào? Họ không lường chuyện gì sẽ xảy ra từ phía trước. Nơi cô sẽ đến, nơi anh quay về chốn phồn hoa đô hội cũ? Nơi ấy họ sẽ sống thấp thỏm lo âu, khắc khoải, bồn chồn, mòn mõi, quắt quay bao nỗi đau, nỗi nhớ, nỗi thương yêu và, nhất là nỗi ân hận dày vò.
                      Ngồi trên đám cỏ bồng bềnh ở góc đường Phạm Phú Thứ, hai bạn nhìn xuống nhà thờ Tịnh Tâm. Họ cảm thấy rã rời, đau đớn, cái đau tâm hồn mỏi mệt làm dại khờ thể xác. Nam và Hạnh không muốn cất bước dìu nhau đi lượm trái thông khô, hái hoa hoặc lượm lá vàng rơi, đem về ép trong trang sách. Mặc dù thả bộ trên con đường rợp bóng cây, nhặt lá hái hoa là điều hai người cùng yêu thích. Họ nhìn xe cộ, người người qua lại rải rác. Thỉnh thoảng có nhiều đôi trai gái nắm tay nhau cười vui tung tăng trên đường. Không hiểu chàng ấy nói điều gì, khiến cô gái cười dòn tan, đầy vui thích. Có lẽ họ là những cặp tình hạnh phúc thực sự, không rơi vào hoàn cảnh khắc nghiệt, gia đình họ không lấy “quyền huynh thế phụ”, buộc em chấm dứt đoạn tuyệt đủ mọi thứ. Nhất là buộc em nghỉ học trong lúc mùa thi cử sắp đến, mất cả niên học, chẳng còn tương lai, hoặc có cơ hội đến trường. Nghĩ vậy, "nàng và chàng" càng tủi thân, thương cảm biết mấy! Nam cầm tay côi, âu yếm nói:
                      - Nếu gia đình quyết định về việc em ra Huế, thì cho anh biết gấp. Nhé.
                      Hạnh gật đầu im lặng. Nam ôm chặt Hạnh trong vòng tay thư sinh, dường như sợ khi xa mình, cô nhỏ sẽ tan biến vào giấc mộng trắng toát tuổi học trò. Nam dặn dò:
                      - Giữ liên lạc thường xuyên nhe. Chờ đợi anh, đừng nãn lòng ha. Lúc nào buồn, nhớ viết thư thật dài, kể cho anh nghe về mọi sinh hoạt của em. Qua đó, anh có thể an lòng. Tình yêu của anh. Hạnh phúc của anh là ở nơi nầy nè.
                      Nam chỉ tay lên ngực cô, nơi Hạnh đeo một mặt dây chuyền vàng, có khắc chữ HH. Đó là lời trao yêu tha thiết, chân thành nồng nhiệt, lời hứa hẹn đầy ắp ân tình trìu mến, tương kính như tân. Bằng cử chỉ dịu dàng, thân ái và trân trọng, Nam đắm đuối hôn lên môi Hạnh, nụ hôn có nhiều vị đắng, vị cay, vị chua, vị mặn, vị nồng: từ hai hàng nước mắt lăn xuống đôi má phớt hồng và bầu bĩnh, để bù đắp lại bao ngày trống vắng, chia lìa mai đây.
                      Xa! Xa! Xa... là xao xuyến, nhớ nhung ngẩn lòng. Là mến tiếc bâng khuâng. Là lo lắng băn khoăn, bồn chồn ray rứt. Là bất ổn đớn đau trong lòng nhiều lắm! Là quạnh vắng nhớ thương, mòn mỏi bồn chồn khắc khoải lo lắng băn khoăn đợi trông. Là suy tư đắm chìm về từng kỷ niệm, vui buồn xếp lớp lăn tăn thức. Là kéo dĩ vãng về với hiện tại, để sống cho tương lai. Là ước nguyện và hy vọng trùng phùng một thuở bên nhau. Tình yêu Nam và Hạnh là nguồn yêu thương chân thật, an ủi nhất. Là điểm tựa cuối cùng trong muôn điều đắng cay, đau khổ vừa ập đến. Và, thực tế là xóa sạch nỗi hận không ngờ, tẩy bỏ niềm đau buồn đột ngột, làm bàng hoàng, vò xé, ân hận, thương tổn tình yêu ít nhiều.
                      Ôi! Còn đâu nữa những tiếng cười hồn nhiên rơi trên từng giọt mực tím trái mồng tơi? Còn đâu sự ân cần âu yếm, gọi nhau bằng "bậu" mà xưng là "qua". Hoặc ngọt ngào xưng "đây" goị "đấy". Hay là “ta” với “mình” ríu ra ríu rít âu yếm thủ thỉ thì thầm bên tai:
                      - Thôi! Em hãy về bên dòng sông Hương điệp trùng xa cách, em uống nước thượng nguồn, sẽ nhớ người anh hậu giang. Em như con cò hiu hắt đơn độc, nép mình bên bờ ruộng khô lững thững côi cút đi tìm mồi. Em ơi! Anh muốn mình hóa thành bóng mây bồng bềnh, lang thang phiêu lãng cùng em bay về vùng trời quê hương của em, hai đứa mình sẽ cùng nhau nhìn con đò nho nhỏ êm êm lướt nhẹ trên dòng sông xưa, mà có lần Hạnh thân thiết gọi: “Con thuyền hoa chở Hạnh đi gặp Nam". Chúng ta sẽ cùng nhau tìm lại dĩ vãng hoang dại, có một thời thân thương xiết đỗi mến yêu dưới mái nhà ấm áp, gợi nhớ bữa cơm chiều thân mật. Anh sẽ về tìm em, nơi phương trời xa xôi vạn dặm ấy, nơi xứ lạ phương xa mà anh chưa hề biết đến. Anh sẽ về tìm em, dù xa xôi và muôn vàn cách trở. Anh sẽ về bên em, dù bất cứ giá nào!
                      Quá thương yêu Hạnh, Nam càng ôm chặt cô vào lòng, dường như anh sợ mất em. Nam muốn ghì xiết cô như con sên suốt kiếp bám chặt vào ốc vỏ. Những giờ phút cuối trong giờ chia tay thật yên lặng, buồn bã, đầy xúc động bên nhau. Một giờ trưa, hai người thong thả đứng dậy, từ từ dời gót như còn cả tương lai và chân trời trước mặt. Không vội vàng chi. họ dìu nhau đi thật chậm trong lòng phố thênh thang. Cúi đầu trên mái tóc cô, một tay anh xách valy, một tay Nam ôm bờ vai người yêu bé nhỏ. Nam, Hạnh đứng khuất sau bức tường, trên bến xe cũ ở đường Hàm Nghi. Họ lặng ngắm nhìn nhau không thốt lời nào. Hình như trải qua bao nhiêu đắng cay, buồn phiền, trong tích tắc thời gian nóng bỏng nhất, cổ họng họ đã tuôn trào mật đắng. Đắng nghét. Không còn hơi sức thốt nên lời.
                      Nam lấy mũi dao nhỏ trong cái kéo bấm móng tay, khắc vô bức tường: Phương Nam Hồng Hạnh
                      * * *
                      Rồi việc gì sẽ đến, đã đến… dưới buổi hoàng hôn lảo đảo! Má cô từ Huế đến Đà Lạt trên chuyến xe tốc hành đêm mười lăm tháng Chạp áp Tết cổ truyền. Mới vài năm xa mẹ hiền, mà nay má già lắm! Ở chốn quê nhà lam lũ một nắng hai sương, má vất vả trăm chiều, lặn lội sớm hôm tần tảo, để kiếm tiền nuôi con ăn học. Hạnh vô cùng ân hận, một sự hối lỗi dày vò khẩn thiết, rất chân thành phát xuất tự đáy lòng. Cô biết má buồn lắm! Khiến lòng Hạnh càng tái tê, càng dày vò! "Má ơi! Hãy nhìn con, nói lời tha thứ, cho con chạy đến ngã vô lòng mẹ hiền, như con hoang đàng trong thánh kinh, được vòng tay cha nhân ái rộng mở đón mừng. Con muốn được như vậy. Má ơi"!
                      Hạnh nghỉ học, nàng cảm thấy như ngồi trên ổ kiến lửa, ngu si thọc tay vào tổ ong quậy phá, khiến chúng đốt sưng vù. Càng hơn nữa Mười như tên tội phạm đứng trên giàn hỏa thiêu, bồn chồn sợ hãi tột đỉnh, nàng giống như tên tử tội thấy người khác thọc ngọn dáo nhọn sắt cạnh vào tim mình.
                      Phòng ăn treo bức ảnh đại gia đình họ tộc từ "ông xơ bà cố tổ" trở xuống hàng con, cháu, chắt. Dường như từ những khung ảnh lạnh lẽo, nhiều người ngồi trên đó, luôn dõi mắt nhìn đàn con, cháu, chắt, nhắc nhở họ thường xuyên nhớ phong tục tập quán cổ truyền, đạo lý gia phong tổ tiên dòng dõi Nhà Trần, Nhà Ngô. Bữa cơm thịnh soạn họp mặt ở nhà chị Khánh có đầy đủ con, cháu, để mừng mẹ từ xa đến. Trên bàn ăn tươm tất các thứ đã sắp sẵn: Củ hành tím phi vàng, hai tô nước mắm me (gồm có: tỏi vàng óng với ớt chỉ thiên chín đỏ rất cay, đã bằm nhuyển, nước mắm me dốt thì me đâm nát lọc lấy nước), dĩa xoài tượng xắt mỏng còn vỏ, dĩa điều vàng, dĩa giá sống, kèm mấy miếng chanh, dĩa sung và chuối chát, ớt trái tươi rói. Hai dĩa bánh tráng, tô nước trong để nhúng bánh tráng, ba dĩa bún. Mấy dĩa rau gồm: xà lách, đọt đinh lăng, lá đọt sộp, đọt vạn thọ, lá xoài non, lá sung, quế, dấp cá, tía tô, ngò, húng cây, húng lũi, hẹ, cần ta, cải cốm, cần nước, tần ô... Thịt gà thịt vịt thịt bò thịt heo, kể cả thịt dê thì ê hề... Ôi là đủ thức ăn ngon làm sao kể xiết.
                      Ăn uống xong xuôi, khi em bưng chè đậu xanh đánh lên, ăn tráng miệng, thì chị Khánh mở đầu buổi họp gia phong, hạch hỏi tình yêu của Nam Hạnh, rồi nói:
                      - Má liệu đem nó về. Không khéo nó có bầu rồi. Con thấy nó giã lá thuốc ngãi cứu, uống mấy ngày nay đó.
                      Như có ai vừa tạt gáo dầu sôi bỏng. Đớn đau kinh khủng, khiến cô lịm đi, để chống đối lời lăng nhục đó, em bèn trợn trừng mắt lườm nguýt chị, mặt bừng bừng đỏ, và nhún nhẹ đôi vai, và trề môi ra. Mặt chị Khánh đỏ như trái gấc, chị quắt đôi mắt sáng, sắc như dao cau, hướng về phía em, chị "hừ" một tiếng lớn, nghe thật ớn lạnh. Có ai trong đời mà không trải qua năm, bảy lần hỗn láo với người lớn không nhỉ? Em phải bảo vệ tình yêu, tự trọng và danh dự. Cho dù em biết cử chỉ đó là “mất dạy” cách mấy đi chăng nữa. Bởi chưng, chưa bao giờ Nam có lời nói kém nhã nhặn, chớ nói chi đến cử chỉ thất thố, suồng sã với mình. Chưa bao giờ! Nam và Hạnh yêu nhau hồn nhiên nên thơ rất trong sáng, chưa một lần quá trớn, lăng loàn. Vả lại chuyện vợ chồng có gì mà gấp rút, khi tuổi đời hai ta còn quá trẻ dại? Điều đó, giữa Nam và Hạnh là sự thật trong sáng trăm phần trăm. Cô tôn trọng sự thật. Toà án lương tâm không bao giờ cắn rứt mình, mà toà án trong gia tộc nầy sẽ khiến người ấy sẽ ân hận mãi về buổi họp hôm nay.
                      Chị Khánh đánh giá con người và tình yêu sai lầm rồi. Không có gì sỉ nhục bằng nghĩ xấu cho một mối tình đẹp đến thế! Phải chăng, đa số anh chị thường mang định kiến không tốt về tình yêu? Tại sao họ nghĩ nông cạn đến độ cứ yêu nhau: là phải làm đến cái chuyện tầm bậy tầm bạ ấy? Cô thương Nam quá! Nơi chân trời xa xôi anh giữ mối thiện cảm, duy trì lòng mến mộ các anh chị, có ngờ đâu, họ nhìn anh ở một góc cạnh xấu nhất. Họ đang đóng đinh mối tình dẫy chết của chúng mình. Đó anh!
                      Chị Lê trợn mắt lên, chị xỉ vào mặt em, la:
                      - Mi ghê gớm thiệt. Để tao coi mi có lá gan bê lớn? Hắn dạy mi rứa đó hả?
                      Thấy tình trạng căng thẳng quá, em sợ, nên từ từ len lén đứng dậy thu dọn chén bát trên bàn, mặt cúi gầm xuống và im lặng. Chị Khánh lại la, khi em bưng chồng chén xuống bếp:
                      - Cuốn gói theo hắn đi? Cút xéo ngay. Cho ăn học uổng quá!
                      Liếc nhìn hai chị, rồi nhìn má, Hạnh trả lời:
                      - Con không muốn ở đây, sợ phiền anh chị thêm.
                      Chị Khánh trợn mắt, đứng lên, tay chống ngang hông:
                      - Đi ra khỏi nhà ngay.
                      - Em chờ má đi luôn.
                      Cả nhà nghĩ em có ý chế nhạo, trêu tức, hỗn hào, thách thức họ. Duy chỉ có anh Tư, vốn dĩ là người trầm tĩnh, thâm thúy, tế nhị nhất. Anh lịch sự, ôn tồn nói:
                      - Việc gì phải đi đâu. Muốn nên người, dì cần ở đây, ăn học tử tế. Chịu tất cả quy luật trong gia đình nầy.
                      - Em đã quyết định rồi.
                      - Tùy ý dì. Thế cậu ấy còn ở đây không?
                      - Ai cơ?
                      Chị Khánh quát tháo:
                      - Thằng Nam chớ ai. Nói nó lập tức đem mày đi đi.
                      - Em không có ý định đó. Tụi em thương yêu nhau đứng đắn, đàng hoàng, không tầm thường, không tầm bậy, tầm bạ, như chị nghĩ. Sao chị cứ vu oan cho em?
                      - Chuyện rành rành như ban ngày, còn chối leo lẻo nữa há, trả treo nè... Trả treo nè...
                      Liền với câu mắng nhiếc ồn ào, chị Khánh xấn tới bên êmm bưng mặt đầy máu chạy vào phòng, nàng nằm vật lên giường, nghiến chặt hàm răng chịu đựng đau đớn, tay chân bủn rủn, rụng rời. Như nọc rắn cắn vào thân, trong tích tắt, nọc đủ làm bầm tím, rồi tái méc, xanh lướt đi, không vì máu mũi chảy trên nền áo trắng thư sinh. Máu chảy từ trong trái tim em đau đớn, quặn xiết đầu đời, dội ngược lên lứa tuổi ô mai, mận dòn khế ngọt. Lỡ chân còn gượng được, chứ lỡ lời đến bật máu ra, thì thôi. Còn chi nói nữa! Lời chị nói như ngọn giáo lạnh lùng, thọc qua lồng ngực nóng rang, khiến Hạnh quay quắt, đau hơn những cái tát. Máu mũi đã chảy ra, lằn tay đỏ bầm in trên hai má nàng nóng rần rần khắp thân thể, làm tê bại chân tay. Rồi máu cũng có lúc khô, ngừng chảy, không còn thấy tì vết. Thời gian sẽ xóa hết mọi dấu vết bầm tím sưng húp. Nhưng tuyệt nhiên lời nói của các chị dẫu có lâu ngày, vẫn hằn in sự sỉ nhục. Thì, không có cách gì tẩy xóa, kỳ cọ, không cách gì lấp đầy, tan biến được. Không bao giờ!
                      Nhớ có một lần hồi ấy em rât nhỏ. ở nhà bà bếp bị đau không thể nấu cơm, chị Tư đi chợ về trễ, nên vội vàng sai em đi nhóm bếp nấu cơm. Loay hoay mãi em không biết làm sao gầy bếp lửa cho nó đỏ cháy. Chị Khánh làm cá gần đó thấy em không làm được, thì chị bực bội la to. Chị càng lo thì em càng sợ run, tay chân quýnh quáng không thể nhóm bếp được. Chị Khánh tức lắm, chị giật đôi đũa sắt mà em đang gắp than, chị đánh mạnh lên đầu em mấy cái. Máu chảy thấm ướt cổ. Hạnh quắt quay đau điếng, nên em khóc lớn. Chị bồi thêm mấy cái tát vào má em nữa. Hạnh run sợ vụt đứng dậy chạy ra khỏi bếp. Con bé núp trong xó vườn thút thít khóc, em lấy tay bụm đầu mãi, đến khi máu ngừng chảy qua kẽ tay, máu khô và bết lại với tóc.
                      Không hiểu tại sao hồi xưa chị Khánh hay nói:
                      - "Tụi bây mà học hành cục cứt gì. Hồi nhỏ, cha mẹ không cho tao đi ăn học ngày nào, vậy mà tao biết viết, biết đọc làu làu như ai. Ngày nay, tụi bây được cha mẹ cho đến trường, mà học hành chẳng ra cái quái gì".
                      Như Nam đã nói, đôi lúc Hạnh "lì" quá! Không chịu ra nói rõ phải trái, về việc quen anh, việc học hành của mình. Lì lợm như vậy thì thôi đi. Vả lại, em nói gì cũng bằng thừa. Ai tin mình, khi lỗi cô trốn học hai giờ còn sờ sờ trong học bạ! Mặc kệ. Hạnh không muốn ở lại đây, thở than, xin xỏ, năn nỉ, rồi anh chị em tiếp tục phạm sai lầm, nghi kỵ, xem thường phẩm giá con người, chị đánh đập em như con chó. Đôi bên oán trách, giận dữ, hành hạ đối xử với nhau như kẻ thù. Tình cảm gia đình, anh, chị, em, đã có vết rạn bên ngoài khung ảnh đại gia tộc đang treo trên tường, trong phòng ăn rồi. Tất cả anh, chị, em, không ai có thể xóa tan sự đau đớn, tủi nhục, nỗi muộn phiền quắt quay, ấn tượng không tốt đẹp, về tình máu mủ ruột thịt, sự thất học và có học, xua tan sự cứng rắn ra khỏi lòng cô. Họ không bao giờ hiểu cô em nghĩ gì về họ? Họ không hiểu lý do. Và, em không tầm thường như thế. Em sẽ giữ nguyên nhân sâu xa thầm kín nầy cho đến chết. Phải! Làm sao họ hiểu nỗi em?
                      Hạnh đi từ giã bạn vội vàng. Cô chủ tiệm Mỹ Dung sửng sốt, đầy xúc động, băn khoăn, cầm tay cô nói lời chia tay, ngấn nước mắt trào ra bốn khóe mi. Cậu Kỳ ngạc nhiên không kém, cậu thẳng thắng trách mấy bà chị họ sao độc đoán và hủ lậu, không chừa cho em một con đường thoát. Tài, Phú, Ngữ đã về Sài Gòn. Chỉ còn Vinh và Lễ ở lại căn nhà thơ mộng bên sườn dốc Hai Bà Trưng nhìn lên đồi hoa qùy. Lễ nói:
                      - Hồng Hạnh à! Phú rất buồn, thất vọng về điều gì đó.
                      Vinh nhìn cô giây lát, ngập ngừng nói:
                      - Có lẽ, bọn nầy sẽ không ở Đà Lạt nữa.
                      Hạnh giật mình, vụt hỏi bạn:
                      - Vì chuyện của tôi, anh chị muốn xù nhau sao!?
                      - Không phải. Tôi về Sài Gòn làm việc, và kết thúc sự học.
                      - Có vậy chứ, không thì tôi buồn gấp ngàn lần.
                      * * *
                      Nam viết một bức thư dài mười trang giấy pelure để tiễn đưa cô trên đoạn đường thiên lý định mệnh, xa mù xa. Hạnh dõi mắt nhìn từng chùm hoa anh đào đan trên cành, ngắm từng bụi cỏ bờ cây, như muốn ghi dấu tình yêu mến vào đáy lòng. Đà Lạt thân yêu ơi! thật sự xa rời nơi chôn nhau cắt rốn rồi. Thương biết mấy ngày thơ ấu, cô chạy lon ton theo ba, đi câu cá trên Cam Ly Hạ, đôi má hồng hồng bầu bĩnh, men theo bờ suối bắt ốc, hái hoa, đuổi bắt chuồn chuồn, bươm bướm. Mình ưa nằm lăn trong cánh rừng lá rộng, lá kim, cạnh bờ tre, nứa, lồ ô, bên cỏ bồng, đôi mắt nai tơ, nhìn lên trời xanh, băn khoăn hỏi:
                      - Ba ơi! Mây với sương, có giống nhau không?
                      - Không. Mây là mây, mà sương là sương.
                      - Mây có chở mình về Huế không?
                      - Hỏi cái chi mà tào lao, lác lác rứa hè! Huế có cầu Trường Tiền, sông Hương núi Ngự, lăng tẩm đẹp lắm. Vài năm nữa, ba cho cả nhà về Huế, ở đó luôn.
                      - Mà ở đó, có đẹp như ở Đà Lạt không? Ba!
                      - Đẹp lắm!
                      - Xa Đà Lạt, con nhớ lắm.
                      Thế mới biết, từ trong huyết quản, từ trong tư tưởng, từ trong tiềm thức, từ buổi thiếu thời, cô đã có tình hoài hương, tình yêu thiên nhiên, quyến luyến chốn xưa biết ngần nào. Chính câu nói ngây thơ, trò chuyện lẩm cẩm, nên đi đâu, ba ưa dắt con gái út theo, nói chuyện, nghe đỡ buồn.
                      Chị Lê mua vé xe hãng Phi Lực cho hai mẹ con về Huế vào giữa ngày hai mươi tháng chạp. Chợ búa vào mấy ngày cận Tết, đông đúc người qua kẻ lại, chật như nêm, ồn ào náo nhiệt, rộn rịp khác thường. Bến xe phức tạp đủ mọi người bán mua mời chào, chen lấn. Xe cộ dập dìu bon chen, cố tranh nhau một đoạn ngắn để khỏi trễ giờ, xe đưa má con cô trở về một thời xuân trẻ quê xưa, xuôi Trung cập rập vào ngày cuối năm. Thật buồn da diết!
                      ***

                      Tình Hoài Hương
                      Last edited by Tinh Hoai Huong; 11-29-2019, 02:59 AM.
                      Bút trần nào tả được lưu luyến!
                      Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                      Tình Hoài Hương

                      Comment


                      • #26
                        Đà Lạt: Cuồng Loạn Dưới Tầng Hầm Domain De Marie



                        Đà Lạt: Cuồng Loạn Dưới Tầng Hầm Domain De Marie
                        Tình Hoài Hương
                        ***



                        Mấy con kiến dương, con cánh cam từ đâu bay vù vào tầng hầm đã bị bể những ô kính, chúng liệng đi liệng lại vài vòng, rồi đâm sầm vào vách tường đá, nghe cái "cộp". Chúng cố tìm chỗ thoát ra ngoài, nên bò đi bò lại trên vuông cửa bể, lớp vỏ cứng bóng láng, ánh lên màu xanh biếc, lẫn màu cánh cam lóng lánh xoè ra, phủ hai cánh bên trong mỏng te, có nhiều sợi gân nổi trên lớp vỏ mềm mại khép dần, rất duyên dáng hài hòa.

