Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Một Chuyến Đi Toán Phạt

Collapse
X

Một Chuyến Đi Toán Phạt

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Một Chuyến Đi Toán Phạt

    Một Chuyến Đi Toán Phạt

    Nguyên Long


    Tôi đang lui cui dựng chiếc Suzuki lên, chưa kịp khoá lại thì Trung Sĩ Nhất Mạnh, Thường Vụ Đại Đội, không biết chờ đợi từ lúc nào, đã dọt tới sau lưng:

    - “Chuẩn Úy, Đại Úy nói Chuẩn Úy lên văn phòng trình diện Đại Úy”.

    Với tay tháo cái khoá xích ràng phía sau Porte Bagage, tôi quay nửa người lại:

    - ”Ừ, để tí nữa tôi cất đồ xong rồi tôi lên”.

    - ”Đại Úy nói Chuẩn Úy lên liền bây giơ”.

    - “Được rồi, được rồi, lên liền thì lên liền”.

    Tôi vừa học xong khoá Nhẩy Dù ở Trại Hoàng Hoa Thám, được bốn ngày phép mãn khoá nhưng nhân tiện gặp dịp Noel, tôi tự cấp thêm sáu ngày nữa, ở Sai gòn chơi đến hôm nay, mồng hai tết tây, mới chịu trở về đơn vị. Chuyện lên trình diện Đại Úy Huyên, Đại Đội Trưởng, để ký củ là chuyện đương nhiên, tôi đã biết trước, nhưng “dziệc dzì mà dzữ dzậy”, bộ ổng sợ tôi dzọt nữa hay sao? Tuy nói vậy nhưng tôi vẫn đủng đỉnh khoá xe, cất cái túi xách vào tủ rồi mới tà tà bước theo Mạnh.

    Đại Úy Huyên, mặt lạnh như tiền, đang ngồi se se điếu Ruby Quân Tiếp Vụ tại bàn giấy, dưới mô hình phù hiệu của Đại Đội Thám Sát. Phù hiệu này, lồng trong khung tam giác đen viền vàng là nửa thân trên của một con ó đầu đỏ thân trắng đang nhe nanh múa vuốt chúi xuống khạc ra ba tia chớp, vốn là phù hiệu của chương trình Lôi Vũ, và sau đó là Trung Tâm Huấn Luyện / Hành Quân Delta, đơn vị cũ mà Đại Úy Huyên từng là một Toán Trưởng xuất sắc. Khi Lực Lượng Đặc Biệt bị giải tán, Trung Tâm Huấn Luyện / Hành Quân Delta đã được thu gọn lại thành Đại Đội Thám Sát của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù. Từ khi được Đại Tá Huấn, Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn, cho phép xử dụng lại, phù hiệu này đã xuất hiện khắp nơi trong Đại Đội Thám Sát. Trên xe jeep Đại Đội Trưởng, trong văn phòng Đại Đội Trưởng, trong hậu cứ Đại Đội và trên túi áo trái của bọn Thám Sát chúng tôi. Đại Úy Huyên, trong một bữa nhậu, đã vui chuyện kể với chúng tôi là khi Liên Đoàn mới thành lập, anh em có đùa giỡn phê bình xuyên tạc cái phù hiệu mới của Liên Đoàn (do Thiếu Tá Thông vẽ kiểu) là không khá nổi vì con ó trong phù hiệu coi bộ “xỉn” quá. Đã phè cánh nhạn (cánh xoè cánh cụp) mà lại còn thượng thổ (ba tia chớp) hạ tả (ngôi sao của cánh dù) thì tối thiểu chắc cũng phải sáu bẩy “xị” rồi. Nay với phù hiệu riêng này, Thám Sát đã xác định là đầu tầu nên lo phần “thượng thổ”, còn phần “hạ tả” để dành cho các Đại Đội Xung Kích! ! !

    Thấy tôi vào đưa tay lên chào trình diện, Đại Úy Huyên chỉ khẻ gật đầu rồi hất hàm về phía góc bàn, nơi để sẵn tờ giấy phạt. Tám ngày trọng cấm với đề nghị gia tăng tối đa. Cũng còn rẻ chán so với sáu ngày thần tiên vừa qua. Vả lại, với bọn “dân chơi” chúng tôi, đi lính mà chưa ký đủ bốn chục củ thì chưa phải là. . . lính. Vì vậy, tôi thản nhiên móc viết lặng lẽ ký cái rột, đưa tay chào rồi quay lưng định bước ra thì Đại Úy Huyên phán liền một câu động trời :

    - “Anh lên ngay phòng Hành Quân nhận lệnh đi toán phạt”.

    Toán phạt là một biện pháp mạnh của các Đại Đội và của cả Liên Đoàn, dùng để trừng trị mấy tay ba gai chuyên môn vắng mặt bất hợp pháp như tôi, vì tuy là ký phạt trọng cấm nhưng do nhu cầu hành quân, ít khi nào các Đại Đội Trưởng lại chịu nhốt chúng tôi. Cứ thẩy tụi mày vào trong rừng là yên chuyện, khỏi có lôi thôi rắc rối gì nữa. Toán phạt quen thuộc với chúng tôi đến nỗi trở thành một tiêu chuẩn, dĩ nhiên là không chính thức : “Ở Tám Mốt mà chưa đi toán phạt thì chưa phải là. . . Biệt Cách Du”. Nhất là sau này, khi Liên Đoàn trở về hậu cứ ở ngã tư An Xương, Hóc Môn, chỉ cách Sài Gòn trên dưới mười cây số, để dưỡng quân và tái huấn luyện thì, với luật lệ của Trung Úy Lợi, Đại Đội Phó Thám Sát, cứ ba lần vắng mặt bất hợp pháp trong các buổi tập họp điểm danh (một ngày tập họp bốn buổi : sáng 8 giờ, trưa 12 giờ, chiều 4 giờ và tối 8 giờ) là đi một toán phạt, số lượng toán phạt gia tăng nhiều đến nỗi khi trở lên hành quân, bản Lịch Trình Xâm Nhập của Đại Đội Thám Sát chỉ ghi toàn toán phạt! Tuy nhiên, đã bị ký tám củ mà còn phải đi toán phạt thì kể ra Đại Úy Huyên chơi hơi ép đàn em. Nhưng không sao, đi thì đi, dân chơi đâu sợ phá thai.


    Khi tôi bước vào phòng Hành Quân Liên Đoàn thì bá quan văn võ đã tập họp đầy đủ : Đại Úy Huyên, Đại Đội Trưởng Thám Sát, Thiếu Tá Thông, Trưởng ban 3 Liên Đoàn, Đại Úy Thọ, Phó Ban 3, cùng đại diện các ban, ngành khác. Riêng Toán Phạt thì toàn “thứ dữ” không. Trung Sĩ Nhất Thạch Mỹ, Toán phó, người Miên đen như cột nhà cháy, bùa ngãi đầy mình, Hạ Sĩ Lượm thủ cây M79, Hạ Sĩ Nhất Công mang máy, Hạ Sĩ Nhất Hoa đi đầu, đều xuất thân từ Delta, thâm niên công vụ đã khá nhiều. Còn Binh Nhì Thanh và Binh Nhì Hổ, tuy mới có mười tám tuổi thôi nhưng nghe nói là cũng đã trải qua dăm ba sắc lính, kinh nghiệm đầy mình rồi. Thêm tôi nữa là đủ mặt “The Magnificient Seven”. Đợi tôi an toạ xong xuôi, Đại Úy Thọ (có biệt danh là Thọ Hù vì cứ theo tin tức tình báo mà ông thu lượm được thì chổ nào mà các Toán Thám Sát nhẩy vào cũng đầy Việt Cộng – dĩ nhiên rồi, không có Việt Cộng thì nhẩy vào làm cái gì – nhưng nhiều khi chúng tôi đi hết bẩy ngày công tác cũng chẳng thấy ma nào xuất hiện cả, riết rồi anh em nói là ông Thọ chỉ ưa Hù thôi) mới bước lên phía trước bắt đầu thuyết trình hành quân.

