Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Góc Truyện Tình HOÀI HƯƠNG...

Collapse
X

Góc Truyện Tình HOÀI HƯƠNG...

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Nỗi Đau Rìu Rịt Quắt Quay Bùng Vỡ



    Nỗi Đau Rìu Rịt Quắt Quay Bùng Vỡ
    Tình Hoài Hương
    *

    Núi đồi trùng trùng điệp điệp trên vòm trời Đà Lạt có nhiều con đường mòn uốn khúc dọc hai hàng hoa xá lị, hàng hoa mimosa, cùng hàng hoa anh đào vẫn e lệ phơi mình trong nắng sớm. Những thác nước muôn trùng sóng dội ầm vang chảy xuôi xuống cuối chân núi rừng hoang dại. Khi nhìn lại trên triền đồi cỏ nâu vàng mịn mượt như nhung, dường như Hạnh vẫn thấy một bóng dáng thân yêu xưa cũ, mờ nhạt âm thầm lang thang trôi theo mình, qua từng bước chân mệt mỏi, rã rời, bơ vơ… Lâu lâu có những cơn buồn mơ hồ ngấm ngầm trổi dậy không sao dằn nén nỗi, lòng cô bừng bừng nỗi khát khao luyến nhớ và xúc động quắt quay, tiếc nhớ cuộc tình đầu tiên (vì đôi mắt ấy, nụ cười ấy, dù hôm nay tình nhẹ như bóng mây bay biệt dạng trên đồi Cù, thế nhưng nó còn thu hút mình cách kỳ lạ).
    Tuy cô không cuồng si rạt rào yêu thương Nam nồng say đắm đuối như thuở nào nữa, vì mối tình xa cũ đã rơi rụng, không còn ấm áp hạnh phúc chan hoà trên từng sóng mắt làn môi. Cô không tự dày vò với nỗi hận đau cồn cào xé ruột như năm xưa. Bây giờ chỉ sót lại trong cuộc sống mình ít cay đắng muộn phiền, chút khắc khoải dịu dàng, bâng khuâng và xao xuyến tiếc nhớ một điều gì quá mơ hồ ngấm ngầm vu vơ, bâng quơ. Pha trộn với ít kiêu hãnh của tuổi trẻ bừng bừng sức sống ở trong tim cô; kèm theo điệp khúc dập dồn như hồi chuông ngân vọng.
    Thời gian lướt nhẹ đôi môi duyên dáng trên đầu cây ngọn cỏ, trong bối cảnh không gian và thời gian hữu tình nầy, Hạnh đã bỏ lỡ dịp may trong từng khoảnh khắc ngắn ngủi, tha thiết muốn tìm quên hẳn con người kia. Cuộc tình mà cô nghĩ đã tàn – thật sự tàn phai. Dù thế nào rồi... cũng phải dứt khoát sau bao rìu rịt rung cảm, đắm say, đau khổ, hoài nghi, chán chường, băn khoăn, bâng khuâng và do dự. Hạnh hiểu có cái gì đó mới mẻ đang nẩy sinh trong trí óc, còn mảnh tình cũ thì hấp hối, ngất ngư dẫy chết. Tuy nhiên cô cũng có chút tiếc nuối, xót xa, bùi ngùi quá đỗi nhiều thứ trong sự giẫy giụa đó. Muốn xem “anh ta”, chỉ là chàng trai giang hồ rong chơi qua bốn bể, như thiên tình ca dệt trong thơ, trong tiểu thuyết hấp dẫn; chẳng còn liên can thân thiết gì đến mình.
    Nếu mỹ cảm hơn, “chàng + nàng”: sẽ là hai nghệ sĩ tài hoa từng diễn đạt vai tuồng đã đóng trên sân khấu đời. Tấm màn nhung hạ xuống, ánh đèn màu vừa tắt. Bạn bè, người thân là khán giả, nếu có tiếc nuối một vỡ bi hài kịch, một chuyện tình bong bóng phiêu bồng bay như một ảo ảnh phù du. Thích thì họ vổ tay hoan hô, không ưa lại chê bai: xin tuỳ ý. Vì rằng: Khắp nơi chốn Hạnh đã đi qua đều cảm thấy trống vắng, đơn điệu, lẻ loi ghê gớm. Từ chiều đoạn tuyệt cuối cùng dưới thác Datanlania với Hoàng Nam, cô đã thay đổi hẳn; không còn là một hoa hậu vui tươi, hồn nhiên nữa, cô không nhìn đời bằng đôi mắt nhung láy đen say đắm, tin yêu, ngời sáng niềm hy vọng. Thắng cảnh Đà Lạt hữu tình, thiên nhiên cẩm tú nên thơ không quyến rũ nỗi mình. Một bóng vô hình phủ chụp lên cuộc sống cô (nhưng, Hạnh quên điều quan trọng nhất vì sự thủy chung một mối tình), để quyết định tương lai, điều bí mật đó canh cánh bên lòng rên rĩ, nhớ nhung buồn bã, âm thầm khóc than trong đáy tim: ấy là tình say đắm, rất chân thật vẫn đong đầy trong lòng nhau.
    Tính ra, kể từ ngày Hạnh biết yêu tha thiết, đến ngày chia ly vĩnh biệt, thời gian trôi chảy mãi, đời mỗi người trong “chúng ta”, đã rẻ về hai nhánh sông tách bạch ngút ngàn xa. Thấm thoát “chúng mình” xa nhau đã hơn ba năm rồi. Cô chưa quen thân một anh con trai nào khác, cho dù giao tế. Mặc dù chung quanh mình không nhiều thì ít đang có mấy anh bạn, (bạn đúng nghĩa) vẫn rộn ràng theo đuỗi cô khá kỹ. Nào Quốc biên tập viên, Dương thông tin, nào Quan, Thứ, Cảnh. Ấy thế mà cô chẳng biết chọn ai? Hạnh giống con chim đã bị trọng thương, nay đậu cành mềm sợ gãy cánh. Âu cũng dễ hiểu thôi.
    Cô về làm tại Ty Thông Tin và ghi tên học ở đại học Văn Khoa. Một hôm Ty tổ chức khoá hội thảo gồm một trăm người trên Lữ Quán Thanh Niên, mọi chi phí ăn ở, trong thời gian một tháng, đều do Ty đài thọ. Buổi trưa, không như những buổi trưa khác, chả hiểu tại sao cô ngủ chẳng được! Nhỏ Nuôi nằm kế giường bên cũng không ngủ. Hai chị em rủ nhau ra đứng trên balcon Lữ Quán, nhìn vu vơ xuống chân đồi, nói chuyện phiếm vui vẻ:
    - Để chị kể chuyện tiếu lâm cho em nghe, chuyện nầy chị viết đã lâu, nghe nè:
    - Thời xa xưa… khi còn nhỏ xíu, tôi được ba mẹ cho đi “ăn học” tử tế, đàng hoàng như ai. Nếu tôi “ăn không nói có” biếng nhác, "ăn không ngồi rồi", tôi liền bị ba mẹ cho "ăn đòn", "ăn bạt tai". Thế là tôi khóc ré lên như con heo bị chọc tiết, lăn ra nhà "ăn vạ". Anh chị có "ăn ngay nói thẳng" la rầy mắng nhiếc, thì em bảo anh chị ỉ làm lớn đã "ăn hiếp" em út.
    Nếu tôi có "ăn vóc học hay", là được ba mẹ cưng chìu hết biết. Lớn lên học đòi người ta, tôi bắt đầu "ăn diện" , cái đời tôi ở nhà phá gạo mẹ cha chuyên "ăn hại" , "ăn nói bậy bạ" , “ăn ốc nói mò” , có khi “ăn không nhai nói không nghĩ”, mà lẽo đẽo đi theo sau lưng nàng, liếc mắt đưa tình, tôi cho hai ngón tay vô miệng huýt gió, hoặc xíp xì… xíp xì… tán gái “ăn thề” , thì tôi thuộc vào hạng số dzách! Lớn thêm chút nữa dù tôi chả học hành là bao, mà tôi nèo nẹo bám váy xin tiền mẹ. Mẹ thương con dấu cha dúi cho tí đỉnh. Thế là tôi hí hửng lo đàn đúm “ăn chơi” , "ăn chặn" , "ăn to xài lớn". Hết sạch tiền chả biết làm gì tôi đi "ăn trộm" , "ăn cắp" , "ăn cướp". Chơi với bạn lại chuyên môn "ăn bòn" , "ăn quỵt", "ăn bẻo" , "ăn hối lộ". Ai nhờ vã cái gì cũng đòi “ăn hoa hồng”. Ân nhân giúp cho không mang ơn thì chớ, đã "ăn cháo đá bát".
    Khi tôi có bạn gái “ăn ý”, “ăn nhịp”, “ăn khớp” với nhau, thì trong lòng tôi nẩy sinh ra cái chuyện ấy… luôn rạo rực, nhúc nhích. Tôi chằm chằm tìm cách “ăn thịt”, "ăn non" cô bồ nhí xinh đẹp ra phết. Lúc tỉnh người, hỏi ra, thì “ẻm” còn ở trong tuổi vị thành niên. Ba tôi nghiến răng trèo trẹo:
    - “Thôi chết, “cá không ăn muối cá ươn”, hỏng cả đời trai mới nhớn rồi con ạ”!
    Dù tôi chỉ là đứa học trò học bè non choẹt, nhưng không dám “ăn mặn khát nước”, đành phải vác trầu cau cùng cha mẹ, họ hàng, thân hữu lò mò đến nhà nàng, ba bên bốn bề xúm nhau “ăn hỏi”. Rồi lật đật lo chuyện “ăn cưới”. Cưới nhau về là a lê hấp xáp lại “ăn nằm”, tự do “ăn dầm nằm dề”.
    Ba mẹ tôi rất phiền bực về cái chuyện tôi chỉ là đứa “con nít ranh” cà chớn cà cháo “ăn dưng ngồi rồi”, mà bày đặt “ăn mảnh” dang díu tình cảm lăng nhăng. Thiệt xấu hổ! Tuy thế hai cụ cũng thương con đứt ruột, con dại cái mang mà! Các cụ chuyển cho chúng tôi một phần tài sản kha khá, dặn con liệu đó lo mà siêng năng cần cù “làm ăn”.
    Dịp may đưa tới như cờ gặp gió, như cá gặp nước, như rồng gặp mây, vợ chồng son mở một tiệm tạp hoá, chủ tiệm và khách hàng hai bên “ăn giá” với nhau. Thuận buồm xuôi gió, đúng là có một thời huy hoàng! nên vợ chồng tôi đình huỳnh "ăn trên ngồi trốc", "ăn nên làm ra". Chúng tôi nay có một mụn con kháu khỉnh, cả nhà ta “ăn trắng mặc trơn” luôn luôn “ăn gỏi” , "ăn tôm hùm, ăn thịt quay" cùng sơn hào hải vị . Thiệt là "ăn sung mặc sướng".
    À… Vợ sanh con, tôi phải “ăn kiêng”, hoặc đôi khi tôi len lén "ăn vụng phở”. Tôi chả thể nhịn thèm, bèn nói láo vợ đi "ăn cơm khách" mai về! Nhưng thực ra là tôi đi "ăn vụng". Nhiều lần thành "ăn đàng sóng, nói đàng gió". Gọi là trai hào hoa "ăn bánh trả tiền" hậu hỉ cho gái "ăn sương". Chứ mình keo kiệt không chịu chi địa ra, tôi sẽ bị bọn ma cô đầu nậu cho "ăn đấm", "ăn đá", “ăn đòn” , rụng răng phải “ăn cháo” làm sao!? Hoặc có khi “ăn xôi nghe kèn”… ra nhị tì mà “ăn đất” là nguy to! Hạnh phúc chẳng được bao lâu, thì gia đình tôi "làm ăn thất bại" , chủ và khách đều “ăn chẹt” , “ăn gian” , “ăn bớt” , “ăn chịu” , "ăn thừa nói thiếu" hai bên “tận tình” lừa dối nhau. Cộng thêm cái tội có tiền là sinh tật nầy nọ! Ông “ăn chả bà ăn nem”. Thành ra vỡ nợ!
    Bấy giờ vợ đi chợ phải “ăn đong”, cả nhà buồn rầu bắt đầu cúi gầm mặt, chả ai thèm nói với ai câu nào mà "ăn mắm mút dòi"; "ăn bờ ở bụi". Chồng “ăn gió nằm sương”, vợ “ăn đường”, con "ăn bám" ông bà nội! Nằm vắt tay lên trán, bắt chân chữ ngũ, nhớ lại thuở xưa khi chúng tôi còn ngồi trên đỉnh vinh sang giàu có, sao mà sung sướng hạnh phúc thế! Chả bù cho bây giờ! Thiệt khổ hết biết vì “cái ăn”. Vợ con trốn chui trốn nhủi “ăn hại đái nát”, chẳng còn giữ thể diện hai mẹ con nó lò mò đến nhà bạn giàu có, bởi vì bạn ấy “ăn tiêu”, “ăn bận” hoặc “ăn xài” đều có căn bản, đúng mức “ăn chắc mặc bền” . Mỗi bữa cơm bạn tôi chỉ “ăn hương ăn hoa”, Mồng một ngày rằm bạn “ăn chay” một tháng hai ngày. Nhưng bạn ấy thích nhất là “ăn xổi” dưa cải dưa cà, “ăn vã” thức ăn với thịt heo luộc chắm nước mắm ớt.
    Phần mẹ con tôi dù “ăn gởi nằm nhờ” mà “ăn như mỏ khoét”, lì lợm cúi đầu “ăn như hạm”, “ăn hớt” cuả người ta hoài. Chúng tôi “ăn ở” nhà người ta “ăn chực nằm chờ”, lỏ hai con mắt nhìn bạn “ăn no vác nặng”. Còn chúng tôi thì “ăn thật làm giả”. Thiệt là chẳng “ăn rơ” tí nào! Bạn thấy chúng tôi “ăn đứt” bạn về việc “ăn tạp” quá sá, chịu không thấu, bạn khúc khích cười, nửa đùa nửa thật bảo:
    - Bà chị định ở đây “ăn vạ”, “ăn trả bữa” đấy phỏng!?
    - . . .
    Rồi bạn bồi thêm một câu:
    - Khiếp! Tôi “ăn uống” dường như cũng “ăn phải đũa” bà chị rồi! Nghĩ cho cùng thì mẹ con tôi trước kia cũng “đài các” như ai, mà bi chừ chả khác nào “ăn mày đòi xôi gấc”, nên không dám “ăn nói” trả treo “ăn miếng trả miếng” đanh đá cho “ăn người”. Nếu mà rơi vào trường hợp khác á hả, thì tôi quyết “ăn thua” đủ! Bất quá thì vô tù, chứ nhằm nhò “ăn nhập” gì cái chuyện ruồi bu. Thời buổi nầy mình như kẻ “ăn mày” chuyên “ăn lông ở lỗ” ở đầu đường xó chợ! Cùi rồi không sợ lở! Sau một thời gian "ăn năn đã muộn" vì mình với bạn chả phải "ăn đời ở kiếp" với nhau, thôi "ăn khế trả vàng" ; nghiã là ta phải làm việc cho bạn, tận lực vắt óc ra để làm “kế toán”, tức là tôi phải có… kế... "ăn theo", mà tính toán chi ly thiệt hơn trong việc “ăn ở” sao cho vừa lòng người! Cho có… tí đỉnh… tương chao chắm mút... (lợi thì có lợi. Nhưng… răng không còn)!
    Hai chị em sảng khoái cười ngất. Bỗng Hạnh lặng người im bặt, mặt mày tái xanh. Khiến nhỏ Nuôi lo sợ, rối rít hỏi:
    - Chị Hồng Hạnh! Sao vậy?
    - Ôi, anh ấy kia kìa. Người mặc áo xanh, quần jean đó.
    Cô dán mắt nhìn “chàng” đăm đăm, trông Nam khá gầy, khuôn mặt xanh xao, phiền phiền, tiều tụy. Có lẽ anh ta vừa bị ốm đau gì, nặng lắm chăng? Ồ, đã mấy năm qua, “em” lẫn trốn “anh”, không bao giờ cô dám chường mặt ra. Nên cả em lẫn anh đều “né tránh nhau”, thì phải. Làm sao cô biết Nam đã gầy đến độ thảm thương. Anh đi bộ vừa đi vừa nói chuyện với Xì Rô từ phía góc Võ Tánh đi tắt qua sân Lữ Quán. Họ đang lúi húi chia nhau một điếu thuốc lá, nên không trông thấy hai cô.
    Nam chỉ thoáng qua khu đồi cỏ Lữ Quán Thanh Niên nầy không đầy bốn phút, nhưng trong lòng cô dường như bừng sống lại cả một bầu trời thanh bình vui tươi thuở nhỏ, khi tuổi xanh vô tư lự rong chơi trên vạn nẽo đường. Rồi, lòng cô dâng nỗi đau cùng khắp, trái tim lại quắt quay nhói lên từng hồi, từng chặp, từng đoạn đau buốt, như có thanh sắt nóng thọc qua lồng ngực, khiến mình đau điếng lạ thường.
    Nuôi ngạc nhiên nhìn cô:
    - Để em chạy xuống kêu anh ấy lên gặp chị. Nghen!
    Hạnh gạt phăng, sừng sộ la Nuôi sao xí xọn xía vô chuyện người lớn. Cô để mặc Nuôi chưng hửng đứng trông theo bóng anh khuất vào khúc quanh. Hạnh vô trong Lữ Quán, đi ra cửa sau chạy như bay lên ngọn đồi cao, ngồi phịch xuống nệm cỏ xanh tươi, hai tay cô bưng mặt, vật vã than khóc tức tưởi, khóc sưng húp hai mắt. Nam như chiếc bóng bên Hạnh, mỗi ngày khi trời rực nắng nó luôn bám sát theo mình, khi trời vần vũ cơn mưa chiếc bóng biến mất tăm, lúc xế chiều thì chiếc bóng đối diện với chính mình, buổi hoàng hôn lặn xuống thì chiếc bóng chìm khuất theo. Lúc thắp đèn đốt nến thì hình bóng Nam lại thân thiện ấm áp hiện về… Suốt đời mãi như thế nầy sao, hở anh?
    Quá khứ để lại dư vị đắng cay, chua xót, đầy đau thương đã một thời là cuộc sống của Hạnh đó. Ôi! Cuộc sống không phẳng lặng, dễ dàng, yên vui gì, chẳng nương nhẹ trên đôi cánh thời gian. Ngày, tháng, năm… đến, ra đi, rồi tàn, mang theo bình minh ngời sáng, hy vọng hơn. Cô kinh ngạc thấy mình háo hức tìm quên, đi tìm quên. Thay vì ngày xưa cô chạy như bay ra bưu điện Đà Nẵng, cuống quít gọi anh về với mình: “Phải gặp Nam”, “Phải gặp anh”. Thì ngày nay điệp khúc cuối cùng trên từng nốt nhạc sầu lắng trầm buồn vang lên: “Phải quên Nam. “Phải quên Nam”. Muốn quên anh, em cần có thời gian và một bóng hình tuyệt vời khác. Thời gian bây giờ lại quá dài, quá tẻ nhạt, trống vắng, đơn điệu vô cùng, chán ngắt trong việc làm, chứ không như Shakespeare nói: “Thời gian là khách thập phương, nó lạnh lùng bắt tay người bạn ra đi, mở tay ra ôm người mới đến”.
    Tất cả! Như tiếng từng giọt nhạc mưa thánh thót rơi… chỉ còn lại điệu ngân dài rền vang tiếng ai rền rĩ “forget me not”, khi ta trôi về miền quá khứ nóng bỏng nhức nhối buồn đau. Như mới xảy ra ngày hôm trước, khi lớp sương mù tan đi, lộ ra hình ảnh dĩ vãng rõ nét, rồi tan loãng về chân trời vô định. Như con tàu chạy trên sóng nước, bị sóng cả lấp đi bọt bèo, rong rêu, cùng nỗi đớn đau dập xuống lòng hồ, để làm đầy thêm hương vị cho đời. Suy cho cùng, Hạnh không muốn phí phạm thời gian, và sức lực đấu tranh với muôn vàn cay đắng, tủi hờn nữa! cô phải dứt khoát tìm ra một lối đi riêng biệt –phải dứt khooát quên Nam và tự đi tìm kiếm hạnh phúc đích thực rất mực chân thành, trân qúy, trọn vẹn tin yêu, tha thiết và mê đắm; để mỉm nụ cười xinh xinh, âu yếm nói với người rất yêu dấu: “Em yêu anh vô cùng”. Mặc dù, cô chưa biết hạnh phúc đó… đang đứng ở phương nào!? và “Ai sẽ là hồng nhan tri kỷ”, khi:
    Đường vào văn thơ muôn vàn thi vị
    Không tỵ hiềm, chẳng phân biệt thân quen
    Không phân chia cao thấp lẫn sang hèn
    Mặc khách tao nhân dập dìu tình ý.
    Thơ, nhạc, họa… với muôn màu ý nhị
    Khúc hàn huyên đầy hương vị thanh tân
    Khi trăng lên lúc gió núi mây ngàn
    Tiếng ca hát quyện cung đàn nốt nhạc.
    Ta hò hẹn tình nồng hoa thơm ngát
    Gió chiều xuân bát ngát én bay sang
    Mong ước sao tình tri kỷ vẹn toàn
    Khói trầm nghi ngút "cầu Hoàng" khúc nhạc. (**)
    Đến bên nhau buổi hoàng hôn nắng nhạt
    Cảnh an bình như lạc động hoa đào
    Mặc biển khơi triều vỗ sóng lao xao
    Ta chung lối dắt nhau vào tình sử.
    Anh thần tượng, em một thời kiều nữ
    Bên sân trường đại học nón bài thơ
    Xin một lần hội ngộ dẫu giấc mơ
    Hỡi tri kỷ là ai, cho em biết?
    (*)
    ***
    Âm thanh lao xao từ thác nước chảy ầm ầm hoan ca đổ triền miên đó đây trong thắng cảnh Đà Lạt, sương nhạt nhoà lướt thướt bay bay trên những đỉnh cây thông nhọn hoắt rũ rượi kéo theo tiếng gió xôn xao rì rào văng vẵng bên tai. Rồi tiếng mưa chầm chậm lác đác tí tách rơi lộp độp từng giọt trên chiếc dù đen, mà em Liên đang che cho hai chị em đi tà tà. Bụi phấn thông vàng bay nghiêng trong không gian chưa hẳn tạnh, gợi lên trong lòng cô biết bao chuyện vui buồn xếp lớp lăn tăn. Hạnh chợt nhớ những ngày mưa năm cũ, nhớ tiếng chuông giáo đường ngân nga ở mấy mùa Thu xa xưa. Cô đã đi trên quê hương binh lửa trong mùa thương khó ấy, đã trải qua những giờ phút hãnh diện, đắt thắng vẻ vang huy hoàng khi trở thành một hoa hậu ở tại Sơn Trà, Đà Nẵng, cũng là bước đầu tiên hình thành một nhân cách sống khá lẫy lừng vẻ vang. Hạnh nhớ về thời tóc thề chấm ngang lưng, mắt chưa vướng bụi mờ. Thuở ấy đẹp biết bao! Nay lòng cô chùng hẳn lại, cảm thấy thật thấm thía xót xa buồn.
    Hai chị em đi tắm nước nóng ở tiệm Vinh Quang. Lúc ra về vừa đi một đoạn ở khu Hòa Bình, bất chợt cô gặp Thiết, bạn cũ từ hồi ngồi ở trường Trung-học. Mới bốn năm mà bây giờ Thiết đã học Y-khoa, năm thứ hai. Anh cao lớn trổ mã nên đẹp trai ra phết. Thiết ở Phan Rang lên Đà Lạt nghỉ mát. Anh vui mừng đứng lại bên lề phố nói năm ba câu, rồi thân hữu mời hai chị em cô đi ăn cơm tối dưới tiệm Như Ý. Chúng tôi đi ngược xuống con dốc nhà làng, em Liên lanh lẹ, vui vẻ liếng thoắng đi phía trước Hạnh và Thiết. Bỗng cô muốn nghẹt thở khi thấy “cố nhân” cặp cổ một con ca va tô trét phấn son lòe loẹt, trời Đà Lạt rất lạnh, nhưng ả mặc hở hang diêm dúa để lộ bộ ngực thỗn thện lòi vú mướp, cốt ý khêu gợi đàn ông; đúng là hạng gái thứ thiệt rùi. Họ cười cợt ôm hót, thọc lét, tốc váy lên, rờ rẫm nhau, coi mất tư cách rất trơ trẽn, chớt nhả ở ngoài đường ngoài lộ không hề xấu hổ, rồi họ cúi đầu ôm nhau xà nẹo hun hít, nghiêng ngã cất bước như kẻ say.
    Chắc chắn một điều là cố nhân không thể thấy cô, vì dưới ánh sáng của ngọn đèn đường vàng vọt mờ tối hắt lại, rọi phía sau lưng Hạnh từ trên cao, nên đã úp bóng cô, từ ngọn đèn mờ Hạnh có thể trông thấy rõ Hoàng Nam, mà anh ta thì chưa thể nhìn ngược lên vùng ánh sáng mờ chói, nơi cô đang đứng. Do con đường đất quá chật hẹp, lầy lội, trơn ướt, chỉ vừa đủ cho một người bước qua, còn người đi ngược chiều thì phải lại đứng chờ lối đi. Thiết đã nhảy qua lề trái đứng né ở vũng lầy, anh thấy Hạnh đờ đẫn, băn khoăn, lúng túng, Thiết tưởng cô sợ trơn trợt, sợ bẩn áo quần, sợ té, không thể bước đi, nên anh hồn nhiên chìa tay ra nắm tay Hạnh, để dìu cô nhảy qua vũng sình lầy.
    Kỳ thực thì Nam cũng vừa bước đến gần sát bên Hạnh, để chờ lối đi rất chật hẹp nầy mà thôi. Hoàng Nam ngẩng lên nhìn, mặt đối mặt mắt nhìn mắt rất sát, để có thể nghe thấy hơi thở, hoặc mùi hương cuả nhau. Nam sững sờ hoảng hốt vụt buông cổ con ca-va ỏng ẹo đang sỗ sàng cười hô hố kia ra. Chỉ có “riêng hai chúng tôi nhận biết nhau” trong số năm người cùng đứng bên vũng lầy! Bỗng Nam nhếch mép mỉm miệng cười. coi thật lạ, thật đểu. Cô hiểu nụ cười đó đầy mỉa mai và bội tình chua xót. Thà Hạnh chịu nhìn sâu vô mắt Nam, biết chút tự trọng, hổ thẹn trĩu nặng u hoài, còn hơn anh ta hiểu lầm “tay nắm bàn tay” khi Thiết ân cần dìu cô đi qua vũng bùn thế nầy. Thật vô duyên dị hợm... oan hơn oan Thị… Kính! Tự dưng cô cảm thấy bực bội, tức tối, giận hờn vu vơ sao đâu! Thì đó, chàng bá vai kẹp cổ “cợt nhả, thô tục, sờ mó” với con ca va kia ngay ngoài lộ, cô chưa khinh-khi anh thì thôi, thì sao Nam nhếch mép cười ruồi hỉ!?
    Trọn bữa cơm, đứa em họ vui vẻ ăn uống no nê. Thiết vô-tư-lự kể lại đủ thứ chuyện học trong ngành Y, chuyện tiếu lâm Thiết sưu tầm vui hết biết, vui lắm như sau:
    * Giáo sư hỏi cả lớp:
    - Ai có thể nêu ra hai sự kiện lớn trong cuộc đời của nhà thơ Anh Milton?
    Một nam sinh viên nhanh nhẩu phát biểu:
    - Sau khi kết hôn nhà thơ viết tác phẩm: "Thiên đường đã mất". Đến khi vợ chết, ông viết tác phẩm: "Thiên đường trở lại"...
    * Hai người bạn nói chuyện với nhau:
    - Có lẽ mình phải xin ly dị.
    - Sao vậy?
    - Vợ mình như câm, nửa năm nay không thèm nói với mình một câu nào.
    - Cậu điên à! Biết tìm đâu ra một người vợ tuyệt vời như thế.
    * Bia độc hơn rượu, bằng chứng trên thế giới chỉ có “mộ bia” mà không có “mộ rượu”.
    Thiết vui vẻ xoa hai tay, cười:
    - Chữ nầy từ biệt cũng kêu. Ngủ, đi, say, xỉn: người đều xài chung: “Cỏng chăng” nói lái là “chẳng cong”, mà chẳng cong thì là “thẳng”. Bỏ dấu hỏi là “thăng”, thêm huyền là “thằng”, thêm nặng là “thặng”, và “thăng” là tiếng lóng của phe ta dùng đủ nghĩa: bái bai, ngủ, xỉn... (1)
    - Trong các vật hiện hữu, cái gì xưa nhất? = Thượng Đế, vì ở thời đại nào, Ngài cũng hiện hữu.
    Nói với nhau vui vẻ hồn nhiên vô tư lự đến thế, ấy vậy mà Hạnh mơ hồ ngơ ngẩn không biết Thiết nói gì, và anh đãi mình ăn những món gì. Tâm trí cô rối bời suy nghĩ, miệng ăn (cô vẫn hậm hực vì cái nhếch mép méo xẹo mó xọ của Nam lắm), mắt cô thẩn thờ nhìn Thiết, nghe tai nầy lọt qua tai kia. Có một điều Hạnh ghi nhận tình bạn thật đúng nghĩa, có nhân cách sống, hoà ái, hồn nhiên, tận tình an ủi, lắng nghe và đồng cảm sẻ chia. Tình bạn quả thực đơn sơ, khá dễ chịu, không đòi buộc ta điều gì sang trọng cao siêu. Không cần xây trên cung bậc vinh hoa hay yếu hèn, sang giàu hoặc học vấn thấp cao. Thiết tận tình chỉ bày những kinh nghiệm sống, nhiều điều về y khoa mà anh đã học hỏi am tường khá bổ ích. Thiết và cô là đôi bạn chân tình tốt, rất đáng quý trọng vậy. Sau vài giờ hàn huyên tâm sự. Ba người chia tay nhau.
    * * *
    Một hôm, Hạnh đi làm về sớm, vừa đến cổng nhà, cô thấy người phát thư đã gài lên cổng mấy tấm post card, trong đó Nam ghi địa danh Manila, Kuala Lumpur, Úc Châu. Tim cô như ngừng đập. Ngày tháng qua đi, nhịp cầu nối kết yêu thương còn ấp ủ trong hai tập thư tình dày cui (từ những năm cũ). Thì ra, mình cứ giận Nam kinh khủng. Và than ôi! vẫn yêu anh say đắm mà không ngờ. Khi hai mu bàn tay quệt hàng nước mắt, cô thút thít khóc dựa lưng vô cánh cổng lớn, thì thầm lẩm bẩm đọc:
    Sauffley Field NAAS, tháng 12 năm 19…
    Hồng Hạnh qúy mến,
    Anh qua đây đã mấy tuần. Nay có ít hàng gởi về thăm em, cùng gia đình anh chị Tuế. Dạo nầy em có khỏe không? Hẳn là vui và lạ nhiều nhỉ? Bởi vì, nhiều lần em gặp anh ngoài phố, mà em lơ đi. Thôi. Cũng không thể trách được, vì có nhiều lý do rất dễ hiểu. Chúc em vui vẻ, hạnh phúc.
    Anh Hoàng Phương Nam

    Đọc những hàng chữ hỏi thăm khác, suốt mấy tuần đôi mắt cô còn mờ lệ. Ôi! Nam vẫn nở làm cho mình đau đớn, đắng cay, lo âu, phiền muộn ray rứt đến thế sao? Không. Lần nầy thì không, cô đã quyết chí, nhất định dứt khoát rồi, dù lòng đau như dao cắt, dù tấm Post Card vô tri vô giác quyến rũ vô vàn dường như sẽ làm nhịp cầu nối kết yêu thương, còn ấp ủ trong hai tập thư tình năm cũ kia. Thì ra, “em” cứ giận “anh” kinh khủng mà không ngờ. Tại sao mình không nghĩ đến chuyện hồi âm đáp lễ, thẳng thừng dứt khoát một lần cuối cùng, cho xong; chớ còn dùng dằng niú kéo làm gì nữa, cho thêm phiền? Ừ nhỉ! Hạnh tần ngần đặt bút viết:
    Đà Lạt, mùa mưa lạnh năm 19 …
    Chào anh Nam,
    Khi vui - anh hãy cứ cười, Khi buồn anh cứ khóc. Khi chán - anh hãy tìm một lối thoát, và sẽ yêu đời, yêu người, bao giờ anh cảm thấy tâm hồn mình lặng yên. Kìa! Anh hãy nhìn xem trên dòng sông vào một chiều mưa bão, có chiếc thuyền nan đang ra sức chống chèo để vượt qua sóng gió. Nó đã chìm. Chìm mất. - Không. Nó lại nổi lên rồi. Đường đời với cảnh ngộ cũng giống như con thuyền và dòng sông. Khi êm đềm lặng lẽ, khi giận dữ, kiêu hùng.
    Sách có câu: “Bách niên thương hải biến vi tang điền”, thì tình yêu giữa anh và em thật trong sáng, nồng nàn, say đắm, nên thơ và phũ phàng, tàn nhẫn đến thế thôi. Đời là một cuộc bể dâu. Tình chúng mình đã… ./. thật rồi, thưa anh Nam. Mong anh đừng niú kéo làm gì nữa, không còn gì vui vẻ và hạnh phúc đâu. Bởi vì không biết anh hay là em đã luôn luôn cầm một cây dù suốt bao năm trời trong tay, ấy thế mà ta không hề giương lên che mái đầu cho chính ta, mặc trời nắng chang chang, oi bức đến ngạt thở, hoặc trời mưa gió lạnh lẽo… Bây giờ thì cây dù đã rĩ sét và mục nát, không thể giương lên thân ái hân hoan cùng nhau che chung một cái dù như thuở nào… mất rồi!
    Em thân chúc anh thành công trên bước đường đi tìm tương lai và kiếm hạnh phúc mới.
    Chào vĩnh biệt.
    Hạnh
    *
    (**) Thơ Tình Hoài Hương
    Tình Hoài Hương
    Last edited by Tinh Hoai Huong; 03-26-2020, 08:14 PM.
    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

    Comment


    • Tháng Ba: Nước Mắt Tuôn Trào


      Tháng Ba: Nước Mắt Tuôn Trào


      Bầu trời xanh lơ điểm những hoa mây trắng qùy gối trên mặt hồ Xuân Hương sáng loáng như tráng men, rồi mây kéo lê thê bay vắt qua sườn đồi buồn thiu, mây lang thang trên con đường mòn đất đỏ vắng tanh, mây bò lên sườn dốc đầy cỏ vàng úa. Trong vùng sương mù và mây trắng xóa đó, tôi an phận đi và về giữa tiếng tíu tít và giọng cười nắc nẻ của các cô gái lí lí lắc lắc đang vui tươi ôm cặp đến trường. Cái lạnh cuối xuân mơn man lành lạnh ơn ớn len lén bay về, làm tê tê bờ môi vụng dại, khiến hai gò má phụ nữ và trẻ em luôn ửng hồng. Những tà áo dài trắng hòa với sương mai mờ mờ lung linh quyện lẫn nhau trong màn sương mênh mông. Mây và sương ru tôi vào mộng tưởng hoài mong luyến nhớ vô vàn... Tôi chợt cảm thấy lòng mình ấm lại những niềm vui khi ngày ngày tôi vẫn bình an, ung dung vui vẻ từ nhà đi trên đường quen thuộc đến nơi dạy học. Tôi đã có gia đình, chồng tôi (Luật) phục-vụ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Hạnh phúc đơn sơ ấy chẳng có được bao lâu, nay sương muối mù mù nặng hạt còn thấm ướt mái tóc, khi tôi đứng lớp giảng bài, thì... lịch sử Việt Nam đang còng lưng vác trên vai những tang thương đau đớn, dày vò, bi thảm tàn khốc nhất trong cuộc chiến tranh xâm lăng hung tàn.
      Luật hớt-hải chạy đến giữa những khung cửa kính kêu rè rè, bể loảng-xoảng, nâng nỗi khiếp sợ lên giếng mắt nhau. Ngoài xa, xa mãi tận hướng Du Sinh, hay Suối Vàng thì phải, từng hồi pháo-kích đì đùng nổ rền trời. Khói đen nghịt kéo theo mùi cháy khét, tởm lợm, cùng sức nóng rợn người. Có điều gì lo nghĩ đắn đo phiền muộn hay sao, mà khi anh nhìn vào giếng mắt tôi, Luật đã vội vàng cúi cụp xuống, chơm chớp hai giọt mọng nước đọng trên khoé mắt, và anh quay đi lãng tránh, mà báo tin động trời chẳng lành:
      - Thụy Mi ơi! Có lệnh từ thượng cấp báo cho quân đội phải di tản ông già bà lão, phụ nữ, trẻ con gấp. Còn toàn thể quân nhân, cảnh sát, nam công chức, tuyệt đối "phải tử-thủ tại Đà Lạt".
      Tôi nghe Luật báo tin ấy, cảm thấy rụng rời dật dờ bàng hoàng như sét đánh ngang tai. Tôi sực nhớ đến chuyện động trời: ngày 9 tháng 3 năm 1974 tại trường Tiểu-học Cai Lậy có loạt đạn 82 ly nổ rền. Ôi! Coi trên truyền hình có đoạn thời sự đã chiếu đi chiếu lại: thấy hằng trăm trẻ em vô tội chết đau đớn thảm thiết, thương tâm xiết bao! Bỗng dưng tôi lại nhớ vào khoảng năm 1973 có một thời người ta ùn ùn leo lên núi Lâm Viên: xin nước của Phật Bà ban phước cho bá tánh, hầu trị tà ma bệnh tật, bình an, hoà bình. Bà chị ruột của tôi đã vất vả nhọc nhằn leo núi, khổ sở đi, và khệ nệ bưng về mấy bình nước. Nay thì... "nước" chẳng thể dùng. Và nữa… một số thị dân Đà Lạt nhiều người truyền tin cho nhau rằng: Từ những cánh rừng xa hun hút, suốt ngày đêm đã xuất hiện nhiều đàn sâu róm nối đuôi nhau lũ lượt kéo xuống biển. Sâu róm chết la liệt trên đường (lúc băng qua đường). Những xe khách, xe đò, xe nhà đi từ Đà Lạt xuống Phan Rang… đều thấy. Tôi không biết chuyện tiên tri về đoàn sâu róm và đoàn người sống trên đời lố nhố, đang bỏ núi rừng băng đường vượt sông ùn ùn ra biển, thực hư ra sao. Tuy nhiên tôi tin rằng nếu ai đã từng sinh sống ở vùng Cao Nguyên thời ấy, đều biết, hoặc nghe rõ về chuyện Phật Bà hiện lên chỗ nọ chỗ kia. Có cả chuyện mặt trời xoay quanh phụ nữ tiên mặc áo lụa trắng, thắt lưng xanh, tay bế hài nhi đứng trong vầng mây... và đoàn sâu róm nườm nượp đi xuống biển.
      Bây giờ tôi chưa biết tình hình náo động nầy sẽ ra sao khi ôm nhau chạy về nơi vô định, nên càng run sợ tột cùng! Phải cho học sinh dọt lẹ mà thôi. Tôi thều thào dặn-dò học sinh thu dọn sách vở, lo chạy mau về với gia đình. Trong trường tôi có cô Phùng dạy học sát bên vách lớp. Phùng xin tôi cho vợ chồng và đứa con nhỏ đi theo. Sau một vài phút suy nghĩ, cuối cùng chúng tôi đồng ý cho họ đi nhờ xe nhà của mình về Nha Trang. Vì Phùng không có phương tiện di chuyển, mọi ngả đường bộ về Sài Gòn bị phong toả, kẹt cứng, bế tắt. Duy chỉ còn quốc lộ chính từ Đà Lạt xuôi về miệt Phan Rang, Nha Trang, Phan Thiết là có thể chưa bị mất. Không có một chiếc xe đò nào muốn chở khách, nếu ai may mắn lắm thì hoạ may chủ xe cho lên ngồi trên mui, nhưng giá tiền một người đắt gấp mười lần thường ngày. An toàn nhất là ngoại trừ ai có xe nhà. Vì chính phủ đã trưng dụng hàng không quân sự và dân sự, để làm những việc cấp bách cần thiết hữu ích khác. Vợ chồng tôi vội leo lên chiếc Peugeot 404 của mình chạy về nhà. Đồ đạc trong nhà đầy dẫy! Tôi lính quýnh quờ quạng run rẩy không biết lấy thứ gì? Làm sao có thể gom đi cả gia tài đã dành dụm suốt đời người trong chiếc xe bé tí xíu? Luật la:
      - Mau lên em. Bỏ của chạy lấy người. Còn người còn của mà em. Mẹ, em và các con cứ lo đi đi. Anh ở đây sẽ tìm cách gởi từ từ những thứ cần thiết theo xe đò xuống Nha Trang, cho mẹ con em dùng sau.
      Trong khi chờ đợi tôi thu xếp hành trang, Luật kiểm soát xe cộ, sau đó anh báo với tôi sẽ đi châm xăng, dầu nhớt vô xe hơi đầy đủ. Tôi dặn dò các con thu xếp gọn gàng sách vở bút viết cần thiết, giấy khai sinh cuả mỗi đứa con bỏ vào mỗi cái cặp riêng của con cần mang theo. Tôi không còn tâm trí để nhớ một cái gì, lấy cái nầy thì tiếc cái kia. Vì ngôi nhà đồ sộ ba tầng lầu đúc bê tông cốt sắt lót gạch bông dài 45m rộng phủ lòng 5m, sẽ buồn tênh và trống trải, mất mác hết khi vắng chủ nhân. Có thể ngôi nhà sẽ không bao giờ đón chúng tôi trở về. Mặc dù tôi đã để lại hết tất cả gia tài cồng kềnh quý giá, nặng nề, do công khó lao nhọc bao năm qua do vợ chồng tôi tằng tiện dựng xây mua sắm. Tôi không giàu có lắm, nhưng giờ đây thì thứ gì cũng có thể không còn, tuy sự cần cù, nhẫn nại chịu đựng lao khó và lòng tin yêu, độ lượng cùng tự trọng thì tôi không thiếu. Cái gì đời cũng ưu ái cho tôi sao!? Nhưng chưa chắc bây giờ tôi cần những thứ đó. Giống như chiếc xe thổ mộ đã chở quá đầy hàng, nếu chất thêm vài trái dưa lên nóc, chẳng biết xe và dưa sẽ đỗ lăn mất lúc nào. Vậy thì ta nên giữ lại những thứ gì thật sự cần thiết trong lúc khẩn cấp mà thôi.
      Tôi lo nấu hai nồi cơm hơi nhão thật to, dùng khăn ẩm vắt ra từng nắm nhỏ. Tôi gói chà bông, ký lạp xưỡng, khô cá, khô bò, kí giò lụa, dưa leo, cà chua, cà rốt, rau sống, hai thùng mì gói, mươi bọc cơm sấy, mấy ổ bánh mì ba tê gan và bơ sữa, tiêu, xì dầu, muối, đường... Có sẵn nồi xôi đậu xanh, nồi cá thu kho măng với thịt ba rọi ngày hôm trước còn dư, cả nồi trứng thịt heo kho Tàu đầy, do mẹ Luật đã nấu hồi sáng. Vừa làm các công việc trên, tôi bồn chồn lo lắng, bồi hồi, luyến tiếc về sự ra đi. Bởi vì tôi không thể biết cuộc ra đi sẽ lành dữ ra sao, các con trẻ bé dại cùng đi với bạn bè trên dưới hai mươi mấy người (chung chuyến ở ba chiếc xe khác nữa của bạn). Nếu bị lỡ đường, chúng tôi sẽ có thức ăn chia sẻ cho nhau lót dạ. Tôi khiêng một thùng nhựa 20 lít nước lọc ra sân. Hai cái bô có nắp đậy. Mùng, mền, quần áo len, quần áo mỏng, giày, dép, linh tinh... cho bà mẹ chồng, tôi, và các con chu đáo, tươm tất.
      Đã gần đến giờ hẹn, nhưng không thấy Luật đâu cả, tôi quá sốt ruột lo lắng vô cùng. Thì ra sau đó mới biết Luật chạy vô Hà Đông báo tin cho gia đình ông cậu Cương, và gia đình bà Tề lo liệu di tản. Thật là tội, ở trong ấp mù tịt chuyện thời sự náo loạn, họ ung dung đi tưới rau, không hề biết ngoài phố nhốn nháo ra sao. Luật phải đưa cậu Cương ra phố bán hai cây vàng. Cầm đồng tiền giấy nhẹ, có thể mua gì cũng được, hơn cầm cả thỏi vàng, chả lẽ mua ly trà, ly nước dừa, mà đưa cả chỉ vàng, hay cả lượng vàng ra? Mất toi mạng như chơi. Có mà điên! Hầu hết các tiệm vàng trả giá rẻ mạc, hai cây vàng mà họ mua chỉ ép giá bốn chục ngàn. Cậu năn nỉ hoài mà chả ai thèm mua giúp. May sao có bạn của Luật (anh chị Kim là chủ tiệm vàng ở Tùng Nghĩa đến nhà chờ đi chung) mua giúp cho cậu. Ngọc Kim chạy giặc có những bọc vải ruột tượng, túi áo túi quần cả gia đình... đâu đâu cũng đựng vàng là vàng nặng trĩu. Họ rất sợ mất toi mạng vì thời buổi loạn ly mà có hằng tá vàng chình ình cả đống thế kia, chẳng khác nào “lạy ông tui ở bụi nầy” làm thể nào thu dú đâu được. Gia đình anh Kim cần đi chung với bạn bè có đông người thân thuộc, là điều rất mừng. Anh tin và gởi nhờ bạn mang mấy bọc vàng không sợ bị cướp giật giữa đường. Kim móc túi lấy bốn trăm ngàn đưa cậu, đó là anh trả cho cậu giá rất cao, coi như Kim cho cậu tiền, chứ không phải anh mua vàng. Cậu của Luật vui mừng khôn xiết, cậu lo chạy nhanh về nhà thu xếp.
      Các bạn thân hẹn nhau tập họp ở nhà tôi đúng hai giờ chiều là lên đường. Dưới chân đèo Krong Pha nhìn lên Đà Lạt tít mù cao, những bè mây trắng xoá kéo thành một dong dài, mong manh lả lơi như hơi sương quấn ngang đồi thông tiếp nối đồi thông rủ tóc, trải thành dải sô tang quấn trên triền quê hương. Đồi thông từ từ khép bức màn sô tang mỏng dính trong gió rì rào lao xao lay động cây cành nghiêng ngả. Rừng lá thấp xưa kia xanh thẩm mịt mùng ngút ngàn bao cây gỗ quý, hôm nay hầu hết cây cối xơ xác héo úa. Tôi thực sự xa nơi chôn nhau cắt rốn. Nơi đó còn cha mẹ, anh, chị, các cháu, chồng tôi (lệnh cấp trên bắt buộc lính tráng phải tử thủ ở Đà Lạt). Không hiểu họ sẽ xoay-xở ra sao, khi tiếng đạn pháo ngày càng đinh tai nhức óc, dồn dập rót về trên đầu? Thỉnh thoảng súng đạn vun vút rền vang nơi xa xa, tạo thành những đường dài sáng loáng tóe lửa, vút qua vút lại trên bầu trời. Con đường cái quan ngày xưa rộng thênh thang, nay chật như nêm.
      Đoàn xe nhà tôi và bạn gồm bốn chiếc nối đít nhau chạy qua khỏi Krông Pha, tôi chẳng hề thấy ai đi ngược lên lại hướng núi, nơi chúng tôi đang đi xuống. Giòng người đen nghịt nối đuôi nhau đi chỉ một chiều xuôi về miền biển… Tôi định tâm nhìn quanh thấy hàng hàng lớp lớp người lũ lượt kéo nhau tấp nập vội vã đi đông hơn kiến. Kể cả những người gánh gồnh, vai mang lưng cõng, đều nối đuôi nhau lũ lượt tất tả lê lết đi bộ, bàn chân họ cột những tấm quần áo mà chen lấn trên đường nhựa nóng muốn rộp da. Bộ hành kiên nhẫn đi vội vàng, dáo dác nhìn ngược ngó xuôi, lo lắng bước thấp bước cao như thế, lòng tôi bâng khuâng nỗi đau xót lạ thường, tim chùng xuống ngàn đắng cay ngậm ngùi không thể tả.
      Trên đầu dốc tỉnh Ninh Thuận tôi nghe súng đạn luôn ì oành nổ ầm ầm đùng đùng, oằng oằng oằng… pằng pằng pằng… chẳng lúc nào ngớt. Xe hơi lớn, xe hơi nhỏ, xe jeep, xe GMC, xe honda, xe lam, xe ngựa, xe bò... xe lam, xe gắn máy, xe đạp, xe ba gác, xích lô... hầu hết mọi người có phương tiện di chuyển, cùng bầy trâu, bò, heo, chó, ngựa, gà vịt, chen chúc với người và người… tất tả xô đẩy nhau chạy bộ trên con đường chật như nêm, hổn-độn nối đuôi nhau chạy đi, chạy đi... ứ nghẽn.
      Mãi đến buổi hoàng hôn khi qua khỏi Ba Ngòi nóng bức xé da, đoàn xe di tản chậm hẳn lại, dường như không còn sức sống, cạn kiệt nguồn sống rồi chăng, những xe khác không còn yêu xăng, nên xe ù lì nằm ụ từng đám rải rác trên đường từ Phan Rang tới Ba Ngòi, nên quốc lộ đông xe và người càng bị kẹt cứng, xe chẳng thèm nổ máy nữa rồi! Lúc nầy trong đám bạn tôi ai nấy đều thật sự lo sợ và đau khổ. Mẹ con tôi ôm nhau ngồi lặng-lẽ trên xe, cúi mặt thút-thít khóc, lòng tôi rối bời, ngổn-ngang trăm mối, lo-sợ tột cùng. Tôi cho con nhỏ mẹ già di tản, thì ăn ở đâu, ngủ ở đâu? Nhưng ba bên bốn bề ai ai cũng ùn ùn lũ lượt kéo nhau đi, đông kinh khủng thế nầy. Nếu gia đình tôi ở lại, có lẽ càng cô độc và sợ hãi hơn khi bóng đêm bao trùm xuống vạn vật, súng đạn ùa về nổ chát chúa, đinh tai nhức óc mỗi đêm thế nầy, làm sao đây!? Lương quân-nhân, công-chức, như “tiền lính tính liền”, rồi sẽ ra sao khi bồng bế nhau chạy về nơi vô-định? Mấy lúc trước tôi đã bòn nhặt cất dấu được một số tiền kha khá, (đề phòng khi hữu sự bất chợt như bây giờ, thì có mà chi dùng).
      Nào ngờ, Luật thấy trong nhà có tiền, anh nghe bạn than thở, động lòng trắc ẩn là thể nào anh cũng “réo rắt, xeo nạy” cho bằng được, để anh mang tiền đi đưa cho bạn mượn. Cả chục lần như vậy thấy chồng ỉ ôi thở vắn than dài, “dằn vặt đay nghiến” tôi. Dù tôi đã quyết dú đút tiền cất đi, nhưng rồi tôi vẫn “lạt lòng nhẹ dạ” không nỡ từ chối lời anh yêu cầu. Vả lại, tôi không phải là loại đàn bà mê tiền hám lợi, quên tình nhân ái mà bo bo ôm rịt giữ kỹ tiền, tôi không thấy vàng bạc là mắt sáng như đèn pha. Tôi “dại lòng” nên trút hết hầu bao, đưa tiền để anh đem cho bạn mượn trước mặt tôi. Thật ra tôi cũng biết hoàn cảnh tùy gia đình mỗi người bạn, họ đều khó khăn rất tội nghiệp. Họ có tự trọng, nhưng quá khốn đốn mới muối mặt nhờ ta giúp đỡ. Bây giờ bất ngờ ra đi, nên tôi chẳng còn dư bao nhiêu tiền, thì nếu mẹ con tôi không lo chắt bóp ăn rau ăn cháo, chắc là chết đói nơi xứ lạ quê người thôi. Nghĩ tới đó... là tôi cảm thấy quá sợ hãi!
      Gió lồng lộng thổi những hàng cau lao xao cúi rạp mình gần sát đất, khi những trái hỏa châu mắt thần bùng nở đỏ bầu trời nghiệt ngã đang đè lên đầu nhân thế, hòa cùng khói thuốc súng và từng đám mây trắng bay vội vã như đàn cừu hốt hoảng té chạy tứ táng trên đồi cỏ khô. Tiếng súng đạn bay vút lên không trung, tạo thành những màn nhện đỏ au đan chéo qua chéo lại, có đường cát tuyến tiếp tuyến trên không gian mịt mù, tiếng đạn nổ dòn, hòa cùng tiếng lao xao của rừng xoài, tiếng côn trùng đồng loạt tấu khúc dạ trường bất tận… Đêm cuốn đi bởi giòng cuồng lưu cuồn cuộn xô đẩy nhau, chảy theo làn sóng người đang tìm cách thoát thân khỏi tai trời ách nước. Trời sập tối thì chúng tôi đến gần Vịnh Cam Ranh, nơi có chỗ neo tàu sâu, có sân bay chắc chắn và an toàn, có câu lạc bộ, có nhà máy làm nước đá, có hệ thống ra đa tối tân nhất bây giờ. Vịnh Cam Ranh là một lợi thế chiến lược tốt nhất của vùng Đông Nam Á. Từng là nơi tiếp liệu xăng dầu cho hạm đội trong chiến tranh Nhật - Nga từ 1904 > 1905. Ngày xưa là thế, nhưng hôm nay im lìm câm nín.
      Đoàn xe chúng tôi cùng đi gồm: gia đình Trần Ngọc: (mười chín người). Gia đình tôi (sáu người). Gia đình cô Phùng (ba người). Gia đình anh Bàn (mười người). Gia đình Kim mười người. Nhà anh chị Trí ở Cam Ranh có mười tám người, và không kể họ hàng di tản. Nay ở tại nhà anh Trí có thêm đoàn chúng tôi, vị chi tại nhà có cả thảy là 78 người! Kinh khủng quá. Anh chị Trí, mẹ anh, em gái và các con anh chạy ra mừng rỡ tíu tít rôm rã chào đón. Chúng tôi đến bất ngờ, Kim, tôi, Phùng, Ngọc, Bàn, cùng hùn tiền đưa chị Trí, nhờ chị đi chợ nấu ăn giúp có lẽ vài bữa. Ban đầu chị Trí nói qua loa, không nhận. Nhưng sau anh Trí thấy chị Bàn nhét tiền vô túi vợ, anh chồng hất hàm nhìn vợ, vợ Trí mừng rỡ xách giỏ đi chợ. Phút chốc hai ba nồi cơm trắng to tướng, nồi canh chua cá chim, cá thu kho và rau sống, rau muống luộc, đã đọn lên đầy nhóc. Những người mới tới dùng bữa no nê ngon lành. Nhưng tôi và Phùng có con dại, mệt quá nên chỉ ăn qua loa nửa chén cơm, rồi đi tắm rửa, giặt giũ áo quần.
      Phùng và tôi leo lên giường rù rì nói chuyện tới khuya. Phùng bảo đảm với tôi là chỉ cần "chúng ta" an toàn tới Nha Trang, thì mẹ con tôi sẽ ở nhờ tại nhà bà cô của Phùng. Nghĩa là hai gia đình tôi và Phùng sẽ tách riêng những gia đình: Ngọc. Quý. Cúc. Bàn. Sau buổi ăn tối, Kim từ giã chúng tôi đi về hướng Phan Thiết, vì có thân nhân ở đó. Ở Đà Lạt là quê hương tôi, dù gì tôi cũng dễ dàng xoay trở. Nếu về Nha Trang thì coi như tôi bơ vơ, lạc lõng. Tôi chỉ quen thân duy nhất cô Oanh trước kia dạy học ở Đà Lạt, hai năm nay Oanh đã đổi về Nha Trang. Chẳng biết Oanh có còn ở chỗ cũ không?! Còn Phùng về Nha Trang thì bà con hai họ nội ngoại có nhiều. Phùng hy vọng có thể lưu lại nhà thân nhân một thời gian, và tìm cách trở về Sài Gòn. Lúc nầy tôi thật mừng khi có Phùng cùng đi. Bốn giờ sáng hôm sau, chị Trí và mấy người đàn bà trong nhóm tôi lo dậy nấu mấy nồi cơm, canh cá tươi thật to như tối hôm qua. Tôm, cá, mực ở miền nầy quá rẽ so với Đà lạt. Chúng tôi ăn uống no nê xong, tất cả ba đoàn xe chúng tôi từ giã anh chị Trí, lên đường đi Nha Trang. Khi tôi tới chỗ trạm đổ xăng, vì xe hơi của tôi cũng cạn xăng, tôi đi tìm hầu hết mấy trạm xăng, không nơi nào mở cửa. Các chủ trạm xăng đều nói:
      - “Từ đây về Nha Trang các trạm xăng đều bị hết, khan hiếm, đóng cửa không có xăng từ một tuần nay”.
      Trời ơi! Lẽ ra tôi còn bình xăng phụ hai mươi lít dự trữ mà Luật đã bỏ sau cốp, nhưng tôi ỷ y là dọc đường có thiếu khối gì trạm bán xăng, mà lo. Thế nên tôi đã chia sạch xăng cho hai chiếc xe be, xe của Kim, xe Qúy; là bạn đi cùng đoàn. Tôi không hề dự đoán có chuyện bất trắc nầy. Chết rồi. Không ai chịu bỏ xe của mình lại nửa đường, (dù xe của họ cũ, coi thổ tả). Thế là tôi đành ngậm ngùi rơi lệ mà "bỏ rơi" chiếc xe hơi Peugeot 404 mới của mình, (nếu chịu khó chật chật xí, xe tôi cũng có 18 chỗ ngồi) nằm ụ tại Cam Ranh. Đúng như Luật đã nói: “bỏ lại tất cả của cải qúy giá, bỏ hết, lo túm chạy lấy sáu mạng người mình nghen em. Còn người còn của mà em”!
      Mẹ con tôi, mẹ con Phùng leo lên xe lam của Qúy chật cứng những đàn bà, trẻ con cả thảy là mười ba người. Mẹ của Luật và đàn ông, phụ nữ mạnh khỏe khác thì leo lên chiếc xe be không mui. Dạo trước kia xe be nầy dùng chở cây gỗ, nay chở người. Khoảng hơn ba chục người lố nhố chen chúc ngồi trên xe be trần trụi không có bờ vách, họ dùng những sợi dây dừa cột chặt thân người nầy vô người kia, rồi cột vô một cây gỗ cẩm lai và đống đồ đạc cao chất ngất. Xe be và xe lam chạy chậm rì cà rị cà mò, nhưng tôi vẫn lo sợ người ngồi trên xe be chen chúc chật cứng có thể bị lọt xuống đất! Xe be không có mui che mặt trời nên càng nóng rát. Nhóm người lết bộ tay bồng tay bế các em nhỏ khóc la thảm thiết, mặt mày trẻ lem luốc, đỏ ửng như con tôm luộc, mũi dãi lòng thòng. Xe không thể chạy mau trên đường dài ngoẵng có đủ mọi thành phần và tầng lớp… đông hàng vạn người gánh gồnh đi bộ, có đủ thứ loại xe lớn nhỏ. Thỉnh thoảng những chiếc xe bò lọc cọc chở đầy người phủ tấm bạt bay phần phật.
      Đến gần ngả ba thì có một chiếc xe hàng mui bẹp dúm, bốn bánh xe chổng ngược lên trời quay tít máu me lênh láng, trên lề đường đã có mấy xác chết nằm ngay đơ, người trong xe ấy hò hét. Mẹ con tôi sợ hãi bưng mặt nhìn đi chỗ khác, tôi tột cùng run rẩy hoảng loạn, tim nghẽn nghẹt ứ cơn đau, thân thể muốn bay bổng lên chín tầng mây. Đồng thời xe lam của Quý bị hư, cũng do chất đầy người và quá nóng máy, xe lam nầy nhích chạy đường trường không có đèn. Chiếc xe be do Phú lái phải đi sát phía sau, để dọi đường cho xe lam chạy, thật quá nguy hiểm. Đèn pha của xe GMC ngược chiều nào đó dọi sáng trưng, suýt tí nữa thì xe lambretta của Quy chồm tới rất sát xe khách trước mặt, (hoặc là chúng tôi nằm gọn dưới lòng xe be)! Anh tài xế xe GMC nghiến răng gò lưng đạp thắng kít kít kít, trên xe mọi người đông nghẹt đều dồn đống, chúi nhũi tới phía trước xe GMC. Bốn bánh xe GMC rít ken két dưới mặt nhựa, tỏa khói bay khét lẹt. Tôi khó có thể đoán tuổi đời anh lính dãi dầu sương chiều nắng gió ấy đã trải qua bao xuân xanh, khiến da mặt anh càng sạm đi lúc hiểm nguy nầy? Cả bộ quân phục mặc trên người hình như càng bạc phếch phong trần, hay do bụi cát rít dưới những bánh xe? Chúng tôi chỉ biết kêu Trời cứu mạng. Khi đèn xe rọi tới trước, tôi thấy những đứa trẻ con trạc bằng tuổi con tôi, nghe tiếng bánh xe lết dài trên đường nhựa, chúng hốt hoảng mệt mỏi quýnh quáng bám theo chân người lớn vọt lẹ lên lề.
      Thật hú hồn hú vía, nếu anh tài xế xe GMC không tháo vát, nhanh nhẹn, không có kinh nghiệm, ắt hẳn là tai nạn rùng rợn kinh khủng sẽ xảy ra không thể lường! Trong lúc nầy lòng tôi bỗng nổi lên sự ấm ức quá tức giận, vì chuyện tôi đã "nhân ái" và "anh hùng rơm" để rồi đành vứt bỏ lại chiếc xe 404, để leo lên chiếc xe lam cũ thổ tả nầy! Biết làm sao được khi mình có lòng nhân không hề tính toán thiệt hơn, đã hậu hỉ hân hoan và thành tâm trút hết xăng cho xe bạn!
      * * *
      Từ Cam Ranh khởi hành lúc mười giờ sáng, mãi đến mười một giờ đêm đoàn xe dài ì ạch khoảng trăm cây số nầy mới đến Nha Trang. Các ngã ba ngã tư giòng người đang cố chen lấn, giành cướp tí đất sống, xe và người vội vàng sát nhập chung nhau trườn lết tới vùng đất hứa hẹn an toàn. Họ cố chen từng bước, từng bước, ùn ùn tìm về vùng tạm lánh cư có lẽ bình an hơn: Nha Trang… Chúng tôi ghi cho nhau địa chỉ bà con ở nhiều nơi, ngộ lỡ có biến loạn, hay cần liên lạc, thì biết mà tìm. Chúng tôi chia ra nhiều hướng: Gia đình Phan Bàn ở nhờ với bà con của họ tại đường Nguyễn Tri Phương. Đại gia đình Trần Ngọc ở nhà bà con. Vợ chồng Phùng, bà mẹ Luật, tôi, và bốn con thì về nhà bà cô của Phùng. Có thêm chúng tôi, nhà bà cô hơi chật càng nghẹt thở hơn, cổng sắt cao lút đầu, màn che trướng rủ kín mít. Họ nói chuyện với nhau thì thầm to nhỏ, mắt la mày lém, dáo dác nhìn trước ngó sau len lén rù rì. Họ tỏ lộ vẻ khó chịu ra mặt khi có sự hiện diện của gia đình chúng tôi, họ bất an sợ sệt những điều gì lạ lắm. Hay họ sợ mẹ con tôi biết họ quá giàu, họ “nuôi ong tay áo, nuôi khỉ đốt nhà”... thì tôi nảy sinh ra tham lam mà trộm cướp chăng?
      Sống tại nhà bà con của Phùng, tôi sợ các con ồn ào làm vướng bận, phiền gia đình bà cô, nên mỗi ngày chúng tôi phải đi qua bên trường Tiểu-học, ngồi ngoài gốc cây phượng mua quà bánh ăn qua loa. Chiều chiều chúng tôi mò ra biển ngồi dưới hàng dừa hứng gió mát, để cho các con nô đùa ở biển. Chờ sau giờ họ ăn cơm, tối mịt chúng tôi mới dám mò về xin phép chủ nhà cho tắm rửa, đi nằm ngủ nhờ dưới nền gạch bóng loáng trải mền bông xuống nền nhà, mẹ con bà cháu đều chui vô nằm chen chúc trong một cái mùng rộng. Tóm lại, chúng tôi chỉ xin ngả lưng ngủ nhờ. Năm giờ sáng, tôi lo đánh thức cả nhà dậy, lại thất thểu lang thang đi ra ngoài lộ sớm. Hai hàng nước mắt tôi thầm lặng vẫn tuôn trào.
      Mặc dù từ Đà Lạt về Cam Ranh, bạn biết tôi không có thân nhân ở đây, Phùng đã cam đoan chắc chắn là: mẹ con chúng tôi khỏi lo vấn đề ăn & ở Nha Trang trong thời gian vài tháng. Tôi ngây thơ đã tin bạn. Nay Phùng cảm thấy khó xử, tôi cảm thông vì nhà nầy không phải là nhà của Phùng. Dẫu sao Phùng cũng áy náy và hổ thẹn với tôi. Qua ngày thứ bốn, tôi thấy mặt mày ai nấy đều nặng như chì, khi Phùng bồng đứa con lên máy bay về Sài Gòn. Thái độ ngược đãi ấy đã được khẳng định mọi điều dứt khoát rằng: Sau khi gia đình Phùng an toàn tại Nha Trang có đủ điều kiện để họ tìm đường trở về Sài Gòn, thì họ muốn bỏ rơi chúng tôi. Như thế thì đã rõ rồi, dễ hiểu quá. Phùng nên đi trước, mai mốt ông chồng Phùng sẽ về sau là lưỡng tiện đôi đàng, ông sẽ ú ớ ù lì ngơ ngơ ngáo ngáo, là huề cả làng. Họ “siêu tổ chức” khỏi mất công “hứa lèo” với tôi. Mặc tôi xử trí ra sao với bà cô và chính chúng tôi, thì ra... Tôi thật ngây thơ, việc vợ chồng Phùng hứa suông chẳng khác nào đem con đi bỏ chợ, tôi đã giao trứng cho ác...
      Thà rằng tôi ở lại Cam Ranh, dù sao gia đình anh chị Trí cũng là chỗ thân tình. Vả lại họ còn nợ tôi một món tiền kha khá... 200.000 đồng (do Luật “hứng nợ” đưa cho Trí). Rồi sau nầy cộng thêm nợ mới là: Trí nợ bạn và chúng tôi một số tiền khổng lồ: Do, công ty chúng tôi làm ăn chung, đã trúng thầu, nên thuê một trăm nhân công tháo gỡ xuống năm trăm căn nhà tiền chế của Mỹ, & thuê bao nhân công và tài xế ăn uống, tiền làm mỗi ngày, họ chở vài trăm chuyến xe vật liệu, về bán trả góp cho dân ấp Vĩnh Linh cần làm nhà (thuộc Cam Ranh). Vì ở ấp Vĩnh Linh mới thành lập, chính phủ chiêu mộ dân tứ xứ đến vùng nầy lập nghiệp... Những chi phí ban đầu trang trải do công ty chúng tôi hoàn toàn bỏ ra, từ tiền mua nhà tiền chế hai triệu tư, tiền thuế cầu đường, thuế trạm... tiền bến bãi chứa hàng, tiền mướn nhân công tháo gỡ, đài thọ nhân viên lao động ăn uống, tiền linh tinh, v.v... công ty đã chi phí mà chưa hề thu lại vốn. Vì tiền bán những nhà tiền chế nầy, các bạn ở Đà Lạt xa đây cũng tin Trí, để ưu tiên cho Trí đứng ra bán, và làm thủ quỹ trong việc thu tiền. Thì anh ta đã thâu tóm hết, vung vít tiêu xài hoang phí, lại lòi ra chuyện Trí đèo bồng thêm vợ nọ con kia, (mà bà vợ hai nầy không ai khác là em ruột của vợ anh ta). Trí lem nhem không chuyển trả cho tôi, và bất cứ ai ai trong nhóm bạn một đồng nào cả. Tôi nấn ná ở lại Cam Ranh, là cốt ý muốn Trí trả bớt món tiền riêng của tôi, (do Luật “hứng nợ”), mà Trí đã mượn tôi, (chứ tôi chưa tính đến chuyện Trí phải trả tiền anh ta nợ chung trong công ty. Mặc dù chúng tôi biết lúc nầy Trí vẫn có khá nhiều tiền, nhưng do lòng tham lam, vô trách nhiệm, không hề biết tự trọng, không biết xấu hổ, nên anh ta cứ "mặt trơ trán bóng" trân tráo... ù lì, không chịu rỉ ra đồng nào, Trí phải biết chính lúc nầy ai ai cũng cần có tiền). Sau nữa là để tôi giữ liên lạc dễ dàng với Luật. Dù sao đường đi từ Đà Lạt về Cam Ranh, cũng gần hơn đi Nha Trang, và nơi nầy chưa bị phong toả. Ôi! Thế nhưng... người tính không bằng Trời tính!
      ***

      Tình Hoài Hương
      Last edited by Tinh Hoai Huong; 03-23-2020, 10:48 PM.
      Bút trần nào tả được lưu luyến!
      Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
      Tình Hoài Hương

      Comment


      • Nỗi Tiếc Xót Ngậm Ngùi

        Nỗi Tiếc Xót Ngậm Ngùi
        Tình Hoài Hương


        Ngày 01 tháng Tư năm 1975.- Có căn nhà đang cháy trong xóm đìu hiu, vì một người đàn bà bày bàn cúng ra vĩa hè nghi ngút khói hương, bị cơn gió táp vô tấm màn quấng theo hai cây đèn dầu hôi đổ xuống bàn mà phựt lửa, bà ta không kịp trở tay. Mọi người trong xóm hốt hoảng kêu gọi nhau ơi ới chạy đi chạy lại xôn xao quầng quật lo chữa cháy. Do bà ta hì hụp khấn vái kêu xin Trời Phật ban ơn lành... cho vợ chồng bà sống lâu trăm tuổi, cho gia đình con cháu yên lành, khoẻ mạnh, nhất là bà van xin cho đất nước bình an.
        Cứ thật thà mà nói, sau vụ bàn thờ ông cha cố tổ bị con cháu rầm rộ lôi xuống đường năm xưa, thì tôi ít có thiện cảm để vãng lai tới chùa thăm viếng ai. Điều mà xưa kia tôi rất trang trọng tới lui thường xuyên nơi quý tăng bào lão trượng, gia đình tôi không hề phân biệt khi hội ngộ với bạn hữu cùng trang lứa, hầu ân cần an ủi và chia sẻ những vui buồn trong cuộc sống, chúng tôi trao cho nhau chum cà, lọ tương, bao đậu, bọc gạo, chùm cây trái ngọt ngon, & cúng dường… mà vui; để tỏ lòng kính trọng qúy mến các bậc chân tu, tín hữu chỉ lo kinh sách nhang khói hương đèn, tâm hồn họ tịnh yên sâu nặng nghĩa tương giao đậm đà tình dân tộc. Tôi lắng lòng theo tiếng kinh tiếng mõ đều đều nhịp nhàng trầm bổng. Tôi mến thích khi họ có lối sống chân chất an vui hoà ái hiền lành và thánh thiện. Thế là tôi cảm thấy tâm hồn nhẹ nhàng thư thái, và vui tươi bình an theo. Vã lại chồng tôi vẫn nói:
        - Mình già rùi, “gần đất xa trời”, can chi phải sợ chết, cần đến những nơi thanh tịnh, đến với nhau cho tâm an hồn tịnh, chờ ngày “ra đi...”
        Tôi gân cổ lên “lý sự cùn” cãi lại anh:
        - Anh nói thật tức cười. Có ai đang sống ở trên đời nầy mà “gần trời xa đất” mô nà! Vậy thì “đất” phải gần hơn “trời” là cái chắc. Vì ta đang đạp hai bàn chân trên đất, để đi hà rằm đây nè. Khi nào chết mới gọi là “gần trời xa đất”. Cũng do vì... người ta đều muốn bay lên trên cao về thiên quốc. Chẳng ai muốn xuống dưới lòng đất ở tại lò hỏa ngục với Diêm Vương. Thấy ổng là mình hồn bay phách tán. Hu hu hu…

        Chúng tôi vơ quần áo ra đi khỏi nhà bà cô của Phùng mà lang thang ngoài đường như thế, ban ngày cả nhà đi ra biển ngồi dưới những gốc dừa, tối về thì xin vô ngủ nhờ ngoài mái hiên của trường Tiểu-học. Qua ngày thứ sáu thì gia đình bà Niềm (ở đối diện với nhà bà cô của Phùng), thấy thương mẹ con chúng tôi bơ vơ nheo nhóc, họ động lòng trắc ẩn, bà kêu chúng tôi cho đến ở nhờ. Tại đây có một phòng riêng rộng rãi đầy đủ giường nệm mền gối... Muốn nấu ăn thì có sẵn bếp, cứ tự túc. Tôi ứa nước mắt mà mừng vui khôn tả xiết. Thế là cả nhà tôi tíu tít vui vẻ dọn tới nhà họ ở bên kia đường. Vẫn biết là ông bà Niềm quá tốt, nhưng sợ các con thơ dại quậy phá, tôi không dám làm phiền họ nên kéo nhau đi biển. Ông bà Niềm có hai người con, anh con trai đi lính Nhảy Dù, cô con gái tên Thúy Lan làm ở Hàng-không Quân-sự Nha Trang.

