Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Bút Ký Chiến Trường - Trương Văn Út

Collapse
X

Bút Ký Chiến Trường - Trương Văn Út

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Bút Ký Chiến Trường - Trương Văn Út



    Trương Út (Khoá 22/TVB/QGVN)
    (MũĐỏÚtBạchLan)



    Trại Gia Binh và Thương Phế Binh của Tôi

    Ôi trai trẻ một đời oanh liệt quá
    Kiếm trên vai vô địch mấy sông hồ
    Và ngạo khí tưởng chừng như sắt đá
    Giữa ngàn năm sinh tử chẳng nhấp nhô
    (Triều Tâm Ảnh)


    Có người hỏi tại sao là Trại Gia Binh và Thương Phế Binh Của Tôi ?.
    Xin thưa : Vâng ! Đúng ! Nó chính là của Tôi…!!!

    Chắc có lẽ trong QLVNCH không có đơn vị nào giống như đơn vị của Tôi: Đại Đội 5 Biệt Cách Nhẩy Dù ( ĐĐ5BCD )...cuối năm 1969 được Thượng Cấp quyết định đổi danh trở thành Đại Đội 2 Trinh Sát Nhẩy Dù ( TS2ND ) và ”nó” lại thêm không giống ai đặc biệt ở chỗ được lệnh thuyên chuyển từ Nha Trang về Sài Gòn “nguyên con” là phải mang theo cả đại gia đình "Khu Gia Binh" gồm có: Nam phụ lảo ấu , đàn bà, con nít , chó mèo , gà vị,…Trời hởi ! Có gia đình còn mang theo cả heo con, sau khi đả thịt heo mẹ trước khi tùng tùng cắc cắc theo nhau xuống Tàu mặc cho tới đâu về đâu hỡi mái nhà tương lai chưa thể hình dung…! Hải Quân Dương Vận Hạm rít lên ba hồi còi, nhổ neo lừng lững nặng nề tách bến, đâu đó chiếc radio của ai phát thanh giọng hát Khánh Ly với lời ca lẫn trong hương vị mằn mặn của gió biển và tiếng sóng nước vỗ mạn Tàu: " Nha Trang ngày về , mình tôi trên trên bãi khuya, tôi như là con ốc...." . Ôi nghe buồn làm sao…! Tôi ngồi trên mũi boong tàu, nhìn xuống lòng tàu, đơn vị của Tôi đó: Gia đình cha mẹ vợ con của Binh Sĩ và cả gia súc chó mèo, gà vịt…!!! Trách nhiệm của Tôi quá nặng nề vì Tôi biết sẽ phải lo cho họ trăm bề như tình đường… đường ”phụ mẫu” sau này…thương cho họ và cũng tội nghiệp cho thân Tôi với tưong lai đầy bất trắc, hiểm nguy trên khắp mặt trận khói lửa chiến tranh, đạn thù mịt mù càng ngày càng khốc liệt, tử thần rình chụp gặt hái những linh hồn từng giây, từng phút nào ai biết là ai trong đơn vị của chúng tôi bị đốn ngã tàn tật hoặc tử thương…! Đối với chúng Tôi thì quá dễ , chỉ một cái ba lô trong đó một poncho, chiếc võng nylon, cái mền nhà binh… nó là “mái nhà” ấm cúng “đầy đủ” quá rồi còn muốn cái gì nữa ? Nếu có ước muốn chăng thì chỉ là liệu có thì giờ căn võng và lôi cái mền ra khỏi balô để “úm” hay không mà thôi khi điều kiện “an toàn” cho phép, còn đối với phụ nữ vợ con, cha mẹ, thân nhân của Binh Sĩ …thì trong lúc này Tôi không thể tiên đoán và tính toán làm sao cho có tương đối được nhu cầu nhà ở an cư sinh sống cho họ …?

    Đồi Long Bình, không phải căn cứ Long Bình của Quân Đội Mỹ...Đồi Long Bình với cao độ khỏang 100 mét, nằm ở phía Nam sông Đồng Nai và cách xa lộ Biên Hòa chừng một cây số, chúng ta có thể định vị địa điểm nơi này một cách dễ dàng nhất là Đồi Long Bình và Nghĩa Trang Quân Đội đối diện nhau qua xa lộ...Ban đêm đứng trên điểm cao nhất nhìn về phía Bắc sẽ thấy ánh đèn rực sáng của căn cứ Long Bình và nhìn về phía Nam với những ngọn nến leo lét của Nghĩa Trang Quân Đội ...và hãy thôi đừng nhìn đâu xa, hướng tầm mắt về phía Bắc chân đồi là giòng sông Đồng Nai hiền hoà lấp lánh sóng nước ánh đèn phản chiếu từ căn cứ Long Bình ”nó” không thơ mộng như giòng Hương Giang ! Nhưng sông Đồng Nai là giòng thuỷ lưu chuyên chở bao nhiêu kỷ niệm của Lữ Đoàn 2 Nhẩy Dù, Tiểu Đoàn 11 Nhẩy Dù, Tiểu Đoàn 2 Pháo Binh Nhẩy Dù, Đại Đội 2 Trinh Sát Dù… và lính tráng kháo nhau mỗi khi có tin: “… đơn vị được về hậu cứ dưỡng quân hả ???”... lại phải đi đâu cho xa, các Sĩ Quan độc thân muốn đi đâu thì đi, còn ai có gia đình đang ở "Trại Gia Binh " thì chỉ hô một tiếng Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan, Binh Sĩ tập họp chỉ trong vòng 5 phút quân ta “tấn công”quán lò gạch Sáu Sồi nơi có vườn cây ăn trái sát bên bờ sông Đồng Nai ... nào là thịt nai nướng xã, thịt heo rừng xào lăng, thịt thỏ nấu rượu chát đỏ…đi dâu loanh quanh cho đời mõi mệt…!!! ( Ở Houston này Còn Thiếu Tá Triệu PB2ND , Thiếu Tá Vinh Con TĐP/TĐ/16/ND , còn nhiều nữa đang sống trên đất Mỹ này ... như Phan Nhật Nam hậu cứ LĐIIND, Lê Văn Mễ TĐ11ND, vợ Hùng Móm, Hùng Mập....)....cho đã rồi, gần cả trăm “thầy trò”, đã đến lúc chếnh choáng rượu beer ngất ngư, lắc lư con tàu đi… như bất tri hà sự, lang thang, lếch thếch trở về trại ca vang: " Nào bao thằng say tiến lên....nhà cửa đang chờ ta quét rác..."!!! Ôi… hạnh phúc biết bao khi trở về căn “Nhà Gia Binh”có “vợ hiền” đang cầm cái khăn ướp đá và một ly trà nóng chanh đường để cho “Lệnh Hồ Lang” giải rượu mát gan để “chàng” còn sung sức “tác chiến” với giọng thúc dục: “...Lè… lẹ “lên” đi Anh ...canh ba giờ tý rồi đó...” Ôi…lời “nàng” khích thúc khẩn khoản nửa như mời gọi, nửa như ra lệnh sao nó ướt đẫm “Phu Thê chi Đại Đạo” hà khước từ, bốn chân ghế bố nhà binh gẫy 3 còn 1 chênh vênh là “sập Hỉ”… !!!

    Trên đỉnh đồi là các đơn vị trú phòng, triền đồi phía Nam là Trại Gia Binh Sĩ Quan , duới chân đồi là Trại Gia Binh Hạ Sĩ Quan và Trại Gia Binh của Binh Sĩ ...trong đó Đơn Vị 2 Trinh Sát Nhẩy Dù của Tôi được cấp 50 căn, nhưng vẫn không đủ, Tôi xin thêm với lý do là vì hầu hết cả đơn vị Tôi bồng bế nhau từ Nha Trang về đây nên được cấp thêm 30 căn nữa… như vậy tổng cộng 80 “căn nhà” gia binh không điện, không nuớc, nền đất, mái trống trơn đêm đêm nhìn ngắm sao trời như Khổng Minh Gia Cát vọng tìm Thiên Văn chờ mai cầu cho Trời không mưa…!!! TS2ND đã chiếm hết gần 50% tổng số gia đình trong khu trại gia binh này. Đây là “bài toán” Tôi giải không nổi đáp số, có khi dỡ hơi muốn phát khùng vì đang kiêm Đại Đội Trưởng trách nhiệm tinh thần với hậu cứ gia đình Binh Sĩ còn ngàn lần nặng nề hơn trách nhiệm chỉ huy Đại Đội chiến đấu trên chiến trường, để chỉ vài năm sau nhân số 50% gia binh đó sẽ trở thành cô nhi quả phụ với những vành khăn tang trắng trong khu Trại Gia Binh nầy và chúng tôi ai còn, ai mất, ai thương phế binh với thương tật xe lăn và nạng gỗ dắt dìu vợ con nheo nhóc vật vã với đời sống khổ cực tương lai đen tối mịt mù…Ai có thể kề vai cõng gánh trách nhiệm nầy với Tôi ? Hồ Trường còn vơi đầy rót về tứ phương có người say tỉnh , có tri âm thù tạc…còn tôi tiếng “kêu” trong đêm đen của thời chiến tranh tang tóc phủ trùm đất nước, mới hôm qua còn là người nguyên vẹn hình hài, nay đã là ma hồn vật vờ linh lạc không biết nương tựa nơi đâu và về đâu, khói hương quyện không gian Tử Sĩ Đường, vợ con kêu gào vật vã…!
    Năm 1970 - 1973
    Cuối năm 69, đơn vị Tôi hòan tất các khóa học đặc biệt cho TSND và bắt đầu lâm trận mạc…Trên phần đất Kampuchia, đơn vị của Tôi đụng trận chiến đấu với Quân Chính Qui Bắc Việt, Tôi chỉ huy Binh Sĩ “làm ăn” khắm khá được “chút cháo” tịch thu được chiến lợi phẩm là 4 cây CKC và hai khẩu K54...mấy “Tây” cố vấn Mỹ thấy thèm rõ giải...! Tôi nói với họ:
    - … Tao không báo cáo , Tao dấu để làm quà tặng cho tụi Mày…”?
    - … Ok ...Ok…Great Sir ....You muốn cái gì ? We …tụi Tao 6 người ( 6 Sĩ Quan Mỹ Cố Vấn) sẽ lo cho…Ok…?
    - Tao chẳng cần gì cả ...! Tôi làm bộ gãi đầu như khó xử và than ôi “bi kịch”: “…tội nghiệp cho lính của Tao, nó chết sống khổ cực gì thì tụi “Mày” cũng biết rồi.... nhưng vợ con nó ở nhà còn khổ hơn...!” Tôi khơi đúng chỗ ngứa họ ...vì truyền thống dân Mỹ là Family First...thế là với cây súng 4 CKC và 2 khẩu K54 Tôi tặng họ và “done deal” họ sốt sắn chở tặng cho đơn vị Trại Gia Binh của Tôi 200 bao ximăng và hai paletts ván ép để tu bổ cho 80 căn gia binh lầy lội bùn sình...mà Tôi được “sính vai” gà mẹ cưu mang từ Nha Trang về đây...!!!
    Trãi qua nhiều chiến trận khốc liệt từ những cuộc hành quận vượt biên giới Kampuchia, Hạ Lào Lam Sơn 719 , Tây Nguyên với Mùa Hè Đỏ Lữa, nhẩy vào Quảng Trị trong tuyến lửa trùng trùng của đại quân Chính Qui Việt Cộng đã an bày trận địa chiến để tàn sát Quân Ta như đùa giởn với tử thần...Khu Gia Binh Của Tôi ngày càng thêm tiếng khóc, thêm màu khăn tang trắng đau buồn trộn lẫn nỗi lo âu ngày sau rồi biết sẽ ra sao...! Trại gia binh của ĐĐ2TSND nay gần như là làng Thương Phế Binh với Cô Nhi Quả Phụ của đơn vị....! Cứ mỗi 6 tháng Tôi được 4 ngày nghĩ phép, mất 2 ngày độ đường chỉ còn 2 ngày quấn quít với vợ con trong căn khu Gia Binh nghèo nàn ọp ẹp với Thiếu Tá Triệu Pháo Binh Nhẩy Dù, Thiếu Tá Minh Thầy Chùa , Long Mặt Mụn,…và những cô nhi, quả phụ TS2ND đến thăm Tôi mà trên đầu còn chit vành khăn tang trắng buồn lê thê…! Tôi phải hiểu ,Tôi phải hiểu và Tôi phải hiểu (.xin lặp lại 3 lần) là Tôi phải làm sao, làm được gì để thiết thực …? Nan giải vì ngoài khả năng của một Sĩ Quan Tác Chiến giới hạn Tôi không có điều kiện để giúp họ ! Không có lối thóat những cô nhi, quả phụ đành phải gạt lệ rời khỏi khu Gia Binh trở lại cố hương Nha Trang mà người Chồng, Cha đã được chôn cất yên nghĩ nơi Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà với Tượng Tiếc Thương an vị ! Tôi u buồn cãm thương với những điêu tàn thân phận cô nhi, quả phụ sẽ phải dắt dìu về đâu không một mái nhà che thân tang tóc hẫm hiu nói gì đến sinh nhai cho qua quảng đời đen tối…!

    Tôi trở ra lại với vùng hành quân chiến trận và miên mang vài đêm suy nghĩ ..Tôi đã đi đến một quyết định vô cùng táo bạo...táo bạo còn hơn vổ vai Pilot Trực Thăng Phi Đoàn 215 Thần Tượng: “...Down…Down…Xuống...Xuống...Xuống ngay chỗ đó cho Tôi ...”! Xuống rồi mới thấy mình ngu bỏ mẹ, đỗ quân ngay trên bãi phục kích, có phải chăng“Linh Tại Ngã” với mình là Thần Hộ Mạng của Tôi là Quan Vân Trường và “thần Beer” thân tình với “ôn” Lô Lọ Rượu (Trung Tá Nguyễn Lô Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 7 Nhẩy Dù) mà Việt Cộng đang trú phục ở dưới hầm thấy “Quan Vân Trường” hậu bối mặt mày đỏ gai cứ tưởng “Bác” từ “Giời” giáng xuống với “cờ đỏ cuối tháng” nên không khai hỏa tác xạ chứ chúng bình tỉnh mà bấm cò thì làm gì có bài nầy viết hầu độc giả với người thật, việc thật góp phần “Lịch Sử” ngàn người viết. Sau nhiều lần sinh họat Tứ Đại Công Khai theo sự huớng dẫn của Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị với sự Cố Vấn của Đại Tá Nguyễn Phẫm Bường Trưởng Phòng ThanhTra Sư Đoàn Nhẩy Dù, Thiếu Tá Trần Văn Trực Truởng Phòng An Ninh Quân Đội Sư Đoàn Nhẩy Dù…Tôi mạnh dạn quyết định:
    - Thứ Nhất: Tất cả Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan, Binh Sĩ độc thân sẽ nhường phần Quân Tiếp Vụ của mình cho Cô Nhi, Quả Phụ Trinh Sát 2 Nhẩy Dù.
    - Thứ Hai: Đơn Vị được hưởng 30 ngày thực phẩm vô thường (Lương khô do Quân Đội Mỹ cung cấp ) có nghĩa là ăn không phải trả tiền, tiền lương lãnh còn nguyên không sứt mẽ. Vậy từ nay để cùng chia sẽ ngọt bùi với những người bạn đồng đội bất hạnh đang là Thương Phế Binh còn lưu ngụ trong Trại Gia Binh TS2ND, Tôi quyết định tất cả Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan và Binh Sĩ TS2ND đang tại ngũ phải hy sinh 10 phần lương khô mỗi tháng cho Anh-Em Thương Phế Binh đồng đội ...có nghĩa là mọi quân nhân tại ngũ của TS2ND phải hy sinh 10 phần lương khô mỗi tháng của mình cho những đồng đội bất hạnh của TS2ND. Tôi thở phào nhẹ nhỏm như “Bao Thanh Thiên "vừa gõ cái mõ lệnh xuống bàn một cái cóp như đóng “Ấn” với triện son nhẹ tênh thân tâm !!! Và Đơn Vị vẫn vui vẻ tiếp tục những ngày đêm chinh chiến lan tràn rồi vẫn nạn tiếp nối thêm những giải khăn sô tang trắng che khuất nẽo tương lai mờ mịt trên những mái đầu son trẻ cô nhi, quả phụ, trên bàn thờ vài ba lần hương khói mờ ảo tấm ảnh chân dung Tử Sĩ tuổi đời chưa quá “Tam Thập Nhi Lập” với mắt nhìn tràn trề tin yêu cuộc đời và nụ cười hiền hoà bình dị hứa hẹn chuyện tương lai…Nhưng một tương lai buồn thãm trên đường về nghĩa trang với tiếng vỡ của xương thịt, và mãnh đạn xuyên suốt khơi nguồn dòng máu đỏ chảy thấm ướt nền đất nước Việt Nam Đất Tranh cô nghiệt nầy…và cũng như thế, những cán binh Bắc Việt đã ngã gục xuống trên khắp chiến trường lửa đạn miền Nam Việt Nam, họ cũng có thân nhân đau buồn, thương tiếc trước cảnh sinh ly tử biệt mà thân xác người “sinh Bắc tử Nam” đã vùi lấp dưới đám rợ hoang mọc đua vượt chen lẫn với loài côn trùng gậm nhấm qua bao mùa mưa dầm nắng dãi…mồ mã Tổ Tiên xương cốt ông bà, cha mẹ đã bao đời an táng bình yên, ruộng vườn, nương khoai luống cà, liếp cải dậu mồng tơi, giàn mướp xanh ngát trổ hoa vàng đong đưa trước gió…cũng bị bom đạn phủ chụp, cày xới đến tan hoang và điêu tàn…! Trong khi trên thế giới những dân chúng của những quốc gia “Đại Cường” là tác nhân của chiến tranh “tân kỳ nhưng man rợ” đang ung dung tự tại thọ hưỡng hạnh phúc, bình an như ước mơ của nhân loại là được sống trong thống nhất tự do và bình đẳng hoặc sung túc dư thừa điều kiện vất chất…!.
    Ngày Quân Lực 19/6/1973, Đơn Vị đang đóng quân ở Làng Cổ Bi Hiến Sĩ, dù có lệnh ngưng bắn. Nhưng Việt Cộng “nó” vẫn cà chớn bắn phá, quấy rối, lấn chiếm đất, cấm cờ giành dân… “Mầy” chọc Ông thì Ông cũng dập Mầy…Lại có lệnh triệt thoái về phía Nam sông Bồ, cầu An Lỗ “quê hương bún bò” của “Gia Đình Mê Linh” Khoá 18 Đà Lạt, rồi nhận được công điện Khẩn, Tôi phải giao đơn vị cho Đại Đội Phó rồi về trình diện Phòng Một TQT SDND ngày 15/6/ 1973 và trình diện Thiếu Tá Nhu (Khoá 20 Đà Lạt) Trưởng Phòng TQT/SDND: “Anh…chuẩn bị để ngày Lễ Quân Lực 19 Tháng 6 nầy ở đại lộ Trần Hưng Đạo…Tổng Thống sẽ gắn Đệ Nhất Đẳng Bảo Quốc Huân Chương cho Anh và đáng lẽ sau chương trình Ngày Quân Lực, Anh sẽ được đi Đài Loan . Nhưng Lê lợi (Tướng Lê Quang Lưỡng Tư Lệnh Nhẩy Dù) cần Anh và muốn đề cử Anh có mặt hành quân càng sớm càng tốt…Thôi cứ như vậy đi…Nhớ có mặt để hành quân ngày 22 tháng 6 năm 1973…”. Như vậy là sau khi gắn huy chương xong , Tôi chỉ có hai 2 ngày phép ngắn ngủi phù du sinh hoạt với bạn bè và gia đình vợ con…! Sau đêm Lễ Ngày Quân Lực 19-06-1973, Tôi ngất ngư con tàu đi …đến khoảng 10:00 giờ sáng ngày 20-6, vợ Tôi đánh thức: “ .... Anh gọi cho văn phòng ngay, Trung Úy Thông (Chỉ Huy Hậu Cứ) đang chờ… "! Tôi vội vàng tắm gội xong tàng tàng lên văn phòng hậu cứ nhận lệnh và suy tính và thầm nói : “… “Mẹ”… đang nghĩ phép được 2 ngày…! Chẳng có gì quan trọng hết ...Ở ngoài kia ngưng bắn rồi, VC mầy sợ tao, chứ tao “đéo” có sợ mầy…Chúng mầy chiếm đóng mạn Bắc, tao đóng quân ở mạn Nam, tuy cả hai cùng đóng quân ở một dòng sông quê hương ...Nhưng “chúng mầy” sẽ không dám thập thò lần xuống bờ sông để tắm giặt…Tao sẽ “ưu ái” gởi ra phanh M79 xuống dòng sông “hiền” để tiễn đưa bọn “sinh Bắc tử Nam” chúng mầy về chầu “Bác” nơi địa ngục môn “Mác Xít, Lê Nin Nít và Mao Sếnh Sáng” của chúng mầy…! Bên bờ Nam “Chúng Ông” Trinh Sát 2 Nhẩy Dù ung dung tự tại thả lựu đạn và C4 bắt cá làm tiệc dã chiến chơi với “ông già chống gậy”, quốc hồn quốc tuý tửu đế thù tạc quan binh vui vẻ đề huề, tràn trề hỷ lạc…!!! Tôi tuy có chút hơi men sảng khoái, nhưng cùng với đám “Thiên Thần Mũ Đỏ” buồn vui đời lính, dù xuống “xóm” tảo thanh từng “động hoa vàng” để “hành quân giải toả” tìm “Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân và hoặc :

    ”Tìm Em như thể tìm chim,
    Chim Em ở dưới Anh tìm ở trên “ !!!


    Cũng “Nhẩy Dù Cố Gắng” không quên lơi cảnh giác, nên “chú đồng chí” nào léng phéng “giỡn mặt” là hứng ngay những tràng đạn đủ loại của hoả lực nháng lửa Nhẩy Dù “tớ” đã bảo:

    “ Nam Quốc Nam Hà Thiên Đế Cư” mà …!!!

