Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Góc Truyện Tình HOÀI HƯƠNG...

Collapse
X

Góc Truyện Tình HOÀI HƯƠNG...

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Ông ÁNH còn ngán TUI



    Ông ÁNH còn ngán TUI
    NGHỊCH_NHĨ
    *

    Thưa vâng. Ông ÁNH trên tựa bài viết đúng là ông Nguyễn Huy Ánh cựu tư lệnh Sư-đoàn 4 KQ, một vị Tướng lổi lạc, mà hồi đó có lúc còn phải… ngán tui đấy! Chuyện thật hư thế nào, nói theo kiểu truyện Tàu, xin xem hồi sau sẽ rõ… còn bây giờ thì… : Dường như người Việt (miền Nam) mình trước kia ít khi chịu khen ai, hay vinh danh ai, dù đó thực sự là những người anh hùng tài giỏi khi họ còn đang sống, đang tại chức lắm; đợi chờ chết rồi, mới thấy tiếc rẻ, mới khen, mới đề cao!; có thể vì lòng đố kỵ, có thể vì sợ mang tiếng là kẻ sum xoe, nịnh bợ chăng?

    Tôi còn nhớ trong quân đội VNCH dạo ấy có biết bao nhiêu vị Tướng, thế mà có mấy ai được báo chí, truyền thanh, truyền hình đề cao vinh danh? phải chăng đó là là một khuyết điểm của mình? nếu có, ít ra cũng làm cho binh sĩ, dân chúng lên tinh thần khi được một ông Sư Đoàn Trưởng… như thế… như thế chỉ huy và trấn giữ vùng mình chứ! Nói nào cho ngay… Ừ mình cũng có đấy, sau trận An Lộc ông Nguyễn Văn Hưng có được vài số báo nói đến! Rồi báo Tiền Tuyến hay Diều Hâu(?) có đề cao bốn vị: nhất Thắng, nhì Chinh, tam Thanh, tứ Trưởng là Tướng “sạch”. Trời đất! làm Tướng mà chỉ được khen “sạch” là đủ sao?! Còn cái điểm chánh yếu là cầm quân trước trận tiền sao không thấy nói tới, chẳng lẻ... “nhất tướng công thành” mà không đánh được vài trận nào ngoạn mục à? Còn Tướng Lê Minh Đảo vừa sáng lên ở mặt trân Xuân Lộc, rồi cũng bị chìm theo vận nước…!

    Nghĩ tới nghĩ lui thấy mình..."yếu" thật; trong khi ấy bên địch, trong quân đội thì có chính trị viên từ trung, đại dội trở lên để theo dỏi, đôn đốc nâng cao tinh thần bộ đội… ngoài ra họ còn có thêm cái đám binh(địch) vận, dân vận (trí thức, sinh viên học sinh…) …v.v… để lôi kéo, mua chuộc nữa; đánh ta mọi mặt như thế; nên ta… "mệt" là phải!!! Bạn ơi đó là chuyện cũ, còn nay thì ba bốn chục năm đã qua rồi, mà con cháu của chú Hồ vẫn kiên trì… không mệt mỏi tuyên truyền, nhiều lúc vẻ vời để tự đề cao xưng hùng mọi lúc mọi nơi nghe phát mệt; nói theo kiểu văn chương… hiện đại của bọn chúng, thì… “cái đéo” gì cũng ca được; nghe muốn ói!!! Tôi không có thèm nói thêm đâu, nầy nhé:
    - Chuyện dũng sĩ tí hon Lê văn Tám tẩm xăng vào người, rồi chạy… u vô đốt kho đạn, hay kho xăng gì đó bên Thị Nghè là xưa rồi, bỏ đi Tám! Mấy năm qua mấy tay “Cách mạng lão thành ” tìm tên tuổi và gốc gác của anh hùng… nhóc nầy để… phong thánh; rồi tự đi đến kết luận là: Hổng có!!!
    - Rồi câu chuyện kể cái… dũng của “cháu ngoan bác Hồ” nầy mới dể nể chứ: Có hai em bé chiều chiều đùa giởn trên bờ đê sông Hồng, bỗng hai em thấy có một lỗ rò rỉ của bờ đê phía nước chảy cuồn cuộn, với một tinh thần cảnh giác và nhận thức cao độ, nếu để vậy đê sẽ bị xoáy mòn và đê vỡ; nên một em bèn nằm dài xuống bờ đê đầu cuối xuống nhìn rõ cái…lỗ, và lấy ngón tay bịt lại, còn em kia chạy về thông báo cho dân làng biết!!! Đến khi bà con làng xóm chạy ra cưú đê thì thấy em nầy chết ngộp đúng vị thế ấy… cái ngón tay vẫn còn đang… ém lỗ!

    Mấy cháu nho-nhỏ thoạt nghe qua thấy nể quá đi chứ, hãy tưởng như cái bồn chứa bằng xi–măng đang cho nước chảy vào, bị một lỗ mọt nên em phải chồm xuống để lấy ngón tay bịt lỗ lại; trong khi đó nước cứ chảy vào từ từ dâng lên, và em cứ… uống nước thoải mái tới chết thôi; chứ ngón tay vẫn… ém lỗ không rời!!!. Có lý quá mà! Còn mấy người lớn hiểu chuyện lại cười thầm trong bụng: chắc “cháu ngoan” nầy được bác yêu, cho lên chơi phủ chủ tịch (nhà sàn) đến giờ nghỉ trưa cháu quanh quẩn bên ngoài, và vô tình nhìn qua khe vách nứa thấy bác Hồ đang dùng ngón tay mò tìm… ém lỗ bà Nông thị Xuân, hay mấy cô hộ lý, nên cháu cứ in trí và noi gương theo chứ gì!

    Nhưng mà mấy cái chuyện đó thuộc loại xưa rồi …Diễm! Cái chuyện nầy mới ràng ràng có in trên tờ nhựt trình Tuổi Trẻ ngày 16 /06/2007 trong đề mục “kể về bác Hồ” ở hội thi, có giải thưởng như sau: “…(trích nguyên văn): Một trong những thí sinh cao tuổi nhất, là thiếu tướng Nguyễn văn Ninh nguyên phó cục trưởng Cục tác chiến Bộ Tổng tham mưu, 77 tuổi, kể câu chuyện xúc động về bác Hồ, mà ông được trực tiếp chứng kiến vào mùa hè năm 1967 khi Mỹ ném bom phá hoại miền Bắc. Bác thương những chiến sĩ phòng không trực chiến mà không có đủ nước uống nên dã tặng toàn bộ số tiền tiết kiệm 25.000 đồng (tương đương 60 lượng vàng) cho Tổng cục Hậu cần mua nước uống làm quà cho chiến sĩ phòng không. Thiếu tướng Ninh lúc ấy đang là Tiểu đoàn trưởng tên lửa phòng không, đã được uống nước từ số tiền tiết kiệm của bác Hồ giửa cái nóng 41 độ C và cảm thấy vô cùng xúc động trước tấm lòng của Bác..”

    Đấy ai muốn tin thì cứ tin và ai chưa hề biết Việt Cộng là gì thì cũng nên tin… thử một lần cho biết! Còn tôi cho rằng: Gớm! cho ông phó Cục, như vậy mà cũng ráng… “ngoéo” vô khen cho được mới tài..! Nếu gặp ông “Bải trưởng” (thì lớn hơn Cục là Bải chứ gì nữa!) thì tình tiết có phần hấp dẫn hơn… như:
    - Các đồng chí và đồng bào biết không?, có hôm nọ Bác dang đứng chuyện trò với một ổ phòng không thì bọn giặc Mỹ bay đến bỏ bom, Bác vẫn gan lì ngồi tại đó, để động viên các đồng chí đội phòng không đang bắn chống trả, đến khi bọn Mỹ hoảng sợ bỏ chạy hết. thì lúc ấy bác mới phát hiện ra là mình bị… chột bụng, mà trong lúc khẩn trương phải ở tại đấy cho bộ đội lên tinh thần, nên… “mọi thứ” nó vải ra trong quần…! mà thưa các đồng chí và đồng bào, quả Bác là bậc thánh, nên tôi… chỉ ngửi thoang thoảng một mùi thơm thôi quý vị ạ!

    Rồi nay mai có thể mấy bà cụ còn sẽ nghe:
    - “Mẹ biết không, đồng chí ấy là dũng sĩ, anh hùng lắm, trước kia ở trong binh đoàn đặc công, một mình bò vào đồn địch giết được 5,6 tên giặc, và cả chục tên đồng bọn tay sai đàn bà, con nít; chẳng may đồng chí ấy bị một tên địch “hèn nhát” bắn trúng vào đầu ; nhưng mẹ biết không… đồng chí ấy vẫn anh dũng, hiên ngang... nằm chết tại đấy, chứ không thèm chạy đi nửa bước nữa đấy !”

    Y chang kiểu như lời một anh bộ đội người thiểu số từng tuyên bố trước đám tù:
    - “Lói cái rì... miễn có nợi cho Đảng và Nhà lước, nà tôi lói, dù lói náo cũng được!”
    Biết mà:
    Chúng mầy mở miệng cứ xưng hùng
    Ong-ỏng ngày đêm riết phát khùng!
    Kho đạn là nơi bây được… đẻ
    Nên giờ mặc sức… nổ lung tung
    !

    Bây giờ đã đến lúc chúng ta cũng cần ghi lại những sự thật, người thật việc thật... cho những thế hệ mai sau thấy rằng: người VN, tuỳ theo vận nước có lúc thịnh suy, nhưng anh-hùng, hào-kiệt thời nào cũng có…! Và sống bên Mỹ nầy, nhận ra được cái hay, cái thực tiễn của người Mỹ, nên tư duy của mình có thay đổi, và như quý vị thấy bây giờ mới có những buổi vinh danh, hoặc nhớ ơn những người còn đang sống: những khoa học gia, văn sĩ, nhạc sĩ, những nhân vật nổi tiếng có đóng góp, và giúp ích cho cộng đồng .v.v... đặc biệt ngày Mẹ, Cha… được ghi trong lịch Ta để mà nhớ nữa đó!

    Thôi thì như vậy cũng là hay, cũng là tiến bộ; dù hơi trễ, nhưng có vẫn hơn. Theo khuynh hướng đó, tôi xin viết ra đây những nhân vật trong Quân-chủng KQ mà tôi rất kính nể; tiếc thay cả ba vị đã không còn tại thế, nhưng những việc làm của nhũng vị ấy, sao tôi cứ nhớ mãi …và trong ý thức, trong lòng cứ thôi thúc tôi phải viết ra:

    1./Anh hùng bị lãng quên:

    Dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm cho trưng bày một chiếc máy bay ở ngoài Saigon cho dân chúng coi. Anh là một Hạ sĩ quan của KQ đứng bảo vệ và trông coi khu đó! Bọn khủng bố Việt Cộng đã ném lựu đạn vào trong lúc dân chúng đông đảo đang bu quanh chiếc phi cơ, kết quả lựu đạn nổ và anh đã hy sinh! Nếu nghe đến đây thì một quân nhân chết trong lúc thi hành công vụ là chuyện thường tình của người… khoác áo chinh y, chưa thấy được hết cái ý nghĩa của chữ “hy sinh” và “anh hùng” ! Suy nghĩ một xí và xét lại đi: - Trong tình huống xảy ra như thế, với một phản xạ tự nhiên của con người bình thường khi thấy quả lựu đạn sắp nổ, thì nằm sát đất ngay, có thể không chết, nếu bình tĩnh hơn thì lẹ làng chụp quả lựu đạn ném ra xa… ; còn Anh đã có dòng máu anh hùng trong huyết quản, nên trong thoáng nghĩ suy anh đã nhào vô nằm đè trên quả lựu đạn, để trọn tấm thân anh chịu sức công phá của quả đạn, tránh sự sát hại lớn lao cho đồng bào ! Đúng là anh dành lấy cái chết cho người dân hiền hoà , vô tội sống!
    Vì sự an nguy của người khác; không một chút đắn đo thiệt hơn, anh dám đem cả mạng sống của mình để bao che, bảo vệ ; như vậy chưa đủ gọi là anh hùng để người đời nhắc nhở và ghi tạc sao?!! Tiếc rằng thuở ấy tôi chưa vào lính, nên không nhớ tên vị anh hùng và ngày giờ chính xác!

    2./Ông Tướng Nguyễn Ngọc Loan

    Nhìn qua vóc dáng của ông Loan thì ông cũng cao ráo, còn gọi là có đẹp trai, hấp dẫn , oai phong hay không thì, theo tôi, ông cũng… “thường thường bậc trung” , lúc còn làm Tư lệnh phó KQ, khi đến dự party của các PĐ tổ chức, ông thường mặc bộ trây-di lè phè bỏ ngoài, chân mang giép nhật (bây giờ là giép lào) , trước mặt thường có chai la de loại lớn (bia cao)…
    Tôi nhớ lúc ông qua làm Giám Đốc An ninh quân đội,năm 1965 tôi có dịp lái Trực Thăng H34 chở ông đi ra Hàm Tân, khi vào dinh Tỉnh Trưởng thì có điện thoại từ Trung Ương gọi ra, đầu dây bên kia nói gì tôi không rõ, chỉ nghe ông trả lời:
    --Em đang bận ra thăm… “sức khoẻ” ông Tỉnh Trưởng một chút rồi về!
    Nghe thế, ông Tỉnh trưởng cười cười nhìn ông có vẻ hơi “nhột”, bởi cái gì mà dính líu đến An Ninh là phiền hà lắm. Cỡ hai giờ sau phi hành đoàn theo đoàn xe ông ra về. Tụi tôi lên đề máy con- trâu- già H34 , hai ba lần mà nó không nổ, mà thưa quý bạn, nhớ cho nếu đề hoài cỡ 5, 6 lần là Battery là plat, hết hơi bình còn chết dở nữa, nên phải nghỉ một chút cho không ngộp xăng rồi đề lại. Ông Loan còn đứng dưới đất kêu lên “chọc quê” :
    - Ê , tụi bây phải cần tao dán mấy tờ giấy $ 500 lên đây, nó mới nổ chắc!
    Chưa chi mà Ổng thấy cái .. “Tẩy” hết trơn! Sẵn đây khai luôn cho quý anh các ngành khác biết, dân Trực Thăng chở VIP bên dân sự thường là được… “ăn theo” mấy Ông Bự lắm; khi về lại có thêm được bao thư lì xì, có nhiều lúc rất là hậu hĩnh, nếu gặp được mấy ông “Phụ tá đặc biệt”…! Tất cả những cái đó là tuỳ lòng… hảo tâm, góp… “công đức”của chư vị ấy, chứ anh em Trực Thăng không có mặt mũi à nghe! Cũng may chiếc trực thăng nghe thế, nó sợ làm bẽ mặt mấy bác tài, nên đề máy lại lần nữa, là nó chịu nổ…

    Một lần thứ nhì, ông Loan làm Tổng Giám Đốc Cảnh Sát, tôi có chở ông đi xuống Ty Cảnh Sát Mỹ Tho, Bến Tre trong những ngày cận tết năm Mậu Thân, sở dĩ tôi nhớ vậy, vì ông có nói mở đầu trước quan quân Cảnh Sát: Năm nay là năm Mậu…xì, nên không có lì xì gì hết... Qua vài kỷ niệm trên thì cũng tầm thường, nhạt nhẽo, đâu có gì đáng nói, và nếu cuộc đời bình thản như vậy thì sao rõ mặt anh hào? làm sao lộ những điểm để tôi thấy kính nể, khâm phục vị Tướng nầy được.
    Có thể cái nhận thức của tôi còn nông cạn, tầm nhìn hạn hẹp, nhận xét chưa sắc bén và phiến diện; nên không tạo được sự đồng thuận ở một số người… Nhưng tôi thấy nổi bật nhất trong đời binh nghiệp của ông qua hai sự việc dưới đây:

    A.- Biến động miền Trung:
    Hãy để chuyện chính trị qua một bên, không bàn đến phía nào sai trái trong thời gian đó, mà chỉ xét về ông Loan trong vụ nầy: Tình hình miền Trung lúc ấy thật là phức tạp, hổn lọan, Phật giáo thì đem bàn thờ xuống đường, quân đội thì chia rẻ, có cả một lực lượng khá đông quân sĩ có cấp chỉ huy, đứng về phe chống đối chánh quyền Trung Ương, kèm theo trong bóng tối có sự thao túng giật giây của bọn Cộng Sản…! Nghe nói Trung Ương có đưa một vài vị Tướng bên Bộ-binh ra để dẹp loạn, mà không biết lý do gì mấy ngày sau đó vẫn nguyên trạng, và có mòi trầm trọng hơn. Giờ chót ông Loan được cử ra dẹp loạn! Kết quả sóng tan, biển lặng!

    Tôi thấy phục ông Loan ở chỗ là:
    - Một Sĩ Quan cao cấp KQ, một Sĩ quan chuyên ngành có bao giờ điều binh khiển tướng cở cấp Trung đoàn, trực tiếp ra trận đâu, mà ông làm nên việc? Ngược lại trong khi các vị khác đã là cấp Tướng mà làm không xong vụ nầy!
    - Ông có một cái nhìn tổng quát và nhận biết đâu là yếu điểm của nhóm phản loạn, đâu mới thực sự là đầu nảo điều khiển vụ nầy, nên vạch ra một kế hoạch hành động hữu hiệu!
    - Về mặt chiến thuật, ông biết phải móc nối ai và đơn vị nào để làm hậu thuẫn, và ông biết chọn, tin dùng người có khả năng để kết hợp và phụ giúp ông trong vụ nầy!
    Mới nghe qua thấy đơn giản, nhưng thực sự những vị Tướng tài mới có được cái nhãn quan và đầu óc ấy mà thôi! Không dễ!!! Đó là vụ việc thứ nhất tôi nể phục ông, còn vụ thứ hai:

    B.- Vụ Tướng Loan “bụp” tên đặc công bảy Lốp:
    Trong chúng ta chắc ai cũng biết vụ Tướng Loan bụp tên VC Bảy Lốp trong năm Mậu Thân, nên tôi xin miễn tường trình! Chính vụ nầy với bức hình do Adams(?) chụp, mà người thì nên danh, được giải thưởng cao quí của báo chí, còn người thì mang tai tiếng và thân bại danh liệt!!! Về mặt nghề nghiệp, thì ông phóng viên ấy không có gì đáng trách, mà còn trái lại; và tấm hình đó cũng là cơ hội bằng vàng cho đám truyền thông thân Cộng đả kích ông, và chế độ VNCH (tôi không muốn dùng từ phản chiến, không đúng). Nhưng cũng chính nó mà tôi lại càng thương mến, cảm phục kính nể Tướng Loan hơn; đồng thời mang thêm nổi uất hận …. mãi đến nay; xin được tỏ bày:

    @ Phải nói thẳng rằng ở ngoài mặt trận khi bắt được địch quân (không phải là hàng binh), cả quan và quân bên Bộ Binh “rửa cẳng” bọn nó là chuyện thường tình, lý do họ đang nổi nóng vì thằng bạn vừa mới trúng đạn chết tươi sau khi vừa ăn chung bịch gạo sấy với hộp thịt ba lát không lâu ; hoặc họ nói giam giữ nó làm gì tốn cơm, nuôi ăn cho mập, khi thả ra, lại ôm súng bắn lại ta nữa!
    Còn bên KQ dù anh có thả một quả bom tan xác cả chục tên giặc, hoặc mấy anh gunship có xịt rocket và xả súng mini gun giết hàng loạt quân địch đi nữa, nhưng tôi dám chắc rằng không có anh KQ nào có gan mà chỉa ru-lô vào đầu tên VC bóp cò, như ông Loan đâu! Đó là điểm đầu tiên khác biệt mà tôi nể ông Loan (xin nhấn mạnh lại, đó là thời trước 75, chứ còn bây giờ khi đã thấy được cái tàn độc của VC đối với dân chúng ra sao rồi, và ai đã có thêm ân oán nữa, thì đâu cần đợi súng đạn làm chi lâu lắc ; búa, xẻng… dùng ngay để “dứt điểm” cũng gọn, thật dễ dàng!)

    @@ Không cần phải là một nhà tâm lý học, ta cũng thấy ngay sự phẫn nộ ấy bắt nguồn từ tấm lòng, tình thương yêu của ông với thuộc cấp, một sĩ quan cảnh sát và toàn gia đình vừa bị chính tên đặc công Bảy Lốp sát hại.
    Ông Loan hành động theo cảm xúc chân thành phát xuất từ con tim, chứ không đắn đo suy nghĩ cái hậu quả dưới ống kính của đám ký giả đang bu theo! Dĩ nhiên là ông hiểu chứ! Nhưng tình thương và tấm lòng của ông đối với thuộc cấp đã lấn át tất cả, nên ông cũng không cần cân nhắc cái thiệt hơn, lợi hại cho danh tiếng và bản thân ông.
    Tướng Loan cũng không phải là con người nham hiểm, độc ác. Nếu là người thâm trầm hiểm độc thì giải quyết như vầy, chắc được khen, nghĩa là không vội gì giết tên đặc công khát máu nầy ngay, mà phải đích thân chứng kiến lại tấn tuồng mới… “đả nư” chứ ; phải ngồi trên ghế nệm da đàng hoàng, tay cầm ly rượu mạnh nhâm nhi, miệng ngậm xi gà nhả khói… đợi chờ, chờ bắt mang về cả vợ và mấy đứa con hắn đang sinh sống tại vùng Phú lâm chứ đâu; rồi bắt buộc hắn phải dích thân, chính tay hắn giết vợ và con hắn, như kiểu hắn đã sát hại toàn gia của anh sĩ quan cảnh sát; để cho hắn thấy cái đau khổ của người vô tội như thế nào, rồi hắn mới được chết!
    Bởi vậy mới thấy quân dân miền Nam hành xử quá bộc trực ngay thẳng, nặng về cảm xúc đầy ắp tính nhân bản; khác hẳn tư tưởng và đường hướng có kế hoạch sẳn của con người VC mà chúng ta nghe ra rả trên đài phát thanh:
    - Một trong những lời bác Hồ dạy:
    - Phải “cương quyết” với kẻ thù.
    Quyết liệt và đẹp đẽ thay chữ "cương quyết", nhưng cũng "ghê rợn" thay cái ý nghĩa ẩn tàng của chữ nầy!

    @@@ Thuộc cấp mà thấy được sự yêu thương chí tình, hết lòng của cấp chỉ huy không bằng “đầu môi chót lưỡi” , màu mè; thì đáp lại họ có sá gì gian khổ, hy sinh chứ! Nếu vị Tướng mà biết tiếc từng mạng sống của mỗi người lính, thì họ sẽ không bao giờ thí quân, không bao giờ muốn đạt mục tiêu với bất cứ giá nào, để được danh tiếng trên hàng đống xác thân của binh sĩ mình! Chỉ bao nhiêu điểm trên cũng lộ ra cái phẩm chất và bản lãnh, đáng nể phục vị Tướng nầy; dâu phải ai cũng có được đâu!

    @@@@ Dư luận dạo ấy hay nói đúng ra là giới truyền thông gây trong tôi sự bực tức và niềm uất hận không nguôi! Đám ký giả ngoại quốc thuộc loại có tên tuổi mà thân Cộng bu nhau đã kích ông Loan và chế độ ta, trong khi đó các phóng viên ký giả miền Nam thì im lặng khó hiểu! Tôi xin mở ngoặc nói về chữ “phản chiến” mà bọn ký giả thân Cộng xử dụng và tự nhận! Một danh từ mỹ miều! Đúng là chúng khôn ngoan và xỏ lá hết sức; cho nên đến tận ngày nay hể nói đến "phản chiến" là thiên hạ nghĩ ngay đến bọn chúng, chứ họ không gọi bọn chúng là Thiên tả hay thân Cộng! Tôi thấy không đúng! Như vậy nếu đả kích hay chống bọn đó, hoá ra mình là người "hiếu chiến" sao?! Nhìn lại chiến cuộc VN, thì ai gây ra chiến tranh? Đâu phải Mỹ! Mỹ chỉ vào phụ giúp ta sau nầy thôi, chứ nguyên thuỷ là do CS Bắc Việt mà! Như vậy quân dân miền Nam là người phản chiến mới đúng, mới chính xác, mới thuận ngôn chứ! Xin tạm đóng ngoặc lại.

    Trở lại vụ Tướng Loan, đám ký giả không phải là dân VN không có được cái tình cảm, thấm thía được nổi khổ đau của miền Nam, họ không nằm trong chăn làm sao biết được chăn có rận ?? nên họ cóc cần biết gì, hơn là chỉ dựa vào bức hình và theo sách vở Hiến Chương Liên Hiệp Quốc để mà nhục mạ phía ta mà thôi!

    Nhìn lại, tìm xem các ký giả quốc gia miền Nam ở đâu, mà không thấy một bài để bênh vực, hay phân tích cái lý, cái tình ở đây? Chẳng lẽ trong nền báo chí miền Nam đã bị VC trà trộn vào quá đông, đủ khả năng điều hành và lủng đọan, chỉ đạo khoá mồm, khoá tay hết rồi sao?
    Hay chư vị cũng có nhận thức và lý lẽ quá cao siêu, nên mới im lặng đồng tình với bọn thân Cộng? Hoặc giả quý vị cảm thấy… “khớp” trước những ký giả “lớn” có tên tuổi của ngoại quốc; nên bị… đớ lưỡi, cóng tay, không viết nên lời?! Còn tăm hơi của quý vị ký giả lão thành, những nhà bình luận, và những chính khách đã từng lừng-lẫy, dạn-dày trên trường văn trận bút đâu rồi? sao quý vị không lấy cái thành tích thảm sát tập thể Tết Mậu thân ở miền Trung có sự đồng ý và chỉ đạo của đám chóp bu VC, một bằng chứng còn ràng ràng ra đấy, cũng đủ để… “đập vào mặt” bọn chúng, chứ cần gì phải trích dẫn “những ý, những lời” bằng tiếng Tây tiếng U, cho ra vẻ thông thái như thường thấy làm chi cho mệt!!! Thật lạ lùng tôi cứ hỏi: vì sao? vì sao?

    Sau nầy tôi lợm giọng khi thấy mấy ông “nhà báo” có sáng kiến là lập ra nhóm…“ ký giả ăn mày” nữa chứ! Đúng là vận nước suy tàn nên quỷ vương dậy! Một số khá đông trong nhóm nầy mặc áo rách rưới, cầm gậy ăn mày mặt tươi cười khoa trương thanh thế lắm mà; thế lúc trước không có một sáng kiến nào để phản-biện lại đám ký giả ngoại quốc thân Cộng sao? Chẳng lẽ Cộng Sản len lỏi vào báo giới mà đông đến thế à??? Ai cũng nhìn thấy quý vị đã góp một bàn tay xô chính quyền miền Nam sớm sụp đỗ đấy! Không biết khi đi "tù cải tạo", trong tờ tự kiểm quý vị có kể và khoe công trạng là: << dù sống và ăn cơm trong chề độ đó chứ… chúng em không hề làm gì có lợi cho chúng cả, dù một chút nhỏ nhoi; trái lại chúng em đã ngầm tham gia cách mạng như trong vụ…, trong vụ…>>

    Viết đến đây, nếu anh linh của ông Tướng có đọc thấy và hỏi:
    - “Thế thì lúc đó sao mi không viết ra, mà mãi đến bây giờ mới nói-thánh, nói-tuớng hử ?? ” Xin thưa lúc ấy tay chân tôi quen cầm cần lái, bóp cò, chứ đâu được cầm viết; hơn nữa nếu có viết chắc gì báo nào chịu đăng đâu. Ông!

    Thật buồn, ngậm ngùi, và thấu hiểu nỗi cô đơn trong một dũng Tướng! Mãi đến gần đây khi ông lánh xa trần thế... mới thấy có một bài viết của nhà văn Phạm Phong Dinh với tựa: Một con Sói già cô đơn(?). Có muộn màng nhưng chắc ông ấm lòng vì có người hiểu ông! Tôi, một thuộc cấp KQ hàng hậu bối, xin đốt nén hương lòng tưởng nhớ đến ông, và thầm mong ông vẫn còn niềm tin yêu, và hãnh diện nơi hàng thuộc cấp KQ của ông. Xin nhấn mạnh chỉ hàng thuộc cấp KQ của ông thôi nhé!

    3./ Ông Tướng Nguyễn huy Ánh:

    Thực lòng mà nói tôi chỉ nghe lời khen hoặc sự thán phục của rất nhiều người, chứ tôi chưa hề nghe một lời nào than phiền hay chê bay ông Ánh cả! Những bình phẩm ấy với tính cách truyền khẩu rất nhiều, nghĩa là trong lúc chuyện trò với nhau, hể có việc gì dính líu đến ông Ánh, là họ khen ông nào là: đã làm như vậy… giải quyết như vậy…v.v…

    Trong chương trình học Tham Mưu Trung Cấp KQ, học viên phải có 2 bài viết: một ngắn 1200 chữ, một dài 3000 chữ. Tôi có nghe một sĩ quan học viên có viết một bài mang tựa: "Ông Nguyễn Huy ÁNH, Nhà lãnh đạo tài ba"! Xin nói rõ đó là chữ “lãnh đạo”, chứ không là “chỉ huy” nha! Tôi không đọc bài đó, nhưng tôi tin chắc tác giả có đủ chứng cớ xác thực, lý lẽ hùng hồn, nhận xét sắc bén, mới dám viết một bài như thế trong lúc ông còn tại chức, và các chứng nhân cũng còn sờ sờ ra đấy!

    Kính mong tác giả trên, tình cờ đọc qua đây, xin vui lòng phổ biến lại bài viết đó, và những vị khác hãy kể ra những nét đặc sắc mà quý vị biết về ông ÁNH, để cho mọi người thấy được đó là những tia hào quang của vì sao sáng chói nầy! Phần tôi còn nhớ như in ông có nước da ngâm ngâm đen, dáng người trung bình tầm thước, trầm tĩnh hấp dẫn và thu hút người nghe! Mắt một mí, nói chuyện với người lạ ông thường nhìn hơi nghiêng và hơi…. “nghinh” lên một tí! Bởi vậy lúc mới về Phi đoàn 211 (Thần Chuỳ) do ông làm Chỉ Huy Trưởng PĐ, tôi đùa, nói lén với mấy anh “Chuẩn Uý sữa” như tôi:
    - Ông nầy mà đi ra đường, vô phòng trà, hay tiệm kem, mà nhìn người ta nghinh nghinh như vậy, là dễ có “oánh lộn” lắm nghe!!!...

    -*** Ông thuộc hàng thiện xạ về súng Colt! Người ta nói ông lắm tài, mà thứ nào cũng bậc Sư cả! Nghe kể ông Phước (Nùng), tay thiện xạ đoạt giải Đông Nam Á(?) cũng phải nhìn nhận khi thấy ông Ánh dùng Colt bắn trúng đầu con chim cu, không phải chó ngáp phải ruồi à! vì tiếp theo là những lon bia, sữa bò cũng bị tung lên sau mổi phát súng, như thế mới được xác nhận là thiện xạ chứ!

    -***-Vỏ nghệ thuộc hàng cao thủ, thượng thừa; cả bà Ánh cũng không phải tầm thường !(Lại ) nghe kể lúc trẻ (chắc lúc ông còn cấp Uý) hai ông bà vào hồ tắm Chi Lăng bên Gia Định, có mấy tên cao bồi chọc ghẹo, và ném nắp chai bia vào người, thật không ngờ với vóc dáng đào tơ liểu yếu, mà một mình bà đã ném 4, 5 tên du đảng xuống hồ tắm!!! Sau nầy khi ông làm KĐT ở Bình Thuỷ, sáng sớm hai ông bà đều ra sân Tennis tập kiểu vỏ gì... mà trông rất nhẹ nhàng như rồng bay phượng múa vậy! Trong một buổi biểu diễn võ thuật Đại Hàn và Judo, Vovinam… có anh TNĐ đã có đệ nhị đẳng huyền đai Tai- won- đo biểu diễn sao đó, mà nghe bà nói nhỏ, bình phẩm:
    - Anh Đ có ham mê võ nghệ, nhưng mà thiếu căn cơ!

    Còn ông, lúc còn làm Chỉ huy trưởng Phi đoàn, cấm cờ bạc; mà mấy cha Sĩ quan và Hsq thường hay trốn vào phòng bỏ trống đánh bài, khi ông đứng chận cửa là không có... ma nào dám chạy ra trốn tránh cả!!! rồi sau ông có bắt nhân viên đơn vị chiều chiều ra học võ Thiếu Lâm do ông dạy nữa, cũng vui! Về sau (cũng) nghe ông cùng học chung hay được Đ/tá Chức (bên Pháo, Bộ binh) truyền lại môn võ gì, mà để mấy ngọn đèn cầy từ xa, đánh một phát hơi gió làm tắt phụt đèn, và ông để bàn tay trên thau nước vận công làm cho mặt nước chao lên, kiểu như “Đả ngưu cách không” trong truyện Kiếm Hiệp! Đó là những gì tôi nghe từ những người đứng đắn, đáng tin cậy kể lại nên tui cũng ghi ra cho chư vị biết thôi, chứ tôi không có cái may chứng kiến tận mắt, thì làm sao dám bảo đảm đúng 100% được, phải không?

    ***Về bay bổng, ông Ánh đúng là bậc sư trong nghề Trực Thăng. Lúc xưa khi bay huấn luyện để nâng cấp cho các hoa tiêu trong Phi Đoàn, ông thường dợt và dạy cho đám pilot học trò làm auto nhiều kiểu lắm (xin giải thích cho quý vị khác ngành biết, auto là nói tắt chữ autorotation là tự động quay, nghĩa là coi như máy tắt, máy bay rớt, hoa tiêu khéo léo điều khiển máy bay dựa vào cánh quạt còn đang quay làm sao mà đáp được trên mặt đất an toàn) nên auto coi như "môn võ Trấn sơn" của dân Trực-thăng, ngón nghề ruột để phòng thân! Trong buổi họp PĐ hằng tuần ông thường nhắc nhở các anh em khi đi bay về, nên dợt làm auto vài cái, cho nó quen, cho nó nhuần nhuyển! Riêng ông hay dợt và làm cú auto như thế nầy: bay ở độ cao 500 600 feet (càng thấp càng khó) trên một miếng ruộng ô vuông, càng nhỏ càng tốt cho sự chính xác, đang bay cở 80 knots, giảm tốc độ lại còn 0=Zero knot ngay trên miếng đất nhỏ ấy, rồi cúp ga coi như máy tắt, nhanh nhẹn chúi đầu lấy tốc độ, rồi flare cho máy bay đứng lại và rớt ngay chóc trên thẻo ruộng nhỏ ấy là ăn tiền! Thiệt là... hết sẩy, khi máy bay nằm trong tay ông cứ êm ái nhẹ nhàng, dễ bảo như một cừu non! Nếu pilot mà lão luyện trong việc nầy; lúc đang bay độ cao vài ngàn bộ (hoặc cao hơn còn dễ, càng ngon nữa) trên một cánh rừng già, bị máy tắt, thì chỉ cần nhìn thấy một lỗ nhỏ nào đó, là pilot ấy có thể dư sức thảy lỗ, nghĩa là đưa máy bay vô cái lỗ đó dù có… “bót” một chút cũng chả sao, và vẫn sống hùng sống mạnh như thường!

    Trên đây coi như những món… ăn chơi về ông mà thôi ! Chứ theo tôi đây mới là những… “ tinh anh lộ ra ngoài” của một vị Tướng! Từ lúc còn là KĐT ở Bình Thuỷ, tôi để ý nhận thấy ông Ánh thường giải quyết mọi chuyện dù nhỏ nhặt, đến nơi đến chốn.Theo lệ thường mỗi sáng ông thường chủ toạ một buổi họp tại Liên Đoàn tác chiến, sau khi nghe báo cáo tình hình thời tiết và quân báo, kế đến là một sĩ quan của một phi đoàn nào đó lên nói một đề tài (có lẽ tập cho sĩ quan quen ăn nói trước đám đông?) và sau đó đưa ra một biện pháp giải quyết, hay thắc mắc đều được ông giải đáp thoả đáng, hoặc chỉ thị cho phần sở liên hệ thi hành, và ông có theo dõi kiểm tra giám sát đàng hoàng.

    -- Chỉ có ông mới là cấp chỉ huy đầu tiên hiểu và lo vấn đề cơm nước cho Trực Thăng. Các anh bay fixed wing thường xong một phi vụ là về nhà, hoặc đi câu lạc bộ ăn uống nghỉ ngơi. Còn hợp đoàn Trực thăng bay đổ quân hàng chục chiếc, có khi phải bay liên tục không nghỉ từ sáng đến chiều tối (hành quân trực thăng vận, diều hâu) làm gì có đủ xe để chở 4,5 chục mạng ra phố ăn cơm ; nên ông có sáng kiến: CLB hằng ngày phải lo cơm nước cho vào gà-men, đến trưa có một chiếc tàu mang cơm đến cho đoàn đổ quân.Việc ấy giúp cho anh em Trực Thăng khỏi phải cơm hàng cháo chợ thất thường, có thời gian ăn uống nghỉ ngơi!

    - Sau khi kiểm tra và tính tóan, ông dám cam đoan, bảo đảm cung ứng đủ nhân viên đi hành quân, nên hằng tuần ông có cho 1 tàu chở nhân viên “OFF ” được về Saigon thăm nhà, cứ tuần tự thay phiên như vậy. Phải nói thẳng rằng ông là một cấp chỉ huy của KQ, thông cảm, có thấu hiểu đến việc làm của Trực thăng biết nuôi dưỡng và xử dụng quân!

    - Quý anh em bay fixed wing ít khi có va chạm với bộ binh, ngoại trừ việc thả bom trật, hoặc lầm vào quân bạn là bị kiện cáo lôi thôi. chứ còn Trực-thăng làm việc chung đụng hằng ngày với quân bạn nên có… rất… rất nhiều cái phiền phức lắm, mà mấy "ông Bự" bên Bộ-binh coi Trực thăng như một công cụ chỉ biết “xài” mà thôi! Có vài vụ ông ÁNH khi hiểu rõ phải trái và phức tạp của vấn dề; dám đứng ra bảo vệ đàn em tận lực, để khỏi bị mấy Ông Gộc đưa ra toà án mặt trận!
    Có một chuyện nho nhỏ mà tôi còn nhớ lúc ông còn là Trung Tá KĐT 74CT, có vài lời than phiền của dân Trực Thăng đến tai ông về việc phải bay ra sân vận động Cần Thơ nằm chờ, túc trực cho ông Tướng Vùng từ sáng đến chiều có khi không bay, mà phi hành đoàn cứ nằm ỳ trên tàu; đến trưa đi ăn mà vội vàng, cũng ngán sợ rũi ro ông Tư lệnh ra đi bay mà không có mặt ở đó, là kẹt lắm…
    Một hôm cũng phi vụ như vậy, ông Ánh làm Trưởng phi cơ, còn tôi là Copilot, đem 1 UH ra sân vận động Cần Thơ nằm chờ, cỡ ½ giờ sau, ông Tướng Tư Lệnh Vùng ra, chúng tôi đứng nghiêm ở cửa máy bay chào ông Tướng, viên sĩ quan tuỳ viên nói nhỏ với ông Tướng là:
    - Có ông KĐT /KQ đi bay hôm nay.
    Ông Tướng chào lại, chỉ liếc mắt không nói gì và leo lên tàu, bay đến Cao Lãnh, ông Tướng lên xe đón đi, mà không nghe để lại lời nào cho phi hành đoàn biết phải chờ bao lâu, đến giờ nào! Chúng tôi lại nằm chờ hơn 2 giờ sau, mới chở ông Tướng bay về Cần Thơ!
    Sau đó ông ÁNH kết luận:
    - Ông nầy quan liêu quá!
    Sau đó ông quyết định là: "khi nào Ông Tướng cần máy bay thì gọi xin theo thủ tục, lúc ấy PĐ mới cho thi thành phi vụ đó, chứ không có cái kiểu cung cấp một chiếc ra túc trực, ăn dầm nằm dề suốt ngày ngoài đó nữa"! Nhờ vậy mà tình trạng có "cải thiện" và được duyệt xét lại, và đó cũng là cái tiền đề mở đầu cho các Tư Lệnh Vùng khác có được biệt phái riêng một Trực Thăng hằng ngày và các bác tài Trực Thăng được cư xử, đối đãi… “phải quấy” hơn! Đó là vài điểm lặt vặt của ông Ánh, thoạt nghe tưởng chừng như rất tầm thường, nhưng đó lại là một đặc tính cần có của vị Tướng, không xa rời cách biệt mà vui khổ trong cái vui khổ của lính! Lối hành xử và việc làm của ông, thấy khác hẳn với mấy ông đã mang Sao rồi!

    Mãi đến khi lên làm Sư Đoàn Trưởng, quân nhân mọi cấp từ thấp đến cao cũng không hề than phiền chê trách ông gì hết, mà chỉ nghe khen và khen với kính nể thôi! Tài năng và bản lãnh nắm một Sư Đoàn phải ra sao, mới được Mỹ tưởng thưởng một huy chương cao quý vào bậc nhất năm 1969 chứ! Tóm lại, nhìn lên nhìn xuống, nhìn ra nhìn vào, so sánh các vì sao ; tôi thấy Tướng Nguyễn huy Ánh sáng chói và đáng nể phục về tư cách , đức độ và tài năng hơn cả!

    *** Đến đây, chắc quý huynh đệ cũng nóng lòng sao thấy tôi cứ lòng vòng hoài, còn.. “vụ Ông ÁNH... ngán tui” muốn chạy… làng sao đây?
    Ờ... ờ... như vậy thì phải giáo đầu sơ vài hàng về chiếc máy bay H34 mới được, vì nó là chứng nhân và có liên hệ vụ nầy. So ra giữa H34 và UH, thì phải nói bay H34 nó mệt hơn và hay, dỡ ở cái tay ga! Cần tay ga nằm bên trái, và vặn lên xuống giống như xe gắn máy vậy. Nó được chỉ trên cái đồng hồ RPM, gồm có 2 kim chỉ: engine RPM và Rotor RPM. Khi bay lên, xuống, hoặc đáp, chở nặng phải điều chỉnh lia lịa, bằng cách vặn ga lên xuống, và đè cần hoặc nhấc lên, làm sao cho 2 kim RPM dính với nhau, và nằm ở mức ấn định, để khỏi bị over boost (hư máy) hay over speed (hư rotor). Cho nên khi pilot bay chung với nhau ; chỉ cần liếc nhìn vào cái đồng hồ nầy khi đáp, hoặc chở nặng khi cất cánh là biết ông pilot đó hay, dỡ liền hà ! Nghe thấy đơn giản vậy, mà cũng tức cười là có một đàn anh, khi bay bình phi không biết đang mơ màng, hay thả hồn thơ thẩn thế nào mà bị over boost (nghĩa là tay cứ nhè nhẹ nâng cần ga lên hoài, vượt quá manifold pressure [=torque bên UH] cho phép, mà không màng để ý đến kim engine tuột xuống) ….

    Nhớ lại, tôi về trình diện PĐ 211 (H34) Thần Chuỳ đóng tại TSN, do ông Thiếu tá Ánh là Chỉ huy Trưởng PĐ. Mấy tháng sau tôi được ông Thầy Ánh bay huấn luyện, ông ngồi ghế trái, tôi ghế phải và vùng huấn luyện ở Phú Lâm! Sau hơn một giờ bay tập đáp, cất cánh, làm auto… v.v.. về đáp tại parking Heliport. Tắt máy bằng cách cúp ga, vặn tay ga về phía phải, đồng hồ RPM cho thấy 2 kim tách ra, kim engine RPM từ từ rớt xuống, máy nổ nhỏ ; còn kim Rotor Rpm cũng rớt xuống, cánh quạt quay chậm lại, cần hoà khí Mixture kéo về giữa vị trí Idle, chờ máy nổ về ở mức “ralenti” kéo mixture về “Off”, tắt diện là xong, cánh quạt còn trớn quay chậm... mặc kệ nó. Ngay lúc chờ máy về ralenti đó, ông ÁNH xách nón bay, leo ra cửa để xuống. Còn tôi ngồi đó làm thủ tục tắt máy như lệ thường. Tôi nóng ruột muốn cho máy về ralenti cho lẹ, thay vì vặn ga về phải một lần nữa; mà không biết “ông bà” , “ cô cậu” gì nhập, “hay bị... gì bắt”, tôi lại vặn ngược ga về trái, máy rú lên! Phải công nhận lẹ thiệt, nghe một cái rột, đã thấy ông Ánh ngồi yên vào ghế, Ông Thầy la:
    - Cái gì vậy??
    - Dạ, bị lộn mép!
    - Đừng lộn vậy chớ!

    Ổng lại leo xuống và tôi ngồi đó vừa tức cười vừa xấu hổ. Vào phi đoàn ông briefing những điểm còn non yếu trong lúc bay tập, chứ ông không đá động gì cái…"lần lộn" của tôi hết !Dẫu sao đó cũng là một kỷ niệm, tôi làm ông giật mình, và tôi nhớ mãi đến ông Thầy! Rồi lần bay huấn luyện tiếp theo, qua kinh nghiệm trên, chắc ông cũng còn… ngán tui, nên khi về đáp tắt máy, ông vẫn ngồi chờ máy hết nổ, rồi hai Thầy trò mới leo xuống khỏi máy bay! hi hi hi...
    Và những lần bay huấn luyện sau đó, chắc ông cũng để tâm, coi chừng hơn vì ông cũng… ngán hành động “sảng”của tôi, không biết đâu mà lường trước được!
    Đấy tôi có nói ngoa đâu! Đến đây... chắc có vài vị nói thầm trong bụn : bố khỉ đúng là nghịch (ngợm) nhỉ! làm ta cứ tưởng…!

    Thay lời kết:

    Thưa quý vị bạn đọc, qua bài viết khá dài thêm những “râu ria” vòng vo... nhưng tựu chung một mục đích là đến giờ đây chúng ta cần ghi lại, cần nói ra những sự thật đáng kính phục, về những người anh hùng, tài ba thật của dân quân miền Nam, để cho những thế hệ mai sau thấy và họ đừng lầm lẫn lạc vào mê hồn trận của bọn cộng sản đa ngôn xảo trá; đang dành lấy và cho rằng chỉ có họ mới giỏi, hay, đẹp mà thôi!

    Tôi tin rằng anh linh của Tướng Ánh thấy được tấm lòng và thành ý trong sáng của tôi, sẽ mỉm cười tha thứ cho kẻ bất tài, dùng xảo thuật mượn danh của ông để lôi kéo sự chú ý của người khác, và tôi cũng tin rằng chư hiền huynh, hiền đệ đang mài dao định... “xẻ” tôi, vì tội dám lộng ngôn, phạm thượng uy danh của một vị Tướng khả kính; đến phút nầy cũng thấy hiểu ra và phì cười ném dao đi, thay vào đó cầm bút viết bổ túc những điểm kỳ tài của ông Ánh; mà quý huynh đệ đã gặp, thấy! Mong thay!
    *

    NGHỊCH_NHĨ
    Last edited by Tinh Hoai Huong; 05-31-2017, 01:12 AM.
    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

    Comment


    • “NƯỚC” Mất, thì “Đổi Đời"






      “NƯỚC” Mất, thì “Đổi Đời"



      Hội. Họp. Hành liên miên… Sau ngày đất nước "đổi đời" 30 tháng Tư... thì liên tục tại thôn Ấp, (nơi gia đình tôi đang trú ngụ), một tháng có ít nhất bốn ngày buộc dân phải đi họp Tổ, nếu không họp Tổ, thì đi họp Ấp: suốt từ năm 75 đến năm 93. Không đi thì lãnh thẹo á. Nhà nước không cấp phát phiếu mua dầu hôi, mua gạo, mỡ, đầu cá, đầu tôm ươn sình, đã đành. Mà dân còn bị phạt đi làm “công tác chùa" điạ phương không tiền công! Ai ai cũng sợ, ban ngày cùi cụi đi làm nông, làm vườn vất vả khó nhọc, ban đêm phải đi họp ở dưới thôn ấp mình, mỗi người mang theo một cái đòn, chiếc chẹ, hay đoạn chiếu cũ! Ai không có, rút dép mòn kê dưới mông, hay ngồi bệt xuống đất.

      Phần tôi, do họ biết tôi có chút xíu "trí thức", nên mỗi lần bà Trưởng Ấp đi họp trên thành phố nhà Hồ, hoặc các miền "giao lưu văn hoá" khác, thì tôi phải lẽo đẽo đi theo bà, ngỏ hầu ghi chép khi họ "báo cáo", đi làm “công chùa” mút chỉ cà tha. Họ vắt cạn kiệt sức lao động con người như vắt miếng chanh hết nước. Hôm nay có "bàn hội nghị" tại thành Hồ, trước khi họp, cán bộ chính trị trịnh trọng dõng dạc hô:
      - Toàn thể "rân" chúng đứng "nên", để tôn vinh tưởng "liệm" Bác:
      Bác Hồ ta thật vẻ vang
      Đang từ khỏe mạnh chuyển sang… từ trần
      (2)

      Sau đó từ từ họ chuyển tông sang:
      Cùng vào lăng bác đi cầu
      nguyện cho thân quyến vừa giàu vừa sang.
      (2)
      Sau đó nữa, cán bộ quơ tay ra dấu cho dân chúng lần lượt ngồi xuống, giải thích về việc bầu bán:
      Ta đi bầu cử tự "ro"
      Chọn người xứng đáng mà cho vào hòm
      (2)

      Cán bộ chính trị trên thành phố xuống chủ trì (ngoài Bắc vô Nam) ông đứng dậy hân hoan vui vẻ trịnh trọng chống nạnh, nói:
      - Hôm "lay" nhà "lước" ta nhiệt "niệt" chào mừng các đoàn đại biểu từ khắp "lơi", đến tham "rự" hội thảo: Trước hết tôi "rới" thiệu:

      1.- “Đoàn Việt "Lam" (Nam) ” có rân tộc Thiểu số trên Cao Nguyên vùng sâu vùng xa về:
      Lò Văn Tôn.
      Cú Có Đeo.
      Lừa Song Phắn
      Nông Đức Đai
      Bạc Cầm Cu

      2.- Đại biểu Cộng Hoà Rân Chủ nhân rân Nào (Lào):
      Tay Xỏ Mông Thum Thủm
      Vay Vay Hẳn Xin Xin Hẳn.
      Hắc Lào Mông Chi Chít.

      Xăm Thủng Kêu Van Hỏng.
      Teo Hẳn Mông Bên Phải.
      Ngồi Xổm To Hơn Hẳn.
      Đang ị Lăn Ra Ngủ.

      Lông Chim Xoăn Xoăn Tít.
      Say Xỉn Xông Dzô Hãm.
      Ôm Phản Lao Ra Biển.
      Cu Dẻo Thôi Xong Hẳn.

      Cai Hẳn Thôi Không Đẻ.
      Xà lỏn dây thun giãn.
      Xà Lỏn Dây Thun Lỏng
      Y Hẳn Tay Xin Đểu.

      Leo Tủ Ăn Đu Đủ
      Ăn Tỏi Xong Bum Bủm

      3.- Đại Hàn Rân Cuốc (Xẻng):
      Chim Sưng U.
      Nâng Su Chieng.
      Kim Đâm Chim.

      Pắt Song Híp.
      Chơi Xong Dông.
      Eo Chang Hy (y chang heo).

      4.- Nhật Bản:
      Xa Ku Ta ra.
      Ta Cho Ku Ra.
      Cu ta ta xoa.

      5.- Niên Bang Xô Viết :
      Cu Nhét Xốp.
      Cu Dơ Nhét xốp.
      Nicolai Nhai Quai Dep.
      Ivan Cu To Nhu Phich.

      Trai Cop Xờ Ti.
      Mooc Cu Ra Đốp.
      Ivan Xach Xô Vôi.

      6.- Ncraina:
      Nâng Cu Lên Cô.

      7.- Rumany:
      Lo Nhet Cu.
      Lôi Cu Ra Đốp.

      8.- Trung Quốc:
      Bành Tử Cung.
      Quách Vô Hòm
      Đại Cường Dương.

      9.- Đài Noan (Loan):
      Kim Xuyên Quần.
      Hà Ra Kinh.
      . . .

      Một lần khác tôi và bà Mừng đi họp tại huyện Củ Chi: sinh hoạt, bầu bán, đả thông tư tưởng, quán triệt đường lối, thi đua, nâng cao sản xuất. Đảng lãnh đạo. Nhà nước quản lý. Nhân dân làm chủ... Kho Bạc thì... "nhà lước ta phải quản ný" mệt nghỉ! Ngoài trưởng, phó, thư ký, an ninh, công an khu vực ra, họ có ghế ngồi chung quanh một cái bàn và ghế dài cũ. Hầu như hôm nào cũng có vài ba cán bộ ngồi kiểu nước lụt, chò hỏ như con khỉ đánh đu, họ co một chân trên ghế, thờ ơ bỏ báng súng xuống bàn, tôi tưởng hắn đang chiả súng tới đám đông làm một phát “đùng”.... mà lạnh cả gáy! Có “vị” vừa nói vừa ngồm ngoàm nhai bánh mì nhồi thịt, uống nước ừng ực, cũng bàn tay ấy giơ lên hỉ mũi rột rột, rồi lau vô vạt áo. Coi “vô tư”, “nịch xự” và "bình rân ráo rục" sao đâu á!

      Bỗng nhiên, chẳng hiểu có ông bô bà lão, cô bác già nua bệnh tật nào mà "mất lết", mất na, mất danh, hoặc mất trí; vị ấy đã bị lỏng ruột già, yếu ruột non chi chi đó, nên vị ấy đau bụng đau bão, cố ôm bụng nhịn cơn xì té khói... mà không thể. Ui! không thể chống chọi với “cơn bão lòng”, đã “tịt… ti… xit…” ra một tràng rõ dài và rõ to: bũm bũm bũm... xịt xịt xì.... dài dài dài… (nghe như củ cà nông đại pháo, thời mấy ông Tây bà đầm xí xô dắt nhau ỏng ẹo tràn qua nước ta). Tiếng bũm... xịt... bay theo gió nồm rõ to, và trời quơi! ren mờ thối um! Khiến cả hội trường bịt mũi, phải “tốc hành” xô nhau giạt qua một bên, né sang hướng không “cuốn theo chiều gió”.

      Mặc ông trên bàn chủ toạ rống tên các “vĩ nhân” thao thao bất tuyệt ra. Dân ngồi bệt dưới đất ôm bụng cười bò lăn bò càng. Họ bưng mồm, bịt miệng đồng thanh cười ầm, xôn xao náo loạn. Cán bộ chính trị đang thao thao bất tuyệt, đã dừng lại, im phắc, lỏ mắt, tức giận giơ nắm đấm đập mấy phát xuống bàn, quát:

      - Ai đã “đánh rắm”, nghe hãi thế hở???
      Hội trường nín khe im re, cũng có sợ bị cán bộ quở, hoặc bắt phạt đi lao động đó. Cán bộ chính trị mặt vẫn đỏ gay, hắn là một cây sừng sỏ có nhiều tham vọng, tuy cà lơ phất phơ, nhưng hắn cần đánh bóng cuộc đời, bất chấp tất cả để đạt đến mục đích, hắn muốn hành động một tay che trời. Đầu trên thôn dưới ai mà chả biết hắn chỉ là thùng rỗng kêu to, mặt mũi sĩ diện nào ngồi chung với chúng tôi, như thế chẳng khác chi lòi cái đuôi ngu dốt, làm sao mà trị dân! Nói trắng ra là con đường tiến thân của hắn bước dần vào ngỏ cụt đang cố trườn lên. Hắn xỉ xỉ ngón tay vô đám đông:
      - Tôi hỏi "nại": Tôi đang "riảng" về "ný" thuyết ưu việt của Bác và Đảng. Thế tại sao... ai đã "rùng" thủ thuật đấy để phản đối, hử! Cút xéo khỏi đây ngay!
      Nhiều tiếng xì xầm to nhỏ bàn tán vang lên đó đây. Cuối cùng có một bà chính cống là “nhà giáo, nhà nhạc, nhà văn, nhà buôn, nhà cái, nhà đá, nhà giam, nhà hát, nhà giao lưu dzăn hoá” Toàn là thứ NHÀ, nghe oai và thứ dữ không hà. Bà ngoại tuần khoảng năm "mưi" mấy bó… bà đang xiả cục thuốc, chà qua chà lại lia lịa trên hai hàm răng, rồi bà nhéc bên kẽ môi trên. Khi bà ta nói thì cục thuốc to nhấp nhô, coi hay hay và ngộ ghê:
      - Tui hỏi chút xi: cán bộ giảng về bài học cách mạng, và hỏi: ai đã “đánh rắm”... là cái điều luật thứ mấy của đảng dzậy?
      - . . .
      - Chị kia bảo "rì" đấy nhỉ!
      - Bởi vì: Thiệt tình là ngôn ngữ hai miền khác nhau, tui không hiểu gì á cán bộ. Giống như những ví dụ sau đây nè:
      Nam rờ bông Bụp. Bắc vuốt “Tường Vy”
      Nam nói: “mày đi”! Bắc hô: cút xéo.
      Bắc bảo: cứ véo! Nam: “ngắt” nó đi.
      Bắc gửi phong bì. “Bao thơ” Nam gói

      Nam kêu: muốn ói. Bắc bảo: “buồn nôn”!
      Bắc gọi tiền đồn. Nam kêu “chòi gác”
      Bắc hay khoác lác. Nam bảo “xạo ke”
      Mưa đến Nam “che”. Gió ngang Bắc chắn

      Bắc khen giỏi mắng. Nam nói “chưởi hay”.
      Bắc nấu thịt cầy. Nam thui “thịt chó”.
      Bắc vén búi tó. Nam “bới tóc” lên
      Anh Cả Bắc quên. Anh “Hai” Nam “lú”
      (3)

      Cán bộ chính trị ớ ra một lúc, ngẩn ngơ nhìn trời hiu quạnh, rồi la:
      - Chị kia, cố tình trêu ngươi tôi đấy phỏng?
      - Ông ui. Tui không hiểu nữa rùi, ông nói: “đánh rắm" dzà "trêu ngươi” là gì?

      Cán bộ mặt đỏ tía tai hầm hầm tức giận đến cực... điểm, hai bàn tay xoắn xuýt lấy nhau, hắn vụt đứng bật dậy đi lui đi tới. Trong khi đó có một cán bộ khác đang ngồi chò hỏ kiểu nước lụt, ông ta chống hai tay lên cằm, ngó bạn cười ha ha:
      - Dân miền Nam như chúng tui không hiểu chữ “đánh dắm” của đồng chí đâu. Nếu đồng chí nói là: “địt”, thì họ hiểu, biết ngay.
      - Có "rì" mà chả đả thông tư tưởng hở: “Đánh dắm” hay "nà đánh rắm”... thì có nghĩa: muốn khỏi uất sình hơi trong ruột, trong bụng, ta cứ để cho nó tự "ro", cho hơi trong ruột hân hoan thoát ra "nỗ" đít, bay ra ngoài trời “thái mái”. Có thế mà không hiểu. Dốt thật!
      Một ông lão “lao động là vinh quang” nông dân bấy giờ ngà ngà say, cóc sợ ai, ông ngồi bệt dưới đất, bèn thong thả lên tiếng:
      - Dzậy chớ còn chữ “trêu ngươi” là gì, cán bộ nói đi, cho tui học nữa, cho dzui.
      - Trêu ngươi tức "nà": cố ý chọc tức, không kiêng nể "rì", khi tôi đang "rảng" bài, và “đả thông tư tưởng” đấy. Hiểu ra chưa. Cố tình chưa hiểu, "nà" chống đối cách mạng đấy. Ông bảo cho mà "niệu" thân nhá.

      Bà già xồn xồn giáo sư Văn kia trở thế ngồi cho ngay ngắn, bây giờ bà lại khúc khích "cừi cừi":
      - Bởi “dzì” cán bộ nói không “gõ gàng”, nên tui có thắc mắc xi. Chèn quơi, chừ hiểu rùi, đồng chí!
      - Ai là đồng chí với bà, mà "nải" nhải.
      - Ồ... xin lỗi cán bộ, tui già cả ưa “guên”! Dzậy ra tui là đồng rận! thì:
      . . . Bắc nói trổng thế thôi. Nam bâng quơ “dzậy đó”
      Bắc đan cái rọ. Nam làm “giỏ tre”.
      Nam không nghe “nói dai”. Bắc chẳng mê lải nhải
      Nam “cãi bai bải”. Bắc lý sự ào ào
      Bắc vào Ô tô. Nam vô “xế hộp”
      Hồi hộp Bắc hãm phanh, trợn tròng Nam “đạp thắng”
      (1)

      Một cán bộ miền Nam khác ghé tai qua cán bộ chính trị miền Bắc “cừi cừi”:
      - Bà kia là một “giáo sư dzăn-chương”, bả đã đi dạy trên Sè Gòn, nên xổ cả chùm nho, chùm thơ, bả dám đấu hót "dzới" cán bộ, chẳng “goa” là có chồng làm khá lớn, con thuộc "dzề" tầng lớp liệt sĩ trong Nam, rất có công "dzới" cách mạng đó.