        Dưới những gót chân bé tí lún xuống bờ cát mịn, từng vệt chân trần nhòe đi trong sóng khẽ khàng vỗ tan bọt nước. Tôi rón rén bước trên nền cát ẩm, với ước mong có tí chút hạnh phúc lướt thướt lan theo từng ngấn sương khuya rơi rụng nhạt nhòa trên phố biển Nha Trang. Lòng vẫn dạt dào nỗi hoài mong tiếc rẻ bao nhớ nhung về quá khứ hao gầy. Nỗi nhớ làm cảm quan và lòng mình mềm nhũn, choáng váng, thẫn thờ tiếc nuối, nghẹn ngào tức tưởi bao mộng mơ bạt ngàn lắng đọng. Ngày ngày mẹ con tôi vẫn đi tản bộ ra bãi biển, ăn cơm hàng cháo chợ. Nhưng chỉ non tuần sau, tôi phải tính đến chuyện tự nấu ăn. Tôi tiếc hùi hịu vì đã để trên chiếc xe nhà của mình ở Cam Ranh hết mọi thứ, chỉ mang đi những túm quần áo cần thiết. Bây giờ tôi mua một cái lò than, tôi phải tính toán cân nhắc kỹ từng đồng nơi xứ lạ phương xa: mua một nồi nhôm to ấu cơm, một nồi nhôm nấu canh, một nồi nhỏ dùng kho cá, một bình nhôm nấu nước, mua muỗng, đũa, sáu cái tô nhựa, (dùng khỏi bị bể). Các con tôi biết thương mẹ, chúng ra đường lượm cây khô mục, lá khô, bã mía... để nấu cho đỡ tốn tiền mua củi, nhưng có thấm vào đâu. Tôi mua củi, gạo, rau, cá...

        Có ngày trời nắng oi ả, có ngày mưa ào ào, bầu trời miền biển khác hẳn với khí hậu thoáng mát ở miền núi, khiến các con khó chịu, mặt mũi lúc nào cũng đỏ bừng, mồ hôi nhễ nhại, rôm sảy bắt đầu nổi lên từng đám dày, ngứa ngáy, thật quá tội nghiệp. Chúng ngồi đâu là hai tay gãi sồn sột, móc chỗ nầy cào chỗ nọ, như mấy con khỉ. Tôi vô cùng lo sợ các con lạ nước lạ cái, sinh ra ốm đau, thì nguy to. Sáng sớm, khi các con còn ngủ, tôi lò mò đi chợ, về nhà vội nấu một bữa ăn (mà chia làm hai lần: một phần ăn lúc mười giờ sáng, một phần khác tôi múc ra trước, để dành ăn vào lúc năm giờ chiều). Khi ăn uống dọn dẹp rửa ráy xong, mẹ con bà cháu đều tản bộ ra đường nầy qua đường nọ. Chúng tôi thường đứng lại hằng giờ trước cổng một ngôi nhà xinh xinh phủ đầy hoa giấy, tôi thèm thuồng cuộc sống ấm áp gia đình mà mình đã bị mất, rồi ngậm ngùi buồn xo. Chân ngập ngừng e ngại bỗng dưng tôi chùng bước, lom lom len lén nhìn vô nhà họ.

        Dẫu rằng ngôi nhà bên trong hàng dậu thưa ấy, tuy lạ mà rất quen thuộc, vì hình ảnh ông bà cụ đứng nơi bồn hoa thắm đỏ với vòi sen phun nước. Họ giống ba mẹ tôi, bước chân họ di động chậm chạp, khẽ khàng dẫm trên nền gạch, khiến lòng tôi chùng xuống nỗi tiếc xót ngậm ngùi. Tôi nhớ những bọt nước đã rơi xuống vệ cỏ ven đường ngôi nhà xưa của riêng mình ở đường Mai Hắc Đế. Tim tôi rung lên từng chặp, như nhắc nhở tôi nhớ về thuở nhỏ bên hàng hoa anh đào, trong ngôi biệt thự của ba má ở tại đường Quang Trung (dưới ga Đà Lạt) mà ngậm ngùi nấc lên từng cơn.

        Tôi muốn quay đi chỗ khác, nhưng đôi mắt cứ dán chặt vô mỗi gốc cây trong ngôi nhà ấy. Tưởng như mới ngày nao tôi đứng tỉa cành già, hái lá vàng trên những cây cảnh trong khu vườn nhà riêng khi đã lập gia đình. Nay cảnh vật và con người từ tha nhân cho tới chính mình đã biến dạng ngoài sức tưởng tượng! Không ai có thể cứu lấy mình, chứ nói chi đến chuyện cứu người. Thời buổi loạn ly nầy “làm người” thật khó khăn: nếu tôi có chút của cải, có máu mặt xí, thì bị hàng xóm, bạn bè dòm ngó và chính tôi nghi ngờ coi chừng… họ! Nay tôi lang thang xốc xếch giống tên hành khất, thì bị coi là bôi bẩn bản thân, bị miệt thị, bị xô ra khỏi xã hội, và tụt xuống đáy bần cùng. Thật khó sống làm sao khi người dân thị thành vẫn lạnh lùng thờ ơ, tấp nập, dáo dác ùn ùn kéo nhau đi đâu mà đông đúc quá?

        Bình minh dâng cao trên đầu thì nóng rát da người, hay hoàng hôn tàn dần, khi bóng râm từ các vách đá lan ra, buông xuống đường chân trời xa tít tắp một màu đen, dù thế trời hừng hực nóng chưa thể dịu mát khi ở ngoài đường, nhưng mẹ con bà cháu tôi coi "ung dung nhàn hạ" thơ thẩn vì không biết làm gì, để giết bớt thời gian quá tẻ nhạt, là ra biển ngồi hóng gió. Chúng tôi ngồi nhìn từng con tàu lớn đậu ngoài xa xa, các con tưởng tượng nhiều điều thú vị, theo dõi và biết ngày nào con tàu nầy đến bến, ngày nào con tàu kia đã ra đi. Tàu thuyền trên sóng nhấp nhô, có chiếc lênh đênh trên đại dương, chiếc ra khơi, chiếc vào bến đậu. Tuy mục đích có khác nhau, nhưng con tàu cùng lênh đênh bồng bềnh chơi vơi cỡi trên ngọn sóng lớn. Tôi nhìn những con tàu khổng lồ mà buồn bã vô cùng, không dám ước mơ hay hy vọng, dù niềm hy vọng bé tí xíu. Tôi cảm thấy mình đang chới với, cô độc lữ hành trên sa mạc cháy nắng, dẫu biết rằng: không có ai biến mình thành là một hoang đảo, vì phải có sự tương giao với đời. Thế nhưng tôi quá bơ vơ lạc lõng, cảm thấy mình giống ông lính già cô độc, run rẩy trong một pháo đài bị vây hãm.

        Trời xanh lồng lộng, biển Nha Trang thơ mộng thi vị dịu êm có gió hây hây thổi, mặt biển vẫn là tấm thảm hoa cương óng ả gờn gợn lấp lánh, rì rào, lung linh và mênh mông. Trẻ nhỏ vô tư lự nô đùa trên biển, các con ưa thích vỗ tay và ngẩn ra nhìn những con tàu. Dù tôi bảo thế nào các con vẫn e dè, sợ sệt; vì các con không quen, chưa bao giờ cởi áo quần ra giữa chỗ đông người. Tuy các con đến với biển mỗi ngày, nhưng chúng chưa dạn dĩ. Nhìn sóng biển trắng xoá xô bờ, đẩy tới đưa lui, thì các con cảm thấy chóng mặt và sợ, nhút nhát co chân, chúng chỉ dám xăn quần lên tới đầu gối. Hoặc mặc áo quần dài mà reo vui, lội bì bõm vọc nước sát ven bờ, khi sóng vừa bén gót chân, các con lo sợ hét to, chúng vội vã nắm tay nhau chạy lên bãi cát khô, làm y như là các con sợ nhúng chân vô nước nóng.

        Cái thú duy nhất của các con là cùng nhau chạy đi rượt đuổi những con còng. Kể ra các con cũng khôn, biết mò ra chỗ để bắt ốc, bắt còng về luộc ăn. Con còng, con ốc cũng khôn không kém, còng chạy rất mau, thoáng một cái chúng tìm mọi cách thoát thân đằng nào thật lẹ. Bao nhiêu lần các con không bắt nỗi, nhưng có một hôm các con làm thành một hình tròn to, rồi từ từ khép chặt vòng tròn, vây quanh mấy chú còng lêu khêu. Ba đứa con tôi chầm chậm bò dần dần tới bên mấy con còng, các con nháy mắt giơ ngón tay trỏ đặt lên môi, (làm như lũ còng biết nghe tiếng người vậy), chúng đồng loạt ụp cả người, phủ lên mấy con còng ngố ngáo. Tôi cười thầm:
        - “Con còng què chân làm chi tội rứa, nên mới bị trẻ bắt sống hỉ!”.

        Thế là mấy chú còng bẹp dí. Bé Bi giơ một chú còng què lên trời, cười ha hả, hôm đó cả nhà chúng tôi có được bữa "ăn nhậu" canh chua còng, cùng nhau chuyện trò vui vẻ rôm rã ra phết! Có một hôm, mấy con đang tắm biển, thì bé Bi do sợ sóng nước, đã ị ra quần thối um, khiến cả nhà cười vang. Tôi thương các con bị đói khát, nhưng biết thân phận mình, các con không dám đòi quà bánh. Bé Dzũng thường cõng bé Hoàng trên lưng, Tuấn dụ em Huy (bé Bi) đi ra ngoài gốc phượng lượm hoa rơi. Mấy anh em xếp hoa thành từng đống cho em chơi, để em nhỏ quên đói không đòi bú mẹ. Khi ta có đủ thứ trong tay, thì mình xem thường các thức ăn. Nhưng, bây giờ sống trong cảnh đói khát, nằm gai nếm mật, ăn ngủ ở đầu đường xó chợ, bơ vơ bất vất, dù có những thức ăn tầm thường nhất chúng tôi cũng quý, mới thấm thía buồn và cảm thấy đau nhừ, như ai dần từng khúc ruột, tôi lại tiếc ngẩn ngơ những thứ đã mất. Thật ra, chúng tôi đang sống trong cảnh phập phồng lo sợ. Chẳng ai cấm tôi gào thét, thi gan cùng biển cả mênh mông. Tôi không còn tâm trí nào mà tắm táp thoải mái ngoài biển, chứ nói gì gào thét cho đã nư. Tình cảnh mẹ con tôi bây giờ khốn đốn là thế!

        Chín giờ tối gia đình chúng tôi sung sướng về ngả lưng trên cái giường rộng. Có một điều là trời rất nóng và muỗi, vô số muỗi; nên dù ngày nào ở nhà, không đi biển, thì bà cháu mẹ con ở ngoài sân trường học, hay ở trong nhà có quạt máy vù vù trên trần, nhưng vẫn nóng hầm hập, chúng tôi dùng thêm quạt giấy, quạt phành phạch suốt. Cuộc sống di tản của chúng tôi có lẽ từ nay là những ngày tháng mòn mỏi đợi chờ thật dài, trống vắng như người hụt hẫng bước đi bì bõm trên đại dương, không biết mình sẽ bị chìm lúc nào! khiến tôi chới với mất hẳn ý niệm về cuộc sống, chẳng biết khi nào sẽ chết. Tôi như con ốc sên nhút nhát thu mình trong vỏ, mất hết bản năng sinh tồn, nhụt chí và chán nãn tuyệt vọng dường bao! Thời gian nhàn hạ ở đây thật vô vị và mù tịt, tôi không hề biết ất giáp gì về chuyện trong nước đang hỗn loạn tột cùng. Ngày nào cũng như ngày đó: do nỗi lo lắng về tương lai bấp bênh mịt mùng, sợ hãi đói khát và bệnh tật cứ trỗi dậy trong lòng tôi. Sự khốn cùng càng tăng mãi, niềm hy vọng có sự bình yên thanh thản đôi chút mỗi lúc một vơi cạn.
        Trong khoảng thời gian qua, Luật theo lệnh thượng cấp phải “tử thủ” ở Đà Lạt, (nhưng khốn thay... "người chủ chốt" ra lệnh tử thủ ấy đã "rút dù" đi biệt tích giang hồ, lũi trốn đi trước đồng đội rồi. Nhưng vì đa số người lính đã ý thức về trách nhiệm và bổn phận làm trai... nên họ ở lại giữ nước, cho đến ngày cuối cùng, họ mới cùng các sĩ quan và đoàn Sinh-viên Sĩ-quan trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam Đà Lạt triệt thoái).
        Mẹ con chúng tôi đến thăm Oanh ở trong một biệt thự nho nhỏ xinh xinh tại Xóm Mới, nhà cô có vườn cây rợp bóng im mát, gia đình ba má Oanh gốc người Huế, hiền lành, vui vẻ thật thà. Hai bạn gặp nhau mừng rỡ, trào nước mắt chảy ròng ròng, chúng tôi thì thầm chuyện trò. Mặc dù ba má Oanh có nhã ý dành cho gia đình tôi một phòng nhỏ, nhưng tôi sợ các con dại sẽ làm phiền họ, lại mất lòng và mất cả tình bạn cao qúy, nên tôi từ chối. Luật gởi nhờ những những đồ dùng cần thiết theo chuyến xe GMC quen về địa chỉ nhà Oanh, (lúc nầy trên quốc lộ chỉ có những xe "nhà binh" được phép di chuyển trên tuyến đường Đà Lạt xuống Phan Rang, ...) người chủ xe đã đến "giao hàng" cho Oanh, rồi Oanh chuyển cho tôi: quần áo, mền, mùng, nồi niêu son chảo, vân vân… cùng tám chục ngàn đồng, tiền lương vài tháng qua của vợ chồng tôi chưa kịp lãnh. Mấy lá thư Luật báo tin đã mất Ba Mê Thuột và Huế. Luật dặn dò mẹ con tôi “phải cố gắng, bằng mọi cách tìm đường di tản về Sài Gòn” gấp. Tôi chỉ nhận tiền Luật gởi về Oanh, còn tất cả đồ dùng kềnh càng, tôi để lại trong nhà kho của Oanh. Tôi kiểm chứng tin Luật đã báo, thì đúng y bon, vì bà con của Oanh từ Huế, nườm nượp di tản bằng thuyền đánh cá của họ chạy ra Nha Trang, họ kể lại Huế đã đi vào cửa ngỏ cuộc chiến. Đà Nẵng rất lộn xộn, hai chỗ quan trọng ấy gần như thất thủ. Gia đình Oanh không tính đi đâu cả, có chết thì chết ở xứ nầy, vì họ còn một bà cố già lụm cụm ngoài chín mươi tuổi, nếu họ đem cụ theo chạy loạn, thì không được, mà để cụ ở lại một mình với mấy căn biệt thự, càng không thể.
        - Ngày 11-3-1975 mất Ba Mê Thuột. Ngày 26-3-1975. Huế đã thất thủ. Kế đến là Đà Nẵng. Chủ Nhật, ngày 30-3-1975 Từ thành đến tỉnh, đâu đâu tôi cũng nghe người ta bàn tán xì xào chuyện chính trị và chiến tranh mà tôi chúa ghét. Tôi nghe chán tai lúc người ta quả quyết: Đã mất nước tới đèo Hải Vân. Mất tới Đà Nẵng... Có lẽ đất nước nầy chia ra làm ba thành phần. Lại nghe đồn từ vĩ tuyến 13 tới Cà Mau: là do chính phủ của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Tin “bỏ” vùng nầy, bỏ vùng kia. Khi thì nghe người ta bàn tán Việt Nam sẽ trung-lập. Sẽ có chiến tranh huynh đệ tương tàn khốc liệt. Sẽ hoà bình: Đó là tiếng pháo bông nổ lớn trong đêm trừ tịch tối đen mừng ngày đất nước thanh bình, hay báo nguy lầm than, cơ cực, nghèo đói, chia ly, và sẽ thanh trừng "người thua cuộc" tràn ngập trên đất Việt vào một ngày không thể ngờ tới?! Làm sao biết được ngày mai!
        Tôi hốt hoảng chạy tới nhà của chị Bàn đã thuê, hầu báo tin chẳng lành, cùng nói những lời Luật nhắn nhủ. Tôi vui mừng thấy gia đình Ngọc, (gồm các em của Ngọc là: gia đình Quý, gia đình Cúc vẫn sống chung, giống như khi họ ở Đà Lạt) đã về tá túc ở đây vài hôm trước rồi. Các bạn khuyên tôi nên về ở chung nhà với họ, nếu có bề gì, thì hú nhau một tiếng, cùng giúp nhau chạy loạn. Tôi nghe phải, nên về nhà bà Niềm thu dọn ít bọc quần áo trẻ nhỏ, cám ơn ông bà chủ nhà, rồi đến ở chung với các bạn cho bớt tẽ nhạt và sợ hãi. Đến ở trong ngôi nhà tôn vách đất thấp lè tè, nóng như thiu đốt. Chúng tôi góp chung tiền, ngày ngày mấy người đàn bà cùng đi chợ nấu ăn hai bữa, một bữa ăn lúc mười giờ rưỡi, một bữa ăn lúc sáu giờ chiều. Ngày nào cũng từng ấy thứ: nồi cơm thật to, nồi canh rau muống trộn mì gói hiệu ba con tôm, cá kho rim mặn, (thay đổi loại cá mỗi ngày, ở đây cá tươi rất rẻ, tươi rói và rẻ hơn Đà Lạt rất nhiều, là cái chắc). Họ giống tôi, ai cũng muốn thủ thân, chắt bóp nhín nhút ăn uống qua loa, để sống, chứ chẳng phải sống để ăn. Nấu nướng bằng bả mía phơi dôm dốp vài nắng, thì khói bay mù mịt, cay xè mắt, nước mắt nước mũi chảy tùm lum. Ba thằng con trai lớn, (hai đứa con của Ngọc, một đứa con trai Dzũng của tôi) thay nhau nằm dài xuống nền đất, phồng má thổi lửa phù phù. Bụi tro, khói, đất, bay lên đầu cổ, mặt mày chúng đỏ rần và ho sù sụ. Dù ở đây có phần tù túng khổ sở hơn ở nhà bà Niềm, nhưng có bạn chia sẻ chịu đựng, tôi cảm thấy đỡ sợ, bớt lo lắng nên yên tâm hơn.

        Sau những bữa ăn sum họp vội vã, nhà nào nhà nấy ai ai cũng ra ngoài đường, tới ngoài chỗ đông người, để nghe ngóng thu lượm tin tức. Chúng tôi lo lắng sợ hãi, cùng đường quẫn trí, rối bời đầu óc, bồn chồn cùng nhau bàn lui tính tới hết cách. Kết luận cuối cùng là: giả thiết từ bây giờ cho đến khi nào Nha Trang bị lung lay, nếu trong nhóm nầy ai có phương tiện thuận lợi nào, thì cứ tự lo cho gia đình đó vượt thoát. Nếu lúng túng với một đám trẻ con trên dưới mười bảy đứa, (không kể người lớn), đông người như thế nầy, thì chẳng biết làm sao có thể di chuyển chung chuyến xe, chuyến tàu, như khi chúng tôi ở Đà Lạt đã cùng nhau chạy đi. Tôi thật buồn và vô cùng tuyệt vọng nghe chị Bàn đã đi thu lượm tin tức ở ngoài bến xe về, chị nói: Ở các bến xe khách, hải cảng, cũng như ở phi trường dân sự, người ta đông hơn kiến, chen chân không lọt, đông vô số kể. Ai muốn đi về Sài Gòn, thì phải ghi tên trước cả tuần, sau khi được gọi, phải mua một chỗ ngồi cả bạc triệu, hay đóng mỗi đầu người hai lượng vàng. Ai muốn sống cứ thế mà tính, không cò kè bớt một thêm hai. Nếu chần chờ không kịp nộp tiền, thì có người khác “xí phần” đưa tiền hoặc vàng ra ngay. Chiều nào cũng thế, mẹ con bà cháu nhà tôi không biết làm gì cho hết thì giờ nhàm chán nôn nao lo lắng, nên chúng tôi thơ thẩn ra biển. Những con sóng lớn ập tới, tôi bị lún sâu xuống nước, tưởng chừng như muốn khuỵu đôi chân. Tôi bị sóng nước dập dồn hất lên hụp xuống, chao lui lượn tới đảo điên khi hai tay đập loạn xạ trên mặt nước. Càng vùng vẫy, tôi tưởng như mình đang bị nhận chìm thân tụt tong tong xuống vực sâu. Tôi sợ hãi kinh khủng!
        ***
        Tình Hoài Hương
        Last edited by Tinh Hoai Huong; 04-11-2020, 04:32 PM.
        Bút trần nào tả được lưu luyến!
        Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
        Tình Hoài Hương

        Comment


        • Quệt Nước Mắt Lưng Tròng

          Quệt Nước Mắt Lưng Tròng
          Tình Hoài Hương


          Thành phố thơ mộng đầy cát trắng với những hàng dừa du dương nghiêng mình soi bóng ven bờ biển Nha Trang tuyệt vời, nay đã có nhiều tiếng nổ và tiếng động quái dị lan mau theo xe cộ tất tả chạy ngược xuôi. Họ bồng bế nhau dứt khoát ra đi, quay lưng ngoảnh mặt... phản bội với quá khứ vàng son đã một thời nâng họ lên đài danh vọng. Từ nơi xa xôi ở vùng núi đồi lạnh giá, chúng tôi vừa vội vàng đến Nha Trang, chưa quen thuộc phong thổ, chưa trìu mến luyến lưu gởi lại bạn và tôi niềm tin vui sống, thế mà nay tôi lại nơm nớp lo âu... mong muốn tất tả rời xa chốn nầy, để thoát thân ra đi như kẻ lỡ tàu, như người lỗi hẹn, như kẻ chạy trốn. Nhưng biết làm sao trốn đi đâu!? Đi đâu? Chính nơi tôi đến và sẽ ra đi trong sự bàng hoàng ngao ngán, phiền muộn lo lắng, băn khoăn tột độ luôn dày vò khiến lòng mình tan nát đau buồn! Tôi cúi mặt, loay hoay... len lén đào tẩu chính bản thân, khi nắng chiều sẽ lịm dần vô bóng tối. Nơi sinh mạng con người bây giờ rớt vào cảnh vô cùng lâm nguy, khẩn cấp, và rẻ hơn cỏ rác. Cảm nghĩ chân tình của tôi thẩm thấu rồi bùng vỡ từ những đường đạn rung chuyển ngoài trời, đang xuyên qua buồng phổi, vô trái tim, tới túi mật lá gan mình.
          Một chiều bất ngờ vào ngày 7 tháng Tư, tôi gặp Thúy Lan, (cô bạn mới quen rất tình cờ), cô mừng lắm:
          - Sao chị không lo ôm con chạy vô Sài Gòn gấp đi. Ở đây sắp mất rồi. Không biết sao?
          Tôi khóc ròng. Như ếch ngồi đáy giếng, như trâu chậm uống nước đục, tôi nào hay biết gì về bàn cờ thế cuộc từng giờ chong chóng đổi thay, và sự triệt thoái lan nhanh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa! Vả lại nếu biết, tôi cũng không thể chen chân đến rừng người ở bến xe, bến tàu, phi trường, hải cảng, hoặc bất cứ nơi nào; để có thể vượt thoát, khi đêm đêm tôi nằm chập chờn trằn trọc trên giường lạ, mơ từng cơn ác mộng mà giật thót người, đã xốc ngược tôi ngồi bật dậy, mồ hôi hột vã ra như tắm, ú ớ gào rú rên la. Tôi chỉ còn hai bàn tay trắng cắp kè kè một nách đàn con thơ rất bé nhỏ, với một mẹ chồng bảy mươi lăm tuổi! Thế nên tôi không thể làm gì hơn. Không thể!
          Thúy Lan cúi đầu suy nghĩ giây lát, cô vội lấy giấy bút ra hí-hoáy viết, rồi trao cho tôi, dặn dò:
          - Chị đưa cháu đến địa chỉ nầy, sẽ có người giúp về Sài Gòn ngay. Đi gấp nha. Chào chị em đi, em rất bận.
          Như kẻ chết đuối gặp chiếc phao, tôi không ngớt nói vói theo cám ơn cô bạn nhỏ mới quen. Tôi mừng kinh khủng, tay cầm chặt tờ giấy, vậy mà vẫn sợ rơi nên đứng lại thở dốc, tôi cẩn thận xếp tờ giấy Thúy Lan viết bỏ trong túi áo, rồi gài cây kim băng to lên túi áo, cho chắc ăn. Tôi cắm đầu chạy mà mừng khôn tả xiết. Tôi đã gặp quý nhân Thúy Lan tận tình giúp đỡ, người bạn sơ giao trong những ngày mẹ con tôi ăn bờ ngủ bụi tại miền cát trắng. Thuý Lan đến lúc nầy như một phép lạ từ Thượng Đế sai cô đem món qùa trân qúy cho tôi không một điều kiện, hay do một sợi dây tình cảm luyến ái nào ràng buộc, ngoài lòng nhân và đức ái của cô. Còn tôi, có thể do hồng phước nhân đức của cha mẹ để lại, kiếp nầy cha mẹ tôi ăn ở hiền lành đức độ đã ra tay làm phước nhiều, nên bây giờ con cháu được hưởng phúc lộc chăng!?
          Tôi vội về gặp các bạn báo tin là tôi đã có phương tiện di chuyển về Sài Gòn. Đồng thời biết gia đình Trần Văn Ngọc cũng chờ chuyến xe về Sài Gòn có lẽ ngày mốt là xong. Riêng gia đình chị Bàn quyết định chờ tin tức anh Bàn, nên họ ở lại Nha Trang. Tôi vội lo thu dọn mấy túm quần áo mang theo phòng thân. Tôi bịn rịn chào các bạn. Trước khi lên xe xích lô, tôi mua sáu ổ bánh mì nhỏ xíu (không có nhưn), để phòng hờ. Vì lúc mười giờ sáng nầy các con chỉ ăn qua loa nửa chén canh bún lỏng bỏng nấu với rau muống, thay thế cơm cho cả ngày, tất nhiên các con sẽ bị đói meo. Trên bước đường lưu lạc từ Nha Trang về Sài Gòn, không biết sẽ diễn ra bao điều âu lo khác, vẫn cần có tiền tôi mới có thể quyết định mọi việc nơi phương xa xứ lạ. Mẹ chồng cùng hai con lớn ngồi một chiếc xích lô, tôi và hai con nhỏ ngồi một chiếc xích lô khác. Vì đi bộ từ đây đến phi trường quân sự rất xa, ngộ lỡ bị trễ giờ phi trường khoá cổng, không cho ai vào nữa, thì nguy to. Lần đầu tiên ngồi trên xích lô, các con tôi rất thích thú hí hửng vui mừng, vì ở Đà Lạt các con chưa hề thấy xe xích lô. Đặc biệt ở Nha Trang các chàng trai trẻ làm nghề “chạy xe rong” khá hồn nhiên vui nhộn, đa số họ ưa rung chuông inh ỏi, họ ca hát nghêu ngao trên đường đi, nghe thật vui tai.
          Xuống xe xích lô tôi vội trả tiền, lật đật chạy tới xuất trình giấy tờ ở trạm gác cổng doanh trại Không-quân Quân sự. Tôi trở lại chỗ mấy bà cháu đang ngồi bên vệ đường lấy bánh mì ra ăn, các con ăn hết ổ bánh mì vẫn thòm thèm hoặc còn đói. Bé Hoàng đói nên quấy hơn mọi ngày, con cứ rúc vô vú mẹ đòi bú vú da, khổ nỗi từ ngày “chạy giặc” đến giờ, bao nhiêu năng lượng đã cạn kiệt, thì làm sao mẹ có thể vắt ra sữa cho con! Tôi muốn mua bánh mì cũng không thấy khu nầy có câu lạc bộ, không một hàng quán, hoặc có người gánh hàng rong đi lại bán dạo ở bên ngoài. À, đây là khu quân sự mà. Khoảng mười lăm phút sau thì đóng cửa cổng gác. Ôi đại phước! Nếu chúng tôi chậm mươi phút thì hết cách rồi! Thật là chỉ có Trời có mắt cứu nguy. Tôi dặn dò các con ngồi một chỗ với nhau, không được chạy lung tung, sẽ bị lạc mất.
          Chúng tôi được gọi tên vào cổng, họ dồn mọi người ngồi xuống một góc ở ngoài sân dưới hàng phượng đỏ rực, (cùng những người lạ khác rất đông chờ đợi gọi tên, để vào trong văn phòng làm việc). Qua những thủ-tục do an ninh Quân-cảnh kiểm soát chặt chẽ, trật tự, cần thiết, cấp bách. Những đoàn dân di tản được lọc lại thành từng gia đình, có mấy quân nhân thư ký đánh máy tốc hành ghi rõ: tên, họ, danh sách chuyến bay. Họ dẫn gia đình tôi qua một phòng khá rộng trong phi trường. Ở đây đã có rất nhiều người im lặng hoặc rù rì chuyện trò nho nhỏ. Thỉnh thoảng có một quân nhân Việt Nam áo quần tươm tất ra đứng trên thềm nhà gọi từng tốp người có tên trong danh sách đã ghi, dù máy phóng thanh mở hết cỡ, mà tôi vẫn nghe không rõ, do những chiếc máy bay quân sự luôn gầm rú ngoài phi đạo làm điếc tai.
          Thời gian mỏi mòn chờ đợi dần qua, thoáng chốc gia đình tôi đến lượt được gọi tên. Họ dẫn chúng tôi vào đứng xếp hàng trước một phòng khách đông người gấp hai ba lần ở ngoài sân. Những dãy phòng ăn và phòng làm việc thông với nhau có điện giữa ban ngày sáng trưng, có máy lạnh mát rượi. Mặc dù trên đầu phi cơ quân sự không ngớt gầm rú, nhưng nơi đây không đến nỗi ồn ào, không chen lấn, mà có trật tự hơn. Tôi nhìn những mệnh phụ phu nhân rực rỡ xa hoa quần là áo lụa chưng diện nơi đây, mà bẽn lẽn! Giờ phút vắt giò lên cổ “tẩu thoát thân” nầy, nhưng lắm bà trưởng giả còn có thì giờ phù phiếm tô trét phấn son cẩn thận, mái tóc chải bồng, móng tay móng chân đỏ chói, "quý công nương" sai khiến chỉ chỏ “gia nhân” tay đùm tay xách, cong lưng chạy lui chạy tới, vài anh lính đi sau đuôi mấy bà khệ nệ khiên vác nhiều chiếc va ly da cồng kềnh khá nặng đắt tiền mới toanh, & thùng giấy to đặt dưới chân họ mới và sạch sẽ. Những người cùng xếp hàng ở đây thân tỏa mùi nước hoa Ici, Neblina, Ode à L’amour... rất thơm. Còn loại túi xách tay là thứ sang trọng mang hiệu: GUCCI made in Ilaly– LOUIS VUITTON Paris – SIENNA RICCHI ở hải ngoại mới du nhập về Việt Nam.
          Tuyệt nhiên không một ai có “tay nải” cũ mèm bẩn thỉu, xấu xí dị hợm, khiêm nhường, nghèo nàn coi thô thiển quê mùa hết chỗ nói: như hành trang của tôi. Đến nơi nầy, tôi mới nhận thấy tình cảnh hèn kém, chua xót bi thương cùng khổ của mình trong những ngày ly tán: trắng trợn phơi bày quá tệ, quả là đáng thương xót xiết đỗi! Tôi lúng túng ngượng ngùng, bực bội cúi xuống len lén che dấu gói hành lý vải tám thô thiển, hèn kém dưới gót chân kẻ làm vợ, làm mẹ: đã bao năm qua vẫn thấp hèn với anh chồng "lính chiến". Tôi cảm thấy thật buồn vì số phận mình sao nghiệt ngã, đắng cay, bạc bẽo, khổ cực, phũ phàng tệ mạt đến thế! Tôi đau xót không kém phần tủi hổ, thật phí hoài không gian và thời gian về tuổi trẻ tươi đẹp tràn đầy nhựa sống: một thiếu nữ tri thức nổi danh người đẹp đã từng có một thời là hoa hậu biết chừng nào! khi tôi trao thân cho người chồng không thích danh phận, (nói trắng ra anh chỉ muốn nhàn du tự do với cây đàn nốt nhạc, anh không thích bon chen trên đài danh vọng, không ham muốn cao sang. Thật quá lạ! mặc dù với khả năng, kinh nghiệm, và sự từng trải... thì anh có thừa), để rồi anh đã đẫy vợ con đến bước đường cùng nầy! Tôi vụt nghĩ đến ngôi nhà ba tầng lầu đúc bê tông cốt sắt dài 45m, rộng phủ bì 5m, và chiếc xe hơi 404 láng cón của mình bị hết xăng đã vất lại Cam Ranh, mà tức sôi người. Phải chi đừng có bọn “gian tặc” vô xâm lăng miền Nam, thì bây giờ tôi có thể ung dung le lói ngẩng cao đầu, nheo nheo mắt nhìn những hành khách “kiêu sa, cao sang và quý phái” kia chẳng chút bẽn lẽn ngượng ngùng. Mà có thể ngược lại: mình hãnh diện hếch mũi to lên vì ta cũng có một thời vàng son vang bóng, do cần cù kiên nhẫn làm việc tom góp mà thành công rạng rỡ như ai đấy chứ!
          Tuy nhiên, lúc tôi ngồi bó gối trên nền gạch, vò đầu bứt tóc bứt tai suy đi nghĩ lại cho cùng thì... bộ áo tác chiến của chồng tôi và những bộ quân phục mà những quân nhân đang mặc trên người kia, nào có khác chi nhau!? Đó là niềm vinh dự tự hào rất kiêu hãnh của người lính oai dũng trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (và dĩ nhiên cả "cô vợ lính" biết thông cảm, hân hạnh, tự hào về phong độ: quốc hồn, quốc túy, quốc sử, quốc ca, quốc thiều, quốc huy, quốc thể, quốc gia Việt Nam). Đồng thời mỗi một người không phân biệt cấp bậc quan hay lính: họ đều gánh vác trên vai tất cả sứ mệnh trọng đại, trách nhiệm, nghĩa vụ, biết tuân phục bổn phận làm trai phải trả nợ núi sông, họ quyết chung vai nếm đủ cay đắng ngọt bùi, để giữ gìn quê hương Việt Nam an thịnh trường tồn. Thế nên, chồng tôi cùng lớp lớp thanh niên trai tráng đã răm rắp vâng lời thượng cấp "phải ở lại tử thủ” Đà Lạt! (trong khi người ra lệnh lạc nầy thì... than ôi! họ đã chuồn đi tự bao giờ!). Nhưng tôi cũng cố gắng nghĩ tốt cho họ rằng thì là... nếu "người ta" đi di tản về Sài Gòn đông đúc kinh khủng trước, ấy là do ai ai cũng mong Mỹ và Quân-lực Việt Nam Cộng Hoà ra tay làm việc nghĩa, cứu vớt mình vượt thoát mau ra khỏi vùng đất khốn đốn, (nơi có nguy cơ khói lửa chiến tranh ập vào, hoặc có thể sẽ bị xâm chiếm, bị quân vẹm tàn ác pháo kích bừa bãi dội lên đầu mọi người không tiếc thương). Khi sống còn, thì ai ai cũng có cơ may phục hồi cuộc sống và danh dự. Thế thôi. Tôi tôn trọng những suy nghĩ mỹ cảm của chồng cùng lớp lớp thanh niên trai tráng về việc bảo trọng quốc luật (dù biết những cấp trên trước khi vọt lên đường trước thuộc hạ, người "ra lệnh” ấy, nay đã “lạc” ; nhưng các anh không ngần ngại ở lại giữ thành, hy sinh mạng sống, tuân lệnh “ở lại tử thủ Đà Lạt" 100%). Tôi thật sự nghiêng mình kính phục tôn trọng họ bội phần!
          Lần chót, chúng tôi được gọi ra ngoài sân bay đứng chờ gần chiếc phi cơ quân sự khổng lồ quay cánh quạt vù vù. Họ gọi tên những tốp dân đã ghi danh trước tôi đi lên chiếc phi cơ nầy. Mặt đất rung chuyển dữ dội, tóc tai quần áo mọi người bay phần phật. Hai tay các con nắm chặt lấy hàng dây thép gai, hoặc những cột trụ rào sơn màu trắng xanh xanh đỏ đỏ. Đây là lần đầu tiên trong đời các con tôi được thấy tận mắt những chiếc phi cơ to tướng gần thật gần. Các con vui mừng chạy ra dán mũi sát vô cửa kính, con ở lì một nơi chằm chằm nhìn những chiếc phi cơ bay lên, đáp xuống. Chốc chốc các con lại hí hửng chạy vào chỗ tôi ngồi: con khoe đã thấy nhân viên hàng không lo tới tấp bốc hàng, con líu lo nói chuyện lạ xảy ra những gì ở đâu đó. Bé Bi (Quốc Huy) chạy tới một chiếc thùng gỗ trèo lên đứng ở đó, để nhìn những chiếc máy bay cho rõ, rồi con lại tụt xuống đất, chạy đến chỗ gần cánh cửa sắt. Bé Bi dù sống cảnh di tản màn trời chiếu đất, ăn uống thất thường nhưng vẫn còn là đứa trẻ có hai má đỏ rực vì chưa quen ở xứ nóng, bé bụ bẫm, tròn trịa mủm mỉm xinh xắn, bé Bi mặc bộ đồ bay màu xanh da trời, (giống y đồ bay của pilot, nên ai nhìn bé Bi cũng thấy cháu hồng hào ngộ nghĩnh dễ thương.
          Chiếc phi cơ khác từ từ quay ra phi đạo, thì gió từ những cánh quạt ào ào thổi, làm cho mọi người đứng bên hàng rào muốn té nhào. Không hiểu sao lúc đó bé Bi ở đâu chui ra khỏi hàng rào nắm lấy tay một bà Mỹ mặc áo đầm vàng, bà có đôi mắt xanh ngọc, mái tóc vàng hoe. Bà ta ngạc nhiên ngập ngừng chốc lát, rồi đặt chiếc va ly xuống đất, bà lấy trong giỏ xách một hộp bánh ngọt đưa cho bé Bi, bà chỉ tay về phía cửa kính bên trong hàng rào, nơi mọi người đang ngồi hoặc đứng chờ đợi chuyến bay. Nhưng thằng bé không nghe, không hiểu, hoặc mãi nhìn những chiếc phi cơ, nó không cầm hộp bánh mà chỉ nắm chặt váy đầm bà Mỹ kéo rị lại. Bà Mỹ trắng nầy cứ nhìn bé Bi và nhìn quanh quất hoài. Có lẽ bà Mỹ nghĩ con cái nhà ai bị thất lạc trong lúc cả nước hổn độn chạy loạn?! Đến phiên bà Mỹ tiến bước ra cổng phi trường đi xa xa hàng rào, để lên chiếc máy bay kia, thì thằng bé nhà tôi vẫn túm chặt váy áo bà Mỹ líu ríu đi theo bà. Nhưng thằng bé Bi bước đi, mà luôn luôn ngoái cổ lại đăm đăm nhìn chiếc phi cơ đáp xuống trên phi đạo.
          Tôi cúi đầu vạch áo cho bé Hoàng mút vú da, khi ngẩng lên nhìn ra hướng phi cơ, ngay từ lúc đầu tôi thấy có đứa nhỏ con ai, hình như giống con trai của mình đang nắm chặt váy của một phụ nữ Mỹ, khiến váy đầm bà ta giảng dài ra lôi theo thằng nhỏ?! Thật tình ban đầu tôi cứ tưởng nó là con của bà Mỹ kia, tôi không hề nghĩ đó là bé Bi, (bé Bi là tên gọi thân thiết trong gia đình). Quay lại nhìn lui nhìn tới, nhìn quanh, thì quả thật tôi thấy thiếu mất bé Bi, nó không còn đứng trên cái thùng gỗ, hoặc bên hàng chắn rào cùng hai anh Dzũng và Tuấn của nó nữa. Tôi hốt hoảng bỏ thằng bé Hoàng (Tồ) đang cắn kéo cái vú của tôi dài ngoẵng ra đau điếng. Tôi đứng phắt dậy, hoảng hốt kêu réo to thật to:
          - Bé Bi. Bé Huy. Úi Trời ơi! Mẹ đây nầy Huy ơi! Huy ơi...
          Khổ nỗ̉i thằng bé không thể nghe được, vì tiếng phi cơ nổ ầm ầm, inh ỏi gầm rú. Đồng thời lúc đó con trai trưởng của tôi là bé Dzũng đứng ở gần tôi hơn, nên con nghe tôi la hét, con quay lại nhìn thấy tôi cứ chỉ chỉ tay về hướng bé Bi. Bé Dzũng và bé Tuấn cũng thấy bé Bi ngố ngáo từ từ theo đoàn di tản đi ra ngoài chiếc C 130 khác. Bé Dzũng hoảng hồn, con nhanh nhẹn bò lòn qua lớp hàng rào sắt, con tức tốc chạy chạy... chạy rõ mau tới bên bé Bi. Bé Dzũng lôi giật thằng em đứng khựng lại, thằng bé Bi xiểng liểng suýt té, nó ngơ ngác nhìn lên bà Mỹ, vội buông váy của bà ta ra. Hai anh em túm cánh tay nhau cúi cong lưng cùng tất tả chạy về chỗ cũ. Hú hồn hú vía! Tôi mừng rỡ điên người mà khóc hụ hụ hụ như mọi người bình dân..., tôi vừa quệt nước mắt vừa hét tướng lên, bai bải la mắng mấy đứa con trước mặt mọi người lạ. Tôi không hề biết xấu hổ, chỉ vì tôi sợ mất con. Kể từ giờ phút đó, tôi lấy một sợi len dài cột cườm tay đứa nầy dính với cườm tay đứa kia, bắt các con ngồi bệt xuống nền gạch, ở yên một chỗ, không được đứng dậy xớ rớ dòm ngó lung tung chi cả, cho chắc ăn. Tôi giữ các con chằn chằn sát bên. Thật ra, nào biết đâu bé Bi mới hơn ba tuổi, nếu con đi với bà Mỹ, thì sau nầy con không thể biết cha mẹ là ai! Ở nơi xứ văn minh tột đỉnh giàu sang vinh phú kia, có thể đời con sẽ ấm êm sung sướng hạnh phúc, hơn ở với cha mẹ chăng?! Cũng có thể ngược lại. Nhưng... Thôi con ơi, nếu con ở nơi quê hương với tổ tiên ông bà cha mẹ, mình có đói khổ nghèo hèn, cũng còn mẹ cha anh em ruột thịt: yêu thương con, chí tình đùm bọc, ủi an, sum họp bên nhau. Sau nầy nếu gia đình mình may mắn trở lại giàu sang sung túc như xưa. Hoặc vô phúc mà lâm vô cảnh hoạn nạn đói khổ, thì mình cùng chia sẻ ngọt bùi, cùng dắt díu nhau bước trên con đường gian truân. Mẹ không thể rứt ruột đem con thơ đi bỏ chợ, bơ vơ lạc lõng ở xứ người lạ hoắt cho đành. Xin lỗi con.
          Đợt người di tản thứ ba đã tuần tự được gọi tên lên phi cơ. Tôi lo lắng nghĩ vơ nghĩ vẩn và cảm thấy bồn chồn nóng ruột lạ lùng, chỉ sợ bị sót tên, hoặc vì lý do nào đó bị đình chỉ chuyến bay. Thì chết thôi! Hai sĩ quan Không-quân đã đọc danh sách lúc nãy đích thân dẫn đoàn người di tản, trong đó có tên gia đình tôi là tốp cuối cùng mang số chuyến bay 449 A. Tôi để bà nội, các con, đi trước, cườm tay các con vẫn cột sợi len dùng dằng níu kéo nhau run run con leo lên chiếc phi cơ C–130 “hả toác hoác đít ra như mồm ếch”. Lúc ở xa xa trong khu hành lang tôi nhìn thấy chiếc phi cơ nhỏ, nhưng khi đến bệ cầu thang sắt nối liền với đuôi phi cơ, thì thấy phi cơ nầy to lớn lạ thường. Từ đuôi máy bay dọc theo lòng phi cơ có bốn hàng ghế, hai hàng ghế giữa đâu lưng vô nhau, bốn hàng ghế đệm bọc nhung màu huyết dụ rất êm đang mở “cái đuôi đít toác hoác ra”. Mỗi bên đuôi cuả phi cơ (ở trên phi cơ cũng như ở dưới đất): có hai quân nhân đứng, vì "cái đít phi cơ rất cao và to", hai quân nhân dưới đất lần lượt "bồng" từng người đưa lên phi cơ, hai quân nhân đứng trên đuôi phi cơ sẽ đỡ lấy những mẹ già, phụ nữ và trẻ thơ, cho an toàn lúc chiếc máy bay vẫn nổ máy ầm ầm, nó sẽ mang mọi người ra khỏi vùng đại nạn khói lửa binh đao. Biết đâu nơi Nha Trang sẽ diễn ra bao đau thương tàn khốc nay mai!?
          Các con đứa nào đứa nấy tóc tai quần áo ướt nhẹp mồ hôi, hai má đỏ rực vì nóng, đã được mẹ tháo sợi dây len “chắc cú” ra rồi, các con thoải mái cứ chồm lên nhìn qua những ô cửa, vui vẻ hí hửng cười nói tía lia, lí lắc, huyên thuyên. Nhiều lần mỗi khi đi đâu chơi, tôi đều mua dự phòng bánh mì kẹp thịt gà, ba tê, thịt nguội, cam quít hoặc chuối, nước lọc, đựng trong giỏ xách, để cho các con ăn. Nhưng bây giờ sống trong cơn hoạn nạn, lại bất ngờ được ra đi quá đột ngột, tôi không thể chuẩn bị chu đáo, nên mọi thứ đều thiếu thốn. Bé Tồ lúc đó quậy tưng trời, tôi mệt hết sức, phần vì tiếng động cơ gầm rú đinh tai nhức óc, khiến con sợ hãi, phần vì nóng nực kinh khủng, mồ hôi con vã ra như tắm, ướt hết áo quần, lúc đó trong phi cơ chưa mở máy lạnh. Phần nữa là con đói bụng đòi bú. Khổ nỗi hai bầu vú tôi nhăn nhúm teo tóp sát vô xương sườn, thì còn gì có sữa cho con! Chẳng cần biết xấu hổ khi tôi vạch áo trước nhiều người lạ, để vắt hai đầu vú teo tóp hoài vẫn không còn một giọt sữa. Bé con cứ chui rúc đầu vô tìm vú mẹ, bú bú, mút mút, day day... con nhả vú ra, vật vã khóc la. Con lại giẫy nẩy lên, thiệt chướng quá chừng. Chính lúc đó có một người đàn bà trung niên qúy phái, thanh tú, lịch lãm, ăn mặc gọn gàng trang nhã, bà ngồi đối diện với tôi, bà ấy cầm cái quạt giấy quạt hoài cho mẹ con tôi. Sau đó bà đưa cho tôi ổ bánh mì:
          - Chị đút cho cháu ăn... Có lẽ cháu đói bụng.
          Tôi nghẹn đắng cổ chua xót lí nhí cảm ơn bà, cầm ổ bánh mì kẹp thịt xé nhỏ ra, tôi đút từng miếng cho con ăn. Bé Tồ nín khóc, mặc dù con vẫn nấc lên từng hồi. Con ăn ngấu nghiến gần hết một phần tư ổ bánh mì, con thút thít đẫy tay tôi ra, bé Tồ đưa phần bánh mì còn lại cho các anh nó. Mấy anh em ỏn ẻn cười hì hì... liếc nhìn bà ấy, rồi các con thay phiên nhau mỗi đứa e dè cắn một miếng bánh mì nhỏ, nhai bỏm bẻm. Lát sau "cái đít con tàu" đóng lại, thì trong khoan phi cơ mở máy lạnh mát rượi, lại lạnh run. Thế là bé Tồ dụi đầu vô ngực tôi vừa nấc nấc mà ngủ vùi.
          Người đàn bà thân thiện mỉm cười nhìn chằm chằm mấy đứa nhỏ. Giọng miền Nam ngọt ngào, nhỏ nhẹ:
          - Các con của chị đẹp lắm và ngoan thiệt.
          Tôi e ấp mỉm cười. Bà ấy lại lúi húi lục tìm trong giỏ xách sang trọng ra một hộp bánh Coffee Milk Biscuits to, và chai nước lọc, bà đưa cho tôi. Giỏ xách của bà bây giờ đã xẹp lép. Thật bất ngờ, dù tôi không bảo, nhưng ba đứa con lớn vẻ mặt rạng rỡ, hớn hở, vui vẻ, hí hửng nhìn nhau, chúng vòng tay cúi rạp đầu sát xuống gần đùi nó, đứa trước đứa sau nói:
          - “Cháu cảm ơn bà ạ” rất to.
          Chúng bắt chước nhau giống như chú khỉ; khiến ai nấy ngồi chung chuyến máy bay đều cười. Các con ngồi ngay ngắn từ tốn ỏn ẻn ăn uống gọn gàng xong. Tôi nhìn người đàn bà xa lạ lại ấp úng lí nhí cám ơn, lặng lẽ cúi đầu xuống trên mái tóc thằng bé nhỏ mà quệt nước mắt.
          * * *
          Tôi nghĩ mãi không ra và không thể nào ngờ là mình có diễm phúc vinh dự đến thế nầy: Khi xế chiều có ông sĩ quan Không–quân Việt Nam ở Nha Trang gọi tên tôi (tôi đứng đầu tên trong danh sách gia đình) ông đưa cho tôi tờ phê duyệt “Thuận” do vị một Trung-tá ấn ký (tôi không thể nhớ rõ tên vị ấy). Ôi! Trí óc của tôi lúc đó thật tồi, tôi chỉ biết lo lắng về riêng “cái tôi” hiện tại là: làm sao mình có thể “đào tẩu” ra khỏi vùng đất chứa nhiều súng đạn và hận thù, mà không hề nghĩ đến ai- thì bây giờ tôi biết làm thế nào nhớ rõ tên họ và ân tình không thể trả đền nầy! Trên tờ giấy ghi “thuận” không hề có con dấu: “nhất thế. Nhì Thân. Tam ngân. Tứ chế” gì cả. Thời gian loạn lạc thất điên bát đảo nầy; thật sự tôi biết chắc chắn một điều: trong trường hợp hổn loạn cao độ, thì dù ai ai di chuyển bất cứ phương tiện nào gần hoặc xa, đa số ai có thế lực, có “chi địa, chi vàng” thì mới có thể thoát thân. Tôi không phủ nhận trước ngày gia đình tôi di tản khỏi Đà Lạt, thì tôi có xe hơi, nhà lầu, rủng rỉnh tiền bạc leng keng trong túi như ai! Ấy thế mà chính lúc nầy tôi nghèo rớt mồng tơi. Nhưng vẫn có người chính thức công nhận cho gia đình mình đường hoàng leo lên “tàu bay free”! Ôi! Sung sướng làm sao! Hạnh phúc vô ngần khi tôi ngồi trong lòng phi cơ, cảm thấy như đời bay bổng lên đào nguyên tiên cảnh giống hệt Từ Thức. Ơn cứu mạng nầy gia đình tôi xin vô vàn tạ ơn “người”. Khấp khởi vui mừng khôn xiết khi đã ngồi an toàn yên ổn ở một nơi sang trọng thế nầy, tôi nhìn lui nhìn tới không thấy ai lưu ý đến mình, tôi len lén thò tay xuống nhéo ở bắp đùi mình mấy cái, xem thử mình có nằm mơ, hoặc thân mình có đau điếng vỡ mộng hay không!? Bởi vì tôi vẫn chưa dám tin chắc là mình sung sướng hạnh phúc may mắn được hãng Hàng-không Quân-sự “biếu” cho tờ giấy chứng nhận được “đi không”, “đi chùa” tuyệt vời như thế nầy.
          Lòng tôi rối bời sầu nhớ hình ảnh đóa hoa hồng tươi thắm óng vàng đang gục đầu bên ngăn kéo kỷ niệm bảng lảng dáng hoàng hôn hắt hiu hư ảo thuở nào! Ôi! Đó là những đóa hồng nở rộ thắm tươi trong trái tim nhân-ái hiếm thấy. Tôi không “nịnh” những chàng phi công hào hoa phong nhã và rất chi là... bay bướm làm gì! Vì sự thật không cần biết tôi là ai, họ tận tâm giúp đời vô vụ lợi, tấm lòng họ tận-hiến cho bổn phận, trách nhiệm, danh dự và nghĩa vụ cứu người. Những vị ân nhân đức độ mà tôi không hề biết mặt nhớ tên. Những người tình cờ tôi chỉ biết một lần, sơ sài quen một ngày, rồi xa nhau muôn thuở, không bao giờ tìm thấy lại, nhưng suốt đời tôi vẫn luyến nhớ thầm mong có ngày hân hạnh được tái ngộ. Tôi xin trân trọng cúi đầu tạ ơn vị Trung-tá Không quân (tôi không thể nhớ tên “ngài”). Tôi vô cùng cảm-kích những tấm lòng cao cả của các vị Không-quân. Trân trọng cảm ơn gia đình ông bà Niềm, cô Thúy Lan vô vàn. Cám ơn người đàn bà thanh lịch qúy phái ngồi trên phi cơ, đã cho các con tôi một miếng khi đói. Ân tình nầy suốt đời tôi không thể trả đền, xin trọn kiếp mang theo kính nhớ trong lòng. Biết làm sao bây giờ! Dù mai sau nếu gia đình tôi sẽ trở lại sung túc giàu sang như thuở xưa, hoặc tôi chỉ là một người vợ lính quèn hèn mọn tầm thường: tôi nguyện sẽ cố gắng viết những bài văn (dù hay hoặc dỡ), tôi thành tâm tạt cốt “tình chung một khắc, nghĩa dài trăm năm” để ca tụng những vị anh hùng có nhân cách thầm lặng xã thân giúp đời vô vụ lợi. Một lần nữa tôi không bao giờ và chẳng thể nào quên: những người đã âm thầm lặng lẽ ưu ái ban tặng free bao đặc ân cao qúy tốt đẹp cho riêng gia đình tôi, và cho Đời. Nguyện xin Thượng Đế trả công bội hậu ban đến họ được vui vẻ bình an hạnh phúc trường tồn.
          Chiếc “mõm hàm ếch” từ từ khép miệng lại, nhốt trọn mấy trăm dân di tản vô trong lòng phi cơ. Phi cơ êm ru bay hoài và an toàn hạ cánh xuống phi trường Tân Sơn Nhứt, phía dành riêng cho khu phi cơ quân sự cũng ồn ào, náo nhiệt đông đúc kinh khủng. Chúng tôi được leo lên một chiếc xe bus chở free ra lối Bảy Hiền.
          ***
          Tình Hoài Hương

          (Ngày 7 Tháng Tư tình cờ được đi Sài Gòn)
          Last edited by Tinh Hoai Huong; 04-27-2020, 11:58 PM.
          Bút trần nào tả được lưu luyến!
          Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
          Tình Hoài Hương

          Comment


          • Từ Tháng Ba & Những Người Đà Lạt Cuối Cùng Vỡ Tổ Tan Hàng

            Từ Tháng Ba & Những Người Đà Lạt Cuối Cùng Vỡ Tổ Tan Hàng
            Tình Hoài Hương