    Khi Tôi bước xuống xe Jeep trước cửa văn phòng, cảm giác hơi ngờ ngợ khi nhìn chiếc Peugoer 404 mới toanh, nước sơn bóng loáng của ai đang đậu trước sân ? Một người đàn Ông tuổi trung niên với trang phục sang trọng đang ngồi chờ sẵn trong văn phòng. Tôi lịch sự chào hỏi và sau vài câu chuyện xã giao, Ông Ta thẳng thắng vào vấn đề không một chút e ngại:
    - Tôi,… Thưa Đại Úy , Tôi là Nguyễn Tấn Đạt, Giám Đốc Công Ty Dệt Vimitex ở ngã ba An Sương...Tôi có đứa con trai là Nguyễn Tấn Thịnh vừa ra trường Đồng Đế và đã trình diện Đại Úy cách đây vài tuần ở sông Bồ....Huế...", Ông móc trong cạp táp một bao thơ dầy cộm để lên bàn và tế nhị nhè nhẹ đẩy đến trước mặt Tôi.... Tới đây thì Tôi hiểu Ông muốn gì ? Một thoáng suy nghĩ rồi Tôi hỏi Ông:
    - ... Bao nhiêu trong đó vậy ? Ông nhanh nhẩu trả lời:
    - Dạ một trăm ngàn…chỉ để biếu cho Đại Uý uống Café thôi…và nếu con trai Tôi được Đại Uý giúp đỡ… thì Tôi xin riêng tặng chiếc xe Honda đang trên đường từ hải cảng Nhật Bản đến …cháu sẽ mang đến đây cho Bà Nhà, không cần phiền phức xử dụng công xa…
    Tôi như gã buồn ngũ lại vớ được manh chiếu bèn hỏi lại:
    - Vậy tôi sẽ giúp được gì cho con trai Bác ?
    - Dạ…Nếu được xin Đại Uý thu xếp cho cháu nó công việc gì ở gần vợ chồng già chúng tôi là mãn nguyện và đội ơn Đại Uý vô cùng …!
    Mặt trận Quảng Trị đã kết thúc, hiệp định ngưng bắn đã ban hành,…Nhưng những quấy nhiểu do Việt Cộng chủ trương vẫn đang tiếp diễn hằng ngày ...Chúng tôi luôn ứng chiến và cảnh giác cao độ sẳn sàng đương đầu với những trận chiến mới chưa biết cường độ như thế nào...? Nhưng ngay trước mắt, tháng vừa qua, sau lệnh ngưng bắn hai tháng...Cộng quân đánh chiếm một đồn Địa Phương Quân ở Cổ Bi Hiền Sĩ ở phía tây bắc An Lỗ chừng hai cây số... TS2ND và TĐ3ND phải vượt sông Bồ chiếm lại Đồn này bằng Máu....! Ô hay, ngưng bắn mà Trại Gia Binh của Tôi lại bị thêm cả chục vành khăn tang trắng ! Tôi từ tốn đẩy bì thư trở lại trước mặt Ông Giám Đốc Công Ty Vimitex và nói:
    - Thưa Ông, Tôi có thể giúp Ông. Nhưng rất tiếc Tôi không thể nhận những thứ này...xương và máu của đồng đội Tôi không thể trả bằng những thứ này...! Nhưng cũng là một con người bình thường thấy cái lợi trước mắt mà không thèm muốn trong bối cảnh nhiểu nhương này thì chỉ có trong sách vở...hiện nay Tôi có hơn 10 thương phế binh đang sống cơ cực với vợ con họ ở trại gia binh dưới kia, đó là một trăn trở hằng đêm ngày cho chính bản thân Tôi...Nếu Ông Giám Đốc có thể giúp tôi tạo công ăn việc làm cho họ và thân nhân thì Tôi sẽ cố gắng giúp cho con trai của Ông tới đâu hay tới đó trong phạm vi của Tôi. Sau sự việc nầy vào ngày từ 21-22 tháng 6 Tôi ra lệnh cho Trung Úy CHHC làm ơn cho Tôi xin ít chút yên bình là đừng ai quấy nhiểu để Tôi được bình yên với những hạnh phúc tự do như thoáng qua ngắn ngủi !!!.
    Trở ra hành quân, Tôi đóng bờ Nam, Sư Đoàn 225 Bắc Việt chiếm đóng ở mạn Bắc của sông Bồ hay sông An Lỗ cách phía bắc thành phố Huế khỏang 16 cây số, mỗi ngày “chúng nó” cứ bắt loa vọng sang bên này rĩ rả: “… các bạn đã vi phạm lệnh ngưng bắn trầm trọng đấy nhé !”. Kệ mẹ nó, bên này “chúng Ông” cố tình chọc ghẹo cho chúng điên tiết, cả Trung Đội trần truồng của chúng Tôi nhẩy múa hát vang vang: "… cái nhà là nhà của Tao , ông cố ông cha tao lập ra ....”, rồi cuối cùng xuống câu vọng cổ hợp xướng “….cớ sao nghịch lỗ sang xâm chiếm mà tan nát cả sơn.....hà… hà… hà...."!!! Trong khi các Trung Đội khác chuẩn bị M72 và M79....thủ sẳn chờ cho có “đồng chí” nào nổi máu “sản hậu” xung tiết mon men xuống sông tức xâm phạm “lãnh hà” Việt Nam Cộng Hoà là “chúng Ông” nã đạn tiễn đưa “đồng chí” về chầu hà bá …và nếu chúng bắn qua sông để phục hận thì Pháo Binh Nhẩy Dù sẽ trả đủa bằng một trận pháo TOT và Trinh Sát 2 Nhẩy Dù sẳn sàng vượt sông “Dịch Thuỷ” để “tỷ thí” bằng súng đạn tân thời…Thiên Thần Mũ Đỏ vượt sông “Gianh” trong giây phút giao chiến rồi “đáo lại bỉ ngạn” cũng trong giây phút tích tắc thì thằng nào, ai chủ mưu vi phạm ngưng bắn đây…? Hậu sự để phái đoàn ICCS ba hay bốn bên gì đó giải quyết, còn cái chuyện đôi co phải trái ngay tại chỗ bắt cá bắt tôm hay tắm giặt này thì “mày” gọi viên chính ủy Sư Đoàn mày ra “noái chẹn” với thằng xạ thủ “em bửa chin” ( M79 ) của “tau”...!!!
    Về “hậu cứ”, Tôi nhận được thư của Ông Giám Đốc Vimitex Nguyễn Tấn Đạt:
    Kính Gởi Ông Đại Đội Trưởng Đại Đội 2 Trinh Sát Nhẩy Dù,
    Thưa Đại Uý, sau ngày gặp gở Đại Uý, Tôi trở về nhà có vài điều tâm sự với vợ Tôi và hôm sau Tôi có vài điều trình bày với Ban Quản Trị Công Ty Vimitex về việc Con Trai Nguyễn Tấn Thịnh của Tôi đang hành quân với đơn vị thuộc quyền chỉ huy của Đại Uý và mãi đến hôm nay Tôi vẫn thường theo dõi tin tức chiến sự và thư viết của con trai Tôi.
    Thưa Đại Uý, thật tình Vợ Chồng Tôi không thể sống được nếu mất nó Nguyễn Tấn Thịnh, Tôi đã đã năn nĩ HĐQT của Vimitex về việc Đại Uý yêu cầu Công Ty ưng thuận nhận những Quân Nhân Thương Phế Binh và thân nhân được làm việc dài hạn trong Công Ty Vimitex. Ban Quản Trị đồng ý thuận và chúng tôi đang chờ sự quyết định của Đại Uý. Chúc Đại Uý và Gia Quyến an khang hạnh phúc.
    Kính thư
    Nguyễn Tấn Đạt
    Cầm lá thư trong tay Tôi vui buồn lẫn lộn, vui vì đã giải quyết được một số công ăn, việc làm cho Anh Em thương phế binh trong đơn vị và cũng buồn ray rức vì Tôi đã phạm một lỗi lớn là đã lợi dụng một trong ngũ giới nhân luân Tình Phụ Tử, để ra giá trả treo cho mạng sống của một con người, cho dù sự đánh đổi vì mục đích tốt đẹp chăng nữa vẫn có chút gì ân hận và không nỡ!

    Kết thúc câu chuyện:
    Những ngày sau đó Tôi dốc sức xin Phòng Thể Dục Thể Thao SDND cho Nguyễn Tấn Thịnh được theo học khóa Taekwondo (Thái Cực Đạo) điều đó có nghĩa rằng Nguyễn Tấn Thịnh sẽ không phải đi hành quân tác chiến trong thời gian dài vì chương trình khoá học đào tạo võ sinh từ đai trắng vỡ lòng cho đến tốt nghiệp Huyền Đai Đệ Nhất Đẳng phải từ 2-3 năm, sau đó sẽ được bổ nhiệm thành Huấn Luyện Viên Võ Thuật cho Sư Đoàn Nhẩy Dù không phải đi tác chiến.
    Ông Nguyễn Tấn Đạt, Giám Đốc Công Ty Dệt VIMITEX cha của Nguyễn Tấn Thịnh đã giúp cho 5 thương phế binh TS2ND làm an ninh cho Công Ty này, đồng thời nhận 12 người quả phụ TS2ND làm công nhân chính thức của hảng dệt, mỗi sáng có xe bus của hảng đưa đón đi làm, trong đó có hai quả phụ Sĩ Quan: Thiếu Úy Thới , Thiếu Úy Oanh...trở thành những Manager xuất sắc nhất của Công Ty….cho đến ngày “tan hàng” mạnh ai nấy chạy… ! Ngày nay, qua bao biển dâu thay đổi của số kiếp và thân phận con người như chiếc lá giữa dòng trôi miên mang biết đâu bến bờ trôi nổi…khi ngồi hồi tưởng lại những hình ảnh của thời qua…! Ôi……đã có bao nhiêu vải khăn sô, vành tang trắng đã phủ lấp hình hài và cảnh ngộ bi ai của những gia đình đồng đội như thủ túc của mình ngày xưa dưới chân đồi Trại Gia Binh với vô vàng kỷ niệm, bên kia là ngọn đồi là Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà mà ngày nay thân xác họ bị quân thù móc lên dập xuống, dời đi chỗ này, chuyển đến chỗ kia nào ai còn biết để nhỏ nước mắt xót thương và thắp lên vài làn khói hương cho ấm hương linh hồn Tử Sĩ Báo Đền Nợ Nước…! Hôm nay xin ai đó đừng nhắc lại “Họ” với bằng những cân đai, áo mão phường tuồng Hoàng Triều với những chức tước vị Tam Công hay Tứ Trụ Triều Đình và với những cuốc xe Tứ Mã...không những làm cho Họ tủi hờn không siêu thoát mà còn làm cho thân nhân, gia đình của Họ trong đó có cả Tôi đau lòng con Quốc Quốc, chẳng thèm mõi miệng cái gia gia. Đáng Tiếc thay!.


    Mùa Thu Năm 2009
    Trương Văn Út (MũĐỏÚt BạchLan)
    Last edited by Phòng Trực; 09-01-2013, 02:52 PM.

  • #2
    Một Đời Binh Nghiệp Hai Màu Mũ

    Một Đời Binh Nghiệp Hai Màu Mũ

    Trương Văn Út (MũĐỏÚtBạchLan)

    Ta từ chinh chiến về ngang
    Súng, Balô làm bạn, nghĩa trang là nhà.


    Buổi xế chiều ngày 15 tháng 10 năm 1970 là một buổi chiều chia ly ngậm ngùi với những lời giả từ không thành lời... ! Bầu trời Nha Trang quang đảng, với sóng biển hiền hòa hết đợt này đến đợt khác tiếp tục đỗ xô vỗ vào bờ cát trắng chạy dài từ Biệt Điện đến Xóm Bóng, cơn gió viễn dương từ biển khơi thổi bay phất phới lá cờ Vàng Việt Nam Cộng Hoà trước sân trại Hải Quân Tây Kết trong nền trời hãy còn xanh lơ, mặc cho ráng chiều xen lẫn chút ánh tà huy hứa hẹn lại thêm một hoàng hôn đẹp làm sao miền thuỳ dương cát trắng…! Phía sau là trại Hoàng Diệu, Bộ Chỉ Huy Tiểu Đòan 81 Biệt Cách Nhẩy Dù- Lực Lượng Đặc Biệt là một trong những đơn vị cảm tử, thiện chiến tinh nhuệ hàng đầu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà.
    Theo lệnh thuyên chuyển đơn vị, Chiếc Hải Quân Dương Vận Hạm 505 (thường gọi là tàu há mồm) rúc lên ba hồi còi rồi tách bến lùi dần ra biển khơi, chở mang theo Đại Đội 5 Tiểu Đoàn 81 Biệt Cách Dù (ĐĐ5/TĐ81BCD) và Đại Đội 6 Tiểu Đoàn 81 Biệt Cách Dù (ĐĐ6/TĐ81BCD) cùng với toàn bộ thân nhân, gia đình binh sĩ rời Nha Trang xuôi về Nam. Cuộc giã từ không hẹn ngày gặp lại xiết bao nỗi buồn, trên bãi biển vẫn còn lố nhố người quen, lạ ngóng trông theo con tàu khuất dần về hướng chân trời, trên đường Duy Tân vẫn còn một dọc dãi quân xa jeep, dodge , gmc và không biết vẫn có bao nhiêu bàn tay hãy còn lưu luyến ve vẩy tiễn đưa…! Thôi…”thế là thôi, là thế đó” …

    Giã biệt người mai tôi về biển rộng
    Con ốc sầu chở gió cát lang thang …!
    Trong hồn tôi còn chút gì rung động
    Một lần thôi gom hết tạ ơn đời…


    Và không phải chỉ một lần thôi…! Tôi muốn thầm nhắn gởi nhiều hơn nữa để tạ ơn và giã từ Nha Trang thành phố miền duyên hải với quán cơm bình dân Chợ Đầm, Bar số 1 2 3 4 5 , phở Chút , phở gà Số 1, quán cơm Thanh Phong , nhà hàng Nautique, Hotel NT, café Thu , quán rượu bar Mỹ , Tháp Bà Hòn Chồng Cầu Đá…. và những lưu tình với bao người thân thương, quí mến …! Xin vẫy tay tạm biệt Thiếu Tá Nguyễn Văn Lân (K/17ĐL) Tiểu Đoàn Phó, người đã có công lót những viên gạch đầu đời binh nghiệp cho Tôi, Đại Úy Bùi Ngọc Bích (K11/TĐ) Chỉ Huy Hậu Cứ, người đã tận tình giúp đở chăm sóc cho vợ con Tôi và gia đình binh sĩ trong khi chúng tôi đang hành quân.. . Xin vẫy tay tạm biệt với tất cả quân nhân của Tiểu Đoàn 81BCD, những người còn ở lại đang đứng trên bờ biển cát trắng Nha Trang mang vô vàng ân tình, kỷ niệm quảng đời chinh chiến… Xin giả từ, tạm biệt Nha Trang và “Huynh Đệ Chi Binh” vì sau này chúng tôi còn gặp lại nhau trên những chiến trận khốc liệt nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam thời cận đại như: An Lộc, Kontum, Quảng Trị, Thường Đức … mà những nhà biên soạn Quân Sử Thế Giới cũng phải hao tốn công sức tu chỉnh, so sánh và xếp hạng cuộc Chiến Tranh Quốc- Cộng Việt Nam là: “Cuộc chiến khốc liệt và dài nhất trong Lịch Sử Thế Giới cận đại”…!...và chỉ mới buổi sáng hôm nay, trên sân cờ Tiểu Đoàn, khi Tôi (ĐĐT/ĐĐ5) và Đại Úy Nguyễn Chí Thanh (K12TĐ/ ĐĐT/ĐĐ6) trao trả Hiệu Kỳ đơn vị cho Thiếu Tá Trần Phương Quế ( K10ĐL/TĐT ), Tôi thoáng thấy vẻ mặt Ông đăm chiêu và nét buồn vương ánh mắt phảng phất u ẩn nỗi niềm của bậc phụ huynh đang phải cảnh từ ly, chia tay như sắp mất đi hai “đứa con” trong sáu “thằng con” mà Ông đã thương mến nuôi dưỡng, dạy dỗ, huấn luyện với tất cả tâm huyết trộn lẫn mồ hôi, nước mắt của chính bản thân mình… để rồi chúng lao vào cuộc chiến bắn giết, cố giành phần chiến thắng trên những mặt trận khốc liệt mà bởi trí tài được kham khổ, tôi luyện tinh nhuệ… ngõ hầu tránh được tối đa sự tổn thất tử vong của binh sĩ một cánh đáng tiếc…! Vì máu của người Chiến Sĩ trên chiến trường không phải bị hy sinh phí phạm do bởi sự khiếm khuyết tài năng của những “Đại Bàng, Mặt Trời” khạc ra lửa, mữa ra khói …lãnh đạo và chỉ huy … Ông trao lại hai Hiệu Kỳ cho Thiếu Tướng Tư Lệnh Nguyễn Văn Phú trong khi Ban Quân Nhạc Bộ Tư Lệnh trổi lên khúc nhạc tạm biệt và tất cả đơn vị trên sân cờ như rơi vào trạng thái tâm tư lắng đọng nghẹn ngào, nỗi buồn như bâng khuâng lảng đãng trên hàng cây phất thơ gió thổi, người …người yên lặng không một ai cất nên lời và ôi:

    Đẹp làm sao trong giây phút phân kỳ
    Trong ánh mắt đã say màu quên lãng…!


    Ô…”cảnh biệt ly sao buồn vậy” như Kiếm Sĩ Samurai Nhật Bản cổ xưa đứng yên trên bậc thềm rêu xanh của ngôi Kim Các Tự trong buổi chiều tà, tịch nhiên tâm chìm vào cõi hư không, asãrakatthena là anatta lặng nghe tiếng chày kình vọng chuông thời công phu buổi chiều rơi rớt lá thu phong và vạt nắng yếu khuất dần sau đỉnh núi …! Trên con “tàu há mồm” chất chứa gần 800 nhân mạng gồm: Sĩ Quan, Hạ sĩ Quan, Binh Sĩ và thân nhân gia đình của 2 Đại Đội 5 và 6 Tiểu Đoàn 81 Biệt Cách Dù trên thuỷ lộ xuôi Nam…
    Như thường lệ hằng năm cứ vào khoảng tháng 11, các phái đoàn Quân Binh Chủng của QLVNCH đến truờng Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt (VBQGĐL) để thuyết trình về cơ cấu tổ chức, cơ cấu nhân sự, phương tiện và kỹ thuật hành quân tác chiến cho các Sinh Viên Sĩ Quan sắp sữa tốt nghiệp. Tôi có tâm trạng cũng tương tự như các bạn cùng khoá tuy đang ngồi trong Hội Trường mà đầu óc cứ suy nghĩ vẫn vơ… và “hoạch định” chọn lựa phương hướng, binh chủng để phục vụ tương lai:
    - Nếu muốn tiến thân “Trong lang miếu ra tài lương đống " thì chọn: Công Binh, Quân Nhu, Quân Cảnh, Quân cụ...
    - Nếu muốn tiến thân “ Biên thùy rạch mũi can tương " thì chọn: Nhẩy Dù, Thuỷ Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân, Lực Lượng Đặc Biệt, Biệt Cách Dù, và các Sư Đoàn Bộ Binh Tinh Nhuệ…
    - Nếu muốn "Hối tàng nơi bồng tất" thì chọn: An Ninh Quân Đội , Đơn Vị 101, Cảnh Sát Đặc Biệt, Biệt Phái Ngoại Ngạch...
    - Nếu muốn “Viễn Du Hải Hành” ra khơi biết mặt trùng dương thì chọn Hải Quân và nếu muốn “Bảo Quốc Trấn Không” với những “chuyến bay đêm” thì chọn Quân Chủng Không Quân… và quả thật có quá nhiều “cái” muốn thoả chí, thoả tình của bầy “Lý Ngư vượt Vũ Môn” trông chờ:

    “Trống trường thành lung lay bóng nguyệt
    Khói cam tuyền mờ mịt thức mây…”
    (Chinh Phụ Ngâm-Đoàn Thị Điểm)


    Những Sinh Viên Sĩ Quan từ khi nhập trường cho đến khi tốt nghiệp đều “Ôm” trong lòng một hay nhiều mơ ước lý tưởng để được phục vụ, chiến đấu, tiến thân trên đường “Binh Nghiệp” lành ít, dữ nhiều…Việt Nam nơi chốn quê hương không có một ngày bình yên khói lửa, bom đạn ngừng cày sới nhà cửa, ruộng vườn tan hoang và thân người ngã gục vùi nông sâu dưói lớp rể, lá cây rừng ẩm ướt, rã mục hoặc được chôn cất tử tế đàng hoàng với mớ vàng hương leo lét toả khói hương tống tiễn linh hồn tử sĩ buổi chiều mùa đông rét mướt lê thê mưa bụi lất phất bay ở Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà…! Sao có nhiều cái" Muốn " quá vậy ? Một SVSQĐL khi nhập trường cho đến khi tốt nghiệp đều " Ôm " một giấc mộng như nhau :

    " Làm sao bách thế lưu phương ,
    Trước là Sĩ sau là Khanh Tướng "


