Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Đi tìm quá khứ

Collapse
X

Đi tìm quá khứ

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #16
    HÀNH TRÌNH PHƯƠNG ĐÔNG 2012


    Lời nói đầu: “Hành Trình Phương Đông” là một bút ký có thể để nói về chuyến đi chơi về phương đông của một nhóm bạn; cũng có thể là những vui buồn của văn hóa Đông phương đang cố gắng hòa nhập vào xã hội tây phương mỗi ngày một tân tiến. Có những biểu hiện văn hóa Đông phương rất rõ nét, rất đáng quý; cũng có những nề nếp cổ truyền càng ngày càng nhạt phai!

    Giữa những ngày đầu xuân thênh thang, tôi đang mơ màng với hoa với cỏ sau vườn. Điện thoại reng khi thằng bạn ở Tampa, Florida gọi nói rằng con gái đầu của nó sắp làm đám cưới vào cuối tháng tư năm nay. Tôi hỏi nó tại sao lựa “cuối tháng tư” làm đám cưới. Nó bảo con nó đã sắp xếp như vậy, phận làm cha mẹ phải nghe theo! Nó phán thêm rằng, ở thời đại này con cái đặt đâu cha mẹ ngồi đó, loạng quạng nó gửi cho một Thiệp Mời đám cưới thì buồn hơn. Tôi chưa biết nói sao thì nó lại hỏi:

    - Vợ chồng mầy có đi không thì bảo? Phần riêng tao chỉ có 30 chỗ ngồi và quyết định chỉ mời bạn thân ở gần và những người bên Nội!

    Nghe nó nói tôi nổi máu tếu nhanh nhẩu trả lời:
    - Tao hân hạnh được đứng trong hàng ngủ bạn thân của mầy nhưng tao ở xa, mầy không mời thì tao cám ơn!
    - Bố khỉ, tao không đùa với mầy đâu, cho mầy vài giây suy nghĩ, không đi thì nói một lời?
    - Đi thì đi chứ làm gì dữ vậy! Mẹ, mời đám cưới mà cũng hung hăng ra lệnh!
    - Vậy thì tốt, mầy nhớ cõng bà quận của mầy theo, nếu không thì khỏi. Có vợ chồng thằng P. và vợ chồng mầy thì tao còn 26 chỗ. Mầy nhớ đừng nói cho đứa nào biết, để từ từ tao tính!
    - Cái thằng Mễ đen này uy quyền quá héng! Mà mầy cho tao biết tại sao mầy chỉ có 30 chỗ ngồi trong đám cưới của con gái đầu lòng?
    - Chuyện khá dài dòng không tiện nói. Mầy chỉ cần biết là tao chỉ được quyền mời 30 người. Tao đang bối rối không biết tính làm sao với bà con, bạn bè thân thích!
    - Ừ không nói thì không nói. Ukie dukie, tao nhận lời qua dự đám cưới cháu!

    Tôi gọi nó là thằng “Mễ đen” là vì nó vừa đen thui vừa líu lo tiếng Mễ giống người Mễ thứ thiệt. Tuy vậy, cũng ẵm được một bà vợ sạch nước cản, thích ca hát, thích ăn diện như tiểu thơ thành phố dù ngày ngày cũng theo nó cày sâu cuốc bẫm, chăn Mễ như chồng. Nàng cũng đã một lần dự thi “hoa hậu phu nhân” ở xứ Phơi-Lòi-Da (Florida), dũng lược cùng nó cho ra đời 5 con phượng nhí liền một hơi, xin đẹp, dễ thương hết biết, chạy nhanh như chim trích nên đứa nào cũng là một hảo thủ bóng tròn một thời trung học. Nó đen vì ngoài nước da trời phú lại còn dải nắng dầm mưa hết ngày nọ tháng kia gần trọn cuộc đời tỵ nạn chứ nó không lai giống gì sất. Màu đen nâu nâu mà đàn bà con gái Mỹ rất mơ ước, tốn biết bao nhiêu tiền để ten-tiết mới có được chứ không phải như mấy ông thần cột nhà cháy đâu!

    Từ ngày bỏ nghiệp lái máy bay, tan đàn sẩy nghé sang đây, chúng tôi ai cũng như ai, hết nghề này đến ngỗng khác… nhưng không ai trong lũ chúng tôi giàu có như nó. Lang bạt từ phương đông đến miền bắc nước Mỹ rồi về lại miền đông nam, chọn nghiệp nông trang với hàng trăm mẫu đất, trồng cây trái đủ loại, trồng đủ loại rau tươi để cung cấp tất cả các chợ Việt Nam trên nước Mỹ. Ngày ngày gian lao, so gan cùng tuế nguyệt chăn một bầy Mễ Cuba bạn thân của anh ba Nguyễn Minh Triết, nuôi 5 con phượng ăn học ngon lành. Con phượng đầu đàn đã là một bác sĩ giỏi dang, sắp lập gia đình, mấy con phượng tiếp theo đã xong đại học, đứa đi làm, đứa đang thực tập, và con phượng nhỏ nhất cũng đã năm thứ hai đại học rồi…

    Nó với tôi cứ mầy mầy tao tao như thuở quân trường dù đứa nào tóc cũng đã sương khói, mắt đã mơ huyền. Tôi với nó học chung thầy ở trường bay, về phục vụ chung một đơn vị, cùng có chân trong đội tuyển volley của Không đoàn nhưng nó và P. là hảo thủ chính, còn tôi chỉ được “rờ-dzẹt” lượm banh, lâu lâu được thế vào, được nó nâng banh cho tôi nhắm lưới mà đập! Đôi khi nó nổi dóa thì tôi cười trừ “làm gì được nhau” chỉ vì tôi to con lớn xác hơn nó!

    Bẵng đi một thời gian không lâu nhưng cũng đủ cho một trí óc cùn lụt quên khuấy mất chuyện hẹn hò. Một hôm nó lại gọi điện thoại hỏi tại sao vẫn chưa nhận được hồi âm xác nhận của tôi. Tôi nói với nó là chưa thấy Thiệp Mời biết ngày nào mà lấy vé máy bay. Nó bảo con gái nó xác nhận đã gửi rồi cùng một lúc với P. (một người bạn thân của tôi và nó cũng đang ở Houston), nay P. đã nhận rồi tại sao tôi lại không?

    - Tao không phải con mầy cũng không phải ông bưu điện làm sao tao biết được!
    - Được rồi, chính tay tao sẽ gửi lại cho mầy. Ngày đám cưới là 28/4.
    - Thôi khỏi gửi nữa, tao xác nhận lại là vợ chồng tao sẽ có mặt.
    - Nhưng vợ chồng mầy cần cho biết là ăn món gì. Nhà hàng Mỹ chứ đâu phải nhà hàng Việt Nam, tụi nó cần biết mầy ăn món gì!
    - Món gì là món gì?
    - Hoặc thịt bò với thịt gà hoặc cá với gà.
    - Nghe mầy nói tưởng là chúng nó tổ chức lắc bầu cua… ừ thì cho tụi tao đặt một cửa bò, một cửa cá đi.

    Mấy ngày sau tôi nhận được một Thiệp Mời đám cưới. Nhìn qua phong bì tôi chợt nhớ là mình đã vất đi cái thiệp tương tự một lần rồi vì tên trong thiệp chỉ có chữ “Le” là có hơi hám tiếng Việt còn lại là tiếng ngoại quốc, lạ hoắc; tên cha mẹ hai bên cũng không có! Chuyện nhận Thiệp Cưới của người lạ là chuyện thường ngày ở huyện. Số đông người Việt Nam tính ưa khoe khoang, ai cũng muốn đám cưới con của mình lớn hơn người khác nên gặp ai thân sơ cũng mời. Có người còn nói nửa khuya đang ngủ bỗng giật mình trực nhớ tới người quen, lại cặm cụi ngồi dậy viết Thiệp Mời kẻo quên! Bởi vậy, trong mùa cưới một gia đình có thể nhận 5, 6 Thiệp Mời mỗi tháng cũng là chuyện thường ở huyện. Thời buổi này mà cứ nhận dài dài như thế thì còn tiền bạc đâu mà “áo gấm về làng thăm cô Thắm” cho được! Rất thường khi hai vợ chồng phải chia nhau chạy sô mỗi nơi một chút cho tròn đạo nghĩa!

    Nhìn tấm thiệp thấy nhiều khả nghi, tôi gọi điện thoại hỏi P. mới biết đúng là Thiệp Mời đám cưới con gái thằng Mễ!

    Đã lâu lắm rồi tôi không có dịp về thăm lại bạn bè ở Florida. Lần sau cùng cách đây gần 10 năm, nhân dịp giới thiệu tập thơ “Một Đời Tưởng Tiếc” với bạn bè và độc giả xứ này, tôi đã về nông trại chơi với “thằng Mễ”. Gần một tuần lễ, tôi đã theo nó tập chạy máy cày, cắt rau muống, hái bưởi, hái bầu, bí, khổ qua… đi phi trường gửi rau bỏ mối ở các tiểu bang khác… Một tuần lễ sống lại cảm giác xưa cũ, hít thở được không khí trong lành với hương đồng cỏ nội làm tôi bùi ngùi nhớ về một dĩ vãng xa xăm. Tôi gọi P. sửa soạn chuyến đi. Cái ông thần nước mặn này nữa, rất khó để kéo nó ra khỏi comfort zone (vùng an toàn) của nó. Tôi phải đưa đủ thứ lý do để thuyết phục nó cùng đi với tôi làm một chuyến vui chơi. Tôi liên lạc với những bạn thân của nó và tôi ở một thời sanh tử nói rằng muốn ghé thăm ngày… tháng… Dĩ nhiên ai cũng vui mừng chào đón! Niên trưởng T. ở tận tiểu bang Maryland được “thằng Mễ” chiếu cố và biết được chúng tôi có cả một chương trình khám phá Phơi-Lòi-Da, anh hỏi lịch trình và quyết định bỏ vé máy bay mua rồi, mua vé mới cùng ngày giờ để cùng đi với chúng tôi cho có bầu có bạn.

    Ngày N tới. Chúng tôi vui vẻ lên đường. Phi cơ đáp ở Orlando lúc 10g30 đêm, thuê xe tại phi trường chạy một mạch đến Port St. Lucie, nhà của H. vọng cổ mà tôi gọi hắn là “Mễ già cô đơn”, lúc 1g15 sáng. Mễ già cô đơn vốn là công tử Cà Mau, một thời danh gia vọng tộc, khóa 69B. Cũng như nhiều quan không có quân khác, ông Mễ già cô đơn này sau bao nhiêu dời đổi đã từ bỏ mộng vào Whitehouse đưa vợ con về miền Phơi-Lòi-Da nắng ấm an hưởng tuổi về chiều để sáng sáng vác cần câu ra biển, chiều chiều chà láng xe classic collection. Trong nhà đã có hai thằng nẫu khác đợi từ trưa. N. up-side-down (có dịp tôi sẽ nói về nhân vật này) đến từ Minnesota, và AC L. đến từ Atlanta, cũng là niên trưởng hắc ám của chúng tôi. Gặp nhau tay bắt mặt mừng, nói nói cười cười, ăn cháo cá đặc biệt của chủ nhà câu bằng mồi giấy xanh, nâng ly, nâng chai cho tới gần 3g sáng mới chịu đi ngủ. Sáng mới 7g đã ồn ào café, thuốc lá. Ông nọ tố ông kia dùng máy cưa cũ rích… Cũng may tôi đi với vợ cho nên được đặc biệt mang máy cưa cùn của mình vào phòng riêng. Khi tôi bò ra khỏi chăn ấm nệm êm đã thấy vợ chồng Mễ già cô đơn dọn bữa ăn sáng. Không biết chuyện ở đâu mà nhiều thế, nói hoài không dứt, toàn chuyện mới nói lại cả triệu lần!

    Không biết mặt trời đã lén chạy tuốt lên cao lúc nào giữa lúc vợ chồng brother Pham N. ở Wellington, West Palm Beach gọi ơi ới! N. là bạn cùng khóa với tôi và P. ngày xưa, thuộc trung đội người lùn gây khói lửa, nhưng là một phi công phản lực tài ba của KQ VNCH. Như vậy phe ta cũng bằng số người của phe hắc ám. Ngày thứ Sáu đáng lẽ N. đi làm nhưng mới được nửa buổi đã chuồn êm để về nhà cứu bồ. Hai xe, 7 người trực chỉ hơn 60 dặm đường về hướng nam.

    Muốn vào cơ ngơi của vợ chồng N., phải đi qua một cổng gác, xét giấy như vào cổng phi trường không bằng. Tôi gọi vào nhà nói cho N. biết là hầu hết anh em mặc quần sọt nên người ta không cho vào, vợ N. tin thật đòi nói chuyện phải không với ông gác cổng nhưng vì tôi lỡ bật cười nên bể mánh, cùng lúc N. đã đứng ngay trước cổng dẫn đường, đỡ cho chúng tôi phải nghe lời mợ tóc vàng người Anh GPS chỉ chỏ quanh co. Khu nhà rất xin đẹp, hoa cỏ xanh tươi khác thường.

    Sau khi ăn sáng xong, lên xe trực chỉ Miami tới nhà Trần C. Trên đường đi liên lạc, Trần C. nói ghé thăm tiệm trước rồi hẳn về nhà. Trần C. là niên trưởng của nhóm này, chỉ đứng hàng sau anh T.. Đại gia TC sở hữu một khu building khá lớn. Theo anh chị nói thì “lúc còn trẻ” anh chị đã dùng hết building mấy chục ngàn square feet để kinh doanh, gửi hàng trang trí nội thất đi khắp nước; nay bầy con đã nên người, đứa kỷ sư, đứa bác sĩ, đã có nội ngoại đề huề, anh chị quyết định thu vén lại chuẩn bị về hưu. Chỉ nhìn vào kho chứa còn lại khoảng 1/5 diện tích gọi là “thu vén” tôi cũng đã nhức đầu hoa mắt với hàng ngàn, hàng vạn món, lớn nhỏ khác nhau.

    Rời khỏi tiệm, TC đưa chúng tôi về nhà để ăn uống, tắm rửa. Dự định là chờ nắng dịu xuống sẽ đưa mọi người đi ra biển chữa mắt… tính lui tính tới nhưng mộng không thành vì đồ ăn thức uống ê hề, bạn bè tới chơi, chuyện trò không hết chuyện… Làm sao đi!? Lại nữa, chúng tôi gặp lại một người bạn cùng khóa thuở mới vào lính. Có ai tưởng tượng được hơn 40 năm sau, nơi chân trời góc biển chúng tôi lại trùng phùng, ôi biết bao chuyện để nói! Gặp thêm một đại cồ cựu phi đoàn trưởng phản lực cơ A37, là xếp lớn của Phạm N. ngày nào; thêm một anh bạn cựu KQ khác cùng với bạn câu là ông nghệ sĩ cựu quân nhân VNCH trong vùng. Kế đến là vợ chồng Phạm N. tới, con cháu chủ nhà về… Một nhà đầy rẫy tiếng cười; bàn nhậu sau vườn cũng vô cùng rôm rả với tiếng hát, tiếng đờn của các nghệ sĩ nghiệp dự bất đắt dĩ. Mùi thịt bò nướng lá lốt thơm lừng, cá thịt ngổn ngang và tiếng khui bia nổ lốp bốp không ngừng. Chủ nhà mang thêm hai chai cognac cũng cạn sạch. Đợi khi người khách cuối cùng rời khỏi đồng hổ đã chỉ 3g sáng thứ Bảy!

    Ngủ chưa đã mắt thì những tiếng nói chuyện râm rang của các ông thần đã dựng mọi người trở dậy. Không biết bà chủ nhà đã nấu nướng từ lúc nào mà nồi phở to đùng, thơm phưng phức được mọi người tận tình chiếu cố trước khi khăn áo chỉnh tề vượt hơn 230 dặm đường, về hướng tây bắc để dự lễ cưới ở nhà thờ tại Sarasota, vào lúc 1g30 chiều.

    Tới nơi trễ mấy phút, lễ cưới đã khai mạc, những lời kinh cầu đã vang rền, chúng tôi êm thắm làm đầy hàng ghế trống phía sau theo dõi cuộc lễ! Bao nhiêu năm chưa gặp lại, 5 con phượng trong y phục cô dâu và phù dâu giờ đã là những thiếu nữ xinh đẹp. Cô dâu giống Mẹ như đúc trong bộ đồ cưới lộng lẫy nói cười. Gần cuối cuộc lễ, thằng Mễ đi xuống thấy nhà tôi đang chụp hình, có lẽ đang vui mừng nên “vung tay quá trán” làm văng cái máy hình trong tay bà quận! Thế thì chết thật, cái máy ảnh kể như đã xong một đời theo tôi du lịch tứ phương. Nhà tôi an ủi “mình có cơ hội xài máy mới”.

    Sau khi lễ, vợ chồng H., cùng khóa ở Cali qua, gia nhập vào nhóm. Chúng tôi không biết đi đâu trong thời gian chờ đợi nên kéo nhau đến sảnh đường tiệc cưới để xem có phụ tay vào việc gì không. Đến nơi thì đèn đã treo, hoa đang kết… người ta đang ráo riết chuẩn bị cho tiệc cưới chiều nay. Đặc biệt nhất là kỳ công của thằng Mễ đen đã chìu lòng con gái cưng, chuốc tre làm gần trăm chiếc lồng đèn bằng giấy, hình tròn như những vầng trăng 16, đủ màu sắc, làm luôn cột treo… theo lời yêu cầu của cô dâu. Chúng tôi xớ rớ, đứng ngồi lung tung, tán gẫu dưới những bóng cây ngoài vườn cạnh bờ biển. Có ai đó chạy mua bia giải khát nhưng nhà hàng đòi phạt vạ nên cả lũ đành ngó trời hiu quạnh! Mà trời hiu quạnh thật, bỗng dưng mưa ào ạt tới. Mưa nặng hạt ngập cả sân cỏ làm những bàn ghế sắp xếp ngoài trời ướt sũng, nhân viên nhà hàng chạy tới chạy lui dọn dẹp như đèn kéo quân. Nhìn đám lồng đèn ướt sũng trong mưa làm chúng tôi xót ruột vô cùng, không biết đám lồng đèn chịu được bao lâu! Mưa cứ rơi đều dù đã nhẹ hạt nhưng không thấy nhiều hứa hẹn vì bầu trời vẫn còn nhiều mây đen… Cuối cùng, nhà hàng quyết định Plan B, chưng bày tiệc cưới bên trong và tiệc cưới khai mạc lúc 5g30 chiều.

    ***

    Dịp tham dự đám cưới của con thằng Mễ đen cũng là dịp hội ngộ rất nhiều bạn bè chung đơn vị ngày xưa, hoặc đang ở Florida hoặc rải rác các nơi về như anh Th., Tr., N., H., T., H., L., P., C… Ai cũng tóc bạc, da mồi, nếp thời gian in hằn trên từng khuôn mặt! Chúng tôi rất vui và cảm động gặp lại nhau, tay bắt mặt mừng, kể cho nhau nghe những thăng trầm dâu bể của một đời tỵ nạn.

    Mưa đã ngưng hẳn, trời chiều lồng lộng, gió mát thổi vào từ ven biển sát bên, tạo nên một tiệc cưới tưng bừng, vui nhộn với ca nhạc và dạ vũ ngoài trời. Sau cơn mưa trời đã hoàng hôn. May quá đám lồng đèn vẫn còn trưng dụng được dù những màu sắc đã nhòe nhẹp vì mưa. Đèn điện tử đã được thắp sáng trong mỗi lồng đèn tạo nên một vùng ánh sang huyền hoặc, rất lãng mạn, quyến rũ. Mọi người đổ dồn ra sân, men rượu nồng nàn cùng với tiếng nhạc, hòa lẫn tiếng cười, tiếng hát. Dù vậy, không khí này không mấy hợp rơ với mấy anh chị sáu (bó); vì thế, sau lễ cắt bánh xong, tất cả bạn bè thân quen và các bà quận đều đồng ý kéo nhau về nhà thằng Mễ đen theo lời mời tha thiết của nó, cách tiệc cưới khoảng một tiếng lái xe, để tiếp tục cuộc vui. Đâu dễ gì mà tụ tập bạn bè từ Cali, Maryland, Atlanta, Houston và các thành phố rãi rác ở xứ này về một nơi cùng một lúc.

    Được thằng Mễ đen cho quyền tự tung tự tác, về tới nhà là xào là nấu là rượu là bia. Có mấy chef cook nghiệp dư trổ tài nấu nướng, lôi trong tủ lạnh có gì nấu đó thành một buổi tiệc rất đậm màu Lương Sơn Bạc. Khi thằng Mễ về cũng đã hơn 12g đêm mà không khí vẫn rộn ràng, nào chai nào ly vẫn cụng nhau xoành xoạch. Buổi tiệc kéo dài cho đến gần 3g sáng thì rất nhiều người đã cạn bình, hết điện… chưa nói tới việc hẹn ước với một số bạn bè ở Orlando vào sáng ngày mai đúng 9g để đi chơi Disney World. Chúng tôi đi ngủ và từ giã một số bạn bè vì sáng mai sẽ phải lên đường lúc 6g sợ không có dịp nói lời chia tay.

    Nhà tôi để đồng hồ báo thức lúc 5g30. Xong phần vệ sinh cá nhân là tôi mò mẫm đánh thức anh T., P., và vợ chồng H. để lên đường. Hơn 6g sáng tinh mơ, trong lúc những cây cưa cũ còn đang làm việc, chúng tôi đã lặng lẽ rời khỏi nhà. Ra tới xe đã thấy hai ông thần nước mặn “AC L.” và “Mễ già cô đơn H.” mò ra tiễn biệt. Mấy ngày ở bên nhau càng thêm quyến luyến chia tay không dứt!

    Theo chỉ dẫn chúng tôi tới nhà LHA khoảng 8g. Vào tới nhà đã thấy có vợ chồng LM. Vợ LM nhận diện tôi liền nói là đã gặp “thợ quậy” ở Đại Hội 40 năm của khóa ở Cali mấy năm trước! Thấy hai bà xinh đẹp đang sửa soạn thức ăn sáng. Tôi nghĩ thầm hãnh diện, bạn bè mình đứa nào cũng có vợ đẹp con ngoan. LHA và LM là hai người bạn cùng khóa quân trường với tôi, P., H., và N.. Chúng tôi vẫn thường liên lạc với nhau qua email, diễn đàn của khóa. Riêng LHA thì từ ấy đến giờ làm người nhái thứ thiệt. Tôi đã tưởng chắc gặp nhau bỡ ngỡ lắm nhưng không ngờ khi nhắc chuyện xưa cũ thấy thân thuộc nhau như những đôi tình nhân. Vợ chồng LHA tiếp đón chúng tôi rất niềm nỡ, nồng nàn. Tiếp đến là vợ chồng Phạm N. vượt hơn 160 dặm đường để đến với anh em. Vợ N. mang theo những đặc sản của nàng (bánh và kẹo chuối) để tặng cho mọi người. Được biết nàng đã thức gần trọn đêm qua, bỏ vào bao nhiêu ân tình để làm nên những đặc sản có một không hai này. “Ôi KQ danh tiếng muôn đời! Không bỏ anh em, không quên bạn bè” là vậy! Cám ơn các bạn mình còn có nhau! Không hẹn mà thành hội ngộ khóa vì bỗng dưng có tới 6 mạng cùng thời, cùng khóa từ những tiểu bang xa xăm gặp lại nhau. Vui ơi là vui! Xin một lời cám ơn các bà quận đã không nhăn mặt khi lũ tôi cứ mầy mầy tao tao như một đàn trẻ thơ mới lớn.

    LHA cho biết là con cái đã ở xa! Căn nhà đẹp đẽ, rộng thênh thang càng thênh thang hơn. LHA cho biết là có 4 phòng ngủ trên lầu bỏ trống, tối nay ai thích căn nào chiếm căn đó. Bây giờ thì chuẩn bị đi chơi Disney World. LHA đã nghỉ hưu sau khi đã làm cho Disney World mấy chục năm dài. Vợ chồng LM và LHA nói là đã ngán tới cổ sẽ ở nhà chờ chúng tôi chiều về. Vợ chồng Pham N. cho biết là đã rành 6 câu vọng cổ nhưng sẽ đi với chúng tôi cho vui để được thêm nhiều giờ với nhau.

    Với sự hướng dẫn tận tình của LHA, của chị Tuyết Nga (một thành viên của Ban Đại Diện chi nhánh Văn Bút Miền Đông Hoa Kỳ), và nhất là của chị Kim (chị của TN) tất cả chúng tôi được một buổi đi chơi Disney World thật vui và mang về nhiều kỷ niệm. Chi TN cũng là một MC tài ba của Orlando trong các sinh hoạt nghệ thuật tại địa phương. Chị có một giọng nói trầm ấm, giọng đọc truyện rất truyền cảm, hấp dẫn người nghe. Chị luôn vui tươi và rất nhiệt tình với bè bạn. Khi biết chúng tôi về Orlando muốn đi chơi Disney World, và thấy chúng tôi thời giờ không có, nên chị đã sắp xếp và tình nguyện làm hướng dẫn viên, đưa chúng tôi đi xem những nơi đáng xem để tiết kiệm thì giờ. Cám ơn tấm lòng ưu ái của chị TN, chị K., và LHA đã giúp cho anh em chúng tôi có một ngày vui trọn vẹn bên nhau. Xin ghi nhận ân tình của hai chị và của bạn tôi.

    6g chiều chúng tôi rời Disney World vì vợ chồng tôi được anh chị em trong Văn Bút Miền Đông Nam Hoa Kỳ mời cơm tối gặp gỡ thân mật. Vợ chồng Pham N. phải trở về West Palm Beach vì đường xa diệu vợi. Vợ chồng H., P. và anh T. có hẹn với nhóm Cổ Nhạc một nơi khác trong khi vợ chồng LHA và LM ở nhà chuẩn bị tiệc vui, hối thúc chúng tôi về nhà càng sớm càng tốt.

    Tôi không thể rời khỏi buổi cơm tối cho tới gần 9g. Trong buổi cơm tối Văn Bút, ngoài những vị tôi mới gặp mặt lần đầu, tôi đã gặp lại một đại niên trưởng trong đơn vị cũ, anh ĐQV. Ngoài tình chiến hữu, anh còn là một cựu chủ tịch ưu tú của chi nhánh Văn Bút vùng này. Anh biết được có anh T. đồng thời có P. volley nên ngõ ý muốn đến thăm cộng thêm một số văn thi hữu cũng muốn tháp tùng tới nghe đờn ca cổ nhạc. Thế là tôi dẫn đường theo chỉ dẫn của mợ tóc vàng GPS. Có lẽ mợ không cập nhật xứ Phơi-Lòi-Da nên dẫn tôi chạy vòng vòng cả hơn tiếng đồng hồ mới tìm ra địa chỉ thay vì chỉ cần 15 phút từ chỗ nhà hàng! Nhà tôi coi lại option thấy tôi đã tắt “tránh toll road, không quẹo chữ U” nên một khi đi lộn đường là không trở lại, tốn thêm thì giờ vàng ngọc. Cũng may có anh ĐQV dẫn lối chứ không chắc cả đêm làm giàu cho hang xăng. Tôi cứ phải gọi chừng điện thoại cho hai ông bạn già LHA va LM đang ở nhà ngồi chờ dài cả cổ!

    Đã đến nơi rồi không thể bỏ về ngang vì tôi còn phải đưa P. về; mà P. cũng như tôi lâu quá mới gặp đàn em, chơi chưa hết trớn… nên cứ dằng dai cho tới quá 12g đêm mới về đến nhà LHA! Vào đến nhà thấy hai ông bạn vàng ngồi uống tì tì với nhau, đồ ăn thức uống còn đầy trên bàn. Hai người đẹp có lẽ đã mòn mỏi chờ không nổi nên đi ngủ rồi. LM hăng hái đòi bẻ ngay cổ chai XO để mừng hội ngộ, nhưng vì đêm đã rất khuya và ai cũng đừ đẫn vì thiếu ngủ. Vã lại, sáng mai 6g chúng tôi sẽ phải lên máy bay và còn phải trả xe nữa nên chỉ xin cùng nhau cạn hết một bình Heinekein nguyên vẹn.

    Có lẽ sự ồn ào của mấy thằng tôi, nên hai người đẹp lại mò mẫm ra bếp xem sóc đồ ăn thức uống, chuyện trò với nhà tôi. Tôi xin lỗi luôn miệng, tuy được hai ông bạn vàng biểu tỏ sự cảm thông nhưng tôi thiệt bất an trong lòng! Than ôi! Lỗi tại tôi lỗi tại tôi mọi đàng. Ôi thân này ví xẻ làm nhiều mãnh! Chỗ nào cũng muốn đi làm sao được! Bà quận vẫn thường cằn nhằn cái tật hẹn hò của tôi; lần này cũng chỉ là lối cũ vẫn trong tim, “anh cứ hẹn cho lắm vào, đi đâu cũng lở dở”! Quả thật vậy tôi có tham lam trong tình cảm bạn bè! Nhưng giời ạ! “Cái nết đánh chết không chừa”, biết đôi khi làm phiền lòng bạn bè nhưng không thể nào khác hơn, vì mỗi lần gặp vô vàn khó khăn; mỗi lần đi không phải là chuyện dễ! Tôi cứ nghĩ trong đầu “biết đâu sẽ không còn gặp lại” vì thấy bạn bè cứ chen lấn nhau qua cầu mà phát lo! Các bạn đọc mấy dòng này xin cho tôi một sự cảm thông thay cho một lời xin lỗi.