                        Ngày xưa ấy, tôi ưa ngồi dựa lưng vào cây thông chạc hai, chạc ba, để rình bắt cho bằng được con cánh cam, và bụm nó ở trong hai bàn tay, khum khum mà nương nhẹ, nâng niu. Tôi đong đưa đôi chân trên thân cây thông lùn, thân cây thông tách chẽ ra làm đôi. Tôi nhìn lên bầu trời xanh lồng lộng gió, nhìn chiếc máy bay lượn trên cao, tôi hy vọng hão huyền, vui vẻ hát nho nhỏ những bài tình ca, khi hai bàn tay tôi đan áo thật đều, thoăng thoắt, lướt nhanh trên cây kim mà chẳng thèm nhìn.


                        Nay có nhiều phi cơ không nhìn thấy rõ vụt bay trên bầu trời, qua khung kính bể dưới vòm mái cao. Thì, câu chuyện hứng khởi về các kỳ công, thành tích của chiến binh giàu kinh nghiệm chiến trường, thường là đề tài bàn thảo đầy hấp dẫn, hứng thú, nuôi dưỡng trong lòng người dân đen niềm sung sướng, hứng khởi và kiêu hãnh khác thường. Chúng tôi đang ăn không ngồi rỗi ở dưới tầng hầm nầy. Những chiếc phi cơ thi nhau gào rú trên bầu trời, khẩu minigun sáu nòng có bốn ngàn viên đạn đang vút bay ra khỏi nòng, nhấp nháy chỉ vài phút, khiến lòng tôi càng nôn nao, bồn chồn, cuống quít, lo lắng, sợ hãi xiết bao khi hôm nay trời đổ mưa tầm tã, mưa trái mùa suốt từ trưa tới chiều, hạt mưa xiên xiên to tròn nặng hạt rơi lộp độp trên mái ngói mãi hoài không dứt, gió lồng lộng thổi vun vút theo dọc hai hàng hiên.

                        Đời có lắm chuyện tôi không hiểu. Không thể hiểu nỗi. Quá khứ rồi sẽ giống như cánh cửa sắt nầy đóng chặt lại sau lưng tôi. Rồi cũng giống như thau nước hứng mưa dột dưới góc nhà vừa bị sập. Tôi đã cong cong lưng bưng thau nước đầy sóng sánh bóng mình trong thau, nhanh nhẹn bước ra hiên nhà, tôi hắt mạnh nước vào màn mưa đục ngầu, cho nó hoà tan trong mưa, mất hút, như hắt cả hiện tại và tương lai lui về với quá khứ muộn phiền.

                        Từ lúc có “bọn giặc” về, mỗi ngày chúng tôi phải bồng bế con, cùng nhau đi ngang qua Tiểu-đoàn lính trấn thủ Thị Xã Đà Lạt, tôi ngẩng nhìn anh hiệu thính viên giữ máy truyền tin AN/PRC 25 đang liên lạc giữa Tiểu-đoàn và Đại-đội. Các chiến sĩ có người cài lựu đạn M 26, mang súng colt 45, có người mặc áo poncho đang mở nắp bi đông uống nước, vác khẩu M 16. Bên chiến xa M 48 trọng pháo cơ động họ nằm lăn lóc trên các nẽo đường, dưới ngọn đồi chiếm đóng, trên cành cây còn ngái ngủ. Người choàng áo ca pốt ngồi sưởi lửa, hong đôi bàn tay sạm nắng trên bếp than hồng từ những trái thông khô xẹt tia lửa ly ti nổ tí tách. Cành lá thông tươi chất thêm vào lửa, tỏa ra mùi nhựa thông thơm hăng hắc, nhưng thật dễ chịu. Họ hong lửa mong xua tan bớt gió rét. Giá lạnh ban mai làm tê cóng người lính phong sương dãi dầu mưa nắng. Bản tính chiến sĩ đa số thích phóng khoáng, tự do, hăng hái, nhiệt thành, nhất là trọng danh dự và bổn phận trách nhiệm.

                        Thời gian lạnh lùng nghiệt ngã trôi qua, họ không tính bằng gian lao cay cực, khó nhọc, hạnh phúc hay hoài bão, ước vọng. Dù mùa hạ tới, thu đi, đông về, xuân đến... Thời gian lạnh lùng trôi qua, đời chiến sĩ phong sương, dãi dầu nắng gió khuya chiều, không gian bàng quan chả nương nhẹ đôi tay: dù phũ phàng, cay nghiệt, và buốt giá. Niềm nhớ thương da diết mỗi lúc một hao gầy trong đớn đau thầm lặng. Khóe mắt lính choáng đọng huyết lệ bi ai cảnh chiến tranh quyết liệt. Chiến sĩ ấy chấp nhận chết ngoài sa trường vì quê hương, vì dân tộc, thì có sá gì cái lạnh rét run run ngoài da. Nhưng chiến sĩ ấy đã chết lịm trong lòng, vì cảnh huyết nhục tương tàn thật vô nghĩa trước tiên do bọn khát máu “đều têu” gây ra.

                        Lần đầu tiên, vấp phải sức kháng cự không tương xứng với đối phương, các chiến binh không dám ra tay càn quét cộng quân. Bởi vì, nơi vùng sẽ giao tranh tại khu Số 6 và khu Số 4 nầy, còn kẹt lại khá nhiều người dân vô tội trong tầm tay kềm tỏa. Khiến anh lính chiến có chiếc nón sắt rộng, thỉnh thoảng úp xuống tận mũi, che cả cằm đến nồng ngộp nghẹt thở, hơi mỏi mệt, ngỡ ngàng, và bồn chồn xôn xao bâng khuâng làm sao ấy. Lính nằm ngửa trên đám cỏ bồng chờ đợi quyết định của chính phủ, anh bực tức, vác súng đi lui đi tới, bồn chồn đứng ngồi không yên. Người lính chiến biết nghe đạn xoáy rít bên mang tai ù ù, mà không có mũ sắt đội đầu thì đời đi đong. Anh biết bổn phận làm trai phải trả nợ núi sông. Lính gồm đủ mọi thành phần phong tục khác nhau, đã sống trên miền đất quê hương khác nhau, với hoàn cảnh gia phong và ước muốn càng khác xa nhau hơn. Họ lũ lượt kéo nhau lên đây quyết giữ gìn thành phố Đà Lạt nho nhỏ xinh lịch nên thơ, và quê hương Việt Nam khỏi cảnh xâm lược nghịch lý hung tàn.

                        Khi vấn đề chiến tranh thật sự phức tạp, làm điên đầu các vị nguyên thủ quốc gia. Người khôn ngoan (của người khôn ngoan nhất), bình tĩnh sáng suốt, có lập trường dứt khoát, kiên định, cần giành lại từng tất đất, từng thành phố. Tất nhiên họ nhanh chóng đánh đuổi “bè lũ khát máu” đi khuất dạng (mỉa mai thay người dân da vàng mũi tẹt, đầu đen máu đỏ, sống từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mau). Nay từ phương Bắc họ chuyên mò mẫm, xâm phạm qua vĩ tuyến 17, để xâm lăng phần đất của miền Nam Việt Nam. Gây nên cảnh chiến tranh tàn khốc, chém giết. Nồi da xáo thịt quá kinh hoàng thế nầy ư! Dân chúng nhìn chiến cuộc xảy ra rất gần, với vẻ tò mò nhút nhát, hiếu kỳ không chịu nỗi. Phải! Bên muôn nấm mồ tàn rụi hương nhang, là sự gặp gỡ giữa trùng trùng lớp lớp khuôn mặt lạ xa, hiện diện trong cuộc chiến phức tạp quá cay đắng. Lính Cộng-hoà miền Nam Việt Nam mang đến cho ta sự hy vọng và niềm tin yêu. Hy vọng bừng sáng, nụ cười rộng mở, ước mong an bình, thư thái, ôn hòa, từng ngày, từng giờ, lẫn trong chung cuộc sớm kết thúc. Dù chắc chắc cuộc sống không hứa hẹn an thư dễ chịu chút nào.

                        Bất dâng cao sơn, bất tri thiên chi cao.
                        Bất lâm thâm cốc, bất tri điạ chi hậu
                        (không lên núi cao, không biết trời cao đến mức nào.
                        Không xuống hang sâu thì không biết đất dày)
                        (tục ngữ)
                        *

                        Ngoài dãy hành lang của khu bệnh viện Đà Lạt, người người tới tấp tha bùn sình, bê bết đất đỏ bẩn thỉu lê vào trên thềm nhà thương, nền xi măng ướt nhẹp nước mưa bì bỏm, lủng bủng, tanh tanh. Chúng tôi không thể ngủ nhờ ở góc hành lang, đành phải “làm mặt mo” xách chiếu mền lết bết, lội đồi cỏ trũng nước mưa băng qua đường Trần Bình Trọng, để xin vô ngủ nhờ trong tầng hầm nhà dòng Domain. Vừa chân ướt chân ráo lọt vào được trong khu tầng hầm, tôi mệt mỏi đứng thẫn thờ nhìn quanh. Chưa tìm thấy có chỗ nào còn trống, thì hai cánh cửa lớn kiên cố dẫn vào hội trường sau lưng tôi bị ai đó đóng ập nhanh lại, khóa chặt. Người giữ chìa khóa đã lủi vào trốn núp trong nhà dòng. Ông ta nhát hơn cáy! Do các bà dòng không muốn chứa thêm người lạ, các bà sợ "bọn lạ" trà trộn vào ẩn nấp, sẽ thừa cơ hoạt động bí mật chăng?

                        Ba khu tầng lầu của nhà dòng Domain: tất cả cửa sổ nhà thờ có những bức ảnh kính màu thủy tinh trang trí hình tuyệt đẹp, đều vỡ nát, rơi loảng xoảng khắp mọi nơi, rơi xuống tận khu tầng hầm. Từ dưới mặt đất của tầng hầm khu Domain ngó lên hàng cửa kính, (cao khoảng chừng bốn năm mét), tường đá phẳng lì, không có thể với tay lên hàng cửa sổ nhỏ ở tít chóp trần trên cao. Dù mấy tay đàn ông cao lớn kia đã chồng chất ba cái bàn, họ hy vọng trèo lên đó, dáo dác nhìn ngó lung tung ra bên ngoài, thăm chừng. Người ta và nhất là tôi vô cùng hối hận, vì tại sao ta không tìm nơi thuận tiện; hay mình tự đào hầm đào hố ở nhà riêng, mà ẩn nấp cho an toàn? Hoặc trốn núp tại tư gia nhà ai có hầm hào kiên cố. Có phải là hơn không, mà dồn cục một chỗ đông người như kiến. Mình tự chui vào cái hầm nhốt người kín bưng khổng lồ kinh khủng nầy, chẳng khác chi tự đem thân vô cửa tử.

                        Dưới tầng hầm thì người đạo Thiên Chúa đang lâm râm đọc kinh cầu nguyện, sám hối, đấm ngực ăn năn tội thống thiết. Đạo Tin Lành úp mặt trên hai bàn tay, run rẩy đọc kinh thánh. Phật Giáo niệm Phật, tụng kinh cầu khẩn Đức Phật Thích Mô Ni Ca rất chân thành. Cao Đài, Hòa Hảo bi thiết gọi tên Trời Phật, gọi tên các giáo chủ. Trong nguy cơ bị hủy diệt tập thể thì lành ít dữ nhiều, người ta không phân biệt giàu nghèo, đảng phái, tôn giáo. Vì tôn giáo nào cũng khuyên con người hướng thiện, luôn làm lành lánh dữ, chia sẻ, dùm bọc, bác ái, yêu thương. Tôn giáo cũng như gia đình là nền tảng của xã hội: có nề nếp gia phong, có tôn ty trật tự, biết tôn trọng tự do và nhân phẩm. Giờ phút thập tử nhất sinh gần kề cửa tử thần, họ tự động mở rộng vòng tay thân ái, ngỏ hầu chia sẻ, tìm đến với nhau, mong vơi hận sầu, thân thiết ôm chặt nhau, tựa vào nhau vỗ về an ủi. Họ thành tâm khẩn cầu van vái xin bình an rót xuống mọi nơi, nồng nhiệt kêu xin ơn Trên hãy ra tay cứu giúp tất cả mọi người.

                        Bây giờ là mười hai giờ trưa, trên trời trực thăng luôn bay lượn ì ầm, loa phóng thanh liên tục gọi đồng bào nhanh chóng tìm nơi ẩn nấp an toàn, vì tụ điểm giao chiến kịch liệt sẽ là chung quanh khu vực nhà thờ Domain de Marie. Ôi Trời ơi! Vậy chết là cái chắc rồi! Non giờ sau… Không thể tưởng tượng nỗi khi lựu đạn ì ì ầm ầm nổ, súng lớn, súng nhỏ rào rạo bay. Đạn vun vút vèo vèo, bay xuống, bay lên, bay qua, bay lại: Đùng đùng đùng… Pằng pằng pằng… Róc róc róc… Ùm ùm ùm… Oằng ùm… bay tới tấp trên đỉnh đầu người dân đang ẩn nấp dưới tầng hầm cuả ngôi giáo đường kiên cố, ép lồng ngực mọi người như vỡ tan ra từng mãnh. Ngoài sân nhà thờ đã có tàn quân “Vi ci” nép bên hông trên nhà thờ đang cố tìm đường trốn chạy tháo thân về khu Số Bốn.

                        Thỉnh thoảng mấy tay ấy chĩa súng lên trời bắn vài chiếc phi cơ trực thăng, bắn lép tép cắt cắt… bụp bụp… xè xè… từng phát súng nhát gừng nổ vu vơ. Qua trần kính tôi thấy rõ trực thăng bay ầm ầm và tràng đại liên tóe lửa nổ rền rất to. Phi cơ đang lượn qua lượn lại vòng vòng quanh nóc nhà thờ Domain. Những viên xạ thủ đeo mặt nạ mặc áo giáp ngồi trên ghế chiã họng súng xuống đất, khạc từng tràng rocket róc róc róc… xíu xíu… xít xịt… Dù ban ngày mà toé lửa qua họng sung đỏ lòm, đạn vùn vụt bay xuống hông nhà thờ. Vô cùng chát tai rùng rợn kinh khủng!

                        Thế là trong tầng hầm người ta đồng loạt nhốn nháo, hỗn độn, bừng bừng dâng cao nỗi lo sợ tột cùng: Già trẻ lớn bé đều rú to, kêu khóc inh ỏi, không chừa một ai. Tiếng la, khóc, gào, kêu cứu, rên rú, hét tướng lên to hết biết. Người ta dồn chặt cứng vào một góc chật như nêm, rồi đùn lại với nhau ở cuối tường hầm nhà đá. Họ dày xéo lên nhau, dẫm đạp lên nhau, bất kể người khác tắt thở, chết ngạt. Vài ngàn người dồn cục trong góc kẹt vách, họ đè nhau bẹp dí thành một đống, chồng chất lên nhau tại một chỗ. Người ta không còn liêm sĩ, chả cư xử nhã nhặn làm gì. Mặc xác! Người nào đang đứng ở bên ngoài, thì cố dằng kéo người đứng ở giữa ra, để họ chui tọt vào giữa đám đông mà ẩn nấp, cho an toàn chính thân, cần riêng bản thân ta an toàn thôi.

                        Nơi xó xỉnh ngột ngạt tối mờ khói thuốc súng, họ không muốn súng đạn nhìn thấy. Chỉ cần súng đạn bom mìn và Việt-cộng trên kia đừng nhìn thấy mình. Bản năng tự phát cần tự bảo vệ sinh tồn là điều tiên quyết, nếu có ai đối xử với đồng loại tàn nhẫn, có tỏ ra thô lỗ, hỗn loạn đến bàng hoàng, cũng đành. Mặc kệ. Là đủ. Ai ai cũng sợ súng đạn hơn cả mọi thứ trên đời! Lạy Trời xin tha thứ. Ấy thế mà súng đạn vô tình cứ bắn càng lúc càng rát bỏng, tai ù ù, điếc đặc. Rồi đạn cay, đạn ói, đạn khói, đạn mữa, khói thuốc súng, lựu đạn hoả mù tuông theo các khung cửa sổ bể tới tấp bay vào dưới tầng hầm.

                        Tại tầng hầm nầy không có người kinh nghiệm trong chiến tranh để hướng dẫn, vã lại giờ nầy không ai chịu nghe ai chỉ huy, mạnh ai nấy bon chen, hầu mong sống còn với đời. Đoàn người tị nạn hỗn độn hết biết (như bầy gà vịt nhốn nháo, bay lung tung, kêu quang quác khi con sói đến cửa chuồng). Nước mắt nước mũi ai ai cũng chảy tùm lum tà la. Họ ói mửa nôn ọe, hỉ mũi sột sột lên đầu lên cổ nhau. Thật kinh khủng và kinh tởm vô cùng. Tôi thật giận Lâm, hôm ấy tự dưng anh nổi sùng đấm bể một ô khung cửa kính làm chi, anh trét máu cục đông cứng trên miếng kính bể, còn đó; vô tình anh đã làm “đầu têu” làm gì, mà bây giờ mọi cửa kính cuả nhà dòng Domain đã vỡ toang, mùi khét cuốn theo chiều gió bay vào, càng hôi kinh khủng vậy!?

                        Cạnh đống đồ đạc ngổn ngang trong tầng hầm có từng dòng máu tươi của ai đó trây trét bừa bãi; cũng do những bàn chân ai đó vừa đạp lên mãnh kính vỡ, họ tha lê lết đi khắp mọi xó, máu tươi loang ra, loang ra... trộn với nước đái và phân trẻ con ị vãi ra bừa bãi. Người ta lớn giọng la hét, tru hú, rú rên, khóc hụ hụ hụ từng cơn. Nghe rùng mình dựng đứng tóc gáy.
                        Bỗng cánh cửa chính (khu nhà hầm có hai lớp cửa sắt chắc chắn) là cửa ngoài của khu từng hầm bằng sắt dày cui, vừa bị ai đó gài mìn ở phía bên ngoài, đã nổ tung. Toà nhà thờ đồ sộ rung rinh, tiếng rền rền âm âm nghe rất hãi hùng, mái ngói nhô lên hụp xuống rêm rêm, gầm gừ tha hồ rớt xuống rào rạo, loảng xoảng. Gạch đá vôi vữa rơi rào rào, dường như ngôi nhà đồ sộ đang tự đào hố để chôn vùi tập thể dân lành di trú xuống đáy mồ!? Thế nhưng sao tôi thấy cánh cửa sắt trong lớp thứ hai nầy vẫn chưa chịu bung ra? Cảnh ồn ào huyên náo, càng sôi sục, cồn cào, náo loạn gấp ngàn lần trước.

                        Kinh khủng! Kinh khủng trầm trọng! Người ta lại dày xéo lên nhau, dẫm đạp lên nhau, lôi kéo, giành giựt chỗ trốn, nên họ húc bừa vào nhau. Họ xô nhau chạy qua bên góc tường phía trái của căn hầm, nơi chưa bị rớt gạch và ngói, có cánh cửa phụ. Cửa hông nầy cũng làm bằng sắt dày kín mít. Tự dưng họ lại ùn ùn kéo nhau chạy qua bên phải. Họ cứ huà nhau chạy qua, rồI ùn ùn chạy lại. Xô nhau chạy theo sau lưng nhau, bất kể đàn bà trẻ con ốm yếu chết ngạt dưới chân. Bất kể tiếng la khóc, gào thét vang lên chát chúa. Tôi nghe thật hãi hùng, rùng rợn như nghe con dê, con heo, con bò, con trâu, con cừu bị chọc tiết, đang trợn mắt le lưỡi, rống rú man dại trong khu lò mổ ở ba toa.