      Cán bộ chính trị dịu giọng, liền lãng qua chuyện vẩn vơ khác cái rụp. Thế là vô tình buổi họp biến thành buổi đối đáp thơ tiếu lâm, vui ơi là vui “hả hê” nhất từ xưa tới nay. Ai ai cũng có nhen nhúm chút xí hân hoan khoan khoái cởi mở tấc lòng. Tôi ngồi bệt dưới đất gục mặt lên hai đầu gối nhô cao mà nực cười, nhìn một cánh tay liệt của cán bộ Mưu luôn đong đưa, lúc lắc, thân hình y nghiêng nghiêng qua một bên, ông ta lê từng bước cứng cỏi, nặng nề. Đi lui đi tới, ổng mang không vừa đôi dép râu nhỏ hơn khổ chân, nên ngón út ương bướng chìa ra ngoài, cọ quẹt xuống đất, trông dễ gai hết sức. Tôi nhìn lom lom vào ngón chân út “giao liên” xuống đất của ổng, ngón chân chìa ra chả khác nào lưỡi cày bấm sâu xuống nông trường Nhị Xuân, nơi vắt cạn kiệt sức lực người dân đen đến giọt mồ hôi cuối cùng. Trong tranh tối tranh sáng, khi tiếng ếch nhái, ễnh ương tưng bừng kêu ộp oạp, uồm uộm… tiếng dế gáy ré ré, tiếng ve sầu rã rích than van, tiếng muỗi vo ve đốt sưng đít, dân mất của mất công, mất tất cả mọi thứ trên cuộc đời ô trọc, mà phải ngồi xổm xép de dưới đất tới hơn 12 giờ khuya, nhìn lên:
      Hội trường yên ắng ngủ say
      Thuyết trình vừa dứt, vỗ tay ra về.
      (2)
      * * *

      Bằng hai bàn tay thô cứng, dân vét rạch, đào kinh, dẫn thủy nhập điền, trồng thơm, trồng mía, trồng ngô, khoai, trồng dưa leo, bí bầu… Ôi! Đủ thứ trồng trồng… trọt trọt… hầm bà làng xí cấu.
      Hoan hô các cụ trồng cây
      Mười cây chết chín, một cây gật gù
      Tụi bay có mắt như mù
      Mười cây chết cả, gật gù nỗi chi…
      (mà thi hành). (2)

      Thì, một năm nhà nước sẽ ưu ái bán cho mỗi hộ dân hưởng đặc quyền: Mua ít bánh mứt tẻo teo, gạo mắm, tí đầu cá, đầu tôm, xà bong, bột ngọt. Nhất là mỗi hộ chỉ có vài mét vải hoa hoè, hai mét vải dù quần đen (mà đàn bà rất cần) cho cả gia đình. Mẹ già héo hắt đi mót lúa ở ngoài đồng, cần có cái che đít che húm... cho đỡ xấu hổ. Tôi ở nhà đôi mắt mờ lệ, hai tay mỏi nhừ đang giặt bọc, hai chân đau nhức đạp bọc ni lông. Tôi chỉ mặc “cái khố xì xịp líp”. Nếu có ai lạ bất thần vào nhà, nhà không có cửa khóa then gài, thì tôi vội vàng bụm húm lại, cười ruồi! Các con trai lớn tồng ngồng cũng trần truồng như nhộng. Khỏi mặc quần, nước dơ bám vô, quần áo mỗi người chỉ có hai bộ, mặc bộ nầy giặt quần áo chưa khô, lại thay và mau rách sẽ hoài phí đi.

      Ở ngoài vòng tù ngục bao la thì như thế. Bên trong vòng kẽm gai với hầm hố và cornex, thì những bạn tù của chồng, và chồng mình đớn đau cơ cực gục đầu trên gối bó cao: Dù đói khổ nhọc nhằn đến vậy, mà tôi vẫn nghe con trai ngồi một góc, ôm cây đờn guitar khảy những điệu nhạc cuả chú bác ở trong trại tù “cải tạo” tập trung, hờn đau buồn thảm, nghe thật não nề.

      Có những lúc ngó sâu trong thinh lặng
      Thấy quê hương vẫy gọi từ trùng xa
      Ôi thân trai! Ôi nợ nước tình nhà!
      Sao cúi mặt loanh quanh đời cơm áo?

      Có những lúc đắm chìm trong áo não
      Sống một đời vô dụng, kẻ tha hương
      Nửa đã qua, nửa còn lại chán chường
      Như cát bụi đang chờ ngày hóa kiếp!
      (TPKW)
      * **

      Tệ Trạng Xã Hội: thời 75 > 93, tôi trở thành tội-đồ ô-danh nhất chế-độ, chỉ vì tội: “con vợ-ngụy” hồi xưa giàu có sang trọng, có xe hơi Peugeot 404 láng cón mới toanh, có nhà ba tầng lầu đúc bê tông cốt sắt sâu 40m rộng 5m, nền lót gạch bông loại đắt tiền, trong nhà trang hoàng tươm tất nhưng trang nhã và thanh lịch, không rườm rà kiểu cách. Bởi ngày xưa do tự bốn bàn tay siêng năng & thanh liêm (tôi và chồng), dù chỉ có bốn bàn tay cần cù chăm chỉ, mà tạo thành cơ ngơi sáng giá, có vốn liếng dành dụm làm thiệt ăn thiệt.

      Ngày nay “giải phóng” tự do hòa bình rồi, tôi (và 4 con, cộng 1 mẹ chồng già, vị chi có sáu cái đầu, 12 bàn tay, 12 bàn chân) hết sức “lao động là vinh quang” làm lụng vất vã, khổ cực hết biết! Sáu người đông đúc thế mà... không thể có cái ăn, cái mặc cho ra hồn; Chúng tôi nỡ lòng nào bêu rếu chế độ, vì đói khát rách rưới tả tơi, luộm thuộm thảm thê. Thiệt là mắc cỡ cho chế độ xã hội chủ nghĩa dân chủ cộng hòa! để nhà nước giải phóng dân phải cho đứng xếp hàng chầu chực suốt ngày mà mua:
      Một năm hai thước vải thô.
      Nếu đem may áo cụ Hồ ló ra.
      May quần thì hở lá đa.

      Chị em thiếu vải hóa ra lõa lồ.
      Vội đem cất ảnh bác Hồ.
      Sợ rằng bác thấy tô hô bác thèm.
      Có áo mà chẳng có quần.

      Lấy gì hạnh phúc hỡi dân cụ Hồ?
      Có đói mà chẳng có no.
      Lấy gì độc lập, tự do hỡi người?
      (2)

      Không ai thân thiết ngọt ngào hơn ba tấm mền bao cát của Mỹ ra đi đã để lại cho gia đình tôi dùng chống lạnh mỗi độ đông qua xuân về! Dáng xuân phơi phới vô tình dày xéo lên tâm tư tôi những bất mãn, chua xót và ước mong. Tôi không dám tin ai, không dám hy vọng, không thể dựa vào đâu để sống lê lết qua chuỗi ngày đói rét cơ cực còn lại. Tôi thấp thỏm lo âu, trông ngóng từng giờ phút, từng ngày... sẽ có một tin lành đến. Hằng đêm tôi quỳ dưới đất, chấp tay cầu mong những người đã vượt thoát ra đi ở bên kia bờ đại tây dương, hãy mau mau quay về... cứu cánh, hãy giải phóng quê hương, và chính chúng tôi thoát khỏi cảnh đời cay cực, lầm than khổ sở, vô vàn điêu đứng. Dẫu niềm hy vọng mơ hồ quá mong manh và tê tái...
      “Qua cầu ngả nón trong cầu.
      Cầu bao nhiêu nhịp, dạ em sầu bấy nhiêu”.
      (2)

      Mạng lưới y tế vệ sinh ở Quận, Huyện, Thôn, Xã, Ấp: (sát nách thuộc thành phố Hồ Chí Minh) nơi gần thành thị mà còn tệ như thế, chứ chả phải nơi vùng quê xa xa, hầu như càng thấp kém, xuống thấp trầm trọng. Trong khu xóm đã phát sinh ra bệnh dịch tả, sốt rét, ho lao, bệnh xã hội lây lan phát triển nhanh chóng. Dân đến bệnh viện nhăn nhúm rên siết đứng ngồi la liệt. Thiếu bác sĩ trầm trọng, dù họ làm việc tối mặt tối mày, vẫn không có giờ nghỉ ngơi. Gia đình bệnh nhân theo toa bác sĩ phải mua thuốc ở ngoài vào, vẫn khó khăn. Hầu hết các nơi không có thuốc kháng sinh. Tại các phòng trên thành phố ở Chợ Lớn, người Hoa chân chất thật thà, mà nè… họ ăn ngay nói thẳng, thẳng như ruột ngựa, họ xí xa xí xô khua tay “múa... mỏ” phản ứng bộc trực. Dân nói dân nghe, cán bộ học lóm chữ “tô chè” thản nhiên coi như pha, chứ có ai hiểu mô tê răn rứa chi tề.

      Bệnh viện miền quê cũng thế, mỗi cái gường chiếc có tới bốn người, kẻ nằm xuôi, người nằm ngược, “con bệnh” lây lan từ người nầy sang người khác vụt nhanh. Muốn khám bệnh, tôi phải viết tờ đơn trình Tổ-trưởng ký, rồi chuyển lên chờ Trưởng Ấp là bà Mừng già khoảng 65t chờ đợi một hai ngày bà "quan liêu" mới ký. Tôi lại đi bộ lên Huyện Hóc Môn đứng xếp hàng, chờ xin xác nhận chữ ký của “Tổ và Ấp”. Sau đó tôi chạy qua bệnh viện xếp hàng, chờ nộp tờ đơn có đầy đủ ba nơi ấn ký. Đau ốm liệt giường cũng trải phải qua thủ tục quá rườm rà, phức tạp trên. Nếu phải chờ đợi ba bốn ngày khi bệnh nhân đang ngáp ngáp, cũng chịu! (có khi cả tuần kẹt rơi vào mấy ngày Tết, lễ, thì ôi thôi...) mới có giấy chuyển cho đi trình “cửa quan”. Nếu không có bất cứ đơn từ, hộ khẩu, giấy chứng nhận của các cơ quan trên, nhất là giấy chứng nhận tôi đã đi bầu cử, giấy tôi lao động tốt, không có “thủ tục đầu tiên” đóng đầy đủ. Thì, đừng hòng mà vô bệnh viện.

      Tôi có chết, cứ coi như con chó chết ngoài “diện và tuyến” của họ. Người nghèo tất nhiên giống hàng chó ngựa mà thôi. Cũng phải! Chó ngựa, nên mẹ đi nuôi con đau ốm ở bệnh xá phải nằm ở dưới đất sát bô cứt đái, cạnh ống nhổ toàn đờm và máu. Không thiếu gì bệnh nhân, sản phụ bị lây bệnh trầm uất hậu sản. Sự hèn kém, nhọc nhằn, đói khát, đau yếu đến rất vội với những mái đầu bạc nhanh trước thời gian. “Lương y như tử mau”. Thời gian đầu của 75 – 85: Dù đã 10 năm rồi mà đâu vẫn hoàn đấy! Đó là nét kinh dị vô cùng của y sĩ cắt ké ở Thành và Huyện, “bác xỉ” có tuổi đảng từ miền Bắc “tha” vào Nam; không qua kinh nghiệm đào tạo ở một ngành chuyên môn nào sớt. Con cút muốn vỗ cánh bay lên đọt cây làm con phượng hoàng mà! Cho nên có không ít người dân ngu khu đen vùn vụt đâm đầu lao xuống âm tào địa phủ oan mạng!
      * * *

      Do:
      CÁI HỘ khẩu bày, CỐ HẠI dân.
      HỘ KHẨU từ nay HẬU KHỔ dần.
      HỠI HỒ chủ tặc, khi HỒ HỞI.
      ÐỘNG CƠ bốc lột ÐỢ CÔNG nhân.

      CÁN MẠCH nhân quyền, nào CÁCH MẠNG.
      CHỈ TRÙ dân tộc, CHỦ TRÌ bàn.
      THƯỢNG THỜI bán nước, ngay THỜI THƯỢNG.
      CHẤT LƯỢNG bạo quyền, CHƯỚNG LẬT gian.

      - Hành chính & quản lý - trong đó có:

      - Đổi tiền lần thứ nhất: ngày 2/9/1975- là đổi tiền của Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam ra tiền xu của bác Hồ. Chiếu theo đó đến ngày 22 tháng 9 năm 1975: thì tiền Việt Nam Cộng Hòa 50$ bị cấm lưu hành, phải đổi sang tiền xã hội chủ nghĩa. Tiền mới có giá: 10 xu, 20 xu, 50 xu. = 1 đồng, 2 đồng, 5 đồng, 10 đồng, 50 đồng.

      - Sau ngày 21-3-1978, một số lớn cán bộ ập vô từng nhà lục soát, kiểm kê từng món, từng hiện vật, qúy vật, kiểm kê toàn bộ tài sản tư sản mại bản ở miền Nam, lục lạo mọi ngỏ ngách, không sót chỗ nào.

      Đổi tiền lần thứ nhì: ngày 3/5/1978.- Sài Gòn - Chợ Lớn đầy những ông bà tai to mặt bự giàu kếch xù ngày trước, chộn rộn, bồn chồn, lo lắng, run sợ như cầy sấy. Không chỉ những nhà giàu mới run rẩy, mà cả cả nước đều rúng động. Chả biết ngày nào đến lượt ta bị “các ông bác” dòm đây? “Ông bác X” bặm trợn ở thời buổi nầy to bự hơn ông Nghè ông Tỉnh ưa rình mò nghe lỏm chuyện tư gia người khác, rồi tinh ranh ma mãnh một mạch xồng xộc vô cửa sau ra cửa trước, hoạnh hoẹ giở từng cái nồi, coi nhà ai có nấu rẽo bầu, nhóm bí rợ với nồi bo bo độn ba phần sắn kí cóp bòn nhặt không, có mẫu gạo tẻo teo nào không.

      Thấy mà phát bực vì những xính vính cơ cùng đổi thay thật chán chường thân phận xã hội chủ nghĩa. Tôi chỉ muốn chết dúi ở xó góc tồi tàn cho xong kiếp người! “Bác” vếu váo xì xào ngồi lê đôi mách dòm ngó kẻ khác đang xính vính, bác mới hả cơn giận thù nghịch nguồn cội thấp cao ở hai miền Nam Bắc phân tranh thê thiết bao năm. Hãi hùng vì những chính kiến thù hận nguồn gốc ông cha dội ngược vào lòng tôi, mà ai ai cũng im thin thít. Dân miền Nam có xí của cải cất dú đi đâu cho thoát khỏi những đôi mắt cú vọ. Hở Trời? Từng cơn đau và nỗi sợ hãi dày vò từ người nầy lan nhanh qua người kia, nhưng ai nấy đều câm như hến, không dám kêu rêu nửa lời. Dù đảng và nhà nước chẳng hề mất một viên đạn nào, chả thèm bắn phát súng thị oai nào, thế sao mình vẫn run như cầy sấy!?

      - Đổi tiền lần thứ ba: ngày 4/9/1985 - với hối xuất 1 đồng mới = ăn từ 1 đến 10 đồng cũ, (tùy theo trương mục tiết kiệm), mỗi gia đình chỉ được đổi 2.000 đồng, còn lại bao nhiêu phải nộp vào trương mục ngân hàng, chờ xét. Úi Trời ơi! Có biết bao nhiêu người mất trắng tay, họ đã tự tử bằng độc dược, chết toi cả! Người ta càng rùng rợn hơn là thấy nhà giàu mất tất cả, họ nổi khùng nổi điên, dám “can đảm” (oai hùng hơn những anh lính Nhảy Dù Việt Nam Cộng Hoà). Vì sao hơn? Dạ thưa... vì họ chẳng cần mang dù mang dây chi hết, họ cứ nhảy đại xuống đất ạ. Họ nhảy từ trên cao ốc cả chục tầng xuống đất, bể đầu nhăn răng trợn mắt hộc máu chết tươi. Không biết thuở trước đám dân đen nầy có đi lính Nhảy Dù không cà? Mà họ bạo gan bạo phổi “yên hùng” quá sá chừng! Tôi bái phục dập đầu xuống đất mà cung kính nghiêng mình chào những vị anh hùng chân đất khả kính!

      Tôi đã chứng kiến tận mắt cảnh một người đàn ông treo tòn ten trên cột điện cao thế, ông đang thủ-thỉ thù-thì lảm nhảm với ai đó. Ui cha! Chắc chắn là ông ta bị điên, khi thằng con ngu dại đã trèo lên lấy cắp dây điện đem đi bán, nó đã bị điện giật chết toi, mà ông không thấy, không sợ, không chừa sao? Ông đã già khú đế lại bắt chước trai trẻ làm chi, ông trèo lên đấy phân bua với mọi người về sự sống còn của một thể xác vô hồn, trí óc ngớ ngẩn. Hay là ông ta muốn chia sẻ nỗi đau... tiu nghĩu ngượng nghịu của bà con cô chú ở dưới đất? Họ đang nhìn lên hai chân teo tóp trong ống quần xà lõn tuột tới đì, ở dưới "dòm lên" họ cũng chả thấy cái tóp teo chi chi mô!

      Vậy mà khiến cho không chỉ những người giàu có lo sợ và cả những thôn xóm ấp làng xã... đều rúng động. Chả biết ngày nào đến lượt ta bị “các ông bác” sẽ có lần "dòm" đây? Ai có xí của cải thì trong bụng đánh lô tô, mắt dòm chừng ra cửa, chờ khi có ánh trăng thượng huyền, thì cất dấu thu dú vô nơi kín đáo, cầu mong sao thoát khỏi những đôi mắt cú vọ. Hở Trời? Người ta tụm trăm tụm ngàn, bàn tán xôn xao về thảm trạng tự vận:
      - Coi ổng khờ câm à. Vậy mà cháy nhà mới lòi ra mặt chuột.
      - Giàu xụ ha.
      - Mất hết, tiếc của hùi hụi, ổng nhảy lầu là phải!

      Không có tài chính, thì dân chẳng thể làm kinh tế, cồn cào đói khát triền miên không cục cựa nhúc nhích, lo cho cái dạ dày réo gọi triền miên chưa xong, lấy đâu ra sức mà làm đầu tàu phản đối hoặc làm cách mạng "phẻn động" nhà nước nỗi. Ngu gì! Do vậy chẳng ai có thể làm nên xơ múi, cho dù muốn làm cuộc cách mạng, muốn đi “lập nghiệp ở phương trời” cũng đành thua! Hầu bao cuống rún ruột tượng chả còn, thì kinh tế như chuỗi dây chuyền kéo guồng máy xã hội chủ nghĩa ngày càng xuống thấp. Dù có những bảng hiệu mọc lên nghe rất kêu, hấp dẫn vừa thành hình như:
      - Colusa = (Công ty lương thực HCM).
      -Cotevina = (Công ty tem VN).
      - Yteco = (Công ty y khoa, y tế).
      - Hovila, Hovilo... v.v…
      * *

      Thế nhưng mọi thứ "bảng hiệu danh giá cao quý" dần dần cũng xụm bà chè. Việc bắt dân lao động, đóng góp sức lực và tiền bạc, là đưa dân lên “đỉnh cao trí tuệ loài người”. Mà, một nhóm “bình dân giáo dục” ở trên Sài Gòn, dám rù rì… chuyền tai nhau láo pháo về 4 chữ "Xã Hội Chủ Nghĩa" ấy, bằng các chữ viết hoa đầu câu “dệt” sau:
      1.- X H C N = Xạo Hết Chỗ Nói.
      2.- X H C N = Xuống Hố Cả Nước.
      3.- X H C N = Xuống Hàng Chó Ngựa.
      4.- X H C N = Xiết Họng Công Nghiệp.
      5.- X H C N = Xe Hư Chẳng Nổ.
      6.- X H C N = Xế Hư Cứ Nằm.
      7.- X H C N = Xe Hết Chỗ Ngồi.
      8.- X H C N = Xếp Hàng Cả Ngày.
      9.- X H C N = Xấu Hết Chỗ Nói.
      10.- X H C N = Xoá Hết Chữ Nghĩa.
      11.- X H C N = Xâu Hổng Cho Nghỉ.
      12.- X H C N = Xét Hỏi Con Người.
      13.- X H C N = Xã Hội Chó Ngựa...

      Trong khu xóm A, B, và C của tôi thuộc Huyện Hóc Môn: có chừng ngàn căn nhà gia binh hồi xưa, nay đã bỏ hoang. Hồi trước khu trại lính nầy thuộc Liên Đoàn 5 Công Binh Kiến Tạo, phồn vinh, sầm uất vui vẻ, ồn ào không khác gì một thị tứ nhỏ. Nay đa số vợ con lính đều bỏ đi hết, lớp thì về quê móc đất móc đai làm vườn làm ruộng, lớp lo đi kinh tế mới. Bây giờ tại khu xóm này rải rác còn độ hai mươi mấy gia đình “bá vơ tứ cố thân và vô phương” ở mọi nơi, họ đã tập họp tại trại gia binh bỏ hoang trống trước trống sau. Không thiếu gì người đi hôi của, giở tôn xi măng, giở cửa, đập tường lấy táp lô về làm của riêng. Ai có vợ chồng con cái lớn đầy đủ, và có tiền, thì còn làm cửa làm phên, ngăn che căn nhà cho bớt trống trải. Những căn nhà kê ra thành một vòng đai từ hướng Đông, Nam, Tây, Bắc.

      Tuy nhiên trong số dân giả bần cùng kia, có gài lọt vô hai gia đình xem ra đó là thành phần “trí thức và công nhân viên” ở chế độ mới, họ ở đâu được chuyển tới để làm tổ trưởng, tổ phó an ninh của khu vực nầy! Tuy cả hai gia đình ấy cộng lại đếm không đủ trên mười đầu ngón tay, nhưng ai ai cũng khiếp! Đó là gia đình ông bà Hai Bé, và ông bà Tư An. Chồng đi làm vợ ở nhà trông chừng con và dòm chừng dân ngu khu đen! Hai đại gia giàu xụ và nghề nghiệp của họ trong khu xóm nhỏ bé nầy: Dòm ngó bọn trẻ thất học chiếm 87% tỷ số. Đàn ông đàn bà dân đen ăn không ngồi rồi chiếm 94% nên khu xóm tôi rất nhàn cư vi bất thiện.

      Từ cờ bạc “chui”, rượu trà say sưa, vợ chồng chưởi nhau inh ỏi, vui đó cười đó, rồi quay ra xích mích, đánh nhau bể đầu, gãy tay què chân, là chuyện thường. Nạn đĩ điếm tụ họp lại ở khu nhà trống tùm lum tà la. Đúng là “khu ô danh tứ đổ tường” đã xảy ra không biết bao nhiêu chuyện thật đau lòng. Mặc dù trên thành phố đảng cho lệnh phát triển văn nghệ, ve vuốt xuê xoa dân chúng, hầu mong dịu bớt nỗi kinh hoàng. Thì đó; mỗi tuần, mỗi tháng, trong Tao Đàn đều có chương trình văn nghệ, có các tiết mục vui chơi, ca múa, để “Tao đàn; Mày đàn” cho người khác mua vé vô cửa, ngồi bệt dưới đất mà nghe. Mỗi vé từ 5$ sau đó nhảy lên 10$. Lồng vào giờ “tao-đàn” có một hai giờ nhồi sọ dân chúng.
      ***

      Tình Hoài Hương

      (1) = Thơ Bút Tre
      (2) Sưu tầm lượm lặt.

      THH xin cống hiến quý độc giả thân thương của HQPD câu chuyện thật, để cùng nhau chia sẻ mà "cười ra nước mắt"... Đồng thời THH xin phép cám ơn quý vị nhiếp ảnh gia: đã post những tấm hình đầy nhân bản lên internet, cho tôi có thể copy vô bài viết, ngỏ hầu phong phú hoá hình ảnh sống động, và tài đức & nghệ thuật của quý vị.
      * * *

      Tình Hoài Hương
      Last edited by Tinh Hoai Huong; 06-07-2017, 06:02 PM.
      Bút trần nào tả được lưu luyến!
      Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
      Tình Hoài Hương

      Comment


      • Lời Người Tình Phụ & Mail + Chat: Bù Khú






        Lời Người Tình Phụ & Mail + Chat: Bù Khú

        (của ông già gân & bà già khọm).

        Date: Mon, 1 - 26 - 2005 -00:05:34 -0700 (PDT)
        From:
        "Tony Dautry Hoàng" < khanhson2@saigon.vn >
        Add to Address Book Add Mobile Alert
        Subject: Thư mang số # 5.946 *Chuyện MAIL & “CHAT” bù khú.
        To: "Wit Mi Mi" < ti1@yahoo.com >

        *

        Ghi chú CHAT
        :
        - Hoàng Phương Nam (hoặc là thứ Năm) = lời của chàng già gân.
        - Mười (Mi Mi) = lời của nàng già khọm.

        Hoàng Nam.– Hello… Ah! Chào em yêu thương, (từ bi giờ anh phải gọi em là con mèo Mi Mi của anh nha): Thời gian trôi qua dài quá dài... thăm thẳm sau 45 năm vợ chồng tan hợp rồi hợp tan, mail nầy anh em mình kể chuyện bù khú linh tinh cho vui cửa vui nhà, em nhen:
        Hôm đầu tháng Giêng, anh bị con “vòi vọi” to như con bọ xít, thân đen bóng, cánh cứng, có vòi như cây kim cong cong, nhọn hoắt. Nó có bốn chân, và hai cái râu, từ dưới gầm giường nó bò lên nệm. Thừa lúc anh ngủ say, nó chích anh mấy phát. Ui! cái trán sưng chù vù, cứng ngắt và ngứa ngáy, nhức nhối kỳ lạ. Gần cả tháng rồi, vẫn đau nhức, trán vẫn u, sưng tấy lên và ngứa lắm. Vậy mà em còn chọc quê anh là “mọc sừng” ha. Giận thì thôi.
        Mười, (tự Mi Mi).- Ui! Em cứ tưởng là do anh đi hoang. Xin lỗi nha.
        Hoàng Nam.- Hôm nay, anh tức quá, đi thay tấm drap mới, giặt mền, gối, rồi anh lật hết những thanh giường ra. Lau nhà sạch sẽ xong, anh lấy thuốc xịt hết vào mấy cái khe. Thì thấy hai con “vòi vọi” đen đen lăn ra chết. Chứ nó chạy nhanh kinh khủng, không thế nào đập trúng. Anh bỏ nó trong bao nylon. Chiều nay sẽ đem nó xuống bác sĩ chữa trị da liễu, cho ổng xem. Vì bác sĩ cho rằng nó là con A Sừng! Cách đây vài tháng anh cũng bị nó chích như thế, nay vẫn còn u lên một cục cứng ngắt.
        Mi Mi.- Anh cẩn thận nhen. Ở một tỉnh thành gần khu núi đồi, hồ ao, đầm lầy bên Úc (nơi chị Tú ở). Có một chỗ dành để người dân cắm trại. Nhiều mái lều dựng lên, ăn ở vui vẻ. Bỗng họ nghe tiếng hét to kinh khủng, ở một cái lều hơi gần gần bờ hồ, có con cá sấu to lớn bò đến ngoạm chân người đàn ông, lôi đi xềnh xệch. Cả khu cắm trại hốt hoảng nhốn nháo, họ ùa ra bãi xem chuyện gì. Thì một người đàn bà cùng gia đình cắm lều gần đó, nhìn thấy cảnh tượng hãi hùng đó trước tiên. Hai bàn tay không, bà ta can đảm nhảy xuống hồ, bà cỡi lên mình con cá sấu. Hai tay bà ta ôm ghì lấy lưng và nách con vật, hai chân bà quắp chặt vào bụng nó. Con cá sấu giật mình, nó hãi hùng nhả chân người đàn ông ra. Nó quay ngược mỏ lên, táp táp vào người đàn bà không được.
        Thế là nó vát bà ta chạy tuốt xuống hồ nước. Mọi người bất ngờ sững sốt, nhốn nháo, sợ hãi kêu la inh ỏi. Một người đàn ông ở lều khác, bình tĩnh xách súng chạy đến gần. Tay thiện xạ do dự một phút, rồi đưa súng lên nhắm và bóp cò. Đùng!... Đùng! Con cá sấu giẫy giụa vài cái, rồi nằm ngay đơ nửa trên nửa dưới hồ nước. Người đàn bà can đảm phi thường cỡi con vât ấy không bị lạc đạn. Mệt đứt hơi, bà ta nằm vật ra bên con vật nhuộm máu đỏ. Người ta vội vã gọi trực thăng đến, cấp cứu hai nạn nhân. Một người bị cụt chân, một bà bị gãy tay. Chỉ vì “cái mỏ” con cá sấu.
        Hoàng Nam.- Còn một chuyện có thật nữa: Hai chị em cô bé nhà kia đi tắm sông ở Nam Phi. Cô chị độ mười tuổi, thấy em nó bị con cá sấu ngoạm, con cá sấu đang cố sức lôi đứa em xuống sông, để ăn thịt. Cô chị quýnh quá, không biết làm sao, cô ấy không còn sợ hãi, cô ấy chạy đến bên con cá sấu, cô gái lấy ngón tay trỏ chọt lủng mắt con cá sấu, chọt rất mạnh. Con cá sấu bị bất ngờ, và đau lắm. Nên nó nhả cô em ra. Nó lo chuồn xuống nước, lặn mất tiêu. Cô em bị thương nặng. Họ cấp cứu hai chị em vào bệnh viện.

        Mi Mi.- Đó, anh thấy chưa? Mà anh còn đòi cuối tuần nầy, đi ăn thịt cá sấu với anh Vượng, anh Nuôi hỉ! Em sợ nên em “ghê tởm” cá sấu. Vì thấy nó dữ dằn, da lởm chởm sù sì gớm ghiết, móng chân móng tay nhọn hoắt. Cái mỏ và hàm răng ôi thôi kinh dị. Nhất là buổi tối hôm đó, ngày chúng mình đi vào trại nuôi cá sấu xem. Trong bóng tối, mình lấy đèn pin rọi xuống ao, hồ, thì trông thấy những đôi mắt của nó, như là ánh sao lấp lánh. Vì hai con mắt nó sáng rực, đỏ au, từng con từng con nhìn sững vào ánh đèn. Thịt nó trắng, mềm và thơm ngon. Lại có hương vị đặc trưng thơm hơn thịt vịt, thịt gà nữa. Em làm thịt cá sấu sạch, xào với sả, ớt, mè, tỏi, hành, ngũ vị hương, ít dầu hào, ăn với bánh tráng nướng. Thật ngon hết sẩy.

        Hoàng Nam.- Rượu nầy là môn thuốc, người ta nói để trị bệnh suyễn hữu hiệu lắm em ơi! Uống vào nghe "đã" đến óc. Tuyệt cú mèo. Rồi anh hỏi đố em: Có biết con cá chình không? Mất mấy trăm ngàn đồng Việt Nam, anh mới mua được một con cá chình, chỉ nặng vào khoảng 800 gr. Ở Việt Nam bây giờ con gì cũng được đưa lên bàn ăn, để thiên hạ xài, có tiền là “chiêm ngưỡng” hết: Chồn. Cheo. Rùa. Mễn. Nai. Rắn. Ba ba. Vân vân… Ôi thôi đủ thứ hết. Đến nỗi bi giờ hầu như những loài qúy hiếm e có nguy cơ diệt chủng. Đã có lệnh cấm săn bắn, cung cấp thịt rừng. Cho tiền thuê, bạc mướn, có lẽ em cũng hổng dám ăn thịt cá sấu.
        Mi Mi.- Anh lại nhem thèm em nếm tí rượu cá sấu nữa hả? Ghê quá đi.

        Hoàng Nam. - Em có thấy ớn lạnh không? Người đàn bà cỡi lưng cá sấu. Cô bé chọt mắt cá sấu. Rất phi thường. Can đảm lắm. Nhưng... Chưa đáng kính phục bằng một người đàn bà Việt Nam đám cỡi lên mình con rắn, và bóp nát trái tim con rắn nữa. Và nhất là bà ta đã làm con rắn cúi đầu khuất phục. Thật đáng ngợi khen. Anh đố em biết bà ấy là ai nào?
        Mi Mi.- Bói bài hay cầu cơ cũng chịu thua. Đừng nói tới em. Em hổng biết.
        Hoàng Nam.- Ấy! ... Là em đó.
        Mi Mi.- Ui chà chà. Thương thiệt!
        Hoàng Nam.- Anh lại đố em 4 chữ MEN nè:
        1.- MEN TAL ANXIETY : Hoảng loạn tâm thần.
        2.- MEN TAL BREAKDOWN : Suy sụp thần kinh.
        3.- MEN STRUAL CRAMPS : Co thắt khi có kinh.
        4.- MEN OPAUSE : Hiện tượng tắt kinh.
        Mi Mi.- Ôi! Thì anh đố em, nhưng anh đã giải thích hết rồi. Lại còn phải hỏi ư.

        Hoàng Nam.- Em có để ý là tất cả nguyên nhân các sự kiện ở trên, đều do chữ MEN mà ra không nhỉ! Đó đàn ông các anh là thiên đường. Mà đàn ông cũng là địa ngục. Em à.
        Mi Mi.- Ồ! Cái nầy họ “chơi chữ” quá hay. Vì trong bốn triệu chứng của người đàn bà, đều bắt đầu từ chữ “MEN” mà ra! Dễ ghét mà rất dễ thương. Anh hỉ!
        Hoàng Nam.- Loài chuột có thể giao phối hơn 20 lần/ngày. (Còn hơn con dê nữa ha)! - Con gián có thể sống trong suốt vài tuần với cái đầu lìa khỏi thân. Voi là loài động vật có vú duy nhất không thể nhảy cao. - Muốn luộc con ếch hoặc con rắn trước tiên ta bỏ nó vô trong nồi nước lạnh, đậy kín nắp, và mở gas thật nhỏ, chờ bao giờ nồi nước từ từ nóng và sôi. Chớ nếu bỏ nó khi nước đang sôi, thì nó sẽ quậy lung tung và nhảy phóc ra khỏi nồi. À, anh nhớ có chuyện nầy nữa… Ôi vui ơi là vui. Đúng rồi! Sau đêm em bị ma đè (chứ hổng phải người đè à nha), thì cả anh và em đều hoảng loạng, đến nỗi rắc rối… bồi hồi, quên trước quên sau, quên đầu quên... quên… luôn cái phao câu! (con gà con vịt, thì ít khi ai gọi là đuôi gà, đuôi vịt. Mà họ “thít” gọi là phao câu mập ú nù. Phải hông nà?
        Mi Mi.- Đúng quá đi thưa “bác xĩ mu rùa hóc môn”.
        Hoàng Nam.- Ha ha! Ui xà, dzậy mà còn phong cho anh làm tới chức “bác sĩ mu rùa hóc môn” nữa chứ. Ôi trời ới! Nếu vô tình, có ai lọt chân vào trong mạng internet riêng của chúng mình, thì chắc là họ sẽ cười bể bụng, vì mấy cái chuyện tiếu lâm của hai ông bà già gân 60-70U lẩm cà lẩm cẩm nầy ha.
        Mi Mi - Vậy chứ công dụng của cái rốn là gì nè chàng?
        Hoàng Nam.- Để cuống rốn gắn liền tí nhau với người mẹ, như sự nương tựa vào sự sống của con từ mẹ mà có. Nhưng khi sinh ra đời, cuống rốn của em bé được cắt đi, thì từ đó sự sống hay gọi nôm na là hơi thở của em bé tách rời mẹ, độc lập. Đáng lẽ ra khi cái rốn lành, phải thành một vết sẹo bằng phẳng. Chứ tại sao cái rốn lại teo tóp nhăn nhúm, và trở thành sâu hoắm thế cô nương của anh?
        Mi Mi.- Xin chịu thua.
        Hoàng Nam.- Còn nữa, cặp vú của người đàn bà có công dụng: Là để nuôi con. OK! Thế thì, người đàn ông không thể cho con bú mớm gì. Sao vẫn có vú hỉ?
        Mi Mi.- Công dụng nầy, chỉ có Trời mới biết.
        Hoàng Nam.- Rồi, khi người đàn ông đi “quờ quạng ăn phở bậy bạ”, hắn gặp một “gái già bia ôm” nên bị lây rận, (do người đàn ông khác “di dân rận” cho bà ta), con rận thân dẹp lép, bò lết tới mình tên đàn ông thứ tư, thứ năm gì đó. Họ chỉ cần hai thân thể áp vào nhau chừng vài phút thôi, là lãnh đủ! Có hơi ấm cơ thể, thế là lũ rận bò sang người mới, định cư liền. Tên đàn ông trăng hoa đó lại mang rận về, tặng lại cho vợ.

        Mi Mi.- Úi quơi Trời đất thiên địa ui! Vậy ra anh đã từng mang rận đi, mang rận về ư! Xin bái biệt và tống khứ anh.
        Hoàng Nam.- Không. Đừng nóng thế em.
        Mi Mi.- Dieu seul le sait...
        Hoàng Nam.- Nè em: ngày anh còn học chung với Trung trong đại học Y Khoa Sài Gòn. Trong phòng thí nghiệm có kính hiển vi điện tử. Hôm xưa, chả biết làm sao Trung có được mấy con rận, nó mang rận vào lớp. Ta có thể soi rọi con rận ra to chừng 15.000 lần thực tế. Rận có cả thảy ba đôi tay chân (6) lông lá xồm xoàm! Phía trước rận có hai càng nhọn hoắt, dùng để đào hang. Con rận màu trắng ngà khác với con chí màu đen. Con rận đẻ trứng bám chặt trên những sợi lông, giống như con chí đẻ trứng trên những sợi tóc của người ta. Lấy trứng rận ra để trên bàn: giết, nó cũng kêu “cái cốc”, y như trứng chí vậy.

        Rận không sống ở ngoài da, mà nó đào hang. Nghĩa là nó dùng càng đào lỗ, chui vào lỗ chân lông mà nằm ở chỗ kín, dơ bẫn. Nó không giống con chí sống lúc nhúc, luôn bò rần rần, loi choi hút máu ở trên đầu (do người ít tắm gội). Khi nào đói, rận mới bò ra châm vòi vào thịt, hút máu tươi để sống. Mình ngứa điên cuồng là đó. Rận giống như con rệp tiết ra chất hôi, chuyên sống ở khe vách, giường, phản. Rận, rệp, chí, đều sinh sôi nẫy nở rất nhanh. Em có biết: kinh khủng vô cùng là con gián có thể sống suốt vài tuần với cái đầu lìa khỏi thân. Anh quên nói mỗi năm, số người chết do ong đốt còn nhiều hơn cả số người chết do rắn cắn.
        Mi Mi.- Phải làm sao mà diệt chúng nó chứ anh.
        Hoàng Nam.- Biện pháp duy nhất là ta phải hy sinh cạo bộ lông, cạo tóc. Không còn chỗ cho chí rận bu bám. Mỗi ngày ta nên tắm gội sạch sẽ, lấy DDT (thuốc diệt côn trùng) xoa đều lên bề mặt da. Làm như thế cả tuần nhe, thì chí rận mới “dứt điểm”, sẽ chết hết. OK! Đó là phần giải thích của anh là “bác sĩ mu rùa hóc môn”. Em thỏa mãn chưa?
        Mi Mi.- Cảm ơn chàng. Nhà em có quá nhiều kiến. Tại sao Trời sinh con kiến để làm gì? Tả và nói con kiến có công dụng gì. Cho em nghe nhe.

        Hoàng Nam.– Cô Nương! Coi chừng mùa nóng thường có nhiều kiến nhen. Bọn kiến tinh ranh, khôn đáo để đó em. Trời lạnh lẽo hay sắp chuyển mưa, là chúng biết trước, lo dời trứng lên cao, phòng trú trên trần nhà. Trời nóng nó lại chuyển chỗ xuống đất. Vì thế, kiến không tha mình chỗ nào cả. Đâu đâu nó cũng bò tới “thám thính” được. Ngay cả tủ quần áo, khi không còn mùi long não (naphtalin), nó cũng chui vào. Nhất là nhà em có thịt, cá, chất béo, mỡ, mật ong, thức ăn, thực phẩm khô, là có kiến. Vì thế, anh phải cẩn thận với thức ăn. Mệt lắm. Em đọc đi: Ants hate cucumbers. Keep the skin of cucumbers near the place or ant hole. (Trị kiến: Kiến ghét dưa leo. Bỏ võ dưa leo gần chỗ có kiến hay ổ kiến).
        Mi Mi.- Em hỏi chàng, vậy chứ con kiến có cái đuôi, như những con vật khác không anh?
        Hoàng Nam.– Ha ha ha!!! Nương ơi! Đúng nguyên tắc thì con kiến cũng có đuôi đó em à. Hổng phải nó có đuôi rõ ràng như đuôi chó, đuôi mèo, hay “đuôi phao câu gà, vịt”. Em có tin không? Kiến có đuôi. Nhưng kiến có hai cái đuôi, chứ không phải một cái đuôi đâu em. Đuôi mọc ngược phía trên đầu. Mà ta nôm na gọi là hai cọng râu. Theo khoa học thì con kiến bài tiết trên các cành cây. Và chúng liên lạc truyền tin với nhau bằng hai “cọng đuôi râu” nầy. Nếu loại kiến là “cùng chung một nòi giống”, thì nó sẽ có chung một tần số âm thanh như nhau. Còn nếu khác giống nòi, nó tự động phát ra những tần số âm thanh khác. Lập tức nó dùng càng to cắt đứt đầu đối thủ. Nói chung, loài vật đều có đuôi cả, tùy theo dài, ngắn, to, nhỏ, cụt đuôi nữa.

        Mi Mi.- Ồ thì ra... cọng râu con kiến cũng “hoá thân” là cái đuôi tinh xảo anh nhỉ! Mấy loài khác, thì em thấy cái đuôi rõ rệt. Còn con ruồi, con kiến, khi xem trong discovery em ”nỏ thấy”. Con kiến có thể nâng một vật nặng gấp 50 lần trọng lượng của nó và nó luôn ngã về phía phải khi bị ngộ độc. Kiến không biết ngủ. Anh à, mỗi năm, số người chết do ong đốt còn nhiều hơn cả số người chết do rắn cắn. Vậy cái đuôi con rắn, thì có ở từ khúc nào nè anh?
        Hoàng Nam.- Cái đuôi của con rắn, theo anh biết thì tính từ khúc cuối cùng của các đốt xương sống. Nghĩa là từ 1/5 đoạn cuối cùng của con rắn. Đặc biệt ở Thái Lan em đã chứng kiến người Thái biểu diễn màn xiệc rắn. Họ cho người đi du lịch “nhâm nhi” chút rượu thuốc ngâm rắn. Họ lại cho em sờ vào chỗ bộ phận sinh dục con rắn đực, nó chia ra làm đôi. Ổng nói ai mà sờ được chỗ đó đó, thì lucky lắm.
        Mi Mi.- Em nhớ ra rồi. Hồi ấy thật thú vị, vui quá à.
        Hoàng Nam.- Còn tính về con người "tiền kiếp"... thì cũng có “cái đuôi” ngắn tủn ngắn tỉn, như cục thịt thừa đó chứ em. Họ ưa chà đít xuống đá, để mài đuôi cho rụng đi. Nay mất gốc rồi. Vì mọi sự yêu thương truyền cảm, cũng từ “cái đuôi” mà phát xuất ra. Phải chăng đó là giây liên lạc mật thiết của con người không ha?

        Mi Mi.- Anh nầy vớ va vớ vẩn. Bộ cứ “Nhân Chủng Học” là anh tin vào thuyết Darwin, thì loài người xuất thân từ loài đười ươi sao! Họ cũng có cái đuôi rất ngắn. Nhưng sau vài triệu năm, thì cái đuôi của loài người rụng đi?? ( Ah! Em lại tưởng tượng giống như con nòng nọc, con thằng lằng rụng mất đuôi!?). Rồi do cái thế đi đứng của loài người mình ung dung, hoàn hảo hơn, nên họ đứng lên, bắt đầu đi bằng hai chân. Chứ ngày xưa như trái đất, thì họ đi bằng bốn chân há?
        Hoàng Năm.- Vậy ra, em là “cái đuôi” của anh rồi. Anh phải “bảo-trì” thật tốt, cái đuôi yêu dấu của anh nha. Từ nay anh sẽ chính thức phong chức cho em là: “Người quản-đuôi yêu dấu của anh”. Còn anh sẽ là NO của em: Nô nức. Nô đùa. Nô giỡn. Nô bộc. Nô tỳ. Nô lệ. Nô gia. Nô nhân. Nô dịch... No. No. No. Yes. Yes. Yes... của em suốt đời. Chịu chưa Mi Mi Nương nương?
        Mi Mi.- Dạ vâng! Nhưng, anh cho em xin anh cái đuôi khúc giữa kia.

        Hoàng Nam.- Ui Trời! Sao em khôn thế. Nếu em là cái đuôi của anh. Tất nhiên em là hiện thân tình yêu trọn vẹn duy nhất của anh rồi. Em đã trở thành cái đuôi, mà em còn đòi chọn khúc đầu, khúc giữa, khúc nầy, khúc kia nữa. Thôi xin em hãy bằng lòng làm cái đuôi lý tưởng của con rắn nha! Em biết anh tuổi “Tân Tỵ” mà! Thì rắn đi đâu cũng phải “tha” cái đuôi kéo lết đi theo. Đi đâu rắn cũng “có đầu có đuôi” kéo lê thê lòng thòng theo cùng. Hà gì em phải lo lắng, chọn khúc giữa cho ấm áp an toàn hỉ!
        Mi Mi.– OK Salem!
        Hoàng Nam. - Yes. Amen!
        ***

        Cái CHAT, hay cái "TÁT" Ngút Ngàn Lưng Mây

        Date: Mon, 10-26 -2009 -00:05:34 -0700 (PDT)
        From:
        "Tony Dautry khanhson21@saigon.com Add to Address Book Add Mobile Alert
        Subject: Thư mang số # 4.946* “CHAT” bù khú nghen
        To: "wit < tio1@yahoo.com >

        * * *

        Mi Mi .- Allo! Chào anh. Em vừa về Việt Nam, hiện đang ở Đà Lạt. Anh có khoẻ không?
        Năm Tony.- Ah! Chào em. Cám ơn em. Dạo nầy anh không được khoẻ lắm. Buồn và đau nhiều là đằng khác.
        Mi Mi .- Em đã nói với anh hằng trăm lần rồi: Bi giờ mình cũng đã có tuổi, chứ nào phải còn trẻ mỏ như hồi xuân xanh đâu. Mà anh nay cặp bồ bà Kiêm. Mai bà Nguyệt. Em nói đứt lưỡi không được à.
        Năm Tony.- Tự nó phone đến anh hò hẹn, rủ rê. Chứ anh nào muốn.
        Mi Mi .- Không có lửa, làm sao có khói. Chỉ từ ba bốn tháng nay thôi, khi anh bắt đầu quen với Kiêm, thì anh mới cấm Nguyệt không được gọi phone đến nhà. Anh sợ các con nghe được, sẽ méc lại em. Anh đâu biết là Nguyện đã gọi phone tới khóc lóc, kể lể với bé Tư đủ điều: Nó kể về anh và bà Kiêm đó sao?
        Năm Tony.- Thì... anh đã ngăn cấm Nguyệt thật. Nếu nó thật lòng sợ anh, thì phải nghe lời anh. Tiếc thay. Nên anh từ bỏ nó rồi. Em.
        Mi Mi .- Có thể nó không thương yêu anh, mà sợ mất anh như món hồi môn béo bở. Không tin, anh cứ hỏi các con gái. Đúng là nó đã gọi phone đến nhà mình kể tội anh. Một chân bên nầy và một chân bên kia, anh không thể bước chàng hảng cùng một lúc qua hai con thuyền đang bồng bềnh trên sóng nước: Vì mỹ kim, giang sơn, hay vì mỹ nhân thế hở!? Tình yêu cuả người đàn bà nầy xét ra coi “chàng” còn có sự bất trung, lừa dối và vụ-lợi, gây tổn thương trầm trọng đối với tình cảm thiết tha “nàng” đã trao tặng. Làm trai nên nhìn thẳng về phía trước, anh hãy nói đi: Anh chọn mỹ kim, chọn giang sơn, hay chọn mỹ nhân 60 không có gì cả ngoài sự trao đổi thô thiển về dục tính... !?

        Năm Tony .- Anh biết cách xử sự. Đừng dạy khôn anh nha. Anh sẽ không viết thư cho em nữa. Đọc chưa hết thư kia, thì lòng đùng đùng nổi giận, chẳng thèm viết thư! Em muốn làm gì thì làm. Em cứ quyết định theo ý em. Nghe rõ chưa? Đây là lần nghi ngờ thứ bao nhiêu rồi? (Trừ khi em không còn hấp tấp, nóng nảy, em nghĩ là anh còn đam mê chúng).
        Mi Mi .- Ủa!? Thì ra ngắn gọn là thế... Giống hồi năm 1989 ấy. Khi em nói đúng tim đen cuả anh. Anh đùng đùng kiếm cớ nổi giận. Rồi anh nói: vì giận em, anh đã sa vào vũng lầy, phung phí bao nhiêu tiền vào tay chúng nó ha? Bao nhiêu lần rồi, anh vẫn chừa một kẽ hở hoãn binh, là tạm thời úp úp mở mở, lẫn trốn chúng thôi.
        Anh không dám dùng biện pháp mạnh là: Nhìn thẳng vào mặt chúng. Nói lời chia tay vĩnh biệt. Nên sau khi chúng “mè nheo” khóc lóc, năn nỉ, thoả mãn rồi, thì đâu vẫn hoàn đấy. Anh tiếp tục nói láo với em và các con. Thưa anh! Em không thể chịu đựng hơn. Tình yêu em trọn vẹn chân chính. Em chưa bao giờ lợi dụng anh một đồng xu. Nên; Tuyệt nhiên em không bao chấp nhận anh, về sự anh lừa gạt em trắng trợn từ tiền bạc, lẫn tình cảm. Sự việc đã rõ rành rành. Anh nên quay về phủ phục dưới chân chúng, cầu mong chúng gia ân tha tội cho anh. Anh liếm lại mấy bãi đờm anh đã trót nhổ ra. Đó chính là lời anh nói là: nếu anh mà quen lại mấy con đó, thì anh cúi xuống liếm bãi nước miếng anh đã nhổ xuống đất. Em sẽ không thèm quấy rầy anh. Em hứa như thế.
        Năm Tony .- Hừ hừ! Sao em đánh giá anh thấp thế. Em cứ nghĩ như vậy, anh sẽ rất buồn và nổi giận kinh khủng. Đã nghi ngờ nhau hoài, thì còn gì là tình yêu nữa. Bây giờ, anh sẽ im lặng. Cứ nói đi.
        Mi Mi .- Vậy chứ, từ sáng thứ Hai, 24-01-05 lúc 9:49, anh nói anh đi Đà Lạt với ông Ba, và ở một tuần. Để anh lo về việc mua đất đai, bán kiếm lời gì đó. Thật ra, anh không hề đi với ai, mà anh đi với con Kiêm, lên Đà Lạt ở tại Hotel Dream. Trong khoảng thời gian đó, anh không có một giờ rảnh rỗi tách rời nó, để lẽn đi e-mail về em. Mặc dù đi chơi, nhưng anh vẫn mất tự do ha. Chứ nào em có cấm cản anh mất tự do. Đâý, chính là lúc anh bị kềm kẹp. Bị ra lệnh, bị bám sát từng bước. Nhất là bị tước đoạt tiền bạc cuả chúng ta, một cách dã man và thô bỉ, ô trọc nhất. Vậy, anh tự sa chân vào vũng lầy sa đoạ, thì đừng đỗ tội cho em nha. Em không thể nói gì hơn, khi anh tính nào vẫn tật ấy. Em chán hết biết. Không vì lý do gì, em cần níu kéo cuộc tình đã mất nữa.
        Năm Tony .- Em đừng có tối ngày đi rình mò anh, như tên trộm vậy. OK. Anh có lỗi trong việc nói dối em. Chẳng qua sợ em buồn. Sorry. Em hãy rộng lượng thứ tha và bao dung. Anh xin hứa là thôi. Anh không muốn nói gì nưã. Anh im.
        Mi Mi .- Chỉ cần một tiếng sorry trơn tru từ cưả miệng dẽo mồm dai mép, tràn môi trên mà trề môi dưới cuả anh; Là sẽ xí xoá bao điều bất nhân gian ác hoài mãi sao? Vậy thì, anh đừng bao giờ mở miệng ra nói câu: - “Em và các con không tôn trọng anh” nhe. Anh muốn cho các con tôn trọng anh?
        Trước tiên, anh phải làm thế nào tỏ ra xứng đáng, và tự tôn trọng mình. Sau đó các con và em mới cảm thấy anh xứng đáng được em và các con >Không những là tôn trọng anh, mà anh sẽ được sự trìu mến và kính trọng hơn<. Để khỏi làm phiền nhau vô ích, em sẽ về Việt Nam: -* Trong đó, sẽ giải quyết chuyện tình cảm & tiền bạc anh vay mượn em từ xưa. Em sẽ đưa ra ánh sáng cho minh bạch vụ nầy. Bởi tự vì, do anh đi rao réc với các em cuả anh là:
        - Em gian ác, đã lấy tất cả đồ đạc trong nhà, không chừa lại cho anh cái gì cả.
        - Thưa anh Hoàng Năm Tony, sao anh mở miệng ra nói láo kinh khủng, mà không biết mắc cỡ vậy? Vậy chứ, anh có muốn em nhắc lại cho anh nhớ rõ không? Tiền bạc phủ phê vài chục ngàn usd. Đó là cuả chìm. Còn nào là cho anh bao nhiêu đồng hồ, máy ảnh, cả lượng dây chuyền vàng, nhẫn vàng, cà rá, giày sports, quần jeans, áo len, những bộ áo veston đắt tiền, vô số chuyện…
        Còn của nổi to chình ình như: tủ đựng quần áo đáng giá vài triệu, tất cả máy móc trong nhà, tivi, microwaue. Cho anh tiền mua tủ kính úp chén bát, đồ dùng son nồi. Một giàn tủ tuyệt đẹp mới toanh (do em gửi thêm 2.000 usd, đế anh thuê thợ đóng ở trên bếp, đựng những thứ cần thiết), nhất là em phải chi tiền cho anh làm hết hai hàm răng giả của anh bị nha chu, phải nhổ quách đi rùi, vân vân... và vân vân… Tất cả của ấy vẫn còn nằm lì ở nhà anh đó. Kể cả cái máy lạnh mới cáu cạnh ở đâu ra, để ngày đêm cho anh mát mẻ? Chả lẽ em sắm ra tất cả tại nhà nầy của anh, rồi em leo lên gỡ xuống, để em đem đi Mỹ hết à?

        Mấy lần rồi anh làm mất toi hết, em hỏi tới anh nào dây chuyền vàng y, cà rá, đồng hồ, vân vân… khi thì anh nói láo là anh túng tiền, có bán xài, cầm cố. Hay đi chơi đã bị mất, bị giựt. Úi Trời! Cáo già mà cũng bị giựt ha! Vậy thì gần vài chục ngàn usd? Chắc cũng bị con nào giựt béng mất toi hết sao?
        -* Này anh; Anh đừng có dựng đứng lên em đã lấy lại đồ đạc hết, rồi anh đi bêu rếu, vu oan giáng hoạ cho em những chuyện không, anh nói dựng đứng lên là có à nha. Việc nầy, các con đều biết, đều thấy rất rõ. Anh đừng tiếp tục bôi tro trác trấu lên mặt. Anh nói láo để con cái càng khinh anh. Cái tội của anh to ngập đầu ngập cổ đó. Anh đem… tóm lại, tất cả mọi thứ, anh đem đi dâng cúng bất lương vào những cuộc truy hoan. Anh nói láo và lường gạt em mọi chuyện. Kể cả chuyện anh dám đến nhà con gái bé Hai để lấy danh nghĩa tên của em, mà anh nói với con gái:
        - Con ơi! Cô Mi rất cần tiền. Con cho cô M mượn 5.000usd. Nhưng con đưa cho ba - để ba gửi gấp qua Mỹ cho cô M.
        -* Con gái tin anh nói thật, con đã đưa tiền cho anh, và anh dấu diếm đem đi phung phí hết. Mà anh không hề nói cho em biết, là sao? Mãi đến một năm sau, khi em về thăm anh, thì bé XuTu hỏi em:
        - Vậy chứ cô đã mượn tiền của chị Hai, khi nào cô mới trả lại?
        Em đã giật mình, cố hỏi con cho ra lẽ: Thì con gái kể lại đầu đuôi như thế. Anh có nhớ là khi đó em giận quá, gọi anh chở em đến nhà bé Hai, để đối chứng ba mặt một lời. Thì lúc đó, anh đã cúi gục đầu trước mặt em, và con gái bé Hai mà thú tội không?
        Nói thật với anh, vì em thương bé Hai, con gái không dám cho chồng S… của nó biết việc tồi tệ nầy, nên em không nở làm to chuyện. Rồi tự em bỏ tiền túi ra, để trả nợ đậy mà anh gian trá nói láo để em giúp anh vuốt mặt mà nhìn con. Anh nói láo, mượn danh của em, anh dùng số tiền mượn ấy để làm gì hử? Có dôn dốt như em, cũng thấy và biết rất rõ chân tướng anh mà. Vì sao? Khi xưa em yêu anh, em chưa hề có những ngày cận kề bên anh. Chúng ta không có môi trường thuận tiện sống chung dưới một mái nhà. Tình yêu ấy được em sơn phết lên một lớp mạ vàng quá lý tưởng, thần thánh, ảo tưởng, mà người Mỹ gọi là “American Idol” và thi vị hoá cuộc tình. Anh bưng bít, che đậy cố tật xấu xa khá tài tình. Nay em và các con đã biết được những hành động, những suy nghĩ cuả anh.
        -* Đã trải qua mấy chục năm yêu và biết nhau. Thì bản chất con người anh đã lộ rõ nguyên hình. Ngày xưa, anh nói vì anh buồn chị Tư của em cấm mình yêu nhau, nên anh trở nên sa đoạ? Vậy chứ bây giờ anh tóc bạc già U-70 rồi, anh vẫn nhúng chân vào vũng lầy! Bởi tại ai? Anh chỉ là một đàn ông “ảo” hèn mọn quá tầm thường. Đúng là em tô màu phóng đại, nâng bi anh là siêu sao thần tượng, em đã nắn nót công dã tràng xe cát trên biển. Sụp đỗ. Bây giờ anh đừng đỗ lỗi tại ai. Nha. Anh nói láo tàn bạo, phản bội tình, lừa gạt tiền, lì lợm trắng trợn thô bỉ nhất đời.
        -* Em không thể rộng lượng tha thứ cho anh thêm; Lần thứ mấy chục rồi? Em cương quyết dứt tình với anh. Em đã cho anh rất nhiều với sự bao dung, chịu đựng, hy sinh quá đáng. Hậu quả là không đúng chỗ và thua thiệt.
        -* Tuy nhiên, một điều cuối cùng em yêu cầu anh: Kinh qua cuộc tình dai dẵng hơn 45 năm nầy. Em biết rõ anh hơn ai cả. Mong anh thức tỉnh. Không nên nhẫn tâm để mưu toan đi lường gạt tình cảm, tiền bạc những người nhẹ dạ khác nữa; Nhất là em, bà con, Thu, Bích Hà, Hồng Anh, và những bạn trai Không-quân, Tabert của anh ở hải ngoại vô tội à. Ai ai cũng phải làm việc vất vã. Chứ họ không như anh, (được em và bé Hai nuôi anh sung túc, no đầy). Anh không làm việc gì cả, ngồi không an hưởng, nên anh không thấy giá trị cao quý từ tình bạn, tình yêu, qua đồng tiền của người khác dành dụm, chắt chiu gửi về anh đâu. Ở hải ngoại bạn bè thân nhân của anh cứ tin anh bị đau chứng nan y. Anh đã nói láo, lừa dối họ là anh có di chứng ung thư cổ, để họ lo quyên góp tiền về cho anh.
        Đồng tiền kiếm được qúy lắm, họ hy sinh để giúp những người thực sự nghèo đói, đau khổ. Và khao khát sự sống trong lành. Nhất là những đồng tiền bạn Không-quân của anh quyên góp ở hải ngoại, lẽ ra nên đến tận tay các em bé mồ côi đáng thương, ốm yếu, những ông già bà lão mù lòa, bệnh tật khốn cùng, nghèo khổ ở vùng quê xa xôi, mới phải. Trong khi đó, anh nhận tiền của người khác, lại tiếp tục sống phây phây, phè phỡn đi ăn chơi trác táng với con Nguyệt, con Kiêm. Em “nói có sách, mách có chứng” rõ ràng.
        Đầu dây bên kia bờ đại dương đã giằng mạnh phone cái cộp, dội lại rất to trên máy.
        Thì ra... giận dữ nghe! Sợi dây đã dứt lià đường nối…
        ***

        49 năm sau: Thời gian và không gian dài lê thê, thăm thẳm… từ "thuở có anh có em đi nhẹ vào đời nhau" ở Đà Lạt, ra Huế, Mỹ Chánh, Quảng Trị, rồi vô Đà Nẵng, Sài Gòn... Thế rồi, vào những chiều giông bão khi định mệnh cúi nhìn xuống đời hai anh chị thì... như Abraham Lincoln nói. “ai đó” có thể lừa dối một số người trong một lúc, và lừa dối hết mọi người trong vài lúc, nhưng không thể mãi mãi lừa dối được tất cả mọi người”.
        Đôi bàn tay Mười đan chặt vào nhau để ôm đầu gối run rẩy nhô cao, thế mà cũng có lúc hai mu bàn tay rã rời tuột ra, rơi rụng buông thõng xuống. Có thể do tấm lòng mình không rộng rãi, vị tha; nên nhiều lúc nàng không quản đại, bao dung, không quên những uất hận đau buồn vò xé trong quá khứ, khiến Mười càng điên tiết, muốn vạch trần bộ mặt gian trá lưu manh của Hoàng Phương Nam. Nàng muốn đốp chát vô mặt chàng, xỉ vã những lời cay độc, chì chiết, khinh khi, phỉ nhổ bãi nước miếng vô mặt “đẹp lão nhưng than ôi ghê tởm” đó, cho lại gan, cho hả cơn giận. Nhưng… do bản tính hiền lành nên mình không nỡ.