            Con đường dốc bên cạnh khu rừng đầy lá thông khô được sương chiều rửa sạch trơn bóng, láng mướt, đã ve vuốt đôi chân êm ái mát lạnh khi mình dẫm lên. Khiến Luật muốn ngã lưng nằm trên thảm lá màu nâu nâu, mượt mà, anh mơ màng nhìn lên trời cao, xao xuyến nghĩ về… đất nước còn, thì người lính có thể là một phần tử của con cờ thí thân trong chiến tranh. Họ gánh trên vai nhiều trọng trách, nhiệm vụ, và bổn phận nặng nề đầy phức tạp; dù biết bao cơ cực lầm than, nhọc nhằn, khổ sở, chua xót, đắng cay, trăm bề o ép. Trước đám sương dày đặc kia là tương lai xa xăm mù mịt, là con đường tiến thân để giành lại, giữ lại từng tất đất, từng ngôi nhà, từng dòng sông, suối thác... không biết sẽ bắt đầu từ mấu chốt nơi đâu?! Lúc nầy, tình hình chính trị ở miền Nam Việt Nam xoay quanh cơn lốc chính trị dâng cao tột độ lẫn kinh hoàng vô cùng, giống như hai giòng nước ngược đục ngàu xô vào nhau, toé lên thành những cơn triều cường sóng thần dâng cao vút và đảo điên nhứt. Họ chẳng thể chí tình thiết tha yêu thương ôm trọn quê hương ở trong lòng, khi Trọng Luật cùng hầu hết quân nhân đã vâng lời nghe lệnh cấp trên ban ra rành rành: "Quân nhân, cán bộ các ban ngành, thanh niên nòng cốt, tuổi trẻ phải ở lại “tử thủ” tại mỗi đơn vị: từ đầu ngày 18 tháng Ba năm 1975 tới giờ phút cuối cùng, còn ông già bà cả, trẻ con phụ nữ… thì cho di tản ra khỏi Đà Lạt/Tuyên Đức. Gấp".
            Tin như thế loan ra nhiều ngày, nhiều ngày... hầu hết ai ai nghe, cũng cả tin chắp bắp và khá an tâm, "chúng ta" cùng vững chí đồng lòng cương quyết trụ trì ở lại 24/24 giờ nơi những tuyến phòng thủ. Té ra, ôi mà ngờ đâu... có một nhóm người cao cấp đã làm cuộc tình lờ, len lén tình vờ lo cao chạy xa bay chuồn đi từ lâu "dzọt dià" thủ đô Sài Gòn, nguồn tin đáng tín cẩn cho Luật hay, số ít cao cấp ở Sài Gòn cùng vợ con họ đã dọt đi ra nước ngoài (từ khuya rồi anh ơi)! "Bản thân cao cấp và "vợ con cấp cao" cần bảo vệ an toàn, là chắc cú. Còn vợ con lính là "thứ loại" gì nhỉ? Hẳn là lâu lắm rồi khi vừa ra "thượng lệnh"; thì họ chỉ biết rũ bỏ sau lưng sự đau khổ tang thương cùng khó ấy: đành tâm bắt người khác âm thầm ở lại chịu trận, gánh gồnh gian nan, khổ đau. Đám sĩ quan hạ giới nầy nào có hay, thì lính tráng binh nhứt, binh nhì bẹt dem cùi bắp làm sao biết! Bây chừ đạn pháo nổ dậy khung trời vùng núi Lâm Viên! Tưởng chừng như hai phe “quốc nội” giàn quân ngoài mặt trận đánh nhau một phen chí tử. Thật tình phía Việt Nam Cộng Hoà "đã bị" có lệnh rút lui, bỏ ngỏ, chớ nào có thẳng thừng đánh đấm gì cho cam. Nếu đường hoàng sòng phẳng quân tử chính nhân, mà oai dũng chơi nhau một trận quyến liệt trên bàn cờ chiến cuộc, thì chưa chắc ai thắng ai à. Tức giận và uất ức điên người.
            Đài phát thanh Đà Lạt dấu nhẹm chuyện các nơi khác đã lo cho quân đội và dân triệt thoái, đài chỉ phát ra những mục bình thường tẻ lạt vớ vẩn, đài chẳng hề toan báo một tin tức thời sự nóng bỏng nào! lập ra đài phát thanh làm gì mà bi giờ quá vô tích sự, đài cũng chẳng tiếp vận đài phát thanh Sài Gòn như trước, cho người dân Đà Lạt được nghe dù vài giờ rất ngắn ngủi vào phút chót mong manh và hối hả. Từ đó đến nay đã ngót tháng ròng rã rồi, nhưng quân nhân thanh niên tráng niên vùng nầy không hề biết. Vì thế họ đã chưng hửng bàng hoàng, nên trở tay không kịp. Sau đó, Luật và “nhóm tình nghĩa tử thủ bất diệt" quyết giữ gìn quê hương ấy, mới biết tin cho quân nhân ở Đà Lạt triệt thoái chậm chạp, trể tràng; vì bị người ta dấu nhẹm, kín bưng. Chẳng đặng đừng... Luật đến toà Tỉnh Trưởng cùng các đại diện những phái đoàn: quân, cán chính, cảnh sát nổi, cảnh sát chìm, cảnh sát đặc biệt, xâm nhập, tham dự buổi họp đặc biệt thượng khẩn:
            Về việc triệt thoái được ấn định phân chia như sau: Tất cả quân nhân, sĩ quan và sinh viên sĩ quan toàn các khối ở trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam có số lượng người hùng hậu đông đúc, thì họ sẽ chỉ huy ở vòng ngoài, (kẹp đồng bào tuần tự đi ở hàng giữa, dân chúng là đội ngũ xô bồ lộn xộn không có súng ống, họ chỉ gánh gồnh đồ đạc cồng kềnh linh tinh...). Trường sĩ quan Võ Bị Đà Lạt sẽ dàn quân dọc hai bên quốc lộ 20, vừa từ từ rút, vừa giữ an ninh trật tự, bảo vệ tối đa cho đồng bảo tuần tự ra đi, bằng mọi giá họ cẩn thận chăm sóc giúp đỡ đồng bào đi về lối Phan Rang, đi Phan Thiết, v.v... Đồng thời trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt cũng là đoàn quân bọc hậu cuối cùng đành phải rời bỏ thành phố núi thân yêu. Cảnh sát, quân nhân các binh chủng khác sẽ cặp song song với trường Võ Bị vòng ngoài xa xa. Các cửa ngỏ hậu phương, kho lương thực, ngân hàng, ngân khố, quân trang quân cụ, khu nầy, sở nọ, ty kia mở toang hoang, kể cả nhà thường dân vắng chủ đều bị cướp bóc, đốt phá cháy rụi. Một phần do trước khi ra đi, những người có trách nhiệm với công sở của mình phải hủy diệt hồ sơ mật. Một phần do nhóm tự xưng là “cách mạng 75” khích động kẻ gian thừa nước đục thả câu, chúng mặc sức tha hồ thao túng, càn quét vơ vét tung hoành mọi mặt. Đà Lạt như rắn mất đầu, như đàn gà con mất mẹ. Tất cả mọi tầng lớp dân chúng di chuyển từ Đà Lạt xuống đèo Ngoạn Mục cao chất ngất và ngoằn ngoèo tới Sông Pha, rồi tới Phan Rang, dưới sự điều khiển của Đại-tá Quỳnh đều nhịp nhàng, ăn khớp, chu đáo, rất có trật tự lớp lang trước sau đều đặn an toàn.
            Cho đến khi xuống quá Phan Rang qua ngã Phan Thiết, thì an ninh trật tự không còn toàn vẹn như cũ. Bởi do Quân Đoàn II đã triệt thoái về hướng nầy rất đông, đông kinh khủng... dân quân từ trên hướng Pleiku, Bamethuot, Kontum về, và hướng Đà Lạt xuống, đã bất ngờ... "gặp nhau ở tụ điểm son đồng tâm"... nhiều đến nỗi không thể nào tưởng tượng. Tất cả mọi người đụng nhau tại đây. Khi đó thì quốc lộ chính đã tràn ngập người và người đông đúc, nhiều vô số kể! Hiện trạng bấy giờ đã lộn xộn kinh khủng rất bàng hoàng. Thế là "những người Đà Lạt cuối cùng bị vỡ tổ tan hàng" từ đó. Luật coi quân đội là một tổ ấm lý tưởng quan trọng linh thiêng quý giá, vô cùng cần thiết; vì đó là nơi an tựa vững vàng trong đời sống của người trai có lý tưởng, có hoài bão có lập trường trong thời loạn. Tổ quốc uy linh ấy, dường như Luật muốn ví là một tổ ấm mật thiết, quan trọng không kém gì gia đình riêng mình nơi đã có mẹ già thân yêu, có vợ hiền con ngoan. Nhưng hôm nay cái tổ ấm quốc gia linh thiêng ấy sụp đỗ rồi chăng? Nghĩ tới điều đó, Luật đã bật khóc, khiến bạn đi cùng xe ái ngại và sửng sốt đăm đăm ngoái nhìn, họ thì-thầm:
            - Có lẽ anh ta đau buồn chuyện riêng tư tang gia bối rối gì đây.
            Gần tới vòng ngoài ven biên của tỉnh thành Phan Thiết đầy bụi bặm và gió cát thổi vù vù, bỗng có nhiều tràng súng từ đoàn xe sau ria xẹt tới phía hai chiếc xe ngân khố (không biết xe tiền ấy của nơi nào, Tỉnh Kontum, Pleiku, Ba Mê Thuột, hoặc Thị-xã Đà Lạt?). Xe chở những bao bố tiền to khổng lồ, tiền ơi là tiền rơi kín một góc trời, bay tá lã theo gió lồng lộng như đàn bươm bướm chập chờn trên không trung. Khi đó thì... không thể nào diễn tả nỗi cảnh kinh dị lúc mọi người khum xuống lượm tiền dưới cơn mưa chì bão lửa, nơi xe cộ gầm rú. Cảnh thương tật, khóc than, la mắng, chết chóc, lẫn trong tiếng súng đạn gầm rú xa gần, khiến mọi người bị hút vào điệu quay chóng mặt, bàng hoàng đến rợn người. Luật ngồi trên xe thấy những pha cướp giật, hò hét, chưởi rủa, đánh đập nhau dã man trắng trợn ven đường... tùm lum. Luật cảm thấy chua xót đắng cay, nhục là ở chỗ đó, tệ là ở chỗ đó, đau quặn thắt lòng ở chỗ khúc ruột thừa.
            Luật cùng mười anh khác bảo nhau nên thay bộ đồ tác chiến, mặc đồ dân sự vẫn cầm theo trong túi xách mấy hôm nay, để dễ bề đi đứng, anh vất bỏ hết tất cả lon lá mũ mão hành trang rối rắm trên đầu, trên vai. Luật mang đôi giày ba ta cũ, mặc thêm áo lạnh, nhét mấy trăm ngàn vô túi quần jean, một chiếc đồng hồ Omega, chiếc nhẫn cưới, sợi dây chuyền, cái nón lưỡi trai đội đầu, một khẩu súng lục mang kè kè bên nách, để phòng thân. Nhóm Luật là những người lính chiến đấu dũng cảm cuối cùng đau đớn chối bỏ mình là quân nhân, anh cảm thấy dày vò tột độ khi tự tay lột bộ áo quần nhà binh lon lá khi lìa quân ngũ, bỏ đơn vị, xót xa, chua cay, bàng hoàng ngao ngán tự lo cứu chính bản thân trong cơn biến loạn ngặt nghèo lâm nguy, hấp hối.
            Lúc bây giờ không có người chỉ huy, thì nhóm quan cũng như lính có nhiều ý kiến, ý cò, tự vạch ra cho mình con đường sống mới. Mạnh ai nấy dọt, họ luống cuống, hốt hoảng băng đèo vượt đồi cát chạy tan tác. Không còn cảnh tình đồng đội keo sơn như cá với nước, như cây cần đất, cần rễ bám vào đất cho cây liền cành. Mà thân ai nấy lo, hồn ai nấy giữ, mạnh ai nấy chạy thiếu sống bán chết, tự lo thoát thân. Họ đi chuyền từng đoạn xe đò, xe tải, xe GMC hết xăng, họ chạy bộ chen lấn nhau xéo bước, họ thở dồn dập, gò lưng chạy thục mạng từng đoạn ngắn, người chạy đi kẻ chạy lại, người đi lánh cư đông kinh khủng bất ngờ gặp gỡ nhau giữa trùng trùng lớp lớp, trên bước đường chạy loạn những kẻ sống còn mong vượt qua gian nguy khổ ải.
            Rồi nhóm Luật đã bị lạc mất nhau. Ngày chạy bộ với những người dân tay xách tay mang đùm đề vợ con, chân thấp chân cao khổ ải mệt nhoài đến những nơi lạ cái lạ nước chưa bao giờ anh biết tới. Đêm đêm ngủ với người thoi thóp, nằm với những xác chết cứng đơ giữa đồng không mông quạnh. Luật mong tìm làn hơi ấm bên người lân cận, hầu hổ trợ an ủi tinh thần, nương nhờ lẫn nhau. Nào ngờ, khi hoàn hồn, bừng mở mắt ra ngoảnh nhìn lại rờ mó người bên cạnh, anh mới biết đó chỉ là những thây ma. Luật mệt lả người phải bật dậy vội vã ra đi, vì sợ và cảm thấy bơ vơ lạc lõng hơn vì đói, khát. Phải! Giữa cảnh màn trời chiếu đất, trong tay những người dân không có một cây que để phòng thân tự vệ. Mà cuộc sống vẫn vô cùng mong manh và hối hả. Con người phút chốc trở thành da bọc xương, bối rối, ngơ ngơ ngáo ngáo, ngố ngố ngờ nghệch. Nhìn họ, anh không khỏi nghẹn ngào bàng hoàng xúc động và cảm thấy họ rất đáng thương. Nhìn thấy đồng bào di tản đông đúc ngược xuôi bần thần như kẻ mất hồn, Luật luôn bồn chồn lo lắng nghĩ tới mẹ, vợ và các con, chẳng biết bây giờ họ ra sao? lưu lạc phương nào rồi! Ngày đêm Luật vẫn cầu nguyện cho gia đình mình, và cả những người đang chạy loạn được bình an toàn vẹn.
            Anh chưa biết mò mò đi đâu, đầu óc trống rỗng và không tri thức giữa những nấm mồ đắp sơ sài tươi màu đất mới. Màn đêm tiếp nối bóng tối và đồng lỏa với mọi tội ác. Đã thế, đêm đêm từng đàn chó hoang ốm đói, chúng tong teo gầm gừ cắn xé nhau tranh giành xương cốt, thi thể thối nát của người di tản nào đó. Thì chó cũng biết đói như con người, càng đói chúng càng ôm quắp thây người mà nhai ngấu nghiến. Luật nghe tiếng kêu rào rạo từ mấy thây ma cứng đơ thum thủm. Bầy chó nhe răng tru hú lên từng hồi hoang dại, thiệt dã man. Luật cảm thấy rợn tóc gáy nôn oẹ nhớt dãi, khi đối mặt với tận cùng bi thiết thảm sầu, cay cực, chiến tranh tàn ác đã lột da con người vô cùng trần trụi, thô thiển đến tận xương tủy, những vết thương hoác miệng từ dĩ vãng, hiện tại, có thể trong tương lai đã để lại trong lòng Luật những vết thương nóng sốt sôi bỏng, bừng bừng nhói buốt rung lên từng cơn quặn thắt, anh cảm thấy bị đau khủng khiếp, nhưng chẳng biết nó đau mà bắt nguồn đau từ chỗ nào, ở đâu. Luật đang nằm thẳng đơ mất hết ý niệm về không gian lẫn thời gian bên mấy người chết kia, quả thật bây giờ trông mình vô cảm vô hồn thiệt giống xác chết. Giữa lúc khốn đốn đau buồn chán nãn và tuyệt vọng nhứt, Luật nghe có tiếng người ngồi trong bóng tối rù rì gì đó, có lẽ họ ở đâu vừa mới đến đây thôi. Luật uể oải hé mở mắt ra nhìn quanh, thì nghe họ nói với nhau:
            - Mình vô Tiểu Khu, may ra còn có xe chạy về Nha Trang chăng?
            - Ông ơi! biết đâu ở ngoải cũng bị mất rồi.
            - Còn nước còn tát, chưa đi làm sao biết.
            - Nhưng ra Nha Trang... có phải là mình lại đi xa hơn... nữa à?
            - Phải đi ra hướng ấy thôi.
            - Ông điên à? từ Phan Thiết về Sài Gòn gần hơn.
            - Không nghe hồi nãy dân họ nói đường bộ đi Long Khánh gần như tiêu rồi sao!?
            Hai người đó im lặng một lúc, có tiếng nói tiếp:
            - Vậy nên đi Nha Trang, ở đó có tàu, thuyền, hoặc máy bay. Tôi có bà con ở đó.
            Luật vui mừng như đã gặp đồng hương, anh ngồi bật dậy:
            - Anh bạn nói phải.
            Hai người đàn ông kia sửng sốt giật mình, toan đứng lên vùng chạy, vì họ nghĩ Luật là một người lạ, có thể là "dân cướp cạn" cũng nên. Luật bò bò qua bên kia góc tối trong căn nhà hoang, thì ra anh nhận diện được một người quen sơ giao trong lúc đoàn quân Đà Lạt triệt thoát. Thế là ba người đàn ông chạy vô Tiểu khu, cũng may họ xin đi ké xe GMC ra Nha Trang. Tới Nha Trang, trước tiên Luật ghé qua nhà Oanh, thì anh rất vui mừng được biết mẹ, vợ con mình đã an toàn lên máy bay vô Sài Gòn rồi. Luật hỏi tại sao Oanh và gia đình không di tản? Oanh trả lời: "Không thể đi đâu hết, vì ở nhà còn ông bà ngoại già hơn 90t, còn cha mẹ... không biết bỏ nhà cửa mà đi đâu!" Oanh gói cho Luật một bịch xôi đậu xanh to, chai nước lọc. Luật e ngại cầm mà bùi ngùi bỏ trong túi xách nhỏ.
            Hai ông bạn mới quen đứng bên góc đường Hồng Bàng chờ Luật giây lát. Thấy nhau rồi, họ đi từ nhà Oanh ra mé biển chưa đầy năm phút. Thành phố Nha Trang càng đông người kinh khủng. Quan sát khắp nơi, biết tình trạng nầy nếu chờ tàu lớn, hoặc máy bay quân sự hay dân sự gì cũng không xong, bàn tính với nhau hồi lâu, họ quyết định thuê ghe buôn của thường dân đi vô Vũng Tàu, cho chắc ăn. Ba người đi rảo quanh bãi biển Nha Trang tìm thêm người nào có thể chung nhau tiền lộ phí. Thế là lại rủ thêm được mấy người nữa, sau đó họ ra xóm Bóng mướn ghe đánh cá nhỏ đang chuẩn bị chuyển hàng về Bà Rịa hôm nay. Đi Bà Rịa tốt hơn nữa, miễn sao về gần thủ đô là mừng. Mặc cả giá tiền cho tám người đàn ông cũ và mới chung chuyến đi, ai nấy tự động móc tiền túi ra đóng cho chủ ghe xong xuôi, họ mừng rỡ lên ghe. Đúng là may mắn!
            Sợ chủ ghe ra đi bất ngờ, nên không có ai kịp mua gì phòng hờ, may mà có chai nước và bọc xôi đậu xanh chắm muối mè Oanh đưa cho Luật, anh lấy ra chia cho tám người đồng hành, mỗi người chỉ nhón một ít xôi cỡ bằng trái chanh mà e dè ăn ngấu nghiến. Họ còn đói, (nhất là Luật đã chưa có hột cơm nào từ hơn hai ngày qua) và khát kinh khủng, nhưng tám người bó tay chịu trận. Trên ghe bây giờ cộng thêm cha con chủ ghe ba người, thì có tất cả mười một người đàn ông. Khi ghe đã êm ái bình an ra khỏi cửa biển Nha Trang, lướt xuôi về hướng Phan Rí cửa, qua Hàm Thuận Bắc, Bình Lâm rồi tới gần Mũi Né khoảng 20 hải lý, thì chủ ghe dỡ chứng trở quẻ viện cớ:
            - Tui sợ ngoải cũng lộn xộn, chẳng ai mua hàng, tui muốn quay ghe về Nha Trang.
            Mọi người chưng hửng! Đức, người đi trong nhóm nói:
            - Ông giỡn chơi à! Ông muốn gì?... Nói.
            - Tui e không đủ xăng chạy tới bển.
            Tâm cười gằn:
            - Muốn chúng tôi đóng thêm tiền, để ông mua xăng chớ gì?
            - Phải.
            Mấy người đàn ông thuê bao ghe nhìn nhau, rất bực tức giận dữ, nhưng "đã lỡ đò rồi"... họ hí húi móc tiền ra, kẻ nhiều người ít, gom tất cả thêm 254.000 ngàn đồng nữa, nộp cho chủ ghe. Vậy mà tên nầy vẫn không chịu. Bình (là người quen đã đi chung với Luật từ Đà Lạt) định móc tiền ở túi kia, để "dâng" cho tên chủ ghe. Nhưng Luật ngăn lại, thì-thầm bằng tiếng Anh với mấy bạn vừa quen:
            - Anh điên à. Từ đây đến Sài Gòn... còn nhiều đoạn phải có tiền chi trả, chớ vàng thì không ai muốn... vì họ sợ vàng giả. Để đó.
            Luật lột đồng hồ Omega, để xuống sàn, anh lấy lại đống tiền các abh kia vừa để trên sàn ghe, ai nộp bao nhiêu tiền, thì Luật đưa trả lại cho họ xong xuôi. Luật móc củ súng colt 45 đeo ở nách ra, cầm lên:
            - Chúng tôi mặc cả sòng phẳng và rõ ràng với ông, đã chung tiền rồi, còn hào phóng tặng thêm cho ông rất nhiều, hơn số tiền ông định giá. Từng ấy... chưa hài lòng sao? Thế thì, bây giờ chúng tôi cần số tiền ấy làm lộ phí khi rời khỏi ghe ông, ông có muốn nhận thêm chiếc đồng hồ Omega có sợi dây vàng 18K ba lượng, hoặc là ông thích nhận khẩu súng lục có những viên đạn thật nầy, mới hả dạ. Hở?
            Tất nhiên... tên "cướp cạn" kia không thể ngờ là trong người Luật còn có "củ súng chết người" bị cái áo lạnh che phủ bên ngoài. Hắn lại len lén lấm lét nhìn sợi dây chuyền rung rinh lắc lư lủng lẳng trên bờ ngực trần của Luật, mà thèm... ứa nước miếng.
            Thanh nói như hét:
            - Ông là một thằng hèn hạ, không có tình đồng loại, bộ ông muốn chết tiệt vì hám của hả!
            Đức nhếch mép:
            - Hãy cám ơn Trời cứu mạng, khi ông may mắn gặp những quân nhân như chúng tôi nhe.
            Chủ ghe không dám nhìn ai mà cúi cúi liếc liếc, riu ríu len lén run run lượm cái đồng hồ, theo lệnh của Luật:
            - Anh phải cầm lấy chiếc đồng hồ của tôi, giữ làm kỷ niệm, mà nhớ đời. Nha.
            *
            Tình Hoài Hương
            Last edited by Tinh Hoai Huong; 04-14-2020, 04:13 AM.
            Bút trần nào tả được lưu luyến!
            Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
            Tình Hoài Hương

            Comment


            • Những Ngày Loạn Ly Trong Tháng Tư

              Những Ngày Loạn Ly Trong Tháng Tư
              Tình Hoài Hương
              *

              Khổng Tử đã nói:
              "Kẻ sĩ lo trước cái lo của thiên hạ. Vui sau cái vui của thiên hạ”.
              Cũng như cổ nhân Nguyễn Trường Tộ đã nói:
              “Nhất thất túc thành thiên cổ hận.
              Tái hồi đầu thị bách niên thân”.
              (Một bước lỡ để nghìn năm mang hận.
              Ngoảnh đầu trông lại đã trăm năm).

              Quả thực như vậy. Những người lính oằn vai nặng gánh, lưng gồnh mối thù oan nghiệt từ phân chia hai miền Bắc - Nam; buộc họ phải làm viên gạch lót đường cho danh vọng, tham tàn, bạo lực: Nay người lính đem xương máu ra chiến trường đã là, đang là… vẫn là những viên gạch lót đường, dài dài… từ vĩ tuyến 17, nơi con sông Bến Hải có cầu Hiền Lương nghẹn ngào đớn đau phân giới hai miền Nam, Bắc của nước Việt Nam “con rồng cháu tiên”. Họ quyết ở lại miền Nam Việt Nam dựng nước và giữ nước. Một thời gắn bó keo sơn, mặc dù biết mình vô tình làm ván bài mưu lược chính trị sục sôi. Họ vẫn chia nhau ra trấn giữ đất nước, cố duy trì sự tồn-hưng một quốc gia trong thời chiến tranh: Giống như Mã Viện xưa đã nói:
              - “Làm trai, nên chết ở chốn biên thùy, lấy da ngựa bọc thây mà chôn, mới đáng qúy. Chớ chết trong tay lũ trẻ nâng đỡ. Nào có hay gì"!
              Phân chia là thế! Nhưng lòng yêu nước thiết tha, lý tưởng, lập trường và hoài bão mong ước tự do an bình, ấm no cho toàn dân, thì “Quan, Tướng và Lính” đều có ước vọng, lập trường kiên định và hoài bão giống nhau. Hôm nay nếu trải qua chung cuộc ngậm ngùi trong cơn xoáy đục ngầu, tưởng đã chia phần đều nhau: là vậy. Ngày đêm kề cận sự chết, chiến tranh tàn khốc xảy ra trên từng đoạn đường giao tranh, trên những bước ngắn bước dài, bước thấp bước cao. Lòng lính càng quặn từng cơn đau buốt, khi họ đi kè kè hai bên lề đường: để hộ tống từng đoàn dân di tản tất tả chạy dọc theo ven những quốc lộ trên triền dốc quê hương Việt Nam thân yêu. Bỗng dưng tình hình chính trị quyết liệt căng thẳng, vận nước đột biến cuồng loạn từ góc 45/o, chỉ trong vài ba tuần ngắn ngủi, vụt nhảy tọt lên 360/o mau như chớp. Khiến tôi vô cùng hoang mang, bàng hoàng sửng sốt, lo lắng, buồn phiền, bối rối tột cùng, trở lui mắc núi, đi tới mắc sông, xoay quanh mắc vòng lẩn quẩn đủ mọi thủ thuật rối rắm. Sau 21 giờ thì thiết quân luật bắt đầu 100%, màn đêm đã sớm về cho đến khi khuya lắc khuya lơ, chúng tôi vẫn đứng thấp thỏm, thập thò từ trong cửa sổ ở phòng ngủ Hotel Hưng Đạo 2 đã tắt hết đèn đóm, tôi nhìn xuống đại lộ Trần Hưng Đạo, thì thấy lố nhố hàng hàng lớp lớp lính tráng: Tôi âm thầm quan sát “những tình thương và sự hy sinh cao cả bên lề cuộc sống”: Nào là: Thủy-quân Lục-chiến. Nhảy Dù. Biệt Động Quân. Bộ-Binh, vân vân... (không kể đã có ba Lữ đoàn Dù. Ba Liên đoàn Biệt Động Quân đóng tại Hóc Môn. Gò Vấp. Bình Chánh. Nhà Bè. Tân Sơn Nhứt).
              Quân đội đã đặt những ụ súng cối, súng máy, do các chiến hữu Sư-đoàn 5 – 18 – 22 – 25, ngỏ hầu chu tất việc bảo vệ an toàn lãnh thổ Việt Nam, Thủ-đô Sài Gòn, và lương dân vô tội. Cứ một giờ, tốp lính nầy đến gác, là tốp kia lầm lũi âm thầm ra đi... Báng súng dài dựng dưới mặt đường nhựa những mũi súng chụm vô nhau chỉa lên trời. Họ nói rất khẽ hay chỉ lặng lẽ ra hiệu lệnh, những quân nhân Quân-lực Việt Nam Cộng Hòa đã và đang anh dũng quyết chiến đấu, hy sinh đến giờ phút cuối cùng. Súng lại đeo lên vai nòng chĩa xuống đất, họ lặng lẽ và tuyệt đối vâng lời thượng cấp, từ từ rút lui có quy củ, trật tự tôn nghiêm trong hàng quân ngũ. Họ nhìn nhau lặng lẽ nhếch miệng cười qua cái bắt tay giã từ vừa đủ chặt, dường như họ âm thầm nói lên niềm đắng cay trào dâng trên sóng mắt tiếc thương, quặn đau trong lòng họ sự hy sinh vô vụ lợi, không điều kiện nay trở thành vô nghĩa. Từng tốp lính nhiều vô số nằm gối đầu trên vĩa hè, tay gác lên trán tư lự, rải rác đó đây có người đứng hoặc ngồi bên đường. Dù ở trên vĩa hè, quân nhân đều có trật tự, kỷ cương. Họ chia nhau ra canh giữ quê hương trong giờ phút lâm nguy khốn cùng. Những đóm lửa nhỏ lập loè loé lên trên bờ môi khô, những đôi mắt dường như đọng ngấn lệ tủi hận đầy bi ai. Có người mặc áo giáp, đăm chiêu suy tư, bơ phờ, hốc hác. Có người hất ngược mũ sắt ra sau gáy, sợi quai mũ cứa vô cục yết hầu oan gia nhô cao cay đắng chạy lên chạy xuống cuống cổ. Có người đội mũ sụp che xuống gần mí mắt. Có người đội mũ lệch qua một bên. Họ mang giày đinh lấm lem bụi đỏ, lưng đeo ba lô nặng trĩu đường hành quân, râu ria lởm chởm, tóc tai không mấy chỉnh tề. Những bàn tay anh tài vẫn đưa lên ngang tầm mắt, nghiêm nghị đứng thẳng, ngực ưỡn ra oai vệ khi chào thượng cấp.
              Sài Gòn vẫn chóa mắt vì đèn điện thắp sáng rực thâu đêm. Tiết trời quang rạng, gió hiu hiu nhè nhẹ phe phẩy mơn man trên đầu cây ngọn cỏ, không gian se lạnh khi màn sương nhợt nhòa buông lơi. Rồi bình minh ló dạng sau những toà cao ốc tráng lệ, oai sang đứng sừng sững trên các thổ cư luôn rạng danh là “Hòn Ngọc Viễn Đông”. Tôi sống tạm bợ nơi Sài Gòn xa hoa, nhộn nhịp, và lắm xô bồ trong những ngày trung tuần tháng 4 năm 1975 với ngàn lo âu, run sợ hãi hùng đầy cay đắng, băn khoăn lo lắng trăm mối tơ vò. Tin dữ loan ra thì có, tin lành về lại không. Nhìn xuống lòng đại lộ từ khách sạn Hưng Đạo 2, tôi càng run rẩy nghĩ rằng: “Trận chiến nầy, hẳn là sẽ đến hồi quyết liệt để giành thắng. Nay mai sẽ có giao tranh trên cùng khắp các nẽo đường. Chạy đi đâu cho thoát ra khỏi con ngỏ sâu hun hút, đầy đạn bom đây! Hở Trời!? Tôi vô cùng hối hận khi đưa gia đình về đô thành. Chạy đi đâu, cũng không thể thoát khỏi nanh vuốt bạo tàn khi kẻ ác gieo tang thương cùng khắp. Thì thà rằng cứ ở yên lại Đà Lạt, có lẽ gia đình tôi không đến nỗi nào khổ sở đến thế”!
              Trên những con đường lớn nhỏ tại Sài Gòn đều đông nghẹt người đi bộ, người ta đông hơn kiến tràn ra ngoài lòng lề đường, chen lấn nhau đi kẹt cứng. Mặc cho từng hàng xe hơi đủ loại, xe gắn máy, xe đạp, xe xích lô, xe ba gác vân vân… chồng chất đủ mọi thứ lỉnh kỉnh lên xe. Họ ùn ùn hối hả đi đi, về về! Đi đâu?! Về đâu?! Hầu hết các doanh trại ven đô, các công sở mỏ, và nhà thường dân lo đào hầm hố cá nhân. Những đại công ty sở và cao ốc, cũng như ngoài những đại lộ, gần trung tâm Sài Gòn đều ráo riết chuẩn bị. Mặc dù các bạn trong nhóm cuả tôi có nhiều sáng kiến, có nhận thức thời cuộc chính xác và quyết định đúng đắn, nhưng dẫu sao họ ở nơi xứ lạ quê người ồn ào náo nhiệt, tột cùng hổn loạn thế nầy, năm anh ấy giống chú khỉ bị nhốt trong chuồng kín ở hotel Hưng Đạo 2: dù lòng và trí nóng như lò lửa, thì ai có tài giỏi đến mấy cũng không biết đâu mà mò. Tuần trước, họ chờ đợi bầy trẻ nhỏ ngủ yên, liền khều mấy bà qua phòng tôi bàn tính chuyện lủi xuống miền Tây. Vì, nghe nói tại miền Tây bây giờ hoàn toàn bình yên tĩnh mịch. Ngọc đã cho ba của anh đi xuống miền Tây dò đường đi nước bước trước, nếu thấy tình hình bất ổn, thì ông lo tìm đường đi ra Phú Quốc. Ngọc sẽ đưa thê tử, và “hò” bạn bè cùng nhau dứt khoát ra đi, khi thấy Quân-lực Việt Nam Cộng Hòa đã triệt thoái hết về miền Nam, thì ở miền Tây ắt sẽ là nơi vững chắc còn đứng vững như đinh đóng cột.
              Hầu như cánh phụ nữ thức suốt đêm để may những túi vải nhỏ có dây đeo trên vai cho mọi người, trong đó đựng vài bộ áo quần, giấy tờ tuỳ thân. Bốn giờ khuya chị Ngọc và tôi dậy nấu nước sôi, chờ nguội là đổ vô năm chai ni lông to. Tôi nấu ba lít gạo, rang đậu phụng làm muối mè. Chị Ngọc nấu canh mì gói trộn chung với rau muống, và chiên khô cá. Cơm chín, hai chị em lấy khăn ướt mỏng nhồi cơm nóng thành từng nắm cơm vắt, xắt lát vừa vừa, tôi bỏ cơm vô hộp ni lông mang theo cho mọi người ăn ở dọc đường. Tôi gọi bọn trẻ dậy sớm, cho con cháu ăn chút canh mì gói. Các con cháu còn ngái ngủ, nên chúng ăn rất uể oải. Có lẽ do hôm qua đi bộ nguyên ngày giữa trời mưa, rồi trời nắng chang chang nóng như thiêu đốt, nên bọn trẻ thấm mệt, rã rời, lừ đừ thân xác chăng? Sau đó phụ nữ quét dọn, rửa chén bát nồi niêu sạch sẽ, bỏ vô mấy cái bao cói (hôm trước ông bà trùm đã cho quà). Cô Quy và tôi xách mấy giỏ mùng, quần áo linh tinh đem đi gởi nhờ ở nhà bà từ, xin nhờ bà cất dùm. Bà từ nói:
              - Chị cứ để ở bên vĩa hè, không có ai lấy lầm đâu”.
              Chúng tôi ra đi. Luật một tay dắt bé Bi, tay kia anh xách giỏ cơm vắt, muối mè, khô cá. Bà mẹ Luật mang túi vải bỏ thêm hai chai nước. Tôi bế bé Tồ, một khuỷu tay kia móc thêm hai túi xách quần áo (của tôi và bé Tồ). Năm gia đình bạn thân là: gia đình tôi, Ngọc. Quy. Cúc. Anh Bàn (thất lạc vợ con, chỉ đi một mình); cùng nhập với hai gia đình mới quen là Phương, Tâm; tất cả hăng hái nôn nao lên đường. Chúng tôi lặc lè đến trạm xe Sài Gòn, kịp lúc có chừng ba chiếc xe bus từ các hướng đi khác nhau, vừa trờ tới. Các anh mau lẹ lùa đám trẻ, đàn bà, lên xe bus đi ra Xa Cảng. Trên xe bus bây giờ lác đác có bốn người khách. Nhóm chúng tôi ngồi sát gần nhau, người lớn cho trẻ con ngồi trên đùi mình yên ổn xong. Nhìn lui nhìn tới chỉ thoáng chốc thì người và người ở đâu túa lên đông nghẹt, chỉ có người lên xe, không có người bước xuống. Hai hàng ghế kín mít không còn chỗ ngồi, hành khách đứng chật cứng trên lối đi lại. Thật là may, nếu chỉ chậm trể mươi phút nữa, kể như nhóm chúng tôi không bao giờ chen chân lên xe bus nỗi.
              Quang cảnh tại bến Xa Cảng miền Tây lúc tửng bưng sáng vô cùng náo nhiệt, hổn độn kinh khủng. Những trạm bán vé đông nghẹt người chen lấn ồn ào hơn vỡ chợ. Thế là nạn ăn trộm, cướp bóc, giật giỏ xách, móc túi, bấm dây chuyền, giựt bông tai, bốc hốt, mò mẫm bóp vú... loạn xạ. Dưới đất thì bọn du thủ du thực rượt đuổi nhau huyên náo, đánh lộn, chưởi bới inh ỏi cả một góc đường. Đàn bà trẻ con nhóm tôi ngồi chò hỏ xép nép ở một góc kín sát ngoài cửa bến, gần bức tường gạch, (tạo thành một vòng đai tròn sát bên nhau, cho bọn trẻ con ngồi ở giữa), các con cháu đứa ngồi đứa nằm gối đầu lên những túi đồ đạc hèn mang theo. Những người khách đi tới đi lui tò mò đứng lại lỏ mắt nhìn ngó lom lom bầy trẻ bị cái nóng Sài Gòn thiêu đốt, khiến mồ hôi chảy ra như tắm. Mặt mày con trẻ xứ Đà Lạt đa số xinh xắn, hai má đỏ au như dồi phấn, mắt to sáng môi tươi (tuy suốt hai tháng nay bọn chúng sống lăn lóc, cực khổ, cù bơ cù bất, thiếu ăn thiếu ngủ, mà còn xinh như vậy!). Nhìn những đôi mắt phượng long lanh phảng phất mặt hồ thu Đà Lạt mơ màng, hai gò má phinh phính nõn nà màu hồng phấn của các cháu bé, khiến ai cũng thèm cắn một cái ghê! Họ trầm trồ khen bầy nhỏ xinh đẹp là phải! Chúng tôi giữ bọn trẻ chằng chằng, chỉ sợ mình sơ ý, bọn trẻ sẽ bị lạc hoặc bị bắt cóc, thì chết!
              Bà sương phụ bán vé háy một cái thiệt dài, oang oang nói:
              - Đoàn xe chờ đợi lấy tài, bi giờ “hết vé” rồi!!!
              Mới tửng bưng sáng mà “hết vé” sao? Úi Trời! Cả nhóm bàn nhau nên ngủ đêm tại đây. Nếu quay trở về nhà thờ Huyện Sỹ, cả “bầu đoàn thê tử” đùm đề lôi thôi lốc thốc nheo nhóc người già yếu đuối đau ốm, lụ khụ, thì quá bất tiện. E rằng ngày mai chúng tôi không thể đến đây, không thể chen chân với hành khách để leo lên xe bus đi về Xa Cảng, chớ nói gì đi miền Tây!? Quyết định như thế thật đúng. Mấy ông trong nhóm tôi cứ kiên nhẫn đứng xếp hàng chờ đợi mua vé mỏi rã rời chân từ chín giờ sáng, mà mãi tới bảy giờ tối mới mua được vé xe đi Rạch Giá cho ngày mai. Do bao nhiêu vé đều tộn ra ngoài bán giá chợ đen chả sợ bể mánh bể mung giữa chợ đời bát nháo! Mém chút nữa thì chả còn vé để mua. Nhóm phụ nữ yên ổn ngồi trong lòng xe đò cũ kỹ chật như nêm xong, còn đa số đàn ông phải leo lên ngồi trên mui xe, chẳng thể phản đối càu nhàu cằn nhằn la mắng gì! Ai có vé mà không chịu đi chuyến nầy, thì chủ xe lập tức hoàn trả tiền vé lại cho cố chủ. Sẽ có người khác (không ngủ qua đêm ở trạm bán vé) vui vẻ mua vé chợ đen cao gấp năm bảy lần tiền vé chính thức. Sao không ham. Tự mình cần đi đây đó, chớ ai bắt. Thế nên lớp trai tráng ép bụng chịu thiệt thòi ngồi bó gối lắt lẻo phơi đầu ngoài trời mưa tầm tã, hoặc trời nắng chang chang. Cũng đành!
              Ông tài xế bảo tất cả ông bà già và trẻ con thì được ngồi trên xe, còn mọi người khỏe mạnh phải đi bộ xuống phà Bắc Mỹ Thuận. Cô Cúc mua cho nhóm mỗi người một trứng vịt lộn ủ ở rổ trấu nóng hổi. Các con tôi thấy con vịt chết nằm trong quả trứng, thì quá sợ lắc đầu lia lịa không dám ăn. Tôi mua cho cả nhóm bánh mì thịt, trái cây đủ loại, nào là mận, đào, chôm chôm. Bánh trái, kẹo mứt bán nhiều vô số; mà thật rẻ. Thú vị nhất là các em bé bán chim cút lanh lẹ vui vẻ rao hàng:
              . . . Ăn chim em đi anh.
              Nè chim em mập lắm.
              Nè chim em ít lông.
              Chim em vừa mới lớn.
              Anh ăn chim em không.
              Chim em toàn những nạc.
              Chim em chẳng có xương.
              Anh rờ đi: toàn thịt.
              Lại to hơn chim thường.
              Ừ, chim em bự lắm.
              (1)
              Đoàn xe lại bon bon lên đường xuôi về hướng Rạch Giá. Trùng dương sóng vỗ mênh mông, bạt ngàn nước cuồn cuộn nhấp nhô bên mạn phà to tướng, êm êm. Lần đầu tiên xuôi về miền Nam phồn vinh trù phú, tôi cứ tưởng chỉ có phà Bắc Mỹ Thuận là to lớn sầm uất thôi. Nào dè, một lần nữa tài xế gọi mọi người xuống xe, để qua phà, thì tôi càng sửng sốt mở rộng tầm mắt nhìn phà bắc Cần Thơ bao la, bát ngát, mênh mông sông nước rộng kinh khủng! Bờ nầy và bờ kia xa tít mờ xa ngàn trùng. Đúng là:
              “đi cho biết đó biết đây.
              Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn”
              .
              Đặc sản nổi tiếng nhứt vùng nầy là “bưởi Năm Roi” múi to nhiều nước và ngọt lịm. “vú sữa Lò Rèn” vỏ mỏng hột nhỏ, khi trái vú sữa chín thì vỏ giống màu cẩm thạch, ruột trắng sữa. Có “dừa Sáp Cầu Kè” nhiều nước ngọt lịm. Mít ruột đỏ múi dày giòn thơm ngon, cả “dưa Bồn Bồn”. Vân vân… như câu ca dao:
              Bánh tráng Mỹ Lồng. Bánh phồng Sơn Đốc.
              Măng cụt Hàm Luông.
              Vỏ ngoài nâu trong trắng như bông gòn.
              Anh đây nói thiệt sao em còn so đo!
              (2)
              Ôi! Bao nhiêu quà bánh đặc sản tươi rói ngon lành ở miền quê đều tập trung ở hai bến phà đông đúc, vui vẻ nhộn nhịp, tưng bừng nầy. Chị em chúng tôi chọn mỗi người mua một loại trái cây khác nhau, để mọi người trong đoàn ăn nếm, cho biết vị ngon của lạ trên quê hương:
              Bến Tre giàu mía Mỏ Cày.
              Giàu nghiêu Thạnh Phú, giàu xoài Cái Mơn.
              Bến Tre biển cá sông tôm.
              Ba Trì muối mặn Giồng Trôm lúa vàng.
              Biên Hòa có bưởi Thanh Trà.
              Thủ Đức nem nướng Điện Bà Tây Ninh
              . (2)
              Xe vun vút chạy qua bao nhiêu cầu, bao nhiêu phố xá, ruộng lúa vừa gặt xong còn trơ cuống rạ, vô số chim, cò, diệt, le le… bay thẳng cánh ngút ngàn. Vườn tượt kinh rạch làng mạc sông nước hai bên chập chùng. Quê hương mình muôn màu muôn sắc, mỗi nơi có một vẻ đẹp tuyệt vời riêng với mạng lưới kênh rạch chằng chịt. Trên ghe thuyền thương hồ mái chèo tung tăng quẫy nước, vẵng tiếng hò câu ca vọng cổ đó đây, chen lẫn với những cây đàn cò, đàn guitar cùng tiếng trống bập bùng, rộn rịp, bồng bềnh, nhấp nhô trôi theo ghe thuyền sông nước mây trời. Đặt biệt miền Tây có sông chợ nổi lớn và các mặt hàng hóa treo lên một cây sào cao, hoặc bỏ trong nhiều giỏ cần xế to. Nào là Chợ nổi Cái Răng Cần Thơ, chợ nổi Phụng Hiệp bán rùa, chim, sóc, kỳ đà… rắn đủ loại quanh năm, chợ nầy rất lớn là nơi tuyệt vời đầy đủ các thứ nhất, và chợ nổi Cái Bè. Những chợ nổi ở miền Nam... ôi bán mua bạt ngàn đủ loại trái cây, dừa, dưa hấu, gạo củi, rau, tôm cá, áo quần, mùng mền gối chiếu, kể cả các mặt hàng ăn uống nhậu nhẹt như: Bánh cuốn, phở gà, cháo vịt, cơm, bún, vân vân... và vân vân... đều được bán trên sông ròng nước lớn.
              Lòng tôi cảm thấy nao nao cảm xúc ngọt ngào, dịu nhẹ, lâng lâng, dạt dào, ngẩn ngơ. Hạnh phúc lang thang trong lòng tôi rót tơ vàng trôi theo dáng hoàng hôn hây hây, lung linh, huyền ảo với sóng trường giang rộn ràng đập bên mạn thuyền luyến thương bâng khuâng nhiều thao thức. Cảnh vật huyên náo vui nhộn không kém phần đặc biệt thi vị thơ mộng: đã thể hiện vào câu hò, điệu lý, được lưu truyền từ xưa đến nay:
              Dòng sông thì rộng mênh mông.
              Áo em lại thắt lưng ong làm gì?
              Anh từ Xà No đến.
              Em từ Ba Láng sang.
              Sợi tình yêu ai dệt.
              Trên mặt nước mênh mang.
              Bảy sông dồn nước cuồn cuộn nước.
              Phù sa lớp lớp quyện phù sa...
              (2)
              ***
              Chiếc xe đò cà tàng, thổ tả, lọc cọc, rệu rạo lăn bánh trên những cục đá dăm khi hoàng hôn nhè nhẹ quệt đường nắng yếu ớt, sóng sánh trên dòng sông mờ mờ, thì chúng tôi thực sự đặt chân về miền Tây. Bỗng trời mưa thật lớn. Nhóm tôi đã trải qua một đoạn lãng du dài dằng dặc giữa trời đất tĩnh lặng bao la, hoang sơ, lãng mạn trên nẽo đường gió bụi trôi về xứ lạ, nơi vừa cũ vừa mới, vừa họa, vừa phúc, vừa lương thiện, từ bi… lẫn tội ác quyện bện vô nhau, mà tôi không ngờ! Nhưng lòng trí ai nấy đều nôn nao, bồn chồn, lo âu thấp thỏm: vì xứ lạ phương xa mà đa số bạn của tôi và tôi; chỉ biết ngao du qua sách vở, chớ tôi chưa hề được thú vị chứng kiến sông nước ruộng đồng bao la, vườn tượt xanh um bóng mát, như thi sĩ Bùi Giáng đã nói:
              Chào Lục Tỉnh Thu về Xuân nức nở.
              Ở trong cây trong lá ở bên sông.
              Dòng nước chậm chần chờ con sóng chở.
              Còn không em? kỷ niệm ở bên lòng!

              Và:
              Chưa đi chưa biết Bến Tre.
              Đi rồi mới biết toàn tre với dừa.
              Dừa to dừa nhỏ dừa vừa.
              Trèo lên tụt xuống nước dừa đầy tay.
              (2)
              Xuống đến Rạch Giá cảnh vật thôn quê êm đềm tĩnh mịch không kém phần thơ mộng, nhưng đa phần nhà cửa cư dân vắng vẻ, xóm làng quạnh hiu vô cùng, thì nhóm tôi hoàn toàn bị lạc lõng, xa lạ, đơn độc buồn thiu đến độ nào. Chúng tôi líu ríu dắt díu nhau đi tới chỗ lạ cái lạ nước, lạ hoắc, thật lúng túng bất tiện trăm bề. Nhóm người già trẻ lớn bé nầy chẳng hiểu sao lòng cảm thấy bất an, lo lắng sợ hãi, e dè, lấp ló thập thò, kín đáo dè dặt ngó quanh, nhìn trước ngó sau lén lút như kẻ gian, kẻ trộm. Hết cả đám có miệng mà như câm, không ai dám hỏi thăm khi dân địa phương nhìn chúng tôi chằm chằm, xoi mói. Không có bản đồ địa phương, không rành phong thổ cũng như tập quán nơi đây, không thấy xe xích lô, không tìm ra khách sạn hay phòng trọ nào. Thế nên đã nhiều giờ nhóm tôi đi lạc lung tung. Sau đó:
              Hỏi em, em đã đi rồi.
              Hỏi chim, chim chỉ mỉm cười bay đi,
              Hỏi cha, cha chẳng biết gì.
              Hỏi sư, sư bận vội về tụng kinh.
              Hỏi cô hàng xóm làm thinh.
              Hỏi nàng bán bánh cười tình không hay.
              Nhìn trời một đám chim bay...
              (2)
              Mấy anh dò dẫm qua một chiếc cầu gỗ cũ, tới trạm mua vé tàu thủy dự định ngày mai cả nhóm sẽ đi Phú Quốc. Chiều tà ở tại Rạch Giá từ bước chân khách lạ cô đơn trên đường chiều, khiến lòng tôi buồn vô hạn, đứng trên cầu gỗ nhìn về phía góc vườn dừa rợp bóng nhà ai sông nước chập chùng. Có chút tâm hồn đa cảm, nhạy cảm và hơi lãng mạn... khiến tôi cảm thấy nơi đây thật sự kỳ diệu thanh bình êm ả lắm. Lòng tôi càng xúc cảm vấn vương nỗi buồn thê thiết, khi thấy mấy giang thuyền lạnh lẽo lắc lư nằm im ỉm, trơ trọi bên những cầu tàu quạnh vắng, làm thức dậy trong tâm trí tôi hình ảnh dĩ vãng lãng đãng mộng mơ thiết tha thật gần... Nhưng bây giờ đã rời xa... xa mờ xa nơi chân trời mê-hoặc, xao xuyến mông lung bao tiếc nhớ, bâng khuâng lặng lờ nỗi đau sâu thẳm:
              Đâu rồi những anh thủy thủ phong trần trẻ trung vui tính ưa huýt gió, vui vẻ, xinh lịch oai hùng hào hoa trong bộ quân phục Hải Quân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trắng tinh? Họ mặc bộ quân phục với niềm kiêu hãnh vinh quang hào hùng trong dĩ vãng? Mặt nước có còn in bóng chàng trai phong sương đa cảm, đa tình đứng trên bon tàu vu vơ nhìn mây trời quyện bện vào nhau trải dài theo màu xanh bát ngát? Dưới đáy thuyền sóng cả cuồng phong thịnh nộ ngày ngày vỗ nước bồm bộp vô mạn thuyền, đẫy đưa anh lính Hải-quân có cuộc sống hào hoa phong nhã lang bạt bồng bềnh vui tươi đi xây mộng giang hồ tứ xứ!? Ý chí của bạn và tôi bây giờ chỉ còn là ảo ảnh: trăng tròn lắt lẻo giữa dòng sông có giòng chảy trên luống đời điệp trùng bóng tối. Tiềm ẩn trong tâm ta hình ảnh đường chiều nâng ước vọng dâng cao ngút ngàn. Các anh có biết không, hở hoàng hạc ơi! tiếng xưa.
              Đến gần chân cầu sắt dày cui lót gỗ bên kia trạm vé, thì có một khu nhà tôn chen lẫn nhà lá tồi tàn, nhưng đã đem lại lòng tôi sự ấm áp rộn ràng rạo rực niềm vui, chen lẫn sự xót xa chân thật: khi tôi nhìn cư dân địa phương vất vả, thiếu thốn, nghèo nàn. Các anh vào thuê mấy chỗ trọ. Không phải là phòng trọ như ở nơi khác có phòng riêng sạch sẽ tươm tất, mà lán trọ ở đây giống như khu nhà trống, hoàn toàn không có cửa nẽo, chỉ là những hàng ghế bố cũ mèm nối dài, mái lợp lá dừa hơi giống patio bốn bề lộng gió. Nước mưa lộp độp trên mái lá, bùn đen sền sệt dưới chân ghế bố luôn luôn ướt nhẹp, mốc xì, đen thui, ghế bố có nhiều gián, rận, rệp hôi rình, thậm chí có cả chí mén, chí cồ bò lổm ngổm trên gối. Thế nhưng người ra kẻ vô lội nước lủm bủm vẫn tấp nập ồn ào ngược xuôi đông đúc lắm.
              Chị Ngọc, Cúc, tôi vội vàng đi xẹt ra khu chợ xép nhỏ gần xịch một bên, chị em tôi chẳng buồn hỏi khu chợ nầy có tên gọi là chợ gì. Mỗi quầy hàng là một cái chòi bằng tre lợp lá dừa, giống túp lều nho nhỏ luôn kêu kẽo kẹt, nước bùn đen đen đọng dưới chân cột và trên đường nhựa. Quán xá lộn xộn, họ bán đủ thứ: cá, tôm, sò ốc, rùa, ếch... Úi trời! có nhiều con rắn còn sống đang uốn éo thân, cái lưỡi chẽ đôi thò ta thụt vô, cả những chú chuột đồng lông lá lưa thưa có móng nhọn dài to bự sư. Coi thiệt gớm à! Chị em tôi mua nhiều tôm tươi, cá trê vàng, cá sặc bướm, cá sặc rằn. Rồi day qua hàng khô mua gạo, mua một trái thơm, rau sống, cà chua, mua củi. Họ thật thà hào phóng bán trái cây tươi rói, tính một chục là 16 trái xoài bóng láng, mập ú, thơm ngon. Họ không nói thách, không làm hàng màu mè: không chất thứ to bỏ làm hàng mặt ở trên, trái nhỏ chêm ở dưới thúng. Mà có sao họ bán vậy. Dân quê và dân chợ đa số khá hiền lành chất phác, vui vẻ, chăm chỉ, thật thà. Ở đây cái gì cũng tươi rẻ nhứt là: cá, tôm... (nhưng họ khó kiếm ra tiền, vì nhà nhà ai ai cũng có cá, có tôm, thịt ếch, heo, gà, vịt… các loại cá ở miệt nầy càng rẻ rề, thì đem bán cho ai đây, để có tiền xây xài)? Chúng tôi xin bà chủ nhà trọ cho mượn mấy cái nồi, để nấu nhờ bữa cơm tối. Bà chủ nhà vui vẻ dễ dãi nhận lời. Chị em tôi xúm lại người nấu cơm, người làm cá. Lớp kho, lớp nấu, chiên xào... Đây là bữa cơm đặc biệt đầu tiên, có thể cũng là bữa cơm cuối cùng tại Rạch Giá. Nhóm chúng tôi ăn uống no nê, dư dả và rất ngon miệng. Sau đó chị em bưng nồi niêu son chảo ra bờ kè rửa ráy, rồi trả lại cho bà chủ nhà tốt bụng. Chị em cho các con ra sông tắm gội sạch sẽ.
              Khi màn đêm buông xuống, tôi nhìn bên kia kinh lạch tối om vì không có điện, bên nầy ngọn đèn đường tù mù hắt ánh sáng yếu ớt vàng vọt, giống như đèn đêm lốm đốm lập lòe ở khu nghĩa trang. Thiệt cảm thấy quá nãn. Đêm buồn nghe tiếng mưa rơi lộp độp trên lá, gió lồng lộng rít rít từng cơn, thổi bay tấm mùng vải cũ ố vàng đen đen, khiến cái lạnh càng về khuya càng ngấm xuyên qua da thịt tôi thêm dúm dó và rờn rợn. Bầy trẻ suốt ngày đi đường quá vất vả, nên tắm gội xong vừa đặt lưng xuống ghế bố, là chúng đã “phè cánh nhạn” ngủ say. Riêng bọn già nầy thì bồn chồn, băn khoăn, lo lắng, không sao chợp mắt, dù chỉ vài phút.
              ***
              Tình Hoài Hương

              *
              (1) sưu tầm
              (2) ca dao
              Last edited by Tinh Hoai Huong; 05-24-2020, 06:08 AM.
              Bút trần nào tả được lưu luyến!
              Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
              Tình Hoài Hương

              Comment


              • Bách Niên Thương Hải Biến Vi Tang Điền


                Tháng Tư Đen
                Nhạc Trần Lê Việt
                Lời (LT) Lê Xuân
                Giọng ca Việt Long
                Bách Niên Thương Hải Biến Vi Tang Điền
                (45 năm đớn đau buồn thảm)
                Tình Hoài Hương
                *

                Thật tình tôi không thể nào hiểu nỗi tại sao vận nước Việt Nam lại trở nên quá đen tối: sau khi hiệp định Genève 1954 diễn ra kể từ ngày 26 tháng 4 năm 1954 - rồi bản Hiệp Định được ký kết và kết thúc cùng ngày 21 tháng 7 năm 1954. Thành phần tham dự: Anh, Mỹ, Liên Xô, Pháp, Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, Laos, Cambodia, Quốc Gia Việt Nam và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Phía Quốc Gia Việt Nam ban đầu do ông Nguyễn Quốc Định làm Trưởng Đoàn. Sau, ông Trần Văn Đổ thay thế.
                Đáng chú ý: Ông Trần Văn Đổ, Trưởng Đoàn Quốc Gia Việt Nam đã lên tiếng phản đối sự chia cắt đất nước Việt Nam. Chính phủ Quốc Gia Việt Nam (miền Nam Việt Nam) không ký Hiệp Định. Phía Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (miền Bắc Việt Nam) do Phạm Văn Đồng làm Trưởng Đoàn. Phái đoàn Hoa Kỳ từ chối công nhận Hiệp định Genève.