    Do vậy nên khi tốt nghiệp đa số SVSQĐL có cũng cùng một quan niệm giống nhau là: "Hoặc xanh cỏ, hoặc đỏ ngực " một chọn lựa Sinh-Tử như “định mệnh an bài” không thể tránh khỏi và không có ai “chiêu an” để thoát cảnh chẳng xanh cỏ mà cũng chẳng đỏ ngực, chỉ có chiến trường “điểm danh” giờ phút của tháng ngày đen tối nào đó không xa mà rất gần bổng trở thành phế binh đui mù, què cụt…báo cô cho gia đình,vợ con và thân nhân kéo lê lết một đời tàn tật, lây lất trên vĩa hè đường phố hay trong những mái gia đình như ổ chuột ẩn chìm trong xóm lao động nghèo khổ…! Từ sau năm 1954 toàn thể Quân Dân miền Nam phải dốc toàn lực chiến đấu để Bảo Quốc – An Dân và Quân Đội có ảnh hưởng đến sinh hoạt dân sinh rất đa phần nhà…nhà ai cũng có người ở trong quân ngũ, ra ngõ là thấy gặp Lính và những phương tiện của giới quân nhân đang luân lưu trong dòng sống hiện tiền…Vậy mà đã có mấy ai tiên liệu nghĩ được là: Cơn đại họa tai ương của Mệnh Nước - Vận Nhà đổ xập xuống như cơn thịnh nộ sóng thần, bão lũ giáng xuống toàn thể miền Nam làm cho cả tập thể Quân Nhân như chúng tôi phút chốc phải vất súng đạn, cởi bỏ quân phục cùng nhau lũ lượt rủ nhau vào tù hoặc trốn tránh quân thù để sống những tháng năm dài bất tận thiên thu trong nỗi uất nghẹn của người bại trận…và cũng chẳng có ai cao kiến nghĩ rằng: Bổng một buổi sáng, chiều ngày nào đó bản thân đơn độc hoặc với gia đình hay cả dòng người thôn xóm, làng mạc, thị dân thành phố lũ lượt tuá chạy tất tả để chen chân lên phi cơ, tàu thuyền hay đường bộ…bỏ lại ông bà, cha mẹ, vợ con và người thân để vượt thoát ra khỏi nước làm người tỵ nạn trên xứ người rồi bắt đầu gây dựng lại đời sống mới để không hổ thẹn làm tha nhân cầu thực. .
    Vào cuối tháng 11 năm 1967, Phái đoàn LLĐB đến thuyết trình: Cơ cấu tổ chức và nhân sự… sao mà quá nhiêu khê không giống như ND , BĐQ , TQLC , SĐBB ….cái gì đâu là A Team,, B Team, C Team, CIDG, Mike Force, Delta, Nha Kỹ Thuật 81BCD...xem một đoạn phim chiếu lại nào là anh hùng Yđê, Ystiêng, Ysàriêng, Thạch Khương, Thạch Phen… gì đâu xa lạ quá …!!! Nói thì nói vậy, chứ Tôi đã bị “mê hoặc” bởi “cái” binh chủng tinh nhuệ, thiện chiến, xuất chúng và cảm tử xem nhẹ mạng sống như Kinh Kha vượt qua bờ sông Dịch để hành thích Tần vương trong Lịch Sử “Ba Tàu” xa xưa. Chúng tôi đây đương thời “trai thế hệ” học giỏi, đẹp trai hơn “Tuấn chàng trai nước Việt” bỏ Cour de dance, Vũ Trường Ca Nhạc, Cinéma, Café Pagoda, Brodard, Hầm Gió, Pole North…và những cuộc vui ồn ào, tưng bừng, náo nhiệt kín hở trong thành phố Saigon xô bồ, xa hoa bình yên…và chỉ cách 20 Km đường chim bay vùng ngoại ô ven đô, đêm…đêm ánh hoả châu treo lơ lững, soi sáng chiến trường cùng tiếng bom nổ của pháo đài bay chiến lược B52 trải thãm và tiếng đại bác bắn yểm trợ của quân ta từ xa vang dội về thành phố, hằng đêm và hằng đêm như sinh hoạt thường nhiên đến vô tình…! Chúng tôi ý thức rồi “xếp bút nghiên” lên đường nhập ngũ, “Cư An-Tư Nguy” chiến đấu bảo vệ dân chúng được bình an sinh sống và sự toàn vẹn bờ cõi nước nhà …chắc chắn chính danh và lý tưởng tốt đẹp hơn tráng sĩ Tàu chỉ vì ân tình, nghĩa luỵ với thái tử Đan nước Yên có dự mưu và thói tính cường bạo, máu lạnh ai nỡ chặc đi đôi bàn tay của ca nhi mỹ nữ hầu rượu qua đêm mà làm quà trao tặng “tráng sĩ” Kinh Kha để tự hào với hậu thế là thể hiện thói “Văn Hoá Trung Hoa”…?!!! Khi còn ở Trung Học, tôi nói dối với Ba tôi xin cho tiền để mua sách toán đề thi của Giáo Sư Nguyễn Văn Phú và Đàm Quang Hưng, thực ra để có tiền đi xem ba xuất Ciné cuốn phim "Les canon des Navaron". Trong phim diễn tả lại cuộc xâm nhập của một toán Ranger của Liên Đoàn II LLĐB Mỹ (tài tử Gregrory Peck đóng vai Thiếu Tá trưởng toán) nhằm phá hủy những cỗ đại pháo tối tân của quân Đức Quốc Xã (Gun Battery) tại Point Du Hoc chỉ cách nơi đổ bộ trên bờ biển Normandie một cây số bên trong đất liền… Nếu nhiệm vụ của toán này thất bại thì không có một chiếc tàu đổ bộ nào của quân đội Đồng Minh cặp bãi Omaha và Utah Beach.
    Trung tuần tháng 12 năm 1967, hai tuần lễ trước ngày mãn khoá của chúng tôi, một phái đoàn thứ hai của BTL/LLĐB đến trường để chọn lựa những Tân Thiếu Úy cho đơn vị, chỉ có 27 SVSQ/K22ĐL được tham dự và tôi được Đại Uý Bác Sĩ Trần Văn Út làm trưởng phái đoàn phỏng vấn:
    - Chào Bác Sĩ
    - Ngồi xuống đi. Tên Anh là Trương Văn Út hả ?
    - Dạ vâng.
    - Tại sao Anh thích LLĐB ?
    - Dạ, Tôi không biết …!
    - Tại sao cha Anh họ Trần mà Anh là Họ Trương ?
    - Dạ, Tôi cũng không biết nữa…!
    Những câu hỏi thật “đồng ấu Giáo Khoa Thư” lảng xẹt…đụng chạm đến ngạo khí “Lương Sơn hảo hớn” của Tôi, khiến Tôi gần như nuốn nỗi dóa, định đứng dậy chào rồi bước đi ra. Nhưng:
    "Bác Sĩ nhìn Em Bác Sĩ cười,
    Em nhìn Bác Sĩ mộng hoa tươi… !!!
    Sau này màu mũ xanh như lá
    Bốn phương tám hướng mặc tung hoành”…!!!
    Sau cùng của buổi tuyển chọn “anh hùng”, Ông Thượng Sĩ phòng TQT xướng danh tân Sĩ Quan được trúng tuyển:
    “ Kính thưa quí vị,
    Những ai có tên trong danh sách này xin ngồi lại, không có tên xin trở về doanh trại: …
    Cám Ơn.
    Chỉ có 8 người còn được ngồi lại trong phòng, trong số đó có tên Tôi, thật ra danh sách này đã có từ BTL truớc khi phái đoàn tuyển chọn (select team) đến trường. Người Anh cột chèo Chú Bác ruột của Tôi là Bác Sĩ Ngô Vi Dương đang kiêm Y Sĩ Truởng BTL/LLĐB. Như thế là 8 Tân Thiếu Úy K22 VBDL trình diện Phòng Tổng Quản Trị BTL/LLĐB ở Nha Trang sau 15 ngày nghĩ phép gồm có những bằng hữu như:

    - Trần Văn Ni vác hành trang trình diện BTL/SĐ1BB vì an ninh lý lịch.
    - Xường, Chân, Xinh... trình diện BCH C4.
    - Út, Chẩn, Tiển... trình diện BCH/TĐ81BCD.
    - Đặng Văn Lợi... trình diện BCH/ TĐMikeForce

    Năm 1968 tại Nha Trang, trong doanh trại của đơn vị LLĐB/81BCD chỉ còn lại Tôi, Chẩn, Tiễn và Lợi hưởng được những ngày cuối năm của Tết Mậu Thân với tiếng pháo giao thừa xen lẫn tiếng súng AK, B40, Beta…của VC nổ dòn tấn công, Tôi bị thương phải nằm bệnh viện BTL hết 3 ngày đêm. Đơn vị của Chấn và Tiễn được bốc thả xuống Khe Xanh rồi những Anh Hùng LLĐB/81BCD trẻ tuổi đương độ “khí phách ngang trời” thây phơi chiến địa, họ không bao giờ trở về với bông mai vàng vẫn còn óng ánh trên vai áo trận giặt ủi hồ thẳng nếp, pháo đã thôi nổ chỉ còn những tiếng súng giao tranh nổ xé trời ngày đêm và tiếng cánh quạt trực thăng Gunship chém gió phành phạch với hoả lực không kích khủng khiếp bằng những tràng đại liên nổ khan xen lẫn âm vang tiếng nổ dậy trời của hoả tiễn có tầm tàn sát, công phá kinh hoàng…thân thể của những cán binh VC đã bấy lâu chui rúc, lẫn trốn sâu trong xóm làng, rừng rậm, gầy còm thiếu dinh dưỡng với làn da tái xanh nhợt nhạt…được bọn “đồ tể lãnh đạo”giảo quyệt, trí trá tuyên truyền nhồi sọ khích động tinh thần yêu nước quân “Giải Phóng Miền Nam” cho xác người cán binh hữu tình, hữu hạn phải hứng chịu bom đạn nổ tan tành như xác pháo rờn rợn đất trời…có cha mẹ, vợ con, thân nhân nào của người cán binh VC lại có thể cầm lòng yên bình chấp nhận… trước hậu quả bi thãm mà cán binh VC phải trân mình hứng chịu được không…? Chắc chắn rồi sẽ có ngày xoay lại vòng nạn oan khiên: Tất cả bọn “Cung Đình Đỏ” phải bị lôi ra pháp trường xử tử. Quân “giải phóng” đã được bom đạn thật sự giải phóng và tống tiễn về với thần chết và cảnh giới u minh…để lại thành phố có nhiều nơi đỗ nát ghim đầy dấu đạn và vết máu vương vải lấm lem, quanh đây có nhiều vành khăn tang trắng chit vội lên những mái đầu xanh mà chỉ mới vài tuần lễ trước đây còn rộn rã tiếng cười…nhà ai vẫn còn ít nhiều hoa mai vàng nở muộn trên cành lung linh trước gió Xuân hãy còn ngay ngáy mùi máu tươi và thuốc súng pha lẫn trong ánh nắng ấm áp của Tết Mậu Thân tang tóc…!!! Có “cái” đơn vị nào kỳ cục bằng đơn vị này ?... Thiếu Úy "sữa" vừa mới ra trường, trình diện xong thì nhận lệnh đi gát hòm cho vị ĐĐT của mình là Đại Úy Nghi ĐĐT/ĐĐ3 vừa mới tử trận ở Kontum thời điểm 2 tuần lễ trước Tết và bây giờ lại một lần nữa phải đi gát hòm cho Cố Trung Tá Lê Như Tú TĐT/TĐ91BCD vừa ngã gục trong đêm giao thừa Tết Mậu Thân trên phố Độc Lập, Nha Trang !...với những giòng nước mắt tưởng nhớ hai người Bạn cùng Khoá mà chỉ mới cách đây một tuần hãy còn ngồi “Tiếu Ngạo Giang Hồ” khẩu khí ồn ào, vung vít tưng bừng dzô…dzô…nhậu beer tới bến với những rỗ ốc bu sống hấp lá gừng chấm nước mắm cay như xé lưỡi ở quán số 5 ven bờ biển… Số mệnh an bài nghiệt ngã chưa chịu dừng lại ở đây…hai tháng sau, ở mặt trận Cây Quéo, Cây Thị trong đợt “Tổng Công Kích Đợt II”, Tôi ôm xác bạn Huỳnh Kim Tiễn bị lãnh trái pháo không giật làm văng mất đầu, chúng tôi lục lạo tìm kiếm mãi mà không thấy thủ cấp của Tiễn đâu cả…! Tôi vẫn luôn nhớ và hình dung gương mặt hiền hậu, hài hòa, thân thiện và trí thông minh của người Bạn Thân cùng Khoá còn lại với Tôi đã đền xong nợ nước.
    Thời gian trôi qua như một giấc mơ...Sau hơn 2 năm Tôi phục vụ ở TĐ91BCD (Sau này đổi thành TĐ81BCD vì “Mặt Trời, Đại Bàng” luận bỡi số 9+1=10 là số “bù” xú quẩy, xui xẻo nên Anh Hùng trong đơn vị bị chết như rạ ! Nay cải số 81 là 9 là thành số Tốt)…Từ đó đến về sau đơn vị đã trãi qua đến 6 vị ĐĐT lẫm liệt chỉ huy tuần tự: Trần Hoạt Thành, Nguyễn Đăng Lâu, Huỳnh Văn Thanh, Ngô Tùng Lam, Nguyễn Văn Lân, Phạm Châu Tài và là đơn vị tinh nhuệ, thiện chiến hàng đầu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đã gieo rắc kinh hoàng cho Bắc Quân trên khắp mặt trận tàn khốc suốt 21 năm cuộc chiến Quốc-Cộng phân tranh…Một binh chủng như thế, một đơn vị như thế có xứng đáng để người đời ca ngợi: "Kinh Luân Khởi Tâm Thượng, Binh Giáp Tàng Hung Trung ".....?!!!
    Ngồi trên mũi boong tầu dương vận hạm 505 đang xuôi Nam, điểm đến là Quân Cảng Bạch Đằng. Nào ai biết ngày mai rồi sẽ ra sao khi đời quân nhân chỉ biết tuân phục, chấp hành lệnh lạc từ bên trên chỉ xuống …? Bên cạnh Tôi là Đại Uý Nguyễn Chí Thanh (ĐĐT/ ĐĐ6/TĐ81BCND) , Trung Úy Hồng Quang Bảo (ĐĐP), Trung Úy Nguyễn Văn Thinh (ĐĐP) của Tôi, bên dưới lòng tàu lố nhố nam phụ lão ấu chen chút nhau với hành lý là những thùng rương gỗ tạp, valy, túi sách… lẫn lộn với balô nón sắt súng đạn cùng hai chiếc xe jeep của hai Đại Đội… Trong tâm trí mỗi người chắc hẳn có nhiều suy tư riêng tự hỏi sẽ sinh hoạt như thế nào trong khu trại gia binh mới luôn là nơi đất lạ quê người… ? Những quân nhân và gia đình sinh quán ở Nha Trang phần đông đều mang nỗi buồn mênh mang xa xứ ! Những người gốc Sài Gòn, Gia Định, miền Đông, miền Tây mừng rở vì suy tính sẽ có dịp về thăm cận kề gia đình người thân yêu…!!! Không biết trong số hàng quan, quân nầy có ai bi quan tự hỏi:” Biết đâu ngày mai hay ngày mốt còn nhìn thấy đuợc chiếc mũ Green Beret đội lệch ngạo nghễ trên mái đầu ngẩng cao nầy không, một binh chủng đi đông về ít, đi ít về không...hoặc đi luôn không thèm về nữa…"?! Ngày xưa, trước khi Kinh Kha sang sông Dịch được Thái Tử Đan khoản đải yến tiệc linh đình với cung tần mỹ nữ… Ngày nay chúng tôi được “bốc” rồi “thả” vội vàng vào vùng tử địa để tử chiến với quân thù mà bóng dáng tử thần cứ lỡn vởn chực chờ gặt lấy linh hồn phất phơ bay theo tiếng súng cường tập của Bắc Quân, “Kinh Kha Biệt Cách Dù” sang bờ Dịch thuỷ không kèn không trống, chỉ có chút ít thời gian ôm vợ, con hôn từ già với câu hỏi đầy lo lắng: " Em và con có còn đủ gạo ăn tháng này hay không…”?!...rồi với balô, súng đạn lên đường hành quân đột kích và nếu “anh” trở về bằng trực thăng chở xác chờ ban Chung Sự tẩn liệm với "hòm gỗ cài hoa” phủ màu cờ lặng lẽ, có nhiều tiếng khóc trên đường ra nghĩa trang…! Tôi quay sang hỏi Đại Uý Thanh:
    - Anh đang nghĩ gì vậy ?
    Trước khi về TĐ81BCD, Anh là Trung Úy Tóan Trưởng Biệt Hải, xâm nhập bờ biển Hải Phòng năm 1966 bằng tàu đánh cá cải trang của Hải Quân QLVNCH, toán bị "bể", được cứu thoát với cánh tay phải của Anh lặt lìa, cũng may nhờ Quân Y của Đệ Thất Hạm Đội Mỹ cứu chữa tuy giữ được nguyên vẹn cánh tay, nhưng thương tật quá nặng nên không hoạt đông được bình thường ! . Vẫn cái giọng nói, cười khàn đục của Anh và cánh tay thương tật vung vẫy:
    - Mẹ…! Từ Biệt Hải… tự ái không thèm giải ngũ, về Biệt Cách Dù bây giờ lại về Trinh Sát Dù …Thôi cũng được ! Chứ đưa Tao về “Biệt Ly” là Tao “Biệt Kinh Kỳ” ngay…!!!
    Trung Úy Thinh hỏi :
    - “Biệt Ly” là cái gì vậy Đại Úy…?
    - Là ĐĐT Chung Sự Nghĩa Trang Biên Hòa chứ còn con mẹ gì nữa…!!!
    Thanh đưa tay móc bi đông, mở nắp hớp vài hớp khề khà …rồi chuyển sang cho Tôi, Tôi cũng làm một hớp và trời đất ơi “ Ông Già Đi Bộ " (Jonhny Walker) chính hiệu “Huê kỳ” … Tôi chuyền giao tiếp cho Hồng Quang Bảo, rồi cho Thinh… Bảo tư lự chẳng nói năng gì, nhìn bâng quơ vào khoảng trời xanh vô tận… Chắc Anh đang nghĩ đến giòng họ nhà Hồng Quang của Anh đang ở Đài Loan cùng với gia đình nhà họ Tống gốc “Thziên Trziều” Bắc Phương “dzĩ đại” chăng…?!!!. Thinh nắm lấy tay Tôi xiết chặc ân tình:
    - Trung Úy, có Tôi bên cạnh đây…!
    Rồi thời gian cũng qua mau như là một giấc mơ...
    - ĐĐ5/81BCD...cải danh là ĐĐ2TSND
    - ĐĐ6/81BCD...cải danh là ĐĐ3TSND
    Mang cái tên mới là Trinh Sát Nhẩy Dù. Nhưng gốc nguyên thuỷ xương thịt máu huyết bản thân là Đơn Vị 81Biệt Cách Dù.
    Chiến Dịch Hành Quân Lam Sơn 719 Hạ Lào (1971): Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà vượt biên giới tấn công vào căn cứ hậu cần của Việt Cộng đồn trú tại quốc gia Lào: Đại Úy Nguyễn Chí Thanh tử trận, xác không lấy được đã làm thêm xanh tươi cho cây rừng chằng chịt ở nơi ma thiêng nước độc xa lạ nào đó bên Lào, không phải quê cha đất tổ của Anh…! Anh không bị thuyên chuyển về “Biệt Ly” mà là “Biệt Xứ”, Biệt Hải, Biệt Cách hay Biệt gì…gì…đi nữa…thì nay cũng lần chia tay “Vĩnh Biệt” Anh rồi…!...và tiếp nối Hồng Quang Bảo cũng theo Anh, xác được đồng đội gói ghém nhiều lần trong cái poncho rách tả tơi, mà vợ con, gia đình, thân nhân ruột thịt của Anh không nhìn mặt được lần cuối…! Có lẽ giờ đây thân xác các Anh đã rã mục hòa lẫn vào thớ đất phì nhiêu màu mở của núi đồi phía Tây Khe Sanh, Lao Bảo, trên dãy Trường Sơn trùng điệp mầu tím thẫm chạy dài vùng Hạ Lào khi hoàng hôn buông phủ…!
    Mùa Hè Đỏ Lữa (1972 ) với Mặt trận Tây Nguyên, An Lộc và cứ điểm đồi Charlie… LĐ 81 BCD triệt xuất vùng Tam Biên, ĐĐ2TSND được điều động thả xuống để đương đầu với Sư Đoàn Thép 320 của Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) cùng với đại pháo 130 ly, hỏa tiễn 122, Tant T54…hơn 50 000 quân CSBV vây kín trùng trùng … Nguyễn Văn Thinh nay làm ĐĐT/ ĐĐ111 của TĐ11ND (Song Kiếm Trấn Ải). Khi cộng quân tràn ngập đồi Charlie, Thinh như một “Rambo, Dũng Sĩ Thời Đại, Triệu Tử Long, Trần Bình Trọng” tân thời đơn độc với giầy Saut, quần trận, áo thung ba lỗ, đầu chít khăn viễn thám, ngực quấn đầy dây đạn, hai tay ôm khẩu đại lien M60 đứng sừng sửng trên giao thông hào, miệng không ngớt quát tháo:"ĐM chúng mày lên đây...lên đây ..." tay bóp cò súng bắn rãi đạn như mưa, quạt sang trái, sang phải vào lũ Bắc Quân xiết chặc vòng vây…và rồi Thinh đỗ gục xuống thân xác bị đâm chém hằng trăm nhát mã tấu thù hận và ghim đầy lổ đạn của lũ quỉ dữ trầm luân khát máu tươi từ thời đại sơ khai hỗn độn…! Sau chiến trận Tôi có dịp trở lại Nha Trang đến thăm Mẹ của Thinh, lặng nhìn khung ảnh của Thinh an vị trên bàn thờ ám khói hương và làm sao để trả lời những vấn chuyện về cái chết của Thinh cho người mẹ già thân thể gầy còm, mòn mõi với thời gian chịu đựng cơn đau thấu tâm can vì mất đứa con trai yêu thương …được suông sẽ câu chuyện buồn tang tóc…! Tôi chỉ biết nghẹn ngào trả lời:
    - Thinh vẫn còn ở lại Charlie với Đại Tá Nguyễn Đình Bảo…!
    Với Trận Hạ Lào Lam Sơn 719,… ĐĐ3TSND tức ĐĐ6/81BCD kể như bị tử thần xóa sổ binh nghiệp !
    “Kontum Kiêu Hùng, Quảng Trị Vùng Lên”, ...ĐĐ2TSND tức ĐĐ5/81BCD xa luân chiến, thân xác còn đó…Nhưng thịt xương rã rời, máu huyết tan loãng, mãnh hổ thấm thương thân đầy vết đạn thù và vẫn phải bị “bốc” đi “thả” xuống những mặt trận khốc liệt, hung hiểm…đường đi vào cõi chết để tìm sống những “Kinh Kha thời đại” Chiến Sĩ Biệt Cách Dù…! Tôi không thể nhớ hết và làm sao để có thể nhớ hết được khi thời gian quá ngắn, mà trang Chiến Sử thì quá dài… Đã có bao nhiêu đồng đội thân thương của mình cùng chung một chuyến “tàu há mồm” xuôi Nam, giả biệt trại Hoàng Diệu...đã nằm xuống trên khắp mặt chiến địa mà nay Tôi vẫn còn đây…! Họ nằm xuống cỏ xanh phủ lợp để Tôi được “đỏ ngực” chăng ? “ Đỏ ngực” vì được gắn “huy chương” đầy ngực hay đỏ ngực vì tim Tôi rĩ máu đau thương với Bạn Đồng Đội ngã xuống… và bao nhiêu tháng năm qua nữa vết hằn thôi ray rức tâm tư mỗi khi tưởng nhớ đến “Họ” …?! Ở đây, thời gian nầy với với những dòng chữ “tâm bút”:

    Thiên niên sự trầm hương vàng một nén
    Vạn cổ hề trà, rượu trắng ba chung…
    Đây “Mủ Đỏ Út Bạch Lan”
    Lòng thành tâm cúng Bạn
    Có linh thiêng vi vu về đây
    Cùng ta “knock” rượu, uống cạn mấy chung trà…?
    Đường chinh chiến đã xa rồi như mộng ảo
    Ta còn đây ngồi nhớ Bạn biết dường bao…!
    Gõ một tiếng chuông
    Cho buổi chiều vô minh tan nát…
    Tụng một thời Kinh
    Để tiễn đưa hương linh Bạn viễn trình…
    Sạpê Satta Avêra Hontu Sukhita Hontu
    Avijjã Paramam Malam Anicca Dukkha Anatta…
    Chày kình một tiếng
    Cho cõi trời sắc không vỡ vụn…!!!


