Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Góc Truyện Tình HOÀI HƯƠNG...

Collapse
X

Góc Truyện Tình HOÀI HƯƠNG...

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Thế giới Google (Google Earth) đã công nhận Hoàng Sa của Việt Nam!

    Nguyên văn bởi khongquan2 View Post
    Thế giới Google (Google Earth) đã công nhận Hoàng Sa của Việt Nam!


    Google Earth đã thể hiện Quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam



    Sau nhiều cố gắng của các nhà khoa học Thế giới trong đó có cả chính những nhà khoa học chân chính Trung Quốc, và đặc biệt công sức lớn lao của các nhà khoa học Việt Nam tại Hải Ngoại cung cấp bằng chứng khoa học, sát thực cùng với sự đấu tranh không mệt mỏi đến nay trên Google Earth đã thể hiện rõ quần đảo Hoàng Sa là của Việt Nam chúng ta!

    Phầm mềm Google earth đã thể hiện rõ quần đảo Hoàng Sa là của Việt Nam (Paracel islands belong to Vietnam)

    TRƯỜNG SA VÀ HOÀNG SA THUỘC CHỦ QUYỀN VIỆT NAM
    PARACEL ISLANDS & SPRATLY ISLANDS BELONG TO VIETNAM ...


    Điều này cho thấy chân lý Hoàng Sa là của chúng ta đã được Thế Giới Google (Google Earth) công nhận.

    Nhân dân Việt Nam, bạn bè Năm châu bốn biển hãy cùng nắm tay nhau quảng bá vào xem để đưa rating lên cao, giúp bất cứ ai khi vào google sẽ hiện ra ngay hình ảnh này!

    Tình Hoài Hương đã "Sưu tầm về việc nầy trên internet"




    Hãy Trả Lại TA: Địa Danh VIỆT NAM

    VIỆT NAM cẩm tú sơn hà.
    Địa danh giới phận nước Ta với Tàu.
    Nghìn năm có trước ghi sau.
    Bảng vàng lưu Sử ấy câu tựa là:

    Từ NAM QUAN Ải mình qua
    Trường Sơn chữ S mặn mà VIỆT quê.
    HÀ NỘI - NGHỆ AN phố Huế.
    QUẢNG ĐÀ - BÌNH ĐỊNH ta về NHA TRANG.

    GIA LAI - PHAN THIẾT - PHAN RANG.
    VŨNG TÀU - ĐÀ LẠT - TRÃNG BÀNG - TÂY NINH.
    SÀI GÒN - ĐỒNG THÁP - LONG BÌNH.
    KIÊN GIANG - HỒNG NGỰ - TRÀ VINH - NHÀ BÈ.

    CẦN THƠ - CHÂU ĐỐC - BẾN TRE.
    GÒ QUAU - nghìn dặm AN KHÊ chập chùng.
    BẠC LIÊU nhớ miệt TÚC TRƯNG.
    LONG AN - BẾN LỨC thương hung KIẾN TƯỜNG.

    Ô MÔN - CAO LÃNH - CẦU NGANG.
    U MINH - RẠCH GIÁ - VĨNH LONG một nhà.
    HÀ TIÊN - QUẢNG TRỊ - TRƯỜNG SA.
    CÀ MAU - PHÚ QUỐC vẫn là của Ta:
    ***
    Trả lại đây núi non xa…
    VIỆT NAM vang bóng sử ca nghìn đời.
    Từ ngày “người lạ” đổi thời.
    "HOÀNG SA độn thổ" biến đời quắt quay.

    Bên ngoài thế giới có hay?
    NAM QUAN ẢI mất; đọa đày lắm thay!
    Xế chiều tuổi đã vàng bay...
    Núi sông ngậm đắng nuốt cay ai đòi?!

    Nghìn thu nỗi hận đầy vơi.
    Ước mơ sông núi cuối đời về TA.
    Đồng Bào hỡi! Khắp gần xa.
    Đứng lên giành lại sơn hà VIỆT NAM.
    *
    Tình Hoài Hương
    Last edited by Tinh Hoai Huong; 11-22-2020, 11:59 PM.
    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

    Comment


    • Từ Cổ THÀNH đến NHA TRANG tuyệt diễm


      Từ Cổ THÀNH đến NHA TRANG tuyệt diễm


      Trời xám xịt, ảm đạm với từng cuộn mây đen phủ chụp lấy Cây Cẩy, xe chạy càng chậm như rùa bò khi đến *Cổ Thành, là một quần thể lục giác, có lối kiến trúc quân sự độc đáo, quy mô theo phương pháp Vauban, {do ông kỹ sư Công-binh quân sự nổi tiếng của Pháp: tên Vauban (1633-1707) tên thật của ông là Sébastien Le Prestre} Cổ Thành có hào sâu chắn bờ thành cao 3 mét rưỡi, bên trong thành đắp làm hai bậc cấp rộng và cao. Muốn về Nha Trang phải qua miền Cổ Thành nầy. Từ trong ca dao xa xưa Việt Nam đã có:
      Khánh Hoà biển rộng non cao
      Trầm hương Vạn Giã yến sào Nha Trang
      Tỉnh Khánh Hoà đậm đà mưa nắng
      Non chồng nghĩa nặng nước chứa tình thâm
      Ngọn gió bay phảng phất hơi trầm
      Mây xây tháp bút trăng dầm bến ngân

      Thời xa rất xưa khoảng thế kỷ 17 đã thấy có tên “cửa Nha Trang” do ông Đỗ Bá biên soạn. Một bản đồ ở niên đại cuối thế kỷ 17 năm Giáp Ngọ Niên Bình Nam Đồ của Đoan Quận công Bùi Thế Đạt cũng thấy ghi tên "Nha Trang Hải môn" trong thư tịch cổ Việt Nam có những tài liệu đề cập đến địa danh này. Thời Pháp thuộc Nha Trang chỉ là một “chef lieu”, sau 7 tháng Năm 1937, toàn quyền đông dương nâng Nha Trang lên hàng “commune”, cho đến 27 tháng Giêng 1958 nghị quyết số 18-BNV bãi bỏ chức “thị xã”, do vùng Nha Trang bao la mênh mông từ đất liền, hải đảo, đảo biển chằn chịt, nên miền đất nầy được chia thành Nha Trang Đông & Nha Trang Tây, do Tổng-thống Ngô Đình Diệm ấn ký.

      Nha Trang xa Sài Gòn (441km, tính trên đường bộ, & đi đến Cam Ranh xa 45km). Thành phố Nha Trang duyên dáng thơ mộng nằm trên một đồng bằng khá rộng đã phân hoá và được bồi đắp phù sa bên cạnh sông Cái và sông Quán Tường rồi nước chảy ra biển cả:
      Suối Tiên nước chảy lững lờ
      Tiên đi đâu, để bàn cờ rêu phong
      Nước mây vắng vẻ tăm mòng
      Bền gan nay vẫn rày mong mai chờ (cd)

      Ven biển Nam Trung Bộ thuộc Tỉnh KHÁNH HOÀ (& thành phố Nha Trang) phía Bắc giáp Tỉnh Phú Yên, gần sát nách là Ninh Hoà. Nam giáp Tỉnh Ninh Thuận. Tây là sườn Đông của dãy trường sơn giáp Đắc Lắc & Lâm Đồng. Đông giáp biển Đông. Biển Khánh Hòa trong đó bao gồm cả quần đảo Trường Sa nằm ở điểm cực Đông Việt Nam. Tóm lại Nha Trang là một thành phố rất thuận tiện về mọi mặt, là vị trí địa lý tiện nghi trên đường thủy, đường hàng không, & trục giao thông đường bộ qua quốc lộ 1C, quốc lộ 1 A quan trọng xuyên qua mọi miền đất nước Việt Nam khá thuận lợi. Quốc lộ 26 nối Khánh Hòa Đắc Lắc và các tỉnh Cao Nguyên Trung Phần. Ngoài ra có hệ thống xe lửa nối dài từ Phan Rang chạy xuyên qua các miền tới Cà Mau & đồng thời ra tới Bến Hải. Khánh Hòa có nhiều hải cảng và phi cảng náo nhiệt, đông đúc, đồ sộ, thì đã có:
      Ông Trần Đường giữ đèo Dốc Thị
      Ông Trịnh Phong trấn nơi biển Cù
      Ông Nguyễn Khanh lo việc quân nhu
      Ba ông một bụng nghìn thu danh truyền (cd)

      Từ Cam Ranh đi tới NHA TRANG về hướng Bắc tuyệt đẹp với miền cát trắng mịn đầy hấp dẫn... là một tiềm năng khá tốt mang tính chất nhiệt đới gió mùa nên khí hậu ôn hoà trung bình 25/oC & đại dương thông thoáng, thênh thang, bao la, mênh mông do thế mùa Đông chỉ se lạnh, mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 (thường là ba tháng), mùa hè mát mẻ hơn các vùng khác. Biển gần sát thị thành, nên dù mùa khô nhưng khí hậu dễ chịu.
      Anh đứng ở Nha Trang
      Trông sang xóm Bóng
      Ánh trăng lờ mờ, lượn sóng lăn tăn
      Gần nhau chưa kịp nói năng
      Bây giờ sông cách, biển ngăn ngại ngùng!
      Biển sâu con cá vẫy vùng
      Sông sâu không dễ mượn dòng đưa thư
      Anh nguyền cùng em:
      Bao giờ Hòn Chữ bẻ tư
      Biển Nha Trang cạn nước, anh mới từ duyên em. (cd)

      Phố biển thơ mộng của Tỉnh Khánh Hòa đã nở hoa đèn thì có nhiều cặp tình dìu nhau lượn ven biển: chàng Hải Quân áo xanh áo trắng hiên ngang, cùng nàng thiếu nữ mặt hoa da phấn, tay trong tay họ âu yếm cười vui trên đường thênh thang. Hợp với anh Không-Quân hào hùng, áo bay xám áo bay vàng cam cùng với em kiều diễm thủng thỉnh dạo bước dập dìu thuở xuân tình, khiến thành phố biển càng nôn nao xao xuyến ngẩn ngơ thi vị thay:
      Bãi biển Nha Trang mịn màng trắng trẻo
      Nước trong leo lẻo, gió mát trăng thanh
      Đêm đêm thơ thẩn một mình
      Đố sao cho khỏi vương tình nước mây. (cd)

      Mưa bụi mù mù bay bay nhạt nhòa trong bóng tối mờ mờ. Ngoài xa xa ngư thuyền tấp nập nhấp nhô trên sóng, những chùm đèn câu mực nhỏ li ti long lanh khi tỏ khi mờ. Thuyền lênh đênh trên mặt sóng, không hiểu vừa vào bến đỗ, hay đang ra khơi nơi Hòn Tre như bức lũy thành ngăn gió đại dương, bãi cát phẳng lì, tơi mịn dưới làn nước mát rượi. Nào Đồng Muối Hòn Khói, Hòn Hèo, Hòn Son, Hòn Bà… Hòn Yến. Hòn Tằm... Vân vân… Ôi sao có bao nhiêu là "Hòn”... nhỉ!?
      Đứng ở Hòn Chồng, trông sang Hòn Yến
      Lên Tháp Bà, về viếng Sinh Trung
      Giang Sơn cẩm tú chập chùng
      Đôi ta gắn bó thủy chung một lòng (cd)

      Phố thị hải dương thơ mộng, nhiều đại lộ khang trang sạch sẽ dẫn ra Xóm Cồn, Xóm Bóng, Xóm Mới. Nhà cửa, ghe thuyền tấp nập dưới ánh mặt trời. Biển xanh thẳm màu ngọc bích lóng lánh, dạt dào sóng vỗ vào mỗi buổi hoàng hôn hay bình minh. Miền cát trắng thơ mộng với đá granit, đa số cư dân là người Kinh, kế đến là dân tộc Hoa, Raglai, Gietiêng, Eđê, Tày, Chăm. Họ sinh sống trên đất cát, cồn cát.

      Ven biển đất mặn có phèn, đôi vùng có đất xám bạc màu. Tuy thế tài nguyên biển rất phong phú cho ta nhiều hải sản quý: sản xuất cả vạn tấn muối. Tôm giống, tôm thịt. Chim yến. Rừng Khánh Hòa có nhiều loại gỗ qúy hiếm: lim, hương, pơmu, trầm hương, kỳ nam... Khoáng sản: cát trắng, nước khoáng, than bùn, cao lanh, imenhich, đá granit. Ngoài phong thổ thuộc về nơi thắng cảnh hữu tình và du lịch, Nha Trang còn là nơi sản xuất dồi dào nhiều loại thủy hải sản, tôm giống. Trại nuôi trai trên biển lấy giống, lấy ngọc. Có những trang trại: sản xuất đường mía, bia, nước ngọt. Thủy tinh kính phẳng. Khu công nghiệp Agar, Alginate. Công xưởng đồ sộ đóng tàu, thuyền, ghe:
      Khánh Hoà là cái xứ trầm hương
      Non cao biển rộng người thương đi về
      Yến sào mang nặng tình quê
      Sông sâu đá tạc lời thề nước non

      Nha Trang có Tháp Bà, Hải Học Viện (Ngư nghiệp Đông Dương năm 1922) là Viện Hải dương học Nha Trang chuyên nghiên cứu về biển & động vật trong biển. Trường SVSQ Hải Quân. Trường SVSQ Không-quân. Bãi Dâu, Bãi Cát Tiên. Viện Pasteur (1891) lớn nhất do chính bác sĩ Yersin thành lập. Ông Yersin sinh tại Pháp, cha ông là người Thụy Sĩ, mẹ người Pháp. Ông Yersin lớn lên thi đậu tiến sĩ, ông viễn du đến Việt Nam, tận tụy cống hiến đời mình cho khoa học, thành công trong việc trị bệnh dịch hạch. Ông là một trong những nhà thám hiếm đầu tiên khám phá ra thành phố Đà Lạt thơ mộng. Theo di chúc mộ ông xây đơn giản, người ta liệm ông nằm sấp, mặt ông gục xuống ôm chặt đất Việt Nam vô lòng, đầu quay về hướng biển: Alexandre Yersin – 1863 -> 1943, ở khu Suối Dầu. Nơi miền đất Việt Nam thân yêu nầy, là quê hương thứ hai của ông Alexandre Yersin. Kính trọng & ngưỡng mộ lắm thay!

      Tháp Bà đồ sộ xây bốn tầng, là một kiệt tác từ thời vua Chàm Harivácman, xây năm 813 đến 817 mới hoàn tất vào ngày 20 đến 23 tháng 3 âm lịch, tại Tháp Bà đây có lễ hội tưng bừng náo nhiệt đông đúc vô cùng để tưởng nhớ nữ thần Po Ino Nogar, ca ngợi mẹ tạo dựng ra xứ sở Chăm. Họ cầu xin an cư lạc nghiệp:
      Ai về xóm Bóng quê nhà
      Hỏi thăm điệu múa Dâng Bà còn không?

      Dưới chân tháp Bà là xóm Bóng đầy dẫy ghe thuyền chi chít lênh đênh bềnh bổng trên sóng nước. Hòn Chồng như một quần thể hải đảo xinh xinh, xếp lớp những khối to lớn nằm chông chênh trên khối nhỏ xiu xíu. Trên một khối đá lớn có in dấu một bàn tay to dị thường. Tương truyền rằng: thuở xưa có một ông khổng lồ ngao du sơn thủy vô tình ghé tạt qua đây, ông ta tình cờ nhìn thấy bầy tiên nữ đang vui vẻ tắm và đùa giỡn nơi sóng nước trong xanh, ông ta say sưa nhìn ngắm họ mãi mê, đến nỗi ông ta bị trợt chân té xuống biển. Ổng liền chụp tay ở tảng đá nầy, mà “bò” lên và trở thành “hòn chồng”. Mấy cô tiên hoảng hốt chui vô hốc đá, hóa ra “hòn vợ” nép mình bên Bãi Dương trải dài thật nên thơ xiết bao. Ha ha! Thế thì:
      Bao giờ Hòn Chữ bể tư
      Biển Nha Trang cạn nước anh mới từ nghĩa em
      Trai gái yêu nhau mượn hình ảnh con đèo,
      cái hòn để tỏ tình, thề thốt.
      Anh thương em đặng nghĩa vuông tròn
      Mấy sông cũng lội mấy hòn cũng qua (cd)

      Sau một đêm ăn cơm với thức ăn đặc sản, miền duyên hải tuyệt ngon và rẻ:
      Yến sào hòn Nội
      Vịt lội Ninh Hoà
      Tôm hùm Bình Ba
      Nai khô Diên Khánh

      Cá tràu Võ Cạnh
      Sò huyết Thuỷ triều
      Đời anh cay đắng đã nhiều
      Về đây ngọt sớm, ngon chiều với em. (cd)

      Khoai lang hòn Chúa
      Đậu phụng hòn Dung
      Chồng đào vợ mót đổ chung một gùi. (cd)

      Hai mẹ con vào ngủ trong khách sạn Hoàng Yến. Suốt ngày ngồi trên xe chật chội, một chân thòng xuống nền xe, một chân co lên ghế, cằm tựa trên đầu gối một cách phiền não, tôi quá mỏi mệt, tê buốt. Mong sớm hết một ngày đi đường xa nhọc nhằn, nên vừa tắm rửa xong, leo lên giường, thì hai má con liền thi nhau ngáy khò khò, ngủ một giấc dài đến năm giờ sáng, không cựa quậy.
      *
      Tình Hoài Hương

      (* cd= ca dao)

      (*) Từ năm 1960 -> đến năm 1975 - bối cảnh ở thời điểm nầy hầu như ít thay đổi. (Hoài Hương đã điều chỉnh bài viết từ "Soạn Bài Dạy", & trích đăng trong truyện dài "Khi Định Mệnh Cúi Nhìn" cùng tác giả).
      Rất trang trọng và chân thành cảm ơn qúy vị nhạc sĩ & nhiếp ảnh gia đã post hình trên internet, tôi xin mạn phép chuyển tải nhạc & hình, (nếu có copy right) vô bài viết, ngỏ hầu tăng thêm phần phong phú hóa nhạc & hình ảnh sống động từ tài nghệ độc đáo của qúy vị; qua quê hương Việt Nam cẩm tú của chúng ta. Đa tạ!
      Tình Hoài Hương
      Last edited by Tinh Hoai Huong; 07-16-2020, 03:52 PM.
      Bút trần nào tả được lưu luyến!
      Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
      Tình Hoài Hương

      Comment


      • Sự Hổ Thẹn của “Mít Đót”


        Tháng Tư Đen
        Nhạc: Trần Lê Việt
        Lời: (LT) Lê Xuân
        Tiếng hát: Việt Long
        Sự Hổ Thẹn của “Mít Đót”


        Như đã có lần tôi hầu chuyện cùng quý vị rồi; nay tôi xin thưa tiếp: Từ đời tam cố đại xa xôi… thuở trăng sao hoa lá lao xao đong đưa còn tươi rói trên cành, thì dòng họ tôi giàu sang danh giá tri thức ra phết! Thế nên tôi danh chính ngôn thuận là một “công tằng mỹ nữ” cao sang, qúy phái và đài cát, được yểu điệu vác cặp, ung dung tự do tự tại theo thầy học... nào là: Tam cương (vua và tôi, cha và con, vợ và chồng). Ngũ thường, gồm: Nhân: (lòng thương người). Lễ: (những phép tắc). Nghĩa: (có tình nghĩa, lẽ phải đạo con người). Trí: (sự hiểu biết, khôn ngoan). Tín: (không gian dối, giữ đúng lời, có uy tín). Do đời sống ở trong đại gia đình mình quá đầy đủ, nên tôi không thích bất cứ thứ gì. Vậy mà mấy tay anh chị ngoài Bắc các bác, mới vô Nam lại mê tít thò lò:
        Đeo đồng hồ hai cửa sổ không người lái,
        Mở truyền hình kênh phát sóng thông tin.
        Ông cán bộ đang “quy hoạch” quy trình,
        Đang báo cáo tình hình năm nay tốt.
        Chị “quán triệt phương án” từng chút,
        Rồi xuống nhà, “hồ hởi” uống cà phê,
        Kiểu cái nồi ngồi trên cái cốc chị mê,
        Xong đâu đó, chị chiên con sâu mỡ. (1)

        Nguyên do:
        Tuy thất thoát thật to, lại được coi là cái lỗi rất nhỏ.
        Vì thế VIỆT NAM ta, từ từ biến thành một đất nước nho nhỏ.
        Trong cái đất nước nho nhỏ, lại có những ông lãnh đạo thật to.
        Trong những ông lãnh đạo thật to, lại có những cái đầu quá nhỏ.
        Những cái đầu quá nhỏ, lại có những túi tham thật to.
        Những túi tham thật to, lại có những hiểu biết rất nhỏ.
        Và những hiểu biết rất nhỏ, lại gây hại cho đất nước thật to. (2)

        Bây chừ, trước tiên: gia đình tôi sau ngày 30-4 đã vô phúc rơi vô… “hang ổ gốc mít đót” (bà con lối xóm ám chỉ cả nhà tôi thấp hèn, chuyên môn nghề đi “mót… đít”). Cũng phát sinh nguyên thuỷ từ chữ: “Phú Lăng Sa A Na Mít” mà ra đấy! Số phận tôi quá vô duyên, vô phước, bạc bẽo bị lọt… vào khu 18 thôn vườn trầu làm chi, mà nay rơi tủm xuống tận đáy xã hội khốn cùng, nơi toàn thứ dữ… có cán bộ nồng cốt:
        Cái xứ gì đâu chán gớm ghê
        Thịt thà lãnh đạo đớp ê hề
        Thằng dân rau cỏ và khoai sắn
        Ăn để mà sống, chẳng dám chê (*)

        Bằng hai bàn tay búp măng xưa, nay thô cứng, tôi trở thành dân ruộng đi vét rạch, đào kinh dẫn thủy nhập điền: Trồng thơm, trồng mía, trồng ngô, khoai, trồng dưa leo, trồng bí bầu… Ôi! đủ thứ trồng trồng, trọt trọt, trỉa trỉa... hầm bà làng xí cấu, tùm lum tà la; vẫn không xong: mặc dù vất vả khó nhọc trăm bề, tôi luôn nuôi hy vọng, ước ao xây mộng: "mình sẽ trở về với thời huy hoàng xa xưa chút xíu". Dù chỉ là mơ mộng thế thôi, vẫn không thể. Vì:
        Người con gái hôm nay mặc quần đỏ
        Vì hôm qua đã mặc chiếc quần đen
        Đen và đỏ là hai màu rồi đó
        Cũng như đời, đường hai nẻo xuống lên
        Người con gái hôm nay mặc quần trắng
        Vì hôm qua đã mặc chiếc quần hồng
        Hồng và trắng là hai màu bẽn lẽn
        Cũng như núi và rừng đều rất mực chênh vênh.
        Người con gái hôm nay mặc quần tím
        Vì hôm qua đã mặc chiếc quần vàng
        Vàng và tím là hai màu mỉm miệng
        Mím môi cười và chúm chím nhe răng
        Người con gái hôm nay mặc quần rách
        Vì hôm qua đã mặc chiếc quần lành
        Lành và rách đều vô cùng trong sạch
        Bởi vì là lành rách cũng long lanh (Bùi Giáng)

        Tôi mới mấp mí kề tuổi "hâm" mà tưởng chừng như mình đã già khọm tới tuổi “sáu bảy mưi” ; nên tôi chỉ muốn bước xề tới hố tử thần! Khi người ta tới tuổi 40 thấy chết còn xa, 50 thấy chết từng năm, qua 60 thấy chết từng tháng. 70 thấy chết từng ngày. Ai thọ tới 80 nói: "chết là hết". Vậy mà tôi đếm cái chết từng ngày, từng tháng; khi tôi mới tới tuổi "hâm đi hâm lại"?! Tôi cứ bắt chước Adam và Eva trong vườn “địa... ngục tân thời”, hoặc giống ông bà thuỷ tổ loài người cổ đại tiền sử, thiệt giống lũ khỉ đột, là xong ngay một đời thê nữ trong căn nhà hoang phế, dưới tận đáy xã hội chủ nghĩa, không thèm muốn ước ao gì hết. Thôi cũng đành!

        Vấn đề: tự-trọng. Danh dự. Sự hổ thẹn hay liêm-sỉ -ở thời buổi 1975 - 1995 nầy- là cái quái gì! Âu chỉ là lớp sơn đỏ mỏng dính, hào nhoáng phết phủ bên ngoài, để che đậy lớp rỉ sét khô mục thối um ở bên trong. Lòng tôi chùng xuống, hội nhập với bao phiền não đắng cay. Lo âu. Khắc-khoải. Hãi hùng về vấn đề gạo cơm, tạm trú tạm vắng. Hơn là chuyện... không có ăn mà ở lỗ. Thật ra, ở nơi nầy hầu như ai ai cũng chả có “tấm mền lá” như ông "Trần Minh khố chuối" thời tiền sử đã dùng lá che bụm chim. Thì; ngày nay hơi sức đâu tôi còn nhớ đến sĩ diện nữa không biết! “Thấp thỏm” chi, mà mình nhớ tới chuyện “ruồi bu bên đít” í hỉ! Sau khi Việt Nam đã mang "ranh rự" bởi danh ngữ hoà bình, tự do, thống nhất, độc lập rồi, thì thế giới tự do dân chủ của người Việt Nam mỗi ngày một gò bó, teo tóp co rút lại. Việt Nam biến thành một nhà tù bao la khổng lồ, dài lê thê, dài ngoẵng. Sự tù đày trong ngục tù "cải tạo" vô cùng trắng trợn dã man, gông cùm, đói khát, chết chóc từ Ải Nam Quan xuôi miền Bắc, chạy dọc xuống miền Trung, lan tràn đến miền Nam, chạy ra tới biển cả trùng dương trên các đảo Phú Quốc. Côn Sơn… Đâu đâu cũng có muôn trại tù “học tập cải tạo” nườm nượp mọc lên như nấm.

        Ai chết mặc ai! Đảng và nhà nước có công “giải phóng dân miền Nam thoát khỏi nanh vuốt Mỹ”, thì hoà bình, thống nhứt từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mau... rồi đất nước sẽ có tự do, là “nhức nhĩ”. Kế đến, đảng uốn nắn con người trong chế độ tư sản mại bản phải “đổi mới tư duy”, “cải tạo tư tưởng”, “cách mạng toàn diện” một con người mới, không phải chỉ một sớm một tối; là xong đâu nhá. Mà phải kiên trì huấn luyện trường kỳ, dẽo dai dài hạn: “mười năm trồng cây, trăm năm trồng người” đấy là gì! Người dân ở vòng tù ngoài chẳng hơn gì trai tráng trí thức ở tù “cải tạo” bên trong. Ở vòng ngoài nôn na gọi là “tù ngoài địa bàn xã hội chủ nghĩa", nhiều người được "mở mắt ra" liền kiếm đủ cách đi vượt biên bằng đường bộ, đường biển, tìm tự do trước cái chết, vẫn hơn sống thấp thỏm trong quê hương xiết đổi kinh hoàng:
        Chung quy chỉ tại vua Hùng
        Sinh ra một lũ dở khùng dở điên.
        Đứa khôn thì đã vượt biên.
        Những thằng ở lại chả điên cũng khùng.
        Bác Hồ chết phải giờ trùng
        Nên bầy con cháu dỡ khùng dỡ điên.
        Thằng tỉnh thì đã vượt biên.
        Những thằng ở lại nửa điên nửa khùng.
        … Trung kỳ có những thằng khôn,
        Nó đi cửa trước nó luồn cửa sau.
        Suốt ngày cứ nghĩ làm giàu
        Nó đi đúng chỗ, nó thâu đúng người
        Nghị quyết nó thuộc mười mươi
        Nhưng chỉ xử dụng những nơi nó cần. (1)
        ***
        Chúng tôi đã rớt xuống vực thẳm sâu hun hút, úp mặt xuống tận đáy xã-hội chủ-nghĩa. Dẫu vậy, các con trai tôi học hành ưu tú, xuất sắc. Hai con lớn dưới mười tuổi, nhưng ba giờ sáng các con đã thức dậy, lo chạy bộ đến lò bánh bò, lò cà rem, xa khoảng bốn cây số. Các con ngồi co ro cúm rúm ngoài vỉa hè, để chầu chực khi chủ mở cửa, con hy vọng có hàng bán chạy rong mời khách. Tháng nắng ngày mưa các con đều khổ cực lầm than như nhau. Ngày ế-ẩm, bánh bò bị thiu, cà rem chảy nước, chúng tôi lặng-lẽ ngồi ở góc nhà, nhịn khát, nhịn đói, khóc thầm. Vì chồng, cha, là lính “ngụy” bị ở tù “cải tạo” (tôi dùng chữ "cải tạo" phải có hai ngoặt kép). Ai dám giúp! Nhưng, thiệt khổ là hầu như đa số dân lành cũng không có ăn, không có mặc, thì lấy gì mà ai giúp ai!?

        Ba năm sau, thì con trai đầu Dzũng và con trai kế Tuấn mỗi buổi sáng các con nhịn đói đi học, trưa ăn qua loa tí khoai sắn cầm hơi, rồi hai con đi bán bánh bò, cà rem, tối tối con trai trưởng theo chủ ra tận Long Khánh, Hàm Tân, Phan Thiết… con cùi cụi vác trấu thuê, vác bó mía thuê. Con leo lên nóc nhà dỡ tôn, dỡ nhà, do chủ là bạn của Luật mua, chủ & tớ dù chẳng phải là mua thứ đồ lậu quốc cấm gì, đã nộp thuế ở các trạm thu ngân, mà vẫn lén lút đem đi Sài Gòn bán. Con làm bất cứ việc gì dù nặng nhọc, khổ sở, miễn sao con có tiền đem về cho mẹ mua gạo, để nuôi nhau sống lây lất qua ngày. Ngày hè không đi học, các con nhịn đói phải đi nông trường Nhị Xuân lo trồng thơm, trồng mía không công cho nhà nước. Hoặc con làm dân công thủy lợi đi đào kênh rạch trên Lê Minh Xuân. Tối về, đảng phát cho một tờ phiếu, dân tự vét tiền túi ra mua gạo, mua mắm (dĩ nhiên!). Rồi năm sau con trai thứ ba Huy vác thùng cà rem theo hai anh đi bán, khi thùng mút đựng cà rem cao tới ngực con. Bán cà rem ngày càng ế-ẩm hơn, vì chỉ có mấy bộ đội thích ăn cà rem bỏ trên cái dĩa cho chảy nước ra. Người dân “thắt lưng buộc bụng” không dám ăn thứ “cà lem xa xí phẩm” ấy. Các con tôi luôn đem bánh bò bị thiu, cà rem chảy về, ăn trừ cháo. Riết rồi cụt vốn, hết sạch trơn tiền vốn, dù một thùng cà rem tiền vốn vỏn vẹn chỉ có năm đồng. Năm đồng (tiền Hồ) rất khiêm nhường eo hẹp vẫn không có, thì nói gì gia đình tôi có tiền lời nhỏ nhoi, để độ nhật qua ngày! Thế là đói rã ruột:
        Từ khi ta có bác Hồ.
        Nhân dân chẳng được ăn no ngày nào.
        Lương chồng, lương vợ, lương con.
        Đi ba buổi chợ chỉ còn lương tâm.
        Lương tâm đem chặt ra hầm.
        Với rau muống luộc khen thầm là ngon. (2)

        Các con đi học luôn luôn đứng đầu lớp, nhưng con vẫn đi bán cà rem phụ mẹ lo cho gia đình mình, mẹ cảm động và thương các con yếu ốm biết ngần nào! "cả nhà ta" đều là "dân chuyên nghiệp bán cà rem" nhưng trong Huyện nầy chẳng có ai bì kịp việc học, việc làm của các con, vì các con kiếm sống bằng một nghề lương thiện và trong sạch, chính đáng ở chỗ các con dù đã khôn lớn, nhưng các con đi bán khi gặp bạn "đồng môn" vẫn vui tươi, hiền hoà, thân thiện, các con chẳng hề cảm thấy xấu hổ, vì nghề "bán cà rem" thấp hèn. Mẹ chân thành cám ơn và trân trọng biết ơn, ghi ơn các con, mẹ rất hãnh diện vì từ thuở nhỏ các con đã nên người hữu ích. Mẹ mong rằng:
        Phượng hoàng ở chốn cheo leo.
        Sa cơ lỡ vận phải theo đàn gà.
        Bao giờ gió thuận mưa hòa.
        Thay lông đổi cánh lại ra phượng hoàng. (1)
        ***
        Mót nhặt những bọc ni lông đựng tạp uế thì ôi thôi: ở bên trong đựng đủ thứ tanh hôi lúc nhúc dòi bọ, bẩn thỉu dơ dáy vô cùng, chỉ nghĩ lại vẫn muốn ói ra mật xanh mật vàng. Nhiều lần mấy mẹ con phơi bọc ni lông ngoài cánh đồng khô trời nắng chang chang, bị cơn gió lốc xoáy cuốn thốc mọi thứ lên trời, bọc ny lông bay tứ tán tản mác khắp nơi. Chúng tôi đứng dưới đất, dậm chân, bứt tóc, vò đầu, ngửa mặt nhìn lên mà khóc rống giữa bầu trời bao la. Tôi hận trời hận đất quá “ác”: Trời sáng và trời tối không phải là đối địch nhau, mà để toả sức sống cho nhau. Dù thế nhưng tại sao đối với cảnh khốn cùng nầy, tôi đau khổ thế nầy, nên hậm hực nói: "Trời ác làm vậy"! Ông không chừa cho tôi một lối thoát! khi ông làm mưa giông sấm sét, vô tình đánh chết ai đó, thì không ai mở miệng nói:
        - “Trời ác”. Trái lại người ta chỉ đổ tội: do “người ấy ác”, mới bị Trời đánh, Trời hành. Bi giờ thì sao đây?

        Người khôn của khó, vì miếng cơm manh áo, dần dần nơi ruộng lúa có đầy người chết đói trong khu xóm C, cũng bắt chước mẹ già con thơ chúng tôi, họ kéo nhau ùn ùn nườm nượp lẽo đẽo đi theo bà cụ “mót” đủ thứ. Thế nên ruộng đồng ngày càng khan hiếm, không còn con cá lòng tong, chả có con cua, con cáy, con ếch, con nhái, con dế, cào cào… nào sống yên. Hạt lúa rơi, rau, củ, v.v… đều sạch trơn, chẳng còn chi, chớ nói “hạt ngọc lúa” Trời ban, mà buồn. Ngậm nhúm cháo trong miệng, ít khi tôi nuốt trôi, hai hàng nước mắt tuôn trào!

        Hồi xa xưa lúc cha mẹ tôi phú qúy, vinh sang, có nhiều lần tôi theo ba tôi đi qua Lào, Miên, đi cả Thái Lan. Ba tôi là danh y thuở ấy, ba đi ra ngoại quốc học hỏi thêm về y học nước ngoài, chính ba tôi đã trị bệnh cho vua Lào, vua Cao Mên nơi xứ người. Tuy còn quá nhỏ nhưng có trí khôn, tôi đã có dịp nếm thử: Nhứt điểu. Nhì ngư. Tam xà. Tứ tượng, ui chà ngon hết sẫy, ngon nhức nhĩ. Bi chừ nhớ lại tôi vẫn thèm. Ngày nay thì tôi đã già kinh nghiệm: “Nhứt sĩ, nhì nông, hết gạo chạy rông. Nhứt nông nhì sĩ”! Vì:
        Ai sinh ra cái củ mì?
        Hỏi: Để làm gì? Đáp: Để mà ăn!
        Nước nhà mãi mãi khó khăn.
        Dân mình mãi mãi phải ăn củ mì.
        . . . Đảng béo mà dân thì gầy.
        Độn bắp, độn sắn biết ngày nào thôi?
        Nhân dân thì chẳng cần lo.
        Nhà nước lo sẵn bo bo mỗi ngày.
        Hãy chăm tay cấy tay cầy.
        Nhịn ăn nhịn mặc chờ ngày vinh quang. (2)

        "Mẹ già con côi" làm việc bần cùng tệ mạt đến thế, đôi bàn tay, bàn chân cả nhà tôi bắt đầu ngứa rần rần, sưng húp, phù to, chảy máu đỏ loét, vì mót nhặt bọc ni lông dơ bẩn! Sự dơ bẩn tầm thường nhứt ở tận đáy "xã hội chủ nghĩa Việt Nam": đã ăn sâu vô da thịt, tổn thương trầm trọng đến đời sống tôi quá rùng rợn. Đôi bàn tay, bàn chân của tôi sần sùi, tê nhức, bại xuội, càng cảm thấy đau đớn; đau đớn vì tuyệt vọng, hơn vì thê thiết khốn đốn, hoặc ruột gan cồn cào đói khát. Mất hết rồi thuở “trăng sao hoa lá thơ thẩn ngự trong hồn". Có chăng là còn những đêm không đèn nến ngồi ngoài trời: hai bàn tay quơ đập lia lịa mà muỗi vẫn vo ve từng đàn bu quanh vô người đốt thỏa thích, rồi mấy nơi bị ngứa rần, mình phải gãi cho đã, lại sưng u to, biến dạng ra ung mủ dày cui. Thú thật là do:
        Đôi dép râu dẵm nát đời son trẻ.
        Nón tai bèo che khuất nẽo tương lai. (2)

        Nơi vùng đất phì nhiêu màu mở xưa kia trù phú là thế, nay nghèo nàn cằn khô nóng bức; lại là nơi có quá nhiều ruồi, gián, muỗi, rệp, rận chí... bu quanh bòn rút hút máu người khô đét ốm tong ốm teo, chả ai có chất dinh dưỡng. Nhà nào cũng chứa nước trong cái chum đen đen không nắp đậy, những con lăng quăng lặn xuống đáy chum nhiều vô số. Bọn trẻ nghèo thường làm cái vợt vải mùng, để vớt lăng quăng cho mấy con cá bảy màu, cá ba đuôi ăn, (chúng bòn nhặt nhịn ăn dành dụm từng xu, để mua ít con cá sống, mà làm trò giải trí nhỏ nhoi). Trong chum có loại côn trùng màu đỏ huyết mình nhỏ như sợi chỉ, một đầu nó bám chặt vô chum, một đầu kia ngúc ngoắc theo nước lượn sóng nhấp nhô, thấy mà sợ! Tôi không dám xài cái chum đựng nước dự trữ lâu ngày. Muỗi lại truyền cả xóm bệnh sốt rét, mà thuốc ký ninh không có. Ai đau bệnh gì, khi đi khám bệnh cũng chỉ dùng: lá sống đời, xuyên tâm liên, hoàng bá, cắt cánh, hay cam thảo, là đại sang rùi.

        Đa số dân hầm bo bo mất cả buổi lại tốn nhiều củi, bo bo ăn cứng thay cơm, vì nhà nước không bán gạo, nên ta đành làm "dân niên xô" (Liên Bang Xô Viết) ban đầu trên loa phóng thanh kêu cả Ấp đi mua bo bo, ai nấy đều cảm thấy hí hửng mừng rỡ như vớt được của lạ! Bởi lẽ là chưa có ai từng thấy bo bo bao giờ! không ai biết cách xử dụng, nấu nướng quá mất thì giờ. Về sau người nầy truyền khẩu, truyền tai cho người kia biết, phải xay bo bo mà nấu nướng pha chế đủ thứ kiểu, nếu chê bo bo thì đói rã rời, chịu sao nỗi! Nhưng phải là "dân thứ xịn" cơ! nghĩa là "ta lao động tốt" mới có tem phiếu mua bo bo à nha. Thế là món bo bo hầm nguyên hột với muối, ăn chán & chê, vì khó nuốt và không hợp khẩu vị với dân Việt Nam. Bo bo đem đi ra máy xay lúa xay nhuyễn thành bột, về nhà nhồi nước sôi cán bột thành từng lá mỏng, xắt thành sợi nấu cháo bánh canh + muối. Khi tôi khuấy bột bo bo làm bánh xèo ăn với rau chắm nước muối, sang tí thì có nước mắm ớt tỏi đường. Có nhiều lần tôi vo viên bột bo bo, giả làm bánh bao, xíu mại là những hột đậu phụng và ít củ sắn (củ đậu). Ăn bo bo không ngờ nó lại bị nóng kinh khủng, không như gạo nấu thành cơm, hoặc bột gạo. Vì thế ai nấy đều sinh ra ghẻ lở tùm lum, ai ai cũng bị nóng ruột nóng gan cồn cào, rôm sảy, ghẻ ngứa, lở loét, da thịt mủ nhớt nhờn chảy ra rít rít lầy lụa, hôi tanh khắp thân thể. Nhứt là ở mấy đầu kẽ tay, kẽ chân mông háng thì… bầy nhầy máu mủ, kinh khủng lắm.
        Thuốc điếu phải mua bông.
        . . . Hết gạo ăn bo bo.
        Học trò không có tập.
        Độc Lập với Tự Do .
        Nằm co mà hạnh phúc! (2)

        Kể cả “cán bộ bạn dân” cũng ngứa ngáy, khó chịu nhức nhối, họ đứng ngồi nhúc nhích không yên khi "họp hành bầu bán"! Nay tôi mới hiểu tại sao trước khi tôi "bị"... thì "mấy ổng mấy bả" đã được đảng "ưu tiên" phát bo bo cho ăn trước dân, nên bi giờ họ càng "lậm", như chó thiến bị nhét mãnh chai, như đứng trên tổ kiến lửa, họ ngồi họp hành, thì hai tay bận móc móc, gãi gãi ở chỗ ngứa lia lịa, quỉ tha ma bắt thiệt! Càng gãi càng ngứa rần! Hai tay liên tục đánh đờn… bùm búm bum… tằng tắng tăng... từng tứng tưng... và vỗ muỗi như vỗ cái trống cơm bộp bộp bộp riết… Từng đám da sần sùi đỏ ửng, từng cục máu mủ lầy nhầy, sưng húp. Bầy ruồi o o o… bu quanh người có ghẻ chóc tha hồ hút máu mủ, rồi chúng lang thang bay đi khắp bốn phương trời, tha bệnh truyền nhiễm sốt rét lây qua cho kẻ khác càng mau ác liệt hơn.

        Ngao ngán nhìn nhau lợm giọng muốn ói và muốn nổ con mắt. Kinh tởm quá! Hầu hết mọi người trong xóm nghèo của tôi đều bị ghẻ chóc. Nạn chuột, gián, ruồi, muỗi, rệp, chí, rận: thì ôi thôi sinh sôi nẩy nở lúc nhúc, tràn lan! Chẳng có cách gì tiêu diệt chúng! Ai cũng như ai “cùi” rồi không sợ “hủi”; nên “ta” hết co ro cú rú, hết biết mắc cỡ, xấu hổ, e thẹn làm gì cho mệt! Chẳng ai sợ lây căn bệnh gớm ghiết nầy, họ rủ nhau ra bờ sông tắm gội, rửa ráy, kỳ cọ. Họ ngâm mình trong nước cả giờ, vẫn không thấy “đã ngứa”. Rồi họ leo lên ngồi trên bờ kè phơi nắng, kỳ cọ. Họ tự nhiên lột quần dài áo cánh ra phơi trên bụi cây. Đàn ông có phần dễ chịu "thái mái" khi ở trần, mặc quần đùi lỏng dây thun xề xệ. Đàn bà cũng "thổn thển" ở trần, chỉ mặc xì líp cũ mèm! Họ hong khô người dưới trời nắng như thiu đốt, ai nấy lo cúi xuống lột từng lớp vảy trên các mụt nhọt ửng đỏ. Tiện thể một công hai ba chuyện: họ tắm, giặt giũ, không có xà bong, tiêu tiểu cũng trong dòng sông đó. Chính từ nơi vừa tắm rửa, ngâm mình, họ gánh hai thùng nước về nhà, để dành uống nước mát. (!?)

        Tôi hình dung họ giống những con khỉ đột trọc lóc đầu, mặt đỏ đít chai ưa gãi sột sột trong sở thú. Tôi không dám nhìn họ, phải lờ ngó lơ đi chỗ khác và lắc đầu muốn gãy cần cổ, mà ngao ngán, nhưng với trí tưởng tượng phong phú của mình, nếu tôi phì cười... thì họ tính sao đây, có lẽ họ... rượt tôi chạy có cờ về nhà buông gàu xuống cái giếng nước do tự mấy đứa con mới đào lên chăng? Dù cả đời tôi trọng danh dự và tình, còn cả đời “các bác ấy” không trọng chi ngoài lo âu về tiền! Vốn dĩ quá nghèo hèn, nhưng tôi muốn bình lặng, an ổn khi đổi đời đi lượm lặt móc moi mọi thứ. Kể từ đó trong làng trên thôn dưới đã "thân thương" đặt cho tôi cái biệt danh thiệt bình dân giáo dục: "mít đót”:
        Ở với Hồ Chí Minh.
        Cây đinh phải đăng ký.
        Trái bí cũng sắp hàng.
        Khoai lang cần tem phiếu. (2)
        ***
        Khi mấy cán bộ “mượn tạm” (của dân đã trốn ra nước ngoài), họ để lại biết bao của nổi: nào nhà lầu xe hơi, xe honda, đất đai và của chìm còn chôn dấu kỹ trong nhà, chưa kịp đào bới moi móc lên. Công an, bộ đội, cán bộ có cần câu tà lọt điềm chỉ, rủ nhau đến nhà dân làm biên bản tịch thu gia sản. Rồi ít lâu sau nhà nước lại làm biên bản chia chác nhau bốc thăm: nhà cửa, xe cộ, ti vi, tủ lạnh, máy móc điện tử, bàn ghế, giường nệm, thậm chí cả cái quần xà lỏn cũng bị bốc thăm, hầu hưởng xái thừa của “tàn dư đế quốc” để lại. Người thân ruột thịt của tôi (và chính tôi) ở trong những ngôi nhà đồ sộ, có chút máu mặt, thì coi chừng bị chụp mũ, gài là: ở lại để phản động liên lạc làm “ăng-ten” móc nối với tư sản. Bị "đôi mắt cú vọ bạn dân" dòm ngó, lưu ý, “hỏi thăm sức khỏe”, thì dân ngu khu đen phải chìa hai tay ra, cúi đầu biếu không, cho không, dâng hiến nhà nước.