                        Gia đình tôi (và mấy gia đình bạn cùng xóm) biết khôn hơn, chúng tôi không chen lấn đến chỗ đông người, nhưng trong lòng cảm thấy rất ân hận, vì mấy mẹ con tôi hôm nay xui rủi làm sao, tự dưng lại chui vào ẩn núp trong hầm nầy. Sao tôi không đi qua trú nhờ trong hành lang khu bệnh viện như mấy ngày trước hỉ!? Thế mới đau khổ. Chúng tôi ngồi bệt dưới gầm bàn, lỏ hai con mắt ra thật to, miệng há hốc, hai hàm răng va vô nhau lộp cộp, hai đầu gối nhịp nhàng run rẩy, mà thấp thỏm nhìn người đàn ông đang nhảy lên đánh trống, tiếng trống dù làm chúng tôi điếc tai nhức óc và choáng váng. Nhưng chúng tôi tránh được cảnh tượng xô đẩy vùi dập nhau đằng kia vô cùng dã man và ác ôn.

                        Đó là người đàn ông trung niên sĩ khí dáng vóc khỏe mạnh, mặc áo sọc xanh, quần tây đen, dù qua nhiều đêm âu lo thức trắng, mái tóc nhuốm bạc. Ông ta thấy cảnh xô xát cuồng nộ thật đáng xấu hổ, nên ông ta bèn nhảy lên mấy cái bàn gỗ chất đầy ghế dựa. Ông ta cầm trên tay một cái vồ và đánh rất mạnh vào chiếc trống trường học đang treo lơ lửng trên đà ngang. Tiếng trống nghe rất tức ngực và điếc con ráy. Mọi người đứng ở góc tường quay lại, trợn mắt, im bặt, lo sợ rợn tóc gáy, sửng sốt ngó quanh. Họ không biết chuyện gì xảy ra. Ở đâu? Ông ta kêu gọi mọi người cố giữ trật tự, im lặng ngồi xuống tại chỗ, không ồn ào chen lấn. Ông giải thích về sự lâm nguy:
                        - Việt-cộng đang đứng rải rác trên sân nhà thờ. Tui đã thấy có người chết cháy đen thùi lùi ở trển. Khi qúy ông bà anh chị em ở trong khu hầm trú nầy dồn nén xô đẩy, dẫm đạp lên nhau, ồn ào. Ta không nghe được động tĩnh bên ngoài kia, thì chẳng khác nào: "lạy ông tui ở bụi nầy", sẽ tạo cơ hội thuận tiện cho Việt-cộng đã đứng trên sân nhà thờ, họ sẽ phá một cánh cửa nữa, là tràn vào đây. Họ sẽ lấy dân làm bình phong mà đỡ đạn. Thì chết hết cả đám.

                        Nghe thế, mọi người càng nhốn nháo, xì xào, dáo dác, tiếng ồn ào đồng loạt rộ to. Bỗng im bặt như ngọn đèn dầu phụt tắt trước gió. Mặt mày ai nấy xanh lè, tay chân run rẩy, họ cố bám bíu vào nhau… lết nhè nhẹ đến gần chỗ khuất kín hơn, và im thin thít. Khi đó, tôi nghe bên dãy nhà của các mẹ dòng có những đọc đoạn kinh lạy cha, rồi nhiều tiếng hát nhạc thánh ca cầu xin bình an vang lên.

                        Hai giờ chiều, lính Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà và Thuỷ Quân Lục Chiến mặc quân phục, chân đi giày botte de saut, đầu đội nón sắt, lưng đeo đầy đạn, ngực móc hai quả lựu đạn. Họ mang súng máy lên đạn trên nòng, lăm le chĩa mũi súng về đằng trước, ngón trỏ đặt trong nòng. Đoàn quân nhanh chóng leo lên từ hướng nhà Thương, từ hướng Mai Hắc Đế, đường Hai Bà Trưng và Ngô Quyền. Họ tràn lên khu đồi Domain, chia ra bọc hết toàn diện khuôn viên nhà thờ Domain. Sau cùng họ vào hầm trú đang chứa lương dân. Họ đi một vòng lục soát mọi cửa nẽo, ngỏ ngách, xó xỉnh. Rồi lính giàn ra thành hai hàng ngang, họ cấp tốc cứu nguy những người bị thương, chết nghẹt, hoặc đã chết. Họ làm việc gọn gàng và nhanh thoăng thoắt.

                        Tất cả dân chúng ở trong căn hầm nầy đều im phăng phắc. Chả bù cho lúc nãy căn hầm ồn ào muốn đinh tai nhức óc. Vị sĩ quan chỉ huy dõng dạc kêu từng gia đình ở trong hầm hãy xếp thành hàng dọc, từ từ từng tốp một, từng người bước chầm chậm ra ở ngoài khu chỗ trống, ngay tại trong tầng hầm của nhà thờ. Khi vị sĩ quan đã đếm tất cả đầu người trong hầm xong, ông ta bảo cánh đàn ông, thanh niên, thiếu nữ, tuần tự đi qua bên góc trái căn hầm. Từng người một riu ríu trình báo giấy tờ tuỳ thân, thì làm ơn vui lòng lấy hai tay đan lại, giơ cao để trên đầu, tay ôm ra sau cổ. Ông già bà lão lụm khụm và trẻ con: thì đứng qua bên phía phải, theo hướng chỉ của anh lính phụ tá. Lính yêu cầu những đàn ông trai tráng nam nữ và đàn bà không có con thơ bận rộn ở trong hầm của nhà thờ, sau khi trình diện, từng người một đi ra khỏi tầng hầm của khu nhà thờ Domain.

                        Đồng bào đi giữa hai hàng quân lính đông đúc, nghiêm trang đứng bồng súng gác ở ngoài sân. Mọi người tay xách tay mang. Tay bế tay bồng. Họ lục tục ríu rít và trật tự kéo nhau ra cửa. Họ chạy xuống ngồi bên cạnh hang đá Đức Mẹ. Hoặc dân bò từ từ xuống chân nhà thờ, lủi nhanh về hướng Cẩm Đô. Họ chạy qua lối bệnh viện Đà Lạt. Một tay bế con trai Tuấn vừa ba tháng tuổi, khuỷu tay tôi lại kẹp chặt cánh tay bé Dzũng, lôi con xềnh xệch: ba mẹ con chạy ra ngoài sân sao nhanh đến thế! Không biết làm cách nào, mà tôi kéo thêm hai giỏ xách đồ dùng, giỏ thức ăn nặng trĩu to tướng? Tôi kẹp chặt cánh tay bé Dzũng, lôi con tuột dốc đồi xềnh xệch theo mình!? Hai tay tôi quắp hai đứa con nhỏ vào lòng, và cả "gánh” thức ăn, đồ dùng nữa. Quả thật tôi tự khen tôi tài tình. Từ trên dốc đồi cỏ Domain cao gần như thẳng đứng, tôi ngồi thụp xuống, hai chân chuồi thẳng về trước, lăn như khúc cây tròn.

                        Trước khi tuột dốc, đầu tôi trùm khăn, tôi mặc hết ba bộ đồ, với áo len lông xù, áo manto, nên mới thoạt nhìn ai cũng có thể nghĩ là tôi mập ú tét. Toàn thân tôi toát mồ hôi hột giữa nắng xế oi ả, tôi lạnh run vì sợ hãi. Chân tôi mang bít tất, chiếc giày thấp run lẩy bẩy trong cổ chân. Còn chiếc kia bay mất lúc nào không rõ. Tôi mặc cả thảy năm chiếc quần mỏng, bị vướng móc vào thép gai, đã rách toạt ra tự bao giờ. Khi cùng những người khác ngồi yên ổn dưới hang đá, lúc đó tôi cảm thấy đau nhức rần rần ở hai mông. Rờ tay vào, tôi mới biết là mông tôi bị chảy máu khá nhiều. Một bàn chân rơi mất chiếc giày, tôi đã đạp lên xác chết ở trên sân nhà thờ. Chiếc tất trắng nõn dính đầy máu tươi.

                        Ui trời ơi! Tôi sợ mất hồn, mất vía. Tôi đã thấy hai xác người trợn mắt phơi thây lúc nãy mà. Có một ông co quắp. Một ông nằm ngửa tênh hênh trên vũng máu. Chiếc áo màu cải úa chỗ thâm đỏ, chỗ tím bầm. Khô đọng. Ruồi bu đen nghịt trên thân thể họ. Cạnh đấy có hai cây khiêng bằng tầm dông, luồng qua lớp võng vải bố, loại bố của bao gạo. Họ dùng mấy thứ nầy làm đòn tải thương. Có lẽ khi vừa đến đây họ bị đại liên trên trực thăng nả cho chết tươi.


                        Bà nội (của các con tôi), mặt mày hốc hác, bà đờ đẫn, mắt đã lạc thần. Bà muốn chết đứng, tay chân bà lắc lư đung đưa run rẩy như cầy sấy. Tay bà ôm bình thủy đựng đầy nước sôi, bà chạy theo đoàn người sơ tán. Chiếc bình thủy vỏ mây mà bà đang ôm trên ngực, bị bể tan, nước sôi chảy ra, hơi nóng bốc lên từ đám cỏ hoa vàng không tên, tàn úa héo dần. Ấy vậy, thật may mắn bà không bị phỏng nước sôi. Bà sợ Việt-cộng kinh khủng. Sợ quá chừng! Bà đã bỏ quê hương tận ngoài miền Bắc, bỏ làng xóm thân thương, bà vất hết của cải, bà chạy bán sống thừa chết từ Bắc vào Nam. Bà trốn tránh họ bao năm nay. Bà sống hiu hiu mong an vui nhàn hạ đôi chút cho qua kiếp già:
                        “Tân niên vạn phúc bình an đến.
                        Xuân nhật vinh hoa, phú quý lai”,

                        cho khỏi bỏ những ngày lao đao lận đận nơi quê xưa. Bà tưởng thoát nạn, tưởng đã yên ổn tấm thân còm. Bà sẽ hạnh phúc nhờ “phước thâm tự hải, lộc cao như sơn”, do ông cha cố tổ của bà ưu ái để lại. Nào ngờ... giờ đây họ đùng đùng xách súng đến bên đít, đuổi bà vắt giò lên cổ mà chạy có cờ! Bà ngồi thụp xuống đất, giống như em bé lên sáu tuổi chơi trò cầu tuột. Bà xoạt hai chân lướt phom phom trên đồi cỏ. Bà bị té nhào hai ba vòng, đầu bù tóc rối xổ ra dài lết thết trên đất cỏ. Tôi sợ thắt họng, tưởng bà sẽ bị u đầu bể trán chảy máu, hay ít ra cũng gãy cần cổ, lặt lìa lặt lọi tay chân. Thế mà bà tỉnh bơ không việc gì.

                        Bà chỉ hốt hoảng dáo dác nhìn quanh, đau khổ lo sợ tột cùng, không sao chịu thấu:
                        “Sông sâu có thể bắc cầu.
                        Lòng người nham hiểm, biết đâu mà mò”.

                        Vì, “Thà rằng chả biết cho xong.
                        Biết ra, như xúc, như đong lấy sầu”.


                        Bà than như thế! Tôi phải kính phục bà mẹ chồng vô biên, vì bà thuộc về lớp người từ thế kỷ thứ 19, nhất là ở nơi vùng quê Hưng Hiền tận ngoài Yên Mô miền Bắc, thuở xưa ấy ông bà cố đã cho bà đi học chữ quốc ngữ. Bà viết chữ thông thạo, đọc chữ làu làu. Bà nói những câu văn hoa tinh tế. Nhất là bà hát những câu ca đồng dao, quan họ trữ tình luyền nhớ quê hương, thì hay hết biết.

                        Sau khi bà cháu mẹ con chúng tôi an toàn tuột dốc Domain De Marie nầy cùng đồng bào trong Thị-Xã Đà Lạt bị dồn vào ngỏ cụt không lối thoát. Tôi và họ cũng bỏ lại sau lưng những gì quý giá nhất, hầu thoát thân mưu cuộc sống còn. Dù cùng cực đắng cay, lo toan, đớn hèn, đau khổ đối mặt với nỗi cô quạnh muộn phiền bất ngờ không lường trước được, và hãi hùng giữa cuộc đời muôn mặt. Nhưng xin cám ơn Trời đã cho thoát khỏi nanh vuốt cái người tôi không muốn xác nhận mà phải coi như quân thù.

                        _ * _

                        Tình Hoài Hương
                        Last edited by Tinh Hoai Huong; 11-29-2019, 03:44 AM.
                        Bút trần nào tả được lưu luyến!
                        Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                        Tình Hoài Hương

                        Comment


                        • #27
                          ĐÀ LẠT Bạch Đằng & Khu Số 4 Kinh Hoàng



                          ĐÀ LẠT Bạch Đằng & Khu Số 4 Kinh Hoàng
                          Tình Hoài Hương
                          ***



                          Triệu triệu giọt nắng vàng tươi lung linh lấp lánh trên mình những chú én có cái lưng mướt đen xanh đậm, cái bụng trăng trắng, hai chân đen đen, hai con mắt như hai hạt nhãn lồng và có cái đuôi chẽ ra làm đôi lắc qua lắc lại. Bầy én chào đón bình minh lạnh giá trên những cành mai anh đào run rẩy trong mùa xuân mới. Đàn én duyên dáng thân mật rù rì vui vẻ làm tổ dưới tán lá vòm cây, chúng chuyện trò lảnh lót huyên thuyên đủ mọi giọng điệu hân hoan những âm lên bổng xuống trầm ríu rít, quyện cùng tiếng thông reo triền miên, tạo thành khúc trường ca lả lướt thi vị hữu tình thơ mộng và bất hủ. Giữa khoảng trống yên ắng trong không trung ngan ngát hương hoa và khu đồi thông vừa lặng gió, bỗng dưng có muôn ngàn tiếng súng gầm thét gào rú trên đỉnh đầu mọi người, xen lẫn đàn én hốt hoảng chộn rộn chít chít tất bật bay lên bay xuống vun vút.

                          Lâm bế bé Dzũng, anh cho con đứng trên lan can, và gọi vợ ơi ới:
                          - Tí Nị! Em đến đây xem. Nhanh lên.
                          Lâm đưa vợ cái ống nhòm. Cả bầu trời chiến tranh xa xa đang thu gọn trong hai ống Field-glass xinh xinh. Tuy trông ở mắt thường thì quá xa, nhưng khi nhìn vô ống ngắm, thì tôi thấy rõ mồn một: Đứng trên lầu thông thoáng (từ một góc hướng Tây của thành phố Đà Lạt) nhìn về khu Số 4, tôi thấy nhiều mái đầu lô nhô bên hố lỗ hầm hào đắp vội, mấy đám cháy bỗng nhiên bừng lên, phừng phựt cháy. Không biết tại sao!? Lửa đỏ au chói lòa vẫn tưng bừng nhảy múa lấp lánh dưới ánh mặt trời long lanh. Khói và lửa bốc cao trên đầu ngọn thông bên kia sườn núi, tạo thành những cây nấm lửa, tỏa khói đen nghịt cuộn thành từng lọn, và thân cây oằn xuống vật vã xô qua xô lại theo chiều gió xoáy mạnh.

                          Lâm và tôi có tính tò mò và hiếu kỳ ghê lắm, nên hai vợ chồng bèn nhờ bà nội ở nhà trông coi giúp các cháu: Dzũng hai tuổi và Tuấn hơn hai tháng tuổi, chúng tôi tụt xuống thang lầu, vừa đi vừa chạy lên con dốc Mai Hắc Đế, tới trên cửa chính cuả nhà thờ Domain. Bên vai Lâm lủng lẳng máy chụp hình, còn tôi thở hổn hển ngực vẫn có cái ống dòm lắc lư đung đưa. Leo lên những bậc cấp cạnh tháp chuông giáo đường Domain, hoặc trên sân nhà thờ, dù không cần có ống dòm, tôi phóng tầm mắt lướt qua một vòng, vẫn thấy bên kia đồi ở Lữ quán Thanh Niên họ đứng đông nghẹt trên chỗ cao nhất. Nhà Thờ Tin Lành ở đường Hàm Nghi, góc phố Hòa Bình…

                          Mọi người lố nhố đứng ngồi, hoặc đang đi tới đường Hàm Nghi quẹo xuống trước ngã ba Chùa Linh Sơn, họ đu đeo trên mấy cây cổ thụ tại Chùa Linh Sơn. Chùa rất gần khu số 4, thế mà họ chẳng biết sợ súng đạn vô tình lạc tới? Có những người chạy xuống dốc Minh Mạng, người ở Phan Đình Phùng ùn ùn chạy cuối phố, họ nhón cao chân, giương to mắt nhìn về hướng Hà Đông, dòng Chúa Cứu Thế, Lạc Dương, vân vân... Xa xa về phiá Khu Số 6 vẵng nghe tiếng súng nổ dòn.

                          Lâm bạo gan bạp phổi kéo tay tôi chạy xuống trường Đa Nghĩa. Trên góc sân trường có vài xác chết ở trần sình to, chương phình bên gói bột ngọt. Một người khác nằm bất động thịt xé ra từng mảnh nhỏ, nửa thân dưới của ông ta bầy nhầy đầy máu thâm đen trên luống cải hoa vàng, cổ chân trái cột dính cuộn băng vệ sinh phụ nữ, máu tươi loang lổ thấm đỏ từng đám trên đất. Cạnh đấy là bầy chó hoang ốm tong ốm teo nhô cả bộ xương sườn, chúng cắn nhau, cào cào, vồ vập, bới bới. Tôi đã chứng kiến con chó hoang nhai một khúc ruột người chết thúi (hôm ở bên hàng rào Tiểu-khu Thị-xã Đà Lạt), nên tôi xanh mặt, cảm thấy run rẩy, sợ hãi, gớm ghiết bầy chó, và lợm giọng buồn nôn kỳ lạ.


                          Tít sau góc vườn gần dốc nhà ai có ba em bé đang chạy lui chạy tới loăng quăng tìm kiếm cái gì đó. Chúng chụm đầu vào nhau rù rì rất lâu. Ôi Trời ơi là… tôi sợ thay cho các em. Ấy thế mà các em không hề biết lửa đạn súng ống chiến tranh là gì. Các em đang lúi húi chia nhau một thứ, hình như là củ khoai lang, miếng bánh mì cái bánh thì phải. Cuối cùng các em bỏ tọt vào miệng nhai ngấu nghiến. Một lúc khá lâu có một người đàn bà đầu bù tóc rối chân đất tất tả chạy ra, miệng la bai bải, bà ta vừa nheo nhéo chửi bầy trẻ vừa giáng mấy cái tát vô mặt đứa trẻ lớn nhất. Sau đó mỗi tay một đứa nhỏ bà ta lôi tuột chúng chạy tọt vào trong góc tường, khuất tầm nhìn, để mặc thằng lớn đứng dậm chân dậm cẳng vò đầu bứt tóc khóc hu hu. Khu phố Số 4 lại vắng teo điêu tàn như bãi tha ma.

                          Lâm và tôi cứ luân phiên chộp lấy ống nhòm nhìn lung tung tứ phía. Việt-cộng đã chiếm các nhà cao ốc cuả khu Số 4, Số 6, Tùng Lâm kiên cố, họ núp trên la phông, trên những ô cửa sổ tò vò mà bắn sẻ xuống đất, việt-cộng dùng nhà dân để làm chủ chiến địa (nếu quân nhân vô tình đi ngang qua khu vực nầy thì “lãnh thẹo” ngay! Mục tiêu giao tranh quá cận với nhà cư dân, nên đơn vị tiền sát của quân-lực Việt Nam Cộng Hoà nếu chiến đấu thì quá khó khăn. Không tạo được vòng đai an toàn, hầu ngăn chặn địch trà trộn vào vùng dân đang sinh sống. Không thể xin pháo binh yểm trợ lúc tiến quân. Có những ngày dài đằng đẵng người ta đành bất lực nhìn khu Số 4, khu Số 6, Tùng Lâm, Dòng Chúa Cứu Thế… chìm dần trong khói lửa ngút trời kinh dị. Mọi người bàng hoàng, ngẩn ngơ nhìn tai hoạ ác ôn đổ lên đầu bao gia đình vô tội không kịp chạy thoát thân.

                          Chân thật mà nói tôi thấy nét mặt dân thị thành ai ai cũng đầy lo lắng chia sẻ ngọt bùi đau đớn. Thương xót. Bối rối điếng đau. Hoảng hốt. Bủn rủn run sợ tột cùng. Người dân cùng cư thộn mặt thờ thẩn, ngơ ngơ ngáo ngáo không chút sinh khí hay hé lộ một lời. Hầu như hoàn toàn im lặng, họ giương to mắt nhìn về nơi lâm nguy. Mặt mày ai nấy đều hốc hác, âu lo tột cùng trong nỗi sợ hãi nên mặt mũi hoá ra xanh chàm, hết cỡ màu chàm. Sự khiếp sợ hãi hùng đang dâng trào lên tột đỉnh đau thương. Ôi! Thảm thương cho người dân hiền ở khu Số 4, khu Số 6 quá! Chiến tranh cúi xuống hành hạ, cưỡng bức mọi thứ tan hoang trên chính quê hương chúng ta. Dân đen biết lấy gì chống đỡ khi thế sự cúi mặt quét tầm nhìn xuống thành phố Đà Lạt nầy!
                          * * *


                          Trên đường gia đình đi đến nơi hầm trú ẩn, (mà tôi nghĩ đấy là nơi an toàn nhất). Tôi đã nghe anh lính ngồi trên một trong những chiếc GMC ngâm nga bài thơ Lương Từ Châu:
                          Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi.
                          Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi.
                          Tuý ngoạ sa trường, quân mạc tiếu.
                          Cổ lai chinh chiến, kỷ nhân hồi!
                          (Bồ đào uống chén dạ quang.
                          Tỳ bà thổi khúc lên đàng, giờ đây
                          Sa trường chén nhớ rượu nầy.
                          Xưa nay chinh chiến, đâu ngày gặp nhau
                          !

