Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Góc Truyện Tình HOÀI HƯƠNG...

Collapse
X

Góc Truyện Tình HOÀI HƯƠNG...

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Trên Chiếc Nón Sắt... &


    Trên Chiếc Nón Sắt...
    & Vòng Couronne Mortuaire Cườm Đen Băng Tím

    (Tưởng nhớ về bạn LVT đã vĩnh viễn ra đi: Mar.14.72)
    * * *

    Từ nay đã thiếu vắng anh Trọng! Trọng đã đi qua rồi. Xong rồi! Hết rồi tận cùng bàng hoàng kinh hoảng! Trọng dọt lẹ quá! Bây giờ anh thật sự vô cùng đơn độc. Đơn độc kinh khủng đúng với nghiã của nó! Chiến sĩ ấy lạnh lùng hững hờ quay lưng, xoá bỏ tất cả mọi thứ trên bàn cờ (khi cuộc chơi chưa kết thúc). Trong binh thư không dạy anh buông súng gác mũ, vì đấy là người bạn đời thân thiết nâng niu ấp yêu bất khả ly thân của Lính. Thế sao Trọng đành vứt mũ sắt, buông súng bỏ cuộc? Không đầy bước chân, anh đã vụt nhảy qua bên kia bờ vực thẳm, đột ngột trở về cát bụi phù dung trong lòng đất mẹ.

    Anh ra đi mang theo vết dạn xuyên thù vùi xuống dưới vùng cỏ non! Trọng đã từ giã bạn bè ra đi giữa hai lằn đạn, chẳng thèm thấy bụi lau sậy lô xô bông xoay xoay bay trắng đồng quê. Trọng không còn thấy tre la ngà sọc xanh da vàng rì rào mọc bên suối, suối nước uốn quanh róc rách chảy xuôi đập vào mô đá rêu rong, tạo thành những bọt nước trắng xoá, òa vỡ rồi chìm khuất. Anh không nghe cây cối bực bội cựa mình lao xao suốt tháng năm rồi!

    Trọng như chiếc lá xanh tươi mơn mởn, đột ngột bị bứt ra khỏi cành, biến đổi Trọng từ trạng thái sinh tồn, sang trạng thái tử quy lạnh giá đau buốt. Anh đã bị chiến tranh lừa mình hụp xuống con đường tử tuyệt sâu hun hút không có lối lên. Trọng gửi xác thân trên quê cha đất tổ, mặc triền cỏ ướt sũng phủ đầy nước sương, nước mưa, nước mắt tình nhớ, tình bạn, tình quê đan quyện bện chặt đan vào nhau mỗi lần họ ghé qua mồ Trọng, họ nghẹn ngào tiếc nhớ, nức nở khẽ khàng đặt lên nấm mộ anh bó hoa tươi. Anh không thấy bao vòng couronne mortuaire cườm đen băng tím có những hàng chữ phân ưu: “Vô cùng thương tiếc”… “Thành kính phân ưu”… hoặc “Chúng tôi vô cùng đớn đau…” làm tâm hồn bạn bè ngậm ngùi, đau đau mà tột độ nhức nhối, rã rời, xúc động mãnh liệt!

    Trúc phẫn nộ suy nghĩ miên man. Trọng biết yêu nồng nàn tha thiết từ tấc lòng: anh yêu gia đình cha mẹ, anh em, bà con, bạn bè đằm thắm cơ mà! Nơi quê hương nầy cách đây hơn hai mươi sáu năm, Trọng đã sinh ra, lớn khôn từ bầu sữa mẹ ngọt ngào. Cha mẹ anh chắt chiu từng vồng sắn, vườn rau, ao bèo, hồ nước, nơi có khúc sông bên bồi bên lở, con đò xuôi ngược lên xuống qua dòng lưu thủ luân lưu xuyên khắp mọi mạch nguồn chảy ngầm trong lòng đất. Trước cuộc tương tàn đẫm máu quyết liệt, anh không nở ra tay giết hại một ai. Cho dù Trọng đã biết rất rõ, (kể cả người chú tên Linh (tự là Sáu) cùng chung huyết thống với mình. Tất nhiên Trọng đã mất mạng. Trọng là chứng nhân dòng họ đối nghịch đang bôi nhọ từng trang sử tương tàn trong cảnh nồi da xáo thịt.

    Trọng yêu luống khoai vồng sắn, luôn giữ gìn từng tấc đất ông cha truyền lại từ ngàn xưa. Trong năm điều: Nhân. Lễ. Nghĩa. Trí. Tín, thì Trọng giữ chữ Nhân đứng ở hàng đầu. Nào có phải anh là người bội bạc, dã man tàn ác muốn cầm súng đi xâm lăng kẻ khác đâu! Khốn thay điều ước nguyện duy nhất của Trọng: "Thiết tha mong đợi ngày an bình, ấm no hạnh phúc thực sự, mang canh cánh bên lòng niềm khát vọng kỳ phùng, để khi tàn chiến chinh anh có thể trở về sống trong mái nhà ấm áp xưa. Anh sẽ ngồi dưới giàn hoa thiên lý cùng ba mẹ, anh chị em, bạn bè tri kỷ, và có thể có thêm một cô bồ be bé xinh xinh; hầu mọi người hàn huyên tâm sự… cho vơi những ngày thương nhớ”.

    Thật, chẳng bao giờ Trọng muốn bất hiếu với ba mẹ, khi anh đột ngột lìa đời thế nầy. Trọng không ưa rứt ruột mà chít vành sô tang trên mái tóc xanh, để mặc áo quần đại tang phục sô gai may bằng tay. Khi mẹ cha ngoài trăm tuổi, Trọng sẽ không thích đội mũ cuộn bằng rơm, lưng thắt dây làm bằng bẹ chuối khô. Nếu ngày cha lìa đời, anh sẽ phải quỳ lết, đi cong người chống gậy tre. Mẹ mất, anh chống gậy gỗ vuông. Em gái sẽ mặc vải sô gai buông gấu, đội vải sô gai phủ mặt. Hàng bậc cháu thì chít khăn tang đỏ. Hàng chắt là chít khăn vàng. Hàng chút quấn khăn xanh.

    Trước di ảnh cha mẹ già tóc bạc răng long, Trọng sẽ đặt bát nhang trầm nghi ngút khói. Hướng đông bình hoa, hướng tây đĩa trái cây. Trọng sẽ vái hai vái tượng trưng cho âm dương nhị khí. Hai hàng nước mắt tuôn trào, tay anh sẽ run run rót ly rượu tăm, lạy tạ công ơn sinh thành dưỡng dục, kính thờ cha mẹ trước khi anh nhắm mắt xuôi tay, Trọng khẽ nói câu của Léoparde:
    - "Ôi! Đất Mẹ êm ái. Nguồn sống đã cung cấp cho con. Nầy đây con xin trả lại".

    Tuyệt nhiên Trọng không dám để cha mẹ phải than: “Lá vàng còn ở trên cây. Lá xanh rụng xuống. Trời ơi là Trời!!!”. Có phải giờ đây anh tột cùng đau xót nghẹn ngào câm nín, ngồi trước trên bàn thờ, Trọng muốn nói như thế hết sức? Phải không hở anh? Anh nằm xuống vĩnh viễn quên đi quá khứ, quên hiện tại và tương lai khi quê hương điêu linh, buồn đau. Không trách nhiệm. Không đùm bọc. Không yêu thương. Đầy thù oán. Chém giết. Khổ đau. Lỡ lầm trách nhiệm. Lỗi lầm trong cuộc: Giữ Nước và Giành Nước tột cùng kinh khủng! Có điều gì vượt quá sức con người. Nó hút Trọng vào điệu quay chóng mặt, tận diệt niềm khát vọng tái tê. Sự căm thù ác độc hung hăng giữa - Người với Người hiện ra rõ rệt. Lòng Trọng bừng bừng ngọn lửa mến yêu quê hương xứ sở, thân nhân, tha nhân, và năm điều "từ Nhân. Lễ. Nghĩa. Trí đến Tín" kia. Khi kẻ khác lòng hừng hực cuồng quay đi từ Bắc vô Nam đốt lên ngọn lửa xâm lăng quyết không buông.

    Thì ra tử thần thật chí công vô tư không thiên vị anh hùng kiện tướng. Không nể mặt ai! Quê hương hiền hòa, nay buồn thảm, lặng thinh, nhận thêm một nấm mồ chưa xanh cỏ. Chính Trọng, người chiến binh hiền lành, oai dũng, trẻ trung, dĩnh ngộ tự tin, tự trọng, mưu cầu nghệ thuật vị nhân sinh, dạt dào tình cảm, không thích súng ống đạn dược. Anh trung thành nồng nhiệt với chiến hữu, không ngần ngại chung vai góp sức cống hiến tuổi xanh, dâng tình yêu cho nước, vì quê hương xứ sở anh đã sống quên mình. Đời Trọng dầm mình trong chiến tranh, cuối cùng chấm dứt cuộc sống thảm thiết.

    Sinh nghề tử nghiệp chưa đúng, thật ấm ức hậm hực khi tên anh đã ghi vào danh bạ quân tử. Đau đớn thay! Nơi Trọng vùi tấm thân xuống dưới ba tấc đất, trong chiếc quan tài kẽm phủ kín, có lá cờ vàng ba sọc đỏ phủ đậy lên. Có tấm thẻ bài ghi tên: Lê Văn Trọng Đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương, kèm Anh Dũng Bội Tinh và Nhành Dương Liễu, cấp bậc cố Đại Úy; đã có dấu đạn xuyên thù trên chiếc nón sắt vấy máu, vẫn hằn sâu dấu tích những viên đạn diệt nhân lỗ chỗ. Chiếc nón sắt thân thương bây giờ đã lìa xa trên đầu Trọng, bị đặt úp nơi bàn thờ nghi ngút khói hương. Cho dù có nước mắt bao người thân tuông chảy, vẫn không bao giờ kỳ cọ gội rửa sạch dấu ấn lỗ thủng hờn căm rỉ máu triền miên.
    ***

    Mộ chí chôn người thân chưa kín cỏ. Bỗng một hôm thêm một lần do bị bọn dã nhân pháo kích, đã nhẫn tâm cày xới nấm mồ của Trọng tanh bành, tả tơi. Trọng bị móc thây ma lên. Thối um! Họ hàng thân quyến của Trọng vừa khóc vừa rên, họ lò mò nhặt từng món thịt, từng món xương, từng món… để ráp nối hình hài. Thân thể anh thiếu sót thô vụng, cái mất cái còn, không toàn vẹn tấm hình hài sình thối, trương phình, đụng vào thì rửa nát bầy nhầy, chân một nơi, tay một ngã, đầu một góc.

    Trọng nào có biết cha mẹ, đàn em nhỏ đã khóc đỏ máu mắt, vẫn chối bỏ sự thật cay nghiệt phũ phàng. Họ không thể đối diện với sự hủy diệt thân thể anh lần cuối cùng đầy bất nhân. Anh ôi! Họ tưởng nếu Trọng có sống khôn thác thiêng, anh nên kéo cha mẹ và đàn em xuống mồ sâu bít kín tối tăm, không cho họ trông thấy điều tàn nhẫn thêm. Hơn là để họ sống lụi hụi, lù đù, buồn xo, dúm dó, hậm hực, ấm ức trên thế gian, mà chứng kiến cảnh đau đớn xé lòng; (khi nhìn thấy thây Trọng thêm một lần nữa tan nát tả tơi nơi cõi đời ô trọc). Có đâu cảnh cha mẹ già mãi hoài khơi lại vết thương không khép miệng, khóc con trẻ bội bạc bỏ cha mẹ mà đi…

    Trọng nỡ lòng nào từ bỏ cha mẹ, lạnh lùng đơn độc ra đi. Mà lại ra đi biền biệt vào vùng cỏ non thế không biết!? Bởi vì cha mẹ đã phổ tình yêu tuyệt đỉnh vào từng thớ tí nhau, tạo thành một Trọng đẹp như vị thiên thần, anh dần dà lớn lên thì hào hoa, thanh cao, trí thức, thông minh, anh có đời sống tràn đầy sinh khí, dồi dào sức sống. Anh tao nhã thanh lịch, khả ái khi còn sống, và lưu danh thơm sau khi lìa đời. "Cọp chết để da, người ta chết để tiếng" mà. Chứ họ nào dám chứng kiến anh đã một lần oan khiên dẫy chết rồi.

    Cay đắng xiết bao! Họ không dám nghĩ tới ngó anh lần thứ hai, chỉ đứng ù lì như trời trồng trơ mắt chứng kiến đống xương thịt bầy nhầy, tanh hôi ruồi bu kiến đậu, bọ rúc trương sình kia: chính là đứa con ruột ngoài hai mươi sáu tuổi: đã có nhiều lần cha mẹ bịn rịn lưu luyến tiễn đưa con hăng hái ra chiến trận, con hiên ngang đi thi hành bổn phận nghĩa vụ làm trai. Và mỗi lần nơi biên thùy xa xôi Trọng hân hoan về phép vui vẻ thăm nhà.

    “Xin cha mẹ tha lỗi cho con, vì sự bất hiếu trót lỡ lầm qua mặt ra đi trước cha mẹ, để cha mẹ đau đớn cúi đầu, gục mặt rơi nước mắt vì con trẻ hoài mãi thế nầy”! Có phải anh muốn nói như thế lắm không? Phải không anh? Câu: "Ce dernier soupir de ma vie, je le garde pour aimer", (Lamartine) hoặc câu: "Nhiễu điều phủ lấy giá gương. Người trong một nước phải thương nhau cùng"; với Trọng giờ phút nầy hoàn toàn rỗng tuếch. Vô nghĩa. Dù hiện tại buốt tê, lạnh lẽo, hoặc an lành đang nghiêng mình trên dĩ vãng, hiện tại đầy cay đắng, đau khổ? Trọng thật sự vĩnh viễn ra đi, như con đò khuất dạng sau đám cỏ lau sình lún; như con tàu suốt biến vào vùng dĩ vãng, khuất xa góc trời tao loạn mù mịt khói súng mất rồi.

    Trọng vĩnh viễn nằm xuống một mình, anh soãi đôi tay ôm trọn từng cục đất quê hương vào trong lòng; khi bạn bè còn oai dũng chiến đấu bên nhau thế nầy. Hỡi anh ôi?! Hoá ra… Trông điệu bộ Trung-úy Đức có mái tóc bạc phếch bụi phong trần, mặc áo flight jacket xệ vai, anh hóm hỉnh giả vờ khậc khưởng làm người say, nách anh cặp vỏ chai rượu Martel, mơ màng ngâm mấy câu thơ tình. Các bạn không thể nhịn cười vì lối diễu ra trò ấy. Sự quyến rũ tuyệt vời nầy làm các bạn mê anh.

    Thế mới chết. Bạn bè lại sửng sốt bừng bừng mặt tím, xôn xao bàn tán về cái chết đột ngột cuả Trọng, rồi cay cay uống từng men đời say túy lúy. Đã có nhiều lần bạn với Trọng chuyền tay nhau từng điếu thuốc dỡ ngọn!? Bao lần sau tác chiến sống sót an toàn trở về đơn vị, họ vui mừng nâng ly rượu trên tay chúc tụng nhau rồi!? Hay là có lần đầu mà chẳng còn lần cuối!? Tên gọi thân mến cuả những người lính dần dà mất lần lần đi đâu hết? Mất lần theo bóng tối kinh hoàng, chìm sâu vào miên viễn rồi ư!? Cái chết của chiến binh từng xông pha ngoài sa trường giữa hai lằn đạn sát đầu tơ kẽ tóc, thì thỉnh thoảng họ có họp mặt, để “dzăn nghệ dzăn gừng” ti tí, cho đời lên hương chút xíu, ngỏ hầu xóa tan bao nỗi... Cũng vui mà.

    Vậy, điều tôi muốn nói: Xin Đời rộng lượng bao dung, đức độ, nhân ái và vị tha cho người Lính Thiên Lương (nếu họ có sơ sót, có sai phạm tí lỗi lầm, bởi nhân vô thập toàn)! Xin hãy mến yêu Lính. Hãy thương Lính. Họ là những công cụ, là sản phẩm của chiến tranh. Trong cơn đau buồn tột độ nào đó… họ có quậy phá tưng trời, do cuộc vui lụi tàn đôi khi men nồng lên, để lại trong lòng họ dư âm trống vắng, xót xa, phiền não vô tận. Có thể nay mai sự bất hạnh tràn đến, thì đấy không là điều thất trách, thất thố cuồng loạn lắm đâu.
    ***

    Trong tiệm ăn vẳng tiếng đàn hạ uy cầm tha thiết đẩy nỗi buồn phiền, băn khoăn, tiếc thương những người bạn xấu số đã ra đi chợt dấy lên trong lòng bạn bồn chồn ray rứt. Bạn bè dùng rượu đè nén bi thương nội tâm xuống, họ dùng rượu khơi dậy lòng tiếc thương vô vàn, mãi mãi là niềm tiếc thương sâu thẳm, ngút ngàn dâng cao! Đồng thời, họ dùng rượu hầu đốt lên niềm vui mừng may mắn còn ngồi bên nhau, lúc chiến tranh tàn khốc vờn quanh con người và ngang nhiên đi giữa cuộc sống, lửa bạo tàn đang đe dọa từng nhân mạng.

    Mấy bạn ngồi bên nhau trong bàn tiệc nhỏ, họ từ nhiều vùng đất xa xôi khác nhau, có phong tục tập quán khác nhau, suy tư và tình yêu chẳng giống nhau. Nhiều giọng nói trầm ấm, ngọt ngào, hồn nhiên, cũng không ít có giọng nói gắt gỏng, hoặc sảng khoái cười ha hả mang dấu tích Mẹ Quê Hương Việt Nam ba miền: Trung. Nam. Bắc rì rào giọng nói ấm nồng, súc tích, thân thương đầy âm giai tuyệt diệu, pha hương sắc đặc biệt trìu mến riêng của mọi miền.

    Họ hoàn toàn riêng lẽ, ánh mắt ngời sáng vui vẻ không ngừng ánh lên nỗi ngạc nhiên, qua câu chuyện vui buồn, trầm lắng, lịch duyệt, dí dỏm, hóm hỉnh không ngờ. Nụ cười họ nở trên khuôn mặt nhuộm nắng gió khuya chiều sâu lắng nỗi niềm ưu tư âu lo chung. Họ không có gì hơn là: gieo tiếng cười, pha nước mắt ân tình, làm quà tặng chân tín trao nhau, ngỏ hầu san sẻ niềm đau quặn thắt dại tê trong thời chinh chiến, chia nhau ly rượu nồng, tách cafe đắng, hay điếu thuốc Quân Tiếp Vụ. Và, trìu mến gửi tiếng lòng thì thầm gọi mời nhau, trầm lắng ngậm ngùi rung lên từng đợt nấc cuồng quay trên mỗi phím loan.
    ***

    Nhớ về anh quý trọng, tôi xin thay mặt bạn Tuyết Ngọc Trúc ghi lại mấy vần thơ:

    Sau Bảy Lăm bỏ quê hương dấn bước
    Giạt trôi về Mỹ quốc chốn xa xăm
    Đêm từng đêm em ngồi khóc âm thầm
    Đời phụ nữ đã một lần lỡ dở
    Cầu ván gỗ nằm bên phượng đỏ
    Nấm mồ anh nghỉ cạnh dừa xanh
    Bên dòng phù sa sóng vỗ trôi nhanh
    Rơi giọt lệ mong anh về nước Chúa.
    Trơ dưới nắng cây cầu ván cũ
    Đường thôn ta hàng so đũa ngày xưa.
    Vườn cau, bông gạo, hàng dừa
    Anh đi... để lại bài thơ quê nghèo
    Chim kêu, vượn hú chiều chiều... (*)
    *

    (*) thơ Tình Hoài Hương


    Tình Hoài Hương
    Last edited by Cowboy72A; 03-15-2017, 06:38 PM. Lý do: làm hình lại cho đẹp như thường lệ
    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

    Comment


    • Nước Mắt Thầm Lặng Tuôn Trào


      Nước Mắt Thầm Lặng Tuôn Trào
      (Kỷ niệm buồn đúng ngày: "20 tháng Ba" - 42 năm cũ)

      Bầu trời xanh lơ điểm những hoa mây trắng qùy gối trên mặt hồ Xuân Hương sáng loáng như tráng men, rồi mây kéo lê thê bay vắt qua sườn đồi buồn thiu, mây lang thang trên con đường mòn đất đỏ vắng tanh, mây bò lên sườn dốc đầy cỏ vàng úa. Trong vùng sương mù và mây trắng xóa đó, tôi an phận đi và về giữa tiếng tíu tít và giọng cười nắc nẻ của các cô gái lí lí lắc lắc đang vui tươi ôm cặp đến trường. Cái lạnh cuối xuân mơn man lành lạnh ơn ớn len lén bay về, làm tê tê bờ môi vụng dại, khiến hai gò má phụ nữ và trẻ em luôn ửng hồng. Những tà áo dài trắng hòa với sương mai mờ mờ lung linh quyện lẫn nhau trong màn sương mênh mông.

      Mây và sương ru tôi vào mộng tưởng hoài mong luyến nhớ vô vàn... Tôi chợt cảm thấy lòng mình ấm lại những niềm vui khi ngày ngày tôi vẫn bình an, ung dung vui vẻ từ nhà đi trên đường quen thuộc đến nơi dạy học. Tôi đã có gia đình, chồng tôi (Luật) phục-vụ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Hạnh phúc đơn sơ ấy chẳng có được bao lâu, nay sương muối mù mù nặng hạt còn thấm ướt mái tóc, khi tôi đứng lớp giảng bài, thì... lịch sử Việt Nam đang còng lưng vác trên vai những tang thương đau đớn, dày vò, bi thảm tàn khốc nhất trong cuộc chiến tranh xâm lăng hung tàn.

      Luật hớt-hải chạy đến giữa những khung cửa kính kêu rè rè, bể loảng-xoảng, nâng nỗi khiếp sợ lên giếng mắt nhau. Ngoài xa, xa mãi tận hướng Du Sinh, hay Suối Vàng thì phải, từng hồi pháo-kích đì đùng nổ rền trời. Khói đen nghịt kéo theo mùi cháy khét, tởm lợm, cùng sức nóng rợn người. Có điều gì lo nghĩ đắn đo phiền muộn hay sao, mà khi anh nhìn vào giếng mắt tôi, Luật đã vội vàng cúi cụp xuống, chơm chớp hai giọt mọng nước đọng trên khoé mắt, và anh quay đi lãng tránh, mà báo tin động trời chẳng lành:
      - Mười ơi! Có lệnh từ thượng cấp báo cho quân đội phải di tản ông già bà lão, phụ nữ, trẻ con gấp. Còn toàn thể quân nhân, cảnh sát, nam công chức, tuyệt đối "phải tử-thủ tại Đà Lạt".

      Tôi nghe Luật báo tin ấy, cảm thấy rụng rời dật dờ bàng hoàng như sét đánh ngang tai. Tôi sực nhớ đến chuyện động trời: ngày 9 tháng 3 năm 1974, tại trường Tiểu-học Cai Lậy có loạt đạn 82 ly nổ rền. Ôi! Coi trên truyền hình có đoạn thời sự đã chiếu đi chiếu lại: thấy hằng trăm trẻ em vô tội chết đau đớn thảm thiết, thương tâm xiết bao! Bỗng dưng tôi lại nhớ vào khoảng năm 1973 có một thời người ta ùn ùn leo lên núi Lâm Viên: xin nước của Phật Bà ban phước cho bá tánh, hầu trị tà ma bệnh tật, bình an, hoà bình. Bà chị ruột của tôi đã vất vả nhọc nhằn leo núi, khổ sở đi, và khệ nệ bưng về mấy bình nước. Nay thì... "nước" chẳng thể dùng.

      Và nữa… một số thị dân Đà Lạt nhiều người truyền tin cho nhau rằng: Từ những cánh rừng xa hun hút, suốt ngày đêm đã xuất hiện nhiều đàn sâu róm nối đuôi nhau lũ lượt kéo xuống biển. Sâu róm chết la liệt trên đường (lúc băng qua đường). Những xe khách, xe đò, xe nhà đi từ Đà Lạt xuống Phan Rang… đều thấy. Tôi không biết chuyện tiên tri về đoàn sâu róm và đoàn người sống trên đời lố nhố, đang bỏ núi rừng băng đường vượt sông ùn ùn ra biển, thực hư ra sao. Tuy nhiên tôi tin rằng nếu ai đã từng sinh sống ở vùng Cao Nguyên thời ấy, đều biết, hoặc nghe rõ về chuyện Phật Bà hiện lên chỗ nọ chỗ kia. Có cả chuyện mặt trời xoay quanh phụ nữ tiên mặc áo lụa trắng, thắt lưng xanh, tay bế hài nhi đứng trong vầng mây... và đoàn sâu róm nườm nượp đi xuống biển.

      Bây giờ tôi chưa biết tình hình náo động nầy sẽ ra sao khi ôm nhau chạy về nơi vô định, nên càng run sợ tột cùng! Phải cho học sinh dọt lẹ mà thôi. Tôi thều thào dặn-dò học sinh thu dọn sách vở, lo chạy nhanh về với gia đình. Trong trường tôi có cô Phùng dạy học sát bên vách lớp. Phùng xin tôi cho vợ chồng và đứa con nhỏ đi theo. Sau một vài phút suy nghĩ, cuối cùng chúng tôi đồng ý cho họ đi nhờ xe nhà của mình về Nha Trang. Vì Phùng không có phương tiện di chuyển, mọi ngả đường bộ về Sài Gòn bị phong toả, kẹt cứng, bế tắt. Duy chỉ còn quốc lộ chính từ Đà Lạt xuôi về miệt Phan Rang, Nha Trang, Phan Thiết là có thể chưa bị mất. Không có một chiếc xe đò nào muốn chở khách, nếu ai may mắn lắm thì hoạ may chủ xe cho lên ngồi trên mui, nhưng giá tiền một người đắt gấp mười lần thường ngày. An toàn nhất là ngoại trừ ai có xe nhà. Vì chính phủ đã trưng dụng hàng không quân sự và dân sự, để làm những việc cấp bách cần thiết hữu ích khác.

      Vợ chồng tôi vội leo lên chiếc Peugeot 404 của mình chạy về nhà. Đồ đạc trong nhà đầy dẫy! Tôi lính quýnh quờ quạng run rẩy không biết lấy thứ gì? Làm sao có thể gom đi cả gia tài đã dành dụm suốt đời người trong chiếc xe bé tí xíu? Luật la:
      - Nhanh lên em. Bỏ của chạy lấy người. Còn người còn của mà em. Mẹ, em và các con, cứ lo đi đi. Anh ở đây sẽ tìm cách gửi từ từ những thứ cần thiết theo xe đò xuống Nha Trang, cho mẹ con em dùng sau.

      Trong khi chờ đợi tôi thu xếp hành trang, Luật kiểm soát xe cộ, sau đó anh báo với tôi sẽ đi châm xăng, dầu nhớt vào xe hơi đầy đủ. Tôi dặn dò các con thu xếp gọn gàng sách vở bút viết cần thiết, bỏ vào mỗi cái cặp riêng của con cần mang theo. Tôi không còn tâm trí để nhớ một cái gì, lấy cái nầy thì tiếc cái kia. Vì ngôi nhà đồ sộ ba tầng lầu đúc bê tông cốt sắt lót gạch bông dài 45m rộng phủ lòng 5m, sẽ buồn tênh và trống trải, mất mác hết khi vắng chủ nhân. Có thể ngôi nhà sẽ không bao giờ đón chúng tôi trở về. Mặc dù tôi đã để lại hết tất cả gia tài cồng kềnh quý giá, nặng nề, do công khó lao nhọc bao năm vợ chồng tôi tằng tiện dựng xây mua sắm.

      Tôi không giàu có lắm, nhưng giờ đây thì thứ gì cũng có thể không còn, tuy sự cần cù, nhẫn nại chịu đựng lao khó và lòng tin yêu, độ lượng cùng tự trọng thì tôi không thiếu. Cái gì đời cũng ưu ái cho tôi sao!? Nhưng chưa chắc bây giờ tôi cần những thứ đó. Giống như chiếc xe thổ mộ đã chở quá đầy hàng, nếu chất thêm vài trái dưa lên nóc, chẳng biết xe và dưa sẽ đỗ lăn mất lúc nào. Vậy thì ta nên giữ lại những thứ gì thật sự cần thiết trong lúc khẩn cấp mà thôi.

      Tôi lo nấu hai nồi cơm hơi nhão thật to, dùng khăn ẩm vắt ra từng nắm nhỏ. Tôi gói chà bông, ký lạp xưỡng, khô cá, khô bò, kí giò lụa, dưa leo, cà chua, cà rốt, rau sống, hai thùng mì gói, mươi bọc cơm sấy, mấy ổ bánh mì ba tê gan và bơ sữa, tiêu, xì dầu, muối, đường... Có sẵn nồi xôi đậu xanh, nồi cá thu kho măng với thịt ba rọi ngày hôm trước còn dư, cả nồi trứng thịt heo kho Tàu đầy, do mẹ Luật đã nấu hồi sáng. Vừa làm các công việc trên, tôi bồn chồn lo lắng, bồi hồi, luyến tiếc về sự ra đi.

      Bởi vì tôi không thể biết cuộc ra đi sẽ lành dữ ra sao, các con trẻ bé dại cùng đi với bạn bè trên dưới hai mươi mấy người (chung chuyến ở ba chiếc xe khác nữa của bạn). Nếu bị lỡ đường, chúng tôi sẽ có thức ăn chia sẻ cho nhau lót dạ. Tôi khiêng một thùng nhựa 20 lít nước lọc ra sân. Hai cái bô có nắp đậy. Mùng, mền, quần áo len, quần áo mỏng, giày, dép, linh tinh... cho bà mẹ chồng, tôi, và các con chu đáo, tươm tất.

      Đã gần đến giờ hẹn, nhưng không thấy Luật đâu cả, tôi quá sốt ruột lo lắng vô cùng. Thì ra sau đó mới biết Luật chạy vào trong Hà Đông báo tin cho gia đình ông cậu Cương, và gia đình bà Tề lo liệu di tản. Thật là tội, ở trong ấp mù tịt chuyện thời sự náo loạn, họ ung dung đi tưới rau, không hề biết ngoài phố nhốn nháo ra sao. Luật phải đưa cậu Cương ra phố bán hai cây vàng. Cầm đồng tiền giấy nhẹ, có thể mua gì cũng được, hơn cầm cả thỏi vàng, chả lẽ mua ly trà, ly nước dừa, mà đưa cả chỉ vàng, hay cả lượng vàng ra? Mất toi mạng như chơi. Có mà điên! Hầu hết các tiệm vàng trả giá rẻ mạc, hai cây vàng mà họ mua chỉ ép giá bốn chục ngàn. Cậu năn nỉ hoài mà chả ai thèm mua giúp.

      May sao có bạn của Luật (anh chị Kim là chủ tiệm vàng ở Tùng Nghĩa đến nhà chờ đi chung) mua giúp cho cậu. Nga Kim chạy giặc có những bọc vải ruột tượng, túi áo túi quần cả gia đình... đâu đâu cũng đựng vàng là vàng nặng trĩu. Họ rất sợ mất toi mạng vì thời buổi loạn ly mà có hằng tá vàng chình ình cả đống thế kia, chẳng khác nào “lạy ông tui ở bụi nầy” làm thể nào thu dú đâu được. Gia đình anh Kim cần đi chung với bạn bè có đông người thân thuộc, là điều rất mừng. Anh tin và gửi nhờ bạn mang mấy bọc vàng không sợ bị cướp giật giữa đường. Kim móc túi lấy bốn trăm ngàn đưa cậu, đó là anh trả cho cậu giá rất cao, coi như Kim cho cậu tiền, chứ không phải anh mua vàng. Cậu của Luật vui mừng khôn xiết, cậu lo chạy nhanh về nhà thu xếp.

      Các bạn thân hẹn nhau tập họp ở nhà tôi đúng hai giờ chiều là lên đường. Dưới chân đèo Krong Pha nhìn lên Đà Lạt tít mù cao, những bè mây trắng xoá kéo thành một dong dài, mong manh lả lơi như hơi sương quấn ngang đồi thông tiếp nối đồi thông rủ tóc, trải thành dải sô tang quấn trên triền quê hương. Đồi thông từ từ khép bức màn sô tang mỏng dính trong gió rì rào lao xao lay động cây cành nghiêng ngả. Rừng lá thấp xưa kia xanh thẩm mịt mùng ngút ngàn bao cây gỗ quý, hôm nay hầu hết cây cối xơ xác héo úa. Tôi thực sự xa nơi chôn nhau cắt rốn. Nơi đó còn cha mẹ, anh, chị, các cháu, chồng tôi (anh rất lệnh cấp trên ở lại Đà Lạt tử thủ), người thân xóm làng hiền hòa. Không hiểu họ sẽ xoay-xở ra sao, khi tiếng đạn pháo ngày càng đinh tai nhức óc, dồn dập rót về trên đầu? Thỉnh thoảng súng đạn vun vút rền vang nơi xa xa, tạo thành những đường dài sáng loáng tóe lửa, vút qua vút lại trên bầu trời.

      Con đường cái quan ngày xưa rộng thênh thang, nay chật như nêm. Đoàn xe nhà tôi và bạn gồm bốn chiếc nối đít nhau chạy qua khỏi Krông Pha, tôi chẳng hề thấy ai đi ngược lên lại hướng núi, nơi chúng tôi đang đi xuống. Giòng người đen nghịt nối đuôi nhau đi chỉ một chiều xuôi về miền biển… Tôi định tâm nhìn quanh thấy hàng hàng lớp lớp người lũ lượt kéo nhau tấp nập vội vã đi đông hơn kiến. Kể cả những người gánh gồnh, vai mang lưng cõng, đều nối đuôi nhau lũ lượt tất tả lê lết đi bộ, bàn chân họ cột những tấm quần áo mà chen lấn trên đường nhựa nóng muốn rộp da. Bộ hành kiên nhẫn đi vội vàng, dáo dác nhìn ngược ngó xuôi, lo lắng bước thấp bước cao như thế, lòng tôi bâng khuâng nỗi đau xót lạ thường, tim chùng xuống ngàn đắng cay ngậm ngùi không thể tả.

      Trên đầu dốc tỉnh Ninh Thuận tôi nghe súng đạn luôn ì oành nổ ầm ầm đùng đùng, oằng oằng oằng… pằng pằng pằng… chẳng lúc nào ngớt. Xe hơi lớn, xe hơi nhỏ, xe jeep, xe GMC, xe honda, xe lam, xe ngựa, xe bò... xe lam, xe gắn máy, xe đạp, xe ba gác, xích lô... hầu hết mọi người có phương tiện di chuyển, cùng bầy trâu, bò, heo, chó, ngựa, gà vịt, chen chúc với người và người… tất tả xô đẩy nhau chạy bộ trên con đường chật như nêm, hổn-độn nối đuôi nhau chạy đi, chạy đi... ứ nghẽn.

      Mãi đến buổi hoàng hôn khi qua khỏi Ba Ngòi nóng bức xé da, đoàn xe di tản chậm hẳn lại, dường như không còn sức sống, cạn kiệt nguồn sống rồi chăng, những xe khác không còn yêu xăng, nên xe ù lì nằm ụ từng đám rải rác trên đường từ Phan Rang tới Ba Ngòi, nên quốc lộ đông xe và người càng bị kẹt cứng, xe chẳng thèm nổ máy nữa rồi! Lúc nầy trong đám bạn tôi ai nấy đều thật sự lo sợ và đau khổ.

      Mẹ con tôi ôm nhau ngồi lặng-lẽ trên xe, cúi mặt thút-thít khóc, lòng tôi rối bời, ngổn-ngang trăm mối, lo-sợ tột cùng. Tôi cho con nhỏ mẹ già di tản, thì ăn ở đâu, ngủ ở đâu? Nhưng ba bên bốn bề ai ai cũng ùn ùn lũ lượt kéo nhau đi, đông kinh khủng thế nầy. Nếu gia đình tôi ở lại, có lẽ càng cô độc và sợ hãi hơn khi bóng đêm bao trùm xuống vạn vật, súng đạn ùa về nổ chát chúa, đinh tai nhức óc mỗi đêm thế nầy, làm sao đây!? Lương quân-nhân, công-chức, như “tiền lính tính liền”, rồi sẽ ra sao khi bồng bế nhau chạy về nơi vô-định?

      Mấy lúc trước tôi đã bòn nhặt cất dấu được một số tiền kha khá, (đề phòng khi hữu sự bất chợt như bây giờ, thì có mà chi dùng). Nào ngờ, Luật thấy trong nhà có tiền, anh nghe bạn than thở, động lòng trắc ẩn là thể nào anh cũng “réo rắt, xeo nạy” cho bằng được, để anh mang tiền đi đưa cho bạn mượn. Cả chục lần như vậy thấy chồng ỉ ôi thở vắn than dài, “dằn vặt đay nghiến” tôi. Dù tôi đã quyết dú đút tiền cất đi, nhưng rồi tôi vẫn “lạt lòng nhẹ dạ” không nỡ từ chối lời anh yêu cầu. Vả lại, tôi không phải là loại đàn bà mê tiền hám lợi, quên tình nhân ái mà bo bo ôm rịt giữ kỹ tiền, tôi không thấy vàng bạc là mắt sáng như đèn pha.

      Tôi “dại lòng” nên trút hết hầu bao, đưa tiền để anh đem cho bạn mượn trước mặt tôi. Thật ra tôi cũng biết hoàn cảnh tùy gia đình mỗi người bạn, đều khó khăn rất tội nghiệp. Họ có tự trọng, nhưng quá khốn đốn mới muối mặt nhờ ta giúp đỡ. Bây giờ bất ngờ ra đi, nên tôi chẳng còn dư bao nhiêu tiền, thì nếu mẹ con tôi không lo chắt bóp ăn rau ăn cháo, chắc là chết đói nơi xứ lạ quê người thôi. Nghĩ tới đó... là tôi cảm thấy quá sợ hãi!

      Gió lồng lộng thổi những hàng cau lao xao cúi rạp mình gần sát đất, khi những trái hỏa châu mắt thần bùng nở đỏ bầu trời nghiệt ngã đang đè lên đầu nhân thế, hòa cùng khói thuốc súng và từng đám mây trắng bay vội vã như đàn cừu hốt hoảng té chạy tứ táng trên đồi cỏ khô. Tiếng súng đạn bay vút lên không trung, tạo thành những màn nhện đỏ au đan chéo qua chéo lại, có đường cát tuyến tiếp tuyến trên không gian mịt mù, tiếng đạn nổ dòn, hòa cùng tiếng lao xao của rừng xoài, tiếng côn trùng đồng loạt tấu khúc dạ trường ngọt ngào bất tận… Đêm cuốn đi bởi giòng cuồng lưu cuồn cuộn xô đẩy nhau, chảy theo làn sóng người đang tìm cách thoát thân khỏi tai trời ách nước.

      Trời sập tối thì chúng tôi đến gần Vịnh Cam Ranh, nơi có chỗ neo tàu sâu, có sân bay chắc chắn và an toàn, có câu lạc bộ, có nhà máy làm nước đá, có hệ thống ra đa tối tân nhất bây giờ. Vịnh Cam Ranh là một lợi thế chiến lược tốt nhất của vùng Đông Nam Á. Từng là nơi tiếp liệu xăng dầu cho hạm đội trong chiến tranh Nhật - Nga từ 1904 > 1905. Ngày xưa là thế, nhưng hôm nay im lìm câm nín.

      Đoàn chúng tôi cùng đi gồm: gia đình Trần Ngọc: (mười chín người). Gia đình tôi (sáu người). Gia đình cô Phùng (ba người). Gia đình anh Bàn (mười người). Gia đình Kim mười người, (sau buổi ăn tối, Kim từ giã chúng tôi đi về hướng Phan Thiết, vì có thân nhân ở đó). Nhà anh chị Trí ở Cam Ranh có mười tám người, và không kể họ hàng di tản. Nay ở tại nhà anh Trí có thêm đoàn chúng tôi, vị chi tại nhà có cả thảy là 78 người! Kinh khủng quá. Anh chị Trí, mẹ anh, em gái và các con anh chạy ra mừng rỡ tíu tít rôm rã chào đón.

      Chúng tôi đến bất ngờ, Kim, tôi, Phùng, Ngọc, Bàn, cùng hùn tiền đưa chị Trí, nhờ chị đi chợ nấu ăn giúp có lẽ vài bữa. Ban đầu chị Trí nói qua loa, không nhận. Nhưng sau anh Trí thấy chị Bàn nhét tiền vô túi vợ, anh chồng hất hàm nhìn vợ, vợ Trí mừng rỡ xách giỏ đi chợ. Phút chốc hai ba nồi cơm trắng to tướng, nồi canh chua cá chim, cá thu kho và rau sống, rau muống luộc, đã đọn lên đầy nhóc. Những người mới tới dùng bữa no nê ngon lành. Nhưng tôi và Phùng có con dại, mệt quá nên chỉ ăn qua loa nửa chén cơm, rồi đi tắm rửa, giặt giũ áo quần. Phùng và tôi leo lên giường rù rì nói chuyện tới khuya. Phùng bảo đảm với tôi là chỉ cần "chúng ta" an toàn tới Nha Trang, thì mẹ con tôi sẽ ở nhờ tại nhà bà cô của Phùng. Nghĩa là hai gia đình tôi và Phùng sẽ tách riêng những gia đình: Ngọc. Quý. Cúc. Bàn.

      Ở Đà Lạt là quê hương tôi, dù gì tôi cũng dễ dàng xoay trở. Nếu về Nha Trang thì coi như tôi bơ vơ, lạc lõng. Tôi chỉ quen thân duy nhất cô Oanh trước kia dạy học ở Đà Lạt, hai năm nay Oanh đã đổi về Nha Trang. Chẳng biết Oanh có còn ở chỗ cũ không?! Còn Phùng về Nha Trang thì bà con hai họ nội ngoại có nhiều. Phùng hy vọng có thể lưu lại nhà thân nhân một thời gian, và tìm cách trở về Sài Gòn. Lúc nầy tôi thật mừng khi có Phùng cùng đi.

      Bốn giờ sáng hôm sau, chị Trí và mấy người đàn bà trong nhóm tôi lo dậy nấu mấy nồi cơm, canh cá tươi thật to như tối hôm qua. Tôm, cá, mực ở miền nầy quá rẽ so với Đà lạt. Chúng tôi ăn uống no nê xong, tất cả ba đoàn xe chúng tôi từ giã anh chị Trí, lên đường đi Nha Trang. Khi tôi tới chỗ trạm đổ xăng, vì xe hơi của tôi cũng cạn xăng, tôi đi tìm hầu hết mấy trạm xăng, không nơi nào mở cửa. Các chủ trạm xăng đều nói:
      - “Từ đây về Nha Trang các trạm xăng đều bị hết, khan hiếm, đóng cửa không có xăng từ một tuần nay”.

      Trời ơi! Lẽ ra tôi còn bình xăng phụ hơn mười lít dự trữ mà Luật đã bỏ sau cốp, nhưng tôi ỷ y là dọc đường có thiếu khối gì trạm bán xăng, mà lo. Thế nên tôi đã chia sạch xăng cho hai chiếc: xe be, xe của Kim; là bạn đi cùng đoàn. Tôi không hề dự đoán có chuyện bất trắc nầy. Chết rồi. Không ai chịu bỏ xe của mình lại nửa đường, (dù xe của họ cũ, coi thổ tả). Thế là tôi đành ngậm ngùi rơi lệ mà "bỏ rơi" chiếc xe hơi Peugeot 404 mới của mình, (nếu chịu khó chật chật xí, xe tôi cũng có 18 chỗ ngồi) nằm ụ tại Cam Ranh. Đúng như Luật đã nói: “bỏ lại tất cả của cải qúy giá, bỏ hết, lo túm chạy lấy sáu mạng người mình nghen em. Còn người còn của mà em”!

      Mẹ con tôi, mẹ con cô Phùng leo lên xe lam của Qúy chật cứng những đàn bà, trẻ con cả thảy là mười ba người. Mẹ của Luật và đàn ông, phụ nữ mạnh khỏe khác thì leo lên chiếc xe be không mui. Dạo trước kia xe be nầy dùng chở cây gỗ, nay chở người. Khoảng hơn ba chục người lố nhố chen chúc ngồi trên xe be trần trụi không có bờ vách, họ dùng những sợi dây dừa cột chặt thân người nầy vào người kia, rồi cột vô một cây gỗ cẩm lai và đống đồ đạc cao chất ngất.
      Xe be và xe lam chạy chậm rì, cà rị cà mò, nhưng tôi vẫn lo sợ người ngồi trên xe be chen chúc chật cứng có thể bị lọt xuống đất! Xe be không có mui che mặt trời nên càng nóng rát. Nhóm người lết bộ tay bồng tay bế các em nhỏ khóc la thảm thiết, mặt mày trẻ lem luốc, đỏ ửng như con tôm luộc, mũi dãi lòng thòng. Xe không thể chạy nhanh trên đường dài ngoẵng có đủ mọi thành phần và tầng lớp… đông hàng vạn người gánh gồnh đi bộ, có đủ thứ loại xe lớn nhỏ. Thỉnh thoảng những chiếc xe bò lọc cọc chở đầy người phủ tấm bạt bay phần phật.

      Đến gần ngả ba thì có một chiếc xe hàng mui bẹp dúm, bốn bánh xe chổng ngược lên trời quay tít máu me lênh láng, trên lề đường đã có mấy xác chết nằm ngay đơ, người trong xe ấy hò hét. Mẹ con tôi sợ hãi bưng mặt nhìn đi chỗ khác, tôi tột cùng run rẩy hoảng loạn, tim nghẽn nghẹt ứ cơn đau, thân thể muốn bay bổng lên chín tầng mây. Đồng thời xe lam của Quý bị hư, cũng do chất đầy người và quá nóng máy, xe lam nầy nhích chạy đường trường không có đèn. Chiếc xe be do Phú lái phải đi sát phía sau, để dọi đường cho xe lam chạy, thật quá nguy hiểm. Đèn pha của xe GMC ngược chiều nào đó dọi sáng trưng, suýt tí nữa thì xe lambretta của Quy chồm tới rất sát xe khách trước mặt, (hoặc là chúng tôi nằm gọn dưới lòng xe be)!

      Anh tài xế xe GMC nghiến răng gò lưng đạp thắng kít kít kít, trên xe mọi người đông nghẹt đều dồn đống, chúi nhũi tới phía trước xe GMC. Bốn bánh xe GMC rít ken két dưới mặt nhựa, tỏa khói bay khét lẹt. Tôi khó có thể đoán tuổi đời anh lính dãi dầu sương chiều nắng gió ấy đã trải qua bao xuân xanh, khiến da mặt anh càng sạm đi lúc hiểm nguy nầy? Cả bộ quân phục mặc trên người hình như càng bạc phếch phong trần, hay do bụi cát rít dưới những bánh xe? Chúng tôi chỉ biết kêu Trời cứu mạng. Khi đèn xe rọi tới trước, tôi thấy những đứa trẻ con trạc bằng tuổi con tôi, nghe tiếng bánh xe lết dài trên đường nhựa, chúng hốt hoảng mệt mỏi quýnh quáng bám theo chân người lớn vọt lẹ lên lề.

      Thật hú hồn hú vía, nếu anh tài xế xe GMC không tháo vát, nhanh nhẹn, không có kinh nghiệm, ắt hẳn là tai nạn rùng rợn kinh khủng sẽ xảy ra không thể lường! Trong lúc nầy lòng tôi bỗng nổi lên sự ấm ức quá tức giận, vì chuyện tôi đã "nhân ái" và "anh hùng rơm" để rồi đành vứt bỏ lại chiếc xe 404, để leo lên chiếc xe lam cũ thổ tả nầy! Biết làm sao được khi mình có lòng nhân không hề tính toán thiệt hơn, đã hậu hỉ hân hoan và thành tâm trút hết xăng cho xe bạn!
      * * *

      Từ Cam Ranh khởi hành lúc mười giờ sáng, mãi đến mười môthị2 đoàn xe dài ì ạch khoảng trăm cây số nầy mới đến Nha Trang. Các ngã ba ngã tư giòng người đang cố chen lấn, giành cướp tí đất sống, xe và người vội vàng sát nhập chung nhau trườn lết tới vùng đất hứa hẹn an toàn. Họ cố chen từng bước, từng bước, ùn ùn tìm về vùng tạm lánh cư có lẽ bình an hơn: Nha Trang

      Chúng tôi ghi cho nhau địa chỉ bà con ở nhiều nơi, ngộ lỡ có biến loạn, hay cần liên lạc, thì biết mà tìm nhau. Chúng tôi chia ra nhiều hướng: Gia đình Phan Bàn ở nhờ với bà con của họ tại đường Nguyễn Tri Phương. Đại gia đình Trần Ngọc ở nhà bà con. Vợ chồng Phùng, bà mẹ Luật, tôi, và bốn con thì về nhà bà cô của Phùng. Có thêm chúng tôi, nhà bà cô hơi chật càng nghẹt thở hơn, cổng sắt cao lút đầu, màn che trướng rủ kín mít. Họ nói chuyện với nhau thì thầm to nhỏ, mắt la mày lém, dáo dác nhìn trước ngó sau len lén rù rì. Họ tỏ lộ vẻ khó chịu ra mặt khi có sự hiện diện của gia đình chúng tôi, họ bất an sợ sệt những điều gì lạ lắm. Hay họ sợ mẹ con tôi biết họ quá giàu, họ “nuôi ong tay áo, nuôi khỉ đốt nhà”... thì tôi nảy sinh ra tham lam mà trộm cướp chăng?

      Sống tại nhà bà con của Phùng, tôi sợ các con ồn ào làm vướng bận, phiền gia đình bà cô, nên mỗi ngày chúng tôi phải đi qua bên trường Tiểu-học, ngồi ngoài gốc cây phượng mua quà bánh ăn qua loa. Chiều chiều chúng tôi mò ra biển ngồi dưới hàng dừa hứng gió mát, để cho các con nô đùa ở biển. Chờ sau giờ họ ăn cơm ,tối mịt chúng tôi mới dám mò về xin phép chủ nhà cho tắm rửa, đi nằm ngủ nhờ dưới gạch bóng loáng trải mền bông xuống nền nhà, mẹ con bà cháu đều chui vào nằm chen chúc trong một cái mùng rộng. Tóm lại, chúng tôi chỉ xin ngả lưng ngủ nhờ. Năm giờ sáng, tôi lo đánh thức cả nhà dậy, lại thất thểu lang thang đi ra ngoài lộ sớm. Hai hàng nước mắt tôi thầm lặng vẫn tuôn trào.

      Mặc dù từ Đà Lạt về Cam Ranh, bạn biết tôi không có thân nhân ở đây, Phùng đã cam đoan chắc chắn là: mẹ con chúng tôi khỏi lo vấn đề ăn & ở Nha Trang trong thời gian vài tháng. Tôi ngây thơ đã tin bạn. Nay Phùng cảm thấy khó xử, tôi cảm thông vì nhà nầy không phải là nhà của Phùng. Dẫu sao Phùng cũng áy náy và hổ thẹn với tôi. Qua ngày thứ bốn, tôi thấy mặt mày ai nấy đều nặng như chì, khi Phùng bồng đứa con lên máy bay về Sài Gòn. Thái độ ngược đãi ấy đã được khẳng định mọi điều dứt khoát rằng: Sau khi gia đình Phùng an toàn tại Nha Trang, có đủ điều kiện để họ tìm đường trở về Sài Gòn, thì họ muốn bỏ rơi chúng tôi. Như thế thì đã rõ rồi, dễ hiểu quá. Phùng nên đi trước, mai mốt ông chồng Phùng sẽ về sau, là lưỡng tiện đôi đàng, ông sẽ ú ớ ù lì ngơ ngơ ngáo ngáo, là huề cả làng. Họ “siêu tổ chức” khỏi mất công “hứa lèo” với tôi. Mặc tôi xử trí ra sao với bà cô và chính chúng tôi, thì ra... Tôi thật ngây thơ, việc vợ chồng Phùng hứa suông chẳng khác nào đem con đi bỏ chợ, tôi đã giao trứng cho ác...

      Thà rằng tôi ở lại Cam Ranh, dù sao gia đình anh chị Trí cũng là chỗ thân tình. Vả lại họ còn nợ tôi một món tiền kha khá... (do Luật “hứng nợ” đưa cho Trí). Rồi sau nầy cộng thêm nợ mới là: Trí nợ bạn và chúng tôi một số tiền khổng lồ: Do, công ty chúng tôi làm ăn chung, đã trúng thầu, nên thuê một trăm nhân công tháo gỡ xuống năm trăm căn nhà tiền chế của Mỹ, & thuê bao nhân công và tài xế ăn uống, tiền làm mỗi ngày, họ chở vài trăm chuyến xe vật liệu, về bán trả góp cho dân ấp Vĩnh Linh, họ cần làm nhà (thuộc Cam Ranh). Vì ở ấp Vĩnh Linh mới thành lập, chính phủ chiêu mộ dân tứ xứ đến vùng nầy lập nghiệp...

      Những chi phí ban đầu trang trải do công ty chúng tôi hoàn toàn bỏ ra, từ tiền mua nhà tiền chế hai triệu tư, tiền thuế cầu đường, thuế trạm... tiền bến bãi chứa hàng, tiền mướn nhân công tháo gỡ, đài thọ nhân viên lao động ăn uống, tiền linh tinh, v.v... công ty đã chi phí mà chưa hề thu lại vốn. Vì tiền bán những nhà tiền chế nầy, các bạn ở Đà Lạt xa đây cũng tin Trí, để ưu tiên cho Trí đứng ra bán, và làm thủ trong việc thu tiền. Thì anh ta đã thâu tóm hết, vung vít tiêu xài hoang phí, lại lòi ra chuyện Trí đèo bồng thêm vợ nọ con kia, (mà bà vợ hai nầy không ai khác là em ruột của vợ anh ta). Trí lem nhem không chuyển trả cho tôi, và bất cứ ai ai trong nhóm bạn một đồng nào cả.

      Tôi muốn nấn ná ở lại Cam Ranh, là cốt ý muốn Trí trả bớt món tiền riêng của tôi, (do Luật “hứng nợ”), mà Trí đã mượn tôi, (chứ tôi chưa tính đến chuyện Trí phải trả tiền anh ta nợ chung trong công ty. Mặc dù chúng tôi biết lúc nầy Trí vẫn có khá nhiều tiền, nhưng do lòng tham lam, vô trách nhiệm, không hề biết tự trọng, không biết xấu hổ, nên anh ta cứ "mặt trơ trán bóng" trơ tráo... ù lì, không chịu rỉ ra đồng nào, Trí phải biết chính lúc nầy ai ai cũng cần có tiền). Sau nữa là để tôi giữ liên lạc dễ dàng với Luật. Dù sao đường đi từ Đà Lạt về Cam Ranh, cũng gần hơn đi Nha Trang, và nơi nầy chưa bị phong toả.
      Ôi! Thế nhưng... người tính không bằng Trời tính!

      Tình Hoài Hương
      Last edited by Tinh Hoai Huong; 04-15-2017, 03:21 AM.
      Bút trần nào tả được lưu luyến!
      Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
      Tình Hoài Hương

      Comment


      • Gãy Gánh Gươm Đàn



        Gãy Gánh Gươm Đàn
        (Tiếp theo bài viết tuần trước)
        ***


        Thứ Hai, ngày 24-3-1975.- Có căn nhà đang cháy trong xóm đìu hiu, (do một người đàn bà bày bàn cúng ra giữa sân nghi ngút khói hương, đã bị gió tạt vô nhà). Bà ta hì hụp khấn vái kêu xin Trời Phật ban ơn lành... cho sống lâu trăm tuổi. Cứ thật thà mà nói, sau vụ bàn thờ ông cha cố tổ bị rầm rộ xuống đường năm xưa, thì tôi có ít thiện cảm để vãng lai tới chùa thăm viếng ai. Điều mà xưa kia tôi rất trang trọng, mến thích tới lui nơi "quý tăng bào lão trượng”, hầu ân cần chia sẻ chum cà, lọ tương, hủ đậu, chùm cây trái ngọt ngon, & sâu nặng tình nghĩa đậm đà. Vã lại chồng tôi vẫn nói:
        - Mình già rùi, “gần đất xa trời”, can chi mà phải sợ chết, lo nọ lo kia cũng rứa hử?
        Tôi gân cổ lên cãi lại anh:
        - Anh nói thật tức cười. Có ai đang sống ở trên đời nầy, mà “gần trời xa đất” mô nà! Vậy thì “đất” phải gần hơn “trời” là cái chắc. Vì ta đang đạp hai bàn chân trên đất, để đi hà rằm đây nè. Khi nào chết mới gọi là “gần trời xa đất”. Cũng do vì... người ta đều muốn lên Thiên Đàng cả. Chẳng ai muốn xuống dưới đất ở tại lò hỏa ngục với Diêm Vương.

        Chúng tôi vơ quần áo ra đi lang thang ngoài đường như thế, ban ngày đi ra biển ngồi dưới những gốc dừa, tối về thì xin vào ngủ nhờ ngoài mái hiên của trường Tiểu-học. Qua ngày thứ sáu thì gia đình bà Niềm (ở đối diện với nhà bà cô của Phùng), thấy thương mẹ con chúng tôi bơ vơ nheo nhóc, họ động lòng trắc ẩn, bà kêu chúng tôi cho đến ở nhờ. Tại đây có một phòng riêng rộng rãi đầy đủ giường nệm mền gối. Muốn nấu ăn thì có sẵn bếp, cứ tự túc. Tôi ứa nước mắt mà mừng vui khôn tả xiết. Thế là cả nhà tôi tíu tít vui vẻ dọn qua bên đường. Vẫn biết là ông bà Niềm quá tốt, nhưng sợ các con thơ dại quậy phá, nên tôi không dám làm phiền họ. Ông bà Niềm có hai người con. Một anh con trai đi lính Nhảy Dù. Một cô con gái tên Thúy Lan làm ở Hàng-không Quân-sự Nha Trang.

        Dưới những gót chân bé tí lún xuống bờ cát mịn, từng vệt chân trần nhòe đi trong sóng khẽ khàng vỗ tan bọt nước. Tôi rón rén bước trên nền cát ẩm, với ước mong có tí chút hạnh phúc lướt thướt lan theo từng ngấn sương khuya rơi rụng nhạt nhòa trên phố biển Nha Trang. Lòng vẫn dạt dào nỗi hoài mong tiếc rẻ bao nhớ nhung về quá khứ hao gầy. Nỗi nhớ làm cảm quan và lòng mình mềm nhũn, choáng váng, thẫn thờ tiếc nuối, nghẹn ngào tức tưởi bao mộng mơ bạt ngàn lắng đọng. Ngày ngày mẹ con tôi vẫn đi tản bộ ra bãi biển, ăn cơm hàng cháo chợ. Nhưng chỉ non tuần sau, tôi phải tính đến chuyện tự nấu ăn. Tôi tiếc hùi hịu vì đã để trên chiếc xe nhà của mình ở Cam Ranh hết mọi thứ, chỉ mang đi những túm quần áo cần thiết.

        Bây giờ tôi mua một cái lò than, tôi phải tính toán cân nhắc kỹ từng đồng nơi xứ lạ phương xa: mua một nồi nhôm to ấu cơm, một nồi nhôm nấu canh, một nồi nhỏ dùng kho cá, một bình nhôm nấu nước, mua muỗng, đũa, sáu cái tô nhựa, (dùng khỏi bị bể). Dù các con tôi biết thương mẹ, chúng ra đường nhặt cây khô mục, lá khô, bã mía, để nấu cho đỡ tốn tiền mua củi, nhưng có thấm vào đâu. Tôi mua củi, gạo, rau, cá...

        Có ngày trời nắng oi ả, có ngày mưa ào ào, bầu trời miền biển khác hẳn với khí hậu thoáng mát ở miền núi, khiến các con khó chịu, mặt mũi lúc nào cũng đỏ bừng, mồ hôi nhễ nhại, rôm sảy bắt đầu nổi lên từng đám dày, ngứa ngáy, thật quá tội nghiệp. Chúng ngồi đâu là hai tay gãi sồn sột, móc chỗ nầy cào chỗ nọ, như mấy con khỉ. Tôi vô cùng lo sợ các con lạ nước lạ cái, sinh ra ốm đau, thì nguy to.

        Sáng sớm, khi các con còn ngủ, tôi lò mò đi chợ, về nhà vội nấu một bữa ăn (mà chia làm hai lần: một phần ăn vào lúc mười giờ sáng, một phần khác tôi múc ra trước, để dành ăn vào lúc năm giờ chiều). Khi ăn uống dọn dẹp rửa ráy xong, mẹ con bà cháu đều tản bộ ra đường nầy qua đường nọ. Chúng tôi thường đứng lại hằng giờ trước cổng một ngôi nhà xinh xinh phủ đầy hoa giấy, tôi thèm thuồng cuộc sống ấm áp gia đình mà mình đã bị mất, rồi ngậm ngùi buồn xo. Chân ngập ngừng e ngại bỗng dưng tôi chùng bước, len lén nhìn vào nhà họ.

        Dẫu rằng ngôi nhà bên trong hàng dậu thưa ấy, tuy lạ mà rất quen thuộc, vì hình ảnh ông bà cụ đứng nơi bồn hoa thắm đỏ với vòi sen phun nước. Họ giống ba mẹ tôi, bước chân họ di động chậm chạp, khẽ khàng dẫm trên nền gạch, khiến lòng tôi chùng xuống nỗi tiếc xót ngậm ngùi. Tôi nhớ những bọt nước đã rơi xuống vệ cỏ ven đường nhà xưa. Tim tôi rung lên từng chặp, như nhắc nhở tôi nhớ về thuở nhỏ bên hàng hoa anh đào, trong ngôi biệt thự của ba má ở tại đường Quang Trung (dưới ga Đà Lạt) mà ngậm ngùi nấc lên từng cơn.

        Tôi muốn quay đi chỗ khác, nhưng đôi mắt cứ dán chặt vào mỗi gốc cây trong ngôi nhà ấy. Tưởng như mới ngày nao tôi đứng tỉa cành già, hái lá vàng trên những cây cảnh trong khu vườn nhà riêng của mình khi đã lập gia đình. Nay cảnh vật và con người từ tha nhân cho tới chính mình, đã biến dạng ngoài sức tưởng tượng! Không ai có thể cứu lấy mình, chứ nói chi đến chuyện cứu người. Thời buổi loạn ly nầy “làm người” thật khó khăn: Nếu tôi có chút của cải, có máu mặt xí, thì bị hàng xóm, bạn bè dòm ngó và chính tôi nghi ngờ coi chừng… họ! Nay tôi lang thang xốc xếnh giống tên hành khất, thì bị coi là bôi bẩn chính thân, bị miệt thị, bị xô ra khỏi xã hội, và tụt xuống đáy bần cùng. Thật khó sống làm sao khi người dân thị thành vẫn lạnh lùng thờ ơ, tấp nập, dáo dác ùn ùn kéo nhau đi đâu mà đông đúc quá?

        Bình minh dâng cao trên đầu thì nóng rát da người, hay hoàng hôn tàn dần, bóng râm từ các vách đá lan ra, buông xuống đường chân trời xa tít tắp một màu đen, dù thế trời chưa thể dịu mát khi ở ngoài đường. Mẹ con bà cháu tôi coi "ung dung nhàn hạ" thơ thẩn vì không biết làm gì, để giết bớt thời gian quá tẻ nhạt, là ra biển ngồi hóng gió. Chúng tôi ngồi nhìn từng con tàu lớn đậu ngoài xa xa, các con tưởng tượng nhiều điều thú vị, theo dõi và biết ngày nào con tàu nầy đến bến, ngày nào con tàu kia đã ra đi. Tàu thuyền trên sóng nhấp nhô, có chiếc lênh đênh trên đại dương, chiếc ra khơi, chiếc vào bến đậu. Tuy mục đích có khác nhau, nhưng con tàu cùng lênh đênh bồng bềnh chơi vơi cỡi trên ngọn sóng lớn. Tôi nhìn những con tàu khổng lồ mà buồn bã vô cùng, không dám ước mơ hay hy vọng, dù niềm hy vọng bé tí xíu. Tôi cảm thấy mình đang chới với, cô độc lữ hành trên sa mạc cháy nắng, dẫu biết rằng: không có ai biến thành là một hoang đảo, vì phải có sự tương giao với đời. Thế nhưng tôi quá bơ vơ lạc lõng, cảm thấy mình giống ông lính già cô độc, run rẩy trong một pháo đài bị vây hãm.

        Trời xanh lồng lộng, biển Nha Trang thơ mộng thi vị dịu êm có gió hây hây thổi, mặt biển vẫn là thảm hoa cương óng ả gờn gợn lấp lánh, rì rào, lung linh và mênh mông. Trẻ nhỏ vô tư lự nô đùa trên biển, các con ưa thích vỗ tay và ngẩn ra nhìn những con tàu. Dù tôi bảo thế nào các con vẫn e dè, sợ sệt; vì các con không quen, chưa bao giờ cởi áo quần ra giữa chỗ đông người. Tuy các con đến với biển mỗi ngày, nhưng chúng chưa dạn dĩ. Nhìn sóng biển trắng xoá xô bờ, đẩy tới đưa lui, thì các con cảm thấy chóng mặt và sợ, nhút nhát co chân, chúng chỉ dám xăn quần lên tới đầu gối. Hoặc mặc áo quần dài mà reo vui, lội bì bõm vọc nước sát ven bờ, khi sóng vừa bén gót chân, các con lo sợ hét to, chúng vội vã nắm tay nhau chạy lên bãi cát khô, làm y như là các con sợ nhúng chân vào nước nóng.

        Cái thú duy nhất của các con là cùng nhau chạy đi rượt đuổi những con còng. Kể ra các con cũng khôn, biết mò ra chỗ để bắt ốc, bắt còng về luộc ăn. Con còng, con ốc cũng khôn không kém. Còng chạy rất nhanh, thoáng một cái chúng tìm mọi cách thoát thân đằng nào thật lẹ. Bao nhiêu lần các con không bắt nỗi, nhưng có một hôm các con làm thành một hình tròn to, rồi từ từ khép chặt vòng tròn, vây quanh mấy chú còng lêu khêu. Ba đứa con tôi chầm chậm bò dần dần tới bên mấy con còng, các con nháy mắt giơ ngón tay trỏ đặt lên môi, (làm như lũ còng biết nghe tiếng người vậy), chúng đồng loạt ụp cả người, phủ lên mấy con còng ngố ngáo. Tôi cười thầm:
        - “Con còng què chân làm chi tội rứa, nên mới bị trẻ bắt sống hỉ!”.

        Thế là mấy chú còng bẹp dí. Bé Bi giơ một chú còng què lên trời, cười ha hả, hôm đó cả nhà chúng tôi có được bữa "ăn nhậu" canh chua còng, cùng nhau chuyện trò vui và rôm rã ra phết!. Có một hôm, mấy con đang tắm biển, thì bé Bi do sợ sóng nước, đã ị ra quần thối um, khiến cả nhà cười vang. Tôi thương các con bị đói khát, nhưng biết thân phận mình, các con không dám đòi quà bánh. Bé Dzũng thường cõng bé Hoàng trên lưng, Tuấn dụ em Huy (bé Bi) đi ra ngoài gốc phượng nhặt hoa rơi. Mấy anh em xếp hoa thành từng đống, cho em chơi để em nhỏ quên đói, không đòi bú mẹ.

        Khi ta có đủ thứ trong tay, thì mình xem thường các thức ăn. Nhưng, bây giờ sống trong cảnh đói khát, nằm gai nếm mật, ăn ngủ ở đầu đường xó chợ, bơ vơ bất vất, dù có những thức ăn tầm thường nhất chúng tôi cũng quý, mới thấm thía buồn và cảm thấy đau nhừ, như ai dần từng khúc ruột, tôi lại tiếc ngẩn ngơ những thứ đã mất. Thật ra, chúng tôi đang sống trong cảnh phập phồng lo sợ. Chẳng ai cấm tôi gào thét, thi gan cùng biển cả mênh mông. Nhưng tôi không còn tâm trí nào mà tắm táp thoải mái ngoài biển, chứ nói gì gào thét cho đã nư. Tình cảnh mẹ con tôi bây giờ khốn đốn là thế!

        Chín giờ tối gia đình chúng tôi sung sướng về ngả lưng trên cái giường rộng. Có một điều là trời rất nóng và muỗi, vô số muỗi; nên dù ngày nào ở nhà, không đi biển, thì bà cháu mẹ con ở ngoài sân trường học, hay ở trong nhà có quạt máy vù vù trên trần, nhưng vẫn nóng hầm hập, chúng tôi dùng thêm quạt giấy, quạt phành phạch suốt. Cuộc sống di tản của chúng tôi có lẽ từ nay là những ngày tháng mòn mỏi đợi chờ thật dài, trống vắng như người hụt hẫng bước đi trên đại dương, khiến tôi mất hẳn ý niệm về cuộc sống, mà chẳng biết sẽ chìm lúc nào.

        Tôi như con ốc sên nhút nhát thu mình trong vỏ, mất hết bản năng sinh tồn, nhụt chí và chán nãn tuyệt vọng dường bao! Thời gian nhàn hạ ở đây thật vô vị và mù tịt, tôi không hề biết ất giáp gì về chuyện trong nước đang hỗn loạn tột cùng. Ngày nào cũng như ngày đó: do nỗi lo lắng về tương lai bấp bênh mịt mùng, sợ hãi đói khát và bệnh tật cứ trỗi dậy trong lòng tôi. Sự khốn cùng càng tăng mãi, niềm hy vọng bình yên thanh thản đôi chút mỗi lúc một vơi cạn.

