Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Góc Truyện Tình HOÀI HƯƠNG...

Collapse
X

Góc Truyện Tình HOÀI HƯƠNG...

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Nguyên văn bởi thuyguyen530 View Post
    Tôi chỉ xin quý vị sửa lại chữ HOLD HIGHRIDE (ngưng thả bom )_thành HOLD HIGH AND DRY cho đúng với với nguyên bản và đúng nghĩa. Thuỵ530

    Kính thưa Đại Uý Không Quân Nguyễn Tiến Thuỵ thân quý,

    Dạ vâng, anh nói rất đúng câu: "Hold High and Dry" mới đúng nghĩa ;
    Nhưng thưa anh... có thể ở trên tần số vô tuyến, quý phi công thường nói ngắn gọn: "hold high ride" (như lời của Đại Uý Không Quân Trần Văn Phúc đã nói, vẫn rất hợp lý (vì không có thời gian, cần nói vắn tắt. Câu "hold high ride" cũng đúng, phải không ạ
    Tuy nhiên, tôi tôn trọng mỹ ý của anh, xin điều chỉnh lại, và chân thành cảm ơn anh v/v nầy.
    Thân kính,
    THH




    Thiếu Tá Không Quân Anh Kiệt: TRƯƠNG PHÙNG.
    (41 năm… tưởng niệm: 29/4/1975 -> 29/4/2016)
    ***

    Chiều ngày 28/4/1975 - khoảng 5:45’ trong phi vụ hộ tống Trung-tá Nguyễn Văn Mạnh SĐ3 KQ và toán chuyên viên Vũ-khí & Đạn-dược đặt chất nổ, để phá hủy các cơ sở của Bộ Chỉ Huy Kỹ-Thuật & Tiếp-vận KQ (Biên–Hoà). Tôi, (Trần Văn Phúc) và Trung-úy Nguyễn Thành Bá, bay từ Dốc Sỏi ngang qua Cầu Mới Biên Hòa. Tôi vừa quẹo trái từ hướng Tây sang hướng Đông, đột nhiên tôi thấy bốn chiếc A37 với đầy đủ bom đạn trong một đội hình dị thường; nghĩa là không giống ai, phi diễn không ra phi diễn, chiến đấu không ra chiến đấu, phi cơ đang từ hướng Đông Bắc lao tới cùng một cao độ với chúng tôi. Tôi cứ lầm tưởng là phi cơ của các phi đoàn bạn đang bay hành quân (từ miền Trung di tản về Tân Sơn Nhứt tháng trước), nên tôi vội vã kéo cần lái, cho phi cơ mình bốc vọt lên cao, để tránh hai bên đụng nhau trong gang tấc. Đồng thời tôi hét trong vô tuyến để lưu ý anh Bá, (bay chiếc số 2 theo tôi trong đội hình chiến đấu):
    - Hai theo một! Coi chừng bốn A37 hướng 10 giờ!

    Rồi tôi bay đảo lại và nhìn theo bốn chiếc A37 bay xa dần, tôi ngạc nhiên, thông thường một phi tuần khu trục đi bay hành quân chỉ có hai chiếc, hôm nay là ngoại lệ, đặc biệt vì có tới bốn chiếc. Tôi nói tiếp với Bá:
    - Giờ nầy mà mấy thằng "ma gà" A37 còn mang bom đạn đi lang thang kìa!
    Chúng tôi đã suýt đụng nhau với chúng nó trên sông Đồng Nai, mà không thể nào ngờ đó là bọn phản tặc! Trời lúc đó vẫn còn sáng tỏ, tôi chúi mũi cho phi cơ xuống thấp, bay dọc theo quốc lộ 1 đến Thủ Đức, tôi quẹo trái theo xa lộ Biên Hòa đến Long Bình rồi về Biên Hòa đọc theo Quốc Lộ 1. Nhìn xuống dưới, tôi thấy dọc suốt lề đường có rất nhiều xe thiết giáp đậu cách nhau từng trăm thước một. Muốn khích lệ tinh thần cho các chiến hữu Bộ Binh, nên tôi bay rất thấp, vì vậy khi bọn phản tặc dội bom ở Tân Sơn Nhứt, tôi đã không trông thấy. Nếu tôi bay ở cao độ 5.000 bộ, chắc chắn tôi sẽ thấy những cột khói đen bốc lên từ Tân Sơn Nhứt (TSN). Chừng 20 phút sau, Chuẩn-tướng Huỳnh Bá Tính Sư–Đoàn-Trưởng SĐ3KQ báo cho chúng tôi biết:
    - Có một phi tuần ba chiếc A37 vừa dội bom Tân Sơn Nhứt!
    Tôi điếng hồn nghĩ ngay đến phi tuần A37 mà mình vừa gặp, nên tôi “chỉnh“ lại ông trên tần số:

    - Như vậy phải là bốn chiếc A37, vì chúng tôi đã gặp bọn chúng cách đây không lâu! (mãi về sau nầy, khi tôi kiểm chứng với nhà nghiên cứu sử Nguyễn Hùng Kiệt, anh đã xác nhận: phi tuần của đám phản tặc nầy có tất cả bốn chiếc A-37, nhưng không biết vì lý do gì chỉ có ba chiếc dội bom Tân Sơn Nhứt mà thôi !?). Vào thời điểm Tân Sơn Nhứt bị dội bom, chiếc trực thăng của Tướng Tính chuẩn bị đáp xuống TSN, nên ông đã chứng kiến toàn bộ sự việc. Đối chiếu với thông tin của sử gia Nguyễn Hùng Kiệt, cả hai người (Tướng Tính & tôi) đều nói đúng sự thật! Chúng tôi vội vã bay trở về Tân Sơn Nhứt, thì bọn phản tặc đã chuồn đi mất tăm biệt tích. Khi bay trên không phận TSN, Đài Kiểm-soát Không-lưu (Sài Gòn Control Tower) báo cho chúng tôi biết: “phi trường chỉ bị thiệt hại nhẹ. Vài chiếc C-47 bị trúng bom (một chiếc gần phi đạo đang cháy như chúng tôi thấy), vài cơ sở bị hư hại như hậu trạm cũ, nơi trước đây chứa các phi cơ A-1, mới vừa dời về khu Tây lúc 1 giờ trưa, cạnh bãi đậu của A-37. Nhưng thật may mắn hai phi đạo không hề bị trúng bom”.

    Sau mấy vòng bay quanh Tân Sơn Nhứt, chúng tôi biết chắc chắn phi trường và nhất là hai phi đạo vẫn an toàn, không cần thiết phải bay đi Cần Thơ. Nên tôi yên tâm bay trở lại Biên Hòa, để tiếp tục thi hành phi vụ hộ tống Trung-Tá Mạnh và toán chuyên viên vũ khí. Sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ hộ tống Trung-tá Mạnh qua khỏi cầu Bình Triệu an toàn, chúng tôi mang đầy đủ bom đạn về hạ cánh lúc 8 giờ tối. Tôi gặp các anh bay F5 ; họ cho biết là:
    - Đang chờ lệnh đi ném bom trả đũa ở phi trường Phan Rang.
    …Nhưng điều đó đã không bao giờ xảy ra -không biết vì lý do gì- !? Tôi thấy nhiều anh em trong Tân Sơn Nhứt có phần giao động tinh thần, vì cuộc dội bom vừa qua. Do Radar không thể phát hiện nếu bọn phản tặc bay thấp như lần vừa rồi, nên nhiều người lo sợ chẳng biết có thêm lần dội bom kế tiếp nào nữa hay không? …Khi trở vào biệt đội khu trục lúc nửa đêm, tôi thấy các anh em thuộc PĐ 514 và 518 đang nằm sắp lớp như cá mòi ngay trên nền nhà. Tôi lặng lẽ nằm xuống một chỗ trống còn lại bên cạnh cái điện thoại dã chiến mới vừa móc dây.

    Tôi nằm đó, nghiêng qua trở lại rất lâu, không thể nào ngủ được, vì trong lòng ngổn ngang những tiếc nuối & hối hận, cắn rứt tim tôi: khi nhớ lại cơ hội ngàn năm có một. Tôi vô tình để nó trượt thoát khỏi tay, tiếc thay! lúc ban chiều tôi đã không bấm cò đại bác bắn thẳng vào lũ phản tặc A37. (Sau nầy, khi biết tên Nguyễn Thành Trung chính là kẻ đã “rước giặc vào nhà“, bay dẫn đường cho đám phản tặc A37 đó, tôi lại càng hối hận & tiếc nuối nhiều hơn nữa!).

    Quá mệt mỏi tinh thần và rã rời thân thể, tôi vừa chợp mắt tí xíu, đã phải choàng tỉnh ngay lập tức, vì những tiếng nổ vang trời. Phi trường bị pháo kích! Hàng loạt hỏa tiễn 122ly điên loạn lao xuống rít xé bầu trời, nổ tung lên cùng khắp trong căn cứ & phi trường TSN, nơi đang tập trung dày đặc những quân nhân KQ, và gia đình của họ mới vừa đổ dồn từ ngoài vùng I, vùng II di tản về. Điện bị cúp. Nhưng cho dù điện không cúp, thì tất cả vẫn chìm trong bóng tối như địa ngục, vì sức ép nổ của những quả hỏa tiễn rơi quá gần, làm vỡ tung những bóng đèn trong biệt đội khu trục chúng tôi... Thật là may mắn đến kỳ lạ khi mọi người đang nằm sát nhau dưới nền nhà đều bình an vô sự!

    Điện thoại reo! Do nằm sát gần điện thoại, tôi bốc máy lên nghe, và chuyển lệnh điều động cất cánh khẩn cấp đến Thiếu-tá Lê Văn Sang, Trưởng Phòng Hành Quân PĐ Phi Long 518. Trong bóng tối dày đặc, không nhìn thấy mặt bất cứ ai, mà chỉ nghe tiếng nói của tôi vừa chuyển lệnh. Thiếu-Tá Sang hỏi luôn:
    - Phúc đó hả, Phúc đi bay được không?

    Theo đúng Huấn Thị Khu Trục, tôi vừa mới bay xong phi vụ yểm trợ rút quân hồi đầu hôm, nên tôi có quyền từ chối đề nghị này của Thiếu-Tá Sang. Nhưng hình như cái “mặc cảm tội lỗi “của tôi, (vì thiếu cảnh giác, đã để bọn phản tặc A37 vượt thoát) đang chờ có một cơ hội “chuộc lại lỗi lầm“, tôi đã bật lên tiếng nói:
    - Đương nhiên là được, nhưng wingman (phi tuần viên) là ai?
    Chưa có ai kịp lên tiếng, thì từ trong bóng tối cuối phòng, tiếng Thiếu Tá Trương Phùng vang lên:
    - Trâu đạp cũng chết, chó đạp cũng chết. Tao đi với mi, xem coi có chết thằng Tây nào không!?

    Phi trường đang bị pháo kích dữ dội, nên lúc đó không có xe đưa đón Phi Hành Đoàn. Không thể chậm trễ, anh Phùng gọi tôi leo lên chiếc xe Jeep dân sự. Anh Phùng lái xe như bay phóng ra khỏi bãi đậu, nhìn anh lái xe vun vút như bay, tôi thầm cảm phục người đàn anh gan lỳ, quả cảm, người hùng của mặt trận Quảng Trị 1972 với chiến tích lẫy lừng đã “nướng sống" 15 chiếc xe Tăng T-54 của bọn Cộng Phỉ!:
    -… Mẹ nó! Tao chưa hề thấy tụi nó pháo dữ dằn như hôm nay! Tụi nó định “dứt điểm” mình bữa nay sao cà?
    Rồi anh nói tiếp:
    - Bất cứ giá nào, mình cũng phải lên (cất cánh), hy vọng có thể bảo vệ bao nhiêu người vô tội ở đây. Nếu như mình bị hy sinh, âu cũng là dịp để mình đền ơn Tổ Quốc.

    Đến bãi đậu A-1, các anh em phi đạo đã ứng trực sẵn sàng, anh Phùng hét lớn trong tiếng nổ vang rền của đạn pháo:
    - Nổ máy là “chock out” ngay (rút những khúc gỗ chận bánh xe phi cơ ra) rồi các bạn tìm chỗ núp! Mặc kệ chúng tôi, đừng để chết chùm hết cả đám đấy!

    Máy vừa quay tròn vòng, thì có nhiều tiếng nổ long trời ở bãi đậu A-37 kề bên, nhiều quần lửa như cây nấm khổng lồ cuồn cuộn bốc phụt lên cao. Không chần chờ, tôi cho phi cơ di chuyển ra khỏi ụ. Anh Phùng vẫn còn đứng cạnh máy bay, anh ra dấu cho tôi biết là bình điện của phi cơ anh bị hư. Vì vậy, tôi quyết định cất cánh một mình, như đã Briefing trước đó. Tôi ra hiệu cho anh Phùng biết, và gọi Đài Saigon Ground Control (Đài Kiểm Soát Diện Địa Sài Gòn) để xin di chuyển ra phi đạo, đài trả lời ngay:
    - Phi Long 51 (PL51)! Phi đạo sử dụng 25, gió hướng Nam 4 knotts, áp suất 29.92…

    Nhận thấy gió ngang gần như thẳng góc với phi đạo và rất nhẹ (4 knotts), tôi có thể cất cánh bất cứ hướng nào. Nhưng tôi không thể dùng PĐ25 sẽ vô cùng nguy hiểm; vì khi bay lên, sẽ chui ngay vào đạn đạo của địch đang pháo kích. Nếu cất cánh PĐ 07, tôi quẹo trái để đến đầu PĐ 07, thì phải di chuyển ngang qua bãi đậu A37 đang cháy rực lửa, cũng rất nguy hiểm. Vì vậy, tôi có ý định quẹo phải theo Taxi way #3, để cất cánh PĐ 07, nghĩa là ngược chiều PĐ sử dụng. Tôi chỉ có thể dùng ½ chiều dài phi đạo còn lại. Cứu binh như cứu lửa, không còn phương cách nào khác, tôi quyết định gọi:
    - Saigon Ground Control! PL51 request taxi ra Whisky number three và cất cánh PĐ 07.

    Ngay khi được phép, tôi di chuyển nhanh ra phi đạo 07 R, miệng lẩm bẩm: "Người đẹp của tôi ơi! Em ráng giúp anh thêm một lần nữa! Đừng ho hen nha cưng"! (Pilot chúng tôi xem chiếc máy bay mình lái như là người vợ, người tình muôn thuở, đặc biệt là em Skyraider tuổi già sức yếu, nên đôi khi em ưa “nũng nịu, nhỏng nhẽo" ). Sau khi thử máy (dù biết chưa nóng máy), tôi xin đài Saigon Tower cho phép cất cánh khẩn cấp. Vì chỉ còn lại ½ phi đạo, nên tôi phải dùng phương cách “Maximun Peformance Take Off" , và cất cánh lúc 04 giờ 25 phút sáng ngày 29/4/1975. Vừa rời khỏi phi đạo, lòng tôi rộn rã một niềm vui mừng khó tả, và cảm tạ ơn Trên cho tôi cơ hội cứu nguy cho mọi người trong Tân Sơn Nhứt. Sang tần số Paris (đài Kiểm Báo Sài Gòn) tôi báo:
    - Paris! PL 51 vừa cất cánh một chiếc A1 với 10 trái MK 81. Xin nhận chỉ thị.
    Đài Paris chưa kịp trả lời, tôi đã nghe:
    - PL 51! Đây Tinh Long 06 (TL06), bạn đến Phú Lâm ngay! Chỗ có nhiều trái sáng. Bao lâu bạn tới?
    - TL06! PL 51 mang 10 trái MK 81, sẽ có mặt trong 5 phút và request Random Attact! OK!

    Khi lên tới Phú Lâm, tôi được Trung-úy Trần Văn Bảo, Trưởng Phi Cơ của chiếc AC-119K hướng dẫn oanh kích: mục tiêu là hai làn khói của hai giàn pháo 122 ly. Tôi rất ngạc nhiên, mục tiêu chỉ cách đài Radar Phú Lâm hơn 500 mét về hướng Tây. Nhờ lặng gió, nên hai làn khói này vẫn còn la đà trên mặt đất. Lập tức, tôi vừa lao xuống vừa gọi:
    - PL51 in hot và thả từng trái một!
    Sau khi thả trái bom xuống mục tiêu thứ nhì, tôi ngưng lại và chờ đợi. Trong thời gian nầy, tôi nghe giọng Tướng Kỳ trong vô tuyến:
    - Phi Long 51 trút hết bom đạn xuống target! Tối nay ghé nhà tôi nhậu!
    Tôi hỏi lại:
    - Giới chức vừa ra lệnh cho Phi Long 51, xin cho biết danh hiệu.
    - Tôi Thần Phong 01, Thiếu Tướng Kỳ đây!
    - Thần Phong 01! PL51 lên một mình với 10 trái bom 250 cân Anh, tôi có kinh nghiệm chống pháo kích. Thần Phong 01 an tâm. Tôi có thể ở đây thêm ba giờ nữa.
    Khoảng 15 ; 20 phút sau, có lẽ bọn cộng-phỉ nghĩ tôi đã hết bom, nên chúng bắt đầu pháo trở lại. Tôi nhìn thấy rõ nhiều giàn pháo, mỗi giàn 4 khẩu 122 ly liên tục phóng lên. Liếc nhìn về hướng Tân Sơn Nhứt, và Sài Gòn có nhiều quầng sáng nháng lên, tôi liền lao xuống thả bom và thầm gọi: "Anh Phùng ơi! anh ở đâu, sao không lên tiếp tay với tôi? Một mình tôi làm không xuể đâu! Anh Phùng ơi"! Năm phút sau, khi định nhào xuống thả bom, tôi thấy có vài đám nổ dưới mục tiêu, tôi tưởng lầm là rocket của trực thăng võ trang bắn xuống, tôi liền cự nự Trung-úy Bảo:
    - TL06! Bạn cho tôi đánh random attack, sao bạn lại cho gunship (trực thăng võ trang) vào “ăn có”? Nó bay cao độ thấp, lỡ tôi không thấy, nện ngay trên đầu nó, thì phiền lắm!
    Anh Bảo liền cãi chánh:
    - Không phải đâu PL51, tôi đã đuổi tụi nó qua bên Quốc Lộ 4 rồi. Để tôi quan sát kỹ lại.

    Lúc đó có khoảng ba bốn chiếc trực thăng quây quần phía Đông Bắc Phú Lâm. Sắp nhào xuống thả bom lần kế tiếp, tôi lại thấy có ánh lửa nổ tung và tiếng anh Bảo la lên:
    - Ê ...PL 51! Tôi thấy có một chiếc dường như là A-1 vào đánh phụ với bạn đó! Chắc chắn không phải là gunship đâu!
    Tôi liền nghĩ ngay tới anh Phùng, nên trả lời anh Bảo:
    - TL06! chắc là Thiếu Tá Phùng! Có thể anh Phùng bị trục trặc về vô tuyến! Bạn an tâm, monkey see monkey do (thấy tôi thả bom ở đâu, anh ấy sẽ thả bom ở đó).
    Nhờ sự yểm trợ hỏa châu của TL-06, chúng tôi dễ dàng “lượm” những giàn pháo như lấy kẹo trong túi. Thanh toán xong các giàn pháo nầy, thì tôi cũng vừa hết bom.
    - TL06, tất cả giàn pháo đã “clear“ (bị hủy diệt sạch) tôi giao ở đây cho bạn, PL 51 để dành 800 viên 20ly phòng thủ phi trường. Vì muốn biết người phụ tôi diệt pháo vừa rồi, có đúng là anh Phùng không? nên tôi sang tần số của Đài Sài Gòn:
    - Saigon Tower! Đây PL51. Bạn cho tôi biết: sau tôi còn có chiếc A1 nào cất cánh không?
    Tôi được trả lời:
    - Tụi nó pháo quá, chúng tôi núp dưới hầm trú ẩn, vừa lên nên không biết gì hết bạn à!

    Khoảng 5:25’ sáng tôi về tới Tân Sơn Nhứt, trời vẫn còn tối đen như mực, ngoại trừ những ánh đèn phi đạo và taxi way, còn có hai đám cháy: một đám ở bãi đậu A37 (như đã nói ở trên), còn đám cháy thứ hai... dù tôi đã đảo nhiều vòng, nhưng vẫn không nhận ra chính xác là nơi nào. Nhưng sau ít phút nhờ ánh sáng lờ mờ bập bùng còn lại của đám cháy, tôi vừa nhận ra là ở phía Nam của dinh Tướng Kỳ độ chừng trăm mét. Tự nhiên trán tôi rịn mồ hôi, tay run lẫy bẫy, tim đập dồn dập, và ứ nghẽn lồng ngực muốn nghẹt thở, vì hình như đám cháy là ở khu cư xá C-7, là nơi vợ con tôi tạm trú. Miệng tôi không ngớt cầu nguyện: "Cầu xin ơn Trên che chở cho vợ con của con, và những người khác được bình yên".
    Ngay lúc đó, trong lòng lòng tôi bùng lên một cơn giận dữ & căm thù đám cộng-phỉ trong trại Davis, nếu vợ con tôi có mệnh hệ nào, tôi thề sẽ thí mạng với bọn chúng!

    Mươi phút sau, tôi thấy chiếc TL07 cất cánh lên, để thay thế chiếc TL06 về đáp. Tôi tiếp tục bao vùng trên không phận Tân Sơn Nhứt, cho đến khi bình minh có ánh sáng lờ mờ, tôi nhận ra đám cháy chính là cư xá Nữ Quân Nhân. Tôi nóng lòng muốn đáp xuống, nhưng chưa có phi tuần nào lên thay thế. Vài phút sau, tôi nhìn sang cánh phải: thấy có một chiếc AD-5 còn treo hai trái bom, cứ bám sát theo phi cơ tôi. Tôi sang tần số và gọi đài Saigon Tower một lần nữa, để xác định chiếc AD-5: “có phải là của anh Phùng không”. Câu trả lời vẫn là “Không biết”. Vừa lúc đó, “anh bạn dễ ghét” như muốn chơi trò trốn tìm “ú tim” với tôi, nên anh ấy cho phi cơ hết lòn sang trái, lại chui qua phải. Tôi bất ngờ cắt bán kính, quẹo vòng thật gắt, định ra sau chiếc phi cơ nầy. Nhưng anh bạn “dễ ghét” là một cao thủ tuyệt đỉnh, lúc nào anh cũng bám riết theo sau, khi sang trái khi sang phải, cố ý trêu đùa tôi. Nếu là dog fight (không chiến) thì tôi bị tay lão luyện nầy “dớt rụng càng” rồi!

    Trên tần số Paris, tôi nghe giọng của Thiếu-tá Hồ Ngọc Ấn, Phi Đoàn Phượng Hoàng 514 liên lạc với TL07, cho biết: “phi tuần hai chiếc A1 của anh đang ở Long An, trên đường tiến về Sài Gòn. Đại-uý Nguyễn Tiến Thuỵ bay chiếc số 2. Khoảng mười phút sau, Trung-uý Trang Văn Thành, Trưởng Phi Cơ của TL07 gọi trên tần số:
    - Phượng Hoàng 11, tôi nghi ngờ có một toán đặc công độ năm bảy tên, định cắt hàng rào kẽm gai phía Bắc phi trường, chỗ miếng đất trống hình tam giác ở An Nhơn. Bạn cho một trái ngoài hàng rào, đánh trục Đông sang Tây. Tôi giữ cao độ 5.000.

    Vì biết phi tuần anh Ấn chưa đến nơi, nếu cần thiết tôi có thể dùng bốn cây đại bác 20 ly bắn dọc theo vòng rào. Tôi bay tới đó, mặt trời vừa ló dạng, trời tỏ hơn nhưng ở độ cao 4.000 bộ, nên tôi không thấy gì cả. Thình lình anh Phùng lao xuống thả một trái bom. Thì có tiếng anh Thành hốt hoảng la lên:
    - Số 1 thả bom “như để“ . Số 2 đánh dài hơn vài mươi thước.
    Trái thứ nhì rơi dài hơn năm chục thước. Anh Thành hoảng hốt:
    - Phượng Hoàng 11 Hold High and Dry (ngưng thả bom). Số 2 của bạn đánh gần nhà dân quá!
    Thiếu tá Ấn liền lên tiếng:
    - TL07! Ai khác đánh đó, chớ không phải Phượng Hoàng 11! Tôi chỉ mới tới Bến Lức, làm sao thả bom ở đó được!
    Thì ra anh Thành lầm lẫn phi tuần của tôi- là phi tuần anh Ấn. Tôi vội lên tiếng:
    - TL07! Đây PL 51. Đó là Phi Long 52 (chiếc số 2 của PL51) nó hư vô tuyến, chỉ còn hai trái, vừa thả hết rồi. Còn tôi đã “Empty” (hết bom).
    Nhận ra tiếng của tôi, Đại-uý Thụy (người bạn cố tri cùng PĐ Thái Dương 530 với tôi ở Pleiku) gọi tôi:
    - Ê Phúc! Mày về Cần Thơ đi, đáp ở đó (TSN) nguy hiểm lắm!
    Nhìn đồng hồ xăng có 800 lbs, vừa đủ để bay đi Cần Thơ, nhưng tôi đã có quyết định đáp Tân Sơn Nhứt từ trước, nên trả lời:
    - Vợ con tao còn kẹt lại đây, giá nào cũng phải đáp Tân Sơn Nhứt. Tình hình ở đây chưa đến nỗi nào đâu.
    Đột nhiên anh Phùng gọi tôi:
    - Ê ...PL51, đi Cần Thơ nha! Bay với mi gần 3 tiếng, chừ mới liên lạc được một xí. Tao nghe được, nhưng bị câm. Bực mình quá!
    Tôi vội bấm máy trả lời:
    - Không! Tôi chỉ còn 600 pounds xăng, vả lại vợ con tôi kẹt ở đây. Anh đi Cần Thơ một mình trước nghen!

    Lúc bấy giờ TL07 đang bay 5.000 bộ, nên anh Thành muốn xuống thấp để dễ quan sát, và nhìn thấy rõ hơn, nên anh báo cho chúng tôi biết:
    - PL51! TL07 xuống cao độ để nhìn rõ hơn. Tôi không muốn đánh lầm vào nhà dân, tội họ lắm!
    Không ngờ mấy phút sau, khi chúng tôi bay trên Lăng Cha Cả, ở cao độ 1.500 bộ, anh Phùng gọi tôi:
    - Ê một! Mình đáp xuống Tân Sơn Nhứt đi!
    Lo ngại vô tuyến bất thường của anh hư, nên tôi nhường cho anh Phùng đáp trước. Nhưng trước khi Touch Down (chạm bánh), anh Phùng lại gọi tôi:
    - Một! Mi đáp trước đi, tao Go Around (bay lên lại). Mi chờ ít phút, tao về chở mi vô!
    Nóng lòng vì vợ con ở kế bên đám cháy (cư xá Nữ Quân Nhân), nên tôi không bay theo anh Phùng như thông lệ. Tôi tiếp tục vào Final (cận tiến), thì Sài Gòn Tower báo cho chúng tôi:
    - PL51, có SA7 bắn lên. Tôi thấy mấy cục lửa bằng cườm tay bay lên!
    Vì tôi đã chứng kiến SA-7 bắn ở Kiến Đức vào cuối năm 1973, nên tôi có ý nghi ngờ:
    - Saigon Tower, SA-7 bắn lên lúc đầu: là một vùng lửa to màu cam, sau đó đổi sang màu trắng xanh, và bay lên rất nhanh. Bạn quan sát kỹ chưa?
    Anh bạn nầy có vẻ bất bình trả lời:
    - PL51, tôi báo cho bạn biết, mà bạn không tin, nếu bị bắn, bạn ráng chịu nha!
    Tự nhiên tôi nhớ đến Trung-tá Phạm Văn Thặng Fulro khi ông "xỉn", ông thường ngâm nga... nên tôi nghêu ngao trên tần số: "Làm sao giết được người trong mộng …1 …2 …3…touch down"!

    Di chuyển về bãi đậu lúc 6 giờ 55 phút, các anh em phi đạo reo mừng, công kênh tôi như đón một một vị cứu tinh! Rồi chúng tôi cùng nhau theo dõi chiếc TL07 đang nghiêng cánh trái ở cao độ chừng vài ngàn bộ, và xạ kích xuống mục tiêu. Từng tràng đại bác 20 ly (Minigun 6 nòng) nã xuống như mưa, tiếng kêu như bò rống. Tôi trấn an các anh em:
    - Target đó ở ngoài vòng rào, chỉ là tình nghi thôi! Ông Trung-uý Thành muốn biểu diễn cho mọi người coi chơi cho vui vậy mà!
    Tôi vừa dứt lời, thì đột nhiên chiếc TL07 trúng hoả tiễn tầm nhiệt SA-7, đuôi phải gãy lìa. Có một vật màu đen đen rớt xuống(*), động cơ bên phải phát hoả và nổ tung, cánh phải gãy xuống, đồng thời phòng lái bốc cháy. Phi cơ ngoặc đầu qua trái, lao xuống và rơi vào spin (xoay tròn như bông vụ). Tất cả mọi người xung quanh tôi hoảng hốt hét lớn:
    - Nhảy dù đi…
    - Nhảy dù…
    - Nhảy dù nhanh lên…

    Nhưng quá trễ, tôi không thấy cánh dù nào kịp bung ra, chiếc phi cơ đã cắm phụp đầu xoáy xuống đất rất nhanh. Những cột khói đen lửa đỏ cuồn cuộn bốc phụt lên cao hàng trăm mét. Toàn bộ phi hành đoàn đều hy sinh. Tất cả anh em chúng tôi bàng hoàng sửng sốt, đứng chết lặng mà nước mắt tự dưng tuôn trào. Một lúc sau, mọi người cúi đầu lặng lẽ trở về làm nhiệm vụ của mình. Từ giờ phút nầy phi trường TSN thật sự không còn an toàn nữa, vì sự xuất hiện của SA-7 khắc tinh của tất cả các loại máy bay.

    Riêng tôi, ngồi bệt xuống bãi cỏ bên lề phi đạo, mắt vẫn hướng về những cột khói đen bốc lên cao, như anh linh của Phi Hành Đoàn TL07 đang siêu thoát. Tôi hy vọng Thiếu-tá Trương Phùng bay đi Cần Thơ, tuy nhiên tôi vẫn có ý trông đợi anh Phùng trở về. Tôi chờ mãi… tới khi anh tài xế xe bồn tiếp xăng giục tôi lên xe, để trở vô biệt đội khu trục. Trong lòng tôi thầm nghĩ:
    - Đúng rồi, anh Phùng nên bay đi Cần Thơ là hợp lý nhất!
    Sau 9:30’ giờ sáng ngày 29/4/75 bọn chúng bắt đầu nã đì đùng bằng đại pháo 130 ly, đặt ở Nhơn Trạch gần Thành Tuy Hạ - Cát Lái. Nhưng lúc bấy giờ không ai thèm màng tới việc diệt pháo nhỏ giọt vào Tân Sơn Nhứt nữa. Trong phi trường thỉnh thoảng đạn 130 rơi rớt đâu đó, may mắn sao không trúng tôi. (ha ha ha...) Cả căn cứ Tân Sơn Nhứt không một bóng người, bầu trời vô cùng u ám, một phần vì thời tiết chuyển mưa, một phần vì những làn khói đen lan toả la đà từ chiếc TL-07 đang bốc cháy. Tôi có cảm tưởng như mình lạc vào trong bãi tha ma lúc hoàng hôn.

    Sau khi quân cảnh không cho tôi ra cổng (Phi Long), không được nói một lời gì với vợ con (họ theo gia đình Vân về nhà), tôi trở vào trung tâm hành quân Không Quân chờ lịnh. Nữa giờ sau, tôi định đi ra ngoài bằng cổng trại Hoàng Hoa Thám; nhưng khi đến cuối sân banh, tôi gặp ba Thiếu-tá: Sơn, Bản, Liêu PĐ 530, họ đang chạy ngược chiều và kêu tôi:
    - Ê Phúc! được lệnh đi Cần Thơ. Nhanh lên.
    Tôi chạy theo họ ra bãi đậu, chiếc AD-5 của Thiếu-tá Hồ Văn Hiển PĐ 514 đang chờ. Tôi là hành khách bất ngờ bất đắt dĩ và cuối cùng thứ 20. Chúng tôi rời Tân Sơn Nhứt lúc 11 giờ trưa. Lúc bấy giờ trong Tân Sơn Nhứt có lẽ không còn phi cơ nữa (sau khi yểm trợ quân bạn ở Bến Cát xong, trên đường về Cần Thơ, Thiếu-tá Hiển đáp xuống, để rước chúng tôi). Khi đến Cần Thơ, tôi vội vã đi tìm anh Trương Phùng khắp nơi, nhưng tìm hoài không thấy anh Phùng đâu cả!

    Ôi! Thì ra… thật vô cùng đau đớn, xót xa, nghẹn ngào không sao tả xiết, vì một cánh chim oai dũng phi thường oanh liệt đã một mình một bóng sớm xa tổ lìa đàn, ông thênh thang bay về cõi vĩnh hằng miên viễn... để lại trong lòng anh em bao tiếc thương vô tận. Đó là: cố Thiếu Tá Không Quân TRƯƠNG PHÙNG... sinh năm 1943 tại Thừa Thiên. Ông oanh liệt hy sinh ngày 29 tháng 4 năm 1975 tại Bình Điền, Long An. (Sài Gòn).
    * * *

    Ghi chú thêm: trước 30/4/1975 và sau... 2010:

    *.-
    Thiếu-tá Không-quân Hồ Ngọc Ấn Phi Đoàn Phượng Hoàng 514 (hiện ở Dallas). *- Đại-uý Không–quân Nguyễn Tiến Thuỵ bay chiếc số 2, hiện ở Houston.

    1.- *Đại-úy Không-quân Trần Văn Phúc - Phi-tuần Trưởng PT Khu-trục Phi-Long 51, hiện ở Cali :
    - Mãi đến tận ngày hôm nay, tôi vẫn cảm thấy hối tiếc: vì Trời đã cho tôi một cơ hội ngàn vàng, để tôi có thể bắn hạ bọn phản tặc ác ôn A37 Nguyễn Thành Trung (tôi đã học kỷ thuật không chiến Dogfight trong khoá Phi Tuần Trưởng với Trung-tá Nguyễn Văn Huynh PĐP PĐ 518), mà tôi lại vô tình để vuột mất cơ hội ngàn năm một thuở! Trong trường hợp “tao ngộ chiến" hy hữu đó, bọn chúng không trông thấy chúng tôi, vì bị chói ánh mặt trời chiều, nên không có phản ứng né tránh nào, mà chúng vẫn ung dung bay thẳng tới.
    Hoặc chúng tôi chỉ cần lách sang một bên, bật nút ARM - ON và bóp cò súng, bắn ngang hông ở phía sau bọn chúng, thì 800 viên đại bác 20 ly trên mỗi chiếc A1 của chúng tôi sẽ không tha bọn chúng. Hoặc lúc đó tôi gọi Paris (đài Kiểm Báo Không Lưu TSN) để báo động khẩn cấp. Các phi cơ F5-E đang ứng trực ở đầu phi đạo TSN, sẽ tức tốc cất cánh lên xơi tái bọn chúng, thì bọn chúng chẳng còn mạng, để sau nầy vung vít mà “bốc phét”! Đây có phải là vận mệnh thảm khốc đau buồn của đất nước Việt Nam đã an bài phải là ngày 30/4/1975 !?

    *2.- Trên không phận Sài Gòn lúc bấy giờ (29/04/75) chỉ có ba chiếc phi cơ là: TL-07, phi cơ anh Phùng và phi cơ của Phúc. (TL 07 chỉ xuất hiện sau 6 giờ sáng. Phi tuần hai chiếc A-1: của Thiếu-tá Ấn & Đại–úy Thụy trên đường về Sài Gòn).

    *3.- Có lẽ vì sợ SA-7 nên ông Đại Sứ Martin phải nói dối trước Quốc Hội Mỹ là: “Hai phi đạo bị trúng pháo kích, hư hại nặng nề, và ông ra lịnh di tản người Mỹ bằng trực thăng”?

    *4.- ... đột nhiên chiếc TL07 trúng hoả tiễn tầm nhiệt SA-7, đuôi phải gãy lìa. Có một vật màu đen đen rớt xuống(*)... Mãi đến năm 2010, khi vừa mới cải táng cho PHĐ TL07 xong, chúng tôi mới liên lạc được với Th/Sĩ I Nguyễn Văn Chín tự “Chín Dơi“, Gunner của TL07, là người duy nhất nhảy dù ra sống sót, anh chính là “vật” (hi hi)… màu đen rơi xuống từ chiếc TL 07, mà anh em ở trong phi trường TSN đều thấy.

    *5.- Vì Phi Hành Đoàn TL07 có nhiều người tình nguyện đi bay trong lúc khẩn cấp, nên hầu hết nhân viên trong PHĐ không ghi đúng tên trong phi lệnh. Tôi chỉ biết có:
    - Trung-uý Trang Văn Thành (Trưởng phi cơ), xuất thân từ Thiếu Sinh Quân, nhập ngũ ngày 12/9/1967, khoá 68A TTHLKQ Nha Trang. Anh Thành là cháu rể của cố Thiếu-Tướng Võ Xuân Lành, TLPKQ. Anh Thành có hai biệt danh: ở quân trường Nha Trang anh có tên “Thành Thụt”, vì đôi mắt sâu thẳm, tánh tình anh rất cương trực, hăng say, năng nổ trong mọi công việc. Khi về PĐ C119 anh Thành có thêm một biệt danh: “Thành Kampuchia” (vì màu da ngâm ngâm của anh). Đêm 28/4/75 anh Trung uý Trang Văn Thành tình nguyện bay thêm phi vụ Extra TL 07, mặc dù trước đó anh đã bay phi vụ TL01 hồi đầu hôm rồi. - Trung uý Tào Thuận, hoa tiêu phụ. - Thiếu uý Phạm Tấn Đức. Họ vĩnh viễn ra đi... nhưng để lại sự thương tiếc kính phục vô cùng của hàng vạn người trong và ngoài Tân Sơn Nhứt.

    *6.- Sau ba năm ba tháng phục vụ trong PĐ Thái Dương 530 – Pleiku trấn thủ Cao Nguyên, tháng 4 năm 1974 tôi trở lại Biên Hoà, được đưa về PĐ Phượng Hoàng 518, KĐ 23 Chiến Thuật, SĐ3KQ. Sau đó tôi thường đi biệt phái ở Biệt Đội Khu Trục tại Tân Sơn Nhứt, cho đến tháng 9 năm 1974, tất cả phi cơ A1 bị “đình động” (vì uống xăng!?). Vì vậy thời gian tôi quen biết, chuyện trò cùng Thiếu-tá Trương Phùng không nhiều. Tôi chỉ nhớ:

    *7.- Th/tá Trương Phùng sanh năm 1943 tại Thừa Thiên, anh gia nhập Không Quân vào đầu năm 1964, khóa 64B SVSQKQ Nha Trang, tốt nghiệp khóa L- 5 Quan Sát. Sau đó anh được tuyển chọn xuyên huấn T28 và A-1 Skyraider tại Hoa Kỳ. Trở về nước, anh phục vụ tại Phi Đoàn 110 Quan Sát. Sau cùng là Phi Đoàn 518 Phi Long - Khu Trục A-1, KĐ 23CT, SĐ3 KQ Biên Hòa. Anh là mẫu người hùng KQ từng tham dự hầu hết các chiến trường khắp bốn vùng chiến thuật, là người hùng diệt 15 xe tăng cộng-quân trong hai tuần lễ vào đầu tháng 4 năm 72 ở Quảng Trị. Anh là một người đầy nhiệt huyết, không bao giờ từ chối bất cứ một phi vụ nào, dù nguy hiểm. Anh là một phi tuần trưởng sĩ quan gương mẫu, lấy phương châm: Tổ Quốc, Danh Dự và Trách Nhiệm lên hàng đầu.

    Tôi được hân hạnh cùng bay chung với NT Th/tá Trương Phùngvào tháng 8/1974, khi CSBV vi phạm Hiệp Định Ba Lê, chúng pháo kích vào phi trường Biên Hòa. Để trả đũa hành động nầy, Đại Tá Hoàng Thanh Nhã, KĐT KĐ23CT, SĐ 3 KQ chỉ thị hai phi tuần, mỗi phi tuần hai chiếc Khu Trục A-1 Skyraider, mỗi chiếc mang 6 trái bom CBU-25, dùng bom CBU - 25 là loại bom dùng để chống chiến thuật biển người, phá giao thông hào, mỗi trái cân nặng 500 cân Anh (lbs), gồm 7 ống thẳng, dài độ 4 mét, buộc lại thành một khối tam giác, mỗi ống chứa 25 quả bom nhỏ như trái lựu đạn, có loại nổ trên mặt đất, có loại nổ chậm. Muốn đạt hiệu quả tối đa, nên thả bom nầy theo cách Skip bom, nghĩa là bay thật thấp, các trái bom nhỏ nầy được phóng xuống đất. Nếu thả bom từ trên cao thì không thể chính xác, càng cao các quả bom nhỏ nầy càng rải rộng ra, nếu thêm sức gió có thể thổi bay đi xa cách mục tiêu hàng ngàn mét).

    Phi tuần số 1 do Thiếu-tá Phùng và Trung-uý Đinh văn Đức. Phi tuần thứ hai do tôi (Đại úy Trần Văn Phúc) và Trung-uý Nguyễn Tứ Đức thi hành một nhiệm vụ đặc biệt: oanh tạc Tổng Hành Dinh của MTGPMN ở đồn điền cao su Lộc Ninh. Để bảo vệ vùng trời Lộc Ninh, nơi bọn CSBV trá hình MTGPMN đặt Bộ Tổng Hành Dinh. Ngoài hoả tiễn tầm nhiệt SA-7, bọn CSBV đặt rất nhiều khẩu đại bác phòng không 37 ly, hay 57 ly, điều khiển bằng radar. Nếu bay dưới 11 ngàn bộ, chúng tôi sẽ trở thành những “target sống”, để bọn cộng-phỉ tha hồ thực tập tác xạ. Vì tầm quan trọng của phi vụ nầy, là cảnh cáo cho bọn cộng-phỉ biết: Không có bất cứ nơi nào trên lãnh thổ VNCH, là bất khả xâm phạm đối với Không Lực Việt Nam Cộng Hoà. Quân Đội VNCH sẵn sàng trả đũa những vi phạm Hiệp Định Ba lê của chúng. Vì vậy sau khi thảo luận, đồng ý chọn lối đánh mạo hiểm nhất (nhưng an toàn nhất), chúng tôi xin Đại-tá Nhã:

    - Đại-tá ra lịnh chúng tôi đi dội bom ở đó, thì xin Đại-tá cho phép chúng tôi được chọn cao độ bay. Nếu như bay cao 12 hay 13 ngàn bộ, để tránh phòng không, thì thả bom không thể nào chính xác được, coi như không. Vì vậy chúng tôi xin chọn lối đánh "truy kích".
    Ông đồng ý và nhấn mạnh thêm về tầm nguy hiểm:
    - Nếu có ai gặp phải bất trắc, các bạn chịu khó trốn tránh qua đêm cho đến sáng mai, mới có phi vụ rescue. Các bạn khác lập tức bay về đáp, không được ở lại cover.

    Sau cơm trưa sớm hơn thường lệ (11 giờ), chúng tôi bắt đầu nghiên cứu những tấm không ảnh (chụp những cơ sở nguỵ trang dưới hàng cây cao su) thảo kế hoạch, tính toán giờ giấc, hướng bay một cách rất cẩn thận từng chặn đường. Để giảm thiểu sự nguy hiểm cho phi tuần thứ nhì (bay sau) của tôi. Thiếu-tá Phùng đề nghị nhập hai phi tuần thành một hợp đoàn bốn chiếc; dùng chiến thuật truy kích với yếu tố bất ngờ, chớp nhoáng, bay lướt trên ngọn cây. Khi bọn chúng thấy, thì chúng tôi đã bay mất rồi, không kịp bắn. Với lối bay nầy, đòi hỏi người Leader phải có một khả năng, kinh nghiệm, bình tĩnh, sáng suốt, cũng như gan dạ. Vì thỉnh thoảng một mình anh Phùng (Leader) phải “trồi lên lặn xuống” năm ba trăm bộ, để nhận dạng những "check point" (điểm chuẩn) để tránh bay lạc. Anh Phùng phân chia nhiệm vụ cho từng người, lập lại nhiều lần: “mỗi chiếc phi cơ chỉ thả một lần, và chiếc kế nối tiếp với nhau”.

    Theo phi lịnh, chúng tôi cất cánh đúng 2 giờ trưa, nhưng bắt đầu 1 giờ, bỗng dưng trời mưa như trút nước (có thể ông trời giúp chúng tôi?) tưởng chừng như phi vụ bị huỷ bỏ, cho đến sau 5 giờ chiều, cơn mưa tạnh hẳn. Chúng tôi được lịnh cất cánh khẩn cấp, anh Phùng nhắc lại:
    - Phi vụ của chúng ta rất quan trọng, rất nguy hiểm, nhưng tôi (anh Phùng) tin tưởng vào chiến thuật mình đã thảo ra. Như các bạn đã biết: Tụi mình không bay thẳng tới đó, mà mình bay vòng về hướng Bắc. Các bạn bớt căng thẳng đi! Có thể ông trời đã giúp mình hôm nay, nên đổ mưa mấy tiếng đồng hồ, vì vậy khi mình tới target mặt trời cũng sắp lặn, bảo đảm tụi nó không ngờ mình tới đâu! Chắc chắn mình phải bay đêm, các bạn cẩn thận coi lại tất cả các đèn phi cụ.

    Như trong phi trình đã hoạch định, chúng tôi “joint up” ở 2.000 bộ, với hợp đoàn chiến đấu (Tactical Formation), tất cả phi cơ bay bên cánh phải của anh Phùng, lấy Lai Khê làm điểm xuất phát, bay thật thấp về hướng Bắc, bên phải Quốc Lộ 13, qua khỏi Tống Lê Chân 5 dặm, thì đổi sang hướng Tây. Như dự đoán, tôi bắt đầu lướt trên nhiều ổ phòng không, nhìn xuống tôi thấy từng cụm năm ba tên cộng-phỉ cố quay vòng những họng súng, để bắn vói theo phi cơ chúng tôi. Tôi gặp ít nhất năm khẩu phòng không trên đoạn đường dài chừng 20 dặm nầy. Khi thấy Lộc Ninh bên phải, và nhận định mục tiêu, anh Phùng ra lịnh:
    - Tất cả Phi Long coi lại Mills (độ của máy ngắm) lên cao độ 1.500 bộ, target 1 dặm, hướng 10 giờ (quẹo trái về hướng Nam, để thả bom vào bên hông địch).

    Lần lượt: "số 1 Rolling Hot”, rồi số 2, số 3 và số 4 Rolling Hot khi ánh sáng vàng nhạt cuối cùng trong ngày. Chúng tôi đã vượt qua rất nhiều hàng rào phòng không dày đặc, trên đường đi ngay cả đường về, rất nhiều lần chúng tôi lướt trên những ổ cao xạ, nhìn thấy bọn chúng quay vòng những họng súng, để bắn vói theo (quá trể rồi! lúc đó chúng tôi đã khuất dạng). Khi chúng tôi bay về gần tới Tây Ninh, thì trời đã tối hẳn. Nhờ vào sự can đảm phi thường, nhờ sự thông thạo địa hình, đầy kinh nghiệm của Thiếu-tá Phùng, chúng tôi đã hoàn thành sứ mạng, an toàn về đáp lúc 8 giờ tối. Cám ơn ông trời ban cho chúng tôi một cơn mưa, giúp chúng tôi hoàn thành phi vụ một cách tốt đẹp. Khi đáp xong, tôi ghi nhận thêm: Thiếu-tá Phùng thà ngậm đèn bấm soi sáng những phi cụ để bay, nhưng nhứt định không chịu hủy bỏ phi vụ, dù rằng trong phiên họp buổi trưa Đại-tá Nhã đã lưu ý hai lần:
    - Nếu có gì bất trắc, các bạn rán chịu đựng qua đêm, sáng mai mới có trực thăng rescue.
    Anh Phùng cười, rằng:
    - Mấy chuyện lẻ tẻ làm sao làm khó dễ tao được. Ngày mai tụi mình đi gặp Đại-tá Nhã, xin ông cho tụi mình bay lên đó diệt phòng không, ít nhất mình cũng “lượm” hàng tá cao xạ 37, hay 57 ly. Đứa nào bay với tao, thì theo tao tới câu lạc bộ Trần Thế Vinh.

    *8.- Để nhớ ơn người anh hùng vị quốc vong thân: cố Thiếu-Tá Không-quân Trương Phùng, có nhiều thân hữu quân dân góp sức truy tìm tung tích anh Phùng. Sau gần bao năm lặn lội tìm kiếm... Trong cơ duyên nhờ anh linh của cố Thiếu-tá Trương Phùng dẫn dắt, ngày 2 tháng 12 năm 2008, cựu KQ Nguyễn Toại Chí đã mang hài cốt Thiếu-Tá Không-quân Trương Phùng (vùi sâu dưới năm thước đất, gần cầu Bình Điền, Long An; trở về với gia đình). Hài cốt của cố Thiếu-tá Trương Phùng được hoả táng, đem về thờ phượng tại chùa Bữu Quang. Theo nhân chứng là cụ H. (cụ còn ở Việt Nam, 90 tuổi, xin tạm dấu tên) kể rõ rằng: “Động cơ của chiếc máy bay bị ra khói, buộc lòng anh Phùng phải đáp khẩn cấp xuống ruộng, gần cầu Bình Điền. Anh Phùng bị bắt khoảng 7 giờ sáng ngày 29/4/74. Ngay tối hôm đó bọn Cộng-phỉ khát máu đã hành quyết anh Phùng cạnh giao thông hào”.

    *9.- Cũng sau nhiều năm tháng vất vã ngược xuôi tìm kiếm, ngày 21-7- 2010 có một nhóm thân hữu Dân Quân Chánh, gia đình Thiếu-uý Phạm Tấn Đức, cùng cựu Không-quân Nguyễn Toại Chí đã tìm được nhiều hài cốt của PHĐ 07 trong vòng đai của căn cứ Tân Sơn Nhứt. Họ đã mang hài cốt qúy vị ấy về an vị tại nghĩa trang An Khánh - Thủ Thiêm. (KQ NTC phụ trang).

    *10.- Cư xá Nữ Quân Nhân ở kế bên chưa đầy mươi mét, đã biến thành tro. Tôi (Phúc) vội vã lái xe Honda phóng nhanh trở về cư xá C-7 thăm vợ con. Vào phòng cư xá C-7 thì không thấy ai, hoảng hốt tôi đi vòng theo sidewalk để tới hầm trú pháo. Vô cùng may mắn khi tôi thấy một trái 122 ly không nổ, đã cắm sâu xuống nền ciment, cách phòng của vợ con tôi chừng ba thước, (nơi đó vợ con tôi & gia đình Trung-uý Phạm Trung Vân PĐ C7- 431; là em rễ vợ tôi). Trước kia tôi thấy cái hầm nầy, đã bỏ hoang lâu năm, bên trên chỉ có vài lớp bao cát mục nát, tôi nghĩ chúng tôi không nên ở lâu, vả lại tôi không quen “đường sá” trong khu Tân Sơn Nhứt. Vì vậy bất đắt dĩ tôi phải dời gia đình qua dinh Tướng Kỳ lánh tạm, dù sao ở đó cũng kiên cố hơn...

    11.- Tôi chứng kiến chiếc trực thăng đáp xuống (khoảng sau 9 giờ sáng) Trưởng phi cơ là Thiếu-tá Quí, anh em Trung-tá Nguyễn Quốc Hưng & Trung-tá Nguyễn Quốc Thành, mỗi người cầm một cây M16. Tướng Kỳ vào nhà, ông cứ đi ra đi vô phòng làm việc nhiều lần. Khi ông bước ngang chỗ tôi đứng, tôi mạo muội hỏi:

    - Thưa Thiếu Tướng, Thiếu-Tướng định làm gì bây giờ?
    Ý của tôi hỏi Tướng Kỳ, là tôi muốn biết có di tản về Cần Thơ, (như lời ông kêu gọi tại đây đêm 25/4/75 là: “cần đánh một trận oai hùng cuối cùng”)? Chẳng biết ông có nhận ra tôi hay không, ông lắc đầu than:
    - Anh em đã bỏ đi hết rồi, lấy ai mà đánh, hở?!

    Tôi đồng ý với Tướng Kỳ về việc nầy, vì sau khi tôi đáp xuống Tân Sơn Nhứt chừng 20 phút, tôi nghe rất nhiều tiếng phi cơ đủ loại ào ào cất cánh bay lên... Khoảng 9 giờ 30 phút Tướng Kỳ từ phòng làm việc bước ra, khi đi ngang tôi, Tướng Kỳ nói:
    - Mỹ đã từ chối cho tôi (Tướng Kỳ) một chiếc C-141. Nhờ cậu thông báo các thân hữu của tôi tự tìm đường thoát thân sang DAO, hay xuống bến Bạch Đằng.

    - Bây giờ tôi đi rước Tướng Trưởng bên Tổng Tham Mưu.
    Tướng Kỳ lên máy bay, tôi liền đi chuyển lời của ông cho một số người ở trong nhà nầy, lúc bấy giờ tôi mới biết: có hàng trăm người khác đang “tá túc” trên lầu, trong số đó có cựu Dân Biểu Nguyễn Văn Cử. Điều may mắn là mọi người đã thoát khỏi nguy hiểm, dù có rất nhiều trái pháo rơi xung quanh dinh, nhưng không quả nào lọt vô dinh Tướng Kỳ.
    * * *

    Tình Hoài Hương
    ***

    THH chân thành cám ơn Đại úy Không Quân Trần Văn Phúc {(Phi-tuần Trưởng PT Khu-trục Phi-Long 51) và quý vị Không-quân có tên trong bài viết} đã cho tôi mạn phép chuyển tải sự thật về ngày 28 & 29 tháng Tư năm 1975: trung thực, chính xác, nóng bỏng, & vô cùng đen tối hắc ám của lịch sử Việt Nam.
    * Đồng thời THH xin phép cám ơn quý vị nhiếp ảnh gia đã post những tấm hình đầy nhân bản lên internet, cho tôi có thể copy vô bài viết, ngỏ hầu phong phú hoá hình ảnh sống động và tài đức & nghệ thuật của quý vị.
    *

    Tình Hoài Hương
    Last edited by Tinh Hoai Huong; 05-01-2016, 08:07 PM.
    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

    Comment


    • Sinh Vi Tướng Tử Vi Thần

      Last edited by Tinh Hoai Huong; 04-21-2017, 08:46 PM.
      Bút trần nào tả được lưu luyến!
      Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
      Tình Hoài Hương

      Comment


      • Mẹ! Mẹ... Là Chiếc Áo Gấm đọng bụi phấn thời gian



        "Bông Hồng Cài Áo"
        Nhạc: Phạm Thế Mỹ. Lời: Thích Nhất Hạnh
        Giọng ca: anh Hùng45qs


        Mẹ! Mẹ... Là Chiếc Áo Gấm đọng bụi phấn thời gian
        Chúng con đau đớn kính gửi ba mẹ đóa hoa hồng trắng. Tình Hoài Hương
        ***

        Tôi cố gắng giằng co, níu kéo, quyết giành lại chiếc áo gấm sờn nhàu nát cũ mèm với định mệnh. Dù thời gian dài dằng dặc lặng lẽ đơn điệu dần dần trôi qua, đã khiến chiếc áo hư hao, phai mòn, sờn úa mục nát ít nhiều. Và không gian trôi dần, trôi dần về phía tương lai mù xa tách bạch ra đôi bờ cuộc sống. Không ai có cách gì ngăn chận tuổi già héo hắt đến trước thời gian. Vâng! Có lẽ nay tinh thần lẫn thể chất tôi đã già cỗi! Và, chiếc áo gấm năm xưa còn đây, mà ngón tay gầy run run tôi cài hoài mấy nút áo cũ, vẫn chưa xong. Thời gian đã cướp dần đi tất cả. Vẫn biết thế, nhưng tôi mong muốn níu kéo, âu yếm dùng-dằng ngắm nhìn lại chiếc áo gấm. Nếu tôi được nhìn nhiều lần càng tốt.