        Như trường hợp ông bà Tư Cóc (chị tôi) có năm người con trai đều có vợ con đùm đề, gia đình họ chả có ai đi Tây, đi Mỹ, đi Đức gì cả, anh chị Tư có ba cái nhà đồ sộ, một nhà họ đang ở. Một nhà cho con ở, một nhà cho thuê. Nhưng công an phường khóm buộc anh Tư Cóc phải lên “Thành” làm giấy “dâng hiến” nhà nước... cho “đi đứt” hai cái nhà. Thì, ít lâu sau có vợ chồng người Tàu (chủ đồn điền cà phê giàu nổi tiếng, gồm mười sáu người: vợ chồng con cháu), do nhà nước cần trưng dụng ngôi biệt thự của họ, nên gia đình ông ta “được” nhà nước đẫy họ về ở chung đụng chui rúc đông đen trong khu đất nhà anh chị Tư. Nếu khán chỉ, cán bộ công an không ngại ngần tống khứ họ ra đường, hay “nhân đạo” cho xuống ở bên xó chuồng trại gia súc sau hông nhà.

        Anh Tư Cóc được thành ủy phát tấm giấy khen, ưu tiên hộ trong nhà họ được mua duy nhứt một lần: nửa ký thịt ba chỉ, một ký ruột heo, một ký gạo nếp, ký thèo lèo cứt chuột, hai mét vải nội hoá màu mè hoa lá cành. Cũng ưu tiên lắm, nên chị Tư Cóc được mua hai (2) mét vải dù đen. Trong khi đó cán bộ Ấp ưu tiên gấp 10 thường dân Nam-bộ. Cán bộ cấp Huyện ưu tiên gấp 20 lần Ấp. Cán bộ cấp Thành thì ôi thôi… ưu đãi gấp 20 lần cán bộ Huyện. Cứ thế, mà làm tính nhân lên (tôi phải ghi rõ con số: 1, 10, 20 cho chính xác mà nhân, mà cộng, thay vì viết thành chữ: một, mười, hai mươi, không thể nhân cộng nhập nhằng).
        * * *
        Tình Hoài Hương


        (1) Hp-TnT
        (2) Thơ sưu tầm lượm lặt đó đây
        Last edited by Tinh Hoai Huong; 08-01-2020, 06:13 AM.
        Bút trần nào tả được lưu luyến!
        Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
        Tình Hoài Hương

        Comment


        • Chị Tình Hoài Hương,
          Góp ý về thành phố Nha Trang, còn có quân trường Đồng Đế, trên đỉnh Hòn Khô của núi Cô Tiên có bức tượng trắng mà không biết ai sáng tác ra hai câu thơ: "anh đứng ngàn năm thao diễn nghỉ, em nằm xõa tóc đợi chờ anh ". Sau 75 thì chỉ còn lại câu sau, vì tượng anh đứng ngàn năm thao diễn nghỉ đã bị đập bỏ, dãy núi Cô Tiên nhìn từ xa như một thiếu nữ nằm xõa tóc, không biết giờ ra sao?
          Last edited by hoang yen; 08-02-2020, 11:27 AM.

          Comment


          • Từ Cổ THÀNH đến Nha Trang tuyệt diễm

            Thưa anh Hoàng Yến thân & qúy mến,
            Dạ vâng, điều anh ghi ở trên nầy rất đúng ạ.
            Chẳng biết Hoài Hương ngớ ngẩn lú lấp thế nào, mà quên tiệt v/v ở Nha Trang đặc biệt ngoài Quân-trường Không Quân (TTHLKQ- QLVNCH), Quân-trường Hải Quân Nha Trang, còn có các trường quân sự:
            1/ Trung tâm huấn luyện Lam Sơn: ...
            2/ Trung tâm huấn luyện Dục Mỹ: ...
            3/ Trường Hạ sĩ quan Đồng Đế: ...
            Hoài Hương xin chân thành cảm ơn anh Hoàng Yến đã tế nhị nhắc nhở. Vâng, xin mời anh Hoàng Yến & qúy độc giả đón xem v/v nầy.
            *
            Hôm nay mở files, thì... té ra trong phần 1/ 2/ 3... ghi trên (về các TTHL tại Nha Trang); THH đã có bài viết v/v ấy ở một chương khác ạ. Tuy nhiên, nhờ anh Hoàng Yến nhắc nhở, để đáp lại tấm thịnh tình của qúy vị, HH xin đăng bài viết bổ túc về "Cổ Thành NHA TRANG..."
            Kính bút,
            Hoài Hương

            ***

            Từ Cổ THÀNH đến Nha Trang tuyệt diễm
            Tình Hoài Hương
            *

            Trời xám xịt, ảm đạm với từng cuộn mây đen phủ chụp lấy Cây Cẩy, xe chạy càng chậm như rùa bò khi đến Cổ Thành*, là một quần thể lục giác, có lối kiến trúc quân sự độc đáo, quy mô theo phương pháp Vauban, {do ông kỹ sư Công-binh quân sự nổi tiếng của Pháp: tên Vauban (1633-1707) tên thật của ông là Sébastien Le Prestre} Cổ Thành có hào sâu chắn bờ thành cao 3 mét rưỡi, bên trong thành đắp làm hai bậc cấp rộng và cao. Muốn về Nha Trang phải qua miền Cổ Thành nầy. Từ trong ca dao xa xưa Việt Nam đã có:
            Khánh Hoà biển rộng non cao
            Trầm hương Vạn Giã yến sào Nha Trang
            Tỉnh Khánh Hoà đậm đà mưa nắng
            Non chồng nghĩa nặng nước chứa tình thâm
            Ngọn gió bay phảng phất hơi trầm
            Mây xây tháp bút trăng dầm bến ngân (1. cd)

            Thời xa rất xưa khoảng thế kỷ 17 đã thấy có tên “cửa Nha Trang” do ông Đỗ Bá biên soạn. Một bản đồ ở niên đại cuối thế kỷ 17 năm Giáp Ngọ, Niên Bình Nam Đồ của Đoan Quận công Bùi Thế Đạt cũng thấy ghi tên "Nha Trang Hải môn". Trong thư tịch cổ Việt Nam có những tài liệu đề cập đến địa danh này. Thời Pháp thuộc Nha Trang chỉ là một “chef lieu”, sau 7 tháng Năm 1937, toàn quyền đông dương nâng Nha Trang lên hàng “commune”, cho đến 27 tháng Giêng 1958 thì có nghị quyết số 18-BNV bãi bỏ chức “Thị-xã”. Do vùng Nha Trang bao la mênh mông từ đất liền, hải đảo, đảo biển xa xôi chằn chịt, nên miền đất nầy được chia thành Nha Trang Đông & Nha Trang Tây, do Tổng-thống Ngô Đình Diệm ấn ký.
            Nha Trang xa Sài Gòn (441km, tính trên đường bộ, & Nha Trang đi đến Cam Ranh xa 45km). Thành phố Nha Trang duyên dáng thơ mộng nằm trên một đồng bằng khá rộng đã phân hoá, và được bồi đắp phù sa bên cạnh sông Cái và sông Quán Tường, rồi nước chảy ra biển cả:
            Suối Tiên nước chảy lững lờ
            Tiên đi đâu, để bàn cờ rêu phong
            Nước mây vắng vẻ tăm mòng
            Bền gan nay vẫn rày mong mai chờ (cd)

            Ven biển Nam Trung Bộ thuộc Tỉnh Khánh Hoà (& thành phố Nha Trang) phía Bắc giáp Tỉnh Phú Yên, gần sát nách là Ninh Hoà. Nam giáp Tỉnh Ninh Thuận. Tây là sườn Đông của dãy trường sơn giáp Đắc Lắc & Lâm Đồng. Đông giáp biển Đông. Biển Khánh Hòa trong đó bao gồm cả quần đảo Trường Sa nằm ở điểm cực Đông Việt Nam. Tóm lại Nha Trang là một thành phố rất thuận tiện về mọi mặt, là vị trí địa lý tiện nghi trên đường thủy, đường hàng không, & trục giao thông đường bộ qua quốc lộ 1C, quốc lộ 1 A quan trọng xuyên qua mọi miền đất nước Việt Nam khá thuận lợi. Quốc lộ 26 nối Khánh Hòa Đắc Lắc và các tỉnh Cao Nguyên Trung Phần. Có hai con sông lớn chảy qua Tỉnh là sông Cái & sông Dinh. Đặc biệt Khánh Hoà có 5 suối nước nóng vẫn trữ lượng cả triệu mét khối nước uống, và chữa bệnh. Ngoài ra Khánh Hòa có hệ thống xe lửa nối dài từ Phan Rang chạy xuyên qua các miền tới Cà Mau & đồng thời ra tới Bến Hải. Khánh Hòa có nhiều hải cảng và phi cảng náo nhiệt, đông đúc, đồ sộ, thì đã có:
            Ông Trần Đường giữ đèo Dốc Thị
            Ông Trịnh Phong trấn nơi biển Cù
            Ông Nguyễn Khanh lo việc quân nhu
            Ba ông một bụng nghìn thu danh truyền (cd)

            Từ Cam Ranh đi tới Nha Trang về hướng Bắc tuyệt đẹp với miền cát trắng mịn đầy hấp dẫn... là một tiềm năng khá tốt mang tính chất nhiệt đới gió mùa, nên khí hậu Nha Trang ôn hoà trung bình 25/oC & đại dương thông thoáng, thênh thang, bao la, mênh mông, do thế mùa Đông chỉ se lạnh, mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 (thường là ba tháng), mùa hè mát mẻ hơn các vùng khác. Biển dài 7m gần sát thị thành, nên dù mùa khô nhưng khí hậu dễ chịu:
            Anh đứng ở Nha Trang
            Trông sang xóm Bóng
            Ánh trăng lờ mờ, lượn sóng lăn tăn
            Gần nhau chưa kịp nói năng
            Bây giờ sông cách, biển ngăn ngại ngùng!
            Biển sâu con cá vẫy vùng
            Sông sâu không dễ mượn dòng đưa thư
            Anh nguyền cùng em:
            Bao giờ Hòn Chữ bẻ tư
            Biển Nha Trang cạn nước, anh mới từ duyên em. (cd)

            Phố biển thơ mộng của Tỉnh Khánh Hòa đã nở hoa đèn, thì có nhiều cặp tình dìu nhau lượn ven biển: Những SVSQ Hải-quân, & chàng Hải Quân áo xanh áo trắng oai sang, hiên ngang sánh vai cùng nàng thiếu nữ mặt hoa da phấn, họ âu yếm cười vui trên đường thênh thang. Hợp với SVSQ Không-quân & anh Không-Quân hào hùng, áo bay xám áo bay vàng cam với em kiều diễm thủng thỉnh dạo bước dập dìu thuở xuân tình, khiến thành phố biển càng nôn nao xao xuyến ngẩn ngơ thi vị thay:
            Bãi biển Nha Trang mịn màng trắng trẻo
            Nước trong leo lẻo, gió mát trăng thanh
            Đêm đêm thơ thẩn một mình
            Đố sao cho khỏi vương tình nước mây. (cd)
            Hoặc:
            Em một sáng trường tan về trước ngỏ
            Chiều Ba Làng thuyền xa bến nhấp nhô
            Mắt em buồn nhìn vọng hướng Hòn Khô
            Có cô gái nghìn năm nằm xỏa tóc
            Anh tay trắng nhưng vòng tay ngà ngọc
            Em diễm kiều nhưng mơ mộng bình thường
            Ngày gặp nhau nghe thương quá là thương
            Em gái sắc anh trai tài lưu luyến
            Tay trong tay đưa em về trên biển … (2)

            Mưa bụi mù mù bay bay nhạt nhòa trong bóng tối mờ mờ, ngoài xa xa ngư thuyền tấp nập nhấp nhô trên sóng, những chùm đèn câu mực nhỏ li ti long lanh khi tỏ khi mờ. Thuyền lênh đênh trên mặt sóng không hiểu vừa vào bến đỗ, hay đang ra khơi nơi Hòn Tre như bức lũy thành ngăn gió đại dương, bãi cát phẳng lì, tơi mịn dưới làn nước mát rượi. Nào Đồng Muối Hòn Khói, Hòn Hèo, Hòn Son, Hòn Bà, Hòn Yến. Hòn Tằm... Vân vân… Ôi sao có bao nhiêu là "Hòn” dễ thương... ấy nhỉ!?
            Đứng ở Hòn Chồng, trông sang Hòn Yến
            Lên Tháp Bà, về viếng Sinh Trung
            Giang Sơn cẩm tú chập chùng
            Đôi ta gắn bó thủy chung một lòng (cd)

            Phố thị hải dương thơ mộng, nhiều đại lộ khang trang sạch sẽ dẫn qua Xóm Mới ở trong nội thành tới Xóm Bóng, Xóm Cồn. Nhà cửa, ghe thuyền tấp nập dưới ánh mặt trời, đa số cư dân là người Kinh, kế đến là dân tộc Hoa, Raglai, Gietiêng, Eđê, Tày, Chăm, họ sinh sống trên đất cát, cồn cát. Biển xanh thẳm màu ngọc bích lóng lánh, dạt dào sóng vỗ vào mỗi buổi hoàng hôn hay bình minh. Miền cát trắng thơ mộng với đá granit, ven biển đất mặn có phèn, đôi vùng có đất xám bạc màu. Tuy thế ngoài phong thổ thuộc về nơi thắng cảnh hữu tình và du lịch, Nha Trang là nơi sản xuất dồi dào nhiều loại thủy hải sản, tôm giống. Trại nuôi trai trên biển lấy giống, lấy ngọc. Tài nguyên biển rất phong phú cho ta nhiều hải sản quý: sản xuất cả vạn tấn muối, tôm giống, tôm thịt, cá đủ loại, sò, ốc, chim yến, v.v... Rừng Khánh Hòa có nhiều loại gỗ qúy hiếm: lim, hương, pơmu, trầm hương, kỳ nam... Khoáng sản: cát trắng, nước khoáng, than bùn, cao lanh, imenhich, đá granit. Có những trang trại: sản xuất đường mía, bia, nước ngọt. Thủy tinh kính phẳng. Khu công nghiệp Agar, Alginate. Công xưởng đồ sộ đóng tàu, thuyền, ghe:
            Khánh Hoà là cái xứ trầm hương
            Non cao biển rộng người thương đi về
            Yến sào mang nặng tình quê
            Sông sâu đá tạc lời thề nước non (1. cd)

            Hải Học Viện cách xa Nha Trang 6km (Ngư nghiệp Đông Dương năm 1922) là Viện Hải dương học chuyên nghiên cứu về biển & động vật trong biển. Ngoài các trường Tiểu-học, Trung-học, ... có trường Hải Quân (Nha Trang Naval Training Center) tọa lạc tại đường Duy Tân, (cạnh TTHL KQ) nơi đào tạo Hạ Sĩ Quan, Sĩ-quan, thủy thủ Hải quân của Việt Nam Cộng hòa, mệnh danh là Trường Sĩ quan Hải-quân, hoặc Trung tâm huấn luyện Hải-quân Nha Trang gồm có: Trường Sĩ-quan Chỉ-huy và Cơ-khí. Trường Sơ-đẳng chuyên nghiệp. Trường Trung-đẳng chuyên nghiệp. Trường Tân binh Hải-quân. Ngoài ra Nha Trang có: 1/ Trung Tâm Huấn Luyện Lam Sơn… 2/ Trung Tâm Huấn Luyện Dục Mỹ… 3/ Trường Hạ Sĩ Quan Đồng Đế… (Ba trường kể trên đã có ở mục kế tiếp & TTHL SVSQ Không-quân đã có bài viết riêng biệt về phần nầy ở những chương khác, cùng tác giả).

            Đến cửa thành Nha Trang, việc đầu tiên đập vô mắt du khách là pho tượng rất bệ vệ to lớn đồ sộ uy nghi: "Kim Thân Phật Tổ" ngự trên đỉnh Hòn Trại Thủy. Chùa Bửu Phong về hướng Nam, chùa Hải Đức. Trong hơn khoảng hai mươi ngôi chùa ở Nha Trang, thì có chùa Long Sơn kiến trúc độc đáo xây dựng 1940, chùa an ngự ở quốc lộ 1A dưới chân Hòn Trại Thủy trong nội thành Nha Trang, là đề huề to lớn nhứt. Nhà thờ đá xây trên cao tít từ năm 1928 với 10 hạng mục hấp dẫn, công trình xây dựng tuyệt mỹ, ba quả chuông to và đồng hồ cổ lắp trên tháp xưa, nay còn nguyên vẹn.

            Nào Bãi Dâu, Bãi Cát Tiên... Từ cảng Cầu Đá đi thuyền tới Bãi Trũ trên đảo Hòn Tre chừng 15 phút, nơi đây vẫn giữ nguyên vẹn nét đẹp hoang sơ êm đềm mà phóng khoáng, với bãi cát mịn và trắng chẳng có nơi nào mịn màng mượt mà sánh kịp, là một bãi tắm rất lý tưởng, phong cảnh thiên nhiên hữu tình nên thơ. Hồ cá cách Cầu Đá không xa trên đảo Bồng Nguyên (Hòn Miễu) được ngăn lại để chăm cá bằng hệ thống kè đá tinh tế quy mô, ngỏ hầu nuôi sinh vật sống trong biển, giữa hồ xây nhà thủy tạ, bãi cát mịn nước trong và sạch.

            Viện Pasteur (1891) lớn nhứt do chính bác sĩ Yersin thành lập. Ông Yersin sinh tại Pháp, cha ông là người Thụy Sĩ, mẹ người Pháp. Ông Yersin lớn lên thi đậu tiến sĩ, ông viễn du đến Việt Nam, tận tụy cống hiến đời mình cho khoa học, thành công trong việc trị bệnh dịch hạch. Ông là một trong những nhà thám hiếm đầu tiên khám phá ra thành phố Đà Lạt thơ mộng. Theo di chúc mộ ông xây đơn giản, người ta liệm ông nằm sấp, mặt ông gục xuống tay ôm chặt đất Việt Nam vô lòng, đầu quay về hướng biển: Alexandre Yersin (1863 -> 1943), ở khu Suối Dầu. Nơi miền đất Việt Nam thân yêu nầy, là quê hương thứ hai của ông Alexandre Yersin. Bội phần kính trọng & ngưỡng mộ lắm thay!

            Đứng dưới quốc lộ 1A ngoái lên tít trên cao là Tháp Bà đồ sộ nằm ở phía Bắc của thành phố Nha Trang, thuộc Phường Vĩnh Phước, tháp ngự trên ngọn đồi cao, dưới chân đồi là cạnh cửa sông Bóng. Tháp xây bốn tầng, một kiệt tác từ thời vua Chàm Harivácman, xây năm 813 đến 817 mới hoàn tất ngày 20 đến 23 tháng 3 âm lịch. Tại tháp Bà chính từ bốn góc tháp nầy có bốn tháp nhỏ. Mặt ngoài các tháp có nhiều gờ, trụ, đấu trang trí hoa văn, lòng tháp rỗng tới chóp đỉnh có nhiều phù điêu, hình tượng người, hoa, thú... Tháp chính tạc tượng tròn chạm nổi thần Ponagar cao 2m6 bằng đá hoa cương đen, bà ngồi trên bệ đá ở đài sen (vợ của thần Siva), thân tháp có thần Tênexa, tiên nữ, các con thú, v.v...
            Tháp Bà có lễ hội tưng bừng náo nhiệt đông đúc vô cùng, để tưởng nhớ nữ thần Po Ino Nogar, các buổi lễ tiến hành long trọng, tôn nghiêm, họ ca ngợi bà mẹ Ponagar đã duy trì giống nòi, có công tạo dựng ra xứ sở Chăm. Mỗi năm vào mùa hội, họ thay xiêm y cũ của "bà mẹ", rồi chu đáo tắm rửa tượng thần, tẩm nhiều nước hoa thơm, đội mũ vương miện mới cho nữ thần, mặc xiêm y mới. Họ cầu xin an cư lạc nghiệp, thanh bình, ấm no:
            Ai về xóm Bóng quê nhà
            Hỏi thăm điệu múa dâng Bà còn không?

            Sau nghi thức cúng tế, họ trang trọng dâng hương trầm nghi ngút, dâng những điệu múa nhịp nhàng uyển chuyện, dâng hoa, cùng nhau hát bộ, rồi ăn uống linh đình. Chín mười người Chăm da nâu thẫm, mặc toàn đồ trắng, quấn khăn trắng ngồi dưới chân đồi bên mé lộ 1A bán thuốc làm bằng rễ cây. Họ hiền lành chất phác nhẹ nhàng vui tươi cười nói chào mời khách, nhưng trong đôi mắt họ chất chứa một nỗi buồn sâu thẳm, nỗi buồn đau của những kẻ đã bị cướp mất quê hương. Dưới chân tháp Bà là xóm Bóng đầy dẫy ghe thuyền chi chít lênh đênh bềnh bổng trên sóng nước.

            Tại Nha Trang có nhiều lễ hội: truyền thuyết về lễ hội Cá Voi cứu vua Gia Long trên biển. V.v... Nhìn xa chút nữa là Hòn Chồng như một quần thể hải đảo xinh xinh, xếp lớp những khối to lớn nằm chông chênh trên khối nhỏ xiu xíu. Trên một khối đá lớn có in dấu một bàn tay to dị thường. Tương truyền rằng: thuở xưa có một ông khổng lồ ngao du sơn thủy vô tình ghé tạt qua đây, ông ta tình cờ nhìn thấy bầy tiên nữ đang vui vẻ tắm và đùa giỡn nơi sóng nước trong xanh, ông ta say sưa nhìn ngắm họ mãi mê, đến nỗi ông ta bị trợt chân té xuống biển. Ổng liền chụp tay ở tảng đá nầy, mà “bò” lên và trở thành “hòn chồng”. Mấy cô tiên hoảng hốt chui vô hốc đá, hóa ra “hòn vợ” nép mình bên Bãi Dương trải dài thật nên thơ xiết bao. Ha ha ha... Thế thì:
            Bao giờ Hòn Chữ bể tư
            Biển Nha Trang cạn nước anh mới từ nghĩa em
            Trai gái yêu nhau mượn hình ảnh con đèo,
            Cái Hòn để tỏ tình, thề thốt.
            Anh thương em đặng nghĩa vuông tròn
            Mấy sông cũng lội mấy hòn cũng qua (cd)

            Sau một đêm ăn cơm với thức ăn đặc sản miền duyên hải tuyệt ngon và khá rẻ:
            Yến sào hòn Nội
            Vịt lội Ninh Hoà
            Tôm hùm Bình Ba
            Nai khô Diên Khánh
            Cá tràu Võ Cạnh
            Sò huyết Thuỷ Triều
            Đời anh cay đắng đã nhiều
            Về đây ngọt sớm, ngon chiều với em. (cd)
            Khoai lang hòn Chúa
            Đậu phụng hòn Dung
            Chồng đào vợ mót đổ chung một gùi. (cd)

            Hai mẹ con vào ngủ trong khách sạn Hoàng Yến. Suốt ngày ngồi trên xe chật chội, một chân thòng xuống nền xe, một chân co lên ghế, cằm tựa trên đầu gối một cách phiền não, tôi quá mỏi mệt, tê buốt. Mong sớm hết một ngày đi đường xa nhọc nhằn, nên vừa tắm rửa xong, leo lên giường, thì hai má con liền thi nhau ngáy khò khò, tôi ngủ một giấc dài đến năm giờ sáng, không cựa quậy.
            *
            Tình Hoài Hương

            (1) ca dao
            (2) Thơ Lê Chiến
            (*) Từ năm 1960 -> đến năm 1975 - bối cảnh ở thời điểm nầy, hầu như ít thay đổi. (Hoài Hương đã điều chỉnh bài viết trong quyển tập “Soạn Bài Dạy” & trích đăng trong truyện dài "Khi Định Mệnh Cúi Nhìn" cùng tác giả).
            Rất trang trọng và chân thành cảm ơn qúy vị nhạc sĩ & nhiếp ảnh gia đã post hình, nhạc… trên internet, tôi xin mạn phép chuyển tải nhạc & hình, (nếu có copy right) vô bài viết, ngỏ hầu tăng thêm phần phong phú hóa hình ảnh sống động, từ tài nghệ độc đáo của qúy vị; qua quê hương Việt Nam cẩm tú của chúng ta.
            Đa tạ!
            *
            Last edited by Tinh Hoai Huong; 08-26-2020, 09:19 PM.
            Bút trần nào tả được lưu luyến!
            Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
            Tình Hoài Hương

            Comment


            • ĐÀ LẠT Xưa & Nay… Ôi Niềm Đau


              ĐÀ LẠT Xưa & Nay… Ôi Niềm Đau
              Tình Hoài Hương
              *

              Thật khó diễn tả hết nỗi lòng ưu tư & cảm xúc lâng lâng luôn dày vò tâm trí tôi về nỗi bâng khuâng, xao xuyến... khi đứng trên đỉnh đèo nhìn xuống khu vực Krong Pha: nơi phong cảnh hữu tình, ngút ngàn, bát ngát mênh mông thiệt thơ mộng cận đường đèo quanh co uốn khúc gập ghềnh, nhấp nhô điệp trùng núi non hùng vĩ, nơi cao tận lưng trời chót vót, mây trắng ùn ùn bay bay dưới gót chân mình. Đèo Ngoạn Mục thơ mộng của hạ giới xa xa... đã gieo vào lòng tôi bao tình khúc phong trần hoài cảm êm đềm thi vị và tuyệt diệu, chen lẫn niềm bâng khuâng suy tưởng mông lung. Tôi đang đứng trong vừng mây vờn sương muối quyện quanh gót chân “ở bồng lai cao nguyên”, y hệt như trong bức tranh hồ thủy mà mơ màng nghĩ về một cao nguyên năm cũ.

              Nhìn lại ngọn đèo cao ngút ngàn lúc xe đò lừ đừ lò mò hổn hển thở khói phì phò đi qua với sự luyến tiếc vô vàn; vì có lẽ đây là những khoảng lắng phiêu bồng cuối cùng dịu êm nhứt: sau nầy có thể tôi chẳng bao giờ còn cơ may quay trở về chốn nầy, dù là niềm kiêu hãnh vinh quang trong dĩ vãng, dù chỉ thêm một lần im lắng xót xa luyến lưu trong hồi tưởng! Bởi vì sau 30-4 gia đình tôi lê lết ôm nhau chạy về lại thành phố núi, sau ngày mất Đà Lạt thì tôi bị “mất dạy” từ khi đổ̉i đời, không còn làm nghề “gõ đầu trẻ”. Bị thất nghiệp, buộc lòng tôi đưa gia đình đi xuống Thành Ông Năm, Hóc Môn, để rồi trở nên đói khát dài dài...

              Đà Lạt cuốn hút tôi ngàn đời nhung nhớ hoài vọng ước ao, nơi trái tim mình bỏ ngỏ dại khờ ấp ủ mộng ngày xanh vui tươi nhí nhảnh mà lại đa tình. Đà Lạt xưa khoan dung dịu dàng mở rộng vòng tay trìu mến, từng ôm trọn tôi vô vũng sương mù lả lướt, buông thả, dạt dào nỗi nhớ niềm yêu trong mỗi phím loan. Tôi nhớ da diết những cánh hoa muôn màu chen chân khoe sắc thắm trong nhiều ngôi nhà ấm áp xinh xinh, nhà nhà trên triền đồi, hoặc dưới ven dốc chập chùng ẩn hiện nép mình bên vườn cây ăn quả trĩu trái, cây bưởi hoa trắng muốt toả mùi thơm ngào ngạt, cây hồng mơn mởn trái trĩu cành, cây chanh mọng nước. Cây quả mượt-mà ngày ấy cho tôi cảm giác vui vui, lâng lâng êm đềm, thi vị ngọt ngào ấm áp tình quê quá chừng!

              Trên đường phố quê hương Đà Lạt thân yêu nầy, ngày xưa tôi vẫn đi lại tung tăng, hồn nhiên, vui vẻ nhởn nhơ như cánh bướm buổi sáng mai gặp nắng tươi. Tôi ươm nhiều mộng đẹp như thời son trẻ mới chớm lớn, lòng dạt dào nung nấu sự hoài mong tưởng nhớ: xin cho tôi được một lần tìm về cội nguồn, nơi đó mẹ dấu yêu đã à ơi ru con lớn khôn trong chiếc nôi đời đơn sơ hồng hoang mà trữ tình dịu êm thân thiết trìu mến dường bao! Tôi nhớ lắm thầy Cao Cự Phúc phổ bản nhạc: "Ngày nào dừng chân phiêu lãng. Khách tới đây khi hoa đào vương lối đi Màu hoa in dáng trời, tình hoa lưu luyến người. Bồi hồi lòng lữ khách thấy chơi vơi... Ngày nào đường xuân phơi phới, khách ngất ngây thấy hoa nở trên má ai. Rồi yêu hoa trên má, mà ghi câu luyến nhớ thành bài thơ … Nhưng rồi mùa hoa tàn. Người hoa sao vắng mãi. Bao chiều lòng mong chờ. Đường hoa sao hững hờ. Để lòng lữ khách tê tái. Cất bước đi nhớ hoa đào trên má ai. Màu hoa in trên má Làm khách lưu luyến mãi Đà Lạt ơi"!

              Khi đã thực sự đứng ở thành phố quê hương Đà Lạt ngàn đời dấu yêu nầy, thì tôi không thể nào ngờ! Đà Lạt trong không gian bảng lảng dáng Thu bàng bạc trên thành phố buốt giá bây giờ (sau 75 – 85) quá lạnh lẽo. Buồn thiu. Ôi! bao năm qua, nay lần đầu tiên tôi nôn nao trông ngóng xôn xao trở về quê cũ, thì... những âm thanh đơn điệu, buồn tênh dội lại lòng mình niềm tiếc thương như thác lũ. Gợi lên biết bao điều đau xót, tôi ưu phiền, chán ngán, bơ vơ, bàng hoàng khôn xiết nơi biển cả đã hoá thành nương dâu. Nước mắt bỗng dưng chảy hoài khi tôi trở thành một người xa lạ, lạc lõng, cô độc với chính mình. Bước chân lao xao rộn rã tìm về lối cũ đường xưa, mà một thị dân chôn nhau cắt rốn như tôi, từng đi đi về về trong thành phố thơ mộng ấy, giờ đây cảm thấy quê tôi lạ hoắc, lạnh lùng. Tôi lạc bước trên con đường cũ, lòng trống rỗng buồn bã vô cùng và cô độc kinh khủng. Thành phố dấu yêu xưa sao bây giờ trở thành xa lạ với tôi đến thế? Hoài phí đi những mơ tưởng đâu đâu không sát thực tế chút nào:
              Ngày nhạt thếch, bóng chiều vàng vọt tắt
              Mới đầu Thu, chiếc lá đã vàng khô.
              Hàng bằng lăng, góc phố buồn hiu hắt
              Đêm bơ vơ... Mưa lất phất mặt hồ. (1)

              Quang cảnh thành phố Đà Lạt bây giờ như thành phố chết ngoài nghĩa điạ! Không giống những bộ mặt thân quen xiết đỗi mà ngày xưa tôi thân mật vẫn đi về. Đà Lạt không còn sống động, không nên thơ, chả quyến rũ... vì không có những anh SVSQ Võ Bị oai phong. Những anh Chiến Tranh Chính Trị kiêu hùng. Không thấy sinh viên Viện Đại-học lịch lãm văn nhã! Không có những nam sinh choai choai, dé dé vui vẻ hân hoan vô tư lự huýt gió lúc đến trường Trung Học. Còn đâu nữ sinh hồn nhiên xinh lịch tung tăng với những tà áo dài tha thướt lượn bay, cặp ôm ngang ngực thong thả đi trên con đường mòn đất đỏ ngoằn ngoèo uốn lên uốn xuống ở đồi thông im mát.

              Đà Lạt thuở ấy có những công tư chức ngày xưa cao sang chuyên mặc áo da, áo len đan bằng tay đắt tiền, hoặc mặc bộ veston đen tối tân, sơ mi trắng nõn lủng lẳng cà vạt màu, chiếc quần tây thẳng nếp li và đôi giày thời trang... Đâu rồi những anh lính Nhảy Dù mũ đỏ, những anh Hải-quân với bộ quần áo trắng cao sang. Những anh Biệt Động-quân mũ nâu, Thiết giáp, Thủy-quân Lục chiến, Pháo-binh, Bộ-binh oai dũng... trong những lần nghỉ phép, họ đã ghé tạt về thăm Đà Lạt? Những anh phi công bay bướm lả lướt phong trần ung dung lượn trên bầu trời Lâm Viên bãng lãng dáng chiều thênh thang. Họ đi đâu mất hết rồi trên thành phố huyền thoại ngày nào!?

              Không gian Đà Thành phai dáng Thu bàng bạc bây giờ lạnh tanh và ủ rũ. Họ hàng thân quyến, những bạn thời học sinh sinh viên, bạn cùng dạy học giờ đây họ lưu lạc phương nao xa hun hút, tôi đã mất tầm nhìn, có thể chúng ta biền biệt kẻ góc biển người chân trời xa thẳm, xa mất đất rồi chăng?! Thiệt quá hay từ bản nhạc: “Lối cũ ta về dường như nhỏ lại. Trời xanh xanh mãi một màu ấu thơ. Lối cũ ta về, vườn xưa có còn hoàng hôn buông xuống thoảng hương ngọc lan. Dù gió có trút lá úa xuống vườn chiều. Bước chân ai đem lang thang về cô liêu. Chốn xa xôi kia mang bao kỷ niệm cũ. Em đã quên hay là vẫn mang theo. Dù cho bên anh nay em không còn nữa. Biết chăng trong con tim anh luôn hằng nhớ. Người yêu ơi nay em đã bỏ anh đi. Sao em nỡ bỏ anh đi mãi…"

              Ngày nay đa số đàn ông Đà Thành thay đổi bộ cánh khác để đổ xô ra đường kiếm sống, chụp giựt bằng “lao động là vinh quang” một nghề mới toanh thoạt nghe thiệt “kêu, và lạ” : “làm người thồ”, nghề đi vá xe đạp, gánh thuê, vác mướn: Áo quần họ mặc hầu hết tơi tả, cũ mèm, ố vàng, nhàu nát: mỗi người bạn trai đồng môn của tôi đều có một cây đòn gánh, hai chùm dây dừa cột chặt ở hai đầu gánh. Hành khách chưa kịp xuống xe đò chật như nêm, là lập tức những người đàn ông gánh thuê bu đông đen nơi thành cửa xe, họ kêu mời khách lạ. Mặc cả kỳ kèo giá tiền thuê vác xong, hành khách đi bộ về nhà, người gánh thuê kẽo kẹt quang gánh nặng gồnh mình gánh trên vai gầy, họ im lặng chịu đựng cúi đầu rảo bước. Tôi kéo chiếc nón lá sụp xuống tận mũi, cúi gầm đầu không dám liếc nhìn Lập, không dám chào hỏi bạn, chẳng phải là mình cao sang gì, nhưng tôi không muốn khơi dậy trong lòng anh nỗi đau tột cùng trong cảnh bần hàn quá đỗi xót xa. Điều gì khiến một Lập thuở xưa đi xe hơi ở nhà lầu, nay quần xăn áo rách, anh phải lăn ra đường gò lưng khuân vác bao su su quá trọng lượng trên tấm lưng nho nhã ấy, vậy mà anh vẫn bị mấy bà khách hàng xô đẫy la hét: "xích ra, ông làm gì chậm như rùa vậy?". Thấy cảnh đau lòng như mình, tôi chỉ muốn khóc.

              Toàn người đi bộ là đi bộ. Cả thành phố lác đác chỉ có một vài chiếc xe đò cọc cạch, xe chạy giới hạn từ Thị-xã Đà Lạt đi các nơi. Ở Đà Lạt nhiều đèo núi, nên ít người mua sắm xe đạp, chỉ có lèo tèo mấy “tay cua-rơ” có chiếc xe đạp thường dùng tập dượt, hầu tranh tài trong các chương trình thi đua thể thao toàn quốc trước kia. Thuở ấy ai có xe đạp thì chỉ có nước “làm tôi mọi” cho vật, người ta cỡi lên xe đạp thì ít, mà vác nó trên lưng leo dốc cao thì nhiều. Thế nên hồi trước đa số công tư chức ai có tiền chỉ mua xe hơi, nhưng xe honda được thông dụng nhứt. Bây giờ xe đạp lại hữu dụng giúp mọi người kiếm sống khá ra trò, người ta không cỡi trên xe đạp, mà dùng nó làm xe thồ. Ngược lại xe honda cho nó "an dưỡng" xó góc, vì các cây xăng không có một giọt.

              Khu phố Hoà Bình ngày xưa nhộn nhịp, đông vui, sang trọng là thế! Nay tiệm nào cũng cửa đóng then cài im lìm. Hàng hoá đồ đạc thu dọn đâu sạch bách. Trơ lại những nhúm người ngồi trên vĩa hè, mặt mày lơ láo, họ rù rì to nhỏ, dáo dác nhìn ngược ngó xuôi, mắt mất thần. Họ tụm năm tụm ba ở góc nầy góc kia, dáo dác len lén bày bán những món đồ cũ, đơn sơ và khiêm nhường thấy tội. Đàn bà con gái... theo thơ Lệ Khánh: "Gái Đà Lạt trời sinh đều đẹp cả”, nay một số qúy bà mặc quần áo lôi thôi lốc thốc, nghèo nàn, họ xuống đường tần tảo bán bưng thúng mẹc bên lề. Họ ngồi bệt trên những bậc tam cấp bán bòn những củ cà rốt, khoai lang, rau rợ bầm dập. Vài ba bà la lối om tỏi, chỉ vì những con cá ươn sình vương vãi ra trên vệt nức bên vệ đường.
              Ngẩn ngơ ngồi xuống mé đường lựa những trái su hào trong mẹt. Tôi nghe bạn hàng xầm xì với nhau:
              Bà con toàn thể xã ta
              Ðồng tâm phấn khởi trồng cà dái dê
              Dái dê to mập dài ghê
              Năm sau ta cứ dái dê ta trồng (*)
              - Mèn ơi! Con tao bệnh, không có tiền mua thuốc uống. Ở đó mà mua phân, mua giống trồng cà dái dê. Rồi nuôi heo, nuôi gà, tăng gia sản xuất cái nỗi gì! Nhà nước bắt mẹ con tao bưng máy đan của mình, dô trong hợp tác xã đan áo len xong, gởi đi Liên Xô ráo trọi. Cái gì của mình là của “liên bang Xô Viết” mà mầy. Nếu mầy không có máy đan, thì tới đó dùng hai que tre, que gỗ mà đan. Rồi mầy coi, cái tập thể ni lọt dô túi bọn đó mất tiêu. Bọn mình chẳng còn con khỉ khô gì ráo trọi á. Chỉ còn trợn trắng con mắt, cúi đầu và hai bàn tay cầm que đan đan, đâm đâm, thọt thọt... Nghe.
              - Thỉnh thoảng trên hợp tác xã đan móc may mặc có phân phối chút thịt heo bụng, ba chỉ, hoặc cẵng chân, đầu cánh gà mà?
              - Xời. Đi gánh phân heo để tưới rau ăn, thì có. Bởi vậy nên người ta thèm thịt, nhỏ từng cục nước miếng, thì phải đi ăn trộm, ăn cắp biết nhiêu mà kể xiết, mất cắp ở trong mấy cửa hàng bách hoá như rươi. Của chung mà mầy. Ở nhà dân cũng bị cắp, trộm.
              - Mầy hổng thấy sao ke! Con chó nhà tao năm nào ú nù, ú nần, tướng mập mạp đi hổng nỗi. Nay nó ốm tong ốm teo, lông lá rụng xơ xác, đầy ghẻ chóc, rụng hết răng, cũng bị bọn trộm rinh dìa làm thịt mất toi rồi. Mất chó giữ nhà, riết rồi cả xóm không còn chó sủa, nên ai có chút của cải, cũng bay mất toi theo thằng ăn trộm hết. Đảng có mù, đảng cũng thấy chớ.
              - Coi chừng nghe mầy. Nói tào lao, tai vách mạch rừng á.
              - Bởi dậy... mới có chiện cán bộ lùng bắt người và chó. Người trộm cắp thì cho dô tù. Chó thì cho dô nồi bự. Trời quơi! Nước non chi lạ, dưới dân mất chó, mất heo gà. Trên nhiễu sinh ra đủ thứ "chiện" cướp cạn tham nhũng, hổng biết sao ta? Suỵt!
              - Đừng chọc quê, tao không phải là đứa “cần câu nhân dân”. Mầy đừng lo.
              - Ha ha! không có tội mà trở thành có tội, do có loại công an nhân dân làm cần câu, đó nghe.
              - Trời! Nói cái gì tầm bậy tầm bạ dị hợm vậy. Mầy! Dân cũng nghèo rớt mồng tơi như công an công yết. Chắc có lẽ ai làm “công an nhân dân” thì có đặc biệt nhiều tiền hơn hỉ?!
              - Mẹ ui! Nếu nhiều tiền thì công an nhân dân đâu mặc quần áo có mấy miếng ti vi to tổ chảng hỉ!
              - "Kiểu tân thời" á mầy.

              Nghe thêm mệt, tôi phải đứng lên đi khỏi cho rồi. Nhóm chân len lén nhìn qua khu vườn cũ, hồi ấy tôi đã trồng nhiều hàng hoa hồng rực rỡ màu sắc thành hàng lối thẳng tưng, sau vườn toàn những vòm cây ăn quả thắm đẵm sương đêm mọng hạt nước lung linh trên ngọn lá rung rinh. Ngôi nhà thân yêu nầy do tự sức cần lao của ba mẹ làm lụng vất vã, và chính anh chị, cùng tôi khi chưa lập gia đình đã bán phổi dạy học, dành dụm mà có ngôi biệt thự Mimosa tươm tất. Qua hàng rào gạch thưa, cổng sắt đóng kín cửa có tấm bảng đề “coi chừng chó dữ” vẫn còn nguyên, nhưng cũ mèm hoen rĩ sét. Đang ngơ ngáo len lén nhìn quanh, thì tôi giật nẩy người khi con chó Bìm Bìm tru hú từng tiếng, rít từng cơn trong cổ. Nó đã già nhưng mừng như điên cong đuôi chạy lui chạy tới ngoắt lia lịa. Nó chạy mấy vòng trong sân, bỗng chốc chồm hẳn hai chân trước lên ngực tôi, nó quay quắt mừng rỡ, cuống quít khi gặp lại chủ cũ. Nó thò mỏ qua khe rào gạch, cố tìm cách liếm liếm bàn tay tôi. Ngày di tản, tôi không thể đem con chó bé tí theo, nên tôi đã cho bác Tân hàng xóm nuôi, (nhà ba má tôi chung một hàng rào xây bằng gạch song thưa, tuy nhiên hai khu đất và nhà mỗi gia đình cách xa nhau ba chục mét).
              Tôi lòn tay qua song cửa cổng sắt xoa đầu nó hoài. Lúc đó, nó mới chịu đứng yên giây lát, nó rên ư ử đuôi vẫn ngoắt lia lịa. Bác Tân nghe tiếng chó sủa vang, đã đi ra sân. Bác càng mừng rỡ chạy tới mở cửa cổng, bác đon đả rối rít chào hỏi tôi. Con Bìm Bìm lanh lẹ chui qua khe hở giữa hai người, tôi vô nhà bác, nó vẫn chạy lăng quăng sau đó cuộn tròn dưới thềm gạch, mỏ gác lên chân tôi. Mắt nó liếc qua liếc lại, hai tai vểnh lên nghe ngóng. Con chó mà thật có tình nghĩa! Ngoài những đau đớn, hụt hẫng, ngậm ngùi đáng hổ thẹn, nay tôi không còn gì! Thật chẳng còn gì để cho con vật, dù chỉ là một lát bánh mì tẻo teo!