    Toán có nhiệm vụ xâm nhập vào khu vực Chiến Khu D, chổ giáp giới giữa hai quận Phú Giáo, Bình Dương và Công Thanh, Biên Hoà. “tin tức tình báo” ghi nhận được sự hoạt động của quân xa địch nên Toán được tăng cường thêm Toán Viên thứ bẩy, Binh Nhì Hổ, tướng hơi lùn nhưng vạm vỡ, để vác quả mìn chống chiến xa nặng cả chục ký vào chôn trong đó. Các Toán Viên khác thì được giao mỗi người năm trái mìn muỗi chống người để gài trên các đường mòn. Toán cũng có nhiệm vụ ghi nhận, báo cáo toạ độ các mật khu và hoạt động của địch, và cuối cùng là vì là toán phạt nên Toán phải đi cho hết bẩy ngày qui định mới được ra. Toán sẽ lãnh mìn, bản đồ và đặc lệnh truyền tin vào sáng ngày mai, trước khi lên đường xâm nhập, nhưng lương khô thì sẽ được lãnh liền sau khi họp xong để Toán có thời giờ sửa soạn. Các chi tiết khác sẽ do đại diện các ban ngành liên hệ thuyết trình sau, vân vân và vân vân. . .

    Tuy tôi ngồi nghe ra vẻ chăm chú lắm, mắt hết nhìn tấm bản đồ bọc plastic điểm đầy chấm đỏ như bị đậu mùa treo trên tường lại nhìn bộ ria mép đen nháy cắt tỉa vén khéo của ông Thọ Hù đang nhúc nhích, nhưng đầu óc tôi lại hoạt động khá lung : Tí nữa đây, đẩy hết mớ lương khô ra chợ Bắc Hải rồi, không biết mình sẽ làm món gì để ăn cho ngon trong bẩy ngày sắp tới, chứ thịt ba rọi xào mắm ruốc với muối đậu trộn đường cùng cải bắc thảo kho thịt mỡ đã ngán tới tận cổ rồi! ! !

    Từ Sài Gòn, tôi trở lên Căn Cứ Hành Quân Suối Máu, Biên Hoà đúng vào giờ tập họp điểm danh buổi sáng của Đại Đội. Toán Phạt đã ba lô súng đạn sẵn sàng đứng riêng một góc. Đại Úy Huyên, mặt nhăn như bị, đang xỉ vả tôi tàn tệ trước hàng quân. Thấy tôi tà tà chạy xe tới, ông chỉ lạnh lùng liếc nhìn rồi quay trở lại hàng quân tiếp tục xỉ vả. Tôi chỉ còn nước len lét phóng vào phòng thay vội bộ đồ “vía”, nhét mấy cái lon guigoz đồ ăn vào ba lô rồi ôm súng chạy ra. Thạch Mỹ cười cười, móc túi giao trả cho tôi tấm bản đồ hành quân cùng Đặc Lệnh Truyền Tin:

    - “Ông thiệt hết ý kiến. Chút xíu nữa là tôi phải dẫn Toán đi thay ông rồi”.

    Tôi cười trừ chữa thẹn:

    - “Tối hôm qua sỉn quá, lỡ ngủ quên”õ.

    Thạch Mỹ hăm doạ:

    - “Ông coi chừng kỳ này Đại Úy ổng sẽ đì ông tối đa đó”!

    Tôi ra vẻ tỉnh bơ:

    - “Nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ, trời đì thì mới sợ chứ người đì đâu có sao!”

    Quả tình tôi đâu có muốn ba gai ba góc làm gì, nhưng tôi tuổi trẻ ham chơi mà suốt mấy năm trời, từ sau Mùa Hè Đỏ Lửa, Liên Đoàn cứ đóng loanh quanh gần Sài Gòn, nơi gia đình, bạn bè, đào địch tôi đều ở đó thì tôi làm sao được bây giờ? Với Liên Đoàn thì đây là thời gian nghỉ xả hơi đáng được hưởng sau những cuộc hành quân liên tục, từ Tây Nguyên, An Lộc, Quảng Trị dài sang Bến Thế, Trảng Bàng, Tân Phú Trung, nhưng với con ngựa non háu đá mới ra trường, gót giầy saut còn muốn dẫm nát bốn vùng chiến thuật như tôi thì đây là thời gian nhàm chán vô cùng. Nhất là tổ chức của Đại Đội Thám Sát trong thời gian này có hơi. . . kỳ cục. Vì cả Đại Đội có mấy chục Toán mà chỉ có mười mấy Toán Trưởng nên Đại Úy Huyên giao hết quyền điều động các sinh hoạt hàng ngày của Toán (tạp dịch, canh gác, đi phép, thưởng phạt, huấn luyện,. . .) cho Trung Sĩ Nhất Mạnh, Thường Vụ Đại Đội, lo liệu. Các Toán Trưởng chẳng có trách nhiệm gì với một Toán nào cả, cứ việc ngồi chơi xơi nước đợi tới chu kỳ xâm nhập của mình (thường thường khoảng một tháng một lần) thì lãnh đại một Toán để nhảy vào rừng. Vì hai chu kỳ xâm nhập của Toán và Toán Trưởng khác nhau nên hơn năm trời ở Thám Sát, nhảy được mười mấy “saut” mà chưa bao giờ tôi nhảy với một Toán nào lần thứ hai cả. Nhàn cư vi bất thiện, cứ ăn không ngồi rồi mãi giữa cảnh hoang tàn đổ nát, đồng khô cỏ cháy của căn cứ Suối Máu cũng buồn, nhất là đang trong lứa tuổi mười chín hai mươi tràn đầy nhựa sống, nên tôi mới hay bỏ đi chơi. Gần thì ra ký sổ bà Thanh bên khu Gia Binh Thiết Giáp, xa hơn thì cà phê Tuyệt, xi nê Biên Hùng, “cour de dance” của bà Thủy ngoài Biên Hoà. Đầu tháng tiền bạc rủng rỉnh thì dzọt về Sài Gòn vi vút với em út. Đi riết thành quen nên bây giờ tôi mới mang tiếng là tên sĩ quan. . . ba gai nhất Liên Đoàn!


    Nghe xỉ vả xong xuôi, tôi giao chìa khoá xe cho Tâm Guigoz, một toán trưởng bạn, giữ dùm rồi dẫn toán đi theo Đại Úy Huyên ra bãi đáp trực thăng, chỉ cách chổ Đại Đội tập họp chừng ba trăm thước. Trung Úy Bình (tự Lọ), phi công trưởng, đang ngồi binh xập xám với phi hành đoàn trên sàn tàu cho biết là chưa thả toán được vì phải còn chờ máy bay (Máy bay nằm chình ình ở đây rồi, còn chờ gì nữa? Có lẽ là chờ trực thăng võ trang yểm trợ chắc!) Chờ thì chờ, sợ gì, tôi liền cho Toán hạ ba lô súng đạn xuống đất rồi tấp vào Câu Lạc Bộ Dã Chiến của Liên Đoàn, nằm đối diện với bãi đáp, ký sổ ly cà phê và mấy điếu Phillip Morris ( Tôi ít khi lên Câu Lạc Bộ này vì ở đây thiếu bóng hồng. Ngồi uống cà phê mà ngắm mấy ông lính già đi tới đi lui thì thà nằm dưới Đại Đội đọc sách sướng hơn). Chờ đến trưa, Trung Úy Bình lái máy bay đi công tác lên xuống đã mấy lần mà vẫn chưa nghe động tĩnh gì, tôi bèn ký thêm tô mì gói và ly trà đá.

    Mãi đến hơn năm giờ chiều, Đại Úy Huyên mới trở lại cho biết là không xin được máy bay, Toán phải xâm nhập với một chiếc Slick của Trung Úy Bình thôi. Ôi, đánh giặc theo kiểu nhà nghèo chán thặt. Nhớ thuở tôi mới về Liên Đoàn (chỉ mới năm ngoái thôi chứ đâu có xa xưa gì), Toán thường được thả bằng cả một hợp đoàn năm chiếc trực thăng : hai chiếc Gunship võ trang yểm trợ bay phía dưới, một chiếc Slick chở quân và một chiếc Slick cấp cứu bay ngang nhau, một chiếc C & C chỉ huy bay trên cao. Ngồi trên tàu nhìn hai chiếc Gunship phía dưới “cover” bãi trước khi đổ quân, tôi cảm thấy vừa hùng lại vừa “ấm”. Còn bây giờ, đầu năm 1974. . .