        Ngày ấy, chúng tôi vui vẻ dừng chân trên con đường mòn vòng vo gãy khúc uốn lên uốn xuống, quanh co ven đồi thông rì rào ru tình tại Đà Lạt. Chúng tôi chỉ nhìn vài con chim lí lí lắc lắc, rù rì, bay qua bay lại trên những cành cây mảnh dẻ, là cảm thấy hay hay, vui vui. Lần đó, tôi liếc liếc, lí lắc ghé ghé nghiêng nghiêng đầu thẹn thùng e ấp cười, tôi dùng hai ngón tay quệt nhè nhẹ vào một bên má mà lêu lêu Luật, để trêu chọc chàng, và say đắm nhìn Luật. Hai bàn tay tôi nhẹ nhàng, khéo léo khép vạt áo veston của chàng, rồi cài hộ Luật mấy nút áo, cho chàng bớt bị gió lạnh lùa vào cơ thể.

        Giờ nầy, Luật cùng muôn ngàn người trai trẻ khác đã bị tập trung đi “cải tạo” trong tù rồi! Chàng đã ra đi. Nhưng Luật không ra khỏi đời tôi. Còn mỗi mình tôi đứng lại bơ vơ, lạc lõng, muộn phiền giữa chợ đời sóng sánh muôn mặt, với sợi tơ hồng quá mong manh cứ rung lên bần bật giữa lưng trời. Tôi lặng lẽ chua chát đối mặt với cuộc sống, ấp ủ kỷ niệm thời chớm lớn, những tủi hổ tiếc xót vô vàn, và những đắng cay thăng trầm tột độ trào lên bờ mi mọng từng chuỗi giọt sầu.

        Ngày bị vào tù “cải tạo”, Luật đã bỏ chiếc áo vét (veston) nầy lại, trên chiếc áo vét đã dính ba sợi tóc đen mướt khá dài cuả tôi, và một hai sợi tóc ngắn cuả chàng, cùng với những lá thư tình đầy ắp yêu thương do chàng viết dày cui, còn trang trọng cất trong túi áo. Thư của Luật viết có văn phong gợi cảm, là những bức tranh phác thảo duyên dáng về câu chuyện gia đình, tình yêu, phúng dụ, vỗ về, hứa hẹn, an ủi, mang tính cách gia đình đầm ấm yêu thương, hạnh phúc bền lâu. Đó cũng là chiếc áo gấm lý tưởng thiêng liêng tinh tuyền muôn thuở, có dấu vết đậm đà khắc sâu vào tim rất thân yêu, quen thuộc duy nhất từ buổi thiếu thời. Dù qua phong sương sáng khuya trưa chiều mưa gió… chiếc áo của chàng đã cũ. Thư tình Luật viết ngả màu vàng úa đọng bụi phấn thời gian, cùng năm ba sợi tóc cuả hai chúng tôi vẫn bóng mướt đen tuyền còn duyên tình mãi đến tận bây giờ.

        Tôi nâng niu giữ gìn những sợi tóc, phong thư, cùng tấm áo từ hồi chưa cưới nhau. Ngày còn trẻ, tôi ít lo nghĩ đến tuổi xế chiều phôi pha rồi sẽ ra sao. Bởi tình yêu chúng tôi đó, giống dòng sông chảy qua bao dãi đất: Phù sa phì nhiêu có, cằn cỗi có, tươi tốt có, băng giá hoang tàn lẫn đau khổ buồn xo cũng có. Rồi dòng sông xô sóng sau dồn sóng trước, cuồng nộ đập vào gờ đá, hay lặng lờ êm ả, thong dong xuôi chảy ra biển cả. Mỗi khi chạm trán với thực tế bẽ bàng đắng cay, trong lòng ngút ngàn đau thương, lúc đó tôi lặng lẽ vuốt từng nếp nhăn trên tấm áo, và trang trọng nâng mấy sợi tóc trên hai bàn tay khẽ khàng khum khum bụm lại. Tôi sợ gió từ đâu vô tình lướt qua, tóc sẽ cuốn theo chiều gió bay mất hút, thì biết đâu mà tìm? Đó là những kỷ vật ưu ái đã theo tôi trên muôn dặm đường đời cay cực, để xoa dịu nỗi hãi hùng và bàng hoàng rất kinh ngạc trong cuộc đời phù du. Tôi ấp ủ tình luyến nhớ, thút thít, bùi ngùi khi soi bóng mình trên gương, cảm thấy lòng nao nao nỗi buồn da diết.

        Vì đến nay tôi chẳng thể giữ lại kỷ niệm nào thân thiết nhất về chàng, khi mái tóc mình thấp thoáng những sợi tóc bạc quyện-bện cùng bao sợi tóc chẳng còn đen mướt? (ngoài mấy di vật bé tí ti như đã kể). Thế nhưng, ngọn nguồn óng ả tình trần hiện nay có mất đi chăng? Khi thời gian khẳng định ngàn mối lo âu, đói khát cơ cực run rẩy dâng tràn!? Không thể chối quanh từ sau ngày mất nước, thì lòng trí tôi luôn ray rứt, thương-xót hồi tưởng về quá khứ buồn vui lao xao, dẫu đời xáo trộn, chao đảo.

        Nay tôi đang mặc chiếc áo cũ của chàng, mà lẽ loi đơn côi ghê gớm, tôi âm thầm đi một mình, buồn bã trên con đường xám ngắt thuở xa xưa. Hai bàn tay lạnh giá run rẩy, run lẩy bẩy, tôi không làm sao cài nỗi nút áo bạc phếch thời gian và cũ mèm nầy. Thì ra… giờ đây tôi quá yếu kém và đã già! Kỷ niệm bây giờ chả là gì! Không quan trọng! Chỉ là những chương đã viết trong pho sách tình, xếp lớp lớp trên kệ sách, ít khi được mở ra xem, nay đã phủ lăn tăn bụi vàng. Pho sách cuộc đời từ đây phải đóng lại. Trang giấy đã lật qua phần mới, thì hồi tưởng nhớ nhung kỷ niệm; chỉ như chiếc lá úa lắc lẽo đong đưa trên cành cao, chờ cơn gió lay để chao đi. Như những áng mây xám lưng đồi lững lờ bay qua bầu trời mùa thu. Như côn trùng biến dạng vào lòng đất mà thôi. Tôi thấy rõ tính chất phù phiếm của quá khứ mang đầy kỷ niệm lãng mạn rồi.

        Sau ngày “đổi đời”, tôi muốn sống một cuộc sống khác hẳn: Thực tế sung mãn hơn. Nhưng, chả hiểu có thực hiện nỗi không, là còn tùy thuộc vào hoàn cảnh và ý chí: Trước tiên, tôi muốn cho đàn con phải nên người hữu dụng, kiên cường dù bụng đói cồn cào, để vượt qua mọi chông gai thử thách, “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Chỉ bấy nhiêu thôi, cũng đủ ngất ngư mà. Ý nghĩ nầy như viên sỏi ném xuống mặt hồ phẳng lặng, tạo thành những vòng tròn đồng tâm, ám ảnh tâm thức tôi bồn chồn, băn khoăn, co siết mãi trong lồng ngực quắt quay.

        ***
        Tôi vô cùng nhớ Mẹ thân yêu, dù đa đoan với công việc bề bộn, tôi cũng cố tìm giấy bút để nặn lên vần thơ về Mẹ:
        Mẹ tôi mắt phượng mày ngài
        Vai ngang dáng nhỏ tóc dài chấm chân
        Cười xinh chúm chím hạt huyền
        Không hề quản ngại thuyền quyên một thời

        Sớm khuya nắng gió cuộc đời
        Bán buôn tất bật (thảnh thơi bao giờ)!
        Rảnh rang chằm nón bài thơ
        Vá may quần áo, mẹ thờ song thân.

        Nhiều khi mẹ đã ân cần
        Viếng thăm người bệnh, bạn gần xóm xa
        Chia cơm xẻ áo nhiều nhà
        Những chiều tần tảo vào ra mẹ cười

        Nhẹ nhàng gánh thúng hoa tươi
        Luyến lưu mẹ nói: “Xin mời mua hoa”
        Kẻ trên người trước dần dà
        Trao tình quý mến. Thiết tha mẹ hiền.

        Mẹ tôi là một bà tiên
        Gia đình đầm ấm đoàn viên một nhà
        Ngọt ngào Con Cháu Mẹ Cha.
        Niềm vui hạnh phúc bao la tình nồng.
        (THH)

        Ngày mồng 5 tháng 5 năm 1980 âm lịch, anh Chín Dzoãn báo tin sét đánh: Mẹ tôi đã chết ở trong Ta In (khu đất thuộc cuối vùng Tỉnh Tuyên Đức/Đà Lạt). Ta In là cuối địa đầu quận Đức Trọng, giáp ranh giới vùng Di Linh. Nơi tít tót đèo heo hút gió, thâm u cùng cốc lạnh lẽo, vô cùng hiểm trở, có đi mà ít có ai về nguyên vẹn. Nơi chỉ truyền cho con người bệnh sốt rét ngã nước, chết vì rét run cầm cập không hề có thuốc men. Nơi có nhiều mụt măng le, tre rừng, ta ăn vào cho đỡ đói, thì cũng sẽ bị sốt rét ngã nước, mà lăn ra chết toi. Nơi chó ăn đá gà ăn muối, nơi khốn cùng của vùng “kinh tế mới” khô cằn toàn sỏi đá. Chỉ nhiều rắn, rết; vô số muỗi, vắt, đỉa, ruồi trâu, bò cạp rừng to và độc kinh khủng, Chúng chuyên bu bám vào người để hút máu.

        Cầm tờ điện tín, tôi lặng người rất lâu, không thể khóc thành tiếng. Nước mắt u uẩn tự động quằn quại tuôn chảy từng dòng, rồi dội ngược vào tim mình đau điếng. Hình như tôi nghẹt thở, chết dần chết mòn, không còn cảm giác nào khác, ngoài sự dày vò, ân hận, đớn đau dâng lên tột đỉnh. Vì, giá như trước ngày 30-4-1975, nếu có chiến tranh, có đánh nhau dữ dội, tôi cũng còn chiếc xe hơi riêng mới toanh mang hiệu Peugeot 404 chạy đi... Hay là tôi có thể mua vé máy bay khứ hồi cấp tốc bay về với mẹ. Tôi qùy xuống bên mép giường, cầm tay mẹ, ôm chặt mẹ lúc mẹ hấp hối.

        Ôi! Giờ đây tôi không thể đến bên xác mẹ già yêu dấu, để nhìn mẹ một lần chót trong giờ phút mẹ lâm chung. Tôi không thể nào xin tấm giấy phép đi đường. Tôi cũng không thể chen lấn ra bến xe đông nghẹt người có giấy phép ưu tiên. Vì, tôi là kẻ “ưu tiên u đầu” thì có. Tôi không thể đứng ngày nầy qua đêm khác ngoài bến xe, nhịn đói nhịn khát, mà chẳng dễ dàng gì chờ mua vé xe từ Sài Gòn đi Đà Lạt. Biết tin mẹ chết, cũng đành xót xa chịu! Dù từ Hốc Môn đi Ta In, chỉ hơn 300 cây số.

        Thế là hết thật rồi! Một thân xác héo hon đã thực sự trở về với cát bụi phù dung. Tôi không lẽo đẽo đi sau quan tài mẹ, vật vã khóc than mà tiễn đưa mẹ về nơi an nghỉ nghìn thu. Má con chúng tôi không biết làm gì hơn, ngoài việc quây quần bên nhau, gùy dưới nền đất, bồn chồn lo âu, sụt sùi, băn khoăn, suy niệm lời Chúa, lâm râm dâng lời cầu nguyện. Tôi ứa nước mắt nhìn mẹ trong hồi tưởng:

        Mẹ tôi sanh tại làng Thuận Nhơn. Nhà ông bà ngoại ở quê (tức ông bà cố ngoại của con tôi. Làng ngoại ở bên con sông rợp bóng hai hàng dừa, và lũy tre xanh um bóng mát thuộc Tổng Cù Hoan, Phủ Hải Lăng, Tỉnh Quảng Trị. Mẹ lớn lên trong một gia đình bế thế, phong lưu giàu có, ruộng vườn của ông bà ngoại cò bay thẳng cánh, lúa gạo trâu bò nhiều nhất trong vùng thời bấy giờ. Ông cố ngoại là một võ quan rất giỏi ở triều đình vua Khải Định, Huế).

        Mẹ có dáng dấp thon thả, làn da bánh mật, răng hạt huyền nho nhỏ đều đặn, miệng cười chúm chím, mắt phượng mày ngài, mũi cao, mái tóc dài láy đen bối thành một búi to sau gáy. Áo quần mẹ luôn trang nhã, sạch sẽ và tươm tất. Mẹ đi ra ngoài đường, ở trong nhà, hay đi ngủ, mẹ đều thay đổi quần áo đâu ra đó hẳn hoi. Dù đi khỏi xóm, đi chợ, hay đi bán, mẹ luôn mặc áo dài đoan trang kín đáo che thân. Đặc biệt mẹ sống cuộc đời bình dị đạo đức, chất phác lương thiện, dịu hiền phúc hậu. Mẹ siêng năng tần tảo đầu tắt mặt tối, long đong bán buôn xuôi ngược. Mẹ nhẫn nhục lao khó giúp chồng, nuôi đàn con mười mạng nên người. Vất vã vì chồng vì con nheo nhóc, mẹ không hề tỏ lộ bất bình, hay nặng lời to tiếng.

        Trời mưa tháng gió ở nhà rảnh rỗi, mẹ siêng năng cần mẫn khéo tay tự chằm nón lá. Mẹ may áo quần cho chồng, con. Đôi khi mẹ cũng may biếu cho bạn mẹ, và người thân. Đó là việc vặt trong nhiều hy sinh to lớn khác. Phải nói là hầu như suốt cuộc đời mẹ, chưa có lúc nào an nhàn thảnh thơi, ngưng nghỉ tay chân. Cái số mẹ cực thân đến thế mà! Đồng thời mẹ xứng hợp với đức tính bác ái khoan dung của chồng. Mẹ dễ dãi cả tin khi ai nói điều gì xuôi tai “nịnh” mẹ, thì có bao nhiêu tiền của, mẹ nhẹ dạ trút cho người ấy hết. Dù sau đó biết mình bị lừa, nhưng mẹ không giận lâu, mẹ “hờn mát” một chút, rồi quên ngay.

        Mẹ chân chất hiền lương đến độ thật thà như đếm. Mẹ tính tiền cũ từ thời vua Bảo Đại ra tiền cụ Ngô, đến thời đổi tiền ở chế độ Sài Gòn, ra tiền mới sau ngày mất nước 75, thì mẹ giống thầy bói mù sờ con voi. Mẹ luôn bị kẻ chợ ăn lường. Thế nên, dẫu bị mất hết tất cả tiền bạc, nhà cửa villa, biệt thự tan hoang, mẹ không thèm tiếc. Mà mẹ chỉ ôm khư khư bình vôi đồng đen nhỏ như cái chén kiểu, nhưng khá nặng, và rất giá trị, chiếc bình vôi nầy có mấy tiệm vàng như Kim Khánh hoặc Kim Ngọc trả giá 5 cây vàng bốn số 9, nhưng mẹ chẳng chịu bán! Thân bình vôi tròn vo, đít vôi bằng phẳng, có quai xách đồng xinh xinh bên tai vôi. Mỗi lần ăn trầu, mẹ khéo léo lấy cây chìa vôi têm vào mấy lá trầu xong, còn dư vôi trên cây que chìa, mẹ quệt quệt lên trên miệng bình, cho “bình vôi hưởng tí xái”. Thế là miệng “bình vôi vui vẻ” nhô cao, còn lỗ miệng bình vôi thì teo tóp dần nhỏ xíu; trông nó hô, loe, vẩu ra, hơi giống miệng con heo nái, coi ngộ nghĩnh sao đâu. Hồi ấy tôi nói với mẹ:
        - Tại mẹ ưa mời bình vôi ăn trầu, nên cái miệng nó mới loe ra dị hợm kinh khủng nè.

        Mẹ cười vui vẻ, mẹ rất thích bình vôi đồng đen nầy, nó đã theo mẹ suốt từ thời mẹ về nhà chồng, đến tận ngày nay. Ấy vậy mà bây giờ mẹ cũng buông thỏng hai từ bỏ hết. Kể cả chồng, con, cháu, chắt, dấu yêu. Mẹ bỏ hết của cải vật chất vinh sang xưa. Một mình mẹ lặng lẽ chết đói ra đi âm thầm, mẹ về bên kia cuộc sống mới.

        Bà chị dâu của tôi đã kể lại rằng:
        - Hôm mẹ vĩnh viễn từ bỏ con, cháu, ấy là một buổi sáng trời ốm nắng, lất phất từng đợt mưa phùn, trong nhà ai ai cũng lo đi rẫy, đi rừng rất xa, xa ghê lắm; để kiếm sống. Tửng bưng sáng, anh Dzoãn đi bộ từ trong Ta In ra Tùng Nghĩa (xa xôi khoảng hơn hai mươi cây số); anh chạy đi vay tiền, để mua thuốc cảm về cho mẹ. Ở nhà chỉ có một mình chị (vợ) loay hoay dọn dẹp nhà cửa. Mẹ nằm im trên giường không động đậy nhúc nhích. Chị (chị dâu) thấy mẹ không dậy ăn trưa như mọi ngày, nên chị bước qua gian liếp bên cạnh, chị đến bên giường tre lạnh lẽo, không nệm ấm chăn êm.

        (Nhà anh chị quá nghèo, sau 30/4 anh đi tù 5 năm, vừa được tha về, khi cả nhà bị đi kinh tế mới. Họ chỉ có mấy nhúm quần áo tẻo teo, vài bao bố: son nồi chén bát, guốc, dép, linh tinh… Ít mùng mền đơn bạc, và những bàn tay trắng. Con dâu dắt díu mẹ già tám mươi tuổi lom khom leo núi chùng chập, vượt đồi trùng điệp. Chồng đau bao tử cùng bầy nhỏ lút chút tám đứa con, đứa lớn nhất mười ba tuổi trở xuống đứa non tháng tuổi, thì lấy đâu ra những thứ xa xỉ ấy trong thời buổi gạo châu củi quế như ri).

        Mẹ trùm chiếc khăn màu nâu, mặc áo dài nỉ dạ đen, quần đen, áo len nâu khoát bên ngoài, và mang đôi tất đen. Mẹ nằm nghiêng, quay mặt vô phía ván vách bằng bìa gỗ. Mẹ chập chờn thiêm thiếp trong giấc ngủ muộn phiền.
        Chị e dè hỏi thăm:
        - Mệ ơi! Mệ có khoẻ không?
        Chị Ngọ không thấy mẹ trả lời, chị liền cúi sát xuống bên mẹ, nhè nhẹ lay lay đập đập vào cánh tay mẹ:
        - Mệ ơi! Con nấu cháo cho mệ ăn nghen.

        Mẹ tôi lừ đừ mở đôi mắt nhiều ánh đục, dường như đã bất thần ra, mẹ cố gắng quay ngoái cần cổ yếu ớt về phía con dâu, thều thào:
        - Hôm ni nhà mình vui hỉ, có cháo ăn… hả con.
        - Dạ. Mệ đau, không ăn được măng luộc hầm mềm như mọi ngày đâu. Để con chạy ra chợ xép, mua chút gạo, con về nấu xí cháo.
        - Có gạo là mừng hì.
        - Mệ ráng chờ nghe. Chợ hơi xa. Con sẽ đi về ngay, nấu mau lắm.
        - Thôi con. Để dành gạo nấu… cho thằng Cu Nâu… có chút nước hồ mà uống, thay cho sữa mẹ không có… Con à.
        - Thằng bé con không đến nỗi nào đâu. Mệ.

        Thế rồi, mẹ tôi ư hữ… ú ớ… mệt nhọc rên khe khẽ, mẹ lại lừ đừ, khó khăn mệt nhọc khi quay mặt vào trong vách. Mẹ quơ tay run run tìm tấm mền cũ mỏng tanh, kéo lên bờ vai gầy có ít chỗ áo rách. Hơn giờ sau, khi chị dâu bưng chén cháo tới gần giường mẹ. Mẹ mỉm nụ cười méo mó, từ từ nhắm mắt, và dần dần lịm thiếp vào giấc ngủ êm đềm không muộn phiền. Chị không hề nghe tiếng mẹ thở, hoặc tiếng nấc. Chị cứ ngỡ là mẹ mệt, muốn ngủ chút xíu như mọi ngày.

        Mẹ đã đói khát thiếu thốn năm năm rồi, và trước khi lìa đời, mẹ vẫn nhịn đói. Mẹ không đành lòng ăn chén cháo trắng lỏng bỏng với tí muối hột. Nay mẹ không nói một lời từ giã, không một lời trăn trối. Mẹ muốn im lìm sớm ra đi, ngỏ hầu trút bỏ gánh nợ đời, khỏi làm phiền con cháu khó nghèo đông đúc. Con cháu không phải cưu mang “nuôi người vô dụng” thêm một miệng ăn. Mẹ muốn rũ bỏ từ trên vai anh chị tôi, và các cháu nhỏ nỗi âu lo phiền muộn: vì bổn phận và trách nhiệm nặng nề. Ôi Mẹ! Mẹ muốn nhịn phần ăn hiếm hoi ít ỏi qúy báu cuối cùng, để chia sẻ cho đứa cháu nhỏ chưa tròn hai tháng. Mẹ đã chết đói. Mẹ âm thầm lặng lẽ êm ái ra đi đúng vào ngày Tết Đoan Ngọ.

        Lẽ ra, như Tết Đoan Ngọ từ những năm xa xưa, thì mẹ tôi ưa đi chợ mua đầy thức ăn, hoa quả bánh trái. Mẹ làm bánh tro, bánh nếp, bánh bèo, bánh ít, bánh nậm, vân vân... Mẹ làm cả cơm rượu nếp cẩm, nếp than. Mẹ nấu cơm gạo thơm với nhiều thức ăn thịnh soạn, nóng hổi, linh đình, để cho con cháu từ xa trở về nhà thăm cha mẹ. Cha mẹ con cháu hân hoan sum họp gia đình vui vẻ ăn uống. Mẹ nói:
        - Các con, cháu, ăn bánh tro, ăn cơm rượu, uống chút nước cơm rượu, thì sẽ diệt giun sán trong bụng. Hì.

        Hầu như cả xóm Trong xóm Ngoài ở Ta In đều thương cảm mẹ của chúng tôi, họ đã cùng nhau đến nhà anh chị Dzoãn, tận tình lo cho mẹ chúng tôi chu đáo. Mỗi người một việc tươm tất từ đầu đến cuối gọn gàng. Trước khi đậy nắp áo quan, họ vẫn để nguyên bộ quần áo cũ, khăn, tất, lúc mẹ chưa đành-đoạn bỏ đi. Và họ mặc lồng thêm cho mẹ chiếc áo gấm, nền áo màu nâu non điểm rải rác những bông hoa cúc đại đóa vàng nghệ. Chiếc áo gấm xưa kia mẹ tôi đã mặc trong ngày trọng đại nhất của đời con gái, khi họ nhà trai hân hoan tưng bừng đến rước dâu.

        Nay thì những người khác đã thay ba tôi mặc chiếc áo gấm (của ba đã ưu ái trao tặng mẹ). Họ đặt xâu tràng hạt Mân Côi vào bàn tay mẹ lạnh giá, họ nhớ để bình vôi đồng đen bên cạnh mẹ. Sau rốt, họ choàng thêm cổ áo quan dày cui thô sơ thơm mủ ngo ra bên ngoài, phủ trùm toàn thân mẹ.

        Mọi người tiễn đưa mẹ về an nghỉ nơi nghĩa trang quạnh quẽ. Không một vòng hoa cườm đen cườm tím cùng lời thành kính phân ưu. Không có cỗ áo quan sang trọng đắt tiền, mà chỉ là sáu tấm ván thông đơn sơ hèn mọn thơm lựng mùi nhựa mới. Không hề có bát nhang đèn nến, rườm rà nghi lễ. Không có gì, không còn gì tất cả ngoài nỗi đớn đau kinh hoàng phủ chụp xuống đời lặng lẽ.

        Ấy thế mà người dân cùng đinh đến thăm viếng mẹ đứng lố nhố đông đúc, từ ngoài ngỏ đầy kín người, cho đến trong nhà tranh lụp xụp đìu hiu chật chội nầy. Họ chia buồn, ân cần giúp đỡ gia đình anh chị tôi nhiệt tình. Ngày hôm ấy họ nghỉ đi rừng, không đi rẫy. Nếu họ nghỉ đi làm dù một ngày, là họ nhịn đói nhịn khát và có thể càng thêm đau ốm xanh xao. Họ cùng nhau lặng lẽ khiêng quan tài mẹ tôi băng rừng, leo qua một triền núi thấp, vượt đốc, qua bãi đầm, đi trong thung lũng sình lầy. Rồi họ leo lên ngọn đồi toàn đá ong lởm chởm, đi trên núi cao chót vót và đơn điệu, nơi đây chỉ toàn sỏi đá và gió lồng lộng hú rít, thổi đám bông lau xoay xoay trắng cả lòng quê, và từng cơn gió kéo dài lê thê lạnh buốt thấu xương.

        Mẹ tôi nằm xuống, vĩnh viễn ở lại nơi rừng núi bạt ngàn hoang vu lạnh lẽo, đơn điệu, chơ vơ với cây thánh giá gỗ lắc lư theo gió rì rào. Tấm bia mộ gỗ đơn sơ ghi khắc nơi an giấc nghìn thu đạm bạc và đớn hèn:

        Mattha Ngô thị Cúc, sanh năm: 1895 >> 1980. Thọ 85t.

        Thật đông nghẹt người đói khát nghèo nàn lại lủi thủi buồn xo trở về lối cũ, trên con đường đất đỏ gồ ghề, nơi mẹ đã nhờ người sống thoi thóp thút thít, buồn xo ngáp ngáp... mang mẹ đi qua.
        ***
        Khi tôi có thể đến với mẹ… thì nấm mồ mẹ đã lút cỏ xanh. Tôi luôn đau đớn, tủi hổ, dày vò và khóc sưng mắt khi nghĩ về mẹ. Thời gian lật đật buồn bã chán chường lặng lẽ qua đi, tôi tất bật, bồn chồn, âu lo với công việc cơm áo khốn đốn mỗi ngày, nhưng gia đình vẫn không đủ sống, nghĩa là thường xuyên đói khát cơ cực. Ngoảnh nhìn lại, mới đó mà đến ngày giỗ đầu của mẹ. Tôi bươn bả đi mót khoai lang, sắn mì, dưa leo và đậu đũa ngoài ruộng Nhị Tân (Hốc Môn). Tôi hớn hở đem mấy thứ ấy về nhà, làm sạch, chu đáo xào nấu xong. Tôi bày thức ăn lên chiếc bàn cũ kỹ xiêu vẹo, bàn chỉ có ba chân rung rinh như răng rụng. Còn một góc bàn thì kê tấm táp lô sứt mẻ, để thay thế một chân bàn què.

        Bà Nga hàng xóm, là người thân cận nhất bây giờ đã nói:
        - Xời! Việc gì cô phải nhọc lòng! Chứ cô không thấy giờ nầy trời đang mưa xối xả, nhà thì dột và rách nát như ổ chuột. Ơ! cô lại bắt mẹ mặc áo gấm lội nước lụt trong nhà y như cái ao. Cô làm gì có bàn ghế cho mẹ ngồi chò hỏ chơi, xơi cơm độn củ với nước lạnh. Mẹ cô chưa kịp về ăn chút xí, thì bầy ruồi ốm đói trốn mưa đã trúng mánh, bu lên mấy dĩa thức ăn tám lớp, và o o o… xơi tuốt rồi. Giỗ mí chạp làm gì cho mệt! Khéo vẽ!

        Bà Nga chẳng ngại mất lòng, líu lo nói huyên thuyên, và cười sảng khoái. Tôi lắng nghe mãi, mới hiểu được thâm ý bà. Thiệt dễ ghét quá đi. Tôi ngẩn ngơ nhìn bà Nga. Những giọt nước mắt nóng hổi đang lăn dài dài xuống má. Giọt khóc quê hương. Giọt hờn tủi khóc ông bà ông vãi cha mẹ khuất mặt khuất mày. Giọt khóc chồng sống đoạ đày ở trong tù “cải tạo”. Giọt khóc bầy con lút chút lù đù, vất vưỡng long đong cơ cực ở vòng ngoài, (tù trong và tù ngoài xêm xêm như nhau, có khác chi, như cá mè một lứa). Giọt đắng cay khóc cho chính bản thân tôi lầm than khốn cùng.

        Khổ đến nỗi tôi không thể đào đâu ra tiền, chẳng có cắt bạc để mua cặp nến đỏ, bình hoa tươi, không hương nhang cắm trên bàn. Tôi không thể mua bột về làm bánh cúng mẹ dĩa bánh bèo, bánh ít, bánh nậm: thứ bánh mà mẹ thích ăn lúc sinh tiền! Tôi không thể kéo mẹ về trong hương khói, để má con chúng tôi quỳ dưới đất, sì sụp lạy tạ lỗi cùng mẹ, cùng bà ngoại! Sợi dây tơ rung quá mong manh, tơ trời nhẹ tênh thiêng liêng kia đang run bần bật giữa lưng trời mưa trắng. Niềm ước mong nối liền tình yêu thương ngút ngàn giữa mẹ -với má con chúng tôi- đã đứt lìa trong khói hương.

        Một kỷ niệm bất ngờ về những cơn mưa không sao giải thích nỗi, tâm trí tôi vụt quay về dĩ vãng xa lắc xa lơ: có một thuở nào xa xôi, xa xa lắm… gia đình ba mẹ tôi đang từ trên đỉnh cao sung túc, phù vinh, giàu sang… bỗng rớt tụt xuống vực thẳm, vì ba tôi làm chủ nhà máy cưa cây, bị nó hại cho khánh tận, đã khuynh gia bại sản. "Của rừng, rưng rưng nước mắt" thật mà! Bao nhiêu tiền ba làm thầy thuốc đỗ vô cây cối, cũng như nước đỗ lá khoai.

        Hồi ấy có màn mưa xám đục buông suốt ngày đêm, rất bé thơ tôi đứng trong khung cửa sổ, nhón chân xem mưa đập lộp bộp vào cửa kính, những dòng nước nhỏ ngoằn ngoèo chảy xuống tấm kính mờ đục, tôi háo hức chờ đợi mẹ về nhà.

        “Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa.
        Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương”
        (cd).

        Mẹ đi chân đất, đầu đội nón lá cũ ướt nhẹp, toàn thân mẹ ướt dầm dề nước mưa, chiếc đòn gánh uốn cong đang kẽo kẹt trên vai mẹ, còng xuống hai thùng nước cơm trĩu nặng. Mẹ đã đấu thầu được cơm thừa canh cặn từ ngoài mấy đồn lính, tự mẹ đến gánh về: Một thùng rất sạch đậy kín đựng cơm nóng, có mấy ngăn cào mên đựng thức ăn, còn nguyên trong chảo, (mà chú quản đội vừa múc ra cho mẹ, chưa có người ăn, thì để cả nhà tôi ăn buổi tối). Thùng kia đủ thứ hỗn tạp, là nuôi bầy heo vài chục con. Mỗi buổi nhọc nhằn trở về nhà, mẹ thường dúi cho tôi khi thì vài cái bánh ngọt, khi có miếng chocolate, hay trái chuối, trái bắp. Tôi thèm ăn nhất là lát bánh mì cứng hấp trong nồi nước sôi, bánh mì nóng mà chắm với nước mắm ớt, nước cá hoặc nước thịt, tôi ngấu nghiến ăn, cảm thấy ngon hết sẫy.
        “Thương con tần tảo sớm hôm.
        Cơm đùm chéo áo, cháo đùm lá môn”.
        (cd)

        Một lần kia, mẹ kêu chủ thầu các trường học nội trú trong địa phương đến nhà, mẹ bán mão bầy heo thịt. Mẹ và các con cháu trong nhà dẫn bà đầm, cùng phu cai xuống chuồng nuôi heo, cách xa nhà bốn mươi mét. Ngả giá xong xuôi, phu cai trói bầy heo cho vào rọ, họ khiêng những rọ heo lên trên đường cái, và vất vào ba chiếc xe ngựa. Bà đầm cầm cái áo veste của bà (đã máng vào càng xe ngựa đậu trên đường cái), bà ta móc túi lấy tiền, thì đồng tiền không cánh mà bay?! Bà đầm tri hô mất ba trăm sáu chục đồng Đông Dương. Bà ta quyết một quyết hai bảo là:
        - “Người trong nhà nầy đã ăn cắp”. (!!?)

        Bà ta tri hô lên làm hung dữ, bà kêu lính hộ tống chạy đi gọi hiến binh, phú lít tới. Hiến binh không cần biết luật lệ phải trái, không cần biết bà ta có mất tiền thật trong túi áo, máng bên sườn xe kéo, để bên lề đường cái; hay không?! Họ còng tay mẹ tôi và xô dụi mẹ lên chiếc xe ngựa. Mẹ nằm với mấy chục con heo kêu la rần trời. Mặc kệ gia đình tôi kêu khóc, phản đối inh ỏi. Chúng hăm doạ:
        - Nếu lộn xộn làm mất an ninh, sẽ bị bắt - nhốt hết cả đám.

        Quân cướp cạn hùng hổ, quất ngựa phóng nước đại chạy như bay. Họ tống giam mẹ vào nhà lao. Hơn nửa tháng bặt tin, sau đó chúng thả mẹ ra. Mẹ về như cái xác không hồn, trông mẹ quá tiều tụy thảm thương. Ba tôi, con cháu xúm xít ngồi chung quanh mẹ, lo lắng hỏi thăm. Mẹ im lặng mà rấm rức khóc sưng húp mắt. Mãi lâu mẹ hổn hển kể lại: Suốt bao ngày mẹ bị nhốt, chúng cho mẹ ăn ngày một bữa nửa chén cơm khô, với ít muối hột. Đêm đêm bọn lính Tây lôi mẹ ra tra điện, chúng độc ác tra khảo, chích điện vào người bắt mẹ phải nhận tội, dù mẹ không hề làm. Mỗi lần mẹ bị bọn tà lọt gian ác tra điện, thì mẹ sợ hãi kinh khủng, dòng nước ấm chảy ra ướt dầm thân thể mẹ. Mẹ không thể nén mồ hôi hột lạnh toát, không thể nín lại cơn buồn đái. Mẹ không đủ sức chịu đựng cơn đau, mẹ đau đến ngất xỉu, thì chúng lôi chân mẹ kéo xềnh xệt về phòng giam trống không giường chiếu. Chúng tạt nước lạnh cho mẹ tỉnh lại, mẹ bị chảy máu mũi, máu đầu. Mẹ run rẩy, mặt mày xây xát, sưng húp, bầm tím. Mẹ thật chịu oan ức tột cùng, mà tiền mất tật mang.

        Suốt từ đó đến nay mẹ luôn luôn sợ hãi, yếu hẳn người. Mẹ bị đau tim và thường xâm xoàng, ngất xỉu vì quá hãi hùng. Bọn Tây thời đó đầy quyền uy, hống hách, ác độc hơn loài hổ sói, người dân thấp cổ hé họng chỉ câm miệng cúi đầu, điếng lặng cắn cỏ ngậm vành, không dám hó hé than van. Vậy đó, mẹ chịu đủ mọi oan ức, khổ sở cay đắng nhọc nhằn, tủi cực trăm bề, để lo nuôi dạy đàn con nên người.

        Một lần kia, sau thời gian bị tra khảo đánh đập tù đày oan ức đó khá xa, mẹ vẫn lặn lội đi gánh nước cơm về nhà, mẹ đã thay bộ áo quần ướt sủng nước mưa. Mẹ ngồi bên bếp lò, giơ đôi bàn tay nhăn nheo sạm nắng chai cứng, tóp teo vì thấm lạnh ra để sưởi ấm. Mẹ âu yếm nhìn tôi ngồi kế bên bỏm bẻm ngấu nghiến nhai bánh mì. Bỗng mẹ nhìn tôi sửng sốt, lạnh lùng hỏi:
        - Đôi guốc mới, con mang đó. Mô rứa?
        - Dạ... Của con... con... l..a...
        - Mẹ đã nói rồi, đợi bán heo, mẹ sẽ mua cho con quần áo, dép guốc... cho con đi học. Mẹ biết con mau lớn, giày dép cũ con mang không vừa, mà đi chân không thì lạnh lắm. Mẹ lo sợ con đau. Ngặt nỗi, bi chừ chưa có tiền. Mà răn con dám cả gan, đi ăn cắp, của ai rứa?

        Tôi cúi gầm đầu, một tay túm mái tóc bum bê, nhìn đôi guốc mới mang vừa vặn ở chân mình. Đôi guốc màu đỏ đầy hấp dẫn, có hai quai cánh cam in đủ màu sắc hoa lá. Tôi thấy nó quyến rũ, ước ao vô vàn từ lâu. Khi chị Tư sai tôi vào quán chị Thế mua trứng vịt, tôm khô. Thừa lúc quán xá bận rộn người mua kẻ bán, tôi lấm lét ngó trước nhìn sau, rồi vội thò tay chộp đôi guốc kẹp chặt vào nách, (đã che kín bằng chiếc áo mưa lụng thụng). Trống ngực tôi đánh rất mạnh, mặt mày tái mét, tôi run như cầy sấy, tôi liền lẽn ra và co giò chạy. Vừa chạy tôi vừa ngoái cổ lại nhìn chị Thế, (là bà chị dâu thứ hai của tôi), chị ấy không biết gì hơn, ngoài việc chị thu nhiều tiền đầy nhóc vào tủ sắt.

        Mẹ già nua trước tháng năm đang gục đầu trên hai đầu gối ướt lạnh, run rẩy, mệt nhọc - và khóc. Mẹ khóc vì tội lỗi của con thơ. Mẹ khóc vì cảnh thăng trầm không thể ngờ, vì mẹ chưa mua nỗi đôi guốc cho con, (chỉ đáng vài xu trong khi tiền ba tôi làm chủ trại cưa cây, thì bạc trăm, bạc ngàn, kể như ba đỗ xuống biển. Và, tiền bán hai chục con heo, mẹ bị bọn chúng trấn lột hết). Trong đêm trường thanh vắng, khuya lắc khuya lơ, tôi nghe rất khẽ nhưng rõ ràng tiếng mẹ đọc kinh cầu nguyện đều đều. Thỉnh thoảng kèm theo vài tiếng thở dài nho nhỏ, lời mẹ nguyện xin cho con cháu bình an, mạnh khỏe.

        Tối hôm đó mẹ thức rất khuya, ngồi một mình dưới gian bếp đèn dầu leo lét, mẹ đã cắt khúc vải nhung màu vỏ măng cụt, để may áo cho tôi mặc ấm. Chiếc áo ấm gồm ba lớp: lớp nhung ở ngoài, mẹ bọc thêm một lớp gòn rất mịn ở giữa, và may chằn thêm một lớp lụa sa tanh mới lót ở bên trong.

        Tôi leo lên giường từ lâu, trằn trọc mãi không làm sao ngủ được, tôi rất sợ và lo âu, không dám nhúc nhích. Tôi cứ mở mắt nhìn mẹ chăm chú làm việc. Khá khuya, mẹ lê đôi dép lẹp xẹp lần mò từng bước, mẹ nhẹ nhàng đi trong bóng tối mờ mờ. Mẹ vặn ngọn đèn dầu hột vịt thật lu, mẹ cố không khua động giấc ngủ của mọi người. Trong bóng tối, tôi hé mắt nhìn mẹ ngồi đọc kinh, sau đó mẹ ngả lưng xuống đệm theo tiếng thở dài. Tôi nằm im giả vờ ngủ say. Bàn tay mẹ lạnh ngắt run run sờ soạn tìm con. Mẹ đặt đầu tôi nằm ngay ngắn trên gối mỏng. Mẹ kéo hai chân tôi thẳng ra, và đắp mềm lên tận cổ tôi. Mẹ ôm tôi vào lòng và hôn lên mái tóc tôi khét nắng. Nước mắt mẹ thấm lạnh da đầu tôi.

        “Nuôi con chẳng quản chi thân.
        Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn”.
        (cd)

        Thì ra mẹ đã khóc. Khóc âm thầm lặng lẽ trong bóng tối. Mẹ giống người chèo đò đơn độc ra tay chống chèo trên dòng nước ngược đầy sóng gió, khi đàn con nhỏ sợ sệt, la khóc, run rẩy bám chặt vào mạn thuyền. Mẹ cố sức chịu đựng giông bão, gian truân âm thầm và câm lặng dai dẵng; miễn sao cho con, cháu, bình yên, no ấm. Mẹ là một trong vạn triệu người Mẹ Việt Nam tần tảo, phúc hậu, ôn hoà cao cả, hy sinh xiết bao suốt đời mình.

        Bốn tuần sau, mẹ bán bầy heo thịt khác. Ba tôi vượt núi băng rừng khổ cực trăm bề làm cúp cây, nay đã hoàn toàn ổn định. Gia đình chúng tôi lại bắt đầu khá giả, vinh sang hơn năm cũ. Nhờ mẹ tôi quáng xuyến, đảm đang, siêng năng, tháo vát. Ba tôi giàu kinh nghiệm và liêm chính đàng hoàng trong việc làm chủ trại cưa, nên ít lâu sau gia đình tôi thoát khỏi cảnh bần hàn.

        Nhưng dẫu có sung túc giàu có hơn xưa nhiều, rất nhiều, thì vết thương đầu tiên về bài học giáo dục đạo đức trong lòng mẹ và con, hẳn không có cách gì lấp đầy, phôi pha được. Kể từ ngày xa xưa đó, mỗi khi tôi có ý muốn lấy cắp cái gì của ai, thì hình ảnh mẹ tôi ngồi bó gối bên bếp than hồng; nước mắt mẹ chảy ướt thấm vào da đầu tôi, vẫn hiện lên rõ nét. Khiến tôi quắt quay và lặng người, vì hối hận không hề dám tái phạm. Đó là nốt “nghịch phách” đầu tiên trong đời vào chiều mưa giông giá lạnh năm xưa. Ước gì nay tôi được chìm trong dòng sông đã chảy qua thời ấu thơ, nơi mái gia đình êm ấm của tôi ở buổi thiếu thời kia, để tôi có thể nói thật nhỏ:
        - Mẹ ơi! Cho con xin lỗi.

        Ôi! Chỉ cần trở về ngày ấy và biết nói câu nầy, thì tôi sẽ sống lại và chỗi dậy trong tâm tư tôi cả quá khứ ngọt ngào, say đắm, êm đềm, nồng nàn, sung sướng xiết bao! Và, bây giờ tôi biết đằm thắm, khôn ngoan gấp bội lần. Người đàn bà còn quá trẻ bỗng co nhói lên từng cơn đau tim nghẹt ứ, xót xa đắng cay khôn tả xiết. Vốn bị nghị lực mài dũa, cọ liếc mỏng tanh, tôi nghẹn ngào, đắng cay, hơn sự cơ cực đọa đày chịu đựng dài lâu. Sự trầm uất nén dưới chiều sâu tâm hồn đã vọt lên tim, lên óc, lên cổ tôi những cục nấc nghẹn ngào tức tưởi. Tôi đứng giữa trời mà khóc, mà cười. Cười khẩy. Tôi không sao hiểu nỗi “đời”! Tâm hồn tôi hằn lên vết rạn, xếp lớp lăn tăn theo sóng đời cơ cực, khi gia đình nhỏ chúng tôi lầm than khốn cùng đã rớt dưới tận đáy xã hội phù phiếm.

        Nơi con đường cũ mà cha mẹ tôi xưa kia rất vinh sang đã từng đi qua đó, và chính gia đình nhỏ cuả tôi từng lả lướt, rộn ràng líu lo ca hát trên đại lộ mỗi độ hoàng hôn… Ngày nay, mẹ con chúng tôi dắt díu nhau lọt tọt, líu ríu bước thấp bước cao, lần mò đi từ ngày nầy qua tháng nọ. Đi từ hừng đông đến hoàng hôn không ngơi nghỉ. Những đôi môi khô nứt nẻ run run nếm đủ cay đắng, ngọt bùi xính vính tình đời còn mấp máy và thút thít, như nghiến chặt hai hàm răng, nghiền nát hiện-tại rát bỏng phừng phựt cháy trong lòng.

        Sau đám sương mù dày đặc ngoài trời kia, là tương lai tối thui và con đường gồ ghề, lởm chởn sỏi đá lẫn lộn bùn tro bầy nhầy. Con đường tiến thân của mẹ con chúng tôi đó, hình như có tiếng âm vọng não nề. Chúng tôi không biết nên bắt đầu đi từ hướng nào cho phải! Đôi bàn tay tôi khô cứng, chai sạn sần sùi nứt nẻ, hợp lực với những bàn tay các con thơ yếu gầy tong teo bé tí xíu, vẫn quơ quơ về phía trước. Cùng lòng can đảm, tận tụy, chịu đựng gian lao, nghèo khổ siết chặt, thì không có cách gì lay chuyển.

        Trời bao la xanh xanh trong trong, không có một vắt mây trắng, nhưng sao đôi mắt tôi mù mây xám giăng mắc!? Giống như những sợi tơ tóc ngày xưa đen tuyền óng ả, quyện cùng chùm tóc bạc trước thời gian đã phủ khắp nẽo đi lối về? Tôi đang mặc chiếc áo gấm của Lụât để lại, tôi tưởng tượng chiếc áo dù cũ, nhưng có phần nào che gió chắn mưa. Thì hy vọng là tôi bớt cảm thấy cô độc, ấm áp và ít lạnh. Ngỏ hầu tôi sẽ đương đầu, chạm trán, chơi những canh bạc đen đỏ với định mệnh. Đành phải như thế thôi. Nếu định mệnh không thách đố gạt gẫm chúng tôi: Xỏ lá sát phạt, chơi khăm chúng tôi trắng tay –và đểu giả lật ngửa quân bài ra– Khi trận đấu chưa bất phân thắng bại. Thưa ông!

        _ * _

        Tình Hoài Hương
        Last edited by Tinh Hoai Huong; 02-25-2017, 07:27 PM.
        Bút trần nào tả được lưu luyến!
        Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
        Tình Hoài Hương

        Comment


        • Khi Người Lính “Thua Cuộc …"



          Last edited by Tinh Hoai Huong; 04-21-2017, 08:47 PM.
          Bút trần nào tả được lưu luyến!
          Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
          Tình Hoài Hương

          Comment


          • Thiên Thần Mũ Đỏ: HOÀNG NGỌC BẢO




            Thiên Thần Mũ Đỏ: HOÀNG NGỌC BẢO
            Nhân ngày QLVNCH


            Chiến binh Nhảy Dù Hoàng Ngọc Bảo sinh và sống tại thành phố Đà Lạt, từ nhỏ đến lớn Bảo đã học tại trường Dòng A’ Dran (Tabert), sau đó Bảo đăng vô lính từ năm 1964, (khi mới vừa đúng 18 tuổi). Mặc dù Bảo bị cha mẹ, và cô bồ xinh xinh phản đối kịch liệt, Bảo vẫn biết mạng sống con người rất qúy trọng và cần thiết, chiến trường thì nguy hiểm gian khổ dường bao. Nhưng Bảo vẫn hân hoan vui vẻ lao mình đến với đồng đội.
            Tôi nhớ mãi nét hào hùng binh chủng
            Nhớ những ngày đầu nhập trại Hoàng Hoa
            Thấp thỏm chờ đợi lệnh phòng Ba
            Mong cho chóng có tên đi học nhảy
            Màn mở đầu là màn thi chạy
            Rồi nhảy đài, hít đất kéo xà ngang.
            Rồi... kéo dây, nhảy xổm thập bát ban.
            Phần sức khỏe dĩ nhiên là qua thoát!!!
            (Mũ Đỏ 198)

            Bảo dự khoá huấn luyện quân sự căn bản ba tháng: khoá sinh đi thụ huấn quân sự ở Tiểu Đoàn khoá sinh Vương Mộng Hồng tại Trung-tâm Huấn-luyện Quang Trung. Trắc nghiệm thể dục cốt yếu rèn luyện thân thể khoẻ mạnh, cường tráng, đôi chân dẽo dai. Tập chạy bộ từ 800m đến 1500m mang theo trang bị cá nhân xong. Sau đó, cán bộ khối bổ sung sẽ đưa tân binh khoá sinh đến Trung-tâm huấn-luyện Nhảy Dù Hoàng Hoa Thám để huấn luyện kỷ thuật về cách lên phi cơ nhảy dù, mang dù (mặc dù) khám dù, bảo trì dù, v.v…
            - Học mang dù & trang bị cần thiết khi hành quân.
            - Học cách nhảy từ trong lòng phi cơ ra ngoài phi cơ (làm quen với phi cơ, làm quen với độ cao):
            - Học điều khiển cách lái dù theo ý mình.
            - Học các thế đáp (té, lăn…) tránh nguy hiểm bản thân.
            - Học cách thu lượm dù nhanh, gọn & bảo trì dù.
            - Học cách tránh bị dù lôi, kéo, quấn (khi trời gió, bão). Bị dù lôi kéo lết… thì không thể đứng dậy.
            - Học nhảy cao 11m để làm quen với độ cao không bị choáng ngợp, không có cảm giác sợ hãi (gọi là chuồng cu); chuồng cu là một cái đài cao giống chuồng… Cao khoảng 11,5m, trên đó có bốn sợi dây cáp dài và to.
            - Học nhảy từ 12m (dây tử thần); tập đáp từ trên cao xuống khi va chạm dưới đất. Chụm hai tay ôm lấy dây dù sát vô ngực, đầu cúi xuống thấp, khi nhảy ra khỏi lòng phi cơ thì không nguy hiểm, vì đầu bị đập ngửa ra sau ót.

            - Học nhảy ngày (5 lần, + 1 lần mang trang bị cá nhân) & 1 lần ban đêm.
            Màn kế tiếp ba tuần liền dưới đất
            Tập chuồng cu, kéo gió, chống dù lôi
            Đài mười thước, rồi nhảy, nhảy chuồng cu!
            Thì... cũng kệ... nghe GO... nhắm mắt phóng...

            - Học Nhảy Dù với ba loại phi cơ: C 47 - C 119 – C 123.
            Tuần lễ cuối... mới là tuần gay cấn nhảy sô đầu C47 hom hem.
            Dây SOA dài thót ruột... chết cha...
            Ầm ầm... rồi im lặng dù mở to
            Mới sựt nhớ mình 'quên' đâu có đếm
            Sô thứ hai nhảy C119
            Từ sô thứ bốn ta GO ngon ra phết
            Mần sáu sô... khóa dù nào đã hết
            Nghỉ một ngày... dưỡng sức nhảy sô đêm
            C123 gầm thét phóng vụt lên
            (Mũ Đỏ 198)

            Sau đó khoá sinh được trở về khối bổ sung, cán bộ khối bổ sung sẽ điều động tân khoá sinh đi các đơn vị cần. Bảo hân hoan hạnh phúc cùng bạn đồng khoá được vinh dự mang danh xưng “Thiên Thần Mũ Đỏ” với khẩu hiệu “Nhảy Dù sát cộng”. Bảo được chuyển đến Lữ-đoàn III Nhảy Dù, quân phục rằn ri mang phù hiệu sư đoàn Nhảy Dù bên tay áo trái, đội mũ beret màu đỏ có gắn phù hiệu Dù.

            Bảo đổi đi nhiều nơi khác trong toàn miền Nam Việt Nam. Bảo từng bị thương bốn lần: Lần đầu tiên vào năm Mậu Thân khi Bảo đang nhảy từ trên trời xuống mục tiêu tại miền Trung, thì Bảo bị bắn lủng ruột, bị mỗ. Bảo được cứu thương nằm trong bệnh viện Cộng Hoà ba tháng. Hai năm sau, lần thứ nhì từ trên cao nhảy xuống đất, Bảo bị bắn xuyên qua phổi, may mà không vào chỗ hiểm. Bảo lại được cấp cứu vào bệnh viện nằm trị liệu mấy tháng. Rồi Bảo lại trở ra đơn vị Nhảy Dù, tiếp tục sống cuộc đời giang hồ phong sương qua bốn bể… mà “nhảy”. Do Bảo vẫn yêu mến binh chủng: “nơi nào cần, Nhảy Dù có. Nơi nào khó, có Nhảy Dù”: Ngang dọc đó đây, vì Bảo yêu đồng đội và tha nhân, dù bao nguy hiểm thiệt thòi có về mình, cũng thì-thầm cầu nguyện:
            Lạy Chúa, xin cứ dùng con theo ý Chúa,
            làm chân tay cho những người què cụt,
            làm đôi mắt cho ai phải đui mù,
            làm lỗ tai cho những người bị điếc,

            làm miệng lưỡi cho người không nói được,
            làm tiếng kêu cho người chịu bất công.
            Lạy Chúa, xin cứ gởi con ra đồng lúa,
            để đem cơm cho người đói đang chờ,

            và đem nước cho người họng đang khô,
            đem thuốc thang cho người đang đau ốm
            đem áo quần cho người đang trần trụi,
            đem mền đắp cho người rét đang run.
            (1*)

            Có nhiều đêm Bảo cùng bạn nằm lì tại Cầu Lòn, họ lần mò đi trong đêm khuya, qua nghĩa điạ Trí Bưu u ám hoang tàn hắt hiu. Bảo lom khom cúi đầu đi dưới đường Duy Tân, rồi lính Nhảy Dù phối hợp cùng anh em lính Thuỷ-quân Lục-chiến oai dũng hào hùng đánh chiếm đại thắng cổ thành Đinh Công Tráng ở Quảng Trị ngày 6-6-1972. Trong trận nầy, đây là lần thứ ba Bảo bị đạn ghim sơ sơ vào tay. Bảo đã nhìn sửng ngọn cờ vàng ba sọc đỏ phất phới lồng lộng trong gió tung bay trên nền trời xanh bao la. Vì đất nước quê hương và dân tộc con rồng cháu tiên. Bảo cũng như đồng bạn tận tụy hết lòng hy sinh vì Tổ Quốc, quyết bám lấy quê hương chiến đấu đến giờ phút cuối cùng.

