Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Góc Truyện Tình HOÀI HƯƠNG...

Collapse
X

Góc Truyện Tình HOÀI HƯƠNG...

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Hãy trả lại ta: Sơn Hà VIỆT NAM

    Hãy trả lại ta: Sơn Hà VIỆT NAM


    Gần cuối tháng 4-1975, Hoàng Năm lấy xe Van của bà bồ già tên Tư Râu Rậm để đi làm một cái bản đồ, trong đó Năm ghi rõ tất cả địa chỉ, nơi mà nhân viên Mỹ đã, đang ở tại Sài Gòn và các Tỉnh phụ cận ở miền Nam Việt Nam. Thường thường người Mỹ ở tập trung, họ thuê bao nguyên một building nhỏ. Nếu ai có bồ bịch ở Việt nam, hay ai có vợ con đem qua Việt Nam, họ mới ở riêng, ở cách xa nhau. Khi hoàn thành xong công việc, và giao cho “xếp”, cũng là lúc Năm đã biết về chiến dịch “White Christmas” – Nghĩa đen là “Chiến dịch di-tản người Mỹ”.
    Năm vẫn ung dung và dửng dưng vì Năm chỉ thích sống tại Việt Nam! Ngày cuối cùng trước khi ra đi, ông “xếp” gọi Năm:
    - Tôi sẽ ra đi về Mỹ gấp đây. Bây giờ, cái công ty nầy là thuộc về anh.
    Năm chỉ cây dù cuả ông xếp lớn dựng ở cuối văn phòng, cười cười:
    - Tôi không có ý định đó. Nếu ông cho… tôi chỉ xin ông “cây dù đen” kia, để làm kỷ niệm…
    Năm giống như:
    Thằng Bờm có cái quạt mo.
    Phú ông xin đổi ba bò chín trâu.
    Bờm rằng Bờm chẳng lấy trâu…
    Phú ông xin đổi một xâu cá mè
    Bờm rằng Bờm chẳng lấy mè
    Phú ông xin đồi một bè gỗ lim
    Bờm rằng Bờm chẳng lấy lim
    Phú ông xin đổi con chim đồi mồi
    Bờm rằng Bờm chẳng lấy mồi
    Phú ông xin đổi… nắm xôi. Bờm cười…
    Ha ha ha!
    *

    Ừ thì… trước năm 1975, “Bờm” cứ thoải mái vui vẻ cười ha ha ha đi, để rồi… nếu sau ngày 30 tháng 4 mất nước, mà Bờm không biết lo giữ gìn đất nước quê hương Việt Nam cẩm tú trường cửu và vĩnh thịnh trong độc lập tự do, đó là hòn ngọc viễn đông vô cùng trân quý, và Côn Sơn (Côn Đảo POULO CONDOR) thơ mộng tuyệt vời đầy rung cảm; “nếu” bị lọt vô bàn tay khát máu của Tàu Cộng… Thì, Bờm không còn cười ha hả nữa, mà Bờm sẽ hối hận ôm mặt khóc hu hu hu, thì đã muộn mất rồi! Khi đất nước Việt Nam thân yêu nhuộm máu Trung Quốc, chúng trắng trợn ngang ngược vi phạm luật pháp quốc tế, dùng mọi thủ đoạn, vũ lực thô bạo cưỡng đoạt & thủ thuật cướp đoạt chủ quyền cuả Việt Nam, để chiếm đoạt Hoàng Sa - Trường Sa - đấy là hải đảo huyết mạch nằm trên tuyến đường chiến lược quan trọng; rồi Đèo Ngang, Hà Tĩnh… cũng đi đon!

    Thế nên Trung Quốc chủ trương bá quyền độc chiếm (từ eo biển Malacca đến các nước Đông Bắc Á, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc, Nhật Bản…). Lại thêm những vụ: dân Trung-quốc “núp bóng” người Việt bằng cách đưa tiền tỷ cho người Việt có điều kiện đứng tên mua nhà ở ven biển, sông ngòi, hải đảo… Họ mua hơn 246 lô đất ở Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn, cụm đất rộng lớn nầy có thể chứa hơn 100.000 người, làm đặc khu cho người Trung-quốc ở. Đây cũng là kế sách di dân tuyệt hảo cuả Trung Quốc chuyển sang Việt Nam; (chính phủ Trung Quốc đỡ mang vác gánh nặng hơn một tỷ ba con dân nước họ). Thế mà số ít người Việt “chỉ đứng trên danh nghiã “hợp tác, hợp te, làm quản lý hờ”, còn mọi vấn đề khác đều do Trung-quốc sở hữu làm chủ; xây khách sạn, lập công ty thương mại nầy, công ty sản xuất, hoặc nhà hàng ăn uống, du lịch nọ! Đó là vấn đề chính yếu đáng sợ nhất!

    Bây giờ nhà nước Việt Nam còn “làm” vụ động trời khác -đề xuất lập ba đặt khu “thuê đất” 99 năm- Hiện nay Trung-quốc đã “lọt thỏm” vô những yếu điểm quan trọng như Đà Nẵng, Nha Trang, Vân Đồn, Quảng Ninh, Bắc Vân Phong, đảo Phú Quốc… vẫn là điều phi pháp! Đê hèn. Ôi! máu sẽ chảy từ chân núi Bayan Har qua các dòng sông: Yanguoxia, Bapanxia, Daxia, Qinglongxia, v.v… (Tây Tạng, Trung Hoa), máu ngoại bang thắt bím đuôi sam tuôn trào khắp mọi nơi, trôi về trên non sông gấm vóc quê ta, là máu thấm đẫm đến từng chân tơ kẽ tóc dân Việt! là chúng nuốt chửng, nuốt trọn Việt Nam rồi – thì từ đây sẽ “sụp đổ & tàn lụi suốt bao thế hệ, từ đời chúng ta và hậu duệ sẽ đau khổ, ngậm ngùi cay đắng, xót xa cùng quẫn dài dài. Vậy thì người Việt (chúng ta) sẽ ngao ngán cúi gầm mặt, đớn đau lủi thủi quay trở lại trang sử buồn… trên những con đường đất nhuộm đỏ máu tươi rất gập ghềnh, hoang phế… (mà tổ tiên đã từng trải qua đầy gian truân khổ ải, lẫn chông gai. Ngỏ hầu cho Việt Nam “sống” vững mạnh tới bây giờ… mới có chúng ta).
    Cớ sao đảng và nhà nước (thay thằng Bờm hiện tại? hay thằng Bờm có cái quạt mo ngày xưa?) lại dẫm chân lên vết xe cũ, trùng lặp một 1.000 năm đô hộ giặc Tàu lần nữa, mà không sáng con mắt ra? – hay vẫn do chủ nghiã: “100 năm trồng người”? Lúc đó “dân nước ta” sẽ bị ngoại lai đô hộ, thống trị trong xiềng xích nô lệ khổ ải suốt kiếp! Đã mất Hoàng Sa và Trường Sa rồi, không chóng thì chày đảo Phú Quốc, Côn Đảo, vịnh cảng quân sự Cam Ranh… thuộc lãnh hải và lãnh thổ Việt Nam; là “những yếu điểm quan trọng nhất, và là pháo đài khó công nhưng dễ thủ”, cũng tương tự na ná -sẽ rơi vô tay bè lũ khát máu Tàu cộng cho mà coi- Thế thôi!

    Người Việt Nam từ bé chí lớn không thể hết nguôi từng cơn rúng động choáng váng, rụng rời, bàng hoàng rơi lệ, vì kẻ tội đồ bán đất nước – (từ vụ Hoàng Sa, Trường Sa, Bauxite Tây Nguyên, di dời cột mốc Ải Nam Quan, Formosa, v.v… Nga Sô và Tàu chệt đã tràn ngập trên những vùng đất quan trọng ở khu phố Tây sầm uất, (thuộc thành phố Nha Trang). Tôi đến Nha Trang vào tháng 10 năm 2017 mà tưởng chừng như đang đi lạc trên đất nước Tàu đông đúc náo nhiệt ồn ào kinh khủng! Trong nhà ngoài phố đều xuất hiện người Tàu, chữ viết trên tiệm ghi toàn tiếng Tàu & khu Vĩnh Thạnh, Vĩnh Hiệp, Vĩnh Trung – Thiệt tình!
    Cho đến bây giờ mà Đảng và Nhà Nước không có những “nhân sỹ trí thức” có thể chế, có ý thức trách nhiệm và tinh thần tự tôn dân tộc sao? vẫn “tập trung phá thối” không chịu mở mắt ra!? Trời ơi! Giờ phút lâm nguy nầy, mà đảng còn ru ngủ dân Việt trong chiêu bài mị dân bán nước: “Không có gì quý hơn độc lập tự do và hạnh phúc” sao ta? Hãy tỉnh táo lại đi. Chuyện đó “xưa rồi Diễm” …!!!

    Tại sao đảng và nhà nước XHCNVN không noi theo gương của những vĩ nhân anh hùng thuở trước, như ba vị nữ lưu mặc dù "chân yếu tay mềm, quần thoa áo lụa, yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu" nhưng tuyệt vời như: Hai bà: Trưng Trắc, Trưng Nhị & bà Triệu Thị Chinh? Oanh liệt từ thời Trần Bình Trọng "thà làm quỷ nước Nam, còn hơn làm vua đất Bắc"; Những tấm gương can trường dũng khí: MAI THÚC LOAN - Đức TRẦN HƯNG ĐẠO Vương (TRẦN QUỐC TUẤN) hào kiệt anh tài nghĩa dũng qua những chiến trận lẫy lừng vang bóng. Danh nhân kiệt xuất: NGUYỄN TRÃI – Vua Quang Trung NGUYỄN HUỆ lừng lẫy trong chiến thắng trận Đống Đa. Vân vân... thật nhiều, nhiều lắm... không làm sao kể xiết!
    Nói làm chi cái thuở hồng hoang nguyên thuỷ gần như lúc "tạo thiên lập... quốc" của vua Hùng Vương xa xưa như trái đất, cho mệt! mà hãy ôn cổ tri tân những vị tướng anh hùng tử khí hùng bất tử: Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam. Thiếu Tướng Phạm Văn Phú. Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng. Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ. Chuẩn-tướng Trần Văn Hai. Các Ðại Tá, Úy..., Hạ sĩ quan, và binh sĩ... sau ngày 30 tháng 4 của miền Nam Việt Nam Cộng Hoà... có rất nhiều chiến sĩ anh hùng vô danh ẩn tích khác. Họ là những anh hùng vị quốc vong thân. Những bậc anh tài sinh vi tướng, tử vi thần đều có một lòng trung quân ái quốc, thà chết chứ không chịu nhục dưới chế độ độc tài đảng trị, nơi không có tự do dân chủ và nhân quyền; mà chỉ có "bá quyền" đàn áp tôn giáo, xúc phạm lương dân lam lũ vô tội. Họ chẳng hề “tham sinh úy tử”. Do sĩ khí từ ông Lê Lai cao cả hy sinh liều mình chịu chết, để cứu chuá Lê Lợi !?! Vậy thì, tại sao XHCNVN không "học hỏi" những tấm gương ái quốc yêu người từ cổ chí kim, mà hành xử cho phải đạo làm người. Mình cũng có thể học từ điển tích của quân Tàu, "mặc dù khát giống, nhưng cùng chung lý tưởng "thâm diệu", có mục đích diệt cường quyền bá đạo". Thế thôi :

    Hán Vương thấy Hạng Vương (nước Sở) cử đại binh bao vây thành Huỳnh Dương rất chặt chẻ. Lúc đó, lại có thêm tin cấp báo: “Hạng Vương ra lịnh ngăn hạ lưu sông Vinh, để cho nước chảy ngập thành Huỳnh Dương”.
    Khiến Hán Vương càng lo sợ, đã kêu các tướng, Trương Lương và Trần Bình vào nghị kế với các quan. Vua nói:
    - Hàn Tín chưa về. Trong thành không có ai có đủ sức đánh lại Hạng Vương. Ai có kế gì hay để giải vây bây giờ?
    Trần Bình tâu:
    - Tôi có một kế phá vòng vây cuả giặc, nhưng ở đây không có một trung thần nào dám hy sinh thay cho đại vương.
    Chu Bột và các tướng nghe thế, tỏ ý bất bình. Trần Bình lại tâu:
    - Kế đó rất thâm diệu, các ông chưa hiểu ý tôi… nên giận là phải đấy thôi.
    Trần Bình lại ghé vào tai Hán Vương nói nhỏ mấy câu. Hán Vương liền tươi ngay nét mặt:
    - Kế đó hay lắm! Giao cho Trương Lương thực hiện mới được.
    Trương Lương nhận lệnh về dinh cuả mình mở tiệc mời tất cả các tướng đến dự. Trương Lương dụng ý treo một bức tranh vẻ chiếc xe có một người ngồi, sau xe có hằng vạn kỵ binh tới tấp đuổi theo xe. Phiá trước xe là khu rừng rậm có một người đang ẩn nấp. Trương Lương giải thích với mọi người:
    - Xưa, vua Cảnh Công nước Tề đánh với quân Tấn. Vua Tề thua to, quân chết như rạ, lớp quân khác trốn hết, họ bỏ vua ngồi một mình trong xe. May thay lúc đó có một nông dân xin vua cỡi áo bào cho mình mặc, giả làm vua- còn vua thì mặc quần áo cuả nông dân ấy, mà ra đi. Cảnh Công không chịu, vì để mình sống mà người khác chết thay sao đành. Nông dân ấy thúc giục:
    - Tôi chết, chẳng khác nào trong rừng rậm chỉ mất một cây. Ngược lại, nếu chúa công chết, thì mất cả giang sơn.
    Sau đó, quân giặc bắt được “Cảnh Công giả” đem về nạp cho vua Tấn, vua Tấn biết đó không phải là vua Cảnh Công, cũng ra lệnh giết chết. Nông dân ấy nói:
    - Tôi dám thay mạng sống mình cho chúa công cuả tôi, thì tôi không sợ chết. Chỉ tiếc một điều: Nếu chuá công giết tôi, sau nầy người dân Tấn nào muốn chết thay mạng cho vua, họ cũng không dám, vì họ sợ cũng bị giết như tôi.
    Nhờ câu nói đó mà nông dân ấy thoát chết. Các tướng hiểu được dụng ý của Trương Lương khi cho treo bức tranh giữa phòng tiệc, nên đồng thanh nói:
    - Chúng tôi xin đem mạng thay cho Hán Vương, giúp vua thoát khỏi vòng vây.
    Trương Lương nói:
    - Lòng trung nghiã của các tướng rất đáng biểu dương, nhưng ta chỉ cần một người có diện mạo hơi giống vua; đó là Kỷ Tín. Không biết Kỷ Tín nghĩ sao?
    Kỷ Tín bằng lòng. Trương Lương và Trần Bình đưa Kỷ Tín vào ra mắt Hán Vương. Hán Vương không chịu để Kỷ Tín chết thay mình. Vì “hại người mà lợi cho mình” là việc vua không chấp nhận. Kỷ Tín doạ tự tử, khi ấy Hán Vương mới bằng lòng. Hán Vương biết Kỷ Tín thế nào cũng bị giết, nên hỏi kỹ hoàn cảnh gia đình Kỷ Tín ra sao, thì được tâu:
    - Thần còn một mẹ già, vợ và một con còn rất nhỏ.
    Hán Vương ngậm ngùi nhận nuôi dưỡng họ suốt đời. Sau đó Trương Lương, Trần Bình thảo hàng thư, sai sứ giả đem trao cho quân Sở, trong thư hẹn lúc cận tối, Hán Vương sẽ ra hàng. Trời vừa tối, thì mở cửa thành phiá Đông, quân Sở thấy một đoàn mỹ nữ vài ngàn người ung dung chậm rãi thong dong chậm chạp bước ra nhảy múa, nên quân Sở rối loạn hàng ngũ, họ rần rần kéo nhau ùa đến cửa đông xem cho thoả mãn! Nhờ đó Hán Vương và các tướng thoát ra cửa Tây an toàn. Cuối đoạn cuả đoàn mỹ nữ mới thấy đội nghi vệ bao quanh chiếc long xa. Hạng Vương mừng rỡ vì tưởng là Hán Vương thật, nên cho ngựa chạy tới. Kỷ Tín liền trợn mắt, hét:
    - Ta đây là Kỷ Tín, chớ không phải vua Hán Vương. Hán Vương đã kéo đại binh ra khỏi thành Huỳnh Dương từ lâu. Ngươi không biết hay sao?
    Hạng Vương nghe thế, giận lắm, nhưng trong lòng cảm phục khen ngợi người chí sĩ có lòng trung nghĩa. Ông sai Qúy Bố đến dụ Kỷ Tín về hàng. Nhưng Kỷ Tín thà chết, chứ không hèn mà hàng giặc.
    *
    Vậy nên, từ những sở vọng kiên cường ấy, các ngươi hãy trả lại cho ta địa danh gấm vóc sơn hà VIỆT NAM

    VIỆT NAM cẩm tú sơn hà.
    Địa danh giới phận nước Ta với Tàu.
    Nghìn năm có trước ghi sau.
    Bảng vàng lưu Sử ấy câu tựa là:

    Từ NAM QUAN Ải mình qua
    Trường Sơn chữ S mặn mà VIỆT quê.
    HÀ NỘI NGHỆ AN phố Huế.
    QUẢNG ĐÀ BÌNH ĐỊNH ta về NHA TRANG.

    GIA LAI PHAN THIẾT PHAN RANG.
    VŨNG TÀU ĐÀ LẠT TRÃNG BÀNG TÂY NINH.
    SÀI GÒN ĐỒNG THÁP LONG BÌNH.
    KIÊN GIANG HỒNG NGỰ TRÀ VINH NHÀ BÈ.

    CẦN THƠ CHÂU ĐỐC BẾN TRE.
    GÒ QUAU nghìn dặm AN KHÊ chập chùng.
    BẠC LIÊU nhớ miệt TÚC TRƯNG.
    LONG AN BẾN LỨC thương hung KIẾN TƯỜNG.

    Ô MÔN CAO LÃNH CẦU NGANG.
    U MINH RẠCH GIÁ VĨNH LONG một nhà.
    HÀ TIÊN QUẢNG TRỊ TRƯỜNG SA.
    CÀ MAU PHÚ QUỐC vẫn là của Ta:
    *
    Trả lại đây núi non xa…
    VIỆT NAM vang bóng sử ca nghìn đời.
    Từ ngày “người lạ” đổi thời.
    "HOÀNG SA độn thổ" biến đời quắt quay.

    Bên ngoài thế giới có hay?
    NAM QUAN ẢI mất; đọa đày lắm thay!
    Xế chiều tuổi đã vàng bay...
    Núi sông ngậm đắng nuốt cay ai đòi?!

    Nghìn thu nỗi hận đầy vơi.
    Ước mơ sông núi cuối đời về TA.
    Đồng Bào hỡi! Khắp gần xa.
    Đứng lên giành lại sơn hà VIỆT NAM.
    *


    Tình Hoài Hương

    (*) Ít trích dẫn trong Việt Nam Quê Huong Cẩm Tú của Tình Hoài Hương)
    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

    Comment


    • Tình Già “ẩn” Nơi Nao!?


      Tình Già “ẩn” Nơi Nao!?

      Bà Lý Lùn đọc mấy chuyện khôi hài in trên tờ nhật báo đã ghi:
      - Người tuổi Sửu hợp với người tuổi Ngọ, theo quẻ gieo: “đầu trâu mặt ngựa”. Người hai tuổi này mà cưới nhau chắc chắn sẽ thành công, tấn tới, nếu cả hai vợ chồng cùng làm việc trong lĩnh vực “xã hội... đen” (đâm thuê, chém mướn).
      - Người tuổi Tỵ rất khắc với người tuổi Dậu, theo quẻ gieo là: “cõng rắn cắn gà nhà”. Nếu hai người này cưới nhau về, thế nào người tuổi gà cũng bị người tuổi rắn cắn chết, không loại trừ trong lúc yêu đương bị đương sự cắn lầm.
      - Người tuổi Mùi hợp với người tuổi Tuất, theo quẻ gieo: “treo đầu dê, bán thịt chó”. Hai vợ chồng tuổi này chắn chắc sẽ làm ăn phát đạt, thịnh vượng, đặc biệt là trong lĩnh vực… buôn gian bán lận, lừa đảo.

      Bà Lùn vui vẻ mỉm cười hân hoan nghĩ tới vị ân nhân cứu độ sẽ xuất hiện trong đời mình lần nữa. Dù sao năm nay mình mới “bốn chín nem mưi” tuổi. Sau một lần Lùn leo lên thuyền hoa cùng anh chồng trẻ làm tại nhà máy đường ở Cầu Ngang, vợ chồng đã có hai mặt con. Một ngày u ám kia, anh chồng bỗng nhiên đột quỵ và ngoẽo. Ôi! Từ đó… thì cuộc đời Lùn chỉ sống trong bóng tối triền miên. Sau những tháng năm đất nước bị đổi đời, ngày ngày Lùn lội bì bõm ra kinh lạch bắt cua bắt còng; mồ hôi nhỏ tong tong xuống đầm lầy nương rẫy. Nhọc nhằn biết mấy mà kể! Nay có người chú họ ở Mỹ muốn mai mối cho mình một “đức lang quân”. Tuy rằng chuyện ông ta phức tạp chút xí, khi chú thím (người đã làm mai mối) gọi phone méc, rồi hỏi ý bà Lùn:
      - Cô có nên tiến tới với người xa lạ hay không, có sợ không, nếu cô đã nghe câu chuyện thật của một ông người Việt, đã xảy ra trên nước Mỹ cách đây mười ba năm như vầy:
      - Trong một buổi lễ làm phép xác tại giáo đường Ontario, ông kia xấp xỉ 70 tuổi đã đứng trước quan tài của bà vợ quá cố; khi có đầy đủ “bá quan” thương tiếc đi tiễn đưa bà vợ đến nơi an nghĩ cuối cùng. Thì ông ta cầm tờ giấy hôn thú (của hai ông bà). Ông ta giơ lên cao, phe phẩy mấy lần, cốt cho tất cả mọi người trong giáo đường chú ý nhìn, lắng nghe. Tự tay ông xé toạt tờ “giá thú” ra, rồi dường như giận dữ ông quăng mạnh xuống trên đầu áo quan, ông ta hân hoan dõng dạc tuyên bố:
      - Kể từ hôm nay, tôi chính là người sung sướng tìm lại được sự tự do, hạnh phúc và an nhàn sống đời độc thân đích thực.
      Khiến mọi người xôn xao, xớn rớn ngơ ngác sượng sùng nhìn ông, họ tím mặt vì cái: {“giá” của hôn thú muôn năm}.

      Bà Lùn ngồi tần ngần hầu như bất động trên ghế dựa, bà nghĩ đến ông Phùng xa lạ trên xứ sở tột đỉnh văn minh, nghĩ lại thân phận hẩm hiu của mình, bà suy nghĩ miên man về việc nọ, việc kia… Ồ việc gì thì việc, mình cứ thuận theo lẽ tự nhiên, có duyên sẽ gặp, tới đâu hay tới đó, miễn sao mình thoát ra cái xứ sở buồn nãn khốn khổ nầy, và có thể sửa đổi tính nết kỳ quái khi hành động một việc dị hợm kia, nếu đúng là ông nào đó làm vậy, mình sẽ trị. Nhưng hy vọng rằng ông "ác ôn côn đồ" kia, không phải là người mà chú thím Tân chọn cho mình, thì còn gì bằng!
      * * *

      Số là như thế nầy: Ông Năm Phùng, hồi xưa ổng ở Sài Gòn, gần nhà chú thím họ của bà Lùn; lúc ấy ông Phùng đã có gia đình, sinh một bầy con. Thế rồi... sau một năm vật vờ ốm đau, thì bà vợ của ông Phùng từ trần, để lại cho ông Phùng gánh nặng là bầy con lút chút lít chít... đứa con út mới tròn mười tháng. Ngày ngày ông Phùng cùi cụi tần tảo đi làm ở sở Nhà Đèn, để nuôi bầy con nheo nhóc. Thời gian năm tháng dài thấm thoát trôi qua, nay chúng đã lớn khôn và nên người... Điều đáng nói là mặc dù vợ ông chết. Thời trai tráng sung sức phong độ đến thế mà... lúc đó “anh ta” chẳng màn tơ tưởng tới chuyện vợ bé vợ lẽ gì cả! Thật là ngộ! Bởi vì bà vợ cả có đầy đủ công dung ngôn hạnh:
      Không cắc cớ
      Chửi chồng con
      Không phấn son
      Không nhiều chuyện

      Không hà tiện
      Không càm ràm
      Phải siêng năng
      Không lười biếng

      Nói nhỏ tiếng
      Biết chiều chồng
      Giỏi nữ công
      Và gia chánh.

      Biết làm bánh
      Nấu ăn ngon
      Biết dạy con
      Ứng xử tốt …
      (1)

      Cho đến… sau ngày 30 tháng Tư đổi đời, thì ông Phùng cho ba đứa con lớn vượt biên qua Mỹ. Năm 1994 ba thằng con có khả năng bảo lãnh cho cha cùng ít anh chị em ở quê nhà đến đoàn tụ trên đất Mỹ. Ông Phùng qua Mỹ dù tiếng Anh tiếng U cũng kha khá, thế nhưng ông muốn làm việc tay chân, tự do không gò bó trong văn phòng hay công xưỡng, việc “gò bó” ông đã từng trải, là điều ông đại ghét. Nên ngày ngày ông Phùng cặm cụi quần quật làm chủ trại gà nho nhỏ ở Ontario, và cắt cỏ tại mấy trường trung học... ông dành dụm tiền dư, phụ với mấy đứa con lớn, hầu bảo lãnh thêm những đứa con còn kẹt lại ở Việt Nam đến đoàn tụ trên đất Mỹ..

      Khi con cháu qua hết bên xứ tự do nầy... thì ông Phùng “xuân xanh” đã héo úa gần 70t. Ấy thế mà trông ông vẫn phong độ, to con "phốp pháp" khỏe mạnh... như ai! Ngặt một nỗi cho dù ông Phùng có cả bầy con trai gái đông đúc, sinh sôi nẫy nở dâu và rể ra thành mười sáu đứa con, cộng vớinăm đứa cháu nội ngoại. Ấy dà! chúng nó nào có hơi sức đâu để lo cho cha. Gia đình riêng của chúng ăn chưa no lo chưa tới, vẫn chưa xong nữa là hiếu với thảo. Thành thử chúng không thể sớm hôm lo cơm nước chu đáo cho ông Phùng. Chúng nó bèn họp nhau lại, bàn rằng:

      - Ba nên về Việt Nam mà cưới bà vợ bé, trước là để bà dì nâng khăn sửa túi, sớm tối hầu hạ cho ba chén cơm ly nước. Sau nữa là có chỗ để ba và dì an ủi chia xẻ khi xế bóng về già lụm cụm, thì hai cụ bớt cô đơn, quạnh quẽ. Còn chúng con dù rất thương ba, nhưng khi chưa có dâu hay rể… thì khác. Nay ai ai cũng có gia đình riêng, có nhiều ý kiến khác nhau như ba thấy đó. Chúng con mong ba thông cảm, vì không có thì giờ chăm sóc ba cho xuễ.

      Các con của ông Phùng cứ nheo nhéo nói hoài nói hũy, nói mãi chuyện lập “phòng nhì” nầy… Ban đầu nghe con cái “xúi dại” ông Phùng có ngượng ngùng chút xíu. Nhưng rồi suy đi nghĩ lại có lý quá đi chứ, cũng phải! Ông cảm thấy trong lòng thinh thích và “hưng phấn” hẳn lên! Ông Phùng nghe con "tụng" về chuyện "nâng khăn sữa túi" cho mình khi về già sống trên đất Mỹ cô độc, ông càng bùi tai và thấm thía cái cảnh cô đơn, phòng không gối chiếc lạnh lẽo suốt bao năm dài lê thê, cũng thật da diết buồn.
      Họ rủ rỉ bàn tán, cốt cho cha già nghe:. . .

      Lấy vợ nên kiêng vợ móm răng
      Giận con lè lưởi tựa bà chằng
      Tiệc tùng rủi gặp bò nhúng giấm
      Mắc nghẹn có ngày té ngã lăn
      . . .
      Lấy vợ nên kiêng lấy vợ hô
      Hàm răng lởm chởm nói bô bô
      Rủi khi bà giận ôm chồng cắn
      Đổ máu phu quân chạy thấy mồ
      (1)
      * * *

      Thế là ông Phùng “trăn qua trở lại” xôn xao biết nhiêu mà kể cho xiết, ông băn khoăn hoài. Cuối cùng ông đồng ý để các con chọn cho cha một mụ vợ. Ông cùng "phái đoàn" con, dâu, rể, cháu... dắt díu nhau lên đường quay gót về Việt Nam. Ông diện bộ áo quần láng cón, tươm tất. Thế rồi một ngày đẹp trời... các con và "cụ nhà ta" đã chọn được một "công nương ỏn ẻn" tuổi “năm mưi mí” xuân... thu (chưa nhị tì). Ông Phùng khi ấy suýt soát “song thất lục bát” cập kê... qua “bà mai non” môi giới là con bé Hà, thì đám cưới ở làng quê trên kinh Tư kinh Tám đã linh đình nổ ra ba đêm bốn ngày... Náo nhiệt vui vẻ ồn ào tưng bừng hết biết... Họ quan niệm: sống trên đất Mỹ, có sức chơi thì có sức chịu, có tiền bạc, là có hạnh phúc, chứ về tuổi tác chênh lệch quá xa tầm tay; thì cha hay con cháu... ai... "ai đông ke". Sau đó "phái đoàn cha con chồng vợ" từ giã làng trên thôn dưới nơi kinh Tám lặn lội qua kinh Tư, hai họ lưu luyến ôm chầm lấy nhau hôn hôn hít hít. Họ nhà gái ngồi trên mạn thuyền bùi ngùi trào lệ, giọt ngắn giọt dài rơi tủm tủm xuống dưới sông đào kinh lạch... để tiễn đưa “bà dâu” lỡ thời tới nơi đất khách tha phương cầu thực!

      Bà vợ trẻ tên Lý Lùn của ông Năm Phùng đã ở một nơi "sông nước triền miên" sóng vỗ bập bùng bên mạn thuyền; Ngày nay một bước bà leo tọt lên xe hoa, bàn chân nứt nẻ còn ướt nhẹp chưa ráo hơi mùi bùn, bà Lùn cảm thấy “hãi” e dè chấp chới đôi tay như mọc cánh, bàn chân run run khi tụt xuống máy bay ở Los, bà đã tới nơi chốn văn minh giàu sang tột đỉnh của xứ "cờ Hoa" ngợp trời! Bà ta lõ mắt nhìn xứ Mỹ mà ngẩn ngơ! Thật sung sướng và mở toác hoác cả tất lòng! Trong lòng bà cũng cảm thấy áy náy hoang mang lo lắng, buồn phiền. Bà chỉ biết dựa vào vai vế chồng và bầy con ghẻ. Ngày ngày bà ta ríu rít chăm chỉ phụng sự đức ông chồng già chu đáo như con lo cho cha… Bà "hầu hạ nâng khăn sửa túi" cho đức ông chồng lý tưởng... tuyệt vời của mình. Dĩ nhiên ông Phùng hãnh diện vui mừng đem bà vợ trẻ đi đây đi đó (bà nhỏ hơn ông những mười mấy tuổi chớ bộ! Bà ta chỉ lớn hơn con đầu lòng của ông ba bốn tuổi). Ông cho bà đi để biết xứ Mỹ bao la giàu sang văn minh tự do và rộng lớn thế nào... Đi đâu ông Phùng cũng sung sướng hớn hở khoe với bà con bạn bè về bà vợ quý! Cả hai vợ chồng một già một trẻ sướng rơn người vì những lời hoan hỉ chúc tụng của bạn hữu, thân nhân trên đất Mỹ tự do. Thiệt là đúng:

      Vợ là chỗ dựa cho chồng
      Nhiều ông dám bảo vợ không là gì!?
      Khoan khoan hãy nghĩ lại đi
      Vợ quan trọng lắm không gì hơn đâu.

      Việc nhà vợ có công đầu
      Nấu cơm, nấu nước, rửa rau, pha trà.
      Vợ là máy giặt trong nhà
      Vợ là Cát-sét Vợ là Tivi. … (1)

      Ở Mỹ hai vợ chồng trẻ già khi đầm ấm cũng như nhiều phen có sóng gió hơn sáu năm, thì bà Năm (người ta vẫn gọi bà Lý Lùn qua tên thứ của chồng, thay vì gọi tên cúng cơm)... bà Năm sớm mở trí tuệ ra để học đòi “văn minh tiến bộ của loài người” rằng thì là… dù sinh ngữ chưa thông thạo cho mấy, nhưng bà luôn tự hào mình “có học” chả kém ai. Bà cương quyết đòi đi thi quốc tịch. Ông Phùng lắc đầu:
      - Tôi xét thấy về khả năng và trình độ sinh ngữ cuả em hiện nay, thì em chưa nên đi thi quốc tịch bây giờ, là tốt.
      - Ông ngăn cản tui hoài. Tui cứ đi thi, không lần nầy được thì lần sau, lần sau nữa… Chớ ông muốn để tui ru rú trong nhà mà cơm bưng nước dâng, hầu hạ từng món cho ông hoài à?
      Ông Phùng lắc đầu xua tay im lặng không thể thốt nên lời. Thì ra “tình nghiã đôi ta” là thế. Ông đành lủi thủi leo lên xe taxi đưa bà đi thi. Bước vô phòng sát hạch bà Lùn đứng xớ rớ nhìn quanh, vị giám khảo nhìn bà chưa kịp chào hỏi, thì bà Lùn láu táu lên tiếng:
      - Gút... Gút mo ninh.
      - Vị giám khảo mỉm cười gật đầu đáp lễ, đưa tay ra dấu mời bà ngồi xuống ghế:
      - Hi.
      - Tui không phải là “Hai”. Tui là “Năm” Lùn.
      Giám khảo ngẩn ngơ nhìn bà giây lát, rồi ngần ngừ:
      - I D.
      - Tui đi.
      - I D, please.
      - Tui nói lại: Tui đi... là họ “Lý” ("please").
      Vị giám khảo đành đứng dậy bước ra mở cửa:
      - Go, please.
      Bà Năm liền đi ra chỗ ông chồng đang ngồi đợi:
      - Sao rồi em?
      - Thì “gô” chớ sao!
      Bị rớt cái đụi khi thi quốc tịch nay đã là lần thứ tư rồi, thì bà hậm hực uất ức lắm. Về nhà, bà Lùn nằn nặc đòi ông cho bà ra ngoài xã hội làm việc, để mở mang kiến thức & phụ thêm các khoảng bills (khi tái hôn thì vợ chồng ông ra riêng, không ở chung với con cháu). Vì tiền chính phủ Mỹ cung cấp cho người hưởng SSI của ông sít sao, vừa vặn. Nói trắng ra phần tiền già của ông bây giờ bị Liên Bang, rồi bị Tiểu Bang thâm thủng ngân sách trầm trọng, đã cắt xén của người già khá nhiều. Đã vậy nay ông phải “bao” thêm cái ở, cái ăn, cái mặc cho bà Lùn, thì ông Phùng càng cần kiệm, sẻn so lắm là cái chắc, mới đủ chi dùng cho hai người. Ông nghiến hai hàm răng giả mà không dám hở môi, e thiên hạ chê cười. Giấy rách phải giữ lấy lề mà! Và... và nếu bà có đi làm việc, thì bà sẽ có tí đỉnh tiền còm mà gởi về Việt Nam cho con riêng của bà chứ! Dù gì bà cũng là vợ của ông Phùng có quốc tịch Mỹ mà!

      Thế là... ngày ngày đêm đêm ông Phùng nghe bà vợ “ra rả tụng” bên mang tai suốt, dẫu có nặng tai lễnh lãng cách mấy, ổng nghe hoài cũng muốn điếc con ráy; thiệt là chịu hổng nỗi. Thật tình mà nói thì ông không muốn cho vợ đi làm thêm... Nhưng không muốn cũng không xong với bà cứ lẽo đẽo bu ở sau lưng ông ì xèo nói dai, nói dẽo, nói khéo ơi là khéo... khiến ông Năm xiêu lòng (vã lại ông Phùng đã xiêu lòng mát dạ, mát ruột mát gan lên chín từng mây từ khuya, khi ổng hăng hái rước bà dìa dinh rùi mà). Ông Năm Phùng và bà vợ xồn xồn đủng đỉnh leo lên mấy trạm xe bus, đích thân ông Phùng đi xin cho bà ta một chân phụ việc trong bếp của một nhà hàng ăn Việt Nam. Kể từ ngày bà Năm hớn hở đi làm việc, bà rất xông xáo, vui vẻ, hoạt bát và "cởi mở" hẳn lên. Ban đầu, khi đi ra ngoài xã hội hầu gánh vác bớt phần trách nhiệm gia đình, thì bà Năm còn "vén khéo" chu tất cái “bổn-phận-sự” và cái “trách-nhiệm-vụ” là về nhà bà vẫn nâng khăn sữa túi, cơm nước giặt giũ, săn sóc đấm bóp cho ông chồng lão đâu ra đó hẳn hoi.

      Và, và... chưa tới bốn tháng sau, kể từ ngày bà Năm "rứt áo ra đi” lăn lóc ngoài xã hội với bạn với bè, thì quỷ thiệt chớ! tất cả suy nghĩ, trí óc bà “phát triển theo kiễu bình đẳng tự do Mỹ”, thì thì… mọi chuyện trong gia đình nầy đã “chuyển hệ; chuyển tông” quay ngược lại 100%. Bây giờ… Đêm đêm ông Phùng trằn trọc trăn qua trở lại trên giường ấm nệm êm, êm mà như gai đang đâm vô lưng. Tuy trùm kín thân thể, nhưng sao từ đầu đến chân ông vẫn cảm thấy lạnh lẽo lạ thường; vì bà vợ “nhọc nhằn” tần tảo kia nằm ngủ đã gác hai cái giò bự sư co lên gần chạm ngực ông, mà bà ta vô tư lự ngáy o o… to hết biết. Ông không thính tai lắm, nhưng “cái loa kèn” nó chĩa ngay vào bên mang tai thế nầy, thì làm sao ngủ ngáy gì cho vô được. Hỉ?

      Đêm không mấy khi yên giấc, sáng sáng ông dậy rất sớm tập thể dục (ông ráng đi bộ tập tí thể thao, cho tráng kiện và giữ gìn sức khỏe chớ). Thú vui tao nhã duy nhất của ông Phùng là coi ti vi, coi bóng đá và nghe tin tức đó đây. Vậy mà ông đành khất lần khất hồi... vì ba cái chuyện nhà lu bu bận bịu không tên, nó đang từ từ lấn chiếm mất thì giờ ít ỏi quý báu còn lại rồi! Ông Phùng trầm ngâm lủi thủi cô quạnh đi ra đi vô trong nhà lo hút bụi, giặt giũ, làm vườn. Sau đó ông Phùng lúi húi vô bếp nấu nấu, chiên chiên, xào xào, chu tất việc “nội tướng”. Phần ăn nào ông để lại nhà cho chính mình dùng bữa trưa và tối. Phần ăn nào ông để dành cho "vợ trẻ yêu gấu", thì mỗi buổi sáng ông lo cơm lồng nước xách, đem ra tận xe người kia. Bà Năm đi nhờ xe hơi cũ của ông bà hàng xóm, ông kia chở bà Năm đi làm từ tửng bưng sáng, đến tối mịt tối mù thì ông Phùng lại khập khễnh, lò mò ra đầu ngỏ, để rước bà Năm lững thững uể oải về. Về đến nhà, bà Năm vội tắm rữa và leo lên giường, trước khi ngủ, bà luôn nhờ ông dùng dầu nóng của Tàu, hay icy Hot Cream để thoa tay chân, đấm lưng bà. Ông Năm bóp hai chân vợ, hai tay vợ đều chi, dù bàn tay ông gân guốc đã mỏi rã rời… như muốn rụng từng lóng. Vì, bà Năm làm việc khá vất vả, nên khi trở về trong gia đình bà luôn mồm than:
      - Tui quá đau nhức xương sống, mỏi chân mỏi tay, mệt vô cùng!

      Chuyện rước nàng dìa dinh để BÀ "hầu hạ, nâng khăn sữa túi" cho ông ấy, ngày nay thì xưa rồi Dĩm... Diễm ui …á à ông bà Lý Lùn & Phùng ui. Hồi trước khi bà vợ chính vừa chết, khi ông Năm Phùng còn “độc thân nơi đất khách quê người”, ông sống ở Mỹ phơi phới, khỏe mạnh, tươi sáng, ông cảm thấy mình trẻ trung vui vẻ với con cháu biết ngần nào. Nay thì ông Phùng thấm thiá nghĩ lại lời nói của một người bạn thân đã khuyên:
      - Tôi thành thật mong anh nên suy nghĩ chính chắn, chúng mình đã từng ấy tuổi rồi, nên an nhàn ung dung hưởng phước với con, cháu. Hơn là “đèo bồng” bước thêm bước nữa, rồi sẽ “mang nợ” vô thân cho coi.
      Ông Phùng nghĩ lại lời của bạn già sao mà quá chí lý, lúc đó không nghe, bây giờ “nghe ra” thì quá muộn! Ông Phùng ôm cái đầu hói lơ thơ vài cụm tóc bạc mà rầu rầu đọc thơ:

      … Lời nói không mất tiền mua.
      Nên anh... ngọt lại cho vừa lòng nhau.
      Bây giờ chẳng hiểu vì đâu.
      Nàng mang chứng bệnh cứng đầu lặng câm.

      Còn mặt thì cứ hầm hầm.
      Nàng trợn một cái, ta... bầm mấy hôm.
      Việc nhà chẳng chịu trông nom.
      Shopping một bận, ba hôm mới về.

      Nhà thì đang ở nhà thuê.
      Phòng ốc chật hẹp, bốn bề ngổn ngang.
      Muốn tìm đôi vớ mà mang.
      Phải mất cả tiếng bươi ngang đồ nàng …
      (1)
      ***

      Một ngày kia, có mấy bạn đi New York mở nhà hàng, bà Lùn cương quyết đi theo, vì họ cần có người phụ bếp hoặc “bồi bếp”. Ông không thể ngăn cản bà. Vài ba tháng sau ông trầm ngâm ngồi trước bàn viết:

      Em quý mến

      Hiện nay em thế nào, vẫn bình an và khoẻ mạnh nhỉ? Được như vậy thì tôi rất mừng. Hôm nay tôi sẽ giải bày tâm tư tình cảm và nguyên nhân vì sao tôi muốn chúng mình sống bên nhau, cũng như phương hướng tương lai về cuộc sống sau này của đôi ta. Em đọc kỹ, có thắc mắc gì cứ thẳng thắn cho biết. Tôi sẽ giải đáp rõ ràng.

      Thứ nhất: Cuộc sống của tôi trước khi gặp em, thì hai vợ chồng tôi vui vẻ thuận hoà “chồng bảo vợ ừa” thật sự hạnh phúc. Sau khi mất người vợ cũ, qua đây tôi sống cô đơn một mình. Lúc ấy, có người bạn định giới thiệu một bà 63 tuổi, có nhà tại Virginia, bà ấy có tài sản, bà còn đi làm Part time có lương $1400.00 một tháng. Lý do ở xứ lạnh xa xôi & tôi không hợp. Tôi không liên lạc, vì biết có trở ngại trong việc chung sống. Nếu lấy nhau thì tôi sẽ bị cắt tiền già, và Housing, (vì bà ấy có căn nhà, và một tiệm bán hoa). Do đó tôi vẫn sống một mình khá lâu năm cho tới khi “rộn ràng” gặp em.

      Thứ hai: Tài chánh: Mọi chi tiêu tôi đều dựa vào số tiền già ít ỏi ($845.00 một tháng) và những món quà chi viện của hai bà chị, các cháu, (đặc biệt cháu Khôi là bác sĩ đang tập sự năm thứ tư). Cháu Khôi (gọi tôi là bác ruột) thường cho tiền đóng bảo hiểm xe mỗi năm hai đợt, và tiền xài lai rai cộng chung cháu cho khoảng tám chín trăm. Tôi không có số nhờ con, chỉ có cậu con trai lâu lâu cho tôi vài trăm vào ngày Father Day, Giáng Sinh, Tết Nguyên Đán...

      Thứ ba: Trước khi gặp em, những năm tháng gần đây tôi trải qua một vài trận cảm cúm, có khi phải nằm bẹp trong nhà vài ngày, không có người nấu cho chén cháo để ăn. Tôi bắt đầu suy nghĩ rằng: mình cần có một người vợ sống chung để săn sóc lẫn nhau, khi trái gió trở trời trong cái tuổi hoàng hôn. Người này phải có tiền già căn bản, nếu già quá thì thiếu sức khỏe, trẻ hơn thì chưa đủ tuổi hưởng tiền già. Lúc đó tôi nghĩ: Người tôi chọn phải biết làm thơ, có học vấn ít nhất đã bước chân qua ngưỡng cửa đại học, có sức khỏe, sắc đẹp trên trung bình (good looking) tánh tình thành thật, biết cư xử, yêu thương và quý trọng lẫn nhau, có tiền già làm căn bản. Ngoài ra cần hạp nhau về sinh lý. Em đừng cười nhạo tôi vẫn có tính đa tình và giàu tình cảm (dù đã già nhen, tôi tuy già nhưng tâm hồn trẻ trung như thuở còn xanh mái tóc, em ạ). Mặc dù đến tuổi này thì không ai có thể đạt tới, tôi sai rồi, không phải đó là một nhu cầu thường xuyên.
      Thứ tư: Tình cờ tôi gặp một người khác tại buổi họp bạn, qua trao đổi một số câu chuyện về chiến tranh VN, về cuộc sống của lính thời chinh chiến, cảm thấy mình rất thích TN và dễ nói chuyện thân tình. Tôi nhận ra rằng hai người tâm đồng ý hợp với “nàng thơ” mà mình rất quý và hợp ý, nên hai người càng gần gũi nhau hơn. Lại nữa nàng khá hồn nhiên vui tính, hóm hỉnh. Em hãy nghe nàng có ý trêu ghẹo tôi nè:

      Nguyễn Nâu Năm! Nhài nói nho nhỏ nhé:
      “Nhài ngụ Nam-Ninh - Nam nương náu North”.
      Nhớ nhung Nam, Nhài ngắt nõn ngâu nè.
      Nam nhận nơi Nhài nguồn ngực no nê.

      Nghìn núi ngàn non nỏ ngắm nhìn nhau!!!
      Nhiều năm ngun ngút Nam ngụ nước ngoài.
      Ngoại ngữ nẩy nở nơi người ngai ngái
      Nghề nông nghề nĩa nom Nam nghí ngoáy

      Nhá nhem người Nam ngai ngái nhừ nhẩn
      Nỗi niềm nhớ nhung nhẫn nhịn ngày nao...
      Năm não năm nao Nam ngụ nước ngoài.
      Nặng nợ “nhà Nước” nên Nam nặc nô
      (2)

      Tôi suy nghĩ rất nhiều, thấy rằng người ấy chính là người vợ mình cần có, để chung sống hết phần đời còn lại. Về mặt kinh tế gia đình nếu chúng tôi sống chung với hai đầu lương tiền già, cộng thêm sự chi viện lai rai của con, họ hàng, tôi nghĩ tần tiện cũng đủ sống. Đó là chưa kể về mặt chi viện tài chánh phía bên người ấy, nếu có thêm càng tốt. Qua những thảo luận gần đây, chúng tôi phải đương đầu với một thực tế khó khăn, đó là vấn đề của nàng, muốn đi đến chỗ sống chung, việc trước hết là cả hai bên phải tự do, khi tuổi đời ngày thêm chồng chất. Lòng tôi luôn có một phương hướng tương lai là chúng tôi cần có nhau suốt cuộc đời này. Chúng tôi cần gặp nhau thảo luận và tìm giải pháp giải quyết mọi nan đề đang gặp. Lòng tôi vẫn tràn đầy, dường như chưa nói lên được hết những gì muốn nói với nhau. Thế nhưng, do cơn bạo bệnh người ấy đã ra đi khỏi cuộc đời tôi.
      Để rồi… có thể do duyên số hoặc có định mệnh ràng buộc đời mình, nên tôi đã gặp em. Còn chuyện đến với nhau, bình tâm mà nói là do cả hai chúng ta, không thể nói là hoàn toàn do em chủ động. Phải không nào! Em thương, xin lỗi em vì những dòng thư vừa qua, đã làm em buồn và gây tổn thương. Trong những lần chúng ta tranh cãi, cả hai bên mỗi người một tính ý rất khác biệt nhau, nên cũng có lúc quá lời. “I am so sorry about that”! Mong em đừng buồn. Tôi không bao giờ có ý định muốn xa em, mà rất vui khi thấy em "chưa bao giờ mình có ý vĩnh biệt nhau". Tôi nghĩ chúng ta cứ dành thêm thời gian để suy ngẫm, sắp xếp công việc rất khó khăn, tế nhị đang phải đương đầu với thực tại. Tạm thời cứ giữ tình cảm nguyên như vậy. Sau này sẽ tùy theo sự diễn biến công việc, rồi chúng ta sẽ thay đổi đường lối, nhen.

      Cám ơn em đã lo lắng cho tôi về cái bệnh quái ác này. Thật không ngờ cuối đời lại gặp phải tai ương hiểm nghèo như thế. Cách chích thuốc cho vi trùng cancer ngủ yên, tôi thấy có người đã làm và sống cho đến giờ được 5 năm, mà cũng đi lại được, dù làm sức đề kháng yếu đi, nên dễ bị cảm cúm, đau nhức không tránh khỏi. Cách này vẫn tốt hơn là "mổ". Nhiều người cao niên mổ xong người yếu hẳn đi, có khi phải nằm một chỗ nhờ gia đình săn sóc, sau vài năm thì qua đời. Tôi cũng bị nhức khớp xương đầu gối bên trái. Nhiều khi đi đứng rất trở ngại. Bác sĩ nói bệnh già phải chịu thôi. Sau này nếu đau quá, thì phải thay khớp đầu gối bằng thứ kim loại. Thứ này có người hạp, có người chỉ dùng được một thời gian mấy năm thôi. Nghe bác sĩ nói nhiều mà chán ngán cuộc đời. Tới đâu hay đó, biết đâu mà tính trước em à. Trời kêu ai người ấy dạ. Già rồi, đành vậy thôi.

      Medicare, MediCal dạo nào cắt nhiều thứ, nên các hãng bảo hiểm gây khó khăn cho người thụ hưởng. Tiền già đã cắt giảm hai lần, thuốc men chữa bệnh thì không cho Brand Name, thay bằng thuốc Generic kém công hiệu hơn. Không cover chữa răng, không cho làm kính như trước đây nữa. Đủ thứ nhức đầu. Việc tôi giải phẫu mắt nay tạm ổn, chờ ngày 12 tháng 1 tái khám. Phải tháng Ba tôi mới làm kính đọc sách. Bây giờ chỉ mang tạm kính lái xe thôi. Phần tôi bệnh tật nay tạm thời nằm yên vì thuốc men điều trị còn hiệu lực. Chưa biết ngày nào nó lại tái phát.

      Chuyện tuổi già là quy luật của tạo hóa có sinh thì có lão, có lão thì có bịnh, có bịnh thì có tử. Chúng ta không sợ chết. Chỉ mong sao được trút hơi thở cuối cùng một cách nhẹ nhàng, không đau đớn, không làm vướng bận đến người thân. An bình về nước Chúa. Có một điều mình không níu kéo lại được, đó là tuổi già sức yếu mỗi ngày xuống rất nhanh. Cứ sau mỗi trận đau ốm, thì sức phục hồi chẳng được bao nhiêu. Vấn đề Prostate vần còn là nan y đang tiếp tục Xạ Trị (Radiation), có lẽ cuối tháng 2 sang năm, bác sĩ mới cho biết kết quả. Nếu xạ trị không hết, thì phải chích thứ thuốc mới làm cho chỗ cancer "ngủ yên", không hoạt động một thời gian. Sau đó tiếp tục theo dõi, khi nào thấy nó sắp "thức dậy", thì chích tiếp cho nó ngủ lại. Đây là phương pháp điều trị cancer mới nhất, các bệnh viện đang áp dụng cách điều trị này. Tôi chỉ mong sức khỏe phục hồi được 70% của hôm trước, cũng mừng lắm rồi. Tôi nay đã vào tuổi yếu thật sự.

      Cám ơn em trước đây đã chia sẻ tâm tình ngọt lạt bùi đắng với tôi trong khoảng thời gian khá dài, được bình an mỗi ngày thấy ánh mặt trời và trò chuyện với em cũng đủ vui thôi. Ở đời chuyện hợp tan, tan hợp, gặp rồi lại xa không tránh khỏi. Vì cuộc sống của các con cháu của em tại Việt Nam, em đành phải xa tôi, đó là ý của Thượng Đế an bài. Chúng ta nên dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa ban phước lành cho các con cháu có cuộc sống tốt đẹp hơn, trong tình thương của Ngài. Sống tạm hay về cõi vĩnh hằng cũng là theo ý Thiên Chúa. Những ngày còn lại chúng ta nên sống tốt, an bình theo lời Chúa dạy thương yêu và vị tha, cuộc đời sẽ có ý nghĩa hơn.
      Tôi nghĩ mấy năm nữa tình hình kinh tế tại Hoa Kỳ sẽ thoát khỏi tình trạng suy thoái và đi lên. Lúc đó thì có các con tôi sẽ lo bảo lãnh cho con cháu của em, (theo mọi điều kiện hoặc hình thức nào, như chúng đã hứa). Con em các cháu sẽ có thể sống bên đại gia đình mình, như mong ước. Như vậy tuổi già của chúng ta sẽ vui vẻ và hạnh phúc. Chuyên đời thật khó mà tính trước, luôn có những biến cố xảy ra bất ngờ, làm cản trở con đường tính sẵn. Tuy nhiên nếu ta vạch một con đường cho hướng đi, thì có vòng vèo rồi cũng sẽ đi tới La Mã. Phải không nào!

      Em nói đi xem lễ cùng anh chị Lộc thì xe bể bánh, là xe nhỏ hay xe trailer? Thay bánh xe mà sao lâu thế nhỉ. Cho tôi gởi lời chia xẻ cùng anh chị Lộc nhé. Cám ơn em đã thăm hỏi và chia sẻ về việc tôi mất xe tuần trước. Xe tôi đậu ở Parking của Building các bác sĩ bên cạnh nhà thương Garden Grove. Xe có khóa alarm, nhưng chỉ sau một tiếng rưỡi đồng hồ khám bệnh là mất xe. Nay thì cảnh sát đã tìm được nó vất ở Orange County. Bảo hiểm đã tow xe về Shop sửa chữa và sẽ trả hết mọi chi phí về chuyện sửa xe và mướn xe mỗi ngày cho tôi đi lại. Hôm qua tôi bận chạy đi tow xe về Repair Shop, và nói chuyện với Police ký giấy nhận xe. Deal với bảo hiểm về chuyện sửa xe. Chuyện trộm cướp tại xứ này xảy ra hoài. Những tên trộm đầy kinh nghiệm và chuyên nghiệp tránh được camera và alarm rất tài tình. Đó cũng là chuyện buồn xảy đến với mình.
      Chiều nay tôi đi gặp Housing Specialist tại văn phòng, bà này gốc Mexico già, không đẹp nhưng khá tử tế. Bà ấy ngạc nhiên thấy tôi copy sẵn các thứ giấy tờ, và kèm theo bản chính để đối chiếu, xếp mỗi thứ một folder riêng. Bà ta chỉ việc lấy bản copy là xong. Vừa làm bà vừa nói chuyện vui vẻ. Chuẩn bị thì lâu, nhưng khi làm việc thì chừng 20 phút là hoàn tất mọi việc. Như thế kể như xong Step 1. Ngày 22 tháng 9 là Step 2 inspection nhà nữa là xong, thường công việc này do một cán sự khác làm.

      Tôi thích nhà chỗ anh Đồng đang ở có tiện nghi với những ưu điểm: mát mẻ, khang trang, an toàn, gần sát chợ và khu trung tâm Litle Saigon, tiện đi bác sĩ, mua đồ và đón xe bus. Rất thuận tiện cho các vị nội trợ giỏi về gia chánh thích nấu nướng như em. Tuy nhiên, tôi sẽ dọn nhà đi để đón em về chứ, như là món quà mừng em trở về muộn. Vấn đề Deposit thì ở đâu chẳng có, tôi đang deposit $1.500.00. Tôi phải coi lại nhà nầy vài lần, coi mấy cái Bills về tiền Gas, Điện, nước, phone xem sao, chưa kể có nơi đòi tiền Rác và Landscape nữa. Đây là khu Apartment chứ không phải MobileHome. Tôi tính ngoài Tết Tây sẽ move, tôi chỉ tiếc bộ máy giặt và sấy ở nhà cũ còn quá tốt.

      Tôi cảm thấy buồn khi em sức khỏe không được tốt như ngày em ở Cali. Có lẽ đổi về nơi nắng ấm may ra giúp em bớt phần đau nhức, hơn là nơi xứ lạnh em đang ở. Nếu em về VN cưới vợ cho con, em nên lợi dụng dịp này tìm thầy Lang Đông Y danh tiếng, nhờ trị bệnh đau nhức, phước chủ lộc thầy; may ra em khỏi bệnh. Tôi nghe nói có mấy người bệnh đau nhức khá nặng bên Mỹ chữa không khỏi, thế mà về VN uống thuốc Bắc mà lành bệnh. Gặp cơ hội, em cứ thử xem nha. Vấn đề đau nhức xương có lẽ em bị "rỗng xương". Em cần uống Calcium hàng ngày, ăn những thứ có calcium như sò biển, tôm cua, ốc v. v... Nhớ em đừng bao giờ để bị té. Vì té dễ bị gẫy xương lắm. Tôi luôn cầu chúc em luôn được bằng an trong sự che chở của Thượng đế. Mong em có sức khỏe để trở về bên tôi, sớm hưởng phước cùng con cháu, bình an trong tâm hồn cũng như trong cuộc sống. Một lần nữa tôi cám ơn em đã quan tâm tới sức khỏe của tôi, chia sẻ tâm tình cùng tôi.

      Công việc nhà hàng bận rộn thật tội em quá. Hy vọng mai này tôi sẽ không để em vất vả nữa đâu. Tôi rất nhớ em, có biết không cưng? từ ngày chúng mình có nhau, tôi như kẻ mất hồn, lúc nào cũng nhớ tới em và tơ tưởng đến em đáng yêu. Nhiều lúc thấy cũng buồn! Tại sao cuối đời mình lại cô đơn thế này! Không lẽ ông trời bắt chúng ta cứ sống cái cảnh xa nhau như vầy mãi sao? Ngày mai… em tính hộ tôi xem có giải pháp nào tìm lối thoát không em nhé? Bây giờ để em đi nghỉ sớm, cả ngày em vất vả rồi. Vì, em phải tự tin rằng em có nhiều ưu điểm làm tôi yêu em, và em có bản lĩnh cột chân tôi lại. Hạnh phúc nằm trong tầm tay em, do những thứ chất phác bình dị riêng em có, mà người phụ nữ khác không có. Em là người tuyệt đối trong ngôi vị nữ hoàng tình yêu trong lòng tôi. Em thật sự rất xứng đáng là người tôi chọn. Đừng ủy mị và chán nản, đừng bao giờ bỏ cuộc nha em. Hãy tin chính mình, tin người mình yêu.
      Xin em đừng cười nhạo tôi đã già mà vẫn đa tình, lãng mạn, giàu tình cảm nghe.
      Hôm nay tôi ngồi ăn cơm một mình, nghe gió chớm Thu đưa cành lá rì rào, mà lòng bỗng bâng khuâng nhớ em thật nhiều... Ước gì có em bên mình lúc đó... Cuối mùa Hạ tuy buồn, nhưng chớm Thu hôm nay trời dịu mát thật đẹp em ạ... vậy sao lòng tôi cứ nhớ thương ray rứt, như những kẻ yêu nhau mà chưa được gần nhau...

      Hôm nay Thu lại về
      Nắng nhuộm vàng trên đê
      Làn mây bay nhè nhẹ
      Chiếc lá rơi bên hè.

      Anh ngồi đợi tin sương
      Tà áo ai trên đường
      Bỗng dâng lên nỗi nhớ
      Gọi tên nàng hoài thương...

      Em thương, Trước khi ra khỏi nhà, tôi quên không tắt máy computer, cứ online hoài, phần tôi gõ mail nầy từ lúc 9:00AM mãi tới 1:30PM mới có thể gởi thư đi. Tối nay em về trễ, lúc đó có lẽ tôi tắt máy đi ngủ rồi, vì hai nơi cách xa khác biệt múi giờ. Chúc em ngủ ngon.
      Chồng của em.
      Trọng Phùng
      *


      Tình Hoài Hương


      (1) Thơ lượm lặt
      (2) Thơ Tình Hoài Hương
      Last edited by Tinh Hoai Huong; 09-09-2018, 07:00 AM.
      Bút trần nào tả được lưu luyến!
      Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
      Tình Hoài Hương

      Comment


      • Chứng Nhân Một Sự Kiện Lịch Sử

        Chứng Nhân Một Sự Kiện Lịch Sử
        (Về Ngày 2 tháng 11 năm 1963)


        Sau những chấn động kinh khủng xảy từ vụ hăng say hoạt động cách mạng, chống đối, xuống đường biểu tình biểu tọt liên miên bùng nổ, thì lúc nầy tình hình chính trị tại miền Nam Việt Nam như chiếc ghế cũ, chỉ còn ba chân gập ghềnh càng ở vào giai đoạn “dầu sôi lửa bỏng”. Vì Dân tôi nghiệm thấy đằng sau hậu trường có bóng dáng của những tay “mưu đồ chính trị chuyên nghiệp”, họ đã giựt dây, ngầm tạo ra sự vô tổ chức về những đợt sóng bạo loạn.

        Có tình trạng những kẻ "trẻ người non dạ rất hỗn”, hầu lợi dụng thời cơ… vênh váo thừa nước đục thả câu, điều nầy sẽ rất nguy hiểm khi họ có quyền lực trong tay, mà không biết ôn nhu, khoan hoà, khiêm tốn, khôn ngoan, nhất là phải tri thức và trung dung. Nói chung, tình hình chính phủ lúc đó quả thật là một xã hội rối rắm như mớ bòng bong, đang trôi bồng bềnh trên biển cả, giống như một chiếc tàu không người lái. Mặc ai muốn làm gì thì làm. Luật pháp bị xô ngã, nhường bước cho sức mạnh bạo lực hổn độn lên nắm chính quyền điều hành.

        Dạo ấy, các bạn sinh viên năm thứ hai Văn Khoa, cùng Vì Dân tuy còn rất trẻ, nhưng nàng có nhiều băn khoăn, đắn đo, bâng khuâng suy nghĩ về khả năng, tài đức… của những vị “lãnh đạo cách mạng” nầy. Thêm vào đó, dựa vào một vài dữ kiện đáng ghi nhớ đã xảy ra về sự kiện lịch sử: cay đắng đến xót xa bàng hoàng, khiến nó mất đi tất cả lý-tưởng, tín-trung vào cuộc đấu tranh trung-dũng. Vì Dân cảm thấy cách mạng nhạt nhẽo, mù mờ, vô bổ từ đó. Hơn nữa, chính lúc nầy chuyện bè phái chính trị hoàn toàn không phù hợp với quan niệm, hoài bão, lập trường của Vì Dân.

        Vì Dân muốn tìm riêng cho mình sự thảnh thơi, bình lặng trong đời sống, nàng quyết giữ tinh thần ôn nhu, trong sáng, tìm một cuộc sống vô-tư-lự, thanh thản, hữu hiệu, thật sự đáng sống; để mình có thể góp phần nho nhỏ giúp ích trong cuộc đời, một cuộc đời thực sự bình dị, mến thương nhau, ôn hoà, an lành, có nghĩa có tình như mọi công dân hiền hậu khác: Không oán ghét, chẳng vò xé hận thù. Không vướng mắc mọi ưu tư trong lòng.

        Do một tuần lễ công tác trong Tổng-hội sinh-viên Việt Nam ở Huế, đã gây cho Vì Dân bao điều băn khoăn, nghẹn ngào, xót xa quá cay đắng. Vì, khi cùng làm việc với Vì Dân trong tuần lễ đó, có một anh sinh viên sống tại Huế rất qúy mến các bạn từ Sài Gòn, Đà Lạt... Anh ta ngầm ngầm báo với Vì Dân là:
        - Hãy hết sức cẩn thận. Đề phòng. Tính mạng của các anh chị hiện đang nằm gọn trong tay “họ”.

        Thú thật, nàng Vì Dân không hiểu nỗi mình đã làm gì sai? Và, khi anh ta nhấn mạnh ở điều nầy, thì nàng chẳng thể biết ra sao. Nàng không hình dung chữ “họ” ở đây, là anh ta muốn “ám chỉ” về ai? Ai? Bởi vậy, ban ngày Vì Dân và các bạn ghi tên ở khách sạn, nhưng ban đêm cùng nhau lo đi ẩn nấp, chui rúc nơi bờ bụi như lũ chuột, khi các bạn ngủ chỗ nầy, khi ngủ dưới ghe bà Nẫm, đến khuya các bạn lại cho ghe neo đi chỗ khác, lúc thì lên gần gầm cầu Bạch Hổ, khi chạy về khu Gia Hội. Vân vân... Đồng thời, Vì Dân rất buồn vì chuyện tình yêu giữa “chàng và nàng” bị đổ vỡ vô cớ. Kèm theo chuyện chính trị náo loạn dị kỳ. Dân quá chán ngán không muốn mọi thứ ấy luôn thọc mũi dùi vào đời sống sinh viên, quấy rối lòng mình nữa! Bởi vì; (tất nhiên trong đó có cả các anh chị bạn, và... nhất là có người yêu dấu của Vì Dân):

        Vì Dân cảm nhận ra rằng ở tại miền Trung bấy giờ hoàn toàn do nhóm sinh viên sừng sỏ hùng hậu chi phối chính quyền địa phương. Đấy là dấu hiệu “loạn” đã lên cao độ rồi. Cái nền độc lập tự do dân chủ vừa mới sơ sinh, mà manh nha nhiều thủ đoạn “rối” như thế nầy, thì… tương lai đất nước sẽ tối đen như đêm ba mươi Tết. Theo thiển ý cuả Vì Dân: nếu tham gia làm cách mạng (vì thực sự yêu nước, muốn cùng nhau xây dựng một quốc gia hùng cường, một đất nước tự do hưng thịnh, vinh sang và trường tồn); thì ta không chỉ chìm đắm bới móc quá khứ, và ôm hận thù. Điều cần thiết và cấp bách là muốn thực thi cách mạng, trước tiên ta cần phải an-nội. Thế nhưng… giờ đây thanh niên là rường cột của quốc gia, đang giống như con dao hai lưỡi. Rồi mọi chuyện sẽ đến đâu? đi đâu? về đâu? Vì Dân cảm thấy buồn bã, chán nản lên tột đỉnh. Cúi đầu nhanh nhẹn quay gót, lo thụt lùi lui xa chính trường, Vì Dân không hề dám ngoảnh lại len lén liếc nhìn…
        ***

        Bởi, Vì Dân còn nhớ rất rõ: Buổi chiều đó, một buổi chiều có mây trắng bồng bềnh bay bay trên lưng trời, có nắng nhạt nhè nhẹ rót xuống thế trần, có gió mơn man trên đầu cây ngọn cỏ, cảnh vật êm ả bình thường như bao buổi chiều khác. Có khác chăng là một tí nữa đây Vì Dân và hai ba anh bạn sẽ được vinh dự trở thành số ít người hiếm hoi, tận mắt chứng kiến một sự việc đặt biệt ghi đậm nét như một dấu ấn lịch sử: Từ đầu đến cuối sự kiện trọng đại nầy: đã có nhiều dư luận, có nhiều lý thuyết, có nhiều phán đoán, có nhiều nghi vấn. Nhưng “trăm nghe không bằng mắt thấy” về những nhân vật trọng đại, liên hệ đến lịch sử. Đó là một buổi chiều định mệnh… vô cùng đớn đau bi thảm vào đầu tháng 11 năm 1963.

        Đúng hơn là buổi sáng ngày 02 tháng 11 năm 1963, ông Trần Trung Dung (nguyên Bộ Trưởng Quốc Phòng, dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm). Ông Dung đã gọi phone đến nhà Năm. Trong nhà có thêm bạn: Trung, Thạch, và Vì Dân ngồi gần bàn làm việc. Năm bắt phone và chuyển sang cho ông Ba chủ trại hòm Tobia. Sau một hồi trao đổi, giọng ông Ba trở nên lo lắng. Bối rối. Quắt quay. Bồn chồn. Như có điều gì bức bách lắm. Cuối cùng ông Ba thở dài, buông phone xuống, e dè nhìn mọi người hiện diện, đôi mắt ông rướm lệ rồi ngập ngừng nói nhỏ:
        - Tổng thống, và ông cố vấn đã chết trong chiếc thiết vận xa M113 mang số 80.989, bởi lệnh của ông Dương văn Minh, do sát thủ là Nguyễn văn Nhung giết hại rùi.

        Sửng sốt, bàng hoàng. Mọi người ngơ ngác nhìn nhau, tất cả vội túc trực trong phòng khách, mở radio lên lắng nghe. Hội đồng tướng lãnh do Trung-tướng Dương Văn Minh đứng đầu đảo chánh đã thành công. Ông Minh tuyên bố: “Tôi tạm thờ lãnh đạo quốc gia”. Đài Phát Thanh Sài Gòn chỉ mở nhạc hoà tấu, nhưng luôn luôn nói đi nói lại là: “Anh em ông Diệm đang ẩn nấp, hoặc tẩu thoát đâu đó”…

        Chẳng nói chẳng rằng, ông Ba vội vã kiếm người đi gọi đạo tỳ đến xưởng hòm, để chuẩn bị “hậu sự” cho Tổng Thống Diệm và ông cố-vấn Nhu. Ở nhà kho của ông Ba có nhiều hòm tuy đẹp, đắt tiền. Nhưng không mấy xuất sắc. Chỉ còn một cái hòm tốt nhất bằng gỗ gia tỵ rất quý hiếm, có bọc sẵn thêm cái hòm kẽm ở bên trong. Ý ông Ba muốn để cái hòm nầy cho ông cố vấn Nhu. Ngoài ra, còn một cái hòm nhôm mới toanh láng cón của quân đội Mỹ. Chiếc quan tài nầy rất đẹp, làm bằng nhôm nhẹ, có hai lớp. Bên ngoài mạ lớp sơn bóng loáng, bên trong bọc một lớp đệm nhung mỏng, êm ái như tấm đệm giường ngủ, có thể mở nắp ra đóng vào bằng kính dễ dàng, lộ cả khuôn mặt người quá cố, cho mình nhìn tiễn biệt phút cuối cùng, hòm có chốt cài bên hông. Nếu là xác đã ướp lạnh, có thể để lộ hẳn ra ngoài. Ở Việt Nam chưa xuất hiện loại hòm tân thời như thế.

        Lẽ ra là chiếc hòm rất sang trọng đẹp đẽ qúy hiếm nầy sẽ đựng thi hài của một viên Tá người Mỹ đã từ trần tại Việt Nam. Nhưng không hiểu sao họ lại mang vứt bỏ chiếc quan tài ấy ở bên hông nhà ướp lạnh trong phi trường Tân Sơn Nhất!?. Tình cờ ông Ba đi làm việc đã thấy. Tiếc quá nên ông Ba nài nỉ, thương lượng với tên quản lý nhà xác, và ông đã mua lại. Ông Ba đem về trưng bày trong tiệm cuả mình, coi chơi. Ai đến mua giá cao cỡ nào, ông cũng không bán. Thế là ông Ba quyết định:
        - Chỉ có Tổng Thống Ngô Đình Diệm mới xứng đáng nằm an nghỉ trong đó thôi.
        Cả hai khuôn hòm được mang ra lau chùi bóng loáng, sát trùng sạch sẽ, họ chuẩn bị sẵn sàng; chờ lệnh. Gần 11 giờ trưa, phone của ông Trần Trung Dung gọi báo:
        - Nhờ ông vui lòng mang khuôn hòm đến nhà xác bệnh viện Saint Paul. Ở đường Tú Xương. Tuyệt đối không cho đông người đi, và người lạ tháp tùng. Xe chỉ chở đến đó… mỗi lần một quan tài mà thôi.
        Ông Ba nêu ý kiến:
        - Có nên lấy thêm một xe nữa. Đi theo phía sau xa xa xe kia. Hay không?
        - Không. Chở từng cái một, mỗi xe đi cách xa nhau khoảng nửa giờ. Mang cái “đầu tiên” đi trước.

        Ông Ba tuân lệnh. Đem cái hòm đặc biệt “đầu tiên” đi. (ý họ muốn nói đến “cái đầu tiên”: là khuôn hòm của Tổng-thống Diệm, người sẽ liệm trước tiên). Chiếc xe tang từ từ lăn bánh. Trên xe có bà chủ tiệm hòm, Năm, Vì Dân, Thạch, Trung, cộng thêm bốn người đạo tỳ. Xe lao vào đường phố vắng tanh như đi trong thành phố chết, hoặc đang vào giờ giới nghiêm, thiết quân luật vậy. Đến đường Tú Xương, Vì Dân mới thấy phe cách mạng lật đổ chính phủ đã cho cảnh sát, quân cảnh đứng canh gác ở các chốt. Xe jeep chận ngang ngỏ vào nhà xác.

        Ngoài các anh: Năm, Thạch, Trung, Vì Dân, bà chủ tiệm và bốn đạo tỳ ra, còn có hai soeur có lẽ ở bệnh viện nầy. Thêm vợ chồng cháu rể của tổng thống đang lăm le chiếc máy ảnh trong tay. Khi xe tang vào tới bên trong, thì một soeur rón rén, lấp ló, len lén nhìn trước ngó sau, coi soeur có vẻ gian, sợ sệt lén lút, như người làm chuyện mờ ám gì, chả biết. Hình như soeur có lệnh trước, đã vội vàng kéo cánh cửa đóng ập lại liền. Trong nhà xác chỉ có một ngọn đèn vàng lù mù, leo lét, treo lơ lửng tòn ten trên trần.