                * Kể từ ngày 21-7-1954 – khi miền Bắc Việt Nam ký Hiệp-định Genève xé đôi lãnh thổ Việt Nam, lấy vĩ tuyến 17 và cầu Hiền Lương Bến Hải làm ranh giới, để chia lìa tách bạch hai miền Bắc Việt Nam và miền Nam Việt Nam ra đôi ngã phân ly nghẹn ngào, thì:
                - Ngày 11-11-1960 – Đại-tá Nguyễn Chánh Thi cầm đầu cuộc đảo chánh cùng Trung-tá Vương Văn Đông ở Liên-đoàn Dù, và Thiếu Tá Nguyễn Triệu Hồng, Đại-úy Phan Lạc Tuyên: đã đảo chánh nền Đệ-Nhất Cộng-Hoà hụt; thì “chiến tranh nội bộ” bắt đầu manh nha quyết liệt vì cốt nhục tương tàn, nồi da xáo thịt rối rắm bùng nổ liên miên.
                Từ xưa tới nay, sự thôn tính đất đai, tranh giành quyền lực, thế lực, vinh hoa, là mạng lưới quyến rũ dẽo dai và khổng lồ. Nước càng trong thì không có cá, dù lòng người đơn giản, phước thiện, trong sáng và cao cả; ấy thế mà nếu đã du nhập vô hệ thống chính trị, sau khi bị cuốn hút vào cung cầu đó, thì thật khó lòng ít có ai rứt ra được. Tiền tài là vật ngoài thân, đi lại về, về rồi lại đi, nhưng danh dự, địa vị và danh vọng khi đã mất rồi, tất nhiên chẳng thể tìm lại. Cần có uy quyền địa vị và thế lực trong tay, thì không ai có thể chèn ép. Nhưng đôi khi ta có đủ mọi quyền thế, oái uăm thay chính “nó” cũng có thể hại chết mình. Quyền lực dường như giống một toà lâu đài sang trọng rất rộng lớn và quá cao, ta phải biết cách xây dựng có quy mô, kiên cố, bão tồn mà duy trì cho vững bền. Nếu một khi bức tường rạn nứt, thì có ngày không xa toà nhà ấy sẽ sụp đỗ, họ chỉ có thể đứng ở dưới xa xa mà ngước nhìn ở trên cao.
                * Ngày 27-2-1962 - Có 2 chiếc khu trục A1 Skyraider dội bom dinh Độc Lập, do Trung-úy Phạm Phú Quốc và Thiếu-úy Nguyễn văn Cử ném bom bắn cháy dinh Độc Lập. Phi cơ của ông Phạm Phú Quốc bị bắn rớt trên sông Sài Gòn, ổng đã vô tù, tất cả bom đạn còn nguyên, nghĩa là ông Quốc chưa kịp thả trái bom nào. Ông Cử đào thoát bay mút qua hướng Nam Vang, dân chúng bàn tán là ổng bị chính phủ ở bển bắt nhốt vô tù rùi!?
                - Sau biến cố 02-11-1963 – Tổng-thống Ngô Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu bị thảm sát. Trải qua bao thăng trầm chính trị sục sôi… thì nền Đệ II Cộng Hòa có Tổng-thống Việt Nam Cộng Hoà Nguyễn Văn Thiệu lên ngôi.
                * Ngày 8-3-1965 - Kể từ khi có đoàn Thủy-quân Lục-chiến Mỹ tiên khởi, đông đúc khoảng 3.500 người rầm rộ đổ bộ lên đất liền tại Đà Nẵng, Mỹ viện cớ muốn giữ “an ninh cứ địa” do tướng Maxwell Taylor, thỉnh thoảng hút xì gà Schimmelpennick đi làm đại sứ Sài Gòn, ông dẫn đầu một cuộc phô trương cường quốc Mỹ, để thị oai với các nước tụt hậu, chậm tiến, đang có chiến tranh. Rồi…
                * Ngày 16-8-1965 - Chính phủ Nguyễn Khánh chủ trương thành lập Hiến Chương Vũng Tàu. Trong nước loạn xạ bởi nhiều phe phái chính trị phản đối chính quyền đương nhiệm đã hoạt động ráo riết. Sau đó có nhiều bất đồng ý kiến, các đảng phái, sinh viên lục đục nội bộ, nên tan đàn rẽ đám. Hội-đồng Quân-lực Cách-mạng truất phế Nguyễn Khánh, cho ông lưu vong ra ngoại quốc làm đại sứ.
                * Ngày 9-5-1969 - Từ Hạ-sĩ Henry Kissinger đi lính trong Đệ-nhị Thế-chiến, sau lên làm cố-vấn an ninh quốc gia cho Tổng-thống Richard Nixon. Thời gian trôi qua, lên tiến sĩ Henry Kissinger, ông khai mạc hoà đàm Ba Lê (không có chính phủ miền Nam hay Quân-lực miền Nam Việt Nam Cộng Hòa). Suốt thời gian hoà đàm dưới sự giám sát chặt chẽ của Nixon, ngoại trưởng Kissinger “ráo riết đi đêm” với quân Bắc Việt.
                * Người dân luôn dán mắt nhìn vô ti vi trắng đen, theo dõi công ty Pecten Việt Nam (là chi nhánh của Shell) đã sản xuất khoảng 1.500 thùng dầu thô/ngày, trong giếng dầu mang tên Pioncer sâu 4.500 feet dưới lòng biển của miền Nam Việt Nam. Hoan hô đại thắng!
                * Một phái đoàn Mỹ có tên Project Concern, và phái đoàn Thanh-Thương-Hội Việt Nam do ông Lê Bá Công làm hội trưởng, hướng dẫn phái đoàn đi săn sóc y tế cho đồng bào Thượng tại miền Nam Việt Nam. Phái đoàn nầy được đồng bào kính trọng và hoan hô nồng nhiệt.
                * Ngày 27-1-1973 – Trong chương 2 điều 2 tại nhiều năm hội nghị, sau đó Hiệp định Ba Lê đã ký kết đình chiến: Ngưng bắn. Ấy thế mà vào ngày 9 Tháng Ba năm 1974 Việt-cộng câu súng 81ly vô trường Tiểu-học Nhị Quý, Cai-Lậy, Tỉnh Định Tường, giết 32 em học sinh nhỏ, và hơn 50 em học sinh khác đã bị trọng thương la liệt và trầm trọng. Một số trẻ em bị chết oan, thật đau đớn vô cùng thảm thiết.
                * * *
                * Ngày 11 - 3 - 1975 - Mất Ba Mê Thuột. Thiếu-tướng Phạm Văn Phú, Tư-lệnh Quân-đoàn II/Quân-khu 2, ra lệnh quân đội triệt thoái khỏi Pleiku – Kontum (do chỉ thị của TT Nguyễn Văn Thiệu). - Di tản miền Trung: 13 - 3 -1975. & Di tản Cao Nguyên: 14 - 3 - 1975 & 15 - 3-1975: Khánh Dương. - Quân đoàn II triệt thoái: 16 - 3 -1975. * Mất các nơi: Tuy Hoà: 17 - 3 - 1975 *.- Phú Yên: 18 - 3 - 1975.
                * Ngày 19-3-1975 – Một Tiểu-đoàn của Trung-đoàn 43 Bộ-binh đóng chốt phòng ngự tại Định Quán, quanh vùng phụ cận núi Chứa Chan. Gia Rai, Tiểu-đoàn nầy anh dũng đánh trả đối phương rất phi thường. Khi mất Đèo Hải Vân: 21 - 3 -1975 thì ngày N+5, 21-3-1975 là triệt thoái cuối cùng của Lực-lượng Quân-đoàn II khỏi Cao Nguyên, trên tuyến đường Liên-tỉnh lộ B.
                * Ngày 22-3-1975 - Tỉnh Quảng Đức thất thủ. * Ngày 23-3-1975 – Công-binh VNCH làm xong chiếc cầu dã chiến. Lực-lượng Quân-đoàn 2 cuối cùng vượt qua sông Ba, triệt thoái về Phú Yên.
                * Ngày 25-3-1975 – Các đơn vị Quân-đoàn I/Quân-khu 1 (Việt Nam Cộng-Hoà) triệt thoái ra khỏi Huế & * Đà Nẵng: 25 - 3 - 1975. Quảng Nam: 28 -3-1975. *.- * Đêm 28 - 3 - 1975 Lực Lượng hùng hậu của Quân-đoàn I do tướng Ngô Quang Trưởng lãnh đạo, đã triệt thoái khỏi Đà Nẵng. * Bình Định: 27 - 3 -1975 *.- Sau đó là Lâm Đồng: 29 - 3 - 1975 * Quy Nhơn: 30 - 3 - 1975 * Bình Định: 31 - 3 - 1975.
                *
                Hết tháng Ba. Qua đầu tháng Tư: Mất các nơi: * Nha Trang: 2 - 4 - 1975 * Phan Thiết: 3 - 4 - 1975 * Các phi trường Tân Sơn Nhứt. Cần Thơ. Biên Hoà, có nhiều chiến đấu cơ F 5 – oanh tạc cơ A 37. Không một ai mà không nghe đồn ầm lên: từ Lâm Đồng dọc theo rặng trường sơn, sông La Ngà chảy từ khu Tánh Linh, qua phía nam Định Quán, Rừng Sát ra cửa biển Cần Giờ: Đang bị đe doạ trầm trọng. Người ta lại đồn máy bay oanh tạc dinh độc lập hụt hay sao đó? Bây giờ thì chuyện không nói có, chuyện có nói không. Chả ai có thể đi đâu kiểm chứng, vì mọi ngã đường đông nghịt người không thể chen chân. Nhưng than ôi! Đúng thế thật, Trung úy Nguyễn Thành Trung, quê ở Bến Tre, đã bay chiếc F5 cất cánh từ Biên Hoà về thả bom xuống dinh Độc Lập. Phi cơ mang bốn quả bom, Y thả hai quả bom trước bị rơi ra ngoài sân dinh.
                * Việt Nam Cộng Hoà có Sư-đoàn 18 tăng cường Lữ Kỵ-binh: Sư-đoàn 5 Thiết-giáp. Các Liên-đoàn Biệt Động Quân từ Quân-khu I, chuyển về Quân-khu II để bảo vệ Xuân-Lộc, Long Khánh, Dầu Giây; do Chuẩn-tướng Lê Minh Đảo là Sư-đoàn-trưởng Sư-đoàn 18 đảm nhiệm. Từ ngày 8 - 4 đến ngày 19 - 4 ; trận đánh vô cùng ác liệt bắt đầu xảy ra giữa quân lực miền Nam Việt Nam Cộng Hòa, với Quân-đoàn 4 và Sư-đoàn 6 Chủ-lực Quân-khu 7 của Cộng-sản Bắc Việt.
                * Từ ngày 10 - 4 - 1975 – Hai Trung-đoàn 43 và 48 (của Sư-đoàn 18 Việt Nam Cộng Hoà) và một Lữ-đoàn Dù. Lữ-đoàn 3 Kỵ-binh, từ Biên Hoà ra Xuân Lộc tiếp ứng. Giao tranh ác liệt dữ dội mạnh mẽ. Đường 12 bị cắt đứt là: Xuân Lộc > Biên Hoà. & Xuân Lộc > Bà Rịa. Cho đến ngày 20 - 4 - 1975 thì Xuân Lộc triệt thoái: 20 - 4 - 1975 * Long Khánh: 22 - 4 - 1975.
                * Ngày 18-4-1975 - Mất thị xã Phan Thiết và toàn tỉnh Bình Thuận. Thành phần chính phủ do Tổng-thống Nguyễn Văn Thiệu lãnh đạo đã xảy ra đột biến. Mặc dù vậy tổng thống Thiệu họp báo, lên Truyền-thanh, Truyền-hình đọc hiệu triệu vấn an quốc dân đồng bào. Đài phát thanh cho nhai đi nhai lại bản tin nầy suốt cả tuần.
                * Ngày 19-4-1975 – Bình Tuy sống trong sôi động. Giao tranh ở tuyến đường số 1, từ phía Đông và Đông-Bắc Sài Gòn, tới Trà Võ. Bàu Nâu. Gò Dầu Hạ.
                * Ngày 20-4-1975 – Khu Rừng Lá, (cách Xuân Lộc độ 20km) coi như mất liên lạc: Bộ Tổng Tham Mưu. Sân Bay Tân Sơn Nhứt. Bộ Tư-lệnh Biệt-khu Thủ-đô. Tổng Nha Cảnh-sát, vân vân… (Thủ đô Sài Gòn có 12 Quận Nội-thành: Bình Thạnh. Phú Nhuận. Tân Bình. Gò Vấp. 6 quận ngoại thành: Hóc Môn. Củ Chi. Thủ Đức. Bình Chánh. Nhà Bè. Duyên Hải) > Đều báo động đèn đỏ 100%.
                * Bộ Giáo Dục ra lệnh đóng cửa không thời hạn tất cả các trường: Tiểu-học. Trung-học. Đại-học trong toàn lãnh thổ tại miền Nam Việt Nam.
                * Ngày 21-4-1975 - Hằng triệu triệu người già trẻ lớn bé ở miền Nam Việt Nam chồm tới bu quanh nhìn sững vào vô tuyến truyền hình, toàn dân lắng nghe miết mãi. Khoảng nửa giờ sau vị nguyên thủ quốc gia: Tổng-thống Nguyễn Văn Thiệu chính thức tuyên bố từ chức, ông trở về với quân đội Việt Nam Cộng-Hoà. Ôi! Bàng hoàng sững sốt. Vì; hằng triệu trai trẻ lính tráng, quân đội và dân tộc Nam Việt Nam (có bốn nghìn năm văn hiến quyết chiến đấu, hy sinh đến giọt máu cuối cùng trên chiến trường) tin vào chính phủ Nguyễn Văn Thiệu mà. Từ khi nền Đệ Nhứt Cộng Hoà sụp đỗ, thì tất cả mọi thứ trên đời, trật tự xã hội bị đảo lộn tùng phèo sao?
                * Hồi xưa, nhà bác học lẫy lừng Pierre Curie khám phá ra chất phóng xạ radium năm 1900. Và, trước khi ông Mc Robert Namara cho trắc nghiệm khai quang hằng loạt chất độc màu da cam (Agent Orange), để tiêu diệt cỏ, hay tiêu diệt đối phương (?!). Thì ngày nay, Tổng thống Thiệu đã lưu lại danh thiên cổ gì cho núi sông? Khi mà ông Trạng Trình đã nói: “Bắc hữu kim thành tráng. Nam hữu ngọc bích thành”. Cố mà gìn giữ Việt Nam keo sơn gắn bó. Thật ra, Tổng-thống Thiệu lên làm tổng thống hai nhiệm kỳ, đã thành lập đảng Dân Chủ. Nhiều lần Tổng-thống Nguyễn Văn Thiệu lên đài truyền thanh, truyền hình mạnh mẽ đọc diễn văn; trong đó có những câu tuyệt vời bất hủ:
                - Đừng nghe những gì Cộng-sản nói, hãy nhìn kỹ những gì Cộng-sản làm!
                - ... Ăn cơm Quốc gia thờ ma Cộng-sản.
                - Công đức ngàn đời con tố mẹ, tình nghĩa trăm năm vợ tố chồng.
                - Đất nước còn, còn tất cả; Cộng-sản thắng, mất tất cả.
                - Tôi mà tham nhũng, thì cái chính phủ này sẽ sụp đổ chỉ trong ba ngày!
                - Nếu Hoa Kỳ không viện trợ cho chúng tôi nữa, thì không phải là một ngày, một tháng hay một năm, mà chỉ sau 3 giờ, chúng tôi sẽ rời khỏi dinh Độc Lập!
                - Làm kẻ thù của Mỹ thì dễ, làm bạn với Mỹ thì rất khó.
                - Sống không có tự do là đã chết.
                - Mỹ còn viện trợ, thì chúng ta còn chống Cộng-sản.
                * TT Nguyễn Văn Thiệu hùng hồn khẳng định tuyên bố “bốn không” rất chí lý:
                1.- Không thừa nhận Cộng-sản.
                2.- Không lập chính phủ liên-hiệp.
                3.- Không trung-lập-hoá miền Nam Việt Nam.
                4.- Không nhường một tấc đất cho Cộng-sản.
                * - Tin đồn đã rùm beng:
                1.- Việt Nam trung lập.
                2.- Chính phủ Việt Nam có ba thành phần.
                3.- Miền Nam Việt Nam bị miền Bắc “giải phóng” lan mau (chứ chả phải như lời Phó Tổng-thống Nguyễn Cao Kỳ hô hào: “Xung phong > Bắc Tiến”.
                - Tổng thống Thiệu đã ủng hộ chương trình “Người cày có ruộng”, rầm rộ khuyến khích nông dân, củng cố lúa Thần Nông IR 3 và AR 8. Nhờ thế kho vựa miền Nam dư thừa lúa gạo. Việt Nam sản xuất gạo đi các nước. Sau năm 1967 - do sự quậy phá của Cộng-sản Bắc Việt, nên nông dân thuộc các tỉnh miền Nam, miền Trung, số ít ở Cao Nguyên, không thể cày cấy, gieo trồng nhiều. Do đó miền Nam Việt Nam bị khan hiếm lúa. Kinh tế hạn hẹp, Cộng thêm an ninh không an toàn yên ổn. Chính trị, kinh tế, tham nhũng, bè phái, bị đe doạ - khiến miền Nam suy thoái trầm trọng. Bây giờ miền Nam Việt Nam phải nhập cảng gạo và “binh khí”, xin viện trợ tiền bạc vào miền Nam Việt Nam. Là vậy!
                * Tổng-thống Việt Nam Cộng-Hoà Nguyễn Văn Thiệu từ chức. Phó Tổng-thống Trần Văn Hương lên thay thế! Thành phần nội-các do cụ Trần Văn Hương đảm nhận được mấy ngày vắn vỏi.
                - Ngày 22-4-1975 – Đường quốc lộ 4 nối liền Sài Gòn > Cần Thơ. Các hướng Tây Bắc. Đông Đông Bắc. Đông Đông Nam. Tây Tây Nam bị cô lập với Sài Gòn.
                * Thứ Tư, ngày 23-4-1975 - Đô Đốc Noel Gayler Chỉ-huy-trưởng Hạm-đội Thái Bình Dương, đã lập cầu không vận Sài Gòn > Đệ Thất Hạm Đội (trong chương trình di tản người Mỹ và người Việt Nam ra đi), tàu đang đậu ngoài khơi Vũng Tàu, người ta nghe & phao tin sẽ di tản khoảng vài trăm ngàn người Hoa Kỳ và người Việt Nam. (!?)

                Bảy Ngày Đen Tối Nhứt: * Thứ Sáu, ngày 25-4-1975
                * Đêm 24 - 4 - 1975 – Khói lửa bạo tàn đã gây đau khổ quá sức, hằng triệu dân đen lầm than khốn đốn, cơ cực. Miền Nam Việt Nam dỡ sống tức tưởi, dỡ chết không kịp nhắm mắt, không thể há miệng than Trời! Chắc chắn là chính phủ Nguyễn Văn Thiệu & thành phần nội-các đều nghe bùi tai; khi tướng cố vấn Lục-quân Mỹ Weyand gián tiếp khuyên chính phủ Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh cho Quân-đội miền Nam Việt Nam -bằng mọi giá phải tử thủ!- Toàn thể nam nữ thanh niên trai trẻ, Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đã vâng lời, họ ở lại giữ gìn từng pháo đài bị vây hãm, họ có trách nhiệm bổn phận giành lại từng tấc đất trên quê hương, quyết phục vụ dân tộc và tử thủ vì Việt Nam!
                Thì, tin đồn chuyện Tổng-thống Thiệu bỏ rơi dân tộc, bỏ quê hương đất nước, chỉ là tin đồn nhảm nhí! Khi chung cuộc kết thúc trong bi thương thế ấy, ai nở ra đi -phản bội dân tộc-, ai lìa bỏ quê hương cẩm tú giàu đẹp sao? Ai đành cao chạy xa bay mưu tìm cho chính mình sự sống riêng, phủi tay trong thau men nước người- cho đành?! Nơi chốn xa lạ đó, ai có dịp lắng nghe tiếng nói của hiền dân vô tội gào than kêu khóc? Ai tận mắt xem đồng bào đau thương bị cấp lãnh đạo bỏ rơi, dân đang sống quằn quại trong cơn lốc chính trị kinh hoàng vỡ vụn? Toàn dân sẽ chết thảm dưới cơn sóng thần cuồng phong bão táp dữ dội nhất lịch sử Việt Nam nầy. Họ làm sao đành đoạn phủi tay bỏ lại quê hương và dân tộc cho đành?!
                * Sáng sớm bạn Tonny Tơh từ Hạ Nghị Viện tất tả chạy về nhà, đã khẳng định với chúng tôi về việc Tổng-thống Thiệu và đoàn tùy tùng thân tín đã "bôn tẩu bỏ nước ra đi"!!! Người ta lại đồn ầm lên là ông Thiệu chở theo mấy chục tấn vàng của quốc gia (?!). Làm sao cõng cho nỗi hỉ?! Chuyện ấy rất khó tin, không bao giờ tin! Bỏ của chạy lấy người, "may ra còn kịp... sống". Chúng tôi dám khẳng định một điều chuyện "chở theo vàng" là láo khoét. [(1), mời xem trích dẫn thêm dưới bài viết nầy)]
                Nhưng... khuya Thứ Sáu, ngày 25-4-1975 đương kim Tổng-thống Trần Văn Hương lên đài Truyền-thanh Truyền-hình chính thức xác nhận, ông tuyên bố: -“Gia đình Tổng-thống Nguyễn Văn Thiệu, và một số thân tín trong chính quyền đương thời đã chính thức rời khỏi Việt Nam, bay đi ngoại quốc ngày 24-4-1975”. Ôi! Sự đau đớn ấy có thật ở phi trường Tân Sơn Nhứt là: Tướng Timmes, Đại-sứ Martin, một số đoàn tùy tùng đông đảo “viên chức lừng danh cao cấp nhứt” của chính phủ miền Nam Việt Nam Cộng Hoà đang làm cuộc “tẩu tướng”. Họ nôn nao lo âu đứng xớ rớ ở đó từ rất lâu, chờ đợi sẵn sàng -để dọt đi. Một chiếc xe Mercedes chở ông Nguyễn Văn Thiệu từ bến Bạch Đằng, chạy mau vô phi trường Tân Sơn Nhứt lúc 21 giờ 30 đêm 24 tháng 4 năm 1975. Chung quanh “các ngài” có đông đúc thân tín nôn nao ra đi, có lính Thủy-quân Lục-chiến Mỹ đứng dàn ngang dàn dọc bu quanh, để bảo vệ phái đoàn “các ngài” mà tống lên chiếc phi cơ C-118 lịch sử của Không-quân Hoa Kỳ. Ông Thiệu, Tướng Khiêm và đoàn tùy tùng lẹ làng tót lên máy bay, không hề ngoảnh lại. Hỡi Ôi! là Trời ơi Đất ơi!!!
                * Thứ Bảy, ngày 26-4-1975 – Ông Khiêu Samphan dẫn một phái đoàn Trung Quốc từ Mimót Nam Vang, đi qua ngả Xa Cam. Tại đó có một Đại-tá Không-quân Pháp, một Thiếu-tá Pháp, {họ trực thuộc Nha An Ninh Tình-báo hải ngoại Pháp (SDECE)}. Họ đưa phái đoàn Trung Quốc nầy vô ở trong toà Đại-sứ Pháp tại Sài Gòn (!?)
                Mất thật rồi các nơi: * Vẫn ngày 26-4-1975 - Bão lửa chiến tranh xâm lược đã ùa vô xâm chiếm các khu sau đây: Long Khánh từ hướng Đông-Bắc đi Sài Gòn xa khoảng 80km. Long Khánh nằm giữa hai quốc lộ: 1 và 20- 105 kinh độ đông- 11 vĩ độ bắc, ở múi giờ 17 GMT – Giáp giới mặt Đông hướng Đông Đông Nam về Sài Gòn. Long Khánh có đỉnh núi Gia Ray cao 916 mét, là tấm bình phong che chắn thuận lợi cho toàn vùng. Muốn đi từ miền Cao Nguyên, hay từ miền Trung vào Sài Gòn xuống miền Tây, tất cả loại xe đều phải đi ngang qua vùng Long Khánh.
                * Sông Ray từ phía Nam của núi Gia Ray có đường đi qua Xuyên Mộc. Trảng Bom. Hố Nai. Biên Hoà. Long Thành. Nước Trong. Đức Thạnh (Bà Rịa). Lang qua vùng Phước Tuy. Xuyên Mộc. Đất Đỏ. Về hướng Tây Tây Nam > Bến Lức. Tân An. Trung Lương. Tân Hiệp. Long Định. Giao lộ 4. Cai Lậy đi An Hữu. Xuống tới Lộc Giang. Vàm Cỏ Đông qua Tây Vĩnh Lộc. Mỹ Hạnh. Hướng Bắc thì các đoạn đường 16 Phú Lợi. Thủ Dầu Một. Tây Bắc về Đồng Dù. Hóc Môn. Bình Dương, Long An: 25 - 4 - 1975 – Bà Rịa: 26 - 4 - 1975.
                * Bắt đầu từ ngày Chủ Nhật 27 - 4 - 1975 đến hết ngày 29 - 4 - 1975, * Tân Cảng – Sài Gòn : người ta rỉ tai nhau lo tìm đường thoát thân "đào tẩu" ra khỏi Sải Gòn. * ngày 27-4-1975 - Bà Rịa. Phước Tuy. Nước Trong. Trảng Bom. Suối Đĩa. Cầu Rạch Chiếc. Rạch Cát. Cầu Bình Phước. Quán Tre lan ra tận xa lộ Đại Hàn. * Vẫn ngày 27-04-1975 – Người ta bịa đặt ra: Caritas. Usaid. Usom. Juspao. Cords. The Asia Foundation. IUS, chỉ là những thành phần ấy là cầm đầu, trá hình vô miền Nam Việt Nam do CIA. Nay họ lo đóng cửa và chuồn bay đi hết rồi! Tất cả mọi liên lạc trong nội thành Sài Gòn với ngoại thành, đi các Tỉnh, hầu như tê liệt, trục giao thông chính dẫn đến phi trường, hải cảng, các bến xe miền Đông, miền Tây, miền Trung, hoàn toàn ứ đọng và “bế quang tắc lộ”. Chao! Lúc đó thì người người tụm trăm tụm ngàn ở các nẽo đường chính, để nghe ngóng thăm dò tin tức. Toàn là những giả thiết, những tin đồn gây hoang mang. Người ta nhốn nháo, ồn cả lên, chèn ép nhau, xô đẩy nhau mong tìm đường chạy thoát thân, mong khỏi bị trụ lại nơi thành phố đông nghẹt người, từ các nơi dồn về Thủ-đô Sài Gòn hối hả, ngột ngạt, nghẹt hơi. Mọi tiếng động đều đinh tai nhức óc nổi hoài thâu đêm suốt sáng, không bao giờ ngưng. Người ta muốn điên vì đủ thứ chuyện thay đổi liên tục xảy ra từng giờ, trên trời dưới đất, trong tivi, tin đã xấu càng xấu thảm xấu tệ biết bao! Toàn là những tin chả lạc quan vui vẻ gì!
                * Thứ Hai, 28-4-1975 – Sân bay Tân Sơn Nhứt to lớn đồ sộ sầm uất nhất miền Nam Việt Nam đến thế, có F5, hoặc A 15, A 37, C 130. Mà nay chỉ còn có một số ít bom Daisy Cutters, và những phi cơ dân sự thường dùng trong nội địa, có phi cơ dân sự cũ từ thời Pháp để lại dùng bay ra ngoại quốc (không kể những phi cơ quân sự hiện có). * Ngày 28-4-1975 Phi công Nguyễn Thành Trung (y thả bom hai lần, lần đầu y thả ở dinh Độc lập bằng F5, y cất cánh từ phi trường Biên Hoà). Lần sau là chiều 28/04/1975: Một tốp phi cơ Dragonfly A 37 (phi đội Quyết Thắng) do phi công Nguyễn Thành Trung & Nguyễn Văn Lục dẫn đường, ép Trần Văn On & Nguyễn Văn Xanh bay cùng mấy tên “giặc lái” Bắc là Từ Đề, Mai Vượng, Hán Văn Quang, họ xuất phát từ phi trường Phan Rang bay về thả bom ở phi trường Tân Sơn Nhứt. Nhiều tiếng nổ long trời lở đất đâu đó vang rền, khói lửa ngùn ngụt bốc cháy, đen nghịt thành phố.
                * Ngày 28-04-1975 – Tổng thống Trần Văn Hương lên nắm chính quyền quốc gia Việt Nam được (7) bảy ngày ; thì tuyên bố rút lui. Theo yêu cầu của Lưỡng-viện Quốc-hội Việt Nam Cộng-Hoà, cụ Trần Văn Hương sữa “hiến pháp, hiến dâng” chức vụ “tổng thống không dân cử” cho Đại-tướng Dương Văn Minh. Chả hiểu sao cụ Hương tụt lẹ xuống vậy mà nhường cho ông tướng Dương Văn Minh trồi lên nắm chính quyền mau như chớp!? Việt Nam như quả bóng tròn, khi thì đá dưới gót chân, khi đội đầu, khi quay giò lái đá qua đá lại rồi “sút” bóng lăn xuống vũng bùn. Một chính phủ sắp đến ngày diệt vong rồi hay sao, mà suy tàn đến độ xót xa thảm thiết tột cùng! Làm gì… thì cần ngồi lại thân thiện bên nhau, và chia sẻ mọi quyền lực. Cần một lòng trung dũng đoàn kết vì nước vì dân. Thì toàn dân và toàn quân sẽ đứng vững như kiềng ba chân. Miền Nam Việt Nam sẽ không bị sụp đỗ toàn diện đâu. Tôi thiển nghĩ như vậy, do lúc nầy Tổng thống Dương Văn Minh nói rất hùng hồn: - “Không bao giờ đưa miền Nam Việt Nam cho Việt-cộng”. Câu nói thiệt là tuyệt vời! "ăn tiền hốt bạc".
                * Thứ Ba, Ngày 29 - 04 - 1975 – Tổng-thống Dương Văn Minh ra lệnh trục xuất những người Mỹ cuối cùng phải đi ra khỏi đất nước Việt Nam. Chính lúc đó mất thật rồi: Nhơn Trạch. Thành Tuy Hạ. Cát Lái. Cầu Sông Buông. Long Bình. Biên Hoà. Phú Lợi. Lai Khê. Bến Cát. Bình Dương. Tân Uyên. Lái Thiêu. Gò Vấp. Hướng Tây Bắc: Đồng Dù. Củ Chi. Hướng Tây Tây Nam: Hậu Nghĩa. Tân Túc. Tân Hoà. Phú Lâm.
                Tin tức mỗi ngày mỗi giờ một xấu hẳn đi. Thế là trong thành phố Sài Gòn vốn dĩ ồn ào náo nhiệt, bon chen sợ hãi, càng tăng thêm nhốn nháo, xôn xao, xớn rớn hãi hùng hơn. Sài Gòn chìm trong biển khói, thì cái tình thêm đau thương mịt mùng. Sài Gòn như rắn mất đầu, người người xớn rớn ồn ào như núi lở, như động đất, như triều cường sóng thần vùi dập. Sài Gòn đã mất vẽ hào nhoáng thanh lịch sang trọng xa hoa của hòn ngọc viễn đông xưa. Thành phố ấy giờ đây ồn ào náo nhiệt hỗn loạn, bụi bặm và rác rưỡi ụ từng đống to tướng. Sài Gòn càng hổn loạn, hoang mang lo sợ bùng lên dữ dội. Nhứt là những gia đình giàu sang quyền qúy ở Sài Gòn, cư dân gốc Trung Hoa đã sinh sống ở Chợ Lớn hãi hùng huyên náo loạn cả lên.
                Lúc xưa hai phi công Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc dội bom đã cháy dinh Độc Lập, (tháng 2 năm l962), làm hư hại dinh. Tổng-Thống Ngô Đình Diệm cho xây lại dinh Độc Lập. Gia đình Ngô Tổng Thống phải dời qua dinh Gia Long an vị, chờ kiến thiết lại. Bản vẽ dinh Độc Lập do đồ án của kiến trúc sư đô thị gia Ngô Viết Thụ (đoạt giải Khôi Nguyên La Mã) đảm nhiệm. Theo thiết đồ của Kiến trúc sư Thụ, có hai Công-binh chính: Đại-tá Nguyễn Văn Quý, Đại-tá Điển điều động một đoàn Công-binh Việt Nam xây dựng. Sau đó hoàn tất tốt đẹp. Tiền đình dinh Độc Lập có quảng trường Pigneau De Béhaine, có đại lộ rộng thênh thang rợp bóng cây, có tượng Đức Mẹ ngự ở trước công viên Hoà Bình làm bằng đá hoa trắc.
                Thuở còn Tây cai trị nước ta, con đường có tên là Norodom chạy từ dinh Độc Lập suốt tới khu Thảo Cầm Viên. Trong đó có Viện Bảo Tàng tên gọi Blanchard de la Bross, do Pháp xây dựng năm 1929. Ấy thế mà… Hết rồi vẽ sạch sẽ bóng loáng thanh lịch cao sang rộng rãi trên những phố Catina, đại lộ sang trọng Norodom xa xưa, nào là đường Công Lý, Phan Thanh Giản, Lê Văn Duyệt. Trần Hưng Đạo. Hai Bà Trưng, Nguyễn Huệ, thậm chí cả đường Duy Tân cây dài bóng mát đang có từng tốp hai ba trăm người tụ tập lo lắng, bồn chồn xôn xao, hốc hác, băn khoăn đứng ngồi không yên, kể từ khi phi trường Tân Sơn Nhứt bị pháo kích.
                * Ngày Thứ Tư hắc ám 30 tháng 4 đen tối năm 1975.
                Sài Gòn nóng như một hoả lò càng ghê rợn hơn, tin từ đài phát thanh Sài Gòn loan báo kể từ giờ phút nầy: Thiết quân luật 24/24. Tình hình thủ đô Sài Gòn từ sáng tinh mơ vắng lặng như tờ, giống một thành phố chết. Cho đến ngày hãi-hùng. Ngày đớn-hèn bi thảm. Ngày tối đen hắc-ám nhứt lịch sử Việt Nam, ngày đánh dấu than trầm-uất, thống-hận:
                *.- 8 giờ:00 ngày 30-4-1975 - Sáng sớm, Tổng-thống Dương Văn Minh lên Truyền-thanh Truyền-hình ra lệnh buộc các tuyến phòng thủ của Lữ-đoàn Liên-binh Phòng-vệ Phủ Tổng-thống không được nổ súng. *.- 9 giờ:00 ngày 30-4-1975 - Ông Dương Văn Minh đọc diễn văn trên đài Truyền-thanh: Yêu cầu toà Đại sứ Mỹ và văn phòng tùy viên DAO Hoa Kỳ, phải rời khỏi Việt Nam ngay lập tức.
                *.- 10 giờ:00 ngày 30-4-1975: Ông Dương Văn Minh leo lên làm "tổng thống" được ba ngày! (3), ông liền “mở cửa khẩu” kêu gọi Quân-lực Việt Nam Cộng Hoà:
                - “Ở đâu, hãy giữ nguyên vị trí ở đó”.
                - “Ngưng chiến".
                - Chờ bàn giao chính quyền miền Nam Việt Nam cho lực lượng Mặt Trận Giải Phóng vào chiếm”.
                “Chuẩn bị giao nạp vũ khí cho đối phương”

                * Ngày 30 tháng 4 năm 1975 - Khi Trịnh Công Sơn hát lui hát tới bài “Nối Vòng Tay Lớn”, không có nhạc đệm trên đài phát thanh Sài Gòn. Không những là ngày uất hận “nối vòng tay tang chế lớn”, mà còn là ngày co giật từng cơn run kinh phong nhăn nhúm rúm ró teo tóp lại. Ôi! Quả đúng là có một phép lạ như điềm dự báo trước kia, khi con chim bồ câu đã đậu trên bàn thờ Đức Mẹ Fatima, ở trên khu vực giáo dân Đà Lạt, nơi thường cung nghinh rước ảnh tượng Đức Mẹ đến từng nóc nhà vào đầu năm 1974. Thì người ta nói: “Con chim bồ câu tượng trưng cho sự hoà bình”. Nay “hoà bình” đã đến thật rồi sao?!
                Dinh Độc Lập, vương cung thánh đường Đức Bà, con đường Norodom độc đáo, ấy vậy mà hôm nay đã do tướng Trần Văn Trà cầm đầu mặt trận Cách-mạng Lâm-thời 75 (!) tại Sài Gòn, cùng đoàn xe molotova rền rú ì ầm chạy tới cổng dinh Độc Lập lúc 11 giờ sáng. Khi ấy đại sứ Pháp tại Việt Nam là Jean Marie Mérilon, còn ở trong toà đại sứ ở trên "con đường có tên Thống Nhứt”; (là thống nhứt! Ui trời! Chao ôi! nên chi sụp đỗ toàn diện một chế độ), bàng hoàng cả một dân tộc Việt Nam & thế giới!
                Chiến tranh -hai miền Nam-Bắc- đưa con người bải hoải lết lết tới đường cùng cuối bờ vực sâu. Khi có những chiếc xe tăng ì ầm chạy trên các đại lộ chính, chở đầy bộ đội đầu đội nón cối, chân mang dép râu, cổ quàng khăn lau mặt, thân hình dắt đầy cành cây. Đoàn xe vượt qua... cán nát- chôn vùi nền Đệ Nhị Cộng Hòa do Tổng-thống Nguyễn Văn Thiệu bôn tẩu lánh cư, do cụ Trần Văn Hương lãnh đạo bảy ngày, cuối cùng trao cho "ông Tổng-thống" (không hề có dân cử) - ông Dương Văn Minh ngồi trên ngai vàng lãnh đạo miền Nam Việt Nam vỏn vẹn chỉ có ba ngày!!!
                - Quân Bắc Việt được sự hổ trợ tối đa của Nga Xô và Tàu-cộng cung cấp đầy đủ đạn dược, súng ống và xe tăng. Trong khi miền Nam Việt Nam bị Mỹ hứa lèo hứa cuội, rồi trở mặt lừa lọc phản bội, lãnh đạm bỏ rơi. Mỹ từ chối hết thảy, kể cả chính phủ miền Nam chỉ xin chi viện 300 triệu đồng. Cũng không! Toàn Quân miền Nam thiếu thốn đủ mọi thứ. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa phải tự anh hùng oai dũng kiên cường chiến đấu, quyết liệt chống trả đến viên đạn cuối cùng, trong sự cô độc, vô cùng đắng cay chua xót và tuyệt vọng dường bao!!! Những Người Lính dũng cảm ấy chưa hề buông súng bỏ cuộc, họ không hề thua cuộc chiến, (hoạ chăng... "sẩy do thua cuộc cờ"...). Họ không bao giờ phản bội dân tộc và cương quyết ở lại giữ gìn quê hương Việt Nam dấu yêu -đến giờ phút cuối cùng- Cho đến ngày Thứ Tư: 30-04-1975: Họ phải cúi gầm đầu -bật khóc- ; vì buộc lòng phải tuân phục thượng-lệnh. Đời sống ấy phơi bày cuốn phim cay nghiệt, có cảnh-tượng kém thanh-lịch, bóc trần những điều quá thật, làm tan nát đời nhau. Chẳng bao giờ xóa nhòa, tàn phai trong ký-ức mọi người. Tan hoang kinh khủng. Đau đớn tột độ!
                “Hạnh phúc Hòa Bình” đến, vội-vã chợt đi... ; giật theo tấm áo đơn bạc, lộ ra quá-khứ trần trụi, hiện tại đọa-đày, tương lai đen tối mịt mù. Vẫn hay, vô cùng nghẹn ngào cay đắng!!! Thiệt đúng là "bách niên thương hải biến vi tang điền"!
                ***
                Tình HOÀI HƯƠNG


                (2) - Nguồn TỪ > Wikipedia, & Tình Hoài Hương sưu tầm đó đây.
                - "Bách niên thương hải biến vi tang điền" là câu gồm 8 chữ, không phải thơ Đường Luật, có thể là loại thơ Cổ Phong, nghĩa là thơ Cổ trước khi có thơ Luật của đời Đường ra đời. Cổ Phong có thể gồm thơ 3 chữ, 5 chữ, 6 và 8, không theo luật Thi. Thơ Đường Luật thường gồm thơ 5 chữ và thơ 7 chữ theo Luật Bằng Trắc và Đối Ngẫu.
                Bốn cuốn sách tham khảo gồm: Tự Điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh.
                1. Tự điển Từ, & Ngữ Việt Nam của GS Nguyễn Lân.
                2. Thành Ngữ Điển Tích Danh Nhân Tự Điển của GS Trịnh Văn Thanh.
                3. Nguyễn Du Toàn Tập Quyển 1 Thơ Quốc Âm Truyện Kiều của Nguyễn Thạch Giang.
                4. Theo cuốn Tự Điển Truyện Kiều (trang 68) & cuốn Tự Điển Từ & Ngữ VN (trang 1797) thì đa phần giống nhau trong sự giải thích: "Thương hải biến vi tang điền, mà viết tắt là 'Thương hải tang điền" nghĩa đen là "Biển xanh biến thành ruộng dâu", nghĩa bóng là những cuộc thay đổi lớn lao. Nhưng không ghi xuất xứ điển này từ đâu ra.
                *5.- Theo cuốn Nguyễn Du Toàn Tập Quyển 1 Thơ quốc Âm Truyện Kiều của Nguyễn Thạch Giang thì điển Thương Hải Tang Điền, xuất xứ từ Thần Tiên Truyện vào thời Đông Hán. Tiên nhân Vương Phương Bình xưa đỗ Hiếu Liêm, làm quan chức Trung Tán Đại Phu, rồi bỏ quan đi tu tiên đắc đạo, giáng xuống nhà Thái Kinh (người đời Hậu Hán), cho mời tiên nữ Ma Cô đến. Ma Cô bảo Phương Bình rằng: "Tiếp thị dĩ lai, dĩ kiến Đông Hải tam vi tang điền." Nghĩa là: "Từ khi được tiếp hầu ông đến nay, tôi thấy bể Đông đã ba lần biến thành ruộng dâu."
                6.- Cuốn Thành Ngữ Điển Tích Danh Nhân Tự Điển của Trịnh Văn Thanh nói giống như cuốn Thơ Quốc Âm Truyện Kiều của Nguyễn Thạch Giang, nhưng đơn giản hơn một chút. (*)
                *
                Tình Hoài Hương

                [(1), Mời độc giả xem thêm trích dẫn dưới bài viết nầy)] Trích dẫn nguyên văn từ Facebook Quoc Gia Nguyen - April 5 at 6:08am:

                - Ngu ngốc & hèn hạ - Nguyễn Văn Hảo sinh năm 1942, là người được học hành đến nơi đến chốn từ trường ta cho tới trường Tây. Hắn có bằng cấp Tiến Sĩ Kinh Tế từ thập niên 1960. Với trình độ học vấn như vậy, Tiến Sĩ Nguyễn Văn Hảo đã được Chánh Phủ mời ra nắm giữ những chức vụ quan trọng như Thống Đốc Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam - Tổng Trưởng Bộ Canh Nông và Kỹ Nghệ, cuối cùng đến năm 1974 thì được cử giữ chức Phó Thủ Tướng.
                Thời làm Thống Đốc NHQGVN, hắn biết rõ ngoài ngoại tệ và giấy bạc nội tệ thì thứ có giá trị lớn nhất được cất giữ trong tầng hầm của Ngân Hàng chính là số vàng dự trữ lên tới 16 tấn gồm hơn 1.200 thỏi, mỗi thỏi nặng 13 kg. Đây chính là tài sản quốc gia hay chính xác hơn là tài sản của toàn thể người dân miền Nam đã đổ mồ hôi và cả máu qua nhiều thế hệ mới tích trữ được.
                Ngày 29/4/1975 khi Cộng Sản Bắc Việt đã áp sát Thủ Đô, tàu Việt Nam Thương Tín chuẩn bị rời Bến Bạch Đằng, Dương Văn Minh cho lệnh đem tất cả số vàng này xuống tàu đưa ra ngoại quốc. Hảo biết được chuyện đó, liền chạy đến Ngân Hàng túc trực và cản trở không cho nhân viên thừa hành đụng tới số vàng này với lý do muốn đưa tài sản quốc gia ra khỏi đất nước, thì phải được lưỡng viện Quốc Hội chuẩn thuận. Hắn thừa biết trong tình cảnh rối ren hỗn loạn như vậy thì việc đó là không thể. 12g 30 trưa ngày 30/4/1975, khi Dương Văn Minh và toàn bộ nội các bị giam lỏng trong Dinh Độc Lập thì Hảo đến xưng tên tuổi, chức vụ và xin lính Cộng Sản gác cổng cho hắn vào để "báo một việc quan trọng". Sau khi vào trong, hắn nói với Dương Văn Minh về số vàng còn giữ lại nhưng ông ta tỏ vẻ không quan tâm làm Hảo mất hứng.
                Đến ngày 2/5, Cộng Sản thả tất cả mọi người ra khỏi Dinh thì Hảo nài nỉ xin được ở lại để "gặp lãnh đạo Ủy Ban Quân Quản vì có việc quan trọng cần báo cáo". Khi Trần Văn Trà đồng ý gặp, hắn đã dâng số vàng của quốc gia và người dân Việt Nam Cộng Hòa cho giặc để tâng công. Không được xơ múi gì từ bọn cướp, năm 1982 hắn lủi thủi đi Pháp định cư và suốt bao nhiêu năm, để mặc những lời chửi bới, nghi oan cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Hảo ngậm tăm không dám nói ra sự thật. Thằng Tiến Sĩ - Phó Thủ Tướng khốn nạn!
                *
                Last edited by Tinh Hoai Huong; 05-24-2020, 06:09 AM.
                Bút trần nào tả được lưu luyến!
                Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                Tình Hoài Hương

                Comment


                • Anh hùng Tử Khí Hùng Bất Tử


                  Anh hùng Tử Khí Hùng Bất Tử
                  (45 năm… tưởng niệm quý vị anh dũng: Sinh vi tướng, tử vi thần)
                  Tình HOÀI HƯƠNG
                  *


                  Lòng tôi bỗng nhói buốt lên từng cơn rúng động đau điếng, xót xa, bàng hoàng run rẩy khôn tả xiết. Tôi rụng rời, bi phẩn đến cực điểm, điếng lặng, dại khờ, đắng cay, nghẹn ngào, băn khoăn và bâng khuâng không thể thốt lên tiếng thở dài, hoặc nói câu nào. Chúng tôi: trên bước đường ly tán là những lữ hành đơn độc mệt lã, nay xa lạ từ lãnh thổ của chính quê hương mình, đã ôm mặt khóc ròng, hai hàng nước mắt tôi và các bạn đều tuôn chảy. Tôi khóc vì vong gia thất thổ, khóc thân phận con người đớn hèn bọt bèo trôi nổi. Và; bởi chúng tôi ra đi về miền Tây là: quá hy vọng tuyệt đối tin tưởng vào các vị tướng, tá, sĩ quan, các vị quân nhân binh lính oai dũng: vẫn còn đóng chốt kiên cố ở miền Tây, nơi họ còn giữ vững non sông và dân tộc trong giờ thứ 25.
                  Nào ngờ… tôi đã mất đất dung thân trên quê hương, nỗi đau đớn ấy nén dưới chiều sâu tâm hồn đã vọt lên tim, lên óc, lên cổ tôi những cục nấc nghẹn ngào tức tưởi theo dòng thời gian chảy về. Bây chừ chúng tôi quá tuyệt vọng, vì… máu, nước mắt, và tóc của những vị anh hùng đã vắt xỏa lơ lửng ngang lưng trời -mãi hoài không tan biến. Từ đó bầu trời vần vũ mây xám tạo thành những cơn mưa triền miên đẫm ướt sông hồ sơn khê Việt Nam!!! Ngờ đâu nay càng thương sầu nuối tiếc những vị anh hùng tuấn kiệt bất hủ đã oanh liệt tuẫn tiết. Chúng tôi thương họ hơn cả sự đau khổ cơ cực, đọa đày, biệt xứ vào những ngày ly tán trong tháng 4: Chúng tôi sửng sốt, rụng rời, vì nhiều lần trên đường loạn lạc, tai nghe tin khủng khiếp rõ mồn một từ miệng rất nhiều người tất tả xuôi ngược chạy về nơi nầy, chạy đi nơi khác: Tin tức sốt dẽo nhứt là do người dân ngang nhiên xôn xao bàn tán ở hai bến phà: Cần Thơ, và Mỹ Thuận. Người ta nói như một lời khẳng định về vấn nạn miền Nam Việt Nam Cộng Hoà; rằng:
                  - Không còn “Tướng, Tá” gì ráo.
                  - Đừng hòng mà có ý định “mưu đồ” chiếm lại Sài Gòn. Nghe.
                  - Các vị tướng, tá, úy, thậm chí cả hạ sĩ quan, binh lính, đã hy sinh. Họ cương quyết không chịu khuất phục vô tay bọn cướp nước, nên họ đã tuẫn tiết tự sát kìa. Chết thật rồi...
                  Khi từ Rạch Giá tìm đường trở lại thủ đô Sài Gòn, chúng tôi lật đật đến thăm những người bạn thân đang làm lớn trong chính phủ miền Nam Sài Gòn. Các anh bạn xác nhận rõ ràng: những vị anh hùng trung liệt bất khuất lừng danh rất đáng kính trọng, đáng ngợi ca ngàn đời, lưu danh thơm thiên cổ ấy, là những vị anh hùng tử khí hùng bất tử. Những vị sinh vi tướng tử vi thần mà sử sách đã vĩnh viễn ghi sau:
                  *1 - Thiếu Tướng Phạm Văn Phú (1929) Tư Lệnh Quân Ðoàn 2, Quân Khu 2. Tướng Phạm Văn Phú tuần tự giữ các chức vụ chỉ huy: * 1953 - Ông tốt nghiệp khóa 8 - Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt, sau đó phục vụ trong binh chủng Nhảy Dù. * 1954 - Đại úy Phạm Văn Phú Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù. * 7/5/1954 - Điện Biên Phủ thất thủ, đại úy Phú bị bắt giam. Sau Hiệp định Genève, ông được thả ra; tiếp tục phục vụ trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa. - 1962 Thiếu Tá Liên-Đoàn-Trưởng Liên-Đoàn Quan-Sát 77 Lực-Lượng Đặc Biệt. * 1963 Tư Lệnh Phó Sư Ðoàn 2 Bộ-binh Quảng Ngãi. * 5/1964 Trung Tá Tham Mưu trưởng Lực Lượng Đặc biệt - 1966.- Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 1 Bộ Binh. * 1968 Chuẩn-tướng Biệt Khu 44 Đồng Tháp Mười, miền Tây * 1969 Chuẩn Tướng Tư Lệnh Lực Lượng Đặc biệt. * 1970 Chuẩn Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh - Tư Lệnh Quân Đoàn 4. * 1973- 10/1974 - Chỉ-huy-trưởng Trung-Tâm Huấn-luyện Quang Trung. - 1974- Tư Lệnh Quân Đoàn 2 và Quân Khu 2 - Tư Lệnh Vùng II Chiến Thuật, Bộ Chỉ Huy đóng tại Pleiku, vùng Cao Nguyên miền Trung. - 29/4/1975- Thiếu tướng Trần Văn Phú uống thuốc độc tự tử tại tư gia đường Gia Long. Ông đã tạ thế ngày 30-4-1975.
                  *2 - Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam - (23-09-1927) Tư-lệnh Quân Ðoàn 4. Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam tuần tự giữ các chức vụ chỉ huy: * 1953 - ông Nguyễn Khoa Nam nhập ngũ Khóa III Thủ Đức - gia nhập binh chủng Nhảy Dù. - 1965 - Thiếu tá Tiểu-đoàn-trưởng Tiểu đoàn 5 Nhảy dù. * 1967 - Trung Tá Lữ-đoàn-trưởng Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù - 1969 - Tư lệnh Sư Đoàn 7 Bộ-binh kiêm Tư lệnh Khu Chiến thuật Tiền Giang. - 1974 - Th/Tg Nguyễn Khoa Nam Tư lệnh Quân-đoàn IV & Vùng IV Chiến thuật. * Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam dùng súng browning tự sát 01-5-1975.
                  * 3 - Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng - (27-3-1933 Hốc Môn) Tư-lệnh-phó Quân-đoàn 4. Ông Lê Văn Hưng: khóa 5 Sĩ quan Trừ bị Thủ Ðức. Tướng Lê Văn Hưng tuần tự giữ các chức vụ chỉ huy: Ra trường sau đó chỉ huy từ cấp Đại-đội. Tiểu-đoàn. Trung-đoàn thuộc Sư-đoàn 21 Bộ-binh. * 1966 - Thiếu-tá Tiểu-đoàn-trưởng Tiểu-đoàn 2/Trung-đoàn 31 Bộ-binh. *1968 - Trung tá Lê Văn Hưng Trung-đoàn-trưởng Trung-đoàn 31 Bộ Binh tại Hậu Giang & thăng Đại-tá Tư-lệnh Sư-đoàn 5 Bộ-binh. * 6/1971 - Tư lệnh Sư đoàn 5. * 1972 - Chuẩn-tướng Tư-lệnh-phó Quân-khu 3. * 1973 - Chuẩn-tướng Tư-lệnh Sư-đoàn 21 Bộ-binh. * 1974 - Tư-lệnh-phó Quân-đoàn 4. Chuẩn-tướng Lê Văn Hưng đã tự sát bằng súng lục vào lúc 20g 45’, ngày 30.04.75.
                  * 4 - Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ - (22-8-1933 Sơn Tây). Tư-lệnh Sư- đoàn 5 Bộ-binh. Chuẩn-tướng Lê Nguyên Vỹ tuần tự giữ các chức vụ chỉ huy: * 1951 - Ông học khóa 2 (Lê Lợi) trường Võ Bị Địa phương Huế. Tốt nghiệp Ðại Học Chỉ Huy Cao Cấp & Tham Mưu tại Mỹ. * Đại úy Quận-trưởng Bến Cát (Bình Dương). - Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 8 thuộc Sư Ðoàn 5 * 1965 - Thiếu tá Vỹ tham gia trong chiến trường An Lộc. Thiếu-tá Tư-lệnh-Phó Sư-đoàn 21 Bộ-binh. * 1972 - Đại Tá Lê Nguyên Vỹ, Phó Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh tại An Lộc. * 1973 - Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 21 Bộ-binh. * 1974 - Chuẩn-tướng Tư-lệnh Sư-đoàn 5 Bộ-binh căn cứ Lai Khê (Bình Dương)* 30-4-1975 - Chuẩn-tướng Lê Nguyên Vỹ tự sát tại Bộ Tư Lệnh Lai Khê.
                  * 5 - Chuẩn-tướng Trần Văn Hai - (1929 Cần Thơ). Tư-lệnh Sư-đoàn 7 Bộ-binh. Chuẩn-tướng Trần Văn Hai đã tuần tự giữ các chức vụ Chỉ-huy: * 1951 - Sinh viên Sĩ quan Trường Võ Bị Đà Lạt. * 1960 - Thụ Huấn Khóa Chỉ-huy Tham-mưu tại Hoa Kỳ. * 1963 - Thiếu-tá Chỉ-huy-trưởng TT Huấn-luyện Dục-Mỹ. * 1965 - Trung tá Tỉnh Trưởng Kiêm Tiểu Khu Trưởng Tỉnh Phú Yên, Chỉ huy các lực lượng Quân Cán Chính. - Tư-lệnh-phó Quân-đoàn 2; Quân-khu 2. * 1968 - Tổng-giám-đốc Cảnh-sát Quốc-gia. Tết Mậu Thân, đại tá Hai có mặt ở Liên đoàn 5 Biệt Động Quân trong những giờ giao tranh đầu tiên tại Thị Nghè - Hàng Xanh, phụ trách mặt trận Chợ Lớn, Phú Thọ. * 1970 - Chuẩn-tướng Tư-lệnh Biệt Khu 44.
                  * 1971 - Chuẩn-tướng Chỉ-huy-trưởng Binh-chủng Biệt-Động-quân. * 1972 - Chuẩn-tướng Tư-lệnh-Phó Quân-đoàn 2 & Quân-khu 2 Đặc Trách Biên-phòng. - Chỉ huy trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Lam-Sơn, kiêm Chỉ huy trưởng Huấn Khu Dục-Mỹ. * 1974 - Tư-lệnh Sư-đoàn 7 Bộ-binh, căn cứ Đồng Tâm Tỉnh Định Tường. Chiều 30.04.1975 - Chuẩn-tướng Hai đã uống thuốc độc tự tử tại văn phòng Tư-lệnh, Ðồng Tâm. Mỹ Tho. Nơi Bộ-tư-lệnh Sư-đoàn 7 Bộ-binh.
                  * 6 - Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn - (24-3–1938 Vĩnh Thanh Vân. Rạch Giá). Đại Tá Tỉnh Trưởng Chương Thiện. Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đã tuần tự giữ các chức vụ Chỉ-huy: * 1947 - Ông gia nhập vào trường Thiếu Sinh Quân. * 1957 - Liên trường Võ Khoa Thủ Đức. Học chuyên môn: CC1 & CC2 Vũ Khí. Sau 9 tháng thụ huấn ưu hạng, ông làm huấn luyện viên tại trường VKTĐ. * 1962 - TSQ Hồ Ngọc Cẩn vào trường sĩ quan hiện dịch, Đồng Đế. & thuyên chuyển về Biệt Động Quân vùng 4 Chiến Thuật: Trung-đội-trưởng Tiểu-đoàn 42 Biệt Động Quân. Ông tuần tự phục vụ tại các binh chủng: Dù. Thủy-quân Lục-chiến. Biệt-động-quân. Quân-báo. An-ninh Quân-đội. Lực-lượng Đặc-biệt: Tại các tỉnh Cần-Thơ (Phong-Dinh). Chương-Thiện. Sóc-Trăng (Ba-Xuyên). Bạc-Liêu. Cà-Mau (An-Xuyên). * Tiểu-đoàn số 42, Tiểu-đoàn Cọp Ba-đầu-Rằn. * Tiểu-đoàn số 44 Cọp Xám U-Minh Hạ). 1973. * Đại Tá Tỉnh trưởng Tỉnh Chương Thiện. * 30-4-1975 - Trong BCH hết đạn dược, ông đã bị bắt tại nơi đồn trú. - 14-8-1975 - Đại tá Hồ Ngọc Cẩn đã bị kết án, xử bắn ở sân vận động tỉnh Cần Thơ, trước sự chứng kiến của đồng bào.
                  * 7 - Ðại-tá Ðặng Sĩ Vinh - Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia. Lúc 2 giờ ngày 30.04.75, Ðại-tá Vinh, cùng gia đình gồm: Vợ và Bảy người con, đã tự tử bằng súng lục!!! (chồng+Vợ + 7người con= 9 nhân mạng).
                  * 8 - Đại-tá Nguyễn Hữu Thông - Trung-đoàn-trưởng 42 Bộ Binh, Sư Đoàn 22Bộ Binh - Khóa 16 sĩ quan Võ Bị Đà Lạt. 31/3/1975, tự sát tại Quy Nhơn.
                  * 9 - Đại-tá Lê Cầu - Trung-đoàn-trưởng 47 Bộ Binh.
                  *10 - Trung-tá Vũ Đình Duy, Trưởng Đoàn 66 Đơn Vị 101/QLVNCH, tự sát bằng độc dược ngày 30-4-75.
                  * 11 - Trung-tá Nguyễn Văn Hoàn, - Trưởng Đoàn 67 Đơn Vị 101/QLVNCH, tự sát bằng súng lục ngày 30-4-1975.
                  *12 - Trung Tá Đường, & Đại úy Bé... Chỉ huy lực lượng Thám-báo, chết ở chân cầu Vị Thanh 30-4-75.
                  *13 - Trung-tá Nguyễn Đình Chi - Cục An Ninh Quân-đội. Tự sát 30-4-75.
                  *14 - Trung-tá Hà Ngọc Lương - TT Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang. Tự sát 30-4-75 (cùng vợ, 2 con, 1 cháu).
                  *15 - Trung-tá Phạm Đức Lợi - Khóa 5, Thủ Đức. Phụ tá Trưởng Khối Không Ảnh P2/ Bộ TTM; là học giả, văn, thơ, soạn kịch… (bút danh: Phạm Việt Châu), cựu giảng viên SNQĐ, trưởng phái đoàn VNCH Hiệp Định Paris tại Hà Nội. Tự sát tại tư gia ngày 5/5/1975.
                  *16 - Trung-tá Nguyễn Văn Long - Sanh năm 1919 tại Gia Hội. Huế. Ông đã tuần tự giữ các chức vụ: Chỉ-huy Trưởng Phòng - Chủ Sự. - Ty Cảnh Sát. - Ty Công An. - Khu 1 Đà Nẵng. Chánh Sở Ty Cảnh Sát Quốc Gia Đà Nẵng. - Ngày 28-3-1975 - Trung-Tá Nguyễn Văn Long được lệnh phải rời Đà Nẵng vào Sài Gòn. Tính tình ông trầm lặng, ít nói, cương trực, mẫu mực, tận tụy, thanh liêm; nên gia đình ông sống rất thanh bạch. Trung tá Long có biệt danh là “Long lý”; có nghĩa là không thiên vị ai, cứ công lý minh bạch lẽ phải mà thi hành. Khi nghe "tân tổng thống 3 ngày không dân cử", Dương Văn Minh ra lịnh tất cả quân đội: "ở đâu phải ở đó, buông súng, không được kháng cự", để ông Minh bàn giao chính phủ cho ban tiếp quản miền Nam. (!?). - 30-4-1975 - Trung Tá Nguyễn Văn Long đã rút súng tự bắn vô đầu, tuẩn tiết dưới tượng đài Thủy Quân Lục Chiến, trước trụ sở Quốc Hội. Sài Gòn.
                  *17 - Trung Tá Nguyễn Xuân Trân - Khoá 5 Thủ Đức, Ban Ước Tình Báo P2/Bộ TTM. Tự tử ngày 1/5/75.
                  *18 - Trung-tá Phạm Thế Phiệt - 30-4-75.
                  *19 - Thiếu tá Trịnh Tấn Tiếp - Quận-trưởng Kiến Thiện là một sĩ quan xuất sắc, trí dũng song toàn. Ngày 14-8-1975, ông đã bị VC xử bắn tại sân vận động Cần Thơ.
                  * 20 - Thiếu-tá Không-quân Nguyễn Gia Tập - (25-12-1943). Phi-đoàn 514-518, Khu-trục Biên-Hoà. Ông thụ huấn khoá 64D, năm 1964. * Tốt nghiệp T 28 - ở Randolph AFB – TX. Hoa Kỳ. * Tốt nghiệp TopGun – Khóa A 1e - tại Hurburt Field, Florida. * Sĩ quan Liên-lạc trường Huấn-luyện Keesler Hoa Kỳ. * Làm việc tại: Phi-đoàn Khu-trục 514 - 518 – Biên Hoà. * Làm việc tại phòng Đặc-trách Khu-trục, Bộ Tư-lệnh Không-quân. Thiếu tá Nguyễn Gia Tập tự sát bằng súng lục trước sân cờ, trong căn cứ Bộ Tư-lệnh Không-quân. Thân nhân của Th/tá Nguyễn Gia Tập, đã đem thi thể Th/tá Tập về chôn cất tại Long Khánh. Thiếu tá Nguyễn Gia Tập là vị anh hùng phi công Khu-trục A 1 Skyraider.
                  * 21 - Thiếu-tá Lương Bông - Phó Ty An Ninh Cần Thơ. Tự sát 30-4-75.
                  * 22 - Thiếu-tá Mã Thành Liên (Nghiã) - Tiểu-đoàn-trưởng 411ĐP, TK Bạc Liêu - khoá 10 Đà Lạt. Tự sát cùng vợ ngày 30-4-75.
                  * 23 - Thiếu-tá Nguyễn Văn Phúc - Tiểu-đoàn-trưởng, Tiểu Khu Hậu Nghĩa. Tự sát 29/4/1975.
                  * 24 - Thiếu-tá Hải Quân Lê Anh Tuấn - (1943 – 1975). Xuất thân Khóa 14 Sĩ Quan Hải Quân.
                  Ông là Chỉ Huy Trưởng Giang Ðoàn 43 phục vụ trên chiến hạm của Hạm Ðội. Duyên Ðoàn 27. Duyên Ðoàn 23. Phòng Tâm Lý Chiến Bộ Tư Lệnh Hải Quân. Khi nghe lệnh từ ông Dương Văn Minh bắt buộc quân nhân buông vũ khí, giao đất nước Việt Nam vô tay giặc, thì Thiếu-tá Tuấn đứng trên chiếc soái đỉnh dùng súng colt bắn vào đầu tự sát, ông gục ngay trên tấm bản đồ hành quân.
                  * 25 - Thiếu-tá Đỗ văn Phát - Quận Trưởng (kiêm Chi Khu Thạnh Trị Ba Xuyên. Đại Đội Trưởng Đại Đội 1 Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 33, Sư Đoàn 21 Bộ Binh, đã tuẫn tiết ngày 1/5/1975.
                  * 26 - Thiếu-tá Trần Thế Anh - Đơn vị 101. Tự sát ngày 30/4/75
                  * 27 - Thiếu tá Trần Đình Tự - Tiểu-đoàn-trưởng Tiểu đoàn 38 Biệt Động Quân. 11 giờ sáng ngày 30 tháng Tư năm 1975 tại trung tâm hành quân của Liên Đoàn 32 BĐQ, Trung-tá Liên Đoàn-trưởng Lê Bảo Toàn nhận được lệnh từ cấp chỉ huy Quân Đoàn: “Hãy ngưng bắn ngay lập tức, ở yên tại chỗ, để đợi phía bên kia đến bàn giao khu vực.”- Lần đầu tiên cũng là lần cuối cùng trong đời Th/t Trần Đình Tự đã cưỡng lệnh cấp chỉ huy. Sau khi nhận lệnh buông súng, ông nói: "Tôi sẽ ở lại đánh nữa, tôi không đầu hàng. Tôi không thể nào để lọt vô tay tụi nó lần nữa"...
                  Nhưng anh Tự không còn nữa, đã tử trận. Tên giặc Cộng rút con dao găm của anh Tự đeo bên hông, nó đâm mạnh vô bụng Trần Đình Tự, rọc mạnh xuống phía dưới. Ruột anh Tự lòi tuột ra ngoài. Chưa hả, nó còn ngoáy mạnh mũi dao vô tận trong bụng anh Tự. Anh Tự hét lên rất bi ai nghẹn uất, đổ sụm xuống oằn mình giật từng cơn trong vũng máu đỏ.
                  * 28 - Đại-úy Vũ Khắc Cẩn - Ban 3 Tiểu-khu Quảng Ngãi. Tự sát 30-4-75.
                  * 29 - Đại-úy Tạ Hữu Di - Tiểu Đoàn Phó 211 Tỉnh Chương Thiện. Tự sát 30-4-75.
                  * 30 - Đại Úy Nguyễn Văn Hựu - Trưởng ban văn khố P2/Bộ TTM. Tự sát sáng 30/4/75 tại P2/Bộ TTM.
                  * 31 - Đại-úy Nguyễn Hòa Dương - Trường Quân-Cảnh Vũng Tàu. Tự sát 30-4-75 tại trường.
                  * 32 - Trung-úy Đặng Trần Vinh - Phòng 2, Bộ TTM. (con của Thiếu-tá Đặng Sĩ Vinh). Tự sát cùng vợ con 30/4/1975.
                  * 33 - Trung-úy Nghiêm Viết Thảo - Khóa 1/70 Thủ Đức. An Ninh Quân đội. Tự tử tại Kiến Hòa.
                  * 34 - Trung-úy Nguyễn Văn Cảnh - CSQG Trưởng-cuộc Vân Đồn. Quận 8. Tự sát 30-4075.
                  * 35 - Thiếu-úy Không-quân Nguyễn Thanh Quan - Khóa 1/70. PĐ 110 Quan-sát. Tự tử 30-4-75 tại Kiến Hòa.
                  * 3 - Thiếu-úy Nguyễn Phụng - Cảnh Sát ĐB. Tự sát 30-4-75, tại Thanh Đa.
                  * 37 - Thiếu úy Nhảy Dù Hoàng Văn Thái - Khóa 5/69 Thủ Đức. Tại một bùng binh ở ngã 6 Chợ Lớn, Thiếu uý Thái và một nhóm 7 người bạn, mỗi người một quả lựu đạn, họ cùng mở chốt tự kết liễu đời mình ngày 30-4-1975. Họ là một toán Nhảy Dù về bảo vệ Đài-phát-thanh. Đài Truyền-hình Việt Nam.
                  * 38 - Chuẩn-úy Đỗ Công Chính - TĐ 12 Nhảy Dù. Tự sát tại cầu Phan Thanh Giản.
                  * 39 - Thượng Sĩ Phạm Xuân Thanh - Trường Truyền-tin Vũng Tàu. Tự sát 30-4-75 tại sân trường.
                  * 40 - Thượng sĩ Bùi Quang Bộ - Trường Truyền Tin Vũng Tàu. Tự sát ngày 30/4/1975 cùng gia đình 9 người tại Vũng Tàu.
                  * 41 - Trung sĩ I Trần Minh - Quân Cảnh, ông gác ở Bộ TTM. Tự sát 30.4-75.
                  * 42 - Trung-sĩ Nhứt Vũ Tiến Quang - (10-9-1956 Kiên Hưng, Tỉnh Chương Thiện). 2-9-1969 - Vũ Tiến Quang vào trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam – 1972, ông Vũ Tiến Quang có chứng chỉ 1 Bộ Binh. Phục vụ tại Trung-đội Trinh-sát của Trung-đoàn 31 (Cà Mau). Trung sĩ Vũ Tiến Quang làm thông dịch viên (cho cố vấn thiếu úy Hummer). * 1972- Vũ Tiến Quang có chứng chỉ 1 Bộ Binh. * 1974 - Sau khi có chứng chỉ 2 Bộ Binh, Trung-sĩ Quang về sư đoàn 21 Bộ Binh Tiểu-đoàn Ngạc Thần (tiểu đoàn 2 Trung đoàn 31 Bộ Binh đóng tại Chương Thiện.
                  * 43 - Nguyễn Xuân Trân - Khóa 5 Thủ Đức. Tự sát 01-5-75.
                  * 44 - Binh Nhì Hồ Chí Tâm - TĐ 490. ĐP. (Mãnh Sư) Tiểu Khu Ba Xuyên. Cà Mau. Dùng súng M 16 tự sát ngày 30-4-75 tại Đầm Cùn, Cà Mau.
                  * 45 - Luật sư Trần Chánh Thành - Cựu Bộ-trưởng Thông-tin Đệ Nhất Cộng Hòa- Nguyên Thượng-nghị-sĩ đệ II Cộng Hòa. Tự sát ngày 3/5/75.
                  * 46 - 6 toán thám sát của LĐ.81/Biệt Cách Nhảy Dù trong chiến khu D... 6 toán thám sát LĐ.81/Biệt Cách Nhảy Dù được trực thăng thả sâu trong mật khu VC.
                  * 47 - Quý chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa: Địa Phương Quân. Nghĩa Quân... & những vị vô danh. Và còn nhiều!... rất nhiều chiến sĩ anh hùng vô danh ẩn tích khác. Họ là những anh hùng vị quốc vong thân. Những bậc anh tài sinh vi tướng, tử vi thần. Là những vị anh hùng tử khí hùng bất tử! Họ là những anh hùng kiện tướng, đầy nhiệt huyết, yêu đồng đội, hy sinh vì dân, vì đất nước quê hương. Nhứt là vì danh dự của một quân nhân Việt Nam Cộng Hoà. Họ rất anh dũng tự quyết định mạng sống mình, họ không chịu khuất phục địch. Giống như chí sĩ Trần Hữu Lực thời xưa đã có câu tuyệt mệnh: “Non sông đã chết. Ta há lại sống thừa. Từ mười năm giũa kiếm, mài dao. Chí mạnh, những mong phò tổ quốc. Lông cánh chưa thành. Việc bỗng đâu hoá hỏng. Dưới chín suối điều binh khiển tướng, hồn nhiên ngầm giúp bọn thiếu niên…”
                  Đó là sự trả giá tuyệt vời rất đáng kính trọng của một con người coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, qua nhân cách sống của một quân nhân QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HOÀ - HỌ đặt tổ quốc - trách nhiệm - danh dự - lên hàng đầu. Một sự tuẫn tiết vô cùng quan trọng, rất đắt giá về điều: Vinh quang. Chiến thắng. Bi lụy. Can trường chiến đấu đến hơi thở cuối cùng; cho đến khi thủ đô Sài Gòn hòn ngọc viễn đông hùng tráng bi phẫn đã đớn đau vỡ vụn! Họ không hề đầu hàng không "thua cuộc"! HỌ vì lý tưởng tự do ưu trội thật cao vời. Và, vì sự bất tử cao cả, hiên ngang đầy oanh liệt. Kiên cường. Bất khuất của người lính Việt Nam Cộng Hoà quá dũng khí, oai phong lẫm liệt. Ôi! Họ đã lưu danh thơm lẫy lừng thiên cổ. Qúy ông ấy đã anh dũng, hiên ngang đứng vững giữa non sông gấm vóc trong quê cha đất tổ. Họ vĩnh viễn nằm lại trên dãi đất hình chữ S cong cong. Máu của họ đã chan hòa chảy ra - nhào trộn với đất phù sa đẫm ướt cả lòng quê. Hai tay họ thân ái ôm trọn quê hương ghì siết ở trong lòng. Họ đã bất khuất và vẻ vang sống mãi trong dòng lịch sử dân tộc Việt Nam có bốn ngàn năm văn hiến. Lão Tử đã có câu: “Để thân mình lại sau. Thế mà thân mình đứng trước. Gác thân mình ra ngoài. Thế mà thân mình vẫn còn".
                  Trân trọng lắm thay!