    Và:

    Vốn xưa là hạt là sương…
    Thì nay như khói vô thường bay đi
    Ta chưa luyến ái điều gì
    Ví như mấy bụi trần vi cuộc nầy…


    Tôi: “ Thành Kính Truy Điệu Đồng Đội Tử Sĩ Đã Vị Quốc Vong Thân” vì vốn dĩ xưa nay Việt Nam chiến trận dường bao “Nam Nhi Chinh Chiến Kỷ Nhân Hồi”…!!!
    Thượng Sĩ Nhất, Thượng Sĩ, Trung Sĩ Nhất, Trung Sĩ, Hạ Sĩ Nhất, Hạ Sĩ...Họ gọi chung là Hạ Sĩ Quan là những quân nhân ưu tú nhất của QLVNCH, “Họ” là những bậc thầy của Tôi ngày mới ra trường, chính Họ đã huớng dẫn, chỉ bảo, trao truyền kinh nghiệm chiến trường cho Tôi trong những bước chân đầu đời binh nghiệp… Nhớ một lần trực thăng vận vào mục tiêu Ashau, Alưới,… chân vừa chạm đất là chạm địch ngay, Hạ Sĩ Nhất Minh mang Máy PRC25 nắm cổ áo Tôi vật ngã xuống đất và hét :
    - ĐM …Thiếu Úy Đà Lạt gì mà ngu thấy mẹ...cứ la xung phong...xung phong là đưa ngực cho nó phạng… chết mẹ hết ráo còn lấy ai xung phong…!!!
    Họ là những người lính già thâm niên với tích luỹ “bề dầy” kinh nghiệm chiến trường và tinh quái như “cáo” già trước cạm bẩy tử sinh trận mạc …và rồi họ cũng ngã xuống chiến địa…! Nhưng “cái” tinh anh không bao giờ chết. Họ chỉ nhạt nhòa đâu đó trên Quê Hương và tận cùng đáy lòng sâu kín trong tâm thức của Tôi…Họ ẩn hiện mờ mờ nhân ảnh, chinh nhân ơi có bao giờ Anh trở về bình yên ? “Anh không chết đâu…Anh ! Anh chỉ vừa bỏ cuộc hôm qua…”!

    Hôm nay còn lại gì: ?
    Phải chăng trong những cõi đời…?
    Cõi chôn mộng ước, cỡi vời chân không…!
    Phải chăng trong những cõi lòng…?
    TaBà còn dậy mênh mông khói mờ…!

    Có còn chăng chút “ Tình Huynh Đệ” mong manh, dễ tan vỡ như những hạt mưa bong bóng, mới kết đã ly, hợp tan như bèo bọt…! Ta cố gìn giữ hương hoa cho gió thoảng, góp nhặt cảo thơm lần giở trước đèn, tìm tri âm, tri kỷ cùng chí hướng để:

    Ví biết lửa hương tìm chấp nối
    Là hay vàng đá để trao truyền


    Hay chỉ để tâm giao và thâm giao "Quân Tử Chi Giao Đạm Nhược Thủy". Tình Huynh Đệ hôm nay không cần vồn vập sôi nổi như sóng nước vỗ chân cầu để rồi sóng sau dồn sóng trước, mà cần lắng kết vào bên trong tâm khảm, thông cãm, bao dung, tha thứ cầu mong điều tốt lành cho nhau, sẳn sàng chia xẻ an nguy, cứu giúp khốn cùn, giải điều phiền muộn…dù phải phá chấp và đón nhận hy sinh… không ra ngoài mục đích hài hòa những mối tương giao tình tự: "Một ngày làm Lính, một đời là Lính: "Mũ Đỏ, Mũ Xanh, Mũ Nâu, Mũ Đen, Mũ Vàng, Địa Phương Quân, Nghĩa Quân, Dân Vệ, Bảo An, Cảnh Sát, Vỏ Trang Tuyên Truyền, Xây Dựng Nông Thôn, Thiếu Sinh Quân,...” cùng có đa phần giống như nhau là cưu mang định nghiệp Bảo Quốc-An Dân và đem sinh mệnh phơi thây trên chiến địa, dưới muôn vàng họng súng xâm lăng của quân thù thèm khát máu tươi của người đồng chủng tộc, nòi Việt phương Nam đã cách ly, xé toát tự thân tháo gỡ những ung bào tầm gởi di hại của nòi Hán là “kẻ thù truyền kiếp” Bắc phương.

    Nhưng tiếc thay hôm nay:
    Có những “Huynh Huynh- Tỷ Tỷ” mau vội quên đi, hay cố tình lãng quên: " Nhất Tướng công thành vạn cốt khô"! Họ quên đi thời thế, thế thời đã đổi thay, vẫn y cứ phường tuồng, sính vai hoàng triều, huê hoè áo mảo, đeo lon lấp lánh, huy chương tạp dề đầy ngực, sum xoe trong những lễ hội tương tế, hoa đăng,cộng đồng,…Nhưng có bao giờ “Họ” tự vấn lương tâm: Đã có bao nhiêu linh hồn uổng tử đang ở bên cạnh cuộc đời báo oán và nguyền rủa…?!...và cũng có những tục nhân luôn khúm núm “Anh…Em” dậu đổ bìm leo, “thời lai đồ điếu thành công dị” phù nhi trực trượng, trồi đạp nhau leo trèo lên những bậc thang “Danh Vị” hão huyền như sương mai buổi sớm, phù nhi trực trượng, nộm thảo chi tráo trở, hồi đầu bần tiện, bản lai diện mục hạ vô nhân, bôi mặt đấm đá nhau, chà đạp thẳng thừng vào ân nghĩa, đồng chí, bậc huynh trưởng đáng được trân trọng, quí mến ít ra trong “tình nghĩa giang hồ” cũng được như hạng “hảo Hớn Lương Sơn” thảo khấu thời xưa còn quí trọng tình nghĩa kim bằng…!
    Ngày nay, trong một cuộc sống quá xô bồ, hối hả, căng thẳng với gia tốc của nhu cầu vật chất làm chuẩn mực, thước đo “tài năng, trí trá” phương cách thành đạt biến thiên nhân cách của “Người “ xuống vượn …Ôi, Nước mất nhà tan, hồn Việt linh lạc phiêu diêu thì đã có được mấy ai còn cưu mang Việt Lý Tố Nguyên làm nền tảng để không vì bả phù hoa mà giữ gìn bản sắc thuỷ chung tương hoán với dòng đời và xử thế, thiệp thế y nhân…?! Tôi quán tự thân tâm tĩnh lặng, xã bỏ ít nhiều ưu phiền trong cuộc sống hằng ngày …và mỗi khi hôn trầm, phóng tâm duyên theo quá khứ quê nhà cảnh cũ, gặp lại những hình ảnh thân thương của đồng đội ngày nào còn vui cười nhộn nhịp trên chiếc tàu há mồm xuôi Nam để từ Mũ Xanh thành Mũ Đỏ và mặc màu gì cũng chỉ là màu. Nhưng màu Máu của con người khó mà thay đổi được…và Tôi ở ĐĐ5/81BCD và ĐĐ2TSND: "Chỉ là Một”. Từ khởi đầu và suốt 21 năm trong cuộc chiến Quốc-Cộng kết thúc ngày 30 tháng 4 năm 1975 và mãi cho đến hôm nay ... Đã có rất nhiều những nhà Biên Niên Sử, Chính Trị… nổi tiếng “uyên bác” lên tiếng tham luận trên rất nhiều diễn đàn đề cập đến nguyên nhân thất bại và vội vã cuốn cờ tháo chạy của “Người Mỹ” ra khỏi Việt Nam …! Nhưng đã có mấy ai “Đại Trí” để “Hiểu” vì sao “Người Mỹ” bước chân vào Chiến Tranh Việt Nam ? Ngẩng mặt lên “Trời” cao tìm “Trăng” sáng để “vọng đầu Minh Nguyệt” hồi quê hương cố tổ, thâm lâm chi hương vô nhân vãng lai; duy hữu ngư ông thức đắc tình, trông vời Hổ xuất sơn lâm khiếu nhất phương …trong “bóng đêm” tìm hỏi những vì sao “Bắc Đẩu” …đêm đen vẫn lung linh huyền ảo…Ôi,… thật bí mật làm sao…và cho đến bao giờ…?!!!


    Trương Văn Út (Mũ Đỏ Út Bạch Lan)

    Comment


    • #3
      Chữ Tín

      CHỮ TÍN

      Trương Văn Út (MũĐỏÚtBạchLan)

      “Nhân vô Tín bất Lập”

      Tự xa xưa, tiền nhân đã Đông Phương sinh sống, ứng xử với con người trong vạn cảnh cuộc đời… tự thể nghiệm kinh lịch qua bản thân rồi đúc kết thành những “qui luật” tinh thần để áp dụng trong đối nhân xử thế, lấy: Lễ Nghĩa, Liêm Sĩ, Nhẫn Nại, Khắc Kỷ, Bách Chiết, Bất Khuất làm phương châm rèn luyện tư cách bản thân và lấy chữ Tín làm Trọng để tương giao và giữ gìn cho sự liên hệ giữa Người với Ngưòi được bền chặc tốt đẹp lâu dài…Nên: “ Nhân Vô Tín Bất Lập” là câu nói trách cứ của người xưa Bậc Cha Ông đã thành Văn vẻ Đẹp truyền lại cho hậu thế làm gương soi là một trong những “Khuôn Vàng Thước Ngọc” để là Người , làm Người và “Thành Nhân Chi Mỹ”… Tôi chỉ có một bà Chị dâu duy nhất, Chị kết hôn với người Anh thứ Ba của chúng Tôi là Trương Văn Nhì tốt nghiệp Khoá 15 Võ Bị Đà Lạt, phục vụ tại Trung Đoàn 12 thuộc Sư Đoàn 7 Bộ Binh, nên gọi là Chị Ba, tên Chị là Trần Sâu Lầy, nghe qua họ tên thì biết ngay Chị là người Việt gốc Hoa, Chị sinh quán tại thị xã Cây Dừa, Quận Cai Lậy, Mỹ Tho, xuất thân từ Trường Sư Phạm Sài Gòn và làm Cô Giáo ngay tại nơi Chị sinh trưởng và với quan niệm của người Hoa từ nhiều đời: “Quân, Sư Phụ” được tôn quí, kính trọng…Nên “Cô Giáo Lầy” Chị dâu của tôi được dân chúng trong Quận Hạt và cộng đồng người Hoa quí mến, cư xử chân tình ! Theo lời kể của Chị: “:…gia đình Ông Sở, Ông Sơ… thuộc dòng dõi Minh Hương bên Tàu , chạy tỵ nạn nhà Thanh cùng thời với Mạc Cửu,Mạc Thiên Tứ lập nghiệp định cư ở miệt Cà Mau....Cho đến đời Ông Cố, Ông Nội vẫn còn ôm giấc mộng " Phản Thanh Phục Minh "...và đến đời Thân Phụ thì di chuyển về Cây Dừa, Cai Lậy và Chị được sinh ra nơi đây...”. Năm 1975... ! Anh Tôi đi tù, Chị bị “chính quyền” mới cho nghĩ việc dạy học vì là vợ Ngụy, Chị chuyển sang nghề may vá tần tảo nuôi ba đứa con còn nhỏ dại…! Sau khi trốn ra khỏi Trại tù “cải tạo” Long Giao… thỉnh thỏang tôi lén lút ghé thăm Chị và các cháu, nhìn Chị vì quá kham khổ để lo sinh kế cho toàn thể người thân yêu trong gia đình… nay đã gầy rọp người, lưng còm xuống trông giống như người phụ nữ lão hoá tuổi ngoài năm mươi ! Tuy khổ cực khốn khó như thế…! Nhưng cứ sáu tháng một lần, Chị vai gánh hai bao bị thức ăn khô, thuốc men...từ SàiGòn ra đến trại Vĩnh Phú(Bắc Việt) thăm nuôi Chồng đang bị tù đày khổ sai …không biết ngày nào được thả ra ! Năm 1987, Anh tôi được ra khỏi tù, Chị đã chuẩn bị sẵn kế hoạch và phương tiện để cho Chồng vượt biên bằng đường biển qua sự giúp đỡ từ những gia đình người Việt gốc Hoa mà Chị thân thích. Không may mắn chuyến vượt biên bị bể, Anh lại bị bắt và bị giam tù khổ sai thêm ba năm nữa tại Mõ Cày (Bến Tre)...Được tạm tha, Anh trở về gia đình với vòng tay quán xuyến buôn tần bán tảo của Chị cho đến ngày cả gia đình được sang Mỹ với diện HO5 .Ngày nay, gia đình Anh Chị Tôi đã ổn định, con cái đều đã thành thân và thành nhân với một đàn cháu nội, ngọai đề huề...Có lần Tôi hỏi Chị:
      - Bí quyết nào giúp cho Chị vượt qua tất cả gian nan để có ngày nay ? Chị cười và nói:
      - Có gì lạ và là bí quyết chi đâu…chẳng qua Chị có 9 đồng chị cố kiếm thêm 1 đồng để đủ 10 đồng rồi Chị dấu đi để phòng khi hữu sự, còn tụi Em có 9 đồng đi vay thêm một đồng để chén thù chén tạc với bạn bè ...tiền vất qua cửa sổ chẳng bao giờ chạy ngược trở vào…! Đó là “triết lý” sống thực tế “đơn giản” của người Chị Dâu gốc Hoa của Tôi.
      Ngược dòng thời gian năm1979: Sau khi vượt trốn trại tù, Tôi sống lang thang không nhà không cửa, ngoài vòng pháp luật…thỉnh thoảng dò xét hoàn cảnh tương đối an toàn xong Tôi lén thăm Chị và hỏi thăm tin tức người thân quyến thuộc và Anh Ba của tôi đang bị giam tù ở Yên Bái, Bắc Việt…Tôi được Chị lo “mai mối” và giới thiệu Tôi với một gia đình người Hoa trong Chợ Lớn giúp Tôi có được một việc làm ”chui” là cứ đến lúc 5 giờ mỗi buổi sáng sớm, Tôi đạp xe đạp đến chỗ hẹn, nhận 3 cây vải “Saten” trắng chở lên Cầu Tre ( Phú Lâm ) giao cho một xưởng nhuộm lậu, đến buổi chiều lúc 3 giờ trở lại nhận 3 cây Saten đen đem về giao lại cho chủ, cứ mỗi chuyến "giao hàng" như vậy Chủ trả cho Tôi 25 đồng tiền mới (tiền “cụ Hồ”) để độ nhật qua ngày...Ông chủ gốc người Hoa trạc 60 tuổi gọi là Chú Quảnh, và người Em trai là Chú Xồi...Tôi không biết gia đình Họ có bao nhiêu người…? Nhưng hai anh em họ sống chung với nhau trong căn phố ba tầng ở đường Triệu Đà, Chợ Lớn, căn phố cũ kỹ với tuế nguyệt thời gian có lẽ đã lâu lắm không có sửa sang tu bổ và xuề xòa với đời sống thường nhật...không một chút xa hoa hào nhoáng như những căn phố toạ lạc trong khu vực…! Một hôm như thường lệ làm xong phần việc, Chú Xồi trả tiền công cho Tôi 25$, nhận tiền xong Tôi vội vả đạp xe giông tuốt để “Quân Tử khốn cùng chi ẩm thực” cho ngày nào hay ngày nấy mà…trên đường “thiên lý” với “lý ngựa ô xe đạp” thênh thang “sông hồ” mà thăm thế sự…Tôi ghé “quán” Café ven lề đường định “chơi” một cái “xây chừ” (Café đen đá) cho đã cơn ghiền thói tật xa hoa ngày nay là sinh hoạt thường…thường của “Thời Hoàng Kim” trước 30-4-1975 và khi mà loài khỉ chưa vào thành “Tràng An” thể hiện thói tật dzăng minh “cái nồi ngồi trên cái cốc” khai phóng “Bình Minh Tiền Sử” với “đỉnh cao trí tuệ” là thói tật hoang dã cấu thành quán tính kinh qua nhiều cuộc “trường chinh kách mệnh” đấm đá giết hại để “đấu tranh giai cấp” ban phát sự nghèo đói mạt hạng cho thị dân đã có đời sống tự do, văn minh, sung túc miền Nam…và ”Thượng Đế” từ “Giời” cao đã “gây nên cuộc hý trường” tạo “Nạn Hồng Thuỷ Tháng Tư Đen Năm 1975” để giúp loài “linh trưởng” vừa mới mon men mó chân ra khỏi hang động để tìm thú, săn mồi… phạm tội rồi “gánh tội” thay cho “Sự Lập Trình” quá ư là tàn nhẫn, vô nhân đạo đầy rẫy khiếm khuyết…với cuộc diệt chủng, phá hư hoại nền Văn Hoá mà bao thế hệ con Dân Nước Việt đã y cứ làm bản vị, không quản ngại Xã Thân Chiến Đấu để Bảo Quốc, An Dân, Tồn Chủng, Sống Còn, Nối Tiếp, Tiến Hoá …”Thuợng Đế” đã chết ?!...Tôi móc túi kiểm điểm”ngân khố” đếm tiền vói niềm vui thơi thới vì sao có tới những 50$ ?!!! …và đếm lại thì đúng 50$ chứ không phải là 25$ tiền công thường nhật...? Ở trong hoàn cảnh hiện tại khốn cùng này, tiền không phải là “vật ngoại thân”, được đồng nào hay đồng nấy...hớp vài ngụm café, Tôi bổng giật mình vì chợt nhớ lại lời Chị dâu Tôi căn dặn: " Em phải nhớ,…làm ăn với người Tàu thì một cắc là một cắc, một đồng là một đồng, phải cho đàng hoàng thành tín, ăn gian, nói dối thì không bao giờ làm ăn với Họ được...Họ làm ăn với nhau chỉ đơn giản chỉ với một chữ ..."TÍN"...”. Tôi bừng tỉnh, cong lưng đạp xe nước rút một hơi trở lại gặp Chú Xồi và hoàn trả 25$ mà Chú đưa “dư” cho Tôi…Chú cười thân thiện nhận lại tiền. Tôi không biết Chị Tôi có nói gì với Họ về Tôi hay không? Nhưng một hôm sau khi Tôi giao hàng xong thì Chú Quảnh vui vẻ nói: “ Nị dzào chong dzửa tay dzồi dza ăn cơm dzới Ngộ há, .."! Trong bữa cơm gồm cả hai gia đình, họ xí xô xí xào chuyện trò huyên thuyên, Tôi mà hiểu được “chết liền”...!!! Xong “tiệc” Tôi chào từ giả ra về, Chú Quảnh đưa Tôi ra cửa và hỏi nhỏ: "Nị là…có fải là Xĩ Quang Nguỵ chzốn học tập không hả…Tzừng sợ ? Ngộ piết hếch dzồi …từ từ dzồi mình sẽ tính há …”! Tôi rời nhà Chú Quảnh với nỗi “cực kỳ” căng thẳng và “cảnh giác”có chút e dè lo sợ bị lộ tẩy và sẽ bị bắt trở lại vào tù, vì bọn Việt Cộng xử tù trốn trại rất ác độc ! Tôi tự hỏi ngày mai có nên trở lại nơi này không ? Không, chắc chắn là không. Trên đường đạp xe về bến xe An Đông để tìm chổ trú ngủ qua đêm, Tôi chuyển hướng đạp xe qua bến Phạm thế Hiển gặp Chị Tôi để hỏi cho ra lẽ, gặp Chị tôi trình bày chuyện vừa qua và lo lắng hỏi xem là Chị có nói cho họ biết về thân thế vượt ngục và hoàn cảnh trốn tránh của mình hay không ? Chị cười hiền hậu trấn an Tôi rồi nói với giọng tự tin và bình thản:” …Em yên tâm, không sao đâu…Họ đang giúp Em đó…”. Hai tuần sau Chú Quảnh đưa cho Tôi một giấy khai sanh giả tên họ mới của Tôi là Trần Chỉnh sanh năm 1942, người Việt gốc Hoa và sau đó Tôi được xếp vào danh sách với gia đình Chú Quảnh, Chú Xồi tổng cộng hơn 60 người nam phụ lão ấu lên thuyền ghe đánh cá máy 3 đầu bạc, tách bến rời kinh Miệt Thứ, Rạch Giá ra khơi vượt biên. Thuyền ra khơi an toàn, máy chạy suốt, thuyền lướt sóng phom phom cho đến xế trưa ngày hôm sau thì gặp tai nạn bị gãy bánh lái, cách đảo Phú Quốc chừng 10 cây số về hướng Đông ! Thuyền dừng lại thả neo để sửa chữa thay bánh lái phụ, một chiếc tàu đánh cá quốc doanh Phú Quốc xáp lại gần, tất cả chúng tôi phải ém xuống khoang thuyền, phía trên chỉ năm ba người giả bộ như ngư dân đang đi đánh cá. Tàu đánh cá VC không xáp lại gần, mà chỉ chạy chậm lại ngang ghe chúng tôi vài chục mét, người trên tàu vẩy vẩy tay chào rồi tiếp tục hành trình về hướng Phú Quốc. Tôi và Chú Quảnh bò lên phiá sau lái hỏi Anh Lợi, người tài công đã có 10 năm kinh nghiệm đánh cá, Anh nói với chút lo âu:” …mình phải đi ngay càng nhanh càng tốt, Tôi biết thế nào bọn chó đẻ đó cũng gọi báo Công An Biên Phòng...". Bánh lái đã được sửa chữa xong sau 15 phút, rồi nhổ neo, nổ máy tiếp tục hành trình vội vả về hướng Nam...Nhưng quá trể ! Hai chiếc PCF (duyên tốc đỉnh) Công An Biên Phòng với lá cờ máu phất phới lướt sóng đuổi bắt phía sau thuyền vượt biên chúng tôi, chúng bắn vài tràng đại liên chỉ thiên đe dọa…và thế là chúng tôi bị bắt tất cả, thuyền bị kéo về đồn CABP Cây Gáo, tất cả mọi người bị tống vào trại giam của Ty Công An Hình Sự Cà Mau phía bên kia cầu sắt, bên này là Chợ Cà Mau ! Thời điểm này là lúc phong trào vượt biên bán chính thức đang nở rộ công khai. Người Hoa giầu có của cải tiền bạc giao nộp,cống hiến, lo lót cho “giới chức quyền thế Vc” trong Chương Trình Bán Bến Bãi Vượt Biên, Xuất Cảng Người Hoa Vượt Biên… nên họ từ thành phố xuống Cà Mau được ưu đải như khách du lịch có passport chờ xuất ngọai…!!! Ghe của gia đình Chú Quảnh là ghe vượt biên lậu, nhưng nhờ "thời điểm thuận lợi” này mà cả gia đình trên ghe của Chú Quảnh được đối xử không đến nổi tệ, bọn CA chỉ lo vơ vét vàng...5 cây...10 cây...tùy theo số lượng thu hoạch để giải quyết vấn đề. Tôi không biết gia đình Chú Quảnh và Chú Xồi "làm việc" với bọn chúng cái gì vì mỗi lần Chú Quảnh được gọi lên văn phòng "làm việc" khi trở về phòng giam chật nít không có chỗ nằm Họ chỉ nói chuyện với nhau bằng tiếng Tàu...rồi hai ngày sau, đàn bà con nít được CA đưa ra bến xe đò trở về SàiGòn, đám đàn ông bị giữ lại chờ xét xử sau. Trong thời gian chờ "làm việc" Chú Quảnh dặn Tôi: "Nị nhớ khai Nị là em dzợ của Ngộ há…Nị là em dzuột của dzợ Ngộ...nhớ lói dzọng lơ lớ...đừng có lói nhiều hả …" ! Sau một tuần thẩm vấn từng cá nhân một, 18 anh em "người Hoa chúng Tôi" được ra ngoài lao động vác lúa mang vào nhà máy xay, sau đó khiêng gạo xuống mấy ghe bầu đậu sẵn dưới sông bên cạnh cầu sắt…Bao nhiêu nỗi lo âu ban đầu dần dần vơi đi…Tôi bỏ hẳn ý định trốn thoát trại giam lần nữa vì tin rằng sớm hoặc muộn gì dù không biết bao lâu chúng cũng thả chúng tôi ra, lại thêm vào đó tình cãm của Tôi với Anh-Em Chú Quảnh càng ngày càng thân mến khắn khít qua những liên hệ đồng thân phận người tù cùng chung một trại giam có ân tình chia bùi xẻ ngọt thời qua và Họ đối đãi với Tôi như chính Anh Em thân tình quyến thuộc của Họ! Sau hơn ba tháng lao động chúng Tôi được cấp giấy "tạm tha trở về nguyên quán". Điều này đối với Tôi thật như đang nằm mơ ! Vì với tội danh vượt biên thì ít nhất bị đày ba năm khổ sai lao động ở các trại tù cải tạo của miền Tây. Tôi bèn tò mò hỏi Chú Xồi, Chú chỉ trả lời: " mấy Bả dzề chước…chạy chọt lót đút lo cho tụi mình...". Về đến Xa Cảng Miền Tây chia tay, Chú Quảnh lại dặn dò Tôi: "…Nị nghĩ ngơi dzài ngày dzồi chở lại gặp chúng tôi há …”! Chú nhét vào túi quần Tôi 50$. Trở về nguyên quán ? Nguyên quán của Tôi ở đâu ? …chỉ là nơi chốn đầu đường xó chợ, ga xe lữa, bến xe đò, bãi lầy kinh rạch hôi hám và đen tối như tương lai mờ mịt của mình…! Tâm tình nhớ vợ thương con thì tìm tới nhắn với Chị Ánh (vợ Hùng Móm), Chị Hồng Tố Yến (Vợ TTC), Chị Thu (vợ NTN) rồi lén lút hẹn gặp vợ con vài ba tiếng đồng hồ lang thang trong sở thú...!
      Một tuần sau Tôi mon men trở ra Chợ Lớn tìm Chú Quảnh, đứa con gái Chú Xồi chỉ Tôi ra quán café góc đường Triệu Đà-Hùng Vương nơi đây Tôi gặp lại Họ, Chú Quảnh thấy Tôi Chú mừng lắm…!!! Chú nắm tay Tôi kéo đi một khỏang khá xa và nói: " Nị đi ngay đi ... đừng dzào trong đó...Ngày mai lúc 6 giờ chiều tới gặp Ngộ ở nhà hàng Soái Kinh Lâm…Nị piết chớ..." ! Tôi im lặng gật đầu, trở lại lấy xe đạp rồi cứ đạp miết vô ngã hẽm này, ra ngã hẽm khác, len lõi vào giòng xe đạp trên các lộ chính rồi bất ngờ quẹo vào một con hẽm nào đó...Tôi tin gia đình Chú Quảnh và họ là nơi bám víu duy nhất với chút hy vọng mong manh là chỉ có gia đình Chú Quảnh mới có thể giúp Tôi thoát khỏi nơi khổ nạn nầy để đến bến bờ Tự Do.Nhưng bây giờ qua sự gặp gỡ vừa rồi Tôi hiểu là gia đình của Chú Quảnh đang bị theo dõi gắt gao.
      Sau bốn năm giải phóng, nhà hàng Soái Kinh Lâm vẫn sang trọng huy hoàng rực rở như ngày nào. Tôi bước vào cửa và chạnh lòng ngậm ngùi nhớ lại những tháng ngày của một thời “oanh liệt” xưa cũng tại nơi nầy Tôi ăn uống thù tạc với đám bạn hữu cho đến ngất ngưỡng cơn say, đêm khuya giới nghiêm mới lê gót lãng tử come back to sorento:”… về đây khi trong túi không còn su teng, về đây chi hồn gởi lại cave, về đây hỡi mái tole nóng hừng hực và ta phải dối gian với vợ nhà, ôi lãng du không còn ngang tàng”…trở về nhà trong những “ngày nghĩ phép em ơi, những ngày nghĩ phép em ơi thật là ngầu”...ha …ha…ha…thật Hùng Cường –Mai Lệ Huyền…!!! Tôi ngồi vào chiếc ghế bên cạnh Chú Xồi , đảo mắt nhìn qua một vòng rồi yên tâm vì không thấy có người lạ khả nghi, nhận biết hầu hết là những người cùng Tôi vác lúa khổ cực ở trại giam Cà Mau...Chú Xồi ra dấu chỉ một người rồi hỏi Tôi:
      - Nị còn nhớ Chú Xường ngồi bên kia bàn hay không …?Tôi nhận ra và trả lời:
      - Dạ …Tôi nhớ...!!! Chú Xồi hỏi tiếp:
      - Nị nhớ coi ai ngồi bên cạnh ? Tôi nhận ra và trả lời:
      - Dạ…Chú Chảnh…!!! Chú Xồi nói tiếp :