        Bốn đạo tỳ mang quan tài đặt trên bệ đá cẩm thạch trong nhà xác. Họ đợi khoảng hai mươi phút sau, thì có một chiếc xe hồng thập tự kiểu Dodge nhà binh (màu cứt ngựa) thắng lết bánh, đỗ xịch lại. Bà soeur canh cổng kia lật đật mở cánh cửa nhà xác ra. Từ trên xe có bốn quân nhân nhảy phóc xuống, họ vội vội vàng vàng khiêng chiếc băng ca lắc lư nhún nhảy. Trên đó có một người nằm cũng nhún nhảy lắc lư theo nhịp bước mau. Họ mang băng ca vào hẳn phía trong, để xuống dưới đất. Họ chả buồn nhìn ai hay nói câu nào, họ cúi đầu vội vã quay trở ra, leo tọt lên xe. Chiếc xe Dodge rít lên nghe rợn tóc gáy vút đi trong sự im lặng hãi hùng…

        Lúc bấy giờ cả nhóm đông trong phòng liền bước tới đứng sát bên băng ca. Người nằm trên băng ca là vị tổng thống kính mến của nền Đệ Nhất Cộ̣ng Hòa miền Nam Việt Nam: Ngô Đình Diệm (1901-1963). Ngài mặc bộ veston màu xanh rêu, thắt cà vạt xanh đậm có chấm trắng. Dưới chân ngài mang một chiếc giày màu đen, bên chân kia chỉ có một chiếc tất trắng. Cả bộ comple chìm trong màu máu, trên đầu tổng thống có một vết thương sâu từ dưới ót trổ lên đỉnh đầu, bê bết máu. Ngài nằm đó thản nhiên im lặng, dường như tổng thống say chìm trong giấc ngủ ngàn thu bình an không muộn phiền, chẳng khổ đau…

        Ánh sáng vụt loé lên. Thì ra ông cháu rể ngoại quốc kia đã bấm được vài ba tấm ảnh. Chả hiểu ông cháu nầy lúng túng, run rẩy, sợ hãi, lo lắng hay sao, mà ông lại vội cất dấu máy hình, không chụp thêm mà lại ngưng? Hay ông thấy cảnh máu me lan tràn như thế, thật hãi hùng và đau lòng. Nên ông không cầm nỗi cơn nghẹn ngào xúc động đau đớn dâng tràn bờ mi?!
        Đạo tỳ khiêng xác ngài lên, đặt trên một bệ đá cẩm thạch có lót hai lớp vải trắng. Bà chủ tiệm nói với Năm, Thạch, Trung, Vì Dân, và hai soeur:
        - Nhờ lấy bông gòn và compresse nhúng đầy alcohol, lau nhẹ nhàng, lau sạch sẽ, lau rất cẩn thận các vết máu cho tổng thống giúp tôi.

        Họ lộ vẻ kính cẩn, ân cần, chu đáo sửa sang áo quần Tổng-thống Diệm chỉnh tề, ngay ngắn. Bốn đạo tỳ chăm chỉ cắm cúi lo tẫn liệm ngài đàng hoàng. Bà chủ tiệm hòm lâm râm đọc kinh cầu nguyện cho linh hồn người quá cố. Bà nhét vào tay tổng thống xâu chuỗi hột mân côi. Hình như Tổng Thống Diệm vừa mới chết, cho nên hai bàn tay ông đã nhẹ nhàng khép lại dễ dàng giữ xâu chuỗi, như ông đang lim dim đọc kinh lần hạt. Mọi người hiện diện nín thở, có cảm tưởng tim đập thiếu nhịp, thở hụt hơi: Nghẹn ngào. Ngậm ngùi. Cay đắng. Bẽ bàng xao động. Đau xót kinh khủng. Thương tiếc sâu sa. Buồn mênh mông cho kiếp phù sinh bạc mệnh. Ngắn ngủi!

        Họ chưa kịp đậy nắp hòm, thì chiếc xe hồng thập tự lúc nãy đã trờ đến. Cánh cửa lớn do bà soeur kia lum khum hé mở ra. Đám lính lật đật bưng cái xác thứ hai vào. Bà soeur vội vàng khép nhanh cánh cửa ngay. Đó là ông Cố-vấn Ngô đình Nhu mặc áo sơ mi trắng cụt tay ngực đẫm máu. Áo bỏ trong quần màu nâu hơi xộc xệch, thắt dây lưng da, chân mang đôi giày màu kem. Gương mặt ông Nhu có vẻ oán hận, bất bình điều gì, vầng trán thật cao cau lại với nhiều nếp nhăn. Đôi môi ông mím chặt nghiêm nghị. Không thấy ông Nhu có nét thanh thản bình an (như gương mặt thản nhiên của người anh). Ông nằm hơi nghiêng qua một bên. Họ thấy ông bị nhiều vết đâm sau lưng, loại dao bayonet của quân đội. Máu vẫn ứa ra từ các vết thương đó. Trên đầu, ngay thái dương có hai vết thủng. Đó là dấu đạn đi từ bên nầy xuyên sang bên kia.

        Công việc tẫn liệm cũng tuần tự diễn ra. Cẩn thận, nhưng hơi vội vàng như lần trước. Không khí lúc nầy quả thực nặng nề kinh khủng! Im lặng hoàn toàn. Hình như ai ai cũng thở rất nhẹ. Vì họ sợ mỗi tiếng động làm dấy lên từ đáy lòng mình tiếng nấc, mà họ đã kềm sâu trong lòng, để khóc thương một kiếp người phù sinh: khi họ đứng trên tột đỉnh danh vọng cao sang dường bao, ấy thế mà lúc họ lìa đời thì quá ư bẽ bàng, bạc phận!? Hoặc sẽ làm hỏng không khí kính cẩn tôn nghiêm; nơi con người thực sự đã bước chân vào cõi vô cùng hư vô? Quả đúng là phân giới giữa sự sống và cõi chết: chỉ ngăn cách bằng một sợi tóc dài lê thê và mỏng tanh, bởi một bức màn sô vô hình tầm thường mà mong manh như sương khói. Nhưng, kiếp người ở hai phân giới ấy đã không thể làm gì khác hơn. Người ở biên giới nầy không thể va mặt, chạm tay vào biên giới vô hình kinh khủng bên kia, và càng không thể biết thêm gì nhau hơn!

        Đó là hình ảnh nhỏ nhoi tầm thường rất cô độc của con người hiện hữu đối mặt trước sự siêu hình, cao cả của sự sống và sự chết. Quả thật không là gì cả khi thân xác ấy trở thành bất động, lung linh như ảo ảnh hư vô mà vô cùng sống động, thực tế và quá đỗi thương tâm. Vì Dân sẽ không bao giờ quên, không bao giờ phai mờ hình ảnh bi thương ấy trong trí óc. Vì, rất thật. Quá thật tình cờ… vô tình mình làm chứng nhân một sự kiện lịch sử trong thế kỷ. Ý thức nhận rõ ràng: Cuộc sống sao quá mỏng manh như một bóng mây trắng hờ hững bay giữa lưng trời rám bạc. Như cành cây oằn thân trong bão khi gió muốn lặng, mà dễ đâu nào!

        Vì Dân cảm thấy mệt lả, nhịp tim rung lên từng cơn run rẩy, nghẹn nghẽn nỗi đau trong cổ, nàng vội kéo Năm, Thạch, Trung, bước ra thềm nhà xác, đi về hướng Phan Thanh Giản, là mong cho dễ thở hơn. Ngay lúc đó, Vì Dân thấy một đoàn biểu tình náo nhiệt rầm rộ kéo nhau xuống đường. Họ vừa đi vừa giơ nắm tay hò la, hét tướng lên: đả đảo “chế độ gia đình trị họ Ngô”. Họ đi thẳng tới biệt thự đường Phan Thanh Giản của ông Bộ-trưởng Bộ Nội Vụ Bùi Văn Lương, (người đã từng nắm giữ chức vụ Tổng Ủy-trưởng, Tổng Ủy Di Cư năm 1954).

        Họ lao vào nhà ông Lương đập phá, hôi của. Tất cả mọi thứ trong nhà thoáng chốc “biết đi” biến sạch hết ra ngoài đường. Thậm chí Vì Dân còn thấy có mấy người bưng hai con chó Nhật sợ hãi nhìn quanh, như nó đang muốn tìm cố chủ. Đám biểu tình nhốn nháo bắt đầu xúm lại nổi lửa trong sân. Rất may, lúc đó có toán Cảnh-sát Dã-chiến đến. Họ can ngăn kịp thời. Ôi! Cuộc Cách Mạng phừng phưng thành công rồi đó. Toàn dân bấy giờ đã thoát ra khỏi chế độ “gia đình trị Họ Ngô”. Nhưng, rồi đây sẽ đến phiên ai đi tới đi lui, đi lên và đi xuống, đi qua và đi lại? Sẽ ra sao? Xin nhường câu trả lời cho lịch sử từ bây giờ và những tháng năm sau nầy phán xét.

        Nghe tiếng bà chủ gọi, các anh, chị, vội chạy trở về nhà xác: khi hai chiếc xe hồng thập tự đã đến lấy quan tài hai anh em họ Ngô. Họ nói với tài xế: “Vô Bộ Tổng Tham Mưu”. (Vì lý do an ninh, nên Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng chuyển hai xác anh em tổng thống vào Bộ Tổng Tham Mưu, an táng trong khuôn viên trại Trần Hưng Đạo, cạnh chùa An Quốc). Hiện diện, làm việc cấp tốc trong đêm khuya có vị linh mục người Pháp, ông bà Trần Trung Dung, Trung-tá Nguyễn Văn Luông (trưởng ban mai táng), một số ít quân nhân ở Tổng Tham Mưu.

        Thế rồi tiếp theo sau mấy cuộc đảo chánh. Chỉnh lý. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đương nhiệm nghe lời ông thầy địa lý phán một câu xanh dờn:
        - Vì hai huyệt mộ kia đã chôn nhằm “long huyệt”. Cho nên đất nước Việt Nam đã xảy ra lộn xộn liên tục. Muốn cho yên ổn. Phải cho dời ngay đi.

        Thế là sau ngày đảo chánh ít lâu, bên phòng mai táng ở quân đội miền Nam Việt Nam Cộng Hòa lại cho mời ông Ba đến, họ bàn trước tính sau cặn kẽ. Họ nhờ ông Ba làm hai cái kim tĩnh xây gạch, tráng xi măng trước. Ông Ba lại cho người lên bộ Tổng Tham Mưu lén lút, hì hục đào bới cả hai anh em cố Tổng Thống vào ban đêm. Đạo tỳ làm việc bù đầu suốt canh thâu; từ choạng vạng tối đến tờ mờ sáng mới xong. Ông Ba đem hai thi thể: ông Diệm và ông Nhu về chôn ở nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi.

        Khi hạ rồng rồi, ông Ba có lệnh chỉ được phép lóng cát phủ lên bề mặt hai ngôi mộ bằng phẳng cho đầy. Bên trên mặt chỉ được lấp ba tấm ván sơ sài. Trông hai ngôi mộ rất hèn mọn, quá tầm thường. Tuyệt đối ông Ba không được phép ghi tên tuổi, ngày tháng trên bia mộ gì cả. Dù chung quanh đó có những ngôi mộ cẩm thạch bóng loáng, vinh sang hào nhoáng lộng lẫy khác. Vì nền Đệ Nhị Cộng Hoà “họ” sợ dân biết tin hai vị ấy nằm đó, dân sẽ đến cầu nguyện và ngưỡng mộ (!?). Nhưng làm sao mà che được tai mắt dân lành!? Không biết do đâu “rò rỉ ra” nguồn tin:
        - Chính hai ngôi mộ đơn sơ không tên không tuổi, không hình bóng nầy: là mộ phần của anh em Tổng-thống Ngô Đình Diệm.

        Thế là từ đó, mỗi khi ai ai có dịp vào thăm nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi. Họ liền đi vào cổng chính, đến đoạn giữa “hai ngôi mộ Anh Em”, nằm đối diện với cái tháp tưởng niệm, và ngôi mộ cố Thống Tướng Lê Văn Tỵ to lớn nguy nga, “hoành tráng” nhìn sang “hai anh em: Gioan Baotixita Huynh ; Giacobe Đệ”. Có một điều rất khác biệt với những ngôi mộ lộng lẫy sang trọng kia, thì trên hai ngôi mộ đơn sơ đạm bạc đớn hèn khiêm tốn nầy, luôn luôn có những bó nhang trầm nghi ngút khói, có đóa hoa tươi màu thay đổi mỗi ngày, có bốn ngọn nến sáng lung linh thắp suốt đêm. Hình như người dân dù sợ hãi người khác thanh trừng, nên chỉ âm thầm lén lút đi thắp nến đốt nhang cầu nguyện. Họ luôn tưởng niệm cho “Ngày dài nhất thế kỷ, buổi chiều định mệnh đó”. Họ là những người dân hiền lương ẩn danh nghèo hèn như thầm nói:

        - Vĩnh biệt Tổng Thống Diệm. Vĩnh biệt ông Cố-vấn Nhu. Xin các ngài cứ bình thản an nghỉ. Vì, đất nước Việt Nam vẫn còn là đất nước Việt Nam. Có thay đổi chăng, chỉ là đổi mới những sự kiện, và những con người lãnh đạo quốc gia mà thôi. Nguyện cầu nhị vị an nhàn bình thản ra đi… hạnh phúc phiêu lãng ngao du sơn thủy, đi khắp trên mọi miền đất nước Việt Nam, và xin quý ngài phù hộ cho dân lành được ấm no, bình an hạnh phúc thật sự, như qúy vị hằng đợi mong. Xin qúy vị lãng quên cuộc đời bạc bẽo. Quên con người hết sức trắng trợn độc ác tham tàn và… xin hãy tha thứ cho con người rối rắm hèn kém suy nghĩ kia, những kẻ đã tàn nhẫn hại mình. Kiếp người ô trọc đảo điên và phù du rồi sẽ khép lại sau đôi mắt hờ hững lặng nhìn. Vì Dân tôi, một chứng nhân vô tình hèn mọn trong bóng tối lịch sử buông tiếng thở dài sâu lắng, trầm buồn và ngậm ngùi trên mỗi phím loan: Ối ôi ồi!!! …
        ***

        Mãi về những năm gần đây sau nầy thôi, thì hài cốt "hai huynh - đệ: Gioan Baotixita Huynh ; Giacobe Đệ" (trên bia mộ vẫn không ghi tên thật, ngày tháng năm gì cả) lần thứ ba, họ lại được thân nhân đào lên, cải táng cho nhị vị về an nghỉ tại "Nghĩa-trang số 6", ấp Đông An, xã An Bình, huyện Dĩ An. Lần nầy, Vì Dân khẩn thiết cầu xin cho quý vị "Huynh-Đệ" thật sự bình an, yên nghỉ vĩnh viễn dưới lòng đất quê hương Việt Nam.
        * * *

        Tình Hoài Hương
        Last edited by Tinh Hoai Huong; 11-22-2020, 11:52 PM.
        Bút trần nào tả được lưu luyến!
        Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
        Tình Hoài Hương

        Comment


        • Tạ Ơn Đời



          Tạ Ơn Đời


          Nắng lung linh xuyên qua song cửa rót lên nền nhà, tạo thành những vệt sáng lấp lánh nhảy múa trên bàn, trên những tấm vải treo khắp đó đây trong tiệm may vắng như chùa bà Đanh, khiến Hoa càng buồn và thất vọng dường bao! Suốt mấy tháng không có khách hàng tới may vá gì, buồn chán lắm, nên cô nhỏ cứ bỏ tiệm may ra đứng thẩn thờ trước trường đánh máy chữ. Hoa nhìn vào bên trong lớp học mà mơ ước mình được sung sướng đi học như họ, thì hạnh phúc biết ngần nào!

          Một hôm, Hoa mơ màng đăm chiêu, phiền muộn lấp ló nhìn vô trường học nghề như thế, thì có một bàn tay nhẹ ôm vai Hoa:
          - Ê bồ! sao ngày nào cũng đứng đây vậy?

          Hoa kinh ngạc nhìn người con gái xa lạ ăn mặc hợp thời trang, nàng cao to hơn Hoa một chút, nàng không đẹp không xinh, nhưng ai nhìn nàng cũng cảm thấy dường như từ nơi nàng tỏa ra một sự quyến rũ, có hấp lực thu hút cái duyên ngầm kỳ lạ. Hoa nhìn lại thân phận mình quần thô áo vải, nên mắc cỡ bỏ chạy. Người ấy vội chụp cánh tay áo Hoa lại, đầu Hoa chúi vào vai người ấy. Chẳng hiểu sao Hoa oà khóc vì xấu hổ và tủi thân. Cô gái ân cần vỗ vỗ vào lưng Hoa, tự giới thiệu tên:
          - Mình tên Bích Thuỷ. Còn bồ tên gì? Ở đâu vậy?

          Thủy hỏi thăm Hoa ở nơi nào ư? Hoa nghẹn ngào không nói, đưa tay chỉ tiệm may. Thủy gật đầu tươi cười bước vô lớp. Hết giờ học đánh máy, Thuỷ ghé lại tiệm may, nàng muốn làm thân kết bạn cùng Hoa:
          - Có thích học đánh máy không, mà ngày nào tui cũng thấy bạn đứng dòm chằm chằm vô lớp học hoài rứa?
          - Ồ, mình rất thích. Nhưng nhà nghèo lắm, không thể có tiền đóng học phí, cùng các chuyện linh tinh khác.
          - Bạn đừng lo chuyện ấy. Tiền bạc, ăn uống, học phí để tui lo cho, đến khi nào bạn học thành tài, mới thôi nghe.

          Ồ! Làm sao mà có chuyện “động trời” thế nầy được!? Hoa lắc đầu trố mắt nhìn cô gái, chẳng thốt nên lời, không thể tin vào tai mình. Nhưng mỗi ngày sau giờ học đánh máy, Bích Thuỷ đều ghé lại tiệm may của Hoa, Thủy vui vẻ ân cần “mớm mồi” vài câu “nhắc khéo” với Hoa về “chuyện ấy”. Nghĩa là Thủy đi sâu vào vấn đề muốn tận tâm giúp đỡ bạn học một nghề có căn bản cho tương lai, đại khái là nghề thư ký đánh máy. Hoa mủi lòng chỉ biết khóc... và khóc vì thân phận nghèo thôi. Bích Thuỷ mở lời tâm sự:
          - Hoa biết không, ở đời không phải ai ai cũng hoàn toàn sung sướng, như ta nhìn phiến diện về một ai đó. Nè bạn, họ không khổ sở vì vật chất, thì cũng đau đớn, dằn vặt, cô đơn về tinh thần. Ví dụ như mình đây: Ba mình là Quận Trưởng, mình có hai người anh đã thành đạt trên đường đời, nhưng rất buồn và cô độc do chúng tôi mồ côi mẹ lúc còn nhỏ. Ba mình có phải là gà trống nuôi con độc thân tại chỗ không, chuyện ấy xét lại, bây giờ ông có nhiều đào! Mình sống giàu sang nhưng rất trống vắng. Là vậy đó.

          Thì ra là như thế. Bích Thủy ân cần năn nỉ Hoa cho phép mình đi thăm nhà mạ và các em của Hoa. Ngần ngại hết sức, nhưng cuối cùng Hoa mềm lòng đã dẫn Thủy về nhà mạ. Nhìn cảnh nghèo nàn xơ xác khó khăn của bạn phơi bày, Thuỷ bùi ngùi cảm động xót xa quay mặt đi len lén chùi nước mắt. Thuỷ hết lời năn nỉ xin mạ cho Hoa đi học đánh máy, Thủy hứa khi Hoa học thành nghề, Thuỷ sẽ xin việc làm cho Hoa, để bạn có điều kiện dồi dào hơn về khoản tiền nong, mà nuôi mạ và em út.

          Mạ chẳng hiểu đầu đuôi chi hết, nên nỏ ừ chẳng hử. Hoa kinh ngạc nhìn cô bạn mới ấy đăm đăm, chỉ tưởng là cô gái lạ kia trêu chọc nói đùa cho vui. Ai ngờ… có nàng tiên thật trong đời của Hoa đã giáng thế! Bích Thủy hoàn toàn xa lạ, không bà con thân tộc, không hề quen biết Hoa, nhưng Thủy chẳng toan tính đắn đo suy nghĩ gì, nàng đã hậu ái lo đầy đủ chu đáo hết mọi thứ, dìu dắt Hoa đến nơi đến chốn: nào là Thủy đóng trọn khóa tiền học đánh máy. Bích Thủy đưa Hoa đi mua sắm mấy bộ áo quần. Thủy lo lót ở một trường tư thục ngoài Đà Nẵng cho Hoa có một chứng chỉ học trình lớp Đệ Tứ. Thủy đóng hết mọi chi phí. Thủy đưa Hoa đi làm giấy thế vì khai sinh, tên “Trương Thị Thu Huyền” khai sinh chào đời, lột xác Hoa từ nấc thang thấp nhất, tên cũ xì và quê mùa "Chắt" đã lùi về quá khứ, tên mới của Hoa lâng lâng bay lên… bay lên cao vút từ nơi đó.

          Lý Thị Bích Thủy: Đó là một người thầy thứ hai trong đời đáng kính và quý trọng của Hoa (sau cậu Phú): Lúc ở Tam Kỳ, Chu Lai, muốn đốt giai đoạn, nên Thủy dịu dàng dạy Hoa học thêm đánh máy cho thật mau và chóng nhớ, bằng cách Thủy lấy sơn màu viết 24 chữ cái lên tấm carton những mặt chữ cái, làm giống y như trên bàn phím của máy đánh chữ thật. Đúng là có kết quả nhanh chóng tốt đẹp và vô cùng khả quan. Ôi! Hạnh phúc biết dường nào khi ở trường học đánh máy: mỗi lần Hoa ấn tay lên bàn phím, những con chữ vô tư lự vui vẻ gõ lóc cóc, nhảy tưng tưng như rộn ràng reo hò mời gọi, thì nhịp tim Hoa cũng lâng lâng hòa điệu tương ca.

          Hoa có ý chí, tự rèn luyện đức tính kiên cường, ngày đêm cố gắng học chữ, học Anh-văn, học đánh máy chữ. Ngày đó Thuỷ bảo vệ Hoa lắm, dù những bạn học của Thuỷ có vẽ xem thường Hoa một tí, là Thủy từ bỏ họ luôn, đôi khi Hoa thấy ngại quá, khuyên Thuỷ hãy để em sang một bên, Thủy hãy tiếp tục chơi với bạn học. Thuỷ lắc đầu bảo rằng:
          - Mấy con đó thiếu sự hiểu biết, không có đạo đức, không thèm chơi với chúng nó.

          Ngoài giờ học đánh máy, Bích Thủy còn dạy Hoa nói tiếng Anh với Thủy, để Thủy biết chỗ sai hay đúng, mà sửa. Thật tình thì Hoa thích nói tiếng Việt hơn, nghe thân thiện, tha thiết nồng nàn, ấm áp ngọt lịm sao đâu. Bởi hằng ngày Hoa nói chuyện với người Việt thân thiết quen rồi, nay học thêm tiếng Anh, Hoa bị lớ quớ lộn xộn ngỡ ngàng và và… dị dạng nói lắp bắp, líu cả lưỡi. Hoa cảm thấy ngượng ngùng không tự nhiên khi phát âm. Thủy sợ Hoa không hiểu, Thủy giải thích dông dài rất cặn kẽ. Chẳng biết Thủy sưu tầm lượm lặt đó đây một lô thơ lục bát ghép chữ Việt và Anh-ngữ rất hay, thực dụng và dễ hiểu vô cùng, Hoa rất thích học những câu, có nhiều lúc Thủy vừa hỏi tới bài học, thì Hoa trả lời những câu đã thuộc làu:

          Cằm CHIN có BEARD là râu
          RAZOR dao cạo, HEAD đầu, da SKIN
          THOUSAND thì gọi là nghìn
          BILLION là tỷ, LOOK nhìn , rồi THEN

          LOVE MONEY quý đồng tiền
          Đầu tư INVEST, có quyền RIGHTFUL
          WINDY RAIN STORM bão bùng
          MID NIGHT bán dạ, anh hùng HERO

          COME ON xin cứ nhào vô
          NO FEAR hổng sợ, các cô LADIES
          Con cò STORKE, FLY bay
          Mây CLOUD, AT ở, BLUE SKY xanh trời

          OH! MY GOD...! Ối! Trời ơi
          MIND YOU. Lưu ý WORD lời nói say
          HERE AND THERE, đó cùng đây
          TRAVEL du lịch, FULL đầy, SMART khôn

          Cô đơn ta dịch ALONE
          Anh văn ENGLISH , nổi buồn SORROW
          Muốn yêu là WANT TO LOVE
          OLDMAN ông lão, bắt đầu BEGIN

          EAT ăn, LEARN học, LOOK nhìn
          EASY TO FORGET dễ quên
          BECAUSE là bởi, cho nên, DUMP đần
          VIETNAMESE, người Việt Nam

          NEED TO KNOW... biết nó cần lắm thay
          SINCE từ, BEFORE trước, NOW nay
          Đèn LAMP, sách BOOK, đêm NIGHT, SIT ngồi
          SORRY thương xót, ME tôi

          PLEASE DON"T LAUGH đừng cười, làm ơn
          FAR Xa, NEAR gọi là gần
          WEDDING lễ cưới, DIAMOND kim cương
          SO CUTE là quá dễ thương

          SHOPPING mua sắm, có sương FOGGY
          SKINNY ốm nhách, FAT: phì
          FIGHTING: chiến đấu, quá lỳ STUBBORN
          COTTON ta dịch bông gòn

          A WELL là giếng, đường mòn là TRAIL
          POEM có nghĩa làm thơ,
          POET thi sĩ nên mơ mộng nhiều.
          ONEWAY nghĩa nó một chiều, (*= sưu tầm)

          Có lần Thủy nói: văn chương không cần trau chuốt hoa mỹ, chỉ cần xác thực, trung thực, có chút tỷ mỹ trong sự uyển chuyển hài hòa, thì sẽ thành công. Thế là Thuỷ vừa dạy Hoa học đánh máy vừa dạy Hoa tiếng Mỹ. Thuỷ xin với chị Toàn (là chị của Thuỷ) cho Hoa ở trọ cùng Thuỷ, tiền ăn & ở Thuỷ lo hết cho Hoa mấy tháng đầu. Khi vững vàng chuyện học rồi, tại nơi phồn hoa đô hội đó không ai biết mình là ai, nên Hoa không để lộ tông tích “đi ở đợ hèn mọn” của mình ra làm chi nữa. Hoa luôn mặc cảm về dĩ vãng bất đắc dĩ, buồn tủi đen tối và thấp hèn ấy.

          Một ngày kia có hai ba ông Mỹ bước vào trường dạy đánh máy chữ nói chuyện với cô giáo Xuân. Khi họ về rồi, cô Xuân cho cả trường biết là họ muốn tuyển nhiều thư ký đánh máy, ai thích đi làm thơ ký cho bộ Hải Quân Mỹ thì đơn đây, điền vào. Thế là Hoa cùng một số bạn trai gái ghi tên đi làm. Sáng thứ Hai người ta tập họp nhân viên ở trung tâm dạy Anh-văn tại Tam Kỳ, nơi nầy có xe bus chở họ đi Chu Lai làm việc đến chiều, thì xe bus trả về chỗ cũ, mạnh ai đi về nhà đó.

          Ngày đầu tiên Hoa vô phòng dự thi của Mỹ, có ban giám khảo cho thí sinh thi ngành thư ký đánh máy: Tuyển sinh phải trình bày và đánh máy một văn bản hai tờ giấy bằng tiếng Anh khá dài– phải đánh nhanh và không sai lỗi chính tả: gồm 41 chữ trong một phút. Thời gian thi là nửa giờ! Ối Trời ơi là Trời!!! Hoa rợn người lo sợ bủn rủn cả tay chân. Chỉ 1 phút mà phải nuốt trọn 41 chữ, nhanh hơn tên bay sao xẹt sao? Đúng là đánh máy tốc ký! Văn chương Việt-ngữ là ngôn ngữ mẹ đẻ, Hoa còn hạn hẹp chưa thông thạo, huống gì tiếng Anh tiếng U. Hoa lại càng mù mịt như thầy bói rờ con voi. Làm sao bây giờ!

          Hoa choáng váng không thể nào đoạt được kỷ lục thư ký tốc hành 41 chữ trong một phút đó. Mơ làm thư ký đánh máy là một việc cao sang quá tầm tay với làm gì, mà bây giờ từ trên đỉnh cao chót vót, Hoa đã vỡ mộng tan tành… bị rớt cái đụi. Tủi thân Hoa ngồi bệt xuống nền nhà khóc hụ hụ… ngon lành không hề biết xấu hổ! (giống như một đứa trẻ thơ lúc không nhận được quà theo ý muốn, nó đã phụng phịu ngồi phệt xuống đất chà hai chân giãy giụa và khóc ngất).

          Nhưng may thay, ở đây họ cũng đang cần người làm việc trong Warehouse clothing, nên Hoa được “lọt mắt xanh” ban giám đốc IRO, họ tuyển chọn Hoa và mấy người nữa vô đó làm việc. Hoa suy nghĩ: “trước tiên mình nên nhận công việc tàm tạm nầy đã, khi ngồi vững trong IRO rồi, mình sẽ tính tiếp. Nếu Hoa không nhận công việc nầy, e rằng sẽ không còn cơ hội may mắn tiến thân”.

          Hoa là người chân thật, giản dị, đơn sơ và rất bình dân giáo dục, không biết nói những câu văn hoa bóng bẩy, không biết thêu dệt những ý tình đẹp đẽ thơ mộng, nên tự đáy lòng Hoa chỉ muốn nói lời khẩn thiết cảm ơn, biết ơn, và tạ ơn: Trước tiên là Hoa ghi ơn ôn mệ nội, ngoại đôi bên. Tiếp theo là tri ân cha mạ sinh ra con. Ôn mệ, chị Thùy Mến, họ là người dưng khác Họ mà thương Hoa vô cùng. Kế đến là chị Lộc. Ông bà Trương Nguyên Thảo. Anh Đoàn Mùi, anh Thái Nghệ Quân, Võ Hải Triều. Thầy Phú dạy Hoa học chữ quốc ngữ. Nhất là Hoa vô cùng biết ơn và tạ ơn Lý thị Bích Thủy, một người bạn tình cờ chỉ gặp gỡ một ngày, mà trọn kiếp tri ân người đã nâng vực Hoa: cô bé lọ lem từ nấc thang thấp hèn trong xã hội được leo lên làm người hữu dụng. Tạ ơn đại diện hãng IRO thuộc đất nước Hoa Kỳ đã đến Việt Nam & tuyển chọn Hoa vô làm việc trong ban ngành của họ.
          Hoa hạnh phúc xiết bao, hôm nay xin ghi lời tạ ơn đời ưu ái ban cho mình những hồng ân trân quý.

          ***

          {Thời gian quen biết nhau không lâu, thì Thủy cùng chồng đi Mỹ ở Fort Lauderdate, Florida. Thế là hai đứa mình xa cách nhau cuối năm 1967. Tại Hoa Kỳ, Thuỷ hào phóng giúp ai cần giúp, mặc dầu có nhiều người ruột thịt của Thủy cản ngăn, nhưng Thủy vẫn đi theo lý lẽ của con tim, đến nỗi người chồng thứ hai, rồi tới người chồng thứ ba và Bích Thủy cũng đổ vỡ nốt. Chỉ vì một hôm có cơn bão đến, Thủy vội vàng chạy xe ra đường, lật đật chở những người vô gia cư nào là "đen, trắng, già, trẻ, Lào, Miên, Phi, Tàu…” ; tất cả… chẳng kể số, Thủy đem họ về nhà, cho họ áo quần, ăn, ở tạm trú một thời gian dài, kể cả chó, mèo, nai, thỏ, chim, sóc…, tất cả mọi thứ… thứ gì Thủy cũng tha vô nhà đầy nhóc. Ồn ào, bừa bộn, hỗn độn, lộn xộn hết biết.

          Ông chồng thứ ba thấy ở trong nhà mình giống như một… sở thú của “thảo cầm viên và cầm… người” thật quá kinh hoàng, chồng Thủy chẳng thể nào chịu đựng thêm “cố tật bẩm sinh” của cô vợ ngày ngày thích làm chuyện bác ái, từ thiện, hảo tâm: càng chất chồng lên cao ngút. Ông đã nổi cơn điên, cả hai người thường xung khắc, bất đồng ngôn ngữ và không cùng chung chí hướng & “lý tưởng”. Họ đã đi đến chuyện không thể dừng, không thể cảm thông, đành lôi nhau ra tòa ly dị.

          Từ đó Thủy không lập gia đình nữa, nàng hái ra tiền dễ dàng, nhưng cũng dễ bị người khác phỉnh gạt tình và tiền… Bích Thủy sống cuộc đời độc thân, làm những gì mình muốn, tự do du lịch dó đây khi mình thích, khỏi bận bịu vì ai hết}.

          * * *

          Tình Hoài Hương
          Last edited by khongquan2; 11-22-2018, 08:56 PM.
          Bút trần nào tả được lưu luyến!
          Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
          Tình Hoài Hương

          Comment


          • Dạ Khúc Đêm NOEL Đà Lạt

            "Hai Mùa NOEL"
            Giọng ca Phiêu Bồng
            ***
            Dạ Khúc Đêm NOEL Đà Lạt


            Noel xưa anh nhớ
            "Khi hãy còn yêu nhau
            Nhà thờ nơi cuối phố
            Thấp thoáng sau ngàn dâu
            Anh chờ em đi lễ
            Chung dâng lời nguyện cầu...
            Mimosa mimosa bừng nở
            Đẹp như tình ban đầu"
            (NT)

            Đêm Noel Đà Lạt khai sinh Mười với tuổi xuân hồng phới phới rót mật vàng từ thinh không xuống lòng phố nở hoa mùa Đông. Gió cuối Đông lồng lộng thổi về làn hơi buốt giá tê người. Bầu trời ướt đẫm sương đêm, một Noel tuyệt vời ngọt ngào ngây ngất, đầy hương vị tình yêu miền núi. Từng hồi chuông dài ngân nga giữa đỉnh đồi bay qua các sườn dốc, các khe thung: tiếng chuông mừng vui réo gọi hoan hỉ reo vang cùng thế nhân. Một đêm hội lịch sử đón chào Chúa Giáng Sinh 24 tháng 12: là đêm lạnh lẽo buốt giá hạnh phúc vui vẻ tưng bừng rất mùa Xuân. Mười chợt bừng tỉnh giấc ngủ nồng say. Sau mùa Thu héo úa, rồi mùa Đông buốt giá gần tàn. Thỉnh thoảng gió thổi qua mát rượi khiến lòng cô em xôn xao, đủ làm cho da cuả người con gái xứ lạnh càng thêm thắm hồng, dấy động từng thoáng nhớ đắm say, vấn vương, ngọt ngào mãi không rời, qua tiếng tơ lòng dìu dịu rung ngân trên mỗi phím loan.

            Hàng cây tối mờ trong lớp sương mù dày bao bọc vòm trời ẩn hiện ánh đèn vàng vọt mờ nhạt ở đầu phố, tạo thành nhiều đóm sáng bất động. Các mái nhà dưới thấp trên cao chênh vênh bên sườn đồi thoai thoải. Những con đường mòn chạy dài xuống thung lũng âm u, văng vẳng đâu đây tiếng lao xao cười nói ồn ào. Nhiều tốp nam nữ trẻ trung thoáng chốc tấp nập ra phố đêm đi dự lễ. Trên các nẻo đường lớn trong thành phố, người đi kẻ lại đông vô số kể. Họ khoác bộ cánh rực rỡ, áo lạnh khăn quàng, găng tay, mũ len đủ mọi màu sắc. Phố phường tưng bừng rộn rã hoan ca, khác hẳn ngày đầu Đông ở xứ lạnh. Người người vui vẻ cười đùa chuyện trò ríu rít, họ đi lại ngược xuôi chen lấn nhau trên đại lộ. Không chiếc xe nào có thể qua lọt giữa rừng người đang bách bộ đông như kiến. Người ta vui vẻ nói cười, không cần biết những ông cảnh sát đang vất vả làm việc lưu thông không ngưng nghỉ.

            Ở trong nhà: Bảo, Quốc Toàn, Thịnh, Trình loay hoay trang hoàng cây thông cao, đọt đụng trần nhà bị cong hẳn lại, Bảo phải cưa bớt một đoạn dài dưới gốc cây. Sau đó các cháu móc đầy dây kim tuyến, ngôi sao, quả cầu đủ màu sắc, thiệp Noel, thiên thần, ông già Noel, và giăng nhiều đèn màu chớp tắt. Dưới gốc thông có những gói quà nho nhỏ, xinh xinh, gói bánh, kẹo, đồ chơi linh tinh... Nhạc giáng sinh trỗi lên tưng bừng nhộn nhịp, hoan hỉ vui vẻ trong căn nhà ấm áp. Tiếng cười con cháu vang khắp nơi, ngôi nhà bây giờ vui như mở hội. Sau nhà ngang: chị Khánh, bà bếp chiên xào nấu nướng các món ăn thơm phức. Họ chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ, lát nữa đi lễ về, là gia đình thưởng thức réveillon. Ăn cơm tối xong, Mười quét dọn, lau chùi nhà cửa sạch sẽ tươm tất. Mười ủi áo quần cho gia đình, Mai vừa lau bụi trên các kệ sách, nó nói:
            - Hồi chiều, có anh Phú, Lễ, Tài, Vinh, đến nhà mời chị em mình, chín giờ rưỡi họ lên Couvent xem lễ, chứ ở nhà thờ con gà đông lắm! Rồi cùng kéo nhau về nhà họ ăn réveillon, mở party... Em chưa kịp nói gì, thì anh Nam đến.
            Ngạc nhiên, Mười ngừng ủi áo, ngẩng nhìn em, hỏi:
            - Anh Nam gặp Phú? Họ nói chuyện vui vẻ há?
            - Coi chừng cháy áo. Chị "táp pi" em tới tấp à? Họ chào hỏi nhau, vui vẻ cả làng.

            Hồi chiều Mười bất ngờ thấy Nam ngoài phố, lòng Mười đã rộn ràng, xao xuyến, mừng rỡ. Về nhà Mười dấu kín niềm vui, giả vờ như chưa biết gì. Phần các cháu muốn Mười có chút bất ngờ thú vị, nên chúng cũng không nói Nam từ Sài Gòn đã lên Đà Lạt. Tâm trạng Mười lúc này thật kỳ, vừa mừng vừa lo, quắt quay với nỗi xao xuyến mong chờ. Bây giờ nghe em vừa nói, lòng cô nao nao, băn khoăn bồi hồi. Lãng mạn không? Nhắc đến Nam, Mười quên hết mọi sự, tươi vui nét mặt ngay, mọi thứ bỏ sang một bên. Khi tình yêu đến, có khác gì cây khô gặp mưa thuận gió hòa trở nên xanh tốt. Muốn sớm gặp người yêu, Mười nôn nao, vui mừng, thấp thỏm, không yên ổn ấy mà.
            - Chị cũng đi lễ với các anh kia chứ?
            - Đi sao được!
            - Đến nhà Phú xí, rồi chị về đi lễ với anh Nam. Không có chị, chẳng vui.
            - Đủ rồi. Em không chuẩn bị gặp người yêu sao?

            Mai cười hì hì, nó mặc sẵn áo dài mới màu xanh nhạt, điểm cánh hoa vàng nhỏ rải rác trên tà, quần áo tuy lèng xèng giản dị, nhưng tươm tất, Mai quàng chiếc manto đen. Từ khi có "bồ", thì vấn đề ăn mặc trở nên cần thiết với Mai. Mai nghĩ: Dù sao nên "giữ kẽ" một tí, diện một tí, xuềnh xoàng quá coi cũng mất mặt bầu cua. "Quen sợ dạ, lạ sợ áo quần" mà!

            Mười đi lên, đi xuống con dốc mờ tối năm bảy lần, chờ đón, ngóng trông Nam kinh khủng. Ruột nóng như lửa đốt. Dưới ánh đèn vàng vọt đầu phố, hàng cây thông tối mờ bên những bụi dã qùy cánh lá xòe to nham nhám, thấp thoáng nhiều bông hoa màu nghệ, nhụy nâu nở hết cánh trông vui mắt, chúng nép mình dưới chân vách đá. Các mái nhà dưới thấp, trên cao, chênh vênh bên sườn đồi thoai thoải, chạy dài xuống thung lũng âm u, có ánh đèn mờ nhạt chiếu ra, tạo thành nhiều đóm sáng bất động, lớp sương mù dày bao bọc cả vòm trời. Cuối sân sau trường kỹ thuật Lasan, bờ khe nhỏ ăn xuống phiá dưới, khe mương nước chảy một bên đường. Thỉnh thoảng có vài hòn đá lăn trên khe cao rơi xuống, nghe rõ to. Mười dừng lại, nhìn về phía đó đăm đăm, văng vẳng đâu đây tiếng lao xao cười nói ồn ào, thoáng chốc đến nhanh. Tốp nam nữ tấp nập
            đi dự lễ đêm, hình như có tiếng ai nói gì trong bóng tối, nơi ánh đèn đường không dọi tới. Ai nói gì vậy!? Coi vậy mà cô nhác gan ghê! Có cái gì khiến Mười nhìn ra đầu đại lộ Yersin? Năm ba cây anh đào hoa nở rộ trên cành trơ trụi lá. Đồi thông rì rào trò chuyện dưới thung lũng, khu đất nhà ông Nguyễn Đệ rộng mênh mông, thì có gì phải đăm đăm nhìn về hướng đó, khiến lòng thấp thỏm bồn chồn âu lo quá đỗi?

            Chiếc taxi ngừng lại ở đầu dốc, Nam bước xuống, anh mặc bộ veston mùa đông màu đen, cà vạt màu nâu non ôm kín cổ áo sơ mi vàng nhạt, áo pardessuis màu kem vắt trên vai như khách lữ hành ngày xưa khi Mười mới gặp. Nam mang đôi giày da thời trang cùng màu với bộ veste. Mười cười rạng rỡ, rảo bước về phía Nam. Dưới cột đèn đường khi Nam nhìn thấy Mười, anh âu yếm trao cô nụ cười tươi thắm, Nam nhận tình em yêu bằng cách tìm bàn tay Mười trong bóng tối, ánh mắt tha thiết nồng nàn hơn. Nam im lặng nắm tay Mười đi xuống dốc. Cô líu lo:
            - Sao anh không viết thư báo tin trước. Em sẽ đi đón?
            Nam đưa Mười quyển album, hộp bánh, quyển "Trau Dồi Ý Chí" của Claude Maillard, một hộp nho nhỏ bao giấy kính vàng, cột nơ hồng (quà gia đình các anh chị, các cháu, thì Nam đã đem đến hồi chiều).
            - Anh lên đây hồi nào vậy. Hở Nam?
            Nam siết chặt tay cô, khẽ thở dài, Nam không nói. Mặc cho Mười ríu rít hỏi chuyện, Nam chỉ cười cười siết chặt tay Mười im lặng. Dừng lại dưới ánh đèn, Mười giựt tay mình ra khỏi tay Nam, ngẩng lên, hỏi:
            - Giận em à, phải không anh?
            - Mười đi đâu, từ sáng sớm đến tối mịt vậy em?
            - À, bây giờ anh mới chịu mở miệng hỏi em câu đó. Em đi xuống Cầu Đất với mấy nhỏ bạn, làm chuyện tào lao, ngu ngốc. Anh lên đây, em rất mừng, anh à.
            - Hứ. Biết có "họ", thì anh hổng thèm lặn lội từ Sài Gòn lên Đà Lạt để dự lễ Noel đầu tiên của chúng mình đâu. Mười có vài chàng trồng cây si, cây mơ, cây mê. "Các bồ ấy" đã chờ em suốt buổi chiều đó. Thì… em nhớ gì đến anh, mà mừng vui, hé.
            - Tự họ qúy mến cả nhà. Chẳng riêng ai. Không vì ai, anh ơi!
            - Chưa chắc à.
            Hai người tiếp tục đi xuống con dốc nhà:
            - Anh thấy Nghi “là bà con xa xa" đồng hương đồng... tình của em đã đến đây.
            - . . .
            - Ủa! không bà con sao? Vậy không lẽ… họ là “bạn yêu” của chị Hạc?
            - Mỉa mai gì ác thế? Em yêu anh nhiều mà.

            Cảm động trước câu nói bất ngờ, Nam nhận tình em yêu bằng cách tìm bàn tay Mười trong bóng tối, ánh mắt anh tha thiết nồng nàn hơn. Nam không nỡ trêu chọc cô, sợ Mười hờn dỗi, thì mất vui. Họ sợ chị Tư "nom thấy" nên vội buông tay nhau khi đứng trên thềm nhà. Nam, Mười, cùng các cháu đi lễ đêm Noel. Họ đi trong lòng phố giá băng buốt lạnh, mang trong lòng niềm hân hoan yêu đời, vui vẻ hạnh phúc, bình an, tuyệt vời nhất. Thỉnh thoảng gió thổi qua mát rượi, đủ làm cho da người con gái xứ lạnh càng thêm thắm hồng. Noel khai sinh tuổi xuân hồng phới phới đang rót mật vàng từ thinh không xuống. Lòng phố nở hoa trên đỉnh đồi mù mịt sương muối và trong cánh đồng thương yêu của Nam và Mười. Một Noel tuyệt vời ngọt ngào ngây ngất, đầy hương vị tình yêu miền núi. Từng hồi chuông dài ngân nga trong không trung, giữa đỉnh đồi, qua các sườn dốc, các khe thung đều có tiếng chuông mừng vui réo gọi, hoan hỉ reo vang cùng thế nhân, để đón chào ngày Chúa giáng trần.

            Hai vì sao sáng nhất thân ái quỳ gối bên nhau trò chuyện trên bến Ngân Hà. Vành trăng khuyết lơ lửng như chiếc thuyền con trôi đi trôi về giữa các tầng mây. Noel năm nay là một lễ giáng sinh tuyệt diệu, hạnh phúc nhất của đời cô gái mười sáu tuổi chớm lớn. Và, có lẽ là một Noel tươi đẹp thú vị nhất của một chàng trai mười chín tuổi. Lòng Nam và Mười xôn xao dấy động, họ vui không thể tả, đôi mái đầu xanh chụm lại, cùng dạo bước bên nhau quanh khu trường học, tay trong tay tình nồng trong mắt biếc trao đưa.

            Các cháu vào hội trường xem học sinh trường trình diễn văn nghệ. Triển lãm tranh ảnh. Bích báo. Tuần san. Máng cỏ. Riêng “hai anh chi”̣ ngồi ngoài băng ghế đá, cạnh vườn hoa trước nhà thờ Dòng, anh lấy trong túi áo veste ra hộp sơn mài nhỏ, có sợi dây chuyền vàng l8k, mặt chữ NM. Anh đeo sợi dây chuyền vào cổ Mười, âu yếm nói:
            - Kỷ niệm dù bé nhỏ, vẫn có giá trị về hạnh phúc một đời. Ta cảm ơn Chúa cho chúng mình gặp nhau, yêu nhau. Em nhe.
            - Dạ phải.
            Vuốt lọn tóc buông dài trên bờ vai Mười:
            - Mái tóc em dài, anh rất thích, đừng cắt ngắn nghen.
            - Anh khen quá, em bể lỗ mũi, chết à.
            - Ơ kìa! Ai khen em đâu, mà bể mũi. Mắc cỡ chưa!
            - À há. Chi mà dị dạng rứa hè. Anh là khách lữ hành, dù đất lành chim vẫn chưa đậu. Rồi chốn phồn hoa đô hội cũ sẽ gọi anh quay về thôi. Có gì mà không bể mũi em chứ.
            - Phượng hoàng đã gãy cánh trên đôi vai nầy rồi.

            Vỗ vỗ trên vai Mười, Nam nói lời dịu ngọt, Nam nâng niu lọn tóc dài xõa bên má và đưa lên môi hôn. Mười cắn nhẹ làn môi, đầu nghiêng hẳn lên vai anh. Hơi thở Nam ấm nồng, phả nhẹ vào mái tóc Mười như làn hơi sương nhút nhát mà ấm áp. Ngón tay thư sinh Nam mềm mại truyền qua làn tóc mỏng xõa trên vai Mười cảm giác đằm thắm, lâng lâng ngọt ngào dễ chịu. Nam biết, nếu anh cúi xuống đặt lên môi Mười nụ hôn đầu tiên, có thể cô không phản đối; Nam đắm mình trong hạnh phúc bất tận, ngây ngất niềm vui dạt dào. Nam nâng niu, trân trọng mối tình nên thơ, hồn nhiên nở hết cánh trong đôi trái tim chân thật. Sao lạ quá! Cũng như lần Nam gặp gỡ Mười trước kia, ý nghĩ về việc Nam muốn ôm ghì Mười vào lòng mà hôn, cho thoả những nỗi niềm nhớ nhung bấy lâu Nam vẫn nung nấu trong lòng. Nhưng rồi… Nam nhìn Mười hồn nhiên, giản dị và ngây thơ, thì Nam cố gắng “đè nén” xúc cảm rạo rực… chìm xuống xí. Cứ vẩn vơ nghĩ đến... là Nam cảm thấy người mình nóng rang trong trạng thái lâng lâng dật dờ rất khó chịu.

            Lúc dứt tiếng chuông báo hiệu nửa đêm ngân dài giữa biển sương mù trắng xóa ở vùng núi đồi chập chùng trùng điệp, thì hai người dìu nhau vào giáo đường xem lễ. Nam và Thương Mười dâng cuộc đời, tình yêu nầy và tương lai cho Chúa Hài Đồng gìn giữ. Sau lễ Nam về nhà chị Khánh ăn mừng, không khí gia đình ấm cúng, thân mật. Ba giờ khuya, anh từ giã Mười, để về nhà Tuấn ở cuối đường Hoàng Diệu. Nam sẽ không bao giờ quên kỷ niệm vàng son một thuở yêu nhau, không thể nào quên… dù mai đây thời gian trôi chảy mãi, đời mỗi người trong hai chúng ta sẽ xa cách, phai mờ đi. Cuối cùng tình yêu nầy vẫn sống mãi trong tiềm thức, trong tư tưởng mỗi người.

            Một mình Nam đi trên lòng phố vắng hồi lâu, anh nghe rõ tiếng gót giày cô đơn thong thả gõ lóc cóc lộp cộp đều đặn trên mặt nhựa đẫm sương khuya, giống như Nam đang đi trên dòng nước long lanh vừa tráng thêm lớp men bạc. Từng đợt sương dày rơi lốp đốp trên cành, hạt sương mọng tròn long lanh như ngấn lệ đọng, sương đậu lại đầu ngọn lá rung rinh long lanh dưới ánh trăng khuyết nhạt nhòa. Sương mù phủ trên thân Nam tê buốt thịt da. Nam dừng lại giữa lòng thế kỷ, anh lần tay tìm trong túi quần gói thuốc, hai lòng bàn tay Nam lạnh lẽo khum khum che đốm lửa lập loè, anh gài điếu thuốc lên môi. Nam ngửa mặt lên trời thả ngụm khói tròn như chữ O, làn khói tản mạn trong không trung quyện lẫn hơi sương ngút ngàn bay bay.

            Nam cảm thấy đơn điệu cô độc đang choàng vô cái khuya buốt lạnh lạ thường, giá băng, im ngắt đến ghê rợn. Đường về khuya tại thành phố Đà Lạt trữ tình càng hiu hắt hoang vu, khuya thăm thẳm, sắc bén ăn sâu vào lòng du khách, khuya lạnh lùng vây bọc nhận chìm Nam trong đam mê ngút ngàn phong thổ. Ngàn đời xứ Cao Nguyên Lâm Viên vẫn không thể nào mất đi vẻ yên tĩnh thơ mộng, hữu tình, tràn lan quyến rũ, trọn vẹn những tấu ca hương trầm dạ khúc, qua cung đàn trong đêm trường đầy đắm say ở trần thế: Thôi thì anh xin hưá: Anh là Sương, em là Cỏ: chúng ta sẽ vĩnh hằng nhen em:
            Mây lang thang tình chẳng nhạt phai
            Cỏ tàn rồi sương rớt với ai?
            Mọi chuyện từ nay sương xin hứa
            Đến cùng nhau, thôi nói chuyện dông dài.

            Tuy vui tính nhưng ta chưa hề
            Đến với ai kết mối duyên thề
            Đem ân tình gửi theo sương gió
            Nếu không tin: Cọng cỏ đã nghe.

            Lời hẹn hò từ thuở bến mê
            Có lần quên mất lối sương về
            Nay trao nghĩa cỏ ân tình trọn
            Đào nở Đà Lạt cảnh suối khe.

            Anh và em vui tình nước non
            Câu thơ tiếng nhạc mảnh trăng tròn
            Tha phương vẫn giữ lòng chung thủy
            Ấp ủ suốt đời một tấm son.

            Đôi kẻ dìu nhau dưới bóng trăng
            Rì rào sóng vỗ cuối trường giang
            Yêu anh em kính, luôn trân trọng
            Sương muộn trong tim cỏ vĩnh hằng.
            (*)
            *
            (*) Thơ Tình Hoài Hương
            ***

            Tình Hoài Hương
            Bút trần nào tả được lưu luyến!
            Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
            Tình Hoài Hương

            Comment


            • Đôi Bạn Ân Tình


              Đôi Bạn Ân Tình

              CHAT

              11:02 PM ngk: Hi Ánh Huyền. Còn đó không? H, à, hôm nay you ra sao rồi? hy vọng là bạn vẫn khoẻ mạnh, cười vui suốt ngày. Đọc bài thơ bạn, lòng dạ mình xốn xang, nhưng tâm không an, nên Kh cũng chẳng làm thơ được, thông cảm cho lúc có nhiều chuyện bận rộn, tâm trạng rối tung theo, cho nên ý tứ chữ nghĩa theo gió theo mây bay mất hết.
              Huyền có gì vui, có điều gì buồn phiền? gia đình? hạnh phúc? hay lo âu chuyện gì, mà tâm không an? kể cho tôi nghe với nhe. Bình thường bạn đau bên ngực trái là đau TIM, là đúng rồi...
              Đau từng đêm… và nghe nhói từng cơn.
              Ta cũng như người… nhưng ai đau hơn?
              Ta mãi đau khi người còn biền biệt.
              Nước mắt rơi dài, vắn tủi hờn...
              (*)
              Mong thư bạn. Chúc vui mỗi ngày: từ lúc thức dậy cho tới lúc đi ngủ nha.
              11:15 PM me: Ui trời! Khang đó sao? khỏe không Kh ơi!
              11:17 PM ngk: Mừng lắm khi gặp bạn ở đây. Kh vào check mail, thấy bạn online, H có mặt đây, cũng mừng, nên vội nói đôi lời. Chao ơi, sao mà lẹ vậy, vừa thấy –“người xưa”- ở đây, nên vội gõ ít chữ cho Ánh Huyền. Khang có gởi thư cho You đó, vậy mà Me vẫn gởi chậm sau H mấy giây ha. Cũng mừng khi thấy You PM cho mình liền liền, (khi vừa thấy mình xuất hiện). Chứng tỏ bạn vẫn còn nhớ đến mình, dù đã lâu không gặp. Rất cảm động, thật lòng mà nói vậy. Chân thành cám ơn -người bạn thơ năm cũ của Khang. Chúc H vui và nhiều sức khoẻ.
              11:19 PM me: Huyền cũng vậy, Kh bị đau nặng mà thức khuya ha? Đi ngủ đi nhe.
              11:20 PM ngk: Cám ơn H có lời thăm hỏi sức khỏe, cảm động lắm, tôi mới đọc e-mail của bạn xong. Còn sức khỏe của Huyền, như H nói thì chắc là đau cơ, đau bắp thịt (muscle) thôi, có lẽ do tư thế lúc nằm, từ từ sẽ hết. Nhiều khi nằm ngủ một mình... cũng bị đau nữa đó, hi hi, chớ không phải đau trong tim vì ai đâu. H nói: “...nên càng nhớ ai” hơn là là… “ai nhớ”? chắc có một điều là không phải nhớ tôi rồi! Chúc H mau bình phục, để khỏi vô bệnh viện nằm đó trằn trọc, trông mong, đợi chờ tâm trí càng mệt thêm. Vậy đó, bạn thấy không? thấy mình có nhớ chuyện xưa không? Thật là cảm động khi you giữ gìn và nhớ những gì me viết vào những ngày xa đó.
              11:22 PM me: Bây giờ bớt đau chưa? hồi nãy, thấy You ở trong khung chát nè, Me giựt mình và ngạc nhiên chút. Đặc biệt do chỉ có một mình Y (you) lồng hình vào trong đó, còn những người khác trong chat không có. Y giỏi ha.
              11:29 PM ngk: Sức khỏe không khả quan lắm, nhưng đời sẽ còn dài... sao mà Y giựt mình hở H?
              11:30 PM me: Anh ở vùng nào trong trái đất nầy thế? Giựt mình là tôi không open chat, mà tự nhiên có hình của Y nhảy vào nè.
              11:32 PM ngk: Ở Vũng Tàu. Ngạc nhiên gì vậy bạn hiền? Oh vậy à? có thấy cái hình tôi đội mũ không? … Bạn đâu mất tiêu rồi, tôi không thấy nữa!!!
              11:34 PM me: Thưa ông tướng, có tôi đây. Kỳ lạ, vừa thấy hình Y nhưng chớp mắt, là nó biến hết toàn bộ inbox của tôi nè: Chỗ khung chat của Y bên phía trái cũng mất, với toàn bộ inbox bạn bè anh em, đều biến hết rồi. Còn ở dưới khung nầy, bên phải, dưới cùng, thì nó RE: thư của Y đề chữ “bình an”, ấy là thư đã viết cách đây mấy hôm, khi Y ở trong bệnh viện mới về. Khang đâu rồi!? Hình cũ của Y cũng mất tiêu rồi, mất hết bên khung gần invite a friend đó. Nó đề như vầy nè: “ngk is off online. Messages you send will be delivered when ngk comes online”. Hổng biết, H bắt đền Y, H dốt về comp mù trớt rồi.
              11:42 PM ngk: Trời! tôi có làm gì đâu? H coi lại laptop của bạn đó. Gì mà kỳ zậy? thư tôi gởi hôm đó, bây giờ bạn mới nhận? Nó đề câu đó, vì internet tự dưng bị mất (drop). Còn hình tôi bị mất trong comp của H, thì không hiểu? vì tôi thấy hình của mình vẫn còn ở trong khung chat của tôi mà. Nếu biến mất, thì chắc tại bạn click vô cái gì đó, bởi data của máy bạn, thì chỉ một mình Huyền set nó mà thôi, người khác không làm mất data của bạn được. Bây giờ H làm theo tôi chỉ nha: - H nhìn bên trái thấy theo thứ tự có Inbox, starred, chat... dưới cùng là Trash, dưới Trash sẽ là chữ Contact; đúng không? - dưới contact là tên Ánh Huyền, đúng không? - trước Ánh Huyền có mũi tên, đúng không?
              11:58 PM me: đúng hết. Gì mà quái lạ thế không biết. Chắc là có con ma nó chọc mình đó, Khang á.
              12:00 AM ngk: click vô mũi tên đi - được chưa? - Tại Ánh Huyền táy máy đó thôi (tay chân táy máy) thì mới mất, chứ ma quỷ nào dám chọc. Huyền click vô đó, nên nó disappear. Bởi vì không có ai có thể thay đổi dữ liệu của mình hết, nhớ cho như vậy nhe. Chỉ do Huyền click vô nó mới vậy. Không tin bây giờ dưới chữ: contact, sẽ thấy chữ Chat. Nếu Huyền click vô mũi tên chỉ xuống kế bên chữ chat, thì sẽ mất, như hồi nãy. Ánh Huyền làm thử đi.
              12:12 AM me: Nhưng mà, còn câu messages dưới chữ tên ngk nó vẫn hiện lên đó, Y chỉ dùm tôi dập tắt nó đi, ghét quá hà. Í dà, Kh nói tôi tay chân táy máy há. Vậy chứ không phải vì Y gởi cái hình đội mũ, thì Thư, chat, Thơ của tôi bay với gió mà mất theo cái mũ sao, còn đỗ thừa hả. Bây giờ dưới chữ ngk vẫn có RE: “bình an” đó kìa. Vậy là Y nhảy dô bên máy của tui mà phá dàng trời mây khói, chứ còn ai vô đây? Thôi. You ngủ đi.
              12:55 AM ngk: Trời! Sao cứ bắt người ta đi ngủ hoài zậy?
              1:07 AM me: Ô hô! Nó đã xuất hiện bài thơ của Y nè. Cám ơn Y bài thơ vừa gởi đến me. Tuyệt vời. Ui Trời ơi! Giờ nầy Y còn thức đó sao? Làm ơn đi ngủ dùm nhe. Ngk có nghe tôi nói không? Bây giờ là 2g46' rồi. Giờ nầy mà Khang còn mò mò cái gì ở đây vậy?
              1:17 AM ngk: Trời! Ánh Huyền lại xuất hiện... mới trả lời e-mail cho "cô thơ" đó, cô hỏi một hơi, mình trả lời ná thở luôn á à. Có “mò" gì đâu… trời...
              1:18 AM me: Ná thở cái gì, vì You đau nặng, cần đi ngủ. You bớt đau tí nào không? Tức quá mà, tôi đã đi ngủ rồi, nhưng không biết tại sao, đã dậy, vào đây gởi thư cho cháu, lại thấy Y. Ở VN tôi có một cháu trai đang đau nặng. H không ngủ được, vì đang lo lắng cho người đau ốm. Đọc THƠ nầy xong, bây giờ Y đi ngủ chưa nào?
              1:20 AM ngk: Cứ lần nào Huyền vô đây, “để gặp cháu”, thì cũng gặp luôn “CHÁU” này, hi hi... Không khỏe, thì “mới wo.a” lại đó.
              1:21 AM me: Hổng dám đâu, lần trước H vô mail cho cháu gái ở Đà Lạt. Lần nầy là cháu trai ở Phan Rang. You không phải là cháu của tôi. Đừng có viết hoa chữ “cháu” như vậy nhe.
              1:23 AM ngk: Thì nói chung cũng là CHÁU. Mùa này đổi lại một giờ, thấy còn sớm, nên chắc người thơ không ngủ được? nhớ ai chăng? NHỚ AI ai nhớ, bây giờ NHỚ AI!? Huyền đang lo cho cháu trai đau ốm đó hở? Cháu kêu bạn bằng gì?

              1:25 AM me: Lo. Phải. Cháu năm nay 52t, cháu bệnh rất nặng có lẽ cháu không thoát khỏi tử thần. Cháu ở bệnh viện Sùng Chinh cũ. Nhà ở Phan Rang, cháu vô Sài Gòn điều trị ngoài 10 ngày rồi, tốn hơn 15 triệu VN, (là mấy tiền USD vậy? H không biết). Cháu mới về nhà hôm qua vì ung thư phổi, cháu bị móc hết hai mắt, bị lũng ruột, 2 lần mỗ ruột, (do hồi xưa cháu đi lính Nhảy Dù nhiều lần bị thương. Cháu đẹp trai vui tính và hiền lắm). Cháu kêu Me bằng dì ruột. Y có hút thuốc không?
              1:27 AM ngk: Nè cho hỏi chút nha, Ánh Huyền có cháu tới 52t kêu bằng dì? Vậy chắc là dì Út? chắc Dì hơn cháu ít tuổi ha. Tôi à? không hút thuốc đã 20 năm nay, không uống rượu, (bia thì thỉnh thoảng có “nhâm nhi” chút chút khi tiệc tùng) ít uống cafe'. Không biết nhậu, cờ bạc cũng không... yêu đương thì me chẳng có ai ưa! Phải chi cũng có "Ai Ưa Me"! Rốt cuộc tôi khổ trăm bề dật dờ rung rinh... 15 triệu là khoảng $900 USD ở thời điểm 2005 nầy.
              1:29 AM me: Phải, tôi còn có vài ba đứa cháu còn lớn tuổi hơn mình nữa, hoặc bằng tuổi tôi. Huyền là con út. Tôi mất hết song thân từ hơn 25 năm nay. Vậy, Y có từng yêu chưa mà hỏi! Dám nói xạo là “chưa” lắm à. (Xì... Khang đừng xạo câu: “yêu đương thì chẳng có ai ưa” nhe). Y người Bắc, người Trung, hay người Nam vậy? Phần tôi là người Đà Lạt hiền lành, chân thật, xấu xí và già nua, nhưng vui tính và lẩm cẩm yêu… (suỵt suỵt) Thơ… thẩn.
              1:30 AM ngk: Xin chia nỗi buồn mất mẹ cha của bạn, thật lòng nói vậy. Huumm!!! Thấy chưa, me đoán biết Ánh Huyền là Út mà. Tôi ở Vũng tàu – còn Mẹ, (có phước là còn mẹ), mất Cha. Bây giờ tôi “tép tẹp”, ha ha. Huyền là con gái Đà Lạt! thì tôi đoán đúng vậy từ khuya rồi há! Tôi có đọc truyện ngắn của H (yêu ông “võ bí” nào đó? Nhưng... lại im lìm lìa xa… chi đó)!
              1:32 AM me: Cám ơn Kh, mấy hôm nay sao không thấy bóng dáng Kh, bị ốm yếu hay trở bệnh nặng, hở? vết thương thế nào? nói mau mau mà đi ngủ á. "tịnh khẩu" rồi phải không? bại liệt tay, không gõ được nữa phải không nào?
              1:33 AM ngk: Không mấy khỏe, kém vui, mệt muốn nhắm mắt mấy hôm nay, H à.
              1:33 AM me: Hãy cố gắng vươn lên, thì sẽ vui. Ồ! Khang đau trở lại hay sao? Tôi là út, nên thích có em trai (em như Khang nè) hay tôi muốn có em gái lắm.
              1:34 AM ngk: Thằng em trai này cũng rất muốn có "CHị" lắm đây.
              1:34 AM me: OK, gụt gụt ve ry gụt! Vậy nhé. Nhưng... “em” phải nghe lời… không thì bị “chị” mắng cho, xấu hổ á. Em nhớ uống thuốc, ăn uống điều độ, ngủ nghỉ đúng giờ, nhen em.
              1:35 AM ngk: Hớ… Ngày xưa khi tôi còn mài đũng quần trong trường Anh ngữ tại quân trường huấn luyện Không-quân Nha Trang, ngày ngày tôi chăm lo rèn luyện sách đèn, không hề biết mỏi mệt. Hôm ấy có phép xuất trường, tôi nhẩn nha tà tà ung dung đi dạo phố với mấy bạn, thì tình cờ tôi thấy một cô gái tươi như hoa, xinh như mộng óng ả duyên dáng ghê lắm! Cô ấy học trường Couvent... tu viện những con chim trên Đà Lạt đó. Sao cô ta không đi tu luôn, cho tôi nhờ, cho tôi rãnh… mắt! mà cô ta còn muốn “bay-nhảy theo chim” mò mò tìm xuống vùng biển Nha Trang (“nóng bỏng” như trái tim chàng trai lãng tử phiêu bồng nầy) làm chi, để bắt hồn thằng sinh viên sĩ quan cà? Tôi mê cô gái tóc demi garcon ở Đà Lạt xuống dạo chơi biển Nha Trang liền, mê tít thò lò.
              Thế là tôi bèn theo cô bén gót vui tươi liếc mắt đưa tình để làm quen ráo riết. Thật thú vị là đôi mắt cô đã tình cờ dừng lại bất động trong giếng mắt bờ mi tôi. Chúng tôi có vẽ tâm đầu ý hợp ngay từ “thuở ban đầu lưu luyến ấy”. Tôi vui vẻ dung dăng dung dẻ lượn bước theo mái tóc chou chou. Sau khi ân cần trao cho nhau địa chỉ, mỗi người đi một nẽo. Trên Đà Lạt ngày nào cô cũng biên thư sụt sùi nhớ nhung như khung trời Đà Lạt mưa dầm! Hai người: Một người xứ nóng miền cát biển có gió mát trăng treo trên đầu, một người xứ lạnh thơ mộng diễm tình mà buốt giá sương sa theo đồi thông triền miên reo vi vu: Chúng tôi cùng nhau thắm thiết, hiền hòa, ấm áp, thoải mái trao đổi tâm tình khắng khít, nhờ những con… “Des Oiseaux” mang thư bay lên bay xuống đều đặn khá lâu. Ồ… "em yêu" đã gởi cho tôi một lá thư đẫm nước mắt: (câu này tại hạ đây có chết cũng còn nhớ: “Em sẽ yêu anh đến cuối đời, có bị đánh gần chết vẫn còn yêu anh, không hề xa anh”).

              Ánh Huyền à, nhưng rồi ngày tháng chóng qua, thì tình đã MẤT THIỆT! Lúc đó tôi cũng chẳng biết mình là ai. Hồi đó tôi thấy “ẻm" thần tượng lắm, cái gì cũng hay, cũng đẹp. Cho nên tôi bị gục ngã trước thần tượng lúc nào, hổng hay. Tới khi yêu say đắm tưởng không thể rời nhau, tôi càng thấy ẻm là số 1. Tôi mơ mình phải đi Khu-trục mới OAI với Em… là đủ rồi, tôi nhớ bóng dáng yêu kiều của ẻm vô vàn. Nhưng… ở đời thường có những cái bất ngờ! Lẽ là sau khi học hết Tú Tài II, cô ấy từ Đà Lạt vô Sài Gòn học năm thứ nhất Văn-khoa, thì tình em và tôi như lá me ly ti, như hoa sao bay bay lả tả trên đường Duy Tân... sợi tơ nhện đứt phựt... Buồn tình quá... Buồn thiệt! Một hôm, từ Nha Trang đi phép về Sài Gòn, tôi tình cờ gặp lại..."ẻm".
              Thật bất ngờ! Có lẽ do định mệnh an bài sắp đặt cho cuộc trùng phùng tình cờ nầy chăng? Chẳng hiểu sao bỗng dưng bàng hoàng mà không do dự, “cố nhân và thằng nhỏ” thảng thốt nhìn nhau… say đắm và trìu mến. Rồi như chẳng đặng đừng, không thể cưỡng lại lòng thiết tha ấp ủ nhớ thương bấy lâu hằng mong đợi, nhìn “dung nhan tình yêu trong mối tình đầu của hai đứa", chúng tôi tự động ôm chầm lấy nhau lúc nào chẳng rõ. Hai đứa hân hoan tha thiết say đắm và hạnh phúc dung dăng ráo riết nối lại tình xưa. Ấy thế mà… tình qua nhanh chỉ được năm bảy con trăng gì đó, bỗng nhiên chúng tôi lại tan đàn rẻ nghé, tình đứt nhẹ nhàng... dù tình đẹp như bài thơ, bồng bềnh như sợi tơ trời... Hai chúng tôi cố bước nhẹ mấy, cũng đứt... lại vĩnh viễn lìa xa nhau. Sau đó “thằng em nầy” học địa-huấn ở trường bay, rồi bị đì đi học Trực-thăng bay thấp lè tè dưới đất...
              2:41 AM me: Vậy à!? Tại sao cả hai người không tìm cách “NỐI lại tình xưa” hỉ? Bây giờ You lớn rồi, tôi nghĩ Y không còn bay bướm như hồi trẻ con ấy nữa, ha.
              2:45 AM ngk: Úi Trời! Huyền bảo tôi “nối lại” sợi dây dừa, hay sợi dây lòi tói à? Mỗi người đã có một đời riêng! Nhưng có lẽ tôi mãi ghi canh cánh bên lòng & luôn nhớ lại “trong đời tôi từng có lần đã yêu một người… nhớ hoài nhớ mãi mối tình đầu cho tận đến cuối ngỏ đời.
              CHỊ à! Chị ơi! Chị đâu rồi? Mai đây, biết đâu cái cầu vồng bảy màu cong cong đó nó không cong nữa, mà thành đường thẳng bảy màu, thì chắc có ngày THẰNG EM chạy một mạch tới thăm CHỊ... Út nhe.
              2:50 AM me: Hứ! không dám đâu em trai. Tôi đã có “quốc doanh”. Như “cậu em Khang” đã nói Quốc= nước, doanh= bán, tức là tôi đã có ông “Bán Nước Đá” đó. Ha ha! Hôm nay bạn không bị đau và mệt hay sao, mà có hứng kể chuyện dông dài, nghe cảm động, hay quá vậy?
              2:55 AM ngk: Tại do EM cũng tâm trạng với CHỊ Út mà, hi hi... vì Chị Út nói chị là CHỊ... thì cứ làm chị em đi... biết đâu có lúc chị sẽ khóc vì thằng em già nua mà xí xọn này!!
              3:00 AM me: Hồi xưa ai biểu em phản bội làm chi, em gieo gió thì gặt bão. Nói trước, em chơi dao phay, có ngày cụt tay, (chứ đừng nói đứt tay nha). Bây giờ em đi ngủ nhe, nhớ uống thuốc, ngủ nghỉ có chừng mực điều độ, em trai đừng lang bang như hồi nhỏ xíu, không tốt đâu.
              3:10 AM ngk: Xí. Có ai nói gì đâu, mà chị la đông đổng lên hả! Ủa, CHỊ có TÌNH...Ý ...Hả? Bộ già, thì chị hổng biết yêu sao? hổng có tình ý hả? Mà thôi! một tháng chị vô đây một lần cũng được! Trời trời! cái gì có dao phay nữa đây? biết rồi, CHỊ có ông “quốc doanh” mà! Tui biết rùi! Tui hổng chọc gì tới ông “quốc doanh” à. “Quốc-doanh= Bán nước”! đúng vậy! Bên Viet Nam nói quốc doanh có nghĩa là: thuộc về nhà nước, mà thuộc nhà nước thì “cha chôn không ai khóc”. Tui một thân làm sao chống lại “nhà nước… đá” của chị ha. Đời TUI mệt THÂN nhiều rồi, hổng ngán! có ngán rồi cũng chết!
              2:50 AM me: Bây giờ EM ngồi lì ra đó mà cãi tay đôi với CHỊ Út sao ta? Có cậu em như vậy, là hổng được rồi, chắc phải nhốt em vô Biên Hòa quá. Ối giời ơi! Biết nhau từ bao nhiêu năm nay, bi giờ Me mới thấu hiểu, vì đã cố tình chọc cho you thực sự nổi giận ha. Nay You “nổi trận lôi đình” với Me, chắc là coi You “hình sự” lắm ha! Thôi thì … Me vụt đứng dậy, chạy có cờ… vô nhà pha cho You một ly cối to bự sư nước chanh đường, kèm “hòn đá cục quốc doanh” mát lạnh, để You nhai rào rạo, cho đã cơn tức. Hen. Nếu You có gãy cái răng nào, Me len lén xịt thuốc mê, thuốc tê, thuốc… ngủ, me nhổ răng và đền
              "cái răng dàng khè le lói" cho You! Nhân tiện khi You đang ngửa cổ nhắm mắt uống nước chanh ừng ực, thì Me sẽ nhỏ nhẹ nói líu riú “cho Me xin nỗi You nần lữa nhen”. Vẫn không chịu hở! Người gì mà “lì” coi thiệt dễ sợ và dễ ghét quá đi thôi. Vậy chứ… Me bủn rủn …vậy chứ You, ồ ngộ ghê You nhìn me cười toe toét đó. Thôi, hổng nói nữa, Me phải “im lặng là dàng”…
              3:18 AM ngk: Sau lần nói chuyện này, TUI đóng cửa, tắt máy nằm im một tháng, sau đó mới turn on máy lại! khi đó chị đừng khóc rống lên là: “Tui làm em mà ác” nghe. Coi như tui nhảy dù mà dù không bung, nên bị lọi tay, trặc gân, què giò phải "dưỡng thương". Tui đứng im ngó chị thôi, chị đừng hăm he tui cụt tay, tội nghiệp, chị không giết thì tui cũng “cụt mà chết”!
              3:27 AM me: biết vậy, thì đừng trèo cao té nặng.
              3:58 AM ngk: Tui trèo đâu mà trèo, bộ chị thấy tui trèo hả? tui đứng xớ rớ gần chị, có ngày tui bị cụt tay, gãy giò. Tui đang đứng một chỗ, chị bắt tui leo xuống, thì tui xuống tới đáy âm phủ không lâu đâu. Nói thiệt, tui đang bị đau ghê lắm, chị Út à.
              4:10 AM me: Cứ nói bậy bạ hoài! Tự em muốn đi... xuống âm phủ chớ ai bắt nà. “Ngu” thì thôi, (so sorry) chị không có đứa em hư như dzậy. Làm gì đứng xớ rớ... bộ muốn ăn cắp ăn trộm dao phay sao? Khi khổng khi không em đứng xớ rớ ở bờ vực, lại còn đòi tụt xuống âm phủ. Chị không tức điên người cho em ăn dao phay, cũng uổng! Mắc cừi quá đi, “thằng em” gì ngổ ngáo hết sức à. Chị Út đây tượng trưng cho sư tử Hà Đông đó em à. Chị không thể dịu hiền thuỳ mị với “thứ em” ngổ ngáo, để cho em “được đằng chân lân tới đằng đầu”, mà xỏ mũi chị nà. Em “ngu” thì thôi, đừng khờ dại trèo lên cao, rồi đòi tụt xuống vực thẳm nhe cưng, hổng ai thèm thương xót mô cà.
              4:25 AM ngk: Chắc phải vô Biên Hòa mà xin điều trị cho rồi, điên hết cả tam tứ đại họ hàng. Nhìn chị, khiến tui bỗng muốn chị ỏn ẻn tủm tỉm “cừì cừi” nhỏ nhẹ... Trời! Sao chị Út lôi cả họ hàng tui vô nữa? họ hàng chỉ có tui yêu CHỊ thôi, không có ai hư như tui. Kệ tui! CHỊ Út không biết con đường xuống địa ngục, là con đường dễ đi nhất hay sao?
              4:47 AM me: À há, có “kệ” treo trên tường đó. Có điên mới nghĩ như vậy. Chị đây dù có anh "bán nước đá" cũng không ngu gì đi vào con đường độc nhất vô nhị, có đi xuống âm ty mà không có về trần thế, đừng xúi dại em ui. Chị còn ham sống sợ chết, chết rồi để anh “bán nước… đá” trên đời lại cho nhiều người cua sao. Ngu gì vậy.
              Nè, nãy giờ Chat hơn 5 giờ rồi, em mệt chưa, cần đi ngủ chưa, hay còn ngồi lì ra đó? Nói trước với em: chị Út thì còn lâu mới dịu dàng dỗ ngọt (“thằng” em lếu láo) à nha. Đừng hòng đem nước mắt cá sấu ra mà hù dọa chị. Nhớ ăn uống điều độ- uống thuốc đúng giờ – ngủ nghỉ chừng mực - chứ như hôm nay là không được nghe. Trai tráng gì như mít ướt! Khóc nhè ra xấu hổ. Ráng chịu, không ai dỗ đâu. Em lo đi ngủ, đừng hòng chị dỗ hay ru em. Em có "nằm vạ" ra đó, cũng mặc, kệ.
              5:10 AM ngk: Chị đi ngủ đi, đừng nhọc vì EM. Never... già rồi, nước mắt còn ít lắm, chỉ để lại khóc cho mình. Bởi em cũng muốn khóc cho riêng em thôi CHỊ à. CHỊ ngủ đi, không thôi anh ấy buồn và lo... yes my dear sister. You ơi, đôi khi người già hờn giận còn hơn là trẻ con nữa đó! Trẻ con giận là do bản năng, thấy mình còn nhỏ, mà còn nhỏ thì thích được chìu, nên thường hờn. Người già hờn giận bởi biết suy gẫm, cho nên một khi đã hờn giận, thì cái giận cái hờn của người già khác với con nít nhiều lắm.
              5:25 AM me: Nói thật nhé, hôm nay nói tào lao mà vui quá đi, thank you. Thôi, bây giờ tôi nói đàng hoàng nè: Khang nhớ uống thuốc nhé, ăn uống nhiều vào cho có sức đề kháng, ngủ nghỉ đúng giờ. Kh nhớ đi bộ vận động cơ thể nhe. Ở bên nầy tôi sẽ cầu nguyện cho Y chóng bình phục. Ráng khỏe nhiều và tôi hết giận bạn rồi, tôi sẽ về VN trả lại cho Khang món nợ. Me muốn biết khi “You hờn giận Me”, thì khác với trẻ con ít nhiều ra sao? (để Me dè dặt đề phòng, không khéo sẽ làm “mất thiệt” vì hờn giận nữa, thì nguy)! Chắc là Me chịu thua, không thể dỗ dành You.
              5:49 AM ngk: Bạn còn mắc NỢ mình à? nợ gì vậy ha? Mình không nhớ ai giận ai, vì sao lại giận nữa! nhắc lại giùm nha, Me đi qua thời gian nhiều năm, thì đôi khi không nhớ rõ chi tiết lắm. Dù vậy Kh này vẫn có nhớ tới một Ánh Huyền, đúng là chưa quên hoặc không khi nào quên.
              5:52 AM me: Trời! sáng rồi! Coi như hôm nay tôi và you thức trọn 1 đêm đó nhe. Anh hãy đi ngủ xí nhe. Coi chừng trở bệnh nặng nữa bây giờ.
              6:15 AM ngk: Thôi bye. Tôi đi thiệt đây. Mong người năm xưa vui và có sức khoẻ.
              7:05 AM me: Huyền tạm biệt Khang nhé.