    Chiếc UH1B xà xuống bãi đáp lúc trời bắt đầu chập choạng tối. Nhìn từ trên cao thì bãi đáp chỉ là một khoảng trống màu xanh nhạt nằm giữa cánh rừng đen thui, nhưng khi đến nơi mới biết đó là một rẫy bắp “tăng gia” của Việt Cộng. Để đánh lạc hướng địch, hai cây đại liên M60 trang bị trên tàu vội vã nổ liên hồi vào những mái tranh thấp thoáng ẩn hiện bên bìa rừng, ra vẻ như phi cơ chỉ xà xuống bắn phá thôi, rồi trong lúc con tàu đang lướt nhẹ trên ngọn bắp, Toán lần lượt phóng nhanh xuống đất. Kiểm sơ lại quân số, tôi vội vã định hướng rồi dẩn Toán lủi đại vào rừng trong lúc chiếc trực thăng bốc lên càng lúc càng cao rồi mất hút trong làn mây xám.

    Mò mẫm đi trong bóng tối đến quá nửa đêm thì bắt đầu thấm mệt, tôi bèn cho Toán chui đại vào một lùm cây khá rậm rạp để nghỉ. Định nghỉ một chút thôi rồi sẽ đi tiếp, nhưng vừa ngã lưng nằm dài xuống đất là tôi thiếp đi liền cho tới lúc tiếng máy xe nổ ầm ỳ đánh thức tôi dậy. Không đầy bốn thước trước mắt tôi, những chùm đèn pha rực rỡ chan hoà chiếu tới soi rõ từng cọng cỏ, rồi một đoàn sáu chiếc Molotova nối đuôi nhau chầm chậm chạy qua, khuấy bụi mịt mù. Cả Toán cùng nín thở cứng người nằm im như tượng đá dưới những bóng đen sắc cạnh của cành lá đang thi nhau nhảy múa trong ánh sáng chói loà cho đến khi đoàn xe bắt đầu khuất dạng vào rừng đêm, Thạch Mỹ mới run run cười như mếu thì thào với tôi :

    - “Mẹ, kỳ này ông Thọ Hù ổng nói thật rồi ông ơi!”õ

    Tảng lờ không trả lời Thạch Mỹ, tôi nhìn một vòng quanh các Toán Viên:

    - “Chuẩn bị dọt đi anh em, mẹ, nằm đây không yên rồi.”

    Chờ thêm một lúc nữa cho chắc ăn là không có gì theo sau đoàn xe, tôi đứng dậy xốc lại ba lô bắt đầu tiến bước. Vừa ra khỏi lùm cây là tôi thấy ngay con đường. Chỉ là hai vết bánh xe nhỏ xíu nằm song song giữa đám cỏ rậm rì như hai con rắn khổng lồ uốn lượn quanh co bên những tàng lá dầy đặc rồi mất hút vào khoảng tối phía xa. Thật là hú vía, hồi tối chỉ cần bước thêm vài bước nữa là dám cả Toán đã bị. . . xe cán ở giữa rừng rồi! ! ! Nhìn con đường một lúc, tôi quay qua nói với Hổ:

    - “Mẹ, vác trái mìn theo chi cho mệt Hổ, chơi mẹ nó xuống đây cho rồi.”

    Hổ hơi ngần ngại, nhìn tôi với cặp mắt nghi ngờ:

    - “Thiệt không đó Chuẩn Úy?”

    - “Mẹ, thiệt chứ bộ tao giỡn với mày à!”

    - “Ô-kê, ông muốn chơi bạo thì chơi!”

    (Thật ra, đang bất mãn vì bị Đại Úy Huyên đì tối đa, tôi định trả thù (!!!) bằng cách bất hợp tác: chôn đại trái mìn vào một xó rừng vắng vẻ nào đó không ai đi tới cho bõ ghét. Được thêm cái lợi nữa là nếu mìn không nổ thì toán sẽ giữ được bí mật, không bị bể và tôi có thể ăn no ngủ kỹ trong 7 ngày “picnic” này. Nhưng bây giờ đã thấy đường, thấy xe trước mắt mà vẫn còn cố “lờ” thì quả tình tôi thấy quá uổng!)

    Dưới ánh sáng mờ ảo của vầng trăng cao tít trên không, trong khi các Toán Viên khác toả ra canh gác chung quanh, tôi và Hổ quì xuống cặm cụi dùng dao găm đào một cái lỗ to vừa bằng cái khay trà và sâu độ hơn một tấc ngay trên vết bánh xe. Đất đỏ miền Đông khô ran, cứng như đá khiến chúng tôi hì hục mướt cả mồ hôi đào mãi mới bỏ lọt được trái mìn xuống đất. Mở khoá an toàn xong, tôi nhẹ tay khoả đất che lấp trái mìn, phủ vài cọng cỏ ngụy trang lên rồi vội vàng dẫn Toán dông thẳng một mạch đến khi trời bắt đầu mờ mờ sáng mới dừng lại tìm chỗ nghỉ ngơi. Rút kinh nghiệm, lần này tôi cho Toán kiểm soát chung quanh kỹ càng trước khi kéo nhau chui vào một lùm cây khá rậm rạp nằm lưng chừng một ngọn đồi thấp.

    Vừa mới chợp mắt được vài phút, tiếng người xôn xao từ xa vọng đến khiến tôi lại phải ngồi bật dậy khe khẻ vạch lá nhìn xuống chân đồi. Nhờ địa hình khu này tương đối trống trải, chỉ toàn là những bụi rậm cao vừa quá đầu người nằm xen kẽ da beo với những trảng tranh nhỏ, rải rác đây đó mới có những tàng cây lớn vươn mình chọc thẳng lên trời xanh, nên tôi có được tầm nhìn khá xa. Trong ánh nắng hồng tươi mát của một ngày mới, cách tôi chừng ba mươi thước, thấp thoáng từng tốp năm bẩy người, nam có, nữ có, bà ba đen có, kaki Nam Định có, vai cuốc vai xẻng, vai cào vai súng, đang cùng nhau cười nói vui vẻ tiến bước trên con đường mòn quanh co khúc khỷu len lỏi giữa cánh rừng thưa, hướng về một khoảnh rẫy lớn nằm khuất sau mấy ngọn cây. Còn đang bàng hoàng chưa tỉnh hẳn cơn buồn ngủ, tôi chợt nghe Thạch Mỹ thì thào sau lưng :

    - “Chuẩn Úy, hay là mình xuống chụp đại một vài con rồi về sớm đi!”õ

    Lạnh toát cả người, tôi quay lại quái dị nhìn Thạch Mỹ :

    - “Bộ hết chuyện chơi rồi sao mà tính cái gì kỳ vậy Mỹ!”

    Thạch Mỹ lúng túng phân trần:

    - “Thì nếu mình bắt được tù binh, ở nhà sẽ cho trực thăng đón mình về thôi, chứ còn tới sáu ngày nữa mà tình hình này tôi thấy coi bộ không yên rồi!”

    - “Coi vậy chứ không phải vậy đâu. Về đâu chưa thấy, thấy mình chạy toé khói trước đã. Ông nên nhớ mình là Toán phạt, phải đi cho đủ bẩy ngày đó. Không được đâu!”

    Tôi đã có kinh nghiệm về chuyện phục kích bắt tù binh (do các Toán Trưởng đàn anh truyền miệng lại). Nhiêu khê lắm chứ không phải chơi. Phải dàn đội hình dài theo con đường, mà với sáu bẩy thằng thì giỏi lắm chỉ dàn được bốn năm thước là hết mức, không đủ để “cover” trận địa. Rồi vừa mới la “Đứng lại” hay nổ súng một cái là tụi nó đã vắt giò lên cổ chạy mất tiêu vào rừng. Rượt theo thì ở trong mật khu của tụi nó, tụi nó không rượt mình thì thôi chứ ai dám rượt tụi nó? Bắn theo thì, nói thật, từ ngày tôi về Liên Đoàn đến giờ, tôi chưa hề có dịp chỉnh lại đường nhắm của khẩu M.18 được cấp phát nên tôi không dám tin tưởng vào tài thiện xạ của tôi (Tôi nghĩ là các Toán Viên khác cũng như tôi thôi!). Lượm được mấy cái cuốc, mấy cái xẻng vô giá trị của tụi nó vứt lại (súng tụi nó ôm theo!) mà phải lo lắng đủ điều, trốn tránh, tìm bãi đáp, liên lạc xin triệt xuất (mà chưa chắc Toán đã được bốc nhờ tịch thu được vài cái. . . xẻng của Việt Cộng) thì không bõ. Mặc dù chuyện bắt được tù binh hay bắn chết Việt Cộng lấy được súng là chuyện vẫn thường xẩy ra trong Đại Đội nhưng đó là chuyện của các Toán Đặc Nhiệm như Toán Giả Trang, Toán Phục Kích, đã được dự trù kế hoạch kỹ lưỡng, nghiên cứu đường đi nước bước tiến thoái đàng hoàng, hay gặp trường hợp bất khả kháng như tao ngộ chiến chứ dứt khoát không phải chuyện của Toán. . . Phạt.