        Năm buông lời ngọt dịu năn nỉ van lơn nàng hơn cả chục lần: “anh nói cho cô nghe, anh có lỗi, hãy tha lỗi cho anh”. Hừ! “em” đã tha thứ hơn cả chục lần em buồn bã tha lỗi... từ khi anh còn là sinh viên cho đến nay rồi đấy chứ). Bây chừ không nhất thiết em phải bao dung, (dù quảng đại bằng cái miệng, mà bằng sự chân thật từ ái), và lòng đức độ khoan dung trong trái tim rực lửa nữa rồi. Anh chẳng còn hưởng đặc ân đó, vì anh đã quá tàn ác, nhẫn tâm đối với mối thân tình của em, thì anh đừng trách em sao nỡ đáp trả lại như thế nhé. Chẳng qua em vừa giống anh, em đã "học cái sách ấy từ anh đó thôi". Đừng, anh đừng van xin làm gì! Vô ích. Khi Hoàng Phương Nam cũng biết giận mà nhấn mạnh giọng: “Anh nói cho cô nghe” một cách bề trên, kẻ cả, láu cá, trịch thượng, chứ không hẳn do tinh tế, biết nhận điều sai trái qua chữ “cô” thay thế chữ “em”, như bao lần chàng âu yếm dịu giọng làm hòa, những lời có căn bản giáo dục cuả một gia đình khả trọng tôn ti.

        Lòng Mười lơ lững, phiêu linh, chênh vênh như lá cuốn trong gió lùa rần rật trên lưng áo thưa. Nàng cảm thấy rất buồn, vì một hôm vào ngày nắng tươi, nàng đã mời bốn người: Hoàng Nam, Vịnh, và Vượng (gồm có ba ông và một bà) - cùng đi ăn thịt cá sấu ở một nhà hàng thơ mộng, tại vùng quê Bình Thới. Ban đầu mọi người vừa ăn, vừa uống… và rỉ rả chuyện trò vui vui. “ông Hoàng To Bị” (trong giới nhậu nhẹt xỉn xỉn đã đặt biệt hiệu cho Nam đấy). Sau khi ba người đàn ông nầy, mỗi người đã uống bốn lon bia hộp ngoại, vỏ lon để ngổn ngang dưới chân bàn. Có lẽ do tu quá nhiều bia, nên họ ngà ngà say, hay do hai ông kia có ý nói muốn nhắn nhe cho nàng biết rõ về câu chuyện của “Hoàng Năm to-bị" và con “phở xí Kiêm”, cũng nên. Họ đặt tên con bồ Kiêm là "xí Kiêm", có hai nghĩa: xấu xí & xí phần: Ông Vịnh cười to:
        Vượng tóc bạc khơi chuyện:
        - Tui kể cho mấy già nghe chiện nầy: "Hoàng Nam to... bị" quả thật ông có cái bị khổng lồ thiệt sung sướng quá! ăn chưa no lo chưa tới. Còn tui, tui ăn cơm mới nói chuyện cũ… đây bạn. Ông Nam đúng là đào hoa, (do đào mỏ to bị mà ra à nhe):
        Sáng đèo cơm đi ăn phở.
        Trưa hăm hở rước phở đi ăn cơm.
        Chiều cơm về nhà cơm.
        Phở về nhà phở.
        Tối nằm với cơm nghe thơm thơm mùi phở.
        (1)
        Vượng dằn mạnh lon bia cái cộp trên bàn, lắng nghe bạn Vịnh nói:
        - Hẳn “cụ mi” biết con Kiêm là tình nhân của Vượng từ chín năm nay rồi? Phải hông?
        - Khà khà! Biết chứ. Tôi đã đọc ở đâu đó: “vợ” là cơm nguội của ta. Mình ăn hoài thấy ngấy lên tận cổ... Nhưng phở tái là cha láng giềng. Tôi ăn phở tái... hì hì tất nhiên ăn bánh trả tiền, có hao tốn tiền bạc thiệt, đôi khi run sợ phải mang bệnh Aid. Tuy vậy tôi vẫn thèm… ăn phở, ăn “thịch”, kèm với ngầu pín và tả pín lù. Mặc dù tôi bị heart attach và protaste, vậy mới "chít".
        Bây giờ hai ông kia không nói chuyện tiếu lâm nữa, mà bắt đầu nhập đề:
        - Hẳn là ông Hoàng Nam biết chắc con xí Kiêm là ca va, nó có bốn đời chồng không chính thức, có hai dòng con riêng. Nay con ghẹ ấy vẫn đèo thêm một số tình hờ. Ông biết rõ nó đục khoét của Vượng không biết bao nhiêu của chìm của nổi, kể sao cho hết? Vậy mà, ông còn công nhận mình là bạn già U-70 cuả Vượng nầy ha?
        - Dĩ nhiên... Chả thế có một bài thơ “tiếu Tức” của THH tả về con xí Kiêm sao, nghe nè:
        Anh đi vắng, thâu đêm em thức.
        Cỡi áo vì em đang bức rức...
        Chỗ ấy bi giờ vẫn nóng nực.
        Nhìn xuống nhìn lên càng thêm tức.
        Nhìn lên nhìn xuống đà quá tức.
        Nhìn qua nhìn lại không có thực!
        Anh ẵm mụ nào vô xó... xực?
        Sao bằng em... múi mít thơm phức!
        (2)
        Vịnh đứng dậy, một tay chống ngang hông, ông ta lừ mắt nhìn soi mói vào mặt hắn:
        - Nè, ông đang cặp bồ với con xí Kiêm hử?
        - Nghe anh Vượng không còn bao con xí Kiêm, họ xù độ rồi mà? Thì tôi cũng muốn ăn phở vui chơi qua ngày thôi... Tui với nó cũng như: “kẻ trộm mới đi ăn đêm. Ai người tử tế ra đường giữa đêm”!? Ừ, tôi nào có hạnh phúc như anh: “Có phước lấy được vợ già. Sạch cửa sạch nhà lại ngọt cơm canh”. Khổ thân! Riêng tôi thì "ở giá" đã hơn hai mươi sáu năm nay: “Đói cơm lạt áo kém hem. No cơm ấm áo lại tìm nọ kia”... Nhất là lúc tôi nhìn thấy phở, thì nước miếng nước mồm tuôn ứa ra bên mép: “Có làm thì mới có ăn. Ngồi không ai dễ đem phần đến cho”. Tất nhiên là tôi phải làm tới, là là... tôi phải tán hưu, tán vượn con ghẹ, con mồi mới chịu đèn, chớp mắt lia chia, nhoi nhoi cái đít vịt ra. Ha ha...
        Nam cười rất đễu, tiếp tục:
        - Tôi dùng hết thủ thuật, lân la làm quen, hầu nhữ cho được “con mồi phở”. Tôi tủm tỉm "cừi cừi" nói nói, tôi cố ý lê la tới, để gù gạ cắn cái phao câu con ghẹ. Nói thiệt với mấy ông nghen, nó xấu xí bỏ mẹ à... Nhưng có hề gì, nó xấn tới xáp lá cà ráo riết, thì tội gì mình không vồ: Tôi mở mòi tán con ghẹ rằng: có phải xóm em đang… “hôm nay có đám giỗ gần. Trong bụng bần thần em chẳng muốn nấu cơm”, cho anh ăn không vậy? Cưng ui! Thế là chỉ mươi phút sau, chúng tôi dễ dàng xáp lại với nhau cái rột! “Được đà cứ tiến, được miếng cứ ăn”… Chỉ có vậy!
        Vượng vuốt ngược nhóm tóc bạc ra sau gáy, ông ta lừ mắt:
        - Thì có lần chạm mặt nhau, tui đã hỏi Nam: “Hỏi anh, anh nói học trò, sao mà tui thấy cỡi bò hôm qua”?! Hừ! Tui thật lấy làm tiếc, khi ông đã làm một chuyện mà tôi thấy một người luôn tự hào trí thức cao như ông, đều không ai dám làm. Ông là bạn cuả tui, ông thừa biết tui coi con xí Kiêm là “cơm áo gạo tiền”, là vợ chính thức (vì vợ tui đã chết). Chớ có phải là loại “cơm hàng cháo chợ” chi đâu! Mà ông vẫn lao đầu vào, để giật vợ của bạn. Là sao? Hử!?
        Vượng ngừng một lát. Còn Vịnh thì nhìn trừng trừng vào mặt hắn:
        - Nhất là, ông không làm gì ra tiền, ông ăn bám “cơm thừa canh cặn”, bòn rút vào con rể việt kiều của ông. Rồi… ông bu bám người đàn bà hải ngoại, ông nói với nàng ấy: “Em chính là tình yêu của anh, em là tình đầu, và là tình cuối. Ngoài em ra, anh không còn yêu ai, không hề yêu ai được”. Ông dùng tiền của mồ hôi nước mắt những người bạn khác, đục khoét tiền của những người thân khác, mà ăn chơi xã láng. Ông không có liêm sĩ, và làm những chuyện ác ôn, táng tận lương tâm, láo lường gạt gẫm bạn bè. Nào ông nói là: “bị đau cổ họng có thể ung thư, bị suyễn kinh niên, và tiền tuyến liệt, phải cấp cứu vô bệnh viện không tiền lo, xin bạn tận tình giúp”. Các bạn hải ngoại và thân nhân tưởng thật, đã thương cảm, quyên góp tiền gửi về cho ông hậu hỉ.
        Thật ra ông mạnh như trâu, chẳng hề ốm o ho hen gì ráo. Ông đem số tiền ấy đi chơi bời, "ăn phở triền miên”, hầu thoả mãn dục vọng, và tự ái của thằng đàn ông sa đoạ, vì ông cứ tưởng mình hào hoa phong lưu, mà bị vợ bỏ. Ông hận vợ, hận đời. Nói thật với ông nhe: Tại sao ông không nhìn kỹ lại bản thân của ông đi, ông có ác ôn làm sao, thì chắc chắn ông mới bị "cô mối tình đầu từ năm 60", là người ông yêu quý nhất đời lặng lẽ chia tay? Bây giờ tui mới biết rõ cái bản chất của ông, tui nhục nhã khi quen biết ông, ông không xứng đáng làm bạn với chúng tôi nữa đâu. Hèn quá mà!
        Vịnh trợn mắt đứng nghiêng qua một bên, xỉ xỉ ngón tay thẳng vào mặt hắn:
        - Chỉ có loài thú “cơm niêu nước lọ” mới trơ cái trán bóng, mặt dày mày dạn ra. Loài chó nó có nghiã, nó cũng không làm cái chuyện đi lấy bậy. Đừng nói ông là con người có học thức cao, mà lén đi húp xái nước lèo, lấy vợ của bạn, rồi đi rêu rao ta có một thời phong lưu đào hoa. Nè, đào hoa cũng có nơi có chỗ với năm bảy hạng đào hoa, phong lưu. Tui vì ông Vượng thân quý, hôm nay tui đến đây là lần đầu tiên tui gặp ông, và cũng là lần cuối cùng nha.
        Nạn nhân Ngọc Vượng nhìn Mười gật gật gù gù, nháy mắt nheo mày, lắc lắc mái tóc bạc phơ, như muốn trút bỏ cơn say, hay ông ta muốn nhắn nhe gì? Nhưng Vượng là người miền Bắc có giọng nói ngọt ngào, anh khôn ngoan, từ tốn, nhẹ nhàng can ngăn bạn thân:
        - Thôi ông ơi:
        “vợ là địch.
        Bồ bịch mới là ta.
        Khi chiến sự xảy ra.
        Ta buộc về với địch.
        Nằm trong lòng địch.
        Rục rịch ta nhớ ta”.
        (1) Ông xĩn rồi. Tụi mình đến đây mục đích là thăm chị Thương Mười, vui gặp chị cho biết ân tình xí... Thôi. Để tui đưa ông đi về gấp nà...
        Vịnh hất tay bạn ra, cự nự:
        - Tui phải nói cho thằng chả sáng mắt ra. Thật là ngu, khi hắn có người yêu qúy dám từ bỏ tất cả, để tới với hắn, chị ấy từng chăm lo và thủy chung với hắn như vậy, mà hắn còn đi tơ tưởng, khèo móc tùm lum, hắn lại dở trò bú dù với vợ của người khác. Xấu hổ, hãy mở mắt ra mà quay về với cố nhân đã từng yêu ông suốt 45 năm qua đi: “Hoàng Nam to bị” cứ tưởng con ruồi nằm trên lưới mạng nhện, thì dễ dàng thoát thân những con ghẹ từng hút máu ông sao. Nghe nè :
        Bồ là cô gái qua đường
        Vợ mới trân quí nhớ thương vô vàn.
        Bồ thì nũng nịu than van
        Vợ lo nhà cửa lầm than vô cùng.
        Bồ hay mơ mộng mông lung
        Vợ rất thực tế vô cùng đáng yêu.
        (1)

        Hai ông bạn già đứng dậy, nháy mắt chào nàng, rồi ung dung tự tại bá vai vít cổ, dìu nhau ra bãi giữ xe. Anh tóc bạc chở anh tóc hoa râm đi, tràng cười ha ha ha… lướt thướt lùa trong gió, rớt lại sau tấm lưng Nam. "Thằng chả" hai tay bưng lấy mặt, cúi gục đầu, hắn nhiên Hoàng Nam đã nhận gáo nước sôi tạt vô mặt đau điếng. Mặt mày hắn thộn ra, sượng sùng, tái nhợt rồi bừng bừng đỏ au, hắn trợn mắt, hàm răng nghiến trèo trẹo.
        Do sơ ý khi nàng mở nắp lon bia cho chàng, (bây giờ nàng bắt chước mấy ông già U 70 kia, không dám thân thiết âu yếm gọi “anh Hoàng Phương Nam yêu” nữa, mà gọi là “Hoàng Năm To Bị”), nên miệng lon đã cứa đứt cạnh bàn tay và hai ngón tay của nàng, chảy máu. Lẽ ra, thì chỉ đau nhức ở cạnh bàn tay và ngón tay thôi. Nhưng không hiểu sao nàng lại nhói lên từng cơn đau đớn ở bờ ngực trái kinh khủng!? Dường như có ai thọc con dao găm vô trái tim nàng ngoáy sâu lút cán vậy. Đau ghê lắm! Tình bạn già và tình yêu mà nàng tưởng lầm là: thần tượng, lý tưởng cao vời, nay đã lố bịch sụp đỗ, rơi tỏm xuống vũng bùn. Buồn lòng và cay đắng nghẹn ngào, đau xót nhất là: từ nãy giờ lắng tai nghe lời họ nói, Mười mới bừng tỉnh, mắt nàng mở ra, cảm thấy sự thật phũ phàng qua những điều sống-sượng quá trơ trẽn. Mười nhận chân được giá trị về sự mỉa mai và đau xót khôn lường: Nam có một thời hào hoa và phong lưu, (dựa vô gia đình cha mẹ giàu sang, mặc sức cho con hào phóng ăn chơi với ai ai, chứ chẳng hề có nàng dự cuộc, dù một món quà nhỏ). Nay tự bản thân "Hoàng Nam chỉ là một kẻ hèn mọn, là tên lường gạt lố bịch, quá thô bỉ và tầm thường mà thôi.

        Nàng khá choáng váng, bất ngờ, hốt hoảng tột độ, đờ đẫn cả người, ngượng nghịu ngồi chết trân, không kịp phản ứng. Chao ơi là đau kinh khủng! Mười chỉ biết ngậm ngùi xót xa, kèm theo những tiếng thở dài thườn thượt, lặng lẽ suy tư. Nàng im lặng suốt từ đầu đến cuối, sửng sốt, trợn mắt, há hốc miệng chăm chú nghe họ kể về “chàng”. Mười cắn mạnh môi ngăn chặn mọi đảo lộn khác thường. Trong tim Mười dẫu sao cũng có chút bừng bừng cơn sốt, tiếc thương vang vọng trở về mỗi lần có người nào vô tình gợi nhớ đến “người xưa”. Thuở trước, ngày xa xưa của thời kỳ sinh viên ấy, khi nàng và cố nhân mới yêu nhau, trái tim Mười bừng bừng co siết nhiều giọt mật say sưa, cuồng quay, trìu mến, dạt dào tình âu yếm. Tình yêu cuốn trôi mọi thứ đến tận tơ rung từng tế bào run rẩy, nồng nhiệt lẫn đam mê, nhưng khá trong sáng và êm ái, làm phẳng phiu mọi buồn đau trong lòng nhau.

        Rồi thì bức biếm họa tình cảm có hai chân ngang trái, có bước thấp bước cao, lạnh lùng chụp
        mũ lên đầu hai người ra đi. Quá khứ hay tương lai như hòn sạn khô niêm kín Mười giữa hai hàm răng nghiến chặt. Dẫu khát khao, quay quắt về cuộc tình xưa kia ôm nhiều kỷ niệm tái tê, khiến nàng đau đớn, chới với, hụt hẫng như bong bóng bay cuốn hút lên trời. Cuộc sống ấy đã có một thời đầy cạm bẫy, phức tạp, éo le, chua chát, dày vò... đi vào căn nhà định mệnh từ tiền kiếp và diễn tiến mãi tới hôm nay. Từ ngày xưa đến nay nàng chỉ: “Tri nhân tri diện, bất tri tâm. Hoạ hổ hoạ bì, nan hoạ cốt” (thấy người thấy mặt, không thấy lòng. Vẽ hổ vẽ da, không thể vẽ xương). Càng về lâu về dài thì nàng mới biết: Hoàng Nam ích kỷ vô cùng, anh muốn thoải mãn bản thân thôi, mà quên đi đạo đức tất yếu của con người biết tự trọng. Lòng tự trọng không ngăn nỗi tính già khú vẫn "háo thắng phong tình", và tội lừa phỉnh mọi người ùa về. Năm yêu bản thân riêng mình đến độ hèn hạ, mất thể diện và ô danh. Tính nào tật nấy, ngựa cũ quen đường xưa, đồng thời Nam chuyên lợi dụng người khác, sự lạm dụng trắng trợn đầy bất nhân, thất đức:

        Thời xuân trẻ trai tráng cho đến bây giờ, không khác gì nhau: > Từ hồi xa lắc, cũ rích thuở mười bảy mười tám, Nam đã dan díu với mụ già khú Tư Râu Rậm ở gần nhà, mụ ta lớn tuổi hơn Năm tới một con giáp, mụ có chồng và sáu con, con gái đầu của mụ nhỏ hơn Năm ba tuổi. Và, Nam ngủ với nhiều hạng người: Từ bà chủ chứa gái từng lấy guốc sắt đập trên đầu Nam đã lõa máu tươi, (chỉ vì anh từng ngủ với bà ta, mà còn ngủ với con ghẹ trẻ, là con riêng của bà ấy, nên bà ta ghen thôi!). Khi Nam bỏ hai mẹ con bà ta, thì năm 2000 tiến tới con bé ăn sương bị mù loà, tối tối con nhỏ đứng chờ bên hẽm Hai Bà Trưng, để đón khách đưa lon xin tiền. Hoàng Nam dám khoe với nàng, và bạn bù khú điều ghê tởm đó, mà anh không hề đỏ mặt; coi như là một sự hào hoa, bay bướm, lả lướt, phong lưu của con đĩ đực!

        Rồi; Năm lăng nhăng với “bà phở” bên sát hông nhà, Nam dám cả gan tò te với bà xồn xồn nầy đã có chồng con. Nói nào ngay dù có chồng, nhưng “gái một con trông mòn con mắt” mà. Nam thèm quá... ngồi ở góc cửa nhà mình, dòm lom lom qua nhà mợ kia, Năm canh me rình rập, khi chồng “mợ phở” đi vắng, Năm liền đảo qua lượn lại, tằng hắng tì hí, nháy nhó, thì thụt rủ rê “mợ phở” qua nhà. Con mợ ấy làm bộ ôm túm quần áo qua nhà Nam, để ủi áo quần nhờ. Nam liền đè “mợ phở” trên gác xép lấy mụ. Có ngờ đâu con gái út ở trong phòng, vô tình con hé cửa nhìn thấy hành vi của cha. Kể từ đó các con ra mặt phản đối, khinh bỉ hắn biết chừng nào!
        Nhiều lần sau, Năm nháy nhó hẹn mợ phở xồn xồn đi du hí mặn nồng ái ân nơi khác, thì một hôm chuyện tồi tệ bị đổ bể; khi Nam gò lưng trên chiếc xe đạp, chở mợ phở ấy về gần ngỏ nhà, thì đôi gian phu dâm phụ bị chồng của mợ phở rình rập, và bắt gặp quả tang. Chồng của mợ phở nổi cơn lôi đình dzợt hắn một tăng te tua. Thằng chồng của mợ phở cầm con dao nhíp, lăm le đòi lụi Nam. Nam đã sụp quỳ xuống giữa lề đường góc Hiền Vương và Hai Bà Trưng. Mặt đỏ mặt tía tai bầm dập sưng u khắp nơi, Nam dập đầu xuống sát lề đường, hai tay chắp lại lạy lục ông chồng của mợ phở lia lịa, như tế sao. Nam khẩn cầu, van lơn xin “ông” tha mạng, (trước bao nhiêu kẻ qua người lại, kể cả mụ Tư Râu Rậm quá ghen đã dậm chân dậm cẵng ở ngoài sân nhà mụ ta. Mấy đứa con của Nam cũng thấy trọn từ đầu đến cuối. Sau nầy các con kể lại cho nàng nghe. Ông chồng của mợ phở bị mọc sừng, mà còn lưu lại chút tình người, thật ra ông ta giữ sĩ diện gia phong của riêng mình, chứ không tử tế gì, và không vô liêm sĩ như cái thằng đã quỳ mọp dưới đất, mà tha chết cho mình. Ông chồng của mợ phở sợ thằng hàng xóm 35 xấu nết quá, ổng lo bán nhà gấp, tức tốc thu dọn vợ con chạy đi mất biệt!

        Tính nào vẫn tật đó, Năm quơ cả bà Nga nghèo khổ buôn mồ hôi bán nước mắt, tay bưng thúng xôi vò ngồi bệt ở vỉa hè ở đầu ngỏ Hiền Vương. Ngày ngày Năm ghé xe đạp qua góc đường, ung dung lấy vài ba vắt xôi. Bà ta thương yêu con người phong lưu kia, luôn dúi cho gói xôi, kèm chút tiền com cóp nhặt nhạnh trong thời kỳ mới hoàn tất cuộc cách mạng 75 – Kế đến bà Lan, là bạn nhậu bù khú với nhóm của hắn, bà ta tu rượu như uống nước lạnh, thời gian đó Nam bị vợ bỏ, đã say bí tỉ, nhậu nhẹt ly bì không biết trời trăng. Bọn họ ăn nhậu say sưa, khèo móc nằm la liệt, ôm nhau làm tình chung chạ chẳng hổ ngươi, họ không phân biệt “ông bà” như cá mè một lứa, tự nhiên như loài thú hoang ở ngoài chợ ngoài đồng.

        Nhất là "xí Kiêm" mặt ngựa thô thiển xấu xí, ốm nhom ốm nhách, giơ ra cặp “trường túc bất chi lao” khẳng khiu, giọng nói bà ta lơ lớ, đanh đá, hung dữ, bặm trợn hết biết. Mấy người đó chả giống con giáp nào! (như Nam đã tả chân về những đàn bà đó, khi xỉn xỉn, Nam thường oang oang kể cho bạn, hoặc cả nhà nghe về "câu chuyện tình hờ" mà không cảm thấy xấu hổ); lớn, bé, già, trẻ, “thằng chả” cũng bòn mút liếm láp hết, không tha. Hoàng Nam đã dùng lời lẽ ngon ngọt đúng “một tông y khuôn đúc” đem ra sao chép, để phỉnh lừa họ.
        Chỉ vì Nam muốn dùng những người đàn bà kia, để thoả mãn tự ái: Ta vẫn còn phong lưu, hào hoa, phong độ, có sức chinh phục mê-hoặc quý đàn bà nhẹ dạ, vì cái vỏ bên ngoài trau chuốt khá đĩ trai, Nam ưa dùng nước hoa sực nức mùi thơm dạ lý hương xịt quanh người. Hoàng Nam hận! bị vợ ly dị, (vì sự sa đọa trác táng chính mình). Nam đã lường gạt tiền của bạn bè đã gửi về lo cho mình đầy đủ mọi phương diện. Nhất là Nam muốn trả thù đàn bà, muốn che đậy niềm đau đớn đã bị người con gái xưa kia mình rất yêu, thế mà “cô nàng”… bỏ rơi Hoàng Phương Nam.

        Sau khi chia tay người mà Hoàng Nam rất yêu, (nàng không thèm lo cho nữa), thì Nam túng thiếu vô cùng, Nam bán tống bán tán cái nhà, để mua một căn nhà nhỏ ở Gò Vấp, và đưa "mụ phở xí Kiêm" về chung sống như con vợ hờ lòi tói. Năm dùng tiền bán nhà ở Quận I, để mua nhiều vé số cặp, may mắn thay Nam đã trúng hơn 6 tỷ bạc. Và vẫn do… Nam muốn ăn cho khoái khẩu, nên Nam bị “phở xí Kiêm” lừa, mụ nầy là tay không vừa, rất tinh quái và thủ đoạn, thật là võ qúit dày có móng tay nhọn. Mụ ta khéo nịnh và tâng bốc Nam lên đọt cây dừa, nên Năm thích ngọt nghe bùi tai và sung sướng lâng lâng cả ngưởi.

        Năm sang tên cho mụ căn nhà mới mua! đồng thời Năm đưa tiền cho mụ ta đứng tên tài khoản riêng là 80 triệu đồng tiền VN, để mụ ta có hiện kim, hiện vật làm bảo chứng, nhà nước sẽ chấp thuận cho họ tung tăng diễu trên đất Mỹ. Năm đinh ninh rằng mụ ta sẽ làm giấy tờ đi Mỹ du lịch với mình. Nào ngờ mụ xí Kiêm có chủ ý hẳn hoi, nên khi vô phỏng vấn, mụ xí Kiêm ú a ú ớ, làm bộ ngu ngơ, lúng túng, giả nai, ấp úng, mắt la mày lém, thì thọt, nháy nhó. Nên mụ xí Kiêm bị Mỹ từ chối. Trúng kế mụ xí Kiêm rùi! Thế là Nam đành đi du lịch mình ên năm 2009. Ở nhà, mụ xí Kiêm tom góp tiền bạc, vì mụ Kiêm biết Năm lại vi vút phong lưu với một con đàn bà khác. Mụ xí Kiêm chả thèm ghen tuông gì, mụ ta chỉ cần bắt tại trận, là xong béng. Thế là mụ Kiêm tống cổ hắn lìa ra khỏi chính cái nhà mà “anh yêu” đã sang tên cho “em cưng”. Nhân dịp Nam khăn gói lên đường đi Mỹ nầy, mụ “phở xí Kiêm” ở nhà dọn sạch đồ đạc của hắn vất ra khỏi căn nhà, mụ thay ổ khoá cho hắn ra rìa! Ồ! đúng “hắn” là thằng ma cô, thì gặp con phở xí Kiêm ta đây Tú Bà, là con ma cạo! Hoàng Nam hận vô cùng. Thế là… sau đó có rất nhiều chuyện kinh thiên động địa đã xảy ra… “Phở pin ngầu tả pín lù nhà hắn” đã bốc hơi thúi thum thủm ra thành phân, thúi hoắt mất rồi! Than ôi! ”! Mụ xí Kiêm không yêu mến gì Hoàng Năm cả, bấy lâu nay mụ ta sống với Năm chỉ vì tiền và thoả mãn dục vọng. Châm ngôn của mụ xí Kiêm:
        - "Đàn ông không thiếu giống gì, không là cái thá gì, không ông nầy thì có ông khác. Chỉ có tiền là trên hết".
        Bồ tôi chỉ thích ăn quà…
        Về nhà lén vợ qua phà ăn thêm.
        Phở bò gân tái sụn mềm…
        Ăn cơm quá ớn Bồ thèm phở… rơi!
        Phải chăng duyên phận do Trời?
        Bồ tôi có đủ… đầy vơi các nàng!
        Nước hoài chàng chớ mơ màng.
        Ngày đêm nút chát với nàng vi vu…
        Mặc dù con vợ lù đù!
        Khui ra Bồ đã nhảy dù bao phen…
        Xấu chàng hổ thiếp phận hèn.
        Tên anh sẽ phải lem nhem danh đời!
        Khôn ngoan chàng hãy nên rời.
        Từ nơi “phở tái”… “cơm” thời xa anh!
        Lôi thôi lốc thốc sao đành.
        Tối ngày chàng ngủ gốc chanh hận đời.
        Chẳng ai màn tới Phở dai…
        Chàng ra nông nổi tiếng hoài thị phi.
        Thử coi chàng bỏ lần ni.
        “Cơm” không có mút nói gì “Phở” thiu!
        Chẳng qua em chỉ vì yêu.
        Khuyên chàng khuya tối sớm chiều bên em.
        Vòng tay ấm áp xiết thêm.
        Trải giường mơ lá mình êm chàng nằm…
        (2)
        ***

        Một hôm, Năm nhận được thư của vị hôn thê

        Hoàng Phương Nam nè,
        Đã có chút xí tình cũ nghĩa xưa, ngày nay tôi gắng gượng muốn tạo ra tình bạn thuần túy giữa tôi và anh. Thế nên tôi cố ý lờ đi, lặng lẽ chia tay anh, muốn quên tất cả câu chuyện hèn hạ, không hay, không tốt đẹp về anh thế nầy. Tôi không muốn bẽ bàng nhắc tới… Tôi đã buồn trong im lặng, vì tôi thương hại anh, tôi nghĩ là con người thì ai cũng có chút biết điều & ăn năn muốn hoàn thiện. Sự thật thì tôi đã quên anh từ khuya, như quên một chiếc lá úa cuối mùa, như quên một hạt bụi lãng tử. Nào ngờ anh vẫn bươi móc lên. Lẽ ra anh phải xin lỗi tôi (người phụ nữ tuyệt vời… là tôi đây nè) anh mong tôi nên bỏ qua tất cả lỗi lầm cho anh, xin tôi tiếp tục bao che cho anh, mới phải… Nè anh; anh đừng có dựng đứng lên:

        - “Em” đã lấy lại hết đồ đạc, rồi anh đi bêu rếu, vu oan giáng hoạ cho tôi những chuyện không, anh nói dựng đứng lên là có à nha. Việc nầy, các con gái đều biết, đều thấy rất rõ. Anh đừng tiếp tục bôi tro trác trấu lên mặt anh nữa. Tội nghiệp anh! Anh nói láo quá, anh gian trá thì con cái càng khinh bỉ anh. Cái tội của anh to ngập đầu ngập cổ, anh không biết hối hận, anh sẽ chết bất đắc kỳ tử không nhắm mắt.

        Tôi không hề dựng đứng câu chuyện ấy, trái lại, tôi cố tình che dấu tội ác & sự láo khóet dùm anh, tôi dấu diếm chuyện anh phi nhân bất nghĩa như mèo dấu cứt. Lẽ ra, anh nên cám ơn tôi, câm mồm mới phải đạo làm người chứ. Nào ngờ anh cố tình moi móc lên. Anh còn hậm hực trở mặt vu khống nói xấu tôi. Những chuyện như vậy, tôi chưa nói với ai. Nhưng sao những chuyện thật tốt trong cách đối nhân xử thế về tôi đó, thì anh không làm ơn NÓI XẤU TÔI với mọi người, cho tôi nhờ xí hả?

        Lần thứ mấy chục tôi đã tha thứ cho anh rồi? Bởi lẽ đó mà tôi buồn bã cương quyết dứt tình, đoạn tuyệt, xa lìa anh trong im lặng. “Em” đã cho anh rất nhiều với sự bao dung, chịu đựng, kiên nhẫn, hy sinh rộng lượng quá đáng. Hậu quả là không đúng chỗ. Điều ấy tôi không hề than van oán trách anh. Tôi không tức thì thôi; anh phải sáng mắt mà nhìn ra sự tuyệt vời cao thượng của một người đàn bà trong nhân cách sống của “em” đối với “anh”; mới phải đạo làm người chút chứ!

        Đọc thư nầy, anh hãy vắt tay lên trán nghiền ngẫm, suy nghĩ cho kỹ… lỗi về ai KHUI ra chuyện nầy LÊN trước. Anh muốn làm, thì phải gánh chịu hậu quả anh gieo gió gặt bão, đừng nóng mặt mà đổ tội cho tôi BÂY GIỜ, NGÀY HÔM NAY: TÔI nói xấu chuyện thật 100% về anh; Bao lâu rồi, (từ ngày tôi lặng lẽ chia tay anh đến nay, đã mười năm), tôi đã nhịn anh từ bấy năm qua, cớ sao mỗi khi anh gặp người thân, bạn bè, anh vẫn hậm hực nói:
        - Tôi nói xấu anh, tôi là người không vừa gì, đã tố cáo anh với công an, nên chúng rình mò trước nhà anh hoài, khiến anh không dám cụ cựa nhúc nhích đi đâu, không thể làm ăn gì (khi tuổi già).

        Tại sao anh nói láo vậy??? Vậy thì, cho tôi hỏi: Chắc chắn là anh “xấu” không ra gì, nên mới có chuyện người vợ yêu nói xấu, chứ anh đàng hoàng, thì hẳn nhiên người ta nói “tốt” rồi. Ủa, chứ công an chắc hẳn khờ me, nên “biết” anh như thế, mà chỉ ngồi ở trước nhà rình mò một ông lão ngoài 70U, thì chắc hẳn hắn còn tốt bụng hơn anh đó! Anh nên nhớ: Anh nói láo, nên quên trước quên sau, vì thời xuân xanh dù có vợ con đùm đề, thì anh vẫn “ăn vạ” ở nhà cha mẹ. Sau khi ly dị vợ thì có con gái nuôi. Thời thanh niên hay tráng niên anh chưa làm ăn gì để nuôi ai. Thì ngày nay anh còn “đòi làm ăn” gì, khi anh đã là một ông lão. Hỉ! anh trắng trợn đến thế là cùng.

        Tôi chưa bao giờ kể cho ai nghe rành mạch rõ ràng về chuyện XẤU XA của anh hết. Nhá. Ngày nay nếu anh đã nói vậy, thì oan ức cho tôi lắm, buộc lòng tôi phải lên tiếng trả lời anh & (bạn hữu, và người thân) hiểu rõ về anh & tôi: đôi chút đây. Bởi tự vì do chính anh luôn miệng đi rao réc với các anh chị em, họ hàng, bạn hữu và thân nhân:
        - “Nó” gian ác, nói xấu anh, đã lấy tất cả đồ đạc trong nhà, tiền bạc, nó ra đi không chừa lại cho anh thứ gì cả. Anh mất trắng.

        Thưa anh “Hoàng Năm Tony, tự to bị ơi”, sao anh không còn chút liêm sỉ và danh dự con người, mở miệng ra anh nói láo kinh khủng, mà không biết mắc cỡ? Vậy chứ, anh có muốn tôi nhắc lại cho anh nhớ rõ không? Nầy nghe:
        -* 01.- Kể từ năm 1977 đến năm 2009: Tiền bạc phủ phê, tôi tốn với anh bao nhiêu thứ: đồng hồ, máy ảnh, camera, vài lượng dây chuyền vàng, nhẫn vàng, cà rá nhận hột, những đôi giày sports, những quần jeans, áo gió, áo len, những bộ áo veston đắt tiền, không kể đồ dùng son nồi… vân vân... & vân vân… Tôi lo cho anh vô số chuyện… đó là chuyện vặt, chuyện nhỏ. Của nổi to chình ình như: tủ đựng quần áo giá vài triệu, tất cả máy móc trong nhà, tivi, microwque Whirlpool Gold Cooking Accubake. Cho anh tiền mua tủ kính úp chén bát, tôi khệ nệ mang vác từ Mỹ về. Cho anh tiền làm một giàn tủ tuyệt đẹp mới toanh, thuê thợ đóng ở trên bếp đựng những thứ cần thiết.

        -* 02.- Tôi chi tiền ra mấy lần: anh làm hết hai hàm răng giả bị nha chu, (anh phải nhổ quách đi hết rùi). Những lần anh nói: “Anh đi nằm nhà thương, đi bệnh viện, đi Cần Thơ, Đà Lạt, Vũng Tàu, Nha Trang (những lần nầy, tôi biết anh đi du hí chơi riêng với những con đàn bà; do con gái méc với tôi. Nhưng tôi lờ đi, vì thông cảm & thương anh ưa sống đời phóng đãng, ắt sẽ thèm thuồng chuyện sex vậy mà)… Mấy lần rồi, anh nói anh làm mất toi hiện vật, hiện kim mất hết trơn. Tôi hỏi tới, nào: “dây chuyền vàng y, vàng tây, cà rá, đồng hồ, camera”, vân vân… khi thì anh nói láo: anh túng tiền, anh có bán xài, hoặc anh đã cầm cố. Đôi khi anh đi chơi đã bị mất hết cả bóp tiền USD, bị giựt vàng bạc, đồng hồ đồng cháo… Tuy nhiên tôi đều bỏ qua hết. (Úi Trời! Cáo già mà cũng bị giựt ha)!

        Anh mượn tiền tôi để hóa giá căn nhà ở hẽm Hiền Vương, tiền làm dịch vụ nhà đất, tiền đóng thuế nhà đất. Anh mượn tôi tiền đóng thuế nầy, dịch vụ nọ, dịch vụ kia, sữa xe cúp, lấy bằng lái xe cúp, vân vân... và vân vân… Tiền tôi gửi chị Ba Jeanne của anh, (tôi nhờ chị ấy làm giấy tờ dịch vụ bảo lãnh anh đi du lịch qua Mỹ). Tiền tôi gửi cho anh mua vé máy bay khứ hồi, sắm sữa… Vậy thì vài chục ngàn USD anh nói: anh để trong bank, chắc cũng bị “con nào” giựt béng mất toi hết sao? Anh đem… tóm lại, tất cả mọi thứ, anh đem đi dâng cúng bất lương vào những cuộc truy hoan & ăn uống xã láng, anh cố ý dợt le với những bà Kiêm, bà Nguyêt, bà Dung, Lan…. Tóm lại, mọi vấn đề “lo lắng yêu thương của tôi về anh” không làm sao kể xiết.

        -* 03.- Tất cả của cải ấy vẫn còn nằm lì ở nhà anh: từ cái máy lạnh mới cáu cạnh, nếu tôi không xuất tiền túi của tôi, thì ở đâu ra?, để ngày đêm phà ra cho anh mát mẻ? Chả lẽ “em” mua sắm ra tất cả tại nhà nầy cho anh, rồi khi vợ chồng mình giận nhau, tôi leo lên tường tháo gỡ xuống, đem đi Mỹ hết à? Bằng chứng thực tế nhất là hai hàm răng còn dính trong miệng anh đó, chẳng lẽ “em” banh miệng anh ra, mà lấy lại răng tất?. Tiền mặt dollars tôi tới tấp gửi về, hoặc tận tay đưa riêng anh trên vài chục ngàn, (không kể tiền tôi đưa ra trước mặt cho bé Khanh để trả nợ đậy dùm cho anh 5,000 US,) thì sao?

        -* 04.- Dĩ nhiên tôi phải và chỉ lấy lại quần áo cá nhân của tôi khi ra đi mà thôi. Anh nói láo và lường gạt tôi và con gái mọi chuyện. Kể cả chuyện anh dám cả gan bạo phổi một mình anh tự đến nhà con gái Khanh ở HvH, anh... (nhân danh) dùng danh nghĩa tên tôi, (mượn uy tín “tên của em”), anh nói láo với con gái:
        - Con ơi! Cô Mi rất cần tiền. Con cho cô ấy mượn 5.000usd. Nhưng con đưa tiền đây cho ba, ba gửi qua Mỹ cho cô gấp.
        -*- Con gái tin anh nói thật, nên bé Khanh đã đưa tiền cho anh. Anh dấu diếm mẹ con chúng tôi, đem đi ăn chơi phung phí với bà Kiêm hết. Anh không hề nói cho tôi biết, là sao? Mãi đến một năm 2004, khi về VN, thì bé XuTu hỏi “em”:
        - Má đã mượn tiền của chị Hai lâu rồi, vậy khi nào cô mới trả lại?
        Tôi giật mình sửng sốt…“Em” khéo léo hỏi con bé cho ra lẽ:
        - “Cô mượn bé Khanh sao? tiền gì? Hồi nào? Cô không bao giờ mượn tiền bé Khanh, hoặc bất cứ mượn ai một thứ gì cả. Chớ đừng nói là cô mượn tiền gì, con à.

        Thì con gái bé kể lại cặn kẽ đầu đuôi, (như đã nói ở trên). Hẳn là anh còn nhớ rất rõ: Khi đó tôi giận quá, giận run, tôi đã bắt buộc anh phải chở “em” đến nhà bé Hai, để đối chứng thực hư ba mặt một lời. Trên lầu hai trong phòng khách, ở sofa nhà con gái, lúc đó có ông Cường (chồng sau của bà vợ anh) ngồi đọc báo gần cửa ra vào. Anh đã cúi mặt gục đầu trước mặt tôi, con gái, bé Hai; mà thú tội:
        - Anh đã dùng uy tín của em để tự ý mượn tiền của con, tiêu xài riêng như vậy.

        Đúng 100% không? Nói thật với anh nha, vì tôi quá thương bé Hai, con gái dấu nhẹm không dám cho chồng… của nó biết việc anh làm tồi tệ nầy, nên lúc đó tôi không nở làm to chuyện, sợ con gái mất hạnh phúc. Rồi tự “em” (là= tôi) móc tiền túi của tôi thêm nữa, tận tay tôi đưa cho bé Hai; trả nợ đậy cho anh (anh gian trá nói láo mượn uy tín của tôi, móc tiền các con của anh đó). Tôi hứng nợ đậy giúp anh trả tiền cho con, có nghĩa là tôi muốn để anh biết ăn năn hối cải, ngầm giúp anh vuốt lại cái mặt, bớt nhục nhã xấu hổ, ngỏ hầu anh có thể ngẫng lên nhìn ba đứa con gái, nhất là đường đường chính chính ngó con rể, họ rất đàng hoàng đứng đắn, không biết có cha vợ hèn đến thế, anh rõ hử? Lúc đó anh nói trước mặt chúng tôi:
        - “Em cho anh mượn những món tiền nầy, và những món tiền trước kia, sau khi bán nhà xong, anh sẽ hoàn trả lại cho em”!

        Nhớ chưa anh? Bây giờ anh bán nhà cũ đã chục năm rồi, sao anh không nói gì chuyện nợ nần vay mượn?? Nè, tôi chưa bao giờ cầm một đồng xu nào của anh cả nghe! Do đó, thư nầy tôi sẽ chuyển tới những người mà anh từng bêu rếu tôi, cho họ đọc, để xác minh.

        - *5.- Có dôn dốt như tôi, thì ngày nay tôi cũng thấy, biết rất rõ chân tướng anh mà. Vì sao? Khi xưa “em yêu anh”, anh được em sơn phết lên một lớp mạ vàng quá lý tưởng, thần thánh, ảo tưởng, như người Mỹ gọi là “American Idol”. Tôi cố tình bưng bít, che đậy tật xấu xa của anh. Nay “em” và các con gái & người thân đã biết được những hành động khả ố cuả anh. Anh nói láo tàn bạo, phản bội tình, lừa gạt tiền, lì lợm trắng trợn thô bỉ nhất đời. Tôi không thể rộng lượng tha thứ cho anh thêm; Trái lại cớ sao anh ngu ngốc như vậy? Ngày nay anh cố tình khêu lên chuyện dĩ vãng đã bao năm qua làm chi? Anh là người không biết điều, mà khi qua Mỹ anh còn cố tình nối giây liên lạc phone, mail và kể với tôi:
        - “Từ 5 năm qua, (2005-2010) anh nói với tôi:
        - Anh đã có “vợ hờ” là bà Kiêm, để bà ta lo cho anh trong tuổi già, chớ ai lo cho anh đây?”.

        Khi đó tôi đã thẳng thắng nói với anh rằng:
        - Nếu anh lấy ai, thì em don’t care, nhưng anh lấy bà Kiêm làm “vợ lòi tói, hầu hạ anh trong tuổi già”, thì thật tình là em khinh bỉ anh. Vì anh biết rõ là anh đã dùng nhiều tiền bạc của em, để mua vui, truy hoan tình cảm với Kiêm mà! Ôi! Cũng như anh đã nói: Anh đã nhổ bà Kiêm ra khỏi miệng, giống như anh nhỗ bãi nước miếng xuống đất. Anh không thèm liếm lại. “Anh ở làm sao cho vợ anh thôi? Bây giờ anh khóc đứng than ngồi với ai?!”. Lần cuối cùng cách đây vào cuối năm 2009, anh đi Mỹ du lịch, anh phone và có e-mail cho “em” ; anh lại nói:
        - “Bây chừ… Anh đã có “vợ hờ lòi tói” khác, một cựu nữ sinh tên “Lý Lắc”… tuyệt vời”.

        - *06.- Lần nầy thì “em” thật tình có chút hơi mừng cho anh. Vì nếu quả thực “một cái bà Huế kia” sẽ sẽ … và sẽ …là người vợ thứ mấy của anh đi nữa, bà ta cũng không hẳn là người đàn bà tuyệt vời mà anh mơ tưởng đâu ạ! Vì sao? Nếu NGÀY XƯA kể từ năm 1976 đến năm 1992, khi Hoàng Năm Tony chỉ là một “thằng” đàn ông đi xe đạp lọc cọc lạch cạch, không có đồng xu dính túi, trên & trong mồm miệng mỏng dính không còn hai hàm răng, ở dưới thì áo thô quần vải, nghèo xơ nghèo xác. Sáng sáng anh ẹp mình trên chiếc xe đạp gò lưng đi làm công nhân viên quèn, với khúc bánh mì, gói xôi cất trong cái xà cột đeo bên hông.

        Trong khi đó 1976 – 1996 bên cạnh anh đã có một phụ nữ tuyệt vời đúng nghĩa: Sáng tửng bưng nàng vừa nai lưng đi làm xa xôi vất vả. Buổi chiều nàng tất bật về nhà chu đáo lo cơm nước, giặt giũ (bằng tay), ủi quần áo, hầu hạ săn sóc cho “anh và hai con nhỏ dại” đâu ra đó tươm tất chu đáo đàng hoàng. “Nàng” cần cù nhẩn nhục bỏ tiền túi ngỏ hầu lo cơm nước, chịu đựng chăm lo vun xới cho gia đình NGHÈO ấy từng ly từng tí. Nàng xăn quần lên tận háng, lội lủm bủm trong nhà, hứng từng thau nước mưa khi nhà dột, vách nhà hư nát. Nền xi măng lổ chổ, ngày ngày nàng vẫn cúi qùy hai đầu gối xuống đó mà hai tay lạnh cóng với cái khăn lông lau nhà, lau cửa.

        Có nhiều lần nàng quảy túi cói sau lưng, một tay nhặt những bịch ny lông đựng đầy phân rác thối tha; một tay quệt mồ hôi, con vợ hờ hững đi suốt ngày từ đường nầy qua phố nọ nhặt những thứ bọc thối tha, rồi đem về nhà, nàng dùng hai bàn tay lở lói (vì rủ và giặt thứ bẩn thĩu bám vào da thịt), giặt từng bọc ny lông. Nàng cẩn thận đem phơi khô, ngồi ngòai nắng canh chừng, vì sợ gió bay. Sau cùng nàng bưng những bọc ny lông sạch đem ra hãng ve chai bán. Lấy tiền chắt chiu dành dụm, nàng vui cười hoan hỉ, vì anh có biết không? mặc dù ở nhà con đói khát, (anh biết rõ mà), nàng vẫn đem những món quà (đối với họ là vô giá), hầu mỗi tuần đi thăm nuôi Hoàng Năm Tony bị biệt giam ở trong tù Đại Lợi, (vì anh có tội tham nhũng lường gạt của chung của xã hội chủ nghĩa; chớ không phải anh đi tù do bị "học tập cải tạo" như nhưng người trai khác mà tôi rất kính trọng).

        Nàng ở nhà ngồi trên gác xép khâu vá áo cho “ông ta” từng mủi kim, luôn tay quệt hai hàng nước mắt vào ống tay áo, chỉ khóc thầm… do nàng quá “yêu ông chồng”. Khi Hoàng Năm đã ra tù, sống lây lất, ông ta bất nhẫn tiếp tục lấy đi từng món, từng món… của người vợ; kể cả “anh lén cắp lấy hết mấy bộ quần áo cuối cùng còn lại của tôi”, anh đem ra chợ trời bán, anh đi nhậu nhẹt, say túy lúy với bà Lan, bà Dung, bà... Tôi đứng ở góc bờ kinh Nhiêu Lộc nhìn anh ôm hót đú đởn với mấy con đó, mà quệt hai hàng nước mắt khóc thương chồng vô lương tâm tàn ác.

        -* 07.- Trong khi đó, ngày HÔM NAY nếu anh có đào bới nặn bóp lên hình tượng một “nàng Lý Lắc”, mà anh cho là “vợ hời lòi tói tuyệt vời”! Thì tôi không lấy gì làm ngạc nhiên và kính phục xí nào. Vì sao?! bà ấy biết khôn ngoan một tay nắm mớ tóc muối tiêu, một tay nắm túi… và dùng thủ thuật của một người đàn bà quá tuổi xồn xồn từng trải, mà níu giữ lấy “cái hạnh phúc hờ loi choi” ấy, thì chứng tỏ rằng bà ta chưa hẳn có tình yêu chân chính, không quá ngu dại, và đần độn… để nắm bắt một thời cơ hiếm hoi trong tuổi già xế bóng còn lại ở XHCN!

        Vì sao thế ư?! NGÀY NAY anh không còn là: “cái thằng đàn ông trần trụi”… ; mà ngày hôm nay anh đã là “thứ Ông” CÓ điều kiện ĐẦY ĐỦ, áo quần tốt đẹp, có tiền bạc phủ phê bỏ trong bank, bà ta không hề rỉ ra một xu chinh nào, không tốn với anh đồng xu cắc bạc nào, bà ta chỉ tốn có công nằm ngửa rung đùi chơi xơi nước... Nếu anh là thằng bất nhân, bất lực, bất lương, bất tài, có chết bất đắc kỳ tử, thì bà ta chả cần… vì gia tài về tay bà ta hưởng trọn: có xe cúp cỡi lên, có nhà cửa… (dù không sang, vẫn hơn cái nhà tôn nóng bức cũ kỷ xưa); bà ta có tiền rủng rỉnh đi du lịch cặp bồ đó đây…

        Thì… thưa anh! Bà ta không nằm ở trong thời điểm khi anh còn là thằng áo rách khố ôm, bà ta không nếm biết cái cảnh anh rượu chè say sưa be bét, anh mặc mỗi chiếc quần xà lõn xệ xệ xuống mông, anh nghiến răng trèo trẹo chân cao chân thấp, anh cầm dao chạy rượt dân chúng chưởi bới xóm làng. Bà ta không sống trong cảnh chứng kiến anh cạy tủ con gái: anh lấy cắp của con $4,000 dollars. Hoặc anh đã lấy tiền bạc $5,000 của tôi đi với gái và ăn nhậu. Bà ta không có tài cán gì để “thông cảm, nhẫn nhục chịu đựng và thấu hiểu”... Thì ngu dại gì mà bà ta không nâng bi anh, nhỏ nhẹ vuốt ve mơn trớn anh hè??? Có mà điên! Bà ta ngu sao mà trở mặt bái bai anh… như bà Kiêm đã bye anh không thương tiếc khi anh đã giàu xụ hỉ?! “Cái đàn bà” anh cho là tuyệt vời, ngày nay dự định làm vợ hờ lòi tói ấy… Ui, xét cho cùng quá thô thiển, tầm thường thôi đấy ạ!

        - *08.- Tuy nhiên, một điều cuối cùng tôi muốn thật tình khuyên anh: Kinh qua cuộc tình dai dẵng hơn 50 năm xưa ; cuộc tình của anh và bà Phùng đầu đời sau 10 năm chăn gối vợ chồng mặn nồng:
        Anh nghe ai nhón gót đưa chân.
        Sao không nhớ nghĩa Châu Trần ngày xưa”?
        Khi anh & bà Phùng ly dị, anh đã nói xấu: Bà ta vơ vét tất cả, không chừa cho anh, dù đôi đủa cái chén bà ta cũng mang đi”. Cuộc tình 5 năm lòi tói với Kiêm khi hai người: “Anh điêu khốn gian ác… gặp chị khốn tà trổ trời”, thì bà Kiêm bỏ rơi anh, anh cũng đi nói xấu Kiêm là: “Kiêm lấy hết tất cả mọi thứ của anh”. Hoàng Năm nè, họ khác tôi, rất khác, họ có lấy đi hay không, tôi không cần biết; Nhưng chính TÔI là vị hôn thê đầu đời của anh- thì TÔI đã ĐỂ LẠI cho ANH tất cả; nha anh. Thế mà tôi vẫn không hề mở miệng than van, hoặc nói tiếng nặng tiếng nhẹ với anh! Vậy thì, trong mắt anh có phải tôi là người hôn thê tuyệt vời ấy… hay tôi là người phụ nữ xấu không, anh nhỉ???

        - Tôi biết rõ anh hơn ai cả. Mong anh thức tỉnh. Không nên nhẫn tâm, bất lương mưu toan lường gạt tình cảm, tiền bạc những người nhẹ dạ khác thêm nữa; anh đã già lắm: ngoài U 70 rồi, anh cần để phúc đức lại cho con cháu bớt tủi hổ nhờ. Nhất là bà con, con cái, những bạn trai gái của anh ở hải ngoại vô tội, ai ai cũng làm việc vất vã. Chứ họ không như anh, (được tôi và bé Khanh nuôi sung túc, no đầy). Anh không vất vả làm việc, anh ngồi không an hưởng, nên không thấy giá trị cao quý từ tình bạn, tình yêu người vợ chân thật từng đầu gối tay ấp, qua đồng tiền của người khác dành dụm, chắt chiu gửi về anh đâu. Đồng tiền kiếm được qúy lắm, họ giúp những người thực sự nghèo đói, đau khổ khao khát sự sống trong lành. Nhất là những đồng tiền bạn bè quyên góp ở hải ngoại. Lẽ ra, những mớ tiền đó, nên đến tận tay các em bé mồ côi tật nguyền đáng thương, ốm yếu, những ông già bà lão mù lòa, bệnh hoạn khốn cùng, nghèo khổ đơn độc ở vùng quê xa xôi, mới phải.

        Trong khi đó, anh nhận tiền của tôi, (hoặc của người khác), anh tiếp tục sống phây phây, phè phỡn đi ăn chơi trác táng với mấy bà… Tôi “nói có sách, mách có chứng, có biên nhận chữ ký của anh & CMND của anh, tiền của tôi gửi do tên anh nhận, tôi còn giữ đây rõ ràng. Ở hải ngoại bạn bè thân nhân của anh cứ tin anh bị đau nan y. Anh đã nói láo, lừa dối họ: “anh có di chứng ung thư cổ”, để họ quyên góp tiền gởi về cho anh. Tôi và các con gái ở nhà đã kiểm chứng: Anh không hề có hồ sơ bệnh lý gì, anh không uống một viên thuốc nào, anh không hề đau ốm chi cả, anh không có mặt trong bất cứ một bệnh viện nào tại VN. Anh béo phì to mập, mặt anh tròn úc núc như cái mâm. Anh khỏe mạnh hơn một việt kiều thứ thiệt bội phần.

        - *09.- Để khỏi làm hậm hực phiền nhau vô ích nữa, sau năm 2013 tôi dự tính sẽ về VN > ở lại lâu năm: Trong đó, tôi sẽ giải quyết trắng đen chuyện tiền bạc anh đã vay mượn của bạn, tôi, từ xưa, và đưa ra ánh sáng cho minh bạch vụ nầy, cùng mấy vụ khác. Anh có hiểu tôi rất khổ tâm khi bao che cho anh không?: bây giờ Phụng, Thu Thủy, bà Ngọc Hương, hiện đang sống tại Mỹ, & - Kể cả gia đình ông Vinh, ông Ngọc, ông Thanh, g/đ ông Đoàn, (họ hiện ở VN) biết anh ở VN sống phây phây, anh qua Mỹ vung vít, họ bảo tôi phải chỉ cho họ biết tin về anh, vì chuyện: Năm 1977 tôi và họ đã đưa “Hoàng Năm có biệt danh Hòang Năm Tony to bị” chục lượng vàng, để anh vờ vịt lếu láo chuyện làm không tặc. Họ muốn anh sòng phẳng trả lời trước công lý.

        Tôi bây giờ thật bình an, hờ hững nghe tình tàn phai. Đây là lần thư cuối cùng, xin anh hãy tha cho tôi, đừng liên lạc với tôi bất cứ phương tiện gì. Nhá!!! Anh đừng cố gắng níu kéo giằng co vô ích. Do tôi không nỡ, tôi can ngăn. Họ không còn gì để e dè sợ hãi, khi nói ra chuyện có thật, họ chỉ làm sơ sơ một lần cho tỏ. Vì danh dự và sự thật, cùi rồi không sợ lở, có chết không ân hận. Ngày ấy anh quá tàn ác đã hại chúng tôi xấc bấc xang bang bấy lâu nay không có chỗ dung thân, chỗ ở, chưa đủ sao? Anh hãy chờ ngày đối diện với những người bạn của chúng tôi (và cả anh) cần đối mặt nơi ánh sáng sự thật -thêm lần nữa, nếu anh muốn, muốn không???). Anh biết chắc chắn một điều: họ không thèm hù dọa anh.