    Gần 3g sáng! Vợ chồng LM nhất định từ giã ra về vì bảo rằng đằng nào cũng sẽ chia tay trong vài giờ nữa! Chúng tôi được tự do chọn phòng. Phòng nào cũng đẹp đẽ, đầy đủ tiện nghi, vô cùng gọn gàng, ngăn nắp. Mới chợp mắt đồng hồ đã reo. 4g30 ra xe! Bạn già LHA nhất định phải đưa chúng tôi ra phi trường, sợ con bé tóc vàng GPS trở chứng như đêm qua, dẫn đi xem nhà cửa, đất đai nữa thì hỏng một trăm việc khác. Bạn tôi ơi! Bạn đâu cần phải vất vả quá vậy, nhưng chân thành cảm tạ tấm lòng bằng hữu! Các bạn đã làm chúng tôi vô cùng cảm động về tất cả những gì các bạn đã dành cho chúng tôi. Tôi rất hãnh diện về tình bạn chúng ta khi mấy ông niên trưởng nói với tôi rằng “sao bạn bè khóa của mầy tao chỉ gặp toàn đại gia và vô cùng tốt bụng”. Tôi rà soát lại trong đầu cũng phải công nhận rằng bạn hữu của tôi chưa gặp một người nào xử tệ với anh em, và các vị phu nhân người nào cũng lịch sự, xinh đẹp, và ai cũng quý mến bạn hữu của chồng. LHA đưa chúng tôi ra tận phi trường mới đành lòng lưu luyến chia tay!

    “Cám ơn đời đã cho tôi lũ bạn
    Bị làm phiền mà vẫn cứ vui tươi”

    Chuyến đi rất vất vả nhưng vui ơi là vui, tạm quên mùa đau thương trong lòng những người lính chiến; mừng gặp lại bao nhiêu bạn bè quý mến. Cám ơn tất cả quý vị phu nhân. Đặc biệt cám ơn cha con ngũ phượng đã tạo dịp tốt để mọi người có cơ hội gặp lại nhau dù ngắn ngủi nhưng đầy rẫy tình người. Chúc con phượng đầu đàn trăm năm hạnh phúc. Chúc mấy con phượng nhí theo chân chị đến bến bờ bình yên. Chúc thằng Mễ đen nguôi nguây dẫu tình đời vẫn bạc trắng như vôi.

    Mùa tháng 4
    Mời bạn ghé thăm nhà:
    http://thovanyenson.com

    Comment


    • #17
      Ôi Đàn Bà Là Những Niềm Đau (*)

      Khi Chúa tạo dựng nên đàn ông, Ngài đã nhận thấy hắn sẽ cô đơn, buồn bã biết mấy nếu chỉ có hắn đơn lẻ. Sau ba ngày quan sát và nghiền ngẫm thấu đáo, Ngài lấy xương sườn của người đàn ông để tạo dựng nên hình vóc người đàn bà. Ngài cho rằng người đàn bà là một phần xương thịt của đàn ông thì chắc chắn họ sẽ yêu thương gắn bó với nhau lắm; họ sẽ sống hỗ tương với nhau, nương tựa với nhau, sẽ tâm đầu ý hợp với nhau lắm, sẽ muôn năm hòa bình, sẽ trăm năm hạnh phúc. Nhưng tôi không biết Ngài có tiên đoán nỗi những phiền toái, những hoạnh họe mà người đàn bà mang đến cho người đàn ông hay không? Hay là Ngài nghĩ có thưởng thì phải có phạt! Dĩ nhiên, điều tôi than phiền đây không ăn nhằm, không động chạm gì tới các đấng từ mẫu, các bà mẹ từ bi, nhất là những bà mẹ Việt Nam! Ôi các bà mẹ Việt Nam tuyệt vời, các bà mẹ Việt Nam xứng đáng nêu gương sáng cho thế giới soi chung, chứ không phải lẩm cà lẩm cẩm như câu hát trong bài Khỏe Vì Nước cái gì là “trai nước Việt phải nêu đèn sáng thế giới ngắm chung” mà thời tiểu học tôi đã hát mê man một cách hãnh diện!

      Thật vậy, tôi không chắc niềm vui và hạnh phúc của tôi với đàn bà có được bao nhiêu, nhưng phiền não, đắng cay thì ê hề! Họ đã làm cuộc sống tôi thất điên bát đảo, họ đã khiến hạnh phúc của tôi upside down, suốt cuộc sống tôi vui ít buồn nhiều! Tôi ngán ngẩm, tôi lo sợ… cho nên “đã từ lâu, tôi vẫn thường trong bóng đêm, mang nỗi buồn không biết tên. Tôi vẫn thường thề mây hẹn gió tôi muốn lánh xa cuộc đời, tôi muốn quên đi tình người, tôi ước mơ trên cuộc đời không có đàn bà”! Nhưng thưa quí vị, chuyện đời đâu có đơn giản, dễ chịu như vậy! Ông trời chơi điều cắc cớ thích làm ngược những ước muốn đơn giản của loài người! Nhiều thứ mình cầu xin không được mà hễ ghét bỏ, chối từ thì lại cho ngaỵ Tổ tiên, ông bà mình đã thừa kinh nghiệm với cái sự tréo cẳng ngỗng dở khóc dở cười đó nên mới có câu ngạn ngữ “ghét của nào trời trao của đó”!

      Thế rồi “bỗng một hôm tôi với nàng quen biết nhau” lại khờ dại, ngu thiệt là ngu “tôi tưởng tình chỉ thế thôi, đâu biết lòng thầm mang niềm nhớ!” Ôi con tim quả thật có lý lẽ riêng của nó mà lý trí không biết tới như lời nói của một triết gia người Pháp mà tôi đã học khi còn lớp đệ nhất (Le coeur à ses raisons, que la raison ne connêtre pas). Nhưng qua những kinh nghiệm đớn đau cũ “tôi muốn lánh nhưng lại tìm, tôi muốn quên nhớ càng nhiều, tôi muốn xa nhưng lại gần… hỡi đàn bà ơi!” Tôi biết tôi lại thêm một lần ngu dại nữa nhưng biết làm sao đây vì tôi biết “ôi đàn bà là những niềm đau, ôi đàn bà là ngọc ngà trăng sao nhưng đàn bà lại là con dao làm tim nhỏ máu”. Đàn bà bao giờ cũng là một cái gì kỳ bí khó hiểu, khó tiên đoán được, chắc chỉ có trời mới biết: “ôi đàn bà dịu ngọt đêm qua, nhưng đàn bà lạnh lùng đêm nay, ôi đàn bà là vần thơ say, nốt nhạc chua cay”!

      Tôi xua tay từ chối, tôi ngán ngẩm, tôi kinh nghiệm, tôi dại khờ, tôi chịu hết nỗi, tôi than thân trách phận, tôi chán cả ông trời thế mà tôi lại là thủ phạm lăn xả vào người ta! Tôi tự hỏi tại sao ông trời lại cho người đàn bà lắm bùa phép như vậy! Tôi đã vướng vào vòng nghiệt oan cả một đời thế sao không thoát? Cứ hết cuộc tình này lại va đầu vào mối tình khác mặc dù đã nguyện xa lánh cuộc đời, đã cố quên bỏ tình người, đã bao lần ước mơ trên cõi đời này không có đàn bà để bây giờ lại thêm một lần ăn năn, hối hận. Thôi “vĩnh biệt người” chỉ vì “thương chút tình nơi xứ xa, tôi biết rằng em sẽ quên” chỉ riêng mình “muôn kiếp buồn lòng tôi sầu nhớ”! Tôi đâu muốn, tôi cũng chẳng mong chờ nhưng “em đã đến như huyền thoại, em đã đi không một lời, ôi thế nhân, ôi cuộc đời… hỡi đàn bà ơi!

      Mùa Noel lại trở về đem niềm vui cho nhân loại, Chúa ơi Chúa có sống lại như lời đã hứa thì xin Chúa một lần thôi, cho lũ đàn ông chúng con ít thuốc giải, hay là Ngài đem lời vàng ngọc khuyên bảo họ giùm. Xin Chúa thêm một lần nữa nói cho đàn bà biết họ là một phần thân thể của lũ đàn ông chúng con, họ có bổn phận phải yêu thương chúng con như chúng con cũng yêu thương người khác. Hay là xin Chúa cứu rỗi linh hồn chúng con, xin cho chúng con không bị cám dỗ và tránh được sự dữ. Chúng con cũng biết là cuộc sống chúng con sẽ hoàn toàn vô nghĩa nếu không có sự hiện diện của họ, nhất là lũ thi văn nhạc sĩ chúng con sẽ không thể nào có được những bài văn mượt mà, những vần thơ hay, nốt nhạc chua cay được! Chúa cũng phải nên từ bi thương giùm cho số phận của những shopping center rẫy đầy trên thế giới, các tiệm hột xoàn, nữ trang đèn sáng rực rỡ khắp nơi… Chúa ơi không có đàn bà thì là một thiệt hại to lớn cho nền kinh tế biết cơ mang nào mà kể…

      “Ôi đàn bà là những niềm đau, ôi đàn bà ngọc ngà trăng sao, nhưng đàn bà lại là con dao làm tim nhỏ máụ Ôi đàn bà dịu ngọt đêm qua, ôi đàn bà lạnh lùng đêm nay, ôi đàn bà là vần thơ say, nốt nhạc chua cay”!

      Yên Sơn

      (*)Trích lời bài ca của Song Ngọc
      http://lyric.tkaraoke.com/19081/Dan_Ba.html
      Last edited by thanphongkingwood; 05-24-2013, 02:15 PM.
      Mời bạn ghé thăm nhà:
      http://thovanyenson.com

      Comment


      • #18
        Yêu Trăng, Yêu Thu

        Yêu Trăng, Yêu Thu

        Không biết hắn yêu trăng từ lúc nào và tại sao hắn lại mê đắm? Hắn vẫn cứ mù mờ, ngập ngừng mỗi khi có người bất chợt hỏi hắn. Nếu có nói gì được, hắn cũng chỉ nghĩ rằng có thể trăng tràn lan trong thi ca, trong cổ tích, trong lời ru ngọt ngào của mẹ hắn khi mẹ hát ru đàn con chín đứa lần lượt chào đờị Trăng cũng rẫy đầy trong văn chương dân gian, khi tiếng chày giả gạo reo vui lồng trong tiếng cười hồn nhiên của những nàng thôn nữ …

        Hôm nay, Rằm Thượng Nguơn, ánh trăng sáng long lanh suốt chặng đường 50 dặm từ sở về nhà. Ánh trăng tràn ngập trên những tàng cây đứng yên như mơ hai bên đường lao vùn vụt về phía saụ Thỉnh thoảng hắn lại rướn người về phía trước nhìn lên. Trăng lồng lộng trên cao với vài cụm mây cô đơn bay lơ đảng trên bầu trời xanh thênh thang, đây đó những ánh sao lấp lánh thẹn thùng!

        Tiếng xe rầm rì hòa lẩn tiếng nhạc lời ca phát ra từ máy đĩa trong xe tạo thành một thứ âm thanh vời vợi bám chặt vào hồn hắn… Tiếng hát của Diệu Hương như thầm thì với hắn: “mùa thu nơi đây tôi nhớ, nhớ thương thành phố xa mờ, mà bao năm qua tôi đã đi về trên những đường xưa…”. Phải, mùa trăng nào cũng làm hắn nhớ, làm hắn khát khao, hoài vọng! Dẫu biết thời gian không trở lại, vẫn biết một phút đi tới là thúc đẩy đời người đội nón chia ly! Vì… “mùa thu nơi đây lạnh lùng, từ nơi phương xa trời lộng hỏi ai có nhớ ai không, còn tôi nỗi nhớ vô cùng!” Lời hát như ru, câu ca như rót mật vào lòng và trăng vẫn sáng long lanh trên cao, bâng khuâng… Lời ca kéo hắn đi thật xa… Hắn lại rướn người về phía trước, nhìn lên… “mùa thu im trong đêm vắng, có ai hiểu thấu cho lòng, từ nơi con tim say đắm không còn yêu mãi ngàn năm!” Nghe như có chút xót xa khiến tâm hồn hắn chùng xuống, khẩn khoản “về bên tôi xin một lần, một lần thôi hết xa xăm, một lần được thấy ân cần”; vì “mùa thu nơi xưa dịu dàng, giờ trong tôi nghe muộn màng, tình yêu cho em một ngày, rồi một ngày nào đã phai tàn ?”

        Cám ơn Diệu Hương, người nhạc sĩ tài hoa với đôi mắt tròn sâu thẳm. Cám ơn tấm lòng ân cần của người đã gửi. Ở phương đó chắc có ai cũng đang thẩn thờ lặng ngắm ánh trăng!?

        Ôi người ơi! Ôi tình ơi!
        Con tim thổn thức mà đời dửng dưng
        Ngó lên vời vợi từng không
        Trăng thu lặng lẽ bâng khuâng nhớ người

        2002

        *** Viết dựa theo bài nhạc “Mùa Thu Nơi Đây” của ca nhạc sĩ Diệu Hương trong Album Khắc Khoải, Tình ca Diệu Hương.
        Mời bạn ghé thăm nhà:
        http://thovanyenson.com

        Comment


        • #19
          Chị Tôi

          Chị Tôi
          Yên Sơn

          Tôi giật mình thức giấc vì những tiếng chim hót líu lo bên ngoài khung cửa sổ. Sợ làm chim giật mình, tôi se sẻ vén màn cửa sổ đủ để nhìn ra ngoài. Lũ chim đủ loại đầy trên cây berry đang tranh ăn những trái berry chín đỏ trĩu cành. Tôi không nhớ tên cây là gì dù chị tôi đã nói mấy lần rồi. Lần sau cùng hỏi chị, chị mắng yêu “chỉ có cái tên thôi mà không nhớ”; “không thèm hỏi chị nữa, cứ gọi nó là berry có chết ai đâu”; “ừ thì berry cũng được”. Loại cây này vào độ cuối xuân và suốt mùa hè cây lá xanh tươi, um tùm; khi chớm thu bắt đầu đơm bông kết trái để chớm đông trái chín đỏ cành. Trái nhiều đến độ lấn át cả màu xanh tươi của lá, mời gọi các giống chim quy tụ về để cùng ăn trái vừa ca hót líu lo khi mùa xuân trở mình. Dưới chân cây có vài chú sóc xinh đẹp với bộ lông mượt mà đang lau hau nhặt nhạnh những trái chín chim làm vung vải dưới đất, ăn thử rồi vất đi. Gia đình nhà sóc không thích loại trái cây này. Dù vậy, cứ mỗi lần chim tụ tập đông đảo trên cành cây, nơi chúng tôi thường để thức ăn mỗi ngày cho chim lui tới, là vài chú sóc sẽ xuất hiện để ăn Chị tôi còn chỉ vẻ là loại thức ăn nào cho chim loại nào. Ban đầu vì không có kinh nghiệm nên thức ăn chim được các chú thưởng thức nhiệt tình. Chẳng những ăn hết thức ăn, sự quấy phá của các chú đã làm cho chim sợ không tới. Tôi cố tình ‘blocked’ đường leo của các chú nhưng vẫn không thể ngăn ngừa sự tinh khôn, ranh mãnh được vì các chú leo lên cây gần bên rồi phóng qua, chuyền tới. Sau đó tôi nghiên cứu làm một cái hình nón bằng thiếc mỏng quanh những gốc cây lân cận nên các chú đành thúc thủ, chỉ phải loanh quanh ở các gốc cây trông cậy vào lũ chim làm vung vải xuống đất để ăn ké.

          Như mọi ngày, vợ con tôi đã đi làm từ sáng sớm khi tôi còn ngon giấc với đủ thứ mộng mị cuộc đời. Tôi quen dần với khoảng không gian quạnh vắng trong căn nhà rộng mỗi sáng thức dậy. Sự tĩnh lặng, êm thắm làm lòng tôi man mác, chơi vơi. Thỉnh thoảng vài tiếng khánh ngân ngoài vườn nghe như tiếng chuông công phu mỗi sáng tinh sương từ xa xăm dội lại trong tiềm thức của một thời thơ ấu. Tôi đánh răng xong dự định đi pha cà phê nhưng nghĩ sao lại trở lại nằm vật xuống giường, cuộn mình trong chăn để mặc cho dòng tư tưởng thoải mái, miên man ‘ngược dòng thời gian trở về quá khứ…

          Chưa nằm được bao lâu đã có tiếng chuông gọi cửa. Chưa ra tới cửa đã nghe tiếng chị tôi cằn nhằn:

          - Trời ơi giờ này mà còn ngủ!

          Tôi mở cửa và cố cười với chị:
          - Không ngủ thì làm cái gì đây?
          - Chị đem mấy đứa làm vườn tới nè.
          - Chị là xếp sòng đâu cần tới em.
          - Vườn nhà của Sơn thì phải có ý kiến chứ?
          - Ý kiến nào của chị em cũng OK hết.
          - Ra đây chị chỉ cho

          Chị đi trước, tôi theo sau ra vườn. Chị vừa đi vừa chỉ:

          Chị sẽ cho tụi nó dời ngọn giả sơn ra góc vườn kia, cái fountain nước đứng chỗ này không được, đem nó tới khoảng sân kia để trên lầu dưới đất gì vẫn thấy được, cắt tỉa mấy cây bằng lăng cho kịp lúc, cắt xén và đào bỏ bớt một bụi cây Oleanders ngay chỗ tháp chùa rồi trồng cây bưởi trong chậu xuống thế chỗ, dời đám cây bên hông garage ra đằng sau, làm lại luống đất để trồng mấy bụi hoa hồng đẹp hơn. Bây giờ là lúc cần đổ mulch và bón phân cho các luống hoa. Coi kìa, bao nhiêu cụm Azelea đang đơm bông mà không tưới nước! Tiếc quá cây Red Bud ra hoa đẹp quá mà lại bị nằm trong góc vườn không thấy, nếu nó không quá lớn mình dời được ra đằng trước thì đẹp biết mấy! Cái sân gạch đỏ, coi nè, cỏ mọc lung tung, chị sẽ bảo tụi nó lột lên làm sạch cỏ và thay bằng những tấm xi-măng cho sân sau rộng rãi hơn. Coi kìa, mấy cây berry cũng cần tỉa bớt cành, nếu tiếc thì ít hôm nữa hẳn cắt…

          Chị đi chưa hết một vòng sân đã lòi ra bao nhiêu thứ phải làm! Tôi thót ruột nói với chị:

          - Í da, chị làm nhiều vậy lấy tiền đâu trả?

          - Sơn mới nói ý kiến gì của chị cũng OK mà? Người ta có tiền làm vườn quanh năm, còn Sơn thì cả năm chỉ làm vài lần. Đã vậy mà không chăm sóc kỹ lưỡng nữa, thấy cái vườn mà phát mệt! Nói thì nói vậy chứ để chị dealing với tụi nó, không đắt lắm đâu. Tụi nó cũng đã làm cho nhà mình bao nhiêu năm rồi mà, có xa lạ gì đâu mà sợ bị ‘chém’.

          - Nhiều quá thì chị trả à nghen!
          - Xí… không biết ơn còn ở đó vòi vĩnh.
          - Okay, okay… thì biết ơn!
          - Thôi làm gì làm đi để chị nói chuyện với Jose.

          Chị nói xong một mạch rồi bước ra đằng trước gọi Jose đang ngồi ngoài xe chờ đợi.

          Jose là chủ của nhóm làm vườn người Mễ, đã nhiều năm làm vườn cho chị hằng tuần và lâu lâu được chị lôi tới làm vườn cho tôi. Tôi thường nói với nhà tôi rằng chỉ có Jose mới chịu nổi sự ‘chi tiết’ của chị tôi. Thường là chị quanh quẩn khi tụi nó làm, biểu tụi nó dời bụi hoa này, trồng cái cây khác; cắt cái này, xén cái kia… xong đứng ngắm nghía thấy không ưng ý thì làm cách khác! Vậy mà chúng nó chỉ cười và làm theo, có lẽ quá quen rồi, hoặt biết là có không chịu cũng không được với chị. Mà cái thằng dễ thương thiệt, chẳng những nó làm ngoài vườn, chị tôi lâu lâu lại nhờ nó khiêng cái sofa này, đổi bộ bàn ghế nọ, treo lại bức tranh kia, dọn cái nhà để xe bừa bộn, treo kèn kết hoa vào mỗi độ lễ tết… cái gì nó cũng làm ráo trọi. Để bù cho cái tính khó khăn của chị, chị cũng tỏ ra rộng rãi với người làm, ngoài việc trả tiền bạc sòng phẳng, đôi khi chị cho nó cái này, lúc biếu cái khác, gửi quà cáp cho vợ con trong các dịp lễ tết; thậm chí còn biếu cả bánh trái chính tay chị làm nữa.

          Tôi đi vào nhà pha cà phê rồi ngồi thiền internet. Tôi biết có nói gì cũng thừa. Khi chị tôi thấy cần làm là nhất định nên làm. Chị là người rất thích vườn tược, cây cỏ, hoa kiểng. Mỗi lần sang nhà chị là tôi mải mê ngắm nghía. Không như vườn nhà tôi; vườn nhà chị mùa nào có hoa mùa đó, vườn cỏ lúc nào cũng xanh mượt; đất đá sắp thẳng tắp. Chị biết tôi rất ưa thích giống như chị nhưng lại lười và ít tiền. Ban đầu chị còn nói lai rai nhưng thấy tôi không ‘thăng tiến’ gì cho lắm nên chị ‘take action’ luôn. Chị có con mắt thẩm mỹ tuyệt vời, lại biết chỗ mua bán ‘mọi thứ’ nên luôn luôn được giá rẻ; chị tính toán rất cẩn thận, lại giỏi thuyết phục người khác nên khó ai nói không với chị; vì vậy, tôi tin tưởng chị cũng là chuyện tự nhiên! Khi rời khỏi California về đây, ở vùng Kingwood này, cũng do chị chọn lựa trước. Đây là một thành phố nhỏ, bên ngoài thành phố Houston to lớn, đa số Mỹ trắng hơn 90%, dân chúng hầu hết làm cho các hãng xăng dầu, hãng hàng không Continental, khu đại học và hệ thống nhà thương trong vùng. Chị nói chị đã điều nghiên kỹ lưỡng, khu học chánh ở đây tuyệt vời, rất tốt để nuôi dạy con cái. Lúc đó hai gia đình chúng tôi còn có năm đứa con sàn sàn tuổi nhau ở bậc tiểu học. Nhà tôi thì rất vui khi ở bên chị. Hai chị em rất hợp gu về mọi mặt gồm cả shopping, lục lọi tìm đồ cổ rẻ tiền và nấu nướng… nên rất thương nhau.

          Chúng tôi hai cặp bốn người đã từng làm việc chung với nhau bao nhiêu năm trong việc mua bán và quản trị bất động sản ở California nên biết rõ tánh tình nhau, khả năng cũng như cái ưu cái khuyết của nhau. Bây giờ dù mỗi người làm một công việc riêng biệt, nhưng vẫn rất gần gũi, thương mến lẫn nhau. Đã mấy chục năm qua chị vẫn dành ưu tiên trong việc tổ chức bữa ăn Thanksgiving truyền thống tại nhà chị cho tất cả mọi người trong các gia đình anh chị em trong vùng. Có lắm khi chị giữ luôn việc tổ chức bữa ăn ngày Christmas. Ai ở xa về được cũng cố gắng về. Bữa ăn năm nào anh rể tôi cũng muốn mọi người nối vòng tay rồi anh bắt đầu đọc lời cầu nguyện cho những người thân xa trước khi ngồi vào bàn ăn.

          Bao nhiêu mùa lễ qua, tên “thằng lính” vẫn đứng đầu trong danh sách cầu an của anh ấy. Nếu có ai hỏi tôi ông anh rể của tôi ra sao, tôi cũng chỉ biết rằng, anh là một người hiền hòa dễ thương hết mực, ngoài việc anh ấy chu toàn phương diện tài chánh cho gia đình, còn chuyện trong nhà ngoài ngõ anh cũng như tôi, tin tưởng tuyệt đối vào các bà. Chị còn tính khi nào con cái thành gia thất dọn ra ngoài ở hết thì mấy chị em từ các nơi xa dọn hết về đây mua miếng đất xây nhà nho nhỏ ở sát nhau cho vui. Cũng vì có chị ở gần nên nhà tôi thường chọn ở nhà mỗi cuối tuần nếu tôi cần đi dự tiệc tùng đình đám, ngoại trừ đi chỗ bạn bè thân thiết; nhà tôi thường nói tôi đi quá nhiều nơi nhiều ngã, quá nhiều bạn bè, đi theo không nỗi! Tôi không than phiền gì về chuyện này, vì ở xa nên mỗi lần đi là phải tận dụng thời gian để thăm viếng, giao tiếp. Và tôi cũng không lo nhà tôi buồn khi tôi cần phải đi xa. Ở đây xa xôi khu đông dân cư Việt Nam, bạn bè ngại lui tới, nhất là khi xăng nhớt tăng vùn vụt. Có đứa nói với tôi rằng “đường đi lên nhà mày không thấy có chỗ nghỉ chân ‘rest area’ nên cực quá!” Tôi nói với bạn bè “tại sao tao đi thăm tụi mày không than xa, mà đứa nào tổ chức cái gì cũng kêu réo um sùm”. “Ai biểu mày chọn ở xa một mình rán chịu”. Thế là hết nói!

          Có vài lần chúng tôi bàn định dọn về gần khu Southwest để gần bạn bè và những tiện nghi, nhà tôi nói bây giờ con cái lớn hết rồi đi cũng được nhưng làm sao bỏ chị đi cho đành. Thế là tôi tịt liền, chưa nói con trai út chúng tôi cũng tỏ ý không muốn bán căn nhà nơi nó đã lớn lên từ thuở mới lọt lòng. Bây giờ mặc dù đi học xa nhưng lâu lâu vẫn nhắc nhở ba mẹ khoan nghĩ tới việc dọn nhà. Nó nói trừ phi sau này vì nghề nghiệp tương lai nó phải đi xa, còn không thì nó xin ở lại căn nhà này với kỷ niệm. Chị tôi cũng vậy, rất khó để mang chị ra khỏi vùng này, nơi mà chị thương từng gốc cây, chậu kiểng, góc vườn; nơi mà chị có đủ loại bạn bè cho các bộ môn, nào là tennis, travel, săn sóc vườn cỏ, tổ chức đình đám… bắt chị rời khỏi đây không khác gì mang con cá ra khỏi ao hồ thân thuộc!

          Mời quý bạn hữu cùng nghe bài nhạc hay:
          http://www.youtube.com/watch?v=KvgF2m_n7T0
          Last edited by thanphongkingwood; 07-12-2013, 05:40 AM.
          Mời bạn ghé thăm nhà:
          http://thovanyenson.com

          Comment


          • #20
            Thân mến chia sẻ với tất cả ACE bài viết của một anh bạn quen ở tận Nebraska về bài thơ mới đăng hôm nay.

            Chia sẻ với tác giả về bài thơ
            THƯ BẠN TỪ TIỂU BANG XA



            Bài thơ hay lắm anh Yên Sơn. Đọc mà thấm được cái ray rứt, cái ý chí sắt son, cái kiêu hùng trong tim anh. Nợ cơm áo cứ quanh quẩn bên mình, muốn trổ tài tế thế an bang, cũng chẳng biết tìm đâu ra chỗ đứng, anh nhỉ?

            “Bóng chiều và nắng vàng hoe
            Đậu trên mái tóc nhoẹt nhòe thời gian”

            Nắng Thủy Tinh của Trịnh Công Sơn từng làm rung động không biết bao nhiêu tâm hồn. Nào là:

            “màu nắng hay là màu mắt em”, rồi nào là:
            “Lùa nắng cho buồn vào tóc em”,
            “Chiều đã đi vào vườn mắt em”,

            v.v.. Nhưng ánh nắng khiến “ngàn cây thắp nến lên hai hàng”, khiến “Cỏ cây chợt lên màu nắng” kia chỉ đủ cho “hồn buồn dâng mênh mang” và ánh mắt kẻ si tình ngưỡng mộ dáng “em qua công viên bước chân âm thầm” thôi . Riêng nắng vàng hoe của Yên Sơn không “lung linh nắng thủy tinh vàng” mà buồn bã “đậu trên mái tóc nhoẹt nhòe thời gian” của anh. Hình ảnh không man mác ảo diệu như nắng của “Trịnh công Sơn”, không chất chứa kỷ niệm nhiều như “Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát” của Nguyên Sa, và cũng không lãng mạn như “mặt trời đỏ phải lòng con nước lớn” của Trần Lộc, nhưng nó buồn bã , chậm chạp làm sáng thêm “mái tóc nhoẹt nhòe thời gian”. Nó thay thế cho tiếng thở dài, chịu đựng. “Bóng chiều và nắng vàng hoe” diễn tả trọn vẹn nỗi buồn thảm của chiều cuối đời với ánh nắng vàng vẫn còn cố rực đỏ màu hoàng hôn sót lại nơi cuối chân trời, ánh nắng dịu dần cái chí khí hiên ngang của tuổi trẻ còn lưu luyến nét hào hùng ửng đỏ trong buồng tim. Chỉ với hai câu lục bác dùng chữ thật bình dị, rõ ràng nhưng lung linh cả tình và cảnh, khiến người đọc cũng buồn theo cái buồn của Yên sơn và tiếc nuối theo cái tiếc nuối của người chưa tròn chí cả. Chí khí và nỗi buồn đau của Yên Sơn được tỏ lộ thêm trong bốn câu tiếp

            "Nói chi tế thế an bang
            Tìm đâu ra thuở ngang tàng năm xưa
            Bây giờ buồn rớt trong mưa
            Nỗi vui bất chợt, dư thừa đắng cay”

            Tất cả chỉ còn là dĩ vãng, tâm trạng như Thế Lữ trong “nhớ rừng”. Con hổ Yên Sơn không “ngậm một khối căm hờn trong cũi sắt”, nhưng tâm trạng có lẽ cũng hao hao giống người vì với Thế Lữ thì “Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ “, hoặc nghẹn ngào hơn, “Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu” và nuối tiếc hơn, “Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối”. Thật vậy, Yên Sơn đã chua chát thốt lời:

            “Nói chi tế thế an bang
            Tìm đâu ra thuở ngang tàng năm xưa”

            Rồi bi đát cuộc đời kéo tới, đến nỗi phải:

            "Bây giờ buồn rớt trong mưa
            Nỗi vui bất chợt, dư thừa đắng cay”

            Âm vang ngân dài của “buồn rớt trong mưa” nghe não nuột vô cùng.