      - Nị ráng nhớ cho kỷ…một lát nữa Nị qua đó nói chuyện chơi…hễ tụi nó nói bảo làm cái gì thì Nị cứ làm y theo lời của tụi nó…không có hại gì đâu. Mấy cái thằng chó chết VC chúng nó đang đánh “Tư Bản Mại Sản” để vơ vét ăn cướp của người ta…chúng nó ra lệnh đóng cửa ba cái hãng nhuộm vải ở Cầu Tre, tịch biên tất cả vải vóc của chúng tôi đang có và sẽ tịch thu tài sản, nhà cửa…rồi tống cổ chúng tôi lên vùng “Kinh Tế Mới”…không biết ở đâu nay mai…Chúng tôi không còn còn giúp cho Nị được nữa ! Đây là hộp Trà Sâm của Anh Chảnh biếu cho Anh…có vậy thôi ! Nhớ giữ hộp Trà nầy bên mình…Bây giờ Nị qua bàn nói chuyện với Anh Xường và Anh Chảnh, Chú Quảnh từ một bàn khác liếc nhìn Tôi mĩm cười…!!! Buổi tiệc hôm nay là Ngày Sinh Nhật thứ 16 con gái Út của Chú Quảnh. Tôi nắm lấy bàn tay Chú Xồi siết thật chặt và thật lâu trước khi chỉ biết nói hai chữ: ”cám ơn”… rôì bước sang bàn Chú Xường. Chú Xường và Chú Chảnh chỉ lớn hơn Tôi năm hoặc bảy tuổi, nhưng Tôi vẫn gọi bằng Chú theo cách tự nhiên xưng hô thường ngày giao tiếp với cộng đồng người Việt gốc Hoa thân thiện nầy, lại nữa trong thời gian cùng ở chung trong trại tù CA Cà Mau, chúng tôi đồng chung số phận bị nhốt trong cái láng dơ bẩn và ba chúng Tôi san xẻ nằm chung một chiếc chiếu rách tả tơi…đêm tối sau cả ngày lao động khổ sai vác lúa, khênh gạo tơi tả …khi ngã lưng xuống chiếu Tôi thường hay kể chuyện Tứ Tài Tử Thư lừng danh Trung Quốc như: Thủy Hử, Tam Quốc Chí, Hồng Lâu Mộng, Tây Du Ký… cho Họ nghe trước khi im thiếp vào giấc ngũ. Trong bàn tiệc đã sắp xếp dành sẵn cho Tôi ngồi giữa Chú Xường và Chú Chảnh, chờ cho Tôi yên vị xong, Chú Xường đi ngay vào việc:
      - Anh có biết nhà hàng Thanh Thế ở chợ Bến Thành không ? Tôi đáp:
      - Dạ biết. Chú Xường nói tiếp:
      - Anh nhớ kỹ lời Tôi dặn đây, hôm nay là ngày Thứ Bẩy, sáng ngày Thứ Hai tới, Anh tới Thanh Thế để gặp Tôi và Chảnh, cứ đến đó vào lúc khoảng 10 giờ sáng, nhởn nha uống cà phê, nhớ ăn mặc xuề xòa, râu tóc để nguyên đừng cạo, đừng hớt...Đêm nay nhớ mở Hộp Trà Sâm mà Anh Quảnh biếu cho Anh… nhâm nhi cho đở buồn..."!
      Tôi đứng dậy, nhìn một lược chung quanh rồi nhẹ cuối đầu chào như một sự từ giả không lời...lặng lẽ ra về với bao nỗi buồn vui lẫn lộn bâng khuâng trong lòng cùng với nhiều thắc mắc không thể lý giải...”Họ” là ai: “Tài Phiệt Chợ Lớn” cở như Mã Tuyên hay Mã Sái chăng…? Hay thành viên của Triều Châu Phúc Kiến, hoặc thuộc xã hội đen của Tàu Cộng,, Đài Loan, Hồng Kông…? Sau cùng Tôi bổng mặc kệ phó thác “Họ” là gì đi nữa cũng chẳng sao vì “Họ” đã giúp đỡ cho Tôi đang thân phận cá chậu chim lồng có được sinh nhai hiện tại và thật tình cố vượt thoát ra khỏi nước qua chuyến vượt biên bất thành trước đây… suy nghĩ làm chi cho thêm mệt óc, miễn sao mình còn “thong dong” đạp xe đạp tự do trốn tránh, an bình được ngày nào hay ngày đó dưới đường phố mưa sa mà “đéo” thèm thấy cờ đỏ sao vàng trước mắt giăng giăng…! Đêm đó Tôi mở hộp Trà Sâm và ngạc nhiên với 10 lượng vàng Kim Thành thứ thiệt nằm trong hộp và chợt nhớ lời Chú Xường dặn: " Thứ hai gặp Tôi ở Thanh Thế...".Tôi ngủ chập chờn trên một căn gác thuê bẩn thỉu đầy chuột và dán ở bến xe An Đông.
      Lúc xưa còn tại ngũ, khi đơn vị dưỡng quân ở hậu cứ, Tôi thường cùng bạn bè la cà …sáng café có pha chút bơ Bretain ở nhà hàng Thanh Thế toạ lạc phía Tây chợ Bến Thành độ trăm thước, buổi trưa ăn chateau brillant ở nhà hàng Thanh Bạch rồi CaFé Brodard rồi đến đêm tối nhẩy nhót lã lướt ở vũ trường Vân Cảnh hay hộp đêm Thanh Thanh ở xa lộ… Trong nhóm thường có Mỹ Hôi, Hùng Móm, Hùng Mập, Dũng Tây Lai, Cao P Minh, Xuân Đờn Cò, Ninh Mắt Trừu...một hoặc hai thằng chia nhau một chầu, chỉ một ngày rong chơi cũng vơi đi gần nữa tháng lương, để khi trở về nhà ngồi vào bàn ăn với vợ con thì ôi thôi “một mái nhà tole hai quả tim vàng…nhà em có cơm rau muống với cà…và có con thơ vợ già…vợ thương anh lắm hỡi mấy em cave ngào ngạt mùi hương nước hoa Chanel 5 thơm hơn như múi mít ơi…”! Nhìn thê nhi bèn ái ngại “anh hùng” mặc cãm tội lỗi “lòng chợt từ bi bất ngờ” ...! Nay theo lời dặn của Chú Xường, Tôi đến nhà hành Thanh Thế khỏang 10 giờ sáng, khách khứa chỉ lác đác năm ba người ngồi uống cà phê ...Tôi tìm cái bàn trong góc có thể nhìn suốt qua cửa kính để quan sát cả trong lẫn ngoài, gọi và thưởng thức hương vị café pha lẫn bơ Bretain cũ, hút hết điếu Samit thứ hai thì Chú Xường và Chú Chảnh cũng vừa đến. Họ vẫn tíu ta tíu tí, xí xô xí xào… như mọi khi…Tôi đứng dậy chào, Chú Xường thân mật vội vàng ấn vai Tôi ngồi xuống...ngồi xuống...rồi Chú trình bày chuyện quá dài…(Tôi nhớ lại và chỉ viết tóm tắt trong phạm vi bài viết này mà thôi) !Chú Xường mở lời :
      - Đêm qua Anh uống Trà Sâm có ngon không ? Tôi gật đầu .
      - Anh có mang hộp trà theo Anh không ?
      - Dạ có .
      - Anh đưa cho Tôi…! Tôi lẳng lặng làm theo và lần mở cái túi vải “ăn mày” để lấy 10 cây vàng được gói cẩn thận trong cái quần lót dơ bẩn vàng úa đưa cho Chú Chảnh rồi im lặng ngồi nghe…Chú Xường đưa cho Tôi một túi giấy trong đó có bốn cái bánh tiêu còn nóng hổi và nói:
      - Thời giá hiện nay ...một cây là 2850 đồng (tiền “già Hồ” ).Chúng Tôi lấy lại10 cây này và trả lại Anh bốn cái bánh tiêu, Anh có puồng không ? Tôi thực không có “puồng” một chút nào, tâm dững dưng trước 10 cây vàng hiện tại “Anh Hùng bơi trong bỉ vận” gặp ân nhân đương tay trợ giúp thì tham lam chắc đã được gì và lợi lạc được bao lâu ? Tôi bình thản trả lời vui buồn không hiện trên ánh mắt:
      - Dạ không, Ngộ không có puồng !!! Chú Xường cười ưng ý và nói tiếp:
      - Ở dưới bốn cái bánh tiêu là cái đai vải (nguời Bắc gọi là cái ruột tượng) có 30.000 ngàn tiền mặt trong đó, Anh nhớ lúc nào cũng cột thật chặc vào hông của Anh ...chờ chút nữa sẽ có một người nữa đến gặp Anh, Anh ấy là Anh Em chú bác với tụi tui, Anh Xế Phò sẽ cho Anh biết Anh sẽ phải làm gì...còn phần Tôi (Chú Xường )… Anh phải nhớ kỹ những diều dặn dò của Tôi sau đây: Anh Quảnh bảo chúng tôi gặp Anh để cho Anh biết những gì Anh Quảnh đã sắp đặt cho Anh. Anh có biết tại sao không ?
      - Dạ không, Ngộ không piết…!!!
      - Chỉ vì Anh đã trả lại 25 đồng cho Anh Xồi, Anh Xồi lo cho chuyến vượt biên kỳ vừa rồi đó, Anh Quảnh rất lo cho Anh nếu bị lộ tông tích thì chỉ có chết...! Anh có biết Thương xá Tam Đa củ hay không ?
      - Dạ biết. Chú Xường nói tiếp:
      - Bây giờ là Cửa Hàng IMEX bán những mặt hàng ngoại quốc mà chúng nó tịch thu của người Tàu chúng Tôi ở Chợ Lớn...Thôi uống cà phê đi...! Thì cũng vừa lúc Chú Xế Phò bước vào, dáng người dong dỏng cao vẻ ngoài trí thức không giống giới thương buôn Hoa Kiều chút nào…Chú nói thông thạo lưu loát tiếng Quan Thoại, France, Việt Nam như người bản xứ. Khi Chú Xường, Chú Chảnh ra về, còn lại một mình Tôi với Chú Xế Phò, Chú bắt đầu chất vấn tìm hiểu về Tôi:
      - Anh tên Trần Chỉnh hả ?
      - Dạ vâng…! Chú mĩm cười, cái cười hàm ý đã biết “tỏng” về đối tượng rồi vậy. Chú hỏi tiếp:
      - Anh có nói và đọc viết tiếng Anh được không ?
      - Dạ chút chút...!
      - Được tốt lắm ! Tôi đang là Trưởng Phòng Quản Trị Công Ty Imex , Thương Xá Tam Đa cũ, theo lời yêu cầu của Anh Quảnh, Thứ Hai tuần sau Anh bắt đầu làm việc dưới quyền của Tôi, Anh được cất đặc làm thủ kho, chỉ có nhiệm vụ mở và khóa cửa kho khi có lệnh xuất nhập hàng của Tôi và Anh phải ghi lại mặt hàng nào được xuất nhập trong ngày ...cứ từ khoảng 10 giờ sáng Anh giả bộ ra bên ngoài uống cà phê và giao danh sách đó cho Chú Chảnh, ban đêm Anh ngủ lại ở cơ quan cùng với ba nhân viên khác, họ là những công nhân viên từ ngoài Bắc vào, cứ như vậy đi dần…dần quen và biết hết mọi việc Tôi sẽ có nhiều việc quan trọng hơn cho Anh" . .Trước khi chia tay, Chú Xế Phò đưa cho Tôi một Giấy Chứng Nhận họ tên Trần Chỉnh là nhân viên Cữa Hàng Imex có đóng dấu, ký tên của Trưởng Phòng Thương Nghiệp Quận Nhất TP HCM và một giấy nhỏ có ghi tên Lý Kim Anh, Trưởng Phòng Công An Chợ Bến Thành. Rời nhà hàng Thanh Thế, Tôi đạp xe chạy loanh quanh với một tâm trạng hoang mang tự hỏi là hung hay kiết, ngạc nhiên lo âu lẫn lộn…?! Nhưng không căng thẳng như khi trước Chú Quảnh hỏi Tôi:”Có phải Anh là Sĩ Quan Ngụy trốn học tập hay không”? Hiện tại Tôi như người đang chới với giữa dòng sông, vớ bám víu được gì cứ giữ lấy để hy vọng thoát cảnh cô nghiệt, phó mặc cho số mệnh an bày mà không cần biết cái đó lành hay dữ vì thân như đã leo lên lưng cọp, đã phóng lao thì phải theo lao, cung tiễn đã giương thì phải bắn thôi ...không còn sự chọn lựa nào khác !
      Giám Đốc Cửa Hàng Imex là một tên "cán ngố” và luôn cả Ban Quản Trị của hắn cũng “cả thộn” i tờ rít tính toán cộng trừ nhân chia sổ sách lộn tùng phèo ngơ ngáo như “Mán về thành” nhưng bản chất tham lam vô tận, thu vét được cái gì là “ăn” cái đó …! Tôi làm việc với họ chỉ có nhiệm vụ khóa và mở khóa kho chứa hàng hóa theo lệnh Chú Xế Phò, sau đó ra ngoài gặp Chú Chảnh “giao hàng”. Lúc này Tôi chỉ có một niềm vui sướng vô ngần là có một việc làm và một chỗ ở an thân không lo sợ bị phát hiện và bị bắt bất cứ lúc nào, cũng trong thời gian này Tôi đã áp dụng "Nghệ Thuật Lãnh Đạo Chỉ Huy" để chinh phục những nhân viên từ ngoài Bắc vào một cách dễ dàng… Chú Xế Phò hài lòng và vui lắm !!! Một hôm Chú rủ Tôi đi ăn tối, Chú lái chiếc Volwagen màu vàng cũ kỷ chở Tôi dạo một vòng chợ Bến Thành rồi trực chỉ Bến Bạch Đằng vào nhà hàng Mỹ Cảnh, Chú đãi Tôi một bữa cơm độc nhất vô nhị, không tiền khoáng hậu…!!! Trong nhà hàng đã an toạ sẵn ba người: Tên Nguyễn Tạo là Giám Đốc Imex, với cái mặt chành bạnh cố làm ra vẻ “học thức, quan chức” trịnh trọng nhưng không che dấu được “cốt” ngu si đần độn, tham lam có vết hằn nguyên thuỷ của buổi sơ khai còn leo trèo bẻ cây hái quả không vội vàng hăm hở với đồng loại tiến hoá mà cứ nhỡn nha, nhỡn nhơ từ tốn khoan thai với nhịp điệu Slow …dỡ mình đến làm quen với con trâu cái cày, suốt năm tháng lưng trần nhễ nhại mồ hôi lam lũ trên cánh đồng Nông Cống khô hạn …nay hắn làm “quan tham” với cả núi tài vật trong kho mặc sức mà thao túng thu vét…! Người ngồi bên cạnh là tên Trung Úy Lý Kim Anh, Trưởng Phòng Công An Chợ Bến Thành, kế đến là tên Đặng Tư Trưởng, Phòng Tài Chánh Imex. Trên bàn chai Remy Martell đã vơi hơn phân nữa.Tôi khúm núm bước theo sau Chú Xế Phò chấp tay cuối đầu chào họ. Tôi ngồi vào bàn cố giữ thái độ bình thản, chỉ lắng nghe họ bàn luận việc cùng với những suy nghĩ mông lung…và biết là gia đình Chú Quảnh đã giúp Tôi quá nhiều, với ơn sâu nghĩa nặng này bao nhiêu kiếp người Tôi mới có thể báo đáp được…?! Sau buổi cơm gọi là “tham quan thân mật” đó, Tôi có thêm vài việc phải làm theo chỉ thị của Chú Xế Phò. Một buổi sáng như thường lệ khi Tôi giao danh sách hàng xuất kho cho Chú Chảnh, hôm nay có thêm Chú Xường và Chú bảo Tôi giao lại số tiền mặt mà Tôi đang giữ cho Chú, rồi Chú Xường đưa lại cho Tôi một danh sách giá cả mua vô, bán ra trong ngày ở thị trường Chợ Lớn. Tôi chỉ biết làm theo, không thắc mắc vì tin tưởng thân tình với họ và biết là họ không có mưu sự hãm hại mình và nếu có thắc mắc, nghi vấn cũng chẳng ích lợi gì với niềm tin họ là Ân Nhân đang giúp mình qua cơn hoạn nạn.
      Thời gian năm 1979 - 1981...Thân nhân ở nước ngoài gửi tiền về giúp gia đình không gửi được trực tiếp như bây giờ mà dưới hình thức là "Phiếu Imex", hàng hoá chứa trong kho Imex là hàng thứ thiệt bị tịch thu trong chiến dịch đánh Tư Sản Mại Bản như: Xe cộ, thuốc tây, mỹ phẩm, radio cassett, các cơ phận phụ tùng xe đạp, xe gắn máy, xe hơi, động cơ, máy móc kỹ nghệ, vải vóc và cả trăm mặt hàng khác...đều là hàng nhập cảng từ ngoại quốc có giá trị thương mãi cao. Giới tiêu thụ hầu hết là người đến từ Hà Nội, họ là thân nhân của “quan chức “Bắc Bộ Phủ” khách sộp giai cấp “phú gia” gốc bần nông lớp “người” “thực dân mới” và đám “con buôn” nở rộ sau “chiến thắng” từ “giời” cao” đang chễm chệ, ngự trị trên chóp bu quyền lực và đang giáng xuống những thủ đoạn nham hiểm, trí trá, ác độc hại…bởi căn tính di truyền từ tổ phụ nguyên thuỷ để trừng phạt “Dân Nguỵ” miền Nam đã vượt trội hơn chúng hằng thế kỷ văn minh…! Những mặt hàng đang có trong kho Imex là “quí phẩm” tuy giá cả cao ngất ngư…! Nhưng với những thành quả ăn cướp của miền Nam, chúng thủ đắc tràn trề lợi nhuận và tiền bạc nên “giá hàng” Imex chỉ là “của bở” còn “rẽ chán”…! Vì vậy giá thị trường lên xuống theo giờ, ngày bao nhiêu “họ” cũng thu mua…còn những con buôn cò con kiếm lời qua việc bán tem phiếu Imex đều qua tay “Thầu” Chú Xường “làm giá”, Chú Quảnh “cho biết” giá cả mặt hàng trên thị trường và Chú XếPhò cho lệnh xuất kho, Tôi và Chú Chảnh “điều hợp” ra hàng bên ngoài và nếu có “sự cố” gì không “thông thoáng” cần “xử lý” thì đã có tên Trung Uý Lý Kim Anh “giải quyết”…”Công việc” tuy có êm trôi đều và khả quan. Nhưng nỗi lo âu vẫn canh cánh trong tâm mỗi khi rảnh rỗi tự thán: “Không biết bản thân sẽ bị phát hiện và bị bắt khi nào và tương lai rồi sẽ ra sao…” ? Cứ vài ba ngày Chú Xường đến gặp và dúi vào túi áo của tôi vài ba ngàn đồng (tương đương 1 cây vàng), Chú nói đó là tiền lời từ 30.000 đồng "hùn vốn" của Tôi. Tôi liên lạc và nhờ niên trưởng Huỳnh Bá Long (Khoá 21 Đà Lạt) gửi về giúp vợ con và Cha Mẹ Chị Em Tôi ...và cứ thế rồi thời gian cũng qua dù chưa được trở lại đời sống bình thường như mọi người dân khác và không gần gũi được vợ con !.
      Một ngày đẹp trời tháng Ba, năm 1982...Tôi đang ngồi uống café dọc vĩa hè trước cửa hàng Imex, bổng có một chiếc xe gắn máy Honda chở hai người đàn ông trờ tới, một người xuống xe , vội vả hăm hở đi đến nắm lấy tay Tôi và nói: “ Niên Trưởng theo Tôi qua Chợ Cũ làm vài chai Henneckein. Tôi có một cãm giác lạnh băng chạy từ đốt xương sống cuối cùng lên đến đỉnh đầu, nhưng định thần nhìn rõ thì ra là NguyễnVăn Định (Khoá 24 Đà Lạt, Tiểu Đoàn 11 Nhẩy Dù) còn người đang chờ ngoài xe là Trần Văn Hợp (Khoá 23 Đà Lạt), Tôi mừng rỡ lên xe Honda chở ba chạy qua Chợ Cũ “làm” đĩa cơm sườn,”chơi” vài chai beer con cọp… Hợp móc trong túi sách một tờ giấy, điền tên Trần Chỉnh rồi chở Tôi ra bến Thủ Thiêm "tống tiễn” Tôi xuống một chiếc ghe chở gạch cát của Công Ty Dầu Khí Vũng Tàu tách bến hướng ra khơi hải hành, đêm đến nhìn ngắm sao trời định vị trời đất “Thiên Địa khôi khôi du du” huớng tầm mắt về chốn “Hồng Lam” quê hương dần mờ xa …chung quanh chỉ còn tiếng sóng biển vỗ mạn tàu làm đau lòng người viễn xứ không được nói dù một lời thì thầm, hoặc tiếng nấc nghẹn trong câm nín từ biệt vợ con, cha mẹ, ông bà quyến thuộc và ân nhân: Chú Chảnh, Chú Xường, Chú Xồi, Chú XếPhò…đêm đại dương đen bao la, lạnh lẽo và dưới mặt nước thâm u kia biển vẫn vô tình…!
      Một tháng sau…đang chờ rời khói Đảo Pulau Bidong để sang trại chuyển tiếp Galang II , Tôi nhận được thư vợ gởi từ Việt Nam sang:
      " Anh Thương ,
      Chị Ba (Chị Dâu của Tôi) có đến thăm Em, cùng đi với Chị có một người đàn Ông Việt gốc Hoa tên gọi là Chú Xồi, người này đã trao cho Em 10 lượng vàng và nói: “… đây là tiền của Anh Út gửi cho Chị…”.
      Em
      Ký tên………………
      Nhân Vô Tín Bất Lập
      Lan Chi ư thâm lâm bất dĩ vô nhân chi bất hương
      Quân Tử tu Đạo lập Đức bất khả khốn cùng nhi cải Tiết.