                  *
                  Tình Hoài Hương

                  Tôi, (tác giả bài viết) trân trọng cám ơn qúy vị, qua vài chi tiết nhỏ do các anh cho tin: - Đại-Úy KQ Trần Văn Phúc - KQ thanbaokimnguu - Anh KQ Vũ Ngô Khánh Truất - Anh Hoàng Hùng KQ2 - & GĐ81/BCND do anh Tâm1888 - Anh Ó Đen 3 - Anh Phạm Phong Dinh. . . & do Tình Hoài Hương sưu tầm lượm lặt ít chi tiết trên internet.
                  Trân trọng
                  Tình Hoài Hương
                  Last edited by Tinh Hoai Huong; 05-01-2020, 12:07 AM.
                  Bút trần nào tả được lưu luyến!
                  Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                  Tình Hoài Hương

                  Comment


                  • Gươm Đàn Gãy Gánh

                    Tháng Tư Đen
                    Nhạc: Trần Lê Việt.
                    Lời: Lê Xuân.
                    Giọng ca: Việt Long.
                    Gươm Đàn Gãy Gánh
                    Tình Hoài Hương
                    *


                    Thỉnh thoảng có đám tuần tra đi ngoài đường nói cười rổn rảng sát ngay bên ghế bố nơi Luật nằm. Tôi không biết họ oang oang chưởi gì, chưởi ai!? Chưởi số phận nghiệt ngã đã trao cho họ: phải xách súng ngày đêm đi kiểm soát dân -từ buổi giao thời vừa mới có “tự do hạnh phúc”?! Hoặc hắn tự chưởi mình ngoảnh mặt làm lơ nhìn người khác hả hê trả thù dân tộc!? & trợn mắt sung sướng nhìn đồng bạn tuôn trào những lời cay độc, hét to từng tiếng lát gừng thị oai:
                    - Tên gì?
                    - Ai đó?
                    - Đi đâu?
                    - Kiểm tra giấy tờ.
                    Anh em thằng Tùng (con của Ngọc) giật mình thức giấc vì tiếng quát, nhỏ Thắng xù xì hỏi anh nó:
                    - Mấy ông kia có phải là lính mình không anh Hai? Lính Thủy Quân Lục Chiến mặc đồ đen, quàng khăn cổ bằng lá cờ xanh đỏ, cánh tay ổng đeo băng đỏ, đó anh.
                    - Tầm bậy tầm bạ! Mầy đoán già đoán non, mà ngu như bò! Thủy-quân Lục-chiến oai lắm, họ mặc đồ xanh rằn ri, đội mũ màu xanh cứt ngựa, mang giày đinh.
                    - Vậy à… hay mấy ông kia là người trong đảng ca ca chi đó, phải hông?
                    - “Ca ca”… tiếng Tây nôm na là cứt nghen. Còn đảng K K K là là… thời da trắng ám sát da đen, khi Nam Bắc phân tranh bên xứ Mỹ. Không có ở đây! Biết không?
                    - Thì… thì em thấy mấy ông du kích nầy có khác chi…
                    - Xuỵt! Mầy có câm ngay cái miệng ưa bép xép không!?
                    - Em không biết, mới hỏi chút xíu, anh làm gì dữ vậy!
                    - Coi chừng cái... bản mặt đó. Thấy thì biết.

                    Nghe hai cháu nhỏ “nóng ruột” từ lời nói, còn tôi “lộn ruột ứa gan” từ trong tim! Thành phố khiêm nhường bé nhỏ nầy đã trở nên trơ tráo hơn khi có “quân giải phóng miền Nam” tới với những thứ lạ, thứ mới, có ít thứ tốt và nhiều thứ xấu, lắm thứ dữ: Một ông già chệnh choạng thất thểu bước thấp bước cao, và mấy thanh niên đứng xớ rớ dưới cột đèn mờ mờ. Ông già ấy đã bị móc túi, không còn giấy tờ tùy thân, không có tiền xì ra. Cha con ông cháu kia nói dai, ú ớ van xin lằng nhằng lải nhải gì đó, liền bị một du kích địa phương dùng báng súng đập ông già một phát bể bên mé đầu, vọt máu tươi. Tên du kích ấy bắt ông già ngồi bó gối, hai tay đan vô nhau chấp lên đầu chung với đám thanh niên: Khổ thiệt, ở thời buổi giao thời nầy, sao ông dám mở miệng phân bua, với ai hì! Bị thương ngoài da rồi sẽ có ngày lành, nhưng tổn thương trong lòng tuy không ai trông thấy (dù chuyện không đáng), nhưng đau dài lâu.
                    Luật tức giận cành hông, anh dợm đứng lên nhảy ra can thiệp, nhưng Ngọc mau tay lôi giật Luật, ra dấu cho anh im re nằm xuống câm mồm, coi chừng đầu không phải, phải tai. Luật lẩm cẩm không nhớ cho:
                    Phong lan, phong chức, phong bì.
                    Trong ba thứ ấy, thứ gì quý hơn?
                    Phong lan ngắm mãi cũng buồn.
                    Phong chức thì phải cúi luồn vào ra.
                    Chỉ còn cái phong thứ ba.
                    Mở ra thơm nức, cả nhà cùng vui. (1)

                    Cổ họng ai nấy đều đắng nghét như ngậm vốc trà khô. Trà đắng có thể không thích nghi với thổ địa bởi tại phong sương, hoặc trà chát, chua, bởi tại tình người? Vã chăng, khi chiều chúng tôi nhìn “mấy tên 30”, hoặc ngó ai ai thì cũng thấy họ tò mò nhìn sững mình không chớp mắt, chả biết đâu là thù, mô là bạn! Nhiều người ra vô ở phòng trọ nầy mặt lạnh như tiền. (Chớ tôi có tật gì mà giật mình)!? Đúng. Một số ít dân cách mạng lâm thời đội mũ tai bèo, mang súng AK trong buổi giao thời, bên cánh tay cột khăn vải đỏ, cổ mang màu cờ nửa xanh nửa đỏ, họ hầm hầm ngó chúng tôi trừng trừng, nhìn muốn nổ con mắt, muốn trợn trừng tráo trưng con ngươi mà ăn tươi nuốt sống.

                    Nếu ví như có những điều tự trong thâm tâm qúy vị đang vui tươi, trong sáng, bỗng một sớm một chiều trở nên sụp đỗ, âu sầu, băn khoăn, suy tư, lo lắng, bâng khuâng ray rứt về cái ngày 30-4; ngày lịch sử bất hạnh là: một giòng chảy không bao giờ chảy ngược lại! Hoặc giả qúy vị hay tôi muốn cầm bút viết lại, nói ra, lượt thuật, lượm lặt sưu tầm đó đây, nhã ý là: do ta chỉ ước mong bộc lộ những uẩn khúc quá đau lòng tự thâm tâm {trong đời sống thực. Có lần tôi đã nói: “tôi không hề lên án ai, xúc phạm ai, bới móc ai điều gì! Cho dù con người ấy, xã hội ấy sau 30-4-1975; đã đả thương tôi đớn đau trầm trọng cách mấy chăng nữa! Tôi rộng lượng bỏ qua & tha thứ}

                    Vâng! Thì xin qúy vị tha cho tôi, đừng vội thẩm định tôi khuynh tả hay thiên hữu: Do thân tình ghi lại loạt chuyện (mà bạn TtTm hoặc tôi kể) để con cháu ngày ấy chưa thành nhân, thành danh; ngày nay sẽ hiểu rằng: Tình Đời và Tình Người cần thiết, dù có tiền rừng cũng không thể mua được thanh danh. Hũy hoại thanh danh dù một lần, một ngày làm mất danh dự, nhưng đã lưu lại suốt đời. Nếu tôi hoặc bạn tôi cố chấp, thì chẳng khác nào như con chuột, con dơi vắt mình trên cành: Con dơi chỉ thấy một phần nhỏ xíu dưới cành, mà chẳng thể nhìn thấy cả toàn cây. Con chuột chỉ là con vật loắt choắt tẻo teo, chuyên đi phá phách, hại ruộng hại đồng cây cối nhà cửa, dù nó có uống nước trong, hoặc mò mẫm lặn lội húp nước đục, thì chỉ no được cái bụng bé tí teo. Chuột vẫn là giống chuột lủi tanh hôi, có khi truyền đến ta bệnh dịch hạch nguy hiểm đáng sợ. Chuột nhớp nhúa không thể làm điều gì cao sang, ích lợi cho đời. Bây giờ thì nó có hóa thân làm con chuột hét ra tiếng người cốc lốc, lấc xấc mà thị oai, có hét tướng lên trong màn đêm u tịch, càng khiến người ta rất sợ hãi, không dám hó hé dáo dác len lén nhìn quanh, mà phải nằm im ru câm họng trong mùng lim dim hi hí ngó trộm. Con cháu tôi nghe, thấy rõ, đã biết sự hung ác kia... thì bây giờ con nên tôn trọng nhân cách sống, cư xử với nhau hòa ái, bao dung, vị tha; vẫn trân qúy đáng ngưỡng phục, hơn sự thô lỗ bạo tàn rợn người.
                    Có miệng không nói lại câm.
                    Hai hàng nước mắt chan dầm như mưa.
                    Mang danh Dân Chủ Cộng Hòa.
                    Đi ra khỏi tỉnh phải qua cửa quyền.
                    Xuất trình giấy phép liên miên.
                    Chứng từ thị thực ở miền nào qua. (1)

                    Khoảng mười hai giờ khuya, có một toán choai choai dé dé xíu xíu bặm trợn khác lại xồng xộc vô nhà trọ, vếu váo tốc ngược mùng của mọi người lên, chúng giựt giọng gọi những khách trọ đêm dậy để kiểm soát giấy tờ tùy thân. Qua nhiều thủ tục khám xét gắt gao, những túi hành trang vải, (mà tôi đã may hôm 28-4-1975). Họ là ông trời con một cõi lừ mắt trợn ngược, hất hàm chĩa súng vô bụng, gặn hỏi khách trọ cộc lốc đủ thứ chuyện không có chủ từ danh từ:
                    - Tránh qua bên kia, đứng xếp hàng.
                    - Trước ở đâu?
                    - Làm gì?
                    - Nay đi đâu?
                    - Đưa coi giấy tờ.
                    - Còn có gì dấu đút ở đâu không?
                    - Có lịnh không được đi đâu hết.
                    Nhóm tôi nói láo:
                    - Hồi trước sinh sống ở Phú Quốc. Nay có tự do, hoà bình, chúng tôi muốn về lại chỗ cũ:
                    Trăm năm trong cõi người ta.
                    Ở đâu cũng được đi ra đi vào.
                    Xa xôi như xứ Bồ Đào.
                    Người ta cũng được đi vào đi ra.
                    Đen đủi như Ăng Gô La.
                    Người ta cũng được đi ra đi vào.
                    Chậm tiến như ở nước Lào.
                    Người ta cũng được đi vào đi ra.
                    Chỉ riêng có ở nước ta.
                    Người ta không được đi ra đi vào. (1)

                    Người ta nói: Ông Trời có mắt nhưng do ổng ở xa lắm, nên có mắt cũng như mù! Úi Trời đất thánh thần thiên địa ơi! giờ nầy qúy ngài hiền đức thánh nhân ở trên thiên đình: lo đi rong chơi, ngao du nơi biển sâu sông dài núi cao nào rồi!? Sao qúy ngài không cúi xuống nhìn đám dân giả dưới trần gian của qúy ngài đang rét run, sợ té khói ra đít nè! Đã thế mà trời còn mưa giông gió bão! Khi Trời gieo sấm sét đánh chết người, thì thiên hạ nói:
                    - Do người ấy ăn ở ác, không có đức, nên bị Trời đánh.
                    - Hứ! Vậy chớ ông Trời làm sét đánh chết người, thì không ai nói là ông Trời ác hì!

                    Bốn giờ khuya, toán du kích già dặn kinh nghiệm thứ ba mặt mày đằng đằng sát khí, súng ống lăm le chĩa ra đằng trước ngực khách, đạn lên nòng róc róc róc… rắc rắc rắc... réc réc réc..., ngón trỏ hắn đặt trên cò; họ lại dựng đứng khách trọ ra khỏi mùng, để “hỏi cung”. Chúng tôi sợ mấy cha nội không rành về súng ống đạn dược, ưa tháy máy tay chân, thích “bụp” liền, thích “đục” , thích “nẻ” bậy vô dân ngu khu đen, thì chết toi cả đám oan đời. Tôi ngồi co rúm, không dám hó hé, xép re im thin thít trong một góc nhà trọ, lẩm bẩm đọc kinh cầu nguyện mà run như cầy sấy. Vậy thì tôi chẳng biết “ai” ác hơn ai hở Trời!
                    Hãy đến bất cứ nhà nào.
                    Chị em không việc cũng vào cũng ra.
                    Thật là ngứa mắt chúng ta.
                    Nhưng thôi cứ để họ ra họ vào.
                    Không thì “cửa sắt” họ rào.
                    Anh em đố có dám “vào” dám “ra”. (1)
                    Một đêm có tới ba lần bị kiểm soát! Tửng bưng gần năm giờ sáng thì tốp dân ở Phú Quốc cặp tàu vô đất liền. Sau đó, cả lán trọ được biết là tù-phạm sau ngày 30-4 ở ngoài Phú Quốc đã phá ngục, có lớp người vượt ngục ra tù về đất liền, họ cầm súng giương oai đi quậy tưng trời, phá phách cướp bóc nhiều nơi. Đám di tản chúng tôi đứng xớ rớ bên góc cầu, may mắn Ngọc gặp ông ba của anh trên chiếc cầu gỗ lắt lẽo: Ông ba mừng rỡ ôm con trai khóc vừa nói:
                    - Phú Quốc đã có nhiều trại tù nổi loạn. Cướp bóc tràn lan. Có những cuộc chém, giết, chạm súng gắt gao. Bọn mình phải quay trở về Đà Lạt ngay thôi.

                    Chúng tôi tứ cố vô thân ở xứ lạ quê người, nghe thế lại càng tăng lòng sợ hãi lên cao độ, phân vân băn khoăn hết sức. Nếu chúng tôi đi ra Phú Quốc, biết đâu: Ngoài đảo đang lộn xộn kinh khủng, thì tai ách giữa đàng lại mang vào cổ. Thế là chuyện hy vọng đi Phú Quốc, từ nơi đó sẽ “đào tẩu” ra nước ngoài, nhưng... “em ơi nếu mộng đã không thành thì sao? Non cao đất rộng biết đâu mà... tìm!”. Tất cả anh em chúng tôi như con ngố, rù rì to nhỏ xầm xì với nhau nửa tiếng Anh, nửa tiếng Pháp, pha tiếng lóng chêm tiếng Ba Chệt, tiếp theo ngôn ngữ Việt mà bàn tính: nên trở về Sài Gòn thôi. Dù sao ở thủ đô vẫn còn có bộ mặt thị thành văn minh, còn có tai mắt quốc tế dòm ngỏ hầu vô cứu nhân độ thế!

                    Chuyến đi Rạch Giá mong ước lẽn ra Phú Quốc nơi ấy còn vùng vẫy trong tự do độc lập. Nhưng thật vô duyên hết chỗ nói. Háo hức hân hoan hy vọng ra đi. Đến nơi Rạch Giá chứng kiến cảnh mắt thấy tai nghe bọn oắt con nhỏ bằng con cháu mình hung hăng, thô thiển, xấc xược “lên mặt” đánh đấm răn dạy cha chú. Tôi chong mắt trông trời mau sáng, để quày quả trở về nơi vừa mới bỏ đi. Có phải chúng tôi sẵn tiền, hay đã trở thành kẻ du mục dị ứng thời cuộc đã bị tẩu hỏa nhập ma điên khùng, “lắc lư con tàu đi”... tìm tự do hạnh phúc!? Giá mà hôm qua chúng tôi không gặp mấy tên du kích có đôi mắt trắng dã, có cái nhìn dữ dằn, hành động hung ác đánh người già như ông nội hắn, ăn nói cộc cằn, thô lỗ. Thì chắc chắn sáng tửng bưng nầy cả nhóm tôi đã lên tàu thủy dong ra Phú Quốc lánh nạn rồi. Cũng có lẽ định mệnh an bài cho chúng tôi nên ở lại Sài Gòn đông vui, thì đời không cô độc, sẽ là nơi an tựa vững vàng cho tương lai cuộc sống của chúng tôi chăng?!
                    Khách ngoảnh mặt nghẹn ngào trông nắng đổ.
                    Nghe gió thổi như trùng dương sóng vỗ.
                    Lá rừng cao vàng rụng lá rừng bay...
                    Giờ khách đi. Tha La nhắn câu này:
                    - Khi hết giặc, khách hãy về thăm nhé!
                    Hãy về thăm xóm đạo.
                    Có trái ngọt cây lành.
                    Tha La dâng ngàn hoa gạo.
                    Và suối mát rừng xanh.
                    Xem đám chiên hiền thương áo trắng.
                    Nghe trời đổi gió nhớ quanh quanh... (2)
                    *
                    Duy có điều quan trọng là dù chúng tôi ngu ngơ ngố ngáo nơi quê hương thân yêu, rồi cũng phải cương quyết rứt áo ra đi, phải rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn. Đang ngơ ngác, bồn chồn, lo lắng khi trời đã về chiều, mà chân chồn gối mỏi, đúng lúc đó chúng tôi văng vẵng nghe:
                    “Đạt là” chàng trai yêu xứ “Đà Lạt”.
                    Anh “Plê Mê” đi lính ở “Plei-me”.
                    “Cầu ma” bà xã tui đi “Cà Mâu”.
                    “Cây còn” xa quê mình nhớ con cầy
                    “Lợn sang” đồng lo chạy rông Lạng Sơn.
                    “Hiền ta” ra hiên tà thấy Hà Tiên.
                    “Chúng ta” hoan hỉ “tá chung” chiếc thuyền.
                    Ngày mai anh “Viễn định” xuống Vĩnh Điện.
                    “Cao Bằng” đau bụng tại tao “căng bào”.
                    Trai “Hà Giang” chỉ cơm hỏi “hàng gia”?
                    Đi “Lai Châu” gót chân mình “lâu chai”. (*)

                    Chúng tôi tần ngần do dự đứng khựng lại trầm lặng hồi lâu, lắng nghe bọn trẻ choai choai, dé dé, xíu xíu khoảng độ tuổi mười lăm mười sáu, có lẽ là nam nữ sinh học trường Trung–học gần đấy đang ngồi trên sân đình, các em vui vẻ trao những câu “thơ thẩn tiếu lâm dám xướng ngôn vô loại” lên, cười ha hả mà không sợ bị bọn du kích 30 tống giam. Thì, trong dạ tôi vui mừng như mở cờ, ruột hớn hở đánh lô tô tưng bừng và nghĩ rằng: “có lẽ các cháu là “con cháu ông bà nhớn 30”, hoặc ít ra ở đây có lẽ còn dễ chịu, chắc còn thoải mái yên bình ca hát, ngâm thơ, hát câu vọng cổ... bên sông nước mơ màng, có thể làm cho người lạ xích lại gần kề, thân ái gợi chuyện làm quen, làm thân dễ dàng, cởi mở. Anh Bàn liều đi tới hỏi thăm đám trẻ, các em trai lanh lẹ vui vẻ chỉ lối đưa đường cho nhóm tôi biết: nên đi về hướng chợ nhỏ ở xa xa.

                    Từ Rạch Giá trầm lắng u hoài, chúng tôi kéo lê đôi chân mệt mỏi rã rời leo lên xe đò phiêu lãng bơ phờ suốt trên đoạn đường dài ngót 248 cây số ngút ngàn phiêu lãng! Xe đò vẫn chật như nêm, tôi buồn bã nhìn trên đầu nhiều người lớn bé đang chít khăn sô, họ hớt hải vội vàng chen lấn nhau đi đâu? trở về đâu? mà tất tả lũ lượt thế nầy!? Tôi quá chán nãn nghe lòng mình phủ chụp xuống bao tơ rung suy nghĩ dập dồn. Mệt mỏi lắm! Tôi chẳng cần hé mắt nhìn lại quang cảnh hai bên đường (mà hôm qua lúc bồn chồn ra đi, tôi háo hức nhìn ngang ngó dọc lung tung ấy sao)! Chúng tôi và các con cháu không thèm ăn uống gì, chỉ cúi đầu trên chiếc xe đò cà xịch cà đụi lắc lư mà ngủ gà ngủ gật. Cười ra nước mắt cũng đành.

                    Có nghĩa là chúng tôi thực sự quay trở về thủ đô Sài Gòn dấu yêu tại quê hương mình. Ôi! Quê hương Việt Nam cẩm tú giàu đẹp hùng vĩ, là hòn ngọc của ta ơi! Cảm giác ấm nồng xôn xao nở lăn tăn trên làn môi nóng bỏng khát khao cơn thèm âu yếm gọi lên hai chữ: “Quê Hương”! Tôi xin cúi đầu lui gót quay về, từng bước chập choạng bấp bênh mà chấp nhận số phận nổi trôi bồng bềnh, cho dù đắng cay, sô tang, bùi ngùi, khổ đau có; ngọt ngào vui vẻ hân hoan không. Tôi đã quyết định dừng chân “phiêu bạt giang hồ”, để trở về thành đô, nhưng sao trong lòng cảm thấy quá buồn đau tê tái hụt hẫng khôn cùng? Tôi có cảm tưởng mình đã thực sự mất đi một báu vật thân yêu. Dường như tôi không còn mê những giọt sương mai đọng trên cánh hồng nhung tươi thắm vừa hé nở, từng giọt sương mòng mọng tí tách rơi trên phiến lá giao mùa. Mất rồi chiếc lá vàng xinh lịch ép trong trang sách cũ. Mất ơi đàn én chiêm chiếp líu lo vun vút lượn bay trong không gian chói sáng ánh bình minh. Mất hết những con đường đất đỏ ngoằn ngoèo, lượn quanh sườn đồi rì rào tiếng thông reo vi vu. Hết rồi thảm cỏ sân Cù mịn nhẹ êm như nhung, nơi ấy khi xưa tôi ưa ngả mình trên triền đồi quạnh vắng, mắt lim dim mơ màng, tai lắng nghe tiếng thông reo, gió núi xôn xao thì thầm gọi nhau về ngủ trên đỉnh Lâm Viên hữu tình.

                    Ôi! Có thể nay tôi đã mất hẳn những bước chân lãng du trùng lặp bao kỷ niệm tìm về chốn cũ. Mất rồi! Thật sự mất đi không gian, thời gian, và kỷ niệm vàng son một thuở trìu mến xa xưa. Nay lòng tôi bừng bừng rung giật từng cơn sốt tiếc thương, môi co siết những giọt mật vừa chát, vừa đắng trào dâng lên khoé mi tôi giọt sầu quắt quay niềm tiếc thương vô hạn, ẩn dấu nơi hố mắt nhìn tư lự, lăn tăn nét chân chim trên khoé lệ đọng ưu buồn trước thời gian, nơi đôi má hoen màu, nơi đôi môi khô nhạt, nơi mái tóc phiêu bồng sớm ngả bụi đường lãng tử, nơi áo quần xốc xếch trong dáng vẽ tiều tụy hao mòn. Làm gợn sóng trong lòng mình biết bao sầu đắng chua cay và tê tái:
                    Anh bỏ đi rồi, tôi ở lại.
                    Chờ bao oan nghiệt trút lên đầu.
                    Tôi vẫn đứng giữa một trời ly loạn.
                    Tàn chiến chinh mùa nắng lửa mưa dầu.
                    Chiều hun hút giữa rừng thiêng nước độc.
                    Đêm uy linh nhờn nhợn tiếng ma Hời.
                    Từng giọt máu căng phồng bầy muỗi đói.
                    Tôi bỗng sờn da, bỗng rợn người (4)
                    *
                    Tình Hoài Hương

                    Vinh = ngoài Bắc / Vả = Các anh ấy, hoặc Vả lại, vả chăng / Vũng* Tàu. / Vịnh = Vịnh Hạ Long. / vích* - loại rùa / Vù = sưng vù vai / Vang vọng = vịt kêu quang quác /
                    (1) Sưu tầm lượm lặt
                    (2) Thơ Tha La Xóm Đạo – Vũ Anh Khanh.
                    (3) Thơ Bút Tre
                    (4) Xuân Du)
                    (*) Thơ tiếu lâm Tình Hoài Hương
                    Last edited by Tinh Hoai Huong; 06-20-2020, 05:21 PM.
                    Bút trần nào tả được lưu luyến!
                    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                    Tình Hoài Hương

                    Comment


                    • MẸ Dấu Yêu & Chiếc Áo Gấm


                      MẸ Dấu Yêu & Chiếc Áo Gấm
                      Chúng con đau đớn kính gởi ba mẹ đóa hoa hồng trắng.
                      Tình Hoài Hương

                      ***

                      Tôi cố gắng giằng co, níu kéo, quyết giành lại chiếc áo gấm sờn nhàu nát cũ mèm với định mệnh. Dù thời gian dài dằng dặc lặng lẽ đơn điệu dần dần trôi qua, đã khiến chiếc áo hư hao, phai mòn, sờn úa mục nát ít nhiều. Và không gian trôi dần, trôi dần về phía tương lai mù xa tách bạch ra đôi bờ cuộc sống. Tôi không có cách gì ngăn chận tuổi già héo hắt đến trước thời gian. Vâng! Có lẽ nay tinh thần lẫn thể chất tôi đã già cỗi! Và, chiếc áo gấm năm xưa còn đây, mà ngón tay gầy run run tôi gài hoài mấy nút áo cũ, vẫn chưa xong. Thời gian đã cướp dần đi tất cả. Vẫn biết thế, nhưng tôi mong muốn níu kéo, âu yếm dùng-dằng ngắm nhìn lại chiếc áo gấm, nếu tôi được nhìn nhiều lần càng tốt.
                      Ngày ấy, chúng tôi vui vẻ dừng chân trên con đường mòn vòng vo gãy khúc uốn lên uốn xuống, quanh co ven đồi thông rì rào ru tình tại Đà Lạt. Chúng tôi chỉ nhìn vài con chim lí lí lắc lắc, rù rì, bay qua bay lại trên những cành cây mảnh dẻ, là cảm thấy hay hay, vui vui. Lần đó, tôi liếc liếc, lí lắc ghé ghé nghiêng nghiêng đầu thẹn thùng e ấp cười, tôi dùng hai ngón tay quệt nhè nhẹ vô một bên má, mà lêu lêu Luật, để trêu chọc anh, rồi gài hộ Luật mấy nút áo, cho anh bớt bị gió lạnh lùa vào cơ thể. Giờ nầy, Luật cùng muôn ngàn người trai trẻ khác đã bị tập trung đi “cải tạo” trong tù rồi! Chồng đã ra đi. Nhưng Luật không ra khỏi đời tôi. Còn mỗi mình tôi đứng lại bơ vơ, lạc lõng, muộn phiền giữa chợ đời sóng sánh muôn mặt, với sợi tơ hồng quá mong manh cứ rung lên bần bật giữa lưng trời. Tôi lặng lẽ chua chát đối mặt với cuộc sống, ấp ủ kỷ niệm thời chớm lớn, những tủi hổ tiếc xót vô vàn, những đắng cay thăng trầm tột độ trào lên bờ mi mọng từng chuỗi giọt sầu.
                      Ngày bị vô tù “cải tạo”, Luật đã bỏ chiếc áo vét (veston) nầy lại, trên chiếc áo vét đã dính hai ba sợi tóc đen mướt khá dài cuả tôi, và một hai sợi tóc ngắn cuả anh, cùng với những lá thư tình đầy ắp yêu thương do anh viết dày cui, còn trang trọng cất trong túi áo đó. Thư của Luật viết có văn phong gợi cảm, là những bức tranh phác thảo duyên dáng về câu chuyện gia đình, tình yêu, phúng dụ, vỗ về, hứa hẹn, an ủi, mang tính cách gia đình đầm ấm yêu thương, hạnh phúc bền lâu. Đó cũng là chiếc áo gấm lý tưởng thiêng liêng tinh tuyền muôn thuở, có dấu vết đậm đà khắc sâu vào tim rất thân yêu, quen thuộc duy nhất từ buổi thiếu thời. Dù qua phong sương sáng khuya trưa chiều mưa gió… chiếc áo của anh đã cũ. Thư tình Luật viết ngả màu vàng úa đọng bụi phấn thời gian, cùng năm ba sợi tóc cuả hai chúng tôi bóng mướt đen tuyền vẫn duyên tình mãi đến tận bây giờ. Tôi nâng niu giữ gìn những sợi tóc, phong thư, cùng tấm áo từ hồi chưa cưới nhau.
                      Ngày còn trẻ, tôi chưa lo nghĩ đến tuổi xế chiều phôi pha rồi sẽ ra sao. Bởi tình yêu chúng tôi đó, giống dòng sông chảy qua bao dãi đất: phù sa phì nhiêu có, cằn cỗi có, tươi tốt có, băng giá hoang tàn lẫn đau khổ buồn xo cũng có. Rồi dòng sông xô sóng sau dồn sóng trước, cuồng nộ đập vô gờ đá, hay lặng lờ êm ả, thong dong xuôi chảy ra biển cả. Mỗi khi chạm trán với thực tế bẽ bàng đắng cay, trong lòng ngút ngàn đau thương, lúc đó tôi lặng lẽ vuốt từng nếp nhăn trên tấm áo, trang trọng nâng mấy sợi tóc trên hai bàn tay khẽ khàng khum khum bụm lại. Tôi sợ gió từ đâu vô tình lướt qua, tóc sẽ cuốn theo chiều gió bay mất hút, thì biết đâu mà tìm?
                      Đó là những kỷ vật ưu ái đã theo tôi trên muôn dặm đường đời cay cực, để xoa dịu nỗi hãi hùng và bàng hoàng rất kinh ngạc trong cuộc đời phù du. Tôi ấp ủ tình luyến nhớ, thút thít, bùi ngùi khi soi bóng mình trong gương, cảm thấy lòng nao nao nỗi buồn da diết. Vì đến nay tôi chẳng thể giữ lại kỷ niệm nào thân thiết nhất về anh, khi mái tóc mình thấp thoáng có sợi tóc bạc quyện-bện cùng bao sợi tóc chẳng còn đen mướt? ngoài mấy di vật bé tí ti như đã kể. Thế nhưng, ngọn nguồn óng ả tình trần hiện nay có mất đi chăng? Khi thời gian khẳng định ngàn mối lo âu, đói khát cơ cực run rẩy dâng tràn!? Không thể chối quanh từ sau ngày mất nước, thì lòng trí tôi luôn ray rứt, thương-xót hồi tưởng về quá khứ buồn vui lao xao, dẫu đời xáo trộn, trái tim tôi vẫn đập thình thịch và chao đảo.
                      Nay tôi đang mặc chiếc áo cũ của chồng, mà lẽ loi đơn côi ghê gớm, tôi âm thầm đi một mình buồn bã trên con đường xám ngắt thuở xa xưa. Hai bàn tay lạnh giá run rẩy, run lẩy bẩy, tôi không làm sao gài nỗi nút áo bạc phếch thời gian và cũ mèm nầy. Thì ra… giờ đây tôi quá yếu kém và đã già! Kỷ niệm bây giờ chả là gì! Không quan trọng! Chỉ là những chương đã viết trong pho sách tình xếp lớp lớp trên kệ sách, ít khi được mở ra xem, nó phủ lăn tăn bụi vàng. Pho sách cuộc đời từ đây phải đóng lại. Trang giấy đã lật qua tờ mới, thì hồi tưởng nhớ nhung kỷ niệm; chỉ như chiếc lá úa lắc lẽo đong đưa trên cành cao, chờ cơn gió lay để chao đi như những áng mây xám lưng đồi lững lờ bay qua bầu trời mùa Thu, như côn trùng biến dạng vào lòng đất mà thôi.
                      Tôi thấy rõ tính chất phù phiếm của quá khứ mang đầy kỷ niệm lãng mạn rồi. Sau ngày “đổi đời”, tôi muốn sống một cuộc sống khác hẳn: Thực tế sung mãn hơn. Nhưng, chả hiểu có thực hiện nỗi không, là còn tùy thuộc ở hoàn cảnh và ý chí: Trước tiên, tôi muốn cho đàn con phải nên người hữu dụng, kiên cường, dù bụng đói cồn cào, để vượt qua mọi chông gai thử thách “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Chỉ bấy nhiêu thôi, cũng đủ ngất ngư mà. Ý nghĩ nầy như viên sỏi ném xuống mặt hồ phẳng lặng, tạo thành những vòng tròn đồng tâm, ám ảnh tâm thức tôi bồn chồn, băn khoăn, co siết mãi trong lồng ngực quắt quay.
                      ***
                      Tôi vô cùng nhớ Mẹ thân yêu, dù đa đoan với công việc bề bộn, không hiểu sao hôm ấy tôi quá bần thần bâng khuâng lo lắng kỳ lạ! Nhưng rồi vỡ lẽ ra "máu chảy ruột mềm", do ngày mồng 5 tháng 5 năm 1980 âm lịch, anh Chín Dzoãn báo tin sét đánh: Mẹ tôi đã chết ở trong Ta In (khu đất thuộc Tỉnh Tuyên Đức Đà Lạt). Ta In là cuối địa đầu quận Đức Trọng, giáp ranh giới vùng Di Linh. Nơi tít tót đèo heo hút gió, thâm u cùng cốc lạnh lẽo, vô cùng hiểm trở, có đi mà ít có ai về nguyên vẹn. Nơi chó ăn đá gà ăn muối, nơi khốn cùng của vùng “kinh tế mới” khô cằn toàn sỏi đá, chỉ nhiều rắn, rết; vô số muỗi, vắt, đỉa, ruồi trâu, bò cạp rừng to và độc kinh khủng. Chúng chuyên bu bám vô người ốm để hút máu. Nơi có nhiều mụt măng le, tre rừng, ta ăn cho đỡ đói, thì sẽ bị sốt rét ngã nước, mà lăn ra chết toi.
                      Cầm tờ điện tín, tôi lặng người rất lâu, không thể khóc thành tiếng. Nước mắt u uẩn tự động tuôn chảy từng dòng, rồi dội ngược vô tim mình quằn quại đau điếng. Hình như tôi nghẹt thở, chết dần chết mòn, không còn cảm giác nào khác, ngoài sự dày vò, ân hận, đớn đau dâng lên tột đỉnh. Vì, giá như trước ngày 30-4-1975, nếu có chiến tranh, có đánh nhau dữ dội, tôi cũng còn chiếc xe hơi riêng mới toanh mang hiệu Peugeot 404 chạy đi... Hay là tôi có thể mua vé máy bay khứ hồi cấp tốc bay về với mẹ, tôi qùy xuống bên mép giường, cầm tay mẹ, ôm chặt mẹ lúc mẹ hấp hối. Ôi! Giờ đây tôi không thể đến bên xác mẹ già yêu dấu, để nhìn mẹ một lần chót trong giờ phút mẹ lâm chung. Tôi không thể nào xin tấm giấy phép đi đường. Tôi cũng không thể chen lấn ra bến xe đông nghẹt người có giấy phép ưu tiên. Vì, tôi là kẻ “ưu tiên u đầu” thì có. Tôi không thể đứng ngày nầy qua đêm khác ngoài bến xe, nhịn đói nhịn khát, mà chẳng dễ dàng gì chờ mua vé xe từ Sài Gòn đi Đà Lạt. Biết tin mẹ chết, cũng đành chịu! Dù từ Hốc Môn đi Ta In, chỉ gần 300 cây số.
                      Thế là hết thật rồi! Một thân xác héo hon đã thực sự trở về với cát bụi phù dung. Tôi không lẽo đẽo đi sau quan tài mẹ, vật vã khóc than mà tiễn đưa mẹ về nơi an nghỉ nghìn thu. Má con chúng tôi không biết làm gì hơn, ngoài việc quây quần bên nhau, gùy dưới nền đất, bồn chồn lo âu, sụt sùi, băn khoăn, suy niệm lời Chúa, lâm râm dâng lời cầu nguyện. Tôi ứa nước mắt nhìn mẹ trong hồi tưởng: Mẹ tôi sanh tại làng Thuận Nhơn. Nhà ông bà ngoại ở quê (tức ông bà cố ngoại của con tôi). Làng mẹ ở bên con sông rợp bóng hai hàng dừa và lũy tre xanh um bóng mát, thuộc Tổng Cù Hoan, Phủ Hải Lăng, Tỉnh Quảng Trị. Mẹ lớn lên trong một gia đình bế thế, phong lưu giàu có, ruộng vườn của ông bà ngoại cò bay thẳng cánh, lúa gạo trâu bò nhiều nhất trong vùng thời bấy giờ. Ông cố ngoại là một võ quan rất giỏi ở triều đình vua Khải Định, Huế).
                      Mẹ có dáng dấp thon thả, làn da bánh mật, răng hạt huyền nho nhỏ đều đặn, miệng cười chúm chím, mắt phượng mày ngài, mũi cao, mái tóc dài láy đen bối thành một búi to sau gáy. Áo quần mẹ luôn trang nhã, sạch sẽ và tươm tất. Mẹ đi ra ngoài đường, ở trong nhà, hay đi ngủ, mẹ đều thay đổi quần áo đâu ra đó hẳn hoi. Dù đi khỏi xóm, đi chợ, hay đi bán, mẹ luôn mặc áo dài đoan trang kín đáo che thân. Đặc biệt mẹ sống cuộc đời bình dị đạo đức, chất phác lương thiện, dịu hiền phúc hậu. Mẹ siêng năng tần tảo đầu tắt mặt tối, long đong bán buôn xuôi ngược. Mẹ nhẫn nhục lao khó giúp chồng, nuôi đàn con mười mạng nên người. Vất vã vì chồng vì con nheo nhóc, nhưng mẹ không hề tỏ lộ bất bình, hay nặng lời to tiếng. Trời mưa tháng gió ở nhà rảnh rỗi, mẹ siêng năng cần mẫn khéo tay tự chằm nón lá. Mẹ may áo quần cho chồng, con, đôi khi mẹ cũng may biếu cho bạn, và người thân. Đó là việc vặt trong nhiều hy sinh to lớn khác. Phải nói hầu như suốt cuộc đời mẹ chưa có lúc nào an nhàn thảnh thơi ngưng nghỉ tay chân. Số mẹ cực thân đến thế mà! Đồng thời mẹ xứng hợp với đức tính bác ái khoan dung của chồng, dễ dãi cả tin khi ai nói điều gì xuôi tai “nịnh” mẹ, thì có bao nhiêu tiền của mẹ nhẹ dạ trút cho người ấy hết. Dù sau đó biết mình bị lừa, nhưng mẹ không giận lâu, mẹ “hờn mát” một chút, rồi quên ngay.
                      Mẹ chân chất hiền lương đến độ thật thà như đếm, mẹ tính tiền cũ từ thời vua Bảo Đại ra tiền cụ Ngô, đến thời đổi tiền ở chế độ Sài Gòn, ra tiền mới sau 75, thì mẹ giống thầy bói mù rờ con voi. Mẹ luôn bị kẻ chợ ăn lường. Thế nên, dẫu bị mất hết tất cả tiền bạc, nhà cửa villa, biệt thự tan hoang, mẹ không thèm tiếc. Mà mẹ chỉ ôm khư khư bình vôi đồng đen là của hồi môn nhỏ như cái chén kiểu, nhưng rất nặng, có giá trị, chiếc bình vôi nầy có mấy tiệm vàng như Kim Khánh hoặc Kim Ngọc trả giá 5 cây vàng bốn số 9, nhưng mẹ chẳng chịu bán! Thân bình vôi tròn vo, đít vôi bằng phẳng, có quai xách xinh xinh bên tai vôi. Mỗi lần ăn trầu, mẹ khéo léo lấy cây chìa vôi têm vô mấy lá trầu xong, còn dư vôi trên cây que chìa, mẹ quệt quệt lên trên miệng bình, cho “bình vôi hưởng tí xái”. Thế là miệng “bình vôi vui vẻ” nhô cao chù vù, lỗ miệng bình vôi teo tóp dần dà nhỏ xíu; trông nó hô, loe, vẩu ra, hơi giống miệng con heo nái, coi ngộ nghĩnh sao đâu. Hồi ấy tôi nói với mẹ:
                      - Tại mẹ ưa mời bình vôi ăn trầu, nên cái miệng nó loe ra dị hợm kinh khủng nè.
                      Mẹ cười vui vẻ. Mẹ rất thích bình vôi đồng đen nầy, nó đã theo mẹ suốt từ thời mẹ về nhà chồng, đến tận ngày nay. Ấy vậy mà bây giờ mẹ cũng buông thỏng từ bỏ hết của cải vật chất vinh sang xưa, kể cả chồng, con, cháu, chắt, dấu yêu. Một mình mẹ lặng lẽ chết đói ra đi âm thầm về bên kia cuộc sống mới. Bà chị dâu của tôi đã kể lại rằng:
                      - Hôm mẹ vĩnh viễn từ bỏ con, cháu, ấy là một buổi sáng trời ốm nắng, lất phất từng đợt mưa phùn, trong nhà ai ai cũng lo đi rẫy, đi rừng rất xa, xa ghê lắm; để kiếm sống. Tửng bưng sáng, anh Dzoãn đi bộ từ trong Ta In ra Tùng Nghĩa (xa xôi khoảng hơn hai mươi cây số); anh chạy đi vay tiền, để mua thuốc cảm về cho mẹ. Ở nhà chỉ có một mình chị loay hoay dọn dẹp nhà cửa. Mẹ nằm im trên giường không động đậy nhúc nhích. Chị (chị dâu) thấy mẹ không dậy ăn trưa như mọi ngày, nên chị bước qua gian liếp bên cạnh, chị đến bên giường tre lạnh lẽo, không nệm ấm chăn êm.
                      Nhà anh chị quá nghèo, sau 30/4 anh đi tù 5 năm, vừa được tha về, khi cả nhà bị đi kinh tế mới. Họ chỉ có mấy nhúm quần áo tẻo teo, vài bao bố: son nồi chén bát, guốc, dép, linh tinh… Ít mùng mền đơn bạc, và những bàn tay trắng. Con dâu dắt díu mẹ già tám mươi tuổi lom khom leo núi chùng chập, vượt đồi trùng điệp. Chồng tủ "cải tạo" về đau bao tử cùng bầy nhỏ lút chút tám chín đứa con, đứa lớn nhất mười ba tuổi trở xuống đứa non tháng tuổi, thì lấy đâu ra những thứ xa xỉ ấy trong thời buổi gạo châu củi quế. Mẹ trùm chiếc khăn màu nâu, mặc áo dài nỉ dạ đen, quần đen, áo len nâu khoát bên ngoài, mang đôi tất đen. Mẹ nằm nghiêng, quay mặt vô phía ván vách bìa gỗ. Mẹ chập chờn thiêm thiếp trong giấc ngủ muộn phiền. Chị e dè hỏi thăm:
                      - Mệ ơi! Mệ có khoẻ không?
                      Không thấy mẹ trả lời, chị cúi sát xuống bên mẹ, nhè nhẹ lay lay đập đập vô cánh tay mẹ:
                      - Mệ ơi! Con nấu cháo cho mệ ăn nghen.
                      Mẹ tôi lừ đừ mở đôi mắt nhiều ánh đục, (dường như đã bất thần), mẹ cố gắng quay ngoái cần cổ yếu ớt về phía con dâu, thều thào:
                      - Hôm ni có… cháo ăn… hả con.
                      - Dạ. Mệ đau, không ăn măng luộc hầm mềm như mọi ngày đâu. Để con chạy ra chợ xép, mua chút gạo về nấu xí cháo.
                      - Có gạo... là mừng hì.
                      - Mệ ráng chờ nghe. Chợ hơi xa. Con sẽ về nấu mau lắm.
                      - Thôi con. Để dành gạo nấu… cho thằng Cu Nâu… có chút nước hồ mà uống, thay sữa mẹ không có…
                      - Thằng bé con không đến nỗi nào đâu. Mệ.
                      Thế rồi, mẹ tôi ư hữ… ú ớ… rên khe khẽ, mẹ lại lừ đừ, khó khăn mệt nhọc khi quay mặt vô trong vách. Hơn giờ sau, khi chị dâu bưng chén cháo tới gần giường mẹ. Mỉm nụ cười méo mó, mẹ từ từ nhắm mắt, dần dần lịm thiếp vào giấc ngủ nghìn thu êm đềm. Chị không hề nghe tiếng mẹ thở, tiếng nấc, chị cứ ngỡ là mẹ mệt muốn ngủ chút xíu như mọi ngày, rồi dậy ăn. Mẹ đã đói khát thiếu thốn năm năm rồi, mà trước khi lìa đời, mẹ vẫn nhịn đói. Mẹ không đành lòng ăn chén cháo trắng lỏng bỏng với tí muối hột. Mẹ không nói một lời từ giã, không một lời trăn trối. Mẹ muốn im lìm sớm ra đi, ngỏ hầu trút bỏ gánh nợ đời, khỏi làm phiền con cháu khó nghèo đông đúc. Con cháu không phải cưu mang “nuôi người vô dụng” thêm một miệng ăn. Mẹ muốn rũ bỏ từ trên vai anh chị tôi, và các cháu nhỏ nỗi âu lo phiền muộn vì bổn phận và trách nhiệm nặng nề. Ôi Mẹ! Mẹ muốn nhịn phần ăn hiếm hoi ít ỏi qúy báu cuối cùng, để chia sẻ cho đứa cháu nhỏ tí xíu chưa tròn hai tháng. Mẹ đã chết đói. Mẹ âm thầm lặng lẽ êm ái ra đi đúng ngày Tết Đoan Ngọ.
                      Lẽ ra, như Tết Đoan Ngọ từ những năm xa xưa, thì mẹ tôi ưa đi chợ mua đầy thức ăn, hoa quả bánh trái. Mẹ làm bánh tro, bánh nếp, bánh bèo, bánh ít, bánh nậm, vân vân... Mẹ làm cả cơm rượu nếp cẩm, nếp than. Mẹ nấu cơm gạo thơm với nhiều thức ăn thịnh soạn, nóng hổi, linh đình, để cho con cháu từ xa trở về nhà thăm cha mẹ. Đại gia đình cha mẹ con cháu hân hoan sum họp vui vẻ ăn uống. Mẹ nói:
                      - Con, cháu, ăn bánh tro, ăn, uống chút cơm rượu, thì sẽ diệt giun sán trong bụng. Hì.
                      Hầu như cả xóm Trong xóm Ngoài ở Ta In đều thương cảm mẹ của chúng tôi, họ cùng nhau đến nhà anh chị Dzoãn, tận tình lo cho mẹ chúng tôi chu đáo. Mỗi người một việc tươm tất từ đầu đến cuối gọn gàng. Trước khi đậy nắp áo quan, họ vẫn để nguyên bộ quần áo cũ, khăn, tất, lúc mẹ chưa đành-đoạn bỏ đi. Và họ mặc lồng thêm cho mẹ chiếc áo gấm, nền áo màu nâu non điểm rải rác những bông hoa cúc đại đóa vàng nghệ. Chiếc áo gấm xưa kia mẹ tôi đã mặc trong ngày trọng đại nhất đời, khi họ nhà trai hân hoan tưng bừng đến rước dâu. Nay thì những người khác đã thay ba tôi mặc chiếc áo gấm (áo của ba đã ưu ái trao tặng mẹ). Họ đặt xâu tràng hạt vô bàn tay mẹ lạnh giá, họ nhớ để bình vôi đồng đen bên cạnh mẹ. Sau rốt, họ choàng thêm cổ áo quan dày cui thô sơ thơm mủ ngo ra bên ngoài toàn thân mẹ.
                      Mọi người tiễn đưa mẹ về an nghỉ nơi nghĩa trang quạnh quẽ. Không một vòng hoa cườm đen cườm tím cùng lời thành kính phân ưu. Không có cỗ áo quan sang trọng đắt tiền, mà chỉ là sáu tấm ván thông đơn sơ hèn mọn thơm lựng mùi nhựa mới. Không hề có bát nhang đèn nến, rườm rà nghi lễ. Không có gì, không còn gì tất cả ngoài nỗi đớn đau kinh hoàng phủ chụp xuống đời lặng lẽ. Ấy thế mà người dân cùng đinh đến thăm viếng mẹ đứng lố nhố đông đúc, từ ngoài ngỏ đầy kín người cho đến trong nhà tranh lụp xụp đìu hiu chật chội nầy. Họ chia buồn, ân cần giúp đỡ gia đình anh chị tôi nhiệt tình, không hề làm cho tang gia nghĩ ngợi vì chuyện họ đến phụ giúp, là bận rộn lo thêm chuyện ăn, uống gì. Họ nghỉ đi rừng, không đi rẫy, ngày hôm ấy họ nghỉ đi làm, dù ai nghỉ một ngày là gia đình họ nhịn đói nhịn khát, có thể thêm đau ốm xanh xao.
                      Họ thay các anh, chị, con cháu (trong đại gia đình chúng tôi cả thảy hơn bốn năm chục người) vì hoàn cảnh ở xa, khó khăn xe cộ, phép tắc đi lại, hoặc bị lao tù... "cải tạo". Bà con quanh xóm cùng nhau lặng lẽ khiêng quan tài mẹ tôi băng rừng, leo qua một triền núi thấp, vượt đốc, qua bãi đầm, đi trong thung lũng sình lầy. Rồi họ leo lên ngọn đồi toàn đá ong lởm chởm, họ đi lên núi cao chót vót và đơn điệu, nơi đây chỉ toàn sỏi đá và gió lồng lộng hú rít, thổi đám bông lau xoay xoay trắng cả lòng quê, từng cơn gió kéo dài lê thê lạnh thấu xương. Mẹ tôi nằm xuống, vĩnh viễn ở lại nơi rừng núi bạt ngàn hoang vu lạnh lẽo, đơn điệu chơ vơ với cây thánh giá gỗ lắc lư theo gió rì rào. Tấm bia mộ gỗ đơn sơ ghi khắc nơi an giấc nghìn thu đạm bạc và đớn hèn: Mattha Ngô thị Cúc, sanh năm: 1895 >> 1980. Thọ 85t. Thật đông nghẹt người đói khát nghèo nàn đắp mộ xong, lại lủi thủi buồn xo trở về lối cũ trên con đường đất đỏ gồ ghề, anh chị Dzoãn và các cháu đã nhờ người sống thút thít ngáp ngáp khiêng mẹ đi qua.
                      ***
                      Khi tôi có thể đến với mẹ… thì nấm mồ mẹ đã lút cỏ xanh. Tôi luôn đau đớn, tủi hổ, dày vò và khóc sưng mắt khi nghĩ về mẹ. Thời gian lật đật buồn bã chán chường qua đi, tôi tất bật, bồn chồn, âu lo với công việc cơm áo khốn đốn mỗi ngày, nhưng gia đình mình vẫn không đủ sống, nghĩa là thường xuyên đói khát cơ cực. Ngoảnh nhìn lại, mới đó mà đến ngày giỗ đầu của mẹ. Tôi bươn bả đi mót khoai lang, sắn mì, dưa leo và đậu đũa ngoài ruộng Nhị Tân (Hốc Môn). Tôi hớn hở đem mấy thứ ấy về nhà, làm sạch, chu đáo xào nấu xong. Tôi bày thức ăn lên chiếc bàn cũ kỹ xiêu vẹo, nói là "bàn" cho oai, thật ra bàn là tấm ván cũ có ba chân rung rinh như răng rụng, còn một góc kia kê tấm táp lô sứt mẻ, để thay thế một chân què. Bà Nga hàng xóm là người thân cận nhất bây giờ đã nói:
                      - Xời! Việc gì cô phải nhọc lòng! Chứ cô không thấy giờ nầy trời đang mưa xối xả, nhà dột và rách nát như ổ chuột. Ơ! cô bắt mẹ mặc áo gấm lội nước lụt trong nhà y như cái ao. Cô cho mẹ ngồi chò hỏ chơi, xơi cơm độn với nước lụt. Mẹ cô chưa kịp về ăn chút xí, thì bầy ruồi ốm đói trốn mưa trúng mánh, bu lên mấy dĩa thức ăn tám lớp, và o o o… xơi tuốt rồi. Giỗ mí chạp cho mệt! Khéo vẽ!
                      Bà Nga chẳng ngại mất lòng, líu lo nói huyên thuyên mà cười sảng khoái. Tôi lắng nghe mãi, mới hiểu được thâm ý bà. Thiệt dễ ghét quá đi. Tôi ngẩn ngơ nhìn bà Nga. Những giọt nước mắt nóng hổi lăn dài dài xuống má. Giọt khóc quê hương. Giọt hờn tủi khóc ông bà vãi cha mẹ khuất mặt khuất mày. Giọt khóc chồng sống đoạ đày ở trong tù “cải tạo”. Giọt khóc bầy con lút chút vất vưỡng long đong cơ cực ở vòng ngoài, (tù trong và tù ngoài xêm xêm như nhau, có khác chi, như cá mè một lứa). Giọt đắng cay khóc cho chính bản thân tôi lù đù lầm than khốn cùng. Khổ đến nỗi tôi không thể đào đâu ra tiền, chẳng có cắt bạc để mua cặp nến đỏ, bình hoa tươi, không hương nhang cắm trên bàn. Tôi không thể mua bột về làm bánh cúng mẹ dĩa bánh bèo, bánh ít, bánh nậm: thứ bánh mà mẹ thích ăn lúc sinh tiền! Tôi không thể kéo mẹ về trong hương khói, để má con chúng tôi quỳ dưới đất, sì sụp lạy tạ lỗi cùng mẹ, cùng bà ngoại! Sợi dây tơ quá mong manh nhẹ tênh thiêng liêng kia đang run bần bật giữa lưng trời mưa trắng. Niềm ước mong nối liền tình yêu thương ngút ngàn giữa mẹ -với má con chúng tôi- đã đứt lìa trong khói hương.
                      Tôi nghe anh chị lớn kể chuyện về Mẹ lúc tôi chưa chào đời: Một lần kia, mẹ kêu chủ thầu trong địa phương đến nhà bán mão bầy heo thịt. Mẹ và các con cháu dẫn bà đầm, cùng phu cai xuống chuồng nuôi heo, cách xa nhà ba mươi mét. Ngả giá xong xuôi, phu cai trói bầy heo cho vô rọ, họ khiêng những rọ heo lên trên đường cái, vất vào ba chiếc xe ngựa. Bà đầm cầm cái áo veste của bà (đã máng ở càng xe ngựa đậu trên đường cái), bà ta móc túi lấy tiền, thì đồng tiền không cánh mà bay?! Bà đầm tri hô mất ba trăm sáu chục đồng Đông Dương. Bà ta quyết một quyết hai bảo: “Người trong nhà nầy đã ăn cắp”. (!!?) Bà ta làm hung dữ, kêu lính hộ tống chạy đi gọi hiến binh, phú lít tới. Hiến binh không cần biết luật lệ phải trái, không cần biết bà ta có mất tiền thật trong túi áo, máng bên sườn xe kéo, mà lại để bên lề đường cái; hay không?! Họ còng tay mẹ xô dụi mẹ lên chiếc xe ngựa. Mẹ nằm với mấy chục con heo kêu la rần trời. Mặc kệ gia đình tôi kêu khóc, phản đối inh ỏi. Chúng hăm doạ:
                      - Nếu lộn xộn làm mất an ninh, sẽ bị bắt - nhốt hết cả đám.
                      Quân cướp cạn hùng hổ, quất ngựa phóng nước đại chạy như bay. Họ tống giam mẹ vô nhà lao. Hơn nửa tháng bặt tin, sau đó chúng thả mẹ ra. Mẹ về như cái xác không hồn, trông mẹ quá tiều tụy thảm thương. Ba tôi, con cháu xúm xít ngồi chung quanh mẹ lo lắng hỏi thăm. Mẹ im lặng rấm rức khóc sưng húp mắt. Mãi lâu mẹ hổn hển kể: Suốt bao ngày bị nhốt, chúng cho mẹ ăn ngày một bữa nửa chén cơm khô, với ít muối hột. Đêm đêm bọn lính Tây lôi mẹ ra tra điện, chúng độc ác tra khảo, chích điện vô người bắt mẹ phải nhận tội, dù mẹ không hề làm. Mỗi lần mẹ bị bọn tà lọt gian ác tra điện, thì mẹ sợ hãi kinh khủng, dòng nước ấm chảy ra ướt dầm thân thể mẹ. Mẹ không thể nén mồ hôi hột lạnh toát, không thể nín lại cơn buồn đái. Mẹ không đủ sức chịu đựng cơn đau, mẹ đau đến ngất xỉu, thì chúng lôi chân mẹ kéo xềnh xệt về phòng giam trống lạnh lẽo không giường chiếu. Chúng tạt nước lạnh cho mẹ tỉnh lại, mẹ bị chảy máu mũi, chảy máu đầu. Mẹ run rẩy, mặt mày sưng húp, bầm tím.
                      Mẹ chịu oan ức tột cùng, mà tiền mất tật mang. Suốt từ đó đến nay mẹ luôn luôn sợ hãi và yếu hẳn người. Mẹ bị đau tim và thường xâm xoàng, ngất xỉu vì quá hãi hùng. Bọn Tây thời đó đầy quyền uy, hống hách, ác độc hơn loài hổ sói, người dân thấp cổ hé họng chỉ câm miệng cúi đầu, điếng lặng cắn cỏ ngậm vành, không dám hó hé than van với ai. Vậy đó, mẹ quá đau khổ và chịu oang ức tột cùng. Một lần kia, sau thời gian bị tra khảo đánh đập tù đày oan uổng đó khá xa, mẹ vẫn cần cù kiên nhẫn lặn lội đi gánh nước cơm về nhà,
                      Một kỷ niệm bất ngờ từ những cơn mưa không sao giải thích nỗi, tâm trí tôi vụt quay về dĩ vãng xa lắc xa lơ: một thuở nào hình như xa xôi, xa xa lắm… gia đình ba mẹ tôi đang từ trên đỉnh cao sung túc, phù vinh, giàu sang… bỗng rớt tụt xuống vực thẳm, vì ba tôi làm chủ nhà máy cưa cây, bị nó hại cho khánh tận, đã khuynh gia bại sản. "Của rừng, rưng rưng nước mắt thật" mà! Bao nhiêu tiền ba làm thầy thuốc đỗ vô cây cối, cũng như nước đỗ lá khoai. Hồi ấy có màn mưa xám đục buông suốt ngày đêm, rất bé thơ tôi đứng trong khung cửa sổ, nhón chân xem mưa đập lộp bộp vô cửa kính, những dòng nước nhỏ ngoằn ngoèo chảy xuống tấm kính mờ đục, tôi háo hức chờ đợi mẹ về nhà, ngỏ hầu nghe mẹ hò câu ca dao: “Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa. Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương”.
                      Mẹ đi chân đất, đầu đội nón lá cũ ướt nhẹp, toàn thân mẹ dầm dề nước mưa, chiếc đòn gánh uốn cong đang kẽo kẹt trên vai mẹ, còng xuống hai thùng nước cơm trĩu nặng. Mẹ đã đấu thầu được cơm thừa canh cặn từ ngoài mấy đồn lính, tự mẹ đến gánh về: Một thùng rất sạch đậy kín đựng cơm nóng, có ba ngăn cào mên đựng thức ăn còn nguyên trong chảo, (mà chú quản đội do biết gia cảnh mẹ, nên chú múc để riêng ra cho mẹ, để mẹ đem về nhà ăn buổi tối). Thùng kia đựng đủ thứ hỗn tạp nuôi bầy heo vài chục con. Mỗi buổi nhọc nhằn trở về nhà, mẹ thường dúi cho tôi khi thì vài cái bánh ngọt, khi miếng chocolate, hay trái chuối, trái bắp. Tôi thèm ăn nhứt là lát bánh mì hấp trong nồi nước sôi, bánh mì nóng chắm với nước mắm ớt, nước cá hoặc nước thịt, tôi ngấu nghiến ăn, cảm thấy ngon hết sẫy. Mẹ “thương con tần tảo sớm hôm. Cơm đùm chéo áo, cháo đùm lá môn”, là thiệt! Mẹ đã thay bộ áo quần ướt sủng nước mưa. Mẹ ngồi bên bếp lò giơ đôi bàn tay nhăn nheo sạm nắng chai cứng, tóp teo vì thấm lạnh ra, để sưởi ấm. Mẹ âu yếm nhìn tôi ngồi kế bên bỏm bẻm ngấu nghiến nhai bánh mì. Bỗng mẹ nhìn tôi sửng sốt, lạnh lùng hỏi:
                      - Đôi guốc mới, con mang đó. Mô rứa?
                      - Dạ... Của con... con... l..a...
                      - Mẹ đã nói rồi, đợi bán heo, mẹ sẽ mua cho con quần áo, dép guốc cho con đi học. Mẹ biết con mau lớn, giày dép cũ con mang không vừa, mà đi chân không thì lạnh lắm. Mẹ lo sợ con đau. Ngặt nỗi, bi chừ chưa có tiền. Mà răn con dám cả gan đi ăn cắp, của ai rứa?
                      Tôi cúi gầm đầu, một tay túm mái tóc bum bê, nhìn đôi guốc mới mang vừa vặn ở chân mình, đôi guốc màu đỏ đầy hấp dẫn, có hai quai cánh cam in đủ màu sắc hoa lá. Tôi thấy nó quyến rũ, ước ao vô vàn từ lâu. Khi chị Tư sai tôi vào quán chị Thế mua trứng vịt, tôm khô. Thừa lúc quán xá bận rộn người mua kẻ bán, tôi lấm lét ngó trước nhìn sau, rồi vội thò tay chộp đôi guốc kẹp chặt vô nách, (đã che kín bằng chiếc áo mưa lụng thụng). Trống ngực tôi đánh rất mạnh, mặt mày tái mét, tôi run như cầy sấy, tôi liền lẽn ra khỏi tiệm và co giò chạy. Vừa chạy tôi vừa ngoái cổ lại nhìn chị Thế, (là bà chị dâu của tôi), chị ấy không biết gì hơn, ngoài việc chị thu nhiều tiền đầy nhóc vào tủ sắt.
                      Mẹ già nua trước tháng năm đang gục đầu trên hai đầu gối ướt lạnh, run rẩy, mệt nhọc - và khóc. Mẹ khóc vì tội lỗi của con thơ. Mẹ khóc vì cảnh thăng trầm không thể ngờ, vì mẹ chưa mua nỗi đôi guốc cho con, (chỉ đáng vài xu trong khi tiền ba tôi làm chủ trại cưa cây, thì bạc trăm, bạc ngàn, kể như ba đỗ xuống biển. Và, tiền bán hai chục con heo, mẹ bị bọn chúng trấn lột hết). Trong đêm trường thanh vắng, khuya lắc khuya lơ, tôi nghe rất khẽ nhưng rõ ràng tiếng mẹ đọc kinh cầu nguyện đều đều. Thỉnh thoảng kèm theo vài tiếng thở dài nho nhỏ, lời mẹ nguyện xin cho con cháu bình an, mạnh khỏe.
                      Tối hôm đó mẹ thức rất khuya, ngồi một mình dưới gian bếp đèn dầu leo lét, mẹ đã cắt khúc vải nhung màu vỏ măng cụt, để may áo cho tôi mặc ấm. Chiếc áo ấm gồm ba lớp: lớp nhung ở ngoài, mẹ bọc thêm một lớp gòn rất mịn ở giữa, và may chằn thêm một lớp lụa sa tanh mới lót ở bên trong. Tôi leo lên giường từ lâu, trằn trọc mãi không làm sao ngủ được, tôi rất sợ và lo âu, không dám nhúc nhích. Tôi cứ mở mắt nhìn mẹ chăm chú làm việc. Khá khuya, mẹ lê đôi dép lẹp xẹp lần mò từng bước, mẹ nhẹ nhàng đi trong bóng tối mờ mờ. Mẹ vặn ngọn đèn dầu hột vịt thật lu, mẹ cố không khua động giấc ngủ của mọi người. Trong bóng tối, tôi hé mắt nhìn mẹ ngồi đọc kinh, sau đó mẹ ngả lưng xuống đệm theo tiếng thở dài. Tôi nằm im giả vờ ngủ say. Bàn tay mẹ lạnh ngắt run run sờ soạn tìm con. Mẹ đặt đầu tôi nằm ngay ngắn trên gối mỏng. Mẹ kéo hai chân tôi thẳng ra, và đắp mềm lên tận cổ tôi. Mẹ ôm tôi vô lòng và hôn lên mái tóc tôi khét nắng. Nước mắt mẹ thấm lạnh da đầu tôi. Thật là: “Nuôi con chẳng quản chi thân. Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn”. (cd)
                      Thì ra mẹ đã khóc âm thầm lặng lẽ trong bóng tối. Mẹ giống người chèo đò đơn độc ra tay chống chèo trên dòng nước ngược đầy sóng gió, khi đàn con nhỏ sợ sệt, la khóc, run rẩy bám chặt vào mạn thuyền. Mẹ cố sức chịu đựng giông bão, gian truân âm thầm và câm lặng dai dẵng; miễn sao cho con, cháu, bình yên, no ấm. Mẹ là một trong vạn triệu người Mẹ Việt Nam tần tảo, phúc hậu, ôn hoà cao cả, hy sinh xiết bao suốt đời mình. Sáu tuần sau, mẹ bán bầy heo thịt khác. Ba tôi vượt núi băng rừng khổ cực trăm bề làm cúp cây, nay đã hoàn toàn ổn định. Gia đình chúng tôi lại bắt đầu khá giả, vinh sang hơn năm cũ. Nhờ mẹ tôi quáng xuyến, đảm đang, siêng năng, tháo vát. Ba tôi giàu kinh nghiệm và liêm chính đàng hoàng trong việc làm chủ trại cưa, nên ít lâu sau gia đình tôi thoát khỏi cảnh bần hàn.
                      Nhưng dẫu có sung túc giàu có hơn xưa nhiều, rất nhiều, thì vết thương đầu tiên về bài học giáo dục đạo đức trong lòng mẹ và con, hẳn không có cách gì lấp đầy, phôi pha được. Kể từ ngày xa xưa đó, mỗi khi tôi có ý muốn lấy cắp cái gì của ai, thì hình ảnh mẹ tôi ngồi bó gối bên bếp than hồng; nước mắt mẹ chảy ướt thấm vô da đầu tôi, vẫn hiện lên rõ nét. Khiến tôi quắt quay và lặng người, vì hối hận không hề dám tái phạm. Đó là nốt “nghịch phách” đầu tiên trong đời vào chiều mưa giông giá lạnh năm xưa. Ước gì nay tôi được chìm trong dòng sông đã chảy qua thời ấu thơ, nơi mái gia đình êm ấm của tôi ở buổi thiếu thời kia, để tôi có thể nói thật nhỏ:
                      - Mẹ ơi! Cho con xin lỗi.
                      ***
                      Và một lần nữa có kỷ niệm về Mẹ tôi thế nầy: bầu trời lợt lạt sau khi tráng nước mưa thì trở nên trong suốt như pha lê, lưng trời sáng bạc ngất ngây đầy lâng lâng rung cảm điểm vài hoa mây phớt hồng thấp thoáng bay bay, trôi nhè nhẹ như bong bóng mây lơ lửng giữa bầu trời rộng thênh thang. Các mái nhà như kỳ cọ gội rửa sạch bon. Những con đường, cành cây ngọn cỏ đều loáng nước và trở nên xanh tươi hơn.
                      Tôi rất mừng khi mẹ ở Tùng Nghĩa đến thăm, có mẹ ở lại giúp con, phụ chăm nom các cháu, là tôi rất an tâm. Mỗi lần đến thăm con cháu, mẹ mang rất nhiều quà bánh, mẹ khệ nệ bưng hết giỏ nầy đến giỏ khác, thậm chí cả gạo, rau, cá, thịt, tôm, vân vân… Có bao nhiêu tiền dành dụm, mẹ đã trút hết cho con cháu. Nhất là bà cưng các cháu ngoại hết sức; mặc dù chúng rất quậy, khiến ngoại mệt phờ người.
                      Mẹ cầm cái quạt giấy quạt cho mình và quạt cho con, cháu. Mùi dầu thoang thoảng bay, mẹ rất thích xức dầu Nhị Thiên Đường. Trời Đà Lạt khá mát mà mẹ dùng quạt, đủ biết mẹ mệt đến thế nào. Tôi muốn khóc hết sức khi ngồi cạnh mẹ. “Lên non, mới biết non cao. Nuôi con, mới biết công lao mẹ hiền” là thế. Tôi nhìn vẽ già nua hiện lên từng đường nét rõ ràng trên khuôn mặt mẹ già mỏi mệt, mái tóc mẹ điểm muối tiêu, vành miệng móm mém, mẹ ưa nhai trầu dập từ cối đồng nhỏ xíu cầm lọt trong lòng bàn tay. Đôi mắt mẹ thoáng màu nâu, hấp háy sau làn mi dài lưa thưa, mẹ có cái nhìn ấm áp chuyển thành niềm vui dạt dào, bộc phát mừng rỡ khi mẹ thấy tôi thấp thoáng trên thềm nhà:
                      - Cháu đói lắm hử? Mẹ cháu về rồi. Ù ơ... Cháu tham ăn y như con mẹ của cháu từ hồi nhỏ hè. Hì hì… Cháu biết không!?
                      Ơ! Tôi đây có phải là đứa con gái út (trong gia đình có mười anh chị), út lên mười vẫn còn rúc vú mẹ, vòi vĩnh mọi thứ khi thích? Út sau giờ học, tối ngày thui thủi một mình, vì thế tôi luôn quanh quẩn bên mẹ đó ư? Ngày ấy mẹ pha nước nóng, và ngồi trên chiếc đòn nhỏ bên hiên lát gạch hoa, mẹ bế tôi vô lòng, tôi thòng cái cổ đeo hai ba sợi dây chuyền bằng đất, tôi ngửa mặt lên trời cười sằng sặc lúc cảm thấy nhột. Mẹ gội đầu cho tôi bằng nước bồ kết nấu với lá sả, lá cam, lá chanh, lá bưởi. Tắm cho con bằng xà bong thơm hiệu "cô Ba đeo kiềng vàng". Tôi có tính hư nết xấu ưa làm nũng, dậm chân dậm cẳng không chịu tắm, khóc nhè hoài; dù mẹ đã dỗ ngọt, hun hít và gói cho tôi đòn bánh tét nhỏ xíu bằng gan tay, có dây lạt làm quai xách cột từ đầu nầy qua đầu kia.
                      Có ngày tôi say sưa nhìn: mẹ đeo đôi mục kính trắng, khéo léo may từng bộ áo quần đẹp nhất đầu Xuân. “Con bé tôi” năm sáu tuổi ngồi bên thềm gạch hoa trong tòa nhà cao và rộng, tôi la lết bên mẹ, quá phục mẹ thoăng thoắt may áo quần mới. Tay thoăng thoắt may áo, mẹ vui vẻ kể chuyện cổ tích Trầu Cau. Tấm Cám. Mẹ kể chuyện hay đến nỗi đôi khi tôi đòi cái gì đó, mà mẹ không có cho con, thì mẹ mỉm cười nói: "Ngày xưa... có một người tiều phu vô rừng..." là mọi thứ hấp dẫn trên đời, đều không bằng câu chuyện cổ tích của mẹ. Ngày ấy, gia đình ba mẹ tôi sống tại ngôi biệt thự số 5 La Rose ở đường Quang Trung, gần nhà Ga xe lửa Đà Lạt. Tôi đeo đôi hoa tai vàng tòn ten đong đưa theo mỗi cử động, cổ đeo kiềng vàng chạm trổ thẫm mỹ. Tôi diện quần sa tanh trắng, xúng xính trong chiếc áo nhung đỏ do mẹ tự cắt may, chân tôi mang hài cườm cùng màu với áo. Đầu tôi đội nón lá mười hai vành do mẹ chằm. Vai tôi đeo chiếc bóp đầm đỏ. Hai mẹ con ngồi xe kéo đi chợ Đà Lạt mua sắm đồ Tết suốt ngày.
                      Trước khi mua sắm, mẹ cho tôi ăn bánh bèo xong, tôi lại lết qua hàng mì quảng ăn no nê. Sau đó hai mẹ con chen lấn vô chợ vải mua quần áo, giày dép, vân vân… Tôi bị người lớn chen lấn, nên tụt lại đằng sau, kẹt giữa làn sóng người đông như kiến. Hốt hoảng, tôi vừa khóc vừa kêu "Mẹ ơi! Mẹ". Tay tôi nắm chặt lấy đuôi áo dài của mẹ rị kéo mạnh lại. Dù rách toạt mất một thân áo, mẹ tôi không hề la rầy, hay giận dữ. Mẹ đằm thắm bế con lên, cùng với hai giỏ xách đầy vật dụng mua sắm đang móc ở khuỷu tay. Lúc ra về, mẹ lại mua cho tôi mấy bịch bánh thuẩn, nải chuối cau. Ngồi trên xe ngựa, tôi sung sướng có những món đồ chơi xinh đẹp. Nhưng, về nhà đồ chơi cũng không quyến rũ con bé mập tròn ú nù giống hột mít như tôi (vì háu ăn), tôi quanh quẩn bên chân mẹ, líu lo hỏi chuyện:
                      - Mẹ nấu phở cho cả nhà ăn ha mẹ?
                      - Ừ. Ra ngoài sân chơi đi con. Ây. Coi chừng bị phỏng lửa.
                      - Chín chưa mẹ?
                      - Chưa được. Coi chừng phỏng nước sôi.
                      - Được chưa mẹ?
                      Sốt ruột, do cái tật mê ăn của con, nên mẹ đã làm trước cho tôi một tô phở. Tôi cứ bu bên mẹ rồi nhón chân lên bốc một nhúm hành ngò trong dĩa ở trên bàn. Tôi chạy theo mẹ đến bên góc đi văng, bỏ đầy hành ngò vô tô. Tay cầm đủa tay cầm muỗng, tôi cúi xuống thổi phù phù vào tô phở nóng. Nước miếng ứa ra miệng, bụng sôi lọc ọc, tôi cảm thấy đói cồn cào vì mùi thơm ngào ngạt:
                      - Mẹ cho con ăn thiệt no. Nghen. Con đói.
                      - Để nguội đã. Ăn từ từ thôi. Ngán tới con mắt chừ. Không tham ăn rứa hì.
                      - Con ăn từ từ cho đến khi nào no tới con mắt, thì thôi. Mẹ ui.
                      Mẹ tôi phì cười nguýt yêu con gái tham ăn. Qua nửa tô phở, tôi buông đũa, hét to:
                      - Chết con rồi! Ơ hơ! Cay quá! Mẹ ơi. Mẹ.
                      Cay thật. Cay đến nỗi mặt tôi đỏ rần, hai lổ tai ù ù, lùng bùng, đầu lưỡi nhứt nhối, rát bỏng, môi miệng đỏ chót phồng rộp lên. Tôi thọc tay vô miệng cào cào lưỡi, xít xà, phun nước miếng phì phì. Mắt thấy sao bay trong màng lệ, tôi hoảng hốt chạy quanh nhà, vừa kêu vừa khóc. Tôi bức tóc bức tai, rồi chui tọt xuống gầm bàn, nằm lăn lộn trên nền gạch hoa. Tôi lại bò ra, chui lòn mấy vòng qua hai chân của mẹ. Hai tay tôi quệt nước mắt! Khổ nỗi ớt dính ở mấy đầu ngón tay, nên càng bị cay mắt hơn. Mồ hôi vã ra trên trán như tắm, mặc dù trời khá lạnh. Khiếp quá. Cay kinh khủng. Tôi kêu khóc inh ỏi, mũi dãi lòng thòng (chỉ vì mắt nhắm mắt mở, và tham ăn, tôi không thấy trái ớt xiêm xanh lẫn trong nhúm hành ngò, dù mẹ tôi có ý để ớt qua một bên mép dĩa to).
                      Mẹ vội lấy nước lạnh khuấy chanh đường, bế con vào lòng cho con súc miệng nhiều lần, nhổ ra. Mẹ xổ mái tóc dài, lấy đuôi tóc lau trên đôi mắt con, lấy khăn ướt lau mặt mũi con, mẹ vạch vú da cho con mút, (mặc dù con khá lớn khôn). Có bầu vú mẹ, tôi dịu cơn đau, mà vẫn thút thít khóc và nấc lên từng cơn. Ôi! Lần ăn phở muôn đời ghi nhớ ấy, nó ớn lên tới con mắt thật. Mà mẹ yêu dấu là người họa sĩ tài ba đầu tiên đã âm thầm vẽ nét ngây thơ, hồn nhiên duyên dáng vào tâm hồn con tươi trẻ. Hình ảnh mẹ bất diệt, nên thơ, trong sáng, thân thương từng ấp ủ nơi con đây một thời xuân trẻ luôn khát khao niềm tin yêu, chưa hề phai lạt, và làm quặn thắt lòng con. Một tình mẫu tử bất diệt, bao la co xiết thành khối mật, vừa dịu êm ngọt ngào, vừa nồng nàn lâng lâng men tình say say, trào dâng lên bờ môi con ngọt lịm từ bầu sữa mẹ tinh tuyền, ngát hương yêu trong chiếc nôi đời lắc lư đong đưa theo tháng năm qua. Trái tim con thèm khát nhịp đập cuồng quay trong lồng ngực phập phồng, bồng bềnh chơi vơi trên sóng biển rong chơi đầy dáng vẻ yêu thương.
                      Tôi cảm thấy thương mẹ không làm sao tả xiết. Tình yêu thương nồng thắm của người mẹ, giờ đây tôi mới hiểu thấm thía, thâm thúy, tình mẹ bao la như trời biển, êm đềm ngọt ngào, nồng nàn xiết bao trong từng giờ, từng tháng, từng năm. Mẹ tôi tận tụy cần cù hy sinh lo cho chồng, con, cháu; là hạnh phúc duy nhất của mẹ; là lẽ sống thầm lặng, mẹ đầy tình thương yêu và thủy chung hết mực. Tôi yêu kính mẹ vô vàn, mẹ âm thầm chịu đựng, hy sinh gắn bó, nhẫn nại, dốc hết sức cạn hơi mòn, hầu chu toàn cho con, cháu, có sức khoẻ bình an, hạnh phúc. Dù con khá lớn khôn, có gia đình con cái, dù các con đã vững vàng lập thân, từng trải. Mẹ thân yêu! Mẹ nâng niu giữ gìn cho con bao kỷ niệm yêu thương, đậm sâu, dạt dào ân tình mặn-mà thuở thiếu thời. Đôi mắt con lẫn vô lòng mắt mẹ êm ái, ẩn chứa tất cả niềm vui tột cùng, tuổi thơ con trong sáng từng ấp ủ tình thương thầm lặng đến tận bây giờ. Nó vừa hiền, vừa lành, vừa vui, và trọng lượng tình yêu trong lòng mắt mẹ đã dành cho con, muốn vỡ vụn ra thành muôn hạt nước mòng mọng, tròn trịa, li ti lăn tăn long lanh rung rinh trĩu nặng bờ mi rưng rưng, trôi đến tận cùng tơ rung suy nghĩ, làm gợn sóng lăn tăn lung linh chơi vơi trong từng tế bào con run rẩy.
                      Hạnh phúc vô ngần khi con trở về trên dáng xưa yêu kiều, đầy hoa mộng đó. Chao! Dòng đời xuôi ngược nhiều ước mơ, hoài bão, hy vọng dạt dào, tràn đầy mộng đẹp vụt tan biến quá đỗi là mau. Và, hôm nay con không khỏi ngỡ ngàng, bâng khuâng xao xuyến và kinh ngạc; khi nhớ ra mẹ nhắc khéo chuyện: “Con tham ăn” đã lẫn vào lòng thời gian lúc nào; chẳng rõ! Hẳn là lúc đó mẹ đang nghĩ đến câu:
                      - "Mẹ cho con ăn tô phở, khi nào con no, no lên tới con mắt thì thôi"!
                      Lúc ấy vui tột độ khiến tôi dại người trong giây lát, bỗng quay qua nhìn mẹ hiền đăm đăm, và toét miệng cười ngất. Mẹ nhìn con gái lắc đầu mỉm miệng cười đôn hậu, hòa ái. Thật đáng yêu xiết đỗi từ đôi mắt đầy bao dung, thông cảm và thấu hiểu của mẹ biết ngần nào! Đó là cái gốc rễ tình yêu nơi chiếc nôi đời hồng hoang trinh nguyên, nơi chôn nhau cắt rốn, nơi quê hương dấu yêu nầy tôi đã bập bẹ tiếng: "Mẹ... Mẹ" đầu tiên. Mẹ là sợi dây vàng rắc đầy kim cương lóng lánh, nối liền con cháu với niềm vui buồn quá khứ, dạt dào hạnh phúc ân tình trân qúy. Mẹ hiền mẫu sung sướng mỉm cười từ ái hằng cầu nguyện cho các con suốt bao năm trường được hạnh phúc, bình an. Phải không mẹ? “Gió thúc cội thung nhánh tùng khua rúc rắc. Nhớ cha mẹ già ruột thắt gan teo” .
                      Bây giờ, thời gian vút qua... “Chiều chiều lại nhớ chiều chiều. Nhớ cha, nhớ mẹ chín chiều ruột đau”. Ôi! Chỉ cần trở về ngày ấy và biết nói câu "Mẹ ơi, cho con xin lỗi", thì tôi sẽ sống lại và chỗi dậy trong tâm tư tôi cả quá khứ ngọt ngào, say đắm, êm đềm, nồng nàn, sung sướng xiết bao! Và, bây giờ tôi biết đằm thắm, khôn ngoan gấp bội lần. Tôi, người đàn bà còn quá trẻ bỗng co nhói lên từng cơn đau tim nghẹt ứ, xót xa đắng cay khôn tả xiết. Vốn bị nghị lực mài dũa, cọ liếc mỏng tanh, tôi nghẹn ngào, đắng cay hơn sự cơ cực đọa đày chịu đựng dài lâu. Sự trầm uất nén dưới chiều sâu tâm hồn đã vọt lên tim, lên óc, lên cổ tôi những cục nấc nghẹn ngào tức tưởi. Tôi đứng giữa trời mà khóc, mà cười. Cười khẩy. Tôi không sao hiểu nỗi “đời”! Tâm hồn tôi hằn lên vết rạn, xếp lớp lăn tăn theo sóng đời cơ cực. Gia đình nhỏ chúng tôi lầm than khốn cùng đã rớt dưới tận đáy xã hội phù phiếm. Nay, các con bé bỏng của mẹ đã lớn khôn, đã có gia đình, đã làm cha, làm mẹ.
                      Dù vậy con đây vẫn còn nhõng nhẽo, quấy rầy mẹ và thút thít khóc hu hu hu hụ hụ hụ như thuở nào! … “Thương mẹ nhớ cha như kim châm vào dạ. Nghĩ đến chừng nào, lụy hạ tuôn rơi. Nước chảy ra thương cha nhớ mẹ. Nước chảy vào thương mẹ nhớ cha...” khi cha mẹ đã vĩnh viễn lìa bỏ chúng con. Cha mẹ ôi! Nơi con đường cũ mà cha mẹ tôi xưa kia rất vinh sang đã từng đi qua đó, và chính gia đình nhỏ cuả tôi từng lả lướt, rộn ràng líu lo ca hát trên đại lộ mỗi độ hoàng hôn… Ngày nay mẹ con chúng tôi dắt díu nhau lọt tọt, líu ríu bước thấp bước cao, lần mò đi từ ngày nầy qua tháng nọ. Đi từ hừng đông đến hoàng hôn không ngơi nghỉ. Những đôi môi khô nứt nẻ run run nếm đủ cay đắng, ngọt bùi xính vính tình đời còn mấp máy và thút thít, như nghiến chặt hai hàm răng, nghiền nát hiện-tại rát bỏng phừng phựt cháy trong lòng.
                      Sau đám sương mù dày đặc ngoài trời kia, là tương lai tối thui và con đường gồ ghề, lởm chởn sỏi đá lẫn lộn bùn tro bầy nhầy. Con đường tiến thân của mẹ con chúng tôi đó, hình như có tiếng âm vọng não nề. Chúng tôi không biết nên bắt đầu từ hướng nào cho phải! Đôi bàn tay tôi khô cứng, chai sạn sần sùi nứt nẻ, hợp lực với những bàn tay các con thơ yếu gầy tong teo bé tí xíu, vẫn quơ quơ về phía trước. Cùng lòng can đảm, tận tụy, chịu đựng gian lao, nghèo khổ siết chặt, thì không có cách gì lay chuyển. Trời bao la xanh xanh trong trong, không có một vắt mây trắng, nhưng sao đôi mắt tôi mù mây xám giăng mắc!? Giống như những sợi tơ tóc ngày xưa đen tuyền óng ả quyện cùng chùm tóc bạc trước thời gian đã phủ khắp nẽo đi lối về? Tôi đang mặc chiếc áo gấm của Lụât để lại, tôi tưởng tượng chiếc áo dù cũ, nhưng có phần nào che gió chắn mưa. Thì hy vọng là tôi bớt cảm thấy cô độc, ấm áp và ít lạnh. Ngỏ hầu tôi sẽ đương đầu, chạm trán, chơi những canh bạc đen đỏ với định mệnh. Đành phải như thế thôi. Nếu định mệnh không thách đố gạt gẫm chúng tôi: Xỏ lá sát phạt, chơi khăm chúng tôi trắng tay –và đểu giả lật ngửa quân bài ra– Khi trận đấu chưa bất phân thắng bại. Thưa ông!
                      *
                      Tình Hoài Hương
                      Tháng Năm 1980
                      Last edited by Tinh Hoai Huong; 05-11-2020, 02:56 AM.
                      Bút trần nào tả được lưu luyến!
                      Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                      Tình Hoài Hương