            Đinh Hùng lãng mạn : “Em đến hôm nào, mưa trên vai” trong “Giận hờn”, nhưng Yên sơn lại “Buồn rớt trong mưa” như một tiếng thở dài tiếp nối! Mưa buồn, mưa ngâu, mưa là nước mắt, là cách chia. Buồn rớt mưa ngâu hay buồn như tiếng khóc của người yêu làm mưa trên vai mình cũng chỉ là nỗi buồn của một cặp tình nhân, còn “buồn rớt trong mưa” của Yên Sơn thì trừu tượng hơn, nhưng đoạn trường hơn và bao trùm hơn. Buồn trong tình yêu, tình nhà, buồn viễn xứ, buồn không trả được nợ núi sông, v.v.. và hình như tất cả nỗi buồn của con người đều gói trọn trong đó cả. Ý thật cô đọng nhưng dồi dào chỉ trong bốn chữ. Giá tác giả thay chữ “trong” bằng chữ “theo”, thành “Bây giờ buồn rớt theo mưa” có lẽ ý sẽ thâu hẹp lại cho chính mình hơn, nhưng hơi ambigous vì mang tới hai ý. “Buồn rớt trong mưa”, chữ “trong” hay hơn và rõ ràng cho cảm nhận hơn. Tuyệt hay!

            “Nỗi vui thì bất chợt”, có lúc có có lúc không, hoặc có thì hết sức ngắn ngủi, còn thì toàn là đắng cay, áo nảo. Câu thơ "Nỗi vui bất chợt, dư thừa đắng cay” hầu như lột tả được trọn vẹn ý này và ngân dài tiếng than cho sáu câu mở đầu. Hai câu kết tiếp:

            "Bạn ơi mình vẫn còn đây
            Cũng muốn hẹn có một ngày hồi hương”

            đưa đọc giả trở về với thực tại đồng điệu và đồng cảnh với tác giả trong cái phút giây thương cảm đọc xong thư bạn. Hai câu chuyển ý để bước vào thân bài một cách nhẹ nhàng, bình dị nhưng không kém phần tha thiết trong điều mong muốn nhỏ nhoi mà biết bao người đã thực hiện, song với tác giả, thật là to lớn vì ngày hồi hương đó là ngày hồi hương thật sự khi bóng dáng Cộng sản không còn trên quê hương Việt Nam. Ngày nào bạn nhỉ?

            "Đọc thư bạn hẹn ngày về quê Mẹ
            Nước mắt bỗng dưng từng giọt lăn dài
            Chạy soi gương rồi nghĩ tới ngày mai
            Vội cúi mặt dấu nỗi buồn man mác”

            Ôi! Cái tâm trạng của tác giả cũng là tâm trạng chung của những kẻ lưu vong còn nặng tình quê hương đất nước. Soi gương không phải để xem lại dung nhan hay trang điểm một phần cơ thể, hoặc mang tâm trạng của “ca nhi đối gương ôm sầu riêng bóng” trong ca khúc “Đêm đông”, mà soi gương để xem đôi má nhăn nheo theo thời gian của mình có còn tiếp tục nhăn nheo để còn có ngày về quê Mẹ không. Soi gương rồi, tác giả “Vội cúi mặt dấu nỗi buồn man mác”! Chao ôi! sao buồn chi lạ! Tác giả buồn hay mình cũng đang buồn đây! Nàng tiên với chiếc đủa thần kỳ diệu đâu rồi! Hãy trả lại hay tặng cho tác giả một chút thanh xuân để còn hoàn tất lời hứa với bạn từ phương xa.

            "Mái tóc xanh nay điểm nhiều sương bạc
            Mắt trũng sâu với nghìn nỗi muộn phiền
            Vầng trán cao nhiều lằn nếp oan khiên
            Vai trễ xuống vì gánh đời trĩu nặng”

            Đọc mấy câu này sao thấy thương Yên sơn quá! Chàng phi công, đẹp trai, dong dõng cao, mang hồn thi sĩ, ngày nào còn lướt gió tung mây diệt thù bảo vệ đất nước mà giờ đây tóc điểm sương, mắt trủng sâu muộn phiền, trán nhăn nếp oan khiên, “vai trễ xuống vì gánh đời trĩu nặng”, sao buồn quá đỗi. Một kiếp tha hương với hai giòng đời u uất như quê hương chia hai của mình ngày trước và đau thương như niềm đau của dân tộc.

            "Có những lúc ngó sâu trong thinh lặng
            Thấy quê hương vẫy gọi từ trùng xa
            Ôi thân trai! Ôi nợ nước tình nhà!
            Sao cúi mặt loanh quanh đời cơm áo?"

            Tiếng gọi của quê hương vẫn nhiều lần vang vọng trong không gian tịch mịch khi tác giả hướng mắt nhìn vào khoảng không kia. Hình ảnh em bé quê hương, cô gái xuân thì và mẹ già đất nước vẫy tay gọi người trai chí cả đang xa cách trùng dương thấy sao mà thảm thiết. Lời thơ thống thiết, tô đậm vẻ ray rứt trong lòng người trai luống tuổi nhưng tâm huyết còn mãnh liệt hơn cả thời thanh xuân. “Sao cúi mặt loanh quanh đời cơm áo” là cái thực trạng chúng ta ai cũng đương đầu cũng chôn vùi cả tuổi thanh xuân. Câu thơ như một tiếng thở dài mà cũng là một dấu chấm hỏi cho chính mình! Yêu quê hương, mong trả nợ núi sông, đánh đuổi giặc thù, nhưng sao lại cứ loanh quanh đời cơm áo? Một câu hỏi thật hay mà câu trả lời có lẽ là tiếng thở dài não nuột. Có những điều trong cuộc sống, mình không muốn làm mà vẫn phai kinh qua. Có những điều mình làm, và làm ngược lại với ý mình!

            "Có những lúc đắm chìm trong áo não
            Sống một đời vô dụng, kẻ tha hương
            Nửa đã qua, nửa còn lại chán chường
            Như cát bụi đang chờ ngày hóa kiếp”

            Yên Sơn có những lúc chán nãn khi nhìn lại một nửa đời tha hương chưa làm được gì cho đất nước quê hương. Như Trịnh Công Sơn ngậm ngùi trong câu: “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi … và một mai tôi trở về cát bụi …” Yên Sơn nhìn nốt nửa đời còn lại đầy dẫy chán chường mà nghĩ mình “như cát bụi đang chờ ngày hóa kiếp”. Chúng ta đến từ cát bụi rồi lại trở về với cát bụi. Ý không mới nhưng kết hợp với ý của ba câu trên tạo nên cảm xúc mạnh cho tứ thơ và thắm thía đời tha hương hơn. Nếu “đêm đông, xa trông cố hương buồn lòng chinh phu”, thì không cần phải đợi tới đêm đông, nỗi buồn tha hương và niềm mong ngày về quê mẹ vẫn canh cánh bên lòng mỗi chúng ta.

            "Có những lúc muốn đứng lên đi tiếp
            Nốt con đường đã bỏ dở năm nao
            Nhưng sức tàn, lực kiệt có là bao
            Bè bạn cũ mỗi người đi mỗi ngả

            Đứa ở lại, đứa vùi thây biển cả
            Đứa lỡ thời, đứa cát bụi phù du
            Bao nhiêu thằng đau vết cắt trong tù
            Bao nhiêu đứa sống cuộc đời kẻ khác”

            Có những lúc lòng trĩu nặng u buồn, Yên Sơn cũng muốn đứng lên đi tiếp con đường tung cánh trời xanh, bảo vệ đất nước năm nào; nhưng nhìn lại sức tàn lực kiệt của mình, chỉ còn biết thở dài. Tâm sự này cũng là tâm sự của tất cả chúng ta. Bạn bè tứ tán khắp nơi, ngưòi vùi thây biển cả, kẻ lỡ thời, … và nhất là có người phải “sống cuộc đời kẻ khác. Nghe sao mỉa mai và đau đớn quá!

            "Tao đứng lặng giữa trời chiều ngơ ngác
            Đọc thư mầy, niềm thương mến trào dâng
            Tao như chim đơn lẻ giữa từng không
            Mầy, cánh bướm lạc loài trong trời rộng

            Ngày trở lại dù không là ảo vọng
            Tao hứa với mầy sẽ đợi chờ nhau
            Quê hương mình rồi sẽ hết thương đau
            Khi giặc chết với thiên đường mù Cộng Sản”

            Tám câu kết của bài thơ với bố cục chặt chẻ, đưa đọc giả trở lại với cảm xúc ban đầu. Tác giả đứng lặng giữa trời chiều ngơ ngác với tâm trạng mến thương người bạn sau khi đọc xong bức thư. Hai chữ “ngơ ngác” dùng ở đây thật tuyệt, diễn tả đúng tâm trạng của người đang bị dằn vặt giữa mộng và thực. Cái ngơ ngác ở đây không phải là cái ngơ ngác của Trang Tử trong giấc mơ hóa bướm, mà là cái bàng hoàng đến ngơ ngác trước sự kiện đã xảy ra cho quê hương đất nước, cho mỗi người dân Việt của mình.

            Vài hàng “cọng hưởng” với niềm ray rứt của thi sĩ Yên Sơn. Bài thơ thật hay, mang lại nhiều cảm xúc cho người đọc anh Yên Sơn ơi!!!

            Thân,

            Nguyễn Xuân Đấu – Lincoln, Nebraska
            Last edited by thanphongkingwood; 07-28-2013, 07:29 PM.
            Mời bạn ghé thăm nhà:
            http://thovanyenson.com

            Comment


            • #21
              TẢN MẠN CHUYỆN BUỒN VUI
              Yên Sơn


              Hắn cứ sống với sức sống vươn lên trong cái ảo tưởng, mơ hồ như một người khách lạ Hắn luyến tiếc quá tuổi thanh xuân cho nên rất ít khi hắn công nhận là hắn đã đứng bên kia một nửa cuộc đời! Hắn không sợ già nhưng hắn không muốn chấp nhận. Chưa làm được việc gì nên trò nên trống mà đã già rồi nghe thê thảm lắm! Hắn vẫn thường nói đùa với bạn bè, người quen là hắn sẽ không bao giờ quá 50 tuổi! Ai nghe qua cũng ngơ ngác trước khi hắn cười hiền giải thích: “kế tiếp 50 sẽ là 49 đến 48, 47... 40 rồi quành lại 41, 42... và cứ thế!”

              Có thể trong chiến tranh khốc liệt xưa kia, hắn đã không thể sống hết mình, sống buông thả như bao nhiêu người khác. Hắn đã sống một cuộc sống mà người đời thường cho là mẫu mực, nề nếp vì hắn tự nguyện đánh ván bài “được ăn cả, ngã về không”, có nghĩa là nếu số phận an bài cho hắn sẽ làm được gì trong đời thì nhất định không thể chết bất tử được. Hắn lo xây dựng tương lai trước sự ra đi vội vã của bạn bè hàng ngày; hắn cố bồi đắp cho tương lai trong những hoang tàn, đỗ nát, khốc liệt của chiến tranh... Hắn đã nghĩ “nếu có chết cũng nên chọn cái chết oai hùng trong sự thanh bạch bản thân để trả ơn tác tạo của mẹ cha, và để lại cho những người thân yêu niềm thương mến và hãnh diện”. Thế nên ở đơn vị nào, bay loại máy bay nào hắn cũng xông pha, cũng tình nguyện. Hắn không bao giờ từ chối khi có bạn bè nhờ đi bay thế vì bận chuyện riêng tư, chuyện gia đình... dù ở đâu, lúc nào hắn cũng nghe kháo là “đi bay thế rất dễ lên bàn thờ”. Rất điển hình, có thằng bạn cùng tên khác họ với hắn, ngày xưa cùng chung đơn vị, đang ở gần đây. Bạn bè lâu lâu tụ tập lại với nhau để biết là còn có nhau. Bao giờ cũng thế, chuyện mới chỉ là chuyện áo cơm, rất ít; chuyện cũ ai cũng thuộc lòng, nói hoài vẫn như mới! Người bạn bao giờ cũng tìm dịp nhắc lại cho người chung quanh biết là ngày xửa, ngày xưa, khi nó mê đắm vợ nó bây giờ thường hay nhờ vã hắn bay thế... Và cứ thế, tuổi thanh xuân của hắn cứ ngày một ngày hai phiêu bồng với mây, với gió, với nắng, với mưa trên khắp vùng trời miền Nam nước Việt...

              Ôi những toan tính rốt cuộc cũng bất chợt chạy bạt mạng theo đoàn người di tản buồn, không một lời từ giã; không biết mình đi đâu, về đâu vào buổi trưa ngày 29 tháng 4 năm 1975 giữa tiếng bom đạn vang rền, giữa những hổn loạn cùng cực! Bất chợt đến nỗi không kịp mang theo người yêu dấu chỉ ở cách phi trường 45 phút chạy Honda! Cũng may là “ngã nhưng chưa về không” mà “ngã” cho hắn thêm nhiều cay đắng, đau thương hơn khi nhận ra mình phải sống đời tha hương, viễn xứ, để lại sau lưng một quê hương nghiệt ngã, rách nát; để lại sau lưng bao tình thâm, nghĩa trọng, bao ơn nợ bạn bè! Những chặng đường hắn đã đi qua từ khi tan đàn sẫy nghé thật lắm gian truân và tủi cực!

              Rồi một ngày tháng 12/77 hắn đã rất đau đớn khi tất cả những hy vọng trở về, hy vọng gặp lại người xưa tan biến theo từng dòng chữ nằm gọn trong một bức thư viết tay của một người thân vượt muôn trùng nằm trên tay hắn. Rồi hắn đã như hốt hoảng nhận ra rằng “đã đến lúc nên có một gia đình”!

              Lập gia đình không phải với người không yêu, nhưng có lẽ không đủ thời gian mật ngọt cho một chuyện tình, không đủ thời gian cho những lãng mạn rong chơi, nên lắm lúc hắn lại thấy khát khao, xao xuyến khi bất chợt thấy những ngây thơ hồn nhiên, những nhí nhảnh của tuổi thanh xuân trên những cặp tình nhân chân sáo tay đan, sánh bước bên nhau trên biển cát hoàng hôn, dưới sương chiều tản mạn. Những tươi vui, đằm thắm của một người khác phái cũng làm cho hắn rung động, cũng gây cho hắn cái cảm giác bất toàn trong cuộc sống tình cảm riêng tư, và cũng là dịp cho con tim lãng mạn của hắn mơ hoang, mộng hảo. Dĩ nhiên, đâu phải bất cứ ai cũng có thể làm chao động được một tình yêu đã ngủ vùi!

              Và cứ thế, ngày một ngày hai, hắn vẫn sống trên quê hương đất nước này như một người khách lạ. Mỗi bình minh, mỗi chiều xuống, mỗi khi ngất ngưởng men say hắn khát khao, ao ước được sống lại khoảng đời thơ ấu, được trở về bên dòng sông xưa một lần tắm mát. Hắn thèm được viết lại một lá thư tình rồi rụt rè, hồi hộp chờ đợi đưa cho người con gái hắn thầm yêu, trộm nhớ khi tiếng trống cuối năm học từng hồi giục giã trong sân trường đầy xác phượng và vang vọng tiếng ve sầu.
              Mời bạn ghé thăm nhà:
              http://thovanyenson.com

              Comment


              • #22
                MƯA THÁNG BẢY

                Cuối tháng Bảy, ở Kingwood, Texas trời mưa!
                Cuối tháng Bảy, trời mưa ở cái xứ nổi tiếng nóng bức là một hiện tượng lạ! Mưa rất nhẹ như mưa bụi mùa Thu quê nhà. Hạt mưa đậu lại trên tóc, trên vai áo, trên hoa lá. Hạt mưa làm trở giấc những ký ức nhạt nhòa đã ngủ yên từ trong sâu thẳm. Mưa chỉ đủ để làm ướt mặt như mồ hôi rịn trong những ngày nắng Hạ Saigon! Mưa rất dễ thương như mưa Xuân của những ngày tháng cũ, tay trong tay một thuở học trò. Tôi nghe người ta nói “tháng Bảy mưa ngâu” nhưng tôi chưa hề biết mưa ngâu ra sao nên không biết mưa hôm nay có liên quan gì đến nó hay không. Một điều tôi biết chắc rằng ở đây, Kingwood, Texas chưa nghe ai nói và dường như hiếm khi để thấy mưa trong khoảng thời gian này, thời gian mà đáng lẽ thời tiết nóng bức với độ ẩm rất cao, chứ không mát mẻ, thoải mái, dịu hiền như sáng hôm nay. Hơn nữa, tôi cũng đã ở vùng này 16 năm qua, đâu nhớ có mưa bụi trong những ngày cuối tháng Bảy bao giờ!


                Buổi sáng, nhà tôi và con gái đã đi làm từ sớm. Đứa con trai út hãy còn ngủ yên trên lầu. Thanh thiếu niên thời nay thường hay thức ban đêm ngủ trễ ban ngày. Nhà có hai người đàn ông và hai người đàn bà; thế mà hai đàn bà đi làm trong khi hai đàn ông lại ở nhà nhàn rỗi! Tôi muốn bật cười mỗi khi nghĩ tới cái chuyện tréo cẳng ngỗng như vậy mà cười có được đâu! Cái sự lỡ thầy lỡ thợ làm tôi cay đắng không ít! Kiến thức, kinh nghiệm của mình có thua kém gì ai mà sao vẫn phải luôn tranh đấu, vật lộn với công việc làm ở một đất nước có quá nhiều ngành nghề, lắm cơ hội này! Có thể một thời tôi đã như con ngựa không được che mắt; ngó chỗ nào cũng thấy có đường đi; lại thêm cái lưng quá thẳng, cái đầu quá cứng, tôi đã coi thường mọi khía cạnh “politic” của các hãng xưởng lớn! Bạn bè thân thấy tôi năm lần ba lượt “rốt cuộc cũng trở về khởi điểm, bật cười xuân sắc đã phôi pha” nên cười bảo “tử vi nói mầy có số cư thê, thôi thì cứ hưởng nhàn đi, bon chen làm gì cho mệt, đàng nào rồi cũng về không”! Biết rằng “đằng nào rồi cũng về không” nhưng tôi vẫn chưa cam lòng! Giá trị đời sống con người dù không thể định nghĩa bằng sự thành công về tài chánh, nhưng con người sẽ kém cỏi biết bao nếu suốt đời cứ phải loanh quanh ba chuyện cơm áo! Cũng may chỉ là mấy tháng hè ngắn ngủi; cũng may những buổi sáng đi qua rất nhanh! Nhưng nghĩ cho cùng, việc dạy học của tôi vẫn chỉ là nghề bất đắc dĩ, và việc dạy võ cũng chỉ là sở thích trong khi tôi có thừa khả năng và có đủ điều kiện để làm một cái gì oanh oanh liệt liệt trong đời. Nhưng cũng lắm khi tôi tự nhũ “có lẽ khả năng của mình chưa tới mức, tài giỏi của mình cũng chỉ hạn hẹp, nên cứ phải loay hoay, cứ phải thăng trầm”! Cũng may tôi đã gặp được một người bạn đời hiểu biết và đảm đang với một tấm lòng vị tha, cao thượng. Những khi ngả lòng, nản chí, nhà tôi vẫn bền bĩ đứng bên cạnh với những câu nói quen thuộc: “con người ai cũng có số”, “cái gì cũng có hên xui”, “em hiểu anh cũng đã cố gắng hết mình, nhưng người định đâu bằng trời định”! Tôi biết đó là những câu an ủi nhưng với tấm chân tình và cung cách đối xử của nhà tôi đôi khi cũng giúp tôi vơi bớt những nỗi muộn phiền đầy ắp trong tim!

                Chờ cà phê phin nhỏ giọt trên chiếc bàn che dù phía sân sau, tôi rảo bước quanh khu vườn bên những cụm hoa đủ loại đang khoe sắc. Bốn cụm bằng lăng tím, đỏ nở loa thành hình dáng những bình bông vĩ đại do một bàn tay khéo léo sắp xếp; mấy chậu sứ tím cũng đầy hoa bên cạnh cây ngô đồng xanh mướt lá, mấy cành hoa điệp cũng vươn mình hứng mưa cùng với cụm hoa phù dung rực rỡ… Tôi đi rất chậm, mơn man từng nụ hoa trong khu vườn nhỏ. Vài con bướm bay liệng bên những nụ hoa ngậm đầy nước mưa như những chén rượu lưng chừng của người hào sảng. Không gian vô cùng tĩnh lặng và mưa cứ lất phất bay. Nhìn vẻ đẹp và cảnh sắc của vườn sau làm lòng tôi rung động. Đôi chân vui bước dần theo tiếng gọi vô tình nào đó về hướng bờ suối. Suối là một con kênh khá lớn và sâu bên ngoài hàng rào, chia cách hai khu nhà, quanh năm nước chảy. Nước suối chảy phẳng lặng, rất bình an qua những lau lách hai bên bờ. Thỉnh thoảng nhân viên bảo trì khu vực cắt xén rất tươm tất. Mưa lấm tấm không đủ làm lu mờ mặt nước như tấm gương lớn phản chiếu khung trời thu hẹp với những tầng mây xám đục bay bay dưới mặt suối êm đềm. Đó đây vài con ếch nhảy tùm xuống suối tạo nên những vòng tròn tỏa rộng rồi mờ nhạt dần với gợn sóng. Con đường mòn bên bờ suối tưởng chỉ riêng tôi với những bước chân nhàn hạ nhưng thi thoảng cũng có người chạy bộ vượt qua trả lại cho tôi những câu đối đáp chiếu lệ.

                Tôi cứ bước vui đến cuối lối mòn nơi cụm thông già nghiêng đầu rù rì năm tháng, rồi quanh về. Mưa đã dứt hẳn hồi nào cũng trong tĩnh lăng. Đã gần nửa buổi sáng mà thôn xóm vẫn như còn chìm trong giấc ngủ làm cho tôi liên tưởng đến những xóm thôn xưa với những bờ tre khóm trúc, những hàng cau cao lêu nghêu, những cây đa to, những cụm dừa rợp lá; với khói lam chiều quyện bên mái nhà tranh. Tai như thoảng nghe tiếng sáo diều, tiếng lịch bịch nặng nề của đàn trâu trở về từ đồng cỏ; mắt như thấy những tấm lụa nhung xanh mướt của đồng lúa non uốn lượn trong gió chiều! Tôi bỗng nhớ thiết tha một thời ấu thơ bên dòng sông Vệ, nhớ đến rưng rưng, nghèn nghẹn vì hối tiếc một khỏang đời khi mà chữ “chiến tranh” chưa hề nghe ai nói! Tôi lại nhớ tới cái bến sông mà người lớn thường hăm he trẻ nít rằng ban đêm có ma. Cái bến sông làm tôi nhớ đời vì một lần lén theo Mẹ đi học ban đêm. Tôi nằm ngủ mê ở băng ghế trống phía sau mà không ai hay biết. Khi giật mình thức giấc thì đã quá khuya không còn một bóng người! Tôi ù té chạy về ngang qua bến sông đó, vừa chạy vừa lắng nghe tiếng thình thịch của bước chân mình mà cứ ngỡ có ma đuổi theo sau làm rợn gáy.

                ***

                Ngồi nhâm nhi tách cà phê đã nguội, nhìn cụm phù dung rực rỡ bên góc vườn! Hoa phù dung nở bốn mùa, đóa hoa rất đẹp, màu đỏ tươi, đài hoa khá lớn. Mỗi sáng nở hàng trăm đóa hoa, rồi tàn lụi khi màn đêm buông xuống! Vài ba ngày tôi lại phải quét dọn những đóa hoa tàn rụng đầy cội. Tôi trồng bụi phù dung ở góc nhà để xe mà bất cứ lúc nào ra vô, đi về đều nằm trong tầm mắt như là một ngẩu nhiên tình cờ nhắc nhở: “đời sống con người có khác chi những đóa phù dung!”. Không, không phải tôi bi quan mà là chấp nhận cái lẽ sắc không của đời người, dù nhiệt huyết trong tôi vẫn chảy, ý chí phấn đấu trong tôi vẫn còn… tôi vẫn cố gắng tiếp tục làm được những việc ích lợi có thể làm để đời sống còn có ý nghĩa hơn.
                Mời bạn ghé thăm nhà:
                http://thovanyenson.com

                Comment


                • #23
                  Giấc Mơ Phi Công
                  Và Những Chặng Đường Nghiệt Ngã

                  Thời ngồi trên ghế nhà trường tôi vẫn luôn “nhìn trời cao mà reo, mà mơ ước như diều để níu áo Hằng Nga, nằm bên dải Ngân Hà”. Những mẩu chuyện KQ làm tôi say sưa quên cả sách vở. Thấy các ngài phi công bên súng, bên dao xề xệ trong bộ áo liền quần phởn phơ dưới phố cho tôi mộng mị đêm dài. Nhất là bị ông nhà văn phi công Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh qua cuốn “Đời Phi Công” đưa mơ mộng của tôi vượt lên chín từng trời! Có lần bày tỏ với Mẹ tôi về ước muốn này bị Mẹ át giọng “học hành không xong Ba sẽ bắt về đi cày ruộng chứ ở đó mà mơ với mộng”! Mẹ biết tôi rất sợ sống ở ruộng vườn; rất sợ đời sống kham khổ với đất đai, nhất là đất đỏ cao nguyên dẻo quánh, nắng bụi, mưa… trời ơi là một nỗi cực hình! Tôi đã từng nói với Mẹ “bằng mọi cách con sẽ vượt ra khỏi nơi này”!

                  Ba Mẹ và các anh em thấy tôi ham học (chẳng qua là trốn việc đồng áng) nên dồn tất cả sự hỗ trợ cho tôi đi học trên thành phố sau khi xong phần Trung học đệ nhất cấp ở quận lỵ. Tôi sung sướng được xa nhà, xa ruộng rẫy, bắt đầu “trắng da dài tóc” từ đó. Đợi khi vừa thấy tên trên bảng kết quả Tú Tài, tôi đã mơ màng làm phi công chiến đấu. Tôi lén cha mẹ nộp đơn xin làm phi công. Trước khi đi, tôi rất tự tin vì nghĩ rằng mình thừa sức nặng, dư chiều cao, mắt sáng như sao, tai thính như dơi, dũng lược con nhà võ… “nhưng ai có ngờ đâu, đời tôi là bể sầu, nay mộng xưa đã hết, ngày vui đã tàn, lòng tôi nát tan”. Trời không chìu lòng người. Nhóm thanh niên nộp đơn khám sức khỏe phi hành của chúng tôi gồm 20 người nhưng không có được một mống bước qua nổi ngưỡng cửa Phi Long, và tôi là người cuối cùng nghe ông nha sĩ ca bản “thôi anh đi về đi, Không Quân đành bái bai cùng anh, duyên không tròn lưu luyến càng thêm đau buồn!” Có lẽ thây nỗi buồn nặng trì nặng trịch trên mặt tôi, ông ta lại hát tiếp, (Thôi tiếc thương mà chi, trông mong gì anh đi về đi, anh đi về đi cho vui lòng mẹ cha”… chỉ vì vài chiếc răng trám! Mộng làm phi công tan tành theo mây gió, thất vọng não nề, tôi tiếp tục vùi đầu vào sách vở theo đuổi ngành y khoa như ước nguyện của Ba Mẹ tôi và gia đình.

                  Chiến tranh càng lúc càng khốc liệt. Sân trường, sách vở trở thành món nợ nhàm chán, nặng nề. Đã vậy, mỗi lần ra phố nếu không Cảnh sát cũng bị Quân cảnh xét giấy tờ quân dịch lia chia… nhưng không có gì nung nấu bằng ước muốn trở thành phi công. Thấy KQ vẫn dồn dập tuyển mộ, tôi lại thắc thỏm muốn liều mình nộp đơn lần nữa. Dù Ba Mẹ tôi vẫn “răn đe” cố gắng học hành, không được xao lãng. Ba Mẹ tôi thường nói, sở dĩ gia đình dồn hết mọi nỗ lực cho tôi ăn học vì không muốn tôi gia nhập bất cứ loại lính nào, vì đã có hai anh lớn trong lính rồi! Nhưng trận Mậu Thân như một giọt nước làm tràn ly đầy, tôi quyết định thử thời vận lần nữa.

                  Có lẽ vì nhu cầu bành trướng của KQ quá cao nên “hú thần hồn” tôi qua được chướng ngại vật cuối cùng “ba chiếc răng trám như cũ”! Chỉ có đậu được vào KQ mà chân tôi đã như đi trên mây, lòng bồi hồi sung sướng, chỉ còn một nỗi lo duy nhất là không biết ăn nói với Ba Mẹ tôi cách nào.

                  Suy tính thiệt hơn, tôi quyết định giấu biến chuyện nhập ngũ, khăn gói đi thẳng vào Quang Trung học làm đời lính. Chính vì thế, suốt ba tháng quân trường tôi ngoan ngoãn làm con bà phước không một lời oán than. Hàng tháng tôi vẫn nhận tiền ở nhà gửi lên và vẫn tìm cách liên lạc đều đặn như không có gì.