              ***

              Ngày... Tháng... Năm...

              Ánh Huyền thân chào Khang,


              Ôi là là… bạn qúy mến, Kh đã gởi mail cho H vào ngày 30 tháng 6 năm 2008, trước lúc ấy chúng mình liên lạc mails, chats… qua một khoảng thời gian thân ái tâm tình vui vẻ rất dài, dài gần bằng tóc cuả Me + You nối lại. (Ồ, nhưng mà H quên tiệt Kh là đàn ông con trai thích “húi đầu đinh cụt ngủn”, thì có tóc mô mà nối, hỉ. Hi hi…). Thế rồi chẳng hiểu do Trời xui đất khiến, gió chướng mưa gào, phong ba bão táp ra làm sao? H không biết do đâu mà sợi dây (dừa) liên lạc ngày càng mong manh lỏng lẻo… rời rạc, bỗng dưng đứt phựt, chia lià!?
              Tuy trên thực tế không có mối hảo cảm tốt đẹp giao tình trong sáng và thanh khiết, nhưng không gian và thời gian trôi chảy mãi… đến bây giờ hơn sáu năm rồi, H vẫn còn lưu giữ nơi đây những lời tâm tình cuả bạn… Kh thấy H có khùng lắm không, khi mình cố níu giữ lại những ân tình đã trôi tuột ra khỏi kẽ tay, và nhẹ nhàng rơi xuống đất, hoặc đã… trôi theo gió lên mây ngàn bay đi tứ phương? Chuyện đó đã thuộc về dĩ vãng, xa xăm… xa thật xa từ sáu năm rồi, Kh ơi! Hẳn là Kh giận mình vì lâu rồi H không gởi thư cho Kh. Phải không bạn? Có một điều hôm nay Huyền biết chắc chắn Khang chính là người có những câu nói bông đùa vui vẻ & hóm hỉnh, đã ghi tạt trong lòng H những vui thích, ưu tư, phiền muộn đến bẽ bàng xót xa: Phảỉ vậy không Khang? người bạn năm xưa cuả… ai đó.
              Gởi gió phiêu bồng thư mấy nỗi
              Giấc Nam Kha giận dỗi thế? Chàng thơ!
              Hờn chi… em nắn nót mấy đường tơ
              Từng phiến đợi đêm chờ vào canh vắng
              Dỗi thế anh! tình em nhuộm nắng
              Buồn bao nỗi lệ nhỏ không khô
              Tình hoài hương đêm thao thức đứng bên hồ
              Nghe gió rít xót xa sầu mắt ướt
              Phút nghẹn ngào não nùng thâu canh rét mướt
              Móng cầu vồng nhờ Ô Thước nối qua sông
              Mình thôi giận nhé! hờn không.
              Ngọt ngào đổi ánh mắt nồng môi say
              Nguồn thơ chan chứa phơi bày…


              Người bạn năm xưa của năm cũ ấy đã từng là một người Huyềnquý trọng, thân mến, mang trong tâm tư nhiều vấn vương phiền muộn từ giọt nắng bỗng dưng phai tàn, thảng thốt mà H đâu có ngờ! Nhưng thật tình thì tự trong thâm tâm H vẫn nhớ đến một người bạn ân tình thân thiết, dễ mến, mà H đã được học hỏi từ nơi người ấy những điều bổ ích và thú vị & có những bài thơ tình tuyệt vời. Hiện giờ thì… Khang không còn “của ngày xưa đó ư” đối với H nữa. Thực tế là thế đấy! Mà Kh phiêu bồng trên lối ngỏ có nhiều con đường ngập hoa hồng lý thú, là chí phải! H chắc chắn một điều là You không thể nhớ những gì đã viết đâu nhỉ! Ngược lại… H nhớ tất cả những gì bạn trao gởi còn nguyên trong ngăn kéo kỷ niệm, không hề xê dịch. Đấy là do Huyền không những tôn trọng, mà trân trọng và quý mến nhiều về tình bạn thâm-giao chân thành tình nghiã cuả hai ta. Tính H giàu tình cảm, đa sầu đa cảm (nếu không muốn nói là đa tình (do mình ưa thương vay khóc mướn giúp người dưng, giống y đúc như Khang vậy). Thiệt lãng xẹt, Kh nhỉ! Bây chừ H phải ráng chừa bỏ cái tính quỷ-quái ấy đi. Khi cả hai người, nghiã là có cả bạn, chứ chả phải một mình H “mắc nợ tha nhân” cần trả đâu… Phải hông?
              “NỢ”. Vâng! Nói đúng ra, hai đứa mình, xin phép bạn cho Huyền không khách sáo khi nói chữ “hai đứa mình” nha! Mình đã nợ nhau một món quà đặc biệt! H vẫn nhớ và hứa với lòng là sẽ tìm Kh & trả nợ. Quả thật, H đã tìm bạn khắp nơi… tìm dịp nào thuận tiện để trao gởi món nợ. Nhưng bạn không nhớ, và có lẽ H chả cần! Vậy thì H nhắc lại làm gì chuyện “nợ-nần” không đúng lúc, thật vô duyên phải không nào. Khang ơi, vậy mình xí xoá, rút về “cái nợ không vay” đó & từ nay thông qua nhé. H không biết nên diễn tả sự trung thực như thế nào cho phải phép, sau khi H đọc đi dọc lại thư Kh!

              Bởi, nó giống như ngày tháng xưa cũ rồi cũng dần qua, dần qua… cho đến một sớm mai nào đó trong tình cờ H thức dậy với nỗi xôn xao cuống quít, chợt thấy những hân hoan vui thích cuả một thời trẻ dại chợt quay về qua những hàng thư Khang khéo mô tả ấy! Nói tới đây… bỗng dưng H cảm thấy tức tức… (mà chẳng biết nên tức bạn, hay tức mình (!?), khi lá thư hồi âm cuả bạn tả về cảnh nhà, nơi có người thân tay bưng chén trà Ô Long mời “người bạn xưa”. Đã hơn sáu tháng qua, hôm nay H rất vui mừng khi nhận được tin Khang. Cám ơn bạn đã hồi âm. H vẫn xúc động, ngẩn ngơ, lòng nghẽn đắng từng cơn buồn, H muốn khóc hết sức khi đọc thư bạn. Về việc vĩnh viễn ra đi của một người thân yêu, H biết cho dù bây giờ H, (thân nhân, bạn hữu... xóm làng) có nói gì với Kh chăng nữa, thì "cái thế" trong bạn vẫn chưa thể một sớm một chiều sẽ dần phôi pha, nguôi ngoa, tan nhạt từng cơn đớn đau đầy ắp trong lòng Kh & g/đ.

              Huyền biết thế, tuy đôi khi tự trong tâm H không thể cưỡng lại đã muốn gọi phone thăm hỏi, gởi đến bạn đôi hàng vấn an, ngỏ hầu vỗ về an ủi bạn... H chỉ sợ những cuồng sóng đầy ắp xô giạt từng ngày, từng tháng... âm thầm dật dờ trôi qua trên kẽ tay... sẽ khiến bạn thêm võ vàng, héo hắt, trầm cảm trong cơn bệnh trầm kha hơn! "chúng mình" là những "thi-sĩ", là người giàu tình cảm hơn ai hết, đa tình, đa cảm, lòng càng chất ngất nỗi buồn thương vô hạn. Phải không nào!?
              Nói đến đây, H xin lỗi, không phải là Me chê You đa sầu đa cảm đâu, vì chính H tuy chẳng thân thiết với gia đình Kh là bao, nhưng H đã lặng buồn không thốt nên lời, bàng hoàng khi đột ngột nhận tin rất buồn. Thật sự là H rã rời, vật vờ, bâng khuâng, băn khoăn lo lắng... càng thông cảm thấu hiểu bạn mình đang sống trong từng cơn đau cao ngút, khi "lá vàng còn ở trên cây. Lá xanh rụng xuống, Trời ơi là Trời".
              Khang thân mến! Đây là lời khuyên thật lòng đến với bạn. Nếu Kh không cho là H ngố ngáo, vô duyên và dư thừa, thì H xin Kh cố gắng hội-nhập với những người chung quanh. Bạn hãy hòa đồng trong môi trường hữu ích, lành mạnh. Ngỏ hầu bạn có thể tạm quên những đớn đau mất mác to lớn. Bạn hãy lắng nghe những lời bạn-hữu tâm tình, an ủi, đôi khi có những câu "vớ vẩn, ngớ ngẩn". Nhưng có thể Kh sẽ khoan dung mỉm cười tha thứ, nụ cười tuy chưa phải là mười thang thuốc bổ, nhưng ví như tiếng rền cuả loài thú lui về hang ổ, để trầm ngâm liếm lại vết thương cần khép miệng. Kh không nên co mình khép kín và lặng im trầm cảm ngồi trong bóng đêm như thế đã bao tháng ngày rồi. "Thà thắp một ngọn nến nhỏ, còn hơn ngồi đó mà nguyền rũa bóng tối". Phải không Khang?

              Không thể nào ngờ khi nhận được tin buồn cuả gia đình Kh, thật sự H sửng sốt, bàng hoàng, băn khoăn, bồn chồn, buồn rầu (lo lắng… cho bạn). Kh à. Hôm ấy H muốn gọi phone cho Kh, để chia sẻ đôi lời, nhưng rồi H băn khoăn, ngần ngại cầm phone lên, rồi bỏ xuống, lòng bối rối lạ thường. H biết lòng Kh đau đớn tột cùng, tim đã tan ra trăm ngàn mãnh. Thì lúc bấy giờ nếu H có nói câu an-ủi để chia sớt nỗi đau gì, Kh cũng chẳng thể nghe và biết. Kh sẽ không thể nào thốt lên câu… Cuối cùng H nghẹn ngào ngồi trầm tư trước màn hình, nhìn bàn phím, mà thông cảm với bạn và gia đình.

              Cũng thấu hiểu về nỗi đau của bạn, vì cách đây mấy năm, H đã mất đứa cháu gái tên Huy Thơ (cháu ruột gọi mình bằng cô; con của ông anh thứ 7). Cháu còn độc thân ở độ tuổi thanh xuân mơn mởn, cháu khá ngoan hiền xinh đẹp, học rất giỏi ra trường thủ khoa Nông Lâm Súc năm 1974 tại Huế. Do nhà anh chị đông con, cháu Thơ là con đầu, đi làm việc và ngày nghỉ cháu về nhà lo làm ăn buôn bán thêm phụ giúp gia đình. Mấy ngày cận Tết năm 2009 khi gia đình bận rộn chuyện bán buôn - cháu ở trong Tain bị cảm, cứ tưởng là nhẹ, nên cháu uống thuốc qua loa. Muốn đi bác sĩ nhưng lúc đó họ đã nghỉ để ăn Tết. Ai ngờ… cháu về nhà cha mẹ nằm nghỉ và ngủ luôn một giấc dài, cháu không một lời than tiếng khóc. Ôi chao, khi nghe tin cháu, ở Mỹ H bật khóc thật to. Suốt mấy tháng sau, H thẩn thờ như người mất trí.

              Cho nên, nay biết gia đình Kh gánh chịu nỗi đau đớn vô cùng to lớn trọng đại nầy, H rất thông cảm & thấu hiểu. Vậy, H xin Kh cứ đọc thư nầy coi như lời chia sẻ, đọc để thấy có một người ở phương xa đang, vẫn… thường xuyên nghĩ tới Kh. H đi xem lễ mỗi ngày sẽ âm thầm cầu nguyện cho gia đình Kh… Hãy nhớ sau lưng bạn, còn có người thân, bạn bữu gần xa - và H luôn nhớ đến gia đình bạn bình lặng trong tâm hồn, (mặc dù H biết điều ấy khó khăn). Ngoài ra, thật tình là H nghẹn ngào không biết nói gì hơn ngoài lời chân tình ngậm ngùi chia sẻ nỗi đau với bạn.

              H đếm từng ngày, mong sao thời gian và không gian sẽ là liều thuốc thần kỳ, để xoa dịu đi tất cả những vết thương đậm sâu trong lòng Kh, một người bạn mà tự bao giờ, lúc nào không biết, H không nhớ nỗi suốt 10 năm qua: tự trong đáy lòng H rất trang trọng và quý mến bạn. Tựu trung về mọi mặt, nếu H không muốn nói là H thương bạn hiền nhiều. Và, có thể một ngày nào đó mình sẽ đứng xớ rớ trước cửa nhà Kh chụp hình, nhón chân liếc nhìn vô nhà Kh len lén hái trộm hoa, không sợ bị bạn bắt gặp, xin phép đại gia cho vào nhà thăm hỏi, và uống tách trà! Cũng thú vị.

              Thời gian ấy H thường lặng lẽ trở về VN nhiều lần, đi rất nhiều nơi… từ Bến Hải tới Cà Mau. Huế - Sài Gòn – Đà Lạt – Vũng Tàu – Nha Trang – v.v… (chỉ trừ H chưa đi ra Bắc), đâu đâu trong miền Nam Việt Nam cũng có gót chân mình buồn bã dẫm lên trên lối mòn. Tiếc thật! Vậy, một ngày đẹp trời nào đó, nếu có dịp nào trở lại quê nhà, Kh cho phép H ghé qua nhà thăm hỏi người mà tự thuở xa xăm… đã nhiều lần H nhỏ những giọt nước mắt thương cảm (khi bạn báo tin cho mình biết Kh đã lâm trọng bệnh, có lẽ không thể qua khỏi). Mặc dù chính lúc ấy H chẳng hề biết bạn là ai! Bây giờ Kh nhắc lại câu trên, quả thật là mình cảm thấy nỗi buồn sâu thẳm trỗi dậy! H không biết, tui bắt đền bạn phải trả lại những gì mà Kh đã làm khô mất những giọt nước mắt cuả H lúc nầy. Hi hi… Huyền nói thì nói cho vui vậy thôi, chứ có lẽ bây giờ mình chẳng muốn trở lại thời xa xăm, nơi đã làm cho H có nhiều muối xát kim châm, khiến mình xót xa chua xót đau thương ủ rủ. H không muốn bị hất lại ở lòng mình nỗi buồn và thất vọng, không muốn từng cơn gió mưa tạt mạnh vào đời. (à, cái chuyện bi thương ủ rủ trong tình yêu của mình với cố nhân, hoàn toàn không có Khang dự phần à nhen, bạn đừng băn khoăn lo lắng làm gì cho mệt nhé). Thôi, mình đóng chuyện nầy nha.
              Bye.

              ***

              Ngày... Tháng... Năm

              Bạn Khang thân ái,

              Huyền đã nhận được thư Khang hôm nay, vui rất là vui đã có một dịp cười vô cùng thoải mái. Ôi! Hỡi Kh là ơi là hỡi! Để lần lượt tôi nói rõ ràng cho bạn nghe nhen. Hôm qua H gởi trước một tin ngắn cho Kh, ban đầu H rất đổi kinh ngạc, bàng hoàng khi đọc một đoạn thư cuả Kh bằng tiếng Anh… Me tưởng là ai (ông Mỹ nào) gởi mail cho H bị wrong. Nhưng khi nhìn lên điạ chỉ usrename “nghile”, thì H yên trí mail đó chính là Khang gởi, (chứ chả phải ông Mỹ nào khác “tỏ tình”, hê hê hê)!
              Nhưng H băn khoăn, suy nghĩ hoài, vẫn không thể hiểu ra, nên H tưởng là desktop cuả mình lại “làm nũng”, không chịu đọc tiếng Việt. Vì thế H mới báo với bạn là “computer cuả mình mấy hôm nay bị trục-trặc nữa, để tối nay H hồi âm cho bạn”. Lúc nào cũng thế, nếu H muốn gõ thư cho bạn, thì mình phải viết ở ngoài Microsoft Word (có font tiếng Việt), rồi từ đó copy, & edit… compose, chứ không thể gõ trực tiếp vô compose.

              Ngộ lắm Kh à, rõ ràng là mình thấy thư ấy (chỉ hoàn toàn bằng tiếng Anh, không có một chữ tiếng Việt nào ngoài chữ Trọng Khang ở cuối thư). Tối qua, H cứ nghiền ngẫm hoài lời thư Anh-văn đó, tự nghĩ “hay là bây giờ khả năng sinh ngữ của mình tụt xuống vực sâu, nên ngu rồi hay sao”. Tuy nhiên, H cố moi óc ra hiểu vắn tắt nội dung lời “nhắn nhủ” bằng tiếng Anh của bạn, đại khái là mail ấy muốn nói về lời cuả bản nhạc “Cánh Hoa Tương Phùng” và nhạc sĩ LTG, như vầy: “... & ... Me and problem you talk to each other in the mail a few this is only between you and me, from that day to now me absolutely nothing to the team members are talking about issues related songs Also Petals Phung all, do not! (Though that between me and the team members are occasionally a word occasionally visit each other)... & ...

              Thế rồi, ngày hôm nay H nhận được thư mới nhất cuả Kh, (new: Oct-20-) H bật ngữa ra và cười rũ rượi nè. H cười đến nỗi muốn đứng tim, nghẹt thở, chảy nước mắt… chỉ vì “hiểu lầm tiếng Anh “phải gió” mà vui quá đi”- H rất đồng ý với bạn về thư Khang đã viết:
              - “Khang không viết cho Huyền bằng thứ tiếng “lẩm cẩm” ấy, bởi thật vô lý khi tại sao mình không viết cho Huyền bằng tiếng mẹ đẻ cuả chúng ta?! Theo Kh thì viết tiếng Anh làm sao diễn đạt cho trọn nghiã và diễn đạt hết được tâm tư, xao xuyến rung động tình cảm, suy nghĩ chính chắn bằng tiếng Việt của chúng ta! Phải vậy không Huyền?
              Vậy cái thư tiếng Anh kỳ quái này từ đâu mà ra, chẳng lẽ Yahoo tự động dịch ra? mà dịch kiểu này, thì có những chỗ đọc không biết nó nói cái gì! vì sao có những chỗ dịch từ chữ "Like Phung Petals", hoặc Petals General Phung, hoặc songs Also Petals Phung, hoặc"Hoa Tuong Phung Wing" hoặc Poems "petals tuong leper "= là ý nói " Cánh Hoa Tương Phùng!? Rồi nữa: thousands, several thousand = mayngan…

              * Nói chung Khang đọc thư tiếng Anh mà H quote trong thư, mình điên cái đầu! Tiếng Anh phải gió này ở đâu ra, H tìm hiểu giúp Kh, nếu từ Yahoo mà ra, thì có lẽ Kh phải bỏ Yahoo thôi! Chuyện là như vậy đó, không hiểu sao lại có cái thư bằng tiếng Anh, từ trời thần đất thánh nào gởi cho H, mà nội dung là từ địa chỉ username nơi cái thư của Khang vậy!

              Huyền lò mò đi tìm tòi lục lọi ở Mỹ xem nó phát xuất ra lá thư tiếng Anh ấy ở từ nơi ngỏ ngách nào? – thì ra do Yahoo ở tại Việt Nam chuyển qua Mỹ cho Huyền đó, Khang ơi. Chứ bên gmail của mình không hề bị wrong! Máy (computer) & laptop cuả H không thể nhận làm việc ấy, vì nguyên bản gốc trong my computer không có tiếng Việt, không đọc tiếng Việt, nên không dịch ra thứ tiếng “thổ tả” kia! Cho đến giờ phút này H không biết Kh có nhận được mấy cái thư tiếng Việt, có cùng một nội dung nói trên đây không, vì Kh chỉ nói cái thư bằng tiếng Anh, mà Huyền nói là: “You viết tiếng Anh giỏi quá nhỉ”! hê hê hê...

              Nói tóm lại: hoàn toàn không nhận được thư nào cuả Kh nói về chuyện “cánh Hoa Tương Phùng” (mà Kh vừa đính kèm ở mail nầy, tức-thì thôi). H nhớ Kh có một username ở Gmail mà. Kh vẫn thường viết thư or chat cùng mình ở điạ chỉ gmail (chỉ trong thân tình thôi, H mời số bạn rất hạn chế). Mong thư Kh, hy vọng tối nay chúng ta sẽ họp mặt cùng nhau ở giờ N, chat mà cười vui vẻ nha. H hy vọng là sau khi gởi thư nầy đi, thì ở bên quê nhà Kh được an lạc hạnh phúc, nhớ cho H biết qua sức khoẻ bạn hiện nay ra sao nhe, cho mình thăm hỏi gia đình bạn luôn bình an, vui vẻ hạnh phúc.
              ***
              Huyền có mấy gia đình anh, chị, và cháu Dũng có xe hơi riêng, loại xe 5 hoặc 7 chỗ ngồi, và có ông anh ở Đà Lạt có năm chiếc xe đò chở khách chạy tuyến đường Đà Lạt – Hà Nội & Sài Gòn - Hà Nội. Khi Huyền về VN thường bao xe loại 50 chỗ ngồi, để đưa thân nhân đi khắp “bốn vùng chiến thuật”, trước là thưởng lãm phong cảnh hữu tình, sau là chở nhiều thực phẩm, cũng như tiền bạc để biếu tặng tận tay những người già cả nghèo khổ ở cuối đất cùng trời xa xôi heo hút. Có đến những nơi “thâm sâu quỷ cốc” đó, thì mình mới nhận ra cảnh túng quẫn cơ hàn, đói rách nghèo khổ của đa số người dân ở thôn quê cơ cùng đến cỡ nào. Sự hào nhoáng vinh sang nơi ánh sáng kinh thành hoa lệ xa hoa đông đúc kia, không hề rót tí mật nào về những vùng xa xôi cách trở ấy. Trông đa số họ quá thảm thương tội nghiệp biết chừng nào, dù người khô khan đến đâu nếu nhìn thấy họ run rẩy tả tơi trong manh áo rách, thì bạn cũng như mình và người khác có cẩm được nước mắt, mà ngoảnh mặt đi không hở Kh? (Nếu lúc nào xe các cháu kẹt không đi, thì H bao xe khách người khác để đi đó đây.
              Mình ít khi đi xe đò theo tour cuả đoàn du lịch hướng dẫn, vì đi như thế tuy cũng vui vui, nhưng có phần lệ thuộc, gò bó thời gian đi về quá chật vật eo hẹp, ta cứ vắt giò lên cổ mệt hụt hơi mà chạy theo đoàn, thành ra đi du lãm thường vội vã, sẽ mệt đừ, nên không còn cảm thấy thoải mát thú vị bao nhiêu, cũng chả coi ngó cảnh kiết chi!
              Đôi hàng thăm bạn hiền, thân chúc Kh và gia đình có mọi sự tốt lành & như ý nhen.
              Mến,
              Á H
              ***

              Nov. 14...

              Trọng Khang quý mến,

              Ái Huyền cám ơn Khang nhiều, H thật xúc động và nghẹn ngào khi H muốn nói chữ “chịu khó ngồi đây”, nhưng sợ Kh mắng Huyền, nên thôi… Kh đã chỉ-bày rõ ràng, tường tận về Folder Protection Download Process thế nầy. Ôi chao! thiệt dễ thương xiết bao! Nhưng sao mà “mình ghét mình NGU” đến thế không biết! Tuy nhiên mình phải nói thật lòng là có đôi lần H xót xa khóc thầm (thương vay khóc mướn, như Kh đã nói). Tại sao Kh có biết không? Bởi chính vì lúc đó “bạn dộng cho H” mấy lá thư… Kh nói bạn bị bệnh rất nặng, bệnh ngặt nghèo, trầm trọng… có thể Kh không qua khỏi… Kh sẽ vĩnh viễn rời khỏi cuộc đời nầy. Nên H bàng hoàng thảng thốt lo lắng và rơi nước mắt, vì thương tình người trai trẻ sao có tuổi đời ngắn ngủi và “bạc bẽo” làm sao. Thế nên H mới có câu: “Dạ vâng! Người năm xưa cuả …năm cũ ấy, đã từng hoạ thơ với H, đó là một người H rất quý trọng, thân mến, mang trong tâm tư nhiều vấn vương phiền muộn từ giọt nắng bỗng dưng phai tàn, thảng thốt mà H đâu có ngờ”!

              Ối giời ơi! Biết nhau từ bao nhiêu năm nay, bi giờ tôi mới thấu hiểu, vì đã cố tình chọc cho bạn thực sự nổi giận ha. Vô vàn so sorry nhe ông tướng. Kh còn giận H không nào!? Mặt mày Kh “oai nghiêm đạo mạo” giống đúc ông cụ như thế, mà nay Kh “nổi trận lôi đình” với H, chắc là coi Kh “hình sự” lắm ha! Tiếc là lúc nầy không có H ở đó, tiếc quá! Thôi thì … Dù H bị “xốc”, nhưng để H vụt đứng dậy chạy có cờ vô nhà pha cho bạn một ly cối to bự sư nước chanh đường, kèm theo những “hòn đá cục” mát lạnh, để bạn nhai rào rạo, cho đã cơn tức. Hen. Nếu Kh có gãy cái răng nào, để H len lén xịt thuốc mê, thuốc tê, thuốc… ngủ, H nhổ răng mà đền cho Kh cái “răng dàng le lói" khác! Nhân tiện khi bạn ngửa cổ nhắm mắt uống nước chanh ừng ực, thì H nói líu riú bằng tiếng Việt: “cho H xin lỗi Kh lần nữa nhen".
              Vẫn không chịu hở! Người gì mà “lì” coi thiệt dễ sợ và dễ ghét quá đi thôi. Vậy chứ H cầm ly cối chanh đường đá nặng muốn bủn rủn… Vậy chứ Kh… Vậy mà… Thôi, hổng nói nữa, H phải “im lặng là dàng”… Nếu nói nữa sẽ “lộ tẩy” ra… Kh lại dộng cho H thêm (một cái “meo” thì… “méo” xiểng liểng làm sao). H làm gì đây, Kh biết không, bị bạn la những lỗi rất đúng, H không hề giận bạn kià! Ồ ngộ ghê bạn ơi… tôi cứ nhìn bạn mà cười toe toét đó. Nhưng… H cám ơn Kh vì xét ra bạn hiền, nhân hậu và nhẹ nhàng ưu ái với mình nhiều. Chứ nếu có ai mà trêu mình kiểu như H đã trêu Kh, thì chắc chắn kẻ ấy sẽ bị H… ít ra cũng nghiến răng trèo trẹo, mà cú cho họ lủng cái sọ, trơ cái “đầu lâu” nà).

              Bây chừ Kh có còn hơi bực mình khi đọc như vậy nữa không? Cho mình năn nỉ ỉ ôi và… thút thít xí nhe. Để tỏ lòng “hối hận, ăn năn”, H gởi tặng bạn mấy tấm hình… kèm bản nhạc H thích (chẳng biết bạn có thích không). Nhất là H cám ơn bạn đã hồi âm liền, H thật sự mong tin Kh vài tuần nay (giống như ngày xưa vậy). Nhận tin Kh mừng và vui như lữ khách gặp đồng hương. À… có một dạo vắng bặt tin Kh dài lâu, H có ý muốn nhắn tin ở các báo, đài..., (như tìm trẻ em bị lạc), nhưng H suy nghĩ rất kỹ, bẻn không chôc bạn nữa.

              Sau khi đi VN về, hôm nay H đã khoẻ lại, tuy rằng thời tiết tại đây đã lạnh, gió lùa mạnh kinh khủng. Thật kỳ: “Gió mưa là bệnh của Trời. Ốm đau là bệnh của tôi nhớ người”. Hi hi… câu: “Ốm đau là bệnh của tôi nhớ người”, là H nói thật với bạn. Phải… dù đã ở Việt Nam, ở Mỹ, hoặc nơi đâu, H thường nhớ đến “người ấy”, hằng ngày cầu nguyện cho họ và gia đình họ bình an, vui vẻ, hạnh phúc. H mừng. Thế mà chẳng hiểu sao H không liên lạc với bất cứ ai. Có lẽ H sợ tiếng nói của mình sẽ bay vào hoang địa, không lời đối thoại, thì sẽ dội lại lòng mình những nỗi xót xa buồn bã ngút ngàn. Nhưng liên lạc rồi, thì sẽ ra sao nữa đây, khi kẻ chân trời người góc biển, đâu lại hoàn đó. Ôi là buồn. Kh có thấy H lãng mạn, vu vơ vớ vẩn quá không? Thiệt tầm bậy tầm bạ ha. Xin lỗi bạn, tôi thường có những khi lẩm cẩm rắc rối ba xàm ba láp như vậy. Tha lỗi cho H nha. Khang biết không, hôm nay H mở thư Kh ra đọc, bỗng dưng cảm thấy vô vàn tiếc nhớ, quay quắt kỳ lạ. Vì khi nghe Kh nói:
              - “Khang đã email hỏi lại Huyền lần nữa, hy vọng nếu bạn còn ở VN, thì tôi sẽ tìm gặp để thăm H. Nhưng rồi mình chờ hoài mà không thấy bạn hồi âm... Huyền biền biệt bóng chim tăm cá! Nay H nói vậy, Khang nghe rất buồn mà không ngần ngại trách rằng Huyền tệ với Khang nhiều lắm”!
              Khang ơi! Không phải như vậy đâu, ngược lại... H không muốn bạn buồn chút nào hết. Thôi thì bạn cứ trách mắng H cho hả giận, cũng đáng đời đáng kiếp H lắm. Quả thật là mình rất tệ. H xin lỗi bạn nhiều nhen. Mặc dù do H lu bu bận rộn quá, H hối hận, cứ dày vò mãi. Tại sao ngày ấy chúng mình gần nhau đến thế, mà mình không nhắc phone lên gọi Kh, hỏi thăm hoặc vỏn vẹn nói vài tiếng Hello bạn... H sợ! Vậy thì, nếu lần sau H về VN lần nữa, bạn (gia đình, nội tướng) có làm hướng dẫn viên dẫn đại gia đình chúng tôi đi chỗ nầy chỗ nọ không nào? Tuy nghĩ vậy, nhưng H (nói nhỏ chỉ mình Kh nghe thôi nhen)… H nghĩ bạn khó thực hành khi Kh “ở nhà” bị “kềm kẹp” liên miên. Ha ha… Mình mời toàn gia đình bạn và đại gia đình mình “nhập cuộc” du hành với thiên nhiên, thăm tha nhân, lo gì bạn bị ngắc nhéo hổng biết. Lần trước, sau 10 năm H không về quê cũ, nay nhiều nơi hoàn toàn thay đổi, có lần H đi một mình, đi đây đi đó, có một lần H đã bị lạc đường, cho nên các anh chị ở VN la mình quá chừng. Vậy là mấy lần sau họ cho các cháu đi kè kè một bên, như canh giữ em bé còn bú ti. Tức cười ghê.
              Phần H, suốt từ tháng Tư năm ngoái đến đầu tháng Giêng năm nầy: H mệt mỏi đủ mọi thứ chuyện chẳng vui, vì giấy tờ hai cái nhà, tiệm tùng... việc làm và chuyện cơm áo mỗi ngày. Dù chỉ vài hàng ngắn ngủi cũng chẳng viết nỗi tin cho bạn... Quả đúng như Huyền nói:
              - “Dạo gần đây tâm H không hề an, sức khỏe không được ổn, cách đây đúng ba tuần thân nhân chở mình vào cấp cứu ở BV – H nằm lại nguyên một ngày, qua các thủ tục và đủ thứ khám nghiệm, chả có ăn uống thuốc men gì, ấy vậy mà tốn hết $1,856 cho cái chi chi đó!!!
              H thật quá mừng, vì H không hề bị đau tim, (mà đau bên ngực trái kinh khủng, do đau cơ bắp thịt không thể chịu nỗi). Bây giờ vẫn H còn đau đau mỗi lần thở mạnh, hay nằm yên ngủ một đêm tới sáng, không trở mình, là bị đau.

              Cám ơn bạn đã đến thăm mình. Kh có khỏe không? Lẽ ra H hồi âm thư bạn khuya hôm qua, nhưng không thấy tiện, chỉ vì tính H ưa vui dzai, thích đùa nghịch xí, nghĩa là: H tính gởi hình vài cô bạn, để “đố” Kh, và mời hãy kết bạn với họ, cho vui cửa vui nhà xí mà. Có ai ngờ điều ấy làm bạn nghĩ ngợi cả tuần, mà không chịu “hồi... tưởng”. Bởi, nói thật là mình quý mến Kh & không muốn phiền lòng bạn đâu. Mình chưa bao giờ nói “tặng ai” tấm hình mà. Chứ khi tặng hình ai, thì dĩ nhiên là khác với “đố ai”, phải không nhỉ? Coi như H có lỗi về v/đ kém tế nhị nầy nhe. OK? Bây giờ H thực sự hiểu bạn chính là "ông cụ non" không thích kiểu ưa đùa dai hỉ! Từ nay H không giỡn hớt bố láo bố lếu, tự làm mình nhức bưng cái đầu! Về chuyện hình bóng Ngọc Vân mà mình gởi cho bạn, Khang nói:
              - “Tôi trân trọng người gởi hình cho mình, dù người đó là ai, lớn hay nhỏ tuổi. Kh nghĩ thích hay không thích một người, không phải từ một tấm hình, Kh không quá đặt nặng hình thức bên ngoài của một con người, Kh mến một ai đó, không vì vóc dáng xinh tươi bên ngoài, bởi những cái hình thức bên ngoài ấy, nó không giúp tâm hồn Kh giàu hơn lên bằng cá tính của một con người. Kh là người vốn sống bằng nội tâm, cho nên tâm hồn tư tưởng của một con người, là điều Kh thấy qúy trọng và cần thiết hơn”.

              Điều bạn nói trên kia là hoàn toàn phù hợp với H. Tuy nhiên xin lỗi bạn trước nhe: Bởi H giới thiệu cô bạn thân quen mình cho một người khác (mà H biết chắc chắn làm điều ấy thừa, vì "người ta" có đủ bản lĩnh và khả năng tự chọn, tự đi tìm... kiếm mẫu người họ ưa thích, chả cần giới thiệu môi giới kiểu "ruồi bu"...). Khiến "người ta" không ưng, không thích; mà còn xì nẹc mình, cũng đáng lắm. Chí phải! "Tiên trách kỷ, hậu trách nhân"; Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi... mọi đàng.

              * Thì bạn cũng nhận thấy niềm cảm mến dù H dấu trong lòng, không nói ra cũng thể hiện: “bằng chứng H mến Kh từ ngày biết nhau, mà không cần biết mặt mũi ra sao, rồi mới khóc và mến đâu! Bởi H cần có những người bạn có chiều sâu tâm hồn: để an ủi, tâm sự, chứ hình thức bên ngoài là một yếu tố bổ sung cho một con người... Điều đó nói lên H rất trân quý tháng ngày chúng ta đã quen biết nhau, H gìn giữ riêng biệt như một kỷ niệm quý giá cuối đời. Từng đó thấu hiểu & thông cảm đã đủ nhiều.
              Quá lâu rồi không gặp nhau trên mail hỉ, Kh và gia đình có khỏe không vậy? Có gì vui không, kể cho mình nghe với nhen, & để đọc lại mấy vần thơ mà chúng mình đã làm nè. Bản nhạc "Tiếc Thu" đó Kh hát rất hay, nghe thích lắm. Nhưng bản nhạc hôm qua Kh hát trên Facebook đó, nghe sao mà... chán phèo! Dỡ quá! Dỡ không phải do giọng ca Kh không hấp dẫn, mà do bạn chọn bản nhạc đó không hợp với giọng ca trầm ấm của mình, đồng thời nhạc và lời của bản nhạc đó không xuất sắc, cung bậc nghèo nàn, tiết tấu không hài hòa... nên không thể quyện hút & gợi cảm đến người nghe. Xin lỗi, tính H nói thẳng, mong bạn đừng lấy đó làm buồn mà giận mình nhen. Bắt đền H cái gì cũng được, nhưng đừng buồn vì lời mình nói thẳng nhen. Quá khứ ơi! hãy trôi đi, đừng gợn lại làm gì. Nếu H có lỡ lời làm bạn buồn đến thế.
              Tạm biệt nhau (ở thư nầy) được chưa bạn? Chúc Kh có những ngày vui... hy vọng là thư nầy sẽ đến bạn sớm nhất sau khi Kh đi đánh tennis về, và… Kh sẽ nở nụ cười thư giản. Vài hàng thăm bạn, H muốn gởi theo thư nầy một lời chúc tốt đẹp đến người bạn thân: Cầu mong Kh và gia đình luôn dồi dào sức khoẻ, an lành, hạnh phúc và như ý nhe.
              Qúy mến,
              Á H

              * * *

              Ngày... Tháng... Năm...

              Ánh Huyền thân ái,

              Sorry vì reply too late. Hôm nay mới open mail box nên nhận và hồi âm trể. Vui lòng bỏ qua. You à, Me chúc happy new year thì chắc có lẽ sẽ có; nhưng Merry Giáng sinh thì không, bởi You viết như vầy "Merry ChIRstmas” thì làm sao merry được!!! Cái này thì chắc cũng đáng đánh đòn, sao không là: ChRIstmas ?
              Không biết nhớ ai mà viết lộn như vậy? Kh thì lúc này tâm không an, dù rằng sức khỏe ổn. Vì sao "run... run", mà tim có đập mạnh không, hay chỉ run run thôi?? You gởi gì đó, mà Me có open được đâu! view thôi cũng không được nữa! nói chung gmail của mình có vấn đề gì đó, cảm mạo thương nàng ý ý!! thương hàn gì đó, nên file gởi tới cứ bị error hoài. Lần sau gởi thì nhớ CC qua bên yahoo cho mình luôn, để bên này bị error, thì có bên kia nhen. Hôm rồi Me có nhận được tấm hình cô bạn (cuả Huyền), cô chỉ có tấm hình thôi mà không có bất cứ chữ nào. Me phân vân lắm, nghĩ ngợi nhiều vì sao mà cái mail không có dù chỉ một lời, mà vỏn vẹn tấm hình! dù vậy, sau đó Kh cũng e-mail cho bạn ấy, nhưng... không thấy gì! thôi thì cứ coi như mình gởi gió cho mây ngàn bay... ngại làm phiền người khác, nên cũng không dám hỏi. Me chỉ nói vậy thôi, You nên quên chuyện này đi, đừng hỏi tới hỏi lui gì cô bạn ấy nha.

              Lâu rồi mới trở lại với một bài thơ, H thấy Me làm thơ giống say xỉn quá phải không? Mình vẫn nhớ những ngày chúng ta mới biết nhau, đó là những ngày đẹp đối với Kh, và chắc mình sẽ không quên những ngày tháng đó... Sau cùng, nói gì thì nói You vẫn nợ Me! cho tới chết cũng không quên món nợ khó đòi này. Khi nào buồn đời thì cứ mail tâm sự với Kh nha, nhưng đừng khóc, vì tui không chịu nổi nước mắt của ai cả. Tức quá cho nên Me vô đề liền nghe: Ngày 29 Oct, mình cảm tác bài “Eo biển manche” và gởi mail bài đó cho bạn, cũng ngay hôm đó You Re: lại cho Me, và trong mail có bài “Tình hào quang cầu vồng”. Trong mail cũng nói: "Me thích tấm hình ở trong chat, tấm hình cũ ấy. Nhưng sao You ưa... "nhìn đời bằng hai mãnh ve chai" vậy? Không muốn cho ai thấy "đôi mắt đẹp anh nhìn"... hay là: "em nhìn anh đôi mắt đẹp... ha ha.
              Chuyện mới đây thôi, mà You không nhớ sao, lại nhớ chuyện hồi trước năm 75? nhớ trường Võ Bị có cái gì gì? nhớ Tết Mậu Thân đạn bay ì xèo... Vậy đó, người ta gởi hình cho mình, mà mình thì im re, không "đáp lễ" – như vậy không unfair là gì? mà cũng phải! để ý chi cái ông này! chuyện hình ảnh là chuyện như con kiến mà...

              Nói tới chuyện này lại ức và ức... là “tới đâu”, có khi một tháng một lá thư, mà nó TỚI thì nó vẫn cứ TỚI à nghen. Bởi viết tràng giang đại hải, nói trời nói mây, thiên lôi sấm chớp thì cũng như… không hà. Cũng như ngày xưa pháo kích bằng đại pháo hay hoả tiển 122 ly hàng loạt mấy chục trái, mà rớt tầm bậy tầm bạ, thì ăn thua gì. Còn chỉ cần 1 trái mọot chê 81 ly thôi, mà bắn trúng, là ăn tiền à nghen. Mà You nói: “lâu lâu Me dúi cho You ba chữ cái, bốn chữ con”, là không đúng à nghe, coi lại đi! Vậy chứ, nói tới mới nhớ, H đã viết thế nầy: (Huyền viết cho bạn hai ba lá thư, thì Khang chỉ "RỈ RA" chỉ có vài chữ, thì đã sao)?

              Khang nhớ hổng có nợ Huyền cái mail nào à, có lần Me nói vậy rồi, mình reply mỗi lần nhận được thư, chỉ có trể chút thôi bạn à, sao mà nói quá vậy ta. Lại còn viết: “Với lại, Me hoàn toàn không được biết rõ về bạn đang ở đâu, phương trời nào, vợ mấy người, con mấy đứa, thì làm sao mà dám tự tiện trao Bóng với Hình!). Phải không nào!? Nhất là... Thực tế mình hoàn toàn không phải là kiều nữ như ai miêu tả về mình, càng buồn thay là mình quá xấu”. Nói vậy cũng không xong đâu, chuyện gởi hình để biết nhau, thì không dính dáng gì tới chuyện ở đâu, con mấy đứa, vợ mấy người hết á. Huyền đừng đem lý do đó ra nói, là không ổn đâu, ở trời Đông hay trời Tây thì cũng ở trên quả địa cầu này mà thôi, máy bay bay 500 knots/giờ, cầm boarding pass trên tay, thì đâu cũng tới, có khi ở gần kế bên, mà lạnh như cục nước đá, thì cũng cầm bằng không.

              Còn vợ con mấy "đứa" thì từng tuổi này ai cũng có cuộc đời riêng, và hệ luỵ của đời mình! Như vậy, chỉ trừ chuyện một người ở dương gian còn một người ở âm phủ, thì mới nói không cần biết hình bóng của nhau. Còn chuyện xấu đẹp, thì đâu phải lúc nào con người cũng cần hình thức bên ngoài của một người nào đó? Tâm hồn của một con người cần thiết hơn bạn à, nhất là những người không còn trẻ như chúng ta, thì hình thức bên ngoài là điều có cần thiết lắm không? Bạn trả lời đi. Nầy nhé, bạn viết cho Khang:
              - Người khác mỗi ngày viết ít ra cho mình một lần thư, hay mỗi đêm 1 vài giờ chat. (mà còn chưa tới đâu) Còn Kh; đằng nầy... năm thì mười họa mới "dúi" cho người ta ba chữ cái, bốn chữ con bé tí tẹo! Xí.
              - "Người khác"… viết "CHO MÌNH" mỗi ngày hay Chat, thì kệ người khác, chưa tới đâu, hay tới đâu thì đằng ấy biết, mà đâu cứ phải mỗi ngày một lá thư hay chat: 5,7 giờ là TỚI ĐÂU… Có khi một tháng một lá thư mà nó TỚI, thì nó vẫn cứ TỚI à nghen. Bởi viết tràng giang đại hải, nói trời nói mây thiên lôi, sấm chớp thì cũng như… không hà, cũng như ngày xưa pháo kích bằng đại pháo hay hoả tiển 122 ly, hàng loạt mấy chục trái, mà rớt tầm bậy tầm bạ thì ăn thua gì. Chỉ cần 1 trái mọot chê 81 ly thôi mà bắn trúng, là ăn tiền à nghen. Mà nói lâu lâu dúi cho ba chữ cái, bốn chữ con, là không đúng à nghe, coi lại đi.

              - Chuyện nhận Ái Huyền và cô bạn kia làm đệ tử: thì tôi không dám, vì có khi rồi trò dạy thầy viết mail ngày mấy cái, thì chết! Cũng cám ơn You đã chuyển thư của tôi cho “ai đó”, cám ơn nhiều nghe. Cô bạn cuả You muốn theo làm đệ tử tôi, thì chỉ khổ thôi, tôi chẳng bao giờ và chưa bao giờ cưng nữ đệ tử cả, trái lại còn nặng nhẹ, hành hạ đủ điều nữa, và sẽ phải khóc nhiều vì tôi. Chẳng lẽ hôm nay mồng 3 còn Tết Dương Lịch mà nhăn, thì không được, nên mình phải cười đây bồ tèo. Hơn nữa bạn chúc Tết cho mình dài cả cây số như vậy, thì làm sao mà nhăn nhó? You chúc vậy cho nên Me chẳng biết phải chúc lại bạn cái gì! khổ thiệt! Sau cùng chúc bạn và ai đó cùng "bán nước đá" vui hỉ. Chuyển lời thăm hỏi của tôi tới cô gái con ông đốc phủ sứ quê xứ Nam kỳ nghen. Thư nào cuả Me cũng dài cả mile, mà nói "RỈ RA" chỉ có vài chữ! thiệt là phụ nữ muốn nói sao cũng được! chỉ biết thở dài đây!
              Bạn à, xin lỗi thêm lần nữa vì chậm trả lời cho đúng dịp đầu năm. Nhưng chắc bạn cũng hiểu Già rồi nên chậm, chứ Già thì không quên, mà không quên nhau là được rồi phải không? ông gì đó nói: “Thuở đợi chờ ôi thời gian rét mướt”. Nhưng nhiều khi phải đợi chờ một cái gì đó, khiến cuộc sống thêm thú vị, như chờ đợi tin ai đó chẳng hạn, nhiều khi mình phải đi vô, đi ra, thơ thẫn, thẫn thờ... khiến lòng mình chơi vơi. Có đúng không nào? mà bạn có lần nào như vậy chưa? chắc không thể không có.
              Có thể nào cho mình biết vì sao mà “Tâm” của Huyền không hề an không? băn khoăn, xao xuyến là vì sao? Chữ muscle là cơ bắp, là bắp thịt thì tiếng Anh viết vậy. Ngủ một mình nhiều khi bị đau tim... là vì có thể không ôm ai, mà cũng do nằm nghiêng và nằm vị thế đó hoài, nên mới bị đau... tim. Còn nếu nằm nghiêng mà có ai bên cạnh, để vịn vai hay quàng lưng bá cổ, thì sẽ không bị đau tim đâu há!

              Huyền ơi, hôm nay thì Me trọn tình hồi đáp rồi nhé, Me không nợ You cái mail nào phải hông? Chúc H nhiều niềm vui, hãy cố giữ tâm cho ổn để khỏi "băn khoăn, xao xuyến" hãy đi bộ đôi chút, hít thở thật đầy khí trời trong lồng ngực, để đêm về có giấc ngủ sâu, là Tâm sẽ an thôi à. Kh vẫn nhớ tất cả những gì đã có trong đời mình, nhớ những ngày xa xưa thật xa, và nhớ những ngày đã vừa qua với You đây thôi. Hôm nay bên VN trời đang mưa, trời xám xịt âm u xám tối, vì trưa hoặc tối nay sẽ có một cơn bão sắp vào đất liền ở miền Nam thổi ở Cần Thơ, Cà Mau, chắc chắn ở Vũng Tàu Bà Rịa cũng bị ảnh hưởng. Giờ này bên đó chắc you chuẩn bị đi lễ. You nhớ cầu nguyện cho mọi người trong quê hương mình luôn bình an, nhất là an toàn trước cơn bão nhe.
              Tạm biệt
              NTKh
              ***

              Huyền thân ái,

              Đọc thư Huyền, Khang mới biết thêm những điều mà trước nay Kh không hề biết, hoặc có biết thì biết không tường tận. Cũng nói thêm là nếu mình có chậm trể trả lời thư, thì H thông cảm, mà không lấy đó làm phiền trách, hoặc thất vọng mỗi khi mail box không có thư của Kh, như H vẫn nghĩ nha. Kh bất ngờ lắm khi biết H đã nhiều lần lặng lẽ trở về quê hương, và đi nhiều nơi! Thời gian ấy, những lần H về, có lẽ vì vô tình mà Kh không biết, hoặc do H không cho Kh biết (thay đổi username chẳng hạn). Hay nói đúng hơn bắt đầu từ ngày xa xôi ấy, chúng ta chưa có cái duyên diện kiến để hàn huyên, sau một thời gian biết nhau khá dài.
              Quả đất tròn như người ta thường nói sẽ mãi vẫn tròn, nên biết đâu có ngày Kh gặp H ở đâu đó, nếu trời còn cho Kh có đôi chân vững mạnh. Hoặc trên hết là nếu chúng ta có duyên gặp gỡ. Phải không Huyền? Ôi chao sau bao nhiêu năm dài đăng đẵng! nói thêm ra một chút cho "não nề" thì một thập niên, tức là gần 1/10 thế kỷ kể từ khi hai đứa mình biết nhau, đến nay Kh mới thấy được dung nhan của H, người mà trước đây hình như có lần nói với Kh rằng:
              - “Có lần H nhỏ lệ khóc thương Kh”, (khi Kh lâm trọng bịnh, tưởng chừng Kh không qua khỏi). Người đã than rằng: “Kh và H đã mất liên lạc bỗng dưng tàn phai”! Người đã nói câu chân tình: “H vẫn nhớ và hứa với lòng là sẽ đi tìm thăm bạn”. Quả thật, H đã tìm Kh khắp nơi… người đã hỏi mình rằng: “Trọng Khang …cuả ngày xưa đó ư”? Người đã nghĩ đến Kh: “Người năm xưa cuả …năm cũ ấy, đã từng hoạ thơ với nhau, đó là một người mình rất quý trọng, mang trong tâm tư nhiều vấn vương, phiền muộn từ giọt nắng bỗng dưng phai tàn, thảng thốt mà H đâu có ngờ”! Người đã nhận ra chính Khang & Huyền là đôi bạn ân tình của ngày nay.
              Huyền ơi! những phiền muộn, bẽ bàng xót xa là do câu chữ nào? mà H ghi tạc trong lòng vậy Huyền? Rồi bây giờ, sau bao năm dâu bể gặp lại nhau, “người” như trách thầm: “Anh ngày xưa (của mấy... dấu chấm bỏ lững đó) không biết bây giờ lòng dạ ra sao, nhưng chắc anh ta không khỏi bồi hồi và “tình yêu dấu” (nếu có) ẩn chốn nơi nao, mà H hỏi (có cả dấu chấm than nữa. Cái dấu chấm than đó đủ làm cho những người nhạy cảm, sẽ cảm thấy có những vấn vương bùi ngùi) làm sao biết!

              Huyền ơi, đôi khi người già, thì sự hờn giận còn hơn là trẻ con nữa đó! Trẻ con giận là do bản năng ngây thơ, thấy mình còn nhỏ, mà còn nhỏ thì thích được âu yếm cưng chìu, nên thường phụng phịu hờn dỗi. Người già giận bởi biết suy gẫm cân nhắc. Cho nên một khi “già” đã giận, thì cái giận cái hờn của người già khác với con nít nhiều lắm. Kh muốn biết khi “H hờn giận Kh”, thì khác với trẻ con ít nhiều ra sao? (để Kh dè dặt đề phòng, không khéo sẽ làm “mất nhau” vì hờn giận nữa, thì nguy to)! Lúc đó chắc là Kh chịu thua, không thể dỗ dành H. Kh hy vọng hôm nay sau khi mình thức dậy, sẽ có niềm vui mới và bầu trời Sài Gòn quang rạng, trong trẻo hoà ái hơn. Bây giờ Kh chỉ biết nhìn hình H, mà cảm thấy như là chúng ta thân quen, gần gủi lắm. Bởi từ chốn nao xa xưa, dường như mới hôm qua diện kiến dung nhan (dù rằng hôm nay mới lần đầu Kh nhìn thấy bạn, mà Kh đã đồng cảm về câu thơ: “Sương trên ngàn lả lả men nồng nhiều”. hi hi hi…

              Kh trả lời liền liền nè, Thanks a lot đã làm theo yêu cầu, "nể chút tình với người xưa", H làm Kh cảm động! Hổng phải Kh sợ nàng nào đâu, mà chỉ vì mấy ông bạn ngắt véo hù doạ mình hơi nhiều. Ha ha ha. Cám ơn H đã gởi cho xem dung nhan hôm nay của "người xưa". Huyền làm Kh bỗng dưng muốn hỏi câu cuối trong những lời hoạ thơ ngẫu hứng, mà căn nguyên là do từ tấm lòng của H vẫn còn nhớ đến Kh suốt một thời gian quá dài đằng đẵng trôi đi, trôi đi… khi Khang nằm liệt giường. Kh vốn không trách, hay cố chấp với một ai, vì những chuyện không quá hệ trọng bởi tình thân, mối giao hảo luôn có thể vượt trên tất cả những chấp nhất. Nếu đặt sự cẩn trọng trung tín và cảm thông lên hàng đầu. Vậy thì H đừng quá suy nghĩ chuyện này mà ray rứt, hoặc xem đó là một nỗi buồn muôn thuở nhe.

              Cám ơn bạn đã lắng nghe Kh hát, Kh biết mình ca không hay, nhưng thỉnh thoảng cũng lên youtube líu lo nghêu ngao chút đỉnh, để còn cảm thấy làn hơi, âm vực, tiếng nói của mình, có thể diễn tả điều gì đó trong tâm tư đầy diễn cảm. Cũng như qua đó, lượng được sức khoẻ của mình trong hiện tại. Thỉnh thoảng Kh làm thơ, hoặc hát hò chút đỉnh, chẳng qua chỉ có trong những lúc thấy cảm hứng, mà H biết cảm hứng thì bất chợt, có thể kéo dài hay đứt đoạn thật lâu, phụ thuộc bởi nhiều yếu tố nội tâm, hay những tác động bên ngoài. H có lắng nghe Kh hát, thì đó quả là một niềm vui đối với mình. Về bản nhạc “hiu hắt kia” thì tuỳ người nghe, mỗi người có cảm nhận riêng, nhạc cảm và tâm trạng riêng; cho nên không bao giờ me buồn (vì một nhận xét hay phê bình của ai), người ta nghe là tốt rồi, đôi khi mình hát giùm cho tâm trạng một ai đó, hoặc cho mình, cho một hoàn cảnh, một mối nhân duyên không vẹn nào đó đã qua trong đời, vì lời nhạc có những tương đồng, (chứ không phải hát cho mọi người). Ở ca khúc ấy có khi cho mình, hoặc cho ai đó gợi nhớ về thời xa xăm, mà cả hai có những dại khờ, cố chấp, để rồi vỡ tan tình cảm. Cũng như làm thơ đôi khi cho mình, đôi khi khơi khơi kiểu thương vay khóc mướn, Huyền có đông ý vậy không?

              Cám ơn you về chuyện thơ được bạn you ngâm và ai cũng khen hay, nghe nói khen hay, me mắc cỡ vì những câu thơ ngẫu hứng đó không có gì xuất sắc, mà lại được bạn cuả you ưu ái ngâm trên tivi. Nhưng dù sao thì chuyện đó đã làm you vui và "thích lắm", nên me cũng vui và thích lắm lây. Còn việc you hãnh diện khi có “một người như ai", thì you coi lại nghe, me không được như you nghĩ đâu, you càng hãnh diện thì có khi càng thất vọng đó. Lâu nay me không có thơ thẩn gì hết you ạ, đầu óc rỗng tuếch gần như không có cảm hứng gì, để có thể ghi thành lời. You có tiếc bao nhiêu đi nữa, thì chuyện “thơ thẩn” đã rồi! Làm sao quay lại thời gian? Cũng như chúng mình nên an ủi nhau duyên gặp gỡ trên tao đàn tri ngộ chưa có, nên chưa gần kề. Nhưng mà cũng như xa cách một đại dương như đang cách trở bây giờ vậy. You về Việt Nam quá vội vì việc riêng, không cho me biết, không gọi me, thì làm sao you biết Me "không lời đối thoại" hở? Me không muốn you suy nghĩ giùm me, không muốn nói giùm me, nhe! Nhưng Kh có chút bất bình khi đọc câu Huyền viết:
              - “Rất chân thành cám ơn bạn đã còn nhớ tới kẻ hèn và chịu khó hồi âm”.

              Khang thật sự không thích khi Huyền nói như vậy, chúng ta có một mối thâm giao từ rất xưa, dù không được liên tục trong những năm qua, nhưng không vì thế mà có những suy nghĩ có vẻ lạt lẽo xa cách, và khách sáo đến vậy. Đọc hết cuối thư Huyền xong, thấy lòng mình bùi ngùi vì những lời chân tình, mà như có chút trách hờn trong đó. Kh cũng xao xuyến cảm động khi đọc đến những chữ sau cùng trong thư ấy, rồi Kh lẩm nhẩm một mình hai tiếng: “thời gian, thời gian...”.
              Kh dừng nơi đây Huyền nhé. Thân chúc H và gia đình luôn an hoà, như ý và hạnh phúc.
              Thân ái,
              NTKh

              ***

              Tháng Mười Một năm 2008

              Ánh Huyền thân mến,

              À, về việc khóa cái USB. Thật ra Kh không thường dùng mấy vụ này, nhưng theo những gì H nói, thì Kh hiểu H muốn dùng software để cất mấy cái files, hay Folder nào đó, để bảo đảm là không ai thấy, coi hay đọc được. Kh thấy bạn muốn xử dụng Folder Protect 5.5 (version). Khang không biết bạn đã install cái software đó vô computer của bạn, gởi file đó dưới dạng Zip chưa? Như vậy H phải extract nó, để thấy được file, sau đó install nó vô máy của H nha. Trong trường hợp H không bung cái Zip file đó ra được, thì H vô link này, rồi download nó direct vô computer của you. Vì muốn biết nó sẽ processing như thế nào, nên Kh cũng download để dùng thử, và qua đó mới biết, mà chỉ dẫn cho H nhe.
              - H vô link này. http://en.softonic.com/s/folder-lock-5.5.7
              - Khi web này hiện ra, H thấy nó có ghi Folder Lock 5.5.7 (140 program).
              - H bấm vào dòng chữ Folder Protection (biểu tượng là cái chìa khoá), nó sẽ hiện ra bảng menu Free Download.
              - H bấm vô đó, nó xuất hiện cửa sổ download, H chỉ cần bấm vào nút có chữ Start Download.
              - Một menu khác sẽ hiện ra, you bấm vào nút OPEN. Lúc đó sẽ có menu Folder Protection Download Process xuất hiện, và you chỉ cần bấm vào nút Accept.
              - Bảng menu Default TAB xuất hiện, you bấm vào nút Custom (nếu you không bấm vào Custom, mà để nguyên nút Express, thì khi installing, nó sẽ tự động install thêm mấy cái search homepage không cần thiết vào máy, sẽ làm “mệt” You thêm hi hi). Bấm nút Custom xong, đừng bấm vô 3 cái ô vuông bên dưới làm gì (skip mấy cái nút đó), mà chỉ cần bấm Next.
              - Một bảng menu mới có tên Softonic xuất hiện, you bấm gỡ bỏ cái mark mà nó default trong cái ô vuông, có chữ Download and Install Softonic, xong chỉ việc bấm tiếp Next. Chương trình sẽ install cái software Folder Protec cho you.
              - You chờ mấy giây, sẽ thấy một bảng có tên Folder Protector hiện ra. Phía dưới cái khung màu vàng, bên tay phải, you sẽ thấy một cái icon như cái hộp mở nắp, đưa con chuột vào đó, you sẽ thấy có chữ : Select Folder To Protect, you bấm vào cái icon đó, để nó hiện ra tất cả thư mục, trong các hard disk xong, you bấm chọn cái folder nào, hay disk nào, hay USB mà you muốn protect nó.
              - Tiếp theo là you cho password vào 2 cái window (với 2 giòng Password và Re-type, cái này thì you rành rồi) xong You bấm vào ô chữ Protect.
              - Một bảng menu có câu hỏi Do you want to Protect? lúc đó thì chắc chắn you phải bấm chữ OK rồi, phải hông? He he. Như vậy là xong.
              - Lúc này trên màn hình desktop của you sẽ có một biểu tượng Lockdir với cái ổ khoá bự chảng! Sau đó, khi cần xài, thì you bấm vào cái ổ khoá đó, nó sẽ hỏi password, you điền pass vào, phía dưới có 3 nút theo thứ tự: Virtual. Drive. Temperory. Complete mà trong đó tác dụng của nó là:
              - Virtual Disk: Khi bấm chọn ở nút này rồi, bấm Unprotect ở phía dưới, nó sẽ cho you thấy dữ liệu đã được protect, để you làm việc với dữ liệu đó (nó như một disk ảo, để you làm việc) do đó khi bấm tắt chương trình, thì dữ liệu vẫn được khóa như ban đầu. Lúc này những folder, hoặc file nào mà you chọn protect, và có để shortcut folder, hay files đó trên màn hình destop, thì những files và folder đó sẽ ẩn luôn, không ai thấy được.
              - Temporary: nút này sẽ có một menu xuất hiện, nếu để nguyên menu này, là you có thể làm việc với dữ liệu đã khóa, nếu tắt menu này, folder sẽ tự động khóa lại như ban đầu, nếu click Cancel Protection, lúc đó các folder sẽ được mở khóa hoàn toàn, vô hiệu việc protect! Cũng vậy, lúc này những folder hoặc file nào mà you chọn protect, và có để shortcut folder, hay files đó trên màn hình destop, thì những files và folder đó sẽ ẩn luôn, không ai thấy được, giống như đã nói trên.
              - Complete: Khi you chọn nút này, và bấm nút Unprotect, nghĩa là you đã hoàn toàn mở khóa các folder, vô hiệu việc protect. Nếu vẫn có những rắc rối về password, hay cần hiểu thêm thì you vô link này, để xem. http://www.kakasoft.com/folder-protect/how-to.html
              - Me hy vọng với những chỉ dẫn này, you sẽ làm được.

              * Vấn đề không phải là window 10 hay 9 - hay 8. Win nào cũng được. Có điều you thao tác có đúng không, có chọn đúng software để install hay không. Trong đó có ba mục. Chọn cái như Me đã chỉ cho you. Trên trang giấy cũng có ghi software đó. Nếu you không làm được thì nhờ ai đó biết rành về computer và cài đặt software, để nhờ họ làm giúp. Me không thể chỉ dẫn gì thêm được vì không nhìn thấy. Sorry.

              * Mỗi cellphone chỉ được xài một số cho viber thôi. Khi you về VN you unlock cái phone của you, để có thể xài sim VN, sau đó you cài viber vào phone của you với số phone cái sim của VN.vi. Vậy bây giờ you đi tới đâu đi nữa, thì khi you dùng viber để liên lạc với mọi người, thì cái sim VN vẫn active, vì viber đã lưu số đó. Bây giờ nếu you muốn bỏ viber mang số VN, thì you phải uninstall viber, bỏ hẳn ứng dụng viber trong phone của you. Khi đã gỡ bỏ viber xong rồi you install viber trở lại. Lúc cài ứng dụng viber lại, thì viber sẽ register với số phone của you tại Mỹ. Sau đó you dùng viber mới là chính số của you tại Mỹ. Chỉ có vậy thôi you. Viber thì bên Vietnam xài lâu lắm rồi, và gần như ai cũng biết xài mấy cái free này như Viber, Zalo, Tango, WhatsApp, Messenger (của Facebook) v..v... nếu có smartphone, để gọi hay gởi message thoải mái.

              * Me rất đồng ý với You ở điểm nầy, có chút hợp nhau hỉ! Chúc mừng you đi chơi đây đó ở Pháp, Thụy Sĩ, Rome, Phần Lan, Thái Lan. Mã Lai và VN… Thấy ảnh you chụp các địa danh mà thèm! Nay H đã về nhà bình an. Cũng có phần nào ngạc nhiên khi thấy thư đi khá lâu, mà không có hồi âm từ you. Me nghĩ rằng chắc you không được khỏe, thì ra you bận lên xe xuống ngựa, lên tàu xuống máy bay... do You bận lữ hành đi du hí... Về chuyện vé máy bay của VietNam Airlines đi Mỹ 990 USD/khứ hồi (chưa bao gồm thuế và phụ phí).
              * You thấy đó chỉ là giá vé quảng cáo để bán, mà chưa bao gồm thuế và các phí. Khi cộng các thứ đó vào thì giá vé sẽ trên dưới hơn $1,300.00 you ạ. Cũng như các hãng Hàng Không giá rẻ tại Vietnam rao bán giá vé từ Saigon đi Nha Trang hay Đà Lạt chỉ khoảng 280.000 đến 300.000 đồng/một chiều, nhưng khi mua vé thì cộng thuế và các loại phí vào, lúc đó giá vé sẽ khoảng 600.000 đến 700.000 đồng cho một chiều đi.
              Do vậy khi thấy giá vé rẻ, vào đặt vé online sẽ thấy giá cuối cùng phải trả không như họ quảng cáo. Me thường mua vé cho ngươi nhà đi Nha Trang, Huế... có khi Me đi, cho nên Me rành về việc giá chưa bao gồm thuế và các loại phí. Me chưa nghĩ đến chuyện đi thăm "đất khách quê người " vì dù vé may bay có rẻ, thì cũng không có ngân khoản để đi, hi hi… vì đâu phải chỉ mỗi tiền vé máy bay không thôi, mà còn những thứ khác nữa, đúng không You? khi nào có dịp thì Me sẽ đến thăm You nhé!

              Cám ơn đã có thư thăm me và gia đình, me vẫn bình yên tuy rằng cuộc sống đôi khi cũng không được vui, nhưng đã là cuộc sống, thì khó mà toại nguyện mọi điều. Bây giờ thì lòng dạ me ngỗn ngang không biết viết gì đây! Kh sẽ viết cho H khi bình tâm trở lại nhen. Nhưng có một điều để nói ngay lúc này là: tình thân giữa bạn và Kh vẫn như năm cũ... Hy vọng là thư nầy sẽ đến You sớm nhất sau khi me đi đánh tennis về, và… You sẽ nở nụ cười bình an thư giản. Mình vẫn nhớ bạn dài dài từ thuở trước đến… hôm nay và ngày mai trong tương lai bền lâu. Vài hàng thăm bạn, Me muốn gởi theo thư nầy một lời chúc tốt đẹp đến người bạn xưa: Chúc You và gia đình có những tháng năm vui vẻ, hạnh phúc, dồi dào sức khoẻ, có những việc thường nhật mà you an vui lành mạnh đã kể. Huyền chú ý giữ gìn sức khoẻ và giữ tâm an, thanh thản với mọi điều ước mơ trong cuộc sống nhen.
              Hẹn gặp lại you.
              Thân ái,
              Ngô Trọng Khang
              ***

              Tình Hoài Hương
              Last edited by Tinh Hoai Huong; 01-17-2019, 12:40 AM.
              Bút trần nào tả được lưu luyến!
              Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
              Tình Hoài Hương

              Comment


              • Chia Sẻ Ngọt Bùi


                Chia Sẻ Ngọt Bùi


                Chiến tranh đang vỡ bung ra… nhiều cột khói lửa đỏ rực khắp nơi trên đất nước. Tuy nhắm mắt lại, Đan vẫn thấy đóm mắt hỏa châu thả xuống đỏ rực góc đồi. Giao tranh càng bi thiết, bàng hoàng kinh dị. Nơi nầy cường độ hung hăng chém giết lên tột đỉnh. Tàn ác xâu xé cuồng loạn nhất (ghê gớm hơn cả cảnh Mục Liên Thanh Đề đi thăm điạ ngục). Tiếng mưa trái muà đỗ trên lá rào rào không thể xóa hình ảnh anh Nguyễn văn Năm, lính Thủy Quân gục xuống hố cá nhân, anh giống thân cây kiền kiền bị đốn ngã, khi đại liên 12 ly 7 quạt rát bỏng ù tai, làm tan nát đớn đau lòng người. Đấy là lần đầu tiên trên đường binh nghiệp Đan giương to đôi mắt kinh hoàng chứng kiến đồng bạn kêu gào, co giật từng cơn hấp hối.

                Đan cảm thấy toàn thân nóng rang, phừng phưng luồng khí nóng phẫn nộ dồn lên mặt, nước mắt tiếc thương bạn ứa ra khoé mi lúc hai hàm răng Đan nghiến lại. Trước khi chết chẳng hiểu tại sao họ ngáp rất nhiều, ngáp hoài ngáp mãi, sau đó họ ngáp chậm lại, từ từ chậm lại, vài phút ngáp một lần, và rồi năm bảy phút họ mới uể oải ngáp một lần, ngáp nấc nấc lên thưa dần, lâu dần và tắt lặng, yên ắng hẳn. Họ đã xuôi tay vĩnh biệt chấm dứt cuộc sống. Ấy là lúc mà ranh giới thiêng liêng cuả sự sống và cõi chết đã thực sự đối diện, khốc liệt, tàn nhẫn, lạnh lùng chạm trán nhau chỉ trong vắn vỏi tích tắt thời gian, hầu phân định rõ ràng biên giới âm dương về một mạng người.

                Hai thế giới kinh khủng của một kiếp người đã hoàn toàn đóng ập lại. Hai phân giới vô hình nhưng minh định rõ ràng không thể chạm vào nhau, dù chỉ qua một lằn ranh vô cùng mong manh như sợi tóc! Hằng ngày Đan chạm trán, va mặt với tận cùng chiến tranh gian nguy, cường độ đớn đau tăng mãi trong đời, Đan cúi đầu đón nhận tang thương người khác vò xé, nghiền nát cục sạn đắng cay trong hai kẽ răng, Đan cố nuốt vào lòng. Dần dần rồi quen với bối cảnh tàn khốc ở hiện tại, nhưng cục sạn không trôi vào bao tử, mà dội ngược vào tim anh, chạy lên đầu óc đau buốt đầy thống khổ, như xác định mình hiện hữu. Đan tha thiết mong đóng góp một phần đời bé nhỏ, cho người thân quen vui sống chút tháng ngày an thư. Chứ anh nào muốn phải làm chứng nhân lù đù để chứng kiến cảnh cuồng nộ, thống khổ, bi lụy khốn cùng đang trào máu mắt!

                Sáng hôm sau, bầu trời Minh Long ấm áp đang quang rạnh bỗng chốc vần vũ mây đen, và cơn mưa Xuân trái mùa bất ngờ ập đến, mang theo làn gió rét căm căm. Thật là “gió mưa là bệnh của Trời!”. Mặc dù thế đơn vị tác chiến nơi biên thùy vẫn ăn mừng chiến công anh dũng của quân nhân Cộng Hòa Việt Nam. Giống như J. César sau trận Pharsale, như Napoléon sau trận Austerliz vậy. Nơi nầy giàn nhạc trỗi dậy âm giai tuyệt diệu bổng trầm ve vuốt, mong xoá nhòa mọi bi thương đau khổ cuộc đời qua các tiết mục: Tuyên dương. Liên hoan. Văn nghệ cho người lính quên đi gian khổ nhọc nhằn, có khi chết chóc đang gần kề sự sống.