                      Comment


                      • Các Trại "Tù CẢI TẠO"


                        Ngày Anh Đi
                        Nhạc & lời: Trần Thiện Thanh
                        Giọng hát: anh Trần Đình Phước
                        Các Trại "Tù CẢI TẠO"
                        Tình Hoài Hương
                        *

                        Chuyện thứ nhứt:
                        Khi "gươm đàn gãy gánh", thì có: các trại "tù- CẢI TẠO" & Tiếc thương.
                        Lý Thục Kỳ Tân, người đã giúp Lưu Bang dựng lại Đại Hán đã từng nói:
                        “Nước lấy dân làm gốc, còn dân coi sự ăn mặc (trong đời sống) giống như Trời”.

                        Nếu một người muốn từ bỏ cuộc sống cá nhân, dốc lòng bảo vệ quê hương, hy sinh cho đất nước, quyết giữ gìn quê hương được an thịnh sinh tồn, họ coi nỗi đau của dân như chính nỗi đau của mình, mà ra sức bảo vệ gìn giữ đất nước an toàn đến giờ phút cuối. Quả thật rất đáng trân trọng và ngợi khen. Còn những kẻ đã có quyền lực, lại chối bỏ đất nước, ngoảnh mặt làm ngơ, nhởn nhơ lượn lờ đó đây, hoặc bỏ chạy trối chết ra khỏi nơi gian nguy khốn cùng, bình yên tận hưởng vinh thân phì da riêng cá nhân và gia đình, chẳng hề ngoái nhìn (dù chỉ một lần) khi chiến sự khốc liệt đang tàn phá tất cả, đã mang đến cho dân tộc sự nguy khốn tột độ, khiến đất nước nầy phải gánh chịu muôn vàn chua xót đắng cay cùng cực

                        Lẽ ra, những người đầu đàng phải trả giá gấp bội, do không làm tròn trách nhiệm trước lịch sử về bao thiếu sót, sai lầm trầm trọng của người thiếu trách nhiệm & bổn phận công dân. Họ phải trả giá cho hành động ấy như tội ác, (ví như lìa bỏ nguồn gốc, hay vô tình diệt chủng… là gì) về các việc đó trước lịch sử, làm cho một đất nước tươi đẹp trù phú hùng mạnh, trở thành một lãnh thổ suy tàn, sụp đổ cả một chính thể quốc gia. Họ phải bị trừng trị thích đáng mới phải. Chiến tranh tương tàn bây giờ quá bất hạnh, không chiến đấu cho lẽ phải, hoặc công bằng chi cả. Thật là bất công và phi lý khi một người lính chính trực liêm minh có năng lực và tài ba, nhưng vì lý do nào đó không thể thi hành trách nhiệm & bổn phận làm trai, mà sau rốt bị đì vô rọ tù “cải tạo”.

                        Định nghĩa tổng quát về chữ TÙ: (danh từ, hoặc động ngữ).
                        * Bị Tù – (theo nghĩa đơn thuần): một tội danh dân sự nào đó -vấp phạm sai lầm-, là sẽ bị hình phạt, bị giam giữ bó buộc một nơi ấn định ở một xó góc bên trong cánh cửa sắt, chịu mọi hình phạt, khổ cực. Do người ấy vi phạm pháp luật -giữa người ấy với luật pháp của quốc gia mình-. Họ (chính quyền sở tại) cần sửa trị, phải uốn nắn người vi phạm, trở thành một công dân tốt, hữu ích cho xã hội. Cốt lỏi của hành pháp là sự trừng phạt, răn đe và hướng thiện cho người vấp phạm sai lầm ăn năn hối cải. Nhưng, quốc pháp được thiết lập không ngoài mục đích lấy tình trị pháp, lấy pháp trị quốc: Đó là ý nghĩa thật sự của quốc pháp, công bằng phân định rõ ràng ai có tội nặng, tội nhẹ; mà buộc người tù thụ pháp, ngỏ hầu huấn luyện cho người ấy trở nên tốt hơn, hoàn thiện & có tình người, người tù đã chừa bỏ thói hư tật xấu, để trở thành công dân hữu ích chính mình, nói riêng, và cho xã hội, nói chung.

                        * Bị tù học tập “cải tạo” trái ngược lại: đó là hình phạt giữa con người ở "chế độ mới" đang thẳng tay hành xử, chà đạp, dày vò, chưởi bới, đay nghiến, dã man đánh đập trả thù người ở "chế độ trước" (chế độ cũ). Người mới nổi lên luôn hãnh diện, vỗ ngực tự hào ta là kẻ chiến thắng, họ tự thay mặt chế độ (mới) vừa đắc thắng cái quyền “tiếm đoạt” mà độc ác hành xử con người cũ ra sao, tùy thích. Họ không hề cảm thấy "thương xót", ray rứt, dày vò, áy náy lương tâm. Tùy theo mức độ tên tù cũ nào đó cao giá đến đâu -mà hành xử-. Nôm na là “con người mới” vừa chân ướt chán ráo đứng lên, liền trả thù một chính sách, một chế độ, một nhân phẩm...

                        Vậy thì, tù “cải tạo” là gì? Hừ! Có phải chữ cải tạo không ở trong hai ngoặt kép? (“…”). Cái dấu "..." nầy có tác dụng làm ranh giới cho một câu văn, câu nói được thuật lại, hoặc giả ghi một từ ngữ khi muốn dí dỏm diễn tả về mức độ thân thiện nào đó, và cuối cùng tùy theo câu văn cần diễn đạt: có thể là hóm hỉnh, hoặc miả mai). Chữ "cải tạo" ở đây nôm na được định nghĩa là:
                        - Làm cho “chất lượng” thay đổi -(chưa chắc thay đổi căn bản, theo chiều hướng tốt hơn).
                        - Muốn “lao động là vinh quang" -để cải tạo con người!?
                        - Muốn “giáo dục” làm lột xác, thay đổi con người cũ (từ nhân cách, bộ dạng, tập tục gia phong, quần áo tươm tất…) để khoát lên mình bộ đồ tù mà trở thành con người mới.
                        - Muốn “cải tạo tư tưởng” xóa bỏ những tập tục cổ xưa, -để thay thế tư tưởng “tiến bộ”?
                        - “Cải tạo xã hội chủ nghĩa” ở trong “quan hệ cải tạo”, sản xuất không xã hội chủ nghĩa, hầu trở thành - “quan hệ sản xuất” xã hội chủ nghĩa; tạo điều kiện cho “lực lượng sản xuất phát triển”? Và, cuối cùng “cải tà quy chánh”:
                        - Tù nhân 75 “cải tạo” là: từ bỏ con đường đã đi, để đến “con đường chính nghĩa” vẫn là: tù nhân chính trị - cái gọi “học tập cải tạo” là: tù nhân quanh năm suốt tháng nhịn đói rã ruột, khát khô cổ họng, thất thểu vác cuốc ra đồng, cúi đầu cuốc cuốc, cày cày, bừa bừa, (cày bừa do chính thân thể con người vác cày kéo bừa... làm quần quật -thay thế con trâu) trong nghĩa "lao động là vinh quang, lang thang là chết đói" mà trồng trồng... trọt trọt...
                        * Khi tù nhân “cải tạo” đi trước tên cán bộ coi tù, thì người tù “cải tạo” bị cán bộ dùng báng súng đập mạnh vô lưng tù, quát mắng:
                        - Muốn chạy trốn hở, dám đi trước cán bộ hử?
                        * Tù nhân “cải tạo” đi ngang hàng với cán bộ, thì bị cán bộ quát nạt:
                        - Muốn đi gần ông giật súng hở?
                        * Tù nhân “cải tạo” đi sau lưng cán bộ coi tù, bị cán bộ quay lại, giơ súng chiã vô trán tù, đạn lên nòng:
                        - Đi sau lưng cán bộ, muốn ám sát hay sao thế?
                        *… "Tù cải tạo” một ngày trong tù, bằng thiên thu tại ngoại cơ mà! (nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại). Tù có làm cái gì… dù nhũn nhặn chịu đựng, kiên cường, đầy thiện chí, có tình mến, có lòng bác ái vị tha, dung hòa, trung thực, ôn tồn, tốt lành, cam chịu ẩn nhẫn, thì tù "cải tạo" cũng bị cán bộ, công an bắt bẻ chụp mũ… Thế nên thời buổi nầy người tù nếu có bị công an ác ôn đánh đập, cán bộ cay nghiệt đối xử thậm tệ như con vật, vẫn hơn làm “con người”. Trong trại tù “cải tạo” Z 30 A, tên cán bộ răng đen mã tấu thao thao lên lớp:
                        - "Nịch xử lước" ta toàn "nà" anh hùng cả đấy nhá. Bắt đầu "nà" vua "Nạc Nong" Quân "nấy" bà Triệu Ẩu, đẻ "da" một bọc 100 trứng…
                        Cả hội trường cười ồ. Mất hứng, hắn quắc mắt, hất hàm hỏi:
                        - Cười cái quái gì thế?
                        Một sĩ quan “ngụy” giơ tay lên, lịch sự trả lời thay tất cả tù ngồi:
                        - Thưa cán bộ, Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ, chớ không phải bà Triệu Ẩu.
                        Hắn khó chịu, im lặng vài giây, quay sang thì thầm hỏi tên phụ tá, rồi dõng dạc nói:
                        - Nạc Nong Quân "nà" vua, ông ấy muốn "nấy" gái "lào" mà chả được. Bà Âu Cơ hay "nà" bà Triệu Ẩu, đều "nà" đàn bà nốt. Thì… chúng ta chả phải "nà ròng rõi" cá mè một "nứa" mí Triệu “ẩu tả, nà rì"!
                        Tại hội trường ở trại tù “cải tạo” khác, một cán bộ nọ lên giọng:
                        - Các anh biết không, đất nước ta giàu có cực kỳ, tiền rừng bạc bể. Nhiều nơi trên miền Bắc xã hội chủ nghĩa, chỉ cần cắm ống nứa xuống đất, là dầu hỏa phụt lên. Thế là ta cứ việc mang thùng ra hứng, đem về nhà tha hồ đốt thỏa thích nhá.
                        Cả lớp tù ngồi khúc khích "cừi cừi". Hắn hứng chí tiếp:
                        - Ngoài mỏ dầu, miền Bắc còn nhiều mỏ, nào mỏ than, mỏ vàng, mỏ xăng, mỏ nhớt.
                        - Thưa cán bộ, có thứ mỏ nầy không biết miền Bắc có không, nhưng miền Nam "nghèo đói" chắc chắn có, đó là mỏ Dốc Mơ, và "mỏ Dốc Lết".
                        Hắn bỉu môi:
                        - Ồ, cái anh nầy rõ là mang dòng họ Triệu Ẩu nha. Mỏ dốc lết hả? Cái gì chứ mỏ dốc lết thì miền Bắc thiếu giống gì, có hàng tá mỏ mà đảng và nhà nước đang có kế hoạch đào bới khai thác đấy.
                        Đó đó..., đó chính là cái giá rất đắt cho tù nhân “cải tạo” tri thức & có lương tâm là thế đấy ạ. Vậy thì, người tù đã được “học tập” điều sâu sắc bổ ích gì? Ai “cải tạo” ai? - "học tập cải tạo” những thứ tinh nhuệ hữu ích gì!? (loạt chữ nầy phải ghi trong hai dấu mang đầy ý nghĩa của cái “ngoặt kép”. Tù thấu hiểu được điều gì cao cả trong xã hội chủ nghĩa thế nầy!? Ngoài việc anh ấy không thể “bồi dưỡng văn hóa”, cho dù một chữ bẻ đôi cũng không. Duy có điều anh tù phải “học tập cải tạo tốt” là: cuốc đất trồng khoai mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm, trong sự bịp bợm của từ “học tập” và "cải tạo”, để rồi ngày qua ngày, tháng trôi theo từng năm, anh trở thành thân tàn ma dại chỉ có da bọc xương?! do phần lớn trại tù học tập “cải tạo” mọc lên như nấm mà ra.

                        * Trại TÙ! Trại tù nhiều vô số... hơn cả chuyện nhà nước đi khắp hang cùng ngõ hẹp quyên góp “cứu trợ” nạn nhân thiên tai, hoả hoạn, lụt lội. Nhà nước không xây dựng kiến thiết quốc gia, không xây trường học, không làm đường sá, không làm những công trình kiến tạo khác. Mà, trên toàn lãnh thổ Việt Nam đâu đâu cũng có “trại tù” khổng lồ! Trại tù đã giết chết bao người trai trẻ, hủy hoại rất nhiều tiềm năng, xeo nạy nạo vét sạch hết tinh tuý những khối óc thông minh tuyệt vời, tiêu diệt sĩ khí, oai dũng quật cường biết bao người yêu nước, yêu quê hương và thiết tha với dân tộc. Đa số anh em quân nhân công cán chính Việt Nam Cộng Hoà chân thật cả tin, đã bị trắng trợn phản bội lời hứa, bị mắc lừa, bị lọt lưới, họ xô nhau tới đường cùng & trở thành những người tù tội "cải tạo" bị nhánh tình đoạ đày lưu vong trên chính quê hương. Mặc dù quê hương không bao giờ phản bội con người, mà chỉ có con người ngoảnh mặt quay lưng nơi chôn nhau cắt rún.

                        Lớp lớp thanh niên trai tráng bị nhà nước đánh cắp không chỉ gia sản, tài năng, trí dũng, sức khoẻ, thân phận… tình bạn, tình thân giữa đồng loại. Ý niệm về không gian và thời gian từ sự bình thường tiềm ẩn trong những tâm hồn và khối óc phi thường đã qua. Trơ tráo trắng trợn hơn là tù “cải tạo” bị ăn cắp tuổi xuân-thì, bị lột trần về tình yêu – (tình yêu nhìn qua nhiều lãnh vực và lăng kính: tự tin, dung hòa, đức độ, nhân ái, khoan dung tha thứ... trên mọi phương diện).

                        Cuối cùng, cuộc chiến không phải do hơn thua vì chiến tranh. Ta cần tin & trọng con người có nhân phẩm, nhân tài, có năng lực; chớ chẳng phải thân phận giàu sang và thứ cấp, trước hết phải xét người có năng lực, rồi sau đó mới tính đến thứ cấp. Việc giữ lại người có tài có cái tâm, là điều quan trọng lắm. Nếu thuộc cấp của "chế độ cũ" là người có tài, và chính trực, mà bị "chế độ mới" ngược đãi, đàn áp và trắng trợn bôi nhọ, trả thù, thì các cấp lãnh đạo và đất nước ấy sẽ không gìn giữ được trường tồn vĩnh thịnh, chẳng chóng thì chày sẽ có ngày con người và đất nước ấy bị lọt vô tay kẻ thù, ngoại bang tha hồ tung hoành lấn chiếm mà bành trướng.
                        Họ (tù "cải tạo") đã bị nhà nước xã hội chủ nghiã láo khoét tuyên bố:
                        - “đi học tập 14 ngày cho thông, rồi về”.
                        Thế nhưng… quá khứ ngục tù canh cánh bên lòng trỗi dậy; hy vọng mong manh, tự do bị vùi dập, lãng quên, một sự thiếu tình thương và chẳng hề thông cảm từ “phía nội thù” nằm ngay trước mặt. Yêu thương, thấu hiểu, chia sẻ, đồng cảm... thì ở chân trời xa tít tắp. Để rồi hắt lại trong đời tù "cải tạo" sự buồn phiền, đố kỵ, lạnh lùng, câm nín dày vò... vì nghe theo lời khuyến dụ của "cách mạng thành công" mà chọn lầm chỗ, người tù sa cơ thất thế đã nằm gọn trên đe dưới búa, trong tay không có một khúc cây, ngỏ hầu tự vệ.
                        Hóa ra, “chinh nhân chọn lầm một đất nước mới” mà “cấp lãnh đạo cao qúy” ấy chỉ biết dẫm đạp lên mọi người tù, để trả thù! Gợi lại trong lòng mỗi người bao hoài niệm bi hận về một giai đoạn lịch sử quá đau thương, nghiệt ngã, cay đắng xót xa ngậm ngùi của miền Nam Việt Nam khốn cùng, điêu linh khổ ải, tang thương và bất hạnh sụp đỗ: Họ bị lọt vô cái bẫy sập tinh vi, độc ác, kinh dị nhứt thế giới.

                        Hàng hàng lớp lớp thanh niên trai tráng đã thừa kế tinh hoa dân tộc: khỏe mạnh, được tinh luyện trí thức tinh túy, cường tráng, ngày nay họ trở thành tù “cải tạo”, vùi dập đời trai đầy dũng khí và tráng kiện, như món hàng béo bở đồ sộ -đã ngã giá trong thương vụ quốc tế-. Ngược lại, qua những túm quà thăm nuôi eo xèo bé xíu đựng trong giỏ tre: mắm muối, đường thẻ, tôm khô, cá khô, bánh thuốc lào, nửa ký đường cát trắng, trăm gram cà phê… Tuy quà cáp rất đơn sơ ít ỏi, nhưng đôi khi sơ ý ngủ gục, vợ con của tù cũng bị cướp sạch trơn. Ai vô phước đeo bông vàng, đều bị giật đứt lìa tai, máu chảy ròng ròng. Thậm chí áo quần mặc trong người, nếu vô tình “lọt mắt xanh kẻ cướp” coi “bộ đồ gió, bộ đồ vía” polyester mới xỏ vô lần thứ nhứt, cũng bị bọn ấy trấn lột trắng trợn. Bạn tôi thế mà linh:

                        - Tao đi thăm nuôi tù chính trị, chớ có phải đi coi ca nhạc, hay đi ăn tiệc tùng gì, mà tao xum xoe diện áo quần bảnh bao. Hử? Khi trời tối canh ba, cướp ùa ra trấn lột hết, chỉ còn bộ đồ lót. Có may, thì nó quăng cho bộ đồ rách cụt ngủn, vợ tù khóc hu hu, đi chân đất tới thăm chồng. Khi đó thì mi tha hồ mè nheo nè:
                        Ngày xưa ăn nói dễ nghe,
                        Bây giờ cẳn nhẳn chua lè khó ưa.
                        Ngày xưa thích được mây mưa,
                        Bây giờ hạn hán hết ưa tù tì
                        Ngày xưa thường sánh vai đi,
                        Bây giờ chỉ thích năm ì xem phim.
                        Ngày xưa nhớ nhau đi tìm,
                        Bây giờ mặc kệ... con chim mất dzồi. (*)

                        * Chuyện thứ hai:
                        Anh Trần Công Thái (là con trai bác Cửu Trí quê làng Hưng Nhơn, Tổng An Thơ, Hải Lăng), anh tốt nghiệp trường Tây, rồi dạy học, sau đó anh động viên đi lính, trở về Tiểu Khu Tuyên Đức. Nhà anh ở Nam Thiên, khi đất nước vừa ngấp nghé phong phanh có danh nghĩa hòa bình, thì tối ngày 24 tháng Tư năm 75, anh ngủ ở nhà. Nửa đêm có nhiều người mặc đồ đen đội nón tai bèo, quàng khăn xanh đỏ tới nhà anh đập rầm rầm vô vách, gọi cửa tới tấp. Chị Thái hoảng hốt mắt nhắm mắt mở, bàng hoàng khi thấy súng ống lên nòng rốp rốp, lăm le chỉa trước ngực dân, họ xông vô nhà, chẳng thèm nói một câu phải trái, họ bịt mắt, lấy báng súng dụi sau lưng, trói thúc kéo anh xềnh xệt lôi đi.
                        Chờ bọn kia đi khuất xa vô rừng, chị Thái chạy qua bên nhà láng giềng gần nhứt báo hung tin. Ai nấy đều lo sợ hãi hùng, chẳng biết khi nào đến phiên ta!? Mọi người bàng hoàng lo sợ hoang mang, vì cách mạng thành công giải phóng Đà Lạt trước Sài Gòn rồi đó! Sau ngày 30-4, một tốp người đi kiếm củi trong rừng sâu trở về phố, họ len lén hấp tấp tạt qua nhà báo chị Thái biết:
                        - Bà chị, ở miệt suối Cát Tiên có sáu nấm mồ mới đắp cạn chưa mọc cỏ, đã xông mùi thum thủm thúi, trên một nấm mồ kia có tấm áo đẫm máu đề tên: “Trần Công Thái”.
                        Chị vợ vốn dĩ là một người đàn bà tra trắn, lanh lẹ, lảy chảy, nghe tin chồng đã chết, ấy mà chị không dám vô nơi quỷ cốc thâm u, để xác minh tin chấn động? Sao họ giết anh Thái đẹp trai, nghèo, nghèo lắm, trên răng dưới đế giày. Anh hiền lành vui vẻ, bao dung và độ lượng. Anh chưa bao giờ làm mất lòng một đứa trẻ, anh không thiết gì ngoài việc thích dạy học, đam mê hội hoạ. Anh vẽ phong cảnh & chân dung sống động tài tình.

                        Người ta tụm năm tụm ba, xôn xao to nhỏ thì thầm bàn tán đủ thứ chuyện. Không ai giải được con số bí ẩn!? Sự về thiên đàng hay sa hỏa ngục, không ai tránh khỏi, chẳng ai biết trước sớm hay muộn. Duy có điều cái chết đến với anh Thái, đối với họ hàng thân quyến quá đột ngột, đầy kinh hãi không ai có thể tin “cách mạng” lại làm như thế! Khi đám con dại chín mười đứa nheo nhóc, rất cần cha chăm sóc, dìu dắt đến nơi đến chốn. Người thân, ngậm ngùi thương tiếc, bàng hoàng khi vĩnh viễn mất một người đáng yêu, đáng kính dường bao! Nhưng không ai dám hé môi than thở một lời nào. Vì, điều ấy... do cách mạng đã thành công rồi, thì trả thù dân tộc từ đó!?

                        * Chuyện thứ ba
                        Một hôm, đang bới móc đống rác ở cuối chùa Hoàng Pháp (thuộc Huyện Hóc Môn), tôi nghe một tràng súng nổ dòn, thật diếc con ráy, khiến tôi giật mình lo sợ kinh khủng. Bộ đội, công an súng chĩa tới trước, chạy rần rần. Họ quát tháo kêu gọi nhau ầm ĩ báo tin:
                        - Thành Ông Năm có tù “sĩ quan Ngụy” trốn trại.
                        Tôi cùng năm bảy người dân đen ngơ ngác phút giây, rồi ùn ùn chạy đến bờ rào kẽm gai sát thành Ông Năm, ngóng cổ lên nhìn xem cảnh tượng rùng rợn xảy ra: Có một anh tù bị trói thúc ké, quần áo tù binh bê bết máu, tay anh ấy ôm bụng, khúc ruột trắng lòng thòng lòi qua kẽ tay. Anh ấy gò thân chậm bước, hình như không thể bước mà rệu xuống. Thì một công an trở báng súng giáng mạnh vô lưng anh ấy kêu "cái hự".

                        Một anh khác bị cột bởi sợi lòi tói cả hai tay chân và xỏ dưới cán tre. Không phải họ gánh anh ấy đi, mà họ lôi kéo anh ấy đi lệt xệt, lê theo vệt máu đỏ từ bả vai chảy tong tong xuống đất. Anh ấy giống con heo mọi bị đồ tể cột bốn chân gánh đi làm thịt. Bàn chân bầy nhầy, giơ bắp đùi mở toang hoang, lòi khúc xương nhọn trắng phếu. Toàn thân anh ấy nẩy lên, đập xuống tưng tưng. Đau đớn nhất có lẽ là chiếc đầu trí thức va cồm cộp vô những cục đá lởm chởm trên đường, đầu anh ấy luôn lắc qua lắc lại, kêu lộp độp. Mặt anh ấy tái méc, nhưng đôi mắt sáng quắc trợn lên, lông mày nhướng cao, quai hàm bành ra, môi nghiến chặt. Anh ấy không hề hé một tiếng kêu, dù chỉ tiếng than rít qua kẽ răng!

                        Lẽ ra bọn dân quèn chúng tôi còn được dòm xem "những pha tình cờ kinh hồn quái đãng" khác, nhưng có một tên cán bộ ngồi xổm đi “tè re tháo tỏng” ở lùm cây hồng tiên, gần chỗ đám dân ngu khu đen đứng, hắn đã phát hiện ra chúng tôi lấp ló bên mé rào thành Ông Năm, sợ dân thấy việc kinh khủng bị lộ, nên vụt đứng dậy, hắn la bai bãi, tay khoát lia lịa đuổi dân đi ra khỏi vùng ấy. Bọn tôi liền dzọt đi, vừa chạy vừa la ơi ới:
                        - Công an bạn dân đánh tù, bà con ơi.
                        - Bọn đó giết tù "cải tạo" coi ghê lắm...
                        Hai tên công an khác rượt theo chúng tôi, cho đến khi bị hàng kẽm gai chận lại, họ mới bắn phát súng chỉ thiên. Ban đầu nghe tiếng súng, tôi sợ hãi nằm úp mặt xuống đất, rất sợ bọn ấy hăng tiết vịt ria ẩu, mình sẽ lạc đạn. Nhưng sau khi ngước lên nhìn, tôi thấy chúng chỉ đứng lại bên trong hàng rào dây kẽm gai mà hù doạ, nên tôi kêu mấy bà kia đứng lên. Rồi chúng tôi trêu chọc bọn công an: người thì vỗ bụng dưới bồm bộp, người quay về phía họ tụt chút xíu quần đen ra, bà ấy chỉ chỉ vô mông, quẹt quẹt vô đít mình mấy cái, rồi vất tay về phía bọn công an, mà cười ha hả. Người thì lấy nắm tay bụm lại thoi thoi vô không khí. Còn tôi nhăn răng le lưỡi và giơ hai bàn tay ngược lại, làm cái kèn để lên miệng, lắc lắc mấy ngón tay nhúc nhích, chọc quê họ. Nghĩ lại tức cười... chúng mình già trên dưới "hai ba bó củi" cả rùi, nhưng đôi khi còn có những hành động "ngây thơ" như trẻ nhỏ, cũng quá vui vẻ và ngộ thiệt!

                        Ít lâu sau, toàn Huyện Hóc Môn biết tin mấy anh ấy bị trọng cấm biệt giam, bị tra tấn hành hạ dã man, tay chân mang gông cùm, gỗ dằm cứa vô da, thối rữa thịt, dòi bọ lúc nhúc ở hai cườm tay và mắc cá chân. Hai anh ấy bị nhịn đói, không hề được cho ăn uống, chẳng thuốc men, không hề có thứ gì... cho đến chết. Họ bị bắn, chỉ vì các anh đi hái rau “cải thiện” ở ngay trong những vòng kẽm gai trại tù, hầu ăn cho đỡ đói lòng. Do: Năm đồng đổi lấy một xu. Thằng khôn 'đi học', thằng ngu làm thầy. (1)

                        * Chuyện thứ tư

                        Thuở ấy tôi đã có trí khôn, nhưng ưa thích hái hoa bắt bướm ngoài vườn rau, nghe ba tôi gọi con gái út vô nhà chào anh họ mới tới thăm. Tôi vô phòng khách, thấy chị Ấm (chị ở Huế và chồng chị đổi lên Đà Lạt. Thời gian hơn một năm đầu, anh chị Ấm tá túc ở nhà ba mẹ tôi, chị Ấm là con ông bác ruột, chồng chị là Trung tá Phạm văn Minh, An-ninh Quân-đội). Trong phòng khách còn có anh Xích ở dòng tu về nhà nghỉ hè, và một người đàn bà lạ. Do sự giới thiệu của chị Ấm, nên anh Xích mới quen biết với bà ta có đồn điền của Tây ở Xuân Lộc. Họ lên Đà Lạt đã ghé thăm ba má tôi. Hình ảnh đầu tiên khi tôi gặp mặt người anh họ: Anh trắng trẻo, cao ráo, trẻ trung, khá đẹp trai, mái tóc cắt cao bồng bềnh sóng gợn, anh ăn nói hóm hỉnh, hoạt bát, linh động, vui vẻ, lúc nào trên môi anh cũng nở nụ cười tươi, anh kể nhiều chuyện dí dỏm. Khiến tôi có cảm tình ngay với ông anh họ nầy.

                        Ngược lại bà bạn của anh Xích quá bình thường, có nghĩa là chị không đẹp, trông không sang, nét mặt chị già và xấu, thô thiển hơn anh tôi nhiều. Tuy rằng sau nầy bao lần dùng cơm chung trong gia đình, thì chị làm ra vẻ ngây thơ cụ... ưa nhõng nhẽo vòi vĩnh anh tôi đủ thứ, dù trước mặt người lạ hay thân, chị thích “bắt nạt anh một xí cho vui” mà coi vô duyên chi lạ. Anh thường hướng dẫn anh chị em chúng tôi nhiều điều hữu ích. Anh thấy tôi sớn sác lóc chóc, lại dốt toán và chữ Việt quá, anh thân thiện cóc đầu tôi cốp cốp. Nhưng tôi lì lợm không xoa đầu, không khóc, còn bu bám theo anh, ngụ ý lêu lêu anh "giống bà chằn kia”:
                        - Tại sao anh đi tu sắp ra cha, mà bỏ về?
                        - . . .
                        - Anh bị bà chằn kia bỏ bùa quyến rũ hả?
                        Anh cười vui vẻ xỉ ngón tay trên trán tôi, mà bảo:
                        - Ha ha... con nít biết gì, em đừng có lém lỉnh nha.
                        Sở dĩ ngày nay tôi biết làm thơ và viết văn, âu cũng nhờ một phần anh góp ý:
                        - Khi nào tới lớp Đệ Tam, Đệ Nhị, thì em nên bỏ trường Tây, ra trường Việt mà học "cho thông chữ quốc ngữ", anh khuyến khích vậy. Bài thơ "Tình Ươm Nắng" vu vơ đầu tiên, có anh dạy tôi biết cách gieo vần:
                        Mộng tương phùng ngời sáng
                        Cành cây rớt giọt sương
                        Nhớ ai tình mới nở
                        Bên thềm thơm nhánh hương.
                        Bầu trời xanh sắc biếc
                        Gió mát thoảng bên tường
                        Hàng phượng chim tìm bạn
                        Trước song gió thoảng hương.
                        Cúc đơm hoa mấy đóa
                        Rực rỡ đón mùa sang
                        Nhịp cầu thương mới bắc
                        Ngồi đây nhớ ngút ngàn.
                        Bên hè tình ươm nắng
                        Nhớ màu áo anh mang
                        Cành hương thơm mùi tóc
                        Hừng đông thấy rộn ràng. (2)
                        Có mấy lần gia đình tôi đi Ba Mê Thuột thăm họ hàng và đồn điền cà phê bạt ngàn của bác Hường (cạnh phi trường, chợ, và nhà thờ). Lúc tôi từ lớp Nhứt lên Trung-học ở Couvent, thì anh Xích có bằng cử nhân lâu rồi. Bỏ dòng tu, anh đi Sĩ-quan Trừ-bị Thủ Đức, tốt nghiệp khóa 2. Tôi lớn khôn có gia đình, thì anh Xích lần lượt thăng lên Thiếu tá, Trung tá trong Quân-lực Việt Nam Cộng Hòa. Ngày anh làm Tỉnh Trưởng Tỉnh Gia Định, sau đó làm bên Giám Sát Viện, thì anh em chúng tôi người chân trời kẻ góc biển. Kể từ đó thân nhân thực sự xa cách nhau dài lâu. Tuy thế, thông qua đại gia đình thân tộc, chúng tôi đều biết tin về nhau cả. Đến ngày mất miền Nam, anh Xích vượt biên ở Rạch Giá, chẳng may bị bắt, họ đưa anh lên trại tù quân khu, canh giữ anh rất chặt chẽ từ năm 1977. Sau 1978 trại tù dời về vườn Đào thuộc Xã Mỹ Phước Tây, Huyện Cai Lậy, Tỉnh Mỹ Tho. Tôi đi thăm nuôi chồng. Bất ngờ nghe tin anh Xích bị biệt giam cay nghiệt nơi đây, lòng tôi cảm thấy đau buồn và thương anh biết bao! Tôi nghe chồng nói lại:
                        - Anh Xích "khả sĩ tử bất khả nhục" ở tù, do anh có lập trường kiên định, cứng rắn, anh không chịu cúi đầu khuất phục bọn ngu dốt lên làm vua, cỡi đầu cỡi cổ, vì anh có tấm ảnh đã chụp chung với Tổng Thống Diệm, nên anh bị cán bộ đánh đập tàn nhẫn, dã man, anh bị nhốt trong cornex thường xuyên. Tối hôm đó có hai bạn tù đi lên trạm xá xin bác sĩ cấp cứu một người ở trong lán trại bị đau nặng. Họ nhìn thấy tên cán bộ cẩn thận mở ba lớp khóa ở cornex hừng hực nóng, hắn nói:
                        - Tôi tha cho anh, hãy đi đi.
                        Tưởng thật, anh Xích bước đi trước độ chừng năm mét, thì hắn nổ một tràng súng bắn từ phía sau lưng anh. Hắn tri hô lên:
                        - Tên nầy trốn trại! Tôi bắn đấy.
                        Trong trại tù ai nấy đều rụng rời nghe hung tin, nhưng không một ai tin về điều cán bộ nói. Vì tù "cải tạo" đều biết anh Xích hiện đã bị nhốt "trọng cấm" ở trong xà lim, nơi cornex có nhiều lớp khoá kín bưng, con ruồi bay không lọt vô trong, huống hồ gì anh là một người cao to dường ấy, nếu anh có được thả ra khỏi xà lim, chắc chắn anh thất thểu rệu rạo chập choạng bước đi không vững, vì anh đã bị cùm hai chân, lâu ngày, có thể bại xuội, làm sao anh thoát ra ngoài với từng ấy ổ khoá ngược, mà chạy trốn trại?

                        * Chuyện thứ năm:
                        Những buổi chiều gần cuối tháng Sáu năm 1976 tại đảo Phú Quốc, theo lịnh của cán bộ thì mỗi người tù đều phải gò một chiếc xô nhôm, có nắp đậy kín, chiều cao độ 30cm, đường kính độ 18cm, để mỗi cá nhân ngồi, và tiêu, tiểu, tại chỗ trên tàu thủy. Luật nghĩ: "Có lẽ chúng lại cho dời tù đi đâu đây". Trời mưa tầm tả không lúc nào dứt hạt, thế nhưng trên đoạn đường dài khoảng chừng hơn ba cây số từ trại Bốn; đoàn tù trong các lán trại tù lũ lượt đi ra cảng Phú Quốc, đông đúc di chuyển về đất liền. Bởi vì Luật đã bị sốt rét da vàng rất nặng, rét run lập cập, nên anh không thể dễ dàng di chuyển. Luật đứng lại gò lưng thở dốc, phải nhờ anh Đinh Văn Sinh mang vác dùm ít đồ đạc cá nhân. Đoàn tù lội bì bõm trong sình lầy, Luật đi không nỗi, bị té chúi nhũi vô một anh tù khác. Chính đó là anh tù Kha Tư Giáo. Hai người mỉm cười gật đầu chào nhau.

                        Luật gượng đứng lên cùng anh Giáo khập khễnh đi ngang hàng, sát cánh dìu nhau chập choạng bước. Luật nhìn thấy hai tay anh Giáo đã bị bẻ quặp ra sau lưng, khóa chặt bởi hai cây thanh gỗ to hình chữ nhật, chiều ngang 20cm, chiều dài 40cm. Hai thanh gỗ đục thành một cái lỗ hình tròn, chỉ vừa xỏ hai cánh tay anh Giáo vào đấy, và đóng kín bằng một ổ khoá bự sư. Thanh gỗ dài mới rất nhám không bào, còn lởm chởm những dằm nhọn cứng tua tủa cứa vô da thịt, mỗi khi anh Giáo dợm bước đi, thì máu và những cục mủ lầy lụa tươm ra. Mùi hôi thối quanh hai cánh tay anh Giáo xông lên nồng nặc, hôi thối kinh khủng, không thể nào tả nỗi.
                        Nhưng, điều mà Luật quá sức rợn người, cảm thấy như chính mình đau đớn tột độ, (chứ dường như không phải là anh Giáo đang gánh chịu nhục hình khốn khổ kia): Đó là những con ruồi xanh u u u vẫn bay lượn, những con dòi lớn có, nhỏ có, dòi trắng hếu lúc nhúc rúc rỉa bu quanh hai cánh tay anh Giáo. Cũng có con dòi bò lên vai, lên cổ, hoặc nó lả tả rớt xuống mặt đường. Thế mà Luật chỉ thấy anh Giáo nghiến chặt hai hàm răng, anh lặng lẽ cất bước, không hề hé miệng than thở một lời nào. Luật rất khâm phục, vô cùng quý mến và kính trọng về cung cách và bản lãnh của anh Kha Tư Giáo.

                        Lúc đoàn tù chui xuống hầm của chiếc tàu thủy to tướng tối đen lềnh bềnh nước, lòng tàu rất chật chội, do nhốt khoảng vài ngàn người dưới đáy, nên gần như ngợp thở, thì Luật không biết anh Giáo đứng ngồi, hoặc nằm ở xó nào. Cán bộ bắt tù gò một cái bô, là để tự mình ngồi suốt ngày đêm trên đó, và đái ỉa tại chỗ, là vậy! Đi lênh đênh trên biển như thế chẳng biết mấy ngày. Khi đoàn tù lên bờ di chuyển bằng xe Molotova bít bùng về tới Long Giao, thì chẳng hiểu sao anh Giáo lại nằm sát cạnh bên Luật.

                        Đoàn tù đến ở trại tù Long Giao quá đông, nên tất cả tù phải nằm sắp lớp sát rạt như cá mòi, họ đều nằm nghiêng mình về một phía như nhau suốt cả đêm, thì mới có đủ chỗ nằm. Tù nằm im một chỗ chừng vài giờ như thế, thì cùng bảo nhau trở xoay qua một chiều khác, cho đỡ nhức mỏi. Lúc đó anh Giáo nằm ở phía ngoài cùng cạnh Luật, vì anh Giáo vẫn bị cùm ở hai cánh tay, khó cử động, xoay trở, nên anh Giáo đã ôn tồn bảo Luật:
                        - Làm phiền bạn đỡ dùm tôi trở dậy, cho tôi xoay qua bên kia chút nào.
                        Luật mỉm cười ngồi dậy lặng lẽ làm y lời anh Giáo yêu cầu, sau đó đa số anh em không thể nào chợp mắt. Họ nằm bên nhau thì thầm chuyện trò to nhỏ. Anh Giáo đã kể rõ cho mấy bạn nằm gần gần chung quanh lán trại nghe:
                        - Khởi đầu tôi bị biệt giam khốn khổ tra tấn dã man vô cùng, là thế nầy: Ban đầu có một “thằng cần câu” nào đó trong đám tù chúng ta, đi méc với cán bộ : "tên Kha Tư Giáo đã hát nhạc vàng".
                        - Thì tôi cười mà nói:
                        - Hát là hát ca cho vui xí, chứ nhạc vàng, nhạc đỏ gì đâu!
                        - Thế là từ đó trở đi... họ nói tôi có tài hùng biện, giỏi lý luận, tiếp sau tôi bị “đì” tới bến; mới sinh ra đủ thứ chuyện oan khiên! Cán bộ đưa cho tôi một gram giấy pelure dày cui, bắt tôi ngồi tại chỗ viết ra, phân tích, so sánh về lý thuyết Karl Marx. Tôi đã phân tích tỉ mỹ hai chế độ: miền Nam & miền Bắc, bên đúng, bên sai. Rồi đến chuyện tôi thẳng thắng đốp chát, hùng hồn tranh luận về lý thuyế́t cộng sản trực tiếp với Võ Đông Giang. Xong xuôi sau đó... a lê hấp tôi bị cùm mục gân!

                        Anh Giáo dõng dạc từ tốn kể rất tỉ mỹ chuyện anh đã tranh luận, phân tích mọi khía cạnh của từng vấn đề ra sao! Hầu như những anh tù nằm gần bên đều im lặng lắng nghe như thế, không ai ngủ ngáy gì được! Ngoài hai cánh tay bị dòi rúc, máu mủ lầy lụa, trơ lòi ra khúc xương trắng thành một vòng tròn theo cái "cùm" (còng) gỗ ra, Luật nhận thấy anh Giáo vẫn khỏe mạnh, trí óc anh minh mẫn, anh ăn nói lưu loát, đàng hoàng chững chạc, trí thức, từ tâm và độ lượng. Nhưng anh Giáo rất trực tính, anh không hề có dấu hiệu nào là người “khùng” hay điên dại đau ốm gì.

                        Khoảng hơn bốn giờ sáng (của một buổi đầu tiên khi vừa đặt chân lên đất liền, vô ở lán trại Long Giao một đêm nầy thôi), thì có một tốp bộ đội tới ngay lán trại, họ kêu anh Kha Tư Giáo đi. Ngoài trời vẫn còn tối mịt, Luật không biết họ dẫn anh Giáo đi đâu! Độ chừng bảy giờ sáng ngày hôm đó, thì cả trại bàng hoàng, rụng rời, băn khoăn, lo lắng khi nghe tin anh Giáo đã chết!? Nhiều nghi vấn cho rằng anh Kha Tư Giáo đã bị chích thuốc độc. Một người bạn cùng tù ở đội 2 của trại 4 Long Giao với Luật tên Ẩn luôn nhắc nhở anh em bạn:
                        - Sau nầy, chúng ta sẽ cố gắng lập một nhóm bạn, đến ngày 30 tháng 6 mỗi năm là làm giỗ: để tưởng nhớ anh Kha Tư Giáo. Đồng thời anh tù Phong đã làm bài thơ lưu truyền rất nổi tiếng trong giới tù ca Xuân Lộc:
                        Chúa Nhật của người tù. Chúa sao không đến thăm!
                        Người tù ngồi đập đá giữa cơn rét căm căm.
                        Chủa Nhật của người tù có bao giờ được yên.
                        Ngày làm không kịp thở dưới họng súng vây quanh.
                        Chúa nhật của người tù Chúa sao không đến coi.
                        Áo quần tơi tả, bước như những bóng ma trơi.
                        Chúa Nhật của người tù có bao giờ được nghe.
                        Hồi chuông nhà thờ đỗ, thay tiếng quát liên hồi!
                        Chúa Nhật mùa Xuân thay trâu kéo cày
                        Chúa Nhật mùa Hạ vào rừng lấy mây.
                        Chúa Nhật mùa Thu lên núi kéo gỗ
                        Chúa Nhật mùa Đông lên cơn rét rừng.
                        Chúa Nhật người tù Chúa sao không đến cho
                        Người tù ôm bụng đói ước một bữa cơm no.
                        Chúa Nhật của người tù muốn đêm về thật mau.
                        Nằm lịm trong mộng cũ mơ những Chúa Nhật nào...