      Trong ba tháng bị tù khổ sai vác lúa gạo ở Cà Mau, tình cãm của Tôi với gia đình Chú Quảnh càng ngày càng gắn bó, thân thiện đối đãi với nhau như quyến thuộc gia đình, mọi người tuy có bị giam cầm và thân phải vất vả lao động “xã hội chủ nghĩa”…Nhưng ẩm thực thì “tư sản mại bản” rõ nét với những bữa cơm chuyên trị: lòng heo phá lấu, heo quay, vịt quay, xá xíu. lạp xưỡng, hải vị tả pín lù…Đôi khi cao hứng Tôi bổng chợt cười khan thú vị !!! Mấy Chú “Thoòng Dành” “thân thương chi giao” ngạc nhiên hỏi Tôi:
      - Tự nhiên sao cười ? Tôi trả lời”
      - Ở tù kiểu nầy sung sướng hơn trở về nhà.
      Chú Quảnh tiết lộ là thân nhân của Chú đã:”… chạy chọt đút lót cho “thằng” Trưởng Ty Công An Hình Sự Cà Mau hết 150 cây vàng rồi…chắc nay… mai tụi mình sẽ được thả dzề rồi…”!!! Thời gian trong tù sinh hoạt hằng ngày Tôi gần gũi với Chú Xưòng, Chú Chảnh nhiều hơn…hai Chú thân thể nhỏ con ốm yếu lại cùng một tóan lao động với Tôi, có lần Chú Xường vác bao gạo bước qua tấm ván gỗ gác từ bờ sông xuống ghe bầu bị trợt chân té nhào xuống sông Tôi liền vất bao gạo xuống mũi ghe, nhảy ùm xuống sông vớt Chú ấy lên, ông chủ ghe bầu thông cãm không làm khó dễ mà chỉ nói:
      - Không sao...không sao...cứ xem như Tôi biếu bao gạo đó cho các Anh...tội nghiệp...thân tù tội...tội tù ...!
      Từ sau đó Tôi-Xường-Chảnh khắn khít như hình với bóng, Tôi thường kể cho họ nghe “Chuyện Tàu” ...và họ khoái tỷ nhất là truyện kiếm hiệp Kim Dung kèm theo lời bàn và phân tích của “Lão Ngoan Đồng” tân thời Tôi về những nhân vật “Ma Giáo” và “Chính Giáo”...cũng nhờ vậy mà ba tháng tù trôi qua vơi “thân tù tội” như Tô Đông Pha bị “biếm quan” phát vãng đi bán “ lục tàu xá, chí mè phủ” trong nhà lao vậy thôi…giấc ngũ đêm đêm còn hương vị thịt quay, bánh hỏi, phá lấu và lạp vị...!!!
      Khởi Nghiệp Nhà:
      (Viết theo lời kể của Chú Xường và Chú Chảnh)
      " Ông Cố Nội của chúng Tôi lập nghiệp ở Chợ Lớn (vào khỏang năm 1860) với một cái gánh mua bán ve chai lông vị, thường ngày thì mua được lông vịt nhiều hơn lông gà vì người Tàu ăn vịt quay nhiều hơn gà.. Khi Ông Nội chúng tôi ra đời thì cái gánh ve chai lông vịt đã trở thành cái "vựa" ve chai lông vị, sau đó trở thành cái "xưởng" làm chổi lông gà, quạt tay và áo che mưa bằng lông vịt, còn ve chai thì cân ký bán sĩ cho một lò rèn làm chai lọ thủy tinh…và cuối cùng là xưởng dệt tơ vải. Trong khi đó, người Em thứ Ba của Ông Cố chúng tôi là Ông Cố Ba làm nghề mổ heo, Bà Cố Ba giữ lại lòng heo làm phá lấu kiểu Dương Châu và cho hai người con trai đội mâm đan bằng mây đi bán dạo...sau đó trở thành quán hủ tiếu duy nhất có bán thịt heo quay, thịt vịt quay, lòng heo phá lấu....Đó là tiền thân của Công Ty Nhà Hàng Bát Đạt nổi tiếng sau này...Khi đến đời Ông Nội chúng tôi (vào khoảng vài thập niên cuối Thế Kỹ 19...1880-1900) thành phố SàiGòn được hình thành với những dinh thự, công sở, khách sạn nguy nga đồ sộ của mấy Ông Tây-Bà Đầm…vùng Chợ Lớn vẫn còn bùn lầy nước đọng ! Đường xá được chính quyền Tây mở rộng ra đến vùng ngoại ô Thủ Đức, Gò Vấp, Nhà Bè, Phú Lâm…huyết mạch giao thông buôn bán chính là ghe thuyền từ các tỉnh miền tây xuôi ngược lên Sài Gòn tấp nập...do đó mới có thành lập Kinh Chợ Gạo (Mỹ Tho). Cơ sở của Ông Nội chúng Tôi phát triển rất nhanh, Bà Nội trông coi cửa hàng buôn bán tơ lụa, có thể nói gia đình chúng Tôi lúc đó như là nhà thầu duy nhất cung cấp: gấm, saten, vải lụa...cho các con buôn “Thực Dân Pháp”...trong khi gia đình Ông Cố Ba đang phát triển các tiệm ăn rập khuôn theo kiểu Tàu: Quán ăn và quán trọ Bát Đạt …Gia đình người Hoa Kiều giàu có nhất trong vùng là giòng họ Mã mà lớp hậu duệ sau này là Mã Sái, Mã Tuyên…Đến đời thân Phụ Mẫu chúng tôi thì gia đình cũng đã khá giả, sáu anh chị em chúng tôi khi lên ba bốn tuổi đã được dạy xử dụng bàn tính của người Tàu một cách rành rọt, chúng tôi học trường Tinh Vỏ, ở nhà nói tiếng Quan Thoại, khi giao tiếp với con buôn thì bằng tiếng Việt hoặc tiếng Tây...Khi Anh Quảnh lấy vợ người Triều Châu thì Ba tôi giao hết chuyện quản trị làm ăn cho Anh và Ba tôi trở thành "Ông Trùm" của "Bang Hẹ"...Anh Xồi được giao trách nhiệm sổ sách kế tóan, còn tôi (Xường), Anh Chảnh và cô em út A Cảo làm chủ ba hảng nhuộm vải ở Cầu Tre Phú Lâm...".
      Lời Kết:
      Qua những câu chuyện kể trên, Tôi không biết có phải vì trả lại 25 đồng mà Chú Xồi đã cố tình đưa dư mà cơ duyên, định số đã đưa đẩy Tôi gặp gia đình “Họ” rồi cộng sinh làm ăn buôn bán với “Họ” trong quảng đời gần bốn năm trong hoàn cảnh cá chậu chim lồng, nỗi lo sợ bất trắc luôn rình rập từng giờ, từng ngày …cho đến một ngày đột ngột rời bỏ quê hương với sự che chở, giúp đỡ tận tình của “Họ” những người Hoa sinh trưởng và lớn lên trên đất Việt đã bao đời…Trong tư cách cá nhân của bản thân thọ ơn sâu dầy mà Người Ân Nhân bất cầu báo đáp…Tôi viết lên Bài Nầy như một trãi lòng Thuỷ Chung Tri Ơn đến Gia Đình Minh Hương đã phát huy và xiển dương được một trong nét Văn Hoá Tinh Thần Trung Hoa cổ xưa là chữ Tín mà đương đại ở “Thế Giới Tân Kỳ Huyền Ảo” những “Bậc” Thượng Đại Nhân đang Ngự trên Tột Đỉnh Quyền Lực đã có mấy ai và chắc gì đã giữ chữ Tín được vẹn toàn…có phải chăng Văn Hoá Đông-Tây không bao giờ gặp nhau ? … đất hạn khát cơn mưa lũ, trời âm u cần ánh sáng của thái dương, của tuy tơ tóc nhưng nghĩa son ngàn trùng…Trong ngôn ngữ lịch sự của người Việt Nam chúng ta gọi người Việt gốc Hoa là: “Hoa Kiều Chợ Lớn”, bình dân thì thường gọi mấy ông là: “cắt chú” , được phiên âm trệch ra từ chữ "Khách Trú" và theo truyền thuyết xa xưa người Hoa thường “đi” qua các thương cảng của Việt Nam để giao thương bằng tàu, thuyền và phải neo ngoài cửa khẩu, chờ cho quan quân Việt kiểm soát xong, mới cho phép nhập cảng một lượt là 3 tàu, thuyền…dần dà thuận tiện quen miệng dân Việt gọi “Họ” là: “Ba Tàu” và phải chăng từ dó mới có danh từ: Chú...Chú Ba Tàu, Chú Chệt,...và sau nầy khi trào phúng thì gọi là “Ba Tàu Chợ Lớn” …xứng danh là gì chăng nữa Họ vẫn là Họ. Họ vẫn giữ phong tục tập quán của Giống Nòi Hán và Văn Hoá Trung Hoa tốt đẹp từ hằng nghìn năm qua cho đến ngày nay....dù đã trải qua từ những Triều Đại: Hán-Đường-Tống-Nguyên-Minh-Thanh…đến quốc nạn “Bát Quốc Phân Thây” và phân nhánh Hồng Kông, Macao, Đài Loan, …toàn lục địa bị chìm đắm dưới họng súng bạo quyền “Thời Đại Cộng Sản” thật là đáng tiếc ! Những người Hoa thiện nhân cho dù sinh sống tha phương ở bất cứ nơi đâu cũng lấy gia đình làm đơn vị căn bản để từ đó vươn lên trở thành "Bang"...nhỏ lớn tùy kỳ thời, tùy kỳ thế, . Cha Mẹ, Anh Em, Vợ Chồng, Con Cái đùm bọc che chở cho nhau, để từ một gánh ve chai lông vịt hay một cái mâm mây bán dạo lòng heo phá lấu …rồi phát triển trở thành những Đại Phú Gia. Sinh hoạt thương trường, giao dịch kinh tế, và những khế ước của họ được thực thi giữ đúng bởi một chữ Tín nhất là trong sinh hoạt các Bang, Phái đã có tự xa xưa…Đức tánh tốt của họ là cần cù nhẫn nại, chắt chiu dè sẽn dành dụm, không quản ngại nghề nghiệp lớn nhỏ, sang hèn, không khoe khoang xa hoa phung phí…quí chuộng việc buôn bán làm trọng, thường khởi nghiệp từ việc buôn bán nhỏ từ từ đến buôn bán lớn rồi phát triển trở thành công ty, xí nghiệp, hảng xưỡng,…Nhưng người Hoa sinh sống ở Việt Nam trong suốt Thế Kỷ 20 chưa và không có một dịch vụ hoặc hình thành nào liên quan đến công nghiệp nặng chỉ chú trọng về việc trao đổi buôn bán hàng tiêu dùng gia đình . Họ tích lũy tài sản theo truyền thống cha truyền con nối, cho đến khi sự tích lũy tiệm tiến này trở thành một gia sản khả dĩ có thể trở thành một hội viên trong hệ thống thương mại lớn của các Bang, Phái…Dĩ nhiên trong sự buôn bán làm ăn sẽ có nảy sinh sự cạnh tranh giành giật để được lợi nhuận và ít khi xẩy ra trong cộng đồng của họ. Nhưng nếu có, họ thường giải quyết trong nội bộ, ít khi để đến cửa quyền tranh tụng nhờ luật pháp can thiệp, họ không thích tranh tụng kiện cáo, có những trường hợp liên quan đến pháp luật chính quyền thì Bang của họ thương lượng để mọi việc “trôi qua”, sau đó họ giải quyết nội bộ bằng những biện pháp chế tài, cô lập vì "Bất Tín", nặng nề lắm mới có vụ thanh toán. Gia đình hay cá nhân nào phạm vào chữ Tín thì chỉ có nước đi ăn mày!
      Ngày nay Trung Hoa lục địa (Trung Cộng), Đài Loan, Hồng Kông, Ma Cao...đều có chính quyền riêng, người dân sinh ra, lớn lên học hành thành đạt từng bước… từng bước họ tham gia chính quyền từ hạ đến thượng tầng cơ sở. Nhưng đối với người Hoa Kiều ở hải ngoại (theo sự hiểu biết của Tôi) như Việt Nam, Châu Mỹ, Châu Âu, Châu Úc...Họ không muốn tham gia vào chính quyền dù có mãi lực “đồng tiền có thể mua tiên cũng được” . Thí dụ như ở Indonesia, người Hoa Kiều chỉ có khoảng 3% dân số mà nắm giữ 70% tài sãn của đất nước này và tài tình sở trường của họ mà chúng ta phải “khâm phục” là họ xử dụng mãi lực đồng tiền đút lót, mua chuộc làm thân với những giới chức chính quyền sở tại một cánh trơn tru êm thắm và điều phối sinh hoạt cộng đồng Hoa Kiều có tôn ty trật tự cũng nhờ ở các Bang, Phái và “Luật” của Bang không khác gì xã hội đen Mafia…Nhưng áp dụng để trừng trị kẻ gian bội Tín rất nghiêm khắc chắc chắn hơn phim ảnh God Father của Ytaly rất nhiều. Nhiều người cho rằng "Ba Tàu" hay bắt chước làm đồ giả, điều đó hẳn nhiên vì thực tế trên thương trường đi sau, tụt hậu, bị các đại cường tân tiến chiếm hữu thị trường béo bở, thế yếu không còn thời gian cạnh tranh nên họ áp dụng “tính xấu” là: "Cứu Cánh Biện Minh Cho Phương Tiện"...!!! Âu cũng là phương thức cạnh tranh để được sống còn với Đại Thế Lực Liên Minh Toàn Cầu…!!! Nhưng Made In China ngày nay đã trở thành vấn nạn và là tai hoạ cho những ai ưa chuộng vì tiện lợi và giá thành phẩm rẽ …uy tín China trên thương trường thế giới bị đánh giá thấp, độc hại phải cảnh giác…! Nhân phẩm, tư cách tốt đẹp của người Trung Hoa bị thách thức và đang bị phản tiến hoá trên chiều hướng là Người và Làm Người có Văn Hoá hướng thượng…Đức Vạn Thế Sư Biểu Khổng Phu Tử có sống lại cũng bị con cháu hậu sinh của Ông “mần thịt” hoặc tống cổ vào trại tù hoặc nhốt vào nhà thương đìên, may mắn thì có thể lang thang đầu đường xó chợ rao bán thuốc dán độ nhật qua ngày…Hãy truy tìm tài liệu và thậm thâm suy xét những “người” Trung Hoa tiêu biểu cao thượng, đại gia, đại phú gia địch quốc mà tích sản tiền muôn, bạc tỷ, danh tiếng trên thế giới và được hằng tỷ Người Trung Hoa đương thời ái mộ, đề cao như những người trong gia tộc họ Tống điển hình như Tống Tử Văn sinh sống tại Mỹ,…Chúng ta sẽ nhận biết là hầu hết những lớp “người ưu tú” thượng lưu của Trung Quốc tương tự, đã và đang sống trên những quốc gia tân tiến Âu-Mỹ được ưu đãi… cũng chỉ để “góp công, góp sức” để tóm thu tài sản của Trung Quốc làm giàu cho xứ người…và trở thành “Đại Hán Gian” trong Đại Âm Mưu Thực Dân Mới “Build Up”và xử dụng người bản xứ thu lợi và thống trị trong “quyền lực mềm” thiện xảo…có mấy ai là người Trung Hoa Trí Tuệ đã “Nhìn” thấu suốt trong “bóng tối” bản chất của sự việc “Nhân Vật Chí” thời qua không ? Hiều biết tấc sẽ “thương hại” Trung Quốc vô cùng …! Suy việc “người” gẫm chuyện “mình” Việt Nam cũng có điều tương tự như vậy và đã từ hơn 300 năm qua…Những “Nhà” ái quốc có tinh thần Quốc Gia không thành công trên phương diện Chính Trị, Lãnh Đạo Đất Nước mà phải bị, chịu thế cô và bọn khuyển mã tay sai của thế lực ngoại bang đè đầu cưỡi cổ, định phận cho mãi đến hôm nay…? Không phải Dân Tộc Việt Nam không có Anh Tài. Nhưng qua “Nan Hành Khổ Hạnh” suy xét cổ kim…nhận chân chẳng qua là Người Việt Quốc Gia không có “Chủng Tử Việt Gian” trong huyết thống giống dòng Chân Chính, khinh bỉ Việt gian, không có tư chất Việt gian, không có “khả năng” để làm Việt gian, không có thể đóng vai Việt gian…nên “cây thẳng chết đứng”…! Ngày nay với thành quả kinh tế được đánh đổi bằng mồ hôi, máu, nước mắt của người công nhân lao động Trung Hoa trong những nhà máy, khu chế xuất …và là bãi rác công nghệ, đất đai môi trường bị nhiễm độc chất phế thãi, huỷ hoại môi sinh và con người đáng báo động cuộc “Tử-Sinh” Trung Quốc Đương Đại …Nếu Trung Quốc không biết áp dụng kỹ thuật dụng “Khí Ozone” là thành quả của Công Nghệ Sinh Hoá để làm sạch môi trường thì quốc gia nầy sẽ tệ hại không lường…! Quả thật qui luật cạnh tranh sinh tồn của những “Nhà” lãnh đạo các quốc gia cường thịnh, tân tiến đã thiết kế di dời nhà máy kỷ nghệ, chuyển vùng sản xuất để tận thu lợi nhuận kinh tế nhiều hơn mà thôi…! Trung Cộng với tích kim dồi dào, xây dựng quốc phòng, phát triển quân đội, gây chiến, chiếm đoạt lãnh thổ, lãnh hải, đảo quốc của những nước nhược tiểu lân bang…Trung Cộng đã bị “Chính Trị Lộ Tuyến”, phát hiện âm mưu sẽ xâm lược thế giới, thống trị danh hoàn trong tương lai khi cường thịnh… hiện trở thành “Công Địch” của Thế Giới và với “Hoạ Tiêu Tường” từ bên trong nội bộ Đảng, vấn nạn quyền lợi kinh tế phân bố không đồng đều, khoảng cách giàu nghèo quá ư chênh lệch, cán bộ, quan chức tham nhũng tràn lan, quân đội mua quan bán chức, người dân vô cãm với từ thiện, hành hồ chi bản năng, lợi thân chi bần tiện …!
      Thế sự vô nan giải
      Đáng hiềm vô Đại Nhân.
      Nếu Trung Quốc có Đại Nhân với Đại Trí, Đại Hùng, Đại Phương Lược Mưu Sự Phúc Lợi Cho Nhân Sinh Trên Tiến Trình Nhân Chủ...thì hà tấc và xá gì vài ba hảo đảo nhỏ bé phụ hệ của các quốc gia lân bang nhược tiểu…mà phải bá đạo cưỡng chiếm cho Hư Đại Sự…Đại Nhân thì Đại Trí và là Đại Phương Lược, Đại Nhân Ái …”Ta” sẽ không cần thu phục mà cả Á Châu nầy thuộc về “Chúng Ta” và là “Của Ta”…sức nặng của sợi tóc cũng có thể làm nghiêng lệch cán cân bằng đối trọng là ở Đại Trí mà thôi ! Trung Cộng đã “dụng” hạ sách lược đối với Á Châu là “thiểu trí chi hoạ” …! “Thực Dân Da Trắng” với những vũ khí tân tiến: súng đạn, phi cơ, tàu chiến…là thành quả của những bộ óc thông minh của giống “Xanh Ngươi” ưu việt …đã vượt đại dương xâm chiếm đất nước, của cải, tài nguyên và giết hại người dân bản xứ Đông Nam Á từ trăm năm...vài trăm năm qua…! Do vậy “nạn nhân Á Châu” đã e dè, cảnh giác và luôn gờm “người khách” oan khiên không mời thời qua…và chắc chắn cho dù giới lãnh đạo của những quốc gia nhược tiểu Á Châu có bị mua chuộc, khuynh loát bởi đại cường Trung Cộng hà chính…thì chính người dân sẽ trường kỳ chiến đấu để giành lại sự vẹn toàn Đất Nước-Dân Tộc (Lịch Sử Việt đã chứng minh từ nhiều ngàn năm qua). Nếu Trung Quốc có Đại Nhân, Đại Trí, Đại Hùng, Đại Phương Lược Mưu Sự Đại Nhân Ái…thì “Người” sẽ qui tụ về với “Ta” và “ Tập họp nước nhỏ đánh nước lớn là Vương Đạo, Tập họp nước lớn đánh nước nhỏ là Bá Đạo”.Trung Quốc đã không Học và Thể Nghiệm từ Chân Văn Hoá Trung Hoa đã sẵn có tự bao thời…Đáng tiếc thay !!! Nên:
      Công tội giã kỳ Xuân Thu chi hồ…!!!
      Còn Người Việt Nam mình ???!!!
      Trải qua 100 năm dưới sự đô hộ thực dân France, 30 năm với sự hiện diện của Mỹ (1954-1974)…Ngày nay Dân Việt bị trong nước bi bạo quyền Việt Cộng cai trị “hà chính ư mãnh hổ”…! Tại hải ngoại có gần 4 triệu người Việt đang định cư sinh sống và thăng tiến thành công khả quan tốt đẹp…Nhưng trong chúng ta cũng đã có bao nhiêu người trước và sau “Cuộc Đổi Đời” vẫn vì miếng đỉnh chung danh lợi thực-ảo …đã bất nhân, bất nghĩa, bất tín, bất lương và nhiều bất…đang hoạt đầu chính trị, phân hoá Người Việt đến tận cùng của thãm hoạ chia rẽ và có Vĩ Nhân nào có thể xuất thế để Phục Hưng, Phục Hoạt cho Dân Tộc-Đất Nước Việt Nam…?
      Hỡi những “vĩ nhân” họ Đỗ tên Thừa đang đăng đàn với cương lĩnh nguỵ biện:
      Họ đỗ thừa cho Chế Độ Miền Nam Việt Nam có nhiều tham nhũng…!
      Họ đỗ thừa cho Xã Hội Tây Phương làm cho Tam Cương Ngũ Thường đảo lộn…!
      Nhưng Họ không bao giờ dám “đỗ thừa” cho chính mình: Ta là kẽ vong bản, vong thân, vong quốc…! May quá !... Tôi học được thêm những bài học sơ đẳng từ gia đình Chú Quảnh và tự hỏi còn có bao nhiêu “Gia Đình Người Việt Gốc Hoa” như thế trong cộng đồng người Trung Hoa đang sinh sống trên đất nước Việt Nam thân yêu cho dù đang sống dưới chế độ “chó má” Việt gian bán nước …? Đêm đêm chong đèn “diện bích” tự quán xét “Bản Lai Diện Mục” chính mình ôn cố tri tân tìm trong “Cảo Thơm Lần Giở Trước Đèn” học nghiệm qua cảnh ngộ, trường đời ba chìm bẩy nổi “Quân Tử Thức Tự Đa Ưu Hoạn”…nên cố tránh và khước từ tam vong nói trên, mạn bút viết nên đôi dòng đóng góp thêm cho Đời chút “cỏ thơm” chủ quan khiếm khuyết…mong lượng thứ… Kính thay.