                  Ba tháng quân trường đã biến một gã thư sinh trắng trẻo thành một anh chàng mặt mày tay chân đen nám, mặt mũi đầy mụn với vai u thịt bắp gồ ghề làm Ba Mẹ và các em giật mình thảng thốt khi tôi đút đầu về quê… thú tội trong lần đi phép mãn khóa đầu tiên. Tôi nghĩ “gạo đã nấu thành cơm” nên hy vọng không bị rầy la quá độ, nhưng… Mẹ tôi vì thương con nên chỉ biết thở dài; các em sờ mó tỏ vẻ hãnh diện với làng xóm; còn Ba tôi nhất định không nhìn mặt trong suốt thời gian ngắn ngủi đó. Tôi ngậm ngùi trở lại đơn vị sau khi năn nỉ Mẹ tôi và những người thân khuyên giải Ba tôi.
                  Vì nhu cầu huấn luyện khẩn cấp của KQ nên số đông khóa của tôi, thay vì được gửi đi Nha Trang để hoàn tất giai đoạn hai huấn luyện quân sự, lại được gửi vào Trường Sinh Ngữ Không Quân để học tiếng Anh sau khi quanh quẩn “đạp cỏ ở khu nhà ma” một thời gian ngắn. Khu nhà ma là một khu nhà khá lớn trong căn cứ TSN bỏ hoang, cỏ cao quá đầu gối. Cấp trên dùng nơi này để quản trị lũ chúng tôi, những thằng người có một phần lính nhiều phần học sinh. Mỗi sáng chúng tôi vào trình diện điểm danh chiều lại cho về. Không mấy chốc, bãi cỏ hoang chung quanh khu nhà đã tưa gốc chết tiệt!

                  Rồi cũng đến lúc trình diện học sinh ngữ. Tôi nhớ lão Đại Úy “Quý heo” đã cho chúng tôi chào trại sinh ngữ bằng cách chạy mấy vòng sân, ở một buổi trưa nắng gắt, với xách Marin (loại bao tải xanh cứt ngựa của lính phát) trên vai làm bao nhiêu chàng công tử bột té lên té xuống trông thảm hại vô cùng! Rồi chuyện đâu cũng vào đó, chúng tôi được chỉ định chỗ ở và hôm sau nhập khóa học. Tôi không giỏi Anh ngữ như một vài bạn cùng khóa nhưng cũng không gặp nhiều khó khăn vì tiếng Mỹ đã là sinh ngữ phụ thời còn đi học. Thế nhưng, ngày thi mãn khóa tôi bị thiếu đúng một điểm chỉ vì nghe lời đường mật của các “sư phụ ma giáo” học tủ một bài thi được các sư phụ chuyền tay nhau trước ngày thi. Tôi phải mất một chầu café thuốc lá cung phụng cho các sư phụ. Các sư phụ bảo đảm bài thi hôm đó nhất định phải là “con chó nhảy hàng rào”! Ôi “trời bất dung gian”, con chó của tôi nhảy không qua nổi hàng rào 70 điểm! Âm thoại rất khó nghe, mà vừa nghe vừa cố so sánh với bùa nên không bắt kịp bài thi. Tôi vội vàng vất bùa và chú tâm hơn… nhưng vẫn không cứu vãn được tình thế. Tôi ngậm ngùi nhìn bạn bè tốt nghiệp làm thủ tục đi Mỹ.

                  May mắn thay! Học lại đâu được vài tuần thì nhận được tin sét đánh ngang tai “làm thủ tục xuất trại để đi du học khóa fixed wing (fixed wing là tên gọi chung cho các loại phi cơ khu trục, A37, F5, vận tải tác chiến, vận tải để phân biệt với Helicopter). Như vậy ước mơ để trở thành phi công phản lực tác chiến của tôi có nhiều cơ hội thành tựu. Nếu nỗi vui mừng ngày xem kết quả đậu Tú Tài ra sao thì ngày nhận tin đi Mỹ học fixed wing làm tôi vui mừng hơn gấp bội.


                  Trường sinh ngữ Lackland AFB ở San Antonio, Texas là trạm dừng đầu tiên cho tất cả khóa sinh phi hành ngoại quốc. Và dĩ nhiên Viêt Nam là một thành phần. Thường khi đã qua được tới Mỹ có nghĩa là vốn liếng Anh ngữ tạm đủ để có thể theo học các khóa huấn luyện. Tuy nhiên, ai cũng phải thi đậu sau ba tháng học tập ở trường sinh ngữ Lackland và làm quen với đời sống Mỹ trước khi nhập trường bay. Chính vì thế, Lackland cũng là chướng ngại vật cho các sư phụ mánh mung ở trường sinh ngữ quân đội bên nhà. Có một số người, sau ba tháng ăn chơi này đã phải khăn gói quả mướp lên đường về nước đi thẳng qua bộ binh.

                  Xong phần huấn luyện sinh ngữ, khóa chúng tôi được nhập trường bay, loại Cessna T41, ở căn cứ Randolph AFB. Trường bay này tọa lạc ở thành phố ven đô, Universal City, cách 24 dặm về phía đông bắc của San Antonio. Thời gian huấn luyện ở đây dự trù 3 tháng gồm có huấn luyện thể lực, địa huấn (ground school), học bay, học nhảy dù, phòng cao độ. Riêng phần bay bổng, người giỏi nhất mất khoảng 9 giờ bay với Thầy, người yếu nhất cũng phải cần 18 tới 20 giờ huấn luyện trước khi được thả bay một mình trong vòng đai phi đạo. Ở giai đoạn này cũng lắm người bị về nước vì không thể bay một mình trong một thời gian nhất định nào đó. Bị đánh rớt trong giai đoạn này không đến nổi phải bị ra khỏi KQ mà cho cơ hội để phục vụ trong ngành Không Phi Hành hoặc các trách vụ phi hành khác như Điều Hành Viên (Navigator, NOS, IR).


                  Chờ cho đến người cuối cùng hoàn tất giai đoạn bay T41, khóa chúng tôi lên đường qua Keesler AFB ở tiểu bang Mississippi (cách San Antonio 9 giờ lái xe) để học bay loại Khu trục T28. Khi lên đường đi Mỹ, khóa chúng tôi có hơn 40 khóa sinh, bây giờ còn lại 35 người sau hai trạm đầu tiên gồm luôn một vài người từ khóa trước dồn lại.

                  Chương trình huấn luyện ở đây dự trù là 6 tháng gồm phần địa huấn, academic rất nặng nề (lý thuyết về không gian, kỹ thuật hàng không, và phi cơ, khí hậu…), học bay ngày, bay đêm, bay đường dài (cross country), không hành định vị (navigation), bay phi cụ, bay hợp đoàn… Trong giai đoạn này, khóa sinh được huấn luyện tổng số khoảng 150 đến 200 giờ bay; nhanh nhất để được bay một mình trong vòng phi đạo (touch and go) là 14 giờ huấn luyện với thầy cho tới 24 giờ tối đa. Nếu sau 24 giờ mà vẫn không thể bay được một mình vì bất cứ lý do gì cũng sẽ bị trả về nước. Giai đoạn này cũng là một gạn lọc đáng kể cho rất nhiều anh em.


                  Sau khi bay solo ở vòng phi đạo (traffic pattern), khóa sinh được tiếp tục bay các phần hành khác gồm phần aerobatic ngoạn mục, solo vùng, rồi solo navigation, cuối cùng là phần bay hợp đoàn… Bay hợp đoàn rất dễ khi bay trước; bay theo là một ám ảnh tưởng không thể vượt qua chặng này… nhưng rồi cũng quen. Thời gian chỉ có 6 tháng mà như đi rất chậm vì ngày dài triền miên với sách vở, lý thuyết rồi ngồi đồng nghe thầy giảng moral về tài bay bổng của mỗi chàng. Có lắm niềm vui, cũng lắm nỗi buồn phiền; lắm điều trái ngang nghe như chuyện đùa… rồi cũng tới ngày mãn khóa. Khóa chúng tôi còn lại 33 người được gắn cánh bay. Ngày được gắn phải nói là một ngày huy hoàng nhất trong cuộc đời bay bổng. Thế là mộng làm cánh chim trời đã thành tựu, chỉ còn nỗi hồi hộp chờ ngày chọn máy bay và đi học tiếp loại phi cơ chuyên biệt.

                  Không một khóa sinh nào có thể biết trước được mình sẽ được bay loại fixed wing nào cho đến ngày mãn khóa kể cả các Thầy. Cũng có thể cấp trên và các Thầy đã biết trước nhưng khóa sinh hoàn toàn không biết. Nếu được hỏi, thầy và các cấp chỉ huy Việt lẫn Mỹ đều nói tùy vào “tài khóa”, tùy vao khả năng bay bổng của mỗi người”; có nghĩa là tùy vào số tiền viện trợ được chi viện từ quân đội Mỹ và tùy vào nhu cầu huấn luyện của từng thời điểm.

                  Sau ngày mãn khóa, chúng tôi mới biết tài khóa chúng tôi chỉ toàn các loại vận tải cơ gồm 16 chiếc C123K, 4 chiếc C7 Caribou, một số C47, và một số C119. Một số anh em vui mừng nhưng riêng tôi vô cùng thất vọng, tìm đủ mọi cách xin chờ tài khóa tới hoặc cho về huấn luyện khu trục ở VN. Rất đáng buồn đòi hỏi của tôi không được đáp ứng. Cấp chỉ huy bảo tôi “mầy (you) được ưu tiên chọn trước, cứ chọn bất cứ loại máy bay nào mầy thích trong tài khóa này, thế nào cũng sẽ có cơ hội chuyển ngành về sau”. Mặc dù tôi có ưu tiên số 5 (20 người đổ đầu khóa được ưu tiên thứ tự ưu tiên chọn trước) nhưng tôi buồn bã nói với thầy chọn giùm bất cứ loại nào ông nghĩ là tốt. Thầy tôi cho tôi biết ông ta cũng thất vọng không kém tôi vì ông ta đã là pilot khu trục trước khi nhận về trường huấn luyện. Thầy khuyên tôi nên chọn C123K vì loại vận tải cơ tân tiến nhất trong các loại của tài khóa này. Tôi đặt hoàn toàn tin tưởng nơi ông nên tôi đã gật đầu.


                  Trạm dừng chân kế tiếp của 16 chàng phi công vận tải C123K là căn cứ Lockbourne AFB, Ohio để huấn luyện chuyên ngành. Máy bay C123K là loại phi cơ to nhất của KQVNCH thời đó. Ngày đầu tiên ngồi trên ghế huấn luyện trong phòng lái tôi thấy mình thật yếu đuối so với sức lực của loại phi cơ này, nó như con voi bất trị so với các loại T41 và T28A/B đã qua… nhất là lúc cất cánh. Dần dà cả tháng sau mới làm quen với nó được. Phi hành đoàn vận tải bay huấn luyện cũng đòi hỏi ít nhất có 4 người: phi công chính (thầy dạy), phi công phụ (khóa sinh), kỹ sư cơ khí, và nhân viên áp tải. Chương trình huấn luyện đề ra là 3 tháng nhưng khoảng hai tháng thì cả phòng huấn luyện C123K bị dời xuống England AFB (còn có tên Maxwell AFB) phía đông của tiểu bang Louisiana. Một tháng sau thì mãn khóa còn nguyên vẹn 16 trự khăn gói quả mướp lên đường hồi hương.

                  Về nước được cho nghỉ phép vài tuần lễ xong là trình diện phi đoàn liên hệ để tiếp tục huấn luyện check out hành quân. C123K có 2 phi đoàn 421 và 423 và lũ 16 con nai vàng chúng tôi được chia đều cho hai phi đoàn. Sau thành lập thêm phi đoàn 425. Trước tiên tôi về phi đoàn 421 của Thiếu Tá Nguyễn Quế Sơn để huấn luyện check out hành quân, xong cho về phi đoàn tân lập 425 với Thiếu Tá Nguyễn Thế Thân. Vừa bay vừa học bổ túc giai đoạn hai quân sự tại căn cứ TSN trong 3 tháng trường để hợp lệ mang cấp bậc Thiếu úy.

                  Khoảng hơn một năm sau, để đáp ứng nhu cầu chiến tranh, KQ VNCH được tiếp nhận vận tải cơ khổng lồ C130A, chia ra hai phi đoàn 435 và 437. Tôi được chọn đi phi đoàn 435 của Trung Tá Lâm Văn Phiếu.

                  Phi cơ C130A là loại phi cơ tối tân hơn C123K rất nhiều, khả năng vận tải rất cao, kỹ thuật tân tiến nên lôi cuốn rất nhiều người muốn được về bay loại phi cơ này. Có nhiều phi công lão luyện ở các loại phi cơ khác được tuyển chọn về từ C47, C119 để học trưởng phi cơ và lũ nhí chúng tôi chờ khóa học làm phi công phụ. Vì số người chờ học quá đông nên lũ cắc ké của chúng tôi dù chưa được ngồi vào ghế lái nhưng vẫn bị chia phiên mang hia, đội mũ đi theo tàu xách thùng bản đồ vài ba lần một tuần. Tình trạng này kéo dài khá lâu làm tôi nản lòng quá sức! Trong khi đó ở vận tải người ta hay đì nhau chí mạng, hoàn toàn không phù hợp với tâm tánh và ý thích của riêng tôi nên tôi gặp không ít những rắc rối vụn vặt đối với cấp trên “bay thì dở nhưng rất thích ra oai”! Tôi cũng muốn lợi dụng hoàn cảnh để được cho qua tác chiến nhưng vẫn không hữu hiệu!

                  Đã mấy lần tôi xin Không Đoàn trưởng, KĐ phó chuyển qua bay tác chiến nhưng vẫn không được. Khi mức độ nản lòng đã lên cao độ, tôi nhất định xin đổi qua bay loại vận tải tác chiến AC119K, vừa được KQ Hoa Kỳ chuyển giao, dù các cấp chỉ huy đều không muốn. Tôi nói nếu không cho tôi đi tôi sẽ nộp đơn xin ra bộ binh. Sự cương quyết của tôi đã làm phật lòng nhiều người nhưng cuối cùng cũng được thuyên chuyển về phi đoàn Tinh Long 821 (duy nhất) của Trung Tá Hoàng Nuôi. Ở đây vui hơn nhiều, được đi đánh trận hàng đêm. Không ở một chỗ như những loại vận tải khác. Lâu lâu biệt phái Phù Cát, Đà Nẵng. Và tôi xin đi biệt phái dài dài, xin biệt phái thế cho bạn.

                  Chiến trường Miền Trung lúc bấy giờ rất sôi động nên cũng lắm chàng có gia đình hay “lạnh cẳng”. Ở Saigon hay đi biệt phái tôi cũng xin bay đều đều đến nổi cấp trên hỏi tôi có còn đầy đủ gia đình cha mẹ không, có bạn gái không (?!) Tôi chỉ mỉm cười, đơn giản nói “tôi thích đi bay, thích đi khỏi Saigon náo nhiệt”. Đi biệt phái Đà Nẵng tôi thích hơn nhiều vì ở đây chiến trường nóng bỏng lại có thằng bạn thân gan lì dạy tôi bay trực thăng, chiêu đãi tôi những bữa ăn ngon ngoài phố, cho tôi tháp tùng đi xung trận những ngày tôi được nghỉ bay. Nó thường cười nói như chơi, “nếu có mệnh hệ gì thì hai thằng mình bị dán giấy phạt trên quan tài thay vì ‘truy thăng’… Và tôi cứ thanh thản sống như thế, cứ vô tư như thế ngày qua ngày lại qua ngày cho tới lần sau cùng, trưa ngày 27 tháng 3 năm 1975, tôi theo biệt đội vội vã rời khỏi Đà Nẵng về lại Saigon trong cơn hỗn loạn bỏ rơi Miền Trung.

                  Về lại Saigon, chiến sự leo thang đáng kể nhưng tôi vẫn sống bình thản, vẫn sinh hoạt như thường ngày, vẫn xin bay đêm dài dài để thấy “giữa lòng trời khuya muôn ánh sao huyền”… cho đến trưa ngày 29 tháng 4, năm 1975, khi tôi nhận ra là tôi phải cấp tốc rời khỏi Saigon sau khi chứng kiến chiếc Tinh Long 7 của Trang Văn Thành bị bắn rơi gần vòng đai phi trường lúc 7g sáng… Bạn bè mạnh ai nấy tự lo thân, kẻ chạy ngược người chạy xuôi tìm phương tiện ra đi và tôi cũng đội mưa pháo tìm kiếm phi cơ hữu dụng trong vô vọng. May mắn thay, đang lơ ngơ, lớ ngớ gần trạm Hàng Không Quân Sự thì thấy Thiếu Tá Phan Vũ Điện và một số anh em trên xe pick up chạy ngang vẫy tay bảo chạy theo tới chiếc C130 cuối cùng ở gần trạm Hàng Không Dân Sự. Sở dĩ chiếc phi cơ này còn nằm ụ ở đây vì một số phi cụ đã bị hư hỏng chưa có dịp thay đổi; thế nhưng đâu còn chọn lựa nào tốt hơn. Tôi ngồi vào ghế copilot phụ anh Điện phần hành của một phi công phụ để cố đưa chiếc máy bay không hoàn hão rời khỏi phi trường lúc 12g30 trưa, trong hỗn tạp, trong hoang tàn mang theo hơn 100 người khách bất đắc dĩ, bay thẳng qua Utapao, Thái Lan để bắt đầu cho những tháng năm dài ly hương.

                  *********

                  Từ một gã học trò mặt trắng tay trơn đến một phi công lỡ vận, lỡ thời chỉ có 7 năm dài qua bao nhiêu chặng đường. Mỗi chặng đường chứa đựng biết bao nhiêu hồi ức, bao nhiều kỹ niệm, có buồn có vui, lắm điều nhiều nỗi kể sao cho hết. Chỉ xin tóm lược qua những chặng đường cho một giấc mơ phi công của riêng tôi để chia sẻ với mọi người. Dù không cao sang như “Đường Minh Đế” nhưng tôi cũng đã được “nhàn du khắp tinh cầu”, cũng đã sống một thời hào hùng bên súng bên dao. Nhìn lại đời sống cũ đã một thời “sống giữa lưng trời, đôi khi nghĩ chuyện đời mỉm cười thôi”.

                  Mùa Hạ 2013
                  Mời bạn ghé thăm nhà:
                  http://thovanyenson.com

                  Comment


                  • #24
                    RA ĐI… Về Phía Mặt trời Lặn

                    RA ĐI… Về Phía Mặt trời Lặn

                    Cứ mỗi lần ngồi vào máy tính muốn viết lại vài mẩu chuyện đời lính của mình là một lần cho trí nhớ chạy lang bang, chạy tung tăng trên những chiến trường khắp vòm trời Miền Nam Nước Việt. Những ngày tháng xa xưa đó như một cuộn phim hấp dẫn, rất dài, quay rất chậm rãi… khiến đầu óc lụ mụ với bao nỗi nhớ niềm thương. Đôi khi nước mắt trào dâng khi tưởng tượng những khuôn mặt bạn bè thân thương đã nằm xuống, đã ra đi với bao nỗi ngậm ngùi.
                    Hơn 38 năm qua mà tâm hồn tôi vẫn cứ vật vờ, vất vưởng như thế. Thời quân ngủ của tôi chẳng thấm thía gì so với 38 năm thăng trầm xa xứ; thế nhưng nó cứ sống thênh thang, sống bền bĩ và gặm nhấm hồn tôi ở trong buổi xế chiều. Vâng, chưa tròn 7 năm quân ngũ, đúng một phần ba chiều dài của cuộc chiến tranh tự vệ của quân dân Miền Nam… nhưng thương quá là thương!

                    ******

                    Không ai không biết là tình thế càng lúc càng xấu đi; địch quân đã tiến về sát vòng đai Saigon. Thời gian vài tuần trở lại đã có một số anh em xầm xì chuyện di tản chiến thuật… nào là tử thủ Vùng IV, nào là Côn Sơn, nào là Phú Quốc, nào là Thái Lan, Bangkok… làm tôi bật cười! Vâng, chỉ xầm xì như chuyện bình thường rồi việc ai người đó lo, hồn ai người ấy giữ trong khi đó các cấp chỉ huy hoàn toàn không nói gì đến tình thế hiện tại. Họ vẫn tỉnh bơ điều động công việc bình thường như mọi ngày. Mọi người vẫn đi bay, vẫn cấm trại, vẫn điếu đóm với an ninh phi trường để chạy ra chạy vào giữa cảnh Saigon xôn xao, lo lắng chiến tranh tràn về thành phố.

                    Trưa 27 tháng 4 năm 1975, tôi còn ngồi ăn ở quán Huế (bán toàn đồ ăn xứ Huế) nằm trên đường Phan Thanh Giản. Quán này của gia đình Thu Dung, một cô bạn cùng hát hò trong Ca Đoàn Hương Xưa mà tôi có cảm tình đặc biệt. Nhân lúc Thu Dung tới ngồi chơi với tôi một lúc, tôi thật sự chỉ nói đùa với Thu Dung nhưng lại với giọng điệu nghiêm chỉnh, “tình hình đen tối quá, em có muốn đi tỵ nạn với anh không?” “Em là chị cả trong gia đình làm sao em có thể ra đi một mình được?” Và đó là câu nói đùa cuối cùng của tôi còn tồn đọng trong tâm tư từ ấy đến nay. Nếu tôi thật sự có ý định ra đi, chắc chắn Thu Dung không phải là ưu tiên đầu tiên mà là người vợ sắp cưới đang ở không xa dưới phố. Dù vậy, tôi cũng ghé đón chú em thứ Tám đang trọ học ngoài phố vào cư xá SQ độc thân ở cổng Phi Long, vì nghĩ rằng có hai anh em ở Saigon nên sống chết cần có nhau vì chúng tôi đã mất liên lạc với đại gia đình từ trước khi đi biệt phái Đà Nẵng và rồi theo Biệt Đội xính vính rời khỏi vùng hỏa tuyến địa đầu trưa ngày 27 tháng 3, năm 1975 để về lại Saigon.

                    Trưa 28/4, được tin từ một người thân quen ngoài phố, chú em trai thứ Bảy của tôi ở Bình Tuy chạy về tới Saigon bằng đường biển. Tôi vô cùng vui mừng, cấp tốc chạy ra đưa chú vào trại nhờ sự quen biết với an ninh và phòng thủ phi trường. (Tôi quen biết với họ qua Học Viện Võ Thuật Thần Phong, hoặc qua những lần tranh giải bóng chuyền hàng năm giữa các đội tuyển Không Quân, mà đội tuyển KD53CT bao giờ cũng giành chiến thắng sau cùng vào những năm cuối cùng của KQVNCH.) Trong khi đó, Đặng Phước bạn chí thân bay trực thăng ở Đà Nẵng di tản về Saigon ở tạm với tôi vài tuần lễ để đợi lệnh đi Cần Thơ, lại hộc tốc chạy ra phố chiều hôm trước để tìm kiếm vợ khi nghe tin nàng ở Đà Lạt chạy về (cái quyết định này được trả giá cho nhiều năm tù đày, vài lần vượt trại, chục lần vượt biển cho tới hơn 10 năm sau mới chạy thoát được thiên đường mù Cộng sản, hội ngộ với tôi ở bến bờ tự do)! Sau khi ăn trưa với hai chú em, mua ít đồ đạt cần dùng ở khu gia binh, đưa hai chú về phòng dặn dò “chỉ ở yên trong phòng dù bất cứ biến cố gì”. Tôi tất tả vào phi đoàn điểm danh và ứng trực để chờ phi vụ hành quân.

                    Đêm 28 tháng 4, năm 1975. Tôi vẫn bình thản nhận phi vụ hành quân như mọi lần. Tôi được cắt bay phi vụ Tinh Long 2 từ 8g tối đến 10g đêm. Tôi nhớ như in cảm giác hồi hộp tột độ đêm hôm đó. Mỗi lần nhớ đến lại rùng mình. Cất cánh bay về hướng Lộc Ninh nhưng vừa qua Thủ Dầu Một không bao lâu, chúng tôi đã nằm trên vùng trách nhiệm. Điều đó có nghĩa là chiến trường không còn xa thành phố bao nhiêu. Tôi nói “bình thản” vì không có chọn lựa nào khác và không tin Saigon có thể thất thủ nhanh chóng hơn Nam Vang được. Với đầu óc vô tư của tôi lúc đó, tôi vững tin vào tinh thần chiến đấu dũng cảm của quân đội Miền Nam sau hơn 7 năm dài làm lính. Những chiến công hiển hách, lẫy lừng của quân đội Miền Nam, ngoài sức tưởng tượng của thế giới tự do cũng như cộng sản qua hai trận đánh long trời lỡ đất trong dịp Tết Mậu Thân và Mùa Hè Đỏ Lửa, cho tôi niềm kiêu hãnh và tin tưởng.

                    Chúng tôi bay ở cao độ 10 ngàn bộ trên đường tới vùng trách nhiệm. Vừa tới “đầu ngỏ”, địch quân đã dàn chào chúng tôi bằng đủ loại phòng không, thắp sáng rực trời như màn pháo bông ở lúc cuối cùng của cuộc lễ mừng Độc Lập ở Hoa Kỳ mỗi năm. Hai mươi con mắt mở banh để canh chừng “đóm lửa xanh SA7”. Dưới mặt đất từng đoàn xe vận tải đủ loại của địch quân, nối dài vô tận, mở đèn sáng choang một cách tự tin, nối đuôi nhau chạy về hướng Saigon. Có vài lần anh Trưởng Phi Cơ hỏi ý kiến anh em có chuẩn bị tinh thần để xung trận hay không. Dường như không có một ai trong 9 người còn lại trên tàu có chút ngần ngại nào khi trả lời YES! Ai cũng đang căng thẳng, hồi hộp tột bực; cái chết dù có lởn vởn trong đầu mọi người nhưng không còn có sự chọn lựa nào khác tốt hơn là khai hỏa.
                    Tuy nhiên, cứ mỗi lần nhào xuống nhập trận là phòng không cứ như đan lưới, sáng rực trời lại phải vã mồ hôi bay lên cao khỏi tầm phòng không. Phải rất dè dặt sử dụng trái sáng MK24 chống SA7 nhưng cũng đã bắn ra hơn chục lần! Ôi! Không có nỗi khó chịu, hồi hộp nào bằng khi lâm trận mình chưa bắn được viên nào còn địch quân cứ bắn xối xả như mưa! Kinh nghiệm bao nhiêu lần đánh trận, chỉ khi nào mình khai hỏa thì lúc đó mới hết hồi hộp. Nhưng cả 2 tiếng đồng hồ trên vùng, 4 khẩu đại bác minigun 6 nòng và 2 con gà cồ đại pháo 20 ly 6 nòng hôm nay hoàn toàn im tiếng. Chúng tôi không có lấy một cơ hội để khai hỏa vì không thể bay lọt qua được màn lưới phòng không. Ai cũng hiểu đạn minigun không ăn nhằm gì ở cao độ quá 5 ngàn bộ và đại pháo cũng chẳng ăn nhập gì nếu trên 6 ngàn bộ. Tự nhiên tôi có cái mơ ước lạ lùng “Phải chi mình có đầy đủ đạn dược thì cũng bắn xả láng hù dọa địch quân và để cho mọi người bớt hồi hộp”. Chúng tôi rời vùng trong nỗi uất hận sau khi bàn giao vùng trách nhiệm cho Tinh Long 3.

                    Sau khi hoàn tất nhiệm vụ tôi hối hả chạy về cư xá. Chỉ hơn vài tiếng sau, đạn pháo kích của địch quân bắt đầu ầm vang khắp căn cứ. Vừa tờ mờ sáng, tôi ra khỏi phòng để quan sát chung quanh. Đối diện cư xá là trại huấn luyện binh sĩ KQ; thường ngày ra vào nhộn nhịp giờ đã vắng lặng khác thường. Tôi đảo qua một vòng thu nhặt những súng ống, đạn dược vất bừa bãi đem về phòng với ý nghĩ thừa sức cho ba anh em chiến đấu tới cùng. Xong tôi lấy xe chạy lên khu gia binh, đến ngay tiệm tạp hóa của Tr/S Ngọn (một nhân viên phi hành vừa bay tối qua với tôi) mua thêm nhiều gạo và nước mắm. Mặc dù dọc đường thấy người người ngược xuôi xuôi ngược, tiếng pháo kích ầm vang đây đó nhưng tôi vẫn không hề nghĩ tới là phải tìm phương tiện ra đi. Về tới nơi thấy hai chú em lo lắng hỏi tôi tính sao? Tôi thản nhiên nói rằng “anh em mình có đủ thực phẩm và súng đạn để tử chiến”. Hai chú nhỏ lần đầu tiên trong đời được rờ tới súng đạn nên có vẻ an tâm.
                    Bỗng nhiên tôi chợt nghĩ tới bạn bè các phòng bên cạnh, tôi đi gõ cửa từng phòng nhưng hoàn toàn vắng tanh. Trước cửa phòng của Nguyễn Đồng Khuyến (bạn cùng khóa C130) có nồi cơm và nồi thức ăn còn nguyên vẹn nhưng cửa khóa, then cài. Tôi mang về phòng nhưng lòng tôi nôn nóng kỳ lạ, vô cùng bất an. Tôi bảo hai chú nhỏ ăn cơm trước, ở kỹ trong phòng, tôi lấy xe chạy vào phi đoàn để xem sự thể ra sao. Chạy ngang qua khu cư xá của nữ quân nhân KQ thấy rộn rịp xe cứu thương, cứu hỏa. Tôi chạy một mạch vào phi đoàn… ôi cảnh tượng hoang tàn, vài quân nhân đang ngược xuôi, dớn dác không ai có cơ hội chào hỏi ai như thường lệ. Tôi chạy vụt về cư xá bốc hai chú em đèo nhau trên chiếc Lambrettit của tôi chạy ra khu đậu Tinh Long tìm kiếm. May mắn gặp một chú em làm ở Phi Đạo chạy theo tôi cùng tôi tìm máy bay. “Tìm được máy bay ông thầy cho em đi với nghe”. “Dĩ nhiên rồi”.
                    Những nơi chú Phi Đạo hướng dẫn tới đều đã không còn máy bay. Hai xe bốn người chạy tiếp tục tìm hết bãi đậu này sang bãi đậu khác dưới những tiếng hú của đạn pháo kích của địch rót vào phi trường và kẻ chạy đông người chạy tây trong vô vọng…
                    Cuối cùng tìm được chiếc Tinh Long ở ngay sát Trạm Hàng Không Quân Sự còn khả dụng, mũi tàu đang hướng ra ngoài. Chú em Phi Đạo leo lên cánh cho biết 2 bình xăng đầy và cho biết chỉ một số đồng hồ không quan trọng hư hỏng mà thôi. Sau khi xem tình trạng chung bên ngoài, tất cả đều tốt. Tôi vào phòng lái quay máy… mừng quá, máy nổ ngon lành, một số đồng hồ không quan trọng lắm bị malfunction (kim nằm ở vệt đỏ). Tôi quyết định ra đi. Thò đầu ra cửa sổ phòng lái gọi chú Phi Đạo và hai em nhưng không thấy đâu. Tôi hoảng hốt tắt máy nhảy xuống đất thấy chú em Phi Đạo ngồi trên chiếc xe hơi màu trắng, mui trần đang nổ máy! Chú nói với tôi rằng “thôi anh em ông thầy đi trước, em lấy xe chạy về nhà rước gia đình rồi tìm cách đi sau, xong chạy biến ra phía cổng!” Tôi nghĩ chú ấy vừa lượm được chiếc xe này của ai đó đã bỏ lại nên muốn dùng làm phương tiện về đưa nhiều người thân cùng đi. Nhưng tình hình này nếu chú ấy ra khỏi cổng thì kể như không còn cơ hội ra đi được nữa; có lẽ tôi đang ngẩn ngơ, hốt hoảng nên cũng chẳng nói được lời nào! Hơn nữa, tôi lại đang bậng khuâng tìm kiếm hai chú em. Vừa lúc đó thấy vài người bạn chung phi đoàn xuất hiện bất ngờ, nhảy lên tàu quay máy, taxi ra khỏi bến đậu! Tôi kinh hoàng đứng ngay trước mũi tàu cố khoa tay cản tàu lại nhưng con tàu vẫn phom phom chạy tới làm tôi phải nhanh chân nhảy ra chỗ an toàn, con tàu vẫn tiếp tục đi về phía phi đạo.