                          Tôi nghe thật xót xa bồi hồi trong dạ sao đâu. Nếu ta đang sống trong thời thái bình thịnh trị; mà vô cớ đi giết người là trọng tội. Nhưng ta sống trong thời chiến thì chuyện giết người; để bảo tồn quê hương và dân tộc, lại là lẽ đương nhiên đáng tự hào & vinh danh.
                          Những gốc cây khô đét cằn cỗi, sần sùi khẳng khiu đã cháy đen không còn cành lá, dường như bị róc hết nhựa sống. Giọt nước đang chảy từng giòng ngoằn ngoèo trên thân cây sần sùi, cùng với cơn mưa to ở lưng trời thoáng chốc bỗng tạnh. Cả hồ Xuân Hương Đà Lạt mơ màng, nên thơ, quyến rũ với đồi Cù xanh um nệm cỏ mịn màng mướt mát. Hay đỉnh núi Lâm Viên huyền ảo kỳ diệu có phơi phới rì rào gió sương. Xứ hoa đào mơ mòng đầy quyến rũ, vẫn không được chú ý bằng: Mỏm đồi khu Số 4 - đã hãi hùng trải qua giờ phút đau thương kinh hoàng nhất.

                          L-19 bay lượn trên trời thám thính liên tục trên bầu trời. Bên phải cánh cửa lớn (của một chiếc trực thăng đang bay vòng vòng trên trời, có một anh lính cầm khẩu đại liên chĩa mũi súng xuống đất, nhưng anh ta không bắn đi đâu cả. Họ lo sợ đồng bào bị kẹt lại rất nhiều, một quân nhân khác ngồi bên cánh cửa trái phi cơ, thỉnh thoảng chĩa loa phóng thanh xuống dưới đất, phát ra đoạn băng ghi âm không ngớt hướng dẫn dân, đại khái kêu gọi đồng bào, đại khái: … Sau những thông báo trước (đã chiêu hồi và hướng dẫn).
                          - Từ giờ phút nầy tại ba khu vực: Khu Số 4. Khu Số 6. Khu Bạch Đằng bắt đầu thiết quân luật 24/24 giờ. Nếu ai còn mắc kẹt. Hãy cố gắng tự tìm mọi phương tiện, di tản gấp ra khỏi các vùng kể trên. Nay mai phi cơ sẽ có oanh tạc khu nầy.


                          Nghe thế, đủ biết chính phủ quyết dồn mọi khả năng và nổ lực vào chiến lược, chiến thuật, và sách lược điều quân thuần túy quân sự. Ta phải công tâm mà nói là phía Việt Nam Cộng Hoà từ tâm và độ lượng khi loan báo tin trên cho Việt-cộng biết trước sẽ có bỏ bom. Buổi chiều, lại có L 19, và có vài chiếc trực thăng trang bị đại liên 12 ly 7 bay lượn và thả vô số truyền đơn xuống thành phố Đà Lạt lần thứ tư, lần thứ năm. Muôn vàn tờ giấy trắng chấp choá dưới ánh nắng ấm áp, ngọt ngào hương hoa mùa xuân phơi phới. Hoa giấy uốn éo bay bay che mờ một góc trời xanh xanh. Hoa giấy (confective) phơi phới bay bay trong bầu trời lồng lộng gió thênh thang, mênh mông trống trải và tiếng thông rì rào. Hoa giấy giống chuồn chuồn bươm bướm chập chờn nhảy múa trên không trung giát nắng vàng tươi rói. Nếu không phải là đã bị bao ngày dầm mưa dãi nắng lo âu sợ hãi và buồn tênh, thì tôi tưởng tượng những tấm giấy thông báo kia là những dáng tiên sa vui vẻ cỡi vừng mây mỏng dính, tà tà bay xuống thế trần lấp lánh ánh nắng lung linh gieo ấm áp tới thế trần.

                          Qua ngày 1 tháng Tư, đúng 10 giờ sáng, Quân-lực Việt Nam Cộng Hoà mang súng phòng lưu, tiểu liên M.3AL giàn trận thành hình cánh quạt. Các sĩ quan và binh lính người mang súng colt 45 chỉ huy. Người vác súng lớn, súng rouleau. Người cầm bản đồ, máy vô tuyến PRC 25. Sau đó tất cả quân nhân dừng lại nghỉ ngơi, chờ đợi lệnh trên. L 19 bắn khói điều chỉnh xuống mục tiêu xong, đã bay lên cao. Thoáng chốc tôi nhìn loạt máy bay bốn chiếc từ xa bay lượn xuống sát trên đỉnh đồi gần đụng đọt thông, tiếng phi cơ gầm gừ nghe rền rú ầm vang khi bỏ bom khu số 4 rõ mồn một, lần lượt mỗi lần một chiếc thi hành phi vụ, coi giống y như tôi đang xem chiếu phim trên màn ảnh rộng. Ùmmm! … Oằm! Ùuum… Bùuum! Mặt đất khu Số 4 nóng bỏng kêu oc... ọc... oọcc… ục ục ục… nhô lên hụp xuống, đất cát nhấp nhô rung chuyển dữ dội.

                          Tiếng nổ rền rền vang trời long lở đất. Khói đen nghịt từng cuộn khổng lồ vụt tỏa lên cao, như cây nấm phù thủy múa máy. Lửa đỏ rực cuồn cuộn bốc lên thấu trời xanh, cháy lan ra từng vùng khá rộng, nổ lốp đốp suốt mãi. Suốt thời gian phi cơ bỏ bom liên tục chính xác (vô những ổ sào huyệt kiên cố do Việt-cộng mới chiếm đóng đào sâu xây đắp dưới lòng đất hơn vài tháng qua) độ chừng mười lăm hoặc hai mươi phút gì đó. Thật quá hãi hùng: âm ầm ầm…. ùmm ùmm… Bùmm… nghe quá quái đảng. Dù hai tay tôi bịt kín lỗ tai, toàn thân rêm rêm, lồng ngực nóng hôi hổi nhô lên hụp xuống phập phồng ứ nghẽn muốn hụt hơi, đôi chân run rẩy, sống lưng lạnh toát, nhưng tôi hồi hộp ngóng cao cổ giương to mắt nhìn… coi cũng thiệt đã con mắt trần, thú vị vì được tận mắt chứng kiến những pha sống động ngoạn mục và oanh liệt!

                          Đoàn phi cơ bỏ bom bay đi không bao lâu, trực thăng ào ào lượn trên không trung (ba mẹ tôi ưa nói đó là chiếc tàu bay chuồn chuồn) không ngớt thả những tràng róc két viu viu viu…, xịt xịt xì xịt…, pằng pằng pằng… nòng đạn toé lửa trải dài dài trút xuống mục tiêu: KHU SỐ 4. Tôi chưa hết ngạc nhiên và sửng sốt dáo dác nhìn lên trời cao trầm trồ ngợi ca quân lực KQVNCH. Lập tức xe tăng bọc sắt rổn rảng đi trước, không gian rào rạo tiếng đạn trái phá xíu xít xì xịt..., đùng đùng đùng…, đại liên từ mấy chiếc trực thăng bắn roóoc… roóoc roóoc… Pằng pằng pằng… Tạch tạch tạch… Oằng…

                          Quân nhân Việt Nam Cộng Hoà (tôi chẳng thể nào nhớ hết đó là những binh chủng tinh nhuệ nào) từ các nơi: Khu phố Hoà Bình xuống đường Minh Mạng. Từ đường Cường Để qua Phan Đình Phùng. Từ suối Cam Ly qua ngả Hoàng Diệu. Từ Viện Đại Học xuống lối Bùi Thị Xuân… là những điểm quân ta bắt đầu xuất phát. Quân nhân tuần tự chia nhau đi lục soát khắp mọi nơi tình nghi, (dọc theo các đường chính). Tốp khác bọc hông lên khu đất đồi Bạch Đằng. Súng lớn, súng nhỏ, súng cối, súng trường nổ dưới đất ầm ầm rền vang, đảo điên hơn ngày núi lửa bùng phun nham thạch, lựu đạn, đạn cay, đạn khói, đạn ói, đạn mửa. Nhiều mùi hôi thối, khét lẹt nồng nặc lớp lớp lại ùa bay về phố. Sức nóng hừng hực theo hướng gió xô đi xô lại càng rát phỏng da. Ác chiến.

                          Phút chốc cây cối trụi cành lá, kêu răn rắc, nổ lép tép, cháy xì xèo, tàn tro và nhiều đốm lửa bay lông lốc. Gió ào ào thổi hơi nóng hừng hực, rực sáng ánh vàng xanh ngũ sắc lên cao. Lửa phừng phựt toả rộng ra hình cây nấm đen khổng lồ, táp vào mặt chúng tôi và nhiều người đang đứng lố nhố nơi các ngỏ đường (nơi đây chỉ cách khu Số 4 không đầy nửa cây số) nóng rát bỏng mặt tôi muốn lột da. Tiếng nổ lốp đốp liên hồi chẳng dứt, nghe thật chỏi tai. Độ nóng, khói đen nghịt tỏa lan dài ra cùng khắp bầu trời u ám. Mùi thối, mùi vỏ xe cao su cùng gỗ ván trộn lẫn mùi lông da heo, chó, gà vịt, mùi mỡ mùi khét mùi nhựa hỗn tạp, lùa theo gió cuốn về thành phố, hôi kinh khủng. Hôi kỳ lạ! Không sao chịu thấu.

                          Nhưng, mùi tử khí và mùi chiến tranh thì an nhiên ngủ nghỉ, dừng lại ở khu Số Bốn nầy miết mãi. Làm cháy rụi biết bao ngôi nhà đồ sộ. Làm rợn gáy người nhìn. Làm héo úa những hàng hoa mimosa, vườn mận sai trái rụi tàn đột ngột. Làm đen thui giàn bầu bí. Cháy trụi bao hàng rào dâm bụt. Héo nhanh từng bụi hoa dã quỳ, hoa bìm bìm tim tím cong cong. Tôi cảm thấy rùng mình ớn lạnh, run run, hai cánh tay rung rung như đôi cánh của con gà rù bị mắc mưa. Đầu mùa xuân tươi thắm ấm áp, mà dường như tôi chợt lạnh run trong cơn sốt rét da vàng cao độ, cái lạnh lan ra từ hai ống quyển run rẩy va đập vào nhau bồm bộp.

                          Bỗng dưng còi hụ vang rền... khiến ai ai cũng rợn tóc gáy dáo dác nhìn quanh lo sợ tột cùng. Họ quên tiệt đi mất rằng: Đặc điểm thân tình và đa dạng của phố Đà Lạt hữu duyên dễ thương nầy là ở ngay trên nóc nhà của Khu Hoà Bình, đã gắn một cái đồng hồ báo giờ có còi hụ nghe rất to và vang đi xa lắm là xa. Nhưng không phải để báo động chiến tranh như thời xưa, mà là dùng còi để hụ lên báo hiệu ấy là đúng 12 giờ trưa, và 6 giờ chiều, ngỏ hầu cho đồng bào biết giờ phút đó đã đúng ngọ, hoặc báo hiệu đến 6 giờ tối; đấy là giờ mọi người bắt đầu nghỉ ngơi sau một ngày bận rộn nhọc nhằn.

                          Tôi quên nói hôm mồng 2 Tết việt-cộng núp ở tiệm ảnh Hồng Châu bắn xuống một xe Jeep đã chở vài sĩ quan của trường Võ Bị đi ăn sáng, tà tà lái xe lên dốc Lê Đại Hành, họ không biết “bọn kia” lẽn đột nhập vô Thị-xã Đà Lạt. Nhưng Việt Cộng đã bắn trật. Các sĩ quan vội nhảy ra khỏi xe, chạy thoát xuống lối Modern Hotel, lo chạy nước rút về hướng cầu Ông Đạo. Xế chiều hôm ấy tôi từ công sở về nhà, phải đi qua phố vắng teo, thì thấy chiếc xe nhà binh vẫn nằm chình ình ở đấy, mui, nệm, bánh xe Jeep bị cháy rụi đen thui, chỉ còn trơ lại khung xe méo mó coi thiệt dị hợm, khói đen còn âm ỉ tản mác vật vờ uốn éo bay bay trong làn sương mờ mờ giăng mắc đó đây.

                          Mấy hôm sau Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà bắt sống ba tên việt-cộng đã lẫn trốn trên nóc tháp cuả khu Hoà Bình, nguyên do chúng nằm bên đồng hồ báo giờ to tướng, lúc 12 giờ trưa, và 6 giờ tối bỗng nghe có tiếng còi hụ inh ỏi chát tai, thiệt điếc con ráy, e rằng chúng sợ són đái, mất hồn mất viá rợn tóc gáy, (tưởng khi còi hụ là thần chết hiện ra báo tử, cứ ngỡ mình trở về ngoài Bắc). Việt-cộng sợ hãi ngáp ngáp tụt xuống khỏi nóc nhà, đứng lớ ngớ xó góc phố vì run rẩy, đói và khát, họ chờ đợi lúc nào trời nhá nhem tối, thì sẽ tìm đường tấu thoát. Thế là phe ta tóm gọn!

                          Ngay sau khi tàu bay thả bom, trực thăng bắn rốc két và quân nhân Việt Nam Cộng Hoà càn quét lục soát tàn quân, thì cư dân ở Đà Lạt nườm nượp chạy chạy chạy..., rối rít ùn ùn thúc hối kéo nhau đi đi đi... xem khu Số 4 bị tàn phá, người ta ở đâu tụ họp lại đông quá chừng chừng. Tôi chạm trán với một người đàn bà gốc Ấn, chỉ có ngoài khoen vòng có hạt ngọc trai và mấy hột kim cương lấp lánh, đính trên trán sát chân mày dài rậm, bà có hàng mi dày cong cong nơi đôi mắt màu tro lánh đen tuyệt đẹp của bà thì mới lộ ra ngoài. Còn tai, mũi và miệng của bà bị cái mạng che mặt, cũng như toàn thân bà ẩn dấu trong bộ áo jellaba mầu xanh lục lụng thụng, áo dài từ cổ xuống tới gót chân, có nhiều lớp vải phủ kín mít thân thể bà, chiếc khăn voan mỏng cùng màu phủ lết bết từ trên đầu bà xuống hai bàn chân mang đôi dép thấp, quai dây cột chéo lên quá mắc cá. Tôi biết bà nầy có tiệm mỹ phẩm ngay khu Hoà Bình, bà có ông chồng hiếu khách đứng bán hàng, ông vui vẻ luôn miệng ca hát.

                          Một đứa con trai nho nhỏ ngồi bệt trên lề đường, nó ngẩng lên nhìn bà và nhẹ tay khều khều vào bàn chân ngăm đen, khiến bà sợ hãi né tránh và toan hét lên. Nhưng khi bà thấy nó ngước đôi mắt hiền lành và van lơn chìa bàn tay đen đen run run ra bà xin bố thí. Bà ta len lén nhìn trước ngó sau, liếc liếc dòm lui dòm tới, rồi bà ta thọc tay vô một bên hông, tìm mãi bà mới mò được túi áo. Bà ta ngọ ngoạy bên trong làn áo lụa, vùng bụng cộm lên dưới lớp vải một hồi lâu. Bà ta e dè lặng lẽ cúi xuống đưa cho thằng bé một nắm xôi đậu xanh và tờ giấy một đồng. Nhìn trước ngó sau lần nữa bà cúi đầu len lén lẫn vào đám đông, chen lên lề đường đi về hướng Phan Đình Phùng và ngả ba chùa Linh Sơn.

                          Tại khu Số Bốn đích xác có một ngôi nhà lầu đồ sộ, kiên cố, uy nghi chắc chắn to lớn khang trang xinh đẹp nhất vùng nầy đã sụm bà chè, gạch ngói ngổn ngang không còn miếng nào dính miếng nào. Nhà ấy nằm ngay cạnh mé góc đường Phan Đình Phùng, và đầu góc khu nghĩa địa Số 4, đã bị bom dập tơi tả, ấy là nơi đặt bộ chỉ huy cuả việt-cộng. Tòa nhà đã vùi dưới đống gạch ngói nghi ngút khói và lửa cuồn cuộn. Khá lâu, mất nhiều ngày giờ sau, người ta đã dào bới lên, và tìm thấy hai mươi mốt mạng người trú ẩn trong ngôi nhà kiên cố ấy. Đã tưởng là núp trong những ngôi nhà kiên cố thì an toàn. Nào ngờ... chúng tôi thấy họ trợn mắt chết tươi, chết nhiều cách, nhiều kiểu vô cùng thương tâm và kinh dị, chết không kịp ngáp, không nhắm mắt hay trối trăn nửa lời.
                          ***

                          Sau khi dứt điểm khu Số Bốn là đến phiên càn quét khu BẠCH ĐẰNG – ĐÀ LẠT. Từ hơn hai tháng qua, đài phát thanh Đà Lạt ngưng hết mọi chương trình ca nhạc. Họ chỉ phát toàn bản tin thời sự đó đây nóng bỏng chung chung, lạt lẽo rất vắn tắt, hoặc trực tiếp truyền thanh chương trình đài Sài Gòn thông báo khẩn của các ban ngành ở trong nước, công sở, nhân viên công chức hãy túc trực tại nơi làm việc mỗi ngày. Nhất là kêu gọi: Binh-sĩ. Cảnh-sát, Cảnh-sát dã-chiến. An-ninh quân-đội. Sinh viên các trường đại học, hãy ứng chiến, hay trình diện từng nơi ở đơn vị gốc của mình.

                          Chính phủ miền Nam Việt Nam bắt buộc phải vùi dập khu Số 4 xong, suốt mấy ngày đêm, trực thăng quầng thảo mục tiêu, bay vù vù hoài. Máy bay L 19 bay lượn trên vùng Đà Lạt thám thính. Cư dân trong thành phố chẳng thiết làm ăn buôn bán, kiệt quệ, phố xá nhà nào nhà nấy đóng cửa im ỉm, họ thường xuyên tụm năm tụm bảy, đứng ngồi đông đen trên nhiều ngỏ đường bồn chồn thấp thỏm xôn xao. Họ ngẩng đầu chỉ chỏ bàn tán nghe ngóng tiếng động, lo sợ dáo dác nhìn tứ phía. Bao gia đình thảng thốt, tay dắt lưng cõng vừa tất tả chạy băng đồi vượt dốc Thánh Mẫu, qua ngả Hà Đông xuống ruộng dâu về hướng thung lũng ấp Đa Thiện. Họ leo lên dốc Bùi Thị Xuân, cố thoát ra khỏi “vùng tử thù”. Nét mặt họ đầy lo lắng. Đau đớn. Thương xót. Bối rối. Dáo dác. Hớt hãi. Bủn rủn run sợ tột cùng. Họ đứng thừ người ngờ nghệch, đờ đẫn ngồi bệt xuống đất, hai mắt lờ đờ không cảm giác. Mặt mày ai nấy đều hốc hác. Người người điếng lặng, ngẩn ngơ nhìn tai hoạ đang đổ lên đầu, lên cổ anh chị em cùng mũi tẹt máu đỏ da vàng.

                          Bản tin địa phương ghi nhận: một toà nhà mái ngói đỏ au nghiêng qua nghiêng lại rồi sụm xuống. Xác người phơi trên nương khoai, dưới ruộng dâu tươi, bên vồng hoa rễ quạt tươi thắm. Cạnh xác một bà mẹ nằm vắt vẽo chân trần trên luống cải úa tàn, có đứa con nhỏ độ tám chín tháng, đứa bé bò lui lết tới khóc la, tìm vú mẹ. Mẹ của cháu bé thật chẳng còn gì ngoài vũng máu tươi đọng lại trên bờ ngực héo hon, đôi mắt đứng tròng mở thao láo, hàng nước mắt đọng trên bờ mi nỗi đau thương, đã vụng dại tuôn chảy qua bên thái dương. Bà cụ lom khom chống gậy, lẽo đẽo theo sau đoàn người tất tả cúi thấp đầu chạy dưới khe mương, mặc kệ người mẹ và đứa bé. Cụ ngoái đầu nhìn, bặm chặt hai hàm niếu móm mén, cụ cố gào lên trong tiếng nấc:
                          - Chị kia ơi cố gượng dậy, ngồi lên cho con bú. Bò lại gần mẹ cháu thêm chút đi! Cháu ơi!?

                          Nhờ bà cụ vừa đi vừa kêu gào, cụ chỉ lối đưa đường khi quân nhân Việt Nam Cộng Hoà vừa đến, nên em bé đã được cứu sống, mẹ bé thì đem về nhà xác Dân Y Viện chờ thân nhân mai táng. Chính phủ quyết “dứt điểm nợ” cho xong. Ba giờ chiều, khi ra phố tôi nghe dân chúng đồn đãi đâu đó là: Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa quyết định cho phi cơ phân chia ra nhiều phần tách bạch mà dội bom, (loại oanh tạc cơ nặng kí, trang bị toàn titanium, thép, aluminium, có 8 động cơ, Pratt và Whiteney, có trọng tải 35 tấn. Do dự án Patricia Lynn chỉ xem là một chương trình tạm, nhưng sau đó rất hữu hiệu, nên phi cơ B-57E đã thực sự tham chiến. Phi cơ này được đặt tên là Biệt đội 1/Phi đoàn 460 Không-Thám Chiến-thuật) thì phải.