        Từ thành đến tỉnh, đâu đâu tôi cũng nghe người ta bàn tán xì xào chuyện chính trị và chiến tranh mà tôi chúa ghét. Tôi nghe chán tai lúc người ta quả quyết:
        - Đã mất nước tới đèo Hải Vân.
        - Mất tới Đà Nẵng...
        - Có lẽ đất nước nầy chia ra làm ba thành phần.
        - Lại nghe đồn từ vĩ tuyến 13 trở vào Cà Mau: là do chính phủ của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Tin “bỏ” vùng nầy, bỏ vùng kia.
        - Khi thì nghe người ta bàn tán Việt Nam sẽ trung-lập.
        - Sẽ có chiến tranh huynh đệ tương tàn khốc liệt.
        - Sẽ hoà bình: Đó là tiếng pháo bông nổ lớn trong đêm trừ tịch tối đen mừng ngày đất nước thanh bình, hay báo nguy lầm than, cơ cực, nghèo đói, chia ly, và sẽ thanh trừng "người thua cuộc" tràn ngập trên đất Việt vào một ngày không thể ngờ tới?! Làm sao biết được ngày mai!

        Mẹ con chúng tôi đến thăm Oanh ở trong một biệt thự nho nhỏ xinh xinh tại Xóm Mới, nhà có vườn cây rợp bóng im mát, gia đình ba má Oanh gốc người Huế, hiền lành, vui vẻ thật thà. Hai bạn gặp nhau mừng rỡ, trào nước mắt chảy ròng ròng, chúng tôi thì thầm chuyện trò. Mặc dù ba má Oanh có nhã ý dành cho gia đình tôi một phòng nhỏ, nhưng tôi sợ các con dại sẽ làm phiền họ, lại mất lòng và mất cả tình bạn cao qúy, nên tôi từ chối.

        Trong khoảng thời gian qua, Luật theo lệnh thượng cấp phải “tử thủ” ở Đà Lạt, (nhưng khốn thay... "người chủ chốt" ra lệnh tử thủ ấy, đã "rút dù" đi biệt tích giang hồ, lũi trốn đi trước đồng đội rồi. Nhưng vì đa số người lính đã ý thức về trách nhiệm và bổn phận làm trai... nên họ ở lại giữ nước, cho đến ngày cuối cùng, họ mới cùng trường Võ Bị Quốc Gia triệt thoái). Luật gửi nhờ những chuyến xe GMC quen về địa chỉ nhà Oanh, (lúc nầy trên quốc lộ chỉ có những xe "nhà binh" được phép di chuyển trên tuyến đường Đà Lạt xuống Phan Rang...) người chủ xe đã đến giao cho Oanh, rồi Oanh chuyển cho tôi: quần áo, mền, mùng, nồi niêu son chảo, vân vân… cùng tám chục ngàn đồng, tiền lương vài tháng qua của vợ chồng chưa kịp lãnh.

        Mấy lá thư Luật báo tin đã mất Bamêthuột và Huế. Luật dặn dò mẹ con tôi “phải cố gắng, bằng mọi cách tìm đường di tản về Sài Gòn” gấp. Tôi chỉ nhận tiền Luật gửi về Oanh, còn tất cả đồ dùng kềnh càng, tôi gửi lại trong nhà kho của Oanh. Chúng tôi kiểm chứng tin Luật đã báo, thì đúng y bon, vì bà con của Oanh từ Huế, nườm nượp di tản bằng thuyền đánh cá của họ chạy ra Nha Trang, họ kể lại Huế đã đi vào cửa ngỏ cuộc chiến. Nghe đâu Đà Nẵng rất lộn xộn, gần như thất thủ nơi ấy. Gia đình Oanh không tính đi đâu cả, có chết thì chết ở xứ nầy, vì họ còn một bà cố già lụm cụm ngoài chín mươi tuổi, nếu họ đem cụ theo chạy loạn, thì không được, mà để cụ ở lại một mình với mấy căn biệt thự, càng không thể.

        Tôi hốt hoảng chạy tới nhà của chị Bàn đã thuê, hầu báo tin chẳng lành, cùng những lời Luật nhắn nhủ. Tôi vui mừng thấy gia đình Ngọc, (gồm các em của Ngọc là: gia đình Quý, gia đình Cúc vẫn sống chung, giống như khi họ ở Đà Lạt) đã về tá túc ở đây vài hôm trước rồi. Các bạn khuyên tôi nên về ở chung nhà, nếu có bề gì, thì hú nhau một tiếng, cùng giúp nhau chạy loạn. Tôi nghe phải, nên về nhà bà Niềm thu dọn ít bọc quần áo trẻ nhỏ, cám ơn ông bà chủ nhà, rồi đến ở chung với các bạn cho bớt tẽ nhạt và sợ hãi.

        Đến ở trong ngôi nhà tôn vách đất thấp lè tè, nóng như thiu đốt. Chúng tôi góp chung tiền, ngày ngày mấy người đàn bà cùng đi chợ nấu ăn hai bữa, một bữa ăn lúc mười giờ rưỡi, (thay cho buổi sáng và trưa nhập thành một bữa). Một bữa ăn lúc sáu giờ chiều. Ngày nào cũng từng ấy thứ: Nồi cơm thật to, nồi canh rau muống trộn mì gói hiệu ba con tôm to tướng, cá kho rim mặn, (thay đổi loại cá mỗi ngày, ở đây cá tươi rất rẻ, tươi và rẻ hơn Đà Lạt rất nhiều, là cái chắc).

        Họ giống tôi, ai cũng muốn thủ thân, chắt bóp nhín nhút ăn uống qua loa, để sống, chứ chẳng phải sống để ăn. Nấu nướng bằng bả mía phơi dôm dốp vài nắng, thì khói bay mù mịt, cay xè mắt, nước mắt nước mũi chảy tùm lum. Ba thằng con trai lớn, (hai đứa con của Ngọc, một đứa con của tôi) thay nhau nằm dài xuống nền đất, phồng má thổi lửa phù phù. Bụi tro, khói, đất, bay lên đầu cổ, mặt mày chúng đỏ rần và ho sù sụ. Dù ở đây có phần tù túng khổ sở hơn ở nhà bà Niềm, nhưng có bạn chia sẻ chịu đựng, tôi cảm thấy đỡ sợ, bớt lo lắng nên yên tâm hơn.

        Sau những bữa ăn sum họp vội vã, nhà nào nhà nấy ai ai cũng ra ngoài đường, tới ngoài chỗ đông người, để nghe ngóng thu lượm tin tức. Chúng tôi lo lắng sợ hãi, cùng đường quẫn trí, rối bời đầu óc, bồn chồn cùng nhau bàn lui tính tới hết cách. Kết luận cuối cùng là: giả thiết từ bây giờ cho đến khi nào Nha Trang bị lung lay, nếu trong nhóm nầy ai có phương tiện thuận lợi nào, thì cứ lo cho gia đình đó vượt thoát. Nếu lúng túng với một đám trẻ con trên dưới mười bảy đứa, (không kể người lớn), đông người như thế nầy, thì chẳng biết làm sao có thể di chuyển chung chuyến xe, chuyến tàu, như khi chúng tôi ở Đà Lạt đã cùng nhau chạy đi. Tôi thật buồn và vô cùng tuyệt vọng nghe chị Bàn đã đi thu lượm tin tức ở ngoài bến xe về, chị nói:
        - Ngày 11-3-1975 mất Ba Mê Thuột.
        - Ngày 26-3-1975. Huế đã thất thủ. Kế đến là Đà Nẵng.

        Ở các bến xe khách, hải cảng, cũng như ở phi trường dân sự, người ta đông hơn kiến, chen chân không lọt, đông vô số kể. Ai muốn đi về Sài Gòn, thì phải ghi tên trước cả tuần, sau khi được gọi, phải mua một chỗ ngồi cả bạc triệu, hay đóng mỗi đầu người hai lượng vàng. Ai muốn sống cứ thế mà tính, không cò kè bớt một thêm hai. Nếu chần chờ không kịp nộp tiền, thì có người khác “xí phần” đưa tiền hoặc vàng ra ngay.

        Chiều nào cũng thế, mẹ con bà cháu nhà tôi không biết làm gì cho hết thì giờ nhàm chán nôn nao lo lắng, nên chúng tôi thơ thẩn ra biển. Những con sóng lớn ập tới, tôi bị lún sâu xuống nước, tưởng chừng như muốn khuỵu đôi chân. Tôi bị sóng nước dồn hất lên hụp xuống, chao đảo khi hai tay đập loạn xạ trên mặt nước. Càng vùng vẫy, tôi tưởng như đang nhận chìm mình tụt tong tong xuống vực sâu. Tôi sợ hãi kinh khủng!
        ***


        Tình HOÀI HƯƠNG
        Last edited by Tinh Hoai Huong; 04-15-2017, 09:29 PM.
        Bút trần nào tả được lưu luyến!
        Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
        Tình Hoài Hương

        Comment


        • Ông Tướng… Nuôi Gà !



          Ông Tướng… Nuôi Gà !
          Nghịch_Nhĩ
          *

          Nếu ai trong chúng ta có… “chơi ”gà, mới thấy được cái tấm lòng, cái cực khổ chăm sóc, cái tâm hồn của những tay nuôi gà đá như thế nào! Từ cách tìm chọn giống gà, xem vi vảy, rồi đem về nuôi ăn; phải là loại thóc đặc biệt, thứ đừng có nhọn nó hóc cổ, nào là phun rượu rồi vô nghệ cho thịt săn cứng. Như vậy chưa đủ, đêm đêm khoảng 2 , 3 giờ sáng còn nhè nhẹ nhấc cái đầu bà xã đang gối trên cánh tay, len lén ra cái bội gà, để xem con gà ngủ coi có lộ ra cái tướng nào không; có phải thuộc loại gà chiến... “tử mị” không? Rồi còn tẩm bổ cho nó bằng lúa non vừa ngậm sữa, thằng lằn, thả ra phơi sương cho nó... “sung” nữa chứ! Thật là lắm công phu và nhiêu khê quá phải không bạn. Vậy mà có ông Tướng lại Nuôi Gà đấy!

          Xin bạn đừng vội vàng cho là tui có ý xoi mói đến ông Tướng Đá Gà nha?! Hổng dám đâu! “Đá” và “Nuôi” khác nhau à! Nếu thế thì bạn nghĩ chắc ông nầy nuôi gà... “móng đỏ” như một số Tướng khác chứ gì nữa??! Trật… lất! Thôi để tui nói ngay: đó chỉ là cách ẩn dụ, nói ví von về ông Tướng ÁNH đã nuôi quân, đã lo lắng chăm sóc thuộc cấp với một tấm lòng… như người nuôi gà nòi vậy!

          Để tôi kể thêm một vài chuyện mà tôi biết được về ông Ánh, những chuyện thật chứ không phải tôi thêu dệt, tô vẻ thêm cho người mà tôi kính phục ngưỡng mộ đâu; mà theo tôi đó chỉ là vài tia hào quang thôi, còn biết bao tia khác, mà tôi không biết về ngôi sao rực sáng nầy! Người ta cứ nghĩ rằng ông chỉ quan tâm đến các phi công, những người trực tiếp ra chiến trận thôi. Không hẳn vậy, thực ra ông vẫn để tâm giám sát đến các ngành các cấp từ trên xuống dưới, và giải quyết mọi chuyện dù nhỏ nhặt có lý có tình, đâu ra đó đàng hoàn! Kỷ luật nghiêm minh, ông đã treo bằng lái và ký củ một số hoa tiêu, chứ đâu phải không có! Nhưng tôi không nghe tiếng ta thán trách móc gì ông cả, mới lạ chứ !

          Bạn nghĩ sao về việc nầy? Một hôm ông Ánh để ý thấy một anh lính không quân ăn mặc, trang bị như đi phép, mà cứ lẩn quẩn ngoài phi đạo Cessna, rồi qua phi đạo trực thăng. Anh ta cứ tới lui như vậy có vẻ nôn nóng sốt ruột lắm. Ông Ánh bèn đến hỏi căn do, mới biết thì ra anh nầy được ba ngày phép về Saigòn thăm vợ sanh, mà chờ cả buổi rồi chưa có máy bay nào đi cả. Ông bảo "chờ đó". Rồi ông về thay đồ bay, làm tài xế Cessna đưa anh lính kia về Saigòn! Có ngon không chớ! Đố ai biết được sự cảm động của anh ta đến mức nào, và hình ảnh của ông Sư Đoàn Trưởng đến bao giờ mới phai mờ trong tâm khảm của anh?!

          Chẳng những thế, bà ÁNH lại muốn chia xẻ tình cảm của thuộc cấp đối với ông, hay là muốn bồi đắp thêm cho ông những cảm tình ấy, khi chính tay bà nấu những nồi cháo gà hằng đêm, và bưng sang khu cư xá Phi Đoàn 520, để bồi dưỡng cho anh em pilot bay đánh suốt đêm trong thời tết Mậu Thân (1968). Riêng vợ chồng anh Tạ Hoà Hưởng chắc cả đời cũng không làm sao gặp được một bà KĐT nào, như bà ÁNH đích thân chăm sóc, nuôi đẻ cho vợ anh trong thời gian nầy, lo từng miếng ăn đến từng tấm tả... một cách tận tình như chị em ruột thịt. Phải không?

          Tôi nghĩ ông chẳng những đồng ý, mà còn khuyến khích bà làm những việc trên với tấm chân tình của huynh đệ chi binh, đậm tình người... chứ không phải kiểu trình diễn cho lên màn ảnh TV. Người ta muốn... “lấy diểm” ở cấp trên, chứ với cấp dưới bao giờ?! Về ông Ánh, kỳ nầy tôi xin lần lượt kể vài chuyện nữa, để thêm những bằng chứng tại sao người ta kính phục ông:

          1/* Lần trước trong bài viết “ pháo... Nổ”, tôi có nói đến anh Nguyễn Thiện Ân, "Hiệp sĩ Mù", và chỉ bàn tán đùa vui về anh thôi. Tất cả những gì tôi đã viết là sự thực, nhưng còn thiếu chưa đủ tình tiết, lần nầy xin nhắc lại, bổ xung thêm và có một điểm… “lộn lầm” cần đính chính luôn! Tôi xin thưa trước có những chi tiết nào tế nhị và nhạy cảm, tôi sẽ bỏ qua; cũng xin quý vị bạn đọc và những vị có liên hệ, đừng hiểu lầm là tôi nhắc lại chuyện xưa: để bươi móc, chế diễu, nhẽ trong hàng ngủ KQ chúng ta. Tôi cũng tránh nêu danh tánh những ai khi không cần thiết.

          Khi được tin là có cuộc thi tác xạ và cũng nhân dịp phô trương sự lớn mạnh của KQ đưọc tổ chức tại bãi biển Nha Trang ngày 19/04/1969, do KĐ 62 đảm nhận tổ chức. Ông Ánh cũng nhận thấy những thất thế của đơn vị mình và hơi xao xuyến vì:
          - Phi Đoàn 520 sẽ làm ăn ra sao đây, khi những “con gà” pilot của mình vừa xuyên huấn bay A37 mới đây thôi, so với PĐ524 (Nha Trang) lâu hơn; và lại phải đua tranh với PĐ F5 đã có từ trước, và căng hơn là có anh PĐ AD6 thâm niên trong nghề nữa!
          - Mục tiêu thực tập tác xạ, chỉ có vài lần, là tạm dùng hòn đảo nhỏ nhấp nhô trên mặt nước ở ngoài khơi Rạch Giá, chứ không được địa hình địa lợi sẵn, để tập dợt làm quen như PĐ ngoài Nha Trang!

          Tuy vậy ông cũng dẩn đám học trò đi thi, mà kỳ nầy coi như thi “công-cua” trước mặt bá quan văn võ triều đình, có sự chứng giám của ông Kỳ, người có hứa thưởng100 ngàn cho ai trong pass đầu tiên đánh trúng mục tiêu. Và ông Thiệu (có mặt độ nửa giờ rồi rời khỏi đấy). Để cho công bằng, thì đơn vị phải đem theo chuyên viên kỹ thuật, và vũ khí theo để phục vụ, và có một ban giám khảo do Bộ Tư Lệnh KQ chỉ định, bay trên trời để chấm điểm, dựa theo những quy định như: mỗi PĐ có bốn chiếc: 2 chiếc đầu (1&2) mang rocket và Napalm. Hai chiếc 3&4 mang bom nổ, 4 quả cho mỗi chiếc. Tất cả chỉ đánh hai pass thôi. Giờ TOT (time on target ) phải đúng. Độ cao minimum để release bom được ấn định ban đầu là 2500 feet (giờ chót lại hạ xuống còn 1500 f , lý do? ai biết !) …v..v…

          Mấy quan giám khảo gồm có 5 vị : Nguyễn văn VECHAI, Trần Anh Tuấn (Tacc)… (nếu anh VeChai có tình cờ đọc, xin bổ túc những gì thiếu sót mà anh còn nhớ dùm. Cám ơn). Các anh hào dự tranh gồm có:
          -* 1 Phi Tuần F5 (pđ 522), 1 Phi Tuần AD6 (pđ 518), 1 Phi Tuần AC 119 (???), 1 Phi Tuần A37 (pđ 524 N-T) và 1 Phi Tuần A37 pđ 520 C-T) - (lúc ấy VN chưa có Trực Thăng gunships, nếu có cũng phải dự riêng, chứ nếu áp dụng độ cao để bắn rocket như thế, thì “chơi ép” trực thăng, hổng fair à!).

          Mấy chiến tướng của PĐ 520 được sắp xếp như sau:
          - Chiếc số 1: Huỳnh Hữu Hải và Thuyết (leader).
          - 2: Huỳnh Công Danh (Rock).
          - 3: Nguyễn Thiện Ân (Hiệp sĩ mù)
          - 4: Trần Quốc Tuấn

          Chiều ngày tổng dợt (3 ngày trước ngày chánh), ông Ánh đã lái xe ra phi đạo để đón anh em bay về, ông lộ vẻ vui vui khi nghe mấy anh chuyên viên kỹ thuật Cần Thơ đã cá độ với đám bạn Nha Trang, và thắng được 5000$, thì gà ai người đó theo! Dĩ nhiên!

          Ông ÁNH theo anh em về tận phòng vãng lai dặn dò anh em đi ăn tối xong, rồi về briefing và 9:00PM đi ngủ sớm, để lấy sức! Sáng hôm sau (ngày thứ nhì) ông lại xuống bảo anh em đi ra phố ăn sáng, uống cà phê ở mấy kiosque, rồi đi tắm biển chơi, chứ KHÔNG về phòng vãng lai. Ông bận việc đến trưa xế sẽ ra tìm, nhớ đấy! Đúng như lời, khoảng 3 giờ chiều ông chạy xe dọc bờ biển Nha Trang, tìm thấy anh em còn lang thang, vui chơi ở ngoài đó, kêu gom họ lại, ông nói:
          - Tôi hài lòng vì anh em tuân lời, tôi chỉ ngại là mấy chú về phòng ngủ trưa, tối ngủ trể hoặc mất ngủ, sẽ có ảnh hưởng đến sức khoẻ cho ngày mai! Bây giờ tôi đưa tiền cho mấy chú đi ăn cơm Tây, beef steak xong, rồi đến 8:30 tối là phải về phòng, để 9 giờ là phải đi ngủ nghe. Không được đi lăng-nhăng... “phí sức” đấy!!

          Tất cả ai nấy đều cảm động không nói nên lời trước sự chăm lo từng chút của ông Ánh… Rồi tựa người vào thành xe, ông hỏi:
          - Ai bay chiếc số 3 mang bom nổ?
          Hiệp sĩ mù giơ tay lên; ông Ánh giơ ngón tay trỏ chỉ Nguyễn Thiện Ân nghiêm giọng:
          - Tôi giao chú ngày mai phải lấy được 100 ngàn, và mang chiếc Cúp Lớn Số 1 về cho tôi!

          Nói xong, ông lên xe chạy đi! Hình ảnh 100 ngàn tiền thưởng cho pass đầu tiên đánh trúng mục tiêu, và chiếc Cúp hạng nhất là một áp lực trên vai các anh. Không phải vì danh dự được tiếng hay dở, mà chính vì cái tấm lòng, cách đối xử và sự chăm lo của ông ÁNH mấy ngày qua xúc động. Họ nhìn nhau trong im lặng nhưng ánh mắt các anh đã thay cho lời “quyết tâm”!
          Tối đến, ông lại xuống kiểm tra, hỏi có ai cần gì không? briefing lần chót chưa? và dặn 9:00PM là phải đi ngủ!

          Hôm sau là ngày thi đua chính 19/04/1969 ; tờ mờ 6:00 sáng ông lại xuống ngồi ngay trên giường của Ân, thăm hỏi anh em đêm qua có ngủ được ngon giấc không? và dặn dò đi ăn sáng xong, xuống kiểm tàu, nổ máy warm up, rồi về phòng nằm nghỉ chờ đến giờ mới ra đi bay! Anh Ân đã từng vào vùng lửa đạn mà sao không hồi hộp và lo âu như lần nầy; nếu có thuốc an thần (anti- depression) anh cũng dám… “làm” một viên lắm à!

          Giờ đã điểm…! Cuộc thi mở màn ! Phi tuần đầu (xin miễn nói phi cơ gì và PĐ nào) nhào xuống đánh rocket. Không biết lý do gì một hoả tiễn…. “né” mục tiêu, mà lại tìm đúng vào chiếc tàu Hải Quân chạy tuần phòng vòng đai phía ngoài, cách xa các pa–nô, mới lạ chứ! Hú vía! Bạn và ta vô sự! Phi tuần đầu 4 chiếc, đã xong một pass, mà cái pa-nô vẫn còn trêu-ngươi dập-dềnh trên sóng nước!

          Phi tuần thứ hai là các “con gà” PĐ520 của ông Ánh vào mục tiêu…và trễ TOT (giờ trên mục tiêu) 10 seconds, cũng not bad! Chiếc 1&2 lần lượt cắm xuống nhắm mục tiêu xịt rocket, rồi vọt lên và kết quả: pa-nô vẫn “trơ gan cùng tuế nguyệt”! Chiếc thứ 3, Hiệp sĩ mù nhào vô, lao mình xuống… hồi hộp quá! Anh canh…, nhắm, nhắm kỹ… bấm nút thả 2 trái bom nổ, không nhớ là miệng có đọc thần chú không; lại cất vọt lên..! Ở dưới đất anh Sơn Gáo thấy có một quả bom bay có vẻ lệch mục tiêu quá, anh phải ẹo người lấy ép–phê như đánh bi da vậy…

          Đang vọt lên trời, Ân chỉ nghe chiếc lead hét thất thanh trong máy: Dzô…! Dzô rồi…! Anh nhìn xuống thấy pa–nô tung toé lên như đàn bướm vở tổ! còn dưới đất Sơn Gáo tung nón ca-lô lên trời, chạy la hét như điên, vì cả hai trái vô ngay chóc mục tiêu! Cái nặng ngàn cân đè nặng trong người Ân mấy ngày qua đã biến mất,a nh cảm thấy hồn mình đang lâng lâng bay bổng… nhìn quanh thấy cái gì cũng đáng yêu, cũng đang mỉm cuời với anh: từ cụm mây trắng trên trời cao trong vắt, đến lọn sóng tung lên trắng xoá như giơ tay vẫy chào trên mặt biển xanh rì! Còn anh Sơn tỉnh người, nhớ đi tìm lại cái ca- lô đã ném tung đi trong lúc hứng chí, mà cũng chẳng thấy, mất tiêu luôn! (T/t Sơn con người rất nhiệt tình, dể mến, đã hy sinh vào những ngày tàn cuộc chiến! Thương thay!).

          Về đáp và phi hành đoàn vào dự yến tiệc, ông Ánh hân hoan xuống thềm xiết tay Ân thật chặt, và dẫn anh Ân lên giới thiệu với ông Phó Tổng Thống Nguyễn cao Kỳ. Tiếp theo không biết ông ÁNH có trình rằng: đây mới chỉ là tên “pilot cận thị” của đơn vị tôi thôi đấy hay không, mà anh Ân phải thò tay móc cặp kính cận để dưới túi áo bay ra làm bằng! Và cả hai cười thật vui, khi nghe ông Kỳ nói:
          - Như vậy là không được, chơi ăn gian vì dùng đến bốn con mắt nó rõ hơn người ta!

          Thực tình khi nói đến phi công VN, nhờ được tôi luyện hằng ngày nơi trận mạc, nên các phóng viên ngoại quốc đều khen ngợi tài ba và anh hùng lắm! Nhưng tài giỏi trong ba năm, mà chỉ bị tổ trát trong tít- tắc, thì cũng ôm nỗi buồn…5 phút chứ. Còn Pđ 520 nhờ thánh nhân đãi ngộ kẻ... miền xa, nên được lãnh 100 ngàn, và chiếc… cúp nhỏ (trong bài viết “pháo ..Nổ”, tôi đã viết sai lầm, nói ngược là lãnh cái cúp Lớn, mà không được 100 xín, xin đính chính lại!).

          Vài tháng sau các PĐ có họp lại, và quyết định làm một cái cúp khác, để thay thế chiếc cúp Số Một, gửi tặng PĐ 520; vì trong mức thang điểm tối đa là 240 điểm, anh chàng Thần Báo 520, hạng Nhất được 214 điểm; về Nhì được 162 điểm…! Còn vị nào thắc mắc tại sao không được cúp Số Một lúc đó? Ai biết đâu nè…! À! phần đó xin dành cho quý vị tự tìm hiểu... Đấy! đấy mời quý vị nhìn trở lại vụ trên, để thấy cho đôi nét về con người của ông ÁNH, với sự chăm lo sớm hôm.. có từa tựa như mấy ông nuôi gà nòi không thôi. Đó mới là chủ đích của bỉ nhân!
          ***

          2/* Còn cá nhân tác giả cũng nhớ vài lần… “thưa gởi, trình bày phải quấy” với ông Ánh có liên quan với Trực Thăng nữa! Trân trọng xin thưa: Đây cũng là cái dịp để... “một lần” nói về Trực Thăng cho các bạn pilot khác ngành, hoặc không bay, biết cho vui hay thông cảm... những nỗi niềm dân Trực Thăng VN thời chiến!

          Bây giờ tôi viết thoải mái không sợ bị ghép tội có đầu óc địa phương, bươi móc, hay gây mầm móng chia rẻ... và tôi cũng không sợ bị… “khiền” , vì cho rằng tôi có luận điệu bất mãn, so đo ganh tị; hoặc than vãn kêu ca...vân vân và… vân vân! Nói để mà chơi, chớ được cái gì… đã vậy mà còn dài dòng nữa, xin báo trước!

          Dân chúng vùng IV thuở trước thường thấy một đám trực thăng mươi chiếc phành phạch tà tà đáp xuống đổ quân trên bãi trống, giữa khu rừng dừa hoặc rừng cây, lau sậy, … rồi lại từ từ cất lên thấy có vẻ an bình, thảnh thơi và ung dung quá phải không? Thấy dễ quá mà, có gì đâu... nhưng “đoạn trường… ai có qua cầu mới hay”! Nhớ hồi đó từ giữa năm 1968, dân Trực Thăng của 2 PĐ 211&217 (Cần Thơ) nếm mùi trực thăng vận, hay diều hâu đầu tiên!Thời đó, chiếc C&C (Command and Control) và Gunship đều là Mỹ!

          Khỏi tưởng tượng làm gì cho mệt óc, điển hình đây là một cuộc đổ quân diều hâu, điểm hẹn có mặt tại sân bay Trà Vinh lúc7:30AM. Phi hành đoàn 10 chiếc (=30, 40 mạng) lo gọi nhau thức dậy giờ nào không cần biết, mà phải có mặt để cất cánh lúc 6:30 sáng. Thành ra tài xế xe pick up của Phi Đoàn phải chạy xuống cư xá gom quân cỡ 5:30!

          Đúng 6:30 cất cánh! Đến sân bay Trà Vinh là lo refuel ngay cho đầy, rồi tắt máy chờ đó. Độ ½ giờ sau, một chiếc C&C do Mỹ bay đáp xuống cạnh chiếc Leader, một anh xạ thủ Mỹ chạy qua đưa tần số, danh hiệu cho Leader, và ra dấu quay máy kêu lên trời liên lạc nhận chỉ thị sau; xong anh cất cánh bay mất tiêu! Anh số một Leader bốc máy bộ đàm Motorola gọi anh số 10 cuối dãy, thông báo kêu gọi anh em quay máy cất cánh ngay! Leader thấy hơi… mệt, vì biết hôm nay làm việc chung với C&C và Gunships Mỹ thuộc Phi Đoàn Vulture (Kên-Kên?). Danh hiệu là Vulture 6 (call sign của PĐT), còn danh hiệu mình thường dùng là Black Horse (Ngựa Ô). Kiểu của mấy ông nầy là không có phóng đồ hành quân trước, mà lên trời mới cho biết chi tiết… “mần ăn” thế nào! Cất cánh xong, gọi ngay và được ông C&C Mỹ cho một hơi 4 cái toạ độ: 1 pick up quân, 2 RP (report point), 1 bãi đáp LZ (Landing Zone). Đồng thời cũng cho biết danh hiệu của gunships Mỹ là Tiger 3, để liên lạc khi đến điểm hẹn RP.

          Thường hợp đoàn 10 chiếc là bay đội hình 2 chữ V, trong đoàn phải ráng giữ yên lặng trên tần số, để lắng nghe lệnh lạc của anh lead, số 1, và anh cuối số 10 là anh trail (đuôi). Anh Trưởng Phi Cơ lead giao cần lái cho copilot, và anh lo ghi chép, chấm toạ độ! Sau khi bốc quân lên xong lại báo cáo với C&C, và lấy hướng bay đi đến điểm hẹn với Gunship ở RP, để gunships yểm trợ và hướng dẫn vào mục tiêu đổ quân. Từ giờ phút nầy mới thấy hơi căng thẳng, và mệt mỏi đây! Không phải sợ VC bắn, (vì lúc đó VC chưa có SA7) mà mệt ở chỗ: bay hầu như trọn ngày mà phải bay theo đội hình, tức là cần sự chăm chú của cả phi hành đoàn từng chiếc một.

          Chiếc leader phải bay cho thật êm ái, nhẹ nhàng, lên xuống hay quẹo cua cũng từ từ để dễ dàng cho cả đoàn đang đeo theo phía sau; vì anh PHẢI biết rằng: nếu anh sữa một, thì mấy anh phía sau sữa gấp chục lần! Không khéo thì khi anh đáp tới đất rồi, còn thấy năm ba mạng còn lơ lửng trên cao, vì xuống không kịp! Vừa “gò” bay cho “xì–mút”, vừa tìm coi RP để liên lạc gunships, vừa xem toạ độ LZ nằm đâu, để liệu tính lúc nào bắt đầu xuống, phần nghe và nói với ông Mỹ bằng tiếng Mỹ qua vô tuyến đôi khi… cà giựt nữa, nên đủ mệt rồi. Có rãnh đâu mà để ý đến mấy tên thổ phỉ bắn lên lóc chóc chứ! Còn mấy chiếc theo sau thì phải bay sát vào, ráng giữ khoảng cách lý tưởng là 1 vòng quay của rotor, hơi cao hơn chiếc trước một xí, để tránh bị gió đè, đừng bay sát quá, lỡ đấu kiếm (rotor chém nhau) trên trời là… “ hui nhị tì” sớm! Nếu bay hơi lơi một chút, là bị ông bay số 10, bay trail, la "thúc vô đít rồi"!

          Sở dĩ bay đội hình thật gần sát như vậy, không phải phi diễn cho đẹp, để cho VC ngắm chơi rồi nó quên bắn mình đâu; mà mục đích duy nhất là để gunships yểm trợ, cover cho dễ thôi! Thế nên cả bầy bay chùm-nhum như vậy, cũng khiến cho địch… “khoái” bắn nữa, vì thấy mục tiêu cả “dzề” như vậy, cứ bắn đại lên, không dính chiếc nầy cũng trúng chiếc kia, cần gì nhắm! Nhiều lúc bị VC bắn vừa-vừa phải-phải, không “rát” lắm, thì cả đoàn cũng tới luôn... bác tài.

          Xuống bãi đáp đổ quân luôn, miệng thì la báo cáo cho gunships biết có địch trong hàng cây hướng 3 giờ bắn “chúng ông” đấy. Mấy chàng wingman tay chân thì hơi “gồng” một chút, mắt cứ lo bám theo chiếc trước, cứ thế mà tiến tới! Anh phải nhớ là anh bay theo hợp đoàn, trong đội hình, chứ không phải bay một mình như đi tiếp tế hoặc tải thương, mà muá-may quay cuồn, lạn lách, nghiêng mình lúc khoan lúc nhặt, rớt nhanh rớt chậm, đáp như kiểu như chiếc lá vàng rơi để tránh đạn… được à!

          Nếu anh mà quờ quạng nhút nhát một chút là chết cả lủ đấy! Bởi vậy khi cắt bay, Leader cũng lựa tay số 2 và số 3 cho “cứng cựa” ; sợ ổng non tay nghề, thêm yếu bóng vía nữa, thì có ngày hớt đuôi mình là cái… cẳng! Thường là trong líp (lift?) đầu, bãi đáp chưa có quân bạn, nếu gặp bãi đáp “hot”, mấy anh gunship Mỹ cho lệnh mình “full suppression” là mấy cây đại liên của ta có dịp khạc lửa xối xả. Còn hai bên hông thì tiếng rocket nổ “oành… oành” liên tục, do gunships từ phía sau xịt tới, cảnh tượng thấy cũng đầy khói lửa… “hoành tráng” lắm chứ giởn chơi à! Đó là xong một líp đầu, cứ thế tiếp tục vài ba bận nữa, xong mới về sân bay nằm chờ standby; trong lúc nằm chờ như vậy mà nào có được yên, có khi vài chiếc trong đoàn phải bay tiếp tế đạn, hoặc tải thương!

          Cũng nhớ ơn ông Ánh là có nhìn thấy sự khổ cực, nhất là việc ăn uống thất thường của đám Trực thăng như vậy, nên ông nghĩ ra giải pháp là hằng ngày có cho tàu đem cơm trưa đến cho đoàn đổ quân. Đó vừa là một hình thức trong An Phi, vừa biết giữ gìn sức khoẻ cho họ; mới xử dụng về lâu về dài được! Một chuyện ĂN tưởng là nhỏ nhoi và đơn giản như vậy, nhưng tôi nghĩ cũng phải báo cáo lên thượng cấp, để lấy quyết định từ Bộ Tổng Tham Mưu, và coi như thông báo cho Bộ Binh biết, để họ trù liệu thời gian bốc và đổ quân; tránh cái kiểu tới giờ ăn trưa rồi, mà ông Trung Đoàn Trưởng ra năn nỉ mấy anh ráng làm cho tôi thêm 2 chuyến nữa, (cũng phải mất 2giờ) vì quân ít như vậy sợ bị đánh úp v.v…! Nói là nói thế thôi, chứ dân Trực Thăng đi bay đổ quân, ăn trưa khoảng 1:30 chiều là thường!
          Bây giờ, tui… “mới dám” hỏi ở Bộ Tư Lệnh KQ mãi tận… Tân Sơn Nhứt, có Vị nào đó, trong một giây phút nào đó, có… “tình cờ” nghĩ đến mấy thằng Trực Thăng tác chiến nầy không??? hay lại xuỵt môi:
          - "Ồ! đó là chuyện nhỏ, để ý làm gì ba cái vặt vãnh đó" …!!!

          Có hôm ăn uống và nghĩ ngơi ngoài phi đạo trông có vẻ…. giang hồ lãng tử quá, khiến tôi nhớ cảnh nhà quê: mấy bác nông phu, thợ cày thợ cấy cũng được chủ điền bưng một thúng xôi ra ruộng cho ăn thêm, coi như bồi dưỡng giữa buổi; nên tôi buộc miệng:
          - Lẩm rẩm mà tao thù anh em thằng Rai quá đi!
          Bạn bè nghe, tưởng đâu trời nóng nực quá nên tôi bị… mát dây nói bậy; chúng nó cười cười hỏi lại:
          - Thằng Rai nào vậy?
          - Thì anh em nhà Wrights, người phát minh và sáng chế ra Trực thăng đó chứ ai; tại "hai Ông Tổ sư" nầy, nên bây giờ mình mới có Trực Thăng để mà lái, để mà bụi đời như vầy, không phải TẠI mấy “chả” sao?
          Nếu là kiểu Diều Hâu thì lại có màn bốc chỗ nầy, thảy chỗ kia nữa, thường khi đến chiều lại phải bốc rút quân về; mãi dến khi được nghe câu:
          - Black horse! Good job! You are released now!

          Ai nấy thở phào và bay ào ào về đến căn cứ địa Bình Thuỷ, thì có khi mặt trời vừa mới lặn thôi! Đó mới chỉ là mở màn… cái thuở ban đầu “lúc trời đất nổi cơn gió bụi ”. Chứ càng về sau nầy chiến trường càng khốc liệt, càng nặng độ hơn nhiều, nên “đám chuồn-chuồn lắm nỗi truân chuyên”... ngoài cái mệt lã còn kèm theo cái gian nguy, hiểm nghèo biết dường bao!

          Mãi từ năm 1970 trở đi, mình có được Trực Thăng vỏ trang (dù là cải biên chứ không được “rặt” như UH1-B), mới thấy được biết bao gương anh dũng, sự gan dạ đã tiềm ẩn trong các Phi Hành Đoàn Trực Thăng; có nhiều phi hành đoàn Gunships rất lì đòn, đi săn VC với cao độ vài ba trăm bộ, những anh xạ thủ lẫm-liệt, móc dây đeo vào lưng, đứng lên mắt trừng, chong súng tìm con mồi...! Còn khi gunships đã lên vùng vô trận địa rồi, họ chỉ e dè SA7 thôi, chứ địch chơi đại liên thì họ có 6 nòng để quạt lại, không hề nao núng, nhiều lúc đang say-máu, mà phát hiện địch có phòng không 12.7ly, họ chấp luôn không ngán, xuống thấp hơn để né đòn và … “chơi” tới luôn! Đấy mới thật sự là những anh chàng... dễ nể!!!

          Còn trong ngày bay hành quân, tàu bay bị dính đạn vài ba lỗ, là chuyện quá thường, chuyện nhỏ…! Dù gọi “nhỏ” vậy chớ tính chi li thấy mấy viên đạn ấy chỉ cách Phi hành đoàn có khi vài tấc đến vài ba mét, xém trúng; cũng “ớn” chứ. Cho nên không biết dùng từ ngữ nào để diễn tả cho đúng đây! Thực tình tôi thấy đa số Phi Hành Đoàn Trực Thăng sau một ngày gian lao, họ vẫn cười đùa, giỡn hớt vô tư, dường như họ rủ bỏ, quên đi cái thoát chết vừa trải qua, và cũng không thấy lộ vẻ ưu-tư gì cho phi vụ ngày mai cả!

          Mấy chàng độc thân, xa nhà; chiều thường vào ăn ở CLB Cửu Long, gặp đủ mặt bá quan ăn cơm dưới đất mà làm việc và nói… “tận” trên trời xanh; nên thường nghe mấy anh chàng tuổi trẻ cũng vốn giòng hào kiệt… “ca” điếc con ráy! Mấy cụ non… “cối xay” chỉ mỉm cười bảo nhau:

          - Ừ mấy ông mãnh đó “ gáy” cũng phải, vì họ ít gặp trường hợp như vậy. Còn mình hằng ngày thấy tử thần lảng-vảng trước mặt, riết rồi đâm lì; coi tử thần như bạn bè, nên chả có gì phải lo! Mấy chả lao xuống thấp bỏ bom rồi vọt lên trời xanh, trong khi mình đạt được cái cao độ minimum, để cắt bom của “mấy giả” là mình thấy hơi “ấm” cẵng rồi, chớ dám đâu mơ tưởng đến 3 ngàn bộ?! Còn cái kiểu cứ lù-lù đi vào đáp, trong khi đạn thù cứ réo gọi; phải chăng bọn mình điếc nên không sợ súng, hay có bùa hổng chừng, hoặc vô cà-tha hết rồi, nên trở thành mình đồng da sắt cả rồi chắc?!. Thôi thì cứ để mấy tay đó “gáy” nghe sướng tai, đã hơn! Tôi thấy họ cam nhận cái số phần hẩm-hiu; mà không than-vãn so bì: [Phần gian lao, máu xương mình có nặng phần đóng góp, mà đến lúc vinh quang chẳng được dự phần ..!]

          Tôi xin quay lại với đề tài ông Ánh, kẽo miên-man lạc xa đề, chứ nói đến Trực Thăng là nói hoài, còn hoài, … đã vậy làm việc chung đụng trực tiếp với Bộ Binh, nên cũng gặp lắm chuyện phiền hà, mà phần thua thiệt là mình chứ còn ai, nếu không có được một thượng cấp “cứng cựa” như ông Ánh, minh xét và đỡ cho; lấy chứng cớ như dưới đây: Khoảng đầu năm 1969, tôi dẫn một đoàn Trực thăng đáp tại sân bay Chương Thiện, để đổ quân miệt Gò Quau. Cả ngày bay như vậy đến chuyến chót khoảng 4PM, nghe C&C bảo:
          - Black horse!Go back to your Home base!

          Cả hợp đoàn thấy khoẻ quá, lật đật chuyển tần số qua PADDY, và trực chỉ về căn cứ (base) Bình Thuỷ! Vừa về đến, dang taxi vào ụ đậu. Lại nghe lệnh từ Hành Quân Chiến Cuộc bảo: "phải quay trở lại Chương Thiện và liên lạc với C&C ngay" ! Cả đám lại lủi thủi đi xuống Chương Thiện hành quân tiếp! Bực cái… mình tên C&C nầy, sao hồi nãy không nói mẹ nó ra là về Chương Thiện standby đi, mà bày đặt xài chữ "Home base" làm gì cho rắc rối!

          Dễ gì yên thân! Chiều hôm ấy nghe Liên Đoàn Tác Chiến báo là ngoài Quân Đoàn… “xin” tên tuổi của tôi, để có thể đưa ra toà án quân sự vì đã làm trì trệ cuộc hành quân! Cơm nước xong được lệnh ông Ánh gọi đến nhà ông, để tường trình sự việc! “Tư dinh” của ông chỉ là hai căn phòng cư xá độc thân nhập lại, và thuộc dãy nằm ngang gần với dãy phòng chúng tôi đang ở!

          Sau khi nghe tôi trình bày, ông bốc phone hot line gọi thẳng ra Quân Đoàn nói rõ lại sự việc. Một lát sau "Lệnh vào" cho biết là:
          - "Từ nay về sau chỉ nghe lệnh trực tiếp từ VN mà thôi, không qua lệnh của Mỹ nữa, thôi khỏi ra trình diện"!!!
          Ừ thì ít ra cũng cho biết cái quy tắc, hay gọi là cái gì… gì đó, để mà theo chứ!

          Bẵng đi hơn 1 tháng sau, cũng … “lại là” tôi dẫn một đoàn Trực thăng đáp ở sân vận động quận Hiếu Lễ (?) lúc 7:00 AM, để sẽ đi đổ quân vùng Rạch Giá! Có nhận phóng đồ Hành quân ở Liên Đoàn Tác Chiến đàng hoàng (nghĩa là bản đồ có vẻ sẵn toạ độ bốc quân , LZ…). Tôi đáp xuống đúng giờ, nằm chơi gần 2 giờ, mà chẳng thấy ma nào ra liên lạc cả! Tôi ngạc nhiên bèn quay máy lên trời liên lạc về Hành quân Chiến Cuộc xin chỉ thị! Lại có lệnh nằm chờ đó đi! Thế là an tâm rồi… Lạ thiệt! mấy thuở mà thảnh thơi như vầy..! Cỡ khoảng 45phút sau, tức là hơn 9:30 sáng, có một chiếc Trực thăng Mỹ thả xuống một anh Hạ Sĩ Quan Mỹ (có vẻ như path finder) chạy lại kêu cất cánh lên vùng!

          Tại sao làm ăn như thế? không cho một giới chức VN nào ra liên lạc hết! Nhớ lại khẩu lệnh của "Ông Lớn" ngoài Quân Đoàn trong tháng trước, nên tôi vẫn nằm chờ..! Mãi đến gần 10:30 mới có một sĩ quan của Sư Đoàn 21-BB chạy ra, cho toạ độ và gọi cất cánh đến đó, để bốc quân! Trên đường đi đến thì đã được ông Đại-bàng Bộ-binh cho…uống cà phê đen, với lời lẽ phiền hà trách cứ "tại sao giờ nầy mới đến"?!

          Xong việc, chiều về đến căn cứ, mọi việc diễn ra cũng y như lần trước, cũng Quân Đoàn gọi… vào, tôi lại phải đến nhà ông ÁNH chiều tối hôm đó, để giải bày sự thật; mọi chuyện êm xuôi!
          Qua vài việc trên, tôi nhận thấy ông Ánh rất bình dân, dễ gần gủi với thuộc cấp, tính tình rất trầm tĩnh, kiên nhẫn lắng nghe phải trái, và không có hốt-hoảng, lo-sợ rồi… “chuyển” lệnh và lời của cấp trên, để đánh phủ đầu, răn-đe đàn em trước!

          Còn phần tôi, nếu tin tưởng và nói theo số mạng, thì có lẽ tôi không hạp với nhà binh lắm! nên con đường binh nghiệp không được phẳng phiêu, suông sẻ thong dong, mà cứ gặp chuyện gì đâu và bị… “ạch đụi” hoài!!! Như đầu năm 1970, tôi được T/tá Phi Đoàn Trưởng 21 , kêu vào cho biết là PĐ đề cử cho tôi đi làm Sĩ Quan Liên Lạc bên Mỹ kỳ nầy! Khỏi nói, mừng quá xá cở. Ngày thì đi bay, tối về lo học, dợt lại ba cái tiếng Anh, mà trong lòng phấn khởi nở hoa với ý nghĩ là thời vận tới hồi… “thới lai” rồi đây!

          Niềm vui chưa được bao lâu, thì nghe tin là tên tôi đã bị gạt ra rồi! Thật buồn! buồn quá đi chứ ..! Sau bữa cơm tối hôm ấy, tôi cứ đi tới đi lui... ngẫm nghĩ mình bay hành quân hằng ngày, VC bắn mà không sợ, thì cớ chi mình không dám hỏi thẳng ngay ông Tư Lệnh SĐ (KĐ?) cho rõ trắng đen, cho hết ấm ức, có gì phải sợ chứ! Lòng cả quyết, nên tôi bốc điện thoại gọi xin lên gặp ông tại nhà, vì hôm sau tôi phải đi bay. Ông đồng ý ngay! Sau khi nghe tôi trình bày và thắc mắc, ông giải thích:

          - Chỗ Sĩ Quan Liên Lạc kỳ nầy, tôi đã dành cho anh TTL (Trực thăng) rồi, theo như tôi hứa hồi năm ngoái…vì anh ấy đã bị thương tích trong chiến trận!

          Tôi cáo từ đi ra với nổi buồn dịu vợi, và thấy niềm ước mơ của mình đang nằm cuối chân trời viễn mộng! Là con người bình thường, nên tôi phiền muộn là điều dĩ nhiên, nhưng thật lòng mà nói (ngay lúc ấy đến tận bây giờ, tôi thấy trọng nể ông hơn nữa vì lẽ:
          *Ông là người trọng chữ tín, vẫn nhớ và giữ lời hứa. Do đó ông tạo được niềm tin của mọi người đối với ông!
          *Là con người thẳng thắn, không quanh co; nếu gặp người khác, họ có thể trả lời một cách ngoại giao, xoa dịu, để tôi vui lòng và còn hy vọng: “được rồi để tôi xem lại”..v..v... rồi sau đó cũng gạt tên tôi ra, đến lúc tôi vỡ mộng, thì cứ cho đó là trên Bộ Tư Lệnh quyết định giờ chót, ai biết được!

          Tóm lại cấp chỉ huy có được đức tính như trầm tĩnh, sáng suốt trong quyết định, ngay thẳng, bình dị, biết trọng chữ tín và không mị dân, làm cho ai cũng nể phục, và quý mến ông cả! Và có điểm rất quan trọng mà tôi quên nói, đó là ông rất quý trọng mạng người: từ lúc ông còn là PĐT, khi nghe máy bay rớt, câu đầu tiên mà ông hỏi là:
          - “Phi Hành Đoàn có sao không”?
          Trái ngược với câu: “Tàu có sao không” mà tôi thường nghe!

          3/*** Anh Lê Tấn Thinh rất tiếc thương ông Ánh, và vẫn xúc động khi nhắc đến tai nạn đã xảy ra với anh cách nay tròn 35 năm! Anh nhớ mãi một buổi chiều đầu năm 1972, sau một phi vụ bay Gunship yểm trợ hành quân bên Kampuchia về đáp tại Bình Thuỷ, khi vào ụ đậu, vừa tắt máy cánh quạt quay chậm; chiếc số 2 vô sau cũng vào ụ, bị gió giật xoáy, nên đã chạm quẹt đuôi tàu của an , anh leo xuống đi ra phía sau, để xem tình trạng chiếc tàu ra sao, tự dưng chiếc tàu của anh bị nghiêng, hay bẹt càng mà cánh quạt chánh trực thăng còn trớn quay, chém xuống tận ngang lưng trúng cây ru-lô hất anh văng đến 5 ,6 mét, bất tỉnh! Anh được đưa ngay vào bệnh viện Phan Thanh Giản - Cần Thơ trong tình trạng hôn mê!

          Ngay tối hôm đó ông Ánh dùng xe của Sư Đoàn Trưởng chở vợ anh Thinh vào bệnh viện lo cho anh, và ông cũng ngồi tại phòng bệnh, lo lắng theo dõi tình trạng thập tử nhất sanh của Thinh. Các bác sĩ giải phẩu giỏi của bệnh viện đều tập trung, để chuẩn bị giải phẩu xem nội tạng bị trọng thương chỗ nào. Nhưng cái khó là áp huyết của Thinh xuống quá thấp, nên chưa thể nào vô máu để phẫu thuật anh được! Hầu hết các bác sĩ bệnh viện thường đi máy bay, nên đều quen biết và thân tình với anh Thinh, họ rất tận tâm… ngoài ra có sự hiện diện thêm ông Sư Đoàn Trưởng nữa, nên sự nổ lực của các bác sĩ càng cao hơn…

          Ông cứ ngồi chờ, theo dõi tình trạng của Thinh như thế không biết đến bao lâu, mãi khi nhịp tim và áp huyết của anh Thinh có nhích lên, đủ để bác sĩ truyền máu cho giải phẫu, lúc ấy ông mới lui gót! Anh Thinh bất tỉnh, hôn mê hơn ½ tháng, và điều trị hơn 5 tháng mới bình phục! Chuyện của Thinh và ông Ánh hầu như trong Sư Đoàn 4KQ đều biết cả!

          Bỗng một hôm, giữa trời quang mà tin dường sấm nổ: Tướng Ánh tử nạn trong phi vụ câu chiếc phi cơ quan sát! Mọi quân nhân trong căn cứ bàng-hoàng đến sửng-sờ, nước mắt ràn-rụa, lắc đầu, chắc lưỡi…!! Anh Thinh đang dưỡng thương, chống nạn vào Câu-lạc-bộ Sĩ Quan, và chết lặng người đứng nhìn thi thể của Ông Tướng được tẩn liệm trong áo quan. Anh khóc ròng ở trong lòng, nào có ai hay! Quanh đấy, ai cũng rưng rưng nhìn nhau, như thầm hỏi liệu mình có còn được may mắn phục vụ dưới quyền của ông Tướng nào, như Ông Ánh nữa không???!!

          Viết đến đây tôi không khỏi bồi hồi tấc dạ, vì sự kính mến, cảm phục cứ mãi dâng trào!!
          Tiếc thay! tôi chưa là một nhà văn, làm sao có đủ ngôn từ để lột tả hết được về ông. Tôi thuộc hàng “trí đoản” không thấy được những cái tiềm ẩn nơi ông, thì làm sao Luận được anh-hùng!
          Tiếc thay! Một vì sao rực sáng vội chợt băng, nên Quân Đội VNCH chưa có dịp thấy bản lĩnh và tài thao luợc của Tướng Nguyễn Huy ÁNH . Ô hô! Tiếc thay!!!
          ***

          NGHỊCH NHĨ


          Nhắn:
          * Cùng Quan ngự y TRẦN LÝ kiêm “nhà KQ học” , những chi tiết trong bài viết nầy khá chính xác, anh có thể tin tưởng và xử dụng được! Tôi thân tình khuyên anh, nếu có ý định viết những “Phi Công Trực Thăng theo với con tàu” như bên Khu Trục (nói chung) thì rất khó được, vì “tử” số quá nhiều, nhiều lắm không ai nhớ hết; mà chẳng lẽ hơn phân nữa quyển sách là danh tánh những người đã biền biệt ra đi ??!

          *Cùng chư huynh đệ “cố nhân” đã đọc và theo dõi bài viết của tôi bấy lâu nay, chắc hẳn nhận ra “ thằng tôi” là ai rồi, nếu biết xin để bụng. và đừng tiết lộ danh tánh, vì rất bất lợi cho tôi . Đa tạ

          N-N
          Bút trần nào tả được lưu luyến!
          Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
          Tình Hoài Hương

          Comment


          • Ngày 7 Tháng Tư Tình Cờ



            Ngày 7 Tháng Tư Tình Cờ



            Thành phố Nha Trang thơ mộng đầy cát trắng với những hàng dừa du dương nghiêng mình soi bóng ven bờ biển Nha Trang tuyệt vời, nay đã có nhiều tiếng nổ và tiếng động quái dị lan nhanh theo xe cộ tất tả chạy ngược xuôi. Họ bồng bế nhau dứt khoát ra đi... quay lưng ngoảnh mặt... phản bội với quá khứ vàng son đã một thời nâng họ lên đài danh vọng.

            Từ nơi xa xôi ở vùng núi đồi lạnh giá... chúng tôi vừa vội vàng đến Nha Trang, chưa quen thuộc phong thổ, chưa trìu mến luyến lưu gửi lại bạn và tôi niềm tin vui sống, thế mà nay tôi nơm nớp lo âu... mong muốn tất tả rời xa chốn nầy, để thoát thân ra đi như kẻ lỡ tàu, như người chạy trốn. Nhưng biết làm sao trốn đi đâu!? Đi đâu? Chính nơi tôi đến và sẽ ra đi trong sự bàng hoàng ngao ngán, phiền muộn lo lắng băn khoăn, đang tột độ dày vò tan nát đau buồn! Tôi cúi mặt loay hoay... len lén đào tẩu chính bản thân, khi nắng chiều sẽ lịm dần vào bóng tối. Nơi sinh mạng con người bây giờ rớt vào cảnh lâm nguy, khẩn cấp, và rẻ hơn cỏ rác. Cảm nghĩ chân tình của tôi thẩm thấu và bùng vỡ từ những đường đạn rung chuyển ngoài trời, đang xuyên qua buồng phổi, vô trái tim, tới túi mật lá gan mình.

            Một chiều bất ngờ vào ngày 7 tháng Tư, tôi gặp Thúy Lan, (cô bạn mới quen rất tình cờ), cô mừng lắm:
            - Sao chị không lo ôm con chạy vô Sài Gòn gấp đi. Ở đây sắp mất rồi. Không biết sao?
            Tôi khóc ròng. Như ếch ngồi đáy giếng, như trâu chậm uống nước đục, tôi nào hay biết gì về bàn cờ thế cuộc từng giờ chong chóng đổi thay, và sự triệt thoái lan nhanh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa! Vả lại nếu biết, tôi cũng không thể chen chân đến rừng người ở bến xe, bến tàu, phi trường, hải cảng, hoặc bất cứ nơi nào; để có thể vượt thoát, khi đêm đêm tôi nằm chập chờn trằn trọc trên giường lạ, mơ từng cơn ác mộng mà giật thót người, đã xốc ngược tôi ngồi bật dậy, mồ hôi hột vã ra như tắm, ú ớ gào rú rên la. Tôi chỉ còn hai bàn tay trắng cắp kè kè một nách đàn con thơ rất bé nhỏ, với một mẹ chồng bảy mươi lăm tuổi! Tôi không thể làm gì hơn. Không thể!
            Thúy Lan cúi đầu suy nghĩ giây lát. Cô vội lấy giấy bút ra hí-hoáy viết, rồi đưa tôi, dặn dò:
            - Chị đưa cháu đến địa chỉ nầy, sẽ có người giúp về Sài Gòn ngay. Đi gấp nha. Chào chị em đi, em rất bận.

            Như kẻ chết đuối gặp chiếc phao, tôi không ngớt nói vói theo cám ơn cô bạn nhỏ mới quen. Tôi mừng kinh khủng, cầm chặt tờ giấy, thế mà vẫn sợ rơi, nên đứng lại thở dốc, tôi cẩn thận xếp tờ giấy Thúy Lan viết bỏ trong túi áo, rồi gài cây kim băng to lên túi áo, cho chắc ăn. Tôi cắm đầu chạy mà mừng khôn tả xiết. Tôi đã gặp quý nhân Thúy Lan tận tình giúp đỡ, người bạn sơ giao trong những ngày mẹ con tôi ăn bờ ngủ bụi tại miền cát trắng. Thuý Lan đến lúc nầy như một phép lạ từ Thượng Đế sai nàng đem món qùa cho tôi, không một điều kiện, hay do một sợi dây tình cảm luyến ái nào ràng buộc, ngoài lòng nhân và đức ái của cô. Còn tôi, có thể do hồng phước nhân đức của cha mẹ để lại, kiếp nầy cha mẹ tôi ăn ở hiền lành đức độ đã ra tay làm phước nhiều, nên bây giờ con cháu được hưởng lộc chăng!?

            Tôi vội về gặp các bạn báo tin là tôi đã có phương tiện di chuyển về Sài Gòn. Đồng thời biết gia đình Trần Văn Ngọc cũng chờ chuyến xe về Sài Gòn có lẽ ngày mốt là xong. Riêng gia đình chị Bàn quyết định chờ tin tức anh Bàn, nên họ ở lại Nha Trang. Tôi vội lo thu dọn mấy túm quần áo mang theo phòng thân. Tôi bịn rịn chào các bạn.

            Trước khi lên xe xích lô, tôi mua sáu ổ bánh mì nhỏ xíu (không có nhưn), để phòng hờ. Vì lúc mười giờ sáng nầy các con chỉ ăn qua loa nửa chén canh bún lỏng bỏng nấu với rau muống, thay thế cơm cho cả ngày, tất con sẽ bị đói meo. Trên bước đường lưu lạc từ Nha Trang về Sài Gòn, không biết sẽ diễn ra bao điều âu lo khác, vẫn cần có tiền tôi mới có thể quyết định mọi việc nơi phương xa xứ lạ. Mẹ chồng cùng hai con lớn ngồi một chiếc xích lô. Tôi và hai con nhỏ ngồi một chiếc xích lô khác. Vì đi bộ từ đây đến phi trường quân sự rất xa. Ngộ lỡ bị trễ giờ phi trường khoá cổng, không cho ai vào nữa, thì nguy to. Lần đầu tiên ngồi trên xích lô, các con tôi rất thích thú hí hửng vui mừng, vì ở Đà Lạt các con chưa hề thấy xe xích lô. Đặc biệt ở Nha Trang các chàng trai trẻ làm nghề “chạy xe rong” khá hồn nhiên vui nhộn, đa số họ ưa rung chuông inh ỏi, và ca hát nghêu ngao trên đường đi, nghe thật vui tai.

            Xuống xe xích lô tôi vội trả tiền, lật đật chạy tới xuất trình giấy tờ ở trạm gác cổng doanh trại Không-quân Quân sự. Tôi trở lại chỗ mấy bà cháu đang ngồi bên vệ đường lấy bánh mì ra cho bà và mẹ con ăn. Các con ăn hết ổ bánh mì vẫn thòm thèm hoặc còn đói. Bé Hoàng đói nên quấy hơn mọi ngày, con cứ rúc vào vú mẹ đòi bú vú da, khổ nỗi từ ngày “chạy giặc” đến giờ, bao nhiêu năng lượng đã cạn kiệt, thì làm sao có thể vắt ra sữa cho con! Tôi muốn mua bánh mì cũng không thấy khu nầy có câu lạc bộ, không một hàng quán, hoặc có người gánh hàng rong đi lại bán dạo ở bên ngoài. À, đây là khu quân sự mà. Khoảng mười lăm phút sau thì đóng cửa cổng gác. Ôi đại phước! Nếu chúng tôi chậm mươi phút thì hết cách rồi! Thật là chỉ có Trời có mắt cứu nguy. Tôi dặn dò các con ngồi một chỗ với nhau, không được chạy lung tung, sẽ bị lạc mất.

            Chúng tôi được gọi tên vào cổng, họ dồn chúng tôi ngồi xuống một góc ở ngoài sân dưới hàng phượng đỏ rực, (cùng những người lạ khác rất đông chờ đợi gọi tên, để vào trong văn phòng làm việc). Qua những thủ-tục do an ninh Quân-cảnh kiểm soát chặt chẽ, trật tự, cần thiết, cấp bách. Những đoàn dân di tản được lọc lại thành từng gia đình, có mấy quân nhân thư ký đánh máy tốc hành ghi rõ: tên, họ, danh sách chuyến bay. Họ dẫn gia đình tôi qua một phòng trong phi trường. Ở đây đã có rất nhiều người im lặng hoặc rù rì chuyện trò nho nhỏ. Thỉnh thoảng có một quân nhân Việt Nam áo quần tươm tất ra đứng trên thềm nhà gọi từng tốp người có tên trong danh sách đã ghi, dù máy phóng thanh mở hết cỡ, mà tôi vẫn nghe không rõ, do những chiếc máy bay quân sự luôn gầm rú ngoài phi đạo làm điếc tai.

            Thời gian mỏi mòn chờ đợi dần qua, thoáng chốc gia đình tôi đến lượt được gọi tên. Họ dẫn chúng tôi vào đứng xếp hàng trước một phòng khách rộng đông người gấp hai ba lần ở ngoài sân. Những dãy phòng ăn và phòng làm việc thông với nhau có điện giữa ban ngày sáng trưng, có máy lạnh mát rượi. Mặc dù trên đầu phi cơ quân sự không ngớt gầm rú, nhưng nơi đây không đến nỗi ồn ào, không chen lấn, mà có trật tự hơn.

            Tôi nhìn những mệnh phụ phu nhân rực rỡ xa hoa quần là áo lụa chưng diện trong phi trường, mà bẽn lẽn! Giờ phút vắt giò lên cổ “tẩu thoát thân” nầy, nhưng lắm bà trưởng giả còn có thì giờ phù phiếm tô trét phấn son cẩn thận, mái tóc chải bồng, móng tay móng chân đỏ chói, "quý công nương" sai khiến chỉ chỏ “gia nhân” vài người tay đùm tay xách, cong lưng chạy lui chạy tới. Hoặc vài anh lính đi sau đuôi mấy bà khệ nệ khiên vác nhiều chiếc va ly da cồng kềnh khá nặng và đắt tiền mới toanh, & thùng giấy to đặt dưới chân họ mới và sạch sẽ. Những người cùng vào xếp hàng ở đây thân tỏa mùi nước hoa Ici, Neblina, Ode à L’amour... rất thơm. Còn loại túi xách tay là thứ sang trọng mang hiệu: GUCCI made in Ilaly– LOUIS VUITTON Paris – SIENNA RICCHI ở hải ngoại du nhập về Việt Nam.

            Tuyệt nhiên không một ai có “tay nải” cũ mèm bẩn thỉu, xấu xí dị hợm, khiêm nhường, nghèo nàn coi thô thiển quê mùa hết chỗ nói: như hành trang của tôi. Đến nơi nầy, tôi mới nhận thấy tình cảnh hèn kém, chua xót bi thương cùng khổ của mình trong những ngày ly tán:trắng trợn phơi bày quá tệ, quả là đáng thương xót xiết đỗi! Tôi lúng túng ngượng ngùng, bực bội cúi xuống len lén che dấu gói hành lý thô thiển, hèn kém dưới gót chân kẻ làm vợ, làm mẹ: đã bao năm qua vẫn thấp hèn với anh chồng "lính chiến".

            Tôi cảm thấy thật buồn vì số phận mình sao nghiệt ngã, đắng cay, bạc bẽo, khổ cực và phũ phàng tệ mạt đến thế! Tôi đau xót không kém phần tủi hổ̉ ,thật phí hoài không gian và thời gian về tuổi trẻ tràn đầy nhựa sống: một thiếu nữ tri thức nổi danh người đẹp biết chừng nào! khi trao thân cho người chồng không thích danh phận, (nói trắng ra là anh không thích bon chen trên đài danh vọng, không ham muốn cao sang, thật quá lạ! mặc dù với khả năng, kinh nghiệm, và sự từng trải... thì anh có thừa), để rồi anh đã đẫy vợ con đến bước đường cùng nầy!

            Tôi vụt nghĩ đến ngôi nhà ba tầng lầu đúc bê tông cốt sắt dài 45m, rộng phủ bì 5m của vợ chồng mình, và chiếc xe hơi 404 láng cón cũng của mình bị hết xăng đã vất lại Cam Ranh, mà tức sôi người. Phải chi đừng có bọn “gian tặc” vô xâm lăng miền Nam, thì bây giờ tôi có thể ung dung le lói ngẩng cao đầu, nheo nheo mắt nhìn những hành khách “kiêu sa, cao sang và quý phái” kia chẳng chút bẽn lẽn ngượng ngùng, mà có thể ngược lại: mình hãnh diện cũng có một thời vàng son vang bóng cần cù kiên nhẫn làm việc và thành công như ai đấy chứ!

            Tuy nhiên, lúc tôi ngồi bó gối trên nền gạch, vò đầu bứt tóc bứt tai suy đi nghĩ lại cho cùng thì... bộ áo tác chiến của chồng tôi và những bộ quân phục mà những quân nhân đang mặc trên người kia, nào có khác chi nhau!? Đó là niềm vinh dự tự hào rất kiêu hãnh của người lính oai dũng trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (và dĩ nhiên cả "cô vợ lính" biết thông cảm, hân hạnh, tự hào về phong độ: quốc hồn, quốc túy, quốc sử, quốc ca, quốc thiều, quốc huy, quốc thể, quốc gia Việt Nam); Đồng thời mỗi một người không phân biệt cấp bậc quan hay lính: họ đều gánh vác trên vai tất cả trọng trách, nghĩa vụ, biết tuân phục bổn phận làm trai phải trả nợ núi sông, quyết giữ gìn quê hương Việt Nam an thịnh trường tồn.

            Thế nên, chồng tôi cùng lớp lớp thanh niên trai tráng đã răm rắp vâng lời thượng cấp "phải ở lại tử thủ” Đà Lạt! (trong khi người ra lệnh lạc nầy thì... than ôi! họ đã chuồn đi tự bao giờ!). Nhưng tôi cũng cố gắng nghĩ tốt cho họ rằng thì là... nếu "người ta" đi di tản về Sài Gòn đông đúc kinh khủng, ấy là do ai ai cũng mong Mỹ và Quân-lực Việt Nam Cộng Hoà ra tay làm việc nghĩa, cứu vớt mình vượt thoát nhanh ra khỏi vùng đất khốn đốn, (nơi có nguy cơ khói lửa chiến tranh ập vào, hoặc có thể sẽ bị xâm chiếm, bị quân vẹm tàn ác pháo kích bừa bãi dội lên đầu không tiếc thương). Khi sống còn, thì ai ai cũng có cơ may phục hồi cuộc sống và danh dự. Thế thôi. Tôi tôn trọng Luật và những suy nghĩ mỹ cảm của anh về việc bảo trọng quốc luật. Chồng tôi cùng lớp lớp thanh niên trai tráng dù biết những cấp trên trước khi vọt lên đường trước thuộc hạ, người ra “lệnh” ấy, nay đã “lạc” ; nhưng họ không ngần ngại ở lại giữ thành, hy sinh mạng sống, họ tuân lệnh “ở lại tử thủ Đà Lạt" 100% !

            Lần chót, chúng tôi được gọi ra ngoài sân bay đứng chờ gần chiếc phi cơ quân sự khổng lồ quay cánh quạt vù vù. Họ đang gọi tên những tốp dân đã ghi danh trước tôi đi lên chiếc phi cơ nầy. Mặt đất rung chuyển dữ dội, tóc tai quần áo mọi người bay phần phật. Hai tay các con nắm chặt lấy hàng dây thép gai, hoặc những cột trụ rào sơn màu trắng xanh xanh đỏ đỏ. Đây là lần đầu tiên trong đời các con tôi được thấy tận mắt những chiếc phi cơ to tướng gần thật gần. Các con vui mừng chạy ra dán mũi sát vào cửa kính, con ở lì một nơi chằm chằm nhìn những chiếc phi cơ bay lên, đáp xuống.

            Chốc chốc các con lại hí hửng chạy vào chỗ tôi ngồi: con khoe đã thấy nhân viên hàng không lo tới tấp bốc hàng, con líu lo nói chuyện lạ xảy ra những gì ở đâu đó. Bé Bi (Quốc Huy) chạy tới một chiếc thùng gỗ trèo lên đứng ở đó, để nhìn những chiếc máy bay cho rõ, rồi con lại tụt xuống đất, chạy đến chỗ gần cánh cửa sắt. Bé Bi dù sống cảnh di tản màn trời chiếu đất, ăn uống thất thường, nhưng vẫn còn là đứa trẻ có hai má đỏ rực vì chưa quen ở xứ nóng, bé bụ bẫm, tròn trịa mủm mỉm xinh xắn, bé Bi mặc bộ đồ bay màu xanh da trời, (giống y đồ bay của pilot, nên ai nhìn bé Bi cũng thấy cháu hồng hào ngộ nghĩnh dễ thương.

            Chiếc phi cơ khác từ từ quay ra phi đạo, thì gió từ những cánh quạt ào ào thổi, làm cho mọi người đứng bên hàng rào muốn té nhào. Không hiểu sao lúc đó bé Bi ở đâu chui ra khỏi hàng rào, và nắm lấy tay một bà Mỹ mặc áo đầm vàng, bà có đôi mắt xanh ngọc, mái tóc vàng hoe. Bà ta ngạc nhiên ngập ngừng chốc lát, rồi đặt chiếc va ly xuống đất, bà lấy trong giỏ xách một hộp bánh ngọt đưa cho bé Bi, bà chỉ tay về phía cửa kính bên trong hàng rào, nơi mọi người đang ngồi hoặc đứng chờ đợi chuyến bay.