    Không công được thì phải lo thủ, tôi chờ một lúc sau, khi những tiếng cười nói đã tắt hẳn nơi phía xa mới đưa Toán chui sâu thêm vào trong bụi rậm cho kín đáo hơn, theo đúng nguyên tắc “địch không thấy ta mà ta (cũng chẳng) thấy địch” của bài học ẩn nấp ở Trường Bộ Binh Thủ Đức ngày nào. Để bảo đảm an toàn, đích thân tôi đi chót và xoá dấu thật kỹ càng. Khi đã yên vị rồi, trong lúc Thạch Mỹ chia ca gác cho Toán, tôi móc túi lấy Đặc Lệnh Truyền Tin và sổ tay ra mã hoá bản công điện cho buổi sáng. Vì lý do để bảo mật tối đa, các bản công điện định kỳ sáng, trưa, chiều, tối báo cáo tình hình địch bạn, vị trí, hướng đi, hoạt động của Toán đều phải được mã hoá. Khi liên lạc với ở nhà, tôi chỉ cần nói “Cho tôi gởi cái cô đen” và sau đó, khi bên kia đầu máy trả lời “Ô kê”õ là tôi đọc một tràng số :”311, 254, 168, 720, 434, 975. . .”. Vì mã số trong Đặc Lệnh Truyền Tin được thay đổi hàng tuần hoặc theo nhu cầu của Toán, của Đại Đội, nên nhiều khi nghe Toán khác báo cáo trên máy, tôi còn chẳng hiểu gì, nói chi đến Việt Cộng. Các buổi báo cáo định kỳ này rất quan trọng, nó báo cho ở nhà biết tình trạng an nguy của Toán. Nếu Toán nào mà không “đúng hẹn lại lên” vài ba lần là ở nhà sẽ lo sốt vó, gởi máy bay lên tìm ngay. Như tôi hiện tại, vì tình hình an ninh nên phải ngày nghỉ đêm đi, bốn bản công điện cho ngày hôm nay sẽ giống y chang như nhau nhưng tôi vẫn phải gởi đúng bốn kỳ hẹn sáng, trưa, chiều, tối nếu không muốn bị rắc rối. Gởi xong bản công điện, tôi đưa trả ống liên hợp lại cho Công rồi móc ba lô lấy bọc cơm sấy và lon guigoz tôm chấy ra sửa soạn cho bữa ăn sáng.

    Đang tơ lơ mơ trong ánh nắng vàng nhạt nhoà của một buổi chiều thật êm ả, tôi bỗng giật mình tỉnh giấc vì những âm thanh ồn ào từ hướng khoảng rẫy văng vẳng vọng lại. Các Toán Viên khác cũng thức dậy, vội vã vểnh tai lên nghe ngóng. Tiếng người cười nói xôn xao từ từ lan dài theo con đường mòn, càng lúc càng lớn dần, đến ngang chân đồi chợt dừng lại rồi một lúc sau, có tiếng cành lá rung động sột soạt xen lẫn trong tiếng đùa giỡn tíu tít tiến về hướng chúng tôi. Không ai bảo ai, cả Toán vội vàng lăn người nằm sấp xuống nâng súng lên chĩa ra phía ngoài, sẵn sàng trong tư thế chiến đấu. Cách chúng tôi độ bốn thước, ba “chiến sĩ gái”, quần áo bà ba đen bạc mầu, súng trường CKC khoác vai, đang vạch lá tiến vào đúng chỗ Toán đóng quân hồi sáng. Tìm được chỗ lý tưởng rồi, cả ba bèn tụt quần ngồi thụp xuống đất. Những âm thanh êm ái nhè nhẹ vang lên khiến tôi phải cắn chặt môi cố nén cơn cười đang ùa tới khi tôi chợt nhớ tới ý nghĩa xuyên tạc của câu Kiều “Sè sè nấm đất bên đàng. Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh”. Giải quyết xong cơn “bứt xúc”, các chị em ta cùng nhau đứng dậy kéo quần lên, ra về thơi thới hân hoan. Chờ một lúc lâu cho những tiếng cười nói tắt hẳn sau phía chân trời rồi, chúng tôi mới dám thở mạnh. Sự căng thẳng đã dịu xuống, Toán lại trở về với bản chất ba trợn của những thằng lính “trời đánh không chết”. Hổ lầm bầm khai pháo trước:

    - “Quá đã, đm, công nhận là quá đã, thiệt tình là quá đã!”

    Lượm mơ màng nhập cuộc:

    - “Sao cái mông của tụi nó lại trắng quá là trắng vậy không biết nữa!”õ

    Hoa cười cười phản đối:

    - “Tao đâu có thấy trắng chút nào đâu! Đen thui thì có! Sự đời như cái lá đa. Đen như mõm chó, chém cha cái sự đời” mà mậy.

    Thanh triết lý vặt:

    - “Ông Lượm ổng nằm ở góc cạnh khác nên chỉ thấy bán diện là cái mông trắng thôi, còn tôi với ông nằm ở góc cạnh khác nên thấy chính diện là nguyên cái sự đời đen như mõm chó. Cuộc đời hên xui may rủi khác nhau chỉ tùy theo góc cạnh nhìn đó thôi!”

    Thấy tôi cứ tủm tỉm ngồi cười ruồi, Công tấn công:

    - “Chuẩn Úy, bộ ông bị nó hớp hồn rồi hay sao mà không nghe ông nói gì hết vậy?”

    Tôi vẫn cười, giả bộ đưa tay xuống phía dưới:

    - “Hớp hồn cái gì, teo thấy mẹ, tới giờ sờ vẫn chưa thấy nó đâu đây nè!”

    Công tiếp tục tấn công:

    - “Ông nhát dữ vậy sao, vậy mà cũng sợ à, uổng quá vậy!”

    Tôi khẽ liếc sang phía Thạch Mỹ:

    - “Ai sợ gì ba con giặc cái đó. Sợ là sợ ông Mỹ đen nhà mình chịu không nổi, nhào ra ôm đại một con là bỏ mạng cả lũ!”

    Thạch Mỹ giật mình sừng sộ:

    - “Ông nói gì mà kỳ vậy, tôi đâu phải là đại dâm tặc đâu mà nhào ra ôm ẩu vậy!”

    Tôi cố nhịn cười, giải thích:

    - “Tại hồi sáng ông đòi bắt tù binh, bây giờ nó ngồi ngay trước mặt, tôi chỉ sợ ông vẫn còn ý định đó, nhào ra bắt ẩu thôi chứ ai nói ông là đại dâm tặc hồi nào!”

    Thạch Mỹ yếu ớt phản pháo:

    - “Hèn chi thiên hạ kêu ông là Điên cũng phải. Ông toàn là nghĩ ba cái chuyện điên khùng quái đản gì đâu không hà!”

    Tôi chuyển hướng:

    - “Chuyện nhỏ, ông không nghe thằng Thanh nó vừa nói sao, điên hay không là tùy theo góc cạnh nhìn của mổi người thôi. Như chàng Công đây, lúc mọi người đang lo thấy mẹ thì chàng cứ tỉnh bơ chàng “ngủ”thì sao!”õ

    Công vội vàng phản đối:

    - “Ngủ hồi nào đâu! Mà ngủ cũng đâu có sao Chuẩn Úy, không ngủ như ông mới kẹt đó!”

    - “. . . . . . . . . . . . . .”