              Có gì đâu, còn gì đâu nữa! Từ trên đỉnh bình yên an vui ngày hai buổi đi dạy học, nay tôi đã hụp xuống vực thẳm giữa cơn xoáy đục ngầu, buồn tủi và đen bạc. Hy vọng vỡ tan trong mối thất vọng chua cay, tổn thất dập dồn do thương tổn tình đời để lại. Tôi lặng lẽ ưu phiền ngồi điếng lặng hằng giờ trong góc tối cô đơn, suy nghĩ hết cách mong tìm kế sinh nhai. Tôi giống con chó hoang trốn vào hang hốc, mệt mỏi liếm vết thương mình. Kể từ ngày “đổi đời”, sự sống của gia đình tôi kể như "vong gia thất thổ, nổi trôi theo dòng đời chảy xiết". Cuộc cách mạng 75 đã đẩy bật chúng tôi ra khỏi thành phố Đà Lạt. Xa những núi đồi thân yêu, vắng những thác nước suối nguồn mộng mơ. Tôi không còn thấy những hàng hoa anh đào thắm sắc ôm bóng dưới mặt hồ loáng bạc như tráng men:
              Cũng từ dạo ấy, tôi làm người thua thiệt
              Dĩ vãng buồn là chiếc võng đong đưa
              Chiều tan hoang dấu binh lửa tàn chưa?
              Đời hiện nét những lọc lừa căm hận.
              Nay còn gì đâu để tôi dấn thân vào thế trận?
              Một mối hận thù, một mối thương đau. (2)

              Nhứt là chẳng thể lặng yên vui vẻ nhìn những cụm mây hồng thắm bồng bềnh bay bay. Mỗi độ hoàng hôn mây óng vàng mịn mượt e ấp rủ nhau về quỳ gối bên ao hồ soi bóng. Chao! Gia đình tôi lâm vào ngỏ cụt không lối thoát, mà số phận tàn nhẫn nghiệt ngã vẫn bám riết lấy. Dù bằng sự can đảm phi thường mẹ trẻ con thơ dắt díu nhau chạy về Sài Gòn, cố gắng "tái thiết cuộc đời” sống lây lất thấp hèn đến độ thê thảm trong trại gia binh bỏ hoang. Danh dự vẫn còn, tôi sống thanh liêm và dùng hai bàn tay không cầm ngòi viết, mà dùng làm “cây chĩa ngũ đoản thập toàn”, để tự bới móc tìm cái ăn ngoài xó xỉnh ruộng đồng! Tôi nâng mình lên cao hơn mặt đất xí xi, hầu hòa đồng cùng những người cùng khổ không manh áo cơ hàn khác. Chúng tôi rất nghèo, đói rách tả tơi thấy thảm thiết lắm. Chính những tháng ngày âm thầm đi trong vũng tối, từ những con đường đất đen đen lên nông trường Lê Minh Xuân không đèn soi, không trăng tỏ, tôi mới có đủ thời gian suy tư, kiểm nghiệm những thăng trầm chồng chất muôn vàn đắng cay đời mình dâng cao ngút. Chồng bị đi tù “cải tạo”. Do:
              Uổng đời trai súng gãy giữa sa trường.
              Họ chưa đến mà tan hàng bỏ chạy.
              Đừng trách anh, bởi cuộc đời oan trái.
              Trước lệnh hèn tàn nhẫn với ba quân.
              Tổ quốc cần, “lãnh đạo” chỉ lo thân.
              Bên vợ đẹp con ngoan và tiền bạc.
              Thì đừng trách… khi quân đoàn tan nát. (3)

              Các con lây lất lang thang tả tơi áo quần ngắn củn sờn rách, co ro trên vĩa hè phố Sài Gòn. Những đứa con của tôi và tuổi thơ vô tội tự bươn bả moi móc mọi thứ để kiếm sống, con đói khát ngủ chập chờn bên hóc tối (để cho bầy con kẻ khác mặc nhiên tới chiếm ngự ngôi nhà đồ sộ của mình, họ thô thiển vui đùa dưới hàng hiên ở nhà của chúng tôi đây). Tôi không còn đủ sức để mà hận, không nghe thấy gì, chẳng còn chút sinh khí ngoài nỗi điếng lặng lo sợ cồn cào đói khát, đau ốm đang dày vò ruột gan tôi và các con. Nỗi lo sợ bà nội các cháu, mẹ con bị bệnh đau, ghẻ chóc, truyền nhiễm dâng đầy ắp, mà không có tiền thuốc men- Hơn là tôi sợ hãi bất cứ thứ mất mác vật chất gì. Lòng tôi chao đảo vì chiến tranh tương tàn, vì những mất mác vô cớ, mà các con thơ mẹ già vợ yếu bỗng dưng vô tình cúi đầu gánh chịu, như tai ách mạch đời ở đâu trút ào ào xuống đầu mình. Trách nhiệm từ ai? Tại sao? Bởi vì đâu? Vì những “dày vò” của ông bà cố tổ mẹ cha chú bác? của những người có trọng trách giữ nước, giữ quê? hay là do trầm thống điêu linh tổ quốc suy tàn chẳng còn, nên con cháu họ đã ra nông nỗi, làm bàng hoàng sụp đổ cả một chính phủ VNCH trong tích tắc thời gian khi thành phố cũ -nay còn đâu:
              Trở về Đà Lạt… buồn ơi
              Sương mù chẳng toả ra hơi, ngậm ngùi!
              Một bóng trên đồi lủi thủi. {Da diết...
              Đà Lạt xưa duyên dáng lặng lờ (mà) tha thiết
              Bao rung cảm nhớ miết… lẫn đợi chờ
              Huyền thoại đấy -hạnh phúc đến như mơ-}
              Giờ bỏ ngỏ lang bạt tìm kiếm
              Đà Lạt chừ mọc nhiều tửu điếm
              Tôi về quê ngơ ngác kiếm mãi con đường
              Đâu? dũng khí quân trường cùng đi lên đi xuống
              Đầm ấm thi vị gieo vào đời nhiều ước muốn
              Trả tôi bước chân luống cuống niềm thương
              Mưa dầm gội sạch phong sương
              [“Lâm Viên hào nhoáng” chẳng còn tình ta
              “Tham sinh úy tử”] chỉ là… (4)

              Tôi cúi đầu uất nghẹn! Đà Lạt diễm kiều quyến rũ một thuở nên thơ tràn lan thi vị ấy, nay không còn là thành phố duyên dáng, hữu tình nữa rồi. Tuy tai tôi vẫn nghe tiếng thông reo vi vu thì thầm cùng gió, sương rung rinh nhè nhẹ thở hơi mát, phả vào không gian bảng lảng dáng Thu bàng bạc trên thành phố lạnh lẽo! Tôi đi giữa hai hàng cây anh đào trơ trụi, vài chiếc lá úa lững lờ chao lượn dưới làn sương mỏng là là bay, cuốn theo những hạt mưa bóng mây ẩm lạnh trong không gian ngút ngàn buốt tê. Dường như tôi cảm thấy ngu ngơ, lơ láo nhìn ngó, băn khoăn, thổn thức đớn đau dày vò và cảm thấy thất vọng kỳ lạ. Không tài nào nhấc bước chân lên khỏi mặt đường lồi lõm, tôi cứ đứng lì ở một góc phố như trời trồng, mà mất hồn mất vía. Tôi cảm thấy mình bị lún dần, lún dần vô cõi lạ. Dường như có ai ở dưới vũng bùn sình đang giơ tay kéo lôi, giật tôi hụp xuống cùng:
              Đời người lúc thịnh, lúc suy
              Lúc khỏe, lúc yếu, lúc đi, lúc dừng.
              Bên nhau chua ngọt đã từng
              Gừng cay, muối mặn, xin đừng quên nhau.
              Ở đời nhân nghĩa làm đầu
              Thủy chung sau trước, tình sâu, nghĩa bền.
              Ai ơi nhớ lấy đừng quên! (5)

              Thi sĩ ơi, ông thiệt có tình và nhân đạo! Đôi mắt tôi có hai ngấn nước lặng lờ hơi sương, mờ nhoà, mờ hẳn... giọt sương lăn tăn li ti hòa quyện cùng giọt nước mắt xót xa đã chảy xuống hai gò má. Thành phố của tôi ngày xưa ôi là xinh lịch vui tươi, truyền cảm, quyến rũ, luyến lưu thơ mộng là thế. Giờ đây sao quá ngao ngán buồn!? Trước mắt tôi, hiện tại với khoảng trống băng giá, cùng gánh nặng gia đình quầng siết lấy đôi vai gầy đang còng xuống những cố gắng vĩ đại, tôi chới với quơ bàn tay gầy cố vươn lên, thấp thỏm giành lại cho mình một tí, dù một tí thôi những gì đã mất. Tôi ngồi bên lề phố Hoà Bình ngửa mặt lên trời mà khóc, mà cười, cười khẩy, vì không sao hiểu nỗi “đời”! Tâm hồn tôi hằn lên vết rạn nứt đau xót khôn tả xiết, xếp lớp lăn tăn bềnh bồng lâng lâng giữa trạng thái nửa tỉnh nửa mê theo sóng đời cơ cực. Gia đình tôi đã lầm than khốn cùng tụt xuống dưới tận đáy xã hội phù phiếm mất rồi. Đà Lạt xa xưa tự thuở hồng hoang xinh lịch thơ mộng êm mơ là thế, rồi... có một “thời gian vật vã” nên quê tôi đã nghèo nàn, ê chề cũng kinh khiếp đến thế. Háo hức đi thăm Đà Lạt làm chi, để rồi:
              Chưa đi chưa biết Lâm Đồng,
              Nếu đi sẽ thấy đau lòng tổ tiên.
              Giang sơn một giải Cao Nguyên,
              Để Tàu khai thác nát nghiền quê hương. (6)
              ***
              Nhưng rồi… thảng thốt thay khi Đà Lạt của tôi hôm nay (2017) đã biến mất các rừng thông xanh thẳm, những con suối uốn lượn quanh co dọc triền núi, thác nguồn ngày xưa hoang dã tự nhiên thơ mộng êm đềm, thì nay “sinh chứng dị hình xây dựng” những kiểu cách “gán ghép bắt râu ông nọ cắm cằm bà kia”. Những cao ốc chen chúc, chi chít cùng những nhà bần nông lụp xụp (vì các "dịch vụ, nhu cầu sinh kế khẩn thiết" cần "triệt để khai thác" cho ngành du lịch phồn thịnh!!!); nên đâu đâu cũng "tự chế" ra phòng trọ, "mô teo, hô teo..." nườm nượp mọc lên "lâu đài" trên đồi trọc không còn tiếng thông reo vi vu triền miên (vì chẳng còn cây cối nào có thể sống), người ta "tự phát, tự chế" không theo quy trình kiến thiết đô thị, thì Đà Lạt bây giờ vụng về thô thiển và nóng ơi là nóng! Đà Lạt lộn xộn trơ trẽn như bộ mặt của con mèo bông vá chằn vá đụp. Thế thì:
              Đừng khoe tôi những con phố “bưng biền”,
              Những quảng cáo, những mặt tiền nham nhở,
              Những khách sạn ánh đèn màu rực rỡ,
              Trơ trẽn bày, dụ dỗ khách phương xa.
              Đừng khoe tôi chốn thờ phượng nguy nga,
              Những dinh thự xa hoa nằm choán ngõ,
              Những màu sắc lam, vàng, đen, tím, đỏ,
              Đang uốn mình theo gió đón hương bay.
              … Bạn thân ơi, sao không chụp giùm tôi,
              Nỗi thống khổ của triệu người dân Việt,
              Nửa thế kỷ trong ngục tù rên xiết,
              Oán hờn kia dẫu chết chẳng hề tan.

              Ôi Đà Lạt của tôi… chẳng còn sinh khí hồn nhiên của mạch rừng hoang dại, dường như Đà Lạt nghẹt thở do những nét chấm phá từ bao ngôi nhà giống “nấm rơm nấm chó nấm mèo” trên bức tranh thiên nhiên đã tự nó đã loang lổ, thì quê tôi chìm mất nét hấp dẫn trữ tình, thi vị đầy thiết tha rung cảm, trìu mến và trữ tình trong tim mình! Thế nên tôi đành bùi ngùi và nghẹn ngào ngoảnh mặt quay bước không thể trở về lối cũ đường xưa…
              Đừng khoe tôi, hỡi người bạn tài hoa,
              Những tấm ảnh mang ra từ địa ngục,
              Nơi bạn mới về rong chơi hạnh phúc,
              Dù bao người vẫn tủi nhục xót xa.
              Đừng khoe tôi hình ảnh một quê nhà,
              Mà bạn nghĩ đang trên đà “đổi mới”,
              Những thành thị xưa hiền như bông bưởi,
              Nay bỗng dưng rã rượi nét giang hồ.
              Đừng khoe tôi những cảnh tượng xô bồ,
              Những trụy lạc giờ vô phương cứu chữa.
              Đất nước đã từ lâu không khói lửa,
              Sao rạc rài hơn cả thuở chiến chinh. (*)
              * * *
              Tình Hoài Hương

              (1) Thanh Cảnh
              (2) Nguyên Thạch
              (3) Phạm Hồng Thước
              (4) Tình Hoài Hương
              (5) Bùi Giáng
              (6) Bùi Phạm Thành
              (*) Sưu tầm (xin lỗi, do HH quên tên tác giả bài thơ rất hay)
              *
              Last edited by Tinh Hoai Huong; 08-16-2020, 02:59 AM.
              Bút trần nào tả được lưu luyến!
              Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
              Tình Hoài Hương

              Comment


              • MẸ Dấu Yêu & Chiếc Áo Gấm


                MẸ Dấu Yêu & Chiếc Áo Gấm
                Mùa Vu Lan, chúng con đau đớn kính gởi ba mẹ đóa hoa hồng trắng.
                Tình Hoài Hương

                ***

                Tôi cố gắng giằng co, níu kéo, quyết giành lại chiếc áo gấm sờn, nhàu nát, cũ mèm với định mệnh. Dù thời gian dài dằng dặc lặng lẽ đơn điệu dần dần trôi qua, đã khiến chiếc áo hư hao, phai mòn, sờn úa mục nát ít nhiều. Và không gian trôi dần, trôi dần về phía tương lai mù xa tách bạch ra đôi bờ cuộc sống. Tôi không có cách gì ngăn chận tuổi già héo hắt đến trước thời gian. Vâng! Có lẽ nay tinh thần lẫn thể chất tôi đã già cỗi! Và, chiếc áo gấm năm xưa còn đây, mà ngón tay gầy run run tôi gài hoài mấy nút áo cũ, vẫn chưa xong. Thời gian đã cướp dần đi tất cả. Vẫn biết thế, nhưng tôi mong muốn níu kéo, âu yếm dùng-dằng ngắm nhìn lại chiếc áo gấm, nếu tôi được nhìn nhiều lần càng tốt.

                Ngày ấy, chúng tôi vui vẻ dừng chân trên con đường mòn vòng vo gãy khúc uốn lên uốn xuống, quanh co ven đồi thông rì rào ru tình tại Đà Lạt. Chúng tôi chỉ nhìn vài con chim lí lí lắc lắc, rù rì, bay qua bay lại trên những cành cây mảnh dẻ, là cảm thấy hay hay, vui vui. Lần đó, tôi liếc liếc, lí lắc ghé ghé nghiêng nghiêng đầu thẹn thùng e ấp cười, tôi dùng hai ngón tay quệt nhè nhẹ vô một bên má, mà lêu lêu Luật, để trêu chọc anh, rồi gài hộ Luật mấy nút áo, cho anh bớt bị gió lạnh lùa vô cơ thể. Giờ nầy, Luật cùng muôn ngàn người trai trẻ khác đã bị tập trung đi “cải tạo” trong tù rồi! Chồng đã ra đi. Nhưng Luật không ra khỏi đời tôi. Còn mỗi mình tôi đứng lại bơ vơ, lạc lõng, muộn phiền giữa chợ đời sóng sánh muôn mặt, với sợi tơ hồng quá mong manh cứ rung lên bần bật giữa lưng trời. Tôi lặng lẽ chua chát đối mặt với cuộc sống, ấp ủ kỷ niệm thời chớm lớn, những tủi hổ tiếc xót vô vàn, & những đắng cay thăng trầm tột độ trào lên bờ mi mọng từng chuỗi giọt sầu.

                Bị vô tù “cải tạo”, Luật đã bỏ chiếc áo vét (veston) nầy lại, trên chiếc áo vét đã dính hai ba sợi tóc đen mướt khá dài cuả tôi, và một hai sợi tóc ngắn cuả anh, cùng với những lá thư tình đầy ắp yêu thương do anh viết dày cui, còn trang trọng cất trong túi áo đó. Thư của Luật viết có văn phong gợi cảm, là những bức tranh phác thảo duyên dáng về câu chuyện gia đình, tình yêu, phúng dụ, vỗ về, hứa hẹn, an ủi, mang tính cách gia đình đầm ấm yêu thương, hạnh phúc bền lâu. Đó cũng là chiếc áo gấm lý tưởng thiêng liêng tinh tuyền muôn thuở, có dấu vết đậm đà khắc sâu vô tim thân yêu, quen thuộc duy nhứt từ buổi thiếu thời. Dù qua phong sương sáng khuya trưa chiều mưa gió… chiếc áo của anh đã cũ. Thư tình Luật viết ngả màu vàng úa đọng bụi phấn thời gian, năm ba sợi tóc cuả hai chúng tôi bóng mướt đen tuyền vẫn duyên tình mãi đến tận bây giờ. Tôi nâng niu giữ gìn những sợi tóc, phong thư, cùng tấm áo từ hồi chưa cưới nhau.

                Ngày còn trẻ, tôi chưa lo nghĩ đến tuổi xế chiều phôi pha rồi sẽ ra sao. Bởi tình yêu chúng tôi giống dòng sông chảy qua bao dãi đất: phù sa phì nhiêu có, cằn cỗi có, tươi tốt có, băng giá hoang tàn lẫn đau khổ buồn xo cũng có. Rồi dòng sông xô sóng sau dồn sóng trước, cuồng nộ đập vô gờ đá, hay lặng lờ êm ả, thong dong xuôi chảy ra biển cả. Mỗi khi chạm trán với thực tế bẽ bàng đắng cay, trong lòng ngút ngàn đau thương, lúc đó tôi lặng lẽ vuốt từng nếp nhăn trên tấm áo, trang trọng nâng mấy sợi tóc trên hai bàn tay khẽ khàng khum khum bụm lại. Tôi sợ gió từ đâu vô tình lướt qua, tóc sẽ cuốn theo chiều gió bay mất hút, thì biết đâu mà tìm?

                Đó là những kỷ vật ưu ái đã theo tôi trên muôn dặm đường đời cay cực, để xoa dịu nỗi hãi hùng và bàng hoàng rất kinh ngạc trong cuộc đời phù du. Tôi ấp ủ tình luyến nhớ, thút thít, bùi ngùi khi soi bóng mình trong gương, cảm thấy lòng nao nao nỗi buồn da diết. Vì đến nay tôi chẳng thể giữ lại kỷ niệm nào thân thiết nhứt về anh, khi đầu mình thấp thoáng có sợi tóc bạc quyện-bện cùng bao sợi tóc chẳng còn đen mướt? ngoài mấy di vật bé tí ti như đã kể. Thế nhưng, ngọn nguồn óng ả tình trần hiện nay có mất đi chăng? Khi thời gian khẳng định ngàn mối lo âu, đói khát cơ cực run rẩy dâng tràn!? Không thể chối quanh từ sau ngày mất nước, thì lòng trí tôi luôn ray rứt, thương-xót hồi tưởng về quá khứ buồn vui lao xao, dẫu đời xáo trộn, trái tim tôi vẫn đập thình thịch và chao đảo.

                Nay tôi đang mặc chiếc áo cũ của chồng, mà lẽ loi đơn côi ghê gớm, tôi âm thầm đi một mình buồn bã trên con đường xám ngắt thuở xa xưa. Hai bàn tay lạnh giá run rẩy, run lẩy bẩy, tôi không làm sao gài nỗi nút áo bạc phếch thời gian và cũ mèm nầy. Thì ra… giờ đây tôi quá yếu kém và đã già! Kỷ niệm bây giờ chả là gì! Không quan trọng! Chỉ là những chương đã viết trong pho sách tình xếp lớp lớp trên kệ sách, phủ lăn tăn bụi vàng ít khi được mở ra xem. Pho sách cuộc đời từ đây phải đóng lại. Trang giấy đã lật qua tờ mới, thì hồi tưởng nhớ nhung kỷ niệm; chỉ như chiếc lá úa lắc lẽo đong đưa trên cành cao, chờ cơn gió lay để chao đi như những áng mây xám lưng đồi lững lờ bay qua bầu trời mùa Thu, như côn trùng biến dạng vô lòng đất mà thôi.

                Tôi thấy rõ tính chất phù phiếm của quá khứ mang đầy kỷ niệm lãng mạn rồi. Sau ngày “đổi đời”, tôi muốn sống một cuộc sống khác hẳn: Thực tế sung mãn hơn. Nhưng, chả hiểu có thực hiện nỗi không, là còn tùy thuộc ở hoàn cảnh và ý chí: Trước tiên, tôi muốn cho đàn con phải nên người hữu dụng, kiên cường, dù bụng đói cồn cào, để vượt qua mọi chông gai thử thách “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Chỉ bấy nhiêu thôi, cũng đủ ngất ngư mà. Ý nghĩ nầy như viên sỏi ném xuống mặt hồ phẳng lặng, tạo thành những vòng tròn đồng tâm, ám ảnh tâm thức tôi bồn chồn, băn khoăn, co siết mãi trong lồng ngực quắt quay.
                ***
                Tôi vô cùng nhớ Mẹ thân yêu, dù đa đoan với công việc bề bộn, không hiểu sao hôm ấy tôi quá bần thần bâng khuâng lo lắng kỳ lạ! Nhưng rồi vỡ lẽ ra "máu chảy ruột mềm", do ngày mồng 5 tháng 5 năm 1980 âm lịch, anh Chín Dzoãn báo tin sét đánh: Mẹ tôi đã chết ở trong Ta In (khu đất thuộc Tỉnh Tuyên Đức Đà Lạt). Ta In là cuối địa đầu quận Đức Trọng, giáp ranh giới vùng Di Linh. Nơi tít tót đèo heo hút gió, thâm u cùng cốc lạnh lẽo, vô cùng hiểm trở, có đi mà ít có ai về nguyên vẹn. Nơi chó ăn đá gà ăn muối, nơi khốn cùng của vùng “kinh tế mới” khô cằn toàn sỏi đá, chỉ nhiều rắn, rết; vô số muỗi, vắt, đỉa, ruồi trâu, bò cạp rừng to và độc kinh khủng. Chúng chuyên bu bám vô người ốm để hút máu. Nơi có nhiều mụt măng le, tre rừng, ta ăn cho đỡ đói, thì sẽ bị sốt rét ngã nước, mà lăn ra chết toi.

                Cầm tờ điện tín, tôi lặng người rất lâu, không thể khóc thành tiếng. Nước mắt u uẩn tự động tuôn chảy từng dòng, rồi dội ngược vô tim mình khiến nó quằn quại đau điếng. Hình như tôi nghẹt thở, chết dần chết mòn, không còn cảm giác nào khác, ngoài sự dày vò, ân hận, đớn đau dâng lên tột đỉnh. Vì, giá như trước ngày 30-4-1975, nếu có chiến tranh, có đánh nhau dữ dội, tôi cũng còn chiếc xe hơi riêng mới toanh mang hiệu Peugeot 404 chạy đi... Hay là tôi có thể mua vé máy bay khứ hồi cấp tốc bay về với mẹ, tôi qùy xuống bên mép giường, cầm tay mẹ, ôm chặt mẹ lúc mẹ hấp hối.
                Ôi! Giờ đây tôi không thể đến bên xác mẹ già yêu dấu, để nhìn mẹ một lần chót trong giờ phút mẹ lâm chung. Tôi không thể nào xin tấm giấy phép đi đường. Tôi cũng không thể chen lấn ra bến xe đông nghẹt người có giấy phép ưu tiên. Vì, tôi là kẻ “ưu tiên u đầu” thì có. Tôi không thể đứng ngày nầy qua đêm khác ngoài bến xe, nhịn đói nhịn khát, mà chẳng dễ dàng gì chờ mua vé xe từ Sài Gòn đi Đà Lạt. Biết tin mẹ chết, cũng đành chịu! Dù từ Hốc Môn đi Ta In, chỉ gần 300 cây số.

                Thế là hết thật rồi! Một thân xác héo hon đã thực sự trở về với cát bụi phù dung. Tôi không lẽo đẽo đi sau quan tài mẹ, vật vã khóc than mà tiễn đưa mẹ về nơi an nghỉ nghìn thu. Má con chúng tôi không biết làm gì hơn, ngoài việc quây quần bên nhau, gùy dưới nền đất, bồn chồn lo âu, sụt sùi, băn khoăn, suy niệm lời Chúa, lâm râm dâng lời cầu nguyện. Tôi ứa nước mắt nhìn mẹ trong hồi tưởng: Mẹ tôi sanh tại làng Thuận Nhơn. Nhà ông bà ngoại ở quê (tức ông bà cố ngoại của con tôi). Làng mẹ ở bên con sông rợp bóng hai hàng dừa và lũy tre xanh um bóng mát, thuộc Tổng Cù Hoan, Phủ Hải Lăng, Tỉnh Quảng Trị. Mẹ lớn lên trong một gia đình bế thế, phong lưu giàu có, ruộng vườn của ông bà ngoại cò bay thẳng cánh, lúa gạo trâu bò nhiều nhứt trong vùng thời bấy giờ. Ông cố ngoại là một võ quan rất giỏi ở triều đình vua Khải Định, Huế).

                Mẹ có dáng dấp thon thả, làn da bánh mật, răng hạt huyền nho nhỏ đều đặn, miệng cười chúm chím, mắt phượng mày ngài, mũi cao, mái tóc dài láy đen bối thành một búi to sau gáy. Áo quần mẹ luôn trang nhã, sạch sẽ và tươm tất. Mẹ đi ra ngoài đường, ở trong nhà, hay đi ngủ, mẹ đều thay đổi quần áo đâu ra đó hẳn hoi. Dù đi khỏi xóm, đi chợ, hay đi bán, mẹ luôn mặc áo dài đoan trang kín đáo che thân. Đặc biệt mẹ sống cuộc đời bình dị đạo đức, chất phác lương thiện, dịu hiền phúc hậu. Mẹ siêng năng tần tảo đầu tắt mặt tối, long đong bán buôn xuôi ngược. Mẹ nhẫn nhục lao khó giúp chồng, nuôi đàn con mười mạng nên người. Vất vã vì chồng vì con nheo nhóc, nhưng mẹ không hề tỏ lộ bất bình, hay nặng lời to tiếng. Trời mưa tháng gió ở nhà rảnh rỗi, mẹ siêng năng cần mẫn khéo tay tự chằm nón lá. Mẹ may áo quần cho chồng, con, đôi khi mẹ cũng may biếu cho bạn, và người thân. Đó là việc vặt trong nhiều hy sinh to lớn khác. Phải nói hầu như suốt cuộc đời mẹ chưa có lúc nào an nhàn thảnh thơi ngưng nghỉ tay chân. Số mẹ cực thân đến thế mà! Đồng thời mẹ xứng hợp với đức tính bác ái khoan dung của chồng, dễ dãi cả tin khi ai nói điều gì xuôi tai “nịnh” mẹ, thì có bao nhiêu tiền của, mẹ nhẹ dạ trút cho người ấy hết. Dù sau đó biết mình bị lừa, nhưng mẹ không giận lâu, mẹ “hờn mát” một chút, rồi quên ngay.

                Mẹ chân chất hiền lương đến độ thật thà như đếm, mẹ tính tiền cũ từ thời vua Bảo Đại ra tiền cụ Ngô, đến thời đổi tiền ở chế độ Sài Gòn ra tiền mới sau 75, thì mẹ giống thầy bói mù rờ con voi. Mẹ luôn bị kẻ chợ ăn lường. Thế nên, dẫu bị mất hết tất cả tiền bạc, nhà cửa villa, biệt thự tan hoang, mẹ không thèm tiếc. Mà mẹ chỉ ôm khư khư bình vôi đồng đen, là của hồi môn nhỏ như cái chén kiểu, nhưng rất nặng, có giá trị, chiếc bình vôi nầy có mấy tiệm vàng như Kim Khánh hoặc Kim Ngọc trả giá 5 cây vàng bốn số 9, nhưng mẹ chẳng chịu bán! Thân bình vôi tròn vo, đít vôi bằng phẳng, có quai xách xinh xinh bên tai vôi. Mỗi lần ăn trầu, mẹ khéo léo lấy cây chìa vôi têm vô lá trầu xong, dư vôi trên cây que chìa, mẹ quệt quệt lên trên miệng cho “bình vôi hưởng tí xái”. Thế là miệng “bình vôi vui vẻ” nhô cao chù vù, lỗ miệng bình vôi teo tóp dần dà nhỏ xíu; trông nó hô, loe, vẩu ra, hơi giống miệng con heo nái, coi ngộ nghĩnh sao đâu. Hồi ấy tôi nói với mẹ:
                - Tại mẹ ưa mời bình vôi ăn trầu, nên cái miệng nó loe ra dị hợm kinh khủng nè.

                Mẹ cười vui vẻ. Mẹ rất thích bình vôi đồng đen nầy, nó đã theo mẹ suốt từ thời mẹ về nhà chồng, đến tận ngày nay. Ấy vậy mà bây giờ mẹ cũng buông thỏng từ bỏ hết của cải vật chất vinh sang xưa, kể cả chồng, con, cháu, chắt... dấu yêu. Một mình mẹ lặng lẽ chết đói ra đi âm thầm về bên kia cuộc sống mới. Chị dâu Xuân của tôi kể lại rằng:
                - Hôm mẹ vĩnh viễn từ bỏ con, cháu, ấy là một buổi sáng trời ốm nắng, lất phất từng đợt mưa phùn, trong nhà ai ai cũng lo đi rẫy, đi rừng xa ghê lắm; để kiếm sống. Tửng bưng sáng, anh Dzoãn đi bộ từ trong Ta In ra Tùng Nghĩa (xa xôi khoảng hơn hai mươi cây số), anh chạy đi vay tiền, để mua thuốc cảm về cho mẹ. Ở nhà chỉ có một mình chị loay hoay dọn dẹp nhà cửa. Mẹ nằm im trên giường không động đậy nhúc nhích. Chị dâu thấy mẹ không dậy ăn trưa như mọi ngày, nên chị bước qua gian liếp bên cạnh, chị đến bên giường tre lạnh lẽo, không nệm ấm chăn êm. Nhà anh chị quá nghèo, sau 30/4 anh đi tù 5 năm, vừa được tha về, khi cả nhà bị đi kinh tế mới. Họ chỉ có mấy nhúm quần áo tẻo teo, vài bao bố: son nồi chén bát, guốc, dép, linh tinh… Ít mùng mền đơn bạc, và những bàn tay trắng.

                Con dâu dắt díu mẹ già tám mươi tuổi lom khom leo núi chùng chập, vượt đồi trùng điệp. Chồng tủ "cải tạo" về đau bao tử cùng bầy nhỏ lút chút tám chín đứa con, đứa lớn nhứt mười ba tuổi: Châu Ngọc Bích, Châu Ngọc Diệp, Châu Ngọc Ánh, Công Danh, Công Tiến, Châu Ngọc Lành, Châu Ngọc Dung, Thành Đạt là đứa non tháng tuổi, thì lấy đâu ra những thứ xa xỉ ấy trong thời buổi gạo châu củi quế. Mẹ trùm chiếc khăn màu nâu, mặc áo dài nỉ dạ đen, quần đen, áo len nâu khoát bên ngoài, mang đôi tất đen. Mẹ nằm nghiêng, quay mặt vô phía ván vách bìa gỗ. Mẹ chập chờn thiêm thiếp trong giấc ngủ muộn phiền. Chị e dè hỏi thăm:
                - Mệ ơi! Mệ có khoẻ không?
                Không thấy mẹ trả lời, chị cúi sát xuống bên mẹ, nhè nhẹ lay lay đập đập vô cánh tay mẹ:
                - Mệ ơi! Con nấu cháo cho mệ ăn nghen.
                Mẹ tôi lừ đừ mở đôi mắt nhiều ánh đục, (dường như đã bất thần), mẹ cố gắng quay ngoái cần cổ yếu ớt về phía con dâu, thều thào:
                - Hôm ni có… cháo ăn… hả con.
                - Dạ. Mệ đau, không ăn măng luộc hầm mềm như mọi ngày đâu. Để con chạy ra chợ xép, mua chút gạo về nấu xí cháo.
                - Có gạo... là mừng hì.
                - Mệ ráng chờ nghe. Chợ hơi xa. Con sẽ về, mau lắm.
                - Thôi con. Để dành gạo nấu cho thằng Cu Nâu… có chút nước hồ mà uống, thay sữa mẹ không có…
                - Thằng bé con không đến nỗi nào đâu. Mệ.

                Thế rồi, mẹ tôi ư hữ… ú ớ… rên khe khẽ, mẹ lại lừ đừ, khó khăn mệt nhọc khi quay mặt vô trong vách. Hơn giờ sau, khi chị dâu bưng chén cháo tới gần giường mẹ. Mỉm nụ cười méo mó, mẹ từ từ nhắm mắt, dần dần lịm thiếp vào giấc ngủ nghìn thu êm đềm. Chị không hề nghe tiếng mẹ thở, tiếng nấc, chị ngỡ là mẹ mệt muốn ngủ chút xíu như mọi ngày, rồi dậy ăn. Mẹ đã đói khát thiếu thốn năm năm rồi, mà trước khi lìa đời, mẹ vẫn nhịn đói, mẹ không đành lòng ăn chén cháo trắng lỏng bỏng với tí muối hột. Mẹ không nói một lời từ giã, không một lời trăn trối. Mẹ muốn im lìm sớm ra đi, ngỏ hầu trút bỏ gánh nợ đời, khỏi làm phiền con cháu khó nghèo đông đúc. Con cháu không phải cưu mang “nuôi người vô dụng” thêm một miệng ăn. Mẹ muốn rũ bỏ từ trên vai anh chị tôi, và các cháu nhỏ nỗi âu lo phiền muộn vì bổn phận và trách nhiệm nặng nề. Ôi Mẹ! Mẹ muốn nhịn phần ăn hiếm hoi ít ỏi qúy báu cuối cùng, để chia sẻ cho đứa cháu trai nhỏ tí xíu chưa tròn hai tháng. Mẹ đã chết đói. Mẹ âm thầm lặng lẽ êm ái ra đi đúng ngày Tết Đoan Ngọ.

                Lẽ ra, như Tết Đoan Ngọ từ những năm xa xưa, thì mẹ tôi ưa đi chợ mua đầy thức ăn, hoa quả bánh trái. Mẹ làm bánh tro, bánh nếp, bánh bèo, bánh ít, bánh nậm, vân vân... Mẹ làm cả cơm rượu nếp cẩm, nếp than. Mẹ nấu cơm gạo thơm với nhiều thức ăn thịnh soạn, nóng hổi, linh đình, để cho con cháu từ xa trở về nhà thăm cha mẹ. Đại gia đình cha mẹ con cháu hân hoan sum họp vui vẻ ăn uống. Mẹ nói:
                - Con, cháu, ăn bánh tro, uống chút cơm rượu, thì sẽ diệt giun sán trong bụng. Hì.
                Hầu như cả xóm Trong xóm Ngoài ở Ta In đều thương cảm mẹ của chúng tôi, họ cùng nhau đến nhà anh chị Dzoãn, tận tình lo cho mẹ chúng tôi chu đáo. Mỗi người một việc tươm tất từ đầu đến cuối gọn gàng. Trước khi đậy nắp áo quan, họ vẫn để nguyên bộ quần áo cũ, khăn, tất... lúc mẹ chưa đành-đoạn bỏ đi. Và họ mặc lồng thêm cho mẹ chiếc áo gấm, nền áo màu nâu non điểm rải rác những bông hoa cúc đại đóa vàng nghệ. Chiếc áo gấm xưa kia mẹ tôi đã mặc trong ngày trọng đại nhứt đời, khi họ nhà trai hân hoan tưng bừng đến rước dâu. Nay thì những người khác đã thay ba tôi mặc chiếc áo gấm (áo của ba đã ưu ái trao tặng mẹ). Họ đặt xâu tràng hạt vô bàn tay mẹ lạnh giá, họ nhớ để bình vôi đồng đen bên cạnh mẹ. Sau rốt, họ choàng thêm cổ áo quan dày cui thô sơ thơm mủ ngo ra bên ngoài toàn thân mẹ.

                Mọi người tiễn đưa mẹ về an nghỉ nơi nghĩa trang quạnh quẽ. Không một vòng hoa cườm đen cườm tím cùng ghi lời thành kính phân ưu. Không có cỗ áo quan sang trọng đắt tiền, mà chỉ là sáu tấm ván thông đơn sơ hèn mọn thơm lựng mùi nhựa mới. Không hề có bát nhang đèn nến, rườm rà nghi lễ. Không có gì, không còn gì tất cả ngoài nỗi đớn đau kinh hoàng phủ chụp xuống đời mỗi con người lặng lẽ. Ấy thế mà dân cư cùng đinh đến thăm viếng mẹ đứng lố nhố đông đúc, từ ngoài ngỏ đầy kín người cho đến trong nhà tranh lụp xụp đìu hiu chật chội nầy. Họ chia buồn, ân cần giúp đỡ gia đình anh chị tôi nhiệt tình, họ không hề khiến tang gia nghĩ ngợi vì chuyện họ đến phụ giúp, là bận rộn lo thêm chuyện ăn, uống gì. Họ nghỉ đi rừng, không đi rẫy, nghỉ đi làm, dù ai nghỉ một ngày là gia đình họ nhịn đói nhịn khát, có thể thêm đau ốm xanh xao.

                Họ thay các anh, chị, con cháu (trong đại gia đình chúng tôi cả thảy hơn năm bảy chục người) vì hoàn cảnh ở xa, khó khăn xe cộ, phép tắc đi lại, hoặc còn bị lao tù "cải tạo". Bà con quanh xóm cùng nhau lặng lẽ khiêng quan tài mẹ tôi băng rừng, leo qua một triền núi thấp, vượt đốc, qua bãi đầm, đi trong thung lũng sình lầy. Rồi họ leo lên ngọn đồi toàn đá ong lởm chởm, họ đi lên núi cao chót vót và đơn điệu, nơi đây chỉ toàn sỏi đá, gió lồng lộng hú rít thổi đám bông lau xoay xoay trắng cả lòng quê, từng cơn gió kéo dài lê thê lạnh thấu xương. Mẹ tôi nằm xuống, vĩnh viễn ở lại nơi rừng núi bạt ngàn hoang vu lạnh lẽo, đơn điệu chơ vơ với cây thánh giá gỗ lắc lư theo gió rì rào. Tấm bia mộ gỗ đơn sơ ghi khắc nơi an giấc nghìn thu đạm bạc và đớn hèn:
                Mattha Ngô thị Cúc, sanh năm: 1895 >> 1980. Thọ 85t.

                Thật đông nghẹt người đói khát nghèo nàn đắp mộ mẹ xong, họ lại lủi thủi buồn xo trở về lối cũ trên con đường đất đỏ gồ ghề, con đường mà anh chị Dzoãn và các cháu nhỏ rớt nước mắt đã nhờ người sống thút thít ngáp ngáp khiêng mẹ đi qua.
                ***
                Khi tôi có thể đến với mẹ… thì nấm mồ mẹ đã lút cỏ xanh. Tôi luôn đau đớn, tủi hổ, dày vò và khóc sưng mắt khi nghĩ về mẹ. Thời gian lật đật buồn bã chán chường qua đi, tôi tất bật, bồn chồn, âu lo với công việc cơm áo khốn đốn mỗi ngày, nhưng gia đình mình vẫn không đủ sống, nghĩa là thường xuyên đói khát cơ cực. Ngoảnh nhìn lại, mới đó mà đến ngày giỗ đầu của mẹ. Tôi bươn bả đi mót khoai lang, sắn mì, dưa leo, đậu đũa ngoài ruộng Nhị Tân (Hốc Môn). Tôi hớn hở đem mấy thứ ấy về nhà, làm sạch, chu đáo xào nấu xong. Tôi bày thức ăn lên chiếc bàn cũ kỹ xiêu vẹo, nói là "bàn" cho oai, thật ra bàn là tấm ván cũ có ba chân rung rinh như răng rụng, còn một góc kia kê tấm táp lô sứt mẻ, để thay thế một chân què.

                Bà Nga hàng xóm là người thân cận nhứt bây giờ đã nói:
                - Xời! Việc gì cô phải nhọc lòng! Chứ cô không thấy giờ nầy trời đang mưa xối xả, nhà dột và rách nát như ổ chuột. Ơ! cô bắt mẹ mặc áo gấm lội nước lụt trong nhà y như cái ao. Cô cho mẹ ngồi chò hỏ chơi, xơi cơm độn với nước lụt. Mẹ cô chưa kịp về ăn chút xí, thì bầy ruồi ốm đói trốn mưa trúng mánh, bu lên mấy dĩa thức ăn tám lớp, và o o o… xơi tuốt rồi. Giỗ mí chạp cho mệt! Khéo vẽ!

                Bà Nga chẳng ngại mất lòng, líu lo nói huyên thuyên mà cười sảng khoái. Tôi lắng nghe mãi, mới hiểu được thâm ý bà. Thiệt dễ ghét quá đi. Tôi ngẩn ngơ nhìn bà Nga. Những giọt nước mắt nóng hổi lăn dài dài xuống má. Giọt khóc quê hương. Giọt hờn tủi khóc ông bà vãi cha mẹ khuất mặt khuất mày. Giọt khóc chồng sống đoạ đày ở trong tù “cải tạo”. Giọt khóc bầy con lút chút vất vưỡng long đong cơ cực ở vòng ngoài, (tù trong và tù ngoài xêm xêm như nhau, có khác chi, như cá mè một lứa). Giọt đắng cay khóc cho chính bản thân tôi lù đù lầm than khốn cùng.
                Khổ đến nỗi tôi không thể đào đâu ra tiền, chẳng có cắt bạc để mua cặp nến đỏ, bình hoa tươi, không hương nhang cắm trên bàn. Tôi không thể mua bột về làm bánh cúng mẹ dĩa bánh bèo, bánh ít, bánh nậm: thứ bánh mà mẹ thích ăn lúc sinh tiền! Tôi không thể kéo mẹ về trong hương khói, để má con chúng tôi quỳ dưới đất, sì sụp lạy tạ lỗi cùng mẹ, cùng bà ngoại! Sợi dây tơ quá mong manh nhẹ tênh thiêng liêng kia đang run bần bật giữa lưng trời mưa trắng. Niềm ước mong nối liền tình yêu thương ngút ngàn giữa mẹ -với má con chúng tôi- đã đứt lìa trong khói hương.

                Tôi nghe anh chị lớn kể chuyện về Mẹ lúc tôi chưa chào đời: Một lần kia, mẹ kêu chủ thầu trong địa phương đến nhà bán mão bầy heo thịt. Mẹ và các con cháu dẫn bà đầm, cùng phu cai xuống chuồng nuôi heo, cách xa nhà ba mươi mét. Ngả giá xong xuôi, phu cai trói bầy heo cho vô rọ, họ khiêng những rọ heo lên trên đường cái, vất vô ba chiếc xe ngựa. Bà đầm cầm cái áo veste của bà (đã máng ở càng xe ngựa đậu trên đường cái), bà ta móc túi lấy tiền, thì đồng tiền không cánh mà bay?! Bà đầm tri hô mất ba trăm sáu chục đồng Đông Dương. Bà ta quyết một quyết hai bảo: “Người trong nhà nầy đã ăn cắp”. (!!?) Bà ta làm hung dữ, kêu lính hộ tống chạy đi gọi hiến binh, phú lít tới. Hiến binh không cần biết luật lệ phải trái, không cần biết bà ta có mất tiền thật trong túi áo, máng bên sườn xe kéo, mà lại để bên lề đường cái; hay không?! Họ còng tay mẹ xô dụi mẹ lên chiếc xe ngựa. Mẹ nằm với mấy chục con heo kêu la rần trời. Mặc kệ gia đình tôi than khóc, phản đối inh ỏi. Chúng hăm doạ:
                - Nếu lộn xộn làm mất an ninh, sẽ bị bắt - nhốt hết cả đám.

                Quân cướp cạn hùng hổ, quất ngựa phóng nước đại chạy như bay. Họ tống giam mẹ vô nhà lao. Hơn nửa tháng bặt tin, sau đó chúng thả mẹ ra. Mẹ về như cái xác không hồn, trông mẹ quá tiều tụy thảm thương. Ba tôi, con cháu xúm xít ngồi chung quanh mẹ lo lắng hỏi thăm. Mẹ im lặng rấm rức khóc sưng húp mắt. Mãi lâu mẹ hổn hển kể: Suốt bao ngày bị nhốt, chúng cho mẹ ăn ngày một bữa nửa chén cơm khô, với ít muối hột.

                Đêm đêm bọn lính Tây lôi mẹ ra tra điện, chúng độc ác tra khảo, chích điện vô người bắt mẹ phải nhận tội, dù mẹ không hề làm. Mỗi lần mẹ bị bọn tà lọt gian ác tra điện, thì mẹ sợ hãi kinh khủng, dòng nước ấm chảy ra ướt dầm thân thể mẹ. Mẹ không thể nén mồ hôi hột lạnh toát, không thể nín lại cơn buồn đái. Mẹ không đủ sức chịu đựng cơn đau, mẹ đau đến ngất xỉu, thì chúng lôi chân mẹ kéo xềnh xệt về phòng giam trống lạnh lẽo không giường chiếu. Chúng tạt nước lạnh cho mẹ tỉnh lại, mẹ bị chảy máu mũi, chảy máu đầu. Mẹ run rẩy, mặt mày sưng húp, bầm tím.