            Rồi… Lần tham chiến cuối cùng tại khu vực dưới sườn tây Bắc Yankee, và khoảng Delta hướng đông của Charlie, Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù (được thành lập ngày 1-11-1968) kẹp giữa vùng chiến tuyến nầy. Tỉnh Kon Tum có ngọn đồi mang tên Charlie; Charlie tiếp giáp giữa huyện: Sa Thầy, Ngọc Hồi, Đắc Tô). Nơi đây Bảo bị thương khá nặng vì đạn pháo bọn địch lại ghim tứ tung vô thân thể mình, một bàn chân bên phải của Bảo cụt lên tới dưới đầu gối, cộng với những vết thương mới và cũ bị nhiễm trùng, toàn thân Bảo đầy vết thẹo, đau nhức bệnh tật liên miên… Bảo phải vào nằm ở bệnh viện Cộng Hoà và được các bạn đồng đội chia máu hoài, nhưng sức khỏe vẫn chưa thể khá.

            Bạn và Bảo bị chiến tranh vùi dập tan hoang, và đời tàn ác bỏ quên, hất hủi Bảo trong cơn hấp hối tột cùng đau. Biệt nghiệp nầy há chẳng qua Bảo vay của Đời quá nhiều, mà Đời trả chẳng là bao!!? Thế rồi Bảo bị ném ra đường giữa ngày 1 tháng 5 năm 1975. Bảo lấm lét len lén chôm được sự sống… mà lấp ló lây lất lê lết bên nghĩa trang Phú Thọ Hòa. Người sống và kẻ chết -không phân biệt đối xử- đều bị san bằng, khai quật như nhau. Người sống nằm ngủ dưới hố mồ kẻ chết, thây ma bất động bị kẻ đói móc lên, người ốm đói tìm kiếm lấy quần áo (và mừng húm nếu có vòng vàng!!!).

            Có khác chăng ở chỗ là: Thương binh ấy còn có đôi mắt và trái tim rực lửa, luôn bị chao đảo ray rứt, dày vò, khi Bảo tận mắt nhìn ông già, phụ nữ, trẻ con, bị tập trung đi bóp phân người, chân đạp cứt, vai gánh phân đi tưới rau xanh trên nông trường, mong lợi tức tăng gia, nhờ phân bón đặc biệt thu hoạch mùa màng có cái ăn tươi tốt, để mừng thắng lợi chào đón dâng Bác và Đảng.
            Ngậm ngùi nhìn lại thân phận người lính khi tàn chiến chinh, Bảo và bạn cùng trang lứa đau đớn chẳng khác chi nhau:
            Tôi, người lính Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù
            Năm 75, 29 tháng Tư
            khi đoàn tàu chở đơn vị tôi
            chuẩn bị rời Vũng Tàu hướng ra Đông Hải

            Thương cha mẹ già, đàn em dại
            tôi bước lên bờ ở lại quê hương
            nhưng cha mẹ già chưa được gặp
            cũng chưa thấy mặt đàn em

            các anh, những người chiến thắng
            súng dí sau lưng
            đẩy tôi vào trại tập trung
            rồi bằng những lời dối trá

            trái tim vô tình tia nhìn thù hận
            các anh cướp mất của tôi
            những tháng năm đẹp nhất cuộc đời
            (2*)
            * * *

            Bảo rất vui mừng khi biết tin mẹ con tôi trôi giạt về ở Hốc Môn, thỉnh thoảng Bảo từ trên khu nghĩa trang Phú Thọ Hòa xuống Thành Ông Năm thăm chúng tôi. Các con tôi rất qúy anh họ của chúng, bé Tuấn mừng rỡ ôm chầm lấy anh, vui vẻ nói:
            - Anh có khỏe không?
            - Nhìn anh, thì em biết rồi.
            - Chân cẵng, ruột, và bao tử của anh, ra sao rùi?
            - Một chân cụt nè. Lũng ruột nè. Bao tử đau liên miên. Em còn muốn hỏi gì nữa?
            - Thật khổ thân anh. Đó là cái đại nạn của anh và dân tộc mình á.
            - Đời mà em.
            - Anh bỏ hút thuốc đi, là vừa!
            - Sao vậy?
            - Hại sức khỏe lắm.
            - Em nói chuyện đến hay. Chỉ vài hơi thuốc lào, mà bệnh sao?
            - Anh sẽ ho lao, giảm tuổi thọ nữa.
            - Sống chết có số. Anh chẳng còn tin gì.
            Bé Dzũng vít cổ anh, cười hì hì:
            - Đau ốm đủ thứ như anh, phải uống sâm cao ly, mới kéo dài tuổi thọ à.
            - Chuyện! Vậy chớ đứa con nít mới sanh, chẳng may nó ngoẽo, chắc tại nó ưa hút thuốc lào, và không uống sâm i,́ ha em?
            - Anh nầy thiệt á.
            Bé Hoàng bu vào lưng Bảo, bắt anh cõng:
            - Nhà giàu họ uống sâm đầy ra đó. Anh Bảo.
            - Vậy họ có thoát chết không nà?
            - Anh thèm thuốc lào, nên nói tào lao vậy mà.
            - À há! Bây chừ anh còn chi để thèm hơn là thèm hít. Anh mừng khi các em đã có ít hành trang: vào đời đắng cay, chua xót. Em cứ mạnh dạn tỏ bày. Có thể anh sẽ nghe lời khuyên hữu ích.
            Bé Huy sà vô lòng anh:
            - Anh phải nghe, không thì anh chết sớm là cái chắc!
            - Anh đã trả nợ thân anh cho non sông rồi, thì còn gì nữa đâu em, anh chả còn gì để luyến tiếc với đời!

            Nghe mà nghẹn đắng, xót xa, chua chát cõi lòng tôi. Thỉnh thoảng Bảo cũng như tôi, hai dì cháu có lên Sài Gòn gia nhập vào đám “Thương-Binh Du ca da cu bè” của các anh lính VNCH què cụt tổ chức lậu (của nhiều binh chủng & đơn vị cũ hợp thành). Họ đã bầu tôi: (Trong đám mù-chột nầy, thì chỉ có chị là có vẻ “dễ nhìn” hơn hết; mong chị làm vua cho đám “lu xu bu” kia nha. Chị Mười)! Các anh ơi! Các anh nào biết, tôi đã mang bệnh trầm-kha bất khả tri-luận, còn đau đớn gấp trăm lần phế binh nữa ấy, các anh à.

            Chúng tôi ca toàn những bản “nhạc vàng”, hay lúc đó phe kia gọi nhạc “đồi trụy”, nhạc tù ca (khi không thấy bóng dáng bọn “công an áo vàng”). Thật tức cười, nhạc mà cũng có màu sắc: vàng, đỏ, xanh, nữa há? Thật ra mấy anh ca bè rất hay. Ca hay thì tiền càng nhiều, “bổng lộc” do dân nghèo thương mà giúp. Ông bà cô bác đi chợ khát khao nhạc thời trước, nhạc cũ… họ thường ghé lại coi chúng tôi trình diễn. Họ vui đùa có ngụ ý ám chỉ gọi chúng tôi là: “Thương phế Binh Ngũ Linh”, hoặc nhóm “Bè da cu du ca”. Cái tên ấy do dân mến thương đặt ra, vậy mà nghe thật là chí lý! Bây giờ những thương binh ấy chỉ còn da bọc xương, trên răng dưới dái, thân thể là nơi tập họp những thứ tật nguyền: mù chột, cụt tay, cụt chân, lũng ruột, bụng còn băng đầy máu. Họ bị quăng ra khỏi y-viện, chỉ có trên răng rụng dưới teo tóp... thì, chả còn da với cu là gì! chả còn gì. Thật chẳng còn gì!

            Lính chiến trận trở về (sau ngày mất nước) không tìm thấy gia đình, không thân nhân, mất tin tức không liên lạc, người ta tan tác trên mọi ngã đường. Lính lê lết chống gậy đi tìm nhau từ các vùng khỉ ho cò gáy, nơi thâm u cùng cốc: chỉ có muỗi, ruồi trâu, vắt, đĩa, hút máu người, và luôn truyền cho bệnh cấp tính sốt rét da vàng cao độ, ho lao, thổ tả, kiết lỵ triền miên. Cho đến lúc tàn hơi mà toi mạng cùi! Họ phải lê lết hành khất từ vùng kinh tế mới nơi chó ăn đá, gà ăn muối, bò lê bò la… rị mọ lặc lìa lặc lọi về tới thành phố.

            Nào ngờ họ lại lâm vào cảnh màn trời chiếu đất, ăn xin ở ngoài đầu đường, ngủ ở xó chợ! Những thương binh ấy đã bỏ lại một bàn chân, một cánh tay, một hai con mắt trên vùng giao chiến hung tàn. Họ trở về dưới mái nhà xưa thì biếng nói, không cười, sống lặng lẽ âm thầm, nức nở dày vò, đớn đau mà nghiến chặt hai hàm răng, suốt ngày họ lầm lì đăm chiêu suy tư trong dòng sông chảy xiết riêng mình từng cơn đau mệt lã dày vò ân hận và phiền muộn.

            Nhưng có anh lính nào may mắn còn gia đình, thì các bà mẹ, bà chị, vợ con của họ thế nào họ cũng vui mừng, hớn hở lăng xăng quanh thằng con trai tật nguyền cùng khắp. Bà mẹ mủi lòng mừng con trở về mà vui hơn bắt được ngọc ngà. Lính què cụt đui mù phải đùm túm nương tựa vai vợ con, với cha mẹ già, thương mến an ủi nhau mà lây lất sống. Ngày trước họ đi lính, do chiến tranh tàn nhẫn gậm nhấm hết cơ thể. Nay thì người lính chột đi đạp xích lô. Người cụt bán bánh mì, bán vé số, người mù đi xin ăn. Họ vừa rao, vừa đánh đàn, thổi sáo, gỏ trống hát dạo ngâm nga bài thơ:
            Tao cụt một chân, mất một tay
            Nhưng còn một tay
            Để viết thơ dùm cho thằng mù hai mắt
            Nghe nói ở xứ người chúng mày "cày" như trâu
            Nhưng không quên đồng đội
            Chia đô-la cho chúng tao, như chia máu ngày nào...
            Tao cũng sớt cho mấy thằng bạn: phế binh Việt Cộng!
            Chúng cũng què đui sứt mẻ như nhau
            Bởi Đảng của chúng bây giờ là lũ đầu trâu...
            (3*)

            Có những lần nhóm tôi đang hát nhạc tiền chiến, nhạc tù ca, thì thấy công an đi trờ tới, (công an có lệnh diệt tận gốc: “Trí, phú, địa, hào” mà)! Anh thương binh Mẫn còn một bàn tay thật và tay giả trong chiếc găng tay da, rất nhạy bén nhanh miệng, anh liền chuyển tông qua bài hát tếu hài ngay. Mẫn vừa khua tay múa kiếm làm trò, thật vui tai, vui mắt, ai nghe cũng nực cười:
            - Bác Hồoo… cho em cây viết. Em vẽ con dao găm, em đâm thằng lính Mỹ. Con cóc trong hang, con cóc nhảy ra, con cóc nhảy ra, con cóc ngồi đó, con cóc ngồi đó, con cóc nhảy đi Thanh Niên Xung Phen. Em theo chủ nghĩa siêu Việt phồn vinh cuả Móc-Cu Ra Đớp ở Liên Xô. Hỡi..oi õi… đồng bầu! Hãy đi Thanh niên xung pheng. Tùng Tùng Tùng!!! Bảo vệ tổ quốc! Bèng béng bèng!!! Từng tứng tưng… tằng tắng tăng...
            - Ủa! Cổ động viên nè! Hoổ…ong có ai dỗ tay cả hé?
            Thương binh Bảo nhanh nhẫu chế-biến câu ca tiếng Việt liền tiếng Pháp, (vì hồi nhỏ đến lớn khôn, Bảo đã học ở trường dòng A’ Dran tại Đà Lạt, nên nói tiếng Tây, lẫn sinh ngữ Anh cũng lưu loát), nghe như gió thật.
            I've just closed my eyes again
            Climbed aboard the dream weaver train
            Driver take away my worries of today
            And leave tomorrow behind
            Ooh dream weaver
            I believe you can get me through the night
            Ooh dream weaver
            I believe we can reach the morning light
            Fly me high through the starry skies
            Maybe to an astral plane
            Cross the highways of fantasy
            Help me to forget today's pain …

            Bảo còn kêu tên các ca sĩ nổi danh ở thập niên 70 ra “ca” có âm điệu và khảy đờn trống rùm beng… từng tứng tưng…, bùm búm bum... bèn béng beng…: - À Á a Le moi sensibe = cái tôi tình cảm. Ám sát tinh thần = assasitnat moral. Đời! C’est la vie! Tình tinh tang! C’est la mour. Thầy chùa sans cheveux. Bà xơ sans cooc xê, end sans xi-níp!! Ha ha ha!!! - Johnny Halliday… O oh ho… Sylvie Vartant… É é é… Francoise Hardy. Vicky Leandros nổi tiếng L’amour c’est pour rien… từng tứng tưng… Oh! Mon Amour. Ối ối a… Poupée de cire poupée de son. Bùm búm bum… Adieu jolie Candy…. Là lá la… Aline. Christophe. tằng tắng tăng… La vie c’est une histoire d’amour… chát chát chát… tùng tùng tung… phèng phéng phèng…

            Thiệt là tầm bậy tầm bạ, dấm dớ, ú ớ ngố ngáo, ngu ngơ, vớ vẩn hết sức ba xàm ba láp! Thế mà khán giả bình dân thích thú, khoái trá cười rõ to; nghe "rất đễu"..., nụ cười bằng mười thang thuốc bổ thời nay, để chưởi vô mặt bọn cán ngố (tiếng Việt một chữ bẻ đôi còn chưa rành, huống gì họ hát tiếng Anh tiếng Tây) ngu như con bò tót mà. Họ vổ tay rần rần… rầm rầm rầm… bụp bụp bụp! Họ hể hả bỏ tiền lẻ vô chiếc mũ vải. Cứ thế, chúng tôi cúi đầu lạy tạ, san sẻ, bù qua sớt lại cho nhau mà sống trong đậm đà tình nghĩa, thành thật mến thương hèn mọn.

            Tôi có bổn phận vừa “ca-bè” vừa cầm mũ vải đi xin tiền quý vị khách thập phương hảo tâm. Có người nhận ra mình:
            - Oai Oái! Không ngờ bà ấy ngày xưa lừng danh là một hoa hậu, giàu sang và tri thức. Nay bà ta lê lết làm kẻ ăn mày, coi kìa!

            Thực ra, bây giờ trong chế độ nầy, tôi đang chìa nón đưa tay ra lạy ông đi qua, lạy bà đi lại, ngỏ hầu xin tiền bố thí, thì có hơn gì ả ăn mày nào! So sánh phận hèn tôi ở xã hội nầy, có cái gì khiến tôi mủi lòng, se se từng cơn quặn thắt nghẽn đắng trong lồng ngực cuồng quay. Có cái gì đau đau, cay cay, xót xót, đắng nghét trên bờ mi tôi vụng dại? Sao ông Trời nỡ đi chơi đâu vắng, không cúi xuống nhìn đời chút xíu, sao tôi không lột xác, không biếng dạng méo mó ít nhiều, cho mình đỡ xấu hổ ha?

            Tôi và nhóm thương binh chế độ cũ bị Đời quên lãng vẫn âm thầm lặng lẽ, nhẫn nhịn âm thầm chịu nhục mà bò lê trên đường cần cù kiếm sống. Cho đến ngày 6 tháng 2 năm 1985, tôi đang làm cỏ ngoài ruộng, thì Bảo leo xe đò xuống Thành Ông Năm cho biết tin: tại chợ Bà Chiểu đã diễn ra trận đấu đá kinh hoàng giữa “công an và phế binh đỏ”, (phế binh đỏ, chứ không phải phế binh “du ca da cu bè”). Công an đã bắt đám đờn ca “phế binh đỏ”. Vì “đỏ” (cờ Việt-cộng máu) mà họ chuyên hát toàn nhạc “vàng”. Thời buổi nầy hát nhạc vàng mới ăn khách. Đỏ mà ca hát “nhạc vàng” tức là trắng trợn thành “Ngụy” rùi! Thành thật mà nói thì “nhóm đỏ” kia họ cũng có xí tài khảy đờn, ca hát giọng Bắc khi trầm ấm lúc véo von, nghe cũng hay ra phết. Đồng bào đứng ngồi tám lớp vòng trong vòng ngoài, say mê thèm khát nghe “nhạc vàng”.

            Công an thì như vòng siết của Kremlin, luôn vươn tỏa vòi bạch tuột ra, quấn lấy “nhóm phế binh đỏ” và rượt người dân ngu khu đen tay giơ cao cờ trắng chạy té khói. Họ có đủ quyền hành để thao túng, dân mà chậm chạp có chạy đi đâu vẫn không thoát. Ấy là tôi đang nói từ những thập niên 75- 85 í nha. Công an là ông trời con ưa tùy tiện bắt giam, khảo xét, lục soát bất kỳ nơi đâu họ muốn. Dính dáng tới họ, chỉ có nước đi tới đường cùng, chết treo trong cùm, hoặc mất tích mất tang thân thể.

            Trong Điều 7 của Đạo Luật Rome đã định nghĩa: “Tội thủ tiêu mất tích Người” (Enforced Disappearance of Persons) như sau: Thủ tiêu mất tích người có nghĩa là: bắt giữ, giam giữ hay bắt cóc người ta với sự cho phép, sự hỗ trợ hoặc sự chấp thuận của một quốc gia, hoặc một tổ chức chính trị. Sau đó không nhìn nhận sự tước đoạt tự do của người ta, cũng không thông báo tin tức về số phận hoặc nơi giam giữ, với chủ tâm tước đi quyền được luật pháp bảo vệ của những người này trong một thời gian lâu dài. (Enforced disappearance of persons means the arrest, detention or abduction of persons by, or with the authorization, support or acquiescence of a State or a political organization, followed by a refusal to acknowledge that deprivation of freedom or to give information on the fate or whereabouts of those persons, with the intention of removing them from the protection of the law for a prolonged period of time.).

            Thế là từ đó nhóm “Bè du ca da cu” của chúng tôi mất đất sống, tan hàng rã đám, biệt tích giang hồ! Khổ …khổ hết biết! Khi nạn cướp bóc giựt dọc luôn xảy ra tại các khu thị tứ, các trạm xe bus. Người ta bị cướp trắng trợn, giật sạch, mất trắng tay chẳng còn gì. Ai có la làng, khóc lóc, có nhảy tưng tưng, thì cũng huề cả làng. Đôi khi công an đi qua đó cũng ghé lại, làm biên bản lấy lệ. Người bị cướp đứng xớ rớ, công an điệu về bót cung khai lý lịch lấy lệ, rồi xù xì bỏ đi. Bù trớt (chính tôi đã từng bị mất sạch nhiều lần).

            Đồng thời lúc nầy nạn thanh niên nam nữ ốm đói nghiện xì ke, chích ma túy công khai trên các con hẽm ở Bàn Cờ, bên khu Gò Vấp, Khánh Hội... ôi thôi không thể đếm hết. Có vài lần tình cờ đi qua khu nhà Phùng, tôi đã trông thấy nơi góc hẽm vào một sáng sớm: có ba bốn thanh niên đang dùng chung một ống chích. Tên con trai cầm cây kim tiêm thuốc xong, đưa cho một tên bạn đã ngồi bệt xuống đất, hắn lấy sợi dây lưng quần cột chặt cánh tay trái, và chụp nơi tay thằng đang cầm cây kim, tự nó lụi vào tay mình, máu từ mũi cây kim tuông ra thành một dòng dài trên cánh tay hắn, không có bông gòn và thuốc sát trùng sát triết chi. Một tên khác hình như thiếu thuốc, hay đến cơn ghiền dữ dội, đã nằm vật ra bên lề đường, hắn sùi bọt mép, tay chân co giật từng cơn vật vã. Tôi hoảng hồn mất vía, lo sợ tột cùng, vội vàng lủi đi thật nhanh.

            Từ khi chộn rộn sau năm 1975 bỗng đâu lại sinh ra nhiều bọn xíu xíu, dé dé, choai choai, nho nhỏ… đi đứng le te, ỏng ẹo, giọng nói ồ ồ, râu ria lởm chởm, nhưng chúng lại mặc đồ đàn bà, mặc xú chiên giả nhồi độn ở ngực hai quả bóng nhựa ti tí. Chúng thoa son dồi phấn, kẽ lông mày, trông bọn nhỏ cũng xinh xắn ra phết. Bọn “bóng lại cái” nầy đa số là con nhà khá giả, thỉnh thoảng chúng tập trung ở Bình Triệu, chẳng hiểu sao chưng diện rất đẹp, ưa giả dạng “nữ nhi đào tặc”, để trốn không đi Thanh Niên Xung Phong, hoặc bị bắt đi Nghĩa Vụ Quân Sự.

            Thế là nạn đồng tính luyến ái rần rần xảy ra, lan từ thành phố Sài Gòn về tận các miền quê. Con trai tôi ở trong ban văn nghệ cuả Huyện, mới đầu con trai tưởng bọn họ là con gái mặt hoa da phấn phè phỡn thật (khi có đoàn hát trên Sài Gòn về trong Huyện, Xã, thường có mấy “en Gay”) con cũng như ai thấy gái đẹp ngu sao không mê! xề lại, hai bên rù rì hủ hỉ ríu ra ríu rít chuyện trò vanh vách, thân mật da diết! Nhưng khi con trai bị mấy tển “bê-đê” cao lêu khêu đúng là “đĩ đực rựa”, tối đến khi tan văn nghệ, chúng cùng con ngủ chung phòng, (con lúc đó đi học lớp 12, vừa đi bán bánh bò, đi làm thuê dỡ nhà, dỡ tôn với chủ, đi xây nhà do chủ thầu mướn, con cũng có biệt tài đi đờn giỏi và hát rất hay cho ban văn nghệ, để kiếm sống). Thì nửa khuya đang say ngủ, con bị một tên đẹp nhất trong bọn cạy miệng nút lưỡi, mò cu tới tấp. Con trai hoãng sợ, la hét, tung mùng ôm quần áo chạy chạy chạy... có cờ. Nhưng, cũng thật thà mà nói có nhiều “ẻm” trông yểu điệu thục nữ, mảnh mai, duyên dáng, xinh đẹp và ca hát, múa đèn, vũ múa điệu Thái, điệu Lào rất dẽo. Giọng ca các “en” nức nở, trữ tình, nghe khá tuyệt!
            * * *

            Ở trên cõi đời ô trọc nầy, Bảo luôn bị những căn bệnh cũ hành hạ thân xác càng đau đớn và điêu đứng. Nay hoà bình về, dòng sông tình được thuyền đời trôi đi. Nhưng rồi cũng có khi thuyền bất ngờ bị sóng vùi dập, và lật úp thuyền! Bảo thật sự chới với điêu đứng khi bạn bè chiến đấu tri kỷ thân thuộc chỉ còn lác đác mấy người trên đầu ngón tay. Bảo không biết thổ lộ tâm sự cùng ai mong thông cảm, nên Bảo rất đau buồn!

            Có thêm cơn bệnh trầm kha ẩn dưới đôi lông mày khiến Bảo luôn nhíu lại... mà không có thuốc chữa. Chuyện hồi xưa và ngày nay, Bảo mang trong trái tim cuồng nhiệt xót xa và thổn thức. Bảo biết đói khổ, đau đớn từng giờ, từng ngày. Nỗi đắng cay oan nghiệt, rền rĩ siết chặt giữa hai hàm răng khát khao nghiến lại. Sự đớn đau luôn cào xé dày vò tâm trí và thân thể Hoàng Ngọc Bảo, người lính trung thành với chính phủ Việt-Nam Cộng Hoà, đã không e dè đem thân xác mình làm bục kê, làm bàn đạp, để người khác dẫm lên. Chiến sĩ ấy âm thầm lấy lưng đỡ đạn, cùng đồng đội quyết chí ở lại trên chiến tuyến, đến giờ phút quê hương lâm chung, mà van lơn người đã ra đi, thống thiết van xin người bỏ nước ra đi tìm tự do:
            Hãy gửi về cho chúng tao vũ khí
            Thằng cụt tay sẽ chỉ cho thằng mù mắt bấm cò
            Thằng còn chân sẽ cõng thằng què quặt
            Trận chiến sau cùng này sẽ không có Dương Văn Minh
            (3*)

            Dù tật nguyền cùng khắp thân thể, nhưng mặt mày Bảo vẫn đẹp trai, ăn nói tao nhã duyên dáng, nhất là Bảo có tài kể chuyện đời lính “oai hùng, hùng hồn và mất hồn” đó đây rất hấp dẫn. Bảo kể chuyện tiếu lâm khá có duyên, khiến người nghe say sưa, thỉnh thoảng Bảo ha hả cười rất thoải mái, mà quên tiệt bụng đang cồn cào đánh lô tô! Nên ai ai cũng mến thương Bảo.

            Tôi vẫn gánh hai thùng phân thối um, trĩu nặng, cố lê từng bước trên con đê gập ghềnh. Nắng chói chang, tôi ra sức kiên nhẫn chịu đựng “tăng gia lao động tốt”, hầu mong chồng ở trong trại tập trung tù tội sớm được thả về, như Đảng đã hứa. Nhưng nghiệt ngã thay, chờ người người ở nơi đâu vẫn biệt tăm! Nhiều lần lội xuống hố phân người, chúng tôi đứng chưa vững, phải bám chặt lấy nhau cho khỏi ngã. Bùn và phân đặc sệt, ngập tới bắp chân, mọi người ngửa mặt lên trời, há hốc miệng mà thở. Hơi bùn, hơi phân tươi xông lên nồng nặc, trời nắng chang chang muốn ngộp thở, hôi thúi kinh khủng. Nước mắt tôi không trào ra mi, mồ hôi không thấm qua làn áo thô cứng sột soạt như mo cau, mà dội ngược vào tim, tạo thành chuỗi uất-hận dâng cao ngút.

            Những tháng ngày khổ sở nghèo khó mỏi mệt từ 75 cho tới năm 90 vẫn như thế. Ở gần bên tôi không còn người cháu thân thiết hiền lành vui vẻ và cùng nhau chia xẻ ngọt bùi! Tôi đã xa Bảo, Bảo về Phan Rang rồi, tôi lại càng nhớ đến cháu Bảo thân yêu vô cùng! Sau năm 1998 cuộc sống gia đình Bảo rất đạm bạc, bần hàn, nếu không nói là quá nghèo khổ nơi xứ chó ăn đá gà ăn muối. Bảo dựng tạm một căn chòi bé nhỏ lụp xụp ngay sát khu nghĩa địa tại Phan Rang, một góc nhà bên hướng phải đã kê lên trên mấy ngôi cổ mộ. Chung quanh nhà Bảo toàn là mồ, đúng là một bãi tha ma u ám đầy bóng tối và kinh dị. Ấy thế mà Bảo và vợ con họ không hề sợ ma. Có phải chăng từ khi đổi đời thì họ “sống” giữa “người chết”, coi bộ “âm ty địa tào” còn hiền lành hơn trăm lần sống trên trần thế?! Hay là bởi tự cái số kiếp oái uăm, bắt Bảo phải sống “tử thủ” với mồ mã ông bà cha cố người đã chết; kể từ khi Bảo lột khỏi thân thể bộ áo lính Dù, để đổi đời!!?

            Bảo lui về quê vợ ở Phan Rang, sống ẩn dật (mãi về sau nầy khi gia đình tôi đi Mỹ, tôi có chuyển cho Bảo vài ngàn, nên Bảo đã mua một chiếc xe cúp, Bảo làm nghề “xe ôm” bằng một chân giả, một chân thật, cộng với một mắt thật trông chừng con mắt giả, để nhìn rõ đời không bị giả tạo thêm)!!! Năm 2005 Bảo lâm trọng bệnh, Bảo có em trai ở Mỹ liên tục chuyển tiền hậu hỉ về nhà, để thân nhân đem Bảo đi ra đi vô Sài Gòn - Phan Rang không biết bao nhiêu lần.

            Căn bệnh trầm kha từ ngày chinh chiến ấy đã gậm nhấm, đào xới, bào mòn, tướt đoạt đi của Bảo nhiều miếng thịt: trong phổi, trong tim, trong chân tay… bây giờ hoạn nạn bệnh tật đã đối mặt lây lan khắp thân thể Bảo, nó hoành hành ăn tươi nuốt sống Bảo mất rồi. Bảo bị mù cả hai mắt, không còn nhìn thấy Đời. Toàn thân và tay chân Bảo sưng phù, nhớt nhau nước nhờn chảy ra trên lưng đứa em ruột tên Toàn (em trai là sĩ quan VNCH bị tù "cải tạo" bốn năm, thương anh tật nguyền, em không nở ra đi, mà em tình nguyện ở lại Việt Nam ngày ngày em vẫn cùi cụi cõng Bảo đi ra đi vô bệnh viện). Bảo “nằm lì” trên tấm lưng thằng em ruột. Bảo rầu rĩ đọc bài thơ:
            Tao bị thương hai chân
            Ngày "giải phóng miền Nam"
            Vợ tao "ẳm" tao như một đứa trẻ sơ sanh...!
            Ngậm ngùi rời "Quân-Y-Viện"
            Trong lòng tao chết điếng,
            . . . Vợ tao: như "thiên thần" từ trên trời rơi xuống...
            Nhìn hai đứa con ngồi trong căn chòi gió cuốn, bụi đất đỏ mù bay!
            Tao thương vợ tao yếu đuối chỉ có hai tay
            Làm sao "ôm" nỗi bốn con người trong cơn gió lốc.
            Cái hay là: Vợ tao dấu đi đâu tiếng khóc.
            Còn an ủi cho tao, một thằng lính què!
            Tao đóng hai cái ghế thấp, nhỏ bằng tre,
            Làm "đôi chân" ngày ngày đi lại
            Đời lính gian nan sá gì chuyện gió sương...
            (Trang Y Hạ)

            Bảo lặng lẽ âm thầm nghiến cục sạn giữa hai hàm răng, mà không hề oán trách số phận quá tàn ác! Một ngày kia Bảo đã không thể chịu đựng cơn đau đớn hành hạ thể xác lẫn tinh thần hơn, Bảo từ trần vào ngày 19 tháng 6 năm 2005, là ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà. Trước khi lìa đời, trong cơn đớn đau kinh hoàng chới với mê sãng, Bảo vẫn luôn miệng nhắc tới tên những vị chỉ huy, nhắc tới vị tướng Trần Quốc Lịch mà Bảo tôn kính, miệng Bảo kêu tên những đồng bạn, họ vì tổ quốc và quê hương đã ra đi khỏi tầm mắt của Bảo. Nhưng họ không ra khỏi lòng Bảo một giây phút nào; dù đôi mắt Bảo mù lòa vĩnh viễn khép lại từ lâu, và lòng Bảo đã đóng chặt cửa. Nhất là Bảo chẳng khi nào có ý ngoảnh mặt phản bội quê hương, mà đi ra khỏi lãnh thổ Việt Nam có hình chữ S dấu yêu. Quê hương đã ôm trọn Hoàng Ngọc Bảo vào lòng. Đất mẹ không từ bỏ hất hủi Bảo bao giờ (khi mộng ước của Hoàng Ngọc Bảo đã không thành!) như Nguyễn Trường Tộ đã nói:
            “Nhất thất túc thành thiên cổ hận.
            Tái hồi đầu thị bách niên thân” .
            (Một bước lỡ để nghìn năm mang hận.
            Ngoảnh đầu trông lại đã trăm năm)(*)
            Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
            Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh
            (**) (*)

            Bảo dư biết ý đó nghĩa là: Từ xưa đến nay hỏi rằng ai không chết? Hãy để lòng son chiếu sử xanh. Đây là hai câu thơ tiếng Hán của một tướng lãnh Trung Hoa, tên Văn Thiên Tường). (**) Hai câu thơ sau của Nguyễn Công Trứ. Hoàng Ngọc Bảo cũng biết ý tác giả là: “người ta chưa chắc ai hơn ai, mà chỉ biết ai anh hùng sau khi thời thế đã xảy ra”. Giống như bài thơ “Chiến Mã Ca” của anh tù học tập “cải tạo” Lê Xuân trầm uất ai oán; được anh tù “cải tạo” Trần Lê phổ thành nhạc rất tuyệt vời, (vì có mấy lần Bảo đã về Hốc Môn ở lại nhà tôi sáu tháng). Bảo nghe nhóm “Tù ca Xuân Lộc Z 30 A” bạn chúng tôi, khi ra tù mỗi tháng họ đều hẹn hò họp bạn tại nhà tôi, để đàn ca.

            Bản nhạc nầy Bảo rất thích và đã thuộc lòng. Trước lúc vĩnh viễn từ bỏ cuộc đời, đành buông thỏng hai tay, bất chấp những dày vò trong tâm tư, cùng những cơn đau thể xác triền miên hành hạ, Bảo phải đành chấp nhận số phận mình đã “thua cuộc chơi” (chứ chẳng phải mình là người lính “thua cuộc chiến”). Bảo đã não nuột cầm cây đàn mà ca rất hay:

            Vàng phai trên thanh gươm.
            Người mái tóc điểm sương.
            Ngựa tung vó trong mưa buồn trên quê hương sầu thương.
            Đường mây vỡ tan thành mộng cô đơn còn mơ sa trường.
            Bóng xô nghiêng hoàng hôn.
            Mài gươm trong cô đơn người nuốt những hờn căm.
            Ngựa nuôi móng non thay bờm trên quê hương cuồng phong.
            Đường xa dẫu xa muôn trùng trong đêm nay
            Ngựa phi sa trường bóng dõi bóng quê hương.
            Chiến mã tiến đến sát dòng sông
            đêm quê hương mênh mông sao chưa hừng đông?
            Chiến mã rất khát nước trong trên quê hương tang thương.
            Ai qua trường giang !!! ???
            (4*)
            *

            (1*) TP(2*) Phạm Đức Nhì(3*) Nguyễn Cung Thương
            (4*) Trần Lê Việt & Lê Xuân N...
            ***

            Tình HOÀI HƯƠNG
            (dì Thuỳ Mến tưởng nhớ cháu Bảo:
            từ giã cuộc đời vào ngày 19-6-2005; ngày QLVNCH)
            Last edited by Tinh Hoai Huong; 02-25-2017, 08:29 PM.
            Bút trần nào tả được lưu luyến!
            Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
            Tình Hoài Hương

            Comment


            • Truyền Nhân Nam-Khoa-Y



              Truyền Nhân Nam-Khoa-Y


              Hai người ăn mặc chỉnh tề, đeo kính mát, mang theo hai mũ bảo hiểm, chuẩn bị chu đáo cho một ngày đi xa… Năm đổ xăng thật đầy bình, vui vẻ chở Mi Mi từ Sài Gòn đi lên Nghiã Trang “Đô Thành”. Cơn triều cường chảy hoài đến khúc quanh cầu Bình triệu, Thủ Đức, vẫn ngập tới nửa bánh xe, mặc dù mưa chiều hôm trước không to lắm, nhưng nước đọng còn dâng cao. Ồ, đó là nơi nhà ga cũ, nơi xưa kia mỗi lần đi qua đây, Năm và Mi bị ngập lụt nước mưa, phải bỏ cả giày dép ra, hai người lội bì bõm dưới nước bùn sình hôi tanh đen ngòm. Hầu đẫy chiếc dream chết máy khó khăn nhọc nhằn vô cùng, hì hục mãi không đẫy xe nỗi. Hai anh em nâng đầu xe lên cao cho nước chảy ra. Sau đó anh đạp hoài đạp mãi, thì xe nổ máy.

              Năm chen lấn đoàn xe đông như kiến đang bì bõm trong sình lầy dù nước đọng, họ vẫn chạy nhanh. Nước bắn tung toé lên đầy ngực Mi. Chỗ đó vẫn luôn bị ngập lụt. Năm chạy xe đến gần cầu Gò Dưa mới có đoạn đường tốt. Chạy xe mãi đến gần ngã tư xa lộ Thủ Đức. Anh rẽ vào lối đi tắt, đi lung tung vòng vèo đến nghĩa trang Đô Thành thăm bạn thân nhất đời đã về cõi vĩnh hằng. Gửi xe xong, Mi mua một bó hoa, một bó nhang, hộp quẹt, nến. Hai người đủng đỉnh tới ngôi mộ Tấn, khi mặt trời đang đứng trên đỉnh đầu.

              Gia đình Tấn chọn nơi nầy thật đẹp, nghĩa trang rộng khoảng 10 hecta đất gò cao ráo, phóng khoáng. Nơi mà hồi xưa Trung-tướng Mai Hữu Xuân đã mua, rồi nhờ ba của Năm đứng ra chăm chút cai quản. Tấn được vào nằm trong nghĩa trang nầy (nghĩa trang uy linh tương tự như Arlington ở Washington DC), là một vinh dự to lớn, vì Tấn nổi tiếng là một bác sĩ khá giỏi. Trước ngôi mộ xây đá cẩm thạch đen khá cao, rất đẹp, bia mộ Tấn có ghi đầy đủ tiểu sử. Hình Tấn chụp vào độ tuổi trung niên thật phong độ, trẻ trung, vui tươi, hiền hoà. Sau lưng bia mộ lớn là tấm bảng đen bóng, trên đó khắc ghi một bài thơ tiếng Anh, đại ý là:
              I burst into tears at my birth.
              Whereas one laughed for congratulations!
              Now I am brought at an early grave.
              One mourns over me crying.
              Only me that I smile quietly.
              “Lúc tôi mới sinh ra đời.
              Tôi khóc thét lên.
              Mọi người đều vui cười hoan hỉ.
              Nay tôi đã nằm xuống.
              Mọi người tiếc thương và than khóc.
              Chỉ riêng tôi lặng lẽ mỉm cười”. (*)
              [(*) Chuyển ngữ câu tiếng Anh trên, là do tác giả (THH) viết; không phải do nguyên bản của lời ghi từ bia mộ Tấn].

              Mi Mi cúi đầu lặng lẽ thì thầm gửi anh Tấn lời tống biệt cuối cùng:
              - Thôi anh Tấn ơi! Nếu em có khóc thương tiếc nuối anh. Thì... Bây giờ em đành chấp nhận sự thật của tạo hoá ngàn năm an bài: Sinh. Lão. Bệnh. Tử. Sống. Gặp gỡ. Vĩnh biệt chia tay. Có tựu rồi tan. Có sống rồi chết. Ai ai cũng phải bước qua “cái Ải buồn phiền đau đớn” nầy! Mi thật buồn, và rất qúy trọng anh Tấn. Anh biết không? Nhớ ngày đầu tiên cách đây bốn chục năm, Mi Mi quen anh Tấn, hôm đó là ngày Mi Mi và anh Hoàng Năm Tony chia tay nhau ở trên bến xe Đà Lạt, gần tiệm cà phê Domino. Dù Mi Mi chỉ gặp và trò chuyện cùng anh Tấn không đầy mười lăm phút, nhưng em thấy anh Tấn thật vui tính, dí dỏm, hiền lành, hóm hỉnh có duyên và dễ thương. Duy có một điều bây giờ em vô cùng nuối tiếc về anh Tấn. Vì, anh Tấn đã làm một chuyện rất tốt đẹp mãi lưu truyền đến nay. Mặc dù anh Tấn chết đi, nhưng anh đã để lại một kho tàng vô giá cho y học (nói chung, và cho cánh đàn ông nói riêng). Nếu em nhìn đúng khía cạnh thuần tuý về nghề nghiệp chuyên môn của anh Tấn. Em sẽ không nghĩ là anh Tấn “khích dục hay gia tăng độ dâm đãng”. Anh Tấn hãy lắng nghe Em, anh Năm, Sơn, đã từng thảo luận nè:

              * Đây là một khía cạnh không kém quan trọng của xã hội. Rất ít ai dám đề cập đến. Ai cũng sợ nó. Vì, nó tế nhị, nhạy cảm (nếu không muốn nói là hơi trắng trợn). Vã lại nếu đàn ông mà không “làm tròn bổn phận thiêng liêng cao cả tuyệt vời” trong điạ vị cuả người chồng đối với vợ. Người Nam nhút nhát thú nhận “mình bất lực” ; thì còn gì là “đàn ông tính”! Ở đây không đề cập đến vấn đề “trai gái lố lăng lẵng lơ đĩ thoả”.
              * Khoa Y học NIỆU nầy, chính thức công nhận chỉ chừng 15 hoặc 25 năm nay. Gọi đó là Nam Khoa Andrology - được phơi bày ra dưới lăng kính Y Học nghiêm túc, đứng đắn đàng hoàng cần thiết rất khoa học - (chứ không phải dưới lăng kính kích dục, cường dục, hay... dâm đãng điếm đàng vui chơi). Trước kia, chỉ có khoa trị liệu về các bệnh liên quan về Niệu. Còn chuyện kín đáo riêng tư “tế nhị phòng the” giữa tình yêu hai vợ chồng, thì ai ai cũng sợ lộ ra. Họ cứ sợ nói ra thì... người khác sẽ chê mình… “phóng đãng dâm tặc”.
              Tony Năm có một phần suy nghĩ trong vấn đề nầy:
              - Nhất là một số các bà vợ cho rằng: do chồng mình ưa bay bướm, đàng điếm, ăn chơi, sa đoạ, mà ra nông nổi ấy! Chứ gì!?
              Sơn phản đối kịch liệt:
              - Tầm bậy nữa rồi. Khoa nầy hiện nay đã chứng minh được sự cần thiết của môn y học. Dân số trên thế giới đa số trên 65% đã rơi vào tuổi khá cao, nếu chưa muốn nói là già. Còn lại 35% là tuổi trẻ. Do đó những vị cao tuổi của NAM và NỮ, đều tối cần thiết là Andrology. Nếu họ muốn có cuộc sống gia đình hạnh phúc lứa đôi trường tồn. Vấn đề bạn Tấn theo môn Nam Khoa, không phải tự ên do Tấn hứng khởi đề xướng ra, (nhất là ở Việt Nam có phong tục tập quán khác biệt hẳn Tây Phương). Mà là do một vị giảng sư đại học Y khoa: Lichsteinberger là tên của vị linh mục khả kính trong dòng Tên, ông ấy là một bác sĩ rất tài ba, xuất chúng trên nhiều lĩnh vực y khoa.
              - Em nghĩ anh Tấn chọn ngành Y nam khoa nầy, chỉ vì xu hướng cá nhân. Vì chính anh Tấn đèo bồng một lúc ba bốn bà. Hai bà vợ lớn, bé. Cộng thêm hai bà bồ hờ kia nữa, là gì!
              - Không đúng đâu. Trước kia, Tấn chỉ là một bác sĩ đa khoa giỏi. Sự trở về ngành chuyên môn, là do tình cờ mà thôi: Lúc ấy có một bác-sĩ giảng-sư dòng Tên, khi cùng làm việc trong bệnh viện ở Việt Nam, ông ta đã tâm sự với Tấn:
              - Anh nên chọn về ngành Y-Nam-khoa. Vì cánh đàn ông các anh rất thiệt thòi. Anh có điều kiện, nên lưu ý về khoa đặc biệt nầy. Tôi hy vọng anh sẽ phát huy y-học Nam-Khoa tốt, để giúp nam giới trong vấn đề tình yêu vợ chồng.
              Thế là sau khi về Pháp, vị linh mục đó gửi cho Tấn những tư liệu, tài liệu, sách vở chuyên môn, để Tấn nghiên cứu, nghiền ngẫm, học hỏi thêm. Ông bác sĩ dòng Tên ấy nghiên cứu kỹ về những cặp vợ chồng, về hạnh phúc lứa đôi trong xã hội. Nhưng thực tế là ông ta hoàn toàn không có điều kiện, để phát huy hay thực hành. Vì vậy, ông ta truyền đạt vấn đề nầy lại cho môn sinh giỏi là: Tấn. Tấn làm “truyền nhân” nghiên cứu kỹ càng. Thành thật mà nói: Không biết bao giờ ngành Y học Việt Nam mới có được một bác sĩ khác: được kết nạp vào E.D.A.C.T (Hiệp Hội Suy Nhược Dương Cường Toàn Thế Giới). Vậy thì, em không nên nghĩ đó là chuyện “kích dục” nha.
              - Em chưa đồng quan điểm với anh... về việc nầy tí nào cả.
              - Tại sao em cứ nhìn “nó” với bản năng tầm thường của một người đàn bà ru rú thu mình trong trôn ốc? Như con ốc len rụt rè nhút nhát? Mà em không chịu vươn mình lên đỉnh cao của y học và nghệ thuật và sự thật!? Anh hỏi em: Tại sao nữ giới đã có phụ-khoa, có sãn-khoa? Trong khi đó người đàn ông không nhiều thì ít, bị “trục trặc” yếu xìu vấn đề ấy, lại không có phép đi khám Nam-khoa? Theo như thống kê gần nhất, đàn ông từ 40 -> 60; 70; 80 tuổi - đa số bị trục trặc đến 65%, 85%. Mà chả có môn y-học nào để chuyên trị! Hở? Không công bằng.
              - Có phải anh gián tiếp khuyên em: Hãy cứ nhìn vấn đề Nam-khoa một cách khoa học, chính chắn, lành mạnh. Em sẽ thấy nó bổ ích lành mạnh cho nhân loại. Chứ không phải để cánh đàn ông lợi dụng điều đó mà đi “ăn chơi” trác táng chắc?
              - Ư Ứ Ừ. Nó phục vụ cho sự hoà hợp gia đình giữa vợ chồng. Em cứ nghĩ anh như thế, thật oan ơi ông địa! Đó cũng là quan niệm chung chung của một số ít phụ nữ, có chút mặc cảm về chồng mình quá bay bướm.
              - À ra thế! Vì lúc đề cập đến chuyện nầy, có không ít đàn bà Việt Nam “kín cổng cao tường -rất khó nói”. Biết thắc mắc cùng ai? Thì anh Tấn đã dày công nghiên cứu y học, và mạnh dạn phổ biến trong Nam-khoa chuyên về Niệu-đạo-học Urologist nè!
              - Đúng Mi Mi ạ! Hãy cùng nhau nhìn vào lăng kính Y-Học mà tìm hiểu, nghiên cứu, nghiền ngẫm lại em nhé! Anh chỉ công bằng, và lấy công tâm ra để cùng nhau chia sẻ, tâm tình, tìm hiểu, nói với nhau vấn đề tế nhị. Anh không có ý tranh chấp chuyện nầy với em. Hay bất cứ với ai gì cả. Nhá.
              - Dạ vâng! Thưa ông tướng!
              - Ông... Tướng gì nào?
              - Tướng công E.D.A.C.T (Hiệp Hội Suy Nhược Dương Cường Toàn Thế Giới) đó!
              - Vậy, em sẽ là nữ “trợ tá đắc lực của Urologist” nha.
              - Hahaha!!! Hổng dám đâu. Thưa Tướng công E.D.A.C.T !!! Nay, đã già lắm, cuộc tình giữa hai người: Thật ra chỉ là những ủi an, sẻ chia trên phone khi vắng xa nhau, thân thiết, nồng nhiệt, vui vẻ, nâng vực nhau những lúc gặp muộn phiền, thất vọng nào đó. Chúng ta nói những chuyện đôi khi ba xàm ba láp, ân cần san sẻ, cũng có chút xí vui vui và hữu ích. Cho đến một ngày nào đó… có một trong hai người vĩnh viễn nằm xuống, đành đoạn rứt áo ra đi... Thế thôi.
              ***

              Nói rất thật tình thì Mi Mi không hề ưa thích gì bà Hoà, (là bà vợ bé) của bác sĩ Tấn. Vì Mi cho rằng: Bà Hoà giựt chồng người! Mi nghĩ cánh đàn ông các anh ưa bênh vực nhau. Nhất là Sơn, Năm Tony, họ với Tấn đã thân thiết từ hồi còn bé tí, nên họ coi nhau như ruột thịt. Kể cả con nhỏ Sáu (cháu ruột cuả bà Thủy) đang ngồi nói chuyện với Mi Mi về mấy anh ấy và bà Thuý:
              - Cháu kêu bà Thúy bằng dì. Cháu mới thấy thấm thía nỗi đau của dượng Tấn. Chỉ vì dì Thúy và dượng Tấn thuở còn non trẻ: đã bồng bột vội vàng làm đám cưới. Khi họ chưa thật sự thấu hiểu nhau. Khi về làm vợ chồng rồi, thì họ mới lộ ra cả trăm điều trái ngược, mà không ai có thể ngờ! Nhất là sau nầy khi dượng Tấn đã thành danh trên đường đời. Dượng Tấn càng không thể chấp nhận có một người vợ kém sút từ mọi mặt. Dì không biết ngọt ngào chia sẻ với chồng, không đảm đang. Theo cháu nhận xét thì: dì Thúy vốn là cô gái nông thôn, nên dì Thúy hơi nhà quê, ít học. Vì thế lối ăn nói cuả dì thiếu suy nghĩ, xử trí kém cỏi, không tế nhị, vô duyên, lại có chút trẻ con. Cộng thêm tính ghen là số một, làm mất danh dự chồng không kể xiết, cùng lười biếng và vô trách nhiệm. Ở nhà dì ưỡn ẹo rông rống ngồi chơi xơi nước, dì không làm gì cả. Nhàn cư vi bất thiện mà! Có tật xấu là khi dì Thúy tức giận, thì chuyên môn đi ngồi lê đôi mách nói xấu người nầy, nhún vai chê trách người kia. Dì Thúy chẳng chịu đi chợ búa cơm nước gì, chồng đi làm về luôn đói meo. Thế là dượng bỏ nhà ra đi ăn… “phở” mệt nghỉ. Trước tiên là tốn tiền, sau đó lây lan qua tốn tình! Dì Thúy nói:
              - Tội gì chợ búa cơm nước chi cho mệt. Ổng làm tới chức bác sĩ, bác sĩ thiệt à, có nhiều tiền ổng cho gái ăn cũng vậy. Tui cứ kêu người ta bưng cơm tháng, tội gì tui chui vô bếp cho khổ! Ổng đi… coi kià:
              Đi đâu? Nay mới về nhà???
              Có thấy xó góc chổi chà dựng bên
              Tôi hỏi: “chỉ một mình ên
              Sao mà thì thọt góc thềm làm thinh?
              Nếu không có tật giật mình
              Tại sao cúi mặt má phình tím thâm?
              Dại khôn anh cứ thật tâm,
              Kể ra… cho cả sơn lâm biết nào.
              Thì tui… cha bảo chẳng gào
              Ba bà có tức… ra ao nhảy ùm
              Cùng nhau kéo cổ lùm lum
              Cho anh chết ngộp khóc um mới chừa
              Cái tật tành hanh ai ưa
              Thấy gái, anh lấy vải thưa bịt liền
              Anh mà mở mắt láo liên
              Tui thề móc mắt rồi khiêng vô TÙ
              (*)

              Mi ngậm ngùi nghe cô cháu gái cuả bà Thúy kể tiếp:
              - Đúng ra, dượng Tấn rất mất mặt với bạn bè khi mang vợ ra ngoài xã hội giao tế. Dì Thúy luôn đốp chát những câu thiệt vô duyên, như gáo nước tạt vô mặt bạn. Sau nầy, khi Tấn gặp bà Hoà thì khác hẳn, Tấn yêu bà Hoà thông minh, tế nhị, khôn ngoan, đảm đang, vui vẻ. Có thể nói Tấn rất hãnh diện vì đã gặp và yêu bà Hoà (là vợ lẽ). Vì thế, thời gian sau dì Thúy cứ buồn xo “ngồi trong bóng tối”.
              Mi liếc nhìn Sơn dò hỏi. Anh gật đầu:
              - Ưà, Sáu nói nghe thật lạ lùng! Vậy mà thật đó. Bà Thúy có ba đứa con với Tấn, nay con cái khôn lớn, thành đạt cả. Các con Tấn rất yêu mẹ. Tấn đã tạo cho bà Thúy có cái nhà tươm tất, có cửa tiệm để các mẹ con sinh sống. Đặc biệt là Tấn chưa hề ly dị với bà Thúy. Trên pháp lý mọi tài sản đều là của Tấn (trừ khi Tấn làm di chúc để lại). Theo anh nghĩ Tấn không ngờ... Nên, em đừng nghĩ rằng bà Hoà “cướp” hết nha: Chồng, và 2 tài khoản: Một bank tiền Việt Nam. Một bank tiền USD. Bà Hoà chỉ giữ mấy quyển sổ ghi tên Tấn thôi. Bà Thúy vợ chính thức mới là người thừa kế tài sản, (khi Tấn nằm xuống xuôi tay, ba đứa con cuả bà Thúy rất tốt đã xúm lại thuyết phục mẹ chúng, nên làm giấy ủy quyền (vợ lẽ cuả cha); cho bà Hoà có tiền nuôi hai đứa em nhỏ cùng cha khác mẹ. Bà Thúy rất thân với bà vợ cũ của Năm. Hai bà có những tính giống nhau, nên mỗi lần gặp mặt, là họ xúm lại chửi Năm và Tấn ác liệt. Thật oan uổng và tội nghiệp lắm em! Hãy lấy công tâm mà xét xử công bằng đi.
              - Thì anh cũng kinh khủng không vừa gì! Chắc anh muốn nói: Tình yêu chân thật phát xuất từ hai trái tim đồng điệu, thông cảm. Thì sự cần thiết ấy không có tội, có lỗi. Phải không nà?
              - Thôi em! Moi móc làm gì. Chuyện buồn mà! Anh không muốn tranh luận với em điều nầy. Có thể em nghĩ anh không công bằng, thiên lệch, khi anh chỉ đến thăm mẹ con bà Hoà, mà hầu như ít đến thăm mẹ con bà Thúy (vợ chính thức). Nếu em biết sự thật, em sẽ thấy anh có lý. Tấn cũng “đào hoa” ra phết đó em à. Ai có ngờ con người coi như có vẽ chậm chạp, lù đù, hiền lành, ít nói. Thế mà có khối bà, khối cô mê Tấn tít thò lò! Kỳ xưa, anh Tấn bị “hai bà: vợ lớn, vợ bé” đuổi ra khỏi nhà, chỉ vì anh ta có thêm “bà Ba” nữa mới chết! Tấn phải đi lang thang ngoài phố, ăn cơm quán, ngủ hotel suốt một năm. Ấy là vì hồi đó Tấn lại cặp một con bồ xinh xắn luôn xà nẹo khác. “Một vợ nằm giường lèo. Hai vợ nằm chèo queo. Ba vợ ra chuồng heo mà... nằm”. Anh Tấn định thuê nhà để bà đó về ở chung.
              - Trời! Thì hồi đó chính Sơn thuê nhà cho Tấn ở đó mà. Cả đến bây giờ, khi anh Tấn chết rồi, lại có cô bác sĩ trẻ măng mê anh Tấn hết sức. Lúc sắp sữa liệm, cô ta chạy ra ngoài ôm mặt khóc nức nở! Cô bác sĩ nầy trẻ tuổi lắm, cô chỉ hơn con của Tấn năm bảy tuổi là cao. Tôi có biết cô ta. Theo tôi nghĩ có lẽ do cô ấy quý trọng tài năng của Tấn, thì đúng hơn. Nghe chị nói, tôi mới té ngữa ra. Ai dè cái bề ngoài Tấn đạo mạo, nghiêm trang. Mà ẩn chứa trong lòng những “sống động tình cảm sôi sục cồn cào” chứ. Có điều làm sao mà anh ta “dàn xếp” tuyệt hữu khi chia tay với bà nầy, hẹn hò chung sống với bà kia yên ổn. Dù họ:
              BA BÀ đấu khẩu bên thềm
              Nạt nhau đừng có vác mền giữa đêm
              Lưng dài cao cẵng lại thèm
              Suốt đêm anh lỡ say mèm “Phở, Bia”
              Cơm không thể nuốt "ôm bia mộ” buồn!!! (hê hê hê!!!)
              Lỡ "khiêng về" BA vợ khùng!!!
              Bởi vì: Bà(1) nói lung tung,
              Bà(2) trợn mắt. Bà(3) lủng củng trong mùng
              BA BÀ chẳng thể thủy chung
              Đánh anh chí choé lùng bùng lỗ tai
              Chàng bèn than thở vắn dài
              Ba bà bỏ tuốt. Một hai vái chừa !!!
              (*)
              Năm còn nhớ có lần đám bạn gặp nhau, Tấn mời tôi đi ăn cơm rồi giành trả tiền. Tấn moi trong ngăn bóp tờ một trăm xếp nhỏ xíu, nhét kỹ một góc kín.
              Ai ơi! ngó lại mà xem
              Thời nay có một anh thèm cặp ba
              Bà hầu quạt đêm Hạ. Bà
              úm mền. Bà bóp hông ‘đá’ tứ tung
              “Em ơi, khe khẽ anh cưng
              Ôi dào đau quá cái lưng sụm rồi!!!”
              Bởi do BA BÀ tơi bời
              Bị đây, tại đó chẳng rời vén vun
              ‘Đây’ thì do ‘đấy’ ôm hun
              Lim dim bốn mắt môi chùn chụt thôi
              Chu choa cái ấy em ơi
              “Chắc là tui trốn cho rồi”. Về quê!!!
              Trốn đâu BÀ cũng moi về
              Nợ đời phải trả BÀ thề "hưởng dương"
              ÔNG ở góc phố cuối vườn
              Trốn đâu BÀ cũng tìm đường tương chao!
              (*)

              - “ÔNG ở góc phố cuối vườn. Trốn đâu BÀ cũng tìm đường tương chao”! Nhưng bây giờ chết đi, anh Tấn chả mang theo được đồng nào. Thậm chí mấy nút áo, nút quần, cũng bị lặt ra để lại trên trần thế. Theo tục lệ Việt Nam, họ nói phải cắt hết mọi thứ để lại, không có đem theo sắt đá nút neo gì hết. Xác mới nhẹ nhàng, dễ siêu thoát. Tuy vậy Tấn chết đi, còn để lại mối ưu phiền cho hai bà vợ, cùng bầy con hai dòng máu một cha khác mẹ, quả thật là rất buồn! Thiệt! Xét cho cùng, Mi vẫn thấy thương bà vợ lớn hơn. Bà lớn tất nhiên không khôn khéo, thất học, không biết cư xử, không biết cách giữ chồng, (như lời cô Sáu và Sơn nói). Nên bị người khác giựt chồng là phải! Vì bà lớn quá yêu chồng, sợ mất chồng, nên “kè kè giám sát” từng hành vi, cử chỉ chồng. Khiến anh ta nổi giận vì sự ràng buộc khắt khe quá mất tự do, mà... xa! Còn bà nhỏ lanh lẹ, khôn ranh hơn là ngoan, có học, tinh tế là có chủ đích cả! (như lời anh ca tụng). Bà Hoà rất biết là Tấn có vợ con “đình huỳnh”. Nhưng bà ta vẫn có cách ngầm ngầm ma lanh để câu móc chiều chuộng chồng người. Vỗ về an ủi chồng người! Rồi đương nhiên nhào vô giựt chồng người... Anh cho là... là phải nốt!?