        Hẳn nhiên là anh biết tính tôi: tuy tôi ôn hòa nhân ái, thùy mị, bao dung chịu đựng và độ lượng. Nhưng anh ạ, anh đã quá nhẫn tâm, tàn ác, không có đức độ khi xử sự với một người vợ từng vì anh mà cho tất cả mọi thứ trên đời. Bao lần tôi đã muốn quên đi chuyện buồn lòng, nhưng anh vẫn nhẫn tâm, tàn ác… làm cho tôi quá đỗi đau khổ và cùng quẫn. Dù tôi nhẫn nhục, nhưng lần nầy không thể chịu đựng nỗi, Thì ngày nay, nếu thêm một lần nữa có chuyện tranh chấp giữa nhóm bạn và anh, thì anh đừng trách sao chu1ngtôi xử tệ với anh, vì chính do anh đã và đang dạy cho chúng tôi học theo từ cái sách độc ác của anh đó thôi.
        Tôi mở nhạc đây: Hãy nghe Vicky cho thật kỹ nhá: APRÈS TOI của Vicky Leandros

        Tu t’en vas
        L’amour a pour toi.
        Le sourire d’une autre
        Je voudrais mains ne peux t ’en vouloir
        Désormais
        Tu vas m’oublier.
        Ce n’est pas de la faute
        Et pourtant tu dois savoir
        Qu’ après toi,
        Je ne pourrai plus vivre, non plus vivre
        Qu’en souvenir de toi
        Après toi
        J’aurai les yeux humides
        Les mains vides, le coeur sans joie
        Avec toi
        J’aurai appris a rire
        Et mes rires ne viennent que par toi
        Après toi
        Je ne serai que l’ombre
        De ton ombre - Après toi ...

        Cố nhân ký tên TtTm:
        (Trịnh thị Thùy Mến,
        tự là Mười)
        *

        Tình Hoài Hương
        Last edited by Tinh Hoai Huong; 06-10-2017, 01:05 AM.
        Bút trần nào tả được lưu luyến!
        Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
        Tình Hoài Hương

        Comment


        • Cục Đất Quê Hương


          Cục Đất Quê Hương


          Dù không muốn cào bới dĩ vãng vùi trong đất, trong tro, trong bùn… mà mỗi lần chỉ cần khơi lại lò bếp tàn, lòng tôi cảm thấy quằn quại, đau đớn, xót xa hơn bị dao lam mài liếc, bào mòn, ghim siết, chọt thủng từng nơi mọi chỗ trên da thịt. Tóc tôi sớm bạc trước thời gian theo luống tuổi chất chồng. Tôi không biết mình đã trải qua bao đau thương thảm khốc, lòng dẫy đầy nỗi ưu phiền sầu đắng nặng trĩu! Kể từ ngày gia đình tôi bỏ tất cả mọi vinh sang sung túc phù dung ở Đà Lạt, để di tản lưu lạc chạy có cờ xuống Nha Trang, và mới bước chân tới Sài Gòn chẳng được bao ngày, lại tất tả lủi về miền Tây, đến ngày mất hẳn nước; thì bây giờ tôi lủi thủi xuống phía Thành Ông Năm, gia đình tôi ít có ngày được an thân, mà hầu như luôn khổ sở, điêu linh, chết đứng như bị trái bom Napalm dội vào cuộc đời điêu linh khốn khổ, đầy gian truân, ngậm ngùi khổ đau cho một kiếp làm người!

          Từ đời tam cố đại xa xưa, dòng họ tôi giàu sang danh giá ra phết! và “nhân chi sơ tính bổn thiện” thiệt là hiền lành. Nhưng sau 1975, thì tôi “mất giá, mất dạy và mất danh”, cũng ra phết nốt. Tôi là nữ nhi hèn mọn; mà thuộc loại lì lợm, chân thật mà bướng ngầm. Chuyện gì nghe trái tai gai mắt, trái với sự công bằng và lẽ đoan chính, thì tôi cố gân cổ trợn mắt lên cãi lại. Tôi cũng như đa số người khác: trong lòng ôm ấp bao lý tưởng hoài mong, kỳ vọng. Nhưng trong cái phẳng lặng nội tâm... nào hay tôi đã âm ỉ ẩn chứa nhiều đợt sóng ngầm.

          Có những sự kiện mình không thể khắng định là “trắng” hoặc “đen”, đúng hay sai. Nếu trắng ở ngoài sáng thì thấy là trắng, trắng ở trong bóng đêm có thể trông thấy trắng. Nhưng nếu “đen” mà ở trong bóng tối thì... vẫn hoàn đen! Hà tất điều gì cũng đạt đến thành công mỹ mãn! Trên đầu tôi và mỗi người đều có một khoảng trời riêng biệt, trời rộng trời hẹp đều do suy tưởng, do từng hoàn cảnh và ở trong lòng mỗi nhân sinh quan. Cho dù:
          Con nhà tông không giống lông, đỡ giống khỉ.
          Mình vì mọi người, mọi người coi mình như "mọi"
          . (1)

          Tôi, bẩm sinh là tuổi “cọp cái sư tử Hà Đông” mà! Như thầy bói đã vui vẻ chúc Tết:
          Chúc cho tuổi Cọp... các bà.
          Đừng quá lớn tiếng cửa nhà nổ tung.
          Nhẹ nhàng một chút mới khôn.
          Chắc chắn sẽ thấy tâm-hồn thảnh-thơi.
          (1)

          Nói đùa cho vui tí vậy, chứ chả phải tôi tuổi Dần cao số đâu nà! Hổng dám đâu. Tuy thế, sau bao năm đói khát cơ cùng gậm nhấm bào mòn cơ thể. Nên nay tôi nghiệm ra một điều là: tập kiên nhẫn, chịu đựng, cúi đầu, cố gắng nhịn nhục, nhoẽn cười duyên ti tí với thế nhân. Vì, nếu ông Trời có cho tôi mọc thêm ba đầu sáu tay trên sợi gân cổ, thì “cái thế xã hội chủ nghĩa” tạp nham nầy, vẫn không chịu mở mắt khai hoa chia sẻ tình thương, cho con người cùng khổ như tôi bớt phần nào cơ cực đắng cay rất chi là đau khổ tột cùng! Và, vì tôi bắt buộc phải ngửa mặt lên nhìn Trời cao lồng lộng, cúi xuống đất dày cui khô cằn, nhìn hai bên giá vai có hai thánh soi xét, ghi chép: "Chứ tôi nào có tội tình chi, mà mười ngón tay già run run, tôi luôn cúi xuống đất túm chặt buị bờ để nhổ cỏ, vọc đất, vọc bùn, đã đời như ri rứa, hả"?

          Thoạt nhìn phớt qua, tôi cũng như ai ai, thấy mình đang nâng niu trên tay cục đất quê hương thơm lừng mùi đất bùn: mặn nồng xương thịt tổ tiên ông bà thân nhân quá cố, ai nấy đã có từng dòng mồ hôi muối cuả người đang sống nhỏ tong tong xuống đất, hoà trộn chung với giọt mồ hôi bao người chết, xương cốt ấy trở về tro bụi... đã tạo thành đất trên những luống cày tại các nông trường, trên những công trình xây dựng kinh rạch, thủy lợi dẫn thủy nhập điền.

          Cái ngữ thân thiện “ngây thơ cụ” nơi đất cát, gò mối ao bùn, kinh rạch kia… Ai nấy đều có tí hy vọng là người với người cùng chung ý niệm lý tưởng tin yêu, luyến mến thân tình, lãng mạn và đoàn kết nông dân sao đâu! Thế nên, bây chừ chẳng còn ông bà cha mẹ cuả bạn (hoặc của tôi) đứng dậy bước ra khỏi mồ, đội đất chun lên, để họ rầy la quở trách “con gái già” ưa dùng tay chân và gò lưng chơi đất, vọc bùn bê bết dơ bẩn! Biết bao người có bàn tay sần sùi, gót chân nức nẻ, bờ ngực khô héo, cuộc sống gian khổ đắng cay đầy tái tê? Chúng tôi cứ bắt chước Adam và Eva (hoặc ông bà thủy tổ loài người cổ đại tiền sử, hay ví von mình giống khỉ đột hoang sơ,) là xong ngay một đời xã hội chủ nghĩa. Chúng tôi ở trong nhà hoang phế dưới tận đáy xã hội rồi, không thèm mặc gì hết. Thôi cũng đành! Vã lại… cơ khổ thân tôi:
          Ngày xưa yểu điệu như tiên
          Bây giờ lẹt đẹt như con vịt bầu.
          Ngày xưa chum chúm núm cau,
          Bây giờ lỏng thỏng như bầu trên cây.

          Ngày xưa nhựa sống căng đầy,
          Bây giờ vắt mãi bảy ngày cũng không.
          Ngày xưa thắt đáy lưng ong,
          Bây giờ to bụng còn mông phẳng lờ.
          (1)

          Vấn đề tự-trọng. Danh dự. Sự hổ thẹn hay liêm-sỉ –Ở thời buổi 1975 * 1995 nầy– là cái quái gì! Âu chỉ là lớp sơn đỏ phù dung mỏng dính, được bọc hào nhoáng phết phủ bên ngoài, để che đậy lớp rỉ sét, khô mục thối um ở bên trong. Lòng tôi chùng xuống, hội nhập với bao phiền não chua xót đắng cay. Lo âu. Khắc-khoải. Hãi hùng về vấn đề gạo cơm, tạm trú tạm vắng, ăn đói ở lỗ, hơn là chuyện "danh với dự". Hơi sức đâu mà còn nhớ đến sĩ diện nữa không biết! “Thấp thỏm nhúc nhích” chi mà nhớ chuyện “ruồi rượn bu bên đít” í hỉ!

          Tuy nhiên cái bực tức nhất của tôi bây giờ là: suốt ngày chúng tôi rất vất vả nhọc nhằn vô cùng, vẫn bị những cơn đói và khát hành hạ; tối về lo cơm canh cho gia đình con cái chưa xong, lúc nào nghỉ cũng gần tới nửa đêm, có khi "đi họp đi hành" thì ôi thôi kể như thức trắng. Nằm đặt lưng trên “giường đá” trằn trọc lo âu tìm kế sinh nhai hoài, không sao chợp mắt. Mãi đến canh ba, canh tư đang thiu thiu; bỗng làng xóm ai nấy đều giật mình bật người dựng đứng dậy, nghe loa phóng thanh rống to lên, bắt mọi người dậy... lảy đảy đi tập thể dục. Hứ, tập tành cho ai ”nghể” đây!?:
          Phong trào thể dục phường ta
          Có ông bà lão thở ra hít vào
          Dù cho mệt nhọc thế nào
          Ông bà cũng cố hít vào thở ra . . .

          . . . Khi nào vĩnh biệt đi xa
          Người ta mới hết thở ra hít vào
          Bây giờ tôi cũng xin chào
          Để tôi còn phải hít vào thở ra.
          (Bút Tre)

          Hồi xưa còn trẻ trung, cái thời huy hoàng sung túc đầy đủ, họa may tôi còn có thì giờ tập thể dục thể thao, tự do thoải mái hít thở không khí trong lành cho buồng ngực no tròn. Nay tay cầm cuốc vai vác bừa, chân đi rã gối, phờ người để chạy ăn từng bữa một… Chưa đủ rã rời xương cốt tiêu hao sức lực sao, mà phè phỡn “dửng mỡ dục với dịch!”:
          Trước đây con tưởng gặp thời
          Chúa ban con được tìm người con yêu
          Giờ đây thân xác tiêu điều
          Đời con phải chịu rất nhiều đắng cay

          Thân con chẳng khác trâu cày
          Nợ nần con trả đời đời chưa xong
          Con giờ như cá lòng tong
          Sụt ba chục ký ốm nhong rã rời
          (1)

          Điều duy nhất tôi phải ghi nhớ trong đầu mỗi đêm chắp tay cầu xin:

          Người đâu gặp gỡ làm chi
          Để cho khổ thế còn gì tuổi Xuân?
          Chúa ơi! Con khổ vô ngần
          Chúa mà không giúp, là thân con tàn
          (1)

          Tôi chả dám khùng điên như ai kia, (vì tôi phải lo cho chồng tù tội “cải tạo”, lo cho mẹ già con dại bơ vơ cùng khổ). Ngày qua tôi đi làm nông trường, nghe đồng bào rỉ tai nhau đã có một thanh niên "Ngụy" đứng trước cửa chợ Bến Thành chưởi đổng:.
          - Tiên sư cha nó! Chỉ vì một thằng già khốn nạn, mà cả nước khổ sở, lầm than.
          Anh ta bị công an điệu ngay về đồn. Cán bộ chấp pháp thẩm vấn:
          - Anh chưởi ai là thằng già khốn nạn?
          - Thưa cán bộ, tôi chưởi... Dương văn Minh!
          - Ý anh bảo vì Dương văn Minh đầu hàng, nên cả nước mới khổ, phải không?
          Anh chàng thanh niên "Ngụy" thuộc loại lỳ đòn, nên bai bãi:
          - Không phải. Tôi chưởi vì thằng chả giết Ngô Đình Diệm, nên cả nước khổ.
          - Anh cho rằng Ngô Đình Diệm với giải pháp Ấp Chiến Lược đủ sức trấn áp lực lượng giải phóng chứ gì? Hay anh cho rằng Ngô Đình Nhu với chính sách Bắc tiến, có thể đánh thắng miền Bắc?
          - Không phải vậy. Vì Dương văn Minh giết Ngô Đình Diệm, khiến Mỹ đổ quân vào, làm cả nước khổ sở.
          - Nghe tạm được! Cả nước tuy gian khổ, nhưng rồi cũng chiến thắng vinh quang. Thôi tha cho anh về. Đừng làm ồn chỗ công cộng nữa. Tôi biết nhiều người cũng ghét Dương văn Minh, nhưng chả cần phải làm náo loạn như thế. Vả lại muốn chưởi ai, phải nêu rõ tên người ấy ra mà chưởi, kẻo lại có chuyện hiểu lầm lôi thôi. Anh nghe rõ chưa?
          Anh thanh niên lễ phép đứng lên:
          - Dạ tôi xin nghe lời cán bộ từ nay tôi sẽ chưởi rõ tên "thằng già Minh khốn nạn làm cho dân khổ"
          Cán bộ chấp pháp vỗ bàn:
          - Anh kia anh chưởi ai thế?
          - Thằng già Minh. Dương văn Minh!
          Cán bộ bực quá, gầm lên:
          - Anh mang cái thằng già Minh khốn nạn xéo ngay! Xéo mau! {st = (Cadman)}
          *

          Ngày kia bá cháu mẹ con tôi lặn lội từ Hốc Môn ngồi xe chuyền từng đoạn suốt ba ngày mới có thể đi thăm nuôi cha, chồng. Con: ở trong tù “cải tạo” Z 30B Gia Rai, Xuân Lộc. Gặp nhau mừng mừng tủi tủi, chúng tôi hàn huyên tâm sự bao nỗi đắng cay nghẹn ngào tức tưởi. Luật đã hai phổ bản nhạc: “Bài Hát Chiều Thứ Bảy” :
          Ta viết bài ca chiều Thứ Bảy
          Trong ngục tù buồn chán chất ngất
          Bao gian khó khổ đau ta đối mặt

          Mắt nhạt nhoà dòng mực chua cay.
          Ta mất đời ta chiều Thứ Bảy
          Khi cuộc đời đầy dẫy mất mát
          Nhưng ta biết ngày mai ngày Chủ Nhật

          Cánh chim bằng soãi gió tung bay…
          Người ơi lắng nghe chiều nay
          Quả tim bốc cháy đốt cơn mê nầy
          Trái tim hồng người ơi giữ lấy
          Cho quê hương rồi sẽ đổi thay!
          –[*nhạc & lời… còn dài, (2)]

          Và “Bông Hoa Tím”. Tôi trang trọng mang hai bản nhạc về nhà, con trai đánh đàn, chúng tôi chụm đầu vô líu lo ca hát, để quên đói khát:
          Thấy bông hoa màu tím.
          Nhớ em đang buồn phiền.
          Nghe tin đời khốn khó.
          Thấy lòng mình không yên.

          Đứng bên trong rào kín.
          Nhớ quê hương từng miền.
          Quê hương còn khốn khó.
          Giấc ngủ nào cho yên!

          Chút gió cho cỏ mềm.
          Chút nắng cho chiều êm.
          Đốm sáng nầy cho đêm.
          Tiếng hát nầy ru êm.

          Thấy bông hoa còn thắm.
          Khắc ghi sâu lời nguyền.
          Ngay trong tù khốn khó.
          Giữ một lòng trung kiên...
          (2)

          Bà cháu mẹ con chúng tôi đang vui vẻ véo von ca hát, bỗng thấy tên "tay tổ" trông coi khu vực ấp láo liên dòm vô nhà, (ông ta lom lom đi lung tung quanh xóm, để ngầm ngầm điều tra gia cảnh dân tình làm ăn sinh sống). Cuối cùng ổng đến trước sân nhà tôi, sớn sác dòm ngó lung tung, rồi lân la ghé hỏi:
          - Tui tưởng hôm ni lờ ngày Thứ Bưa, thì chị đi Đè Nẽng, Quảng Nôm, hay Quảng Ngỡi, hay Phủ Côm (Phủ Cam, Huế) chi rùi?
          - Tôi xin giấy phép rồi, nhưng chưa có tiền mua vé xe.
          - Chị cồm rồm chi cho mệt. Không có tiền đi xe hơi, thì đi xe lôm, xe độp... rồi cũng tới nơi.
          - Phải.
          - Chị đeng lồm cới chi rứa!?
          - Ông khôn chộ răng? Tôi ngồi coi chừng ló ngoài cươi.
          - Chẻng có ai thôm lôm mô. Méc chi mờ phải coi hì!?
          - Ông không biết, chớ hở ra một xí, là kẻ cắp như rươi. Có ai dám duã, dám đục, dám dần bọn hắn mô! Ông nghe hỉ:
          Cái xứ gì đâu lạ lắm đây
          Sát nhân, trộm cướp cả một bầy
          Thế mà lại gọi là lãnh đạo
          Ăn trên, ngồi trước khoẻ phây phây
          (3)

          - Úi xà... tui tưởng mình để cả cái bâu(bao) thì hén mới dớt(vát) đi chớ. Chị noái rứa, tui mứi hỉu! Thì ra lờ dư rứa hì.
          - ...
          - Bữa trước tui toạ đồm ở trên thèng phố, mới biết... chị tên thặc là chi?
          - Tên trên giấy tờ thì ông biết rồi, còn gì mà thật với giả.
          - Tôi đìu tra ra, chị còn một tên khớc nữa.
          - Sao, thưa ông?

          Mỗi lần nói chuyện với ông an ninh nầy, tôi phải nhìn vào một đường rãnh sâu hoắm từ cửa môi trên, ăn thông xéo lên tới lỗ mũi. Nhất là khi ông ta ho, hoặc hách xì, thì nước dãi nhớt chảy ra từ hốc mũi, trào xuống miệng, giọng nói ông ta càng ngọng nhịu, khó nghe. Tôi có cảm tưởng ông ta nói với tôi, mà cố dùng mồi giả, để nhữ cá cắn câu. Cá cắn vào sâu biết đâu mà gỡ, chỉ có nước cá nằm trên thớt dãy đành đạch, ngáp ngáp chờ chết thôi. Tôi thấy ớn ông, hơn là sợ “danh phận cao qúy” của ông:
          - Noái thặc đi.
          - . . .
          - Cả tên thèng dôn của chị nữa?
          - Tên ta hay tên tân thời!?
          - Lợi có cới chiện nớ hử? Tui phải noái reng thì chị mứi hỉu ý tui nà!?
          - Tại tôi ngu dốt quá.
          - Nếu chị và thèng dôn của chị có hơi ba cới tên chi đó, thì chính xéc nghĩa lờ vợ chồng chị đã lồm en phi phốp, có âm mu dấu đút cới chiện chi rùi hì!
          - Ông nói lạ! Tôi không hiểu.
          - Khôn phải reng? bòa con lối xóm đã ngầm bấu cấu với tui rùi: vì khi say rựu, thì họ luôn luôn noái thặc.
          - Họ nói thật với ông về chuyện gì?
          - Thì... thèng dôn của chị ít khi en cum, mờ hén... hén ưa kiu bợn bè tới dà dậu dẹt, mờ nấu thịt rén en, lồm thịt chó en, en tơm cá tưng bừng. Rùi khi bợn nớ say rựu, lờ cả bợn nớ tụ tập, dém tính tới cới chiện đi lồm phẻn động.
          - Chồng tôi nhóc tì bằng trái ớt hỉm, ảnh mới về vùng nầy chưa quen biết ai, thì bị đi học tập “cải tạo”, ảnh có biết ất giáp chi, mờ dám uống rượu, rồi bày đặt toan tính làm phản động, thưa ông, đừng chụp mũ, tội lắm.
          - Không có tịt thì thôi, chớ seo chị lợi théc méc, mờ rục rịch dúc dích. Bi chừ tui hỏi lợi nà: tên thặc của chị lờ chi. Hử?
          - Tên cúng cơm hồi tôi chưa có chồng là: “Ệp”. Còn tên tân thời bi chừ của tôi là: “Mít Đót”.
          - Còn thèng dôn chị?
          - Phần chồng tôi thì… ngày xưa ảnh có song tịch, nghĩa là ảnh có “quốc tịt” Pháp, thì ảnh phát sinh ra thêm một tên tân thời.
          - Tên chi? Tôi hỏi cả hơi thứ.
          - Tên cúng cơm ảnh là: Phạm Trọng Luật. Tên tân thời là: Phăng Xoa Bẹt Xon. Tiếng Tây gọi ảnh là: Francois Bergson đấy. Nick name Tây cuả ảnh là: “Ca Ca Cun”, tiếng Việt có nghĩa là: “cứt cún” đó, ông à.
          - Phẹm Trọng Lựt!?
          - Vâng! Bố mẹ anh ấy đặt cho anh Luật cái tên chết tiệt! Thảo nào ảnh bị đi tù “cải tạo” mút chỉ cà tha.
          - Chị đừng ngoan cố như rứa. Chị phải hỉu, lồm seo mờ thèng dôn chị bị đi hặc tập cởi tậu chớ.
          - ?!
          - Hừ! Đểu thật. Lồm en cới chi mờ đi cởi tậu lâu rứa hỉ!?
          - Vâng! Xin lỗi ông, người miền Bắc thì nói “đểu thật”. Còn người miền Nam tui thì nói “đểu giả” nà.
          - Chị lụm mót ở mô ra... mờ dém chơi chữ với tui, hứ?
          Tôi tủm tỉm cười:
          - Xời! Tôi là bần nông có ra môn ra khoai gì mà dám chơi chữ, mí chơi hành tỏi. Ông nói y như thần y phong thấp! Tôi phục. Còn việc chồng con thì tôi nói thật, chúng tôi ví như đôi chân, nếu không tin yêu nhau, thì một trong hai bàn chân giận dữ tự nhô lên hụp xuống. Chân nầy chấm, thì chân kia phết, đi đứng lộn xộn, cứ như thế mà bò lết trong cõi đời ô trọc như bi giờ mỗi người một nẽo.
          - Ừ, “chính xéc” là hai thèng thưn đã “phẻn đối” trái ớt hỉm rùi!
          Tôi ngẫm nghĩ lời ông ta nói mà cười thầm. Ổng thay đổi chiến lược:
          - … Chị có ngừi thân ở Mỹ, chị có thuốc đau gơn không? Cho tôi mươi viên, hì.
          - Cậu tôi ở Mỹ gởi về mấy hộp thuốc. Vị thuốc nầy rất đắng, đắng bao nhiêu ở xã hội nầy cũng phải uống, dù uống vô thì trong lòng càng đắng hơn.
          - Đéng bâu nhiêu mà hết bệnh, cũng uống chớ seo.
          - Vậy ông chờ, tôi soạn thuốc đau gan ra cho.
          Ông ấy chẳng hiểu ý ngầm của tôi, nên tươi rói nét mặt xoa hai bàn tay vui vẻ giả lả:
          - Thuốc Mỹ không tốt.
          - Sao lạ vậy!?
          - Chị théc méc lồm chi, chớ không nghe ngừi ta noái: mua thuốc ngoại là “thuốc Tây” tốt. Chớ chẻng có ai nóai mua thuốc ngoại, lờ thuốc Phốp, thuốc Mỹ, hay lờ thuốc Ngơ tốt cả, hè!?
          - Chính ra thuốc men bên Mỹ là tốt nhất, vì họ sàng lọc tinh hoa ở nước ngoài, tỷ mỹ nghiên cứu, rồi họ mới điều chế ra sau rốt, ông à.
          - Tôi cần thuốc Tây.
          - Vậy thì tôi không có thứ thuốc ông cần.
          - ... Điêu hì! Ôi xà! Mỹ, Ngơ, với Phốp hay Tây… lờ mấy thứ. Uống tờm tợm cũng tốt.
          - Ông đến đây xin thuốc, thì tôi cho. Nhưng lỡ ông có bề gì, tôi không chịu trách nhiệm nghen. Có bà con ba bên bốn bề làm chứng cho tôi. Vì ông biết đó: hàng hoá thuốc men chưng bày lơ thơ trong quầy, khi dân hỏi tới, cô bán hàng bảo: “Hàng mẫu, không bán".
          - Chị nỏ khun hơn tui mô nờ! Tui cho chị mắc lửa nà. Vì răng! Vì… chị cho tui thuốc, coi như lần ni huề. Hí!
          - Dạ… dạ không dám mô! Khi họ đến hỏi tôi:
          - Chị xinh đẹp thế nào ấy! Thế nhưng… chồng chị đâu? Đi hoạt động hả?” Thì chỉ có nước tôi chết treo ở cửa Bắc. Hay gia đình tôi bị tập trung đi kinh tế mới mất thôi. Xin kiếu từ ông.
          ***

          “Kinh tế mới”, thoạt nghe qua thì đầy ắp ân tình, hứa hẹn no đầy hứng khởi nơi vùng đất mới. Rồi thì “ già sinh tật, đất sinh cỏ”... e tôi sẽ điên mà sinh ra chứng
          :
          Quanh năm hút chích ở mom sông,
          Hít đủ năm phân chích một liều
          Lặn lội thân cò khi quãng vắng
          Ỉu xìu bủng bẻo buổi tuần tra,
          Một duyên hai nợ âu đành phận.
          Năm nắng mười mưa chẳng bỏ chơi,
          Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
          Có tiền hổng chích cũng như không...
          (1)
          *
          st = sưu tầm, lượm lặt.
          Bài Ca Chiều Thứ Bảy & “Bông Hoa Tím”:
          Nhạc: Phạm Thiên Tứ. Lời: Lê XuânN…
          3. Thơ Bùi Phạm Thành
          ***

          Tình Hoài Hương
          Last edited by Tinh Hoai Huong; 06-17-2017, 05:41 PM.
          Bút trần nào tả được lưu luyến!
          Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
          Tình Hoài Hương

          Comment


          • Sự Hổ Thẹn của “Mít Đót”



            Sự Hổ Thẹn của “Mít Đót”


            Như đã có lần tôi hầu chuyện cùng quý vị rồi; nay tôi xin thưa tiếp: Từ đời tam cố đại xa xôi… thuở trăng sao hoa lá lao xao đong đưa còn tươi rói trên cành, thì dòng họ tôi giàu sang danh giá tri thức ra phết! Thế nên tôi đã danh chính ngôn thuận làm một “công tằng mỹ nữ” cao sang và đài cát, được yểu điệu vác cặp cầm bút ung dung tự do tự tại theo thầy học... nào là: Tam cương (vua và tôi. Cha và con. Vợ và chồng). Ngũ thường, gồm: Nhân: (lòng thương người). Lễ: (những phép tắc). Nghĩa: (có tình nghĩa, lẻ phải đạo con người). Trí: (sự hiểu biết, khôn ngoan). Tín: (không gian dối, giữ đúng lời, có uy tín). Do đời sống ở trong đại gia đình mình quá đầy đủ, nên tôi không thích:

            Đeo đồng hồ hai cửa sổ không người lái,
            Mở truyền hình kênh phát sóng thông tin.
            Ông cán bộ đang “quy hoạch” quy trình,
            Đang báo cáo tình hình năm nay tốt.

            Chị “quán triệt phương án” từng chút,
            Rồi xuống nhà, “hồ hởi” uống cà phê,
            Kiểu cái nồi ngồi trên cái cốc chị mê,
            Xong đâu đó, chị chiên con sâu mỡ.
            (1)

            Nguyên do:
            Tuy thất thoát thật to, lại được coi là cái lỗi rất nhỏ.
            Vì thế VIỆT NAM ta, từ từ biến thành một đất nước nho nhỏ.
            Trong cái đất nước nho nhỏ, lại có những ông lãnh đạo thật to.
            Trong những ông lãnh đạo thật to, lại có những cái đầu quá nhỏ.

            Những cái đầu quá nhỏ, lại có những túi tham thật to.
            Những túi tham thật to, lại có những hiểu biết rất nhỏ.
            Và những hiểu biết rất nhỏ, lại gây hại cho đất nước thật to.
            (*)

            Bây chừ, trước tiên: gia đình tôi sau ngày 30-4 đã vô phúc rơi vào… “hang ổ gốc mít đót” (ám chỉ là cả nhà tôi thấp hèn chuyên nghề đi “mót… đít”), cũng do phát sinh nguyên thuỷ từ chữ: “Phú Lăng Sa A Na Mít” mà ra đấy! Số phận tôi quá vô duyên, vô phước, bạc bẽo bị lọt… vào khu 18 thôn vườn trầu làm chi, mà nay rơi tủm xuống tận đáy xã hội khốn cùng, nơi có toàn thứ dữ cán bộ nồng cốt không hà:
            Cái xứ gì đâu chán gớm ghê
            Thịt thà lãnh đạo đớp ê hề
            Thằng dân rau cỏ và khoai sắn
            Ăn để mà sống, chẳng dám chê
            (*)

            Bằng hai bàn tay thô cứng, tôi trở thành dân ruộng vét rạch, đào kinh dẫn thủy nhập điền: Trồng thơm, trồng mía, trồng ngô, khoai, trồng dưa leo, trồng bí bầu… Ôi! đủ thứ trồng trồng trồng..., trọt trọt trọt... trỉa trỉa trỉa... hầm bà làng xí cấu, tum lum tà la vẫn không xong: mặc dù khi vất vả khó nhọc trăm bề, tôi luôn ước ao mình sẽ trở về với thời hoang dại xa xưa. Dù chỉ là mơ mộng thế thôi, vẫn không thể. Vì:
            Người con gái hôm nay mặc quần đỏ
            vì hôm qua đã mặc chiếc quần đen
            đen và đỏ là hai màu rồi đó
            cũng như đời, đường hai nẻo xuống lên

            Người con gái hôm nay mặc quần trắng
            vì hôm qua đã mặc chiếc quần hồng
            hồng và trắng là hai màu bẽn lẽn
            cũng như núi và rừng đều rất mực chênh vênh.

            Người con gái hôm nay mặc quần tím
            vì hôm qua đã mặc chiếc quần vàng
            vàng và tím là hai màu mỉm miệng
            mím môi cười và chúm chím nhe răng

            Người con gái hôm nay mặc quần rách
            vì hôm qua đã mặc chiếc quần lành
            lành và rách đều vô cùng trong sạch
            bởi vì là lành rách cũng long lanh
            (BG)

            Tôi mới mấp mí gần tuổi "hâm mấy" mà tưởng chừng dường như mình đã già khọm tới tuổi “bảy mưi” ; nên mình chỉ muốn bước xề tới hố tử thần! Khi người ta tới tuổi 40 thấy chết còn xa, người 50 thấy chết từng năm. Qua 60 thấy chết từng tháng. 70 thấy chết từng ngày. Người thọ tới 80 nói: "chết là hết" Vậy mà tôi đang đếm cái chết từng ngày… từng tháng; khi tôi mới vừa tới tuổi "hâm đi hâm lại"?! Tôi cứ bắt chước Adam và Eva trong vườn “địa... ngục tân thời”, hoặc giống ông bà thuỷ tổ loài người cổ đại tiền sử, thiệt giống lũ khỉ đột, là xong ngay một đời thê nữ trong căn nhà hoang phế, dưới tận đáy xã hội chủ nghĩa, không thèm muốn ước ao gì hết. Thôi cũng đành!

            Vấn đề: tự-trọng. Danh dự. Sự hổ thẹn hay liêm-sỉ –Ở thời buổi 1975 - 1995 nầy– là cái quái gì! Âu chỉ là lớp sơn đỏ mỏng dính, hào nhoáng phết phủ bên ngoài, để che đậy lớp rỉ sét, khô mục thối um ở bên trong. Lòng tôi chùng xuống, hội nhập với bao phiền não đắng cay. Lo âu. Khắc-khoải. Hãi hùng về vấn đề gạo cơm, tạm trú tạm vắng. Hơn là chuyện... không có ăn mà ở lỗ. Thật ra, ở nơi nầy hầu như ai ai cũng chả có “tấm mền lá chuối” như ông "Trần Minh khố chuối" thời tiền sử đã dùng lá che bụm chim. Thì; ngày nay hơi sức đâu tôi còn nhớ đến sĩ diện nữa không biết! “Thấp thỏm” chi, mà mình nhớ tới chuyện “ruồi bu bên đít” í hỉ!

            Sau khi Việt Nam đã mang "ranh rự" bởi danh ngữ hoà bình, tự do, thống nhất, độc lập rồi, thì thế giới tự do dân chủ của người Việt Nam mỗi ngày một gò bó, teo tóp lại từ thời điểm 1975 – 1985 - 1995 trở đi: Việt Nam biến thành một nhà tù bao la khổng lồ, dài lê thê, dài ngoẵng. Sự tù đày trong ngục tù "cải tạo" vô cùng trắng trợn dã man, gông cùm, đói khát, chết chóc từ Ải Nam Quan xuôi miền Bắc, chạy dọc xuống miền Trung, lan tràn đến miền Nam, chạy ra tới biển cả trùng dương trên các đảo Phú Quốc. Côn Sơn… Đâu đâu cũng có muôn trại tù “học tập cải tạo” nườm nượp mọc lên như nấm.

            Ai chết mặc ai! Đảng và nhà nước có công giải phóng dân miền Nam thoát khỏi nanh vuốt Mỹ, thì hoà bình, thống nhất từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mau... rồi đất nước sẽ có tự do, là “nhức nhĩ”. Kế đến, đảng uốn nắn con người trong chế độ tư sản mại bản phải “đổi mới tư duy”, “cải tạo tư tưởng”, “cách mạng toàn diện” một con người mới, không phải chỉ một sớm một tối ; là xong đâu nhá. Mà phải kiên trì huấn luyện trường kỳ, dài hạn: “mười năm trồng cây, trăm năm trồng người” đấy là gì! Người dân ở vòng tù ngoài chẳng hơn gì trai tráng trí thức ở tù “cải tạo” bên trong. Ở vòng ngoài nôm na gọi là “tù ngoài địa bàn xã hội chủ nghĩa" họ kiếm đủ cách đi vượt biên. Ra đi… bằng đường bộ, đường biển, tìm tự do trước cái chết, vẫn hơn sống thấp thỏm trong quê hương xiết đổi kinh hoàng:
            Chung quy chỉ tại vua Hùng
            Sinh ra một lũ dở khùng dở điên.
            Đứa khôn thì đã vượt biên.
            Những thằng ở lại chả điên cũng khùng.

            Bác Hồ chết phải giờ trùng
            Nên bầy con cháu dỡ khùng dỡ điên.
            Thằng tỉnh thì đã vượt biên.
            Những thằng ở lại nửa điên nửa khùng.

            Trung kỳ có những thằng khôn,
            Nó đi cửa trước nó luồn cửa sau.
            Suốt ngày cứ nghĩ làm giàu
            Nó đi đúng chỗ, nó thâu đúng người

            Nghị quyết nó thuộc mười mươi
            Nhưng chỉ xử dụng những nơi nó cần.
            (1)
            ***

            Thế rồi… mấy năm sau đứa con thứ ba của tôi mới bốn tuổi, nhúm tuổi non nớt phải lăn ra đời lê lết kiếm sống, khi thùng cà rem to và cao đến ngực cháu. Bán cà rem ngày càng ế-ẩm hơn, vì chỉ có mấy bộ đội thích ăn cà rem bỏ trên cái dĩa cho chảy nước ra. Người dân “thắt lưng buộc bụng” không dám ăn thứ “cà lem xa xí phẩm” ấy. Các con tôi luôn đem bánh bò bị thiu, cà rem chảy về ăn, ăn trừ cháo. Riết rồi trong nhà chúng tôi cụt vốn. Hết sạch trơn tiền vốn, dù một thùng cà rem tiền vốn vỏn vẹn chỉ có năm đồng. Năm đồng vốn (tiền Hồ) khiêm nhường vẫn không có, thì nói gì gia đình tôi có tiền lời nhỏ nhoi, để độ nhật qua ngày! Thế là đói rã ruột:
            Từ khi ta có bác Hồ.
            Nhân dân chẳng được ăn no ngày nào.
            Lương chồng, lương vợ, lương con.
            Đi ba buổi chợ chỉ còn lương tâm.
            Lương tâm đem chặt ra hầm.
            Với rau muống luộc khen thầm là ngon.
            (*)

            Mót nhặt những bọc ni lông đựng tạp uế tanh hôi thì ôi thôi: ở bên trong đựng đủ thứ tanh hôi, bẩn thỉu dơ dáy vô cùng, chỉ nghĩ lại vẫn muốn ói. Nhiều lần mấy mẹ con phơi bọc ni lông ngoài cánh đồng khô trời nắng chang chang, bị cơn gió lốc xoáy cuốn thốc mọi thứ lên trời, bọc ny lông bay tứ tán tản mác khắp nơi. Chúng tôi đứng dưới đất, dậm chân, bức tóc, vò đầu, ngửa mặt nhìn lên mà khóc rống giữa bầu trời bao la. Tôi hận trời hận đất quá “ác”: Trời sáng và trời tối không phải là đối địch nhau. Nhưng mà để toả sức sống cho nhau. Dù thế đối với cảnh khốn cùng nầy, tôi xin nói: "Trời vẫn ác làm vậy"! Ông ơi! sao không chừa cho chúng tôi một lối thoát! Ông ơi! khi ông làm mưa giông sấm sét, vô tình đánh chết ai đó, thì không ai mở miệng nói:
            - “Trời ác”. Trái lại người ta chỉ đổ tội là: Do “người ấy ác”, nên mới bị Trời đánh, Trời mới hành. Bi giờ thì sao đây?

            Người khôn của khó, vì miếng cơm manh áo, dần dần nơi ruộng lúa có đầy người chết đói trong khu xóm C, cũng bắt chước (mẹ già con thơ chúng tôi), họ kéo nhau ùn ùn nườm nượp lẽo đẽo đi theo bà cụ “mót” đủ thứ. Thế nên ruộng đồng ngày càng khan hiếm, không còn con cá lòng tong, chả có con cua, con cáy, con ếch, con nhái, con dế, cào cào… nào sống yên. Hạt lúa rơi, rau, củ, v.v… đều sạch trơn, chẳng còn chi, chớ nói “hạt ngọc lúa” Trời ban, mà buồn. Ngậm nhúm cháo trong miệng, ít khi chúng tôi nuốt trôi, hai hàng nước mắt không khỏi tuôn trào!

            Hồi xa xưa lúc cha mẹ tôi phú qúy, vinh sang, có nhiều lần tôi theo ba tôi đi qua Lào, Miên, sang cả Thái Lan. Ba tôi là danh y thuở ấy, nên được chính phủ giới thiệu ba đi ra ngoại quốc tham quan, học hỏi thêm về y học nước ngoài, chính ba tôi đã trị bệnh cho vua quan Lào, vua Cao Mên nơi xứ người. Tuy tôi còn rất nhỏ, quá nhỏ nhưng có trí khôn, tôi đã có dịp nếm thử: Nhất điểu. Nhì ngư. Tam xà. Tứ tượng, ui chà ngon hết sẫy, ngon nhức nhĩ. Bi chừ nhớ lại tôi vẫn thèm. Ngày nay thì tôi đã già kinh nghiệm: “Nhất sĩ, nhì nông. Hết gạo chạy rông. Nhất nông nhì sĩ”! Vì:
            Ai sinh ra cái củ mì?
            Hỏi: Để làm gì? Đáp: Để mà ăn!
            Nước nhà mãi mãi khó khăn.
            Dân mình mãi mãi phải ăn củ mì.

            . . . Đảng béo mà dân thì gầy.
            Độn bắp, độn sắn biết ngày nào thôi?
            Nhân dân thì chẳng cần lo.
            Nhà nước lo sẵn bo bo mỗi ngày.

            Hãy chăm tay cấy tay cầy.
            Nhịn ăn nhịn mặc chờ ngày vinh quang.
            (*)
            * * *

            Mẹ già con côi làm việc bần cùng tệ mạt đến thế, đôi bàn tay, bàn chân cả nhà chúng tôi bắt đầu ngứa rần rần, sưng húp, phù to, chảy máu đỏ loét, vì mót nhặt bọc ni lông dơ bẩn! Sự dơ bẩn tầm thường nhất ở tận đáy "xã hội chủ nghĩa Việt Nam": đã ăn sâu vào da thịt, tổn thương trầm trọng đến đời sống chúng tôi quá rùng rợn. Đôi bàn tay, bàn chân của tôi sần sùi, tê nhức, bại xuội, càng cảm thấy đau đớn; đau đớn vì tuyệt vọng; hơn vì thê thiết khốn đốn, hoặc ruột gan cồn cào đói khát. Mất hết rồi thuở “trăng sao hoa lá thơ thẩn ngự trong hồn". Có chăng là còn những đêm không đèn nến ngồi ngoài trời: hai bàn tay quơ đập lia lịa, mà muỗi vẫn vo ve đốt thoả thích, sưng chù vù và ung mủ dày cui. Thú thật là do:
            Đôi dép râu dẵm nát đời son trẻ.
            Nón tai bèo che khuất nẽo tương lai.
            (*)

            Vã lại, giờ đây, nơi nầy... ai có tâm trí đâu mà cho con cái đến trường, khi:
            Năm đồng đổi lấy một xu.
            Thằng khôn đi học, thằng ngu làm thầy
            (*)

            Nơi vùng đất phì nhiêu màu mở xưa kia trù phú là thế, nay nghèo nàn cằn khô và nóng bức; lại là nơi có quá nhiều ruồi, gián, muỗi, rệp, rận chí... bu quanh bòn rút hút máu người khô đét, (mặc dù chúng tôi ốm tong ốm teo, chả ai có chất dinh dưỡng). Nhà nào cũng chứa nước trong cái chum đen đen không nắp đậy, những con lăng quăng lặn xuống đáy chum nhiều vô số. Bọn trẻ thường làm cái vợt vải mùng, để vớt lăng quăng cho mấy con cá bảy màu, cá ba đuôi ăn, (chúng bòn nhặt nhịn ăn dành dụm từng xu, để mua ít con cá sống mà làm trò giải trí nho nhỏ).
            Cũng do trong chum còn có loại côn trùng chỉ màu đỏ huyết mình nhỏ như sợi chỉ, một đầu nó bám chặt vào chum, một đầu kia ngúc ngoắc theo nước lượn sóng nhấp nhô, thấy mà sợ! Vì thế tôi không dám xài cái chum đựng nước dự trữ lâu ngày. Muỗi lại truyền cả xóm bệnh sốt rét, mà thuốc ký ninh không có. Ai đau bệnh gì, khi đi khám bệnh cũng chỉ dùng: lá sống đời, xuyên tâm liên, hoàng bá, cắt cánh, hay cam thảo, là đại sang rùi.

            Đa số dân hầm bo bo mất cả buổi lại tốn nhiều củi, vẫn ăn bo bo cứng thay cơm, vì nhà nước không bán gạo, nên đành làm "dân niên xô" (Liên Bang Xô Viết) ban đầu trên loa phóng thanh kêu cả Ấp đi mua bo bo, ai nấy đều cảm thấy hí hửng mừng rỡ như vớt được của lạ! Bởi lẽ là chưa có ai từng thấy bo bo bao giờ! Cũng không ai biết cách xử dụng, nấu nướng quá mất thì giờ. Nhưng qua nhiều lần thí nghiệm, có kinh nghiệm, thì người nầy truyền khẩu, truyền tai cho người kia biết, phải xay bo bo mà nấu nướng pha chế đủ thứ kiểu, nếu chê bỏ bo bo thì đói rã rời, chịu sao nỗi! Nhưng phải là "dân thứ xịn" cơ! nghĩa là "ta lao động tốt" mới có tem phiếu mua bo bo à nha:
            Thuốc điếu phải mua bông.
            . . . Hết gạo ăn bo bo.
            Học trò không có tập.
            Độc Lập với Tự Do .
            Nằm co mà hạnh phúc
            ! (*)

            Thế là món bo bo hầm nguyên hột với muối, ăn chán & chê vì khó nuốt và không hợp khẩu vị với dân Việt Nam. Bo bo đem đi ra nhà máy xay lúa xay nhuyễn, về nhà làm thành bột, nhồi nước sôi cán bột thành từng lá mỏng, để nấu cháo bánh canh. Khi thì khuấy bột ra làm bánh xèo ăn với rau chắm nước muối, sang tí thì có nước mắm ớt tỏi đường. Có nhiều lần tôi vo viên bột bo bo, giả làm bánh bao, xíu mại là những hột đậu phụng và ít củ sắn (củ đậu). Ăn các thứ trên chán quá, tôi lại làm bánh bo bo nướng. Ăn bo bo không ngờ nó lại bị nóng kinh khủng, không như gạo nấu thành cơm, hoặc bột gạo.

            Vì thế mà ai nấy đều sinh ra ghẻ lở tum lum. Hầu hết ai ai cũng bị nóng ruột nóng gan cồn cào, rôm sảy, ghẻ ngứa, lở loét, da thịt mủ nhớt nhờn chảy ra rít rít nhầy nhụa, hôi tanh kinh khủng cùng khắp thân thể. Nhất là ở mấy đầu kẽ tay, kẽ chân và mông háng thì… bầy nhầy máu mủ. Kể cả “cán bộ bạn dân” cũng cảm thấy ngứa ngáy, khó chịu nhức nhối nhúc nhích đứng ngồi không yên khi "họp hành bầu bán"! Nay tôi mới hiểu tại sao trước khi tôi "bị"... thì "mấy ổng mấy bả" đã được đảng "ưu tiên" phát bo bo cho ăn trước dân, nên bi giờ họ càng "lậm", như chó thiến bị nhét mãnh chai, như đứng trên tổ kiến lửa, họ ngồi họp hành ở đâu, thì hai tay bận móc móc, gãi gãi ở chỗ ngứa đó lia lịa, quỉ tha ma bắt thiệt! Càng gãi càng ngứa rần! Hai tay liên tục đánh đờn… bùm búm bum… tằng tắng tăng... từng tứng tưng... và vỗ muỗi như vỗ cái trống cơm bộp bộp bộp riết… Từng đám da sần sùi đỏ ửng, từng cục máu mủ lầy nhầy, sưng húp. Bầy ruồi o o o… bu quanh người có ghẻ chóc tha hồ hút máu mủ, rồi "chúng lang thang tha đi khắp bốn phương trời", đem bệnh truyền nhiễm lây lang cho kẻ khác càng mau ác liệt hơn.

            Nhìn thấy nhau lợm giọng muốn ói và muốn nổ con mắt. Kinh tởm quá! Hầu hết mọi người trong xóm tôi đều bị ghẻ chóc. Nạn chuột, gián, ruồi, muỗi, rệp, chí, rận: thì ôi thôi sinh sôi nẩy nở... lúc nhúc, tràn lan! Chẳng có cách gì diệt hết chúng! Ai cũng như ai “cùi” rồi không sợ “hủi”; nên “ta” hết co ro cú rú, hết biết mắc cỡ, xấu hổ, e thẹn làm gì cho mệt! Mọi người chẳng sợ lây căn bệnh gớm ghiết nầy, họ rủ nhau ra bờ sông tắm gội, rửa ráy, kỳ cọ. Họ ngâm mình trong nước cả giờ, vẫn không thấy “đã ngứa”. Rồi họ leo lên ngồi trên bờ kè, trên mấy cục đá để kỳ cọ. Họ tự nhiên lột quần dài áo cánh ra phơi trên bụi cây. Đàn ông ở trần, mặc quần đùi lỏng dây thun xề xệ. Đàn bà cũng "thổn thển" ở trần, chỉ mặc xì líp cũ mèm! Họ hong khô người dưới trời nắng như thiu đốt, ai nấy lo cúi xuống lột từng lớp vảy trên các mụt nhọt ửng đỏ. Tiện thể một công hai ba chuyện: họ giặt giũ, (giặt và tắm không có xà bong) tiêu tiểu cũng trong dòng sông đó. Chính từ nơi vừa tắm rửa, ngâm mình, họ gánh hai thùng nước về nhà, để dành uống nước mát. (!?)

            Tôi hình dung họ giống những con khỉ đột trọc lóc đầu, mặt đỏ đít chai ưa gãi sột sột trong sở thú. Tôi không dám nhìn họ, phải lờ ngó lơ đi chỗ khác và lắc đầu muốn gãy cần cổ, mà ngao ngán, nhưng với trí tưởng tượng phong phú của mình, nếu tôi phì cười... thì họ tính sao đây, có lẽ họ... rượt tôi chạy có cờ?! cho tôi chạy về nhà buông gàu xuống cái giếng nước do tự mấy đứa con mới đào lên chăng? Dù cả đời tôi trọng tình. Còn cả đời “các bác ấy” không trọng chi ngoài danh dự và tiền! Vốn dĩ quá nghèo hèn, nhưng chúng tôi muốn bình lặng, an ổn kể từ khi đổi đời đi lượm lặt mót moi mọi thứ. Kể từ đó trong làng trên thôn dưới đã "thân thương" đặt cho tôi cái biệt danh thiệt (bình dân giáo dục): "mít đót”:

            Ở với Hồ Chí Minh.
            Cây đinh phải đăng ký.
            Trái bí cũng sắp hàng.
            Khoai lang cần tem phiếu.
            (*)
            ***

            Khi mấy cán bộ “mượn tạm” (của dân đã trốn ra nước ngoài), họ để lại biết bao của nổi: nhà lầu xe hơi, xe honda, đất đai và của chìm còn chôn dấu kỹ trong nhà, chưa kịp đào bới moi móc lên. Công an, bộ đội, cán bộ có cần câu tà lọt điềm chỉ, rủ nhau đến nhà dân làm biên bản tịch thu gia sản. Rồi ít lâu sau nhà nước lại làm biên bản chia chác nhau bốc thăm: nhà cửa, xe cộ, ti vi, tủ lạnh, máy móc điện tử, bàn ghế, giường nệm, thậm chí cả cái quần xà lỏn cũng bị bốc thăm, hầu hưởng xái thừa của “tàn dư đế quốc” để lại. Người thân ruột thịt của tôi (và chính tôi) ở trong những ngôi nhà đồ sộ, có chút máu mặt, thì coi chừng bị chụp mũ, gài là: ở lại để phản động liên lạc làm “ăng-ten” móc nối với tư sản. Bị "đôi mắt cú vọ bạn dân" dòm ngó, lưu ý, “hỏi thăm sức khỏe”, thì dân ngu khu đen phải chìa hai tay ra, cúi đầu biếu không, cho không, dâng hiến nhà nước. Như trường hợp ông bà Tư Cóc (chị tôi) có năm người con trai đều có vợ con đùm đề, gia đình họ chả có ai đi Tây, Mỹ đi Đức gì cả. Thế mà ông bà Tư có ba cái nhà, nhà nào cũng cửa rộng nhà cao, một nhà ông bà đang ở. Một nhà cho con ở, và một nhà cho thuê. Nhưng công an phường khóm đã buộc ông Tư Cóc phải lên “Thành” làm giấy “dâng hiến” nhà nước... cho “đi đứt” hai cái nhà đang cho con ở và cho thuê.

            Tất cả ông bà cha con chồng vợ cháu chắt, bây giờ đều tụ họp về ở chui rúc đông đen trong nhà ông bà Tư (nếu khán chỉ, cán bộ công an không ngại ngần tống khứ họ ra đường, hay “nhân đạo” cho xuống ở bên chuồng trại gia súc sau hông nhà). Ông bà Tư Cóc được thành ủy phát tấm giấy khen, ưu tiên hộ trong nhà họ được mua nửa ký thịt ba chỉ, một ký ruột heo, một ký gạo nếp, ký thèo lèo cứt chuột, hai mét vải nội hoá màu mè hoa lá cành. Và cũng ưu tiên lắm, nên ông bà Tư Cóc được hai (2) mét vải dù đen hoặc trắng. Trong khi đó Cán bộ Ấp ưu tiên gấp 10 thường dân Nam-bộ. Cán bộ cấp Huyện ưu tiên gấp 20 lần Ấp. Cán bộ cấp Thành thì ôi thôi… ưu đãi gấp 20 lần cán bộ Huyện. Cứ thế, mà làm tính nhân lên (tôi phải ghi rõ con số: 1, 10, 20 cho chính xác mà nhân, mà cộng, thay vì viết thành chữ: một, mười, hai mươi, không thể nhân cộng nhập nhằng).
            * * *

            Tình Hoài Hương

            (*) Thơ sưu tầm lượm lặt đó đây.
            (1) Hp-TnT
            Last edited by Tinh Hoai Huong; 06-30-2017, 01:04 PM.
            Bút trần nào tả được lưu luyến!
            Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
            Tình Hoài Hương

            Comment


            • Mây Xám Vắt Ngang Đời



              Mây Xám Vắt Ngang Đời


              Đàn bươm bướm trắng xanh vàng nâu lí lí lắc lắc, chập chờn, nhởn nhơ, trêu trêu, ghẹo ghẹo mấy đài hoa dã qùy e lệ nép mình dọc con sông um tùm lau sậy lô nhô. Cỏ lau bông trắng bay đầy bãi ruộng lúa chỉ còn trơ gốc rạ vàng lởm chởm. Trên chiếc cầu gỗ cũ được mang tên Cầu Bông ở Nhị Tân thuộc Huyện Hốc Môn lấp loáng nhiều giọt nắng lung linh, long lanh từ mặt nước trong vắt, phản chiếu muôn tia nắng rạo rực luôn lấp lánh đổi màu. Bầu trời lơ lửng năm ba đám mây trắng dài lê thê, dài ngoẵng như sợi tơ len. Mây kéo từ thôn nầy vắt qua thôn khác, in xuống lòng sông biếc xanh. Phút chốc bóng mây trăng trắng dài lướt thướt loang tỏa ra trùm kín bầu trời, mây đổi thành màu xám đen nặng trĩu đang lững thững trôi về nơi vô định.

              Tôi lặng nhìn đám mây trắng xám im sửng trên trời, dường như mây giống một dải màn sô tang trắng viền chỉ len màu lam xám đã và đang vắt ngang kiếp đời gia đình tôi cơ cực. Rồi bỗng đâu mây đen ùn ùn kéo cơn mưa dầm ào ạt trút xuống đời suốt mấy ngày đêm, làm nặng nề thêm bầu trời u ám của:
              “Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu Công Lý.
              Đồng Khởi vùng lên mất Tự Do”
              . (1)

              Chúng tôi đã rớt xuống vực thẳm sâu hun hút, úp mặt xuống tận đáy xã-hội chủ-nghĩa. Dẫu vậy, các con trai tôi học hành ưu tú, xuất sắc. Hai con lớn dưới mười tuổi, nhưng ba giờ sáng các con đã thức dậy, lo chạy bộ đến lò bánh bò, lò cà rem, xa khoảng bốn cây số. Các con ngồi co ro cúm rúm ngoài vỉa hè, để chầu chực chủ mở cửa, hy vọng con có hàng bán chạy rong mời khách. Tháng nắng ngày mưa các con đều khổ cực lầm than như nhau. Ngày ế-ẩm, bánh bò bị thiu, cà rem chảy nước. Chúng tôi lặng-lẽ ngồi ở góc nhà, nhịn khát, nhịn đói, khóc thầm. Vì chồng, cha, là lính “ngụy” bị ở tù “cải tạo” (tôi dùng chữ "cải tạo" phải có hai ngoặt kép). Ai dám giúp! Nhưng, thiệt khổ là hầu như đa số dân lành cũng không có ăn, có mặc, thì lấy gì mà ai giúp ai!?

              Ba năm sau, thì con trai đầu mỗi buổi sáng con đi học, chiều con đi bán bánh bò, cà rem, tối tối con theo chủ ra tận Long Khánh, Hàm Tân, Phan Thiết…, con cùi cụi vác trấu thuê, vác bó mía thuê. Con leo lên nóc nhà dỡ tôn, dỡ nhà, (do chủ mua) và chủ tớ đem đi bán. Con làm bất cứ việc gì dù nặng nhọc, khổ sở, miễn sao con có tiền đem về cho mẹ mua gạo nuôi nhau sống lây lất qua ngày. Ngày hè không đi học, các con phải đi nông trường Nhị Xuân lo trồng thơm, trồng mía. Hoặc con làm dân công thủy lợi đi đào kênh rạch trên Lê Minh Xuân. Tối về, Đảng phát cho một tờ phiếu, dân tự vét tiền túi ra mua gạo, mua mắm (dĩ nhiên!). Ráng đi các con ôi! Mẹ mang ơn con trai quá khó nhọc vất vã khổ sở trăm bề, để lo cho gia đình mình có miếng ăn đơn sơ & đạm bạc. Con trai thứ hai đi học luôn luôn đứng đầu lớp, nhưng con vẫn đi bán cà rem phụ mẹ lo cho gia đình mình, mẹ cảm động và thương con yếu ốm biết ngần nào! Và con trai thứ ba đi học về cũng đi bán cà rem giống hai anh lớn. "Cả nhà anh em ta" đều là "dân chuyên nghiệp bán cà rem" nhưng trong Huyện nầy chẳng có ai bì kịp việc học và việc làm của các con, vì các con kiếm sống bằng một nghề lương thiện và trong sạch, chính đáng ở chỗ các con dù đã khôn lớn, nhưng các con đi bán gặp bạn "đồng môn" vẫn vui tươi, hiền hoà, thân thiện, các con chẳng hề cảm thấy xấu hổ vì một nghề "bán cà rem" là thấp hèn. Mẹ chân thành cám ơn và ghi ơn các con, rất hãnh diện vì từ thuở nhỏ các con đã nên người hữu ích. Mẹ mong rằng:
              Phượng hoàng ở chốn cheo leo.
              Sa cơ lỡ vận phải theo đàn gà.
              Bao giờ gió thuận mưa hòa.
              Thay lông đổi cánh lại ra phượng hoàng.
              (1)
              ***

              Con mẹ Thân là vợ của một sĩ quan Nhảy Dù ở “chế độ cũ”, miếng thịt Thân còn nhét trong kẽ răng, ấy thế mà bà ta đã toa rập với bọn cán bộ làm trong Xã ̀phản bội, lừa thầy phản bạn. Chúng cắt bòn rút lương thực của dân đen đi làm thủy lợi biết bao nhiêu mà kể cho hết. Dân muốn chết đói mà con mẹ ấy vẫn sống nhăn răng, phè phỡn và đú đa đú đởn với bọn kia. Thật xấu hổ vì con đàn bà người chẳng giống người mà giống ngợm! Sau giờ lao động nhọc nhằn, bà con lối xóm hò nhau xách tụng chạy đi, chen lấn vô cửa hàng, mắng nhiết nhau inh ỏi, vì sợ hết giờ không có bo bo đổ vô nồi. Bà Muôn, bà Cát, bà Liêm ơi ới gọi tôi:
              - Cô giáo đi mua gạo “liên xô”. Mau lên kẽo hết. Nhịn đói thì chết.
              - Vâng.