                Giữa lúc chiến tranh thực sự dày xéo lên quê hương. Ngoài xa thật xa xa kia, từng hồi đạn và trái phá rền vang ầm ầm bùm bùm bùm… Oằng oằng oằng… Pằng pằng pằng… Tạch tạch tạch… làm rung chuyển dãy nhà tôn kêu rè rè. Khói lửa cuồn cuộn bốc lên từ góc biên cương không xa lắm. Thế mà nơi đây người ta cất cao tiếng hát: "Ngựa phi, ngựa phi đường xa. Tiến lên đường cát trắng trắng xoá..." Hoặc hát bài ca than khóc tình yêu..."yêu ai yêu cả một đời... Lòng vẫn biết nếu yêu rồi một ngày sẽ đến với đớn đau..." Thật chả ra làm sao cả!

                Hoà tựa đầu vào góc tường nhìn thiên hạ hoan ca, một tay chống lên bàn kê dưới cằm. Đan mơ màng ngồi kề bên với khói thuốc không đầu lọc. Hai người hợp nhau ở chỗ ít nói, trầm tư giữa nơi đông người. Mãi lâu, Hoà hơi nghiêng đầu về bên vai anh, khe khẽ:
                - Trông anh có vẻ buồn.
                - Vương Tích đời Đường nói: "Mặt nhìn ai nấy đều say cả. Còn một mình ta nở tỉnh sao". Anh buồn vì anh say. Hoà biết anh say gì không?...
                - . . .
                - Không hả? Anh say men đời đó em.

                Hoà kính trọng Đan, một cảm tình thân ái, rụt rè, bẽn lẽn. Anh có phong thái ung dung, điềm đạm, trầm tư và sao mà nhã nhặn quá dỗi. Sau giờ liên hoan, Hoà chia tay anh về nghỉ bên lều trại của mình. Hoà đã nhận lời cùng Đan chiều nay sẽ cùng nhau đi ngắm hoàng hôn lặn bên bờ suối nơi miền núi ngút ngàn thâm u.
                Đến giờ hẹn, Đan vào cổng trại kịp lúc Hoà vừa bước ra. Hai người chầm chậm dạo bước bên nhau. Ráng chiều lượn khúc giữa hai bờ lau sậy lô nhô. Dòng suối lặng lẽ trôi, lấp lánh, êm đềm uốn mình trong nắng vàng hanh. Cảnh vật nơi đây thật đẹp như trong bức tranh vân thủy. Núi cao chót vót. Mây trắng bay bay từng đám dày (giống đàn cừu nhấp nhô cúi đầu lủi thủi gặm cỏ trên núi). Họ vòng theo con đường mòn đất đỏ ngoằn ngoèo, dọc những hàng cây sim tim tím mọc chằng chịt, có trái sim chín xinh xinh, mòng mọng và tròn úc núc. Có con đường dẫn đến một bờ đất là nệm cỏ xanh um, mấy tảng đá to thoai thoải nhô mình lên khỏi mặt nước. Phiá trời Tây trần mây thấp giăng tơ mờ mờ là trại giam hình sự kiên cố, lao tù lạnh lẽo, nhìn như hoang phế trầm mặc, cô liêu và u ám nầy đã có lâu đời từ thời Pháp thuộc.

                Gần đấy là trường sơn xa tít tắp, núi tiếp núi trùng trùng điệp điệp chập chùng, đồi tiếp đồi mù mịt sau những bè mây xám bềnh bồng, chen cánh những đài mây ngà lướt thướt lả lơi bay bay về nơi vô định. Trời nắng gắt đã phủ trong lòng rừng cây rậm rịt màu đen xám, rừng chạy dài xa tít tắp về chân trường sơn, độ dày lá mục ở rừng già quá dày, có những trảng tranh sắt cạnh càng rậm rạp cao gần tới đầu Hoà. Rừng cây cổ thụ chen lẫn mấy rừng mai vàng óng ả. Trời chớm bắt đầu chuyển sang mùa Hạ, tuy vậy rừng mai nở rộ pha nét chấm phá diệu kỳ đan bện trong rừng cây xanh lục. Tạo hóa trớ trêu đã tạt vào thiên nhiên hữu tình những ngọn đồi đá sắc. Vực sâu thăm thẳm, hoang vu. Dây leo chằn chịt những thân cổ thụ sần sùi, tuy già nua sần sùi mà sum suê. Chim hót lảnh lót, vượn hú kêu đàn đìu hiu. Bầy sóc tung tăng. Khỉ nhí nhảnh chí chóe líu riú gọi nhau. Quạ nhốn nháo đập cánh đen, vụt bay đi, kêu: Quạ! quạ!

                Ngồi xuống trên một mỏm đá rất sạch, gần bên tàng cây cổ thụ rợp bóng mát, hai anh em trao đổi với nhau về sở thích, sở trường, cùng lập trường, hoài bão. Hoà nói lên cảm tưởng của mình khi quen Đan:
                - Anh Đan à! Em thấy quý mến người lính lội qua sông Nghĩa Phú ghê nơi… Bởi vì "ảnh" chỉ đơn thuần là người lính. Thấy em, ảnh nhớ người yêu rất xa.
                - Thời vàng son ấy chỉ âm vang trong ngăn kéo kỷ niệm.
                - . . .
                - Em còn muốn hỏi anh điều gì nữa! Hở Hiếu Hoà?
                - Thật ra, em muốn hỏi nhiều về anh. Để làm gì, em không biết, nhưng vẫn thắc mắc tự hỏi: “Giờ nầy ở bên Tây, chị Đan và cậu tí hon làm gì nhỉ”?
                - Cám ơn em. Em chu đáo quá. Rất tiếc bây chừ anh vẫn độc thân.
                - Chưa chắc ạ!
                - Nè em… Anh kể em nghe câu chuyện nầy nhe: có ông vua Midas là vị Hoàng Đế oai phong, được muôn dân qúy trọng. Buồn một nỗi là vua có dị tướng. Không ai biết. Chỉ có anh thợ hớt tóc biết dị tật nhà vua mà thôi. Sợ mất đầu, không dám nói điều ấy với ai, anh thợ bứt rứt khó chịu tìm chỗ vắng đào hố sâu ghé miệng nói:
                - "Vua có tai bò".
                - Rồi anh ta cười khoái chí, nghĩ rằng không ai biết. Ngờ đâu, ít lâu sau, tại đó mọc lên bụi tre, hễ có gió là phát ra tiếng "Vua có tai bò". Chẳng bao lâu, khắp cả nước đều biết điều bí mật của Vua.
                - Anh nói có sách mách có chứng. Em phục.
                - Còn từ nào hay hơn. Em cứ đem ra tán tụng anh đi.
                - Anh cho phép?
                - Bởi vì... anh thích nghe em nói chuyện.
                - Tại sao?
                - Có trời mà biết.
                - Em hỏi anh: Anh chưa biết anh, thì làm sao em biết chuyện vua Midas có tai lừa, tai bò hỉ? Cũng như chuyện anh còn độc thân, mồ côi vợ đầm, chưa có con tây. Em phải xét lại à nha.
                - Anh chịu phục là em thông minh, khôn ngoan đáo để. Em cứ cho anh vào tròng, rồi trêu ghẹo hoài. Vậy mà đôi khi thân nhân của em có thể lo lắng, sợ em sẽ đánh mất cung cách truyền thống gia phong. Nhưng anh tin em đủ khôn ngoan. Anh mừng cho em.
                - Bây giờ em thành thật cám ơn anh nhiều.

                Đan vui tươi khẽ ca bài: Bạn ơi, quan hà xin cạn chén ly bôi! Ngày mai tôi đã đã đi xa rồi... & Rồi đây mai ngày ai hỏi đến tên tôi. Bạn ơi, hãy nói "khoác chiến y"rồi. Người thư sinh ấy đã xếp bút nghiên, giã từ trường yêu với bao nhiêu bạn hiền, có về là khi nước non vui bình yên. & ... Bạn ơi, khi nào ai hỏi đến tên tôi. Đời tôi lính chiến cánh chim tung trời. Ngày nào khi đất nước hết binh đao giữa đoàn hùng binh có tôi đi hàng đầu, trở về thành đô nắm tay ta mừng nhau.

                Hoà thích thú vỗ tay tán thưởng, Đan nhìn cô đá lông nheo kịch kịch, anh nghỉ giây lát rồi vui vẻ ca tiếp bài “Quán Nửa Khuya”: Trong đó, anh thích nhất những câu:... Anh là người quân nhân vui gió sương. Câu chuyện tâm tình theo khói sương, tay cầm tay... Dĩ vãng tìm đâu thấy. Như bóng mây chiều, lững lờ theo khói bay. Muốn nhắn cùng thời gian, ai mãi phong trần đi tìm hương cố nhân...
                - Trời ơi! Anh hát hay như vậy, sao không "xung pheng" vô ban Tâm Lý Chiến giúp bọn em, anh lại đi làm "pháo thủ trường sơn" hỉ!
                - Tại anh muốn câu cả giàn trọng pháo diệt bọn hung tàn.
                Anh ngắt nụ hoa vàng không tên bên con suối bạc lấp lánh ánh hoàng hôn xoay xoay, lảo đảo dưới lòng suối ôm bờ lau sậy lưa thưa, Đan ân cần trao về Hoà, kèm nụ cười dịu nhẹ, và hàng lông mi dày cong cong có đôi mắt buồn như mùa Thu êm đềm, xao xuyến sâu lắng của anh. Hoà e dè rón rén giơ hai ngón tay ra, cẩn thận nhón lấy cánh hoa mềm mại, dường như Hoà sợ đụng phải tay anh. Hoà đặt cánh hoa dại be bé trong bàn tay khum khum, dường như nương nhẹ vỗ về.
                - Em có chịu... cho anh xin bàn tay đeo nhẫn, xin nốt ruồi duyên trên mặt bé không nào?
                - Dạ, dạ... Í dà dá da... dạ…

                Hoà đỏ mặt, mỉm mỉm ỏn ẻn cười cười, im im cúi nghiêng nghiêng đầu, nàng lí lí lắc lắc làm bộ nguýt anh một cái thật tình. Ôi! Trời ơi là Trời! Không gian, thời gian, cuộc sống và con người - của giờ phút ngồi bên suối ngày xưa - không phải là - không gian, thời gian, cuộc sống và con người - của giờ phút ngồi bên suối bây giờ. Nhưng sao họ có cử chỉ đằm thắm, ánh mắt dịu ngọt, đầy xao xuyến, đằm thắm giống nhau quá chừng! Hoà và cả Đan nữa, đều cảm thấy choáng váng, như vừa uống chung rượu ngất ngây nồng say. Hai anh chị liếc nhìn nhau mỉm cười ỏn ẻn… hình như bẽn lẽn, trìu mến, lâng lâng ấm áp chút hạnh phúc nhuộm hường trên má ửng… Trong lòng ai nấy cảm thấy đang pha chất men nồng say đắm, ngọt ngào lẫn niềm hân hoan trào dâng lên sóng mắt bờ môi.

                Cụm núi xa xa chập chùng tiếp núi gần gần đã ngả màu tối thẩm, mặc dù coi như "đã thân đến thế", nhưng Đan là một quân nhân lịch lãm, tri thức, chững chạc, đứng đắn, đàng hoàng và có tư cách, Đan tôn trọng Hòa và quý mến tình cảm về "cái thuở ban đầu lưu luyến ấy. Ngàn năm hồ dễ mấy ai quên". Đan đứng lên đưa Hoà trở về ăn cơm ở Câu Lạc Bộ. Anh nói về gia đình mình, nói về thời niên thiếu, hiện tại và tương lai. Tuy dè dặt mà chân thành cởi mở. Sau đó anh tiễn Hoà đến cửa doanh trại khi tiếng kèn tập họp gọi quân nhân điểm danh trước giờ đổi phiên gác đầu hôm. Một hồi súng lớn ùm ùm ùm... pằng pằng pằng... tạch đùng… bất chợt ngân vang xuống lòng thung lũng, tiếng rền rền âm vọng kéo dài mãi. Hai người dõi mắt nhìn về phía chân trời xa hừng hực đám cháy đen nghịt, rồi phút chốc khói lửa phụt lên bung to thành nhiều cây nấm khổng lồ đỏ chói. Thế nhưng ta chả sợ... vì mình đã... "Mình Hứa Bạc Đầu Yêu Nhau Nha":
                Em quen biết anh từ mùa xuân sang.
                Dẫu mến nhau ngày tháng muộn màng.
                Sao cảm thấy như đôi mình rất hạp.
                Chung ngắm hoàng hôn, say đêm tĩnh lặng.

                Chuyện trò trao đổi dưới bóng hoàng lan.
                Nhiều lần mình ngước mắt nhìn ánh trăng.
                Hòa hợp chân mây thắm tình hoa phượng.
                Nghê thường tấu khúc quyện chung một hướng.

                Bóng ngã hôn hoàng tình đẫm yêu thương…
                Đôi chân hoan ca gõ nhịp trên đường.
                Hai hướng chân trời dù xa cách ấy.
                Xuân qua đông lại thu không quạnh vắng.

                Tình thương vời vợi giếng mắt hồng hoang
                Chiều ân sũng mưa ngàn lả tả tuôn.
                Góc trời xanh ta chung tình hạnh phúc.
                Hứa bạc đầu yêu mái tóc phiêu bồng…
                (*)
                ***

                Anh đến thăm, áo anh mùi thuốc súng, ngoài mưa khuya lê thê, qua ngàn chốn sơn khê. Non nước ơi, hồn thiêng của núi sông kết trong lòng thế hệ, nghìn sau nối nghìn xưa. Như giấc mơ giữa khung trời phiêu lãng, chờ mùa Xuân tươi sang, nhưng mùa thắm chưa sang. Anh đến đây, rồi anh như bóng mây, chốn phương trời ấm lạnh hòa chung mái nhà tranh. Anh như ngàn gió ngược xuôi, theo đường mây, tóc tơi bời lộng gió bốn phương, nước non còn đó một tấc lòng, không mờ xóa cùng năm tháng...
                (N V Đông)

                Hiếu Hoà hát bài "Mấy Dặm Sơn Khê" xong và trở vô hậu trường thay đổi y phục, cất áo váy vào túi xách, Hoà ôm túi xách vải ra phiá sau hậu trường thì gặp Trúc, Trọng và Đan. Sự có mặt bất ngờ của Đan dần tan biến nỗi u hoài trên sóng mắt cô, như rạng đông làm tan biến chân trời đêm. Đôi mắt ấy, nụ cười ấy đã âm thầm quyến rũ thu hút Đan xích lại gần cô một cách lạ lùng lúc nào chẳng biết. Trong tâm hồn hoang dại, Hoà vui mừng chào đón anh bằng đuôi mắt nheo một đường dài thật lẵng, đẩy đưa nụ cười duyên mời gọi thân thiết, làm xinh thêm khuôn mặt rạng rỡ thân tình:
                - Ô! Em không ngờ... gặp anh ở đây.
                - Biết các em lên đây từ sáng. Anh cứ đi tìm… mà không thấy em đâu.
                Nhanh nhẹn láu táu ngắt lời Đan, bàn tay trái Trúc nắm chặt, có ngón tay trỏ giơ lên xỉ xỉ về phiá Hoà, cô xí xọn cười cười:
                - Hoà trốn khi biết có ngọn suối Thần ở bản doanh nè. Còn em hi hi... có hẹn.

                Trúc nói và cười híp mắt, cô đi xuống mấy bậc thang gỗ phía sau sân khấu, và đến câu lạc bộ với Trọng. Hoà ngồi lại trên góc cầu thang gỗ, choáng lối đi lên đi xuống. Đan đứng kề bên, một chân anh gác lên bậc tam cấp, đôi giày botte de saut mờ bụi đỏ. Áo quần treillis màu xanh của lính phong sương bỏ trong thùng nai nịt cẩn thận. Một tay Đan ôm nón sắt, một tay chống lên sườn, miệng phì phà điếu thuốc lá không đầu lọc. Hoà nhận thấy hầu như ít khi anh bỏ điếu thuốc ra khỏi bờ môi, Đan “ghiền” rùi ha. Ngoài ra, anh không mang huy hiệu, cấp bậc gì. Nhìn nhau giây lát, biểu lộ niềm khát vọng kỳ phùng, đơn sơ mà chân thật. Hoà mỉm cười nheo nheo mắt ướt trêu ghẹo:
                - Anh ở đây coi chừng chết hết mấy đoá hoa rừng à nha. Đừng có léng phéng nghen anh. Thần Núi, thần Hồ, sẽ không buông tha anh đâu.
                - Em muốn hỏi anh điều gì nào?
                - . . .
                Mấy bạn anh nói: “Em xinh đẹp. Ngoan, hiền”. Và, sao... dễ thương vậy!?
                - Bạn anh có cho em đi tàu bay giấy không. Hở Đan?
                - Anh tin Hoà có đủ thông minh, để lĩnh hội các khía cạnh khác.

                Hai tâm hồn nhạy cảm đồng điệu gặp nhau ở tần số cảm thông, thấu hiểu, dễ dàng trở thành đôi bạn chân tình, hầu ngỏ lời tâm sự với nhau. Sau khi biết sơ lượt về Đan, nhìn lại thân phận áo ngắn quần thô vải cứng, giày sờn, Hoà không hơn cô bé lọ lem là mấy. Ngạc nhiên e dè ngẩng nhìn anh, giọng nói Hoà pha chút buồn rầu:
                - Không ngờ anh là con nhà giàu sang, ở Huế.
                - Con của nhà giàu, chứ có phải tự anh giàu đâu.
                - Lại không ngờ anh là... sĩ quan thế nầy.
                - Vậy, em ngỡ anh là gì nào!
                - Em thích người lính trẻ có đôi mắt u sầu, đã lội qua sông Nghĩa Phú ngày nọ. Trên cầu vai anh ấy không đính cánh mai vàng, mai bạc nào.
                - Đó là những danh xưng phù du...
                - Em thích bình dị khi nói chuyện với anh.
                - Ơ! Anh nói chuyện với em đây, không được bình dị sao?
                - Em là lính mới tò te. Còn anh là sĩ quan đã từng trải. Con nhà giàu, lại ở Pháp mới về Việt Nam.
                - Sĩ quan hay lính mới, thì dính dấp gì đến chuyện mình quen nhau? Có biết nhau lâu ngày, em sẽ hiểu. Anh không thiết tha, trọng vọng điều đó. Một lần nữa anh mời em vô Câu Lạc Bộ gần đây. Ở đó, em có thể biết ít nhiều về môi trường các anh đang sống.

                Hoà e ấp rảo bước bên anh bạn tình cờ đã dẫn đến cho mình niềm vui lâng lâng thú vị, Hoà cố tránh trong lòng mọi huyễn tượng như muốn bừng lên, theo ánh mắt ngời sáng của chàng trai phong sương, và văn nhã nầy. Một tình bạn dù chưa ủ đúng độ nồng như hủ rượu qúy chôn bách niên. Nhưng đủ ân cần ấm áp nồng say, đủ đánh bóng tình tri kỷ thân thương nơi biên cương ngàn dặm quan hà.
                Câu Lạc Bộ vừa đủ rộng, các bàn hầu như kín chỗ, Đan dẫn Hoà vào ngồi bên các bạn. Mấy cô nữ quân nhân lạ liếc mắt xéo nửa con ngươi, trề môi dưới ra thật dài, nét mặt “các nàng” hầm hầm, xù xù. Họ vùng vằng, miễn cưỡng, thô thiển kéo chiếc ghế dựa rột rột rột, để né dịch xa xa xa…, dời ghế đi chỗ khác. Đó là mấy cô quân nhân y tá, hay ở ban tiếp liệu: Huyền Nữ, Thúy, Vân, Liên: nhìn bọn xướng ca với đôi mắt vô loại thị dân, miệt đời khinh dể. Hoà không hiểu trong hoàn cảnh hiện tại giống nhau: Cùng một lý tưởng, hoài bão, môi trường chung, quan điểm chung và lập trường cùng ý chí đó, nhất là ta có khối óc và hai bàn tay có thể làm nên mọi chuyện, từ “đôi tay tự tin” nầy có thể thành công; và “đôi tay cao cách kia” có thể thất bại! Ai biết đâu! Ta có khác gì nhau mà "hách xì xằng" quá vậy, hở bồ?
                Chưa chắc ai có tư cách, đạo đức, tế nhị, khôn ngoan, thấu hiểu. Ai hơn thua ai. Có cục ghèn ở ngay mắt mình mà không hề thấy, lại cố ý đi khêu tí ghèn trong mắt người khác! Một con mắt buồn cụp xuống, một con mắt giận hờn ngó lên vu vơ… thành đôi mắt lé! Đừng vì cái lon mới cũ to nhỏ... mà nhìn đời bằng nửa con mắt! Bạn ơi! Quan trọng nhất cuả “lính cũ chỉ huy lính mới” là sáng suốt, biết nhận định về một con người, có tấm lòng cao cả, biết hy sinh, nhẫn nhục, chịu đựng gian khổ, và yêu đồng loại. Cũng như bàn tiệc hôm nay đây: có người sảng khoái vui mừng mà uống rượu, cũng có người vì sự thất bại chua cay trong đời, đau xót trong tình yêu, đắng cay, khổ sở vì đời sống không như ý), vân vân...; họ cũng ngồi hàn huyên tâm sự, nhấp chung rượu và chia sẻ nỗi niềm đấy! Bạn à!

                Trong buổi tiệc hội nhập nầy, Hoà thấy mấy anh quân nhân bình dị, dù không có sơn hào hải vị, chẳng nem công chả phượng; nhưng đối với anh em bạn, thì họ trao nhau tận tình nhất. Những quý vị do “thời thế tạo anh hùng” như thời Nguyễn Huệ vào Nam, Nam tĩnh; ra Bắc, Bắc yên… coi họ ngồi có cung cách và thứ bậc khác hẳn! Có tên dựa vai dựa vế chú bác ông cha đã thượng đội hạ đạp, văn dốt võ nhát, lại ưa đội trên đạp dưới, bắt lính về nhà cung phụng làm “gia đinh” hầu hạ cho vợ con không chút ngượng ngùng! “Giả nhân cách” và “thật tình cảm” trong đối xử trừu tượng! Bạn hãy xem cái “giả” phong cách ta đây dợt le đang chưng bày nhan nhãn trên huy chương, mề đay… Và coi cái “thật trừu tượng” từ nơi anh lính sạm phong sương với bộ quần áo tác chiến sờn úa, tay lăm le cây súng, họ xông ra ngoài trận tuyến, là: họ luôn chạy ở hàng đầu! Những anh lính đó giống như một giòng nước cuả con nước trống: sẽ thay đổi vận mạng họ nơi giòng xoáy ầm vang khói lửa chỉ vài canh giờ trong chiến trường! Lính “đơ dem cùi bắp” trắng trơn không có một tấm mề đay nào, ấy thế mà họ tự tin quyết chiến, và có trái tim đập nhanh trong lồng ngực quắt quay như ai vậy! Chính vì suy nghĩ thế, nên Hoà rất mến thích & có cảm tình với Đan (khi lần đầu tiên cô thấy Đan không đeo lon ở ngực, hay trên ve áo cấp bậc gì)! Hoà nghĩ anh “chỉ là người lính” đơn sơ rất đáng quý trọng và ngưỡng phục, khiến trái tim Hoà quắt quay lo sợ tột cùng đập nhanh, vì ngộ lỡ khi “chàng” gặp chông gai, thử thách ở chiến trường sôi động. Thì tiếc xót lắm thế thôi!

                Ngồi bên trưởng Phòng 5, là anh Trung Uý Phước bạn đồng môn của Đan, Đan gọi thêm ít món ăn nhẹ hợp khẩu vị, rồi nói với các bạn:
                - Ưu Thiên đã nói câu nầy: "Ái ưu, cũng có khi nhàn. Thì tiêu khiển trong tiệc rượu, cung đàn, coi cũng nhã". Có phải không các cậu? Hôm nay, tôi hân hạnh mời cô cậu ngồi chung bàn ở đây một phen. Gọi là có chút tình tri kỷ với bạn bè nơi thâm sơn cùng cốc. Các bạn đồng ý chứ!
                - Có điên mới không đồng ý.
                - Gọi chị Sa tính tiền, ghi sổ. Dứt điểm chỗ nầy cái đã.
                - Ơ! Anh Đan mời bạn bên bàn đó. Chứ chúng tôi ngồi bên nầy không phải bạn sao? Nhất là có người đẹp Huyền Nữ nè.
                - Phải quá đi chứ.
                - Ây. Các anh chị ơi! Chúng mình tự động kéo bàn nầy, nhập chung với bàn bển đi. Bển "dui góa" mà hổng nhập bọn. Thì... cù lần ơi là cù lần. Há.
                - Mau lên, kẽo anh Đan đổi ý. Thì buồn năm phút.
                - Hay. Nam vô tửu như kỳ vô phong mà!
                - Tửu nhập tâm như hổ nhập lâm.
                - Tửu nhập tâm xuất khẩu thành thơ.
                - Tửu nhập tâm cữu cuồng tạ thị.

                Các cô “quý nương cao sang đài các kiêu sa” kia... lại ồn ào lôi bàn kéo ghế rồn rột mà di dời qua bàn của Đan, họ vồn vã tự nhiên ăn uống nói cười vui vẻ. Dường như họ chưa từng có chuyện bĩu môi, phồng má trợn con mắt lé con mắt nheo đã lườm liếc. Coi như chẳng có chuyện các cô vừa lúc nãy đã vùng vằng kéo mấy cái ghế ồn ào sột sột, soạt soạt, rạc rạc xê dịch ra chỗ khác. Hoà thấy tư cách mỗi con người đã thể hiện trước đám đông, cô có thể đánh giá họ thuộc về hạng người nào! Hoà tương đắc liếc xéo mấy nàng kia, lí lí lắc lắc đá lông nheo gật gù nhếch miệng mỉm cười với họ. Mắc cười thiệt, có lẽ các cô ấy không thể hiểu và chẳng bao giờ hiểu nỗi trong lòng Hoà nghĩ gì: khi ném về họ cái “liếc mắt và nụ cười tình” í hỉ!

                Hoà quay lại nhìn Đan e dè lơ qua chuyện khác:
                - Ở đây không bị cấm uống rượu à! Anh?
                - Không hạn chế, nhưng họ tự biết mình phải thế nào. Khí phách nam nhi không cho phép "tửu nhập tâm như cữu cuồng tạ thị". Em đừng lo! Trong hương hoa đôi khi cũng có chất làm cho mình say hơn rượu đó em. Vài ly bia, hoặc tất cả anh em đây dùng chung một chai rượu ngon hiếm qúy, thì đã sao!

                Thế là, “các công nương kiêu sa đài các và qúy anh bạn” tự nhiên vui đùa bên nhau. Đan liếc thấy Hoà có vẻ nhút nhát e dè, coi bộ hơi khó chịu do “nễ hay ớn” mấy cô lạ kia há, Đan trìu mến mỉm cười, giọng nói thì thầm bên tai em dường như anh có ý thức sâu sắc về nỗi khổ tâm:
                - Theo anh nghĩ: Vì lý do đặc biệt nào đó, em phải lặn lội với cuộc sống một cách miễn cưỡng. Ở lứa tuổi nầy, lẽ ra em phải là con chim én, nếu không là con sáo lém lĩnh ha.
                - Cám ơn anh. Ít ra, có anh nghĩ... đôi chút về em.
                - Tình yêu và đời sống. Hai từ nầy dù khác biệt, nhưng ràng buộc mật thiết với nhau. Em à. Không nên thất vọng, có hy vọng mới nuôi sống mình trên đường đời buồn ít hơn vui. Đó, Hoà thấy không? Anh lạc quan ha! Anh muốn gởi đến em lời chúc thế nầy nhé: Dù trong thách đố, trở ngại nào. Em nhớ bình tĩnh, sáng suốt, có nhiều nghị lực để vượt qua. Anh ở phương nầy sẽ cầu nguyện cho em mãi.
                - Em không nói cảm ơn anh. Có lẽ khách sáo và dư thừa.
                - ... Tuy anh mới gặp em đôi ba lần, nhưng sao anh cảm thấy thân, thương... và gần gũi em lạ lùng! Anh mong tâm tình với em ít phút. Việc anh vừa nói trên kia về rượu: em à, một chai rượu ngon và qúy hiếm, cũng giống như tình yêu ngọt ngào vậy... Khi biến chất (do nút chai đậy không kỹ chẳng hạn) thì rượu trở thành dấm, chua lòm, nhạt phèo. Ta có đỗ bỏ hay đập nát chai rượu, chai rượu bể nát không thể hàn gắn nguyên vẹn trở lại; nếu sơ ý thì những mãnh thủy tinh vụn cứa đứt tay, chảy máu, đau ghê lắm, và để lại vết sẹo suốt đời. Thế nên mình cẩn trọng và giữ gìn... Khi đã mất đi những điều hiếm qúy, ta không nên tiếc nuối làm gì, hãy quên đi và vui sống nha em.

                Hoà cúi đầu suy nghĩ câu Đan nói, nụ cười mỉm chi nở trên bờ môi vụng dại. Đan trìu mến trao cho cô đôi mắt mùa Thu êm đềm. Tất cả rời khỏi Câu Lạc Bộ khi kèn vang vọng báo hiệu nửa đêm. Trăng lá mít mảnh dẻ, nhẹ nhàng trôi giữa muôn cuộn mây xám đục. Như con thuyền bồng bềnh, nhấp nhô trong tảng băng nức nẻ trên không trung ướt át sương mù buông lã. Mưa rừng ngày hôm trước ào ạt đổ xuống khu trường sơn rậm rạp, vô tình cây lá được thiên nhiên kỳ cọ rửa sạch trơn, đã bóng mướt dưới ánh trăng bàng bạc lung linh. Tiết trời miền núi buốt giá, sương muối rơi lộp độp trên ngọn lá lóng lánh ướt sũng ánh trăng, khiến ai nấy đều bị nứt môi, lạnh nổi da gà, run lập cập, họ xuýt xoa hà hơi chà đôi bàn tay vào nhau cho ấm chút xíu.

                Đan cầm những khúc bánh mì kẹp thịt, mấy bi đông nước trà nóng, anh đi một vòng thị sát đến từng điểm gác di động kép. Cứ hai người đi lui đi tới gác chung ở một phần tư khu doanh trại. Thành ra góc nào cũng có lính bồng súng gác đêm, họ giăng rộng đôi chân ra, giữ thăng bằng thân mình trên đôi giày đinh sờn cũ. Cấp chỉ huy đối với lính lúc nào cũng cần có sự dung dị, hoà ái, tha thứ, yêu thương, tận tình hướng dẫn, đồng thời cấp chỉ huy nghiêm minh thi hành quân kỷ, (nếu thuộc cấp phạm kỷ luật)! Đan đưa quà tận tay mấy chú lính. Thật vô cùng khổ cho người lính cơ cực, ngày họ đi xuyên rừng lội suối, leo đồi, vượt núi; đêm đêm họ phải chia nhau ra canh gác cẩn mật ít nhất là vài ba giờ. Cơm không kịp ăn, không có nước uống, ngủ không tròn giấc, khỏi nhìn đồng hồ họ chỉ nhìn trăng lên, trăng lặn, nhìn sao hôm, sao bắc đẩu, sao băng, sao mai.

                Từng giờ. Từng đêm, họ khều nhau đổi phiên gác canh thâu. Dẫu vậy họ hân hoan, vui vẻ với niềm hãnh diện được làm anh lính miền Nam Cộng Hòa Việt Nam. Thân thể họ rạo rực dưới sức lôi cuốn tình đồng đội an hòa. Nhịp bước họ nhún nhảy coi vô-tư-lự tươi trẻ hồn nhiên như cái resort, dù ba lô trĩu nặng hành trang đầy bụi đỏ dặm trường. Những người lính trực chiến trên chiến trường không ai khác hơn là chính họ đương đầu với chiến cuộc! Cho dù danh nghĩa “đơ dem cùi bắp” nghe vừa tức cười trong cái quê mùa cục mịch nông thôn, đồng ruộng, lại càng có vẻ như giễu cợt người lính cà tàng thấp cổ bé họng; thật tội nghiệp làm sao ấy. Họ là những con tốt thí thân trong cuộc cờ chiến tranh. Cấp trên cũng không thể đoan chắc rằng không có người lính nào bị thương, hoặc tử thương khi xung trận. Vậy thì để bảo vệ chính thân và đồng đội, thì chính quân đội ấy phải xã thân - vì quê hương và dân tộc- mình hiên ngang oai dũng bước thẳng tới trước. Họ vẫn biết rằng: thân phận một người lính khi trở thành thương phế binh; thì ví như đôi giày đinh đã bị hư nát mất một chiếc, chiếc còn lại người lính sẽ phải tiếc nuối phế thải vứt giày đinh đi. Thế là không còn lính hợp quần gây sức mạnh, dù danh tướng có tài ba cách mấy, nếu không có quân, chắc chắn chưa thể làm nên đại sự!

                Mỗi đêm dài hiu hắt nơi rừng sâu nước độc, Đan đến với họ lúc người lính cô đơn ôm súng gác giữa khuya muôn trùng lạnh lẽo giá rét. Anh ân cần sẻ chia chút ngọt bùi ấm áp tình người. Không phải họ qúy mến Đan vì khúc bánh mì, vì ca nước nóng. Mà, do phát xuất tận đáy lòng họ sự kính yêu Đan có tư cách, bao dung, từ tâm, và độ lượng. Do Đan chí tình thương yêu cảm mến lính, và anh tự xích lại thân thiết với thuộc quyền, không phân biệt giai cấp, nên đã tạo cho nhau niềm cảm thông sâu sắc, thấu hiểu, gần gũi, gắn bó, chia sẻ, an ủi và thắt chặt tình đồng đội càng thắm thiết hơn.

                _ * _

                Tình Hoài Hương
                Last edited by khongquan2; 04-15-2019, 09:15 AM.
                Bút trần nào tả được lưu luyến!
                Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                Tình Hoài Hương

                Comment


                • Thắng Cảnh ĐÀ LẠT Thương Yêu

                  Thắng Cảnh ĐÀ LẠT Thương Yêu
                  (Từ Đà Lạt đến Krong Pha)


                  Đây! Thành phố Đà Lạt tuyệt diệu luôn mờ mờ ảo ảo lả lơi buông bức rèm thiên nhiên diễm kiều, ẩn hiện nhạt nhòa sau làn sương ẻo lả, mỏng manh. Khúc xạ ánh sáng mặt trời chiếu xuyên qua lớp khí quyển ướt ẩm, khô, lạnh, đã tỏa bảy tia quan phổ: đỏ, vàng, lam, chàm, lục, cam, tím. Mưa phùn phản chiếu tia nắng ở góc nhọn 42 độ, tạo thành chiếc cầu vồng ánh đẹp rất rõ. Đám mây mọng nước nũng nịu ẻo lả giăng tơ trời kéo lê thê sau lưng ngôi trường Grand Lycée Yersin.
                  Tôi thơ thẩn thả gót phiêu bồng đi mãi miết trong lòng đô thị tĩnh mịch, cho đến khi phố đêm len lén tràn về, ướt sũng từng cơn mưa phùn đậu trên mái tóc bện quyện lại với nhau, thì về khuya dường như bầu trời càng lắng đọng im ru bất tận, yên ắng lạ lùng đến ghê rợn; dù thế cảnh vật trở nên thơ mộng giữa khí lạnh tê tê, buốt buốt, dịu dàng mơn man vuốt ve da thịt. Những thứ đó đã trìu mến quấn quýt ăn sâu vào lòng người. Đà Lạt càng dễ yêu, thi vị, duyên dáng, thơ mộng và quyến rũ xiết bao bừng dậy nơi nơi!

                  Đà Lạt an ngự ở miền Cao Nguyên Trung-phần trên độ cao 1.475m (nếu Đà Lạt trên cao độ 2.163m > tính từ mặt biển lên chóp đỉnh núi Lâm Viên). Đà Lạt ở tọa độ 11/o 48’ 36” – 12/o 01’ 07” vĩ độ Bắc và 108/o 19’ 22” đến 108/o 36’ 27” kinh độ Đông. Đà Lạt: Bắc giáp Lạc Dương. Đông & Nam giáp Đơn Dương. Tây Nam giáp Đức Trọng. Đà Lạt là vùng khí hậu Á Ôn, nhiệt độ trung bình một ngày khoảng: 17/oC > 20/oC, thấp nhất là 11/oC. Khí hậu Đà Lạt rất thoáng mát, trong lành dễ chịu, nên ưu đãi nhất đối với phụ nữ và trẻ em da dẻ họ luôn trắng trẻo hồng hào mịn mượt. Ngoài cư dân tứ phương quy tụ về vùng “hoàng triều cương thổ” Lâm Viên nầy, còn có sắc dân: Thái - Thổ - Nùng – Tày – Mường – Mán - Hoa (Tàu) - Thượng (Thiểu số) K’Ho - Mạ - Chu Ru – M’ Nông.

                  Thị xã Đà Lạt nằm trong Tỉnh Tuyên Đức bao la rộng lớn, gồm có ba Quận: Đức Trọng. Đơn Dương. Lạc Dương. Đà Lạt là vùng đất đỏ bazan và nâu-vàng; tụ bồi phù sa phì nhiêu từ suối, hồ, thác. Không những Đà Lạt là thắng cảnh thiên nhiên thơ mộng rất ngoạn mục, diễm lệ, trữ tình… mỗi khi du khách ghé tạt về thăm, mà Đà Lạt giàu về tài nguyên quốc gia quý như: Gụ, cẩm lai, sao, tre, nứa, lồ ô… nhiều rừng thông bạt ngàn hai lá, ba lá cao ngút, rừng hỗn giao lá rộng, rừng lá kim, rừng tre nứa... Toàn tỉnh Tuyên Đức có độ 20 loại khoáng sản: cao lanh, than nâu, boxit, than bùn, sắt, rubi, saphia, opan, bentonit, diatonit, vonfram, đất sét, núi đá, thiếc, chì, kẽm, vàng, thạch anh tinh thể, v.v… Kể cả các vùng núi rừng có rất nhiều vàng non... nhất là vàng ở vùng núi đồi hiểm trở ở Taing xa hun hút.

                  Đà Lạt có hai mùa rõ rệt: nắng và mưa. Mùa mưa dầm từ cuối tháng Năm kéo dài đến tháng Mười Một. Mùa gió thịnh hành nhất vào mùa Đông lại là gió từ hướng Tây. Tuy thế khí hậu vùng Cao Nguyên Lâm Viên nầy khá dễ chịu xen lẫn độ ẩm. Mùa ráo khô từ tháng 12 đến đầu tháng 5, bầu trời thanh thoáng mát rượi, luôn có nắng ấm độ ẩm chan hòa. Thương làm sao thành phố Đà Lạt chập chùng uốn lượn quanh những đồi thấp núi cao luôn mờ mờ ảo ảo, nhạt nhòa ẩn hiện sau làn sương ẻo lả, mỏng manh.

                  Mùa Xuân ấm áp và rực rỡ với những đồi hoa Anh Đào, những con đường đầy hoa Mai nở rộ, tới những ruộng hoa muôn sắc muôn màu. Mọi người vui vẻ tưng bừng hẹn nhau lên chùa hái lộc, đi du xuân, chúc Tết, tiệc tùng, v.v... Nước ban mai ở các khe đá, suối, hồ, khe, chưa chảy kịp, thì nước buổi chiều đã dâng lên cao; chảy xối xã suốt tháng năm về bao con thác ở cuối nguồn. Cơn say gió bão dật dờ muà Đông cũ đã qua mà còn luyến tiếc, len lén mang khí lạnh ào ào bay về, nắng lấp ló ve vuốt bên thềm năm mới; như trêu nghẹo nàng Xuân se sẻ ỏn ẻn chúm chím nụ tình.
                  Mùa Hè là đầu mùa mưa, mưa đêm nầy qua ngày tháng khác trên núi đồi cao ngất, ngút ngàn. Muôn triệu hạt mưa nặng trĩu, to tròn rơi bồm bộp trên mái tôn, mái ngói. Tôi yêu tháng ngày mưa dầm không biết mệt, bầu trời luôn ảm đạm, dù mưa nhưng khí hậu ấm áp. Thỉnh thoảng lâu thật lâu có kèm theo mưa đá hột to hột nhỏ. Dì cháu tôi thích thú nhặt mưa đá bỏ vào ly (trong khi những người làm vườn thấy mưa đá, là họ lo buồn rầu rĩ; vì nó hủy hoại hoa màu tan nát, hư hỏng rất nhiều loại hoa trái và rau.
                  Mùa Thu bên những triền đồi rưng rưng lá vàng lắt lẻo đong đưa cài trên cành cây cổ thụ. Màu vàng cuả rừng cây gỗ quý quyện lẫn màu xanh và nhạc thông rì rào reo trong gió. Lá rừng hợp với màu vàng sáng từ bình minh len lỏi dọi xuống, hoặc nơi ráng chiều hiu hiu hửng lên trong kẽ lá. Những cơn mưa phùn lăn tăn vào độ cuối Thu chuyển hạt nhỏ li ti như bụi phấn, nhẹ tênh, âm thầm lả lơi đậu trên mái tóc lữ hành. Khiến lòng mình cảm thấy xao xuyến mấy nỗi bâng khuâng man mác, dìu dặt đường tơ mênh mang rung lên từng hồi trên những phím loan.
                  Tôi thương mỗi chiều gió mùa Đông Bắc lồng lộng vút trên đỉnh núi cao, sấm sét chớp lia lịa ở góc trời lúc choạng vạng, gió uốn cong cành cây mimosa nghiêng ngả, thân cây đau đớn rên rĩ vặn mình kêu rắc rắc, dường như muốn gãy. Chùm hoa mimosa ướt sủng nước rên rĩ quật lui quật tới đã tả tơi, hòa với tiếng sấm chớp gầm thét dữ dội, thấy mà thương. Gió hú từng hồi kinh dị trên sườn đồi, gió lọt qua khe cửa rít lên vút vút nghe ớn lạnh, buồn bã đơn điệu vô cùng. Gần về cuối Đông trời vần vũ mây xám, từng cuộn mây nặng trĩu ùn ùn bay ngang đầu, khiến núi đồi mất hết rồi bộ cánh rừng xanh tươi ngày vui khoe sắc lá. Những cơn mưa lăn tăn chuyển thành triệu triệu hạt nhỏ, nhẹ tênh như bụi phấn, đó là những cơn mưa phùn đơn điệu âm thầm lả lơi, cố níu giữ thời gian ngừng trôi mà đậu trên mái tóc lữ hành.
                  ***
                  HỒ : Đà Lạt! Thắng cảnh tuyệt vời có nhiều hồ dễ thương, thi vị, hữu tình. Nào là: hồ Lãng Ông nho nhỏ be bé xinh xinh và khiêm nhường ở đầu góc đường Cộng Hoà & đường Võ Tánh. Hồ Mê Linh (còn gọi là Cité Saint Benoit, ở Phường 9). Hồ Vạn Kiếp (ở Phường 7) an tọa bên đồi thông ngút ngàn. Hồ Chi Lăng tuy nhỏ nhưng mơ màng không kém thơ mộng. Tại Phường Ba có hồ Tuyền Lâm thường mệnh danh “Nam thiên đệ nhất hồ” (xa Đà Lạt 7km, qua thác Datanlania 2km là tới hồ Tuyền Lâm). Hồ ông Phỉ ở hướng Dinh Ba đi vào khu đất mã thánh, (xưa gọi là “Ba Le”). Mỗi hồ mang một dáng vẻ kiêu sa & vinh sang riêng làm sao kể cho xiết... Nhưng có mấy hồ rộng mênh mông và thơ mộng mơ màng đáng kể nhất là:
                  Hồ Xuân Hương quyến rũ là do hồ an lạc ngay trung tâm thị tứ, là “cái rốn” của thành phố, nổi bật sự duyên dáng hài hoà, thơ mộng, đặc biệt và độc đáo (thời Pháp thuộc gọi hồ nầy là Grand Lac). Hồ rộng khoảng 25hecta. Thuở xưa hồ Xuân Hương chỉ là một đầm trũng mọc đầy cây năn, lát… nước mưa từ các triền đồi, nước chảy từ nhiều hướng tới hồ, sau đó nước chảy ngang qua cây cầu gỗ có tên gọi cầu Ông Đạo, (do phiá ở gần đầu cầu là tư dinh của ông quản đạo Phan Khắc Hòe), nước chảy qua cầu Bá Hộ Chúc rồi chảy về thác Cam Ly. Hình dáng mặt hồ phẳng và rộng rãi. Nhưng càng về cuối hồ (phía Bích Câu Kỳ Ngộ, vườn hoa…) thì đuôi hồ trở nên eo hẹp, nhỏ dần dần… hầu như co thắt tới bên cây cầu Đúc. Rải rác trên chung quanh bờ hồ có những gốc tùng rợp bóng rất đẹp.
                  Ven hồ có con đường tráng nhựa 6km chạy vòng quanh hồ, tính từ đầu cầu Ông Đạo (hướng đi lên khu phố Hoà Bình hoặc vô khu chợ Mới), đi tới phía nhà hàng Thanh Thủy, sân Cù, vườn hoa Đà Lạt, vòng quanh hồ qua cầu Đúc, tới thao trường Lam Sơn… rồi tới khu Thủy Tạ và quay về cầu ông Đạo (hướng lên dốc nhà thờ con gà). Hồ Xuân Hương càng thi vị quyến rũ nhờ sân Cù (sân Golf có tiêu chuẩn 18 lỗ), sân Cù thoai thoải nệm thảm cỏ xanh tươi và khá rộng, thấp thoáng đó đây những chòm thông ba lá, hai lá bóng mướt màu lục vẫn soi mình xuống mặt hồ xanh biếc. Gần cuối sân Cù là vườn Bích Câu Kỳ Ngộ trồng muôn hoa thơm ngát và xinh tươi, mỗi hoa mang một dáng vẻ đặc thù riêng, không hoa nào giống hoa nào. Nơi Bích Câu kỳ ngộ tương phùng nên-thơ, lý tưởng dập dìu nam thanh nữ tú hò hẹn trao đổi chuyện văn thơ và tình tự.

                  Hồ Than Thở (thời Pháp xưa gọi là Lac des Soupirs) từ khu Hoà Bình về qua cầu ông Đạo, đi lối thao trường và phiá Thủy Tạ, xuống đường Quang Trung. Hồ Than Thở cách xa trung tâm thành phố khoảng 6km ở trong thung lũng khu ấp Chi Lăng + xã Thái Phiên. Hồ tĩnh mịch trầm lắng u buồn suốt tháng năm, bởi đêm nầy qua ngày tháng năm khác… chỉ thoảng nghe ba bên bốn bề tiếng nhạc thông reo vi vu không ngừng nghỉ. Hồ mơ màng với mặt nước im ả bóng loáng như tráng lớp men bạc. Nơi đây, thuở xa xưa đã có chuyện tình buồn có thật (không phải truyền thuyết). Tôi xin kể vắn tắt về một thiếu nữ phiền muộn tình duyên trắc trở, đã trầm mình xuống hồ Than Thở. Từ ngoài đường đi vào hồ bên hướng tay trái, bấy giờ đường vào ngôi mộ phủ đầy cỏ dại cao lút bụng, muốn tìm mộ nàng thật khó khăn, ta phải chịu khó vạch tranh cao tới ngực, vạch cỏ may, và giạt hoa mắc cỡ chằng chịt ra để tìm lối đi. Khi đi vô bià rừng khá xa, (xa con đường nhựa bên hồ), tôi thấy một ngôi mộ xây bình thường, coi khiêm nhường đơn điệu phủ đầy rêu phong phai úa nước vôi khá nhiều. Trên đầu tấm bia mộ hoen màu có hình trái tim tô xi măng cũ kỹ, đã khắc ghi hai câu thơ gởi người thiên cổ:
                  Dù cho non sông thay đổi mãi
                  Ngàn năm Thảo vẫn sống trong Tâm…


                  Suối: Từ núi Lang Biang (hoặc tên Việt Nam là Lâm Viên, còn gọi là núi Ông, núí Bà ở tại Xã Lát, Huyện Lạc Dương, cách xa thành phố Đà Lạt 12km), có thác nước trắng xoá chảy xuống hồ Ankroet & Đankia, tạo thành Suối Vàng, Suối Bạc trải dài dọc theo ven chân núi Lâm Viên rất đẹp. Nơi rừng thông ngút ngàn tươi xanh rợp bóng hữu tình soi dáng trên mặt hồ rộng mênh mông, lấp lánh ánh bạc sáng ngần như phiên gương sáng loáng, hồ phẳng lặng mơ màng, nước trong vắt xanh um, luôn luôn lấp lánh long lanh giống như mặt hồ được tráng thủy ngân.
                  Huyện Lạc Dương có dân tộc thiểu số gốc Lát, Chil, Cơ Ho sinh sống đông đúc. Nơi đây hoàn toàn tĩnh mịch, không tấp nập đông vui như hồ Xuân Hương. Hai dòng suối tọa lạc tại Lạc Dương uốn éo quanh co nào là thác, hồ, rồi biến thành suối, thành sông Đạ Đờn, nghe rắc rối phức tạp không ít. Tại đây có nhà máy Thủy Điện Ankroet & nhà máy lọc nước ở hướng Bắc.

                  Chùa: Chùa Linh Quang xây năm 1931 an tọa tại 133 Hai Bà Trưng (Đà Lạt) là ngôi chùa cổ kính lâu đời đầu tiên tạo lập trên đất “Hoàng triều cương thổ”. Chùa chạm trổ những hình chim phượng trên mái rất tinh xảo, công phu, tuyệt tác; do hoà thượng Thích Nhân Thứ trụ trì.
                  Chùa Linh Sơn xây năm 1938 – (1940 khánh thành), chùa an ngự ở một ngả ba cách trung tâm chợ Mới Đà Lạt khoảng 700 – 800m – Chùa nằm trên ngọn đồi đa phần là trồng thông ba lá, dương liễu, bạch đàn. Chùa có tượng Phật Thích Ca đúc 1952 bằng đồng nặng 1250kgs. Chùa nhìn chéo xuống phố Phan Đình Phùng. Đứng trên góc sân chùa, ta có thể nhìn thấy khu “thành phố buồn nghĩa trang Số 4” chi chít bia mộ!

                  Chùa Phong Linh xây 1944, (chùa chỉ có nữ tu, nên dân điạ phương thường gọi là chùa Sư Nữ). Chùa an tọa trên ngọn đồi thông cao thơ mộng ở đường Hoàng Hoa Thám, Trại Hầm, nơi nổi tiếng có trái mận vàng óng giòn, ngọt, ngon. Chùa xa khu chợ Đà Lạt khoảng 4km. Chùa Phong Linh xây mái kép cong: long, lân, quy, phụng. Chùa thờ Đức Phật A Di Đà, Quan Thế Âm Bồ Tát. Bồ Tát Đại Thế Chi. Đứng trên sân chùa Sư Nữ, nhìn tổng thể xuống làng mạc dưới chân đồi ẩn hiện mờ ảo, thì không có bức tranh nào linh động, đẹp bằng cảnh sắc nước hương trời xanh xanh chập chùng, nhà mái ngói, mái tôn vật vờ bay lên làn khói ẻo lả uốn éo từ dưới thung lũng thấp chập chùng… Lồng trong tiếng thông bốn mùa nhã nhạc reo vi vu, êm êm, hòa điệu nhịp nhàng, là tiếng chuông mõ gõ nhịp đều đều, xen lẫn tiếng tụng kinh niệm Phật khi trầm bổng lúc lanh lãnh thanh thanh trong gió sớm khuya chiều vang vọng xa xa! Cư dân thấp thoáng đi lại trong sương, gió chiều nhè nhẹ phe phẩy mơm man vồng hoa đồi mận chập chùng.

                  Chùa Tàu… (Thiện Vương Cổ Sát, còn gọi chùa Phật Trầm) do hoà thượng Trung Hoa tên Thọ Dã đứng ra xây 1958. Chùa gồm có ba toà nhà cao đẹp tô màu vàng, mỗi toà nhà có thờ tượng: Tây Phương Nam Thánh. Phật Thích Ca. Quan Âm Bồ Tát. Đại Thế Chi Bồ Tát. tất cả tượng bằng đồng cao 4m, nặng 1,5 tấn. Riêng tượng Tứ Thiên Vương cao 2,6m đúc xi măng. Chùa Tàu phong cảnh hữu tình ngày đêm chìm khuất trong đồi thông rất đẹp, ở chùa Tàu có mâm quay lực cơ học tiếp tuyến đường tròn quay.

                  Nhà Thờ: An tọa trên đường Ngô Quyền phía Tây Nam cách trung tâm phố Đà Lạt 1/km là nhà thờ Domain de Marie, xây năm 1930, rộng 11m dài 33m, trên tổng diện tích đất 12 hecta. Tiền đình nhà thờ có hai đường vòng cung, bước lên từng bậc tam cấp, tụ hợp lại ở hành lang cửa chính hình vòm tròn. Mặt tiền nhà thờ kiến trúc thành hình tam giác cân, trên đỉnh tam giác là cây thánh giá. Trên tả hữu mỗi nóc mái nhà xuôi thẳng đứng lát ngói hồng đậm, mỗi mái ngói ở tả hữu có ba cửa sổ tam giác cân nho nhỏ ráp kính nhiều màu. Ngoài và trong nhà thờ đều trang trí hài hoà độc đáo, trong nhà thờ là tượng Đức Mẹ đứng trên quả cầu, nặng 1 tấn, cao 3 mét. Nhà thờ và nhà dòng nữ tu, trường học đều tô màu hồng đậm.
                  Domain de Marie tức là nữ Tu Viện nữ Bác Ái Vinh Sơn (nhà thờ & dòng tu nữ còn có tên gọi là Tu viện Mai Anh, vì tu viện nằm trên một ngọn đồi cao, nơi đây tuyệt đẹp với đồi hoa anh đào (dân điạ phương nôm na gọi là hoa Mai, nghe khiêm nhường, (thay vì hoa Anh Đào nghe qúy phái sang trọng quá). Trên, dưới, chung quanh đồi: trồng toàn hoa Mai. Dưới những chòm cây xanh chen lá nâu rung rinh, nắng lung linh đùa giỡn nơi kẽ lá cánh hoa mai hồng hồng lả lướt phất phơ lung lay trong gió. Có trường Tiểu học & nam nữ sinh ngoại và nội trú (kể cả con mồ côi) nhiều ma soeur mặc áo dòng màu xanh dương, đội mũ lúp cánh én trắng rộng vành (như cánh chim bay), nhịp nhàng nhấp nhô theo mỗi bước chân. Họ chuyên nuôi trẻ mồ côi. Hằng năm dòng nầy tổ chức hội chợ từ thiện, lấy tiền làm qũy giúp người nghèo khó, soeur đi tới bệnh viện làm việc, giúp người đau yếu, bệnh nạn. Trên ngọn đồi nên thơ họ đi ra đi vào cầu nguyện kinh, xem lễ, làm việc bác ái: Thuỷ thổ, nhân hoà an cư phong cảnh càng trở nên êm đềm thơ mộng. Đứng bên phía Lữ quán Thanh Niên (ở đường Hàm Nghi) nhìn qua nhà thờ Domain thì quả thật khu đồi mai anh đào nầy tuyệt đẹp.

                  Nhà thờ chính tòa Đà Lạt bắt đầu xây từ 19.7.1931 và khánh thành ngày 25.02.1942 do linh mục Céleste Nicolas thiết kế. Trên chóp đỉnh một tháp to nhất (tháp chính) đã gắn hình cây thánh giá, và con gà bằng đồng cao 0,58m, dài 0,66. Con gà đứng trên một trục bạc đạn có thể xoay mình quanh bốn hướng theo chiều gió thổi. Ngôi nhà thờ chính, cung thánh, gian giữa và hai gian cánh phụ, hậu tẩm, giáp vòng và tít trên gần nóc trần nhà có 70 cửa kính màu. Tổng cộng chiều rộng nhà thờ: 14m, cao 47m, dài 65m. Gác chuông nhà thờ (ở phía góc trái của cửa chính toà), là những nấc thang hình xoắn ốc trôn đi lên lầu cao. Tháp chuông chính cao 16m, hai bên có hai tháp chuông phụ hài hòa xinh xắn. Trong tháp chính có bốn quả chuông to, mỗi sáng trưa chiều đúng giờ ấn định, thì từng hồi chuông lắc lư, rung ngân… vang lên bốn âm tần thánh thót trầm bổng lảnh lót khác nhau.

                  Trường học: Nổi tiếng “bề thế & sang trọng” và lâu đời nhất tại Đà Lạt: Trường Grand Lycée Yersin (1927) thiết kế trên một đồi bằng phẳng, trường hình vòng cung xây thành ba tầng lầu, quét vôi hồng, gồm hai mươi bốn lớp học. Trường có tháp chuông cao 54 m, từ tháp chuông tính tới đuôi trường là 167m.
                  Couvent des Oisaux (còn gọi Đức Bà Lâm Viên; Notre Dame du Langbian. hoặc gọi: “Đức Bà Nữ Kinh Sĩ Thánh Âu-Tinh”), trường xây dựng 1935, an tọa tại số 2 Huyền Trân Công Chúa, Phường 4. Bên phải khuôn viên khu rào gạch là đất nhà thờ, dòng & trường, đất rộng mênh mông gần lối dẫn vô thác Cam Ly. Đây là trường nữ trung học đầu tiên dạy chương trình Pháp, nữ sinh trường Couvent mặc đồng phục sơ mi cổ bẻ trắng, tay phồng bên trong, ở ngoài khoác thêm áo lạnh dày đan tay màu xanh biển (xanh dương đậm), áo manto, áo ấm dạ, áo len loại dày màu xanh dương, màu đen, hoặc trắng. Mặc ríp đầm (skirt) có nhiều xếp ly màu xanh biển, váy lót underskit, petticoat). Chân mang sandal có bít tất trắng cao lên tới đầu gối, hoặc giày trắng hay đen, bata, sport: màu trắng (hoặc đen). Đầu đội mũ len có vành che nắng to rất khéo (như kiểu nón công chúa Bạch Tuyết, riêng về mũ có thể có những màu khác nhau).

                  Le Petit Lycée (1937 là trường Tiểu học đầu tiên của Pháp ở Đà Lạt, nằm trên cuối đường Yesrin, & cuối đường Duy Tân. Trường hoạt động cho tới năm 1952 thì ngưng.

                  Trường D’ Adran (còn gọi Lasan Adran) thành lập năm 1941. Từ ngoài đường Yersin qua ngã ba Bá Đa Lộc (và góc hotel Palace), là đường Bá Đa Lộc. Trường D’ Adran nằm ở thung lũng sâu cuối đường Bá Đa Lộc, & gần ở dưới chân đồi của khu rừng Ái Ân hoang vu. Trường do các sư huynh dòng La San điều hành.

                  Trường dòng Franciscaines Missionaires de Marie (mở khoảng năm 1940), ở đường Hùng Vương, trường nằm kề quốc lộ lối đi về hướng Cầu Đất phiá đi Đơn Dương. Các nữ sinh mặc váy màu da bò (nâu đậm) đó là do các em ở bên trường Franciancaine gởi qua bên Couvent des Oiseaux học, vì ở bên dòng Franciancaine chỉ có từ lớp Năm tới lớp Nhứt (bây giờ gọi là: lớp Một tới lớp Năm). Do vậy nhiều khi nữ sinh Couvent vẫn phải mặc đồng phục áo trắng, áo len xanh, chỉ thay đổi váy xếp ly màu da bò (màu nâu, giống như trường Dòng Missionaires de Marie ở Trại Mát.

                  Đã lỡ nói về trường Pháp, trường Tây, thì tôi không quên hướng dẫn họ đi đến các trường Việt chính và thành lập lâu nhất: - Trường nam trung học công lập Trần Hưng Đạo (1956) ở khu Ấp Hà Đông, nam sinh mặc sơ mi trắng quần xanh học trò (trước kia tên là trường Bảo Long). - Trường nữ trung học công lập Bùi thị Xuân (1957) (trước kia tên trường là Phương Mai). Nữ sinh Bùi Thị Xuân duyên dáng e ấp tha thướt trong tà áo màu xanh biển đậm đà, quần trắng, áo len xanh biển hoặc áo len đen, mang giày hoặc guốc, đầu đội nón lá chao nghiêng, tay ôm cặp. Sau những buổi học tan, thì tốp năm tốp mười tỏa về các nẽo đường trong thành phố, hoặc từng nhóm bạn dạo ra sân Cù ngắm cảnh, học bài cả nhóm, làm bài, làm thơ.
                  Trường trung học Việt Anh trên đường Hải Thượng Lãng Ông, nữ sinh mặc đồng phục áo dài màu tím hoa sim, quàng khăn tím (rất ư là thơ mộng), họ mang guốc, quần trắng, đội nón lá có tua nón màu tím. Nam sinh mặc quần đen, áo sơ mi trắng, áo len màu da bò. - Trường trung học Bồ Đề nữ sinh mặc áo lam, hoặc áo trắng. Nam sinh áo sơ mi trắng, quần màu xanh. - Trường Trí Đức nữ sinh mặc đồng phục trắng (và hồng nhạt). Nam sinh mặc sơ mi trắng quần đen. Sau nầy có thêm trường trung học Hiếu Học...

                  Nhìn chung và thật thà mà nói, thì có trường A’ Dran và trường Grand Lycée Yersin là mặc đồng phục rất sang đẹp & nổi: toàn sơ mi trắng, bên ngoài mặc veston đen hoặc xanh đậm, thắc cà vạt đỏ, hoặc cà vạt sọc nâu đẹp mắt, mang giày thời trang (họ là những nam nữ sinh con ông cháu cha, nhà giàu, ưa đóng áo vét tân thời cao sang).

                  Các trường Đại học và chuyên nghiệp: - Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt Việt Nam (1950). Viện Đại học Đà Lạt 1957 (Thụ Nhân). Dòng Chúa Cứu Thế (1962). Trung Tâm Nguyên Tử Lực Cuộc (1963). Đại học Chiến Tranh Chính Trị (1966). Trường Chỉ Huy Tham Mưu (1967). Thiền viện Trúc Lâm và vô số trường Tiểu Học Công Lập & Tư Thục khác.