            Nhưng thằng bé không nghe, không hiểu, hoặc mãi nhìn những chiếc phi cơ, nó không cầm hộp bánh, mà chỉ nắm chặt váy đầm bà Mỹ kéo rị lại. Bà Mỹ trắng nầy cứ nhìn bé Bi và nhìn quanh quất hoài. Có lẽ bà Mỹ nghĩ con cái nhà ai bị thất lạc trong lúc cả nước hổn độn chạy loạn?! Đến phiên bà Mỹ tiến bước ra cổng phi trường xa xa hàng rào, để lên chiếc máy bay kia, thì thằng bé nhà tôi vẫn túm chặt váy áo bà Mỹ và líu ríu đi theo bà. Nhưng thằng bé Bi bước đi, mà luôn luôn ngoái cổ lại đăm đăm nhìn chiếc phi cơ đáp xuống trên phi đạo.

            Tôi cúi đầu vạch áo cho bé Hoàng mút vú da, khi ngẩng lên nhìn ra hướng phi cơ, ngay từ đầu tôi thấy có đứa nhỏ con ai, hình như giống con trai của mình, mà đang nắm chặt váy của một phụ nữ Mỹ, khiến váy đầm bà ta giảng dài ra lôi theo thằng nhỏ?! Thật tình ban đầu tôi cứ tưởng nó là con của bà Mỹ kia, tôi không hề nghĩ đó là bé Bi, (bé Bi là tên gọi thân thiết trong gia đình). Quay lại nhìn lui nhìn tới, nhìn quanh, thì quả thật tôi thấy thiếu mất bé Bi, nó không còn đứng trên cái thùng gỗ, hoặc bên hàng chắn rào cùng hai anh Dzũng và Tuấn của nó nữa. Tôi hốt hoảng bỏ thằng bé (Tồ) đang cắn kéo cái vú của tôi dài ngoẵng ra đau điếng. Tôi đứng phắt dậy, hoảng hốt kêu réo to thật to:
            - Bé Bi. Bé Huy. Úi Trời ơi! Mẹ đây nầy Huy ơi! Huy ơi...

            Khổ nỗ̉i thằng bé không thể nghe được, vì tiếng phi cơ nổ ầm ầm, inh ỏi gầm rú. Đồng thời lúc đó con trai trưởng của tôi là bé Dzũng đứng ở gần tôi hơn, nên con nghe tôi la hét, con quay lại nhìn thấy tôi cứ chỉ chỉ tay về hướng bé Bi. Bé Dzũng và bé Tuấn cũng thấy bé Bi ngố ngáo từ từ theo đoàn di tản đi ra ngoài chiếc C 130 khác. Bé Dzũng hoảng hồn, con nhanh nhẹn bò lòn qua lớp hàng rào sắt, con tức tốc chạy chạy... chạy rõ nhanh tới bên bé Bi. Bé Dzũng lôi giật thằng em đứng khựng lại. Thằng bé Bi xiểng liểng suýt té, nó ngơ ngác nhìn lên bà Mỹ, nó vội buông váy của bà ta ra. Hai anh em túm cánh tay nhau cúi cong lưng cùng tất tả chạy về chỗ cũ. Hú hồn hú vía!

            Tôi mừng rỡ điên người mà khóc hụ hụ hụ như mọi người bình dân..., tôi vừa quệt nước mắt vừa hét tướng lên bai bải la mắng mấy đứa con trước mặt mọi người lạ. Tôi không hề biết xấu hổ, chỉ vì tôi sợ mất con. Kể từ giờ phút đó, tôi lấy một sợi len dài cột cườm tay đứa nầy dính với cườm tay đứa kia, và bắt các con ngồi bệt xuống nền gạch, ở yên một chỗ, không được đứng dậy xớ rớ dòm ngó chi cả, cho chắc ăn. Tôi giữ các con chằn chằn sát bên.

            Thật ra, nào biết đâu bé Bi mới hơn hai tuổi, nếu con đi với bà Mỹ, thì sau nầy con không thể biết cha mẹ là ai! Ở nơi xứ văn minh tột đỉnh giàu sang vinh phú kia, có thể đời con sẽ ấm êm sung sướng hạnh phúc, hơn ở với cha mẹ chăng?! Cũng có thể ngược lại. Nhưng... Thôi con ơi, nếu con ở nơi quê hương với tổ tiên ông bà cha mẹ, mình có đói khổ nghèo hèn, cũng còn mẹ cha anh em ruột thịt: yêu thương con, chí tình đùm bọc, ủi an, sum họp bên nhau. Sau nầy nếu gia đình mình may mắn trở lại giàu sang sung túc như xưa. Hoặc vô phúc mà lâm vào cảnh hoạn nạn đói khổ, thì mình cùng chia sẻ ngọt bùi, cùng dắt díu nhau bước trên con đường gian truân. Mẹ không thể rứt ruột đem con thơ đi bỏ chợ, bơ vơ lạc lõng ở xứ người lạ hoắt cho đành. Xin lỗi con.

            Đợt người di tản thứ ba đã tuần tự được gọi tên lên phi cơ. Tôi lo lắng nghĩ vơ nghĩ vẩn và cảm thấy bồn chồn nóng ruột lạ lùng, chỉ sợ bị sót tên, hoặc vì lý do nào đó, bị đình chỉ chuyến bay. Thì chết thôi! Hai sĩ quan Không-quân đã đọc danh sách lúc nãy đích thân dẫn đoàn người di tản, trong đó có tên gia đình tôi là tốp cuối cùng mang số chuyến bay 449 A. Tôi để bà nội, các con, đi trước, cườm tay các con vẫn cột sợi len dùng dằng níu kéo nhau run run con leo lên chiếc phi cơ C–130 “hả toác hoác mồm”.

            Lúc ở xa xa trong khu hành lang tôi nhìn thấy chiếc phi cơ nhỏ, nhưng khi đến bệ cầu thang sắt nối liền với đuôi phi cơ, thì thấy phi cơ nầy to lớn lạ thường. Từ đuôi máy bay dọc theo lòng phi cơ có bốn hàng ghế, hai hàng ghế giữa đâu lưng vào nhau, bốn hàng ghế đệm bọc nhung màu huyết dụ rất êm đang mở “cái đuôi hoác mồm ra”, để lần lượt đón từng gia đình trèo leo lên phi cơ vẫn nổ máy ầm ầm. Chiếc máy bay nầy sẽ mang chúng tôi ra khỏi vùng đại nạn khói lửa binh đao. Biết đâu nơi Nha Trang sẽ diễn ra bao đau thương tàn khốc nay mai!?

            Các con đứa nào đứa nấy tóc tai quần áo ướt nhẹp mồ hôi, hai má đỏ rực vì nóng. Đã được tháo sợi dây len “chắc cú” ra rồi, các con thoải mái cứ chồm lên nhìn qua những ô cửa, vui vẻ hí hửng cười nói tía lia, lí lắc, huyên thuyên. Nhiều lần mỗi khi đi đâu chơi, tôi đều mua dự phòng bánh mì kẹp gà, ba tê, thịt nguội, hoặc chuối, nước lọc, đựng trong giỏ xách để cho các con ăn. Nhưng bây giờ sống trong cơn hoạn nạn, lại bất ngờ được ra đi quá đột ngột, không thể chuẩn bị chu đáo, nên mọi thứ đều thiếu thốn. Bé Tồ lúc đó quậy tưng trời, tôi mệt hết sức, phần vì tiếng động cơ gầm rú đinh tai nhức óc khiến con sợ hãi, phần vì nóng nực kinh khủng, mồ hôi con vã ra như tắm, ướt hết áo quần, vì lúc đó trong phi cơ chưa mở máy lạnh. Phần nữa là con đói bụng đòi bú. Khổ nỗi hai bầu vú tôi nhăn nhúm teo tóp sát vào xương sườn, thì còn gì có sữa cho con! Chẳng cần biết xấu hổ khi tôi vạch áo trước nhiều người lạ, để vắt hai đầu vú teo tóp hoài vẫn không còn một giọt sữa. Bé con cứ chui rúc đầu vào tìm vú mẹ, bú bú, mút mút, day day... con nhả vú ra, vật vã khóc la. Con lại giẫy nẩy lên, thiệt chướng quá chừng.

            Chính lúc đó có một người đàn bà trung niên qúy phái, thanh lịch, ăn mặc gọn gàng trang nhã, bà ngồi đối diện với tôi, bà ấy cầm cái quạt giấy quạt hoài cho mẹ con tôi. Sau đó bà đưa cho tôi ổ bánh mì:
            - Chị đút cho cháu ăn... Có lẽ cháu đói bụng.

            Tôi nghẹn đắng cổ chua xót lí nhí cảm ơn bà, cầm ổ bánh mì kẹp thịt xé nhỏ ra, tôi đút từng miếng cho con ăn. Bé Tồ nín khóc, mặc dù con vẫn nấc lên từng hồi. Con ăn ngấu nghiến gần hết một phần tư ổ bánh mì, con thút thít đẫy tay tôi ra, bé Tồ đưa phần bánh mì còn lại cho các anh nó. Mấy anh em ỏn ẻn cười hì hì... liếc nhìn bà ấy, rồi các con thay phiên nhau mỗi đứa e dè cắn một miếng bánh mì nhỏ, nhai bỏm bẻm. Lát sau thì trong khoan tàu mở máy lạnh mát rượi, thế là bé Tồ dụi đầu vào ngực tôi vừa nấc nấc mà ngủ vùi.
            Người đàn bà thân thiện mỉm cười nhìn chằm chằm mấy đứa nhỏ. Giọng miền Nam ngọt ngào, bà ấy nhỏ nhẹ:
            - Các con của chị rất đẹp và ngoan thiệt.

            Tôi e ấp mỉm cười. Bà ấy lại lúi húi lục tìm trong giỏ xách sang trọng ra một hộp bánh Coffee Milk Biscuits to, và chai nước lọc, bà đưa cho tôi. Giỏ xách của bà bây giờ đã xẹp lép. Thật bất ngờ, dù tôi không bảo, nhưng ba đứa con lớn vẻ mặt rạng rỡ, hớn hở, vui vẻ, hí hửng nhìn nhau, chúng vòng tay cúi rạp đầu sát xuống gần đùi nó, để nói:
            - “Cháu cảm ơn bà” rất to.
            Chúng bắt chước nhau giống như chú khỉ; khiến ai nấy ngồi chung chuyến máy bay đều cười ồ. Các con ngồi ngay ngắn từ tốn ỏn ẻn ăn uống gọn gàng xong. Tôi nhìn người đàn bà xa lạ lại ấp úng lí nhí cám ơn, lặng lẽ cúi đầu xuống trên mái tóc thằng bé nhỏ mà quệt nước mắt.
            * * *

            Tôi nghĩ mãi không ra và không thể nào ngờ là mình có diễm phúc vinh dự đến thế nầy: Khi xế chiều có ông sĩ quan Không–quân Việt Nam ở Nha Trang gọi tên tôi (tôi đứng đầu tên trong danh sách gia đình) ông đưa cho tôi tờ phê duyệt “Thuận” do vị một Trung-tá ấn ký (tôi không thể nhớ rõ tên vị ấy). Ôi! Trí óc của tôi lúc đó thật tồi, tôi chỉ biết lo lắng về riêng “cái tôi” hiện tại là: làm sao mình có thể “đào tẩu” ra khỏi vùng đất chứa nhiều súng đạn và hận thù!, mà không hề nghĩ đến ai- thì bây giờ tôi biết làm thế nào nhớ rõ tên họ và ân tình không thể trả đền nầy! Trên tờ giấy ghi “thuận” không hề có con dấu: “Nhất thế. Nhì Thân. Tam ngân. Tứ chế” gì cả.

            Thời gian loạn lạc thất điên bát đảo nầy; thật sự tôi biết chắc chắn một điều là: trong trường hợp hổn loạn cao độ, thì dù ai di chuyển bất cứ phương tiện nào gần hoặc xa, đa số ai có thế lực, có “chi địa, chi vàng” thì mới có thể thoát thân. Tôi không phủ nhận trước ngày gia đình tôi di tản khỏi Đà Lạt, thì tôi có xe hơi, nhà lầu, rủng rỉnh tiền bạc leng keng trong túi như ai! Ấy thế mà chính lúc nầy chúng tôi nghèo rớt mồng tơi. Nhưng vẫn có người chính thức công nhận cho chúng tôi đường hoàng leo lên “tàu bay free”! Ôi! Sung sướng làm sao! Hạnh phúc vô ngần khi tôi ngồi trong lòng phi cơ, cảm thấy như đời bay bổng lên đào nguyên tiên cảnh. Ơn cứu mạng nầy gia đình tôi xin vô vàn tạ ơn “người”.

            Khấp khởi vui mừng khôn xiết khi đã ngồi an toàn yên ổn ở một nơi sang trọng thế nầy, tôi nhìn lui nhìn tới không thấy ai lưu ý đến mình, tôi len lén thò tay xuống nhéo ở bắp đùi mình mấy cái, xem thử mình có nằm mơ, hoặc thân mình có đau điếng vỡ mộng hay không!? Bởi vì tôi vẫn chưa dám tin chắc là mình sung sướng hạnh phúc may mắn được hãng Hàng-không Quân-sự “biếu” cho tờ giấy chứng nhận được “đi không”, “đi chùa” tuyệt vời như thế nầy.

            Lòng tôi rối bời sầu nhớ hình ảnh đóa hoa hồng tươi thắm óng vàng đang gục đầu bên ngăn kéo kỷ niệm bảng lảng dáng hoàng hôn hắt hiu hư ảo thuở nào! Ôi! Đó là những đóa hồng nở rộ thắm tươi trong trái tim nhân-ái hiếm thấy. Tôi không “nịnh” những chàng phi công hào hoa phong nhã và "rat... rát..." rất chi là... bay bướm làm gì! Vì sự thật không cần biết tôi là ai, họ tận tâm giúp đời vô vụ lợi, tấm lòng họ tận-hiến cho bổn phận, trách nhiệm, danh dự và nghĩa vụ cứu người.

            Những vị ân nhân đức độ mà tôi không hề biết mặt nhớ tên. Những người tình cờ tôi chỉ biết một lần, sơ sài quen một ngày, rồi xa nhau muôn thuở, không bao giờ tìm thấy lại, nhưng suốt đời tôi vẫn luyến nhớ thầm mong có ngày hân hạnh tái ngộ. Tôi xin trân trọng cúi đầu tạ ơn vị Trung-tá Không quân (tôi không hân hạnh nhớ tên “ngài” ). Tôi vô cùng cảm-kích những tấm lòng cao cả của các vị Không-quân. Trân trọng cảm ơn gia đình ông bà Niềm, cô Thúy Lan vô vàn. Cám ơn người đàn bà thanh lịch qúy phái ngồi trên phi cơ, đã cho các con tôi một miếng khi đói. Ân tình nầy suốt đời tôi không thể trả đền, xin trọn kiếp mang theo kính nhớ trong lòng.

            Biết làm sao bây giờ! Dù mai sau nếu gia đình tôi sẽ trở lại sung túc giàu sang như thuở xưa, hoặc tôi chỉ là một người vợ lính quèn hèn mọn tầm thường: tôi nguyện sẽ cố gắng viết những bài văn (dù hay hoặc dỡ), tôi thành tâm tạt cốt “tình chung một khắc, nghĩa dài trăm năm” để ca tụng những vị anh hùng có nhân cách thầm lặng xã thân giúp đời vô vụ lợi. Một lần nữa tôi không bao giờ và chẳng thể nào quên: những người đã âm thầm lặng lẽ ưu ái ban tặng free đặc ân cao qúy tốt đẹp cho riêng gia đình tôi, và cho Đời. Nguyện xin Thượng Đế trả công bội hậu ban đến họ được vui vẻ bình an hạnh phúc trường tồn.

            Chiếc “mõm hàm ếch” từ từ khép miệng lại, nhốt trọn mấy trăm dân di tản vào trong lòng phi cơ. Phi cơ bay hoài và an toàn hạ cánh xuống phi trường Tân Sơn Nhứt, phía dành riêng cho khu phi cơ quân sự cũng ồn ào, náo nhiệt đông đúc kinh khủng. Chúng tôi được leo lên một chiếc xe bus chở free ra lối Bảy Hiền.


            _ * _



            Tình Hoài Hương
            Last edited by Tinh Hoai Huong; 04-11-2017, 05:53 PM.
            Bút trần nào tả được lưu luyến!
            Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
            Tình Hoài Hương

            Comment


            • Người Đà Lạt Cuối Cùng Vỡ Tổ Tan Hàng




              Người Đà Lạt Cuối Cùng Vỡ Tổ Tan Hàng


              Con đường dốc đứng bên cạnh rừng đầy lá thông khô được sương chiều rửa sạch, trơn bóng láng mướt ve vuốt đôi chân êm ái mát lạnh khi mình dẫm lên. Khiến Luật muốn ngã lưng nằm trên thảm nhung nâu nâu, mượt mà, mơ màng nhìn lên trời cao, xao xuyến nghĩ về… đất nước còn, thì người lính có thể là một phần tử của con cờ thí thân trong chiến tranh. Họ gánh trên vai nhiều trọng trách, nhiệm vụ, và bổn phận nặng nề đầy phức tạp; dù biết bao cơ cực lầm than, nhọc nhằn, khổ sở, chua xót, đắng cay, trăm bề o ép. Trước đám sương dày đặc kia là tương lai xa xăm mù mịt, là con đường tiến thân để giành lại, giữ lại từng tất đất, không biết sẽ bắt đầu từ mấu chốt nơi đâu?!

              Lúc nầy, tình hình chính trị ở miền Nam Việt Nam xoay quanh cơn lốc chính trị cao tột độ lẫn kinh hoàng vô cùng, giống như hai giòng nước ngược đục ngàu xô vào nhau, toé lên thành những cơn triều cường sóng thần dâng cao vút và đảo điên nhất. Họ chẳng thể chí tình thiết tha yêu thương ôm trọn quê hương ở trong lòng, khi Trọng Luật cùng hầu hết quân nhân đã vâng lời nghe lệnh cấp trên ban ra rành rành là:
              - Quân nhân, cán bộ các ban ngành, thanh niên nòng cốt, tuổi trẻ phải ở lại “tử thủ” tại mỗi đơn vị: từ đầu tháng Ba năm 1975 tới giờ phút cuối cùng, (còn ông già bà cả, trẻ con phụ nữ… thì cho di tản ra khỏi Đà Lạt/Tuyên Đức).

              Tin như thế loan ra nhiều ngày, nhiều ngày... hầu hết ai ai nghe cũng cả tin chắp bắp và khá an tâm, "chúng ta" cùng vững chí đồng lòng cương quyết trụ ở lại 24/24 giờ nơi những tuyến phòng thủ. Té ra, ôi mà có ngờ đâu... có một nhóm người cao cấp đã làm cuộc tình lờ, len lén tình vờ lo cao chạy xa bay chuồn đi từ lâu, (từ khuya rồi anh ơi)! Họ tụ tập dòng dõi và "bay" nhiều lần từ Đà Lạt về Phan Rang, gom thêm "một mớ... rồi dzọt dề" thủ đô Sài Gòn. Có nguồn tin đáng tín cẩn cho Luật hay số ít cao cấp ở Sài Gòn cùng vợ con họ đã dọt đi ra nước ngoài! "Bản thân cao cấp"... và... "vợ con cấp cao" cần bảo vệ an toàn, là cái chắc. Còn vợ con lính là "thứ loại" gì nhỉ?

              Hẳn là đã lâu lắm rồi khi vừa ra "thượng lệnh"; họ chỉ biết rũ bỏ sau lưng sự đau khổ tang thương cùng khó ấy: đành tâm cho người khác âm thầm ở lại chịu trận, gánh gồnh gian nan, khổ đau. Đám sĩ quan hạ giới nầy nào có hay, thì lính tráng binh nhứt, binh nhì bẹt dem cùi bắp làm sao biết! Bây chừ đạn pháo đang nổ dậy trời! Tưởng chừng như hai phe quốc nội giàn quân ngoài mặt trận đánh nhau một phen chí tử. Thật tình phía Việt Nam Cộng Hoà "đã bị" có lệnh rút lui, bỏ ngỏ, chứ nào có sòng phẳng thẳng thừng đánh đấm gì cho cam. Nếu quân tử và oai dũng chơi nhau một trận quyến liệt trên bàn cờ chiến cuộc, thì chưa chắc ai thắng ai à. Tức giận và uất ức điên người.

              Đài phát thanh Đà Lạt dấu nhẹm chuyện các nơi khác lo cho quân đội và dân triệt thoái, đài chỉ phát ra những mục bình thường trong chương trình hằng tuần & vớ vẩn, đài phát thanh chẳng hề toan báo một tin tức thời sự nóng bỏng nào! Họ cũng chẳng tiếp vận đài phát thanh Sài Gòn như trước, cho người dân Đà Lạt được nghe. Không hiểu tình cờ thế cuộc, nên mọi người bình chân như vại lo làm vườn tưới hoa. Lúc biết ra cớ sự, thì nhiều quan, lính và dân không tìm thấy đường đi lối về nơi đâu, họ đi tới thì mắc thác, mắc hồ, đi lui mắc núi, mắc đèo.

              Tai biến đến sau ngày 17 tháng Ba, khi cấp trên ban lệnh tử thủ, khẩu lệnh chỉ rò rỉ ra, tức là láo pháo rỉ tai nhau về việc quân nhân triệt thoái rút bỏ Đà Lạt; chỉ biết tin vài giờ rất ngắn ngủi vào phút chót mong manh và hối hả. Từ đó đến ngày nay đã ngót tháng ròng rã rồi, nhưng quân nhân thanh niên tráng niên nầy không hề biết. Vì thế họ đã chưng hửng bàng hoàng, nên trở tay không kịp. Sau ngày 11 tháng Tư năm 1975, Luật và “nhóm tình nghĩa tử thủ bất diệt" quyết giữ gìn quê hương ấy, mới biết tin tức triệt thoái chậm chạp, trể tràng vì bị người ta dấu nhẹm, kín bưng. Chẳng đặng đừng... Luật đến toà Tỉnh Trưởng cùng các đại diện những phái đoàn: quân, cán, chính và cảnh sát nổi, cảnh sát chìm (cảnh sát đặc biệt, xâm nhập), ... đã tham dự buổi họp thượng khẩn:

              Về việc triệt thoái được ấn định phân chia như sau: Tất cả quân nhân sĩ quan của trường Võ Bị, và sinh viên sĩ quan toàn khoá ở trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam có số lượng người hùng hậu đông đúc, thì họ sẽ chỉ huy ở vòng bên trong, để kẹp cho đồng bào tuần tự đi ở hàng giữa, dân là đội ngũ lộn xộn không có súng ống, họ toàn gánh gồnh đồ đạc, của cải linh tinh...). Nghĩa là trường sĩ quan Võ Bị Đà Lạt sẽ dàn quân dọc hai bên quốc lộ 20, vừa từ từ rút, vừa giữ an ninh và bảo vệ tối đa đồng bảo tuần tự đi, có trật tự, bằng mọi giá họ cẩn thận chăm sóc giúp đỡ đồng bào. Dân phải tuân lệnh quân nhân về lối Phan Rang, đi Phan Thiết... v.v... Đồng thời trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt là những đoàn người bọc hậu cuối cùng đành phải rời bỏ thành phố. Những cảnh sát và quân nhân ở các binh chủng khác sẽ cặp đi song song một bên với trường Võ Bị ở vòng ngoài.

              Các cửa ngỏ hậu phương, kho lương thực, ngân hàng, ngân khố, quân trang quân cụ, khu nầy, sở nọ, ty kia mở toang hoang, kể cả nhà thường dân vắng chủ đều bị cướp bóc, đốt phá cháy rụi. Một phần do trước khi ra đi, những người có trách nhiệm với công sở của mình phải hủy diệt hồ sơ mật. Một phần do nhóm tự xưng là “cách mạng 75” khích động kẻ gian thừa nước đục thả câu, chúng mặc sức tha hồ thao túng, càn quét vơ vét tung hoành mọi mặt. Đà Lạt như rắn mất đầu, như đàn gà con mất mẹ.

              Tất cả mọi tầng lớp di chuyển từ Đà Lạt xuống đèo Ngoạn Mục cao chất ngất và ngoằn ngoèo tới Sông Pha, rồi tới Phan Rang, dưới sự điều khiển của Đại-tá Quỳnh đều nhịp nhàng, ăn khớp, chu đáo, rất có trật tự lớp lang trước sau đều đặn an toàn; Cho đến khi xuống quá Phan Rang qua ngã Phan Thiết thì an ninh trật tự không còn toàn vẹn như cũ. Bởi do Quân Đoàn II đã triệt thoái về hướng nầy rất đông, quá đông... Hai bên dân quân từ trên hướng Kontum về, và hướng Đà Lạt xuống đã bất ngờ... "gặp nhau ở tụ điểm son đồng tâm"... nhiều đến nỗi không thể nào tưởng tượng. Tất cả mọi người đụng nhau tại đây. Khi đó thì quốc lộ chính đã tràn ngập người và người đông kinh khủng, nhiều vô số kể! Hiện trạng bấy giờ đã lộn xộn kinh khủng.

              Thế là "Người Đà Lạt cuối cùng bị vỡ tổ tan hàng" từ đó. Luật coi quân đội là một tổ ấm quan trọng linh thiêng quý giá, vô cùng cần thiết; vì đó là nơi an tựa vững vàng trong đời sống của người trai có lý tưởng trong thời loạn. Tổ quốc ấy, dường như Luật muốn ví là một tổ ấm mật thiết, quan trọng không kém gì gia đình mình: đã có mẹ già thân yêu, có vợ hiền con ngoan. Nhưng hôm nay cái tổ ấm linh thiêng ấy sụp đỗ rồi chăng? Nghĩ tới điều đó, Luật đã bật khóc, khiến bạn đi cùng xe ái ngại và sửng sốt ngoái nhìn.

              Gần tới vòng ngoài của tỉnh thành Phan Thiết đầy bụi bặm và gió cát thổi vù vù, bỗng có nhiều tràng súng từ xe sau ria tới tấp xẹt tới phía hai xe ngân khố (không biết xe tiền ấy của Tỉnh Kontum, Pleiku, Ba Mê Thuột, hoặc Thị-xã Đà Lạt chăng?). Xe chở những bao bố tiền to khổng lồ, tiền ơi là tiền rơi kín một góc phố, và bay tá lã theo gió lồng lộng như đàm bươm bướm chập chờn trên không trung. Khi đó thì... không thể nào diễn tả nỗi cảnh kinh dị lúc mọi người khum xuống nhặt tiền dưới cơn mưa chì bão lửa, nơi xe cộ gầm rú đó. Cảnh thương tật, khóc than, thét mắng, đói khát, chết chóc, lẫn trong tiếng súng đạn gầm rú xa gần, khiến mọi người bị hút vào điệu quay chóng mặt, bàng hoàng đến rợn người. Luật ngồi trên xe thấy những pha cướp giật, bóc lột, đánh chém nhau dã man và trắng trợn ven đường... Hò hét. Chưởi rủa. Đánh đập tùm lum. Luật cảm thấy chua xót đắng cay, nhục là ở chỗ đó. Tệ là ở chỗ đó. Đau quặn thắt lòng ở chỗ khúc ruột thừa.

              Luật cùng sáu anh khác thay bộ đồ tác chiến, mặc bộ đồ dân sự vẫn cầm theo mấy hôm nay để dễ bề đi đứng, anh vứt bỏ hết tất cả lon lá mũ mão hành trang rối rắm trên đầu, trên vai. Luật mang đôi giày ba ta cũ, áo lạnh, mấy chục ngàn tiền vợ để trong tủ, một chiếc đồng hồ Omega, chiếc nhẫn cưới, sợi dây chuyền, cái nón thường dân đội đầu, và một khẩu súng lục mang kè kè bên nách, để phòng thân. Nhóm Luật là những người lính chiến đấu dũng cảm cuối cùng lìa bỏ quân ngũ, bỏ đơn vị, ngao ngán tự lo cứu chính bản thân trong cơn biến loạn ngặt nghèo lâm nguy, hấp hối.

              Lúc bây giờ không có người chỉ huy, thì nhóm nầy quan cũng như lính có nhiều ý kiến, ý cò, tự vạch ra cho mình con đường sống mới. Mạnh ai nấy dọt, họ luống cuống, hốt hoảng băng đèo vượt đồi cát chạy tan tác. Không còn cảnh tình đồng đội keo sơn như cá với nước, như cây cần đất, cần rễ bám vào đất cho cây liền cành. Mà thân ai nấy lo, hồn ai nấy giữ, mạnh ai nấy chạy thiếu sống bán chết, tự lo thoát thân. Họ xin đi chuyền từng đoạn xe đò, xe tải, xe GMC hết xăng, họ chạy bộ chen lấn nhau mà xéo bước, họ thở dồn dập, gò lưng chạy thục mạng từng đoạn ngắn, người chạy đi kẻ chạy lại, rồi thì nhóm Luật đã bị lạc mất nhau. Người đi lánh cư đông kinh khủng bất ngờ gặp gỡ nhau giữa trùng trùng lớp lớp, trên bước đường chạy loạn những kẻ sống còn mong vượt qua gian nguy khổ ải.

              Ngày chạy bộ với những người dân tay xách tay mang đùm đề vợ con, chân thấp chân cao khổ ải mệt nhoài. Đêm đêm ngủ với người thoi thóp, nằm với những xác chết cứng đơ giữa đồng không mông quạnh. Luật mong tìm làn hơi ấm bên người lân cận, hầu hổ trợ an ủi tinh thần, nương nhờ lẫn nhau. Nào ngờ, khi hoàn hồn, bừng mở mắt ra ngoảnh nhìn lại, anh mới biết đó chỉ là những thây ma. Luật mệt lả người phải bật dậy ra đi, vì sợ hơn vì đói, khát. Phải! Giữa cảnh màn trời chiếu đất, trong tay những người dân không có một cây que để phòng thân tự vệ. Mà cuộc sống vẫn vô cùng mong manh và hối hả. Con người phút chốc trở thành da bọc xương, bối rối, ngơ ngơ ngáo ngáo, ngố ngố ngờ nghệch. Nhìn họ, anh không khỏi nghẹn ngào bàng hoàng xúc động và cảm thấy họ rất đáng thương. Nhìn thấy đồng bào di tản đông đúc ngược xuôi bần thần như kẻ mất hồn, Luật luôn bồn chồn lo lắng nghĩ tới mẹ, vợ và các con, chẳng biết bây giờ họ ra sao? lưu lạc phương nào rồi! Ngày đêm Luật vẫn cầu nguyện cho gia đình mình, và cả những người đang chạy loạn được an toàn.

              Anh chưa biết mò mò đi đâu, và không tri thức giữa những nấm mồ xanh đắp sơ sài tươi màu đất chưa mọc cỏ non. Màn đêm tiếp nối bóng tối và đồng lỏa với mọi tội ác. Đã thế, đêm đêm từng đàn chó hoang ốm đói tong teo gầm gừ cắn xé nhau, tranh giành xương cốt, thi thể thối nát của người di tản nào đó, chúng nhai ngấu nghiến. Luật nghe tiếng kêu rào rạo từ mấy thây ma cứng đơ thum thủm. Bầy chó nhe răng tru hú lên từng hồi hoang dại, dã man, Luật cảm thấy rợn tóc gáy khi đối mặt với tận cùng bi thiết thảm sầu, cay cực. Chiến tranh tàn ác đã lột da con người vô cùng trần trụi, thô thiển đến tận xương tủy. Và, những vết thương hoác miệng từ dĩ vãng, hiện tại, có thể trong tương lai… đã để lại trong lòng Luật những vết thương mãi nóng sốt sôi bỏng, bừng bừng nhói buốt rung lên từng cơn quặn lòng, đau khủng khiếp.

              Luật đang nằm thẳng đơ mất hết ý niệm về không gian lẫn thời gian bên mấy xác chết, quả thật bây giờ trông mình vô cảm vô hồn thiệt giống những xác chết. Giữa lúc khốn đốn đau buồn chán nãn và tuyệt vọng nhất, Luật nghe có tiếng người ngồi trong bóng tối rù rì gì đó, có lẽ họ ở đâu vừa mới đến đây thôi. Luật hé mở mắt ra nhìn quanh, thì nghe họ nói với nhau:
              - Hai đứa mình vô trong Tiểu Khu, may ra còn có xe chạy về Nha Trang chăng.?
              - Ông ơi! biết đâu ngoải cũng bị mất rồi.
              - Còn nước còn tát, chưa đi làm sao biết.
              - Nhưng ra Nha Trang... có phải là mình lại đi xa hơn... nữa à?
              - Làm sao bây giờ! Phải đi ra hướng ấy thôi.
              - Ông điên à? từ Phan Thiết về Sài Gòn gần hơn.
              - Không nghe hồi nãy dân họ nói hướng đi Long Khánh tiêu rồi sao!?
              Hai người đó im lặng một lúc, có tiếng nói tiếp:
              - Vậy nên đi Nha Trang, dù sao ở đó cũng có tàu, thuyền, hoặc máy bay. Tôi có bà con ở đó.
              Luật vui mừng như đã gặp đồng hương, anh ngồi bật dậy:
              - Anh bạn nói phải.

              Hai người đàn ông kia sửng sốt giật mình, toan đứng lên vùng chạy, vì họ nghĩ Luật cũng là một xác chết cứng đơ, hoặc ít ra là một người lạ, có thể là "dân cướp cạn" cũng nên. Luật bò bò qua bên kia góc tối trong căn nhà hoang, thì ra anh nhận diện được một người quen sơ giao trong lúc đoàn quân Đà Lạt triệt thoát. Thế là ba người đàn ông chạy vô Tiểu khu, cũng may họ xin đi ké xe GMC ra Nha Trang.

              Tới Nha Trang, trước tiên Luật ghé qua nhà Oanh, thì anh rất vui mừng được biết mẹ, vợ con mình đã an toàn lên máy bay vô Sài Gòn rồi. Luật hỏi tại sao Oanh và gia đình không di tản? Oanh đã trả lời giống y như nàng đã nói với bạn. "Không thể đi đâu hết vì ở nhà còn ông bà ngoại già hơn 90t, còn cha mẹ và... không biết bỏ nhà cửa mà đi đâu!" Oanh gói cho Luật một bịch xôi đậu xanh, Luật e ngại cầm mà bùi ngùi bỏ trong túi xách nhỏ. Hai ông bạn mới quen đứng bên góc đường Hồng Bàng chờ Luật trong giây lát.

              Thấy nhau rồi, họ đi từ nhà Oanh ra mé biển chưa đầy năm phút. Thành phố Nha Trang càng đông người kinh khủng. Quan sát khắp nơi, biết tình trạng nầy nếu chờ tàu lớn, hoặc máy bay quân sự hay dân sự gì cũng không xong, nên họ bàn tính với nhau hồi lâu, rồi quyết định thuê ghe buôn của thường dân đi vô Vũng Tàu, cho chắc ăn. Ba người đi rảo quanh bãi biển Nha Trang tìm thêm người có thể chung nhau tiền lộ phí. Sau đó họ ra xóm Bóng và mướn ghe đánh cá nhỏ, ghe nầy đang chuẩn bị chuyển hàng về Bà Rịa hôm nay. Đi Bà Rịa cũng tốt, miễn sao về gần thủ đô là mừng. Đúng là may mắn!

              Mặc cả giá tiền cho tám người đàn ông cũ và mới chung chuyến đi, ai nấy tự động móc tiền túi ra đóng cho chủ ghe xong xuôi, họ mừng rỡ lên ghe. Sợ chủ ghe ra đi bất ngờ, nên không có ai kịp mua gì phòng hờ, may mà có bọc xôi đậu xanh chắm muối mè Oanh đưa cho Luật, anh lấy ra chia cho tám người đồng hành, mỗi người chỉ nhón một ít xôi cỡ bằng trái chanh mà e dè ăn ngấu nghiến. Họ còn đói, (nhất là Luật đã chưa có hột cơm nào từ hơn hai ngày qua) và khát kinh khủng, nhưng tám người bó tay chịu trận. Trên ghe bây giờ cộng thêm ba người cha con chủ ghe ấy, thì có tất cả mười một người đàn ông. Khi ghe đã êm ái bình an ra khỏi cửa biển Nha Trang, và lướt xuôi về hướng Phan Rí cửa, qua Hàm Thuận Bắc, Bình Lâm rồi tới gần Mũi Né khoảng 20 hải lý, thì chủ ghe dỡ chứng trở quẻ, ông ta viện cớ:
              - Tui sợ ngoải cũng lộn xộn, chẳng ai mua hàng, tui muốn quay ghe về Nha Trang.
              Mọi người chưng hửng! Đức, người đi trong nhóm Luật nói:
              - Ông giỡn chơi à! Ông muốn gì?... Nói.
              - Tui không đủ xăng chạy tới bển.
              Tâm cười gằn:
              - Ông muốn chúng tôi đóng thêm tiền, để ông mua thêm xăng chớ gì?
              - Phải.

              Mấy người đàn ông thuê bao ghe nhìn nhau, rất bực tức nhưng "đã lỡ đò rồi"... nên họ hí húi móc tiền ra, kẻ nhiều người ít, gom tất cả thêm 95.000 ngàn đồng nữa, nộp cho chủ ghe. Thế mà tên nầy vẫn không chịu. Bình (là người quen đã đi chung với Luật từ Đà Lạt) định móc thêm tiền ở túi kia, để "dâng" cho tên chủ ghe. Nhưng Luật ngăn lại, thì thầm:
              - Anh điên à. Từ đây đến Sài Gòn... còn nhiều đoạn phải chi trả. Để đó.

              Luật lột đồng hồ Omega và chiếc nhẫn cưới ở trên tay ra, để xuống sàn, anh móc củ súng colt 45 đeo ở nách ra, cầm lên:
              - Chúng tôi mặc cả sòng phẳng và rõ ràng với anh trước khi lên ghe rồi. Chúng tôi đã hào phóng tặng thêm cho anh rất nhiều, nhiều tiền hơn số tiền mà anh đã định giá. Từng ấy... anh chưa hài lòng sao? Thế thì, bây giờ anh có muốn nhận thêm đồng hồ, chiếc nhẫn cưới của tôi. Hay là anh thích nhận khẩu súng lục nầy, mới hả dạ. Hở?

              Tất nhiên... tên "cướp cạn" kia không thể ngờ là trong người Luật còn có "củ súng chết người" đang bị cái áo lạnh che phủ bên ngoài. Hắn lại nhìn lom lom sợi dây chuyền hai lượng vàng y chói lói lấp lánh ánh mặt trời rọi lại, nó đang lung linh lủng lẳng trên ngực trần của Luật, mà thèm... ứa nước miếng.
              Thanh nói như hét:
              - Ông là một thằng hèn hạ, không có tình đồng loại, bộ ông muốn chết tiệt vì hám của hả!

              Hắn xanh mặt cúi đầu chẳng dám trấn lột thêm tiền, mà liếc liếc, riu ríu len lén run run lượm cái đồng hồ, theo lệnh của Luật:
              - Anh phải cầm lấy cái đồng hồ của tôi, giữ làm kỷ niệm, mà nhớ đời. Nha.

              * * *

              Tình Hoài Hương
              Last edited by Tinh Hoai Huong; 04-19-2017, 05:17 AM.
              Bút trần nào tả được lưu luyến!
              Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
              Tình Hoài Hương

              Comment


              • Niềm Đau Tình... Đời



                Niềm Đau Tình... Đời


                Thứ Năm, ngày 19 - 4 -1975.- Trên con đường hẽm hầm hập nóng và bẩn thỉu, bước tới đụng người bước lui đụng người chen lấn nhau, vì ngay ngoài hiên nhà nầy là chỗ người khác xin ngồi nhờ, bán mua ồn ào náo nhiệt sát chợ Nghĩa Hoà. Bà cháu mẹ con tôi đùm túm dắt díu nhau trụt xuống hai chiếc xích lô rẽ vô nhà anh chị Tạo (anh cùng cha khác mẹ của chồng tôi). Mọi người ở trong nhà sửng sốt, nhốn nháo giây lát, rồi họ hét lên, ríu rít mừng rỡ chào đón chúng tôi. Chuyện trò xôn xao hỏi han nhau đủ mọi thứ nghe rôm rã. Phút chốc buổi cơm chiều đơn sơ dọn ra.

                Nhà anh chị Tạo chật như nêm, căn nhà rất tối tăm, lụp xụp, chen chân không lọt trong một chu vi quá hẹp: 3m x 8m, ngoài trời đã nóng trong nhà càng nóng hầm hập, quá khó chịu. Bếp sát bên một cầu tiêu nhỏ xíu đang bị nghẹt ứ cứt đái trôi lềnh bềnh, xông lên mùi hôi kinh khủng. Trong nhà, vợ chồng con cái họ đã là mười hai người. Cộng thêm bảy người em họ là chú Hồng di tản từ Ba Mê Thuột về đây cả tuần. Nay có thêm sáu người chúng tôi về tá túc nữa. Thật đông hết biết. Chúng tôi trải chiếu nằm xếp lớp bên nhau ngổn ngang như cá mòi trên gác xép tối om, thấp lè tè nóng như trong lò lửa. Anh Tạo chia cho bà nội ngủ với chị Tạo ở nhà dưới.

                Ngay hôm sau gửi cháu cho bà nội trông coi, tôi đi xe bus xuống đường Trần Cao Vân vào trình diện Nha Học Chánh. Giờ cao điểm thì có hàng chục ngàn xe đạp, xe Honda… chạy thành giòng không bao giờ dứt, trên những con đường luôn luôn đông như nêm đến công sở, đến trường học, hay tan trường sở. Trên lề đường chen lấn cả ngàn người đi bộ, với kẻ gồng người gánh bán hàng rong, họ lấn chiếm ra lòng lề đường vô số kể người là người! Trình diện tại phòng Giáo-dục, tại đây tôi gặp lại hầu hết bạn bè ở Đà Lạt. Không ngờ họ lanh tay lẹ chân đến trình diện trước tôi cả tháng, họ hay hơn tôi nhiều.

                Tôi làm giấy tờ chờ truy lãnh mấy lương tại chỗ. Thế là, ngày ngày tôi phải đến phòng nhân viên trình diện có mặt, và chờ đợi mọi tin tức cập nhật. Nếu ngày nào tôi không đi trình diện, thì coi như tôi bỏ nhiệm sở và bị sa thải. Tôi làm đơn xin về dạy một trường nào đó gần khu Ông Tạ. Nhưng hầu như không ai có thì giờ để lo cho đám giáo chức lao nhao khổng lồ ùn ùn kéo về Sài Gòn lánh cư nầy cả. Tình hình chung trong cư dân Sài Gòn xét ra rất phức tạp, hỗn độn, rối loạn lắm.

                Mang tiền lương về nhà, tôi liền đưa chị Tạo ba chục ngàn đồng, để đóng góp chung vào tiền chi phí ăn uống. Chúng tôi ở nhà anh chị Tạo chỉ được ba ngày vui vẻ thôi. Mấy đứa con tôi lạ người lạ chỗ, đi ra vấp người đi vô đụng ngưởi, đêm cũng như ngày không biết làm gì, các con cứ đứng quanh quẩn bên bà, liền bị anh Tạo quát mắng la rầy, đuổi chúng đi ra xa bà, không được quấy rầy bà nội. Anh Tạo không biết rằng các con tôi quyến luyến yêu thương bà nội, ưa gần gũi bà nội còn hơn cha mẹ nó. Ở Đà Lạt suốt ngày các cháu chơi đùa với nhau, quanh quẩn bên bà nội, nên họ đuổi chúng đi không cho đứng gần bà nội.

                Đuổi chúng đi! chúng đi đâu bây giờ! ở trong nhà nóng kinh khủng và chật chội, đứng thôi cũng chạm người khác. Đi ra ngoài hiên nắng và nóng, càng không có chỗ chen chân, những thúng mẹc chất đầy hàng hoá và người bán ngồi trên vĩa hè nhà chị. Anh chị không nghĩ đến điều đó ư? Ở nhà anh Tạo con cái tôi cũng không yên thân. Anh ta bắt tôi phải bế bé Tồ đi xe bus đi trình diện ở Nha đông nghẹt người. Nơi đây chỉ có người lớn, đàn ông đàn bà. Tuyệt nhiên không có một đứa trẻ nào có thể giam mình trong những căn phòng chật cứng người to lớn đi lại. Thế nên, tôi bế con đi trình diện Ty được ba ngày. Hôm sau, tôi đành để bé Tồ ở nhà. Hôm ấy từ Nha Học Vụ trở về nhà, đứa lớn chưa đầy 6 tuổi đón tôi ở ngoài đường:

                - Mẹ ơi! Ở nhà bé Tồ đói bụng, em đòi ăn cơm. Bác không cho em ăn. Bác lấy roi mây đánh mấy anh em con. Bác nói:
                - “Tụi bây phải dắt em đi chỗ khác, phải cõng em đi chỗ khác, không được về nhà. Khi nào con mẹ mày về, thì cõng nó về. Nó quấy bà”. Con bị đòn, đau quá mẹ ơi!
                Trời! Chị Tạo có đứa con mười tháng tuổi, chị vẫn bế nó suốt ngày nằm trên võng, mà hễ ngưng đu đưa võng, là nó khóc thét lên, vì nóng đó. Thì sao? Tôi vạch lưng mấy đứa con ra, quả thật có lằn ngang lằn dọc đỏ bầm trên lưng và mông đít con. Tôi hầm hầm về nhà, ôn tồn hỏi bà nội, me đáp:
                - Phải. Me tính xới cơm cho bé Tồ ăn trước, vì nó đói. Nhưng bác la me:
                - “Bà cứ chìu, cho chúng nó hư. Đánh bỏ mẹ chúng nó đi”.

                Tôi nghe mà vuốt giận chịu nhục, tôi có ý muốn cố ở nhờ trong nhà họ, thì tiện cho việc đi trình diện Nha Học Vụ. Tôi biết anh chị Tạo lòng dạ hẹp hòi, ích kỹ, nhỏ mọn, họ ghen ghét mẹ con tôi (vì mẹ ân cần săn sóc thương yêu các con tôi). Dĩ nhiên là bà nội phải thương các cháu nầy, hơn các cháu con của họ, bà sống với chúng tôi bao năm nay có sự quyến luyến yêu thương nhau. Trong khi vợ chồng họ chẳng chăm sóc yêu thương gì bà mẹ ghẻ, họ không ở với mẹ kế ngày nào. Tại sao ganh ghét lạ vậy? Chỉ một chuyện nhỏ nầy: khi thấy tôi ủi áo dài để đi trình diện, thì hôm sau anh chị dấu cất cái bàn ủi trong tủ, khoá lại, sợ hao tốn điện. Tôi hỏi mượn bàn ủi, chị nói:
                - “Xím” ủi xong là phải cất đi. Mất rồi.
                Tôi nhìn mấy đứa con anh chị, là biết ngay chị nói dối. Nhưng chị cứ buộc tội là tôi để bàn ủi hớ hênh, nên mất rồi. Nghĩ thật tức cười! Ủi đồ trên gác xép kín như bưng thế nầy, chỉ có vài cửa sổ nhỏ xíu, có lưới mắc cáo và chấn song sắt bọc ngoài dày cui, trên gác không có cửa lớn ra ngoài, trần nhà lợp tôn. Con chuột lủi vô nhà e còn chưa lọt. Còn tên trộm có muốn ăn cắp, ăn trộm... thì phải vào nhà dưới, rồi nó mới leo lên cái thang dựng đứng đặt sát bên chiếc giường rộng, là nơi chị ta nằm đưa võng, cũng là nơi tụ tập thường xuyên không dưới mười người. Tên ăn trộm có giỏi cỡ nào, có tài thánh gì hoá thân mà bay, cũng không thể lọt qua ba bên bốn bề trong nhà!

                Sau ngày bị vu khống tôi làm mất bàn ủi, thì hôm nào đi trình diện tôi cũng mặc quần áo nhàu nát. Thật xấu hổ cho một giáo chức “chỉnh tề”. Hể tôi đi vắng thì thôi, về nhà là có đủ thứ bực mình: Bác Tạo hết đánh đứa nầy, phạt quỳ đứa nọ, giam đói đứa cháu khác, tôi không ngờ “tình khúc ruột thừa thịt dư” nầy, thua xa gia đình ông bà Niềm, cô Thúy Lan, cô Oanh ngày cũ ở Nha Trang, khiến tôi bực tức không thể nào chịu nỗi. Một buổi trưa trời nóng như thiu đốt, nắng chói chang từ trên xe bus trụt xuống, tôi đã thấy bé Dzũng, bé Huy, bé Tuấn cõng bé Tồ cùng đứng ở trạm xe. Dưới đất, bé Bi đang ăn củ khoai lang còn dính đất. Sợ mất hồn mất vía, sợ các con đi lạc, hay bị bắt cóc, tôi vội chạy tới bế bé Tồ. Mấy đứa con mặt mày lem luốt, đều khóc:
                - Bác Tạo đuổi tụi con đi. Bác nói:
                - “Chúng mày chỉ giống con mẹ mày. Lo cút xéo đi cho rãnh mắt tao”.
                Con đã trả lời:
                - Con thì phải giống cha mẹ.
                Bác Tạo ông liền lấy cái roi da cá đuối treo trên tường, bác quất vào lưng con. Bác nói con dám “trả treo”. Em Tuấn thấy bác đánh con, chạy tới can. Bác cũng quất túi bụi vào em nữa. Hụ hụ hụ...
                Nói xong, hai con lớn oà khóc và vạch lưng, tụt quần xà lõn ra cho tôi xem. Nào lằn ngang, nào lằn dọc từ trên lưng xuống mông, bầm tím hơn lần con bị bác cho ăn roi vọt trước kia. Bác đánh cháu nhỏ còn hơn tra tấn quân thù.
                Tôi hỏi bé Tồ:
                - Tại sao con khóc, để anh bị đòn oan.
                Con chỉ vào bụng và bập bẹ nói:
                - ...ói… b…ụng.

                Tôi giận run và nghĩ: “Yêu nhau yêu cả đường đi. Ghét nhau ghét cả tông ti họ hàng”. Các con quá đói khổ rồi, chẳng lẽ cứ bị khổ sở, đánh đập vô cớ hoài sao. Có lẽ mình nên dời đi chỗ khác sống thì hơn. Tôi ẳm bé Tồ, tay dắt bé Bi về nhà. Các con sợ sệt lẽo đẽo theo sau, len lén núp sau lưng mẹ. Thấy họ, trong lòng tôi tức giận sôi lên. Chẳng thà họ cứ thẳng thắng nói “không cho gia đình tôi ở nhờ”, tôi có lòng tự trọng, sẽ dọn đi ngay. Họ không nên kiếm cớ nầy cớ nọ, mà đánh đập chưởi đuổi chúng tôi đi, làm cái ngữ nầy, ai chịu cho thấu! Tôi đã mất tiền đưa cho họ rộng rãi thoả đáng, ăn ở chưa trót sáu ngày. Chứ có phải chúng tôi ăn chực ở chùa đâu. Chắc họ muốn “vòi” thêm tiền? Họ nghĩ xưa kia gia đình mình nổi tiếng giàu có, mà quả thật trước khi chạy giặc, tôi có xe hơi nhà lầu, hôm nay tôi keo kiệt “trùm sò” không chịu rỉ thêm tiền ra hậu hỉ! Họ đối xử không tốt, quá tệ là đằng khác, thế mà chúng tôi phải mang ơn mang nghĩa.
                Con cháu mới lên ba lên năm, nếu có lầm lỗi, thì bắt nó nằm xuống, răn dạy nhịp nhịp cái roi vô mông, cũng đủ cho chúng sợ mất hồn mất vía rồi. Tôi cám ơn không hết, chớ cần chi phải lấy cái roi loại da cá đuối mà thẳng tay quất cháu bị đòn vọt đau đớn, như đang tra tấn cháu?! Chỉ vì: “chúng mày giống con mẹ mày”. Con không giống cha giống mẹ, chẳng lẽ giống ông bà hàng xóm à?

                Về nhà đặt bé Tồ xuống thềm, tôi nói luôn một hơi:
                - Mấy đứa con em, nếu không đúng, không phải, thì anh chị bắt chúng nó nằm xuống giường mà răn dạy, nếu anh chị dùng bàn tay đánh vài cái vào mông, cũng khiến cháu sợ và đau rồi. Em phục, cám ơn anh chị, không dám nói gì. Nhưng tại sao anh lại lấy cái roi cá đuối quất túi bụi vào lưng, vào cổ cháu vậy? Em hỏi anh: Các cháu có tội gì nặng không, mà anh nỡ lòng hành hạ chúng? Loại roi da cá đuối, nếu ai bị đòn chảy máu, sẽ bị thúi thịt, anh có biết không? Anh chị đánh đập cháu dã man, chỉ vì nó đói, xin ăn cơm. Anh chị coi nè, có được không?

                Tôi lôi hai đứa: bé Dzũng và bé Tuấn tới trước mặt họ, tôi khóc và vạch lưng, vạch mông, hai cánh tay con lên, cho cả nhà xem. Bà nội lúng túng nói:
                - Thằng Tồ đói bụng. Bác mày chưa nấu cơm. Tao bế nó dỗ cháu tị, nó nín í mà.
                Anh Tạo đốp ngay:
                - Bà không việc gì phải thí dỗ cho chúng hư đốn, quen đi. Quấy không ai chịu nỗi. Lúc nào mặt mũi cũng đỏ kè, sãy sài, khóc nhè mãi. Bố ai chịu nỗi sự ồn ào hư đốn, hử!?
                Khi đó, tôi không thể nhịn anh ta, tôi vừa khóc vừa gào lên:
                - “Lời nói không mất tiền mua.
                Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
                Ngoài miệng thì nói nam mô.
                Trong lòng thì chứa ba bồ dao găm
                ”. Một ngày anh biết say sưa ăn ba bữa đàng hoàng với rượu đế, thức nhắm ngon lành. Có ngày nào anh không ăn nhậu hử! Cháu anh đói, đòi ăn, anh cấm không cho cháu ăn. Là sao!? Anh đừng ác ôn... như đối với quân thù vậy nhen.
                - Bà về đây là để bà nghỉ ngơi. Không phải làm gì sớt.
                - Sao anh quá nhỏ mọn vậy? Chẳng lẽ từ xưa đến giờ thấy cháu đói, mà bà không cho cháu ăn. Vã lại, anh chị không nên hẹp hòi vì miếng ăn, tôi đã gởi anh chị tiền cơm nước đàng hoàng, hậu hỉ và đầy đủ. Tôi lầm tưởng mình có bà con ruột thịt, nên về nhà anh chị ở, mong nương tựa lẫn nhau lúc khốn cùng, cho có anh chị, có em, có mẹ có con. Nay anh chị muốn đuổi, thì anh nói. Tôi sẽ đi ngay. Chứ anh chị không được hành hạ các con tôi tàn nhẫn, vô cớ đến thế nha.

                Nói xong tôi chạy đùng đùng rầm rầm leo lên thang gác vơ quần áo của các con, tộng vào túi vải cũ, tôi hầm hầm kéo xềnh xệch ba túi vải xuống thang gác. Tôi dặn mấy đứa con đứng chờ ngoài hè, rồi chạy ra ngoài ngả ba Ông Tạ, gọi chiếc xe ngựa vô hẽm, xe ngựa đậu trước cửa nhà. Tôi chất đồ, các con liền leo lên xe. Tôi nói với bà nội:
                - Me cứ ở đây cho khoẻ. Chúng con phải đi, không thể ở đây, để người ta hành hạ tàn nhẫn cháu bà như thế được.
                Bà nội chưng hửng, ú ớ, ngại ngần, bà không biết tính toán làm sao cho phải phép. Một bên là mẹ ghẻ con chồng, một bên là con dâu cháu nội ruột của bà. Tôi đưa cho bà mười ngàn đồng dằn túi ăn quà vặt. Rồi tôi giận run quay lại, trừng mắt nói với họ, như hét:

                - Anh chị tưởng là: nếu chúng tôi không có anh chị, thì chúng tôi không có chỗ nương thân, sẽ chết bờ, chết bụi hay sao? Anh chị nè, mẹ hôm nay và sắp tới có ở lại đây, thì me cũng không phải ăn bám, ăn chực cơm canh nhờ ở nhà anh chị đâu. Khi tôi có tiền, thì anh anh chị chị em em ngọt xớt. Bây giờ tôi sa cơ lỡ vận, thì anh chị muốn trở mặt dở dóc đủ điều, tệ mạt, khốn nạn hết chỗ nói. Người dưng thật ra còn tốt hơn anh chị. Anh chị cư xử thua kém gia đình bà Niềm xa lạ ở Nha Trang, họ đối với chúng tôi rất tốt. Không tin, anh cứ hỏi me, thì rõ. Phần mẹ, mẹ cứ yêm tâm ở lại nhà nầy ăn uống thoải mái, vì con đã trả tiền cơm cho nhà mình ăn no cả tháng. Anh chị không phải nuôi me nhá. Sau nầy anh chị đừng kể công là: khi tôi ra đi, đã để gánh nặng lại cho nhà anh chị lo.

                Vừa nói, tôi giận dữ móc túi quăng ra thêm nắm tiền vung lên trên giường, ngay dưới chân chị Tạo (chị đang nằm ru con trên võng móc ngang giường). Tôi chỉ ném ít tiền lẻ khoảng hai ba ngàn thôi, chứ ngu gì tôi móc cục tiền lương vay trước ba tháng thật to ra quăng vào mặt họ. Bộ điên mà ném tiền hết, để mẹ con tôi lưu lạc bị chết đói! Cứ chưởi một trận cho đã, rồi từ nhau là vừa. Chính tôi cũng không ngờ tại sao tôi trở nên hung dữ đanh đá như thế! Tính nết tôi bình thường biết giữ thể diện, sợ xấu hổ không mấy khi to tiếng. Nhưng nay đụng chuyện “quá độ”, quá trí khôn rồi, thì tôi cóc cần, cóc sợ ai. Có phải do tôi thấy các con đít bị rỉ máu, lưng sưng húp bầm thâm thì… “máu chảy ruột mềm” chăng? Nếu biết tình nghĩa “bà con lạt hơn nước ốc” như thế nầy, chẳng thà chúng tôi ăn ngủ ở đầu đường xó chợ cho xong, chẳng phiền ai, các con không bị hành hạ khổ sở thế nầy. Mỗi khi tôi thò mặt về nhà nầy, thì tôi nghe đủ thứ chuyện đinh tai nhức óc, muốn điên đầu. Nay, tôi đùng đùng túm đồ đạc dẫn các con ra đi họ ngẩn tò te và im phăng phắc. Có lẽ họ không ngờ là tôi dám làm chuyện động trời như thế. Họ cũng mắc cỡ với hàng xóm láng giềng đang bu lại đông đúc xem tuồng chăng?

                Con ngựa hí vang, nó đứng ngoài trời nắng chang chang, bốn vó nhịp nhàng dậm trên mặt đường kêu lóc cóc. Tôi leo lên xe ngựa, năm mẹ con ra bến xe đi Hóc Môn. Các con tôi hí hửng mừng rỡ reo vui khi lần đầu tiên được ngồi xe ngựa. Cũng như được thoát ra khỏi căn nhà nóng hầm hập, chật chội và nhất là luôn bị bác Tạo của chúng nó trù dập, tra khảo, đánh đòn cháu tươm máu đít, vì những chuyện không nguyên cớ chính xác. Dẫu chúng chưa biết rồi đây miền đất mới sẽ cho chúng ấm no, hay đói lạnh thế nào. Nhưng chúng biết chắc chắn rằng đã thoát ra nơi tột cùng kinh dị, là các con vui mừng rồi.

                Tôi thương các con lắm! Khi mấy mẹ con trụt xuống xe đò Sài Gòn Hốc Môn, thì tôi thấy hai cháu Sơn, Nhân đang đứng chơi ở ngoài ngả ba trại Lam Sơn (Thành ông Năm). Chúng tôi mừng rỡ ôm nhau mà khóc ở ngoài đường. Tại nhà chị Sáu (chị mẹ goá con côi có năm người con: ba đứa con trai lớn đi lính. Hai đứa nhỏ dưới mười lăm tuổi đi học). Trong nhà nầy có gia đình chú Ri (là em ruột chồng chị, gồm mười hai người từ trên Tây Ninh chạy loạn về đây tá túc.

                Nay có thêm sáu người chúng tôi, vị chi trong nhà chị Sáu có tất cả là hai mươi bốn người lớn bé đông đúc, ngày đêm chui ra chui vào ở một căn nhà nho nhỏ của trại gia binh. Tối tối mọi người cùng trải chiếu ra nằm la liệt trên nền xi măng đã lau chùi sạch sẽ, hoặc nằm ra ở ngoài mái hiên mà ngủ. Tôi góp tiền với hai gia đình kia đi chợ nấu ăn chung. Mỗi bữa ăn chia ra làm hai mâm to: Một mâm người lớn. Một mâm trẻ nhỏ đông đúc, nhất là bầy con của chú thím Ri lút chút lít chít nheo nhóc la khóc suốt ngày đêm.

                Mặc dù góp gạo nấu cơm chung, nhưng phần ăn thì họ chia không công bằng. Ví dụ như các con tôi họ xới chén cơm rời rời xôm xốp, nhưng con chú thím Ri thì họ (tự tay thím Ri phân phát) xới chén cơm ém thật chặt xuống đáy chén, ở bên trên họ chêm cho rời rời, và múc nhiều thức ăn cho các con họ thứ nào ngon. Miếng ăn là miếng tồi tàn mà, chấp nhứt làm chi! Tuy biết vậy đầu óc tôi không căng thẳng, mà có phần thảnh thơi được ít ngày. Tôi ăn cơm ngon nhưng luôn mất ngủ, vì kể từ khi rời Đà Lạt di tản đến nay, tôi sống trong cảnh màn trời chiếu đất, nằm lăn lóc ở bụi bờ, không giường nệm êm mền ấm như ở Đà Lạt. Vì thế, khi đặt lưng xuống chiếu là toàn thân đau nhức rần rần. Những đau khổ kể trên, khiến cho tôi nhớ lại thuở còn ở Đà lạt... mà khóc ròng! Mỗi ngày tôi bế con ra ngoài ngả ba Lam-Sơn Hóc-Môn, thì thấy xe GMC từ ngả Trảng Bàng– Tây Ninh chở binh lính đầy nhóc trên xe, xe nườm nượp chạy đi chạy về trên quốc lộ nầy tấp nập. Thỉnh thoảng súng lớn đạn nhỏ từ trong Thành Ông Năm câu đi đâu đó uỳnh uỳnh uỳnh… làm rung động cả góc trời.

                Tôi ở nhà nầy một tuần, thì Luật ở Đà Lạt đã chạy thoát về Sài Gòn, ở nhà anh Tạo hai hôm Luật mới đến nhà chị Sáu, mặt anh hầm hầm coi hung dữ như muốn ăn tươi nuốt sống tôi. Dĩ nhiên Luật ghé nhà anh chị Tạo ở Sài Gòn trước, và anh đã nghe họ “tả oán” về mẹ con tôi đủ thứ chuyện xấu, (người ta nói sau lưng mình, dĩ nhiên mình xấu, họ tốt; trước khi Luật nghe vợ con phân bày phải trái). Luật là người đàn ông độc đoán, gia trưởng, kẻ cả, ít khi anh lắng nghe điều hay lẽ phải, anh không nhìn các dữ kiện, mà chỉ nhìn sự kiện đã xảy ra, rồi vội vàng kết luận. Tôi vừa mừng rỡ vừa sợ. Phải! Thú thật là tôi rất sợ chồng. Luật có “cái uy” để anh “trị” tôi. Luật tức giận ngồi phịch xuống sofa, anh nói như hét trước mặt mẹ con chị Sáu, gia đình chú Ri, và mẹ con tôi. Anh khóc hụ hụ:

                - Em tưởng là tôi bị kẹt lại Đà Lạt, thì tôi không thể thoát đi được, hay tôi đã chết rồi. Em làm kẻ tình lờ không bao giờ gặp lại tôi hay sao!? Nên em lo từ bỏ họ hàng của tôi cho sớm. Hử?

                Thím Ri tỏ vẻ khoái chí, lết đít xích lại gần Luật để nghe rõ cho biết chuyện riêng tư. Đại loại là thím tưởng giữa tôi và Luật có “sứt mẻ” vợ chồng gì đó. Thím là hạng đàn bà ưa tò le mách lẽo, tọc mạch tò mò nghe ngóng chuyện người khác, ưa đưa chuyện. Chị Sáu thì chưng hửng, ngạc nhiên không hiểu chuyện gì xảy ra. Nhưng chị tôi ôn tồn, khéo léo an ủi vỗ về Luật:
                Cây khô nghe sấm nứt chồi.
                Đạo chồng nghĩa vợ giận rồi lại thương.
                Cãi nhau là chuyện bình thường.
                Cãi xong tâm sự trên giường cả đêm.
                (cd)
                _ * ** _

                Khi bình tĩnh đôi chút, Luật từ tốn kể lại chuyện anh chạy nạn từ Đà Lạt về Cam Ranh, Nha Trang, anh đi bộ nhiều ngày rất khổ sở điêu đứng gian truân không tả xiết vô Sài Gòn, những điều rùng rợn không sao tả hết vào giờ phút cuối. Ở lại nhà chị Sáu hai ngày, sau đó Luật thu xếp cho vợ con lên Sài Gòn. Chúng tôi đến ăn ở tạm tại nhà dân biểu Tony Tẻh. Bởi Luật thường đi công tác với ông bà dân biểu Thượng-Viện, Hạ-viện, Nghị-viên, Luật về hội họp.

                Nói chung, Luật chí tình nhiệt tâm với bạn, không quản ngại bỏ tiền túi ra, bao cho bạn đến bến đến bờ. Nhất là Luật đã chu toàn, ráo riết lo vận động cho anh bạn thiểu số Toneh Tẻh đắc cử dân biểu vào quốc hội, làm tôi mệt lắm. Trong thời gian Toneh Tẻh vận động tranh cử, tôi luôn “hầu bạn” cơm ngon canh ngọt, cá tươi chiên dòn, thịt heo kho trứng vịt, thịt bò lúc lắc, bún bò giò heo, bánh xèo, phá lấu, xôi thập cẩm tự nấu, vân vân... Các thức ăn để trên bàn có lồng bàn đậy kín hẳn hoi, (hoặc chờ họ về mới hâm nóng). Mẹ con tôi ăn cơm trước, họ không bị mẹ con nheo nhóc nầy quậy phá ồn ào. Khi nào “hai ba bốn ông tướng” ấy về, thì họ vui vẻ ung dung rỉ rả ăn uống no say, nói chuyện thời sự, chuyện chiến tranh, chuyện thế giới, kể cả chuyện tiếu lâm.

                Đôi khi Tẻh ở dưới quê tại Đơn Dương bất ngờ vào nhà tôi nghỉ ngủ. Dù sớm hay muộn, thế mà tôi phải bò dậy ra vườn rượt bắt con gà, (con vịt), vô bếp cắt cổ, mổ bụng con gà (hoặc con vịt), làm thức ăn hầu tiếp bạn của Luật, tôi lo cho bạn vài năm như thế. Gia đình Tẻh nghèo lắm, không thể có tiền đi vận động đây đó xã giao. Thế là Luật đứng ra làm đầu tàu (trong một nhóm bạn thân nhiệt tình lo cho Tẻh đầy đủ hết biết). Họ lo cho cá nhân Tẻh lên danh phận có chức có quyền đã đành.

                Ấy thế mà cả gia đình vợ con (đông đúc những mười bốn mạng) của Tẻh, thì nhóm Luật xoay xở đi xin tiền các nhà hảo tâm, ân nhân, xin ở trại cưa, chủ đồn điền… đâu đó, hầu cung ứng cho gia đình Tẻh mỗi tháng. Tẻh hứa hẹn chắc chắn khi đắc cử thì anh sẽ… “chu đáo lo cho dân”. Nhiều tháng qua nhóm người nầy (Luật, Ngọc, Minh, Trí, Cương, Tâm), không đi xin ai được, họ cùng nhau ứng tiền túi ra đưa cho Tẻh. Rồi như “thông lệ” cứ đến tháng thì bà vợ của Tẻh đến nhà tôi lấy tiền. Bà chị nói:

                - Chị ui! Ông Tẻh ra đi, có nói tui đến nhờ bà chị giúp tiền mua cơm gạo. Nhà tui hết sạch mọi thứ rồi.
                Ông bà Tẻh làm y như tôi là ngân khố, kho gạo, vựa lúa, tôi có bổn-phận-sự, trách-nhiệm-vụ lo cho gia đình họ ấm no!? Nói với chị Tẻh thiểu số nầy hoài, thật mệt. Vì chị ngu ngơ dấm dớ mà khôn vặt không chịu thông cảm, chị cứ đứng ù lì… ù ù cạc cạc ranh ma, ì thộn ra đứng chần dần cả buổi trước cửa, chị không dám hay không chịu vô nhà. Nói nào ngay nhà tôi “nom rất bề thế” ở mặt tiền đường Đoàn Thị Điểm ba tầng lầu đúc bê tông cốt sắt, nền láng gạch bông bóng lưỡng, đầy đủ tiện nghi, rộng 5m sâu (dài) 45m phủ bì, còn dư 10m cho sân sau rợp bóng cây. Chị Tẻh cứ đứng hoài đứng hủy chờ đến khi nào tôi văng tiền, văng gạo (hoặc văng “cái nhu cầu của chị”) ra, thì chị mới chịu đi.