              Tôi lo ba chân bốn cẵng chạy theo mấy bà hàng xóm. Tôi rù rì nói nhỏ vào tai bà Cát, bà ta là người đàn bà đanh đá, chì chiết, hai hàm răng luôn nghiến lại, bà nói chuyện không hở môi. Bà luôn mồm nhắc tôi “giữ bí mật”. Ấ́y thế mà chính miệng bà ta bi bô không giữ được, và “bật mí” phun xì ra. Í dà da! Bà ta thèo lẽo, tò mò tọc mạch như con ma xó! Tôi trách chi bà.
              - Sao chị dám nói là gạo Liên Xô hử?
              - Chứ cô không thấy có bao giờ mình được mua gạo đàng hoàng, từ tốn đâu. Không “liên” tục chen lấn, giành giật, “xô” đẩy nhau, mà rách toạt cả quần ra, là gì!
              Chị Dung cười toe:
              - Ồ! Thì để cho… ông trùm sò dê Bảy De thèm một xí.
              Tôi thật thà hỏi:
              - Dê Bảy De là ai, hở chị Muôn?
              - Là cái thằng cha mặt ngựa mỗi ngày rả rả trên “loa” phóng thanh, hắn ưa nói Dóc. Nói Dai. Nói Dở. Nói Dổm. Nói Dối. Nói Dốt… í mà.
              - Ai vậy cà?
              - Bộ thích ổng rồi hay sao, mà cô cứ hỏi tới dữ dậy he?!
              - Hổng dám đâu.
              - Bà Liêm, bà Muôn nhìn nhau nháy mắt, trêu tôi:
              - À, cô giỏi văn, vậy tui nhờ ổng “nhất ngoặc, nhì thân, tam thần, tứ chế”. Ổng có thần thế, sẽ giới thiệu cô vô ngành giáo dục he.
              - Hừ! Em mà giỏi cái nỗi gì.
              - Cô nói láo một cây xanh dờn hén.
              - Em hỏi chị chớ: Thầy cô đi dạy, ít ra cũng phải có ba bốn bộ đồ, để thay đổi. Còn em, chỉ có hai bộ dính da. Trời mưa em giặt đồ phơi không kịp khô. Thì làm ăn cái nỗi gì!
              - Tại vì: “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà.
              Áo quần bán trước, cửa nhà bán sau.
              Bác Hồ khuyên ăn cơm rau.
              Đừng ăn thịt cá, mà đau dạ dày”
              (1). Nghe ra chưa?
              - Ui Trời! Chị dám rên la he. Em… hổng dám à nha.
              Bà Liêm háy nguýt một cái dài lê thê, chanh chua:
              - Cô nghe cho rõ nè:
              Một năm hai thước vải thô.
              Nếu đem may áo, cụ Hồ ló ra.
              May quần thì hở lá đa.
              Chị em thiếu vải, hóa ra lõa lồ.
              Vội đem cất ảnh bác Hồ.
              Sợ rằng bác thấy tô hô, bác thèm.
              Có áo mà chẳng có quần.
              Lấy gì hạnh phúc hỡi dân cụ Hồ?
              Có đói mà chẳng có no.
              Lấy gì độc lập, tự do hỡi người?
              (1)
              Bà Cát:
              - Mắc mớ gì mà rên la. Tui có làm nên chế độ chế đá chi. Cô hổng thấy bên Tây, người ta có thịt, cá, ê hề, đầy nhóc, nhưng mà họ chỉ thèm ăn rau toàn là rau thôi, dù rau mắc hơn thịt gà thịt heo, thịt bò... đó sao.
              - Thôi. Đừng nói nữa, không khéo nói lung tung beng, mang tội chống báng chế độ, thì bị tù mọt gông đa, mấy chị ui.
              - Tui có hai cái cùi chỏ. Sức mấy dám “chống” đối ai. Chống gậy đi thủy lợi, thì có. Ai không đi thủy lợi, thì không có phiếu lương thực đã đành. Còn phải lên Ấp, lên Huyện “học tập cải tạo tư tưởng”. Hứ! Học tập cái ngữ gì hổng biết, một chữ bẻ đôi không rành, không biết, dốt còn hơn con bò tót, mà đòi đi dạy dỗ những tay trí thức học tập “cải tạo” toàn tướng tá bác sĩ kỹ sư không hà, cải tạo ai hử!? Đừng nên dùng chữ cải tạo nếu không có dấu ngoặt kép à nha.
              - Đúng thế!
              * * *

              Có lần tôi bị đau nặng không đi thủy lợi được, thì họ bắt bà mẹ già cuả Luật đi làm việc “bù” không công. Mẹ chồng hơn bảy mươi tuổi lặn lội mót lúa, mót sắn, mót khoai… Vì “lao động là vinh quang”, mẹ đi bắt ốc mò cua, tửng bưng sáng mẹ mò mẫm ra đi khi trời còn đầy bóng tối. Rồi, tối mịt mù mẹ lò mò đội lúa trên đầu, mệt mỏi trở về. Mẹ làm việc nặng nhọc, cực khổ, nhưng mẹ luôn ăn cháo, không đủ sức “lao động phấn-đấu”. Nên đặc biệt ở trong nhà tôi chỉ một mình mẹ già được ăn cơm tấm pha ít cám chấm muối mè gói trong tàu mo cau! Sự thật 100%.

              Hôm sau, hai đứa con nhỏ bé nhất của tôi có bổn phận phơi lúa, trở lúa, cào quét lúa đem vào nhà, không để mất sót hạt ngọc Trời ban. Chiều chiều, mấy mẹ con tôi lo giả gạo trong cái nón cối sắt (quý phẩm độc đáo cuả “tàn dư đế quốc Mỹ & Nguỵ” ấy là mũ nón “nhà binh”). Dù quân nhân khả kính chế độ cũ nay không còn, nhưng mỗi lần xử dụng chiếc nón sắt của anh quân nhân nào đó, tôi thấy cảm động bùi ngùi và nghẹn ngào thường âm thầm trào nước mắt.

              Tuy lúa tươi phơi chưa khô, nhưng vì nhiều ngày không có tí gì ở trong bụng, nên chúng tôi tốn nhiều thì giờ phải giả lúa mót được ra thành gạo. Sàng sảy thế nào vẫn bị trấu, cám, bám chặt vô hột tấm, vì lúa còn tươi, nghĩa là chưa phơi khô còn mầm sữa, thì hạt gạo đã vỡ nát. Đói quá, chúng tôi đành nấu nồi cháo tấm cám nham nhám độn củ mì rau dền, rau lang, rau đắng mọc hoang. Chúng tôi luôn luôn ăn nồi cháo độn, bữa ăn quá sức tệ; thua bầy heo mập ú của nhà “con mẹ cán bộ xu thời xu thế Thân”. Mỗi khi húp chén cháo nham nhám lẫn lộn vỏ trấu và hột tấm cám nầy, ai nấy trong gia đình tôi đều nghẹn ngào cúi mặt não nùng mà không thể khóc, nước mắt lưng tròng nhưng không trào ra khoé mi. Giòng nước mắt trẻ già đều khô cạn!?

              “Nhà tôi” là một căn gia binh bỏ hoang trống-trơn từ trước ra sau, nhỏ và dài như cái hộp hình chữ nhật, mặt trước và mặt sau không có cánh cửa lớn, và mặt tiền có khung cửa sổ nhỏ, còn những cánh cửa thì bị ai đó chôm chỉa tháo gỡ hết từ bao giờ, chẳng rõ! Hoàn toàn trống trơn từ trước ra sau, không bàn, chẳng ghế, tủ, giường. Chúng tôi chỉ có: một thau giặt, một thau rửa chén, một cái rổ, hai cái nồi đem theo từ ngày ở nhà thờ Huyện Sỹ: Nồi lớn chuyên dùng để nấu cháo, họa huần lắm mới có một bữa cơm tấm pha xí cám và khoai sắn độn. Một cái nồi nhỏ dùng luộc rau, hoặc kho tí muối quẹt. Một cái bình nhôm to để nấu nước sôi. Đôi thùng thiếc gánh nước. Sáu tô nhựa lớn, sáu muỗng, sáu đôi đũa, vài cái dĩa sứt vành. Một bao quần áo mặc thường ngày. Một bao cói đựng đồ vặt, một bao cói đựng hai chiếc mùng đôi màu xanh. Cái mền làm bằng bao cát Mỹ. Một valy da sang trọng mang theo từ ngày ở Đà Lạt di tản về đây (vì hồi xưa gia đình tôi ngồi trên nhung lục giàu sang với nhà lầu ba tầng gạch đúc, có xe hơi Peugeot 404 mới toanh; Nhưng nhờ bác và "đảng ưu việt giải phóng”, nên tôi đã bỏ lại hết để... ra đi là chết trong lòng một ít! (Partir, c' est mourir un peu!). Đó là tất cả gia tài quý giá của gia đình tôi trong XHCN. Chúng tôi phải giữ bo bo chằng chằng bên người những đồ vật cũ mèm ấy bất ly thân, vì hở ra một xí là bị mất trộm chiếc nón sắt liền, kẻ cắp vờn quanh xóm nghèo như rươi!

              Nằm dưới manh chiếu cũ nát láng đen và thô thiển, ngửa mặt nhìn trên nóc nhà, tôi thấy ngàn ánh sao xuyên qua lỗ tôn xi măng thủng vì bom đạn. Ngày nắng chói chang thì mặt trời soi rọi xuống vạt chiếu, khiến chiếc chiếu càng dòn đã bể nát vài chỗ, chiếu và nền xi măng hầm hập nóng muốn lột da lưng. Mùa mưa ở trong nhà thì nước lụt ngập lên gần bắp chân. Nước trên mái tôn lủng trút xuống ào ào như thác Preen, nước ngoài sân cao hơn nền nhà ở tứ phía tràn vô. Mẹ, con, bà, cháu lội lủm bủm, bì bõm, chúng tôi cùng thi nhau cúi cúi tát tát nước trong nhà ra ngoài sân, như tát ao, tát đìa. Đó cũng là môn thể dục... "dục với dịch" trong XHCN. Chúng tôi cố gắng làm tận sức, vã mồ hôi hột trong cơn mưa, vẫn không thể ngăn nỗi cơn lũ ào ạt tràn vô căn nhà bị thấp hơn mặt đường. Trong nhà nầy đã trở thành một cái ao. Nhiều lần chúng tôi đành chịu thua, bà cháu mẹ con vịn nhau, đứng dựa lưng vào tường, ngâm chân trong nước bùn hôi thối, mệt lử mà ngủ gà ngủ gục. Thế là bệnh thấp khớp cả nhà tôi "phát sinh từ khi có bác Hồ"! Sự thật quá bi đát và não nùng luôn phơi bày không thể che dấu sự nghèo nàn thảm thiết!

              Mãi về sau này (1980) biết khôn hơn, năm mẹ con tôi đi tìm các nhà gia binh bỏ hoang, con trai lớn mượn cái “búa tạ tày xồi” của ông bà Hùng, con dùng búa đập tường. Mẹ con khệ nệ ì ạch bưng từng viên gạch táp lô về kê lên cao cao, để làm thành “cái giường”, hầu tránh nước lụt. Khổ nỗi, khi đã có cái giường “siêu tổ chức xã hội chủ nghiã” nầy, thì rệp, rận, gián, và muỗi núp dưới các khe hở nhiều vô số kể, chúng luôn bòn rút máu của chúng tôi. Đó là “nhà của chúng tôi” về mùa Hè luôn luôn nóng hầm hập như lò lửa. Mùa mưa ngập thành một cái ao bùn đầy nước bẩn. Đó là nơi nương thân của những kẻ không có tương lai, không có cuộc đời tươi sáng, không có ngày mai hứa hẹn hạnh phúc, tốt đẹp hơn trong xã hội đương thời 1975 > 1985.

              Một hôm tửng bưng sáng mẹ già đi ruộng mò bắt được mươi con ốc, năm ba con cua, và một con cá lóc nhỏ bằng ngón chân cái. Về ngang bờ kinh, mẹ hái thêm chục dọc môn dại. Hôm đó, khi tôi đi "vá dù" về nhà, (vá dù là một nghề mới toanh của tôi sau khi "đổi đời", tôi sẽ xin hầu chuyện cùng quý vị ở một chương sau)- mẹ chồng bảo tôi:
              - Con nấu nồi cháo đặc, thật đặc nhá, chứ cả nhà ta luôn luôn ăn cháo lỏng bỏng, ruột mẹ cứ cồn cào, xót xa thế nào ấy.

              Vâng lời mẹ, tôi cẩn thận nấu nồi cháo: độn một bó rau muống, ba phần củ sắn mì, hai phần dáu môn, và một phần gạo tẻ (gạo là do đi lượm mót lúa ngoài đồng, con trai đội về, tôi và con nhỏ dùng cây cột bờ rào của một nhà bỏ hoang, đem về rửa sạch, dùng cây cột nầy làm thành cái chày mà giả bằng tay trong chiếc nón sắt, rất chu đáo và công phu). Các con tôi ra giếng công cộng tắm rửa xong. Các con gánh về hai thùng nước. Tôi múc ra sáu tô cháo, để xuống nền xi măng loang-lỗ vết đạn cày xới.

              Sau khi mời bà nội, mời mẹ, anh em vui vẻ mời nhau ăn cháo. Các con tôi hí-hửng cười reo dưới ánh trăng tròn, (chúng tôi sống ở “trong bóng tối”, chỉ nhờ trăng soi sáng, thì dùng đèn dầu làm chi, cho hoài phí của đi! Nếu ngày nào không có trăng tỏ, thì chúng tôi lo ăn cơm sớm). Cứ thế, các con của tôi sung sướng bưng tô cháo, hí hửng đưa lên miệng, húp rột rột, (vì hôm nay đặc biệt có thêm mùi vị của con cá lóc) coi thật ngon lành. Bỗng, các con đồng thanh hét to. Đứa quăng tô xuống nền nhà. Đứa nằm lăn lộn trên nền nhà lỗ chỗ. Đứa dùng hai bàn tay cào móc cổ họn. Các con vật vã rên siết la làng, khóc lóc tru tréo inh ỏi. Mẹ già kêu rú lên quá to, bà dựa lưng vào tường, trợn trắng mắt, thở dốc và ho sặc sụa. Tôi đã húp ba bốn muỗng cháo, tự dưng cổ họng rát bỏng, ngứa cồn cào, ngứa điên cuồng, tôi cào móc khạc nhổ thế nào, cũng không bớt. Mặt, môi, lưỡi, họng, cả nhà chúng tôi đã phồng rộp, sưng vù, đỏ choét. Thì ra, chúng tôi bị dị ứng hay suýt bị ngộ độc, vì ăn phải mấy dọc môn dại hay sao!?

              Tôi vội chạy ra thùng thiết dật dờ múc gáo nước, khuấy muối, vắt mấy trái chanh đưa cho mẹ già. Tôi kéo các con chạy đến thùng nước thứ nhì, cứ như thế, tôi bắt các con móc họng ói ra, súc miệng, nhổ đi nhổ lại nhiều lần. Bà cháu, mẹ con chúng tôi đều bị đau nhức cổ họng, ngứa rần rần cuống cổ và môi miệng sưng vù, đỏ hoét, kinh khủng ghê lắm. Thân thể chúng tôi đều bần thần, bụng cồn cào vì ói ra mật xanh mật vàng, và nhịn đói nên càng mệt rã rời, hầu như bại xuội rị mọ vất vưỡng lọt tọt dìu nhau đi ra giếng tắm giặt. Lòng buồn xo như xé tâm tư.

              Ôi! khổ nỗi một miếng ăn độn tồi tàn hơn nồi cám (của con mẹ Thân) cho heo ăn, thế mà cả nhà chúng tôi cũng không thể nuốt trôi vô khỏi cuống họng! Ngày Tết Nguyên Đán cũng như ngày thường suốt cả tháng mười năm dài đằng đẵng, gia đình tôi nằm co ro trên cái giường táp lô, chúng tôi bị đau đớn quá độ, không tiền thuốc thang, đành vật vã ôm bụng nhịn đói. Chúng tôi không thể ăn nồi cháo đặc khổ qua con cò rị mọ làm thân con rùa. Ôi! Bài học ăn cháo đặc ấy trong tận đáy xã hội, chúng tôi ghi nhớ suốt đời. Ấy là lúc xuân xanh của tôi vừa tròn:
              “Trai ba mươi tuổi còn xoan.
              Gái ba mươi tuổi đã toan về già”
              &
              Bác Hồ chết phải giờ trùng (1)
              Mẹ con chúng tớ nay khùng mai điên...
              Khùng điên vì chẳng có tiền
              Sống trong "chủ nghĩa"... không điên cũng khùng...

              Tôi "thật thà khai báo" và bảo đảm rằng ở trong "xã hội chủ nghĩa đổi mới tư duy" nầy, thì hầu như "đốt đuốc đi khắp miền Nam Việt Nam sẽ không có "người vợ tù cải tạo" nào quá sức khổ cực đi mót bịch ny lông hôi thối, cam chịu sống cuộc đời đắng cay nghèo khổ, hèn mọn trăm bề như tôi, cùng mẹ chồng, cùng con ngược xuôi suốt bao nhiêu năm qua. Chúng tôi vẫn "thuỷ chung" cùng nhau vượt qua trở ngại căm go để vươn lên. Vậy thì... kính gửi quý anh chị... & xin thông cảm về nỗi đau của người vợ tù “cải tạo” ngày ấy. Anh thương ơi! Bây giờ (1985) anh ở tù “cải tạo” nơi nao!? Hẳn là anh thấu hiểu cho hoàn cảnh đau thương, bi đát, khốn cùng của bà cháu mẹ con em bây giờ rồi, hở anh!? Ôi! Mùa Xuân qua ngày Hạ suốt từ năm 75 - 85!!! thật trăm bề gian nan: Hoặc là anh đang giống như:

              Như một người già ngồi nuối tiếc dĩ vãng xa xưa...
              Như một danh tướng ôn lại những chiến tích oai hùng!
              Như chim trong lồng ai oán nhìn bầu trời bao la.
              Tôi mất Sài Gòn, nhưng thành phố vẫn sống mãi trong tim tôi.
              Nhưng tôi không là người già, thì vẫn còn tương lai.
              Tôi không là danh tướng, nên chẳng chiến công nhiều.
              Tôi không là chim trời mãi mãi mất tự do.
              Tôi chỉ là con bệnh trong cơn đau chung nầy.
              Rồi sẽ hết, rồi sẽ hết những tháng năm đau thương trong cuộc đời!
              Rồi sẽ khỏi, rồi sẽ khỏi. Hãy uống chén thuốc đắng nầy.
              Rồi sẽ thấy, rồi sẽ thấy những tháng năm đau thương trong cuộc đời.
              Rồi sẽ khỏi, rồi sẽ khỏi. Hãy uống chén thuốc đắng nầy. (2)
              ***


              Tình Hoài Hương

              (1) Lượm lặt sưu tầm
              (2) “Uống chén đắng” Lời và nhạc: Cung Mi
              *
              Last edited by khongquan2; 07-11-2017, 05:59 AM.
              Bút trần nào tả được lưu luyến!
              Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
              Tình Hoài Hương

              Comment


              • Mẹ Đi Thăm Con ở chốn Lưu Đày.


                Mẹ Đi Thăm Con Ở Chốn Lưu Đày.


                Từng dòng lịch sử và dòng thời gian dài lê thê vùn vụt trôi qua theo tiếng còi tàu tốc hành hú từng hồi lát gừng, giống như tiếng nấc cụt, con tàu từ từ xục xịch ục ịch rên siết, hì hục, lết lết, rọt rẹt chuyển bánh. Con tàu dường như nhão mục, rền rĩ rung chuyển, rung rinh, lắc lư thụt lui thụt tới, cạ quẹt, nghiến trên hai thanh tà vẹt hoen màu rỉ sét. Khói toả thành một lằn dài ngoẵng, khói bay mù mịt cả một góc trời, than khói đen đen xám xám kéo theo đoàn va-gông cũ kỹ, xập xệ lắc lư. Tôi nghe thật nhức óc và điếc con ráy quá chừng! Bởi do:
                Có phải Đảng đã trả thù ác độc
                dân miền Nam, sau khi cướp miền Nam
                Nhãn "cải tạo", mác "khoan hồng, học tập"
                Thực chất giết người quỷ quyệt, dã man?
                (Ngô Minh Hằng)

                Vẫn những toa tàu chật như nêm chở đầy nhóc hàng hoá cồng kềnh ngổn ngang. Hành khách hỗn độn từ ga Sài Gòn đi về miền Nha Trang lố nhố bu đầy trên bậc cấp, trên mui trần, bên những ô cửa. Họ la hét, xô đẩy, giành giựt chỗ ngồi náo loạn. Tất cả những toa xe đều huyên náo, ồn ào kinh khủng. Nhân đó nạn sờ mó, móc túi, cướp bóc tràn lan trong toa tàu. Dù có tên công an Tiểu-đoàn đường sắt chống trộm cướp thủ củ súng và cây dùi cui lăm le trong tay, ông ta đập cây dùi cui chan chát trên ô cửa, lớn tiếng oang oang la không ngớt, tay chỉ chỏ ra lệnh đóng hết cửa tàu. Cuối cùng ổng đứng áng ngữ ở bậc thang cửa lên xuống tàu, ổng cũng không thể ra oai; mà đành ngao ngán giương mắt trơ ra nhìn.

                Bà mẹ chồng, các con trai, & tôi đang ngồi trên tàu lửa chật như nêm, họ nhét chúng tôi ngồi chung với bầy súc vật ngổn ngang: Gà, vịt, ngỗng, ngan nhảy lên đầu lên cổ chúng tôi kêu quang quác, heo eng éc, chó tru; chúng đồng loạt kêu la rần trời, nghe quá đinh tai nhức óc. Không những thế, mà áo quần chúng tôi bị trét đầy phân heo, phân chó hôi thối khủng khiếp. Khổ nhất là khi chúng tôi đáp tàu chuyến, tàu chợ, xuống tàu để lên xe vô Xà Bang cách Bà Rịa 28Km về hướng Bắc Đông Bắc, xa Xã Cẩm Mỹ 6Km về hướng Nam. Xà Bang nằm cạnh Liên Tỉnh Lộ số 2, (từ Ngã ba Tân Phong, Quận Xuân Lộc, thuộc Tỉnh Long Khánh) thăm Luật.

                Về sau nầy Luật bị chuyển trại ở Long Giao, vô Z 30. Không có tiền, nên nhiều lần mẹ con bà cháu trụt xuống tàu lửa, hay xuống xe tại ngả ba Ông Đồn, Xuân Lộc, rồi đi bộ ngang qua trại “tù cải tạo” Z 30 C, Gia Rai (chúng tôi phải đi ngang qua trại tù Z 30 C ở đồi Phượng Vỹ. Hồi xưa do Trung-đoàn 48, thuộc Sư-đoàn 18 Việt Nam Cộng Hoà trấn giữ.) Muốn đi vào trại tù Z 30 A – hay Z 30 B - xa rất xa. Rất xa. Mưa ào ạt đổ xuống khu rừng rậm, thế nên thiên nhiên được kỳ cọ rửa sạch cây cối, và những láng trại tù, nóc nhà tôn, nhà lá... Rừng cây trở nên dịu dàng vì vừa qua trận mưa to đã tắm mát núi rừng.

                Mẹ con tôi vội vàng lẽo đẽo theo sau những chị vợ tù, mẹ con tù. Họ từng đi thăm nuôi chồng, cha, con... trên đường rừng đồi nương nầy có ngỏ tắt thì sẽ đốt giai đoạn, sớm vào láng trại tù nhanh hơn trước khi trời chuyển mưa, hay trời chóng sập tối. Mẹ con bà cháu chúng tôi cố rảo bước, chỉ sợ chậm lại thì sẽ bị lạc mất những người ấy và không thể tìm đường đi. Cỏ tranh cao lút đầu bọn trẻ đã cào xướt vô da những lằn dài đỏ tươm máu và rát bỏng. Hoa mắc cỡ và cỏ may rậm cũng cao gần đến bụng con, bông cỏ xâu vô hai ống quần, chích vào chân chúng tôi ngứa ngáy, khó chịu dường bao. Ve chó, ve đất, châu chấu, cào cào, ruồi trâu và muỗi cứ bay ào lên từng đoạn, mỗi khi chúng tôi bước qua khu đường tắt trong rừng sâu.

                Trại tù Z 30 là một trong muôn vàn trại tù mọc lên đông đen nhiều vô số, ấy là thành trì cốt cán chặt chẽ, độc ác tróc khảo, lột da con người kinh khủng, do đảng và nhà nước dựng lên, để cai trị tù “cải tạo”. Tù nhân "chính kiến" bị dời đổi đi luôn luôn, xáo trộn lung tung tùng phèo lên như thế. Vì đảng, nhà nước, cán bộ rất sợ! Họ không muốn người tù ở lâu một nơi, cùng nhau ở chung một chỗ, thì tù nhân sẽ dễ dàng kết thân với nhau, sẽ bí mật “tạo phản, phục hồi danh dự, và phục quốc, phục quê”. Chả phải trai tráng đi “học tập cải tạo” (Reeducation Camp) nghe "rất kêu" như voi rống hổ gầm trong rừng sâu nước độc gì sớt! mà trăm ngàn tốp tù chuyên môn đi khổ sai “lao động là vinh quang”.

                Tốp tù kia ở trong vòng rào thì lo đào ao, tốp khác phải đi gánh phân, múc nước đái tưới rau tươi để gieo trồng. Trong lều bên góc trại có dựng lên một lò rèn thô sơ bằng tay, để tù nhân vào đó rèn rựa, rèn dao. Tù phải tự làm thợ rèn dao, rựa, cuốc, xẻng, cào; để đi cuốc đất, trồng ngô khoai đem cho đảng và cán bộ ăn. Tù vác xẻng đi đào mương khai cống rãnh. Tốp tù được đi rừng, nghĩa là đi ra ngoài vùng người dân đang sinh sống, thường có phần "thong thả và tự do" hơn chút chút so với những anh tù ở trong láng trại, vì họ có thể đi ra ngoài rừng chặt cây, lấy củi, chặt tre đốn gỗ để làm nhà tù. Dĩ nhiên có mấy tên công an kè kè súng theo sau. Họ làm thành nhà tù xong thì tự nhốt mình trong những láng trại xa xôi hẽo lánh: mùa nóng thì nóng lột da, mùa lạnh thì lạnh thấu xương.

                Nơi tiếp tân của trại tù: trên bàn quản giáo có chiếc hộp để “Góp ý”. Thật ra, đấy là nơi dùng để làm “cần câu”, theo dõi, đấu tố nhau, điềm chỉ “cho chắc cú thấu triệt” hơn. Muốn thăm tù thì tại đấy có nhiều thủ tục đơn từ khai báo lỉnh kỉnh, lẩm cẩm, rườm rà, và mỏi mòn chờ đợi. Chúng tôi bồn chồn nôn nóng lo âu chờ đợi vài giờ, nhón gót dáo dác nhìn quanh, mẹ con cứ đi ra lại đi vô. Trong hàng rào phân định làm thành mô hình chữ U, là bảy dãy nhà tù lợp tôn, lợp lá đối diện nhau. Phân đôi giữa những dãy tù là khoảng sân vừa đủ rộng. Đi xuống dãy nhà bếp và bốn dãy nhà tù biệt giam. Nơi đây tù nhân bị mang gông cùm lởm chởm, cornex thì ở tít sau mé xa cuối cùng trong vòng kẽm gai, nơi đó các anh bị đọa đày khổ cực, khốn cùng đắng cay, đau đớn thân xác, khổ sở vô vọng hết biết. Tù nhân bị tù không bao giờ biết ngày tuyên án, chẳng biết lúc nào ra khỏi nơi qủy khóc thần sầu!

                Đến giờ "được phép thăm nuôi" khi tôi đặt những túm quà lên bàn, thì cán bộ lấy cây que tăm xe đạp thọc vào moi móc tỷ mỷ khám xét những thỏi kem đánh răng, rất lâu. Nhưng, thành thật mà nói thì mẹ con tôi sợ tên quản giáo (mà chúng tôi rỉ tai nhau: "Hắn có bộ mặt “Lucifer”) coi ở phòng khách, ai nấy đểu sợ gấp trăm lần sợ người mang bệnh cùi lở loét. Chỉ sơ suất một điều gì, thì kể như chúng tôi không được cho phép thăm viếng, không thể chuyện trò với chồng, con, cha, gì sớt. Nhưng nói cho cùng, không phải cán bộ trông coi trại giam, là ai ai cũng "ác ôn côn đồ độc ác" cả đâu. Bằng chứng là có duy nhất một cán bộ tên Nhượng biết điều, ông ta đối đãi với tù khá tôn trọng, từ-tâm, dễ dãi, có tình người hơn nhiều người cán bộ công an cộng-sản khác.

                Chúng tôi nhìn qua khe hở hàng rào gỗ cao lút đầu mình, tôi thấy đoàn tù khoảng mười lăm người đang lần lượt nối gót nhau ra nhà khách. Trên mặt họ chảy dài những giọt mồ hôi hột, sau lưng và trước ngực áo ướt đẫm mồ hôi, những vệt mồ hôi trong ngày tháng cũ bạc phơ, đang sột soạt từng đám, đã bện chung với những đám hô hôi mới rịn ra hôm nay. Trong cơn bấn loạn, sợ hãi, và băn khoăn tột độ, mẹ con chúng tôi dáo dác nhìn quanh, cố tìm khuôn mặt người thân. Tôi lặng người nhìn những khuôn mặt vàng bũng, nhận ra nét cằn cỗi, già nua, hốc hác, bơ phờ và ốm đói, mỏi mệt, từ những lằn nhăn bên khóe miệng người tù, trên đuôi mắt hằn lún những đường rãnh trên vầng trán phong sương cao cao sạm nắng gió khuya chiều, mà bỗng dưng tôi cảm thấy mình chới với bủn rủn.

                Nhà khách im phăng phắc nghe cán bộ đọc tên tù "cải tạo" và ông ta ấn định cho tù ngồi đúng chỗ xong, những anh tù vừa ngồi xuống dãy ghế gỗ, thì mọi nơi, mọi chỗ, mọi người đồng loạt rộ lên tiếng nói rộn ràng lao xao, ríu rít như bầy ong vỡ tổ. Người người bùi ngùi, thân thiết mừng rỡ trong nghẹn ngào, nức nở xúc động bồi hồi chào mừng nhau, rưng rưng nghẹn ngào hỏi thăm, an ủi nhau, vỗ về nhau, tay me con chúng tôi luôn quệt nước mắt, trào tuôn hai hàng nước mắt. Nhưng những anh tù "cải tạo" ngậm ngùi uất nghẹn cúi đầu mà không thể khóc, miệng họ cố mỉm cười méo mó, để che dấu nỗi chua cay xót xa, đầy đắng chát tủi nhục vô trong lòng.

                Tôi và Luật có khác gì nhau, chúng tôi đều ở giữa hai vòng ngục tù quê hương. Gia đình tôi (nói riêng và đa số gia đình bạn tù nói chung, cùng đồng bào thì ở tại vòng ngục tù bao la ngoài chấn song vô hình, khổng lồ đồ sộ và vô cùng kiên cố). Tù "cải tạo" thì từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, lan ra tận Phú Quốc, Côn Sơn, đều giống nhau. Trước kia Luật đã ở các trại tù: Suối Máu - Ra Phú Quốc - Về trại Long Giao…vân vân… Sau đó chuyển tới trại Z 30 A. Rồi chuyển qua Z 30 B. Gia Rai – Xuân Lộc. Chồng tôi ở vòng tù trong địa ngục, và đôi khi anh bị cùm trong vòng tù thứ ba là nơi chuyên giam nhốt ai có “trọng tội”, bị xiềng xích hai tay hai chân, khi bọn cán bộ hành hạ tra tấn "tù" xong, thì bị nhốt vào nơi cùm gông dành riêng cho "thứ dữ".

                Quả thực, hồi nhỏ ông chồng tôi, có tên cúng cơm rất là dễ sợ, do bố mẹ đã đặt cho ảnh cái tên: “Phạm Trọng Luật” thật. Nhưng khi lớn lên, Luật đi học đến lớp Nhất, thì bị thầy giáo vui tính gọi bố mẹ lên, thầy ôn tồn nói:
                - Tên gì cụ không đặt, lại đặt cho con cụ có cái tên kinh khủng đến thế. Nếu cậu ấy không có "tội", thì cũng vì "phạm trọng…" mà vô tù, nghiã là đi tù ây.
                Ông thầy giáo “làm phụ thầy bói" như thế mà linh! Nay ảnh đã bị “phạm trọng luật” (!, ?), mà đi tù ngót 10 năm, bị học tập "cải tạo" sao ta!? Có lần chồng tôi cười cười trêu đùa:
                - Em ơi! Anh có muốn đổi tên thật phí, vẫn bị lừa như thường.
                - Mắc gì đổi tên mà bị… ai lừa nào!
                - Thì anh không đổi tên họ, mà vẫn phạm trọng luật, (!?) đi tù, thì xong béng đời trai là cùng chứ gì!

                Chúng tôi hết sức lo lắng về tình trạng bệnh sốt rét của Luật, nhất là đôi bàn tay anh đã lở loét, bàn chân anh làm độc dạo trước, (do bị cán bộ y tế trại kêu anh vào làm thí nghiệm, ông ta lấy con dao bầu cắt rau trong nhà bếp, cứa cứa vào chỗ đau, xịt máu mủ ra. Chẳng có sát trùng, sát triết gì. Không có thuốc tê, thuốc bại gì ráo. Luật đau đến ngất thì thôi). Mặc dù Luật đã ở tù mươi năm rồi, mỗi tháng anh đều được giấy cho đi thăm nuôi, nhưng gia đình tôi quá nghèo. Một năm chúng tôi chỉ chia nhau đi thăm nuôi Luật khoảng năm bảy lần. Có năm chúng tôi không đi nỗi.

                Cho đi thăm nuôi tù, thật ra nhà nước chẳng ưu ái khoan hồng, tử tế hay tốt lành gì. Cho phép người ở vòng tù ngoài đi thăm nuôi vòng tù trong, chẳng qua là đảng muốn tù ngoài gánh vác đỡ bớt gánh nặng nuôi miệng ăn ở tù trong. Mặc dù tù “cải tạo” ăn ngày non bữa, bỏm bẻm chỉ có một muỗng cơm lạt độn bo bo hoặc sắn khoai với vài hột muối. Do số lượng tù quá sức đông, nếu chiết tính sơ sơ, đảng cũng nát óc điên đầu, nhà nước khó khăn, nan giải trong vấn đề gạo thóc mắm muối của đảng, thì dù tí cơm gạo tẻo teo cho tù nhân; cũng là chuyện không thể. Luật thấy rõ hai túm quà bé tí nị, mà gia đình mang vào cho anh, nhưng quý giá gấp mười lần cá, thịt: Đó là tất cả sức cần lao, đói khát, gian khổ, từ mẹ già răng long tóc bạc. Từ những bàn tay các con gầy bé tí xíu, từ người vợ mảnh mai. Họ đã nhịn đói, nhịn khát, thiếu thốn trăm bề ngỏ hầu góp nhặt từng xu, từng đồng, họ cố gắng dành dụm, cúp nũm mang vào trại tù, cho anh ăn tạm qua cơn đói rã ruột.

                Dĩ vãng vinh sang xưa, anh: xe pháo rủng rỉnh, nhà cửa đình huỳnh sung túc an vui, thình lình ồ ạt chảy về trong hiện tại đầy ứ, quá khứ phản bội khiến anh xốn xang chóng mặt đến hụt hơi. Vì, chuỗi lao tù cay cực kéo dài trước hàng chữ: “Không có gì quí hơn độc lập tự do”. Mỗi lần gặp mẹ ruột, vợ, con: mệt mỏi đến thăm, Luật chỉ ôm chúng tôi khóc ròng. Anh khóc, không vì cảnh “nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”. Mà bởi anh rõ hơn ai hết, khi nhìn mẹ gầy trơ xương, nhìn vợ ốm yếu, nhìn đàn con nheo nhóc khẳng khiu, yếu xìu, xanh lướt kia đang rưng rưng giọt lệ mừng vui cuống quýt. Luật lặng người nhận ra nét già khú đế trên khuôn mặt mẹ xếp lớp lăn tăn. Anh đau đớn nhìn những hố mắt con thơ còn quá nhỏ trũng sâu. Và, nơi khuôn mặt cô vợ hoa hậu diễm kiều mặt hoa da phấn năm nao, bàn tay búp măng nõn nà thuở xưa quá xinh. Nay “em tôi” có từng đường gân xanh nổi cồn bên thái dương, nơi bàn chân nứt nẻ, tróc lở, ở bàn tay sần sùi của “nàng”! Luật mủi lòng chẳng sợ ai cười chê, anh đã úp mặt vô hai bàn tay nứt nẻ mà khóc tướng lên, như trẻ thơ.
                ***

                Lui cui dọn dẹp mấy bọc ni lông đựng túm xôi đậu xanh, tôi nhồi thêm ít đậu phụng rang vào thau xôi, để lát nữa sau khi hết giờ thăm nuôi, Luật sẽ xách vô trại để cùng anh em bạn tù chia nhau tí quà, (thay vì Luật và mẹ con tôi ngồi ở đây, vừa ăn vừa nói chuyện, sẽ mất thì giờ, mà không nói được chuyện gì), thì tôi sửng sốt chợt thấy một đoàn hai chiếc xe hơi, từ ngoài con đường đất đỏ từ từ lăn bánh vào, và dừng lại ngay bên ngoài cổng trại Z 30. Trên xe lố nhố kẻ đứng người ngồi, đa số là người mặc áo tang, tôi nghe họ khóc than thảm thiết lắm. Tên cán bộ trại liền ra lệnh cho những người đang thăm nuôi dồn lại ở một cái bàn dài trong góc cùng. Tôi còn ngơ ngác và lo lắng nhìn quanh, Luật thì thầm:

                - Anh Trung-úy Long, tù ở trại Z 30 B, hiện làm tại tổ than của trại tù. Anh Long được tin mẹ ở Khánh Hội đã chết. Dù có giấy báo tử, anh Long tức tốc xin phép trại trưởng, cho anh về nhà một ngày, để phục tang. Nhưng họ kiên quyết không cho. Nên hôm nay, thân nhân của anh Long đưa mẹ về quê an táng tại Phan Thiết. Trên đường đi về quê, xe tang ghé qua trước cổng trại, họ xin phép trại trưởng cho anh Long ra đứng bên trong cổng, ngay dưới hàng chữ: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, để lạy chào mẹ lần cuối cùng.

                Bần thần chua xót và vô cùng cay đắng, uất nghẹn đến nghẹt thở, khi tôi tận mắt chứng kiến cảnh anh Long xanh lướt, thân thể anh héo hon thất thểu ra cửa trại tù. Anh chập choạng ủ rủ như người mất trí, như người say, anh như thân cây sắp ngã. Anh Long lê từng bước thấp bước cao ra tới bàn quản giáo. Anh run run ký tên vào sổ thăm nuôi. Đôi mắt anh Long sưng chù vù, mọng đỏ. Lúc ấy người nhà mang vào cho anh Long bộ đồ tang trắng, họ quấng lên đầu anh mảnh khăn tang, anh buông thỏng hai tay, đứng bất động như trời trồng. Anh Long để mặc họ xỏ áo thả gấu xỏ quần trắng cho mình như cậu bé con. Hai người thân kè xốc anh Long ở hai bên cánh tay, dìu đưa anh bước thấp bước cao ra cỗ áo quan mẹ lạnh giá. Như cái xác không hồn, anh Long run rẩy cầm ba cây nhang quỳ xuống mặt đường đất đỏ gồ ghề. Bỗng anh Long khóc rống tướng lên. Nghe thảm thiết lắm. Anh Long sì sụp lạy mẹ và bất thần rệu xuống. Chuyện nầy ai ai trong trại tù Z 30 cũng biết, có thật 100%.

                Bỗng dưng, từ thinh không rót vào tim tôi cảm giác rờn rợn, đau đau, phiền phiền uất ức, nghẹn ngào đau buốt rất vớ vẩn. Tôi để tiếng lòng ngân trong chiều Thu nhưng vẫn hầm hập nóng rần, dù gió heo may hái lá so đũa rụng đầy sân tù. Ôi! Vô vàn đau xót, chua cay và đắng chát nghẹn ngào, thương tâm dường bao! Những người đi thăm tù đang chứng kiến cảnh não nùng vĩnh biệt ly tan nầy, đều bưng mặt khóc. Nhìn mây trắng bồng bềnh trôi, như từng lọn bông gòn xôm xốp thao thức giữa hoàng hôn đượm buồn, tôi òa vỡ hàng nước mắt chảy ròng ròng xuống má. Cổng đập đã mở toang hoang, mọi nỗi niềm đau đớn được dịp tuôn trào. Tôi khóc vì quê hương lầm than. Khóc vì chồng đoạ đày khốn khổ trong ngục tù cộng sản. Khóc vì anh Long tuy xa lạ, mà có phần gần gũi do đồng cảnh ngộ và vô vàn thân thiết. Khóc vì mọi nhánh tình lưu vong bi lụy, người tù đoạ đày trên chính quê hương Việt Nam dấu yêu. Khóc mẹ chồng già nua khổ sở. Khóc các con thơ ốm yếu cơ cực đói khát. Khóc chính thân tôi rục rả ủ rủ tàn úa trước thời gian. Khóc ròng! Chuyện mẹ đến thăm con trong tù “cải tạo” cuả anh Long, đã có thật qua lời thơ của anh tù “cải tạo” Lê Xuân Nho:
                Xưa mẹ đến thăm con giữa chốn lưu đày,
                Thời gian leo lét cháy trên tóc bạc như mây.
                Tình mẹ thiên thu. Nhưng đời mẹ chỉ còn tháng ngày.
                Mẹ thường đến thăn con như mưa xuống cỏ cây.
                Trưa hôm nay nắng nhiều hơn cả gió!
                Có chiếc xe tang phủ đầy bụi đỏ N
                Trong chiếc quan tài, mẹ lại đến đây,
                Mẹ lại đến đây giữa chốn lưu đày
                Dù môi mẹ không còn hơi thở!
                Gió trong con nhiều hơn giông tố.
                Dù tim mẹ không còn nhịp thở.
                Đất lung lay, trời cũng xoay xoay.
                Mắt con lệ mờ, hay sương khói xa bay?

                ***

                Thạch sùng tróc lưỡi lỏ mắt nhìn gia đình tù dở sống dở chết, khi đất nước đổi đời. Số phận dân đen vùi dập trong bùn, sau ngày 30 tháng 4 mất nước. Đồng bào ngoài tù đói khổ lầm than. Luật ở tù trong một chế độ phi nhân, tàn bạo, dã man đáng nguyền rủa suốt kiếp. Suốt kiếp! Gây cuồng nộ triệu triệu con tim, làm kinh hoàng thế giới! Chúng tôi phải sống thầm lặng, đói nghèo, cơ cực suốt mười tám năm tẻ nhạt, hèn mọn, dưới tận đáy xã hội, giữa sự lạnh lùng, độc ác, phân biệt đối xử đầy bất công. Một sự thiếu thông cảm, không đức độ, hèn hạ trả thù dân tộc trắng trợn, chẳng vị tha và hoàn toàn không có sự đồng cảm, tương thân tương trợ trong lúc khốn cùng.

                Chao! Trời cao đất dày ơi! Xin Trời ở trên cao ngó xuống. Đất ở dưới ngóng lên. Hai bên giá vai có hai thánh linh biên chép, soi xét: Chứ, chúng tôi nào làm gì nên tội, sao phải gánh chịu cảnh đoạ đày, tù tội oan nghiệt, ô nhục đến thế nầy? Quá khứ chồng chất lên dĩ vãng quá đầy, quá nặng, quá đau. Tôi không thể tom góp ít chuyện đau buồn vào từng ấy nét phác họa sơ sơ, ghi vỏn vẹn trên năm bảy trang giấy, kể hầu quý vị nghe hết nỗi cùng cực, cay đắng, khiếp đảm xiết đỗi trên chính quê hương tôi. Dạ thưa! Không thể! Vã chăng, giờ nầy tôi ghi lại dòng “lịch sử đổi đời”, không mục đích để bôi nhọ làm xấu xí thêm trang giấy. Câu chuyện TÙ “cải tạo” rành rành ra đấy, cũng chả cần phải trách móc chế diễu ai. Tuyệt nhiên tôi không muốn lên án một cá nhân, hay chế độ nào. Tôi xấu hổ khóc thầm cho số phận hẩm hiu, thân khổ-qua con cò lò mò, con rùa cơ cực bẽ bàng quá đỗi đau xót. Thế thôi!
                ***

                Tình Hoài Hương


                ----

                Do một số đông thân hữu khẩn thiết nhờ THH tìm anh tù “cải tạo” có tên Long, năm 1982 anh Long đã bị tù ở trại Z 30 Gia Rai – Xuân Lộc. Vâng lời bạn, THH xin post bài viết đúng sự thật nầy. Tác giả chỉ biết tên anh Long, & không thể biết “Họ” và tên đệm của anh Trung-úy Long, tù "cải tạo" ở trại Z 30 B, làm tại tổ than của trại tù. Vậy, nếu tình cờ anh Long (hoặc thân nhân của anh Long) có đọc được bài viết nầy, xin vui lòng nhắn gửi tin trên HQPD nhé anh. Có nhiều anh bạn tù “cải tạo” trong Z 30A + B vẫn ân cần nhiệt thành hỏi thăm tin tức và bệnh tình của anh Long đấy ạ.
                Kính anh Long,
                THH
                E-mail đại diện nhóm bạn nay đã thay đổi :
                honuisong@yahoo.com
                Last edited by khongquan2; 07-24-2017, 09:05 PM.
                Bút trần nào tả được lưu luyến!
                Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                Tình Hoài Hương

                Comment


                • Đà Lạt Xưa và Nay… Ôi! Niềm Đau!







                  Đà Lạt Xưa và Nay… Ôi! Niềm Đau!


                  Thật khó diễn tả hết nỗi lòng ưu tư cảm xúc lâng lâng luôn dày vò tâm trí tôi về nỗi bâng khuâng, xao xuyến... khi đứng trên đỉnh đèo nhìn xuống khu vực Krong Pha: phong cảnh hữu tình ngút ngàn, bát ngát mênh mông, thơ mộng cận đường đèo quanh co uốn khúc gập ghềnh, nhấp nhô điệp trùng, cao tận lưng trời chót vót mây trắng ùn ùn bay bay dưới gót chân mình. Đèo Ngoạn Mục hùng vĩ thơ mộng nơi hạ giới xa xa... đã gieo vào lòng tôi bao tình khúc phong trần hoài cảm êm đềm, bâng khuâng suy tưởng mông lung. Tôi đang đứng trên vừng mây vờn sương muối quyện quanh gót chân “nơi bồng lai cao nguyên”, y hệt như trong tranh hồ thủy, tôi mơ màng nghĩ về bình nguyên và cánh đồng lúa lao xao bên dòng sông cạn xa xa ở lưng trời năm cũ.

                  Nhìn lại ngọn đèo cao ngút ngàn lúc xe đò hổn hển thở khói phì phò đi qua với sự luyến tiếc vô vàn; vì có thể đây là những khoảng lắng phiêu bồng: sau nầy tôi chẳng bao giờ còn cơ may quay trở về chốn nầy, dù là niềm kiêu hãnh vinh quang trong dĩ vãng, dù chỉ thêm một lần im lắng xót xa luyến lưu trong hồi tưởng! Bởi vì 30-4 gia đình tôi lê lết trở về lại thành phố núi, sau ngày mất Đà Lạt, là tôi bị “mất dạy” ; từ khi đổ̉i đời, không còn làm nghề “gõ đầu trẻ”. Thế nên bị thất nghiệp, buộc lòng tôi đưa gia đình đi Sài Gòn, xuống tại Thành Ông Năm, Hóc Môn, để rồi trở nên đói khát dài dài...

                  Đà Lạt cuốn hút tôi ngàn đời nhung nhớ hoài vọng ước ao. Nơi bỏ ngỏ trái tim tôi dại khờ ấp ủ mộng ngày xanh vui tươi nhí nhảnh mà lại đa tình. Đà Lạt xưa khoan dung dịu dàng mở rộng vòng tay trìu mến, nơi từng ôm trọn tôi vào vũng sương mù lả lướt, buông thả, dạt dào nỗi nhớ niềm yêu trong mỗi phím loan. Tôi nhớ da diết những cánh hoa muôn màu chen chân khoe sắc thắm trong nhiều ngôi nhà ấm áp xinh xinh, nhà nhà trên triền đồi hoặc dưới ven dốc chập chùng ẩn hiện nép mình bên vườn cây ăn quả trĩu trái. Có cây bưởi hoa trắng muốt toả mùi thơm ngào ngạt. Cây hồng mơn mởn. Cây chanh mọng nước. Cây quả mượt-mà ngày ấy cho tôi cảm giác vui vui, lâng lâng êm đềm, thi vị quá chừng!

                  Trên đường phố quê hương Đà Lạt thân yêu nầy, ngày xưa tôi vẫn đi lại tung tăng, hồn nhiên, vui vẻ nhởn nhơ như cánh bướm buổi sáng mai gặp nắng tươi. Tôi ươm nhiều mộng đẹp như thời son trẻ mới chớm lớn, lòng dạt dào nung nấu sự hoài mong tưởng nhớ: Xin cho tôi được một lần tìm về cội nguồn. Nơi đó mẹ dấu yêu đã à ơi ru con lớn khôn trong chiếc nôi đời ấm áp, đơn sơ hồng hoang mà trữ tình ngọt dịu thân thiết trìu mến dường bao! Tôi nhớ lắm thầy Cao Cự Phúc phổ bản nhạc: "Ngày nào dừng chân phiêu lãng. Khách tới đây khi hoa đào vương lối đi Màu hoa in dáng trời Tình hoa lưu luyến người Bồi hồi lòng lữ khách thấy chơi vơi Ngày nào đường xuân phơi phới Khách ngất ngây thấy hoa nở trên má ai Rồi yêu hoa trên má Mà ghi câu luyến nhớ thành bài thơ … Nhưng rồi mùa hoa tàn. Người hoa sao vắng mãi Bao chiều lòng mong chờ. Đường hoa sao hững hờ Để lòng lữ khách tê tái. Cất bước đi nhớ hoa đào trên má ai Màu hoa in trên má Làm khách lưu luyến mãi Đà Lạt ơi"!

                  Khi tôi đã thực sự đứng ở thành phố quê hương Đà Lạt ngàn đời dấu yêu nầy, thì tôi không thể nào ngờ! Đà Lạt trong không gian bảng lảng dáng thu bàng bạc trên thành phố buốt giá bây giờ sau 75 - 93 quá lạnh lẽo. Buồn thiu. Ôi! bao năm qua, nay lần đầu tiên tôi nôn nao trông ngóng xôn xao trở về quê cũ, thì... những âm thanh đơn điệu, buồn tênh dội lại lòng mình niềm tiếc thương thác lũ. Gợi lên biết bao điều đau xót, tôi ưu phiền, chán ngán, bơ vơ bàng hoàng khôn xiết. Biển cả đã hoá thành nương dâu, nước mắt bỗng dưng chảy hoài, khiến tôi trở thành một người xa lạ, lạc lõng, cô độc với chính mình. Bước chân lao xao rộn rã tìm về lối cũ đường xưa, mà một thị dân chôn nhau cắt rốn như tôi, từng đi đi về về trong thành phố thơ mộng ấy, giờ đây cảm thấy quê tôi lạ hoắc, lạnh lùng. Tôi lạc bước trên con đường cũ thân thương xưa lòng trống rổng cô độc kinh khủng. Thành phố dấu yêu xưa sao bây giờ trở thành xa lạ với tôi đến thế? Hoài phí đi những mơ tưởng đâu đâu không sát thực tế chút nào.

                  Quang cảnh thành phố Đà Lạt bây giờ như thành phố chết ngoài nghĩa điạ! Không giống những bộ mặt thân quen xiết đỗi mà ngày xưa tôi thân mật vẫn đi về. Đà Lạt không còn sống động, không nên thơ, chả quyến rũ... vì không có những anh Võ Bị oai phong. Những anh Chiến Tranh Chính Trị kiêu hùng. Không thấy sinh viên Viện Đại-học lịch lãm văn nhã! Không có những nam sinh choai choai, dé dé vui vẻ hân hoan vô tư lự huýt gió lúc đến trường Trung Học. Còn đâu nữ sinh hồn nhiên xinh lịch tung tăng với những tà áo dài tha thướt lượn bay, cặp ôm ngang ngực thong thả đi trên con đường mòn đất đỏ ngoằn ngoèo uốn lên uốn xuống ở đồi thông im mát.

                  Đà Lạt xưa có những công tư chức ngày xưa cao sang chuyên mặc áo da, áo len đan tay đắt tiền, hoặc mặc bộ veston đen tối tân, sơ mi trắng nõn lủng lẳng cà vạt màu, chiếc quần tây thẳng nếp li và đôi giày thời trang... Đâu rồi những anh lính Nhảy Dù mũ đỏ, những anh Hải-quân với bộ quần áo trắng cao sang. Những anh Biệt Động-quân mũ nâu, Thiết giáp, Thủy-quân Lục chiến, Pháo-binh, Bộ-binh oai dũng... trong những lần họ nghỉ phép, đã ghé tạt về thăm Đà Lạt? Những anh phi công bay bướm lả lướt phong trần ung dung bay lượn trên bầu trời Lâm Viên bãng lãng dáng chiều thênh thang. Họ đi đâu mất hết rồi trên thành phố huyền thoại ngày nào!?

                  Không gian Đà Thành phai dáng thu bàng bạc bây giờ lạnh tanh. Họ hàng thân quyến, những bạn thời sinh viên, hoặc bạn cùng dạy học với tôi, giờ đây họ lưu lạc phương nao xa hun hút, tôi đã mất tầm nhìn, có thể biền biệt chân trời xa thẳm, xa mất đất rồi chăng?! “Lối cũ ta về dường như nhỏ lại. Trời xanh xanh mãi một màu ấu thơ. Lối cũ ta về, vườn xưa có còn. Hoàng hôn buông xuống thoảng hương ngọc lan. Dù gió có trút lá úa xuống vườn chiều. Bước chân ai đem lang thang về cô liêu. Chốn xa xôi kia mang bao kỷ niệm cũ. Em đã quên hay là vẫn mang theo. Dù cho bên anh nay em không còn nữa. Biết chăng trong con tim anh luôn hằng nhớ. Người yêu ơi nay em đã bỏ anh đi. Sao em nỡ bỏ anh đi mãi…"
                  ***

                  Ngày nay đàn ông Đà Thành thay bộ cánh khác đang đổ xô ra đường kiếm sống, chụp giựt bằng “lao động là vinh quang” một nghề mới toanh thoạt nghe thiệt “kêu, và lạ” : “làm người thồ”, nghề đi vá xe đạp, gánh thuê, vác mướn: Áo quần họ mặc hầu hết tơi tả, cũ mèm, ố vàng, nhàu nát. Mỗi người bạn trai đồng môn của tôi đều có một cây đòn gánh, hai chùm dây dừa cột chặt ở hai đầu gánh. Hành khách chưa kịp xuống xe đò chật như nêm, là lập tức những người đàn ông gánh thuê bu đông đen nơi thành cửa xe, họ kêu mời khách lạ. Mặc cả kỳ kèo giá tiền thuê vác xong, hành khách đi bộ về nhà, người thuê kẽo kẹt quang gánh nặng gồnh mình gánh trên vai gầy, họ im lặng chịu đựng cúi đầu rảo bước.

                  Toàn người đi bộ là đi bộ. Cả thành phố lác đác chỉ có một vài chiếc xe đò cọc cạch, xe chạy giới hạn từ Thị-xã Đà Lạt đi các nơi. Ở Đà Lạt là nơi nhiều đèo núi, nên ít người mua sắm xe đạp. Ai có xe đạp là chỉ có nước “làm tôi mọi” cho vật. Người ta cỡi lên xe đạp thì ít, mà vác nó lên trên lưng leo dốc cao thì nhiều. Thế nên hồi trước đa số công tư chức ai có tiền chỉ mua xe hơi, honda. Bây giờ trạm xăng không bán một giọt, thì xe với cộ, honda hôn điếc chi cũng bù trớt, nằm ù lì một đống như đống sắt vụn. Chỉ có lèo tèo mấy xe đạp làm xe thồ ọp ẹp, hoặc những “tay cua-rơ” có chiếc xe đạp loại thường thường dùng tập dượt, hầu mong tranh tài trong các chương trình thi đua thể thao toàn quốc trước kia, nay làm xe thồ.

                  Khu phố Hoà Bình ngày xưa nhộn nhịp, đông vui, sang trọng là thế! Nay tiệm nào cũng cửa đóng then cài im lìm. Hàng hoá đồ đạc thu dọn đâu hết. Sạch bách. Trơ lại những nhúm người ngồi trên vĩa hè, mặt mày lơ láo, họ rù rì to nhỏ, dáo dác nhìn ngược ngó xuôi, mắt mất thần. Họ tụm năm tụm ba ở góc nầy góc kia, dáo dác len lén bày bán những món đồ cũ, đơn sơ và khiêm nhường thấy tội. Đàn bà con “gái... theo thơ Lệ Khánh: "Gái Đà Lạt trời sinh đều đẹp cả”, nay một số qúy bà mặc quần áo lôi thôi lốc thốc, nghèo nàn, họ xuống đường tần tảo bán bưng thúng mẹc bên lề. Họ ngồi bệt trên những bậc tam cấp bán bòn những củ cà rốt, khoai lang, rau rợ bầm dập. Vài ba bà cải nhau om tỏi, chỉ vì những con cá ươn sình vương vãi ra trên vệt nức bên vệ đường. Ngẩn ngơ ngồi xuống mé đường lựa những trái hồng trong mẹt. Tôi nghe bạn hàng xầm xì:
                  Bà con toàn thể xã ta
                  Ðồng tâm phấn khởi trồng cà dái dê
                  Dái dê to mập dài ghê
                  Năm sau ta cứ dái dê ta trồng
                  (2)

                  - Mèn ơi! Con tao bệnh, không có tiền mua thuốc uống. Ở đó mà mua phân, mua giống để trồng cà dái dê. Rồi nuôi heo, nuôi gà, tăng gia sản xuất cái nỗi gì! Nhà nước bắt mẹ con tao bưng máy đan của mình, dô trong hợp tác xã đan áo len gởi đi Liên Xô ráo trọi. Cái gì của mình là của “liên bang Xô Viết” mà mầy. Nếu mầy không có máy đan, thì tới đó dùng hai que tre, que gỗ mà đan. Rồi mầy coi, cái tập thể ni lọt dô túi bọn đó mất tiêu. Bọn mình chẳng còn con khỉ khô gì ráo trọi á. Chỉ còn trợn trắng con mắt, cúi đầu và hai bàn tay cầm que đan đan, đâm đâm, thọt thọt... Nghe.
                  - Thỉnh thoảng trên hợp tác xã đan móc may mặc có phân phối chút thịt heo bụng, ba chỉ, hoặc cẵng chân, đầu cánh gà mà?
                  - Xời. Đi gánh phân heo để tưới rau ăn, thì có. Bởi vậy nên người ta thèm thịt, nhỏ từng cục nước miếng, thì phải đi ăn trộm, ăn cắp biết nhiêu mà kể xiết, mất cắp ở trong mấy cửa hàng bách hoá như rươi. Của chung mà mầy. Ở nhà dân cũng bị cắp, trộm.
                  - Mầy hổng thấy sao ke! Con chó nhà tao năm nào ú nù, ú nần, tướng mập mạp đi hổng nỗi. Nay nó ốm tong ốm teo, lông lá rụng xơ xác, đầy ghẻ chóc, rụng hết răng, cũng bị bọn trộm rinh dìa làm thịt mất toi rồi. Mất chó giữ nhà, riết rồi cả xóm không còn chó sủa. Thế nên ai có chút của cải, cũng bay mất toi theo thằng ăn trộm hết. Đảng có mù, đảng cũng thấy chớ.
                  - Coi chừng nghe mầy. Nói tào lao, tai vách mạch rừng á.
                  - Bởi dậy... mới có chiện cán bộ lùng bắt người và chó. Người trộm cắp thì cho dô tù. Chó thì cho dô nồi bự. Trời quơi! Nước non chi lạ, dưới dân mất chó, mất heo gà. Trên nhiễu sinh ra đủ thứ chiện cướp cạn tham nhũng, hổng biết sao ta?
                  - Đừng chọc quê, tao không phải là đứa “cần câu nhân dân”. Mầy đừng lo.
                  - Ha ha! Tao không có tội mà trở thành có tội, vì cái miệng bép xép. Đời nay có nhiều loại công an nhân dân làm cần câu, đó nghe.
                  - Trời! Nói cái gì tầm bậy tầm bạ dị hợm vậy. Mầy! Dân cũng nghèo rớt mồng tơi như công an công yết. Chắc có lẽ ai làm “công an nhân dân” thì có đặc biệt nhiều tiền hơn hỉ?!
                  - Mẹ ui! Nếu được nhiều tiền thì công an nhân dân đâu mặc quần áo có mấy miếng ti vi to tổ chảng đắp trên đầu gối hỉ!
                  - "Kiểu tân thời" á mầy.