              - Thôi, dù sao cũng là chuyện nói cho vui, chứ chả còn gì! Giữa hai bên chỉ là khoảng trống mênh mông. Thấy tội cho mấy đứa nhỏ con cuả hao người đàn bà: chúng cũng là anh chị em ruột cùng cha khác mẹ, mà hai bên chưa bao giờ quen biết nhau, từ xưa đến bây giờ, và mãi mãi... Họ đứng trên hai “chiến tuyến” khác hẳn nhau.

              ***

              (*) Thơ Vui Tình Hoài Hương

              Tình Hoài Hương
              Last edited by Tinh Hoai Huong; 06-20-2016, 01:14 PM.
              Bút trần nào tả được lưu luyến!
              Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
              Tình Hoài Hương

              Comment


              • Tôi đã có một Việt Nam như thế…



                THH xin chân thành cảm ơn anh Viễn đã gởi một bài viết quá hay, rất cảm động, chua xót & ngậm ngùi... khiến tôi không thể ngăn đôi giòng lệ tuôn trào.
                Nay, tôi trân trọng kính gởi đến quý vị trong HQPD cùng đọc & tuỳ nghi...

                HH

                ***

                Tôi đã có một Việt Nam như thế…
                Do: Ku Búa @ Café Ku Búa viết.

                ***


                Ngày xưa tôi đã có một Việt Nam khiến tôi muốn trở về. Khi tôi hoàn thành chương trình du học của mình, tôi không màn đi tìm việc làm ở nước sở tại, cũng chẳng quan tâm đến thẻ xanh...


                Ngày xưa tôi đã có một thành phố được mệnh danh là Hòn Ngọc Biển Đông. Tuy nó còn thua xa những thành phố ở những nước phát triển, nhưng nó là điều gần nhất với văn minh mà đất nước tôi có. Ngày xưa tôi đã có một thành phố mà những người ở vùng khác luôn ngưỡng mộ và ao ước để trở thành một người dân ở đó. Thành phố đó tuy nhỏ nhưng luôn mở rộng cửa để đón người tứ xứ về làm ăn buôn bán. Người dân ở thành phố đó chẳng bao giờ quan tâm đến bạn từ nơi đâu tới, cha mẹ bạn là ai, bạn nói tiếng Việt với giọng bắc hay nam.


                Họ cũng không bao giờ phân biệt người khác qua cái hộ khẩu. Ngày xưa tôi đã có một thành phố là đầu tàu của cả nước, là sự tổng hợp của những văn hóa và tinh hoa của thế giới. Thành phố đó là nơi mọi người nhìn vào để học hỏi và noi gương. Ngày xưa, tôi đã có một thành phố như thế.


                Ngày xưa tôi có những anh cảnh sát khiến tôi luôn cảm thấy an toàn và trật tự. Tôi đã có những anh cảnh sát mà tôi luôn tin tưởng và luôn tìm đến khi có một vấn đề gì cần giải quyết. Họ không bao giờ đi vòng vòng kiểm tra tạm trú hay tạm vắng, hay đúng hơn là làm có cái thứ gì gọi là tạm trú tạm vắng đâu mà kiểm tra. Tôi đã có những anh cảnh sát nếu phải giữ gìn trật tự đường phố và vỉa hè, họ cũng không bao giờ đánh đuổi những người bán hàng rong. Họ chỉ nhắc khéo và mỉm cười. Và nếu họ phải kêu đi thì họ sẽ sẵn lòng phụ giúp dọn dẹp.


                Tôi đã có những anh cảnh sát không bao giờ đánh dân, những người sẽ luôn sẵn lòng hy sinh bảo vệ tôi. Tôi đã có những anh cảnh sát trên xa lộ mà tôi gọi là những con bồ câu trắng, đó là những anh cảnh sát xa lộ luôn sẵn lòng giúp tôi đẩy chiếc xe nếu nó bị hư dọc đường. Tôi đã có những anh cảnh sát mà tôi luôn ngưỡng mộ. Ngày xưa tôi đã có những anh cảnh sát như thế.

                Ngày xưa thành phố của tôi có các bệnh viện chuyên chữa bệnh miễn phí cho người bệnh, nếu có viện phí cho dù có cao đến mức nào, thì cũng không từ chối chữa bệnh.


                Tôi đã có một hệ thống y tế không phân biệt giàu nghèo. Một hệ thống y tế dù phải hoạt động theo quy luật tài chính, nhưng không bao giờ để tiền làm cản trở y đức. Tôi đã có một hệ thống y tế sẵn lòng kêu một chiếc trực thăng để giải cứu bất cứ ai gặp nạn. Tôi đã có những bác sĩ và y tá chuyên tâm làm việc và ít khi nào, nếu có, vòi tiền bệnh nhân. Ngày xưa, tôi đã có một hệ thống y tế như thế.


                Ngày xưa tôi đã có những người thầy và người cô luôn dạy tôi cách làm người trước khi dạy tôi học thức. Tôi đã có những người thầy cô luôn tận tâm giảng dạy, luôn học hỏi để trao dồi kiến thức.


                Tôi đã có những thầy cô, tuy tư tưởng vẫn mang tính chất văn hóa Nho Giáo, những luôn cho tôi phát biểu, luôn cho tôi chỉ trích, luôn cho tôi không đồng ý.


                Tôi có thể công khai phản đối bài tập, tôi có thể biểu tình để đòi hỏi quyền lợi mà tôi cho rằng mình nên có. Tôi đã có những thầy cô luôn mang tầm hồn của những nhà học thức. Ngày xưa tôi đã có những người thầy và người cô như thế.


                Ngày xưa tôi đã có những nhạc sĩ tài ba, những nhạc sĩ sáng tác những bài hát mà tôi nghe không bao giờ biết chán. Họ ít khi nào, hoặc chẳng bao giờ, đạo nhạc. Vì mỗi bài họ sáng tác là một tác phẩm nghệ thuật.



                Ngày xưa tôi đã có những nhà sách bán đầy sách, mọi thể loại sách. Nơi đó là nơi tôi gọi là những thư viện tri thức. Nơi đó bán những cuốn sách của nhiều tác giả của nhiều quốc gia khác nhau. Nơi đó thậm chí bán những cuốn sách mà tôi không hề thích và đồng ý chút nào. Nhưng đã là nhà sách thì phải da dạng và phong phú. Ngày xưa tôi đã có những nhà sách như thế.


                Ngày xưa tôi đã có một Tổng Thống khiến tôi cảm thấy hãnh diện. Ông ấy có thể nói tiếng Anh, đủ để hiểu, đủ để trả lời phỏng vấn của các phóng viên quốc tế, đủ để đàm phán với các nhà lãnh đạo quốc tế, đủ để cất lên tiếng nói cho tất cả người dân dù đa số người dân không bầu chọn ông ta.


                Ngày xưa tôi đã có một Tổng Thống khiến tôi tự tin để nói với các bạn bè quốc tế rằng “that is our President.” Ngày xưa, tôi đã có một Tổng Thống Như Thế.

                Ngày xưa tôi đã có một Chỉ Huy Trưởng khiến tôi tự hào về lực lượng Quân Lực. Tôi đã có một Chỉ Huy Trưởng khiến tôi cảm thấy an toàn, cho dù đất nước vẫn còn trong thời chiến. Tôi đã có một Chỉ Huy Trưởng khiến tôi cảm thấy yêu nước để sẵn lòng mặc bộ quân phục để bảo vệ đất nước. Và cho dù có chết thì tôi cũng vinh dự. Ngày xưa, tôi đã có một Chỉ Huy Trưởng như thế.

                Ngày xưa tôi đã có một Việt Nam khiến tôi muốn trở về. Khi tôi hoàn thành chương trình du học của mình, tôi không màn đi tìm việc làm ở nước sở tại, cũng chẳng quan tâm đến thẻ xanh hay thẻ đỏ, cũng chẳng mộng mơ hay để trở thành một công dân của nước khác, cũng không nghĩ đến việc mình nên ở hay về, vì điều duy nhất trong đầu tôi là trở về. Cho dù đất nước đó vẫn đang trong thời chiến, cho dù nơi ấy tôi phải làm việc nhiều lần hơn, cho dù nơi ấy có nhiều rủi ro hơn. Nhưng tôi chỉ muốn trở về, đơn giản, bởi vì nơi đó, đất nước Việt Nam đó, mảnh đất đó là nơi tôi gọi là nhà. Vì tôi chỉ muốn về nhà. Ngày xưa, tôi đã có một Việt Nam như thế.

                Ngày xưa tôi đã có một nước Việt Nam khiến tôi tự hào. Tôi đã có một nước Việt Nam khiến tôi không thổ thẹn khi cầm hộ chiếu ra nước ngoài và không cảm thấy xấu hổ khi nói “I’m a Vietnamese.”


                Ngày xưa tôi đã có một Việt Nam như thế. Tôi đã từng có một Việt Nam như thế. Nhưng đó là quá khứ. Bởi vì bây giờ nước Việt Nam như thế đã không còn. Nhưng tôi lại muốn nó trở lại. Tôi muốn có một nước Việt Nam như thế. Bạn có thể gọi tôi hoang tưởng hay gọi tôi mơ mộng.


                Tôi không mơ mộng hay ảo tưởng. Tôi cũng không tôn vinh bất cứ thể chế hay chế độ nào. Tôi chỉ muốn có một nước Việt Nam như thế. Có thể bạn sẽ hỏi: “Vì sao? Để làm gì?” Đơn giản, bởi vì ngày xưa tôi đã có một nước Việt Nam như thế.


                Ku Búa @ Café Ku Búa

                ***

                PS: Tôi là một người sinh ra khi nước Việt Nam như thế đã không còn nữa.


                ***
                Last edited by khongquan2; 10-10-2016, 12:49 AM.
                Bút trần nào tả được lưu luyến!
                Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                Tình Hoài Hương

                Comment


                • Hai dzợ thôi...đừng có dại dột lấy ba bà ...!!!

                  Nguyên văn bởi Ai Uu Du View Post


                  Truyền Nhân Nam-Khoa-Y


                  Hai người ăn mặc chỉnh tề, đeo kính mát, mang theo hai mũ bảo hiểm, chuẩn bị chu đáo cho một ngày đi xa… Năm đổ xăng thật đầy bình, vui vẻ chở Mi Mi từ Sài Gòn đi lên Nghiã Trang “Đô Thành”. Cơn triều cường chảy hoài đến khúc quanh cầu Bình triệu, Thủ Đức, vẫn ngập tới nửa bánh xe, mặc dù mưa chiều hôm trước không to lắm, nhưng nước đọng còn dâng cao. Ồ, đó là nơi nhà ga cũ, nơi xưa kia mỗi lần đi qua đây, Năm và Mi bị ngập lụt nước mưa, phải bỏ cả giày dép ra, hai người lội bì bõm dưới nước bùn sình hôi tanh đen ngòm. Hầu đẫy chiếc dream chết máy khó khăn nhọc nhằn vô cùng, hì hục mãi không đẫy xe nỗi. Hai anh em nâng đầu xe lên cao cho nước chảy ra. Sau đó anh đạp hoài đạp mãi, thì xe nổ máy.

                  Năm chen lấn đoàn xe đông như kiến đang bì bõm trong sình lầy dù nước đọng, họ vẫn chạy nhanh. Nước bắn tung toé lên đầy ngực Mi. Chỗ đó vẫn luôn bị ngập lụt. Năm chạy xe đến gần cầu Gò Dưa mới có đoạn đường tốt. Chạy xe mãi đến gần ngã tư xa lộ Thủ Đức. Anh rẽ vào lối đi tắt, đi lung tung vòng vèo đến nghĩa trang Đô Thành thăm bạn thân nhất đời đã về cõi vĩnh hằng. Gửi xe xong, Mi mua một bó hoa, một bó nhang, hộp quẹt, nến. Hai người đủng đỉnh tới ngôi mộ Tấn, khi mặt trời đang đứng trên đỉnh đầu.

                  Gia đình Tấn chọn nơi nầy thật đẹp, nghĩa trang rộng khoảng 10 hecta đất gò cao ráo, phóng khoáng. Nơi mà hồi xưa Trung-tướng Mai Hữu Xuân đã mua, rồi nhờ ba của Năm đứng ra chăm chút cai quản. Tấn được vào nằm trong nghĩa trang nầy (nghĩa trang uy linh tương tự như Arlington ở Washington DC), là một vinh dự to lớn, vì Tấn nổi tiếng là một bác sĩ khá giỏi. Trước ngôi mộ xây đá cẩm thạch đen khá cao, rất đẹp, bia mộ Tấn có ghi đầy đủ tiểu sử. Hình Tấn chụp vào độ tuổi trung niên thật phong độ, trẻ trung, vui tươi, hiền hoà. Sau lưng bia mộ lớn là tấm bảng đen bóng, trên đó khắc ghi một bài thơ tiếng Anh, đại ý là:
                  I burst into tears at my birth.
                  Whereas one laughed for congratulations!
                  Now I am brought at an early grave.
                  One mourns over me crying.
                  Only me that I smile quietly.
                  “Lúc tôi mới sinh ra đời.
                  Tôi khóc thét lên.
                  Mọi người đều vui cười hoan hỉ.
                  Nay tôi đã nằm xuống.
                  Mọi người tiếc thương và than khóc.
                  Chỉ riêng tôi lặng lẽ mỉm cười”. (*)
                  [(*) Chuyển ngữ câu tiếng Anh trên, là do tác giả (THH) viết; không phải do nguyên bản của lời ghi từ bia mộ Tấn].

                  Mi Mi cúi đầu lặng lẽ thì thầm gửi anh Tấn lời tống biệt cuối cùng:
                  - Thôi anh Tấn ơi! Nếu em có khóc thương tiếc nuối anh. Thì... Bây giờ em đành chấp nhận sự thật của tạo hoá ngàn năm an bài: Sinh. Lão. Bệnh. Tử. Sống. Gặp gỡ. Vĩnh biệt chia tay. Có tựu rồi tan. Có sống rồi chết. Ai ai cũng phải bước qua “cái Ải buồn phiền đau đớn” nầy! Mi thật buồn, và rất qúy trọng anh Tấn. Anh biết không? Nhớ ngày đầu tiên cách đây bốn chục năm, Mi Mi quen anh Tấn, hôm đó là ngày Mi Mi và anh Hoàng Năm Tony chia tay nhau ở trên bến xe Đà Lạt, gần tiệm cà phê Domino. Dù Mi Mi chỉ gặp và trò chuyện cùng anh Tấn không đầy mười lăm phút, nhưng em thấy anh Tấn thật vui tính, dí dỏm, hiền lành, hóm hỉnh có duyên và dễ thương. Duy có một điều bây giờ em vô cùng nuối tiếc về anh Tấn. Vì, anh Tấn đã làm một chuyện rất tốt đẹp mãi lưu truyền đến nay. Mặc dù anh Tấn chết đi, nhưng anh đã để lại một kho tàng vô giá cho y học (nói chung, và cho cánh đàn ông nói riêng). Nếu em nhìn đúng khía cạnh thuần tuý về nghề nghiệp chuyên môn của anh Tấn. Em sẽ không nghĩ là anh Tấn “khích dục hay gia tăng độ dâm đãng”. Anh Tấn hãy lắng nghe Em, anh Năm, Sơn, đã từng thảo luận nè:

                  * Đây là một khía cạnh không kém quan trọng của xã hội. Rất ít ai dám đề cập đến. Ai cũng sợ nó. Vì, nó tế nhị, nhạy cảm (nếu không muốn nói là hơi trắng trợn). Vã lại nếu đàn ông mà không “làm tròn bổn phận thiêng liêng cao cả tuyệt vời” trong điạ vị cuả người chồng đối với vợ. Người Nam nhút nhát thú nhận “mình bất lực” ; thì còn gì là “đàn ông tính”! Ở đây không đề cập đến vấn đề “trai gái lố lăng lẵng lơ đĩ thoả”.
                  * Khoa Y học NIỆU nầy, chính thức công nhận chỉ chừng 15 hoặc 25 năm nay. Gọi đó là Nam Khoa Andrology - được phơi bày ra dưới lăng kính Y Học nghiêm túc, đứng đắn đàng hoàng cần thiết rất khoa học - (chứ không phải dưới lăng kính kích dục, cường dục, hay... dâm đãng điếm đàng vui chơi). Trước kia, chỉ có khoa trị liệu về các bệnh liên quan về Niệu. Còn chuyện kín đáo riêng tư “tế nhị phòng the” giữa tình yêu hai vợ chồng, thì ai ai cũng sợ lộ ra. Họ cứ sợ nói ra thì... người khác sẽ chê mình… “phóng đãng dâm tặc”.
                  Tony Năm có một phần suy nghĩ trong vấn đề nầy:
                  - Nhất là một số các bà vợ cho rằng: do chồng mình ưa bay bướm, đàng điếm, ăn chơi, sa đoạ, mà ra nông nổi ấy! Chứ gì!?
                  Sơn phản đối kịch liệt:
                  - Tầm bậy nữa rồi. Khoa nầy hiện nay đã chứng minh được sự cần thiết của môn y học. Dân số trên thế giới đa số trên 65% đã rơi vào tuổi khá cao, nếu chưa muốn nói là già. Còn lại 35% là tuổi trẻ. Do đó những vị cao tuổi của NAM và NỮ, đều tối cần thiết là Andrology. Nếu họ muốn có cuộc sống gia đình hạnh phúc lứa đôi trường tồn. Vấn đề bạn Tấn theo môn Nam Khoa, không phải tự ên do Tấn hứng khởi đề xướng ra, (nhất là ở Việt Nam có phong tục tập quán khác biệt hẳn Tây Phương). Mà là do một vị giảng sư đại học Y khoa: Lichsteinberger là tên của vị linh mục khả kính trong dòng Tên, ông ấy là một bác sĩ rất tài ba, xuất chúng trên nhiều lĩnh vực y khoa.
                  - Em nghĩ anh Tấn chọn ngành Y nam khoa nầy, chỉ vì xu hướng cá nhân. Vì chính anh Tấn đèo bồng một lúc ba bốn bà. Hai bà vợ lớn, bé. Cộng thêm hai bà bồ hờ kia nữa, là gì!
                  - Không đúng đâu. Trước kia, Tấn chỉ là một bác sĩ đa khoa giỏi. Sự trở về ngành chuyên môn, là do tình cờ mà thôi: Lúc ấy có một bác-sĩ giảng-sư dòng Tên, khi cùng làm việc trong bệnh viện ở Việt Nam, ông ta đã tâm sự với Tấn:
                  - Anh nên chọn về ngành Y-Nam-khoa. Vì cánh đàn ông các anh rất thiệt thòi. Anh có điều kiện, nên lưu ý về khoa đặc biệt nầy. Tôi hy vọng anh sẽ phát huy y-học Nam-Khoa tốt, để giúp nam giới trong vấn đề tình yêu vợ chồng.
                  Thế là sau khi về Pháp, vị linh mục đó gửi cho Tấn những tư liệu, tài liệu, sách vở chuyên môn, để Tấn nghiên cứu, nghiền ngẫm, học hỏi thêm. Ông bác sĩ dòng Tên ấy nghiên cứu kỹ về những cặp vợ chồng, về hạnh phúc lứa đôi trong xã hội. Nhưng thực tế là ông ta hoàn toàn không có điều kiện, để phát huy hay thực hành. Vì vậy, ông ta truyền đạt vấn đề nầy lại cho môn sinh giỏi là: Tấn. Tấn làm “truyền nhân” nghiên cứu kỹ càng. Thành thật mà nói: Không biết bao giờ ngành Y học Việt Nam mới có được một bác sĩ khác: được kết nạp vào E.D.A.C.T (Hiệp Hội Suy Nhược Dương Cường Toàn Thế Giới). Vậy thì, em không nên nghĩ đó là chuyện “kích dục” nha.
                  - Em chưa đồng quan điểm với anh... về việc nầy tí nào cả.
                  - Tại sao em cứ nhìn “nó” với bản năng tầm thường của một người đàn bà ru rú thu mình trong trôn ốc? Như con ốc len rụt rè nhút nhát? Mà em không chịu vươn mình lên đỉnh cao của y học và nghệ thuật và sự thật!? Anh hỏi em: Tại sao nữ giới đã có phụ-khoa, có sãn-khoa? Trong khi đó người đàn ông không nhiều thì ít, bị “trục trặc” yếu xìu vấn đề ấy, lại không có phép đi khám Nam-khoa? Theo như thống kê gần nhất, đàn ông từ 40 -> 60; 70; 80 tuổi - đa số bị trục trặc đến 65%, 85%. Mà chả có môn y-học nào để chuyên trị! Hở? Không công bằng.
                  - Có phải anh gián tiếp khuyên em: Hãy cứ nhìn vấn đề Nam-khoa một cách khoa học, chính chắn, lành mạnh. Em sẽ thấy nó bổ ích lành mạnh cho nhân loại. Chứ không phải để cánh đàn ông lợi dụng điều đó mà đi “ăn chơi” trác táng chắc?
                  - Ư Ứ Ừ. Nó phục vụ cho sự hoà hợp gia đình giữa vợ chồng. Em cứ nghĩ anh như thế, thật oan ơi ông địa! Đó cũng là quan niệm chung chung của một số ít phụ nữ, có chút mặc cảm về chồng mình quá bay bướm.
                  - À ra thế! Vì lúc đề cập đến chuyện nầy, có không ít đàn bà Việt Nam “kín cổng cao tường -rất khó nói”. Biết thắc mắc cùng ai? Thì anh Tấn đã dày công nghiên cứu y học, và mạnh dạn phổ biến trong Nam-khoa chuyên về Niệu-đạo-học Urologist nè!
                  - Đúng Mi Mi ạ! Hãy cùng nhau nhìn vào lăng kính Y-Học mà tìm hiểu, nghiên cứu, nghiền ngẫm lại em nhé! Anh chỉ công bằng, và lấy công tâm ra để cùng nhau chia sẻ, tâm tình, tìm hiểu, nói với nhau vấn đề tế nhị. Anh không có ý tranh chấp chuyện nầy với em. Hay bất cứ với ai gì cả. Nhá.
                  - Dạ vâng! Thưa ông tướng!
                  - Ông... Tướng gì nào?
                  - Tướng công E.D.A.C.T (Hiệp Hội Suy Nhược Dương Cường Toàn Thế Giới) đó!
                  - Vậy, em sẽ là nữ “trợ tá đắc lực của Urologist” nha.
                  - Hahaha!!! Hổng dám đâu. Thưa Tướng công E.D.A.C.T !!! Nay, đã già lắm, cuộc tình giữa hai người: Thật ra chỉ là những ủi an, sẻ chia trên phone khi vắng xa nhau, thân thiết, nồng nhiệt, vui vẻ, nâng vực nhau những lúc gặp muộn phiền, thất vọng nào đó. Chúng ta nói những chuyện đôi khi ba xàm ba láp, ân cần san sẻ, cũng có chút xí vui vui và hữu ích. Cho đến một ngày nào đó… có một trong hai người vĩnh viễn nằm xuống, đành đoạn rứt áo ra đi... Thế thôi.
                  ***

                  Nói rất thật tình thì Mi Mi không hề ưa thích gì bà Hoà, (là bà vợ bé) của bác sĩ Tấn. Vì Mi cho rằng: Bà Hoà giựt chồng người! Mi nghĩ cánh đàn ông các anh ưa bênh vực nhau. Nhất là Sơn, Năm Tony, họ với Tấn đã thân thiết từ hồi còn bé tí, nên họ coi nhau như ruột thịt. Kể cả con nhỏ Sáu (cháu ruột cuả bà Thủy) đang ngồi nói chuyện với Mi Mi về mấy anh ấy và bà Thuý:
                  - Cháu kêu bà Thúy bằng dì. Cháu mới thấy thấm thía nỗi đau của dượng Tấn. Chỉ vì dì Thúy và dượng Tấn thuở còn non trẻ: đã bồng bột vội vàng làm đám cưới. Khi họ chưa thật sự thấu hiểu nhau. Khi về làm vợ chồng rồi, thì họ mới lộ ra cả trăm điều trái ngược, mà không ai có thể ngờ! Nhất là sau nầy khi dượng Tấn đã thành danh trên đường đời. Dượng Tấn càng không thể chấp nhận có một người vợ kém sút từ mọi mặt. Dì không biết ngọt ngào chia sẻ với chồng, không đảm đang. Theo cháu nhận xét thì: dì Thúy vốn là cô gái nông thôn, nên dì Thúy hơi nhà quê, ít học. Vì thế lối ăn nói cuả dì thiếu suy nghĩ, xử trí kém cỏi, không tế nhị, vô duyên, lại có chút trẻ con. Cộng thêm tính ghen là số một, làm mất danh dự chồng không kể xiết, cùng lười biếng và vô trách nhiệm. Ở nhà dì ưỡn ẹo rông rống ngồi chơi xơi nước, dì không làm gì cả. Nhàn cư vi bất thiện mà! Có tật xấu là khi dì Thúy tức giận, thì chuyên môn đi ngồi lê đôi mách nói xấu người nầy, nhún vai chê trách người kia. Dì Thúy chẳng chịu đi chợ búa cơm nước gì, chồng đi làm về luôn đói meo. Thế là dượng bỏ nhà ra đi ăn… “phở” mệt nghỉ. Trước tiên là tốn tiền, sau đó lây lan qua tốn tình! Dì Thúy nói:
                  - Tội gì chợ búa cơm nước chi cho mệt. Ổng làm tới chức bác sĩ, bác sĩ thiệt à, có nhiều tiền ổng cho gái ăn cũng vậy. Tui cứ kêu người ta bưng cơm tháng, tội gì tui chui vô bếp cho khổ! Ổng đi… coi kià:
                  Đi đâu? Nay mới về nhà???
                  Có thấy xó góc chổi chà dựng bên
                  Tôi hỏi: “chỉ một mình ên
                  Sao mà thì thọt góc thềm làm thinh?
                  Nếu không có tật giật mình
                  Tại sao cúi mặt má phình tím thâm?
                  Dại khôn anh cứ thật tâm,
                  Kể ra… cho cả sơn lâm biết nào.
                  Thì tui… cha bảo chẳng gào
                  Ba bà có tức… ra ao nhảy ùm
                  Cùng nhau kéo cổ lùm lum
                  Cho anh chết ngộp khóc um mới chừa
                  Cái tật tành hanh ai ưa
                  Thấy gái, anh lấy vải thưa bịt liền
                  Anh mà mở mắt láo liên
                  Tui thề móc mắt rồi khiêng vô TÙ
                  (*)

                  Mi ngậm ngùi nghe cô cháu gái cuả bà Thúy kể tiếp:
                  - Đúng ra, dượng Tấn rất mất mặt với bạn bè khi mang vợ ra ngoài xã hội giao tế. Dì Thúy luôn đốp chát những câu thiệt vô duyên, như gáo nước tạt vô mặt bạn. Sau nầy, khi Tấn gặp bà Hoà thì khác hẳn, Tấn yêu bà Hoà thông minh, tế nhị, khôn ngoan, đảm đang, vui vẻ. Có thể nói Tấn rất hãnh diện vì đã gặp và yêu bà Hoà (là vợ lẽ). Vì thế, thời gian sau dì Thúy cứ buồn xo “ngồi trong bóng tối”.
                  Mi liếc nhìn Sơn dò hỏi. Anh gật đầu:
                  - Ưà, Sáu nói nghe thật lạ lùng! Vậy mà thật đó. Bà Thúy có ba đứa con với Tấn, nay con cái khôn lớn, thành đạt cả. Các con Tấn rất yêu mẹ. Tấn đã tạo cho bà Thúy có cái nhà tươm tất, có cửa tiệm để các mẹ con sinh sống. Đặc biệt là Tấn chưa hề ly dị với bà Thúy. Trên pháp lý mọi tài sản đều là của Tấn (trừ khi Tấn làm di chúc để lại). Theo anh nghĩ Tấn không ngờ... Nên, em đừng nghĩ rằng bà Hoà “cướp” hết nha: Chồng, và 2 tài khoản: Một bank tiền Việt Nam. Một bank tiền USD. Bà Hoà chỉ giữ mấy quyển sổ ghi tên Tấn thôi. Bà Thúy vợ chính thức mới là người thừa kế tài sản, (khi Tấn nằm xuống xuôi tay, ba đứa con cuả bà Thúy rất tốt đã xúm lại thuyết phục mẹ chúng, nên làm giấy ủy quyền (vợ lẽ cuả cha); cho bà Hoà có tiền nuôi hai đứa em nhỏ cùng cha khác mẹ. Bà Thúy rất thân với bà vợ cũ của Năm. Hai bà có những tính giống nhau, nên mỗi lần gặp mặt, là họ xúm lại chửi Năm và Tấn ác liệt. Thật oan uổng và tội nghiệp lắm em! Hãy lấy công tâm mà xét xử công bằng đi.
                  - Thì anh cũng kinh khủng không vừa gì! Chắc anh muốn nói: Tình yêu chân thật phát xuất từ hai trái tim đồng điệu, thông cảm. Thì sự cần thiết ấy không có tội, có lỗi. Phải không nà?
                  - Thôi em! Moi móc làm gì. Chuyện buồn mà! Anh không muốn tranh luận với em điều nầy. Có thể em nghĩ anh không công bằng, thiên lệch, khi anh chỉ đến thăm mẹ con bà Hoà, mà hầu như ít đến thăm mẹ con bà Thúy (vợ chính thức). Nếu em biết sự thật, em sẽ thấy anh có lý. Tấn cũng “đào hoa” ra phết đó em à. Ai có ngờ con người coi như có vẽ chậm chạp, lù đù, hiền lành, ít nói. Thế mà có khối bà, khối cô mê Tấn tít thò lò! Kỳ xưa, anh Tấn bị “hai bà: vợ lớn, vợ bé” đuổi ra khỏi nhà, chỉ vì anh ta có thêm “bà Ba” nữa mới chết! Tấn phải đi lang thang ngoài phố, ăn cơm quán, ngủ hotel suốt một năm. Ấy là vì hồi đó Tấn lại cặp một con bồ xinh xắn luôn xà nẹo khác. “Một vợ nằm giường lèo. Hai vợ nằm chèo queo. Ba vợ ra chuồng heo mà... nằm”. Anh Tấn định thuê nhà để bà đó về ở chung.
                  - Trời! Thì hồi đó chính Sơn thuê nhà cho Tấn ở đó mà. Cả đến bây giờ, khi anh Tấn chết rồi, lại có cô bác sĩ trẻ măng mê anh Tấn hết sức. Lúc sắp sữa liệm, cô ta chạy ra ngoài ôm mặt khóc nức nở! Cô bác sĩ nầy trẻ tuổi lắm, cô chỉ hơn con của Tấn năm bảy tuổi là cao. Tôi có biết cô ta. Theo tôi nghĩ có lẽ do cô ấy quý trọng tài năng của Tấn, thì đúng hơn. Nghe chị nói, tôi mới té ngữa ra. Ai dè cái bề ngoài Tấn đạo mạo, nghiêm trang. Mà ẩn chứa trong lòng những “sống động tình cảm sôi sục cồn cào” chứ. Có điều làm sao mà anh ta “dàn xếp” tuyệt hữu khi chia tay với bà nầy, hẹn hò chung sống với bà kia yên ổn. Dù họ:
                  BA BÀ đấu khẩu bên thềm
                  Nạt nhau đừng có vác mền giữa đêm
                  Lưng dài cao cẵng lại thèm
                  Suốt đêm anh lỡ say mèm “Phở, Bia”
                  Cơm không thể nuốt "ôm bia mộ” buồn!!! (hê hê hê!!!)
                  Lỡ "khiêng về" BA vợ khùng!!!
                  Bởi vì: Bà(1) nói lung tung,
                  Bà(2) trợn mắt. Bà(3) lủng củng trong mùng
                  BA BÀ chẳng thể thủy chung
                  Đánh anh chí choé lùng bùng lỗ tai
                  Chàng bèn than thở vắn dài
                  Ba bà bỏ tuốt. Một hai vái chừa !!!
                  (*)
                  Năm còn nhớ có lần đám bạn gặp nhau, Tấn mời tôi đi ăn cơm rồi giành trả tiền. Tấn moi trong ngăn bóp tờ một trăm xếp nhỏ xíu, nhét kỹ một góc kín.
                  Ai ơi! ngó lại mà xem
                  Thời nay có một anh thèm cặp ba
                  Bà hầu quạt đêm Hạ. Bà
                  úm mền. Bà bóp hông ‘đá’ tứ tung
                  “Em ơi, khe khẽ anh cưng
                  Ôi dào đau quá cái lưng sụm rồi!!!”
                  Bởi do BA BÀ tơi bời
                  Bị đây, tại đó chẳng rời vén vun
                  ‘Đây’ thì do ‘đấy’ ôm hun
                  Lim dim bốn mắt môi chùn chụt thôi
                  Chu choa cái ấy em ơi
                  “Chắc là tui trốn cho rồi”. Về quê!!!
                  Trốn đâu BÀ cũng moi về
                  Nợ đời phải trả BÀ thề "hưởng dương"
                  ÔNG ở góc phố cuối vườn
                  Trốn đâu BÀ cũng tìm đường tương chao!
                  (*)

                  - “ÔNG ở góc phố cuối vườn. Trốn đâu BÀ cũng tìm đường tương chao”! Nhưng bây giờ chết đi, anh Tấn chả mang theo được đồng nào. Thậm chí mấy nút áo, nút quần, cũng bị lặt ra để lại trên trần thế. Theo tục lệ Việt Nam, họ nói phải cắt hết mọi thứ để lại, không có đem theo sắt đá nút neo gì hết. Xác mới nhẹ nhàng, dễ siêu thoát. Tuy vậy Tấn chết đi, còn để lại mối ưu phiền cho hai bà vợ, cùng bầy con hai dòng máu một cha khác mẹ, quả thật là rất buồn! Thiệt! Xét cho cùng, Mi vẫn thấy thương bà vợ lớn hơn. Bà lớn tất nhiên không khôn khéo, thất học, không biết cư xử, không biết cách giữ chồng, (như lời cô Sáu và Sơn nói). Nên bị người khác giựt chồng là phải! Vì bà lớn quá yêu chồng, sợ mất chồng, nên “kè kè giám sát” từng hành vi, cử chỉ chồng. Khiến anh ta nổi giận vì sự ràng buộc khắt khe quá mất tự do, mà... xa! Còn bà nhỏ lanh lẹ, khôn ranh hơn là ngoan, có học, tinh tế là có chủ đích cả! (như lời anh ca tụng). Bà Hoà rất biết là Tấn có vợ con “đình huỳnh”. Nhưng bà ta vẫn có cách ngầm ngầm ma lanh để câu móc chiều chuộng chồng người. Vỗ về an ủi chồng người! Rồi đương nhiên nhào vô giựt chồng người... Anh cho là... là phải nốt!?

                  - Thôi, dù sao cũng là chuyện nói cho vui, chứ chả còn gì! Giữa hai bên chỉ là khoảng trống mênh mông. Thấy tội cho mấy đứa nhỏ con cuả hao người đàn bà: chúng cũng là anh chị em ruột cùng cha khác mẹ, mà hai bên chưa bao giờ quen biết nhau, từ xưa đến bây giờ, và mãi mãi... Họ đứng trên hai “chiến tuyến” khác hẳn nhau.

                  ***

                  (*) Thơ Vui Tình Hoài Hương

                  Tình Hoài Hương
                  Hai Dzợ...

                  Chiều kêu bìm bịp kêu chiều
                  Lấy vợ phải lấy hai kiều một đôi
                  Ban ngày ôm ấp đã đời
                  Đêm về sung sướng mê tơi đêm trường
                  Nằm chung là phải hai nường
                  Nằm riêng nó dzỗi... muốn thương ai nào ?
                  Lãng mạng nó bảo ...tào lao
                  Đứng đắn nó bảo...người sao khùng khùng
                  Hai đứa nó ...khiêng dzô mùng
                  Làm chi cũng phải làm chung hổng rời
                  Ai ơi thật phí của giời
                  Lấy dzợ thì phải hai người mới dzui
                  Số mình thôi thật là xui
                  Lấy có một dzợ ngậm ngùi tủi thân !

                  VeSau
                  (10/09/2016)

                  * Nói dzậy mà không phải dzậy, chuyện tưởng tượng ... mơ mộng... quý dzị đừng có nghe xúi dzại, mần thiệt là... tan cửa nát nhà... trở thành homeless  là bỏ bu đấy !!!
                  Last edited by VeSau; 10-10-2016, 06:29 AM.

                  Comment


                  • Đêm NOEL ở Đà Lạt



                    Đêm NOEL ở Đà Lạt


                    Noel xưa anh nhớ
                    Khi hãy còn yêu nhau
                    Nhà thờ nơi cuối phố
                    Thấp thoáng sau ngàn dâu
                    Anh chờ em đi lễ
                    Chung dâng lời nguyện cầu...
                    Mimosa mimosa bừng nở
                    Đẹp như tình ban đầu
                    (1)


                    Đêm Noel Đà Lạt khai sinh Mười với tuổi xuân hồng phơi phới rót mật vàng từ thinh không xuống lòng phố nở hoa mùa đông. Gió cuối mùa lồng lộng thổi về làn hơi buốt giá lạnh tê người. Bầu trời ướt đẫm sương đêm Noel tuyệt vời, ngọt ngào ngây ngất đầy hương vị tình yêu miền núi. Từng hồi chuông dài ngân nga giữa đỉnh đồi bay qua các sườn dốc, các khe thung: tiếng chuông mừng vui réo gọi hoan hỉ reo vang cùng thế nhân. Một đêm hội lịch sử đón chào Chúa Giáng Sinh 24 tháng 12: là đêm lạnh lẽo buốt giá hạnh phúc vui vẻ tưng bừng rất mùa xuân. Hàng cây tối mờ trong lớp sương mù dày bao bọc vòm trời ẩn hiện ánh đèn vàng vọt mờ nhạt ở đầu phố, tạo thành nhiều đóm sáng bất động. Các mái nhà dưới thấp trên cao chênh vênh bên sườn đồi thoai thoải. Những con đường mòn chạy dài xuống thung lũng âm u văng vẳng đâu đây tiếng lao xao cười nói ồn ào. Nhiều tốp nam nữ thoáng chốc tấp nập ra phố đêm đi dự lễ.

                    Trên các nẻo đường lớn trong thành phố, người đi kẻ lại đông vô số kể. Họ khoác bộ cánh rực rỡ, áo lạnh khăn quàng, găng tay, mũ len đủ mọi màu sắc. Phố phường tưng bừng rộn rã hoan ca, khác hẳn ngày đầu đông ở xứ lạnh. Người người vui vẻ cười đùa, chuyện trò ríu rít, đi lại ngược xuôi chen lấn nhau trên đại lộ. Nơi đây không một chiếc xe nào có thể qua lọt giữa rừng người bách bộ đông như kiến. Người ta vui vẻ nói cười, không cần biết những ông cảnh sát đang vất vả làm việc lưu thông không ngưng nghỉ.

                    Mười chợt bừng tỉnh giấc ngủ nồng say sau mùa Thu héo úa, rồi mùa đông buốt giá gần tàn. Lòng cô em xôn xao, thỉnh thoảng gió thổi qua mát rượi, đủ làm cho da người con gái xứ lạnh càng thêm thắm hồng, dấy động từng thoáng nhớ đắm say, vấn vương ngọt ngào mãi không rời, qua tiếng tơ lòng dìu dịu rung ngân trên mỗi phím loan. Ở trong tư gia: Bảo, Quốc Toàn, Thịnh, Trình đang loay hoay trang hoàng cây thông cao quá, đọt đụng trần nhà bị cong hẳn lại, Bảo phải cưa bớt một đoạn dài. Sau đó các cháu móc đầy dây kim tuyến, ngôi sao, quả cầu đủ màu sắc, thiệp Noel, thiên thần, ông già Noel, và giăng nhiều đèn màu chớp tắt. Dưới gốc thông có những gói quà nho nhỏ, xinh xinh, bánh, kẹo, đồ chơi linh tinh... Nhạc giáng sinh trỗi lên tưng bừng nhộn nhịp, hoan hỉ vui vẻ trong căn nhà ấm áp. Tiếng cười con cháu vang khắp nơi vui như mở hội. Sau nhà ngang: chị Khánh, và bà bếp đang chiên xào nấu nướng các món ăn thơm phức. Họ chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ, lát nữa đi lễ về, là gia đình ăn réveillon.

                    Ăn cơm tối xong, Mười quét dọn, lau chùi nhà cửa sạch sẽ tươm tất. Nàng ủi áo quần cho gia đình để chuẩn bị đi lễ. Thơ vừa lau bụi trên các kệ sách, nàng nói:
                    - Hồi chiều, có anh Phú, Lễ, Tài, Vinh, đến nhà mời chị em mình, mười giờ rưỡi lên Couvent xem lễ, chứ ở Nhà Thờ Lớn đông lắm! Rồi tụi mình về nhà họ ăn réveillon, mở party... Em chưa kịp nói gì, thì anh Nam đến.
                    Ngạc nhiên, Mười ngừng ủi áo, ngẩng nhìn em, hỏi:
                    - Anh Nam gặp Phú? Họ nói chuyện vui vẻ há?
                    - Coi chừng cháy áo. Chị "táp pi" em tới tấp à? Họ chào hỏi nhau, vui vẻ cả làng. Khoái chưa?

                    Hồi chiều Mười bất ngờ thấy Nam ngoài phố, lòng Mười đã rộn ràng, xao xuyến, mừng rỡ. Về nhà Mười dấu kín niềm vui nầy, vờ như chưa biết gì. Phần các cháu muốn Mười có chút bất ngờ thú vị, nên chúng cũng không nói Nam từ Sài Gòn đã lên Đà Lạt. Tâm trạng Mười lúc này thật kỳ, vừa mừng vừa lo, bồi hồi, quắt quay với nỗi mong chờ. Bây giờ nghe cô em vừa nói, lòng nàng nao nao, băn khoăn bồi hồi. Lãng mạn không? Nhắc đến Nam, Mười quên hết mọi sự, tươi vui nét mặt ngay, mọi thứ bỏ sang một bên. Khi tình yêu đến có khác gì cây khô gặp mưa thuận gió hòa, đã trở nên xanh tốt. Muốn sớm gặp người yêu, nàng nôn nao, vui mừng, thấp thỏm, không yên ổn ấy mà.
                    - Chị cũng đi lễ với các anh kia chứ?
                    - Đi sao được!
                    - Đến nhà Phú xí, rồi chị về đi lễ với anh Nam. Không có chị, chẳng vui.
                    - Đủ rồi. Em không chuẩn bị gặp người yêu sao?

                    Thơ cười hì hì, nàng mặc sẵn áo dài mới màu xanh nhạt, điểm cánh hoa vàng nhỏ rải rác trên tà, quàng chiếc manto đen. Từ khi có "bồ", vấn đề ăn mặc trở nên cần thiết với Thơ, quần áo tuy lèng xèng giản dị, nhưng tươm tất. Nàng nghĩ: Dù sao nên "giữ kẽ" một tí, diện một tí, chứ xuềnh xoàng quá, coi cũng mất mặt bầu cua. "Quen sợ dạ, lạ sợ áo quần" mà! Mười đi lên, đi xuống con dốc mờ tối năm bảy lần, chờ đón, ngóng trông Nam kinh khủng. Ruột nóng như lửa đốt. Dưới ánh đèn vàng vọt đầu phố có hàng cây tối mờ, bụi qùy cánh lá xòe to nham nhám, thấp thoáng nhiều bông hoa màu nghệ, nhụy nâu nở hết cánh trông vui mắt, chúng nép mình dưới chân vách đá. Các mái nhà dưới thấp, trên cao, chênh vênh bên sườn đồi thoai thoải, chạy dài xuống thung lũng âm u, có ánh đèn mờ nhạt chiếu ra, tạo thành nhiều đóm sáng bất động, lớp sương mù dày bao bọc cả vòm trời. Cuối sân sau của trường kỹ thuật Lasan, nơi bờ khe nhỏ ăn xuống phiá dưới là khe mương nước chảy một bên đường.

                    Thỉnh thoảng vài hòn đất, đá, lăn trên khe cao rơi xuống nghe một tiếng "bủm" khô khan to và lạnh lùng. Mười dừng lại, nhìn về phía đó đăm đăm, hình như có tiếng ai nói gì trong bóng tối, nơi ánh đèn đường không dọi tới. Ai nói gì vậy!? Văng vẳng đâu đây tiếng lao xao cười nói ồn ào thoáng chốc đến nhanh. Ồ, thì ra chỉ là tốp nam nữ tấp nập đi nhanh ra phố đêm dự lễ. Coi vậy nàng nhác gan ghê! Có cái gì khiến Mười nhìn ra đầu đại lộ Yersin? Năm ba cây anh đào hoa nở rộ cài cánh hoa mong manh, ẻo lả, trên cành trơ trụi lá. Đồi thông rì rào trò chuyện dưới thung lũng, khu đất nhà ông Nguyễn Đệ rộng mênh mông, thì có gì để nàng phải đăm đăm nhìn về hướng đó, mà lòng thấp thỏm bồn chồn âu lo quá đỗi?

                    Chiếc taxi ngừng lại ở đầu dốc; Nam bước xuống, chàng mặc bộ veston mùa đông màu đen, cà vạt màu nâu non ôm kín cổ áo sơ mi vàng nhạt, áo pardessuis màu kem vắt trên vai như khách lữ hành ngày xưa mới gặp. Nam mang đôi giày da thời trang cùng màu với bộ veste. Mười cười rạng rỡ, liền ríu rít rảo bước về phía Nam. Dưới cột đèn đường khi nhìn thấy Mười, anh âu yếm trao nàng nụ cười tươi thắm. Nam im lặng nắm tay Mười đi xuống dốc. Nàng líu lo:
                    - Sao anh không viết thư báo tin trước. Em sẽ đi đón?

                    Nam im lặng đưa Mười quyển album, hộp bánh, quyển "Trau Dồi Ý Chí" của Claude Maillard, một hộp nho nhỏ bao giấy kính vàng cột nơ hồng (quà gia đình các anh chị, các cháu, thì Nam đã đem đến hồi chiều).
                    - Anh lên đây hồi nào vậy. Nam?

                    Chàng siết chặt tay nàng, khẽ thở dài, Nam không nói: Mặc cho Mười ríu rít hỏi chuyện, Nam chỉ cười cười siết chặt tay Mười. Dừng lại dưới ánh đèn, nàng giựt tay ra khỏi tay Nam, ngẩng lên, hỏi:
                    - Giận em à, hở anh?
                    - Mười đi đâu, từ sáng sớm đến tối mịt vậy em?
                    - À, em đi Cầu Đất với mấy nhỏ bạn làm chuyện tào lao, ngu ngốc. Anh lên đây, em rất mừng.
                    - Biết có "họ", thì anh hổng thèm lặn lội từ Sài Gòn lên Đà Lạt (để dự lễ Noel đầu tiên của chúng mình). Mười có vài chàng trồng cây si, cây mơ… nhớ gì đến anh, mà mừng vui. Họ chờ em suốt buổi đó.
                    - Tự họ qúy mến cả nhà. Chẳng riêng ai. Không vì ai, anh ơi!
                    - Chưa chắc à.
                    Hai người tiếp tục đi xuống con dốc nhà:
                    - Anh thấy Nghi “bà con xa xa" của em đã đến đây.
                    - . . .
                    - Ủa! không bà con sao? Vậy không lẽ… là “bạn yêu” của chị Hạc?
                    - Mỉa mai gì ác thế? Em yêu anh nhiều mà.

                    Cảm động trước câu nói bất ngờ, Nam nhận tình em yêu bằng cách chàng tìm bàn tay Mười trong bóng tối, ánh mắt tha thiết nồng nàn hơn. Không nỡ trêu chọc nàng, Nam sợ Mười hờn dỗi, thì mất vui. Họ buông tay nhau khi đứng trên thềm. Sau đó Nam, Mười, cùng các cháu đi lễ đêm Noel. Họ đi trong lòng phố giá băng buốt lạnh, mang trong lòng niềm hân hoan yêu đời, vui vẻ hạnh phúc, bình an, tuyệt vời nhất. Thỉnh thoảng gió đông thổi qua mát rượi, đủ làm cho da người con gái xứ lạnh càng thêm thắm hồng. Noel khai sinh tuổi xuân hồng phới phới đang rót mật vàng từ thinh không xuống: lòng phố nở hoa mùa đông trên đỉnh đồi mù mịt sương muối và trong cánh đồng thương yêu của Nam và Mười. Một Noel tuyệt vời ngọt ngào ngây ngất, đầy hương vị tình yêu miền núi.

                    Từng hồi chuông dài ngân nga giữa đỉnh đồi, qua các sườn dốc, các khe thung tiếng chuông mừng vui réo gọi, hoan hỉ reo vang cùng thế nhân đón chào ngày Chúa giáng trần. Có hai vì sao sáng nhất thân ái quỳ gối bên nhau trò chuyện trên bến Ngân Hà. Vành trăng khuyết lơ lửng như chiếc thuyền con trôi đi trôi về giữa các tầng mây. Noel là một lễ Giáng Sinh tuyệt diệu, hạnh phúc nhất của đời cô gái mười sáu tuổi chớm lớn. Và, có lẽ là một Noel tươi đẹp thú vị nhất của một chàng trai mười chín tuổi. Lòng Nam và Mười xôn xao dấy động, họ vui không thể tả. Tay trong tay tình nồng trong mắt biếc trao đưa, đôi mái đầu xanh chụm lại, cùng dạo bước bên nhau quanh khu trường học, theo các cháu vào hội trường xem học sinh trường trình diễn văn nghệ. Triển lãm tranh ảnh. Bích báo. Tuần san. Máng cỏ. Riêng “hai anh chị”̣ sau khi dạo xem quang cảnh trường, họ ngồi ngoài băng ghế đá, cạnh vườn hoa trước nhà thờ Dòng. Chàng lấy trong túi áo veste ra một hộp sơn mài nhỏ, có sợi dây chuyền vàng 18k, mặt chữ ghi NM. Anh vui vẻ ân cần đeo sợi dây chuyền vào cổ Mười, âu yếm nói:
                    - Kỷ niệm dù bé nhỏ, vẫn có giá trị về hạnh phúc một đời. Ta cảm ơn Chúa cho chúng mình gặp nhau, yêu nhau. Em nha.
                    - Dạ phải.
                    Vuốt lọn tóc buông dài trên bờ vai Mười:
                    - Mái tóc em dài, anh rất thích, đừng cắt ngắn nghen em.
                    - Anh khen quá, em bể lỗ mũi, chết à.
                    - Ơ kìa! Ai khen em mà bể mũi. Mắc cỡ chưa!
                    - À há. Anh chỉ nói mái tóc em dài, chớ chẳng phải khen em, em mà dị dạng rứa hè. Anh là khách lữ hành, dù đất lành chim vẫn chưa đậu. Rồi chốn phồn hoa đô hội cũ sẽ gọi anh quay về thôi. Có gì mà không bể mũi em chứ.
                    - Phượng hoàng đã gãy cánh trên đôi vai nầy rồi.