                          Nếu, Việt-cộng vẫn ngoan cố ù lì bám sát, tướt đoạt lấy tất cả, từ mạng sống người dân, đến lương thực, của cải quý giá, đất vườn của dân lành vô tội. Thì… Đành phải xin lệnh từ trung tâm Không-trợ dội bom xuống khu Bạch Đằng ngay thôi. Không thể khoan dung nhân nhượng nữa!

                          ***

                          Tôi đang đi chợ, nghe nhiều bản tin ngắn do xướng ngôn viên Diệu Thư của đài phát thanh Đà Lạt đọc, được phát ra từ bốn cái loa vang lên trên nóc nhà khu Hoà Bình, tôi hốt hoảng lo hộc tốc ba chân bốn cẵng chạy về nhà. Tôi và Lâm ôm hai con lên lầu, mở tung cửa sổ ra nôn nao chờ đợi, lại luân phiên dòm vô ống nhòm, chúng tôi phập phồng dáo dác nhìn đi tứ phía. Quả đúng như thế thật. Chỉ non hai giờ sau là phi cơ đến. Chiến cuộc thực sự bùng nổ quyết liệt không hấp dẫn chút nào trên chuyến tàu suốt cuộc sống vật vã rồi. Sau khi hai chiếc phi cơ dội xong những trái bom, là vút bay đi.

                          Chỉ vài giây phút sau lại có hai chiếc khác bay đến. Phi cơ cứ thay phiên nhau lượn trên vòm trời Đà Lạt, khi mấy quả bom xé gió vỡ bung ra, hủy diệt mọi thứ trong tầm ngắm, dội khoảng mấy chục quả bom rất chính xác xuống đồi Bạch Đằng và vùng lân cận trong khoảng chừng non nửa giờ. Trên ngọn đồi Bạch Đằng trống trải có nhiều hố bom khổng lồ, sâu hun hút, có thây ma không kém gì bên nghĩa địa Khu Số 4 dạo nọ.

                          Khu Bạch Đằng (do linh mục Phan Văn Đài thuộc dòng Chúa Cứu Thế xin chính phủ cho canh tác khu đất đỏ bazan và nâu vàng làm khu trù mật vô vụ lợi, cho tất cả mọi người không phân biệt tôn giáo. Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà đã chấp thuận, vừa cho xây dựng ấp mới, được quy mô thành lập vài năm nay, nơi có rừng lá kim, rừng hổn giao lá rộng cùng các loại boxit, than bùn, cao lanh… bồi tụ bởi sự kết lắng các sản phẩm rửa trôi bào mòn từ sườn núi. Cư dân các nơi từ từ dồn về khu đất đỏ màu mỡ phì nhiêu nầy). Đa số đất toàn là đồi trọc, đất đỏ trộn màu nâu non còn trống trải và rộng rãi. Xe máy cày đất vẫn hì hục làm việc không ngừng, thì... đại liên từ trực thăng nã đạn xuống mục tiêu ấn định: Khu Bạch Đằng! Đạn bay roóc roóc roóc, pằng pằng pằng… xíu xiú… xít xít… xịt xịt…vun vút xẹt xẹt… ra những vệt lửa vàng vàng đỏ đỏ. Lựu đạn cay, đạn khói, đạn ói, đạn mửa đủ thứ vỡ bùng. Súng nổ dưới đất rền vang. Long trời lỡ đất như ngày động đất hay tận thế. Mặt đất rung chuyển dữ dội bởi súng lớn, nhỏ, súng cối, súng trường. Xe tăng bọc sắt ùn ùn vươn tới dưới chân đồi Bạch Đằng, và nằm ụ đó.

                          Từ xóm nhà tôi, có nhiều thanh niên leo lên mái ngói ngồi, ai ai cũng trông thấy rõ những tên việt-cộng từ trong các hầm trú khu Bạch Đằng kêu gào nhau lố nhố chạy ra, có người lũi trốn xuống ruộng dâu, hoặc có tên cố chạy lên đồi dốc đứng, mong sẽ thoát thân tới vùng ấp Nguyễn Siêu (thuộc khu Số 6) khu thổ cư đầy gió lốc cuốn mù đất cát bụi đỏ, ngỏ hầu vật lộn nhau, để tranh giành phù du cuộc đời, cuộc đua, cuộc chạy nước rút, cuộc chơi giữa người sống, người ngáp ngáp cơn hấp hối, và người đành đạch dẫy nẩy chết. Năm tên áo đen mang súng AK cắm đầu cắm cổ chạy riết lên lưng chừng đồi, nơi mấy cái hang đất, có lẽ họ định chui vào đó trú thân, thì chẳng may bị đạn từ trên trực thăng nã xuống viu viu… xít xí xít… pằng pằng pằng...

                          Thế là hai tên gục xuống dãy đành đạch mươi phút, rồi nằm im re tại chỗ. Một tên lăn cù cù xuống vạt đất đỏ nâu mới cày. Một tên khác gục tại lỗ hang đất. Tên kia cà nhắc cà thọt nhảy cóc năm bảy bước, ngực ưỡn ra phía trước, hai tay dong lên trời, từ cườm tay lên tới khuỷu tay trái cột miếng băng vệ sinh phụ nữ, mặt y úp vào bụi cỏ rồi cũng rệu xuống. Ngay đơ.

                          Trên trời L 19 thám thính quần thảo liên tục. Trực thăng bay lượn như chuồn chuồn, không ngớt thả những tràng róc két viu viu… xì xịt… pằng pằng pằng… Phía khu đất trống nho nhỏ trên đỉnh đồi Bạch Đằng, phi cơ tải thương binh đáp xuống, cánh quạt xoáy tít mù. Vài quân nhân và hai thường dân bị thương, cúi cúi co mình leo lên phi cơ, máy bay nổ ầm ầm, cánh quạt quay vun vút. Trực thăng vụt bốc thẳng lên cao, bay về hướng thành phố, hay bay vào trong khu Võ Bị, thì phải!? Bùm bùm bùm… Ùm ùm ùm… Ầm!... dài dài rải xuống mục tiêu. Nơi ác chiến, mồ mã bị cày xới tan hoang.

                          Gia đình tôi đứng trên balcon của nhà mình, nhờ có ống dòm, chúng tôi nhìn về hướng đồi Bạch Đằng rất rõ. Tiếng phi cơ gầm rú trên đầu dù đinh tai nhức óc, dù ở nơi xa xa nầy, mà tôi cũng bị điếc ù tai, ép lồng ngực mệt nhoài, nghẹt thở, muốn bể tim bể não. Huống hồ gì là những cư dân ở gần gần đó, làm sao họ chịu thấu nhỉ!? Trông những cột lửa đỏ rực ùn ùn đùn lên, đùn lên cao, lên cao. Lên cao. Những cây nấm lửa vừa đỏ đỏ vừa quyện khói đen đen, to khổng lồ quằn quại uốn éo trong tiếng Ùm. Ùm. Ùm… Oằm… Bùm! Khói đen nghịt từng cuộn nấm khổng lồ, rồi quyện với lửa đỏ rực, quay lông lốc bốc lên thấu trời xanh, cháy lan ra từng vùng khá rộng. Nhiều tiếng nổ xì xèo lốp đốp suốt mãi. Mùi hôi thối, mùi cháy khét nồng nặc. Sức nóng theo hướng gió xô về tận xóm nhà tôi rát phỏng da. Từng đám tro, từng đám khói lửa dày đen nghịt toả ra. Những cây nấm lửa khổng lồ khác lại quay cuồng lông lốc trong gió xoáy, ùn ùn bốc thẳng lên trời xanh, rồi toả ra mù mịt che kín khung trời thơ mộng mất rồi!


                          Tim rung lên từng hồi náo loạn, tôi có cảm tưởng như đang xem một cuốn phim quá hấp dẫn, vô cùng ngoạn mục mà kinh khiếp hãi hùng. Kinh dị tột đỉnh. Rõ ràng. Sống động. Trung thực. Ghê rợn hơn hẳn xem trên màn ảnh rộng stereo. Hơn gấp ngàn lần tôi đã xem các phim Đệ Nhất Thế Chiến. Đệ Nhị Thế Chiến xa xưa. Mấy phim đó chả nhằm nhò gì, so với chuyện tôi đã chứng thực bằng mắt thấy tai nghe. Oanh tạc cơ gầm thét trên đầu đã nhào xuống, và trong tích tắc lại vút bay lên trời. Hai trái bom xé gió vỡ bung ra, nhiều đợt lửa cuồn cuộn bùng lên. Ùm. Ùm. Ùm… Đùng. Đùng. Đùng… Pằng. Pằng. Pằng… Xíu xíu xíu… Xịt xịt xịt… Tạch … Tạch … Tạch… Bùm! Bùm! Bùm! Mưa chì. Gió lốc. Khói đen. Lửa đỏ. Chết chóc. Rùng rợn. Đau khổ. Tang thương. Kinh hoàng. Thảm thiết lắm! Mẹ Việt Nam ba miền: Bắc Trung Nam yêu dấu ơi! Giông tố ngập trời dâng lên cao ngút ngàn. Chao ôi! Hỡi Trời cao đất dày kia ơi!!! Ngày Tết Mậu Thân 1968, mà Ai đã bạo tàn ác ôn gieo chiến tranh thảm khốc, điêu linh đến thế nầy!?

                          Chiến tranh tàn sát ghê gớm, đã san bằng, cày xới, đào bới khai quật, lật tung không biết bao nhiêu là mồ mả ông bà cha cố tổ tiên trong nghĩa trang Số 4. Các thây ma đã muốn yên giấc nghìn thu vĩnh viễn. Ấy vậy mà hỡi ơi! Nào được an ổn tấm thây khô! Nhiều ngôi nhà trong khu Số 4 bị cháy rụi, người chết ở khu Số 4. Khu Số 6, và khu Tùng Lâm, Bạch Đằng chưa kiểm soát xác nhận nỗi. Chiến cuộc thực sự bùng nổ quyết liệt vì kẻ xâm lăng hung tàn. Dễ sợ quá! Trầm trọng kinh khủng quá chừng chừng! Rùng rợn biết bao!

                          Thật sự Tí Nị tôi rụng rời tay chân, không còn tin ở mắt thấy tai mình nghe nữa! Nhà cửa, ruộng vườn đất đai, đồ vật dẫu có hư hại, thì ta còn thời gian có thể từ từ sửa chữa lại khang trang tươm tất. Trộm cắp gian manh lừa đảo, thì có luật pháp trừng trị nghiêm minh, hữu hiệu và chuẩn xác. Mỗi lần tận mắt chứng kiến cuộc vĩnh biệt chia ly, hoặc nhìn lên màn ảnh xem những thước phim thời sự mô tả về tình đời và tình người sống đối với người đã khuất núi; người ta thường buồn bã u sầu đau đớn đứng trên đầu nguồn, để thả xuống dòng sông những chiếc thuyền giấy đựng cây nến lập lòe đốt sáng.

                          Tôi ngậm ngùi khôn tả, vô cùng xót xa về kiếp người. Cái chết chưa hẳn là điều đáng sợ, nhưng điều đáng sợ nhất là người còn sống mà tâm hồn đã chết, vô cảm lạnh lùng làm những việc hại đời hại người. Người sống cũng như kẻ chết đều ở bên dòng sông, và ở trên dòng sông. Có khác chăng là “kẻ” đang lơ lửng trên dòng nước, thì đành im lặng phú mặc cho con thuyền mang cây nến nhấp nhô trên sóng mãi xuôi dòng, trôi đi... trôi đi, trôi đi mất hút! “kẻ ấy” không thể nào và không bao giờ có thể tự quay trở lại bờ. Nhưng… trong giao cảm giữa con người với nhau, có người đánh mất ân tình quý giá, dã-tâm đứng trên bờ xâm chiếm miền Nam Việt Nam, đem chiến tranh về gieo rắc bao đớn đau tang thương, ngang nhiên công xúc tu sĩ, hãm hại hiền lương bá tánh, thì lấy ai xây dựng đạo lý vững chắc trên căn bản đạo đức và luân lý, cùng xoa dịu nỗi hãi hùng, ngỏ hầu bồi thường mạng sống con người rất đáng trân trọng và danh dự đây?

                          _ * _

                          Tình Hoài Hương
                          Last edited by Tinh Hoai Huong; 11-29-2019, 03:46 AM.
                          Bút trần nào tả được lưu luyến!
                          Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                          Tình Hoài Hương

                          Comment


                          • #28
                            Bách Niên Thương Hải Biến Vi Tang Điền Quốc Hận Đen: 30 Tháng Tư



                            Bách Niên Thương Hải Biến Vi Tang Điền
                            Tình Hoài Hương
                            ***



                            Thật tình tôi không thể nào hiểu nỗi tại sao vận nước Việt Nam lại trở nên quá đen tối: sau khi hiệp định Genève 1954 diễn ra kể từ ngày 26 tháng 4 năm 1954 - rồi bản Hiệp Định được ký kết và kết thúc cùng ngày 21 tháng 7 năm 1954. Thành phần tham dự: Anh, Mỹ, Liên Xô, Pháp, Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, Laos, Cambodia, Quốc Gia Việt Nam và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Phía Quốc Gia Việt Nam ban đầu do ông Nguyễn Quốc Định làm Trưởng Đoàn. Sau, ông Trần Văn Đổ thay thế. Đáng chú ý: Ông Trần Văn Đổ, Trưởng Đoàn Quốc Gia Việt Nam đã lên tiếng phản đối sự chia cắt đất nước. Chính phủ Quốc Gia Việt Nam (miền Nam Việt Nam) không ký Hiệp Định. Phía Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (miền Bắc Việt Nam) do Phạm Văn Đồng làm Trưởng Đoàn. Phái đoàn Hoa Kỳ từ chối công nhận Hiệp định Genève.

                            Kể từ ngày 21-7-1954– khi miền Bắc Việt Nam ký Hiệp-định Genève xé đôi lãnh thổ Việt Nam, lấy vĩ tuyến 17 và cầu Hiền Lương Bến Hải làm ranh giới, để chia lìa tách bạch hai miền Bắc Việt Nam và miền Nam Việt Nam ra đôi ngả phân ly nghẹn ngào:


                            - Ngày 11-11-1960 – Đại-tá Nguyễn Chánh Thi cầm đầu cuộc đảo chánh cùng Trung-tá Vương Văn Đông ở Liên-đoàn Dù, và Thiếu Tá Nguyễn Triệu Hồng, Đại-úy Phan Lạc Tuyên: đã đảo chánh nền Đệ-Nhất Cộng-Hoà hụt; thì “chiến tranh nội bộ” bắt đầu manh nha quyết liệt vì cốt nhục tương tàn, nồi da xáo thịt rối rắm bùng nổ liên miên. Từ xưa tới nay sự thôn tính đất đai, tranh giành quyền lực, thế lực, vinh hoa, là mạng lưới quyến rũ dẽo dai và khổng lồ. Nước càng trong thì không có cá. Dù lòng người đơn giản, phước thiện, trong sáng và cao cả; ấy mà nếu du nhập vào hệ thống chính trị, sau khi bị cuốn hút vào cung cầu đó, thì thật khó lòng ít có ai rứt ra được.

                            - Ngày 27-2-1962 - Có 2 chiếc khu trục A1 Skyraider dội bom dinh Độc Lập, do Trung-úy Phạm Phú Quốc và Thiếu-úy Nguyễn văn Cử ném bom bắn cháy dinh Độc Lập. Phi cơ của ông Phạm Phú Quốc bị bắn rớt trên sông Sài Gòn, ổng đã vô tù, tất cả bom đạn còn nguyên, nghĩa là ông ta chưa kịp thả trái bom nào. Ông Cử đào thoát bay mút qua hướng Nam Vang, dân chúng bàn tán là ổng bị chính phủ ở bển bắt nhốt vô tù rùi!?

                            - Sau biến cố 02-11-1963 – Tổng-thống Ngô Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu bị thảm sát. Trải qua bao thăng trầm chính trị sục sôi… thì nền Đệ II Cộng Hòa có Tổng-thống Việt Nam Cộng Hoà Nguyễn Văn Thiệu lên ngôi.

                            * Ngày 8-3-1965 - Kể từ khi có đoàn Thủy-quân Lục-chiến Mỹ tiên khởi, đông đúc khoảng 3.500 người rầm rộ đổ bộ lên đất liền tại Đà Nẵng, Mỹ viện cớ muốn giữ “an ninh cứ địa”. Do tướng Maxwell Taylor, thỉnh thoảng hút xì gà Schimmelpennick làm đại sứ Sài Gòn, ông dẫn đầu một cuộc phô trương cường quốc Mỹ, để thị oai với các nước tụt hậu, chậm tiến, đang có chiến tranh. Rồi…

                            * Ngày 16-8-1965 - Chính phủ Nguyễn Khánh chủ trương thành lập Hiến Chương Vũng Tàu. Trong nước loạn xạ bởi nhiều phe phái chính trị phản đối chính quyền đã hoạt động ráo riết. Sau đó có nhiều bất đồng, các đảng phái, sinh viên lục đục nội bộ, nên tan đàn rẽ đám. Hội-đồng Quân-lực Cách-mạng truất phế ông Nguyễn Khánh, cho ông lưu vong ra ngoại quốc làm đại sứ.

                            * Ngày 9-5-1969 - Hạ-sĩ Henry Kissinger đi lính trong Đệ-nhị Thế-chiến, sau lên làm cố-vấn an ninh quốc gia cho Tổng-thống Richard Nixon. Về sau tiến sĩ Henry Kissinger khai mạc hoà đàm Ba Lê (không có chính phủ miền Nam hay Quân-lực miền Nam). Suốt thời gian hoà đàm dưới sự giám sát chặt chẽ của Nixon, ngoại trưởng Kissinger “ráo riết đi đêm” với quân Bắc Việt.

                            - Người dân luôn dán mắt nhìn vô ti vi trắng đen, theo dõi công ty Pecten Việt Nam (là chi nhánh của Shell) đã sản xuất khoảng 1.500 thùng dầu thô/ngày, trong giếng dầu mang tên Pioncer sâu 4.500 feet dưới lòng biển. Hoan hô đại thắng!

                            - Một phái đoàn Mỹ có tên Project Concern, và phái đoàn Thanh-Thương-Hội Việt Nam do ông Lê Bá Công làm hội trưởng, hướng dẫn phái đoàn săn sóc y tế cho đồng bào Thượng tại miền Nam Việt Nam. Phái đoàn nầy được đồng bào kính trọng và hoan hô nồng nhiệt.

                            * Ngày 27-1-1973 – Trong chương 2 điều 2 tại nhiều năm hội nghị, sau đó Hiệp định Ba Lê đã ký kết đình chiến: Ngưng bắn. Ấy thế mà vào ngày 9 tháng 3 năm 1974 Việt-cộng câu súng 81 vào trường Tiểu-học Nhị Quý, Cai-Lậy, Tỉnh Định Tường. Có vô số trẻ em bị chết oan thật đau đớn vô cùng thảm thiết.


                            * Ngày 11-3-1975 - Mất Ba Mê Thuột. Thiếu-tướng Phạm Văn Phú, Tư-lệnh Quân-đoàn 2/Quân-khu 2, ra lệnh quân đội triệt thoái khỏi Pleiku – Kontum (do chỉ thị của TT Nguyễn Văn Thiệu).

                            * Ngày 19-3-1975 – Một Tiểu-đoàn của Trung-đoàn 43 Bộ-binh đóng chốt phòng ngự tại Định Quán, quanh vùng phụ cận núi Chứa Chan. Gia Rai, Tiểu-đoàn nầy anh dũng đánh trả đối phương rất phi thường.

                            * Ngày N+5, 21-3-1975 triệt thoái cuối cùng Lực-lượng Quân-đoàn 2 khỏi Cao Nguyên, trên tuyến đường Liên-tỉnh lộ B.

                            * Ngày 22-3-1975 - Tỉnh Quảng Đức thất thủ.

                            * Ngày 23-3-1975 – Công-binh VNCH làm xong chiếc cầu dã chiến. Lực-lượng Quân-đoàn 2 cuối cùng vượt qua sông Ba, triệt thoái về Phú Yên.

                            * Ngày 25-3-1975 – Các đơn vị Quân-đoàn 1/Quân-khu 1 (Việt Nam Cộng-Hoà) triệt thoái ra khỏi Huế.

                            * Đêm 28-3-1975 - Lực Lượng hùng hậu của Quân-đoàn 1 do tướng Ngô Quang Trưởng lãnh đạo, đã triệt thoái khỏi Đà Nẵng.

                            * Ngày 8-4-1975 – Các phi trường Tân Sơn Nhất. Cần Thơ. Biên Hoà, có nhiều chiến đấu cơ F 5 – oanh tạc cơ A 37. Không một ai mà không nghe đồn ầm lên là: từ Lâm Đồng dọc theo rặng trường sơn, sông La Ngà chảy từ khu Tánh Linh, qua phía nam Định Quán, Rừng Sát ra cửa biển Cần Giờ: Đang bị đe doạ trầm trọng. Người ta lại đồn máy bay oanh tạc dinh độc lập hụt hay sao đó? Bây giờ thì chuyện không nói có, chuyện có nói không. Chả ai có thể đi đâu kiểm chứng, vì mọi ngã đường đông nghịt người không thể chen chân. Nhưng than ôi! Đúng thế thật, Trung úy Nguyễn Thành Trung, quê ở Bến Tre, đã bay chiếc F5 cất cánh từ Biên Hoà về thả bom xuống dinh Độc Lập. Phi cơ mang bốn quả bom. Y thả hai quả bom trước bị rơi ra ngoài sân dinh.