    Khi những lời bàn Thánh Thán Mao Tôn Cương về “sự cố kỹ thuật” vừa xảy ra từ từ vãn lần, tôi đưa tay lấy cái ống liên hợp trên vai Công gởi bản báo cáo buổi tối về nhà rồi lấy cơm sấy thịt rim ra ăn bửa tối. Nghỉ ngơi một lúc chờ cho trời tối hẳn, tôi mới dẫn Toán bước xuống con đường mòn. Đã lỡ chơi thì chơi luôn, tôi chia bốn toán viên tản ra đứng gác bốn góc, tôi và hai toán viên khác ngồi xuống đào lỗ chôn mấy trái mìn muỗi dài theo con đường. Trăng chưa lên nên tôi phải lục ba lô lấy cái đèn pin quân đội mua ngoài chợ trời mấy hôm trước ra soi. Cũng may lỗ nhỏ nên dễ đào, chỉ một loáng sau là mớ mìn đã nằm im dưới đất. Tôi soi đèn kiểm soát lại khoá an toàn của từng trái mìn, lấp đất, xoá dấu xong xuôi rồi ra hiệu cho Toán rút thẳng vào rừng đi tiếp. Đi miết đến khoảng quá nửa đêm, tôi chợt nghe một tiếng nổ long trời rung động cả khu rừng rồi có tiếng rít xé gió như có vật gì bị vứt mạnh lên không vang lên ở phía sau lưng. Không ai bảo ai, chúng tôi cùng dừng lại vểnh tai nghe ngóng. Một vài tràng súng AK rời rạc vang lên tiếp theo rồi im bặt, trả lại sự yên tĩnh cho rừng đêm. Tôi quay nhìn Thạch Mỹ, thì thào:

    - ”Rồi, một con nhạn là đà!”

    Công cầm ống liên hợp nhìn tôi dò xét:

    - “Chuẩn Úy, ông có báo cáo về nhà không?”


    Tôi ngần ngại. Giờ này mà bật đèn lên để mã hoá bản công điện thì châm quá. Hơn nữa, báo cáo về rủi ở nhà nổi hứng bắt quay trở lại kiểm soát kết quả thì bỏ mẹ cả lũ. Thôi, để sáng mai sẽ tính, bây giờ hãy lo chuồn càng xa con đường mòn đầy mìn muỗi kia càng tốt trước cái đã. Quyết định như vậy, tôi nhìn Công lắc đầu rồi ra hiệu cho Toán tiếp tục di chuyển tới lúc trời bắt đầu hừng sáng mới kiếm bụi rậm chui vào ẩn nấp tiếp.

    Vừa đọc xong hàng số chót của bản công điện báo cáo buổi sáng, chưa kịp nói chữ “hết”, tôi chợt giật mình khi nghe giọng Thiếu Tá Thông, trưởng ban 3 Liên Đoàn vang vang trong máy :

    - “Vũ Long đây 81″.

    - “81đây Vũ Long tôi nghe”.

    Chẳng cần mã hoá gì cả, Thiếu Tá Thông hỏi thẳng bằng bạch văn:

    - “Mìn nổ hồi nào vậy?”

    Đã thế thì thế luôn, tôi cũng trả lời thẳng bằng bạch văn:

    - “Thưa 81, vào khoảng một giờ sáng hôm nay”.

    - “Tại sao giờ này anh mới báo cáo?”

    Tôi chới với, nhưng cũng cố làm ra vẻ rụt rè ngây thơ:

    - “Dạ, tại tôi sợ giờ đó ở nhà còn đang ngủ”.

    - “Trời đất, ngủ cái gì mà ngủ, anh có điên không? Thôi được rồi, bây giờ tôi cho máy bay lên coi, có gì tôi sẽ liên lạc với anh sau”.

    - ”Vâng, chào 81″.

    Đưa trả ống liên hợp lại cho Công, tôi ngẩn ngơ. Kể ra thì mình cũng ngu thật. Mấy ổng nói bạch văn ào ào có sao đâu. Việc gì mà phải mỗi tí mỗi mã hoá như tôi đã làm từ hồi nào tới giờ. Nay biết rồi cũng dễ thôi, hễ cần thì tôi sẽ nói huỵch toẹt ra bằng bạch văn cho khoẻ thân. Chỉ cần mã hoá bản công điện hàng ngày, đừng cho Việt Cộng theo dõi biết được vị trí của Toán là ổn rồi.

    Đang suy nghĩ vẩn vơ, tiếng động cơ trực thăng phành phạch từ xa bay tới kéo tôi trở về thực tại. Tiếng Thiếu Tá Thông lại vang vang trong ống liên hợp báo cho tôi biết là trái mìn đã phá hủy một chiếc Com măng ca (một loại xe của Cộng Sản tương đương với xe jeep của Mỹ) chứ không phải Molotova như tôi đã báo cáo (cũng tốt thôi, vì phải là thứ “kẹ” bự mới ngự Com măng ca chứ bộ đội thường tư cách gì mà rớ được tới nó. Com măng ca mà cán phải mìn chống tăng thì bự cỡ nào cũng “lìa” thôi. Chỉ tiếc là tôi không bao giờ biết được “ke”ï đó là ai cả). Vì tôi báo cáo quá trể nên khi máy bay lên tới nơi, Việt Cộng đã dọn dẹp sạch sẽ hiện trường, chỉ còn lại cái xác xe nằm trơ giữa rừng, Liên Đoàn không khai thác thêm được gì (nếu tôi báo sớm, chẳng lẽ ở nhà sẽ thẩy Xung Kích xuống sao? Như vậy Toán còn lãnh đủ nữa : đêm hôm phải mò mẫm tìm bãi đáp, hướng dẫn Xung Kích tới điểm, đánh đấm ầm ầm, lục soát tịch thu tài liệu, chiến lợi phẩm xong rồi Xung Kích ra về, Toán lại. . . tiếp tục công tác! Thôi, chả ham!) Sẵn trực thăng đang quần trên đầu, tôi cho Toán chiếu kính, phất pa nô để xác định lại điểm đứng và báo cáo luôn về mấy tiếng nổ của mìn muỗi mà tôi vừa nghe thấy. Sau cùng, tôi hỏi dò Thiếu Tá Thông là bây giờ Toán sẽ làm gì. Câu trả lời rất đơn giản, y như tôi đã biết trước : tiếp tục công tác cho hết kỳ hạn bị phạt!

    Tiếp tục thì tiếp tục, sợ gì mà không tiếp tục, nhưng tôi biết chắc là từ giờ trở đi, Toán phải hết sức cẩn thận vì những dấu hiệu tố cáo sự hiện diện của Toán đã quá rõ rệt : mìn nổ lung tung, trực thăng vần vũ trên đầu cả tiếng đồng hồ và nhất là địa hình khu vực Toán đang đi tới càng lúc càng trở nên đe doạ hơn. Những đường mòn chằng chịt khắp nơi, những sợi dây cáp điện thoại nằm lẫn trong lùm bụi, những mái tranh thấp thoáng ẩn hiện trong bóng đêm đã cho tôi biết là tôi đang nằm ngay trong mật khu của tụi nó. Hướng di chuyển của Toán đã được ở nhà vạch sẵn, đi sai là có chuyện liền nên tôi chỉ còn cách tự an ủi : “Ông trời hay thương người, chắc không đì mình đâu. Còn người đì thì đâu có sao, cùng lắm là. . . chạy thôi”.

    Một ngày như mọi ngày (của Toán Phạt) rồi cũng đi qua. Đêm lại về, tôi đợi cho trời thật tối mới bắt đầu cho Toán tiếp tục di chuyển sau khi đã xoá dấu thật kỹ càng vị trí vữa đóng quân. Đến khoảng hai giờ sáng thì Toán bước đến một cánh rừng thưa rải rác đây đó những mái tranh đen thui nằm im lìm trong ánh trăng mờ ảo. Tôi cho Toán dừng lại, bố trí quan sát nghe ngóng một lúc rồi bẻ góc dẫn Toán đi bọc sang phía hông của khu rừng. Vừa đi được một khoảng ngắn, những con đường mòn tua tủa từ trong khu rừng toả ra lan đi khắp nơi đập mạnh vào mắt tôi khiến tôi lại đổi ý, cho Toán dừng chân chôn hết số mìn muỗi còn lại trong ba lô xuống đất. Mất gần cả giờ đồng hồ cho việc chôn mìn nên sau đó, vừa đi thêm được khoảng một hai cây số nữa là trời bắt đầu sáng, tôi lại phải lo tìm bụi rậm cho Toán chui vào ẩn nấp.