      Trương Văn Út (MũĐỏÚtBạchLan, Lão Ngoan Đồng,“Trần Chỉnh”)

      Comment


      • #4
        Đại Đội 3-Tiểu Đoàn 81 Biệt Cách Nhẩy Dù (LLĐB)

        Đại Đội 3-Tiểu Đoàn 81 Biệt Cách Nhẩy Dù (LLĐB)

        Trương Văn Út (MũĐỏÚtBạchLan)

        Đầu Xuân vẫn tay súng
        Giầy nhà binh bết bùn
        Nhìn én lượn không trung
        Ngày Xuân ngàn mai nở
        Thôn xóm pháo đì đùng


        Chiếc xe Jeep láng coóng của Phòng Tổng Quản Trị Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt chở chúng tôi, ba tân Thiếu Uý khoá 22 Võ Bị Đà Lạt vừa đậu lại bên trước bậc tam cấp của Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 91Biệt Cách Dù (BCH 91 BCND) thì đã có vị Sĩ Quan của đơn vị đứng chờ sẳn đón chúng tôi với tay bắt, mặt mừng thân thiện và tự giới thệu:
        -Tôi là Đại Úy Nguyễn Quang Vinh Tiểu Đoàn Phó, khóa 14 Đà Lạt, các Anh vào đây, Thiếu Tá đang chờ…!!!
        Chúng Tôi bước vào văn phòng làm việc của vị Tiểu Đoàn Trưởng, văn phòng rất đơn sơ, phía sau bàn làm việc là cây cờ của Binh Chủng LLĐBVN và hiệu kỳ TĐ91BCND, với năm ba ghế sắt kê sát hai bên tường. Ba chúng tôi đồng loạt chào tay và đứng thẳng người, cằm gặp ba ngấn đúng quân cách… Ông đứng lên, tay xếp lại hồ sơ quân bạ của chúng tôi đang có sẵn trước mặt,đi vòng qua bàn làm việc nghiêm nghị chào lại chúng tôi và nói :
        -Thôi, bỏ tay xuống đi, ngồi xuống đây...ngồi xuống. Các anh Khóa 22 hả ? Tên tôi là Lê Như Tú, Khóa 11Đà Lạt, còn đây là anh Vinh, Khóa 14Đà Lạt. Chúng Tôi rất vui mừng khi nhận công điện của Bộ Tư Lệnh báo cho biết các anh sẽ được bổ nhiệm về đơn vị nầy, mặc dù đích thân tôi đã xin trước 6 người nhưng chỉ được có 3…! Thôi như vậy cũng mừng lắm rồi…!!! Hôm nay là ngày 22 Tết,đơn vị đang nghĩ dưỡng quân và tôi được biết chắc chắn là chúng ta sẽ được ăn Tết ở hậu cứ… Vì lệnh ngưng bắn sẽ có hiệu lực từ 12:00 giờ trưa ngày 30 Tết cho đến 12:00 trưa ngày mùng 3 Tết. Ông vẫn ngồi bên cạnh chúng tôi trên cái ghế sắt cũ kỹ rĩ sét, Ông nữa như tâm sự, nữa nhưtrình bày một số vấn đề liên quan tới đơn vị, rồi dẫn chúng tôi qua các phòng bên cạnh giới thiệu các Ban của Bộ CHTĐ, đi một vòng doanh trại chỉ dẫn...đây là ĐĐ3, ĐĐ4, ĐD5, và ĐĐ6 đang thành lập, còn ĐĐ1, ĐĐ2 thì ở bên trại Nguyễn Văn Tân (trại Đằng Vân cũ) cùng với TTHLHQDelta….Kết thúc hai chiếc xe jeep của ĐĐ1 và ĐĐ2 đưa 2 tân Thiếu Úy: Đặng Thiện Chẩn và Huỳnh Kim Tiễn về đơn vị, còn tôi được chỉ định theo Trung Úy Nguyễn Đăng Lâu trình diện Trung Úy Trần Hoạt Thành (ĐĐT-ĐĐ3) ở doanh trại nằm sát bên cạnh Bộ CHTĐ đối diện cuối phi đạo phi trường Nha-Trang. Giữa tôi và anh Nguyễn Đăng Lâu (K/21 ĐL) chẳng xa lạ gì, khi còn ở trong trường Võ Bị Đà Lạt, anh là SVSQ Cán Bộ Ban 5 của LĐ và cũng là Trưởng Ban Phát Thanh của trường. Tôi cãm thấy hân hoan vui thích vì mới vừa ra trường, được về đơn vị có nhiềuđàn anh "Niên Trưởng" chăm lo rồi…! Vì hơn ai hết, chúng tôi hiểu và biết thế nào là tình đồng môn xuất thân từ một trường mẹ (VBĐL). Sau khi trình diện TR/U Thành (Khoa11TĐ), anh Lâu dẫn tôi xuống doanh trại, giới thiệu các SĩQuan Trung Đội Trưởng, ...Thiếu Úy Dương Thiên Ngô, La Lưu Ý, Nguyễn Anh Phong, Nguyễn Khóat Hải, Đinh Văn Tiến Hùng,Đặng Văn Nam,... rồi tới các Hạ Sĩ Quan mà anh Lâu kề tai nói nhỏ với tôi: "… đây là mấy ông thần nước mặn bán trời không mời thiên lôi… " Ba Bứng, Thạch Sương, Thạch Ri, Kim Sua, Kim Chơi,... Buổi chiều cùng ngày, Thượng Sĩ Mười (thường vụ) mời tôi ra nhà trại gia binh nằm phía sau BCH,ăn bửa cơm tối với những đồng đội tác chiến đầu tiên trong đời binh nghiệp của tôi…với những “Ông Thần” vừa kể trên “chơi” hết 2 chai Black and White và mấy dĩa lòng heo chấm mắm tôm…!!! Tôi quắc cần câu, gần như “bất tri hà sự”, Ba Bứng, Thạch Sương cỏng tôi về doanh trại nữa đêm về sáng.