                Lối xóm người quen đi qua nhà tôi, họ ưa thắc mắc cứ tưởng tôi mắc nợ ù lì không chịu trả cho bà ta. Thật là mất mặt của “nợ oan gia” ngàn kiếp vì Luật mê bạn hơn mê vợ con. Chị Tẻh chả hiểu rằng “anh chị Tẻh” đối với riêng tôi không là cái đinh, cái thá gì. Vậy mà, tôi phải cắn môi bặm miệng nghiến răng trèo trẹo để “giao hảo” vì danh dự và “lệnh lạc” của đức ông chồng quá hảo tâm! Có nhiều lần, Luật về nhà nói tôi đưa tiền cho Tẻh “mượn”, để anh ta đi lo công chuyện: áp phe áp phẩy chi chi đó. Vài ba lần đầu, tôi bấm bụng lấy tiền lương của gia đình trích ra đưa cho Tẻh mượn. Nhưng hôm nay, tôi biết là trong tủ chỉ còn đủ tiền đi chợ nửa tháng. Nếu đưa cho Tẻh mượn nữa, thì có lẽ nhà mình nhịn đói vào tuần cuối tháng mất (đưa cho Tẻh mượn hoài, coi như chả bao giờ ảnh nhớ trả nợ)̣. Tôi làu bàu:
                - Làm như nhà mình là kho bạc, hay có tiền núi sao?
                Tôi không chịu xì tiền ra, thì Luật cự nự, mắng nhiếc tôi:
                -“Lên chùa thấy bụt muốn tu.
                Về nhà ngó vợ muốn xù em ngay.
                Bấy lâu vắng mặt khát khao.
                Bây giờ thấy mặt muốn cào mặt ra
                ” (1)

                - Người gì mà ngu lạ, chỉ biết tham tiền, phải thả con tép mới câu được con tôm hùm. Em có tiền là mờ mắt, chả biết giúp người hoạn nạn lâm nguy.
                Úi cha! trong lòng tôi ức lắm, giận sôi lên. Tôi đi dạy về mệt đừ, vì lo làm cơm và giặt quần áo dưới bếp, nghe anh nói mà hai tai lùng bùng, mắt tóe lửa, giận run. Bỗng dưng ở đâu Luật vất vả mời, rước, cõng, tha “cái nợ đời bạn với bè” về nhà nầy! Đã một thời tôi khốn đốn bơ phờ vì anh Trí mượn tiền của mình ở Cam Ranh, đến nay coi như xù độ rồi. Luật chưa tởn mà, anh vẫn bận tâm vì bạn, làm điêu đứng vợ con quá sá vậy hổng biết!? Tôi chưa kịp phản ứng, thì Luật nhảy tót một lần hai bậc cấp lên lầu, vào phòng ngủ, anh móc túi quần lấy chìa khoá mở tủ rột rột, Luật gom tiền và hầm hầm đùng đùng bỏ đi một nước. Bạn là trên hết, bạn là số một của đời Luật mà.

                Tôi đứng dậy vội lau khô tay, lật đật leo lên cầu thang, chạy vô phòng, mở tủ ra kiểm: trong tủ vòng vàng xuyến nhẫn còn nguyên, duy chỉ còn vài ngàn đồng thì có thấm vào đâu so với nửa tháng chợ!? (không kể nếu có những bất trắc, ốm đau, thuốc men, mua sữa cho các con, hay những chi tiêu vặt cần trong gia đình, thì đào đâu ra đây hở trời!?). Tôi khổ hết biết, tức quá tôi đập tay xuống nệm bộp bộp, nằm úp mặt xuống gối, gào lên và bật khóc hù hụ.

                Luật vẫn luôn vô tình đến cái độ ấy: “Ai lo mặc ai. Ráng mà xoay xở. Ai chết mặc ai. Tiền nầy tao đem cho bạn bỏ túi”. Thật tình là tháng đó mình ên tôi vắt giò lên cổ chạy ngược chạy xuôi, chạy đi mượn tiền cô bạn, mượn anh chị Tư, để bù đắp vào khoảng tiền Luật đã “xoáy” cho bằng được, mà đem đi cho bạn gây dựng sự nghiệp! Tức cành hông, điên tiết. Ấy thế mà tôi không đành “tình vờ bỏ anh”. Vì sao!?:
                Dao phay kề cổ, máu đổ không màng.
                Chết thì chịu chết, buông chàng không buông.
                Phòng loan trải chiếu rộng thình.
                Lăn qua đụng cái gối tưởng bạn mình, anh ơi!
                (cd)

                Nhất là Luật nhiều lần ngọt ngào, đằm thắm nỉ non ngâm những câu thơ trữ tình (vã chăng do tôi mê thơ, mê đàn, mê anh đánh đàn, mê anh hát, và anh đánh trúng yếu điểm tim đen vợ) từ hồi trẻ dại anh theo bén gót chân tôi, bám riết không hề “xa” nửa bước:

                Cho tôi hỏi đàn bà là chi rứa?
                Là những gì rung động trái tim ta.
                Làm cho ta cảm thấy nổi da gà.
                Là gặp gỡ, xốn xang, là tiếng sét...

                Là hợp “gu” vì cùng chung tính nết (!?)
                Là âm thầm nhung nhớ lúc chia xa.
                Là nụ hôn. Ôi rợn cả thịt da.
                Là ẻo lả vòng tay nhưng rất chắc.
                (2)

                Hoặc có nhiều khi Luật đã âu yếm ôm tôi vào lòng hun hít hú hí, khiến tôi “khoái”:
                Tôi xa mình ông trời nắng tôi nói mưa.
                Canh ba tôi nói sáng, giữa trưa tôi nói chiều.
                Trời xanh bông trắng nhụy huỳnh.
                Đội ơn bà ngoại đẻ má, má đẻ mình... dễ thương
                (cd). Vậy nên tôi đã "trút hết" vì chồng!

                Khi Toneh Tẻh đã thành công trên con đường danh vọng rồi, thì anh ta không nhớ những ngày cơ hàn cũ, chẳng nhớ về bạn xưa gì ráo. Tẻh có những “cái ngu lỏi đời đáng sợ” là không nhớ ai đã nhiệt tâm trong những cuộc vận động ráo riết ấy, do ân nhân, thân nhân âm thầm ưu ái đóng góp sức lực, tiền bạc giúp anh? Những người đã hy sinh hạnh phúc, gia đình và có thể nói là cả tính mạng nữa.

                Tẻh quên hết chuyện nợ nần gia đình vợ con ở Đà Lạt, mặc ai lo gì thì lo. Ra sao thì ra. Tới đâu thì tới. Tony Tẻh ở Sài Gòn làm dân biểu mới chỉ bốn năm tháng đầu, Tẻh đã “quơ” ngay một cô “Ba Tàu tình hờ”, dẫu sao thì cô nầy cũng trắng da dài tóc, mập ú nà ú nần, mắt híp, tươi tắn trẻ trung; (hơn bà vợ Thượng già đen dòn quê mùa cũ mèm của Tẻh). Trong bữa ăn đầu tiên ở nhà hàng Nhất Dạ Đế Vương, Tẻh đã chọc ghẹo nàng tiếp viên:
                Trúc xinh trúc mọc đầu đình.
                Em xinh em hút thuốc lào cũng xinh.
                Nếu mà không lấy đặng em
                Anh về đóng cửa cài rèm đi tu
                (1)
                Nàng đi học trường Tàu đã đành, lại biết đọc biết viết tiếng Việt kha khá, liền đối đáp:
                Tu đâu cho em tu cùng.
                May ra thành Phật thờ chung một chùa.
                Phải chi cắt ruột đừng đau.
                Để em cắt ruột em trao anh mang về
                (1)

                Tuyệt vú mèo chưa! mây mưa nước nôi “hữu duyên thiên lý tương năng ngộ” nhỉ! Thế là Tẻh mê em tít thò lò, mê em híp mắt, si mê “ẻm” ngay từ “thuở ban đầu lưu luyến ấy”. Tẻh thèm “ẻm tình hờ” quá cỡ thợ rèn. Cá đã cắn câu do mấy anh xì thẩu cố gài độ,̣ muốn câu móc anh chàng xứ núi già còn “dại gái” tòn ten tỏn tẻn với cô ả ỏn ẻn, ngỏ hầu bọn tài phiệt dễ bề móc nối, xí xa xí xô “làm ăn chuyện lớn” ở nhiều mặt thiết thực khác.

                Tẻh híp mắt với danh vọng, lạm dụng tình thân, an nhàn sung sướng riêng bản thân, anh về quê xây một căn nhà đồ sộ, mua nhiều hecta đất, mua đàn bò, và mua một căn nhà gạch xây sang trọng ở cuối đường Hoàng Diệu. Ở Sài Gòn Tẻh mua sắm cho bà bé nầy không thiếu thứ gì sang trọng trong một ngôi nhà thuê bao rộng rãi tiện nghi tại Hoà Hưng. Đầy đủ. Trọn vẹn, Tẻh càng vinh thân phì da sung sướng tê người. Bà vợ bé của Tẻh béo ơi là béo phì, còn trẻ, nói tiếng Việt trọ trẹ, nhưng hiểu nhiều, nói nhiều nói luôn mồm nghe thật tức cười. Hạnh phúc ào ào trút xuống lưng, trút xuống vai anh ta:
                Trẻ em thường thích ở trần.
                Nhưng mà người lớn muôn phần thích hơn.
                Nhớ hôm bụi chuối sau hè.
                Giỡn chơi chút xíu ai dè có con.
                (2)

                Năm sau “con đĩ Ba Chệt*” (từ nầy là do bà vợ lớn của Tẻh dám trịch thượng ám chỉ bà nhỏ kia thôi. Còn tôi... có đánh chết tôi, tôi chả dám nào), đã “sản xuất” cho anh ta một con bé ngo ngoe bụ bẫm. Trong khi chúng tôi muốn khuynh gia bại sản. Mỗi lần nghe tin Tẻh về quê, Ngọc, Luật lái xe jeep đến nhà. Tẻh tiếp bạn nhạt nhẽo, gượng gạo, lãnh đạm, ú ớ ù ơ, lầm lì. Nhiều khi Tẻh né tránh không giáp mặt. Người gì mà quá đổi tệ bạc vô ơn đến thế không biết. Hầu như chuyện nợ nần, đền ơn đáp nghĩa những ân nhân, thân nhân Tẻh coi như pha.

                Chức phận của Tẻh chỉ là hư danh, thực tế Tẻh chưa giúp ích thiết thực cho cư dân ở Tỉnh nầy và cho đời (nói chung), và anh chả trả nợ ân tình và nợ bạc tiền cho nhóm tôi. Tôi quên nói là sau khi “Tẻh hiền lành” (trên vài khía cạnh nào đó) với tư cách là đồng viên ở pháp nhiệm I và II đắc cử dân biểu, thì bao nhiêu lời hứa hẹn, (nợ nần tiền bạc xưa của Tẻn chưa trả cho tôi), đều bay theo bà vợ bé nầy. Gia đình tôi và các bạn đã gieo lúa trên đá rồi.

                Tại nơi nhà Tẻh ở Hòa Hưng hôm nay vừa có thêm gia đình bà vợ lớn và năm đứa con Tẻh gùi những cái gùi to lớn đến lánh nạn. Mỗi buổi sáng bà bé ngủ dậy sau chín giờ, bà ta ẳm con nhỏ hơn một tuổi, (và có cái bụng bầu năm tháng nữa) đi chợ xong, bà bé về nhà quăng giỏ xách cái bạch xuống nền gạch, giống như bố thí.

                Thì tôi và bà vợ lớn của Tẻn lo xúm lại nấu nấu, xào xào, chiên chiên vài món ăn. Rồi hai gia đình chúng tôi xúm xít ngồi ăn với nhau. Bà bé không hề ăn, bà chỉ ngồi trên võng ôm con đong đưa, và nhìn ngó chúng tôi chằm chằm, mà nói nói nói... Ăn uống đạm bạc như thế, khiến bà vợ lớn tức giận. Hầm hầm mặt, bà nói nhỏ với tôi:
                - “Ớt nào mà ớt chẳng cay. Gái nào mà gái chẳng hay ghen chồng”. Con đĩ Ba Chệt*” nầy đã cướp chồng tôi. Nó cướp hết tiền của trong gia đình tôi. Vậy mà nó cho cả nhà mình ăn uống tầm thường hí. Trong khi ngày ngày nó đi chợ ăn quà, chiều chiều nó đợi ổng về, là nó tót đít đu lên sau xe honda, ôm siết, bu ổng như đỉa, bắt ổng chở đi ăn tiệm sang hà, không phải à, nè:
                Bồ hay mơ mộng mông lung.
                Vợ rất thực tế vô cùng đáng yêu.
                Bồ luôn đòi hỏi đủ điều.
                Vợ lo cơm sáng cơm chiều quanh năm.

                Bồ chỉ lo chuyện ăn nằm.
                Vợ thường chịu đựng cả năm mới tài.
                Bồ nào nghĩ đến tương lai.
                Vợ lo tính toán chuyện dài mai sau.
                (2)

                Tôi khuyên can hoài, năn nỉ mong bà có thể hòa thuận đôi đàng thân ái xí, nên bà lớn chưa nổi sùng, nguôi ngoa nhẫn nhịn đôi chút. Nhưng tối tối, khi “hai ông già bà trẻ phong lưu” hú hí du dương đi ăn cơm tiệm về, thì ông Tẻh ỏn ẻn chào hỏi bà lớn xí, nói lí nhí vài ba câu tiếng Thượng xã giao qua loa lạt lẽo. Rồi ông lật đật lẽn vô phòng bà bé, khóa chặt cửa và ở riết, cho đến sáng hôm sau ông vội vàng ra đi. Chỉ vì ông trót:
                - “Trồng trầu thì phải khai mương.
                Làm trai nhiều vợ biết thương vợ nào
                ”? (2)

                Điều kém tế nhị, trắng trợn và không biết cách xử trí nầy, khiến vợ lớn cáu tiết, bà nỗi cơn ghen bốc lửa tam bành lục tặc, không thể ngậm câm nhìn cảnh chướng tai gai mắt, cố làm ngơ hoài, nổi sùng lên bà tức giận không thể tả, vợ Thượng ngồi chờ sẵn ở phòng khách, (nơi gia đình bà lớn đang trải manh chiếu ra sàn gạch, để ngủ mỗi đêm, cạnh ngoài cửa phòng ngủ của họ, thiệt là không công bằng!).

                Khi hai anh chị “Thượng-thư và Tàu ú nù đĩ-ba-chệt*” (*bà vợ lớn vẫn trịch thượng thẳng thừng ù ơ như thế, có lẽ không chua ngoa lắm hì) ung dung vui vẻ trở về sau buổi ăn cơm ngon lành ngoài tiệm. Bà bé vừa bế con nhỏ tọt vào phòng ngủ, thì bà lớn không thể nín câm nữa, bà túm ngay cổ áo đức ông chồng, khiến ông lớn bị bất ngờ, chao đảo chới với tay chân. Bà lôi giật ông xềnh xệch quay ngược ra phòng khách, bà lớn trợn trừng tráo trưng, nghiến răng chưởi chồng một tràng dài, như bắn súng đại liên thanh bằng tiếng Thượng pha tiếng Việt, lẫn tiếng Tây, chêm chút chút tiếng Anh. (bà có học ở trường Domain De Maria đàng hoàng, ngu sao bà không xổ cả chùm... nho ra, cho con nhỏ kia nể sợ mà khiếp vía, hì).

                - Nè ông Tẻh đừng tưởng bở nhá, tuy tui là người Thượng, nhưng theo học trường đạo do soeur đầm Tây dạy đàng hoàng. Tui biết ông chê tui già, quê mùa, xấu xí, có thể không xứng với một dân biểu, (tui rành ba bốn ngôn ngữ mà ông chê, là lầm đấy)! Ông sinh ra ở chế độ mẫu hệ, mà có cái tội tày trời là ngang nhiên “tự tiện” dấu nhẹm tui con mụ kia, con riêng, và giờ đây “con đĩ” mang thêm một cái bầu bốn tháng. Úi Trời! đầu năm một đứa, cuối năm một đứa:
                Trứng rồng lại nở ra rồng.
                Liu điu lại nở ra dòng liu điu”
                (cd). “Đồng vợ đồng chồng, con đông mệt quá”! Chẳng lẽ tui để cho ông mang tiếng sở khanh quất ngựa truy phong:
                Yêu em mấy núi cũng trèo.
                Đến khi em chửa mấy đèo anh cũng dông
                ” sao cho đành! Ha!

                Ông lớn đứng như trời trồng cúi đầu im lặng chịu trận làm tình vờ! Thôi thì... ráng nhịn nhục ngoảnh mặt làm kẻ tình lờ. Bà lớn thấy thế cũng nén giận. Nếu bà biết trước hoàn cảnh éo le và “nghịch đồ” như thế, bà lớn sẽ nằm lì tại Đà Lạt, không thèm vô ở cái nhà đầy dẫy chuyện buồn, xáo trộn đủ thứ kỷ cương, không có “tôn ti trật tự phân giai cấp lớn bé” chi cả. Bây giờ bà lớn nằn nặc đòi ông lớn một hai là:

                - Tui nói cho ông Tẻh biết, ông phải đưa ngay tiền của, đưa hết tiền bạc vòng vàng xuyến nhẫn tay hòm chìa khóa ra, để tui quán xuyến. Người ta nói: “có tiền mua tiên cũng đặng”, thì nhằm nhò gì chuyện ông Tẻh có con qủy cái ú nần lùn xủn mắt ti hí kia! Tui sống với ông có giá thú hẳn hoi, còn con kia nếu ông khai gian làm giá thú giả với nó, thì tui cho cả lũ vô tù mút chỉ cà tha. Tin đi, rồi một mai lá rụng về cội, ông chẳng tiếc cái tình vờ ấy, mà ông sẽ quay về “cây đa bến cũ con đò năm xưa” cho coi! Ông và nó không có một đồng xu dằn túi, thì mẹ con tình lờ đĩ ba chệt ấy phải ra đi khỏi đời ông, ông xa nơi trơ trẽn hắc ám đầy chướng tai gai mắt. Coi ai chết nhăn răng, cho biết mùi đời cái tình hờ mà ông cho tôi nếm hôm nay. Há...

                Tôi ngạc nhiên và thừa nhận là bà lớn tuy ở chung một nhà với bà bé, dù bất bình và rất ghen lẫn yêu thương chồng con lắm. Nhưng bà lớn khá biết điều, bà chỉ béo, ngắt, cú đầu ông xí, cằn nhằn lải nhải dày vò ông chồng biết cúi đầu hổ ngươi, đỏ mặt tía tai ti tí. Bà lớn có bản lĩnh, lịch sự nghiến răng trèo trẹo, ghé môi vào sát bên mang tai chồng, nhưng khiến ông lớn thật sự run sợ. Bà biết giữ danh dự cho ông chồng dân biểu! Khâm phục.
                *
                (1) ca dao
                (2) thơ tiếu lâm & sưu tầm lượm lặt đó đây.
                ***

                Tình Hoài Hương
                Last edited by Tinh Hoai Huong; 04-17-2017, 08:20 PM.
                Bút trần nào tả được lưu luyến!
                Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                Tình Hoài Hương

                Comment


                • Những Ngày Tao Loạn




                  Những Ngày Tao Loạn


                  Khổng Tử đã nói:
                  "Kẻ sĩ lo trước cái lo của thiên hạ. Vui sau cái vui của thiên hạ”.
                  Cũng như cổ nhân Nguyễn Trường Tộ đã nói:
                  Nhất thất túc thành thiên cổ hận.
                  Tái hồi đầu thị bách niên thân”.
                  (Một bước lỡ để nghìn năm mang hận.
                  Ngoảnh đầu trông lại đã trăm năm
                  ).

                  Quả thực như thế. Những người lính làm viên gạch lót đường cho danh vọng, tham tàn, bạo lực, oằn vai nặng gánh, lưng gồnh mối thù phân chia hai miền Bắc. Nam: Nay người lính đem xương máu ra chiến trường đã là, đang là những viên gạch lót đường, dài dài… từ vĩ tuyến 17, nơi con sông Bến Hải có cầu Hiền Lương nghẹn ngào đớn đau tạm thời phân giới hai miền Nam Bắc. Họ quyết ở lại miền Nam Việt Nam dựng nước và giữ nước. Một thời gắn bó keo sơn mặc dù biết mình vô tình làm ván bài mưu lược chính trị sục sôi. Họ vẫn chia nhau ra trấn giữ đất nước, cố duy trì sự tồn-hưng một quốc gia trong thời chiến tranh:
                  Giống như Mã Viện xưa đã nói:
                  - “Làm trai, nên chết ở chốn biên thùy, lấy da ngựa bọc thây mà chôn, mới đáng qúy. Chớ chết trong tay lũ trẻ nâng đỡ. Nào có hay gì"!

                  Phân chia là thế! Nhưng lòng yêu nước thiết tha và hoài bão mong ước tự do an bình, ấm no cho toàn dân, thì “Quan, Tướng và Lính” đều có ước vọng giống nhau. Hôm nay nếu trải qua chung cuộc ngậm ngùi trong cơn xoáy đục ngầu, tưởng đã chia phần đều nhau: Là vậy. Ngày đêm kề cận sự chết, chiến tranh tàn khốc xảy ra trên từng đoạn đường giao tranh, trên những bước ngắn bước dài, bước thấp bước cao. Lòng lính càng quặn từng cơn đau buốt, khi họ đi kè kè hai bên lề đường: để hộ tống từng đoàn dân di tản tất tả chạy dọc theo ven những quốc lộ trên triền quê hương.

                  Sau 21 giờ - ngày 29-4-1975 - thiết quân luật bắt đầu 100%. Màn đêm đã sớm về đến khi khuya lắc khuya lơ, chúng tôi vẫn đứng thấp thỏm, thập thò từ trong cửa sổ ở phòng ngủ Hotel Hưng Đạo 2 đã tắt hết đèn đóm, tôi nhìn xuống đại lộ Trần Hưng Đạo, thì thấy lố nhố hàng hàng lớp lớp lính tráng: Tôi âm thầm quan sát “những tình thương và sự hy sinh cao cả bên lề cuộc sống”: Nào là: Thủy-quân Lục-chiến. Nhảy Dù. Biệt Động Quân. Bộ-binh, vân vân... (không kể có ba Lữ đoàn Dù. Ba Liên đoàn Biệt Động Quân đóng tại Hóc Môn. Gò Vấp. Bình Chánh. Nhà Bè. Tân Sơn Nhứt).

                  Quân đội đã đặt những ụ súng cối, súng máy, do các chiến hữu Sư-đoàn 5 – 18 – 22 – 25, ngỏ hầu chu tất việc bảo vệ an toàn lãnh thổ Việt Nam, Thủ-đô, và lương dân vô tội. Cứ một giờ, tốp lính nầy đến gác, là tốp kia lầm lũi âm thầm ra đi... Súng dài gác bên nhau, mũi súng chụm vào chỉa lên trời, báng súng dựng dưới mặt đường nhựa. Họ nói rất khẽ hay chỉ lặng lẽ ra hiệu lệnh. Họ là những quân nhân Quân-lực Việt Nam Cộng Hòa anh dũng quyết chiến đấu, hy sinh đến giờ phút cuối cùng. Súng lại đeo lên vai nòng chĩa xuống đất, họ lặng lẽ và tuyệt đối vâng lời thượng cấp, từ từ rút lui có quy củ, trật tự tôn nghiêm trong hàng quân ngũ. Họ nhìn nhau lặng lẽ nhếch miệng cười qua cái bắt tay giã từ vừa đủ chặt, dường như âm thầm nói lên niềm đắng cay, trào dâng trên sóng mắt tiếc thương, quặn đau trong lòng họ sự hy sinh vô vụ lợi, không điều kiện.

                  Từng tốp lính mười tốp bảy người, nhiều vô số đang nằm gối đầu trên vĩa hè, tay gác lên trán tư lự. Có người đứng hoặc ngồi bên đường. Dù ở trên vĩa hè, quân nhân đều có trật tự, nhịp nhàng, kỷ cương. Họ chia nhau ra canh giữ quê hương trong giờ phút lâm nguy khốn cùng. Những đóm lửa nhỏ lập loè loé lên trên bờ môi khô. Những đôi mắt dường như đọng ngấn lệ tủi hận đầy bi ai. Có người đang mặc áo giáp, đăm chiêu suy tư, bơ phờ, hốc hác. Có người đội mũ sắt, hất ngược mũ ra sau gáy, sợi quai mũ cứa vào cục yết hầu oan gia nhô cao cay đắng chạy lên chạy xuống cuống cổ. Có người đội mũ sụp che xuống gần tới mí mắt. Có người đội mũ lệch qua một bên. Họ mang giày đinh lấm lem bụi đỏ, lưng đeo ba lô nặng trĩu đường hành quân, râu ria lởm chởm, tóc tai không mấy chỉnh tề. Những bàn tay anh tài vẫn đưa lên ngang tầm mắt, nghiêm nghị đứng thẳng, ngực ưỡn ra oai vệ chào thượng cấp.

                  Bỗng dưng tình hình chính trị quyết liệt căng thẳng, vận nước đột biến từ góc 45/o, chỉ trong một tuần ngắn ngủi, vụt nhảy tọt lên 360/o nhanh như chớp. Khiến tôi vô cùng hoang mang, bàng hoàng sửng sốt, lo lắng, buồn phiền, bối rối tột cùng. Trở lui mắc núi, đi tới mắc sông, xoay quanh mắc vòng lẩn quẩn đủ mọi thủ thuật rối rắm. Mặc dù các bạn trong nhóm có nhiều sáng kiến, có nhận thức thời cuộc chính xác và quyết định đúng đắn, nhưng dẫu sao họ ở nơi xứ lạ quê người ồn ào náo nhiệt, tột cùng hổn loạn thế nầy, bốn anh ấy giống chú khỉ bị nhốt trong chuồng kín ở hotel Hưng Đạo 2: lòng và trí nóng như lò lửa, thì có tài giỏi đến mấy, họ cũng không biết đâu mà mò.

                  Tuần trước, bốn anh trong nhóm chờ đợi bầy trẻ nhỏ ngủ yên, liền khều mấy bà qua phòng tôi, để bàn tính chuyện lủi xuống miền Tây. Vì, nghe nói tại miền Tây bây giờ hoàn toàn bình yên tĩnh mịch. Vã lại Ngọc đã cho ba của anh đi xuống miền Tây dò đường đi nước bước trước rùi. Ngọc dặn dò ông ba nếu thấy tình hình bất ổn, thì ông lo tìm đường trở về Sài Gòn, hoặc đi ra Phú Quốc. Ngọc ấn định ngày giờ sẽ gặp ông ba ở điạ điểm chính xác ở miền Tây, nếu không y hẹn, có nghĩa là Ngọc sẽ đưa bầu đoàn thê tử, “hò” bạn bè cùng nhau ra đi. Ý kiến cuối cùng: mình phải sáng suốt dứt khoát ra đi, khi thấy Quân-lực Việt Nam Cộng Hòa đã triệt thoái hết về miền Nam, thì ở miền Tây ắt sẽ còn là nơi vững chắc như đinh đóng cột.

                  Tôi sống tạm bợ nơi Sài Gòn xa hoa, nhộn nhịp, và lắm xô bồ trong tháng 4 năm 1975, với ngàn lo âu, run sợ hãi hùng đầy cay đắng, băn khoăn lo lắng trăm mối tơ vò. Tin dữ loan ra thì có, tin lành về lại không. Nhìn xuống lòng đại lộ Hưng Đạo 2, tôi càng run rẩy nghĩ rằng: “Trận chiến nầy, hẳn là sẽ đến hồi quyết liệt để giành thắng. Nay mai sẽ có giao tranh trên cùng khắp các nẽo đường. Chạy đi đâu cho thoát ra khỏi con ngỏ sâu hun hút, đầy đạn bom đây! Hở Trời!? Tôi vô cùng hối hận khi đưa gia đình về đô thành. Chạy đi đâu, cũng không thể thoát khỏi nanh vuốt chiến tranh bạo tàn. Thì thà rằng cứ ở yên lại Đà Lạt, có lẽ gia đình tôi không đến nỗi nào khổ sở đến thế”!

                  Trên những con đường lớn nhỏ tại Sài Gòn đều đông nghẹt người đi bộ, người ta đông hơn kiến tràn ra ngoài lòng lề đường, chen lấn nhau đi kẹt cứng. Mặc cho từng hàng xe hơi đủ loại, xe gắn máy, xe đạp, xe xích lô, xe ba gác vân vân… chồng chất đủ mọi thứ lỉnh kỉnh lên xe. Họ ùn ùn hối hả đi đi, về về! Đi đâu?! Về đâu?! Hầu hết các doanh trại ven đô, các công sở ty mỏ, và thường dân lo đào hầm hố cá nhân. Những đại công sở và cao ốc, cũng như ngoài những đại lộ, gần trung tâm Sài Gòn đều ráo riết chuẩn bị. Thế mà bà mẹ Ngọc và hai cô Quy, Cúc, ung dung dẫn nhau đi từ hotel Hưng Đạo 2 tà tà qua chợ Đũi, xuống chợ Thái Bình dạo chơi, rồi ba mẹ con tấp vào ăn bún ốc, bún thịt nướng, ăn xoài, dưa hấu, thơm. Họ ăn xã láng... ăn đã đời.

                  Mấy tháng trước lo lánh nạn từ Cam Ranh chạy riết dài dài về đây, họ ăn uống có phần tiết kiệm khổ sở. Bây giờ yên ổn nơi thành phố vinh sang giàu có, họ cũng sẵn tiền dư bạc rủng rỉnh như ai, ngày ngày ở không trong phòng ngủ không biết làm gì, chẳng lẽ có bộn tiền có vàng leng keng trong túi, mà phải nhịn thèm “ăn mì ngóng cháo ngó” sao. Thế là ngày ngày họ đem con cháu đi ăn hàng xã láng cho đã. Lúc nào về phòng ngủ cô Cúc cũng khệ nệ bưng thêm: Khi thì quày chuối già hương to bự sư, mít ướt, mít ráo, hoặc một chục xoài cát thơm lựng. Do mấy bà vợ thừa nước đục thả câu, được đằng chân lần lên đằng đầu, cô Cúc cô Quy tha hồ leo lên đầu lên cổ đức ông chồng nhẫn nhịn hiền lành, tha hồ ăn hiếp chồng. Cánh đàn ông yêu quá hóa sợ mấy mụ vợ một phép, mặc “bà” muốn làm gì thì làm, lớp đàn ông im re xép ve:
                  Lỗ mũi mười tám gánh lông.
                  Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho.
                  Đêm nằm thì ngáy o o.
                  Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà.
                  Đi chợ thì hay ăn quà.
                  Chồng yêu chồng bảo về nhà đỡ cơm.
                  Trên đầu những rác cùng rơm.
                  Chồng yêu chồng bảo hoa thơm rắc đầu.
                  (1)

                  Sau vài ba ngày no say ăn uống, thì bà cụ Tài đau bụng, trên ói dưới té re, thổ tả thổ te tá lả hoài! Bà cụ Tài tái phát bệnh đau bao tử ói ra máu tươi, máu bầm, máu loãng, rồi ói ra mật xanh mật vàng. Bà ôm bụng gò lưng quằn quại rên la dữ dội. Anh Ngọc vội vàng thuê xích lô chở bà đi cấp cứu tại bệnh viện Sài Gòn. Đã biết là bà cụ đau bao tử kinh niên, mà còn dám “tộn” mấy thức ăn mát mẻ thế, nếu bà không đau bao tử, cũng bị té re là cái chắc! Không biết bà cụ trúng độc do ăn bún ốc, hay cụ ăn quá nhiều thứ mà “trúng thực”? Ngày ngày chúng tôi ghé vô bệnh viện thăm, thấy bà cụ có phần thuyên giảm. Ngọc bảo cô Cúc ở lại bệnh viện trông coi mẹ. Còn anh sẽ đưa vợ con, gia đình cô em gái là Quy, cùng chúng tôi đi xuống miền Tây trước. Lúc nào bà mẹ khoẻ hẳn, thì cô Cúc sẽ đưa mẹ đi xuống Bạc Liêu. Nghe thế, bà mẹ Ngọc dù rất yếu, bà lắc đầu quầy quậy, giẫy nẩy lên, chồm dậy khăng khăng nhất định đòi trở về hotel. Nếu có đi đâu, mà bà đi không nỗi, thì cõng bà đi cùng, chớ không trước không sau gì cả. Bà rất sợ con trai bỏ rơi. Bà thất kinh hồn vía, không dám kêu rêu con dâu bắt bà nhịn đói, không rên siết trước mặt Ngọc, bà không dám ăn uống bậy bạ nữa.

                  Ngọc đành chìu ý mẹ già, anh đưa mẹ về nghỉ tại hotel Hưng Đạo 2. Thật kinh hồn, chúng tôi chỉ sợ lây lan hết cả đám, thì khốn. Bà phải ở cách ly mình ên. Ngọc đi rước bác sĩ tư đến khám bệnh ghi toa, liền đi mua thuốc về cho bà uống. Anh Bàn phụ Quy, Luật, khiêng những tấm nệm chuyển qua phòng của tôi, đặt nệm ở giữa nền gạch cùng nằm xếp lớp với nhau. Bốn gia đình ngủ chung hai phòng cho ấm áp tình người. Chúng tôi cảm thấy vui vui, cũng đỡ lo sợ và buồn. Do thế, chuyện dự tính cả nhóm về miền Tây trước ngày 30-4 đã không thành. Phần vợ chồng tôi, khi thấy tình hình bất an, thì Luật chạy đến nhà anh Tạo rước bà mẹ anh xuống ở phòng ngủ. Tôi đến nhà Yến Nga để hỏi thăm tin tức.

                  Ở nhà, bốn đứa con của tôi tự trông coi nhau. Chẳng may bé Tồ bị đau bụng ỉa chảy té re. Bé Tuấn thay đồ cho em, giặt giũ áo quần, lau chùi phòng sạch sẽ. Bé DZũng tắm rửa cho em, cõng em và dỗ em ngủ. Bé Bi sợ hãi chui vào gầm bàn trốn, và ngủ quên trong xó góc. Khi trở về phòng trọ, nghe các con nói lại, tôi sợ hết hồn. May mắn là bé Bi chỉ đi cầu hai lần. Tôi cho con uống thuốc, (tôi đã mua sẵn đầy đủ mọi thứ thuốc dự trữ phòng hờ). Ngày hôm sau con đã thuyên giảm nhiều. Tôi lo sợ là con bị lây chứng thổ tả từ bà cụ mẹ của Ngọc thì khốn!

                  Chỉ trừ những đứa trẻ ngây thơ vô tội là ngủ chập chờn trong bóng tối mờ mờ. Còn mọi người lớn thì tắt hết đèn đóm, ngồi tụ vòng tròn lại một góc phòng, nơm nớp lo sợ và mong trời mau sáng. Ngoài đường vắng ngắt đến ghê rợn, khuya Sài Gòn càng khuya càng hoang vắng lạnh lẽo, bầu trời vần vũ mây đen báo hiệu cơn mưa đầu mùa. Đến năm giờ sáng thì quả thật trời đổ cơn mưa rả rích, kéo dài hơn ba giờ, trông thật ngao ngán. Cánh đàn bà lo chuẩn bị làm mì gói cho cả nhóm ăn, uống nước suối Vĩnh Hảo. Bốn người đàn ông bàn tính với nhau là: để tránh tai mắt người khác tò mò dòm ngó, và không biết tông tích của mình làm gì, ra sao, đi đâu, thì bốn anh sẽ đưa từng nhóm ra đi.

                  Điểm hẹn là ở nhà thờ Ngã Sáu (nhà thờ thánh Jeanne D’ Arc, trong khu nghĩa trang Huê kiều, do người Pháp gọi là Plaine Des Tombeaux, ở 116b Hùng Vương, phường 9 quận 5). Luật hướng dẫn lộ trình chu đáo, anh nhắc đi nhắc lại: ai không nhớ, thì ghi vào sổ tay, kẽo nơi xứ lạ không thuộc đường, lớ quớ sẽ lạc nhau. Cứ mươi phút là có một nhóm rời phòng ngủ. (Làm như chúng tôi đi quỵt nợ, trốn nợ tiền phòng không bằng. Mặc dù chúng tôi đã chi trả hết tiền ba phòng nầy, và đặt cọc phòng thêm trước mười ngày).

                  Anh Bàn không có vợ con gia đình bận bịu lu bu bên cạnh, nên anh rảnh tay dìu bà cụ Tài bệnh hoạn, cùng cô Cúc ẵm đứa con gái ba tuổi ra đi đầu tiên. Kế đến là gia đình Quy. Gia đình Ngọc, sau rốt là gia đình tôi gồm bảy mạng lủi thủi ra khỏi hotel. Tôi đứng trên cửa sổ tầng hai nhìn mấy anh chị lạ nước lạ cái cúi đầu lầm lủi ra đi, nhất là những đứa trẻ yếu ốm xanh xao, ngây thơ, hồn nhiên vô tội. Sao ai nỡ lòng để con em sớm bơ phờ nếm mùi đau khổ, gánh lấy nỗi ưu phiền, cơ cực đắng cay cuộc đời làm vậy! Tôi cảm thấy thật buồn.

                  Bốn nhóm gặp nhau ở nhà thờ ngã sáu rồi, lúc đó đã có nhiều người đi bộ, đi xe đạp, xe honda, xích lô qua lại trên đường đông đúc hơn. Tuyệt nhiên không thấy xe nhà, taxi hoặc xe bus. Chúng tôi ngoắt mãi vẫn không có chiếc xích lô máy, hay xích lô đạp nào chịu ngừng. Chẳng biết họ vội vã chạy đi đâu! Mãi về sau lâu thật lâu mới có hai chiếc xe ba gác trờ tới. Luật mặc cả giá xong, liền cho hai bà cụ cùng bầy nhóc ngồi lố nhố trên xe. Bốn anh kia phụ hai ông ba gác đẫy xe đi tà tà. Chúng tôi dắt díu nhau lẽo đẽo đi xuống khu Chợ Lớn. Quang cảnh ở Chợ Lớn khác hẳn ở khu Sài Gòn. Nơi đây ồn ào náo nhiệt đông đúc, người ta tụm năm tụm mười đông đen trên đường phố xí xa xí xô đi đi, nói nói, la la mắng chửi om sòm, buôn buôn bán bán đủ mọi thứ.

                  Thỉnh thoảng mới có chiếc xe bus khác tuyến đường chật như nêm vút qua, chạy về hướng xa cảng miền Tây. Ngọc vào nhà bạn thân cùng làm việc ở gần chợ Tam Biên, để dò hỏi tin tức cập nhật. Luật cũng có bạn Thành ở đường Nguyễn Tri Phương. Lúc bạn hai đến nhà đó, mọi người trong nhóm ngồi bệt ngoài vĩa hè nghỉ mệt chờ đợi Luật, Ngọc vào hỏi thăm tin tức. Kiểm chứng lại những tin nghe ngóng suốt dọc mấy lộ trình, thì mỗi người nghe một cách khác hẳn, người nói thế nầy, người nói thế nọ; càng hoang mang, băn khoăn, bồn chồn, lo lắng, rối tung rối mù, không phân định được điều gì xác thật là đúng, điều gì sai. Toàn nghe những tin vu vơ mù mờ như vịt nghe sấm.

                  Chúng tôi không rành đường dưới khu Chợ Lớn, nên cứ đi lo lắng sợ sệt đi lung tung loanh quanh đường nọ qua đường kia, đi vòng vòng khá xa Chợ Lớn. Chẳng biết tại sao chúng tôi quay trở về ngã Bảy? Khùng thiệt. Cuộc ra đi nầy thật vô duyên ngớ ngẩn hết chỗ nói. Thế là chúng tôi mò mẫm tìm về nhà thờ Huyện Sĩ. Tôi bàn với Luật để tôi đến khách sạn Hưng Đạo 2 lấy lại những đồ dùng cần thiết, đem đến nơi nầy. Luật quát mắng tôi:
                  - Coi chừng tiếc của mà toi mạng. Bỏ hết.

                  Tôi tiu nghĩu buồn xo theo các bạn vào cha chánh xứ xin cho ở nhờ ngoài vĩa hè trong khuôn viên nhà thờ Huyện Sĩ. Nhà thờ hình cung nhọn oai dũng với công trình thiết kế quy mô, đặc thù, tinh xảo, khang trang xinh lịch, còn được gọi là nhà thờ Chợ Đũi xây năm 1902. Thiết kế giáo đường do đức cha Bouttier kiến trúc theo phong cách gothique tuyệt tác tinh vi, cao sang với vật liệu đá granit. Do ông bà Huyện Sĩ Lê Phát Đạt giàu có nhất thời ấy bỏ tiền ra xây dựng. Sau khi tạ thế hai ông bà có mộ xây bằng đá cẩm thạch ở hậu cung. Hầu hết mọi người quá mỏi mệt ngao ngán chán chường, chẳng thiết tha sự gì ngồi bó gối ủ rũ buồn chán nơi xó góc trong một lớp học bỏ trống. Ông trùm họ đạo nầy đi lễ về ngang chỗ chúng tôi đang ngồi co rúm một xó, thấy chúng tôi hốc hác, trẻ con bơ phờ lem luốc nằm la liệt lăn lóc trên vĩa hè nóng và hanh nắng. Ông vào tận nơi tôi ngồi, ân cần hỏi thăm qua loa, rồi ông bảo tôi cử đại diện vài người đến nhà ông, để ông tiếp tế cho ít thức ăn.

                  Cô Quy, Cúc và tôi lẽo đẽo theo sau lưng ông, đến bên hai cánh cổng sắt màu xanh kín mít to cao lút đầu người. Mở ổ khoá cánh cửa sắt nhỏ phụ kế bên, ông mời ba chị em vào nhà ba tầng lầu có vườn cây trước sân mát mẻ, rộng rãi, ngôi nhà bề thế sang trọng xây đá hoa cương lát gạch men bóng láng. Ông mời chúng tôi ngồi ở sofa da nhung đỏ. Ông đi xuống nhà bếp. Chúng tôi chưa kịp quan sát kỹ lối trang trí tân thời trang nhã vinh sang trong phòng khách, thì bà vợ ông trùm và mấy con cháu gì đó từ phòng bên cạnh, xách ra ba bốn tụng đồ ăn thức uống đầy nhóc, nhiều nhất là mì gói, bánh mì khô, cá khô, tôm khô, khoai lang, dưa leo và củ sắn. Thêm một tụng khá to quần áo trẻ con, một tụng nhỏ hơn bốn tụng kia đựng độ năm bảy lít gạo, (bà vợ chu đáo lo đầy đủ, hình như bà đã nghe ông chồng kể lại, hoặc là gia đình họ đã từng làm việc thiện nầy, tôi không biết).

                  Ba chị em tôi cảm động ứa nước mắt, rối rít cảm ơn lòng từ bi thiện nguyện của ông bà trùm họ đạo Huyện Sỹ. Khệ nệ bưng các giỏ xách về lại góc trường học, chúng tôi cảm thấy có phần vui vẻ an tâm. Cô Quy, Cúc và chị Ngọc xúm lại chia nhau áo quần con trẻ. Còn tôi không nhận (vì đang có, tôi đã vứt bỏ lại ở hotel nhiều lắm, chỉ mang đi những bộ quần áo cần thiết, vậy mà các con mang vác còn không nỗi, nữa là tham lam chi mà quơ vô thêm sao). Mấy chị em rủ nhau đi ra chợ Đũi mua hai cái nồi lớn, mua tô chén, muỗng, đũa, rổ, rá, củi, ba bó rau muống, mắm muối, chút bột ngọt, chuối cau, mua bình để nấu nước, mấy chai ni lông đựng nước (vã chăng thấy ăn uống tầm bậy tầm bạ ở ngoài chợ, sợ trúng nước đi “ị” té re như bà cụ Tài, thì khốn; chúng tôi không dám uống nước trà đá bán sẵn). Có tiền là có của tươi rau ngon.

                  Về lại chỗ cũ, Ngọc xin bà từ trông coi nhà thờ cho mượn hai cái lò để nấu ăn. Bà từ vui vẻ bảo chúng tôi cứ vào trong bếp tự tiện nấu nướng, khỏi mua củi hay mượn lò làm gì mất công. Nhưng chúng tôi không lấy củi của bà. Phụ nữ xăn tay áo lên lo làm bếp. Đàn ông đi tắm rửa cho con cháu, và tắm rửa chính họ ở ngoài giếng hay ở vòi nước. Chẳng mấy chốc nồi cơm trắng, canh mì gói nấu kèm với rau muống, trái bầu xắt nhỏ, khô cá sặc nướng, mọi thứ đã chín. Sau một ngày nhịn đói nhịn khát, kéo nhau đi thất thểu lang thang cầu bơ cầu bất ở ngoài đường mệt mỏi rã rời. Giờ đây cả nhóm ngồi bệt dưới nền xi măng, quây quần quanh hai mâm cơm nóng sốt. Một mâm dành cho trẻ con được cho ăn trước. Một mân cơm của người lớn thì ăn sau. Đây là buổi cơm tối thanh đạm, nhưng quả thật lần đầu tiên trong những ngày xa xứ, kể từ khi tôi về Sài Gòn ăn bữa cơm nầy cảm thấy rất ngon miệng. Thiệt đúng:
                  Đầu tôm nấu với canh bầu
                  Chồng chan, vợ ngó lắc đầu “ham ăn.”
                  Bầu ơi thương lấy bí cùng
                  Mai sau có lúc nấu chung một nồi!
                  (1)

                  Lúc đó có hai gia đình ở Huế, Đà Nẵng di tản vào Sài Gòn, họ cũng tay xách tay mang, con cái đùm đề, vừa vào xin ở nhờ, kế bên lớp học cạnh chúng tôi. Luật, Ngọc qua bắt chuyện hỏi thăm, rồi mời cả sáu người ấy qua bên lớp học nầy, vì chúng tôi nấu cơm và canh thật nhiều, nên nhân tiện mời họ dùng cơm. Hai người đàn bà tỏ vẻ e dè khách sáo hơn hai ông kia. Nhưng khi thấy chúng tôi thành thật chứ không qua loa mời lơi, họ cũng vui vẻ nhập vào nhóm. Cô Cúc đi lấy chén đũa của bọn trẻ vừa ăn xong, chạy ra vòi nước rửa sạch và đem vô. Chúng tôi vừa ăn vừa tỉ tê trò chuyện. Chỉ vài giờ ngắn ngủi, chúng tôi đã thông cảm và hiểu thấu những gian khổ, cơ cực trên bước đường gian truân lưu lạc, đồng hội đồng thuyền thật hợp ý nhau. Được biết hai gia đình Tâm và Phương có ý muốn về Phú Quốc, vì hồi xưa họ đã sinh sống ở đó. Nghe bạn mới tâm tình, chúng tôi hoan hỉ vui mừng như mở được tấc lòng. Vì quả thực chúng tôi rất muốn đi Phú Quốc, mà ngại một nỗi không rành đường, không biết lối mô tê, sợ lạc vào “mê cung Vẹm”, nên quá ngại ngùng. Tâm nói:

                  - Năm giờ sáng ngày mai phải ra bến xe bus Sài Gòn, đón xe đi một lèo tới xa cảng miền Tây, xe không ngừng ở mấy trạm phụ. Một ngày chỉ có ba chuyến xe bus đông nghẹt thôi.
                  - Thì ra bây giờ tôi mới hiểu: nguyên ngày nay chúng tôi đón xe bus lẻ tẻ dọc đường tới Chợ Lớn, mà chả thấy chiếc nào ghé trạm, là do vậy.

                  Thế là mọi người bảo nhau đi ngủ sớm. Phụ nữ rửa dọn nồi son chén bát, lau chùi chỗ nằm dưới nền xi măng (vừa dùng nơi ăn cơm). Đàn ông lo lùa bọn trẻ về lớp học bên hông nhà thờ, để dỗ con cái ngủ. Chị em phụ nữ xin đi tắm nhờ ở nhà bà từ. Cũng may là ở trong miền Nam lúa gạo dồi dào cò bay thẳng cánh, hầu kịp thời cung ứng cho cư dân ở miền Cao Nguyên và miền Trung, sau mỗi khi thấp kém mùa màng hay thiên tai lũ lụt. Chúng tôi mò tìm về miền Tây là phải lắm. Thật cám ơn nông dân và cư dân ở miền Tây Việt Nam hết sức.

                  Những giọt buồn lê thê xin gác lưng mây bay bay sau triền đồi Đà Lạt xa mờ xa nhé! Dù gần hay xa xôi muôn trùng sóng vỗ, thời khắc quý giá nầy vẫn mãi hoài ghi nhớ, chiếm ngữ trong hồn tôi giông bão. Chiến tranh biêu riếu đã hạ bức màn đen trong chung cuộc đầy bi kịch rồi chăng? Ví dù như thế thì họ và tôi hoàn toàn tin tưởng vào cấp lãnh đạo tối cao của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, tin các cấp chỉ huy đã và đang dấn thân từ các nơi còn trụ lại, rải rác khắp nơi… có thể là:
                  - Vùng I : Quảng Nam. Quảng Trị. Thừa Thiên.
                  - Vùng II : Dakto. Kontum. Pleiku. Đà Lạt. Khánh Dương.
                  - Vùng III : Bình Long. An Lộc. Long Khánh.
                  - Vùng IV : Nhất là hy vọng từ Long An về Miền Tây, vẫn còn… trấn giữ.

                  "Quốc hữu phân tắc thực" (nước có người giỏi, thì nước mới vững chắc). Mặc dù giàu sự dũng cảm hào hùng của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa: từ tất cả các binh chủng đang ở lại rải rác trên quê hương nầy; họ có kiên cường bất khuất anh dũng và oanh liệt quyết chiến đấu tại các chiến trường sôi động khói lửa, hay tại các địa phương, Tỉnh, Thành, nào... Nhưng nếu họ không còn những vị “thủ lĩnh”, họ đã mất cấp lãnh đạo. Hoặc giả họ không có những vị chỉ huy nữa. E là thua chắc!
                  Nghĩ thân phù thế mà đau,
                  Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê!
                  ” (2)
                  *
                  (1) = ca dao.
                  (2) câu thơ của Nguyễn Gia Thiều.
                  * * *

                  Tình Hoài Hương
                  Last edited by Tinh Hoai Huong; 04-21-2017, 09:12 PM.
                  Bút trần nào tả được lưu luyến!
                  Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                  Tình Hoài Hương

                  Comment


                  • Từ SÀI GÒN tới RẠCH GIÁ





                    Từ SÀI GÒN tới RẠCH GIÁ


                    Sài Gòn chóa mắt vì đèn điện thắp sáng rực thâu đêm. Tiết trời quang rạng, gió hiu hiu nhè nhẹ phe phẩy mơn man trên đầu cây ngọn cỏ, không gian se lạnh khi màn sương nhợt nhòa buông lơi. Rồi bình minh ló dạng sau những toà cao ốc tráng lệ, oai sang đứng sừng sững trên các thổ cư: vẫn rạng danh là “Hòn Ngọc Viễn Đông”.

                    Bốn giờ khuya chị Ngọc và tôi dậy sớm, tôi nấu nước sôi chờ nguội, để đổ vô bốn chai ni lông to. Tôi nấu ba lít gạo, rang đậu phụng làm muối mè. Chị Ngọc nấu canh mì gói trộn chung với rau muống, và chiên khô cá. Cơm chín, hai chị em lấy khăn ướt mỏng để nhồi cơm nóng thành từng nắm cơm vắt, xắt lát vừa vừa, tôi bỏ cơm vô hộp ni lông mang theo cho mọi người ăn ở dọc đường. Tôi gọi bọn trẻ dậy sớm, cho con cháu ăn chút canh mì gói. Các con cháu còn ngái ngủ, nên ăn rất uể oải. Có lẽ do hôm qua đi bộ nguyên ngày giữa trời mưa, rồi trời nắng chang chang nóng như thiêu đốt, nên bọn trẻ thấm mệt, rã rời, lừ đừ thân xác chăng?

                    Sau đó phụ nữ quét dọn, rửa chén bát nồi niêu sạch sẽ, bỏ vào mấy cái bao cói (hôm trước ông bà trùm đã cho quà). Cô Quy và tôi bưng xách mấy giỏ mùng, quần áo linh tinh. Một lần nữa, tôi soạn mấy túi vải các con (tôi đã may ngày hôm trước). Tôi chọn lọc ra mấy bộ áo quần gọn nhẹ, bỏ vào những túi vải cho các con mang theo thay đổi dọc đường. Những thứ khác tôi đem gửi nhờ ở nhà bà từ, xin cất dùm. Bà từ nói:
                    - Chị cứ để ở bên vĩa hè, không có ai lấy lầm đâu”.

                    Chúng tôi ra đi. Luật một tay dắt bé Bi, tay kia anh xách giỏ cơm vắt, muối mè, khô cá. Bà mẹ Luật mang túi vải bỏ thêm hai chai nước. Tôi bế bé Tồ, một khuỷu tay kia móc thêm hai túi xách quần áo (của tôi và bé Tồ). Bốn gia đình bạn thân là: Ngọc. Quy. Cúc. Bàn; cùng nhập với hai gia đình mới quen là Phương, Tâm; tất cả hăng hái nôn nao vui vui lên đường. Chúng tôi lặc lè đến trạm xe Sài Gòn, kịp lúc có chừng năm chiếc xe bus từ các hướng đi khác nhau, vừa trờ tới. Các anh nhanh nhẹn lùa đám trẻ, đàn bà, lên xe bus đi ra Xa Cảng.

                    Trên xe lác đác có ba người khách. Nhóm chúng tôi ngồi sát gần nhau, người lớn cho trẻ con ngồi trên đùi mình yên ổn xong. Nhìn lui nhìn tới chỉ thoáng chốc thì người và người ở đâu túa ra đông nghẹt, chỉ có người lên xe, không có người bước xuống. Hai hàng ghế kín mít không còn chỗ ngồi, hành khách đứng chật cứng trên lối đi lại.

                    Thật là may, nếu chỉ chậm trể mươi phút nữa, kể như nhóm chúng tôi không bao giờ chen chân lên xe bus nỗi. Quang cảnh tại bến Xa Cảng miền Tây lúc tửng bưng sáng vô cùng náo nhiệt, hổn độn kinh khủng. Những trạm bán vé đông nghẹt người chen lấn ồn ào hơn vỡ chợ. Thế là nạn ăn trộm, cướp bóc, giật giỏ xách, móc túi, bấm dây chuyền, giựt bông tai, bốc hốt, mò mẫm bóp vú... loạn xạ. Dưới đất thì bọn du thủ du thực rượt đuổi nhau huyên náo, đánh lộn, chửi bới inh ỏi cả một vùng.

                    Tới Xa Cảng miền Tây, đàn bà trẻ con nhóm tôi ngồi xép nép, chò hỏ ở một góc kín sát ngoài cửa bến, gần bức tường gạch, (tạo thành một vòng đai tròn sát bên nhau cho bọn trẻ con ngồi ở giữa), các con cháu đứa ngồi đứa nằm gối đầu lên những túi đồ đạc hèn mọn lỉnh kỉnh mang theo. Những người khách đi tới đi lui tò mò đứng lại lỏ mắt nhìn ngó lom lom bầy trẻ bị cái nóng Sài Gòn thiêu đốt, khiến mồ hôi mồ kê chảy ra như tắm.

                    Mặt mày con trẻ xứ Đà Lạt đa số xinh xắn, hai má đỏ au như dồi phấn, mắt to sáng môi tươi (tuy suốt hai tháng nay bọn chúng sống lăn lóc, cực khổ, cù bơ cù bất, thiếu ăn thiếu ngủ, mà còn xinh như vậy!). Nhìn những đôi mắt phượng long lanh phảng phất mặt hồ thu Đà Lạt mơ màng, hai gò má phinh phính nõn nà hồng phấn của các cháu bé, khiến ai cũng thèm cắn một cái ghê! Họ trầm trồ khen bầy nhỏ xinh đẹp là phải! Chúng tôi giữ bọn trẻ chằng chằng, chỉ sợ mình sơ ý, bọn trẻ sẽ bị bắt cóc, thì chết!

                    Mới tửng bưng sáng mà quầy bán vé treo bảng hôm nay “hết vé” rồi!!! Chúng tôi chẳng thấy các phòng vé mở cửa bán vé. Nghe nói ngày mai có thể không có xe đi Rạch Giá. Mấy ông trong nhóm tôi đi đến phòng bán vé ở trạm xe Xa Cảng cứ kiên nhẫn đứng xếp hàng chờ đợi mua vé. Họ đứng mỏi rã rời chân từ chín giờ sáng, mà mãi tới bốn giờ chiều mới mua được vé xe đi Rạch Giá cho ngày mai. Mém chút nữa thì chả còn vé để mua. Vé xe khan hiếm đến độ chỉ bán có bốn năm người đứng xếp ở hàng đầu, đã đóng cửa với ghi chú: “hết vé” Thế là bao nhiêu vé đều tộn ra ngoài bán giá chợ đen, họ chả sợ bể mánh bể mung giữa chợ đời bát nháo! Bà sương phụ háy một cái thiệt dài, cầm loa oang oang nói:
                    - Để tránh tình trạng ứ đọng hành khách, cũng như nạn lưu thông trì trệ, hay kẹt xe. Khi nào những đoàn xe hiện đang chờ trực tuyến đã xuất phát. Thì phòng vé sẽ tiếp tục mở cổng chính, cổng phụ, cho đoàn xe đậu từ ngoài đường cái vào bến, chờ đợi lấy tài.

                    Úi Trời! Cả nhóm bàn nhau là nên ở lại bến xe, ngủ đêm tại nơi nầy. Nếu chúng tôi quay trở về lại nhà thờ Huyện Sỹ, cả “bầu đoàn thê tử” đùm đề lôi thôi lốc thốc toàn trẻ con nheo nhóc, người già yếu đuối và đau ốm, đàn bà lụ khụ, thì quá bất tiện. E rằng ngày mai chúng tôi không thể đến đây. Biết có ra xe bus đúng giờ không? Có chen chân với hành khách để lọt vào cổng Xa Cảng, mà leo lên xe đi về miền Tây không!? Quyết định như thế thật đúng. Vì, sáng hôm sau, thỉnh thoảng tôi nghe thông báo ở trên loa phóng thanh rằng: “Hét vé”.

                    Nhóm phụ nữ yên ổn ngồi trong lòng xe đò cũ kỹ chật như nêm xong, thì đa số đàn ông phải leo lên ngồi trên mui xe, chẳng thể phản đối, hay càu nhàu cằn nhằn la mắng gì! Ai có vé mà không chịu đi chuyến nầy, thì chủ xe lập tức hoàn trả tiền vé lại cho cố chủ. Sẽ có người khác (không ngủ qua đêm ở trạm bán vé) vui vẻ mua vé chợ đen, cao gấp năm lần tiền vé chính thức. Sao không ham. Chờ đợi giá biểu mới phiền toái và lâu lắc. Tự mình muốn cần đi đó đi đây, chớ ai bắt. Thế nên lớp trai tráng ép bụng chịu thiệt thòi ngồi bó gối chút, hoặc ngồi lắt lẻo phơi đầu ngoài trời mưa tầm tã, hoặc nắng chang chang một xí. Cũng đành!

                    Ông tài xế bảo tất cả mọi người xuống xe, chỉ trừ những ông bà già yếu ốm và trẻ con thì được ngồi trên xe. Còn mọi người khỏe mạnh phải đi bộ xuống phà Bắc Mỹ Thuận. Cô Cúc mua cho nhóm mỗi người một trứng hột vịt lộn ủ ở rổ trấu nóng hổi. Các con tôi thấy con vịt chết nằm trong quả trứng, thì quá sợ lắc đầu lia lịa không dám ăn. Tôi mua cho cả nhóm bánh mì thịt, trái cây đủ loại, nào là mận, đào, chôm chôm. Bánh trái, kẹo mứt bán nhiều vô số mà thật rẻ. Thú vị nhất là các em bé bán chim cút lanh lẹ vui vẻ rao hàng:
                    . . . Ăn chim em đi anh.
                    Nè chim em mập lắm.
                    Nè chim em ít lông.
                    Chim em vừa mới lớn.

                    Anh ăn chim em không.
                    Chim em toàn những nạc.
                    Chim em chẳng có xương.
                    Anh sờ đi: toàn thịt.

                    Lại to hơn chim thường.
                    Lại to hơn chim thường.
                    "Ừ, chim em bự lắm.
                    Nhưng anh cũng... có rồi.

                    Anh dừng lại xem thôi.
                    Để anh đi, em nhé".
                    Xe chuyển bánh nhè nhẹ.
                    Cô em còn ghé theo.

                    Chim em, chim rất nhiều.
                    Lần sau anh mua nhé.
                    Nay qua sông Mỹ Thuận.
                    Gặp cây cầu ước mơ.

                    Thương cô em mười tám.
                    Biết tìm đâu bây giờ?...
                    (1)

                    Đoàn xe lại bon bon lên đường xuôi về hướng Rạch Giá. Trùng dương sóng vỗ mênh mông, bạt ngàn nước cuồn cuộn nhấp nhô bên mạn phà to tướng, êm êm. Lần đầu tiên xuôi về miền Nam phồn vinh trù phú, tôi cứ tưởng chỉ có phà Bắc Mỹ Thuận là to lớn sầm uất thôi. Nào dè, một lần nữa tài xế gọi mọi người xuống xe, để qua phà, thì tôi càng sửng sốt mở rộng tầm mắt nhìn phà Bắc Cần Thơ bao la, bát ngát, mênh mông sông nước rộng kinh khủng! Bờ nầy và bờ kia xa tít mờ xa ngàn trùng. Đúng là:
                    đi cho biết đó biết đây.
                    Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn
                    ”.

                    Đặc sản nổi tiếng nhất vùng là Bưởi Năm Roi múi to nhiều nước và ngọt lịm. Vú Sữa Lò Rèn vỏ mỏng hột nhỏ, khi trái vú sữa chín thì vỏ giống màu cẩm thạch, ruột trắng sữa. Có Dừa Sáp Cầu Kè nhiều nước và cũng ngọt lịm. Mít ruột đỏ múi dày giòn thơm ngon, và cả Dưa Bồn Bồn. Vân vân… như câu ca dao:
                    Bánh tráng Mỹ Lồng. Bánh phồng Sơn Đốc.
                    Măng cụt Hàm Luông.
                    Vỏ ngoài nâu trong trắng như bông gòn.
                    Anh đây nói thiệt sao em còn so đo!
                    (2)

                    Ôi! Bao nhiêu là quà bánh đặc sản tươi rói ngon lành ở miền quê đều tập trung ở hai bến phà đông đúc, vui vẻ nhộn nhịp, tưng bừng nầy. Chị em chúng tôi chọn mỗi người mua một loại trái cây khác nhau, để mọi người trong đoàn ăn nếm, cho biết vị ngon của lạ trên quê hương.
                    Bến Tre giàu mía Mỏ Cày.
                    Giàu nghiêu Thạnh Phú, giàu xoài Cái Mơn.
                    Bến Tre biển cá sông tôm.
                    Ba Trì muối mặn Giồng Trôm lúa vàng.
                    Biên Hòa có bưởi Thanh Trà.
                    Thủ Đức nem nướng Điện Bà Tây Ninh.
                    (2)

                    Xe vun vút chạy qua bao nhiêu cầu, bao nhiêu phố xá, ruộng lúa vừa gặt xong còn trơ cuống rạ, vô số cò diệt, le le, bay thẳng cánh ngút ngàn. Vườn tượt kinh rạch làng mạc sông nước hai bên chập chùng. Quê hương mình muôn màu muôn sắc, mỗi nơi có một vẻ đẹp tuyệt vời riêng với mạng lưới kênh rạch chằng chịt. Trên ghe thuyền thương hồ mái chèo tung tăng quẫy nước, vẵng tiếng hò câu ca vọng cổ đó đây, chen lẫn với những cây đàn cò, đàn guitar cùng tiếng trống bập bùng, rộn rịp, bồng bềnh, nhấp nhô trôi theo ghe thuyền sông nước mây trời.

                    Có sông chợ nổi lớn và các mặt hàng hóa treo lên một cây sào cao, hoặc bỏ trong nhiều giỏ cần xế to. Nào là Chợ nổi Cái Răng Cần Thơ, chợ nổi Phụng Hiệp bán rùa, chim, sóc, kỳ đà… rắn đủ loại quanh năm, chợ nầy rất lớn là nơi tuyệt vời đầy đủ các thứ nhất, và chợ nổi Cái Bè. Những chợ nổi ở miền Nam ...ôi bán mua bạt ngàn đủ loại trái cây, dừa, dưa hấu, gạo củi, rau, tôm cá, áo quần, mùng mền gối chiếu, kể cả các mặt hàng ăn uống nhậu nhẹt như: Bánh cuốn, phở gà, cháo vịt, cơm, bún, vân vân... và vân vân... đều được bán trên sông ròng nước lớn.

                    Lòng tôi cảm thấy nao nao cảm xúc ngọt ngào, dịu nhẹ, lâng lâng, dạt dào, ngẩn ngơ. Hạnh phúc lang thang trong lòng tôi rót tơ vàng trôi theo dáng hoàng hôn hây hây, lung linh, huyền ảo với sóng trường giang rộn ràng đập bên mạn thuyền luyến thương nhiều thao thức. Cảnh vật huyên náo vui nhộn không kém phần đặc biệt thi vị thơ mộng: đã thể hiện vào câu hò, điệu lý, được lưu truyền từ xưa đến nay:
                    Dòng sông thì rộng mênh mông.
                    Áo em lại thắt lưng ong làm gì?
                    Anh từ Xà No đến.
                    Em từ Ba Láng sang.
                    Sợi tình yêu ai dệt.
                    Trên mặt nước mênh mang.
                    Bảy sông dồn nước cuồn cuộn nước.
                    Phù sa lớp lớp quyện phù sa...
                    (2)
                    ***

                    Chiếc xe đò cà tàng, thổ tả, lọc cọc, rệu rạo lăn bánh trên những cục đá dăm khi hoàng hôn nhè nhẹ quệt đường nắng yếu ớt, sóng sánh trên dòng sông mờ mờ, thì chúng tôi thực sự đặt chân về miền Tây bỗng trời mưa thật lớn. Nhóm tôi đã trải qua một đoạn lãng du dài dằng dặc giữa trời đất tĩnh lặng bao la, hoang sơ, lãng mạn trên nẽo đường gió bụi trôi về xứ lạ, nơi vừa cũ vừa mới, vừa họa, vừa phúc, vừa lương thiện, từ bi lẫn tội ác quyện bện vào nhau, mà tôi không ngờ! Nhưng lòng trí ai nấy đều nôn nao, bồn chồn, lo âu thấp thỏm: vì xứ lạ phương xa mà đa số bạn của tôi và tôi chỉ biết ngao du qua sách vở, chứ tôi chưa hề thú vị chứng kiến sông nước ruộng đồng bao la, vườn tượt xanh um bóng mát, như thi sĩ Bùi Giáng đã nói:
                    Chào Lục Tỉnh thu về xuân nức nở.
                    Ở trong cây trong lá ở bên sông.
                    Dòng nước chậm chần chờ con sóng chở.
                    Còn không em? kỷ niệm ở bên lòng!
                    Và:
                    Chưa đi chưa biết Bến Tre.
                    Đi rồi mới biết toàn tre với dừa.
                    Dừa to dừa nhỏ dừa vừa.
                    Trèo lên tụt xuống nước dừa đầy tay.
                    (2)

                    Xuống đến Rạch Giá cảnh vật thôn quê êm đềm tĩnh mịch không kém phần thơ mộng, nhưng đa phần nhà cửa cư dân vắng vẻ, xóm làng quạnh hiu vô cùng, thì nhóm tôi hoàn toàn bị lạc lõng, xa lạ, đơn độc buồn thiu đến độ nào. Chúng tôi líu ríu dắt díu nhau đi tới chỗ lạ cái lạ nước, lạ hoắc, thật lúng túng bất tiện trăm bề. Nhóm người già trẻ lớn bé nầy chẳng hiểu sao lòng cảm thấy bất an, lo sợ, e dè, lấp ló thập thò, kín đáo dè dặt ngó quanh, nhìn trước ngó sau lén lút như kẻ gian, kẻ trộm. Hết cả đám có miệng mà như câm, không ai dám hỏi thăm khi dân địa phương nhìn chúng tôi chằm chằm, xoi mói. Không có bản đồ địa phương, không rành phong thổ cũng như tập quán nơi đây, không thấy xe xích lô, không tìm ra khách sạn hay phòng trọ nào. Thế nên đã nhiều giờ nhóm tôi đi lạc lung tung. Sau đó:
                    Hỏi em, em đã đi rồi.
                    Hỏi chim, chim chỉ mỉm cười bay đi,
                    Hỏi cha, cha chẳng biết gì.
                    Hỏi sư, sư bận vội về tụng kinh.
                    Hỏi cô hàng xóm làm thinh.
                    Hỏi nàng bán bánh cười tình không hay.
                    Nhìn trời một đám chim bay...
                    (2)

                    Duy có điều quan trọng là dù chúng tôi ngu ngơ ngố ngáo nơi quê hương thân yêu, cũng phải cương quyết rứt áo ra đi, phải rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn. Đang ngơ ngác, bồn chồn, lo lắng khi trời đã về chiều, mà chân chồn gối mỏi, đúng lúc đó chúng tôi văng vẵng nghe:
                    Đạt là chàng trai yêu xứ Đà Lạt.
                    Anh “pLê mê” đi lính ở Plei-me.
                    Cầu ma bà xã tui đi Cà Mâu.
                    Cây còn xa quê mình nhớ con cầy
                    Lợn sang đồng lo chạy rông Lạng Sơn.
                    Hiền ta ra hiên tà thấy Hà Tiên.
                    Chúng ta hoan hỉ tá chung chiếc thuyền.
                    Ngày mai anh Viễn định xuống Vĩnh Điện.
                    Cao Bằng đau bụng đụng bao căng bào.
                    Trai Hà Giang chỉ cơm hỏi hàng gia?
                    Đi Lai Châu gót chân mình lâu chai.
                    Gái Hà Đông đa hồng hỏi Đông Hà.
                    Cán ngố trên rừng cố ngán không khóc.
                    Con cóc vàng trên đàng bị cán vọc
                    Tớ chổng khu hỏi chủ không chổng khu?
                    Cù Lao Chàm càm ràm chú cào lu.
                    Tên “Plu-kê” chạy rông đi Plei-ku.