                  Chợ: Chợ Mới Đà Lạt khởi xây 1958 khánh thành 1960, có ba tầng lầu rất rộng rãi, nguy nga đồ sộ, tại Việt Nam bấy giờ chưa có chợ nào sánh bằng. (chợ Cũ Đà Lạt có từ lâu đời ấy là Khu Hoà Bình) – Chợ Mới ở lầu 2 bán các mặt hàng: vải, áo quần, len, nón, giày dép, đồ dùng gia đình thuộc về tơ lụa, mỹ phẩm… Nơi đây có cầu thang đúc bê tông cốt sắt rộng nối liền chợ với khu phố Hoà Bình. Tầng trệt của mặt tiền là nơi bán đầy hoa tươi, dâu, mứt, bánh trái, v.v… Trong lòng chợ bán các loại thịt, hai bên hông bán hàng khô. Cuối lòng chợ bán cá, tôm, gà, vịt, v.v… Phiá sau tầng trệt đã làm thêm khu chợ mới loại ván gỗ, lợp tôn, cùng đặt những hàng dù đủ màu quanh chợ bán rau tươi, và là nơi có những quầy bán hàng ăn uống.
                  Cầu ông Đạo là điểm nối tiếp đường lên trên phố Hòa Bình và đường bằng vô mặt tiền chợ Mới Đà Lạt. Phía gần cầu ông Đạo và nhà hàng Thanh Thủy, sân Cù… Nhà hàng Thủy Tạ sơn trắng có ba phần nổi trên mặt nước, một phần nhà hàng xây trên bờ, có cột thu lôi cao chất ngất, có lancan chìa ra giữa hồ. Tầng trên sân thượng của nhà hàng Thủy Tạ có những nấc thang, ta có thể lên cầu thang nhảy xuống hồ bơi lội thoả thích.
                  Đứng trên tiền sãnh Hotel Palace du khách có thể nhìn chủng viện Giáo Hoàng, dòng Don Bosco, Dinh I, trường Grand Lycée, v.v... Ba dinh thự rộng lớn sang trọng huy hoàng bậc nhất thời bấy giờ dành cho gia đình vua an ngự: Dinh I: cuả ông tây triệu phú Robert Clément Bourgery mua miếng đất rộng 40hecta và xây dinh thự năm 1940. Sau ông về Pháp và bán lại cho vua Bảo Đại. Dinh II: Trên đường Trần Hưng Đạo về hướng Đông Nam có ông Toàn quyền Đông Dương Jean Decoux ở tại VN. (người Pháp) đã xây một dinh thự có 25 phòng khang trang, phong cảnh thi vị. Ông dùng dinh nầy để cho gia đình và thân nhân đến nghỉ hè. Dinh III: đi trên đường Pasteur thẳng vô lối nghiã trang Ba Le là Dinh III. Dinh Ba xây 1933 đến năm 1939 hoàn tất. Dinh có tầng trệt và tầng lầu. Tầng trệt rộng rãi trang nhã tươm tất đầy đủ tiện nghi, dùng: tiếp tân, yến tiệc khoản đãi cần thiết, hội họp, phòng làm việc của vua, phòng đọc sách. Tầng hai là nơi sum họp ấm cúng riêng tư của gia đình vua, gồm: Phòng ngủ vua Bảo Đại. Phòng hoàng hậu Nam Phương. Phòng hoàng tử Bảo Long. Phòng công chúa Phương Mai, Phương Liên. Phòng hoàng tử Bảo Thắng. Dinh Ba khá đẹp nhờ hai khu vườn hoa rực rỡ, do tay người làm vườn có nghề trồng tiả chuyên môn, có sáng kiến, ý thức chăm bón hòa hợp từng gốc hoa cành lá, trồng trọt tiả tót công phu ở tiền đình và hậu đình. Dinh III thường là nơi gia đình vua Bảo Đại nghỉ hè.
                  Thành phố Đà Lạt có vườn tượt quanh năm xanh màu tốt tươi, dồi dào hoa quả cây trái trĩu cành, nông sản, trà, cà phê, artichaud, mận, hạt điều, nấm, dâu (nuôi tằm) các loại rau, trăm ngàn bông hoa khoe sắc trong các thổ gia. Nhiều ngôi biệt thự xinh lịch đa dạng có đường nét kiến trúc độc đáo. Nhà nhà ở dưới thấp lẫn trên cao chen chân nơi những con đường mòn đất đỏ uốn lượn trên ngọn đồi lồi lõm bên suối, bên hồ, nơi thác ghềnh xa xa. Ánh đèn mọi nhà thấp thoáng lung linh, mờ mờ trong sương, nhấp nhô cao thấp ẩn mình dưới bóng cây thông triền miên reo vi vu thật nên thơ, thi vị và vô vàn quyến rũ.
                  ***
                  Nhà ba má tôi ở đầu ngã tư Pasteur và Yersin, khuôn viên đất khá rộng, giáp ranh bên trái là nhà thờ Tin Lành (bỏ hoang). Kế bên nhà thờ Tin Lành là tòa án và đầu đường Phạm Phú Thứ. Nhìn chéo xuống là nhà thờ Tịnh Tâm, cũng là Trung Tâm Công Giáo Tiến Hành nằm trên góc đường Yersin + Đoàn thị Điểm. Lên trên đồi cao (sau lưng nhà ba má), là đường Phạm Phú Quốc và đường Huỳnh Thúc Kháng. Cuối đường Pasteur cũng là viện Pasteur đồ sộ, viện Pasteur Đà Lạt nổi tiếng được bác sỹ Alexandre Yersin thành lập năm 1932. Rẻ ra một con đường đá đỏ lởm chởm là lên Dinh III an tọa trên ngọn đồi cao.
                  Đứng trên lầu nhà ba má, tôi có thể nhìn thấy gác chuông nhà thờ chính tòa cao ngất in hình con gà ở chóp đỉnh. Mỗi sáng, trưa, chiều, tối, tôi vẵng nghe tiếng chuông chơi vơi ngân nga giữa núi đồi, báo hiệu hừng đông hay hoàng hôn trong bầu trời thinh lặng đầy rung cảm. Nhà ba má tôi ngó mặt qua bên Tiểu Khu Đà Lạt/Tuyên Đức. Gần trường Trung học Kỷ Thuật Lasan (Lasan là chi nhánh của trường A' Dran, số 25 đại lộ Yerin) và góc đầu đường Đào Duy Từ (nhà Bò). Các Freres đảm nhận dạy học nghề rất nổi tiếng. Từ trường Kỷ thuật Lasan thẳng tới hướng Ty Cảnh Sát, nhà thờ con Gà là trường Trí Đức (phía sau nhà thờ), rồi Bưu Điện và hotel Du Parc ở trên đường Yersin.
                  ***
                  Mùa Xuân năm ấy hoa anh đào tươi nắng rộ nở trên ngàn cây ngọn lá, gió lả lơi đùa với nội cỏ, thì các bạn: Phú, Du, Hạ, Lễ, Tài… ở Sài Gòn lên Đà Lạt ăn Tết, (do nhà ba má tôi rộng và dư nhiều phòng, họ xin ở nhờ). Chúng tôi hồn nhiên vui vẻ lạ thường. Dưới bầu trời cao nguyên Lâm Viên có áng mây bạc pha hồng thắm lững lờ trôi. Lạnh! Lạnh buốt giá kinh khủng, tê cóng nhức nhối muốn bại liệt cơ thể, muốn điếng cả hồn lẫn xác và ăn sâu vào lòng người. Hai hàm răng ai nấy tự động run rẩy va vào nhau lộp cộp, toàn thân run lập cập, thở không đều nhịp, làn hơi từ cổ họng mọi người bay ra như trêu đùa, chọc ghẹo. Các bạn trai chưa đến Đà Lạt lần nào, ai cũng ngạc nhiên vui thích cười ha hả khi thấy mình thở ra thành hơi khói. Đêm đêm ở nhà, mấy bạn pha cà phê, ăn bánh ngọt, cắn hạt dưa, ăn bánh chưng, bánh tét, uống nước trà, thật vui vẻ. Họ ngồi nói chuyện phiếm, thi vị vui vẻ sao đâu trong phòng khách đến tận khuya. Có ngày không biết làm gì hơn, họ bày trò “thi nhau nhìn vào mắt”. Hể ai chớp mắt, nhấp nháy mắt trước, hay cười, là bị phạt uống một ly đá lạnh. Eo ơi! Ở xứ nầy giữa đêm khuya mà uống đá lạnh, thì lạnh hết biết. Lạnh nổi da gà! Trò chơi gì trẻ con lạ! Họ chơi đỗ cá ngựa, cờ duyên khóc, duyên cười, quẹt lọ nồi. Vui thật vui.
                  Vài lần trong đêm mấy bạn cùng dì cháu chúng tôi dạo phố đêm, họ mua thuốc lá, kẹo, bánh, chewing gum, bắp nướng, cùng nhau đi tà tà nói chuyện tếu, đi bộ giáp một vòng bờ hồ Xuân Hương dài ngót sáu cây số. Có khi họ vòng lên trường Grand Lycée Yersin ngắm trăng lá lúa ẩn mình trong đài mây. Đường về khuya lạnh lẽo càng thêm hoang vắng, cảnh vật huyền ảo mơ màng đẹp lạ lùng.
                  Rồi một ngày nắng tươi, có tôi, Mai, Thơ, Vân, và các cháu làm hướng dẫn viên du lịch cho các bạn đi qua bao thắng cảnh duyên thơ hữu tình, qua bao núi rừng suối hồ mộng mơ. Cả nhóm bao taxi đi picnic, thì tình thân hữu nhờ thế lan dần. Trước tiên họ đi thác Cam Ly xa khu Hòa Bình độ 2,5km về hướng Tây, thác Cam Ly rất gần, thác nằm trong nách thị xã, (nên du khách có thể dễ dàng tà tà đi bộ, nếu muốn). Từ đại lộ Yersin xe chạy thẳng tắp tới ngả ba Huyền Trân Công Chúa, thì xe rẻ sang hướng phải một quảng ngắn, hơn 1km là tới thác Cam Ly).
                  Còn một con đường khác là: từ dốc Minh Mạng (xe chạy một chiều) xuống ngã ba Phan Đình Phùng, qua cầu Cẩm Đô là đường Hai Bà Trưng (và khu đồi Dân Y Viện Đà Lạt). Xe tới đầu hông sân trường Việt Anh, ta đi theo đường Hoàng Diệu, thì du khách đi hoài đến cuối đường, sẽ tới đầu ngọn thác của vùng Cam Ly Hạ (Cam Ly Hạ là vùng đất thấp, nơi có thác nước chảy xuống lòng suối). Thác Cam-Ly vào một ngày êm đềm khi mặt trời bơi lên khoảng trời xanh mênh mông, tươi thắm, mát rượi, dìu dịu, an hòa, bình thản đến hững hờ. Lớp sương mù ẻo lả vật vờ bay lơ lững rồi tan dần, lộ ra vài ba con đường mòn đất đỏ từ từ bốc hơi, rồi khô từng mảng một. Con dốc mòn đã có vài người Thượng gùi măng và lan, củi đi bán ngoài chợ sớm. Ở đây quang cảnh thinh lặng êm đềm, tiếng nước róc rách len lỏi theo bờ đá chảy xuôi xuống thác.
                  Trên ngọn đồi thông rợp bóng nằm về hướng Đông Bắc, là lăng Quận Công Long Mỹ Pierre Nguyễn Hữu Hào (nhà đại điền chủ người Gò Công, chủ nhiều đồn điền cao su, trà, ở một số Tỉnh, Đà Lạt, và một số đất vùng Cao Nguyên Trung Phần. Ông Nguyễn Hữu Hào là thân sinh của Nam Phương hoàng hậu, vợ vua Bảo Đại. Ông Lê Phát Đạt Philippe Huyện Sĩ giàu có bậc nhất thời bấy giờ, là ông ngoại của hoàng hậu Nam Phương). Lăng Quận công Nguyễn Hữu Hào an tọa trên một khu rừng thông hùng vĩ cao vút, làng mạc ngút ngàn dưới chân đồi mờ mờ hơi sương. Từ dưới đường cái lên tới lăng có 20 tầng cấp lát đá vuông, mỗi tầng có khoảng 10 bậc cấp. Cộng chung lăng nầy có tất cả 102 bậc cấp. Đứng trên sân lăng du khách có thể nhìn thấy một phần tư góc thành phố Đà Lạt ẩn hiện, thấp thoáng xa xa dưới mỗi chòm thông reo luôn nhã nhạc vi vu. Sau lăng chập chùng những đồi sim tím và rừng trái mác mác xa xa, thì có một phi trường nhỏ ở vùng đất nầy cao, thoáng, và bằng phẳng, nên gọi là: Cam Ly Thượng.
                  Sau khi leo trèo ở những mô đá trên lòng suối, chụp hình, vọc nước lạnh chán chê, họ lên xe đi thác Datanlania xa thành phố Đà Lạt 5km. Chín giờ sáng xe dừng ở bên thác Datanlania chìm khuất dưới những đồi thông dựng đứng, thác sâu hoắm, sâu hút tầm nhìn. Từ trên đường cái muốn đi xuống thác, chỉ có một đường dốc nhỏ nhấp nhô, những bậc cấp nện đất cứng len lỏi trong rừng thông bạc ngàn (thỉnh thoảng có vài cục táp lô kê trên mỗi bậc chận cho đất khỏi bị chuồi). Họ lần mò đi từng bậc cấp ngoằn ngoèo trơn như mỡ, bờ vực cheo leo để xuống chân thác.
                  Mặt trời ở dưới thác hầu như còn ngái ngủ chưa thức giấc (vì dưới những vòm cây âm-u rậm-rạp, um-tùm, cây chen cây lá chen lá, thì mặt trời lười nằm lim dim ngủ nướng trong rừng, không thèm tỏa ánh sáng). Nước từ trên ba tầng khe đá cao ngất chảy ầm ầm, dội xuống lòng thung lũng, vỡ ra muôn triệu bụi phấn trắng xóa, quyện với từng mảng sương mờ đục phủ kín bầu trời ban mai mờ mờ nhàn nhạt màu sữa. Thác Datanlania thâm u cheo leo hiểm trở là thế, mà họ quyết leo qua bên kia chân thác. Từ từ họ leo lên ngọn thác thứ nhì, đứng chênh vênh bên hốc đá chốc lát, thở hổn hển... Rồi các cậu bạn và hai ba cô nàng tìm cách leo lên đỉnh thác thứ nhất ở tít mù trên cao, cao ngất. Mặt mình úp sát vào vách đá, lưng quay ra phía vực sâu, hai tay bám chặt bờ cây, bụi cỏ, không ai dám ngoái cổ nhìn ra phía ngoài, hoặc nhìn xuống vực thẳm. Một trời giông bão hầu như quay cuồng đến chóng mặt tít dưới chân ta. Qua muôn ngàn cây đại thụ, gỗ tạp, gỗ lá rộng, lá kim quý như: cẩm lai, sao, thông hai lá, thông ba lá, chen cánh với mộc lan, tre, nứa, lồ ồ, le, dẻ, lùm cây um tùm gai góc, bờ bụi tróc lở rong rêu ẩm ướt rất trơn.
                  Cổ thụ cằn cỗi già nua không biết bao tháng năm chi chít muôn sợi dây rễ dài lòng thòng, rễ to hơn cườm tay. Loại dây dẽo, dai, chắc chắn, xù xì. Thỉnh thoảng cây có gai quấn quýt trên thân cao xuống lòng thung lũng mờ mờ, sâu hoắm. Họ bám chặt vào sợi dây rễ cứng và dẽo dai nầy mà di chuyển. Tiếc rằng họ chưa đủ kinh nghiệm sống, chưa dám đu dây rừng y như nữ chúa rừng xanh. Leo lên hết chóp đỉnh nhú ra ngực thác Datanlania khúc khuỷu cuối lòng khe đá, thì biến thành đầu ngọn thác thứ nhất. Phía bên nầy khe đá có những ụ đất sét (có đá cao lanh, đá quý, quặng boxit, than nâu, giống như ở gần vùng Đạ Đờn, Đạ Tẻh, Đạ Hoai). Hai bờ suối dần dần nở rộng ra; dẫn đến cánh đồng cỏ non xanh mướt trải dài, nhìn mút tầm mắt, thảm cỏ ướt đẫm sương mai còn nhiều giọt mọng tròn, long lanh ngấn thủy tinh dưới ánh mặt trời yếu ớt bắt đầu vươn mình ló dạng, đỉnh núi nhọn hoắt muốn chọc thủng từng áng mây bay ngang đầu. Từ ngọn lá non tỏa ra như lọng dù ở trên cao, vẫn còn nhiều giọt sương mọng to rơi lốp đốp xuống cành lá mềm mại ở dưới thấp.
                  Sau bao tàng cây cổ thụ mọc gần khe suối, là rừng lau bạt ngàn với hoa dã qùy chen cánh cùng loài hoa sim tím, hoa mắc cỡ màu tím lá xanh đầy gai nhọn. Thiên nhiên cẩm tú đẹp thế mà hoa mắc cỡ vẫn e ấp thẹn thùng khép chặt hàng mi khi có người vô tình đụng phải. Bạn cảm thấy thú vị vô cùng khi tận mắt nhìn những thắng cảnh thiên nhiên tuyệt vời, chưa chắc bạn sẽ hân hạnh ngắm nhìn thêm lần thứ hai.
                  Bạn Hòa tìm cách leo lên mấy cây gỗ qúy để hái nhiều loại lan, mỗi loài hoa có một sắc đặc biệt riêng. Mấy chú sóc đuôi xòe ra như chiếc chổi lông mềm mại, sóc leo trèo trên cây quả chín đỏ. Bầy khỉ lí lắc nhi nhô kêu chí chóe, chúng chuyền chỗ nầy chỗ nọ nhanh nhẹn, gọn gàng. Hình như chúng phản đối sự có mặt của con người không mời mà đến trong giang sơn cẩm tú, đầy bình yên riêng tư của chúng? Chim hót líu lo đủ mọi giọng điệu trầm bổng véo von lẫn tiếng nhịp nhàng của bầy chim gỏ kiến đang đập mõ dài cứng ngắt vào thân cây, hòa cùng tiếng thác đổ từ nơi xa xa vọng lại.
                  Thỉnh thoảng tiếng vượn hú kêu đàn. Cú nấc cụt từng tiếng. Dơi trong hang thấy động rừng, đã bay vù ra kêu "xít...xì" tất cả đơi vút bay về bên trái. Bầy chồn lủi nhanh vào bụi rậm. Thỏ rừng tung tăng nhảy nhót thảnh thơi trên cánh đồng cỏ non. Tất cả âm thanh và hình ảnh sống động ấy tạo thành bản rừng ca thiên nhiên bất hủ muôn điệu. Bạn Lễ đưa máy ảnh bấm liên tục, những hoạt cảnh tươi nguyên núi rừng hoang dã hồn nhiên, đầy tình tự quê hương hữu ái mà anh hằng yêu thích. Phía trên đỉnh thác khá lạnh (nhưng không lạnh bằng lòng thác lúc nãy, vì nơi đó ít thấy ánh dương). Bạn Du ngẩn ngơ xuýt xoa trầm trồ khen ngợi phong cảnh nên thơ, bạn nhìn trời nhìn đất, sau một lúc thật lâu mới tìm chỗ đặt mấy giỏ thức ăn xuống. Các bạn ngồi trên tấm ni lông đã mang theo. Họ nói chuyện cười đùa huyên thuyên.
                  Bỗng Phú thở hổn hển từ đằng xa chạy đến và khựng lại im bặt, nhưng tay anh chỉ chỉ về hướng rừng, khiến các bạn ngẩng nhìn và chạy theo Phú: Có những dấu chân loài voi, cọp, dấu chân khổng lồ cạnh khúc xương ống, một đầu lâu (mình cứ nên nghĩ có lẽ của khỉ), cách chỗ các bạn ngồi không xa. Thế là ý định bạn nằm lăn ra bãi cỏ non mềm chợt tiêu tan ngay. Đi núi, họ không mang theo bất cứ một dụng cụ đề phòng nào, lỡ mà có bị rắn, rết… cắn bất tử, thì thật nguy to (chứ đừng nói là bị cọp vồ!). Bây giờ cả nhóm mới thấy lời Hoà đề nghị leo lên thám sát thác và núi lúc nãy, là điều dại dột, bất lợi quá.
                  Lòng chẳng hẹn lòng, nhưng ai ai cũng nơm nớp lo sợ sự bất an quanh quẩn đâu đây. Nỗi lo sợ ớn lạnh cùng khắp. Khí trời ban mai đã lạnh lẽo, càng thêm buốt giá kinh khủng! Họ vội vàng xếp đồ đạc vào ba lô, giỏ xách, vác trở xuống chân thác. Khi leo lên núi đã khó, lúc tụt xuống bờ vực càng khó gấp bội. Bạn cẩn thận lần mò nhích đi từng bước một. Tay bám vào gờ đá, thân cây hoặc dây leo, gốc rễ, mà tụt tụt từ từ, hoặc bò thụt lùi, bám riết từng tất đất thật vô cùng nguy hiểm khó khăn. Nhìn xuống vực thẳm ai cũng thấy tối tăm mặt mũi, hoa cả mắt, sợ mất hồn mất vía.
                  Cuối cùng, cả nhóm trở về được dưới chân thác, mất hơn hai giờ họ mới có thể lần mò trở xuống dưới chân thác. Mặt mày chân tay ai nấy đều bị rách, xây xát, thân thể mệt mỏi rã rời, quần áo xốc xếch, lấm lem. Tuy vậy, mấy anh thanh niên tính không khỏi reo lên, cười ha hả vì họ đã tận hưởng giờ phút vui thú nhất qua danh lam thắng cảnh tuyệt vời. Thể hiện tính kiên cường, bất chấp gian nguy, thỏa trí tò mò, dù họ quá mệt mỏi và lòng lo sợ.
                  Trở lên đường cái ai nấy đều mệt nhoài, từ thác Datanlania trổ xuống cuối đèo cách đó 2km là thác Prenn nằm bên quốc lộ 20. Thác Prenn rất đẹp có chiếc cầu gỗ lòn quanh bên trong khe thác, đứng trong cầu du khách có thể tưởng tượng là: ta đang đứng trong nhà, nhìn mưa xối xả tuông chảy xuống mái hiên. Thác Prenn ngoài phong cảnh hữu tình nên thơ ra, có khu thảo cầm viên kha khá, nuôi nhiều loại: rắn, khỉ, chim, công, cọp, beo, voi, ngựa, vân vân... Ở chơi và ăn trưa tại đây xong, họ đi tới thác Liên Khương (ở quận Đức Trọng xa Đà Lạt 30km), từ dọc ven suối Prenn chạy về suối Bồng Lai (sát bên vệ đường, phía trái, trên quốc lộ 20) tạo thành thác Liên Khương. Thác Liên Khương không mấy đẹp.
                  Thác Gougah (Ổ Gà) còn có tên gọi “Nam Phương đệ nhất thác” ở xã Phú Hội, Huyện Đức Trọng, xa Đà Lạt độ 28km, thác nầy hùng vĩ, âm u, hoang vắng. Từ quốc lộ 20 đi theo con đường mòn rậm rạp và âm u, ta rẽ vào phía trái thì tới nơi. Thác đẹp. Trời xanh bát ngát giao hòa với đất uy nghi lẫm liệt và phong cảnh tuyệt vời thơ mộng vô cùng. Nhưng đẹp nhất là thác Pongour xa Đà Lạt 45km, ở Tân Hội, hướng Nam. Từ quốc lộ 20 đi vô thác xa 7 km, ngoằn ngoèo, quanh co, rậm rạp. Khi đến thác Pongour có 7 tầng đá trải rộng từ bờ nầy qua bờ kia. Ngày đêm nước tuông xối xã ầm vang miết mãi, nước tung bọt trắng xóa cuồn cuộn đổ xuống những mô đá to cao nhấp nhô chôn sâu trong lòng suối. Đứng trước thiên nhiên cẩm tú và hùng vĩ, mình cảm thấy con người thật bé nhỏ tầm thường.
                  Hôm đó, khi nhảy qua mấy hòn đá trơn ở thác Gougah, suýt tí nữa Thơ bị nguy hiểm tính mạng, nếu Phú không nhanh tay kéo nàng ngã dúi vào lòng anh. Mất thăng bằng, cả hai người ngã lăn trên dòng suối ấm dưới chân thác. Hương hoa núi rừng mộc mạc, kèm với sự sợ hãi chợt đến, chợt đau lúc tay chân bị đập vào đá tím bầm, khiến nàng quên nỗi bẽn lẽn thẹn thùng. Áo quần ướt sũng nước, hai người nắm chặt tay nhau từ từ lội lõm bõm vào bờ, và lóp ngóp bò lên ngồi trên tảng đá. Chỉ còn hai người, nên nàng cảm thấy ngượng ngùng, e thẹn, vì áo quần dính chặt vào da. Không ai nói với ai lời nào “anh chị” loay hoay hong khô người dưới ánh nắng. Thoáng chốc quần áo khô nhanh. Phú, và nàng cùng nhìn theo các bạn. Các bạn khác không bị “té suối”, thì hân hoan lò dò đi các nơi chụp ảnh.
                  Bạn hữu hăng hái vui vẻ trở về lối cũ đi thác Hang Cọp thuộc địa bàn thôn Túy Sơn, xã Xuân Thọ, cách trung tâm thành phố Đà Lạt khoảng 15km về phía đông bắc (qua phía Trại Mát). Thác Hang Cọp cũng hiểm trở ngoằn ngoèo rậm rịt, thăm thẳm núi rừng với dốc đứng cao ngất lưng trời, thác hơi giống thác Datanlania sâu thẳm & âm u. Đặc điểm: Xung quanh thác có rừng thông đặc chủng, rừng hỗn giao khá xanh tốt, thích hợp cho các chuyến du lịch dã ngoại.
                  Chiều về, họ đi “đồi thông hai mộ” (khu Chi Lăng), đi vô thăm trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam nằm ở khu Chi Lăng (và góc Thái Phiên). Tôi kể sơ sơ cho bạn nghe: Tháng 10/1950 vua Bảo Đại cho dời trường sĩ quan Hiện Dịch tại Đập Đá Huế, về Đà Lạt, và gọi là École Militaire Inter-Armes de Dalat. Trường nầy sát nhập vào trường Võ Bị Liên Quân đặc biệt của Pháp (ngôi trường Võ Bị Liên Quân Đặc Biệt của Pháp, nay đương nhiên phải trao trả lại cho Việt Nam). Đầu tiên ngôi trường lấy tên là: Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt. Cuối cùng Trường sĩ quan hiện dịch nầy chính thức đổi tên thành: Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt Việt Nam theo sắc Lệnh số 325-QP ngày 10.4.1963. Đất và Trường rộng mênh mông, tọa lạc giữa vùng khu ấp Chi Lăng và khu Thái Phiên. (Tôi hẹn bạn sẽ cùng nhau nói nhiều về trường Võ Bị trong dịp khác nhé).
                  Các bạn lên xe trở về thành phố thăm di tích xưa từ thời vua Bảo Đại đã đặt tên là Thung Lũng Hoà Bình. Bây giờ là Thung lũng Tình Yêu (thời Pháp thuộc gọi đây là Vallée D’ Amour) ở trong khu Ấp Đa Thiện, xa phố Hòa Bình 4,6km, nơi đây phong cảnh khá hữu tình, những rừng bạt ngàn cao vút thông nhấp nhô soi mình trên mặt hồ im ắng, nước trong xanh thỉnh thoảng gợn lăn tăn dưới pedalo.
                  *****
                  Tôi đã mời các bạn cùng tôi ghé thăm Đà Lạt (bằng đường bộ), chúng tôi đi qua hai ngả chính: 1.- Từ hướng Sài Gòn xe chạy về miệt Biên Hoà, Long Khánh, rồi xe bon bon tách qua hướng đi Định Quán, đến đèo Marigui, xe qua đèo Bảo Lộc quanh co ngút ngàn núi tiếp núi rừng tiếp rừng, chen với những đồi trà, những đồi cà phê. Lúc xe chạy trên quốc lộ 20 giáp ranh với Di Linh, là khu núi rừng thuộc Tỉnh Tuyên Đức. Taing, nơi đây người dân có thể vào tít tót trong rừng núi xa xôi hiểm trở sâu hun hút, họ đào sâu xuống lòng đất, sàng đất cát trên chi nhánh các dòng suối (thuộc vùng suối của thác Preen, Pongour, Gougah…) để đãi lấy vàng. Xe lên tới vùng đầu Đại Ninh, Đức Trọng qua thác Liên Khương, thác Prenn, Datanlania là thuộc về phong thổ mát rượi của Đà Lạt. Cộng chung dưới 300km
                  2.- Từ miền Nha Trang, Phan Rang xa xôi muốn đi lên Thị-xã Đà Lạt, xe hơi phải đi về hướng núi toàn rừng tre, nứa, lồ ô, rừng hỗn giao lá kim, lá rộng, dẻ, rừng cây quý đủ loại với bạt ngàn thông chen chúc trong vùng núi. Kể từ lối Krong Pha, xe hơi leo lên càng lúc càng cao… dưới những ngọn núi cao ngất ngút ngàn, gập ghềnh, khúc khuỷu, quanh co và những eo đèo chênh vênh dựng đứng, ngặt nghèo ngóc ngách, khúc khuỷu co rúm như cùi chỏ ôm vô ngực, rất hiểm nghèo khi len lỏi qua rừng rậm, âm-u um-tùm, đó là đèo Ngoạn Mục cách xa thành phố Đà Lạt 40km. Cộng chung quảng đường dài Đà Lạt – Nha Trang 230km.
                  Rời xa Đà Lạt, xe đò chở các bạn chạy xa dần đền Sofnadronhay, xa từng đầu cây ngọn cỏ. Xe bon bon chạy về hướng Cầu Đất. Những ruộng dâu, những luống hoa, những đồi trà, đồi cà phê rợp bóng, vườn lá dâu (nuôi tằm) giăng mắc nơi nơi. Mỗi khi vào mùa hoa nở, cả vùng trời sương mù đầy hoa thơm ngát tỏa mùi thơm ngào ngạt, ngây ngất. Đỗ đèo Đơn Dương khi bình minh len lỏi trong những vầng mây hồng thắm, gợn từng sóng mây viền bạc long lanh, xen lẫn màu vàng sáng, dần dần ló lên bên triền núi thấp có nhiều đoạn gấp khúc. Từng cuộn mây trắng nõn không hiểu từ đâu quyện với hơi sương, tạo thành những chùm bông gòn xôm xốp, lênh đênh bồng bềnh trôi về đầu núi. Xe chạy trên con đường ngoằn ngoèo mờ mờ bóng râm trơn ướt nước sương đọng thành từng dòng, con đường nhựa bóng láng như da lươn, đầu xe luôn chúi nhủi xuống mãi, có nhiều khúc ngoặt hiểm nghèo như cùi chỏ co quặp. Trên cao chót vót đỉnh đèo nhìn xuống chân núi, từng mảng sương dày và dài như dải lụa đang tản mạn trong bầu trời, hoặc vắt vẻo trên thân cổ thụ trùng trùng điệp điệp. Mặt trời chiếu xiên qua rừng cây tỏa muôn ngàn ánh hào quang rực rỡ, bảy sắc cầu vồng lấp lánh trên những ngọn lá mọng nước lung linh diễm ảo nét thiên đường ngự trên thế trần.

                  Dọc theo những sườn đồi của đèo Ngoạn Mục, có hai ống nước khổng lồ chạy từ đập Đanhim xuống chân đèo, trông ống nước giống như cặp rắn song sinh giát bạc, hai ống nước long lanh quái dị suốt tháng năm vắt mình treo lơ lửng trong khu rừng xanh um đầy bí hiểm. Tôi rất kính phục các kỹ sư tài ba lỗi lạc, những người thợ kiên cường đã "tạc" cặp rắn thần kỳ" vào không gian, thời gian thành bức tranh tuyệt hảo một công trình vĩ đại, phong phú, họ không ngại gian khổ, sức lực, chỉ âm thầm lặn lội vào rừng sâu, núi thẳm. Họ đầy can đảm có khả năng chinh phục thiên nhiên, để xây dựng, kiến thiết quê hương Việt Nam ngày thêm tiện nghi, giàu đẹp, hùng cường. Hai ống bạc nầy đã, đang, và vẫn cung cấp nước cho vùng phụ cận miền Đông Trung Phần, nguồn nước vô tận trong mát ngọt ngào.
                  Nơi đây có đường sắt xe lửa Đà Lạt – nối liền Phan Rang. (Tháp Chàm) dài ngót 84km. Xe lửa vận chuyển thường xuyên, khi ta nhìn "con tàu lửa" mệt nhọc leo lên từng nấc, từng nấc trên những ngọn đồi cong cong và thẳng đứng, tàu lừ đừ lắc lư rên hừ hự leo lên tít trên núi cao, cao vút... xe lửa thong thả cố leo lên cao mà không tuột dốc, là bởi do xe lửa có lắp những đoạn móc sắt tinh vi dưới lườn xe. Mình cảm thấy kỳ diệu thay óc sáng tạo của con người (tàu lửa chạy tuyến đường Đà Lạt Phan Rang từ năm 1928 mãi đến năm 1964, mới ngưng hoạt động).
                  Krông Pha an lạc dưới chân đèo Ngoạn Mục, có nhiều hàng quán tấp nập kẻ ra người vào. Cơm canh nóng hổi, thơm phức mùi chiên xào nấu nướng, khiến khách thập phương cảm thấy đói lòng, họ ghé lại nghỉ mệt và dùng bữa, họ nhâm nhi tách cà phê thơm loại thượng hảo hạng của: cà phê moka, mít, chồn. Hoặc họ uống ly trà bốc khói thơm lừng mùi nỏn trà La Ba, Bạch Mao. Cầu Đất, Đơn Dương, Blao, vân vân... Xe chạy qua gần vùng quốc lộ 1A và 27, thì triền núi từ từ thấp dần xuống đồng bằng và vùng ven biển, xuôi về Đông Nam. Gần cạnh vùng nầy là suối Vĩnh Hảo, nơi cung cấp nước nóng 30/độ C, tinh khiết ngọt ngon. Hòn Lao Câu, Giành Sơn, nằm trên đường xuyên Việt, tiếp giáp Ninh Thuận.
                  ***

                  Tình Hoài Hương
                  Last edited by Tinh Hoai Huong; 06-20-2019, 06:23 AM.
                  Bút trần nào tả được lưu luyến!
                  Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                  Tình Hoài Hương

                  Comment


                  • Vua Quang Trung NGUYỄN HUỆ

                    Photo by Hoài Hương


                    Vua Quang Trung NGUYỄN HUỆ (1753 – 1792)
                    Nhà chính trị lỗi lạc & quân sự tài ba kiệt xuất.


                    Phần I. Phân tranh giữa Nam Triều & Bắc Triều
                    (theo thiên-niên-kỷ)
                    * Quân Trịnh tiến vô Đàng Trong.
                    * Tây Sơn đi đánh thành Gia Định.
                    * Trận đánh oanh liệt ở Rạch Gầm & Xoài Mút.
                    * Tây Sơn & đoàn quân viễn chinh: Pháp + Miên + Tiêm La.
                    * Sự rùng rợn dã man khi "người thắng cuộc" trả thù.
                    ***

                    * Năm 1771, nhân lúc Trương Phúc Loan chuyên chế nắm hết mọi quyền lực, tàn ác, tham lam, làm những điều rất xằn bậy, không lo cho cuộc sống người dân, ông chỉ vơ vét làm giàu riêng mình, khiến dân chúng vô cùng cực khổ, oán thán kêu trời không thấu. Bấy giờ anh em Tây Sơn văn võ đã song toàn: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ, ở Huyện Phù Ly (nay là Phù Cát, Qui Nhơn) liền lợi dụng "thời thế & cơ hội ấy thế thời phải thế", họ lấy danh nghĩa: “chống lại Quốc-phó Trương Phúc Loan, ủng hộ hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương” (là cháu đích tôn của Vũ-vương Nguyễn Phúc Khoát). Họ đường đường chính chính ráo riết xây dựng chiến khu, tuyển dụng quân binh, ngày đêm lo luyện tập quân bị, chủ yếu ban đầu là cùng đứng lên phất cờ kháng chiến khởi nghiã. Bởi vì Tây Sơn mang danh nghĩa ủng hộ Hoàng Tôn Dương, nên ai ai cũng mến thích. Khi đánh trận quân binh ưa rầm rộ la ó tung hô ầm ĩ, nên dân gian có câu thơ nghe vui & hay hay:
                    Binh Triều là binh Quốc-phó
                    Binh Ó là binh Hoàng-tôn
                    ”.
                    * Nguyễn Nhạc & nghĩa quân Tây Sơn quyết định đi đánh chiếm thành Quy Nhơn là trung tâm căn bản của khu vực Nam-Trung-bộ, nếu Tây Sơn làm chủ đất Quy Nhơn, tất nhiên là bá chủ toàn khu vực rộng lớn ở vùng này, làm căn cứ địa rất thuận tiện từ đường bộ đến đường thủy khi tiến công, đây là một trọng trấn của Đàng Trong, (xưa Qui Nhơn là kinh thành Đồ Bàn của nước Chiêm Thành). Muốn đánh chiếm thành Qui Nhơn, Nguyễn Nhạc lập mưu kế rất táo bạo, ông tự ngồi vô cũi, giả bộ để quân lính (phe ta) đã phản lại Tây Sơn về đầu hàng với chúa Nguyễn, họ bắt được tướng Nguyễn Nhạc thì khiêng ông tới thành Quy Nhơn để lập công, nộp "giặc ngụy tặc Nguyễn Nhạc" cho tướng giữ thành là Nguyễn Khắc Tuyên.
                    Tuyên không hề nghi ngờ, trái lại mừng rỡ hớn hở như nhặt được vàng ký! Tuyên tin chắp bắp như điếu đổ điều nầy là thật, y cho quân áp giải Nguyễn Nhạc vô thành giam. Nửa đêm, quân Tây Sơn trá hàng ấy mở cũi cho Nguyễn Nhạc ra, ông cùng binh lính (phe ta) đã ở bên trong thành, phối hợp với quân ngoại viện từ ngoài thành nổi dậy ào ạt ùa vô đánh chiếm thành Quy Nhơn. Nguyễn Khắc Tuyên quá sửng sốt, vội bỏ gia đình, ấn tín, mà run rẩy chạy trốn. Thắng thế vẻ vang trong chớp mắt, từ Quy Nhơn, Nguyễn Nhạc kéo đại binh tiến ra đánh chiếm Quảng Ngãi. Đến cuối năm 1773, quân Tây Sơn mau chóng chiếm được Phú Yên, Diên Khánh, Bình Khang, Bình Thuận, rồi làm chủ vùng đất từ Qui Nhơn dài dài tới Quảng Ngãi. Quân Nguyễn co rút vô Nam-bộ.
                    Nhớ em anh cũng muốn vô
                    Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang
                    Phá Tam Giang ngày rày đã cạn
                    Truông nhà Hồ Nội tán cấm nghiêm
                    (cd)
                    Truông nhà Hồ là vùng đất rộng lớn ở Huyện Vĩnh Linh, thuộc Tỉnh Quảng Trị hoang vu, cỏ mọc um tùm chằn chịt. Phá Tam Giang ở phía Tây Nam có ba con sông Hữu Giang, Tả Giang và Trung Giang, là những lạch lớn có nước ở Huyện Quảng Điền chảy ra biển Thuận An, Tỉnh Thừa Thiên (bây giờ phá Tam Giang đã cạn nước). Giữa năm 1774, chúa Nguyễn cử Tống Phúc Hiệp đem quân từ Gia Định đi theo hai đường thuỷ, bộ ra đánh Nam-Trung-bộ, quân chúa Nguyễn mau chóng lấy lại Bình Thuận, Diên Khánh, Bình Khang. Nguyễn Nhạc chỉ làm chủ từ Phú Yên ra Quảng Ngãi.
                    * Nhân lúc "Đàng Trong" rối ren do Tây Sơn vừa mất Bình Khang, thì phía phương Bắc có biến, tháng 10 năm Giáp Ngọ 1774, chúa Trịnh Sâm cử Bình-nam Thượng-tướng-quân Việp là Hoàng Ngũ Phúc, & Hoàng Phùng Cơ, Hoàng Đình Thể, Hoàng Đình Hảo đem ba vạn quân vượt sông Gianh, mà Nam tiến vô đất Bố Chính đánh họ Nguyễn, (nhưng quân Trịnh giả đò lấy lý do trừ khử Trương Phúc Loan). Nhờ có nội ứng, quân Trịnh lần lượt chiếm Bố Chính, Đồng Hới, Thuận Hoá. Hoàng Đình Hảo chiếm được lũy Trấn Ninh. Trịnh Sâm nhận được tin kia, tuy e dè ngần ngại nhưng quyết định đem đại binh tiếp ứng. Vậy là tháng Chạp năm ấy, Hoàng Ngũ Phúc tiến lên đóng quân ở Hồ Xá (Huyện Minh Linh, Quảng Trị), Ngũ Phúc truyền hịch rằng:
                    - Quân Bắc chỉ đi đánh Trương Phúc Loan mà thôi, ngoài ra không có ý gì khác.
                    Tuy bề ngoài Phúc dẽo miệng thơn thớt nói vậy, nhưng nào có phải như vậy. Chúng trở mặt đem quân binh đi đánh chúa Nguyễn. Quân chúa Nguyễn yếu thế, phải trói Trương Phúc Loan nộp cho quân Trịnh. "Nhặt được" Trương Phúc Loan rồi, chúng tiến binh tới Huyện Đăng Xương, lại sai người vô Phú Xuân "lếu láo" dụ rằng:
                    - Tuy Phúc Loan đã được trừ khử, nhưng Tây Sơn hãy còn. Vậy xin đem binh tới tụ tại Phú Xuân, để cùng nhau đánh giặc.
                    Chúa Nguyễn biết bọn Ngũ Phúc chỉ lừa dối, để âm mưu chiếm đoạt kinh thành, chúa Nguyễn bèn sai Tôn Thất Tiệp, Nguyễn Văn Chỉnh đem quân thủy, bộ tới án ngữ ở sông Bái Đáp (nay là Phu Lệ, Huyện Quảng Điền). Hoàng Đình Thể đem binh tiến hai mặt đánh ập tới, khiến quân chúa Nguyễn thua to. Đầu năm 1775, Hoàng Ngũ Phúc tiến quân đánh chiếm Phú Xuân, chúa Nguyễn không chống nỗi, đã bỏ Phú Xuân chạy vô Quảng Nam đóng quân ở Bến Vám.
                    * Nguyễn Nhạc nhân thời cơ đó, đem hai đạo quân đi đường thuỷ & bộ ra đánh Quảng Nam. Nguyễn Phúc Thuần vội bỏ Quảng Nam theo đường biển trốn vô Gia Định, ông phong cho Nguyễn Phúc Dương làm thế tử Đông Cung, & bảo thế tử ở lại trù trì Quảng Nam. Tháng 2 năm 1775, quân Trịnh tiến vô Quảng Nam, quân Tây Sơn sai Lý Tài rước Đông Cung Nguyễn Phúc Dương về Hội An (Faifo, Quảng Nam). Quân Trịnh vượt đèo Hải Vân đánh chiếm lấy được đồn Trung Sơn, và đồn Câu Để ở Huyện Hoà Vinh.
                    * Nguyễn Nhạc cử hai tướng người Hoa là Tập Đình làm tiên phong, Lý Tài làm trung quân mà đánh Trịnh. Họ đầu đội khăn đỏ, cởi trần, vai đeo khiên, tay cầm phang quyết đánh quân Trịnh hung hăng. Quân tiền đội của Ngũ Phúc chống cự không nỗi, Phúc bèn sai Hoàng Phùng Cơ, Hoàng Đình Thể đưa kỵ binh và bộ binh tràn vô xông trận. Hoàng Ngũ Phúc đánh bại quân Tây Sơn ở Cẩm Sa. Nguyễn Nhạc rút quân về bến Bản, sau đó đưa Đông Cung Nguyễn Phúc Dương về Quy Nhơn.
                    Như vậy việc nắm giữ địa bàn của Nguyễn Nhạc nay chỉ còn Quy Nhơn và Quảng Ngãi. Nguyễn Nhạc biết Tập Đình là người bạo ngược, ý Nhạc muốn nhân cơ hội Đình thua trận thì giết Đình, nhưng Tập Đình rõ dụng ý cuả Nhạc, Tập Đình ba hồn chín viá chạy trốn về Quảng Đông, (Trung-Hoa). Ai ngờ khi Đình về tới đó thì bị chém chết.
                    Từ khi ngoài Bắc vô Nam thì quân Trịnh luôn ở thế chiến thắng, Nguyễn Nhạc thấy tiềm lực Bắc Hà lớn mạnh như voi, còn mình giống con châu chấu, lẽ nào châu chấu cứ giương càng bé tí teo lên mà sừng sộ đá "ông voi"? Có khác chi lấy trứng chọi đá? Tất nhiên không thể đương đầu rồi, nên ông quyết định xin hoà với chúa Trịnh. Cũng do Nguyễn Nhạc muốn tập trung toàn bộ lực lượng nơi chiến trường phía Nam, ông sai Phan Văn Tuế đem thư, vàng bạc châu báu, và xin nộp đất Qui Nhơn, Phú Yên, Quảng Nghiã, "dâng" đến Hoàng Ngũ Phúc. Nhạc khôn khéo xin Phúc cho làm tiên phong đi đánh chúa Nguyễn.
                    Hoàng Ngũ Phúc thấy quân Trịnh đi đường xa đã bơ phờ, rời rã, ốm đau, mệt mỏi, vã lại Hoàng Ngũ Phúc muốn mượn sức từ tay Tây Sơn, để diệt họ Nguyễn, "trai cò tranh nhau, ngư ông đắc lợi" mà. Nên Ngũ Phúc xin chúa Trịnh cho Nguyễn Nhạc đầu hàng, lại phong Nguyễn Nhạc làm "Tây Sơn Trưởng-hiệu Tráng-tiết Tướng-quân", Phúc sai Nguyễn Hữu Chỉnh trao cờ và ấn kiếm cho Nhạc. Dù thế, quận Việp không lui quân, cứ "giả vờ ngây thơ cụ" ngồi chơi xơi nước lân la chờ đợi rung đùi mà đóng quân sát địa giới Quảng Ngãi: nếu Tây Sơn bại trận, thì quân Trịnh sẽ tiến vô đánh chiếm "Đàng Trong". Tống Phúc Hiệp sai sứ bắt Nguyễn Nhạc trả lại thế tử Nguyễn Phúc Dương.
                    * Nguyễn Nhạc biết rõ ý đồ bất chính ấy, ông giả vờ phục lệnh vâng vâng dạ dạ nhận lời, rồi Nguyễn Nhạc bí mật đưa thế tử Đông Cung Phúc Dương ra Hà Liêu. Tạm yên mặt Bắc, nhưng "ninh thọ tử, bất ninh thọ nhục", ý định Nguyễn Nhạc thì bất cứ giá nào... phải chiếm lại cho kỳ được Phú Yên từ tay quân giặc. Nên Nguyễn Nhạc làm cuộc giao hảo thân tình gả con gái cho Phúc Dương. Nhạc sai người vô Phú Yên điều đình với Tống Phúc Hiệp về việc lập Phúc Dương làm chúa, việc khôi phục đất nước, nhất là việc cần gieo niềm tin để an lòng xã tắc, mà "hợp tác" đánh Trịnh.
                    Việc đàm phán đang "đi hàng hai" nửa chừng dang dở, thì Nguyễn Nhạc quyết định lập lại thế cờ, ông cử Nguyễn Huệ đột ngột kéo quân khi "thuận buồm xuôi gió" tới đánh Phú Yên, khiến Hiệp choáng váng ngỡ ngàng không kịp trở tay, quân binh tướng sĩ sợ hãi cùng hè nhau bỏ chạy tán loạn. Nguyễn Huệ bắt sống Nguyễn Khoa Kiên, giết Nguyễn Văn Hiền. Tướng Nguyễn đem quân ra cứu, bị Nguyễn Huệ bắt sống. Tướng Tống Văn Khôi ở Khánh Hoà cấp tốc cầm quân ra đến Phú Yên, cũng bị Nguyễn Huệ giết tại trận.
                    * Lúc bấy giờ đất Thuận Hoá kể từ Nam Bố Chính trở vô có hai Phủ: Quảng Bình có ba Huyện & 1 Châu. & Triệu Phong có 5 Huyện (Quảng Trị). Để tăng thêm uy danh & thanh thế, Nguyễn Nhạc yêu cầu quân Việp phong chức cho Nguyễn Huệ làm "Tây Sơn Hiệu-tiền Tướng-quân". Nhân lúc quân Trịnh rút khỏi Quảng Nam, các tướng họ Nguyễn bèn nổi dậy chiếm lại nơi này. Nguyễn Nhạc phải điều động Nguyễn Huệ từ Phú Yên chạy ra Quảng Nam đánh tan quân Nguyễn, lấy lại đất Quảng Nam. Chẳng bao lâu quân Tây Sơn đã chiến thắng vinh quang.
                    * Hoàng Ngũ Phúc nhân lúc Tây Sơn đem quân vô "Đàng Trong", liền xâm lấn tới đóng quân ở Châu Ổ đất giáp Quảng Nghĩa. Nhưng sau nghe tin Nguyễn Huệ thắng trận khải hoàn, Ngũ Phúc nằm trụ lại một chỗ co vòi rút cẵng, không dám tiến quân đi đâu nữa. Năm Ất Tỵ nơi vùng nầy bị dịch trầm trọng người ta nằm la liệt trong cơn hấp hối, chết rất nhiều, Ngũ Phúc gởi thư xin chuá Trịnh cho rút quân về Thuận Hoá, Trịnh Sâm đồng ý. Ít lâu sau vì tuổi già sức yếu, quá mỏi mệt rã rời nơi chiến trường, quân Việp bỏ Quảng Nam về tới Phú Xuân, Việp giao thành lại cho tướng dưới quyền trấn giữ, còn mình rục rịch dẫn đại quân rút lui về Bắc, đang đi dọc đường thì quân Việp bị bệnh chết.
                    * Nguyễn Huệ ngày đêm thân chinh ra Bắc, để tướng người Hoa là Lý Tài giữ thành Phú Yên. Tài bất mãn dị ứng với anh em Tây Sơn, vì chức Chánh-tướng của Tài bị mất, (đã về tay Nguyễn Huệ), nên hắn nghe lời dụ dỗ của Tống Phúc Hiệp, y quay ra đầu hàng chúa Nguyễn. Phen nầy Tây Sơn lại mất Phú Yên.
                    ***
                    Tây Sơn đi đánh thành Gia Định.

                    Nhà Bè nước chảy chia hai
                    Ai về Gia Định Đồng Nai thì về
                    (cd)
                    Hoặc là:
                    Nhà Bè nước chảy trong ngần
                    Buồm nâu buồm trắng chạy gần chạy xa
                    Thon thon hai mái chèo hoa
                    Lướt qua lướt lại như là gấm thêu
                    (cd)
                    Nhà Bè là một vùng đất hữu tình nằm ở hướng Đông Nam thành phố Sài Côn (Sài Gòn), hợp lưu của sông Đồng Nai & sông Sài Gòn luôn có gió mát lồng lộng thổi trên những lọng dừa xanh tươi. Từ thế kỷ 16 thì cuộc "rỉ tai Nam tiến" của người dân từ "đàng ngoài" ngày càng đông đúc, rầm rộ tấp nập đi vô "đàng trong" lập nghiệp "nhập gia tùy tục, đáo giang tùy khúc" mà cùng nhau vui vẻ làm ăn sinh sống. Họ chuyên cần chăm chỉ khai khẩn vùng đất hoang sơ rộng mênh mông, nhưng phì nhiêu trù phú, màu mỡ, đầy phù sa bồi đắp, có đàn cò chấp chới thẳng cánh bay trên ruộng lúa bạt ngàn xa tắp đến tận chân trời, nơi có quá nhiều trái ngọt cây tươi oằn ngọn, nơi có lắm cá bống dừa, nhiều tôm càng to, cá lóc, cua, cáy, tôm rằn, tép gạo, ngao, sò, ốc, hến, ếch, rắn, rùa... ê hề. Mỏi mệt đếm hủy hủy hoài hoài chẳng bao giờ đếm hết chuồng heo ủn ỉn mập ú, làm sao kể xiết từng bầy gà, từng đàn vịt thả trứng đầy nhóc trên cánh đồng bao la rộng mênh mông. Nơi nông dân có làm lụng đó nhưng thảnh thơi nhàn hạ, làm chơi mà ung dung ăn thiệt. Thật là đất đãi người như ca dao:
                    Ơn trời mưa nắng phải thì
                    Nơi thì bừa cạn nơi thì cày sâu
                    Công lênh chẳng quản bao lâu
                    Ngày nay nước bạc ngày sau cơm vàng
                    Ai ơi chớ bỏ ruộng hoang
                    Bao nhiêu tất đất tất vàng bấy nhiêu
                    (cd)
                    Ở "Đàng Trong" thuộc Nam Kỳ từ thời rất xa xưa đã lập ra lục tỉnh quan trọng: Biên Hoà, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Các vùng nầy đất rộng dân thưa, thời đó phương tiện di chuyển còn rất lạc hậu, đường bộ khó khăn thâm u cheo leo, đất đai gập ghềnh lồi lõm, sông ngòi cách trở. Đi ghe thuyền thô sơ, không khỏi có nhiều bá đạo hoặc "lục lâm thảo khấu" tha hồ hoành hành! Tất nhiên dân gian những miệt nầy đã có câu vè nghe ớn lạnh, nổi da gà: "muỗi bay như sáo thổi, đỉa lội như bánh canh". Hoặc là câu:
                    U Minh, Rạch Giá, Thị Quá, Sơn Trường
                    Dưới sông sấu lội trên rừng cọp đua
                    (cd)
                    Thế nhưng, cũng trong ca dao (cd) lại có câu hữu lý tình thân, khi nói về một trong những vùng đất trù phú dồi dào ở miệt nầy, như sau:
                    Biên Hoà xứ bưởi thanh thanh
                    Có cô bán bưởi xinh xinh hữu tình
                    Anh đây lên thác xuống ghềnh
                    Đá mòn sông cạn quyết chung tình với em

                    Nhưng, tả làm sao cho xuể khi đất nước ta muôn thuở tự nhiên vốn dĩ là "hòn ngọc viễn đông", miền Nam phong cảnh hữu tình, khí hậu ôn hoà mát mẻ nhờ có mạng lưới sông ngòi kinh rạch nối liền nhau chằn chịt. Con kinh Ba Lai nối với sông Tiền Giang đậm đà hương sắc rì rào tình tự quê hương. Lạ lùng thay là mỗi năm sông Ba Lai chỉ ba tháng có nước ngọt mà thôi. Còn kinh Điều ở vùng sông Hậu dù mang "cái danh Điều", mà quanh năm kỳ diệu thay nước luôn trong xanh có thể nhìn thấu xuống đáy sông, và nước khá ngọt:
                    Con kinh anh nói kinh Điều
                    Nó không màu đỏ lại nhiều màu xanh
                    Ở đây trái ngọt dân lành
                    Kinh Điều nước ngọt chảy quanh bốn mùa

                    Từ thành Gia Định Sài Côn (Sài Gòn) về miền Tây đi qua phà Mỹ Thuận, nếu rẽ hướng phải, theo đường lộ dọc sông Tiền Giang (đúng ra chỉ đi dọc một nhánh sông nhỏ song song với Tiền Giang), là đi về hướng Sa Đéc. Đi được bốn năm cây số, thì đến Huyện Cái-Tàu-Hạ, con lộ ngang qua quận đường nằm về bên phải có tên Quận là Đức Tôn. Từ thị trấn Đức Tôn đi tiếp trên đường lộ ấy, độ 15 cây số, là đến thành phố Sa Đéc. Sau khi đi ngang qua Xã Nha Mân, nổi tiếng có nhiều thiếu nữ đẹp, duyên dáng xinh tươi ngoan hiền và vui vẻ hồn nhiên, nơi có nhiều vườn dâu da, măng cụt, chôm chôm... v.v... sầm uất, sai trái trĩu cành ngon ngọt, chắc có lẽ vì Nha Mân được trời ưu đãi ban cho miền đất trù phú nằm trên cù lao lớn, phù sa màu mỡ hội tụ bồi đắp trên sông Tiền Giang. Nơi đây có câu ca dao truyền tụng:
                    Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh
                    Gái nào bảnh bằng gái Nha Mân
                    ”.
                    Rồi thì: bao năm qua anh chỉ quanh quẩn bên mái lá khiêm nhường đơn sơ, bờ ao êm ả nhìn "đàn vịt nằm bờ miá rỉa lông", anh cùng xóm giềng vui tươi thụ hưởng thú thanh bình an lạc nơi quê nhà yên ấm, anh chưa từng rời khỏi thôn xóm để đi xa bao giờ. Giờ đây anh lâm vào cảnh khi "đất nước lâm nguy thất phu hữu trách", anh lính thú phải lên đường tòng quân diệt giặc, ít nhiều chi anh cũng "thấm" được nỗi bùi ngùi bịn rịn, khi anh tần ngần ngó từng lũy tre cọ xát vào nhau kêu kẽo kẹt lúc gió về, anh nhìn gốc sắn, ao bèo... nương khoai, và mẹ già vợ dại con thơ dễ thương ôi là thương quá thể, vậy mà anh phải đành đoạn bùi ngùi rứt áo ra đi:
                    Trong lưng thì dắt bao vàng
                    Đầu đội nón dấu vai mang súng dài
                    Một tay thì cắp hoả mai
                    Một tay cắp giáo quan sai xuống thuyền
                    Tùng tùng trống đánh ngũ liên
                    Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa ...
                    (cd)
                    Anh nhìn lui ngó tới:
                    Mây trên trời bủa giăng tứ phía
                    Nước ngoài biển sóng gợn tứ bề
                    (cd)

                    * Thì... buồn ơi là buồn, đau ơi là đau, nhớ thương ơi là thương nhớ, thiệt phải! Từ thành Gia Định đi về miền Tây qua phà Mỹ Thuận, nếu rẽ hướng trái, sẽ đi về thành phố Vĩnh Long. Sông Hậu Giang chảy ngang quận Trà Ôn rất rộng, sông chạy dài chừng hai cây số, kể cả Cù Lao Mây ở giữa dòng sông, đã chia Hậu Giang thành hai nhánh sông nên thơ êm ả và trù phú. Thế nên rất nhiều người từ các nơi tấp nập đi theo đường bộ nhấp nhô lồi lõm, hoặc dập dìu lên ghe thuyền bồng bềnh trôi lênh đênh trên sông nước miền Nam mà lập nghiệp tại miền đồng bằng Cửu Long. Ba Thắc, là nơi đặc biệt có gạo thơm khá ngon, ngon hơn gạo "nàng Hương", chả thế mà trong dân gian đã có câu:
                    Gạo cơm Ba Thắc thơm ngon
                    Chan nước mắm Hòn ăn chẳng muốn thôi
                    . (cd)
                    Hoặc:
                    Đất Cần Thơ nam thanh nữ tú
                    Đất Rạch Giá vượn hú chim kêu
                    Quản chi nắng sớm mưa chiều
                    Lên doi xuống vịnh cũng chèo thăm em
                    (ca dao)
                    ***
                    * Đầu năm 1776, Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Lữ đem quân theo đường thuỷ vô đánh thành Gia Định, họ Nguyễn không có quân trong tay nên không thể chống trả, họ chạy vô Trấn Biên, chạy về Bà Rịa. Nguyễn Lữ chiếm được Gia Định, các tướng cuả chuá Nguyễn: Đỗ Thanh Nhân, Mạc Thiên Tứ, Tống Phúc Hiệp, Lý Tài… tụ tập về Nam Bộ. Quân Tây Sơn đại thắng, Nguyễn Lữ thu gom hết kho tàng của chúa Nguyễn & rút quân về Quy Nhơn. Tháng 6 năm 1776, không lâu sau Tống Phước Hiệp qua đời, Đỗ Thanh Nhân, thủ lĩnh quân Đông Sơn hiềm khích với Lý Tài, đem quân đến đánh Quy Nhơn. Nguyễn Phúc Dương lúc đó từ Quy Nhơn trốn về Gia Định, ông ra lệnh cho Lý Tài rút quân. Tài tranh công với Đỗ Thanh Nhân, hai bên đánh nhau, Nhân thua bỏ Gia Định về Ba Giòng. Tài ép Thuần nhường ngôi cho Dương làm Tân-chính-vương, còn Thuần làm Thái-thượng-vương.
                    * Lần thứ nhứt - Tháng Ba năm 1777, Tây Sơn đi đánh thành Gia Định .
                    Nguyễn Nhạc cử Nguyễn Huệ làm tướng đem quân thuỷ vô Đàng Trong đi đánh Gia Định (khu vực Tham Lương). Nguyễn Phúc Thuần theo Nhân giữ Tranh Giang, Dương theo tướng Nguyễn Phúc Thuần giữ Tài Phụ. Nguyễn Huệ chia quân ra mấy đường, đi đánh bại cả hai cánh quân Nguyễn. Thuần và Nhân bỏ chạy về Bến Tre, qua tới Cần Thơ cầu viện Mạc Thiên Tứ (tướng người Hoa). Còn Dương bỏ chạy về Ba Việt (Bến Tre). Nguyễn Huệ đánh bại Mạc Thiên Tứ. Thuần sai Nhân lẻn ra Bình Thuận cầu cứu Chu Văn Tiếp, Trần Văn Thức. Lý Tài thua trận thảm bại bỏ chạy khỏi thành, y đưa chúa Nguyễn về Hóc Môn. Sau Tài rút ra khỏi Hóc Môn, rồi đi rạch Chanh, Tân An, thì bị Đỗ Thanh Nhân đón đường giết Tài chết.
                    * Nguyễn Nhạc nhân lúc Nguyễn Huệ thắng trận ở Nam-bộ, cũng cử binh đi đánh Phú Yên, Bình Thuận. Một cánh quân Tây Sơn ở Biên Hoà chặn đánh giết chết Trần Văn Thức. Chu Văn Tiếp bỏ chạy. Nguyễn Nhạc chiếm lại đất và dân từ Phú Yên đến Bình Thuận.
                    * Lần thứ hai - 1782- -
                    Nguyễn Huệ, quân tướng và binh sĩ Tây Sơn vô cửa Cần Giờ, họ xông tới ngã Bảy, đánh phá quân chúa Nguyễn Ánh. Tên Mạn Hòe (Manuel) bị tử trận khi chỉ huy một chiếc thuyền chở mười đại bác, thuyền hắn bị đốt cháy. Chúa Nguyễn Ánh phải chạy về Ba Giồng (Định Tường). Sau một thời gian chỉnh đốn quân binh, chúa Nguyễn Ánh trở lại đánh Bến Nghé, thì bị Nguyễn Huệ chận đánh tại cầu Bình Điền (nơi dựa lưng vô mé sông gần ngã tư cây cầu nầy). Cùng năm 1782 chúa Nguyễn Ánh đã đánh một trận oanh liệt và chiếm lại nơi vừa mất.
                    Lần thứ ba, tháng 9 năm 1777 * 1783-, đoàn quân Nguyễn Huệ trở vô đánh vùng Bến Nghé, rồi vô Cần Giờ- Sau khi hạ hai đồn Rạch Bàng & Cá Trê, quân Tây Sơn đại thắng vẻ vang, trận nầy ở gần cầu Tân Thuận bây giờ. Nguyễn Huệ đem quân bao vây tấn công Ba Việt, bắt sống Nguyễn Phúc Dương và toàn bộ quân tướng. Dương và 18 tướng tùy tùng bị đưa về Gia Định xử tử tại chùa Kim Chương tháng 9 năm 1777. Nguyễn Phúc Thuần bại trận, bỏ Cần Thơ chạy tới Long Xuyên. Thuần định tâm chờ Mạc Thiên Tứ lấy tàu thủy chạy qua Trung Quốc cầu viện nhà Thanh. Nhưng bị quân Tây Sơn rượt đuổi đến nơi, bắt được Thuần đem về Gia Định xử tử tháng 10 năm 1777. Chúa Nguyễn Ánh, Đỗ Thanh Nhân và Mạc Thiên Tứ mau lẹ trốn thoát, mỗi người một nơi, kẻ đi Bến Trà (thuộc Định Tường), người chạy về Ba Vát (Vĩnh Long), hoặc Long Xuyên.
                    * Tháng 10 năm Tân Sửu (1781) Trịnh Quốc Anh (vua nước Tiêm La) sai tướng Chất Trí (Chakkri) và So Si đi đánh Chân Lạp. Nguyễn Ánh sai quan chưởng cơ Nguyễn Hữu Thoại, Hồ Văn Lân đem 3.000 quân qua Chân Lạp tiếp cứu. Vua Tiêm La ở Vọng Các bắt giáo sĩ So Si & Chakkri. Vì thế hai tướng ấy liền giao kết thề hứa với Nguyễn Hữu Thoại sẽ cứu nhau, giúp nhau trong cơn hoạn nạn xong, Chakkri đem quân về Tiêm La khi giặc ở đó nổi lên, vua Tiêm La bị bọn Phan Văn Sản cướp ngôi, đuổi vua đi. Chakkri về Vọng Các tìm giết vua Trịnh Quốc Anh, giết Phan Văn Sản. Chất Trí (Chakkri) xưng là Phật Vương, tự lên làm vua. Hắn phong cho em So Si làm đệ nhị vương, cháu Ma Lạc là đệ tam vương. (Dòng họ Chakkri vẫn tiếp nối nhau làm vua xưng là Rama đến tận bây giờ)!
                    * Lần thứ bốn 1785-.
                    Chúa Nguyễn Ánh đã chiếm lại Bến Nghé, thành Gia Định (thành Sài Côn). Chúa Nguyễn bèn sai Lê Văn Quân đem binh ra lấy thành Diên Khánh & Bình Thuận. Nguyễn Nhạc sai các tướng đi đánh chúa Nguyễn Ánh, nhưng quân Tây Sơn bị thua trận thảm bại và mất thêm Bình Thuận.
                    * Tháng 3 năm 1782, vua Thái Đức và Nguyễn Huệ đem quân thuỷ, bộ... Nam tiến, đánh nhau ở Thất Kỳ Giang (tức ngả Bảy), trận nầy quân chúa Nguyễn thua to, Tây Sơn giết chết cai cơ người Pháp là Manuel (Mạn Hoè). Nguyễn Ánh bỏ thành Sài Côn (Sài Gòn bây giờ) chạy về Tam Phụ. Chu Văn Tiếp từ Bình Thuận chạy vô cứu, cũng bị đánh bại. Chân Lạp chia quân đón bắt được đoàn cầu viện Xiêm, suýt bắt được Nguyễn Ánh. Nguyễn Ánh phải trốn ra đảo Phú Quốc. Năm 1782, một tướng Bắc Hà là Nguyễn Hữu Chỉnh (thủ hạ cũ của Hoàng Ngũ Phúc) không hợp tác với Trịnh Tông, ông ta bỏ vô Nam đầu hàng quân Tây Sơn, được vua Thái Đức tin dùng.
                    Nguyên do khi Chu văn Tiếp thua trận ở Sài Côn, tướng Chu Văn Tiếp dùng hỏa công chống ngăn, nhưng không được. Thua trận, chúa Nguyễn Ánh phải chạy xuống Ba Giồng (Định Tường), Chu Văn Tiếp men theo đường núi qua Cao Miên, rồi y chạy qua Xiêm cầu viện. Nước Xiêm La bấy giờ thịnh vượng, hắn nuôi tham vọng mở rộng bờ cõi chiếm Cao Miên và Gia Định. Khi nghe bề tôi thân tín của chúa Nguyễn là Chu Văn Tiếp đến cầu cứu, vua Xiêm là Rama I liền đồng ý. Chu Văn Tiếp gởi mật thư báo tin cho chúa Nguyễn biết. Vua Tiêm La sai tướng Chất Si Đa qua Hà Tiên mời Nguyễn Ánh vương đi Tiêm La bàn việc nước. Nguyễn Ánh & ít quân sĩ cùng tướng nước Tiêm đi Vọng Các xin binh cứu viện. Tiêm vương tiếp đãi Nguyễn Ánh nồng hậu, lại sai hai tướng là Chiêu Tăng, Chiêu Sương đem hai vạn quân cùng 300 chiếc thuyền giúp Nguyễn Vương đánh Tây Sơn. Trận nầy đã lấy được Ba Thắc, Rạch Giá, Trà Ôn, Sa Đéc, Mân Thít... đánh chiếm được Gia Định, họ đi Tiêm La đón Nguyễn Ánh trở về.
                    * Tháng 2 Quý Mão năm 1783 >> Tháng 8 năm 1783, Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ đem quân Nam tiến. Nguyễn Ánh lập tuyến phòng thủ kiên cố từ trước, nhưng vẫn bị quân Tây Sơn phá tan. Nguyễn Ánh bỏ thành chạy về Giếng Ngự, Bãi Ngự, mũi Ông Đội, xóm Cạnh Dền, cho tới rạch Chanh, Gò Quao, Thầy Quơn, Bà Cụm, Bà Rài, Trà Ôn, Mân Thích, U minh Thượng, U Minh Hạ, Đồng Tuyên. Khi Nguyễn Huệ đánh phá Đồng Tuyên, Ánh chạy ra Hà Tiên, sau đó ra đảo Phú Quốc. Nguyễn Huệ ra đánh Phú Quốc, Nguyễn Vương lại chạy về Côn Lôn, may nhờ có cơn bão lớn đánh tan một số thuyền Tây Sơn, Nguyễn Ánh chạy ra đảo Cổ Long, Cổ Cốt. Bảy ngày đêm lênh đênh trên biển bị quân Tây Sơn vây đánh, Nguyễn Ánh phải chạy ra đảo Thổ Chu rất cách xa đất liền.
                    Nhiều phen chúa Nguyễn Ánh và tướng sĩ quân binh "chạy giặc" họ thường đói khát, thương tích, phải giả dạng thường dân xin làm phu phen, để đi thật xa tới hòn Cổ Trọn (Poulo Dâm, hòn Thổ Chấu (Poulo Panjang) v.v... Họ vất vả trăm bề, nhọc nhằn khổ cực đào giếng tìm nước ngọt uống, đào củ chuối rừng, kiếm ốc biển, mò bắt cua, cá biển... ăn qua loa mỗi ngày mà lây lất sống, thật thảm thương. Họ khổ cực chẳng khác chi nông dân chân lấm tay bùn:
                    Trời mưa trời gió đùng đùng
                    Cha con chú lùn đi gánh cứt trâu
                    Đem về trồng bí trồng bầu
                    Trồng hoa trồng quả trồng cau trồng dừa
                    (cd)
                    * Tháng 3 năm Giáp Thìn (1784), chúa Nguyễn phải chạy trở qua Xiêm sống lưu vong, chúa Nguyễn đi đến thành Vọng Các hội kiến với vua Xiêm, được tiếp đãi tử tế và giúp đỡ. Chúa Nguyễn tổ chức lại lực lượng. Tháng 4 năm 1784, vua Xiêm Rama I phái tướng Lục Côn, Sa Uyên, Chiêu Thùy Biện, Chao Phraya Abhaya Bhubet đem hai đạo Bộ-binh gồm khoảng ba vạn quân bộ tiến sang Chân Lạp. Xiêm hơn một vạn người, 5.000 đi đường thủy, trên dưới 1 vạn quân đi đường bộ. Quân bộ do Phraya Wichinarong chỉ huy (được tăng viện bởi quân Chân Lạp gồm 5.000 quân của Chao Phraya Abhaya Bhubet, là người Chân Lạp mà làm quan cho Xiêm). Hai cánh quân Phraya Rachasetthi, Phraya Thatsada. Quân thủy do Chaofa Kromluang Thepharirak chỉ huy, được tăng viện bởi quân bản bộ của chúa Nguyễn đi từ Xiêm La về, cộng với các cánh quân khác nằm sẵn trong nước. Ước tính lực lượng liên quân Xiêm, quân Nguyễn, quân Chân Lạp, cộng lại có quân số khoảng hơn ba vạn người.
                    ***
                    * Tháng 7 năm 1784, Binh thuyền Tây Sơn đến nơi đóng quân ở Mỹ Tho, tướng Nguyễn Huệ trầm ngâm nghiên cứu, cẩn thận xem xét địa hình, ông đi thăm dò lòng dân, tìm hiểu điểm mạnh, điểm yếu. Ông mở những cuộc tập kích nho nhỏ lẻ tẻ, rải rác, để thăm dò tình hình đối phương. Quân Xiêm ngang ngược hống hách tham tàn, ỷ mình đã ra tay cứu giúp chúa Nguyễn Ánh, nên chúng lộng hành, đàn áp, cướp bóc, dã man đánh đập dân ta không có lý do chính đáng, chúng tỏ ra khinh rẻ, ngạo mạn, làm vô số điều chướng tai gai mắt, nhất là coi chúa Nguyễn lẫn tướng, quân, dân chúng không ra gì. Biết được điều đó, Nguyễn Huệ cho người đưa tiền của mua chuộc Xiêm, cốt làm cho tướng Xiêm chủ quan. Thế là lòng hắn tăng sự kiêu ngạo, thêm mối hoài nghi chia rẽ chúa Nguyễn Ánh đối với quân Xiêm. Thành thử mâu thuẫn giữa quân chúa Nguyễn, quân Xiêm, và dân Việt càng trở nên trầm trọng, phức tạp, nhiêu khê.
                    Khi thủy quân Xiêm đổ bộ lên đánh chiếm Rạch Giá (Kiên Giang), rồi tiến đánh quân Tây Sơn của Đô đốc Nguyễn Hóa ở Trấn Giang (Cần Thơ), sau đó tiến chiếm các miền Ba Thắc (Srok Pra-sak, Sóc Trăng), Trà Ôn, Sa Đéc, Mân Thít (hay Mang thít, Man Thiết). Tướng Tây Sơn là Trương Văn Đa liền đem quân thủy từ Gia Định tiến xuống Long Hồ (Vĩnh Long) để ngăn cản. Dân gian ở thời buổi nầy vô cùng khốn đốn vì bạo nạn chiến tranh hãi hùng, có lời thở than cao ngất lưng trời:
                    Gốc tre già đẽo ra đòn gánh
                    Chồng đi lính vợ khóc hi hi
                    Trời ơi sinh giặc làm chi
                    Cho tôi phải trẩy ra đi chiến trường
                    (cd)

                    Trận đánh oanh liệt ở RẠCH GẦM & XOÀI MÚT .

                    * Trận thủy chiến giữa quân Tây Sơn & quân Xiêm xảy ra trên sông Tiền Giang, khúc sông này gọi là sông Mỹ Tho dài rộng, cồn Thới Sơn ở giữa, có hai con sông Rạch Gầm và Xoài Mút từ Cai Lậy đổ ra hợp lực với nhau, làm nước thêm óng ả mơ màng lênh láng tràn đầy dâng cao. Có những ngày nước thủy triều lên cao nhất trong năm. Khi thủy triều lên hết mức, thì nước "vui vẻ" tự đứng lặng yên, ngừng nghỉ độ bốn năm giờ, rồi thủy triều bắt đầu từ từ rút xuống. Khoảng thời gian nước ngưng nghỉ giữa lên và xuống "thư giản" kéo dài đó, thì Nguyễn Huệ quyết định chọn khúc sông Mỹ Tho, đặt đại bản doanh quân Tây Sơn (từ Rạch Gầm đến Xoài Mút cách Mỹ Tho khoảng 12 km), làm trận địa thư hùng quyết chiến.
                    Dân gian thời đó đã có câu cao dao:

                    Rạch Gầm – Xoài Mút tăm tăm
                    Xê xuống chút nữa tới Vàm Mỹ Tho
                    Bần Gie đóm đậu sáng trời
                    Rạch Gầm – Xoài Mút muôn đời oai linh
                    (cd)

                    * Ngày 30 tháng 11 năm 1784, đại đô đốc Chu Văn Tiếp thông thạo địa hình, dẫn quân đi trước vô sông Mân Thít, Chu Văn Tiếp bị tiền quân Tây Sơn là Chưởng Tiền Bảo vây đánh, Chu Văn Tiếp bị thương nặng và qua đời. Mất đại tướng, chúa Nguyễn Ánh cho quân cứu viện, chém chết Chưởng Tiền Bảo và nhiều quân Tây Sơn. Phò mã Tây Sơn Trương Văn Đa lui quân về giữ Long Hồ. Tại đây quân Xiêm cướp bóc phá hoại dân ta kinh khủng, Nguyễn Ánh tuy thấy hành động bạo tàn dã man của chúng, thì rất bất bình, nhưng chúa Ánh lo sợ không dám can thiệp, vì chúa Ánh đã mất người liên lạc giữa hai bên Xiêm - Nguyễn (Chu Văn Tiếp tử trận). Lê Văn Quân thay Tiếp cho quân tiến đánh lũy Ba Lai (Bến Tre), & Trà Tân (Định Tường). Bến Tre là nơi tạo ra những tấm lòng chân chất, thật thà, thân thiện, hiền hoà, cũng là nơi sản xuất ra những món ăn hấp dẫn luôn lưu truyền trong ca dao:
                    Bánh Tráng Mỹ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc
                    Măng cụt Hàm Luông vỏ ngoài nâu trong trắng như bông gòn
                    Anh đây nói thiệt sao em còn so đo.

                    Trong trận Ba Lai, Chưởng-cơ quân Nguyễn là Đặng Văn Lượng bị tướng Tây Sơn Nguyễn Văn Kim chém chết, tướng Kim cũng bị Lê Văn Kế chém trọng thương.
                    * Cuối năm 1784, Trương Văn Đa sai Đô-úy Đặng Văn Trấn về Quy Nhơn báo rõ tình hình nguy cấp ở phía Nam, vua Thái Đức (Nguyễn Nhạc) liền cử Nguyễn Huệ làm tổng chỉ huy đem đại binh ào ào đi vô Nam. Trước ngày 20 Giêng năm 1785, Nguyễn Huệ bí mật cho quân và tàu chiến ẩn náu ở các nơi hiểm yếu.
                    Vua Xiêm sai cháu là Chiêu Tăng làm chủ tướng, Chiêu Sương làm tướng tiên phong, thống lĩnh hai vạn quân Thủy, 300 chiến thuyền, từ Vọng Các vượt vịnh Xiêm La, qua ngả Kiên Giang để giúp chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn Ánh cũng tập hợp được một số quân khoảng 3, 4 ngàn người, chúa Nguyễn cho Chu Văn Tiếp chỉ huy với chức Bình-Tây Đại-đô-đốc, Mạc Tử Sanh làm tham tướng dẫn đường. Chiêu Tăng giao Sạ Uyển ở lại giữ đại bản doanh, cử Lục Cổn dẫn Bộ-binh mom men theo tả ngạn sông Tiền.
                    Nguyễn Huệ cùng tướng tiên phong dẫn trăm thuyền chiến tiến xuống Mỹ Tho bày binh bố trận với sự lựa chọn thời điểm 4 giờ tuyệt vời (thời gian nước đứng yên ngưng nghỉ không lên không xuống, ngưng chảy). Nguyễn Huệ lựa chọn khúc sông rất rộng, vua dùng thuyền Đại Hiệu di chuyển quân binh, thời ấy có giàn đại bác đặt trên cồn Thới Sơn tuy thô kệch dềnh dàng, đơn sơ nặng nề, nhưng cũng là bề thế oai phong lẫm liệt, sáng tạo & hữu hiệu lắm, khiến đối phương nhìn thấy nó đã rùng mình khiếp sợ lo lắng vô cùng. Phục binh Tây Sơn nằm chờ từ hai sông Rạch Gầm –Xoài Mút, Nguyễn Huệ ra lệnh cho quân binh đến khiêu khích địch, "dụ khị" hai mươi ngàn quân Xiêm "ngổ ngáo" lọt bẫy vô chỗ nước ngưng chảy, đồng thời cũng có nhiều mặt tấn công khác cuả quân Tây Sơn chung vai sát cánh rầm rộ ập vô tràn ngập ở chiến trường nầy.
                    Quân địch bị dụ đến ổ phục kích giữa liên quân "Xiêm - Nguyễn - Tây Sơn" tại khúc sông Rạch Gầm - Xoài Mút, (khi đó thuộc dinh Trấn Định, xứ Đàng Trong; về sau đổi thành Tỉnh Mỹ Tho, nay thuộc Tỉnh Tiền Giang). Khi con nước đang xuôi, cả hai đạo thủy bộ quân Xiêm hăng hái rầm rộ tấn công Tây Sơn. Đầu canh năm ngày 19 tháng 1 năm 1785, pháo lệnh tấn công của Tây Sơn nổ vang ở Rạch Gầm, Xoài Mút, đoàn thuyền chiến địch lọt vô trận địa mai phục của quân Tây Sơn, hai đội thủy binh Tây Sơn từ Rạch Gầm, Xoài Mút lao ra chặn đánh hai đầu, dồn quân địch vô vòng vây đã phục kích. Hai bên bờ sông Tiền từ đoạn Rạch Gầm, Xoài Mút, dọc cù lao Thới Sơn, bãi Tôn, cồn Bà Kiểu, Rừng Dừa... từ những nhánh rạch nhỏ chảy quanh các cồn bãi, quân Tây Sơn ào ào kéo ra chặn đánh bọc đầu quân địch.
                    Một đoàn thuyền Tây Sơn khác có đặt đại bác, pháo hỏa hổ Bộ-binh Tây Sơn bắn dữ dội vào đoàn thuyền địch. Số thuyền khác ẩn náu sau cù lao Thới Sơn xông ra đánh mạnh vô hông địch, nhằm chặn đứng đường lui. Quân Tây Sơn cho những thuyền nhẹ chở đầy vật liệu dễ cháy đâm thẳng vô những chiến thuyền địch, khiến chúng rối loạn, sợ hãi hốt hoảng khi thấy trong chốc lát có một số thuyền bị chìm, một số khác bị bốc cháy ngọn lửa càng lúc càng phừng phựt dâng cao. Thuyền địch đang bị dồn đống ùn ụ lại một chỗ đông đen kín mít.
                    Dưới sự chỉ huy tinh tường linh hoạt và tốc chiến của Nguyễn Huệ, Thủy-quân & Bộ-binh quân Tây Sơn phối hợp nhịp nhàng với nhau, ráo riết khép chặt vòng vây mà quyết liệt chiến đấu, nên đã tiêu diệt quân địch mau chóng. Kết quả không đầy một ngày thì 300 chiến thuyền, hai vạn Thủy-binh Xiêm, một số đông quân chúa Nguyễn Ánh đã bị quân Tây Sơn phá tan. Hai tướng Chiêu Tăng, Chiêu Sương với số tàn quân sống sót khoảng vài nghìn người chạy trốn trối chết lên bờ Bắc sông Mỹ Tho, họ liều chết thở hổn hển mở đường máu co giò chạy một mạch lên Quang Hóa, chạy qua đất Chân Lạp rồi tức tốc lủi về Xiêm.
                    Tại Long Hồ, quân bản bộ chúa Nguyễn tan tác, chúa Nguyễn Ánh không thể chống nổi quân Tây Sơn, ông cùng đoàn tùy tùng vội vã rút chạy theo sông Trà Luật, ra sông Tiền tìm đường đi Trấn Giang (Cần Thơ). Sông Hậu Giang chảy ngang Quận Trà Ôn chính là con đường vua Gia Long (chúa Nguyễn Ánh) tẩu quốc, chạy trốn cuộc rượt đuổi của quân Tây Sơn vậy. Mạc Tử Sinh đưa ba chiếc thuyền đón chúa Nguyễn chạy đi Hà Tiên. Cai cơ chỉ huy quân thủy là Nguyễn Văn Oai chết tại trận.
                    Trong lần chạy tháo thân này, Nguyễn Ánh và đoàn tùy tùng lại lâm vào hoàn cảnh khốn cùng rất khổ sở, có lúc cạn hết lương thực, tướng Nguyễn Văn Thành đi ăn cướp, bị dân đánh trọng thương, suýt chết. Tôn Thất Huy, Nguyễn Văn Thành, Tôn Thất Hội mỗi người còn năm ba chục quân. Số quân bản bộ của Nguyễn Ánh khoảng bốn nghìn người, nay chỉ còn hơn 800 người chạy thoát thân sang Xiêm, trong đó có 200 người chạy trốn theo Nguyễn Ánh, sáu trăm người chạy theo Lê Văn Quân.
                    * Ngày 25 tháng 1 năm 1785, Nguyễn Ánh sai Mạc Tử Sanh và Chánh-cơ Trung qua Xiêm báo tin thất trận. Biết không thể trông cậy nhờ vã người Xiêm giúp đỡ bất cứ điều gì. Khi các tướng dẫn tàn quân tìm đến, thì cả đoàn Nguyễn Ánh mới kéo nhau ra sống lây lất ở đảo Thổ Chu. Sáu ngày sau trận Rạch Gầm - Xoài Mút, Nguyễn Ánh gởi bức thư cho giáo sĩ Li-ô đại ý kể rằng: “… Chúng tôi vừa thua trận, tất cả quân lính đều bị tan vỡ”.
                    * Ngày 4 tháng 2 năm 1785, vua Xiêm nhận được tin bại trận, vội phái Phi-Nhã Xuân đem mười thiếc thuyền đi cứu tàn quân chạy trốn bằng đường biển. Khi gặp nhau, tàn quân Nguyễn trả lời Phi-Nhã Xuân:
                    - Chiêu Tăng đại bại, theo đường bộ chạy trốn qua Cao Miên thoát nạn, phía sau chúng tôi bị thua, không biết đường bộ thập tử thất sinh thế nào, may mắn cướp được một số thuyền của dân, đã chạy trốn về đây.
                    Vua Xiêm Chakri I gọi lũ Chiêu Tăng, Chiêu Sương là:
                    - Lũ ngu hèn, kiêu căng, hung hãn đến nỗi bại trận, làm bại binh, thật nhục quốc.
                    Sau đó, Nguyễn Phúc Ánh xin vua Xiêm cho ra ngoại thành Vọng Các ở Đồng Khoai. Tại đây, đoàn chúa Nguyễn lo khai khẩn đất đai, làm ruộng, chăn nuôi, trồng trọt, đốn củi... khổ cực điêu đứng trăm bề để tự nuôi nhau. Thật thảm thương trong cơn hoạn nạn.
                    ***

                    Quân Tây Sơn & đoàn viễn chinh: Pháp + Miên + Tiêm La
                    Năm 1786, khi tình hình phía Nam tạm yên, Hữu Chỉnh khuyên vua Thái Đức đánh Phú Xuân, khôi phục đất đai của chúa Nguyễn. Vua Thái Đức đồng ý, cử Nguyễn Huệ chỉ huy, tướng Nguyễn Hữu Chỉnh, với Vũ Văn Nhậm (phò mã vua Thái Đức). Tháng 5 năm 1786, Nguyễn Huệ nghe theo kế của Nguyễn Hữu Chỉnh, (do Chỉnh muốn trả thù Trịnh Tông), Nguyễn Huệ quyết định đi đánh Thăng Long với khẩu hiệu "phù Lê diệt Trịnh". Trong vòng một tháng, quân Nguyễn Huệ đã đánh bại quân Trịnh, Nguyễn Huệ tôn phò nhà Lê. Vua Lê Hiển Tông gả công chúa Lê Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ. Trịnh Tông tự sát. Vua Thái Đức (Nguyễn Nhạc) nghe tin, tự mình cầm quân, thay đổi hết nhân sự, vội vã ra Bắc gọi Nguyễn Huệ về. Thái Đức gặp vua Lê Chiêu Thống. Vua Lê Chiêu Thống xin cắt đất Nghệ An cho Tây Sơn. Nguyễn Nhạc khẳng khái trả lời:
                    - Tôi tức giận vì họ Trịnh áp chế họ Lê. Nếu đất đai không phải của họ Lê, thì một tấc đất tôi không để. Nếu là của họ Lê, một tấc đất tôi cũng không lấy.
                    Đêm 17 tháng 8 năm 1786, Thái Đức cùng Nguyễn Huệ bí mật rút quân về Nam. Nguyễn Hữu Chỉnh vội vã chạy theo, Nguyễn Nhạc cho Hữu Chỉnh làm quan ở Nghệ An. Tháng 7 năm 1787, ở phía Bắc, họ Trịnh ngóc đầu lên, thì Nguyễn Hữu Chỉnh ra sức hoành hành. Ở phía Nam, năm Ðinh Mùi 1787 Nguyễn Phúc Ánh còn ở Xiêm La, đất Gia Định nằm trong tay nhà Tây Sơn, do Nguyễn Lữ trấn thủ. Nguyễn Ánh nhân cơ hội lực lượng Tây Sơn do anh em bị chia rẽ, (tác giả sẽ nói ở phần Ba) chúa Nguyễn Ánh quay trở về Gia Định mùa Thu năm Ðinh Mùi, Nguyễn Phúc Ánh lo chống cự với Nguyễn Lữ. Đông Định vương chưa đánh nhau với địch, đã bỏ chạy về Biên Hoà, rồi chạy một mạch chạy về Quy Nhơn, Định bị đau nặng và qua đời.
                    Tháng 10 năm 1787, Thái Đức (Nguyễn Nhạc) điều động Nguyễn Văn Hưng tiếp viện cho Phạm Văn Tham, quân của hai người bao vây đánh Nguyễn Ánh ở Mỹ Lung không hạ được, Hưng tự ý rút quân về Quy Nhơn, nhưng Thái Đức không trừng phạt tướng Hưng. Lực lượng của vua Thái Đức dần dà hao mòn, quân binh mất hết nhuệ khí, mà Thái Đức không có cách nào vực dậy. Không có người hợp sức, Phạm Văn Tham bị lẻ loi đơn độc, dần dần yếu thế trước lực lượng từ từ lớn mạnh lên của Nguyễn Ánh. Tháng 8 năm 1788, thành Gia Định mất về tay quân vương Nguyễn Ánh, Phạm Văn Tham chạy ra ngoài tiếp tục chiến đấu bền bỉ đến đầu năm 1789, nhưng bị Nguyễn Ánh chặn đường biển, vây kín lối về Quy Nhơn, buộc lòng tướng Tham phải đầu hàng. Chúa Nguyễn Ánh và quân binh tướng sĩ triều Nguyễn toàn thắng.
                    *
                    Trong khi đó ở Bắc Hà liên tiếp xảy ra nhiều chuyện không hay, từ họ Trịnh, Nguyễn Hữu Chỉnh, và Vũ Văn Nhậm, cả vụ vua Lê Chiêu Thống dẫn quân Thanh về nhà, nguy cơ mất nước không phải nhỏ, nên Nguyễn Huệ quyết đi chinh phục phía Bắc. [Đọc sử, ai cũng biết Nguyễn Hữu Chỉnh là một kẻ "mưu thần chước qủi" ghê gớm! Chỉnh chạy trốn Trịnh Khải đi vô "đầu thú" Tây Sơn, Nguyễn Nhạc tin dùng cho Chỉnh làm quan ở Nghệ An. Ngày 11 năm Bính Ngọ, theo chiếu chỉ triệu hồi cuả vua Lê, Chỉnh kéo quân ra Bắc dẹp tan được họ Trịnh. Chỉnh lấn áp vua Lê đủ điều, lại trở lòng đối phó với quân Tây Sơn. Sự phản trắc ấy đã khiến Nguyễn Huệ đùng đùng nổi giận, Nguyễn Huệ nói với sứ bộ Bắc Hà:
                    - Năm xưa ta đem quân ra Bắc vô thành Thăng Long, chỉ đánh một trận, là tiêu diệt họ Trịnh. Thử coi, nếu ta tuyên bố xưng vương, thì thần dân Bắc Hà có ngăn cản ta nỗi không? Chỉ vì ta kính mến tiên đế, không tơ hào đất đai, lập lại trật tự trong ngoài đâu vào đấy yên ổn. Khi tiên đế băng hà, chính ta lo cho Lê Chiêu Thống lên ngôi. Nhà Lê chưa đền ơn đáp nghĩa cho ta, lại dùng phản thần Nguyễn Hữu Chỉnh tranh giành xứ Nghệ với ta. Vua Lê xử sự với ta luôn thiếu thành thật. Thử hỏi: Ở vào địa vị của ta, các ngươi có nhịn mãi được không? Nói cho các ngươi biết, ta cho hai vạn quân ra lấy đầu cha con thằng Chỉnh rồi đó.
                    Thật thế, lời nói như đinh đóng cột, Nguyễn Huệ sai Phan Văn Lân, Ngô Văn Sở phối hợp cùng Vũ Văn Nhậm đi bắt Nguyễn Hữu Chỉnh. Ngày 15 tháng Giêng năm 1788 tại Hoàng Thành Chỉnh bị phanh thây.
                    Vì vậy, trong Nam, Nguyễn Ánh được người Pháp hỗ trợ kéo ra đánh Bình Thuận, Bình Khang, Diên Khánh, quân của Tây Sơn Nguyễn Nhạc liên tiếp bại trận, mất mấy thành nầy năm 1791, Nguyễn Nhạc chỉ còn cai quản Quy Nhơn, Phú Yên và Quảng Ngãi.
                    Sau khi ổn định tình hình Bắc Hà, vua Quang Trung quyết tâm về tiêu diệt Nguyễn Ánh. Ông ra sức trấn an Nguyễn Nhạc, và dân trong vùng do vua anh cai quản. Để chuẩn bị Nam tiến, Quang Trung sai Vũ Văn Dũng đi "xin" Càn Long đất Quảng Đông, Quảng Tây. Thật ra đây chỉ là một cái cớ, một thủ thuật khôn khéo về ngoại giao lẫn chính trị, vì vua Quang Trung biết thực lực quân ta không thể, hay ít ra lúc đó chưa thể làm một việc chẳng hợp với "sức vóc" mình. Hơn nữa, hiện tại vua đang thu dụng quân lục lâm "Tàu ô", sai họ đi đánh phá biên giới Trung Quốc, cốt ý để nhà Thanh bị cuốn vô chuyện lo chống giặc cướp, để vua Quang Trung có thời gian hỗ trợ Nguyễn Nhạc dồn lực lượng ở chiến trường Đàng Trong mà thôi.