    Những tiếng gà gáy inh ỏi rung động cả khu rừng đã đánh thức tôi dậy ngay vào lúc tôi vừa mới bắt đầu thiu thiu ngủ. Nằm yên lặng tại chỗ, tôi lắng tai nghe ngóng một hồi lâu nhưng vẫn không định hướng được nơi phát xuất vì tiếng gáy vang vọng khắp bốn phương tám hướng. Ngạc nhiên vô cùng, tôi tự nghĩ chắc mình đang nằm giữa một trung tâm nuôi gà nên khi mã hoá bản công điện cho buổi sáng, tôi báo cáo là đã khám phá ra một “trại gà tăng gia” của Việt Cộng. Chữ này không có sẵn nên tôi phải lật trang cuối của bản Đặc Lệnh Truyền Tin ra để mã hoá từng mẫu tự. Vừa gởi xong hàng số chót của bản công điện và chữ “hết”, chưa kịp bỏ ống liên hợp xuống, tôi lại nghe tiếng Thiếu Tá Thông oang oang trong máy :

    - “Vũ Long đây 81″.

    - “81 đây Vũ Long tôi nghe”õ.

    Tôi nghe tiếng Thiếu Tá Thông cười nhỏ trong máy trước khi hỏi, giọng diễu cợt:

    - “Làm sao anh biết là “trại gà tăng gia” của tụi nó?”

    Chán mấy ông này thật. Sợ bị lộ vị trí, tôi đã phải cầy cục mã hoá bốn chữ mười ba mẫu tự đó, rốt cuộc cũng như không. Thôi thế thì thôi, tôi cũng bạch văn luôn vậy:

    - “Thưa 81, tôi đoán thế vì nghe tiếng gà gáy tứ tung khắp nơi”.

    - “Anh có chắc là trại gà không? Coi chừng là gà rừng đó!”

    - “Thưa 81, tôi nghĩ là gà nhà vì gà rừng nó gáy khác, vả lại ở đây làm gì có gà rừng!”

    Tôi lại nghe Thiếu Tá Thông cười trong máy:

    - “Thôi được rồi, anh liệu mà đi cho lẹ khỏi cái “trại gà” đó đi, đừng có ham ăn gà mà cứ lẩn quẩn ở đó mãi nhá!”

    - “Vâng, chào 81″.

    (Sau này, khi bị bắt làm tù binh vào đầu năm 75, sống chung đụng với bọn Việt Cộng, tôi mới thấy mình quả thật là ngu, bị cười cho là phải. Làm gì có chuyện “trại gà tăng gia”. Gà là của tụi Bộ Đội sống chui rúc lâu ngày trong mật khu tự túc nuôi để cải thiện, mỗi đứa vài con mà đứa nào cũng nuôi nên mới có chuyện gà gáy tứ tung rân trời như vậy).

    Nhét bản Đặc Lệnh Truyền Tin và cuốn sổ tay vào túi xong, đang cài nút lại, chợt nghe Thạch Mỹ bật khoá an toàn khẩu M.16 đánh cách một tiếng, tôi vội quay sang thì thào hỏi nhỏ:

    - “Chuyện gì vậy Mỹ!”

    Mắt vẫn đăm dăm hướng về cái lỗ chó Toán vừa vạch ra để chui vào đây, Thạch Mỹ khẽ trả lời :

    - “Có, hai thằng đang bò về phía mình!”

    Tôi chồm tới nhìn theo hướng mắt của Thạch Mỹ. Bụi cỏ hôi (còn có tên là bù xít hay cứt lợn, một loại cây bụi rậm thân xốp nhỏ như chiếc đũa rất dòn và dễ gẫy) Toán đang ẩn nấp khá um tùm nên tôi chỉ thấy cành lá đan nhau quấn quít chằng chịt thôi chứ chẳng thấy gì lạ cả. Quay lại thấy Thạch Mỹ đang từ từ nâng súng lên vai, tôi vội vã ngăn cản:

    - “Nằm im đi Mỹ!”

    - “Không được, nó thấy mình rồi!”

    Chưa nói dứt câu, Thạch Mỹ đã bóp cò. Tiếng súng chát chúa nổ vang như sấm động giữa rừng và tiếng rú thất thanh của kẻ bị trúng đạn khiến các Toán Viên đang nằm tơ lơ mơ giật mình hoảng hốt chồm dậy phóng ào về phía trước. Tôi và Thạch Mỹ cũng vội nhào theo, bỏ lại sau lưng những tràng AK bắn trả cùng tiếng quát tháo ầm ỉ của tên Việt Cộng đồng bọn. Cắm đầu bương đại vào rừng cỏ hôi dầy đặc, không cần để ý đến phương hướng, đội hình cũng như che dấu tiếng cành lá đang thi nhau gẫy vỡ răng rắc dưới chân, Toán chạy thẳng một mạch đến khi hơi hoàn hồn mới bắt đầu chậm bước lại. Nghe tiếng la hét còn văng vẳng phía sau, tôi bực mình quay sang Lượm, xạ thủ M.79:

    - ”Lượm, ông dọng cho tôi vài trái ra phía sau cho nó câm họng lại dùm coi!”

    Lượm ngần ngại nhìn tôi rụt rè:

    - “Chuẩn Úy! Bắn vậy sợ mình bị lộ vị trí mất!”õ

    Không dám bắn thì thôi, tôi cũng không ép, nhưng nói đến việc lộ vị trí, tôi mới chợt nhớ ra. “Con đường mang tên em” Toán vừa vạch qua rừng cỏ hôi còn nằm sờ sờ ngay đó, nhắm mắt Việt Cộng cũng theo được tới nơi nên tôi phải lo mà đánh lạc hướng địch gấp. Tôi liền cho Toán nằm bò xuống đất tiếp tục làm chó, len lỏi chui giữa những gốc cỏ hôi chi chít. Thanh đi đầu phải cố gắng nhẹ tay tối đa để đừng làm gẫy cành lá và Thạch Mỹ bò sau cùng phải lo xoá dấu cho thật kỹ lưỡng. Lê lết như vậy khoảng hơn một giờ thì ra khỏi khu vực cỏ hôi, rừng cây trở lại bình thường, tôi cho Toán đứng dậy sắp lại đội hình, định lại hướng tiến rồi tiếp tục di chuyển thật nhẹ nhàng. Đi được thêm khoảng nửa giờ nữa, Toán bước tới ven bìa một trảng tranh lớn, điểm lác đác đây đó dăm ba lùm cây khá um tùm. Cho Toán dừng lại bố trí trong một lùm cây sát bìa rừng, tôi bốc máy báo cáo về là Toán đã bị bể và xin được triệt thoái. Lần này, tôi gặp Đại Úy Huyên đang bay hành quân. Ông cho biết là khoảng nửa giờ nữa, khi xong việc bên này, ông sẽ qua bên tôi liền.

    Yên tâm được một chuyện rồi, tôi nhìn quanh duyệt lại tình hình. Cái trảng tranh mênh mông trước mặt dư sức để làm bãi đáp rồi, chỉ có phía sau lưng là rừng thì hơi “lạnh”, không biết Việt Cộng nó ào ra lúc nào, chi bằng mình ra giữa bãi nằm để nhìn được bốn hướng cho chắc ăn. Nghĩ vậy nên tôi cho Thanh thận trọng từng bước dò dẫm tiến về một lùm cây gần nhất, cách tôi độ ba chục thước xế xế về mé tay phải để làm đầu cầu. Khi Thanh đã đến nơi quì xuống chong súng bố trí xong xuôi rồi, tôi bắt đầu tiếp bước, nhưng vừa đi được gần nửa đoạn đường, những tiếng la hét chợt vang lên ầm ĩ khiến tôi sững người. Bây giờ tôi mới thấy rỏ khoảng hơn trăm thước về mé tay trái của tôi, ven theo bìa cỏ tranh là một rẫy khoai mì lớn đầy những bóng đen lố nhố đang lao xao chạy tới chạy lui chỉ trỏ. Một bóng đen chợt vung tay ném một vật đen đen về phía tôi. Nhận ra đó là một trái “bê ta”, một loại lựu đạn nội hoá của Việt Cộng, tôi vội bay người nằm dài xuống đất. Tiếng nổ vừa dứt, tôi liền chồm dậy nâng súng lên bật khoá an toàn bóp cò đáp lễ. Đến lượt những bóng đen nhào xuống nằm dài dưới đất. Trong lúc khẩn cấp, chỉ kịp bật chốt bán tự động thôi nên ngón tay tôi phải gõ liên tục trên cò súng để duy trì nhịp bắn, nhưng nhờ vậy mà Thanh mới có đủ thời gian chạy ngược về vị trí cũ. Dứt hết băng đạn ba mươi viên, tôi cũng vội vã thụt lui ra phía sau.Lúc này, Thạch Mỹ đã dẫn Toán chạy dạt vào một lùm cây khác xế mé trái của lùm cây cũ độ hai chục thước. Sẵn đà, tôi phóng người chạy theo rồi nhào đại vào giữa lùm. Khi nghe ầm một tiếng rồi thấy người ướt nhẹp, tôi nhìn lại mới biết mình đang đứng giữa một hố bom đầy nước mưa, có lẽ là của B.52 vì hố khá lớn, gần năm thước đường kính, cây chỉ mọc thành một lớp mỏng ven theo chu vi của hố.