                    Vỗ vỗ trên vai Mười, Nam nói lời dịu ngọt, Nam nâng niu lọn tóc dài xõa bên má và đưa lên môi hôn. Mười cắn nhẹ làn môi, đầu nghiêng hẳn lên vai chàng. Hơi thở Nam ấm nồng phả nhẹ vào trong tóc Mười như làn hơi sương nhút nhát mà ấm áp. Ngón tay thư sinh trắng trẻo mềm mại truyền qua làn tóc mỏng xõa trên vai Mười cảm giác đằm thắm, lâng lâng ngọt ngào dễ chịu. Nam biết, nếu anh cúi xuống đặt lên môi Mười nụ hôn đầu tiên, có thể nàng không phản đối. Nam đắm mình trong hạnh phúc bất tận, ngây ngất niềm vui dạt dào. Nam nâng niu, trân trọng mối tình nên thơ, hồn nhiên nở hết cánh trong trái tim chân thật. Sao lạ quá! Cũng như lần Nam gặp gỡ Mười trước kia, ý nghĩ về việc Nam muốn ôm ghì Mười vào lòng mà hôn, cho thoả những nỗi niềm nhớ nhung bấy lâu vẫn nung nấu trong lòng. Nhưng rồi… Nam nhìn Mười hồn nhiên và giản dị ngây thơ, thì Nam cố gắng “đè nén” xúc cảm hừng hực và rạo rực… chìm xuống xí. Cứ vẩn vơ nghĩ đến… là Nam cảm thấy người mình xôn xao nóng rang trong trạng thái lâng lâng dật dờ rất khó chịu…

                    Tiếng chuông báo hiệu nửa đêm ngân dài giữa vùng núi đồi trùng điệp chập chùng biển sương mù trắng xóa, thì hai người dìu nhau vào giáo đường xem lễ. Nam dâng cuộc đời, tình yêu nầy và tương lai cho Chúa Hài Đồng gìn giữ. Sau đó Nam về nhà chị Khánh ăn mừng lễ trong không khí gia đình ấm cúng, thân mật. Ba giờ khuya, chàng từ giã Mười để về nhà Tuấn ở cuối đường Hoàng Diệu.

                    Chàng sẽ không bao giờ quên kỷ niệm vàng son một thuở yêu nhau, không thể nào quên… dù mai đây thời gian trôi chảy mãi, đời mỗi người trong hai chúng ta sẽ xa cách, phai mờ đi. Cuối cùng tình yêu nầy vẫn sống mãi trong tiềm thức, trong tư tưởng mỗi người. Một mình Nam đi trên lòng phố vắng, hồi lâu chàng còn nghe rõ tiếng gót giày cô đơn thong thả gõ lóc cóc lộp cộp đều đặn trên mặt nhựa đẫm sương mù, giống như Nam đang đi trên dòng thác vừa tráng thêm lớp men tình. Sương rơi lốp đốp trên cành, hạt sương mọng to tròn long lanh như ngấn lệ đọng, sương đậu ở đầu ngọn lá rung rinh dưới ánh trăng nhạt nhòa. Sương phủ trên thân Nam tê buốt thịt da giá rét vô vàn.

                    Nam dừng lại giữa lòng thế kỷ lần tay tìm trong túi quần gói thuốc Craven “A”, hai lòng bàn tay Nam khum khum che đốm lửa, điếu thuốc lập loè gài lên môi, Nam ngửa mặt lên trời thả ngụm khói tản mạn trong không trung, quyện lẫn hơi sương ngút ngàn bay bay. Nam cảm thấy đơn điệu, cô độc lạ thường đang choàng vô cái khuya buốt lạnh, giá băng, im ngắt đến ghê rợn. Đường về khuya tại thành phố Đà Lạt trữ tình càng hiu hắt hoang vu. Khuya thăm thẳm sắc bén ăn sâu vào lòng du khách, khuya lạnh lùng vây bọc nhận chìm Nam trong đam mê ngút ngàn phong thổ. Ngàn đời xứ Cao Nguyên Lâm Viên vẫn không thể mất đi vẻ thơ mộng, hữu tình, tràn lan quyến rũ, trọn vẹn những tấu ca hương trầm dạ khúc đêm trường qua cung đàn đắm say ở trần thế: Thôi thì xin hưá anh là Sương, em là Cỏ: Chúng ta sẽ vĩnh hằng “Mộng Chung Đôi Cánh”* nha em:

                    Đời phiêu lãng thấm đẫm sương rơi
                    Mái tóc anh bỗng thấy bạc rồi
                    Sương cỏ giao tình mơ khắng khít
                    Cỏ sương thầm ước mộng chung đôi.

                    Không lẽ Không-quân mãi giạt trôi
                    Núi mòn sông cạn lướt chơi vơi
                    Thương em hứa hẹn làm thân cỏ
                    Hạt ngọc sương trao ngậm chẳng rời.

                    Sương đọng rung rinh ánh mắt nàng
                    Xuân tình bay bổng nhớ đài trang
                    Phi công cánh bay vờn trong gió
                    Lả lướt tình sương cỏ dịu dàng.

                    Danh lợi phù vân chẳng có màng
                    Cỏ đây sương đấy ước bình an
                    Đôi ta nghĩa trọn tình chung thủy
                    Phước lộc vui vầy sống thọ khang...
                    (2)
                    ***
                    (1) Thơ Nhất Tuấn
                    (2) thơ Tình Hoài Hương
                    *

                    Tình Hoài Hương
                    Bút trần nào tả được lưu luyến!
                    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                    Tình Hoài Hương

                    Comment


                    • Kỷ Niệm Sợ Té…!




                      Kỷ Niệm Sợ Té…!
                      NGHỊCH NHĨ


                      Nhìn dáng vẻ chiếc OH–6 tròn tròn, nho-nhỏ mảnh mai như vậy, mà trong chiến trường VN làm cho nhiều người sợ nó lắm, ngoài địch ra, còn có tui nữa!
                      Dân miền quê gọi chiếc OH-6 là cái “hột vịt”, chiếc “cán gáo” hay con “cá nóc” đều là nó cả; còn chiếc Cobra mình ốm, thon dài được ví là con “cá lẹp”, hoặc tuỳ theo vùng kêu là con “còng cọc”! Hai anh chàng nầy thường đi có đôi có cặp, hể thấy OH-6 là y như rằng có Cobra quanh quẩn đâu đó!

                      Cái hột vịt khi bay nghe âm thanh kêu xè xè trộn lẫn với o-o; chứ mình không nghe tiếng phành phạch từ xa, như chiếc UH! Nó nhanh lắm, đến và đi thật lẹ, thường đi săn và bắt sống VC hoài! Mấy tay du kích đi lang thang, lỡ độ đường nghe nó từ xa, lật đật chạy chui vô rừng lẫn trốn, bị nó bám theo hover (bay đứng một chỗ sẵn sàng bóp cò, thì làm sao trốn thoát, hoặc mấy anh vừa chui vô hầm trong đám rừng lá, cũng không khỏi nó cho ăn lựu đạn banh thây! Đôi khi nó cũng bị… “hố”! Hốt nhằm mấy ông nông phu đang ở ngoài ruộng với mấy cây chĩa bảo:
                      - VC weapons!
                      Các đơn vị lớn của VC đang ém quân trong rừng, thấy nó cũng khôn hồn nằm im, không dám bắn, vì biết rằng chọc đến nó, là ít phút sau con “cá lẹp” sẽ đến, mà hoả lực của Cobra mạnh khiếp lắm! Tôi có anh bạn là dân bay AD–6, tình cờ một lần về quê bị kẹt xe đò, nên chứng kiến cảnh Cobra đang xịt rocket, và bắn minigun như bò rống, nhìn kiểu đánh và hỏa lực của nó, anh còn phát mê; cứ trầm trồ kể lại và còn gật gù khen:
                      - Không ngờ “coi gầy gầy… mà thầy chạy” đấy!

                      Còn OH-6 thì xoay trở nhanh nhẹn, dễ dàng; mới thấy hover đó, mà tạt ngang một cái vèo cách đó độ 100 mét nhanh như cắt! Các bạn có bao giờ quan sát mấy con ruồi lằn (con nhặn) trong buổi sáng sớm chưa? Nó đang kêu vo-vo bay đứng một chỗ, bỗng nghe tiếng rít lên “te” một phát là mất tiêu, rồi hiện ra cách xa đó chừng 5 mét, mà mắt mình không tài nào trông thấy kịp nó bay đến đó cả, nhanh hơn mấy con ruồi thường nhiều! Ấy đấy! mấy chiếc OH –6 cũng nhanh gần như vậy!

                      Quý bạn đã sống ở ngoại quốc văn minh sạch sẽ nên hiếm khi gặp, và thấy chỗ ruồi bu kiến đậu, nên chắc là không để ý, chứ còn cá nhân tôi được… “hên”, nên thấy hoài và quan sát kỹ lắm! Số là thời gian đầu đi “tập trung cải tạo” tại trại Hốc Môn, mỗi khi đi “thăm lăng Bác” ; ngồi ở dãy nhà cầu có mái tôn che mưa nắng, nằm sát hàng rào kẽm gai doanh trại; do chính mình đào hố, ngăn vách; cũng thưởng thức được cái hoạt cảnh nầy. Ruồi nhặn đang xôn xao, vo–ve bay tùm lum; từ trên cao cả chục con chim én nhào xuống ngược chiều nhau lạng qua, lách lại để bắt ruồi trước mặt mình rồi vọt lên; trông không khác gì mấy chiếc phản lực đang oanh kích vậy. Thỉnh thoảng được làn gió nhẹ thoáng qua thổi mát, ngồi đó mà nhìn cảnh nầy xem như màn giải trí thật thú vị! Nhờ vậy, tôi mới có dịp quan sát kỹ mấy con ruồi lằn, để bây giờ đem so sánh!

                      Trở lại với chiếc OH-6, tôi có một kỷ niệm, xin kể: Một buổi xế chiều cuối năm 1969, trong phi vụ liên lạc tôi bay UH-1 chở mấy ông Sỉ Quan Bộ Binh đi từ Cần Thơ đến Cao Lảnh, với copilot là anh Lư Chí (sau nầy lên Đ/uý về Biên Hoà và rớt chết trong chuyến bay đêm) và cơ phi là anh Th/ sĩ Chua. Chúng tôi đáp ngoài ruộng khô, trơ gốc rạ; gần Bộ Chỉ Huy hành quân đặt ven tỉnh lỵ, để thả mấy ông sĩ quan xuống, xong tắt máy nằm chờ!

                      Khoảng nửa giờ sau có một anh OH –6 bay hành quân về, và đáp gần với chiếc của tôi. Tôi chạy đến và xin anh pilot Mỹ cho tôi lên đi bay thử chơi với anh, vì tôi thích nó! Anh đồng ý, tôi bèn quay về lấy helmet và lên ngồi ghế trái! Tôi nói:
                      - Đây là lần đầu tiên tôi bay thử loại nầy.

                      Tôi bắt đầu nhấc máy bay lên hover; thấy cũng nhẹ nhàng, máy bay đứng yên một chỗ, không có chao đảo gì cả, tôi yên chí tiếp tục quay tròn 360 độ, rồi bay ngang trái, ngang phải… tiếp theo đó tôi cất cánh đảo một vòng, rồi về đáp. Nói nào cho ngay, tôi cũng ráng “gò” để đáp cho êm, sợ anh Mỹ nầy cười. Anh pilot Mỹ hỏi tôi:
                      - Cảm thấy thế nào?

                      Vì phép lịch sự nên cái gì tôi cũng khen good cả, thank you và định leo xuống. Đột nhiên, anh ta nói:
                      - Let me try it !
                      Máy bay đang nằm dưới đất, anh bỗng hốt thẳng lên một cái ào cở 30 feet để hover, quay 360 độ một cái vù, rồi giựt sang trái, kéo sang phải vèo vèo, như thể bay test (thử tàu) vậy, xong đáp xuống lại! Rồi lần nầy anh lại kéo vút thẳng đứng lên thật cao cở 100 feet, để hover, xong anh chúi mũi xuống lấy tốc độ, xuống thật thấp, thấp nữa... đúng là bay rase mottes, hai càng (skids) gần liếm gốc rạ! Tôi nhận ra tay nầy bay cũng “bạo” đây, và có thêm tí… “giựt le” nữa, mà tui đâu có ngán!

                      Đến khi thấy tốc độ khá cao, anh Mỹ mới kéo cho máy bay vọt thẳng đứng lên, thấy máu trên mặt chạy rần rần, tôi cho rằng đó cũng là lẽ thường thôi, đến khi máy bay vọt lên hết đà, anh bắt đầu quẹo ngược lại 180 độ, kiểu như bên khu trục làm loop vậy, tôi không để ý biết là góc độ bao nhiêu, mà lúc đó nhìn xuống chân thấy trời mây không hà! Tôi hoảng hồn, và bắt đầu thấy sợ thiệt! Khi quẹo lại xong, anh tiếp tục bay và vẫn còn trên cao, anh liền nghiêng mình quẹo phải thật gắt; tôi chưa kịp hoàn hồn, thì lại thấy chân cẳng chỉa lên trời một lần nữa. Vậy mà nào đã ngưng đâu, anh cứ bay tới, và thình lình biểu diễn làm một cái quick–stop, coi như thắng gấp vậy. Rồi lần nầy mới khiếp: anh nghiêng quẹo gắt về phía trái, tôi thấy đầu mình chúi xuống đất, nhìn mặt đất cứ dâng dâng lên… Tôi gồng mình mà sợ, nghĩ thầm tự trách mình "sao chơi dại quá, tự dưng đi tìm cái chết lảng xẹt". Cũng may đầu tôi chưa đập xuống đất, máy bay đã trở lại bình phi và anh đảo một vòng nữa, rồi về đáp.

                      Tôi chưa có dịp đi theo khu trục để oanh kích, nên chưa được cảm giác mạnh, nhưng tôi nghĩ mỗi khi máy bay lao xuống bỏ bom bắn phá, rồi cất lên,thì mình đã biết trước trong đầu như vậy rồi, tinh thần có chuẩn bị sẵn, nên cũng không sợ lắm đâu. Trái lại đằng nầy tôi không biết trước, và đoán được những phi tác của anh pilot Mỹ nầy, cộng thêm cái góc độ quẹo của chiếc OH-6 nầy quá lớn, hơn hẳn với chiếc UH1. Cả hai cái bất ngờ đó “ập” đến, làm cho tôi kinh sợ cũng phải. Thật lòng mà nói thế, dù ai có chê cười tôi là “chicken”, cũng xin chấp nhận. Thú thật trong suốt gần 20 phút bay đó, tôi chỉ trân mình mà sợ, chớ có thưởng thức được cái hay dở gì của OH-6, và tài nghệ của anh pilot Mỹ nầy đâu!

                      Lúc máy bay đáp xong, tôi biết rằng mình không chết rồi, mừng hết lớn! Mặt mày không biết có còn tái mét không, nhưng bạo gan, tôi làm bộ tỉnh cũng ngồi yên gật gù khen good, you’re number one nầy nọ; chứ trong bụng muốn leo ra khỏi máy bay ngay lập tức. không cần chờ đợi anh ta tắt máy gì cả; chỉ sợ anh ta được khen, rồi hứng chí hốt máy bay lên biểu diễn tiếp vài cú nữa là... bỏ bu!

                      Nhìn ra ngoài tôi thấy hai anh Lư Chí, và Chua đang hướng về phía tôi cười ngặt ngoẻo! Vừa về gần đến tàu mình, Lư Chí nói liền :
                      - Trời đất ơi! thấy nó dợt anh ghê quá, tôi tuởng là anh tiêu tùng rồi đó. Từ trước đến giờ tôi chưa từng thấy ai bay như vậy bao giờ cả, ghê quá đi!
                      Tôi cũng thú nhận:
                      - Ờ! tao cũng ghê, ớn thật, từ nay xin chừa không dám chơi dại nữa.

                      Ngay sau đó, tôi cũng bỏ cái tò mò lởn vởn trong đầu là có dịp sẽ bay thử chiếc Cobra xem sao, vì nghe nói chiếc “cá lẹp” nầy sau khi chúi xuống bắn, đôi lúc kéo vọt lên, cũng có lực đè hơn 1G gì đó nữa! Thôi từ nay dẹp cái ý định đó, thà rằng mộng không thành, mà khoẻ hơn.

                      Anh chàng Mỹ sau khi tắt máy, cũng lại tàu của tôi chuyện trò. Vừa qua cái màn “giao trứng cho ác”, tôi càng cảm thấy “nổi da gà” hơn khi được biết anh ta mới ra trường, và chỉ bay loại nầy được 400 giờ thôi. Anh khoe máy bay OH-6 xoay trở lẹ làng, bay nhanh, mà có khả năng quẹo góc độ lớn đến 120 (?) độ lận! Anh còn kể : "Nó rất an toàn, như trong Phi Đoàn của anh, lâu lắm rồi có xảy ra một tai nạn máy bay rớt xuống bờ sông, lăn mấy vòng, mà pilot chỉ bị gãy có hai cái răng thôi!

                      Tai nghe miệng cũng cười đấy; nhưng có nói gì thì nói; chứ cái màn vừa rồi làm tôi sợ muốn té… đái!!! Xin bỏ lỗi cho từ ngữ không được… thanh-bai, văn-vẻ, nhưng rất chính xác nầy.
                      ***

                      NGHỊCH NHĨ
                      Last edited by Tinh Hoai Huong; 01-25-2017, 03:24 AM.
                      Bút trần nào tả được lưu luyến!
                      Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                      Tình Hoài Hương

                      Comment


                      • Nhớ Ơi là Nhớ... Tết Năm Xưa






                        Nhớ Ơi là Nhớ...
                        (Tết Năm Xưa
                        )

                        Tết Nguyên Đán lại tưng bừng trở về trên thế trần rồi đó ư? Người ta hân hoan, ríu rít, xôn xao hớn hở hân hoan ân tình gửi cho nhau quà giáng sinh, mừng năm mới với cánh thiệp nồng ấm thắm thiết tình người. Thú vị quá! Đối với Hoài thì ngày Thanksgiving, Christmas, Noel… no iết, hay Tết Nguyên Đán nguyên iết gì gì đó... không còn nữa, như Nhất Tuấn đã ghi bài thơ: "Mimosa Thôi Nở" có những câu thơ nàng rất thích:
                        . . . Mới bốn mùa thu qua
                        Mimosa, Mimosa, vẫn nở...
                        Sao mối tình đôi ta,
                        Ai làm cho dang dỡ?
                        Đêm nay Noel đây,
                        Nhưng em không về nữa.
                        Ðường khuya mưa bay bay.
                        Mimosa, Mimosa, thôi nở…
                        Trong hồn anh đêm nầy…

                        Tháng ngày thấm thoát trôi qua nhanh, như bóng chiều câu qua song cửa, cho mình nếm trọn đủ nỗi cay đắng, niềm đớn đau thầm lặng cùng cực buồn nhớ, khiến Hoài chẳng hết ngẩn ngơ lòng! Nỗi buồn xưa quanh quẩn đâu đây... Hồi nhỏ bé, trước thềm năm mới xa xưa ở thành phố khá lạnh xứ Đà Lạt, Hoài ưa theo ba má đi khắp nơi chúc tết cô bác họ hàng. Cô nhỏ thích được có nhiều tiền lì xì thơm mùi giấy mới, dù không biết xài tiền, em cũng cất tiền lẽ trong bóp đầm màu trắng, có dây quai quàng qua ngực, nhỏ vui mừng khấp khởi tới khoe cùng bạn trẻ, xem ai có nhiều tiền hơn ai thôi.

                        Hoài vui vẻ tụm năm tụm ba với bạn, niềm hạnh phúc ấu thơ là xum xoe bộ cánh mới, cổ đeo kiềng vàng chạm trổ hoa mỹ, hai tai bé lủng lẳng bông vàng lắc lư theo từng cử động vui mắt. Đêm đêm nhỏ nằm mơ hái hoa bắt bướm lảng vảng bay trên đầu cây ngọn cỏ. Rồi tháng năm qua dần... cô em lớn lên với tà áo hoa màu rực rỡ, cùng bạn hữu thời trung học lượn quanh phố chợ, ánh mắt chan hòa tình mến, lòng bạn với ta phơi phới nét xuân thì. Ôi! Tuổi hoa ngày đó vụt xa bay qua tầm tay, nhanh quá đỗi là nhanh.

                        Nay nắng mùa đông sót lại nét hoen sầu, rả rích từng giọt mưa phùn bay bay trên phố Đà Nẵng, điệu buồn êm nhẹ hẫng trên hàng mai vàng lốm đốm khoe sắc. Hoài thấy nhớ những cánh thiệp tươi màu còn cất ở dưới đáy va ly, nàng muốn mở ra xem một lần, một lần rồi thôi. Ở tình bạn, cũng như ở tình yêu, có điều gì mong manh, chơi vơi, xa xăm, lẻ loi khôn tả. Cuộc đời nàng như một hoang đảo ngoài khơi chói nắng, quanh năm toàn thấy đại dương mênh mông, bao la bát ngát. Còn con tàu, lục địa, bờ biển, thì ở xa -rất xa- Tất cả bạn và người thân từ từ xa (như con tàu dừng chân lại trước thềm lục địa, tạm nghỉ ngơi, thân ái nồng nhiệt, đôi khi có phần ích kỷ và ganh tị, nhưng họ tươi cười thản nhiên về sự phản bội đó. Rồi con tàu lặng lẽ nhổ neo đi).

                        Hoài không giận, vì cho đó là sự kiện không quan trọng. Tình bạn non đời sống có chiều rộng, nhưng chưa có chiều sâu mà buồn làm chi. Do vậy tình bạn có phần dễ chịu, tình cờ, đơn sơ, như một túp lều cất lên bên sườn đồi, dưới giàn hoa thiên lý kế rặng tre xanh, bên nương sắn, cạnh ao bèo, muốn đặt nơi nào cũng được, không phân biệt giai cấp sang hèn, học thức thấp cao. Chính vì thế, nó mong manh, dễ tan vỡ, chẳng mang vết buồn đau thầm nhớ! Chả cần thiết!

                        Buổi tối Hoài về nhà anh chị Thương, (vì nhà ba má ở quê Mỹ Chánh đang lộn xộn, không yên, nàng sống ở đó chẳng tiện). Hoài kinh ngạc khi nhận được thiệp xuân của Phú, Đông, chị Hạc. (Phú giới thiệu Đông gửi thư cho nàng theo kiểu bạn bốn phương, vì Hoài không hề quen biết Đông). Thật quá lạ, Phú nghĩ gì về tôi? Tự thâm tâm, có nhiều điều đắng cay, đau buồn, đến nỗi Hoài không nhớ mấy về ai, và quên mất mình đã quen thân Phú. Mừng rỡ cầm mấy phong thư vào phòng, nàng ngồi lên giường, mở thư Phú ra đọc trước tiên. Phú cho biết khi đậu tú tài toàn xong, chàng đã nhập ngũ, nay làm việc tại ven biên tỉnh Khánh Hòa. Đi nghỉ phép ở Đà Lạt, Phú đến thăm chị Khánh, và xin điạ chỉ Hoài.

                        Thoáng thời gian ngắn ngủi qua nhanh, Phú có biết bao thay đổi, đầy hứa hẹn ở tương lai. Còn ta? Mình không có gì ngoài mớ đau thương chất chồng, bao khốn khó quằn xiết lấy tấm thân mảnh dẻ, hai bàn tay trắng, tấm bằng không làm cho đời sống riêng mình tươi hơn. Hoài thấy có cái gì sắt cạnh đâm sâu trong lồng ngực vỡ vụn ra, đau nhói. Một cái gì tê buốt, bàng hoàng. Mà, trước kia nàng tưởng là không có ai có thể bóp nát trái tim đầy tin yêu nầy. Thuở xa xưa ấy, Hoài gặp Phú, quen Phú, trái tim nàng như cuộn giấy trắng tinh, chưa sâu sắc thâu nhận bóng hình ai. Hoài thấy Phú đẹp trai, phong nhã đa tình, và sao mà chàng lãng mạn, lả lướt quá đi! Hoài sợ. Vã chăng, nói cho cùng thì lúc đó nàng đã có một xí cảm tình thân thiết với “cố nhân”. Không! Hoài chẳng muốn nhớ đến “tên ai”, dù kỷ niệm nhỏ nhặt gợi lên hình ảnh đẹp trên đại lộ khuya, làm bừng sống giấc mộng bạc bẽo nơi người con gái trước ngưỡng đời mệt nhoài, hụt hơi đến đắng cổ bây giờ.

                        Mùa đông trôi tuột về dĩ vãng mất rồi, chẳng bao giờ tìm thấy nữa! Thời gian và không gian chìm sâu từng ngày, từng ngày vào ý niệm. Hoài đã đi từ Đà Lạt xuôi qua mọi miền, đi thênh thang giữa lòng đô thị Đà Nẵng, về vùng trời Hội An, Huế, Mỹ Chánh, Quảng Trị, La Vang, ra tới Bến Hải… Có thể suốt đời Hoài vẫn nhớ nhung, nâng niu, trân trọng giữ gìn kỷ niệm dịu êm một thuở vàng son. Kỷ niệm đó, thoáng mắt nhớ nhung đó, nụ cười đó, không gian và thời gian ngày cũ vẫn theo nàng đến chân trời góc bể, nơi nàng đã sống, vui buồn, mòn mỏi, khát khao nỗi nhớ niềm mong, hay đã quên hết rồi? Hoài âm thầm, nhỏ bé như loài hoa cỏ may tầm thường mọc bên lề viả hè trong thành phố xa hoa. Bao lo âu, buồn bã, nhớ nhung, làm úa vàng ngăn kéo kỷ niệm một thuở ru tình... do vậy nàng rất yêu bài thơ dài của Triều Hoa Đại, trong đó có câu:
                        Nửa bước em về chiều nay tư lự.
                        Nửa bước em về ngày xưa tháng cũ.
                        Bước đi bây giờ làm sao lam lũ!
                        Bước đi bây giờ buồn thế sao em!?
                        Thơ anh bỗng buồn viết mãi không nên
                        Chiều cũ ven mưa phố lạnh lên đèn
                        Tình yêu bây giờ làm sao xa cách?
                        Tình yêu bây giờ buồn thế sao em?
                        *


                        Cô Ba Thuận năm nay ngoài bốn mươi lăm tuổi, vóc dáng cô Thuận mập ơi là mập, lùn xủn; cô siêng năng chăm chỉ lo làm ăn buôn bán, nên hái ra tiền, cô ăn nói hoạt bát, nếu không muốn nói là hơi quá lanh miệng lanh mồm. Bạn thân thiết của cô Thuận là cô Nga thì ốm nhom, cao lêu khêu, Hoài ít khi nghe cô Nga nói cười. Cô Nga cũng siêng năng, kín đáo mà lặng lẽ. Sáng sớm mỗi người đi bán một ngả, tối họ về ở chung một phòng chật chội, cùng nhau ngủ một giường. Họ bán những thứ hàng tạp hóa giống nhau. Chẳng bao giờ nghe họ ồn ào, bực bội, băn khoăn, to tiếng cãi cọ. Hai cô bạn già suýt soát tuổi nhau, thân thiết dịu dàng rất mực, mà thuở ấy Hoài chưa từng nghe có từ thông dụng gọi họ là “lesbian” hay “gay ghiết, bóng biết, lại cái” chi cả! Họ là hàng xóm bạn sơ giao của chị Thương. Hôm nay bỗng nhiên cô Thuận qua nhà, cô nói nhiều chuyện vui thật là vui, rồi cô vào đề: xin phép chị Huyền cho Hoài đi phụ cô trông coi cửa tiệm dùm cô. Cô cười:

                        - Tiền! Tiền! Có tiền mua tiên cũng được. Hết sẩy! Chị đồng ý cho em Hoài ra ngoài xã hội vui vẻ, thi thố "tài lăng" bé nhỏ mí đời, chị nhé!
                        Chị Thương nói:
                        - Em nghỉ Tết, không gì làm, nếu đi giúp cô Thuận, thì cũng hay, em ha.
                        Hoài đã ỏn ẻn mỉm cười đồng ý.

                        Đại lộ Hùng Vương ồn ào, nhộn nhịp, tấp nập, đông đúc người người chen lấn đi mua sắm tết. Cô và Hoài bận rộn suốt từ sáng đến tối chưa kịp ăn cơm trưa, bán buôn không ngơi tay nhưng nàng cảm thấy vui không phiền hà‎ khi hoà mình theo lòng phố thị huyên náo. Trong tiệm chỗ tụm năm tụm ba, người mua cái nầy, người mua cái nọ. Hai người lăng xăng rối rít bán hàng không ngừng tay. Bận rộn quá chừng. Bốn giờ chiều thì hai chị em mới có thể nghỉ ngơi xí, họ chia phiên nhau vào góc tiệm ăn cơm, chứ đói chịu không nỗi. Nhà hàng mang cơm phần đến từ lúc mười một giờ, thức ăn bây chừ đã nguội, mỡ đóng váng trên mặt. Nàng ăn chẳng thấy ngon lành, và mệt quá.

                        Ngày thứ hai trước khi đi làm, Hoài ghé tiệm ảnh Phụng Ký ở đường Đồng Khánh lấy mấy tấm ảnh. Ngày thứ ba, hai chị em rảo bước trên phố thật sớm. Hoài mặc áo lạnh lông xù màu cánh sen, cổ quàng khăn voan màu tím hoa sim, quần tây đen, mang giày bít. Má đã mua cho Hoài đủ mọi thứ cần thiết từ đồng tiền lao nhọc của mẹ cha. Vui lạ! Có ai từ nhỏ đến lớn không có năm bảy lần mặc áo mới đẹp nhất, khi họ đã đi qua hầu hết quãng đời mình, mà không vui thích mỉm cười, không nhỉ?

                        Tiệm của cô Thuận đông nghẹt khách mua hàng. Hoài đứng sau quầy, niềm nở cười cười, vui vui, bán bán, trao trao. Bất ngờ và quả thật rất tình cờ, nàng chợt nhìn thấy và… nhìn theo mãi người con trai ngồi sau chiếc Velosolex do bạn chở. Họ đã chạy vòng lui vòng tới bốn năm lần trước cửa tiệm. Nhìn vào tiệm, họ cười hoài. Hai anh chàng cứ... “liếc mắt đưa tình” với nàng, và húc cùi chỏ cười đùa với nhau. Họ chưa dám dựng xe vào trêu ghẹo con bé áo tím. Mặc cô Thuận đon đả mời chào, và, cô sẽ nói huỵch toẹt ra nếu ai có ý lã lơi với nàng, khiến khách đỏ mặt mà xéo bước nhanh. Tính cô thẳng như ruột ngựa là gì!

                        Chàng thanh niên ngồi sau lưng bạn có dáng dấp thư sinh, mày rậm mũi cao, da trắng trẻo, đôi mắt chàng sáng ngời đẹp như mắt chim phượng, khuôn mặt càng xinh trai hơn với đôi má lúm đồng tiền sâu hoắm, chiếc răng khểnh khép nép bên khóe môi phớt hồng, chàng có nụ cười tươi mát đến ngã lòng người. Ah! Chàng có dáng dấp khá giống Phú ở nụ cười có hai lúm đồng tiền! Chàng nhìn Hoài đăm đăm và quay lại tươi cười, vẫy tay với mình nữa kìa! Ôi Lạy Chúa! Quả thật họ đã để ý đến con người tội nghiệp nầy rồi!

                        Cuối cùng dựng xe trước cửa tiệm, họ vào mua năm hộp mứt, hai lố thuốc lá 555 International, hạt dưa, ba chai rượu Martin. Hộp quẹt. Dao cạo râu. Dây nịt đủ kiểu. Dép đàn ông mang trong nhà. Mười áo thun trắng, mỗi cặp có màu và nhãn hiệu khác nhau, quần sọt cũng vậy.

                        Trong khi Hoài gói hàng, cô Thuận loay hoay soạn mấy cái giỏ xách nhựa mới, cô hào phóng tặng họ mang mớ quà cồng kềnh về. Chờ Hoài ngẩng lên, chàng thư sinh Bắc Kỳ đẹp trai ấy lại khoe má lúm đồng tiền, chiếc răng khểnh, chàng đá lông nheo "kịch kịch" với nàng vài ba cái, mới chịu khệ nệ bưng hàng hóa ra về. Ơ hay! Chàng lại gật đầu vẫy vẫy tay chào thân thiết, gật gật gù gù nheo nheo mắt ướt. Hai anh chàng to nhỏ điều gì, lại khúc khích cười cười mãi nữa kìa!

                        Hoài mắc cỡ, hai má nóng bừng, vội vàng cúi xuống tủ kính, vờ xếp lại đồ đạc bên trong. Nàng "không có đồng tiền bát gạo nào" làm sao dám khoe với ai! Nàng thấy vui khi tối hôm ấy cô Thuận qua nhà đưa tí tiền. Nửa đùa nửa thật, cô nói:
                        - Em Hoài giúp tôi mấy hôm nay, thú thật là em đỡ đần tôi rất nhiều. Chị và em đừng ngại gì sớt. Mỗi ngày, tôi sẽ trả em năm chục đồng, còn nửa tháng cuối, thì mỗi ngày một trăm, vì em sẽ thức khuya bán chợ đêm Tết. Ăn uống tôi lo hết. Vất vả đấy nhá. Ra Giêng, nếu em còn ở nhà, thì giúp tôi bán hàng, tôi đưa em mỗi ngày vài ba chục thôi, tùy ngày bán được hay không, vì tháng Giêng là tháng “ăn chơi” sẽ ế ẩm mà. Chỗ chị em, tôi hay nói thẳng, chị Thương và em Hoài không giận tôi nhá.
                        - Em vừa ở quê vào đây... lưng chừng ngày tháng, chưa tính đi học lại ở trường nào, em ở nhà nghỉ, nên giúp cô cho vui, tiền nong gì. Cô.
                        - Ấy chết. Ai lại thế bao giờ. Chị biết không? Em Hoài có duyên bán hàng ra phết nhé. Tiệm tôi đắt hẳn lên. Hôm nay có mấy cậu vào mua, hỏi đến đâu họ mua đến đó, chả mặc cả kỳ kèo gì sớt. Buôn bán, tôi chỉ trông chờ khách xộp điệu nghệ thế chứ. Tôi có nhờ hai cậu ấy ra Giêng đến mở hàng khai xuân đầu năm hộ tôi. À, chị nhớ cho em Hoài giúp tôi một tay nhá.
                        - Việc đó tùy em tôi thôi. Đôi khi nó không thích, làm sao tôi dám hứa.
                        - Ối dào! Em cứ đi làm cho vui mà có tị tiền còm, chờ bao giờ đầu mùa khai giảng, em đi học là tốt.
                        - Chị nói có lý. Tôi sẽ bảo em Hoài suy nghĩ, rồi trả lời chị sau nhé.

                        Liên tiếp mấy hôm sau, hai chàng trai vẫn thả bộ trên phố, rồi họ vào tiệm cô Thuận mua cái nầy, mua cái nọ. Có lần,“anh chàng đẹp giai” nhờ nàng chọn hộ cà vạt. Hoài biết chàng ăn mặc lịch sự, tươm tất, lẽ dĩ nhiên sẽ chọn đúng thời trang, chứ mình nào có tài cán gì, mà chọn! Chẳng qua chàng muốn gợi chuyện làm quen. Thế thôi. Hoài thấy sợ! Mặc dù quen họ, với tính cách là người khách mua bán hàng quen thuộc. Có thể chỉ là bạn, hay là anh trai hơn hẳn mình về tuổi đời, kinh nghiệm sống, không thể đi xa hơn. Nàng như con chim non lìa đàn, sớm bị thương, nay đậu cành mềm sợ gãy cánh, sợ cơn đau buồn điếng lặng khác sẽ ập đến.

                        Nửa tháng cuối năm, chiều nào cũng thế, chỉ còn một mình chàng thơ thẩn solo trên phố, dường như chàng cố ý chờ đợi ai. Sau đó, chàng tạt vào tiệm, phụ cô Thuận treo đồ đạc khách chê đã vứt bừa bãi trong góc phòng. Dù một hai giờ khuya, chàng vẫn chờ cô dọn dẹp xong, chàng mời hai chị em đi ăn. Gì chứ về cái món ăn uống "chùa", khỏi chi địa, là cô Thuận khoái khẩu, vui vẻ nồng nhiệt tươi tắn hẳn lên. Chuyện gì cô cũng tốt, nhưng việc tiền nong thì: "tôi là Bắc Kỳ dón, vắt cổ chày ra nước mà lị". Cô Thuận vẫn nói thế với ông chủ cho cô thuê nhà mà.

                        Có người khách không mời bỗng dưng đêm đêm đến giúp một tay, cô Thuận khoái tỷ vì chả mất tiền công, lại khá được việc. “Ảnh” còn hào phóng mời “hai chị em” nhiều bữa ăn tối, ăn khuya, hậu hĩ quá chừng. Họa có điên hay sao mà không nhận lời chứ. Cô Thuận chuyện trò vui vẻ hồn nhiên "thoả mái" thế nào ấy. Vui vẻ tử tế quá đi. Đôi khi, cô Thuận cũng mời lại "con người tốt bụng ấy" tô bún bò giò heo, tô hoành thánh mì, chén chè, dĩa xôi. Vã chăng, cô Thuận thấy nếu cứ làm cái việc tình vờ phớt lờ ăn hoài của người ta, như ngầm ngầm lợi dụng anh chàng “dại gái”, thì nó cũng hơi kỳ kỳ, ngượng ngùng bẽn lẽn sao sao ấy! Hoài đi theo họ vào tiệm ăn như chiếc bóng âm thầm, chẳng mấy khi thân mật chuyện trò với ai, khiến cô Thuận nhăn mặt, nói nhỏ bên tai:
                        - Người đâu mà kém xã giao đến thế. Sao em ngu tệ. Chả biết.

                        Vì phép lịch sự, Hoài vờ lắng nghe chàng ấy giới thiệu tên, nhưng thật tình không nhớ rõ tên gì. Hoài nhút nhát rụt rè không dám hỏi lại, e bất lịch sự, sợ chàng nghĩ mình điếc, thì buồn năm phút. Trời đất ơi còn cô Thuận! Cô chê em là con nhà quê vừa thập thò ra ngưỡng cửa thành phố đó. Thế, cô tưởng em còn "ngây thơ vô tội" chưa biết trộm yêu, thầm nhớ và đau khổ ấy chắc? Hoài ngập ngừng gượng gạo cười nói, như gã hề đeo mặt nạ méo mó, trông thật kỳ. Lúc còn lại hai người trước cổng nhà, cô Thuận ân cần nói:
                        - Cậu Toàn Thắng là người khá lịch sự, dễ thương, đứng đắn. Em nên vui tươi một tí nha. Suốt buổi ăn, em cứ xụ mặt xuống, trông thật khó coi, bất lịch sự đấy. Nhớ nhá!

                        Hôm sau quên lời cô dặn, Hoài vẫn buồn xo, lặng thinh, nên cô Thuận nhích tới khẽ húc một cái vào hông nàng. Giật mình, Hoài vội nhăn răng ra, cười rõ tươi. Trong khi chàng đang bình luận chuyện thời sự, chuyện chính trị đứng đắn, không có gì vui, để cho nàng cười như reo thế. Ngạc nhiên, chàng im bặt nhìn Hoài đăm đăm. Có lẽ chàng nghĩ con nhỏ nầy có dòng máu khùng khùng, lãng lãng, điên điên, chi chi đó nhỉ!? Cô Thuận liền quay sang Hoài, cô lén thò tay xuống gầm bàn, dùng mấy ngón tay mập ú cô bấm bấm cào cào vô đùi nàng, thì thầm:
                        - Đừng có dỡ hơi thế chứ. Im nào!
                        - . . .
                        ***

                        Người ta vội vã, hấp tấp quét dọn sạch sẽ những ụ rác to tướng, họ đem đổ trên xe chở rác, ở ngả tư, ngả năm đường phố. Họ lau chùi nhà cửa, bàn ghế tươm tất. Chuẩn bị tiễn đưa năm cũ, và hân hoan nồng nhiệt, vui vẻ đón chào năm mới cổ truyền tưng bừng, háo hức trên những cành mai vàng tứ qúy nở hết cánh, đẹp ơi là đẹp. Giao thừa và Tết Nguyên Đán lại đến. Bây giờ là ngày mồng hai tết, Hoài ghi tên dự thi hoa hậu, do Sư Đoàn 2 tổ chức tại Hội chợ Cây Mùa Xuân Chiến Sĩ, bên Sơn Trà. Vì Hoài còn quá nhỏ tuổi, nên anh Thương bắt nàng phải chạy xuống nhà anh Thuận ở đường Đống Đa, để ký giấy chấp thuận cho Hoài đi thi (như ban tổ chức thi hoa hậu tại Sư Đoàn 2 yêu cầu).

                        Đúng tám giờ tối, cuộc thi bắt đầu. Giàn nhạc trỗi dậy âm giai lên bổng xuống trầm tuyệt diệu, khi hùng dũng như vũ bão, khi lả lướt êm đềm, nhẹ nhàng, êm êm lâng lâng như mây khói mong manh. Đó là thứ từ trường mãnh liệt, tiết tấu hài hòa, đầy rung cảm, tạo thành âm điệu tuyệt vời do ban văn nghệ Sư Đoàn 2 điều khiển, phủ chụp lên tâm hồn nàng đa cảm, những dòng âm thanh rì rào, lâng lâng, ngất ngây, táo bạo và run rẩy. Sự tưng bừng huyên náo nầy khuấy đảo tâm hồn chưa yên tĩnh, khiến Hoài càng bối rối, băn khoăn, âu lo. Tuy vậy, nhờ sự hổ trợ mật thiết, tương đắt của chị Sáu Huyền, các cháu Châu, Trân, Vân, Sơn, và có năm mười người bạn mới, cũ, cùng khán giả đông nghẹt nồng nhiệt cổ võ, thì Hoài vững tin, cố gắng hết mình.

                        Khuôn mặt Hoài để tự nhiên không hề biết dùng chút phấn son trang điểm. Xiêm y kín đáo hài hoà, thấm đượm tình cảm thiên nhiên, mang nặng tính cách dân tộc miền núi thượng nguồn Việt Nam, qua vũ khúc Dămbalada. Vũ điệu sôi động, đầy tính chất buông làng, rừng núi thâm u hiểm bí, đã khích động khán thính giả nhiệt liệt hoan ca rất nhiều. Sau vũ điệu, nàng phải hát một bài tự chọn "Nắng chiều" của Lê Trọng Nguyễn. Vì khá mệt trong điệu nhảy sôi động và hoang dại, nên Hoài vừa ca vừa thở, nghe dỡ ẹc. Đồng thời nàng phải trả lời năm câu trắc nghiệm, vấn đáp hóc búa, cùng thi các thích ứng thông minh mau lẹ khác. Hoài lo mình kém tài sẽ gây nên cảnh lố bịch, đến các bậc đàn anh, đàn chị cười chê, châm chọc, thì thật ngượng ngùng hết chỗ nói; sẽ hổ thẹn với bạn trẻ biết mấy!

                        Đứng trên sân khấu có 83 vị xinh như mộng, tươi như hoa đang dự thi. Tất cả chờ đợi ban giám khảo phê duyệt rất lâu. Họ và Hoài đã vượt qua vòng sơ kết. Rồi đợt hai còn năm mươi cô lọt vào vòng bán kết. Đợt ba có mười lăm người may mắn vào vòng chung kết. Những cô bị loại ra thì buồn xo, cúi mặt lủi thủi bẽn lẽn đi xuống. Những cô còn nuôi hy vọng được đứng lại trên sân khấu, thì reo hoan tươi cười ôm nhau nhảy tưng tưng, giống trẻ con ghê, mặc dù cô nào cô nấy ít nhất từ mười sáu đến “hâm” đi hâm lại tới bâm mấy tuổi rồi. Những cô còn đứng trên khán đài, đã được ban điều hành mời họ qua đứng hai bên cánh gà tả và hữu. Hoài hồi hộp lo lắng, bẽn lẽn, sợ bị ném cà chua, trứng thối, bị xịt nước dơ, hay bị đuổi xuống khán đài, thì thật quê một cục, mất mặt, xúi quẫy cả năm chứ chẳng chơi.

                        Còn lại hai cô kia và Hoài là người cuối cùng đứng giữa khán đài rộng mênh mông. Giờ phút quyết định quan trọng đã đến. Cuộc đời Hoài như thăng hoa từ khi đại diện ban giám khảo đội vương miện lên đầu, cổ quàng hoa tươi, đeo hàng chữ Hoa Hậu - Cây Muà Xuân Chiến Sĩ... Giải thưởng là chiếc xe đạp đầm Pháp, model mới nhất, màu xanh. Bó hoa liz cầm tay, và mười ngàn đồng. Số tiền khá lớn, (trong khi lương lính một tháng chỉ có 1.200$)!

                        Ôi! Tuyệt vời xiết bao! Lòng hân hoan vui vẻ kinh khủng, Hoài mừng rỡ không thể tả nỗi. Mọi người ùa đến chúc mừng, bất kể lạ hay quen. Họ chen lấn nhau đứng bên nàng chụp ảnh. Chị Huyền, các cháu và mấy bạn phải nhảy lên sân khấu đứng gần nàng, đưa hai tay che chắn bớt số người ngưỡng mộ, chen lấn quá đông. Trái tim Hoài bừng sống, bay lên tận mây xanh, nàng cười liên miên, vui mừng, luôn miệng nói cảm ơn mọi người ưu ái đã gửi đến Hoài lời chúc tụng nồng nhiệt. Ồ! Định mệnh đã đưa đến tay nàng những gì cao qúy, tươi đẹp nhất trong đời. Nàng tưởng không bao giờ với tới, chạm tới đáy hạnh phúc. Không có ngôn ngữ nào có thể diễn đạt hết tâm tư Hoài mừng vui cuống quít kinh khủng trong lúc nầy. Thì ra ông Trời rất nhân hậu, từ ái, có chừa cho nàng một kẽ hở, vô cùng niềm nở, tuyệt vời, trân qúy, thân yêu nhất đó mà. Hoài không biết để tri ân và tạ ơn Ngài.

                        Hoài háo hức nhón gót nhìn quanh, cố ý tìm kiếm xem trong số khán giả đông đúc còn ngồi dưới khán đài, có "ai quen" lẫn lộn ở đó thì... vui vẻ, hãnh diện, tự hào biết bao. Quả thật, “chàng trai sơ giao” ấy đã đến chúc mừng vinh quang bè bạn. Lần đầu tiên, bây giờ nàng có dịp nhìn kỹ anh trong bộ quân phục đại lễ mùa đông oai hùng. Ah! Thì ra chàng là lính ở văn phòng, chứ không phải thư sinh bạch diện như Hoài đã nghĩ lầm! Bảng mica màu xanh gắn trên túi áo, mang tên: Đ Toàn Thắng. Hai bên cầu vai đỏ có một bông mai vàng lấp lánh dưới ánh đèn, tay cầm chiếc nón casket. Bây giờ nhìn anh quân nhân trẻ, mũ mão cân đai chỉnh tề, oai vệ, Thắng đứng nói chuyện bên mấy người quen mặc cevil, Hoài thấy họ khác lạ như hai thái cực tách rời, chênh lệch nhau quá. Thắng gật đầu chào Hoài, cười thân ái:
                        - Thân chào Hoài. Ngồi làm khán giả, anh nghĩ thể nào em cũng đạt được ngôi vị cao nhất. Rất hân hạnh đến chúc mừng, Hoài nhé.
                        - Cảm ơn anh. Không ngờ anh có mặt ở đây, và là... một sĩ quan.
                        - Như anh, có ngờ đâu anh quen biết với một hoa hậu kìa.
                        - Ban giám khảo thấy em tội nghiệp, sắp mít ướt tới nơi. Họ cho lầm.
                        - Ấy. Ở đời muôn sự đều giả dối, và nhầm lẫn. Chỉ có sự thật mới đáng qúy trọng. Dù ở cảnh ngộ nào, anh cũng thích tôn trọng sự thật hơn.
                        - Điều đó quý lắm chớ.
                        - Là thế. Mong em giữ mãi niềm vui, hạnh phúc ngọt ngào như hôm nay.
                        - Hoài cảm ơn anh nhiều.

                        Thắng nhìn nàng cười thân ái. Thoáng giờ phút rực rỡ huy hoàng nhất đời mình đã để lại trong lòng nàng tuyệt phẩm cao đẹp với cuộc đời. Hoài lâng lâng, xúc động, ngất ngây niềm vui vì bất ngờ có thành công chói sáng, hiển đạt không dám mơ. Tim nàng rung lên từng hồi theo nhịp đập trong lồng ngực cuồng quay, muốn hụt hơi, khiến nàng hoa mắt, môi luôn nở nụ cười toại nguyện. Tạ ơn Chúa! Ngài đã ban cho mình đặc ân tốt lành. Có điều thực tế nhất là từ nay, Hoài có thể ngẩng mặt với đời chút xí, và phụ chị ít tiền, cho gia đình chị bớt khó khăn sau ngày cháu bé vừa mất. Xin cám ơn Đời đãi ngộ. Cám ơn sự ưu ái, nồng nhiệt vô vàn của khán giả. Cám ơn Ban Tổ Chức cho mở cuộc thi. Cám ơn Ban Giám-khảo và Sư-đoàn 2 Bộ Binh. Cám ơn gia đình chị Sáu Huyền, các cháu Châu, Trân, Vân, Sơn, và bạn hữu thân quen rất nhiều.

                        Trên đường về, ngoài số khán giả ngưỡng mộ đông đúc, đông rất đông, còn có anh em Trịnh Trần, Mai Nương, Thu Tuyền, Lan, Ngọc, … đã đưa chị em Hoài từ bến Sơn Trà lên phà qua sông, về đến tận ngỏ nhà. Đêm bây giờ tuyệt đẹp. Đêm không u sầu. Đêm không hoang liêu. Đêm không ủ dột. Đêm không lo âu. Đêm không còn hãi hùng đau thương do chiến tranh tàn phá, không phải đói khát, nhường cơm chia áo cho nhau. Đêm không đơn điệu. Mà là đêm đầy tuyệt vời. Đại lộ Phan Chu Trinh nở ra dưới đêm đầy sao lấp lánh, huyền diệu trên bến Ngân Hà. Dù không có Thắng tiễn đưa Hoài về nhà như mọi ngày. Anh phải ở lại trực trong Sư Đoàn 2. Không có "anh". Nhưng, đêm càng về khuya, càng thơ mộng và tuyệt diệu dường bao! Đúng lúc đời Hoài lên hương, Thắng đã lên sân khấu tặng Hoài bài thơ:
                        “Dạ thưa!” người con gái khá ngoan hiền.
                        Tóc thề dáng nhỏ nón lá chao nghiêng.
                        Gió sớm khuya chiều vờn quanh môi thắm.
                        E ấp ngập ngừng xuân tình bẽn lẽn.

                        Khao khát trao em tình như thầm hẹn.
                        Ngày tôi đi mây xám ngủ bên thềm!
                        Cung đàn nhè nhẹ sáo diều êm êm.
                        Phượng hoàng tím soãi mình vờn quanh núi.

                        Tình bỗng tha phương trống vắng ngậm ngùi…
                        Bãng lãng gót son em về tư lự.
                        Xinh đoá hồng gai trao chút an thư.
                        Dẫu trăm năm xin nồng nhiệt tương tư.

                        Mắt em nhìn là rung lên vạn ý,
                        Môi chưa hé nhưng đã nói muôn lời.
                        Gói tâm tư theo từng áng mây trôi.
                        Tha thiết lắm. Ôi! Tình em gái nhỏ...
                        (*- Thơ THH)
                        *
                        Ố... ồ ô! Thì ra em hân hạnh quen biết với một quân nhân thi sĩ! Vui lắm thay.
                        * * *

                        Tình Hoài Hương
                        (29 tháng Chạp 2016)
                        Last edited by Tinh Hoai Huong; 02-25-2017, 06:43 PM.
                        Bút trần nào tả được lưu luyến!
                        Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                        Tình Hoài Hương

                        Comment


                        • Pháo… “NỔ”





                          Lời nói đầu :
                          Đây là vài mẫu chuyện có thật không ngại hay dỡ, tôi xin kể lại với mục đích duy nhất đọc làm vui...Nguồn cảm hứng bắt đầu từ những đoạn viết kể chuyện xưa của Niên Trưởng Phượng Hoàng Nâu; và để gây chú ý bạn đọc nên tôi xin đặt bài viết nầy với tựa là: pháo… “NỔ”
                          NN

                          ***
                          Pháo… “NỔ”

                          NGHICH_NHĨ



                          Nếu tôi nhớ không lầm, thì khoảng năm 1967 trở về sau nầy, lúc chiến trường càng ngày càng khốc liệt, để nâng cao tinh thần binh sĩ có sự hãnh diện, niềm kiêu hãnh của quân binh chủng mình, nên giới truyền thông mới đặt thêm những cái tên nghe oai phong lẫm liệt như: anh hùng mũ đen... để chỉ Biệt Đông Quân và Thiết Giáp, và thay vì TQLC nghe không được tượng thanh và tượng hình dữ dằn bằng Cọp Biển, ngoại trừ "Thiên Thần Mũ Đỏ" đã có từ lâu. Cũng trên cái chiều hướng đó, mới có những cái tên như “người lính Thông-thái” để chỉ Pháo Binh và Truyền Tin. Còn KQ nhà mình thì đựơc gọi là “Người lính Hào-hoa”!

                          Cái từ hào hoa nầy từ trước đã có, nhưng ám chỉ một số cá nhân nào đó, hoặc trong những buổi chuyện trò với nhau, chứ không nói đến cả một tập thể KQ như sau nầy! Rồi nghe nói là những SVSQ//KQ của các Khoá từ năm 68 (?) trở về sau, được trang bị thêm những mỹ từ: “hào hùng, độc đáo” nữa! Tôi được nghe cũng khoái thật, cũng thấy... “kênh” một chút, dù tự xét bản thân… “cù lần lửa” của mình, chẳng có được một chữ nào trong đó cả. Thôi thì mình cứ ăn ké, cứ hưởng… “của người phúc ta” mà, có chết thằng Ma-rốc nào đâu, mà cần phải đính chánh chớ!