                    Chúng tôi tần ngần do dự đứng khựng lại trầm lặng hồi lâu, lắng nghe bọn trẻ choai choai, dé dé, xíu xíu khoảng độ tuổi mười lăm mười sáu, có lẽ là nam nữ sinh học trường Trung–học gần đấy đang ngồi trên sân đình, các em vui vẻ trao những câu “thơ thẩn tiếu lâm dám xướng ngôn vô loại” lên, cười ha hả mà không sợ bị bọn du kích 30 tống giam.

                    Thì trong dạ tôi vui mừng như mở cờ, ruột hớn hở đánh lô tô tưng bừng và nghĩ rằng: “ở đây có lẽ còn khá tự do, dễ chịu, chắc là còn thoải mái yên bình ca hát, ngâm thơ, hát câu vọng cổ... bên sông nước mơ màng” cũng có thể làm cho người lạ xích lại gần kề, thân ái gợi chuyện làm quen, làm thân một cách dễ dàng, cởi mở. Anh Bàn liều đi tới hỏi thăm đám trẻ, các em trai lanh lẹ vui vẻ chỉ lối đưa đường cho nhóm tôi biết: nên đi về hướng chợ nhỏ ở xa xa.

                    Mấy anh dấm dớ dò dẫm qua một chiếc cầu gỗ cũ, tới trạm mua vé tàu thủy, dự định ngày mai cả nhóm sẽ đi Phú Quốc. Chiều tà ở tại Rạch Giá từ bước chân khách lạ cô đơn trên đường chiều, khiến lòng tôi buồn vô hạn, đứng trên cầu gỗ nhìn về phía góc vườn dừa rợp bóng nhà ai sông nước chập chùng. Có chút tâm hồn đa cảm và nhạy cảm... khiến tôi cảm thấy nơi đây thật sự kỳ diệu thanh bình lãng mạn lắm. Lòng tôi càng xúc cảm vấn vương nỗi buồn thê thiết, khi thấy mấy giang thuyền lạnh lẽo lắc lư nằm im ỉm, trơ trọi bên những cầu tàu quạnh vắng, làm thức dậy trong tâm trí tôi hình ảnh dĩ vãng lãng đãng mộng mơ thiết tha thật gần...

                    Nhưng bây giờ đã rời xa... xa mờ xa nơi chân trời mê-hoặc, xao xuyến mông lung bao tiếc nhớ, bâng khuâng lặng lờ nỗi đau sâu thẳm: Đâu rồi những anh thủy thủ phong trần trẻ trung vui tính ưa huýt gió, vui vẻ, xinh lịch oai hùng hào hoa trong bộ quân phục Hải Quân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trắng tinh? Họ mặc bộ quân phục với niềm kiêu hãnh vinh quang hào hùng trong dĩ vãng? Mặt nước có còn in bóng chàng trai phong sương đa cảm, đa tình đứng trên bon tàu vu vơ nhìn mây trời quyện bện vào nhau xanh bát ngát? Dưới đáy thuyền sóng cả cuồng phong thịnh nộ ngày ấy vỗ nước bồm bộp vào mạn thuyền, đẫy đưa anh lính Hải-quân có cuộc sống hào hoa phong nhã lang bạt vui tươi đi xây mộng giang hồ tứ xứ!? Ý chí của bạn và tôi bây giờ chỉ còn là ảo ảnh: trăng tròn giữa lòng sông lắc léo giòng chảy trên luống đời điệp trùng bóng tối. Tiềm ẩn trong tâm hình ảnh đường chiều nâng ước vọng dâng cao ngút ngàn.

                    Đến gần chân cầu sắt dày cui lót gỗ bên kia trạm vé, thì có một khu nhà tôn chen lẫn nhà lá tồi tàn, nhưng đã đem lại lòng tôi sự ấm áp rộn ràng rạo rực niềm vui, chen lẫn sự xót xa chân thật: khi tôi nhìn cư dân địa phương vất vả, thiếu thốn, nghèo nàn. Các anh vào thuê mấy chỗ trọ. Không phải là phòng trọ như ở nơi khác có phòng riêng sạch sẽ tươm tất, mà lán trọ ở đây giống như khu nhà trống, hoàn toàn không có cửa nẽo, chỉ là những hàng ghế bố cũ mèm nối dài, mái lợp lá dừa trống trơn, hơi giống patio bốn bề lộng gió. Nước mưa lộp độp trên mái lá, bùn đen sền sệt dưới chân ghế bố luôn luôn ướt nhẹp, mốc xì, đen thui, ghế bố có nhiều gián, rận, rệp hôi rình, thậm chí có cả chí mén, chí cồ bò lổm ngổm trên gối. Thế nhưng người ra kẻ vào lội nước lủm bủm vẫn tấp nập ồn ào ngược xuôi đông đúc lắm.

                    Chị Ngọc, Cúc, tôi vội vàng xẹt ra khu chợ xép nhỏ gần xịch một bên, chị em tôi chẳng buồn hỏi khu chợ nầy có tên gọi là chợ gì. Mỗi quầy hàng là một cái chòi bằng tre lợp lá dừa, giống túp lều nho nhỏ luôn kêu kẽo kẹt, nước bùn đen đen đọng dưới chân cột và trên đường nhựa. Quán xá lộn xộn, họ bán đủ thứ: cá, tôm, sò ốc, rùa, ếch... Úi trời! có nhiều con rắn còn sống đang uốn éo thân, cái lưỡi chẽ đôi thò ta thụt vô, cả những chú chuột đồng lông lá lưa thưa có móng nhọn dài to bự sư. Coi thật gớm à!

                    Chị em tôi mua nhiều tôm tươi, cá trê vàng, cá sặc bướm, cá sặc rằn. Rồi day qua hàng khô mua gạo, mua một trái thơm, rau sống, cà chua, mua củi. Họ thật thà hào phóng bán trái cây tươi rói, tính một chục là 16 trái xoài bóng láng, mập ú, thơm ngon. Họ không nói thách, không làm hàng màu mè: không chất thứ to bỏ làm hàng mặt ở trên, trái nhỏ chêm ở dưới thúng. Mà có sao họ bán vậy. Dân quê và dân chợ đa số khá hiền lành chất phác, vui vẻ, chăm chỉ, thật thà. Họ nói ở đây cái gì cũng tươi và rẻ nhất là: cá, tôm... Nhưng họ khó kiếm ra tiền, vì nhà nhà ai ai cũng có cá, có tôm. Thịt ếch và các loại cá ở miệt nầy càng rẻ rề, thì đem bán cho ai đây, để có tiền xây xài?

                    Chúng tôi xin bà chủ nhà trọ cho mượn mấy cái son nồi, để nấu nhờ bữa cơm tối. Bà chủ nhà vui vẻ dễ dãi nhận lời. Chị em tôi xúm lại người nấu cơm, người làm cá. Lớp kho, lớp nấu, chiên xào... Đây là bữa cơm đặc biệt đầu tiên, có thể cũng là bữa cơm cuối cùng tại Rạch Giá. Nhóm chúng tôi ăn uống no nê, dư dả và rất ngon miệng. Sau đó chị em bưng nồi niêu son chảo ra bờ kè rửa ráy, rồi trả lại cho bà chủ nhà tốt bụng. Chị em cho các con ra sông tắm gội sạch sẽ.

                    Khi màn đêm buông xuống, tôi nhìn bên kia kinh lạch tối om vì không có điện, bên nầy ngọn đèn đường tù mù hắt ánh sáng yếu ớt vàng vọt, giống như đèn đêm lốm đốm lập lòe ở khu nghĩa trang. Thiệt cảm thấy quá nãn. Đêm buồn nghe tiếng mưa rơi lộp độp trên lá, gió lồng lộng rít rít từng cơn, thổi bay tấm mùng vải cũ ố vàng đen đen, khiến cái lạnh càng về khuya càng ngấm xuyên qua da thịt tôi thêm dúm dó và rùng rợn. Bầy trẻ suốt ngày đi đường quá vất vả, nên tắm gội xong, vừa đặt lưng xuống ghế bố, là chúng đã “phè cánh nhạn” ngủ say. Riêng bọn già nầy thì bồn chồn, băn khoăn, lo lắng, không sao chợp mắt, dù chỉ vài phút.

                    Thỉnh thoảng có đám tuần tra đi ngoài đường nói cười rổn rảng sát ngay bên ghế bố nơi Luật nằm. Tôi không biết họ đang oang oang chưởi gì, chưởi ai!? Chưởi số phận nghiệt ngã đã trao cho họ: phải xách súng đi ngày đêm kiểm soát dân; từ buổi giao thời vừa mới có “tự do hạnh phúc”?! Hoặc hắn tự chửi mình ngoảnh mặt làm lơ nhìn người khác hả hê trả thù dân tộc!? trợn mắt sung sướng nhìn đồng bạn tuông trào những lời cay độc, hét to từng tiếng lát gừng thị oai:
                    - Tên gì?
                    - Ai đó?
                    - Đi đâu?
                    - Kiểm tra giấy tờ.

                    Anh em thằng Tùng (con của Ngọc) giật mình thức giấc vì tiếng quát, Thắng xù xì hỏi anh nó:
                    - Mấy ông kia có phải là lính mình không anh Hai? Lính Thủy Quân Lục Chiến mặc đồ đen, quàng khăn cổ bằng lá cờ xanh đỏ, cánh tay ổng đeo băng đỏ, đó anh.
                    - Tầm bậy tầm bạ! Mầy đoán già đoán non, mà ngu như bò! Thủy-quân Lục-chiến oai lắm, họ mặc đồ xanh rằn ri, đội mũ màu xanh cứt ngựa, mang giày đinh.
                    - Vậy à… hay mấy ông kia là người trong đảng ca ca ca chi đó, phải hông?
                    - “Ca ca”… tiếng Tây nôm na là cứt nghen. Còn đảng K K K... là là… thời da trắng ám sát da đen, khi Nam Bắc phân tranh bên xứ Mỹ. Không có ở đây! Biết không?
                    - Thì… thì em thấy mấy ông du kích nầy có khác chi…
                    - Xuỵt! Mầy có câm ngay cái miệng ưa bép xép không!?
                    - Em không biết, mới hỏi chút xíu, anh làm gì dữ vậy!
                    - Coi chừng cái... bản mặt đó. Thấy thì biết.

                    Nghe hai cháu nhỏ “nóng ruột” từ lời nói, còn tôi “lộn ruột ứa gan” từ trong tim! Thành phố khiêm nhường bé nhỏ nầy đã trở nên trơ tráo hơn khi có “quân giải phóng miền Nam” tới với những thứ lạ, thứ mới, có ít thứ tốt và nhiều thứ xấu, lắm thứ dữ: Một ông già chệnh choạng thất thểu bước thấp bước cao, và mấy thanh niên đứng xớ rớ dưới cột đèn mờ mờ. Ông già ấy đã bị móc túi, không còn giấy tờ tùy thân, không có tiền xì ra.

                    Cha con ông cháu nói dai, ú ớ van xin lằng nhằng lải nhải gì đó, liền bị một du kích địa phương dùng báng súng đập ông già bể một mé đầu, vọt máu tươi. Tên du kích ấy bắt ông già bó gối, hai tay đan vào nhau chấp lên đầu chung với đám thanh niên: Khổ thiệt, ở thời buổi giao thời nầy, sao ông dám mở miệng phân bua, với ai hì! Bị thương ngoài da rồi sẽ có ngày lành, nhưng tổn thương trong lòng dù không ai trông thấy (dù chuyện không đáng), nhưng đau dài lâu. Luật tức giận cành hông, anh dợm đứng lên nhảy ra can thiệp, nhưng Ngọc nhanh tay lôi giật Luật, ra dấu im re nằm xuống câm mồm, coi chừng đầu không phải phải tai. Ông lẩm cẩm không nhớ cho:
                    Phong lan, phong chức, phong bì.
                    Trong ba thứ ấy, thứ gì quý hơn?
                    Phong lan ngắm mãi cũng buồn.
                    Phong chức thì phải cúi luồn vào ra.
                    Chỉ còn cái phong thứ ba.
                    Mở ra thơm nức, cả nhà cùng vui.
                    (2)

                    Cổ họng ai nấy đều đắng nghét như ngậm vốc trà khô. Trà đắng có thể không thích nghi với thổ địa bởi tại phong sương, hoặc trà chát, chua, bởi tại tình người? Vã chăng, khi chiều chúng tôi nhìn “mấy tên 30”, hoặc ngó ai ai thì cũng thấy họ tò mò nhìn sững mình không chớp mắt, chả biết đâu là thù, mô là bạn! Nhiều người ra vào ở phòng trọ nầy mặt lạnh như tiền. (Chớ tôi có tật gì mà giật mình)!? Đúng. Một số ít dân cách mạng lâm thời đội mũ tai bèo, mang súng AK trong buổi giao thời, bên cánh tay cột khăn vải đỏ, cổ mang màu cờ nửa xanh nửa đỏ, họ hầm hầm ngó chúng tôi trừng trừng, nhìn muốn nổ con mắt, muốn trợn trừng tráo trưng con ngươi mà ăn tươi nuốt sống.

                    Nếu ví như có những điều tự trong thâm tâm qúy vị đang vui tươi, trong sáng, bỗng một sớm một chiều trở nên sụp đỗ, âu sầu, băn khoăn, suy tư, lo lắng, bâng khuâng ray rứt về cái ngày 30-4; ngày lịch sử bất hạnh là: một giòng chảy không bao giờ chảy ngược lại! Hoặc giả qúy vị hay tôi muốn cầm bút viết lại, nói ra, lượt thuật, lượm lặt sưu tầm đó đây, nhã ý là: do ta chỉ ước mong bộc lộ những uẩn khúc quá đau lòng tự thâm tâm {trong đời sống thực. Có lần tôi đã nói: “tôi không hề lên án ai, xúc phạm ai, bới móc ai điều gì! Cho dù con người ấy, xã hội ấy sau 30-4-1975; đã đả thương tôi đớn đau trầm trọng cách mấy chăng nữa!

                    Tôi rộng lượng bỏ qua & tha thứ. Vâng)}! Thì xin qúy vị tha cho tôi, đừng vội thẩm định tôi khuynh tả hay thiên hữu: Do thân tình ghi lại loạt chuyện (mà bạn TtTm hoặc tôi kể) để con cháu ngày ấy chưa thành nhân, thành danh; ngày nay sẽ hiểu rằng: Tình Đời và Tình Người cần thiết, dù có tiền rừng cũng không thể mua được thanh danh. Hũy hoại thanh danh dù một lần, một ngày làm mất danh dự, nhưng đã lưu lại suốt đời.

                    Nếu tôi hoặc bạn tôi cố chấp, thì chẳng khác nào như con chuột, con dơi vắt mình trên cành: Con dơi chỉ thấy một phần nhỏ xíu dưới cành, mà chẳng thể nhìn thấy cả toàn cây. Con chuột chỉ là con vật loắt choắt tẻo teo, chuyên đi phá phách, hại ruộng hại đồng cây cối nhà cửa, dù nó có uống nước trong, hoặc mò mẫm lặn lội húp nước đục, thì chỉ no được cái bụng bé tí teo. Chuột vẫn là giống chuột lủi tanh hôi, có khi truyền đến ta bệnh dịch hạch nguy hiểm đáng sợ. Chuột nhớp nhúa không thể làm điều gì cao sang, ích lợi cho đời.

                    Bây giờ thì nó có hóa thân làm con chuột hét ra tiếng người cốc lốc, lấc xấc mà thị oai, có hét tướng lên trong màn đêm u tịch, càng khiến người rất sợ hãi, không dám hó hé dáo dác len lén nhìn quanh, mà phải nằm im ru câm họng trong mùng lim dim hi hí ngó trộm. Con cháu tôi nghe, thấy rõ, đã biết sự hung ác kia... thì bây giờ con nên tôn trọng nhân cách sống, cư xử với nhau hòa ái, bao dung, vị tha; vẫn trân qúy đáng ngưỡng phục, hơn sự thô lỗ bạo tàn rợn người.

                    Có miệng không nói lại câm.
                    Hai hàng nước mắt chan dầm như mưa.
                    Mang danh Dân Chủ Cộng Hòa.
                    Đi ra khỏi tỉnh phải qua cửa quyền.
                    Xuất trình giấy phép liên miên.
                    Chứng từ thị thực ở miền nào qua.
                    (2)
                    Khoảng mười hai giờ khuya, có một toán choai choai dé dé xíu xíu bặm trợn khác lại xồng xộc vô nhà trọ, vếu váo tốc ngược mùng của mọi người lên, chúng giựt giọng gọi những khách trọ đêm dậy để kiểm soát giấy tờ tùy thân. Qua nhiều thủ tục khám xét gắt gao, những túi hành trang vải, (mà tôi đã may hôm 28-4-1975). Họ lừ mắt trợn ngược, hất hàm chĩa súng vô bụng, gặn hỏi khách trọ cộc lốc đủ thứ chuyện không có chủ từ danh từ:
                    - Tránh qua bên kia, đứng xếp hàng.
                    - Trước ở đâu?
                    - Làm gì?
                    - Nay đi đâu?
                    - Đưa coi giấy tờ.
                    - Còn có gì dấu đút ở đâu không?
                    - Có lệnh không được đi đâu hết.

                    Nhóm tôi nói láo: hồi trước gia đình đã sinh sống ở Phú Quốc. Nay có tự do, hoà bình, thì chúng tôi muốn về lại chỗ cũ sinh sống:
                    Trăm năm trong cõi người ta.
                    Ở đâu cũng được đi ra đi vào.
                    Xa xôi như xứ Bồ Đào.
                    Người ta cũng được đi vào đi ra.
                    Đen đủi như Ăng Gô La.
                    Người ta cũng được đi ra đi vào.
                    Chậm tiến như ở nước Lào.
                    Người ta cũng được đi vào đi ra.
                    Chỉ riêng có ở nước ta.
                    Người ta không được đi ra đi vào.
                    (2)

                    Người ta nói: Ông Trời có mắt nhưng do ổng ở xa lắm, nên có mắt cũng như mù! Úi Trời đất thánh thần thiên địa ơi! giờ nầy qúy ngài hiền đức thánh nhân ở trên thiên đình: lo đi rong chơi, ngao du nơi biển sâu sông dài núi cao nào rồi!? Sao qúy ngài không cúi xuống nhìn đám dân giả dưới trần gian của qúy ngài đang rét run, sợ té khói ra đít nè! Đã thế mà trời còn mưa giông gió bão! Khi Trời gieo sấm sét đánh chết người, thì thiên hạ nói:
                    - Do người ấy ăn ở ác, không có đức, nên bị Trời đánh.
                    - Hứ! Vậy chớ ông Trời làm sét đánh chết người, thì không ai nói là ông Trời ác hì!

                    Bốn giờ khuya, toán du kích già dặn kinh nghiệm thứ ba mặt mày đằng đằng sát khí, súng ống lăm le chĩa ra đằng trước ngực khách, đạn lên nòng róc róc róc… rắc rắc rắc... réc réc réc..., ngón trỏ hắn đặt trên cò; họ lại dựng đứng khách trọ ra khỏi mùng, để “hỏi cung”. Chúng tôi sợ mấy cha nội không rành về súng ống đạn dượt, ưa tháy máy tay chân, thích “bụp” liền, thích “đục” , thích “nẻ” bậy vào dân ngu khu đen, thì chết toi cả đám oan đời. Tôi ngồi co rúm, không dám hó hé, xép re im thin thít trong một góc nhà trọ, lẩm bẩm đọc kinh cầu nguyện mà run như cầy sấy. Vậy thì tôi chẳng biết “ai” ác hơn ai hở Trời!
                    Hãy đến bất cứ nhà nào.
                    Chị em không việc cũng vào cũng ra.
                    Thật là ngứa mắt chúng ta.
                    Nhưng thôi cứ để họ ra họ vào.
                    Không thì “cửa sắt” họ rào.
                    Anh em đố có dám “vào” dám “ra”
                    . (2)

                    Một đêm có tới ba lần bị kiểm soát! Tửng bưng gần năm giờ sáng thì tốp dân ở Phú Quốc cặp tàu vô đất liền. Sau đó, cả lán trọ được biết là tù-phạm sau ngày 30-4 ở ngoài Phú Quốc đã phá ngục, có lớp người vượt ngục ra tù về đất liền, họ cầm súng giương oai đi quậy tưng trời, phá phách cướp bóc nhiều nơi. Cả đám di tản chúng tôi đang đứng xớ rớ bên góc cầu, may mắn Ngọc gặp ông ba của anh trên chiếc cầu gỗ lắt lẽo: Ông ba mừng rỡ ôm con trai vừa khóc vừa nói:
                    - Phú Quốc đã có nhiều trại tù nổi loạn. Cướp bóc tràn lan. Có những cuộc chém, giết, chạm súng gắt gao. Bọn mình phải quay trở về Đà Lạt ngay thôi.

                    Chúng tôi tứ cố vô thân ở xứ lạ quê người, nghe thế lại càng tăng lòng sợ hãi lên cao độ, phân vân băn khoăn hết sức. Nếu chúng tôi đi ra Phú Quốc, biết đâu: Ngoài đảo đang lộn xộn kinh khủng, thì tai ách giữa đàng lại mang vào cổ. Thế là chuyện đi Phú Quốc và từ nơi đó sẽ “đào tẩu” ra nước ngoài, nhưng... “em ơi nếu mộng đã không thành thì sao? Non cao đất rộng biết đâu mà... tìm!”.

                    Tất cả anh em chúng tôi như con ngố, rù rì to nhỏ xầm xì với nhau nửa tiếng Anh, nửa tiếng Pháp, pha tiếng lóng chêm tiếng Ba Chệt, tiếp theo ngôn ngữ Việt mà bàn tính: nên trở về Sài Gòn thôi. Dù sao ở thủ đô vẫn còn có bộ mặt thị thành văn minh, còn có tai mắt quốc tế dòm ngỏ hầu vô cứu nhân độ thế!

                    Chuyến đi Rạch Giá mong ước lẽn ra Phú Quốc nơi ấy còn vùng vẫy trong tự do độc lập. Nhưng thật vô duyên hết chỗ nói. Háo hức hân hoan hy vọng ra đi. Đến nơi Rạch Giá chứng kiến cảnh mắt thấy tai nghe bọn oắt con nhỏ bằng con cháu mình hung hăng, thô thiển, xất xượt “lên mặt” đánh đấm răn dạy cha chú. Tôi chong mắt trông trời mau sáng, để quày quả trở về nơi vừa mới bỏ đi. Có phải chúng tôi sẵn tiền, hay đã trở thành kẻ du mục dị ứng thời cuộc đã bị tẩu hỏa nhập ma điên khùng, “lắc lư con tàu đi”... tìm tự do hạnh phúc!?

                    Giá mà hôm qua chúng tôi không gặp mấy tên du kích có đôi mắt trắng dã, có cái nhìn dữ dằn, hành động hung ác, ăn nói cộc cằn, thô lỗ. Thì chắc chắn sáng tửng bưng nầy cả nhóm tôi đã lên tàu thủy dong ra Phú Quốc lánh nạn rồi. Cũng có lẽ định mệnh an bài cho chúng tôi nên ở lại Sài Gòn đông vui, thì đời không cô độc, sẽ là nơi an tựa vững vàng cho tương lai cuộc sống của chúng tôi chăng?!
                    Khách ngoảnh mặt nghẹn ngào trông nắng đổ.
                    Nghe gió thổi như trùng dương sóng vỗ.
                    Lá rừng cao vàng rụng lá rừng bay...
                    Giờ khách đi. Tha La nhắn câu này:
                    - Khi hết giặc, khách hãy về thăm nhé!
                    Hãy về thăm xóm đạo.
                    Có trái ngọt cây lành.
                    Tha La dâng ngàn hoa gạo.
                    Và suối mát rừng xanh.
                    Xem đám chiên hiền thương áo trắng.
                    Nghe trời đổi gió nhớ quanh quanh... (
                    3)
                    *
                    (1) Thơ sưu tầm lượm lặt.
                    (2) ca dao
                    (3) Thơ Tha La Xóm Đạo – Vũ Anh Khanh.
                    ***

                    Tình Hoài Hương
                    Last edited by Tinh Hoai Huong; 04-26-2017, 01:14 AM.
                    Bút trần nào tả được lưu luyến!
                    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                    Tình Hoài Hương

                    Comment


                    • Giây phút nát lòng: Liệt Lão Đào Huy Ngọc


                      Dưới đây là hồi ký của một sĩ quan cao cấp của Không Quân VNCH vào mấy ngày cuối cùng dẫn đến ngày 30-4-1975. Như cuối bản hồi ký ghi lại, nhiều phần, nó đã được viết từ năm 1998 và mới đây được phổ biến lại trên Internet. Tác giả thiên hồi ký này còn trí nhớ thật tốt nên tường thuật lại khá nhiều những chi tiết của những ngày cuối cùng tại Bộ Tư Lệnh Không Quân.
                      ***

                      Giây phút nát lòng:
                      Liệt Lão Đào Huy Ngọc



                      Tôi thật muốn quên cái ngày đen tối đã qua, cái ngày mà cái hèn, cái nhục, cái bất ưng đã ám ảnh tôi đến mãi ngày nay. Nhưng cứ mỗi lần tháng tư đến nó lại ray rứt trong tôi, nó nhứt định làm khó tôi, kéo tôi sống lại ngày ấy, cái ngày mà phản đồ A 37 oanh kích phe mình.

                      Vào lúc tan việc, mọi người đều lo miếng cơm chiều lòng tôi như lửa đốt, tôi vội một mình lái xe về Tân Định thăm mẹ tôi mang bệnh tim, sống một mình ở một căn phố thuộc khu xóm Chùa. Gặp tôi còn nguyên quân phục tác chiến, mẹ tôi mừng mừng tủi tủi, không muốn xa tôi, cầm tay tôi nói:
                      - Con cấm trại triền miên, mẹ không yên tâm. Hay để mẹ vào TSN cho mẹ con còn được có nhau.
                      Tôi vội quay mặt tránh cho mẹ tôi khỏi nhìn thấy cái đau lòng đang nhạt nhòa mắt tôi. Tôi từ tốn thưa:
                      - Mẹ! TSN là nơi chinh chiến, con để mẹ sống ngoài khu quân sự cho được an toàn. Chiều chiều con sẽ chạy về thăm mẹ, lúc nào tình hình bớt căng thẳng con xin rước mẹ về gần con.
                      Nói xong tôi móc nguyên bì lương tháng tư tôi vừa lãnh trao hết cho mẹ tôi, để người chi dụng rồi vội cáo từ trở lại TSN. Tôi không ngờ chính lần gặp nầy lại là lần cuối tôi thu nhận hình ảnh mẹ tôi vào trong lòng.

                      Tôi định đi tắm. Mới cởi được cái áo thì nghe nhiều tiếng nổ lớn phía SĐ5KQ. Nhìn lên trời, A 37 nhào lên lộn xuống. Nhìn xuống đất, vọng vào sân bay, từng cụm khói đen bốc cao. Không chút do dự tôi vội xỏ tay áo một bên, một bên còn để trần, lái vội xe vào BTLKQ.
                      Dọc đường mọi người tất tả chạy ra, riêng mình tôi ngược vào, súng liên thanh lớn nhỏ nổ ran. Thấy tôi ngược dòng thác người, có mấy anh em thuộc quyền xưa cũ vội chận tôi lại:
                      - A 37 dội bom, VC đánh tới, mọi người thoát thân sao ông lại chạy vào. Ông ơi ! hãy quay xe ra đi.
                      Tôi chẳng anh hùng gì, gan dạ hơn ai, nhưng nghĩ đến trách nhiệm tôi đã lắc đầu:
                      - Các anh hãy chạy đi, tôi phải vào chỉ huy phòng thủ. Nói xong tôi rồ máy phóng vào TLB. Lính Hành Dinh nghiêm chỉnh canh gác. Cổng BTL, ngựa sắt đã kéo ngang. Tôi hỏi:
                      - Các Tướng đâu?
                      - Trong Đại Sảnh. Lính gác nói vội.
                      Đậu xe trước tiền đình, tôi phóng xuống gặp ông Lượng vận phi bào vừa bước ra, tôi hỏi:
                      - Các ông ấy đâu ?
                      - Ở cả trong đó, ộ Lượng trả lời.
                      Tôi yên bụng, các Tướng Tàu bay còn đó. Thay vì vào gặp, tôi quay ra xem xét phòng thủ. Điểm quân số tôi chỉ có hơn Tiểu đội phòng vệ và ½ Tiểu đội QC. Tất cả ứng chiến trực đều vọt đi ăn chưa kịp đáo hồi đơn vị. Tôi ngao ngán nhưng vội quyết định nhanh:
                      - QC trách nhiệm TLB, bảo vệ Tướng lãnh. Phòng vệ ứng chiến, xử dụng vũ khí cộng đồng, chiếm lãnh cao điểm, nóc hiên Khối Hành Quân, phòng ngự mặt tiền TLB và cổng chính BTL. Số khác phòng ngự cổng sau hướng về khu có VC trong ủy ban Liên hợp 2 bên.
                      - Lệnh cho các anh “Tử Thủ”.
                      Thú thật, tôi ra lệnh để lấy tinh thần quân sĩ chứ chiến đấu gì với một lực lượng què quặt và không phương tiện truyền tin. Tất cả chỉ thị đều dung người chạy tới chạy lui như kiểu giao liên thời Du kích đánh Tây.
                      Thanh tra vị trí chiến đấu vừa xong, tình hình cũng vừa lắng dịu. Tôi lên trình diện TLB những toan phúc trình tình hình phòng thủ nhưng chẳng ai bận tâm! Người ngươì nhìn nhau đăm chiêu dường như trong thâm tâm mỗi người chỉ muốn buông rơi tất cả.
                      Ói ! Thần sắc không còn, dũng khí cũng tiêu tan, Đại Bàng đã “xệ cánh” !
                      Nhớ lại ngày nào, Mậu Thân đỏ lửa, hùng khí ngất trời, hiên ngang sấm sét, quét sạch cộng quân, sao nay bỗng dưng rũ liệt ! Buồn rơi nước mắt.
                      Tôi trông chờ một lệnh họp khẩn cấp, duyệt xét tình hình chung, lấy quyết định tối hậu: “Chiến” hay “Lui”. Chiến thì chiến ra sao ? Kamikazé ! ? Lui thì lui thế nào ? Có trật tự, tuần tự trước sau, “Không bỏ một ai” hay hỗn loạn mạnh ai nấy chuồn ! ! ?
                      - SĐ 5 còn nguyên C 130, C 119, C 47, Caribou, Trực thăng và cả phi đội nghênh cản F 5.
                      - SĐ 4 nguyên vẹn hỏa lực sẵn sàng ứng chiến
                      Tôi chờ lệnh. Tôi không có. Tôi trở thành anh lính chiến bộ binh trưởng đồn như ngày tôi xuất thân khóa 1 Thủ Đức bị ném về miền Tây, khu Đồng tháp, trông nom một đồn binh án ngữ ngã ba sông ngòi.
                      Tôi đã được học cầm quân một SĐ chiến đấu để rồi cuối đời lính tôi không chỉ huy được một Trung Đội. Tôi không nhận được một lệnh Hành Quân rõ rệt. Tôi đã bi bỏ quên. Không hiểu được ý định thượng cấp, Tôi chỉ còn biết chu toàn trách vụ của tôi, Tôi lo cho thuộc cấp. Tôi ước tính tình hình và lệnh cho quân phòng thủ:
                      - Chia nhau thay phiên ngơi nghỉ tại vị trí chiến đấu. Bây giờ yên tĩnh nhưng có thể đêm khuya, rạng sáng Địch sẽ “Tiền pháo hậu xung”, đó là chiến thuật cố hữu của chúng, lúc ấy cần đến các anh em đủ sức ngăn địch.
                      Tôi chẳng phải thần thánh gì mà biết trước ý Địch. Tôi tự đặt tôi ở vị thế của Địch thì tôi sẽ làm thế. Này nhé:
                      - Tôi biết TSN đã nằm trong vòng pháo của tôi.
                      - Tôi biết TSN là ngả rút lui cuối cùng của chính phủ và cơ quan đầu não VNCH.
                      - Tôi biết KQ/TSN vẫn còn khả năng gây tổn thất nặng nề cho tôi.
                      - Tôi biết KQ đã nao núng vì đã có những phản đồ gây bất an cho các căn cứ KQ.
                      - Tôi phải đánh, phải thanh toán sớm. Mất TSN kể như trận chiến Quốc Cộng chấm dứt.

                      Saigon đã bị vây chặt. Kế hoạch lấy QK 4 trường kỳ kháng chiến không có, không thấy vùng 4 chuẩn bị. Chính trường bấy nhậy còn mải dằng co giữa cụ Hương và Big Minh, giữa sự trốn chạy trách nhiệm trước lịch sử của Tổng Thống và Quốc Hội.
                      Xem như thế, ấy mới chỉ phân tách sơ lược thôi, là tôi, là anh, nói chi đến VC, cũng phải ra quân dứt điểm. Cho nên việc đến đã đến. Khoảng nửa đêm về sáng rạng 29/4 Cộng quân đã pháo loạn TSN.
                      Tôi và một QC tùy tùng thám sát phòng thủ thì pháo cộng chớp nhoáng trên đầu. Chú QC xô tôi nằm xuống và lấy thân đè lên bảo vệ cho tôi đồng thời tâm sự:
                      - Giờ thứ 25 rồi, ông có sao thì đất nước cũng không còn. Nói dại ông chỉ trúng thương thôi, ai ở đó chạy chữa cho ông. Các bác sĩ đã vắng cả rồi. Ông hãy thôi thanh sát. Các anh em đã yên trong vị trí chiến đấu rồi. Ông cứ khơi khơi xổng lưng giữa mưa đạn đâu có lợi ich gì trong lúc nầy.
                      Mình thường tự tôn đánh giá thấp sự hiểu biết và dũng cảm của em út. Ở trường hợp khói lửa ngút ngàn, Tôi đã thấy ở họ có những suy xét hữu lý. Họ không trốn chạy, họ vẫn theo gót chân mình, họ góp ý cho quyết định của mình.
                      Tôi do dự rồi vỗ vai chú QC:
                      - Tôi cám ơn anh đã lấy thân che cho cấp chỉ huy, Tôi cũng cám ơn anh đã nghĩ cho cái an nguy của tôi. Tôi không ra tuyến phòng ngự thì ai là người nằm đó tử chiến. Sống chết có số! Anh hãy quay lại TLB, để tôi đi.
                      Chú QC đã không trở về vị trí chỉ định. Chú cứ nhất định lẽo đẽo theo tôi. Pháo cộng vẫn chốc chốc nổ đều. Tôi nghĩ chẳng may chú QC trúng đạn còn tôi thì không, hẳn tôi sẽ ân hận, chỉ vì tôi mà chú ra nông nỗi, vợ con chú cũng vì thế mà thêm tang tóc, điêu linh trong khi “Đất” vẫn mất, mình vẫn cửa nát nhà tan, gia đình ly tán. Tôi quyết định bỏ dở thanh sát tuyến phòng ngự và quay về ngồi thẫn thờ trước tiền đình TLB mặc cho pháo nổ đó đây. Pháo đã rơi vào khu nữ quân nhân và một quả rơi vào khu nhà “Môn Lù” (QC) ngang sân banh BTL (May cho Môn Lù đã cõng vợ con biến dạng qua DAO từ mấy ngày trước). Sức nổ vang dội lồng ngực. Một miểng hỏa tiển to bằng 4 đốt ngón tay chập lại văng lóc cóc trước mặt tôi, lượm lên còn nóng rẫy. Tôi đem vào phòng Hành Quân Chiến Cuộc báo cáo cho biết VC đang nhắm BTLKQ khai hỏa để các vị lo ẩn nấp kỹ hơn.
                      Tôi đã nhận được “Cái Búa”. Phải, Cái Búa ! Cụ Võ (TMT Võ Dinh) qua hệ thống Truyền Tin nghe
                      được báo cáo hoảng của Phòng Thủ Căn Cứ: “Phi cơ bỏ bom” (Họ đã nhầm lẫn phi cơ phóng pháo của mình đang phản kích bay trên vùng đúng lúc cộng pháo) nên gay gắt với tôi:
                      - Phi cơ bỏ bom chớ pháo kích gì.
                      Tôi uất nghẹn, tay còn cầm miểng hỏa tiễn, lặng lẽ quay ra. Tôi không hiểu sao lại không tin tôi, người ở Tuyến phòng ngự, đã mục kích lại có cả bằng chứng trên tay thế mà không được lắng nghe, lại tin nghe báo cáo hoảng của một anh lính nào đó. Có lẽ đấy là vận nước đã đến hồi đốn mạt!
                      Hừng sáng thấy rõ mặt người, VC cũng đã ngưng pháo, tôi mới lững thững ra trước Cổng BTL quan sát tình hình thiệt hại trong đêm. Vừa bước ra ngoài “Ngựa sắt” một quả pháo ở đâu đã nhoáng nhoàng bên kia đường, khu ông Kỳ, hất rơi cả mũ tôi. Tôi vội lui vào phòng trực TLB (gần cổng chính) và nghĩ rằng đâu đây đã có “Tiền sát” Cộng quân điều chỉnh tác xạ. Tôi đã nhìn lên lầu nước trong khu ông Kỳ thì thấy thấp thoáng bóng người. Tôi không rõ phải lính của Lê Ngoạn (Trưởng Cận Vệ Ô. Kỳ) hay một tên “lộn sòng” VC nào đó. Tôi không có phương tiện truyền tin giữa các lực lượng phòng thủ khu vực để kiểm chứng.
                      Tôi đã chỉ huy trong vô vọng. Tôi nghĩ tôi vô phước nhưng khi biết được cái dũng cảm chiến đấu cho đến lúc “Cá chậu chim lồng” của con Đại Điểu Phùng Ngoc Ẩn và các KQ thuộc CTCT thì tôi lại là người có diễm phước vì tôi chưa phải nếm “đòn thù” như các anh mà chỉ nếm “cái xuẩn” của bạn mình thôi.
                      Tôi không muốn làm “con mồi” nhử cho Cộng quân pháo bừa vào BTL, tôi lặng lẽ lui vào phòng Hành Quân Chiến Cuộc nghe thuyết trình buổi sáng. Tin tức rời rạc không gì rõ rệt (còn ai đâu báo cáo, QĐ 3 đã gẫy súng !) Đang ngồi âu lo cho số phần Cộng Hoà sắp dứt thì được điện thoại của ông Hiệp trố (ANKQ) hỏi bây giờ làm sao? Tôi mạn phép Tư Lệnh khuyên nhỏ:
                      - Hãy thu xếp vào ngay BTL. Có thể rút bất kỳ lúc nào. Nói xong tôi cắt điện đàm. Ngồi kế tôi, ông Hà Dương Hoán hỏi nhỏ:
                      - Moa chạy về đón Bà cụ liệu có kịp không?
                      Tôi trả lời:
                      -Có thể không kịp. Tình thế quá khẩn trương rồi. Còn, mất chỗ nầy chỉ trong nội sáng nay thôi.
                      Nghe thế, Hoán rời BTL. Tôi không rõ ông ấy đi đâu, làm gì. Sau nầy tôi có tin ông ấy và ôn= g Hiệp đã có mặt tại Hoa Kỳ mà không phải qua các đợt “Cải Tạo”.