                            * Việt Nam Cộng Hoà có Sư-đoàn 18 tăng cường Lữ Kỵ-binh: Sư-đoàn 5 Thiết-giáp. Các Liên-đoàn Biệt Động Quân từ Quân-khu 1, chuyển về Quân-khu 2 để bảo vệ Xuân-Lộc, do Chuẩn-tướng Lê Minh Đảo là Sư-đoàn-trưởng Sư-đoàn 18 đảm nhiệm. Trận đánh vô cùng ác liệt bắt đầu xảy ra giữa quân đội miền Nam Việt Nam, với Quân-đoàn 4 và Sư-đoàn 6 Chủ-lực Quân-khu 7 của Cộng-sản Bắc Việt.

                            * Ngày 10-4-1975 – Hai Trung-đoàn 43 và 48 (của Sư-đoàn 18 Việt Nam Cộng Hoà) và một Lữ-đoàn Dù. Lữ-đoàn 3 Kỵ-binh, từ Biên Hoà ra Xuân Lộc tiếp ứng. Giao tranh ác liệt dữ dội mạnh mẽ. Đường 12 bị cắt đứt là: Xuân Lộc > Biên Hoà. & Xuân Lộc > Bà Rịa.

                            * Ngày 17-4-1975 - Mất Phan Rang.

                            * Ngày 18-4-1975 - Mất thị xã Phan Thiết và toàn tỉnh Bình Thuận. Thành phần chính phủ do Tổng-thống Nguyễn Văn Thiệu lãnh đạo đã xảy ra đột biến. Mặc dù vậy tổng thống Thiệu họp báo, lên Truyền-thanh, Truyền-hình đọc hiệu triệu vấn an quốc dân đồng bào. Đài phát thanh cho nhai đi nhai lại bản tin nầy suốt cả tuần.

                            * Ngày 19-4-1975 – Bình Tuy sống trong sôi động. Giao tranh ở tuyến đường số 1, từ phía Đông và Đông-Bắc Sài Gòn, tới Trà Võ. Bàu Nâu. Gò Dầu Hạ.

                            * Ngày 20-4-1975 – Khu Rừng Lá, (cách Xuân Lộc độ 20km) coi như mất liên lạc: Bộ Tổng Tham Mưu. Sân Bay Tân Sơn Nhất. Bộ Tư-lệnh Biệt-khu Thủ-đô. Tổng Nha Cảnh-sát, vân vân… (Thủ đô Sài Gòn có 12 Quận Nội-thành: Bình Thạnh. Phú Nhuận. Tân Bình. Gò Vấp. 6 quận ngoại thành: Hóc Môn. Củ Chi. Thủ Đức. Bình Chánh. Nhà Bè. Duyên Hải) > Đều báo động đèn đỏ 100%.

                            * Bộ Giáo Dục ra lệnh đóng cửa không thời hạn tất cả các trường: Tiểu-học. Trung-học. Đại-học trong toàn lãnh thổ tại miền Nam Việt Nam.

                            Ngày 21-4-1975 - Hằng triệu triệu người già trẻ lớn bé ở miền Nam Việt Nam chồm tới bu quanh nhìn sững vào vô tuyến truyền hình. Toàn dân lắng nghe miết mãi. Khoảng nửa giờ sau vị nguyên thủ quốc gia: Tổng-thống Nguyễn Văn Thiệu chính thức tuyên bố từ chức, ông trở về với quân đội Việt Nam Cộng-Hoà. Ôi! Bàng hoàng sững sốt. Vì; hằng triệu trai trẻ lính tráng, quân đội và dân tộc Nam Việt Nam (có bốn nghìn năm văn hiến quyết chiến đấu, hy sinh đến giọt máu cuối cùng trên chiến trường) tin vào chính phủ Nguyễn Văn Thiệu mà. Từ khi nền Đệ Nhất Cộng Hoà sụp đỗ, thì tất cả mọi thứ trên đời, trật tự xã hội bị đảo lộn tùng phèo sao?

                            Hồi xưa, nhà bác học lẫy lừng Pierre Curie khám phá ra chất phóng xạ radium vào năm 1900. Và, trước khi ông Mc Robert Namara cho trắc nghiệm khai quang hằng loạt chất độc màu da cam (Agent Orange), để tiêu diệt cỏ, hay tiêu diệt đối phương (?!). Thì ngày nay, Tổng thống Thiệu đã lưu lại danh thiên cổ gì cho núi sông? Khi mà ông Trạng Trình đã nói: “Bắc hữu kim thành tráng. Nam hữu ngọc bích thành”. Cố mà gìn giữ Việt Nam keo sơn gắn bó. Thật ra, Tổng-thống Thiệu làm tổng thống hai nhiệm kỳ, đã thành lập đảng Dân Chủ. Nhiều lần Tổng-thống Nguyễn Văn Thiệu lên đài truyền thanh và truyền hình mạnh mẽ đọc diễn văn; trong đó có những câu tuyệt vời bất hủ:
                            - Đừng nghe những gì Cộng-sản nói, hãy nhìn kỹ những gì Cộng-sản làm!
                            - Ăn cơm Quốc gia thờ ma Cộng-sản.
                            - Công đức ngàn đời con tố mẹ, tình nghĩa trăm năm vợ tố chồng.
                            - Đất nước còn, còn tất cả; Cộng-sản thắng, mất tất cả.
                            - Tôi mà tham nhũng, thì cái chính phủ này sẽ sụp đổ chỉ trong 3 ngày!
                            - Nếu Hoa Kỳ không viện trợ cho chúng tôi nữa, thì không phải là một ngày, một tháng hay một năm, mà chỉ sau 3 giờ, chúng tôi sẽ rời khỏi Dinh Độc Lập!
                            - Làm kẻ thù của Mỹ thì dễ, làm bạn với Mỹ thì rất khó.
                            - Sống không có tự do là đã chết.
                            - Mỹ còn viện trợ, thì chúng ta còn chống Cộng-sản.

                            TT Nguyễn Văn Thiệu hùng hồn khẳng định tuyên bố “bốn không” rất chí lý:
                            1.- Không thừa nhận Cộng-sản.
                            2.- Không lập chính phủ liên-hiệp.
                            3.- Không trung-lập-hoá miền Nam Việt Nam.
                            4.- Không nhường một tấc đất cho Cộng-sản.

                            * - Tin đồn đã rùm beng:
                            1.- Việt Nam trung lập.
                            2.- Chính phủ Việt Nam có ba thành phần.
                            3.- Miền Nam Việt Nam bị miền Bắc “giải phóng” lan nhanh (chứ chả phải như lời Phó Tổng-thống Nguyễn Cao Kỳ hô hào: “Xung phong > Bắc Tiến”). Tổng thống Thiệu đã ủng hộ chương trình “Người cày có ruộng”, rầm rộ khuyến khích nông dân, củng cố lúa Thần Nông IR 3 và AR 8. Nhờ thế kho vựa miền Nam dư thừa lúa gạo. Việt Nam sản xuất gạo đi các nước. Sau năm 1967 do sự quậy phá của Cộng-sản Bắc Việt, nên nông dân thuộc các tỉnh miền Nam, miền Trung, Cao Nguyên, không thể cày cấy, gieo trồng nhiều. Do đó miền Nam Việt Nam bị khan hiếm lúa. Kinh tế hạn hẹp, Cộng thêm an ninh không an toàn yên ổn. Chính trị, kinh tế, tham nhũng, bè phái, bị đe doạ khiến miền Nam suy thoái trầm trọng. Bây giờ miền Nam Việt Nam phải nhập cảng gạo và “binh khí”, xin viện trợ tiền bạc vào Nam Việt Nam. Là vậy!

                            * Tổng-thống Việt Nam Cộng-Hoà Nguyễn Văn Thiệu từ chức. Phó Tổng-thống Trần Văn Hương lên thay thế! Thành phần nội-các do cụ Trần Văn Hương đảm nhận được mấy ngày vắn vỏi.

                            - Ngày 22-4-1975 – Đường quốc lộ 4 nối liền Sài Gòn > Cần Thơ. Các hướng Tây Bắc. Đông Đông Bắc. Đông Đông Nam. Tây Tây Nam bị cô lập với Sài Gòn.
                            Thứ Tư, ngày 23-4-1975 - Đô Đốc Noel Gayler Chỉ-huy-trưởng Hạm-đội Thái Bình Dương, đã lập cầu không vận Sài Gòn > Đệ Thất Hạm Đội (trong chương trình di tản người Mỹ và người Việt Nam ra đi), đang đậu ngoài khơi Vũng Tàu, người ta nghe & phao tin sẽ di tản khoảng vài ba trăm ngàn người Hoa Kỳ và người Việt Nam. (!?)


                            Bảy Ngày Đen Tối Nhất:

                            Đêm 24-4-1975 – Khói lửa bạo tàn đã gây đau khổ quá sức hằng triệu dân đen lầm than khốn đốn, cơ cực. Miền Nam Việt Nam dỡ sống tức tưởi, dỡ chết không kịp nhắm mắt, không thể há miệng than Trời! Chắc chắn là chính phủ Nguyễn Văn Thiệu & thành phần nội-các đều nghe bùi tai về tướng cố vấn Lục-quân Mỹ Weyand gián tiếp khuyên chính phủ Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh cho Quân-đội miền Nam Việt Nam bằng mọi giá phải tử thủ! Toàn thể nam nữ thanh niên trai trẻ, Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đã vâng lời ở lại giữ gìn từng pháo đài bị vây hãm, giành lại từng tấc đất quê hương ta, quyết phục vụ dân tộc và tử thủ vì dân tộc Việt Nam!

                            Thì tin đồn chuyện Tổng-thống Thiệu bỏ rơi dân tộc, bỏ quê hương đất nước, chỉ là tin đồn nhảm nhí! Khi chung cuộc kết thúc trong bi thương thế ấy, ai nở ra đi phản bội dân tộc, ai lìa bỏ quê hương cẩm tú giàu đẹp sao? Ai đành cao chạy xa bay mưu tìm cho chính mình sự sống riêng, phủi tay trong thau men nước người cho đành?! Nơi chốn xa lạ đó, ai có dịp lắng nghe tiếng nói của hiền dân vô tội gào than kêu khóc? Ai tận mắt xem đồng bào đau thương bị cấp lãnh đạo bỏ rơi, dân đang sống quằn quại trong cơn lốc chính trị kinh hoàng vỡ vụn? Toàn dân sẽ chết thảm dưới cơn sóng thần cuồng phong dữ dội nhất lịch sử Việt Nam nầy. Họ làm sao đành đoạn phủi tay bỏ lại quê hương và dân tộc cho đành?!

                            * Thứ Sáu, ngày 25-4-1975 – Sáng sớm bạn Tonny Tơn từ Hạ Nghị Viện tất tả chạy về nhà, đã khẳng định với chúng tôi về việc Tổng-thống Thiệu và đoàn tùy tùng thân tín đã bôn tẩu bỏ nước ra đi!!! Người ta lại đồn ầm lên là ông Thiệu chở theo mấy chục tấn vàng của quốc gia (?!). Làm sao cõng cho nỗi hỉ?! Chuyện ấy rất khó tin, không bao giờ tin! Nhưng khuya Thứ Sáu, ngày 25-4-1975 đương kim Tổng-thống Trần Văn Hương lên đài Truyền-thanh Truyền-hình chính thức tuyên bố: - “Gia đình Tổng-thống Nguyễn Văn Thiệu, và một số thân tín trong chính quyền đương thời đã chính thức rời khỏi Việt Nam, bay đi ngoại quốc ngày 24-4-1975”.
                            Ôi! Sự đau đớn ấy có thật ở phi trường Tân Sơn Nhứt là Tướng Timmes, Đại-sứ Martin, một số đoàn tùy tùng đông đảo “viên chức lừng danh cao cấp nhất” của chính phủ miền Nam Việt Nam Cộng Hoà đang làm cuộc “tẩu tướng”. Họ nôn nao lo âu đứng xớ rớ ở đó từ rất lâu, chờ đợi sẵn sàng để dọt đi.

                            Một chiếc xe Mercedes chở ông Nguyễn Văn Thiệu từ bến Bạch Đằng chạy nhanh vào phi trường Tân Sơn Nhứt lúc 21 giờ 30 đêm 24 tháng 4 năm 1975. Chung quanh “các ngài” đông đúc nôn nao ung dung ra đi, có lính Thủy-quân Lục-chiến Mỹ đứng dàn ngang dàn dọc bu quanh, để bảo vệ phái đoàn “các ngài” tống lên chiếc phi cơ C-118 lịch sử của Không-quân Hoa Kỳ. Ông Thiệu, Tướng Khiêm và đoàn tùy tùng lẹ làng tót lên máy bay, không hề ngoảnh lại. Hỡi Ôi là Trời ơi Đất ơi!!!

                            * Thứ Bảy, ngày 26-4-1975 – Ông Khiêu Samphan dẫn một phái đoàn Trung Quốc từ Mimót Nam Vang, đi qua ngả Xa Cam. Tại đó có một Đại-tá Không-quân người Pháp, một Thiếu-tá Pháp, {họ trực thuộc Nha An Ninh Tình-báo hải ngoại Pháp (SDECE)}. Họ đưa phái đoàn Trung Quốc nầy vào ở trong toà Đại-sứ Pháp Sài Gòn (!?)

                            * Vẫn ngày 26-4-1975 - Bão lửa chiến tranh xâm lược đã ùa vào xâm chiếm các khu sau đây: Long Khánh từ hướng Đông-Bắc đi Sài Gòn xa khoảng 80km. Long Khánh nằm giữa hai quốc lộ: 1 và 20- 105 kinh độ đông- 11 vĩ độ bắc, ở múi giờ 17 GMT – Giáp giới mặt Đông hướng Đông Đông Nam về Sài Gòn. Long Khánh có đỉnh núi Gia Ray cao 916 mét, là tấm bình phong che chắn thuận lợi cho toàn vùng. Muốn đi từ miền Cao Nguyên, hay từ miền Trung vào Sài Gòn xuống miền Tây, tất cả loại xe đều phải đi ngang qua vùng Long Khánh. Sông Ray từ phía Nam của núi Gia Ray có đường đi qua Xuyên Mộc. Trảng Bom. Hố Nai. Biên Hoà. Long Thành. Nước Trong. Đức Thạnh (Bà Rịa). Lang qua vùng Phước Tuy. Xuyên Mộc. Đất Đỏ. Về hướng Tây Tây Nam > Bến Lức. Tân An. Trung Lương. Tân Hiệp. Long Định. Giao lộ 4. Cai Lậy đi An Hữu. Xuống tới Lộc Giang. Vàm Cỏ Đông qua Tây Vĩnh Lộc. Mỹ Hạnh. Hướng Bắc thì các đoạn đường 16 Phú Lợi. Thủ Dầu Một. Tây Bắc về Đồng Dù. Hóc Môn.

                            * Chủ Nhật, ngày 27-4-1975 - Mất thật rồi Bà Rịa. Phước Tuy. Nước Trong. Trảng Bom. Suối Đĩa. Cầu Rạch Chiếc. Rạch Cát. Cầu Bình Phước. Quán Tre lan ra tận xa lộ Đại Hàn.

                            * Vẫn ngày 27-04-1975 – Người ta bịa đặt ra: Caritas. Usaid. Usom. Juspao. Cords. The Asia Foundation. IUS, chỉ là những thành phần ấy vào miền Nam Việt Nam do CIA cầm đầu trá hình. Nay họ lo đóng cửa và chuồn bay đi hết rồi! Tất cả mọi liên lạc trong nội thành Sài Gòn với ngoại thành, đi các Tỉnh, hầu như tê liệt, trục giao thông chính dẫn đến phi trường, hải cảng, các bến xe miền Đông, miền Tây, miền Trung, hoàn toàn ứ đọng và “bế quang tắc lộ”. Chao! Lúc đó thì người người tụm trăm tụm ngàn ở các nẽo đường chính, để nghe ngóng thăm dò tin tức. Toàn là những giả thiết, những tin đồn hoang mang. Người ta nhốn nháo, ồn cả lên, chèn ép nhau, xô đẩy nhau mong tìm đường chạy thoát thân, mong khỏi bị trụ lại nơi thành phố đông nghẹt người, từ các nơi dồn về Thủ-đô Sài Gòn hối hả, ngột ngạt, nghẹt hơi. Mọi tiếng động đều đinh tai nhức óc nổi hoài thâu đêm suốt sáng, không bao giờ ngưng. Người ta muốn điên vì đủ thứ chuyện thay đổi liên tục xảy ra từng giờ trên tivi, tin đã xấu càng xấu thảm xấu tệ biết bao! Toàn là những tin chả lạc quan vui vẻ gì!

                            * Thứ Hai, 28-4-1975 – Sân bay Tân Sơn Nhứt to lớn đồ sộ sầm uất nhất miền Nam Việt Nam đến thế, có F5, hoặc A 15, A 37, C 130. Mà nay chỉ còn có một số ít bom Daisy Cutters, và những phi cơ dân sự thường dùng trong nội địa, có phi cơ dân sự cũ từ thời Pháp để lại dùng bay ra ngoại quốc (không kể những phi cơ quân sự hiện có). Ngày 28-4-1975 Phi công Nguyễn Thành Trung (y thả bom hai lần, lần đầu y thả ở dinh Độc lập bằng F5, y cất cánh từ phi trường Biên Hoà). Lần sau vào chiều 28/04/1975: Một tốp phi cơ Dragonfly A 37 (phi đội Quyết Thắng) do phi công Nguyễn Thành Trung & Nguyễn Văn Lục dẫn đường, ép Trần Văn On & Nguyễn Văn Xanh bay cùng mấy tên “giặc lái” Từ Đề, Mai Vượng, Hán Văn Quang, họ xuất phát từ phi trường Phan Rang bay về thả bom ở phi trường Tân Sơn Nhứt. Nhiều tiếng nổ long trời lở đất đâu đó vang rền, khói lửa ngùn ngụt bốc cháy, đen nghịt thành phố.

                            * Ngày 28-04-1975 – Tổng thống Trần Văn Hương lên nắm chính quyền quốc gia Việt Nam được bảy ngày (7) thì tuyên bố rút lui. Theo yêu cầu của Lưỡng-viện Quốc-hội Việt Nam Cộng-Hoà, cụ Trần Văn Hương sữa “hiến pháp, hiến dâng” chức “tổng thống không dân cử” cho Đại-tướng Dương Văn Minh. Chả hiểu sao cụ Hương tụt lẹ xuống, cho ông tướng Dương Văn Minh trồi lên nắm chính quyền nhanh như chớp!? Việt Nam như quả bóng tròn, khi thì đá dưới gót chân, khi đội đầu, khi quay giò lái đá qua đá lại rồi “sút” bóng lăn xuống vũng bùn. Một chính phủ sắp đến ngày diệt vong rồi hay sao, mà suy tàn đến độ xót xa thảm thiết tột cùng! Làm gì… thì cần ngồi lại thân thiện bên nhau và chia sẻ mọi quyền lực. Cần một lòng trung dũng đoàn kết vì nước vì dân. Thì toàn dân và toàn quân sẽ đứng vững như kiềng ba chân. Miền Nam Việt Nam sẽ không bị sụp đỗ toàn diện đâu. Lúc nầy Tổng thống Dương Văn Minh nói rất hùng hồn: “Không bao giờ đưa miền Nam Việt Nam cho Việt-cộng”.

                            * Thứ Ba, Ngày 29-04-1975 – Tổng-thống Dương Văn Minh ra lệnh trục xuất những người Mỹ cuối cùng phải đi ra khỏi đất nước Việt Nam. Chính lúc đó mất thật rồi: Nhơn Trạch. Thành Tuy Hạ. Cát Lái. Cầu Sông Buông. Long Bình. Biên Hoà. Phú Lợi. Lai Khê. Bến Cát. Bình Dương. Tân Uyên. Lái Thiêu. Gò Vấp: Hướng Tây Bắc Đồng Dù. Củ Chi. Hướng Tây Tây Nam Hậu Nghĩa. Tân Túc. Tân Hoà. Phú Lâm. Tin tức mỗi ngày mỗi giờ một xấu hẳn đi. Thế là trong thành phố Sài Gòn vốn dĩ ồn ào náo nhiệt, bon chen sợ hãi, càng tăng thêm nhốn nháo, xôn xao, xớn rớn hãi hùng hơn. Sài Gòn chìm trong biển tình đau thương tràn ngập mịt mùng. Sài Gòn như rắn mất đầu, người người xớn rớn ồn ào như núi lở, như động đất, như triều cường sóng thần vùi dập. Sài Gòn đã mất đi vẽ hào nhoáng thanh lịch sang trọng xa hoa của hòn ngọc viễn đông xưa. Thành phố ấy giờ đây ồn ào náo nhiệt hỗn loạn, bụi bặm và rác rưỡi ụ từng đống to tướng.

                            Sài Gòn càng hổn loạn, hoang mang lo sợ bùng lên dữ dội. Nhất là những gia đình giàu sang quyền qúy ở Sài Gòn, cư dân gốc Trung Hoa đã và đang sinh sống ở Chợ Lớn hãi hùng huyên náo loạn cả lên. Thuở xa xưa người Hoa có quốc tịch Anh, được người Pháp (đang cai trị nước Việt Nam lúc bấy giờ), cho phép người Hoa từ Singapore nhập cư vào Việt Nam. Họ giàu xụ! Có tiền rừng bạc bể nên độc chiếm thị trường kinh tế, thương mại sầm uất ở một giang sơn Chợ Lớn!