                        * Chuyện thứ sáu Trại Tù “cải tạo” Đại Lợi.
                        Bác Hồ chết phải giờ trùng.
                        Nên bầy con cháu dở khùng dở điên.
                        Thằng tỉnh thì đã vượt biên.
                        Những thằng ở lại nửa điên nửa khùng. (*)
                        Chỉ là thế thôi. Anh ra đi “cải tạo” tù tội mút chỉ cà tha, anh đã vất lại gánh hành trang quá nặng trên vầng trán nhăn nheo già nua cuả mẹ, trên đôi vai gầy khô đét cuả vợ, trên bờ môi héo hon cuả con trẻ dại khờ. Ngày ngày mặt trời bừng lên soi dọi mọi xó xỉnh, nung đỏ mặt đất, đè nặng hoàng hôn với bóng đêm buông về hừng hực hơi nóng muốn lột da! Bao năm sống trong quá khứ ngục tù “cải tạo”, hy vọng và tự do vẫn nằm ở chân trời xa xăm, có thể còn đầy gian truân thử thách đã bị lãng quên, nay bùng trỗi dậy. Một thời lừng danh rạng rỡ huy hoàng đã hết, nay anh phải dùng những viên thuốc ngủ bé tí xíu, để xoa dịu cơn đau tâm hồn & thể xác. Vì thực tế "người nuốt những hờn căm"...:
                        Vàng phai trên thanh gươm.
                        Người mái tóc điểm sương.
                        Ngựa tung vó trong mưa buồn trên quê hương sầu thương.
                        Đường mây vỡ tan thành mộng trong cô đơn còn mơ sa trường.
                        Bóng xô nghiêng hoàng hôn.
                        Mài gươm trong cô đơn.
                        Người nuốt những hờn căm.
                        Ngựa nuôi móng non thay bờm trên quê hương cuồng giông.
                        Đường xa dẫu xa muôn trùng trong đêm nay ngựa phi sa trường.
                        Bóng dõi bóng quê hương.
                        Chiến mã đã đến sát dòng sông đêm quê hương mênh mông.
                        Sao chưa hừng đông?!
                        Chiến mã rất khát miếng nước trong trên quê hương tang thương
                        Ai qua trường giang...!? (Trần Lê Việt)
                        Chao ôi! Làm thế nào được khi chiến mã đến sát giòng trường giang trên quê hương nầy, chỉ còn là dòng sông cạn và đục ngầu. Dẫu qua bao mùa giông bão, chiến mã vẫn khát miếng nước trong! Không còn cảnh "đem đại nghĩa thắng hung tàn. Lấy chí nhân thay cường bạo"*. (*Nguyễn Trãi). Có câu sau mà ai đó đã nói rất chí lý: “Phẩm giá con người được tôn trọng trong sự hoàn thiện và cao trọng”. Thế nhưng ở thời buổi mất hết tất cả nầy, nay chỉ ùn ùn mọc lên: Một trong muôn vàn trại tù khủng khiếp nhứt tại đất nước đã mang danh hiệu “thống nhất, hoà bình và tự do”, thì quả thật đã có trại tù Đại Lợi (một cao ốc của Mỹ bỏ lại) nằm chình ình ngay ở thành phố Sài Gòn, sát nách bên khu chợ ông Tạ. Con đường ấy ngày nay đã đổi tên lại: Phạm Văn Hai.

                        Nơi trại tù Đại Lợi có quá nhiều phòng giam nhỏ trên một cao ốc năm từng lầu. Mỗi phòng giam làm bằng vật liệu nặng kiên cố bê tông cốt sắt, mỗi phòng có chu 3 x 4 mét, mỗi phòng có một cái xô nhựa lớn, có nắp đậy, dùng để cho tù đi tiêu, đi tiểu sau năm giờ chiều. Mười người hoặc mười bốn người tù bị nhốt trong một phòng kín như bưng, có song sắt to chắc chắn, và dĩ nhiên có sợi xích sắt to bằng nửa cùm tay chạy vòng quanh những song cửa sắt, cuối cùng còn chấn thêm ổ khóa bự sư. Một tù đã bó gối buồn bã ngâm nga:
                        Tang bồng hồ thỉ nam nhi trái;
                        Cái công danh là cái nợ nần.
                        Nặng nề thay hai chữ quân thân,
                        Đạo vi tử, vi thần đâu có nhẹ!
                        Cũng rắp điền viên vui thú vị;
                        Trót đem thân thế hẹn tang bồng.
                        Xếp bút nghiên theo việc kiếm cung,
                        Hết bốn chữ "tinh trung báo quốc".
                        Một mình để vì dân, vì nước,
                        Túi kinh luân từ trước đến nghìn sau,
                        Hơn nhau một tiếng công hầu. (Nguyễn Công Trứ)
                        Ngay sau đó mươi lăm phút, tên quản giáo chẳng thể hiểu thơ văn trứ danh của thi sĩ, đã phán cho anh tù tội “có mưu đồ dùng thơ lôi kéo tù phản động”. Anh tù chưa kịp há hốc miệng, chẳng hề cự nự, liền bị bốn công an súng ống nai nịt điệu đi lên tít tóp trên trần thượng, nơi cao chênh vênh tha hồ bọn họ đánh đấm hành hạ dã man…Tù sưng húp mặt mũi, máu me lênh láng, tù bị còng tay cùm chân, tự chui vô trong cornex bịt bùng, mấy ổ khoá bự sư siết bên ngoài cánh cửa ti hí, nóng hầm hập suốt ngày đêm, và dĩ nhiên anh tù đói khát triền miên đó là Quốc, Trung Úy Thủy Quân Lục Chiến, cháu cuả tôi. Úi chao! ở thời buổi nầy cháu có điên không, mà ca với ngâm làm gì cho đau đớn khổ vậy cháu ôi!

                        Mùa hè tù nhân ở trần, họ chỉ mặc mỗi cái quần xà lỏn, ấy thế mà trong phòng vẫn nóng như nằm trên cái chảo nung đỏ lửa. Mỗi buổi sáng, sau khi một anh tù (đến phiên trực ban), có bổn phận khệ nệ xách cái xô nhôm, lò dò đi xuống những dãy lầu Đại Lợi, tù đem xô nước cứt đái ra đổ trong bồn chứa to ơi là to, để tưới rau xanh. Cũng từ cái xô tráng rửa qua loa đó, (vì khan hiếm chả có xà bong, không sẵn có nước máy, giếng khô cạn). Họ rửa cái xô nầy đựng nước tắm, đôi khi thiếu vật dụng, cán bộ sai tạp dịch dùng xô ấy, xách nửa xô canh rau lều bều lỏng bỏng lên lán trại, cho tù chan vô chén bo bo ăn cầm hơi cả ngày. Tù thì thầm bảo:
                        Ở với Hồ Chí Minh.
                        Cây đinh phải đăng ký.
                        Trái bí cũng sắp hàng.
                        Khoai lang cần tem phiếu.
                        Thuốc điếu phải mua bông.
                        Lấy chồng nên cai đẻ.
                        Bán lẻ chạy công an.
                        Lang thang đi cải tạo.
                        Hết gạo ăn bo bo.
                        Học trò không có tập.
                        Độc lập với tự do.
                        Nằm co mà hạnh phúc! (*)
                        Nếu công an bắt ai, thì ít khi lầm. Mà, lỡ có lầm, thì cứ nhốt ít nhứt vài ba năm, để “lao động là vinh quang”, và theo dõi. Thậm chí nếu người ấy chưa biết “giác ngộ”, chưa “phấn đấu tốt”, chưa “học tập tốt”, không “thành thật khai báo”, chưa “đả thông tư tưởng”, chưa sửa đổi bản thân, hay không làm “cần câu” điềm chỉ, a lê hấp cho vô tù mút mùa lệ thuỷ, không về nữa. Nghe ra chữa?

                        * Chuyện thứ bảy
                        Mỗi lần có dịp đi ngang qua tiền đồn Xà Bang nằm cạnh Liên Tỉnh Lộ số 2 (LTL2), nối liền từ Ngã 3 Tân Phong, Quận Xuân Lộc, Tỉnh Long Khánh đến Thị Trấn Bà Rịa, Tỉnh Phước Tuy. Xà Bang cách Bà Rịa 28Km về hướng Bắc Đông Bắc và cách Xã Cẩm Mỹ 6Km về hướng Nam, vùng Long Khánh, để thăm chồng ở trong trại tù nầy, tôi không thể không hồi tưởng và tiếc nhớ những vị anh hùng khả kính tận tụy vì dân vì nước, đã hy sinh cho tổ quốc sống còn. Cho đến phút chót, khi vĩnh biệt cõi đời ô trọc, chiến sĩ ấy cũng âm thầm về trong khuya muôn trùng lạnh lẽo. Có thể họ âm thầm phù giúp bạn đồng-cam chịu khổ chút tình tri ngộ chăng? Huyền thoại về bức tượng “Tiếc Thương” của điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu (sĩ quan trừ bị Thủ Đức, khóa 13) há chẳng phải là một bằng chứng cụ thể hay sao?! Cư dân địa phương gần quanh vùng nghĩa trang Quân-Đội Biên-Hoà, há chẳng luôn luôn đồn đãi về chuyện anh hạ sĩ Võ Văn Hai đi lính Nhảy Dù. Dường như anh muốn nhắc nhở chúng ta tưởng nhớ đến các chiến sĩ trận vong, nghĩa tử là nghĩa tận mà! Cư dân địa phương thường rù rì kháo nhau rằng:
                        - Dưới ánh trăng ngà khuya khoắt, có người chiến sĩ mặc quần áo trận, đầu đội nón sắt, mang giày đinh, lưng đeo la lô, từ trong bức tượng "Tiếc thương" anh lính ấy đỉnh đạt bước từng bước trên bệ đá đủng đỉnh xuống đồi, băng qua đại lộ, anh ấy chỉ đến gõ cửa nhà của một bà cụ. Khi cụ bà mở cửa ra, chiến sĩ ấy cúi đầu chào, lặng lẽ cầm bi đông trên bàn tay trái, anh ấy giơ bi đông ra, xin bà cụ nước uống. Ban đầu cụ bà hoảng sợ, ngập ngừng toan lùi bước. Nhưng sau nhiều lần, cụ bà vẫn thấy chiến sĩ ấy xuất hiện, cúi đầu im lặng, trầm buồn, âm thầm không hại ai. Cụ bà xúc động, vội vàng trở vô nhà, cụ niềm nở ân cần rót nước, đem ra cho người lính đơn độc. Thương lắm thay! Cụ bà ngẩn ngơ đứng nhìn anh từ từ quay trở lên trên đồi hoang vắng.

                        Giòng tình cảm đã, đang, còn ùa về chảy qua trong đời tôi, mình cảm thấy luôn hổ thẹn, dày vò, băn khoăn, bâng khuâng bao bất nhẫn về quá nhiều hình ảnh sống động không thể gội rửa, xóa sạch... Lúc nầy đôi chân tôi không còn sủng ái tin tưởng lẫn nhau, nên một trong hai bàn chân kia đã giận dữ, tự nhô lên hụp xuống, nếu chân nầy chấm, thì chân kia phản nghịch lại phết, làm tôi mệt nhoài run rẩy, chới với nghiêng ngả hoài. Cứ như thế mà hai đầu gối lập cập bò lết trong cõi đời ô trọc. Chính “xéc” là “hai thằng chân” đã “phẻn” đối cái bản thân tôi nặng quá tải đang nhún lên nhún xuống trong đời sống bốc lửa.
                        ***
                        Tình Hoài Hương

                        Thơ Tình Hoài Hương
                        Lượm lặt sưu tầm đó đây trên Net
                        Thơ và nhạc: Trần Ng Phong.
                        Lời & nhạc: Trần Lê Việt
                        Last edited by Tinh Hoai Huong; 06-28-2020, 04:22 PM.
                        Bút trần nào tả được lưu luyến!
                        Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                        Tình Hoài Hương

                        Comment


                        • “NƯỚC” Cạn, thì “Đổi Đời"


                          Tháng Tư Đen
                          Nhạc Trần Lê Việt
                          Lời: Lê Xuân.
                          Giọng hát: Việt Long
                          “NƯỚC” Cạn, thì “Đổi Đời"
                          Tình Hoài Hương
                          *

                          Lòng tôi trào dâng lên nỗi ngậm-ngùi, đắng cay, chua chát dường bao! Những tiếng nấc uất hận, giọt lệ vô cớ trào lên bờ mi tôi lăn hoài xuống má. Bởi vì tôi làm lụng quá vất vả đủ thứ chuyện, không ngơi nghỉ: Tôi thoăng thoắt đan áo lạnh để bán, (phụ nữ sinh sống tại Đà Lạt thì hầu như 85% tự biết đan áo len khá đẹp, thành thạo). Tôi may quần áo bằng kim tay cho con, bàn tay tôi lướt mau trên những đường chỉ thật đều, không thưa không vụng.

                          Khi có các vụ mùa thì tất cả bà, cháu, mẹ con tôi bươn bả đi các nơi, nào là: làm ruộng, nhổ cỏ, cấy mạ, đi mót đậu, mót khoai, mót rau, mót nhặt bao ni lông... Rồi nâng niu mang về: đậu, rau, khoai… lớp rửa sạch, nhín nhút để dành từ từ ăn ngấu nghiến, lớp phân ra độn với ít gạo tẻ, hoặc chia đậu que, đậu phụng kho mặn. Tôi nấu thứ rau chóng héo để ăn trước. Lượm giấy carton khắp các mọi nẽo đường, tôi khiên về nhà ngồi bệt xuống vĩa hè, vuốt thẳng ra, xếp gọn để vô một góc, bọc ni lông thì ôi thôi: ở bên trong đựng đủ thứ tanh hôi, bẩn thỉu dơ dáy vô cùng. Tôi xăn quần lên tận háng, đứng trong thau nhôm đạp bọc ni lông giặt giũ cẩn thận, đem ra cánh đồng đầy nắng phơi khô. Hôm sau mẹ con đội đến hãng ve chai bán, lấy tiền về đong từng lít gạo.

                          Ở Việt Nam là thế, nhưng ở bên Moskva vào những năm 1970 khi mùa đông giá rét, có tin đồn là ngày hôm sau cửa hàng số 1 sẽ có thịt. Ngay hôm đó trước cửa hàng đã có hàng chục ngàn người với áo khoác ấm, giày cao cổ, đứng thành hàng dài. Lúc 3 giờ chiều một người bán thịt đi ra, nói:
                          - “Thưa các đồng chí, ban chấp hành trung ương vừa gọi xuống, thông báo rằng không đủ thịt bán cho tất cả mọi người, vì vậy mà dân Do Thái nên về nhà”.
                          Dân Do Thái nhẫn nhục bước ra khỏi hàng. Những người khác tiếp tục đợi. Lúc 7 giờ tối người bán thịt lại bước ra và nói:
                          - “Thưa các đồng chí, ban chấp hành trung ương vừa gọi xuống, thông báo rằng: hóa ra là không có thịt, vì vậy mọi người nên về nhà”.
                          Đám đông tản ra, vừa đi họ vừa lầm bầm:
                          - “Bọn Do Thái lúc nào cũng gặp may!”. (2)
                          *
                          Thường khi đi làm ruộng ngang qua khu vực có chiếc phi cơ rơi ngay sau ruộng lúa, tôi tần ngần bâng khuâng dừng lại nhìn chiếc trực thăng nầy bị bắn rớt sáng sớm ngày 29/4/75 ở sát ruộng làng Nhị Tân. Có điều lạ lùng là hồi ấy nhiều người dân, và chị tôi chính mắt trông thấy trực thăng bốc khói và rơi xuống đất.
                          Có một xe tăng bọc sắt hết xăng còn nguyên vẹn hình dáng nằm ngay trước hẽm nhà thờ Châu Nam, Hóc Môn, gần dãy nhà trại gia cư. Sau ngày "mất nước", bọn trẻ con trong các Xã: Châu Nam, Lục Nam, Tân Thới Nhì, các con em ưa leo trèo vào ngồi lắc lẽo trên khung sườn phi cơ, hoặc chiếc xe tăng, chơi trốn tìm, nô đùa. Thỉnh thoảng cũng có mấy ông lớn tuổi bu quanh phi cơ, thì xe tăng đã mất hết những đồ đạc bên trong, kể cả cánh quạt, ghế lái, v.v... Chiếc phi cơ chỉ còn trơ lại cái khung sườn. Người ta đập phá, tháo gỡ phi cơ ra lấy nhôm, sắt vụn... nghĩa là có cái gì có thể gỡ được, họ gỡ ra hết cái đó, đem đi bán ở hãng ve chai. Mặc dù họ vẫn e sợ phi cơ hoặc xe tăng phát nổ thình lình.

                          Sau nầy tôi cùng một nhóm người đi mót lúa, đi làm công, thì có cậu con trai, (con của ông bà chủ ruộng), vào giờ nghỉ trưa tôi dùng cơm nắm mang theo ăn. Cậu ấy ưa lê la đến ngồi nói chuyện với tôi cạnh bên chiếc trực thăng khác chỉ còn trơ bộ sườn, cậu ta ngửa cổ ực một hớp rượu đế, khoái trá “khà”:
                          - Cô không phải là dân làm ruộng chính cống, ha.
                          - Sao anh nghĩ vậy?
                          - Thấy cô mãnh mai, trắng trẻo và đẹp.
                          - . . .
                          - Hay là… cô sa cơ thất thế!?
                          - . . .
                          Cậu ta chỉ cho tôi một ngôi mộ vô danh, cậu ấy nói: người chết là một quân nhân sĩ quan Việt Nam Cộng Hoà, sĩ quan ấy chết trong khu vực ruộng nhà cuả cậu ta. Do ba cậu đã vội vàng lén lút tẫn liệm và chôn cất người lính bên lề đường, vì sợ oan hồn không ai hương khói, sẽ lởn vởn quanh họ quậy phá, cậu ta là con ông bà chủ già khá giả, hiền hậu, chân tình, rất tốt với tôi. Tôi là vợ tù “cải tạo” khi nghe cậu ta nói thế, cũng lấm lét, len lén dáo dác… nhìn thấy có một ngôi mộ đất mới đắp đơn sơ, không tên không tuổi. Nhưng tôi im re, ngu sao mà bép xép thèo lẽo, ấm ớ hỏi nầy hỏi nọ, cho lôi thôi ra, tôi không dám có ý kiến. Tôi rất sợ cậu ta làm gián điệp, chờ tôi hở môi, là a lê hấp bắt đi tù, tôi bỏ con thơ ngoài đời bơ vơ đói khát. Nên tôi chỉ gật gù ừ hử trong khu Bà Điểm mười tám thôn vườn trầu nổi tiếng… có nhiều Vẹm. Vài ngày sau, tôi “lo thăng, lo lặn" mút mùa luôn. Tôi mất cơ hội có một việc làm ở nhà chủ ruộng, khi nhan nhãn đó đây:
                          Đầu đường Đại-tá vá xe.
                          Cuối đường Trung-tá bán chè đậu đen.
                          Giữa đường Thiếu-tá rao kem. (2)

                          Tôi già khú, các con tôi là thứ con nít hỉ mũi chưa sạch, thì có sá chi chuyện lượm lon, nhặt bọc dơ, để có tấm bằng khen trong lớp mà vô bổ cho dạ dày! Điều may mắn là thân thể tôi ốm o, nhỏ thó, nên tôi tự ý ngồi rị mọ may bằng kim tay một cái quần đen cùn cụt trên mắc cá, nhưng đáy quần dài xệ xệ và rộng thùng thình, (dễ độn đồ lậu, dễ chạy khi bị rượt bắt) lưng dây rút, (cột chặt vô bụng, không phải lưng dây thun lỏng lẻo). Tôi may một áo ngắn màu nâu khá rộng. Về áo ngực thì tôi tự may cái cọc-xê vải mỏng to, (có thể nhét mỗi bên ngực ít ra cũng được non 1/2 ký đường cát, đường thẻ, tiêu hột, hột điều. Hoặc thường xuyên cho hai núm vú tí nị của tôi tha hồ hút lố thuốc lá đã đời, ha ha ha...).

                          Tôi rất đắc ý, sung sướng, và khoái về sản phẩm “quần áo” tự mình phát minh và sản xuất. Bảo đảm tôi dấu nghề kinh khủng, ngu sao mà hở môi cho răng lạnh! Nên tôi không hề hé lộ tí xíu nào cho đồng bọn “con buôn đầu nậu” biết. Thiệt tình là tôi không tự hào vỗ ngực xưng “bá”, nhưng phải công nhận là tôi tự khen tôi giỏi, có óc sáng tạo thiệt đa, ít ai ranh ma, có tay nghề chuyên môn, sành điệu như tôi. Khi diện “bộ đồ vía” vô người, bỗng nhiên tôi tủm tỉm cười, nghĩ đến bài thơ rất hay:
                          . . . Em cứ mặc nhưng xin đừng quá ngắn
                          Hở phần lưng, ôi đã khó coi sao!
                          Lần đầu tiên mình tập tành mặc áo chíp
                          Huống chi đưa cái lõm rốn ra chào
                          Vô duyên thế làm sao ai coi được!
                          Mông má có đầy, mắt môi có ướt
                          Cũng không làm "tha thướt" được gì đâu
                          Lỡ quen nhau, giao ước buổi sơ đầu
                          Đừng đòi học, kiểu khoe khoang, mốt, chảnh...
                          Van em cứ hồn nhiên, đừng đỏng đảnh
                          Quần sa tanh và áo lụa Hà Đông
                          Giản dị thôi mà duyên dáng vô cùng
                          Em nên nhớ, còn cho mình ngắm nữa
                          Em cứ mặc van em đừng... thả cửa
                          Xin hãy là cô Tấm của ngày xưa
                          Mộc mạc, đơn sơ, giản dị, quê mùa...!!! ( BPT)

                          Vậy thì, thưa thi sĩ BPT yên chí nhé, thời buổi nầy đã có mấy ai dám ăn diện đỏm đáng “model xịn” như tôi nào! Thế là tôi khoan khoái hí hửng tất tả leo lên xe đò chạy đi Trảng Bàng, Gò Dầu, Tây Ninh, có nhiều lần xe qua tít bên khu chợ trời biên giới Việt-Miên: Tôi mua đường, mua vải, mua thịt, vân vân... Những thứ đó đã bó chặt trong người tôi, có bộ quần áo “sáng tác chiều tác” tinh xảo để che mắt công an giao thông & cán bộ dọc nhiều trạm gác đang lùng sục lục soát tịch thu. Thân thể tôi trở thành tròn vo, mập ú nần ú nù, phì lũ, coi tôi giống mấy mummy Mỹ. Mấy thứ vải vóc, đường cát hoặc thuốc lá thì nó khô, tôi dễ dàng bó trong bụng, làm bà trẻ có cái bụng bầu. Bụng “bầu tân thời” trong xã hội chủ nghĩa coi ngộ lắm: gồ ghề, lồi lõm, nhô lên sụp xuống, như thung lũng tình yêu núi đèo Đà Lạt.

                          Duy về chuyện thịt heo, thịt bò, thịt trâu, thịt dê... ở các chợ miền Nam như Sài Gòn, Chợ Lớn… Đa Kao, Bà Chiểu, Tân Định… hầu như khan hiếm thịt, thế nên bạn hàng như tôi ai ai cũng lo chạy đi về miền quê mua thịt cuả dân làng làm lậu lúc ba giờ sáng. Tôi thu dú bó thịt trong đùi gần sát tới háng, mà qua mắt công an cán bộ. Bó thịt vô gần bên háng, thật là một cực hình, ngứa ngáy, khó chịu, sột soạt, bực bội vô cùng! Tôi đi đứng cấn cái vì “cục đùm” cứ lắc la lắc lẽo, dềnh dàng như kẻ mắc bệnh lậu, bệnh tiêm la, sa bọng đái… chi chi đó. Có nhiều lần vào buổi trưa trời nắng chang chang, mà tôi bó hai miếng thịt heo, thịt ba chỉ, mỗi miếng độ chừng một kí lô, để rón rén qua trạm gác, tôi lum khum cúi cúi liếc liếc coi thiệt là gian, “lưng ong” đi lòm khòm, làm bộ rên rĩ như bà già đau quặng bụng muốn mắc ị.
                          Nhưng trong ruột tôi sôi lọc ọc, rổn rảng... có thể tên cán bộ đứng xớ rớ gần bên nghe bụng tôi đánh lô tô rột rột, thì ông ta nghĩ rằng: "thứ dân đen đói rách nên sôi ruột, thèm ăn í mà". Thời buổi nầy đói khát là chuyện thường, chuyện nhỏ, ông có nghĩ như thế cũng đúng thôi. Mồ hôi cha mồ hôi con chảy ròng ròng, tôi chỉ sợ hai cục thịt quấng ni lông ở hai bên đùi không chặt, dù tôi đã lấy sợi lòi tói cột siết vô đùi rồi. Do nóng và mồ hôi hột vã ra như tắm, (vì run sợ đủ thứ chuyện) thì thịt thà và sức nóng Trời ban, cộng với sức nóng từ thân thể tôi tỏa nhiệt ra, thịt trong bọc ni lông sẽ lầy lụa, trơn tuột, mà rớt tỏm xuống đất trước mặt “công an bạn nhân dân”. Thì thịt mất, tiền không có, thêm tội: mang đồ quốc cấm “lên làng lén lút, lừa lũ lục lâm làm lợn lậu”, thì a lê hấp tôi vô tù mút mùa. Ôi! nghĩ đến điều ấy khiến mình quá sợ hãi.

                          Nhưng tám tháng qua, sau những chuyến đi buôn ấy tạm suông sẻ, thì họ đã phát hiện ra “bọn bà bầu” cái tội lừa. Vì ngồi trên xe đò có chừng mười lăm phụ nữ, thì đã có tới tám chín chị có cái “bầu tâm sự to bự sư”. Những thứ mánh mung gian trá đó, tôi đã học được ở xã hội chủ nghĩa từ ngày bắt đầu có cách mạng thành công. Ngỏ hầu tôi có thể qua mắt họ, đem lên Chợ Lớn, chợ Bến Thành, chợ Tân Định… bán, ở những nơi nầy nhiều nhà giàu dư dật tiền bạc, mà thiếu thịt thà, tôm cá; thì mình bán có lời gấp bốn năm lần tiền vốn. Con buôn ai không ham! Người dân ở thành phố còn giàu, có sẵn tiền thu dú, họ thèm và ưa ăn thịt, ăn tôm tươi, cá tươi.
                          Nói đến chuyện buôn tôm cá tươi, cũng có lần tôi làm cái "mánh" bó tôm cua trong người, ui trời quơi! Tôi bị con cua kẹp cho đứt thịt đau điếng, chảy máu. Nước mắt tuôn như mưa, mà tôi chỉ nghiến răng trèo trẹo không dám khóc hụ hụ, (do tôi đã cột mấy sợi thun ở "hai càng và tay chân" nó rồi, nhưng chả biết tại sao sợi thun đứt, nên “hai con cua sổ lồng” ngọ ngoạy tay chân quơ cào, thế là tôi bị nó kẹp). Lại nữa nó tanh và hôi đến nôn mửa! Sau đó tôi "bỏ cuộc chơi", đành trở lại nghề cũ tiếp tục "bó hàng hoá" vô trong người mà đi buôn lậu)! Nhưng hàng hóa luôn thiếu thốn, thịt thà nào thấm vào đâu giữa thời buổi gạo quế củi châu. Cơ khổ thân tôi làm không thiếu thứ gì, (trừ chuyện “ăn nằm”) miễn là có tiền đem về nuôi gia đình. Tôi phải tận lực vắt cạn kiệt sức lực:
                          Thứ Hai em phải đi làm.
                          Thứ Ba em cũng vì làm phải đi.
                          Thứ Tư làm việc nên đi.
                          Thứ Năm càng phải vội đi để làm.
                          Thứ Sáu em cũng phải tham.
                          Thứ Bảy bận quá vì làm phải đi.
                          Chủ Nhật thủng thẳng nghĩ suy.
                          Ở nhà buồn quá có khi... đi làm. (1)
                          Thời gian khá lâu sau… chúng tôi chia phiên nhau đi thăm nuôi chồng bị tù tội vì bốn chữ... “học tập cải tạo”. Thật ra, chúng tôi mừng rỡ đùm túm gói ghém những gói quà tẻo teo khiêm nhường, dỡ tệ đến mắc cỡ, do cả nhà nhịn ăn nhịn mặc, vất vả nhọc nhằn đến thế, mà khó có tiền dư để thăm nuôi tù thường xuyên và xứng đáng. Xin lỗi chồng.
                          ***
                          Hội. Họp. Hành liên miên… Sau ngày đất nước "đổi đời" 30 tháng Tư... thì họp liên tục tại thôn Ấp, (nơi gia đình tôi đang trú ngụ), một tháng có ít nhất bốn năm lần buộc dân phải đi họp Tổ, nếu không họp Tổ, thì đi họp Ấp: suốt từ năm 75 đến năm 95. Không đi thì lãnh thẹo. Nhà nước không cấp phát phiếu mua dầu hôi, mua gạo, mỡ, đầu cá, đầu tôm ươn sình, đã đành. Mà dân còn bị phạt đi làm “công tác chùa" ở điạ phương không tiền công! Ai ai cũng sợ, ban ngày cùi cụi đi làm nông, làm vườn vất vả khó nhọc, ban đêm phải đi họp ở thôn ấp mình, mỗi người mang theo một cái đòn, chiếc chẹ, hay đoạn chiếu cũ! Ai không có, rút dép mòn kê dưới mông, hay ngồi bệt xuống đất.

                          Phần tôi, do họ biết tôi có chút xíu "trí thức", nên mỗi lần bà Trưởng Ấp đi họp trên thành phố nhà Hồ, hoặc tới các miền "giao lưu văn hoá" khác, thì tôi phải lẽo đẽo đi theo bà, ngỏ hầu ghi chép khi họ "bá cáo", đi làm “công chùa” mút chỉ cà tha. Nói là đi họp để báo cáo về thực phẩm, vải vóc, nhưng thật ra đó là một cách kiểm soát chặt chẽ mỗi nhà, mỗi người. Họ vắt cạn kiệt sức lao động con người như vắt miếng chanh hết nước.
                          Hôm nay có "bàn hội nghị", trước khi họp, cán bộ chính trị trịnh trọng dõng dạc hô:
                          - Toàn thể "rân" chúng đứng "nên" tôn vinh tưởng "liệm" Bác:
                          Bác Hồ ta thật vẻ vang
                          Đang từ khỏe mạnh chuyển sang… từ trần (2)

                          Sau đó từ từ chuyển tông sang:
                          Cùng vào lăng bác đi cầu
                          nguyện cho thân quyến vừa giàu vừa sang. (2)
                          Sau đó nữa, cán bộ quơ tay ra dấu dân chúng ngồi xuống, giải thích về việc bầu bán:
                          Ta đi bầu cử tự "ro"
                          Chọn người xứng đáng mà cho vào hòm (2)
                          Cán bộ chính trị trên thành phố xuống chủ trì (ngoài Bắc vô Nam) ông đứng dậy hân hoan vui vẻ trịnh trọng chống nạnh, nói:
                          - Hôm "lay" nhà "lước" ta nhiệt "niệt" chào mừng các đoàn đại biểu từ khắp "lơi", đến tham "rự" hội thảo: Trước hết tôi "rới" thiệu:

                          1. Đoàn Việt "Lam" (Nam) có “rân” tộc Thiểu số trên Cao Nguyên vùng sâu vùng xa về:
                          Lò Văn Tôn.
                          Cú Có Đeo.
                          Lừa Song Phắn
                          Nông Đức Đai
                          Bạc Cầm Cu

                          2.- Đại biểu Cộng Hoà "Rân" Chủ nhân “rân Nào” (Lào):
                          Tay Xỏ Mông Thum Thủm
                          Vay Vay Hẳn Xin Xin Hẳn.
                          Hắc Lào Mông Chi Chít.
                          Xăm Thủng Kêu Van Hỏng.
                          Teo Hẳn Mông Bên Phải.
                          Ngồi Xổm To Hơn Hẳn.
                          Đang ị Lăn Ra Ngủ.
                          Lông Chim Xoăn Xoăn Tít.
                          Say Xỉn Xông Dzô Hãm.
                          Ôm Phản Lao Ra Biển.
                          Cu Dẻo Thôi Xong Hẳn.
                          Cai Hẳn Thôi Không Đẻ.
                          Xà lỏn dây thun giãn.
                          Xà Lỏn Dây Thun Lỏng
                          Y Hẳn Tay Xin Đểu.
                          Leo Tủ Ăn Đu Đủ
                          Ăn Tỏi Xong Bum Bủm

                          3.- Đại Hàn “Rân Cuốc” (Xẻng):
                          Chim Sưng U.
                          Nâng Su Chieng.
                          Kim Đâm Chim.
                          Pắt Song Híp.
                          Chơi Xong Dông.
                          Eo Chang Hy (y chang heo).

                          4.- Nhật Bản:
                          Xa Ku Ta ra.
                          Ta Cho Ku Ra.
                          Cu ta ta xoa.

                          5.- "Niên" Bang Xô Viết:
                          Cu Nhét Xốp.
                          Cu Dơ Nhét xốp.
                          Nicolai Nhai Quai Dep.
                          Ivan Cu To Nhu Phich.
                          Trai Cop Xờ Ti.
                          Mooc Cu Ra Đốp.
                          Ivan Xach Xô Vôi.

                          6.- Ncraina:
                          Nâng Cu Lên Cô.

                          7.- Rumany:
                          Lo Nhet Cu.
                          Lôi Cu Ra Đốp.

                          8.- Trung Quốc:
                          Bành Tử Cung.
                          Quách Vô Hòm
                          Đại Cường Dương.

                          9.- Đài “Noan” (Loan):
                          Kim Xuyên Quần.
                          Hà Ra Kinh.
                          . . .

                          Một lần khác tôi và bà Mừng đi họp tại huyện Củ Chi: sinh hoạt, bầu bán, “đả thông tư tưởng, quán triệt đường lối, thi đua, nâng cao sản xuất”. Đảng lãnh đạo. Nhà nước quản lý. Nhân dân làm chủ... Kho Bạc thì... "nhà lước ta phải quản ný" mệt nghỉ! Chỉ có trưởng, phó, thư ký, an ninh, công an khu vực, thì được ngồi chung quanh một cái bàn và ghế dài cũ. Hầu như hôm nào cũng có vài ba cán bộ ngồi kiểu nước lụt, chò hỏ như con khỉ đánh đu, họ co một chân trên ghế, thờ ơ bỏ báng súng xuống bàn, tôi tưởng hắn đang chiả súng tới đám đông làm một phát “đùng”... mà lạnh cả gáy! Có “vị” vừa nói vừa ngồm ngoàm nhai bánh mì nhồi thịt, uống nước ừng ực, cũng bàn tay ấy giơ lên hỉ mũi rột rột, rồi lau vô vạt áo. Coi “vô tư”, “nịch xự” và "bình rân ráo rục" sao đâu á!

                          Bỗng nhiên, chẳng hiểu có ông bô bà lão, cô bác già nua bệnh tật nào mà "mất lết", mất na, mất danh, hoặc mất trí; vị ấy đã bị lỏng ruột già, yếu ruột non chi chi đó, nên vị ấy đau bụng đau bão, cố ôm bụng nhịn cơn xì té khói, mà không nỗi. Ui! không thể chống chọi với “cơn bão lòng”, đã “tịt ti xit…” ra một tràng rõ dài rõ to: bũm bũm bũm... xịt xịt xì... dài dài dài… (nghe như củ cà nông đại pháo, thời mấy ông Tây bà đầm xí xô dắt nhau ỏng ẹo tràn qua nước ta). Tiếng bũm... xịt... bay theo gió nồm rõ to, và trời quơi! ren mờ thối um! Khiến cả hội trường bịt mũi, phải “tốc hành” xô nhau giạt qua một bên, né sang hướng không “cuốn theo chiều gió”. Dân ngồi bệt dưới đất xôn xao náo loạn bưng mồm, bịt miệng ôm bụng cười bò lăn bò càng. Mặc ông trên bàn chủ toạ rống tên các “vĩ nhân”. Cán bộ chính trị đang thao thao bất tuyệt, đã dừng lại, im phắc, lỏ mắt, tức giận giơ nắm đấm đập mấy phát xuống bàn, quát:
                          - Ai đã “đánh rắm”, nghe hãi thế hở???
                          Hội trường nín khe im re, cũng có sợ bị cán bộ quở, hoặc bắt phạt đi lao động đó chớ. Cán bộ chính trị mặt đỏ gay, hắn là một cây sừng sỏ có nhiều tham vọng, tuy cà lơ phất phơ, nhưng hắn cần đánh bóng cuộc đời, bất chấp tất cả để đạt đến mục đích. Đầu trên thôn dưới ai mà chả biết hắn chỉ là thùng rỗng kêu to, mặt mũi sĩ diện nào ngồi chung với chúng tôi, như thế chẳng khác chi lòi cái đuôi ngu dốt, làm sao mà trị dân! Nói trắng ra là con đường tiến thân của hắn bước dần vào ngỏ cụt đang cố trườn lên. Hắn xỉ xỉ ngón tay vô đám đông:
                          - Tôi hỏi "nại": Tôi đang "riảng" về "ný" thuyết ưu việt của Bác và Đảng. Thế tại sao... ai đã "rùng" thủ thuật đấy để phản đối, hử! Cút xéo khỏi đây ngay!
                          Nhiều tiếng xì xầm to nhỏ bàn tán vang lên đó đây. Cuối cùng có một bà chính cống là “nhà giáo, nhà nhạc, nhà văn, nhà buôn, nhà cái, nhà đá, nhà giam, nhà hát, nhà giao lưu dzăn hoá” Toàn là thứ NHÀ, nghe oai và thứ dữ không hà. Bà ta ngoại tuần khoảng năm "mưi" mấy bó… bà xiả cục thuốc, chà qua chà lại lia lịa trên hai hàm răng, rồi bà nhéc bên kẽ môi trên. Khi bà ta nói thì cục thuốc to nhấp nhô, coi hay hay và ngộ ghê:
                          - Tui hỏi chút xi: cán bộ giảng về bài học cách mạng, và hỏi: ai đã “đánh rắm”... là cái điều luật thứ mấy của đảng dzậy?
                          - . . .
                          - Chị kia bảo "rì" đấy nhỉ!
                          - Bởi vì: Thiệt tình là ngôn ngữ hai miền khác nhau, tui không hiểu gì á cán bộ. Giống như những ví dụ sau đây nè:
                          Nam rờ bông Bụp. Bắc vuốt “Tường Vy”
                          Nam nói: “mày đi”! Bắc hô: cút xéo.
                          Bắc bảo: cứ véo! Nam: “ngắt” nó đi.
                          Bắc gởi phong bì. “Bao thơ” Nam gói
                          Nam kêu: muốn ói. Bắc bảo: “buồn nôn”!
                          Bắc gọi tiền đồn. Nam kêu “chòi gác”
                          Bắc hay khoác lác. Nam bảo “xạo ke”
                          Mưa đến Nam “che”. Gió ngang Bắc chắn
                          Bắc khen giỏi mắng. Nam nói “chưởi hay”.
                          Bắc nấu thịt cầy. Nam thui “thịt chó”.
                          Bắc vén búi tó. Nam “bới tóc” lên
                          Anh Cả Bắc quên. Anh “Hai” Nam “lú” (3)

                          Cán bộ chính trị ớ ra một lúc, ngẩn ngơ nhìn trời hiu quạnh, rồi la:
                          - Chị kia, cố tình trêu ngươi tôi đấy phỏng?
                          - Ông ui. Tui không hiểu nữa rùi, ông nói: “đánh rắm" dzà "trêu ngươi” là gì?
                          Cán bộ mặt đỏ tía tai hầm hầm tức giận đến cực... điểm, hai bàn tay xoắn xuýt lấy nhau, hắn vụt đứng bật dậy đi lui đi tới. Trong khi đó có một cán bộ khác ngồi chò hỏ kiểu nước lụt, ông ta chống hai tay lên cằm, ngó bạn cười ha ha:
                          - Dân miền Nam như tụi tui không hiểu chữ “đánh dắm” của đồng chí đâu. Nếu đồng chí nói là: “địt”, thì họ hiểu biết liền.
                          - Có "rì" mà chả đả thông tư tưởng hở: “Đánh dắm” hay "nà đánh rắm”... có nghĩa: muốn khỏi uất sình hơi trong ruột, trong bụng, ta cứ để cho nó tự "ro", cho hơi trong ruột hân hoan thoát ra "nỗ" đít, bay ra ngoài trời “thái mái”. Có thế mà không hiểu. Dốt thật!
                          Một ông lão “lao động là vinh quang” nông dân bấy giờ ngà ngà say, cóc sợ ai, ông ngồi bệt dưới đất, bèn thong thả lên tiếng:
                          - Dzậy chớ còn chữ “trêu ngươi” là gì, cán bộ nói đi, cho tui học nữa, cho dzui.
                          - Trêu ngươi tức "nà": cố ý chọc tức, không kiêng nể "rì", khi tôi "rảng" bài, và “đả thông tư tưởng” đấy. Hiểu ra chưa. Cố tình chưa hiểu, "nà" chống đối cách mạng đấy. Ông bảo cho mà "niệu" thân nhá.

                          Bà già xồn xồn giáo sư Văn kia trở thế ngồi ngay ngắn, bây giờ bà lại khúc khích "cừi cừi":
                          - Bởi “dzì” cán bộ nói không “gõ gàng”, nên tui có thắc mắc xi. Chèn quơi, chừ hiểu rùi, đồng chí!
                          - Ai là đồng chí với bà, mà "nải" nhải.
                          - Ồ... xin lỗi cán bộ, tui già cả ưa “guên”! Dzậy ra tui là đồng rận! thì:
                          . . . Bắc nói trổng thế thôi. Nam bâng quơ “dzậy đó”
                          Bắc đan cái rọ. Nam làm “giỏ tre”.
                          Nam không nghe “nói dai”. Bắc chẳng mê lải nhải
                          Nam “cãi bai bải”. Bắc lý sự ào ào
                          Bắc vào Ô tô. Nam vô “xế hộp”
                          Hồi hộp Bắc hãm phanh, trợn tròng Nam “đạp thắng” (1)

                          Một cán bộ miền Nam ghé tai qua cán bộ chính trị miền Bắc “cừi cừi”:
                          - Bà kia là “giáo sư dzăn-chương”, bả đi dạy trên Sè Gòn, nên xổ cả chùm nho, chùm thơ, bả dám đấu hót "dzới" cán bộ, chẳng “goa” có chồng làm khá lớn, con thuộc "dzề" tầng lớp liệt sĩ trong Nam, bả rất có công "dzới" cách mạng đó.
                          Cán bộ chính trị dịu giọng, liền lãng qua chuyện vẩn vơ khác cái rụp. Thế là vô tình buổi họp biến thành buổi đối đáp thơ tiếu lâm, vui ơi là vui, “hả hê” nhứt từ xưa tới nay. Ai ai cũng nhen nhúm chút xí hân hoan khoan khoái cởi mở tấc lòng. Tôi ngồi bệt dưới đất gục mặt lên hai đầu gối nhô cao mà nực cười, nhìn một cánh tay liệt của cán bộ Mưu luôn đong đưa, lúc lắc, thân hình y nghiêng nghiêng qua một bên, ông ta lê từng bước cứng cỏi, nặng nề đi lui đi tới, ổng mang không vừa đôi dép râu nhỏ hơn khổ chân, nên ngón út ương bướng chìa ra ngoài, cọ quẹt xuống đất, trông dễ gai hết sức.
                          Tôi nhìn lom lom ngón chân út “giao liên” xuống đất của ổng, ngón chân chìa ra chả khác nào lưỡi cày bấm sâu xuống nông trường Nhị Xuân, nơi vắt cạn kiệt sức lực người dân đen đến giọt mồ hôi cuối cùng. Trong tranh tối tranh sáng, khi tiếng ếch nhái, ễnh ương tưng bừng kêu ộp oạp, uồm uộm… tiếng dế gáy ré ré, tiếng ve sầu rã rích than van, tiếng muỗi vo ve đốt sưng đít, dân mất của mất công, mất tất cả mọi thứ trên cuộc đời ô trọc, mà phải ngồi xổm xép de dưới đất tới hơn 12 giờ khuya, nhìn lên:
                          Hội trường yên ắng ngủ say
                          Thuyết trình vừa dứt, vỗ tay ra về. (2)
                          * * *
                          ***
                          Tình Hoài Hương

                          (1) = Thơ Bút Tre
                          (2) Sưu tầm lượm lặt.

                          THH xin cống hiến quý độc giả thân mến của HQPD câu chuyện thật, để cùng nhau chia sẻ mà "cười ra nước mắt"... Đồng thời THH xin phép cám ơn quý vị nhiếp ảnh gia: đã post những tấm hình đầy nhân bản lên internet, cho tôi có thể copy vô bài viết, ngỏ hầu phong phú hoá hình ảnh sống động, và tài đức & nghệ thuật của quý vị.
                          * * *
                          Last edited by Tinh Hoai Huong; 06-28-2020, 04:08 PM.
                          Bút trần nào tả được lưu luyến!
                          Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                          Tình Hoài Hương

                          Comment


                          • Mây Xám Vắt Ngang Đời

                            Mây Xám Vắt Ngang Đời
                            Tình Hoài Hương
                            *

                            Đàn bươm bướm trắng xanh vàng nâu lí lí lắc lắc, chập chờn, nhởn nhơ, trêu trêu, ghẹo ghẹo mấy đài hoa dã qùy e lệ nép mình dọc con sông um tùm lau sậy lô nhô. Cỏ lau bông trắng bay đầy bãi ruộng lúa chỉ còn trơ gốc rạ vàng lởm chởm. Trên chiếc cầu gỗ cũ được mang tên Cầu Bông ở Nhị Tân thuộc Huyện Hốc Môn lấp loáng nhiều giọt nắng lung linh, long lanh từ mặt nước trong vắt, phản chiếu muôn tia nắng rạo rực luôn lấp lánh đổi màu. Bầu trời lơ lửng năm ba đám mây trắng dài lê thê, dài ngoẵng như sợi tơ len. Mây kéo từ thôn nầy vắt qua thôn khác, in xuống lòng sông biếc xanh. Phút chốc bóng mây trăng trắng dài lướt thướt lang tỏa ra trùm kín bầu trời, mây đổi thành màu xám đen nặng trĩu đang lững thững trôi về nơi vô định. Tôi lặng nhìn đám mây trắng và xam xám im sửng trên trời, dường như mây trông giống một dải màn sô tang trắng viền chỉ màu lam xám, đã và đang vắt ngang kiếp đời gia đình tôi cơ cực. Rồi bỗng đâu mây đen ùn ùn kéo cơn mưa ào ạt trút xuống đời suốt mấy ngày đêm, làm nặng nề thêm bầu trời u ám của:
                            “Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu Công Lý.
                            Đồng Khởi vùng lên mất Tự Do”. (1)

                            Chúng tôi đã rớt xuống vực thẳm sâu hun hút, úp mặt xuống tận đáy xã-hội chủ-nghĩa. Dẫu vậy, các con trai tôi học hành ưu tú, xuất sắc. Hai con lớn dưới mười tuổi, nhưng ba giờ sáng các con đã thức dậy, lo chạy bộ đến lò bánh bò, lò cà rem, xa khoảng bốn cây số. Các con ngồi co ro cúm rúm ngoài vỉa hè, để chầu chực chủ mở cửa, hy vọng con có hàng bán chạy rong mời khách. Tháng nắng ngày mưa các con đều khổ cực lầm than như nhau. Ngày ế-ẩm, bánh bò bị thiu, cà rem chảy nước. Chúng tôi lặng-lẽ ngồi ở góc nhà, nhịn khát, nhịn đói, khóc thầm. Vì chồng, cha, là lính “ngụy” bị ở tù “cải tạo” (tôi dùng chữ "cải tạo" phải có hai ngoặt kép). Ai dám giúp! Nhưng, thiệt khổ là hầu như đa số dân lành cũng không có ăn, không có mặc, thì lấy gì mà ai giúp ai!?

                            Ba bốn năm sau, thì con trai đầu và con trai kế mỗi buổi sáng các con nhịn đói đi học, trưa ăn qua loa tí khoai sắn cầm hơi, rồi hai con đi bán bánh bò, cà rem, tối tối con trai trưởng theo chủ ra tận Long Khánh, Hàm Tân, Phan Thiết… con cùi cụi vác trấu thuê, vác bó mía thuê. Con leo lên nóc nhà dỡ tôn, dỡ nhà, (do chủ mua) chủ & tớ đem đi bán. Con làm bất cứ việc gì dù nặng nhọc, khổ sở, miễn sao con có tiền đem về cho mẹ mua gạo để nuôi nhau sống lây lất qua ngày. Ngày hè không đi học, các con nhịn đói phải đi nông trường Nhị Xuân lo trồng thơm, trồng mía. Hoặc con làm dân công thủy lợi đi đào kênh rạch trên Lê Minh Xuân. Tối về, Đảng phát cho một tờ phiếu, dân tự vét tiền túi ra mua gạo, mua mắm (dĩ nhiên!).
                            Rồi năm sau con trai thứ ba vác thùng cà rem theo anh đi bán, khi thùng mút đựng cà rem cao tới ngực con. Các con đi học luôn luôn đứng đầu lớp, nhưng con vẫn đi bán cà rem phụ mẹ lo cho gia đình mình, Mẹ cảm động và thương các con yếu ốm biết ngần nào! "Cả nhà anh em ta" đều là "dân chuyên nghiệp bán cà rem" nhưng trong Huyện nầy chẳng có ai bì kịp việc học và việc làm của các con, vì các con kiếm sống bằng một nghề lương thiện và trong sạch, chính đáng ở chỗ các con dù đã khôn lớn, nhưng các con đi bán khi gặp bạn "đồng môn" vẫn vui tươi, hiền hoà, thân thiện, các con chẳng hề cảm thấy xấu hổ, vì nghề "bán cà rem" thấp hèn. Mẹ chân thành cám ơn và ghi ơn các con, mẹ rất hãnh diện vì từ thuở nhỏ các con đã nên người hữu ích. Mẹ mong rằng:
                            Phượng hoàng ở chốn cheo leo.
                            Sa cơ lỡ vận phải theo đàn gà.
                            Bao giờ gió thuận mưa hòa.
                            Thay lông đổi cánh lại ra phượng hoàng. (1)
                            ***
                            Con mẹ Thân là vợ của một sĩ quan Dù tên Bảo ở “chế độ cũ”, miếng thịt Thân còn nhét trong kẽ răng, ấy thế mà mụ ta đã toa rập với bọn cán bộ làm trong Xã phản bội chồng, lừa thầy phản bạn, mụ toa rập với bọn bát nháo cắt xén, bòn rút lương thực của dân đen biết bao nhiêu mà kể cho hết. Dân chết đói mà con mẹ ấy sống nhăn răng, phè phỡn, đú đa đú đởn với bọn công an cán bộ kia. Thật xấu hổ vì con đàn bà trắc nết người chẳng giống người mà giống ngợm!
                            Sau giờ lao động nhọc nhằn, bà con lối xóm hò nhau xách tụng chạy đi, chen lấn vô cửa hàng, mắng nhiết nhau inh ỏi, vì sợ hết giờ không có bo bo đổ vô nồi. Bà Muôn, bà Cát, bà Liêm ơi ới gọi tôi:
                            - Cô giáo đi mua gạo “liên xô”. Mau lên kẽo hết. Nhịn đói thì chết.
                            - Vâng.
                            Tôi lo ba chân bốn cẵng chạy theo mấy bà hàng xóm. Tôi rù rì nói nhỏ vô tai bà Cát, bà ta là người đàn bà đanh đá, chì chiết, hai hàm răng luôn nghiến lại, bà nói chuyện không hở môi. Bà luôn mồm nhắc tôi “giữ bí mật”. Ấ́y thế mà chính miệng bà ta bi bô không giữ được, và “bật mí” phun xì ra. Í dà da! Bà ta thèo lẽo, tò mò tọc mạch như con ma xó! Tôi trách chi bà.
                            - Sao chị dám nói là gạo Liên Xô hử?
                            - Chứ có bao giờ mình được mua gạo đàng hoàng, từ tốn đâu. Không “liên” tục chen lấn, giành giật, “xô” nhau mua tí gạo mốc, cứ đẩy nhau mà rách toạt cả quần ra, là gì!
                            Chị Dung cười toe:
                            - Ồ! Thì để cho… ông trùm sò dê Bảy De thèm một xí.
                            Tôi thật thà hỏi:
                            - Dê Bảy De là ai, hở chị Muôn?
                            - Là cái thằng cha mặt ngựa mỗi ngày rả rả trên “loa” phóng thanh, hắn ưa nói dóc, nói dai, nói dở, nói dổm, nói dối, nói dốt… í mà.
                            - Ai vậy cà?
                            - Bộ thích ổng rồi hay sao, mà cô cứ hỏi tới dữ dậy he?!
                            - Hổng dám đâu.
                            - Bà Liêm, bà Muôn nhìn nhau nháy mắt, trêu tôi:
                            - À, cô giỏi văn, vậy tui nhờ ổng “nhất ngoặc, nhì thân, tam thần, tứ chế”. Ổng có thần thế, sẽ giới thiệu cô vô ngành giáo dục he.
                            - Hừ! Em mà giỏi cái nỗi gì.
                            - Cô nói láo một cây xanh dờn hén.
                            - Em hỏi chị chớ: Thầy cô đi dạy, ít ra cũng phải có ba bốn bộ đồ, để thay đổi. Còn em, chỉ có hai bộ dính da. Trời mưa em giặt đồ phơi không kịp khô. Thì làm ăn cái nỗi gì!
                            - Tại vì: “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà.
                            Áo quần bán trước, cửa nhà bán sau.
                            Bác Hồ khuyên ăn cơm rau.
                            Đừng ăn thịt cá, mà đau dạ dày” (1). Nghe ra chưa?
                            - Ui Trời! Chị dám rên la he. Em… hổng dám à nha.
                            Bà Liêm háy nguýt một cái dài lê thê, chanh chua:
                            - Cô nghe cho rõ nè:
                            Một năm hai thước vải thô.
                            Nếu đem may áo, cụ Hồ ló ra.
                            May quần thì hở lá đa.
                            Chị em thiếu vải, hóa ra lõa lồ.
                            Vội đem cất ảnh bác Hồ.
                            Sợ rằng bác thấy tô hô, bác thèm.
                            Có áo mà chẳng có quần.
                            Lấy gì hạnh phúc hỡi dân cụ Hồ?
                            Có đói mà chẳng có no.
                            Lấy gì độc lập, tự do hỡi người? (1)
                            Bà Cát:
                            - Mắc mớ gì mà rên la. Tui có làm nên chế độ chế đá chi. Cô hổng thấy bên Tây, người ta có thịt, cá, ê hề, đầy nhóc, nhưng mà họ chỉ thèm ăn rau toàn là rau thôi, dù rau mắc hơn thịt gà thịt heo, thịt bò... rau mắc gấp hai ba lần mấy thứ thịt thà đó sao.
                            - Thôi. Đừng nói nữa, không khéo nói lung tung beng, mang tội chống báng chế độ, thì bị tù mọt gông đa, mấy chị ui.
                            - Tui có hai cái cùi chỏ. Sức mấy dám “chống” đối ai. Chống gậy đi thủy lợi, thì có. Ai không đi thủy lợi, thì không có phiếu lương thực đã đành. Còn phải lên Ấp, lên Huyện “học tập cải tạo tư tưởng”. Hứ! Học tập cái ngữ gì hổng biết, một chữ bẻ đôi không rành, không biết, dốt còn hơn con bò tót, mà đòi đi dạy dỗ những tay trí thức đi học tập “cải tạo” toàn tướng tá, bác sĩ kỹ sư không hà, cải tạo ai hử!? Đừng nên dùng chữ cải tạo nếu không có dấu ngoặt kép à nha.
                            - Đúng thế!
                            * * *
                            Có lần tôi bị đau nặng không đi làm thủy lợi được, thì họ bắt bà mẹ già cuả Luật đi làm việc “bù” không công. Mẹ chồng hơn bảy mươi tuổi lặn lội mót lúa, mót sắn, mót khoai… Vì “lao động là vinh quang”, mẹ đi bắt ốc mò cua, tửng bưng sáng mẹ mò mẫm ra đi khi trời còn đầy bóng tối. Rồi, tối mịt mù mẹ lò mò đội lúa trên đầu, mệt mỏi trở về. Mẹ làm việc nặng nhọc, cực khổ, nhưng mẹ luôn ăn cháo, không đủ sức “lao động phấn-đấu”. Nên đặc biệt ở trong nhà, chỉ một mình mẹ già được ăn tí cơm tấm pha ít cám chấm muối mè gói trong tàu mo cau!

                            Hôm sau, hai đứa con nhỏ bé nhứt của tôi có bổn phận phơi lúa, trở lúa, cào quét lúa đem vô nhà, không để mất sót hạt ngọc Trời ban. Chiều chiều, mấy mẹ con tôi lo giả gạo trong cái nón cối sắt (quý phẩm độc đáo cuả “tàn dư đế quốc Mỹ & Nguỵ” ấy là “mũ sắt nhà binh”). Dù quân nhân khả kính chế độ cũ nay không còn, nhưng mỗi lần xử dụng chiếc nón sắt của anh quân nhân nào đó vất lại, khi người lính lột bỏ chiếc mũ sắt trên đầu xuống, có giả thiết thứ nhứt là do người ấy không còn sống trên cõi đời nầy, thứ nhì do anh bi lụy lúc “tàn chiến cuộc”. Ôi “loại giả thiết nào” thì tôi cũng cảm thấy chua cay, đắng xót bùi ngùi, và nghẹn ngào âm thầm trào nước mắt.

                            Tuy lúa tươi phơi chưa khô, nhưng vì nhiều ngày không có tí gì ở trong bụng, nên chúng tôi tốn nhiều thì giờ phải giả lúa mót được ra thành gạo. Con trai và tôi dùng cây cột bờ rào của một nhà bỏ hoang, đem về rửa sạch, dùng cây cột nhỏ nầy chế ra làm thành cái chày, mà giả bằng tay trong "chiếc nón sắt tuyệt chiêu". Nói là “gạo” cho nó sang, chứ lúa tươi sàng sảy mỏi rã cánh tay thế nào, vẫn bị trấu, cám, bám chặt vô hột tấm, vì lúa còn tươi mầm sữa, thì hạt gạo đã vỡ nát.
                            Đói quá, chúng tôi đành nấu nồi cháo tấm cám nham nhám độn củ mì rau dền, rau lang, rau đắng mọc hoang. Chúng tôi luôn luôn ăn nồi cháo độn, bữa ăn quá sức tệ; thua bầy heo mập ú của nhà “con mẹ xu thời xu thế Thân”. Mỗi khi húp chén cháo nham nhám lẫn lộn vỏ trấu và hột tấm cám nầy, ai nấy trong gia đình tôi đều nghẹn ngào cúi mặt não nùng mà không thể khóc, nước mắt lưng tròng nhưng không trào ra khoé mi, mà dội ngược vô trong lòng. Hay là giòng nước mắt trẻ già đều ráo hoảnh, khô cạn hết!

                            “Nhà tôi” là một căn gia binh của ai đó bỏ hoang, không có cửa lớn cửa sổ, trống-trơn từ trước ra sau, nhà nhỏ xiú tối om và dài như cái hộp hình chữ nhật, mặt trước và mặt sau không có cánh cửa lớn, cửa sổ bị ai đó chôm chỉa tháo gỡ hết từ bao giờ, chẳng rõ! Có thể do những ngày qua “khởi nghĩa cách mạng thành công”, thì phường trộm cắp cũng "khởi hứng" trổ nghề “chôm chỉa” lia chia tháo gỡ mọi thứ đem về làm của riêng, hoặc đem các thứ trộm cắp ra chợ bán lấy tiền mua gạo mắm. Thiệt là: "Mèo hoang lại gặp chó hoang. Anh đi ăn trộm gặp nàng bứt khoai".
                            “Nhà” hoàn toàn trống trơn từ trước ra sau, không bàn, chẳng ghế, thì làm sao có tủ giường. Tôi chỉ có: một thau giặt, một thau rửa chén, một cái rổ, hai cái nồi đem theo từ ngày ở nhà thờ Huyện Sỹ: Nồi lớn chuyên dùng để nấu cháo, họa huần lắm mới có một bữa cơm tấm pha xí cám và khoai sắn độn. Một cái nồi nhỏ dùng luộc rau, hoặc kho tí muối quẹt. Một bình nhôm to để nấu nước sôi. Đôi thùng thiếc gánh nước. Sáu tô nhựa lớn, sáu muỗng, sáu đôi đũa, vài cái dĩa sứt vành. Một bao quần áo mặc thường ngày. Một bao cói đựng đồ vặt, một bao cói đựng hai chiếc mùng đôi màu xanh, cái mền làm bằng bao cát Mỹ.

                            Tôi còn một vali Samsonite da sang trọng đem theo từ ngày ở Đà Lạt di tản về đây (vì hồi xưa gia đình tôi ngồi trên nhung lụa giàu sang, với nhà lợp ngói ba tầng lầu đúc gạch bông dài 45m x 5m rộng phủ bì, có xe hơi Peugeot 404 mới toanh. Nhưng "nhờ bác" và "đảng ưu việt giải phóng”, nên tôi đã vất bỏ lại hết, để... ra đi là chết trong lòng một ít! (Partir, c' est mourir un peu!). Bây giờ mấy túm cói đó là tất cả gia tài quý giá của gia đình tôi trong XHCN. Tôi phải giữ bo bo chằng chằng bên người những đồ vật cũ mèm ấy bất ly thân, vì hở ra một xí là bị mất trộm, nhứt là nếu mất "chiếc nón sắt tuyệt phẩm cao qúy", thì lấy chi mà giã gạo đây hở Bác Hồ ui! Bác có linh thiêng đừng “trù dập” tui, cho kẻ cắp như rươi vờn quanh xóm nghèo nè!

                            Nằm dưới manh chiếu cũ nát láng đen và thô thiển, ngửa mặt nhìn trên nóc nhà, tôi thấy ngàn ánh sao xuyên qua lỗ tôn xi măng thủng vì bom đạn. Ngày nắng chói chang thì mặt trời soi rọi xuống vạt chiếu, khiến chiếc chiếu càng dòn, đã bể nát vài chỗ, chiếu và nền xi măng hầm hập nóng muốn lột da lưng. Mùa mưa ở trong nhà nước lụt ngập lên gần bắp chân. Nước trên mái tôn lủng trút xuống ào ào như thác Preen, nước ngoài sân cao hơn nền nhà ở tứ phía tràn vô. Mẹ, con, bà, cháu lội lủm bủm, bì bõm, cùng thi nhau cúi cúi tát tát nước trong nhà ra ngoài sân, như tát ao, tát đìa.
                            Đó cũng là môn "thể… dục với dịch tân thời" trong XHCN. Chúng tôi cố gắng làm tận sức, vã mồ hôi hột trong mưa, vẫn không thể ngăn nỗi cơn lũ ào ạt tràn vô căn nhà bị thấp hơn mặt đường, đã trở thành một cái ao. Nhiều lần đành chịu thua, bà cháu mẹ con vịn nhau, đứng dựa lưng vô tường, ngâm chân trong nước bùn hôi thối, mệt lử mà ngủ gà ngủ gục. "Một mình vừa chống vừa chèo. Không ai tát nước đỡ nghèo một khi" (cd). Thế là từ đó cho tới nay cả nhà tôi bị bệnh thấp khớp "phát sinh từ khi có bác Hồ"! Sự thật quá bi đát và não nùng luôn phơi bày không thể che dấu sự nghèo nàn thảm thiết! Bác ôi là Bác!

                            Mãi về sau này biết khôn hơn, năm mẹ con tôi đi tìm các nhà gia binh bỏ hoang, con trai lớn mượn cái “búa tạ tày xồi” của ông Hùng, con dùng búa đập tường. Mẹ con khệ nệ ì ạch bưng từng viên táp lô về nhà, kê lên cao cao để làm thành “cái giường”, hầu tránh nước lụt. Khổ nỗi, khi đã có cái giường “siêu tổ chức xã hội chủ nghiã” nầy, thì rệp, rận, gián, và muỗi núp dưới các khe hở nhiều vô số kể, chúng luôn bòn rút máu con người. Thiệt là một đại cực hình mới "phát sinh" nữa. Đó là “nhà của chúng tôi” về mùa Hè luôn nóng hầm hập như lò lửa. Mùa mưa ngập thành một cái ao bùn đầy nước bẩn. Mùa Đông không có cái lạnh giá nào bằng nằm trên những cục táp lô bể. Đó là nơi nương thân của những kẻ không có tương lai, không có cuộc đời tươi sáng, không có ngày mai hứa hẹn hạnh phúc, tốt đẹp hơn trong xã hội đương thời 1975 > 1995.