                          Nhìn chung cũng thấy đúng, vì những điều kiện đòi hỏi để trở thành một quân nhân KQ, cũng không dễ dàng gì so với các quân binh chủng bạn. Vâng, nếu anh là một chuyên viên kỹ thuật, thì anh đâu phải sửa chữa xe hơi, máy móc thường, mà sửa đến… phi cơ lận! Còn mấy anh phi hành thì tự hào là ăn cơm dưới đất, mà làm việc trên trời… Với lại áo quần cũng sạch sẽ không bê bết bùn sình; còn đêm thì bên cạnh người thân ở những thành phố lớn, chỉ nhìn thấy ánh hỏa châu và tiếng đại bác từ xa vọng về… Những cái vụn vặt, lỉnh kỉnh của… “người lính cậu” ấy, đã gây cho tôi có ấn tượng và định kiến (stereotyped). Hễ đã là quân nhân KQ, thì hầu như đa số đều có cái niềm kiêu hãnh ngầm, một chút “sô- ốp” và kèm theo tí… “nổ”; mà mức độ nổ đây thuộc loại pháo tiểu, trung, hay pháo đại, là tuỳ theo người… Nhưng ba chuyện thật sau đây, thì cái định kiến của tôi… SAI đến hai phần ba! Xin kể:

                          * Chuyện đầu:

                          NT Phượng Hoàng Nâu có kể lại một chuyến bay yểm trợ đêm thuở xưa, và có nhận được thơ của mấy ông Hội Đồng Xã, và anh em Dân-vệ cám ơn được cứu mạng! Tóm tắt câu chuyện là: NT PHN hướng dẫn 1 phi tuần 2 chiếc đến giải vây cho một đồn gần biên giới Việt Miên; nhưng vì phương tiện thời bấy giờ còn eo hẹp, thô sơ, nên khi xác định được vị trí đồn, thì than ôi, cái đồn đã tiêu ma rồi… và VC đã bắt trói mấy ông hương chức xã và lính dân vệ, giải về phía biên giới Miên.

                          Đám tù binh hàng dọc mập mờ ẩn hiện trong sương sớm, khiến cho hai con chim sắt tưởng cả bọn đều là Cộng phỉ, nên xà xuống tấn công! Đúng là người gian mắc nạn, nên đám dẫn giải tù binh… “muốn chết” liền nhảy xuống bờ đê, và lãnh đủ loạt đạn cà-nông-vanh. Riêng những nạn nhân phe ta, vì đang bị cột dính chùm khó xoay xở, nên còn đứng nguyên trên bờ đê, nhờ vậy mà sống sót chạy về. Một vài tháng sau đó viết thơ cám ơn ân nhân đã cưú mạng!

                          Đọc xong câu chuyện… bây giờ mới kể của NT PHN, tôi đâm ra bần thần, ngẩn ngơ 5 phút! Đúng là "ông nầy" không có một tí… nổ nào cả, “pháo lép” cũng không! Phải chi lúc nhận được thư cám ơn, còn ràng ràng ra đấy, ông chỉ cần làm mặt… “nghiêm và buồn”, trịnh trọng nói:
                          - Mình đâu có làm gì hơn được, vì trong cái đám lẫn lộn địch và ta ấy, mình đâu dám “chơi” bom, mà bắt buộc phải dùng cà nông mà “thịt” chúng thôi! Rồi ông buông thêm vài lời lửng lơ:
                          - Còn mấy ông làng xã và lính nầy mạng cũng còn lớn, cho nên năm bảy tên VC dẫn giải ăn đạn hết, cả đám thoát được là một điều may!

                          Chỉ cần nói có vậy thôi, và trưng thêm một bằng chứng hùng hồn là lá thư cám ơn nữa, thì -tiếng lành đồn xa-, mà càng xa… thì càng có thêm mắm thêm muối, thêm râu ria… Biết đâu bây giờ sẽ có một huyền thoại:
                          - Trong Không Lực VNCH, có một Ách chủ bài là Phượng Hoàng Nâu đã dùng cà-nông-vanh bắn sẻ từng tên VC, một viên là một thằng, có lúc ổng còn chơi xuyên-táo một viên hai thằng nữa cơ đấy…v.v…
                          Đó là phe ta nói; chứ còn phe anh Ba nói cái kiểu phi công Mig của ta núp trong mây, chờ B52 đi qua kè theo, nhảy qua bắt sống giặc lái B52 nữa, thì vụ nầy sẽ đưa NT lên tới tận mây xanh lận đó. Tiếc quá Niên Trưởng ơi! Lúc cần nổ, sao ông không cho nổ; một viên... pháo chuột cũng được mà!

                          Rồi trong mấy bài viết sau đó NT PHN còn kể bị mấy cái… “vạ miệng” nữa, nào là chối từ việc gắn huy chương cho các phi công anh dũng nơi phạn điếm, mà đòi hỏi phải ở sân cờ có mặt trước ba quân, nào là đọc hai câu thơ:
                          Bó thân về với Triều Đình
                          Quần thần lơ láo phận mình ra sao?!


                          Để trả lời một Ông BỰ khi bị hỏi xỏ nữa chứ! Sao mà tôi… “Chịu” ông quá đi thôi! Phải chi trong KQ, hay nói rộng ra trong Quân lực VNCH có được kha khá nhiều những sĩ quan cao cấp, mà có được tánh tình khiêm cung, ngay thẳng, bộc trực, nhạy bén trong nhận định đúng sai, có tấm lòng với đàn em thuộc cấp như Phượng Hoàng Nâu, thì đất nước miền Nam mình đỡ biết mấy!
                          Viết đến đây thế nào cũng có bạn vổ vai tôi và bảo:
                          - Stop đi bạn! “nâng bi” bao nhiêu đó đủ rồi!

                          Tôi xin thưa ngay: À! Cái “vụ” đó hổng có tui à nghen! “You hot you say so”, anh nóng anh nói thế, chứ bây giờ mà nâng bi ổng, để được cái gì chứ? Hổng lẽ ổng chia cho một ít… tiền già? hoặc phòng xa vài chục năm nữa, ông ấy sẽ đệ trình Diêm Vương: cất nhắc cho tui một chức quan nho nhỏ nào đó ở chốn Diêm đình?! Nói là nói vậy, chứ cũng đề phòng miệng lưỡi thế gian gán cho tội... “nâng-bi” nên bây giờ xin... “mó-dế” Niên Trưởng một chút nha. Theo như NT cho biết: chính những lời trung-ngôn đối với cấp trên mà bị...vạ miệng! Vậy bây giờ dám hỏi: "nếu đổi vị trí NT là thượng cấp, mà thuộc cấp, hoặc đàn em có những lời nói như vậy, thì NT cư xử ra sao? Sẽ khen: À! thằng ni nói đúng, để ta xem lại; hay dằn mặt kiểu nào? hoặc… “đì” cho chết bỏ vậy?

                          Kính thưa Niên Trưởng Phượng Hoàng Nâu, nhân đây em cũng xin nói thêm nhận định của mình.. Phượng Hoàng đã xuất hiện từ lâu trên CT, đang bay trên chín tầng mây, không muốn dính líu đến chuyện hồng trần, chuyện thị phi “Bênh và Chống” trên Cánh Thép mấy tuần qua! Dù Ông Thầy đã bay cao và xa thế, nhưng vẫn dõi mắt trông xuống mấy thằng học trò đang hăng say thảo luận, dù những lời lẽ nội dung trong bài viết: chưa có gì là gay cấn. Nhưng áp lực cũng có vẻ nặng nề, nên Ông Thầy mới ra tay… xuất chiêu giải toả áp lực, bằng một bài viết chuyện xưa, và quả đúng như ý… đã làm cho lũ học trò nhớ lại những ngày xưa bên nhau, mà bỏ qua đi những lục đục về ý thức hiện nay…? Có phải vậy không? Cái ngu ý và sự phỏng đoán đã tỏ bày, nếu được Ông Thầy búng ngón tay nghe cái… “tróc” một phát và nói:
                          - Chỉ có... nhà ngươi mới hiểu ta! Được vậy thật là vạn hạnh…

                          * Chuyện giữa:

                          Chuyện nầy tôi xin nói đến anh Nguyễn Thiện ÂN, có hổn danh là "Ân mù" , hay "Hiệp sĩ mù" cũng là chàng! Anh thuộc Phi Đoàn 520 ở Cần Thơ. Tôi nhớ không chính xác, dường như là cuối năm 1968, KĐ 74 (ông ÁNH là KĐT) có tổ chức tại Câu Lạc Bộ Sĩ Quan một party, để vinh danh và ăn mừng PĐ 520 đã đoạt được plaque (?) và bằng khen là TOP GUN, sau khi chiếm giải thi đua ở bãi biển Nha Trang, gồm có nhiều PĐ Khu Trục tham dự. Trong bữa tiệc, có ông Mỹ đại diện cho hãng Cessna tặng mấy kết săm banh. Trên bục ông PĐT vinh danh và mời người phi công Top Gun đã đem vinh quang về cho PĐ lên, cho anh em biết mặt và khen thưởng một ly… bồ đào mỹ tưủ! Một anh mặc bộ civil, đóng thùng đàng hoàng, leo lên bục và từ từ móc cặp… kính cận ra đeo lên, và nâng ly pha lê đế cao, đầy rượu săm banh, trước sự vỗ tay, cười nói của anh em SQ trong KĐ.
                          Thưa quý bạn, người ấy chính là anh: Nguyễn Thiện Ân, Hiệp sĩ Mù! Hằng ngày gặp mặt, tôi thấy anh ít nói, bản tính hiền lành, ngày trước và sau đó anh cũng rất bình thường như mọi ngày, không thấy cái mặt… vác hất lên trời, "ra cái điều ta đây” gì cả! Không rõ từ 1970 đến 1975, Ân về đơn vị nào, hay làm gì, nhưng chắc một điều, sau năm 1975 thì anh là "bạn cùng… khoá tù" với tôi.

                          Thời gian 1976 lúc ở trong trại tù Tân Hiệp, chiều chiều mấy chàng “giặc lái” nhà ta hay tụ năm, tụ ba ở ngoài sân đấu láo! Cũng có một anh cùng khoá với anh Ân có cánh vàng Navy, kể chuyện tùm lum trong thuở còn tung mây lướt gió, chứ không có... nổ gì cả, vì hầu hết đều quen mặt, biết nhau quá mà nổ làm chi! Anh Ân nghe và cười cười thôi, chứ ít có nói gì! Tối vô phòng anh thường kể chuyện tiếu lâm nghe cũng thâm thuý, hay lắm! Tôi thì len lén lật cuốn tự điển ra học Anh Văn. Khi đọc đến chữ bull’s- eye, anh mới nói đó là: "hồng tâm", đúng không?
                          Rồi nhân đấy anh mới kể lúc đi xuyên huấn A37 tại Hoa kỳ, trong một bữa thi bắn, có nhiều PILOT bạn, mà họ có tiếng là giỏi rồi đấy; vậy mà anh cũng đạt được điểm cao nhất, hơn hẳn họ; vì mỗi lần anh nhào xuống, cất lên... là nghe tiếng trong hầm xạ-trường kêu lên là bull’s- eye! Làm ngay cả ông thầy cũng kinh ngạc, vì anh có cách ngắm riêng không theo đúng y chang như kiểu của ông thầy dạy! Anh còn kể lúc bay AD6 có khi nhào xuống một lần, mà bỏ hai trái bom, một trái bên nầy kinh, một trái bên kia bờ kinh trúng phóc; chỉ cần điều khiển cái pedal (rudder) thôi!

                          Thừa cơ hội tôi hỏi tới, nhân đó anh bèn kể lại chuyện đoạt giải ở bãi biển Nha Trang. Thuở ấy, ông Nguyễn Cao Kỳ là phó Tổng Thống, muốn biểu dương sức mạnh của KQ, hay của quân đội VNCH, vì mới được trang bị thêm phản lực A37, nên có cho biểu diễn bắn phá ở bãi biển Nha Trang cho dân chúng xem, và tuyên bố trong nội bộ KQ là:
                          - Nếu PĐ nào mà thả trái bom đầu tiên trúng đích, sẽ được thưởng một số tiền lớn.

                          (Tôi không nhớ là bao nhiêu, nên không ghi ẩu, sợ mất đi sự xác thực). Lúc ấy có đủ các PĐ tham dự. PĐ 520 do anh Ân lead 4 chiếc, trong đó có anh Xuân rổ bay wingman nữa! Anh nhào xuống thả bom và ngay trái đầu tiên, tiêu cái pa-nô làm mục tiêu… Bingo! Mấy anh wing man… phẻ quá, cứ tới phiên là trút bom ngay chỗ… mất mục tiêu thôi! Vậy mà không biết lý do vì sao mà không…."ẩm" được số tiền thưởng, kể cũng “đau” thật! (Nếu anh Nguyễn Thiện Ân, hay một anh nào… cũ cũ biết rõ, xin bổ túc hoặc hiệu đính dùm cho được chính xác, nhất là ngày giờ…v.v... Cảm tạ.)

                          Tôi thấy anh ÂN là một người tài, con người bình dị, khiêm nhường rất hiền lành, thuộc típ người không… nổ; mà cũng không… gáy! Xin lưu ý với bạn đọc chữ gáy là… “y cà lết” nhé. Chứ không phải I ngắn là con gái, kẽo thiên hạ tưởng anh… không gái, là chay tịnh, hay là… “GAY” tội cho ảnh! Từ năm 70 đến “ngày sập tiệm”, tôi đã rời Cần Thơ, nên không rõ và quên hỏi anh Ân làm ở đâu, và “có-chức” (xin đừng đọc lái) gì không? Tôi nhận xét con người tài đức như anh: phải là cấp Trưởng (như PĐT, Trưởng Phòng... vv...) mới đúng! Mà con đường hoạn lộ của anh cũng trầm trầm, không phất lên sớm, tại anh im lìm quá.

                          Không “nổ” thì thôi, cũng phải biết… "ca”, biết… “gáy” chứ cha nội! Không nghe tiếng gáy, thì ai biết ở đó có con gà trống? Mà nầy anh Ân ạ !Anh xem con gà trống muốn…. “ấy” cũng còn làm bộ bươi bươi… rồi kêu... “tụt tụt”, để dụ mấy chị gà mái chạy lại. "Đạt mục tiêu" rồi, còn nhớ vỗ cánh… gáy nữa đó! Tiếng gáy quan trọng lắm nghe anh! Ông đại PHÁP mà còn lấy biểu hiệu là “con Gà Trống” đó, không thấy sao?! Anh ÂN, nếu anh có tình cờ đọc, cho tôi xin lỗi, vì có lẽ anh không muốn bị nêu tên ra đây; nhưng lỡ rồi, thôi cũng nhân thể chúc anh còn có sức… để gáy trong 20 niên nữa nhe!

                          * Chuyện cuối:

                          Năm ngoái (2006) trong một buổi họp KQ địa phương, tôi ngồi vào bàn ăn gồm có các anh pilot đủ ngành: Vận tải, L19, Khu Trục AD6, F5, Trực Thăng... Tôi ngồi kế bên anh "Xoài", Pilot F5. Câu chuyện bắt đầu khi có một anh khác là Trưởng Phòng An Phi của KĐ vào ngồi bàn kế bên. Anh Xoài bắt đầu:
                          - Ông ấy là An phi của KĐ, vậy mà tụi tôi thuộc Phi-đoàn, chứ không lệ thuộc, hay báo cáo gì ông ấy hết!
                          - ???
                          - Vì tụi tôi là Phi Đoàn F5 nghênh-cản, coi như là lực lượng Tổng Trừ Bị; chỉ có bộ Tổng Tham Mưu, hay là Bộ Tư Lệnh KQ, mới có quyền điều động tụi tôi. Tụi tôi chỉ báo cáo thẳng ở đó thôi!
                          Chà nghe hấp dẫn rồi đây! Tôi thực tình nói:
                          - Thế nhiệm vụ của PĐ là nghênh cản lo bảo vệ vùng trời, như vậy anh em chỉ nằm ứng trực thôi, chứ khỏi đi bay hành quân, khoẻ nhỉ!
                          - Ai bảo anh thế, tụi tôi cũng hành quân như điên, chứ ở đó mà nằm chơi không à!
                          - Nghe thế mà.
                          Tôi cũng tệ thật, quên hỏi xem ai điều động, lệnh từ đâu kêu PĐ nầy bay hành quân! Hổng lẽ mỗi lần đi bay, phải do lệnh từ bộ TTM hay từ BTL/KQ?
                          Chuyện vãng một lúc, tôi hỏi:
                          - Mình bay F5, nếu VC xâm nhập bằng Mig 19, hay Mig 17… thì không ngán, nhưng lỡ nó bay vào bằng Mig 21, liệu mình có chơi lại không? Hả anh? Mà hồi đó tới giờ, tụi nó có dám léo hánh vào không?
                          Anh Xoài:
                          - Thì thứ Mig nào mình cũng phải lên, chớ sợ nó à! (nghe ngon!) Anh nên nhớ là tôi bay F5 E, chứ không phải F5 thường đâu nhá! Còn bọn nó cũng thấp thoáng định bay vào đấy chứ.
                          Tôi chận ngang:
                          - Chắc tụi nó (VC) không dám vào đâu, vì tôi nghe nói: vùng trời miền Nam mình được Mỹ bảo vệ mà!
                          Anh Xoài có vẻ giận dữ:
                          - Ai nói Mỹ bảo vệ? (anh lên giọng) Ai, mà ai nói mới được chứ?
                          Tôi đâm… hoãng và ái ngại:
                          - Thì tui nghe người ta nói vậy mà, chứ trước đây mình không có F5, hay phi cơ phản lực. Nếu không phải là Mỹ bảo vệ, thì ai vô đó?!
                          Anh Xoài nhìn tôi, và có lẽ thấy cái bản mặt của tôi có vẻ khờ khờ, ngu ngu, ngốc nghếch, hay sao đó… (chứ bộ vó của tôi cũng cao to, có phần hơn anh, và còn “ngầu” lắm nha!), ảnh bèn hỏi:
                          - Hồi trước anh làm ở đâu? dưới đất hay có đi bay không?
                          - Dạ, tôi cũng có đi bay, mà khác ngành với anh.

                          (Cái tật của tôi là hay “dạ” với người lạ lắm, chứ không ẩn ý gì) sau đó tôi bèn… "viện binh" kể tên một số bạn quen bay F5. Nên anh Xoài có vẻ dịu giọng lại… Tôi còn nói trong chiến trường VN, bộ binh rất thích được AD6 yểm trợ hơn, là A37 và F5, vì hoả lực mạnh và ở lại trận địa lâu hơn nữa. Tôi cũng phàn nàn:
                          - Sao Mỹ không cho mình mấy loại phản lực mạnh như (F104) Phantom... v.v...
                          Anh XOÀI đồng ý:
                          - Hoả lực có hơi ít hơn, nhưng mà F5 bay nhanh lắm, về đổ xăng rồi lên lại mấy hồi!

                          Nghe đến đó, tôi thấy rằng chẳng lẽ máy bay mà giống như xe taxi, hay Honda ôm, hết xăng thì về refuel, rồi đi tiếp, chứ không cần lệnh lạc gì cả! Tôi thấy anh nầy cố nói lấy được mà thôi, nên tôi cũng vả lả cho qua buổi; chứ không còn nói gì đến bay bỗng cả! Anh bay Khu-trục ngồi chung bàn dường như đã biết anh Xoài rồi, nên anh ấy ngó lơ, như không nghe thấy, không bàn bạc gì cả. Riêng anh Chuối bay vận tải, anh nầy vừa là thi sĩ vừa là vỏ sĩ, hình như cùng khoá với anh Xoài; sau một lúc lắng nghe anh Xoài ăn nói, có vẻ xem thường bên vận tải quá, nên anh nầy bực (tôi còn nhớ lời anh Chuối nói):
                          - Tao chỉ cần ông trời cho tao biết trước hai phút, trước khi tao chết thôi!
                          Anh Xoài hỏi:
                          - Để chi vậy?
                          - Hai phút, đủ thời gian để tao...“đục” cho mầy tiêu, chớ làm gì!

                          Tôi thấy tình hình hơi căng, nên chuyển đề tài qua chủ đề mà Hội KQ địa phương sắp thảo luận. Hôm sau tôi gọi phone cho anh bạn Mận, cùng khoá với tôi, bay F5 ở Tiểu-bang khác (xin dựa hơi và… loè với đọc giả, là tôi rất hãnh diện được quen biết gần cả chục tên cùng khoá, bay F5 cơ đấy!), tôi kể chuyện hôm qua cho bạn nghe, và nói:
                          - Mầy có biết không, tao nghe nó nói chuyện tao… “mê” luôn, và nhiều lúc tao nghĩ: tao là dân Bộ Binh đang nghe chuyện, chứ tao hổng phải là KQ đó.
                          Anh bạn Mận cười:
                          - Thằng Xoài nói đúng ở điểm: nó là thuộc PĐ Hồng Tiễn, có nhiệm vụ nghênh cản… nó bay cũng khá lắm! Lúc trước tao check out nó ra Phi Tuần Trưởng đó chứ ai! Còn nó cũng có danh là... “Xoài nổ” mà mậy!
                          Bẵng đi hơn hơn một tháng sau đó, trong một bữa picnic do hội KQ địa phương tổ chức, thấy anh Xoài đang trên bục vui chơi ca hát; tôi nhớ mặt mà quên tên, nên hỏi anh Nguyễn cũng bay F5 “có biết anh đó… là anh gì không”?
                          Anh Nguyễn nhìn lên:
                          - À Thằng “Xoài nổ” đó chứ ai. Rồi chính anh Nguyễn kể thêm:
                          - Thằng nầy ăn nói cũng bạo lắm! Có lần nọ nó nói gì đó, mà gọi mấy thằng khu trục nọ kia; một bị một chàng; bay khu trục khoá đàn anh (cỡ khoá 65, 66) tự ái nổi giận, bảo:
                          - Cái thằng nầy... khoá nào mà ăn nói hổn láo, xấc xược quá!
                          Anh đàn anh Khu-trục kêu ra sân, và xuýt choảng nhau, may nhờ anh em cản ngăn!
                          Anh Xoài học bay thẳng qua F5 luôn, không phải như mấy anh “lão thành” khác, có gốc là dân AD 5, AD 6…

                          Trên đây là chuyện có thật, tên tuổi là giả, vì không muốn đụng chạm chẳng ích gì, nhưng tình tiết chính xác có… “bớt” (vì lâu ngày hơi quên, và không cần nhớ) chứ không có “thêm”! Kể ra, để anh em biết rằng: "trên đời nầy, mỗi người mỗi tánh, và nếu anh em có gặp anh Xoài, hoặc những anh khác có tánh tình tương tự, biết tánh nhau như vậy, cũng lấy làm vui thôi, không thiệt hại gì ai cả". Anh Xoài chỉ có… “nổ một xí”; Chứ tôi thấy anh ta có vẻ nhiệt tình và năng động lắm! Hễ người “có tài”, (cứ cho là vậy đi) thì “có tật”; Biết thế và nghĩ vậy là: vui vẻ cả làng; bạn được vui mà mình cũng vui…

                          Trong đám đông hay đám múa lân cũng vậy, phải cần có pháo nổ nó mới...vui, mới xôm tụ, mới hào hứng. Phải không quý vị? Nhưng mà nổ cũng vừa vừa cỡ… pháo trung thôi, đừng xài tới pháo đại, nó điếc tai quá, và đôi khi nó văng xác trúng người đứng gần, làm xót-xót làn da cũng… “hổng nên”! Tôi cứ nghĩ anh Xoài nầy… xui thật; và mình cũng lấy làm tiếc cho anh ấy, phải chi lúc trước mà có thằng Mig nào cả gan xâm phạm; thì anh lấy F5 dợt cho nó một trận và… “xơi tái” nó một phát, để thoả mãn cái ego của anh. Và anh được dịp… nổ nghe đã luôn! Chuyện đó có thể lắm, vì thuở ấy dogfight là do phần lớn nhờ vào tài nghệ của Pilot, chứ không do sự tân tiến của kỹ thuật như bây giờ!

                          Tôi còn nhớ anh bạn, cũng cùng "khoá….tù" với tôi, Lưu Tùng Cương (đã chết bệnh) bay F5, anh kể lại:
                          - Thời gian đầu Mỹ bỏ bom miền Bắc, không có máy bay theo bảo vệ nhiều tầng như sau nầy (nào là tầng không chiến, nào là tầng diệt Sam, phòng không... v.v.) lần đó mấy chiếc cánh quạt A1H (AD6), ở ngoài Hạm Đội Mỹ đi đánh miền Bắc VN; bị mấy anh Mig phục kích, (nghĩa là Mig chưa lên không chiến ngay, mà chờ lúc khi phi cơ Mỹ cạn xăng, và trên đường về, mới nhào lên chặn đánh, rượt đuổi cho hết xăng… rớt cũng được), mấy anh Mig 17 quần thảo đám phi cơ cánh quạt nầy, và vì khinh địch, ỷ lại hay sao, mà khi nhào xuống bắn, lại bắn không trúng, mà có một chiếc Mig 17 trờ qua khỏi đầu, đằng trước mặt anh Mỹ! Được dịp bằng vàng, anh AD6 Mỹ nhanh như chớp ngóc đầu lên, "dzớt "đẹp chiếc Mig! Đấy một anh phi công cánh quạt, động cơ nổ; không chiến mà còn… diệt gọn một anh phản lực.

                          Anh AD6 nầy được tuyên dương trên báo, radio; nên anh nầy mặc sức mà... “ca” và xứng đáng cho… nổ pháo đại lắm, phải không quý vị! Đến đây chắc bạn đọc có người hỏi tôi:
                          - Còn bạn, (NN) thuộc loại pháo nào đây? có nổ dữ không???
                          Tui cũng thành thật thưa rằng:
                          - Khi nói chuyện với người ngoài, hoặc quân nhân bạn, tôi cũng có cái kiêu-hãnh ngầm, hơi tự-tôn ngầm; còn cái vụ… nổ! thì thật tình chưa biết thể nào; vì thưa các bạn, trong suốt thời gian phục vụ trong quân đội, tôi hoàn tất công việc, mà bất cứ một quân nhân trung bình nào, cũng làm được cả. Tôi chưa có gặp việc gì thật nổi bật, thật khó khăn… để có dịp nổ, nên tui chưa biết tôi có… “nổ” không, và pháo cỡ nào cả!!!


                          NGHICH_NHĨ
                          Last edited by Tinh Hoai Huong; 03-08-2017, 04:56 PM.
                          Bút trần nào tả được lưu luyến!
                          Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                          Tình Hoài Hương

                          Comment


                          • Đoạn Tình Ngoái Vọng




                            Đoạn Tình Ngoái Vọng
                            (Thương mến tặng em Thu Huyền của chị Hoài Hương)
                            ***

                            Trước khi gia đình Tom & Hoa thu xếp gọn gàng mọi công việc ở đây, để chuẩn bị đi Mỹ, Hoa cần phải về quê tại Sãi thăm mệ ngoại, & bà con làng nước. Đó là ngày đầu tháng Hai năm 1972. Từ Đà Nẵng Hoa nôn nao háo hức vui vẻ lên xe đò Phi Long ra Huế. Khi Hoa thấy cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp hiện ra trước mắt, thì Hoa vui không thể nào tả được.

                            Hoa ghé vô nhà người quen dạo trước xin ở lại mấy ngày, ông bà Thảo vui vẻ và hiếu khách không nề hà gì chuyện ăn ở, nên Hoa không mấy ái ngại, ngược lại Hoa cảm thấy thoải mái, thân tình hơn. Hoa tới tiệm may gấp một bộ áo dài trắng. Hoa ra chợ Đông Ba mua guốc vông, mua nón lá bài thơ, mua một cái cặp táp và mấy quyển tập. Hai ngày sau thì áo quần đã may xong. Thế là Hoa lật đật đi vô tiệm làm tóc. Trở về nhà Hoa mặc áo dài trắng quần trắng vô người, tay ôm cặp da, mang guốc, đội nón lá đứng trước tấm gương lớn, Hoa sung sướng soi bóng mình, mà không thể ngờ mình giống hệt một nữ sinh mười sáu tuổi xinh như mộng! Thật là tuyệt vời. Hoa gởi tặng gia chủ mấy món quà xứng đáng và từ giã họ, để đi Quảng Trị.

                            Trời đang trong xanh, bỗng chốc cơn mưa trái mùa ngân vọng tí tách rơi khắp đó đây, màn mưa mỏng tanh giăng mắc nơi nơi, như dãi lụa lung linh luân vũ trên dòng sông Hương nhạt nhoà, nơi có những con đò đang lênh đênh xuôi ngược. Dù mưa không lớn, nhưng Hoa sợ bị cảm, nên tránh vô trên lề phố đụt mưa. Gió lùa qua bộ quần áo trắng dính vô thân thể Hoa những hạt mưa li ti, khiến Hoa run rẩy, cảm thấy ớn lạnh rùng mình. Khoảng hơn nửa giờ sau, mọi sinh hoạt bắt đầu nhộn nhịp, ồn ào… hình như chốn nầy mưa chưa hề đi qua, vì trời đã nắng ráo trong xanh trở lại. Khiến Hoa chợt nhớ mục đích của mình từ Đà Nẵng ra Quảng Trị là: cần phải làm gì.

                            Hoa ôm những món quà lỉnh kỉnh ra đường, đứng trên lề một lúc thì có một xe xích lô trờ tới, Hoa ngoắc ông đạp xe xích lô lại, và nhờ chở Hoa đến bến xe. Tụt xuống xe xích lô, trả tiền xong, Hoa chạy tới bến xe đò đi Quảng Trị. Vì chuyến xe đó đã có quá nhiều người đông đúc chen lấn ồn ào, nên không còn một chỗ trống nào nữa. Hoa thất vọng đành ngồi lại ở phòng bán vé khoảng nửa giờ, để chờ chuyến xe sau. Chẳng hiểu sao trong lòng Hoa thấp thỏm lo âu bồn chồn chen lẫn rộn ràng háo hức đến thế không biết.

                            Rồi thì mọi thấp thỏm băn khoăn qua đi, trên xe đò Hoa đã yên tâm ngồi ở ghế trước cạnh bác tài xế. Lúc xe đò bon bon ra tới gần cầu đúc Hà Lỗ, (nói trắng ra ở đó là một cái ống cống đúc to), bỗng nhiên Hoa thấy đằng phía trước đông nghẹt xe GMC, xe jeep, xe đò… xe cứu thương, vân vân… và mọi người đang chộn rộn, họ vội vã chạy lui chạy tới la hét ầm ĩ, cảnh tượng thật náo loạn. Bác tài xế ngừng xe lại bên mé quốc lộ, bác biểu chú lơ xe chạy tới xem thử chuyện gì. Thì ra chuyến xe trước, nghĩa là chuyến xe đò ở Huế mà Hoa “bị đi hụt” kia… khi chiếc xe đò ấy vừa chạy tới ống cống, thì bị việt-cộng dã man giật mìn, nên hầu như chiếc xe đò hư hại tan nát, có rất nhiều người chết và bị thương trầm trọng.

                            Hoa thầm nghĩ:
                            - “Ôi! Đúng là Chúa, là Phật… đã cứu mạng mình! Nếu mình đừng bị mắc mưa, nếu mình không đi chợ Đông Ba mua quà bánh về cho mệ và bà con làng xóm, nếu mình không bị đi hụt chuyến xe ấy; thì giờ đây có thể mình đã nằm phơi thây tan xác tại nơi đây rồi”!

                            Hoa bần thần ngơ ngáo tụt xuống xe đò như người bước trong mộng. Nghe người ta hướng dẫn đi đâu, thì Hoa mở mắt trừng trừng, không biết gì mà mất hồn mất vía, lẽo đẽo đi theo đoàn người trong xe nầy như vậy! Hoa quá sợ hãi… rùng rợn nhìn thấy những thây người cụt tay, cụt chân, lòi bụng… máu me lênh láng đỏ lòm, xác của những người xấu số đã được những anh lính Nhảy Dù khiên đi đặt tạm bên mé đường. Người bị thương thì ngấp ngoãi quằn quại, rên siết, kêu la không ngớt. Cảnh tượng ấy vô cùng thương tâm, khiến Hoa không thể cầm được nước mắt, và sự lo lắng sợ hãi, bần thần bồn chồn ngơ ngác càng dâng lên tột đỉnh. Hoa không thể hoàn hồn!

                            Hoa lùng bùng nghe trên loa phóng thanh đặt ở một chiếc xe GMC nói láo pháo gì đó, thì đám khách trên xe đò của Hoa cùng đi, đã rộn ràng xôn xao thúc hối Hoa lội bì bõm xuống đám ruộng, mà đi qua bên bờ bắc, phía về hướng Quảng Trị. Hoa ngố ngáo đi theo họ mà tâm trí bay lên trời xanh. Có thể do cơn mưa buổi sáng vừa trút qua nơi nầy, nên bộ quần áo trắng của mình bi giờ đã bết bùn, nhòe nhoẹt, bẩn thỉu lem luốt. Hoa đang chống hai tay xuống đất, để bò bò lên bờ đê. Bỗng nghe có người trai giọng miền Bắc nói gì đó. Hoa ngẩn nhìn lên: một anh Trung-úy Nhảy Dù đang ngồi trên xe jeep. Anh ta mỉm cười nhìn Hoa, giọng nói của người con trai miền Bắc nghe êm ái ngọt ngào, thân ái:
                            - Em về đâu?
                            - Dạ…
                            Hoa ngẩn ngơ hầu như chưa hoàn hồn, cũng chẳng nhớ mình muốn đi đâu, làm gì.
                            - Em muốn về đâu hở? Anh giúp em, không sao. Em đừng ngại nhé.
                            - Dạ thưa… em về ngoại.
                            - Nhưng nhà ngoại ở đâu?
                            - … Sãi. Dạ… An Tiêm.

                            Trung-úy Dù bảo để anh ta lái xe, còn ông tài xế thì lui ra ngồi ở băng ghế sau, nhường chỗ cho Hoa ngồi ở ghế trước, cạnh chàng. Suốt đoạn đường dài Hoa vẫn còn hãi hùng, sợ hãi, bấn loạn tâm trí. Có lẽ anh Trung-úy cũng biết được điều đó, nên cả hai người im lặng không nói thêm lời nào. Đến khi Hoa tụt xuống xe, cám ơn chàng và dợm bước đi, thì anh Trung-úy mỉm cười mở lời:
                            - Anh tên là Hồ. Phan Bá Sơn Hồ. Còn em tên gì nhỉ?
                            - Dạ, em tên Thu Huyền.
                            - Bao giờ em về Huế thế?
                            - Ngày mai.
                            - Cho anh xin địa chỉ của em. Nhé.

                            Hoa nói dối với Hồ là "ngày mai" về lại Đà Nẵng, nhưng thật ra Hoa tính ở lại với mệ khoảng hai ba ngày mới đi. Hoa cho Hồ biết địa chỉ, nhưng không phải địa chỉ của nhà ba má mình, mà Hoa cho Hồ biết địa chỉ bà O ở đường Đống Đa, Đà Nẵng. Hoa tươi cười khi chia tay Hồ. Hồ cũng cười vui, vẫy tay rồi vội vã quành xe trở lại bon bon chạy về lối cũ, có lẽ anh đi tới nơi đã xảy ra tai nạn khủng khiếp.

                            Hoa đứng xớ rớ ở đó một lúc, lòng cảm thấy có chút vui vẻ rồi quẹo vô đường kiệt nhỏ về nhà mệ. Chao ơi! mệ ngoại đang bưng rổ rau trên tay, thấy cháu gái bất ngờ về thăm, mệ ngoại mừng rỡ vất rổ rau xuống đất khi Hoa ôm chầm lấy mệ. Hai bà cháu vui vẻ mừng rỡ rối rít cười cười nói nói huyên thuyên, vui không thể nào tả nỗi. Suốt buổi hai bà cháu rìu rịt bên nhau chuyện trò không biết chán.

                            Ngày hôm sau Hoa ôm cặp đi tìm nhà một người bà con ở bến Đá, để xin vô gụt rửa bớt mấy chỗ tà áo bị bùn dính lem luốt. Vì nhà của mệ có đứa em họ đang đi học tại trường Nguyễn Hoàng. Hoa cảm thấy “dị”, mắc cỡ , muốn dấu nhẹm chuyện mình "giả làm nữ sinh", nên không cho nó biết “cái tẩy” lếu láo của mình. Nhà của người bà con ấy ở bến Đá là một tiệm bán bách hoá, họ bận rộn lu bu vì có nhiều khách ra vô đông đúc, họ chẳng lưu ý về việc Hoa đang làm gì. Hoa thay áo quần xong, nàng bước ra đường thuê xe xích lô:
                            - Chú cho cháu đến trường Nguyễn Hoàng.
                            Vừa nói Hoa liền leo lên xe. Ông ta gò lưng đạp xích lô, và bắt chuyện:
                            - Hình như O ở nơi khác mới tới nơi ni, hỉ!
                            - Ồ, răn chú giỏi rứa?
                            - Thì tui đoán mò thôi.
                            - Chú đoán, mà hay thiệt. Cháu ước chi cũng được như rứa, thì vui biết mấy.
                            - O là học sinh ở trường Nguyễn Hoàng hả?
                            - Lần ni thì chú sai rồi.
                            - Có sai, chớ chẳng lẽ tui trúng hoài, thì tui bỏ nghề đạp xe xích lô, để làm thầy bói.
                            - Dạ phải.
                            - Nhưng mà… tui thắc mắc: nếu O không phải là học sinh ở trường Nguyễn Hoàng, thì mắc mớ chi O tới nơi nớ, O mặc bộ áo dài trắng, đi guốc vông, đầu đội nón lá, mái tóc thề, rồi tay O lại ôm cặp nữa. Thấy như rứa, hỏi răn tui không lầm, hỉ!
                            Hoa toét miệng cười tươi:
                            - Chú giỏi thiệt. Cháu phục chú rồi.
                            - Giỏi cái chi nà.
                            - Dạ… thì cháu luôn ao ước sẽ được vô học ở trong trường Nguyễn Hoàng đó chớ. Nhưng vì nhà cháu rất nghèo, không thể đi học.
                            - Tới nơi rồi. O cho tui vài ba đồng.
                            - Dạ. Nhưng cảm phiền chú làm ơn chớp cho cháu những bô hình ở trường Nguyễn Hoàng!
                            - Tui nỏ biết chớp bóng chớp hình chi mô.
                            - Để cháu chỉ cho chú biết cách xử dụng. Cũng dễ mà.

                            Nói xong, Hoa mở xách tay lấy chiếc máy hình nhỏ ra, và hướng dẫn cho ông xích lô biết cách chụp hình. Hoa tươi cười đứng trong sân bên gốc cây Phượng. Khi thì Hoa đứng ở cổng trường, khi thì Hoa ngồi trên thềm mở tập ra. Khi Hoa đội nón lá ôm cặp “giả” làm nữ sinh đi trên đường tới trường công lập Nguyễn Hoàng. Ông “phó nhòm” dù mỏi tay, vẫn chịu khó chìu chuộng một người khách nhỏ, ông chụp hết cả cuộn phim 35 bô, trong lòng ông cảm thấy ấm áp và vui lây niềm vui của người xa lạ.
                            - Tặng chú năm chục đồng. Cháu cám ơn chú nhiều.
                            - Tui cũng cám ơn O. O cho nhiều tiền, quá lớn như ri. Tui được về nhà nghỉ sớm. Hì.

                            Hoa cười nhìn người đàn ông quắt thướt cao ốm, da sạm khô vì dày dạn phong sương nắng gió khuya chiều, nhưng trông ông ta khỏe mạnh. Hoa cảm động trước lời nói chân thật của người xích lô vui vẻ. Hoa không muốn làm phiền ông ta thêm, nàng sợ rằng nếu nhờ ông ta chở tới bến xe, bến xe cũng gần, không cần đi xích lô. Dù bấy giờ ông ta muốn về nhà ngay, nhưng do nể nang hoặc áy náy, mà ông ta chở mình đi, không nhận thêm tiền. Thì mất hết ý nghĩa. Nhưng ông ta nằn nặc chở Hoa tới bến xe. Đành vậy. Hoa chào từ giã chú xích lô nàng lửng thửng lên xe đò đi vô Huế.

                            Đứng trên bến xe Huế vắng lặng không người qua lại, Hoa lo lắng nhìn lui nhìn tới mà mất hồn! Thôi hết rồi! tuyến đường xe Huế - Đà Nẵng mỗi ngày chỉ có năm bảy chuyến đi & về, trên xe lúc nào cũng chật ních người. Sau bốn giờ chiều tại bến, thì kể như xe ngừng chạy. Hoa không biết điều đó, bi giờ mới “chết đứng” ở đây. Đang bồn chồn lo lắng quá chừng, Hoa bỗng giật mình khi văng vẳng nghe tiếng ai nói:
                            - Chuyến chót, có khách bao đi Đà Nẵng đây.
                            Hoa vui hết sức, lật đật chạy tới chiếc xe đò, trên xe chỉ có năm người khách. Thiệt là mừng hết lớn. Hôm sau Hoa đi lấy hình, chao ơi là không ngờ mình có những tấm hình quá đẹp, Hoa vui thích biết bao, bây giờ thì ước mơ đã toại nguyện rồi nhe, Hoa cứ cầm xấp hình mà nhìn ngắm và trầm trồ tự khen mình giống hệt nữ sinh trường Nguyễn Hoàng mãi.
                            ***

                            - Khi gia đình Hoa lên phi cơ đi Mỹ, vì hành lý quá nhiều, năm cái va ly to, và nhiều túi xách, những thùng carton to tướng, tay nách hai đứa con nhỏ và đồ đạc cồng kềnh. Khi chuyển đổi mấy lần máy bay, thì có mấy va ly bị thất lạc, do đó mất hết tất cả những hình ảnh lúc Hoa chụp ở trường Nguyễn Hoàng. Điều nầy khiến Hoa vẫn tiếc ngẩn ngơ, thiệt là công dã tràng khi chớp bóng chụp hình!

                            Vợ chồng Tom Hoa định cư khoảng ba tháng, thì có cô em họ ở đường Đống Đa đã gởi thơ qua Mỹ, nói với Hoa là:
                            - Có một anh Trung-úy tới nhà mẹ của em, mà anh ấy tìm chị Thu Huyền hoài đó. Anh ấy nói: lúc xưa gặp chị đó, chị nói với anh ấy là ngày hôm sau, tức là "ngày mai" chị đi Đà Nẵng, báo hại anh ấy ra bến xe đợi chị hoài mãi. Em thấy anh ấy rất buồn, ngó tội hết sức chị ơi!

                            Thật tình là lúc đó cũng như bây giờ Hoa không thể nhớ người ấy là ai, mà anh ta tìm mình để làm gì. Thời gian khá dài lặng lẽ buồn bã và bận rộn trôi qua… cho đến một hôm vào giữa năm 1976, có bà bạn người Mỹ mời Hoa đi làm việc cho hội USCC, để giúp bà thông dịch tiếng Anh ra tiếng Việt, và nhờ Hoa bảo trợ cho năm gia đình Việt Nam đã xin tỵ nạn Hoa Kỳ. Ban đầu Hoa không nhận lời, thứ nhất vì nếu Hoa làm việc ở thành phố dầu Oiois City, thì từ nhà Hoa ở Spennylvania đến nơi làm việc, cách xa nhà mình những 90 miles, nên Tom phải đưa Hoa đi làm việc, cũng phiền. Thứ nhì là Hoa được bà Mary cho biết: trong năm gia đình đó, thì một gia đình nọ có hai người đàn ông: Một người là Đại-úy Dù, một người là Trung-úy Không-quân, họ còn độc thân. Vậy, theo Hoa nghĩ hai anh sĩ quan đó có dư trình độ học thức, có thừa ngôn ngữ... để tiếp xúc với người Mỹ rồi, có lẽ không cần đến mình. Nhưng bà Mary giải thích:
                            - Tất nhiên hai ông ấy không cần thông dịch, nhưng họ cần về tinh thần. Vì em biết ở đây quả thật người Việt chỉ đếm không đủ trên một bàn tay. Bây giờ có họ, hẳn là em cũng cảm thấy vui vẻ hơn khi gặp đồng hương. Phải không em?

                            Hoa nghe thật có lý, nên đồng ý nhận lời bà Mary giúp cho năm gia đình ấy có tiền sinh sống, như: xin trả tiền trợ cấp được năm năm, tiền xăng, thức ăn, bác sĩ, vân vân… Hoa liền gọi phone hẹn ngày đi gặp năm gia đình nọ. Hoa gọi cho bốn gia đình xong, Hoa gọi cho hai anh độc thân, thì có một anh (không biết là anh nào) trả lời:
                            - Hello!
                            - Tôi chào anh. Tôi ở trong hội USCC, xin hẹn ngày giờ đến gặp các anh.
                            - Chào cô. Cho chúng tôi hẹn ngày Chủ Nhật nầy, từ 10 giờ đến 12 giờ, tại nhà thờ Antone nhé.
                            - Dạ, chào anh.
                            - Cám ơn cô, chào cô.

                            Như thế cũng tiện, vì ngày thường Hoa còn phải đi làm ở hãng may. Đúng ngày hẹn, Tom phải chở Hoa và hai đứa con đi, từ nhà Hoa đến tại thành phố Oil City cách xa gần 2 giờ xe chạy trên freeway. Bước vô nhà thờ Mỹ, Hoa thấy đa số người có những mái tóc vàng, tóc nâu, tóc bạc, duy chỉ nổi bật lên hai cái đầu có mái tóc màu đen. Biết họ đã có mặt và ngồi ở hàng ghế đó rồi, Hoa quay trở ra đến bên chồng và các con. Sau giờ tan lễ, Hoa trở vô nhà thờ:
                            - Chào anh.
                            - Chào cô. Tôi tên là: Phan Bá Phi Cần.
                            - Còn một người nữa đâu rồi?
                            - À, nó là em tôi.
                            Hoa và Cần bước ra khỏi nhà thờ, thì gặp người em. Cần hỏi:
                            - Sao bỏ đi đâu vậy?

                            Không nghe tiếng người em trả lời, Hoa ngước nhìn người lạ, nàng cảm thấy khá ngạc nhiên khi thanh niên ấy đang sửng sờ đăm đăm nhìn mình không chớp mắt. Hoa hỏi ra mới biết họ là hai anh em ruột, là người Việt Nam rất hiếm hoi ở trên xứ lạ quê người của thành phố Oil City. Hồ nói với anh:
                            - Gặp nhau bất ngờ thế nầy, chúng ta phải đãi Huyền ăn cái gì chứ anh.
                            Người anh khá ngạc nhiên, không hiểu sao em mình lại biết tên cô nầy, nhưng anh Cần không nói gì, lặng lẽ nhìn em gật đầu:
                            - Phải.
                            - Để em với Huyền đi mua Chicken Half Breasts, hoặc New York Steak gì ăn nhé.
                            Cần gật đầu đồng ý:
                            - Anh đợi em. Bây giờ anh vô trong cha xứ có chút việc.
                            - Vâng.
                            Hồ liền dẫn Hoa đi ra xe, anh lái đi. Thật ra trên thành phố nầy Hoa chưa rành chỗ nào bán thức ăn, nên cũng không thể chỉ cho Hồ biết nhà hàng nào ở đâu. Hồ vẫn đăm đăm nhìn Hoa, buồn bã thở dài thườn thượt. Khi Hồ vô tiệm mua thức ăn nước uống xong, trở ra xe. Tuy anh nói dường như trách móc, nhưng giọng người con trai Bắc nghe sao quá dịu, ngọt ngào, êm ái và hay đến lạ :
                            - Có biết em đã giết đời anh không. Hở?
                            Hoa ngỡ ngàng quay qua nhìn Hồ, giọng thảng thốt:
                            - Dạ thưa anh, anh nói gì? Ở trong Hội USCC bảo em đi gặp các anh, thì sao em làm khổ anh? Tại sao vậy?
                            - Em không hiểu, hay em giả vờ không hiểu?
                            - Quả thật em chẳng hiểu anh nói gì.
                            - Vậy cho anh hỏi: Năm 1972, ai là người leo lên ở bờ ruộng, ai ngồi trên xe jeep, để anh chở đi ra Quảng Trị?

                            Giật mình khi quá khứ đang ngùn ngụt ùa về trong hiện tại choáng ngợp ân tình. Hoa mừng rỡ hét to lên:
                            - Ối trời ơi!... Trời ơi! Em cám ơn anh... Lúc đó tinh thần em bấn loạn, vô cùng sợ hãi khi thấy xe đò bị mìn, người chết nằm la liệt, em lo âu hoang mang tột độ. Em có biết chi, có nhớ chi mô.

                            Trở về nhà thờ, Hoa bần thần bấn loạn ngẩn ngơ, chẳng thà Hồ không bình tĩnh mà to tiếng xỉ vả mình ngày đó "bặm trợn, ác ôn" đánh lừa anh đi, thì Hoa đỡ áy náy, đỡ ray rứt. Hoa không thể ăn uống nuốt trôi thứ gì. Hoa lặng lẽ nhìn anh em họ trân trối. Phẩm cách con người có thể đánh giá qua cách nhìn cử chỉ họ tiếp xúc, nói năng, đi đứng, ăn uống... Thế rồi họ mỉm cười chia tay nhau.

                            Ngay tối hôm đó Hồ lái xe xuống nhà Hoa. (Vì ở trong hội, mỗi khi mình muốn bảo trợ cho ai, thì cả hai phía đều có hồ sơ, phải biết số phone và địa chỉ của nhau, để liên lạc lúc cần thiết). Hồ tới trạm gọi phone (thời buổi nầy chưa có cell phone) xin Hoa ra gặp ở điểm hẹn. Hoa nói Hồ cứ vô nhà, vì Hoa chẳng suy nghĩ gì, vã lại chuyện bảo trợ danh chính ngôn thuận, chồng Hoa đã biết việc Hoa làm, không sao cả. Cũng may là Tom đã đi tới nhà thăm mẹ của anh. Hoa không muốn cho chồng biết chuyện Hồ đến nhà làm gì, để Tom phải bận tâm.

                            Hoa đi rót trà mời khách, Hồ ôm con bé sáu tuổi không biết tiếng Việt, (con của Hoa) vô lòng thổn thức:
                            - Cháu có biết không, mẹ của cháu làm ta đau khổ rất nhiều.
                            Có lần Hồ nói:
                            - Mẹ cháu đành lòng ra đi, không ở trên quê hương, là nơi ta và người ta yêu đã sống, cháu à.
                            - Mẹ cháu không biết, hay cố tình không biết ta yêu mẹ cháu rất nhiều.
                            - Mẹ cháu lừa ta. Mẹ cháu đã có chồng con, sẽ đi Mỹ, mà còn cho ta địa chỉ làm gì thế?

                            Hoa sửng sốt mà lạnh toát toàn thân! tay chân rụng rời, nàng run run đặt tách trà sóng sánh nước trên bàn, rồi Hoa khép nép ngồi đối diện với Hồ. Con bé chạy qua sà vô lòng mẹ. Hồ nói mà gần như đang thút thít:
                            - Em là mối tình đầu của anh. Một coup de foudre bất ngờ mà bất diệt.
                            Hoa mang trong lòng nỗi xót thương Hồ, muộn phiền ray rứt vô bờ bến, nghẹn ngào ngẩn ngơ, hoang mang... bàng hoàng mà mình không thể bộc lộ bằng tình cảm. Biết nói gì bây giờ đây, hở Trời!?
                            - Tại sao em không cho anh biết em đã có gia đình?
                            - Tại anh không hỏi... Nhưng... Thật ra lúc đó em đang hãi hùng, lo sợ quá chừng. Không nghĩ chi cả.
                            - Em ra đi… Trong khi anh ở lại chốn xưa, anh không tin em đã thật sự ra đi, nên anh tìm kiếm em trong tuyệt vọng. Ở khắp các vùng chiến thuật anh luôn mang hình bóng em đi theo bên mình. Bây giờ được gặp lại em rồi, anh an tâm đi về. Hẹn tái ngộ.

                            Hoa ngập ngừng lúng túng đứng dậy tiễn Hồ ra cửa, lòng trĩu nặng nỗi sầu đắng buồn thương da diết. Thế rồi ít lâu sau đó, anh em Hồ dọn xuống nhà Trung-tá Th (là chỉ huy của Hồ) để sống cho gần thành phố nơi nhà Hoa hơn, vì ở nơi nầy tiện cho công việc của họ về ngành chuyên môn. Một tuần vài ba lần, "hai anh chị" gặp nhau vì chuyện nầy chuyện nọ, có khi chẳng vì chuyện gì cả, nhưng họ vẫn muốn gặp nhau, gặp nhau cười nói vu vơ mà thân càng thân, hờn trách vẫn cứ trách hờn. Vừa gặp nhau đó ra về tới nhà, thì Hồ lại gọi phone cho Hoa nói chuyện, cứ gọi hoài, nói hũy.

                            "Anh chị" dấu nhẹm không cho người anh rõ... Anh Cần chưa hề biết chuyện từ trước kia Hồ đã yêu Hoa. Hồ chẳng sợ gì hết, trong khi Hoa lo sợ đức ông chồng quá sức. Lạ lùng thay là: dù Hồ đã tặng Hoa một nắm hoa rất đẹp được làm bằng vải nhung êm ái, nhưng Hoa nghĩ là anh đang tặng cho mình một bó hoa hồng, toả mùi thơm dịu dàng được toát ra từ đôi môi của anh.

                            Một hôm Hoa lái xe chở hai anh em đi tới nhà gia đình người Việt (gốc Huế), Hoa cố ý giới thiệu hai anh em nầy, với hai chị em nhà kia quen biết nhau. Thật ra, anh em Hồ người nào cũng hào hoa phong nhã, chững chạc, trí thức, hoạt bát, vui vẻ... lại khá đẹp trai. Trong khi hai chị em kia con nhà danh giá, cũng xinh đẹp và nết na thùy mị không kém. Sau những tháng “tìm hiểu nhau”, thì người anh đã đám cưới với cô chị, và đưa nhau đi Origan sống. Còn Hồ cương quyết dứt khoát không ưng chịu cô em. (Hồ vẫn đi học, rồi năm 81 ra kỹ sư, share phòng ở nhà Trung-tá nọ).

                            Lúc nầy là cuối năm 1979 thì Tom nghi ngờ… âm thầm theo dõi từng cử chỉ hành động của vợ, rồi khám phá ra chuyện “thầm lén” hẹn hò của họ (làm sao mà không lộ chuyện cho được: lúc nào vợ cũng líu lo nói chuyện phone bằng tiếng Việt với một giọng đàn ông duy nhất như thế!). Nhưng Tom bình tĩnh không vội vàng tỏ thái độ gì, điều ấy cũng khiến cho Hoa lo lắng bồn chồn áy náy không yên, không vui mà trở nên bứt rứt lo sợ và bực Hồ hơn. Mặc cho Hoa tức giận, van xin, năn nỉ ỷ ôi và khóc lóc, Hồ vẫn ù lì cóc thèm nghe. Thiệt là điếc bất cần đời không sợ súng của Tom nã cho mấy phát nà.