                            Dinh Độc Lập trước kia theo bản vẽ của kiến trúc sư Hermite, là dinh của Thống Đốc Pháp Charles Le Myre De Vilers rất uy quyền, xây cất năm 1875. Nhà văn Jules Boissiere đã nói: “Mounument don’t s’honoreraient avec raison les plus fíeres villes du monde” (Toà nhà ấy mà những thành phố kiêu hãnh nhất trên trái đất, sẽ lấy làm tự hào, thật là rất xác đáng). Dinh Dộc Lập và Sài Gòn đã lừng danh thành Hòn Ngọc Viễn Đông kể từ đó.
                            Lúc xưa hai phi công Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc dội bom đã cháy Dinh Độc Lập, (vào tháng 2 năm l962), làm hư hại dinh. Tổng-Thống Ngô Đình Diệm cho xây lại dinh Độc Lập. Gia đình Ngô Tổng Thống phải dời sang Dinh Gia Long an vị, chờ kiến thiết lại. Bản vẽ Dinh Độc Lập do đồ án của kiến trúc sư đô thị gia Ngô Viết Thụ (đoạt giải Khôi Nguyên La Mã) đảm nhiệm. Theo thiết đồ của Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, thì có hai vị Công-binh là: Đại-tá Nguyễn Văn Quý, Đại-tá Điển điều động một đoàn Công-binh Việt Nam xây dựng. Sau đó hoàn tất tốt đẹp.


                            Tiền đình dinh Độc Lập có quảng trường Pigneau De Béhaine, có đại lộ rộng thênh thang rợp bóng cây, có tượng Đức Mẹ ngự ở trước công viên Hoà Bình làm bằng đá hoa trắc. Vương cung thánh đường Đức Bà Sài Gòn kiến trúc theo lối roman và gothic, thế kỷ XII, thánh đường xây gạch trầm màu hồng có chiều dài 93m, rộng 35m, cao kể từ dưới đất lên ngọn tháp 57m, có sáu quả chuông to. Tất cả vật liệu chở từ Pháp qua Việt Nam, ngày 11 - 4 - 1880 là khánh thành.

                            Thuở còn Tây cai trị nước ta, con đường có tên là Norodom chạy từ Dinh Độc Lập suốt tới khu Thảo Cầm Viên. Trong đó có Viện Bảo Tàng tên gọi là Blanchard de la Bross, do Pháp xây dựng năm 1929. Ấy thế mà… Hết rồi vẽ sạch sẽ bóng loáng thanh cao rộng rãi trên những phố Catina, đại lộ sang trọng Norodom xa xưa, nào là đường Lê Văn Duyệt. Trần Hưng Đạo. Hai Bà Trưng, Nguyễn Huệ, vân vân… thậm chí cả đường Duy Tân cây dài bóng mát có từng tốp mười tốp hai ba mươi người tụ tập lo lắng, bồn chồn xôn xao, hốc hác, băn khoăn đứng ngồi không yên, kể từ khi phi trường Tân Sơn Nhứt bị pháo kích.

                            * Thứ Tư hắc ám Ngày 30 tháng 4 đen tối năm 1975. Sài Gòn nóng như một hoả lò. Càng ghê rợn hơn, tin từ đài phát thanh Sài Gòn loan báo kể từ giờ phút nầy: Thiết quân luật 24/24. Tình hình thủ đô Sài Gòn từ sáng tinh mơ vắng lặng như tờ, không giống một thành phố chết, là gì!? Cho đến ngày hãi-hùng. Ngày đớn-hèn bi thảm. Ngày tối đen hắc-ám nhất lịch sử Việt Nam. Ngày đánh dấu than trầm-uất, thống-hận:

                            - 8 giờ:00 ngày 30-4-1975 - Sáng sớm, Tổng-thống Dương Văn Minh lên Truyền-thanh Truyền-hình ra lệnh buộc các tuyến phòng thủ của Lữ-đoàn Liên-binh Phòng-vệ Phủ Tổng-thống không được nổ súng.
                            - 9 giờ:00 ngày 30-4-1975 - Ông Dương Văn Minh đọc diễn văn trên đài Truyền-thanh: Yêu cầu Toà Đại sứ Mỹ và văn phòng tùy viên DAO Hoa Kỳ, phải rời khỏi Việt Nam ngay lập tức.
                            - 10 giờ:00 ngày 30-4-1975: Ông Dương Văn Minh leo lên làm Tổng thống được ba ngày! (3), ông liền “mở cửa khẩu” kêu gọi Quân-lực Việt Nam Cộng Hoà: “Ở đâu, hãy giữ nguyên vị trí ở đó”. “Ngưng chiến. Chờ bàn giao chính quyền miền Nam Việt Nam cho lực lượng Mặt Trận Giải Phóng vào chiếm”. “Chuẩn bị giao nạp vũ khí cho đối phương”.

                            * Ngày 30 tháng 4 năm 1975 Khi Trịnh Công Sơn hát lui hát tới bài “Nối Vòng Tay Lớn”, không có nhạc đệm trên đài phát thanh Sài Gòn. Không những là ngày uất hận “nối vòng tay tang chế lớn”, mà còn là ngày co giật từng cơn run kinh phong nhăn nhúm rúm ró teo tóp lại. Ôi! Quả đúng là có một phép lạ như điềm dự báo trước kia, khi con chim bồ câu đã đậu trên bàn thờ Đức Mẹ Fatima, ở trên khu vực giáo dân Đà Lạt, nơi thường cung nghinh rước ảnh tượng Đức Mẹ đến từng nóc nhà vào năm 1974. Người ta nói: - “Con chim bồ câu tượng trưng cho sự hoà bình”. Nay “hoà bình” đã đến thật rồi sao?!

                            Dinh Độc Lập, vương cung Đức Bà và con đường Norodom độc đáo nầy, ấy vậy mà hôm nay đã do tướng Trần Văn Trà cầm đầu mặt trận Cách-mạng Lâm-thời 75 (!) tại Sài Gòn, cùng đoàn xe molotova rền rú ì ầm chạy đến cổng dinh cổng dinh Độc Lập lúc 11 giờ sáng. Khi ấy đại sứ Pháp tại Việt Nam là Jean Marie Mérilon, còn ở trong toà đại sứ ở trên “đường Thống Nhứt”. Ui chao! Chao ôi! Sụp đỗ toàn diện một chế độ. Bàng hoàng cả một dân tộc Việt Nam. Chiến tranh hai miền Nam Bắc đưa con người bải hoải lết lết tới đường cùng cuối bờ vực sâu. Khi có những chiếc xe tăng ì ầm chạy trên các đại lộ chính, chở đầy bộ đội đầu đội nón cối, chân mang dép râu, cổ quàng khăn lau mặt, thân hình dắt đầy cành cây. Đoàn xe vượt qua cán nát chôn vùi nền Đệ Nhị Cộng Hòa do Tổng-thống Nguyễn Văn Thiệu bôn tẩu lánh cư và do tân Tổng-thống Dương Văn Minh ngồi trên ngai vàng lãnh đạo chỉ có ba ngày!!!

                            Quân Bắc Việt được sự hổ trợ tối đa của Nga và Tàu-cộng cung cấp đầy đủ đạn dược, súng ống và xe tăng. Trong khi miền Nam Việt Nam bị Mỹ hứa lèo hứa cuội, rồi trở mặt phản bội, lãnh đạm bỏ rơi. Mỹ từ chối hết thảy, kể cả chính phủ miền Nam chỉ xin chi viện 300 triệu đồng. Cũng không!

                            Toàn Quân miền Nam thiếu thốn đủ mọi thứ. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa phải tự anh hùng oai dũng kiên cường chiến đấu, quyết liệt chống trả đến viên đạn cuối cùng, trong sự cô độc, vô cùng đắng cay chua xót và tuyệt vọng dường bao!!! Những Người Lính dũng cảm ấy chưa hề buông súng bỏ cuộc. Họ không bao giờ phản bội dân tộc và cương quyết ở lại giữ gìn quê hương Việt Nam dấu yêu. Cho đến một *Ngày thứ Tư: 30-04-1975: Họ phải cúi gầm đầu bật khóc; vì buộc lòng phải tuân phục thượng-lệnh. Đời sống ấy phơi bày cuốn phim cay nghiệt, có cảnh-tượng kém thanh-lịch, bóc trần những điều quá thật, làm tan nát đời nhau. Chẳng bao giờ xóa nhòa, tàn phai trong ký-ức mọi người. Tan hoang kinh khủng. Đau đớn tột độ! “Hạnh phúc Hòa Bình” đến, vội-vã chợt đi giật theo tấm áo đơn bạc. Lộ ra quá-khứ trần trụi. Hiện tại đọa-đày, tương lai đen tối mịt mù. Vẫn hay, vô cùng nghẹn ngào cay đắng!!! Bách niên thương hải biến vi tang điền!


                            _ * _

                            Câu "Bách niên thương hải biến vi tang điền" là câu gồm 8 chữ, không phải là Thơ Đường Luật, có thể là loại Thơ Cổ Phong, nghĩa là thơ Cổ trước khi có Thơ Luật của Đời Đường ra đời. Cổ Phong có thể gồm thơ 3 chữ, 5 chữ, 6 và 8, không theo Luật Thi. Thơ Đường Luật thường gồm Thơ 5 Chữ và Thơ 7 Chữ theo Luật Bằng Trắc và Đối Ngẫu.
                            Bốn cuốn sách tham khảo gồm: Tự Điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh.

                            1. Tự điển Từ, & Ngữ Việt Nam của GS Nguyễn Lân.
                            2. Thành Ngữ Điển Tích Danh Nhân Tự Điển của GS Trịnh Văn Thanh.
                            3. Nguyễn Du Toàn Tập Quyển 1 Thơ Quốc Âm Truyện Kiều của Nguyễn Thạch Giang.
                            4. Theo cuốn Tự Điển Truyện Kiều (trang 68) & cuốn Tự Điển Từ & Ngữ VN (trang 1797) thì đa phần giống nhau trong sự giải thích: "Thương hải biến vi tang điền, mà viết tắt là 'Thương hải tang điền" nghĩa đen là "Biển xanh biến thành ruộng dâu", nghĩa bóng là những cuộc thay đổi lớn lao. Nhưng không ghi xuất xứ điển này từ đâu ra.

                            *5.- Theo cuốn Nguyễn Du Toàn Tập Quyển 1 Thơ quốc Âm Truyện Kiều của Nguyễn Thạch Giang thì điển Thương Hải Tang Điền, xuất xứ từ Thần Tiên Truyện vào thời Đông Hán. Tiên nhân Vương Phương Bình xưa đỗ Hiếu Liêm, làm quan chức Trung Tán Đại Phu, rồi bỏ quan đi tu tiên đắc đạo, giáng xuống nhà Thái Kinh (người đời Hậu Hán), cho mời tiên nữ Ma Cô đến. Ma Cô bảo Phương Bình rằng: "Tiếp thị dĩ lai, dĩ kiến Đông Hải tam vi tang điền." Nghĩa là: "Từ khi được tiếp hầu ông đến nay, tôi thấy bể Đông đã ba lần biến thành ruộng dâu."

                            6.- Cuốn Thành Ngữ Điển Tích Danh Nhân Tự Điển của Trịnh Văn Thanh nói giống như cuốn Thơ Quốc Âm Truyện Kiều của Nguyễn Thạch Giang, nhưng đơn giản hơn một chút. (*)

                            (*) nguồn Wikipedia, & sưu tầm đó đây:

                            Tình Hoài Hương
                            Last edited by Tinh Hoai Huong; 11-29-2019, 03:47 AM.
                            Bút trần nào tả được lưu luyến!
                            Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                            Tình Hoài Hương

                            Comment


                            • #29
                              Chuyện Kinh Khủng: Từ Chiếc F 5 Rớt tại Hồ Xuân Hương Đà Lạt


                              Last edited by Tinh Hoai Huong; 07-29-2021, 03:20 AM.
                              Bút trần nào tả được lưu luyến!
                              Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                              Tình Hoài Hương

                              Comment


                              • #30
                                Bên Lề Cuộc Sống


                                Bên Lề Cuộc Sống
                                Tình Hoài Hương
                                ***



                                Khổng Tử đã nói: “Kẻ sĩ lo trước cái lo của thiên hạ. Vui sau cái vui của thiên hạ”. Cũng như cổ nhân Nguyễn Trường Tộ đã nói:
                                Nhất thất túc thành thiên cổ hận.
                                Tái hồi đầu thị bách niên thân”.
                                (Một bước lỡ để nghìn năm mang hận.
                                Ngoảnh đầu trông lại đã trăm năm
                                ).

                                Quả thực như thế. Những người lính làm viên gạch lót đường cho danh vọng, tham tàn, bạo lực, oằn vai nặng gánh, lưng gồnh mối thù phân chia hai miền Bắc. Nam: Nay người lính đem xương máu ra chiến trường đã là, đang là những viên gạch lót đường, dài dài… từ vĩ tuyến 17, nơi con sông Bến Hải có cầu Hiền Lương nghẹn ngào đớn đau tạm thời phân giới hai miền Nam Bắc. Họ quyết ở lại miền Nam Việt Nam dựng nước và giữ nước. Một thời gắn bó keo sơn mặc dù biết mình vô tình làm ván bài mưu lược chính trị sục sôi. Họ vẫn chia nhau ra trấn giữ đất nước, cố duy trì sự tồn-hưng một quốc gia trong thời chiến tranh: Giống như Mã Viện xưa đã nói: “Làm trai, nên chết ở chốn biên thùy, lấy da ngựa bọc thây mà chôn, mới đáng qúy. Chớ chết trong tay lũ trẻ nâng đỡ. Nào có hay gì"!

                                Phân chia là thế! Nhưng lòng yêu nước thiết tha và hoài bão mong ước tự do an bình, ấm no cho toàn dân, thì “Quan, Tướng và Lính” đều có ước vọng giống nhau. Hôm nay nếu trải qua chung cuộc ngậm ngùi trong cơn xoáy đục ngầu, tưởng đã chia phần đều nhau: Là vậy. Ngày đêm kề cận sự chết, chiến tranh tàn khốc xảy ra trên từng đoạn đường giao tranh, trên những bước ngắn bước dài, bước thấp bước cao. Lòng lính càng quặn từng cơn đau buốt, khi họ đi kè kè hai bên lề đường: để hộ tống từng đoàn dân di tản tất tả chạy dọc theo ven những quốc lộ trên triền quê hương.

                                Sau 21 giờ - ngày 29-4-1975 - thiết quân luật bắt đầu 100%. Màn đêm đã sớm về đến khi khuya lắc khuya lơ, chúng tôi vẫn đứng thấp thỏm, thập thò từ trong cửa sổ ở phòng ngủ Hotel Hưng Đạo 2 đã tắt hết đèn đóm, tôi nhìn xuống đại lộ Trần Hưng Đạo, thì thấy lố nhố hàng hàng lớp lớp lính tráng: Tôi âm thầm quan sát “những tình thương và sự hy sinh cao cả bên lề cuộc sống”: Nào là: Thủy-quân Lục-chiến. Nhảy Dù. Biệt Động Quân. Bộ-binh, vân vân... (không kể có ba Lữ đoàn Dù. Ba Liên đoàn Biệt Động Quân đóng tại Hóc Môn. Gò Vấp. Bình Chánh. Nhà Bè. Tân Sơn Nhứt). Quân đội đã đặt những ụ súng cối, súng máy, do các chiến hữu Sư-đoàn 5 – 18 – 22 – 25, ngỏ hầu chu tất việc bảo vệ an toàn lãnh thổ Việt Nam, Thủ-đô, và lương dân vô tội. Cứ một giờ, tốp lính nầy đến gác, là tốp kia lầm lũi âm thầm ra đi...

                                Súng dài gác bên nhau, mũi súng chụm vào chỉa lên trời, báng súng dựng dưới mặt đường nhựa. Họ nói rất khẽ hay chỉ lặng lẽ ra hiệu lệnh. Họ là những quân nhân Quân-lực Việt Nam Cộng Hòa anh dũng quyết chiến đấu, hy sinh đến giờ phút cuối cùng. Súng lại đeo lên vai nòng chĩa xuống đất, họ lặng lẽ và tuyệt đối vâng lời thượng cấp, từ từ rút lui có quy củ, trật tự tôn nghiêm trong hàng quân ngũ. Họ nhìn nhau lặng lẽ nhếch miệng cười qua cái bắt tay giã từ vừa đủ chặt, dường như âm thầm nói lên niềm đắng cay, trào dâng trên sóng mắt tiếc thương, quặn đau trong lòng họ sự hy sinh vô vụ lợi, không điều kiện.

                                Từng tốp lính mười tốp bảy người, nhiều vô số đang nằm gối đầu trên vĩa hè, tay gác lên trán tư lự. Có người đứng hoặc ngồi bên đường. Dù ở trên vĩa hè, quân nhân đều có trật tự, nhịp nhàng, kỷ cương. Họ chia nhau ra canh giữ quê hương trong giờ phút lâm nguy khốn cùng. Những đóm lửa nhỏ lập loè loé lên trên bờ môi khô. Những đôi mắt dường như đọng ngấn lệ tủi hận đầy bi ai. Có người đang mặc áo giáp, đăm chiêu suy tư, bơ phờ, hốc hác. Có người đội mũ sắt, hất ngược mũ ra sau gáy, sợi quai mũ cứa vào cục yết hầu oan gia nhô cao cay đắng chạy lên chạy xuống cuống cổ. Có người đội mũ sụp che xuống gần tới mí mắt. Có người đội mũ lệch qua một bên. Họ mang giày đinh lấm lem bụi đỏ, lưng đeo ba lô nặng trĩu đường hành quân, râu ria lởm chởm, tóc tai không mấy chỉnh tề. Những bàn tay anh tài vẫn đưa lên ngang tầm mắt, nghiêm nghị đứng thẳng, ngực ưỡn ra oai vệ chào thượng cấp.

                                Bỗng dưng tình hình chính trị quyết liệt căng thẳng, vận nước đột biến từ góc 45/o, chỉ trong một tuần ngắn ngủi, vụt nhảy tọt lên 360/o nhanh như chớp. Khiến tôi vô cùng hoang mang, bàng hoàng sửng sốt, lo lắng, buồn phiền, bối rối tột cùng. Trở lui mắc núi, đi tới mắc sông, xoay quanh mắc vòng lẩn quẩn đủ mọi thủ thuật rối rắm. Mặc dù các bạn trong nhóm có nhiều sáng kiến, có nhận thức thời cuộc chính xác và quyết định đúng đắn, nhưng dẫu sao họ ở nơi xứ lạ quê người ồn ào náo nhiệt, tột cùng hổn loạn thế nầy, bốn anh ấy giống chú khỉ bị nhốt trong chuồng kín ở hotel Hưng Đạo 2: lòng và trí nóng như lò lửa, thì có tài giỏi đến mấy, họ cũng không biết đâu mà mò.

                                Tuần trước, bốn anh trong nhóm chờ đợi bầy trẻ nhỏ ngủ yên, liền khều mấy bà qua phòng tôi, để bàn tính chuyện lủi xuống miền Tây. Vì, nghe nói tại miền Tây bây giờ hoàn toàn bình yên tĩnh mịch. Vã lại Ngọc đã cho ba của anh đi xuống miền Tây dò đường đi nước bước trước rùi. Ngọc dặn dò ông ba nếu thấy tình hình bất ổn, thì ông lo tìm đường trở về Sài Gòn, hoặc đi ra Phú Quốc. Ngọc ấn định ngày giờ sẽ gặp ông ba ở điạ điểm chính xác ở miền Tây, nếu không y hẹn, có nghĩa là Ngọc sẽ đưa bầu đoàn thê tử, “hò” bạn bè cùng nhau ra đi. Ý kiến cuối cùng: mình phải sáng suốt dứt khoát ra đi, khi thấy Quân-lực Việt Nam Cộng Hòa đã triệt thoái hết về miền Nam, thì ở miền Tây ắt sẽ còn là nơi vững chắc như đinh đóng cột.

                                Tôi sống tạm bợ nơi Sài Gòn xa hoa, nhộn nhịp, và lắm xô bồ trong tháng 4 năm 1975, với ngàn lo âu, run sợ hãi hùng đầy cay đắng, băn khoăn lo lắng trăm mối tơ vò. Tin dữ loan ra thì có, tin lành về lại không. Nhìn xuống lòng đại lộ Hưng Đạo 2, tôi càng run rẩy nghĩ rằng: “Trận chiến nầy, hẳn là sẽ đến hồi quyết liệt để giành thắng. Nay mai sẽ có giao tranh trên cùng khắp các nẽo đường. Chạy đi đâu cho thoát ra khỏi con ngỏ sâu hun hút, đầy đạn bom đây! Hở Trời!? Tôi vô cùng hối hận khi đưa gia đình về đô thành. Chạy đi đâu, cũng không thể thoát khỏi nanh vuốt chiến tranh bạo tàn. Thì thà rằng cứ ở yên lại Đà Lạt, có lẽ gia đình tôi không đến nỗi nào khổ sở đến thế”!

                                Trên những con đường lớn nhỏ tại Sài Gòn đều đông nghẹt người đi bộ, người ta đông hơn kiến tràn ra ngoài lòng lề đường, chen lấn nhau đi kẹt cứng. Mặc cho từng hàng xe hơi đủ loại, xe gắn máy, xe đạp, xe xích lô, xe ba gác vân vân… chồng chất đủ mọi thứ lỉnh kỉnh lên xe. Họ ùn ùn hối hả đi đi, về về! Đi đâu?! Về đâu?! Hầu hết các doanh trại ven đô, các công sở ty mỏ, và thường dân lo đào hầm hố cá nhân. Những đại công sở và cao ốc, cũng như ngoài những đại lộ, gần trung tâm Sài Gòn đều ráo riết chuẩn bị. Thế mà bà mẹ Ngọc và hai cô Quy, Cúc, ung dung dẫn nhau đi từ hotel Hưng Đạo 2 tà tà qua chợ Đũi, xuống chợ Thái Bình dạo chơi, rồi ba mẹ con tấp vào ăn bún ốc, bún thịt nướng, ăn xoài, dưa hấu, thơm. Họ ăn xã láng... ăn đã đời.