                    Ở phía Tây, Trần Quang Diệu mau chóng diệt Trần Phương Bính tại ven núi Hồng Lĩnh. Tới tháng 6 năm 1791, Quang Diệu đem ba vạn quân qua Trấn Ninh, bắt được các tù trưởng Thiệu Kiểu, Thiệu Đế. Tháng 8 năm đó, Quang Diệu đánh bại Quy Hợp. Tháng 10, quân Tây Sơn tiến qua Vạn Tượng. Vua Vạn Tượng là Chao Nan (Chao Nanthasen) không chống nổi, phải bỏ trốn qua Xiêm. Quang Diệu tiến vô Viên-chăn, đến biên giới Xiêm, các tướng tả Vạn Tượng là Phan Dung, hữu là Phan Siêu tử trận.
                    Tháng 10/1791, Tây Sơn chiếm xong Vạn Tượng. Nguyễn Ánh ở Gia Định không dám ra quân. Chân Lạp là đồng minh của Tây Sơn chuẩn bị lực lượng để phối hợp, (nếu quân Tây Sơn vượt biên giới Vạn Tượng tiến vô Xiêm, hoặc Gia Định), khiến các giáo sĩ ở Gia Định lo sợ chuẩn bị tìm đường chạy. Nhưng Trần Quang Diệu đi đánh xa lâu ngày, được lệnh rút về. Đầu năm 1792, quân Tây Sơn trở về Đại Việt. Không lâu mấy, lực lượng phù Lê của Trần Quang Châu ở Kinh Bắc cũng bị tiêu diệt.
                    Giữa năm 1792, Quang Trung đã gởi thư đến Càn Long xin cầu hôn công chúa Thanh triều, Quang Trung sai đô đốc Vũ Văn Dũng làm chánh sứ qua triều kiến vua Càn Long, đồng thời "xin" hai Tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây. Quang Trung chiếm Vạn Tượng chỉ trong mấy tháng, đã làm rung động cả ba bốn thế lực: Pháp + Xiêm + Cao Miên + Nguyễn Ánh. Tháng 4/1792, vua Xiêm viết thư đề nghị Nguyễn Ánh chung sức chống Tây Sơn, lại đòi Nguyễn Ánh cắt đất Long Xuyên, Kiên Giang và Ba Xắc, để làm điều kiện.
                    Thư Nguyễn Ánh trả lời vua Xiêm:
                    - Không nhường đất, nhưng chấp nhận đề nghị của vua Xiêm là hợp lực đánh Tây Sơn. Vương (vua Xiêm) đem trọng binh đánh Nghệ An, vương đánh ngả trước, quả nhân (Nguyễn Ánh) đánh ngả sau; nếu giặc giữ Phú Xuân, thì vương quấy rối ở ngả sau, quả nhân đánh ngả trước, đầu đuôi quyết liệt giáp đánh, thì giặc không còn đi đâu được nữa".
                    *
                    V/v đối nội, đối ngoại. Ngay sau chiến thắng năm Kỷ Dậu, Quang Trung trao binh quyền lại cho Ngô Văn Sở và Ngô Thì Nhậm. Một mặt vua lo chống thù trong diệt giặc ngoài, mặt khác vua Quang Trung rất quan tâm tới việc xây dựng mở mang đất nước. Vua khuyến khích người hiền tài ra giúp nước, phân phối đất đai cho những nông dân nghèo, thúc đẩy dân làm thủ công nghiệp, cho phép dân tự do tôn giáo, cho phép mở cửa ngoại thương với quốc tế, bỏ chữ Hán chính thức chọn chữ Nôm. Về ngoại giao, ngay từ trước khi giao chiến với quân Thanh, Quang Trung đã tính đến chiến lược ngoại giao với nhà Thanh. Theo phương lược vạch sẵn, với tài ngoại giao khéo léo nhã nhặn uyển chuyển của Ngô Thì Nhậm, nên Tây Sơn sẽ mau chóng bình thường hóa bang giao thiện hữu với nhà Thanh.
                    Về ngoại giao, ngay từ trước khi giao chiến với quân Thanh, Quang Trung đã tính đến chiến lược ngoại giao với nhà Thanh. Theo phương lược vạch sẵn, với tài ngoại giao khéo léo của Ngô Thì Nhậm, nên Tây Sơn muốn mau chóng bình thường hóa bang giao với nhà Thanh.
                    Sau chiến thắng quân Thanh, quyết định đầu tiên là vua Quang Trung chọn địa thế tốt mà lập kinh đô, phía trước có sông Cồn Mộc, sông Lam, có núi Quyết, hào sâu & có nền cao ba bậc ở phần Bắc, giữa là thành trong, là đất Nghệ An để lập Trung Đô, tức Phượng Hoàng Trung Đô, ở khoảng giữa núi Mèo (núi Kỳ Lân) và núi Quyết. Đó là chỗ Quang Trung ngự triều khi tạm nghỉ ở Nghệ An.
                    Sau khi Nguyễn Ánh tấn công chớp nhoáng tiêu diệt thuỷ quân của Nguyễn Nhạc ở Thị Nại tháng 7-8-1792, Quang Trung quyết định thực hiện một chiến dịch lớn nhằm tiêu diệt tận gốc thế lực của Nguyễn Ánh. Quang Trung truyền hịch cho dân hai miền Quảng Ngãi, Quy Nhơn, trước khi hành quân đánh vô Gia Định là: Điều động 20 - 30 mươi vạn quân thuỷ, bộ; bộ binh theo đường núi qua Lào, đánh xuống Cao Miên, chiếm mặt sau Sài Gòn. Thuỷ binh vô cửa bể Hà Tiên, đánh lên Long Xuyên, Kiên Giang, chiếm mặt trước Sài Gòn. Kẹp quân Nguyễn Ánh bị bao vây tiêu diệt ở giữa, không cho đối phương có đường trốn thoát.
                    Lúc trước Nguyễn Ánh có quen với một người Pháp tên Peirre Piguneau de Béhaine, évêquie d'Adran (Bá Đa Lộc) Nguyễn Ánh sai người đến Bá Đa Lộc bàn việc nước trong cơn nguy khốn, thì Bá Đa Lộc nói:
                    - "Nên qua nước Pháp cầu cứu, nhưng phải đem hoàng tử đi theo làm tin, mới được".
                    Nguyễn Ánh bèn giao quốc ấn cho Bá Đa Lộc, đi cùng hoàng tử Cảnh (bấy giờ mới 4 tuổi), vương làm tờ quốc thư gồm có 14 khoản, cho Bá Đa Lộc trọn quyền thương nghị với chính phủ Pháp, để xin viện binh. Đại khái quốc thư nói:
                    - "Xin Pháp giúp 1.500 quân và tàu bè, súng, thuốc đạn, v.v... thì Nguyễn Vương xin nhường cho Pháp cửa Faifo (Hội An), đảo Côn Lôn, và ưu tiên cho Pháp có đặc quyền vô buôn bán ở nước Nam".
                    Tất cả đã xếp đặt xong xuôi, nhưng vì trái mùa gió nên Bá Đa Lộc chưa thể đi Pháp. Nguyễn Vương lại viết thư riêng, ông sai quan phó vệ úy Phạm Văn Nhân dâng cho vua nước Pháp. (Tờ quốc thư và thư riêng gởi cho vua nước Pháp hiện nay còn ở bộ ngoại giao tại Paris). Pháp đã cho viện binh đầy đủ như trong thỉnh nguyện thư cuả chuá Nguyễn. Ngược lại Pháp sẽ có đặt quyền nhận "yêu sách" như trong thư chuá Nguyễn đã hứa nêu trên. Nào ngờ khi đoàn quân viễn chinh từ Pháp đến nước An Nam thì tình hình chiến sự lúc bấy giờ rất cấp bách, họ bị đánh một trận te tua tơi bời, khiến quan quân Nguyễn Ánh, Bá Đa Lộc, các sĩ quan Pháp chống đỡ không nỗi, họ tính chuyện nhanh chân bỏ trốn. Trong thư gởi M. Létondal ngày 14/9/1791, Giám-mục Bá Đa Lộc viết:
                    - … Nhà vua không biết lợi dụng cơ hội ông ta có được, mà đánh bại kẻ thù, để chúng có thì giờ hoàn hồn, chúng thấy rõ những đồn đại về việc người Âu đến giúp, chỉ là chuyện hão. Ông ta (Nguyễn Ánh) bắt dân đóng thuế, làm dịch vụ nặng nề. Lúc nầy, dân chúng bị nạn đói đe dọa, họ mong quân Tây Sơn đến. Tình trạng hiện thời, nếu chúng quả quyết tấn công, thì nhà vua khó có thể đương đầu được... Tôi rất sợ không đi kịp trước khi tai họa xảy ra cho nhà vua, nếu có sự ấy.
                    Năm 1792, chuẩn bị phối hợp với Quang Trung, Nguyễn Nhạc đóng nhiều tàu thuyền ở cửa Thi Nại, để Nam tiến. Nhưng lúc đó là mùa gió nồm, chỉ thuận cho quân Nam ra, nếu muốn đánh, phải đợi đến mùa Đông mới thuận gió cho quân Tây Sơn vô. Nguyễn Ánh thừa dịp có quân Pháp, Bồ Đào Nha đã yểm trợ, chúa Nguyễn đánh úp ở cửa Thi Nại, đốt cháy nhiều thuyền chiến của Tây Sơn. Tây Sơn không kịp phòng bị, phải thu quân về Quy Nhơn.
                    Để báo thù trận đó, vua Quang Trung dự định phát động chiến dịch rất lớn, huy động hơn hai mươi vạn quân Thuỷ, Bộ, chia làm ba đường: - Nguyễn Nhạc và quân "Tàu ô" cùng theo đường Bộ từ Phú Yên đi đánh Gia Định. - Quân Bộ của Quang Trung từ Phú Xuân đi thẳng qua lãnh thổ Vạn Tượng tới Nam Vang (Chân Lạp), từ đó cùng quân Chân Lạp kéo về Gia Định, bao bọc đường chạy đi của Nguyễn Ánh không cho qua Xiêm. - Quân thuỷ của Quang Trung sẽ tiến đón họ ở Hà Tiên, đổ bộ lên đất liền ngăn cản Nguyễn Ánh chạy ra biển. Chính các giáo sĩ Pháp giúp Nguyễn Ánh lúc đó rất lo lắng, họ dự liệu Nguyễn Ánh khó lòng chống cự quân Tây Sơn. Miền đất nầy chịu đựng ròng rã suốt bao năm chiến tranh tương tàn vì "Gia Long tẩu quốc"... một thời gian dài, rồi thì trở lại "Gia Long phục quốc". Coi thật gian truân điêu linh, thảm não, ngao ngán và bẽ bàng! (Trải qua một thời gian dài lâu dai dẵng, chúa Nguyễn Ánh & quân binh họ Nguyễn chiếm lại các nơi thành công vẻ vang xong, thì một quảng thời gian khá dài quân binh tướng sĩ triều Nguyễn dẫn nhau đi chiếm Huế).
                    Thì... bất ngờ vua Quang Trung Nguyễn Huệ bị bất tỉnh đột ngột, có lẽ do tai biến mạch máu não, hoặc tăng áp huyết. Vua Quang Trung băng hà vào mùa Thu năm Nhâm Tí ở tuổi 39 (tháng 9 năm 1792), khiến kế hoạch Nam tiến của anh em vua Quang Trung không bao giờ trở thành sự thật. Sách “Tây Sơn thực lục” ghi: "Huệ mắc bệnh nặng, chữa không khỏi… Năm ấy Nguyễn Huệ mất, tóc của Huệ thì quăn, mặt thì đầy mụt, có một con mắt nhỏ, nhưng cái tròng rất lạ, ban đêm ngồi không có đèn, thì ánh sáng từ mắt soi sáng cả chiếu…".
                    Quang Trung an táng chu đáo ở cung điện Đan Dương ngay tại Phú Xuân. Đô đốc Vũ Văn Dũng làm bài thơ viếng vua:
                    Năm năm dấy nghiệp tự thân nông
                    Thời trước thời sau khó sánh cùng
                    Trời để vua ta thêm chục tuổi
                    Anh hùng Đường, Tống hết khoe hùng
                    .
                    ***
                    Sự rùng rợn dã man khi "người thắng cuộc" trả thù

                    Ngó lên trời thấy mây giăng tứ diện
                    Ngó xuống biển thấy chim liệng cá đua
                    Anh về lập miễu thờ vua
                    Lập trang thờ mẹ, lập chùa thờ cha
                    (cd)
                    Xưa và nay ai ai cũng có lòng trung quân ái quốc hiếu lễ kính cha thờ mẹ vẹn toàn. Ấy thế mà, việc "ác ôn côn đồ, độc ác dã man" khi kẻ thắng cuộc trả thù... thì ở thời nào, đất nước nào, nơi đâu cũng có sự thanh trừng đẫm máu kinh khủng xảy ra. Hãy xem một hoàng hậu cao qúy mặt hoa da phấn xinh đẹp nước Kim bên Tàu: Vua nước Kim có hai phi tần mà vua hết mực cưng chìu yêu thương, vì họ rất đẹp lại ưa ỏng ẹo lả lơi cợt nhã với vua trong thú tính trước mặt mọi người. Hoàng hậu thấy điều đó rất bực bội, quá ghen tức, bà muốn diệt trừ hai ả, mà chưa có dịp. Khi hoàng đế bịnh nặng, đã trăn trối lại với hoàng hậu, hai phi tần cùng bá quan:
                    - "Trẫm muốn ở suối vàng có người để sủng ái, vậy hoàng hậu hãy chôn sống hai nàng cùng với ta".
                    Khi vua chết thì hoàng hậu liền cho vua "toại nguyện điều trăn trối", nhưng bà nghĩ:
                    - "Nếu cho hai ả chết nguyên vẹn như thế, thì chúng lại sung sướng dưới suối vàng nốt. Ta phải cho lóc thịt chúng, thì vua không còn có thân thể đẹp cuả hai ả, mà ôm ấp". Thế là hai phi tần bị banh da lóc thịt rất đau đớn. Nhưng hoàng hậu chưa nguôi cơn ghen và tức giận, vì khi vua còn sống trước mắt ta, hai ả dám "diễu cợt phỉ nhổ" buông tuồng lố bịch làm chi, cho ta thấy đau khổ bị ruồng bỏ, và thật chướng tai gai mắt. Chẳng hả dạ chút nào, hoàng hậu nghĩ: "còn xương, là chúng có thể biến được thành hình người". Nên bà ta ra lệnh binh lính bằm xương hai ả, rồi bỏ vô cối xay nghiền cho nát vụn, sau đó đem "thi hài vụn cuả hai ả" ngâm dấm cho tiêu ra nước!
                    Lịch sử nước ta ghi về các vụ xử tử "phạm nhân" hay "kẻ đối lập, phản quốc" như tra tấn, tùng xẽo, cho "ngựa xé voi chà" thì nhiều vô số, không làm sao kể xiết, chẳng khác chi hoàng hậu kia, là một trong nhiều vụ dã nan tàn độc nhất. Điển hình là vụ Gia Long ngay sau khi lên ngôi, vua đã cho xử vị vua trẻ của Tây Sơn là Quang Toản năm 1802 & gia đình tướng Tây Sơn Trần Quang Diệu. Lẽ ra Quang Diệu bị khép vô tội "voi chà". Nhưng Gia Long khen Quang Diệu rất hiếu thảo với mẹ, vã lại Gia Long cảm khái Quang Diệu khi đánh thành Qui Nhơn, thì hứa sẽ không giết hại bất cứ binh sĩ nào của Nguyễn Ánh. Thế nên vua Gia Long gia ân cho Trần Quang Diệu "được ân phúc chặt đầu".
                    Riêng về nữ tướng tài ba Bùi thị Xuân (vợ Trần Quang Diệu), bị vua Gia Long cho voi chà. Nữ tướng cuả quân Tây Sơn bị đem ra pháp trường thấy con voi tiến tới mình, thì bà chỉ tay vô mặt voi mà hét to, mặt bà không hề biến sắc. Con voi khựng lại rồi qùy mọp xuống đất. Điều đó khiến Gia Long & quần thần và quan khách phương Tây rất lấy làm kính nể và bội phục. Bọn lính liền lấy dáo đâm thọc vô yếu huyệt con voi, nó đau quá bật đứng dậy, dùng vòi quấn lấy thân bà quật mạnh xuống đất, rồi lấy chân chà lui chà tới cho đến khi thi thể bà nát bấy xương máu quyện lẫn trong bụi đất.
                    Về chuyện Quang Toản, vua Gia Long trị tội bằng cách cho Quang Toản nằm dài xuống đất, bọn lính cột chặt hai tay hai chân Toản vô bốn sợi dây dừa, và nối bốn đầu sợi dây ấy vô bốn chân con ngựa, siết thật chặt, rồi bọn lính đánh mạnh vô đít ngựa, cho bốn ngựa chạy đi bốn hướng khác nhau, để phanh thây xé xác Quang Toản ra. Thật kinh khủng, quá độc địa và tàn ác vô nhân đạo tột cùng!
                    Nguyễn Nhạc lên ngôi vua từ năm 1778 đến năm 1788, xưng là Thái Đức hoàng đế. Từ năm 1789 - 1793, do quyền lực của em trai Nguyễn Huệ ngày càng vượt trội hơn anh, ông đành chấp nhận giao lại quyền lãnh đạo cho em trai là Nguyễn Huệ, còn ông chỉ xưng là Tây Sơn vương, lui về ẩn ở tại thành Quy Nhơn. Năm 1793, ông bị các tướng của vua cháu là Quang Toản nhân cơ hội đã chiếm lấy thành Quy Nhơn, ông uất ức đột tử mà chết).
                    Nguyễn Ánh từ phòng ngự chuyển sang tấn công (bị tướng sĩ Nguyễn Lữ đánh liên tiếp mãi đến năm Kỷ Dậu 1789 mới lấy lại được Gia Ðịnh). Khởi nghĩa Tây Sơn có khí phách tuyệt luân đã thật sự chấm dứt cuộc nội chiến phân tranh Trịnh ở phía Bắc - Nguyễn ở phía Nam, khi Đàng Trong – Đàng Ngoài quyết chiến suốt hai thế kỷ. Và, đánh bại quân Đại Việt, Xiêm La từ phía Nam ; của Đại Thanh từ phía Bắc.
                    Thế mà khi chiến thắng vinh quang rồi, Nguyễn Ánh sai người đào lăng mộ toàn thể gia phong Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc, tất cả bị san bằng, không cho để lại dấu tích ở địa điểm nào, các lăng mộ của gia tộc Tây Sơn ở Nghệ An và Quy Nhơn đều bị khai quật, hủy phá hết huyệt sâu, khiến người đời sau gọi những chỗ ấy là "giếng huyệt". Bài thơ của người sống dưới thời ấy viết: "Kiến Quang Trung linh cữu" của Lê Triệu (1771-1846) ghi sau:
                    "Bao năm thét mắng át phong vân
                    Đủ thấy anh hùng - bậc vĩ nhân
                    Hàm Đan hận vùi muôn vạn xác
                    "Khuân Sơn" phần mộ hoạ trăm năm
                    Ngậm hờn chỉ trích ngàn thu hận
                    Nỡ phụ đường đường tám thước thân
                    Quang cảnh thảy đều thành cát bụi
                    Khiến đời muôn thuở cợt Doanh Tần
                    !"
                    ***
                    Tình Hoài Hương


                    Phần 2: Đoạn vua Quang Trung “Bắc-Tiến” mời độc giả xem ở các trận đánh: Đống Đa & Ngọc Hồi, sẽ đăng vô trang kế tiếp.
                    ***

                    * THH biên soạn bài viết theo lịch sử Việt Nam, từ:
                    * ít sách trong Bộ Giáo Dục V N C H
                    * Việt Nam Sử Lược (Trần Trọng Kim).
                    * Nam Hải Dị Nhân (Phan Kế Bính).
                    * Đại Cương Lịch sử Việt Nam (Nguyễn Khắc Thuần).
                    * Notion d’ Histoire d’ Annam, par Maybon et Ruissier.
                    * Abrégé de l’ Histoire d’ Annam, par Shreiner.
                    * L'Empire d' Annam, par Goselin.
                    * L'ínurrection de Gia Dinh, par J. Silvestre.
                    * ít nghiên cứu từ Wikipedia.
                    - Sử quán triều Nguyễn, "Đại Nam thực lục".
                    - Sách “Tây Sơn thực lục”.
                    - Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ...
                    (Đại Nam chính biên liệt truyện).
                    ***
                    Tình Hoài Hương
                    Last edited by Tinh Hoai Huong; 12-23-2019, 04:38 AM.
                    Bút trần nào tả được lưu luyến!
                    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                    Tình Hoài Hương

                    Comment


                    • Chứng Nhân Một Sự Kiện Lịch Sử



                      Chứng Nhân Một Sự Kiện Lịch Sử
                      (Về ngày 2 tháng 11 năm 1963, - đã bổ túc 1-11-19)


                      Sau những chấn động kinh khủng xảy từ vụ hăng say hoạt động cách mạng, chống đối, xuống đường biểu tình biểu tọt liên miên bùng nổ, thì lúc nầy tình hình chính trị tại miền Nam Việt Nam (như chiếc ghế cũ, chỉ còn ba chân gập ghềnh), càng ở vào giai đoạn “dầu sôi lửa bỏng”. Thụy Mi nghiệm thấy đằng sau hậu trường có bóng dáng của những tay “mưu đồ chính trị chuyên nghiệp”, họ đã giựt dây ngầm tạo ra sự vô tổ chức về những đợt sóng bạo loạn. Có tình trạng những kẻ "trẻ người non dạ rất hỗn”, hầu lợi dụng thời cơ… vênh váo thừa nước đục thả câu, điều nầy sẽ rất nguy hiểm khi họ có quyền lực trong tay, mà không biết ôn nhu, khoan hoà, khiêm tốn, khôn ngoan, nhất là phải tri thức và trung dung. Nói chung, tình hình chính phủ lúc đó quả thật là một xã hội rối rắm như mớ bòng bong, đang trôi bồng bềnh trên biển cả, giống như một chiếc tàu không người lái. Mặc ai muốn làm gì thì làm. Luật pháp bị xô ngã, nhường bước cho sức mạnh bạo lực hổn độn lên nắm chính quyền điều hành.
                      Dạo ấy, các bạn sinh viên năm thứ hai Văn Khoa, cùng Thụy Mi, Vì Dân... tuy còn rất trẻ, nhưng có nhiều băn khoăn, đắn đo, bâng khuâng suy nghĩ về khả năng, tài đức… của những vị “lãnh đạo cách mạng” nầy. Thêm vào đó, dựa vào một vài dữ kiện đáng ghi nhớ đã xảy ra về sự kiện lịch sử: cay đắng đến xót xa chua chát bàng hoàng, khiến nó mất đi tất cả lý-tưởng cao trọng trong "cuộc lãnh đạo kháng chiến", tín-trung vào lề lối đấu tranh trung-dũng. Vì Dân cảm thấy "sự cách mạng" lạt lẽo, mù mờ, vô bổ từ đó. Hơn nữa, chính lúc nầy chuyện bè phái chính trị hoàn toàn không phù hợp với quan niệm, hoài bão, lập trường của Dân và Mi. Hai cô muốn tìm riêng cho mình sự thảnh thơi, bình lặng trong đời sống, quyết giữ tinh thần ôn nhu, trong sáng, tìm một cuộc sống vô-tư-lự, thanh thản, hữu hiệu, thật sự đáng sống; để mình có thể góp phần nho nhỏ giúp ích trong cuộc đời, một cuộc đời thực sự bình dị, mến thương nhau, ôn hoà, an lành, có nghĩa có tình như mọi công dân hiền hậu khác: Không oán ghét, chẳng vò xé hận thù. Không vướng mắc mọi ưu tư ray rứt dày vò ở trong lòng. Do một tuần lễ công tác trong tổng-hội sinh-viên Việt Nam ở Huế, đã gây cho Mi & Dân bao điều băn khoăn, nghẹn ngào, xót xa quá cay đắng. Vì, khi làm việc với nhau trong tuần lễ đó, có một anh sinh viên sống tại Huế rất qúy mến các bạn từ Sài Gòn, Đà Lạt... đến Huế, anh ta ngầm ngầm báo với họ là:
                      - Hãy hết sức cẩn thận. Đề phòng. Tính mạng của các anh chị hiện đang nằm gọn trong tay “họ”.
                      Thú thật, các bạn trong nhóm Mi & Dân không hiểu nỗi mình làm thiện nguyện bổ ích cho đời thì đã có gì sai? Và, khi anh ta nhấn mạnh ở điểm nầy, thì hai cô chẳng thể biết ra sao, không hình dung chữ “họ” ở đây, là anh ta muốn “ám chỉ” về ai? Ai? Bởi vậy, ban ngày Mi, Dân, và các bạn ghi tên ở khách sạn, nhưng ban đêm cùng nhau lo đi ẩn nấp, chui rúc nơi bờ bụi như lũ chuột, khi các bạn ngủ chỗ nầy, khi ngủ dưới ghe bà Nẫm, đến khuya các bạn lại cho ghe neo đi chỗ khác, lúc thì lên gần gầm cầu Bạch Hổ, khi chạy về khu Gia Hội. Vân vân... Đồng thời, Thụy Mi rất buồn vì chuyện tình yêu giữa “chàng và nàng” bị đổ vỡ vô cớ. Kèm theo chuyện chính trị náo loạn dị kỳ, cô quá chán ngán, không muốn mọi thứ ấy luôn thọc mũi dùi vào đời sống sinh viên, quấy rối lòng mình nữa! Bởi vì; (tất nhiên trong đó có cả các anh chị bạn, và... nhất là có người yêu dấu của cô):
                      Cô cảm nhận ra rằng ở tại miền Trung bấy giờ hoàn toàn do nhóm sinh viên sừng sỏ hùng hậu chi phối chính quyền địa phương. Đấy là dấu hiệu “loạn” đã lên cao độ rồi. Cái nền độc lập tự do dân chủ vừa mới sơ sinh, mà manh nha nhiều thủ đoạn “rối” như thế nầy, thì… tương lai đất nước sẽ tối đen như đêm ba mươi Tết. Theo thiển ý của Thụy Mi: nếu tham gia làm cách mạng (vì thực sự yêu nước, muốn cùng nhau xây dựng một quốc gia hùng cường, một đất nước tự do hưng thịnh, vinh sang và trường tồn); thì ta không chỉ chìm đắm bới móc quá khứ, mà ôm hận thù. Điều cần thiết và cấp bách là muốn thực thi cách mạng, trước tiên ta cần phải an-nội.
                      Thế nhưng… giờ đây thanh niên là rường cột của quốc gia, đang giống như con dao hai lưỡi. Rồi mọi chuyện sẽ đến đâu? đi đâu? về đâu? Thật ra đám sinh viên thiện nguyện đi Huế công tác bây chừ cảm thấy buồn bã, chán nản lên tột đỉnh. Có thể nhận thức của họ về vài vấn đề nào đó còn eo hẹp, khiếm khuyết, nông cạn, không hữu hiệu, phiến diện và ít sắc bén trong suy nghĩ, nên không thể đạt được sự cảm thông và khuyến khích với "những vị có hào quang chói lọi trên đài danh vọng khi đi kháng chiến cứu... bồ chăng". Thế nhưng khi Mi nghe: Albert Einstein (1879-1955) đã nói: “The world is a dangerous place to live, not because of the people who are evil but because of the people who don’t do anything about it”. (Thế giới là nơi nguy hiểm để sống, không phải chỉ vì bọn cùng cực hung ác, mà còn vì những người ù lỳ, không làm bất cứ một điều gì, để trừ khử cái ác ấy). Hoặc giả như Napoléon Bonaparte (1769-1821) đã trầm ngâm suy tư: “Le monde souffre enormément, non pas à cause de la violence des gens malsains mais à cause du silence des gens braves”. (Thế giới chìm đắm trong đau khổ, không phải chỉ vì bạo lực của bọn ác, mà còn vì sự im lặng của người tử tế).
                      Thế thì ta có nên nên cúi đầu lanh lẹ quay gót, lo thụt lùi lui xa chính trường, không hề dám ngoảnh lại len lén liếc nhìn… hay không nhỉ? Bởi, Vì Dân còn nhớ rất rõ: Buổi chiều đó, một buổi chiều có mây trắng bồng bềnh bay bay trên lưng trời, có nắng nhạt nhè nhẹ rót xuống thế trần, có gió mơn man trên đầu cây ngọn cỏ, cảnh vật êm ả bình thường như bao buổi chiều khác. Có khác chăng là một tí nữa đây Vì Dân, Thụy Mi và hai ba anh bạn sẽ được vinh dự trở thành số ít người hiếm hoi, tận mắt chứng kiến một sự việc đặt biệt ghi đậm nét như một dấu ấn lịch sử: Từ đầu đến cuối sự kiện trọng đại nầy: đã có nhiều dư luận, có nhiều lý thuyết, có nhiều phán đoán, có nhiều nghi vấn. Nhưng “trăm nghe không bằng mắt thấy” về những nhân vật trọng đại, liên hệ đến lịch sử.
                      Đó là một buổi chiều định mệnh… vô cùng đớn đau bi thảm vào đầu tháng 11 năm 1963. Đúng hơn là buổi sáng ngày 02 tháng 11 năm 1963, ông Trần Trung Dung (nguyên Bộ Trưởng Quốc Phòng, dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm). Ông Dung đã gọi phone đến nhà Năm Tony. Trong nhà Năm có thêm bạn: Trung, Thạch, Thụy Mi và Vì Dân ngồi gần bàn làm việc. Năm bắt phone và chuyển sang cho ông Ba chủ trại hòm Tobia. Sau một hồi trao đổi, giọng ông Ba trở nên lo lắng. Bối rối. Quắt quay. Bồn chồn. Như có điều gì bức bách lắm. Cuối cùng ông Ba thở dài, buông phone xuống, e dè nhìn mọi người hiện diện, đôi mắt ông rướm lệ rồi ngập ngừng nói nhỏ:
                      - Tổng thống, và ông cố vấn đã chết trong chiếc thiết vận xa M113 mang số 80.989, bởi lệnh của ông Dương văn Minh, do sát thủ là Nguyễn văn Nhung giết hại rùi.
                      Sửng sốt, bàng hoàng. Mọi người ngơ ngác nhìn nhau, tất cả vội túc trực trong phòng khách, mở radio lên lắng nghe. Hội đồng tướng lãnh do Trung-tướng Dương Văn Minh đứng đầu đảo chánh đã thành công. Ông Minh tuyên bố: “Tôi tạm thời lãnh đạo quốc gia”. Đài Phát Thanh Sài Gòn chỉ mở nhạc hoà tấu, nhưng luôn luôn nói đi nói lại là: “Anh em ông Diệm đang ẩn nấp, hoặc... tẩu thoát đâu đó”…
                      Chẳng nói chẳng rằng, ông Ba vội vã kiếm người đi gọi đạo tỳ đến xưởng hòm, để chuẩn bị “hậu sự” cho Tổng Thống Diệm và ông cố-vấn Nhu. Ở nhà kho của ông Ba có nhiều hòm tuy đẹp, đắt tiền. Nhưng không mấy xuất sắc. Chỉ còn một cái hòm tốt nhất bằng gỗ gia tỵ rất quý hiếm, có bọc sẵn thêm cái hòm kẽm ở bên trong. Ý ông Ba muốn để cái hòm nầy cho ông cố vấn Nhu. Ngoài ra, còn một cái hòm nhôm mới toanh láng cón của quân đội Mỹ. Chiếc quan tài nầy rất đẹp, làm bằng nhôm nhẹ, có hai lớp. Bên ngoài mạ lớp sơn bóng loáng, bên trong bọc một lớp đệm nhung mỏng, êm ái như tấm đệm giường ngủ, có thể mở nắp ra đóng vào bằng kính dễ dàng, lộ cả khuôn mặt người quá cố, cho mình nhìn tiễn biệt phút cuối cùng, hòm có chốt cài bên hông. Nếu là xác đã ướp lạnh, có thể để lộ hẳn ra ngoài. Ở Việt Nam chưa xuất hiện loại hòm tân thời như thế.
                      Lẽ ra là chiếc hòm rất sang trọng đẹp đẽ qúy hiếm nầy sẽ đựng thi hài của một viên Tá người Mỹ đã từ trần tại Việt Nam. Nhưng không hiểu sao họ lại mang vất bỏ chiếc quan tài ấy ở bên hông nhà ướp lạnh trong phi trường Tân Sơn Nhứt!?. Tình cờ ông Ba đi làm việc đã thấy. Tiếc quá nên ông Ba nài nỉ, thương lượng với tên quản lý nhà xác, và ông đã mua lại. Ông Ba đem về trưng bày trong tiệm cuả mình, coi chơi. Ai đến mua giá cao cỡ nào, ông cũng không bán. Thế là ông Ba quyết định:
                      - Chỉ có Tổng Thống Ngô Đình Diệm mới xứng đáng nằm an nghỉ trong đó thôi.
                      Cả hai khuôn hòm được mang ra lau chùi bóng loáng, sát trùng sạch sẽ, họ chuẩn bị sẵn sàng; chờ lệnh. Gần 11 giờ trưa, phone của ông Trần Trung Dung gọi báo:
                      - Nhờ ông vui lòng mang khuôn hòm đến nhà xác bệnh viện Saint Paul. Ở đường Tú Xương. Tuyệt đối không cho đông người đi, và người lạ tháp tùng. Xe chỉ chở đến đó… mỗi lần một quan tài mà thôi.
                      Ông Ba nêu ý kiến:
                      - Có nên lấy thêm một xe nữa. Đi theo phía sau xa xa xe kia. Hay không?
                      - Không. Chở từng cái một, mỗi xe đi cách xa nhau khoảng nửa giờ. Mang cái “đầu tiên” đi trước.
                      Ông Ba tuân lệnh. Đem cái hòm đặc biệt “đầu tiên” đi. (ý họ muốn nói đến “cái đầu tiên”: là khuôn hòm của Tổng-thống Diệm, người sẽ liệm trước tiên). Chiếc xe tang từ từ lăn bánh. Trên xe có bà chủ tiệm hòm, Năm, Mi & Dân, Thạch, Trung, cộng thêm bốn người đạo tỳ. Xe lao vào đường phố vắng tanh như đi trong thành phố chết, hoặc đang vào giờ giới nghiêm, thiết quân luật vậy. Đến đường Tú Xương, Vì Dân mới thấy phe cách mạng lật đổ chính phủ đã cho cảnh sát, quân cảnh đứng canh gác ở các chốt. Xe jeep chận ngang ngỏ vào nhà xác.
                      Ngoài các anh: Năm, Thạch, Trung, Mi, Dân, bà chủ tiệm và bốn đạo tỳ ra, còn có hai soeur có lẽ ở bệnh viện nầy. Thêm vợ chồng cháu rể của tổng thống đang lăm le chiếc máy ảnh trong tay. Khi xe tang vào tới bên trong, thì một soeur rón rén, lấp ló, len lén nhìn trước ngó sau, coi soeur có vẻ gian, sợ sệt lén lút, như người làm chuyện mờ ám gì, chả biết. Hình như soeur có lệnh trước, đã vội vàng kéo cánh cửa đóng ập lại liền. Trong nhà xác chỉ có một ngọn đèn vàng lù mù, leo lét, treo lơ lửng tòn ten trên trần.
                      Bốn đạo tỳ mang quan tài đặt trên bệ đá cẩm thạch trong nhà xác. Họ đợi khoảng hai mươi phút sau, thì có một chiếc xe hồng thập tự kiểu Dodge nhà binh (màu cứt ngựa) thắng lết bánh, đỗ xịch lại. Bà soeur canh cổng kia lật đật mở cánh cửa nhà xác ra. Từ trên xe có bốn quân nhân nhảy phóc xuống, họ vội vội vàng vàng khiêng chiếc băng ca lắc lư nhún nhảy. Trên đó có một người nằm cũng nhún nhảy lắc lư theo nhịp bước mau. Họ mang băng ca vào hẳn phía trong, để xuống dưới đất. Họ chả buồn nhìn ai hay nói câu nào, họ cúi đầu vội vã quay trở ra, leo tọt lên xe. Chiếc xe Dodge rít lên nghe rợn tóc gáy vút đi trong sự im lặng hãi hùng…
                      Lúc bấy giờ cả nhóm đông trong phòng liền bước tới đứng sát bên băng ca. Người nằm trên băng ca là vị tổng thống kính mến của nền Đệ Nhất Cộ̣ng Hòa miền Nam Việt Nam: Ngô Đình Diệm (1901-1963). Ngài mặc bộ veston màu xanh rêu, thắt cà vạt xanh đậm có chấm trắng. Dưới chân ngài mang một chiếc giày màu đen, bên chân kia chỉ có một chiếc tất trắng. Cả bộ comple chìm trong màu máu, trên đầu tổng thống có một vết thương sâu từ dưới ót trổ lên đỉnh đầu, bê bết máu. Ngài nằm đó thản nhiên im lặng, dường như tổng thống say chìm trong giấc ngủ ngàn thu bình an không muộn phiền, chẳng khổ đau…
                      Ánh sáng vụt loé lên. Thì ra ông cháu rể ngoại quốc kia đã bấm được vài ba tấm ảnh. Chả hiểu ông cháu nầy lúng túng, run rẩy, sợ hãi, lo lắng hay sao, mà ông lại vội cất dấu máy hình, không chụp thêm mà lại ngưng? Hay ông thấy cảnh máu me lan tràn như thế, thật hãi hùng và đau lòng. Nên ông không cầm nỗi cơn nghẹn ngào xúc động đau đớn dâng tràn bờ mi?!
                      Đạo tỳ khiêng xác ngài lên, đặt trên một bệ đá cẩm thạch có lót hai lớp vải trắng. Bà chủ tiệm nói với Năm, Thạch, Trung, Vì Dân, và hai soeur:
                      - Nhờ lấy bông gòn và compresse nhúng đầy alcohol, lau nhẹ nhàng, lau sạch sẽ, lau rất cẩn thận các vết máu cho tổng thống giúp tôi.
                      Họ lộ vẻ kính cẩn, ân cần, chu đáo sửa sang áo quần Tổng-thống Diệm chỉnh tề, ngay ngắn. Bốn đạo tỳ chăm chỉ cắm cúi lo tẫn liệm ngài đàng hoàng. Bà chủ tiệm hòm lâm râm đọc kinh cầu nguyện cho linh hồn người quá cố. Bà nhét vào tay tổng thống xâu chuỗi hột mân côi. Hình như Tổng Thống Diệm vừa mới chết, cho nên hai bàn tay ông đã nhẹ nhàng khép lại dễ dàng giữ xâu chuỗi, như ông đang lim dim đọc kinh lần hạt. Mọi người hiện diện nín thở, có cảm tưởng tim đập thiếu nhịp, thở hụt hơi: Nghẹn ngào. Ngậm ngùi. Cay đắng. Bẽ bàng xao động. Đau xót kinh khủng. Thương tiếc sâu sa. Buồn mênh mông cho kiếp phù sinh bạc mệnh. Ngắn ngủi!
                      Họ chưa kịp đậy nắp hòm, thì chiếc xe hồng thập tự lúc nãy đã trờ đến. Cánh cửa lớn do bà soeur kia lum khum hé mở ra. Đám lính lật đật bưng cái xác thứ hai vào. Bà soeur vội vàng khép nhanh cánh cửa ngay. Đó là ông Cố-vấn Ngô đình Nhu mặc áo sơ mi trắng cụt tay ngực đẫm máu. Áo bỏ trong quần màu nâu hơi xộc xệch, thắt dây lưng da, chân mang đôi giày màu kem. Gương mặt ông Nhu có vẻ oán hận, bất bình điều gì, vầng trán thật cao cau lại với nhiều nếp nhăn. Đôi môi ông mím chặt nghiêm nghị. Không thấy ông Nhu có nét thanh thản bình an (như gương mặt thản nhiên của người anh). Ông nằm hơi nghiêng qua một bên. Họ thấy ông bị nhiều vết đâm sau lưng, loại dao bayonet của quân đội. Máu vẫn ứa ra từ các vết thương đó. Trên đầu, ngay thái dương có hai vết thủng. Đó là dấu đạn đi từ bên nầy xuyên sang bên kia.
                      Công việc tẫn liệm cũng tuần tự diễn ra. Cẩn thận, nhưng hơi vội vàng như lần trước. Không khí lúc nầy quả thực nặng nề kinh khủng! Im lặng hoàn toàn. Hình như ai ai cũng thở rất nhẹ. Vì họ sợ mỗi tiếng động làm dấy lên từ đáy lòng mình tiếng nấc, mà họ đã kềm sâu trong lòng, để khóc thương một kiếp người phù sinh: khi họ đứng trên tột đỉnh danh vọng cao sang dường bao, ấy thế mà lúc họ lìa đời thì quá ư bẽ bàng, bạc phận!? Hoặc sẽ làm hỏng không khí kính cẩn tôn nghiêm; nơi con người thực sự đã bước chân vào cõi vô cùng hư vô? Quả đúng là phân giới giữa sự sống và cõi chết: chỉ ngăn cách bằng một sợi tóc dài lê thê và mỏng tanh, bởi một bức màn sô vô hình tầm thường mà mong manh như sương khói. Nhưng, kiếp người ở hai phân giới ấy đã không thể làm gì khác hơn. Người ở biên giới nầy không thể va mặt, chạm tay vào biên giới vô hình kinh khủng bên kia, và càng không thể biết thêm gì nhau hơn!
                      Đó là hình ảnh nhỏ nhoi tầm thường rất cô độc của con người hiện hữu đối mặt trước sự siêu hình, cao cả của sự sống và sự chết. Quả thật không là gì cả khi thân xác ấy trở thành bất động, lung linh như ảo ảnh hư vô mà vô cùng sống động, thực tế và quá đỗi thương tâm. Các bạn: Mi, Dân, Năm Tony, Thạch, Trung sẽ không bao giờ quên, không bao giờ phai mờ hình ảnh bi thương ấy trong trí óc. Vì, rất thật. Quá thật tình cờ… vô tình mình làm chứng nhân một sự kiện lịch sử trong thế kỷ. Ý thức nhận rõ ràng: Cuộc sống sao quá mỏng manh như một bóng mây trắng hờ hững bay giữa lưng trời rám bạc. Như cành cây oằn thân trong bão khi gió muốn lặng, mà dễ đâu nào!
                      Vì Dân cảm thấy mệt lả, nhịp tim rung lên từng cơn run rẩy, nghẹn nghẽn nỗi đau trong cổ, nàng vội kéo Năm, Thạch, Trung, bước ra thềm nhà xác, đi về hướng Phan Thanh Giản, là mong cho dễ thở hơn. Ngay lúc đó, Mi thấy một đoàn biểu tình náo nhiệt rầm rộ kéo nhau xuống đường. Họ vừa đi vừa giơ nắm tay hò la, hét tướng lên: đả đảo “chế độ gia đình trị họ Ngô”. Họ đi thẳng tới biệt thự đường Phan Thanh Giản của ông Bộ-trưởng Bộ Nội Vụ Bùi Văn Lương, (người đã từng nắm giữ chức vụ Tổng Ủy-trưởng, Tổng Ủy Di Cư năm 1954).
                      Họ lao vào nhà ông Lương đập phá, hôi của. Tất cả mọi thứ trong nhà thoáng chốc “biết đi” biến sạch hết ra ngoài đường. Thậm chí Vì Dân còn thấy có mấy người bưng hai con chó Nhật sợ hãi nhìn quanh, như nó đang muốn tìm cố chủ. Đám biểu tình nhốn nháo bắt đầu xúm lại nổi lửa trong sân. Rất may, lúc đó có toán Cảnh-sát Dã-chiến đến. Họ can ngăn kịp thời. Ôi! Cuộc Cách Mạng phừng phưng thành công rồi đó. Toàn dân bấy giờ đã thoát ra khỏi chế độ “gia đình trị họ Ngô”. Nhưng, rồi đây sẽ đến phiên ai đi tới đi lui, đi lên và đi xuống, đi qua và đi lại? Sẽ ra sao? Xin nhường câu trả lời cho lịch sử từ bây giờ, và những tháng năm sau nầy phán xét.
                      Nghe tiếng bà chủ gọi, các anh, chị, vội chạy trở về nhà xác: khi hai chiếc xe hồng thập tự đã đến lấy quan tài hai anh em họ Ngô. Họ nói với tài xế: “Vô Bộ Tổng Tham Mưu”. (Vì lý do an ninh, nên Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng chuyển hai xác anh em tổng thống vào Bộ Tổng Tham Mưu, an táng trong khuôn viên trại Trần Hưng Đạo, cạnh chùa An Quốc). Hiện diện, làm việc cấp tốc trong đêm khuya có vị linh mục người Pháp, ông bà Trần Trung Dung, Trung-tá Nguyễn Văn Luông (trưởng ban mai táng), một số ít quân nhân ở Tổng Tham Mưu.
                      Thế rồi tiếp theo sau mấy cuộc đảo chánh. Chỉnh lý. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đương nhiệm nghe lời ông thầy địa lý phán một câu xanh dờn:
                      - Vì hai huyệt mộ kia đã chôn nhằm “long huyệt”. Cho nên đất nước Việt Nam đã xảy ra lộn xộn liên tục. Muốn cho yên ổn. Phải cho dời đi ngay.
                      Thế là sau ngày đảo chánh ít lâu, bên phòng mai táng ở quân đội miền Nam Việt Nam Cộng Hòa lại cho mời ông Ba đến, họ bàn trước tính sau cặn kẽ, nhờ ông Ba làm hai cái kim tĩnh xây gạch, tráng xi măng trước. Ông Ba lại cho người lên bộ Tổng Tham Mưu lén lút, hì hục đào bới cả hai anh em cố Tổng Thống vào ban đêm. Đạo tỳ làm việc bù đầu suốt canh thâu không ngưng nghỉ; từ choạng vạng tối đến tờ mờ sáng mới xong. Ông Ba đem hai thi thể: ông Diệm và ông Nhu về chôn ở nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi.
                      Khi hạ rồng rồi, ông Ba có lệnh chỉ được phép lóng cát phủ lên bề mặt hai ngôi mộ bằng phẳng cho đầy. Bên trên mặt chỉ được lấp ba tấm ván sơ sài. Trông hai ngôi mộ rất hèn mọn, quá tầm thường. Tuyệt đối ông Ba không được phép ghi tên tuổi, ngày tháng trên bia mộ gì cả. Dù chung quanh đó có những ngôi mộ cẩm thạch bóng loáng, vinh sang hào nhoáng lộng lẫy khác. Vì nền Đệ Nhị Cộng Hoà “họ” sợ dân biết tin hai vị ấy nằm đó, dân sẽ đến cầu nguyện và ngưỡng mộ (!?). Nhưng làm sao mà che được tai mắt dân lành!? Không biết do đâu “rò rỉ ra” nguồn tin:
                      - Chính hai ngôi mộ đơn sơ không tên không tuổi, không hình bóng nầy: là mộ phần của anh em Tổng-thống Ngô Đình Diệm.
                      Thế là từ đó, mỗi khi ai ai có dịp vào thăm nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, họ liền đi vào cổng chính, đến đoạn giữa “hai ngôi mộ Anh Em”, nằm đối diện với cái tháp tưởng niệm, và ngôi mộ cố Thống Tướng Lê Văn Tỵ to lớn nguy nga, tráng lệ nhìn sang “hai anh em: Gioan Baotixita Huynh ; Giacobe Đệ”. Có một điều rất khác biệt với những ngôi mộ lộng lẫy sang trọng kia, thì trên hai ngôi mộ đơn sơ đạm bạc đớn hèn khiêm tốn nầy, luôn luôn có những bó nhang trầm nghi ngút khói, có đóa hoa tươi màu thay đổi mỗi ngày, có bốn ngọn nến sáng lung linh thắp suốt đêm. Hình như người dân dù sợ hãi người khác thanh trừng, nên chỉ âm thầm lén lút đi thắp nến đốt nhang cầu nguyện. Họ luôn tưởng niệm cho “Ngày dài nhất thế kỷ, buổi chiều định mệnh đó”. Họ là những người dân hiền lương ẩn danh nghèo hèn như thầm nói:
                      - Vĩnh biệt Tổng Thống Diệm. Vĩnh biệt ông Cố-vấn Nhu. Xin các ngài cứ bình thản an nghỉ. Vì, đất nước Việt Nam vẫn còn là đất nước Việt Nam. Có thay đổi chăng, chỉ là đổi mới những sự kiện, và những con người lãnh đạo quốc gia mà thôi. Nguyện cầu nhị vị an nhàn bình thản ra đi… hạnh phúc phiêu lãng ngao du sơn thủy, đi khắp trên mọi miền đất nước Việt Nam, và xin quý ngài phù hộ cho dân lành được ấm no, bình an hạnh phúc thật sự, như qúy vị hằng đợi mong. Xin qúy vị lãng quên cuộc đời bạc bẽo. Quên con người hết sức trắng trợn độc ác tham tàn và… xin hãy tha thứ cho con người rối rắm hèn kém suy nghĩ kia, những kẻ đã tàn nhẫn hại mình. Kiếp người ô trọc đảo điên và phù du rồi sẽ khép lại sau đôi mắt hờ hững lặng nhìn. Vì Dân tôi, một chứng nhân vô tình hèn mọn trong bóng tối lịch sử buông tiếng thở dài sâu lắng, trầm buồn và ngậm ngùi trên mỗi phím loan: Ối ôi ồi!!! …
                      ***
                      Mãi về những năm gần đây, sau nầy thôi, thì hài cốt "hai huynh - đệ: Gioan Baotixita Huynh ; Giacobe Đệ" (trên bia mộ vẫn không ghi tên thật, ngày tháng năm gì cả) lần thứ ba, họ lại được thân nhân đào lên, cải táng cho nhị vị về an nghỉ tại "Nghĩa-trang số 6", ấp Đông An, xã An Bình, huyện Dĩ An. Lần nầy, Thụy Mi Vì Dân chấp đôi tay khẩn thiết cầu xin Thiên Chúa cho quý "Huynh-Đệ" thật sự bình an, yên nghỉ vĩnh viễn dưới lòng đất quê hương Việt Nam. Xin đừng "bới móc thi hài người quá cố" lên thêm lần thứ bốn làm chi nữa! Đã quá đủ thảm thương rồi!
                      * * *

                      Tình Hoài Hương
                      Last edited by Tinh Hoai Huong; 11-02-2019, 06:31 AM.
                      Bút trần nào tả được lưu luyến!
                      Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                      Tình Hoài Hương

                      Comment


                      • Vũ Hải Triều


                        Vũ Hải Triều
                        Tình Hoài Hương
                        ***


                        Cơn gió heo may rít lên vô tình lùa qua cửa lớn kêu kẽo kẹt, mang theo ít khí lạnh đầu mùa Thu hiu hắt và đơn điệu, càng buồn hơn khi chiếc lá vàng nghiêng mình chao cánh, cài lên mái tóc thề buông lơi xỏa trên tấm thân Hoa thon thon và mảnh khảnh. Bất chợt Hoa cảm thấy ớn lạnh khẽ rùng mình. Hoa đưa tay kéo hai nẹp áo bung một hột nút để cài kín bờ ngực nhỏ, cô đứng dậy ra cửa lớn định đóng cánh cửa kính của tiệm, nơi Hoa đang học may.
                        Hoa bỗng nghe: “Gió bay từ muôn phía tới đây ngập hồn anh, rồi tình lên chơi vơi. Thuyền anh một lá ra khơi, về em phong kín như mây trời, đêm đêm ngồi chờ sáng mơ ai. Mộng nữa cũng là không… Ta quen nhau mùa Thu, ta thương nhau mùa Đông, ta yêu nhau mùa Xuân, để rồi tàn theo mùa Xuân. Người về lặng lẽ sao đành” …!
                        - Ồ… Hoan hô anh Hải Triều hát hay quá.
                        - Anh hát cho tụi em nghe nữa đi.
                        - Anh Triều hát đi.
                        - Anh mắc cỡ sao?
                        - Ừa… Để anh hát cho các em nghe nha, có gì mà mắc cỡ ha... “Chiều nao áo tím nhiều quá, lòng thấy rộn ràng nhớ người. Đường về miền Bắc bao cách xa. Nhìn về đường lối bao khó khăn: Đây núi cao, đây suối sâu, đây lá hoa reo như ngàn xưa. Đường về ngập gió tha phương, tiếc đời gấm hoa ta đành quên màu sắc núi rừng. Qua bao rừng núi anh về đây, nhớ nhau từng phút yêu từng giây"… Ah! Anh ca từng đó đủ rồi. Bây giờ đến lượt các em ca hát cho anh nghe, mới công bằng và đúng điệu chứ. Ha!
                        Úi ui! Hoa ngạc nhiên, ngẩn ngơ, chúm đôi môi hồng khe khẽ xuýt xoa, chen lẫn chút mến phục, cô liền thò đầu ra khỏi cửa lớn, dáo dác tò mò nhìn quanh khu xóm nhỏ, dường như Hoa muốn kiếm tìm chàng thanh niên ấy là ai, mà anh ta ưa thích ca nhạc tiền chiến, anh có giọng ca trầm ấm, trữ tình, ngọt ngào cuốn hút làm sao, y như giọng ca Sĩ Phú trong ca khúc “Tà Áo Xanh”, và “Đường Về Miền Bắc” ; nhạc và lời của Đoàn Chuẩn Từ Linh vậy hổng biết!
                        A ha! Ở mé góc đường cái quan trong làng Phú Nông, nơi ngôi nhà lai ba gian khang trang rộng rãi, và hai chái ghép ở hai đầu hồi, mái lợp ngói gạch nâu nung, tường quét vôi vàng, trong khu vườn cây ăn quả (đối diện với tiệm may) có một thanh niên trẻ tuổi đã nhìn bầy nhóc và tủm tỉm cười, anh cùng bốn năm em nhỏ đứng bên chiếc bàn trên góc sân, nơi có tàng lá vú sữa rợp bóng. Họ vui vẻ chuyện trò vừa ca hát vừa lúi húi vót nan tre, dán giấy bóng màu, giấy bóng kiếng: để làm lồng đèn kéo quân, đèn ngôi sao năm cánh kép. Người ấy mặc quần tây đen, áo màu xám, vóc dáng cao gầy, mái tóc cắt ngắn lộ ra khuôn mặt chữ điền, mũi cao, miệng rộng, mắt hai mí to và đẹp, cằm đôi. À, thì ra… Hoa nghe chị Tâm (chủ tiệm may) thường nói:
                        - Bà Tố có cậu con trai cả đã đi “lính… tàu bay” trong Sài Gòn. Cậu ấy thiệt dễ thương, vui tính, chưa vợ con gì!
                        Nhìn anh “lính tàu bay” vui vẻ ca hát và dán lồng đèn cùng em cháu trong xóm, anh ta vô tình không biết Hoa đang nhìn trộm. Tự nhiên Hoa có thiện cảm với người lạ, cô hồn nhiên nở nụ cười vu vơ mà nhẹ nhàng đóng hai cánh cửa kính. Hoa trở lại ngồi vô bàn máy cắm cúi làm việc. Hoa đang theo chị Tâm học nghề may, Hoa học thì ít mà “ma lanh” ăn cắp nghề học lóm thì nhiều. Như chị Thùy Mến đã nhận xét về mình: “Hoa khôn ngoan, dịu hiền, khá thông minh, em học một mà biết mười, giỏi lắm”.
                        Hôm sau, khi chị Tâm đã xách giỏ đi chợ vắng, ở dưới bếp Hoa quạt lò, gắp than hồng bỏ vô trong bàn ủi làm việc. Nghe tiếng chó sũa, Hoa bỗng nhớ đến chuyện mình về ở làng Trường Sanh, một hôm Hoa đi trên đường, bỗng bị con chó nhà ai ở đâu trong bụi sim xồ ra cắn, đau kinh khủng. Hoa hét to lật đật chạy về nhà, máu chảy ròng ròng mà không hề có thuốc men chữa trị. May sao Hoa không bị điên dại như người ta thường nói. Ngày ngày mạ chỉ biết rửa nước nóng pha chút muối, xong rồi lấy lá ngãi cứu đắp vô vết cắn. Chân của Hoa bắt đầu sưng tấy lên to ú nù, làm độc, nhứt nhối vô cùng. Ruồi ngưởi thấy mùi máu tanh, đã bu đến, Hoa rên siết bần thần đau đớn, và mỏi tay xua đuổi ruồi vẫn không xuể.
                        Rồi một ngày kia Hoa không thể ngồi đó mà đuổi ruồi hoài, càng không thể bước đi đâu, chân Hoa bị dòi lúc nhúc ăn sâu vô xương tủy. Sự đau đớn tột cùng nầy có lẽ chết mất. Thật kinh khủng! Mạ lật đật tất tả đi khắp xóm vay mượn ít tiền, mạ thuê người cõng con chạy vô bệnh viện cấp cứu. Chờ đợi không lâu, bác sĩ khám rất kỹ những vết thương sưng tím, hôi hám lầy lụa, ông đã buồn phiền lắc đầu ngao ngán họp ban giám đốc, cuối cùng họ bảo muốn cứu sống con bé, chỉ có nước cưa chân. Thật là: Phúc bất trùng lai. Họa vô đơn chí. Đời mình chi mà đau khổ lạ lùng rủi nhiều hơn may! Làm con gái bị cụt chân sao!? Chẳng thà chết quách đi cho rãnh nợ, hơn là sống lê lết trên đời. Nhưng mệ ngọai cương quyết không cho họ cưa chân. Mệ nói:
                        - Vì cháu là con gái, mệ không thể thấy cháu sống tàn tật. Tội quá!
                        Mệ mang Hoa về nhà nuôi, mỗi ngày mệ ra đồng bắt con đĩa về, để Hoa ngồi trên ghế, ở ngoài sân mệ cho đĩa đeo vô vết thương mà hút máu độc. Ui chao ơi! Hoa sợ mất hồn mất vía. Hết con đĩa nầy đến con đĩa khác hút máu mũ. Hoa nắm con đĩa để giựt rứt nó ra, nếu nó hút máu mũ chưa đủ thì nó vẫn (đeo dai như đĩa) bu bám cứng ngắt, nó không phải là con đĩa mà… hình như nó đã biến thành xương thịt của mình! Hoa không thể rứt nó ra khỏi người mình, vì khi cầm con đĩa giựt ra, thì chân Hoa đau đến tột cùng! bị đau thấy mấy ông trời. Nhưng khi nó hút máu no nê, thân thể mập ú thù lù vì no, thì nó mở miệng tự động lăn kềnh ra đất thành một cục to to đen thùi lùi nằm ngay đơ y như chết. Thế là chân Hoa lành. Hoa tạ ơn mệ ngoại! thời đó mà mệ thật kiên nhẫn chịu khó vì cháu, mệ văn minh, thông minh… mệ đã nghĩ ra được cái kế như vậy nhỉ? Chớ không có mệ ngoại thì “đã tàn đời Hoa” !
                        Bỗng nghe có tiếng gõ cửa ở nhà trên, Hoa vội chạy lên mở cửa ra, cô sửng sốt:
                        - Ô! Chào anh Hải Triều!
                        - Ơ hơ! làm sao em… em… biết tên anh vậy?
                        Hoa toét miệng cười:
                        - Dạ… em biết mà.
                        - Anh mới ở Sài Gòn về đây chưa đi thăm ai trong xóm. Vậy, em cũng là người lạ. Phải không?
                        Hoa tủm tỉm gật gật đầu mời Triều vào nhà, cô né qua một bên nhường lối cho Triều bước vô tiệm may. Triều ngồi xuống ghế dựa cạnh chiếc bàn to đang bày nhiều vải vóc, thước dây, kéo và quyển sổ dày:
                        - Tại sao em biết tên anh. Hở?
                        - Hi hi, chuyện nầy có chút bí mật. không bật mí cho anh biết đâu. Nhưng anh tới đây hỏi ai rứa?
                        - Anh hỏi em chớ hỏi ai.
                        - Không phải.
                        - Úi Trời! Tức thì thôi.
                        - Nếu anh muốn hết tức, anh trả lời câu em hỏi, em sẽ nói tại sao em biết tên anh nà.
                        - Anh chịu thua em, thì… anh hỏi chị Tâm thợ may.
                        - Dạ, chị chủ tiệm đi vắng ạ.
                        - Vậy sao!?
                        - Dạ. Lát nữa anh trở lại nghen.
                        - Em không muốn tiếp anh à?
                        - Em không dám.
                        Triều ngạc nhiên nhìn Hoa chằm chằm, cô liếc nhìn Triều, bốn mắt chạm nhau, Triều hóm hỉnh đá lông nheo mấy cái kịch kịch, khiến Hoa mắc cỡ, liền e dè cúi mặt xuống nói lãng:
                        - Vậy thì mời anh ngồi đây đợi chị chủ về nghen. Em xuống nhà bếp.
                        - Em không sợ anh khiêng hết đồ đạc… đem đi bán à?
                        - Em nghĩ anh không làm chuyện nớ mô.
                        - Em cứ vắng mặt nơi đây, thử coi anh có dám hay không nà.
                        - Em sợ anh rồi.
                        - Mà em nè… cho anh biết: em tên gì?
                        - Dạ, anh biết tên rồi còn hỏi.
                        - Em… ui! Em nói đi.
                        - Em tên “Em”.
                        - À… cô bé nầy khôn ghê nơi. Vậy anh đoán nghen, nếu sai, thì anh không rinh hết vải vóc, bàn ghế, máy may đi về nhà anh. Mà nếu anh đoán trúng, thì em phải chịu nghe điều kiện anh đưa ra. Nghe: Lan. Mai. Hồng. Cúc.
                        - Sai anh ơi.
                        - Vậy thì: Trúc xinh trúc mọc đầu đình
                        Em xinh em đứng một mình cũng xinh
                        Thân tui thui thủi một mình
                        Đêm đêm lạnh lẽo buồn tình lang thang
                        Nếu ai nghĩ chuyện đá vàng
                        Tôi xin được dạo cung đàn tình chung

                        Hoa lắc đầu cười tươi. Triều hơi nhíu mày:
                        - Cổ tay em trắng như ngà
                        Con mắt em liếc như là dao cau
                        Miệng cười như thể hoa ngâu
                        Cái khăn đội đầu như thể hoa sen

                        Triều vui vẻ cười ha ha ha giơ ngón tay xỉ xỉ về phía Hoa, ngâm tiếp:
                        Trèo lên cây bưởi hái hoa
                        Bước xuống vườn cà, hái nụ tầm xuân
                        Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
                        Em đã có chồng, anh tiếc lắm thay
                        Ba đồng một mớ trầu cay
                        Sao anh không hỏi những ngày còn không
                        (*) Có phải em có một trong các tên: Trúc, Cau, Xuân, Ngâu, Sen... không?
                        Thốt nhiên Hoa giật mình le lưỡi xuýt xoa, trợn mắt, co rúm người lại, vì trong mấy bài thơ có chữ “hoa”. Hoa chỉ sợ Triều đoán ra tên mình, thì phiền. Triều ngẩn ngơ bần thần nhìn Hoa giây lát, lòng anh đột nhiên… Phải! phải, đột nhiên anh cảm thấy lâng lâng tràn ngập niềm vui xao xuyến dật dờ khó tả, nỗi dịu dàng ấm áp trong sự hồn nhiên ngây thơ đầy thi vị của “nàng”. Phần Hoa thật lúng túng bẽn lẽn hồi hộp làm sao!
                        Kịp lúc đó, từ đằng xa vừa bước xuống xe xích lô, chị chủ tiệm may đã ơi ới gọi tên em:
                        - Hoa ơi! phụ chị ra sân bưng đồ vô nhà. Em.
                        Hoa vụt đứng dậy bước ra sân chào chị Tâm, cô lanh lẹ xách giỏ thức ăn rảo bước vô sau bếp, lúc ấy Triều cũng trờ tới giơ tay xách quầy chuối nặng trĩu. Chị Tâm thấy Triều, vội đon đả chào:
                        - Chào cậu. Cậu mới về thăm cha mạ hả.
                        - Dạ, em về khuya hôm kia chị à. Chị khoẻ không.
                        - Chị mạnh cùi cụi nì. Cậu về phép được bao lâu?
                        - Mười bốn ngày, mà em mất hai ngày đi đường rồi. Tiếc ha chị.
                        Triều nói xong, nhìn chị chủ tiệm cười cười, anh hất hàm ra dấu về phía Hoa, như ngầm ngụ ý: mất hai ngày thì “chàng tiếc vì nàng”. Chị chủ là tay từng trải chuyện yêu đương bồ bịch, có lý nào lại không biết! Chị Tâm toét miệng cười, nói nho nhỏ với Triều khi Hoa xách giỏ đi khuất xuống bếp:
                        - Em thích không!?
                        - Thích gì… chị ha!?
                        - Gớm! Còn làm bộ làm tịch.
                        - Chị đi guốc trong tim em rồi còn gì! Chắc em phải xin nghỉ phép dài dài, ở lì nơi đây quá, chị à.
                        - Thì ai cấm em. Cô ấy còn rất trẻ, hiền lành, nết na, cần cù, giỏi, xinh xắn mà đoan trang. Bỏ qua cơ hội ngàn vàng, rất uổng.
                        - Vâng… Em qua đây để nhờ chị lựa vải, may cho cha mạ, mấy đứa em… mỗi người ít là ba bốn bộ đồ vía. Cũng sắp đến Tết rồi còn gì. Em thúc giục hoài, mà mạ không chịu đi mua sắm. Mạ em nói “già rồi không muốn may áo mới”. Chị coi, bộ già rồi thì không thích mặc áo mới sao!?
                        - Ừ. Các cụ tiếc của, vã lại áo quần các cụ thì mặc làm sao cho xuể.
                        - Em xách quầy chuối xuống bếp, nhân tiện chào Hoa. Nhờ chị mà em biết tên cô ấy. Chớ Hoa không chịu nói tên.
                        - Phải.
                        Triều dựng quầy chuối cạnh tủ đứng, Hoa quay lui thấy Triều, liền nói:
                        - Cám ơn anh giúp em mang quầy chuối, cho em đỡ bị vác nặng…
                        - Vậy… em còn mắc nợ anh đó nghe.
                        - Nợ anh!?
                        - Chẳng phải anh đã biết tên em là Hoa rồi sao!
                        - Anh ăn gian thấy mồ.
                        - Ha ha… bây giờ anh phải đi với chị Tâm ra chợ lựa vải cho cha mạ và mấy đứa em. Hẹn gặp em sau nghe.
                        - Dạ, dạ…
                        Ngay xế trưa hôm ấy, chị Tâm muốn cố ý cho “hai anh chị nhỏ” có dịp thân tình làm quen, nên chị biểu Hoa mang quyển sổ may, viết Bis, thước dây, cùng chị đi qua nhà Triều, đo kích thước của họ, để may áo quần cho gia đình anh. Đến phòng khách thoáng mát, rộng rãi, tranh sơn mài trang nhã và lịch sự treo trên tường không rườm rà, gian giữa là tủ đứng đồ sộ và bàn thờ ông bà tổ tiên. Hoa thấy ông Tố đang nằm trên võng đọc tờ báo. Bà Tố ngồi ngoáy trầu trên bộ ván gõ cẩm lai, mấy em cùng Triều xúm xít bên nhau đánh cờ tướng ở bộ bàn gỗ sao hình chữ nhật bóng láng có mười ghế dựa bọc da.
                        Chị Tâm đon đả chào hỏi ông bà. Hoa mở miệng lí nhí chào ông bà Tố, thì nhận ra Hải Triều đã đến bên cha, anh dìu ông rời khỏi võng, để chị Tâm đo kích thước cho ông. Hoa lúi húi ghi chép từng người xong, hai ông bà ngồi trên sofa đối diện với Hoa, họ tủm tỉm cười, thì thầm to nhỏ những gì Hoa không nghe rõ, nhưng ông bà vẫn chằm chằm nhìn Hoa ghi chép. Sau khi đo cho các em ấy xong, chị Tâm và Hoa chào gia đình ông bà Tố ra về, thì Hải Triều cười:
                        - Ớ… còn phần em nữa chớ. Chị Tâm.
                        - Vậy sao?
                        - Ở bên tiệm may của chị có mặt hàng vải kia, em thích may một áo sơ mi giống loại đó.
                        - Vải đó là của khách hàng đem tới may. Không phải của chị bán.
                        - Thì em… muốn may một áo sơ mi giống như vậy, để kỷ niệm mà. Em nhờ chị…
                        Thế là ba người kéo nhau trở về tiệm may. Chị Tâm bắt Hoa thực tập và thực hành “ca may” bằng cách tự Hoa đo đạc, cắt, may tấm áo đầu tiên hoàn toàn độc lập, tự tin, không có sự trợ giúp của chị. Ban đầu Hoa cảm thấy e ngại, rụt rè, lúng túng… càng ngượng ngùng nhất là khi Hoa đo ở vòng ngực, vòng cổ Hải Triều, thì Hoa phải đứng đối diện với Triều, lấy cái thước dây choàng từ ngực Triều qua lưng anh ta, rồi vòng trở lại phía trước, coi như bụng, ngực Hoa và Triều phải “ôm sát” vô nhau, (thì mình đã ôm trọn anh ta rồi còn gì)!
                        Kinh khủng hơn lúc Hoa đo ở vòng cổ… eo ơi! Thiệt “hãi hùng” khi Triều quá cao, anh mỉm cười cúi xuống, Hoa thấp bé lại phải nhón gót ngửng đầu lên. Mắt chạm mắt… xao xuyến, rung động, ngẩn ngơ nhìn... muốn nổ con ngươi! ngực nầy bám riết vào ngực kia, hơi thở dập dồn, ấm áp và bờ môi run run vụng về nở nụ cười coi ngây ngô vụng dại! Thiệt tình mắc cỡ hết biết! Nghề thợ may có lắm chiêu bất hủ, độc đáo và tình dễ sợ ha! Kể từ lúc đó, lúc đó đó… họ đã phải lòng nhau đậm sâu khi nào, chẳng rõ. Suốt tám chín ngày Hải Triều quanh quẩn bên Hoa nhìn em đi lại, nhìn Hoa nói, nhìn Hoa cười. Triều nhận thấy Hoa run rẩy ngại ngùng bẽn lẽn may một cái áo cho mình mãi vẫn không xong:
                        - Anh về nhà nghỉ đi. Có anh ngồi ở đây, em không may vá gì được.
                        - Tại sao?
                        - Anh nhìn em chằm chằm, khiến em ốt dột, run rẩy cả tay chân nà.
                        - Thì anh đã nói thiệt:
                        Anh nói em hủy hủy hoài hoài
                        Biểu em đừng kết ngãi với ai
                        Xin em kết ngãi lâu dài với anh.
                        (*)
                        Hoa cảm thấy lòng ngất ngây hạnh phúc mừng vui bất chợt ùa về, cô nhớ đến những câu ca dao... mình cần nhắn nhủ với Triều:
                        Anh có thương em thì thương cho trót
                        Có trục trặc thì trục trặc cho luôn
                        Đừng làm theo thói ghe buôn
                        Nay về mai ở cho buồn dạ em
                        Anh ơi làm sao phải phải phân phân
                        Thì em mới dám trao thân gởi mình