        Ngày hôm sau, anh Lâu hỏi:
        -Hôm qua có vui với tụi nó không?
        -Dạ vui…!!! Nhưng suýt bỏ mạng…!
        -Anh bị tụi nó thử lửa đó, nhập gia tùy tục, nhưng phải nhớ nhập giang phải tùy khúc, vì vậy cái ĐĐ nầy mang tiếng là "Quậy" nhất của TĐ và cũng mang tên là ĐĐ bị đày đó. Sáng nay Tr/U Thành và Tôi được báo cáo đầy đủ bửa tiệc lòng heo đêm hôm qua, tụi tôi vui lắm cứ cười ha hả và yên tâm với cái phong cách “giang hồ hảo hán” của anh có thểkhắc phục tụi nó dễ dàng…Vì trước đây có nhiều SQ chịu không nỗi phải xin thuyên chuyển đi nơi khác vì bị chê là cù lần, hách dịch mà lại nhát như thỏ, thượng đội hạ đạp…!!! À… thì ra là thế! … vô tình tôi đã có một "anhdũng bội tữu " được mấy “ông thần” lãng tử biên thuỳ khoái tỷ so cựa đàn anh “Sĩ Quan Sửa” đêm hôm qua có vẽ “ngầu” chơi được…và “tương kính như tân” nên hai “Ông” Hạ Sĩ Nhất tình nguyện đưa lưng cỏng “Quan” về trại…!!!
        Theo lệnh ngưng bắn, đơn vị được xã trạiđón giao thừa Tết Mậu Thân. Anh Lâu rủ tôi về nhà anh ăn bửa cơm cuối năm với gia đình, Ông Bà Cụ thân sinh và cô em gái, hình như có mặt của Đinh Văn Tiến Hùng, sau bửa cơm, anh cho tôi mượn chiếc xe Vespa của anh rong chơi thành phố…Tôi chẳng có thân nhân, chẳng có bạn bè thân thích, về lại doanh trại thì chỉ loe ngoe chục binh sĩ độc thân đấu láo, tôi ghé cư xá Tổng Hành Dinh tán gẫu với mấy cô Nữ Trợ Tá Xã Hội của BTL, hầu hết họ đã được đi phép vể gia đình ăn Tết vui Xuân, chỉ có Trung Sĩ Ngô Túy Lan còn ởlại đơn vị, cô yêu cầu tôi chở ra Chợ Đầm mua ít hoa quả về đón giao thừa, chợchiều ba mươi Tết vắng tanh, nhưng lùng sục một lúc cũng kiếm được một bó hoa mẫuđơn và trái dưa hấu, vài hộp mức cho có lệ. Hai tâm hồn cô đơn “xa quê hương nhớ Mẹ hiền”, đốt vài nén nhang, ngồi trước mái hiên chờ tiếng pháo giao thừa trong tĩnh lặng không lời…! Tôi từ giả, định trở về trại, Cô nói:
        -Thiếu Úy, nghĩ ở đây đi, nằm trên giường của chị Bé Tư nè (Bé Tư là Trưởng Phòng Xã Hội-BTL ), ngày mai tôi nhờ Thiếu Úy chở đi Tháp Bà xin xâm…?
        Tôi ngần ngừ không trả lời, vẫn ngồi yên trên cái ghế thấp trước hiên nhà, chợt nghĩ :”…năm nay dân Nha Trang ăn Tết lớn”…!!!mãi tới 2 giờ sáng mà tiếng pháo vẫn còn đì đùng khắp nơi…!!! Ở đây tôi và Lan cảm cảnh “Xuân Nầy Con Không Về” …! Chạnh tình Lan kéo chiếc ghế xích lại gần nhè nhẹ ngã đầu vào vai Tôi, ánh mắt đen huyền nhìn lên bầu trời khuya lơ lững ánh sáng hỏa châu chiếu rọi và rồi tiếng động cơ L19 bay lượn vòng vòng thả trái sang với tiếng loa phóng thanh từ trên không vọng xuống :
        " Tất cả các quân nhân đồn trú thuộc Quân Trấn Nha Trang, bằng mọi phương tiện phải trình diện đơn vị ngay tức khắc, và cũng ngay lúc này lệnh giới nghiêm được ban hành toàn Thị Xã Nha Trang đến khi có lệnh mới "…
        -Thiếu Úy chuyện gì vậy…? . Túy Lan hỏi Tôi.
        -Tôi không biết…! Lệnh phải trở về trình diện ngay tức khắc, và cũng là lệnh giới nghiêm…Mình chờ chút nữa xem sao ?
        Loa phóng thanh từ chiếc L19 bay lượn quanh, vẫn lập đi lập lại nhiều lần cảnh giác…Nhưng tiếng pháo từ tứ phương đông tây nam bắc vẫn tiếp tục nổ đì đùng vang dội xen lẫn với tiếng súng Ak của VC nổ từng tràng… Thôi, như vậy là có biến rồi, từ cư xá này đến BTL chỉ khoảng chừng 500 mét...? Tôi bất chấp lệnh giới nghiêm nói với Túy Lan :
        -Tôi phải đi ngay.
        -Thiếu Úy chờ một chút ?
        Cô vội vảthay quần áo nhà binh, nhẩy lên sau chiếc Vespa, tôi nổ máy phóng vội về BTL. Việt Cộng đã tấn công toàn thể Thị Xã Nha Trang đúng vào lúc giao thừa.Tình hình an ninh của Thị Xã đang đặt trong tình trạng báo động khẩn cấp, ngay cả Thiếu Tướng Đoàn Văn Quảng, Tư Lệnh LLĐB, kiêm Quân Trấn Trưởng cũng chưa biết chắc chắn những gì đang xãy ra trong đêm Giao Thừa loạn lạc nầy, Ông chỉ biết VC đang đột xuất tấn công Nha Trang…?! Tôi phải đợiđến 5 giờ sáng, một xe GMC đưa khoảng vài chục binh sĩ về lại TĐ91BCND, Thượng Sĩ Mười, thường vụ ĐĐ vừa nhảy xuống xe, chạy vội tớiđôn đốc binh sĩ chuẩn bị tác chiến và đưa cho tôi cái áo giáp, khẩu súng Colt45 và cây Carbin M2 bá xếp với giọng nói không còn bình tỉnh như thường ngày và hốt hoảng :
        -Thiếu Tá Tú TĐT, Trung Úy Tùng ĐĐT/ĐĐ4 đã tửtrận, Trung Úy Thành ĐĐT của mình bị thương nặng, đã được đưa vào bệnh viện Nguyễn Huệ, Trung Úy Lâu vừa rời khỏi đây chừng nữa giờ…! Thiếu Úy lên xe cùng với mấy anh em, đường Duy Tân còn an ninh, không nguy hiểm lắm, cứ chạy thẳng đến Dinh Tỉnh Trưởng Khánh Hòa thì gặp Trung Úy Lâu ở đó… Nhớ lời Tôi dặn, tìm Ba Bứng, Thạch Sương, Kim Chơi và ở bên cạnh tụi nó… Thiếu Uý đừng nỗi máu anh hùng rơm mà bỏ mạng…!
        Tôi bàng hoàng và cảm động muốn rơi nước mắt ! Suy nghĩ vừa mới tốt nghiệp Võ Bị với hành trang lý tưởng nào là: Tổ Quốc – Danh Dự - Trách Nhiệm, Cư An – Tư Nguy , Tự Thắng để Chỉ Huy …mà hiện tại bây giờ đang đứng trước hoàn cảnh bất chợt phải “ba quân trong tay ta” xông lên tử chiến với quân thù “sinh Bắc tử Nam” với nhiều huyền thoại từ những “nhà” phóng viên, báo chí truyền thông Âu-Mỹ phản chiến, thân Cộng rêu rao thổi phồng chúng như đoàn quân thiện chiến nhất hành tinh nầy vậy …! Biết thế, nhưng tôi vẫn có nhiều bất an và hình như tôi đang quênđi hết những gì được thụ huấn trong quân trường…?! …hiện trạng tôi chỉ có vâng lời người Thượng Sĩ già lớn tuổi hơn mình, đã trải qua bao nhiêu năm chiến đấu trên khắp mặt trận, dầy dặn kinh nghiệm chiến trường … Bất chợt tôi choàng tay ôm TS Mười xiết thật chặc thân tình rồi lên xe, nhìn đồng hồ đang 6:30 giờ sáng ngày mùng một Tết, tôi dẫn quân lên đường và sau cùng cũng tìm đến được Bộ Chỉ huy Tiểu Đoàn, gặp anh Trung Uý Lâu ở phía sau bên cạnh bờ tường của Dinh Tỉnh Trưởng Nha Trang. Anh bảo tôi:
        -Anh lách qua bên phải gặp Trung Đội 1 và 2 bên đó…hãy cẫn thận, chết và bị thương nhiều lắm rồi…! Bảo thằng HSN Bảo đưa cái máy PRC25 cho anh… Anh mang nó vào lưng và liên lạc trực tiếp với Tôi.
        Tôi lom khom chạy sau bờ tường gặp ngay cái nhóm mắc dịch” lòng heo và Black and White” đang nốc rượu đế từ cái bi đông chuyền tay, Kim Chơi nhoài người đạp tôi một cái ngã nhào xuống đất, bên trái là hai chiếc thiết vận xa đang hụ máy sắp sữa ủi hàng rào tấn công vào Bộ ChỉHuy Tiếp Vận 5. Kim Chơi cười cười, Kim Sua nói :
        -Cha nội, lúc này là phải bò, phải trường, cứtưởng đang đi dạo phố thì đi đời nhà ma đó cha nội…!!!
        Hai chiếc thiết vận xa vượt hàng rào bắn phá ...Òanh, Òanh,Òanh...rồi một chiếc bị lảnh một trái B40, cài số de, ủi sập bờ tường, cán lên cả BCH/TĐ, làm cho Đại Úy Nguyễn Quang Vinh TĐP bị giập xương sống, phải tản thương khẩn cấp…! Trung Uý Lâu lòm còm bò lê, bò lết hồn phi phách tán…Oành, Oành, Oành… Tôi cảm thấy tay trái tê buốt, nhìn qua thấy máu tuôn xối xã cả cánh tay trái. Ba Bứng nóng mặt hét to: " ĐM chơi luôn " hai tay ôm cây đại liên 30 không có càng nhào lên, “cái Bang” trại gia binh cùng nhào lên theo…. Ôi…! Nó tuyệt vời làm sao, như đang xem phim đổ bộ bờ biển Normandi: Tám chàng lính Miên, lính Nùng, lính Thượng…lom khom chạy nước rút bám được vào chân tường phía trước của Bộ Chỉ Huy TV5, Kim Chơi vói tay quăng trái lựu đạn lọt qua lỗ hổng của khung cửa sổ, trái thứ hai, trái thứ ba… Thạch Sương ngồi xuống làmđiểm tựa để cho Kim Chơi nhảy đứng thẳng lên vai, Thạch Sương đứng dậy để cho Kim Chơi mượn đà nhẩy qua cữa sổ vào phòng, cứ thế 8 cãm tử quân yên hùng lao vào chiến trận cứ như "điếc không sợ súng " xem “mạng sống nhẹ tựa lông gà” khinh địch như n’est ce pas dưới quyền chỉ huy của Trung Sĩ Nhất Nguyễn Văn Thành, trong chớp nhoáng 8“ông thần bán trời” đã xâm nhập vào “hang ổ” VC như chỗ không người, tuyệt vời hơn phim ảnh Hollywood đang trình chiếu toán Navy Seal hay Delta Force của Mỹ đang thi hành công tác đặc nhiệm…!!! Trung SĩNhất Tiên (y tá) đang băng bó vết thương ở cánh tay trái của tôi, thì Tr/U Lâu cũng vừa đang "bò" tới dưới hoảlực của cây thượng liên VC đang bắn nổ dòn dã trên những cửa sỗ lầu hai. Anh ra lệnh :
        -Trung Sĩ Tiên, đưa Thiếu Úy Út ra phía sau và tản thương ngay.
        Hai năm trong trường VBĐL, chúng tôi chỉ thực tập tác chiến trên chiến trận giả, bắn súng thật với đạn giả, chạm địch-bạn cũng giả…Nay mới về đơn vị chỉ vỏn vẹn có 5 ngày (thâm niên) chưa có chức vụ gì dù là Tiểu Đội Trưởng, ngơ… ngơ… ngáo… ngáo như Mán về thành, loay hoay không biết phải làm gì…trong khi những tay súng thiện chiến lỳ lợm cự phách, già dặn, tinh ranh trận mạc “đánh như chơi” như game of death , giởn mặt với tử thần chung quanh mình “oánh giặc” như đang diễn tuồng xiếc…!!! Không cần đợi lệnh, những “Kinh Kha Việt” tân thời gan dạ thành thạo xông vào màng lướiđạn pháo bắn như rãi…thái độ ung dung hổ trợ nhau, vai sát vai lìền lạc tấn bước bám từng góc nhà, bờ tường len lõi thanh toán xoá sổ từng tổ, từng chốt …không một tiếng hô xung phong và cũng không cần phải chờ hiệu lệnh chỉ huy, họ biết tựgiải quyết những tình huống sinh tử cho chính bản thân và nếu chẳng may ngã xuống tại trận tiền ví nhưthua một cây “phé”, lỡ một nhịp đời chịu đựng cơn đau xé trời xanh, hồn bay bổng theo tiếng súng như cợt đùa với nhân gian phùng thời khói lửa chiến chinh. Nhưng sau chiến trận nghiệt ngã vợ con, thân nhân của Tử Sĩ là cả một trời thực tế đau thương…!!!. Vâng, chính Họ là những Hạ Sĩ Quan và Binh Sĩ thuộc Đại Đội 3 TiểuĐoàn 91 Biệt Cách Dù đã cùng tôi chén thù, chén tạc “nhậu” tới bến với “ông già chống gậy” Black and White chỉ mới vài ngày qua ở trại gia binh.
        Thị Xã Nha Trang và các vùng lân cận đã được giải toả hoàn toàn trong khoảng thời gian hai ngày. Tôi nằm ở Bệnh Xá THD/LLĐB theo dõi tin tức hằng ngày và biết ở các Tỉnh, Thành khắp nơi cũng tình trạng tương tự như thế …và đặc đến khó hiểu là toàn bộ lực lượng Quân Đội Mỹ trong những ngày đầu Chiến Trận Mậu Thân 1968 có lệnh án binh bất động không can thiệp, không chạm súng với VC, như đã có thoả uớc bí mật, nếu không nói là đã âm mưu, đồng loã hổ trợ ngầm cho VC lợi dụng tình trạng hưu chiến để tấn kích Quân Dân miền Nam ngõ hầu chiếm đoạt và tận diệt thể chếTự Do Việt Nam Cộng Hoà…?! Tôi được xuất viện, trở về trình diện ĐĐ, Tr/U Lâu giờlà Quyền ĐĐT/ĐĐ3, Đai Úy Wòong A Si ĐĐT/ĐĐ4, Đại Úy Khánh Cao Bồi là Quyền TĐT.
        Trong phòng thuyết trình hành quân, Tr/U Lâu ban lệnh:
        -Bây giờ là 9 giờ, chúng ta chỉ còn hai tiếng đồng hồ nữa để ra phi trường, chuẩn bị 3 ngàyăn (Ration C), đi đâu và làm gì sẽ có lệnh sau, Th/u Út giữ chức vụ Trung Đội Trưởng Trung Đội súng nặng kể từ giờ phút này… Thôi các Anh về lo cho Trung Đội đi.
        Vì Quân Đội Mỹ chưa có lệnh tham chiến, cho nên chúng Tôi nhẩy bằng CH34 của Phi Đoàn 215 Không Quân Việt Nam đảm trách chuyển quân thả chúng tội thâm nhập Mật Khu Đồng Bò nằm phía Bắc thành phố Nha Trang chừng chục cây số, xa nữa là khu vực trách nhiệm của Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn… Chúng tôi bố trí hành quân thần tốc tảo thanh truy lùng cán binh Vc từng khu vực mãi cho tới 3 ngày đêm chỉ chạm súng lẻtẻ vô sự như đi cấm trại, chẳng có gì đáng kể… Nhưng tôi có dịp chỉ huy, tiếp xúc làm thân quen biết thêm được Binh Lính củađơn vị và những biệt tài sở trường của mấy “ông thần” Black and White như : Kim Sua xử dụng súng cối bằng đầu gối, Ba Bứng, Thạch Sương xử dụng đại liên 30 không cần càng, Y Khương hai tay xử dụng Garant M1, phóng lựu một cách chính xác như thẩy lỗ (thời điểm này TĐ91BCND chưa được trang bị súng tự động M60, AR15, M16, M79)..!!!
        Cuối tháng 2-1968, Trung Úy Huỳnh Văn Thanh thay thế Trung Úy Nguyễn Đăng Lâu, Thiếu Tá Trần Phương Quế làm Tiểu Đoàn Trưởng. Trung Tâm Hành Quân Delta, TĐ 91BCND (chỉ có 3 ĐĐ1, ĐĐ3, ĐĐ5) được một phi đoàn trực thăng 281 không số, không cờ, không huy hiệu của Quân Đội Hoa Kỳ không vận ra Phú Bài, Huế tham dự Hành Quân Delta 35, trong tình trạng thành phố Huế đang dần dần phục hồi sau hoang tàn đỗ nát và Thành Nội, Kỳ Đài còn ghim đầy dấu đạn… Cuộc hành quân dã chiến tại Huế đã ổn định xong, 3 ĐĐ được phi đoàn 281 trực thăng vận bốc thẳng vào ngay thung lũng Ashau, Alưới thả xuống hành quân tảo thanh truy kích địch tiếp tục…Tính ra kể từ ngày ra trường cho đến hôm nay đây mới đúng nghĩa là cuộc hành quân của TĐ91BCND/LLĐB. Ngồi trên trực thăng UH1B, truớc sau đội hình bay là một hàng dài trực thăng nối tiếp nhau với tiếng động cơ và cánh quạt phành phạch xé gió lao vào vùng hành quân, tôi nôn nao thầm đếm không biết bao nhiêu chiếc nữa, bên hông trái phải là 4 chiếc Cobra Gunship trang bị hoả lực kinh hoàng oai dũng , uy vũ như thiên thần hung tợn bay lượn tới lượn lui mở đường, hộ tống bảo vệ đội hình và sẵn sàng phóng tối đa lướiđạn, hoả tiễn vào mục tiêu đối đầu…Bổng dưng tôi nhớ đến bài hát Biệt Kinh Kỳ "giữađoàn hùng binh có Tôi đi hàng đầu, trở về thủ đô nắm tay ta mừng vui..." và niềm kiêu hảnh vô hình đang dâng trào lên lồng ngực, tôi vỗ vai thân thiện Ba Bứng đang ôm chặc khẩu đại liên 30 không càng. Trực thăng đỗ quân trên bãi đáp là một địađiểm hình yên ngựa thoai thoải, Gunship bay lượn quanh vùng để hổ trợ, binh lính ĐĐ3 túa ra thành thạo tự sắp xếp đội hình tác chiến, từng bước, từng bước dọ dẫm tiến lên ngọn đồi trước mặt, ĐĐ1 và ĐĐ5được đổ xuống khoảng 15 phút sau đó. Vì là Trung Đội Trưởng súng nặng nên Tôiđi bên cạnh Tr/U ĐĐT HVThanh, ba trung đội kia, một trung quân, một tả quân, một hữu quân…Bổng Ầm...Ầm...Ầm, Oành…Oành…Oành… cây lá cành gẩy đỗ ngã ập xuống trên đầu chúng tôi như cơn bảo táp với sức cuồng phong bốc lửa…!!! Trung Úy Thanh ngả quỵ với đôi mắt trợn trừng, Y Tá Tiên nhào tới đỡ anh nằm xuống, lính quýnh mở hộp cứu thương, một viên đạn AK đã vào xé lồng ngực của anh Thanh, Kim Sua vất khẩu súng cối 60 ly nhào tới ôm tôi, cả hai ngã lăn cù trên mặt đất cùng lúc tôi nghe một tiếng nổ long trời trước mặt, tôi bị bứng văng xa, ngực trái của tôi ướt đẩm máu thấm ra ngoài cảáo giáp, Y Tá Tiên bò tới sờ ngực tôi, mắt tôi lờ đờ , anh bổng òa khóc, tôi thiếp đi dần…dần không còn biết gì nữa…!
        Thời gian qua đi không biết bao lâu…? Khi tỉnh dậy, tôi đang nằm ở Bệnh Viện 3 Dã Chiến của Hoa Kỳ Phú Bài,Huế, bác sĩ Mỹ chăm sóc cứu chữa và cho biết: Tôi lảnh trọn một trái Beta vào ngực, nhưng may nhờ cái áo giáp nên miểng không xuyên phá vào sâu được, bác sĩ đã gắp ra hết chỉ còn một mãnh nhỏ ở ngay bên ngực trái không nên mổ vì sẽ chạm hệ thống thần kinh nguy hiểm, vài ngày sau đó tôi được chuyển về bệnh viện Duy Tân, Đà Nẳng. Nhập viện, “bốkhỉ” lại “hội ngộ” bạn Thiếu Úy Nguyễn Hiền nằm bên cạnh với cái chân trái treo tòn teng trên giá cuối giường…!!!
        Vài ngày sau đó, phái đoàn Phòng Xã Hội BTL/LLĐB đến thăm, có Trung Sĩ Túy Lan tâm tình đêm giao thừa vừa qua đi trong phái đoàn uỷ lạo thương binh và “ngộ” cốnhân nên Cô ở lại bệnh viện hai ngày trực tiếp chăm sóc cho tôi và kể :
        -Thiếu Úy biết không, khi nghe tin ĐĐT/ĐĐ3 và Thiếu Út tử trận, TĐ thiệt hại nặng, Túy Lan điếng người, gọi điện thoại lung tung, mấy ngày sau mới biết tin chính xác. Trung Úy Thanh được đưa ra ĐệThất Hạm Đội, mổ khẩn cấp để gắp lấy viên đạn AK (vì vậy sau này mới có tên là Thanh AK) tình trạng khả quan, còn Thiếu Úy được đưa về Đà Nẳng, tổn thất củaĐĐ rất nặng với 12 chết, 27 bị thương nặng nhẹ, may là TĐ được bốc ra ngay, nếu không thì chẳng có người nào được trở về…!
        Một tuần sau tôi xuất viện, được nghĩ phép 29 ngày chờ tái khám. Khi trở về đơn vị thì tân ĐĐT là Trung Úy Ngô Tùng Lam (Khóa 11TĐ), TĐ91BCD được cải danh TĐ81BCD, mấy “ông thần” Black and White đưọc bình an vô sự, chỉ có Hạ Sĩ Nhất Mang Đen còn nằm nhà thương vì câu nói bông đùa thường nhật của anh: "… cắt cổ không bằng đổ rượu " bây giờ thì anh bị đổ ruột…!
        Cuối tháng 4 năm 1968, lệnh hành quân về Sài Gòn vì Việt Cộng tấn công đợt hai, chiếm vùng Cây Quéo, Cây Thị (Bình Hòa- Gia-Định), Trung Đoàn chủ lực miền Quyết Thắng của VC đã xâm nhập vào đây và bám trụ rất chặc trong từng nhà dân chúng… Tiểu Đoàn 9 Nhẩy Dù quần thảo với chúng nó cũng đã nhừ tử rồi, nhưng chưa bứng chúng được là vì lệnh trên không cho phi pháo yểm trợ vào khu dân cư đông đảo…! Giải pháp và quyết định tối hậu sau cùng là chỉ có lực lượng Delta 81BCD với sở trường " vạc ăn đêm, mèo bắt chuột” là trừ khử con cháu “bác và đảng” giặc từ miền bắc vô đây, bàn tay vấy máu dân lành… và chỉ có Delta 81BCD đột kích từng căn nhà trong đêm mới có thể “móc” ra được loại quỉ vô thường VC ra khỏi hầm hố đào bới, bám trụ trong nhà phố cư dân… vì địch ở trong thế bối thủy sinh tử chiến: hoặc chết hết hoặc đầu hàng mà thôi …! Quả thật, các cấp chỉ huy đã có quyết định hành quân chính xác khi xử dụng Delta 81BCD trong mặt trận này. Như qui luật bất thành văn :”Biệt Kích Dù Anh Hùng Vô Danh” nên “mèo bắt chuột” thì chẳng có gì kể lễ chiến công. Nhưng sau khi đã bứng và tống khứ, đưa tiễn linh hồn cán binh VC ra khỏi vùng chiếm đóng, để trả lại sự bình yên cho dân chúng sau những ngày tháng tang tóc và nỗi chết luôn chực chờ …Người chiến sĩ Delta 81BCDđã được Quân-Dân miền Nam biết đến và hâm mộ, thương yêu những “Kinh Kha Thời Đại”,với những chiến công sát cộng Bảo Quốc – An Dân từ Tết Mậu Thân Đợt I và Đợt II qua hệ thống truyền thông, truyền hình, báo chí,… Đi với tôi có phóng viên Dương Phục của Trung Tâm Điện Ảnh Quân Đội làm phóng sự, tháp tùng bên cạnh tôi là Ba Bứng với cây đại liên M60 mới toanh, Kim sua ôm khẩu phóng lựu M79 cáu cạnh vừa mới xử dụng một ngày trước đó, Trung Sĩ Nhất Nguyễn Văn Thành, Trung Đội Phó của Tôi. Tôi nhớ lại mới mấy ngày đêm vừa qua khi tôi chỉ huy dẫn toán các toán Delta xâm nhập vào từng căn nhà vào lúc nữa đêm về sáng, ĐĐ2 và ĐĐ3 theo sựhướng dẫn làm mũi dùi chính chiếm mục tiêu: Kim Sua xử dụng súng phóng lựu M79 bắn chính xác rót vào mục tiêu như “thẩy lổ” Bụp...Bụp...Bụp...vừa bắn vừa nói lầm bầm :” nè…cho mày ngụp xuống hầm…rồi …trúng, tapi…cho mầy banh sàrong coi chơi…”.Địch banh xác pháo…!!! Kim Sua xử dụng cây M79 hiệu quả còn hơn súng cối 60 ly…!!! Ba Bứng vừa bắn đại liên M60 nổ dòn vừa chữi thề: “Đ…m… cho mày như con thằng lằn rớt xuống đất… dzô…dzô…dzô con…cho mầy chết nè…nè…” !!! Cho đến khi tàn “cuộc chơi” nhìn thấy những cán binh VC bị bắt với thân thể ốm đói sau nhiều ngày tử thủ chân mang dép râu chiếc còn chiếc mất, mũ tai bèo tơi tả, mặt mày tái mét thiếu ăn, mất ngũ, ngơ ngáo, nằm bẹp xuống sàn nhà …Chẳng cần bắt trói, tôi bàn giao chúng lại cho toán sau, lại tiếp tục đột kích sang từng căn nhà khác cạnh kề và lại tiếng súng nổ, tiếng lựu đạn nổ và thây người cán binh ngã xuống, chẳng thèm thu nhặt chiến lợi phẩm súng ống, chúng tôi lại tấn kích tiếp tục sang từng căn phố, chođến khi tất cả 167 cán binh thuộc Trung Đoàn Quyết Thắng may mắn sống xót, tháo chạy về hướng cầu Băng Ky và đầu hàng đầu hàng với cánh quân TQLC ở ngã năm Bình Hòa, Gia Định. Tôi đươc thăng cấp Trung Úy tại mặt trận và làm Đại Đội Phó từ đó. Tiếp đến Đại Đội lại được điều động qua cầu Nhị Thiên Đường, bến Phạm Thế Hiển, nơi đây xảy ra nhiều chuyện nữa khóc nữa cười: Ba Bứng say rượu vác đại liên bắn chỉ thiên, rượt Đại Úy ĐĐT Ngô Tùng Lam chạy bán sống bán chết vì bịphạt cạo đầu nhốt chuồng cọp ba ngày với cái tội nói chuyện với ĐĐT mày tao, Thạch Sương, Mang Đen hai tay với hai quả lựu đạn mở chốt tìm ĐĐT nói chuyện phải trái vì tội vô kỷ luật, Thiếu Úy La Lưu Ý với mối tình ba ngày với cô học sinh lớp đệ tam trường trung học Cần Giuộc, kết quả là cô tự vận chết, La-Lưu Ý ăn năn, cạo đầu ăn chay xin xá tội...!
        ĐĐ3/81BCND của tôi đó…!!! Chỉ có bốn tháng kể từ ngày ra trường trãi qua với bốn cuộc hành quân, bốn vị ĐĐT, một bị cưa chân, một bị lảnh viên AK vào ngực trái, ba vị Tiểu Đoàn Trưởng, tôi bị thương hai lần…. Môt điều lạ là cái "Băng lòng heo luộc Black and White” Thượng-Miên- Nùng thuộc Đại Đội 3 TĐ81BCD bình an vô sự , không hề hấn gì. Chắc có lẽ cũng vì thế mà đúng một năm sau vào tháng 5 – 1969, tôi được bổ nhiệm làm Đại Đội Trưởng Đại Đội 5 chỉ mới có 23 tuổi đời, một “ĐĐT Sửa” của Tiểu Đoàn 81 Biệt Cách Dù đơn vị ưu tú và thiện chiến của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà lưu danh trong dòng Chiến Sửsánh vai với tất cả Quân Binh Chủng Miền Nam Việt Nam trong suốt 21 năm Cuộc Chiến Quốc-Cộng và hiện tại ở đây quê người bình yên đến buồn an lạc…Tôi vẫn luôn hoài niệm chiến trường xưa khi mà “Thiên Địa phong trần, du du bỉ phương” hà thời …Ôi, …nhớ sao là nhớ những binh sĩ và “Giàn” Hạ Sĩ Quan “Thần kinh Quỉkhiếp, banh sàrong coi chơi” Thượng-Miên-Nùng và những ngày xưa thân ái “Huynh Đệ Chi Binh”…Và:


        Bằng Hữu ơi, mai ta vềrừng lá
        Chốn phiêu bồng cây cỏcũng rong chơi
        Giã từ người đêm sau cơn nguyệt hạ
        Thả thơ thuyền cho trôi dạt mù khơi.
        Mai đi thật xa ta đi thật xa…
        Chuyến tàu đêm có đỗ bến quê nhà
        Anh Em tứ tán trôi vô định
        Nước mắt hay sương đêmđã nhạt nhoà.
        (TGD)


        Trương Văn Út (MũĐỏ ÚtBạchLan)
        Houston Ngày 20 tháng 8 năm 2012.

        Comment



        Hội Quán Phi Dũng ©
        Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




        website hit counter

        Working...
        X