                      Khoảng 8 rưỡi 9 giờ, ông Tiên (Phan Phụng Tiên, người có lần được ông Kỷ nói là sẽ sai tới PX cướp rượu của Mỹ về đãi anh em) vào TLB gặp Tư Lênh, lo âu hiện rõ, sau đó bỏ đi. Ít lâu sau, ông Kỳ lái Riviera đậu trước tiền đình TLB, mở cửa xe bước lên Đại Sảnh, nét mặt cương nghị, dăm cọng tóc lòa xòa trước trán không dấu được phong trần thâu đêm trực thăng dạ thám, điều không, chỉ điểm mục tiêu cho Hỏa Long khóa mõm Đại pháo Cộng quân. Ông đã thảo luận riêng với “Cửu Long” (TLKQ Trần Văn Minh), lúc quay ra đã hỏi tôi:
                      - Ai chỉ huy phòng thủ ở đây?
                      Tôi nhìn xững trả lời:
                      - Tôi, sao ạ ?
                      Nghe xong ông hạ thấp giọng:
                      - Có tin được không ?
                      - Tin được cái gì cơ ? Tôi phân vân hỏi lại.
                      - Lính của anh đó. Ông Kỳ nói rõ hơn.
                      Lúc nầy tôi đã hiểu cái lo lắng của ông, tôi vội trấn an:
                      - Ông yên tâm. Có điều tôi không đoan chắc, nếu khi rút đi không cho họ rút theo thì phản ứng của họ tôi không lường được.
                      Ông Kỳ gật đầu ra lấy trực thăng bay đi, để lại Riviera nằm tại BTL.
                      Chuông điện thoại reo vang, Cửu Long bốc nghe và đáp:
                      - Khổ lắm, cả đêm đến giờ . . . !
                      Tôi không biết Cửu Long nói chuyện với ai. Điều chắc chắn không phải Tổng Tham Mưu Trưởng Liên Quân vì vị nầy đã xa rời quân ngũ mấy ngày nay rồi, cũng không phải Tổng Thống hay Thủ Tướng hay Bộ Trưởng Quốc Phòng vì các vị nầy còn đang bận nghi thức trao quyền cho Big Minh lập chính phủ nói chuyện với “Mấy người anh em bên kia”. Đây hẳn là bạn bè trang lứa thăm hỏi tình hình.
                      Chốc lát sau, cựu Tham Mưu Trưởng Liên Quân N.V.Mạnh cùng với cựu Tư Lệnh QĐ 3, Trưởng Ủy Ban Quân Sự Liên Hợp 2 bên Dư Quốc Đống tất tả vào gặp Cửu Long , kế đó 2 vị và Cửu Long ra đi, gặp tôi còn vững tay súng trong y phục phi hành ngoài thêm áo giáp. Tôi đưa tay chào nghiêm túc, quân cách, trước Tiền đình TLB. Thấy tôi Cửu Long chào trả, ngập ngừng chân bước, ái ngại nhìn tôi và đột nhiên dứt khoát:
                      - Toa ở lại đi sau với Lành nghe!
                      Nói xong Cửu Long vội bước mau ra xe đã chờ sẵn, mặt buồn rười rượi. Tôi khẽ gật đầu ngụ ý chấp nhận số phần ở lại. Tôi suy nghĩ mông lung dẫu sao lời nói cuối cùng của vị Tư lệnh còn ngập ân tình với tôi, còn nghĩ đến và mong tôi cũng ra đi được cùng với người chỉ huy đoạn cuối.
                      Tôi với Cửu Long là bạn học thời Trung học, rồi Cao đẳng Công chánh và sau đó cùng động viên nhập trường Sĩ Quan Trừ Bị khóa I Thủ Đức. Ra trường mỗi đứa một nơi nhưng rồi tôi với Cửu Long lại có duyên cùng một quân chủng. Cho nên vào cuối đời binh nghiệp trước cảnh phân ly, sống thác chưa lường, Cửu Long đã dùng lời lẽ ân tình đãi ngộ người bạn quen biết từ thuở sơ thân tuổi học. Tôi không bao giờ quên anh ở giờ phút luyến lưu tình nghiã này. Tôi vốn đa cảm mà anh ấy lại thường chí tình với tôi. Những lúc bất ưng ảnh thường xa xôi mát mẻ với tôi chứ không ỷ quyền hành hạ tôi. Trên bước đường lưu vong, sa cơ thất thế, biết tôi trốn tránh cảnh đời, lặng lẽ nuôi con, giúp vợ, anh đã nhiều lần tìm viếng thăm tôi nhưng không gặp, ảnh cũng chẳng phiền mà chỉ: “Đ.M. nó lặn rồi!”. Gần đây tôi lên tiếng mời anh qua chơi, anh đã thư cho tôi hẹn có ngày sẽ qua bù khú với tôi cho thỏa tình 50 năm quen biết. Tôi thúc dục, ảnh bảo:
                      - Lúc nầy moa đi đứng bất tiện nên chưa thăm ông bạn già được, cho moa khất hẹn, khi thuận tiện nhất định chúng mình sẽ bù khú bên nhau. Lúc nào có vào đất liền nhớ ghé thăm nhau nghe.
                      Cái ngày hẹn gặp, nay đã chẳng bao giờ còn gặp, còn thấy lại nhau, kể cho nhau nghe cái ngày ly tan ấy để cho nhau thẩm thấu thêm cuộc đời nó vừa đen vừa bạc! Ảnh đã vỗ cánh vút cao tiên cảnh. Tôi còn chới với hồng trần chưa giải xong cái ấm ức trong tôi, giữa tôi và ảnh, giữa ảnh và những người bao quanh xum xoe ăn hại đái nát.
                      Lòng tôi còn đang đau nặng phút phân ly thì “Cụ Võ” (Võ Dinh) và “Cụ Hách” (TTHLKQ Nguyễn Oánh), 2 vị tay nặng chĩu “Valise” hặm hở bước ra, bương bả (Võ Dinh và Nguyễn Oánh là hai sĩ quan bộ binh được Pháp chuyển qua khi KQVN được thành lập) . QC nghiêm chào. Tôi nghiêm mặt quan sát, lòng thầm trách:
                      - Thế là cái quái gì ! Ai lại sách tế nhuyễn khơi khơi trốn chạy thế kia?
                      Còn đang bàng hoàng trước phong thái hết nhuệ khí của 2 cụ, tôi đột nghe:
                      - Cho tôi cận vệ !
                      Một lệnh chắc nịch không chút ngượng ngùng. Lúc ấy cộng quân mà nổ súng dứt điểm thì chắc chắn tôi mời 2 cụ đi chỗ khác chơi cho quân binh chúng tôi diệt Cộng. “Cọp chết để da, Người ta chết để tiếng” nhưng Cụ Võ” chẳng chịu để tiếng. Cụ Hách chắc thầm hiểu cái “không phải” nên biết thủ khẩu như bình.
                      Tôi với 2 cụ chẳng lạ gì nhau thế mà một lời ly biệt chẳng thấy tạ từ. Tôi và quân sĩ của cụ đang ở ngưỡng cửa cái sinh và cái tử, cụ chẳng chịu cùng chúng tôi giữ cái “danh tiếng muôn đời” nỡ nào cụ đòi lấy đi bớt những tay súng vốn dĩ đã nghèo lại dồn tôi phải chịu cái eo.
                      Lệnh cụ ban. Tất cả đều im lặng.
                      QC túc trực, Đ/U Trâm chỉ huy phòng vệ thuộc quyền tôi, ngơ ngác nhìn tôi, ngỡ ngàng, chờ phản ứng của tôi, vị chỉ huy trực tiếp đã gian nan chia xẻ những nhọc nhằn với họ suốt từ lúc phản đồ A 37 (Nguyễn Thành Trung) vung vít xuống đầu anh em.
                      -Những tên phản đồ nầy đừng tưởng được “lưu danh thiên cổ”, các chú đã “lưu xú muôn đời” có hiểu không ?
                      - Họ (QC + Đ/U Trâm) đã tìm thấy vị trí của họ, họ đã đứng hẳn sau lưng tôi, họ không còn thói xu nịnh cố hữu bọc theo Tướng như lúc an bình. Họ không nhúc nhích.
                      - Cho tôi Cận vệ “escort” (hộ tống) tôi đi, nghe không?
                      Cụ Võ (vẫn cụ Võ) đã hung hăng lập lại lệnh “Hèn” (xin lỗi cụ!). Tôi không còn thầm trách, tôi cũng chẳng còn thấy giận. Tôi đã hiểu đến giờ phút này thế là xong. Tuyệt vọng ! Gương bỏ ngũ đang Diễu Võ Dương Oai. Quân sĩ tinh thần đang giao động mãnh liệt, chỉ cần một tiếng súng, không cần rõ ai khai hỏa, Quân sẽ tan từng mảnh, chúng sẽ chạy vì Tướng đã chạy trước rồi! Trí óc tôi làm việc nhanh. Tương kế tựu kế, đánh tháo đàn em, cứu chúng thoát vòng trách nhiệm của cái “Vô trách nhiệm”. Tôi dõng dạc ban lệnh:
                      - Đ/u Trâm và QC “theo sát” cận vệ. Đi đi “đừng rời trách vụ”.
                      Tôi ngụ ý: “các anh hãy nắm lấy cơ hội này theo Tướng thoát đi”. Tôi nhìn nhân viên với ánh mắt thông cảm và khẽ gật đầu phất tay cho họ đi thoát. Họ đã chào tôi lần cuối, có thể là cái chào tri ân. Tôi mỉm cười, quay bước vào phòng tình hình, lúc này chỉ còn ông Linh, ông Lành. Óng Lượng đã đi đâu lúc nào tôi không biết. Được một lúc khoảng hơn mười giờ gì đó, ông Ước đáp trực thăng trên sân banh chạy vội vào gặp ông Lành, xong cùng ông Linh trở ra kéo luôn tôi theo, miệng nói:
                      - Đi mày.
                      Tôi nhìn Linh xong quay qua hỏi Ước:
                      - Đi đâu ?
                      - Qua Tổng Tham Mưu xem tình hình ra sao Ước nói vội và nắm tay tôi lôi đi.
                      Vũ Văn Ước là thế, đối với anh em lúc nào cũng tận tình, không tìm cách dối gian, không quên bằng hữu, không bỏ bạn bè. Tôi và Ước đã từng âm thầm vượt qua những lúc khó xử của chính biến và binh biến. Vào những thời điểm đó chúng tôi chỉ lặng lẽ nhìn nhau, hiểu ý. Ước không đón gió, xu thời. Anh luôn luôn đứng bên lẽ phải, hòa đồng với mọi giới, không hách xì xằng khi đắc thời. Anh rất nhậy bén tình hình. Hẳn nhiên anh đã cảm thấy cái gì không ổn nên đã tìm gặp ông Lành rồi lôi tôi đi vì chẳng yên lòng để tôi ở lại làm “Đười ươi giữ ống”.
                      Tôi, Ước và Linh lên trực thăng qua đáp tại sân cờ trước tiền đình Bộ TTM. Linh, Ước chạy lên văn phòng TTMT. Tôi không theo, bước xuống trực thăng ngó quanh quan sát một vòng, thấy Công binh chiến đấu đang đặt bộc phá, giây nhợ tùm lum tại Trung Tâm Hành Quân Bộ TTM. Đảo mắt chỗ khác thấy trực thăng Tướng Kỳ. Đàn em trước kia của tôi hiện là cận vệ ông Kỳ vội từ trực thăng nhảy xuống chạy đến tôi nói nhỏ:
                      - Trong giây lát trực thăng sẽ bay ra Blue Ridge (Soái hạm Đệ thất hạm đội Thái bình Dương của Hoa Kỳ), ông hãy lên cùng đi.
                      - Tôi hỏi Tướng đâu ?
                      - Họp trên Văn Phòng TTMT.
                      Tôi lững thững bước lại trực thăng nhìn vào đã thấy Hà Xuân Vịnh ngồi trên đó từ hồi nào. Tôi buột miệng:
                      -Lẹ vậy!
                      Vịnh nhún vai cười toét, không trả lời. Vịnh là văn nhân phải hơn, lúc nào cũng nhởn nhơ chẳng coi việc gì là quan trọng, chẳng thích hơn thua, kèn cựa thế mà lại là Hoa tiêu phóng pháo đã có Chiến thương bội tinh.
                      Tôi leo lên ngồi cạnh, suy nghĩ lung đến những lời tâm sự của ông Kỳ với các Tướng lãnh KQ anh em mấy ngày trước đó: “Tôi (ông Kỳ) đã tìm gặp và hội kiến với cụ Hương (đang hành sử chức vụ Tổng Thống VNCH thay thế vị tiền nhiệm vừa từ nhiệm trong hằn học) thỉnh cầu cụ chính thức chỉ định tôi giữ chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng Liên Quân cho tôi có đủ thẩm quyền chỉnh đốn hàng ngũ quân đội, lập thế ngăn địch, lấy QK 4 trường kỳ chiến đấu. Cụ Hương đã từ chối khéo, viện dẫn tôi đã từng là Thủ Tướng Chính Phủ và Phó Tổng Thống nên chức vụ TTMT Liên quân không hợp thể thống lễ nghi cho tôi. Cụ ấy yêu cầu cho Cụ ít ngày sẽ bổ nhiệm tôi làm phụ tá Quân sự đặc biệt giúp Cụ. Tôi giải thích, nhấn mạnh, tôi không quan tâm đến nghi lễ, tôi chỉ mong có cơ hội chỉ huy quân lực ngay giờ phút thậm chí “nguy ngập” này. Cụ Hương đã lắc đầu nhất định không trao quyền chỉ huy cho tôi”.
                      Phải, cụ Hương đã sợ, cả “Đồng minh chạy làng” cũng sợ ông có binh lực trong tay. Họ sợ sẽ không khống chế nổi= ông, làm sách lược của họ hư cả !!!
                      - Khốn nạn thay cho một nước nhược tiểu lại có một vị trí chiến lược trong vùng tranh chấp!
                      - Cũng khốn nạn thay cho Quân Dân miền Nam vô phước, gặp cảnh Quân cướp đã tới ngoài ngõ, lửa phừng phừng khắp nơi, trong nhà còn nghi kỵ lẫn nhau, phân tranh ngôi thứ!
                      Đang miên man nghĩ cho mạt vận của nước, mạt kiếp của mình thì ông Linh từ Tư lệnh Bộ/TTM chạy ra một mình đến bên trực thăng có tôi và Hà Xuân Vịnh đang ngồi đăm chiêu mỗi người một ý nghĩ, Linh cứ loanh quanh ở dưới chẳng chịu bước lên cùng chúng tôi. Tôi vội leo xuống lại gần Linh nhỏ to:
                      - Linh ! Kỳ sẽ rút ra Đệ thất hạm đội, hãy lên cùng đi. Hết cách thôi!
                      Linh dường như có điều gì bất ưng nên nhứt định không lên tàu. Tôi hỏi:
                      - Sao?
                      Linh nói:
                      - Thiếu gì máy bay.
                      Tôi vội báo động:
                      - Máy bay nào nữa, còn chiếc duy nhứt này thôi.
                      - Chiếc nữa kia kìa. Linh vừa nói vừa chỉ tay về chiếc trực thăng mà Tôi, Ước và Linh vừa đáp hồi nãy.
                      - Tàu còn đó, Hoa tiêu đã vội bỏ đi rồi (có lẽ họ đã hiểu đây là phút ly tan nên vội về lo cho vợ con).
                      Tôi nói với Linh thế là vì tôi đã thấy họ phóng Jeep ra khỏi TTM. Linh nhứt định không nghe, không lên tàu di tản. Tôi đành ở lại bên anh. Tôi không thể bỏ anh thoát thân một mình. Tôi ở lại chia sẻ số phần với anh vì ngoài tình quân ngũ, ảnh còn có liên hệ gia đình thật gần với tôi. Anh em sống chết có nhau. Hơn nữa tôi chợt nhớ còn ông Võ Xuân Lành vị chỉ huy đoạn cuối mà Cửu Long khi rời đơn vị đã căn dặn tôi đi cùng, tôi cần phải chu toàn lời nhắn nhủ lúc chia phôi.
                      Óng Lành với Tôi cùng bạn quân trường, chung một khóa học, nằm đối đầu nhau cùng một đơn vị khóa sinh. Lành ít= nói, suốt ngày lầm lì, kỷ luật gương mẫu, thương lính như thương mình, chẳng hề nạt nộ ai.
                      Vào những đêm cuối cùng cuộc chiến, Lành vẫn xuống văn phòng ứng chiến của tôi xoa mạt chược còm, chờ đợi kết quả các phi vụ Hành quân đêm chặn địch tại Long Khánh, Xuân Lộc. Ảnh đã mỉm cười khi nghe báo cáo “Qủa bom heo” (Daisie cutter) thả từ C.130 đã làm cóc nhái, ễnh ương (cộng quân) câm tiếng. Mặt trận Xuân Lộc, bình thường nhóc nhen, à uõm thâu đêm, nay bỗng dưng bặt tiếng yên lặng dễ sợ! Đột nhiên, quân bài chưa bốc, Lành đã vỗ mạnh tay xuống bàn, miệng hô “MỦN CUN” rồi đúng dậy, cười, quay về văn phòng của anh trên Tư Lệnh Bộ.
                      Tôi hiểu ý, cười theo, đứng dậy tiễn đưa.
                      Tôi còn đang phân vân bàn thảo với Linh những bước kế tiếp thì ông Kỳ từ Đại Sảnh Bộ TTM bước ra hướng về chổ trực thăng đậu chờ, dẫn theo số đông (Tướng lãnh?) bước rảo lên tàu cùng với Ước bay đi để lại tôi và Linh tự quyết lấy phận mình. Tội và Linh đồng thời cả Đặng Duy Lạc, Không Đoàn Trưởng KĐ-A37 (không biết từ đâu chui ra) vội gọi QC/TTM yêu cầu hộ tống chúng tôi trở lại BTLKQ.
                      Trong khi còn sớ rớ chờ QC lấy xe thì có mấy anh SQ P.2/TTM biết tôi vội chạy lại hỏi dò:
                      - Các Tướng đi đâu vậy. Ông có tin gì cho anh em biết với. Tôi ái ngại nhìn vẻ âu lo của các anh ấy và thẳng thắn nói toặc ý nghĩ của mình:
                      - Tất cả đã hết. Các Tướng đã cao xa. Các anh cũng nên tìm đường tự cứu.
                      Tôi không thể dối nhau vì mọi người đã lén lút dối nhau quá nhiều rồi. Tôi không hiểu tại sao lại phải dối nhau, nếu mình không lo được cái an nguy của nhau thì cứ đường đường, chính chính nói thẳng để anh em tự tính, có phải trong nhau không vẩn oán hờn. Nói xong xe QC cũng vừa trờ tới, chúng tôi 3 người KQ lạc lõng lên xe. Với tài xế tôi nói:
                      - Nhờ anh cho chúng tôi trở lại BTLKQ.
                      Xe rồ máy phóng đi, trực chỉ Cổng Phi Long, xạ thủ Đại liên trên xe cảnh giác cao độ khi tiến đến đám đông lẫn lộn quân dân bu nghẹt cổng vào. Cảnh vệ KQ, sau hàng kẽm gai, khẩn trương phòng thủ: “Nội bất xuất, Ngoại bất nhập”.
                      Tinh cầu lấp lánh trên vai, Linh cho lệnh mở cửa. Quân ta phớt tỉnh không nghe. Đặng Duy Lạc ngồi yên khúc gỗ. Tình hình thật gay cấn, quân dân hỗn độn, nếu cộng quân có măt trà trộn trong đám đông thì thương gì mà không tặng cho chiếc Jeep có Tướng Tá KQ đang kẹt cứng với quân mình một quả lựu đạn hay một tràng AK phong thần tụi nầy. Âu cũng là cái hay không còn thấy cái hèn, cái tủi thêm nữa!
                      Thấy ông Linh hết “linh” tôi bước xuống xe tiến thẳng đến chỗ anh KQ bất tuân thượng lệnh, điềm đạm ra lệnh không thiếu vẻ đanh thép:
                      - Em! Hãy mở cổng ngay. Đừng chậm trễ. Lệnh HQ khẩn cần thi hành. Mau lên!
                      Tôi chẳng hiểu cái “Uy” hay cái “Tình” của tôi đối với thuộc cấp thủa xưa đã khiến được anh riu riú vâng lời. Có lẽ cái “TÌNH” vì cả cuộc sống tôi chỉ biết lấy “TÌNH' đối xử với nhau dẫu cho tôi ở cương vị nào đi nữa. Trong đời Binh Nghiệp tôi đã thấy và gặp cái “VÔ TÌNH” có khi đến tán tận lương tâm của nhiều Quyền lực bệnh hoạn tâm hồn nắm quyền sinh sát trong tay… (Tôi đã đau buồn, tôi tủi phận tôi, tôi chỉ âm thầm ôm lấy cho riêng tôi.)… Cổng mở, Quân dân vội theo vào. Lính gác nổ sung chỉ thiên. Tôi vội ngừng xe bảo họ:
                      - Hãy cho các KQ và gia đình vào. Cần cảnh giác tối đa. Đừng để mất trật tự.
                      Nói xong chúng tôi vào thẳng BTLKQ gặp ông Lành. Ôi ! Hãnh diện thay! Niềm tự hào KQ đang ở chỗ này! Niềm danh diện QLVNCH cũng đang ở chỗ này! Tướng Lành, trước thế quân tan vỡ, quân binh đang đua nhau bỏ ngũ, ông vẫn trầm tĩnh kiên trì thủ Đài chỉ huy Hành Quân Chiến Cuộc KQ. Ông giữ vững liên lạc với SĐ4KQ, SĐKQ duy nhất còn hăng say chiến đấu trong khi nhiều Đơn vị đã vội ngừng nghỉ. Ông đang chờ lệnh tung toàn lực KQ còn lại đánh canh bạc chót.
                      Ông Linh tóm lược tình hình bên Bộ TTM cho ông Lành rõ. Ông đứng dậy rời Phòng HQCC bước ra tiền đình Đại sảnh mặt không lộ tâm tư. Ông Linh đề nghị rút khỏi TSN. Tướng Lành thật là “lành” nói với Linh trước sự hiện diện của tôi và Đặng Duy Lạc:
                      - Moa chưa có lệnh.
                      KQ vẫn đợi lệnh. Phải, chúng tôi vẫn đợi, vẫn chờ dài cả cổ suốt từ lúc mấy “tên mất dạy” làm chuyện lừa thầy phản bạn đến giờ. Chúng tôi chờ lệnh ai đây! Tổng Thống dân cử, Phó Tổng Thống dân bầu đã viện hết lý này lẽ nọ chối bỏ trọng trách toàn quân toàn dân trao phó, tìm thế yên thân, bỏ mặc quân dân tang tóc…
                      Thủ tướng chính phủ, Đại tướng Tổng Tham Mưu Trưởng chỉ còn biết nghĩ cho cái an nguy của riêng mình. Thật quả bất hạnh cho quân dân miền Nam! Mọi người đã bỏ đi cả rồi!
                      Tội cho ông Lành vẫn ngồi chờ lệnh. Mà lệnh của ai đây! Tôi buột miệng:
                      - Ông chờ lệnh ai, còn ai đây nữa để có lệnh cho mình.
                      Ông Lành trầm ngâm không nói, chúng tôi lặng yên chờ (lại chờ) quyết định của ông, chợt Tướng Lưỡng (dù) xịch Jeep đến, thấy tụi này còn đương nhìn nhau vội hỏi:
                      - Tụi toa định làm gì đây?
                      Ông Lành ngượng nghịu chưa biết phải nói sao cho đỡ khó nói. Lành là thế đó, lúc nào cũng sợ phải mang tiếng hèn nên chẳng có lời hèn. Tôi nghĩ khác, giờ này không phải đem cái “DŨNG' cái 'HÈN' mà luận anh hùng, giờ này phải là lúc có quyết định nhanh và dứt khoát.
                      Tôi nhận cái “Hèn” cho tôi. Tôi nhìn thẳng Tướng Dù nói nhanh:
                      - Tụi này Zoulou đây. Ông có theo thì cùng đi.
                      - Zoulou ? Zoulou bỏ lại mấy đứa con (ý nói các TĐ dù) lang thang sao đành! Ông Lành hỏi:
                      - -Toa còn mấy đứa con ?
                      Ông Lưỡng:
                      - Sáu đứa chung quanh đô thành.
                      Lúc này trực thăng Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đổ bộ và bốc người loạn cào cào không phận Saigon TSN. Tôi đỡ lời ông Lành:
                      - TSN không giữ được, KQ chúng tôi phải rút khỏi tầm pháo địch trước đã.
                      Ông Lưỡng vội hỏi:
                      - Tụi toa định rút đi đâu ?
                      Tôi lại nhanh nhẩu:
                      - Có thể vùng 4, có thể đi luôn.
                      - Chờ moa một chút, cho moa về thu xếp với mấy đứa con cái đã.
                      Nói xong ông Lưỡng lên Jeep về SĐ Dù. Nhân lúc chờ đợi Tướng Dù trở lại, các Sĩ quan cấp
                      KĐ, Tham Mưu BTL KQ hiện diện cùng với một số binh sĩ thuộc Tổng Hành Dinh KQ vội tập họp trước tiền đình TLB bao quanh chúng tôi nghe ngóng tình hình. Biết ý họ, tôi nói thật nói thẳng:
                      - Dưới áp lực nặng của Pháo cộng, BTLKQ buộc phải rút khỏi đây. Ai muốn theo hãy sẵn sàng.
                      - Thưa rút đi, đi luôn ạ. Một Hạ sĩ quan thuộc THDKQ hỏi lại.
                      - Hãy biết rút khỏi đây đã, có thể là vậỵ Tôi vắn tắt không giải thích nhiều hơn. Vị Hạ sĩ quan này đã không cầm được nước mắt buồn bã xin tôi:
                      - Cho chúng em ở lại vì chúng em còn vợ con không thể bỏ đi cho đành.
                      - Tùy các anh, tôi không ép buộc ai cả.
                      Chỉ có Th/sĩ Văn, chỉ huy trưởng QC/BTLKQ quyết chí theo chúng tôi. Một Binh nhì KQ gốc miền Trung bỗng lên tiếng:
                      - Thưa, tất cả đi rồi Em còn tiếp tục đứng gác Cổng BTL nữa không?
                      Tôi đau lòng thấy lính mình quá chân thật, vội nói lớn như muốn mọi người hiện diện cùng nghe:
                      - Kể từ giờ phút này các anh không còn trách nhiệm gì với KQ nữa. Các anh có thể rời đơn vị lo cho sự an nguy của vợ con càng sớm càng tốt. Còn em, tôi vỗ vai anh Binh nhì đơn thuần, Em không cần lo cho cái BTL bỏ trống này, Em hãy về nguyên quán.
                      - Thưa, Em chẳng còn ai, đường xá đã cắt đứt cả rồi.
                      Nước mắt chảy vào tim, tôi chỉ còn biết dúi vào túi người lính thiếu may này mấy tờ “tiền Lèo” để cậu ta có thể sống đỡ ít hôm liệu tính cho phận mình. Cùng lúc đó, Tướng Dù đã trở lại. Chúng tôi luận kế rút đi, khi xét kỹ lại không ai là Hoa Tiêu vận tải. Tướng Lành, Thảo Nâu, Đặng Duy Lạc đều là Hoa Tiêu phóng pháo. Ông Linh đề nghị qua DAO.
                      - SĐ5KQ thì sao? Tôi hỏi nhỏ Linh.
                      - Các Hoa Tiêu đã tự ý rút cả rồi (vì không muốn đưa lưng chịu thêm Pháo cộng nữa). Linh thở dài trả lời tôi.
                      Bây giờ tôi đã “hiểu” tại sao ông Tiên lên TLB gặp Cửu Long với nét mặt không vui và đầy lo âu hồi sáng nay. Sau phút suy tính, Vị chỉ huy đoạn hậu BTLKQ cho lệnh rút. Tất cả đã lên 3 Jeep, dẫn đầu bằng Jeep có đèn chớp ưu tiên trực chỉ DAO. Tới Cổng DAO, một dân sự Mẽo mặc áo giáp, M17 cầm tay chặn chúng tôi lại:
                      - General only ! Tên đó hách dịch ra lệnh.
                      Hai Tướng KQ một Tướng Dù bước vào trong rào kẽm gai, ông nào cũng đeo Browning 14 phát cạnh sườn. Tôi mặc áo liền quần đèo thêm áo giáp cũng lủng lẳng Browning ngang lưng, lững thững theo vào phớt tỉnh kể như không nghe anh Mẽo sủa gì, chờ tôi bước vào trong, anh mọi Da đỏ kéo kẽm gai khóa lối.
                      Một tiếng mách bu chói lói vang lên:
                      - There are only 3 generals. Three only!
                      Tôi quay nhìn ra mới hay ĐVR đang hận vì sao tôi không lon không mão lại được hưởng quy chế Tướng Lãnh ngang xương.
                      Ghen ? Ganh ? hoặc muốn ngầm ý nhắn với giặc Mỹ anh mới là người xứng đáng được qua ải sau Tướng vì anh, Chánh Văn Phòng Tư Lệnh KQ, đường đường một đấng cao sang !!! Tên Da đỏ chẳng có phản ứng gì, chắc còn đang tìm hiểu xem cái ông đeo 3 hoa bạc sáng ngời muốn lắp bắp cái gì hoặc thấy tôi phong trần trong quân phục phi hành tác chiến nên muốn đặc biệt đãi ngộ tôi. Ông Linh nghe tiếng ĐVR tiếp tục tru tréo vội gỡ sao của ổng, nói lớn trước sự chứng kiến của ông Lành:
                      - Anh hãy nhận “Sao” này. Vừa nói vừa gắn “Sao” cho tôi.
                      Tôi đưa tay chận lại vừa đùa vừa phân bua:
                      - Các ông nhớ đấy nhé. Vào giờ phút cuối cùng của KQ tôi đã lên Tướng, Tướng KQ. Đúng là Tướng Không còn Quân. Ông Linh dã không cười, ông Lành cũng không cười. Linh nói trong nước mắt:
                      - Giờ phút này anh còn đùa được sao ! Anh hãy nhận “Sao” đi.
                      Tôi lắc đầu, đồng thời quay ra, tự tay gỡ kẽm gai bước khỏi vòng phân ranh Mỹ-Việt. Anh Mẽo gác cửa chẳng hiểu cái anh phi hành bé người kia đã vào sao lại bỏ đi trong khi nhiều người muốn vào lại vào không được. Tôi mặc xác anh Mẽo nghĩ gì, tôi chỉ lo trấn an ĐVR:
                      - Tao không bỏ nhau đâu.
                      Linh thấy tôi bỏ đi, mếu máo, có lẽ đã hối hận để tôi kẹt lại trong khi tôi đã có thể cùng ông Kỳ thoát đi an toàn rồi, nên trước khi vào DAO đã nói vọng ra ngoài kẽm gai:
                      - Anh về hãy dùng đường bộ rút xuống vùng 4 với Tần.
                      Tôi nghĩ đó là đường tự sát vì giờ đây quanh Đô thành còn nơi nào Cộng quân không đóng chốt. Để Linh yên lòng đi thoát, thoát người nào vẫn may cho người đó, tôi an ủi:
                      - Linh, yên tâm, cứ đi. Tôi biết tự lo. Nhớ lo cho vợ con tôi, nếu có cơ hội.
                      Nói xong tôi vội nhảy lên Jeep và nói lớn với các SQ không phải là Tướng, lố nhố kẹt cứng trước Cổng DAỌ
                      - Chúng mình quay lại SĐ tìm phương tiện khác thôi.
                      Tất cả nhảy lên mấy Jeep đậu đó, lúc ấy tôi mới để ý thấy có ông Thảo Nâu, ông Thân Kiểm Báo, ông Đặng Duy Lạc, ông Chu Trọng Để, một số SQ cấp tá, cấp úy khác và lẽ dĩ nhiên có cả người anh em “mách bu”.
                      Dẫn đầu là chiếc Jeep có đèn hiệu chớp tắt do Th/sĩ Phan Thành Thiệt lái, kế là xe tôi đoạn giữa, xe lăn bánh hướng về phi cảng thì “Đoàng! Đoàng” mấy quả đại pháo nổ ngang trước mặt, Phan Thành Thiệt trúng thương (chắc nhẹ), xe đổi hướng lòn qua khu Cứu hỏa, vừa lú đầu ra khỏi thì “Đoàng! Đoàng” thêm mấy quả pháo giăng. Đoàn xe vội ngừng, tất cả nằm dài trên thềm cement tránh đạn.
                      Tôi suy nghĩ cớ gì đạn pháo lại đeo đuổi đoàn xe sát thế. Hẳn nhiên Tiền sát Cộng quân điều chỉnh tác xạ rồi, không biết chúng núp ở đâu? Trên Đài kiểm soát Không lưu? Trên lầu nước SĐ? Trên nóc nhà thờ Gò Vấp cận vòng đai phi trường? Chúng ở đâu mình không rõ nhưng chúng biết rõ mình ở đây, trong khu Cứu hỏa dân sự, đang phơi bụng chờ Pháo phanh thây. Chúng sẽ “salvo” vì chúng đã đóng khung mình rồi. Nghĩ đến đó tôi quyết định không nằm chờ chúng làm thịt, tôi phải thóat khỏi nơi nầy. Tôi nói lớn:
                      - Chúng ta hãy rời khỏi nơi đây. Cộng có thể đìều chỉnh pháo tới. Hãy tìm phương tiện thoát thân.
                      Nói xong tôi đúng dậy ra xe thì nghe tiếng Phan Thành Thiệt:
                      - Em không đi nữa. Em ở lại ăn thua đủ với chúng. Em đã trúng thương.
                      Tôi quay lại xem xét vết thương cho Thiệt, chỉ thấy vài đốm lấm chấm máu khô trên má, trên cổ, có lẽ do đá sạn cement văng trúng ngoài ra không có vết thương nào xuất huyết cả. Tôi bảo:
                      - Đi Thiệt, anh bị thương nhẹ thôi. Hãy theo tôi, ở lại không được đâu.
                      Thiệt cương quyết ở lại. Tôi đành lên xe ra đi. Trên xe có Thảo Nâu, Thượng sĩ Văn và một số sĩ quan chừng độ chục người đeo nặng thành xe. Xe vừa xiêu vẹo ra bãi đậu thì Cộng lại ẫm ương pháo, chỗ này đám khói, chỗ kia đám cháy. Tôi, Thảo, Văn đổ lỳ, cứ đi nghĩ rằng hôm nay là ngày lên ngồi bàn thờ cũng phải rồi. Thảo bảo tôi:
                      - Mình ra khu trực thăng, moa thấy nhiều lắm, đậu phiá gần phi đạo hướng Bà Quẹo đó
                      Tôi thắc mắc:
                      - Cậu ra khu trưc thăng làm gì ? Cậu khu trục thì đến khu trục chớ ! Cậu biết lái Trực Thăng à?
                      Thảo cười mũi:
                      - Tàu nào Thảo Nâu chẳng lái được. Óng đừng coi thường tôi chứ, Thảo Nâu mà ông quên rồi sao?
                      Bụng tôi nghĩ “Nâu” chỉ liên hệ với “Nắng” vì “Nắng” nhuộm Nâu hắn chứ ăn nhậu gì đến lái đủ loại máy bay, chẳng lẽ hắn Nâu vì dầu mỡ đủ loại máy bay nhuộm hắn, hắn lăn lộn với đủ loại tàu à ? Có lý ! Tôi khích hắn:
                      - Có thật không đó cha, Thảo Nâu lái khu trục thì biết rồi. Chapeau! Còn cái khác chưa biết à.
                      - Ông cứ tin tôi đi. Tàu gì tôi chẳng nhúng tay vào.
                      Thoáng chốc đã đến chỗ đậu Trực Thăng. Lên chiếc nào mở máy cũng không nổ. Tôi cười cười, hắn nổi xùng nhảy xuống mở thùng khám xăng, hết tàu này đến tàu kia. Tàu nào cũng khô ran.
                      Thảo Nâu thành Thảo Xám, hắn đù lu bù. Sau cùng hắn nắm lấy chú lính gác quanh đó chất vấn:
                      - Sao không có chiếc nào có xăng vậy hả. ĐM làm ăn sao vậy ?
                      Chú lính lắp bắp:
                      - Tại Tướng Tiên cho lệnh rút hết xăng khỏi tàu.
                      Tôi đã hiểu, ông Tiên sợ các người hùng bỗng dưng nổi sùng, Tập đoàn cất cánh về nơi vô định thì ông Tiên còn ai đâu để đàm đạo đánh đấm… ồng cũng có cái lý của ông vì thực ra khi ổng vào TLB gặp Cửu Long với nét mặt âu lo như gà mắc đẻ là lúc các Hoa tiêu Vận tải rủ nhau lên chiếc tàu C.130 xuôi “Thái Lan” giã từ Tổ Quốc Không “Gì-Ăn” nhập đoàn “Cái Bang” lang thang khắp chốn “Cờ Hoa” khất thực.
                      Chọn Trục Thăng thoát nguy không xong, Thảo Nâu chở tôi trên Jeep tìm Cessna. Gặp Cessna Thảo leo lên bảo tôi ngồi ghế phải. Hắn quay máy, máy nổ. Bỗng nhiên con tàu xao động dữ dội. Quan quân ở đâu nhiều thế, đang dành nhau lên tàu. Chú Văn (QC) vẫn theo sát tôi từ sớm cũng đã nhanh chân lên được ghế sau.
                      Cessna chỉ có 5 chỗ, 2 trước 3 sau, làm sao chứa trên chục người. Đeo toòng teng? Mặc kệ cứ đeo!
                      Thảo Nâu nổi thịnh nộ:
                      - Tàu chỉ đủ chỗ cho 5 người thôi. Tụi bay đeo đầy như thế bay làm sao được. ĐM tao chịu thua rồi đó.
                      Thảo Đù mặc Đù, chạy chết cứ chạy, Sĩ quan, Binh sĩ cứ lì, ai ngồi cứ ngồi, ai đeo cứ đeo. Tôi cảm thấy bất nhẫn, mình muốn đi lại bảo người ở lại, mình muốn tự do lại bảo người cá chậu, mình muốn thoát lại bảo người đừng theo. Tôi thấy xấu hổ! Rõ ràng mình trốn chạy lại bảo thuộc cấp ở lại cho mình dễ trốn. Nếu chở đủ cả chục người đeo trong đeo ngoài thì tàu làm sao cất cánh, cứ là rụng như sung, cái chết cầm chắc. Lỡ mình sống, thóat, nhưng thuộc cấp tan thây, nát thịt, chắc chắn mình sẽ sống không yên trong quãng đời bại trận còn lại. Lương tâm người chỉ huy chẳng bao giờ tha thứ cho hồn mình.
                      Tôi bất lực. Tôi cũng chỉ là người tháp tùng, chiếm một chỗ ngồi, mặc dầu tôi chủ xướng tìm phương tiện thoát thân. Tôi không thể lấy tư cách chủ xướng mà có được một chỗ ngồi an lành. Tôi cũng không thể lấy tư cách là vị Sĩ Quan cao cấp thâm niên nhất mà dành quyền chễm trệ.
                      Thảo Nâu thì khác, anh có quyền vì anh là “Thợ Lái”, không có anh tất cả đều ở lại. Anh ta là Phi công Khu trục, chiến đấu quyết liệt suốt chiều dài cuộc chiến, ảnh không đầu hàng, không thể đầu hàng dễ dàng nhất là cái trở ngại nhất thời “chạy chết của anh em”. Chỉ còn tôi, tuy tôi bất lực với mọi người, với con tàu, nhưng tôi vẫn còn quyền, còn khả năng quyết định cho chính tôi, chính bản thân tôi. Tôi không sai khiến ai đươc nữa nhưng tôi vẫn sai khiến được tôi.
                      (Phần này sẽ sửa tiếp)
                      Tôi lấy quyết định:
                      - Các anh không chịu nhường nhau thì tôi nhường chỗ tôi cho các anh.
                      Nói xong tôi mở cửa bước xuống. Thảo vội níu tay tôi lại, có lẽ anh ấy đã mục kích cảnh tôi đã vào DAO lại quay ra cùng chia xẻ gian nguy khốn khó với anh, cùng anh đổ lì trong lửa đạn tìm hết tàu này đến tàu khác để có được con đường sống, nay đường sống trong tầm tay thì lại nhường lại cho em út, ảnh đã không chấp nhận:
                      - Không được! Ông có xuống thì cũng chỉ có một chỗ trống thôi.
                      - Anh Thảo ! Lời nói của anh cho thấy cái công chính mà anh luôn có trong anh, cho thấy cái thân quí mà anh dành cho tôi trước cảnh chia ly. Chính cái tình này đã đủ sưởi ấm lòng tôi cho tôi thêm can đảm dứt khoát rời tàu.
                      Nói với tôi xong Thảo quay về phiá sau la lớn:
                      - Tụi bay có xuống bớt không. Tao chịu thua rồi đó.
                      Thảo lập lại “chịu thua” một lần nữa, không một ai nhúc nhích. Tôi cương quyết leo xuống dành đường sống cho em út dẫu cho chỉ có một chỗ thôi: một mạng được sống còn hơn một mạng phải chết! Tôi không kiêu hùng gì, quả cảm gì, tôi chỉ hành sử đúng tư cách của cấp chỉ huy lo cho cái an nguy của thuộc cấp trước khi nghĩ đến cái an nguy của chính mình.Tôi leo xuống, hi vọng nêu gương tốt cho những anh em khác cũng nhường chỗ cho nhau để ít ra cũng còn người sống không đến nỗi chết cả đám, chỉ vì lo chạy mà không nghĩ đến phi cơ rơi do qúa tải; lưu xú muôn đời!
                      Tôi lên Jeep định lái đi thì QC Văn cũng bỏ tàu leo lên ngồi cạnh tôi. “Huynh đệ chi binh” là chỗ này đấy!
                      Sống chết có nhau cũng chỗ này đấy! Thày trò chúng tôi vẫn có nhau từ sáng đến giờ. Văn không để tôi đơn lẻ trên bước đường bại tẩu. Tôi mở máy, lái xe đi, chợt thấy một Caribou cửa hậu để mở, trên đầy quân nhân, đàn bà, trẻ nít và hành trang ngổn ngang. Tôi vội lái xe về hướng đó thì chiếc Caribou chuyển bánh chạy đi. Tôi càng đuổi, Caribou càng tăng tốc lực. Tôi ra dấu cho mấy người trên Caribou báo cho Hoa tiêu chờ chúng tôi đi với. Caribou cứ vô tình gia tốc. Văn bỗng nổi giận “mất khôn” đưa Tiểu liên toan lảy cò vào lòng tàu. Tôi vội cản lại:
                      - Đừng, đừng bắn anh Văn. Anh em vợ con KQ cả đó. Tôi xin anh!
                      - Mấy người đó vô tình, quyết bỏ rơi mình. Ông yêu cầu, chúng bỏ mặc, chúng cứ đi, Văn hằn học nói, chúng muốn cho mình chết thì tôi cho chết cả.
                      Văn giận quá rồi. Tôi kéo tay súng của Văn chĩa đi hướng khác và dùng tâm lý khuyên anh bỏ ý định trả hận giữa anh em nhà:
                      - Anh Văn ! hãy nghe tôi. Tôi là nhân viên phi hành tôi biết loại phi cơ này cũ quá rồi, chở nặng thường rơi bất tử. Anh trông kià phi cơ chỉ có một máy chạy thôi, máy trái đang cố quay mà không được. Nếu cứ thế mà cất cánh thì chắc chắn sẽ rơi. Chúng mình tội gì chui lên cho bầm dập thân xác. Văn nghe ra và bình tĩnh ngồi lại ghế cạnh tôi và hỏi với giọng bình thường:
                      - Bây giờ mình tính sao ?
                      Tôi nhếch mép cười:
                      - Nếu chúng ta không còn phương tiện ra đi nào nữa thì tối nay tôi với anh vào Chợ Lớn “Nhất dạ đế vương” một chuyến rồi ra sao thì ra. OK ?
                      Văn nín thinh. Tôi lái xe lòng vòng, lang thang phi đạo chủ ý vớt vát có Tàu nào cất cánh muộn thì quá giang. Mọi Tàu để ngơi nghỉ lạnh lùng nơi bãi đậu. Tôi chán nản quay xe ra phố. Trên đường rời khỏi SĐ5KQ, ngang qua văn phòng Tư Lệnh Phó SĐ, thấy ánh đèn, cửa mở, tôi đậu xe bước vào gặp Đinh Thạch On, ngồi thẫn thờ sau bàn giấy.
                      Tôi hỏi :
                      - On ! Sao còn ngồi đây? Tất cả bỏ đi hết rồi, anh cũng đi đi thôi. Đinh Thạch On lúng túng, không dứt khoát, dường như có cái gì dùng dằng giữ ảnh lại. Tôi hối thúc:
                      - Đi đi toa. Ở lại chỉ còn tôi với anh là lớn cấp nhất, Cộng nó nắm được, nó đem tôi và anh qùy trước sân cờ “Cắc bùm” tế cờ đó. Đinh Thạch On như người mất thần:
                      - C.130 tụi nó lấy đi trốn cả bầy rồi.
                      - Còn C.47 mà. Tôi nhắc nhở On.
                      On thở dài:
                      - Đã lâu lắm tôi không còn lái C.47. On vốn ít nói, hiền như cục đất nên chỉ trả lời vừa đủ.
                      Tôi khích lệ:
                      - Dẫu sao anh cũng đã có lái nó rồi. Quên chút lúc đầu, ôn lại trong đầu anh lại nhớ ra đó mà. Anh cứ lái, tôi chấp nhận để anh đập máy bay giết tôi hơn là để tụi Cộng hạ nhục tại sân cờ trước hàng quân của mình. Chết vì máy bay rơi, chết mau. Chết với quân khát máu, chết mòn chết tủi đó bố = ơi.
                      Đang cố thuyết phục ông TLP/SĐ, thình lình nghe tiếng xôn xao và tiếng động cơ nặng nề gầm gừ. Ngó ra ngoài một chiếc M113 đang lùi, thụt lùi. Tôi vội bước ra chận lại hỏi:
                      - Có chuyện gì ? Tại sao lùi?
                      Trưởng xa, một KQ trả lời:
                      - Chúng em thuộc Phòng thủ, tụi Cộng tiến xát rào, chúng em rút sâu về.
                      Tôi phản ứng lấy lệ vì nghĩ mình cũng đang thuyết phục rút thì rầy rà chuyện rút với không làm gì nữa:
                      - Rút đi đâu nữa!
                      Nói xong, buông xuôi, tôi quay vào nói với On:
                      - Anh nghe rồi đấy chứ, không thể chần chờ hơn được đâu. Lúc ấy On mới nghiêng người cúi xuống, kéo học tủ, lôi ra cuốn kỹ thuật C.47 lật từng trang và nói:
                      - Để moa ôn lại chút đã.
                      Cứ thế On ngồi thản nhiên học hết cuốn kỹ thuật. Một phút lúc ấy là một thế kỷ đối với tôi. Tôi như ngồi trên lửa. Bên ngoài M.113 lui tới lui lui, quay ngang, quay dọc, binh sĩ chạy xuôi chạy ngược, tiếng súng lẻ tẻ đây đó. Tôi ngồi trước bàn giấy On, đăm đăm ngó ra ngoài cửa chính, tay nắm chặt tiểu liên, cùng với Văn, sẳn sàng nhả đạn, chờ cho On học bài xong. Cuối cùng On cũng đứng dậy theo tôi đi ra tìm tàu thoát hiểm.
                      Chúng tôi ra thẳng bãi đậu C.47. Leo lên chiếc đầu mở máy, máy gầm gừ, cánh quạt quay từng vòng uất nghẹn chẳng chịu vung mình đoạt gió. Leo xuống khám xăng, xăng còn, khám máy, máy lủng chảy dầu, có lẽ đã trúng hỏa tiễn hay miểng bom thù. Leo lên chiếc khác, chiếc đó lại không xăng. Cứ thế lếch thếch kéo nhau từ ụ C.47 này qua ụ C.47 khác giữa cơn nắng trưa. Tàu nào cũng ỳ ra chẳng chịu chuyển mình.
                      Ngay lúc ấy một trực thăng TQLC Mỹ bay đứng trên đầu chúng tôi, nghiêng mình quan sát. Tôi ra hiệu, yêu cầu đáp bốc chúng tôi. Quân “Bạc nghĩa” quay ngoắt bay đi bỏ mặc lũ bại quân tự liệu. Ai bảo có cánh mà không bay lại nhờ người cõng. Chúng đâu có hiểu “Phụng Ho= àng” đang thất thế sa cơ vì cộng quân bế mất huyệt đạo nên mới nhờ “Gà Mỹ” mượn sức qua cơn khốn khó. Đâu ngờ cái giống Gà này nó “xỏ rét”, nó “xỏ lá”, xỏ lá kềnh.
                      Thật ra mình cũng chẳng nên trách người. Có trách nên trách chúng mình đã thiếu hẳn một kế hoạch rút quân chu đáo, an toàn và trật tự. Trong mọi cuộc hành quân thì hành quân tháo lui là khó khăn và gay go nhứt, cho nên cần được nghiên cứu tỉ mỉ, ước tính và tiên liệu thật sát, chuẩn bị thật chu đáo, thi hành thật cẩn trọng. Thế mà mình lại vội vã, “Quân hồi vô phèng” mạnh ai nấy rút chẳng ra cái “Thống chế” gì để cho cả Bạn lẫn Thù coi khinh coi rẻ. Xấu hổ ! ! !
                      Sau phút ngỡ ngàng vì “Tình Phụ” do người anh em bất nghiã bỏ đi, Đinh Thạch On chán nản ra mặt vốn dĩ dùng dằng chẳng muốn đi từ đầu thì đây cũng là cái cớ buông xuôi cho tiện. On không muốn tìm tàu thêm nữa. Tôi bắt đầu lo cho kiếp cá chậu chim lồng, cộng quân cắt tiết. Tôi mở bóp lấy mọi giấy tờ, thẻ kiểm tra, chứng minh thư Phủ đầu rồng, thẻ mang vũ khí tùy thân hủy bỏ chỉ giữ lại thẻ bài kim khí có ghi rõ số quân, loại máu, đeo lòng thòng trên cổ (hiện tôi còn giữ làm kỷ niệm, nhớ lại một mùa xuân để mất).
                      Hủy xong giấy tờ, tôi ngó mông lung qua dẫy phi cơ lặng lẽ bên đường, lòng hướng về Mẹ già chẳng biết giờ này ra sao? Tôi không khóc được. Tôi buồn thê thảm. May hừng sáng nhân lúc cộng quân tạm ngưng pháo kích, tôi đã bắt liên lạc được với vợ chồng người em trai cư ngụ vùng Chí Hòa, yêu cầu chăm nom Mẹ cho tôi được yên lòng trong phút tử sinh ly biệt đang chập chờn bên tôi.
                      Vợ con tôi!Trước đó it ngày, cô em vợ, công dân Mỹ, đã từ Mỹ bay về lập thủ tục giấy tờ ngoại giao trong đó có cả tôi, bốc đem đi vội vã. Tôi đã từ chối đi theo vì nghĩ rằng nước mới trong dầu sôi chưa mất, quân trong rối rấm chưa tan. Vợ tôi vùng vằng:
                      - Nếu anh không cùng đi thì Em và các con cùng ở lại.
                      Tôi vội khuyên:
                      - Em hãy đem con rời khỏi đây và nuôi nấng dạy dỗ chúng nên người cho anh. Anh đi bây giờ là anh bỏ ngũ đó. Anh không muốn muôn đời lưu xú. (Cũng vì cái lẩm cẩm này mà tôi được Bà Xã tặng cho biệt hiệu: Ông già lẩm cẩm mỗi khi nàng nhắc đến phút luyến lưu của ngày buộc phải để nước lại= sau lưng, ra đi tìm một ngày mai ít buồn, ít tang tóc hơn cho mình và cho con cháu). Vợ tôi không chấp nhận lập luận của tôi:
                      - Chồng đâu, vợ đó. Em không đi.
                      Tôi làm mặt giận:
                      - Em phải nghe anh!
                      Rồi tôi dỗ dành:
                      - Em hãy đi, đem con về chốn an toàn, như thế anh được rảnh tay, đúng lúc phải đi anh sẽ đi kịp lúc, không phải tìm Em và các con, e rằng như thế quá muộn và quá hiểm nguy.
                      Vợ tôi ngần ngừ, suy tính. Các con tôi còn quá thơ dại, đứa lớn chưa đầy 7 tuổi, đứa bé mới hơn năm còn bế ẫm, ngơ ngác hết nhìn cha đến nhìn mẹ. Tôi cầm tay vợ đoan chắc:
                      - Em đi bây giờ, chúng mình còn có cơ hội gặp nhau. Nếu em và các con ở lại, chắc chắn sẽ ly tan vì lửa đạn vô tình chẳng chừa ai, tội nghiệp các con vì mình mà lây họa.
                      Xuôi lòng, vợ tôi gạt nước mắt dẫn con cùng gia đình bên ngoại các cháu qua DAO nhập đoàn di tản có trật tự. Gia đình bên nội các cháu (Mẹ tôi, Em tôi, cháu tôi) đã nằm lại chịu chung số phận với con dân miền Nam bất hạnh.
                      Đang để hồn vấn vương trong đau thương, tuyệt vọng, tôi chợt thấy một C.47 óng ả phơi mình bên ụ hangar trước mặt, hàng rào kẽm gai khóa kín, liền vội bảo On:
                      - Có chiếc C.47 kia trông còn nguyên vẹn. Hãy qua xem.
                      On lắc đầu:
                      - Cũng “dzậy” thôi !
                      Tôi chưa hết hi vọng, còn nước còn tát, tôi cương quyết rảo bước qua mau. On không theo, chẳng ai buồn theo. Tới nơi, tôi loay hoay gỡ kẽm gai để tiếp cận quan sát con tàu cuối bãi và cũng là cuối cùng. Một Hạ sĩ quan đã theo chân tôi hồi nào không hay, vội tiếp tay gỡ kẽm gai kéo qua một bên.
                      Tôi hỏi nhỏ:
                      - Anh chuyên môn gì ? Có biết gì về phi cơ ?
                      Người Hạ sĩ quan kiêu hãnh trả lời:
                      - Em là cơ phi.
                      Tôi mừng rỡ:
                      - Em hãy tiền phi, xét tình trạng động cơ và xăng nhớt. Mau đi em !
                      Chú em này thật rành việc. Chú thoăn thoắt nhảy lên cánh, mở nấp xăng miệng reo to:
                      - Mucho ! Mucho ! Ý nói xăng đầy.
                      Tôi quay ra ngoài gọi to, ngoắc Đinh Thạch On qua mở máy thử. Tôi chỉ là Phi hành dẫn lộ (Navigator, KQ mình gọi là điều hành viên, cái tên chẳng phi hành tí nào!), không có “thợ lái” thì “thợ tính gió chỉ đường mây” cũng chỉ là “loài Bò sát”. Sau khi biết chắc phi cơ đầy xăng, Cơ phi nhảy xuống kiểm soát động cơ, đến khi mở cửa lên tàu mới vỡ lẽ cửa khóa với cái khoá tổ bố, liền thất vọng kêu lên:
                      - Cửa tàu khoá làm sao đây ?
                      Tôi chưa kịp phản ứng thì một Binh nhì cầm M.16, chẳng biết đã có mặt ở đó từ hồi nào, có lẽ chú ta canh gác sớ rớ ở đây mà vì bận tâm với kẽm gai tôi không thấy, hô to:
                      - Để em bắn bể khoá.
                      Nói xong chú ta lên đạn, đưa súng chĩa vào ở khoá. Tôi thất kinh quát lớn:
                      - Đừng bắn, nguy hiểm. Mình còn một tàu này thôi.
                      Chú lính xững sờ nhìn tôi:
                      - Không phá cửa làm sao lên?
                      Tôi vội giải thích:
                      - Em bắn thì được nhưng có biết đạn đạo đi đâu không. Nếu đường đạn đi cắt đứt các giây “Cable” điều khiển cánh bay thì tàu làm sao bay được nữa. Chú em nầy vẫn ương chưa chịu hiểu. Tôi nghiêm nét mặt:
                      - Chú chỉ huy hay tôi. Nếu còn coi tôi là cấp chỉ huy thì hãy nghe tôi. Thật ! vào lúc hàng quân tan rã muốn chỉ huy được quả muôn phần khó khăn. Quay qua Cơ phi tôi bảo:
                      - Em hãy phá cửa gió cockpit chui vào, luồn ra sau mở chốt cửa nhảy dù là mọi người lên được.
                      Cơ phi làm theo ý tôi, cửa dù C.47 mở rộng vào trong. Tiếng reo vang dậy, mừng vui. Trời ơi ! Người đâu mà lắm thế, hồi nãy có bao nhiêu đâu, hết đợt này, đợt khác ùn ùn tay sách nách mang lên tàu.
                      Tôi đứng dưới trông chừng, chờ mọi người lên hết thì đột nhiên một chiếc xe Jeep rít thắng bên tôi, một Sĩ quan vận phi bào người đẫy đà, khỏe mạnh, nhảy vội xuống miệng nói hấp tấp:
                      - Cho chúng em đi với.
                      Tôi liếc lên Jeep thấy có vợ con, tôi vội hỏi:
                      - Anh có lái được C.47 không?
                      Sở dĩ tôi hỏi câu này vì tôi vẫn ngại Bố On một mình không biết xoay trở ra sao, nếu thêm co-pilot thì cũng chắc dạ phần nào. Tươi nét mặt, cậu Sĩ quan hào hoa tự tin:
                      - Thợ ! Thợ C.47 là em ! Em, Đại úy Quý C.47 đây.
                      Tôi đã rời Liên Phi Đoàn Vận Tải từ lâu, từ hồi cụ Ngô còn chấp chánh, tôi đâu có biết Đại úy Qúi là ai, nhưng điều chắc là tôi đã có một Hoa tiêu lão luyện tiếp tay với con chim già mệt mỏi Đinh Thạch On rồi. Tôi cười vỗ vai thân mật:
                      - Lên đi mà tiếp tay với Tư lệnh phó của anh trên đó. Trông cho mọi người lên hết, tôi mới leo lên sau. Bước lên khỏi bậc thang cuối, ngước mắt nhìn lên: Trời! Người, hành trang, hỗn độn, ngổn ngang, chật hơn nêm cối,= chẳng chỗ len chân. Nhìn kỹ mới vỡ lẽ chiếc C.47 này là loại đặc biệt trang bị giường ngủ, bàn làm việc dành cho Tướng Tư lệnh vùng II. Giờ tôi đã hiểu vì sao mà nó ngoan ngoãn nằm im không ai đụng tới, xăng nhớt đầy đủ, khóa trước khóa sau.
                      Cái số tôi cũng lạ, suốt 25 năm quân ngũ chỉ chạy hiệu, bỗng dưng vào ngày mạt vận lại được tặng “sao” rồi “Tư lệnh Vùng” (Tư lệnh trên chiếc phi cơ này thôi) điều động một dúm bại quân trốn chạy. Chẳng biết đáng cười hay đáng khóc!
                      Phi cơ trang bị nặng nề nay lại đầy khách quý, quá tải là cái chắc. Nhẩm đếm đầu người, tất cả 76 người kể cả phi hành đoàn (2 hoa tiêu 1 cơ phi). On nhìn tôi lắc đầu. Tôi nhìn On ngầm hỏi có bay nổi không? On yêu cầu xuống bớt (lại cảnh xuống không xuống) không một ai nhúc nhích. Tôi thở dài, hiểu rằng C.47 Full combat load cũng chỉ chở được tối đa 41 người với vũ khí trang bị. Đằng này tàu đã trang bị giường sắt, tủ sắt, bàn sắt, ghế sắt, hằm bà làng, lủng ca lủng củng lại còn đèo theo 76 mạng với đủ tài sản thiết thân thì làm sao cất cánh nổi đây! Tôi nói dỗi:
                      - Nếu không ai xuống, tôi xuống. Có ai theo cùng không?
                      Tôi nói mặc tôi. Tôi đảo mắt nhìn mọi người. Mọi người đều cúi xuống tránh ánh mắt tôi. Tôi quá thất vọng, len chân bước về hướng cuối tàụ Đặng Duy Lạc nắm tay tôi kéo lại, ảnh nhứt địn= h không cho tôi rời tàu. Giờ tử ly này, ai đi ai ở, ai nỡ bỏ ai! Một chuyến tàu suốt cũng đành xuôi thôi !
                      On đã quay lên buồng lái giúp Quí quay máy. Tôi ngồi phịch xuống ghế, đâu mặt với Lạc, phó mặc sinh mạng trong tay Đức Cao Sanh.
                      Máy nổ, một vừng khói trắng tỏa lên: Máy một rồi máy hai. Hoa tiêu kiểm soát phi cụ, phi kế. Tàu còn trong ụ đậu thì “Đoàng” pháo cộng đã nhắm bắn tới. Không chờ nóng máy, Quý-On vọt ra phi đạo cất cánh khẩn cấp.
                      Chở nặng phi cơ cần đường dài, chưa đủ lực hổng cẳng Quý-On đã kéo vội, cưỡng ép con tàu bốc lên vì một pick up truck ai đó đã bỏ nằm chắn ngang đường. Con tàu chao đảo dường như bánh đáp đã đụng pick up. Tàu gầm dữ dội, không lên cao nổi, bê bê về phía hangar. Nhìn qua cửa sổ tôi thấy hangar đến gần. Tôi chỉ kịp nói với Đặng Duy Lac vừa đua mắt cho Lạc nhìn ra:
                      - Niệm Phật đi, Một, hai, ba !
                      Tất cả vẫn êm rụ Phi cơ vừa vượt khỏi nóc hangar SĐ trong gang tấc. Tôi vừa thở phào chợt thấy có người đang ôm cứng ngang lưng tôi, đầu húc sâu vào bụng tôi. Tôi vội gỡ ra mới biết đó là Thiếu tá Nguyễn Kim Hằng (cựu vô địch bóng bàn). Hằng bẽn lẽn cười nhìn tôi nói:
                      - Ông là cấp chỉ huy của em, nếu phải chết, em cũng được chết trong lòng của cấp chỉ huy. Gớm, chí tình thế ! Quý hóa thế ! Tôi nghi ngờ cái “Huynh đệ chi= binh” này.
                      Tôi cười nói:
                      - Chớ không phải cậu muốn mượn đỡ cái bụng mềm mại của tôi làm cushion đỡ cho cái đầu của cậu khỏi bể nếu chẳng may phi cơ kềnh ra đất.
                      Hằng chữa thẹn:
                      - Đâu có! Người cứ nghi oan cho em út. Thương Người lắm, thật mà. Tôi gục gặc:
                      - Cám ơn, cám ơn ! Hân hạnh cho “qua” quá! Đặng Duy Lạc nghe mẩu đối thoại yêu nhau chí tình của đôi quân nhân cùng chung hoạn nạn, cười vỗ vai Hằng:
                      - Thôi được rồi.
                      Phi cơ vẫn là là bay không cao hơn ngọn cây là bao. Trong phòng lái có tiếng vọng ra:
                      - Nặng quá, tàu lên không nổi, yêu cầu vứt đồ cho nhẹ.
                      Tôi lập lại ý trên. Không ai chịu rời tài sản của mình. Người ta thường nói “lấy của che thân” nhưng nơi đây lại “lấy thân che của”! Các cụ thường dạy, gặp cơn nguy đe dọa đến tính mạng thì “bỏ của chạy lấy người”, nơi đây thì “Thà chết còn hơn”!
                      Tôi chẳng có gì đem theo ngoài nón sắt và aó giáp. Tôi đứng dậy nêu gương, mở cánh cửa nhỏ bên hông tàu nơi thường dùng để thả truyền đơn, ném nón sắt ra ngoài. Phụt! nón bọc gió, giật vụt bay về phía sau qua cánh đưôi. Tôi thấy quá nguy hiểm, nếu tôi vứt nốt áo giáp, áo bọc gió đập vào đuôi lái, chắc chắn tàu không thăng thiên mà độn thổ đó.
                      Sau cái nón sắt vụt bay tôi chẳng tha thiết lắm đến cái mời các anh em đồng hành “dzô ta” cùng vất cho nhẹ con tàu. Cứ khỏi ngọn cây, Tàu là là bay qua vị trí Cộng quân thế mà chúng tôi chẳng trúng đạn thù. Có lẽ tụi chúng bắn quá dở nên tàu lặng lờ lấy hướng Côn Sơn là nơi điểm hẹn của Đệ Thất Hạm Đội bốc quân bại tẩu rời khỏi non sông yêu dấu, một cách an toàn.
                      Côn Sơn đã ẩn hiện trước mắt, tôi bước vội lên phòng lái nhắc khéo On:
                      - Cẩn thận ! Trước khi đáp, quan sát kỹ xem cờ Vàng hay cờ Đỏ. Láng cháng Mỹ đâu không thấy lại bị “nón cối” mời vào bóc lịch thay nó đó.
                      Thợ Lái mình chẳng quan ngại xa xôi. Cái làm họ bận tâm không phải “Nón cối” mà là đáp rồi nếu phải cất cánh lại thì thật là Tử vì sân Côn Sơn quá ngắn so với cái quá tải của con tàu.

                      Lượn một vòng thấp: Phi cơ phe ta đậu đầy, ngổn ngang chiếc dọc chiếc xuôi, hỗn độn vô cùng. Các anh em nhanh chân tới trước chẳng hề nghĩ cho các anh em chậm chân đến sau! Chúng tôi đành quay trở lại bay về đất Mẹ, nhắm SĐ4KQ Bình Thuỷ lướt tới. Vào Vùng Không lưu, liên lạc đài Kiểm soát, một tiếng vang trong máy: Căn cứ đang bị pháo địch uy hiếp. Tôi đề nghị bay qua UTAPAO, Căn cứ B.52 của KQ chiến lược Mỹ bên Thái Lan. Mấy anh em cấp nhỏ nhao nhao:
                      - Đi Singapore ! Đi Singapore !
                      Tôi phản đối và giải thích:
                      - Chúng ta không nên đi Singapore, Chính quyền Singapore khó tin lắm. Mới ngày qua, một C.130 của SĐ bị đánh cắp trốn qua đó đã bị Chính quyền sở tại bắt giữ, định dẫn độ cả tàu lẫn người về cho VC xử lý hầu làm quà thỏa hiệp. Chỗ bảo đảm nhất là phi trường B.52 vừa dài vừa đủ tiện nghi, an phi bậc nhất và an ninh cũng bậc nhất. Mẽo cũng không đến nỗi quá hèn đem mình bán cho đối phương. Tất cả đã thôi lao xao. Tôi hỏi có ai mang bản đồ tiếp cận UTAPAO không vì phòng lái vừa than thiếu bản đồ vùng đó. Một Trung úy vội lục cặp phi hành lôi ra xấp tài liệu và nói lớn:
                      - Có đây, đủ cả đây.
                      Tôi cầm lấy trao cho cơ phi đem lên cho Quí-On nghiên cứu phi trình đồng thời hỏi nhỏ chú em:
                      - Ở đâu mà sẵn thế?
                      Chú ta tỉnh bơ trả lời:
                      - Chúng em cũng định “chuồn” đi nhưng vì phi cơ rơi khi cất cánh nên phải theo chiếc nầy.
                      - Phi cơ rơi không chết à?
                      Tôi hỏi hơi phi lý vì đã có sao thì đâu còn đối đáp với tôi được nữa.
                      Chú em cười:
                      - Không ai chết, chẳng ai què, chỉ rêm mình chút chút!
                      Đúng vậy, lúc tôi còn thẫn thờ tìm phi cơ ra đi thì Th/sĩ Văn có kéo tay tôi chỉ lên trời, hốt hoảng:
                      - Coi kìa ! Chiếc phi cơ đang giẫy giẫy như diều đứt dây.
                      Tôi ngó theo tay chỉ, quả nhiên là chiếc Caribou (có lẽ là chiếc đã bỏ tôi và Văn ở lại) đang bị triệt nâng vụt rơi xuống, bụi cát lầm lên mù mịt.
                      Tôi ghé tai Văn:
                      - Chiếc Caribou hồi sáng đó. Nếu mình được đi thì nay đã chung số phận rồi.
                      Nói xong tôi quay đi nghĩ đến các anh em xấu số đã bỏ tôi sáng nay và giờ đây đã xa tôi thật rồi! Lòng tôi chợt thắt lại, thương cho kiếp người mới đó không còn đó. Tôi đã lầm. Chẳng một ai xa tôi. Tất cả đã cùng tôi trên chiếc C.47 định mệnh nầy, đang trôi về nơi vô định xa xôi. Bây giờ tôi chợt hiểu vì sao lúc tìm C.47 thoát hiểm tôi chẳng có bao ngoe mà nay sao lại nhiều thế. Thì ra các Yên hùng không gian chưa bị Ngọc Hoàng rũ sổ đang đáp chuyến bay cuối chầu cùng tôi. Duyên nợ bên nhau đâu dễ dứt!
                      Còn đang miên man nghĩ đến cái duyên, cái nợ tôi chợt thấy mặt Nguyễn Kim Hằng dính đầy tro lẫn bụi, nhem nhuốc. Tôi ghé tai hỏi nhỏ:
                      - Cậu cũng trong đám “Bất tử” Caribou đó à?
                      Hằng gật đầu không đáp.
                      Thật tình ! Con người sống chết có số. Cái phút nguy hiểm nhất của nghiệp bay là cất và hạ cánh, nếu tay nạn xảy ra lúc đó thì yên trí sẽ được “TRUY THĂNG'.
                      Thế mà tàu tôi đụng khi cất cánh, Tàu hắn rơi khi hạ cánh vội, chúng tôi vẫn sống nhăn. Tiếng máy phi cơ nổ đều, con tàu chở “Vịt” (chạy như vịt) bồng bềnh trong gió lướt về không phận Thái Lan. Mọi người đều đều hơi thở, mắt mơ màng hoặc khép kín thả hồn chơi vơi về với tương lai mù mịt, bỗng nhiên cửa phòng lái bật mở, cơ phi hốt hoảng:
                      - Hồi nãy ai coi xăng ?
                      - Sao? Tôi bật dậy hỏi ngược. Hết xăng à ?
                      Cơ phi ú ớ. Tôi liên tưởng đến tàu cạn xăng, nhìn ra ngoài, mênh mông trời nước. Tim tôi thắt lại, chẳng lẽ số mình phải dứt hôm nay! Chợt tôi nhận ra chú cơ phi này là người check xăng sáng nay và đã reo to Mucho, mucho. Tôi chỉ anh và nói:
                      - Chính anh là người coi xăng mà. Anh đã chẳng bảo với tôi là xăng đầy, sao bây giờ lại sợ cạn. Tàu mới bay có 4 tiếng, cho tôi biết đồng hồ xăng còn chỉ bao tiếng bay nữa. Cơ phi:
                      - Dạ còn 4 tiếng.
                      - Thế thì đúng rồi. Tầm bay C.47 là 8 tiếng, nay bay được khoảng 4 tiếng, còn lại 4 tiếng là phải rồi. Tôi ôn tồn giải thích cho Cơ phi. Cơ phi còn cố chày cối:
                      - Không tin đồng hồ được.
                      Câu nói này làm nhiều người tháp tùng chuyến bay hoảng hốt, nhớn nháo, phi cơ tròng trành gây khó cho Hoa tiêu điều khiển con tàu. Áp huyết máu tôi phụt cao. Tôi chất vấn Cơ phi:
                      - Anh làm Cơ phi được bao lâu rồi?
                      - Bảy, Tám năm. Cơ phi trả lời gọn.
                      Tôi sùng thêm:
                      - Tám năm bay Vận tải, không tin vào phi cụ thi tin cái gì! Chú nhỏ nầy chợt tỉnh, bẽn lẽn quay lên và đóng cửa phòng lái. Đặng Duy Lạc ngó tôi tủm tỉm cười:
                      - Xin cụ bớt nực, cho đàn Em sống tí.
                      Lạc tên đúng với người, lúc nào anh cũng lạc quan, tươi cười cả lúc tôi muốn khóc. Suốt sáng qua bao cảnh đái ra cây, cười ra nước mắt mà ảnh cứ bình chân như vại mặt phớt Ăng lê. Có anh này trong những lúc bấn xúc xích, mình cũng mau yên dạ. Tôi vẫn còn thắc mắc về cái không đủ xăng để tới bến, tôi bò lên phòng lái thăm hỏi:
                      - Còn bao lâu tới Utapao?
                      - Khoảng hơn tiếng. On trả lời.
                      Tôi nhẩm tính, dư sức qua cầu. Tôi quay về chỗ ngồi trước mặt Lạc, vỗ đùi anh và bảo:
                      - Yên trí ! Một giờ nữa đáp.
                      Yên vị tôi nhắm mắt cố ru hồn cho bớt xao động. Tôi đã thấm mệt với đủ mọi biến cố, căng thẳng tinh thần suốt từ lúc phản đồ mất dạy gây biến. Đang mơ màng chợt thấy Tàu nghiêng cánh, nhìn ra cửa sổ thấy 2 vệt dài trắng xóa song hành lượn dài theo đường bay Tàu mình. Tôi nghĩ mình đã gặp phản lực Thái nghênh tiếp (nói cho oai), nói cho đúng sách vở: nghênh cản. Tôi bước vội lên phòng lái cho rõ sự tình, thì ra tôi sớn sác trông gà hóa cuốc, thấy nước tưởng trời thấy “out board” tưởng “Jet”. Dẫu sao thì Tàu đã nhập không phận Thái Lan, đất liền đã ló dạng.
                      Vào vòng không lưu Utapao, Quí-On xin đáp khẩn cấp và báo cho Đài Kiểm soát, phi cơ khi cất cánh có đụng chiếc xe hơi Pick Up, yêu cầu họ quan sát chân đáp. Đài Kiểm soát:
                      - Looking good.
                      On-Quí cho Tàu vào vòng cuối, đáp nhẹ. Bánh vừa chạm phi đạo, phi cơ chợt xẹt qua phía trái, rời phi đạo, nhảy chồm chồm như ngựa chứng bên lề đường bay, nghiênh cánh quẹt đất bụi mù.
                      Tử thần vung lưỡi hái. Mỹ quốc An= phi tung toàn lực tiếp chiến. Đại tá chỉ huy căn cứ dẫn đầu đoàn quân cứu ứng, cứu hỏa, cứu thương đủ bộ, điều quân tuyệt hảo. Qủy sứ nhà trời nhượng bộ. Tàu nằm yên xệ cánh. Quân Mỹ bao quanh dàn chào. Tàn quân ta sửa sang mũ áo.
                      - Xin mời “Người” xuống trước. Một tiếng xướng (không biết của ai) trăm miệng hùa.
                      - Gớm, sao tử tế ! Lúc lên chẳng có lời mời, lúc xuống đương đầu lắp “Verb” thì mời “Người” xuống cho.
                      Tôi nghĩ nên để Trưởng phi cơ xuống trước cho đúng phép lịch sự. Tôi yêu cấu On xuống trước, On lắc đầu đùn miết cho tôi. Tôi đùn cho Lạc. Lạc đẩy tôi đi. Đùn tới đùn lui chẳng ra cái thể thống gì. Tôi liền bước tới mở cửa cho xong, dùng già dùng dằng xăng phát nổ thiêu sống cả đám lại khổ nữa.
                      Cửa Tàu vừa mở, Đại tá Mỹ đã trực sẵn đưa tay chào. Tôi trả lễ. Óng ta lịch sự đón tay tôi đỡ xuống, miệng không ngớt xã giao:
                      - Congratulation, Good landing!
                      Tôi có đáp chó đâu mà congratulation tôi. Tôi còn bận lo đến cái “không biết ra sao ngày sau” nên chẳng buồn đính chánh:
                      - Thank you. Any Vietnamese before me ? Anh văn nhát gừng, tôi hỏi ông bạn đồng đẳng lịch duyệt.
                      - Plenty. Don't worry!
                      Người bạn ân tình cứu mạng vội trấn an tôi, đồng thời yêu cầu tôi cho mọi người lên 2 GMC trực sẵn. Tôi yêu cầu đoàn quân bại tẩu, trật tự hàng lối lên xe, cố chứng minh với anh bạn Đồng minh tốt bụng này:
                      Tuy ta bại nhưng quân ta vẫn còn kỷ cương. Mọi người tuần tự lên xe, trẻ nít trước, phụ nữ sau, bại quân sau chót.
                      Ai nấy hối hả thì bỗng Th/tá Nguyễn Kim Hằng bước ra khỏi hàng, qùy xụp xuống đất, 2 tay
                      trước ngực, mặt ngước nhìn trời, mắt nhắm kín, miệng khấn lâm râm. Mỹ ngơ ngác, quân ta ngơ ngẩn nhìn. Chờ cho Hằng xong nghi thức tạ trời, Tôi lại gần hỏi nhỏ:
                      - Cậu khấn gì vậy. Trông như cậu đang xin tha mạng.
                      Hằng nghiêm trang:
                      - Em qùy cảm tạ Trời Phật đã cứu sống chúng mình vì khi thấy phi cơ nhào ra lề, cà cánh xuống đất Em lo phát nổ. Sợ teo!
                      Có niềm tin vẫn là liều thuốc an thần. Tất cả đã yên vị trên 2 GMC, Đại tá Mỹ cho lệnh lăn
                      bánh đưa chúng tôi v= ề nơi tập trung tàn quân không lực (phải, hết xíu quách rồi !)
                      Xe vừa rời xa con tàu cứu tinh yêu dấu tôi bỗng thấy, thấy mấy Airmen cờ hoa nhẩy vội từ chiếc xe Pick Up vừa xịch đến tay cầm lon sơn xịt lấy xịt để, bôi xóa cờ hiệu và huy hiệu VNCH trên chiếc C.47 kiêu hùng của chúng tôi.
                      Mỹ làm thế để chủ quyền Thái không bị xâm phạm, không tìm cớ tịch thu phi cơ vì không có bằng chứng phi cơ lạ xâm nhập Thái Lan. Thấy người mà ngẫm đến ta. Mình chạy, không kế hoạch, Mỹ hứng, đầy đủ lớp lang. Người khinh ta là phải!
                      Tới nơi phải xuống. Tôi uể oải leo xuống tiến về nơi chỉ định, miệng lý nhí chẳng biết có ai nghe:
                      - Kể từ phút này, Tôi cũng như tất cả, phận ai nấy lo chúc mọi người may mắn!
                      Bây giờ đã quá chiều, Tôi cảm thấy rã rời, tìm vội một nơi ngả lưng dưới mái “Tent” căng tạm của Không lực Mỹ. Chưa được bao lâu, mọi người chộn rộn, lăng xăng xếp hàng chuẩn bị dùng bữa cơm chiều. Lúc đó tôi mới chợt nhớ suốt đêm hôm trước đến chiều hôm nay tôi chưa có gì lót dạ.
                      Tôi không thấy đói. Biến cố dồn dập, liên tục xảy ra không còn thì giờ lo cho cái bao tử. Những nhức nhối, uất nghẹn, ứa gan cho cái tan hàng rã ngũ “Vô duyên” đã đầy ắp lòng tôi làm tôi quên cả đói. Tôi không muốn ăn. Anh em khuyên tôi cố ăn chút ít cho lại sức. Nuốt “miếng cơm Từ Mẫu”, tôi nghẹn ngào cho thân phận, 25 năm dâng trọn tuổi thanh xuân cho đất nước những tưởng tìm được yên vui cho dân tộc nhưng mộng ước không thành, giờ đây khởi đầu lạc loài nơi đất khách, thật ê chề cho kiếp mình!
                      Đã 23 năm tôi ôm câu chuyện cất kín lòng mình. Tôi sợ nói ra, buồn nhiều cho bạn, buồn thêm cho tôi, cho anh, cho cả ½ phần dân tộc. Tôi không muốn ai, lúc đó, cả bạn lẫn thù, khinh mình thêm nữa.
                      - Bí ẩn lịch sử rồi đây sẽ được phơi bầy.
                      - Chúng ta chỉ là con cờ thí !
                      - Chỉ buồn, những người cầm vận mệnh đất nước.
                      Ngày đó cũng như ngày nay, không đủ khôn cũng không đủ khéo để tránh cho dân khỏi khổ, nước khỏi nghèo, tiền nhân khỏi hổ thẹn.

                      Tháng 4-98

                      NB: Chiếc xe hơi Rievera của ông Kỳ đầu tiên một chuẩn uý bộ đội KQ chiếm cứ và tính chuyển vế Hanoi, nhưng sau đó đã bị Trung tá Trung bộ đội KQ, dân Hàng Ngang Hanoi tháu cáy chiếm giữ làm của riêng – Ông Kỳ có thể hỏi thăm người phe ta để biết chiếc xe Rievera của ông hiện nay đang nằm ở đâu?


                      Liệt Lão Đào Huy Ngọc
                      Last edited by Cowboy72A; 05-09-2017, 01:25 AM. Lý do: Đổi mấy chiếc MIG 23 thành chiếc F-18 cua? Hoa Kỳ
                      Bút trần nào tả được lưu luyến!
                      Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                      Tình Hoài Hương

                      Comment


                      • Ngậm Ngùi Trở lại Chốn Xưa




                        Ngậm Ngùi Trở lại Chốn Xưa


                        Từ Rạch Giá trầm lắng u hoài, chúng tôi kéo lê đôi chân mệt mỏi rã rời leo lên xe đò trở về Sài Gòn, phiêu lãng bơ phờ suốt trên đoạn đường dài ngót 248 cây số ngút ngàn! Xe đò vẫn chật như nêm, tôi buồn bã nhìn trên đầu nhiều người lớn bé đang chít khăn sô, họ hớt hải vội vàng chen lấn nhau đi đâu? trở về đâu? mà tất tả lũ lượt thế nầy!? Tôi quá chán nãn nghe lòng mình phủ chụp xuống bao tơ rung suy nghĩ dập dồn. Mệt mỏi lắm! Tôi chẳng cần hé mắt nhìn lại quang cảnh hai bên đường (mà lúc mới ra đi, tôi rất bồn chồn, háo hức nhìn ngang ngó dọc lung tung ấy sao)! Chúng tôi và các con cháu không thèm ăn uống gì, chỉ cúi đầu trên chiếc xe đò cà xịch cà đụi lắc lư mà ngủ gà ngủ gật. Cười ra nước mắt… Cũng đành. Có nghĩa là chúng tôi thực sự quay trở về thủ đô Sài Gòn dấu yêu tại quê hương mình.

                        Ôi! Quê hương Việt Nam cẩm tú giàu đẹp hùng vĩ, là hòn ngọc của ta ơi! Cảm giác ấm nồng xôn xao nở lăn tăn trên làn môi nóng bỏng khát khao cơn thèm âu yếm gọi lên hai chữ: “Quê Hương”! Tôi xin cúi đầu lui gót quay về, từng bước chập choạng bấp bênh chấp nhận số phận bồng bềnh, cho dù đắng cay, sô tang, bùi ngùi, khổ đau có; Ngọt ngào vui vẻ hân hoan không. Tôi đã quyết định dừng chân “phiêu bạt giang hồ”, để trở về thành đô, nhưng sao trong lòng cảm thấy quá buồn đau tê tái hụt hẫng khôn cùng? Tôi có cảm tưởng như mình đã thực sự mất đi một báu vật thân yêu.

                        Dường như tôi không còn mê những giọt sương mai đọng trên cánh hồng nhung tươi thắm vừa hé nở, từng giọt sương mòng mọng tí tách rơi trên phiến lá giao mùa. Mất rồi chiếc lá vàng xinh lịch ép trong trang sách cũ. Mất ơi đàn én chiêm chiếp líu lo vun vút lượn bay trong không gian chói sáng ánh bình minh. Mất hết những con đường đất đỏ ngoằn ngoèo, lượn quanh sườn đồi rì rào tiếng thông reo vi vu. Hết rồi thảm cỏ sân Cù mịn nhẹ êm như nhung, nơi ấy khi xưa tôi ưa ngả mình trên triền đồi quạnh vắng, mắt lim dim mơ màng, tai lắng nghe tiếng thông reo, và gió núi xôn xao thì thầm gọi nhau về ngủ trên đỉnh Lâm Viên hữu tình.

                        Ôi! Có thể nay đã mất hẳn những bước chân lãng du trùng lặp bao kỷ niệm tìm về chốn cũ. Mất rồi! Thật sự mất đi không gian, thời gian, và kỷ niệm vàng son một thuở trìu mến xa xưa. Nay lòng tôi bừng bừng rung giật cơn sốt tiếc thương, môi co siết những giọt mật vừa chát, vừa đắng, đang trào dâng lên khoé mi tôi giọt sầu quắt quay niềm tiếc thương vô hạn, ẩn dấu nơi mắt nhìn tư lự, lăn tăn nét chân chim trên khoé mắt ưu buồn trước thời gian, nơi đôi má hoen màu, nơi đôi môi khô nhạt, nơi mái tóc phiêu bồng sớm ngả bụi đường lãng tử, nơi áo quần xốc xếch trong dáng vẽ tiều tụy hao mòn. Làm gợn sóng trong lòng mình biết bao sầu đắng chua cay và tê tái:
                        Anh bỏ đi rồi, tôi ở lại.
                        Chờ bao oan nghiệt trút lên đầu.
                        Tôi vẫn đứng giữa một trời ly loạn.
                        Tàn chiến chinh mùa nắng lửa mưa dầu.
                        Chiều hun hút giữa rừng thiêng nước độc.
                        Đêm uy linh nhờn nhợn tiếng ma Hời.
                        Từng giọt máu căng phồng bầy muỗi đói.
                        Tôi bỗng sờn da, bỗng rợn người
                        (Xuân Du)

                        Lủi thủi về thành phố Sài Gòn lúc 18giờ, nhóm chúng tôi thuê xe xích lô tới nhà thờ Huyện Sĩ đang vang ngân tiếng chuông chiều cô tịch. Vẫn có những khuôn mặt bơ phờ hốc hác, thiếu ăn thiếu ngủ hôm qua đang vạ vật nằm nhờ ở đậu ngoài mái hiên. Những bộ hành tất bật mệt nhọc lấm lem bụi đường đi đầy trên phố chiều đông đúc. Bên hông nhà thờ Huyện Sỹ hai bao bố đồ dùng nấu nướng linh tinh, giỏ quần áo (mà hôm nao tôi gửi lại bà từ, nhờ trông coi vẫn còn y nguyên chỗ cũ). Những người chăm sóc nhà thờ, những bà xơ (soeur) và ban điều hành giáo dân rón rén đi lại đọc kinh dâng lễ, chẳng có gì khác: giống như khi tôi đến ở, khi tôi tất tả ra đi, và nay đã trở về.

                        “Ngoài đời” tôi chứng kiến không biết bao nhiêu chuyện trái tai gai mắt! Bây giờ thành phố Sài Gòn xa hoa thì đầy bụi... tràn ngập rác rưới, nhiều ụ rác to cao ngập đầu người, tanh hôi và hằng hà sa số ruồi bọ lúc nhúc. Không có phương tiện di chuyển, không có xe đổ rác nên rau và cây trái khắp các vựa ứ đọng cả đống, hư hao, thúi um đến nghẹt thở. Con buôn chợ đen giành giựt từng kí gạo, từng con khô, con mắm, từng bó rau héo. Tình trạng khan hiếm thực phẩm, gạo, đường, kể cả muối là thứ rẻ hơn bèo, cũng tăng giá lên vùn vụt. Hoạ huần lắm mới thấy vài chiếc honda dame cố len lỏi chen lấn với người và người chật ních trên đường. Tôi đứng ít nhất là vài giờ, mới có một chuyến xe bus chật như nêm, đông nghẹt người chạy đi chạy về trên phố. Một người đàn bà cao tuổi khệ nệ bưng mấy thúng mủng bao bị lộn xộn cố trèo lên xe khách, bà bị té ngả lăn cù cù, chả ai thèm nâng đỡ bà đứng lên, khi bác tài xế bóp kèn inh ỏi ra hiệu tấp vào trạm.
                        Xe chưa ngừng hẳn, người trụt xuống, kẻ chen lên, dày xéo dẫm đạp lên nhau, ai kêu la inh ỏi mặc ai. Họ lo bu bám ngoài cánh cửa xe đen nghịt. Thế là có bọn thời cơ thừa nước đục thả câu, lạm dụng nơi đông đúc chen chân không nỗi, đã trổ mòi rờ đít, bóp vú, nhưng nạn móc túi, giựt đồ, bấm dây chuyền vàng, giựt bông tai, máu chảy ròng ròng, thì nhiều hơn kẻ thô lỗ rờ mó. Kẻ cắp như rươi chôm chĩa đủ thứ, giành giật đánh nhau diễn ra ngang nhiên, hổn độn và náo loạn.

                        Nhất là xăng, dầu hôi, nhớt, càng mắc mỏ cao độ, giá xăng là giá máu mà! Họ buôn lậu từng lít xăng, từng lít dầu hôi, lại pha chế chút nước lạnh, nên khói đen mù mịt bốc cao, cay xè mắt, bay tá lả. Bác tài cho xe nổ máy lâu lâu bác làm bộ rồ máy, cho xe thụt lui thụt tới, cứ cà giựt, cà xịch cà đụi, rồi bác nhấn còi inh ỏi, xe đứng im nằm ì một chỗ, không nhúc nhích. Lơ xe luôn miệng kêu mời khách và đập rầm rầm inh ỏi vô hông xe, thật là nhức bưng cái đầu. Không còn các loại xe chạy bằng xăng dầu nữa, thì đâu đâu cũng thấy trai trẻ lớn bé, leo lên xe đạp mới có, cũ có, hàng ngàn chiếc xe đạp chồng chất vợ con, đồ đạc linh tinh, họ tấp nập chạy đi, chạy lại trên các đường phố lớn.

                        Bên kia khu trường học sát nhà thờ Huyện Sỹ, cứ mỗi buổi sáng khoảng hơn bốn giờ, loa phóng thanh đã inh ỏi ồn ào “tra tấn” tai người nghe lùng bùng điếc cả con ráy, càng nhức bưng bưng cái đầu, tôi muốn điên vì "bệnh thời đại"! Tôi nhìn lên mấy tầng lầu thấy từng đoàn thanh niên nam nữ reo hò, giỡn cợt, khăn mặt vắt vai, họ dùng hai ngón tay trỏ để đánh hàm răng ối vàng. Rồi chuyện trò vanh vách, lườm nguýt nhau, cười hô hố, và nói huỵch toẹt ra những điều thô tục quá trắng trợn, mà họ không cảm thấy nhột lổ tai, không biết xấu hổ ngượng mồm. Thật sự là ở trong miền Nam tôi chưa từng nghe! Cô gái miền Bắc sống đời nhọc nhằn, lam lũ ngược xuôi trong dãy trường sơn, nay vào phòng tắm sang trọng trên lầu ba, cô tò mò giật cái dây lủng lẳng bên góc tường. Hoa sen phụt toả ra những giòng nước trong bồn tắm mát lạnh, khiến bộ-đội-cái giật mình nhảy tót ra khỏi bồn tắm, hốt hoảng cô ré lên như con bò bị chọc tiết, kêu nhau ơi ới chạy đi.
                        Quả thật... kể ra cũng tội nghịêp cô ở tít trong rừng sâu, chưa một lần nhìn thấy những đồ dùng thời trang tinh vi, văn minh tiến bộ như thế trong miền Nam. Họ lo sợ Mỹ rút đi, còn gài lại chất độc giết người. Có anh vênh váo mặt, mắt nai ngẩng nhìn lên những toà cao ốc hơn chục tầng, làm văng cả nón cối xuống đất, nhưng anh ta vẫn vung tay lên trời chỉ chỏ đếm hoài...Họ lũ lượt kéo nhau đi ồn ào huyên náo chen ra cửa, lo đổi tiền bác Hồ ra thành tiền miền Nam Việt Nam, họ cười nhô hàm răng mã tấu:
                        - Tớ đổi bạc hào, bạc lẽ là chuyện nhỏ. Đây! Tiền có hình bác Hồ mới vĩ đại nhá. Đấy! Xem nào. Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước, bác giơ bàn tay năm ngón lên chào ta đấy.

                        Khi họ lũ lượt kéo nhau từ trường sơn đông, trường sơn tây, từ hướng bắc cầu Hiền Lương, lưng còng vác tay nải bên trong đựng ít vắt cơm khô và chén bát lọc cọc thô vụng sứt mẻ, (thời kỳ đồ đá) tay xách hai con vịt mái, mặc cho con vịt quạt cánh kêu la khắp phố. Họ hãnh diện mua chén tô cùng vịt sống kêu inh ỏi vang vọng nơi nơi... để chứng tỏ cho thiên hạ biết mình "vẻ vang, rủnh rỉnh" có tí tiền quà cáp đem vô Nam biếu-xén cho bà con, vì họ nghe đảng đồn rằng: “Rân miền lam đói khổ hơn nhân rân ta gấp bội”. Họ ngố ngáo đi tìm thân nhân trong Nam, nhưng đã ngơ ngác sững sờ:
                        Qua vĩ tuyến nón anh rơi lộp độp
                        Vì ngước cao chót vót để nhìn xem
                        Anh chính ủy bảo miền Nam nghèo lắm
                        Nên hiểu rằng: Lời cộng sản mà em!

                        Đến Nha Trang, biển xanh anh bật khóc
                        Như trẻ thơ lạc mẹ giữa phố phường
                        Dăm kẻ lạ, tò mò giương đôi mắt
                        Có lẽ anh đã lạc cõi thiên đường.
                        (NT)

                        Ngày ngày trên các khu lộ thiên, dưới những cột đèn đường là nơi tập trung bán hàng rong "mới mọc lên" hàng chuối chiên, bánh bò, bắp nướng, đậu phụng, thuốc lá, vân vân… Họ đổi chát cho bộ-đội bất cứ thứ gì ai đó mánh mung nhặt nhạnh được. Người ta đánh đập nhau loạn xạ, chỉ vì tranh giành bán mua đổi chát nhiều thứ với mấy “cán ngố”. Thuốc lá dổm bán dạo do nhóm dân lậu làm bằng lá khoai mì xắc mỏng dính, phơi khô, sao vàng, tẩm ủ tí rượu đế, pha trộn ít thuốc lá cẩm lệ thật, thì hút vào đắng nghét, khô khốc hai lỗ mũi, rát cổ họng, tỏa khói mịt mù. Vài bộ đội bố láo bố lếu xưa kia chuyên uống nước vốí, nay vào miền Nam hí hửng mua một lần cả chục cây “cà lem”, họ để cà rem trên cái dĩa, mà "ăn dần" cho đã! Rồi "cụ ta" cho nguyên hai chân mang dép râu lên ghế ngồi xổm, hả hê uống trà ướp sen hương thơm tỏa bay nơi nơi. Đường phố càng tối thì quán cà phê rẻ tiền mở vội bên vệ đường mọc lên như nấm. Cà phê thật và ngon thì ít, mà trộn hột thu đủ, hột thầu dầu rang vàng cháy trộn với hột bắp, lại nhiều hơn. Hôi hôi, đắng đắng, chua lè. Thế mà vài bộ đội uống vào, đã khen:
                        - Ngon đáo để.

                        Ấy thế! “Ông bộ” mới vào Nam thật thà và chất phác đếm tiền miền Nam mãi không xong. Họ thích thú nhất là mua “đài” (radio) thứ “xì cúc lô can” của Tàu sản xuất dõm, thứ “xì cúc lô can” mà chả biết! Thế là miệng la ơi ới, ổng chạy theo một tên nhãi con tự nhận là dân buôn, thằng bé nhanh tay chôm chĩa đâu đó, rồi miệng huýt gió hắn lẹ chân dzọt đi mất. “Ông bộ” tức mình chưởi đổng:
                        - Không hiểu "rân" miền "Lam, nàm" cái "rống nanh mưu rì", mà “nưu manh” thế!
                        Ở Sài Gòn, dân thành thường xỏ lá
                        “Bộ đội ơi, miền Bắc có cà rem”?
                        Nét hớn hở, tỉnh bơ như Hà Nội
                        “Ồ thiếu gì, ăn không hết, phải phơi khô”
                        ! (NT)

                        Mời quý vị nghe "ổng" nổ tung Long Đất, Long Giao, Long Hải, Long Bình, Long An nè:
                        Ở ngoài Bắc, Ti Vi ai cũng có
                        Sáng sớm ra thì nó chạy đầy đường
                        Anh nhìn chiếc đồng hồ hai người lái
                        Mắt thèm thuồng, cứ nhìn thấy là thương.
                        (NT)

                        Anh tự mãn quê anh nhiều cà chớn
                        Còn cà phê thì uống chẳng cần tem
                        Ghé vào tiệm mua nửa đôi nịt vú
                        Lọc cà phê, ừ cộng sản mà em!
                        (Nguyên Thạch)
                        * * *

                        Những ngày đi dạy học, tôi rất thích mặc áo dài, và ngắm tà áo dài tha thướt cuả phụ nữ Việt Nam tung bay trong gió chiều. Chồng tôi thường bảo "em nên giống như một thi sĩ đã làm bài thơ mà anh rất thích nhé":
                        Em cứ mặc, nhưng xin đừng ngắn quá
                        Để tôi nhìn chột dạ phải liêu xiêu
                        Em cứ mặc, nhưng xin đừng mỏng quá
                        Để cho tôi tưởng tượng thật nhiều

                        Em cứ mặc, nhưng xin đừng hở quá
                        Người ta nhìn lại đổ vạ cho tôi
                        Em cứ mặc, nhưng xin đừng gợi quá
                        Tha cho tôi vì tôi đã già rồi

                        Em cứ mặc, nhưng xin đừng lộ quá
                        Người ta nhìn trông thấy cả dây leo
                        Em cứ mặc, nhưng xin đừng mỏng quá
                        Để mưa rơi, hàng xóm tưởng em nghèo...
                        (PVT)

                        Thi sĩ ơi! Hãy yên trí đi, đa số các cô giáo ở miền Nam đều thanh lịch, nho nhã, và bên trong nét yêu kiều thanh nhã lịch lãm ấy, còn ẩn chứa cả sự tự tôn thâm thuý và một tấm lòng... Nhưng chẳng hiểu tại sao những tà áo dài tung bay uốn lượn trong gió trước kia, ngày nay sau 30-4 đã bị cấm, vì "đảng" bảo:
                        - "Bây giờ đã hoà bình và độc lập rồi, thì mọi người bình đẵng, ai cũng như ai, không cần phải mặc áo dài cho ra vẻ đài các cao sang" .
                        Khổ thân tôi! áo dài các cô giáo phải biến đi đâu mất: Bây giờ hầu hết nữ sinh, thiếu nữ, phụ nữ, bà già ở miền Nam Việt Nam, khi ra khỏi nhà chỉ đóng bộ đồ bà ba: quần đen, áo trắng, áo nâu sồng! Một số thầy, cô giáo ở “chế-độ Sài Gòn cũ” bị Đảng và Nhà Nước cho “mất dạy” gần hết phân nửa. Ui, không “bị mất dạy” sao hở!? Khi bài học vỡ lòng trong miền Nam dạy tôi học từ thuở bé thơ là:
                        - “Phải biết kính trọng người lớn. Nhớ ơn Tổ tiên. Yêu mến quê hương. Yêu gia đình. Nhường cơm chia sẻ áo đến người cùng-khổ. Thương bạn học. Thân tình đoàn kết đùm bọc yêu thương lẫn nhau”.
                        Thì giờ đây mọi thứ đã đảo lộn. Đảng dạy trẻ thơ bài toán hận-thù: “Phải giết bao nhiêu “tên ngụy” (rebels) một ngày. Bác dạy người ta rình mò, thi đua đấu-tố nhau, tố khổ nhau đến cùng kiệt hơi thở cuối cùng. Nhất là thanh niên trai tráng trí thức đã bị đi Tù. Tù đày trắng trợn trên danh nghĩa lừa bịp: học tập “cải tạo”... Tôi đứng lớp mười giờ mỗi ngày để giảng về văn học mới:
                        Liên hoan có mấy quả chuồi,
                        Ra đi, nhớ mãi cái buồi hôm nay!
                        Anh đi chiến dịch Pờ–Lây
                        Cu
                        dài dằng-dặc, biết thuở nào... ra?
                        (2)

                        Quơi Trời cao đất dày ơi! Tôi cố gắng mở ngoặc kép, ngoặc đơn, ngỏ hầu thuyết phục cho học sinh miền Nam nên thông minh hơn xí, tìm hiểu chút xíu về cách diễn đạt “tư-tưởng-lớn” của nhà “giao-lưu văn-hóa của nhà nước ta” là thế. Dạ vâng! Là thế đấy! Nhưng học sinh miền Nam không chịu tin. Không tin. Ấy dà dà...! Thế nầy là thế nào mà buồn cười nhỉ. Quả chuối trong buổi quan-hà tiễn đưa người đi Pleiku í mà! Ngoài miền Bắc thì gọi là "quả chuồi" cho đúng âm điệu văn vần, văn hoa vui vẻ một tị! Còn trong miền Nam thì thành thật nôm na ngắn gọn kêu nhau ăn "chuối". Khổ quá! Mong các em cứ suy nghĩ nghĩa đen nghĩa bóng gì cũng được, vì "đất Plei... ku thì dĩ nhiên dài đằng dặc...". Có thế mà các em hổng chịu hiểu cho cô giáo nhờ xí! Thế là tôi càng “bị mất dạy” sau bài thơ rồi. Tôi cũng như các bạn chung ngành đã ngơ ngơ ngác ngác:
                        Thầy giáo, lương lãnh ba đồng.
                        Làm sao sống nỗi mà không đi thồ.
                        Nhiều thầy phải đạp xích lô.
                        Làm sao xây dựng tiền đồ học sinh?
                        Cô giáo phải bán bia ôm.
                        Ôm phải học trò, ăn nói sao đây?
                        (3)

                        Rất may là “bần-ni-tôi chưa “trổ nghề” điêu-đứng đứng-đường moi tiền móc túi, hoặc làm nghề liếm láp bọt bia ôm, hay là vác cuốc đi đào bia mộ! Mặc dù ở thời buổi nầy ai ai cũng biết và "thèm thích bia ôm” xí. Chứ có ai thích vác cuốc đi đào “bia mộ” bao giờ! Vả chăng “bia ôm” cũng còn có tay ôm chân đi... Còn “bia mộ” hì hì …nếu có “mộ chân” cũng ráng “bò đi” xuống mồ cho xong kiếp đời ô trọc trong một xã hội chủ nghĩa!
                        Cái xứ gì đâu thiệt lạ kỳ
                        Đèn xanh cũng chạy, đỏ cũng đi
                        Dân không phương kế đành phải ở
                        Cột đèn không cẳng cũng muốn... đi
                        (Bùi Phạm Thành)
                        ***

                        "Bị mất dạy" thì dĩ nhiên là mất việc. Tôi lui về khu 18 thôn vườn trầu của huyện Hốc Môn, là nơi hang ổ của bọn nằm vùng! thì gia đình tôi càng lầm than cơ cực, đói rách tả tơi gấp ngàn lần di-tản trước. Bởi vì:
                        Khi xưa vác bút theo thầy.
                        Bi giờ em lại vác cày theo trâu.
                        Trên đồng cạn dưới đồng sâu.
                        Vợ chồng cùng “cấy”... thằng cu ra đời.