                Mẹ chịu oan ức tột cùng, mà tiền mất tật mang. Suốt từ đó đến nay mẹ luôn luôn sợ hãi và yếu hẳn người. Mẹ bị đau tim và thường xâm xoàng, ngất xỉu vì quá hãi hùng. Bọn Tây thời đó đầy quyền uy, hống hách, ác độc hơn loài hổ sói, người dân thấp cổ hé họng chỉ câm miệng cúi đầu, điếng lặng cắn cỏ ngậm vành, không dám hó hé than van với ai. Vậy đó, mẹ quá đau khổ và chịu oan ức tột cùng. Một lần kia, sau thời gian bị tra khảo đánh đập tù đày oan uổng đó khá xa, mẹ vẫn cần cù kiên nhẫn lặn lội đi gánh nước cơm về nhà,

                Một kỷ niệm bất ngờ từ những cơn mưa không sao giải thích nỗi, tâm trí tôi vụt quay về dĩ vãng xa lắc xa lơ: một thuở nào hình như xa xôi, xa xa lắm… gia đình ba mẹ tôi đang từ trên đỉnh cao sung túc, phù vinh, giàu sang… bỗng rớt tụt xuống vực thẳm, vì ba tôi làm chủ nhà máy cưa cây, bị nó hại cho khánh tận, đã khuynh gia bại sản. "Của rừng, rưng rưng nước mắt thật" mà! Bao nhiêu tiền ba làm thầy thuốc đỗ vô cây cối, cũng như nước đỗ lá khoai. Hồi ấy có màn mưa xám đục buông suốt ngày đêm, rất bé thơ tôi đứng trong khung cửa sổ, nhón chân xem mưa đập lộp bộp vô cửa kính, những dòng nước nhỏ ngoằn ngoèo chảy xuống tấm kính mờ đục, tôi háo hức chờ đợi mẹ về nhà, ngỏ hầu nghe mẹ hò câu ca dao: “Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa. Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương”.

                Mẹ đi chân đất, đầu đội nón lá cũ ướt nhẹp, toàn thân mẹ dầm dề nước mưa, chiếc đòn gánh uốn cong đang kẽo kẹt trên vai mẹ, còng xuống hai thùng nước cơm trĩu nặng. Mẹ đã đấu thầu được cơm thừa canh cặn từ ngoài mấy đồn lính, tự mẹ đến gánh về: Một thùng rất sạch đậy kín đựng cơm nóng, có ba ngăn cào mên đựng thức ăn còn nguyên trong chảo, (mà chú quản đội do biết gia cảnh mẹ, nên chú múc để riêng ra cho mẹ, để mẹ đem về cho các con ăn buổi tối). Thùng kia đựng đủ thứ hỗn tạp nuôi bầy heo vài chục con. Mỗi buổi nhọc nhằn trở về nhà, mẹ thường dúi cho tôi khi thì vài cái bánh ngọt, khi miếng chocolate, hay trái chuối, trái bắp. Tôi thèm ăn nhứt là lát bánh mì hấp trong nồi nước sôi, bánh mì nóng chắm với nước mắm ớt, nước cá hoặc nước thịt, tôi ngấu nghiến ăn, cảm thấy ngon hết sẫy. Mẹ “thương con tần tảo sớm hôm. Cơm đùm chéo áo, cháo đùm lá môn”, là thiệt! Mẹ đã thay bộ áo quần ướt sủng nước mưa. Mẹ ngồi bên bếp lò giơ đôi bàn tay nhăn nheo sạm nắng chai cứng, tóp teo vì thấm lạnh ra, để sưởi ấm. Mẹ âu yếm nhìn tôi ngồi kế bên bỏm bẻm ngấu nghiến nhai bánh mì. Bỗng mẹ nhìn tôi sửng sốt, lạnh lùng hỏi:
                - Đôi guốc mới, con mang đó. Mô rứa?
                - Dạ... Của con... con... l..a...
                - Mẹ đã nói rồi, đợi bán heo, mẹ sẽ mua cho con quần áo, dép guốc cho con đi học. Mẹ biết con mau lớn, giày dép cũ con mang không vừa, mà đi chân không thì lạnh lắm. Mẹ lo sợ con đau. Ngặt nỗi, bi chừ chưa có tiền. Mà răn con dám cả gan đi ăn cắp, của ai rứa?

                Tôi cúi gầm đầu, một tay túm mái tóc bum bê, nhìn đôi guốc mới mang vừa vặn ở chân mình, đôi guốc màu đỏ đầy hấp dẫn, có hai quai cánh cam in đủ màu sắc hoa lá. Tôi thấy nó quyến rũ, ước ao vô vàn từ lâu. Khi chị Tư sai tôi tới quán chị Thế mua trứng vịt, tôm khô. Thừa lúc quán xá bận rộn người mua kẻ bán, tôi lấm lét ngó trước nhìn sau, rồi vội thò tay chộp đôi guốc kẹp chặt vô nách, (đã che kín bằng chiếc áo mưa lụng thụng). Trống ngực tôi đánh rất mạnh, mặt mày tái mét, tôi run như cầy sấy, tôi liền lẽn ra khỏi tiệm và co giò chạy. Vừa chạy tôi vừa ngoái cổ lại nhìn chị Thế, (là bà chị dâu cả của tôi), chị ấy không biết gì hơn, ngoài việc chị thu nhiều tiền đầy nhóc vào tủ sắt.

                Mẹ già nua trước tháng năm đang gục đầu trên hai đầu gối ướt lạnh, run rẩy, mệt nhọc - và khóc. Mẹ khóc vì tội lỗi của con thơ. Mẹ khóc vì cảnh thăng trầm không thể ngờ, vì mẹ chưa mua nỗi đôi guốc cho con, (chỉ đáng vài xu trong khi tiền ba tôi làm chủ trại cưa cây, thì bạc trăm, bạc ngàn, kể như đỗ xuống biển. Và, tiền bán hai chục con heo, mẹ bị bọn chúng trấn lột hết). Trong đêm trường thanh vắng, khuya lắc khuya lơ, tôi nghe rất khẽ nhưng rõ ràng tiếng mẹ đọc kinh cầu nguyện đều đều. Thỉnh thoảng kèm theo vài tiếng thở dài nho nhỏ, lời mẹ nguyện xin cho con cháu bình an, mạnh khỏe. Tối hôm đó mẹ thức rất khuya, ngồi một mình dưới gian bếp đèn dầu leo lét, mẹ đã cắt khúc vải nhung màu vỏ măng cụt để may áo cho tôi mặc ấm. Chiếc áo ấm gồm ba lớp: lớp nhung ở ngoài, mẹ bọc thêm một lớp gòn rất mịn ở giữa, và may chằn thêm một lớp lụa sa tanh mới lót ở bên trong.

                Tôi leo lên giường từ lâu, trằn trọc mãi không làm sao ngủ được, tôi rất sợ và lo âu không dám nhúc nhích. Tôi cứ mở mắt nhìn mẹ chăm chú làm việc. Khá khuya, mẹ lê đôi dép lẹp xẹp lần mò từng bước, mẹ nhẹ nhàng đi trong bóng tối mờ mờ. Mẹ vặn ngọn đèn dầu hột vịt thật lu, mẹ cố không khua động giấc ngủ của mọi người. Trong bóng tối tôi hé mắt nhìn mẹ ngồi đọc kinh, sau đó mẹ ngả lưng xuống đệm theo tiếng thở dài. Tôi nằm im giả vờ ngủ say. Bàn tay mẹ lạnh ngắt run run sờ soạn tìm con. Mẹ đặt đầu tôi nằm ngay ngắn trên gối mỏng. Mẹ kéo hai chân tôi thẳng ra, và đắp mềm lên tận cổ tôi. Mẹ ôm tôi vô lòng và hôn lên mái tóc tôi khét nắng. Nước mắt mẹ thấm lạnh da đầu tôi. Thật là: “Nuôi con chẳng quản chi thân. Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn”. (cd)

                Thì ra mẹ đã khóc âm thầm lặng lẽ trong bóng tối. Mẹ giống người chèo đò đơn độc ra tay chống chèo trên dòng nước ngược đầy sóng gió khi đàn con nhỏ sợ sệt, la khóc, run rẩy bám chặt vô mạn thuyền. Mẹ cố sức chịu đựng giông bão, gian truân âm thầm và câm lặng dai dẵng; miễn sao cho con, cháu, bình yên, no ấm. Mẹ là một trong vạn triệu người Mẹ Việt Nam tần tảo, phúc hậu, ôn hoà cao cả, hy sinh xiết bao suốt đời mình. Sáu tuần sau, mẹ bán bầy heo thịt khác. Ba tôi vượt núi băng rừng khổ cực trăm bề làm cúp cây, nay đã hoàn toàn ổn định, cùng việc ba làm thầy thuốc có nhiều khách. Gia đình chúng tôi lại bắt đầu khá giả, vinh sang hơn năm cũ. Nhờ mẹ tôi quáng xuyến, đảm đang, siêng năng, tháo vát. Ba tôi giàu kinh nghiệm và liêm chính đàng hoàng trong việc làm chủ trại cưa, & thầy thuốc giỏi, nên ít lâu sau gia đình tôi thoát khỏi cảnh bần hàn.

                Nhưng dẫu có sung túc giàu có hơn xưa nhiều, rất nhiều, thì vết thương đầu tiên về bài học giáo dục đạo đức trong lòng mẹ và con, hẳn không có cách gì lấp đầy, phôi pha được. Kể từ ngày xa xưa đó, mỗi khi tôi có ý muốn lấy cắp cái gì của ai, thì hình ảnh mẹ tôi ngồi bó gối bên bếp than hồng; nước mắt mẹ chảy ướt thấm vô da đầu tôi, vẫn hiện lên rõ nét. Khiến tôi quắt quay và lặng người, vì hối hận không hề dám tái phạm. Đó là nốt “nghịch phách” đầu tiên trong đời vào chiều mưa giông giá lạnh năm xưa. Ước gì nay tôi được chìm trong dòng sông đã chảy qua thời ấu thơ, nơi mái gia đình êm ấm của tôi ở buổi thiếu thời kia, để tôi có thể nói thật nhỏ:
                - Mẹ ơi! Cho con xin lỗi.
                ***
                Và một lần nữa có kỷ niệm về Mẹ tôi thế nầy: bầu trời lợt lạt sau khi tráng nước mưa thì trở nên trong suốt như pha lê, lưng trời sáng bạc ngất ngây đầy lâng lâng rung cảm điểm vài hoa mây phớt hồng thấp thoáng bay bay, trôi nhè nhẹ như bong bóng mây lơ lửng giữa bầu trời rộng thênh thang. Các mái nhà như kỳ cọ gội rửa sạch bon. Những con đường, cành cây ngọn cỏ đều loáng nước và trở nên xanh tươi hơn.

                Tôi rất mừng khi mẹ ở Tùng Nghĩa đến thăm, có mẹ ở lại giúp con, phụ chăm nom các cháu, là tôi rất an tâm. Mỗi lần đến thăm con cháu, mẹ mang rất nhiều quà bánh, mẹ khệ nệ bưng hết giỏ nầy đến giỏ khác, thậm chí cả gạo, rau, cá, thịt, tôm, vân vân… Có bao nhiêu tiền dành dụm, mẹ đã trút hết cho con cháu. Nhứt là bà cưng các cháu ngoại hết sức; mặc dù chúng rất quậy, khiến ngoại mệt phờ người. Mẹ cầm cái quạt giấy quạt cho mình và quạt cho con, cháu. Mùi dầu thoang thoảng bay, mẹ rất thích xức dầu Nhị Thiên Đường. Trời Đà Lạt khá mát mà mẹ dùng quạt, đủ biết mẹ mệt lắm. Tôi muốn khóc hết sức khi ngồi cạnh mẹ. “Lên non, mới biết non cao. Nuôi con, mới biết công lao mẹ hiền” là thế.

                Tôi nhìn vẽ già nua hiện lên từng đường nét rõ ràng trên khuôn mặt mẹ già mỏi mệt, mái tóc mẹ điểm muối tiêu, vành miệng móm mém, mẹ ưa nhai trầu dập từ cối đồng nhỏ xíu cầm lọt trong lòng bàn tay. Đôi mắt mẹ thoáng màu nâu, hấp háy sau làn mi dài lưa thưa, mẹ có cái nhìn ấm áp chuyển thành niềm vui dạt dào, bộc phát mừng rỡ khi mẹ thấy tôi thấp thoáng trên thềm nhà:
                - Cháu đói lắm hử? Mẹ cháu về rồi. Ù ơ... Cháu tham ăn y như con mẹ của cháu từ hồi nhỏ hè. Hì hì… Cháu biết không!?

                Ơ! Tôi đây có phải là đứa con gái út (trong gia đình có mười anh chị), út lên mười vẫn còn rúc vú mẹ, vòi vĩnh mọi thứ khi thích? Út sau giờ học tối ngày thui thủi một mình, anh chị lớn không thèm chơi với "con nít", vì thế tôi luôn quanh quẩn bên mẹ. Ngày ấy pha nước nóng, mẹ ngồi trên chiếc đòn nhỏ bên hiên lát gạch hoa, mẹ bế tôi vô lòng, tôi thòng cái cổ đeo hai ba sợi dây chuyền bằng đất, tôi ngửa mặt lên trời cười sằng sặc lúc cảm thấy nhột. Mẹ gội đầu cho tôi bằng nước bồ kết nấu với lá sả, lá cam, lá chanh, lá bưởi. Con tắm xà bong thơm hiệu "cô Ba đeo kiềng vàng". Tôi có tính hư nết xấu ưa làm nũng, dậm chân dậm cẳng không chịu tắm, khóc nhè hoài; dù mẹ đã dỗ ngọt, hun hít và gói cho tôi đòn bánh tét nhỏ xíu bằng gan tay, có dây lạt làm quai xách cột từ đầu nầy qua đầu kia.

                Có ngày tôi say sưa nhìn: mẹ đeo đôi mục kính trắng, khéo léo may từng bộ áo quần đẹp nhứt đầu Xuân. “Con bé tôi” năm sáu tuổi ngồi bên thềm gạch hoa trong tòa nhà cao và rộng, tôi la lết bên mẹ, quá phục mẹ thoăng thoắt may áo quần mới, mẹ may rất mau. Tay thoăng thoắt may áo, mẹ vui vẻ kể chuyện cổ tích Trầu Cau. Tấm Cám. Mẹ kể chuyện hay đến nỗi đôi khi tôi đòi cái gì đó, mà mẹ không có cho con, thì mẹ mỉm cười nói: "Ngày xưa... có một người tiều phu vô rừng..." là mọi thứ hấp dẫn trên đời đều không bằng câu chuyện cổ tích của mẹ. Ngày ấy, gia đình ba mẹ tôi sống tại ngôi biệt thự số 5 La Rose ở đường Quang Trung, gần nhà Ga xe lửa Đà Lạt. (sau bán cho ông bác sĩ). Tôi đeo đôi hoa tai vàng tòn ten đong đưa theo mỗi cử động, cổ đeo kiềng vàng chạm trổ thẫm mỹ. Tôi diện quần sa tanh trắng, xúng xính trong chiếc áo nhung đỏ do mẹ tự cắt may, chân tôi mang hài cườm cùng màu với áo. Đầu tôi đội nón lá mười hai vành do mẹ chằm. Vai tôi đeo chiếc bóp đầm đỏ. Hai mẹ con ngồi xe kéo đi chợ Đà Lạt mua sắm đồ Tết suốt ngày.

                Trước khi mua sắm, mẹ cho tôi ăn bánh bèo xong, tôi lại lết qua hàng mì quảng ăn no nê. Sau đó hai mẹ con chen lấn vô chợ vải mua quần áo, giày dép, vân vân… Tôi bị người lớn chen lấn, nên tụt lại đằng sau, kẹt giữa làn sóng người đông như kiến. Hốt hoảng, tôi vừa khóc vừa kêu "Mẹ ơi! Mẹ". Tay tôi nắm chặt lấy đuôi áo dài của mẹ rị kéo lại. Dù rách toạt mất một thân áo, mẹ tôi không hề la rầy, hay giận dữ. Mẹ đằm thắm bế con lên, cùng với hai giỏ xách đầy vật dụng mua sắm móc ở khuỷu tay. Lúc ra về, mẹ mua cho tôi mấy bịch bánh thuẩn, nải chuối cau. Ngồi trên xe ngựa, tôi sung sướng có những món đồ chơi xinh đẹp. Nhưng, về nhà đồ chơi cũng không quyến rũ con bé mập tròn ú nù giống hột mít như tôi (vì háu ăn), tôi quanh quẩn bên chân mẹ, líu lo hỏi chuyện:
                - Mẹ nấu phở cho cả nhà ăn ha mẹ?
                - Ừ. Ra ngoài sân chơi đi con. Ây. Coi chừng bị phỏng lửa.
                - Chín chưa mẹ?
                - Chưa được. Coi chừng phỏng nước sôi.
                - Được chưa mẹ?

                Sốt ruột, do cái tật mê ăn của con, mẹ làm trước cho tôi một tô phở. Tôi cứ bu bên mẹ rồi nhón chân lên bốc một nhúm hành ngò trong dĩa ở trên bàn. Tôi chạy theo mẹ đến bên góc đi văng, bỏ đầy hành ngò vô tô. Tay cầm đủa tay cầm muỗng, tôi cúi xuống thổi phù phù tô phở nóng. Nước miếng ứa ra miệng, bụng sôi lọc ọc, tôi cảm thấy đói cồn cào vì mùi thơm ngào ngạt:
                - Mẹ cho con ăn thiệt no. Nghen. Con đói.
                - Để nguội đã. Ăn từ từ thôi. Ngán tới con mắt chừ. Không tham ăn rứa hì.
                - Con ăn từ từ cho đến khi nào no tới con mắt, thì thôi. Mẹ ui.
                Mẹ tôi phì cười nguýt yêu con gái tham ăn. Qua nửa tô phở, tôi buông đũa, hét to:
                - Chết con rồi! Ơ hơ! Cay quá! Mẹ ơi. Mẹ.

                Cay thật. Cay đến nỗi mặt tôi đỏ rần, hai lổ tai ù ù, lùng bùng, đầu lưỡi nhứt nhối, rát bỏng, môi miệng đỏ chót phồng rộp lên. Tôi thọc tay vô miệng cào cào lưỡi, xít xà, phun nước miếng phì phì. Mắt thấy sao bay trong màng lệ, tôi hoảng hốt chạy quanh nhà, vừa kêu vừa khóc. Tôi bức tóc bức tai, rồi chui tọt xuống gầm bàn, nằm lăn lộn trên nền gạch hoa. Tôi lại bò ra, chui lòn mấy vòng qua hai chân của mẹ. Hai tay tôi quệt nước mắt! Khổ nỗi ớt dính ở mấy đầu ngón tay, càng bị cay mắt hơn. Mồ hôi vã ra trên trán như tắm, mặc dù trời khá lạnh. Khiếp quá. Cay kinh khủng. Tôi kêu khóc inh ỏi, mũi dãi lòng thòng (chỉ vì mắt nhắm mắt mở, và tham ăn, tôi không thấy trái ớt xiêm xanh lẫn trong nhúm hành ngò, dù mẹ tôi có ý để ớt qua một bên mép dĩa to).

                Mẹ vội lấy nước lạnh khuấy chanh đường, bế con vô lòng cho con súc miệng nhiều lần, nhổ ra. Mẹ xổ mái tóc dài, lấy đuôi tóc lau trên đôi mắt con, lấy khăn ướt lau mặt mũi con, mẹ vạch vú da cho con mút, (mặc dù con khá lớn khôn). Có bầu vú mẹ, tôi dịu cơn đau, mà vẫn thút thít khóc và nấc lên từng cơn. Ôi! Lần ăn phở muôn đời ghi nhớ ấy, nó ớn lên tới con mắt thiệt. Mà mẹ yêu dấu là người họa sĩ tài ba đầu tiên đã âm thầm vẽ nét ngây thơ, hồn nhiên duyên dáng vào tâm hồn con tươi trẻ. Hình ảnh mẹ bất diệt, nên thơ, trong sáng, thân ái từng ấp ủ nơi con đây một thời xuân trẻ luôn khát khao niềm tin yêu, chưa hề phai lạt làm quặn thắt lòng con.

                Một tình mẫu tử bất diệt, bao la co xiết thành khối mật, vừa dịu êm ngọt ngào, vừa nồng nàn lâng lâng men tình say say, trào dâng lên bờ môi con ngọt lịm từ bầu sữa mẹ, ngát hương yêu trong chiếc nôi đời lắc lư đong đưa theo tháng năm qua. Trái tim con thèm khát nhịp đập cuồng quay trong lồng ngực phập phồng, bồng bềnh chơi vơi trên sóng biển rong chơi đầy dáng vẻ yêu thương. Tôi cảm thấy thương mẹ không làm sao tả xiết. Tình yêu thương nồng thắm của người mẹ, giờ đây tôi mới hiểu thấm thía, thâm thúy, tình mẹ bao la như trời biển, êm đềm ngọt ngào, nồng nàn xiết bao trong từng giờ, từng tháng, từng năm. Mẹ tôi tận tụy cần cù hy sinh lo cho chồng, con, cháu; là hạnh phúc duy nhất của mẹ; là lẽ sống thầm lặng, mẹ đầy tình thương yêu và thủy chung hết mực. Tôi yêu kính mẹ vô vàn, mẹ âm thầm chịu đựng, hy sinh gắn bó, nhẫn nại, dốc hết sức cạn hơi mòn, hầu chu toàn cho con, cháu, có sức hoẻ bình an, hạnh phúc.

                Dù con khá lớn khôn, có gia đình con cái, dù các con đã vững vàng lập thân, từng trải. Mẹ thân yêu! Mẹ nâng niu giữ gìn cho con bao kỷ niệm yêu thương, đậm sâu, dạt dào ân tình mặn-mà thuở thiếu thời. Đôi mắt con lẫn vô lòng mắt mẹ êm ái, ẩn chứa tất cả niềm vui tột cùng, tuổi thơ con trong sáng từng ấp ủ tình thương thầm lặng đến tận bây giờ. Nó vừa hiền, vừa lành, vừa vui, và trọng lượng tình yêu trong lòng mắt mẹ đã dành cho con, muốn vỡ vụn ra thành muôn hạt nước mòng mọng, tròn trịa, li ti long lanh rung rinh trĩu nặng bờ mi rưng rưng, trôi đến tận cùng tơ rung suy nghĩ, làm gợn sóng lăn tăn lung linh chơi vơi trong từng tế bào con run rẩy.

                Hạnh phúc vô ngần khi con trở về trên dáng xưa yêu kiều, đầy hoa mộng đó. Chao! Dòng đời xuôi ngược nhiều ước mơ, hoài bão, hy vọng dạt dào, tràn đầy mộng đẹp vụt tan biến quá đỗi là mau. Và, hôm nay con không khỏi ngỡ ngàng, bâng khuâng xao xuyến và kinh ngạc; khi nhớ ra mẹ nhắc khéo chuyện: “Con tham ăn” đã lẫn vào lòng thời gian lúc nào; chẳng rõ! Hẳn là lúc đó mẹ đang nghĩ đến câu:
                - "Mẹ cho con ăn tô phở, khi nào con no, no lên tới con mắt thì thôi"!
                Lúc ấy vui tột độ khiến tôi dại người trong giây lát, bỗng quay qua nhìn mẹ hiền đăm đăm, và toét miệng cười ngất. Mẹ nhìn con gái lắc đầu mỉm miệng cười đôn hậu, hòa ái. Thật đáng yêu xiết đỗi từ đôi mắt đầy bao dung, thông cảm và thấu hiểu của mẹ biết ngần nào! Đó là cái gốc rễ tình yêu nơi chiếc nôi đời hồng hoang trinh nguyên, nơi chôn nhau cắt rốn, nơi quê hương dấu yêu nầy tôi đã bập bẹ tiếng: "Mẹ... Mẹ" đầu tiên. Mẹ là sợi dây vàng rắc đầy kim cương lóng lánh, nối liền con cháu với niềm vui buồn quá khứ, dạt dào hạnh phúc ân tình trân qúy. Mẹ hiền sung sướng mỉm cười từ ái hằng cầu nguyện cho các con suốt bao năm trường được hạnh phúc, bình an. Phải không mẹ? “Gió thúc cội thung nhánh tùng khua rúc rắc. Nhớ cha mẹ già ruột thắt gan teo”.

                Bây giờ, thời gian vút qua... “Chiều chiều lại nhớ chiều chiều. Nhớ cha, nhớ mẹ chín chiều ruột đau”. Ôi! Chỉ cần trở về ngày ấy và biết nói câu "Mẹ ơi, cho con xin lỗi", thì tôi sẽ sống lại và chỗi dậy trong tâm tư tôi cả quá khứ ngọt ngào, say đắm, êm đềm, nồng nàn, sung sướng xiết bao! Và, bây giờ tôi biết đằm thắm, khôn ngoan gấp bội lần. Tôi, người đàn bà còn quá trẻ bỗng co nhói lên từng cơn đau tim nghẹt ứ, xót xa đắng cay khôn tả xiết. Vốn bị nghị lực mài dũa, cọ liếc mỏng tanh, tôi nghẹn ngào, đắng cay hơn sự cơ cực đọa đày chịu đựng dài lâu. Sự trầm uất nén dưới chiều sâu tâm hồn đã vọt lên tim, lên óc, lên cổ tôi những cục nấc nghẹn ngào tức tưởi. Tôi đứng giữa trời mà khóc, mà cười. Cười khẩy. Tôi không sao hiểu nỗi “đời”! Tâm hồn tôi hằn lên vết rạn, xếp lớp lăn tăn theo sóng đời cơ cực. Gia đình nhỏ chúng tôi lầm than khốn cùng đã rớt dưới tận đáy xã hội phù phiếm.

                Nay, các con bé bỏng của mẹ đã lớn khôn, đã có gia đình, đã làm cha, làm mẹ. Dù vậy con còn nhõng nhẽo, quấy rầy mẹ và thút thít khóc hu hu hụ hụ như thuở nào! … “
                Thương mẹ nhớ cha như kim châm vào dạ.
                Nghĩ đến chừng nào, lụy hạ tuôn rơi.
                Nước chảy ra thương cha nhớ mẹ.
                Nước chảy vào thương mẹ nhớ cha...” khi cha mẹ đã vĩnh viễn lìa bỏ chúng con.

                Cha mẹ ôi! Nơi con đường cũ mà cha mẹ tôi xưa kia rất vinh sang đã từng đi qua đó, và chính gia đình nhỏ cuả tôi từng lả lướt, rộn ràng líu lo ca hát trên đại lộ mỗi độ hoàng hôn… Ngày nay mẹ con chúng tôi dắt díu nhau lọt tọt, líu ríu bước thấp bước cao, lần mò đi từ ngày nầy qua tháng nọ. Đi từ hừng đông đến hoàng hôn không ngơi nghỉ. Những đôi môi khô nứt nẻ run run nếm đủ cay đắng, ngọt bùi xính vính tình đời còn mấp máy và thút thít, như nghiến chặt hai hàm răng, nghiền nát hiện-tại rát bỏng phừng phựt cháy trong lòng.

                Sau đám sương mù dày đặc ngoài trời kia là tương lai tối thui và con đường gồ ghề, lởm chởn sỏi đá lẫn lộn bùn tro bầy nhầy. Con đường tiến thân của mẹ con chúng tôi đó, hình như có tiếng âm vọng não nề. Chúng tôi không biết nên bắt đầu từ hướng nào cho phải! Đôi bàn tay tôi khô cứng, chai sạn sần sùi nứt nẻ, hợp lực với những bàn tay các con thơ yếu gầy tong teo bé tí xíu, vẫn quơ quơ về phía trước. Cùng lòng can đảm, tận tụy, chịu đựng gian lao, nghèo khổ siết chặt, thì không có cách gì lay chuyển. Trời bao la xanh xanh trong trong, không có một vắt mây trắng, nhưng sao đôi mắt tôi mù mây xám giăng mắc!? Giống như những sợi tơ tóc ngày xưa đen tuyền óng ả quyện cùng chùm tóc bạc trước thời gian đã phủ khắp nẽo đi lối về?

                Tôi đang mặc chiếc áo gấm của Lụât để lại, tôi tưởng tượng chiếc áo dù cũ, nhưng có phần nào che gió chắn mưa. Thì hy vọng là tôi bớt cảm thấy cô độc, ấm áp và ít lạnh. Ngỏ hầu tôi sẽ đương đầu, chạm trán, chơi những canh bạc đen đỏ với định mệnh. Đành phải như thế thôi. Nếu định mệnh không thách đố gạt gẫm chúng tôi: Xỏ lá sát phạt, chơi khăm chúng tôi trắng tay –và đểu giả lật ngửa quân bài ra– Khi trận đấu chưa bất phân thắng bại. Thưa ông!
                *
                Tháng Năm 1980
                Tình Hoài Hương
                Last edited by Tinh Hoai Huong; 09-01-2020, 10:34 PM.
                Bút trần nào tả được lưu luyến!
                Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                Tình Hoài Hương

                Comment





                • Từ Đồng Đế đến Bồng Sơn
                  Tình Hoài Hương
                  *

                  Đoàn xe Renault của hãng Phi Long Tiến Lực gồm sáu chiếc từ giã Nha Trang chạy bon bon trên quốc lộ 1A lúc 5 giờ 30 phút sáng. Xe xuôi về hướng đèo Rù Rì xa Nha Trang độ 12km, đèo quanh co hiểm trở u ám, có ngôi miếu nhỏ nằm giữa lưng chừng đèo, xe khách qua lại luôn luôn ngừng nghỉ năm ba phút để tài xế đến miếu thắp nhang khấn vái. Ngoại biên Nha Trang còn có các trung tâm huấn luyện như:

                  1/ Trường Hạ Sĩ-quan QLVNCH Đồng Đế. Từ hướng Tây quốc lộ 1A cách Nha Trang 4km, ra bờ biển ở dưới chân núi Hòn Ngang là trường Hạ-sĩ-quan QLVNCH Đồng Đế (The School of the Non-commissioned officers of the Vietnam Military Forces). Đồng Đế tọa lạc tại Xã Vĩnh Hải, Quận Vĩnh Xương, Tỉnh Khánh Hòa. Ban huấn luyện chuyên biệt về Biệt Động Quân là trường Hạ Sĩ Quan Đồng Đế, nơi đào tạo các hạ sĩ quan, thời gian học là 6 tháng. [Nhưng hồi trước trường cũng có tổ chức các khóa sĩ quan đặc biệt, (ví dụ khoá của Đại tá Hồ Ngọc Cẩn)].
                  a.- Sau này vì quân trường Thủ Đức rất đông, nên có những khóa sinh viên sĩ quan phải học ở Đồng Đế. Nếu khóa học nào chứa đủ nhân số SVSQ (1600) thì học ở Thủ Đức.
                  b.- Cũng có lúc các khóa học khác vì SVSQ đông quá, nên quân trường (TTHL SVSQ Thủ Đức) phải chia sinh viên sĩ quan ra làm hai nơi: ai là cư dân sinh sống ở miền Trung, thì học ở Đồng Đế; ai là cư dân sinh sống miền Tây, phụ cận Vũng Tàu, Sài Gòn, v.v… thì học ở Thủ Đức.
                  c.- SVSQ trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt trước khi ra trường ai chọn ngành Hải quân, hoặc Không quân, thì được trường gởi đi Nha Trang để học về ngành chuyên môn. Sau khi học xong, họ trở về trường cũ tiếp tục học cho đến lúc mãn khóa.

                  Từ trại cùi Bàu Phong nhìn chéo xa xa thấy núi Hòn Khô. Đồng Đế ở gần đèo Rù Rì, trên đỉnh Hòn Khô thuộc núi Cô Tiên, gió lùa lá vàng & sương phủ đầy vai bức tượng đã sạm màu với thời gian. Nơi đó tạt hình ảnh chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa khá cao, chiến sĩ ấy đứng trong tư thế thao diễn nghỉ, do bộ chỉ huy trường Đồng Đế xây vào đầu năm 1960, ghi câu thơ:
                  Anh đứng ngàn năm thao diễn nghỉ,
                  Em nằm xõa tóc đợi chờ anh.
                  Hai câu thơ trên đã có từ lâu, chẳng thể nhớ tác giả là ai, mãi về sau nầy mới có các thi sĩ nối tiếp thêm thành bài thơ dài thiệt hay, nơi đây tác giả chỉ ghi ít trích đoạn:
                  “Anh đứng ngàn năm thao diễn nghỉ,
                  Em nằm xõa tóc đợi chờ anh”.
                  Người yêu ơi câu ước hẹn chưa thành
                  Mà chinh chiến ngăn đôi mình đôi ngã
                  Đà Nẵng - Nha trang cách nhau xa quá
                  Em ở phố phường còn nhớ anh không
                  Đây Nha Trang sóng vỗ cạnh Hòn Chồng
                  Trường Đồng Đế những chiều êm nắng đổ
                  Đêm di hành nghe trùng dương sóng vỗ
                  Lẫn tiếng buồn vang từ rặng thùy dương … (1)

                  Có thi sĩ khác viết:
                  … Ðường Ba Làng lâu nay đã tắt lịm
                  Vắng tiếng ca vang theo nhịp bước đều
                  “Tàn trong bóng chiều…” sao thấy quạnh hiu!
                  Chàng chiến sĩ phương nào anh có biết?
                  Ðường Bãi Tiên non cao nước biếc
                  Núi hòn Khô da diết nhớ mong anh
                  Em vẫn nằm xõa tóc ngắm biển xanh
                  Nghe sóng vỗ tưởng như lời anh nhắn
                  Chàng chiến sĩ năm xưa... anh tắm nắng
                  Gội sương sa Ðồng Ðế đậm màu da
                  Anh ở đâu để ngăn cách tình ta?
                  Em vẫn đợi, vẫn nằm đây xõa tóc (2)


                  2/ Trung tâm huấn luyện Dục Mỹ (cách xa Tỉnh Khánh Hòa 10km), TTHL toạ lạc tại Xã Ninh Sim, Thị-trấn Dục Mỹ, Quận Ninh Hòa: TTHL Dục Mỹ ở gần quốc lộ 21, gần núi Đeo.
                  a.- Dục Mỹ có khóa huấn luyện "Rừng núi sình lầy" (thời gian học khoảng 42, 43 ngày),
                  b.- Dục Mỹ là nơi huấn luyện sĩ quan của các binh chủng (không chỉ dành riêng cho BĐQ). Khóa học rất gian khổ. Những ai đã từng đến nơi nầy học, họ rất tự hào, được cấp bằng tương đương với bằng Đại-đội-trưởng.
                  c.- Dục Mỹ đào tạo huấn luyện căn bản tân binh Biệt động quân.
                  d.- Các khóa chiến thuật hành quân biệt động như: Chiến thuật "hành quân viễn thám".
                  e.- Bổ túc chiến thuật hành quân đơn vị cấp Đại-đội, Tiểu-đoàn.

                  3/ Trung tâm huấn luyện Lam Sơn: về hướng Tây, muốn đến trường nầy phải đi ngang qua trường Dục Mỹ. Đây là quân trường đào tạo binh sĩ cấp bậc thấp nhứt cho Bộ binh, Địa phương quân… thời gian học là 3 tháng.

                  Đèo Rọ Tượng do xưa vùng này có nhiều voi, thế nên họ kiêng cử chữ “voi” chúa tể to lớn nhứt của muôn loài vật & linh thiêng, thành thử đổi là “tượng” thật hay, chân đèo Rọ Tượng về phía Ninh Hòa là làng chài Tân Thủy nằm cách trung tâm thị trấn Ninh Hòa 11 km, Rọ Tượng cách đèo Rù Rì 17km. Giữa khu đất và hai đảo nhỏ là vịnh Văn Phong về phiá Bắc có những cồn cát trắng phau và hàng thùy dương rũ bóng chạy dài ven bãi biển xanh khá đẹp. Nhưng nước thường rất lạnh đó là Dốc Lết xa Nha Trang 49km & ở phía Nam gần gần Dốc Lết 6 km là Hòn Hèo. Phía đầu nguồn của đỉnh Hòn Sơn cao 660m, nước chảy giữa hai triền núi đá, thì có ba tầng hồ ở ba ngọn đồi khác nhau rất đẹp trên lưng núi, từ hồ cao nước suối tuôn xuống hồ thấp, tạo thành dòng chảy qua làng mạc quanh co tới xã Ninh Ích, suối đổ ra đầm Nha Phu, ấy là suối Ba Hồ về phiá Bắc chừng 25km, thuộc điạ phận Ninh Hòa. Từ hướng Dốc Lết đi Đại Lãnh bên tay phải là biển cả xanh ngắt một màu ngọc bích bao la ngút ngàn mênh mông tới chân trời.

                  Nha Trang xa Đại Lãnh 80km ở phiá Bắc là đèo Cả dài 12km, cao 333m. Có hầm Đèo Cả dành cho tàu lửa chạy dài hơn 4 km. Đèo Cả trùng điệp ngút ngàn, núi non cheo leo uốn lượn quanh co. Mưa tầm tã, gió lồng lộng suốt đến Tu Bông. Phong cảnh nơi đây thật hữu tình, bên trái là dốc đá núi đèo cheo leo hiểm trở, bên phải là đại dương mênh mông bát ngát biếc xanh lấp lánh dưới ánh bình minh rạng rỡ, hay hoàng hôn đều tuyệt diễm như trong ca dao:
                  Trèo lên Đèo Cả
                  Trông xuống Vạn Giã Tu Bông
                  Biết rằng phụ mẫu đành không
                  Anh chờ em đợi uổng công hai đàng
                  Chiều chiều vượn hú đầu non
                  Đường qua đèo Cả lối mòn dặm quanh
                  Non xanh xanh, nước xanh xanh
                  Nước non trông cảnh hữu tình xiết bao

                  Ấy là gần vùng Vũng Rô & đèo Cổ Mã ở hướng Nam. Nước biển Đại Lãnh xanh biếc, lấp loáng ánh mặt trời phong cảnh đẹp tuyệt vời. Xa xa, những chiếc thuyền đánh cá đậu san sát, những hình ảnh đẹp như một tấm thảm lụa, làng mạc nên thơ. Nhà cửa bao bọc bởi hàng thùy dương, những hàng dừa, hàng cau chen cánh ven bờ. Cồn cát trắng tưới nắng vàng hanh phơi đầy loại lưới cá, trông xa như những mạng nhện khổng lồ: Lưới Đăng, lưới Rút, lưới Rồng, lưới Rê, lưới Văng, lưới Rẽo. Làng nầy chuyên về nghề: "Chồng chài. Vợ lưới. Con câu" trên những cánh buồm trắng, nhỏ li ti như hạt đậu phụng, bồng bềnh trôi đi trôi về. Ngư thuyền có thân hình vạm vỡ, cánh tay họ lực lưỡng hầu tung vó bắt cá; giống như vị thủy thần lão luyện từng trải giang hồ trên biển cả.

                  Xe tạm dừng chân ở dưới đèo M'Drack Vạn Giã xa Nha Trang khoảng 60 km, cách Tuy Hòa cách 58 km. Phiá tay trái là núi tiếp núi rừng đan rừng trùng điệp trùng điệp xanh ngắt màu lá cây, phiá bên phải là mặt biển bao la màu ngọc biếc, dãi cát dài trắng phau hình vòng cung chạy ven chân đèo Cổ Mã đến mũi Hòn Gion, có bán đảo Sơn Đừng, vách đá ở Hòn Đỏ v.v… nơi khu đất liền phía cực Đông là làng chài Khải Lương, Đầm Môn, phía bắc là Vũng Rô, Lương Sơn, Phong Thạnh, Hoà Huỳnh. Quanh vùng nầy tập trung rất nhiều loại cây dó Bầu, dó Lưỡi Trâu, dó Cam, rất nhiều trầm tích tụ chất nhựa dầu thơm đặc biệt, trầm có màu xanh cổ vịt, màu trắng vân lóng lánh, đó là lúc trầm đã biến thân thành Kỳ Nam. Người chuyên nghề đi tìm trầm ưa nói: "Nhất bạch, nhì thanh, tam huỳnh, tứ hắc"... "Trầm nơi Vạn Giã, hương tỏa sơn lâm". Tôi nghe: Có người ngậm ngãi đi tìm trầm, trầm ở trong rừng sâu xa tít tắp. Nhưng đi quá lâu ngày, họ bị lạc nhau và mất hút trong rừng. Người ấy không tìm thấy lối ra, lâu ngày lâu năm… thì móng tay móng chân dài ngoẵng, râu tóc mọc xồm xoàm, họ ngơ ngơ ngáo ngáo… và những người ấy bỗng hóa thành cọp. Ui! sao hoang đường, huyền thoại lạ lùng, ớn lạnh thế không biết?!

                  Đúng là phong cảnh tuyệt tác, hữu tình. Bầu trời vần vũ mây xám đục, bàng bạc, hơi nước đan trong sương giá mờ mờ. Núi rừng trùng trùng điệp điệp, khí trời toả lạnh mát rượi, man mác, phơn phớt vàng, đó đây thoang thoảng mùi thơm thơm thật dễ chịu. Xe chạy chậm quanh co trên con đường hẹp, trơn trượt như bôi mỡ. Má tựa đầu vào hông xe chật như nêm, chân tay co quắp má ngủ gà ngủ gật. Nhìn mẹ già thiêm thiếp mệt nhọc, lòng con trào dâng nỗi buồn phiền cùng sự ân hận dày vò, khiến tôi ứa nước mắt.

                  Phú Sơn, *Phú Hiệp, *Đông Tác. Tuy Hoà xa Đại Lãnh 30km là một Tỉnh miền Nam Trung bộ, trên tọa độ 12 độ 53’ - 13 độ14’ vĩ độ bắc, l08 độ37’ - 109 độ l3’ kinh độ đông, trực thuộc tỉnh Phú Yên. Nhạn Tháp cao khoảng 20m xây bên bờ bắc sông Đà Rằng, tháp Nhạn có hình tứ giác bốn tầng. Chân tháp bệ vệ nhưng khi càng lên cao, thì chóp tháp càng thu nhọn nhỏ giống hình chóp nón. Cửa hình vòm cung nhọn, có tượng hình Linga, hơi giống tượng Pônagar, đầu quái vật ở trên đỉnh, như một phế tích u trầm. Dọc chiều dài phương tây có dãy núi thấp, nhiều đồi xen kẽ ruộng đồng, cây cỏ xanh um, nhiều cồn cát trắng.

                  Tuy Hòa có ba sông chính: Sông Ba. Sông Kỳ Lô. Sông Bàn Thạch. Trong đó sông Đà Rằng rất dài và đẹp, nước bắt nguồn từ đỉnh Ngọc Sơn chảy qua các lưu vực cao nguyên Komtum, Đắc Lắc, Sơn Hòa... lượn quanh các vùng sau đó đổ ra cửa biển Đà Rằng. Sông rộng mênh mông có cầu gỗ Đà Rằng (sông Ba) dài nhứt trong các cầu, cầu dài ngót cây số, có 21 nhịp, luôn tấp nập người qua lại, xe cộ đông đúc. Cầu nối các vùng *Hoà Đa, *Chí Thạnh, *La Hai, *Phước Lãnh, *Vân Canh. Lưu lượng thủy triều không đều, lúc mạnh lúc yếu, theo khí hậu miền đại dương vùng nhiệt sáng và nắng ấm dồi dào độ 2000/2700 h/năm, tổng số lượng bức xạ 230 kcal/ cm3/năm. Gió mùa nóng, mưa ẩm quanh năm nơi vùng sông Cái, sông Bàn Thạch.

                  Lại có các: Hòn Lao mái nhà. Hòn đảo Cô, hòn Dứa, hòn Than, hòn Chùa. “Hòn” ơi sao lại lắm hòn thế! Có tảng đá khổng lồ là Hòn Vọng Phu trên cao độ 2.064m, đơn độc, đá Vọng Phu đứng chênh vênh lắc lẽo nhô một phần chân ra biển, sừng sững trên đỉnh núi cô tịch điệp trùng, chập chùng núi tiếp núi cao chót vót. Tục truyền rằng thuở xưa khách chinh phu vì "xã tắc lâm nguy, thất phu hữu trách". Vì nợ nước quên tình nhà, chàng đi chinh chiến ngoài biên ải, quyết giữ gìn bờ cõi sơn hà gấm vóc. Chinh nhân hẹn sẽ trở về khi giặc hết nhà yên:
                  Cái cò lặn lội bờ sông.
                  Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non.
                  Nàng về nuôi cái cùng con.
                  Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng.
                  Chân đi đá lại dùng dằng.
                  Nửa nhớ Cao Bằng nửa nhớ vợ con. (3)

                  Chinh phụ tháng tháng năm năm ôm con lên núi, mòn mõi khát khao, đơn điệu ngóng trông chồng dãi dầu phong sương vẫn biền biệt. Nước mắt chinh phụ tuôn trào suốt ngày đêm thấm đẫm toàn thân. Nàng luôn dặn dò chồng:
                  Anh đi em ở lại nhà.
                  Vườn rau em tưới mẹ già em trông.
                  Anh đi em ở lại nhà.
                  Hai vai gánh vác mẹ già con thơ.
                  Lầm than bao quản muối dưa.
                  Anh đi anh liệu chen đua với đời.
                  Chim có đôi có bạn.
                  Hãy xem cặp nhạn làm gương.
                  Đứng làm người trong đạo tao khương
                  Thuỷ chung như nhứt giữ đường ngãi nhân. (3)

                  Thời gian dài đằng đẵng xô sóng trên luống tóc sầu bạc phơ, nàng sương phụ đã hoá thân thành đá. Ôi! Lòng người vợ hiền Việt Nam thủy chung, bạc phơ mái tóc vẫn sắt son suốt kiếp trông chờ, đấy là tấm gương sáng chói qúy giá vô ngần:
                  Bác mẹ già phơ phơ đầu bạc.
                  Con chàng còn trứng nước thơ ngây.
                  Có hay chàng ở đâu đây?
                  Thiếp xin mượn cánh chắp bay theo chàng. (3)

                  Đại thi nhân Nguyễn Du có lời thơ trĩu tình người với nàng Tô Thị:
                  Thạch da, nhân da, bỉ hà nhân.
                  Độc lập sơn đầu thiên bách xuân.
                  Vạn kiếp điều vô vân vũ mộng.
                  Nhật trinh lư đắc cổ kim thân.
                  (Đá chăng? Người chăng? Đó là ai?
                  Đứng sững đầu non nghìn năm rồi.
                  Muôn kiếp mây mưa không vướng mộng.
                  Lòng son nay trước trọn bao đời).