                    Đang đứng lớ ngớ với nỗi lòng vô cùng tức bực thì thấy hai chú em đang chạy về phía tôi! Tôi hét lên “tại sao bỏ đi đâu vậy?” Chú lớn bình tĩnh nói “tụi em xin lỗi anh Tư, hai đứa em không muốn đi, tính chạy về Bình Tuy tìm Ba Mẹ và anh chị em nhưng ra cổng không được, đầy nghẹt người là người, la ó phản đối om sòm nhưng Quân Cảnh bắn chỉ thiên rất gắt, rồi bắn cả xuống đất làm mọi người hoảng sợ lui vào”. Nghe nó nói tôi chợt nhớ tới Ba Mẹ và các em muốn khóc! Chưa biết hành xử ra sao thì nghe thấy anh Phan Vũ Điện chạy xe pick up của KQ ngang qua vẫy gọi “Thuận, chạy theo anh nè, anh đang cần copilot”. Ba anh em vọt chạy theo. Lúc này pháo kích đã rất thưa. Chạy tới phía bắc của phi đạo gần khu Hàng Không Việt Nam, 3 anh em vọt ngay lên tàu cùng lúc với một số đông người ùa tới chen lấn nhau nhảy lên. Tôi và anh Điện làm việc như một chiếc máy, đưa tàu rời khỏi bến đậu hướng thẳng ra phi đạo cất cánh. Đường băng lổ chổ vì đạn pháo kích của địch quân, lấy hết ga cố tăng tốc độ thật nhanh để kéo tàu lên trước khi hết đường băng. Tàu rời khỏi mặt đất rung liên hồi vì chưa đủ tốc độ cần thiết. Anh Điện tăng cao độ thật chậm và tôi ngồi thầm cầu nguyện trong nỗi lo sợ tột cùng.
                    Tôi nghĩ trong đầu có thể chiếc tàu bị triệt nâng bất cứ lúc nào, tai nghe trên tần số mọi người nói với nhau “phải quẹo trái chỗ Trường Đua Phú Thọ về hướng biển để tránh phòng không của địch quân”. Chưa quân bình được tốc độ mà còn phải quẹo gấp… chết là cái chắc! Anh Điện với bao nhiêu kinh nghiệm trận mạc già dặn nên bình tĩnh hơn tôi rất nhiều. Anh từ từ đưa con tàu lên cao dần về phía Côn Sơn. Tôi thở phào và đổi tay lái cho anh Điện nghỉ xả hơi chút đỉnh trong khi con tàu vẫn chậm chạp tăng cao độ! Đến lúc này, bình tĩnh mới thấy một buồng lái đầy người, ít nhất 3-4 ông chức sắc cùng chạy với mình trong đó có ông Hoàng Nuôi, Trung tá PDT Tinh Long của tôi! Mỗi ông mỗi ý. Ông thì muốn đi Côn Sơn, ông muốn xuống Dương Đông Phú Quốc, ông muốn đi Bangkok, ông nói Utapao, có ông lại muốn đáp xuống nước (ditching) sát Hạm Đội 7 của Hoa Kỳ đang chờ ngoài khơi (?)… Cải nhau chí chóe làm anh Điện điên đầu quát lên “Các ông làm ơn im giùm, tôi là TPC của chiếc tàu này và tôi là người quyết định”! Tuy vậy vẫn không ngớt tiếng bàn tán xôn xao dù không còn lộn xộn như trước! Cuối cùng anh Điện quyết định đi Utapao. Tôi dò tần số để nghe ngóng tin tức của phe mình và tin tức phi trường…

                    Đáp xuống Utapao sau hơn hai tiếng bay. Tàu vừa vào chỗ đậu được quân nhân Mỹ hướng dẫn. Trước khi xuống tàu, chúng tôi buộc phải để lại tất cả vũ khí đạn dược. Có khám xét cẩn thận. Chúng tôi được hướng dẫn vào trạm và một đội quân nhân Mỹ túa tới chiếc tàu và sơn bỏ lá cờ VNCH! Chúng tôi hoang mang và đau buồn vô cùng nhưng cũng vừa lúc gặp lại rất đông bạn bè đã tới trước đang ồn ào tranh cãi về gia đình, vợ con đã được đem ra Côn Sơn sáng sớm hôm nay. Bây giờ tôi mới biết là bên C130 đã cho phép một số gia đình đi trước!
                    Ở Thái Lan vài hôm, khi những gia đình ở Côn Sơn tới nơi, gồm có các ông thần đã lấy máy bay của tôi ngày hôm trước; tôi rất quạu nhưng cũng phải cười trừ vì giờ đây ai cũng chung thân phận. Chúng tôi làm thủ tục kẻ trước người sau chuyển đi trại tạm cư Orote Point, Guam. Ở đây được khoảng tuần lễ, anh em tôi được chuyển lên căn cứ Anderson làm thủ tục đi trại tỵ nạn Eglin AFB.

                    Nhớ lại câu chuyện vui trong chuyến bay từ căn cứ Anderson tới Eglin AFB. Chúng tôi được di chuyển bằng loại máy bay vận tải không lồ C5 của Không Quân Mỹ nên chuyên chở rất đông người tỵ nạn, đủ mọi thành phần, nhiều binh chủng, kể cả dân sự. Trên đường bay bổng nhiên một số người trên tàu bị chứng đau mắt cấp tính. Các nhân viên phi hành đoàn người Mỹ thông báo trên hệ thống loa phóng thanh trang bị trong lòng tàu
                    - Chúng tôi cần một vị Bác Sĩ giúp phân phát thuốc men và chỉ dẫn cách giữ vệ sinh để chống lây nhiễm cho vài bệnh nhân trên tàu?Câu hỏi được lặp đi lặp lại vài lần nhưng vẫn chưa thấy ai lên tiếng, trong lúc tôi cần đi phòng vệ sinh nên đứng dậy tiến về restroom phía trước. Ai ngờ một nhân viên phi hành kéo tuột tôi lên phòng lái hỏi
                    - Ông là Bác Sĩ hả?
                    - Tôi không phải nhưng tôi trước có học trường y khoa vài năm
                    - Vậy thì được rồi, ông có thể giúp chúng tôi phân phát thuốc cho người đang bị đau mắt cấp tính và chỉ dẫn cách giữ vệ sinh chung cho mọi người.
                    Tôi chưa kịp phản ứng gì thì anh ta chỉ cho tôi một tủ thuốc tây, mở ra bảo tôi đọc instruction của mấy chai thuốc nhỏ mắt rồi nói lại cho bệnh nhân biết. Họ cũng đưa cho tôi một hộp đựng khăn dùng để cấp phát cho những người đau mắt. Tôi ú ớ không ra lời nhưng… lỡ rồi tới luôn vì cho đến lúc này vẫn chưa có ai lên tiếng. Tôi cầm mấy chai thuốc và xin một bình nước ấm để ngâm hết hộp khăn rồi tiến về những người đang mắc bệnh, đưa cho mỗi người một chai thuốc và một chiếc khăn, chỉ cách dùng theo lời chỉ dẫn in sẵn trên lọ sau khi lau mắt sạch sẽ bằng những chiếc khăn riêng biệt. Tôi đề nghị cho nhóm người này ngồi tách biệt ra một chỗ khác để giảm thiểu sự lây nhiễm. Một số hành khách thấy tôi loay hoay “làm Bác Sĩ” tưởng thật nên lại xin thuốc nhức đầu. Sẵn phân phát luôn một số thuốc nhức đầu, đau bụng cho những người có nhu cầu…

                    Tôi tưởng tôi cần đi phòng vệ sinh nhưng bị lôi kéo cả tiếng đồng hồ sau mới có giờ đi được (có lẽ ú ớ quá nên quên luôn việc cần làm). Khi tôi về lại chỗ ngồi thì ông thần bạn thân, Phát Volley (vua đánh bóng chuyền của SD5KQ), ngó tôi cười ha hả chế nhạo, “mầy là Bác sĩ hồi nào sao tao không biết”. Tôi ngượng đỏ mặt nhưng cũng cố đùa lại “mầy đừng để bị bệnh tao sẽ đè mấy ra chích vào mông nha con”.

                    Nhập trại Eglin được vài tuần thì hai gia đình chúng tôi gồm Phát Volley cùng vợ với một con nhỏ và tôi với hai chú em được bà già nuôi người Mỹ làm giấy tờ bảo lãnh về sống cùng gia đình bà ở San Antonio, Texas. Thứ Bảy, ngày 26 tháng 5, năm 1975 lũ chúng tôi xuất trại bằng phương tiện hàng không dân sự. Ngày Chủ Nhật 6 người chúng tôi được bà già đưa đi nhà thờ. Ngày thứ Hai tiếp theo, tôi và Phát đi làm thợ vịn bán thời gian cho một ông hội viên nhà thờ chuyên môn sửa chữa nhà cửa… Và kể từ hôm đó, chúng tôi bắt đầu tự lực cánh sinh, nếm thừa ứa mùi nhục vinh của đời sống tỵ nạn tha hương.

                    Mùa Hạ 2013

                    **********

                    Ghi chú thêm:

                    1. Phi Đoàn Tinh Long 821 có gần 300 nhân viên phi hành, bay loại Stinger AC119K là loại vận tải tác chiến tối tân nhất của KQ VNCH thời bấy giờ. Chuyên môn yểm trợ chiến trường ban đêm khắp 4 Vùng Chiến Thuật. Ngoài tổng hành dinh của phi đoàn nằm tại Không Đoàn 53 Chiến Thuật, thuộc Sư Đoàn 5 KQ, căn cứ Tân Sơn Nhất còn có 2 Biệt Đội, một ở Phù Cát, một ở Đà Nẵng. Biệt Đội luân chuyển mỗi 2 tuần tới 1 tháng tùy theo nhu cầu chiến trường. Giờ hoạt động của Tinh Long từ 6g chiều tới 6g sáng, gồm 6 phi vụ chính, mỗi phi vụ bao vùng ít nhất 2 tiếng đồng hồ và 2 phi vụ ứng chiến.

                    2. Vài nét về phi cơ AC119K Stinger.
                    Rất hữu hiệu trong chiến trường chống biển người, chống đoàn xe tăng. Hai động cơ hiệu Wright R-3350s với 3,500 mã lực mỗi máy. Và hai ống phản lực hiệu General Electric J85-GE-17 với lực đẩy 2850 lbs. mỗi chiếc. Hỏa lực trang bị gồm 4 khẩu đại liên 6 nòng, MXU-470/A 7.62 mm “miniguns”, với 21,500 viên đạn cho mỗi khẩu, và 2 khẩu đại pháo 20 mm, M61-A1, 6 nòng với 3,000 viên đạn mỗi khẩu. Tất cả được điều khiển bằng hệ thống điện tử tinh vi.
                    Nó cũng được trang bị 24 trái sáng hiệu MK 24 để chống hỏa tiễn tầm nhiệt và ống phóng hiệu LAU-74/A. Phi công có thể cho khai hỏa hoàn toàn tự động, bán tự động hoặc tự điều khiển. Chiếc Stinger cũng có một hệ thống radar hồng ngoại tuyến tối tân gồm các máy APQ-136, AAD-4 (FLIR), và hệ thống điện tử báo động APR-25/26 (ECM). Phi hành đoàn tiêu chuẩn có 10 nhân viên, gồm 5 Sĩ Quan (pilot, copilot, navigator, night observation sight (NOS) operator, radar/FLIR operator), và 5 HSQ (1 cơ khí phi hành, 1 nhân viên trái sáng và ba nhân viên vũ khí). Stinger có tốc độ chiến đấu 180 knots/g; thời gian bay khoảng 5 tiếng cộng thêm 30 phút dự trữ). Khả năng của Stinger rất hữu hiệu ở độ cao từ 3.500 – 5.500 ft trên mặt đất (AGL).

                    Stinger có rất nhiều ưu điểm nhưng có một khuyết điểm quá lớn là to xác và chậm chạp, dễ làm mồi cho cao xạ, phòng không, và hỏa tiễn tầm nhiệt của địch quân. Chúng tôi thường gọi đùa Stinger là “quan tài bay”! Các loại chiến đấu cơ nhanh như chớp còn bị dính chấu huống gì 180 knots/giờ… nhưng thực sự có ai bao giờ bay tới tốc độ đó ở chiến trận đâu!
                    Last edited by thanphongkingwood; 09-28-2013, 01:44 PM.
                    Mời bạn ghé thăm nhà:
                    http://thovanyenson.com

                    Comment


                    • #25
                      STM
                      Ngoc Anh

                      Comment


                      • #26
                        CHUYỆN TÌNH MÙA CHINH CHIẾN


                        Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, “Bình Long anh dũng, An Lộc kiêu hùng” đã kéo hút chúng tôi, binh chủng Không Quân VNCH, vào chiến trận mịt mù khói lửa. Dĩ nhiên các bạn bên tác chiến (trực thăng, khu trục, A37, F5) đối diện với tử sinh đã đành; lũ chúng tôi bên vận tải cũng góp phần không kém. Nào là thả dù tiếp tế, soi sáng chiến trận, không vận chuyển quân, không vận thực phẩm, thuốc men, đạn dược cho các chiến trường. Hai phi hành đoàn C123K hy sinh liên tiếp trong hai tuần lễ liền làm bàng hoàng những anh chàng có chữ thọ trên trán.

                        Những phi vụ kể trên dĩ nhiên đáng rét nhưng không rét bằng những phi vụ đưa anh hùng tử sĩ về quê.
                        “Anh hùng” khi ra đi, khí thế phừng phừng với bầu nhiệt huyết, quyết một lòng giữ yên bờ cõi với súng đạn cài tận răng… nhưng khi “tử sĩ” trở về, các anh chỉ nằm im ỉm trong lớp áo quan, dưới lá quốc kỳ phủ kín, mặc cho người thân đau đớn tận cùng. Những tiếng khóc nỉ non, ai oán làm mềm lòng người nghe; uất khí của các anh bao trùm trời đất, bám chặt vào tất cả các vật thể chung quanh làm chùn lòng những người lân cận. Ngay như tôi rất thích bay, rất hay tình nguyện nhưng cũng phải xem trước “lịch trình bay”. Các anh đừng vội giận tôi nhưng thà tôi đi chiến trường còn hơn là đưa các anh về quê, buồn lắm, mặc dầu tôi vẫn thương kính các anh. Tôi rất sợ nghe những tiếng khóc than không dứt của vô số người vợ trẻ con thơ, của cha mẹ hay người thân thích của các anh; nhất là tôi rất sợ cái mùi uất khí! Thử tưởng tượng vài chục người vật vã khóc than liên tiếp suốt chặng đường bay vài ba tiếng đồng hồ cùng với mùi uất khí nồng nặc của cả chục quan tài bám chặt vào râu tóc, áo quần từ đầu đến chân không có phương cách nào trừ khử được… Nào là lá trầu, nào là vôi, nào là dầu thơm, dầu xanh, dầu nhị thiên đường… bất cứ thứ gì nghe mách bảo đều thử qua để mong chống lại mùi tử khí nhưng đều bất lực! Bám chặt đến nỗi tắm gội bằng đủ các hiệu xà phòng, nước thơm; cạo râu, cắt tóc ngắn, giặt giũ bằng tay bằng mọi loại hóa chất (bỏ tiệm giặt nhiều nơi không dám nhận) cũng chả ăn thua gì! Chưa kể đến những lần khí hậu không cho phép hoặc cần phải bay lên cao… không khí loãng làm quan tài bật nắp là một thảm họa khôn lường! Chuyện lên cao làm quan tài bị bật nắp và các ông áp tải phải leo ngồi trên nắp áo quan để trấn giữ cho tử thi không ngồi dậy là chuyện không xa lạ gì với phe vận tải!

                        Người ta nói, cái gì cũng vậy, đụng riết phải quen, làm riết phải rành… nhưng trời ơi cả một mùa hè dai dẳng vẫn không sao chịu nỗi. Mỗi lần xem phi vụ lệnh là mỗi lần cầu nguyện để được đi chiến trường! Dù vậy, vẫn không thoát được. Anh em vẫn phải chia phiên nhau. Cả một mùa hè mỗi người phải bay ít nhất ba ngày một tuần, cho nên chờ được ngày nghỉ dường như rất khó tới!

                        Chính cái mùi uất khí đó đã ngăn cản tôi những lần hẹn hò dưới phố, nhất là với người đẹp. Chỉ dám xuất hiện một cách nhanh chóng khi đã làm tất cả mọi thứ để giảm thiểu mùi hôi, vậy mà có lần nàng phải bịt mũi nhăn mày. Chỉ khi nào thấy lâu quá tôi không xuất hiện nàng mới gọi với lời dặn dò “tắm rửa cẩn thận và thay quần áo mới”. Vâng, quần áo bao giờ cũng tươm tất nhưng cái mùi dính chặt vào da thịt thì không cách nào chôn giấu được!

                        Tôi quen nàng trước lâu Mùa Hè Đỏ Lửa, đã hứa với nàng thế nào cũng đưa nàng đi dạo không gian một ngày (nàng làm việc cho cơ quan DAO của Mỹ trong phi trường nên việc ra vào cổng an ninh rất dễ dàng). Thế nhưng hẹn vẫn chỉ là hò. Nàng đi làm mỗi ngày còn tôi thì mải miết bay tiễn người đi đưa người về liên tục. Chờ đợi, hẹn hò mãi cho tới một ngày nàng báo “ngày N em có thể đi bay với anh với điều kiện không chở quan tài”. Tôi xin với Phi Đoàn Trưởng, ngày N cho bay phi vụ không chở quan tài và cho phép bạn gái đi theo. Ông PDT của tôi vui vẻ nhận lời vì có lần ông ta hỏi tôi “bộ anh không có bạn gái hay sao mà xin đi bay hoài dzậy”.

                        Ngày N, tôi được cắt bay Saigon, Nha Trang, Đà Nẵng, Saigon. Trong phi vụ lệnh thấy chở một ít hành khách, thực phẩm tiếp tế đi và rước hành khách và thương bệnh binh về. Tôi yên tâm đánh xe rước nàng vào phi đoàn. Nàng mặc chiếc áo dài màu hồng thẩm, để lộ những đường cong tuyệt mỹ với nụ cười tươi trẻ luôn nở trên môi cùng đôi mắt long lanh quyến rũ… đã chiếm cảm tình tất cả mọi người gặp nàng hôm đó, làm tôi sung sướng, hãnh diện vô cùng. Anh NHC Trưởng phi cơ (TPC) ưu ái cho nàng ngồi trên buồng lái chỗ ghế Điều Hành Viên (ĐHV). Khi máy bay bình phi rời khỏi vùng trời Saigon, ông TPC cho nàng ngồi vào chỗ của tôi để “feel” cần lái một lúc. Có lẽ lần đầu tiên trong đời được ngồi trong phòng lái nhìn trời mây bao la, không gian xanh ngát… nên đối với nàng cái gì cũng mới lạ. Tiếng cười trong trẻo, tiếng nói thanh tao của nàng làm cho mấy đoạn đường bay rút ngắn rất nhanh…

                        Nhưng rồi tai họa đổ ập xuống! Chưa đáp Đà Nẵng đã có lệnh sẽ phải bay ra Huế chở 10 quan tài về lại Saigon! Lệnh trên đã ban xuống không thể không thi hành! Nàng nghe tin bàng hoàng muốn xỉu, mặt mày thất sắc, đôi mắt mọng ướt! Tôi xót xa xin lỗi nhưng không làm cho nàng tươi tỉnh hơn được! Xuống tới Đà Nẵng tôi tìm cách liên hệ với tất cả phi cơ bạn đáp ở đây để gửi nàng về trước; thế nhưng, đã tới giờ cất cánh mà vẫn không tìm ra một ai! Nàng riu ríu theo chân chúng tôi một cách miễn cưỡng.
                        Trên đường ra Phú Bài tôi cũng cố gắng liên lạc trên tần số xem có ai ở Phú Bài bay về SGN mà không chở quan tài; nhưng vẫn vô phương! Trước khi đáp ở Huế, chúng tôi liên lạc với cơ quan trách nhiệm chuẩn bị vận chuyển quan tài lên tàu ngay lập tức một khi chúng tôi vào bến đậu. Trong khi chờ đợi áp tải làm việc cùng nhân viên trạm, chúng tôi ăn qua quít, vội vã để bay về sớm. Cả PHD không ai nói với ai một lời. Sự vui tươi buổi sáng đã đi vắng cùng với nỗi âu lo, buồn phiền hiện trên nét mặt của nàng làm chúng tôi bất an nhưng dường như không ai biết nói cách nào để an ủi. Nài nỉ mãi nàng mới ăn được một chút, rồi cùng lũ chúng tôi lần lượt lên tàu. Tôi ngại ngần nói với nàng cứ đi thẳng lên buồng lái mà không cần để ý tới ai làm chi. Vừa bước lên nhìn thấy cả chục cổ áo quan bao phủ cờ vàng 3 sọc đỏ là nàng đã hồn phi phách tán. Thấy các gia đình thân nhân khóc than bi thiết khiến chân nàng rụng rời xuýt vấp té. Nàng cố bịt miệng bịt mũi bước thật nhanh lên phòng lái ngồi vào ghế của ĐHV. Mùi tử khí nặng nề khắp nơi khiến nàng không thể cầm giữ sự ói mửa liên tục. Chúng tôi vội vàng quay máy mở cửa phòng lái phóng ra phi đạo kéo vút lên trời, xin phép bay ở cao độ thấp đi dọc theo bờ biển với tốc độ nhanh nhất có thể để mong về Saigon sớm.

                        Suốt chặng đường dài nàng cứ vật vờ rủ xuống ghế ngồi, hết ói tới mửa, không nói một lời! Chúng tôi dùng hết hai lọ nước hoa nhỏ của nàng và của tôi mang theo trong túi áo; xát lá trầu, đánh dầu gió, dầu xanh trên thái dương; tôi tính bôi vôi vào lòng bàn chân nhưng nàng nhất quyết từ chối. Máy bay đáp xuống Saigon, anh TPC gọi ngay chiếc xe trực của phi đoàn ra đón gấp. Tôi dìu nàng ra xe, toàn thân nàng yếu lã trên tay tôi. Buổi sáng tươi vui, xinh đẹp bao nhiêu bây giờ như đóa phù dung buổi tối, đôi bờ môi tím ngắt, gương mặt xanh xao thất sắc, chân tay rời rã nhũn mềm! Lòng tôi ngập tràn thương cảm và có chút hối hận! Tôi ngỏ lời muốn đưa nàng đi bệnh xá nhưng nàng nhất định đòi về nhà ngay. Chìu lòng nàng, tôi phóng xe ra phố. Lòng tôi âu lo, tự nghĩ phen này “chắc khó tai qua nạn khỏi” mặc dầu không hoàn toàn lỗi của mình.

                        Mẹ nàng đón chúng tôi ở cửa với vẻ mặt hoảng hốt, rụng rời! Ôi con gái cưng của mẹ! Bà tất tả thoa bóp, lấy khăn ướt lau mặt mày tay chân cho nàng. Lúc này bà cụ mới phát giác, “sao cả hai đứa bây có cái mùi gì làm mẹ muốn nôn vậy?” Tôi đứng như trời trồng chưa biết trả lời ra sao thì nàng khoát tay bảo “anh về nghỉ đi mai mốt trở lại thăm em”. Tôi thẹn thò không nói nên lời, lúng túng cúi đầu chào bà cụ rồi phóng ra cửa biến mất!

                        Nàng bệnh đúng một tháng và tôi chỉ đến thăm chớp nhóang đúng một lần khi nàng sắp sửa trở lại sở làm. Đó là lần tôi được nghỉ bay hai ngày liên tục, ngâm lâu trong nước ấm, mặc nguyên bộ quần áo mới toanh, dùng loại nước hoa đặc biệt để trấn bớt cái mùi đã thấm vào thịt da râu tóc! Vả lại, chiến trường vẫn sôi động và lũ chúng tôi vẫn phải tiếp tục đưa anh hùng tử sĩ về quê nên dù có muốn đến thăm nhiều hơn cũng không thể được, phần sợ bà Cụ, phần ngại nhìn mặt nàng. Tự nhiên thấy mình có lỗi quá sức! Và cứ thế, càng ngày chúng tôi càng thưa thớt gặp nhau.

                        Người ta thường nói”xa mặt cách lòng”! Vâng, tình cảm của chúng tôi có phần vơi đi vì mặc cảm cả hai bên. Ôi không gian thênh thang sao không đủ chỗ cho tình yêu của chúng tôi dung thân! Chuyến đưa nàng đi dạo không gian ngỡ sẽ làm cho tình yêu thăng hoa chứ có ai ngờ đâu đó là nguyên nhân làm cho mối tình của tôi và nàng càng ngày càng phai nhạt. Thật ra lòng tôi cũng không còn đủ tha thiết với nàng như xưa. Kịp đến khi tình trạng đưa người về cố quận bớt hẳn đi thì nàng đã bén duyên mới. Và tôi cũng mới làm quen một cô học trò be bé, xinh xinh.

                        Duyên mới của nàng là một anh bạn phi công trực thăng bị đụng xe rất nặng, nằm chữa trị rất lâu ở bệnh viện Cộng Hòa. Anh bạn quê ở ngoài Trung xa tít nên thân nhân rất khó khăn để ở Saigon chăm sóc. Tôi đưa nàng đến thăm. Nàng xuýt xoa thương cảm. Bác sĩ cho chúng tôi biết là anh bạn sẽ không thể bay lại được nữa, chữa trị xong sẽ giải ngũ. Tính nàng mẫn cảm, xót thương cho sự đơn độc của ông bạn của tôi nên thường xuyên lui tới thăm viếng, an ủi, săn sóc. Có lẽ tấm lòng của nàng chứa đựng sẵn tấm lòng của chị gái, của em gái, của một đấng từ mẫu nên càng ngày càng thấy tình thân ái của nàng đối với ông bạn của tôi có vẻ mặn mà hơn…

                        Khoảng tháng 3/75 bạn tôi xuất viện và được nàng đưa thẳng về nhà nàng để tiếp tục điều trị tại gia và chính tay nàng đã tận tụy săn sóc bảo dưỡng. Ngày 26/4/75 tôi có ghé nhà thăm mới biết nàng đã đưa Mẹ, anh chị, và bạn tôi di tản theo cơ quan của nàng.

                        Vài năm sau ở Mỹ, chúng tôi tình cờ gặp lại nhau, mừng mừng tủi tủi. Bạn của tôi đã hoàn toàn khỏe mạnh. Cả hai người đã đồng tâm hiệp lực xây một mái ấm gia đình trong vô vàn hạnh phúc. Lâu lâu tôi lại có dịp ghé thăm, đôi khi cũng ý nhị nhắc chuyện cũ để cùng cười độ lượng với nhau trong tình cảm bạn bè.

                        Duyên mới của tôi là một hạnh ngộ bất ngờ.
                        Tôi được người bạn phi hành, ĐT Khừ, thuê chung phòng trọ ngoài phố, cùng phục vụ chung phi đoàn, bay chung phi vụ tải hàng về Miền Trung, chở khách về Saigon hôm đó mời tôi và Khải sửa (TPC) tham dự tiệc sinh nhật của cô bạn gái của hắn ở ngoài phố. Sau khi về phòng trọ tắm rửa, trau chuốt cẩn thận, ba chúng tôi cùng đi, tạt qua phố sắm sửa chút quà cáp rồi chạy thẳng tới nhà. Đứng chờ cửa, chúng tôi đã nghe nhiều tiếng nói líu lo, tiếng cười dòn tan trong trẻo của các người đẹp. Khi chủ nhân đưa chúng tôi bước vào nhà, tất cả đều ngưng bặt, người chỉ đưa mắt nhìn người với những cái gật đầu cười nụ. Khừ giới thiệu hai chúng tôi với cô chủ nhà và cô chủ nhà giới thiệu 3 cô bạn gái khá xinh của nàng. Chủ nhân cố ý sắp đặt chỗ ngồi cho mỗi cô mỗi chàng, còn gia chủ ngồi ghế đầu bàn, ở giữa. Thật tình tôi không nhớ tôi đã ngồi với ai, ba hoa chích chòe những gì hôm đó. Suốt buổi tiệc tôi chỉ chăm chú tới một cô nương ngồi với Khải sửa (vì thỉnh thoảng tôi bắt gặp nàng liếc nhìn tôi). Nàng mặc áo dài trắng như nữ sinh có thêu hoa lan thanh nhã, trông rất trẻ con (tôi đã nghĩ chắc khoảng đôi tám), gương mặt bầu bĩnh tươi thắm, nước da trắng ngần, đôi môi hồng luôn mỉm cười, rất ít nói, chỉ cười góp, hay cúi mặt e thẹn nếu có ai nói về nàng. Tôi nói chuyện chung chung với mọi người nhưng hay bắt chuyện với nàng vì Khải sửa cũng chỉ hay cười biếng nói. Khi cần phải trao đổi điều gì, nàng chỉ nói lí nhí cho qua chuyện rồi lại ngồi im nhìn, nghe người khác.