                            Hồ nói với Hoa:
                            - Ở trại tỵ nạn, anh có quen một cô… Lan rất yêu anh, có gởi thư nhờ anh bảo lãnh.
                            Hoa liền chụp ngay cơ hội đó, đã mách cho anh Cần nghe. Lúc sau nầy khi anh Cần về Ỏigan thì anh đã biết rõ chuyện hai người. Anh Cần cũng biết Lan, anh thường gọi phone về khuyên bảo em trai nên chọn Lan làm vợ, không nên làm cho Hoa đau khổ, gia đình Hoa tan vỡ, thì tội cho họ, và mình chẳng vui vẻ gì!
                            Hồ ra điều kiện với Hoa:
                            - Anh sẽ làm hồ sơ bảo lãnh “vợ Lan” qua Mỹ, với điều kiện khi con gái em đúng 18t ; thì chúng ta ly hôn. Như vậy em phải thề là chúng mình sẽ sống với nhau cho đến trọn đời. Nhé.

                            Hoa không do dự đã thề luôn. Thế là Hồ thu xếp công việc đang làm xong, Hồ đi về bên Origan sống với anh trai, làm hồ sơ bảo lãnh vợ qua Mỹ. Mỗi ngày Hồ đều gọi phone cho Hoa, nói chuyện gì không biết mà ôm khư khư cái điện thoại muốn cháy cả máy. Gọi phone chưa chán, Hồ viết thư thường xuyên kể nầy kể nọ. Có lần Hoa đọc, có lần không đọc mà chỉ khóc, khóc, khóc… vì biết rằng chuyện sẽ bế tắt chẳng đi đến đâu. Rồi nghe phone hoài Hoa cũng sợ Tom sinh nghi, nên Hoa chẳng dám bắt phone, và đi thay đổi số phone mới. Hoa cố gắng sống trong gia đình cho được thanh thản, bình an. Thế là phone pheo thư từ tin tức gì cũng không. Tịt ngòi luôn.

                            Năm 1991 Hoa mở một tiệm bán thức ăn “to go” ngoài phố, nên lu bu bận rộn nhọc nhằn vất vả vô cùng. Lúc nầy thì con gái và con trai đều đã lớn cùng đi học Y khoa. Một hôm trong tiệm hết vật liệu nấu ăn, Tom phải về nhà lấy thêm. Hoa đang lúi húi làm bánh mì, chợt nghe:
                            - Cho xin dĩa chicken.
                            Ngước nhìn lên thấy Hồ, Hoa té xĩu vô lòng bà bạn người Mỹ. Hồ vội chạy tới đỡ lưng Hoa, cho ra nằm ở sofa phía hông nhà. Trong khi bà Mỹ lo làm thức ăn, Hồ bước ra khỏi tiệm. Một lát sau Hoa lồm cồm ngồi dậy, dáo dác nhìn quanh, mặt tái méc và run lập cập, Hoa nói với bà bạn Hoa đi mua thuốc. Tưởng Hồ đã đi, Hoa lật đật vô tiệm thuốc Tây. Nào ngờ Hồ đứng sát sau lưng:
                            - Không trốn khỏi anh được đâu.
                            Hoa lo lắng điếng người vì sợ người ta thấy, tình bây giờ thì ngay nhưng lý gian, nên Hoa rất sợ thiên hạ thấy hai người "rù rì", lại "mách lẽo" với Tom, thì... chết! Hoa vội dẫn Hồ vô một tiệm bánh phía bên kia billding. Ngồi xuống bàn, Hồ nhìn Hoa chòng chọc:
                            - Tại sao thư không đọc, dám trả thư lại, rồi thay số phone mới?
                            Hoa ấp úng cúi gầm mặt nhìn xuống hai đùi, bàn tay xoắn xuýt vào nhau mà vẫn run rẩy.
                            -
                            - Bây giờ các con em đã ngoài hai mươi tuổi, chứ không phải 18 tuổi như chúng mình đã hẹn. Anh sẽ đối diện với Tom, nói hết. Anh về sống với em.
                            Hoa hốt hoảng nói bừa:
                            - Anh chờ hai chị em nó ra bác sĩ, rồi hãy tính.
                            Hồ làm dữ không chịu, viện cớ Hoa kéo dài thời gian lần lữa khất rày khất mai, mà không chịu ly dị chồng, để về chung sống với anh. Tự nhiên Hoa không sợ Hồ nữa. Hoa trừng mắt nhìn Hồ ngao ngán thở dài. Thú thật từ năm 76 đến năm 79 Hoa có thương Hồ lắm, có xao xuyến nhớ nhung Hồ nhiều. Nhưng Hoa không hiểu đó có phải là do tình yêu chân thật, hay do Hoa thương hại Hồ, xót xa thương cảm vì Hồ yêu mình say đắm, mà bao phen điêu đứng khổ sở vì mình. Nên chi Hoa nghĩ Hồ là một người có tình nghĩa sâu đậm và thuỷ chung. Nhưng Hoa phải dối lòng nói với anh không bao giờ yêu anh, để Hồ yên trí mà đi lấy vợ:
                            - Lần nầy, em phải đối diện với Tom, nói cho Tom biết, em dứt khoát không bỏ chồng.
                            Hồ nghe vậy, trên khuôn mặt đẹp trai ấy quá buồn, anh sửng sờ nhìn Hoa không chớp mắt, sau đó Hồ úp mặt vô hai bàn tay khá lâu, rồi ngẩn lên:
                            - Trước khi chúng mình chấm dứt hẳn, anh xin em ba ngày gặp gỡ, anh hứa chúng ta tôn trọng nhau, sẽ kể cho nhau nghe những gì đã và đang xảy ra, mà không làm gì hết. Em chịu không!?

                            Khi đang yêu, ai cũng có những ước nguyện, hoài bão, định hướng và hy vọng có một gia đình hạnh phúc cho riêng mình. Nhưng rồi có ngờ đâu gió bão thường thổi tới, kèm theo những đợt sóng cuốn trôi đi những lý tưởng hoài mong. Từ thuở thanh xuân, Hoa có thể nhìn vào mắt người ấy, Hoa biết có sự đồng cảm tương phùng thấu hiểu, và “chúng ta” đang nghĩ gì. Cho đến bây giờ thì khác hẳn, nhưng Hoa bằng lòng. Hai người dẫn nhau về Pointe West Beach. Họ âu yếm vỗ về an ủi nhau, kể chuyện xưa, chuyện nay… cười đùa rồi hậm hực khóc lóc.
                            Hồ đã thì thầm kể cho Hoa nghe một sưu tầm anh đọc trên báo chí xưa cũ:
                            Có một vị hiền triết đã hỏi các đệ tử rằng:
                            - Tại sao trong cơn giận dữ, người ta thường phải hét thật to vào mặt nhau?
                            Sau một lúc suy nghĩ, một trong những đệ tử ấy đã trả lời:
                            - Bởi vì người ta mất bình tĩnh, mất tự chủ!
                            Vị hiền triết không đồng ý với câu trả lời, ngài bảo:
                            - Nhưng tại sao phải hét lên, trong khi cả hai đang ở cạnh nhau. Tại sao không thể nói với một âm thanh vừa phải đủ nghe?
                            Các đệ tử lại phải ngẫm nghĩ để trả lời, nhưng không có câu giải thích nào, khiến vị thầy của họ hài lòng. Sau cùng ông bảo:
                            - Khi hai người đang giận nhau, thì trái tim của họ đã không còn ở gần nhau nữa. Từ trong thâm tâm, họ cảm thấy giữa họ và người kia có một khoảng cách rất xa. Nên muốn nói cho nhau nghe, thì họ phải dùng hết sức bình sinh để nói thật to. Sự giận dữ càng lớn, thì khoảng cách càng xa, họ càng phải nói to hơn. để tiếng nói của họ bao trùm khoảng cách ấy.
                            Ngưng một chút, ngài lại hỏi:
                            - Còn khi hai người bắt đầu yêu nhau thì thế nào? Họ không bao giờ hét to, mà chỉ nói nhỏ nhẹ, tại sao? Bởi vì trái tim của họ cận kề nhau. Khoảng cách giữa họ rất nhỏ…
                            Rồi ngài lại tiếp tục:
                            - Khi hai người ấy đã yêu nhau thật đậm đà, thì họ không nói nữa, họ chỉ thì thầm, họ đã đến rất gần nhau bằng tình yêu của họ. Cuối cùng, ngay cả thì thầm cũng không cần thiết nữa, họ chỉ cần đưa mắt nhìn nhau, thế thôi! Vì qua ánh mắt đó, họ đã biết đối phương nghĩ gì, muốn gì...
                            Ngài kết luận:
                            - Khi các con bàn cãi với nhau về một vấn đề, phải giữ trái tim của các con lúc nào cũng cận kề. Đừng bao giờ thốt ra điều gì, khiến các con cảm thấy xa cách nhau… Nếu không thì có một ngày khoảng cách ấy càng lúc càng rộng, càng xa... thì các con sẽ không còn tìm ra được đường quay trở về!

                            Hồ và Hoa đã thể hiện mối tình ấy trong cung cách riêng. Tuy trong lòng mỗi người vẫn mang tâm tình yêu thương, âm thầm ngoái vọng về dĩ vãng da diết buồn đau. Nhưng tình cảm trầm buồn mà thiết tha ấy đã êm ái lắng dịu đến không ngờ. Sau ba ngày hạnh phúc trong nước mắt tủi hờn, họ đằm thắm chia tay, không hề liên lạc nữa.
                            ***

                            Năm 2010 Hoa về Việt Nam, có tới thăm cô bạn cũ, Hoa được bạn cho biết:
                            - Anh Hồ đã bảo lãnh chị Lan như đã hứa với Hoa vào năm 1995. Họ có hai mặt con đó, nhưng họ không hề có hạnh phúc. Hồ tính ly dị, thì biết tin Lan bị cancel, rồi sáu tháng sau Lan đã chết. Lâu rồi.
                            Cách đây hai năm (2014) Hoa đi Origan thăm gia đình anh chị Cần, anh chị đã có bốn mặt con. Anh Cần cho biết:
                            - Mới đầu năm 2014 nầy, Hồ vừa chính thức lấy vợ, để thực sự có một gia đình (do tự ý Hồ chọn, chứ không phải do Hoa chọn).
                            Anh Cần lại cười ha hả:
                            - Em quá trời lắm nghe.
                            - Tại răn?
                            - Hồi xưa, lúc mới gặp em ở USCC, anh không hề biết thằng Hồ đã yêu em từ thuở nào. Nên anh cũng âm thầm yêu em đó chứ.
                            - Ui xà, cái anh ni… dị ghê! Vợ anh đài các, tiểu thư, có học và đẹp như rứa, em răn sánh bằng.
                            - Anh nói thật mà.
                            - Anh đừng nói nữa, khiến em càng ốt dột thêm.

                            Nắng chiều xiên ngoài song cửa đang hấp háy trong giếng mắt nhau những niềm vui nỗi buồn hoà quyện, vu vơ… Lòng Hoa dâng lên niềm nhớ nhung mông lung và ngoái vọng về dĩ vãng đang ào ạt tuôn tràn trong hiện tại.

                            ***

                            Tình Hoài Hương
                            Last edited by Tinh Hoai Huong; 02-21-2017, 12:39 AM. Lý do: Làm lại cho đẹp
                            Bút trần nào tả được lưu luyến!
                            Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                            Tình Hoài Hương

                            Comment


                            • Đám Cưới Ngày Xuân


                              Đám Cưới Ngày Xuân


                              Nền trời phơn phớt xanh lơ điểm những lọn mây vàng xám, ươm hồng, lơ lững trôi về nơi vô định. Xa xa xuất hiện đàn chim én bay qua kẽ mây trôi từ phương Bắc về. Tiết trời giá lạnh, run rẩy đang yên ắng lạ thường. Bỗng nhiên tiếng đàn, tiếng trống, tiếng kèn vọng ra từ căn nhà xinh xinh bên sườn dốc do ban nhạc đánh rất hay, ngón đàn điêu luyện chơi vơi trong bầu trời đẫm sương mù, vươn lên đỉnh thông, rồi lặng lẽ tan đi trong ráng chiều dần dần phai nắng: “Thu đi cho lá vàng bay, lá rơi cho đám cưới về. Ngày mai, người em nhỏ bé ngồi trong thuyền hoa tình duyên đành dứt. Có những đêm về sáng đời sao buồn chi mấy cố nhân ơi, đã vội chi men rượu nhấp đôi môi mà phung phí đời em không tiếc nhớ Lá đổ muôn chiều ôi lá úa, phải chăng là nước mắt người đi. Em ơi đừng dối lòng dù sao chăng nữa không nhớ đến tình đôi ta. Thôi thế từ đây anh cố đành quên rằng có người Cầm bằng như không biết mà thôi Lá thu còn lại đôi ba cánh đành lòng cho nước cuốn hoa trôi…”

                              Vào giờ phân giới giữa ánh rạng rỡ của ngày đầu năm mới và bóng tối xuân về, thốt nhiên Anh Thư cảm thấy ngập tràn niềm vui, như cỡi trên con thuyền hoa hạnh phúc bất tận:
                              Bấy lâu em còn nghi còn ngại.
                              Bữa nay em kêu đại bằng “mình”
                              Phụ mẫu hay được, không lẽ đánh mình giết em!
                              (cd)

                              Do bởi... í a ... là tại cái ông Tơ bà Nguyệt mà ra cả, cũng vì... từ hồi xửa hồi xưa kia cà: Thuở đó chàng Vi Cố ngọan cảnh đêm trăng, thì gặp ông Nguyệt Lão râu tóc bạc phơ đang ngồi mân mê mớ chỉ hồng, mà ông ngồi làm chi trước tòa cổ miếu trầm ngâm suy tư hỉ!?. Chàng Vi Cố lân la gợi chuyện làm quen ông lão, rồi khẩn khỏan hỏi thăm ông Lão Nguyệt: “người vợ sau nầy của mình là ai?”. Thì chàng được ông lão cho biết: “vợ của chàng sau nầy là một cô bé bán rau nghèo khổ”. Quả thật đúng y bon thật như vậy. Rằng thì là ...cũng do từ đấy mà ra, nên Anh Thư đã dám bạo gan bạo phổi:
                              Ai về bà Điểm Hóc Môn
                              Hỏi thăm người ấy có còn hay không?
                              Để tôi kiếm sợi chỉ hồng.
                              Nhờ ông Tơ bà Nguyệt kết vợ chồng đôi ta.
                              (cd)

                              Thế nên giờ đây chúng mình mới “có chuyện” vui vẻ nè... cũng phải thôi:
                              Ấy ai dắt mối tơ mành
                              Cho thuyền quen bến cho anh quen nàng
                              Tơ tằm đã vấn thì vương
                              Đã trót dang díu thì thương nhau cùng.
                              Hai anh chị ấy đã quyết chí hẹn thề với nhau:
                              Anh đừng thấy “đăng” mà phụ “đó”
                              Đừng chê em nghèo khó mà vội phụ phàng
                              Anh coi đồng tiền sớm mai còn chiều mất
                              Chớ nhân nghĩa bạn vàng vững chắc thiên kim
                              (cd)

                              Thế nên ngày mai là chính thức hai Họ nhà trai và nhà gái đã làm đám cưới cho Anh Thư và Bửu Bảo mà! Anh Thư là con gái đầu lòng, ba me cô tuy gốc gác miền Trung, nhưng họ rời quê hương khá lâu, gia đình lên Đà Lạt làm việc với Pháp, nên mọi việc từ trong ra ngoài, họ lo cho con gái chu tất, toàn vẹn theo lối phương Tây. Bảo, con trưởng nam dòng họ vương tôn, giàu có và thanh lịch. Gia đình đôi bên có đủ yếu tố xây dựng gia thất cho con, để dòng họ thêm rộn ràng hoan hỉ, nở mày nở mặt. Ngoài kia, họ nhà gái huyên náo lạ thường, đàn ca, nhạc sống vui vẻ hết biết.

                              Suốt đêm Anh Thư không dám nằm ngủ, cô sợ xẹp mái tóc đánh rối bới cao, sẽ bù xù, mất thẩm mỹ đi. Nàng càng bực mình vì đôi giày cao gót, cô chọn lầm, da giày cứng, dày như da voi, cô vừa mang đi lui đi tới mấy vòng, thì gót giày tàn nhẫn “xơi tái” mấy miếng da chân, nên bi chừ rát bỏng, đau điếng. Mỗi lần cử động, nó đau lên thấu tim, dù Anh Thư se sẽ lê tấm thân phì lũ, đi nhè nhẹ, cà nhắc, cà nhót. Mấy phù dâu xúm lại trang điểm cho nàng, vì nước da của Anh Thư ngăm ngăm đen, ai ai cũng nói nàng có làn da như vậy, thì có duyên. Nhưng nàng bực tức khi có bạn đã chế nhạo:
                              “Chưa đi chưa biết Bà Đen,
                              Đi rồi mới thấy đen hơn bà nhà,
                              Bà nhà tuy có hơi già.
                              Nhưng mà vẫn... trắng hơn là Bà Đen”!
                              (st)

                              Chín giờ sáng! Nhà trai đã có mặt trước sân hồng: Hai gánh đi đầu là cặp ngỗng trắng nhốt trong lồng mây, nó luôn hoác mỏ khàn khàn khọt khẹt kêu réo inh ỏi. Tiếp theo là con heo mọi mập ú, ụt ịt quay lui quay tới trong cái cũi sơn đỏ, cột nơ hồng. Gánh thứ ba là vò rượu cẩm chôn bách nhật xủi tăm. Tiếp theo là tám khay mâm quả phủ nhiễu đỏ, viền tua vàng, do những chàng trai mặc áo xanh đỏ, đội nón lá mười vành, khệ nệ trang-trọng bưng. Hai bên có những người đồng cổ phục cầm cán lọng dài màu vàng che nắng. Chàng rể mặc áo dài thụng màu xanh biển, chữ Phước, đầu chít khăn đóng, quần dạ trắng, mang giày thô đen. Chú tiểu-đồng-hầu lon ton xách theo bộ đồ “tuxedo” nữa. Chàng rể (tay ôm bó hoa của cô phù dâu) đi trước giữa hàng thân quyến cùng quý ông bà, mệnh phụ phu nhân, bạn bè, bà con gia tộc nhà trai đi sau lưng.

                              Tất cả dừng lại chờ hai người mối bên họ nhà trai: đi tiên khởi bưng khay trầu rượu vào trước sân hồng, để ra mắt quan viên hai họ. Ông mai bà mối xin họ nhà gái cho nhập gia tùy tục. Thế là đại diện họ nhà gái đứng trên thềm hoa, xoa xoa những bàn tay thân thiện vui vẻ nhận lời. Mọi người hoan hỉ tươi cười trang trọng lục tục kéo nhau vào phòng nghinh tân. Ông mai bà mối nói năng lưu loát, nên vui vẻ cả làng. Các mâm sính lễ đặt trên chiếc bàn dài, cặp ngỗng và “chú hợi” để dưới sân, gần cửa chính. Ui! Ngày xửa ngày xưa muốn cưới hỏi, phải có đủ 6 lễ vật:
                              Lễ thái nạp (đính ước giữa trai gái).
                              Lễ vấn danh: (hỏi tên tuổi cô gái).
                              Lễ nạp cát: (nhà trai trả lời bằng lòng).
                              Lễ nạp lệ: (ăn hỏi).
                              Lễ thinh ký: (lễ xin cưới).
                              Lễ than nghinh: (Lễ cưới).

                              Bi chừ là thời buổi văn minh tiến bộ thì cho giản dị nhiều thứ. Nhưng lễ vật nhà trai vẫn sang trọng lắm. Nào là vòng xuyến, dây chuyền, bông tai, nhẫn, toàn nhận kim cương, còn kiềng chạm, dây chuyền trên năm lượng vàng y 24k (không kể quà bà con chú bác). Nghi thức diễn tiến tốt đẹp, đến lúc Anh Thư hồi hộp, rụt rè, được bà me vén bức màn nhung, dìu con gái rón rén e ấp thẹn thùng bước ra phòng nghinh-tân. Trong lòng nàng ngổn ngang trăm mối, giờ phút chót nàng vẫn lo sợ nhà chồng chê “mình ú na ú nần”, nên nàng đã rỉ tai:
                              “Lấy vợ xin anh lấy vợ ù.
                              Tay em đầy đặn, tối em ru.
                              Kê đầu anh ngủ êm hơn gối.
                              Mộng đẹp, hiên ngoài gió vi vu”.
                              (st)

                              Bỗng chốc bên phía nhà trai có vài mệnh phụ đài các chụm đầu vào nhau xì xào, chỉ chỏ bộ cánh “xê-rê ” trắng trắng, có tấm voan mỏng che mặt, đuôi áo dài lê thê sau gót cô dâu, găng tay trắng dài lên tới cánh, cô dâu đội vương miện lóng lánh kiễu nữ hoàng Anh cao sang. Có người bên nhà trai nói trổng:
                              - Y như con ma da chết trôi. Thấy gớm ghiết, ớn lạnh hè. Thiệt là...
                              Nhà gái tái mặt, vội xuề xòa:
                              - Đồ trắng, là tượng trưng cho sự trinh bạch mà.
                              - Ngày cưới xin, ăn nói chi bậy bạ quá!
                              - Ui xà! “Ở có nhân, mười phân chẳng khốn. Ở có đức, mặc sức mà ăn”.
                              - Miệng mồm ăn mắm ăn muối.
                              - “Chỉ đâu mà buộc ngang trời. Tay đâu mà bịt miệng người thế gian”.

                              Họ đã xầm xì to nhỏ:
                              - Để rồi chị em dòm coi nghe: Cái thứ nớ rồi không trước thì sau sẽ giống như:
                              Ba bà đi chợ với nhau.
                              Một bà đi trước kể chuyện nàng dâu.
                              Một bà đi sau tu tu lên khóc:
                              Nhà bà có phước lấy được dâu hiền.
                              Nhà tôi vô duyên lấy phải dâu dại.
                              Việc làm thì trái, chỉ tưởng miếng ăn.
                              Hễ bảo quét sân đánh chết ba gà.
                              Bảo đi quét nhà đánh chết ba chó.
                              Có mâm giỗ họ miếng ra miếng vào.
                              Rửa bát cầu ao liếm dĩa quèn quẹt.
                              (cd)

                              Hai họ lời qua tiếng lại nghe chói tai, nhức nhối con tim thật khổ hết biết! Khổ nhất là ông Tơ bà Nguyệt, hết ông Tơ cứ lo chạy qua bên nầy, thì bà Nguyệt lại chạy lăn xăn về bên kia năn nỉ ỉ ôi. Hai họ mích lòng nhau, thấy sợ, trong khi ngoài sân pháo bắt đầu nổ rền trời. Tôi đi phù dâu chuyện cãi cọ, đôi co, hay hai họ có làm gì, tôi cũng chả lo chuyện ruồi bu của người khác. Tôi chỉ sợ pháo văng trúng bị cháy áo quần, mà bộ đồ vía nầy là do tiền cần cù lao khó của mình làm ra mà có, chứ nàng dâu chú rể chả ai lo cho! Nên tôi vén váy áo ngồi thụp xuống nền nhà, nhắm mắt bưng hai tai.

                              Khi nghe nhiều tiếng kêu rú thất thanh vang lên, tôi đứng phắt dậy, ngơ ngác nhìn quanh: Hai con ngỗng nghe pháo nổ đì đùng, chúng hoảng sợ tống cửa lồng, một con bay lên bàn đạp đỗ bình hoa, lễ vật, ly tách, bánh rượu, trái cây. Khi người đàn ông nào đó túm bắt được con ngỗng đực, ông ta vặn ngược cổ nó lui sau lưng, thì trên bàn lộn xộn không còn gì ráo. Một con ngỗng kia cứ nhướng cổ, quạt cánh nhắm mấy khuê nữ đài các mặc áo dài màu vàng, màu đỏ chói chang mà rượt theo. Khiến mọi người xô đẩy, đạp lên nhau né chạy... chạy tá lả. Con heo mọi ụt ịt càng hoảng sợ, nó hất chiếc lồng cũi ngã ngửa rồi lăn cù ra, nó hét tướng lên kêu eng éc, éc éc... rồi nó cạp nắp đậy. Nó đã sổng cũi, vừa chạy nó vừa ị ị ị ra từng cục phân vương vãi lung tung, nhão nhoẹt, thúi um.

                              Hầu hết mọi người sửng sốt, ngây người, chết trân, ngơ ngác nhìn trước cảnh tượng khá bất ngờ. Nhưng người đau khổ nhất là Anh Thư. Cô đứng chịu trận hơn một giờ (do những thủ tục nhập-gia rườm rà), nên đôi chân Anh Thư càng lúc càng sưng húp, vì những vết thương cọ xát vào đôi giày mới, mạch máu giật tưng tưng từng cơn. Cô mệt đừ, mồ hôi vã ra như tắm, mặt mày cô tróc dần phấn son, trông cô lem luốc, da cô trổ đồi mồi như con mèo vá. Tự dưng bụng đói cồn cào, cô hoa mắt, chóng mặt, và Anh Thư cũng lăn cù ra như con heo mọi kia mà bất tỉnh nhân sự.

                              Hai cô phù dâu hoảng hốt, luống cuống vội vàng nâng Anh Thư dậy, Trầm Mây và tôi đều gầy ốm, (so với “Thư tán phẩm”), chúng tôi vẫn cố sức làm tròn nghĩa vụ phù dâu. Mỗi người kéo một cánh tay của Anh Thư để quặp vào cổ mình, kẹp cô dâu ở giữa, chúng tôi ra sức kéo lôi Anh Thư xềnh xệch đi vào “the-phòng”. Các bạn gái khác thì không ngớt xoa dầu gió cho Anh Thư, cạo gió, giật tóc mai cô dâu. Dần dà thì Anh Thư cũng hồi tỉnh lại. Thật uổng công mái tóc “búp Ănglê” mà Anh Thư sợ hư, đã ngủ ngồi suốt đêm qua, giờ đây bù xù như tổ quạ. Anh Thư vội bảo Hoa ra phòng khách: lấy hộ hộp quần áo sính hôn vào, vì giờ đi lễ sắp đến. Các bạn gái mỗi người một tay, xúm lại lo chải chuốt, trang điểm cho Anh Thư. Ba me của cô muốn Anh Thư diện bộ cánh thời trang “xê rê” lộng lẫy nhất. Mặc! Về nhà chồng, thì cô dâu cần phải lấy lòng bên họ nhà chồng đã may áo quần cho con dâu chứ. “Thuyền theo lái, gái theo chồng. Chồng đi hang rắn, hang rồng, vợ cũng phải theo” mà!

                              Anh Thư đội khăn đóng vành dây đỏ mạ vàng cao chín tầng quá rộng, nên nó tự động sụp xuống tận mắt. Thỉnh thoảng Anh Thư phải lấy tay đẩy “cái khăn hoàng hậu” lên. Vì mạ chàng rể không ngờ bây giờ cô dâu ốm hơn ngày trước tê mạ đi lên Đà Lạt làm đám hỏi cô. Phần Anh Thư do lo lắng chuyện cưới hỏi, nên ngày nay cô đã sút mất mươi cân! Thành ra áo quần mạ may từ năm bảy tháng trước, nay rộng thùng thình! Cô mặc áo dài nhung đỏ may tà Bắc, quần sa tanh trắng “rô-đê” dưới gấu, khoát ngự uyển bên ngoài. Chuyện áo quần rộng không thành vấn đề, cô chỉ có hơi buồn buồn khi đội khăn đóng, và mang đôi hài đỏ.

                              Hồi ấy do hai họ trai gái ở “ngăn sông cách núi” xa xôi ngàn trùng, chuyện đi lại gặp gỡ bàn tính với nhau bất tiện trăm bề, họ chỉ liên lạc với nhau bằng thư gửi bưu điện, cả tuần hoặc mười ngày nửa tháng mới bắt được thư. Bảo viết thư về cho mạ, ghi số đo để may áo quần và đo số chân của Anh Thư, để mạ đi đặt đôi hài cườm có thêu con rồng vàng uốn khúc hai bên mép hia. Mạ thích tự ý diện cho con dâu í mà! Mạ lẩm bẩm:
                              - Viết cái chi mà lem dem nhỏ xí ri hè? Viết không rõ ràng nơi, con số 40 hay 46 hỉ? À... con dâu mình có da, có thịt, phúc hậu như rứa, thì ta cứ đặt cho con số 46 hỉ! Số lớn số nhỏ chi, cũng bằng từng nớ tiền. Chi bằng, mình cứ đóng số lớn xí, thì rẻ, mình có lợi là được giày to, mà mình không phải bù trả thêm tiền ở khoảng to nớ. Cho tiệm giày hắn lỗ chổng khu luôn.

                              Thành thử đôi hài rộng rinh, ẻo qua, ẻo lại, càng khó khăn khi Anh Thư cất bước đi. Tuy được một điều là đôi hài rộng không cứa vô chỗ đau ở mấy vết thương rát bỏng dưới gót chân kia. Mọi xáo trộn rồi cũng dần qua. Thay vì cho đám rước đi bộ trên đoạn đường ngắn dợt le, làm lé mắt mọi người, để thiên hạ tha hồ ngắm nhìn, trầm trồ khen ngợi đám cưới nầy cao sang, long trọng; và lom lom dòm đoàn người hộ tống cô dâu che tán vàng, tán tía như cha mạ chú rể ước mơ dự tính. Cha mạ chồng sợ cô dâu lăng đùng ra một lần nữa, thì nguy to. Nên cha mạ, họ nhà trai bàn tính kỹ, cuối cùng đồng ý gấp với họ nhà gái: là cả hai họ trai gái cùng nhau leo lên những chiếc xe hoa, nối đuôi chạy dài dài đến giáo đường con gà.

                              Dưới những chòm thông xanh reo vi vu, giáo đường Chính Tòa Đà Lạt tô màu gạch viền trắng uy nghi, sừng sững, tọa lạc trên vùng đất phóng khoáng, có tháp chuông cao vút, in hình Con Gà vươn lên trời xanh mênh mông. Hàng xe hơi khoảng mười lăm chiếc đã đậu đúng hàng lối trước sân giáo đường.

                              Nếu đi trên mặt bằng, thì Anh Thư còn có thể kéo lê “đôi hia một dặm” lết lết theo bàn chân co cứng, cô cố dí sát mấy ngón chân vào đầu mũi hia, cô dồn toàn lực bấm mười đầu ngón chân, ngỏ hầu cố giữ đôi hia lại. Nhưng, khi cô muốn giở đôi chân cao hơn, để bước lên những bậc cấp, thì lực bất tòng tâm. Mười đầu ngón chân Anh Thư mỏi mệt, ương ngạnh, xuội lơ, tê cứng... nó không tuân phục theo ý muốn của cô. Thế là chiếc hài rời chân, ung dung rơi lông lốc xuống cuối những bậc cấp nhà thờ Chính Tòa cao ngất. Trầm Mây ngẩn ngơ giây lát rồi vội vàng xắn quần áo đẹp, chạy xuống để nhặt “hia” lên, Trầm Mây đưa tận chân cô dâu. Anh Thư tay vịn vô vai của tôi, nàng xỏ được chiếc hài nầy, thì chiếc hài khác lỏng lẻo lăn đi. Anh Thư cúi đầu xuống nhìn, mà xỏ chân vào hia, thì báo hại chiếc khăn đóng rộng vành đã che sụp xuống tận mũi. Anh Thư không thấy đường, cô dâu đạp phải vạt áo dài lụng thụng lết bết trên bậc cấp. Áo dài Anh Thư đứt hàng khuy nút bóp, để lòi vú mớm ra. Cô dâu hổ thẹn, luống cuống vội vàng quơ quơ tay để kéo ngự uyển đậy lại.

                              Trong lúc lây lan cái sự dị hợm nầy, và mắc cỡ muốn độn thổ, tôi lúng túng lo lắng nhìn chằm chằm vô mặt Anh Thư, ngỏ hầu ráng chăm sóc tốt cho bạn, nên tôi bị hụt bước chân trên bậc cấp. Thế là tôi ôm bạn té lăn cù cù xuống đủ hai vòng. Chu choa ơi! Bộ giò cô dâu lặt lìa lặt lọi, bị trặc mất toi rồi! Còn tôi thì tím bầm ở hai đầu gối, sưng to như đầu gối voi, đau kinh khủng! Hai phù dâu lại một phen nữa mệt toát mồ hôi hột, tôi cùng bạn xốc nách Anh Thư dựng nàng lên! Chúng tôi quàng cánh tay của Anh Thư vắt qua cổ mình, liếc nhìn nhau mà hô to: “một... hai... ba...” để lôi Anh Thư và cả tôi lặc lìa lặc lọi lết lên bậc cấp, cho chắc ăn, cho chắc cú. Chớ cái kiểu nầy thì tôi mệt muốn ngủm! muốn ngoẻo!

                              Sự việc xảy ra đột ngột quá nhanh, dù chàng rể Bửu Bảo đang đứng gần chúng tôi, ấy thế mà chàng rể thừ người ra trơ trơ lỏ mắt dòm, không kịp phản ứng gì! Lúc đó mặt mày cô dâu, chú rể đỏ bừng như con gà lôi, chuyển sang tái méc. Mà người tiếp nhận tái méc nhanh nhất là mạ chồng! Hai họ đứng chết trân, rủ người dường như tê liệt, họ kinh ngạc há hốc miệng. Bỗng chốc mọi người xôn xao đồng loạt cất tiếng cười ngất (trước nỗi đau của người khác). Họ quên lửng “bộ đồ vía” gây ra nông nỗi tệ hại kia, là do chính Họ nhà trai cất công đi mua sắm. Lúc nầy, hai cô phù dâu quá mệt, đi đứng như kiểu chấm phết cà nhắt cà thọt, không còn hơi sức đâu mà cười. Cười cười… cười… cái gì? mà buồn cười nhỉ!

                              Tất cả mọi người đã vào an tọa trong nhà thờ, chỗ nào ra chỗ đó, có thứ tự lớp lang hẳn hoi. Nhưng ai ai cũng lo ra, có mấy mệnh phụ đài các tỏ vẻ quan tâm chu đáo lăng xăng chạy lên nơi “an ngự của cô dâu chú rể”. Mấy bà to nhỏ rù rì, rồi lấy dầu gió xoa xoa, nắn nắn bóp bóp bàn chân, ống chân của Anh Thư. Điều nầy vô tình gợi nhớ tới “tích xưa”; nên thỉnh thoảng có nhiều tiếng cười rũ rượi, cười khúc khích lao xao nổi lên đây đó. Khiến cha chủ tế người Pháp đứng trên bục giảng ngạc nhiên ngỡ ngàng. Ngài ung dung nhìn mọi người vui vẻ, từ tốn mở lời:
                              - Hôm nay, "dứng" trước quý ông bà, anh chị em, và “co dau chú rẻ”, tôi xin "cào" chúc anh chị trăm năm "hạn phút", răng "lông" tóc bạc suốt đời. Nào: qúy ông bà anh chị em hãy nhìn xem: trên bàn thờ có hoa mai, hoa lan, “hoa hệ" và hoa cứt”...

                              Nhiều tiếng cười đồng loạt bung vỡ, vang dậy khắp đó đây từng hồi. Ngài chủ tế ngạc nhiên, sững sốt nhìn xuống khắp lượt trong nhà thờ. Ngài không hiểu chuyện gì, tại sao giáo dân lại cười trong giờ làm lễ uy nghiêm trang trọng thế nầy!? Rất vô tư lự, ngài dõng dạc tiếp:
                              - Ơ hơ! Anh chị em sao lại không nghiêm trang trong giờ Lễ vậy!? Anh chị đang "cưới" ai, “cưới” cái gì vậy? Anh chị em có muốn thích "cưới nhau", thì xin hãy ra ngoài sân mà “cưới”. Ở trong nhà thờ nầy thì chỉ làm "lễ cười". Mà "lễ cười", thì có gì mà "cưới" chứ?!

                              Ụi! Trời đất quỷ thần thiên địa tổ tông ông bà cô bác anh em cháu chắt ới! Cả nhà thờ ai ai cũng ôm bụng bò lăn bò càng ra mà cười vang. Cười thật to. Cười ngất. Cười ra nước mắt. Cười mệt xỉu. Chịu không thấu. Cái điệu nầy chắc mọi người bị bễ bụng mà chết nhăn răng vẫn cười quá! Rất may, có một vị trung niên bước lên bục giảng, ông chúm chím cười cười duyên ơi là duyên. Ông ta dùng ngôn ngữ tiếng Pháp để xin lỗi cha. Ông giải thích về việc ngài phát âm hơi lệch lạc, méo mó xí. Thế nên từ ngữ bị sai sót chi chi đó.

                              Á, thì ra...! Sau khi ngài hiểu nguyên nghĩa, hiểu từ trước khi họ nhà trai tới nhà gái, lúc đến ở ngoài sân nhà thờ, và ở trong nhà thờ lúc nầy; mọi việc đã xảy ra ra sao. Tại sao cả nhà thờ “đều thích cưới”. Vị linh mục người Pháp không ngớt xin lỗi, và đã cười tươi, vui vẻ thoải mái quá chừng chừng! Phải hơn mươi phút sau thì thánh lễ mới bắt đầu trong sự “lo ra”. Cả cha chủ tế vẫn tủm tỉm cười khi dâng lễ!

                              Sau giờ lễ, hai hàng xe hơi dài chạy lên sát cửa chính điện của nhà thờ Chính Tòa, chứ xe không đậu ở giữa sân, dưới những bậc tam cấp như hồi nãy nữa. Tất cả mọi người mệt đừ, vì kiệt sức, mỏi nhừ hay vì cười ngất? Chả biết. Hai họ nhà gái, nhà trai, đều quên chuyện giận hờn, xoi tì xoi tướng nhau, họ đã thân mật xiết bao, ôn nhu hoà ái vui vẻ cả làng. Thượng khách ngồi vào bàn, nhâm nhi sơn hào hải vị: Nấm đông cô, tóc tiên, mực khô, bát trân, bào ngư, vi cá, yến xào, đùi heo, tôm hùm, do đầu bếp số một bên Thượng Hải qua Việt Nam đảm nhận ở nhà hàng Nam Sơn. Họ nâng ly chúc tụng nhau vui vẻ, nét mặt rạng rỡ, hân hoan. Bác phó nhòm Châu thừa thắng xông lên tha hồ chụp ảnh... lia chia: Trong khi dưới giàn thiên lý em đã...
                              Trên giàn thiên lý
                              Bướm tìm hoa hút nhụy vẩn vơ bay.
                              Cánh chuồn chuồn giỡn nước bến sông mây.
                              Xuân thấp thoáng trên hàng cây mai trắng.
                              Buồm gió ngư ông về xóm vắng.
                              Tiếng tiêu mục tử vọng sông dài.
                              Dưới hàng cây thiếu nữ nhẹ chân hài.
                              Trong đám ấy có người ngày mai tách bến.
                              Mộng xuân đó ai không về lỗi hẹn.
                              Cho người buồn khi bến vắng không.
                              Thuyền hoa em đã theo chồng!
                              (*)
                              ***
                              Tình HOÀI HƯƠNG

                              Mùa xuân lại về, hôm nay Feb.17... kỷ niệm ngày xưa... Anh Thư đã đám cưới. Tôi xin cung-hiến độc giả thân mến chuyện Tết vui có thật. Một cảm tình trân qúy đã xảy ra trong đời tôi... Đã hơn bốn mươi lăm năm rồi đó, Trầm Mây và Anh Thư nhỉ! Mặc dù chúng ta ít có cơ may gặp lại nhau. Nhưng, mỗi lần mở tập album ra, thì trong lòng Hoài Hương tôi dậy lên ngọn sóng dạt dào tình luyến nhớ, hoài mong, ngây ngất nỗi khát khao tìm về thời niên thiếu tươi trẻ xa mờ xa, với giấc mộng quan hoài đã vụt bay cao trong tầm tay với, khi tuổi đời đã nhuộm vàng hanh mái tóc phong sương trên dòng đời phai nắng...
                              Tình Hoài Hương
                              * * *
                              Last edited by Tinh Hoai Huong; 02-24-2017, 10:55 PM.
                              Bút trần nào tả được lưu luyến!
                              Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                              Tình Hoài Hương

                              Comment


                              • NHỮNG CÁI… Không Bao Giờ Quên



                                NHỮNG CÁI… Không Bao Giờ Quên
                                CUA ĐINH
                                Tưởng nhớ đến: Lâm Đế, Trọng Khẹt, Hảo Caribou…
                                ***



                                Tôi xin thưa ngay để quý huynh đài hiểu ngay cho chữ… “những cái” ở đây; có nghĩa là những cái sự việc, những cái kỷ niệm, những cái tên, những cái cảm giác... v.v… đã xảy ra với tôi, chứ không phải là những...cái gì... gì khác, mà tổn thọ. Bởi mới đây có một anh bạn trẻ chuyển cho xem vài bài viết khá lâu của anh ấy về bay bổng ngày xưa, anh nhắc đến tôi vài chuyện, và gợi ý tôi nên kể lại vài vụ việc... từ hơn 40 năm qua, cho các bằng hữu nghe chơi trong lúc trà dư tửu hậu.

                                Chà cũng khó đây! Trước 75 tay tôi cầm cần lái, sau 75 được mấy anh Ba cho hưởng vinh quang… cầm cuốc; chứ có dịp nào cầm viết đâu, mà viết với lách! Nhưng mình có học gồng và mới làm một viên… thuốc liều, nên:
                                “Cũng đành nhắm mắt …múa tay
                                Thử xem chữ nghĩa độ rày đến đâu"


                                Tôi xin kể lại chuyện thật, người thật đến 99%: còn 0,5% vì viết về mình, nên hơi chủ quan và có lẽ hơi… "nổ”, hoặc vẽ vời một xí, cho trẻ trung vui vẻ, âu đó cũng là cái máu con nhà “nòi" KQ mình mà, thông cảm hỉ! Còn 0,5% là chi tiết như ngày giờ không được chính xác, thì quý huynh cũng hiểu cho đệ cũng ngoài sáu bó rồi, nên bộ nhớ nó... early retire chút đỉnh! Tự an ủi rằng có nhiều bậc vĩ nhân, những bộ óc siêu việt, mà về già cũng còn bệnh lú lẫn (Alzheimer); sá gì mình thuộc loại bất tài vô tướng, dân ngu khu...vàng, thì đâu có nhằm nhò gì. Không phải khu… đen mà là khu vàng, vì đang sống trên xứ Mỹ, mà mình thuộc giống dân da vàng, nên phải dùng chữ cho nó đúng… phong thổ! Lại một nỗi khổ nữa là khi đánh máy bài viết nầy, tôi chỉ xử dụng "nhất dương chỉ” làm cò mổ từng chữ một, với sự chú tâm cao độ nên…“văn” (vốn đã hiếm) nó không có ra! Xin bộc bạch vài hàng…phi lộ.

                                Bây giờ để: "tôi kể người nghe”…: Cái tên…cũng có ảnh hưởng… Tôi và một số bạn Chuẩn-uý “nhô con” về trình diện Phi Đoàn 211, Trực Thăng (H34) đóng tại Tân Sơn Nhứt khoảng giữa năm 1964. Vị trí Phi Đoàn nằm sát cổng Sư Đoàn Dù. Đi từ cổng Phi Long vào, cứ đi thẳng đến gần sát cổng trại Hoàng Hoa Thám, quẹo phải vào cổng nhỏ có đề chữ HELIPORT, đó là PĐ 211.
                                Bộ Chỉ Huy gồm có:
                                · Chỉ Huy Trưởng: Thiếu Tá Nguyễn Huy Ánh
                                · Chỉ Huy Phó: Đại Uý Nguyễn Hữu Hậu
                                · Trưởng Phòng Hành Quân: Thiếu Uý Nguyễn Văn Lân
                                · Trưởng Phòng Huấn Luyện: Thiếu Uý Phạm Huy Lạng
                                · Trưởng Phòng An Phi: Thiếu Uý Bùi Hân

                                Trực thuộc Phi Đoàn còn có Sĩ Quan Hành Chánh Tài Chánh: Thiếu Uý Nguyễn Long Nhan và Sĩ Quan Kỹ Thuật Phi Đạo: Thiếu Uý Phan Võ Viên.
                                Hai pilot chuyên bay thử là: Trần Xuân Quang và Hồng Văn Tý; anh Tý thời gian ngắn sau qua PĐ217, và sau đó lại chuyển nghề qua An Ninh. Thời kỳ đó, KQ không có qui chế rõ ràng! Hơn nữa có một Vị cho rằng KQ chỉ để… đuổi gà (!!?) nên lon–lá kẹt lắm. Quan Ba tàu bay cũng hiếm thấy và... "bự” lắm rồi. Còn quý vị tuy mang lon… thấp Thiếu Uý, nhưng võ công... phi hành thì… cao, và đã vào hạng sư phụ, hoặc sư thúc rồi như: T/U Lê Phước Điền, Nguyễn Thanh Cảnh, Đặng Trần Dưỡng, Nguyễn Kim Bông, T/u Trương Văn Vinh, Nguyễn Văn Vui, Nguyễn Văn Lắm, Đặng Bình Minh v.v…

                                Còn các đàn anh gần lên Thiếu Uý thì… nội-công cũng đã đạt 12 thành công lực và thuật... phi hành ở bậc cao thủ trong giới võ lâm bay bổng như các anh: Phạm Bính, Trần Xuân Quang, Đinh Hữu Hiệp, Nguyễn Hữu Lộc, Phan Ngọc Huệ, Đặng Kim Quy, Nguyễn Hữu Nhàn, Cao Văn Tư, Bùi Văn Be, Châu Lương Can, Nguyễn Văn Minh "con", Lê Quỳnh "tài-tử"… vv...

                                Quý vị sư phu, sư huynh kể trên hơn một năm sau được thăng cấp… hồi tố, có vị chưa kịp rửa lon vừa mới lên, lại phải lo mua lon mới! Bọn tôi mới về được bay huấn luyện thêm, để tái xác nhận làm hoa tiêu phụ đi hành quân, làm sĩ quan trực phi đoàn, và bị bắt học, soạn đề thuyết trình địa huấn (kỹ thuật) cho nhau nghe, với sự chứng giám của vài xếp. Cái món này tôi không ưa, vì đã chán học nên đi lính mà cứ bắt học hoài; cho nên phải thú thật rằng kỹ thuật thì tôi quá dốt.

                                Thuở đó, chiến trường còn lắng dịu nên nhiệm vụ của Trực-thăng thường là đi tải thương và tiếp tế; rất ít khi bay đổ bộ. Vì thế pilot nào trong tháng mà bay được cở 60 giờ, là coi như xuất sắc, thường là cở 20 giờ. Nói chung đây là thời kỳ vàng son và nhàn hạ, nếu có một vài lần đổ quân, thì cũng cở 7, 8 chiếc H34 bay hợp đoàn theo đám UH cuả Mỹ, như trận Ấp Bắc và Bình Giả. Mãi đến năm 1967, và nhất là từ năm 1968 trở về sau nầy, việc đổ quân mới là… cơm bữa...

                                Vừa mới về PĐ cở nửa tháng, là được T/U Lắm (U-Nu) đặt cho tôi cái tên là: “Cua-Đinh”, xin đọc rõ là Cua Đinh; phải chi mà đừng có chữ "a” ở đằng sau rốt, thì hoá ra lại hay, và đâm ra mình còn có giá trị… ngầm! Biết đâu chừng giờ đây tôi ăn nên làm ra, vì các hãng bào chế thuốc mượn tên mình làm quảng-cáo, để ganh đua và cạnh tranh nhộn nhịp với hãng Pfizer! Sở dĩ có biệt danh đó, vì mặt tôi luôn luôn đỏ, nên anh cho rằng tôi bị nổi "đơn" sắp bị... cùi ; hễ ăn vịt xiêm lai, hay cua đinh vào là… rụng móng liền! Cái tên nghe kỳ cục và cũng rất là… độc!

                                Cũng vì vậy mà mấy năm sau trong nghiệp bay bổng của tui, cũng xảy ra lắm chuyện độc… đáo, không giống ai! Thời gian hơn một năm sau, tôi được sắp xếp bay huấn luyện xuyên huấn để ra hoa tiêu chánh, tôi thường được mấy ông thầy huấn luyện cho là T/U Lạng, Thiếu Tá Nguyễn Huy Ánh, và bay nhiều nhất với Chỉ Huy Phó Phi Đoàn Đ/U Nguyễn Hữu Hậu. Nói đến ông Ánh, thì ai cũng nghe danh là bay trực thăng rất giỏi, và những cái xuất sắc khác nữa như: giỏi võ và tài thiện xạ súng colt. Tóm lại cái nào ông cũng thuộc hạng sư cả. Bây giờ nhắc đến tên Nguyễn Huy Ánh, tôi không khỏi ngậm ngùi tưởng nhớ đến một vì sao rực sáng; một vị lãnh đạo tài ba Chuẩn Tướng Nguyễn Huy Ánh, cựu Tư lệnh Sư Đoàn 4 KQ với tất cả sự ngưỡng mộ và kính mến!

                                Sau mấy tháng bay huấn luyện xuyên huấn tại PĐ, tôi được Đ/U Hậu check out ra hoa tiêu chánh. Một thời gian sau PĐ trực thuộc Không Đoàn 33, và dời qua nằm kế bên PĐ 415 Vận Tải. Bãi đậu phi cơ H34 và hangar cũng nằm kế bên bãi đậu C47, gần taxiway; phía cuối phi đạo, hướng trại Sư Đoàn Dù. Phi Đoàn Trưởng Thiếu Tá Nguyễn Hữu Hậu; như đã nói trên, có lẽ vì... đeo cái tên kỳ cục, nên tôi cũng gặp những chuyện…lạ đời.

                                Mất Đại Liên 30

                                Mới nghe, ai cũng tưởng đâu tôi là xạ thủ đại liên của một đơn vị tác chiến Bộ-binh, chứ pilot sao lại không mất súng cá nhân ru lô, mà lại mất súng cộng đồng đại liên?? À! Đầu đuôi như thế nầy: chắc chư liệt vị còn nhớ những năm 1965, 66, 67, tình hình chính trị ở Sài Gòn thật bất ổn, cứ chỉnh lý, rồi biểu dương lực lượng, rồi đảo chánh liên miên, lại thêm biểu tình liền... liền… Lệnh bên phòng hành quân chiến cuộc gọi sang là PĐ phải có một chiếc H34 sẵn sàng ứng trực cho bên Bộ Tổng Tham Mưu.

                                Hôm đó tôi làm Sĩ Quan Trực PĐ, và được lệnh phải gắn đại liên 30 cho chiếc ứng trực. Tôi xuống kho vũ khí ký nhận mượn, đồng thời báo phi đạo gắn giá súng cho đại liên 30, mà trước đây trực thăng H34 không có. Bẵng đi cở 10 hôm sau, kho vũ khí gọi lên PĐ đòi lại cây đại liên, tôi xuống phi đạo định gở cây đại liên đem trả về kho. Nhưng quái lạ đại liên không cánh mà... bay đi đâu mất!! Thế là tôi lãnh thẹo! Vì khi xuống ca sĩ quan trực, tôi chỉ bàn giao sổ sách thôi, chứ có ai ngờ cớ sự như vầy đâu, mà bàn giao cây đại liên! Cũng là tại tôi ỷ y và thiếu kinh nghiệm, nên không ghi thêm vào sổ trực cho anh SQ trực kế "ôm" cây đại liên đó!

                                Tôi phải làm tờ phúc trình sự việc, và xách xe pick- up đi tìm khắp các phi đạo mấy ngày liền, mà vẫn bặt vô âm tín. Rốt cuộc sau khi quân cảnh Tư Pháp kết thúc điều tra, PĐ Trưởng Nguyễn Hữu Hậu và tôi lên gặp Không-đoàn-trưởng Không-đoàn 33 Trung-tá Lưu Kim Cương quyết định: Tôi phải đền cây đại liên bằng tiền 16,000$, hơn 2 tháng lương của mình, bằng cách trừ lương nhiều kỳ; tính theo hối xuất đô-la giá chính thức (1 đô = 33 đồng VN). Sau được PĐ thương tình xuất quỹ bù cho tôi số tiền đó. Một lần nữa xin cám ơn PĐ.

                                Đè... Taxi và kẹt tay ga!

                                Hồi mới về PĐ tôi thường nghe kể dường như là Tr/U Bá hay Đ/U Ông Lợi Hồng, hay vị nào đó (mà tôi không nhớ tên)… khi bay hành quân ngoài Vùng 2, máy bay lâm nạn tắt máy và vị đó đã làm forced landing, đã…"thảy lỗ" xuống một lỗ trống trên cánh rừng già! Phi hành đoàn an toàn, và cánh quạt chỉ cách những cây cao xung quanh chừng 2 mét. Tôi thật khẩu phục tâm phục; một cái lỗ nhỏ thật là … "bót”. Như vậy đáp bình thường cũng đã căng rồi, chứ nói gì đến làm autorotation đáp ép buộc xuống ngay chóc chỗ đó!

                                Tôi xin giải thích thêm về chữ autorotation (tự động quay) mà dân trực thăng gọi tắt là Auto để quý huynh khác ngành biết rõ. Làm auto (tự động quay) là coi như máy đã tắt, máy bay là một khối sắt nặng, thay vì rớt thẳng, nhưng nhờ vào cánh quạt (rotor) vẫn còn quay cho nên nó nâng cho máy bay rớt xuống, theo một góc độ lài 45 độ. Chính cái độ cao và giây phút quyết tử đó, pilot phải lèo lái, điều khiển làm sao cho máy bay an vị trên miếng đất trống, êm ái ngon lành, thay vì lật chổng gọng, hoặc nằm… trên ngọn cây! Cũng nói thêm trong tích tắc đó pilot vừa tìm chỗ đáp, vừa phải kiểm soát control cái cánh quạt, đừng để quay quá chậm, thì máy bay rớt lẹ, hoặc quá nhanh thì cánh quạt sẽ văng mất. Cả hai trường hợp đó thì máy bay đụng đất nghe một cái… "ầm ...ầm" và phi hành đoàn chỉ còn là một đống thịt như… thịt bằm hamburger!

                                Dân Trực Thăng đi hành quân đến những chỗ…"hot”, thay vì tà tà đáp xuống như thuở thái bình, rất dễ làm bia cho các loại súng của bọn Vẹm, thì làm Auto, cúp ga cho động cơ vẫn còn nổ ở ra–len–ti, để máy bay rớt xuống thật nhanh, khi gần đến đất, thì rồ ga lại (recovery) và đáp bình thường! Tóm lại đây là kiểu đáp tránh đạn, động cơ còn nổ, và mình cũng yên chí lớn là sẽ đáp như thường thôi, nên nếu có lỡ bộ, hơi quá bãi đáp, hoặc thiếu một chút chưa đến bãi đáp, thì mình cũng đáp được, chứ còn máy tắt thiệt như đã nói ở trên thì… căng lắm. Mọi thứ phải chính xác, không có chuyện xin lỗi làm lại, một là an toàn huy hoàng, hai là điêu tàn từ chết tới bị thương.

                                Nhớ có lần chở mấy ông dân biểu về thăm lại đơn vị ứng cử ở Rạch Giá; có một ông nghe lõm bõm sao đó, mà nói rằng: "mấy anh đừng làm xe hơi..." Xe hơi (mấy ổng dịch chữ Auto) gì đó nó lộn ruột quá!! Lúc ông Ánh còn làm Phi Đoàn Trưởng, trong mỗi buổi họp hằng tuần, thường hay nhắc nhở anh em trước khi về đáp, nên dợt làm vài cái Auto cho nó quen!