                  Đèo Cù Mông quanh co dài hơn 6,6 km luôn hoang vu, trầm mặc, cô liêu và u ám, là ranh giới Tỉnh Bình Định & Phú Yên, chân đèo phía Nam ở huyện Sông Cầu cũng gọi là vũng Mồi, đầm, hầm Cù Mông, nơi đây du khách đi đường bộ ngồi trên xe có thể thấy đoàn tàu lửa thấp thoáng len lỏi trong rừng, hoặc chui vô hầm tàu nơi dành cho tàu lửa chạy dài ngoẵng gần 3 km. Đoàn xe dẫn đến Tháp Đôi ở Xã Đống Đa. Gồm có hai tháp: Tháp Một cao 18m; tháp Hai cao 22m đều là hình chóp nón.

                  *Qui Nhơn thuộc Tỉnh Bình Định có biển xanh trời rộng và thành Chà Bàn xa khoảng 26 km, về hướng Tây Bắc, nơi kinh đô vương quốc Chàm xưa, với vua Yangpuku Vijaya ngự trị giữa các tượng voi, rắn, cùng nhiều tượng dị hình khác. Thành Chà Bàn xây bằng đá ong, đường đi lát đá hoa cương. Vào thời triều cuối cùng vua Yangpuku Vijaya (Chàm) còn gọi tên là Thập Tháp, tháp Cánh Tiên có nhiều hình quái vật, tượng rắn đá trắng, voi đá. Địa hình nghiêng nghiêng, hàm lượng đất phù sa thấp bạc màu, gần chân núi, quanh đầm, vịnh, đất trôi dần ra bờ biển Đông. Thành Quy Nhơn lại bị đổi tên thành Bình Định, ấp Tây Sơn bị đốt phá san bằng, chỉ sót lại một cây me con nay đã trở thành cổ thụ. Biển Quy Nhơn khá đẹp cát mịn.

                  *Bình Định là một Tỉnh nam trung bộ, tọa độ 13o 30 – 14o42’ vĩ độ Bắc. 108o 35’ kinh Đông. Phía Nam giáp Phú Yên, phiá Bắc giáp Quảng Ngãi, Đông giáp biển Đông, phía Tây giáp Gia Ray. Bình Định nằm trên trục đường bộ & đường sắt xuyên Việt & đường giao thông quốc lộ 1A quan trọng, phía Đông giáp biển Đông, phía Tây giáp Tỉnh Gia Ray. Bình Định có nhiều hồ, đầm nước lợ & nước ngọt, vịnh. Tài nguyên thủy sản: rong câu chỉ vàng, sò điệp, các loại cá nổi & cá đáy, cá ngựa, tôm, tôm hùm, yến sào, cua Huỳnh Đế qúy. Không những Bình Định phong phú về cá tôm mà cũng là nơi có: nước suối khoáng, cao lanh, đất sét, đá Granosinite đỏ, Biotite vàng, quặn Titan ở Quy Nhơn, Phù Cát, Phù Mỹ... Quặng & sa khoáng Titan, sa khoáng Đề Gi, các mỏ Cao Lanh, cát trắng…

                  Bình Định có danh lam thắng cảnh thiên nhiên Ghềnh Ráng đẹp là nơi an nghỉ cuối cùng của Hàn Mặc Tử. Bãi tắm Hoàng Hậu toàn đá xanh nhỏ to xếp từng lớp, nhìn xa như bãi trứng chim khổng lồ. Suối Tiên, suối Mơ, suối khoáng, xứ dừa Tam quan. Bán đảo Phương Mai, Thị Nại. Thuở xưa, Vua Bảo Đại đã cho đã xây nhà nghỉ hữu tình trên khu đất cao, trông ngôi nhà giống con tàu nhấp nhô lướt sóng đại dương. Tại làng Thị Tứ có lò rèn nổi tiếng. Nam nữ Bình Định thích múa điệu trống truyền thống Tây Sơn. Con nhà vỏ nổi danh với câu thơ lưu truyền:
                  Ai về Bình Định mà coi
                  Con gái Bình Định cầm roi đi quyền.

                  Hoặc:

                  Bình Định có núi Vọng Phu
                  Có đầm Thị Nại, có cù lao Xanh
                  Em về Bình Định cùng anh
                  Được ăn bí đỏ nấu canh nước dừa
                  (cd)
                  Sông Kôn lớn nhứt Tỉnh Bình Định chảy qua kinh thành Đồ Bàn, cách đây trên 500 năm (1471) đã bị vua Lê Thánh Tôn cho quân lính san bằng, để lại ba mươi vạn thủ cấp, bắt đem đi hai mươi vạn nô lệ. Đã không còn là Chà Bàn của Chế Bồng Nga mà là Quy Nhơn biên trấn xa xôi của dòng họ nhà Lê, rồi của chúa Trịnh. Tháp Bánh Ít ở trước mặt, như hai búp măng non mọc lên từ lòng đất. Tháp Cánh Tiên rực vàng trong nắng sớm và đỏ thắm trong những buổi chiều tà. Bên kia sông có cái bóng đồ sộ của một ngọn tháp ở xã Nhơn Thành lại in xuống nước rực rỡ như một khối ngọc khổng lồ. Đặc sản ngon:
                  Gỏi chính Châu Trúc
                  Bánh tráng Tam Quan
                  Nón lá Gò Găng
                  Nem chua chợ Huyện
                  Công đâu công uổng công thừa
                  Công đâu gánh nước tưới dừa Tam Quan
                  Muốn ăn bánh ít lá gai
                  Lấy chồng Bình Định sợ dài đường đi... (3)

                  *Phú Tài. Cánh đồng *Phù Mỹ bao la, đầm *Trà Ô, ngọn Chóp Chài cheo leo, hòn Cao quay ra biển vô cùng đơn điệu trước biển cả mênh mông. Những nơi nầy nằm trên vị trí giao thông khá thuận lợi về hai mặt: đường biển và đường bộ. Núi đồi ngút ngàn, chen lấn đồng ruộng ven núi. Nơi nổi danh ba vị anh tài áo vải cờ đào Lam Sơn Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ. Họ sinh ở làng Kiên Mỹ. Hoàng Đế Nguyễn Huệ lấy hiệu là Quang Trung tài ba, đầy mưu lược, ông đã cởi voi vào cửa Bắc đại thắng quân Thanh ở Phú Xuyên, Hà Hồi, Đống Đa, khiến Tôn Sĩ Nghị chạy bán sống bán chết vào mùa Xuân 1789 đại thắng lẫy lừng. Ngọc Hân công chúa mười sáu tuổi, con gái thứ hai mốt của vua Lê Hiến Tông, vâng lệnh vua cha kết duyên cùng Nguyễn Huệ vương quyền. Thế mà Nguyễn Huệ lẫy lừng như vậy… sau nầy vua Gia Long cho khai quật mồ vua Quang Trung mà phơi nắm xương khô, để trả mối hận thù rối rắm thuở xa xưa. Thù chi mà thù dai. Thù ghê gớm. Thù dễ sợ hỉ!

                  Đường đi càng khúc khuỷu gập ghềnh, xe rung lên từng hồi vì xe xóc mạnh qua ổ gà, gò mô, đất đá sụt lở. Xe đến gần vùng đảo Cù Lao Chàm, Hòn Ông, Hòn Dài, Hòn Tai nơi có nhiều khỉ (ui, lại có một lô một lốc các "hòn"!). Dọc quốc lộ, vô số hàng dừa chen cánh những hàng dừa ngã nghiêng theo chiều gió đại dương rì rào sóng vỗ. Trời trở cơn gió bão mịt mù, bóng tối sớm bao trùm vạn vật, suốt ngày không chút ánh sáng mặt trời. Hai bên đường, cư dân bán đầy hàng quà bánh trái, hàng nước, hàng cơm, người ra vào đông đúc dưới cơn mưa như trút, gió rét căm căm. Nào là ngũ gia bì, sa nhân, thiên niên kiện, thổ phục linh, phong kỷ, đều có sản xuất tại xứ nầy. Chạy thêm một khúc thì xe bị bể bánh, phải ngừng lại hơn nửa ngày, để thay bánh xe, sửa chữa vài thứ, và vô dầu nhớt, không hy vọng xong ngay. Nhân đó, vài cụ già ở địa phương, tuổi già không sao đếm nỗi thắng năm trên những lằn nhăn lún sâu vầng trán hói. Họ đến đề nghị với hành khách trên xe:
                  - Ai muốn đi thăm di tích Hận Đồ Bàn, nơi kinh đô Dân Tộc Chàm. Thì bớt xén vài đồng, thuê hướng dẫn viên đưa lối dẫn đường.

                  Nghe thế, khoảng mười người trẻ ngồi chung xe góp tiền, đưa lão trượng, họ cùng tôi leo lên ba chiếc xe ngựa cà rịch cà tang đi du hí. Muốn vào thành Đồ Bàn, phải đi qua cửa chánh, tức cửa Vệ. Vã lại xe khách bị hư chỉ cách thành nầy độ non cây số. Thành có ba cửa nữa là: Cửa Tả, cửa Hữu, cửa Bắc ở hậu cung. Thành có ba lớp: Thành ngoài, thành trong, tử cấm thành. Thành và tháp đắp toàn gạch tàu nung đỏ, đất sét, đá ong, đá phiến, thỉnh thoảng điểm thêm ít đá tai mèo, dưới chân cột kê toàn đá tảng. Tháp Cánh Tiên nằm trong thành Đồ Bàn, xưa gọi là tháp Vijaya. Quanh vùng nầy còn sót lại ít di tích tháp Bạc, tháp Bình Lâm, chùa Nhạn Sơn. Tứ bề cây đan cây, cỏ lướt cỏ, cổ thụ to sù sì chằn chịt, rậm rạp um tùm. Cảnh vật điêu tàn hoang phế in trên từng bậc thềm loang lổ, mốc meo. Cạnh bức tường thành ngôi tháp hư hại đổ nát mấy nơi chưa được trùng tu, trông càng tiêu điều hoang vu, hết sức đơn điệu buồn bã.


                  Hận Đồ Bàn và người đẹp hong mái tóc huyền, giặt lụa bên ven sông vang bóng một thời thuở ấy, gợi nhớ ngày xưa quan hành khiển Trần Khắc Chung vẻ tranh công chúa Huyền Trân. Ông được triều đình trao bức tranh cho Chế Bồ Đào mang về Chàm. Có lẽ Huyền Trân và Khắc Chung: Một già một trẻ chưa hẳn nảy sinh tình cảm yêu đương tâm đầu (như đồn đãi) nhưng họ kính trọng nhau qua phong cách. Khi Chiêm cắt hai châu Ô, Lý dâng Vua xứ Việt, để làm sính lễ, (do quan hành khiển Đoàn Nhữ Hài trấn giữ). Thì bờ cõi, dân tộc, được mang ra giao hảo cho hôn ước Chăm Pa và người đẹp nghiêng nước nghiêng thành đất Việt. Rồi Chế Mân chết. Theo phong tục Chiêm, thì hoàng hậu phải hoả táng theo thi hài Vua. Nhà Việt liền sai ông Khắc Chung tức tốc sang Chiêm, dùng tài trí và mưu lược để cướp Huyền Trân trở về kinh thành Thăng Long an toàn vào năm 1308.

                  Người Maoris khi chết, họ cho người phối ngẫu cùng thủy táng xuống "thủy mộ quan", mong thân xác tắm mát, trôi về phương tây, thuộc quần đảo Hawaiki an nghỉ. Người chết rồi, thôi cũng cho ùm tủm xuống nước "mát mẻ" đi, cũng đành. Đằng nầy, bên Chăm bắt người sống sờ sờ, sống nhăn răng mà phải trợn trừng mắt bị hoả táng theo, thì "nóng hổi và khủng khiếp", chịu sao thấu! Vương quốc Chế tan rã từ năm 1470. Tôi đã học lịch sử nầy, nỗi sợ hãi như in vào trí. Xứ dừa *Tam Quan và Chế Bồng Nga, ngày ngày cùng đoàn tỳ nữ ca múa thuở nào bên bờ sông nay còn đâu, chỉ nghe:
                  Xoài Đá Trắng
                  Sắn Phương Lụa
                  Tiếng đồn chợ xổm nhiều khoai
                  Đất Đỏ nhiều bắp, La Hai nhiều đường. (3)

                  *Phú Yên phía Đông giáp biển Đông, phía Tây giáp Đắc Lắc & Gia Ray, phía Bắc giáp Bình Định phiá Nam giáp Khánh Hòa. *Trà Ổ có núi Lồi, Eo Gió, Kỳ Co, Hàm Hô… dân cư ở quanh các vùng ven biển, ven đồng bằng đầm vịnh nước lợ như vịnh Cù Mông, vịnh Xuân Đài, đầm Ô Loan, Vũng Rô sung túc. *Phù Cát có yến sào, cua huỳnh đế, có đá granosinite đỏ, có mỏ cao lanh, đất sét. Người ta ưa bày bán các vật lưu niệm bằng đất nung khá xinh. *Khánh Phước, *Phù Mỹ, *Văn Phú, *Bồng Sơn, đèo Nhông xa thị trấn Phù Mỹ 8,5 km về phía Bắc, đèo Phù Cư. Phía Đông là núi Chóp Chài, nhiều rừng dừa to cao, hàng hàng lớp lớp tre nứa nghiêng mình ra giữa lộ, như đón chào khách lữ hành. Hàng quán gọn gàng sạch sẽ, cơm Bồng Sơn nổi tiếng ngon, nóng, đậm đà hương vị quê hương, và rẻ nhứt, con tôm to tươi rói, con cá no tròn đang bơi lội trong hồ, gà vịt luộc nóng hổi vừa thổi vừa ăn, ngon ơi là ngon tuyệt! Chủ quán niềm nở vui vẻ, chào đón khách với khăn nóng, khăn lạnh, thay đổi mỗi mùa, câu mời chào đon đả, ân cần lịch sự, người nghe dù không đói bụng, ngại trời mưa to gió lớn, họ vẫn thích làm vui lòng chủ quán mua giúp các món quà đặc sản.
                  *
                  Tình Hoài Hương


                  (1) Lê Chiến
                  (2) Phạm Hùng
                  (3) Ca dao
                  (*) Từ năm 1960 -> đến năm 1975 - bối cảnh ở thời điểm nầy, hầu như ít thay đổi. (Hoài Hương đã điều chỉnh bài viết trong quyển tập “Soạn Bài Dạy” & trích đăng trong truyện dài "Khi Định Mệnh Cúi Nhìn" cùng tác giả).
                  Rất trang trọng và chân thành cảm ơn qúy vị nhạc sĩ & nhiếp ảnh gia đã post hình, nhạc… trên internet, tôi xin mạn phép chuyển tải nhạc & hình, (nếu có copy right) vô bài viết, ngỏ hầu tăng thêm phần phong phú hóa hình ảnh sống động, từ tài nghệ độc đáo của qúy vị; qua quê hương Việt Nam cẩm tú của chúng ta.
                  Đa tạ!
                  Tình Hoài Hương
                  Photo by Hoài Hương

                  Bút trần nào tả được lưu luyến!
                  Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                  Tình Hoài Hương

                  Comment



                  • Từ Đồng Đế đến Bồng Sơn
                    Tình Hoài Hương
                    *

                    Đoàn xe Renault của hãng Phi Long Tiến Lực gồm sáu chiếc từ giã Nha Trang chạy bon bon trên quốc lộ 1A lúc 5 giờ 30 phút sáng. Xe xuôi về hướng đèo Rù Rì xa Nha Trang độ 12km, đèo quanh co hiểm trở u ám, có ngôi miếu nhỏ nằm giữa lưng chừng đèo, xe khách qua lại luôn luôn ngừng nghỉ năm ba phút để tài xế đến miếu thắp nhang khấn vái. Ngoại biên Nha Trang còn có các trung tâm huấn luyện như:

                    1/ Trường Hạ Sĩ-quan QLVNCH Đồng Đế. Từ hướng Tây quốc lộ 1A cách Nha Trang 4km, ra bờ biển ở dưới chân núi Hòn Ngang là trường Hạ-sĩ-quan QLVNCH Đồng Đế (The School of the Non-commissioned officers of the Vietnam Military Forces). Đồng Đế tọa lạc tại Xã Vĩnh Hải, Quận Vĩnh Xương, Tỉnh Khánh Hòa. Ban huấn luyện chuyên biệt về Biệt Động Quân là trường Hạ Sĩ Quan Đồng Đế, nơi đào tạo các hạ sĩ quan, thời gian học là 6 tháng. [Nhưng hồi trước trường cũng có tổ chức các khóa sĩ quan đặc biệt, (ví dụ khoá của Đại tá Hồ Ngọc Cẩn)].
                    a.- Sau này vì quân trường Thủ Đức rất đông, nên có những khóa sinh viên sĩ quan phải học ở Đồng Đế. Nếu khóa học nào chứa đủ nhân số SVSQ (1600) thì học ở Thủ Đức.
                    b.- Cũng có lúc các khóa học khác vì SVSQ đông quá, nên quân trường (TTHL SVSQ Thủ Đức) phải chia sinh viên sĩ quan ra làm hai nơi: ai là cư dân sinh sống ở miền Trung, thì học ở Đồng Đế; ai là cư dân sinh sống miền Tây, phụ cận Vũng Tàu, Sài Gòn, v.v… thì học ở Thủ Đức.
                    c.- SVSQ trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt trước khi ra trường ai chọn ngành Hải quân, hoặc Không quân, thì được trường gởi đi Nha Trang để học về ngành chuyên môn. Sau khi học xong, họ trở về trường cũ tiếp tục học cho đến lúc mãn khóa.

                    Từ trại cùi Bàu Phong nhìn chéo xa xa thấy núi Hòn Khô. Đồng Đế ở gần đèo Rù Rì, trên đỉnh Hòn Khô thuộc núi Cô Tiên, gió lùa lá vàng & sương phủ đầy vai bức tượng đã sạm màu với thời gian. Nơi đó tạt hình ảnh chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa khá cao, chiến sĩ ấy đứng trong tư thế thao diễn nghỉ, do bộ chỉ huy trường Đồng Đế xây vào đầu năm 1960, ghi câu thơ:
                    Anh đứng ngàn năm thao diễn nghỉ,
                    Em nằm xõa tóc đợi chờ anh.
                    Hai câu thơ trên đã có từ lâu, chẳng thể nhớ tác giả là ai, mãi về sau nầy mới có các thi sĩ nối tiếp thêm thành bài thơ dài thiệt hay, nơi đây tác giả chỉ ghi ít trích đoạn:
                    “Anh đứng ngàn năm thao diễn nghỉ,
                    Em nằm xõa tóc đợi chờ anh”.
                    Người yêu ơi câu ước hẹn chưa thành
                    Mà chinh chiến ngăn đôi mình đôi ngã
                    Đà Nẵng - Nha trang cách nhau xa quá
                    Em ở phố phường còn nhớ anh không
                    Đây Nha Trang sóng vỗ cạnh Hòn Chồng
                    Trường Đồng Đế những chiều êm nắng đổ
                    Đêm di hành nghe trùng dương sóng vỗ
                    Lẫn tiếng buồn vang từ rặng thùy dương … (1)

                    Có thi sĩ khác viết:
                    … Ðường Ba Làng lâu nay đã tắt lịm
                    Vắng tiếng ca vang theo nhịp bước đều
                    “Tàn trong bóng chiều…” sao thấy quạnh hiu!
                    Chàng chiến sĩ phương nào anh có biết?
                    Ðường Bãi Tiên non cao nước biếc
                    Núi hòn Khô da diết nhớ mong anh
                    Em vẫn nằm xõa tóc ngắm biển xanh
                    Nghe sóng vỗ tưởng như lời anh nhắn
                    Chàng chiến sĩ năm xưa... anh tắm nắng
                    Gội sương sa Ðồng Ðế đậm màu da
                    Anh ở đâu để ngăn cách tình ta?
                    Em vẫn đợi, vẫn nằm đây xõa tóc (2)


                    2/ Trung tâm huấn luyện Dục Mỹ (cách xa Tỉnh Khánh Hòa 10km), TTHL toạ lạc tại Xã Ninh Sim, Thị-trấn Dục Mỹ, Quận Ninh Hòa: TTHL Dục Mỹ ở gần quốc lộ 21, gần núi Đeo.
                    a.- Dục Mỹ có khóa huấn luyện "Rừng núi sình lầy" (thời gian học khoảng 42, 43 ngày),
                    b.- Dục Mỹ là nơi huấn luyện sĩ quan của các binh chủng (không chỉ dành riêng cho BĐQ). Khóa học rất gian khổ. Những ai đã từng đến nơi nầy học, họ rất tự hào, được cấp bằng tương đương với bằng Đại-đội-trưởng.
                    c.- Dục Mỹ đào tạo huấn luyện căn bản tân binh Biệt động quân.
                    d.- Các khóa chiến thuật hành quân biệt động như: Chiến thuật "hành quân viễn thám".
                    e.- Bổ túc chiến thuật hành quân đơn vị cấp Đại-đội, Tiểu-đoàn.

                    3/ Trung tâm huấn luyện Lam Sơn: về hướng Tây, muốn đến trường nầy phải đi ngang qua trường Dục Mỹ. Đây là quân trường đào tạo binh sĩ cấp bậc thấp nhứt cho Bộ binh, Địa phương quân… thời gian học là 3 tháng.

                    Đèo Rọ Tượng do xưa vùng này có nhiều voi, thế nên họ kiêng cử chữ “voi” chúa tể to lớn nhứt của muôn loài vật & linh thiêng, thành thử đổi là “tượng” thật hay, chân đèo Rọ Tượng về phía Ninh Hòa là làng chài Tân Thủy nằm cách trung tâm thị trấn Ninh Hòa 11 km, Rọ Tượng cách đèo Rù Rì 17km. Giữa khu đất và hai đảo nhỏ là vịnh Văn Phong về phiá Bắc có những cồn cát trắng phau và hàng thùy dương rũ bóng chạy dài ven bãi biển xanh khá đẹp. Nhưng nước thường rất lạnh đó là Dốc Lết xa Nha Trang 49km & ở phía Nam gần gần Dốc Lết 6 km là Hòn Hèo. Phía đầu nguồn của đỉnh Hòn Sơn cao 660m, nước chảy giữa hai triền núi đá, thì có ba tầng hồ ở ba ngọn đồi khác nhau rất đẹp trên lưng núi, từ hồ cao nước suối tuôn xuống hồ thấp, tạo thành dòng chảy qua làng mạc quanh co tới xã Ninh Ích, suối đổ ra đầm Nha Phu, ấy là suối Ba Hồ về phiá Bắc chừng 25km, thuộc điạ phận Ninh Hòa. Từ hướng Dốc Lết đi Đại Lãnh bên tay phải là biển cả xanh ngắt một màu ngọc bích bao la ngút ngàn mênh mông tới chân trời.

                    Nha Trang xa Đại Lãnh 80km ở phiá Bắc là đèo Cả dài 12km, cao 333m. Có hầm Đèo Cả dành cho tàu lửa chạy dài hơn 4 km. Đèo Cả trùng điệp ngút ngàn, núi non cheo leo uốn lượn quanh co. Mưa tầm tã, gió lồng lộng suốt đến Tu Bông. Phong cảnh nơi đây thật hữu tình, bên trái là dốc đá núi đèo cheo leo hiểm trở, bên phải là đại dương mênh mông bát ngát biếc xanh lấp lánh dưới ánh bình minh rạng rỡ, hay hoàng hôn đều tuyệt diễm như trong ca dao:
                    Trèo lên Đèo Cả
                    Trông xuống Vạn Giã Tu Bông
                    Biết rằng phụ mẫu đành không
                    Anh chờ em đợi uổng công hai đàng
                    Chiều chiều vượn hú đầu non
                    Đường qua đèo Cả lối mòn dặm quanh
                    Non xanh xanh, nước xanh xanh
                    Nước non trông cảnh hữu tình xiết bao

                    Ấy là gần vùng Vũng Rô & đèo Cổ Mã ở hướng Nam. Nước biển Đại Lãnh xanh biếc, lấp loáng ánh mặt trời phong cảnh đẹp tuyệt vời. Xa xa, những chiếc thuyền đánh cá đậu san sát, những hình ảnh đẹp như một tấm thảm lụa, làng mạc nên thơ. Nhà cửa bao bọc bởi hàng thùy dương, những hàng dừa, hàng cau chen cánh ven bờ. Cồn cát trắng tưới nắng vàng hanh phơi đầy loại lưới cá, trông xa như những mạng nhện khổng lồ: Lưới Đăng, lưới Rút, lưới Rồng, lưới Rê, lưới Văng, lưới Rẽo. Làng nầy chuyên về nghề: "Chồng chài. Vợ lưới. Con câu" trên những cánh buồm trắng, nhỏ li ti như hạt đậu phụng, bồng bềnh trôi đi trôi về. Ngư thuyền có thân hình vạm vỡ, cánh tay họ lực lưỡng hầu tung vó bắt cá; giống như vị thủy thần lão luyện từng trải giang hồ trên biển cả.

                    Xe tạm dừng chân ở dưới đèo M'Drack Vạn Giã xa Nha Trang khoảng 60 km, cách Tuy Hòa cách 58 km. Phiá tay trái là núi tiếp núi rừng đan rừng trùng điệp trùng điệp xanh ngắt màu lá cây, phiá bên phải là mặt biển bao la màu ngọc biếc, dãi cát dài trắng phau hình vòng cung chạy ven chân đèo Cổ Mã đến mũi Hòn Gion, có bán đảo Sơn Đừng, vách đá ở Hòn Đỏ v.v… nơi khu đất liền phía cực Đông là làng chài Khải Lương, Đầm Môn, phía bắc là Vũng Rô, Lương Sơn, Phong Thạnh, Hoà Huỳnh. Quanh vùng nầy tập trung rất nhiều loại cây dó Bầu, dó Lưỡi Trâu, dó Cam, rất nhiều trầm tích tụ chất nhựa dầu thơm đặc biệt, trầm có màu xanh cổ vịt, màu trắng vân lóng lánh, đó là lúc trầm đã biến thân thành Kỳ Nam. Người chuyên nghề đi tìm trầm ưa nói: "Nhất bạch, nhì thanh, tam huỳnh, tứ hắc"... "Trầm nơi Vạn Giã, hương tỏa sơn lâm". Tôi nghe: Có người ngậm ngãi đi tìm trầm, trầm ở trong rừng sâu xa tít tắp. Nhưng đi quá lâu ngày, họ bị lạc nhau và mất hút trong rừng. Người ấy không tìm thấy lối ra, lâu ngày lâu năm… thì móng tay móng chân dài ngoẵng, râu tóc mọc xồm xoàm, họ ngơ ngơ ngáo ngáo… và những người ấy bỗng hóa thành cọp. Ui! sao hoang đường, huyền thoại lạ lùng, ớn lạnh thế không biết?!

                    Đúng là phong cảnh tuyệt tác, hữu tình. Bầu trời vần vũ mây xám đục, bàng bạc, hơi nước đan trong sương giá mờ mờ. Núi rừng trùng trùng điệp điệp, khí trời toả lạnh mát rượi, man mác, phơn phớt vàng, đó đây thoang thoảng mùi thơm thơm thật dễ chịu. Xe chạy chậm quanh co trên con đường hẹp, trơn trượt như bôi mỡ. Má tựa đầu vào hông xe chật như nêm, chân tay co quắp má ngủ gà ngủ gật. Nhìn mẹ già thiêm thiếp mệt nhọc, lòng con trào dâng nỗi buồn phiền cùng sự ân hận dày vò, khiến tôi ứa nước mắt.

                    Phú Sơn, *Phú Hiệp, *Đông Tác. Tuy Hoà xa Đại Lãnh 30km là một Tỉnh miền Nam Trung bộ, trên tọa độ 12 độ 53’ - 13 độ14’ vĩ độ bắc, l08 độ37’ - 109 độ l3’ kinh độ đông, trực thuộc tỉnh Phú Yên. Nhạn Tháp cao khoảng 20m xây bên bờ bắc sông Đà Rằng, tháp Nhạn có hình tứ giác bốn tầng. Chân tháp bệ vệ nhưng khi càng lên cao, thì chóp tháp càng thu nhọn nhỏ giống hình chóp nón. Cửa hình vòm cung nhọn, có tượng hình Linga, hơi giống tượng Pônagar, đầu quái vật ở trên đỉnh, như một phế tích u trầm. Dọc chiều dài phương tây có dãy núi thấp, nhiều đồi xen kẽ ruộng đồng, cây cỏ xanh um, nhiều cồn cát trắng.

                    Tuy Hòa có ba sông chính: Sông Ba. Sông Kỳ Lô. Sông Bàn Thạch. Trong đó sông Đà Rằng rất dài và đẹp, nước bắt nguồn từ đỉnh Ngọc Sơn chảy qua các lưu vực cao nguyên Komtum, Đắc Lắc, Sơn Hòa... lượn quanh các vùng sau đó đổ ra cửa biển Đà Rằng. Sông rộng mênh mông có cầu gỗ Đà Rằng (sông Ba) dài nhứt trong các cầu, cầu dài ngót cây số, có 21 nhịp, luôn tấp nập người qua lại, xe cộ đông đúc. Cầu nối các vùng *Hoà Đa, *Chí Thạnh, *La Hai, *Phước Lãnh, *Vân Canh. Lưu lượng thủy triều không đều, lúc mạnh lúc yếu, theo khí hậu miền đại dương vùng nhiệt sáng và nắng ấm dồi dào độ 2000/2700 h/năm, tổng số lượng bức xạ 230 kcal/ cm3/năm. Gió mùa nóng, mưa ẩm quanh năm nơi vùng sông Cái, sông Bàn Thạch.

                    Lại có các: Hòn Lao mái nhà. Hòn đảo Cô, hòn Dứa, hòn Than, hòn Chùa. “Hòn” ơi sao lại lắm hòn thế! Có tảng đá khổng lồ là Hòn Vọng Phu trên cao độ 2.064m, đơn độc, đá Vọng Phu đứng chênh vênh lắc lẽo nhô một phần chân ra biển, sừng sững trên đỉnh núi cô tịch điệp trùng, chập chùng núi tiếp núi cao chót vót. Tục truyền rằng thuở xưa khách chinh phu vì "xã tắc lâm nguy, thất phu hữu trách". Vì nợ nước quên tình nhà, chàng đi chinh chiến ngoài biên ải, quyết giữ gìn bờ cõi sơn hà gấm vóc. Chinh nhân hẹn sẽ trở về khi giặc hết nhà yên:
                    Cái cò lặn lội bờ sông.
                    Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non.
                    Nàng về nuôi cái cùng con.
                    Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng.
                    Chân đi đá lại dùng dằng.
                    Nửa nhớ Cao Bằng nửa nhớ vợ con. (3)

                    Chinh phụ tháng tháng năm năm ôm con lên núi, mòn mõi khát khao, đơn điệu ngóng trông chồng dãi dầu phong sương vẫn biền biệt. Nước mắt chinh phụ tuôn trào suốt ngày đêm thấm đẫm toàn thân. Nàng luôn dặn dò chồng:
                    Anh đi em ở lại nhà.
                    Vườn rau em tưới mẹ già em trông.
                    Anh đi em ở lại nhà.
                    Hai vai gánh vác mẹ già con thơ.
                    Lầm than bao quản muối dưa.
                    Anh đi anh liệu chen đua với đời.
                    Chim có đôi có bạn.
                    Hãy xem cặp nhạn làm gương.
                    Đứng làm người trong đạo tao khương
                    Thuỷ chung như nhứt giữ đường ngãi nhân. (3)

                    Thời gian dài đằng đẵng xô sóng trên luống tóc sầu bạc phơ, nàng sương phụ đã hoá thân thành đá. Ôi! Lòng người vợ hiền Việt Nam thủy chung, bạc phơ mái tóc vẫn sắt son suốt kiếp trông chờ, đấy là tấm gương sáng chói qúy giá vô ngần:
                    Bác mẹ già phơ phơ đầu bạc.
                    Con chàng còn trứng nước thơ ngây.
                    Có hay chàng ở đâu đây?
                    Thiếp xin mượn cánh chắp bay theo chàng. (3)

                    Đại thi nhân Nguyễn Du có lời thơ trĩu tình người với nàng Tô Thị:
                    Thạch da, nhân da, bỉ hà nhân.
                    Độc lập sơn đầu thiên bách xuân.
                    Vạn kiếp điều vô vân vũ mộng.
                    Nhật trinh lư đắc cổ kim thân.
                    (Đá chăng? Người chăng? Đó là ai?
                    Đứng sững đầu non nghìn năm rồi.
                    Muôn kiếp mây mưa không vướng mộng.
                    Lòng son nay trước trọn bao đời).

                    Đèo Cù Mông quanh co dài hơn 6,6 km luôn hoang vu, trầm mặc, cô liêu và u ám, là ranh giới Tỉnh Bình Định & Phú Yên, chân đèo phía Nam ở huyện Sông Cầu cũng gọi là vũng Mồi, đầm, hầm Cù Mông, nơi đây du khách đi đường bộ ngồi trên xe có thể thấy đoàn tàu lửa thấp thoáng len lỏi trong rừng, hoặc chui vô hầm tàu nơi dành cho tàu lửa chạy dài ngoẵng gần 3 km. Đoàn xe dẫn đến Tháp Đôi ở Xã Đống Đa. Gồm có hai tháp: Tháp Một cao 18m; tháp Hai cao 22m đều là hình chóp nón.

                    *Qui Nhơn thuộc Tỉnh Bình Định có biển xanh trời rộng và thành Chà Bàn xa khoảng 26 km, về hướng Tây Bắc, nơi kinh đô vương quốc Chàm xưa, với vua Yangpuku Vijaya ngự trị giữa các tượng voi, rắn, cùng nhiều tượng dị hình khác. Thành Chà Bàn xây bằng đá ong, đường đi lát đá hoa cương. Vào thời triều cuối cùng vua Yangpuku Vijaya (Chàm) còn gọi tên là Thập Tháp, tháp Cánh Tiên có nhiều hình quái vật, tượng rắn đá trắng, voi đá. Địa hình nghiêng nghiêng, hàm lượng đất phù sa thấp bạc màu, gần chân núi, quanh đầm, vịnh, đất trôi dần ra bờ biển Đông. Thành Quy Nhơn lại bị đổi tên thành Bình Định, ấp Tây Sơn bị đốt phá san bằng, chỉ sót lại một cây me con nay đã trở thành cổ thụ. Biển Quy Nhơn khá đẹp cát mịn.

                    *Bình Định là một Tỉnh nam trung bộ, tọa độ 13o 30 – 14o42’ vĩ độ Bắc. 108o 35’ kinh Đông. Phía Nam giáp Phú Yên, phiá Bắc giáp Quảng Ngãi, Đông giáp biển Đông, phía Tây giáp Gia Ray. Bình Định nằm trên trục đường bộ & đường sắt xuyên Việt & đường giao thông quốc lộ 1A quan trọng, phía Đông giáp biển Đông, phía Tây giáp Tỉnh Gia Ray. Bình Định có nhiều hồ, đầm nước lợ & nước ngọt, vịnh. Tài nguyên thủy sản: rong câu chỉ vàng, sò điệp, các loại cá nổi & cá đáy, cá ngựa, tôm, tôm hùm, yến sào, cua Huỳnh Đế qúy. Không những Bình Định phong phú về cá tôm mà cũng là nơi có: nước suối khoáng, cao lanh, đất sét, đá Granosinite đỏ, Biotite vàng, quặn Titan ở Quy Nhơn, Phù Cát, Phù Mỹ... Quặng & sa khoáng Titan, sa khoáng Đề Gi, các mỏ Cao Lanh, cát trắng…

                    Bình Định có danh lam thắng cảnh thiên nhiên Ghềnh Ráng đẹp là nơi an nghỉ cuối cùng của Hàn Mặc Tử. Bãi tắm Hoàng Hậu toàn đá xanh nhỏ to xếp từng lớp, nhìn xa như bãi trứng chim khổng lồ. Suối Tiên, suối Mơ, suối khoáng, xứ dừa Tam quan. Bán đảo Phương Mai, Thị Nại. Thuở xưa, Vua Bảo Đại đã cho đã xây nhà nghỉ hữu tình trên khu đất cao, trông ngôi nhà giống con tàu nhấp nhô lướt sóng đại dương. Tại làng Thị Tứ có lò rèn nổi tiếng. Nam nữ Bình Định thích múa điệu trống truyền thống Tây Sơn. Con nhà vỏ nổi danh với câu thơ lưu truyền:
                    Ai về Bình Định mà coi
                    Con gái Bình Định cầm roi đi quyền.

                    Hoặc:

                    Bình Định có núi Vọng Phu
                    Có đầm Thị Nại, có cù lao Xanh
                    Em về Bình Định cùng anh
                    Được ăn bí đỏ nấu canh nước dừa
                    (cd)
                    Sông Kôn lớn nhứt Tỉnh Bình Định chảy qua kinh thành Đồ Bàn, cách đây trên 500 năm (1471) đã bị vua Lê Thánh Tôn cho quân lính san bằng, để lại ba mươi vạn thủ cấp, bắt đem đi hai mươi vạn nô lệ. Đã không còn là Chà Bàn của Chế Bồng Nga mà là Quy Nhơn biên trấn xa xôi của dòng họ nhà Lê, rồi của chúa Trịnh. Tháp Bánh Ít ở trước mặt, như hai búp măng non mọc lên từ lòng đất. Tháp Cánh Tiên rực vàng trong nắng sớm và đỏ thắm trong những buổi chiều tà. Bên kia sông có cái bóng đồ sộ của một ngọn tháp ở xã Nhơn Thành lại in xuống nước rực rỡ như một khối ngọc khổng lồ. Đặc sản ngon:
                    Gỏi chính Châu Trúc
                    Bánh tráng Tam Quan
                    Nón lá Gò Găng
                    Nem chua chợ Huyện
                    Công đâu công uổng công thừa
                    Công đâu gánh nước tưới dừa Tam Quan
                    Muốn ăn bánh ít lá gai
                    Lấy chồng Bình Định sợ dài đường đi... (3)

                    *Phú Tài. Cánh đồng *Phù Mỹ bao la, đầm *Trà Ô, ngọn Chóp Chài cheo leo, hòn Cao quay ra biển vô cùng đơn điệu trước biển cả mênh mông. Những nơi nầy nằm trên vị trí giao thông khá thuận lợi về hai mặt: đường biển và đường bộ. Núi đồi ngút ngàn, chen lấn đồng ruộng ven núi. Nơi nổi danh ba vị anh tài áo vải cờ đào Lam Sơn Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ. Họ sinh ở làng Kiên Mỹ. Hoàng Đế Nguyễn Huệ lấy hiệu là Quang Trung tài ba, đầy mưu lược, ông đã cởi voi vào cửa Bắc đại thắng quân Thanh ở Phú Xuyên, Hà Hồi, Đống Đa, khiến Tôn Sĩ Nghị chạy bán sống bán chết vào mùa Xuân 1789 đại thắng lẫy lừng. Ngọc Hân công chúa mười sáu tuổi, con gái thứ hai mốt của vua Lê Hiến Tông, vâng lệnh vua cha kết duyên cùng Nguyễn Huệ vương quyền. Thế mà Nguyễn Huệ lẫy lừng như vậy… sau nầy vua Gia Long cho khai quật mồ vua Quang Trung mà phơi nắm xương khô, để trả mối hận thù rối rắm thuở xa xưa. Thù chi mà thù dai. Thù ghê gớm. Thù dễ sợ hỉ!

                    Đường đi càng khúc khuỷu gập ghềnh, xe rung lên từng hồi vì xe xóc mạnh qua ổ gà, gò mô, đất đá sụt lở. Xe đến gần vùng đảo Cù Lao Chàm, Hòn Ông, Hòn Dài, Hòn Tai nơi có nhiều khỉ (ui, lại có một lô một lốc các "hòn"!). Dọc quốc lộ, vô số hàng dừa chen cánh những hàng dừa ngã nghiêng theo chiều gió đại dương rì rào sóng vỗ. Trời trở cơn gió bão mịt mù, bóng tối sớm bao trùm vạn vật, suốt ngày không chút ánh sáng mặt trời. Hai bên đường, cư dân bán đầy hàng quà bánh trái, hàng nước, hàng cơm, người ra vào đông đúc dưới cơn mưa như trút, gió rét căm căm. Nào là ngũ gia bì, sa nhân, thiên niên kiện, thổ phục linh, phong kỷ, đều có sản xuất tại xứ nầy. Chạy thêm một khúc thì xe bị bể bánh, phải ngừng lại hơn nửa ngày, để thay bánh xe, sửa chữa vài thứ, và vô dầu nhớt, không hy vọng xong ngay. Nhân đó, vài cụ già ở địa phương, tuổi già không sao đếm nỗi thắng năm trên những lằn nhăn lún sâu vầng trán hói. Họ đến đề nghị với hành khách trên xe:
                    - Ai muốn đi thăm di tích Hận Đồ Bàn, nơi kinh đô Dân Tộc Chàm. Thì bớt xén vài đồng, thuê hướng dẫn viên đưa lối dẫn đường.

                    Nghe thế, khoảng mười người trẻ ngồi chung xe góp tiền, đưa lão trượng, họ cùng tôi leo lên ba chiếc xe ngựa cà rịch cà tang đi du hí. Muốn vào thành Đồ Bàn, phải đi qua cửa chánh, tức cửa Vệ. Vã lại xe khách bị hư chỉ cách thành nầy độ non cây số. Thành có ba cửa nữa là: Cửa Tả, cửa Hữu, cửa Bắc ở hậu cung. Thành có ba lớp: Thành ngoài, thành trong, tử cấm thành. Thành và tháp đắp toàn gạch tàu nung đỏ, đất sét, đá ong, đá phiến, thỉnh thoảng điểm thêm ít đá tai mèo, dưới chân cột kê toàn đá tảng. Tháp Cánh Tiên nằm trong thành Đồ Bàn, xưa gọi là tháp Vijaya. Quanh vùng nầy còn sót lại ít di tích tháp Bạc, tháp Bình Lâm, chùa Nhạn Sơn. Tứ bề cây đan cây, cỏ lướt cỏ, cổ thụ to sù sì chằn chịt, rậm rạp um tùm. Cảnh vật điêu tàn hoang phế in trên từng bậc thềm loang lổ, mốc meo. Cạnh bức tường thành ngôi tháp hư hại đổ nát mấy nơi chưa được trùng tu, trông càng tiêu điều hoang vu, hết sức đơn điệu buồn bã.


                    Hận Đồ Bàn và người đẹp hong mái tóc huyền, giặt lụa bên ven sông vang bóng một thời thuở ấy, gợi nhớ ngày xưa quan hành khiển Trần Khắc Chung vẻ tranh công chúa Huyền Trân. Ông được triều đình trao bức tranh cho Chế Bồ Đào mang về Chàm. Có lẽ Huyền Trân và Khắc Chung: Một già một trẻ chưa hẳn nảy sinh tình cảm yêu đương tâm đầu (như đồn đãi) nhưng họ kính trọng nhau qua phong cách. Khi Chiêm cắt hai châu Ô, Lý dâng Vua xứ Việt, để làm sính lễ, (do quan hành khiển Đoàn Nhữ Hài trấn giữ). Thì bờ cõi, dân tộc, được mang ra giao hảo cho hôn ước Chăm Pa và người đẹp nghiêng nước nghiêng thành đất Việt. Rồi Chế Mân chết. Theo phong tục Chiêm, thì hoàng hậu phải hoả táng theo thi hài Vua. Nhà Việt liền sai ông Khắc Chung tức tốc sang Chiêm, dùng tài trí và mưu lược để cướp Huyền Trân trở về kinh thành Thăng Long an toàn vào năm 1308.