                  Tôi nhóm chân len lén nhìn qua khu vườn cũ. Hồi ấy tôi đã trồng nhiều hàng hoa hồng rực rỡ màu sắc thành hàng lối thẳng tưng. Những vòm cây ăn quả thắm đẵm sương đêm mọng hạt nước lung linh trên ngọn lá rung rinh. Ngôi nhà thân yêu nầy do tự sức cần lao của ba mẹ làm lụng vất vã. Và, của chính tôi khi chưa lập gia đình đã bán phổi dạy học, dành dụm mà có ngôi biệt thự Mimosa tươm tất. Qua hàng rào gạch thưa, cổng sắt đóng kín cửa có tấm bảng đề “coi chừng chó dữ”.

                  Đang ngơ ngáo len lén nhìn quanh, thì tôi giật nẩy người khi con chó Bìm Bìm tru hú từng tiếng rít từng cơn trong cổ. Nó mừng như điên cong đuôi chạy lui chạy tới ngoắt lia lịa. Nó chạy mấy vòng trong sân, bỗng chốc chồm hẳn hai chân trước lên ngực tôi, nó quay quắt mừng rỡ, cuống quít khi gặp lại chủ cũ. Nó thò mỏ qua khe rào gạch, cố tìm cách liếm liếm bàn tay tôi. Ngày di tản, tôi không thể mang con chó theo, nên tôi đã cho bác Tân hàng xóm nuôi, (nhà tôi sát vách tường nhà bác, chung một hàng rào xây bằng gạch song thưa). Tôi lòn tay qua song cửa cổng sắt xoa đầu nó hoài. Lúc đó, nó mới chịu đứng yên giây lát, nó rên ư ử đuôi vẫn ngoắt lia lịa. Bác Tân nghe tiếng chó sủa vang đã đi ra sân. Bác càng mừng rỡ chạy tới mở cửa cổng, bác đon đả rối rít chào hỏi tôi. Con Bìm Bìm lanh lẹ chui qua khe hở giữa hai nhà, nó cuộn tròn dưới thềm gạch, mỏ gác lên chân tôi. Mắt nó liếc qua liếc lại, hai tai vểnh lên nghe ngóng. Con chó mà thật có tình nghĩa! Ngoài những đau đớn, hụt hẫng, ngậm ngùi đáng hổ thẹn, nay tôi không còn gì! Thật chẳng còn gì để cho con vật, dù chỉ là một củ khoai tẻo teo!

                  Có gì đâu. Còn gì đâu nữa! Từ trên đỉnh bình yên an vui ngày hai buổi đi dạy học, nay tôi đã hụp xuống vực thẳm giữa cơn xoáy đục ngầu đen bạc. Hy vọng vỡ tan trong mối thất vọng chua cay, tổn thất dập dồn do thương tổn tình đời để lại. Tôi lặng lẽ ưu phiền ngồi điếng lặng hằng giờ trong góc tối cô đơn, suy nghĩ hết cách mong tìm kế sinh nhai. Tôi giống con chó hoang trốn vào hang hốc, mòn mỏi liếm vết thương mình. Kể từ ngày “đổi đời”, sự sống của gia đình tôi kể như "vong gia thất thổ nổi trôi theo dòng đời chảy xiết". Cuộc cách mạng 75 đã đẩy bật chúng tôi ra khỏi thành phố Đà Lạt. Xa những núi đồi thân yêu, vắng những thác nước suối nguồn mộng mơ. Tôi không còn thấy những hàng hoa anh đào thắm sắc ôm bóng dưới mặt hồ loáng bạc như tráng men.

                  Nhất là chẳng thể lặng yên vui vẻ nhìn những cụm mây ngà, hồng thắm bồng bềnh bay bay. Mỗi độ hoàng hôn mây óng vàng mịn mượt e ấp rủ nhau về quỳ gối bên ao hồ soi bóng. Chao! Gia đình tôi lâm vào ngỏ cụt không lối thoát, mà số phận tàn nhẫn nghiệt ngã vẫn bám riết lấy chúng tôi. Dù bằng sự can đảm phi thường mẹ trẻ con thơ dắt díu nhau chạy về Sài Gòn, cố gắng "tái thiết" cuộc đời sống lây lất thấp hèn đến độ thê lương trong trại gia binh bỏ hoang. Danh dự vẫn còn, tôi sống thanh liêm và dùng hai bàn tay không cầm ngòi viết, mà dùng làm “cây chĩa ngũ đoản thập toàn”, để tự bới móc tìm cái ăn ngoài xó xỉnh ruộng đồng!

                  Tôi nâng mình lên cao hơn mặt đất xí xi, hầu hòa đồng cùng những người cùng khổ không manh áo cơ hàn khác. Chúng tôi rất nghèo, đói rách tả tơi thấy thảm thiết lắm. Chính những tháng ngày âm thầm đi trong vũng tối, từ những con đường đất đen đen lên nông trường Lê Minh Xuân không đèn soi, không trăng tỏ, tôi mới có đủ thời gian suy tư kiểm nghiệm những thăng trầm chồng chất muôn vàn đắng cay đời mình dâng cao ngút. Chồng bị “đi tù cải tạo”. Các con lây lất lang thang tả tơi áo quần ngắn củn sờn rách, co ro trên vĩa hè phố Sài Gòn.

                  Những đứa con của tôi và tuổi thơ vô tội tự bươn bả moi móc mọi thứ để kiếm sống, con đói khát ngủ chập chờn bên hóc tối (để cho bầy con kẻ khác mặc nhiên tới chiếm ngự ngôi nhà đồ sộ của mình, họ thô thiển vui đùa dưới hàng hiên ở ngay nhà của chúng tôi đây). Tôi không hận, không nghe thấy gì, chẳng còn chút sinh khí nào ngoài nỗi điếng lặng lo sợ cồn cào đói khát, đau ốm đang dày vò ruột gan tôi và các con. Nỗi lo sợ bà nội, mẹ con bị bệnh đau, ghẻ chóc, truyền nhiễm dâng đầy ắp, mà không có tiền thuốc men- Hơn là tôi sợ hãi bất cứ thứ mất mác vật chất gì.

                  Lòng tôi chao đảo vì chiến tranh tương tàn, đùng đùng nổi giận vì những mất mác vô cớ, mà các con thơ mẹ già vợ yếu bỗng dưng vô tình cúi đầu gánh chịu, như tai ách mạch đời ở đâu trút ào ào xuống đầu mình. Trách nhiệm từ ai? Tại sao? Bởi vì đâu? Vì những “dày vò” của ông bà cố tổ mẹ cha chú bác? của những người có trọng trách giữ nước, giữ quê? hay là do trầm thống điêu linh tổ quốc suy tàn, chẳng còn, nên con cháu họ đã ra nông nỗi, làm bàng hoàng sụp đổ cả một chính phủ trong tích tắc thời gian!?
                  ***

                  Tôi cúi đầu uất nghẹn! Đà Lạt diễm kiều quyến rũ một thuở nên thơ tràn lan thi vị, nay không còn là thành phố duyên dáng, hữu tình nữa rồi. Đâu rồi tiếng thông reo vi vu thì thầm cùng gió, sương rung rinh nhè nhẹ thở hơi mát, phả vào không gian bảng lảng dáng thu bàng bạc trên thành phố lạnh lẽo! Tôi đi giữa hai hàng cây anh đào trơ trụi, vài chiếc lá úa lững lờ chao lượn dưới làn sương mỏng là là bay, cuốn theo những hạt mưa bóng mây ẩm lạnh trong không gian ngút ngàn buốt tê. Dường như tôi cảm thấy ngu ngơ, lơ láo nhìn ngó, băn khoăn, thổn thức đớn đau dày vò và cảm thấy thất vọng kỳ lạ. Không tài nào nhấc bước chân lên khỏi mặt đường lồi lõm, tôi cứ đứng lì ở một góc phố như trời trồng, mà mất hồn mất vía. Tôi cảm thấy mình bị lún dần, lún dần vào cõi lạ. Dường như có ai ở dưới vũng bùn sình nặng nề đang giơ tay kéo lôi giật, tôi trì trệ hụp xuống cùng.

                  Đôi mắt tôi có hai ngấn nước lặng lờ hơi sương, mờ nhoà, mờ hẳn... giọt sương lăn tăn li ti hòa quyện cùng giọt nước mắt xót xa đã chảy xuống hai gò má. Thành phố của tôi ngày xưa ôi là xinh lịch vui tươi, truyền cảm, quyến rũ, thơ mộng là thế. Giờ đây sao quá ngao ngán buồn!? Trước mắt tôi, hiện tại với khoảng trống băng giá, cùng gánh nặng gia đình quầng siết lấy đôi vai gầy đang còng xuống những cố gắng vĩ đại, ngỏ hầu chới với quơ bàn tay gầy cố vươn lên, thấp thỏm giành lại cho mình một tí, dù một tí thôi những gì đã mất. Tôi ngồi bên lề phố Hoà Bình ngửa mặt lên trời mà khóc, mà cười, cười khẩy, vì không sao hiểu nỗi “đời”! Tâm hồn tôi hằn lên vết rạn nứt đau xót khôn tả xiết, xếp lớp lăn tăn bềnh bồng lâng lâng giữa trạng thái nửa tỉnh nửa mê theo sóng đời cơ cực. Gia đình tôi đã lầm than khốn cùng tụt xuống dưới tận đáy xã hội phù phiếm mất rồi.

                  Đà Lạt xa xưa tự thuở hồng hoang xinh lịch thơ mộng êm mơ là thế, rồi... có một “thời gian điêu đứng vật vã” nên quê tôi đã nghèo nàn và ê chề cũng kinh khiếp đến thế. Nhưng rồi… càng bàng hoàng thảng thốt thay khi Đà Lạt của tôi hôm nay (2016) đã biến mất các rừng thông xanh thẳm, những con suối uốn lượn quanh co dọc triền núi và thác nguồn ngày xưa hoang dã, tự nhiên và thơ mộng êm đềm, thì nay “sinh chứng dị hình xây dựng” những kiểu cách “gán ghép bắt râu ông nọ cắm cằm bà kia”. Những nhà cao ốc chen chúc, chi chít chen lấn cùng những nhà bần nông lụp xụp (vì các "dịch vụ, nhu cầu sinh kế khẩn thiết" cần "triệt để khai thác" cho ngành du lịch phồn thịnh!!!); nên đâu đâu cũng "tự chế" ra phòng trọ, "mô teo, hô teo..." nườm nượp mọc lên, "lâu đài nguy nga" trên đồi trọc không còn tiếng thông reo vi vu… triền miên (vì chẳng còn cây cối nào có thể sống) không theo quy trình kiến thiết đô thị, thì Đà Lạt bây giờ vụng về và nóng ơi là nóng! Đà Lạt lộn xộn trơ trẽn như bộ mặt của con mèo vá.

                  Ôi Đà Lạt của tôi… không còn sinh khí hồn nhiên của mạch rừng hoang dại, dường như Đà Lạt nghẹt thở do những nét chấm phá từ bao ngôi nhà nhấp nhô to nhỏ giống "nấm men, nấm hương, nấm mốc, nấm rơm, nấm chó nấm mèo” trên bức tranh thiên nhiên đã loang lổ. Đã thế, số người tôi vừa gặp : thanh niên thiếu nữ trai trẻ, cụ già em bé ngày nay ra đường đều ồn ào, náo nhiệt chen lấn và nói năng cười đùa tự do như chỗ không người, "vui vẻ thái mái; tự nhiên như... người Hà Nội!". Thì quê tôi chìm mất nét hấp dẫn trữ tình và trìu mến trong tim mình! Thế nên tôi đành bùi ngùi, xót xa tiếc ngẩn... và nghẹn ngào ngoảnh mặt quay bước không thể trở về lối cũ đường xưa…
                  * * *

                  Tình Hoài Hương
                  Last edited by Tinh Hoai Huong; 08-09-2017, 12:30 AM.
                  Bút trần nào tả được lưu luyến!
                  Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                  Tình Hoài Hương

                  Comment


                  • Thiên Thần Mũ Đỏ: HOÀNG NGỌC BẢO


                    Thiên Thần Mũ Đỏ: HOÀNG NGỌC BẢO


                    Chiến binh Nhảy Dù Hoàng Ngọc Bảo sinh và sống tại thành phố Đà Lạt, từ nhỏ đến lớn Bảo đã học tại trường dòng A’ Dran (Tabert), sau đó Bảo đăng vô lính từ năm 1964, (khi vừa 18 tuổi). Mặc dù Bảo bị cha mẹ, và cô bồ xinh xinh phản đối kịch liệt, Bảo vẫn biết mạng sống con người rất qúy trọng và cần thiết, chiến trường thì nguy hiểm gian khổ dường bao. Nhưng Bảo vẫn hân hoan vui vẻ lao mình đến với đồng đội:
                    Tôi nhớ mãi nét hào hùng binh chủng
                    Nhớ những ngày đầu nhập trại Hoàng Hoa
                    Thấp thỏm chờ đợi lệnh phòng Ba
                    Mong cho chóng có tên đi học nhảy
                    Màn mở đầu là màn thi chạy
                    Rồi nhảy đài, hít đất kéo xà ngang.
                    Rồi... kéo dây, nhảy xổm thập bát ban.
                    Phần sức khỏe dĩ nhiên là qua thoát!!!
                    (Mũ Đỏ 198)

                    Bảo dự khoá huấn luyện quân sự căn bản ba tháng ở Tiểu Đoàn Khoá-sinh Vương Mộng Hồng tại Trung-tâm Huấn-luyện Quang Trung. Trắc nghiệm thể dục cốt yếu rèn luyện thân thể khoẻ mạnh, cường tráng, đôi chân dẽo dai. Tập chạy bộ từ 800m đến 1500m, mang theo trang bị cá nhân xong. Sau đó, cán bộ khối bổ sung sẽ đưa tân binh khoá sinh đến Trung-tâm huấn-luyện Nhảy Dù Hoàng Hoa Thám để:
                    - Huấn luyện kỷ thuật về cách lên phi cơ nhảy dù.
                    - Mang dù (mặc dù) khám dù, bảo trì dù, v.v…
                    - Trang bị cần thiết khi hành quân.
                    - Học cách nhảy từ trong lòng phi cơ ra ngoài phi cơ (làm quen với phi cơ, làm quen với độ cao):
                    - Học điều khiển cách lái dù theo ý mình.
                    - Học các thế đáp (té, lăn…) tránh nguy hiểm bản thân.
                    - Học cách thu lượm dù nhanh, gọn.
                    - Học cách tránh bị dù lôi, kéo, quấn (khi trời gió, bão, bị dù lôi kéo lết… thì không thể đứng dậy).
                    - Học nhảy cao 11m để làm quen với độ cao không bị choáng ngợp, không có cảm giác sợ hãi (gọi là chuồng cu); chuồng cu là một cái đài giống chuồng… Cao khoảng 11,5m, trên đó có bốn sợi dây cáp dài và to.
                    - Học nhảy từ 12m (dây tử thần); tập đáp từ trên cao xuống khi va chạm dưới đất. Chụm hai tay ôm dây dù sát vô ngực, đầu cúi xuống thấp, khi nhảy ra khỏi lòng phi cơ thì không nguy hiểm, vì đầu bị đập ngửa ra sau ót.
                    - Học nhảy ngày (5 lần, + 1 lần mang trang bị cá nhân) & 1 lần ban đêm:
                    Màn kế tiếp ba tuần liền dưới đất
                    Tập chuồng cu, kéo gió, chống dù lôi
                    Đài mười thước, rồi nhảy, nhảy chuồng cu!
                    Thì... cũng kệ... nghe GO... nhắm mắt phóng...

                    - Học Nhảy Dù với ba loại phi cơ: C 47 - C 119 – C 123.
                    Tuần lễ cuối... mới là tuần gay cấn nhảy sô đầu C47 hom hem.
                    … Dây SOA dài thót ruột... chết cha...
                    Ầm ầm... rồi im lặng dù mở to
                    Mới sựt nhớ mình 'quên' đâu có đếm
                    Sô thứ hai nhảy C119
                    … Từ sô thứ bốn ta GO ngon ra phết
                    Mần sáu sô... khóa dù nào đã hết
                    Nghỉ một ngày... dưỡng sức nhảy sô đêm
                    C123 gầm thét phóng vụt lên
                    (Mũ Đỏ 198)

                    Sau đó khoá sinh được trở về khối bổ sung, cán bộ khối bổ sung sẽ điều động tân khoá sinh đi các đơn vị cần. Bảo hân hoan vui vẻ hạnh phúc cùng bạn đồng khoá được vinh dự mang danh xưng “Thiên Thần Mũ Đỏ” với khẩu hiệu “Nhảy Dù sát cộng”. Bảo được chuyển đến Lữ-đoàn III Nhảy Dù, quân phục rằn ri mang phù hiệu sư đoàn Nhảy Dù bên tay áo trái, đội mũ beret màu đỏ có gắn phù hiệu Dù.

                    Bảo đổi đi nhiều nơi khác trong toàn miền Nam Việt Nam. Bảo từng bị thương bốn lần: Lần đầu tiên vào năm Mậu Thân khi Bảo nhảy từ trên trời xuống mục tiêu tại miền Trung, thì Bảo bị bắn lủng ruột, bị mỗ. Bảo được cứu thương nằm trong bệnh viện Cộng Hoà ba tháng. Hai năm sau, lần thứ nhì Bảo bị bắn xuyên qua phổi, may mà không vào chỗ hiểm. Bảo được cấp cứu vào bệnh viện nằm trị liệu mấy tháng. Rồi Bảo lại trở ra đơn vị Nhảy Dù, tiếp tục sống cuộc đời giang hồ phong sương qua bốn bể… mà “nhảy”. Do Bảo vẫn yêu mến binh chủng: “nơi nào cần, Nhảy Dù có. Nơi nào khó, có Nhảy Dù”: Ngang dọc đó đây, vì Bảo yêu đồng đội và tha nhân, dù bao nguy hiểm thiệt thòi có về mình, cũng thì-thầm cầu nguyện:
                    Lạy Chúa, xin cứ dùng con theo ý Chúa,
                    làm chân tay cho những người què cụt,
                    làm đôi mắt cho ai phải đui mù,
                    làm lỗ tai cho những người bị điếc,

                    làm miệng lưỡi cho người không nói được,
                    làm tiếng kêu cho người chịu bất công.
                    Lạy Chúa, xin cứ gởi con ra đồng lúa,
                    để đem cơm cho người đói đang chờ,

                    và đem nước cho người họng đang khô,
                    đem thuốc thang cho người đang đau ốm
                    đem áo quần cho người đang trần trụi,
                    đem mền đắp cho người rét đang run.
                    (1*)

                    Có nhiều đêm Bảo cùng bạn nằm lì tại Cầu Lòn, họ lần mò đi trong đêm khuya, qua nghĩa điạ Trí Bưu u ám hoang tàn hắt hiu (Quảng Trị). Bảo lom khom cúi đầu đi dưới đường Duy Tân, rồi lính Nhảy Dù phối hợp cùng anh em lính Thuỷ-quân Lục-chiến oai dũng hào hùng đánh chiếm đại thắng cổ thành Đinh Công Tráng ở Quảng Trị ngày 6-6-1972. Trong trận nầy, đây là lần thứ ba Bảo bị đạn ghim vào tay. Bảo đã nhìn sửng ngọn cờ vàng ba sọc đỏ phất phới lồng lộng trong gió tung bay trên nền trời xanh bao la. Vì đất nước quê hương và dân tộc con rồng cháu tiên. Bảo cũng như đồng bạn tận tụy hết lòng hy sinh vì Tổ Quốc, quyết bám lấy quê hương chiến đấu đến giờ phút cuối cùng.

                    Rồi… Lần tham chiến cuối cùng tại khu vực dưới sườn tây Bắc Yankee, và khoảng Delta hướng đông của Charlie, Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù (được thành lập ngày 1-11-1968) kẹp giữa vùng chiến tuyến nầy. Tỉnh Kon Tum có ngọn đồi mang tên Charlie; Charlie tiếp giáp giữa huyện: Sa Thầy, Ngọc Hồi, Đắc Tô). Nơi đây Bảo bị thương khá nặng vì đạn pháo bọn địch lại ghim tứ tung vô thân thể mình, mất một mắt trái, một bàn chân bên phải của Bảo cụt lên tới dưới đầu gối, cộng với những vết thương mới và cũ bị nhiễm trùng, toàn thân Bảo đầy vết thẹo, đau nhức bệnh tật liên miên… Bảo phải vào nằm ở bệnh viện Cộng Hoà và được các bạn đồng đội chia máu hoài, nhưng sức khỏe vẫn chưa thể khá.

                    Bạn đồng ngành và Bảo bị chiến tranh vùi dập tan hoang, và đời tàn ác bỏ quên, hất hủi Bảo trong cơn hấp hối tột cùng đau. Biệt nghiệp nầy há chẳng qua Bảo vay của Đời quá nhiều, mà Đời trả chẳng là bao!!? Thế rồi, Bảo bị ném ra đường giữa ngày 1 tháng 5 năm 1975. Bảo lấm lét len lén chôm được sự sống… mà lấp ló lây lất lê lết bên nghĩa trang Phú Thọ Hòa. Người sống và kẻ chết -không phân biệt đối xử- đều bị san bằng, khai quật như nhau. Người sống nằm ngủ dưới hố mồ kẻ chết, thây ma bất động bị kẻ đói móc lên, người ốm đói tìm kiếm lấy quần áo (và mừng húm nếu có vòng vàng!!!).

                    Có khác chăng ở chỗ là: Thương binh ấy còn có một mắt và trái tim rực lửa, luôn bị chao đảo ray rứt, dày vò, khi Bảo tận mắt nhìn ông già, phụ nữ, trẻ con, bị tập trung đi bóp phân người, chân đạp cứt, vai gánh phân tưới rau xanh trên nông trường, mong lợi tức tăng gia, nhờ phân bón đặc biệt thu hoạch mùa màng mà có cái ăn tươi tốt, để chúng mừng thắng lợi chào đón dâng Bác và Đảng. Ngậm ngùi nhìn lại thân phận người lính khi tàn chiến chinh, Bảo và bạn cùng trang lứa đau đớn chẳng khác chi nhau:
                    Tôi, người lính Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù
                    Năm 75, 29 tháng Tư
                    khi đoàn tàu chở đơn vị tôi
                    chuẩn bị rời Vũng Tàu hướng ra Đông Hải

                    Thương cha mẹ già, đàn em dại
                    tôi bước lên bờ ở lại quê hương
                    nhưng cha mẹ già chưa được gặp
                    cũng chưa thấy mặt đàn em

                    các anh, những người chiến thắng
                    súng dí sau lưng
                    đẩy tôi vào trại tập trung
                    rồi bằng những lời dối trá

                    trái tim vô tình tia nhìn thù hận
                    các anh cướp mất của tôi
                    những tháng năm đẹp nhất cuộc đời
                    (2*)
                    * * *

                    Bảo rất vui mừng khi biết tin mẹ con tôi trôi giạt về ở Hốc Môn, nghĩa là từ hốc mộ Phú Thọ Hoà nơi Bảo "tạm trú" đến nhà tôi cũng gần, đi xe đò chỉ mất khoảng hai mươi phút. Thỉnh thoảng Bảo có thể từ trên khu nghĩa trang xuống Thành Ông Năm thăm chúng tôi. Các con tôi rất qúy anh họ của chúng, bé Tuấn mừng rỡ ôm chầm lấy anh, vui vẻ nói:
                    - Anh có khỏe không?
                    - Nhìn anh, thì em biết rồi.
                    - Chân cẵng, ruột, và bao tử của anh, ra sao rùi?
                    - Một chân cụt nè. Một mắt đã đi chào bá tánh dưới lòng đất nè. Lũng ruột nè. Bao tử đau liên miên. Em còn muốn hỏi gì nữa?
                    - Thật khổ thân anh. Đó là cái đại nạn của anh và dân tộc mình á.
                    - Đời mà em.
                    Bé Dzũng ái ngại nhìn anh:
                    - Anh bỏ hút thuốc đi, là vừa!
                    - Sao vậy?
                    - Anh đã như vậy, có hại sức khỏe lắm.
                    - Em nói chuyện đến hay. Chỉ vài hơi thuốc lào, mà bệnh sao?
                    - Anh sẽ ho lao, giảm tuổi thọ nữa.
                    - Sống chết có số. Anh chẳng còn tin gì.
                    Bé Huy vít cổ anh, cười hì hì:
                    - Đau ốm đủ thứ như anh, phải uống sâm cao ly, mới kéo dài tuổi thọ à.
                    - Chuyện! Vậy chớ đứa con nít mới sanh, chẳng may nó ngoẽo, chắc tại nó ưa hút thuốc lào, và không uống sâm i,́ ha em?
                    - Anh nầy thiệt á.
                    Bé Hoàng bu vào lưng Bảo, bắt anh cõng:
                    - Nhà giàu họ uống sâm đầy ra đó. Anh Bảo.
                    - Vậy họ có thoát chết không nà?
                    - Anh thèm thuốc lào, nên nói tào lao vậy mà.
                    - À há! Bây chừ anh còn chi để thèm hơn là thèm hít. Anh mừng khi các em đã có ít hành trang: vào đời đắng cay, chua xót. Em cứ mạnh dạn tỏ bày. Có thể anh sẽ nghe lời khuyên hữu ích.
                    Bé Tuấn lại sà vô lòng anh. tay xoa xoa cái chân cụt:
                    - Anh phải nghe, không thì anh chết sớm là cái chắc!
                    - Anh đã trả nợ thân anh cho non sông rồi, thì còn gì nữa đâu em. Anh chả còn gì để luyến tiếc với đời mà sợ chết với chóc!

                    Nghe mà nghẹn đắng, xót xa, chua chát cõi lòng tôi. Thỉnh thoảng Bảo cũng như tôi, hai dì cháu có lên Sài Gòn gia nhập vào đám “Thương-Binh Du ca da cu bè” của các anh lính VNCH què cụt tổ chức lậu (của nhiều binh chủng & đơn vị cũ hợp thành). Họ đã bầu tôi: --
                    - Trong đám mù-chột nầy, thì chỉ có chị là có vẻ “dễ nhìn” hơn hết; mong chị làm vua cho đám “lu xu bu” kia nha. Chị Mười!

                    Các anh ơi! Các anh nào biết, tôi đã mang bệnh trầm-kha bất khả tri-luận, còn đau đớn gấp trăm lần phế binh nữa ấy, các anh à. Chúng tôi ca toàn những bản “nhạc vàng”, hay lúc đó "phe kia" gọi nhạc của miền Nam Việt Nam là nhạc “đồi trụy”, nhạc tù ca (khi không thấy bóng dáng bọn “công an áo vàng”). Thật tức cười, nhạc mà cũng có màu sắc: vàng, đỏ, xanh, nữa há? Thật ra mấy anh ca bè rất hay. Ca hay thì tiền càng nhiều, “bổng lộc” do dân nghèo thương mà giúp. Ông bà cô bác đi chợ khát khao nhạc thời trước, nhạc cũ… họ thường ghé lại coi chúng tôi trình diễn. Họ vui đùa có ngụ ý ám chỉ gọi chúng tôi là: “Thương phế Binh Ngũ Linh”, hoặc nhóm “Bè da cu du ca”.

                    Cái tên ấy do dân mến thương đặt ra, vậy mà nghe thật là chí lý! Bây giờ những thương binh ấy chỉ còn da bọc xương, trên răng dưới dái, thân thể là nơi tập họp những thứ tật nguyền: mù chột, cụt tay, cụt chân, lũng ruột, bụng còn băng đầy máu. Họ bị quăng ra khỏi y-viện, chỉ có trên răng rụng dưới teo tóp... thì, chả còn da với cu là gì! chả còn gì. Thật chẳng còn gì!

                    Lính chiến trận trở về (sau ngày mất nước) không tìm thấy gia đình, không thân nhân, mất tin tức không liên lạc, người ta tan tác trên mọi ngã đường. Lính lê lết chống gậy đi tìm nhau từ các vùng khỉ ho cò gáy, nơi thâm u cùng cốc: chỉ có muỗi, ruồi trâu, vắt, đĩa, hút máu người, và luôn truyền cho bệnh cấp tính sốt rét da vàng cao độ, ho lao, thổ tả, kiết lỵ triền miên. Cho đến lúc tàn hơi mà toi mạng cùi! Họ phải lê lết hành khất từ vùng kinh tế mới nơi chó ăn đá, gà ăn muối, bò lê bò la… rị mọ lặc lìa lặc lọi mò mò về tới thành phố.

                    Nào ngờ họ lại lâm vào cảnh màn trời chiếu đất, ăn xin ở ngoài đầu đường, ngủ ở xó chợ! Những thương binh ấy đã bỏ lại một bàn chân, một cánh tay, một hai con mắt trên vùng giao chiến hung tàn. Họ trở về dưới mái nhà xưa thì biếng nói, không cười, sống lặng lẽ âm thầm nức nở, đớn đau mà nghiến chặt cục sạn giữa hai hàm răng, suốt ngày họ lầm lì, đăm chiêu, suy tư trong dòng sông chảy xiết riêng mình từng cơn đau mệt lã, dày vò ân hận và phiền muộn khôn xiết.

                    Nhưng, có anh lính nào may mắn còn gia đình, thì các bà mẹ, bà chị, vợ con của họ vui mừng, hớn hở lăng xăng quanh thằng con trai tật nguyền cùng khắp. Bà mẹ mủi lòng mừng con trở về mà vui hơn bắt được ngọc ngà. Lính què cụt đui mù phải đùm túm nương tựa vai vợ con, với cha mẹ già, thương mến an ủi nhau và lây lất sống. Ngày trước họ đi lính, do chiến tranh tàn nhẫn gậm nhấm hết cơ thể. Nay thì người lính chột đi đạp xích lô. Người cụt bán bánh mì, bán vé số, người mù đi xin ăn. Họ vừa rao, vừa đánh đàn, thổi sáo, gỏ trống hát dạo ngâm nga bài thơ:
                    Tao cụt một chân, mất một tay
                    Nhưng còn một tay
                    Để viết thơ dùm cho thằng mù hai mắt
                    Nghe nói ở xứ người chúng mày "cày" như trâu
                    Nhưng không quên đồng đội
                    Chia đô-la cho chúng tao, như chia máu ngày nào...
                    Tao cũng sớt cho mấy thằng bạn: phế binh Việt Cộng!
                    Chúng cũng què đui sứt mẻ như nhau
                    Bởi Đảng của chúng bây giờ là lũ đầu trâu...
                    (3*)

                    Có những lần nhóm tôi đang hát nhạc tiền chiến, nhạc tù ca, thì thấy ba công an đi trờ tới, (công an có lệnh diệt tận gốc: “Trí, phú, địa, hào” mà)! Anh thương binh Mẫn còn một bàn tay thật và tay giả trong chiếc găng tay da, rất nhạy bén nhanh miệng anh liền chuyển tông qua bài hát tếu hài ngay. Mẫn vừa khua tay múa kiếm làm trò thật vui tai, vui mắt, ai nghe cũng nực cười:
                    - Bác Hồoo… cho em cây viết. Em vẽ con dao găm, em đâm thằng lính Mỹ. Con cóc trong hang, con cóc nhảy ra, con cóc nhảy ra, con cóc ngồi đó, con cóc ngồi đó, con cóc nhảy đi Thanh Niên Xung Phen. Em theo chủ nghĩa siêu Việt phồn vinh cuả Móc-Cu Ra Đớp ở Liên Xô. Hỡi..oi õi… đồng bầu! Hãy đi Thanh niên xung pheng. Tùng Tùng Tùng!!! Bảo vệ tổ quốc! Bèng béng bèng!!! Từng tứng tưng… tằng tắng tăng...
                    - Ủa! Cổ động viên nè! Hoổ…ong có ai dỗ tay cả hé?
                    Thương binh Bảo nhanh nhẫu chế-biến câu ca tiếng Việt liền tiếng Pháp, (vì hồi nhỏ đến lớn khôn, Bảo đã học ở trường dòng A’ Dran, nên Bảo nói tiếng Tây, lẫn sinh ngữ Anh lưu loát), nghe như gió thật.

                    I've just closed my eyes again
                    Climbed aboard the dream weaver train
                    Driver take away my worries of today
                    And leave tomorrow behind
                    Ooh dream weaver
                    I believe you can get me through the night
                    Ooh dream weaver
                    I believe we can reach the morning light
                    Fly me high through the starry skies
                    Maybe to an astral plane
                    Cross the highways of fantasy
                    Help me to forget today's pain …

                    Bảo còn kêu tên các ca sĩ nổi danh ở thập niên 70 ra “ca” có âm điệu và khảy đờn trống rùm beng… từng tứng tưng…, bùm búm bum... bèn béng beng…: - À Á a... Le moi sensibe = cái tôi tình cảm. Ám sát tinh thần = assasitnat moral. Đời! C’est la vie! Tình tinh tang! C’est la mour. Thầy chùa sans cheveux. Bà xơ sans cooc xê, end sans xi-níp!! Ha ha ha!!! - Johnny Halliday… O oh ho… Sylvie Vartant… É é é… Francoise Hardy. Vicky Leandros nổi tiếng L’amour c’est pour rien… từng tứng tưng… Oh! Mon Amour. Ối ối a… Poupée de cire poupée de son. Bùm búm bum… Adieu jolie Candy…. Là lá la… Aline. Christophe. tằng tắng tăng… La vie c’est une histoire d’amour… chát chát chát… tùng tùng tung… phèng phéng phèng…

                    Thiệt là tầm bậy tầm bạ, dấm dớ, ú ớ ngố ngáo, ngu ngơ dật dờ, vớ vẩn... hết sức ba xàm ba láp! Thế mà khán giả bình dân thích thú, khoái trá cười rõ to; nghe "rất đễu" để trả lời cho ba tên công an đang đứng ngẩn người lỏ mắt há mồm ra vì mê mẩn..., nụ cười bằng mười thang thuốc bổ thời nay, để chưởi vô mặt bọn cán ngố (tiếng Việt một chữ bẻ đôi còn chưa rành, huống gì nghe họ hát tiếng Anh tiếng Tây) ngu như con bò tót mà. Dân vổ tay rần rần… rầm rầm rầm… bụp bụp bụp! Có đám thanh niên choai choai dé dé cho hai ngón tay vô miệng huýt lên thật kêu. Họ hể hả bỏ tiền lẻ vô chiếc mũ vải. Cứ thế, chúng tôi cúi đầu lạy tạ, san sẻ, bù qua sớt lại cho nhau mà sống trong đậm đà tình nghĩa, thành thật mến thương hèn mọn. Tôi có bổn phận vừa “ca-bè” vừa cầm mũ vải đi xin tiền quý vị khách thập phương hảo tâm. Có người nhận ra mình:
                    - Oai Oái! Không ngờ bà ấy ngày xưa lừng danh là một hoa hậu, giàu sang và tri thức. Nay bà ta lê lết làm kẻ ăn mày, coi kìa!

                    Thực ra, bây giờ trong chế độ nầy, tôi đang chìa nón đưa tay ra lạy ông đi qua, lạy bà đi lại, ngỏ hầu xin tiền bố thí, thì có hơn gì ả ăn mày nào! So sánh phận hèn tôi ở xã hội nầy, có cái gì khiến tôi mủi lòng, se se từng cơn quặn thắt nghẽn đắng trong lồng ngực cuồng quay. Có cái gì đau đau, cay cay, xót xót, đắng nghét trên bờ mi tôi vụng dại? Sao ông Trời nỡ đi chơi đâu vắng, ông không cúi xuống nhìn đời chút xíu, sao tôi không lột xác, không biếng dạng méo mó ít nhiều cho mình đỡ xấu hổ ha?

                    Tôi và nhóm thương binh chế độ cũ bị Đời quên lãng vẫn âm thầm lặng lẽ, nhẫn nhịn âm thầm chịu nhục mà bò lê trên đường cần cù kiếm sống. Cho đến ngày 6 tháng 2 năm 1985, tôi đang làm cỏ ngoài ruộng, thì Bảo leo xe đò xuống Thành Ông Năm cho biết tin: tại chợ Bà Chiểu đã diễn ra trận đấu đá kinh hoàng giữa “công an và phế binh đỏ”, (phế binh đỏ, chứ không phải thương phế binh Việt Nam Cộng Hoà “du ca da cu bè”). Công an đã bắt đám đờn ca “phế binh đỏ”. (Vì “đỏ” là cờ máu Việt-cộng) mà họ chuyên hát toàn nhạc “vàng”. Do thời buổi nầy hát nhạc vàng mới ăn khách. Đỏ mà ca hát “nhạc vàng” tức là trắng trợn thành “Ngụy” rùi! Thành thật mà nói thì “nhóm đỏ” kia họ cũng có xí tài khảy đờn, ca hát giọng Bắc khi trầm ấm lúc véo von, tha thiết ngọt ngào; nghe cũng hay ra phết. Đồng bào đứng ngồi tám lớp vòng trong vòng ngoài, say mê thèm khát nghe “nhạc vàng”.

                    Công an thì như vòng siết của Kremlin, luôn vươn tỏa vòi bạch tuột ra, quấn lấy “nhóm phế binh đỏ” và rượt người dân ngu khu đen tay giơ cao cờ trắng chạy té khói. Họ có đủ quyền hành để thao túng, dân ai chậm chạp có chạy đi đâu vẫn không thoát. Ấy là tôi đang nói từ những thập niên 75- 85 í nha. Công an là ông trời con ưa tùy tiện bắt giam, khảo xét, lục soát bất kỳ nơi đâu họ muốn. Dính dáng tới họ, chỉ có nước đi tới đường cùng, chết treo trong cùm, hoặc mất tích mất tang thân thể.

                    Trong Điều 7 của Đạo Luật Rome đã định nghĩa: “Tội thủ tiêu mất tích Người” (Enforced Disappearance of Persons) như sau: Thủ tiêu mất tích người có nghĩa là: bắt giữ, giam giữ hay bắt cóc người ta với sự cho phép, sự hỗ trợ hoặc sự chấp thuận của một quốc gia, hoặc một tổ chức chính trị. Sau đó không nhìn nhận sự tước đoạt tự do của người ta, cũng không thông báo tin tức về số phận hoặc nơi giam giữ, với chủ tâm tước đi quyền được luật pháp bảo vệ của những người này trong một thời gian lâu dài. (Enforced disappearance of persons means the arrest, detention or abduction of persons by, or with the authorization, support or acquiescence of a State or a political organization, followed by a refusal to acknowledge that deprivation of freedom or to give information on the fate or whereabouts of those persons, with the intention of removing them from the protection of the law for a prolonged period of time.).

                    Thế là từ đó nhóm “Bè du ca da cu” của chúng tôi mất đất sống, tan hàng rã đám, biệt tích giang hồ! Khổ …khổ hết biết! Khi ấy nạn cướp bóc giựt dọc luôn xảy ra tại các khu thị tứ, các trạm xe bus. Người ta bị cướp trắng trợn, giật sạch, mất trắng tay chẳng còn gì. Ai có la làng, khóc lóc, có nhảy tưng tưng, thì cũng huề cả làng. Đôi khi công an đi qua đó cũng ghé lại, làm biên bản nguệch ngoạc. Người bị cướp đứng xớ rớ, công an điệu về bót cung khai lý lịch lấy lệ, rồi xù xì bỏ đi. Bù trớt (chính tôi đã từng bị mất sạch nhiều lần).

                    Đồng thời lúc nầy nạn thanh niên nam nữ ốm đói nghiện xì ke, chích ma túy công khai trên các con hẽm ở Bàn Cờ, bên khu Gò Vấp, Khánh Hội... ôi thôi không thể đếm hết. Có vài lần tình cờ đi qua khu nhà Phùng, tôi đã trông thấy nơi góc hẽm vào một sáng sớm: có bốn thanh niên đang dùng chung một ống chích. Tên con trai cầm cây kim tiêm thuốc xong, đưa cho một tên bạn đã ngồi bệt xuống đất, hắn lấy sợi dây lưng quần cột chặt cánh tay trái, và chụp nơi tay thằng đang cầm cây kim, tự nó lụi vào tay mình, máu từ mũi cây kim tuông ra thành một dòng dài trên cánh tay hắn, không có bông gòn và thuốc sát trùng sát triết chi. Một tên khác hình như thiếu thuốc, hay đến cơn ghiền dữ dội, đã nằm vật ra bên lề đường, hắn sùi bọt mép, tay chân co giật từng cơn vật vã. Tôi hoảng hồn mất vía, lo sợ tột cùng, vội vàng lủi đi thật nhanh.

                    Từ khi chộn rộn sau năm 1975 bỗng đâu lại sinh ra nhiều bọn xíu xíu, dé dé, choai choai, nho nhỏ… đi đứng le te, ỏng ẹo, giọng nói ồ ồ, râu ria lởm chởm, nhưng chúng lại mặc đồ đàn bà, mặc xú chiên giả nhồi độn ở ngực hai quả bóng nhựa ti tí. Chúng thoa son dồi phấn, kẽ lông mày, trông bọn nhỏ cũng xinh xắn ra phết. Bọn “bóng lại cái” nầy đa số là con nhà khá giả, thỉnh thoảng chúng tập trung ở Bình Triệu, chẳng hiểu sao chưng diện rất đẹp, ưa giả dạng “nữ nhi đào tặc”, để trốn không đi Thanh Niên Xung Phong, hoặc bị bắt đi Nghĩa Vụ Quân Sự.

                    Thế là nạn đồng tính luyến ái rần rần xảy ra, lan từ thành phố Sài Gòn về tận các miền quê. Con trai tôi ở trong ban văn nghệ cuả Huyện, mới đầu con trai tưởng bọn họ là con gái mặt hoa da phấn phè phỡn thật (khi có đoàn hát trên Sài Gòn về trong Huyện, Xã, thường có mấy “en Gay”) con cũng như ai thấy gái đẹp ngu sao không mê! xề lại, hai bên rù rì hủ hỉ ríu ra ríu rít chuyện trò vanh vách, thân mật da diết! Nhưng khi con trai bị mấy tển “bê-đê” cao lêu khêu đúng là “đĩ đực rựa”, tối đến khi tan văn nghệ, chúng cùng con ngủ chung phòng, (con lúc đó học vừa đi bán bánh bò, đi làm thuê dỡ nhà, dỡ tôn với chủ, đi xây nhà do chủ thầu mướn, con cũng có biệt tài đi đờn giỏi và hát rất hay cho ban văn nghệ Huyện, để kiếm sống). Thì nửa khuya đang say ngủ, con bị một tên đẹp nhất trong bọn cạy miệng nút lưỡi, mò cu tới tấp. Con trai hoãng sợ, la hét, tung mùng ôm quần áo chạy chạy chạy... có cờ. Nhưng, cũng thật thà mà nói có nhiều “ẻm” trông yểu điệu thục nữ, mảnh mai, duyên dáng, xinh đẹp và ca hát, múa đèn, vũ múa điệu Thái, điệu Lào rất dẽo. Giọng ca các “en” nức nở, trữ tình, nghe khá tuyệt!
                    * * *

                    Ở trên cõi đời ô trọc nầy, Bảo luôn bị những căn bệnh cũ hành hạ thân xác càng đau đớn và điêu đứng. Nay hoà bình về, dòng sông tình được thuyền đời trôi đi. Nhưng rồi cũng có khi thuyền bất ngờ bị sóng vùi dập, và lật úp thuyền! Bảo thật sự chới với điêu đứng khi bạn bè chiến đấu tri kỷ thân thuộc chỉ còn lác đác mấy người trên đầu ngón tay. Bảo không biết thổ lộ tâm sự cùng ai mong thông cảm, nên Bảo rất đau buồn! Có thêm cơn bệnh trầm kha ẩn dưới đôi lông mày khiến Bảo luôn nhíu lại... mà không có thuốc chữa.

                    Chuyện hồi xưa và ngày nay, Bảo mang trong trái tim cuồng nhiệt xót xa và thổn thức. Bảo biết đói khổ, đau đớn từng giờ, từng ngày. Nỗi đắng cay oan nghiệt, rền rĩ siết chặt giữa hai hàm răng khát khao nghiến lại. Sự đớn đau luôn cào xé dày vò tâm trí và thân thể Hoàng Ngọc Bảo, người lính trung thành với chính phủ Việt-Nam Cộng Hoà, đã không e dè đem thân xác mình làm bục kê, làm bàn đạp để người khác dẫm lên. Chiến sĩ ấy âm thầm lấy lưng đỡ đạn, cùng đồng đội quyết chí ở lại trên chiến tuyến đến giờ phút quê hương lâm chung, mà van lơn người đã ra đi, thống thiết van xin người bỏ nước ra đi tìm tự do:
                    Hãy gửi về cho chúng tao vũ khí
                    Thằng cụt tay sẽ chỉ cho thằng mù mắt bấm cò
                    Thằng còn chân sẽ cõng thằng què quặt
                    Trận chiến sau cùng này sẽ không có Dương Văn Minh
                    (3*)

                    Dù tật nguyền cùng khắp thân thể, nhưng mặt mày Bảo vẫn đẹp trai, ăn nói tao nhã duyên dáng, nhất là Bảo có tài kể chuyện đời lính “oai hùng, hùng hồn và mất hồn” đó đây rất hấp dẫn. Bảo kể chuyện tiếu lâm khá có duyên, khiến người nghe say sưa, thỉnh thoảng Bảo ha hả cười rất thoải mái, mà quên tiệt bụng co thắt từng cơn đau bao tử và đang cồn cào đói kha1 vẫn như thế. Ở gần bên tôi không còn người cháu thân thiết hiền lành vui vẻ và cùng nhau chia xẻ ngọt bùi! Tôi đã xa Bảo, Bảo về Phan Rang rồi, tôi lại càng nhớ đến cháu Bảo thân yêu vô cùng! Sau năm 1998 cuộc sống gia đình Bảo rất đạm bạc, bần hàn, nếu không nói là quá nghèo khổ nơi xứ chó ăn đá gà ăn muối. Bảo dựng tạm một căn chòi bé nhỏ lụp xụp ngay sát khu nghĩa địa tại Phan Rang, một góc nhà bên hướng phải đã kê lên trên mấy ngôi cổ mộ. Chung quanh nhà Bảo toàn là mồ, đúng là một bãi tha ma u ám đầy bóng tối và kinh dị. Ấy thế mà Bảo và vợ con họ không hề sợ ma. Có phải chăng từ khi đổi đời thì họ “sống” giữa “người chết”, coi bộ “âm ty địa tào” còn hiền lành hơn trăm lần sống trên trần thế?! Hay là bởi tự cái số kiếp oái uăm, bắt Bảo phải sống “tử thủ” với mồ mã ông bà cha cố người đã chết; kể từ khi Bảo lột khỏi thân thể bộ áo lính Dù, để đổi đời!!?

                    Bảo lui về quê vợ ở Phan Rang, sống ẩn dật (mãi về sau nầy khi gia đình tôi đi Mỹ, tôi có chuyển cho Bảo vài ngàn, nên Bảo đã mua một chiếc xe cúp, Bảo làm nghề “xe ôm” bằng một chân giả, một chân thật, cộng với một mắt thật trông chừng con mắt giả, để nhìn rõ đời không bị giả tạo thêm)!!! Năm 2005 Bảo lâm trọng bệnh, Bảo có em trai là Thịnh và vợ là Hạnh ở Mỹ liên tục chuyển tiền hậu hỉ về nhà, để một thằng em trai nữa tên Toàn đem Bảo đi ra đi vô Sài Gòn - Phan Rang không biết bao nhiêu lần.

                    Căn bệnh trầm kha từ ngày chinh chiến ấy đã gậm nhấm, đào xới, bào mòn, tướt đoạt đi của Bảo nhiều miếng thịt: trong phổi, trong tim, trong chân tay… bây giờ hoạn nạn bệnh tật đã đối mặt lây lan khắp thân thể Bảo, nó hoành hành ăn tươi nuốt sống Bảo mất rồi. Bảo bị mù cả hai mắt, không còn nhìn thấy Đời. Toàn thân và tay chân Bảo sưng phù, nhớt nhau nước nhờn chảy ra trên lưng Toàn (em trai là sĩ quan VNCH bị tù "cải tạo" bốn năm), Toàn thương anh tật nguyền, em không nở ra đi, mà em tình nguyện ở lại Việt Nam ngày ngày em vẫn cùi cụi cõng Bảo đi ra đi vô bệnh viện). Bảo “nằm lì” trên tấm lưng thằng em ruột, rầu rĩ đọc bài thơ:
                    Tao bị thương hai chân
                    Ngày "giải phóng miền Nam"
                    Vợ tao "ẳm" tao như một đứa trẻ sơ sanh...!
                    Ngậm ngùi rời "Quân-Y-Viện"
                    Trong lòng tao chết điếng,
                    . . . Vợ tao: như "thiên thần" từ trên trời rơi xuống...
                    Nhìn hai đứa con ngồi trong căn chòi gió cuốn, bụi đất đỏ mù bay!
                    Tao thương vợ tao yếu đuối chỉ có hai tay
                    Làm sao "ôm" nỗi bốn con người trong cơn gió lốc.
                    Cái hay là: Vợ tao dấu đi đâu tiếng khóc.
                    Còn an ủi cho tao, một thằng lính què!
                    Tao đóng hai cái ghế thấp, nhỏ bằng tre,
                    Làm "đôi chân" ngày ngày đi lại
                    Đời lính gian nan sá gì chuyện gió sương...
                    (Trang Y Hạ)

                    Bảo lặng lẽ âm thầm nghiến cục sạn giữa hai hàm răng mà không hề oán trách số phận quá tàn ác! Một ngày kia Bảo đã không thể chịu đựng cơn đau đớn hành hạ thể xác lẫn tinh thần hơn, Bảo từ trần vào ngày 19 tháng 8 năm 2005. Trước khi lìa đời, trong cơn đớn đau kinh hoàng chới với mê sãng, Bảo vẫn luôn miệng nhắc tới tên những vị chỉ huy, nhắc tới vị tướng Trần Quốc Lịch mà Bảo tôn kính, miệng Bảo kêu tên những đồng bạn, họ vì tổ quốc và quê hương đã ra đi khỏi tầm mắt của Bảo.

                    Nhưng họ không ra khỏi lòng Bảo một giây phút nào; dù đôi mắt Bảo mù lòa vĩnh viễn khép lại từ lâu, và lòng Bảo đã đóng chặt cửa. Nhất là Bảo chẳng khi nào có ý ngoảnh mặt phản bội quê hương, để đi ra khỏi lãnh thổ Việt Nam có hình chữ S dấu yêu. Quê hương đã ôm trọn Hoàng Ngọc Bảo vào lòng. Đất mẹ không từ bỏ hất hủi Bảo bao giờ (khi mộng ước của Hoàng Ngọc Bảo đã không thành!) như Nguyễn Trường Tộ đã nói:
                    “Nhất thất túc thành thiên cổ hận.
                    Tái hồi đầu thị bách niên thân” .
                    (Một bước lỡ để nghìn năm mang hận.
                    Ngoảnh đầu trông lại đã trăm năm)
                    (*)
                    Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
                    Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh
                    (**) (*)

                    Bảo dư biết ý đó nghĩa là:
                    (*) Từ xưa đến nay hỏi rằng ai không chết? Hãy để lòng son chiếu sử xanh. Đây là hai câu thơ tiếng Hán của một tướng lãnh Trung Hoa, tên Văn Thiên Tường.
                    (**) Hai câu thơ sau của Nguyễn Công Trứ. Hoàng Ngọc Bảo cũng biết ý tác giả là: “người ta chưa chắc ai hơn ai, mà chỉ biết ai anh hùng sau khi thời thế đã xảy ra”.

                    Giống như bài thơ “Chiến Mã Ca” của anh tù học tập “cải tạo” Lê Xuân Nho trầm uất ai oán được anh tù “cải tạo” Trần Lê Việt phổ thành nhạc rất tuyệt vời, (vì có mấy lần Bảo đã về Hốc Môn ở lại nhà tôi sáu tháng). Bảo nghe nhóm “Tù ca Xuân Lộc Z 30 A” bạn chúng tôi, khi ra tù mỗi tháng họ đều hẹn hò họp bạn tại nhà tôi, để đàn ca. Bản nhạc nầy Bảo rất thích và đã thuộc lòng. Trước lúc vĩnh viễn từ bỏ cuộc đời đành buông thỏng hai tay, bất chấp những dày vò trong tâm tư, cùng những cơn đau thể xác triền miên hành hạ, Bảo chấp nhận số phận mình đã “thua cuộc chơi” (chứ chẳng phải mình là người lính “thua cuộc chiến”). Bảo đã não nuột cầm cây đàn mà ca rất hay:
                    Vàng phai trên thanh gươm.
                    Người mái tóc điểm sương.
                    Ngựa tung vó trong mưa buồn trên quê hương sầu thương.
                    Đường mây vỡ tan thành mộng cô đơn còn mơ sa trường.
                    Bóng xô nghiêng hoàng hôn.
                    Mài gươm trong cô đơn người nuốt những hờn căm.
                    Ngựa nuôi móng non thay bờm trên quê hương cuồng phong.
                    Đường xa dẫu xa muôn trùng trong đêm nay
                    Ngựa phi sa trường bóng dõi bóng quê hương.
                    Chiến mã tiến đến sát dòng sông
                    đêm quê hương mênh mông sao chưa hừng đông?
                    Chiến mã rất khát nước trong trên quê hương tang thương.
                    Ai qua trường giang !!! ??? (4*)
                    *

                    (1*) TP
                    (2*) Phạm Đức Nhì
                    (3*) Nguyễn Cung Thương
                    (4*) Trần Lê Việt & Lê Xuân Nho...
                    ***

                    Tình HOÀI HƯƠNG

                    (dì HH tưởng nhớ cháu Bảo:
                    19 tháng 8 từ giã cuộc đời…)
                    Last edited by Tinh Hoai Huong; 08-16-2017, 11:35 PM.
                    Bút trần nào tả được lưu luyến!
                    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                    Tình Hoài Hương

                    Comment


                    • Anh Tài Nghĩa Dũng: MAI THÚC LOAN

                      Từ khi Việt Nam rơi vào ngày “mất nước” 30 tháng Tư 1975, thì hầu như tất cả trường, lớp, chẳng có giờ học về môn: Công Dân Giáo Dục & Sử Ký & lịch sử Việt Nam nữa (1975 – 1993…)
                      Hôm nay, tôi xin mạn phép cùng quý vị độc giả… kể những chiến tích oai hùng, những kỳ công anh dũng, và quật cường của tổ tiên ông cha của chúng ta. Họ đã dày công xây dựng, giữ gìn non sông gấm vóc Việt Nam hưng thịnh trường tồn đến bây giờ.

                      * Tiếp theo chuyện hai bà Trưng Trắc Trưng Nhị - chuyện bà Triệu Thị Chinh - Đức HƯNG ĐẠO Vương TRẦN QUỐC TUẤN - Danh Nhân Kiệt Xuất: NGUYỄN TRÃI đã ghi.
                      Nay tôi xin kể hầu tiếp quý vị về - Anh Tài Nghĩa Dũng: MAI THÚC LOAN -
                      *
                      {THH xin trân trọng cám ơn giảng sư Nguyễn Văn Trung … đã dạy tôi học môn Sử, (Địa) VIỆT NAM.
                      * THH biên soạn bài viết theo lịch sử Việt Nam, từ:
                      * ít sách trong Bộ Giáo Dục V N C H
                      * Việt Nam Sử Lược (Trần Trọng Kim).
                      * Nam Hải Dị Nhân (Phan Kế Bính).
                      * Đại Cương Lịch sử Việt Nam (Nguyễn Khắc Thuần).
                      * Notion d’ Histoire d’ Annam, par Maybon et Ruissier.
                      * Abrégé de l’ Histoire d’ Annam, par Shreiner.
                      * ít nghiên cứu từ Wikipedia}
                      Tình Hoài Hương
                      ***

                      Anh Tài Nghĩa Dũng: MAI THÚC LOAN



                      Tương truyền thì nguyên gốc bà mẹ của ông Mai Thúc Loan, rằng: bà sinh sống tại Thạch hà, Hà Tĩnh. Bà mang thai con (nhưng không có chồng), nên bà di dời gia đình đi sống ở vùng Nam Đàn, Nghệ An. Bà đã sinh ra ông Mai Thúc Loan. (Không ghi ngày sinh. Chỉ có ghi ngày tử: năm 772).

                      Theo (Wikipedia) thì Mai Thúc Loan sinh tại làng Hương Lãm, Huyện Nam Đường. Nam Đàn. Tỉnh Nghệ An. (1) & theo truyền thuyết: ông Mai Thúc Loan sinh tại thôn Ngọc Trừng, Hoan Châu. Nam Đàn, tỉnh Nghệ An (2). Nhưng theo “Việt Nam Sử Lược” của Trần Trọng Kim quyển 1, trang 64, thì Mai Thúc Loan là người huyện Thiên Lộc, (Can Lộc) Tỉnh Hà Tĩnh … {(1), (2), (3) "mỗi nơi một ý thì... biết đâu mà… mò”, !!!}

                      Mẹ con bà nhà nghèo ở gần biển, làm nghề muối, con trai lên rừng mót củi, chăn trâu. Thuở nhỏ khi ông mới mười tuổi, thì mẹ mất sớm, ông lam lũ làm thuê mướn khá vất vả, khổ sở, nhưng ông vẫn không hề quản ngại. Ít lâu sau ông được dưỡng phụ Đinh Thế nhận nuôi. Dù mặt mũi ông đen sì, nhưng vóc dáng to cao, rất khoẻ mạnh. Đặc biệt tính tình đôn hậu, hiền lành, ông chuyên cần, chăm chỉ, học hành khá giỏi, lại có ý chí cao. Sau khi trưởng thành, ông được dưỡng phụ gã con gái cưng là Ngọc Tô tính tình đoan trang, dịu hiền và đảm đang, vì nàng Ngọc Tô có:
                      Cổ tay em trắng như ngà
                      Con mắt em liếc như là hoa cau
                      Nụ cười chúm chím hoa ngâu
                      Cái khăn đội đầu như thể hoa sen
                      (ca dao)

                      Tuy "con mắt em liếc"... và có "nụ cười chúm chím"... duyên ơi là duyên như thế, nhưng quả thật nàng đoan trang, nết na và thuỳ mị! Nhờ vợ có tài tháo vát đảm đang trong gia đình, chăm chỉ làm ăn, vã chăng bà là con nhà gia giáo, biết được tâm ý chồng muốn làm những việc hữu ích cho giang sơn, giúp dân bớt lầm than điêu đứng:
                      Con quốc kêu khắc khoải mùa hè
                      Làm thân con gái phải nghe lời chồng
                      Sách có chữ rằng: Phu xướng phụ tuỳ
                      Làm thân con gái lấy chồng xuất gia...
                      (ca dao)
                      Khi gặp thời vận tốt bà hăng hái động viên khuyến khích chồng nên tuỳ cơ ứng biến.
                      - Tháng Tư năm 713, ông Mai Thúc Loan, và phu phen vất vả nhọc nhằn băng rừng vượt dốc để gánh quả, vải, thóc lúa v.v… vì họ phải lo đem đi nộp cho quân Đường (thời thịnh trị của Huyền Tông Đường Minh Hoàng). Nhưng quân tướng bọn nhà Đường chúng quá ác ôn, dã man, côn đồ, chúng luôn hống hách đánh đập dân ta không hề thương xót.

                      Thuở ấy bọn quan quân nhà Đường lại bạo ngược, tàn ác, bắt dân An Nam (Việt Nam) nộp siêu cao thuế nặng; khiến dân chúng điêu đứng, khốn khổ điêu linh trăm bề, vẫn không dám ca thán. Thế mà dân ta vẫn không có miếng ăn, đói khát và nhục nhằn triền miên, áo quần họ tả tơi rách rưới như xơ mướp... Nhục nhã xấu hổ và lầm than trăm bề thân trâu ngựa! Thời đó đã có bài hát chầu văn trong dân gian:
                      Nhớ khi nội thuộc Đường triều
                      Giang sơn cố quốc nhiều điều ghê gai
                      Sâu quả vải vì ai vạch lá
                      Ngựa hồng trần kể đã héo hon
                      .