    Không “happy” lắm khi bị tắm “piscin”một cách bất đắc dĩ như vậy nhưng nước lạnh cũng giúp cho tôi tỉnh táo thần hồn được phần nào. Leo trở lên bờ, tôi cởi ba lô đổi cho Công, còn đang ngồi cười, lấy máy truyền tin đeo vào người (đây là một kinh nghiệm “thủ cẳng” do các Toán Trưởng đàn anh truyền lại, vì khi Toán bị bể, các Toán Viên hay chạy theo người mang máy là kẻ có khả năng liên lạc được với trực thăng, chứ ít khi chạy theo Toán Trưởng). Giao cho Thạch Mỹ nhiệm vụ rải Toán vòng quanh hố bom để canh gác, tôi bốc máy báo cáo với Đại Úy Huyên là Toán lại chạm địch lần thứ hai và xin được triệt xuất gấp. Đại Úy Huyên cho tôi biết là ông đã xong việc bên đó rồi nhưng còn phải về nhà uống nước (đổ xăng) rồi mới qua bên tôi được. Trời đất, giữa lúc dầu sôi lửa bỏng này mà còn đủng đỉnh về nhà ăn bánh uống nước thì có chết người không chứ !!!!

    Rên rỉ thì cũng chẳng làm gì hơn được, tôi gác máy rồi vạch lá nhìn ra ngoài. Vừa quét mắt về phía rẫy mì, tôi điếng hồn liền. Đông gấp bội lúc trước nhờ được tăng cường thêm bộ đội chính qui, đám Việt Cộng, AK súng trường lăm lăm trên tay, đang dàn hàng ngang từ đầu rẫy tới cuối rẫy, từ từ tiến tới lục soát từng lùm cây, từng bụi rậm. Không biết mặt mũi tôi ra sao chứ khi tôi quay lại nhìn các Toán Viên thì người nào người nấy đều tái mét. Ngay Thạch Mỹ, bình thường mặt đen như lọ chảo bây giờ cũng trắng bệt không còn hạt máu. Không hốt hoảng như hồi sáng nữa nhưng sự kinh hoàng khiến cả Toán như bị tê liệt, không có phản ứng gì. Tôi nhìn Thạch Mỹ, Thạch Mỹ nhìn tôi, bốn mắt nhìn nhau chẳng nói một câu. Thấy tay Thạch Mỹ đang nhồi nhồi trái M.26, tôi hội ý, cũng móc lựu đạn rút kíp rồi ra dấu cho các Toán Viên khác làm theo. Khi hàng quân địch lục soát xong lùm cây sát bìa rừng và bắt đầu tiến dần về cái hố bom Toán đang ẩn núp, tôi vung tay ném mạnh trái lựu đạn và hô lớn “Xung phong” (Dân Thám Sát chúng tôi rất ít khi đánh kiểu “tapi” như các binh chủng khác nên khẩu lệnh “Xung phong” đối với Toán có nghĩa là. . . “rút lui”). Sáu cái mồm còn lại cũng ngoạc ra hét tiếp “Xung phong”, sáu cánh tay vung lên, rồi cả Toán cùng phóng người vọt ra khỏi hố bom, chạy tiếp về mé trái.

    Bẩy trái M.26 nổ liên tiếp đã cho Toán tạm đủ thời gian để vượt qua con đường mòn nằm sát bên hố bom và tiến sâu vào khu rừng bên cạnh. Như một bàn chông khổng lồ, khu rừng này chỉ toàn những thân cây cổ thụ trơ trụi đã cháy hết cành lá vì bom napalm, lố nhố đen đủi chọc thẳng lên trời xanh. Mặt đất, vì ảnh hưởng của thuốc khai quang, chỉ mọc đầy cỏ tranh vàng úa cao ngang bụng. Không chổ ẩn nấp, Toán phải khom lưng rùn người cố gắng đi cho thật lẹ. Đi được một lúc, nghe tiếng Đại Úy Huyên léo nhéo trong ống liên hợp, tôi vội vàng bốc máy báo cáo tình hình. Đại Úy Huyên cho biết là trực thăng đang vào vùng rồi yêu cầu tôi chiếu kính và phất pa nô để xác định vị trí. Vừa lúc đó thì tiếng phành phạch quen thuộc của cánh quạt trực thăng bắt đầu vang lên, tôi vội cho Toán tản ra quì xuống bố trí, Thạch Mỹ phất pa nô và chính tay tôi chiếu kính cho chắc ăn. Vừa nghe Đại Úy Huyên nói : “Tôi thấy anh rồi. . ” thì tôi cũng nghe luôn một tràng AK nổ vang và tấm pa nô, nằm cao hơn ngọn cỏ tranh chút xíu, bị đạn giật văng khỏi tay Thạch Mỹ. Không ai bảo ai, cả Toán cùng bung lên chạy tiếp. Bây giờ thì gần như bốn hướng tám phương đều có bóng người, tiếng la hét hoà với tiếng súng vang rền như pháo tết Mậu Thân. Nhắm đại một hướng tương đối êm ả, tôi dẫn Toán tràn tới mới thấy mình đang chạy giữa một trảng trống nhỏ rộng độ ba trăm thước mà rừng cây như cái móng ngựa đầy Việt Cộng bao bọc chung quanh. Bẻ hướng về phía chân trời sáng lạng xa xa, Toán cắm đầu phóng miết, mặc cho đạn từ ba phía bắn như đan lưới. Chạy được một hồi gần tới chổ hở của cái móng ngựa rồi, tôi bỗng nghe Hoa hào hển gọi giật giọng:

    - “Chuẩn Úy, nghỉ một chút đi Chuẩn Úy!”

    Không quay đầu lại, tôi gắt:

    - ”Mẹ, chạy đi, nghỉ cái gì, muốn chết hả? Ra tới giữa trảng rồi hãy nghỉ!”

    Tiếng Hoa trở nên gấp rút:

    - “Tụi nó nghỉ hết rồi Chuẩn Úy ơi!”

    Tôi vội dừng bước, quay đầu nhìn lại thì thấy cả Toán đã kéo nhau vào ngồi dựa một gò mối khá lớn cách tôi độ năm thước. Chạy ngược trở lại gò mối, tôi quát lên:

    - “Đứng dậy chạy tiếp. . . . . ”

    Chưa quát hết câu, liếc mắt thấy vật gì đen đen từ phía cánh rừng bên hông phải bay vụt tới, tôi vội la : “Lựu đạn!” rồi chúi người xuống đất. Vừa dứt tiếng nổ, tôi chồm ngay dậy nâng súng lên bắn trả nhưng bóp cò thấy cứng ngắc, tôi mới chợt nhớ ra là nãy giờ lu bu, tôi vẫn chưa thay băng đạn mới! Lúng túng, tôi quay qua Toán thì thấy, thấp thoáng trong làn khói trắng mờ mờ, các Toán Viên của tôi đã bung chạy từ lúc nào rồi. Thôi thế thì thôi, tôi lại co giò phóng tiếp.

    Ra khỏi cái móng ngựa, một khung trời bao la bát ngát mở rộng ra trước mắt tôi. Không biết vì bom Napalm hay do Việt Cộng đốt để làm rẫy mà cả một cánh đồng mênh mông không còn một gốc cây ngọn cỏ nào, kể cả cỏ tranh. Mặt đất phủ đầy một lớp tro xám dầy gần cả tấc chạy dài đến tận chân trời, ngổn ngang gò mối nhấp nhô đây đó như những hòn đảo chơ vơ nằm giữa đại dương. Bây giờ hình như là bao nhiêu Việt Cộng ở trong mật khu đều kéo tới tụ tập đầy nghẹt mấy bìa rừng sau lưng tôi, nhưng chắc sợ trực thăng đang quần trên đầu nên không tên nào dám chui ra rượt theo Toán, chỉ núp tại chổ mà bắn vãi ra như mưa rào. AK, CKC, B40, B41, có gì chơi được là bọn chúng mang ra chơi cho bằng hết. Người như mê đi, đầu óc tê dại quên cả sợ hãi, tôi cứ cắm đầu chạy càn giữa trăm ngàn tiếng nổ tiếng rít đủ loại vang lộng bên tai. May nhờ bụi tro hoà với khói đạn bốc lên mịt mù che khuất thị trường, thêm tài thiện xạ của bọn Việt Cộng chắc cũng tương đương với tôi nên chúng bắn mãi mà đạn chỉ trúng mấy gò mối chung quanh Toán mà thôi.