                        - Hoa à: Anh lấy em đồng cheo đồng cưới
                        Đủ mặt họ hàng xóm dưới làng trên
                        . Vì em là “mối tình sấm sét” của anh nờ.
                        - Cái gì là sấm sét?
                        - Tạo nên sấm sét là do nhiệt độ trong không khí xung quanh tia chớp bị mặt trời hâm nóng đột ngột, khiến không khí nở ra mau hơn tốc độ của âm thanh, không khí xung quanh bị nén lại, tạo nên shock wave, ta nghe như tiếng sấm. Anh thấy em… thì từ giờ phút đó tình cảm từ anh cũng hâm nóng điên lên như vậy thôi.
                        ***
                        Hoa chỉ tưởng một thanh niên trẻ trung, hào hoa đẹp người và đức độ ấy chỉ nói câu bông đùa chốc lát, cho vui cửa vui nhà. Mai kia mốt nọ khi anh hết những ngày nghỉ phép, Triều sẽ bay đi biền biệt như cánh chim trời phiêu lãng, anh chẳng buồn quay lại chốn cũ đồi xưa, nơi miền quê nghèo khó mà nhớ chi cô học làm thợ may nghèo nàn đang nép mình bên lũy tre xanh!
                        Nào ngờ… Hải Triều đã thưa cùng cha mẹ, họ hàng thân hữu, anh quyết đưa gia đình về xóm Sen cách xa nhà anh chừng ba cây số, anh khẩn khoản cầu hôn Hoa. Trước bàn thờ tổ tiên ông bà nội ngoại hai bên, có sự chứng kiến đông đủ mọi người… cha mạ Hoa đã rưng rưng ứa nước mắt nhận sính lễ từ chàng trai phong trần. Đó là một ngày tuy trời không lạnh lắm, nhưng Triều cảm thấy ấm lòng, hạnh phúc hân hoan cùng niềm tin yêu trỗi dậy dâng cao trên mỗi bước chân. Bây giờ thì anh không phàn nàn gì chuyện thay đổi đơn vị, trái lại Triều cảm thấy sung sướng được biệt phái đi về ở Quảng Ngãi, vì nơi nầy anh sẽ gần vị hiền thê một đoạn đường khá dài.
                        Kể từ lúc Hoa mới hơn mười lăm tuổi non nớt, Triều ngoài hai mươi tuổi, hai cô cậu ríu rít quen biết mến thương và yêu nhau, hạnh phúc nhận món quà -"tình sét đánh"- làm sính lễ đầu tiên, -vị chi vỏn vẹn chỉ có mười ngày. Trước khi Hoa bịn rịn khóc lóc nức nở nói lời chia tay, để Hải Triều lặng buồn ra đi, Triều âu yếm hôn vị hôn thê trẻ, anh cho Hoa biết địa chỉ KBC rõ ràng, hướng dẫn cho Hoa biết nơi anh sẽ trú đóng một thời gian dài trong quân ngũ. Triều hy vọng một ngày đẹp trời nào đó Hoa sẽ lặn lội lên tận miền gió núi mây ngàn quanh năm quạnh hiu, Triều không có gì vui bằng nhận thư người yêu, nhớ thương người anh sẽ âu yếm gọi em là vợ mãi mãi! Hoa sẽ thăm người lính chiến ở chốn giang đầu. Hai người sẽ nồng nhiệt trao nhau trọn trái chín ân tình bấy lâu hằng ấp ủ. Thời gian xa cách dài lâu, thỉnh thoảng hai người vẫn liên lạc thư từ trao đổi. Tuy không thường xuyên, nhưng biết tin nhau, là Triều vui mừng như bắt được viên ngọc quý.
                        Khoảng hơn một năm sau, gia đình mạ và các em Hoa thu dọn nhà cửa tươm tất, giao các thứ lại cho mệ ngoại nhờ trông coi, mạ, Hoa, các em cùng lên đường vô Tam Kỳ sống với cha... Yên ổn gia đình cha mạ con cái đoàn tụ đâu vào đó xong, một hôm Hoa nhận được thư Hải Triều, ấy là lúc Hoa giật thót mình, chua xót nhận ra rằng: Hoa bồng bột, nông nỗi vô cùng, Hoa trẻ người non dạ ăn chưa no lo chưa tới, Hoa chỉ thương vớ thương vẩn, vu vơ… chứ Hoa không hề nhớ nhung thương yêu Triều thật tình, nhất là không phải trong lòng cô có người khác thay thế Triều, chẳng hề có ai. Hoa càng không thể lấy chồng bây giờ, vì do mình còn rất trẻ, (như anh hẹn sáu tháng sau anh sẽ về phép, xin cưới Hoa, mang vợ đi cùng anh qua khắp nẽo đường quê hương, nơi nào có gót giày đinh dẫm lên, là chốn ấy sẽ có bước chân ngà ngọc của vợ sánh vai cùng chồng)! Ui chao ôi! Lúc đó, trong lòng Hoa dậy sóng, lo lắng, bồn chồn, sợ hãi… Hoa không biết làm sao, có cách nào êm đẹp để hồi hôn. Khi xưa lúc nhận sính lễ, trước mặt quan viên hai họ, mạ đã hỏi Hoa:
                        - “Con quá trẻ, có suy nghĩ kỹ càng chưa! Nếu đã ưng rồi, không được thay đổi. Nghe không!?
                        Chính lúc ấy Hoa lia lịa gật đầu không do dự, Hoa còn thộn mặt nhíu mày, bặm môi, tỏ ra có chút bất bình, vì mạ hỏi chi ngớ ngẩn trong ngày vui. Bây giờ, nếu mạ biết chuyện con từ hôn, tính mạ đàng hoàng, không muốn mất mặt mất mũi với họ hàng, xuôi gia, (chữ “xuôi gia” có nghĩa là "xuôi chèo nhà mát mái", chớ không có chuyện “xui xẻo" từ hôn từ hiếc tréo cẳng ngỗng)! Lời hứa như đinh đóng cột: một là một hai là hai, không nói lui nói tới… thì mạ sẽ đánh Hoa nhừ tử; vì tội bất tín, bất trung, bất nghĩa, bất nhân, phản bội.
                        Suốt nửa tháng cô bất thần sửng sờ như người mất hồn, tâm trí bay lên đọt cây, lo lắng, bồn chồn, sợ hãi, Hoa suy nghĩ nát óc, bị dằn vặt, dày vò kinh khủng giữa "trao nhận và từ chối"! Phải chọn… thiệt chết mất thôi. Một buổi sáng không thể nào im, Hoa khèo em Chiến ra ngoài bờ đê, phải thổ lộ hết tâm sự với em, Hoa nói trong hai hàng nước mắt lăn tròn trên má:
                        - Em ơi! Chắc là chị phải nhờ em nói giúp với cha mạ.
                        - Em làm răn dám quyết định chuyện to tát nớ. Hay chị đi gặp anh Hải Triều, nói hết với anh ấy. May ra…
                        - Phải… phải! Em có ý kiến rất hay. Chắc phải như rứa thôi.
                        Chị em Hoa lật đật trở về nhà, Hoa lấy hết can đảm xin mạ cho phép đi thăm Hải Triều. Mạ nhìn Hoa, chỉ nói:
                        - Nếu con biết chỗ hắn ở chắc chắn, thì liệu đi mau về sớm.
                        Hoa không ngờ mạ lại dễ dàng đồng ý, chẳng vặn vẹo hỏi nguyên do làm sao Hoa cần đi gặp Triều để làm gì! Có lẽ mạ đã từng lặng lẽ sống xa cha, mạ thông cảm thế nào là sự âm thầm nhớ thương chồng lúc xa vắng. Thật vui mừng thoát nạn, Hoa liền túm một bộ áo quần, chạy ra chợ mua ít quà vặt cần thiết để tặng Triều, dẫu sao không có tình cũng có nghĩa. Từ bến xe lam ở Tam Kỳ, Hoa đón hãng xe Phi Long chạy từ Đà Nẵng đi Qui Nhơn, Nha Trang… hoặc xe chạy đường trường chẳng hạn, dĩ nhiên xe đò ấy chạy càng mau và thuận tiện, nếu Hoa đi xe đò chuyến chỉ tới bến Quảng Ngãi, e rằng phải chờ rước khách xe thụt lui thụt tới lâu lắc, phiền phức.
                        Hoa nôn nao nóng ruột như ngồi trên đống lửa. Hoa tụt xuống xe tìm lối vào Nghĩa Phú đúng hai giờ chiều, chẳng hiểu sao lúc đó Hoa cảm thấy rã rời, hai chân nặng như đeo tảng đá, không thể cất bước, bụng dạ không có hột cơm miếng nước nào, nhưng cứ như ứ hơi no nê, lòng trí Hoa nặng trĩu, bồn chồn, lo lắng, đầy ắp âu sầu. Hai hàng nước mắt tự động lăn dài trên má, khi Hoa ngỡ ngàng nhìn Triều mừng rỡ hân hoan ôm eo Hoa bước vô văn phòng trại. Không thể nào diễn tả được nỗi vui mừng rạng rỡ hiện ra trên nét mặt phong sương rắn rõi kiên cường của anh. So với lúc trước Triều mặc âu phục, trông anh bình thường như một thư sinh bạch diện. Nay Hoa nhìn Triều mặc bộ quân phục, tuy anh sạm đen, gầy ốm, cao, nhưng anh có dáng oai hùng đỉnh đạt phong trần! Có một lúc Hoa mềm lòng nhũn chí, không thể thốt nên lời ngăn cản khi Triều vui vẻ nói:
                        - Em chịu khó ngồi đợi đây chút nhe. Anh lấy phép xuất trại, mình đi Quảng Ngãi, nơi đó đầy đủ tiện nghi ăn nghỉ. Ôi là mừng biết mấy.
                        Nói xong, Triều vui vẻ huýt gió nhanh nhẹn bước ra khỏi văn phòng. Hoa ngồi điếng lặng khoảng hơn nửa giờ, sững sờ suy nghĩ: “mình đến đây mục đích chính là gì?! Phải cương quyết lựa lời bày tỏ dứt khoát nói với anh, cho dù khó khăn, bẽ bàng”! Khi Triều đã có giấy phép xuất trại ngày thứ Bảy cuối tuần, Triều mặc bộ thường phục chiếc áo sơ mi màu xanh có sọc đen nhỏ li ti, mà Hoa đã tập may cho anh ngày ấy, quần tây màu đen, mang giày da, Triều ung dung bỏ ít đồ dùng cá nhân vô ba lô, anh khoát tay Hoa rời khỏi doanh trại. Không để Hoa kịp nói gì, Triều kéo tay Hoa tót lên một xe jeep của bạn, anh vui vẻ tươi cười liếng thoắng nói đủ chuyện ở chốn biên thuỳ. Đến thành phố Quảng Ngãi, Triều vẫy tay chào bạn, âu yếm ôm vai Hoa cùng bước vô tiệm ăn. Triều nhìn Hoa:
                        - Em dạo nầy… rất lạ nghe. Tự dưng ít nói ghê ta.
                        Hoa liếc nhìn anh, nụ cười méo xệch, nghẹn ngào ấp úng:
                        - Anh thấy vậy sao!?
                        - Phải. Sắp làm vợ anh, còn lạ nỗi gì!
                        - Rồi em sẽ còn xấu hổ gấp ngàn lần.
                        - Là con gái ngoan hiền, ai mà chẳng vậy, hả em.
                        Hoa nghe anh nói, trong lòng càng cảm thấy ngột ngạt hổ ngươi biết bao vì sư hèn hạ của mình! Triều vui vẻ gọi các món Hoa đã thích ăn, (khi ở quê nhà lúc sắp làm đám hỏi có lần họ đã cùng nhau đi ăn). Muốn để cho Triều thoải mái ăn uống, vui vẻ được phút nào hay phút đó, hay là… Hoa không đủ can đảm thốt lên những câu mà Hoa biết sẽ quá tàn nhẫn, ác độc, khiến giấc mộng xây dựng lâu đài tình ái của anh đang huy hoàng, phải sụp đỗ trong chớp mắt!? Quả thật, ít ra lúc nầy Hoa không nỡ! Triều nhìn dĩa thức ăn của Hoa:
                        - Em mệt sao, hoặc là thức ăn không vừa ý em nào!
                        - Dạ, dạ… do em có chút mệt mỏi thôi.
                        - Bậy bạ quá, anh thật vô tình không nhớ là em vừa đi đoạn đường xa. Xin lỗi em.
                        - Không có chi anh.
                        - Mình vô phòng trọ trên lầu, em đi tắm, sẽ cảm thấy khỏe ngay thôi.
                        - Đừng anh ạ. Không cần tốn kém vậy đâu anh. Mình ngồi đây nói chuyện riêng xí, cũng được mà.
                        Triều nhất định không chịu, vì ở đây có khách ra vô ăn uống ồn ào, đông nghẹt, làm sao có thể nói chuyện riêng tư! Anh dìu Hoa đứng dậy bước lên lầu, Hoa riu ríu đi theo, tâm trí trống rỗng. Khi Hoa thay bộ đồ ngủ từ phòng tắm bước ra ngoài, thì đúng thật là Hoa cảm thấy có phần dễ chịu, bình tĩnh và bớt căng thẳng. Hai người ngồi đối diện bên chiếc bàn vuông nhỏ kê cạnh cửa sổ. Triều nhìn Hoa âu yếm mỉm cười, cô vội vàng cụp mắt nhìn xuống hai bàn tay lạnh cóng buông trên đùi, Hoa buột miệng nói một hơi dài:
                        - Anh Hải Triều ôi! Em van xin anh bình tĩnh ngồi yên lặng nghe em nói, anh đừng ngắt lời. Em nói liền kẽo không còn cơ hội. Dạ, ý em là là… dạ, em xin được từ hôn với anh. Em không thể lấy anh. Đó chỉ là một phút bồng bột của tuổi trẻ. Xin anh tha thứ lỗi lầm nầy.
                        Ban đầu Triều ngỡ Hoa nói đùa, nhưng nhìn kỹ lại, anh thấy mặt Hoa nhợt nhạt, lúng túng, chẳng có ý đùa cợt, trái lại rất thật tình. Hoa vẫn cúi gầm mặt xuống nhìn mấy giọt nước đá vo viên ngoài ly thủy tinh, giống như những giọt nước mắt long lanh chực trào ra từ khóe mắt mình.
                        Tái xanh mặt, Triều bàng hoàng ngẩn ngơ, không thể tin ở mắt thấy tai nghe, anh xô ghế đứng bật dậy, một tay vịn song cửa sổ, một tay Triều chống ngang hông, mọi thứ trước mắt anh hầu như mờ nhòa và sụm xuống. Triều nghẹn cứng cổ họng, miệng mồm đắng chát, khô lông lốc không thể thốt nên lời. Hai người im lặng như thế rất lâu. Lâu lắm, Triều nói nhỏ :
                        - Muốn từ hôn, cần gì đến đây cho bẽ bàng. Em viết ít chữ gởi anh, cũng được mà.
                        - Dạ, nếu em nói với mạ chuyện từ hôn: là do em, thì mạ rất giận, mạ sẽ giết em chết thiệt.
                        - Hừ… Vậy em muốn gì ở anh nào!?
                        - Xin anh cứu em… ngày mai anh cùng về với em, anh nói với mạ: "từ hôn là do anh lỡ lấy người khác có bầu".
                        - Úi Trời đất ơi!
                        Triều kinh ngạc trợn mắt bàng hoàng đăm đăm nhìn Hoa. Rất lâu. Cuối cùng Triều uể oải buông mình ngồi phịch xuống ghế:
                        - Em có biết không, anh yêu em nhiều lắm…
                        - Dạ… thưa anh, em rất xấu hổ, nhục nhã, và hèn hạ, em không xứng đáng.
                        - Làm sao bây giờ!?
                        Bỗng nhiên Triều bước tới bên Hoa, anh quỳ xuống sàn nhà, úp mặt anh vô hai bàn tay mình mà buông thỏng trên đùi Hoa. Triều đã khóc. Hoa cũng ôm chầm lấy đầu Triều òa khóc to như đứa trẻ vừa bị đánh cắp món đồ quý giá. Cũng lâu rất lâu, không biết đêm khuya và gió lạnh đã tràn vô phòng lúc nào, lạnh như những giọt nước mắt thấm ướt da đầu anh. Triều thở dài từ từ gỡ hai bàn tay Hoa ra, anh đứng dậy nhìn Hoa:
                        - Bây giờ trời đã khuya, mình về Tam Kỳ không kịp rồi. Đành phải ở lại đây. Em nằm nghỉ trên giường. Anh sẽ nằm ở sofa kia. Chúc em ngủ ngon.
                        Triều thản nhiên đi tắt hết đèn đóm, và quay ra sofa nằm gác tay lên trán, Hoa trông anh bình thản đến độ lạnh lùng. Hoa ái ngại lấm lét nhìn anh, hết sức ốt dột, xấu hổ lịm người. Hoa rón rén mò mò đến bên giường len lén vật mình nằm lì im re bên trong xó góc, không dám nhúc nhích. Sáng hôm sau Triều vẫn mời Hoa đi ăn sáng bình thường, anh lên xe đò đi Tam Kỳ cùng Hoa, làm y như giữa họ không hề xảy ra chuyện đáng tiếc. Hai người vô nhà lúc mạ vừa đi chợ về. Triều nói mạ vui lòng ngồi xuống ghế, cho anh thưa chuyện. Triều ngồi bên chân mạ:
                        - Con xin mạ tha lỗi khi con từ hôn: Hồi hôn với em Hoa, là do con đã lỡ lấy người khác có bầu.
                        Vừa nghe xong, mạ giận quá, đã mắng nhiếc Triều đủ điều xấu xa, nhục nhã ê chề, mạ thẳng chân đạp Triều một cái vô ngực anh thật mạnh. Bất ngờ, khiến Triều té ngửa ra sàn nhà, đầu đập vô chân tủ, lỏa máu. Hải Triều đứng dậy lặng lẽ cúi đầu bước ra khỏi nhà. Các em của Hoa khóc lóc thảm thiết rống to hụ hụ hụ... vì biết rõ phần lỗi về ai, mà tụi em không hề dám lên tiếng bênh vực anh. Họ thương Triều bị oan ức mà anh không hề than van trách móc. Thật là một người quá cao cả, vô cùng hy sinh vì người mình yêu, anh Hải Triều ơi! anh rất cao thượng.
                        ***
                        Năm 1993 Hoa và các em trở về quê Trường Sanh, Phú Nông, Lương Điền, xóm Sen: cô xây mấy nhà thờ tổ của dòng họ Trương; bên nội, cũng như bên dòng họ ngoại. Nhờ xây nhà thờ to lớn, sầm uất, cúng tổ linh đình, Hoa đã làm một việc nở mày nở mặt hai họ biết bao. Hoa làm cơm đãi họ hàng thôn xóm, rồi theo các em đi thắp nhang hầu hết những ngôi mộ trong làng. Khi dợm bước lên xe hơi, thì có một cô gái đến bên Hoa dịu dàng bảo:
                        - Em cần dẫn chị đến nơi nầy.
                        Hoa lưỡng lự ngỡ ngàng băn khoăn nhìn cô gái có ý dò hỏi, nhưng cô ấy không nói gì, hai chị em Hoa và cô gái lặng lẽ đi trước dẫn đường khá xa. Lúc đến gần cuối bức tường rêu phong, cô ấy nhìn Hoa e dè nói:
                        - Có lẽ chị quên em, nhưng chắc hẳn chị chưa quên anh trai của em. Anh ấy đã có vợ và hai đứa con trai còn nhỏ. Vì khi xa người mà anh ấy rất yêu, thì lâu lắm, mãi về sau nầy anh ấy mới lấy vợ. Em không hiểu vì sao, có thể cũng do buồn, nên thay vì được trở về đơn vị cũ trong ngành điều hành không lưu, nhưng anh ấy muốn ở lại phục vụ tại Quảng Ngãi. Năm 1972 nhân một hôm nghỉ việc, anh ấy không làm ở phi trường quân sự Quảng Ngãi, mà anh ấy đi chơi theo mấy bạn Bộ Binh, để phát lương ở Minh Long, anh trai của em đã bị mìn, anh chết vô cùng tội nghiệp.
                        Cô em vạch đám cỏ may cao lút đầu gối giạt qua một bên, Hoa thấy ngôi mộ hoang phế vôi gạch rữa nát, trên bia mộ lờ mờ mấy hàng chữ: Võ Hải Triều sinh ngày 10 tháng Giêng -1940. Từ trần ngày 06-12-1972.
                        Hoa chết sững ngồi hụp xuống đám cỏ may vàng òa lên khóc nức nở, y như hồi nào đó trong quá khứ Hoa đã khóc rống lên trước những cơn đau khổ đầy chua xót bẽ bàng của chàng. Nỗi đớn đau và dày vò chua xót đó, cho đến mãi tận hôm nay mới thấm đẫm sự ân hận trong trái tim Hoa khô héo. Hoa không biết nói gì hơn là lẽo đẽo theo cô em đi về trên đường nhựa dẫn tới khu xóm cũ, nơi Hoa đã từng học nghề may. Hoa vô ngôi nhà lai ba gian hai chái thuở xưa, nước mắt lưng tròng Hoa đặt một phong thư dày cộm lên bàn thờ có cha mạ và Hải Triều, cô thắp mấy cây nhang cắm vô lọ sứ, ánh lửa lập lòe lung linh hơi khói phảng phất bay bay trên khuôn mặt cố nhân. Hoa nghiến chặt hai hàm răng cúi đầu lâm râm khấn vái, mắt long lanh:
                        - Anh Hải Triều ôi! Tuy em biết rằng món tiền nầy không thể nào chuộc lại sự đau đớn nhức nhối, do từ em đã dường như vô tâm phạm tội ác tày trời, khiến anh đau đớn. Em xin anh hãy nhận cho tấm lòng em tan nát, dày vò. Em biết ơn và trân trọng anh vô vàn. Mong anh tha lỗi cho em.
                        Dĩ vãng đầy ắp đang lừ đừ trôi về trên hiện tại não nề bi đát, không kém muộn phiền chua xót làm sao!
                        ***
                        Tình Hoài Hương
                        Last edited by Tinh Hoai Huong; 11-15-2019, 08:49 PM.
                        Bút trần nào tả được lưu luyến!
                        Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                        Tình Hoài Hương

                        Comment


                        • Tạ Ơn Đời. Ân Nhân & Bạn Hiền.


                          Tạ Ơn Đời. Ân Nhân & Bạn Hiền.
                          Tình Hoài Hương
                          ***



                          Nắng lung linh xuyên qua song cửa rót lên nền nhà, tạo thành những vệt sáng lấp lánh nhảy múa trên bàn, trên những tấm vải treo khắp đó đây trong tiệm may vắng như chùa bà Đanh, khiến Hoa càng buồn và thất vọng dường bao! Suốt mấy tháng không có khách hàng tới may vá gì, buồn chán lắm, nên cô nhỏ cứ bỏ tiệm may ra đứng thẩn thờ trước trường đánh máy chữ. Hoa nhìn vô bên trong lớp học mà mơ ước mình được sung sướng đi học như họ, thì hạnh phúc biết ngần nào!
                          Một hôm, Hoa đang mơ màng đăm chiêu, lấp ló phiền muộn nhìn vô trường học nghề như thế, thì có một bàn tay nhẹ ôm vai Hoa:
                          - Ê bồ! sao ngày nào cũng đứng đây vậy?
                          Hoa kinh ngạc nhìn người con gái xa lạ ăn mặc hợp thời trang, nàng cao to hơn Hoa một chút, nàng không đẹp không xinh, nhưng ai nhìn nàng cũng cảm thấy dường như từ nơi nàng tỏa ra một sự quyến rũ, có hấp lực thu hút cái duyên ngầm ngầm một cách kỳ lạ. Hoa nhìn lại thân phận mình quần thô áo vải, nên cô mắc cỡ bỏ chạy. Người ấy vội chụp cánh tay áo Hoa lại, đầu Hoa chúi vào vai người ấy. Chẳng hiểu sao Hoa oà khóc, có lẽ vì xấu hổ và tủi thân. Cô gái ân cần vỗ vỗ vô lưng Hoa, niềm nở vui vẻ tự giới thiệu tên:
                          - Mình tên Bích Thuỷ. Còn bồ tên gì? Ở đâu vậy?
                          Thủy hỏi thăm Hoa ở nơi nào ư? Hoa nghẹn ngào không nói, đưa tay chỉ vô tiệm may. Thủy gật đầu tươi cười bước vô lớp. Hết giờ học đánh máy, Thuỷ ghé lại tiệm may, nàng muốn làm thân kết bạn cùng Hoa:
                          - Có thích học đánh máy không, mà ngày nào tui cũng thấy bạn đứng dòm chằm chằm vô lớp học hoài rứa?
                          - Ồ, mình rất thích. Nhưng nhà nghèo lắm, không thể có tiền đóng học phí, cùng các chuyện linh tinh khác.
                          - Bạn đừng lo chuyện ấy. Tiền bạc, ăn uống, học phí để tui lo cho, đến khi nào bạn học thành tài, mới thôi nghe.
                          Ồ! Kinh ngạc quá! làm sao mà có chuyện “động trời” thế nầy được!? Hoa lắc đầu trố mắt nhìn cô gái, chẳng thốt nên lời, không thể tin vào tai mình. Nhưng mỗi ngày sau giờ học đánh máy, Bích Thuỷ đều ghé lại tiệm may của Hoa, nàng vui vẻ ân cần Thủy “mớm mồi” một vài câu “nhắc khéo” với Hoa về “chuyện ấy”. Nghĩa là Thủy đi sâu vào vấn đề muốn tận tâm giúp đỡ bạn học một nghề có căn bản cho tương lai, đại khái là nghề thư ký đánh máy. Hoa mủi lòng chỉ biết khóc... và khóc vì thân phận nghèo thôi. Bích Thuỷ mở lời tâm sự:
                          - Hoa biết không, ở đời không phải ai ai cũng hoàn toàn sung sướng, như ta nhìn phiến diện về một ai đó đâu. Nè bạn, họ không khổ sở vì vật chất, thì cũng đau đớn, dằn vặt, cô đơn... về tinh thần chẳng hạn. Ví dụ như mình đây: Ba mình là Quận Trưởng, mình có hai người anh đã thành đạt trên đường đời, nhưng rất buồn và cô độc do chúng tôi mồ côi mẹ lúc còn nhỏ. Ba mình có phải là gà trống nuôi con độc thân tại chỗ không, chuyện ấy xét lại, bây giờ ông có nhiều đào! Mình sống giàu sang nhưng rất cô đơn và trống vắng. Là vậy đó.
                          Thì ra là như thế. Bích Thủy ân cần năn nỉ Hoa cho phép mình đi thăm nhà mạ và các em của Hoa. Ngần ngại hết sức, nhưng cuối cùng Hoa mềm lòng đã dẫn Thủy về nhà mạ. Nhìn cảnh nghèo nàn xơ xác khó khăn của bạn phơi bày, Thuỷ bùi ngùi cảm động xót xa quay mặt đi len lén chùi nước mắt. Thuỷ hết lời năn nỉ xin mạ cho Hoa đi học đánh máy, Thủy hứa khi Hoa học thành nghề, Thuỷ sẽ xin việc làm cho Hoa, để bạn có điều kiện dồi dào hơn về khoản tiền nong, mà nuôi mạ và em út.
                          Mạ chẳng hiểu đầu đuôi chi hết, nên nỏ ừ chẳng hử. Hoa kinh ngạc nhìn cô bạn mới ấy đăm đăm, chỉ tưởng là cô gái lạ kia trêu chọc nói đùa với mình cho vui. Ai ngờ… có nàng tiên thật trong đời của Hoa đã giáng thế! Bích Thủy hoàn toàn xa lạ, không bà con thân tộc, không hề quen biết Hoa, nhưng Thủy chẳng toan tính đắn đo suy nghĩ gì, nàng đã hậu ái lo đầy đủ chu đáo hết mọi thứ, dìu dắt Hoa đến nơi đến chốn: nào là Thủy đóng trọn khóa tiền học đánh máy, nào là Bích Thủy đưa Hoa đi mua sắm mấy bộ áo quần, chẳng những cho riêng Hoa, mà cô còn lo cho mạ và bầy em nhỏ của Hoa nữa. Thủy lo lót ở một trường tư thục ngoài Đà Nẵng cho Hoa có một chứng chỉ học trình lớp Đệ Tứ. Tóm lại Thủy lo hết mọi chi phí. Thủy đưa Hoa đi làm giấy thế vì khai sinh, tên “Trương Thị Thu Huyền” khai sinh chào đời, lột xác Hoa từ nấc thang thấp nhất, tên cũ xì và quê mùa "Chắt" đã lùi về quá khứ, tên mới của Hoa lâng lâng bay lên… bay lên cao vút... kể từ từ nơi đó.
                          Lý Thị Bích Thủy: Đó là một người thầy thứ hai trong đời đáng kính và quý trọng của Hoa (sau cậu Phú): Lúc ở Tam Kỳ Chu Lai, muốn đốt giai đoạn, nên Thủy dịu dàng dạy Hoa học thêm đánh máy cho thật nhanh và mau chóng nhớ, bằng cách Thủy có sáng kiến rất hay: nàng lấy sơn màu viết 24 chữ cái lên tấm carton, những mặt chữ cái làm giống y như trên bàn phím của máy đánh chữ thật. Đúng là có kết quả mau chóng tốt đẹp và vô cùng khả quan. Ôi! Hạnh phúc biết dường nào khi ở trường học đánh máy: mỗi lần Hoa ấn tay lên bàn phím, thì những con chữ vô tư lự vui vẻ gõ lóc cóc, nhảy tưng tưng như rộn ràng reo hò mời gọi Hoa vào đời, thì nhịp tim Hoa cũng lâng lâng hòa điệu tương ca.
                          Hoa có ý chí, tự rèn luyện đức tính kiên cường, ngày đêm cố gắng học Anh-văn, học đánh máy chữ. Ngày đó Thuỷ bảo vệ Hoa lắm, dù những bạn học của Thuỷ có vẽ xem thường Hoa một tí, là Thủy từ bỏ họ luôn, đôi khi Hoa thấy ngại quá, khuyên Thuỷ hãy để em sang một bên, Thủy hãy tiếp tục chơi với bạn học. Thuỷ lắc đầu bảo rằng:
                          - Mấy con đó thiếu sự hiểu biết, không có đạo đức và từ tâm, mình không thèm chơi với chúng nó.
                          Ngoài giờ học đánh máy, Bích Thủy còn dạy Hoa nói tiếng Anh với Thủy, để Thủy biết chỗ sai hay đúng, mà sửa. Thật tình thì Hoa thích nói tiếng Việt hơn, nghe thân thiện, tha thiết nồng nàn, ấm áp ngọt lịm sao đâu. Bởi hằng ngày Hoa nói chuyện với người Việt thân thiết quen rồi, nay học thêm tiếng Anh, Hoa bị lớ quớ, lộn xộn ngỡ ngàng và và… dị dạng nói lắp bắp, líu cả lưỡi. Hoa cảm thấy ngượng ngùng không tự nhiên khi phát âm. Thủy sợ Hoa không hiểu, Thủy giải thích dông dài rất cặn kẽ. Chẳng biết Thủy sưu tầm lượm lặt đó đây một lô thơ lục bát ghép chữ Việt và Anh-ngữ rất hay, thực dụng và dễ hiểu vô cùng, Hoa rất thích học những câu thơ ấy, có nhiều lúc Thủy vừa hỏi tới bài học, thì Hoa trả lời những câu đã thuộc làu:
                          Cằm CHIN có BEARD là râu
                          RAZOR dao cạo, HEAD đầu, da SKIN
                          THOUSAND thì gọi là nghìn
                          BILLION là tỷ, LOOK nhìn , rồi THEN

                          LOVE MONEY quý đồng tiền
                          Đầu tư INVEST, có quyền RIGHTFUL
                          WINDY RAIN STORM bão bùng
                          MID NIGHT bán dạ, anh hùng HERO

                          COME ON xin cứ nhào vô
                          NO FEAR hổng sợ, các cô LADIES
                          Con cò STORKE, FLY bay
                          Mây CLOUD, AT ở, BLUE SKY xanh trời

                          OH! MY GOD...! Ối! Trời ơi
                          MIND YOU. Lưu ý WORD lời nói say
                          HERE AND THERE, đó cùng đây
                          TRAVEL du lịch, FULL đầy, SMART khôn

                          Cô đơn ta dịch ALONE
                          Anh văn ENGLISH , nổi buồn SORROW
                          Muốn yêu là WANT TO LOVE
                          OLDMAN ông lão, bắt đầu BEGIN

                          EAT ăn, LEARN học, LOOK nhìn
                          EASY TO FORGET dễ quên
                          BECAUSE là bởi, cho nên, DUMP đần
                          VIETNAMESE, người Việt Nam

                          NEED TO KNOW... biết nó cần lắm thay
                          SINCE từ, BEFORE trước, NOW nay
                          Đèn LAMP, sách BOOK, đêm NIGHT, SIT ngồi
                          SORRY thương xót, ME tôi

                          PLEASE DON"T LAUGH đừng cười, làm ơn
                          FAR Xa, NEAR gọi là gần
                          WEDDING lễ cưới, DIAMOND kim cương
                          SO CUTE là quá dễ thương

                          SHOPPING mua sắm, có sương FOGGY
                          SKINNY ốm nhách, FAT: phì
                          FIGHTING: chiến đấu, quá lỳ STUBBORN
                          COTTON ta dịch bông gòn

                          A WELL là giếng, đường mòn là TRAIL
                          POEM có nghĩa làm thơ,
                          POET thi sĩ nên mơ mộng nhiều.
                          ONEWAY nghĩa nó một chiều, (*= sưu tầm)

                          Có lần Thủy nói:
                          - Văn chương không cần trau chuốt hoa mỹ, chỉ cần xác thực, trung thực, có chút tỷ mỹ trong sự uyển chuyển hài hòa, thì mình cố gắng sẽ thành công.
                          Thế là Thuỷ vừa dạy Hoa học đánh máy vừa dạy Hoa tiếng Mỹ. Thuỷ xin với chị Toàn (là chị của Thuỷ) cho Hoa ở trọ cùng Thuỷ, tiền ăn ở Thuỷ lo hết cho Hoa mấy tháng đầu. Khi vững vàng chững chạc các chuyện học tập rồi, tại nơi phồn hoa đô hội đó không ai biết mình là ai, nên Hoa không cần để lộ tông tích “sự đi ở đợ hèn mọn” của mình ra làm chi nữa. Hoa luôn mặc cảm về dĩ vãng bất đắc dĩ, buồn tủi đen tối và thấp hèn ấy. Nay có bàn tay cô tiên Bích Thuỷ đã đưa ra để thay đổi vận mạng đời mình, thì còn lo gì không dám ngẩng cao đầu!
                          Một ngày kia có hai ba ông Mỹ bước vô trường dạy đánh máy chữ nói chuyện với cô giáo Xuân. Khi họ về rồi, cô Xuân cho cả trường biết là:
                          - Họ muốn tuyển nhiều thư ký đánh máy, ai thích đi làm thơ ký cho bộ Hải Quân Mỹ thì đơn đây, điền vào.
                          Thế là Hoa & một số bạn trai gái ghi tên đi làm. Sáng thứ Hai người ta tập họp nhân viên ở trung tâm dạy Anh-văn tại Tam Kỳ, nơi nầy có xe bus chở họ đi Chu Lai làm việc, đến chiều xe bus trả về chỗ cũ, mạnh ai đi về nhà đó.
                          Ngày đầu tiên Hoa vô phòng dự thi của Mỹ, có ban giám khảo cho thí sinh thi ngành thư ký đánh máy: Tuyển sinh phải trình bày và đánh máy một văn bản hai tờ giấy bằng tiếng Anh khá dài– phải đánh nhanh và không sai lỗi chính tả: gồm 41 chữ trong một phút. Thời gian thi là nửa giờ! Ối Trời ơi là Trời!!! Hoa rợn người lo sợ bủn rủn cả tay chân. Chỉ 1 phút mà phải nuốt trọn 41 chữ, nhanh hơn tên bay sao xẹt thôi sao? Đúng là đánh máy tốc ký! Văn chương Việt-ngữ là ngôn ngữ mẹ đẻ, Hoa còn hạn hẹp chưa thông thạo, huống gì tiếng Anh tiếng U. Hoa lại càng mù mịt như thầy bói rờ con voi. Làm sao bây giờ!
                          Hoa choáng váng không thể nào đoạt được kỷ lục thư ký tốc hành 41 chữ trong một phút đó. Mơ làm thư ký đánh máy là một việc cao sang quá tầm tay với làm gì, mà bây giờ từ trên đỉnh cao chót vót, Hoa đã vỡ mộng tan tành… bị rớt cái đụi. Tủi thân Hoa ngồi bệt xuống nền nhà khóc hụ hụ… ngon lành không hề biết xấu hổ! (giống như một đứa trẻ thơ lúc không nhận được quà theo ý muốn, nó đã phụng phịu ngồi phệt xuống đất chà hai chân giãy giụa và khóc ngất).
                          Nhưng may thay, ở đây họ cũng đang cần người làm việc trong Warehouse clothing, nên Hoa được “lọt mắt xanh” ban giám đốc IRO, họ tuyển chọn Hoa và mấy người nữa vô đó làm việc. Hoa suy nghĩ: “trước tiên mình nên nhận công việc tàm tạm nầy đã, khi ngồi vững trong IRO rồi, mình sẽ tính tiếp. Nếu Hoa không nhận công việc nầy, e rằng sẽ không bao giờ còn cơ hội may mắn tiến thân”.
                          Hoa là người chân thật, giản dị, đơn sơ và bình dân giáo dục, không biết nói những câu văn hoa bóng bẩy, không biết thêu dệt những ý tình đẹp đẽ thơ mộng, nên tự đáy lòng Hoa chỉ muốn nói lời khẩn thiết cảm ơn, biết ơn, và tạ ơn:
                          - Trước tiên là Hoa ghi ơn ôn mệ nội, ôn mệ ngoại đôi bên. Tiếp theo là tri ân cha mạ sinh ra con. Ôn mệ, chị Thùy Mến là người dưng khác họ, mà thương Hoa vô cùng. Kế đến là chị Lộc. Ông bà Trương Nguyên Thảo. Anh Đoàn Mùi, anh Thái Nghệ Quân, Võ Hải Triều. Thầy Phú dạy Hoa học chữ quốc ngữ. Nhất là Hoa vô cùng biết ơn và tạ ơn Lý thị Bích Thủy, một người bạn tình cờ chỉ gặp gỡ một ngày, mà trọn kiếp tri ân người đã nâng vực Hoa đứng dậy bằng chính đôi chân của mình: từ khi cô bé lọ lem ở nấc thang thấp hèn trong xã hội, nay Hoa được leo lên làm người hữu dụng. Tạ ơn đại diện hãng IRO thuộc đất nước Hoa Kỳ đã đến Việt Nam & tuyển chọn Hoa vô làm việc trong ban ngành của họ.
                          Hoa hạnh phúc xiết bao, hôm nay xin ghi lời tạ ơn đời ưu ái ban cho mình những hồng ân trân quý.
                          ***
                          {Thời gian quen biết nhau không lâu, thì Thủy cùng chồng đi Mỹ ở Fort Lauderdate, Florida. Thế là hai đứa mình xa cách nhau cuối năm 1967. Tại Hoa Kỳ, Thuỷ tính nào tật đó vẫn hào phóng giúp ai cần giúp, mặc dầu có nhiều người ruột thịt của Thủy cản ngăn, nhưng Thủy vẫn đi theo lý lẽ của con tim, đến nỗi người chồng thứ hai, rồi tới người chồng thứ ba và Bích Thủy cũng đổ vỡ nốt. Chỉ vì một hôm có cơn bão đến, Thủy vội vàng chạy xe ra đường, lật đật chở những người vô gia cư nào là "đen, trắng, già, trẻ, Lào, Miên, Phi, Tàu…” ; tất cả… chẳng kể số, Thủy đem họ về nhà, cho họ áo quần, ăn, ở tạm trú một thời gian dài, kể cả chó, mèo, nai, thỏ, chim, sóc…, tất cả mọi thứ… thứ gì Thủy cũng tha vô nhà đầy nhóc. Ồn ào, bừa bộn, hỗn độn, lộn xộn hết biết.
                          Ông chồng thứ ba thấy ở trong nhà mình giống như một… sở thú của “thảo cầm viên và cầm… người” thật quá kinh hoàng, chồng Thủy chẳng thể nào chịu đựng thêm “cố tật bẩm sinh” của cô vợ ngày ngày thích làm chuyện bác ái, từ thiện, hảo tâm: càng chất chồng lên cao ngút. Ông đã nổi cơn điên, cả hai người thường xung khắc, bất đồng ngôn ngữ và không cùng chung chí hướng & “lý tưởng”. Họ đã đi đến chuyện không thể dừng, không thể cảm thông, đành lôi nhau ra tòa ly dị. Từ đó Thủy không lập gia đình nữa, nàng hái ra tiền dễ dàng, nhưng cũng dễ bị đàn ông phỉnh gạt tình và tiền… Bích Thủy sống cuộc đời độc thân, làm những gì mình muốn, tự do du lịch dó đây khi mình thích, khỏi bận bịu vì ai hết}.
                          * * *

                          Tình Hoài Hương
                          Last edited by Tinh Hoai Huong; 11-20-2019, 09:32 PM.
                          Bút trần nào tả được lưu luyến!
                          Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                          Tình Hoài Hương

                          Comment


                          • Từ Góc Vàng Phai


                            Từ Góc Vàng Phai


                            Mặt trời yếu ớt đã tắt hẳn ở phương Tây, bầu trời dìu dịu, vàng ửng, nhàng nhạt. Những cơn gió từ dãy Ngũ Hoành Sơn lùa về ngây ngất và ớn lạnh. Thời gian len lén đến lấy thêm những tháng những ngày nữa trong đời người. Một ngày lặng lẽ tàn, chậm rãi trôi qua không buồn quay đầu nhìn lại, tạo thành dĩ vãng trong cuộc sống. Một năm thầm lặng cô đơn và u buồn lặng lẽ trôi đi trong đời Hồng Hạnh.
                            Gia đình anh Thương chị Huyền các cháu đang ăn cơm trưa, thấy em đến thăm, thì cả nhà vui vẻ chào hỏi. Hạnh xuống bếp lấy thêm chén đũa và ngồi vô bàn ăn qua loa chén cơm. Xong, em lấy quà ba má gởi cho gia đình chị ruột. Em kể tình cảnh cha mẹ già ở chốn đèo heo hút gió cho anh chị nghe, rồi nói:
                            - Theo em thấy, với số vốn liếng ba má đã bỏ ra lâu nay để: phá đồi vỡ đất mà làm mấy trại ương cây giống rất quy mô và đồ sộ đó, đã tốn tiền bạc và sức lực nhiều quá. Chi bằng ba má mua một cái nhà nhỏ, con cái nếu ai hiếu thảo, mỗi tháng tài trợ cho ba má thêm một vài ngàn. Ba má sẽ sống nhàn hạ yên ổn, không quá khổ cực thân xác như ở nhà quê. (Nếu ba má không thích ở với ai, thì như vậy). Chứ "giàu nhà quê không bằng ngồi lê thành phố". Ba má già rồi, mà khổ cực với ruộng vườn vất vả làm việc quên ăn quên ngủ, vẫn không hết việc. Suốt đời ba má cơ cực. Dù có tri thức, nhiều tiền thật, nhưng chẳng mấy khi thân tấm thân ba má an nhàn. Tháng trước ba bị đau một trận cũng nặng, coi như ba yếu hẳn, cần nghỉ ngơi vài tuần, nên ba đã giao mọi việc cho mấy người bà con ở dưới làng lên trông coi. Ba má quá mệt mỏi không muốn gì nữa vì vật chất của cải phù vân. Thú vui duy nhất của ba là thích mở mang đất đai. Quy tụ bà con, cháu chắt, xóm làng, ai không có công ăn việc làm, thì ba gom họ về ở một chỗ. Ba lo cho họ có cuộc sống khá hơn, là niềm ước mong canh cánh bên long ba. Với ý chí kiên cường, bác ái, ba đã đưa hai mươi lăm gia đình từ dưới làng xa xôi lên vùng nầy làm ăn sinh sống thoải mái, đầm ấm và thành công. Ở lại giữa cảnh đồng quê, hoang vắng buồn tênh, ba má đã sống đớn hèn, thầm lặng trong bốn mùa thương khó thăng trầm, trĩu nặng hai vai gánh gồng, còm cõi, vất vả ngược xuôi, cùng tháng năm trầm thống loạn ly trên con đò quê hương từ Thành xuôi về Tỉnh, về Xã, Ấp.
                            Khi nghe em góp ý bàn tính về ba má, thì anh Thương, chị Huyền, đồng ý với em điểm nầy, họ hẹn đầu tháng nầy sẽ ra Mỹ Chánh thăm ba má, và bàn chuyện đó. Chị Huyền cười, nói với anh:
                            - Nhiều khi thấy ba má quá tội. Cha mẹ nuôi mười con, nhưng mười con không nuôi nỗi cha mẹ là vậy. Mình cứ mua một căn nhà nhỏ nhưng đầy đủ tiện nghi cho ôn mệ an cư, tự do. Có lẽ tốt hì.
                            - Em nói phải.
                            Sống cùng anh chị và các cháu, Hạnh cắp sách đi học lại, cô bận túi bụi với bài vở khó, do mình quá dốt và nghỉ học đã lâu, nơi khỉ ho cò gáy không có cơ hội ôn tập, nên chữ nghĩa không cánh mà bay, chẳng còn có ai ở bên cạnh chỉ dạy cho? Trường lạ, lớp mới, không có một người bạn, dù câu chào hỏi xã giao lạt lẽo ngắn nhất, cũng không. Thật buồn, chẳng có gì vui. Hạnh tự đóng khung cuộc đời mình giữa bốn bức vách, khép kín nụ cười, đóng cửa trái tim đau thương vào cuối ngăn kéo vô hình. Hồng Hạnh buồn bã xếp thư từ hình ảnh, tặng vật lưu niệm của Hoàng Phương Nam và niêm phong vô một túi xách vải, rồi lặng lẽ cất dưới đáy va ly, chờ lúc nào có dịp thuận tiện thì chính tay mình sẽ hoàn lại cố chủ. Cuộc chia biệt dẫu không hề có lý do nào, thì dù sao ít nhiều chi cũng đã phụ tình nhau rồi. Hơn nữa thời gian cách ly quá lâu không thư từ liên lạc gắn bó, không gian vời vợi cách trở xa xôi biền biệt, có thể tình cảm cũng lạt phai trong lòng mỗi người. Hạnh muốn trở thành cánh chim hạc bay thẳng về miền Nam, đậu im trên cành cây sao xa xa, mà nhìn thấy Nam hạnh phúc. Thầm nhớ anh, yêu mến anh như người thân quen nhất. Thua thiệt có về mình, cô xin nhận chịu.
                            Các cháu Châu, Trân, Vân, đã đi học trường dòng Tabert. Sơn đi nhà trẻ. Anh chị Thương đang sống tại Hội An được năm tháng, nay anh phải đổi về làm việc ở Tiểu đoàn 52 Công Binh Kiến tạo ở Đà Nẵng, trong nhà anh chị có tất cả là chín người, nhưng chỉ mỗi mình anh đi làm việc, đồng lương Thượng-sĩ Nhứt không thiếu hụt, nhưng không dư dả! Khi anh Thương đổi ra Đà Nẵng thì cả nhà lại dọn đi, đời lính nay đi mai ở, vợ con lính chẳng mấy khi yên ổn sinh sống một nơi, sự học của con em đời lính vì thế ít nhiều chi cũng bị gián đoạn dang dở.
                            Chị Huyền đã sanh thêm một cháu trai. Vị chi anh chị có tất cả năm cu cậu! Chị rất kỵ vì người ta nói: “Có năm thằng con trai liền một dây là ngũ qủy, sẽ quậy tưng trời”. Anh chị có bốn cháu trai đứa nào đứa nấy mặt mày xinh đẹp, đẹp nhất là cháu Vân và Sơn, họ hài lòng về bốn thằng con rồi. Bây giờ anh chị đều mong kỳ nầy có một "công nương".Nhưng khi thấy mặt bé sơ sinh khôi ngô tuấn tú lạ thường, thì anh chị không muốn gì hơn. Về nhà, chị lo xông hơ rất kỹ: nào gừng, muối, nghệ, riềng, giã nhỏ, mỗi loại một hũ, ngâm rượu chôn dưới đất bách nhật, xong chị đào lên. Thứ thoa mặt, thứ thoa thân thể. Chị nằm trên vạt giường tre, ở dưới gầm giường thì đốt hai lò lửa, chị lăn qua trở lại như con cá nướng. Chị luôn xức dầu gió, gội đầu bồ kết, trùm kín mền, xông nước lá hương nhu, lá sả, lá bưởi, lá cam, quít, ổi, vân vân...
                            Căn nhà nhỏ lúc nào cũng tối mù, luôn luôn thiếu ánh sáng, không có gió và không khí, chị kiên cử nằm trong phòng kín, khiến cả nhà ngột ngạt, vì mùi hỗn hợp trên toả ra muốn nghẹt thở. Thật khó ngưởi. Thấy chị ở cử, em sợ đến rùng mình. Bà mẹ chồng của chị chịu thương chịu khó, bà lo cho con dâu và cháu nội chu đáo, mặc dù nay cụ gần chín mươi tuổi. Do chẳng có ánh sáng, mắt không tỏ, cụ sơ ý chưa lau sạch nước tắm, cụ lại bôi nước bả trầu vô cuống rốn cháu nên bị lở. Khi chị phát hiện ra cuống rốn cháu lở loét, thì đã muộn. Từ bác sĩ công, tư, bất cứ nghe ai mách bảo thầy hay thuốc giỏi, anh chị đều đi chữa trị cho cháu. Có người bày tìm con gà ác, họăc con cóc đen còn sống, mổ bụng chúng, úp con vật lên ngực cháu trong bảy ngày, họ cũng làm. Anh chị tốn tiền kinh khủng.
                            Sau cùng cháu nằm trong Tổng Y Viện Duy Tân suốt hai tháng hè. Tại đây Trung-úy y-sĩ Ngọc độ ba mươi tuổi, ở Sài Gòn mới đổi ra làm việc, ông rất tận tâm, chu đáo. Ông ngồi hằng giờ bên giường bệnh nhân, để theo dõi từng diễn biến nhỏ nhặt. Có lẽ sự nghiêm nghị, đứng đắn và lo lắng, khiến khuôn mặt trắng trẻo có in thêm nếp nhăn, ông đeo kính cận, mắt đỏ hoe trân trân nhìn từng cử động cuả cháu, ông giàu lòng nhân ái, chứng kiến nhiều cảnh thương tâm bi lụy, nước mắt ông sẽ tuôn chảy nhiều. Mỗi lần lên cơn động kinh uốn ván, cháu khóc thét, tay chân co giật, bụng ưỡn ra, đầu ngửa về sau lưng, mắt dại thần sắc. Cháu càng ngày càng gầy trơ xương, trông quá thảm. Y sĩ Trung-úy viết giấy cho cháu về nhà thì hai giờ sau cháu tắt thở. Cháu ra đi êm ái như ru đời vào giấc mộng tiên, cháu không vặn mình la khóc, không làm kinh như khi cháu còn sống. Cháu nằm giữa hai hàng bạch lạp sáng ngời. Chính tay cha đóng quan tài cho con, mà mắt như anh rể lạc thần.
                            Người ta nói khi văn thi sĩ tả chuyện đau buồn, ai oán, chia ly, họ ưa thêm thắt tạo trời mưa gió bão bùng, lụt lội tơi bời, cho ly kỳ hấp dẫn. Nhưng tháng nầy là mùa mưa, vài hôm nay đã mưa lớn. Mưa ngoài trời thật, mưa cả trong lòng. Nhiều người đến thăm viếng, chia buồn. Chị Huyền phân công mấy đứa con canh chừng xác của cháu Hải từ tám giờ tối đến mười giờ đêm. Anh chị thức từ mười giờ đến ba giờ sáng. Hạnh và con bé người làm coi chừng xác cháu từ ba giờ đến sáu giờ sáng. Ba giờ sáng! Hai phụ nữ non đời chết nhác, tim đập thình thịch, quặn thắt từng cơn đau điếng trong lồng ngực nghẹt thở, họ ngồi co ro nơi góc ghế. Nhắm mắt lại cô sợ ma, mở mắt ra nhìn cháu nằm trơ trọi trên giường lạnh lẽo, nước mắt Hạnh tuôn trào. Cô len lén nhìn chung quanh đâu đâu cũng chỉ toàn bóng tối bao trùm thì sợ ma kinh khủng! Hạnh lạnh toát cả thân run sợ đi vặn đồng hồ báo thức, cả nhà dậy lúc bốn giờ. Hạnh không dám vô phòng ngủ, sợ ma đi theo mình.
                            Cô em bị chị Huyền la cho một trận, vì tội lếu láo vặn đồng hồ lên. Chị Huyền không biết khi anh Tư bị tai nạn xe hơi khá nặng, phải chở vào cấp cứu. Chị Khánh gọi em lên bệnh viện coi chừng anh (cho chị ngủ trưa một chút). Thấy anh Tư đầu băng trắng, trán và hàm dưới bị bể, mặt mũi sưng húp, tím bầm méo mó, tay chân anh đầy máu, mỗi lần anh thở phì phò khó nhọc thì phun máu mũi. Cô sợ đứng tim, ngất xỉu đủ ba lần Hạnh đến thăm anh rể là xỉu, khiến chị Khánh phải gọi y tá, mời bác sĩ đến chích thuốc cho em. Chị Khánh tức bực vô cùng, đã mắng nhiếc đứa em yếu bóng vía một trận nên thân, khi đụng chuyện cần nhờ em giúp đỡ một tay. Chẳng những em không làm nên trò trống gì, mà khiến chị thêm lo lắng, vất vả mệt nhọc hơn. Các chị không biết rằng: Hồng Hạnh rất nhạy cảm, thương cảm, đầy xúc động trước cảnh thương tâm, (cho dù bất cứ ai) không thể cầm nỗi lòng trước những đớn đau của người khác.
                            Trời mưa gió và từng cơn bão ùa về suốt tuần, lê thê áo não không lúc nào tạnh, khi mưa nặng hạt, khi mưa phùn gió bấc. Mặc dù thế, lúc đưa cháu đến nơi an nghỉ cuối cùng, bạn bè thân nhân đi tiễn biệt rất đông. Ba má, anh chị ở Huế đã vào Đà Nẵng trước đám tang cháu vài ngày, toàn gia đình chụp chung vài tấm ảnh lưu niệm. Chị Huyền kêu khóc thảm thiết, thân thể chị mềm nhũn như cọng bún, dù hai người kèm hai bên nách nhưng chị vẫn đi không vững. Kể từ khi chị mang bầu cháu đến bây giờ, chị tốn rất nhiều tiền, nhất là sức lực chị đã cạn kiệt hết.
                            ***
                            Chị Huyền mừng rỡ đưa cho em năm lá thư của Nam, có thư cách đây ba tháng, hai tháng, v.v… mỗi lá thư đều có hình phong cảnh, đoá hoa ép khô, vài cánh bướm rực rỡ mà ngày tháng đã điểm lên dung nhan thầm lặng nét ưu buồn héo hắt tàn phai ít nhiều gợn lên trong quá khứ, nay chúng trở thành khác sắc, phôi pha, kém duyên đi. Tuy thế, nhìn kỷ vật đó, em thấy lòng mình vụt bay về khoảng trời xanh trong vắt mênh mông. Kỷ niệm êm ả một thời trẻ dại xôn xao đắm say cũ do chính em tàn nhẫn bóp chết, quá bất ngờ và vô tội vạ. Hôm nay tình cờ mở lại tần số đúng nhịp tim, gợi về chuỗi ngày cũ quá bâng khuâng, yêu dấu, khiến Hạnh luyến thương thầm nhớ vô vàn.
                            Đôi khi quá nhớ và còn yêu anh say đắm, Hạnh thầm ước mong: "phải chi mình có đủ tiền xe, tiền ăn ở, đi và về thoải mái. Hoặc nhà anh ở gần bên, thì cô đã len lén... đến thăm". Lòng dạt dào trìu mến đối với người cầm bút viết nhiều lá thư, ân cần nồng nhiệt thăm hỏi, lo lắng cho sức khoẻ, tương lai và hạnh phúc của cô. Lá thư sau cùng lời lẽ anh bộc lộ sự ray rứt chân thành, săn sóc, nhưng xa cách buồn bã lời chia biệt. Vì cứ như thư Hạnh viết năm cũ, thì anh ngỡ là mình đã có chồng. Những lá thư màu xanh êm êm dìu dịu kia, dường như tỏa ra khắp căn phòng mùi hương kỷ niệm đậm đà đằm thắm, như chứa đựng cả đại dương nhớ nhung âu yếm tình hồng.
                            Hồng Hạnh ấp những lá thư cuả Nam vô ngực, cô nhắm mắt lại hồi lâu, để mặc những giọt nước mắt lăn dài trên má. Niềm xúc cảm, rung cảm, thương cảm bùng lên, rồi từ từ lắng dần, lắng dần... dưới đôi hàng lệ âm thầm tuôn chảy tự lúc nào! Được dịp khơi lại đống tro tàn tìm phiến than hồng héo hon, cô đã khóc nhiều, cánh cửa ngăn tuyến nước mắt vỡ vụn, bao đau thương buồn nhớ bấy lâu, được dịp tuôn trào. Đầu óc cô là một môi trường đặc biệt, các suy nghĩ xuyên qua đó trở thành hỗn tạp & mất niềm tin tưởng. Con đường xa thẳm từ Hội An, Đà Nẵng, đi Sài Gòn ngút ngàn hơn chín trăm cây số, qua bao núi, đèo, sông, biển; thì tình đôi ta cũng xa xăm ngút ngàn dịu vợi thế thôi. Hạnh phúc bé nhỏ ngắn ngủi vút xa bay, không thể làm tim cô hồi sinh duyên tình ấm nồng trở lại.
                            Thì ra tận đáy lòng Hạnh vẫn yêu Nam say đắm! Bài ca "Lá thư" của Đoàn Chuẩn Từ Linh có câu nầy cô rất thích... "Anh quay về đây đốt tờ thư, quên đi niềm ân ái ngàn xưa... Tình người nghệ sỹ phai rồi... Tình người nghệ sỹ phai rồi! Nhưng tình em đối với anh chưa tàn phai theo thời gian. Nhất là những buổi chiều trời mưa vần vũ, đầu đường đại lộ Phan Chu Trinh xám ngắt như cuộc đời của người con gái vẫn nhớ người yêu. Hạnh nhớ Nam, yêu anh lòng cô cố gắng gượng để khỏi thổn thức giữa cơn buồn. Nay, chúng ta đã chia xa thật rồi, không còn gì cho nhau, đã hết, dù tình chưa tàn phai mối tình đã chết đột ngột, đầy vô cớ cất tiếng chào vĩnh biệt, xé rách tấm màn yêu thương dĩ vãng, phai mờ dấu chân kỷ niệm một thời gắn bó nồng say trên lối cũ. Cuộc đời thương đau trôi đi một lần nữa không chứng thực lời anh nói (trong hoàn cảnh tế nhị, đắng cay nầy). Cô không hy vọng có thể đến với anh, thì đành phải chấm dứt với Nam. Thôi. Đã tự quyết định dứt khoát, thì cố quên đi tình đầu nồng thắm tuổi hoa niên, quên kỷ niệm vàng son một thời non dại. Quên tất cả. Hai ta như hai hố mắt của chiếc gáo dừa lăn lóc ghi khắc lại mối tình sâu xa, một đời gắn bó; nay đã mất vẻ nhìn ấm áp, trìu mến và trân trọng. Sẽ mãi hững hờ, xa xăm... luyến thương thầm nhớ vô vàn mà thôi.
                            ***
                            Hôm nay gia đình anh chị Thương Huyền đang vui vẻ quây quần bên mâm cơm nóng sốt, thì lúc đó có một em bé trai, trạc độ mười hai mười ba tuổi, em đi vô trước cửa nhà:
                            - Cho cháu hỏi thăm nhà cô Hồng Hạnh ở đây, phải không bác?
                            Hạnh vội đứng lên đi ra ngoài sân, mỉm cười trả lời cậu bé:
                            - Chị là đây. Có việc gì vậy em?
                            - Anh Hoàng Nam gởi cho chị tấm giấy nầy.
                            Nhiều lần bị người lạ không quen ưa viết thư ái mộ bằng cách nầy, hoặc gởi thư theo đường bưu điện. Thế nên nhìn em bé, cô mỉm cười ôn tồn:
                            - Chị không quen người ấy, em ui.
                            - Có anh Hoàng Nam ở ngoài bến xe gởi giấy nầy thiệt đó chị.
                            - Trời đất! anh nào ở bến xe?
                            - Quen chị... ở bến xe mà. Ớ... Dạ, à … dạ…
                            Sự thật Hạnh quên tiệt “cái họ Hoàng” của Phương Nam, vì em bé không nói anh “Phương Nam”, mà chỉ nói anh Hoàng Nam; nên cô tưởng là ai khác.
                            - Anh ấy nói thân quen chị mà.
                            - Trời đất. Cái gì! Ai vậy, hở em?
                            - Em không biết.
                            Em bé trai bán vé số và thuốc lá đựng trên cái khay em đeo ở trước ngực vội đưa cho cô một miếng giấy vỏ của bao thuốc lá Salem, mặt trong của bao thuốc có mấy chữ vắn tắt ghi sau: "anh Hoàng Ph Nam ở Sài Gòn đã ra Huế. Nếu có thể, (Biển Nhớ ơi) cho anh biết tin bằng điện tín. Anh sẽ vô thăm em sau. H P N". Phía dưới bao thuốc là ngày tháng, chữ ký, địa chỉ của Nam ở Huế.
                            Trời ơi! Như sét đánh mang tai, cô nhìn đi nhìn lại, nhìn tới nhìn lui chữ viết và chữ ký, đúng là "cố nhân" rồi. Tự nhiên Hạnh tối tăm mặt mũi, run rẩy như chạm phải dòng điện trong hồ nước buốt giá, khiến cô giật bắn người, lảo đảo dựa lưng vô vách nhà, nhìn trừng trừng ra đường xe cộ tấp nập chạy qua lại chạy đông đúc, cô chận hai bàn tay bủn rủn run run lên ngực. Dạo nầy trái tim cô nhảy lung tung, bất thường quặn thắt trong bờ ngực nhỏ, e sợ mình đau tim thật sự. Mắt như có màn lệ mỏng, cô nào thấy gì, kể cả việc không nhớ cám ơn, hoặc cho em nhỏ vừa trao miếng giấy kia tí tiền, em ấy đã bỏ đi từ lúc nào.
                            Chưa bao giờ Hồng Hạnh run rẩy, bàng hoàng, rối rắm, xúc động, kỳ diệu, run rẩy và bối rối lo sợ kinh khủng như bây giờ. Không lầm vào đâu được. Có thể như thế sao? Trời ơi! Thật sao? Anh đã ra Huế, chỉ cách mình ngót một trăm cây số đường xa. Hoàng Phương Nam đã ra Huế. Phải. Anh vừa đến xa xa xa... em một khoảng cách gần gần... thật gần em! Phải! Nhưng... bây giờ Hoàng Phương Nam đã về tìm Hạnh sao? Quả thật là định mệnh đã chừa cho hai người một kẽ hở, khi từ trên cao ngài đang cúi xuống ưu ái thân thiện ngó chúng mình đó, anh yêu! Hạnh nhớ Nam nhiều, cô nghĩ đến tháng ngày xa xưa từng yêu nhau say đắm, ngọt ngào, êm đềm hạnh phúc và buồn rầu đau khổ tận cùng. Cô nhớ rõ mồn một từ ngày anh trao tặng mình đóa nhung hồng in môi hôn tươi rói, hơi thở anh nồng nàn lẫn vào những cánh hoa hồng thơm ngát hương, mặc dù cành hoa có đầy gai nhọn đâm vô mấy ngón tay rĩ máu, cô vẫn không cảm thấy đau. Cũng từ mấy cánh nhung hồng ấy, chị Khánh đã cấm đoán em không được yêu Nam, chị đánh em trong buổi tiệc ly ra sao. Em nhớ tháng năm sống trong nhà chị Khánh với tình yêu Nam ngọt lịm “lén lút, sợ sệt” nhưng em vẫn ôm nỗi nhớ khư khư canh cánh bên lòng. Rồi thì chị buộc em phải bỏ Nam, bỏ học để đi về Huế với ba má. Thế là vô tình em bị gián đoạn sự học, chỉ vì em yêu anh! Buồn lắm mà không thể nào thổ lộ cùng ai.
                            Hạnh nhớ thác Cam Ly, Prenn, Liên Khương, Gougah, Pongour, Datalania… vô vàn. Cô nhớ hồ Xuân Hương, hồ Than Thở, hồ Hải Thượng Lãng Ông, nhớ suối Vàng, suối Bạc, suối Cát Tiên, suối Bồng Lai; nỗi nhớ nhung mỏi mòn và bất tận, nhớ buổi chiều nắng ươm vàng trên đồi Cù, vạt cỏ úa đầy bôngcỏ may xâu vô bốn ống quần của hai người dưới chân vụt qua trí mình, gió lạnh thổi lá vàng bay là là xuống hồ Xuân Hương gợn sóng nước lăn tăn, sương mù rơi thật thấp, dày đặc, ẩm ướt, làm mờ nhòa thành phố núi mộng mơ. Nơi chốn ấy cô đã vui, buồn, cười, khóc, như điên dại khi anh chia tay mình, để anh tư lự ray rứt trở về Sài Gòn; và cô "bị" về Huế, vì bà chị nói anh là:
                            - “Hắn là con nhà giàu, lêu lỗng, ham ăn chơi, không lo học hành. Nếu lấy hắn thì đời mi sẽ đau khổ” (!?).
                            Từ đó riêng mình âm thầm sống trong ngậm ngùi cô độc, buồn nhớ, xót xa, ray rứt, vì một góc vàng phai theo gió chướng, mất hẳn tình tri ngộ đằm thắm, cô lặng lẽ chia biệt anh vì một bà chị khó chịu, chuyên lấy “quyền huynh thế phụ” ưa cấm cản em út, bắt em phải vĩnh biệt tình yêu, và đành phải bỏ học. Hạnh âm thầm chịu đựng bao đau đớn xót xa... dù biết chị hoàn toàn phi lý. Sự chia tay không hề do lỗi từ hai trẻ đã yêu nhau rất chân thật, thanh cao và trong sáng, khiến Nam bàng hoàng sửng sốt! Nhưng khi cô về ở Huế, rồi ra ở vùng núi rừng Mỹ Chánh nơi “chó ăn đá gà ăn muối” , chỉ có “khỉ ho cò gáy” làm gì có trường Trung Học dạy tiếng Việt, chớ nói chi có trường cuả ông Tây bà đầm! Đau buồn là thế nhưng cô chẳng hề than phiền với bất cứ người thân nào, nhất là không hề báo cho Nam biết, cũng chẳng cần đỗ lỗi do ai. Dù sao, giữa anh và em đã có nhiều sự song hành về tình yêu dài lâu, say đắm, chân thật, thương nhớ nồng say. Tình yêu nẩy lộc không ngừng, chỉ chia xa ở bước ngoặt lớn đột ngột bất ngờ, như con sông chảy ngoằn ngoèo quanh co mãi đến lúc nào đó, cũng tách rời hai nay bỗng dưng hai nhánh sông tình cờ gặp nhau ở gần cửa biển, không kém phần hào phóng và lãng mạn, tạo thành cơn xoáy cuộn sóng ba đào lẫn hoan ca.
                            Dù sao đi chăng nữa thì Hạnh cần phải gặp lại Nam, dù có vài giờ ngắn ngủi, dù mai nầy cô đi giữa phong ba bão tố giữa mùa Xuân, mùa Hạ, mùa Thu, hay mùa Đông. Dù sao chăng nữa em phải gặp anh phút chốc, trước khi bước lên con đường đầy khói lửa và bụi đỏ. Hạnh cần gặp Nam dù bất cứ giá nào, dù mai đây đi Trà Khúc, Minh Long, Mộ Đức, Nghĩa Phú hay Tà Biên, ở mãi mãi nơi sơn lâm cùng cốc, cũng được. Phải gặp lại Hoàng Phương Nam! Phải gặp Nam! Lời đó như sự thúc giục, hối hả, cần thiết, khẩn cấp, như nhịp chân dồn dập điệp khúc vang rền: "Phải gặp Nam... Phải gặp Nam".
                            Hồng Hạnh nhớ rõ chàng trai đã gieo vào tâm tư mình một tình yêu trinh nguyên trong sáng, say đắm và đậm sâu, khiến cô nhớ nhung, đau đớn quá nhiều. Và, Nam đã bị hấp dẫn, dằn vặt, níu kéo, đầy yêu thương nhớ nhung khổ sở vì cô cũng không kém. Thực ra, vết thương lòng chưa lành, cô tha thiết mong gặp anh, hầu giải bày nỗi niềm đau đớn đang bóp thắt trái tim. Đúng rồi! cô phải gặp Nam dù tang thương, cay đắng, chia xa và ưu phiền thắt họng. Dù thách đố đầy nước mắt, phân ly, tuyệt vọng, dù ôm mối hận ngàn đời vì quyết định nầy, thì cô cần gặp anh hơn tất cả, để chân thành nói rõ sự thật nguyên nhân tại sao chị Khánh cấm em không được phép yêu Nam. Tại sao khi ở Mỹ Chánh cô quyết định chia ly anh. Khi nào Nam vô Đà Nẵng, thì cô sẽ nói lời từ biệt anh đằm thắm, ngọt ngào, minh bạch, thấu hiểu, và chân tình hơn thuở trước. Vì cô nghĩ bây giờ cô đang sống trong một hoàn cảnh tế nhị nhưng nhiêu khê phức tạp…
                            Đúng là định mệnh éo le, xỏ lá, ba trợn lôi cô ra vui đùa, trêu ghẹo, chớt nhã, nhạo báng; khi cô bắt đầu quên... Nam; ngỏ hầu cô sẽ vui say duyên mới, dù cô chưa dứt khoát sẽ đến với người nào, hoặc là cô sẽ thuộc về riêng ai? cô đã bình lặng trong tâm hồn, vui tươi... thì bất ngờ Nam lồ lộ xuất hiện để nối lại giòng liên lạc, ngỏ hầu tự ràng buộc nhau bởi mối thâm tình từ quá khứ mật thiết, đậm sâu không ai hủy diệt nỗi. Mình yêu Nam thiết tha trên từng trang thư trao gởi, trên khát khao thèm muốn ước nguyện chia sẻ vào giòng đời thấm đẫm hương hoa, hòa với nắng lưng đồi quyện hơi sương giọt từng phiến tơ rung xuống cỏ cây.
                            Hạnh phúc được yêu là chuỗi hành trình bóng bẫy dài dằng dặc, lúc nào cũng là bước khởi đầu hy vọng; để đôi ta can trường dấn bước tới tương lai, và tìm ra đích thực tình yêu trong hạnh phúc cuối cùng ngọt ngào! Trong thẳm sâu ký ức và tri thức cuả Hồng Hạnh: người con trai văn nhã đó vẫn vẫy gọi em, đầy ắp ân tình, ngọt ngào, thu hút quyến rũ mình dường bao! cô chấp nhận cái vô thường lớn nhất là: sẽ đơn côi đi tìm, tìm đến người đang thiết tha gọi mời, và trìu mến yêu thương vẫy gọi mình. Hạnh quyết định chèo chiếc thuyền cũ, thô sơ, mong manh để cỡi trên con sóng đầy phong ba bão táp, vượt thác ghềnh, đồi núi cheo leo, hầu vút vút lướt lướt tới bến mơ... Nếu mai kia… vì lý do bẽ bàng chua xót đắng cay nào, mà hai ta phụ tình nhau… Thôi cũng đành suốt đời ôm mối hận về chín suối vì quyết định nầy. Thế là chỉ trong khoảng khắc thời gian ngắn, Hanh chạy vòng qua mé giếng sát bên hông nhà, cô vô nhà bếp, hồi hộp lôi xe đạp ra dựng bên hè. Hạnh với tay vô song cửa sổ phòng ngủ lấy tiền trong túi xách, tay cô run đến nỗi lúng túng nhét mãi mấy chục bạc, cô mới thấy cái túi áo nằm ở chỗ nào.
                            Bức điện thượng khẩn do Hạnh len lén anh chị Huyền gởi đi có mấy chữ: "Vô ngay, Thứ Bảy nầy, em đi xa". Và, khi đã quyết định gặp anh trước ngày Thứ Bảy, thì bỗng nhiên -ngày Thứ Bảy chạy như bay, xa cô kinh khủng- Hạnh có cảm tưởng hôm nay là Thứ Tư đến Thứ Bảy, nó xa, xa hơn cả mấy năm, xa như ngày xưa vàng phai trong buổi hoàng hôn xa lắc xa lơ. Anh như cánh bướm ươm tình chập chờn bay vào tuổi mộng mơ. Cô bé ngây ngô ấy đâu ngờ rằng cánh bướm trao tình đó đã thổi vô giòng đời mình quá nhiều yêu thương, chua xót, bất ngờ, éo le, đắng cay, đau khổ, tê tái suốt cả cuộc đời.
                            Hồng Hạnh thơ thẩn đạp xe về nhà như người mất hồn, chung quanh cô trở nên mơ hồ, xa lạ, đối trá và thù nghịch đối với niềm vui tuyệt vời trong trí tưởng tượng đa cảm, phong phú nét lãng mạn đa tình của cô bé chớm lớn. Hạnh hình dung đến nụ cười hoan hỉ, mừng rỡ đến độ nào khi chúng mình bàng hoàng gặp lại nhau, lẫn lo lắng, buồn phiền ray rứt, suốt đêm cô thở dài không ngủ, thao thức, trằn trọc mãi. Gần sáng cô mệt mỏi chợp mắt một lát, mi còn đẫm lệ. Ngày Thứ Năm, cô ngồi bất động ở góc phòng, mặt mày hốc hác, ngơ ngẩn, lo sợ như kẻ mất hồn. Hạnh dấu kín không cho anh chị Huyền biết chuyện mình đã lén lút đi gởi cho Nam bức điện tín. Ôi! Bức điện tín dễ thương biết ngần nào! Nó là cái gạch nối, là nhịp cầu tri âm mang đến tin lành cho hai người; hay báo hiệu mưa gió giông tố trong đời đây? Nào biết được ra sao! Cô gậm nhấm nỗi muộn phiền, lo lắng nôn nao, ưu tư muốn cháy lòng, bồn chồn, run rẩy, băn khoăn trăm ngàn câu hỏi, khiến cô mệt nhoài.
                            Mệt kinh khủng! Buổi cơm trưa ngày Thứ Sáu với môi son nhẹ, má phấn mỏng, áo quần tươm tất, đầu tóc vén khéo; một điều mà gia đình anh chị không bao giờ thấy khi em nghỉ ở nhà. Họ tưởng em đi ăn cơm khách. Sao cô làm như vậy? Nam rất ghét đánh phấn, tô môi son mà. Cô nhớ có một lần mình muốn “làm ra cái dáng thanh lịch đài các đỏm đáng” nên có đánh chút phấn, tô nhạt môi hồng, bối tóc cao, cô đi chơi với Nam. Ngồi trên sân Cù, Nam cười trìu mến lấy khăn tay lau hết phấn son trên mặt, anh ung dung thả mái tóc em xỏa dài ra, đằm thắm nói:
                            - Da em mịn màng, em khá xinh đẹp và dễ thương rồi, em để tự nhiên coi ngộ hơn. Hạnh đánh phấn, anh nhìn em… dị ghê!
                            Lúc đó cô mắc cỡ muốn độn thổ, có lẽ vì khuôn mặt mình lem luốc, sự ngố ngáo dị hợm vụng về không biết cách tô tréc ấy.
                            Lúc ba giờ chiều, Hạnh thay áo quần, đạp xe ra phố đi vòng vòng trên bến Bạch Đằng, quán Bambo nhìn ra hai bờ sông Hàn lặng lờ nước chảy dưới bến Hà Thân, những khoan đò trôi lênh đênh trên sóng nước, kéo theo từng vệt khói dài do họ nấu thổi cơm chiều. Sao cô cảm thấy lòng phiền muộn, buồn bã, lo lắng, băn khoăn theo những đóm lửa bập bùng trong bếp lò kia quá chừng! Hạnh ghé tiệm lấy mấy áo dài đã may, rồi vội vàng về nhà. Ruột gan cô bắt đầu nóng rang như lửa đốt, cồn cào, xót xa như có ai lấy cào sắt mà cào vô người. Hạnh đi ra đi vào, đi tới đi lui, đi lên đi xuống, đi ra sân ngóng nhìn suốt hai hàng phố. Trở vô nhà, rồi lại ra bờ giếng, cô ngồi dưới gốc me, ngóng về đầu ngả tư Hùng Vương và Phan Chu Trinh, cô đi đi lại lại trong sự lo lắng, gần như tuyệt vọng. Đứng trước bàn thờ, Hạnh thành khẩn chắp hai tay lên ngực, với niềm tin tưởng tuyệt đối và hy vọng, cô thì thầm cầu xin Chúa ban cho mình có ước mơ tốt đẹp. Việc cầu xin nầy, đúng hay sai đây? Hạnh thầm xin Thượng Đế đừng giết thêm niềm hy vọng cuối cùng còn đọng lại trên khoé mắt người con gái trước ngưỡng đời hụt hơi, nhiều giông tố hôm nay. Hạnh xin ơn trên hãy dừng bão tố, thổi về đây những ước mơ tốt đẹp, với niềm tin yêu và hy vọng tràn đầy. Cô vẫn cầu xin, dù niềm hy vọng mong manh dần tắt theo buổi chiều phai nắng. Cô suy nghĩ: "có thể hôm kia trong lúc quá bối rối, run rẩy, bàng hoàng, âu lo, mình đã viết sai địa chỉ, nên bức điện tín kia không đến tay anh chăng!? Ôi bức điện tín “oan nghiệt” ơi! Giờ đây mi ở nơi nào? Vui lòng giúp ta đến đúng chỗ Nam nha. Ta có viết đúng nơi Nam ở tạm hay không? Ước gì mình có đôi hia bảy dặm vút bay, hoá thân thành cánh chim bằng lướt gió tung mây đi báo tin vui chính xác lúc nầy ha".
                            Ngày mai... dù cho trước bình minh rạng rỡ, lóe lên ánh hào quang nơi đường chân trời, hay hoàng hôn phai nắng có dắt phấn thông vàng thấp thoáng dưới hàng cây im mát, cô phải đi vào vùng trời quê hương khói lửa, bên bụi bờ lau lách mịt mùng, dưới nắng gió khuya chiều nơi cuối núi đầu ghềnh, giữa hai lằn đạn nội thù giao tranh khốc liệt bên con suối bạc, nơi ngàn chốn sơn khê hải hà, nơi gần vùng biên cương quyết chiến một mất một còn. Nơi khói lửa chiến chinh phủ chụp kín góc trời mù mịt tang thương. Hoàng Phương Nam sẽ chẳng bao giờ gặp lại người xưa đâu. Hạnh gần như tuyệt vọng lúc kim đồng hồ treo trên tường chỉ sáu giờ tối. Thời gian chậm chạp trôi qua, niềm hy vọng mong manh tắt dần theo buổi chiều phai nắng trên đỉnh me xanh. Bỗng, có mấy tiếng gõ cửa bên nhà cô Thuận, kèm theo giọng thanh niên hỏi:
                            - Xin lỗi bác, làm ơn cho tôi hỏi thăm: có phải nhà cô Hồng Hạnh, ở gần đây?
                            Cô Thuận chưa kịp trả lời, Hạnh quay phắt lại, vội vàng chạy ra mở tung cánh cửa lớn. Hai người sửng sốt, nghẹn ngào, xúc động mất vài phút khi nhìn nhau không chớp mắt. Nam đứng chết trân trước cô, anh gỡ kính mát ra, thở dài. Chiếc valy da màu xám trĩu nặng hành trang bám bụi đường xa, áo sơ mi màu vàng nhạt, ô ca rô nhỏ, quần tây gabardin, đôi giày da màu trắng. Trải qua năm tháng ray rứt, dằn vật, tức tưởi, lẫn khổ đau vì cuộc tình gãy đổ rất vô cớ, đã rèn luyện, biến đổi anh trở thành một chàng trai trầm lặng thoáng ưu phiền, trên vầng trán anh in vài nếp nhăn, nét rắn rỏi kiên nghị, trầm tỉnh hơn. Chỉ riêng đôi mắt; đôi mắt Hoàng Phương Nam vẫn như xưa, đôi mắt ánh lên ngọn lửa tình long lanh, nồng nhiệt, đôi mắt đó không giống bất cứ ai mà cô đã gặp, đôi mắt ánh lên niềm trìu mến, thiết tha, không có gì có thể dập tắt được! Ký ức tưởng đã nhạt nhòa, tưởng đã lãng quên theo tháng năm, chợt bừng lên từ đôi mắt, dĩ vãng xa xôi một thời vàng son, trong sáng từ quá khứ đó, là hành trang cuộc sống, tràn đầy ân tình.
                            Như sựt tỉnh trong vị trí xác định gia chủ, Hạnh run rẩy nép mình qua một bên, giọng nói yếu ớt, lạc hẳn đi:
                            - Mời anh... vô nhà.
                            Hạnh lảo đảo lập cập đi xuống nhà bếp như người say rượu, cô lấy hai cái tách để pha nước trà. Tay cô run rẩy, run đến nỗi dĩa và tách va chạm nhau kêu lanh canh, lách cách hoài, những giọt nước sóng sánh văng tứ tung. Đôi bàn tay lạnh giá cố ghì chặt lấy tách trà. Hạnh lảo đảo lờ đờ, ngu ngơ bưng trà lên phòng khách, cô đặt tách nước trước mặt anh. Cách nhau một cái bàn vuông nho nhỏ, Hạnh ngồi đó, Nam ngồi đây hoàn toàn im lặng và bất động. Mãi lâu, anh lại thở dài, lấy điếu thuốc Salem gài lên môi, quẹt lửa, anh thả từng ngụm khói lam mong manh, khói thuốc vờn quanh trước mặt hai người. Điếu thuốc thứ hai tàn, lại điếu thuốc thứ ba bắt đầu.
                            Hạnh biết anh rất đau đớn mới hút nhiều thuốc đến thế, hút chết bỏ mà! Nhưng anh không hề rời mắt khỏi khuôn mặt người xưa. Anh nghĩ là cô đã thay đổi, ít ra là trên má phấn môi son coi “già giặn, tra trắn” kia. Còn cô chống tay lên cằm, cúi nhìn đăm đăm gói thuốc đặt trên bàn, đầu óc cô hoàn toàn rổng tuếch, tê liệt, hụt hẫng. Không thể chịu đựng sự lặng thinh đầy thách đố, sự giận hờn làm kiệt lực, nỗi bi thương tràn lên khóe mắt, làm trào hủ mật đắng lên miệng cô, lời lẽ vì thế cũng đắng cay theo:
                            - Anh còn về đây tìm gặp em, làm gì nữa?
                            - Em đã thay đổi, không còn như ngày xưa rồi ư?
                            - Chuyện ngày xưa. Ôi, ngày xưa...
                            - Anh nào... có tội tình gì đâu!
                            - Trời! Em buồn và đau đớn quá!
                            - Chưa biết ai đau đớn, hơn ai.
                            - Biết vậy, sao anh về tìm em làm gì?
                            - Anh xin lỗi, vì ngỡ rằng em còn nhớ đến anh.
                            - Nếu không còn gì, thì sao?
                            - Anh muốn trả lại em tất cả thư từ, hình ảnh của chúng mình.
                            - Em không có gì trả lại anh. Tình cảm cho đi, chẳng bao giờ đòi lại được.
                            - Về phần anh, anh muốn trao trả lại em.
                            - Anh trả lầm người rồi. Không phải là kỷ vật của em.
                            - Vậy thì giữa anh và em không còn gì để nói nữa. Chào em...
                            Câu nói đột ngột của Hoàng Phương Nam, cũng như sự gặp gỡ bất ngờ, làm xót xa, ân hận, quặn thắt lòng Hạnh xiết bao! Nét diễm kiều, duyên dáng của một hoa hậu trên vùng trời Đà Nẵng biến mất, khiến anh không thể nhận thấy con ong xinh đẹp kia, đã dấu cái nọc độc ở đâu quá đỗi tài tình. Nam xô ghế đứng bật dậy, trong khi cô nhìn thẳng vào mặt anh, nói gần như hét to:
                            - Anh ngồi xuống. Không đi đâu hết.