                      Ông Mai Thúc Loan luôn luôn sống trong nỗi uẩn ức muộn phiền, trong lòng ông canh cánh mối lo âu dày vò sâu lắng, vì con cờ thế cuộc là nỗi ám ảnh ray rứt trong tim, khiến ông bối rối và trăn trở khôn nguôi. Bất bình vì bọn Tàu độc ác tham tàn, ông Mai Thúc Loan thường kết thân với các bậc anh tài nghĩa dũng trong nước, kết tâm giao với các bạn chung chí hướng. Người người yêu thương nhau trong tình huynh đệ sắt son, chung chí hướng nghĩa đồng bào tương thân tương trợ nhau như tri ngộ tri kỷ.

                      Mọi người quan, tướng, dân chúng, các phường săn và phu phen… đều đồng tâm hợp lực (có sự yểm trợ của ngoại bang Chân Lạp, Cham Pa, & Lâm Ấp, Malaysia). Họ đã giúp ông thành công trong việc chiêu mộ binh sĩ lên tới vài ba chục vạn người tại các châu: Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hoá... cộng chung tất cả có 32 châu. Thế lực càng lúc càng mạnh & vững vàng hơn, ngày ngày quân dân lo làm vườn làm ruộng, sau giờ lao động chân tay, họ chuyên cần hăng say ráo riết rèn luyện võ nghệ tại núi Rú Rậm, là vùng đất hiểm trở gần sông Lam. Họ một lòng nuôi dưỡng mối phục hưng, quân dân đóng trại ở Vệ Sơn, xây thành đắp luỹ đài kiên cố dài hơn ngàn mét dọc bờ sông Lam. Nơi đây là chỗ tích lũy vũ khí, lương thực, và nơi huấn luyện quân sự an toàn trong việc chỉ huy của hai đạo quân: Thủy-quân và Bộ-binh từ quanh vùng: Vệ Sơn, Biểu Sơn, Ngọc Đoái Sơn, Liêu Sơn.

                      Một ngày kia họ đồng tâm hiệp trí, quyết chí đứng lên mưu cầu việc đánh đuổi bọn nhà Đường ra khỏi đất nước. Họ đã nổ ra vụ khởi nghĩa kháng chiến quyết liệt, ấy là lần đầu tiên xuất phát từ Rú Đụn:
                      Anh em cốt nhục đồng bào
                      Kẻ sau người trước phải hầu cho vui
                      Lọ là ăn thịt ăn xôi
                      Qúy hồ ở nết tới lui bằng lòng
                      (ca dao)

                      - Năm Giáp Dần (714), đoàn quân Mai Thúc Loan thừa thắng xông lên, sau trận ấy ông Mai Thúc Loan lên ngôi vua, lấy hiệu là Mai Hắc Đế. Vua, quan, và nghĩa quân đi đánh quân nhà Đường đang đóng tại thành Tống Binh (Hà Nội bây giờ). Bọn giặc Tàu và chủ tướng Quang Sở Khách không chống cự nỗi, phải bỏ thành Tổng Binh co giò rút cổ chạy thục mạng về nước Tàu. Quân dân ta chiến thắng vẻ vang, lúc bấy giờ :
                      Ngang lưng thì thắt bao vàng
                      Một tay thì cắp hỏa mai
                      Một tay cắp giáo quan sai xuống thuyền
                      Thùng thùng trống đánh ngũ liên
                      (ca dao).
                      ***
                      Năm Khai Nguyên I đời Đường, vua Huyền Tông của Trung Hoa bèn sai Dương Tư Húc, (còn có tên là Dương Tư Miễn) & Dương Sở Khách đem một đạo quân đông gấp mười lần quân ta, chúng theo đường biển đi trở lại xâm lăng nước ta. Tại thành Tống Binh, nhiều phen từ sông Hồng tới sông Lam hai bên đánh nhau ác liệt. Bên Tàu ỷ thế mạnh hiếp người, chúng coi mạng sống con người như rơm như rác, hết lớp nầy gục ngã xuống, thì lớp người khác xông lên. Cuối cùng Mai Hắc Đế không thể đương đầu với chiến dịch biển người của Tàu, (lấy thịt đè người). Phe ta đành thua trận, đàn quân tan rã, thành Vạn An mất vào tay giặc. Còn lại số ít quan, tướng, vua, và binh sĩ phải rút về vào rừng sâu, quyết nuôi ý chí phục thù diệt bọn xâm lăng.

                      Thuở ấy quân sĩ ta cầm cung, kiếm, gươm, dao, cờ lịnh để đánh giặc, vũ khí mộc mạc thô sơ, khiêm tốn... và không dồi dào lương thực như bây giờ, nhưng họ không hèn nhác, mà anh dũng chiến đấu. Một thời gian khá dài... do eo hẹp thiếu thốn thực phẩm, thuốc men, và cuộc sống lầm than lao tâm lao lực khổ cực trăm bề, không bao lâu vua Mai Hắc Đế bị đau nặng, và sau đó ông mất vào năm 772. Tại đền thờ xã Diên Vân, huyện Nam Đàn có bài thơ ghi công đức của vua Mai Hắc Đế:
                      Hùng cứ Châu Hoan đất một vùng
                      Vạn An thành lũy khói hương xông
                      Bốn phương Mai Đế lừng uy đức
                      Trăm trận Lý Đường phục võ công

                      Lam Thủy trăng in tăm ngạc lặn
                      Hung Sơn gió lặng, khói lang không
                      Đường đi cống vải từ đây dứt
                      Dân nước đời đời hưởng phước chung


                      Khi xưng vua, ông Mai Hắc Đế rất có công cho xây thành đắp luỹ, lập kinh đô tại Vạn An. Sau mười năm dựng nước và giữ nước, ông đã đem đến cho toàn dân sự an bình, độc lập, có một thời hưng thịnh ấm êm, sung túc.
                      ***

                      Ngày xưa quân sĩ cầm gươm, dáo, búa, rìu, quần áo đơn sơ, chân trần chỉ chạy bộ… đi diệt quân thù. Ngày nay, ước chi toàn dân Việt Nam đều đồng lòng hiệp lực cầm súng dài, súng ngắn, lựu đạn, bom… leo lên xe hơi, xe tăng, máy bay chiến đấu, phi cơ phản lực… văn minh tiến bộ và tinh vi; chúng ta sẽ hiên ngang oai dũng đứng lên đánh đuổi bọn Tàu chệt có mộng bá chủ toàn cầu, chuyên đi xâm lăng; cướp đất giành biển Đông nói chung, và thôn tính đất nước Việt Nam nói riêng.

                      Phải chi giờ đây chúng co giò, cong lưng, cúi đầu, te cò cút ra khỏi bờ cõi Việt Nam thân yêu, để đất Việt hoàn toàn độc lập, thanh bình, và yên vui như thuở xưa, khi “Việt Nam chưa bị mất nước vào tay giặc”… thì tuyệt vời biết bao!: (Như anh tài nghĩa dũng Mai Thúc Loan và toàn quân sĩ đã oanh liệt cầm cung, tên, dáo, mác, họ thô sơ… quyết chống ngoại xâm quan quân nhà Đường bạo ngược, tàn ác thời bấy giờ).

                      Thì ngày nay bắt chước tiền nhân, chúng ta buộc chúng phải:
                      Trả lại đây núi non xa…
                      VIỆT NAM vang bóng sử ca nghìn đời.
                      Từ ngày “người lạ” đổi thời.
                      HOÀNG SA độn thổ rã rời quắt quay.

                      Bên ngoài thế giới có hay?
                      NAM QUAN ẢI mất; đọa đày lắm thay!
                      Xế chiều tuổi đã vàng bay...
                      Núi sông ngậm đắng nuốt cay ai đòi?!

                      Ngàn Thu nỗi hận đầy vơi.
                      Ước mơ sông núi cuối đời về TA.
                      Đồng bào hỡi! Khắp gần xa.
                      Đứng lên giành lại sơn hà VIỆT NAM
                      .
                      (*).

                      Vô cùng khát khao ước muốn quê hương mình thực sự có độc lập, tự do, thanh bình và vinh sang; để người người hân hoan thoải mái, vui vẻ nhìn nhau nở nụ cười rạng rỡ đoàn viên hạnh ngộ; không còn cảnh chua xót đắng cay bẽ bàng:
                      Nhìn nhau lệ ứa thấm bâu
                      Nỗi thương chưa dứt nỗi buồn lại vương
                      Nhiễu điều phủ lấy giá gương
                      Người trong một nước phải thương nhau cùng.
                      (ca dao).

                      Dường như ông Huỳnh Thúc Kháng sau thời loạn, cũng muốn nhắn nhủ cùng hậu thế bài thơ:
                      Non sông ấy còn chờ ta thêu dệt
                      Kìa tụ tán chẳng qua là tiểu biệt
                      Ngựa Tái Ông hoạ phúc biết về đâu!
                      Một mai kia con tạo khéo cơ cầu
                      Thảy bốn bể cũng trong bầu trời đất cả
                      Ư bách niên trung tu hữu ngã
                      Dẫu đến lúc núi sụp, biển dời, trời nghiêng đất ngã
                      Tấm lòng vàng tạc đá vẫn chưa mòn
                      Trăng khuya khuyết đó lại tròn.

                      ***

                      (*) Thơ Tình Hoài Hương.

                      Tình Hoài Hương
                      Last edited by Tinh Hoai Huong; 11-30-2017, 11:07 PM.
                      Bút trần nào tả được lưu luyến!
                      Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                      Tình Hoài Hương

                      Comment


                      • Đêm NOEL và Những Phím Loan



                        Đêm NOEL và Những Phím Loan


                        Đêm Noel về thật sâu lắng, sương muối hạt to to, mòng mọng tròn tròn lung linh là đà rơi đầy trên thành phố Đà Lạt trầm lặng nên thơ, thi vị và mơ mộng mà huyễn hoặc. Từng bè mây trắng phiêu lãng thấp thoáng sau những vũng sương mù tan loãng bay bay về cuối rừng, mây cuộn thành từng lọn trắng bồng bềnh nhấp nhô lờ lững trôi trên không trung nhợt nhạt. Gió lồng lộng lũ lượt thổi qua vườn thông sau đồi nhà ba má tôi, nhạc thông reo vi vu nghe lao xao, rì rào và bất diệt. Mùi thơm muôn hoa trong vườn quyện lẫn mùi nhựa thông thoang thoảng đưa vào phòng, bất giác lòng tôi se lại qua khe rèm hở giữa hai cánh cửa chớp. Bầu trời tỏa lạnh cùng khắp mạch núi rừng hoang dại, cái lạnh buốt giá se se xoáy vô thịt da, ăn sâu vào lòng người, nhưng đầy thi vị và hữu tình biết bao!

                        Sau khi các bạn đã đi rồi, tôi tỉnh ngủ nhưng vẫn leo lên giường nằm đắp mền kín cổ, nhìn mấy con thạch sùng cắn đuôi nhau chạy quanh ánh đèn néon. Lòng cảm thấy trống trải, ưu phiền, bâng khuâng vô ngần, chen lẫn nỗi buồn chán tiếc nhớ vẩn vơ, nghẹn ngào muốn ứa lệ. Tôi hồi tưởng không biết bao nhiêu buồn vui xếp lớp lăn tăn, và nhịp tim dập dồn đập mạnh, cuồng quay trong những phím loan. Tôi không thể hiểu tôi cần gì, muốn gì!? Bây giờ… Có thể người ta đang tưng bừng rộn rã đón mừng đêm Noel, đang hoà mình vào làn sóng người lượn trên phố như trẫy hội. Chứ chả ai ngu dại trầm mình vào nỗi cô quạnh như tôi. Tôi hiểu rằng: Từng nầy cảm xúc, buồn phiền, tủi hờn, có thể quật ngã một con người khỏe mạnh, vui tươi nhanh chóng như vậy!

                        Ừ nhỉ! Lẽ ra mình không nên “ác” với Phú trước mặt các bạn. Không nên diễu cợt tình cảm với Nam đến thế! Để làm gì? Tất cả những thứ đó chỉ là đùa trò trẻ con và lố bịch. Vì những tha thiết mặn nồng yêu thương chân thật, tôi có thể tìm thấy ở Phú (nếu không phải là người xưa, hay là ai khác). Thế nhưng, tại sao tôi lại chối từ Phú? Sao tôi nỡ lòng quay lưng ngoảnh mặt, “tự dày vò và làm khổ nhau” đến vậy không biết?! Tại sao? Hay chả còn bao lâu nữa, tôi sẽ lạnh lùng quay mặt về hướng khác, vứt bỏ sau lưng quãng đời dài thân thiết nhất? Dù những chuyện đó sâu thẳm như thung lũng tình yêu, hấp dẫn đầy ắp như chân trời hứa hẹn một tương lai tươi sáng đang bừng tỉnh?

                        Bỗng chú kiến lửa cắn vào cổ tôi nhức nhối đau nhói. Tôi nhăn mặt xuýt xoa, vụt ngồi dậy. Tung mền ra, tôi quay quắt chà xát vào chỗ sưng vù và đau nhiều lần. Sợi dây chuyền vướng vít vào ngón tay đã bị đứt lìa ra hai đoạn. Sợi dây chuyền nầy vào dịp Noel năm xưa cố nhân trao tặng, anh ta đã ưu ái đeo vào cổ tôi, ân cần nói những lời âu yếm nồng nhiệt yêu thương xiết đỗi. Kỷ vật đó suốt tháng năm tôi mang trong cổ, dù thời gian đã trải qua bao giông tố, ấy thế mà tôi vẫn không rời. Sợi dây chuyền vàng có chữ H, là quà tặng đính ước của hôn phu đã nói với tôi điều gì!? Trước mắt tôi là những đợt sóng ngầm lạnh lùng vùi dập, làm tan biến hình ảnh người yêu, nó đã mất hút tầm nhìn vào vùng kỷ niệm tháng ngày qua.

                        Nay, dù đã xa rồi nhưng chẳng hiểu sao bừng sống lại, khiến tim tôi đau thắt và sợ hãi kinh khủng. Tôi ngẩn người cầm hai đoạn dây chuyền đưa ra ánh đèn xem xét, lòng cảm thấy tiếc ngẩn tiếc ngơ. Dường như tôi vừa đánh mất một cái gì quý giá nhất đời: mất một cánh tay, một bàn chân, một nhịp thở lỗi nhịp, một mãnh tim vỡ, một chéo mộng quan hoài khiến vết thương lòng thêm héo hắt hơn. Bởi vì chuyện chia xa nầy rất phi lý là: do chính tôi đoạn tuyệt mối tình nên thơ êm đẹp rất trong sáng, đứng đắn đàng hoàng; cả hai người đối với nhau chẳng hề có lỗi lầm nho nhỏ nào (nhưng chỉ vì anh ta ưa có thói buông thả tình cảm lả lơi đùa cợt tíu tít với mấy cô! Do lỗi tại tôi quá ghen, tức bực, nên tự ý giã biệt, mà ra nông nỗi)! Tôi đã muốn như thế, thì lẽ ra tôi đừng khêu to đống tro tàn bên lò sưỡi, đừng đốt thêm ngọn bạch lạp nơi góc phòng xưa.

                        Bản tính muôn thuở của tôi vốn dĩ không thích thay đổi, tôi rất mến yêu kỷ niệm, thủy chung. Dư vị quá khứ đắng cay đọng trên lệ nến nầy: Khung ảnh gỗ xinh xinh lồng tấm ảnh anh ta ngày ấy, nay còn trống chỗ vẫn ở trên mặt bàn lạnh từ bao năm, kỷ vật đã yên ổn an vui trong vị trí tôi đặt để: Lọ hoa màu huyết dụ còn cánh nhung hồng đơn lẽ héo úa gục đầu. Bàn viết, ghế dựa, sách vở, bút viết, tạp chí, giấy trắng với bình mực tím vơi cạn. Những phong thư bạn bốn phương nằm im trong hộp đựng. Tủ quần áo, giường nệm độc thân y nguyên chỗ cũ. Chúng lẵng lặng nhìn chân dung tôi có nét ủ dột thẩn thờ đã treo trên bức tường vàng lạnh lẽo. Tôi tin rằng mình không sai lầm khi con búp bê biết cười nói đặt trên giá sách do anh Phong gởi từ Mỹ về. Cạnh ô cửa là chú mèo lông xù của Thắng. Bên đàn gà mẹ gà con lít chít của Đan. Phía dưới là chú nai tơ xinh xắn của Phú ngơ ngác nhìn tôi buồn rầu đau đớn. Cạnh đó là gấu đen của Nam bừng giận lúc tôi chán chê cuộc đời. Mấy cành hoa giấy đỏ của Yến Nga cúi đầu rơi lệ khi tôi khóc. Còn đây, gần khung cửa sổ là những kỷ vật của “người xưa”.

                        Những món quà vô tri vô giác nhưng thiết tha trìu mến vô ngần: Chúng từng theo gót chân tôi phong trần đi đó đây suốt quãng đời dài, lẵng lặng đồng cảm cùng tôi vui buồn thương giận, yêu và đau khổ, mà không thốt nên lời chăng!? Sáng, trưa, khuya, chiều, sớm, tối; “chúng” lặng câm chia sẻ nỗi niềm. Tôi yêu chúng, vì chúng đã tận hiến cho tôi bao kỷ niệm đắm say yêu kiều dịu ngọt lẫn vò xé nỗi đớn đau tận cùng. Chúng trọn vẹn tận hiến cho tôi một lần duy nhất trong cuộc đời vô tri, rồi lặng lẽ xếp mình vào niềm vui kỷ vật. Chúng trân trân nhìn tôi đắm chìm trong cơn mê, như muốn nhắn nhủ tôi điều gì!? Gợi lên lòng mình những bài học xót xa đã bị vùi quên vào dĩ vãng lăn lăn sóng gợn. Chúng nhìn tôi như thầm trách bao điều không thể nói được. Vì thế, chúng lạnh lùng câm nín giận dỗi giương đôi mắt nai tơ chối từ thân thiện.

                        Cùng với sự giận dữ vô cớ bừng bừng dâng cao, phản ứng tuy vô tình nhưng chớp nhoáng, nhanh hơn nhịp đập tim co giật trong lồng ngực cuồng quay, tôi nhảy phóc xuống giường, chạy đến mở cửa sổ, mạnh tay quăng hai khúc dây chuyền lủng lẳng chữ H vào đêm tối, xa thật xa khu vườn thông rợp bóng đêm. Gió lạnh ùa vào phòng tê buốt, khiến toàn thân tôi co ro, cúm rúm, mặt mày dúm dó, tái xanh, tay chân nổi ốc trâu sần sùi, hai hàm răng lập cập va vào nhau lộp cộp. Tôi bàng hoàng, xúc động, run rẩy ngẩn ngơ tựa lưng vào tường, đăm đăm nhìn giá sách mập mờ đong đưa kỷ niệm vàng son một thuở. Tại sao thế nhỉ?! Nhất cử nhất động hôm nay, là bước lại những bước chân quá thuộc lối trên nẽo đường mòn hôm qua. Ở mỗi lối ngoặt trong cơn lốc đều hiện rõ từng nét mặt thân thiết, ân cần mời gọi, nhớ nhung, mơ hồ, và tuyệt vọng!? Cho dù sóng thần có cuốn phăng đi chân dung người tình và gió bão uà về xua mây mù che khuất nẽo tương lai. Thì cái thế trong tôi vẫn không nao núng! Kỷ niệm xa xưa về cuốn phim tình ẩn hiện chập chờn trên sóng nhấp nhô, bừng sống trong lòng tôi dù trong khoảnh khắc, nhưng rõ đến nỗi tôi nhìn trân trân vào bóng tối, mà hình dung bước tình xưa rón rén bên hiên nhà, có tiếng thì thầm rất khẽ lời tỏ tình vụng dại giữa đêm đông!

                        Bầy dế quay cuồng bay lượn reo hoan ca hát trong đêm muôn trùng, rồi bu quanh trên những ngọn đèn đường vàng vọt trước cổng nhà, vòng bay mỗi lúc một nhanh, khi chúng bay toả rộng ra, khi thu nhỏ lại, rồi hình như chóng mặt, bất thần chúng rơi phịch xuống đất. Trên lầu ngay chỗ tôi đứng, một con cánh cam có lớp vỏ cứng, bóng láng, ánh lên màu biếc xanh, trông rất đẹp, nó xòe đôi cánh cứng, bên trong lộ ra hai cánh màu nâu mỏng te, có nhiều sợi gân nổi trên lớp cánh thưa mềm mại như tấm voan xinh xinh. Nó khéo léo uyển chuyển khép dần bốn cánh, coi thật gọn ơ. Nó lại bay vù vù và bỗng dưng đập đầu vào ô cửa kính kêu cái cộp. Tôi mở cửa sổ ra, len lén thò tay nhón bắt con cánh cam, cúi xuống nâng niu trong hai bàn tay khẽ khàng bụm lại. Con cánh cam thừa lúc tôi sơ hở không bụm chặt tay, nó vuột ra khỏi lòng bàn tay tôi, bay đi mất dạng.

                        - Ngân Thụy! Làm gì mà ngẩn ngơ ra vậy? Em?

                        Giật bắn người, tôi bàng hoàng nhìn xuống đường, ngơ ngác ngó kỹ, tìm kiếm trong bóng đêm khi ngờ ngợ nghe Cảnh gọi. Tôi cứ tưởng người đứng thấp thoáng dưới cánh cổng cao dày kia, là kẻ trộm định leo tường vô nhà mà run run. Những giọt sao đêm Noel qua ô cửa lấp lánh nghiêng mình vẫy gọi tôi vui mừng hân hoan bước xuống lầu. Tôi đi dọc theo khu vườn hoa đã thấm đẵm sương đêm, đôi dép da nghiến lạo xạo trên lớp sỏi trắng, con đường rộng dẫn ra cánh cổng sắt rất to dày và cao lút đầu người. Tôi tới gần cổng ngoài, lách cách mở ổ khoá, tôi do dự có chút ngỡ ngàng giây lát rồi chào Cảnh, nhìn anh chằm chằm, rồi né qua một bên cho anh vào. Cảnh đóng cánh cửa, bấm ổ khóa xong, anh quay nhìn tôi mỉm cười, e dè hỏi:

                        - Trong nhà đi lễ hết rồi sao? Em!?
                        - Dạ vâng. Chẳng còn ai.
                        - Anh đến bất ngờ. Xin lỗi em.
                        - Ư hừ…
                        - Em dám ở nhà một mình?
                        - Sao lại không.
                        - Ghê ha.
                        - Lẽ là người và ma quỷ thì sợ em, chẳng dám tới đây quậy phá.
                        - “Yên hùng” hơn anh rồi.

                        Cười tít mắt, tôi đi trước dẫn đường, anh bước vào phòng khách, tôi trêu ghẹo Cảnh:
                        - Anh không sợ gì bằng sợ bị ký củ ngày Thứ Bảy, Chủ Nhật. Nên anh thấy em “yên hùng” hơn anh. Ha!?
                        - Em nhảy dô trong tim đen của anh rồi còn gì…
                        Tôi cười, nụ cười ngọt hơn mía lùi. Tôi nói:
                        - Mời anh ngồi tạm, để Thụy đi “pha chút ấm áp” nha.

                        Cảnh ngồi vào chiếc ghế bành da cười hì hì. Tôi loay hoay dưới bếp cắm điện, pha cho anh ly cà phê sữa bốc hơi thơm phức. Bưng ly cà phê ra đặt trên bàn, tôi mỉm cười thân thiện mời anh. Cảnh mồi diêm hút thuốc, anh nhả khói thuốc thành từng vòng chữ O uốn khúc bay lượn lên trần nhà. Dường như anh gắn chúng với dòng suy nghĩ, đắn đo nào đó. Tôi lại trở vào bếp làm cho anh bốn miếng French Baguette kẹp thịt nguội quẹt bơ và ba tê. Khệ nệ bưng dĩa bánh ra, tôi vui vẻ ngồi xuống ghế đối diện Cảnh. Chúng tôi nhìn nhau mỉm nụ cười vu vơ. Tôi cũng hồn nhiên ăn lát bánh lạt phết bơ và rắt chút đường. Bất ngờ tôi nghe anh nói:

                        - Ngày lễ trọng đại vui vẻ vậy, mà em không đi chơi đâu sao?
                        - Biết đi đâu bi giờ! Anh!
                        - … Anh được trường cho phép đi ra phố. Cố ý đến thăm em, nhưng anh cứ do dự, lo lo, thắc mắc riết. Anh đi qua đi lại ngoài đại lộ mấy vòng rồi. Anh thấy nhà tối đen, tưởng là không có ai ở nhà. Nào ngờ có em. Vui quá và may mắn thiệt.

                        Bây giờ tôi mới để ý thấy trên góc kệ cạnh cái bàn tròn có gói quà nho nhỏ thắt nơ hồng. Cảnh để xuống đó từ lúc nào.
                        - Anh có món quà mọn nầy gởi tặng em.
                        - Anh đến thăm em, dù bất ngờ... nhưng vui rồi, quà bánh làm gì, anh.
                        - Em vui là anh mừng húm.

                        Tôi mỉm cười nhìn Cảnh giả vờ trợn mắt lên, rồi nheo nheo chớp chớp. Cảnh cũng không vừa, anh đá lông nheo kịch kịch. Chúng tôi cười to.
                        - Thụy nghĩ sao về việc chúng ta được quen biết nhau?
                        - “Được” quen biết nhau?!
                        - Chính vậy.
                        - Nếu anh nói “được”, thì em trả lời “rất hân hạnh”. Còn anh nói “bị”, thì em trả lời “không có chi”.
                        - Một câu đáp lễ sâu sắc.
                        - Còn anh nghĩ sao khi hỏi em câu đó?
                        - Sau bóng mây đen cùng cơn gió lộng, sẽ có trận mưa dầm ấm áp mát mẻ, giống như trời Đà Lạt luôn trong lành, thoáng mát, thi vị ấy em à.
                        - Chưa hẳn thích.
                        - Bởi vì chưa quen. À... Ngày mừng Tết Dương Lịch, anh có nhã ý mời em vào trường Võ Bị dự buổi dạ tiệc. Hen!
                        - Sao anh mời em? Em thiết nghĩ chị Dung thân anh hơn em nhiều.
                        - Thân không có nghĩa là thương. Thương lại chưa hẳn là yêu say đắm. Nhất là Dung kia không phải là Ngân Thụy nầy.
                        - Em chịu thua.
                        - Có nghĩa là em từ chối khéo ha?
                        Tôi cười cười, vui vui nhìn Cảnh giả lả:
                        - Anh nghĩ sao về việc kia?
                        - Dễ thương đến thế là cùng.

                        “Dễ thương” theo nghĩa của Cảnh vừa vang lên, nghe hay hay thế nào ấy! Nó ẩn chứa cái gì đó vừa hờn mát, trách yêu lẫn dịu ngọt, hóm hỉnh ân cần vẫy gọi nhau thân thiết, như nước suối rì rào giao hoà, se sẻ chảy qua bờ bụi lau lách. Giống vết điêu khắc thần tiên sống động của nghệ nhân tài ba tạt trên đá. Không có nét dễ thương, thì bức vẽ sẽ không linh động, vô cảm, vô hồn. Tôi biết rằng người thanh niên lịch lãm đối diện với tôi đang thành tâm thật lòng yêu tôi, (chứ chưa hẳn là người tôi yêu). Tuy thế tôi không thể dễ dàng tự do, nhanh chóng, đường đột nhận lời Cảnh đi vào trường Võ Bị ngay. Vì; đây là lần đầu tiên tôi trực diện Cảnh, (trong căn nhà vắng lặng đến rùng rợn, mà "chỉ có hai người ú ớ dật dờ" và… khuya khoắt thế nầy). Tôi dám mời “người ta” vô nhà, trao đổi chuyện trò với một thanh niên mới quen biết vài tháng trước, cũng là điều quá đáng lắm rồi.

                        Chúng tôi ngồi nói chuyện về gia đình cha mẹ, bầy em của anh, Cảnh là anh Hai, trai trưởng mà! Tôi cũng nói về gia đình cha mẹ, anh chị, các cháu của tôi. Chúng tôi tếu tếu dí dỏm vui đùa cười nói với nhau những câu vớ vẩn, không thân mà chẳng nhạt, đôi khi đắt ý qua vài vấn đề nào đó, chúng tôi lại nhìn nhau đá lông nheo kịch kịch và khúc khích cười. Thế rồi không ngờ trong “tâm đầu ý hợp” vô tình và vu vơ, pha chút thi vị lãng mạn hữu duyên thật tình cờ kia, chúng tôi chụm đầu vào nhau, luyến lưu viết thành bài thơ: Tình Sương Cỏ

                        Muôn thuở tình anh sương về bên cỏ.
                        Thao thức đêm trường chuyện ảo không thôi.
                        Cọng cỏ rung rinh môi hứng sương rơi.
                        Thời gian lắng đọng sương giao tình đó.

                        Bẽn lẽn thẹn thùng cùng sương nói nhỏ.
                        Trăng tàn sao rụng sương giọt tinh mơ.
                        Sương rơi lốt đốp lá cỏ đợi chờ.
                        Cỏ ẩn vào sương bên bờ sông ướt.

                        Đào Nguyên thơ mộng cỏ non xanh mướt.
                        Đà Lạt ru đời hòa nhịp hoan ca.
                        Cọng Cỏ dầm sương kết lá đơm hoa.
                        Dãi dầu mưa gió giao tình muôn ngả.

                        Mộng ước đêm dài luyến thương nhánh cỏ.
                        Nhạc sương gieo tình cọng cỏ tơ vương.
                        Nhún nhảy dưới trăng hoa cỏ ngậm sương
                        Sương rơi rụng ướt cỏ vườn đêm vắng.

                        Bông cỏ ngậm sương nở hoa trăng trắng.
                        Tình yêu thiên nhiên quyện lẫn cỏ cây.
                        Nghê Thường luân vũ tấu khúc đêm nầy.
                        Sương tưới cỏ đời ngạt ngào hương ngát...
                        (*)

                        Chuông giáo đường rộn ràng ngân vang báo hiệu giờ tan lễ nửa đêm Noel. Biết anh chị Tuế đi lễ sắp về, Cảnh từ giã tôi đi ra phố, anh đến tạm nghỉ ở nhà của anh chị bạn ngoài đường Phan Đình Phùng.
                        *
                        (*) Thơ Tình Hoài Hương
                        ***

                        Tình Hoài Hương
                        Last edited by khongquan2; 12-21-2017, 11:57 AM.
                        Bút trần nào tả được lưu luyến!
                        Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                        Tình Hoài Hương

                        Comment


                        • Hiền Huynh Vui Tính Trong Thời Loạn


                          Hiền Huynh Vui Tính Trong Thời Loạn


                          Anh Toàn Thắng hiên ngang oai hùng đẹp trai trong bộ quân phục màu vàng ka ki, cà vạt đen, găng tay trắng, mũ két cầm tay, giày đen, dây biểu chương tam hợp móc bên trái, gù vai đỏ. Anh đến nhà đón Hoà đi dự lễ mừng QLVNCH đã chiến thắng diệt tàn quân việt cộng phương Bắc lẽn vô quậy phá miền Nam, trận đánh diễn ra ác liệt tại vùng Tiên Phước, Trà My. (Đà Nẵng, Quảng Nam). Nhân đây cũng là dịp chào đón ngày mồng một Tết Dương Lịch.

                          Không phải là chờ xem buổi đại lễ long trọng, mà Hoà cùng dân chúng dám bất bình la ó om sòm, khi trải qua ba giờ chầu chực mỏi mệt, khó chịu dưới ánh mặt trời nắng chang chang. Thì thật là hỗn láo, kỳ thị và bất công! Nhất là có ông Mỹ tên Timothy làm trưởng đoàn cố vấn. Đại tá Tư Lệnh Sư Đoàn II là cố vấn William làm quan khách ngoại quốc danh dự đầu tiên đến Việt Nam, được ông Tỉnh-thị Trưởng kiêm Tiểu-khu Trưởng lo hành chánh và quân sự mời tham dự. Hầu thực hiện việc yểm trợ, tiếp liệu các nhu yếu của Mỹ Quốc Viện Trợ (trong việc thực hiện chương trình tay bắt tay hoà hảo mật thiết. Cờ Mỹ năm mươi ngôi sao lấp lánh, có mười ba sọc gồm sáu trắng bảy đỏ, nền xanh biển in trên hầu hết các nhu yếu phẩm từ Mỹ chuyển về xứ ta). Đó là những kinh viện và quân viện; một nhu cầu chính trị khôn khéo để thực hiện giai đoạn "hoà hảo thân thiện" then chốt đầu tiên. Mỹ giàu thật! Họ đã bay đi viện trợ khắp bốn phương trời! Kể cả nước nghèo và chậm tiến ở bên bờ đại dương nầy, cũng được Mỹ ưu ái đặt mắt nhìn ngắm đến. Không hiểu họ có muốn đổi chác, nghiên cứu, dòm ngó gì tới Việt Nam, hay không kỳ vọng mơ tưởng mảy may... mà họ muốn hào phóng cho đi tất cả (?!).

                          Các vị hành pháp, tư pháp (“mũ mão cân đai” chỉnh tề) đi sau vị chủ toạ, những “ôn” quyền uy bệ vệ khệnh khạng đủng đỉnh lên khán đài chính. Quý phu-quân kiêu hùng oai dũng hiên ngang với chiến thắng tài danh lẫy lừng, đã đành thế! Nhưng kèm bên qúy phu nhân thủng thỉnh kiêu sa, đài các qua mái tóc búi quá cao đã làm kỹ ở ngoài tiệm, quần là áo lụa chưng diện sang trọng rực rỡ và thơm tho, theo mốt cổ áo hở toẹt ra vai toác hoác xề xệ như bà Nhu, cốt yếu khoe yết hầu và xệ tới gần hai đường khe của bộ ngực thổn thện đung đưa. Đây cũng là dịp để quý bà phô trương thân hình úc núc giàu bơ sữa, khoe vòng vàng rườm rà từng xâu, từng chùm sáng chói.
                          Qúy phu nhân không làm gì, ngoài dựa hơi hám vai vế của chồng, một bước các bà ta nhảy tót lên sàng danh vọng, bộ mặt vênh váo tô trét diêm dúa phấn son dày cui, ưỡn cặp vú bơm silicon, có bà sữa mắt hai mí to to đã lồi và trợn lên như mắt ếch, mũi hếch độn nòng, bơm thừ lừ cặp môi mỏng dính thành “cằm đôi môi chẽ” trề ra. Họ dương dương tự đắt nhoi nhoi lắc lư cái đít sung túc béo bở phì nhiêu lên... coi "khêu gợi khiêu khích" ... sự lả lơi thèm khát "biết nhiu" mà kể!!! thì bố ai chịu cho nỗi hỡi quý “phu nhân”!

                          Mặc sức cho đám phu phen, dân ngu khu đen đứng dưới khán đài nầy trơ mắt ếch, há hốc miệng, ngẩn ngơ thộn ra nhìn quý bà chằm chằm; thiệt đã con mắt quá đi, các "ôn thần" chớp chớp mắt nhìn suốt... từ trên xuống dưới bộ quần áo mỏng dính; như kỳ lân đá ngày đêm nhìn trời nhìn đất không hề chớp mắt. Khán giả... đứng chầu ở dưới tha hồ lỏ trăm ngàn con mắt nhìn lên "quý mệ" mà chỉ chỏ, họ nói đủ chuyện: nào là bà nầy vú to, bà kia mắt lộ, bà nọ ỏng ẹo nhoi nhoi cái đít vịt. Ôi thôi… họ bàn tán lộ liễu, trắng trợn và bất lịch sự quá chừng, lấn át tiếng người xướng ngôn viên gào lên trong máy phóng thanh 100 watl đặt trên nhiều cột điện cao thế. Hoà cũng không trách đám "phu phen bình dân giáo dục như mình" làm chi, bởi vì ai ai cũng được coi chùa, tội chi không ngó cho đã! Thì tha hồ dòm ngó cho đã... cái con... mắt nghe!

                          Từng đôi một tiến lên khán đài trịnh trọng khệnh khạng và trang nghiêm. Người xướng ngôn viên xướng danh các vị, thì trên khán đài vụt đứng dậy vỗ tay chào đón hoài. Khi quốc thiều và quốc kỳ kéo lên, họ mới chịu im lặng đứng yên. Riêng đám dân gian mãi lo đứng thộn ra ngắm nhìn những cặp vú trái bưởi ưỡn ra trước, những cặp mông diêu nhô phía sau như cái thúng úp vô đít, thì dân gian cũng có vỗ tay đấy, vài ba nơi vang lên lẻ tẻ, nhưng quá rời rạc, lổng chổng. Họ vỗ tay không nhiệt tình hưởng ứng, mà do “bổn phận, miễn cưỡng” của kẻ thấp cổ bé họng, thì đúng hơn. Buổi lễ long trọng càng kéo dài giống như bất cứ buổi lễ nào khác. Gió lộng xô đầu bù tóc rối, áo quần ai nấy đều bám bụi vàng, mặt mày bơ phờ mệt mỏi hốc hác; đồng bào chán ngán thở phào, như trút xong gánh nặng đè vai, họ vội vã tuông về trên các ngả đường nghẹt cứng ứ nghẽn người tất bật lo chạy ngược xuôi kiếm sống.

                          Tiện cùng trên một đường đi, nên Thắng mời Hoà rẽ qua nhà anh cho biết. Thắng ở chung với ba anh bạn độc thân vui tính (và một anh vừa cưới vợ còn ở xa). Căn nhà thuê bao đủ tiện nghi, vui vẻ đầy tiếng cười rộn rã. Thảo nào ngày cuối năm ngoái hai anh ấy đi sắm đồ dùng cho bạn: thứ gì cũng có năm màu sắc phân biệt khác nhau, (mà lúc ấy Hoà nghĩ là hai ông khách nầy ưa làm đỏm, chải chuốt mà khó tính).

                          Họ đang bàn tán về những lần đảo chánh năm ngoái năm kia: Lần thứ nhất ngày 11-11-1960, do Đại-Tá Nguyễn Chánh Thi, Chỉ-Huy-Trưởng Nhảy Dù + Trung-Tá Nguyễn Triệu Hồng, Vương Văn Đông, các Thiếu-Tá Phan Trọng Chinh, Phạm Văn Liễu, Đại-Úy Phan Lạc Tuyên, Bác-Sĩ Phan Quang Đán... Lần thứ nhì gần nhất do hai phi công Việt Nam: Trung-úy Phạm Phú Quốc và Thiếu-úy Nguyễn văn Cử đã ném bom bắn cháy dinh Độc Lập vào hôm 27 tháng 2 năm l962. Một quả bom không nổ rơi trúng phòng đọc sách của Tổng-thống Diệm, khi cụ đang ngồi đọc sách, thế mà Tổng thống chả việc gì. Bà Nhu bị gãy một cánh tay. Một quả bom khác rơi ra ngoài sân dinh. Một lúc sau phòng-không mới bắn trả lên. Phi cơ ông Quốc bị trúng đạn, nên ông nhảy dù ra, và rớt xuống Nhà Bè. Ông Quốc bị bắt tại trận và cho vô tù. Còn ông Cử bay mút qua bên Nam Vang, nhưng nghe đâu dân chúng bàn tán: ổng cũng bị chính phủ ở bển bắt nhốt vô tù rùi!
                          Chuyện dội bom đang gây xôn xao, rúng động dư luận trong nước và ngoại quốc, ảnh hưởng khá nhiều về mặt chính trị, ngoại giao, kinh tế, nhất là đời sống dân cư đang an lành; bỗng chốc ngơ ngáo kinh dị bàng hoàng thêm. Chả hiểu vì sao!? Gia đình Ngô Tổng Thống phải dời sang Dinh Gia Long an vị, chờ kiến thiết lại. Bản vẽ dinh Độc Lập sẽ tu chỉnh do đồ án của kiến trúc sư đô thị gia Ngô Viết Thụ, người đã đoạt giải Khôi Nguyên La Mã đảm nhận.

                          Thấy Thắng về với bạn, họ tế nhị chuyển đề tài, niềm nở tiếp chào Hoà. Sau khi giới thiệu nàng với bạn bè ở chung nhà, Thắng nói:
                          - Mời Hoà ngồi, anh vào thay bộ quần áo nặng nề nầy, rồi ra ngay. Xin lỗi em!
                          - Dạ vâng, anh cứ tự nhiên.
                          Bốn chàng còn độc thân, có anh Lê Tiến là đỉnh đạt nhất về tuổi tác cũng như binh nghiệp: Thiếu tá Nhảy Dù, ba mươi hai tuổi. Tuy thế Hoà trông anh còn nét trẻ trung, vui tính. Anh Nguyễn Kháng Chiến: Đại úy Biệt Động Quân. Anh Đào Ngũ Quang: Trung úy Hải-quân. Kế đến là Thiếu úy Đinh Toàn Thắng hai mươi hai tuổi, Bộ-binh. Sau rốt là anh Vương Quốc Tùng: Trung-úy Y sĩ Quân Y vừa có gia đình.
                          Anh Tiến nhìn Hoà nháy mắt, để trêu chọc anh Tùng:
                          - Hoà biết không! Anh thích làm nghề mỗ xẻ tim gan phèo phổi. Không phải như bác sĩ Tùng đâu. Mà anh í hả! Anh thích mỗ thịt bò, thịt heo, thịt ngựa, thịt dê... cơ!
                          - Để làm gì cha nội?
                          - Lấy bao tử, ruột non, ruột già làm phá lấu, ăn ngon nhứt nhĩ à nha.
                          - Ngưởi thì hôi, nhìn lại ghê quá.
                          - Ấy. Sao toa nóng quá vậy, hở Quang? Để yên moa nói tiếp nào. Chưa gì nó đã nhảy phóc dô miệng mình. Còn hứng thú đâu mà kể chuyện tiếp. Moa không thèm nói, thì Quang có bổn-phận-sự, trách-nhiệm-vụ trình bày cho các bạn nghe: Tại sao toa đi lính!? Sao mỗi lần nhận thư nhà, là toa khóc ré như mưa thế?
                          Quang (Quang là người đã chở Thắng đi mua sắm Tết, lượn phố Tết, mà Hoà biết mặt) pha ly chanh đá bưng ra mời Hoà. Ngồi trên ghế nệm, anh tủm tỉm cười đùa:
                          - Á à a! Chả vì lúc đó tôi lười học, ăn chơi lêu lổng, hoang đàng chi điạ, đếch có tấm bằng nào, dù tuổi mình gần hai mươi. Vẫn ưa ở nhà bu theo bố mẹ, tôi trốn chui trốn nhủi như con dế mèn trong cái lu, lu dấu kín nơi góc phòng tối để luyện "tịch tà kiếm phổ", coi thật chẳng giống con giáp nào. Bao giờ đói, tôi kêu re re ré… inh ỏi. Đã bảo là con dế mèn mà không re re ré sao nhỉ? Thế là có người nhà bưng cơm canh vào hầu tận chỗ hầu. Đã nhe. Ngon lành nhe. Le lói nhe. Mẹ kiếp! Tôi chả trốn được bao lâu, thì cảnh sát đến nhà lục soát. Họ nắm tóc tôi, lôi giật lên, mang tôi về đồn bót. Họ hỏi cung tới tấp:
                          - Anh có yêu đồng bào, yêu nước, yêu gia đình không?
                          - Yêu.
                          - Yêu lính tráng không?
                          - Có.
                          - Anh sẵn sàng đoàn kết, hy sinh không?
                          - Rất sẵn sàng.
                          - Hãy chuẩn bị đi lính.
                          - Không.
                          - Tại sao? Anh nói rằng: anh yêu nước. Anh sẵn sàng hy sinh mà?
                          - ... Tôi lỡ dại vãi vào đấy bao nhiêu nước ...tiểu, khiến tôi thân bại danh liệt rồi. Ngài coi tôi bước đi nè: có phải một chân là dấu chấm, một chân chấm phết, lê lết, te tua, tàn tạ, tiều tụy, tả tơi, hay không hì.
                          - Đừng có gà mờ, ấm ớ hội tề mí tôi, không được đa. Tôi hỏi anh có yêu Nước không? Chữ "Nước" viết hoa. Có nghĩa là Tổ Quốc. Đất Nước. Quê Hương, chớ không phải là nước uống hay nước đái. Anh nghe ra chưa?
                          Lỡ vênh váo rồi, tôi cho tới luôn, tiến lên, dọt lên, hứng lên, chứ có gì mà sợ! mà rét… mà run hì! Có sức chơi, thì có sức chịu, cứ liệu mà chơi:
                          - Ô! Ông nói nghe hay đáo để! Tôi mà không yêu Nước à!
                          - Anh nầy giỏi quá ta.
                          - Có điều tôi chán ghét họ không đùm bọc yêu thương nhau, mà gây thù hận, giết chóc, máu huyết thổ ra có vòi, coi chóng mặt kinh hồn lắm. Tôi không thích tham dự. Thế thôi.
                          - Bây giờ, tôi mời anh đi.
                          - Đi đâu?
                          - Đi lính.
                          - Đi thì đi. Chứ sợ gì ai!
                          - Họ nghĩ tôi ngông cuồng, hay thần kinh bất ổn bấn loạn, khùng điên, nên có anh kia cho ngay con số tám vào hai cườm tay tôi, kêu cái cộp. Ui cha ơi là đau điếng thấy tới tổ tiên ông bà ông vãi, khiến tôi tỉnh hẳn người. Bố kiếp! Thiên la địa võng ơi, phen nầy mình hết giả đò thương tật, chân không cần đi điệu tango, bì bộp, cha cha cha... nhún nhảy nữa rồi. Cũng may là họ chưa tống cổ tôi vô nhà thương Biên Hoà, nếu bị chích cho vài mũi thuốc, chắc có lẽ tôi ngoẽo thì chết cha đời trai! Bây chừ nghĩ lại tôi còn sung sướng chán. Hơn cả Đường Minh Hoàng bên Tàu, hơn Gia Long, Tự Đức bên ta. Các cậu có biết tại sao không nà!? Giờ ăn cơm tù vẫn có người đem tận chỗ. Giờ đi cầu có lính ôm súng gác lom lom dòm tôi. Lỡ tôi trốn chui trốn nhũi như con nòng nọc lặn sâu tít xuống hồ, thì sao! Giờ ngủ có lính đổi canh. Đó chính là Đào Ngũ Quang, mà bố mẹ ưu ái đặt tên cho ta.
                          Ah! Nè các bạn! “Ngũ quang” là có năm con đường tươi sáng rạng rỡ í. Cơ khổ! vì cái họ của tôi trót lỡ là “Đào” do ông cụ lẩm cà lẩm cẩm lại đặt tên đệm là “Ngũ”; thành thử vô tình tôi trở thành tên “đào ngũ” . Cha chả! nó ám ảnh tôi cho tới ngày ra khỏi lu, mà ca những “đồi hoa sim ôi những đồi hoa sim tím chiều hoang biền biệt...”. Ấy mà… sau nầy tôi đi lính thì nghiêm trang, đàng hoàng, sự thực “ta” đếch cần đào ngũ đâu nhe. Bởi lẽ là tôi rất yêu mến đồng đội, đoàn kết chiến đấu, một lòng trung quân ái quốc. Tôi mong thăng cấp như thằng Chiến, bạn nối khố nè. Còn về việc khóc hu hu, thì đơn giản thôi, tôi đa tình, lãng mạn, nhớ quê hương, nhớ bố mẹ anh em, và da diết yêu cô bồ nho nhỏ ở phương xa. Tôi không được khóc đấy phổng?

                          Họ cười ha ha ha... hả hả hả... hí hí hí... khà… Quang muốn nhảy dựng lên chơi giựt nổi với đời, anh muốn mình là cái đinh, là cái rốn của vũ trụ. Anh thích lên mặt lấy hên dợt le xí, phừng phưng nổ những pha mê ly ghê hồn, nếu không bùi tai, không đẹp mắt, không lé mắt, không dẹo chân ẹo người mà cười vang, thì không ăn tiền. Quang không nổi, thì đời trai kém vui đi. Lạ lùng thay, đến nay anh Đào Ngũ Quang: Trung úy Hải-quân đã thành nhân chi mỹ, khi xong cử nhân văn chương, anh đi lính và anh "sống" ở dưới nước non bồng bềnh nhiều ngày tháng hơn anh đi ở trên bờ, điều mà Hoà rất ngạc nhiên, tưởng anh chỉ lè phè là một võ biền, về mặt giao tế, miệng mồm nhanh nhẫu (“đoãn”), Quang càng lịch lãm, thì khỏi nói rùi.

                          Tùng chuyền gói thuốc Quân Tiếp Vụ đến các bạn, anh thở từng hơi thuốc vặt:
                          - Quang chọc quê anh đó, khi uống rượu thì phải biết, rất chì. Rượu xịn mà “vô mỏ, vô cơ”, ui đã điếu rồi, hắn nói hết sẫy. Hoà đừng tin hắn, có ngày em vô “ngũ tử” à nha.
                          - Dạ. Em biết ảnh có tới năm cửa tử, thì tiêu tùng! Ảnh lém lắm.
                          Trong phòng bỗng chốc lặng như tờ. Quang có cảm tưởng các bạn đang nghĩ về chuyện chàng kể, nửa đúng nửa vừa sai. Quang biết hối hận về ngày cũ lêu lổng. Lẽ ra bây giờ anh đã là Thiếu tá hoặc ít ra là Đại-úy rồi. Thời buổi nầy không còn hàn sinh áo mão gánh gạo lên Tỉnh thi Hội, thi Đình. Người trai hôm nay phải có hoài bão, ý chí, lập trường, kiên cường, có lý tưởng cùng vốn kiến thức sâu rộng, để tự vươn lên với đời đích thực hơn. Thắng bước ra phòng trong bộ pirama màu kem viền sọc xanh, Hoà thấy anh trẻ trung tươi mát, coi anh lại giống như một bạch diện thư sinh ngày ngày đi lượn phố Tết hôm nào. Anh cười nói:
                          - Trời ơi! Đoàn kết... kiểu thằng Quang á hả; đoàn kết là “đết còn” ấy.
                          - Đừng có dốc tổ nghe. Ỷ ta đây “đẹp giai, con nhà ràu, học rỏi” ứ hử! Báo cho mà biết: có chịu đèn chưa, thì bảo!

                          Ôi! anh Quang mập mờ lơ lửng lí lắc vu vơ… mà ngụ ý muốn “nhắc khéo ai” vậy cà? Những anh lính chiến phong sương nhuốm bụi trần, mỗi anh một cung cách: dí dỏm, duyên dáng, hóm hỉnh riêng đang hoan hỉ cười vang. Họ vui vẻ, trẻ trung hoà ái vô ngần. Đó là những hiền huynh vui tính trong thời loạn; mà em có cảm tình nồng hậu & rất hân hạnh khi Hoà đã có một thời vàng son vinh dự từng thân quen quý anh. Dù cho… Nếu Anh Là...
                          Nếu anh: lính Nhảy-Dù.
                          Em cố thành ưu tú.
                          Sánh vai ta vui bước.
                          Thủy-Quân mình nguyện ước.

                          Nếu anh là Binh-Bộ,
                          Ngao du giữa sông hồ.
                          Ngát hương đời dịu ngọt.
                          Pháo-Binh súng đề thơ.

                          Trao về nhau tình mơ.
                          Nếu anh là cánh buồm.
                          Em làm áng mây trôi.
                          Thiết Giáp vượt ngàn non.

                          Nếu anh là Phi-công.
                          Lả lướt trên thinh không.
                          Em sẽ là nắng lụa.
                          Đàn rung ngân phím loan

                          Nếu anh lính Hải Quân.
                          Em mơ mình nữ hoàng.
                          Nối nhịp cầu tao ngộ.
                          Tình yêu xuyên đại dương.

                          Nếu anh gieo tình thương.
                          Cùng chung một chí hướng.
                          Em nguyện làm nữ tì.
                          Hương trầm toả khói sương…
                          (*)
                          *
                          (*) thơ Tình Hoài Hương

                          Tình Hoài Hương
                          Last edited by Tinh Hoai Huong; 01-01-2018, 01:21 AM.
                          Bút trần nào tả được lưu luyến!
                          Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                          Tình Hoài Hương

                          Comment


                          • Tháng Giêng và Anh lính chiến



                            Tháng Giêng và Anh lính chiến

                            Hoà ráng bện-đơm vào trong tâm chút hương hoa nồng ấm tình quê ở ngay trước mặt, mà xem ra như dật dờ, vời vợi, vò võ, lặng lờ, mênh mông, im lắng mọi thứ đang rời xa khỏi tầm tay mình. Bởi, từ nơi đây là cảnh vật và con người đã thay đổi khác hơn xưa mất rồi! Hoà như con le le tan tác đàn, chấp chới, chờn vờn lạc lối bay giữa vùng trời bao la, lòng hoang dại và đôi cánh mệt mỏi rã rời… Hoà nhìn khu ấp chiến lược dưới chân đồi bây giờ đã khác hẳn, thật buồn bã, vô cùng đơn độc khi nắng mới vừa ươm (hay chiều tà phai nắng lả lơi vắt mình trên đọt tre la ngà). Dù rằng quê hương trọn đời thủy chung không bao giờ phản bội con người; mà chính con người ngoảnh mặt quay lưng lìa xa nơi chôn nhau cắt rốn, và ai đó đành đoạn vô Nam gây ra cảnh chinh chiến tang thương khổ sầu trong lòng đất mẹ Việt dấu yêu?

                            Bóng chòi canh gỗ cao chót vót có người lính phong sương đầu đội nón sắt đang trấn giữ biên phòng suốt từ tháng Giêng đến tháng Chạp chẳng hề nghỉ ngơi, bổn phận anh đang trông coi một vòng cung trách nhiệm, trông anh đơn điệu, im lặng, chơ vơ trên vọng gác nơi phòng tuyến lồng lộng gió, tay anh luôn ghìm chặt bá súng. Mắt anh chăm chú quan sát tứ phía, anh gìn giữ nhiều chặng đường lầy lội, gập ghềnh, lồi lõm bởi xe tăng, xe GMC, xe thiết giáp cày xới, đất đỏ ngợp trời mù bay, khói thuốc súng dày phủ một góc núi. Bụi cây bờ cỏ bị đốt trụi đen thủi đen thui bên sườn dốc, với hàng thép gai nhiều lớp bao bọc ngọn đồi, dẫn đến doanh trại Việt Nam Cộng Hòa chưa chắc hứa hẹn yên ổn, an vui gì. Hoả châu luôn bừng nở trong không gian đẫm sương mù. Sau loạt B 40 và bê ta, nhiều hoả tiễn xè xè vút vút bay, từng chuỗi nổ dồn dập rền rền ngân vọng. Buồn ơi là buồn biết bao! Địa pháo tới tấp rót xuống vùng giao tranh ác liệt, đạn rít bên mang tai rú rền, trời long đất lở điêu tàn đổ nát, mắt anh lính Bô-binh nhòa đi bởi nhiều khối lửa rạch không khí tiến nhanh vun vút về phía nội thù: Xi xi xì... Tạch tạch tạch… Pằng pằng pằng…. Uỳnh. Oằng. Ùm. Đạch đạch… cắc bụp, cắc cắc bụp xè...

                            Sau khi bị pháo kích và quân ta đã phản pháo khá lâu, đầu choáng váng đinh tai nhức óc, leo lên mấy bậc cấp làm bằng bao cát, Hoà lấm lét nhìn ra lổ châu mai: Trên trời luôn có những chiếc phi cơ vun vút bay đi bay lại, ầm ầm hú động quái dị điếc tai, và bay vút vào vùng khói lửa thảm khốc không chút ngại ngần. Theo đà lướt từ mấy chiếc phi cơ có mang theo những quả bom chúi mũi bay xuống tọa độ ấn định khá chính xác. Những cây nấm lửa cuồn cuộn khổng lồ đùn lên, đùn lên cao. Khiến địch im hơi lặng tiếng nhiều giờ.

                            Tàu bay thả lính Dù xuống xa xa, rất xa dưới chân đồi, cuộc tổng tấn công quy mô của quân-nhân Cộng Hòa Việt Nam do Trung Tá Trần Quốc Lịch đích thân chỉ huy. Chân chưa bén đất, lính Dù đã hét vang, sôi bỏng cơn uất giận bùng vỡ. Dường như mắt họ nổi đom đóm, ngực tức đến độ muốn ói máu, những chòm râu tua tủa quanh cằm đựng đứng, hai hàm răng nghiến trèo trẹo, kẽ răng rít lên tiếng thở hổn hển dập dồn. Họ phối hợp cùng quân bạn dưới đất mặc áo giáp, quần áo màu xanh lính nai nịt gọn gàng, thân dắt đầy lá cây, mang giày botte de saut, đầu đội mũ lưới sắt, họ lăm le ghì khẩu súng cổ lỗ sĩ trong tay, từng hàng nịt da đầy băng đạn, vài trái na dắt hai bên mạn sườn, hoặc trên ngực áo thò ra lúc lắc. Lưng chiến sĩ cong cong, cõng ba lô ghi những bài thơ tình nặng trĩu quân hành căng phồng hết cỡ: một tuần lương khô cá nhân gạo sấy mỗi ngày, vài bộ quân phục, chiếu mền, linh tinh... (hoặc anh dùng ba lô để chứa thêm đạn dược? Hoà có bao giờ dám lục lọi đồ dùng cá nhân của ai, nên không rõ). Bổn phận làm trai thời loạn dập vùi men đắng rượu cay đi hái thú đau thương: Trả nợ non sông thật hết sẫy.

                            Thân hình họ cong còng xuống dưới sức nặng kinh khủng của gánh đời nghiệt ngã. Họ đang tiến về cuối làng tiếp cận dãy trường sơn (truy tìm địch đang lén lút về phá hoại an ninh bình yên thôn làng). Chẳng bao giờ họ chịu bó tay chờ chết, cho đến lúc tai tái người gây gây rét từng cơn ớn lạnh luồn vào tủy sống mà chấp nhận thương đau. Chính nhân quân tử hiên ngang anh dũng đi tiêu diệt địch. Nếu lỡ trên đường sạn đạo có lạc vào cửa tử thần (bao trùm cả vùng chiến sử ca). Hoà thấy họ không tỏ lộ nét sợ hãi, băn khoăn lo lắng trên những khuôn mặt cương nghị đượm phong trần nắng gió mưa sương. Mắt họ bừng bừng đỏ từng đường gân máu co giật tóe lửa, cục xương yết hầu mắc họng oan gia suốt bao kiếp, đưa lên đưa xuống đâm vào cuống cổ khát khô bỏng họng. Họ trợn trừng hai con mắt trắng dã, hàm răng nghiến chặt, bắp thịt cuồn cuộn, đôi chân dũng mãnh vững chãi đạp trên đất phù sa, đạp lên gai góc, cát đá; cả nơi bì bõm sình lầy đồng chua nước mặn. Họ chụm đầu cúi mặt chia nhau vụn thuốc nhỏ, hít hít từng hơi thuốc vặt cho bớt lạnh, hai bàn tay khum khum che đóm lửa, không cho ánh sáng le lói thoát ra ngoài. Người lính Bô-binh thì luôn nằm gai nếm mật, ăn bờ ngủ bụi. Nếu họ có được cái giao thông hào ẩm ướt trú chân, là may. Tình đồng đội vào những giây phút tột cùng hiểm nguy, thật vô cùng trân quý. Cảm động đến bàng hoàng cúi mặt lăn chảy giòng nước mắt mằn mặn cay cay.