                                Mấy tháng trước lo lánh nạn súng ống từ Cam Ranh chạy riết dài dài về đây, họ ăn uống có phần tiết kiệm khổ sở. Bây giờ yên ổn nơi thành phố vinh sang giàu có, họ cũng sẵn tiền dư bạc rủng rỉnh như ai, ngày ngày ở không trong phòng ngủ không biết làm gì, chẳng lẽ có bộn tiền có vàng leng keng trong túi, mà phải nhịn thèm “ăn mì ngóng cháo ngó” sao. Thế là ngày ngày họ đem con cháu đi ăn hàng xã láng cho đã. Lúc nào về phòng ngủ cô Cúc cũng khệ nệ bưng thêm: Khi thì quày chuối già hương to bự sư, mít ướt, mít ráo, hoặc một chục xoài cát thơm lựng. Do mấy bà vợ thừa nước đục thả câu, được đằng chân lần lên đằng đầu, cô Cúc cô Quy tha hồ leo lên đầu lên cổ đức ông chồng nhẫn nhịn hiền lành, tha hồ ăn hiếp chồng. Cánh đàn ông yêu quá hóa sợ mấy mụ vợ một phép, mặc “bà” muốn làm gì thì làm, lớp đàn ông im re xép ve:
                                Lỗ mũi mười tám gánh lông.
                                Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho.
                                Đêm nằm thì ngáy o o.
                                Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà.
                                Đi chợ thì hay ăn quà.
                                Chồng yêu chồng bảo về nhà đỡ cơm.
                                Trên đầu những rác cùng rơm.
                                Chồng yêu chồng bảo hoa thơm rắc đầu.
                                (1)

                                Sau vài ba ngày no say ăn uống, thì bà cụ Tài đau bụng, trên ói dưới té re, thổ tả thổ te tá lả hoài! Bà cụ Tài tái phát bệnh đau bao tử ói ra máu tươi, máu bầm, máu loãng, rồi ói ra mật xanh mật vàng. Bà ôm bụng gò lưng quằn quại rên la dữ dội. Anh Ngọc vội vàng thuê xích lô chở bà đi cấp cứu tại bệnh viện Sài Gòn. Đã biết là bà cụ đau bao tử kinh niên, mà còn dám “tộn” mấy thức ăn mát mẻ thế, nếu bà không đau bao tử, cũng bị té re là cái chắc! Không biết bà cụ trúng độc do ăn bún ốc, hay cụ ăn quá nhiều thứ mà “trúng thực”? Ngày ngày chúng tôi ghé vô bệnh viện thăm, thấy bà cụ có phần thuyên giảm. Ngọc bảo cô Cúc ở lại bệnh viện trông coi mẹ. Còn anh sẽ đưa vợ con, gia đình cô em gái là Quy, cùng chúng tôi đi xuống miền Tây trước. Lúc nào bà mẹ khoẻ hẳn, thì cô Cúc sẽ đưa mẹ đi xuống Bạc Liêu.

                                Nghe thế, bà mẹ Ngọc dù rất yếu, bà lắc đầu quầy quậy, giẫy nẩy lên, chồm dậy khăng khăng nhất định đòi trở về hotel. Nếu có đi đâu, mà bà đi không nỗi, thì cõng bà đi cùng, chớ không trước không sau gì cả. Bà rất sợ con trai bỏ rơi. Bà thất kinh hồn vía, không dám kêu rêu con dâu bắt bà nhịn đói, không rên siết trước mặt Ngọc, bà không dám ăn uống bậy bạ nữa. Ngọc đành chìu ý mẹ già, anh đưa mẹ về nghỉ tại hotel Hưng Đạo 2. Thật kinh hồn, chúng tôi chỉ sợ lây lan hết cả đám, thì khốn. Bà phải ở cách ly mình ên. Ngọc đi rước bác sĩ tư đến khám bệnh ghi toa, liền đi mua thuốc về cho bà uống. Anh Bàn phụ Quy, Luật, khiêng những tấm nệm chuyển qua phòng của tôi, đặt nệm ở giữa nền gạch cùng nằm xếp lớp với nhau. Bốn gia đình ngủ chung hai phòng cho ấm áp tình người. Chúng tôi cảm thấy vui vui, cũng đỡ lo sợ và buồn. Do thế, chuyện dự tính cả nhóm về miền Tây trước ngày 30-4 đã không thành.

                                Phần vợ chồng tôi, khi thấy tình hình bất an, thì Luật chạy đến nhà anh Tạo rước bà mẹ anh xuống ở phòng ngủ. Tôi đến nhà Yến Nga để hỏi thăm tin tức. Ở nhà, bốn đứa con của tôi tự trông coi nhau. Chẳng may bé Tồ bị đau bụng ỉa chảy té re. Bé Tuấn thay đồ cho em, giặt giũ áo quần, lau chùi phòng sạch sẽ. Bé DZũng tắm rửa cho em, cõng em và dỗ em ngủ. Bé Bi sợ hãi chui vào gầm bàn trốn, và ngủ quên trong xó góc. Khi trở về phòng trọ, nghe các con nói lại, tôi sợ hết hồn. May mắn là bé Bi chỉ đi cầu hai lần. Tôi cho con uống thuốc, (tôi đã mua sẵn đầy đủ mọi thứ thuốc dự trữ phòng hờ). Ngày hôm sau con đã thuyên giảm nhiều. Tôi lo sợ là con bị lây chứng thổ tả từ bà cụ mẹ của Ngọc thì khốn!

                                Chỉ trừ những đứa trẻ ngây thơ vô tội là ngủ chập chờn trong bóng tối mờ mờ. Còn mọi người lớn thì tắt hết đèn đóm, ngồi tụ vòng tròn lại một góc phòng, nơm nớp lo sợ và mong trời mau sáng. Ngoài đường vắng ngắt đến ghê rợn, khuya Sài Gòn càng khuya càng hoang vắng lạnh lẽo, bầu trời vần vũ mây đen báo hiệu cơn mưa đầu mùa. Đến năm giờ sáng thì quả thật trời đổ cơn mưa rả rích, kéo dài hơn ba giờ, trông thật ngao ngán. Cánh đàn bà lo chuẩn bị làm mì gói cho cả nhóm ăn, uống nước suối Vĩnh Hảo. Bốn người đàn ông bàn tính với nhau là: để tránh tai mắt người khác tò mò dòm ngó, và không biết tông tích của mình làm gì, ra sao, đi đâu, thì bốn anh sẽ đưa từng nhóm ra đi.

                                Điểm hẹn là ở nhà thờ Ngã Sáu (nhà thờ thánh Jeanne D’ Arc, trong khu nghĩa trang Huê kiều, do người Pháp gọi là Plaine Des Tombeaux, ở 116b Hùng Vương, phường 9 quận 5). Luật hướng dẫn lộ trình chu đáo, anh nhắc đi nhắc lại: ai không nhớ, thì ghi vào sổ tay, kẽo nơi xứ lạ không thuộc đường, lớ quớ sẽ lạc nhau. Cứ mươi phút là có một nhóm rời phòng ngủ. (Làm như chúng tôi đi quỵt nợ, trốn nợ tiền phòng không bằng. Mặc dù chúng tôi đã chi trả hết tiền ba phòng nầy, và đặt cọc phòng thêm trước mười ngày). Anh Bàn không có vợ con gia đình bận bịu lu bu bên cạnh, nên anh rảnh tay dìu bà cụ Tài bệnh hoạn, cùng cô Cúc ẵm đứa con gái ba tuổi ra đi đầu tiên. Kế đến là gia đình Quy. Gia đình Ngọc, sau rốt là gia đình tôi gồm bảy mạng lủi thủi ra khỏi hotel. Tôi đứng trên cửa sổ tầng hai nhìn mấy anh chị lạ nước lạ cái cúi đầu lầm lủi ra đi, nhất là những đứa trẻ yếu ốm xanh xao, ngây thơ, hồn nhiên vô tội. Sao ai nỡ lòng để con em sớm bơ phờ nếm mùi đau khổ, gánh lấy nỗi ưu phiền, cơ cực đắng cay cuộc đời làm vậy! Tôi cảm thấy thật buồn.

                                Bốn nhóm gặp nhau ở nhà thờ ngã sáu rồi, lúc đó đã có nhiều người đi bộ, đi xe đạp, xe honda, xích lô qua lại trên đường đông đúc hơn. Tuyệt nhiên không thấy xe nhà, taxi hoặc xe bus. Chúng tôi ngoắt mãi vẫn không có chiếc xích lô máy, hay xích lô đạp nào chịu ngừng. Chẳng biết họ vội vã chạy đi đâu! Mãi về sau lâu thật lâu mới có hai chiếc xe ba gác trờ tới. Luật mặc cả giá xong, liền cho hai bà cụ cùng bầy nhóc ngồi lố nhố trên xe. Bốn anh kia phụ hai ông ba gác đẫy xe đi tà tà. Chúng tôi dắt díu nhau lẽo đẽo đi xuống khu Chợ Lớn. Quang cảnh ở Chợ Lớn khác hẳn ở khu Sài Gòn. Nơi đây ồn ào náo nhiệt đông đúc, người ta tụm năm tụm mười đông đen trên đường phố xí xa xí xô đi đi, nói nói, la la mắng chửi om sòm, buôn buôn bán bán đủ mọi thứ. Thỉnh thoảng mới có chiếc xe bus khác tuyến đường chật như nêm vút qua, chạy về hướng xa cảng miền Tây.

                                Ngọc vào nhà bạn thân cùng làm việc ở gần chợ Tam Biên, để dò hỏi tin tức cập nhật. Luật cũng có bạn Thành ở đường Nguyễn Tri Phương. Lúc bạn hai đến nhà đó, mọi người trong nhóm ngồi bệt ngoài vĩa hè nghỉ mệt chờ đợi Luật, Ngọc vào hỏi thăm tin tức. Kiểm chứng lại những tin nghe ngóng suốt dọc mấy lộ trình, thì mỗi người nghe một cách khác hẳn, người nói thế nầy, người nói thế nọ; càng hoang mang, băn khoăn, bồn chồn, lo lắng, rối tung rối mù, không phân định được điều gì xác thật là đúng, điều gì sai. Toàn nghe những tin vu vơ mù mờ như vịt nghe sấm. Chúng tôi không rành đường dưới khu Chợ Lớn, nên cứ đi lo lắng sợ sệt đi lung tung loanh quanh đường nọ qua đường kia, đi vòng vòng khá xa Chợ Lớn. Chẳng biết tại sao chúng tôi quay trở về ngã Bảy? Khùng thiệt. Cuộc ra đi nầy thật vô duyên ngớ ngẩn hết chỗ nói. Thế là chúng tôi mò mẫm tìm về nhà thờ Huyện Sĩ. Tôi bàn với Luật để tôi đến khách sạn Hưng Đạo 2 lấy lại những đồ dùng cần thiết, đem đến nơi nầy. Luật quát mắng tôi:
                                - Coi chừng tiếc của mà toi mạng. Bỏ hết.

                                Tôi tiu nghĩu buồn xo theo các bạn vào cha chánh xứ xin cho ở nhờ ngoài vĩa hè trong khuôn viên nhà thờ Huyện Sĩ. Nhà thờ hình cung nhọn oai dũng với công trình thiết kế quy mô, đặc thù, tinh xảo, khang trang xinh lịch, còn được gọi là nhà thờ Chợ Đũi xây năm 1902. Thiết kế giáo đường do đức cha Bouttier kiến trúc theo phong cách gothique tuyệt tác tinh vi, cao sang với vật liệu đá granit. Do ông bà Huyện Sĩ Lê Phát Đạt giàu có nhất thời ấy bỏ tiền ra xây dựng. Sau khi tạ thế hai ông bà có mộ xây bằng đá cẩm thạch ở hậu cung. Hầu hết mọi người quá mỏi mệt ngao ngán chán chường, chẳng thiết tha sự gì ngồi bó gối ủ rũ buồn chán nơi xó góc trong một lớp học bỏ trống. Ông trùm họ đạo nầy đi lễ về ngang chỗ chúng tôi đang ngồi co rúm một xó, thấy chúng tôi hốc hác, trẻ con bơ phờ lem luốc nằm la liệt lăn lóc trên vĩa hè nóng và hanh nắng. Ông vào tận nơi tôi ngồi, ân cần hỏi thăm qua loa, rồi ông bảo tôi cử đại diện vài người đến nhà ông, để ông tiếp tế cho ít thức ăn.

                                Cô Quy, Cúc và tôi lẽo đẽo theo sau lưng ông, đến bên hai cánh cổng sắt màu xanh kín mít to cao lút đầu người. Mở ổ khoá cánh cửa sắt nhỏ phụ kế bên, ông mời ba chị em vào nhà ba tầng lầu có vườn cây trước sân mát mẻ, rộng rãi, ngôi nhà bề thế sang trọng xây đá hoa cương lát gạch men bóng láng. Ông mời chúng tôi ngồi ở sofa da nhung đỏ. Ông đi xuống nhà bếp. Chúng tôi chưa kịp quan sát kỹ lối trang trí tân thời trang nhã vinh sang trong phòng khách, thì bà vợ ông trùm và mấy con cháu gì đó từ phòng bên cạnh, xách ra ba bốn tụng đồ ăn thức uống đầy nhóc, nhiều nhất là mì gói, bánh mì khô, cá khô, tôm khô, khoai lang, dưa leo và củ sắn. Thêm một tụng khá to quần áo trẻ con, một tụng nhỏ hơn bốn tụng kia đựng độ năm bảy lít gạo, (bà vợ chu đáo lo đầy đủ, hình như bà đã nghe ông chồng kể lại, hoặc là gia đình họ đã từng làm việc thiện nầy, tôi không biết).

                                Ba chị em tôi cảm động ứa nước mắt, rối rít cảm ơn lòng từ bi thiện nguyện của ông bà trùm họ đạo Huyện Sỹ. Khệ nệ bưng các giỏ xách về lại góc trường học, chúng tôi cảm thấy có phần vui vẻ an tâm. Cô Quy, Cúc và chị Ngọc xúm lại chia nhau áo quần con trẻ. Còn tôi không nhận (vì đang có, tôi đã vứt bỏ lại ở hotel nhiều lắm, chỉ mang đi những bộ quần áo cần thiết, vậy mà các con mang vác còn không nỗi, nữa là tham lam chi mà quơ vô thêm sao).

                                Mấy chị em rủ nhau đi ra chợ Đũi mua hai cái nồi lớn, mua tô chén, muỗng, đũa, rổ, rá, củi, ba bó rau muống, mắm muối, chút bột ngọt, chuối cau, mua bình để nấu nước, mấy chai ni lông đựng nước (vã chăng thấy ăn uống tầm bậy tầm bạ ở ngoài chợ, sợ trúng nước đi “ị” té re như bà cụ Tài, thì khốn; chúng tôi không dám uống nước trà đá bán sẵn). Có tiền là có của tươi rau ngon. Về lại chỗ cũ, Ngọc xin bà từ trông coi nhà thờ cho mượn hai cái lò để nấu ăn. Bà từ vui vẻ bảo chúng tôi cứ vào trong bếp tự tiện nấu nướng, khỏi mua củi hay mượn lò làm gì mất công. Nhưng chúng tôi không lấy củi của bà. Phụ nữ xăn tay áo lên lo làm bếp. Đàn ông đi tắm rửa cho con cháu, và tắm rửa chính họ ở ngoài giếng hay ở vòi nước. Chẳng mấy chốc nồi cơm trắng, canh mì gói nấu kèm với rau muống, trái bầu xắt nhỏ, khô cá sặc nướng, mọi thứ đã chín.

                                Sau một ngày nhịn đói nhịn khát, kéo nhau đi thất thểu lang thang cầu bơ cầu bất ở ngoài đường mệt mỏi rã rời. Giờ đây cả nhóm ngồi bệt dưới nền xi măng, quây quần quanh hai mâm cơm nóng sốt. Một mâm dành cho trẻ con được cho ăn trước. Một mân cơm của người lớn thì ăn sau. Đây là buổi cơm tối thanh đạm, nhưng quả thật lần đầu tiên trong những ngày xa xứ, kể từ khi tôi về Sài Gòn ăn bữa cơm nầy cảm thấy rất ngon miệng. Thiệt đúng:
                                Đầu tôm nấu với canh bầu
                                Chồng chan, vợ ngó lắc đầu “ham ăn.”
                                Bầu ơi thương lấy bí cùng
                                Mai sau có lúc nấu chung một nồi!
                                (1)

                                Lúc đó có hai gia đình ở Huế, Đà Nẵng di tản vào Sài Gòn, họ cũng tay xách tay mang, con cái đùm đề, vừa vào xin ở nhờ, kế bên lớp học cạnh chúng tôi. Luật, Ngọc qua bắt chuyện hỏi thăm, rồi mời cả sáu người ấy qua bên lớp học nầy, vì chúng tôi nấu cơm và canh thật nhiều, nên nhân tiện mời họ dùng cơm. Hai người đàn bà tỏ vẻ e dè khách sáo hơn hai ông kia. Nhưng khi thấy chúng tôi thành thật chứ không qua loa mời lơi, họ cũng vui vẻ nhập vào nhóm. Cô Cúc đi lấy chén đũa của bọn trẻ vừa ăn xong, chạy ra vòi nước rửa sạch và đem vô. Chúng tôi vừa ăn vừa tỉ tê trò chuyện. Chỉ vài giờ ngắn ngủi, chúng tôi đã thông cảm và hiểu thấu những gian khổ, cơ cực trên bước đường gian truân lưu lạc, đồng hội đồng thuyền thật hợp ý nhau. Được biết hai gia đình Tâm và Phương có ý muốn về Phú Quốc, vì hồi xưa họ đã sinh sống ở đó. Nghe bạn mới tâm tình, chúng tôi hoan hỉ vui mừng như mở được tấc lòng. Vì quả thực chúng tôi rất muốn đi Phú Quốc, mà ngại một nỗi không rành đường, không biết lối mô tê, sợ lạc vào “mê cung Vẹm”, nên quá ngại ngùng. Tâm nói:
                                - Năm giờ sáng ngày mai phải ra bến xe bus Sài Gòn, đón xe đi một lèo tới xa cảng miền Tây, xe không ngừng ở mấy trạm phụ. Một ngày chỉ có ba chuyến xe bus đông nghẹt thôi.
                                - Thì ra bây giờ tôi mới hiểu: nguyên ngày nay chúng tôi đón xe bus lẻ tẻ dọc đường tới Chợ Lớn, mà chả thấy chiếc nào ghé trạm, là do vậy.

                                Thế là mọi người bảo nhau đi ngủ sớm. Phụ nữ rửa dọn nồi son chén bát, lau chùi chỗ nằm dưới nền xi măng (vừa dùng nơi ăn cơm). Đàn ông lo lùa bọn trẻ về lớp học bên hông nhà thờ, để dỗ con cái ngủ. Chị em phụ nữ xin đi tắm nhờ ở nhà bà từ. Cũng may là ở trong miền Nam lúa gạo dồi dào cò bay thẳng cánh, hầu kịp thời cung ứng cho cư dân ở miền Cao Nguyên và miền Trung, sau mỗi khi thấp kém mùa màng hay thiên tai lũ lụt. Chúng tôi mò tìm về miền Tây là phải lắm. Thật cám ơn nông dân và cư dân ở miền Tây Việt Nam hết sức. Những giọt buồn lê thê xin gác lưng mây bay bay sau triền đồi Đà Lạt xa mờ xa nhé! Dù gần hay xa xôi muôn trùng sóng vỗ, thời khắc quý giá nầy vẫn mãi hoài ghi nhớ, chiếm ngữ trong hồn tôi giông bão. Chiến tranh biêu riếu đã hạ bức màn đen trong chung cuộc đầy bi kịch rồi chăng? Ví dù như thế thì họ và tôi hoàn toàn tin tưởng vào cấp lãnh đạo tối cao của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, tin các cấp chỉ huy đã và đang dấn thân từ các nơi còn trụ lại, rải rác khắp nơi… có thể là:
                                - Vùng I : Quảng Nam. Quảng Trị. Thừa Thiên.
                                - Vùng II : Dakto. Kontum. Pleiku. Đà Lạt. Khánh Dương.
                                - Vùng III : Bình Long. An Lộc. Long Khánh.
                                - Vùng IV : Nhất là hy vọng từ Long An về Miền Tây, vẫn còn… trấn giữ.

                                "Quốc hữu phân tắc thực" (nước có người giỏi, thì nước mới vững chắc). Mặc dù giàu sự dũng cảm hào hùng của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa: từ tất cả các binh chủng đang ở lại rải rác trên quê hương nầy; họ có kiên cường bất khuất anh dũng và oanh liệt quyết chiến đấu tại các chiến trường sôi động khói lửa, hay tại các địa phương, Tỉnh, Thành, nào... Nhưng nếu họ không còn những vị “thủ lĩnh”, họ đã mất cấp lãnh đạo. Hoặc giả họ không có những vị chỉ huy nữa. E là thua chắc!
                                Nghĩ thân phù thế mà đau,
                                Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê
                                !” (2)

                                (1) = ca dao.
                                (2) câu thơ của Nguyễn Gia Thiều.
                                * * *

                                Tình Hoài Hương
                                Last edited by Tinh Hoai Huong; 11-29-2019, 03:55 AM.
                                Bút trần nào tả được lưu luyến!
                                Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                                Tình Hoài Hương

                                Comment



                                Hội Quán Phi Dũng ©
                                Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




                                website hit counter

                                Working...
                                X