                    Người Maoris khi chết, họ cho người phối ngẫu cùng thủy táng xuống "thủy mộ quan", mong thân xác tắm mát, trôi về phương tây, thuộc quần đảo Hawaiki an nghỉ. Người chết rồi, thôi cũng cho ùm tủm xuống nước "mát mẻ" đi, cũng đành. Đằng nầy, bên Chăm bắt người sống sờ sờ, sống nhăn răng mà phải trợn trừng mắt bị hoả táng theo, thì "nóng hổi và khủng khiếp", chịu sao thấu! Vương quốc Chế tan rã từ năm 1470. Tôi đã học lịch sử nầy, nỗi sợ hãi như in vào trí. Xứ dừa *Tam Quan và Chế Bồng Nga, ngày ngày cùng đoàn tỳ nữ ca múa thuở nào bên bờ sông nay còn đâu, chỉ nghe:
                    Xoài Đá Trắng
                    Sắn Phương Lụa
                    Tiếng đồn chợ xổm nhiều khoai
                    Đất Đỏ nhiều bắp, La Hai nhiều đường. (3)

                    *Phú Yên phía Đông giáp biển Đông, phía Tây giáp Đắc Lắc & Gia Ray, phía Bắc giáp Bình Định phiá Nam giáp Khánh Hòa. *Trà Ổ có núi Lồi, Eo Gió, Kỳ Co, Hàm Hô… dân cư ở quanh các vùng ven biển, ven đồng bằng đầm vịnh nước lợ như vịnh Cù Mông, vịnh Xuân Đài, đầm Ô Loan, Vũng Rô sung túc. *Phù Cát có yến sào, cua huỳnh đế, có đá granosinite đỏ, có mỏ cao lanh, đất sét. Người ta ưa bày bán các vật lưu niệm bằng đất nung khá xinh. *Khánh Phước, *Phù Mỹ, *Văn Phú, *Bồng Sơn, đèo Nhông xa thị trấn Phù Mỹ 8,5 km về phía Bắc, đèo Phù Cư. Phía Đông là núi Chóp Chài, nhiều rừng dừa to cao, hàng hàng lớp lớp tre nứa nghiêng mình ra giữa lộ, như đón chào khách lữ hành. Hàng quán gọn gàng sạch sẽ, cơm Bồng Sơn nổi tiếng ngon, nóng, đậm đà hương vị quê hương, và rẻ nhứt, con tôm to tươi rói, con cá no tròn đang bơi lội trong hồ, gà vịt luộc nóng hổi vừa thổi vừa ăn, ngon ơi là ngon tuyệt! Chủ quán niềm nở vui vẻ, chào đón khách với khăn nóng, khăn lạnh, thay đổi mỗi mùa, câu mời chào đon đả, ân cần lịch sự, người nghe dù không đói bụng, ngại trời mưa to gió lớn, họ vẫn thích làm vui lòng chủ quán mua giúp các món quà đặc sản.
                    *
                    Tình Hoài Hương


                    (1) Lê Chiến
                    (2) Phạm Hùng
                    (3) Ca dao
                    (*) Từ năm 1960 -> đến năm 1975 - bối cảnh ở thời điểm nầy, hầu như ít thay đổi. (Hoài Hương đã điều chỉnh bài viết trong quyển tập “Soạn Bài Dạy” & trích đăng trong truyện dài "Khi Định Mệnh Cúi Nhìn" cùng tác giả).
                    Rất trang trọng và chân thành cảm ơn qúy vị nhạc sĩ & nhiếp ảnh gia đã post hình, nhạc… trên internet, tôi xin mạn phép chuyển tải nhạc & hình, (nếu có copy right) vô bài viết, ngỏ hầu tăng thêm phần phong phú hóa hình ảnh sống động, từ tài nghệ độc đáo của qúy vị; qua quê hương Việt Nam cẩm tú của chúng ta.
                    Đa tạ!
                    Tình Hoài Hương
                    Photo by Hoài Hương
                    Last edited by Tinh Hoai Huong; 10-03-2020, 12:17 AM.
                    Bút trần nào tả được lưu luyến!
                    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                    Tình Hoài Hương

                    Comment





                    • Vua Quang Trung NGUYỄN HUỆ (1753 – 1792)
                      Nhà chính trị lỗi lạc & quân sự tài ba kiệt xuất.
                      Tình Hoài Hương
                      *
                      Phân tranh giữa Nam Triều & Bắc Triều (theo thiên-niên-kỷ)

                      Phần 1* Quân Trịnh tiến vô Đàng Trong.
                      Phần 2* Tây Sơn đi đánh thành Gia Định.
                      Phần 3* Trận đánh oanh liệt ở Rạch Gầm & Xoài Mút.
                      Phần 4* Trận Đống Đa
                      Phần 5* Tây Sơn & đoàn quân viễn chinh: Pháp + Miên + Xiêm La.
                      * Sự rùng rợn dã man khi "người thắng cuộc" trả thù.
                      ***

                      Phần 3 - Trận đánh oanh liệt ở RẠCH GẦM & XOÀI MÚT.

                      Quê tôi đó miền đồng bằng châu thổ
                      Dòng Cửu Long tuôn đổ chín cửa sông
                      Đất mênh mông trĩu nặng lúa vàng đồng
                      Vườn trái ngọt cây quằn bông sai quả
                      Đã qua rồi những tháng ngày vất vả
                      Ruộng bạc màu giờ đã hoá vuông tôm
                      Đất phèn chua như đã có tâm hồn
                      Cho sóng lúa dập dồn hương phơi phới
                      Quê tôi chín cửa sông như chờ đợi
                      Những cánh tay về vun xới đất lành
                      Cho ruộng đồng xanh mãi một màu xanh
                      Con sóng bạc ngọt thanh dòng nước mát (1)

                      Miền Nam ơi! đời sống cư dân thật là sung túc, màu mỡ, phì nhiêu mênh mông bát ngát, thi-vị & hữu tình biết bao! Thế mà nơi đây từ thuở xưa rất xa đã có trận thủy chiến giữa quân Tây Sơn & quân Xiêm + Chúa Nguyễn xảy ra trên sông Tiền Giang vô cùng khốc liệt, khúc sông này gọi là sông Mỹ Tho dài rộng, có cồn Thới Sơn ở giữa, hai con sông Rạch Gầm và Xoài Mút từ Cai Lậy đổ ra hợp lực với nhau, làm nước thêm óng ả mơ màng lênh láng tràn đầy dâng cao, & những ngày nước thủy triều lên cao nhứt trong năm, khi thủy triều lên hết mức, thì nước sông "vui vẻ" tự đứng lặng yên cho cây cối soi mình trên mặt nước êm ru, long lanh như phiên gương lấp lánh, nước ngừng nghỉ độ bốn năm giờ, rồi thủy triều bắt đầu từ từ rút xuống. Khoảng thời gian khi “con nước” ngưng nghỉ giữa lên xuống “thư giản” chợp mắt thiu thiu ngủ kéo dài mấy giờ đó, thì vua Quang Trung Nguyễn Huệ điều nghiên xem xét kỹ, rồi quyết định chọn khúc sông Mỹ Tho, đặt đại bản doanh quân Tây Sơn (Rạch Gầm đi Xoài Mút cách Mỹ Tho độ 12 km), làm trận địa thư hùng quyết chiến. Dân gian thời đó đã có câu cao dao:
                      Rạch Gầm – Xoài Mút tăm tăm
                      Xê xuống chút nữa tới Vàm Mỹ Tho
                      Bần Gie đóm đậu sáng trời
                      Rạch Gầm – Xoài Mút muôn đời oai linh

                      Ngày 30 tháng 11 năm 1784, chúa Nguyễn cho Chu Văn Tiếp chỉ huy với chức Bình-Tây Đại-đô-đốc tiên chinh, Tiếp thông thạo địa hình, dẫn quân đi trước vô sông Mân Thít, vừa chân ướt dưới nước chân ráo trên bờ thì đoàn quân Chu Văn Tiếp bị tiền quân Tây Sơn là Chưởng Tiền Bảo vây đánh, Chu Văn Tiếp bị thương nặng, không lâu qua đời. Mất đại tướng, chúa Nguyễn Ánh cho quân tới sông Mân Thít cứu viện, phen nầy chém chết Chưởng Tiền Bảo và nhiều quân Tây Sơn. Phò mã Tây Sơn là Trương Văn Đa lui quân về giữ Long Hồ. Tại đây quân Xiêm ỷ mình có chút công, ra sức cướp bóc phá hoại dân ta kinh khủng, Nguyễn Ánh tuy thấy hành động bạo tàn dã man, bọn chúng coi khinh quân vương xứ ta không ra gì, thì rất bất bình, nhưng chúa Ánh lo sợ không dám can thiệp, vì chúa Ánh đã mất người nối giây liên lạc giữa hai bên Xiêm + Nguyễn:
                      Nước Chiêm Thành sáu lần xâm lấn
                      Phá thành trì vua chẳng quan tâm
                      Cung vua phút chốc tan tành
                      Quân Chiêm đánh úp, miếu đình tiêu vong
                      Quân giặc đến mặc lòng cướp bóc
                      Phá thành trì, giết chóc chẳng chừa
                      Hận thù tích lũy từ xưa. (2)

                      Lê Văn Quân thay Tiếp cho quân tiến đánh lũy Ba Lai (Bến Tre), & Trà Tân (Định Tường). Bến Tre là nơi “đất lành chim đậu” tạo ra những tấm lòng người cao cả chân chất, thật thà, thân thiện, hiền hoà, cũng là nơi sản xuất ra những món ăn hấp dẫn luôn lưu truyền trong ca dao:
                      Bánh Tráng Mỹ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc
                      Măng cụt Hàm Luông vỏ ngoài nâu trong trắng như bông gòn.
                      Anh đây nói thiệt sao em còn so đo.
                      Hay:
                      Nước Cửu Long sóng dờn cuồn cuộn,
                      Cửa Hàm Luông, mây cuốn cánh buồm trôi.
                      Bậu với qua hai mặt một lời,
                      Trên có trời, dưới có đất,
                      Ngãi trăm năm vương vất tơ mành.
                      Tử sanh, sanh tử chung tình,
                      Dù ai ngăn đón, tôi với mình cứ thương. (2)

                      Trong trận Ba Lai, Chưởng-cơ của quân Nguyễn là Đặng Văn Lượng bị tướng Tây Sơn Nguyễn Văn Kim chém chết, tướng Kim cũng bị Lê Văn Kế chém trọng thương. *Cuối năm 1784, Trương Văn Đa sai Đô-úy Đặng Văn Trấn đi về Quy Nhơn báo rõ tình hình nguy cấp ở phía Nam. Vua Thái Đức (Nguyễn Nhạc) liền cử đại nguyên soái Nguyễn Huệ làm tổng chỉ huy đem đại binh ngày đi đêm khuya nghỉ ào ào đi vô Nam. Trước ngày 20 tháng Giêng năm 1785, Nguyễn Huệ bí mật cho quân binh và tàu chiến ẩn náu ở các nơi hiểm yếu mai phục chờ thời cơ thuận tiện.

                      Vua Xiêm sai cháu là Chiêu Tăng làm chủ tướng, Chiêu Sương làm tướng tiên phong: thống lĩnh hai vạn quân Thủy, 300 chiến thuyền, từ Vọng Các vượt vịnh Xiêm La, qua ngả Kiên Giang để giúp chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn Ánh cũng tập hợp được một số quân khoảng 3, 4 ngàn người, Mạc Tử Sanh làm tham tướng dẫn đường. Chiêu Tăng giao Sạ Uyển ở lại giữ đại bản doanh, cử Lục Cổn dẫn Bộ-binh mom men theo tả ngạn sông Tiền. Vùng nầy thật là trù phú, vinh sang, là vựa mật:
                      Bến Tre dừa ngọt sông dài,
                      Nơi chợ Mỏ Cày có kẹo nổi danh.
                      Kẹo Mỏ Cày vừa thơm vừa béo,
                      Gái Mỏ Cày vừa khéo vừa ngoan.
                      Anh đây muốn hỏi thiệt nàng,
                      Là trai Thạnh Phú cưới nàng được chăng? (2)

                      Nguyễn Huệ cùng tướng tiên phong dẫn trăm thuyền chiến tiến xuống Mỹ Tho bày binh bố trận, lựa chọn thời điểm múi giờ tuyệt vời (thời gian nước đứng yên ngưng chảy, ngưng nghỉ không lên không xuống). Nguyễn Huệ lựa chọn khúc sông rất rộng, ông dùng thuyền Đại Hiệu di chuyển quân binh, thời ấy có giàn đại bác đặt trên cồn Thới Sơn, tuy thô kệch dềnh dàng, đơn sơ nặng nề, nhưng cũng là bề thế oai phong lẫm liệt, sáng tạo & hữu hiệu lắm, khiến đối phương nhìn thấy nó đã rùng mình khiếp sợ lo lắng vô cùng. Phục binh Tây Sơn nằm chờ từ hai sông Rạch Gầm –Xoài Mút, Nguyễn Huệ ra lệnh cho quân binh đến khiêu khích địch, "dụ khị" hai mươi ngàn quân Xiêm "ngổ ngáo" lọt bẫy (vô chỗ nước ngưng chảy). Đồng thời cũng có nhiều mặt tấn công khác cuả quân Tây Sơn chung vai sát cánh rầm rộ ập vô tràn ngập ở chiến trường nầy.

                      Đầu canh năm ngày 19 tháng 1 năm 1785, quân địch bị dụ đến ổ phục kích giữa liên quân "Xiêm - Nguyễn - Tây Sơn" tại khúc sông Rạch Gầm - Xoài Mút, (khi đó thuộc dinh Trấn Định, xứ Đàng Trong; về sau đổi thành Tỉnh Mỹ Tho, nay thuộc Tỉnh Tiền Giang). Khi con nước đang xuôi, cả hai đạo thủy bộ quân Xiêm hăng hái rầm rộ tấn công Tây Sơn. Pháo lệnh tấn công của Tây Sơn nổ vang ở Rạch Gầm, Xoài Mút, đoàn thuyền chiến địch lọt vô trận địa mai phục của quân Tây Sơn, + hai đội thủy binh Tây Sơn từ Rạch Gầm, Xoài Mút liền lao ra chặn đánh hai đầu, dồn quân địch vô giữa vòng vây đã phục kích. Hai bên bờ sông Tiền từ đoạn Rạch Gầm, Xoài Mút, dọc cù lao Thới Sơn, bãi Tôn, cồn Bà Kiểu, rừng Dừa... từ những nhánh rạch nhỏ chảy quanh các cồn bãi, quân Tây Sơn đông nghịt ào ào kéo ra chặn đánh bọc đầu quân địch, khí thế vô cùng hăng say và rất quả cảm, anh dũng, phi thường.

                      Một đoàn thuyền Tây Sơn khác có đặt đại bác, pháo hỏa hổ Bộ-binh Tây Sơn bắn dữ dội vào đoàn thuyền địch. Số thuyền khác ẩn náu sau cù lao Thới Sơn xông ra đánh mạnh vô hông địch, nhằm chặn đứng đường lui. Quân Tây Sơn cho những thuyền nhẹ chở đầy vật liệu dễ cháy đâm thẳng vô những chiến thuyền địch, khiến chúng trở tay không kịp, lố nhố ngơ ngác ngố ngáo nhìn mà cảm thấy hoang mang rối loạn, sợ hãi hốt hoảng, chỉ vì trong chốc lát có một số thuyền bị chìm, một số khác bị bốc cháy, ngọn lửa càng lúc càng phừng phựt dâng cao. Thuyền địch (Xiêm) đã bị dồn đống ùn ụ lại một chỗ đông đen kín mít.

                      Dưới sự chỉ huy tinh tường linh hoạt và tốc chiến của Nguyễn Huệ, Thủy-quân & Bộ-binh quân Tây Sơn phối hợp nhịp nhàng với nhau, ráo riết khép chặt vòng vây mà quyết liệt chiến đấu, nên đã tiêu diệt quân địch mau chóng. Kết quả không đầy một ngày thì 300 chiến thuyền, hai vạn Thủy-binh Xiêm, một số đông quân chúa Nguyễn Ánh đã bị quân Tây Sơn phá tan hoang. Hai tướng Chiêu Tăng, Chiêu Sương với số tàn quân sống sót khoảng vài nghìn người chạy trốn trối chết lên bờ Bắc sông Mỹ Tho, họ liều chết thở hổn hển mở đường máu co giò chạy một mạch lên Quang Hóa, chạy qua đất Chân Lạp, rồi tức tốc lủi về Xiêm.

                      Tại Long Hồ, quân bản bộ chúa Nguyễn tan tác, chúa Nguyễn Ánh không thể chống cự quân Tây Sơn, ông cùng đoàn tùy tùng vội vã rút chạy theo sông Trà Luật, ra sông Tiền tìm đường đi Trấn Giang (Cần Thơ). Sông Hậu Giang chảy ngang Quận Trà Ôn chính là con đường vua Gia Long (chúa Nguyễn Ánh) tẩu quốc, chạy trốn cuộc rượt đuổi của quân Tây Sơn vậy. Mạc Tử Sinh đưa ba chiếc thuyền đón chúa Nguyễn chạy đi Hà Tiên. Cai cơ chỉ huy quân thủy là Nguyễn Văn Oai chết tại trận. Đất nước lâm nguy, dân ta lúc đó ở miệt nầy:
                      Ngang lưng thì thắt bao vàng
                      Đầu đội nón dấu vai mang súng dài
                      Một tay thì cắp hỏa mai
                      Một tay cắp giáo quan sai xuống thuyền
                      Thùng thùng trống đánh ngũ liên
                      Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa (2)

                      * Tháng 3 năm Giáp Thìn (1784), chúa Nguyễn phải chạy trở qua Xiêm sống lưu vong ít lâu. Vừa hoàn hồn chúa Nguyễn đi đến thành Vọng Các hội kiến với vua Xiêm, được tiếp đãi ân cần tử tế và giúp đỡ, lần chạy tháo thân xa xứ này, Nguyễn Ánh và đoàn tùy tùng lại lâm vào hoàn cảnh khốn cùng rất khổ sở, có lúc cạn hết lương thực, tướng Nguyễn Văn Thành đành phải đi ăn cướp, bị dân đánh trọng thương, suýt chết. Tôn Thất Huy, Nguyễn Văn Thành, Tôn Thất Hội mỗi người còn năm ba chục quân. Số quân bản bộ của Nguyễn Ánh trước lúc lâm chiến có khoảng bốn nghìn người, nay chỉ còn hơn 800 người cùng bỏ chạy thoát thân sang Xiêm, trong số đó có 200 người chạy trốn theo Nguyễn Ánh, 600 người chạy theo Lê Văn Quân.

                      * Ngày 25 tháng 1 năm 1785, Nguyễn Ánh sai Mạc Tử Sanh và Chánh-cơ Trung tới vua Xiêm báo tin thất trận. Lúc nầy “chính phủ ấy” làm cuộc “tình lờ”. Biết không thể trông cậy nhờ vã người Xiêm giúp đỡ bất cứ điều gì nữa. Khi các bại tướng dẫn tàn quân tìm đến vua, thì cả đoàn Nguyễn Ánh mới mừng rỡ kéo nhau ra sống lây lất ở đảo Thổ Chu. Sáu ngày sau trận Rạch Gầm - Xoài Mút, Nguyễn Ánh gởi bức thư cho giáo sĩ Li-ô đại ý kể rằng: “… Chúng tôi vừa thua trận, tất cả quân lính đều bị tan vỡ, chỉ còn lại một ít”.

                      * Ngày 4 tháng 2 năm 1785, vua Xiêm lại nhận được tin bại trận, vua suy nghĩ miên man, sau đó phái Phi-Nhã Xuân đem mười chiếc thuyền đi cứu tàn quân chạy trốn bằng đường biển. Khi gặp nhau, tàn quân Nguyễn Ánh trả lời Phi-Nhã Xuân:
                      - Chiêu Tăng đại bại, theo đường bộ chạy trốn qua Cao Miên thoát nạn, phía sau chúng tôi bị thua, không biết đường bộ thập tử thất sinh thế nào, riêng chúng tôi may mắn cướp được một số thuyền của dân, đã chạy trốn về đây.
                      Vua Xiêm Chakri I nghe thế, tức giận đập tay lên ngự án, gọi lũ Chiêu Tăng, Chiêu Sương là:
                      - Lũ ngu hèn, kiêu căng, hung hãn đến nỗi bại trận, làm bại binh, thật nhục quốc.

                      Sau đó, Nguyễn Phúc Ánh xin vua Xiêm cho ra ngoại thành Vọng Các ở Đồng Khoai. Tại đây, đoàn chúa Nguyễn lo khai khẩn đất đai, làm ruộng, chăn nuôi, trồng trọt, đốn củi... khổ cực điêu đứng trăm bề để tự nuôi nhau, mong sớm ngày hoàn hương. Thật thảm thương trong cơn hoạn nạn, thương lắm là thương:
                      Đem quân ra đóng cửa hùng quan
                      Chim muôn giọng hót hoa ngàn hương đưa
                      Nhớ ai ngơ ngẩn ngẩn ngơ
                      Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai (2)

                      Nơi vùng quan tái dặm ngàn xa xôi cách trở ven biên cương, vua quan và quân lính lam lũ vất vả khổ cực trăm bề. Họ phải nai lưng ra khai khẩn đất làm đủ thứ, tự đào giếng, dựng trại, làm đồn bót, đắp luỹ hào, làm lộ nhỏ thành đường đắp đê, làm rạch ngắn. Họ bắt cá biển, ốc biển, cuốc đất trồng khoai, sắn, đào củ chuối rừng mà ăn, để tạm sống qua ngày ở vùng đất có đầy đủ nỗi âu lo sợ cọp dữ, muỗi, ve, vắt, ốm đau, bệnh hoạn:
                      Việc mần mệt nặng
                      Kẻ cuốc người rinh
                      Chừa hai bên kinh
                      Đắp hai đường lộ
                      Việc mần cực khổ
                      Mệt đổ hết hơi
                      Không dám nghỉ ngơi
                      Cực đà quá cực
                      Phần thời nắng nực
                      Lại không nước uống (2)

                      Nhưng người dân ở miền Nam hiền hoà, giàu lòng nhân ái, sông nước mênh mông, tôm cá dồi dào, ruộng đồng cò bay thẳng cánh, lúa gạo đầy bồ, đời sống thảnh thơi, cư dân miền Tây mở lòng đón tiếp vua quan binh tướng nhà Nguyễn từ từ hồi hương ở vùng đất tạm dung, họ hiếu khách:
                      Bến Tre biển rộng sông dài
                      Ao trong nuôi cá, bãi ngoài thả nghêu
                      Muối khô ở Gảnh mặn nồng
                      Giồng Trôm, Phong Nẫm dưa đồng giăng giăng
                      Ngó lên trời, mưa sa lác đác,
                      Ngó xuống đất, hạt cát nằm nghiêng.
                      Rượu Ba Xuyên rót đãi người hiền,
                      Trước là đãi bạn, sau giải phiền cho anh. (2)

                      Hy vọng vua quan và quân binh sẽ vạch ra một chân trời tươi sáng quang rạng mà dựng vợ gã chồng, cùng nhau lập nghiệp “hưng long”: Vua (Nguyễn Ánh) kiên trì, nhẫn nại dùng những vùng trù phú nơi đây chăm chỉ cần cù làm lụng để nuôi quân, dưỡng quân, tuyển quân, luyện quân và làm bàn đạp tiến quân, ngỏ hầu sau đó vua “Gia Long phục quốc” sẽ vinh quang hùng dũng lấy lại đất Gia Định lần I= 1778-1781 - chiếm lại lần II= 1782 - chiếm lại Bến Nghé lần III= 1787- (tất cả ba lần: 1781, 1782, 1787).
                      ***
                      Tình Hoài Hương

                      (1) Điều Tự Nhiên
                      (2) ca dao

                      Tôi xin mạn phép kể hầu quý vị (và riêng các em học sinh) về những chiến tích oai hùng, những kỳ công anh dũng, quật cường của tổ tiên chúng ta: đã dày công xây dựng đất nước, giữ gìn non sông gấm vóc Việt Nam hưng thịnh trường tồn.
                      (Bài viết nầy được trích riêng ra từ quyển vở: “Soạn Bài Dạy” cuả Hoài Hương & biên soạn; dựa theo lịch sử Việt Nam qua:
                      * ít sách trong Bộ Giáo Dục V N C H
                      * Việt Nam Sử Lược (Trần Trọng Kim).
                      * Nam Hải Dị Nhân (Phan Kế Bính).
                      * Đại Cương Lịch sử Việt Nam (Nguyễn Khắc Thuần).
                      - Sử quán triều Nguyễn, "Đại Nam thực lục".
                      - “Tây Sơn thực lục”. Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ...
                      - Đại Nam chính biên liệt truyện.
                      * Notion d’ Histoire d’ Annam, par Maybon et Ruissier.
                      * Abrégé de l’ Histoire d’ Annam, par Shreiner.
                      * L'Empire d' Annam, par Goselin.
                      * L'ínurrection de Gia Dinh, par J. Silvestre.
                      * ít nghiên cứu từ Wikipedia.
                      ***
                      Tình Hoài Hương
                      Last edited by Tinh Hoai Huong; 10-08-2020, 08:34 PM.
                      Bút trần nào tả được lưu luyến!
                      Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                      Tình Hoài Hương

                      Comment


                      • Kính thưa quý độc giả thân mến,
                        Do Coronavirus-19 nó gieo rắt biết bao thương tâm, bi lụy, khiến chúng ta choáng váng, lo âu, bàng hoàng.
                        Để giảm bớt nỗi buồn đau, Hoài Hương xin viết chuyện vui, từ đầu đến cuối bài viết toàn vần chữ T
                        Mời qúy vị đọc cho khuây khỏa, tạo một nụ cười (bằng mười thang thuốc bổ) nhé.
                        Thân mến
                        HH
                        ***



                        Tựa: Tôi Tha Thiết Trao Tình tới (thần tượng tôi) tên “Từ Thủy Tiên” (thứ Tám) & Tên: "Thanh Trà Thuý Tím Than".
                        Sáng tác: Tình Hoài Hương
                        *

                        Tựa: Tôi Tha Thiết Trao Tình tới (thần tượng tôi) tên “Từ Thủy Tiên” (thứ Tám) & Tên: "Thanh Trà Thuý Tím Than".
                        Sáng tác bởi: Tình Hoài Hương.
                        *
                        1 - Tôi trai tráng trẻ trung, tên Trần Trịnh Trương Tạ, tự "Tõn Tẽn". Tôi thích "two thím tê", tên: “Thủy Tiên Tám" & “Trần Thanh Thuý Tím”, tự: “Tím Thâm” . Thân tôi tuy tong teo tàn tật, trông thật tiều tụy, tồi tệ, te tua… Tại: từ tháng Tám tiết tuất thời tông tông Thanh Triều Thiệu Trị, tôi trai tráng trấn thủ tại triền thôn Thượng, thì tôi trọng thương tay trái, trên trán & trên trốt tôi trọng thương tuốt tuồn tuột:
                        Thuở tê tôi thương thầm, trộm tơ tưởng tới thím Tám Thủy Tiên, tự trông thấy tướng tá thím Tám tầm thước to to, tươi tốt, thanh tao, tha thướt. Thân thể thím tứ thời tuy tép tẹp... thon thả, tròn trùng trục, trắng trẻo & tay trắng, tóc tai tẻo teo, tua tủa ti tí. Thế thì, tôi tưởng thím tới tuổi tròn trăng. Trước tiên tôi thinh thích Thủy Tiên, từ từ trái tim tôi trở thành tha thiết tương tư thầm tưởng tới thím. Tâm trạng tôi trằn trọc thâu trăng truy tìm tung tích Thủy Tiên. Tôi tính toán tinh tường, trộm tưởng tượng: "tôi tắt thở trên trần thế, thì thím Thủy Tiên tự tử theo tôi..." Thế thì tháng Tư, tôi trợn trừng trợn trạo trờ tới tía tui, tôi thèn thẹn, trúc trắc tập trung tư tưởng, tấm tức, tỉ tê tâm tình, thành thật tận từ thưa thốt tới tai tía tôi:
                        - Tía. Tía! Trong tâm tư tui thương Tám Thủy Tiên, tại Thôn Thới Tam, tuốt trên triền thôn Tri Tân, thuộc Tỉnh Thừa Thiên.

                        2 - Tía tôi, từ tên thái thú tới tể tướng thời tam thất thái thượng Thiệu trị: tía trợn trừng, thảng thốt, trăn trở, thẩn thờ... Tay trỏ tiá tróc tróc trên trốt tôi. Tiếp theo tháng Tư trời thanh thanh trong trong, thăm thẳm... tía tôi tà tà tới Thôn Tân Thới Tam. Trước, trên, trong Thôn, tía tỏ tường thu thập tin tức: tía thấy thím Thủy Tiên, trung tuần trọm trẹm tám tư tuổi, thím trụ trì tại trong tư thất tê. Tía thấy thím tỏng teo, thiệt tơi tả thô thiển. Tuy thời Tây trước, tiếng* (*hát) Thủy Tiên thanh tao, trơn tru, trong trẻo. Tại thời thế thế thời thay tiết, thì tiếng thím trở thành "thổ tả", te tua. Tự... trong Thôn trang thay thổ thiên, thổ thần, thổ trạch: thành thử tiếng Thủy Tiên trở thành tăng trưởng thẽo thọt, the thé! Thật tình thì tính tình Thủy Tiên thật thà, tử tế, thật tâm & tần tảo, tằn tiện.
                        Tuy thẹn thò, Thủy Tiên trao tách trà thơm tho (trà từ Tỉnh Thừa Thiên) tới tận tay tía. Tía thủng thỉnh tợp tách trà... trầm trồ. Thủy Tiên thấy thế, thỏ thẻ, thân thiết trao tới tay tía tới tấp: thịt thỏ, thịt trừu, thịt trâu... Tía thấy thích thích, tiá thò tay trái tới tấp tợp trái thơm to to, trái táo thòng thòng từ trong túi Thủy Tiên.

                        3 - Tại tư thất ta, tía tủm tỉm... Thì tôi thích thú thành thật thanks, thanks tía... thanks... tía tới tấp. Tía tăng tốc trỏ tay trái trên trán tôi, tía trợn trừng tráo trưng:
                        - Thiệt tình! Thằng tiểu tử tứ tuần tê. Tao thấy thím Tám tuổi thất thập tuần. Tiểu tử tứ tuần, thằng tiểu tử thương thím Tám thật tày trời, trắng trợn, táo tợn. Thôi, tao thề: tao trừ, tao từ thằng tiểu tử.
                        Tôi thưa thốt trước tía:
                        - Tuy thể trạng Thủy Tiên trên tuổi tui tới thập tứ tuần... Tía tin tưởng trí tuệ tui. Tui thổ tả... tuy thế, tui thành thật thề trung thành thương Thủy Tiên. Tui thề tui trao trọn trái tim trinh trong to tát từ tui tuốt tuồn tuột tới Thủy Tiên.
                        - Thằng tiểu tử! Trớ trêu thay, thuở trước thời tê tề, trên Thuyền Tàu Thái Thượng & Thống Tướng tạm tuyển tao thành thợ tiện + thủy thủ. Thái thượng tài trợ tiền tài, thì tam tấu tụi tao tuần tiễu tảo trừ... Thằng thanh tra trên tàu tên Tạ Thiếu Ti Thọ, & tao thỏa thuận tới thôn Trí Tư, thỉnh thoảng tụi tao tà tà tìm tư thất thăm Thủy Tiên. Thế thì tao & Thiếu Thọ "two tao" trai tráng trẻ thói thường thích tỉ thí, thi thố tài trí. Thủy Tiên thấy tao tận tụy, trẻ trung trắng trẻo, tốt tướng... thì Thủy Tiên tấm tắc tán thành tạo tác thích tao. Thằng Ti Thọ trở thành tâm thuật tân toan, tâm thần.

                        Tiện thể tao tắm táp tỉa tót thân thể tăng tiến tân thời, tao tăng tốc thì-thà thì-thụt tới thăm Thủy Tiên. "Thím Tám" tung tăng, thơn thớt, thổn thức, thương tưởng tấm thịnh tình "too". Tiết trời trong trong thanh thanh, Thủy Tiên thuận tiện thủ thỉ tới tao, tự tay thím trao "tặng thưởng" tao trái táo, trái thơm! trái thanh trà. Trước tê tao thoái thác, tới thuở Thủy Tiên trao trái tim tới tao thênh thang thỏa thuê... thì tâm trạng tao tê tái thèm thuồng, tâm trí thương thích thiệt! Thôi thì trái tim thôi thúc tao táo tợn "tận thu", tìm tòi, tự tống tình tới trái tim Thủy Tiên tràn trề tại trang trại thím. Thành thử tao & Thủy Tiên thú thật tình thâm, thương tưởng thòm thèm trong trạng thái tươi tắng trước tòa thượng thẩm: "Two Tao" tự tạo tác thành tựu tam tiểu tử ti tí. Tới tiết trời Trung Thu thì tình tao tiêu tan, tắt thở. Tận tiệt. Tao thom thóp trì trệ “thoái trào”... tao thẫn thờ thoát thân từ tay thím.

                        4 - Thủy Tiên tức tối, thím té tát thua thiệt trăm thứ thúc thủ, tao tưởng tượng trời tận thế! Tại từ trước tao trao "tển" tiền thuế trực thu, thuế thế thân tao tại tư trang “tển” (“tển”= ý tiá- đã có vợ). Tía thành thật trách thân, trối trăng truyện tày trời tới "tển" & thưa thốt tới tôi. Tôi tạo thành truyện tiểu thuyết, tô trang tranh thần thoại thời thủy tổ = tía + "tển" & thím Thủy Tiên.

                        5.- Trong tinh thần, trong tâm tư tôi tái tê, tôi thất tình Thủy Tiên thiệt, (thím tì thiếp tía tôi), trong tâm tư tôi trỗi tiếng trống tùng tùng tùng, than thân trách tình trường, trái tim tôi thương tổn trầm trọng (tủi thẹn thường tích tụ trong tâm trí) tôi trở thành tiều tụy, tôi thở than thườn thượt. Thật thương tâm! Tôi tưởng tượng thân tôi thõng thẹo treo trên tường, tôi tiêu tao, thì tôi tắt thở tạ từ thế trần trốn trong "thủy tinh thể". Trớ trêu thay! Tôi tấp tểnh thích treo thân thể tòn ten trên thân tùng. Từ thuở tôi thất tình, tôi tránh tía & trách Thủy Tiên, tôi thất tha thất thểu trượt tong tong trên triền thôn Thái, tới thềm tư thất tại tư trang tôi.

                        6 - Tiá thu thập tin tức “thiên tai” trên, tỏ tường thực trạng trông tôi tồi tệ. Thế thì tôi tàm tạm tránh thực* (*ăn), tránh thuốc* (*hút thuốc lào) , tránh tuốt tuột. Thiệt thòi! Tía thấy tui thế, thì tiá thút thít thương tôi! tiá tránh tát tai tôi. Tía thưa thốt thầy Trung-tá trên trường Thủ Thiêm tới tư trang tiêm thuốc Tây, thuốc trợ tim, & thuốc Tàu, trị tiêu, trị thổ tả... trong thân tôi. Tại tôi tiểu tiện thâu trăng thôi! Tôi thót tim teo tóp tàn tạ thế, thì tại tía & tại Thủy Tiên tất tần tật. Trên trời tí tách trổ tuyết trắng... trên tường, trên tầng trệt trơn tuồn tuột tại tuyết, tuyết trĩu trịt trên trần, thấy thật thảm! Từ từ trải tới thời thế thế thời trôi, trôi... tôi tịnh tiến, tỉnh táo, trở thành thanh tao, trẻ trung, tươi trẻ tràn trề. Tim trắng toát & trầm tĩnh, tôi thẩn thờ trầm tư. Tuy tim tôi thỉnh thoảng thấy thê thiết trơ trụi trống trải trống tuềnh trống toàng ti tí.

                        7 - Tháng Tư ta thượng thọ tía tôi, trong thâm tâm thì tôi thích thú tập tục tẩy trần thời thượng, tề tựu thết tiệc tùng tới tía to thật to. Tôi triệu tập: Tứ thân, tía, thầy, trò, trưởng tộc, thân thiết tam tứ Thôn tập trung tại tư trang tía. Tại tía tuổi thất thập tuần từ từ trông trệu trạo, tép tẹp, tong teo. Tính tôi thì thích tếu tếu, thích tửu tế & tuy tê thấp tôi thích tưng tưng tập tành Tango, thổi tiếng trúc thâu trăng, từ tháng Tư tới tháng Tám Trung Thu, tiếp tới Tết Tây, Tết Ta, tích tiểu thành to trong Thôn thực* (*ăn nhậu)... Thì thế!
                        Thành thử tháng Tư, tiết thìn, tôi trúng tuyển: Thi thơ, trúng thêm thân thể to tại trường tập Thể Thao. Tập thân thể thông thái, tôi trở thành tài tử "tếu táo" thực thụ trong trung tâm Tú Trinh... Tôi thiếu thốn trăm thứ: tóc trắng, từ tâm, từ trí, từ tim, trắng tay, tuy thế tôi thành thật. Tôi thanh thản tha thẩn tha thủi trong thôn thanh thiên & thanh tịnh, thì tôi thấy Thanh Trà tha thướt, thanh tú, thanh thoát. Tập trung tìm tòi thân thế thím tê, thì từ từ tôi thấy tênh tênh thích thêm Thanh Trà trẻ trung. Tôi thảng thốt & tha thiết thương Thanh Trà thiệt tâm ta. Tôi tương tư Thanh Trà, thì tự tôi thích trổ tài trồng tỉa trái táo, (tương-tự trái táo tương tư trong tim tôi) thành thẳng thớm, thẳng tít tắp... thơm tho & trơn tru. Thiếu thốn tình Thanh Trà, thì trái tim tôi thật trống trải, trống tuếch, trống tuềnh trống toàng, tôi thiệt thòi thấy thảm thê. Tôi thiệt tệ!!!

                        8 - Thanh Trà thấy tôi trở thành trai trẻ trắng trẻo, (trơ trẽn tí), thân thể tàn tạ te tua?! Thanh Trà thốt thế, thì tôi thấy tưng tức. Thời tiết thay tháo tới tháng Tư trôi trôi trên trần thế, tự trong thâm tâm Thanh Trà trườn tới tôi, Thanh Trà thì-thầm, tự thương, trộm tưởng tôi "too", Thanh Trà thẹn thò tự thú:
                        - Tui thèm, tui thích, thương thầy Tủn thiệt tình từ tháng trước. Thế thôi. Toại* (*nguyện)!
                        Thanh Trà... "to tell the truth" thật ta!!!. Thích thú thì thôi. Trước tê, tía tôi thấy tôi tủi thân thường thút thít..., trái tim tôi toang toác, te tua tới trọc tóc trọc tơ, trẹo tay, thân thể tàn tật. Thì tự trong thâm tâm tía tôi thấm thía, tối tăm tâm trí, tía thương thầm thằng tiểu tử thiết tha. Tía tính toán tinh tường, tía trao tận tay tôi túi tiền thật to tướng & tí tiền "tip, ten thousand". Trong thân tộc, thím Thủy Tiên & Thanh Trà, tôi... thảy thảy tất tất thấy Tía: từ tâm, từ thiện. Tối thiểu thì trái tim tía thật tốt tới thằng tiểu tử "Trần Trịnh Trương Tạ", tự Tõn Tẽn.

                        9 - Tiết Thu trời tạnh trăng treo to to tròn trùng trục trong trẻo ti tí, thì thời tiết Tuất trở trời, tâm tưởng tôi trở thành tốt "too", tôi thanh tao, tôi toe toét, tủm tỉm… tắm táp tử tế, tôi thay tháo thân thể thơm tho, tôi trổ tài táo tợn thập thò trèo tường tới thăm Thanh Trà. Tuy tay trái tôi tàn tật thế, tôi trèo tường thành thạo thoăng thoắt trông thật tài tình. “Two ta” tù ti tú tí từ trưa tới tận tối thui tối thủi. Trọng tâm trong thư & Thơ Tình, thì tôi: tỏ tình thắm tha thắm thiết tới Thanh Trà, tôi tủm tỉm... thề thốt thủy trung Thanh Trà tận thiên thu. Thật thế!

                        10 - Tiết trời tháng Tám thanh thanh trăng treo tròn trịa trong trẻo trên triền thôn thủy trúc, Thanh Trà thèn thẹn tủm tỉm thỏ thẻ, thân thiện thì-thầm thưa thốt tới tận tai tôi, tiếng thì-thào tuồn tuột tha thiết tới tấp. Thấy thương! :
                        - Tại thế tục, tui tôn trọng Tõn Tẽn. Tui thành thật thương Tõn Tẽn. Tui thiệt tôn thờ Tõn Tẽn, thương Tõn Tẽn thì thôi. Tui thương Tõn Tẽn thấy tổ tiên tổ trác tui. Tui tuyên thệ trước Tòa, tui trao tấm thân & thịnh tình, tui tha thiết thương trao Tõn Tẽn thỏa thích, thắm thiết, tràn trề. “Two ta” tò tí te, te tí tò, tò te tí te. Tõn Tẽn từ tui, thì tui thề tui treo trốt, treo tay, treo thân tui trên trời.

                        11 - Thiết tưởng, trời thấp thoáng thánh tha thánh thót tới tuần trăng thứ tám, thì thân tôi tập tưng tưng Twist, Tango... thì-thà thì-thầm, thậm thà thậm thụt thiết tiệc tùng, thì-thào thi Thơ, thi tứ tràn trề, thết tiệc trọng thể tất thảy thiên tài thân thiện, từ tên tiểu tốt thiếu thốn te tua tơi tã trong Thôn trang, tới tất thảy trai tráng trẻ trung, (tình thương thân tương trợ trong Tổ Tam Tam, Tứ Tứ), tiệc tùng to từng tá... từng thau thịt thú: trăn, treo, thịt thỏ, thịt trâu, thịt trừu, thịt thà tứ tung... tôm, tép, trái táo, trái thơm, thanh trà... tươi tới toàn thể trang trại. Thằng tôi (tự Tõn Tẽn, tự Tư Tủn) & Thanh Trà tay trong tay tình tứ thắm thiết tung tăng thần tốc tí tò te, tù ti tú tí… thần tiên thâu trăng. Trời tối thui tối thủi thiêm thiếp thì trăng tàn, Thanh Trà & tôi trở thành thân thể thập thành te tua trần trụi, trọc tóc trọc tai trong trướng. Tôi "thất trận" thiệt!

                        12 - Tôi, từ thằng tiểu tử trước tê trông tướng tá trẻ trung, thẳng thớm, tới Trung Thu tiệc tùng tàn & tràn trề tình thương thắm thiết Thanh Trà, thì tôi trở thành tên thất tha thất thểu, thăng trầm, thắc tha thắc thỏm, tiều tụy, te tua tơi tả, tụi tui tàn tiệt theo trăng, theo tiệc. Tiêu tùng! Tuy tơ tưởng tới Thanh Trà thiệt... Tôi thất thần trầm tư, thất thểu thủng thỉnh tiến thẳng tới tư thất tại thôn trang tía tôi thì “thất Tu tọa”. Tại Thanh Trà thôi! Thanh Trà thì thà thì thầm, trắng trợn trao thân từ trưa tháng Tư tới tối tháng Tám trời tím than... thắm thiết, thao thức trằn trọc thế. Thì tôi thê thảm tháo thân. Tôi trở thành thều thào, tắt tiếng, tịt tiếng, tịnh tiếng. Thế tất thà tôi... tôi thẹn thùng “trượt tuyến” tới TU trong trang trại tại tư thất tía tôi tại Thủ Thừa.

                        Tu! Tôi tu thân, tu tâm... thì thấy tâm thiệt thanh thoát, thảnh thơi, tu thành tựu tốt. Thưa Thanh Trà thần tượng! Trời trong tiết tháng Tám trăng treo trên trốt to to trong trẻo, thiệt thích thú! Tự ta trụ trì tu tọa, tu thiền, tu tâm, tu trí...
                        ***
                        Tình Hoài Hương
                        Last edited by Tinh Hoai Huong; 10-19-2020, 05:06 AM.
                        Bút trần nào tả được lưu luyến!
                        Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                        Tình Hoài Hương

                        Comment




                        • Từ… “Tình Đời” đến… “Tự Do”
                          Tình Hoài Hương
                          ***


                          Đà Lạt. Thành phố mệnh danh là quê hương cẩm tú thơ mộng, trữ tình, nơi trai tài gái sắc lý tưởng hẹn hò. Thành phố ấy rạng rỡ không kém phần thi vị lãng mạn cho bao cặp tình đắm đuối yêu nhau. Họ thích che chung một chiếc dù, dìu nhau đi thật chậm trên những con đường mòn vòng vèo vắng ngắt, quanh co uốn khúc cao thấp nhấp nhô như những lượn sóng. Đà Lạt muôn thuở trầm lắng nghe tiếng thông thì thầm thở khúc nhạc du dương trong suối mộng hồ mơ, bên thác nước đỗ muôn trùng diệu vợi lờ lững trôi về nơi quạnh vắng xa xăm. Bao gốc thông tuy già cỗi, vẫn xanh ngắt ngút ngàn bốn mùa nhã nhạc reo vi vu qua kẽ lá cành cây xôn xao gọi mời. Nơi có những luống hoa muôn màu rực rỡ, nhiều hoa dại bụi sim rừng tim tím, cùng muôn thú… bầy sơn ca lả lướt tự do hoà ái uyển chuyển tấu khúc nghê thường.

                          Đà Lạt tĩnh mịch quyến rũ đầy vinh sang với xe nhà bóng loáng lượn trên lưng đèo, có nhiều ngôi biệt thự xinh xinh thấp thoáng ẩn hiện nhấp nhô dưới bao đồi thông giao nhánh reo vui trong gió rì rào. Có những cỗ xe ngựa lóc cóc gõ nhịp trên đường mỗi sáng, trưa, khuya, chiều êm ả. Thành phố ấy chìm trong giếng mắt u hoài vẫy gọi tôi muốn quay về cùng với giấc mộng quan hoài. Nơi mẹ từng à ơi ru con từ chiếc nôi đời hồng hoang trinh nguyên, võng tình đong đưa muôn sợi nhớ, nghìn luyến thương gợn sóng lăn tăn dồn dập canh cánh bên lòng, mẹ níu con ríu rít tìm về chốn cũ. Nơi ấp ủ một đời thúc giục đôi chân hải hồ tôi dừng bước bên thềm hoang sơ (dù tất cả những tiếng nhạc du dương từ tình yêu luyến nhớ năm xưa, giờ chỉ rớt lại cái quá khứ còn nóng bỏng, nghẹn ngào, ngậm ngùi đầy chua xót).