                        Khi tiệc tan, chúng tôi lưu luyến chia tay, phần ai về nhà nấy. Một buổi tiệc vui vừa phải và không để lại trong tôi một đặc biệt nào. Mấy hôm sau, BN - cô chủ nhà gọi điện thoại cám ơn anh em chúng tôi đã tới tham dự và tặng quà sinh nhật cho nàng. Sau một lúc nói năm điều ba chuyện xong, BN hỏi tôi có còn nhớ cô bé ngồi với tôi không? Tôi trả lời “xin lỗi quên cả tên mất rồi”! “Hèn gì TT cũng nói với N là anh có vẻ vô tình”. Tôi đáp, “tôi công nhận là chưa có tình”. “dù vậy lại có người khác hỏi thăm anh” “Ai vậy?”. “Thì N đây nè hihi… nói đùa với anh thôi. Anh còn nhớ cô nàng ngồi với anh Khải không?” “à à cái cô be bé dễ thương đó hả?” “Vậy là anh có tình ý với cô ta rồi!” “Đâu có, BN muốn giới thiệu cô đó cho anh Khải bạn anh mà ?” “Nhưng cô ta không chịu, chỉ hỏi thăm anh thôi!” “Mèn!” “Anh hối lộ cho N, N sẽ nói tốt về anh”. “BN biết gì về anh mà nói tốt?” “Anh Khừ nói hết cho em biết về anh rồi!” “Chết chưa! Nhưng anh có gì xấu đâu mà lo ?” “Có chứ, nhưng em không nói cho anh biết đâu!” “Chỉ giỏi bắt nọn! Anh sẽ dần ông Khừ của em mềm xương”. “Anh Khừ chỉ là bạn bình thường thôi mà!” “Vậy ai là bạn không bình thường của BN?” “Bí mật anh ơi!”. “Ừ thì có ngày cũng sẽ bật mí”. “Em mới quen thôi nhưng dường như người đó không để ý đến em!” “À vậy đúng là không bình thường!” “Thôi bỏ qua chuyện của em, em hỏi lại anh, anh có muốn gặp TD không?” “TD nào?” “Là cái cô nương bé bé dễ thương như anh nói đó”. Nhưng cô nhỏ đó còn bé quá mà!” “Sắp thi vào đại học rồi đó chàng!” “Oh my mine, Thế à! Nhưng gặp bằng cách nào?” “Chỉ cần mời chúng em đi ăn thì sẽ được toại nguyện”…

                        Sau khi tôi gặp Khải sửa ở phi đoàn để hỏi lại cho chắc ăn. Khải sửa nói không biết gì về cô gái đó. Thế là tuần lễ sau tôi tìm được giờ mời hai cô nương đi ăn nghêu ở đường Nguyễn Tri Phương. BN nói với tôi là sẽ đến nhà nàng xin phép Mẹ nàng và đưa nàng đến chỗ hẹn. Tôi có một chút bỡ ngỡ khi gặp lại hai người. Cả hai rất xinh tươi trong hai bộ đồ đầm khác màu, hợp thời trang buổi tối. Cả hai trông rất khác với tà áo dài trong tiệc sinh nhật hôm nào. Dù nàng vẫn nói ít cười nhiều, nhưng trong ánh mắt nàng, tôi thấy chứa chan thiện cảm. Ngồi với nhau được vài tiếng thì nàng xin phép ra về vì nàng nói Mẹ nàng rất khó. Tôi xin số điện thoại nhưng nàng không dám cho, nói với tôi cứ nhắn với BN là được rồi! Tôi quay ngó BN, nàng dẩu môi cong cớn, “tui hổng phải chim xanh đâu nha, hai người tìm cách tự lo đi!”… Tôi lưu luyến tiễn hai nàng ra xe về.

                        Nói thì nói vậy, BN vẫn miễn cưỡng đi chơi chung với chúng tôi thêm vài lần nữa. Tôi nói với nàng, “TD cho anh địa chỉ anh sẽ đến nhà thăm chứ thấy BN không vui như lúc đầu nữa.” Nàng nói để dọ ý Mẹ nàng trước đã, khi có vẻ thuận tiện sẽ gọi điện thoại cho tôi biết.

                        Hẹn lần hẹn cứa cho tới hôm Mẹ nàng nằm ở bệnh viện Quảng Đông mấy hôm, nàng cho tôi biết và hẹn tới bệnh viện thăm bà. Tôi mua hoa, mua cam hồi hộp đến bệnh viện. Nàng giới thiệu tôi là bạn với BN muốn tới thăm. Bà Cụ nằm nhìn tôi từ đầu tới chân rồi nói lời cám ơn. Đêm hôm đó tôi xin phép ở lại bệnh viện với bà dù bà không hoan nghênh cho lắm. Tôi cố thuyết phục bà bằng cử chỉ và hành động nên thức trắng đêm canh giấc ngủ cho bà, hỏi han bà từng li từng tí. Hơn nữa, tôi cũng muốn nhân cơ hội ở gần nàng lâu hơn. Hai đứa chúng tôi ngồi hai đầu băng đá trước cửa phòng cốt để cho bà cụ thấy được. Nàng tỏ ra cảm động và bắt đầu thổ lộ chuyện gia đình. Nàng cho tôi biết, nàng đã xong Trung học Nguyễn Bá Tòng, sắp vào Văn Khoa. Ba nàng làm ở tòa án rất bận rộn nên thường vắng nhà; có 3 chị. Hai chị lớn đã lập gia đình chỉ có chị Tư nghỉ học, trốn ba mẹ gia nhập Thủy Quân Lục Chiến mấy năm rồi! Nàng cho biết Mẹ nàng biết tôi là dân bay nên không mấy thiện cảm và luôn nhắc nhỡ nàng “đề cao cảnh giác”. Nàng nói tôi liệu hồn! Tôi nói, “thiệt oan cho lũ trẻ tụi anh, đứa nào cũng hiền khô, nhất là anh dân ruộng biết gì! Không hiểu mấy ông đàn anh làm gì mà tai tiếng như thế, hay tại người ta ghen ghét Không Quân nên đồn thổi, thêm mắm dặm muối mà thôi! Nàng hứ và lườm tôi với đôi con mắt có đuôi. Tôi nói đùa, “TD nói với Mẹ anh sẽ xin đi Thủy Quân Lục Chiến như chị Tư nha”. “Em xù anh liền!” “Vậy là TD muốn anh mang tiếng xấu nha?” “Khỉ anh!”

                        Nàng cùng thức với tôi nguyên đêm dù có ngủ gà ngủ gật. Hai đứa co ro ở hai góc phòng canh thức. Đôi lúc tôi ra dấu muốn tới ngồi gần nàng nhưng nàng lắc đầu lia lịa rồi chỉ Mẹ. Tôi làm bộ bò sát đất về phía nàng, nàng vội vả đứng lên tới bên giường bà Cụ. Tôi bịt chăn lên miệng cười thỏa thích! Buổi sáng hôm sau tôi ra về với cõi lòng phơi phới, thấy mùa thu còn ngủ trên cây. Chạy một mạch về phòng trọ, không kịp thay đồ, ngủ vùi một giấc dài tới chiều tối vào phi đoàn nhận lệnh đi bay vào hôm sau.

                        Có lẽ nàng cũng cố tình cho tôi lấy điểm với bà Cụ cho nên hôm bà Cụ rời bệnh viện, nàng báo cho tôi biết đến đón bà đưa về tận nhà. Và kể từ đó, cái nhìn của bà về tôi càng ngày càng bớt đi phần nghiêm khắc, rồi dần dần tôi được phép đi lễ nhà thờ cùng bà và con gái trong những Chúa Nhật tôi có mặt ở Saigon. Thỉnh thoảng tôi được mời dùng cơm tối với Ba của nàng. Cụ ông tính tình điềm đạm, gương mặt phúc hậu, ăn nói nhỏ nhẹ. Cả ông và bà đều là người Nam nhưng không giống nhau về cách cư xử. Bà khó tính bao nhiêu thì ông dễ tính bấy nhiêu…

                        Thời gian cứ thế trôi qua. Chiến tranh càng lúc càng khốc liệt và cuộc tình càng lúc càng đằm thắm hơn. Có mấy lần nàng và Mẹ ngỏ lời muốn chúng tôi tiến tới hôn nhân. Nhưng than ơi! “Tiền lính tính liền”, thân tôi chưa lo xong làm sao tôi lo cho nàng được! Hơn nữa, sự chết sống thật sự cận kề, bạn bè đã bao nhiêu đứa lìa đàn gãy cánh ra đi, bỏ lại vợ con tân khổ. Hơn nữa, suốt mùa Hè đỏ lửa tôi đã bao lần rơi nước mắt trước cảnh những người vợ trẻ khóc chồng, cha mẹ khóc con! Tôi nghĩ tới những hangar ở Phú Bài chứa đầy xác chết, dòi bọ lúc nhúc, hôi hám rực trời, chờ thân nhân đưa về cố quận… nên chùn lòng dù rất mực yêu thương nàng. Ông bà biết sự lo âu của tôi nên càng khuyến khích rằng ông bà thừa sức để lo toan cho con gái của họ… nhưng trời ơi thực lòng tôi không thể nhẫn tâm!


                        Lần lựa mãi, toan tính mãi, hẹn hẹn thề thề… để rồi trưa ngày 29 tháng 4, năm 1975 tôi vượt thoát không có nàng bằng chiếc C130 cuối cùng của căn cứ Tân Sơn Nhất, dù vẫn không biết đi đâu, về đâu!

                        Đầu tháng 9/2003
                        Last edited by thanphongkingwood; 10-01-2013, 02:51 PM.
                        Mời bạn ghé thăm nhà:
                        http://thovanyenson.com

                        Comment


                        • #27
                          Ôi Phi Công… danh tiếng muôn đời

                          Ôi Phi Công… danh tiếng muôn đời

                          câu chuyện phiếm
                          mào đầu: chuyện phiếm là chuyện đọc cho vui, xem rồi bỏ mong đừng ai phiền lòng.
                          Khi nắng chiều sắp tắt ngoài hiên, có một chàng trai trẻ vừa qua tuổi dậy thì (*),
                          nhìn vào bóng đêm rồi tủm tỉm cười một mình khi ôn lại chuyện năm xưa…



                          Ngồi lẩm bẩm hát bài Không Quân Hành Khúc của nhạc sĩ Văn Cao, đến câu “ôi phi công danh tiếng muôn đời”, tôi chợt mỉm cười tự hỏi “vì sao phi công lại được danh tiếng muôn đời?” Có quả thật phi công danh tiếng hay chỉ là câu hát của ông nhạc sĩ ưu ái tặng anh em? Hơn bảy năm vui buồn đời phi công tôi chưa từng nghe bất cứ một ai trang trọng nói như vậy; có chăng cũng chỉ là câu lặp đi lặp lại vô số lần “đừng làm mất mặt không quân” hoặc “đừng làm mất mặt phi công”.

                          Đừng làm mất mặt Không Quân. Đừng làm mất mặt Phi Công. Đừng làm mất mặt Hải Quân. Đừng làm mất mặt Nhảy Dù. Đừng làm mất mặt Mũ Xanh. Đừng làm mất mặt Mũ Nâu. Đừng làm mất mặt Thiết Giáp. Đừng làm mất mặt lính Sư Đoàn. Đừng làm mất mặt Trinh Sát. Đừng làm mất mặt binh chủng. Đừng làm mất mặt KBC. Đừng làm mất mặt Địa Phương Quân. Đừng làm mất mặt Nghĩa Quân. Đừng làm mất mặt Quân Cảnh. Đừng làm mất mặt Cảnh Sát quốc Gia … thậm chí còn có “đừng làm mất mặt Nhân Dân Tự Vệ hoặc Xây Dựng Nông Thôn”… Nói tóm lại, quân binh chủng nào cũng có niềm tự hào, cũng có cái hãnh diện rất riêng của họ. Tập thể Quân Đội Miền Nam Việt Nam luôn luôn căn dặn nhau giữ gìn lễ nghi quân cách thật đáng trân trọng.

                          Tôi không dám lạm bàn về danh tiếng của những anh em các quân binh chủng khác; càng không dám lạm bàn về những phi công tiền bối của mình! Chắc chắn các tiền bối phải toàn vẹn về mọi mặt mới lọt chân vào thế giới của lớp người đi mây về gió.

                          Kể từ ngày thành lập Không Quân, ngày 1/7/1955, cho tới lúc tôi được lọt vào trong cổng Phi Long, tháng 12/1968, chỉ có 13 năm thôi nhưng đó là một khoảng cách thênh thang, cách biệt trùng trùng. Bởi lẽ tháng 8/1965, thay vì chuẩn bị thi vào đại học, tôi lại nghe theo lời ong tiếng ve, hăm hở nộp đơn xin làm phi công, rồi ê chề lọt sổ phải trở lại học đường với ve sầu, với phượng vĩ. Cho đến 3 năm sau, khi Không Quân có nhu cầu bành trướng nhanh chóng, tôi mới có cơ hội hát bài ca hạnh ngộ. Mà thật tình tôi đâu có yếu đuối, vàng vọt gì cho cam; ngược lại, ngoại hình tôi rất cân đối trên trung bình, thể lực của một võ sĩ thường xuyên đấu võ đài, sức lực của một gã con trai bẽ gãy ngà voi… thế mà bị rớt đài vì lý do sức khỏe! Lý do sức khỏe chỉ là ba chiếc răng trám! “Mấy ổng” giải thích, răng trám khi lên cao độ sẽ bị hành hạ đau nhức!!! Tôi cố gắng giải thích rằng chỉ bị mẻ trên mặt chứ không phải bị đau răng nhưng ông nha sĩ lạnh lùng nói “no sir, rớt!” Khó khăn là thế!

                          Số là trước khi nộp đơn đi Không Quân, tôi nghe nói là phải có sức khỏe hoàn hão mới có hy vọng. Tôi biết là tôi rất mạnh khỏe nhưng tôi cũng đi nhà thương khám sức khỏe tổng hợp trước cho chắc ăn. Tất cả đều vượt tiêu chuẩn, tim gan phèo phổi ngon lành, chỉ có ba chiếc răng hàm bị mẻ trên mặt răng. Tôi xin ông nha sĩ trám lại cho bằng phẳng dù nha sĩ nói không cần thiết nhưng tôi muốn “toàn vẹn” nên quả quyết phải làm. Lý do răng hàm mẻ không phải bị đau răng, bị sâu răng mà vì tôi hay biểu diễn nhai ly thủy tinh! Đâu ngờ trò chơi ngu xuẩn của thanh niên mới lớn làm tôi phải lao đao hết mấy năm dài! Như vậy, điều kiện tiên quyết để trở thành phi công KLVNCH là sức khỏe phải hoàn hão ngoài học lực tối thiểu phải có Tú Tài I trở lên, hồ sơ an ninh phải trong sạch, có nghĩa là gia cảnh không liên hệ tới Cộng sản, không có tư tưởng nửa chừng xuân.
                          Phi công cũng phải trải qua các thời kỳ huấn luyện quân sự gắt gao; phải qua khóa huấn nhục kinh hoàng. Khóa này cũng nhằm huấn luyện cho một người biết kính trên nhường dưới, biết tình nghĩa bạn bè, biết thương yêu đồng đội; rèn luyện một ý chí sắt thép, thể chất kiên cường để đáp ứng mọi hiểm nguy, gian khó. Mục tiêu của khóa cũng huấn luyện sự khiêm cung, hòa nhã với mọi người mọi giới và trang bị một mẫu người xứng đáng cho một binh chủng hào hùng, để có đủ điều kiện thực hiện câu châm ngôn của binh chủng, “Không bỏ anh em, không quên bè bạn”.

                          Sau khi “sống sót” qua các khóa huấn luyện này, phi công tương lai được đưa về các trường sinh ngữ quân đội và phải học thông suốt khóa huấn luyện sinh ngữ cấp tốc khoảng nửa năm dài. Trong tất cả sách giáo khoa đều nói về một đời sống văn minh tây phương; dạy cho khóa sinh những kiến thức phổ thông nơi xứ người; dạy cách giao tiếp, cách đối xử với người bản xứ, dạy ăn cho thanh cảnh, dạy chơi cho thanh lịch. Muốn ra trường, khóa sinh phải có một trình độ hiểu biết thực tiễn bằng sự thi cử khó khăn.

                          Thi đậu khả năng sinh ngữ xứ mình, phi công tương lai được cho may trang phục đại lễ, tiểu lễ và sắm sửa đồ tuế nhuyễn cho phù hợp với nơi đến để lên đường xuất ngoại và học sinh ngữ tiếp về ngành nghề cho thành thạo. Xong giai đoạn này mới bắt đầu học bay. Học bay từ phi cơ sơ đẳng nhất đến phi cơ tối tân nhất mà Không Quân Việt Nam có được, tùy theo tài khóa và theo từng khả năng của mỗi người. Trong suốt thời gian học tập nơi xứ người, việc học hỏi những điều mới lạ và thi cử dường như vô tận. Có nghĩa là không ai biết chắc được mình sẽ trở thành phi công cho tới khi được ông thầy trang trọng gắn cánh bay trên ngực áo trong một buổi đại lễ mãn khóa.

                          Sau gần một năm rưởi học hỏi, luyện tập gian khổ nơi xứ người, chàng về nước ngẩng cao đầu trình diện đơn vị, chào kính cấp trên đúng lễ nghi quân cách và tiếp tục được huấn luyện thêm mấy tháng nữa mới có thể theo các đàn anh “vượt trên lưng gió quyết chiến thắng”.
                          Phi công ngày ngày làm “đàn chim bay trên cao xanh”, hòa mình trong một không gian vô tận, mắt nhìn xa, lòng rộng mở. Trong khung cảnh đó nên một phi công biết làm thơ, biết viết văn cũng là một chuyện bình thường. Bình thường như biết ca hát, biết nhảy đầm. Phi công sống trong thời chinh chiến không cần lo nghĩ đến tương lai vì có thể sáng cất cánh chiều thôi không về cũng là chuyện bình thường. Cái may mắn của phi công là dù có gian lao, có hiểm nguy đến đâu cũng là “lính thành phố”. Lính thành phố nên làm mòn nhẵn từng con đường, từng cổng trường, từng khung viên đại học cho đến một ngày “đi không ai tìm xác rơi”, quên mất đường về!

                          Phi công sống một cuộc sống hào hùng, “lúc đất nước muốn bao người con thân yêu ra đi, nuối tiếc tấm thân làm chi”. Vâng, hoàn toàn không nuối tiếc, chơi xả láng sáng không cần về, phi vụ phải hoàn tất tốt đẹp. Phi công được rèn luyện phải hào hoa, được dạy ăn phải thanh cảnh, dạy chơi phải thanh lịch cho nên bị người đời hay nói rằng “phi công hào hoa bay bướm”. Đâu phải phi công “bay bướm” mà phi công bị các phe kẹp tóc chọn lựa làm mục tiêu. Không phải “mèo khen mèo dài đuôi” chứ nếu tôi đứng ở chỗ của phe kẹp tóc, tôi sẽ không ngại nói to lên rằng “tại sao không chứ. Họ là con cưng của đất nước; họ thuộc lớp người nhìn xa hiểu rộng, họ là lính thành phố, họ biết ăn nói nhã nhặn, xả giao thanh lịch, sức khỏe hoàn hão, thành thạo nếp sống văn minh, và họ rất tếu…” (không tếu sao được, ngay cả khi thần chết đứng trước mắt chàng vẫn còn có thể ba hoa “để ông cho chúng mầy sinh Bắc tử Nam”) ! Vì thế, phi công bị ganh ghét cũng là chuyện bình thường. Thậm chí có người hát nhại lời “ôi phi công… mang tiếng muôn đời”, hoặc bôi bác “hào hoa anh lính Không Quân, chỉ còn cái quần cũng bán để chơi”… cũng là điều dễ hiểu. Vâng, dù đói nghèo cỡ nào cũng rán “thanh lịch”, dù có lén mua xôi nắm, bánh mì sữa để kẹp đi bay nhưng lúc nào mặt mũi cũng tươi tỉnh, áo quần cũng bảnh bao vì chúng tôi được dạy dỗ rất kỹ rằng “chơi cho thanh lịch mới là chơi, chơi cho đài các xứng đời phi công”… nhưng đâu đến nỗi phải “bán quần” để chơi! Đểu thật!
                          Dù sao đi nữa, những nét uy dũng trên đây xin trang trọng dành riêng cho các bậc phi công tiền bối trước năm 1968. Từ đó trở về sau, Không Quân tuyển mộ ào ạt dù tiêu chuẩn tối thiểu vẫn còn nhưng được các ông cân đo đôi khi cố tình không thấy những cái nhón chân vô tình, vài tô phở lẻ tẻ, vài ly trà đá cối cho đỡ khát… có sá gì. Các thành phố lớn của miền Nam Việt Nam như Saigon, Biên Hòa, Cần Thơ, Đà Nẵng… đi đâu cũng nhan nhãn Không Quân. Nếu không quen biết thì Không Quân nào cũng vẫn là Không Quân. Phi công nhí chúng em bị tụt giá rẻ rề dù vẫn phải phấn đấu kịch liệt để sinh tồn qua những đoạn đường chiến binh gian khó như các anh. Nhưng dù sao, con nhà tông không có lông cũng có cánh; chúng em vẫn bay bổng như mơ, vẫn hiên ngang đi vào lửa đạn dù biết “đi không ai tìm xác rơi, dù thân mồ quên lấp chìm”, và vẫn hãnh diện ké với cụm chữ dễ thương “ôi phi công danh tiếng muôn đời”. Cám ơn ông nhạc sĩ Văn Cao. Cám ơn Không Quân VNCH. Cám ơn người dân hiền hòa miền Nam nước Việt đã dành nhiều hão cảm đối với Phi Công.

                          * * * * *

                          Để giúp mọi người tỉm hiểu thêm về Không Lực VNCH, tác giả xin trích dẫn trong cuốn số 4 thuộc Bộ Quân Sử VNCH do Phòng 5 Bộ Tổng Tham Mưu (Khối Quân Sử) thực hiện do Cơ Sở Đại Nam xuất bản năm 1972.

                          LỊCH SỬ KHÔNG LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA

                          Ngành KQVNCH được thành lập bởi dụ số 9, ngày 25-6-1951. Tuy nhiên, mãi đến ngày thành lập Bộ Tổng Tham Mưu, một cơ quan phụ trách về Không Quân (KQ) gọi là Ban KQ mới được tổ chức trong thành phần của bộ tham mưu này.

                          Tháng 4-1952, Trung tâm huấn luyện KQ thành lập tại Nha Trang, ngành KQ mới được kể là thành hình qua việc tổ chức hai khóa huấn luyện hoa tiêu và cơ khí viên đầu tiên. Khóa hoa tiêu mở ngày 1-10-1952 với 9 khóa sinh sĩ quan và 6 khóa sinh hạ sĩ quan. Khóa cơ khí viên mở tháng 11 với 26 hạ sĩ quan học viên.

                          Trong giai đoạn đầu, ngành KQ chỉ được quy định ở một mức quân số gồm 40 sĩ quan, 120 hạ sĩ quan và 500 binh sĩ. Quân số này vừa đủ để tổ chức một cơ cấu KQ gồm có:
                          - Một cơ quan chỉ huy là Ban KQ, sau đổi thành Phòng KQ thuộc Bộ Tổng Tham Mưu, dưới quyền một sĩ quan Pháp.
                          - Một trung tâm huấn luyện đào tạo phi công, quan sát và cơ phí viên.
                          - Một phi đội liên lạc có nhiệm vụ liên lạc và chuyên chỡ hàng không.
                          Trung tâm huấn luyện KQ năm 1952 đào tạo được 40 vừa hoa tiêu vừa cơ khí viên; năm 1953 số lượng tăng gấp đôi. Cũng trong thời gian này, một số sĩ quan và hạ sĩ quan được gửi qua Pháp du học.
                          Trong năm 1953, ngoài phi đội liên lạc tại Tân Sơn Nhất (TSN), phi đội trợ chiến và quan sát số 1 thành lập tại TSN và phi đội trợ chiến và quan sát số 2 tại Nha Trang (1-3-1953).

                          Những loại phi cơ thông thường mà sĩ quan KQVN đầu tiên được sử dụng là các loại phi cơ quan sát MS.500, Cessna L19A, Morane Saulnier, Marcel Dassault 315.

                          Đầu năm 1954, Ban KQ đổi thành Phòng KQ, nhưng cơ quan này vẫn giữ nhiệm vụ quản trị nhân viên chứ chưa có quyền hành gì cả.

                          Tháng 7-1955, ngành KQVN mới được giao cho sĩ quan VN điều khiển. Chức Phụ tá KQ được đề ra thay cho trưởng phòng KQ và chức vụ này tạm kiêm Tư lệnh KQ để lo phát triển cho ngành này trong lúc Pháp đang rút khỏi VN. Bộ Tư lệnh KQ coi như đã thành hình và hoạt động từ lúc này.
                          Trước khi ngành KQ được chuyển giao, đệ nhất phi đoàn vận tải được thành lập tại TSN (1-6-1955) được gọi là Căn Cứ Trợ Lực KQ số 1. Khi tiếp nhận phi trường Đà Nẵng, Đệ nhất Phi đội trợ chiến và quan sát ở TSN được chuyển ra đây; trước đó Bộ Tư Lệnh KQ bối rối không ít vì không có phương tiện tiếp thu, đã định giao phi trường này cho hàng không dân sự đảm trách. Cuối năm 1955, KQVN thành lập Đệ Nhất phi đoàn tác chiến và liên lạc nhưng phi đoàn này chỉ thực hiện trên giấy tờ, sau phải giải tán vì thiếu phương tiện.

                          Năm 1956, các căn cứ trợ lực KQ số 2 và số 3 được thành lập liên tiếp tại TSN và Biên Hòa. Mỗi căn cứ lúc ấy được tổ chức: một bộ chỉ huy, các cơ cấu hành quân, một ban công vụ và một ban quân y. Ngoài ra, để điều hành hệ thống không lưu, các phòng không lưu và các đài kiểm soát được thiết lập tại khắp các phi trường. Ngành KQ đã có những hoạt động riêng biệt trên không kể từ chiến dịch Đinh Tiên Hoàng, là chiến dịch tiểu trừ phiến loạn tại Miền nam.

                          Tính tới cuối năm 1956,ngành không lực của quân đội Quốc gia đã có các căn cứ, đơn vị máy bay thuộc đủ mọi loại như sau:
                          1. Căn cứ trợ lực KQ số 1 Nha Trang:
                          a. Trung tâm huấn luyện KQ:
                          . 21 máy bay Morane Saulnier
                          . 13 máy bay Cessna L19A
                          b. Phi đội liên lạc và trợ chiến số 2
                          . 5 máy bay quan sát MS.500
                          . 16 Cessna L19A
                          2. Căn cứ trợ lực KQ số 2 TSN:
                          a. Phi đội liên lạc:
                          . 3 máy bay Dakota DC3
                          . 3 máy bay Beechcraft
                          . 2 Cessna L19A
                          . 1 máy bay MS.500
                          . 6 máy bay Marcel Dassault 315
                          b. Phi đoàn vận tải:
                          . 21 máy bay Dakota DC3
                          3. Căn cứ trợ lực số 3 Biên Hòa:
                          a. Căn cứ Biên Hò
                          . 13 Cessna L19A
                          . 2 Máy bay MS.500
                          . 3 máy bay Dakota DC3
                          b. Phi đoàn chiến đấu:
                          . Hình thức
                          4. Căn cứ Đà Nẵng:
                          a. Phi đội quan sát và trợ chiến:
                          . 12 máy bay MS.500
                          . 16 Cessna L19A

                          Tổng cộng: 69 chiếc Cessna L19A, 26 chiếc Dakota DC3, 21 chiếc Morane Saulnier, 20 chiếc quan sát MS.500, 6 chiếc Marcel Dassault và 3 chiếc Beechcraft.

                          Không Quân VNCH 1950-1970:

                          (*) 60 chưa phải là già,
                          65 chỉ mới vừa qua dậy thì
                          Last edited by thanphongkingwood; 10-18-2013, 02:37 PM.
                          Mời bạn ghé thăm nhà:
                          http://thovanyenson.com

                          Comment


                          • #28
                            Một Mẩu Chuyện Xưa

                            Một Mẩu Chuyện Xưa
                            (Viết khi chợt nhớ về người bạn cố tri Trần Gia và hai Tôn Nữ)


                            Sau khi ăn trưa, cà phê cà pháo ngoài chợ Đông Ba, Phi Hành đoàn trở lại phi trường Phú Bài đón hành khách để về Saigon. Buổi trưa Huế bầu trời xanh biên biếc, mây nhẹ như tơ, lòng thanh thản, sảng khoái vô cùng. Tôi đem trả chiếc xe pick up mượn của trạm hàng không quân sự, miệng huýt gió vang vang bài Không Quân Hành Khúc rồi bật cười tự bảo, “mình chẳng cần vượt biên giới, cũng chẳng quyết chiến đấu nên làm gì có chiến công ngang trời được! Nhưng KQVN lướt trên ngàn mây gió là chuyện đương nhiên rồi.”