                            Trở về chuyện năm 80, một hôm tửng bưng sáng mẹ chồng tần tảo (là con dâu, nhưng tôi sống với mẹ rất nhiều năm, nhiều hơn tôi sống với ba má mình. Mẹ chồng con dâu ôn hòa vui vẻ đầm ấm, không hề to tiếng chia xa ngày nào). Mẹ đi ruộng mò bắt được mấy con ốc, năm ba con cua, và một con cá lóc nhỏ bằng ngón chân cái. Về ngang bờ kinh, mẹ hái thêm chục dọc môn dại. Hôm đó, khi tôi đi làm "vá dù" về nhà, (vá dù là một "nghề mới toanh mọc lên của tôi" sau khi "đổi đời", tôi sẽ xin hầu chuyện cùng quý vị ở một chương sau). Mẹ chồng bảo tôi:
                            - Con nấu nồi cháo thật đặc nhá, chứ nhà ta luôn ăn cháo lỏng bỏng, ruột mẹ cồn cào, xót xa thế nào ấy.

                            Vâng lời mẹ, tôi cẩn thận nấu nồi cháo độn một bó rau muống, ba phần củ sắn mì, hai phần dáu môn, và một phần gạo tẻ (gạo là do đi lượm mót lúa ngoài đồng), rất chu đáo và công phu. Các con ra giếng công cộng tắm rửa xong, các con gánh về hai thùng nước. Tôi múc ra sáu tô cháo, để xuống nền xi măng loang-lỗ vết đạn cày xới. Sau khi mời bà nội, mời mẹ, anh em vui vẻ mời nhau ăn cháo, hí-hửng cười reo dưới ánh trăng tròn, (chúng tôi sống ở “trong bóng tối”, chỉ nhờ trăng soi sáng, thì dùng đèn dầu làm chi, cho hoài phí của đi! Nếu ngày nào không có trăng tỏ, thì chúng tôi lo ăn cơm sớm). Cứ thế, các con của tôi sung sướng bưng tô cháo, hân hoan đưa lên miệng, húp rột rột, (vì hôm nay đặc biệt có thêm mùi vị của con cá lóc) coi thật ngon lành.
                            Bỗng, các con đồng thanh hét to. Đứa quăng tô xuống nền nhà. Đứa nằm lăn lộn trên nền nhà lỗ chỗ. Đứa dùng hai bàn tay cào móc cổ họng. Các con vật vã rên siết, la làng, khóc lóc tru tréo inh ỏi. Mẹ già kêu rú lên quá to, bà dựa lưng vô tường, trợn trắng mắt, thở dốc và ho sặc sụa. Tôi đã húp ba bốn muỗng cháo, tự dưng cổ họng rát bỏng, ngứa cồn cào, ngứa điên cuồng, tôi cào móc khạc nhổ thế nào, cũng không bớt. Mặt, môi, lưỡi, họng, cả nhà chúng tôi đã phồng rộp, sưng vù, đỏ choét. Thì ra, chúng tôi bị dị ứng hay suýt bị ngộ độc, vì ăn phải mấy dọc môn dại hay sao!?

                            Tôi vội chạy ra thùng thiết, dật dờ múc gáo nước, khuấy muối, vắt mấy trái chanh đưa cho mẹ già. Tôi kéo các con chạy đến gần thùng nước thứ nhì, cứ như thế, tôi bắt các con móc họng ói ra, súc miệng, nhổ đi nhổ lại nhiều lần. Bà cháu, mẹ con tôi đều bị đau nhức cổ họng, ngứa rần rần cuống cổ, môi miệng sưng vù, đỏ hoét kinh khủng ghê lắm. Thân thể chúng tôi đều bần thần, bụng cồn cào vì ói ra mật xanh mật vàng, và nhịn đói nên càng mệt rã rời, hầu như nghẹt thở, bại xuội, rị mọ vất vưỡng lọt tọt dìu nhau đi ra giếng tắm giặt. Lòng buồn xo như xé tâm tư.

                            Ôi! khổ nỗi một miếng ăn độn tồi tàn hơn nồi cám cho heo ăn, (của con mẹ Thân) thế mà cả nhà tôi không thể nuốt trôi vô khỏi cuống họng! Ngày Tết Nguyên Đán, cũng như ngày thường suốt mười năm dài đằng đẵng, gia đình tôi nằm co ro trên cái giường táp lô, chúng tôi bị đau đớn quá độ, không tiền thuốc thang, đành vật vã ôm bụng nhịn đói. Chúng tôi không thể ăn nồi cháo đặc mà rị mọ làm thân trâu ngựa. Ôi! Bài học ăn cháo đặc ở tận đáy xã hội, khiến tôi ghi nhớ suốt đời. Ấy là lúc xuân xanh của tôi vừa tròn:
                            “Trai ba mươi tuổi còn xoan.
                            Gái ba mươi tuổi đã toan về già”
                            Bác Hồ chết phải giờ trùng
                            Mẹ con chúng tớ nay khùng mai điên... (1)
                            ***

                            Tôi xin "thật thà khai báo" và bảo đảm rằng: ở trong "xã hội chủ nghĩa đổi mới tư duy" nầy, thì hầu như "đốt đuốc đi khắp miền Nam Việt Nam, sẽ không có "người vợ tù cải tạo" nào quá sức khổ cực đi mót bịch ny lông hôi thối, cam chịu sống cuộc đời đắng cay nghiệt ngã nghèo khổ, hèn mọn, cùng mẹ chồng, cùng con ngược xuôi cực nhọc trăm bề suốt bao nhiêu năm qua, như tôi. Chúng tôi vẫn "thuỷ chung" cùng nhau vượt qua trở ngại căm go để vươn lên.
                            Vậy thì... kính gởi quý anh chị... & xin thông cảm về nỗi đau đớn của người vợ tù “cải tạo” ngày ấy. Anh thương ơi! Bây giờ (1985) anh ở tù “cải tạo” nơi nao!? Hẳn là anh thấu hiểu cho hoàn cảnh đau thương, bi đát, khốn cùng của bà cháu mẹ con em bây giờ rồi, anh sẽ thông cảm tại sao mẹ con bà cháu ít đi thăm nuôi anh rồi nhỉ!? Ôi! Mùa Xuân qua ngày Hạ lết tới tàn Thu qua cuối Đông gió táp mưa gào suốt từ năm 75 đến 85!!! thật ngàn nỗi âu lo gian nan điêu đứng chua xót khổ cực biết ngần nào. Hoặc là anh cũng đang giống:
                            Như một người già ngồi nuối tiếc dĩ vãng xa xưa...
                            Như một danh tướng ôn lại những chiến tích oai hùng!
                            Như chim trong lồng ai oán nhìn bầu trời bao la.
                            Tôi mất Sài Gòn, nhưng thành phố vẫn sống mãi trong tim tôi.
                            Nhưng tôi không là người già, thì vẫn còn tương lai.
                            Tôi không là danh tướng, nên chẳng chiến công nhiều.
                            Tôi không là chim trời mãi mãi mất tự do.
                            Tôi chỉ là con bệnh trong cơn đau chung nầy.
                            Rồi sẽ hết, rồi sẽ hết những tháng năm đau thương trong cuộc đời!
                            Rồi sẽ khỏi, rồi sẽ khỏi. Hãy uống chén thuốc đắng nầy.
                            Rồi sẽ thấy, rồi sẽ thấy những tháng năm đau thương trong cuộc đời.
                            Rồi sẽ khỏi, rồi sẽ khỏi. Hãy uống chén thuốc đắng nầy. (2)
                            ***
                            Tình Hoài Hương


                            (1) Lượm lặt sưu tầm
                            (2) “Uống chén đắng” Lời và nhạc: Cung Mi (TLV)
                            *
                            Last edited by Tinh Hoai Huong; 06-17-2020, 08:23 AM.
                            Bút trần nào tả được lưu luyến!
                            Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                            Tình Hoài Hương

                            Comment


                            • Cục Đất Quê Hương


                              Bên Bờ Đại Dương
                              Nhạc: Hoàng Trọng
                              Lời: Hồ Đình Phương
                              Giọng hát: anh Trần Đình Phước
                              Cục Đất Quê Hương
                              Tình Hoài Hương
                              *

                              Dù không muốn cào bới dĩ vãng vùi trong đất, trong bùn, trong tro… mà mỗi lần chỉ cần khơi lại lò bếp tàn, lòng tôi cảm thấy quằn quại, đau đớn, xót xa hơn bị dao mài liếc, bào mòn, ghim siết, chọt thủng từng mọi chỗ trên da thịt. Tóc tôi sớm bạc trước thời gian theo luống tháng năm chất chồng. Tôi không biết mình đã trải qua bao đau thương thảm khốc, lòng dẫy đầy nỗi ưu phiền sầu đắng nặng trĩu! Kể từ ngày gia đình tôi bỏ tất cả mọi vinh sang sung túc phù dung ở Đà Lạt, để di tản lưu lạc chạy có cờ xuống Nha Trang, rồi mới bước chân tới Sài Gòn chẳng được bao ngày, lại tất tả lủi về miền Tây, đến ngày mất hẳn “Nước”, bây giờ tôi lủi thủi xuống phía Thành Ông Năm, thì gia đình tôi chẳng có ít ngày được an thân, mà hầu như luôn khổ sở, điêu linh, chết đứng như bị trái bom Napalm dội vô cuộc đời điêu linh khốn đốn, đầy gian truân, ngậm ngùi khổ đau cho một kiếp làm người!

                              Từ đời tam cố đại xa xưa, dòng họ tôi giàu sang danh giá ra phết! và “nhân chi sơ tính bổn thiện” thiệt là hiền lành. Nhưng sau 1975, thì tôi “mất giá, mất dạy và mất danh”, cũng ra phết nốt. Tôi là nữ nhi hèn mọn, mà thuộc loại lì lợm, chân thật và bướng ngầm. Chuyện gì nghe trái tai gai mắt, trái với sự công bằng và lẽ đoan chính, là tôi cố gân cổ trợn mắt lên cãi lại. Tôi cũng như đa số người khác: trong lòng ôm ấp bao lý tưởng hoài mong, kỳ vọng muốn những người đã may mắn ra đi, xin hãy quay về cứu mọi người ở lại. Nhưng trong cái phẳng lặng nội tâm... nào hay tôi đã âm ỉ ẩn chứa nhiều đợt sóng ngầm.
                              Có những sự kiện mình không thể khắng định là “trắng” hoặc “đen”, đúng hay sai. Nếu trắng ở ngoài sáng thì tất nhiên thấy là trắng, trắng ở trong bóng đêm có thể trông thấy trắng dù không rõ ràng mấy. Nhưng nếu “đen” mà ở trong bóng tối thì... vẫn hoàn đen thùi lùi! Thì hà tất điều gì cũng đạt đến thành công mỹ mãn! Trên đầu tôi và mỗi người đều có một khoảng trời riêng biệt, trời rộng trời hẹp đều do suy tưởng, do từng hoàn cảnh và ở trong lòng mỗi nhân sinh quan. Cho dù:
                              Con nhà tông không giống lông, đỡ giống khỉ.
                              Mình vì mọi người, mọi người coi mình như "mọi". (1)

                              Tôi, bẩm sinh là tuổi “cọp cái sư tử Hà Đông” mà! Như thầy bói đã vui vẻ chúc Tết:
                              Chúc cho tuổi Cọp... các bà.
                              Đừng quá lớn tiếng cửa nhà nổ tung.
                              Nhẹ nhàng một chút mới khôn.
                              Chắc chắn sẽ thấy tâm-hồn thảnh-thơi. (1)

                              Nói đùa cho vui tí vậy, chứ chả phải tôi tuổi Dần cao số đâu nà! Hổng dám đâu. Tuy thế, sau bao năm đói khát cơ cùng gậm nhấm bào mòn cơ thể, nay tôi nghiệm ra một điều: tập kiên nhẫn, chịu đựng, cúi đầu, cố gắng nhịn nhục, nhoẽn cười duyên ti tí với thế nhân. Vì, nếu ông Trời có cho tôi mọc thêm ba đầu sáu tay trên sợi gân cổ, thì “cái thế xã hội chủ nghĩa” tạp nham nầy, vẫn không chịu mở mắt khai hoa chia sẻ tình thương cho con người cùng khổ như tôi, (bớt phần nào cơ cực đắng cay rất chi là đau khổ tột cùng)! Và, vì tôi bắt buộc phải ngửa mặt lên nhìn Trời cao lồng lộng, cúi xuống đất dày cui khô cằn, nhìn hai bên giá vai tả hữu có hai thánh & thần linh soi xét, ghi chép: "chứ tôi nào có tội tình chi, mà mười ngón tay già run run, tôi luôn cúi xuống đất túm chặt bụi bờ để nhổ cỏ cú, vọc đất, vọc bùn, đã đời như ri rứa, hả"?

                              Thoạt nhìn phớt qua, tôi cũng như ai ai, thấy mình đang nâng niu trên tay cục đất quê hương thơm lừng mùi đất bùn: mặn nồng xương thịt tổ tiên ông bà thân nhân quá cố, ai nấy đã có từng dòng mồ hôi muối cuả người đang sống nhỏ tong tong xuống đất, hoà trộn chung với giọt mồ hôi bao người chết, xương cốt ấy trở về tro bụi... đã tạo thành đất trên những luống cày tại các nông trường, trên những công trình xây dựng kinh rạch, thủy lợi dẫn thủy nhập điền.

                              Cái ngữ thân thiện “ngây thơ cụ” nơi đất cát, gò mối ao bùn, kinh rạch kia… ai nấy đều có tí hy vọng là người với người cùng chung ý niệm lý tưởng tin yêu, luyến mến thân tình, lãng mạn và đoàn kết nông dân sao đâu! Thế nên, bây chừ chẳng còn ông bà cha mẹ cuả bạn (hoặc của tôi) đứng dậy bước ra khỏi mồ, đội đất chun lên, để họ rầy la quở trách “con gái già” ưa dùng tay chân và gò lưng "chơi đất", vọc bùn bê bết dơ bẩn! Biết bao người có bàn tay sần sùi, gót chân nức nẻ, bờ ngực khô héo, cuộc sống gian khổ đắng cay đầy tái tê? Chúng tôi cứ bắt chước Adam và Eva, hoặc ông bà thủy tổ loài người cổ đại tiền sử, ví von mình “giống loại” khỉ đột hoang sơ, là xong ngay một đời xã hội chủ nghĩa. Chúng tôi ở trong nhà hoang phế dưới tận đáy xã hội rồi, không thèm mặc gì hết. Thôi cũng đành! Vã lại… cơ khổ thân tôi:
                              Ngày xưa yểu điệu như tiên
                              Bây giờ lẹt đẹt như con vịt bầu.
                              Ngày xưa chum chúm núm cau,
                              Bây giờ lỏng thỏng như bầu trên cây.
                              Ngày xưa nhựa sống căng đầy,
                              Bây giờ vắt mãi bảy ngày cũng không.
                              Ngày xưa thắt đáy lưng ong,
                              Bây giờ to bụng còn mông phẳng lờ. (1)

                              Vấn đề tự-trọng. Danh dự. Sự hổ thẹn hay liêm-sỉ –ở thời buổi 1975 * 1995 nầy– là cái quái gì! Âu chỉ là lớp sơn đỏ phù dung mỏng dính, được bọc hào nhoáng phết phủ bên ngoài, để che đậy lớp rỉ sét, khô mục thối um ở bên trong. Lòng tôi chùng xuống, hội nhập với bao phiền não chua xót đắng cay. Lo âu. Khắc-khoải. Hãi hùng về vấn đề gạo cơm, tạm trú tạm vắng, ăn đói ở lỗ; hơn là chuyện "danh với dự". Hơi sức đâu mà còn nhớ đến sĩ diện nữa không biết! “Thấp thỏm nhúc nhích” chi mà nhớ chuyện “ruồi rượn bu bên đít” í hỉ!

                              Tuy nhiên, cái bực tức nhứt của tôi bây giờ là: suốt ngày chúng tôi rất vất vả nhọc nhằn vô cùng, vẫn bị những cơn đói và khát hành hạ; tối về lo cơm canh cho gia đình con cái chưa xong, lúc nào được nghỉ cũng tới nửa đêm, có khi "đi họp đi hành" thì ôi thôi kể như tôi thức trắng. Nằm đặt lưng trên “giường đá” trằn trọc lo âu tìm kế sinh nhai hoài, không sao chợp mắt. Mãi đến canh ba, canh tư đang thiu thiu; bỗng làng xóm ai nấy đều giật mình bật người dựng đứng dậy, nghe loa phóng thanh ra rã rống to, bắt mọi người dậy... lảy đảy đi tập thể dục. Hứ, tập tành cho ai ”nghể” đây!?:
                              Phong trào thể dục phường ta
                              Có ông bà lão thở ra hít vào
                              Dù cho mệt nhọc thế nào
                              Ông bà cũng cố hít vào thở ra . . .
                              . . . Khi nào vĩnh biệt đi xa
                              Người ta mới hết thở ra hít vào
                              Bây giờ tôi cũng xin chào
                              Để tôi còn phải hít vào thở ra. (Bút Tre)

                              Hồi xưa còn trẻ trung, cái thời huy hoàng sung túc đầy đủ, họa may tôi còn có thì giờ thanh nhàn tập thể dục thể thao, tự do thoải mái hít thở không khí trong lành cho buồng ngực thêm no tròn. Nay tay cầm cuốc vai vác bừa, chân trần lết đi rã gối, phờ người để chạy ăn từng bữa một… Chưa đủ mỏi mệt rã rời xương cốt tiêu hao sức lực sao, mà phè phỡn “dửng mỡ thèm khát dục với dịch!”:
                              Trước đây con tưởng gặp thời
                              Chúa ban con được tìm người con yêu
                              Giờ đây thân xác tiêu điều
                              Đời con phải chịu rất nhiều đắng cay
                              Thân con chẳng khác trâu cày
                              Nợ nần con trả đời đời chưa xong
                              Con giờ như cá lòng tong
                              Sụt ba chục ký ốm nhom rã rời (1)

                              Điều duy nhứt tôi phải ghi nhớ trong đầu mỗi đêm chắp tay cầu xin:
                              Người đâu gặp gỡ làm chi
                              Để cho khổ thế còn gì tuổi Xuân?
                              Chúa ơi! Con khổ vô ngần
                              Chúa mà không giúp, là thân con tàn (1)
                              Tôi chả dám khùng điên như ai kia, (vì tôi phải lo nhín nhút chút mắm muối cho chồng tù tội “cải tạo”, lo cho mẹ già, con dại bơ vơ cùng khổ). Ngày hôm qua tôi đi làm nông trường, nghe đồng bào rỉ tai nhau: đã có một thanh niên "Ngụy" đứng trước cửa chợ Bến Thành chưởi đổng:
                              - Tiên sư cha nó! Chỉ vì một thằng già khốn nạn, mà cả nước khổ sở, lầm than.
                              Anh ta bị công an điệu ngay về đồn. Cán bộ chấp pháp thẩm vấn:
                              - Anh chưởi ai là thằng già khốn nạn?
                              - Thưa cán bộ, tôi chưởi... Dương văn Minh!
                              - Ý anh bảo vì Dương văn Minh đầu hàng, nên cả nước mới khổ, phải không?
                              Anh chàng thanh niên "Ngụy" thuộc loại lỳ đòn, nên bai bãi:
                              - Không phải. Tôi chưởi vì thằng chả giết Ngô Đình Diệm, nên cả nước khổ.
                              - Anh cho rằng Ngô Đình Diệm với giải pháp Ấp Chiến Lược đủ sức trấn áp lực lượng giải phóng chứ gì? Hay anh cho rằng Ngô Đình Nhu với chính sách Bắc tiến, có thể đánh thắng miền Bắc?
                              - Không phải vậy. Vì Dương văn Minh giết Ngô Đình Diệm, khiến Mỹ đổ quân vào, làm cả nước khổ sở.
                              - Nghe tạm được! Cả nước tuy gian khổ, nhưng rồi cũng chiến thắng vinh quang. Thôi tha cho anh về. Đừng làm ồn chỗ công cộng nữa. Tôi biết nhiều người cũng ghét Dương văn Minh, nhưng chả cần phải làm náo loạn như thế. Vả lại muốn chưởi ai, phải nêu rõ tên người ấy ra mà chưởi, kẽo lại có chuyện hiểu lầm lôi thôi. Anh nghe rõ chưa?
                              Anh thanh niên lễ phép đứng lên:
                              - Dạ tôi xin nghe lời cán bộ từ nay tôi sẽ chưởi rõ tên "thằng già Minh khốn nạn làm cho dân khổ"
                              Cán bộ chấp pháp vỗ bàn:
                              - Anh kia anh chưởi ai thế?
                              - Thằng già Minh. Dương văn Minh!
                              Cán bộ bực quá, gầm lên:
                              - Anh mang cái thằng già Minh khốn nạn xéo ngay! Xéo mau! (st = Cadman)
                              *
                              Ngày kia bà cháu mẹ con tôi lặn lội từ Hốc Môn ngồi xe chuyền từng đoạn suốt ba ngày mới có thể đi thăm nuôi cha, chồng. Con: ở trong tù “cải tạo” Z 30B Gia Rai, Xuân Lộc. Gặp nhau mừng mừng tủi tủi, chúng tôi hàn huyên tâm sự bao nỗi đắng cay nghẹn ngào tức tưởi. Luật đã hai phổ bản nhạc: “Bài Hát Chiều Thứ Bảy” :
                              Ta viết bài ca chiều Thứ Bảy
                              Trong ngục tù buồn chán chất ngất
                              Bao gian khó khổ đau ta đối mặt
                              Mắt nhạt nhoà dòng mực chua cay.
                              Ta mất đời ta chiều Thứ Bảy
                              Khi cuộc đời đầy dẫy mất mát
                              Nhưng ta biết ngày mai ngày Chủ Nhật
                              Cánh chim bằng soãi gió tung bay…
                              Người ơi lắng nghe chiều nay
                              Quả tim bốc cháy đốt cơn mê nầy
                              Trái tim hồng người ơi giữ lấy
                              Cho quê hương rồi sẽ đổi thay! –[*nhạc & lời… còn dài, (2)]

                              Và “Bông Hoa Tím”. Tôi trang trọng mang hai bản nhạc về nhà, con trai đánh đàn, chúng tôi chụm đầu vô líu lo ca hát, để quên đói khát:
                              Thấy bông hoa màu tím.
                              Nhớ em đang buồn phiền.
                              Nghe tin đời khốn khó.
                              Thấy lòng mình không yên.
                              Đứng bên trong rào kín.
                              Nhớ quê hương từng miền.
                              Quê hương còn khốn khó.
                              Giấc ngủ nào cho yên!
                              Chút gió cho cỏ mềm.
                              Chút nắng cho chiều êm.
                              Đốm sáng nầy cho đêm.
                              Tiếng hát nầy ru êm.
                              Thấy bông hoa còn thắm.
                              Khắc ghi sâu lời nguyền.
                              Ngay trong tù khốn khó.
                              Giữ một lòng trung kiên... (2)

                              Mẹ con tôi đang vui vẻ véo von ca hát, bỗng thấy tên "tay tổ" trông coi khu vực ấp láo liên dòm vô nhà, ông ta đi lung tung quanh xóm, để lom lom dòm ngó, ngầm ngầm điều tra gia cảnh dân tình làm ăn sinh sống, rồi về làm "bá cáo" lập công. Cuối cùng ổng đến trước sân nhà tôi, sớn sác dáo dác nhìn lung tung, rồi lân la ghé hỏi:
                              - Tui tưởng hôm ni lờ ngày Thứ Bưa, thì chị đi Đè Nẽng, Quảng Nôm, hay Quảng Ngỡi, hay Phủ Côm (Phủ Cam), Huế chi rùi?
                              - Tôi xin giấy phép rồi, nhưng chưa có tiền mua vé xe.
                              - Chị cồm rồm (càm ràm) chi cho mệt. Không có tiền đi xe hơi, thì đi xe lôm (lam), xe độp (đạp)... rồi cũng tới nơi.
                              - Phải.
                              - Chị đeng (đang) lồm cới (cái) chi rứa!?
                              - Ông khôn chộ (không thấy) răn? Tôi ngồi coi chừng ló (lúa) ngoài cươi (sân).
                              - Chẻng (chẳng) có ai thôm lôm (tham lam) mô. Méc (mắc) chi mờ phải coi hì!?
                              - Ông không biết, chớ hở ra một xí, là kẻ cắp như rươi. Có ai dám duã, dám đục, dám dần bọn hắn mô! Ông nghe hỉ:
                              Cái xứ gì đâu lạ lắm đây
                              Sát nhân, trộm cướp cả một bầy
                              Thế mà lại gọi là lãnh đạo
                              Ăn trên, ngồi trước khoẻ phây phây (3)

                              - Úi xà... tui tưởng mình để cả cái bâu (bao) lúa, thì hén (hắn) mới dớt (vác) đi chớ. Chị noái rứa, tui mứi hỉu (mới hiểu)! Thì ra lờ dư rứa hì.
                              - ...
                              - Bữa trước tui toạ đồm (đàm) ở trên thènh (thành) phố, mới biết... chị tên thặc (thật) là chi?
                              - Tên trên giấy tờ thì ông biết rồi, còn gì mà thật với giả.
                              - Tôi đìu (điều) tra ra, chị còn một tên khớc (khác) nữa.
                              - Sao, thưa ông?

                              Mỗi lần nói chuyện với ông an ninh nầy, tôi phải nhìn vào một đường rãnh sâu hoắm từ cửa môi trên, ăn thông xéo lên tới lỗ mũi. Nhứt là khi ông ta ho, hoặc hách xì, thì nước dãi nhớt chảy ra từ hốc mũi, trào xuống miệng, giọng nói ông ta càng ngọng nhịu, khó nghe. Tôi có cảm tưởng ông ta nói với tôi, mà cố dùng mồi giả, để nhữ cá cắn câu, cá cắn vô sâu biết đâu mà gỡ, chỉ có nước cá nằm trên thớt dãy đành đạch, ngáp ngáp chờ chết thôi. Tôi thấy ớn ông, hơn là sợ “danh phận cao qúy” của ông:
                              - Noái thặc đi.
                              - . . .
                              - Cả tên thèng dôn (thằng chồng) của chị nữa?
                              - Tên ta hay tên tân thời!?
                              - Lợi có cới chiện nớ hử? Tui phải noái reng (nói răng) thì chị mứi hỉu (hiểu) ý tui nà!?
                              - Tại tôi ngu dốt quá.
                              - Nếu chị và thèng dôn của chị có hơi ba cới (hai ba cái) tên chi đó, thì chính xéc (xác) nghĩa lờ (là) vợ chồng chị đã lồm en phi phốp, (làm ăn phi pháp) có âm mu (mưu) dấu đút cới chiện (cái chuyện) chi rùi hì!
                              - Ông nói lạ! Tôi không hiểu.
                              - Khôn phải reng? bòa con lối xóm đã ngầm bấu cấu (báo cáo) với tui rùi: vì khi say rựu (rượu), thì họ luôn luôn noái thặc.
                              - Họ nói thật với ông về chuyện gì?
                              - Thì... thèng dôn của chị ít khi en cum, (cơm) mờ hén (hắn)... hén ưa kiu bợn (bạn) bè tới dà dậu dẹt, nấu thịt rén en, lồm thịt chó en, en tơm cá tưng bừng. Rùi khi bợn nớ say rựu, lờ cả bợn nớ tụ tập, dém (dám) tính tới cới chiện đi lồm phẻn động (làm phản động).
                              - Chồng tôi nhóc tì bằng trái ớt hỉm, ảnh mới về vùng nầy chưa quen biết ai, thì bị đi học tập “cải tạo”, ảnh có biết ất giáp chi, mờ dám uống rượu, làm thịt rắn, rồi bày đặt toan tính làm phản động, thưa ông, đừng chụp mũ, tội lắm.
                              - Không có tịt thì thôi, chớ seo chị lợi théc méc, mờ rục rịch dúc dích. Bi chừ tui hỏi lợi nà: tên thặc của chị lờ chi. Hử?
                              - Tên cúng cơm hồi tôi chưa có chồng là: “Ệp”. Còn tên tân thời bi chừ của tôi là: “Mít Đót”, tức là đi... "mót đít" người ta.
                              - Còn thèng dôn chị?
                              - Phần chồng tôi thì… ngày xưa ảnh có song tịch, nghĩa là ảnh có “quốc tịt” Pháp, thì ảnh phát sinh ra thêm một tên tân thời.
                              - Tên chi? Tôi hỏi cả hơi thứ.
                              - Tên cúng cơm ảnh là: Phạm Trọng Luật. Tên tân thời là: Phăng Xoa Bẹt Xon. Tiếng Tây gọi ảnh là: Francois Bergson đấy. Nick name Tây cuả ảnh là: “Ca Ca Cun”, tiếng Việt có nghĩa là: “cứt cún” đó, ông à.
                              - Phẹm Trọng Lựt!?
                              - Vâng! Bố mẹ anh ấy đặt cho anh Luật cái tên chết tiệt! Thảo nào ảnh bị đi tù “cải tạo” mút chỉ cà tha.
                              - Chị đừng ngoan cố như rứa. Chị phải hỉu (hiểu), lồm seo mờ thèng dôn chị bị đi hặc (học) tập cởi tậu (cải tạo) chớ.
                              - ?!
                              - Hừ! Đểu thặc. Lồm en cới chi (làm ăn cái chi), mờ đi cởi tậu lâu dư rứa hỉ!?
                              - Vâng! Xin lỗi ông, người miền Bắc thì nói “đểu thật”. Còn người miền Nam tui thì nói “đểu giả” nà.
                              - Chị lụm mót ở mô ra... mờ dém (dám) chơi chữ với tui, hứ?
                              Tôi tủm tỉm cười:
                              - Xời! Tôi là bần nông, có ra môn ra khoai gì mà dám chơi chữ, mí chơi hành tỏi. Ông nói y như thần y phong thấp! Tôi phục. Còn việc chồng con thì tôi nói thật, chúng tôi ví như đôi chân, nếu không tin yêu nhau, thì một trong hai bàn chân giận dữ tự nhô lên hụp xuống. Chân nầy chấm, thì chân kia phết, đi đứng lộn xộn, cứ như thế mà bò lết trong cõi đời ô trọc như bi giờ mỗi người một nẽo.
                              - Ừ, “chính xéc” là hai thèng chưn đã “phẻn đối” trái ớt hỉm rùi!
                              Tôi ngẫm nghĩ lời ông ta nói, mà cười thầm. Ổng ta "ỏn ẻn" thay đổi chiến lược:
                              - … Chị có ngừi thân ở Mỹ, chị có thuốc đau gơn không? Cho tôi mươi viên, hì.
                              - Cậu tôi ở Mỹ gởi về mấy hộp thuốc. Vị thuốc nầy rất đắng, đắng bao nhiêu ở xã hội nầy cũng phải uống, nếu uống vô thì trong lòng càng đắng hơn.
                              - Đéng bâu nhiêu mà hết bệnh, cũng phải uống chớ seo.
                              - Vậy ông chờ, tôi soạn thuốc đau gan ra cho.
                              Ông ấy chẳng hiểu ý ngầm của tôi, nên tươi rói nét mặt, xoa hai bàn tay vui vẻ giả lả:
                              - Thuốc Mỹ không tốt.
                              - Sao lạ vậy!?
                              - Chị théc méc lồm chi, chớ không nghe ngừi ta noái: mua thuốc ngoại là “thuốc Tây” tốt. Chớ chẻng có ai nóai mình mua thuốc ngoại, lờ thuốc Phốp, thuốc Mỹ, hay lờ thuốc Ngơ tốt cả, hè!?
                              - Chính ra thuốc men bên Mỹ là tốt nhứt, vì họ sàng lọc tinh hoa ở nước ngoài, tỷ mỹ nghiên cứu, rồi họ mới điều chế ra sau rốt, ông à.
                              - Tôi cần thuốc Tây.
                              - Vậy thì tôi không có thứ thuốc ông cần.
                              - ... Điêu hì! Ôi xà! Mỹ, Ngơ, với Phốp hay Tây… lờ mấy thứ. Uống tờm tợm cũng tốt.
                              - Ông đến đây xin thuốc, thì tôi cho. Nhưng lỡ ông có bề gì, tôi không chịu trách nhiệm à nghen. Bà con ba bên bốn bề làm chứng cho tôi. Vì ông biết đó: hàng hoá thuốc men chưng bày lơ thơ trong quầy, khi dân hỏi tới, cô bán hàng bảo: “Hàng mẫu, không bán".
                              - Chị nỏ khun (khôn) hơn tui mô nờ! Tui cho chị mắc lửa nà. Vì reng! Vì… chị cho tui thuốc, coi như lần ni huề. Hí!
                              - Dạ… dạ không dám mô! Khi họ đến hỏi tôi:
                              - Chồng chị đâu? Đi hoạt động hả?” Thì chỉ có nước tôi chết treo ở cửa Bắc. Hay gia đình tôi bị tập trung đi kinh tế mới mất thôi. Xin kiếu từ ông.
                              ***
                              “Kinh tế mới”, thoạt nghe qua thì đầy ắp ân tình, hứa hẹn no đầy "hứng khởi" nơi vùng đất mới. Rồi thì “già sinh tật, đất sinh cỏ”... e tôi sẽ điên mà sinh ra chứng:
                              Quanh năm hút chích ở mom sông,
                              Hít đủ năm phân chích một liều
                              Lặn lội thân cò khi quãng vắng
                              Ỉu xìu bủng bẻo buổi tuần tra,
                              Một duyên hai nợ âu đành phận.
                              Năm nắng mười mưa chẳng bỏ chơi,
                              Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
                              Có tiền hổng chích cũng như không... (1)
                              *
                              Tình Hoài Hương


                              1- st = sưu tầm, lượm lặt.
                              2- Bài Ca Chiều Thứ Bảy & “Bông Hoa Tím”:
                              Nhạc & Lời: Phạm Thiên Tứ.
                              3. Thơ Bùi Phạm Thành
                              ***
                              Last edited by Tinh Hoai Huong; 06-24-2020, 11:12 PM.
                              Bút trần nào tả được lưu luyến!
                              Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                              Tình Hoài Hương

                              Comment


                              • Mẹ Đi Thăm Con Ở Chốn Lưu Đày.


                                Chiều Hoàng Liên Sơn
                                Nhạc & Lời: Phạm Thiên Tứ
                                Tiếng hát: Việt Long
                                Mẹ Đi Thăm Con Ở Chốn Lưu Đày


                                Từng giòng lịch sử và giòng thời gian dài lê thê vùn vụt trôi qua, theo tiếng còi tàu tốc hành hú từng hồi lát gừng giống như tiếng nấc cụt, con tàu lửa từ từ xục xịch ục ịch rên siết, hì hục, lết lết, rọt rẹt chuyển bánh. Con tàu dường như nhão mục, rền rĩ rung chuyển, rung rinh, lắc lư thụt lui thụt tới, cạ quẹt, nghiến trên hai thanh tà vẹt hoen màu rỉ sét. Tôi nghe thật nhức óc và điếc con ráy quá chừng! Than khói đen đen xám xám kéo theo đoàn va-gông cũ kỹ, xập xệ lắc lư, khói toả thành một lằn dài ngoẵng bay mù mịt cả một góc trời.

                                Vẫn những toa tàu chật như nêm chở đầy nhóc hàng hoá cồng kềnh ngổn ngang. Hành khách hỗn độn từ ga Sài Gòn đi về miền Nha Trang, họ lố nhố bu đầy trên bậc cấp, trên mui trần, bên những ô cửa. Họ la hét, xô đẩy, giành giựt chỗ ngồi náo loạn. Tất cả những toa xe đều huyên náo, ồn ào kinh khủng. Nhân đó nạn sờ mó, móc túi, cướp bóc tràn lan trong toa tàu. Dù có tên công an Tiểu-đoàn đường sắt chống trộm cướp thủ củ súng và cây dùi cui lăm le trong tay, ông ta đập cây dùi cui chan chát trên ô cửa, ổng lớn tiếng oang oang la hét không ngớt, tay chỉ chỏ ra lệnh đóng hết cửa tàu. Cuối cùng ổng đứng áng ngữ ở bậc thang cửa lên xuống tàu, ổng cũng không thể ra oai; mà đành lắc đầu ngao ngán giương mắt trơ ra nhìn.

                                Bà mẹ chồng, các con trai, & tôi ngồi trên tàu lửa chật như nêm, họ nhét chúng tôi ngồi chung với bầy súc vật ngổn ngang: gà, vịt, ngỗng, ngan, nhảy lên đầu lên cổ chúng tôi kêu quang quác, heo trợn mắt đỏ, mõ kêu eng éc, chó tru từng hồi; chúng đồng loạt kêu la rần trời, nghe quá đinh tai nhức óc. Không những thế, mà áo quần chúng tôi bị trét đầy phân heo, phân chó hôi thối khủng khiếp. Khổ nhứt là khi chúng tôi đáp tàu chuyến, tàu chợ, xuống tàu để lên xe vô Xà Bang cách Bà Rịa 28Km về hướng Bắc Đông Bắc, xa Xã Cẩm Mỹ 6Km về hướng Nam. Xà Bang nằm cạnh Liên Tỉnh Lộ số 2, (từ ngã ba Tân Phong, Quận Xuân Lộc, thuộc Tỉnh Long Khánh) thăm Luật, nơi mà:
                                Ngọn gió chướng, hồn tôi nghe buốt lạnh.
                                Cơn mưa chiều tí tách chạnh lòng thêm.
                                Chuỗi ngày xưa trong cuộc sống êm đềm.
                                Còn đâu nữa nghĩ càng thêm đau xót.
                                Dòng thời gian đã trôi đi mai một.
                                Hơn nữa đời người đã trót đeo mang.
                                Đã ngắt đi tiếng dạo của cung đàn.
                                Cung lỡ nhịp với muôn vàn cay đắng.
                                Tâm hồn tôi đã chìm vào sâu lắng.
                                Đôi vai này gánh nặng nỗi niềm đau.
                                Rồi dòng đời cứ trôi chảy qua mau.
                                Tôi lần bước bao niềm đau uẩn khúc (1)

                                Về sau nầy Luật bị chuyển trại ở Long Giao, vô Z 30, không có tiền, nên nhiều lần mẹ con bà cháu trụt xuống tàu lửa, hay xuống xe đò tại ngả ba Ông Đồn, Xuân Lộc, rồi đi bộ ngang qua trại “tù cải tạo” Z 30 C, Gia Rai ở đồi Phượng Vỹ. Hồi xưa nơi ngọn đồi nầy là Trung-đoàn 48, thuộc Sư-đoàn 18 Việt Nam Cộng Hoà trấn giữ. Muốn đi vô trại tù Z 30 A – hay Z 30 B - xa rất xa đường đi khó khăn và nguy hiểm, nhứt là lúc mưa ào ạt đổ xuống khu rừng rậm, thế nhưng ai nấy cũng mừng vì thiên nhiên được kỳ cọ rửa sạch cây cối, và những lán trại tù, nóc nhà tôn, nhà lá... có những anh tù “cải tạo” ở đó cũng bớt khổ, vì họ không bị những cơn nóng nung muốn lột da, lúc rừng cây trở nên dịu dàng vừa qua trận mưa to, đã tắm mát núi rừng thì chớ, lại nữa những anh tù ở ngoài rừng được “tắm” thoải mái trong nước mưa, họ không bị khan hiếm nước khi “cải tạo” phải lau mình chỉ ở một ly nước nhỏ.

                                Mẹ con tôi vội vàng lẽo đẽo theo sau những chị vợ tù, họ từng đi thăm nuôi chồng, cha, con... nên biết rõ có một con đường đi tắt xuyên qua những đồi nương, sẽ mau đốt giai đoạn sớm vô lán trại tù mau hơn trước khi trời sập tối. Mẹ con bà cháu tôi cố rảo bước, chỉ sợ chậm lại, bị lạc mất những người ấy, thì không thể tìm thấy họ, vì rừng núi rậm rịt, con đường đất lại ngoằn ngoèo khuất lấp bở những lùm cỏ mọc cao tới ngực, thiệt khó vạch lối đi, cỏ tranh cao lút đầu bọn trẻ đã cào xướt vô da con những lằn dài đỏ tươm máu rát bỏng, hoa mắc cỡ, cỏ may rậm cao gần đến bụng con, bông cỏ xâu vô hai ống quần, chích vào chân chúng tôi ngứa ngáy, khó chịu dường bao. Ve chó, ve đất, châu chấu, cào cào, ruồi trâu, muỗi cứ bay ào ào lên từng đoạn, mỗi khi chúng tôi bước qua khu đường tắt.

                                Trại tù Z 30 là một trong muôn vàn trại tù mọc lên đông đen nhiều vô số trên toàn cõi Việt Nam, đấy là những thành trì cốt cán, chặt chẽ, nơi độc ác, tróc khảo, lột da con người đau đớn kinh khủng, do đảng và nhà nước dựng lên, để cai trị tù “cải tạo”. Tù nhân "chính kiến" bị dời đổi đi luôn luôn, xáo trộn lung tung tùng phèo lên như thế, vì đảng, nhà nước, cán bộ rất sợ! họ không muốn người tù ở lâu một nơi, cùng ở chung một chỗ, thì tù nhân dễ dàng kết thân với nhau, sẽ bí mật “tạo phản, phục hồi danh dự, mà phục quốc, phục quê”. Chả phải trai tráng đi “học tập cải tạo” (Reeducation Camp) nghe "rất kêu" như voi rống hổ gầm trong rừng sâu nước độc là gì! trăm ngàn tốp tù chuyên môn đi khổ sai “lao động là vinh quang”. Do: có những vị trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa từng oai hùng hiên ngang chiến đấu phi thường vì lý tưởng, vì trách nhiệm bổn phận làm trai, họ chưa bao giờ thất bại trên chiến trường. Nhưng bây giờ họ phải tuân lệnh cấp trên, ngậm ngùi thổn thức buông súng bỏ tàu, như một người lỗi hẹn, luồng hào khí uất nghẹn tuôn trào, khi đất nước suy tàn trong bi lụy, vì chiến sử ác nghiệt từ định mệnh bi tráng, thăng trầm, họ đành làm người bồi hồi đắng cay chua chát, dày vò bởi từ ngữ “thua cuộc", họ uất hận mang theo vô vàn xót xa cay đắng khôn lường mãi đay nghiến dày vò khi lịch sử chưa bạch hoá:
                                Có phải Đảng đã trả thù ác độc
                                dân miền Nam, sau khi cướp miền Nam
                                Nhãn "cải tạo", mác "khoan hồng, học tập"
                                Thực chất giết người quỷ quyệt, dã man? (2)

                                Tốp tù kia ở trong vòng rào quần quật lo đào ao, đào hầm hố, tốp khác phải đi gánh phân, múc nước đái tưới rau tươi gieo trồng. Trong lều bên góc trại có dựng lên một lò rèn thô sơ, tù nhân vô đó làm bằng tay chế ra loại thủ công thành dao rựa, liềm, cưa… Tù phải tự làm thợ rèn cuốc, xẻng, cào; để đi cuốc đất, trồng ngô khoai đem cho đảng và cán bộ ăn “ngập mặt”, còn người làm những công việc nặng nhọc thì chúng bắt “nhịn ăn khát uống”. Tù vác xẻng đi đào mương khai cống rãnh. Tốp tù được đi rừng, nghĩa là có chút “tự ro thái mái” đi ra ngoài vùng có người dân sinh sống, thì thong thả và tự do hơn chút chút, (so với những anh tù bị kềm kẹp ở trong lán trại). Họ có thể đi ra ngoài rừng chặt cây, lấy củi, chặt tre đốn gỗ, để làm nhà tù. Công việc nầy quá nặng nhọc, khổ cực vất vả trăm bề, dĩ nhiên có mấy tên công an kè kè súng theo sau. Ai đời khiêng vác những vật dụng quá nặng nề trên đôi vai về lán trại tù, khi họ làm thành nhà tù xong, thì tự nhốt mình trong những lán trại xa xôi hẽo lánh: mùa nóng thì nóng lột da, mùa lạnh thì lạnh thấu xương. Thật dã man độc ác vô cùng, chẳng khác gì hồi trị vì của thời bạo chúa Tần Thủy Hoàng:
                                Chúng ta là người chứ đâu là chó!
                                Để nghịch cảnh khốn khó… nó bó cái khôn!
                                Sao ép thân trong tù ngục gò bó, để bị giam hãm tâm hồn?
                                Sao không đứng dậy, để đào mồ chôn toàn trị?
                                Dân chủ- Tự Do- Độc lập- Nhân quyền… há chẳng phải là những điều trân quí?
                                Vì tương lai của thế hệ ngàn sau, sao không hy sinh, không nung chí đấu tranh? (3)

                                Nơi tiếp tân của trại tù: trên bàn quản giáo có chiếc hộp để “Góp ý”. Thật ra, đấy là nơi dùng làm “cần câu”, theo dõi, đấu tố nhau, điềm chỉ “cho chắc cú thấu triệt” hơn. Muốn thăm tù, tại đấy có nhiều thủ tục đơn từ khai báo lỉnh kỉnh, lẩm cẩm, rườm rà, linh tinh và mỏi mòn chờ đợi. Tôi bồn chồn nôn nóng lo âu chờ đợi vài giờ, nhón gót dáo dác nhìn quanh, mẹ con cứ đi ra lại đi vô. Trong hàng rào phân định làm thành mô hình chữ U, là bảy dãy nhà tù lợp tôn, lợp lá đối diện nhau. Phân đôi giữa những dãy tù là khoảng sân vừa đủ rộng. Đi xuống dãy nhà bếp và bốn dãy nhà tù biệt giam. Nơi đây tù nhân bị mang gông cùm lởm chởm, cornex ở tít sau mé xa cuối cùng trong vòng kẽm gai, nơi đó các anh bị đọa đày khổ cực, khốn cùng đắng cay, đau đớn thân xác, khổ sở vô vọng hết biết. Tù nhân bị tù không bao giờ biết ngày tuyên án, chẳng hiểu lúc nào mới ra khỏi nơi qủy khóc thần sầu!

                                Đến giờ được phép thăm nuôi, tôi đặt những túm quà lên bàn, thì cán bộ lấy cây que tăm xe đạp thọc moi móc tỷ mỷ mấy lọ mắm ruốc, rất lâu. Chả biết họ nghĩ sao mà lấy mũi dao cạy cả cây kem đánh răng còn đóng kín trên miệng ống típ vậy? Nhưng, thành thật mà nói, mẹ con tôi sợ tên quản giáo (mà mẹ con tôi rỉ tai nhau: "hắn có bộ mặt Lucifer”, tất nhiên hắn có biết chữ tiếng Việt "lu xi phe" là gì, chứ đừng nói tiếng ngoại quốc) coi ở phòng khách, ai nấy đểu sợ gấp trăm lần sợ người mang bệnh cùi lở loét. Chỉ sơ suất một điều gì, kể như chúng tôi không được hắn cho phép thăm viếng, không thể chuyện trò với chồng, con, cha, gì sớt. Nhưng nói cho cùng, không phải cán bộ trông coi trại giam, là ai ai cũng "ác ôn côn đồ độc ác" cả đâu. Bằng chứng là có duy nhứt một cán bộ tên Nhượng biết điều, ông ta đối đãi với tù khá tôn trọng, từ-tâm, dễ dãi, có tình người hơn nhiều người cán bộ công an cộng-sản khác.

                                Nhìn qua khe hở hàng rào gỗ cao lút đầu mình, tôi thấy đoàn tù khoảng mười lăm người lần lượt nối gót nhau ra nhà khách. Trên mặt họ chảy dài những giọt mồ hôi hột, sau lưng và trước ngực áo ướt đẫm mồ hôi, những vệt mồ hôi trên áo qua bao năm tháng cũ, bện chung với những đám hô hôi mới rịn ra hôm nay đã bạc phơ từng đám, đang kêu sột soạt như mo cau. Trong cơn bấn loạn, sợ hãi, và băn khoăn tột độ, mẹ con tôi dáo dác nhìn quanh, cố tìm khuôn mặt người thân. Tôi lặng người nhìn những khuôn mặt vàng bũng, nhận ra nét cằn cỗi, già nua, hốc hác, bơ phờ và ốm đói, mỏi mệt, từ những lằn nhăn bên khóe miệng người tù, trên đuôi mắt hằn lún đường rãnh trên vầng trán phong sương cao cao sạm nắng gió khuya chiều, mà bỗng dưng tôi cảm thấy mình chới với bủn rủn.
                                Chỉ tiếc qua đi cái tuổi xuân thì
                                Cái tuổi "tao mày" đang hăng nhuệ khí
                                Theo nghiệp binh cùng quyết chí làm trai
                                Cái thời mà đất nước vẫn chia hai
                                Mình diệt Cộng để cứu dân cứu nước (4)

                                Nhà khách im phăng phắc nghe cán bộ đọc tên tù "cải tạo" , ông ta ấn định cho tù ngồi đúng chỗ xong, những anh tù vừa ngồi xuống dãy ghế gỗ, thì mọi nơi, mọi chỗ, mọi người đồng loạt rộ lên tiếng nói rộn ràng lao xao, ríu rít như bầy ong vỡ tổ. Người người bùi ngùi, thân thiết mừng rỡ trong nghẹn ngào, nức nở xúc động bồi hồi chào mừng nhau, rưng rưng nghẹn ngào hỏi thăm, an ủi, vỗ về. Tay me con tôi luôn quệt nước mắt, trào tuôn hai hàng lệ. Những anh tù "cải tạo" ngậm ngùi uất nghẹn cúi đầu mà không thể khóc, miệng họ cố mỉm cười méo mó, che dấu nỗi chua cay xót xa, đầy đắng chát tủi nhục vô trong lòng.

                                Tôi và Luật có khác gì nhau, chúng tôi đều ở giữa hai vòng ngục tù quê hương, gia đình tôi nói riêng và đa số gia đình bạn tù nói chung, cùng đồng bào thì ở tại vòng ngục tù bao la ngoài chấn song vô hình, khổng lồ đồ sộ mà vô cùng kiên cố. Tù "cải tạo" từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, lan ra tận Phú Quốc, Côn Sơn, đều giống nhau. Trước kia Luật đã ở các trại tù: Suối Máu - Ra Phú Quốc - Về trại Long Giao, vân vân… Sau đó chuyển tới trại Z 30 A. Rồi chuyển qua Z 30 B. Gia Rai – Xuân Lộc.
                                Chồng tôi ở vòng tù trong địa ngục, đôi khi anh bị cùm trong vòng tù thứ ba là nơi chuyên giam nhốt ai có “trọng tội”, bị xiềng xích hai tay hai chân, khi bọn cán bộ hành hạ tra tấn "tù" xong, thì bị nhốt vô nơi cùm gông dành riêng cho "thứ dữ". Quả thực, hồi nhỏ chồng tôi có tên cúng cơm rất ư là dễ sợ, do bố mẹ đã đặt cho ảnh cái tên: “Phạm Trọng Luật”, khi lớn lên, Luật đi học đến lớp Nhứt, thầy giáo vui tính gọi bố mẹ lên, thầy ôn tồn nói:
                                - Tên gì cụ không đặt, lại đặt cho con cụ có cái tên kinh khủng đến thế. Nếu cậu ấy không có "tội", thì cũng vì "phạm trọng…" mà vô tù, nghiã là đi tù ây.
                                Thầy giáo “làm phụ thầy bói" nói như thế mà linh! Nay ảnh bị “phạm trọng luật” (!, ?) đi tù ngót 10 năm, bị học tập "cải tạo" sao ta!? Có lần chồng tôi cười cười trêu đùa:
                                - Em ơi! Anh có muốn đổi tên thật phí, vẫn bị lừa như thường.
                                - Mắc mớ gì đổi tên, mà bị… ai lừa nào!
                                - Không đổi tên họ, không phạm trọng luật, anh bị tù xong béng đời trai, là gì đây!

                                Tôi hết sức lo lắng về tình trạng bệnh sốt rét của Luật, nhứt là đôi bàn tay anh đã lở loét, bàn chân anh làm độc dạo trước, do bị cán bộ y tế trại kêu anh làm thí nghiệm, ông ta lấy con dao bầu cắt rau trong nhà bếp, cứa cứa vô chỗ đau, xịt máu mủ ra. Chẳng có sát trùng, sát triết, không có thuốc tê, thuốc bại gì ráo. Luật đau đến ngất thì thôi. Mặc dù Luật đã ở tù mươi năm rồi, mỗi tháng anh đều được giấy cho đi thăm nuôi, nhưng gia đình tôi quá nghèo. Một năm chúng tôi chỉ chia nhau đi thăm nuôi Luật khoảng năm ba lần. Có năm chúng tôi không đi nỗi hai lần.

                                Cho đi thăm nuôi tù, nghe thì "có vẻ như" nhân đạo, thật ra nhà nước chẳng ưu ái khoan hồng, tử tế hay tốt lành gì. Cho phép người ở vòng tù ngoài đi thăm nuôi vòng tù trong, chẳng qua là đảng muốn tù ngoài gánh vác đỡ bớt gánh nặng "nuôi miệng ăn ở tù trong". Mặc dù tù “cải tạo” ăn ngày non bữa, bỏm bẻm chỉ có một muỗng cơm lạt độn bo bo hoặc sắn khoai với vài hột muối. Do số lượng tù quá sức đông, nếu chiết tính sơ sơ, đảng cũng nát óc điên đầu, nhà nước khó khăn, nan giải trong vấn đề gạo thóc mắm muối của đảng, thì dù tí cơm gạo tẻo teo cho tù nhân; cũng là chuyện không thể.
                                Luật thấy rõ hai túm quà bé tí nị, mà gia đình mang vô cho anh, nhưng quý giá gấp mười lần cá, thịt: Đó là tất cả sức cần lao, đói khát, gian khổ, từ mẹ già răng long tóc bạc. Từ những bàn tay các con gầy bé tí xíu, từ người vợ mảnh mai. Họ đã nhịn đói, nhịn khát, thiếu thốn trăm bề ngỏ hầu góp nhặt từng xu, từng đồng, họ cố gắng dành dụm, cúp nũm mang vào trại tù, cho anh chua xót ăn tạm qua cơn đói rã ruột.

                                Dĩ vãng vinh sang xưa, anh: xe pháo rủng rỉnh, nhà cửa đình huỳnh sung túc an vui, thình lình ồ ạt chảy về trong hiện tại đầy ứ quá khứ phản bội, khiến anh xốn xang chóng mặt cuồng quay đến hụt hơi. Vì, chuỗi lao tù cay cực kéo dài trước hàng chữ: “Không có gì quí hơn độc lập tự do”. Mỗi lần gặp mẹ ruột, vợ, con: mệt mỏi vất vả đến thăm, Luật chỉ ôm chúng tôi khóc ròng. Anh khóc, không vì cảnh “nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”. Mà bởi anh rõ hơn ai hết, khi nhìn mẹ gầy trơ xương, nhìn vợ ốm yếu, nhìn đàn con nheo nhóc khẳng khiu, yếu xìu, xanh lướt kia đang rưng rưng giọt lệ mừng vui cuống quýt. Luật lặng người nhận ra nét già khú đế trên khuôn mặt mẹ xếp lớp lăn tăn. Anh đau đớn nhìn những hố mắt con thơ còn quá nhỏ trũng sâu. Và, nơi khuôn mặt cô vợ hoa hậu diễm kiều mặt hoa da phấn năm nao, bàn tay búp măng nõn nà thuở xưa quá xinh. Nay “em tôi” có từng đường gân xanh nổi cồn bên thái dương, nơi bàn chân nứt nẻ, tróc lở, ở bàn tay sần sùi của “nàng”! Ấy vậy mà... Luật mủi lòng chẳng sợ ai cười chê, anh đã úp mặt vô hai bàn tay nứt nẻ mà khóc tướng lên, như trẻ thơ.
                                "Tao với mày" đâu phải dân khiếp nhược
                                Đã bao lần đối mặt trước quân thù
                                Đã bao lần đánh vào tận chiến khu
                                Đụng biển người nhưng mình đâu có ngán
                                Mình là dân bạn bè cùng súng đạn
                                Thì sá gì lúc hoạn nạn khổ đau
                                Mình đã thề cùng sống chết có nhau (4)
                                ***
                                Lui cui dọn dẹp mấy bọc ni lông đựng túm xôi đậu xanh, tôi nhồi thêm ít đậu phụng rang vô thau xôi, để lát nữa sau khi hết giờ thăm nuôi, Luật sẽ xách vô trại, cùng anh em bạn tù chia nhau tí quà, (thay vì mẹ anh, Luật và mẹ con tôi ngồi ở đây, vừa ăn vừa nói chuyện, sẽ mất thì giờ, mà không nói được chuyện gì), thì tôi sửng sốt chợt thấy một đoàn hai chiếc xe hơi, từ ngoài con đường đất đỏ từ từ lăn bánh vào trại tù, và dừng lại ngay bên ngoài cổng trại Z 30. Trên xe lố nhố kẻ đứng người ngồi, đa số là người mặc áo tang, tôi nghe họ khóc than thảm thiết lắm. Tên cán bộ trại liền ra lệnh cho những người đang thăm nuôi dồn lại ở một cái bàn dài trong cùng. Tôi còn ngơ ngác lo lắng nhìn quanh, Luật thì thầm:

                                - Anh Trung-úy Long, tù ở trại Z 30 B, hiện làm tại tổ than của trại tù. Anh Long được tin mẹ ở Khánh Hội đã chết. Dù có giấy báo tử, anh Long tức tốc xin phép trại trưởng, cho anh về nhà một ngày, để phục tang. Nhưng họ kiên quyết không cho. Nên hôm nay, thân nhân của anh Long đưa mẹ về quê an táng tại Phan Thiết. Trên đường đi, xe tang ghé qua trước cổng trại, họ xin phép trại trưởng cho anh Long ra đứng bên trong cổng, ngay dưới hàng chữ: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, để lạy chào mẹ lần cuối cùng.

                                Bần thần chua xót và vô cùng cay đắng, uất nghẹn đến nghẹt thở, khi tôi tận mắt chứng kiến cảnh anh Long xanh lướt, thân thể anh héo hon thất thểu ra cổng trại tù. Anh chập choạng ủ rủ như người mất trí, như người say, anh như thân cây sắp ngã. Anh Long lê từng bước thấp bước cao ra tới bàn quản giáo. Anh run run ký tên vào sổ thăm nuôi. Đôi mắt anh Long sưng chù vù, mọng đỏ. Lúc ấy người nhà quấng lên đầu anh mảnh khăn tang, anh buông thỏng hai tay, đứng bất động như trời trồng. Anh Long để mặc họ xỏ áo thả gấu xỏ quần trắng cho mình như cậu bé con. Hai người thân kè xốc anh Long ở hai bên cánh tay, dìu anh bước thấp bước cao ra cỗ áo quan mẹ lạnh giá. Như cái xác không hồn, anh Long run rẩy cầm ba cây nhang quỳ xuống mặt đường đất đỏ gồ ghề. Bỗng anh Long khóc rống tướng lên, nghe thảm thiết lắm. Anh Long sì sụp lạy mẹ và bất thần rệu xuống. Chuyện nầy ai ai trong trại tù Z 30 cũng biết, có thật 100%.

                                Bỗng dưng, từ thinh không rót vào tim tôi cảm giác rờn rợn, đau đau, phiền phiền uất ức, nghẹn ngào đau buốt rất vớ vẩn. Tôi để tiếng lòng ngân trong chiều Thu vẫn hầm hập nóng rần, dù gió heo may hái lá so đũa rụng đầy sân tù. Ôi! Vô vàn đau xót, chua cay và đắng chát nghẹn ngào, thương tâm dường bao! Những người đi thăm tù đang chứng kiến cảnh não nùng vĩnh biệt ly tan nầy, đều bưng mặt khóc. Nhìn mây trắng bồng bềnh trôi, như từng lọn bông gòn xôm xốp thao thức giữa hoàng hôn đượm buồn, tôi òa vỡ hàng nước mắt chảy ròng ròng xuống má.
                                Cổng đập đã mở toang hoang, mọi nỗi niềm đau đớn được dịp tuôn trào. Tôi khóc vì quê hương lầm than, khóc vì chồng đoạ đày khốn khổ trong ngục tù cộng sản, khóc vì anh Long tuy xa lạ, mà có phần gần gũi do đồng cảnh ngộ, nên vô vàn thân thiết, khóc vì mọi nhánh tình lưu vong bi lụy, người tù đoạ đày trên chính quê hương Việt Nam dấu yêu, khóc mẹ chồng già nua khổ sở, khóc các con thơ ốm yếu cơ cực đói khát; khóc chính thân tôi rục rả ủ rủ tàn úa trước thời gian. Khóc ròng! Chuyện mẹ đến thăm con trong tù “cải tạo” cuả anh Long, đã có thật qua lời thơ của một anh tù “cải tạo” ghi:
                                Xưa mẹ đến thăm con giữa chốn lưu đày,
                                Thời gian leo lét cháy trên tóc bạc như mây.
                                Tình mẹ thiên thu. Nhưng đời mẹ chỉ còn tháng ngày.
                                Mẹ thường đến thăn con như mưa xuống cỏ cây.
                                Trưa hôm nay nắng nhiều hơn cả gió!
                                Có chiếc xe tang phủ đầy bụi đỏ
                                Trong chiếc quan tài, mẹ lại đến đây,
                                Mẹ lại đến đây giữa chốn lưu đày
                                Dù môi mẹ không còn hơi thở!
                                Gió trong con nhiều hơn giông tố.
                                Dù tim mẹ không còn nhịp thở.
                                Đất lung lay, trời cũng xoay xoay.
                                Mắt con lệ mờ, hay sương khói xa bay? (5)
                                ***
                                Thạch sùng tróc lưỡi lỏ mắt nhìn gia đình tù dở sống dở chết khi đất nước đổi đời. Số phận dân đen vùi dập trong bùn sau ngày 30 tháng 4 "mất nước". Đồng bào ngoài tù đói khổ lầm than. Luật ở tù trong một chế độ phi nhân, tàn bạo, dã man đáng nguyền rủa suốt kiếp. Suốt kiếp! Gây cuồng nộ triệu triệu con tim, làm kinh hoàng thế giới! Chúng tôi phải sống thầm lặng, đói nghèo, cơ cực suốt mười tám năm tẻ nhạt, hèn mọn, dưới tận đáy xã hội, giữa sự lạnh lùng, độc ác, phân biệt đối xử đầy bất công. Một sự thiếu thông cảm, không đức độ, hèn hạ trả thù dân tộc trắng trợn, chẳng vị tha và hoàn toàn không có sự đồng cảm, tương thân tương trợ trong lúc khốn cùng.

                                Chao! Trời cao đất dày ơi! Xin Trời ở trên cao ngó xuống. Đất ở dưới ngóng lên. Hai bên giá vai có hai thánh linh biên chép, soi xét: Chứ, chúng tôi nào làm gì nên tội, sao phải gánh chịu cảnh đoạ đày, tù tội oan nghiệt, ô nhục đến thế nầy? Quá khứ chồng chất lên dĩ vãng quá đầy, quá nặng, quá đau. Tôi không thể tom góp ít chuyện đau buồn vào từng ấy nét phác họa sơ sơ, ghi vỏn vẹn trên năm bảy trang giấy, kể hầu quý vị nghe hết nỗi cùng cực, cay đắng, khiếp đảm xiết đỗi trên chính quê hương tôi. Dạ thưa! Không thể!

                                Vã chăng, giờ nầy tôi ghi lại giòng “lịch sử đổi đời”, không mục đích để bôi nhọ làm xấu xí thêm trang giấy. Câu chuyện TÙ “cải tạo” sự thật rành rành phơi bày ra đấy, làm sao chối cải, tôi cũng chả cần phải trách móc "chế diễu chế độ, chế đá" gì. Tuyệt nhiên tôi không muốn lên án một cá nhân. Tôi chỉ xấu hổ khóc thầm vì mình vô phúc đã sống với "đời" & số phận hẩm hiu, bẽ bàng quá đỗi đau xót. Thế thôi!
                                ***
                                Tình Hoài Hương


                                (1) Phong Vũ Thiên
                                (2) Ngô Minh Hằng
                                (3) Nguyên Thạch
                                (4) Trương Trọng Kiên
                                (5) Lê Xuân
                                Last edited by Tinh Hoai Huong; 07-08-2020, 02:13 PM.
                                Bút trần nào tả được lưu luyến!
                                Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                                Tình Hoài Hương

                                Comment



                                Hội Quán Phi Dũng ©
                                Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




                                website hit counter

                                Working...
                                X