                            Họ cực khổ quá chừng! Ôi! Đời lính vô cùng xót xa và khốn khó vô vàn! Họ luôn bị đời vô tình lãng quên! Cuộc sống người lính chiến nằm gai nếm mật là thế! Là những ngọn nến trong muôn triệu ngọn nến đời do tự bàn tay người lính âm thầm đốt lên. Và, cuộc sống gian truân phải là sự hy sinh, chấp nhận vẹn toàn gian khổ để bảo vệ quê hương, tổ quốc, tha nhân. Chấp nhận vẹn toàn! Có điều gì linh thiêng, thần bí và cường điệu thôi-thúc họ từ bỏ tất cả: xa hoa quyến rũ trong cuộc đời phù phiếm? mà họ không chút e ngại rụt rè, do dự? như đó là nghề của chàng mà! Thật cảm động đến bàng hoàng thảng thốt ngẩn ngơ. Tại sao người lính xông vào vùng chiến địa tàn khốc điêu linh nầy, thế hử!? Tại sao!? Nếu không phải vì các anh thiết tha yêu thân nhân, yêu đồng đội, yêu đồng bào, yêu đất nước quê hương mình??? & cầu mong ước ao giữ gìn non sông gấm vóc và dân tộc an lành trường tồn đến thế? Phải không, thưa qúy anh rất đáng ngưỡng trọng và kính phục!?
                            * * *

                            Có lẽ đang bắn nhau gần khu nầy lắm hay sao, mà cả ngọn đồi kêu ục ục và rung lên dữ dội. Các cô gái chân ướt chân ráo vừa đứng chưa vững trên sân của bộ chỉ huy hành quân, đã khiếp sợ xính vính lo âu đến tột cùng. Các cô giật mình quýnh quáng hét to, đồng loạt cúi cong người, tay bịt hai tai, vụt chạy vào căn hầm gần nhất, họ chui tọt xuống hầm trú sâu lút đầu người. Các cô chui nhanh vào gầm bàn, gầm giường, họ bò lê bò la, nằm úp mặt xuống nền đất ẩm lạnh, miệng không ngớt kêu gào, thảng thốt, rên rỉ. Như có ai vừa thọc con dao găm sâu lút cán ngoáy ngoáy vô bụng.
                            Trái tim Hoà đập điên loạn trong lồng ngực cuồng quay, đau nhói, co thắt từng hồi muốn nghẹt thở. Dường như có bàn tay vô hình nào đó bấu móng nhọn cắm phụp vào trái tim mình, buồng phổi bóp chặt, làm ứ nghẹt hơi thở muốn bật máu tươi. Hoà tưởng mình mang trong người cơn bệnh trầm kha thoái hóa thần kinh, tế bào thần kinh tiết ra chất dopamine thành bệnh parkinson, làm cho thân thể co siết, dúm dó, tay chân bủn rủn, run lẩy bẩy, lập cập, run rẩy kinh niên, thật đáng ghê sợ. Các cô la ó kêu gào từng hồi thất thanh, giống như con heo bị chọc tiết. Các cô chưa kịp hoàn hồn, đã bị bồi thêm mấy vố nổ kinh dị khác, nhiều đợt chấn động tột cùng khủng khiếp ngân rền. Mặt đất rung rinh chuyển động u u… u ục ục…, như ở trong cơn động thổ bảy tám chấm.

                            Sau loạt đạn chi chi đó xé gió cỡ mươi quả bay đi, súng lớn giới hạn tầm bắn dường như bay ngang đầu, xuyên qua tường ghi sắt chắn bao cát nứt nẽ, khiến gạch vôi vữa, đá dăm, bụi hồ cùng mảnh bể trên mái hầm bị sụp một bên, đã rắt đầy lên đầu lên cổ các cô. Cột sắt bị chạm điện kêu lanh canh, lửa vàng lóe chớp trắng đỏ đỏ kêu xẹt xẹt xẹt, nổ lốp bốp. Bóng đèn bể bụp rơi loảng xoảng. Căn hầm bỗng dưng tối mờ. Gió lùa khói đen cay khét lẹt, quyện lẫn mùi hỗn hợp cuốn thốc bụi đất lẫn lộn tàn tro mù bay tứ phương. Trong bóng tối mờ mờ từ lỗ châu mai dọi xuống, năm cô gái nhìn nhau, ánh mắt xao động hãi hùng, chua cay, xen lẫn chút hào khí đầy phẫn nộ ở lưng tròng mắt.

                            Vừa gù gù đáy thắt lưng ong, nhấp nhô đầu nón sắt sụp xuống quá lông mày, mấy cô dùng hai tay vịn lên góc hầm, lò mò bò bò, thụt thụt thò thò, nhấp nhổm tính leo ra khỏi cửa miệng hầm, sẽ chạy đi tìm nơi an toàn khác; thì một tràng đạn lại ria qua. Lạnh buốt xương sống, họ thất thanh kêu rú, hét tướng lên như con bò rống. Mấy cô lại vội vàng cúi hụp người chui tọt xuống hầm sâu, giống con nhái bén lặn kỹ dưới đáy ao mút mùa lệ thủy. Cả khu đồi sục sôi kêu ục ục, ọc ọc... bụp bụp, ùm ùm, lòng đất nhấp nhô. Nhà cửa phía trên hầm dường như động thổ nên nhấp nhô rung rinh, nghiêng bên nầy, xiêu bên kia. Thật quá dễ sợ dưới đống mưa chì bão lửa. Bao mái tóc một sớm một chiều đã bạc nhanh trong giờ phút đẫm máu kinh hoàng!

                            Nhiều giờ sau, bình nguyên lắng dịu dần dần. Thỉnh thoảng chỉ còn năm ba tiếng súng nổ lẻ tẻ... từ từ nhỏ dần, nhỏ dần, xa dần, xa dần và im bặt. Khi tiếng súng hoàn toàn im bặt, nhưng không gian còn bao trùm mùi khét nồng, oi ả. Khói lửa điêu linh trôi qua khá lâu, các cô mới lóp ngóp rều rệu bò dậy, họ đi không nỗi chẳng phải do quá đói, mà vì còn khiếp sợ. Trúc là cô gái ưa quậy tưng trời mà bây giờ cũng im thin thít, xép re, cô lù đù ngồi bó gối ở một góc! Từng người một rụt rè len lén khum người, chổng mông bò bò bằng hai bàn tay và hai đầu gối… lên khỏi miệng hầm rồi, các cô tự động ngồi phệt ngay xuống đất, duỗi đôi chân ra, họ thừ người ngẩn ngơ, ngố ngáo, ngơ ngơ ngác ngác. Họ chẳng thể cử động trên nền đất khô cứng nham nhở gạch đá bừa bộn, thủy tinh lộn xộn với tro bụi đất cát. Họ không kêu la, không nói, không khóc. Vì sự khiếp sợ hãi hùng đã dâng đầy cổ họng khô bỏng. Mặt mày ai nấy đều tái xanh tái xám như nhuộm chàm. Mặc dù trước đó cô nào cô nấy ỏn à ỏn ẻn, yểu điệu thắt đáy lưng ong, chăm chút tỉa tót tóc tai, họ cẩn thận tỉa lông mày lá liễu, đôi mắt kẻ viền lá răm, mặt hoa da phấn, môi trái tim thoa son tía, nụ cười rõ tươi tuyệt đẹp, làm mát lòng người. Giờ phút thập tử nhất sinh nầy họ đã chà mặt xuống đất; bây chừ trông “qúy ẻm” lem luốc dị hợm, bộ dạng ai nấy giống như con mèo vá. Mồ hôi, bụi bặm, đất cát, khói khét, đã "trổ đồi mồi" màu da “công nương qúy phái đài các diễm lệ” mất rùi. Mà bọn con gái ni không ai thèm nhìn nhau cười nhạo nhau nửa lời.

                            Thấy phái đoàn dừng lại trước cửa hầm quá bất ngờ, các nữ quân nhân xộc xệch quần áo đang ngồi soãi chân, giạng háng, vội vàng đứng phắt dậy nghiêm chào. Đại Tá Phát nhìn thần sắc các cô nhợt nhạt, tái xám, lem luốc, đầu bù tóc rối xù to như tò vò ổ rơm, thân thể dúm dó, co ro cúm rúm, run run như người bị bệnh thần kinh ngố ngáo nặng. Thì ông quay sang Trung Tá Lịch và các sĩ quan tùy tùng... Họ nhìn nhau khẽ nhún vai, nhích cặp lông mày lên một chút, rồi qúy sỹ quan từng trải giàu kinh nghiệm lừ mắt, mím môi dấu nụ cười tươi, họ quay lại nhìn nhìn... mấy cô binh nhì dưới quyền non đời, và hơi nhếch mép thân mến mỉm mỉm gật gù. Chao ôi! Thật thảm thương cho các em! đâu rồi nữ tướng hào kiệt anh tài. (giống như Hoa Mộc Lan thuở xưa!? Có lẽ các nàng lo dông tuốt… chạy bán mạng về bên Tàu mất tiêu). Quê xệ hết sức ha.
                            * * *

                            Vài ba lần khi Đoàn 5 ở Trà Phong, thì Trúc thích rủ Hoà đi tắm đêm ở sông Trà Khúc. Phía xa kia là núi Thiên Ấn ở huyện Sơn Tịnh ẩn hiện dưới vầng trăng lúc tỏ lúc mờ. Từ chân núi có đường xoắn ốc lên trên tóp đỉnh rợp bóng thùy dương xanh mát. Đỉnh núi tà tà rộng rãi và bằng phẳng, nên ta có thể lên đó cắm trại. Dọc ven những bờ sông có nhiều guồng xe nước quay bằng gỗ (hay làm bằng những bè tre già) do nghệ nhân khéo tay đan kín, trám trát lớp dầu ráy, dầu hắc rất công phu, cẩn thận. Xe quay nước mang nghệ thuật độc đáo dẫn thủy nhập điền: từ dòng sông Trà Khúc nước chảy xuống các mương gỗ, rồi nước từ từ luồn lách chảy đi theo từng khe lạch, nước dẫn vào rất nhiều ruộng lúa xanh rì, phì nhiêu. Trúc rất thích ngắm những guồng xe nước nhân tạo độc đáo ở Tỉnh nầy.

                            Tiếng cá vẫy đuôi khỏi mặt sông, cá tung mình nhảy lên đùa giỡn dưới đêm huyền ảo. Trời se lạnh giữa lưng trời gom từng phiến mây bạc phơi phới bay. Chị hằng nga dọi ánh sáng xuống những lượn sóng bạc đầu cuồng nộ, lượn sóng khi trồi lên khi trụt xuống, nhấp nhô theo dòng nước huyền phù; làm vỡ nát ánh trăng soi đôi thân hình trắng nõn ngâm trong nước. Trăng rằm sáng vằng vặc rớt trên đầu, trên vai, và xô sóng nơi bờ ngực trần ẩn dưới nước nỗi hoang vu, sầu lắng. Ánh trăng xanh xao lung linh nhảy nhót và chảy xuống thân thể đã đắm mình trong dòng nước mát, khiến Hoà càng buồn và thất vọng (trước chút riêng tư ngại ngần, e ấp che dấu tấm thân gầy, bỗng oà vỡ tan tành giữa lòng sông lụa trắng). Cuộc đời và cuộc tình chắc rồi sẽ vỡ tan, như bong bóng nước trôi trên dòng sông gợn sóng nầy ư!?

                            Ngâm mình trong dòng sông Trà Khúc khiến Hòa nhớ ơi là nhớ... ôi chao. Ơi... Huế trữ tình với núi Ngự sông Hương! Hòa đã xa Huế mấy mùa hoa Phượng nở rồi hi?:
                            Lâu chưa về thăm… Nhớ Huế
                            Nắng hồng vương Vĩ Dạ ấp hàng cau
                            Áo màu sim em khép nép qua cầu
                            Tay giữ nón ngang Phú Vân Lâu phượng đỏ.
                            Núi Ngự chiều dâng chim kiếm tổ
                            Sông Hương trăng luyến khách đưa đò
                            Nắng ngày xưa nay trôi giạt nơi mô?
                            Đường phố cũ và cơn mưa dầm Thượng Tứ.
                            Làn gió thoảng hồi chuông từ cổ tự
                            Ngả bên sông tháp Thiên Mụ in dòng
                            Hương Giang sóng vỗ trong lòng
                            Xa nhau từ đó hết Đông lại Hè
                            Nhớ sao phượng đỏ lời ve...
                            (*)

                            Hòa nhớ cả Nha Trang thành phố biển tuyệt đẹp với hàng dừa rũ lá ven bờ. Đà Nẵng phồn vinh tấp nập những chàng Hải-quân, Không-quân hào hùng! An Khê, Vũng Tàu luyến nhớ, Bamêthuột rợp bóng tình quê. Thành đô Sài Gòn Hòn Ngọc Viễn Đông hẳn là vẫn yên ổn! Giờ nầy ở xứ Lâm Viên thơ mộng ngàn đời quyến rũ du khách ra sao nhỉ? Đà Lạt vẫn như một nơi chốn bình an đầy mộng mơ, quyến rũ, mời gọi bước Hoà muốn tất tả xôn xao quay về. Cầu xin cho tất cả mọi người trên quê hương sống thái hòa, êm ấm, an vui và trường tồn.

                            Chú tài xế sau khi tắm rửa, và lo chuyển nước nôi vào cistern đầy đủ. Chú bồng súng đứng gác trên góc kín, nơi xa xa. Chú chở hai cô đi lấy nước, mặc dù sợ trưởng phòng la khi xe đi ra khỏi doanh trại, và trở về quá giờ ấn định, nhất là lo sợ vùng tranh sáng tranh tối xôi đậu lộn xộn nhập nhằng. Nhưng chú phải chở hai cô đi nhiều chuyến và nhiều lần. Mấy ngày tháng ở vùng hành quân, nếu có một bi đông nước cũng quý như vàng, chớ lấy đâu ra mà có nước tắm thoải mái. Hoà và Trúc đi tắm xong, lúc về còn mang theo vài cistern nước cho anh chị em xài, cũng là đi công tác cho Sư Đoàn 2 rồi. Chú tài xế ngại ngùng, lo lắng, thỉnh thoảng nhìn quanh, kêu nho nhỏ:
                            - Hai cô ơi! lẹ lẹ lên, mau mau đi về, kẽo bị đóng cổng bi giờ. Chết đa. Trời à!
                            Bởi chàng rất sợ: mất một dòng sông...

                            * * *

                            (*) Thơ Tình Hoài Hương

                            Tình Hoài Hương
                            Last edited by Tinh Hoai Huong; 01-12-2018, 11:14 PM.
                            Bút trần nào tả được lưu luyến!
                            Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                            Tình Hoài Hương

                            Comment


                            • TÌNH chàng MẠC KÍU & nàng A MUốI

                              Kính thưa độc giả rất quý mến,

                              Dạ, Tết Nguyên Đán chẳng còn bao lâu nữa... sẽ đến.
                              HH xin gởi đến quý vị một câu chuyện có thật về hai người bạn.
                              Mong rằng đây là món quà vui xuân, và quý vị nở "một nụ cười... bằng mười thang thuốc bổ", ngỏ hầu quên đi những năm tháng tha hương tần tảo ở xứ người.
                              Thân quý,
                              HH

                              *

                              ***
                              Xóm Đêm
                              Nhạc và lời: Phạm Đình Chương
                              Giọng hát: TTMD
                              *

                              TÌNH chàng MẠC KÍU & nàng A MUốI


                              Trong phòng làm việc Tâm Lý Chiến có anh Mạc Kíu là người hiền lương chân thật đến mức thật thà, ngây ngô, mà rất dễ thương chịu không nỗi. Kíu thích uống nước đá thật lạnh, nhai nước đá cục rốp rốp. Trong lúc Kíu ăn cơm nóng sốt vừa thổi phù phù vừa húp canh cua rốc rột rột rột. Kíu lại uống ừng ực ly nước đá lạnh ngắt. Răng vẫu thích dừa một ngày anh nạo vài trái, nên hàm răng trên càng nhô ra thành mái hiên, khiến ảnh tức chịu không thấu, Kíu phải quay qua hỏi thăm thằng bạn “loa mồm” về chuyện “răng riết”, hắn cho nhiều ý kiến ý cò, để dựa dẫm nhau mà sống còn trong xã hội văn minh với đời.

                              Quả thật bỗng dưng răng vẫu ấm ức dỗi hờn sưng vếu lên, nó xìu xìu ễn ễn lạnh lùng bỏ “chàng” mà đi. Kíu tức mình quá chừng khi thấy bộ dạng mình coi vếu váo, xấu xí, chàng hăng hái nghe lời thằng bạn loa kia đi bọc chiếc răng vàng, để trám vô ở lỗ trống. Thế là hai hàm răng cũ thấy cái răng vàng khè giàu có, lóng lánh “đẹp giai” kia, so với mình sao xa lạ quá, chúng càng bực bội dỗi hờn thêm, bèn rù rì từ từ rủ nhau xa lánh “anh răng dàng”. Chúng hè nhau a dua tiến lên a chu, khiến răng Kíu rụng gần hết cả hàm dưới. Dù “em răng vàng” cô độc giữa rừng răng sợ một phép chẳng dám lên mặt trêu ngươi! Răng hở thì môi lạnh, môi buồn, môi chán, môi đau... nên mỗi lần ăn cơm, ăn cháo, Kíu cố nhẹ nhàng cho hàm răng trên thân ái đi gặp hàm niếu dưới, ngỏ hầu thăm hỏi xã giao nhau tí chút. Nhưng chúng nó đã thất lạc trong cuộc đời “răng với riết” mất toi rùi. Một chiếc răng vàng cô đơn độc mã không hiểu nhau, thì còn răng mô mà dám cười! Hỉ!?

                              Hàm răng mệt, cái mồm mệt, chàng Kíu không thể nhai thức ăn; cơ thể mệt, bộ óc của chàng cũng dần dà mệt lã theo. Thiệt là phiền toái đa! Cả hàm răng tất nhiên là có nhiều hơn “hai bờ môi tê tái”, nên “cái bè đảng răng” nó rủ nhau “xông pha biểu tình biểu tọt”... lang thang đi tìm trẻ lạc mất răng. Hàm răng bây giờ cái sún, cái bọc vàng, cái ...chỗ nào cũng lổn chổn. Thật dị hợm, khó coi, khó chịu quá chừng chừng à. Kíu không nhớ gì hơn ngoài việc lo lắng cho "cái bộ gió" của mình. Vì “cái răng cái tóc, là gốc con người” mà! Vì và... vì... Kíu còn phải lo canh tân o bế dợt le cho “răng với riết” thành: một hàm răng trắng trẻo cộng một hàm răng vàng le lói, để:
                              Một trà, một rượu, một đàn bà,
                              Ba thứ lăng nhăng nó quấy ta,
                              Chừa được thứ nào hay thứ ấy…
                              Có chăng chừa rượu với chừa trà!

                              Tú Xương xa xưa có bài thơ bất hủ trên, còn đào hoa thanh lịch như thế, huống hồ gì ta là trai thời thế tạo yên hùng thì phải:
                              Rượu nào là rượu chẳng nồng.
                              Trai nào chẳng khoái: Lan, Hồng, Cúc, Mai...
                              (cd)
                              Thằng bạn “loa mồm” vui tính kia còn tỏ vẻ ta đây sành đời, khuyên Kíu:
                              Lấy vợ xin lấy vợ sún răng.
                              Đỡ tiền nha sĩ ngại sâu ăn.
                              Sáng, trưa, chiều, tối em ăn cháo.
                              Khỏi phải mua bàn chải đánh răng.
                              Lấy vợ xin anh lấy vợ hô.
                              Lỡ sau mà có gặp côn đồ.
                              Em cười, chúng tưởng Chung Vô Diệm.
                              Hồn xiêu phách lạc cõi hư vô.
                              (*)
                              Còn Kíu thì chả dại... nghe lời hắn, trái lại chàng sâu sắc hơn, nghĩ khác xa thằng bạn thời “khố rách áo ôm, mồm loa mép dãi kia”:
                              Lấy vợ nên kiêng vợ sún răng.
                              Giận con lè lưỡi tựa bà chằng.
                              Tiệc tùng rủi gặp bò xào giấm.
                              Mắc nghẹn có ngày té ngã lăn.
                              Lấy vợ nên kiêng lấy vợ hô.
                              Hàm răng lởm chởm nói bô bô.
                              Rủi khi bả giận ôm chồng cắn
                              Ưá máu phu quân chạy thấy mồ
                              (*) thì sao nà???
                              *

                              Một hôm được trưởng đoàn phân công, Kíu (là âm thoại viên) cùng bạn công tác tại xóm Nghĩa Hành. Bạn Bé, Châu đi nhanh quá, Kíu có phần bệ vệ vì cái bụng lỡ mang thùng nước lèo khá lớn, (so với chiều cao). Kíu ì à ì ạch leo lên dốc, chàng che tay nhìn ngang nhìn dọc, không thấy hai bạn đâu. Mất hồn mất vía, Kíu ngồi phịch xuống trên gò mối, nghỉ mệt. Đã lo sợ lạc đường, tự dưng cái bụng phệ của Kíu sôi ọc ọc... ục ục, đau bụng thấy mồ... như muốn biểu tình, phản đối giờ cơm đến trễ. Kíu lom khom đứng lên, bỗng máy PRC-25 phát tín hiệu. Kíu lại ngồi vật ra, duỗi hai chân chụp lấy máy mở tầng số liên lạc. Nghe xong, “anh ta ca”:
                              - Cái lày ngộ xin lại ý dui loòng chỉ cho. À, tụi ló lại tẩy chai ngộ, dì cái pụng ngộ ló sôi lọc ọc, pị lau cái pụng quá chời, bạn ngộ lể cho ngộ lứng ở lây, ló li lâu mắc dồi, ló bỏ em lứng dứi gót cay phựng, ngộ li da ngoài duộng mà. Bạn ló hỗng biéc liều a. Em hỏn biéc chỗ lào lễ li dề à. Lần lầu tiên mới dề qua lay, thấy cây cối dzụng hư hại diều lắm. Em hỏn béc dớ cái lường lể đi dề qua a.
                              Thọ, Đan, và Nhã phì cười. Nhã trêu chọc:
                              - Em đi mau mới kịp bạn. Phải biết "giác ngộ" cho tiêu bụng mỡ chứ.
                              - Ngộ béc dát ngộ mờ. Có gì ngộ ngộ, thì ngộ dát dề cho a.
                              Có trời biết làm cách nào Kíu trở về an toàn, khi lưng đeo máy truyền tin, vai đeo ba lô cá nhân, vai kia thêm lưỡi cày, chả biết chàng nhặt ở đâu. Kíu nói:
                              - Nó “giác ngộ” quá, thì “ngộ dát” dề a.
                              Thọ vừa tức vừa vui, anh hóm hỉnh thông báo trên loa phóng thanh: ai mất lưỡi cày, xin cho biết. Phòng mang trả lại ngay.
                              Lần thứ hai khi Kíu đi công tác trong thôn Sơn Hà xong, Trung úy Đan cần kiểm chứng chút việc, đã hỏi Kíu:
                              - Em chỉ cho tôi nhà của ông bà Hai (mà em đã làm việc hôm kia) nhe.
                              - Dạ, Trung úy đi trên đê, thì thấy nhà họ ở trong xóm.
                              - Em không ghi ông Hai đó tên tộc là gì!?
                              - Xin lỗi Trung úy, tại em không ngờ...
                              - Nhà ở xóm ấy đông. Vã lại trong xóm có ba người: “tên thứ là Hai”.
                              - Dạ... vậy sao!?
                              - Em có nhớ đường tới nhà ông bà Hai không?
                              - ... Ơ... Trung úy tới cái nhà có đụn rơm nhỏ xíu, có con trâu nằm đó.
                              - Nhà nào cũng như thế cả. Không có số nhà, không có gì đặc sắc.
                              - Nghĩa là sao!? Trung úy?
                              - Tôi đến mấy nhà em tả. Con trâu ăn bó rơm mà em nói là “đụn rơm nhỏ xíu” xong, nó đã đi mất. Nầy em, đừng đứng đó vò đầu bứt tóc. Chả lẽ em sẽ đi hỏi con trâu hử!?
                              Một lần khác trong phòng đang ăn cơm, thì Chỉ-Huy-trưởng gọi máy dã chiến xuống, bắt anh em nộp bảng: "Dự trù Kế Hoạch A. Tối cần".
                              Kíu quên chưa cúp máy, anh ta láu táu báo trình với Đan:
                              - Xin báo thựng cấp tối cần, “bạng” dự trù kế hạch A, chớ sáng hỏng cần.

                              Ngờ đâu Chỉ-huy-trưởng đã nghe được. Trời ơi! Hậu quả ăn với nói lầm lẫn và hiểu sai nghiã. Kíu bị “an nghỉ” cả tuần trong chuồng cọp. Kíu “được” muỗi đốt thỏa thích. Chàng nằm co rúm chèo queo vỗ bụng “đau đói” bình bịch, để chờ Phòng Nhì điều tra. Toàn Phòng 5 đều gửi “thỉnh nguyện thư” lên Chỉ-huy-trưởng bảo đảm hạnh kiểm, hành vi của Kíu. Sau khi Kíu làm mọi thủ tục tường trình, chàng được tha khỏi chuồng cọp. Từ đó, chàng im re câm như hến, không dám thèo lẻo bép xép cái miệng ăn mắm, ăn muối nữa. Kíu tình nguyện “xuống cấp” để làm hoả đầu quân ở trong Sư-đoàn, cho chắc cú. Kíu nấu ăn thì ngon tuyệt, y như Tàu Hồng Kông vậy. Kíu ưa vỗ vỗ vào cái bụng phệ mà cười ha ha ha: Giàu chủ kho. No nhà bếp rồi thì… chóng chết là vì quản voi he!
                              *

                              Nghe tin Lính Phòng 5 được về hậu cứ sớm hơn dự định, Kíu nổi tiếng là trùm sò chuyên môn cho anh em "ăn mắm mút dòi". Nay chàng là người hào phóng nhất, trước tiên Kíu vác cái bụng phệ đi quăng mùng mền quần áo cá nhân. Kíu cần cho ba lô cá nhân nhẹ bớt ký xí mà. Rồi chàng lấy ly, tô, chén, son, chảo, nồi… ở trong thùng của đoàn 5 ra, trả thù tình và trả thù đời, anh đập bể hết! Kíu xán cho bằng thích hai bàn tay mập ú. Các anh khác cũng bắt chước Kíu làm theo, họ lôi tô chén trong ba lô cá nhân ra, xán bôm bốp xuống nền gạch. Nghe “đã” thiệt ta!
                              Đùng một cái Trưởng-phòng đi họp về báo tin Phòng 5 phải ở lại thêm bốn ngày. Kíu ngồi thộn ra nhăn nhúm, méo mặt như cái nồi son. Lấy gì xào nấu cho anh em ăn đây hở Trời! Thật chán mớ đời. Mấy ngày đó, anh em chịu trận giữa cơn rét rừng luồng vào tủy sống. Các anh chẳng dám mở miệng kêu than nửa lời. Ngày ngày Kíu xin phép Trung úy Đan cho ra nấu ăn nhờ ở nhà dân, chàng đi bắt ốc mò cua, đào măng, hái rau núi, hái rau sam, rau dền, rau đắng mọc hoang, luộc cho anh em ăn tạm với thịt hộp xin của đồng đội bạn đỡ lòng. Thật may vừa có lệnh trên ban hành cho anh em leo lên xe về nghỉ ở hậu cứ. Mấy anh mừng húm.
                              Tất cả câu chuyện về bạn bè thân thiết, cùng hoàn cảnh, không gian và thời gian, thoáng hiện ra trong tư tưởng Đan, dưới ánh sáng màu thiên thanh kỳ diệu. Đan mỉm cười về vài mẫu chuyện vui vui tương tự như thế; hầu quên đi nỗi nhọc nhằn trong đời lính chiến phong sương. Tạm quên bao khổ đau cuộc sống đùn lên trong đời Đan và tất cả quân nhân khác.
                              ***

                              Kíu kể chuyện tình của anh với cô bồ ruột ở Chợ Lớn, vui và cũng buồn hết biết: Kíu đã “phải lòng thật dạ” một cô trông ngồ ngộ kha khá bảnh tỏn ở gần nhà:
                              Năm canh ngớ ngẩn buồn rầu.
                              Nhớ người nhân nghĩa gan sầu ruột đau
                              . (cd)
                              Sau khi Kíu vào nha sĩ bọc thêm những chiếc răng vàng oai vệ đáng bậc “răng nhi” le lói kia xong xuôi. Thế là chàng thong thả đi la cà đó đây làm quen nàng Đào A Muối. Ai ngờ “ẻm” cũng “chịu đèn” mình quá sá cỡ thợ rèn! Thiệt là mừng húm!
                              Nắm tay em tròn như ống chỉ.
                              Lòng dạ anh đây phỉ chí muốn kết duyên.
                              Ngày nay hỏi thiệt bạn hiền: “thương không
                              !?”.
                              Nàng ỏng ẹo “cừi cừi”:
                              Anh ăn ở có lòng, em phải gắng công.
                              Một trăm năm em cũng để phòng không, đợi chờ...
                              (cd)
                              Thế là nhân một ngày gió sớm nhè nhẹ đong đưa lá vàng mùa thu bay bay, để kỷ niệm cách đấy một năm về cái ngày đầu tiên Anh và Em yêu nhau say đắm, hai anh chị vui vẻ hẹn hò đi ăn ở nhà hàng Arc Enciel. Kíu bảo nàng:
                              - Ai đi đợi với tôi cùng.
                              Tôi còn dỡ mối tơ hồng chưa xe.
                              Có nghe nín lặng mà nghe.
                              Những lời em nói như xe vào lòng.
                              (cd)
                              - Em ui, em là Ba Chệt, thì em cứ hiên ngang, can đảm vui vẻ nhận mình là Ba Chệt. Sợ gì ai mà ba má giữ rịt em ru rú ở trong nhà he? Hay em sợ mắc cỡ sẽ ló cái đuôi sam ra ha!? Em hãy mặc áo Thượng Hải, hở ngực, hở nách, xẻ hai bên đùi lên sát bắp vế, thì coi em càng khêu gợi chớ sao! Cho anh sung sướng dẫn em đi dợt le xí. Anh muốn tụi mình nên đi cà nhỏng, cà nhãnh, cà rịch, cà tàng chút xíu. Mình lên mặt làm dáng, làm dóc, làm le, làm tàng nha. Em cứ giựt nổi, chơi trội đi khoe với đời. Em không nổi như cái rốn của trung tâm vũ trụ em kià, thì đời mình mất vui, kém hạnh phúc đi. Nha cưng.

                              “Ẻm” nghe chàng miệng lưỡi ngọt xớt như mía lùi, thì ai mà không mê tít thò lò chớ́. Thế là nàng trẻ người non dạ, õng ẹo đi qua đi lại trước gương soi mà ngắm nghía, và toe toét cười. Đúng là coi mình cũng ngon lành ra phết, như miếng thịt mỡ treo trước mõm mèo. Ngu sao mình không chờ thời cơ, thiếu giống gì mấy chàng trai trẻ sẽ nườm nượp liếc mắt đưa tình he! Nàng lóc chóc hí hửng thích thú mặc xiêm y, thân hình chưa phì lũ lắm, chàng trông nàng ngon lành, coi cũng đẹp hết sẫy í chớ.
                              Kíu vui vẻ "phỉnh" nhẹ nàng thôi, chứ nếu chàng gallant trắng trợn, thì còn ra cái thể thống gì bậc mày râu! Kíu thì mặc bộ áo quần vía veston xám pha sọc đen hồ ủi thẳng nếp li láng cón, đầu chàng chải brillantine bóng mướt, con ruồi đậu trên tóc cũng phải té trợt cà. Kíu mang đôi giày đen nhọn mũi hoắt gót cao.
                              Con cò đi uống rượu đêm
                              Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao!
                              Còn anh chẳng uống hụm nào ...
                              Cũng say ngây ngất ngã vào lòng em!!!
                              (cd)
                              Chèng đét quơi! Cô nàng biết tông ti họ hàng thứ bậc từng gốc to ngọn nhỏ bề thế cuả Kíu là: hậu duệ cháu chiếc đích tôn đích tướng của ông chủ nhà hàng Nhất Dạ Đế Vương như vậy. Nay chính mắt nàng nhìn thấy người hùng lý tưởng diện bộ đồ vía lên, trông chàng càng đẹp ra phết, thì nàng đã nghệch mặt ra, hết dám xí xọn, đỏng đảnh! "Anh em ta” hăng hái leo lên taxi “cho... tới luôn bác tài”.

                              Hai người cười hi hí đủng đỉnh xuống xe, cầm tay nhau dung dăng dung dẽ, cười cười liếc liếc, lí lí lắc lắc… họ ung dung tà tà đi diễu dạo khắp nơi, coi “thái mái” lắm. Lúc họ bước lên cầu thang thì cái bóp đầm của nàng lủng la lủng lẳng đung đưa, có đựng hộp phấn thỏi son và vài đồng bạc lẽ, bỗng bị "bàn tay anh tài” cướp giựt mất, lẹ như chớp. Bị bất ngờ, nên nàng trợt chân té chúi nhũi, chiếc giày cao gót văng lông lốc tuốt dưới chân thang lầu. Đau quá là đau, nàng nghiến răng trèo trẹo ngồi chò hỏ nơi bậc thang, mặt tái xanh không còn chút máu. Mồ hôi hột rịn vã ra ở hai bên thái dương, "ẻm" bủn rủn tay chân, Muối thầm nghĩ:
                              - "Chắc là ma nó xô cho mình bong gân, lọi giò đây. Chứ cái thằng ma-cô cướp cạn, nó ốm nhom ốm nhách: như đồ xì ke, đuổi ruồi còn không thèm bay. Làm gì xô mình lọi giò được ha?". Nàng mơ màng nghĩ đến vần thơ:
                              Em xa mình hổng chết cũng đau.
                              Thuốc bạc trăm không mạnh, mặt nhìn nhau mạnh liền.
                              Thương anh nên mới đi đêm.
                              Té xuống bờ ruộng đất mềm hổng đau.
                              May đất mềm nên mới hổng đau.
                              Phải mà đất cứng, ắt xa nhau phen này.
                              (cd)

                              Vô tình nàng "để quên sự đời em ra". Thây kệ mặc khách tao nhân đi lên, đi xuống cầu thang; họ cứ quay lại liếc liếc nhìn nhìn, cười hi hí, và ngó sững "chỗ nớ" đã đời. Chàng thanh niên choai choai dé dé non đời lóc chóc đã nén giận, Kíu cắn môi chạy xuống chân cầu thang lượm giúp nàng chiếc giày. Kíu đứng xớ rớ dưới chân thang chờ mặc khách tao nhân đã choáng hết lối đi, họ cứ đứng ù lì chen lấn đi lại đông đúc ở cuối bậc thang. Chàng vô tình nhìn lên. Bỗng Kíu thấy “em thân yêu” oăặn… oằn vặn vẹo cả thân người, và “chỗ nớ” hớ hênh chìa ra coi tổn hổn, tển hển, rõ mồn một. Kíu giật thót mình, trái tim co xiết túi bụi, mặt đanh lạI, đỏ tía, tai nóng rần rần như bị ong chích, rắn cắn, hai bên thái dương chàng giật tưng tưng. Kíu mắc cỡ xấu hổ muốn độn thổ, Kíu cầm chiếc giày cao gót sút đế, vụt xô mấy ông vạm vỡ giạt qua một bên, chàng nhảy lên một lần hai ba bậc cấp. Kíu ném chiếc giày vào bụng nàng, kêu cái "biịcch"… Chàng trợn mắt nghiến răng trèo trẹo, kéo giật cánh tay nàng, cằn nhằn:
                              - Đứng lên mau! Con gái, con nai gì không có ý tứ, lại mặc cái "xì níp" rách háng coi trơ trẽn quá. Có thấy thiên hạ đang dòm ngó em không? Hứ! Lại còn ngồi thộn ra… xí xọn, nhí nha nhí nhảnh cừi cừi. Ghê quá ta.

                              Nàng sửng sốt tức giận lên cực điểm, đến tím mặt bầm gan. Đã không dỗ dành khi người ta đau điếng, thì thôi. Còn lên mặt la mắng tui cái nỗi gì giữa chỗ ba quân, hử? Nàng nghiến răng trèo trẹo, liền xổ một tràng tiếng "Háng" văng cả nước bọt khiếm nhã ra:
                              - Ai biểu... tại vì lị lói mí ngộ: là lị thít ngộ đem li phe ra le lói với đời mờ. Ngộ không bét. Ba trợn á. Ay da dà! Cái đồ tồi, dóc tổ a... Oái! cái cẵng chân của lị ló dzụng mất toi dồi. Tô chè a. Xiía...

                              Tự ái dồn dập mà! Tuy nhiên, chàng thấy nàng tái tím xù ra như lông nhím thật sự, Kíu cũng biết điều, lòng chàng dịu hẳn xuống, Kíu nâng cánh tay nàng lên, chàng liền hạ mình hạ giọng, năn nỉ ỉ ôi. Nàng được trớn, càng lên mặt vênh váo, lì lợm, làm le, làm dóc, làm tới, làm tàng, làm liền… không thèm hòa. Nàng xù bộ mặt rất ư dễ ghét coi cà chớn quá ta. Xách chiếc giày sút đế lủng lẳng, nàng vung cùi chỏ thoi vô hông chàng kêu cái “ự” . Nàng chưa đã nư, bồi thêm cú chưởng “độc thủ” hất mạnh tay “người iêu”. Nàng cà niễng cà giật cà thọt một chân cao chân thấp, nàng nhoi nhoi cái đít vịt đi điệu bì bộp, xô-lô-rốc chấm phẩy. “Ẻm” nguýt xéo chàng một cái thiệt dài, đôi môi cong cớn trề ra như mỏm con dê, mà leo lên taxi... cho tới luôn bác tài. Bác ta rồ máy chạy cái vù giữa đám thị dân đang kinh ngạc nhìn theo.

                              Chàng mới té ngửa ra là nàng chẳng phải là thứ vừa, thứ dễ bảo mô nà, trông nàng bây chừ thiệt ngứa mắt quá chừng chừng! Đúng là “thứ Tình Cà”. Thế là Mạc Kíu nổi máu anh hùng lên: bỏ đi một nước, giang hồ biệt tích. Kíu leo lên xe “đi quân dịch là thương nòi giống”:
                              Năm xưa em bảo đợi chờ.
                              Năm nay em lại hững hờ với anh
                              (cd)
                              Thời gian trôi qua, chàng dần dần nguôi ngoai nỗi “sầu đời”, Kíu đã vui vẻ hát điệu… tẩu mã rất linh hoạt của dân ca Huế.
                              Bây giờ tình nghĩa làm sao.
                              Cho chuông chẳng bén bồ lao chẳng bền?!
                              (cd)
                              Thôi! Hãy thả tình trôi theo giòng thời gian... Chả còn gì cho “Anh và Em”. Thật chả còn gì cho mối tình mà chàng nghĩ từ nay đúng là: Thứ cà tửng, cà tàng, cà khịa, cà ná, cà chớn, cà pháo, cà chua... cà dái dê... Khi nàng ù té chạy làng, lê bước chân què để leo lên con đò, ca bài “Sang Ngang” của Đỗ Lễ, cho mối tình xưa đi đứt theo đuôi con nòng nọc, mất toi.
                              Năm nay em phải lấy chồng.
                              Không vui thì cũng bằng lòng mẹ cha.
                              (cd)

                              Ba Tàu style Mạc Kíu đã chạy tới thằng bạn “loa mồm” thở than:
                              Nếu piết rằng lị đã có chồng.
                              Ngộ dề ngộ pán nốt Hồng Kông
                              Mang tiền ngộ đổ vào Chợ Lớn
                              Lời vốn đầu tư ngộ mát lòng!
                              (*)
                              Kíu dứt khoát mọi điều khẳng định là “ngộ” phải quên “lị”. Như đinh đóng cột vào vách. Như ngôi nhà quay mặt về núi. Muôn đời không thèm đối diện với biển cả. Chàng rung đùi, dùng rượu đổ vào cái bụng phệ:
                              Nếu biết rằng em sắp lấy chồng.
                              Anh về bắt vịt nhổ sạch lông.
                              Tiết canh làm được vài ba đĩa.
                              Mượn rượu cho nguôi vết thương lòng.
                              (1)
                              Dù chàng là “ba Tàu” chính cống thứ thiệt, nhưng mình chả phải là thứ tay vừa trong mục “Thơ Tình Cà Tửng Cà Khiạ cuả chàng và nàng”: Em hãy nghe nè Muối:
                              Anh cà ghim sáng tối uống cà phê.
                              Tình cà nhỏng vi vu hết chỗ chê.
                              Củ cà nông thất nghiệp không cà pháo.
                              Thấy cà dại sao giống cà dái dê.

                              Tình cà rem le lưỡi liếm cà rề!
                              Đời cà gai chàng ràng anh cà tong.
                              Khuya cà giựt cà lơ xịch cà đụi.
                              Em cà ri nị chê anh cà khỏng.

                              Ôi tình cà tàng cà kê dê ngỗng!
                              Em lù đù cà lơ thân cà cuống!
                              Chân cà thọt anh lên xe cà xóc.
                              Em đòi đeo cà rá coi cà tửng

                              Anh cà chớn như mấy con cà cưỡng!
                              Em cà khổ không biết anh cà rỡn.
                              Tình cà khịa mình giận nhau từ đó.
                              Bỏ cà mèn anh len lén húp phở.

                              Em cà rốt ngó anh đi cà nhắc.
                              Đau cổ họng anh cà lăm cà lắp.
                              Khêu đủ chuyện kể cà riềng cà tỏi.
                              Em cà chớn cà dừa đi Cà Mau

                              Anh quá sợ mũi em giống cà chua.
                              Về Cà Ná vất cà vạt vô chùa.
                              Ăn cà bát cà chua lẫn cà tím.
                              Củ cà rốt teo dần… cứ mặc ta!

                              Anh hận tình lên núi choàng cà sa.
                              Chân cà niễng anh y đúc cà kheo!
                              Em cà rề cà tang nằm chèo queo.
                              Kể từ đó đôi ta đã... cà dẹo…

                              Mắt em cay vì có anh cà cuống
                              Bởi thế cho nên tình ta nở muộn.
                              Thành cà tửng tình cà chớn sớm khuya
                              Hạnh phúc mất lúc đời ta cà tàn!
                              (2)
                              *

                              Cd = ca dao
                              (*) Thơ sưu tầm, lượm lặt đó đây; không phải thơ của tác giả.
                              (2) Thơ Vui Tình Hoài Hương

                              _ * _


                              Tình Hoài Hương
                              Last edited by Tinh Hoai Huong; 01-15-2018, 04:42 AM.
                              Bút trần nào tả được lưu luyến!
                              Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                              Tình Hoài Hương

                              Comment


                              • Nỗi Yêu Thương Dày Vò LÍNH




                                Nỗi Yêu Thương Dày Vò LÍNH


                                Trên ngọn đồi nhìn xuống thung lũng trước mặt là: bãi phù sa và cồn cát vàng mịn nổi lên mặt nước cù lao rồng giữa dòng sông xanh mênh mông. Mặt sông bồng bềnh có khúc uốn cong đầy bèo, lục bình, lá khô, rác rưới trôi đi trôi về mỗi khi nước xuống, nước lên, nước đứng, nước rút. Con sông xanh nối hai bờ có chiếc cầu gỗ sơn trắng dài ngót một cây số. Cây cầu móc từ bờ nầy sang bờ kia xa thật xa mờ xa mang tên cầu Cộng Hoà… cuốn theo bao mộng ước vui say thời Trọng mới lớn, anh thả mặc tình yêu lững lờ trôi vùi đau đau giữa giòng thác lũ. Trọng xã láng cuộc đời trai trẻ như canh bạc về khuya trên những mưu toan đen đỏ thời cuộc, và rủi may do số phận bọt bèo phiêu lãng đẩy đưa.

                                Trọng ghét ông chú ruột kinh khủng, ghét đến nỗi anh nhập tâm, làm gì đi đâu hay ngủ nghỉ, Trọng vẫn nghĩ tới những trò hề ông chú làm, mà giựt chắt. Trọng khinh thường chú, không phải vì chú ruột có mặt mày bặm trợn, trông cô hồn các đẵng, chuyên “bá đạo” làm thầy cúng, thầy bói, huyện đề đâu... Chỉ vì Trọng nghe ông ta ưa cười gằn, hắng giọng nói:
                                - Tổ choa mi, nói cho bưa cái chi bậy bọa rứa hỉ? Coi mi khờ câm rứa thê! "Đa nghề thì dễ bề hoạt động". Nghen mậy!

                                Câu nói ngụ ý chẳng lành khiến Trọng điên tiết, anh không láu cá hỗn láo, ngang tàng, hay ỷ mình có chút kiến thức mô nà. Bởi, Trọng biết "cái tẩy" ác ôn, lưu manh gian trá của chú, nhưng miệng lưỡi chú ngọt xớt như mía lùi. Bề ngoài con người biểu kiến ấy, không ai đoán biết ông ta thực sự nghĩ gì, trong lòng ông ghim gút rất phức tạp, lại ích kỷ hại nhân, quá qủy sứ. Kiến thức hẹp hòi tâm tư nhỏ nhen, khả năng tầm thường, học chẳng biết “chữ cu chữ cò, mà viết như rồng như rắn”. Ông qua mặt dân hiền "hoạ hổ hoạ bì, nan họa cốt. Tri nhân tri diện, bất tri tâm". Chú mượn cớ là: ta đã "tu nghiệp đa nghề", nay lân la đầu trên xóm dưới nghe ngóng, thu lượm tin tức.

                                Ông (mang nạn gỗ, khi vó nhựa bị sút ra, thì tiếng kêu khô khan lạch cạch lọc cọc, nghe thật chướng, thật chướng tai), ông giả vờ nhậu không say, không xĩn, không về. Việc a dua thọc gậy bánh xe, thì ông lại rành mạch, châm chọc nhiều pha gay cấn, ghê hồn hơn. Thế nhưng, ông không thể qua mắt Trọng bất cứ điều gì. Anh quyết chí phản đối ông kịch liệt. Tội ông chú hãm hại người khác là không thể dung tha, dù hại người hay giết người vì bất cứ lý do gì, trong vùng đang chiến tranh liên miên, cũng là sai. Sinh mạng con người bình đẳng, đầy nhân phẩm, tự do cao qúy, đáng trân trọng như nhau. Không ai có quyền hủy diệt, tước đoạt sự sống hay diệt tự do tư tưởng cuả người khác. Dù ổng bất đồng chính kiến, hay đổ lỗi do liên đới chiến tranh; cũng thế thôi.

                                Ông Sáu rỉ tai phao tin các vườn rau trong làng, xã, bị ai đó rải chất hoá học độc hại, nên rau ở chợ ế ẩm không ai mua, sình thúi. Ông còn phao tin nước ven sông bị bỏ thuốc, khiến cá chết và lũ chuột chù, chuột chũi, chuột cống, chuột hôi, chuột đồng, chuột lang, chuột nhắt chết la liệt. Ông phải làm phước đem đi chôn hết, không có dấu vết. Khiến bà con sợ hãi, không tin tưởng bất cứ kẻ lạ người thân, ông vội vàng đào giếng làm nắp giếng và khoá chặt, không cho người ngoài được ghé tới xài chung, và rỉ tai… "hãy đến nhà tui chia sẻ". Vã chăng bây chừ muốn đào một cái giếng thì tốn bộn tiền. Do cơ hội ấy ông trúng thầu về việc đào giếng đã có lợi một vố kha khá. Nhưng Trọng biết là chú chỉ ba xạo, nói láo, để người khác mang ơn mỗi khi họ quảy đôi thùng tới nhà ông mua nước giếng.

                                Ông Sáu sống sung túc, no đầy phủ phê nhờ bà con làng nước nhẹ dạ, ù ù cạc cạc âm âm u u mê tín dị đoan, chẳng biết răn rứa mô tê chi, khi nghe giọng lưỡi ổng ngọt xớt như mía lùi. Ông Sáu với bộ mặt trơ trán bóng nhẵn thín trổ tài “khuyển mã” khá lưu loát, nên có mấy ai biết mình bị lừa đâu. Nhặt ba thứ lá tầm phào đem về, ông cho tà lọt xắt nhỏ rồi trộn lẫn vào nhau, phơi vài ba nắng. Nếu ai cần, ổng bán với giá cắt cổ. Trọng nghĩ câu ca dao: “Chổi cùn cắp nách khăng khăng. Hễ ai hỏi tới, thì văng nghìn vàng”. Thật đúng cho ông chú nhà mình quá sá. Nắng gió trở trời, ai đau đầu, đau bụng, hắt hơi nhảy mũi, họ chạy đến ông nhờ coi mạch. Lúc đó “phồng mang thầy nổ" lên mặt luyện phù chú: chuyện nhỏ mà! Ai đau ốm nặng nhẹ mặc lòng, ổng bắt đàn bà thắt bín đuôi sam. Đàn ông húi cua, ông Sáu nói:
                                - Để tóc dài che mặt, thần linh không thấy tóc "chọt" vô mắt, đỏ mắt, không còn “đôi méc là cửa lộ” của tâm hồn cho thần linh rọi vào.

                                Bà con làng nước nghe “văn chương" của ông thật bùi tai, sao mà thiệt hay đáo để! Đúng là tóc chọt vô mắt, thì tất nhiên phải đỏ mắt rùi, thần linh chắc chả có mắt làm sao mò vô! Có nhiều nông dân bị đau răng, ông Sáu đủng đỉnh đi xe sợi chỉ, ông quấn một đầu chỉ vào cây đinh mười, (đã đóng sẵn trên cột nhà); đầu kia ông cột sợi chỉ vào chiếc răng. Cứ thế, ông Sáu lôi họ ra bẻ răng. Mặc cho họ dùng cả sức mạnh hai bàn tay mình chổng mông để đẫy cái cột nhà. Chẳng hề có thuốc tê thuốc bại cầm máu cầm mủ chi. Họ ré lên eng éc... é..ec..., như con heo bị thọc tiết, máu miệng phun có vòi.
                                - Bựt!
                                Ông Sáu tự hào vỗ ngực:
                                - Xong rồi! Đồ iả cái rẹt! Sơn Đông Mãi Võ nhổ răng còn thua tui hì!

                                Bị ngất xĩu, ông Sáu cho con Nụ gỉa tép sả, bắt thằng cu Út rặn ít nước tiểu, ổng hoà tí muối, và cho bệnh nhân uống. Bị chảy máu cam, ông ta nhét đầy cục tóc rụng vô hai mũi. Bà con muốn ngộp thở. Không còn tóc rụng, ông Sáu thản nhiên kêu con Mót vô sau hè nhà, ổng cắt túm tóc đuôi gà nhu nhú. Tóc con nhỏ càng ngày càng sát da đầu. Nó tức mình chột dạ nhảy đành đạch khóc ngất... Thiệt chịu thua ông thầy chạy! Vì mấy thằng con trai trong xóm cứ đưa ngón tay trỏ quệt quệt vào má lêu lêu chọc quê nó là:
                                - Ê! Hổ ngươi. Cái đồ bóng lại cái... ái nam không có cu, ái nữ không có húm.
                                Thế là con bé khi lớn lên nó mang đầy mặc cảm và:
                                Mặc cho cha đánh mẹ treo.
                                Đứt dây rớt xuống cũng theo chung tình.
                                (1)
                                Bị ghẻ hờm do vắt, đỉa cắn, ký sinh trùng gây ra ngứa ngáy, đau nhức khó chịu, bưng mủ sưng tấy. Thầy Sáu nổ:
                                - Rứa là, do ăn ở không có đức, mà gây ra.
                                Người ấy thẳng thắng lý sự lại:
                                - Ồ, có bốn thứ: Lé, lùn, hô, sún, thì thầy chiếm hết ba rồi. E là do rứa hì?
                                Mắc cỡ và tức mình, không trả lời được, ông để bụng thâm thù. Ông qua mắt đa số dân quê chất phác, gạt họ tin ông như điếu đỗ. Ông nói voi, họ tin voi. Ông vẽ vượn họ tin vượn. Người giàu có hậu tạ xứng đáng, thôi cũng đành. Còn người nghèo khổ bần hàn thì cố sức bán chát, moi móc chạy vạy, mua thức ngon vật lạ, kết cỏ ngậm vành dâng biếu ông xôi chè, lương đăng trà quả. Nhà giàu thêm gà luộc, heo quay, bò tái, bê thui. Sau khi cúng xong, chủ nhà còn biếu thầy hậu hĩ, kèm theo tiền bạc phủ phê rủng rỉnh dằn túi.
                                Chập chập thôi lại cheng cheng.
                                Có con gà trống đem lên hầu thầy.
                                (1)

                                Ông ngồi trong mát ăn bát vàng, moi tiền bạc của dân bằng thích. Tiền họ đưa ông làm ma chay đình đám, ông ngắt nhéo chỗ nầy một ít, chỗ nọ một ít, nhét đầy vào túi quần. Cất tiền trong bóp ông cứ nơm nớp lo sợ. Nằm ngủ trên võng, một mắt ông nhắm, một mắt mở trừng trừng đề phòng mất cắp. Có tật gian trá thì ổng hay giật mình à. Y như rằng có một lần ông mãi chen lấn vào đám Sơn Đông Mãi Võ coi mê tơi, coi say sưa con khỉ cởi xe đạp. Khỉ ăn cắp bánh bao, thì ông bị mất bóp tiền thật, tiền bạc không cánh mà bay vèo đi lúc nào, ở đâu chả rõ. Ông Sáu lạch bạch đi quét dọn, moi móc khắp mọi xó xỉnh. Tiếc của ngẩn ngơ, ông đi kiểu tăng gô xì lô bộp, cha cha cha nửa mùa đau thương với cây chổi cùn luân vũ. Ông hùng hục đi tìm, vừa chửơi đổng. Nghe dễ mất lòng. Dễ đỗ quạu. Dễ xa nhau. Dễ giận nhau. Dễ ghét nhau. Dễ tức nhau. Dễ đánh nhau. Dễ chém nhau! Khổ ghê đi.

                                Chó là điều ông Sáu đại kỵ, vì ông ta đi đến đâu nó sủa rần trời đến đó. Hình như nó đánh hơi biết được ông ta có “lòng lang dạ thú”, giống đồng loài chó sói không như chó nhà, nên “chó nhà má vườn” không tiếc "lời" gâu… gâu… gâu… tố giác? Tiếc thay! Ít ai hiểu bầy chó muốn "nói" gì. Ông Sáu khóc hụ hụ hụ. Đàn chó trong vườn, nghe tiếng chủ la rống, chẳng những hôm đó chúng không sợ chủ đánh đập tàn nhẫn như mọi ngày. Chúng bắt chước đàn chó hùa theo chủ, tru tréo hú họa từng hồi inh ỏi vang làng vang xóm. Thật kinh sợ hết biết cái đời ông thầy dõm, ông thầy cà chớn. Ai khuyên lơn chi, ông cũng lì lợm ù ù cạc cạc ừ hử, như đàn gải tai trâu, ông Sáu khoái chí biết danh ta nổi như cồn ngoài nhà bà Ba Cu. Bà Ba chịu đèn mê ông ta tít thò lò. Bà có nuôi ba con cu, nên họ gọi bà là “bà Ba Cu”. Ừ, thì quả thật bà điệu nghệ có nuôi chim cu hưởng nhàn. Ai muốn hiểu sao thì hiểu. Chả là cũng có mớ đàn ông xồm xoàm buông lời trêu ghẹo đó chớ:
                                Cầm tay, anh nắm cổ tay.
                                Em đừng hô hoán sự nầy mà to...

                                Nhưng mà bà Ba ỏn ẻn có giả vờ ngúng nguẩy hất tay ông kia ra:
                                Bữa cơm múc nước rửa râu.
                                Hầu cơm, hầu rượu, hầu trầu, hầu tăm.
                                Đêm đêm dắt “cụ” đi nằm.
                                Than thân phận gái ôm lưng lão già.
                                Ông ơi ông buông tôi ra.
                                Kẽo người trông thấy người ta chê cười.
                                (1).
                                Thì ông Sáu liền “túm” ba Ba lại:
                                Chỉ đâu mà bịt ngang trời?
                                Tay đâu mà bịt miệng người thế gian.
                                (1)

                                Tuần sau, ông Sáu có dịp "tạo vốn" khác, tiền lời to gấp ba lần số tiền đã mất. Sung sướng quá, lúc ăn cơm, khề khà tợp ngụm rượu đế, ông ta nói nhỏ với người nhà (Trọng ngồi ở trong phòng riêng), nghe:
                                - Mình lồm en với cái bợn đàn bòa, dưới đất chun ra, ngu như con bò tót ni, rứa mà khá dữ đa! Thật sướng rơn người. Nghe mậy! Tiền bạc nẫu lo cho tau đều chi. Không thiếu một hào, một trự. Đôi khi tau bốc phét lên, làm việc ni thầy lo không xuễ. Phải lo cho cấp sư phụ của thầy. Thì Nẫu tin như điếu đỗ đưa tiền cho tau hậu hĩ. Rứa là tau giả đò mẹc áo, rồi ra nhà bà Cu ở lại mấy bữa. Lại ăn chặn bên ni bên tê một ít, có thêm một mớ. Thiệt sướng rơn người. Nghe mậy. Tha hồ cho mạ con chúng bây và tau nỏ sướng run thì thôi:
                                Cái cò là cái cò kỳ.
                                Ăn cơm nhà dì uống nước nhà cô,
                                Đềm nằm lại ngáy o o.
                                Chưa đi đến chợ đã lo ăn quà!
                                (1)

                                Thượng cẵng tay, hạ cẵng chân, cứ thế, ông vơ vét của dân làng hiền hậu ở nơi thâm u cùng cốc, kể cả bà con ruột thịt, không chừa một ai. Trọng nghe ông nói, lòng bỗng dâng lên nỗi yêu thương ruột thịt và nỗi hận dày vò khôn ta, anh càng khinh ghét chú. Trọng muốn đi ra dộng vô mặt ông ta một cái thẳng cánh, và chưởi ông chú một trận. Tới đâu thì tới. Nhưng… nghĩ đi nghĩ lại bứt dây động rừng, vì Trọng thương cha mẹ già quá. Bạn Trọng đã nói:
                                - Đó là thứ tà lọt tò le mách lẻo, hầu đưa xóm làng đến tận cùng bằng số. Không có gì quý hơn chết chóc, điêu linh mút chỉ cà tha.
                                *

                                Trúc suy nghĩ liên miên khi nhìn xuống chóp mái ngói đỏ au của nhà Trọng, cô lại sựt nhớ tới ông Sáu Linh ở trong Xã nầy. Trúc nghe Trọng than thở, cô cảm thấy càng khinh ghét ông thầy hơn Trọng nữa. Hai tâm hồn: Trúc và Trọng đồng điệu, thu hút quyện mắc vào nhau sít sao như cục nam châm trước bối cảnh lịch sử đối nghịch, bất đồng chính kiến trăm phần trăm. Thì làm sao họ yêu nhau, xe tơ kết tóc, xây dựng tình yêu trên quê mình hoang tàn rách nát tơi tả. Từ trong gia đình ra tới làng mạc, quê hương. Làm sao họ yêu nhau đến cuối cuộc đời? Cay đắng - đau xót dường bao! Thôi thì cứ ước mơ:
                                Anh mong ngóng thật sao?
                                Hay là nói tào lao!
                                Thế mà... em cứ ngỡ…
                                Ta "kháo" chuyện hôm nào.
                                Khiến mình thấy nao nao.
                                * Thâu canh hờn, áo não.
                                Trong dạ nghe xôn xao.
                                Đời “nó” chỉ năm hào.
                                Có gì phải… gầy hao.
                                * Nếu yêu, anh cứ bảo.
                                Thẳng thắng như hôm nào.
                                Anh cùng em tâm sự.
                                Tình yêu trao ngọt ngào.
                                * Sạch trong không hư ảo.
                                Thành thật không điêu ngoa.
                                Hai ta chung mái nhà.
                                Tình đẹp như hằng nga.
                                (2)

                                Bỗng đâu, một con khỉ khá lớn, từ trên nhánh cây rừng to nhảy xuống cái độp. Khiến Trúc giật bắn người. Cô chưa kịp hoàn hồn, thì con khỉ xô Trúc ngả lăn ra đất. Nó vội chộp lấy cái nón sắt thoăn thoắt leo lên cây cao. Nó kêu chí choé, khò khè gãi đầu gãi mông tứ tung, nó trắng trợn lỏ mắt nhìn xuống chỗ Trúc đang ngồi, khoan khoái tè ra xè xè, nó chẳng kiên nễ ai. Đội mũ sắt vào, nó ngồi chồm hỗm trên cây, lại chu mỏ kêu chí choé, nó hí hoáy nhảy nhót, chỉ chỏ xuống đất. Trúc điên tiết, không có cách gì dụ con khỉ quăng mũ xuống, dù cô đã mỏi nhừ hai tay lui cui ném đá xuống đất. Con khỉ chả thèm bắt chước. Ở trong vùng chiến tranh con khỉ “nó ma lanh” còn thua ông chú Sáu. Khỉ ta đội nón lính biến mất tiêu trên những tàng cây rậm trong rừng sâu. Ra chiến trường, Trúc không khôn ngoan, không có mũ sắt. Kể như thua rồi.

                                (1) ca = ca dao
                                (2) Thơ vui Tình Hoài Hương
                                ***

                                Tình Hoài Hương
                                Bút trần nào tả được lưu luyến!
                                Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                                Tình Hoài Hương

                                Comment



                                Hội Quán Phi Dũng ©
                                Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




                                website hit counter

                                Working...
                                X