                            Đang thảo luận với nhân viên Trạm Hàng Không thì Gia, Sĩ quan Điều Hành Viên của phi vụ, và là bạn trang lứa cùng đơn vị, tới bên nói nhỏ:
                            - T. ơi! Mi xin giùm ông Trưởng Phi cơ cho tau gởi hai người nhà về Saigon hỉ?
                            - Răng mi không hỏi thẳng anh ấy?
                            - Tại mi có thớ hơn tau.
                            - Thớ cái con khỉ khô. Tôi đáp lời hắn, “nhưng mi gởi ai rứa?”
                            - Hai O: một đứa em họ, một đứa cháu gọi bằng Cậu.
                            - Răng khi nảy ngoài phố mi trốn ở mô mà không “chơi đẹp” với anh em?
                            - Tau phải chạy về nhà đón hai đứa nớ.
                            - Chứ không phải mi cố ý trốn tránh bổn phận?
                            - Dù có ở đó cũng mô có đủ tiền mà đãi!
                            - Mới lãnh lương có tuần lễ mà răng hết rồi? Chắc tại mi bài bạc hết rồi chứ chi?
                            - Mô có, tau vừa lãnh lường là phải chuộc thẻ lương, phải đóng tiền cơm tháng, phải trả tiền nhà!
                            - Thôi mi ơi, đừng tả oán nữa nghe ốt dột quá!

                            Tôi xin anh TPC với lời bảo lãnh thì được nhận lời. Thường anh em trong phi đoàn vẫn giúp đỡ nhau, hoặc giúp anh em KQ các đơn vị khác mỗi khi có nhu cầu cấp bách miễn là không ảnh hưởng đến an ninh hoặc vi phạm an phi.

                            Những lời đối đáp trên nghe như đùa nhưng không xa sự thật là mấy. Sự thật xót xa cho số phận của những trang hào kiệt đương thời. Lương sĩ quan phi hành được coi là cao so với các sĩ quan cùng cấp bậc ở các đơn vị khác; dù vậy, cũng chẳng thấm vào đâu với đời sống đắt đỏ ở Saigon. Nếu không phải là con cái thuộc gia đình khá giả, không được gia đình tiếp tế, không xin được ở trong cư xá SQ độc thân thì khó lòng xoay xở. Nhiều khi tôi tự hỏi, lương bổng của mình là thế thì mấy ông bạn có gia đình, các anh em HSQ, Binh Sĩ thì họ sống làm sao!? Thế nhưng, dù có phải “giật gấu vá vai” cách nào đi nữa, phe ta vẫn phải ra vào tươm tất, áo quần bảnh bao theo cái truyền thống được nghe từ vào đời.

                            Gia trở lại phi cơ với hai O áo dài trắng trơn rất nữ sinh, tóc dài rất Huế gọi nhau bằng dì cháu. Tôi đón chào hai nàng sau khi Gia giới thiệu. Dì khoảng đôi mươi, cháu cỡ đôi tám. Bốn con mắt tròn vo, lúng liếng cười nhẹ, lí nhí gật đầu chào rồi cúi đếm bước chân, riu ríu theo sau tôi trước đoàn hành khách xếp hàng lên tàu. Tôi chọn hai chỗ ngồi gần phòng lái cho hai nàng rồi cùng anh TPC làm thủ tục cất cánh. Đi máy bay cũng như đi xe hơi, ngồi càng gần phía trước càng an toàn và đỡ chóng mặt.


                            Về tới Saigon vào lúc chiều đã nhạt nắng. Phi hành đoàn và hai cô nương được xe pick up đưa về phi đoàn. Chúng tôi ký sổ trực cho phi vụ hoàn tất rồi mạnh ai nấy giông. Gia chỉ có một chiếc Honda nên không thể chở cả hai O cùng một lúc. Hắn lại cười cầu tài với tôi, nhờ tôi giúp đưa một O cùng hắn về nhà ngoài phố. Sẵn dịp về nhà ngoài khu Trương Minh Giảng nên tôi vui vẻ nhận lời. Khi Gia hỏi ai muốn đi với tôi, cả hai O đều nhìn nhau không nói. Tôi nói đùa với Gia rằng “mi muốn tau làm em hay làm cháu mi cũng được” rồi đứng nhìn hai O đang xấu hổ cúi gằm mặt nhìn xuống chân. Ngó hai khuôn mặt thẹn thùng ửng hồng đôi má trắng non trông dễ thương chi lạ! Tôi nhìn O cháu buộc miệng nói “O đi với cậu hỉ?” O nhỏ bẽn lẽn chưa biết nói gì, đưa mắt ngó Cậu Dì. Gia vội đỡ lời: “Ừ, Văn Chương đi với cậu T.”

                            Ra khỏi cổng Huỳnh Hữu Bạc, buổi chiều xe cộ đầy đường phải chen lấn nhau mà đi. Tôi vừa chạy vừa quay lại nói chuyện với cô nhỏ nghe tiếng được tiếng mất. Chỉ biết chắc một điều, tên cô nhỏ là CHTN Văn Chương, học trò Đồng Khánh. Dì CTTN Hoa đang học ở Văn Khoa Saigon, theo dì chơi vài tuần và sẽ trở lại Huế đi học. Tôi nghĩ thầm “lại là con cháu Hoàng tộc”. Xe cộ tấp nập nên phải chen chúc, lạng lách, nhiều lúc phải đạp thắng gấp. Cô nhỏ nói như than “cậu lái xe hai bánh như lái máy bay!” Ban đầu cô nhỏ còn ké né cố giữ cứng vào yên xe, cho đến khi quẹo vào hẻm nhà trọ của tôi thì vòng tay cô nhỏ đã ôm chặt hông tôi từ lúc nào. Thấy xe quẹo vào con hẻm xa lạ, cô nhỏ hoảng hốt buông tay hỏi tôi:
                            - Cậu chở Chương đi mô rứa?
                            - Yên chí đi, Cậu ghé ngang phòng trọ thay quần áo để ra phố cho dễ coi hơn. O có thể ngồi chờ cậu ngoài xe.

                            Phòng tôi mướn ở trong một con hẻm nhỏ đối diện với một bãi tha ma, là phần nối dài của một căn nhà lớn của một gia đình người Bắc, ngó ra đường Bùi Thị Xuân. Lúc này trời đã nhá nhem tối làm cho con hẻm dài hun hút dưới ánh đèn điện vàng vọt mờ nhạt. Gió lồng lộng chạy dọc theo con hẻm và rượt đuổi nhau vi vút trên mấy tàng cây bên ngoài bờ tường ngăn cách. Tôi dừng xe trước cửa phòng, bảo nàng ngồi trên xe chờ tôi một lát nhưng cô nhỏ vọt ngay vào nhà khi cánh cửa vừa hé,
                            - Cậu ở chỗ chi mà dễ sợ rứa!
                            Cái giọng Huế ngọt lịm kéo dài chữ rứa nghe như một khúc nhạc vui. Tôi mỉm cười:
                            - Bộ O sợ ma hả, ma không sợ mình mắc chi mình sợ ma?

                            Có lẽ chữ ma đánh động thêm nỗi sợ hãi sẵn có nên cô nhỏ quýnh quíu ôm chặt tôi, hơi thở dồn dập. Không biết mùi hương tóc hay hương thơm con gái xông ngạt ngào vào mũi cùng hơi ấm của thân thể nhẹ run của nàng cũng làm tôi tê điếng một lúc. Hai tay tôi quờ quạng trong vùng ánh sáng mờ ảo, đập nhè nhẹ lên lưng nàng để trấn an. Trong một giây thảng thốt, tôi đặt môi hôn nhẹ lên suối tóc huyền “Không răng mô, có chi mà sợ, để Cậu mở đèn,” rồi nhẹ nhàng gở tay nàng ra, bật điện phòng. Có lẽ ánh đèn điện sáng tỏ làm cô nhỏ đỡ hồi hộp. Căn phòng trọ vuông vắn, nhỏ đủ cho một chiếc giường ngủ nho nhỏ, tủ lạnh nhỏ và tủ áo quần cũng nhỏ. Phòng tắm chung nằm ngoài hành lang.
                            Nàng bẽn lẽn ghé ngồi vào một góc giường, đôi mắt chứa đầy vẻ âu lo nhìn tôi. Tôi lấy lon coca cola mời nàng uống và tỏ ý muốn tắm vội một chút nhưng cô nhỏ không chịu. Cô nói với tôi cần phải về ngay kẻo cậu dì trông chờ. Tôi vội vàng vào phòng tắm dùng khăn ướt lau mình, thay quần áo xong trở lại phòng cầm chìa khóa trên tay
                            - Cậu đưa O về hỉ ?
                            Nàng ngó tôi rất nhanh, cười nói nhỏ nhẹ:
                            - Trông cậu bi chừ giống như một anh chàng sinh viên.
                            Tôi âm trầm:
                            - Thì cậu cũng đã là sinh viên mấy năm trước thôi.

                            Chúng tôi lên xe, bây giờ thì nàng rất tự nhiên ôm hông tôi như cũ và chỉ dẫn cho tôi hướng về nhà ở Quận 2. Màn đêm đã vội vã buông xuống. Phố xá đã lên đèn rực rỡ, xe cộ không còn tấp nập như khi chiều. Tôi cố chọc nàng:
                            - Cậu đưa O đi ăn kem dừa trước khi về nhà hỉ?
                            - Không được mô Cậu, mọi người ở nhà chắc đang trông đợi, để hôm khác Chương hứa đi với Cậu.

                            Khi chúng tôi bước vào cổng đã thấy hai anh em nhà họ Trần đang có vẻ ngóng trông. Hoa hết nhìn tôi lại nhìn Văn Chương.
                            - Răng mi chạy đi mô mà lâu rứa? Gia hỏi.
                            - Tau phải ghé ngang phòng trọ thay quần áo nì nì.
                            - Tau tưởng giao trứng cho ác rồi chớ.
                            - Kể như may cho mi đó, giao trứng cho ác mà trứng con nguyên lành.

                            Cả đám cùng cười xòa làm cô nhỏ lính quýnh bước chân. Gia và Hoa nài nỉ tôi ở lại dùng cơm với gia đình, cô nhỏ nhìn tôi với ánh mắt đồng tình nhưng tôi ngại ngần từ chối dù trong lòng cũng muốn ở lại. Tôi bắt tay Gia và lưu luyến từ giã hai nàng sau khi hẹn gặp nhau lần tới…

                            Phố lên đèn thôi về đi kẻo muộn
                            Sợ chia ly nên chẳng dám quay nhìn

                            (thơ Tường Vi Đức quốc)
                            Đầu Thu 2013
                            Mời bạn ghé thăm nhà:
                            http://thovanyenson.com

                            Comment


                            • #29
                              Vui Cùng Kỷ Niệm –
                              Khóa 4/69 Quang Trung Nguyễn Huệ




                              Người ta thường có khuynh hướng chung là tuổi trẻ thích sống cho hiện tại, lo công danh sự nghiệp để tiến về tương lai trong khi người già thường quay về với kỷ niệm vàng son và quá khứ lộng lẫy của mình. Nhưng người ta cũng nói kỷ niệm đẹp không đẹp như lúc nó xảy ra và quá khứ lộng lẫy thường lộng lẫy hơn nhiều lần so với quá khứ!
                              Mà giời ạ! Ai nói gì mặc họ. Dù sao những vàng son ấy, lộng lẫy kia cũng làm cho tuổi xế chiều bớt cô đơn, trầm cảm. làm cho con người xích lại gần nhau; cho người ta cái tâm hào phóng, và nụ cười nhăn nheo tuổi đời cũng bỗng tươi thắm hẳn lên để “thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt” không cần “le lói suốt năm canh” buồn!

                              Thời trai trẻ của chúng tôi – thế hệ ‘40 & ‘50 – không có cái may mắn được sống trong một đất nước an bình, thịnh vượng như những quốc gia khác sau Thế Chiến Thứ II. Tham vọng của Hồ Chí Minh đã bị mộng bành trướng của chủ nghĩa Cộng Sản Nga Tàu lợi dụng tối đa để gieo rắc ác mộng kinh hoàng cho cho toàn cõi Việt Nam.
                              Hiệp Định Genève 1954 vạch rõ lằn ranh Quốc Cộng ở vĩ tuyến 17 tại cầu Hiền Lương đã cho Miền Nam yên bình xây dựng một nền tự do dân chủ nhân bản. Thế nhưng, tập đoàn Cộng Sản Hồ Chí Minh không chịu dừng ở đó, chúng được sự chỉ đạo của quan thầy Nga-Tàu tiếp tục lấn chiếm về nam, gây nên cảnh chiến tranh huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt mà người dân Miền Nam nước Việt luôn luôn phải chống đỡ, tự vệ. Để rồi… những chàng trai trẻ áo quần còn tinh tương mùi mực, tóc tai còn vướng vất mùi học trò; những chàng sinh viên mặt non choẹt rời khỏi giảng đường… từ khắp nơi gom về Saigon thành từng đoàn tình nguyện gia nhập quân đội theo chương trình bành trướng của Không Quân. Một trong những đoàn nhóm này, có khóa Sĩ Quan Không Quân Hiện Dịch 4/69.

                              Khóa 4/69 có lẽ là một khóa khá đặc biệt vì số lượng khác thường đã hình thành 2 Đại Đội (43 & 44) với 380 ông trời con dưới sự quản trị nghiêm khắc của Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Trần Văn Hiến thuộc tiểu đoàn “sống mạnh sống hùng” Quang Trung Nguyễn Huệ.
                              Thử tưởng tượng 380 nhân mạng, sàng sàng tuổi quậy, đến với nhau từ mọi miền đất nước, từ nhiều nguồn gốc gia đình khác nhau để ăn cùng nơi, học cùng chỗ, ngủ cùng lều… không khác gì bắt 380 con cá vừa lớn ở đại dương mênh mông đem nhốt chung trong một ao tù chật hẹp… nếu không có sự nghiêm khắc cần thiết và tài ba lỗi lạc của một người lãnh đạo chỉ huy như Thiếu Tá Trần Văn Hiến và ban tham mưu… ai biết vàng đá sẽ ra sao?!
                              Rời Quang Trung sau 3 tháng trui rèn khó nhọc… chúng tôi lại được chia đi tứ tán. Hơn 310 Phi Hành học Anh Văn thi đủ điểm rồi đi Mỹ học bay đủ loại phi cơ. Khoảng gần 70 Không Phi Hành chuyển qua quân trường Thủ Đức học quân sự giai đoạn 2 để rồi 6 tháng sau ra trường về lại Không Quân học Anh Văn, một số đủ điểm đi Mỹ học nghề, số còn lại tham dự huấn luyện trong nước đủ loại ngành nghề của binh chủng, rồi lại tung ra khắp 4 Vùng Chiến Thuật để tham dự trong cuộc chiến tranh tự vệ. Cuộc chiến tương tàn này cũng đã cướp dần mòn những tinh hoa của đất nước. Con số 380 nhân mạng ban đầu ấy không ai biết chắc đến nay còn lại bao nhiêu người?!
                              Biến cố lịch sử 30 tháng 4, 1975 đã làm cho những cánh chim tự do non trẻ đó tan đàn gãy cánh. Một số bay dạt bốn phương, một số khác chịu tù đày, tủi hận…

                              Để rồi 45 năm sau…
                              “Tung cánh chim tìm về tổ ấm”. Tổ ấm ở đây là lần hội ngộ tuyệt vời, kỷ niệm 45 năm ngày rời bỏ học đường đi làm lính chiến. 45 năm! Con số có vẻ đơn giản nhưng chứa đựng biết bao nhiêu tình tự của một đời người. 45 năm cũng thoảng qua như sương khói vô tình đậu xuống những mái tóc xanh cho bạc trắng mái đầu! 45 năm gồm 5, 6 năm bám lưng mẹ cha, mười mấy năm mài ghế nhà trường, 6 năm làm lính chiến … số còn lại có nhiều năm tù tội, bao năm thăng trầm. Có người tới Mỹ tròn 39 năm, có người may mắn đến được bến bờ tự do từ vượt biên vượt biển, bằng chương trình HO, bằng phương tiện đoàn tụ gia đình. Tới Mỹ bằng cách nào cũng phải cong lưng, vùi đầu trong bon chen làm lại cuộc đời!
                              Làm lại cuộc đời để có cái ăn cái mặc, cái kiến thức như người ta trong thiên đàng của văn minh tiến bộ, của tự do dân chủ nhân bản tuyệt với; để lo cho đàn con Việt lớn lên trong môi trường mới, nối bước cha anh làm vẻ vang nòi giống. Làm lại cuộc đời vì cuộc đời trước không ai tính chuyện tương lai. Cuộc đời trước đã quyết xả thân bảo vệ đất nước. Cuộc đời trước từ những gã thư sinh tay trắng, rời ghế học đường bước vào quân ngũ để cùng hợp đoàn “vượt trên lưng gió quyết chiến thắng”. Cuộc đời trước sống thênh thang từng ngày với mộng ngang trời. Cuộc đời trước là hình ảnh của một phi công bên súng, bên dao, đem sanh tử treo trước mũi tàu bay lao vào chiến trận, sau khi ăn xong gói xôi đậu, hoặc khúc bánh mì vừa mua ở dọc đường trước giờ cất cánh. Cuộc đời trước không ai cố tìm ánh sáng cuối đường hầm, không ai sờn lòng, chùn bước trước những hiểm nguy, thử thách nghiệt ngã của chiến tranh, không ai phân vân sẽ có một ngày “đi không ai tìm xác rơi”.
                              6 năm làm lính! Nghĩ đi nghĩ lại “đâu có là bao” nhưng sao càng lúc thấy càng dài như chuỗi ngày lưu vong! Có quá nhiều chuyện tưởng kể hoài không hết nhưng thực ra chỉ là những hoài niệm khôn nguôi. Cũng như tôi đã ở Mỹ dài hơn hai phần ba cuộc đời mình mà sao cứ thương cứ nhớ đến ngậm ngùi mảnh đất khô cằn sỏi đá Miền Trung, nơi tôi chào đời và ở đó chỉ có trên dưới 10 năm?!

                              Hội Ngộ Kỷ Niệm 45 Năm, Khóa 4/69 Quang Trung Nguyễn Huệ ở Orange County, California giữa mùa Xuân năm 2014. Đây là lần tổ chức thứ 6 kể từ lần đầu tiên ở Houston, Texas năm 2007. Vâng, đúng vậy! Phải đợi tới 32 năm sau ngày đau thương đó, lũ chim tả tơi ngày nao mới hoàn hồn để nhớ đến nhau, tìm kiếm nhau. Trải qua bao năm dâu bể, nhất là khi nhìn bóng xế phủ xuống đời mình, anh chị em mới nhận ra cuộc đời là vô thường, chỉ có tình người, tình đồng đội là miên viễn…
                              Nghĩ lại lần Hội Ngộ đầu tiên, thương vợ chồng Khanh Trùm quá chừng. Hai vợ chồng Khanh Trùm tới Houston, là sĩ quan Không Phi Hành duy nhất. Dù vẫn được tiếp đón niềm nở nhưng anh chị vẫn còn ké né như cô gái mới về nhà chồng khi tiếp xúc với khoảng 35 anh em, “đa số phi hành bỗng dưng thấy lạ”, về từ nhiều thành phố Texas, và một ít từ các tiểu bang xa. Dù vậy, chàng lại có thừa can đảm mang Hội Ngộ lần hai về Orange County cùng với Phú Cối, Yên Ròm và các anh chị em khác trong mốc thời gian 40 năm kỷ niệm sau đó.

                              Hội Ngộ 40 Năm được tổ chức quy mô (hơn 30 bàn gồm có đại diện các khóa KQ khác và thân hữu), có rất đông anh em về tham dự với truyền thống 3 ngày vui chơi.
                              Rồi Hội Ngộ 42 Năm được phi công Khu trục Bé Lê và ngài chủ tịch Cộng đồng Việt Nam ở Minnesota Phạm Văn Yến tổ chức với sự quy tụ đông đảo anh em từ bốn phương trời. Có giải quần vợt, vẫn với 3 ngày ăn chơi ăn thiệt xả láng. 4/69ers Minnesota đã làm các hội đoàn quân nhân bạn và thân hữu tại địa phương nể trọng qua việc tổ chức Tiệc Hội Ngộ rất tưng bừng, rất thành công, rất vui vẻ.
                              Lần Hội Ngộ 44 Năm được hai quan Lê Mâu, Lê Hồng Anh tổ chức ở Orlando, Florida cũng tưng bừng không kém… Vẫn là truyền thống 3 ngày ăn chơi, chen vào giữa là chuyến hải du Bahamas 3 đêm 4 ngày, trên du thuyền Royal Carribean, Monarch of The Sea, khó quên.
                              Chiều Thứ Năm tiền hội ngộ ở nhà hàng Lạc Việt. Tiệc chào mừng cũng không thiếu phần văn nghệ, dạ vũ như thường lệ. Ăn chơi cho mãi tới khuya. Sáng Thứ Sáu, sau khi cà phê các cái, mọi người hú nhau lần lượt xuống tàu. Trong chuyến đi này, điều đáng ghi nhận là có “Nhơn up-side-down” đáp máy bay từ Minnesota xuống bị trễ chuyến đã làm mọi người lên ruột. Lúc chàng bước chân qua khỏi cầu tàu cũng là lúc tàu nhổ neo rời bến! Cộng thêm chàng Tôn Thất (tình) và nàng ca sĩ Arizona dễ thương không mang đủ giấy tờ nên phải ở lại du dương trên đất liền chờ đợi anh chị em trở lại!
                              Trong những ngày đêm trên du thuyền, ngoài việc đi thăm biển đảo, ăn uống mệt nghỉ, cả nhóm được cấp một phòng riêng biệt để sinh hoạt với nhau trong suốt hải trình. Chuyến đi như một chất keo sơn, gắn bó anh chị em càng lúc càng thân thiết. 56 nhân mạng với dàn ca sĩ hùng hậu không ngờ. Lại ca lại hát, lại nói lại cười… cuộc vui nào cũng kéo dài như vô tận. Một chuyến đi chơi tuyệt vời dù có vài ba con nhạn ở ngày cuối cùng không chịu nổi sự “lắc lư con tàu đi” khi biển động ngày về.
                              Sáng Thứ Hai tàu cập bến trở về đất liền. Anh em mỗi người tự lo cho đến 5 giờ chiều lại họp nhau lần cuối, dự tiệc tiễn đưa các Kinh Kha thời đại về cố quận, ở tư gia Lê Mâu. Dù tổ chức vội vàng sau chuyến đi chơi nhiều ngày, nhưng cũng linh đình không kém. Ai cũng phải công nhận tài năng và tấm lòng của vợ chồng Lê Mâu. Ôi tình nghĩa nghĩa tình kể sao cho hết!

                              Có lẽ vì ai cũng đã tóc râu sương khói, trong khi ngày tháng cứ vô tình vụt vù trôi qua… sợ không còn đủ giờ để chơi cho bù những ngày tháng oằn lưng cơm áo. Cho nên, thay vì cứ hai năm tổ chức họp mặt một lần thì anh chị em lại đồng lòng tổ chức mỗi năm một lần, được lúc nào hay lúc đó. Hơn nữa, cái mốc thời gian 45 năm cũng rất đáng để có cuộc họp mặt điểm danh, để biết ai còn ai mất! 45 năm trôi qua… quả thật như cơn mộng dữ qua đêm đông dài! Và… anh chị em Orange County lại thêm một lần nữa tình nguyện đứng ra tổ chức.

                              Đi cruise về vài tháng sau thì tin tức tổ chức “Hội Ngộ 45 Năm” đã dồn dập. Nào là lo cập nhật danh sách những tay thợ lặn chuyên nghiệp, rồi nào email, nào gọi điện thoại, nào hát bài ca “con cá sống vì nước” cũ mèm để mong các quan đừng bỏ lỡ dịp vui… Sau vài lần thảo luận, anh chị em đồng ý tổ chức vào đầu tháng Tư 2014. Dĩ nhiên không có ngày tháng nào có thể hài hòa cho tất cả mọi người. Vì thế cứ phải lấy theo số đông. Bảng ghi danh được thiết lập, anh chị em nô nức ghi danh, rủ nhau cùng về…
                              Mỗi ngày nhìn lên bảng ghi tên tham dự của anh em, lòng nôn nao, rạo rực một niềm vui. Có những thợ lặn chuyên nghiệp cũng đã chịu xuất đầu lộ diện; có những bạn biệt tích đủ 45 năm, có những anh thợ rèn lần này chịu ngưng việc. Nhìn những cái tên quen thuộc, mường tượng ra từng khuôn mặt ngày ấy. Có những kẻ một thời dễ thương, và cũng có những người một thời đáng ghét… Giờ đây những thương ghét quân trường đã chín muồi kỷ niệm, nên chỉ mong gặp lại nhau để “xem dung nhan ấy bây giờ ra sao”, để mừng mừng tủi tủi còn nhìn thấy nhau trong đời với tấm lòng cởi mở, quý mến. Sau bao nhiêu lần cập nhật, người nhớ bạn này, người biết bạn khác, tính đến nay gom được 197 người còn sống sót (*), rải rác khắp phương trời (Hoa Kỳ nhiều nhất, trải nhiều tiểu bang nhưng quy tụ ở Orange County, San Jose, California và Houston, Texas (*) là đông hơn cả.)

                              Mặc dù Ban Tổ Chức đã rao giảng bao nhiêu lần “hạn chót”, danh sách tham dự vẫn tiếp tục thay đổi cho tới phút cuối. Có những hứa hẹn chắc như bắp cũng lỡ đò vì lý do này hay lý do khác vượt ngoài tất cả dự tính; có những người đã nói chắc chắn không đi, giờ chót lại ghi danh… Hầu hết đi có cặp, một số ít được vợ thả cho đi một mình như thằng tôi…
                              Đặc biệt lần hội ngộ này có được những con nhạn ở thật xa bay về tụ hội, như Thảo Music từ xứ Kanguru tới, Hoàng Cười từ ga Lyon đèn vàng Paris qua hợp đoàn cùng anh chị em ở nhiều tiểu bang xa xăm trong nước Mỹ.
                              Lần này, Ban Tổ Chức và toàn thể anh em quyết định chỉ dành riêng cho khóa 4/69 và gia đình. Cộng thêm, trừ bớt còn lại đủ 13 bàn, có nghĩa là 130 nhân mạng cả nam lẫn nữ, trong đó có hơn một bàn là quan khách đặc biệt. Thành viên của khóa 4/69 Quang Trung Nguyễn Huệ sống mạnh sống hùng chỉ gom được khoảng 70/197 còn sống; so với con số 380 ở ngày nhập ngũ quả thật khiêm nhường nhưng vẫn là đông nhất so với 5 kỳ hội ngộ trước đây. Phú Cối đóng dấu với chữ “final” to tướng ở tuần lễ cuối cùng trước ngày tổ chức.

                              Ngày N cuối cùng đã tới!
                              Tôi đáp phi cơ đi Orange County tìm về kỷ niệm một mình. Nhà tôi và các con cùng với các chị em của nàng kéo nhau đi cruise sau lễ cưới của đứa con gái rượu. Nàng nói rằng tôi mê bạn hơn gia đình! Tôi cố cãi chày cãi cối “rằng-thì-là” chỉ có một lần Hội Ngộ 45 năm mà thôi, anh không đi lần này nhỡ không gặp “thằng A, thằng B” lần tới thì đó là một nỗi ân hận! (Quảng Ngãi mà cãi thì Bắc Kỳ nào chịu cho nổi nên giấy phép được nàng đóng dấu đỏ thông qua.)
                              10 giờ sáng Thứ Sáu đã về tới California. Đáng lẽ có độ Tennis với khu trục Nguyễn Thành Bá ở Ohio về. Đã năm lần bảy lượt hẹn gặp nhau tại sân Square Mile Park giữa lòng Thủ đô Tỵ Nạn… nhưng bị bạn bè bên giới cầm bút bắt cóc ngay tại phi trường John Wayne, Santa Ana. Cho tới gần 5g chiều, các anh em mới trả tôi xuống trước nhà Khanh Trùm để kịp dự buổi “tiền phi”…
                              Bước vào nhà Khanh Trùm chưa tới giờ hẹn. Dù vậy, cũng đã gặp những khuôn mặt quen thuộc của anh chị em từ những lần Hội Ngộ trước, đang tiếp tay bày biện đồ ăn thức uống từ nhà trên, tới nhà dưới, cả nhà bếp, ra luôn trại ngoài sân rộng phía sau nhà… Không phải chờ đợi lâu, anh chị em cũng đã lục tục kéo tới.

                              Biết là chiều này chỉ toàn gia đình 4/69ers… nhưng khi gặp những khuôn mặt là lạ, ngờ ngợ… cố gắng để so sánh với cái trí nhớ lụi tàn… vẫn không thể nào nhớ nổi “hắn là ai”. Đợi đến khi đương sự xưng tên, nhất là những cái “tên cúng cơm khó chịu một thời” do bạn bè đặt (chẳng hạn như: Thuận Nẫu, Chửn Gà, Anh Chuột, Phú Cối, Chị Lịch, Quang Đau Khổ, Nhơn Up-Side-Down…) mới quấn quýt ôm chằm lấy nhau, tay bắt mặt mừng!
                              Dường như có bao nhiêu người là bấy nhiêu máy chụp hình. Máy đủ loại, đủ cỡ… từ máy chuyên nghiệp như của F5 Phạm Đức, còn số nhiều là máy Canon bỏ túi và thông dụng nhất vẫn là cell phone. Ôi thôi mặc sức phe húi cua tạo hình, phe kẹp tóc làm dáng, cầm tay, nắm chân đủ cách, đủ kiểu… Chụp từ nắng trên cao mấy cây sào tới đèn đã lên, đêm đã xuống, sân khấu rộn rịp lời ca tiếng nhạc… Mọi người ăn uống hơi nhiều nên bắt đầu nhảy đầm nhảy đìa, thể dục dưỡng sinh cho tiêu bớt mỡ. Ca sĩ thì cũng chẳng thua ai… ca hay như Bích Vân, vừa vừa như Phú Cối, ầm ầm như khu trục Bá… đều có cơ hội hò hét thoải mái cho đến quá 0 giờ vẫn chưa chịu tan!