                          Ngày thứ Bảy, từ 26-10-1963 đến ngày thứ Hai, người dân thị xã Đà Lạt và ở trong nước hân hoan vui mừng, nô nức khánh thành Trung Tâm Nguyên Tử Lực Cuộc Đà Lạt. Rất đông đủ quan khách hiện diện. Đặc biệt nhứt là có Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Ông Bửu Hội. Đại Sứ Henry Cabot Lodge và các hàng Tổng Bộ Trưởng… đã quy tụ về Đà Lạt tưng bừng khai hội. Ấy thế mà chỉ cùng giao thời nầy: thì tình hình chính trị sục sôi kỳ lạ. Nhiều vụ xuống đường rầm rộ đó đây. Những người cầm đầu cuộc cách mạng kêu gọi người khác vùng dậy, đứng lên đập tan cuộc sống cũ. Họ “dũng cảm” muốn “kháng chiến” dành lại tự do no ấm cho con người thôi!

                          Từ khoảng mùa mưa năm 1963 thượng tọa Thích Quãng Đức lên giàn tự thiêu giữa ngã tư Phan Đình Phùng và Lê văn Duyệt: đòi hỏi tự do tôn giáo. Thật tuyệt vời! Rồi bao nhiêu bàn thờ tiên sinh, ông bà, cha mẹ: do con cháu rầm rộ dọn ra ngoài đường. Sinh viên, học sinh, và một số dân cư xông xáo xuống đường biểu tình đòi: Tự do tín ngưỡng. Tự do báo chí. Tự do ngôn luận. Tự do đi lại… suốt. Họ đã và đang làm một cuộc cách mạng như Littré nói:
                          - “Cách mạng là gạch nối giữa trật tự cũ tan rã, và trật tự mới được dựng lên bằng những vết máu, thay vết son”.

                          Cuộc cách mạng đảo chánh “gia đình trị” đưa quan niệm tự do hạnh phúc đi sâu vào lòng người dân. Chính nghĩa vong yểu như xứ sở thân yêu từng mang dấu tích hùng sử ca diễn ra ác liệt tại thủ đô Sài Gòn, bị lên án gắt gao, bị tiêu diệt, đã xoá nhoà dấu vết cũ dưới rừng cờ hoa phất phới tung bay trên nền trời xanh bao la, để chào mừng ngày đại thắng. Trước cửa ngỏ cuộc chiến mới, người ta say sưa hoan ca men chiến thắng túy lúy với nhau. Họ háo hức kể cho nhau nhiều tin giựt gân & thổi phồng nhiều sự kiện. Đồng thời đồn đại những tin huyễn hoặc thất thiệt. Dù chỉ hàng tít nho nhỏ chạy trên nhật báo, cũng khiến người dân giật nẫy mình, hoang mang, kích động, hăng say nổi máu anh hùng. Người ta nức lòng mong chờ từng giây phút hoà bình tự do đến, nơi đất nước mà các vị tiền bối, tổ tiên, cha ông chúng ta đã dày công xây dựng, đã làm, vẫn được thực thi một quê hương tươi đẹp giàu mạnh & an bình ở vùng Đông Nam Á. Dẫu rằng đôi khi có "sóng gió", làm ảnh hưởng sâu sắc ít nhiều đến cư dân thị thành cùng dân quê trên toàn lãnh thổ Việt Nam thăng trầm qua bao thế kỷ.

                          Đúng là Ý Trời! Nền Đệ Nhứt Việt Nam Cộng Hoà hoàn toàn sụp đỗ rồi đó! Giấc mộng cũ, chế độ cũ cùng chiến tranh tàn khốc đã từng theo đóm ăn tàn, mang bạn bè, người thân, ông bà, chú bác, anh chị em… ra đi biền biệt & gieo đau thương tang tóc khổ sầu cho hàng ngàn gia đình vừa cáo chung. Tôi chua xót nghĩ thầm: {Tôi nhìm thấy mặt trời mặt trăng, chưa hẳn là mắt tôi sáng. Tôi thấy sóng vỗ, gió gào rền vang đó đây; chưa hẳn tôi đã thấu hiểu hết mọi điều. “Các ông” có thể chế ngự đời sống của tôi bằng mọi hình thức, nhưng không thể khống-chế sự tự do trong tư tưởng của tôi. Dù các ông có đi đêm với ai thành công. Đi với Tàu. Với Tây. Với Mỹ hay với Ta. Thì có lẽ đất nước nầy cũng thất bại. Vì hàng rào Ấp Chiến Lược (Strategic Hamlets) đắc sách kiên cố kia: thừa nước đục thả câu đã bị nhổ phăng đi, nay bị sụp. Không thể sàng lọc trắng đen ra môn ra khoai nữa - Thì tiêu tùng cả đời nhà họ “Mạt” ấy chứ chả chơi!} Thiện tai!

                          “Ông” đắc thắng mới nào (lên thay thế “ông” chiến bại cũ), cũng vỗ ngực tự hào ta là nhứt. Rồi căn cứ vào điều luật cũ, tái lập điều chỉnh... ra dự luật mới. Có khi sáng tạo, thêm bớt, sửa đổi, vá víu lại… cho hợp tình hợp lý với thời cuộc. Giống như người cỡi con lừa một tay cầm cây roi, có bó cỏ khô với củ cà rốt móc lủng lẳng ở trước càng xe. Họ đang ngồi trên lưng con lừa ưa nặng và quay lưng về phía trước, còn một tay kia túm lấy đuôi lừa. Họ ung dung nhìn lại nơi đã toàn thắng mỹ mãn vừa đi qua. Chả cần chung vai đấu cật, góp sức an hoà, đoàn kết vạch định tương lai sẽ cam go, hay cùng nhau nhìn về một hướng phải đưa dân tộc đến. Nếu họ chịu khó nhìn về dĩ vãng… để cùng nhau hướng tới tương lai: xây dựng một quốc gia vĩnh thịnh, hùng mạnh: thì quá tốt. (Họ sẽ cai trị muôn dân như Đường Minh Hoàng vương quốc đời Tần. Hay sẽ như Thiers lãnh tụ Cộng Hoà Pháp đàn áp đẫm máu Công Xã Paris? Nào ai biết được ngày mai sẽ ra sao?) Còn con lừa già cứ gồnh mình lên, ra sức cố lôi chiếc xe thổ mộ ọp ẹp, cọc cạch, nó thở hồng hộc, ráng mở to đôi mắt trợn trừng, mà bốn chân run lập cập để lết tới trước, nó chỉ mong ước và hy vọng “tợp” được bó cỏ, hay củ cà rốt, ăn đỡ đói lòng.

                          Tôi rất ghét và thù chiến tranh, hay chuyện “chính chị chính em”, xin cúi đầu an phận làm phó thường dân nam bộ thấp hèn. Tôi cũng không bao giờ dám mơ tưởng mình sẽ là một người đẹp nổi tiếng viết văn, làm thơ. Càng không bao giờ tôi dám tự hào mình sẽ cầm cây bút chiến: để viết văn nghị luận hùng biện hay ho. Chữ đẹp tốt, văn thơ giỏi mà làm chi!? (mặc dù chữ viết cuả tôi khá đẹp). Tôi muốn thực tế ghi lại những điều quá thật: càng không vì thù giận ai, không chỉ trích, không bon chen, không a dua lừa dối ai. * xin nhấn mạnh:

                          *Khi tôi sao chép lại một tài liệu, hoặc in một mẫu tin lên báo chí, thì người làm công việc đó chỉ muốn chia sẻ, hoặc giới thiệu với độc giả những gì mình thu thập được từ nơi nầy, nơi khác, mình cảm thấy cần thông báo cho bằng-hữu & tùy nghi theo từng nhận định cảm quan cá nhân. “Bạn hay tôi” không phải là người tạo ra những mẫu tin thời sự nóng bỏng qua bao dữ kiện (nhứt là về sự kiện lịch sử hoặc tin chính trị. Do vậy “họ” không có trách nhiệm về việc đúng hoặc sai nội dung tin tức, mà họ đã ghi rõ “copy right”, hoặc in lên diễn đàn). Thế nên, nếu có vị nào thắc mắc, muốn tìm hiểu thêm, xin đi ngược về nguồn: để trao đổỉ với người có đầy đủ tài liệu về bản gốc, người có tư cách thẩm định, và chịu trách nhiệm; chắc chắn bạn sẽ được giải đáp thoả đáng. (*)

                          Chỉ vì cuộc sống ấy có phần gián tiếp ảnh hưởng sâu sắc đến số phận riêng mình, vì những sự kiện quá thật, khiến tôi đau lòng khổ sở không ít. Tôi rất đồng ý: “quân tử trọng danh khinh tử”, thì họ và các ông không cùng quan điểm, là lẽ thường. Thân cây tùng tuy cứng cáp chắc chắn và tròn trịa, thẳng đứng, nhưng khi ta róc hết vỏ, trau chuốt, bào láng, coi thật đẹp, mà chỉ có ba cây tùng chôn ở ba góc, thì không thể chống nỗi một mái nhà. Trong gia đình cũng thế, nếu cha muốn làm gì, đi đâu, là quyền tự do của cha, rất có thể các con không ai có thể cản. Phần con, nếu cha thấy con có chỗ nào không tốt, là có thể chứng minh một phần cha đã giáo dục con có chỗ sai. Đời người như một ván cờ lớn, chưa biết sự lựa chọn, đặt để của cha và con đúng hay sai. Thì cũng ví như căn nhà ấy có hai cửa sổ: đã xoay nhìn về hai hướng cố định: hướng Đông và hướng Tây. Đứng ở cửa sổ nhìn về hướng Tây: con thấy vườn hoa dưới ráng hoàng hôn bảng lảng lung linh trong kẽ lá rất đẹp. Còn nơi ô cửa hướng Đông kia, khi vuông cửa mở rộng ra, chưa chắc nơi đó hợp với suy tư và nhãn quan mình. Vậy thì, phạm trù cách mạng riêng đối với tôi, nào có ích gì! Phe chế độ cũ có sụm bà chè. Phe cách mạng mới có “phừng phưng” đứng lên - Có quật khởi. Trường tồn. Tiêu vong; thật chả là gì - khi đa số dân chúng vẫn chạy ăn từng bữa một. Mồ hôi và nước mắt chan hoà trên bát cơm, biết bao khuôn mặt hãi hùng đau đớn âu lo trong thời tao loạn phân ly. -Chiến tranh, chết chóc, đau khổ và cơm áo- Những thứ nầy cứ quyện chặt vô nhau, thì lấy đâu ra ai có ngày giờ nghĩ đến việc hó hé chống đối, hoặc kháng chiến kia chớ!

                          Chiếc cầu vồng bảy sắc sinh động nối mạch tình quyến luyến giữa con người và con người, mà tôi thân thiết gọi là “lòng nhân ái đùm bọc chí tình yêu thương nhau xiết đỗi” – đã nhạt phai trong tôi ít nhiều. Không còn đậm đà như những năm tôi sống trong vùng khói lửa chiến tranh liên miên, từ: Quảng Trị. Mộ Đức. Minh Long. A Sao. A Lưới. Sa Huỳnh. Tà Biên... nữa rồi. Do đã từng chứng kiến cảnh chiến tranh đau thương vô vàn để lại trong đời. Cảnh người dân chất phác nghèo khó cơ cực nhọc nhằn… và người lính vô tội vì quê hương và dân tộc, họ phải chết bờ chết bụi, thảm thiết lắm. Thây vùi nông một nấm mộ vội vã bên đường. Thấy cảnh vì giặc giã nên người ốm đau bệnh tật lê lết không thang thuốc đầy nhóc ở xó xỉnh thôn làng hẻo lánh, họ cố kéo lết cuộc đời thấp hèn, đớn nghèo luôn bám riết sau lũy tre xanh.

                          Thế thì tôi đã biết thế nào là lễ độ, khi mặt trời ở phương Đông vẫn hào phóng tỏa những vầng hào quang tuôn chảy xuống vạn vật, lóng lánh trên những tàng cây xanh um bóng mát, tạo thành những dòng sáng lung linh rực rỡ trường tồn miên viễn rạng ngời. Trái lại, trong tôi bùng lên nỗi buồn "thù trong giặc ngoài", kèm nỗi hận căm cuộc chiến đấu mưu cầu cho tự do! Dù rằng đối với tôi tự do vẫn tuyệt vời, sung sướng thoải mái hơn tù tội gò bó, o ép... Hoà bình vẫn hạnh phúc trân quý hơn chiến tranh. Chiến tranh đem lại giết hại, thù hận huynh đệ tương tàn điên cuồng dày vò nhau, tàn ác thẳng tay chém giết lẫn nhau. Vết xe cũ đã lăn, đang lăn trên con đường gian khó. Khiến lòng ta thêm đau đớn xót xa hơn.

                          Tự do! Hai tiếng nầy vang lên nghe dạt dào quyến rũ, thương yêu biết ngần nào, truyền cảm, trìu mến, bao dung, ngọt ngào, thú vị, hay hay, lý tưởng, hoài bão, tha thiết mời gọi nhau dấn thân, hy sinh thế nào ấy! Vai trò “cách mạng, đảo chánh”, hay đỉnh đạt hơn: “dành lại quyền tự do thống trị”… từ tay kẻ khác ; không hàm hậu ý chế nhạo ai, nghĩa là mọi người nên chung vai góp sức làm sao cho đời sống cũ tốt đẹp hơn, ngỏ hầu nâng con người cùng khổ lên cao. Họ sẽ có cuộc sống ấm no và hạnh phúc, mong cho đất nước mau thoát ra cảnh chiến tranh tương tàn, vì chiến tranh luôn đè nặng lên đôi vai lương dân vô tội. Tự do rất trân quý và đầy kính trọng, ngưỡng phục.

                          Từ ngày "mất nước" thì… chuyện tình đời và hai chữ tự do ấy đã quá xưa, cũ rích như trái đất rồi. Tôi, và có thể hầu hết mọi người Việt Nam đều thiết tha, bao dung, độ lượng; khi định nghĩa tổng quát về danh ngữ hay tính ngữ: “Tự Do”: Đó là phạm trù triết học, biểu hiện một quy luật êm ái nhịp nhàng, có tự do trong quy định trật tự, ôn nhu, tiết độ, vững bền của một quốc gia. Sự phát sinh tự do qua lập trường, hoài bão, suy tư, ý chí, hành động của con người và xã hội, nhân quần. Triệt để tôn trọng các quyền phát huy tự do cụ thể, rất căn bản (nghĩa là không bị cấm đoán, cưỡng ép, hay bị ràng buộc khắt khe bởi: những quy chế độc tài: do hiến pháp, lập pháp, luật pháp, tư pháp, hành pháp… gắt gao; nói chung chung).

                          Tự do - nhưng phải tôn trọng quyền công dân trong một quốc gia độc lập, có căn bản, rất trật tự, có đạo đức, mềm dẽo, tiết chế ôn nhu, - mọi người phải hành xử chính xác và hợp lý. Không được thoát ra ngoài cương lĩnh và cương vị cuả một con người biết tôn trọng nhân sinh – không được lạm dụng và lợi dụng hai chữ "tự do" để mưu cầu mục đích cá nhân - từ nền móng vững chắc của một quốc gia tự do - có chủ quyền và độc lập. Thế thôi.

                          Từ lúc các vị bô lão tổ tiên ta bị tụt xuống bàn thờ, biết bao ngày đêm nằm co ro bên lề cuộc sống, đến hôm nay, bây giờ... thời gian dài đằng đẵng trôi qua, trôi đi đã quá lâu, "chúng ta & ("hậu duệ" xin thừa hưởng tí)... từng tự hào mình là con rồng cháu tiên, có hơn bốn ngàn năm văn hiến: đã làm được những gì? cho quê hương, đất nước, cho dân tộc Việt Nam rạng ngời ưu ái hiền hoà, ngày càng hưng thịnh, phồn vinh, có tình bác ái đậm đà yêu thương, đầy ấm no, hạnh phúc đích thực. Nhứt là có sự tự do... tự do đúng nguyên nghiã, chính xác, chuẩn mực rất đáng trân quý & đầy kính trọng (???). Hay là, chả còn giống như thời tổ tiên ông cha chúng ta còn ngự trên ngai, mà chỉ là... "kháng chiến, khiến chán" như thế thôi (!!!)
                          *
                          Tình Hoài Hương

                          (*) Đoạn trích dẫn nầy copy right từ truyện dài “Nghiệt Ngã Giữa Hai Lằn Đạn", cùng tác giả Tình Hoài Hương.
                          Last edited by Tinh Hoai Huong; 10-30-2020, 04:05 AM.
                          Bút trần nào tả được lưu luyến!
                          Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                          Tình Hoài Hương

                          Comment




                          • Chứng Nhân Một Sự Kiện Lịch Sử
                            (Về ngày 2 tháng 11 năm 1963, - đã được điều chỉnh & bổ túc)
                            Tình Hoài Hương
                            *

                            Sau những chấn động kinh khủng xảy từ vụ hăng say hoạt động cách mạng, chống đối, xuống đường biểu tình biểu tọt liên miên bùng nổ, thì lúc nầy tình hình chính trị tại miền Nam Việt Nam (như chiếc ghế cũ, chỉ còn ba chân gập ghềnh), càng ở vào giai đoạn “dầu sôi lửa bỏng”. Thụy Mi nghiệm thấy đằng sau hậu trường có bóng dáng của những tay “mưu đồ chính trị chuyên nghiệp”, họ đã giựt dây ngầm tạo ra sự vô tổ chức về những đợt sóng bạo loạn. Có tình trạng những kẻ "trẻ người non dạ rất hỗn”, hầu lợi dụng thời cơ… vênh váo thừa nước đục thả câu. Điều nầy sẽ rất nguy hiểm khi họ có quyền lực trong tay, mà không biết ôn nhu, khoan hoà, khiêm tốn, khôn ngoan, nhứt là phải có tri thức và trung dung. Nói chung, tình hình chính phủ lúc đó quả thật là một xã hội rối rắm như mớ bòng bong trôi bồng bềnh trên biển cả, giống như một chiếc tàu không người lái. Mặc ai muốn làm gì thì làm. Luật pháp bị xô ngã, nhường bước cho sức mạnh bạo lực hổn độn lên nắm chính quyền điều hành.


                            Dạo ấy, các bạn sinh viên năm thứ hai Văn Khoa, cùng Thụy Mi, Vì Dân... tuy còn rất trẻ, nhưng có nhiều băn khoăn, đắn đo, bâng khuâng suy nghĩ về khả năng, tài đức… của những vị “lãnh đạo cách mạng” nầy. Thêm vào đó, dựa vào một vài dữ kiện đáng ghi nhớ đã xảy ra về sự kiện lịch sử: cay đắng đến xót xa chua chát bàng hoàng, khiến nó mất đi tất cả lý-tưởng cao trọng trong “công cuộc lãnh đạo kháng chiến”, chẳng thể tín-trung vô lề lối đấu tranh trung-dũng. Bạn cảm thấy “sự cách mạng” lạt lẽo, mù mờ, vô bổ, “kháng chiến - khiến chán” từ đó. Hơn nữa, chính lúc nầy chuyện bè phái chính trị hoàn toàn không phù hợp với quan niệm, hoài bão, lập trường của Dân và Mi.

                            Hai cô muốn tìm riêng cho mình sự thảnh thơi, bình lặng trong đời sống, quyết giữ tinh thần ôn nhu, trong sáng, tìm một cuộc sống vô-tư-lự, thanh thản, hữu hiệu, thật sự đáng sống; để mình có thể góp phần nho nhỏ giúp ích trong đời, một cuộc đời thực sự bình dị, mến thương nhau, ôn hoà, an lành, có nghĩa có tình như mọi công dân hiền hậu khác: Không oán ghét, chẳng vò xé hận thù. Không vướng mắc mọi ưu tư ray rứt dày vò ở trong lòng. Do một tuần lễ công tác trong tổng-hội sinh-viên Việt Nam ở Huế, đã gây cho Mi & Dân bao điều băn khoăn, nghẹn ngào, xót xa quá cay đắng. Vì, khi làm việc với nhau trong tuần lễ đó, có một anh sinh viên sống tại Huế rất qúy mến các bạn từ Sài Gòn, Đà Lạt... đến Huế, anh ta ngầm ngầm báo với họ là:
                            - Hãy hết sức cẩn thận. Đề phòng. Tính mạng của các anh chị hiện đang nằm gọn trong tay “họ”.


                            Thú thật, các bạn trong nhóm Mi & Dân không hiểu nỗi mình làm thiện nguyện bổ ích cho đời, thì đã có gì sai? Và, khi anh ta nhấn mạnh ở điểm nầy, thì hai cô chẳng thể biết ra sao, không hình dung chữ “họ” ở đây, là anh ta muốn “ám chỉ” về ai? Ai? Bởi vậy, ban ngày Mi, Dân, và các bạn ghi tên ở khách sạn, nhưng ban đêm cùng nhau lo đi ẩn nấp, chui rúc nơi bờ bụi như lũ chuột, khi các bạn ngủ chỗ nầy, khi ngủ dưới ghe bà Nẫm, đến khuya các bạn lại cho ghe neo đi chỗ khác, lúc lên gần gầm cầu Bạch Hổ, khi chạy về khu Gia Hội. Vân vân... Đồng thời, Thụy Mi rất buồn vì chuyện tình yêu giữa “chàng và nàng” bị đổ vỡ vô cớ. Kèm theo chuyện chính trị náo loạn dị kỳ, cô quá chán ngán, không muốn mọi thứ ấy luôn thọc mũi dùi vào đời sống sinh viên, quấy rối lòng mình nữa! Bởi vì; (tất nhiên trong đó có cả các anh chị bạn, và... nhất là có người yêu dấu của cô).

                            Cô cảm nhận ra rằng ở tại miền Trung bấy giờ hoàn toàn do nhóm sinh viên sừng sỏ hùng hậu chi phối chính quyền địa phương. Đấy là dấu hiệu “loạn” đã lên cao độ rồi. Cái nền độc lập tự do dân chủ vừa mới sơ sinh, mà manh nha nhiều thủ đoạn “rối” như thế nầy, thì… tương lai đất nước sẽ tối đen như đêm ba mươi Tết. Theo thiển ý của Thụy Mi: nếu tham gia làm cách mạng (vì thực sự yêu nước, muốn cùng nhau xây dựng một quốc gia hùng cường, một đất nước tự do hưng thịnh, vinh sang và trường tồn); thì ta không chỉ chìm đắm bới móc quá khứ, mà ôm hận thù. Điều cần thiết và cấp bách là muốn thực thi cách mạng, trước tiên ta cần phải an-nội.
                            Thế nhưng… giờ đây thanh niên là rường cột của quốc gia, đang giống như con dao hai lưỡi. Rồi mọi chuyện sẽ đến đâu? đi đâu? về đâu? Thật ra đám sinh viên thiện nguyện đi Huế công tác bây chừ cảm thấy buồn bã, băn khoăn chán nản lên tột đỉnh.

                            Có thể nhận thức của họ về vài vấn đề nào đó còn eo hẹp, khiếm khuyết, nông cạn, không hữu hiệu, phiến diện và ít sắc bén trong suy nghĩ, nên họ không thể đạt được sự cảm thông và khuyến khích với “những vị có hào quang chói lọi trên đài danh vọng khi đi kháng chiến” cứu... bồ chăng. Thế nhưng khi Mi nghe: Albert Einstein (1879-1955) đã nói: “The world is a dangerous place to live, not because of the people who are evil but because of the people who don’t do anything about it”. (Thế giới là nơi nguy hiểm để sống, không phải chỉ vì bọn cùng cực hung ác, mà còn vì những người ù lỳ, không làm bất cứ một điều gì, để trừ khử cái ác ấy). Hoặc giả như Napoléon Bonaparte (1769-1821) đã trầm ngâm suy tư: “Le monde souffre enormément, non pas à cause de la violence des gens malsains mais à cause du silence des gens braves”. (Thế giới chìm đắm trong đau khổ, không phải chỉ vì bạo lực của bọn ác, mà còn vì sự im lặng của người tử tế).


                            Thế thì ta có nên nên cúi đầu lanh lẹ quay gót, lo thụt lùi lui xa chính trường, không hề dám ngoảnh lại len lén liếc nhìn… hay không nhỉ? Bởi, Vì Dân còn nhớ rất rõ: Buổi chiều đó, một buổi chiều có mây trắng bồng bềnh bay bay trên lưng trời, có nắng nhạt nhè nhẹ rót xuống thế trần, có gió mơn man trên đầu cây ngọn cỏ, cảnh vật êm ả bình thường như bao buổi chiều khác. Có khác chăng là một tí nữa đây Vì Dân, Thụy Mi và hai ba anh bạn sẽ được vinh dự trở thành số ít người hiếm hoi, tận mắt chứng kiến một sự việc đặt biệt ghi đậm nét như một dấu ấn lịch sử: Từ đầu đến cuối sự kiện trọng đại nầy: đã có nhiều dư luận, có nhiều lý thuyết, có nhiều phán đoán, có nhiều nghi vấn. Nhưng “trăm nghe không bằng mắt thấy” về những nhân vật trọng đại, liên hệ đến lịch sử.

                            Đó là một buổi chiều định mệnh… vô cùng đớn đau bi thảm vào ngày 02 tháng 11 năm 1963, ông Trần Trung Dung (nguyên Bộ Trưởng Quốc Phòng, dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm). Ông Dung đã gọi phone đến nhà Năm Tony. Trong nhà Năm có thêm bạn: Trung, Thạch, Thụy Mi và Vì Dân ngồi gần bàn làm việc. Năm bắt phone và chuyển sang cho ông Ba chủ trại hòm Tobia. Sau một hồi trao đổi, giọng ông Ba trở nên lo lắng. Bối rối. Quắt quay. Bồn chồn. Như có điều gì bức bách lắm. Cuối cùng ông Ba thở dài, buông phone xuống và cây viết bis xuống quyển sổ dày, ông Ba e dè nhìn mọi người hiện diện, đôi mắt ông rướm lệ rồi ngập ngừng nói nhỏ:
                            - Tổng thống, và ông cố vấn đã chết lúc 11 giờ 15’, họ đọc cho tôi nghe rõ từ giấy chứng tử hai ông, do Đại-úy y sĩ trưởng bệnh xá hành dinh Tổng Tham Mưu khám nghiệm, thành lập hồ sơ.Hai ông đã chết trong chiếc thiết vận xa M113 mang số 80.989, bởi lệnh của ông Dương văn Minh, do sát thủ là Nguyễn văn Nhung giết hại rùi.

                            Sửng sốt, bàng hoàng. Mọi người ngơ ngác nhìn nhau, tất cả vội túc trực trong phòng khách, mở radio lên lắng nghe. Hội đồng tướng lãnh do Trung-tướng Dương Văn Minh đứng đầu đảo chánh đã thành công. Ông Minh tuyên bố: “Tôi tạm thời lãnh đạo quốc gia”. Đài Phát Thanh Sài Gòn chỉ mở nhạc hoà tấu, nhưng luôn luôn nói đi nói lại là: “Anh em ông Diệm đang ẩn nấp, hoặc... tẩu thoát đâu đó”…
                            Chẳng nói chẳng rằng, ông Ba vội vã kiếm người đi gọi đạo tỳ đến xưởng hòm, để chuẩn bị “hậu sự” cho Tổng Thống Diệm và ông cố-vấn Nhu. Ở nhà kho của ông Ba có nhiều hòm tuy đẹp, đắt tiền. Nhưng không mấy xuất sắc. Chỉ còn một cái hòm tốt nhất bằng gỗ gia tỵ rất quý hiếm, có bọc sẵn thêm cái hòm kẽm ở bên trong. Ý ông Ba muốn để cái hòm nầy cho ông cố vấn Nhu. Ngoài ra, còn một cái hòm nhôm mới toanh láng cón của quân đội Mỹ. Chiếc quan tài nầy rất đẹp, làm bằng nhôm nhẹ, có hai lớp. Bên ngoài mạ lớp sơn bóng loáng, bên trong bọc một lớp đệm nhung mỏng, êm ái như tấm đệm giường ngủ, có thể mở nắp ra đóng vào bằng kính dễ dàng, lộ cả khuôn mặt người quá cố, cho mình nhìn tiễn biệt phút cuối cùng, hòm có chốt cài bên hông. Nếu là xác đã ướp lạnh, có thể để lộ hẳn ra ngoài. Ở Việt Nam chưa xuất hiện loại hòm tân thời như thế.

                            Lẽ ra là chiếc hòm rất sang trọng đẹp đẽ qúy hiếm nầy sẽ đựng thi hài của một viên Tá người Mỹ đã từ trần tại Việt Nam. Nhưng không hiểu sao họ lại mang vất bỏ chiếc quan tài ấy ở bên hông nhà ướp lạnh trong phi trường Tân Sơn Nhứt!? Tình cờ ông Ba đi làm việc đã thấy. Tiếc quá nên ông Ba nài nỉ, thương lượng với tên quản lý nhà xác, và ông đã mua lại. Ông Ba đem về trưng bày trong tiệm cuả mình, coi chơi. Ai đến mua giá cao cỡ nào, ông cũng không bán. Thế là ông Ba quyết định:
                            - Chỉ có Tổng Thống Ngô Đình Diệm mới xứng đáng nằm an nghỉ trong đó thôi.

                            Cả hai khuôn hòm được mang ra lau chùi bóng loáng, sát trùng sạch sẽ, họ chuẩn bị sẵn sàng; chờ lệnh. Gần 4 giờ chiều, phone của ông Trần Trung Dung gọi báo:
                            - Nhờ ông vui lòng mang khuôn hòm đến nhà xác bệnh viện Saint Paul. Ở đường Tú Xương. Tuyệt đối không cho đông người đi, và người lạ tháp tùng. Xe chỉ chở đến đó… mỗi lần một quan tài mà thôi.
                            Ông Ba nêu ý kiến:
                            - Có nên lấy thêm một xe nữa. Đi theo phía sau xa xa xe kia. Hay không?
                            - Không. Chở từng cái một, mỗi xe đi cách xa nhau khoảng nửa giờ. Mang cái “đầu tiên” đi trước.

                            Ông Ba tuân lệnh. Đem cái hòm đặc biệt “đầu tiên” đi (ý họ muốn nói đến “cái đầu tiên”: là khuôn hòm của Tổng-thống Diệm, người sẽ liệm trước tiên). Chiếc xe tang từ từ lăn bánh. Trên xe có bà chủ tiệm hòm, Năm, Mi & Dân, Thạch, Trung, cộng thêm bốn người đạo tỳ. Xe lao vào đường phố vắng tanh như đi trong thành phố chết, hoặc đang vào giờ giới nghiêm, thiết quân luật vậy. Đến đường Tú Xương, Vì Dân mới thấy phe cách mạng lật đổ chính phủ đã cho cảnh sát, quân cảnh đứng canh gác ở các chốt. Xe jeep chận ngang ngỏ vô nhà xác.

                            Ngoài các anh: Năm, Thạch, Trung, Mi, Dân, bà chủ tiệm và bốn đạo tỳ ra, còn có hai soeur có lẽ ở bệnh viện nầy. Thêm vợ chồng cháu rể của tổng thống đang lăm le chiếc máy ảnh trong tay. Khi xe tang vào tới bên trong, thì một soeur rón rén, lấp ló, len lén nhìn trước ngó sau, coi soeur có vẻ gian, sợ sệt lén lút, như người làm chuyện mờ ám gì, chả biết. Hình như soeur có lệnh trước, đã vội vàng kéo cánh cửa đóng ập lại liền. rong nhà xác chỉ có một ngọn đèn vàng lù mù, leo lét, treo lơ lửng tòn ten trên trần.

                            Bốn đạo tỳ mang quan tài đặt trên bệ đá cẩm thạch trong nhà xác. Họ đợi khoảng hơn một giờ sau, thì có một chiếc xe hồng thập tự kiểu Dodge nhà binh (màu cứt ngựa) thắng lết bánh, đỗ xịch lại. Bà soeur canh cổng kia lật đật mở cánh cửa nhà xác ra. Từ trên xe có bốn quân nhân nhảy phóc xuống, họ vội vội vàng vàng khiêng chiếc băng ca lắc lư nhún nhảy. Trên đó có một người nằm cũng nhún nhảy lắc lư theo nhịp bước mau. Họ mang băng ca vào hẳn phía trong, để xuống dưới đất. Họ chả buồn nhìn ai hay nói câu nào, họ cúi đầu vội vã quay trở ra, leo tọt lên xe. Chiếc xe Dodge rít lên nghe rợn tóc gáy vút đi trong sự im lặng hãi hùng…

                            Lúc bấy giờ cả nhóm đông trong phòng liền bước tới đứng sát bên băng ca. Người nằm trên băng ca là vị tổng thống kính mến của nền Đệ Nhất Cộ̣ng Hòa miền Nam Việt Nam: Ngô Đình Diệm (1901-1963). Ngài mặc bộ veston màu xanh rêu, thắt cà vạt xanh đậm có chấm trắng. Dưới chân ngài mang một chiếc giày màu đen, bên chân kia chỉ có một chiếc tất trắng. Cả bộ comple chìm trong màu máu, trên đầu tổng thống có một vết thương sâu từ dưới ót trổ lên đỉnh đầu, bê bết máu. Ngài nằm đó thản nhiên im lặng, dường như tổng thống say chìm trong giấc ngủ ngàn thu bình an không muộn phiền, chẳng khổ đau…

                            Ánh sáng vụt loé lên. Thì ra ông cháu rể ngoại quốc kia đã bấm được vài ba tấm ảnh. Chả hiểu ông cháu nầy lúng túng, run rẩy, sợ hãi, lo lắng hay sao, mà ông lại vội cất dấu máy hình, không chụp thêm mà lại ngưng? Hay ông thấy cảnh máu me lan tràn như thế, thật hãi hùng và đau lòng. Nên ông không cầm nỗi cơn nghẹn ngào xúc động đau đớn dâng tràn bờ mi?!
                            Đạo tỳ khiêng xác ngài lên, đặt trên một bệ đá cẩm thạch có lót hai lớp vải trắng. Bà chủ tiệm nói với Năm, Thạch, Trung, Vì Dân, và hai soeur:
                            - Nhờ lấy bông gòn và compresse nhúng đầy alcohol, lau nhẹ nhàng, lau sạch sẽ, lau rất cẩn thận các vết máu cho tổng thống giúp tôi.


                            Họ lộ vẻ kính cẩn, ân cần, chu đáo sửa sang áo quần Tổng-thống Diệm chỉnh tề, ngay ngắn. Bốn đạo tỳ chăm chỉ cắm cúi lo tẫn liệm ngài đàng hoàng. Bà chủ tiệm hòm lâm râm đọc kinh cầu nguyện cho linh hồn người quá cố. Bà nhét vào tay tổng thống xâu chuỗi hột mân côi. Hình như Tổng Thống Diệm vừa mới chết, cho nên hai bàn tay ông đã nhẹ nhàng khép lại dễ dàng giữ xâu chuỗi, như ông đang lim dim đọc kinh lần hột. Mọi người hiện diện nín thở, có cảm tưởng tim đập thiếu nhịp, thở hụt hơi: Nghẹn ngào. Ngậm ngùi. Cay đắng. Bẽ bàng xao động. Đau xót kinh khủng. Thương tiếc sâu sa. Buồn mênh mông cho kiếp phù sinh bạc mệnh. Ngắn ngủi!

                            Họ chưa kịp đậy nắp hòm, thì chiếc xe hồng thập tự lúc nãy đã trờ đến. Cánh cửa lớn do bà soeur kia lum khum hé mở ra. Đám lính lật đật bưng cái xác thứ hai vào. Bà soeur vội vàng khép nhanh cánh cửa ngay. Đó là ông Cố-vấn Ngô đình Nhu mặc áo sơ mi trắng cụt tay ngực đẫm máu. Áo bỏ trong quần màu nâu hơi xộc xệch, thắt dây lưng da, chân mang đôi giày màu kem. Gương mặt ông Nhu có vẻ oán hận, bất bình điều gì, vầng trán thật cao cau lại với nhiều nếp nhăn. Đôi môi ông mím chặt nghiêm nghị. Không thấy ông Nhu có nét thanh thản bình an (như gương mặt thản nhiên của người anh). Ông nằm hơi nghiêng qua một bên. Họ thấy ông bị nhiều vết đâm sau lưng, loại dao bayonet của quân đội. Máu vẫn ứa ra từ các vết thương đó. Trên đầu, ngay thái dương có hai vết thủng. Đó là dấu đạn đi từ bên nầy xuyên sang bên kia.


                            Công việc tẫn liệm cũng tuần tự diễn ra. Cẩn thận, nhưng hơi vội vàng như lần trước. Không khí lúc nầy quả thực nặng nề kinh khủng! Im lặng hoàn toàn. Hình như ai ai cũng thở rất nhẹ. Vì họ sợ mỗi tiếng động làm dấy lên từ đáy lòng mình tiếng nấc, mà họ đã kềm sâu trong lòng, để khóc thương một kiếp người phù sinh: khi họ đứng trên tột đỉnh danh vọng cao sang dường bao, ấy thế mà lúc họ lìa đời thì quá ư bẽ bàng, bạc phận!? Hoặc sẽ làm hỏng không khí kính cẩn tôn nghiêm; nơi con người thực sự đã bước chân vào cõi vô cùng hư vô? Quả đúng là phân giới giữa sự sống và cõi chết: chỉ ngăn cách bằng một sợi tóc dài lê thê và mỏng tanh, bởi một bức màn sô vô hình tầm thường mà mong manh như sương khói. Nhưng, kiếp người ở hai phân giới ấy đã không thể làm gì khác hơn. Người ở biên giới nầy không thể va mặt, chạm tay vào biên giới vô hình kinh khủng bên kia, và càng không thể biết thêm gì nhau hơn!

                            Đó là hình ảnh nhỏ nhoi tầm thường rất cô độc của con người hiện hữu đối mặt trước sự siêu hình, cao cả của sự sống và sự chết. Quả thật không là gì cả khi thân xác ấy trở thành bất động, lung linh như ảo ảnh hư vô mà vô cùng sống động, thực tế và quá đỗi thương tâm. Các bạn: Mi, Dân, Năm Tony, Thạch, Trung sẽ không bao giờ quên, không bao giờ phai mờ hình ảnh bi thương ấy trong trí óc. Vì, rất thật. Quá thật tình cờ… vô tình mình làm chứng nhân một sự kiện lịch sử trong thế kỷ. Ý thức nhận rõ ràng: Cuộc sống sao quá mỏng manh như một bóng mây trắng hờ hững bay giữa lưng trời rám bạc. Như cành cây oằn thân trong bão khi gió muốn lặng, mà dễ đâu nào!

                            Vì Dân cảm thấy mệt lả, nhịp tim rung lên từng cơn run rẩy, nghẹn nghẽn nỗi đau trong cổ, nàng vội kéo Năm, Thạch, Trung, bước ra thềm nhà xác, đi về hướng Phan Thanh Giản, là mong cho dễ thở hơn. Ngay lúc đó, Mi thấy một đoàn biểu tình náo nhiệt rầm rộ kéo nhau xuống đường. Họ vừa đi vừa giơ nắm tay hò la, hét tướng lên: đả đảo “chế độ gia đình trị họ Ngô”. Họ đi thẳng tới biệt thự đường Phan Thanh Giản của ông Bộ-trưởng Bộ Nội Vụ Bùi Văn Lương, (người đã từng nắm giữ chức vụ Tổng Ủy-trưởng, Tổng Ủy Di Cư năm 1954).

                            Họ lao vào nhà ông Lương đập phá, hôi của. Tất cả mọi thứ trong nhà thoáng chốc “biết đi” biến sạch hết ra ngoài đường. Thậm chí Vì Dân còn thấy có mấy người bưng hai con chó Nhật sợ hãi nhìn quanh, như nó đang muốn tìm cố chủ. Đám biểu tình nhốn nháo bắt đầu xúm lại nổi lửa trong sân. Rất may, lúc đó có toán Cảnh-sát Dã-chiến đến. Họ can ngăn kịp thời. Ôi! Cuộc Cách Mạng phừng phưng thành công rồi đó. Toàn dân bấy giờ đã thoát ra khỏi chế độ “gia đình trị họ Ngô”. Nhưng, rồi đây sẽ đến phiên ai đi tới đi lui, đi lên và đi xuống, đi qua và đi lại? Sẽ ra sao? Xin nhường câu trả lời cho lịch sử từ bây giờ, và những tháng năm sau nầy phán xét. Nghe tiếng bà chủ gọi, các anh, chị, vội chạy trở về nhà xác: khi hai chiếc xe hồng thập tự Ambulance đã đến lấy quan tài hai anh em họ Ngô. Họ nói với tài xế: “Vô Bộ Tổng Tham Mưu”. (Vì lý do an ninh, nên Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng chuyển hai xác anh em tổng thống vào Bộ Tổng Tham Mưu.


                            Sự vụ lệnh văn thư số 836 TTM/vp ngày 7-11-63 do ông Trần Trung Dung khẩn thiết xin được chôn cất hai thân nhân, thì ngày 8/11/63 TTM có triệu tập buổi họp nầy. Hiện diện có: Trưởng ban nghi lễ bộ TTM: Trung-tá Lê Văn Soạn. Đại đội I mai táng: Đại-úy Đỗ Văn Giương. Trưởng ban An Ninh quân đội của bộ TTM (đại diện Nha An-ninh Quân-đội VNCH: Trần Ngọc Giang. Tiểu đội trưởng Hiến-binh Tân Bình: Trung-sĩ Hiến-binh: Nguyễn Tân Phương. Trung-tá Lương dẫn ban kiểm soát mai táng đi quan sát lại hai quan tài, và nơi chỉ định nơi an táng cho hai ông là khuôn viên trại Trần Hưng Đạo, cạnh chùa Hùng Quốc Tự, gần mộ phần ông Lê Văn Phong (triều thần đời Nguyễn, là bào đệ của đức Tả-quân Lê Văn Duyệt).

                            Hiện diện, làm việc cấp tốc lúc bấy giờ còn có vị linh mục người Pháp Claude Laire đại diện toà khâm mạng sài Gòn chủ lễ, ông bà Trần Trung Dung, Ủy ban kiểm soát, & một số ít quân nhân ở Tổng Tham Mưu. Thế rồi tiếp theo sau mấy cuộc đảo chánh. Chỉnh lý. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đương nhiệm nghe lời ông thầy địa lý phán một câu xanh dờn:
                            - Vì hai huyệt mộ kia đã chôn nhằm “long huyệt”. Cho nên đất nước Việt Nam đã xảy ra lộn xộn liên tục. Muốn cho yên ổn. Phải cho dời đi ngay.

                            Thế là sau ngày đảo chánh ít lâu, bên phòng mai táng ở quân đội miền Nam Việt Nam Cộng Hòa lại cho mời ông Ba đến, họ bàn trước tính sau cặn kẽ, nhờ ông Ba làm hai cái kim tĩnh xây gạch, tráng xi măng trước có chiều cao 1m30, ngang 1m20, dài 2m50. Ông Ba lại cho người lên bộ Tổng Tham Mưu lén lút, hì hục đào bới cả hai anh em cố Tổng Thống vào ban đêm. Đạo tỳ làm việc bù đầu suốt canh thâu không ngưng nghỉ; từ choạng vạng tối đến tờ mờ sáng mới xong. Ông Ba đem hai thi thể: ông Diệm và ông Nhu về chôn ở nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, khu lăng mộ Mạc Đỉnh Chi được bao bọc bởi bốn bức tường gạch quét vôi vàng cao khoảng 2,5mét, rộng khoảng 7,5 hecta. (Mộ ở Mạc Đỉnh Chi thường có chữ: R.I.P. ; có nghĩa là: Rest in peace).


                            Khi hạ rồng rồi, ông Ba có lệnh chỉ được phép lóng cát phủ lên bề mặt hai ngôi mộ bằng phẳng cho đầy. Bên trên mặt chỉ được lấp ba tấm ván sơ sài. Trông hai ngôi mộ rất hèn mọn, quá tầm thường. Tuyệt đối ông Ba không được phép ghi tên tuổi, ngày tháng trên bia mộ gì cả. Dù chung quanh đó có những ngôi mộ cẩm thạch bóng loáng, vinh sang hào nhoáng lộng lẫy khác. Vì nền Đệ Nhị Cộng Hoà “họ” sợ dân biết tin hai vị ấy nằm đó, dân sẽ đến cầu nguyện và ngưỡng mộ (!?). Nhưng làm sao mà che được tai mắt dân lành!? Không biết do đâu “rò rỉ ra” nguồn tin:
                            - Chính hai ngôi mộ đơn sơ không tên không tuổi, không hình bóng nầy: là mộ phần của anh em Tổng-thống Ngô Đình Diệm.

                            Thế là từ đó, mỗi khi ai ai có dịp vào thăm nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, họ liền đi vào cổng chính, đến đoạn giữa “hai ngôi mộ Anh Em”, nằm đối diện với cái tháp tưởng niệm, và ngôi mộ cố Thống Tướng Lê Văn Tỵ to lớn nguy nga, tráng lệ nhìn sang “hai anh em: Gioan Baotixita Huynh ; Giacobe Đệ”. Có một điều rất khác biệt với những ngôi mộ lộng lẫy sang trọng kia, thì trên hai ngôi mộ đơn sơ đạm bạc đớn hèn khiêm tốn nầy, luôn luôn có những bó nhang trầm nghi ngút khói, có đóa hoa tươi màu thay đổi mỗi ngày, có bốn ngọn nến sáng lung linh thắp suốt đêm. Hình như người dân dù sợ hãi người khác thanh trừng, nên chỉ âm thầm lén lút đi thắp nến đốt nhang cầu nguyện. Họ luôn tưởng niệm cho “Ngày dài nhất thế kỷ, buổi chiều định mệnh đó”. Họ là những người dân hiền lương ẩn danh nghèo hèn như thầm nói:
                            - Vĩnh biệt Tổng Thống Diệm. Vĩnh biệt ông Cố-vấn Nhu. Xin các ngài cứ bình thản an nghỉ. Vì, đất nước Việt Nam vẫn còn là đất nước Việt Nam. Có thay đổi chăng, chỉ là đổi mới những sự kiện, và những con người lãnh đạo quốc gia mà thôi. Nguyện cầu nhị vị an nhàn bình thản ra đi… hạnh phúc phiêu lãng ngao du sơn thủy, đi khắp trên mọi miền đất nước Việt Nam, và xin quý ngài phù hộ cho dân lành được ấm no, bình an hạnh phúc thật sự, như qúy vị hằng đợi mong. Xin qúy vị lãng quên cuộc đời bạc bẽo. Quên con người hết sức trắng trợn độc ác tham tàn và… xin hãy tha thứ cho con người rối rắm hèn kém suy nghĩ kia, những kẻ đã tàn nhẫn hại mình.