                        Nhân dân thì chẳng cần "no".
                        Nhà nước no sẵn bo bo mỗi ngày.
                        Hãy chăm tay cấy tay cày.
                        Nhịn ăn nhịn mặc chờ ngày vinh quang.
                        (3)

                        Ồ! Chẳng qua: Tất cả mọi thứ là của nhân dân: Ủy ban nhân dân. Quân đội nhân dân. Viện kiểm soát nhân dân. Cửa hàng ăn uống nhân dân. Hợp tác xã phân bón nhân dân. Công ty bách hoá nhân dân.... Đặc biệt chỉ có “Kho Bạc” phì-lũ béo bở là của Nhà Nước! Buồn tình, tôi nhìn họ rỉ tai nhau ơi ới từ Bắc ùn ùn kéo vào Nam, như cụ Cao Bá Quát cảm hứng mấy câu thơ bất hủ:
                        “Một thầy một cô một chó cái,
                        Nửa người nửa ngợm nửa đười ươi"...
                        giống y đúc như cá nhân ba bốn tên cán bộ nọ vênh vang, vui vẻ vẫy vùng, vơ vất vùng Vịnh* (Trích dẫn thơ ngắn trong 4 Tập, 4 hồi: thể loại thơ Vần V tiếu lâm, có: Giới thiệu những nhân vật > Vững* + Vũ* + Vẹm* Vân* của THH như sau:
                        Với Vẹm* vỡ vai, vì vẩu vừa vểnh
                        Vì vậy Vũ* vừa vúc vắc vênh vang
                        Vả* vất va vất vưỡng vài vốc vích*.
                        Vun vén vỏn vẹn vài vố vịt vương*

                        Vẹm + Vũ + Vững vẫn vá víu vụ vườn
                        Vả* vỡ vài vồng vòi voi vắn vuông
                        Vùng Vinh* vắng vẻ, vùng vẩy về Vũng*
                        Vả* vài vườn vắng vẻ với vạn vật

                        Vịt vo ve vỗ vù* vai, vang vọng*
                        Vích vênh váo Va* Vân vanh vách
                        Vân vì vụ vịt, vênh vang vùng vằng
                        Vợ Vững vác võng vào ven vũm vườn

                        Vòm vườn vắng vẻ vật vờ võng vãnh
                        Vật vờ vi vu vui vì vô Vũng*.
                        vờ vĩnh vỡ vạc vài vồng vông vang
                        Vả* vụng về vồ, ve vuốt, vòng vòng
                        (vân vân... ) (2)

                        Vì: Nhất đổng (đồng hồ có hai cửa sổ). Nhì đai (radio). Tam đeo (kính “dâm”). Tứ đạp (xe đạp). Cũng chỉ vì họ bảo chiếc đồng hồ reo chuông ở miền Nam là: “mìn nổ chậm”. Phin café là: “cái nồi ngồi trên cái cốc”. Thủy-Quân Lục Chiến là: “Lính nước đánh bộ”. Trực thăng là: “tàu bay lên thẳng”. Nhà vệ sinh là: nơi “Đái, ỉa”. Nhà Hộ-sinh là: “Tập thể Xưởng-Đẻ”. Và những câu khẩu hiệu quái đản. Biểu-ngữ giăng ngay cổng ra vào ở Từ Dũ, viết nguệch-ngoạc, sai bét chính tả, nhưng đúng hàng lối trên dưới ghi rõ như sau:
                        Mọi “da” đình, chỉ có hai con vợ
                        Chồng hạnh phúc!
                        (3)

                        Ô ồ!... (có "hai con vợ", thì... đặc biệt “thằng chồng” phải rất hạnh phúc!!! hì hì hì… sung sướng là cái chắc). Hô hô! Do chủ tịch hội đồng Bộ-trưởng Trung-ương ra lệnh đẩy cao kế hoạch hoá gia đình, mỗi gia đình chỉ được phép sanh hai con, đứa nầy cách đứa kia 5 năm. Đảng sáng suốt lỏ mắt nhìn các bà, các chị lần lượt vô nhà bảo sanh để cai, nạo tuốt, khỏi nuôi báo cô; vì gạo cơm mắm muối vải vóc chả có.
                        Trai khôn lấy vợ đặt vòng.
                        Gái khôn lấy chồng thắt ống dẫn tinh.
                        Đàn ông đi biển có đôi.
                        Đàn bà đi biển mồ côi một mình.
                        Dù em con bế con bồng.
                        Thi đua yêu nước quyết không lơ là.
                        (3)

                        Tình trạng học đường tụt xuống dốc bi thảm, cháu tôi học cấp II, về nhà cháu đã kể lại chuyện một thằng bạn trong trường bị đuổi học, vì tiếng Anh tiếng U như sau:
                        Giờ Anh Văn, cô giáo cho học sinh tập “giao tiếp và ghi vào báo cáo”.
                        Hai thằng bạn hỏi nhau:
                        - Mầy thích loại nhạc gì ?
                        - Pop.
                        - Còn mầy?
                        - Disco.
                        - Rồi ghi vô đi.
                        - Nhưng mà hai từ đó viết sao?
                        - Tao cũng cóc biết.
                        – Đây là từ lai tây, thôi ghi phiên âm đi.
                        - Uhm, có lấy điểm đâu mà lo...
                        Thằng bạn gật gù, ghi vào báo cáo:
                        - Thể loại nhạc ưa thích: "Bóp Đít Cô" (2)
                        ***

                        Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam “siêu việt” là chỉ có thế thôi.
                        Thế đấy.
                        (!!! ; ???)
                        *

                        Vinh = ngoài Bắc / Vả = Các anh ấy, hoặc Vả lại, vả chăng / Vũng* Tàu. / Vịnh = Vịnh Hạ Long. / vích* - loại rùa / Vù = sưng vù vai / Vang vọng = vịt kêu quang quác /
                        (1) Thơ Bút Tre
                        (2) Sưu tầm lượm lặt
                        (3) Thơ tiếu lâm Tình Hoài Hương
                        * * *

                        Tình Hoài Hương
                        Last edited by Tinh Hoai Huong; 05-10-2017, 01:32 AM.
                        Bút trần nào tả được lưu luyến!
                        Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                        Tình Hoài Hương

                        Comment


                        • Khi Người Lính “Thua Cuộc …"




                          Khi Người Lính “Thua Cuộc …"


                          Sau ngày 30/4 "đổi đời" tối đen đầy tang thương... dẫn tới tháng 5... trở đi, là những chuỗi tháng năm đoạ đày: Hầu như suốt hơn hai tuần qua nhóm di tản chúng tôi hùn tiền để nấu cơm ăn chung, tối tối ngủ nhờ ở trong góc vĩa hè, (dưới mái hiên nhà thờ Huyện Sĩ). Lòng tôi trĩu nặng nỗi ray rứt muộn phiền sầu đắng theo từng cơn lắc léo luồng chảy trên dòng đời phức tạp, điệp trùng núi tiếp núi đồi tiếp đồi, chập chùng bóng tối hoang vu tĩnh lặng kỳ lạ. Người ta càng ồn ào, náo nhiệt buôn buôn bán bán, đổi chác bao nhiêu thứ lăng xăng, thì tôi càng lo lắng, bồn chồn, ray rứt bấy nhiêu. Tôi cảm thấy lạc lõng, bơ vơ, dường như bị bỏ rơi giữa đời, không nơi nương tựa. Thanh niên phụ nữ 30 từ đâu đâu mọc lên chả biết, ồn ào hí hửng đeo băng đỏ, mang súng AK đi đầy đường. Đám thanh niên náo nhiệt ngồi trên xe lam phóng loa kêu mọi quân nhân và công chức đi trình diện. Họ là những tay “sừng sỏ”, là những "ông Trời Con" uy quyền nhất trong buổi giao thời lộn xộn kinh khủng nầy. Chẳng biết đám thanh niên 30 nầy có đọc qua thuyết của Mạnh Tử chưa? -"Vua là thuyền, dân là nước. Nước bồng bềnh trôi có thể nâng thuyền lên cao, mà khi trái gió trở trời giông bão nước cũng có thể lật úp nhận chìm thuyền xuống đáy sông".

                          Tôi chua xót mãi suy nghĩ về: “quyền lực” trong buổi giao thời thật vô cùng cay đắng và đớn đau!!! Quyền lực có hai mặt: -Có điều đúng và có điều sai-. Quyền lực mà ai đang nắm trong tay, (cho dù đó là "kẻ chiến thắng" xâm chiếm quê hương) do tước đoạt, giành giựt, -mà quyền lực cần dung hòa, thông cảm, độ lượng, chia xẻ lẫn nhau, có lẽ phải và có điều trái-. Để bảo đảm mọi điều ta đang hoài bão về lý tưởng hằng ước ao: Không vinh quang nào mà không trả giá bằng gian khổ, mồ hôi, nước mắt, máu; ngỏ hầu duy trì sự trường tồn cho một dân tộc vĩnh thịnh. Vậy thì, “Việt+ cách-mạng lâm-thời” muốn có tất cả, thì họ phải chiếm được lòng dân, phải được dân tôn trọng. Muốn có sự sinh tồn của một đất nước phục-hưng vĩnh-thịnh trong hoà bình, và một dân tộc giàu mạnh phú cường, hạnh phúc... điều ấy sẽ tùy thuộc vào các cấp chấp chính lãnh đạo đất nước đương nhiệm: Tôi xin khẳng định thêm lần nữa: nếu anh minh, thì chính thể ấy có cả thiên hạ, dân tộc ấy sẽ trù phú, đất nước ấy thái bình, tự do, nhân quyền, độc lập, bình đẵng, hạnh phúc trường tồn thật sự!

                          Suốt thời trai tráng ngang dọc phong sương: vinh nhục sang hèn, buồn vui đớn đau sung sướng: anh đều có đủ… Tranh đã tranh, cười đã cười với bao lần khóc thầm. Đời mỗi người có nhiều lý tưởng, đam mê, hoài bão, ước ao, hy vọng và hối tiếc; đã làm nhiều người tổn thương! Trái tim bạn chúng tôi đau, tôi và Luật càng đau ghê lắm khi mất sạch mọi thứ, thì đã thất vọng tột cùng. Vì những điều bạn và anh làm, đã hy sinh và sống chính trực trong bổn phận, danh dự, trách nhiệm làm trai phải trả nợ non sông, sự thịnh hưng tồn vong cuả quốc gia dân tộc; bạn & anh chọn con đường phụng sự tổ quốc, đưa thân ra gánh lấy trọng trách, quên thân mình, quên tình riêng, vắt cạn bầu tâm huyết, dũng cảm chiến đấu vì dân tộc: Bạn và anh đã làm hết sức với khả năng có thể.

                          Chính bởi họ là “quan”... của một chính phủ Việt Nam Cộng Hòa: do quan VĂN lấy trí, dùng lời để luận người, sống chết vì lời nói, cây bút, công tâm vi thượng. Quan VÕ lấy sức dùng tài sống chết ở sa trường, xã thân ngoài chiến địa, da ngựa bọc thây là chuyện thường. Hai loại QUAN cộng với Tướng, Tá, Úy, Binh... đều tương-đồng: trọng NHÂN, trọng chữ TÍN, trọng NGHĨA, bảo vệ lãnh cư và dân tộc; họ lấy trách nhiệm và danh dự làm gốc, để lập thân, cùng nhau ôn hòa chung vai nếm mật, chia xẻ với DÂN mà cộng khổ ; ngỏ hầu trải qua: “Chua. Cay. Mặn. Ngọt. Bùi. Đắng. Lạt. Trong”.

                          Cuộc đời như một trò chơi, một ván cờ... cho đến lúc nào đó ta phải có sự chọn lựa, cân nhắc, dứt khoát quyết định, đặt hết nhiệt tình tin tưởng vào trò chơi đó. Ai may mắn “thắng” chưa chắc là do mình hoàn hảo; hoặc người “bại” sau cuộc “đổi đời” không hẳn là yếu kém. Trớ trêu thay, "người thua cuộc" (không phải quân nhân quân lực Việt Nam Cộng Hoà là người thua trận chiến, mà là người thua cuộc cờ, trên bàn cờ quốc tế), thì chắc chắn sẽ bị kẻ thắng lừa, hại cho thê thảm... vì sự thanh trừng và trả thù hèn hạ... Biết thế, nhưng họ ôn nhu cùng cả tin đơn giản nghĩ: ("Không đến nỗi nào... vì "người ta" đã có hứa sẽ "khoan hồng & độ lượng" mà...)

                          Vô cùng khó khi QNQLVNCH đã u trầm, chua xót, đắng cay, nghẹn ngào, lặng thinh, ẩn nhẫn trong cách đối nhân xử thế! Tôi xin nghiêng mình ngã mũ cung kính chào qúy vị “Tù Cải Tạo” (chữ “tù cải tạo” được riêng tôi và nhiều thế nhân trang-trọng, tôn vinh trong hai cái “ngoặc kép”). Đáng trân-trọng và khâm-phục lắm thay! Nay không còn gì... khiến cho anh có thể THUA. Chẳng có gì anh có thể HƠN nữa! Anh trầm ngâm lặng lẽ nhìn "đời", và dĩ nhiên anh không còn gì phải hối tiếc và ân hận.

                          “Hòa-bình” đến, nhiều kẻ hắc ám xu thời xu thế hí hửng hân hoan cứ tưởng bở, reo vui, mừng rỡ nên phất cờ nửa xanh nửa đỏ với ngôi sao vàng chính giữa, ùn ùn đi đón khách lạ phương xa không mời mà đến xâm lăng, gian trá tước đoạt, giành dân giựt đất... Trong khi mọi quân cán chính nhân (Quân-lực Việt Nam Cộng Hoà) tuân phục thông báo mới của phe "giải phóng miền Nam" sau 30/4, họ, (QNVNCH) những quân cán chính ở trong chế độ cũ quả thật cả tin “chân thành & hiền triết” can trường chấp hành, tuân phục điều luật do “Việt+ nhà nước” mới thành hình ban hành, họ tuân phục chấp nhận đi trình diện “học tập cải tạo trong tù” 14 ngày, (như cách-mạng lâm-thời đã ra rã rao truyền trên những loa phóng thanh đặt khắp các nẽo đường); Cũng có nghĩa là quân nhân quân lực Việt Nam Cộng Hoà trọng chữ tín, tận trung muốn tìm ra con đường chính nghĩa, không lừa đảo và bội tín. Họ đi tìm hạnh phúc thực sự không tự đến (trong tương lai mù sương), mà ta phải quyết giành về, cho tổ quốc, cho quê hương, cho gia đình và riêng bản thân.

                          Thế nên, mọi người công dân ở trong chế độ cũ “chân thật cả tin” răm rắp chấp hành điều luật, quy phục theo lệnh lạc mới ban hành của "cách mạng" đưa ra. Họ nộp giấy tờ tùy thân, để được phát cho một tấm giấy viết tay nguệch ngoạc chứng nhận đã trình diện với ủy ban giải phóng, xin giấy phép chứng nhận đi đường, chen nhau ở các bến xe đông nghẹt người, họ ngủ lại đêm nầy qua đêm khác, tuần nầy qua tuần khác, ngỏ hầu mong có chuyến xe đêm, trở về nguyên quán trình diện Ủy-ban Giải-phóng địa phương. Người ta riu ríu tuân theo, không ai muốn hó hé động đến “cách mạng Việt+ phi thường”. Vã chăng chiến tranh tàn ác khiến mọi người thê thảm, rất đau khổ cùng kiệt sức rồi. Ai ai cũng muốn đất nước thanh bình, thịnh trị, để toàn dân an cư lạc nghiệp, đời sống ấm no & hạnh phúc. Ngỏ hầu khi đất nước Việt Nam thái bình, thì dân hai miền Nam Bắc không còn chính kiến, lúc đó chúng ta sẽ chung vai góp sức xây dựng quê hương, chí làm trai hào hùng tung hoành vẫy vùng qua bốn bể, thì sẽ có ngày quê hương rạng rỡ phú vinh:


                          Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc.
                          Nợ tang bồng vay trả, trả vay.
                          Chí làm trai Nam, Bắc, Đông, Tây,
                          Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể.
                          Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
                          Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.
                          (*)

                          Tôi trộm nghĩ: “khi người đàn bà (hoặc đàn ông) đã thành thật yêu ai, thì họ chung thuỷ, cố bảo vệ, duy trì hạnh phúc đến cùng. Họ đặt hết niềm tin tưởng, yêu mến thiết tha, và ngưỡng vọng người ấy... Nhưng khi họ biết rõ mình đã bị lừa gạt, (cả ba phương diện: tinh thần, vật chất và thể chất), họ đã bị “cách mạng lâm thời 30” phản bội; thì trong lòng họ (đa số) rất tức giận, uất hận... và chỉ muốn tìm cơ hội trả thù. Thế nhưng theo thiển ý của riêng tôi thì: những người bị gọi đi “Tù” trên danh nghĩa: “học tập cải tạo”; khi biết mình đã bị trắng trợn “lừa vào rọ tù”, (tù vì tội yêu quê hương, yêu tổ quốc, yêu đồng bào), họ phải đi “học tập cải tạo”, có ngày đi, mà không biết có ngày về, chẳng có án tù: Đó chính là một biến thể của cú bất nhẫn quay giò lái, đã minh định sự trả thù về hai ngã rẽ cuộc đời đối nghịch tất yếu vì chính kiến. Đó là hình phạt trắng trợn và ghê tởm của con người đối với con người. Ấy thế mà “người can trường trong chiến bại” vẫn ôn nhu, kiên trì, khoan dung, chịu đựng, nhẫn nhục, xót xa cam phận, ngỏ hầu cho “trải sự đời”:

                          Ăn ở sao cho trải sự đời.
                          Vừa lòng cũng khó há rằng chơi.
                          Nghe như chọc ruột, tai làm điếc.
                          Giận đã căm gan, miệng mỉm cười.
                          Bởi số chạy đâu cho khỏi số.
                          Lụy người nên mới phải chiều người.
                          Mặc ai chớ để điều ân oán...
                          (*)

                          Họ thành tâm muốn hòa mình với cỏ cây và nhân quần, để níu lấy cơ duyên “làm lại cuộc đời”. Nếu họ có buồn, có đau đớn, có đắng cay, khổ sở và cơ cực, chắc chắn là khổ cực trăm bề rồi: “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại mà”. (Một ngày trong tù bằng ngàn thu ở ngoài), thì họ cay đắng ngậm bồ hòn, xót xa tự trách thân:

                          Ngồi buồn mà trách ông xanh,
                          Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười.
                          Kiếp sau xin chớ làm người,
                          Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.
                          Giữa trời, vách đá cheo leo.
                          Ai mà chịu rét thời trèo với thông
                          (*)
                          ***

                          Cuộc sống dày vò tôi suốt đoạn đường ly hương trên quê cha đất tổ, kể từ khi chồng tôi cầm tờ giấy trình diện đi “học tập cải tạo” mười bốn ngày, (than ôi 14 ngày) được ghi thêm câu thòng-lọng:
                          - … , … sau nầy nếu cần, phải trình diện theo đường lối khoan hồng.

                          Ngày ấy, bạn cùng chồng tôi đứng xớ rớ ngoài gốc cây sao, gần trung tâm trình diện, đã nghe cán bộ phóng loa thông cáo thứ hai ra đời:
                          - Quân nhân cấp: Úy, Tá, Tướng... Trưởng phòng, Trưởng ty, Sở, đi học một tháng!
                          Một ông thượng úy khác dõng dạc thòng thêm câu:
                          - Các anh có biết: Jean De Lattre De Tassigny không? Ông ta là Tư-lệnh quân đội viễn chinh Pháp đấy. Ông ta có cậu con trai là trung úy Bernard De Lattre, vào tháng 5 năm 1951 tên Bernard đã bị đàn anh của chúng tôi, (mà hồi xưa thường gọi các “đồng chí” ấy là Việt Minh đấy), chặt đầu tại Ninh Bình. Các đồng chí ấy cột cái xác không đầu vào thân con trâu, họ phát một cái rõ mạnh vào mông con trâu, thế là con trâu ù té chạy xộc vào trong đơn vị trú đóng của Bernard. Khiến quân đội viễn chinh hoảng loạng, chúng lo đầu hàng gấp, cút xéo về Tây, chạy có cờ! Bọn thực dân mà còn sợ kinh như thế, huống hồ ai… Hử?

                          Rợn người! ... Dẫu Luật thì-thầm bên tai, nhưng tôi chẳng thể nghe gì. Tôi chỉ thấy tiềm ẩn trong tâm tư: hình ảnh diễm kiều của đường chiều trong dáng hoàng hôn ve vuốt nâng niu bao ước vọng thanh bình, an ấm, của con người thuở xưa bay bổng lâng lâng dâng lên cao vút. Nay đã phũ phàng rơi cái độp xuống vực thẳm mênh mông không đáy. Rồi sẽ ra sao đây khi (anh chồng tôi “cù lần, dại... dột nghe người ta ngọt ngào phỉnh nịnh”) Luật đã dứt khoát rủ bỏ tất cả, để rứt áo ra đi... tiến tới ngày mai, anh cương quyết dấn thân tới vùng tương lai mù mờ, sâu hoắm, mịt mùng trong "Trại tập trung...", mà tôi không thể; không làm sao ngăn cản anh nỗi)!?

                          Rồi sẽ ra sao nữa đây? Khi chồng tôi ở một nơi nào xa xăm biền biệt không tin tức, và tôi: vợ ngu ngơ đần độn, cùng bầy con nhỏ xíu ngây thơ thủng thỉnh dò dẫm từng bước thấp cao, với mẹ già lum khum một nẽo rị mọ đớn hèn, chúng tôi cùng dắt díu nhau phiêu lãng lang bạt nơi nao? Bao tủi nhục làm thân cô thế khô, tôi sẽ biến dạng làm con rùa lọt tọt, con cò lẹt đẹt âm thầm lặn lội kiếm sống trong Mười Tám Thôn Vườn Trầu Bà Điểm, Hóc Môn? Chao ôi! Da diết buồn đau biết mấy!!! Chẳng hiểu sao lòng tôi dấy lên một cảm khúc quặn lòng, đớn đau, chua xót, đắng cay, nghèn nghẹn ứ nghẽn vô bờ?! Tôi cảm thấy dường như mình hẩng hụt, chơ vơ, lạc lõng khát khao từ mọi phía, mắt còn ngái ngủ, bỗng chốc tôi bàng hoàng gặp giữa khuya trùng trùng lớp lớp, toàn những khuôn mặt xa lạ, lạnh lùng, thô thiển. Chúng tôi lo sợ những cuộc trả thù triền miên đột nhiên dội vào đời.

                          Cũng có người bồn chồn, lo sợ tột cùng, dè dặt, bơ vơ đầy ngao ngán, lặng im, tò mò, hiếu kỳ và nhút nhát rụt rè như tôi. Mọi người mưu tìm cho chính thân cuộc sống mới, đầy bon chen, kỳ thị, chính kiến từ cơn lốc cao độ trong nền chính trị “30/4 giống đúc đêm giao thừa”! Chiến cuộc giao tranh tàn khốc thì đổ máu, hận thù, tang thương, cay đắng, và chết chóc. Còn hoà bình lại ngậm ngùi bi thương ở muôn mặt đắng cay vô vàn khác. Bao sợi tóc trên đầu xanh giờ đã điểm bạc, vò võ cô đơn trong góc tù, thỉnh thoảng nhận được gói qùa bé tí, anh cảm thấy ấm lòng, nghèn nghẹn… nhưng ngày về vẫn hun hút xa xăm. Điều đau buốt nhất là tuổi thanh xuân, tương lai, sự nghiệp, hy sinh, tình yêu, phục hưng tổ quốc đã hủy diệt, tiêu tan trong tù ngục. Sự đớn đau mất nước đã dày vò anh tột đỉnh, nhận chìm anh xuống đáy hố thẳm, đã quá sức rồi.

                          Phía sau và đằng trước con đường đầy sương mù đó, hầu như còn đọng lại cái nhìn gay gắt, lạnh lùng (của con tàu định mệnh) có nửa quá khứ hào hùng, và nửa tương lai mù tối, đang trôi lênh đênh theo từng cuộn mây trắng đục trên đầu? Bây giờ, Bạn & anh… thân bất do kỷ đã bị tù đày “cải tạo” rất lâu năm. (Thời trai trẻ Luật bị giam cầm suốt mươi năm, cùm kẹp, đói khát, khổ sở, bệnh hoạn, đau xót, dày vò, khổ ải, điêu đứng, đầy tủi nhục đắng cay… Có bạn là Phan văn Bàn mới "ghê" chứ! bị "TÙ cải tạo" suốt 29 năm đó sao)!?

                          ***

                          (*) Thơ: Nguyễn Công Trứ

                          _ * _

                          Tình Hoài Hương
                          Last edited by Cowboy72A; 05-20-2017, 12:18 AM.
                          Bút trần nào tả được lưu luyến!
                          Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                          Tình Hoài Hương

                          Comment


                          • MẸ Tôi & Chiếc Áo Gấm...



                            MẸ Tôi & Chiếc Áo Gấm...
                            Từ năm 1980: chúng con đau đớn kính gởi về mẹ (& ba: 1982) đóa hoa hồng trắng.
                            Tình Hoài Hương

                            *

                            Tôi cố gắng giằng co, níu kéo, quyết giành lại chiếc áo gấm sờn nhàu nát cũ mèm với định mệnh. Dù thời gian dài dằng dặc lặng lẽ đơn điệu dần dần trôi qua, đã khiến chiếc áo hư hao, phai mòn, sờn úa mục nát ít nhiều. Và không gian trôi dần, trôi dần về phía tương lai mù xa tách bạch ra đôi bờ cuộc sống. Không ai có cách gì ngăn chận tuổi già héo hắt đến trước thời gian. Vâng! Có lẽ nay tinh thần lẫn thể chất tôi đã già cỗi! Và, chiếc áo gấm năm xưa còn đây, mà ngón tay gầy run run tôi cài hoài mấy nút áo cũ, vẫn chưa xong. Thời gian đã cướp dần đi tất cả. Vẫn biết thế, nhưng tôi mong muốn níu kéo, âu yếm dùng-dằng ngắm nhìn lại chiếc áo gấm. Nếu tôi được nhìn nhiều lần càng tốt.

                            Ngày ấy, chúng tôi vui vẻ dừng chân trên con đường mòn vòng vo gãy khúc uốn lên uốn xuống quanh co ven đồi thông rì rào ru tình tại Đà Lạt. Chúng tôi chỉ nhìn vài con chim lí lí lắc lắc, rù rì, bay qua bay lại trên những cành cây mảnh dẻ, là cảm thấy hay hay, vui vui. Lần đó, tôi liếc liếc, lí lắc ghé ghé nghiêng nghiêng đầu thẹn thùng e ấp cười, tôi dùng hai ngón tay quệt nhè nhẹ vào một bên má mà lêu lêu Luật, để trêu chọc chàng, và say đắm nhìn Luật. Hai bàn tay tôi nhẹ nhàng, khéo léo khép vạt áo veston của chàng, rồi cài hộ Luật mấy nút áo, cho chàng bớt bị gió lạnh lùa vào cơ thể.

                            Giờ nầy, Luật cùng muôn ngàn người trai trẻ khác đã bị tập trung đi “cải tạo” trong tù rồi! Chàng đã ra đi. Nhưng Luật không ra khỏi đời tôi. Còn mỗi mình tôi đứng lại bơ vơ, lạc lõng, muộn phiền giữa chợ đời sóng sánh muôn mặt, với sợi tơ hồng quá mong manh cứ rung lên bần bật giữa lưng trời. Tôi lặng lẽ chua chát đối mặt với cuộc sống, ấp ủ kỷ niệm thời chớm lớn, những tủi hổ tiếc xót vô vàn, và những đắng cay thăng trầm tột độ trào lên bờ mi mọng từng chuỗi giọt sầu.

                            Ngày bị vào tù “cải tạo”, Luật đã bỏ chiếc áo vét (veston) nầy lại, trên chiếc áo vét đã dính hai ba sợi tóc đen mướt khá dài cuả tôi, và một hai sợi tóc ngắn cuả chàng, cùng với những lá thư tình đầy ắp yêu thương do chàng viết dày cui, còn trang trọng cất trong túi áo. Thư của Luật viết có văn phong gợi cảm, là những bức tranh phác thảo duyên dáng về câu chuyện gia đình, tình yêu, phúng dụ, vỗ về, hứa hẹn, an ủi, mang tính cách gia đình đầm ấm yêu thương, hạnh phúc bền lâu. Đó cũng là chiếc áo gấm lý tưởng thiêng liêng tinh tuyền muôn thuở, có dấu vết đậm đà khắc sâu vào tim rất thân yêu, quen thuộc duy nhất từ buổi thiếu thời. Dù qua phong sương sáng khuya trưa chiều mưa gió… chiếc áo của chàng đã cũ. Thư tình Luật viết ngả màu vàng úa đọng bụi phấn thời gian, cùng năm ba sợi tóc cuả hai chúng tôi vẫn bóng mướt đen tuyền còn duyên tình mãi đến tận bây giờ.

                            Tôi nâng niu giữ gìn những sợi tóc, phong thư, cùng tấm áo từ hồi chưa cưới nhau. Ngày còn trẻ, tôi chưa lo nghĩ đến tuổi xế chiều phôi pha rồi sẽ ra sao. Bởi tình yêu chúng tôi đó, giống dòng sông chảy qua bao dãi đất: Phù sa phì nhiêu có, cằn cỗi có, tươi tốt có, băng giá hoang tàn lẫn đau khổ buồn xo cũng có. Rồi dòng sông xô sóng sau dồn sóng trước, cuồng nộ đập vào gờ đá, hay lặng lờ êm ả, thong dong xuôi chảy ra biển cả. Mỗi khi chạm trán với thực tế bẽ bàng đắng cay, trong lòng ngút ngàn đau thương, lúc đó tôi lặng lẽ vuốt từng nếp nhăn trên tấm áo, và trang trọng nâng mấy sợi tóc trên hai bàn tay khẽ khàng khum khum bụm lại. Tôi sợ gió từ đâu vô tình lướt qua, tóc sẽ cuốn theo chiều gió bay mất hút, thì biết đâu mà tìm?

                            Đó là những kỷ vật ưu ái đã theo tôi trên muôn dặm đường đời cay cực, để xoa dịu nỗi hãi hùng và bàng hoàng rất kinh ngạc trong cuộc đời phù du. Tôi ấp ủ tình luyến nhớ, thút thít, bùi ngùi khi soi bóng mình trên gương, cảm thấy lòng nao nao nỗi buồn da diết. Vì đến nay tôi chẳng thể giữ lại kỷ niệm nào thân thiết nhất về chàng, khi mái tóc mình thấp thoáng những sợi tóc bạc quyện-bện cùng bao sợi tóc chẳng còn đen mướt? ngoài mấy di vật bé tí ti như đã kể. Thế nhưng, ngọn nguồn óng ả tình trần hiện nay có mất đi chăng? Khi thời gian khẳng định ngàn mối lo âu, đói khát cơ cực run rẩy dâng tràn!? Không thể chối quanh từ sau ngày mất nước, thì lòng trí tôi luôn ray rứt, thương-xót hồi tưởng về quá khứ buồn vui lao xao, dẫu đời xáo trộn, chao đảo.


                            Nay tôi đang mặc chiếc áo cũ của chàng, mà lẻ loi đơn côi ghê gớm, tôi âm thầm đi một mình, buồn bã trên con đường xám ngắt thuở xa xưa. Hai bàn tay lạnh giá run rẩy, run lẩy bẩy, tôi không làm sao cài nổi nút áo bạc phếch thời gian và cũ mèm nầy. Thì ra… giờ đây tôi quá yếu kém và đã già! Kỷ niệm bây giờ chả là gì! Không quan trọng! Chỉ là những chương đã viết trong pho sách tình, xếp lớp lớp trên kệ sách, ít khi được mở ra xem đã phủ lăn tăn bụi vàng. Pho sách cuộc đời từ đây phải đóng lại. Trang giấy đã lật qua quyển mới, thì hồi tưởng nhớ nhung kỷ niệm; chỉ như chiếc lá úa lắc lẻo đong đưa trên cành cao, chờ cơn gió lay để chao đi. Như những áng mây xám lưng đồi lững lờ bay qua bầu trời mùa thu. Như côn trùng biến dạng vào lòng đất mà thôi. Tôi thấy rõ tính chất phù phiếm của quá khứ mang đầy kỷ niệm lãng mạn rồi.

                            Sau ngày “đổi đời”, tôi muốn sống một cuộc sống khác hẳn: Thực tế sung mãn hơn. Nhưng, chả hiểu có thực hiện nổi không, là còn tùy thuộc vào hoàn cảnh và ý chí: Trước tiên, tôi muốn cho đàn con phải nên người hữu dụng, kiên cường dù bụng đói cồn cào, để vượt qua mọi chông gai thử thách, “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Chỉ bấy nhiêu thôi, cũng đủ ngất ngư mà. Ý nghĩ nầy như viên sỏi ném xuống mặt hồ phẳng lặng, tạo thành những vòng tròn đồng tâm, ám ảnh tâm thức tôi bồn chồn, băn khoăn, co siết mãi trong lồng ngực quắt quay.
                            *


                            Ngày mồng 5 tháng 5 năm 1980 âm lịch, anh Chín Dzoãn báo tin sét đánh: Mẹ tôi đã chết ở trong Ta In (khu đất thuộc cuối vùng Tỉnh Tuyên Đức Đà Lạt). Ta In là cuối địa đầu quận Đức Trọng, giáp ranh giới vùng Di Linh. Nơi tít tót đèo heo hút gió, thâm u cùng cốc lạnh lẽo, vô cùng hiểm trở, có đi mà ít có ai về nguyên vẹn. Nơi chó ăn đá gà ăn muối, nơi khốn cùng của vùng “kinh tế mới” khô cằn toàn sỏi đá. Chỉ nhiều rắn, rết; vô số muỗi, vắt, đỉa, ruồi trâu, bò cạp rừng to và độc kinh khủng. Chúng chuyên bu bám vào người để hút máu. Nơi có nhiều mụt măng le, tre rừng, ta ăn vào cho đỡ đói, thì sẽ bị sốt rét ngã nước, mà lăn ra chết toi.

                            Cầm tờ điện tín, tôi lặng người rất lâu, không thể khóc thành tiếng. Nước mắt u uẩn tự động quằn quại tuôn chảy từng dòng rồi dội ngược vào tim mình đau điếng. Hình như tôi nghẹt thở, chết dần chết mòn, không còn cảm giác nào khác, ngoài sự dày vò, ân hận, đớn đau dâng lên tột đỉnh. Vì, giá như trước ngày 30-4-1975, nếu có chiến tranh, có đánh nhau dữ dội, tôi cũng còn chiếc xe hơi riêng mới toanh mang hiệu Peugeot 404 chạy đi... Hay là tôi có thể mua vé máy bay khứ hồi cấp tốc bay về với mẹ, tôi qùy xuống bên mép giường, cầm tay mẹ, ôm chặt mẹ lúc mẹ hấp hối.

                            Ôi! Giờ đây tôi không thể đến bên xác mẹ già yêu dấu, để nhìn mẹ một lần chót trong giờ phút mẹ lâm chung. Tôi không thể nào xin tấm giấy phép đi đường. Tôi cũng không thể chen lấn ra bến xe đông nghẹt người có giấy phép ưu tiên. Vì, tôi là kẻ “ưu tiên u đầu” thì có. Tôi không thể đứng ngày nầy qua đêm khác ngoài bến xe, nhịn đói nhịn khát, mà chẳng dễ dàng gì chờ mua vé xe từ Sài Gòn đi Đà Lạt. Biết tin mẹ chết, cũng đành chịu! Dù từ Hốc Môn đi Ta In, chỉ hơn 300 cây số.


                            Thế là hết thật rồi! Một thân xác héo hon đã thực sự trở về với cát bụi phù du. Tôi không lẽo đẽo đi sau quan tài mẹ, vật vã khóc than mà tiễn đưa mẹ về nơi an nghỉ nghìn thu. Má con chúng tôi không biết làm gì hơn, ngoài việc quây quần bên nhau, gùy dưới nền đất, bồn chồn lo âu, sụt sùi, băn khoăn, suy niệm lời Chúa, lâm râm dâng lời cầu nguyện. Tôi ứa nước mắt nhìn mẹ trong hồi tưởng:


                            Mẹ tôi sanh tại làng Thuận Nhơn. Nhà ông bà ngoại ở quê (tức ông bà cố ngoại của con tôi. Làng ở bên con sông rợp bóng hai hàng dừa và lũy tre xanh um bóng mát thuộc Tổng Cù Hoan, Phủ Hải Lăng, Tỉnh Quảng Trị. Mẹ lớn lên trong một gia đình bế thế, phong lưu giàu có, ruộng vườn của ông bà ngoại cò bay thẳng cánh, lúa gạo trâu bò nhiều nhất trong vùng thời bấy giờ. Ông cố ngoại là một võ quan rất giỏi ở triều đình vua Khải Định, Huế). Mẹ có dáng dấp thon thả, làn da bánh mật, răng hạt huyền nho nhỏ đều đặn, miệng cười chúm chím, mắt phượng mày ngài, mũi cao, mái tóc dài láy đen bối thành một búi to sau gáy. Áo quần mẹ luôn trang nhã, sạch sẽ và tươm tất.

                            Mẹ đi ra ngoài đường, ở trong nhà, hay đi ngủ, mẹ đều thay đổi quần áo đâu ra đó hẳn hoi. Dù đi khỏi xóm, đi chợ, hay đi bán, mẹ luôn mặc áo dài đoan trang kín đáo che thân. Đặc biệt mẹ sống cuộc đời bình dị đạo đức, chất phác lương thiện, dịu hiền phúc hậu. Mẹ siêng năng tần tảo đầu tắt mặt tối, long đong bán buôn xuôi ngược. Mẹ nhẫn nhục lao khó giúp chồng, nuôi đàn con mười mạng nên người. Vất vả vì chồng vì con nheo nhóc, mẹ không hề tỏ lộ bất bình, hay nặng lời to tiếng. Trời mưa tháng gió ở nhà rảnh rỗi, mẹ siêng năng cần mẫn khéo tay tự chằm nón lá. Mẹ may áo quần cho chồng, con. Đôi khi mẹ cũng may biếu cho bạn mẹ, và người thân.

                            Đó là việc vặt trong nhiều hy sinh to lớn khác. Phải nói là hầu như suốt cuộc đời mẹ, chưa có lúc nào an nhàn thảnh thơi, ngưng nghỉ tay chân. Cái số mẹ cực thân đến thế mà! Đồng thời mẹ xứng hợp với đức tính bác ái khoan dung của chồng. Mẹ dễ dãi cả tin khi ai nói điều gì xuôi tai “nịnh” mẹ, thì có bao nhiêu tiền của, mẹ nhẹ dạ trút cho người ấy hết. Dù sau đó biết mình bị lừa, nhưng mẹ không giận lâu, mẹ “hờn mát” một chút, rồi quên ngay.

                            Mẹ chân chất hiền lương đến độ thật thà như đếm. Mẹ tính tiền cũ từ thời vua Bảo Đại ra tiền cụ Ngô, đến thời đổi tiền ở chế độ Sài Gòn, ra tiền mới sau ngày mất nước 75, thì mẹ giống thầy bói mù sờ con voi. Mẹ luôn bị kẻ chợ ăn lường. Thế nên, dẫu bị mất hết tất cả tiền bạc, nhà cửa villa, biệt thự tan hoang, mẹ không thèm tiếc. Mà mẹ chỉ ôm khư khư bình vôi đồng đen nhỏ như cái chén kiểu, nhưng khá nặng, và rất có giá trị, chiếc bình vôi nầy có mấy tiệm vàng như Kim Khánh hoặc Kim Ngọc trả giá 5 cây vàng bốn số 9, nhưng gia đình chẳng ai chịu cho mẹ bán! Thân bình vôi tròn vo, đít vôi bằng phẳng, có quai xách đồng xinh xinh bên tai vôi.

                            Mỗi lần ăn trầu, mẹ khéo léo lấy cây chìa vôi têm vào mấy lá trầu xong, còn dư vôi trên cây que chìa, mẹ quệt quệt lên trên miệng bình, cho “bình vôi hưởng tí xái”. Thế là miệng “bình vôi vui vẻ” nhô cao, còn lỗ miệng bình vôi thì teo tóp dần nhỏ xíu; trông nó hô, loe, vẩu ra, hơi giống miệng con heo nái, coi ngộ nghĩnh sao đâu. Hồi ấy tôi nói với mẹ:
                            - Tại mẹ ưa mời bình vôi ăn trầu, nên cái miệng nó mới loe ra dị hợm kinh khủng nè.

                            Mẹ cười vui vẻ. Mẹ rất thích bình vôi đồng đen nầy, nó đã theo mẹ suốt từ thời mẹ về nhà chồng, đến tận ngày nay. Ấy vậy mà bây giờ mẹ cũng buông thỏng hai từ bỏ hết. Kể cả chồng, con, cháu, chắt, dấu yêu. Mẹ bỏ hết của cải vật chất vinh sang xưa. Một mình mẹ lặng lẽ chết đói ra đi âm thầm, mẹ về bên kia cuộc sống mới.

                            Bà chị dâu của tôi đã kể lại rằng: Hôm mẹ vĩnh viễn từ bỏ con, cháu, ấy là một buổi sáng trời ốm nắng, lất phất từng đợt mưa phùn, trong nhà ai ai cũng lo đi rẫy, đi rừng rất xa, xa ghê lắm; để kiếm sống. Tửng bưng sáng, anh Dzoãn đi bộ từ trong Ta In ra Tùng Nghĩa (xa xôi khoảng hơn hai mươi cây số); anh chạy đi vay tiền, để mua thuốc cảm về cho mẹ. Ở nhà chỉ có một mình chị vợ loay hoay dọn dẹp nhà cửa. Mẹ nằm im trên giường không động đậy nhúc nhích. Chị (chị dâu) thấy mẹ không dậy ăn trưa như mọi ngày, nên chị bước qua gian liếp bên cạnh, chị đến bên giường tre lạnh lẽo, không nệm ấm chăn êm.

                            (Nhà anh chị quá nghèo, sau 30/4 anh đi tù 5 năm, vừa được tha về, khi cả nhà bị đi kinh tế mới. Họ chỉ có mấy nhúm quần áo tẻo teo, vài bao bố: son nồi chén bát, guốc, dép, linh tinh… Ít mùng mền đơn bạc, và những bàn tay trắng. Con dâu dắt díu mẹ già tám mươi tuổi lom khom leo núi chùng chập, vượt đồi trùng điệp. Chồng đau bao tử cùng bầy nhỏ lút chút tám chín đứa con, đứa lớn nhất mười ba tuổi trở xuống đứa non tháng tuổi, thì lấy đâu ra những thứ xa xỉ ấy trong thời buổi gạo châu củi quế như ri).

                            Mẹ trùm chiếc khăn màu nâu, mặc áo dài nỉ dạ đen, quần đen, áo len nâu khoát bên ngoài, và mang đôi tất đen. Mẹ nằm nghiêng, quay mặt vô phía ván vách bằng bìa gỗ. Mẹ chập chờn thiêm thiếp trong giấc ngủ muộn phiền.
                            Chị e dè hỏi thăm:
                            - Mệ ơi! Mệ có khoẻ không?
                            Chị Ngọ không thấy mẹ trả lời, chị liền cúi sát xuống bên mẹ, nhè nhẹ lay lay đập đập vào cánh tay mẹ:
                            - Mệ ơi! Con nấu cháo cho mệ ăn nghen.
                            Mẹ tôi lừ đừ mở đôi mắt nhiều ánh đục, dường như đã bất thần ra, mẹ cố gắng quay ngoái cần cổ yếu ớt về phía con dâu, thều thào:
                            - Hôm ni có… cháo ăn… hả con.
                            - Dạ. Mệ đau, không ăn được măng luộc hầm mềm như mọi ngày đâu. Để con chạy ra chợ xép, mua chút gạo, con về nấu xí cháo.
                            - Có gạo là mừng hì.
                            - Mệ ráng chờ nghe. Chợ hơi xa. Con sẽ đi về ngay, nấu mau lắm.
                            - Thôi con. Để dành gạo nấu… cho thằng Cu Nâu… có chút nước hồ mà uống, thay cho sữa mẹ không có… Con à.
                            - Thằng bé con không đến nỗi nào đâu. Mệ.

                            Thế rồi, mẹ tôi ư hử… ú ớ… mệt nhọc rên khe khẽ, mẹ lại lừ đừ, khó khăn mệt nhọc khi quay mặt vào trong vách. Hơn giờ sau, khi chị dâu bưng chén cháo tới gần giường mẹ. Mẹ mỉm nụ cười méo mó, từ từ nhắm mắt, và dần dần lịm thiếp vào giấc ngủ nghìn thu êm đềm không muộn phiền. Chị không hề nghe tiếng mẹ thở, tiếng nấc, chị cứ ngỡ là mẹ mệt muốn ngủ chút xíu như mọi ngày. Mẹ đã đói khát thiếu thốn năm năm rồi, và trước khi lìa đời, mẹ vẫn nhịn đói. Mẹ không đành lòng ăn chén cháo trắng lỏng bỏng với tí muối hột.

                            Nay mẹ không nói một lời từ giã, không một lời trăn trối. Mẹ muốn im lìm sớm ra đi, ngỏ hầu trút bỏ gánh nợ đời, khỏi làm phiền con cháu khó nghèo đông đúc. Con cháu không phải cưu mang “nuôi người vô dụng” thêm một miệng ăn. Mẹ muốn rũ bỏ từ trên vai anh chị tôi, và các cháu nhỏ nỗi âu lo phiền muộn vì bổn phận và trách nhiệm nặng nề. Ôi Mẹ! Mẹ muốn nhịn phần ăn hiếm hoi ít ỏi qúy báu cuối cùng, để chia sẻ cho đứa cháu nhỏ chưa tròn hai tháng. Mẹ đã chết đói. Mẹ âm thầm lặng lẽ êm ái ra đi đúng vào ngày Tết Đoan Ngọ.

                            Lẽ ra, như Tết Đoan Ngọ từ những năm xa xưa, thì mẹ tôi ưa đi chợ mua đầy thức ăn, hoa quả bánh trái. Mẹ làm bánh tro, bánh nếp, bánh bèo, bánh ít, bánh nậm, vân vân... Mẹ làm cả cơm rượu nếp cẩm, nếp than. Mẹ nấu cơm gạo thơm với nhiều thức ăn thịnh soạn, nóng hổi, linh đình, để cho con cháu từ xa trở về nhà thăm cha mẹ. Cha mẹ con cháu hân hoan sum họp gia đình vui vẻ ăn uống. Mẹ nói:
                            - Các con, cháu, ăn bánh tro, ăn cơm rượu, uống chút nước cơm rượu, thì sẽ diệt giun sán trong bụng. Hì.

                            Hầu như cả xóm Trong xóm Ngoài ở Ta In đều thương cảm mẹ của chúng tôi, họ đã cùng nhau đến nhà anh chị Dzoãn, tận tình lo cho mẹ chúng tôi chu đáo. Mỗi người một việc tươm tất từ đầu đến cuối gọn gàng. Trước khi đậy nắp áo quan, họ vẫn để nguyên bộ quần áo cũ, khăn, tất, lúc mẹ chưa đành-đoạn bỏ đi. Và họ mặc lồng thêm cho mẹ chiếc áo gấm, nền áo màu nâu non điểm rải rác những bông hoa cúc đại đóa vàng nghệ. Chiếc áo gấm xưa kia mẹ tôi đã mặc trong ngày trọng đại nhất của đời con gái, khi họ nhà trai hân hoan tưng bừng đến rước dâu. Nay thì những người khác đã thay ba tôi mặc chiếc áo gấm (của ba đã ưu ái trao tặng mẹ). Họ đặt xâu tràng hạt Mân Côi vào bàn tay mẹ lạnh giá, và họ nhớ để bình vôi đồng đen bên cạnh mẹ. Sau rốt, họ choàng thêm cổ áo quan dày cui thô sơ thơm mủ ngo ra bên ngoài toàn thân mẹ.


                            Mọi người tiễn đưa mẹ về an nghỉ nơi nghĩa trang quạnh quẽ. Không một vòng hoa cườm đen cườm tím cùng lời thành kính phân ưu. Không có cỗ áo quan sang trọng đắt tiền, mà chỉ là sáu tấm ván thông đơn sơ hèn mọn thơm lựng mùi nhựa mới. Không hề có bát nhang đèn nến, rườm rà nghi lễ. Không có gì, không còn gì tất cả ngoài nỗi đớn đau kinh hoàng phủ chụp xuống đời lặng lẽ. Ấy thế mà người dân cùng đinh đến thăm viếng mẹ đứng lố nhố đông đúc, từ ngoài ngỏ đầy kín người cho đến trong nhà tranh lụp xụp đìu hiu chật chội nầy. Họ chia buồn, ân cần giúp đỡ gia đình anh chị tôi nhiệt tình. Họ nghỉ đi rừng ngày hôm ấy, không đi rẫy, nghỉ đi làm dù một ngày, là họ nhịn đói nhịn khát và có thể càng thêm đau ốm xanh xao. Họ cùng nhau lặng lẽ khiêng quan tài mẹ tôi băng rừng, leo qua một triền núi thấp, vượt đốc, qua bãi đầm, đi trong thung lũng sình lầy.

                            Rồi họ leo lên ngọn đồi toàn đá ong lởm chởm, đi trên núi cao chót vót và đơn điệu, nơi đây chỉ toàn sỏi đá và gió lồng lộng hú rít, thổi đám bông lau xoay xoay trắng cả lòng quê, và từng cơn gió kéo dài lê thê lạnh thấu xương. Mẹ tôi nằm xuống, vĩnh viễn ở lại nơi rừng núi bạt ngàn hoang vu lạnh lẽo, đơn điệu chơ vơ với cây thánh giá gỗ lắc lư theo gió rì rào. Tấm bia mộ gỗ đơn sơ ghi khắc nơi an giấc nghìn thu đạm bạc và đớn hèn: Mattha Ngô thị Cúc, sanh năm: 1895 >> 1980. Thọ 85 t. Thật đông nghẹt người đói khát nghèo nàn lại lủi thủi buồn xo trở về lối cũ, trên con đường đất đỏ gồ ghề, nơi mẹ đã nhờ người sống thút thít ngáp ngáp mang mẹ đi qua. Khi tôi có thể đến với mẹ… thì nấm mồ mẹ đã lút cỏ xanh. Tôi luôn đau đớn, tủi hổ, dày vò và khóc sưng mắt khi nghĩ về mẹ.
                            ***

                            Thời gian lật đật buồn bã chán chường qua đi, tôi tất bật, bồn chồn, âu lo với công việc cơm áo khốn đốn mỗi ngày, nhưng gia đình vẫn không đủ sống, nghĩa là thường xuyên đói khát cơ cực. Ngoảnh nhìn lại, mới đó mà đến ngày giỗ đầu của mẹ. Tôi bươn bả đi mót khoai lang, sắn mì, dưa leo và đậu đũa ngoài ruộng Nhị Tân (Hốc Môn). Tôi hớn hở đem mấy thứ ấy về nhà, làm sạch, chu đáo xào nấu xong. Tôi bày thức ăn lên chiếc bàn cũ kỹ xiêu vẹo, bàn chỉ có ba chân rung rinh như răng rụng. Còn một góc bàn thì kê tấm táp lô sứt mẻ, để thay thế một chân bàn què.

                            Bà Nga hàng xóm là người thân cận nhất bây giờ đã nói:
                            - Xời! Việc gì cô phải nhọc lòng! Chứ cô không thấy giờ nầy trời đang mưa xối xả, nhà thì dột và rách nát như ổ chuột. Ơ! cô lại bắt mẹ mặc áo gấm lội nước lụt, trong nhà y như cái ao. Cô làm gì có bàn ghế cho mẹ ngồi chò hỏ chơi, xơi cơm độn với nước. Mẹ cô chưa kịp về ăn chút xí, thì bầy ruồi ốm đói trốn mưa đã trúng mánh, bu lên mấy dĩa thức ăn tám lớp, và o o o… xơi tuốt rồi. Giỗ mí chạp cho mệt! Khéo vẽ!

                            Bà Nga chẳng ngại mất lòng, líu lo nói huyên thuyên, và cười sảng khoái. Tôi lắng nghe mãi, mới hiểu được thâm ý bà. Thiệt dễ ghét quá đi. Tôi ngẩn ngơ nhìn bà Nga. Những giọt nước mắt nóng hổi đang lăn dài dài xuống má. Giọt khóc quê hương. Giọt hờn tủi khóc ông bà ông vãi cha mẹ khuất mặt khuất mày. Giọt khóc chồng sống đoạ đày ở trong tù “cải tạo”. Giọt khóc bầy con lút chút lù đù, vất vưởng long đong cơ cực ở vòng ngoài, (tù trong và tù ngoài xêm xêm như nhau, có khác chi, như cá mè một lứa). Giọt đắng cay khóc cho chính bản thân tôi lầm than khốn cùng.

                            Khổ đến nỗi tôi không thể đào đâu ra tiền, chẳng có cắc bạc để mua cặp nến đỏ, bình hoa tươi, không hương nhang cắm trên bàn. Tôi không thể mua bột về làm bánh cúng mẹ dĩa bánh bèo, bánh ít, bánh nậm: thứ bánh mà mẹ thích ăn lúc sinh tiền! Tôi không thể kéo mẹ về trong hương khói, để má con chúng tôi quỳ dưới đất, sì sụp lạy tạ lỗi cùng mẹ, cùng bà ngoại! Sợi dây tơ rung quá mong manh, tơ trời nhẹ tênh thiêng liêng kia đang run bần bật giữa lưng trời mưa trắng. Niềm ước mong nối liền tình yêu thương ngút ngàn giữa mẹ -với má con chúng tôi- đã đứt lìa trong khói hương.
                            *


                            Một kỷ niệm bất ngờ về những cơn mưa không sao giải thích nổi, tâm trí tôi vụt quay về dĩ vãng xa lắc xa lơ: có một thuở nào hình như xa xôi, xa xa lắm… gia đình ba mẹ tôi đang từ trên đỉnh cao sung túc, phù vinh, giàu sang… bỗng rớt tụt xuống vực thẳm, vì ba tôi làm chủ nhà máy cưa cây, bị nó hại cho khánh tận, đã khuynh gia bại sản. "Của rừng, rưng rưng nước mắt thật" mà! Bao nhiêu tiền ba làm thầy thuốc đổ vô cây cối, cũng như nước đổ lá khoai. Hồi ấy có màn mưa xám đục buông suốt ngày đêm, rất bé thơ tôi đứng trong khung cửa sổ, nhón chân xem mưa đập lộp bộp vào cửa kính, những dòng nước nhỏ ngoằn ngoèo chảy xuống tấm kính mờ đục, tôi háo hức chờ đợi mẹ về nhà.
                            Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa.
                            Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương”
                            (cd)

                            Mẹ đi chân đất, đầu đội nón lá cũ ướt nhẹp, toàn thân mẹ dầm dề nước mưa, chiếc đòn gánh uốn cong đang kẽo kẹt trên vai mẹ, còng xuống hai thùng nước cơm trĩu nặng. Mẹ đã đấu thầu được cơm thừa canh cặn từ ngoài mấy đồn lính, tự mẹ đến gánh về: Một thùng rất sạch đậy kín đựng cơm nóng, có mấy ngăn cào mên đựng thức ăn, còn nguyên trong chảo, (mà chú quản đội vừa múc ra cho mẹ, chưa có người ăn, thì để cả nhà tôi ăn buổi tối). Thùng kia đủ thứ hỗn tạp, là nuôi bầy heo vài chục con. Mỗi buổi nhọc nhằn trở về nhà, mẹ thường dúi cho tôi khi thì vài cái bánh ngọt, khi có miếng chocolate, hay trái chuối, trái bắp. Tôi thèm ăn nhất là lát bánh mì cứng hấp trong nồi nước sôi, bánh mì nóng mà chấm với nước mắm ớt, nước cá hoặc nước thịt, tôi ngấu nghiến ăn cảm thấy ngon hết sẫy.

                            Thương con tần tảo sớm hôm.
                            Cơm đùm chéo áo, cháo đùm lá môn”.
                            (cd)



                            Một lần kia, mẹ kêu chủ thầu các trường học nội trú trong địa phương đến nhà, mẹ bán mão bầy heo thịt. Mẹ và các con cháu trong nhà dẫn bà đầm, cùng phu cai xuống chuồng nuôi heo, cách xa nhà bốn mươi mét. Ngả giá xong xuôi, phu cai trói bầy heo cho vào rọ, họ khiêng những rọ heo lên trên đường cái, và vất vào ba chiếc xe ngựa. Bà đầm cầm cái áo veste của bà (đã máng vào càng xe ngựa đậu trên đường cái), bà ta móc túi lấy tiền, thì đồng tiền không cánh mà bay?! Bà đầm tri hô mất ba trăm sáu chục đồng Đông Dương. Bà ta quyết một quyết hai bảo là:
                            “Người trong nhà nầy đã ăn cắp”. (!!?)

                            Bà ta tri hô lên làm hung dữ, bà kêu lính hộ tống chạy đi gọi hiến binh, phú lít tới. Hiến binh không cần biết luật lệ phải trái, không cần biết bà ta có mất tiền thật trong túi áo, máng bên sườn xe kéo, để bên lề đường cái; hay không?! Họ còng tay mẹ tôi và xô dụi mẹ lên chiếc xe ngựa. Mẹ nằm với mấy chục con heo kêu la rần trời. Mặc kệ gia đình tôi kêu khóc, phản đối inh ỏi. Chúng hăm doạ:
                            Nếu lộn xộn làm mất an ninh, sẽ bị bắt - nhốt hết cả đám.

                            Quân cướp cạn hùng hổ, quất ngựa phóng nước đại chạy như bay. Họ tống giam mẹ vào nhà lao. Hơn nửa tháng bặt tin, sau đó chúng thả mẹ ra. Mẹ về như cái xác không hồn, trông mẹ quá tiều tụy thảm thương. Ba tôi, con cháu xúm xít ngồi chung quanh mẹ, lo lắng hỏi thăm. Mẹ im lặng mà rấm rức khóc sưng húp mắt. Mãi lâu mẹ hổn hển kể lại: Suốt bao ngày mẹ bị nhốt, chúng cho mẹ ăn ngày một bữa nửa chén cơm khô, với ít muối hột. Đêm đêm bọn lính Tây lôi mẹ ra tra điện, chúng độc ác tra khảo, chích điện vào người bắt mẹ phải nhận tội, dù mẹ không hề làm. Mỗi lần mẹ bị bọn tà lọt gian ác tra điện, thì mẹ sợ hãi kinh khủng, dòng nước ấm chảy ra ướt dầm thân thể mẹ. Mẹ không thể nén mồ hôi hột lạnh toát, không thể nín lại cơn buồn đái. Mẹ không đủ sức chịu đựng cơn đau, mẹ đau đến ngất xỉu, thì chúng lôi chân mẹ kéo xềnh xệch về phòng giam trống không giường chiếu.

                            Chúng tạt nước lạnh cho mẹ tỉnh lại, mẹ bị chảy máu mũi, máu đầu. Mẹ run rẩy, mặt mày xây xát, sưng húp, bầm tím. Mẹ thật chịu oan ức tột cùng, mà tiền mất tật mang. Suốt từ đó đến nay mẹ luôn luôn sợ hãi và yếu hẳn người. Mẹ bị đau tim và thường xâm xoàng, ngất xỉu vì quá hãi hùng. Bọn Tây thời đó đầy quyền uy, hống hách, ác độc hơn loài hổ sói, người dân thấp cổ hé họng chỉ câm miệng cúi đầu, điếng lặng cắn cỏ ngậm vành, không dám hó hé than van. Vậy đó, mẹ chịu đủ mọi oan ức, khổ sở cay đắng nhọc nhằn, tủi cực trăm bề, để lo nuôi dạy đàn con nên người.

                            Một lần kia, sau thời gian bị tra khảo đánh đập tù đày oan đó khá xa, mẹ vẫn lặn lội đi gánh nước cơm về nhà, mẹ đã thay bộ áo quần ướt sũng nước mưa. Mẹ ngồi bên bếp lò giơ đôi bàn tay nhăn nheo sạm nắng chai cứng, tóp teo vì thấm lạnh ra, để sưởi ấm. Mẹ âu yếm nhìn tôi ngồi kế bên bỏm bẻm ngấu nghiến nhai bánh mì. Bỗng mẹ nhìn tôi sửng sốt, lạnh lùng hỏi:
                            - Đôi guốc mới, con mang đó. Mô rứa?
                            - Dạ... Của con... con... l..a...
                            - Mẹ đã nói rồi, đợi bán heo, mẹ sẽ mua cho con quần áo, dép guốc cho con đi học. Mẹ biết con mau lớn, giày dép cũ con mang không vừa, mà đi chân không thì lạnh lắm. Mẹ lo sợ con đau. Ngặt nỗi, bi chừ chưa có tiền. Mà răng con dám cả gan, đi ăn cắp, của ai rứa?


                            Tôi cúi gầm đầu, một tay túm mái tóc bum bê, nhìn đôi guốc mới mang vừa vặn ở chân mình. Đôi guốc màu đỏ đầy hấp dẫn, có hai quai cánh cam in đủ màu sắc hoa lá. Tôi thấy nó quyến rủ, ước ao vô vàn từ lâu. Khi chị Tư sai tôi vào quán chị Thế mua trứng vịt, tôm khô. Thừa lúc quán xá bận rộn người mua kẻ bán, tôi lấm lét ngó trước nhìn sau, rồi vội thò tay chộp đôi guốc kẹp chặt vào nách, (đã che kín bằng chiếc áo mưa lụng thụng). Trống ngực tôi đánh rất mạnh, mặt mày tái mét, tôi run như cầy sấy, tôi liền lẽn ra và co giò chạy. Vừa chạy tôi vừa ngoái cổ lại nhìn chị Thế, là bà chị dâu của tôi, chị ấy không biết gì hơn, ngoài việc chị thu nhiều tiền đầy nhóc vào tủ sắt.

                            Mẹ già nua trước tháng năm đang gục đầu trên hai đầu gối ướt lạnh, run rẩy, mệt nhọc - và khóc. Mẹ khóc vì tội lỗi của con thơ. Mẹ khóc vì cảnh thăng trầm không thể ngờ, vì mẹ chưa mua nổi đôi guốc cho con, (chỉ đáng vài xu trong khi tiền ba tôi làm chủ trại cưa cây, thì bạc trăm, bạc ngàn, kể như ba đổ xuống biển. Và, tiền bán hai chục con heo, mẹ bị bọn chúng trấn lột hết). Trong đêm trường thanh vắng, khuya lắc khuya lơ, tôi nghe rất khẽ nhưng rõ ràng tiếng mẹ đọc kinh cầu nguyện đều đều. Thỉnh thoảng kèm theo vài tiếng thở dài nho nhỏ, lời mẹ nguyện xin cho con cháu bình an, mạnh khỏe.

                            Tối hôm đó mẹ thức rất khuya, ngồi một mình dưới gian bếp đèn dầu leo lét, mẹ đã cắt khúc vải nhung màu vỏ măng cụt, để may áo cho tôi mặc ấm. Chiếc áo ấm gồm ba lớp: lớp nhung ở ngoài, mẹ bọc thêm một lớp gòn rất mịn ở giữa, và may chằn thêm một lớp lụa sa tanh mới lót ở bên trong. Tôi leo lên giường từ lâu, trằn trọc mãi không làm sao ngủ được, tôi rất sợ và lo âu, không dám nhúc nhích. Tôi cứ mở mắt nhìn mẹ chăm chú làm việc. Khá khuya, mẹ lê đôi dép lẹp xẹp lần mò từng bước, mẹ nhẹ nhàng đi trong bóng tối mờ mờ. Mẹ vặn ngọn đèn dầu hột vịt thật lu, mẹ cố không khua động giấc ngủ của mọi người. Trong bóng tối, tôi hé mắt nhìn mẹ ngồi đọc kinh, sau đó mẹ ngả lưng xuống đệm theo tiếng thở dài. Tôi nằm im giả vờ ngủ say. Bàn tay mẹ lạnh ngắt run run sờ soạn tìm con. Mẹ đặt đầu tôi nằm ngay ngắn trên gối mỏng. Mẹ kéo hai chân tôi thẳng ra, và đắp mềm lên tận cổ tôi. Mẹ ôm tôi vào lòng và hôn lên mái tóc tôi khét nắng. Nước mắt mẹ thấm lạnh da đầu tôi.
                            Nuôi con chẳng quản chi thân.
                            Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn.
                            ”(cd)

                            Thì ra mẹ đã khóc. Khóc âm thầm lặng lẽ trong bóng tối. Mẹ giống người chèo đò đơn độc ra tay chống chèo trên dòng nước ngược đầy sóng gió, khi đàn con nhỏ sợ sệt, la khóc, run rẩy bám chặt vào mạn thuyền. Mẹ cố sức chịu đựng giông bão, gian truân âm thầm và câm lặng dai dẵng; miễn sao cho con, cháu, bình yên, no ấm. Mẹ là một trong vạn triệu người Mẹ Việt Nam tần tảo, phúc hậu, ôn hoà cao cả, hy sinh xiết bao suốt đời mình. Bốn tuần sau, mẹ bán bầy heo thịt khác. Ba tôi vượt núi băng rừng khổ cực trăm bề làm cúp cây, nay đã hoàn toàn ổn định.

                            Gia đình chúng tôi lại bắt đầu khá giả, vinh sang hơn năm cũ. Nhờ mẹ tôi quán xuyến, đảm đang, siêng năng, tháo vát. Ba tôi giàu kinh nghiệm và liêm chính đàng hoàng trong việc làm chủ trại cưa, nên ít lâu sau gia đình tôi thoát khỏi cảnh bần hàn. Nhưng dẫu có sung túc giàu có hơn xưa nhiều, rất nhiều, thì vết thương đầu tiên về bài học giáo dục đạo đức trong lòng mẹ và con, hẳn không có cách gì lấp đầy, phôi pha được. Kể từ ngày xa xưa đó, mỗi khi tôi có ý muốn lấy cắp cái gì của ai, thì hình ảnh mẹ tôi ngồi bó gối bên bếp than hồng; nước mắt mẹ chảy ướt thấm vào da đầu tôi, vẫn hiện lên rõ nét. Khiến tôi quắt quay và lặng người, vì hối hận không hề dám tái phạm. Đó là nốt “nghịch phách” đầu tiên trong đời vào chiều mưa giông giá lạnh năm xưa. Ước gì nay tôi được chìm trong dòng sông đã chảy qua thời ấu thơ, nơi mái gia đình êm ấm của tôi ở buổi thiếu thời kia, để tôi có thể nói thật nhỏ:
                            - Mẹ ơi! Cho con xin lỗi.


                            Ôi! Chỉ cần trở về ngày ấy và biết nói câu nầy, thì tôi sẽ sống lại và chỗi dậy trong tâm tư tôi cả quá khứ ngọt ngào, say đắm, êm đềm, nồng nàn, sung sướng xiết bao! Và, bây giờ tôi biết đằm thắm, khôn ngoan gấp bội lần. Người đàn bà còn quá trẻ bỗng co nhói lên từng cơn đau tim nghẹt ứ, xót xa đắng cay khôn tả xiết. Vốn bị nghị lực mài dũa, cọ liếc mỏng tanh, tôi nghẹn ngào, đắng cay, hơn sự cơ cực đọa đày chịu đựng dài lâu. Sự trầm uất nén dưới chiều sâu tâm hồn đã vọt lên tim, lên óc, lên cổ tôi những cục nấc nghẹn ngào tức tưởi. Tôi đứng giữa trời mà khóc, mà cười. Cười khẩy. Tôi không sao hiểu nỗi “đời”! Tâm hồn tôi hằn lên vết rạn, xếp lớp lăn tăn theo sóng đời cơ cực. Gia đình nhỏ chúng tôi lầm than khốn cùng đã rớt dưới tận đáy xã hội phù phiếm.