                            Sau một lúc lưỡng lự, Nam chậm rãi ngồi phịch xuống ghế, tay chống lên cằm, anh lặng lẽ thở dài, nhìn cô đăm đăm. Có cái gì níu giữ anh chịu khó ngồi lại thế nầy? Có lẽ anh vẫn còn yêu em say đắm. Có lẽ anh còn nhớ nhung, đau khổ, dày vò, ray rứt bởi những nguyên cớ rối rắm, không chút lý do chính đáng? Hết sức phi lý khi cuộc tình hai người quá đẹp (như quỳnh hoa sớm nở lại chóng tàn). Hay có thể, trong anh còn sót lại ít tức tưởi, băn khoăn, ưu phiền, ngại ngần, nên anh chần chờ muốn ngồi lại, để tìm hiểu cặn kẽ nguyên nhân tại sao một hai cô đòi giã biệt anh? Nếu anh bỏ đi ngay khi câu chuyện chưa ngả ngũ ra sao, chưa rõ ra môn ra khoai (tại sao đang yêu nhau tha thiết, đùng một cái lại vĩnh biệt nhau, không thể có lời từ giã, giống hai người xa lạ), thì ra cái điều... anh trở về đây tìm cô, chỉ vì... chuyện nhỏ mà!
                            - Anh tàn nhẫn lắm!
                            Sau câu nói trên, như có bàn tay vô hình vừa cất đi khối đá đè lên tuyến nước mắt cô đã từ lâu ngăn giữ, đè nén lại, cổng đập đau thương đã mở toang cho hàng nước mắt trào lên mi, Hạnh úp mặt lên đôi cánh tay trần vòng đặt trên bàn, cô khóc, khóc, khóc... như chưa bao giờ được khóc. Cô biết mình quá vô lý khi nói: “anh tàn nhẫn lắm”!
                            - Ủa, vậy chứ anh tàn nhẫn ở điểm nào vậy?
                            - . . .
                            - Anh có làm gì nên tội trong chuyện tình nầy?
                            - . . .
                            - Thật là rối rắm.
                            - Anh đã đánh cắp trái tim em, và… anh bỏ nó ở nơi nào lâu vậy? Rồi thì do em cãi lệnh chị Khánh, vì em cứ yêu anh, nên em đã bị chị đánh, và bắt em phải về Huế, để xa anh. Khiến từ đó đến nay em phải thất học, em mù chữ nè!
                            Hoàng Phương Nam ngồi im sững không thốt nên lời vì bật ngưã ra... bây giờ anh mới biết tại sao cô đi về Huế, và bặt tin. Nhưng Nam còn thắc mắc phân vân không hiểu anh tàn nhẫn ở chỗ nào trong thời gian chia biệt đã qua? Lúc đó, chị Huyền ở trong phòng đã nghe hết những mẫu đối thoại của hai người. Chị biết rõ chuyện từ ngày cô em theo má về Huế, nên chị chẳng ngạc nhiên khi “cậu ta” trở về tìm gặp em. Thương em, chị ung dung bước ra phòng khách, Nam vội đứng dậy chào. Chị chào lại Nam, rồi nhẹ nhàng đặt tay lên vai em gái, vỗ về:
                            - Em làm gì mà ồn ào vậy! Việc gì cũng vậy, em hãy từ từ, bình tĩnh nói chuyện. Em vô nhà rửa mặt cho tỉnh táo, rồi ra đây. Nào. Đi đi.
                            Hạnh vâng lời chị đứng dậy lui xuống bếp, lấy khăn rửa mặt. Chị ngồi tiếp chuyện Nam khá lâu. Sau đó, chị gọi em lên nhà, ôn tồn nói:
                            - Hai em nói chuyện vui vẻ nghen, để chị xuống bếp biểu cái Tí nấu cơm. Chị mời Nam ở lại dùng cơm tối với gia đình.
                            Nam nhất định từ chối, xin hẹn dịp khác. Chị cười cười:
                            - Không sao! Còn nhiều dịp mà em. Cứ tự nhiên.
                            Ngồi xuống ghế cũ, cô đã bình tĩnh đôi chút. Thẳng thắng nhìn vào khuôn mặt anh, Hạnh nhỏ nhẹ:
                            - Anh định về đây đòi lại thư từ, hình ảnh của anh. Phải không?
                            Nam chống tay lên cằm, đăm đăm nhìn khuôn mặt cô đã xóa hết phấn son. Anh nhẹ lắc đầu, tủm tỉm mỉm nụ cười duyên không nói. Lòng Hạnh dịu hẳn đi, cô ngẩn người giây lát, nước mắt trào quanh mi, rồi run run nói tiếp:
                            - Em không nên lưu giữ kỷ niệm cũ, phải trả lại anh. Là đúng.
                            Hạnh nhớm người toan bước đi, nhưng anh đưa hai tay ra phía trước ôm giữ cánh tay cô. Lắc đầu quầy quậy, anh vội vàng nói:
                            - Hạnh à! thật ra anh về tìm em, không phải vì lý do đó.
                            - Vậy, anh đi tìm em… có việc gì cần báo nữa?
                            - Anh tìm em, để thỏa lòng nhớ nhung. Để biết rõ là... anh chẳng còn hy vọng gì. Để khẳng định một điều là em đã có chồng: Niềm đắng cay ấy đã trào lên bờ môi anh. Để bị em xua đuổi.
                            - Chưa biết là ai phụ ai. Anh ác thật.
                            - Em tìm câu nào nặng hơn la anh đi. Tuy nhiên, anh không thể biết: anh đã tàn nhẫn, và ác với em ở điểm nào?
                            Bỗng dưng, Hạnh úp mặt xuống hai tay, òa khóc thật to như trẻ thơ đòi bánh. Nam vòng qua bên mép bàn, anh lặng lẽ đặt tay lên vai em, nhẹ nhàng vuốt mái tóc bồng bềnh quá dài đã xõa kín khuôn mặt. Anh biết cô rất đau khổ khi gặp lại mình, nhưng Nam không thể hiểu vì sao? Anh lấy chiếc mouchoir trong túi quần, nhẹ nâng cằm cô lên, từ tốn lau hai hàng lệ tuôn trào ướt đẫm cánh tay trần.
                            - Xin lỗi anh. Đừng buồn vì những lời em nói.
                            - Có nghĩa là Hạnh vẫn là... em yêu của anh?
                            - Với Hoàng Phương Nam, em còn quá khứ, hiện tại, cả tương lai cuộc đời đang ở phía trước.
                            - Ôi! Hồng Hạnh cuả anh.
                            Đúng lúc nầy, Trúc dừng xe jeep trước sân, cô chạy xộc vào nhà, miệng la ơi ới:
                            - Mai tụi mình đi theo phái đoàn ra Quảng Ngãi nè Hạnh.
                            Trúc đứng khựng lại trước mặt Nam. Hạnh lúng túng đứng dậy, giới thiệu Trúc với anh. Trúc “À” lên một tiếng, cô ta cười rất xinh. Do Hạnh đã tâm sự, nên Trúc biết khá rõ về mối tình của hai người. Trúc biết nỗi đớn đau khi Hạnh tự ý chia-biệt anh. Trúc thoải mái, líu lo nói chuyện với anh tự nhiên như đã từng quen biết với Nam từ thuở nào. Trúc vội, vì sắp hết giờ làm việc, tài xế đang chờ ngoài đường. Trúc nói:
                            - Thôi. Anh Nam về tìm bạn là phải. Nên hòa nhau đi. Hạnh ở nhà kỳ nầy, để mình xin phép anh Phi cho bạn nghỉ một tuần.
                            - Hòa gì nỗi. Mình phải đi làm việc.
                            - Đừng có trở chứng lên thế. Nên hòa với anh ấy đi. Bấy lâu nay mi khóc sưng cả mắt vì yêu anh Nam rồi, bộ không biết sao?
                            - Ớ, anh Bửu sắp làm đám hỏi mình rồi. Hòa với hiếc gì!
                            - Mình tin rằng “cô cậu” còn yêu nhau da diết. Nhất là giữa mi và anh Bửu chưa có một ràng buộc mật thiết nào, kể cả chưa có một lần tay nắm bàn tay. Vậy mi hãy bỏ cái chuyện lấy chồng lẩm cẩm cù lần và dấm dớ kia đi. Nha.
                            - Sao hôm trước chính Trúc nói với mình: “Nên nhận lời lấy anh Bửu đi”, hở khỉ!
                            - May chứ hôm đó mi mà gật đầu một cái là... “chết lúa tui” rồi!
                            Nam hỏi dồn:
                            - Em cùng đi với Trúc sao?
                            - Đời nào. Trúc cho phép nó ở nhà đó anh.
                            Trúc lại cười tít mắt, nói xong Trúc vụt chạy ra ngoài sân. Trúc nhảy lên xe jeep, xe lao đi cuốn theo lớp bụi khói bay theo gió rì rào.
                            Nam thì thầm bên tai cô:
                            - Em ở nhà, ngày mai đi ra Huế, với anh. Em nhen.
                            Hạnh muốn từ chối lời đề nghị đó. Nhưng, thật là khó chối từ nỗi trước ánh mắt thiết tha, nụ cười khả ái, lời nói chân tình, lôi cuốn của “người ấy”. Trước sự quyến rũ dường bao của Nam, mà tuổi đời, trình độ kiến thức, tri thức, cung cách tao nhã, lịch thiệp, sự cao sang, đều hơn hẳn Hạnh, người mà cô yêu say đắm, yêu rất nhiều, khi người ấy đã y lời hẹn ước năm xư: "Anh sẽ trở về miền Trung, tìm lại em. Dù bất cứ giá nào, dù chông gai và thách đố" - như anh đã hứa. Cảm ơn anh yêu. Bởi vì cô muốn: "ANH là tất cả riêng EM":
                            Em muốn viết tên anh.
                            Thân như cây liền cành.
                            Tên em tình sim tím.
                            Ta chim én song hành.
                            Yêu anh người khí phách.
                            Tình đôi ta liền mạch.
                            Vượt chiếc cầu Bến Ngân
                            Qua gian lao thử thách.
                            Dù trời xa cách đất.
                            Tình yêu mình có thật.
                            Gió mưa rừng lặng yên.
                            Non cao mây hồng ấp.
                            Anh đến trong tâm thức.
                            Đôi ta càng náo nức.
                            Tình son sao ngập ngừng.
                            Nụ hôn đầu rạo rực.
                            Buổi giao tình thứ nhất.
                            Con tim yêu chất ngất.
                            Giờ còn ai cấm nhau.
                            Mỗi ngày là trăng mật.
                            Đời ta vương hạt bụi.
                            Gió mưa chẳng dập vùi.
                            Đường tình quyện sớm tối.
                            Hoa đời nở đóa vui..
                            Trên phiến lá đong đưa.
                            Gió Thu bay đầu mùa.
                            Con tim ta mềm nhũn.
                            Tình nồng mộng sớm trưa.
                            (*)
                            ***
                            Tình Hoài Hương
                            Bút trần nào tả được lưu luyến!
                            Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                            Tình Hoài Hương

                            Comment


                            • Khát Khao Tìm Về Hoài Niệm của Bạn & Tôi


                              Khát Khao Tìm Về Hoài Niệm của Bạn & Tôi


                              Nền trời phơn phớt xanh lơ điểm những lọn mây vàng sáng lơ lững trôi về nơi vô định. Xa xa xuất hiện đàn chim én bay qua kẽ mây trôi từ phương Bắc về. Tiết trời giá lạnh run rẩy đang yên ắng lạ thường, bỗng nhiên tiếng đàn, tiếng trống, tiếng kèn và phèn la vọng ra từ căn nhà xinh xinh bên sườn dốc (do ban nhạc đánh rất hay), ngón đàn điêu luyện chơi vơi trong bầu trời đẫm sương mù, vươn lên đỉnh thông, rồi lặng lẽ tan đi trong ráng chiều dần dần phai nắng: “Trời hôm nay thanh thanh, gió đưa cành mơn man tà áo. Làn mây xanh vây quanh ánh vừng hồng chiếu xuống niềm tin. Đàn chim non tung tăng như đón chào niềm vui thế gian, chúc ai vừa tìm được bến mơ… Mừng cho đôi uyên ương sớm sum vầy vui trong hạnh phúc…” (LP)
                              Vào giờ phân giới giữa ánh rạng rỡ của ngày đầu năm mới và bóng tối Xuân về, thốt nhiên Anh Thư cảm thấy ngập tràn niềm vui, như cỡi trên con thuyền hoa hạnh phúc bất tận:
                              Bấy lâu em còn nghi còn ngại.
                              Bữa nay em kêu đại bằng “mình”
                              Phụ mẫu hay được, không lẽ đánh mình giết em!
                              (cd)
                              Do bởi... í a ... là cũng tại cái bà Nguyệt, ông Tơ mà ra cả, chỉ vì... từ hồi xửa hồi xưa kia cà: Thuở đó chàng Vi Cố ngọan cảnh đêm trăng, thì gặp ông Nguyệt Lão râu tóc bạc phơ đang ngồi mân mê mớ chỉ hồng, mà ông ngồi làm chi trước tòa cổ miếu trầm ngâm suy tư hỉ!? Chàng Vi Cố lân la gợi chuyện làm quen ông lão, rồi khẩn khỏan hỏi thăm ông Lão Nguyệt: “người vợ sau nầy của mình là ai?”. Thì chàng được ông lão cho biết: “vợ của chàng sau nầy là một cô bé bán rau nghèo khổ”. Quả thật đúng y bon thật như vậy. Rằng thì là... cũng do từ đấy mà ra, chàng đã mạnh dạn ướm lời:
                              Cái quạt mười tám cái nan
                              Ở giữa phất giấy hai nan hai đầu
                              Quạt nầy anh để che đầu
                              Đêm đêm đi ngủ chung nhau quạt nầy
                              Ước gì chung mẹ chung thầy
                              Để em giữ lấy quạt nầy làm thân
                              Rồi ta chung gối chung chăn
                              Chung quần chung áo chung khăn đội đầu
                              Nằm thời chung cái giường Tàu
                              Dậy thời chung cả hộp trầu ống vôi
                              Ăn cơm chung cả một nồi
                              Gội đầu chung cả dầu hồi nước hoa
                              Chải đầu chung cái lược ngà
                              Soi gương chung cả ngành hoa giắt đầu
                              (cd)
                              Thế là Anh Thư đã dám bạo gan bạo phổi:
                              Ai về bà Điểm Hóc Môn
                              Hỏi thăm người ấy có còn hay không?
                              Để tôi kiếm sợi chỉ hồng.
                              Nhờ ông Tơ bà Nguyệt kết vợ chồng đôi ta.
                              (cd)
                              Giờ đây chúng mình mới có chuyện vui vẻ nè... cũng phải thôi:
                              Ấy ai dắt mối tơ mành
                              Cho thuyền quen bến cho anh quen nàng
                              Tơ tằm đã vấn thì vương
                              Đã trót dang díu thì thương nhau cùng.
                              Hai anh chị ấy đã quyết chí hẹn thề với nhau:
                              Anh đừng thấy “đăng” mà phụ “đó”
                              Đừng chê em nghèo khó mà vội phụ phàng
                              Anh coi đồng tiền sớm mai còn chiều mất
                              Chớ nhân nghĩa bạn vàng vững chắc thiên kim
                              (cd)
                              Cho nên, mai chính thức là ngày hai Họ nhà trai và nhà gái làm đám cưới cho Anh Thư và Bửu Bảo! Anh Thư là con gái đầu lòng, ba me cô tuy gốc gác miền Trung nhưng rời quê hương khá lâu, gia đình lên Đà Lạt làm việc với hãng rượu Lafaro lừng danh, nên mọi việc từ trong ra ngoài, họ lo cho con gái chu tất toàn vẹn theo lối phương Tây. Bảo, con trưởng nam dòng họ vương tôn, giàu có và thanh lịch. Gia đình đôi bên có đủ yếu tố xây dựng gia thất cho con, để dòng họ thêm rộn ràng hoan hỉ, nở mày nở mặt.
                              Ngoài kia, họ nhà gái huyên náo lạ thường, đàn ca, nhạc sống vui vẻ hết biết. Suốt đêm Anh Thư không dám nằm ngủ, vì cô sợ xẹp mái tóc đánh rối bới cao sẽ bù xù, mất thẩm mỹ đi, càng bực mình vì đôi giày cao gót cô chọn lầm, da giày cứng dày như da voi, cô vừa mang đi lui đi tới mấy vòng, thì gót giày tàn nhẫn “xơi tái” mấy miếng da chân, nên bi chừ rát bỏng, đau điếng. Mỗi lần cử động, nó đau lên thấu tim, dù Anh Thư se sẽ lê tấm thân phì lũ, đi nhè nhẹ, cà nhắc, cà nhót. Mấy phù dâu xúm lại trang điểm cho Thư, vì nước da của Anh Thư ngăm ngăm đen, ai ai cũng nói có làn da như vậy, thì có duyên. Nhưng cô bực tức khi có bạn đã chế nhạo:
                              Chưa đi chưa biết Bà Đen,
                              Đi rồi mới thấy đen hơn bà nhà,
                              Bà nhà tuy có hơi già.
                              Nhưng mà vẫn... trắng hơn là Bà Đen
                              ”! (st)
                              Chín giờ sáng! Nhà trai đã có mặt trước sân hồng: Hai gánh đi đầu là cặp ngỗng trắng nhốt trong lồng mây, nó luôn hoác mỏ khàn khàn khọt khẹt kêu réo inh ỏi. Tiếp theo là con heo mọi mập ú, ụt ịt quay lui quay tới trong cái cũi sơn đỏ, cột nơ hồng. Gánh thứ ba là vò rượu cẩm chôn bách nhật xủi tăm. Tiếp theo là tám khay mâm quả phủ nhiễu đỏ, viền tua vàng, do những chàng trai mặc áo xanh đỏ, đội nón lá mười vành khệ nệ trang-trọng bưng. Hai bên có những người đồng cổ phục cầm cán lọng dài màu vàng che nắng. Chàng rể mặc áo dài thụng màu xanh biển, chữ Phước, đầu chít khăn đóng, quần dạ trắng, mang giày thô đen. Chú tiểu-đồng lon ton xách theo bộ đồ “tuxedo” nữa. Chàng rể (tay ôm bó hoa của cô phù dâu) đi trước giữa hàng thân quyến cùng quý ông bà mệnh phụ phu nhân, bạn bè, bà con gia tộc nhà trai đi sau lưng.
                              Tất cả dừng lại chờ, hai người mai mối bên họ nhà trai bưng khay trầu rượu tới trước sân hồng ra mắt quan viên hai họ. Ông mai bà mối xin họ nhà gái cho nhập gia tùy tục. Đại diện họ nhà gái đứng trên thềm hoa, xoa xoa bàn tay, vui vẻ thân thiện nhận lời. Mọi người hoan hỉ tươi cười trang trọng lục tục kéo nhau vô phòng nghinh tân. Ông mai bà mối nói năng lưu loát, vui vẻ cả làng. Các mâm sính lễ đặt trên chiếc bàn dài, cặp ngỗng và “chú hợi” đều được cột nơ đỏ v ô cổ, hai cái lồng để gần cửa chính.
                              Ngày xửa ngày xưa muốn cưới hỏi, phải có đủ 6 lễ vật:
                              Lễ thái nạp (đính ước giữa trai gái).
                              Lễ vấn danh: (hỏi tên tuổi cô gái).
                              Lễ nạp cát: (nhà trai trả lời bằng lòng).
                              Lễ nạp lệ: (ăn hỏi).
                              Lễ thinh ký: (lễ xin cưới).
                              Lễ than nghinh: (Lễ cưới).
                              Bi chừ là thời buổi văn minh tiến bộ nên giản dị nhiều thứ, nhưng lễ vật nhà trai vẫn sang trọng lắm: nào vòng xuyến, dây chuyền, bông tai, nhẫn, toàn nhận kim cương, còn kiềng chạm, dây chuyền trên năm lượng vàng y 24k (không kể quà bà con chú bác). Nghi thức diễn tiến tốt đẹp, đến lúc Anh Thư hồi hộp, rụt rè, được me vén bức màn nhung, dìu con gái rón rén e ấp thẹn thùng bước ra phòng nghinh-tân. Trong lòng cô ngổn ngang trăm mối, giờ phút chót Thư vẫn lo sợ nhà chồng chê “mình ú na ú nần”, nên cô rỉ tai anh:
                              Lấy vợ xin anh lấy vợ ù.
                              Tay em đầy đặn, tối em ru.
                              Kê đầu anh ngủ êm hơn gối.
                              Mộng đẹp, hiên ngoài gió vi vu
                              ”. (st)
                              Bỗng chốc bên phía nhà trai có vài mệnh phụ đài các chụm đầu vô nhau xì xào, chỉ chỏ bộ cánh “xê-rê” trắng, có tấm voan mỏng che mặt, đuôi áo dài lê thê sau gót chân, găng tay trắng dài lên tới cánh, cô đội vương miện lóng lánh kiễu nữ hoàng Anh qúy phái cao sang. Nhưng có người bên nhà trai nói trổng:
                              - Trắng toát y như con ma da chết trôi, ớn lạnh hè. Thiệt là...
                              Nhà gái tái mặt, vội xuề xòa:
                              - Đồ trắng tượng trưng cho sự trinh bạch mà chị. Ngày cưới xin, ăn nói chi bậy bạ quá!
                              - Ui xà! “Ở có nhân, mười phân chẳng khốn. Ở có đức, mặc sức mà ăn”.
                              - Ở Huế thiếu chi O thiệt chảu, thằng Bảo mò lên núi làm răng mà bưng về một đứa bệ xệ dư rứa hì!
                              Ai ơi chớ vội cười nhau
                              Ngắm mình cho tỏ trước sau hãy cười
                              (cd)
                              - Phải. “Chỉ đâu mà buộc ngang trời.
                              Tay đâu mà bịt miệng người thế gian
                              ”. (cd)
                              Họ xầm xì to nhỏ:
                              - Để rồi chị em dòm coi nghe: thứ nớ trước sau chi sẽ giống như:
                              Nhà tôi vô duyên lấy phải dâu dại.
                              Việc làm thì trái, chỉ tưởng miếng ăn.
                              Hễ bảo quét sân đánh chết ba gà.
                              Bảo đi quét nhà đánh chết ba chó.
                              Có mâm giỗ họ, miếng ra miếng vào.
                              Rửa bát cầu ao liếm dĩa quèn quẹt.
                              (cd)
                              Lời qua tiếng lại nghe chói tai nhức nhối con tim, thật khổ hết biết! Nhưng có lẽ khổ nhất là ông Tơ cứ chạy qua bên nầy, thì bà Nguyệt lo chạy lăn xăn về bên kia năn nỉ ỉ ôi khi hai họ cứ đốp chát châm biếm và thộn mặt ra, coi thiệt dễ mích lòng dễ xa nhau ghê nơi, thấy sợ. Trong khi ngoài sân pháo bắt đầu nổ rền trời, nổ dai dẵng... Tôi đi phù dâu thường nghe chuyện cãi cọ, đôi co, hay hai họ có làm gì, tôi cũng chả cần lo chuyện ruồi bu của người khác. Tôi chỉ sợ pháo văng trúng, sẽ cháy áo quần, mà bộ đồ vía nầy là do đồng tiền cần cù lao khó của mình làm ra, nên có mà diện lấy le chút với thiên hạ, chứ cô dâu chú rể chả ai lo cho! Tôi vén váy áo ngồi thụp xuống nền nhà, nhắm mắt bưng đầu vì pháo tống pháo đại nổ muốn điếc con ráy.
                              Khi nghe nhiều tiếng kêu rú thất thanh vang lên, tôi đứng phắt dậy ngơ ngác nhìn quanh: Hai con ngỗng nghe pháo đì đùng nổ hoài, “nổ dai nhách” văng trúng nó, nên chúng hoảng sợ tống cửa lồng, một con bay lên bàn đạp đỗ bình hoa, lễ vật, ly tách, bánh rượu, trái cây. Khi người nào đó túm bắt được con ngỗng đực, ông ta vặn ngược cổ nó lui sau lưng, thì trên bàn lộn xộn không còn gì ráo. Con ngỗng kia cứ nhướng cổ, quạt cánh nhắm mấy khuê nữ đài các mặc áo dài màu vàng, màu xanh, đỏ chói mà te te rượt theo họ. Khiến mọi người xô đẩy đạp lên nhau né chạy... chạy tá lả. Con heo mọi ụt ịt càng hoảng sợ, nó hất chiếc lồng cũi ngã lăn cù cù, nó hét tướng lên kêu eng éc, éc éc... rồi nó cạp nắp đậy, sổng cũi, nó trợn trừng hai mắt vừa chạy vừa ị ị ị ra mấy cục phân vương vãi lung tung, nhão nhoẹt, thúi um.
                              Hầu hết mọi người sửng sốt, chết trân ngơ ngác nhìn cảnh tượng khá bất ngờ. Nhưng người đau khổ nhất là Anh Thư, cô đứng chịu trận hơn một giờ (do những thủ tục nhập-gia rườm rà), nên đôi chân Anh Thư càng lúc càng sưng húp, vì mấy vết thương cọ xát từ đôi giày mới, thành ra mạch máu giật tưng tưng từng cơn đau nhói. Cô mệt đừ, mồ hôi vã ra như tắm, mặt mày cô tróc dần phấn son, trông cô lem luốc trổ đồi mồi như con mèo vá. Tự dưng bụng đói cồn cào, cô hoa mắt, chóng mặt, và bất thình lình Anh Thư lăn cù ra như con heo mọi kia mà bất tỉnh nhân sự.
                              Hai cô phù dâu hoảng hốt, luống cuống vội vàng nâng Anh Thư dậy, Trầm Mây và tôi đều thon thả gầy ốm, (so với biệt danh “Thư tán phẩm ú nù”), chúng tôi vẫn cố sức làm tròn nghĩa vụ phù dâu, mỗi người kéo một cánh tay của Anh Thư để quặp vô cổ mình kẹp cô dâu ở giữa, chúng tôi ra sức kéo lôi Anh Thư xềnh xệch đi vô “the-phòng”. Các bạn gái khác thì không ngớt xoa dầu gió cho Anh Thư, cạo gió, giật tóc mai cô dâu.
                              Dần dà thì Anh Thư cũng hồi tỉnh lại. Thật uổng công mái tóc “búp Ănglê” mà Anh Thư sợ hư đã ngủ ngồi suốt đêm qua, giờ đây tóc bù xù như tổ quạ. Anh Thư vội bảo Mây ra phòng khách lấy hộp quần áo sính hôn, vì giờ đi xem lễ sắp đến. Các bạn gái mỗi người một tay xúm lại lo chải chuốt, trang điểm cho Anh Thư. Ba me của cô muốn Anh Thư diện bộ cánh thời trang “xê rê” lộng lẫy nhất. Nhưng… Mặc! Về nhà chồng thì cô dâu cần phải lấy lòng bên họ nhà chồng đã may áo quần cho con dâu chứ. “Thuyền theo lái, gái theo chồng. Chồng đi hang rắn, hang rồng, vợ cũng phải theo” mà! Nhất là:
                              Ai chèo ghe bí qua sông
                              Đạo nghĩa vợ chồng nặng lắm ai ơi!
                              (cd)
                              Phải rứa không nà en Bảo! Anh Thư đội khăn đóng vành dây đỏ mạ vàng cao chín tầng quá rộng, nên nó tự động sụp xuống tận mắt. Thỉnh thoảng Anh Thư phải lấy tay đẩy “cái khăn hoàng hậu” lên. Vì mạ chàng rể không ngờ bây giờ cô dâu ốm hơn ngày trước, khi mạ đi lên Đà Lạt làm đám hỏi cô. Phần Anh Thư do lo lắng chuyện cưới hỏi, nên ngày nay cô đã sút mất bảy tám cân! Thành ra áo quần mạ may từ năm trước, nay rộng thùng thình! Cô mặc áo dài nhung đỏ may tà Bắc, quần sa tanh trắng “rô-đê” dưới gấu, khoát ngự uyển bên ngoài. Chuyện áo quần rộng không thành vấn đề, cô chỉ buồn buồn khi đội khăn đóng, và đôi hài đỏ. Hồi ấy do hai họ trai gái ở “ngăn sông cách núi” xa xôi ngàn trùng, chuyện đi lại gặp gỡ bàn tính với nhau bất tiện trăm bề, họ chỉ liên lạc bằng thư gởi đi cả tuần mới bắt được tin. Bảo viết thư về cho mạ, ghi số đo để mạ may áo quần, và đo số chân của Anh Thư, mạ đi đặt đôi hài cườm có thêu con rồng vàng uốn khúc hai bên mép hia. Mạ thích tự ý diện cho con dâu í mà! Mạ lẩm bẩm:
                              - Viết cái chi lem dem nhỏ xí ri hè? Viết không rõ ràng nơi, số 40 hay 46 hỉ? À... suy ra con dâu mình có da, có thịt, phúc hậu như rứa, thì ta cứ đặt cho con số 46 hỉ! Số lớn số nhỏ chi cũng từng nớ tiền. Chi bằng, cứ đóng số lớn xí, thì rẻ, mình có lợi được giày to, mà không bù trả thêm tiền ở khoảng to nớ. Cho tiệm giày hắn lỗ chổng khu luôn.
                              Thành thử đôi hài rộng rinh, ẻo qua, ẻo lại càng khó khăn khi Anh Thư cất bước đi. Tuy được một điều là đôi hài rộng không cứa vô chỗ đau ở mấy vết thương rát bỏng dưới gót chân cô. Mọi xáo trộn rồi cũng dần qua. Thay vì cho đám rước đi bộ trên đoạn đường ngắn làm lé mắt mọi người, để thiên hạ tha hồ ngắm nhìn, trầm trồ khen ngợi đám cưới cao sang, long trọng, & lom lom dòm đoàn người hộ tống cô dâu che tán vàng, tán tía như cha mạ chú rể ước mơ dự tính. Cha mạ chồng sợ cô dâu lại lăng đùng ra một lần nữa như khi nãy, thì nguy to. Nên họ nhà trai đồng ý gấp với họ nhà gái, cùng nhau leo lên những chiếc xe hoa nối đuôi chạy dài dài đến giáo đường con gà đứng trên tháp chuông cao ngất. Dưới những chòm thông xanh reo vi vu, giáo đường Chính Tòa Đà Lạt tô màu gạch viền trắng uy nghi, sừng sững, nhà thờ tọa lạc trên vùng đất phóng khoáng, vươn lên trời xanh mênh mông. Hàng xe hơi khoảng mười lăm chiếc đã đậu đúng hàng lối trước sân giáo đường.
                              Nếu đi trên mặt bằng, Anh Thư có thể kéo lê “đôi hia một dặm” lết lết theo bàn chân co cứng đau nhức tê tê, cô cố dí sát mấy ngón chân vô đầu mũi hia, cô dồn toàn lực bấm mười đầu ngón chân ngỏ hầu cố giữ đôi hia không rơi. Nhưng, khi cô muốn giở hai chân cao hơn để bước lên những bậc cấp, thì lực bất tòng tâm. Mười đầu ngón chân Anh Thư mỏi mệt, ương ngạnh, xuội lơ, tê cứng... nó không tuân phục theo ý muốn của cô. Thế là chiếc hài rời chân, ung dung rơi lông lốc xuống cuối những bậc cấp nhà thờ chính tòa cao ngất.
                              Trầm Mây ngẩn ngơ giây lát rồi vội vàng xắn quần áo đẹp, chạy xuống lượm hia lên, Trầm Mây đưa hia vô tận chân cô dâu. Anh Thư vịn tay vô vai của tôi, Thư xỏ được chiếc hài nầy thì chiếc hài khác lỏng lẻo lăn đi. Anh Thư cúi đầu nhìn xuống, để xỏ chân vô hia. Báo hại thay chiếc khăn đóng rộng vành che sụp xuống tận mũi. Thư không thấy đường, nên cô đạp lên vạt áo dài lụng thụng lết bết trên bậc cấp. Áo dài Thư đứt hàng khuy nút bóp, nên bị lòi vú mớm ra. Cô hổ thẹn, luống cuống vội vàng quơ quơ tay kéo ngự uyển đậy lại.
                              Trong lúc tình cờ lây lan sự dị hợm nầy, tôi mắc cỡ muốn độn thổ, lúng túng lo lắng nhìn chằm chằm vô mặt Anh Thư, vừa bối rối và lúng túng không biết làm sao, làm gì… ngỏ hầu ráng chăm sóc tốt cho bạn, nên tôi bị hụt bước chân trên bậc cấp. Thế là tôi ôm bạn té lăn cù cù xuống đủ hai vòng. Chu choa ơi! Bộ giò cô dâu lặt lìa lặt lọi, bị trặc mất toi rồi! Còn tôi thì tím bầm ở hai đầu gối, sưng to như đầu gối voi, đau kinh khủng! Hai phù dâu lại một phen nữa mệt toát mồ hôi hột, tôi cà dẹo cùng Trầm Mây xốc nách Anh Thư dựng cô lên! Chúng tôi quàng cánh tay Anh Thư vắt qua cổ mình, liếc nhìn nhau mà hổn hển hô to: “một... hai... ba...” để lôi Anh Thư, và cả tôi lặc lìa lặc lọi một chân chấm một chân phết lết lết từng bước lên những bậc cấp cao, cho chắc ăn, cho chắc cú. Chớ cái kiểu nầy tôi mệt muốn ngủm! muốn ngoẻo!
                              Sự việc xảy ra đột ngột quá nhanh, dù Bửu Bảo đang đứng gần chúng tôi, ấy thế mà chàng rể thừ người trơ trơ lỏ mắt dòm, không kịp phản ứng gì! Lúc đó mặt mày cô dâu, chú rể đỏ bừng như con gà lôi, chuyển sang tái méc. Mà người tiếp nhận tái méc mau nhất là mạ chồng! Hai họ đứng chết trân dường như tê liệt, họ kinh ngạc há hốc miệng. Bỗng chốc mọi người xôn xao đồng loạt cất tiếng cười ngất (trước nỗi đau của người khác). Họ quên lửng “bộ đồ vía” gây ra nông nỗi tệ hại kia, là do chính Họ nhà trai cất công đi mua sắm. Lúc nầy, hai phù dâu quá mệt, đi đứng như kiểu cà thọt tango, hay cha cha cha không còn hơi sức đâu mà cười. Cười, cười… cái gì? mà buồn cười nhỉ!
                              Tất cả mọi người đã vô an tọa trong nhà thờ, chỗ nào ra chỗ đó có thứ tự lớp lang hẳn hoi. Nhưng ai ai cũng lo ra, khi thấy tôi đi kiểu cà dẹo thì có hai mệnh phụ đài các tỏ vẻ quan tâm tới tôi. Họ cũng lăng xăng chạy lên nơi an ngự cô dâu chú rể mà to nhỏ rù rì, rồi lấy dầu gió xoa xoa, nắn nắn bóp bóp bàn chân, ống chân của Anh Thư. Điều nầy vô tình gợi nhớ tới “tích xưa”; nên thỉnh thoảng có nhiều tiếng cười cười khúc khích nổi lên đây đó. Khiến cha chủ tế ngoại quốc đứng trên bục giảng ngạc nhiên ngỡ ngàng lắm. Cha Gérard Gagnon ung dung nhìn mọi người vui vẻ, từ tốn mở lời:
                              - Hôm nay, hân hạnh "dứng" trước "quỷ" ôn bà, anh chị em, và “co dau chú rẻ”, tôi xin "cào" chúc anh chị trăm năm "hạn phút", răng "lông" tóc bạc suốt đời. Nào: "quỷ" ông bà anh chị em hãy nhìn xem: trên bàn thờ đã có hoa mai, hoa lan, “hoa hòng, hoa hệ và hoa cút””...
                              Nhiều tiếng cười đồng loạt bùng vỡ, vang dậy khắp đó đây từng hồi. Cha chủ tế ngạc nhiên, sững sốt nhìn xuống khắp lượt trong nhà thờ, ngài không hiểu chuyện gì, tại sao giáo dân lại cười trong giờ làm lễ uy nghiêm trang trọng thế nầy!? Rất vô tư lự, ngài dõng dạc tiếp:
                              - Ơ hơ! Anh chị em sao lại không nghiêm trang trong giờ Lễ vậy!? Anh chị đang "cưới" ai, “cưới” cái gì vậy? Anh chị em có muốn thích "cưới nhau", thì xin hãy ra ngoài sân mà “cưới”. Ở trong nhà thờ nầy thì chỉ làm "lễ cười". Mà "lễ cười", thì có gì mà "cưới" chứ?!
                              Ụi! Trời đất quỷ thần thiên địa tổ tông ông bà cô bác anh em cháu chắt ới! Cả nhà thờ ai ai cũng ôm bụng bò lăn bò càng ra mà cười vang. Cười thật to, cười ngất, cười nắc nẻ, cười ra nước mắt, cười mệt xỉu. Chịu không thấu. Cái điệu nầy chắc mọi người bị bễ bụng mà chết nhăn hai hàm răng vẫn cười hi hi ha ha quá! Rất may, có một vị trung niên bước lên bục giảng chúm chím cười cười duyên ơi là duyên. Ông ta dõng dạc dùng ngôn ngữ tiếng Pháp nghe mạch lạc để xin lỗi cha. Ông giải thích về việc ngài phát âm hơi lệch lạc, “méo mó nghề nghiệp âm tần” xí. Thế nên từ ngữ bị sai sót chi chi đó.
                              Á, thì ra...! Sau khi cha Gagnon hiểu nguyên nghĩa, hiểu từ trước khi họ nhà trai tới nhà gái, lúc chúng tôi đến ở ngoài sân nhà thờ, và ở trong nhà thờ lúc nầy; mọi việc đã xảy ra tuần tự ra sao. Tại sao mọi người trong nhà thờ “đều thích cưới nhau”. Vị linh mục không ngớt xin lỗi, và đã cười rõ tươi, cha vui vẻ thoải mái quá chừng chừng! Phải hơn hai mươi phút sau thánh lễ mới bắt đầu trong sự “lo ra”. Cả cha chủ tế vẫn tủm tỉm cười khi dâng lễ!
                              Sau giờ lễ, hai hàng xe hơi dài chạy lên sát cửa chính điện của nhà thờ chính tòa, chứ xe không đậu ở giữa sân, dưới những bậc tam cấp như hồi nãy nữa. Tất cả mọi người mệt đừ, vì kiệt sức, mỏi nhừ hay vì cười ngất? Chả biết. Hai họ nhà gái, nhà trai, đều quên chuyện giận hờn, xoi tì xoi tướng nhau, họ đã thân mật xiết bao, ôn nhu hoà ái vui vẻ cả làng. Thượng khách ngồi vô bàn, nhâm nhi sơn hào hải vị: Nấm đông cô, tóc tiên, mực khô, bát trân, bào ngư, vi cá, yến xào, đùi heo, tôm hùm, do đầu bếp số một bên Thượng Hải qua Việt Nam đảm nhận ở nhà hàng Nam Sơn. Họ nâng ly chúc tụng nhau vui vẻ, nét mặt rạng rỡ, hân hoan. Bác phó nhòm Châu thừa thắng xông lên tha hồ chụp ảnh... lia chia khi dưới giàn thiên lý em đã...
                              Trên giàn thiên lý
                              Bướm tìm hoa hút nhụy vẩn vơ bay.
                              Cánh chuồn chuồn giỡn nước bến sông mây.
                              Xuân thấp thoáng trên hàng cây mai trắng.
                              Buồm gió ngư ông về xóm vắng.
                              Tiếng tiêu mục tử vọng sông dài.
                              Dưới hàng cây thiếu nữ nhẹ chân hài.
                              Trong đám ấy có người ngày mai tách bến.
                              Mộng xuân đó ai không về lỗi hẹn.
                              Cho người buồn khi bến vắng không.
                              Thuyền hoa em đã theo chồng!
                              (*)
                              ***
                              Nay, mùa Xuân lại về, nhớ ơi là nhớ kỷ niệm ngày xưa, tôi xin cung-hiến độc giả thân mến chuyện Tết và một đám cưới chỉ có một, (không thể nào xảy ra y chang như vậy lần hai, hoặc với bất cứ ai) do: “Một cành dâu, năm bảy cành dâu. Bên tài bên sắc lấy nhau cũng vừa” (chàng là sinh viên sĩ quan Võ Bị. Nàng xinh xinh là cô thợ chính của một tiệm uốn tóc nổi tiếng) đã khiến tôi rất mệt, nhưng thiệt vui và có thật, mới chết. Nhiều người cử tưởng trong ngày cưới mà “lộn xộn” như vậy, ắt không chóng thì chày sau nầy thế nào cũng có sự “lôi thôi to”. Dạ thưa, không phải ạ! một cảm tình trân qúy đã xảy ra trong đời tôi & anh chị Bảo Thư thiệt vui hết biết, khi họ đã có bảy nhóc tì ngoan hiền xinh đẹp, họ thật sung sướng trong hạnh phúc ngút ngàn: “Màn hoa lại trải chiếu hoa. Bát ngọc lại phải đũa ngà mâm son”. Năm mươi năm rồi đó, Trầm Mây và Anh Thư nhỉ! Mặc dù chúng ta ít có cơ may gặp lại nhau, nhưng, mỗi lần mở tập album ra, thì trong lòng Hoài Hương dậy lên ngọn sóng dạt dào tình luyến nhớ, hoài mong, ngây ngất nỗi khát khao tìm về thời niên thiếu tươi trẻ xa mờ xa, với giấc mộng quan hoài vụt bay cao trong tầm tay với, khi tuổi đời mình đã nhuộm vàng hanh mái tóc phong sương trên dòng đời phai nắng...
                              *
                              (*) Thơ Tình Hoài Hương

                              Tình Hoài Hương
                              Ngày vui tuổi đôi mươi
                              Bút trần nào tả được lưu luyến!
                              Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                              Tình Hoài Hương

                              Comment


                              • Chiếc Nhẫn Cỏ Len Lén Gợi Tình

                                Chiếc Nhẫn Cỏ Len Lén Gợi Tình


                                Ánh bình minh êm êm tươi vui hé mắt chiếu tia hào quang rạng rỡ trên đồi hoa mimosa vàng óng lóng lánh xuyên qua lá cành. Mùa Xuân đã ríu rít xôn xao đến sau lưng đồi cỏ ở khách sạn Palace. Trên chóp đỉnh hàng thông rét mướt và ngái ngủ, đã chuyển mình triền miên reo vi vu. Đà Lạt ướt đẫm sương mai, xứ Đà mọng nước giăng mắc các mạng nhện đó đây, con nhện lắc lư đưa qua đưa lại, thoăng thoắt dệt muôn sợi tơ mỏng dính. Những con chim én lảnh lót líu lo ríu rít cất tiếng chào đàn, nghe vui tai quá chừng.

                                Dưới gốc thông già, có hai mái đầu xanh dựa lưng vô thân cây. Kế bên chỗ hai người có nhiều bụi cỏ chỉ, cỏ ống đã nở hoa trắng, hoa nâu nho nhỏ. Họ ngồi bên nhau tíu ta tíu tít hân hoan nói chuyện tình yêu, tay cô e dè bứt những cọng cỏ chỉ sợi nhỏ dẽo dai, và cỏ ống xanh xanh thân lá giẹp. Họ cùng chụm đầu vào nhau lúi húi làm chiếc vòng ngọc, vòng chuỗi dắt đầy chùm hoa vàng. Cuối cùng, họ làm xong hai chiếc nhẫn cỏ nho nhỏ quá xinh. Anh đeo chiếc nhẫn cỏ (do anh làm) vào ngón tay đeo nhẫn cho em, và đeo dây chuyền cỏ xanh cài hoa mimosa lên ngực cô gái. Rồi anh đeo chiếc vòng “ngọc cỏ ống” vô cườm tay cho cô. Cô gái chỉ đeo chiếc nhẫn cỏ vô ngón tay chàng trai phong trần. Cả hai anh chị thích thú giơ bàn tay đeo đầy “châu báu ngọc ngà” lên cao lắc lắc, hai người hồn nhiên hớn hở vui vẻ cười tươi!
                                Người con trai từng trải, chững chạc, dạn dày kinh nghiệm, lả lướt phong sương mưa gió, ấy thế mà hôm nay coi anh hơi bối rối, e dè, lúng túng, băn khoăn nhìn trước ngó sau, rồi e dè thò tay vào túi áo, anh lấy cái hộp hồng thắt nơ đỏ nho nhỏ xinh xinh mở ra, anh từ tốn nhón chiếc nhẫn Võ Bị lên, bằng cử chỉ tình si, anh khẽ khàng mà trang trọng lồng chiếc nhẫn vô ngón tay trỏ của người con gái (vì chiếc nhẫn quá rộng).

                                Cô gái thảng thốt và bẽn lẽn muốn lên tiếng hỏi, nhưng bờ môi mím chặt, lưỡi líu lại, ngập ngừng do dự, cô chúm chím cười, e lệ cúi đầu đón nhận ân tình trao đưa. Tuy nhiên cô cũng lanh trí đã tháo chiếc nhẫn vàng 18K có hột xanh lục của mình đang đeo trên ngón tay, nhút nhát rụt rè bẽn lẽn cô đeo vào... ngón tay út của người ấy. Sứ giả len lén gợi tình yêu thì-thầm vẫy gọi chào mời... Họ xác nhận tình yêu đến trên mười ngón tay khe khẽ run run lồng vô nhau, “anh và em” đằm thắm siết nhẹ, ấm áp, trữ tình, dìu dặt nốt nhạc rung trên mỗi phím loan; như lời tình tự lúc trao nhẫn cỏ, tuy đơn sơ mà sắt son hứa hẹn nồng thắm duyên sau bền lâu:
                                Biển rộng sông dài thuở anh đi
                                Người rong mỏi gối ước mơ gì?
                                Buồn trong ánh mắt đau niềm nhớ
                                Đường đời uốn khúc chưa buồn nhỉ!

                                Trời tím hoàng hôn chẳng hẹn kỳ.
                                Ráng chiều câu bóng góc tường vy.
                                Dắt nhau về tương lai đã hứa.
                                Đôi cánh én dệt mùa Xuân nữa.

                                Từ đấy màu mây tóc thuở xưa
                                Ưu tư sầu muộn mấy cho vừa
                                Khung trời tím ngắt trông chim nhạn
                                Đường đi gập ghềnh sao chẳng ngán!?

                                Ta cùng hẹn trao nhẫn cỏ đưa
                                Nắng hồng e ấp nhánh cây thưa
                                Đong đầy nỗi nhớ buồn vời vợi.
                                Vòng nhẫn cỏ, nhắc mình mơ nữa

                                Sanh tình ấp ủ nhớ chuyện xưa.
                                Thẹn thùng tố nữ trong chiều mưa
                                Vì anh hứa: - “Một đời miên viễn
                                Cung nghinh em về liếp tranh thưa...”

                                Ôm mộng ngày xanh tóc rối bời
                                Người đi muôn dặm áng mây trôi
                                Nhớ vòng nhẫn cỏ nơi xưa hẹn
                                Xuân mộng đôi mình én sánh đôi.
                                (*)

                                Cảnh cử xử thanh nhã kèm theo những lời tình tự âu yếm, anh phân tích các vấn đề về: đời sống, kinh tế, xã hội, công việc làm của tôi: khá mạch lạc, thực tế và tiết độ. Xét chung chung về Cảnh, tôi thấy thể hình anh cân đối, vừa vặn, được trai, cũng giống như các bạn trai khác (bạn nguyên nghĩa), lúc đầu tôi cứ nghĩ là họ đẹp trai mà tôi mến. Nhưng kỳ thực sau nầy tôi nghiệm ra: không hẳn tôi mến thích họ, là do họ đẹp trai đâu. Vì, họ đều là “người hùng mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười”. Ai cũng có những yếu điểm, phát huy những cái tốt có giá trị cao về ưu điểm đáng yêu và ngưỡng phục khác.
                                Vấn đề cần chính ở tình yêu lứa đôi là sự thấu hiểu nhau, thông cảm sâu sắc, tế nhị, bao dung, độ lượng, ân cần chia sẻ, chân thật, tri thức, và thủy chung tin yêu nhau rất mực. Chứ nếu tôi chỉ phiến diện nhìn “cái mã” bên ngoài, nếu “ai” cứ đẹp trai cho lắm vào, mà “hắn ta” dùng thủ thuật ấy, để chuyên môn đi: lừa phỉnh, dối trá, dùng đủ thủ thuật lừa gạt người khác, nếu “ai” không đẹp nết, thì cũng hoài của, vứt bỏ cuộc đời uổng mạng: cho thân nhân, chúng bạn chưởi bới; thì hắn chỉ chuốc thêm nhục nhã, xấu hổ, nhơ danh riêng hắn và cả dòng họ hắn thôi.
                                Vòng tay rắn chắc, Cảnh đa tình đầm ấm chủ động ôm ghì lấy tôi, và đằm thắm đặt nụ hôn lần đầu tiên rất dài, ngọt dịu, nồng nàn, đắm đuối lên bờ môi tôi mát lạnh. Những nụ hôn nhẹ nhàng, ân cần ngọt ngào mà không vồ vập, không lộ liễu, khiến tôi rất vừa ý. Cảnh cư xử với mọi người trong gia đình tôi chừng mực và tế nhị, tính tình Cảnh thành thật ôn nhu vui vẻ, đơn sơ. Ít khi anh quá trớn vui đùa, hay nói chuyện (tiếu lâm) thô tục ba xàm ba láp. Anh ưa đi thẳng vô vấn đề chính: có mạch lạc, khúc chiết, khôn ngoan và tinh tế. Mặc dù đôi khi anh cũng ưa hờn mát, nổi nóng chút (khi có “người khác” nháy mắt nheo mày lả lướt hoặc buông lời… “làm quen tôi”). Tuy nhiên, khi buồn, Cảnh không la lối gắt gỏng ồn ào, không nhăn nhó. Anh chỉ lặng lẽ mặc áo ra về, hay đi đâu đó một mình cho khuây khoả xí.
                                Tôi nhận thấy anh có thể là một người bạn đời biết đủ mọi lịch lãm, khôn ngoan, một người bạn đường vẹn toàn tin cẩn. Một người yêu khả dĩ đem lại hạnh phúc lứa đôi. Bến bờ nầy, có phải là “hạnh phúc cuả hiến chương tình yêu đích thực riêng tôi"? Hạnh phúc! Là mình ở trong trạng thái sung sướng hoàn toàn, thấm đẫm sự tuyệt vời, vì cảm thấy "hai mình" tâm đầu ý hợp toại nguyện chăng? Tôi không muốn sa vào cái định nghĩa có vẽ như trừu tượng, mơn man, mơ hồ, như vừa ảo lại vừa có thật ấy. Chỉ biết là bây giờ tôi rất vui, hãnh diện, hân hạnh, bằng lòng, mãn nguyện khi có Cảnh trong đời. Và, tôi chưa thể nghĩ đến ngày mai… con sóng tình có còn vỗ mãi những âm thanh thân thiết, thật đầm ấm ngọt ngào nầy không? Vì chẳng thể biết ngay mai chúng tôi sẽ ra sao!?
                                * * *

                                Chỉ có ngày nghỉ cuối tuần vào chiều Thứ Bảy, hoặc nguyên ngày Chủ Nhật, Cảnh mới được phép xuất trường. Có tuần anh phải “ở nhà” ứng chiến, trực ban. Nên khi anh có phép, chúng tôi hay đi đây đi đó chơi, cho anh khuây khỏa, ước mong anh khỏi căng thẳng đầu óc mệt nhoài vì học tập. Hoặc anh luôn bị tù túng trong bốn bức tường, do kỷ luật sắt ở quân trường Võ Bị bó buộc chân tay Cảnh quá nhiều. Chúng tôi thường lên taxi đi thăm các thắng cảnh. Không nơi nào mà không có bước chân đôi trẻ dẫm lên. Chúng tôi ưa dạo phố ngày Chủ Nhật, cùng đi thưởng ngoạn các thắng cảnh Đà Lạt, vô rạp xem ciné. Đôi khi chúng tôi lượn vài vòng phố, ghé tiệm chà và, tiệm sách mua sắm vài thứ cần thiết. Ít khi Cảnh muốn làm phiền ai, nên anh không ăn cơm ở nhà chị Tuế, chúng tôi vào ăn hủ tiếu Nam Vang ở đường Minh Mạng. Đi ăn trưa, ăn tối ở các tiệm Nam Sơn. Phở Bằng. Phở Tùng. Nhà hàng Mé Kông. Tiệm ăn Như Ý. Cảnh thích nhất là vô phê Tùng, nơi nầy thanh lịch, đa số khách sành điệu ưa ngồi trong khung cảnh huyền hoặc, nên thơ, nhạc êm dịu mở vừa đủ nghe. Khách im lắng thả hồn vào những dòng nhạc trữ tình, họ luôn trầm tư, mơ màng trong khói thuốc, bên ly cà phê sánh đen nhỏ từng giọt, từng giọt đen tròn, lóng lánh từ chiếc ly thủy tinh trong suốt phả hơi nóng hổi. Khách nói chuyện nho nhỏ, ung dung tự tại nhâm nhi cà phê, mà không bị làm phiền bởi bất cứ ai tò mò. Nhất là anh Tùng chỉ cho mấy cậu bồi tí hon bưng cà phê, thì hết ý, (đặc biệt tiệm cà phê Tùng không hề có nữ tiếp viên ỏng ẹo ưa nhoi nhoi cái đít vịt).

                                Đó là những nơi chúng tôi thường “la cà phè phỡn” lui tới ăn uống lai rai. Có nhiều lần anh quên không đưa tiền trước cho tôi. Khi đã ăn uống xong, Cảnh cười hì hì, nháy mắt nheo mày, anh dúi tiền dưới gầm bàn cho tôi cầm. Cảnh ra dấu có ý bảo tôi đi tính tiền. Chả vì lúc nào đi ăn, thường thường anh cũng trả. Anh e ngại người ta chê tôi: "chỉ biết lợi dụng người khác dẫn đi ăn uống chùa, cho đã đời chăng"? Anh muốn giữ thể diện cho người yêu đấy hở!? Vã lại đa số nam nữ đi ăn, tôi thường thấy “người nam hãnh diện” đi làm “nhiệm vụ” đó mà. Thật ra, tôi không mấy khi tự nguyện đi làm chuyện trả tiền. Không phải là tôi nhỏ mọn, keo kiệt, bần tiện, không dám xì tiền ra, (vì tôi đi làm việc trong công sở, tôi có nhiều tiền mà!) hoặc tôi ưa bu bám đàn ông hút chất ngon ngọt của người nam như loài ong bướm!!! hay muốn bòn xoáy rút rỉa cái hầu bao của anh đâu. Hoặc giả là tôi bủn xỉn không có tiền để bao anh. Nhưng nếu tôi cứ “bao anh” như vậy, tôi cảm thấy kỳ kỳ dị dị... vì “anh hùng hảo hớn” ngồi ì ra coi cũng mất mặt Cảnh sao ấy. Cầm tiền của anh đưa, tôi cũng cảm thấy áy náy nhột nhạt và mắc cỡ thẹn thùng sao đâu! (chứ tôi không thấy việc ấy là hãnh diện cho mình, như anh đã dúi tiền đưa tôi đi trả. Chi lạ rứa).

                                Những ngày nhàn du thư thái, chúng tôi thường cặp kè bên nhau thả bước trên những con đường mòn vắng khuất. Dìu nhau đi vô rừng hái trái mác mác ở các suối mộng hồ mơ. Chúng tôi trải tấm nhựa trắng xuống nệm cỏ xanh mướt, để thức ăn nhẹ như bánh mì nhồi thịt, trái cây mua sẵn đặt ở trên những tờ báo. Tôi thích đi nhặt trái thông xếp thành từng hàng to nhỏ. Vui vẻ kể cho nhau nghe nhiều chuyện tự hồi tóc tôi còn để chỏm. Tôi hỏi anh:
                                - Anh thích vô học trong trường Võ Bị Đà Lạt lắm. Phải không nào?
                                - Ừa. Hồi nhỏ anh rất thích chơi súng, chơi dao găm. Anh chuyên làm trưởng toán, cầm đầu tụi con trai, cầm cây, cầm ná, chạy xuống xóm dưới. Tụi anh đánh nhau với bọn trai cùng trang lứa. Lần nào nhóm anh cũng chiến thắng vẻ vang, khoái lắm. Hì hì…
                                - Em lại sợ súng ống đạn bom, mới chết chứ.
                                - Chẳng cứ gì em. Ai ai trong nhà anh cũng vậy, nhất là má anh. Anh nhớ hồi anh còn nhỏ xíu, độ bốn năm tuổi gì đó, anh bị má đánh đòn hoài. Vì anh cứ thích lấy cái chổi quét nhà, ôm trong bụng để làm súng, nằm lăn ra đất bùn, bờ bụi. Má đánh anh vì cái tội: áo quần anh rách tả tơi như xơ mướp. Vì tội anh đầu bù tóc rối, bò càng xuống ruộng, xuống đất, nhảy bừa xuống ao, má sợ anh chết ngợp nước. Anh hăng hái đánh kiếm, bắn ná, bắn bi... vọc đất, chơi dơ kinh khiếp.
                                - Hẳn là hồi nhỏ anh nghịch lắm ha?
                                - Phá khỏi chê rồi em. Có một lần anh trèo lên cây mít, hái dái mít ăn, chẳng may bị té. Bụng anh xóc vô một cành cây. Máu chảy ròng ròng. May mà chưa lòi ruột. Má anh lật đật kêu xe ngựa, chở anh vô bệnh viện Biên Hoà cấp cứu. Còn vết sẹo to tướng nè em.

                                Cảnh vén áo lên cho tôi xem vết thẹo dài, láng cón. Thật là kinh hồn.
                                - Nhưng được một cái là anh ham học. Anh học rất giỏi. Tháng nào anh cũng đứng đầu lớp, từ lớp Năm cho đến lớp Đệ Nhứt. Anh thi đậu tú tài toàn một phát một là anh dong vô Võ Bị liền. Má thương anh lắm. Gia đình anh dù nghèo, nhưng ba má cố gắng tần tảo bán buôn cho mấy anh em ăn học. Anh thương má nhiều, hơn thương ba.
                                - Ngộ ha anh. Hầu như ai ai cũng thương má nhiều.
                                Cảnh cười gật gật đầu đồng ý:
                                - Phải. Sau khi anh đậu tú tài toàn phần xong. Ba muốn anh đi học ngành Y. Nhưng anh thích vào trường Võ Bị Đà Lạt. Má nói:
                                - Con học ở Sài Gòn thì gần. Chớ con học ở Đà Lạt, xa xôi quá. Vã lại con đi lính, má cũng lo sợ, không mấy ưa.
                                - Chắc là anh phải uốn ba tấc lưỡi đấu tranh dữ lắm he.
                                - Trời. Má chìu ý anh thôi. Má khóc sưng mắt. Nhưng má đành đưa anh lên Đà Lạt. Ba ở nhà trông coi tiệm ăn và mấy em nhỏ. Má nói để má cùng đi với anh, cho biết nơi biết chỗ. Khi nào huỡn, ba má có thể đi thăm anh. Không sợ lạc đường.

                                Cảnh thích ngắm nhìn người yêu nổi bật trong đám đông. Anh bảo tôi cắt tóc theo kiễu Sulvie Vartan, mặc đồ đầm thời trang xứng hợp với dáng vóc thanh tân cuả cô gái chớm lớn. Nhiều khi tôi mặc áo dài thật dài, thân áo ôm sát vòng eo năm mươi cetimets, nẩy nở vòng ngực chín mươi. Trên thân đuôi những chiếc áo dài đen, áo dài tím, áo dài vỏ măng cụt, màu vàng, tự tôi kết hoa, kết lá giả. Coi tôi ỏn ẻn cũng có chút xí “đài các thanh cao” có mỹ thuật, và xinh xắn ra phết... như ai ai đấy chứ! Cảnh nói:
                                - Em có đôi mắt rất linh động, sáng ngời, tình tứ, nụ cười xinh tươi và duyên dáng. Dáng vóc đan thanh thon gọn. Trông em thật yêu kiều, thướt tha biết mấy. Em rất đẹp.

                                Tôi cười ỏn ẻn. Tôi không bao giờ nói cho Cảnh biết: hồi xưa tôi là một hoa hậu. Vâng! Ngân Thụy đúng là đã đoạt ngôi vị hoa hậu, không hề sữa mắt sữa mũi, chẳng biết dùng phấn son. Tôi là hoa hậu tự nhiên, đơn sơ, thật sự trăm phần trăm ở ngoài Đà Nẵng năm 1962. Chứ không phải chỉ là á hậu, á hiếc, á hoè, á... hợi ba láp bá vơ lơ tơ mơ chi cả. Nói làm gì! Hương thơm chả phải cầu, tự nó hồn nhiên toả ra. Hoa hậu, hoa dậu, hoa chậu gì gì cũng thế thôi. Con người ta hơn thua nhau ở chỗ có đạo đức tốt, có tấm lòng rộng mở, bác ái, nhân hậu, thành thật mến yêu, thấu hiểu thông cảm giúp đỡ tha nhân cùng khốn. Không dối gạt ai. Tự biết mình và biết người, là trân qúy mà thôi. Ngày tôi thăng “lên chức” hoa hậu, có anh bạn Thắng đã tặng tôi bài thơ: Xinh đóa hồng gai
                                Gió sớm mây chiều vờn quanh môi thắm.
                                "Dạ thưa". Tình thương cô gái ngoan hiền.
                                Tóc thề dáng nhỏ nón lá chao nghiêng.
                                E ấp ngập ngừng phím loan bẽn lẽn.

                                Khao khát trao tình em như vẫn hẹn.
                                Ngày anh đi mây xám lướt bên thềm.
                                Tiếng sáo buồn nhè nhẹ buổi chiều êm.
                                Chim hoàng hạc ngủ yên trên đỉnh núi.

                                Đời trống vắng, tình phương xa tiếc nuối.
                                Em đi rồi biết bao nỗi tương tư.
                                Đóa hồng gai sao lãng chuyện cầm, thư.
                                Môi nhạt thắm, sầu gió thu trút lá.

                                Buồn da diết, ôi những chiều nắng đổ.
                                Tắt nụ cười em gái nhỏ đoan trang.
                                Khóe thu ba giòng lệ chảy đôi hàng
                                Ai có thấu nét đài trang nỗi nhớ?

                                Tha thiết lắm ôi tình cô gái nhỏ.
                                Biết bao giờ mới hết khổ chia phôi.
                                Anh của em dù góc bể chân trời.
                                Thuyền trở lại sẽ tìm người năm cũ.
                                (*)

                                Trời mùa Xuân bàng bạc ấm áp phơi phới phả vào không gian mát rượi trong xanh… dường như pha lẫn chất men tháng hạ ấm áp nồng say, quyện tiết mùa Thu êm êm thanh thanh, man mác bãng lãng đó đây. Gió Xuân bơi bơi theo con sóng tình dìu dập bốn mùa hòa nhập, vỗ mạnh vào đôi bờ đông-xuân, khiến toàn thân tôi chợt nóng bừng bừng, rồi chợt lạnh rét run run. Chúng tôi hòa tan lòng mình theo cơn vui trong từng nhịp tim dập dồn đập mạnh. Tôi cảm thấy ngất ngây toàn thân, phập phồng, bồng bềnh, trôi trôi, bơi bơi trên dòng đời đong đưa, có Cảnh dìu dắt bên cạnh.
                                Hôm nay cơn giông từ đâu ập đến, gió rít trên những cành thông, kéo theo từng đám mây đen nghịt vần vũ khung trời Đà Lạt. Báo hiệu trời sắp trút nước xuống vùng trời hoa đào nầy. Khi chúng tôi cùng nhau lửng thửng đi ra phố, trời bỗng đỗ mưa. Chúng tôi chạy rõ mau vô quán Hạnh Tâm gần bên hồ Xuân Hương, tìm chút không khí thân thương và ấm áp về chiều.
                                *

                                (*) Thơ Tình Hoài Hương
                                Last edited by Tinh Hoai Huong; 02-14-2020, 05:53 PM.
                                Bút trần nào tả được lưu luyến!
                                Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                                Tình Hoài Hương

                                Comment



                                Hội Quán Phi Dũng ©
                                Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




                                website hit counter

                                Working...
                                X