                            Kiếp người ô trọc đảo điên và phù du rồi sẽ khép lại sau đôi mắt hờ hững lặng nhìn. Vì Dân tôi, một chứng nhân vô tình hèn mọn trong bóng tối lịch sử buông tiếng thở dài sâu lắng, trầm buồn và ngậm ngùi trên mỗi phím loan: Ối ôi ồi!!! …
                            Mãi về những năm gần đây, sau nầy thôi, thì hài cốt "hai huynh - đệ: Gioan Baotixita Huynh ; Giacobe Đệ" (trên bia mộ vẫn không ghi tên thật, ngày tháng năm gì cả) lần thứ ba, họ lại được thân nhân đào lên, cải táng cho nhị vị về an nghỉ tại “Nghĩa-trang số 6”, Lái Thiêu – Bình Hoà – Thuận An – thuộc Bình Dương.


                            Lần nầy, Thụy Mi, Vì Dân chấp đôi tay khẩn thiết cầu xin Thiên Chúa cho quý "Huynh-Đệ" thật sự bình an, được yên nghỉ vĩnh viễn dưới lòng đất quê hương Việt Nam. Xin đừng "bới móc thi hài người quá cố" lên thêm lần thứ bốn làm chi nữa! Đã quá đủ rã rời chua xót đắng cay thảm thương rồi!
                            * * *

                            Tình Hoài Hương
                            Last edited by Tinh Hoai Huong; 11-04-2020, 02:35 AM.
                            Bút trần nào tả được lưu luyến!
                            Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                            Tình Hoài Hương

                            Comment



                            • Từ Sa Huỳnh đi Quảng Nam & Hội An
                              Tình Hoài Hương
                              *

                              Từ ranh-địa Tuy Hòa về hướng Bắc đi Sa Huỳnh: tới bãi biển *Sa Huỳnh (thuộc Huyện Đức Phổ), nằm sát quốc lộ 1A ở cực Nam của Tỉnh Quảng Ngãi. Thị xã Sa Huỳnh cách tỉnh lỵ Quảng Ngãi 60 km. Đây là vùng khảo cổ có từng loạt mộ chum cổ xưa bị chìm khuất dưới lòng đất, đến đầu thế kỷ 20 mới được phát hiện. Sa Huỳnh rất đẹp, gió lùa sóng nước mênh mông với bãi cát vàng óng ả tơi mịn, làn nước trong xanh, độ dốc ven biển thoai thoải cong cong hình lưỡi liềm chạy dài 6km, cùng hàng thùy liễu reo vui trong gió lao xao. Xa xa là dãy núi Cấm, ghềnh đá Châu Me kèm những đảo Khỉ, hòn Bẹp, hòn Dù, hòn Khu Ông, hòn Son…

                              Cách bờ chừng hơn một hải lý là dải đá ngầm cùng rặng san hô, nơi đáy biển tập trung những đàn cá muôn màu tung tăng lượn tờ. Đầm An Khê - hang Én, đặc biệt hang Hóc Mó càng lộng lẫy vào mỗi độ Xuân về thì rừng mai vàng đua nở gần bên mé biển xanh dương và bầu trời bao la màu xanh thiên thanh… Bàu Nú còn hoang sơ trầm mặc um tùm, nơi đây có đảo khỉ & nhiều động vật hoang dã quý hiếm. Dân cư quanh vùng hiền hòa an vui sống đời bình dân mộc mạc với ruộng đồng sông biển. Tại đây là vựa muối quan trọng ở miền Trung: từ tháng 3 đến tháng 8 hàng năm cư dân khá bận rộn tấp nập làm các đụn muối to cao hun hút bạt ngàn. Sa Huỳnh là vựa khổng lồ làm con Nhum (còn có tên “Cầu Gai”) ta ưa làm thành mắm Nhum ăn thì tuyệt. Cua Huỳnh Đế nổi tiếng nhứt, không đâu có loại cua đỏ thịt chắc thơm ngọt như ở vùng nầy.

                              Ngư dân miệt Sa Huỳnh thờ Cá Ông, mỗi năm vào ngày 16 tháng 3 âm lịch là ngày hội rất trọng thể của ngư dân Sa Huỳnh. Sa Huỳnh còn có bánh nổ nếp ngự là đặc sản của Quảng Ngãi vào những dịp Tết, hạt nếp ngự căng tròn nổ bung to như đóa hoa. Bánh nổ nếp ngự trộn nước sên đường mía mật, sau đó ép thành thỏi, thành lát bánh bỏ trong bao ni lông. Sa Huỳnh có ghềnh đá Châu Me, đảo Khỉ, là một thắng cảnh nên thơ…
                              *Thủy Thạch - *Đức Phổ - *Thạch Trụ - *Mộ Đức; có nhiều đồn trú của quân nhân Việt Nam Cộng Hòa. Quân nhân đỉnh đạc nghiêm trang mặc sắc phục chỉnh tề. Họ không hổ thẹn là dòng dõi con cháu đức vua Nguyễn Huệ, Trần Hưng Đạo đại vương oai dũng cỡi voi đi đánh tan quân Mông Cổ xâm lăng, vua, quan, tướng và lính đã chiến thắng lẫy lừng qua:
                              Cậu lính là cậu lính ơi!
                              Tôi thương cậu lắm...
                              Nắng nôi thương chàng.
                              Lính nầy có vua có quan,
                              Nào ai bắt lính cho chàng phải đi? (1)
                              Hay là:
                              Ba năm trấn thủ lưu đồn.
                              Ngày thì canh điếm tối dồn việc quan.
                              Chém tre đẵn gỗ trên ngàn.
                              Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai!
                              Miệng ăn măng trúc măng mai.
                              Những giang cùng nứa lấy ai bạn cùng.
                              Nước giếng trong con cá nó vẫy vùng. (1)

                              *Phu Nhơn thuộc phủ lỵ *Sơn Tịnh cách xa *Quảng Ngãi 3km, đây là một Tỉnh cách xa Đà Nẵng đi về hướng Bắc, nằm ở ven vùng biển lãnh hải rộng lớn dài 129km, có sáu cửa biển đẹp, trù phú; đó là Tỉnh Quảng Ngãi. Phía Bắc Quảng Ngãi giáp Quảng Nam, phía Đông giáp biển Đông, Nam giáp Bình Định. Quốc lộ 1A và quốc lộ 24 giao tiếp tại Quảng Ngãi như huyết mạch của chiếc xương sườn, nối liền các Tỉnh với nhau từ các tuyến đường sắt, sông, biển. Quảng Ngãi có đầy đủ núi, rừng, đồi trọc trung du, đồng bằng và hải đảo. Gò Tăng ở Sơn Hà trùng điệp nhấp nhô núi tiếp núi cao 1.603m, núi Rết (Trà Bồng) 1.594m đình Cà Đăm (Trà Bồng) 1.400m, đình Ba Tu cao 1.137m. Tuy thời tiết khí hậu vô cùng khắc nghiệt vì ảnh hưởng bão lụt, vậy mà trời đặc biệt ưu đãi về tài nguyên phi khoáng sản, như có: mỏ Graphit & Silimanit (Sơn Tịnh), mỏ than bùn, quặng boxit (Bình Sơn), mỏ sắt núi Vũng, núi Đôi, Văn Bàn (Mộ Đức), v.v...
                              ***

                              Tỉnh Quảng Ngãi có ba con sông chính là: sông Trà Khúc, sông Trà Bồng, sông Vệ. Ba sông nầy lưu lượng thấp, nước cạn vào mùa khô và dâng cao ở mùa mưa lũ, đất bị bào mòn nên mất một lượng phù sa đáng kể phí hoài trôi ra biển. Quảng Ngãi bắt đầu có nhiều công trình kiến thiết xây dựng trường ốc, công sở, chùa miếu, nhà cửa dân cư khang trang hơn. Quảng Ngãi có mười Quận: Đức Phổ, Mộ Đức, Nghĩa Hành, Tư Nghĩa, Sơn Tịnh, Bình Sơn: Ba Tơ, Minh Long, Sơn Hà, Trà Bồng. Tỉnh lỵ Quảng Ngãi an ngự tại thị tứ Cẩm Thành. Ngoài dân bản địa người Việt (Kinh) Quảng Ngãi còn có sắc dân Hrê. Cro. Ruđăng, họ thường sống rải rác trên vùng núi rừng, thuộc: Huyện Nghĩa Hành, Minh Long, Ba Tơ, v.v... Quảng Ngãi còn được trời phú cho: Hai mỏ Granit Đức Phổ và Trà Bồng. Mỏ Graphit, mỏ Silimanit ở Sơn Tịnh. Mỏ than bùn Bình Sơn. Có ba mỏ sắt: Văn Bàn, mỏ sắt núi Võng, và mỏ sắt núi Đôi đều ở Mộ Đức. Mỏ đồng Ba Tơ. Mỏ vàng non rải rác ở các huyện thuộc Tỉnh Quảng Ngãi. Quặng Bônit Bình Sơn.

                              Đặc sản nổi tiếng ở Quảng Ngãi là: Mạch nha, đường phèn, đường phổi, kẹo gương. Quế. Điều. Ca cao. Song mây. Mật ong. Trầm hương. Sa nhân. Muông thú... Dưới biển có nhiều tôm hùm, tôm sú, tôm bạc, cua xanh, cá song, cá mú, cá nước lợ, cá nước mặn qúy hiếm. Họ có ngón nghề gia truyền mạch nha, đường phèn, đường phổi rất độc đáo. Đặc sản trên nổi tiếng có lẽ do nhờ... dưới chân núi có hàng dương liễu chạy dọc theo con đường xoắn ốc để đi lên đỉnh núi Thiên Ấn, trên ấy bằng phẳng rợp bóng mát. Và con sông Trà Khúc nên thơ, trong trẻo uốn lượn qua làng mạc xanh tươi trù phú. Nước róc rách chảy dưới chân cầu, ghe thuyền qua lại chở nhiều khoang mía, khoang dừa, khoang thuyền chứa nhiều lu hủ đựng đường mật trôi đi trôi về trên sông nước chập chùng.
                              Đây là trạm xe đò đậu lại cho lữ khách dừng chân tạm nghỉ qua đêm. Người chủ hiếu khách lịch thiệp đon đả giới thiệu các món ăn đặc sản. Lữ hành ăn cơm tiệm xong, chủ quán sẽ mời mọi người vào phòng trọ tắm rửa và ngủ nghỉ không tính tiền! Nghe mà phát thèm! Bốn khất sĩ ni cô mặc áo vá thụng vàng, đầu cạo nhẵn bóng, họ cúi đầu mắt nhắm, nhàn hạ đi chân đất, miệng lâm râm niệm Phật. Họ ung dung dường như chẳng lo toan điều gì trong cuộc sống, đôi bàn tay trắng thò ra ôm chiếc hộp nhôm, họ đủng đỉnh nhích đi từng bước trên phố chợ ồn ào náo nhiệt. Ngồi trên bến chờ sang xe đi Đà Nẵng, Hạnh thấy các em nhỏ trên vai đeo giỏ xách cói, các em lon ton chạy đi chạy lại inh ỏi chào mời khách:
                              - Chim mía Phú Phổ.
                              - Cá Bống sông Trà.
                              - Kẹo Gương Thu Xà.
                              - Mạch Nha Mộ Đức.
                              - Bà con ơi! Ghé lại mua dùm cháu. Mua đi mua đi!
                              Hoặc:
                              Ai về Quảng Ngãi quê ta
                              Mía ngon, đường ngọt, trắng ngà dễ ăn
                              Mạch nha, đường phổi, đường phèn
                              Kẹo gương thơm ngọt ăn quen lại ghiền
                              ... Mứt gừng Đức Phổ
                              Bánh nổ Nghĩa Hành
                              Đậu xanh Sơn Tịnh.
                              Mạch nha Thi Phổ
                              Bánh nổ Thu Xà
                              Muốn ăn chà là
                              Lên núi Định Cương

                              *Đại Lộc - *Bình Thạnh - *Bình Sơn - *Trị Bình - *Núi Thành… Thị trấn Châu Ổ phía Đông giáp với Xã Bình Thới và Sông Bi, phía Tây giáp đường sắt Bắc Nam, phía Nam giáp với Xã Bình Long, phía Bắc giáp các Xã Bình Nguyên và Bình Dương. *Diêm Phổ đã lùi lại thật nhanh khi đoàn xe lướt qua trên những cánh ruộng bát ngát, xa xa trên đường dài khoảng năm bảy cây số rải rác từng tốp một, có người chăn vịt kéo nghiên vành nón lá, co ro trong chiếc áo tơi lá che mưa rơi gió bấc. Đồng ruộng chỉ còn trơ cuống rạ, muôn ngàn chú vịt cổ lùn có những vòng khoan tròn trên cổ, như cô gái đeo kiềng coi thiệt xinh, bầy vịt đang chăm chỉ cúi đầu xuống ruộng. Hằng hà sa số bao nhiêu là vịt, ngan, ngỗng, cò… con bay lên, con đáp xuống, con rỉa lông rỉa cánh, hòa lẫn vào nhau đứng nằm lao nhao; tạo thành một bức hoạt cảnh sống động, thú vị như cò với vịt cùng chung dòng họ, không tị hiềm, không tranh chấp từng món mồi béo bở!
                              Khi xe chạy sát men bờ ruộng, má chỉ cho Hạnh biết phân biệt: cò Đúm lông đen & trắng, cẳng xanh. Cò Ngà lông trắng, tròng mắt màu vàng, cẳng đen. Cò Rán lông vàng, mỏ sọc dưa, cẳng trắng. Cò Quắm mỏ cong, cao lêu khêu. Cò Lép nhỏ con. Cò Sen lông trắng, cẳng, mỏ, mắt, màu đỏ. Ồ… thì ra cũng là “nòi giống cò” nhưng có phân biệt do khác “màu lông, danh gia thế tộc” ấy nhỉ! Tóm lại trông cò Sen là khá đẹp hơn hết trong tất cả “chủng tộc Cò”.

                              Trời càng nặng hạt mưa khi xe đến *Tam Kỳ. Tiết trời mùa Đông ở miền Trung thường mưa dầm gió bấc rất lạnh lẽo suốt ngày đêm (nếu không muốn nói là suốt mấy tháng), lạnh thấu xương. Có mấy người vừa lên xe, họ vấn điếu thuốc to bằng ngón chân cái. Họ nói hút như vậy mới thấy “đã điếu, hút cho đỡ lạnh và ấm bụng”. Họ ưa hút thuốc lá vấn nguyên nửa ngọn lập bập điếu thuốc suốt ngày, ít khi rời điếu thuốc trên đôi môi tím ngắt. Thói quen hút thuốc trong mùa Đông rét mướt thành ra ghiền mùi thuốc lá Cẩm Lệ. Đôi khi hút xong điếu thuốc, thì họ bật ngửa tại chỗ mà “say ke” vì Cẩm Lệ nặng kí lô nhứt trong dòng họ thuốc lá, được sản xuất từ An Mỹ, Phú Cang, Trà Kiệu, Nông Sơn. Ngoài ra:
                              Nem chả Hòa Vang
                              Bánh tổ Hội An
                              Khoai lang Trà Kiệu
                              Rượu thơm Tam kỳ...
                              … Quảng Nam nổi tiếng bòn bon
                              Chả viên Bình Định vừa ngon vừa lành
                              Chín mùi da vẫn còn xanh
                              Mùi thơm cơm nếp, vị thanh đường phèn...

                              *Điện Bàn. Vùng *Quảng Nam là miền đất sính lễ cuả Chế Mân dâng cho vua Trần Anh Tông để cưới công chúa Huyền Trân về làm hoàng hậu Chămpa. Quảng Nam có yến sào, đậu khấu, chè bắp, bánh đập, hến xào, nấu mì “cao lầu” đặc sắc và rất cầu kỳ. Quà lưu niệm đồi mồi đặc biệt quý. Nơi đây có cụ Phan Chu Trinh quê ở Tiên Phước, Quảng Nam, cụ có biệt hiệu là Tây Hồ trong phong trào Duy Tân, cụ chống cự bọn cường hào ác bá hà khắt bóc lột dân lành vô tội, cụ chống siêu cao thuế nặng. Thế nên chỉ vì yêu nước thương dân mà kháng chiến, cụ bị triều đình Huế đày ra Côn Đảo, ba năm sau cụ lại bị đày đi một hoang đảo ở Pháp. Tội quá!
                              ***

                              “Anh muốn kể Lai Viễn Kiều Hội phố
                              Đón đợi người sang nghiêng bóng sông chiều
                              Mái gỗ cầu cong sơn son chạm trổ
                              Mấy trăm năm rồi ngói vẫn ấm màu rêu” (2)

                              Hội An đất hẹp, người đông
                              Nhân tình thuần hậu là bông đủ màu
                              Hội An bán gấm, bán điều
                              Kim Bồng bán cải, Trà Nhiêu bán hành (cd)

                              Hội An (còn có tên gọi Faifoo) nằm ở hạ lưu thuộc vùng đồng bằng ven biển Tỉnh Quảng Nam, cách thành phố Đà Nẵng khoảng 30 km về phía Nam. Hội An nổi tiếng là cửa ngỏ mậu dịch tốt nhứt, thuận đường biển quốc tế từ Đông Nam Á lên Đông Bắc Á. Từ Thái Bình Dương qua Ấn Độ Dương với thương nhân Nhật Bản, Bồ Đào Nha, Trung quốc, italia, v.v... Một hải phố đặc biệt về tơ lụa ở thời kỳ cực thịnh. Hội An vừa cổ kính vừa tân thời, phố thị nhu mì nằm gần cửa Đại, có rừng phi lao ngút ngàn lộng gió, rừng dừa Cẩm Thanh trĩu trái chi chít & ngọt lịm. Duy Xuyên ở quốc lộ 1, có cổ thành Chiêm quốc Mỹ Sơn nằm bên sông Thu Bồn nước trong mát, dòng sông êm đềm xuôi chảy đến chợ Hội. Có lăng hoàng hậu Đoàn thị Ngọc, có mộ của công thần Hoàng Diệu đã trung liệt anh dũng bảo vệ thành Hà Nội ngày 25-4-1882. Ven thành là làng gốm Thanh Hà, làng rau Trà Quế, làng mộc Kim Bồng, làng yến Thanh Châu, làng Mực. Quế Sơn có những mõm núi mica, vân vân...

                              Phố Hội An có nhiều cây cổ thụ um tùm mọc lâu đời. Phố cổ là loại nhà hình ống cũ thấp lè tè, nhưng cột kèo chạm trổ hoa văn toàn làm bằng cây gỗ quý, mái ngói đầy rong rêu bám phủ, tường gạch xây uy nghi. Cứ vào đêm l5 khi trăng sáng treo trên đỉnh đầu, vầng trăng tròn vành vạnh như chiếc dĩa vàng ai vừa ném vào không trung, thì ở Hội An dân phố cổ tắt hết điện đóm, trong nhà treo hoành phi, trước mỗi hiên nhà họ treo lồng đèn (thắp nến hoặc đèn bão lồng) đủ màu sắc lung linh trông rất đẹp. Dưới nước suốt dọc hai bờ sông họ thả lồng đèn giấy lấp lánh lững lờ chập chùng trôi.
                              Buổi tối trăng rằm sáng vằn vặt người dân thị thành phố cổ hầu hết mặc áo dài, họ an hoà phong lưu mà đoan trang ngồi trước mỗi hàng hiên rộng trên thềm nhà, họ vui vẻ chơi các loại cờ, kể chuyện cổ tích, hoặc mời nhau những món ăn đặc sản… như bánh tráng đập, cơm gà Hội An, mì quảng. Chả thế mà ca dao đã ghi:
                              Ai đi cách trở sơn khê
                              Nhớ tô mì Quảng, tình quê mặn mồng.

                              Đặc biệt nhứt là món cao lầu nổi tiếng thu hút khách thập phương. Ta ngồi ở thuyền nhỏ chèo ra giữa sông, nhẹ nhàng thả từng chiếc đèn hoa đăng, ngắm nhìn những dãy đèn lồng lung linh, thì thú vị biết bao. Ôi bức tranh diễm tuyệt thiệt thi vị nên thơ, thanh bình huyền diệu cảnh đào nguyên ở thế trần, chỉ có ở nơi Hội An độc nhứt vô nhị mà thôi!
                              Hội An có nhiều đình, chùa, am, miếu huyền bí, kiến trúc sắc sảo chạm trổ tinh vi. Độc đáo tuyệt vời đáng kể nhứt là Chùa Cầu bắt ngang qua con lạch chảy ra sông Thu Bồn:
                              Ai đi phố Hội, Chùa Cầu
                              Ðể thương để nhớ để sầu cho ai,
                              Ðể sầu cho khách vãng lai,
                              Ðể thương để nhớ cho ai chịu sầu

                              Tháp mái Chùa Cầu cong lợp ngói âm dương, mái che hết cây cầu dài 12m, chùa và cầu gỗ uyển chuyển cong cong đều sơn son thiếp vàng. Các cột lim chùa chạm trổ hình phượng đầu rồng. Mỗi đầu cầu có hình thú đứng canh giữ, đầu nầy là tượng chó, đầu kia là tượng khỉ! Trong nội thất chính thờ ông thần Bắc Đế Trấn Võ người Nhật. Đâu đâu cũng thấy lung linh ánh đèn nến hiu hắt, hương trầm tỏa khói bay nghi ngút.
                              Ngoài Chùa Cầu ra, nơi Chùa Ông mái lợp ngói ống, bờ nóc đắp hình rồng men sứ màu, tại đây có thờ thánh đế Quan Vân Trường là một vị tướng trung hiếu tiết nghĩa thời Tam Quốc. Còn rất nhiều chùa: Quảng Triệu, Phước Kiến, Phước Lâm, Chúc Thánh...
                              Tóm lại, Hội An là một đô thị cổ, có lối kiến trúc truyền thống xưa từ thế kỷ 17 > thế kỷ 19, tượng trưng cho phong cách "phong lưu & nghệ thuật", đối đáp, bài chòi, bả trạo, hát lý, hát tuồng, hò khoan... Nơi đây có nền văn hóa phi vật thể đa dạng và phong phú đậm đà di tích lịch sử như: ngày 12 tháng Hai âm lịch có tế lễ, tưng bừng rước cộ, hát bội, các tay đua của hai đội thuyền Thu Bồn & Phường Chào dự tranh, mỗi chiếc thuyền đua có một người đội khăn đỏ, mặc áo đỏ ngồi trước mũi thuyền hát múa khích lệ trạo thủ bơi mau khoẻ khuấy mái chèo cuộn sóng reo vui.

                              Má và Hạnh đi Hội An thăm chị Huyền dưới cơn mưa dầm ảm đạm màu xám u tối, giá rét căm căm, lạnh kinh khủng. Ngày và đêm đan vào nhau, bầu trời nhạt nhòa mưa bão, cảnh vật mờ mờ trông càng thê lương buồn thảm vô cùng. Ba ngày hai đêm từ Đà Lạt về đây, vật vã trên chiếc xe chật như nêm. Đường dài vách đứng cheo leo, núi non hiểm trở, biển khơi mù mịt, sông nước mênh mông. Sự cực nhọc trên tuyến đường dài, làm thân xác hai má con rã rời, ủ rũ bơ phờ, như con mèo già thấm nước run lập cập trước gió bão.
                              Hạnh quặn xiết niềm đau đớn, vì sự nhọc nhằn cùng cơn vùi dập tinh thần, và tình yêu, khiến cô chết sững trên suốt một phần tư con đường cái quan nầy. Quả thật Hạnh rất đau buồn khi nhìn má lim dim mắt im lặng chịu đựng sự cực nhọc, vất vả vì con. Một đời má lam lũ theo chồng nuôi mười người con. Có lẽ má vẫn khổ cực suốt kiếp tần tảo vén khéo nhẫn nhục lo toan muôn mặt, không hề ngơi nghỉ. Có khỏe chăng là khi hai bàn tay má buông xuôi, đôi mắt đã mất vẽ nhìn. Dù thế nào chăng nữa, má vẫn thương con, má không kêu than quở trách, má sẵn sàng tha thứ. Lòng má từ ái bao dung, nhân hậu, khiến cô vô cùng ân hận, cắn rứt lương tâm. Má giống con gà mẹ giăng rộng đôi cánh, xù bộ lông ra để che mưa nắng, bảo vệ ôm ấp đàn con non dại, yếu ớt.

                              Từ hướng biển Đại Lãnh đi Hội An xa xôi vạn nẽo có những đoạn con đường luôn trơn trợt, càng gập ghềnh hơn vì có nhiều nơi đường bị đắp bờ mô, hào chông, bãi lầy, hố đất, có nhiều đoạn đường khách phải xuống xe, đội mưa lội bùn lủm bủm mà rón rén lần bước, mọi người phập phồng lo sợ hiểm nguy sẽ ập đến. Má con Hạnh chỉ ở chơi với gia đình anh Thương chị Huyền và các cháu vỏn vẹn có hai ngày một đêm, mừng vui thương nhớ chưa nói hết lời, thì họ vội vã chia tay. Thân thể nảy lên dập xuống theo từng nhịp xe giồng xóc lắc lư, chẳng biết mình có an toàn về đến nhà!? Hai má con vội vã về quê lo chuẩn bị Tết nhứt. Không ai là không lo ít nhứt năm bảy ngày đầu năm cho tươm tất, chu đáo. Trước tiên tưởng nhớ ông bà, cha mẹ họ hàng quá cố, sau sum họp đại gia đình. Thăm viếng chúc tụng nhau lời nồng thắm tốt đẹp.

                              Thế nên, dù xa xôi bận rộn cách mấy, họ vẫn trở về bên mái gia đình trong ngày đầu Xuân mới. Đối với Hạnh, vì mang trong lòng mối ân hận, buồn đau ray rứt. Tết đến hay Tết đi, cô đều chỉ cảm thấy buồn rầu đơn điệu, tẻ nhạt, trống vắng, xót xa, ân hận dày vò, đáng hỗ thẹn. Thôi, ta cứ trở về quê chúc Xuân. Thế cũng đành.
                              ***
                              Tình Hoài Hương

                              Ghi thêm ít trích đoạn về Hội An xưa:

                              (*) Chúa Trịnh xuất quân đánh chiếm Quảng Nam năm 1775. Sau khi chiếm Hội An, quân Trịnh đã phá hoại nhiều nơi quan trọng, để lại một Hội An điêu tàn, đổ nát. Năm 1778, một người Anh tên Charles Chapman đã ghi lại:
                              - "Khi tới Hội An, thành phố lớn này chẳng còn lại là bao, những khu phố được quy hoạch quy củ, với những ngôi nhà xây bằng gạch, đường lát đá, mà chỉ thấy một cảnh hoang tàn, làm cho ta cảm thấy xót xa. Trời ơi, những công trình ấy bây giờ chỉ còn đọng lại trong ký ức mà thôi". Thế kỷ 19, cửa sông Cửa Đại ngày càng bị thu hẹp. Sông Cổ Cò bị phù sa bồi lấp, khiến các thuyền lớn không ghé được cảng Hội An, triều đình nhà Nguyễn đóng cửa cảng thị, hạn chế ngoại giao với các quốc gia phương Tây. Năm Minh Mạng thứ 5, nhà vua có qua Hội An, nhận thấy nơi đây không còn sầm uất như xưa, nhưng vẫn hưng thịnh hơn các thị trấn lân cận khác. Hội An được chọn làm tỉnh lị của Quảng Nam(*)
                              (*) Sưu tầm trên internet.

                              * * *
                              Tình Hoài Hương
                              (*) Từ năm 1960 -> đến năm 1975 - bối cảnh ở thời điểm nầy, hầu như ít thay đổi. (Hoài Hương đã điều chỉnh bài viết trong quyển tập “Soạn Bài Dạy” & trích đăng trong truyện dài "Khi Định Mệnh Cúi Nhìn" cùng tác giả).
                              Rất trang trọng và chân thành cảm ơn qúy vị nhạc sĩ & nhiếp ảnh gia đã post hình, nhạc… trên internet, tôi xin mạn phép chuyển tải nhạc & hình, (nếu có copy right) vô bài viết, ngỏ hầu tăng thêm phần phong phú hóa hình ảnh sống động, từ tài nghệ độc đáo của qúy vị; qua quê hương Việt Nam cẩm tú của chúng ta.
                              Cẩn bút & Đa tạ!

                              Tình Hoài Hương
                              Last edited by Tinh Hoai Huong; 11-12-2020, 05:12 AM.
                              Bút trần nào tả được lưu luyến!
                              Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                              Tình Hoài Hương

                              Comment



                              • Tạ Ơn Đời Đãi Ngộ
                                Tình Hoài Hương
                                *

                                Vào tháng ngày gần cuối đời, có lẽ ba má cô ngao ngán cảnh đời ô trọc, nhân tình thế thái lọc lừa, dối trá. Nay ba má chọn nơi Mỹ Chánh nầy làm quê hương thứ hai chăng? Không đi tu ở đâu tốt bằng chốn rừng sim bạt ngàn nầy thật! Nơi cái xứ mà bầu trời hầu như rực lửa, chẳng bao giờ dịu mát lớp da đất. Mùa Hạ gió phương Nam thổi từng cơn nóng khô hừng hực, xoáy theo nhiều con trốt, bốc hốt tất cả mọi thứ gì có trong tầm cuốn, tàn phá dữ dội, cướp giật nhà cửa và nhiều thứ không thể tưởng tượng nỗi. Mùa Đông lạnh giá rét mướt mưa dần gió bấc lụt lội triền miên.

                                Hồng Hạnh ví ba má giống như Khuất Nguyên thời Chiến Quốc lưu loạn liên miên. Cổ nhân là người trí thức hữu ngã, hữu nghì, tài trí, đức hạnh, là bậc trượng phu ngay thẳng, là một thi hào của Trung Hoa, gặp Sở Hoài Vương bất tài, ham mê tửu sắc không lo việc nước. Khuất Nguyên bèn nhiều lần khuyên can, nhưng nhà vua không chịu nghe, lại nghe lời xu nịnh, đã hãm hại ông. Nên Khuất Nguyên bị lưu đày, ông buồn chán đã viết thiên “Ly Tao”, làm bài phú “Hoài Sa” để cảnh cáo nhà vua & lịch sử bỏ quên, rồi tự cột đá vô người, ông nhảy xuống sông tuẫn tiết mà chết thảm. Sách Luận Ngữ đã viết: “Quân tử nghiêm trang, mà không tranh với ai. Hợp quần với mọi người, mà không bè phái”. Thật quá hay.

                                Hoàn cảnh cổ nhân ngày xưa, và ba Hạnh là ông thầy thuốc sắp đến tuổi "cổ lai hi" nầy, không khác chi mấy. Có khác chăng là ở chỗ biết vận nước đến thời kỳ tha hóa, ba tự giam mình trong góc núi, lánh xa bể đời luân lạc, mong phục hồi mảnh đất trống, khô cằn sỏi đá đã bị đời vùi dập tơi tả, nơi chính phủ chưa cần trưng dụng: để quên Đất Nước, quên con người. Nhưng, có hai người không quên ba; Một người là em của ba: chú Trần Văn Lý, người làng Cây Đa, Phủ Hải Lăng, chú đã đứng ra lập Hội Đồng Chấp Chánh tại Trung Kỳ. Chú làm Thủ Hiến Trung Việt năm 1948. Người thứ hai là ông Trần Văn Hữu, người lập ra Quân Đội Quốc Gia, là một chính khách lỗi lạc. Công dân quý trọng ông, đồng tiền thời đó có giá trị cao, tương xứng với mức cần lao. Đồng bào được đãi ngộ xứng đáng. Hai ông đã mời ba tham chính. Ấy vậy mà ba chỉ mỉm cười hoà nhã cám ơn, ái ngại lắc đầu. Xin không. Ba má chỉ lặn lội lò mò tìm về nơi hoang dã. Đó là phần cuối con đường đi tìm sự sống bên người già nua run rẩy trên luống đất thiếu màu mỡ, thiếu tin tưởng. Đó là kết quả một đời lao lực, cần mẫn của mẹ cha đã nhỏ từng hàng nước mắt chan mồ hôi hột trên luống đất khô cằn. Ba má vẫn không sờn lòng cấy lại nắm mạ đầu tiên với hy vọng bừng lên sóng mắt bờ môi. Không có máy cày thì con người làm thay trâu bò, vươn vai ưỡn ngực ra kéo, cổ cày vai bừa.

                                Trước tiên, Hồng Hạnh tạ ơn Thượng Đế cho con người có sức lực bền bỉ, dẻo dai, can đảm phi thường như ba má. Ngài ban cho sự sống ở môi trường nào, mức độ nào, thì gia đình cô vẫn sống kiên cường, trong sạch và danh dự, cố vươn lên với đời. Khi ba má rơi vào hoàn cảnh cay đắng, cô không hiểu ba má có hối tiếc vì quyết định (có thể sai lầm), lúc họ trở về trên bờ quê nghèo xưa cũ không? Con đường nào cũng có ánh sáng và bóng tối, có vinh hoa và cơ hàn, điều kiên định dứt khoát duy nhứt là: Ba má đi trên con đường đó, có khả năng phán quyết sự vật trong bóng tối cơ cực. Hầu vượt ra ngoài ánh sáng sung mãn không? Hay, đôi khi ở ngoài ánh sáng còn bị thất bại! Hồng Hạnh chẳng thấy ba má thở than, mà có phần cam chịu qua nhân cách sống vị tha. Ba má coi trọng hạnh phúc, tình thương, phúc lợi người khác hơn sống cho mình. Ba đúng là vị lương y như từ mẫu. Vẫn hay, ba má không muốn thổ lộ nỗi niềm xin người khác nhỏ giọt chút lòng trắc ẩn?

                                Không niềm vui nào khác ngoài việc trong nhà cô thích nghe radio thường xuyên. Gia đình mình bây giờ gồm có bốn người, (ba má, anh Thuyền, Hạnh) rất biết ơn người đã chế tạ ra chiếc radio. Người đã nghĩ ra việc thiết lập đài phát thanh. Qua làn sóng điện, chúng ta có thể nghe nhiều chương trình vui vẻ & hữu ích. Hồng Hạnh xin cảm ơn các thi-nhạc sĩ đã phổ lời thơ, ý nhạc chuyển vào lòng đời. Dù xa xôi muôn trùng cách trở tận góc núi đầu ghềnh. Dù tay chân bận rộn vô vàn, bên tai mình vẫn nghe được bao nhiêu chuyện buồn vui xếp lớp lăn tăn. Hoặc nghe giọng ca trữ tình ấm áp tình người qua lời ca tuyệt hảo: họ đã thở vào không gian lẫn thời gian, như: Duy Trác, Sĩ Phú, Anh Ngọc, Tôn Thất Niệm, Mai Hương, Lệ Thu, Thanh Thúy, Bạch Yến, vân vân… và giọng ngâm thơ dạt dào âm điệu Hồ Điệp.

                                Nhứt là gia đình cô cần thùng thư cũ kỹ nhỏ xíu, nhưng rất quan trọng đối với mọi người. Nếu không có thùng thư, không có truyền thông báo chí, thì gia đình nầy không thể liên lạc với ai. Không hề biết tin tức xảy ra trong nước, qua tờ nhật báo mà ba đặt mua mỗi ngày. Hồng Hạnh cám ơn: Sở Bưu-điện, những người phát thư. Những nhà in ấn báo chí. Những văn, thi, hoạ, nhạc sĩ đã nhiệt tình trải lòng mình ra… viết nhiều truyện hay khắp đó đây. Ngày xưa ba má cho con tung tăng đến trường, vui vẻ vô tư lự hồn nhiên, như cánh bướm đầu xuân gặp nắng mới, Hồng Hạnh không biết lo đói khát, nhọc nhằn, vất vả, âu sầu. Vật chất không làm cô lo toan phiền muộn.

                                Còn bây giờ? Vấn đề quan trọng là làm sao có tiền mua thức ăn cho tám người lực điền dùng. Lo tiền trả công nhật cho họ vào chiều thứ bảy? Lo thu gom đống củi khô vào chất bên chái hiên nhà, nếu để củi ngoài sân, có cơn mưa rào bất chợt, bị ướt, thì làm sao nấu thổi? Hạnh rất biết ơn người nông dân đã ra sức làm lụng vất vả, nhọc nhằn, để người chủ và nhà nông cùng chia sẻ cơm ăn áo mặc. Tìm đâu có gạo, mắm, lương khô mà dự trữ mùa Đông? Khi cơn mưa phùn gió bấc, cơn rét rừng lạnh xé ruột da, nếu không có người dệt cửi, không có thợ may, thì không có áo ấm che thân! Sung sướng thay khi mình không phải chạy lo từng ngày.
                                Nếu vườn nhà ai gần hơn có lẽ anh Thuyền, (và sẽ có “Mười” theo anh) hái trộm rau cải, cây trái, về làm món ăn. Thật thế! Vấn đề giáo dục, trí dục, đức dục, đạo đức ở học đường, qua sách vở, từ chương. Nay trở thành khôi hài đen trước nỗi cùng khổ. Thì, giờ giáo huấn công dân, "Tủ Sách Học Làm Người", là con số không rỗng tuếch. Sách vở, bút viết, giấy trắng mực tím mực xanh mà làm gì, nếu mình đang "đói rã ruột". Khi sự đói khát đẩy con người đến cao độ, cô tưởng tượng, thèm miếng ăn kinh khủng. Hạnh mơ mình giàu sang ăn toàn cao lương mỹ vị. Chỉ cần nghĩ đến thôi, nước miếng đã ứa ra đầy miệng, là cô cảm thấy khát khao, cố tìm mọi cách để có món ăn. Dù là món ăn đạm bạc. Thế nhưng, Hồng Hạnh vẫn tri ân những ngôi trường cũ, nhứt là trường đời đã dạy em học hỏi nhiều điều thú vị qua những năm tháng lớn khôn.

                                Một hôm anh Thuyền bẫy hụt con chim hoàng anh rất đẹp, anh sợ nếu nắm chặt, nó sẽ chết. Nên anh nắm nhẹ quá, nó mỗ vô tay anh mà vùng ra thoát thân. Hai anh em đứng dưới cây tùng cụt cành, tiếc hùi hụi, ngẩn người nhìn theo con chim hoảng hốt bay vút về chân núi. Trên tay anh vương lại vài lông ống có tí máu hồng tươi. Anh Thuyền không dám bẫy bắt chim nữa. Hạnh thẩn thờ đem chiếc lông chim vô nhà, cô cắm trong lọ sứ nhỏ trên bàn học, vẩn vơ buồn suốt mấy ngày. Thời gian trôi qua giữa bến bờ yên lặng kéo dài, chiếc lông xơ xát không còn tươi màu vàng sáng, sắc nét như xưa. Gợi lên lòng cô buồn phiền nhiều hơn khi chim "Lẻ Bạn":
                                Mỗi ngày bên khung cửa.
                                Nhìn qua nóc nhà xưa.
                                Tôi ngỡ ngàng quan sát:
                                Con sáo đậu dàn thưa.
                                Hai con kia rỉa cánh.
                                Một con nằm ngắm mây.
                                Bạn tình trên góc ngói.
                                Thơ thẩn nhìn mây bay.
                                Cho đến mãi một ngày.
                                Hai con kia không thấy.
                                Đã vỗ cánh xa bay.
                                Một mình sáo còn lại.
                                Trong gió đứng bơ vơ.
                                Lạc lõng và trông chờ.
                                Tiếng gọi đàn thương nhớ.
                                Mình cảm thấy ngẩn ngơ.
                                Buồn xa vắng mênh mông.
                                Lẻ bạn giữa trời Đông.
                                Dù chỉ là chim sáo.
                                Tha thiết tình mặn nồng.
                                Giọng kêu chim lạc đàn.
                                Lặng lẽ hờn tiếng vang.
                                Còn đâu lời chim hót
                                Thánh thót xuân tình sang. (*)

                                Ít lâu sau cô lấp ló nơi song cửa, len lén nhìn hai con sáo làm tổ dưới nhánh chạc ba cây vú sữa, cạnh góc hiên nhà. Trên cây dừa, chim ác là là thân đen nhánh, có khoan trắng ở ức, nó không biết làm tổ, nên rình tổ trống nhảy vô đẻ trứng nhờ. Hồng Hạnh lắng nghe anh chị chim nhẹ nhàng thánh thót líu lo trò chuyện, cô đoán hôm nay chúng vui hoặc buồn, mà cười vu vơ, Hạnh dõi mắt nhìn công việc chim xây tổ diễn tiến đến đâu. Một hôm, Hạnh ngồi lặt rau bên hiên nhà, thì nghe tiếng chiêm chiếp ríu rít non nớt trên tổ. Cô đứng dậy nhìn lên. Bốn cái đầu nho nhỏ lơ thơ vài sợi lông, mỏ vàng mở lớn, chim ngóng cổ dài đưa qua đưa lại, run run, chờ mẹ mớm mồi.
                                Sau đó ít lâu, cô thấy bố mẹ làm huấn luyện viên cho bầy con nhỏ chuyền cành, chim bay từng đoạn ngắn. Khi mọc đủ lông cánh, chim bay đi xây dựng tổ ấm riêng, thỉnh thoảng chúng quyến luyến quay lại chốn xưa, xôn xao, ríu rít nhiều giọng hót ân tình. Lạ thay, lúc trưởng thành quay trở về chốn cũ, chim rủ thêm nhiều bạn bè thân thuộc nội ngoại hai bên hội hè đình đám ríu ra ríu rít. Chúng hân hoan hòa ái cất cao tiếng hót thâm tình lảnh lót bay xa, không hề biết mỏi mệt để tri ân nơi đã chào đời, cây vú sữa càng đông vui. Má vãi gạo, lúa, ra sân cho chim ăn. Chim có đàn cất tiếng hót thật hay như thể chim biết tạ ơn người ưu ái đãi ngộ. Hạnh cám ơn bầy chim không hề biết có người vui vẻ lắng nghe nhiều giọng hót líu lo nhã nhạc. Bầy chim vẫn vô tình tặng free cho thế nhân và riêng cô niềm vui trong sáng mà không ngờ.

                                Nhìn đàn chim chao cánh lên trời cao khi tiếng phi cơ gầm rú, Hồng Hạnh lại trang trọng nghĩ đến những người Lính Việt Nam Cộng Hòa, mà tri ân họ: Anh pilot lả lướt vút cánh vào vùng đạn mũi tên. Anh Lính Dù bay bướm lơ lửng trong không trung. Anh Hải Quân hào hoa trên những giang thuyền dập dồn sóng vỗ. Anh lính Bộ Binh băng rừng vượt núi. Anh Pháo binh, Thủy Quân Lục Chiến. Thiết Giáp… đều là những chiến sĩ oai dũng ngày đêm lo trấn giữ quê hương. Cảnh Sát. Địa Phương Quân, Nghiã quân, vân vân đều là những người lo bảo vệ tổ quốc… Họ vất vả nhọc nhằn băng rừng vượt núi, lội đầm lầy… hầu giữ gìn non sông Việt Nam gấm vóc không hổ danh là Hòn Ngọc Viễn Đông. Lính đem an cư bình yên đến từng ngỏ nhà. Thì, nếu Anh Là... Người Thương, hoặc anh là ai, thì Hồng Hạnh cũng… thưa rằng:
                                Nếu anh: Lính Nhảy Dù
                                Can trường giữ biên khu
                                Sánh vai ta cùng bước
                                Nắm tay diệt quân thù.
                                Nếu anh là Bộ Binh
                                Hay là lính Pháo Binh
                                Đọc thư em dịu ngọt
                                Những vần thơ chân tình.
                                Anh là Thiết Giáp quân
                                Em là mây mùa xuân
                                Lang thang trên đầu núi
                                Che nắng cho người thân.
                                Nếu anh là Phi Công
                                Lả lướt trên thinh không
                                Em là vì sao sáng
                                Soi đường giữa đêm đông.
                                Nếu anh: Lính Hải Quân
                                Em mơ là Nữ Hoàng
                                Nối nhịp cầu tao ngộ
                                Tình yêu xuyên đại dương.
                                Nếu anh yêu QUÊ HƯƠNG
                                Cùng chung một con đường
                                Em nguyện làm thi sĩ
                                Đem thơ trải tình thương. (*)
                                * * *
                                Tình Hoài Hương
                                (*) Thơ Tình Hoài Hương
                                Photo by Hoài Hương (cell phone)

                                Last edited by Tinh Hoai Huong; 12-01-2020, 04:16 PM.
                                Bút trần nào tả được lưu luyến!
                                Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                                Tình Hoài Hương

                                Comment



                                Hội Quán Phi Dũng ©
                                Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




                                website hit counter

                                Working...
                                X