                            Nơi con đường cũ mà cha mẹ tôi xưa kia rất vinh sang đã từng đi qua đó, và chính gia đình nhỏ cuả tôi từng lả lướt, rộn ràng líu lo ca hát trên đại lộ mỗi độ hoàng hôn… Ngày nay mẹ con chúng tôi dắt díu nhau lọt tọt, líu ríu bước thấp bước cao, lần mò đi từ ngày nầy qua tháng nọ. Đi từ hừng đông đến hoàng hôn không ngơi nghỉ. Những đôi môi khô nứt nẻ run run nếm đủ cay đắng, ngọt bùi xính vính tình đời còn mấp máy và thút thít, như nghiến chặt hai hàm răng, nghiền nát hiện-tại rát bỏng phừng phựt cháy trong lòng.

                            Sau đám sương mù dày đặc ngoài trời kia, là tương lai tối thui và con đường gồ ghề, lởm chởm sỏi đá lẫn lộn bùn tro bầy nhầy. Con đường tiến thân của mẹ con chúng tôi đó, hình như có tiếng âm vọng não nề. Chúng tôi không biết nên bắt đầu từ hướng nào cho phải! Đôi bàn tay tôi khô cứng, chai sạn sần sùi nứt nẻ, hợp lực với những bàn tay các con thơ yếu gầy tong teo bé tí xíu, vẫn quơ quơ về phía trước. Cùng lòng can đảm, tận tụy, chịu đựng gian lao, nghèo khổ siết chặt, thì không có cách gì lay chuyển.

                            Trời bao la xanh xanh trong trong, không có một vắt mây trắng, nhưng sao đôi mắt tôi mù mây xám giăng mắc!? Giống như những sợi tơ tóc ngày xưa đen tuyền óng ả quyện cùng chùm tóc bạc trước thời gian đã phủ khắp nẻo đi lối về? Tôi đang mặc chiếc áo gấm của Lụât để lại, tôi tưởng tượng chiếc áo dù cũ, nhưng có phần nào che gió chắn mưa. Thì hy vọng là tôi bớt cảm thấy cô độc, ấm áp và ít lạnh. Ngỏ hầu tôi sẽ đương đầu, chạm trán, chơi những canh bạc đen đỏ với định mệnh. Đành phải như thế thôi. Nếu định mệnh không thách đố gạt gẫm chúng tôi: Xỏ lá sát phạt, chơi khăm chúng tôi trắng tay –và đểu giả lật ngửa quân bài ra– Khi trận đấu chưa bất phân thắng bại. Thưa ông!

                            _ * _


                            Tình Hoài Hương

                            Bài viết cho ngày "hiền mẫu".
                            THH xin phép cám ơn quý vị nhiếp ảnh gia: đã post những tấm hình đầy nhân bản lên internet, cho tôi có thể copy vô bài viết, ngỏ hầu phong phú hoá hình ảnh sống động, và tài đức & nghệ thuật của quý vị.

                            Tình Hoài Hương
                            Bút trần nào tả được lưu luyến!
                            Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                            Tình Hoài Hương

                            Comment


                            • Các Trại "TÙ CẢI TẠO" & Tiếc thương





                              Các Trại "TÙ CẢI TẠO" & Tiếc thương

                              Chuyện thứ nhứt
                              Định nghĩa tổng quát:
                              *Bị Tù – (theo nghĩa đơn thuần): một tội danh dân sự nào đó phạm sai lầm, - là sẽ bị hình phạt, (do người ấy vi phạm pháp luật giữa người ấy với luật pháp của quốc gia mình). Họ (chính quyền sở tại) cần phải sửa trị, phải uốn nắn người vi phạm trở thành một công dân tốt, hữu ích cho xã hội. Cốt lỏi của hành pháp là sự trừng phạt, răn đe và hướng thiện cho người vấp phạm sai lầm. Nhưng quốc pháp được thiết lập không ngoài mục đích lấy tình trị pháp, lấy pháp trị quốc: Đó là ý nghĩa thật sự của quốc pháp, công bằng phân định rõ ràng ai có tội nặng, tội nhẹ; mà buộc người tù thụ pháp, ngỏ hầu huấn luyện cho người ấy hoàn thiện & có tình người, chừa bỏ các thói hư tật xấu, để hữu ích chính mình, và cho xã hội .

                              *“Tù học tập cải tạo” trái ngược lại: đó là hình phạt giữa con người ở chế độ mới đang ra tay hành xử, chà đạp, đay nghiến, dã man trả thù người ở chế độ cũ. Người mới nổi lên luôn hãnh diện, tự hào là kẻ chiến thắng, họ thay mặt chế độ mới vừa đắc thắng, "được hành xử con người”. Họ không hề cảm thấy ray rứt, dày vò, áy náy lương tâm. Tùy theo mức độ tên tù cũ cao giá đến đâu -mà hành xử-. Nôm na là người mới vừa đứng lên, liền trả thù một chính sách… một chế độ, một nhân phẩm...
                              Vậy thì; *Tù… “cải tạo” là gì? Hừ! Có phải chữ cải tạo không ở trong hai ngoặt kép ( “…” ) được định nghĩa là:
                              - Làm cho “chất lượng” thay đổi -(chưa chắc thay đổi căn bản theo hướng tốt hơn).
                              - Muốn “lao động là vinh quang" -để cải tạo con người!?
                              - Muốn “giáo dục” làm thay đổi con người cũ, trở thành con người mới.
                              - Muốn “cải tạo tư tưởng” xóa bỏ những tập tục cổ xưa, -để thay thế tư tưởng “tiến bộ”?
                              - “Cải tạo xã hội chủ nghĩa” ở trong “quan hệ cải tạo”, sản xuất không xã hội chủ nghĩa, hầu trở thành > “quan hệ sản xuất” xã hội chủ nghĩa; tạo điều kiện cho “lực lượng sản xuất phát triển”?
                              - Và, cuối cùng “cải tà quy chánh”:
                              - Tù nhân 75 “cải tạo” là: bỏ con đường đã đi, để đến “con đường chính nghĩa” vẫn là:
                              *Tù nhân chính trị 75 - cái gọi “học tập cải tạo” là: Tù nhân quanh năm suốt tháng nhịn đói rã ruột, khát khô cổ họng, thất thểu vác cuốc ra đồng, cúi đầu cuốc cuốc, cày cày, bừa bừa, (cày bừa do chính con người vác cày kéo bừa... thay thế con trâu) trong nghĩa "lao động là vinh quang. Lang thang là chết đói" mà trồng trồng... trọt trọt...
                              * Khi Tù nhân “cải tạo” 75 đi trước tên cán bộ coi tù, thì người tù “cải tạo” bị cán bộ ấy dùng báng súng đập mạnh vào lưng tù, quát mắng:
                              - Muốn chạy trốn hay sao, mà lo đi trước cán bộ hử?
                              * Tù nhân “cải tạo” đi ngang hàng với cán bộ, thì bị cán bộ quát nạt:
                              - Muốn đi gần, để giật súng của cán bộ hay sao?
                              * Tù nhân “cải tạo” đi sau lưng cán bộ đang coi tù, thì bị cán bộ quay lại, giơ súng chiã vào trán tù “cải tạo”, đạn lên nòng:
                              - Đi đằng sau lưng cán bộ, muốn ám sát tôi hay sao thế?

                              … "Tù cải tạo” một ngày trong tù, bằng thiên thu tại ngoại cơ mà (nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại). có làm cái gì… dù đầy thiện chí, có tình mến, có lòng bác ái vị tha, dung hòa, trung thực, ôn tồn, tốt lành cam chịu ẩn nhẫn, thì tù "cải tạo" cũng bị cán bộ, công an bắt bẻ và chụp mũ… Thế nên thời buổi nầy người tù nếu có bị đối xử như con vật, vẫn hơn làm “con người"...
                              Trong một trại tù “cải tạo” Z 30 A, tên cán bộ răng đen mã tấu đang thao thao lên lớp:
                              - "Nịch Xử lước" ta toàn "nà" anh hùng đấy nha. Bắt đầu "nà" vua "Nạc Nong" Quân "nấy" bà Triệu Ẩu, đẻ "da" một bọc 100 trứng…
                              Cả hội trường cười ồ. Mất hứng, hắn quắc mắt, hỏi:
                              - Cười cái quái gì thế?
                              Một sĩ quan “ngụy” giơ tay lên, lịch sự trả lời thay cho tất cả tù ngồi:
                              - Thưa cán bộ, Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ, chứ không phải bà Triệu Ẩu.
                              Hắn khó chịu, im lặng vài giây, và quay sang hỏi tên cán bộ phụ tá, rồi dõng dạc nói:
                              - Nạc Nong Quân "nà" vua, ông ấy muốn "nấy" gái "lào" mà chả được. Bà Âu Cơ hay "nà" bà Triệu Ẩu, cũng đều "nà" đàn bà con gái nốt. Thì… thì chúng ta chả phải nà "ròng rõi" cá mè một "nứa" cuả Triệu… “ẩu tả”... "nà rì"!
                              Cũng trong hội trường một trại tù “cải tạo” khác, một tên cán bộ nọ lên giọng:
                              - Các anh biết không, đất nước ta giàu có cực kỳ, tiền rừng bạc bể. Nhiều nơi trên miền Bắc xã hội chủ nghĩa của ta, chỉ cần cắm ống nứa xuống đất, là dầu hỏa phụt lên, thế là ta cứ việc mang thùng ra hứng, đem về tha hồ đốt nhá.
                              Cả lớp tù ngồi khúc khích "cừi cừi". Hắn hứng chí tiếp:
                              - Ngoài mỏ dầu, miền Bắc còn có đủ các loại mỏ khác như: mỏ than, mỏ vàng, mỏ xăng, mỏ nhớt...
                              - Thưa cán bộ, có một thứ mỏ mà không biết miền Bắc có không, nhưng miền Nam nghèo đói của chúng tôi chắc chắn không thấy, đó là "mỏ dốc lết".
                              Hắn bỉu môi:
                              - Ồ, cái anh nầy rõ là mang dòng họ Triệu Ẩu nha. Mỏ lết hả? Cái gì chứ mỏ lết, thì miền Bắc thiếu giống gì. Đảng và nhà nước đang có kế hoạch đào bới để khai thác đấy.

                              Đó đó…, chính là cái giá rất đắt cho tù nhân “cải tạo” lương tâm là thế đấy ạ. Vậy thì, người tù đã được “học tập” điều sâu sắc bổ ích gì? Ai “cải tạo” ai? - "học tập cải tạo” những thứ tinh nhuệ gì!? (loạt chữ nầy phải ghi trong hai dấu mang đầy ý nghĩa của cái “ngoặt kép “. . .” ). Họ thấu hiểu được điều gì cao cả trong xã hội chủ nghĩa thế nầy!? Ngoài việc anh ấy không có “bồi dưỡng văn hóa”, cho dù một chữ bẻ đôi cũng không có. Duy có điều anh tù phải “học tập cải tạo tốt” là: cuốc đất trồng khoai mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm, trong sự bịp bợm của từ “học tập” và "cải tạo” thành nắm thân tàn ma dại?! bởi do phần lớn trại tù học tập “cải tạo” mọc lên như nấm mà ra.

                              ! trại tù nhiều vô số... hơn cả chuyện nhà nước quyên góp cứu trợ nạn nhân thiên tai, hoả hoạn, lụt lội. Nhà nước không xây dựng kiến thiết quốc gia, không xây trường học, không làm đường sá, hay làm những công trình kiến tạo khác. Mà, trên toàn lãnh thổ Việt Nam đâu đâu cũng có “trại Tù” khổng lồ! Trại tù đã giết chết bao người trai trẻ, hủy hoại rất nhiều tiềm năng, xeo nạy nạo vét hết tinh tuý của những khối óc thông minh tuyệt vời, và tiêu diệt sĩ khí, dũng chí quật cường của con người yêu nước, yêu quê hương và thiết tha với dân tộc.

                              Đa số anh em quân nhân công cán chính Việt Nam Cộng Hoà chân thật cả tin, đã bị trắng trợn phản bội lời hứa, bị mắc lừa, bị lọt lưới, họ xô nhau tới đường cùng, & trở thành những người tù tội bị nhánh tình đoạ đày lưu vong trên chính quê hương. Mặc dù quê hương không bao giờ phản bội con người, chỉ có con người ngoảnh mặt quay lưng nơi chôn nhau cắt rún. Lớp lớp thanh niên trai tráng bị nhà nước đánh cắp không chỉ là gia sản, tài năng, trí dũng, sức khoẻ, thân phận… tình bạn, tình thân giữa đồng loại. Ý niệm về không gian và thời gian từ sự bình thường tiềm ẩn trong những tâm hồn và khối óc phi thường đã qua. Trơ tráo trắng trợn hơn là tù “cải tạo” bị ăn cắp tuổi xuân-thì, bị lột trần về tình yêu – (tình yêu nhìn qua nhiều lĩnh vực và lăng kính: tự tin, dung hòa, tha thứ v.v... trên mọi phương diện). Họ đã bị nhà nước xã hội chủ nghiã láo khoét tuyên bố:
                              - “đi học tập 14 ngày cho thông, rồi về”.

                              Thế nhưng… quá khứ ngục tù canh cánh bên lòng trỗi dậy; hy vọng mong manh, tự do bị vùi dập, lãng quên, một sự thiếu tình thương và thông cảm từ “phía nội thù” nằm ngay trước mặt. Yêu thương, thấu hiểu, chia sẻ, đồng cảm thì ở chân trời xa tít tắp. Để rồi hắt lại trong đời tù "cải tạo" sự buồn phiền, đố kỵ, lạnh lùng, câm nín dày vò... vì những người nghe theo lời khuyến dụ của "cách mạng thành công" mà chọn lầm chỗ, thì người tù sa cơ thất thế đã nằm gọn trên đe dưới búa. Hóa ra chinh nhân chọn lầm một đất nước mà cấp lãnh đạo ấy chỉ biết dẫm đạp lên mọi người tù, mà trả thù! Gợi lại trong lòng mỗi người bao hoài niệm bi hận về một giai đoạn lịch sử quá đau thương, nghiệt ngã, cay đắng xót xa của miền Nam Việt Nam khốn cùng, điêu linh khổ ải và bất hạnh: Họ bị lọt vào cái bẫy sập tinh vi, độc ác, kinh dị nhất thế giới.

                              Hàng hàng lớp lớp thanh niên trai tráng trở thành tù “cải tạo”, vùi dập đời trai đầy dũng khí và tráng kiện, như món hàng béo bở đồ sộ đã ngã giá trong thương vụ quốc tế. Ngược lại qua những túm quà thăm nuôi eo xèo bé xíu đựng mắm muối, đường thẻ, tôm khô, cá khô, bánh thuốc lào, nửa ký đường cát trắng, trăm gram cà phê, v.v… Đôi khi sơ ý ngủ gục, vợ con tù cũng bị cướp sạch trơn. Ai vô phước đeo bông vàng, đều bị cướp giật, đứt lìa tai máu chảy ròng ròng. Thậm chí áo quần mặc trong người, nếu cướp coi “bộ đồ gió, bộ đồ vía” polyester mới xỏ vào lần thứ nhất, cũng bị trấn lột trắng trợn. Bạn tôi nói thế mà linh:
                              - Tao đi thăm nuôi tù “cải tạo” chính trị, chứ có phải đi vào trại tù “cải tạo” coi ca nhạc, hay đi ăn tiệc tùng gì, mà tao xum xoe diện áo quần lành lặn, bảnh bao tươm tất. Hử? Khi trời tối canh ba, cướp ùa ra trấn lột hết, chỉ còn bộ đồ lót. Có may, thì cướp nó quăng cho bộ đồ rách cụt ngủn, vợ tù khóc hu hu đi chân đất vào thăm chồng. Khi đó thì mi nghe tao nè:
                              Ngày xưa ăn nói dễ nghe,
                              Bây giờ cẳn nhẳn chua lè khó ưa.
                              Ngày xưa thích được mây mưa,
                              Bây giờ hạn hán hết ưa tù tì
                              Ngày xưa thường sánh vai đi,
                              Bây giờ chỉ thích năm ì ...xem phim...
                              Ngày xưa nhớ nhau đi tìm,
                              Bây giờ mặc kệ ...con chim mất dzồi.
                              (*)

                              2.- Chuyện thứ hai:

                              Anh Trần Công Thái (là con trai bác Cửu Trí quê làng Hưng Nhơn, Tổng An Thơ, Hải Lăng), anh tốt nghiệp trường trung học Tây, anh làm nghề dạy học, sau đó anh phải động viên đi lính và trở về Tiểu Khu Tuyên Đức. Nhà anh ở khu Nam Thiên, khi đất nước vừa ngấp nghé phong phanh có danh nghĩa hòa bình, thì tối hôm ấy anh vui mừng hân hoan ngủ ở nhà. Nửa đêm có nhiều người mặc đồ đen đội nón tai bèo, quàng khăn xanh đỏ tới nhà anh đập rầm rầm vô vách, gọi cửa tới tấp. Chị Thái hoảng hốt mắt nhắm mắt mở ra mở cửa. Cả nhà bàng hoàng khi thấy súng ống lên nòng rốp rốp lăm le chỉa trước ngực dân, họ xông vào nhà anh Thái, chẳng thèm nói một câu phân minh phải trái, họ bịt mắt, lấy báng súng dụi sau lưng anh, trói thúc kéo anh xềnh xệt lôi đi.

                              Chờ bọn kia đi khuất xa vào rừng ở miệt suối Cát Tiên, chị Thái chạy qua bên nhà láng giềng gần nhất, để báo hung tin. Ai nấy đều lo sợ hãi hùng, chẳng biết khi nào đến phiên ta!? Có là thánh, chưa chắc ai tìm ra anh. Mọi người bàng hoàng lo sợ hoang mang, vì cách mạng đã thành công giải phóng trước Sài Gòn rồi đó! Bốn tháng sau ngày 30-4, một tốp người đi củi trong rừng sâu trở về phố, họ vội vàng len lén hấp tấp ghé tạt qua nhà báo cho chị Thái biết:
                              - Bà chị, ở miệt suối Cát Tiên có sáu nấm mồ mới đắp cạn, mộ chưa mọc cỏ, đã xông mùi thum thủm thối, trên một nấm mồ kia có lưu dấu tấm áo đẫm máu, chữ ngoằn ngoèo đề tên: “Trần Công Thái”.

                              Chị vợ vốn dĩ là một người đàn bà tra trắn, lanh lẹ, lảy chảy, nhưng nghe tin chồng đã chết mà không dám vô nơi quỷ cốc thâm u, để xác minh tin chấn động nầy có thật hay không? Sao họ giết Thượng sĩ Thái đẹp trai, nghèo, nghèo lắm, trên răng dưới đế giày. Anh hiền lành vui vẻ, bao dung và độ lượng. Anh chưa bao giờ làm mất lòng một đứa trẻ. Anh không thiết gì ngoài việc thích dạy học, và tình yêu thiên nhiên, anh đam mê hội hoạ gần như say đắm. Anh vẽ phong cảnh khá đẹp, vẽ chân dung sống động tài tình.

                              Người ta tụm năm tụm ba, xôn xao to nhỏ thì thầm bàn tán đủ thứ chuyện. Không ai giải được con số bí ẩn, phải chăng họ đã thành công rồi, thì trả thù dân tộc từ đây!? Câu chuyện anh Thái chìm dần vào giấc mộng kinh hoàng, đầy bí mật sau ngày 30-4-1975. Sự về thiên đàng hay sa hỏa ngục, không ai tránh khỏi, chẳng ai biết trước sớm hay muộn. Duy có điều cái chết đến với anh Thái, đối với họ hàng thân quyến đã quá đột ngột, bất chợt, đầy kinh hãi không ai có thể tin cách mạng làm như thế! Khi đám con dại chín mười đứa nheo nhóc, rất cần anh chăm sóc, chúng chưa được người cha vui tính hiền lành và nhân hậu dìu dắt đến nơi đến chốn. Vợ con, người thân, ngậm ngùi thương tiếc, bàng hoàng vĩnh viễn mất một người đáng yêu, đáng kính dường bao! Nhưng không ai dám hé môi than thở một lời nào. Vì, điều ấy... cách mạng đã thành công rồi đó!

                              2.- Chuyện thứ ba

                              Một hôm, tôi đang bới nhặt đống rác ở cuối chùa Hoàng Pháp (thuộc huyện Hóc Môn), tôi nghe một tràng súng nổ dòn, nghe thật diếc con ráy và lo sợ kinh khủng. Bộ đội, công an súng chĩa tới trước, chạy rần rần sau lưng tôi. Họ quát tháo kêu gọi nhau ầm ĩ, họ pháo tin là:
                              - Thành Ông Năm có tù “sĩ quan Ngụy” trốn trại.

                              Tôi cùng năm bảy người dân đen ngơ ngác phút giây, rồi vội chạy đến bờ rào kẽm gai sát thành Ông Năm ngóng cổ lên nhìn vô bờ thành, để xem thật tỏ tường. Tôi nhìn rõ cảnh tượng rùng rợn xảy ra: Có một anh lính tù “cải tạo” bị trói thúc ké, quần áo tù binh bê bết máu, tay anh ấy ôm bụng, khúc ruột trắng lòng thòng lòi qua kẽ tay. Anh ấy gò thân chậm bước, hình như không thể bước mà rệu xuống. Thì một công an trở báng súng giáng mạnh vào lưng anh ấy.

                              Một anh khác tay chân bị khóa bởi sợi lòi tói, tay chân anh tù xỏ dưới cán tre. Không phải họ gánh anh ấy đi, mà họ lôi anh ấy, kéo đi lệch xệt, lê theo những vệt máu đỏ lòm. Anh ấy giống con heo mọi bị đồ tể cột bốn chân, gánh đi làm thịt. Bả vai anh ấy đẫm máu. Bàn chân bầy nhầy, giơ bắp đùi mở toang hoang, lòi khúc xương nhọn trắng phếu. Toàn thân anh ấy nẩy lên, đập xuống tưng tưng. Đau đớn nhất có lẽ là chiếc đầu trí thức va cồm cộp vào những cục đá lởm chởm trên đường, đầu anh ấy luôn lắc qua lắc lại, kêu lộp độp. Mặt anh ấy tái méc, nhưng đôi mắt sáng quắc trợn lên, lông mày nhướng cao, quai hàm bành ra môi nghiến chặt. Anh ấy không hề hé một tiếng kêu, dù tiếng than rít qua kẽ răng!

                              Lẽ ra bọn dân quèn chúng tôi còn được xem những pha tình cờ quái dị khác, nhưng có một tên cán bộ ngồi xổm đi “tè re tháo tỏng” ở lùm cây hồng tiên, gần chỗ đám dân ngu khu đen chúng tôi đứng, hắn đã phát hiện ra chúng tôi đang lấp ló bên mé tường thành Ông Năm, hắn sợ dân thấy chuyện kín bị lộ, nên vụt đứng dậy, hắn la bai bãi, tay khoát lia lịa đuổi dân đi ra khỏi vùng ấy. Bọn chúng tôi liền dzọt đi, vừa chạy vừa la ơi ới:
                              - Công an đánh tù, bà con ơi.
                              - Bọn đó giết tù "cải tạo" coi ghê lắm...

                              Hai tên công an rượt theo chúng tôi, cho đến khi bị hàng kẽm gai chận lại, họ mới bắn phát súng chỉ thiên. Ban đầu nghe tiếng súng, tôi sợ hãi nằm úp mặt xuống đất, rất sợ bọn ấy hăng tiết vịt ria ẩu, thì mình sẽ lạc đạn. Nhưng sau khi ngước lên nhìn thì thấy chúng chỉ đứng lại bên trong hàng rào dây kẽm gai mà hù doạ, nên tôi kêu mấy bà kia đứng lên. Rồi chúng tôi trêu chọc bọn công an: người thì vỗ bụng dưới bồm bộp, người thì quay lại vỗ đít và tụt chút xíu quần đen ra, bà ấy chỉ chỉ vô đít, quẹt quẹt vô đít mình mấy cái, rồi vất tay về phía bọn công an, mà cười ha hả. Người thì lấy nắm tay bụm lại thoi thoi vô không khí. Còn tôi nhăn răng le lưỡi và giơ hai bàn tay ngược lại, làm cái kèn để lên miệng, mà lắc lắc mấy ngón tay nhúc nhích, chọc quê họ. Nghĩ lại tức cười... mình già "trên dưới ba bốn bó củi" cả rùi, nhưng đôi khi còn có những hành động như trẻ thơ, cũng quá vui và ngộ thiệt!

                              Ít lâu sau, toàn huyện Hóc Môn biết tin mấy anh ấy bị trọng cấm biệt giam, bị tra tấn hành hạ dã man, tay chân mang gông cùm, gỗ dằm cứa vào da, thối rữa thịt, dòi bọ lúc nhúc ở hai cườm tay và mắc cá chân. Hai anh ấy bị nhịn đói, không hề được cho ăn uống, chẳng thuốc than, không hề có thứ gì... cho đến chết. Dù họ bị bắt, chỉ vì các anh “cải tạo” đi hái rau “cải thiện” ở ngay trong những vòng kẽm gai trại tù, hầu ăn cho đỡ đói lòng.
                              Năm đồng đổi lấy một xu
                              Thằng khôn đi học, thằng ngu làm thầy.
                              (1)

                              Chuyện thứ tư

                              Thuở ấy tôi đã có trí khôn, nhưng ưa thích hái hoa bắt bướm ngoài vườn rau, nghe ba tôi gọi con gái út vô nhà chào anh họ mới tới thăm nhà. Tôi vô phòng khách thì đã thấy chị Ấm (chị ở Huế và chồng chị đổi vô học ở trường Võ Bị Liên-quân Đà Lạt. Thời gian hơn một năm đầu, anh chị Ấm tá túc ở nhà ba mẹ của tôi, để họ có phương tiện đi tìm mua nhà khác, mà ra ở riêng, chị Ấm là con ông bác ruột của tôi) chồng chị là Minh (sau nầy là Trung tá Phạm văn Minh, An-ninh Quân-đội). Trong phòng khách còn có ba mẹ tôi, anh chị Ấm, anh Xích ở dòng tu vừa xuất... và một người đàn bà lạ.

                              Do sự giới thiệu của chị Ấm, nên anh Xích mới quen biết với bà bạn gái có đồn điền của Tây ở Xuân Lộc. Họ lên Đà Lạt đã ghé vào nhà thăm ba má tôi. Hình ảnh đầu tiên khi tôi gặp mặt về người anh họ: Anh trắng trẻo, cao ráo, trẻ trung, khá đẹp trai, mái tóc cắt cao bồng bềnh sóng gợn, anh ăn nói hóm hỉnh, hoạt bát, linh động, vui vẻ, lúc nào trên môi anh cũng nở nụ cười tươi, anh kể nhiều chuyện dí dỏm. Khiến tôi có cảm tình ngay với ông anh họ nầy.

                              Ngược lại bà bạn của anh Xích quá bình thường, có nghĩa là bà chị không đẹp, trông không sang, tôi nhìn nét mặt thì thấy bà chị già và xấu, thô thiển hơn anh tôi nhiều. Tuy rằng sau nầy bao lần dùng cơm chung trong gia đình, thì bà chị làm ra vẻ ngây thơ cụ... ưa nhõng nhẽo vòi vĩnh anh tôi đủ thứ, dù trước mặt người lạ hay thân, bà chị thích “bắt nạt anh một xí cho vui” mà coi vô duyên chi lạ. Anh thường hướng dẫn anh chị em chúng tôi nhiều điều hữu ích. Anh thấy tôi sớn sác lóc chóc, lại dốt toán quá, anh thân thiện cóc đầu tôi cốp cốp. Nhưng tôi lì lợm không xoa đầu, không khóc, còn bu bám theo anh, ngụ ý lêu lêu anh "giống bà chằng kia”.
                              - Tại sao anh đi tu gần ra cha mà bỏ về?
                              - . . .
                              - Anh bị bà chằn kia bỏ bùa quyến rũ hả?
                              Anh cười vui vẻ xỉ ngón tay trên trán tôi mà bảo:
                              - Ha ha... con nít biết gì. Anh biết em nói gì rồi, đừng có lém lỉnh nha.

                              Sở dĩ ngày nay tôi biết làm thơ và viết văn, âu cũng nhờ anh một phần góp ý và khuyến khích vậy. Bài thơ "Tình Ươm Nắng" vu vơ đầu tiên có anh dạy tôi biết cách gieo vần:
                              Mộng tương phùng ngời sáng
                              Cành cây rớt giọt sương
                              Nhớ ai tình mới nở
                              Bên thềm thơm nhánh hương.

                              Bầu trời xanh sắc biếc
                              Gió mát thoảng bên tường
                              Hàng phượng chim tìm bạn
                              Trước song gió thoảng hương.

                              Cúc đơm hoa mấy đóa
                              Rực rỡ đón mùa sang
                              Nhịp cầu thương mới bắc
                              Ngồi đây nhớ ngút ngàn.

                              Bên hè tình ươm nắng
                              Nhớ màu áo anh mang
                              Cành hương thơm mùi tóc
                              Hừng đông thấy rộn ràng.
                              (2)

                              Có mấy lần gia đình tôi đi Ba Mê Thuột thăm họ hàng và đồn điền cà phê bạt ngàn của bác Hường (cạnh phi trường, chợ, và nhà thờ). Lúc tôi từ lớp Nhứt lên Trung học, anh Xích đã có bằng cử nhân lâu rồi. Anh bỏ dòng tu, anh đi Sĩ-quan Trừ-bị Thủ Đức, tốt nghiệp khóa 2. Tôi lớn khôn có gia đình, thì anh Xích lần lượt thăng lên Thiếu tá, Trung tá trong Quân-lực Việt Nam Cộng Hòa. Nhất là ngày anh làm Tỉnh Trưởng Tỉnh Gia Định, sau đó làm bên Giám Sát Viện, thì anh em chúng tôi người chân trời kẻ góc biển. Kể từ đó thân nhân bà con anh em thực sự xa cách nhau dài lâu. Tuy thế, thông qua ông bà anh chị em, đại gia đình thân tộc chúng tôi đều có biết tin về nhau cả.

                              Đến ngày mất miền Nam, anh Xích vượt biên ở Rạch Giá chẳng may bị bắt, họ đưa anh lên trại tù quân khu, canh giữ anh rất chặt chẽ, đặc biệt, từ năm 1977. Sau 1978 trại tù dời về vườn Đào thuộc Xã Mỹ Phước Tây, Huyện Cai Lậy, Tỉnh Mỹ Tho. Tôi đi thăm nuôi chồng. Bất ngờ nghe tin anh Xích bị giam giữ cay nghiệt nơi đây, lòng tôi cảm thấy đau buồn và thương anh biết bao! Tôi nghe chồng nói lại:
                              - Anh Xích "khả sĩ tử bất khả nhục" ở tù, do anh có lập trường kiên định, cứng rắn, anh không chịu cúi đầu khuất phục bọn ngu dốt lên làm vua, cỡi đầu cỡi cổ, nên anh bị cán bộ đánh đập tàn nhẫn, dã man, anh bị nhốt trong cornex thường xuyên. Tối hôm đó có hai bạn tù đi lên trạm xá xin bác sĩ cấp cứu một người bị đau nặng. Họ nhìn thấy tên cán bộ cẩn thận mở ba lớp khóa ở cái cornex hừng hực nóng, hắn nói:
                              - Tôi tha cho anh, hãy đi đi.
                              Tưởng thật, anh Xích bước đi độ chừng năm mét, thì hắn nổ một tràng súng bắn từ phía sau lưng anh. Hắn tri hô lên:
                              - Anh ấy trốn trại! Tôi bắn đấy.
                              Trong trại tù ai nấy đều rụng rời nghe hung tin, nhưng không một ai tin về điều cán bộ nói. Vì tù "cải tạo" đều biết anh Xích hiện đã và đang bị nhốt "trọng cấm" ở trong xà lim, nơi cornex có nhiều lớp khoá kín bưng, con ruồi bay không lọt vô trong, huống hồ gì anh là một người cao to dường ấy, nếu anh có được thả ra khỏi xà lim, chắc chắn anh thất thểu rệu rạo bước đi không vững, làm sao anh có thể chạy thoát ra ngoài, mà trốn trại?

                              Chuyện thứ năm:

                              Những buổi chiều gần cuối tháng Sáu năm 1976 tại đảo Phú Quốc, theo lệnh của cán bộ thì mỗi người tù “cải tạo” đều phải gò một chiếc xô nhôm, có nắp đậy kín, chiều cao độ 30cm, đường kính độ 18cm, dùng để mỗi cá nhân ngồi và tiêu tiểu tại chỗ trên tàu. Luật nghĩ: "Có lẽ chúng lại cho dời Tù đi đâu đây".

                              Trời mưa tầm tả không lúc nào dứt hạt, thế nhưng trên đoạn đường dài khoảng chừng hơn ba cây số từ trại Bốn; đoàn tù “cải tạo” đông đúc có lệnh di chuyển về đất liền. Trong các láng trại tù lũ lượt đi ra cảng Phú Quốc. Bởi vì Luật đã bị bệnh sốt rét da vàng rất nặng còn rét run lập cập, nên không thể dễ dàng di chuyển. Luật đứng lại gò lưng thở dốc, và phải nhờ anh Đinh Văn Sinh mang vác dùm thêm đồ đạc cá nhân của mình. Đoàn tù lội bì bõm trong sình lầy, Luật đi không nỗi, bị té chúi nhũi vào một anh tù khác. Chính đó là anh tù Kha Tư Giáo. Hai người gật đầu chào nhau.

                              Luật gượng đứng lên và cùng anh Giáo đi ngang hàng, sát cánh để dìu nhau chập choạng bước. Luật nhìn thấy hai tay của anh Giáo đã bị bẻ quặp ra sau lưng, khóa chặt bởi hai cây thanh gỗ to hình chữ nhật, có chiều ngang 20cm, chiều dài là 40cm. Thanh gỗ dài mới rất nhám không có bào, còn lởm chởm những dằm nhọn cứng tua tủa cứa vô da thịt mỗi khi anh nhúc nhích dượm bước đi. Do những vết cứa của dằm gỗ không được bào láng, nên từ hai cánh tay của anh Kha Tư Giáo lở loét, đóng máu tươi, máu bầm, và những cục mủ lầy lụa. Hai thanh gỗ đục thành một cái lỗ hình tròn, chỉ vừa xỏ hai cánh tay của anh Giáo vào đấy, và đóng kín bằng một ổ khoá bự sư.

                              Mùi hôi thối quanh hai cánh tay của anh Kha Tư Giáo xông lên nồng nặc, hôi thối kinh khủng không thể nào tả nỗi. Nhưng, điều mà Luật quá sức rợn người, cảm thấy như chính mình đau đớn tột độ, (chứ dường như không phải là anh Giáo đang gánh chịu nhục hình khốn khổ kia): Đó là những con ruồi xanh u u u vẫn bay lượn và những con dòi lớn có, nhỏ có, dòi trắng hếu lúc nhúc rúc rỉa bu quanh hai cánh tay của anh Giáo. Cũng có con dòi bò lên vai, lên cổ, hoặc nó lả tả rớt xuống mặt đường. Thế mà Luật chỉ thấy anh Giáo nghiến chặt hai hàm răng, anh lặng lẽ cất bước, không hề hé miệng than thở một lời nào. Luật rất khâm phục, vô cùng quý trọng về cung cách và bản lãnh của anh.

                              Lúc đoàn tù chui xuống hầm của chiếc tàu thủy to tướng tối đen, tàu rất chật chội do nhốt khoảng ngàn người dưới đáy, nên gần như ngợp thở, thì Luật không biết anh Kha Tư Giáo đứng ngồi, hoặc nằm ở xó nào. Người ta bắt tù gò một cái bô là để mình ngồi trên đó mà đái ỉa tại chỗ, là vậy! Đi lênh đênh trên biển như thế chẳng biết mấy ngày. Khi đoàn tù lên bờ di chuyển bằng xe bít bùng về tới Long Giao, thì chẳng hiểu sao anh Giáo lại nằm sát cạnh bên Luật. Đoàn tù đến ở trại tù Long Giao quá đông, nên tất cả tù phải nằm sắp lớp sát rạt như cá mòi, họ đều nằm nghiêng mình về một phía như nhau suốt cả đêm, thì mới có đủ chỗ nằm. Tù nằm y một chỗ chừng vài giờ như thế, thì cùng bảo nhau trở xoay qua một chiều khác, cho đỡ nhức mỏi. Lúc đó, anh Giáo nằm ở ngoài cùng, vì anh vẫn bị cùm ở hai cánh tay, khó cử động, xoay trở, nên anh Kha Tư Giáo đã ôn tồn bảo Luật:
                              - Làm phiền đỡ dùm tôi trở dậy, cho tôi xoay qua bên kia chút nào.

                              Luật mỉm cười ngồi dậy lặng lẽ làm y lời anh yêu cầu, sau đó đa số anh em không thể nào chợp mắt. Họ nằm bên nhau thì thầm chuyện trò to nhỏ. Anh Giáo đã kể rõ cho mấy bạn nằm gần gần chung quanh lán trại nghe: khởi đầu vì sao anh Kha Tư Giáo bị biệt giam khốn khổ tra tấn dã man vô cùng:
                              - Là thế nầy: Ban đầu có một “thằng cần câu” nào đó trong đám “tù cải tạo” của chúng ta, đi méc với cán bộ là: - Tên Kha Tư Giáo đã hát nhạc vàng…
                              - Thì tôi cười mà nói là:
                              - Hát là hát ca cho vui xí, chứ nhạc vàng, nhạc đỏ gì đâu!

                              - Thế là từ đó trở đi... họ nói tôi có tài hùng biện, giỏi lý luận, rồi tiếp sau tôi bị “đì” tới bến; mới sinh ra đủ thứ chuyện oan khiên!… Cán bộ đã đưa cho tôi một “ram” giấy pelure dày cui, để ngồi tại chỗ viết ra, phân tích, so sánh về lý thuyết “Các Mác”. Tôi đã phân tích tỉ mỹ hai chế độ: miền Nam & miền Bắc... Bên đúng, bên sai... Rồi… đến chuyện tôi đã thẳng thắng đốp chát, hùng hồn tranh luận về lý thuyế́t cộng sản trực tiếp với Võ Đông Giang… xong xuôi sau đó a lê hấp tôi bị cùm!

                              Anh Kha Tư Giáo dõng dạc từ tốn kể rất tỉ mỹ chuyện anh đã tranh luận, phân tích mọi khía cạnh của từng vấn đề ra sao! Hầu như những anh tù nằm gần bên đều im lặng lắng nghe như thế, không ai ngủ ngáy gì được! Ngoài hai cánh tay bị dòi rúc, máu mủ lầy lụa, trơ lòi ra khúc xương trắng thành một vòng tròn theo cái "cùm" (còng) gỗ ra, Luật nhận thấy anh Giáo vẫn còn khỏe mạnh, trí óc anh minh mẫn, anh ăn nói lưu loát đàng hoàng chững chạc, trí thức, từ tâm và độ lượng. Nhưng anh Giáo rất trực tính, anh không hề có dấu hiệu nào là người “khùng” hay bệnh điên đau ốm gì.

                              Khoảng hơn bốn giờ sáng (của một ngày đầu tiên vừa đặt chân lên đất liền, vào ở lán trại Long Giao một đêm nầy thôi), thì có một tốp bộ đội tới ngay lán trại. Họ kêu anh Kha Tư Giáo đi. Ngoài trời vẫn còn tối mịt, Luật không biết họ dẫn anh Giáo đi đâu! Độ chừng bảy giờ sáng ngày hôm đó, thì cả trại bàng hoàng, rụng rời, băn khoăn, lo lắng khi nghe tin anh Kha Tư Giáo đã chết!? Nhiều nghi vấn cho rằng anh Kha Tư Giáo đã bị chích thuốc độc. Một người bạn cùng tù ở đội 2 của trại 4 Long Giao với Luật tên: Lê N Ẩn luôn nhắc nhở anh em bạn “tù cải tạo”:
                              - Sau nầy, chúng ta sẽ cố gắng lập một nhóm bạn, đến ngày 30 tháng 6 mỗi năm là làm giỗ: để tưởng nhớ anh Kha Tư Giáo. Đồng thời anh tù “cải tạo” Trần Phong đã làm bài thơ lưu truyền rất nổi tiếng trong giới tù ca Xuân Lộc:
                              Chúa Nhật của người tù. Chúa sao không đến thăm!
                              Người tù ngồi đập đá giữa cơn rét căm căm.
                              Chủa Nhật của người tù có bao giờ được yên.
                              Ngày làm không kịp thở dưới họng súng vây quanh.

                              Chúa nhật của người tù Chúa sao không đến coi.
                              Áo quần tơi tả, bước như những bóng ma trơi.
                              Chúa Nhật của người tù có bao giờ được nghe.
                              Hồi chuông nhà thờ đỗ, thay tiếng quát liên hồi!

                              Chúa Nhật mùa Xuân thay trâu kéo cày
                              Chúa Nhật mùa Hạ vào rừng lấy mây.
                              Chúa Nhật mùa Thu lên núi kéo gỗ
                              Chúa Nhật mùa Đông lên cơn rét rừng.

                              Chúa Nhật người tù Chúa sao không đến cho
                              Người tù ôm bụng đói ước một bữa cơm no.
                              Chúa Nhật của người tù muốn đêm về thật mau.
                              Nằm lịm trong mộng cũ mơ những Chúa Nhật nào...

                              * *

                              Chuyện thứ sáu


                              Trại Tù “cải tạo” Đại Lợi

                              Bác Hồ chết phải giờ trùng.
                              Nên bầy con cháu dở khùng dở điên.
                              Thằng tỉnh thì đã vượt biên.
                              Những thằng ở lại nửa điên nửa khùng.
                              (*)

                              Chỉ là thế thôi. Anh ra đi “cải tạo” tù tội mút chỉ cà tha, anh đã vứt lại một gánh hành trang quá nặng trên vầng trán nhăn nheo già nua cuả mẹ, trên đôi vai gầy khô đét cuả vợ, trên bờ môi héo hon cuả con trẻ dại khờ. Ngày ngày mặt trời bừng lên soi dọi mọi xó xỉnh, nung đỏ mặt đất, đè nặng hoàng hôn với bóng đêm buông về hừng hực hơi nóng muốn lột da! Bao năm sống trong quá khứ ngục tù “cải tạo”, hy vọng và tự do của người tù "cải tạo" vẫn nằm ở chân trời xa xăm, có thể còn đầy gian truân thử thách đã bị lãng quên nay bùng trỗi dậy. Một thời lừng danh rạng rỡ huy hoàng đã hết, nay anh phải dùng những viên thuốc ngủ bé tí xíu, để xoa dịu cơn đau tâm hồn & thể xác. Vì thực tế "Người nuốt những hờn căm"...:
                              Vàng phai trên thanh gươm.
                              Người mái tóc điểm sương.
                              Ngựa tung vó trong mưa buồn trên quê hương sầu thương.
                              Đường mây vỡ tan thành mộng trong cô đơn còn mơ sa trường.

                              Bóng xô nghiêng hoàng hôn.
                              Mài gươm trong cô đơn.
                              Người nuốt những hờn căm.
                              Ngựa nuôi móng non thay bờm trên quê hương cuồng giông.

                              Đường xa dẫu xa muôn trùng trong đêm nay ngựa phi sa trường.
                              Bóng dõi bóng quê hương.
                              Chiến mã đã đến sát dòng sông đêm quê hương mênh mông.
                              Sao chưa hừng đông?!

                              Chiến mã rất khát miếng nước trong trên quê hương tang thương
                              Ai qua trường giang...!?
                              (1)

                              Chao ôi! Làm thế nào được khi chiến mã đến sát dòng trường giang trên quê hương nầy, chỉ còn là dòng sông cạn và đục ngầu… Dẫu qua bao mùa giông bão, chiến mã vẫn khát miếng nước trong! Không còn cảnh "Đem đại nghĩa thắng hung tàn. Lấy chí nhân thay cường bạo"*. (*Nguyễn Trãi) Có câu sau mà ai đó đã nói rất chí lý: “Phẩm giá con người được tôn trọng trong sự hoàn thiện và cao trọng”. Thế nhưng ở thời buổi mất hết tất cả nầy, nay chỉ ùn ùn mọc lên: Một trong muôn vàn trại tù “cải tạo” khủng khiếp nhất trong đất nước đã mang danh hiệu “thống nhất, hoà bình và tự do”, thì quả thật đã có trại tù Đại Lợi (là một cao ốc của Mỹ bỏ lại) nằm chình ình ngay ở thành phố Sài Gòn, sát nách bên khu chợ ông Tạ. Con đường ấy ngày nay đã đổi tên lại là: Phạm Văn Hai. Nơi trại tù Đại Lợi đây có quá nhiều phòng giam nhỏ, trên một cao ốc năm từng lầu.
                              Mỗi phòng giam làm bằng vật liệu nặng kiên cố bê tông cốt sắt, song cửa sổ sắt, mỗi phòng có chu 3 x 4 mét. Tuy phòng nhỏ xíu, nhưng có mấy lớp khoá bự tổ chảng ở ngoài cửa ra vào. Mỗi phòng có một cái xô nhựa lớn, có nắp đậy, dùng để cho tù đi tiêu, đi tiểu sau năm giờ tối. Mười người hoặc mười bốn người tù bị nhốt trong một phòng kín như bưng, có song sắt to chắc chắn, và dĩ nhiên có sợi xích sắt to bằng nửa cùm tay chạy vòng quanh những song cửa sắt, cuối cùng còn chấn thêm ổ khóa bự sư.

                              Một anh tù đã bó gối không biết làm gì, buồn bã ngâm nga:
                              Tang bồng hồ thỉ nam nhi trái;
                              Cái công danh là cái nợ nần.
                              Nặng nề thay hai chữ quân thân,
                              Đạo vi tử, vi thần đâu có nhẹ!

                              Cũng rắp điền viên vui thú vị;
                              Trót đem thân thế hẹn tang bồng.
                              Xếp bút nghiên theo việc kiếm cung,
                              Hết bốn chữ "tinh trung báo quốc".

                              Một mình để vì dân,vì nước,
                              Túi kinh luân từ trước đến nghìn sau,
                              Hơn nhau một tiếng công hầu.
                              (Nguyễn Công Trứ)

                              Ngay sau đó mươi lăm phút, tên quản giáo chẳng thể hiểu thơ văn trứ danh của thi sĩ, đã phán cho anh tù tội “có mưu đồ dùng thơ lôi kéo tù phản động”… Anh tù “cải tạo” chưa kịp há hốc miệng, chẳng hề cự nự, liền bị bốn công an súng ống nai nịt điệu đi lên tít tóp trên trần thượng, nơi cao chênh vênh tha hồ cho bọn họ đánh đấm hành hạ dã man… rồi tù sưng húp mặt mũi, máu me lênh láng, tù bị còng tay cùm chân, tự chui vô trong cornex bịt bùng, mấy ổ khoá bự sư siết bên ngoài cánh cửa ti hí, nóng hầm hập suốt ngày đêm, và dĩ nhiên anh tù đói khát triền miên. Người tù đó là Quốc, Trung Úy Thủy Quân Lục Chiến, cháu cuả tôi.

                              Mùa hè tù nhân ở trần, họ chỉ mặc mỗi cái quần xà lỏn, ấy thế mà trong phòng vẫn nóng như nằm trên cái chảo nung đỏ lửa. Mỗi buổi sáng, sau khi một anh tù (đến phiên trực ban), có bổn phận khệ nệ xách cái xô nhôm, lò dò đi xuống những dãy lầu Đại Lợi, tù đem xô nước cứt đái ra đổ trong bồn chứa to ơi là to, để tưới rau xanh. Cũng từ cái xô tráng rửa qua loa đó, (vì khan hiếm chả có xà bong, không sẵn có nước máy, cũng không nhiều nước cạn giếng khô). Họ rửa xô, để phải dùng cái xô nầy đựng nước tắm, đôi khi thiếu vật dụng, cán bộ cai tù lại sai tạp dịch dùng xô ấy, xách nửa xô canh rau lều bều lỏng bỏng lên láng trại, cho tù “cải tạo” chan nửa chén bo bo ăn cầm hơi cả ngày. Tù thì thầm bảo:
                              Ở với Hồ Chí Minh.
                              Cây đinh phải đăng ký.
                              Trái bí cũng sắp hàng.
                              Khoai lang cần tem phiếu.

                              Thuốc điếu phải mua bông.
                              Lấy chồng nên cai đẻ.
                              Bán lẻ chạy công an.
                              Lang thang đi cải tạo.

                              Hết gạo ăn bo bo.
                              Học trò không có tập.
                              Độc lập với tự do.
                              Nằm co mà hạnh phúc!
                              (*)

                              Nếu công an bắt ai, thì ít khi lầm. Mà, lỡ có lầm, thì cứ nhốt ít nhất là bỏ tù vài ba năm, để “lao động là vinh quang”, và theo dõi. Thậm chí nếu con người ấy chưa biết “giác ngộ”, chưa “phấn đấu cải tạo tốt”, chưa “học tập tốt”, không “thành thật khai báo”, chưa “đả thông tư tưởng”, chưa sửa đổi bản thân, hay không làm “cần câu” điềm chỉ…, thì a lê hấp cho vào tù mút mùa lệ thuỷ, chưa về hay không về nữa. Nghe ra chữa?

                              Chuyện thứ bảy


                              Mỗi lần có dịp đi ngang qua Tiền đồn Xà Bang nằm cạnh Liên Tỉnh Lộ số 2 (LTL2), nối liền từ Ngã 3 Tân Phong Quận Xuân Lộc, Tỉnh Long Khánh đến Thị Trấn Bà Rịa, Tỉnh Phước Tuy. Xà Bang cách Bà Rịa 28Km về hướng Bắc Đông Bắc và cách Xã Cẩm Mỹ 6Km về hướng Nam. vùng Long Khánh thăm chồng ở trong trại tù nầy, tôi không thể không hồi tưởng và tiếc nhớ những vị anh hùng khả kính tận tụy vì dân vì nước, đã hy sinh cho tổ quốc sống còn. Cho đến phút chót, khi vĩnh biệt cõi đời ô trọc, chiến sĩ ấy cũng âm thầm về trong khuya muôn trùng lạnh lẽo. Có thể họ âm thầm phù giúp bạn đồng-cam chút tình tri ngộ chăng?

                              Huyền thoại về bức tượng “Tiếc Thương” của điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu (sĩ quan trừ bị Thủ Đức, khóa 13) há chẳng phải là một bằng chứng cụ thể hay sao?! Cư dân địa phương gần quanh vùng nghĩa trang Quân-Đội Biên-Hoà, há chẳng luôn luôn đồn đãi về chuyện anh hạ sĩ Võ Văn Hai đi lính Nhảy Dù. Dường như anh muốn nhắc nhở chúng ta tưởng nhớ đến các chiến sĩ trận vong, nghĩa tử là nghĩa tận mà! Cư dân địa phương thường rù rì kháo nhau rằng:

                              - Đêm đêm dưới ánh trăng ngà khuya khoắt, có người chiến sĩ mặc quần áo trận, đầu đội nón sắt, mang giày đinh, lưng đeo la lô, từ trong bức tượng "Tiếc thương", anh lính ấy đỉnh đạt bước từng bước, từng bước trên bệ đá. Chiến sĩ ấy đủng đỉnh xuống đồi, băng qua đại lộ, anh ấy chỉ đến một ngôi nhà, và gõ cửa nhà của một bà cụ. Khi cụ bà mở cửa ra, chiến sĩ ấy im lặng cúi đầu chào, anh ấy vẫn lặng lẽ cầm bi đông trên bàn tay trái, anh ấy giơ bi đông ra, xin bà cụ nước uống.

                              Ban đầu cụ bà hoảng sợ, ngập ngừng toan lùi bước. Nhưng sau nhiều lần, cụ bà vẫn thấy chiến sĩ ấy xuất hiện, cúi đầu im lặng, trầm buồn, hiền lành lặng lẽ, âm thầm không hại ai. Cụ bà xúc động, vội vàng trở vào nhà, bà cụ niềm nở ân cần rót nước, đem ra cho người lính đơn độc. Thương lắm thay! Cụ bà ngẩn ngơ lặng đứng nhìn anh từ từ quay trở lại trên đồi hoang vắng.
                              ***

                              Giòng tình cảm đã chảy qua trong đời tôi, mình cảm thấy luôn hổ thẹn, dày vò, băn khoăn một bất nhẫn về hình ảnh ấy không thể gội rửa, xóa sạch... Lúc nầy đôi chân tôi không còn sủng ái tin tưởng lẫn nhau, nên một trong hai bàn chân kia đã giận dữ tự nhô lên hụp xuống, nếu chân nầy chấm, thì chân kia phết, làm tôi run rẩy chới với nghiêng ngả hoài. Cứ như thế mà hai chân lập cập bò lết trong cõi đời ô trọc. Chính “xéc” là “hai thằng chân” ni đã “phẻn” đối cái bản thân tôi đang nhún lên nhún xuống trong đời sống bốc lửa.

                              *

                              * Sưu tầm
                              Thơ Tình Hoài Hương
                              Lượm lặt sưu tầm khắp đó đây trên Net
                              Thơ và nhạc: Trần Ng Phong.

                              Tình Hoài Hương
                              Last edited by Tinh Hoai Huong; 05-25-2017, 05:04 PM.
                              Bút trần nào tả được lưu luyến!
                              Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                              Tình Hoài Hương

                              Comment


                              • Em Cứ Mặc… nhưng Chua Chát Dường Bao



                                Giờ này anh ở đâu
                                Sáng tác: Khánh Băng
                                Do: The Cat's Trio

                                Em Cứ Mặc… nhưng Chua Chát Dường Bao


                                Lòng tôi trào dâng lên nỗi ngậm-ngùi, đắng cay, chua chát dường bao! Những tiếng nấc uất hận, giọt lệ vô cớ trào lên bờ mi tôi lăn hoài xuống má. Bởi vì tôi làm lụng quá vất vả đủ thứ chuyện, không ngơi nghỉ: Tôi thoăng thoắt đan áo lạnh để bán, (phụ nữ sinh sống tại Đà Lạt thì hầu như 85% tự biết đan áo len khá đẹp, thành thạo). Tôi may quần áo bằng kim tay cho con, bàn tay tôi lướt nhanh trên những đường chỉ thật đều, không thưa không vụng.

                                Khi có các vụ mùa thì tất cả bà, cháu, mẹ con tôi bươn bả đi các nơi, nào là: làm ruộng, nhổ cỏ, cấy mạ, đi mót đậu, mót khoai, mót rau, mót nhặt bao ni lông... Rồi nâng niu mang về: đậu, rau, khoai, lớp rửa sạch, nhín nhút để dành ăn ngấu nghiến từ từ, lớp phân ra để độn với ít gạo tẻ, hoặc chia đậu que, đậu phụng kho mặn. Tôi nấu thứ rau chóng héo ăn trước. Lượm giấy carton khắp các mọi nẽo đường, tôi khiên về nhà ngồi bệt xuống vĩa hè, vuốt thẳng ra, xếp gọn để vô một góc, bọc ni lông thì ôi thôi: ở bên trong đựng đủ thứ tanh hôi, bẩn thỉu dơ dáy vô cùng. Tôi xăn quần lên tận háng, đứng trong thau nhôm để đạp bọc ni lông giặt giũ cẩn thận, đem ra cánh đồng đầy nắng phơi khô. Hôm sau mẹ con đội đến hãng ve chai bán, lấy tiền về đong từng lít gạo.

                                Ở Việt Nam là thế, nhưng ở bên Moskva vào những năm 1970 khi mùa đông giá rét, có tin đồn là ngày hôm sau cửa hàng bán thịt số 1 sẽ có thịt. Ngay hôm đó trước cửa hàng đã có hàng chục ngàn người với áo khoác ấm, giày cao cổ, đứng thành hàng dài. Lúc 3 giờ chiều một người bán thịt đi ra và nói:
                                - “Thưa các đồng chí, ban chấp hành trung ương vừa gọi xuống, thông báo rằng không đủ thịt bán cho tất cả mọi người, vì vậy mà dân Do Thái nên về nhà”.
                                Dân Do Thái nhẫn nhục bước ra khỏi hàng. Những người khác tiếp tục đợi. Lúc 7 giờ tối người bán thịt lại bước ra và nói:
                                - “Thưa các đồng chí, ban chấp hành trung ương vừa gọi xuống, thông báo rằng hóa ra là không có thịt vì vậy mọi người nên về nhà”.
                                Đám đông tản ra, vừa đi họ vừa lầm bầm:
                                - “Bọn Do Thái khốn nạn lúc nào cũng gặp may!”. (2)
                                *

                                Thường khi đi làm ruộng ngang qua khu vực có chiếc phi cơ rơi ngay sau ruộng lúa, tôi tần ngần bâng khuâng dừng lại nhìn chiếc trực thăng nầy bị bắn rớt sáng sớm ngày 29/4/75 ở sát ruộng làng Nhị Tân. Có điều lạ lùng là hồi ấy nhiều người dân, và chị của tôi chính mắt trông thấy trực thăng bốc khói và rơi xuống đất.

                                Có một xe tăng bọc sắt hết xăng còn nguyên vẹn hình dáng nằm ngay trước hẽm nhà thờ Châu Nam, Hóc Môn, gần dãy nhà trại gia cư. Sau ngày "mất nước", bọn trẻ con trong các Xã: Châu Nam, Lục Nam, Tân Thới Nhì, các con em ưa leo trèo vào ngồi lắc lẽo trên khung sườn phi cơ, hoặc chiếc xe tăng, để chơi trốn tìm, nô đùa. Thỉnh thoảng cũng có mấy ông lớn tuổi bu quanh phi cơ, xe tăng đã mất hết những đồ đạc bên trong, kể cả cánh quạt, ghế lái, v.v... Chiếc phi cơ chỉ còn trơ lại cái khung sườn. Người ta đập phá, tháo gỡ phi cơ ra để lấy nhôm, sắt vụn... nghĩa là có cái gì có thể gỡ được, thì họ gỡ ra hết cái đó, đem đi bán ở hãng ve chai. Mặc dù họ vẫn e sợ phi cơ hoặc xe tăng phát nổ thình lình.

                                Sau nầy tôi cùng một nhóm người đi mót lúa, đi làm công, thì có cậu con trai, (con của ông bà chủ ruộng), vào giờ nghỉ trưa tôi dùng cơm nắm mang theo ăn. Cậu ấy ưa lê la đến ngồi nói chuyện với tôi cạnh bên chiếc trực thăng khác chỉ còn trơ bộ sườn, cậu ta ngửa cổ ực một hớp rượu đế, khoái trá “khà”:
                                - Cô không phải là dân làm ruộng chính cống, ha.
                                - Sao anh nghĩ vậy?
                                - Thấy cô mãnh mai, trắng trẻo và đẹp.
                                - . . .
                                - Hay là… cô sa cơ thất thế!?
                                - . . .
                                Cậu ta chỉ cho tôi một ngôi mộ vô danh, cậu ấy nói: người chết là một quân nhân sĩ quan Việt Nam Cộng Hoà, sĩ quan ấy chết trong khu vực ruộng nhà cuả cậu ta. Do ba cậu đã vội vàng lén lút tẫn liệm và chôn cất người lính bên lề đường, vì sợ oan hồn không ai hương khói, sẽ lởn vởn quanh họ quậy phá, cậu ta là con ông bà chủ già khá giả, hiền hậu, chân tình, rất tốt với tôi.

                                Tôi là vợ tù “cải tạo” khi nghe cậu ta nói thế, cũng lấm lét, len lén dáo dác… nhìn thấy có một ngôi mộ đất mới đắp đơn sơ, không tên không tuổi. Nhưng tôi im re, ngu sao mà bép xép thèo lẽo, ấm ớ hỏi nầy hỏi nọ, cho lôi thôi ra, tôi không dám có ý kiến. Tôi rất sợ cậu ta làm gián điệp, chờ tôi hở môi, là a lê hấp bắt đi tù, tôi bỏ con thơ ngoài đời bơ vơ đói khát. Nên tôi chỉ gật gù ừ hử trong khu Bà Điểm mười tám thôn vườn trầu nổi tiếng… có nhiều Vẹm. Vài ngày sau, tôi “lo thăng, lo lặn" mút mùa luôn. Tôi mất một cơ hội có một việc làm ở nhà chủ ruộng, khi nhan nhãn đó đây:
                                Đầu đường Đại-tá vá xe.
                                Cuối đường Trung tá bán chè đậu đen.
                                Giữa đường Thiếu tá rao kem.
                                (2)

                                Tôi già khú, các con tôi là thứ con nít hỉ mũi chưa sạch, thì có sá chi chuyện lượm lon, nhặt bọc dơ, để có tấm bằng khen trong lớp mà vô bổ cho dạ dày! Điều may mắn là thân thể tôi ốm o, nhỏ thó, nên tôi tự ý ngồi rị mọ may bằng kim tay một cái quần đen cùn cụt trên mắc cá, nhưng đáy quần dài xệ xệ và rộng thùng thình, (dễ độn đồ lậu, dễ chạy khi bị rượt bắt) lưng dây rút, (cột chặt vô bụng, không phải lưng dây thun lỏng lẻo). Tôi may một áo ngắn màu nâu khá rộng. Về áo ngực thì tôi tự may cái cọc-xê vải mỏng to, (có thể nhét mỗi bên ngực ít ra cũng được non 1/2 ký đường cát, đường thẻ, tiêu hột, hột điều. Hoặc thường xuyên cho hai núm vú tí nị của tôi tha hồ hút lố thuốc lá đã đời, ha ha ha...).

                                Tôi rất đắc ý, sung sướng, và khoái về sản phẩm “quần áo” tự mình phát minh và sản xuất. Bảo đảm tôi dấu nghề kinh khủng, ngu sao mà hở môi cho răng lạnh! Nên tôi không hề hé lộ tí xíu nào cho đồng bọn “con buôn đầu nậu” biết. Thiệt tình là tôi không tự hào vỗ ngực xưng “bá” ; nhưng phải công nhận là tôi tự khen tôi giỏi, có óc sáng tạo thiệt đa, ít ai ranh ma, có tay nghề chuyên môn, sành điệu như tôi.
                                Khi diện “bộ đồ vía” vào người, bỗng nhiên tôi tủm tỉm cười, nghĩ đến bài thơ rất hay:

                                . . . Em cứ mặc nhưng xin đừng quá ngắn
                                Hở phần lưng, ôi đã khó coi sao!
                                Lần đầu tiên mình tập tành mặc áo chíp
                                Huống chi đưa cái lõm rốn ra chào

                                Vô duyên thế làm sao ai coi được!
                                Mông má có đầy, mắt môi có ướt
                                Cũng không làm "tha thướt" được gì đâu
                                Lỡ quen nhau, giao ước buổi sơ đầu

                                Đừng đòi học, kiểu khoe khoang, mốt, chảnh...
                                Van em cứ hồn nhiên, đừng đỏng đảnh
                                Quần sa tanh và áo lụa Hà Đông
                                Giản dị thôi mà duyên dáng vô cùng

                                Em nên nhớ, còn cho mình ngắm nữa
                                Em cứ mặc van em đừng... thả cửa
                                Xin hãy là cô Tấm của ngày xưa
                                Mộc mạc, đơn sơ, giản dị, quê mùa...!!!
                                ( BPT)

                                Vậy thì, thưa thi sĩ BPT yên chí nhé, thời buổi nầy đã có mấy ai dám ăn diện đỏm đáng “model xịn” như tôi nào! Thế là tôi khoan khoái hí hửng tất tả leo lên xe đò chạy đi Trảng Bàng, Gò Dầu, Tây Ninh, có nhiều lần xe qua tít bên khu chợ trời biên giới Việt-Miên: Tôi mua đường, mua vải, mua thịt, vân vân... Những thứ đó đã bó chặt trong người tôi, có bộ quần áo “sáng tác chiều tác” tinh xảo để che mắt công an giao thông & cán bộ dọc nhiều trạm gác đang lùng sục lục soát tịch thu. Thân thể tôi trở thành tròn vo, mập ú nần ú nù, phì lũ, coi tôi giống mấy mummy Mỹ. Mấy thứ vải vóc, đường cát hoặc thuốc lá thì nó khô, tôi dễ dàng bó trong bụng, làm bà trẻ có cái bụng bầu. Bụng bầu tân thời trong xã hội chủ nghĩa coi ngộ lắm: gồ ghề, lồi lõm, nhô lên sụp xuống, như thung lũng núi đèo Đà Lạt.

                                Duy về chuyện thịt heo, thịt bò, thịt trâu, thịt dê... ở các chợ miền Nam như Sài Gòn, Chợ Lớn… Đa Kao, Bà Chiểu, Tân Định… hầu như khan rất hiếm thịt, thế nên bạn hàng như tôi ai ai cũng lo chạy đi về miền quê mua thịt cuả dân làng làm lậu, lúc ba giờ sáng. Tôi thu dú bó thịt trong đùi gần sát tới háng, mà qua mắt công an cán bộ.

                                Bó thịt vô gần bên háng, thật là một cực hình, ngứa ngáy, khó chịu, sột soạt, bực bội vô cùng! Tôi đi đứng cấn cái vì “cục đùm” cứ lắc la lắc lẽo, dềnh dàng như kẻ mắc bệnh lậu, bệnh tiêm la, sa bọng đái …chi chi đó. Có nhiều lần vào buổi trưa trời nắng chang chang, mà tôi bó hai miếng thịt heo, thịt ba chỉ, mỗi miếng độ chừng một kí lô, để rón rén qua trạm gác, tôi lum khum cúi cúi liếc liếc, lưng đi lòm khòm, làm bộ rên rĩ như bà già đau quặng bụng muốn mắc ị.

                                Nhưng trong ruột tôi sôi lọc ọc, rổn rảng... có thể tên cán bộ đứng xớ rớ gần bên nghe bụng tôi đánh lô tô rột rột, thì ông ta nghĩ rằng: "thứ dân đen đói rách nên sôi ruột, thèm ăn í mà". Thời buổn nầy đói khát là chuyện thường, chuyện nhỏ, ông có nghĩ như thế thì cũng đúng thôi. Mồ hôi cha mồ hôi con chảy ròng ròng. Tôi chỉ sợ hai cục thịt quấng ni lông ở hai bên đùi không chặt, dù tôi đã lấy sợi lòi tói cột siết vô đùi rồi. Do nóng và mồ hôi hột vã ra như tắm, (vì run sợ đủ thứ chuyện) thì thịt thà và sức nóng của Trời ban, cộng với sức nóng từ thân thể tôi tỏa nhiệt ra, thịt trong bọc ni lông sẽ lầy lụa, trơn tuột, mà rớt tỏm xuống đất trước mặt “công an bạn nhân dân”. Thì thịt mất, tiền không có, thêm tội: Tôi mang đồ quốc cấm “lên làng lén lút, lừa lũ lục lâm làm lợn lậu”, thì a lê hấp tôi vô tù mút mùa. Ôi! nghĩ đến điều ấy khiến mình quá sợ hãi.

                                Nhưng mười tháng qua, sau những chuyến đi buôn ấy tạm suông sẻ, thì họ đã phát hiện ra “bọn bà bầu” cái tội lừa. Vì ngồi trên xe đò có chừng mười lăm phụ nữ, thì đã có tới tám chín chị có cái “bầu tâm sự to bự sư”. Những thứ mánh mung gian trá đó, tôi đã học được ở xã hội chủ nghĩa từ ngày bắt đầu có cách mạng thành công. Ngỏ hầu tôi có thể qua mắt họ, đem lên Chợ Lớn, chợ Bến Thành, chợ Tân Định… bán, ở những nơi nầy nhiều nhà giàu dư dật tiền bạc, mà thiếu thịt thà, tôm cá; thì mình bán có lời gấp bốn năm lần tiền vốn. Con buôn ai không ham! Người dân ở thành phố còn giàu, có sẵn tiền, họ thèm và ưa ăn thịt, ăn tôm tươi, cá tươi. (Nói đến chuyện buôn tôm cá tươi, cũng có lần tôi làm cái "mánh" bó tôm cua trong người, ui trời quơi! Nó tanh và hôi đến nôn mửa! Sau đó tôi đành "bỏ cuộc chơi", đành trở lại nghề cũ, nghĩa là tiếp tục "bó hàng hoá" vô trong người mà đi buôn lậu)! Nhưng hàng hóa luôn thiếu thốn, thịt thà nào thấm vào đâu giữa thời buổi gạo quế củi châu. Cơ khổ thân tôi làm không thiếu thứ gì, (trừ chuyện “ăn nằm”) miễn là có tiền đem về nuôi gia đình. Tôi phải tận lực vắt cạn kiệt sức lực:

                                Thứ Hai em phải đi làm.
                                Thứ Ba em cũng vì làm phải đi.
                                Thứ Tư làm việc nên đi.
                                Thứ Năm càng phải vội đi để làm.
                                Thứ Sáu em cũng phải tham.
                                Thứ Bảy bận quá vì làm phải đi.
                                Chủ Nhật thủng thẳng nghĩ suy.
                                Ở nhà buồn quá có khi... đi làm.
                                (1)

                                Thời gian khá lâu sau… chúng tôi chia phiên nhau đi thăm nuôi chồng bị tù tội vì bốn chữ... “học tập cải tạo”. Thật ra, chúng tôi mừng rỡ đùm túm gói ghém những gói quà tẻo teo khiêm nhường, dỡ tệ đến mắc cỡ, do cả nhà nhịn ăn nhịn mặc vất vả nhọc nhằn đến thế, mà khó có tiền dư để thăm nuôi tù thường xuyên.
                                *


                                Tình Hoài Hương

                                (1) = Thơ Bút Tre
                                (2) Sưu tầm lượm lặt.
                                Last edited by Tinh Hoai Huong; 05-25-2017, 06:10 PM.
                                Bút trần nào tả được lưu luyến!
                                Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                                Tình Hoài Hương

                                Comment



                                Hội Quán Phi Dũng ©
                                Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




                                website hit counter

                                Working...
                                X