                                Từ lúc ra hoa tiêu chánh mỗi lần trực đêm, chiều về tôi thường quay máy và xách máy bay ra vùng Phú -Lâm, để bay thử xem máy bay có ngon lành cho đêm trực không. Khoảng nửa giờ bay thử đó, tôi cũng tự dợt làm được ít cái Auto. Hoặc những hôm đi bay tải thương về gần đến traffic của Tân Sơn Nhứt, tôi cũng xuống thấp cao độ bằng cách làm auto. Không ngờ những việc mình thích, mình khoái làm như vậy, mà sau đó nó lại cứu mình.

                                Tôi nhớ đâu cuối tháng 11 năm 1967, tôi nhận một phi vụ chở VIP, qua sân Cửu Long bên Thị Nghè, chở Tư Lệnh Hải Quân ra Vũng Tàu họp. Phi hành đoàn gồm có tôi, Trưởng phi cơ, anh Nguyễn Thanh Tùng "Tùng Lỏi", Hoa Tiêu Phó, anh Thạch (quên họ) là cơ phi. Lúc đó trên trực thăng H34 chưa có xạ thủ. Sáng hôm ấy trời trong, nắng nhẹ, khoảng 10 giờ sáng, tôi cất cánh ở Tân Sơn Nhứt bay qua sân Cửu Long với cao độ 600 , 700 bộ (feet), đúng theo lộ trình và traffic của TSN.

                                Đang bay ngon lành đến khoảng đường Hiền Vương gần đến rạp ciné Casino Đa Kao, bỗng dưng máy bay nổ to và liên tục, giống như bắn đại liên. Thân tàu rung giật mạnh, kim đồng hồ RPM nhảy lên xuống không ngừng, rồi động cơ tắt hẳn, máy bay rớt. Nhìn xuống bên phải, tôi thấy nhà lầu cao san-sát. Ý tưởng lóe ngay trong đầu tôi là chắc phen nầy mình vào nằm ở bịnh viện Grall rồi, vì bị phỏng (xin nói thêm thời đó pilot bị nạn là đem về Grall, chứ không có đưa qua bệnh viện Cộng Hòa như sau nầy), tôi chỉ kịp la lên:
                                - Tìm chỗ đáp!

                                Anh Tùng chỉ làm dấu bằng hai bàn tay quẹo trái, tôi quẹo 90 độ qua trái ngay, và thấy ngay trước mặt là con đường, tôi nhắm ngay con đường đó làm auto xuống, khi gần đến đất, tôi flare lại (kéo cần lái cho máy bay đứng lại) thấy cánh quạt cuốn dây điện và điện thoại hai bên đường. Máy bay chạm đất và một càng bánh phía phải đè trên đầu máy xe taxi, có lẽ vì vậy mà vô-lăng đập vào ngực làm bác tài xế bị thương, và thiệt mạng sau đó trong bịnh viện. Máy bay nằm trên đường Lê văn Duyệt (Gia Định) và dưới dốc Cầu Bông, cách trại hòm Tobia cở 100 mét. Sau khi tắt điện xăng xong, tôi và anh Tùng leo xuống khỏi phi cơ, và nhờ một chiếc xe jeep của cảnh sát chở đến Tiểu Khu Gia Định, mượn điện thoại gọi về Phi Đoàn. Gặp sĩ quan trực PĐ là anh Minh "con" hay anh Thảo tôi quên mất:
                                - Tao báo cho mầy biết, tao bị rớt trên đường Lê văn Duyệt (Gia Định) tại dốc cầu Bông! Phi hành đoàn vô sự!
                                Tôi nghe đầu dây bên kia la lên:
                                - Ê, thằng D… nó rớt rồi tụi bây ơi!

                                Chúng tôi lên xe Jeep trở lại phi cơ và lấy túi xách helmet, cở 15 phút sau, chiếc trực thăng rescue ở nhà đáp xuống sân vận động trường Nữ Trung học Lê Văn Duyệt cách đó khoảng 400 mét, bốc chúng tôi về. Sĩ quan an phi làm việc: điều tra xem có bay đúng lộ trình không? Và có phải máy bay bị hư thật sự không? Phi hành đoàn qua trung tâm giám định y khoa để check sức khoẻ, xem đầu cổ có bị va chạm gì không? Và bác sĩ không quên hỏi và check xem đêm qua có uống rượu không?

                                Kết quả mọi chuyện êm xuôi, Phi hành đoàn không phạm lỗi gì cả, (mà về sau biết được lỗi là do thằng…starter), mấy cục than bên trong để dẫn điện, tự nhiên nó sút ra, vì vậy có xăng mà lửa tự dưng mất, nên mới ngộp xăng, mà phát ra tiếng nổ. Nghe nói trên đài phát thanh Sài Gòn và Quân-đội có loan tin về việc máy bay bị nạn, và có nói: "trước khi rớt, phi công đã bình tĩnh bắn súng chỉ thiên, để dân chúng tránh xa"… À! Cái nầy đúng là “của người phúc ta”. Cám ơn ông anh, bà chị phóng viên đài phát thanh nói tốt cho! Vì nghe tiếng nổ mà suy luận như vậy thôi, nghe cũng hợp lý quá đi chớ! Sự thật thì sự việc xảy ra quá nhanh đến độ tôi chưa kịp… sợ nữa, chớ có huởn đâu, mà nghĩ hay làm chuyện gì khác. Cũng may nếu gặp anh phóng viên báo trang kịch trường nào đó, có khi họ dám cho tôi xuống sáu câu vọng cổ rồi máy bay mới chịu rớt lắm!

                                Phi hành đoàn được nghỉ ít hôm để lấy lại bình tĩnh! Ngày hôm sau chúng tôi được anh Đ/U Đỗ Minh Đức, Sĩ Quan Tâm Lý Chiến của PĐ, hướng dẫn đến thăm viếng gia đình bác tài xế bị nạn ở trong đường hẽm Phan Đình Phùng, khu Nguyễn Thiện Thuật. Tôi và anh Tùng mặc đồ kaki vàng đội kết bi, và nhớ tháo cánh bay ra (vì sợ gia đình biết mình là thủ phạm). Anh Đức ngỏ lời là đại diện KQ đến phân ưu cùng gia đình, và có hứa chính phủ sẽ bồi thường vì tai nạn chiến tranh! Rồi đột nhiên anh chỉ tôi:
                                - Mầy vào thắp nhang, khấn vái đi!
                                Tôi cùng anh Tùng đứng trước quan tài và khung ảnh của anh tài xế cở ngoàì 40 tuổi, lâm râm khấn vái.
                                - Tôi xin lỗi anh, vì tai nạn xảy ra ngoài ý muốn, xin cầu nguyện anh sớm siêu thoát, được về nơi cõi an lạc!

                                Trước đây khi cúng vái Trời Phật, hoặc Ông Bà, sau khi kể lể cầu nguyện điều gì xong, câu chót là tôi "xin Trời Phật hoặc Ông Bà phù hộ cho con, được mạnh giỏi... v.v...". Nhưng lần nầy tôi tự nhớ và không quen miệng xin phò hộ nữa, vì dù sao mình cũng làm cho người ta chết, thì có ai có tấm lòng bồ tát đâu, mà phù hộ mình, đã không… “níu giò” là may rồi! Ra ngoàì đường tôi cự anh Đức liền:
                                - Hồi nãy mình đi cả đám, anh không thắp nhang, mà tự dưng kêu ngay mình tôi vào, "cha” làm như vậy, rủi gia đình người ta nghi ngờ tôi là người gây ra tai nạn, họ chém tôi sao “cha nội”?

                                Ngày hôm sau phi hành đoàn chúng tôi cũng đến tiễn đưa linh cữu đi an táng. Chúng tôi đẩy xe gắn máy đi bộ phía sau, từ đường Phan Đình Phùng ra Lý Thái Tổ; đi cùng hàng có anh lính thiết giáp, mặc đồ rằn-ri, mặt và cổ có vết thẹo bị cháy, anh ta hỏi tôi:
                                - Còn mấy ông phi công đó bây giờ ra sao? Hôm nay có đi đưa đám ma không, Trung-úy?
                                Tôi lẹ làng:
                                - À! Mấy ông đó đang bị nhốt để điều tra; chúng tôi đại diện KQ đi tiễn đưa hôm nay.

                                Khi đến bồn binh Ngã Bảy, tất cả lên xe để đưa quan tài đến nghĩa trang ở Phú Thọ Hòa. Tôi nháy mắt ra dấu anh Tùng “lỏi”, cả hai vọt mất; vì trong bụng cũng ngán gia đình họ biết! Mấy hôm sau về nhà, nằm nghĩ lại mới thấy sợ mà cũng hên, nếu không xuống đường mà rớt trên mấy cái nhà lầu, hay đám nhà lá, thì chắc chắn kết quả thảm khốc hơn nhiều! Bởi vậy cả tháng sau, tôi được người quen nói lại, có vài bà tính hỏi xem thằng pilot đó có vợ con gì chưa, để gả con gái cho, vì nếu nó không khéo mà rớt trên đám nhà lá, thì hỏa hoạn và chết nhiều lắm!

                                Mà tôi thấy cũng xui, phải chi nó đợi nửa giờ sau, chờ chở ông Tư Lệnh HQ trên đường đi ra khỏi thành phố rồi, hãy sanh chứng, lúc đó có đủ cao độ và ngoài đồng trống, chắc chắn là không sao cả. Và ông Tư Lệnh có dịp… hú hồn, thế nào ổng cũng thưởng cho một chiếc mề đay, đằng nầy vì rớt gần trường Nữ Trung Học Lê Văn Duyệt, nên sau khi được rescue về, vừa vào đến phi đoàn gặp ngay xếp Đại Uý Nguyễn Kim Bông, Phi Đoàn Phó (?):
                                - Tao hỏi thiệt mầy nghe Cua Đinh, có phải mầy "múc” ở Trường Nữ, nên bị rớt phải không??
                                Tôi quăng helmet lên bàn và xì-nẹt:
                                - Tôi bị rớt về, ông không hỏi thăm gì cả, mà tối ngày cứ nghi ngờ người ta múc không hè!
                                Tội nghiệp Đ/U Bông hiền lành, thấy tôi đổ quạu nên ôn tồn:
                                - Thì tao hỏi vậy, mầy không có múc thì thôi, chứ làm gì dữ vậy mậy!

                                Đúng như vậy, lần nầy không có múc! Nhớ lại thời trẻ, tâm tư như tờ giấy trắng, tính tình bộc trực ngay thẳng, bay bổng không nề hà tránh né, không hề tính toán, nhiều lúc ăn nói quá đốp chát, không biết “cách khéo léo và tế nhị” nên với bạn bè và đàn em thì xà –va, ok, dui dẻ; còn đối với cấp trên chắc phiền lòng không ít, nếu không bị... ghét là phúc rồi. Gẫm lại cũng bởi tại ta mọi đàng; nên đừng hỏi cớ sao trời mây rộng thênh thang bay… mệt nghỉ; mà hoạn lộ lại quanh co, lắm… ổ gà!

                                Mà ổng nghi ngờ cũng phải, vì trước đó tôi có tiếng là bay cao bồi, và khi nào có dịp bay tuần phòng trên thành phố: là tôi hay múc lắm! Trực thăng mà bay cao cở 1000 feet, kéo cần lái lại cho máy bay gần đứng lại; xong chúi đầu xuống lấy tốc độ, lúc đó nhìn thấy cũng giống như khu trục nhào xuống bỏ bom vậy; rồi khi xuống dưới khoảng thấp hơn 500 bộ, kéo ngược cần lái, nó vọt lên trông cũng... ác gà lắm, chứ chơi sao!

                                Là pilot mà lúc còn trẻ, còn hăng “tiết vịt” thì ai cũng có “múc”, kẻ nhiều người ít, mọi loại máy bay. Ngoại trừ mấy anh chàng vận tải có lẽ vì kềnh càng, tay chân (thân cánh) khều –khào, nếu múc khó khăn và chẳng giống ai, nên mấy anh nầy mới tha cho! Xin nhắc lại những năm 1966, 67... mọi biến động chính trị thường xảy ra trên thành phố Sài Gòn như đã nói trên.. nên trực thăng được điều động bay quan sát. Đấy là cái dịp, là cái duyên may được dạo trên…không phận Sài Gòn. Ngoài cái duyên còn có cái cớ để múc nữa!

                                Chư vị thử nghĩ coi ở dưới đường người xe xuôi ngược, trong khi ta đang trên cao thánh-thoát, trời êm nắng nhẹ, tinh thần hưng phấn nên cũng muốn làm cho bà con để ý chút chơi. Lại nữa có nhiều khi trên thượng tầng các cao ốc ở Quận Nhất, Quận Nhì Sài Gòn... có nhiều mỹ nữ đang phơi mình tắm nắng, mà tắm nắng thì có ai mà chơi… bộ đồ bà ba và khăn rằn quấn cổ như chị Ba Nguyễn Thị Định đâu; phải để cho nó mát chứ, đã vậy còn rất lịch sự vẫy tay, ngoắc- ngoắc, thì mình chẳng lẽ lại làm ngơ sao đành, mình vốn là kẻ "thương người không mảnh vãi… che thân"! Và cũng có điều vui vui nầy nữa: rằng… thì... là... ở thành phố có rất nhiều nhà tắm cũng giống như xe xì-po nắp trần, không mui, trưa hè thấy ẩn hiện dáng tiên nữ trong đó đang tẩy bụi hổng-trần, nên cũng là một liều thuốc kích thích mạnh cho những ai dù không có máu hay vi vu lạn-lách, múc miết đi nữa!

                                Hoặc nhà em là mục tiêu và thiếu điều tróc nóc khi anh cần báo cho em biết là có chàng đang ở trên…nầy đây! Có lần nhằm ngày cuối tuần xong phi vụ, trước khi về đáp, tôi tạt ngang qua khu Tân Định múc trên nhà một em mới quen, đâu có múc nhiều, chỉ có… năm sáu cái, vậy mà làm cho ông Trưởng Phòng Hành Quân Phi Đoàn ở gần vùng đó hết hồn, tưởng đâu có chuyện gì xảy ra, ổng vội chạy vào Phi Đoàn, vì đã thấy rõ số đuôi phi cơ, nên tôi hết chối cãi… và mang tiếng bay cao bồi từ đó. Tuy vậy mấy ông xếp cũng thương tình, và thông cảm cho tuổi trẻ nên chỉ cảnh cáo và…"ngầy ngà” chút đỉnh, chứ cũng không phạt vạ gì! Công tình là thế mà của đáng tội, hôm sau gặp; nàng nghe qua cười cười, tỉnh queo:
                                - Lúc trưa đó em ngủ đâu có hay!

                                Sẵn cũng nói luôn là tôi thường bay với cao độ "liếm ngọn cây, khều ngọn cỏ” lắm, nếu ở trên vùng hành quân, ở những bãi đáp hot, thì đây là kiểu tránh đạn, hoặc phòng không địch đã đành! Đằng nầy vì lợi dụng traffic của TSN nên về gần đến là tôi xuống thật, thật là thấp, nhiều khi có mấy lùm cây trước mặt, nhưng cứ đăm đăm bay ngay tới coi như không thấy, đợi đến thật sát mới khều nhẹ cần lái, để né hoặc lướt nhẹ qua nó mới… đã!

                                Chơi dại như vậy nhưng có lẽ nhờ “Cô cho, Bà độ” nên chưa bị gì! Chứ với cao độ đó mà máy bay chỉ cần... ho nhẹ một tiếng thôi, thì tất cả chun tuốt xuống đất rồi, chứ làm sao mà đỡ kịp! Tôi còn nhớ lời của ông Ánh từ khi còn là PĐT, rồi sau nầy lên Không Đoàn và Sư Đòan Trưởng vì thấy đám trẻ bay bổng vung vít quá, nên ổng thường hay nói câu: "Pilot giỏi là Pilot già!” (ý nói ai cũng hiểu là bay bổng làm sao mà được sống đến... già). Theo nghiệm chứng và thống kê, pilot có khoảng 1000 giờ bay là hay.. nghỉ chơi lắm, vì với số giờ đó, dù cũng hơi cứng và khá quen với tàu bay rồi, nên cứ tưởng là mình hay, coi trời bằng vung, ỷ tài, bất cẩn và kết quả sớm... biệt phái cho Diêm Vương!

                                Hồi tưởng lại thấy mình cũng y chang như vậy! Nhưng cái số vẫn còn may. Được cái là hồi còn trẻ nên rất hăng say bay bổng, không hề đắn đo hơn thiệt, hay tị nạnh với bạn bè. Mỗi khi đi tải thương tại quận lỵ, hay tại sân vận động Tỉnh; cảm thấy đáp và cất cánh tà tà chán phèo, còn tại mặt trận, có súng nổ lóc chóc có luồn lách nó mới vui! Đúng là “người hùng tim lạnh” có nhiều khi bay đến địa điểm hot, mà nghe ông anh leader nói: "tự nhiên tay ga của tao sao nó cứng quá… hay liên lạc với quân bạn nó nói gì tao nghe không rõ..." Tôi báo: "để tôi xuống cho", và nhào xuống liền, thay vì bay vòng vòng chờ đợi, chỉ tổ làm bia cho VC và giúp chúng có thời giờ chuẩn bị. Tôi và đám bạn thường nói tụi nó bắn chắc gì trúng, mà trúng chắc gì chết, nên ba cái AK và đại liên tụi tôi coi như "nơ - pa". Chừng nào Trời kêu... mới dạ, chứ bọn VC đâu có rớ được tới mình nỗi!

                                Sau tai nạn được nghỉ ngơi cho tỉnh táo, rồi trở lại ngày ngày đi bay bổng như thường. Cở hơn nửa tháng sau, có chuyện xảy ra mà hể nhớ lại là ớn xương sống, sáng hôm nọ có anh trực rescue nên đi quay máy (warm up) sớm, máy nổ bình thường, và đến khi cánh quạt bắt đầu quay, bỗng dưng có một cánh quạt bị sút ốc, hay sao mà xụ xuống 90 độ. Đó là chiếc mà tôi mới bay về đáp tối ngày hôm trước! Đúng là số còn lớn, nếu hôm trước mà phi vụ đó chỉ dài hơn 3,4 phút là Bà… hú rồi! Không có ai và tài thánh cũng không đỡ nỗi. Lỗi kỹ thuật và lỗi của pilot làm chết nhiều hơn đạn thù!

                                Bẵng đi vài tháng sau cở tháng 4 /1968, một buỗi xế chiều ngày Thứ Bảy, chúng tôi đi tải thương ở Bến Tranh (tỉnh Long An) chiếc leader là anh Đặng Kim Quy; còn chiếc số 2 do tôi lái, anh Nguyễn Ngọc Nhuận làm co-pilot cho tôi, cơ phi và y tá cho ở nhà, thay vào đó là anh Thúy, pilot trong PĐ đi theo quá giang, xuống Mỹ Tho để sau đó về thăm nhà ở Bến Tre. Chiếc của tôi đang quần ở trên chờ anh Quy bốc thương binh lên xong, là tôi sẽ đưa Thúy đi Mỹ Tho. Anh Nhuận đang lái bỗng phát hiện:
                                - Tại sao tay ga cứng ngắt vầy nè!

                                Tôi chụp cần lái và vặn ga thử; kim RPM của rotor và của engine dính chặt nhau, không nhúc nhích; đè cần throttle xuống, thì máy bay có xuống, giảm cao độ, nhưng kim RPM lại từ từ tăng lên, laị phải kéo cần throttle lên, để giảm RPM nằm ở mức cho phép, thì máy bay lại tăng cao độ! Tôi và anh Nhuận hoãng quá. Trời Đất ơi, cái kiểu như vầy thì làm sao mà xuống. Chúng tôi báo cho chiếc leader biết tình trạng và viết giấy cho anh Thúy ngồi ở dưới biết (vì anh không đội helmet) và không quên nhắc anh ấy thắt giây an toàn (safety harness, không biết sẽ ra sao!

                                Trên đường trở về TSN với cao độ đang ở 1500 feet, tôi và anh Nhuận thay nhau bay ráng từ từ xuống thấp, định về tới Phú Lâm cở 500 feet như lệ thường, nhưng cứ đè cần tay ga xuống, cho cao độ giảm thì RPM tăng, mà kéo cần ga lên để giảm RPM, thì cao độ lại tăng, cứ thế mà khi về gần đến TSN thì máy bay lên đến 4000 feet. Chúng tôi sợ quá, cứ hỏi lẫn nhau, như vầy thì làm sao mà xuống! Cá nhân tôi, kỳ trước rớt ở cầu Bông, Lê văn Duyệt, nó xẩy ra quá nhanh, chưa kịp sợ, còn lần nầy trong vòng 15 phút, không kiểm soát được máy bay như ý, nên phải nói là tôi kinh hoàng mới đúng! Mà trường hợp này từ trước đến nay chưa từng nghe ai nói đến bao giờ, nên chúng tôi quá hoang mang! Tôi lâm râm khấn vái; cầu xinTrời Phật, Ông, Bà về đây cứu con… cú nầy! Ngày xưa Ngủ Tử Tư thời Chiến quốc thức trắng đêm, vì lo sợ và mưu tính vượt qua cửa ải, nên sáng ra đầu bạc trắng! Còn tôi nỗi sợ càng ngày càng tăng trong vòng mười mấy phút, chắc cũng trắng bạc đầu!

                                Về đến đầu phi đạo 25, hướng hãng dệt Vinatexco (?) thì máy bay tôi lên đến 5, 6 ngàn bộ rồi. Làm sao bây giờ? Tôi bàn với anh Nhuận:
                                - Cứ cái kiểu nầy một chút nữa hết xăng, thì cũng rớt, hay là mình cúp xăng tắt máy, cho nó rớt, tao sẽ làm auto xuống!

                                Nhưng cả hai cứ phân vân bàn cãi, không biết khi cúp xăng tắt máy, thì kim RPM của engine nó sẽ rớt về zero là đương nhiên rồi, nhưng nó có split (tách ra) khỏi kim rotor không, hay nó lại lôi theo kim của cánh quạt về zero, nếu cánh quạt đứng lại, thì máy bay chỉ là một khối sắt rớt tự do! Nhuận còn chần chừ. Tôi tiếp:
                                - Tao lái, mầy cúp tắt máy, nếu thấy 2 kim tách ra là OK, còn không thì mầy đẩy cần mixture trả lại ngay, cho máy nổ lạ, rồi mình tính tiếp, tìm cách khác…

                                Dù gì thì chúng tôi cũng phải lấy quyết định nầy. Tôi báo cho anh leader, Đặng Kim Quy biết tôi sẽ tắt máy và làm forced landing xuống phi đạo, và nhờ anh liên lạc với đài Air traffic control, để clear mấy máy bay khác, cũng như kêu xe chữa lửa và cứu thương sẵn sàng cho emergency landing, vì cái radio của chiếc nầy... cà giựt quá, nói và nghe cứ rột rẹt và đứt đoạn, dù xài cả hai tần số UHF và VHF, tôi chỉ liên lạc với anh Quy qua tần số FM. Ít phút sau anh Quy cho biết tất cả đã sẵn sàng…

                                Trực thăng với cao độ gần 6000 bộ cảm thấy nó lỏng lẻo, và lạnh quá! Anh Nhuận từ từ kéo cần mixture, từ full về vị trí midle và dừng lại ở đó, và chỉ cần kéo từ middle về off tắt máy, Nhuận chầm chậm kéo thêm một chút nữa… Căng thẳng quá, tôi có cảm giác như mình cầm con dao nhọn từ từ đâm vào cổ mình vậy.

                                Bỗng nhiên, “ầm... ầm"... Hai tiếng nổ như cà-nông bắn! Máy bay giật mạnh và đầu quay ngang gần 90 độ, vì Nhuận đã kéo cần mixture về Off, và đẩy lại liền, tiếng nổ đầu là máy tắt, và tiếng nổ thứ nhì là máy nổ trở lại. Nhìn thấy hai cây kim RPM tách ra, tôi mừng quá!
                                - OK, nó split rồi, mầy cúp luôn đi!

                                Lần nầy đã biết và chuẩn bị đạp pedal, nên Nhuận cúp máy chỉ nghe tiếng nổ, chứ máy bay không bị quay đầu nữa! Phẻ quá! Hết chết rồi. Tôi mừng quá và tin chắc như vậy. Máy bay bắt đầu rớt nhanh, tay lái nặng vì không có thuỷ-điều (hydraulic) vận hành; nhưng không sao, tôi điều khiển máy bay như ý, tôi vừa xuống vừa quẹo một vòng 360 độ. Vẫn còn cao, tôi làm một vòng 360 độ nữa, bị Nhuận la:
                                - Không chịu lo vô phi đạo, đi cứ quẹo ở ngoài hoài, rủi nó rớt ở ngoài vòng đai phi trường thì sao.
                                Tôi bảo:
                                - Mầy an tâm, yên chí lớn đi!

                                Xuống gần, thấy runway rộng rãi, dài thênh thang, bằng phẳng quá! Tôi cho touch down ở đầu phi đạo một cách nhẹ nhàng êm ái. Và máy bay chỉ lăn bánh cở 5 mét. Xe chữa lửa và cứu thương cũng chớp đèn chạy ra đến nơi, phi hành đoàn an toàn lên xe pick up của phi đạo chở vào, tôi quên hỏi Thuý (sau làm sĩ quan ALO, hơn một năm sau, cũng đi theo trực thăng anh bị nạn rớt chết) coi teo bu -gi cở nào, mà lo “ca”với Nhuận:
                                - Ê, mầy có đồng ý là tao làm cái auto touch down vừa rồi quá đẹp không?

                                Nhuận cũng phải cười và công nhận. Sau nầy tôi được Phi Dũng bội tinh cánh chim vàng vì người và tàu đáp an toàn trong vụ nầy. Cũng xin "nổ” thêm là cở gần tháng sau, tôi bay chung với Hảo Caribou, hắn nói:
                                - Tôi nghe đám cơ phi xì xầm với nhau, là đi bay chung với ông, chỉ khi nào bị bắn cháy trên trời thì chịu thôi, chớ tắt máy cũng không sợ chết . Để xem có phải là chó ngáp phải ruồi không? Đâu hôm nay về đáp, ông thử làm một cái auto touch down luôn trên taxiway xem sao!
                                Tôi thầm nghĩ... chuyện nhỏ! Cơm sườn! Lấy ăn! Tôi còn thêm:
                                - À! Để tao thử coi, nhưng mà chạm đất phải cho êm, ngay đầu taxiway và máy bay chỉ lăn bánh vài mét thôi, chớ chạy ào ào như fixed wing thì… rẻ tiền! OK?
                                May mắn, tôi làm đúng như lời nói, lúc đó chắc tôi “hỉnh mủi “ lắm, vì thấy Hảo cười cười có vẻ tâm phục!

                                Sự thật văn ôn, võ luyện mà! Vì tôi thích và thường dợt hoài mỗi khi bay về, hoặc thử máy cho phiên trực đêm. Tôi nhớ đến chuyện của anh thợ săn và anh bán dầu; anh thợ săn tay cầm con chim se-sẽ tí xíu bị mũi tên ghim trên đầu, thợ săn hiu hiu tự đắc đi vào chợ. Anh bán dầu thấy vậy nói có khó khăn gì, và anh biểu diễn rót dầu xuyên qua lỗ đồng xu để trên miệng chai, mà đồng xu không bị dính một giọt dầu nào! Trăm hay không bằng tay quen mà, chứ tôi cũng chẳng tài cán gì! Thật tình là vậy! Tóm lại, chắc là năm vận tháng hạn hay sao, mà chỉ trong vòng 6,7 tháng thôi, mà tôi gặp mấy cú điến hồn!...
                                ***

                                Về việc Tướng VC: Trần Độ.

                                Tiện thể sẵn nhớ, tôi kể luôn việc nầy: Chắc chư liệt vị còn nhớ tin Tướng VC Nguyễn Chí Thanh ăn bom B52, rồi chẳng bao lâu sau đó là trận tổng tấn công của VC vào dịp tết Mậu Thân 1968, thì báo chí, đài phát thanh lại loan tin rùm-beng là:
                                - Tướng VC Trần Độ bị tử thương, khi đánh vào Sài Gòn!

                                Thế rồi mấy năm nay lại nghe tin có Tướng Trần Độ "phản kháng chế độ", đòi sửa đổi nầy nọ… v.v... Ủa lại ông Trần Độ nào nữa đây? Và gần đây nhất năm vừa qua, Tướng “phản -kháng” (?) Trần Độ trước khi chết, có gửi một lá thư lên bộ chính trị CS phân trần gì đó, có đoạn: “… trước đây Tâm lý chiến của Mỹ Nguỵ đã từng khai tử tôi" … (Ý nói là phao tin đã chết). Thì ra chỉ có một ông mà chết hai lần. Lần sau nầy mới chết thiệt. Còn lần trước… dỏm ; không phải do Tâm lý chiến vẽ ra đâu; mà do quý quan An-ninh, Tình báo của ta… nhầm:

                                Cớ sự như vầy: Những ngày sau tết Mậu Thân, PĐ vẫn cung ứng 1 trực thăng H34 ứng trực nằm tại sân Tổng Tham Mưu, để thi hành mọi phi vụ cấp thiết mà bên đó cần. Hôm đó anh Trần Quế Lâm (Đế) ứng trực. Trong phi vụ tải thương ở ngoài ven đô phía Phú Lâm - Phú Thọ Hoà, ngay nghĩa trang; Lâm Đế thấy có những xác VC chết nằm rải rác, nhưng đặc biệt gần cái gò mả có 6,7 xác chết toàn mang súng K54, có vẻ như đám cận vệ , nằm quanh một cái xác nọ có vẻ là… Ông Kẹ. Anh mới về báo sự nhận xét của anh với những vị chức-sắc bên TTM. Đến khoảng ba giờ chiều cùng ngày, tôi được lệnh bay qua thêm một chiếc nữa tăng cường, để chở thêm mươi quân nhân cơ hữu của TTM đổ bộ xuống ngay nghĩa trang đó, nhằm bảo vệ cho quý vị trách nhiệm bên chiếc của anh Lâm xuống xem xét.

                                Khi tôi đáp xuống thì có 4,5 VC ở đó mang súng ngắn hoảng sợ, chạy tán loạn ra ngoài ruộng, anh cơ phi của tôi xả súng đại liên, nhưng chỉ thấy đạn bay tốc bụi đất gần chỗ mấy tay VC chạy, chứ chẳng trúng tên nào cả! Lính trên tàu tôi nhảy xuống bố trí cho chiếc của anh Lâm làm việc. Sau đó chiếc của anh Lâm rinh một xác chết đem về TTM để giảo nghiệm! Xong nhiệm vụ tôi về lại PĐ, một lúc sau Lâm Đế gọi phone về cho biết: "sau khi giảo nghiệm tử thi, lấy dấu tay... v.v... và sưu tra lý lịch, thì xác nhận đó là Tướng VC Trần Độ. Tin tức được loan truyền ra từ đó.

                                Nghe tin đó, anh Đặng kim Quy và anh Nguyễn Hữu Nhàn giật mình, hú hồn, vì biết bộ chỉ huy VC đã về vùng nầy từ lâu, mà hai anh đâu có biết; thường nhờ anh em PĐ đi bay thả xuồng đó để... bắn cò bằng súng carbine, rồi một chút đến rước về! Cũng may vì muốn giữ bí mật, nên hai anh không bị…làm thịt. Đến bây giờ lại nghe tin về Trần Độ nữa, thì ra là... bé cái lầm!

                                Tôi không dám ý kiến hoặc so sánh ngành an ninh tình báo của ta, nhưng tin-tức thời sự gần đây thấy tình báo của DoThái mới hết sẩy! Làm sao mà thu lượm được tin tức một cách chính xác ngày giờ của các thủ lãnh Hamas di chuyển, mà dùng trực thăng xịt rocket tiêu diệt từng người một! Chỉ riêng việc bắn rocket trúng phóc ngay chiếc xe là mục tiêu đang di chuyển, tôi cũng bái phục rồi. Tôi nghĩ chắc có laser hướng dẫn, nên mới chính xác như vậy; chứ trực thăng vì có độ rung nhiều và tốc độ chậm hơn khu trục, nên bắn rocket rất... rất là dễ trớt quớt lắm. Ngoài ra còn phải kết hợp tin tức về giờ giấc, lộ trình xe cộ… v.v... để cho máy bay xuất hiện đúng lúc nữa. Như vậy mới là siêu đẳng, là bậc sư tình báo chứ! Còn dân Palestine cũng không vừa gì, dể nể thật! Còn ta thì sao??? Có hay biết gì không, mà để cho bọn VC; chỉ riêng việc tấn công vào các đô thị với quy mô lớn như vậy trong tết Mậu Thân, , ắt hẳn cũng làm chúng ta phải suy gẫm nhiều lắm!

                                Bạn bè xưa năm cũ…

                                Hôm nay ngồi viết lại những dòng nầy, trong lúc hồi tưởng lại chuyện xưa của những năm từ 1964 đến 1969, tôi không khỏi bồi hồi tấc dạ, gần 40 năm rồi mà sao cứ ngở mới đây thôi, hình ảnh những gương mặt chưa một nếp nhăn, vóc dáng trẻ trung, những mái đầu xanh, những lúc kêu gọi tên tục của nhau mà chọc phá đùa giỡn, sao mà nhớ quá, sao mà thương vậy! Nhớ tất cả mọi người trong PĐ từ anh văn thư nhớ đi…và nhất là làm sao mà quên được anh em Hạ sĩ quan cơ phi, xạ thủ, cùng bay bổng sống chết với nhau trên một con tàu. Thế sự thăng trầm,vận nước nổi trôi, vở tổ đàn chim tứ tán muôn phương… kẻ mất, người còn… mà xa nhau vạn dặm!
                                Âm hưởng hai câu thơ của Vũ Đình Liên nghe sao mà thấy nao lòng:
                                Những người muôn năm cũ
                                Hồn ở đâu bây giờ?!


                                Không thể kể hết ra đây; xin nhớ đến một số người… với hổn danh mà anh em trong đơn vị gán cho vì dáng vẻ, hoặc vì sao đó do cái trực giác cảm nhận mà thốt ra, rồi chết tên luôn, khác hẳn với bí danh bí số của mấy anh Ba VC có suy tính, nghe thật êm dịu, hoặc có vẻ chân chất thiệt thà, mà "lận" mã tấu, dao găm ở trong bụng, và che dấu âm mưu thủ đoạn gian manh!

                                * Nhớ đến các anh:

                                - Nguyễn Kim Bông, "Bông Cô Tông" không rõ nguyên nhân vì sao có danh đó, lúc tôi mới về PĐ, thì đã có sẵn tên rồi, có lẽ Cô Tông là loại Bông vải (?), bên Trực Thăng còn mấy anh tên Bông nữa, không cần nhớ nguyên họ tên, chỉ cần nói "Bông Cô Tông" là biết ngay ổng Không Đoàn Trưởng.

                                - Anh Nguyễn văn Lắm, "Lắm U-Nu", vì anh có gương mặt… lãnh tụ, giống Thủ Tướng 0U –Nu (?) của Miến Điện. Tác giả đặt tên tôi là Cua Đinh đây rồi! Anh Lắm à. Dù nhớ lời anh nói, nhưng thời gian "bị tù cải tạo" vì mợ cả Đọi thường trực ở trong bao tử, nên tôi cũng ăn nhiều "đồ" độc lắm ("đồ" là tiếng trong miền Nam, chứ không phải tiếng Bắc đâu nhé): nhái qué chuyện thường không kể: Con muổm nướng lên gọi là tôm càng bay. Con rít rừng to màu xanh đen nướng lên, ăn mà nhớ tới bang trưởng cái bang Hồng Thất Công (trong truyện Kim Dung). Cắc kè ngon như thịt gà dễ gì kiếm. Rắn mái gầm nếu gặp, nó có… gầm lên xin tha mạng, cũng không được ân xá. Chuột rừng hoạ-hoằng mới gặp.

                                Coi vậy chứ tôi ăn uống cũng có "trình độ" lắm nghe anh, chuột trong trại thật to, lông thưa có lát chút đỉnh, chắc già yếu rồi, khi nó thấy người ta cứ thủng tha thủng thỉnh đi, chứ chạy… không nổi là tui chê! Cùng với mấy con bò cạp nghĩ chắc là không có thịt thà bao nhiêu nên tôi không rớ! Vì mình ở trên rừng nên không gặp con cua đinh, chứ nếu gặp tôi đâu có ngán. Cái đời mình lúc đó kể như… cùi rồi sợ gì lở. Anh thấy toàn là đồ độc không? Mãi đến bây giờ, sáng nào ngủ dậy tôi cũng nhìn xuống bàn tay xem có móng nào rụng chưa? Xin thưa chưa anh ạ! Chắc cở.. 40 năm nửa lận!!!

                                - Anh Vũ quang Triệu, về làm PĐT 211 năm 1969, có tên "Triệu Voi" , hiền lành chân thật, to lớn, khoẻ mạnh đến độ thuở còn bay H19 lúc máy bay bị servo off , tay lái nó nặng kể gì xiết, mà anh vẫn ung dung đáp nhẹ nhàng, và có lần nắm cái núm indicator của "Chân trời giả". để reset; anh kéo… nhẹ thôi, mà nó sút ra, nên anh có biệt danh từ đó, chức vụ cuối cùng mới có… Không Đoàn Trưởng, người mà nhà văn Dương Hùng Cường coi là có thiên phú, vì biết lái máy bay trước khi anh biết cởi… xe đạp (??!) Về sau có anh Nguyễn văn Thành bay UH1 vóc dáng và gương mặt hao hao giống ảnh, nên được “ăn theo” hổn danh là "Thành Voi" !

                                - Anh Nguyễn Thanh Cảnh, tướng đô con, hiền lành nhân hậu, có tên "Quách Tỉnh"; anh là người Huế nói giọng nghe còn nặng. Tôi nhớ hồi anh còn là PĐ Phó 211, đầu năm 1969, trong một phi vụ đổ quân, anh bay chiếc chỉ huy C&C, tôi là Copilot, khi thám sát bãi đáp, hoặc địa điểm nào nghi ngờ, anh ra lệnh cho cơ phi ném khói đánh dấu, để cho gunships bắn phá dọn bãi.
                                - Đôi đi.
                                Anh cơ phi nhanh nhẹn ném hai quả trái màu, rồi một chút nữa lại nghe:
                                - "Đôi" đi !

                                Lại "một cặp" khói màu liệng đi, mỗi lần có lệnh "đôi đi", là anh ta liệng một cặp, ... một cặp bay ra. Tôi không để ý sao anh cơ phi xài sang vậy, đến một lúc lâu anh ta báo:
                                - Khói màu mình còn ít lắm Th / tá
                                - Tại sao không đôi mỗi lần một quả thôi?

                                Lúc bấy giờ anh ta mới bật ngửa ra: "Đôi" tiếng Huế có nghĩa đi là "ném đi", hoặc tiếng miền Nam có nghĩa là "liệng đi", hoặc "quăng đi" ; mà anh cơ phi hiểu lầm "đôi" là hai, nên anh ta... chơi ngay một cặp!

                                Trong Phi Đoàn đa số pilot đều biệt danh, có đến gần ¾ . Như các anh LỘC:
                                - Nguyễn Hữu Lộc, "Lộc Bừa" vì anh có hàm răng hơi chênh một chút, qua bay cho biệt đoàn 83, tiền thân PĐ219 sau nầy, anh là PĐT một PĐ UH1 ở Biên Hoà, anh bay bổng… khỏi chê! dáng vẻ cao ráo hào hoa. Thuở còn hàn vi anh cùng với một số anh khác như K. Phát, anh Ninh, Ông Kim Sanh… và nhiều người nữa… tôi cũng có mặt, thường hay chung vào mấy cái phòng trống mà cờ bạc. Điều đặc biệt ít thấy khi nào anh thắng lắm! Nghe đâu bây giờ anh ở Cali, gần thiên đàng hạ giới Las Vegas, không biết anh có thường lên đó để ân oán giang hồ không? Đừng làm "thầy… cúng” nữa, anh Lộc nhé! Nếu không đi thường, thì lâu lâu cũng nhớ phải duy trì khả năng chứ, đã biết rồi mà để lâu nó quên… uổng! Miệng ăn mắm ăn muối nhắc bậy, anh bỏ qua cho!

                                - Lê văn Lộc, "Lộc Bụng" vì anh có cái bụng của bà bầu bốn tháng; anh đã mất tại Vùng 4, vì SA7.
                                - Anh Lộc Khò, nghe danh không thôi cũng đủ biết, rất dễ ngủ, hể “xểnh ra" là ngủ, đi biệt phái vừa mới chợt tối, anh em còn đang đùa giỡn, cãi nhau ỏm tỏi, mà đã nghe tiếng khò khò của anh rồi, vì vậy anh em mới đùa rằng: "thằng nầy nếu mới cưới vợ, ngay đêm động phòng mà tân giai nhân còn đang nhẫn nha trút bỏ đồ phụ tùng, tế-nhuyển nầy nọ, quay lại là anh đã khò mất rồi, đối với anh có lẽ… ngủ là đủ rồi, nên hiện thời anh vẫn còn "ở vậy”, chưa có chị nào nâng chăn sửa chiếu cả. Anh rất hiền hay cười cười chẳng mếch lòng ai, hiện anh còn kẹt lại ở VN.

                                - Anh Phạm văn Lộc, "Lộc Đại Hàn" anh từ Vùng 2 đổi về PĐ 211cuối năm 1968, anh giống đến nỗi là Đại Hàn thứ thiệt. Có một lần nọ họ còn tưởng là phe nhà, nên đã xổ tiếng Triều Tiên líu lo với anh một lúc lâu. Sang đến Mỹ vẫn còn nặng nợ với nghiệp cầm… cần lái máy bay, nên anh cầm tiền cũng... nặng! Mới gặp lại anh, bây giờ đầu bạc trắng nên anh còn giống Đại Hàn ác liệt!

                                - Anh Lộc Đại liên, có tật nói hơi cà lăm, là C/U Cơ phi, anh chuyển về PĐ đầu năm 1967 , năm sau không rõ chuyển ngành đi đâu,và đến nay không biết tin tức gì về anh.

                                - Còn một anh Lộc nữa, mà tôi quên mất họ, có tên là Lộc “Nức Trứng” là pilot, dáng người trung bình, vui vẻ trẻ trung, chuyển về PĐ 211 lúc đóng ở Bình Thuỷ năm 1968, để mô tả cái gì quá mức là anh xài chữ "nức trứng" ; như: "ngon nức trứng", "đẹp nức trứng" …, anh xài nhiều đến nỗi mang danh đó luôn. Anh về một thời gian ngắn, rồi lại chuyển đi nơi khác, từ đó đến nay chưa biết tin tức gì về anh.

                                - Anh Robert Quang, là Trần xuân Quang, còn được gọi là "Má Robert" nữa! Tôi và hầu hết anh em trong phi đoàn rất kính mến anh. Chẳng những anh bay hay êm ái nhẹ nhàng, kỷ thuật giỏi mà tính tình hiền hậu đạo đức, biết lo lắng và sống hòa mình với anh em. Dù kêu là Má Robert chớ không phải là anh "lại cái”(gay) đâu. Nhớ lúc Tết Mậu Thân tất cả bị cấm trại, nội bất xuất ngoại bất nhập, là Trưởng Phòng Hành Quân, anh lấy thức ăn trong Ration C chế biến lại, kho nấu với rau cải các bạn đi bay ở các tỉnh đem về, ăn với cơm gạo sấy, thật vừa miệng đậm đà, tối lại còn cho ăn chè đậu. Nên anh em thấy công việc của anh như một bà mẹ mới thân mến gọi anh là Má Robert! Nghe nói thời kỳ bị "tù cải tạo" ở ngoài Bắc, anh bị kỷ luật (cùm) vì cái tội thương anh em trong tổ, anh là tổ trưởng dám nhổ sắn trộm của trại, để "cải thiện" cho anh em! Được biết bây giờ anh sống hạnh phúc an vui cùng gia đình bên ÚC, thuộc hàng bô lão, khoẻ mạnh và béo tốt hơn xưa. Tôi quên hỏi anh xem có phải nhờ thịt con Kangaroo không?

                                - Anh Nguyễn Thanh Tùng, dáng vẻ mảnh mai, nhỏ con mặt mày non choẹt, nên được tên là "Tùng Lỏi", không dùng chữ "con", vì kỵ huý với anh Minh Con. Tùng Lỏi là đồng-phạm với tôi trong vụ đè…Taxi, mà nếu xét kỹ ra, anh là chánh phạm mới đúng, vì anh là người chỉ hướng tôi quẹo theo, không nghe người ta nói ma dẫn lối, quỷ đưa đường sao? Đùa với Tùng chút chơi, chứ thật ra nếu anh thiếu bình tĩnh, để phụ giúp tôi, thì giờ đây tôi không phải mồ đà xanh cỏ, mà là “cồn rêu xanh” rồi!

                                - Anh Cao Văn Tư, hiền lành chất phát, anh bay rất... “độc”, có mái tóc xụ một bên giống chicken wing nên mang danh "Tư Cánh Gà"! Anh về bay cho ông Tổng Tham Mưu Trưởng. Có hôm nghe anh trên tần số, Lâm Đế gọi chọc:
                                - Ê, Cao Văn TƯ ơi, hôm nay rãnh hả, mầy chở anh mầy đi chơi đâu đó vậy?
                                Anh sợ, đáp ngay:
                                - Thôi đừng nói bậy nghe!

                                Vì anh cùng họ với Đại Bàng mà Lâm Đế đâu có biết là Mặt Trời đang ngồi ghế Copilot! Anh Tư “nhột" quá, len lén tắt radio, vì sợ Lâm Đế nói bậy tiếp, một chút lại thấy Mặt Trời mở radio lại và tủm tỉm cười, chứ không nói gì. Anh Tư kể lại vậy.

                                - Anh Nguyễn Chánh Tâm, "Tâm Cóc", không phải da mặt anh sần sùi như con cóc đâu, mà trái lại mịn màng đẹp trai nữa, nhưng anh rất ít nói nên có câu "cóc mở miệng" và có gương mặt chữ điền giống cựu xếp, đàn anh Lân Cóc.

                                - Anh Phạm Thành Quới, tính tình cẩn trọng, ăn nói chậm rãi, thật thà, anh kể chuyện gì cũng có đầu có đuôi, chứ không đi đâu mà vội, không ngắn gọn vắn tắt, ăn nói giống như mấy ông tiên chỉ thời xưa ở trong làng xã, mà cao nhất là ông Cả, nên anh em cứ kêu "Cả Quới" đến bây giờ.

                                - Anh Phan Tất Đắc, mặt mày trắng trẻo mịn màng, bụ bẩm giống như hình em bé trong hộp sữa Babilac, nên còn gọi là "Đắc Sữa" (anh đã bị nạn mất cùng với Tướng Đỗ Cao Trí ở Tây Ninh). Một hôm anh bay chung với anh Nguyễn Văn Hảo, đang bay thình lình anh Hảo chỉ kịp trân mình nhéo vào tay cuả anh Đắc, điến hồn hét:
                                - Caribou!

                                Một chiếc Caribou chần dần xẹt lên ngang qua bụng. Hú vía. Chắc chẳng có "ma” nào thấy nhau cả! Nghe anh Đắc kể lại và thấy anh Hảo cao, tay chân lỏng khỏng giống thân hình chiếc Caribou, nên mang danh "Hảo Caribou" từ đó. Anh là Sĩ quan Hành Quân của PĐ211, bay khá… “chì”. Anh từng bị cánh quạt đuôi của UH1 hư mà đáp an toàn. Tội nghiệp đi sông đi biển không chết mà chết lổ… chân trâu nhà tù VC ngoài Bắc! Đuợc biết vợ con anh đang ở Cali.

                                Tên Trọng thì có:
                                - Nguyển Tấn Trọng, "Trọng Xì", vì anh to con và rậm râu gíống Mễ. Sau nầy anh biệt phái qua Biệt đoàn 83,và cuối cùng chuyển qua Chinook, bị bắn rớt ở Tàu Ô An Lộc, bị bắt và được trao trả tù binh, cái số anh chỉ bị tù một lần thôi, nên anh và gia đình đã đến Mỹ năm 75
                                - Nguyễn văn Trọng, "Trọng Khẹt", dáng vóc trung bình, lì lợm, bay giỏi và siêng năng, chắc thuở nhỏ bị sâu răng nên anh cứ… hít hít rồi thành tật, cứ nghe khẹt khẹt hoài. Anh là PĐT UH1 Ở Biên Hoà, bị đi tù và chết ở trại Hỏa Lò Hà Nội. Tôi có nghe nhiều bạn đồng tù kể lại: anh là một trong nhóm khoảng trên 20 người chống đối trong nhà tù VC, buổi trưa anh thường leo tường đi đánh mấy tên Ăng-ten ở các buồng khác trong trại Hà Nam Ninh. Anh bị VC nhốt cách ly ở Hỏa Lò đến chết!

                                Các chiến hữu nào có biết rõ về Trung Tá Nguyễn Văn Trọng và nhóm nầy; xin kể lại những hành động ngoạn mục, hào hùng của nhóm. Rất cám ơn! Nghe đâu nhóm có nhiều thành phần: có anh là giáo sư Trung học Pétrus Ký, có anh cảnh sát độc nhãn, được phong là Tướng Moshe Dayan (DoThái)...v.v... Tôi rất thân với anh, được biết vợ và hai con gái của anh được qua Mỹ.

                                - Anh Trần Quế Lâm, "Lâm Đế", anh là PĐT cuối cùng của PĐ211, thay anh Nguyễn Thanh Cảnh lên chức vụ cao hơn. Trong những năm 1965, 66 phi trường Bình Thuỷ chưa có PĐ thường biệt phái 2 chiếc H34 cho Quân khu 4, phi hành đoàn tối về ở trong một building vãng lai ngoài phố, gần bến Ninh Kiều; Anh chàng Lâm nhà ta thả rề rề ra mấy chỗ bán khô cá đuối, khô mực nướng, cóc, ổi… với những cái bàn gỗ và chiếc ghế con con, anh thoải mái an vị kêu vài xị đế loại ngon, ngồi nhâm nhi và đưa cay bằng miếng khô, miếng ổi, anh chê la-de nó lạt.

                                Đúng là dân chơi thứ thiệt, anh nhìn nhận có vô chút đỉnh, thì lái máy bay nó mới đằm! Với đám pilot trẻ thì xem đây là một hiện tượng…nên có hổn danh Lâm Đế từ đó. Tôi và anh rất thân với nhau. Nhớ lại những năm 68 , 69 hằng ngày đều có hợp đoàn bay hành quân trực thăng vận cở 10 chiếc. Sau khi đổ quân tất cả về nằm chờ (standby) ở các phi trường nhỏ của Tỉnh lỵ. Cơm trưa xong xuôi mới tụ tập nhau đấu láo, chọc phá nhau. Có lần anh kêu tôi:
                                - Cua Đinh ơi, tao mới vừa tìm được tiểu sử của mầy, lại đây nghe tao đọc nè.
                                Anh tằng hắn lên giọng:
                                - Thiều công tử vốn giòng hào kiệt
                                - Xếp bút nghiêng theo việc kiếm cung
                                Nghe được lắm! Rồi anh lại tiếp:
                                - Thiều tiên sinh vốn người phương Nam, sinh trưởng tại tỉnh Bến Tre, quận Ba Tri, huyện Giồng Trôm, hạt…Cù Lao Rồng (quê của mấy người... cùi), tên cái hạt nầy phải đổi ra tiếng Nho nó mới hay; Rồng là Long rồi, còn Cù lao chữ Hán là gì ta?
                                Một anh bạn nào đó nói:
                                - Cù lao là Lẩu đó. Bộ không nhớ đi nhậu, kêu một cái cù lao ăn với bún đó sao?
                                - Đúng rồi! Hay… hay! Cù Lao Rồng tức là Lẩu Long. Vậy là mầy ở hạt "Lẩu Long" đó nghe Cua Đinh!

                                Cả bọn cười cái rần! Đang quê độ, phát… nực cũng tức cười vì kiểu kẹt… chữ Nho nầy. Sau khi nghe giảng nghĩa…đùi, chữ Lẩu ở đây thật là… “đắc địa”! Sau 75, hơn mười lăm năm tôi mới có dịp gặp lại anh bên Mỹ; câu đầu tiên anh cười hỏi:
                                - Mầy định chừng nào về thăm lại hạt Lẩu-Long của mầy đây?

                                Anh thường điện thoại cho tôi, kể tên một số KQ quen đã nằm xuống, và khuyên tôi nên bớt đi cày, retire sớm mà hưởng đời đi. Nhưng rốt cuộc, tôi bàng hoàng, vô cùng xúc động khi nghe tin anh mất bất ngờ vì đau tim! Đến bây giờ tôi vẫn thường nghĩ và nhớ đến bạn lắm, Lâm Đế ơi!!!

                                Có những anh không có nét gì đặc biệt để chọc mà vẫn không tha; như anh Lê Tiết Chinh, bảnh trai, hiền lành, nho nhã... cũng bị kêu là "Lê Mất Trinh", rồi lại anh Đặng Kim Quy, con người đạo mạo như một nhà giáo, đàng hoàng, ít có ồn ào, thường được gọi là thầy Quy mà cũng bị... khều ra, hôm nào nhẹ nhàng thì:
                                - Ê , bi , xi (a,b,c) bắt thầy Quy rang muối!

                                Làm anh cũng phải phì cười! Còn có hôm anh Lâm Đế cao hứng, thì chọc anh Quy bằng một câu 7 chữ nghe thật đậm-đà, mà tôi không dám viết ra đây vì thuộc loại cấm …đàn bà. Dù cho có vị nào bảo đừng ngại tới… luôn đi bác tài, cứ viết ra đi, vì có ai còn là con trai hay con gái nheo nhẻo nửa đâu, không răng mô! Thật tình không dám, chỉ xin gợi ý: Đây là câu đối lại chan-chát với câu gì, mà trong sách xem tướng có nói;
                                - Không có Mao chủ tịch, nghèo tận mạng (Âm h…vô mao, bần chí tử!)

                                Anh Quy xin lỗi… viết lại anh Quy có còn nhớ không? Nếu anh không nhớ được thì chẳng sao, hãy sống thêm 30 năm nữa, rồi anh đi tìm Lâm Đế mà hỏi nhé!
                                Còn nhớ… nhớ nhiều, và nhớ đừng để quý vị bảo:
                                - Thôi đủ rồi… Tám; nên tôi xin chấm hết ./.

                                CUA ĐINH
                                (10/2004)

                                Last edited by Tinh Hoai Huong; 03-07-2017, 07:35 PM.
                                Bút trần nào tả được lưu luyến!
                                Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                                Tình Hoài Hương

                                Comment



                                Hội Quán Phi Dũng ©
                                Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




                                website hit counter

                                Working...
                                X