    Chạy miết một hồi ra khỏi tầm đạn rồi, cả Toán mệt nhoài lăn quay ra đất. Vừa thở hào hển, tôi vừa đưa mắt nhìn một vòng. Thấy chỉ còn có sáu người, tôi hoảng hốt hỏi trổng:

    - “Thằng Hổ đâu?”

    Thanh đang nhăn nhó nâng niu cánh tay trái đẫm máu, nghe hỏi liền lên tiếng:

    - “Nó ôm nguyên trái bê ta banh thây tại chổ rồi!”

    Tôi hỏi gặn:

    - “Mày có chắc không đó!”

    Thanh quả quyết:

    - “Chắc chứ, em ngồi sát cạnh nó mà!”

    Tôi nhìn ngược về cánh rừng phía xa mà rầu rỉ. Chịu! Đành phải bỏ thôi chứ làm sao trở lại lấy xác Hổ ra cho nổi. Đã biết là ở trong cái binh chủng “đi mây về gió (đi có về không, đi đông về ít)” này, chết mất xác là sự thường, “cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” chỉ làm cho mầu mũ xanh rừng thẳm đầy huyền thoại của đơn vị thêm bi hùng, đã có sức chơi thì dĩ nhiên phải có sức chịu, nhưng đến bây giờ tôi mới thấm thía hết được nỗi xót xa khi mất một chiến hữu của mình. Quay qua nhìn Toán, tôi lại càng rầu hơn. Máu me tơi tả, rách nát xác xơ : Thạch Mỹ bay mấy miếng da trên cổ, Thanh gẫy tay, Công và Lượm mỗi người ôm mấy mảnh vào lưng, tôi và Hoa cũng bị trầy xước tứ tung. Tất cả đều do trái “be âta” tai hại ở gò mối gây ra. Tức thật, chạy khơi khơi giữa làn mưa đạn không sao, ngồi xuống nghỉ làm chi để lãnh đủ. Nhưng đã lỡ rồi, nói gì thì cũng vậy thôi, tôi đành dặn Hoa lấy băng cứu thương ra băng cho những người bị nạn rồi đưa tay lôi cái ống liên hợp đang nằm lăn lóc dưới đất lên để liên lạc với Đại Úy Huyên (cái ống liên hợp này tôi vẫn gài trên dây ba chạc, không biết rơi ra từ lúc nào rồi bị kéo lê theo tôi suốt cuộc “chạy hoả lực”, dính đầy tro bụi mà vẫn hoạt động. Đúng là đồ của Mỹ tốt thật!)


    Nghe tiếng tôi gọi, Đại Úy Huyên mừng rỡ hỏi han rồi vội vã bảo tôi “nháy mắt” ngay để trực thăng biết vị trí mà xuống bốc. Một tay cầm ống liên hợp, tay kia lắc nhẹ cái kính chiếu hướng về hai con tầu đang quần vòng vòng trên đầu, tôi vừa nghe Đại Úy Huyên la lên : “Tôi thấy anh rồi!” là chiếc “Slick”của Trung Úy Bình đã chơi ngay một đường “bình sa lạc nhạn” xà xuống ngay trước mặt tôi. Càng trực thăng chưa chạm đất, Toán đã ở hết trên sàn rồi. Vừa yên vị, tôi lắp ngay một băng đạn mới rồi xả “ra phan” xuống cánh rừng đang chìm dần dưới chân như muốn trút hết cơn muộn phiền đang chất chứa trong lòng. Hoa và Công cũng nối gót, xách súng bắn túi bụi xuống đất cho đến khi phi cơ bay tít lên cao mới thôi (đây cũng là một kinh nghiệm “thủ cẳng” khác : về nhà rủi Ban 2 hưởi nòng súng rồi hỏi sao “đụng mà không có mùi khói gì hết vậy thì hơi khó trả lời!”)

    Sáu giờ chiều Toán mới về đến Suối Máu. Sau khi giao ba lô súng đạn lại cho Trung Sĩ Nhất Mạnh, Thường Vụ Đại Đội, đang đứng chờ sẵn, Thạch Mỹ, Thanh, Công và Lượm liền được xe cứu thương của Liên Đoàn đưa thẳng ra Bệnh Viện Dã Chiến của Quân Đoàn 3 ngoài cầu Săn Máu. Tôi và Hoa còn đang tần ngần nhìn theo đám bụi mù thì chiếc C & C của Đại Úy Huyên tà tà đáp xuống. Vừa nhảy ra khỏi trực thăng là Đại Úy Huyên đã cười cười nhìn tôi :

    - “Tôi tưởng anh tiêu rồi chứ!”õ

    Không thấy tôi trả lời, ông tiếp tục cười cười phịa thêm:

    - “Anh chạy lẹ thiệt, từ đám khói trắng đến chổ trực thăng đón anh có đến ba bốn cây số mà anh chạy chỉ có mười mấy phút thôi, đi dự Thế Vận Hội được rồi đó!”

    Thấy tôi vẫn lừ đừ im lặng, mặt mũi ngơ ngáo như kẻ mất hồn, ông nản chí kết thúc câu chuyện:

    - “Thôi, anh về Đại Đội tắm rửa rồi nghỉ ngơi đi!”

    Giao trả Hoa lại cho Mạnh, tôi lếch thếch xách ba lô về phòng Toán Trưởng lấy quần áo rồi qua nhà bếp đại đội tắm ké một phát ở xe Cistern nước ăn (Căn cứ Hành Quân không có phòng tắm, ai muốn tắm thì ra suối hoặc về. . . Sài Gòn mà tắm). Sạch sẽ tỉnh táo con người rồi, tôi tà tà bước lên bệnh xá Liên Đoàn kiếm ông thầy thuốc. . . đỏ, Thiếu Úy Phước, nhờ bôi thuốc đỏ dùm mấy chỗ trầy xước. Bôi xong, loay hoay một hồi không biết làm gì, tôi bèn rủ Phước ra đón xe ôm dọt về Sài Gòn (Suzuki của tôi Tâm Guigoz lấy đi chơi chưa về).

    Qua tuần sau, cả Liên Đoàn cùng trở về hậu cứ ở ngã tư An Xương, Hốc Môn để dưỡng quân và học Vovinam. Nhân dịp này, một lễ gắn huy chương cho các “chiến sĩ hữu công” đã được tổ chức tại sân cờ trại Bắc Tiến và tôi cũng được chia một Anh Dũng Bội Tinh với ngôi sao đồng. Theo lời Thiếu Tá Thông tuyên bố nửa đùa nửa thật trong đêm liên hoan trước khi rời căn cứ hành quân, đáng lẽ tôi được ngôi sao vàng, “nhưng vì Chuẩn Úy Long ham ăn gà, cứ lẩn quẩn ở đó mãi không chịu đi cho lẹ, để mất Binh Nhì Hổ”, nên giảm xuống còn ngôi sao đồng (bố khỉ, ham ăn gà ở cái chổ nào, chưa kịp đi thì nó đã rượt tới nơi rồi. Nhưng thôi, đi Toán phạt mà lại được thưởng huy chương, còn đòi gì nữa?) Đứng nghiêm nghe Đại Tá Huấn, Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn, ban huấn lệnh sau buổi lễ nhưng tai tôi như vẫn còn văng vẳng tiếng than khóc của gia đình Binh Nhì Hổ khi tới nhận di vật ngày hôm qua tại doanh trại Đại Đội. Chiếc huy chương đeo trên ngực ấm thì ấm thật, nhưng lòng tôi đau như có xát muối, và sao chân tôi lại bắt đầu cảm thấy lạnh quá vầy nè! ! !


    Nguyên Long
    Adelaide tháng 3 năm 2001

    (Bài trích đăng từ Đặc San GĐ81/BCND số 3 ngày 1 tháng 7 /2001)
    nguồn: hungviet.org
    Last edited by khongquan2; 09-28-2012, 06:42 PM.


Hội Quán Phi Dũng ©
Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




website hit counter

Working...
X