                              5 giờ chiều Thứ Bảy, 5/4/2014, nhà hàng China Feast đã vang lừng tiếng cười, giọng nói. Một số anh chị em tối qua không đến được đã đến sớm để tìm kiếm nhau. Ôi người của muôn năm cũ hồn ở đây bây giờ. Có anh bạn trông quen mặt nhưng nhất thời không nhớ tên, hắn chăm chăm nhìn tôi rồi hỏi, “bạn có biết Thuận Nẫu đứng chỗ nào không?” Tôi buồn cười ngó bạn, “you are looking at him”! Hắn tròn mắt, “Sao ngực áo của mầy tên Tuấn, lại trông trẻ quá vậy?” “Thưa ngài em vừa nhuộm tóc, mặc áo mượn của thằng Tuấn 199”! À thì ra, thằng quỷ! Nghe chữ quỷ là nhận ra thằng nhạc sĩ họ Tống ở miền “Sa-Đéc Xanh-đi-á-gô”. Tôi quay qua ngó anh chị vừa bước vào “mời anh chị chụp hình kỷ niệm”. Sau khi chụp hình, hắn hỏi “xin lỗi bồ là ai?” “Dạ em là Thuận Nẫu, đại đội 43, Quang Trung Nguyễn Huệ, sống mạnh sống hùng”. “À à… Tôi là Phan Kim Nhựt, 44”. Chúng tôi siết tay nhau rất chặt. 45 năm tôi mới gặp lại con người đặc biệt này. Đặc biệt vì khi xong 3 tháng quân sự, hầu hết chúng tôi còn lông bông chưa biết đi đâu, về đâu thì hắn đã khăn gói quả mướp lên đường Mỹ du vì tiếng Anh quá giỏi, không cần phải qua trường sinh ngữ như hầu hết mọi người khác. Kể từ đó đến nay không nghe tiếng, cũng hiếm người biết hắn đã phục vụ ở đơn vị nào!
                              Tôi vẫn tự hào còn nhớ mặt nhiều người nhất trong anh em, nhưng cũng rất nhiều trường hợp không còn nhớ một chút vết tích nào. 380 thư sinh ùa đến với nhau trong một khoảng thời gian rất ngắn rồi mỗi người một phương trời, rồi chiến tranh tràn lan, bao nhiêu kẻ mất người còn… Nếu “ngày xưa ấy” không có dấu ấn gì đặc biệt thì rất khó để nhớ đến nhau. Ví dụ như “Phòng Lồi 44”, “Trần Minh Khố Chuối 43” được nhớ tới vì 2 chàng này có biệt tài ăn cơm vun nón sắt. (Chỉ cần cơm và nước trà là xong một bữa ăn và ăn dài dài suốt khóa học); như những kỳ tích của các chàng “Út Bã đậu”, “Long Thủ Kỳ”, “Sáu Gà”, “Đạt Thi sĩ”… nhiều lắm, kể sao cho xiếc!

                              Dù đã đóng dấu 13 bàn FINAL; dù mỗi bàn đều có tên thực khách rõ ràng nhưng khi nhập tiệc lại thiếu dăm ba chỗ ngồi… vì có những con nhạn là đà ở phút cuối cùng mới biết là mình có mặt ở đây! Thôi thì gặp nhau vui là chính, ăn uống, ngồi đứng chẳng thành vấn đề.
                              Đúng 7g, lễ chào cờ và truy điệu bắt đầu. Quốc ca Việt Nam Cộng Hòa được toàn thể mọi người hát vang làm nhớ lại những sáng Thứ Hai năm xưa đứng dưới sân cờ Không Đoàn. Bản Không Quân Hành Khúc trỗi lên đầy trầm hùng lẫn bi tráng. Phút Mặc Niệm để tưởng nhớ những cánh chim đã lìa đàn bay vào miên viễn. 65 anh hồn tử sĩ của khóa được xướng danh qua giọng đọc oai nghiêm nhưng đầy xúc động của Nguyễn Mạnh Khang và bài văn tế thật bi tráng của Phong Lùn đã làm toàn thể anh chị em ngậm ngùi, thương tiếc. Hơn năm phút lắng lòng nghe rõ nhịp đập thổn thức của từng con tim, thời gian như ngừng lại, không gian thật trầm lắng…
                              Tiếp theo là phần tặng quà cho ba quả phụ phu nhân (Nguyễn Phan Vạn, Tôn Thất Trí, Dương Đình Long) hiện diện trong buổi tiệc. Quà là một khăn quàng xanh da trời có thêu huy hiệu Không Quân và chị Long đã thay mặt cho cả ba nói lời cám ơn đầy xúc cảm.
                              Tôi lên sân khấu để nhận lãnh trách nhiệm tổ chức hội ngộ năm sau tại Houston. Dù vậy tôi cũng đưa đề nghị 3 nơi có thể tổ chức và lấy ý kiến đa số. Thứ nhất là thành phố sương mù Seattle, có đảo Hoa Hồng Victoria Island, gần Vancouver có thể lái xe qua chơi cho biết; hoặc ở Washington DC thăm Hoa Đào nở, xong đi New York thăm Nữ Thần Tự Do, rồi đi thác Niagra Falls cho biết… Thảo luận rôm rả nhưng cuối cùng số đông muốn nhìn ngắm các nàng cowgirl xinh đẹp của xứ Cao bồi Texas vào dịp cuối tháng 3/2015.

                              Xong phần hành chánh thì nhà hàng đã dọn thức ăn lên. Nhạc trỗi lên dìu dặt với phần một văn nghệ giúp vui mở màn. Những bài thơ của phe ta do phe mình phổ nhạc và trình diễn. Nhiều ca sĩ gọi là “cây nhà lá vườn” nhưng phần trình bày của các anh chị em chuyên nghiệp không kém. Hoan hô những dàn máy karaoke đã góp công rất lớn trong việc đào tạo những ca sĩ cây nhà lá vườn đầy thiên phú này.
                              Xong phần một khi những món ăn đã được chiếu cố không mấy tận tình. Phần hai với chương trình văn nghệ dồi dào, sống động. Ca sĩ cây nhà 4/69 và lá vườn thân hữu đã giữ sân khấu và sàn nhảy vui nhộn suốt một đêm đầy ắp niềm vui.
                              Dầu nhà hàng có những giới hạn chỗ đậu xe, thức ăn không có gì xuất sắc nhưng khung cảnh rất ấm cúng, và tình cảm của anh chị em, đồng đội, thì rạt rào… Đã hơn 11g khuya nhưng ca sĩ vẫn còn thừa sức và những đôi chân vui vẫn miệt mài trên sàn nhảy. Dù vậy, cuộc vui cũng tới lúc tàn khi nhà hàng đã có dấu hiệu… cài then! Ban Tổ Chức mãi lu bu bây giờ mới thấy bụng đói vì chưa ăn uống gì, kéo nhau tới một quán phở khuya để dằn bụng trước khi về hẹn lại ngày mai.

                              Giờ hẹn tiệc tiễn đưa là 10g sáng tại tọa độ Tip Top Kitchen trên đường Brookhurst… nhưng mới 9g anh em đã gọi nhau ơi ới kéo nhau ra ngồi thiền sau khi một số lớn đã đại náo Café Factory nổi tiếng! Một số khác đã bay về tổ ấm xa xăm nhưng số còn lại cũng làm đầy một nhà hàng khang trang, rộng rãi. Tiếng cười, tiếng nói vẫn rộn rã, vui tươi cùng với những cái bắt tay siết chặt hẹn gặp lại khi tiệc đã tàn. Một số anh chị em ở xa nhưng chưa về vội cùng với anh chị em địa phương lại kéo nhau tới nhà Phú Cối để tiếp tục cuộc vui.

                              Ở nhà Phú Cối chơi một lúc thì Thảo Music phải về lại khách sạn để bay qua thăm New York; tôi phải lên đường trở lại Houston cho kịp chuyến bay để ngày hôm sau lại đón Hoàng Cười hạ cố Houston để gặp lại những bạn bè không có dịp dự Đại Hội lần này. Một số anh chị em khá đông rủ nhau đi chơi Las Vegas và thăm viếng Grand Canyon trong những ngày tới.

                              Thêm một lần Hội Ngộ rất vui quên cả nhọc nhằn. Xin ghi lại đây để một ngày nào đó có dịp ngồi đọc lại để nhớ về bạn bè và chiến hữu. Cám ơn tấm chân tình bằng hữu của anh em. Cám ơn đời còn cho tôi gặp lại những con người của “những ngày xưa thân ái…”


                              45 Năm… hơn nửa đời người
                              Gặp nhau nói nói cười cười thỏa thê
                              Năm sau hội ngộ nhớ về
                              Bóng chiều cũng đã cận kề tử sinh
                              45 Năm… còn lại chút tình
                              Quay nhìn kỷ niệm chúng mình còn nhau
                              Cùng đau chung một nỗi đau
                              Lưng trời gãy cánh, giọt sầu tha hương
                              Nhìn nhau tóc đã pha sương
                              Còn đây nỗi nhớ niềm thương một thời


                              Viết từ Rừng Vua
                              Last edited by chimtroi; 06-26-2014, 03:32 PM.
                              Mời bạn ghé thăm nhà:
                              http://thovanyenson.com

                              Comment


                              • #30
                                Tạp ghi tháng 5


                                Tôi đến phi trường sớm để chờ chuyến bay về thủ đô nước Mỹ. Đáng lẽ cùng đi ăn sáng với nhà tôi trước khi tới phi trường nhưng cứ loanh quanh với những việc lặt vặt nên không đủ giờ. Nhà tôi vì sợ tôi đói nên nhất định phải mua thức ăn cho tôi mang theo ăn trước khi lên máy bay. Trên đường đi, chúng tôi ghé một tiệm Việt Nam mua bánh mì và cà phê. Nhà tôi còn phải mua thêm một gói xôi và chai nước lọc nữa cho tôi mang theo mới chịu. Cầm khúc bánh mì, ly cà phê, và gói xôi trên tay đi về hướng phi trường, tôi bỗng thấy nghèn nghẹn trong cổ khi kỷ niệm xưa, ngày tháng cũ bất chợt hiện về! Chỉ có khác bây giờ không mặc đồ bay, không súng không dao lủng lẳng bên hông…

                                Đến cổng lên máy bay còn sớm chán, thấy một ghế trống bên cạnh ổ điện, tôi xin phép cô tóc vàng bên cạnh ngồi xuống bật laptop ra đọc bài. Vừa đọc vừa lấy nửa khúc bánh mì ra ăn. Cô tóc vàng vẫn tiếp tục nói điện thoại kể từ lúc tôi ngồi xuống nhưng tôi không để tâm nên chẳng nghe cô ta nói điều gì. Cho đến lúc nghe hai chữ Việt Nam trong mẩu đối thoại của cô ấy. Như một phản xạ tự nhiên, tôi đưa mắt ngó thoáng qua cô ta lại bắt gặp cô ấy cũng đang đưa mắt nhìn tôi và tiếp tục nói điện thoại. Tôi không định lắng nghe người khác nói nhưng mẩu đối thoại lại tiếp tục rót vào tai, “ừ mình cũng vậy, mong sẽ có cơ hội đi du lịch một chuyến ở Việt Nam. Nhưng lúc này lại đang đói bụng mà không muốn ăn mấy thức ăn có ở phi trường”. Tự nhiên thấy có cảm tình với cô ta. Đợi khi cô nói dứt điện thoại, tôi cầm bọc giấy có nửa khúc bánh mì còn lại đưa ra mời:

                                - Nếu cô không ngại tôi xin mời cô dùng thử nửa khúc bánh mì thịt nướng vừa mua ở tiệm Việt Nam khá lắm!
                                - Hèn gì thơm quá làm tôi đói bụng hơn. Nhưng tôi không sao đâu, anh dùng đi.
                                - Xin cô đừng ngại, tôi có nhiều thức ăn. Còn một gói xôi nữa nè. Vừa nói tôi vừa cầm gói xôi đậu màu vàng tươi đưa ra.
                                - Cô có thể chọn bánh mì hoặc xôi. Đừng ngại.
                                - Anh có chắc không, anh không cần phải làm vậy!
                                - Không sao đâu, tôi rất vui được chia với cô.
                                - Cô nhỏ nhìn tôi với ánh mắt dịu dàng:
                                - Well, cám ơn anh. Tôi chọn bánh mì vì tôi đã từng ăn mấy lần rồi. Bánh mì VN rất độc đáo. Một loại “thức ăn nhanh” đang thịnh hành nơi tôi ở.
                                - Và đây là chai nước của cô.
                                - Oh, cám ơn anh, anh chu đáo quá! Nhưng anh để dùng đi, lát lên máy bay cũng có nước uống.
                                - Cô ăn bánh mì mà không có nước sẽ… trầy cả cổ!
                                - Anh thật dí dỏm. Vừa nói vừa nhẹ nhàng nhận chai nước lọc từ tay tôi.
                                - Xin lỗi cô đi thăm DC hay về DC?
                                - Không, tôi đi Austin!
                                - Con trai nhỏ của tôi cũng đang làm việc trên đó sau khi học xong.
                                - Oh, vậy hả! Cậu ấy học ngành gì và ra trường lâu chưa?
                                - Nó học ngành RTF (Radio, Television, Film) và ra trường đi làm 3 năm rồi.
                                Đôi mắt xanh biếc như mở to hơn:
                                - Tôi là giáo sư đang dạy về môn đó ở Đại học Austin hiện giờ.
                                - Thật là một ngẫu nhiên trùng hợp! Tôi thật sự ngạc nhiên.
                                - Nhưng tôi chỉ mới về dạy ở UT mùa năm nay.
                                Vừa lúc nghe gọi tên lên phi cơ, tôi nói lời từ biệt:
                                - Tới lúc tôi phải lên phi cơ rồi. Tạm biệt cô nhé. Chúc bình an.
                                - Chúc anh một chuyến đi an lành.
                                - Cô cũng vậy! Tạm biệt!

                                Điều tôi muốn nói ở đây là chỉ có người Mỹ mới có được tính tình cởi mở, tâm hồn khoáng đạt như thế mà không thể tìm đâu có ở một người Á châu Châu Á. Nói đến đây tôi bỗng nhớ câu “tự nhiên như người Hà Nội”. Thực tình tôi không hiểu người dân ở Hà Nội trước 1954 tự nhiên như thế nào, nhưng kể từ ngày tôi hiểu biết qua giao tiếp thì người Hà Nội lịch sự có thừa, rất coi trọng sĩ diện. Còn nếu tính từ ngày cả Miền Nam được/bị phỏng… chân thì người Hà Nội vào Nam bằng mọi ngả đường từ phương Bắc tới rừng xanh xâm chiếm, cướp đoạt tất cả mọi thứ của dân Nam, từ vợ con tù cải tạo, tới nhà cửa, tài sản ruộng đất… “vô tư” thể hiện câu nói châm biếm từ xưa “tự nhiên như người Hà Nội”!

                                ***

                                Trời thủ đô rất mát mẻ. Tôi rời lòng phi cơ với tâm trạng thư thái, nhàn hạ. Đến ngồi ở một quán ăn trong phi trường, gọi một chai bia lạnh, nhẩn nha uống, nhìn ông đi qua bà đi lại một lúc rồi mới bật điện thoại gọi bạn đến đón.
                                Bạn là thi sĩ Cao Nguyên, một ông nhà thơ với tính tình rất dễ mến, sống trong vùng gần trung tâm thủ đô. Tôi về theo lời mời tham dự buổi giới thiệu tác phẩm đầu tay của anh ta, thi tập Thao Thức chứa đựng “những dòng thơ lưu vong”. Ngoài sự quen biết nhiều trong lãnh vực thơ văn, anh còn có một tấm lòng tha thiết với quê hương đất nước. Chúng tôi tâm đắc nhau vì tầm nhìn chung về nhiều phương diện của đời sống tha hương. Hơn nữa, tôi cũng muốn làm một chuyến đi xa ra khỏi cái khung cảnh cố định mỗi ngày.
                                Đáng lẽ đã hẹn được với mấy chiến hữu cũ trong vùng – những người bạn cùng khóa học quân sự đầu đời khi vừa rời ghế nhà trường nao nức xông pha trận mạc – để chén mầy chén tao một buổi nhưng cuối cùng bất thành vì thời gian không thuận tiện cho một buổi chiều thứ Bảy mà mỗi người lại ở cách xa nhau.
                                Anh bạn Cao Nguyên cũng ở cách phi trường Reagan gần một tiếng đồng hồ, phải chạy tới nhà anh con trai đang sống giữa lòng thủ đô nhờ cùng vào phi trường đón.
                                Về tới nhà anh con, Cao Nguyên đổi xe đưa tôi về nhà qua những con đường quanh co tuyệt đẹp, cây lá xanh tươi, lên dốc xuống đồi; chẳng bù cho những con đường Houston, dù cũng cây lá tươi tốt nhưng phẳng lì như một người đàn bà đẹp không có vòng một.
                                Về tới nhà thấy sao quạnh vắng?! Hỏi ra mới nhớ là bà quận của đương sự đang có việc nhà ở Nam Cali cả mấy tuần rồi. Nhà không có sự hiện diện của quý bà bao giờ cũng lặng lẽ, nhất là khi những con chim non có đủ lông cánh bay xa. Đó là tình trạng chung của những gia đình Việt Nam trên đất nước này, mà theo nhà văn nữ Nguyên Nhung viết trong một truyện ngắn, “…giờ thì nhà chỉ còn lại hai con khỉ già…”. Khi “hai con khỉ già” ngồi nhìn nhau không “trào máu họng” thì kiếm chuyện cãi nhau cho vui, hoặc mỗi người ôm một laptop ngồi thiền hằng đêm cho tới giờ đi ngủ.

                                Mà quạnh vắng thiệt! Nhà thi sĩ xa phố chợ. Trong tủ lạnh có sẵn hai chiếc bánh bao lớn, gói xôi tôi mang theo chưa có dịp ăn… thế là hai người có bữa ăn tối ngoạn mục với chai rượu vang đỏ ngồi nói chuyện đời, chuyện tình qua đêm.
                                Sáng thức dậy, hai đứa cũng cà phê thuốc lá. Thi sĩ liên lạc với những người giúp chàng tổ chức ra mắt sách hôm nay. Tôi liên lạc với mấy người bạn cùng khóa hẹn ăn trưa với nhau ở trung tâm Eden. Xong đâu đó, hai người lên xe về phố. Nắng nhẹ, trời cao xanh, vẫn qua những con đường tôi rất thích. Lòng nhẹ tênh, thư thái ngắm nhìn cảnh vật chung quanh cho no đầy con mắt phiêu lưu. Tới điểm hẹn đã thấy mấy “ông thần” đứng đợi. Chúng tôi tay bắt mặt mừng. Chàng thi sĩ vì bận lo việc tổ chức nên không tiện dùng bữa với chúng tôi mặc dầu mấy người bạn khẩn khoản mời.
                                Bạn bè lâu quá không gặp nhau nên mừng vui chi xiết, kể nhau nghe về những thăng trầm cuộc sống, về gia đình, về con cái và những dự tính tương lai trong tuổi xế chiều… cho tới khi tôi phải đến nơi tổ chức. Chúng tôi chia tay nhau với những hẹn hò tương ngộ mai sau.


                                Địa điểm tổ chức giới thiệu sách là Nhà Việt Nam ở trung tâm thủ đô. Đây là trung tâm sinh hoạt của người Việt trong vùng. Phòng không lớn nhưng không quá nhỏ – khoảng 70 chỗ ngồi xếp theo kiểu rạp hát – dùng làm nơi dạy tiếng Việt, dạy đàn tranh, võ thuật… Khi tôi đến lúc hơn 2 giờ chiều phòng đã đầy người và chương trình đã bắt đầu. Nhìn phớt qua thành phần quan khách, tôi thấy hầu hết những khuôn mặt có tên tuổi trong làng văn báo và sinh hoạt chính trị của người Việt tại thủ đô. Có một số thi văn hữu ở xa tới và một số đông hội viên Văn Bút Vùng Đông Bắc Hoa Kỳ. Nếu không phải vì lòng mến mộ nhà thơ Cao Nguyên, những nhân vật này không dễ để có mặt trong các buổi giới thiệu sách vốn dĩ rất nhiều trong sinh hoạt văn chương hải ngoại.
                                Có bốn năm diễn giả giới thiệu, phê bình, và phát biểu cảm tưởng về thi tập đều rất súc tích, xuất sắc gồm có nhà văn, nhà hoạt động Cộng đồng Hồng Thủy, Giáo sư nhà văn – nhà phê bình văn học Nguyễn Lân, nhà văn Phong Thu, nhạc sĩ Vĩnh Điện, nhà thơ Nhất Hùng và ông nhà thơ Lê Mai Lĩnh cùng vợ và hai cô tiểu thư xinh đẹp đến từ Boston. Nhà thơ họ Lê nói về nội dung bài thơ Rừng Ơi (trang 87). Và là một ngẫu nhiên, tôi cũng đã chọn để diễn ngâm bài này trước khi cầm thi tập trong tay và đã được Ban tổ chức xếp đặt liền theo sau phần trình bày của chàng thi sĩ họ Lê.

                                Đặc biệt khi nói chuyện với ông nhà văn thiên tài Đào Trường Phúc tôi lại khám phá ra thêm ông ta cũng là Võ sư Thiếu Lâm Bắc Phái đang là Huấn Luyện Viên võ thuật tại hội trường này và một chi nhánh khác trong vùng. Không phải tôi nói anh thiên tài vì văn võ song toàn mà là một thông dịch viên tiếng Anh xuất sắc. Anh đã đảm nhiệm vai trò dịch thuật trực tiếp trong hai ngày Đại hội Tái lập Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại (VBVNHN) trước phái đoàn Văn Bút Quốc Tế (VBQT) vào năm 2001 ở Virginia. Anh đã chu toàn nhiệm vụ một cách tốt đẹp. Sự ngưỡng phục đó không chỉ riêng tôi mà là tất cả đại biểu hiện diện kể cả phái đoàn VBQT.
                                Trước khi chia tay với thi sĩ họ Lê, chàng đã tặng tôi một chai rượu thuốc bỏ túi (không biết Minh Mạng hay Thiệu Trị) thay cho lời từ chối bữa ăn tối ở Eden. Chúng tôi được Phong Thu khoản đãi ở một tiệm phở nổi tiếng ngon trong vùng. Ở đây tình cờ lại gặp gia đình thi sĩ họ Lê; chúng tôi ba chàng ngự lâm chia nhau chai rượu thuốc và những câu chuyện thi ca không dứt cho tới lúc chạng vạng từ giã nhau ra về.

                                Xe chạy trong đêm, đường sá quanh co, hai bên đường là những cây cao bóng tối, và xe cộ không tấp nập như ban ngày. Chỉ khoảng 45 phút mà sao thấy dường như rất xa. Có lẽ sự mong chờ nào cũng chậm đến dù hai chúng tôi không ngừng ôn chuyện thời xưa, điểm danh bạn bè… Chúng tôi mới gặp nhau trong lần hội ngộ đầu tháng tư vừa qua ở miền Nam California đây chứ có xưa cũ gì cho lắm; thế nhưng vẫn dài chuyện xưa nay, vẫn loanh quanh với tình cảm bạn bè, vẫn say sưa với tình chiến hữu…
                                Quyên, vợ Biểu, đón chúng tôi với nụ cười thật tươi. Từ ngày tôi quen biết với “cặp tình nhân” này chưa thấy Quyên thiếu vắng nụ cười trên môi bao giờ. Sở dĩ tôi nói “cặp tình nhân” vì Biểu vẫn luôn đối xử với vợ như tình nhân, nói năng cẩn thận, nhỏ nhẹ, tình tứ... y như chàng phi công hào hoa phong nhã dạo nào. Quyên cũng thế, vui vẻ, nhiệt tình, nồng nàn, tình cảm là những đức tính tự nhiên của nàng. Cặp tình nhân này luôn đối xử với nhau theo cung cách “tương kính như tân”, rất đáng quý mến.
                                Khi tôi thay quần áo xong, bàn tiệc nhỏ đã sẵn sàng. Thức ăn, đồ nhắm ê hề thêm vài chai rượu đỏ. Biểu hỏi tôi có muốn dùng cognac không, tôi từ chối khi nghĩ tới sức khỏe của mình. Sức khỏe của tôi dù đang “mạnh như rồng” nhưng cognac lúc này sẽ không tốt cho lục phủ ngũ tạng khi tuổi đời đã “em ơi có bao nhiêu...”. Chúng tôi lại chụm đầu ca bài Nhật Ký Đời Tôi version 2 của Thanh Sơn “ngược dòng thời gian, tìm về trong dĩ vãng phút giây ôi bùi ngùi. Bao nhiêu vui buồn chìm trong kỷ niệm ngày xưa chỉ còn mình tội hay mơ. Hay ghi nhạc buồn, hay đi một mình trong những chiều mưa tuôn. Khi yêu nhau rồi em đành quên sao, trả lời tôi…”. Vâng, không phải hát thiệt mà mỗi lần chúng tôi có dịp ngồi lại với nhau lại “tìm về trong dĩ vãng” để thấy “phút giây ôi bùi ngùi”. Nếu so sánh thời gian tản lạc quê người thì mấy năm làm lính chiến đâu có là bao mà sao cứ nói hoài vẫn không hết chuyện. Dù trong sinh tử chiến tranh nhưng phải nói đó cũng là một thời thời vàng son của lũ chúng tôi. Càng nghĩ tới càng thấm thía hơn, càng ôn lại càng thấy huy hoàng hơn dẫu vẫn biết những kỷ niệm đẹp thường không đẹp lúc nó vừa xảy ra. Mà nào phải kể chuyện xưa cũ cho những người không hiểu chuyện; thậm chí đôi khi người nghe chuyện lại là người trong cuộc mới thiên tài chứ! Thế nhưng lần nào gặp nhau cũng rôm rả quanh bên bàn rượu, cuộc trà như có cả kho tàng “chuyện ngàn lẻ một đêm”… Mãi tới khi mấy chai rượu vang đã cạn, những tình ca cũ đã vơi, chúng tôi cùng nhau ca bài “chuyến đi về sáng” để giấc ngủ muộn màng không là nỗi tiếc nuối khôn nguôi.

                                Sáng thức dậy trong một không gian thật bình yên. Biểu cũng thức dậy cùng lúc. Hai đứa pha cà phê ra ngồi dưới chiếc dù kiểng sân sau, mặc sức “làm ô nhiễm” không khí trong lành. Mặt trời đã lên cao, gió hiu hiu và nắng vàng, rất nhẹ, trải khắp đó đây. Thời tiết mát mẻ. Vài đám mây trắng lững thững bay trên bầu trời cao xanh biên biếc. Biểu và tôi cùng đồng ý đi bộ một vòng quanh xóm. Cũng giống như những khu nhà mới của ngoại ô các thành phố lớn khác, nhà cửa xây rất tân kỳ, san sát nhau, hoa kiểng đủ loại, đủ màu sắc hòa trộn với những hoa kiểng rất lạ, rất đẹp mà tôi không thấy ở Miền Nam nước Mỹ. Đặc biệt hơn nữa, nhìn xa xa là những núi đồi xanh thẳm, có khói núi chập chờn khiến lòng tôi lâng lâng một cảm xúc an bình, thư thái vô cùng. Đó đây vài ba người đi bộ như chúng tôi, rất hiếm xe cộ qua lại, không gian tĩnh mịch… một nơi lý tưởng để nghỉ ngơi cuối đời.
                                Chúng tôi dùng điểm tâm đã được Quyên dọn lên bàn khi về đến. Trong bữa ăn, tôi ngỏ ý muốn đi một vòng ngoại ô trước khi tới phi trường trở lại Kingwood. Hai vợ chồng Biểu rất vui vẻ cùng đi. Biểu lái xe qua những con đường rợp bóng quanh bờ sông Potomac uốn lượn quanh những ngọn đồi thấp. Tôi mở to mắt để cố thu lấy những vẻ đẹp thiên nhiên phương bắc. Trong thâm tâm tự nghĩ, đất nước Hoa Kỳ rộng lớn, yên bình, giàu có từ tấm lòng con người cho đến tài nguyên, thiên nhiên, cảnh quan đẹp hùng vĩ… đâu đâu cũng có luật pháp rõ ràng, an ninh cá nhân được bảo đảm, giá cả vừa túi tiền… Trong khi đó những châu lục khác, đặc biệt các nước Âu châu, Á châu đắt đỏ, thiếu an ninh; kém vệ sinh, không an toàn qua sự trải nghiệm của những người thích du lịch kể lại. Câu nói “nước Mỹ là thiên đường” ngẫm cũng không sai bao nhiêu.

                                Chúng tôi chạy lang thang hết một buổi sáng. Dĩ nhiên tôi thích ơi là thích. Cuối cùng Biểu – Quyên quyết định cho tôi vào thủ đô, ghé một quán Café nổi tiếng và sang trọng của Ý gần bờ sông Potomac. Chạy loanh quanh tìm không ra chỗ đậu xe đủ nhanh nên tôi called off (không đi nữa). Chúng tôi dự định ghé qua thăm ông bạn Thời cùng khóa đang oằn vai cơm áo ở trung tâm thủ đô nhưng các ngõ vào khu Tòa Bạch Ốc bị chắn lối để dành riêng cho cuộc diễn hành Lễ Chiến Sĩ Trận Vong 2014. Tôi nói với Biểu cho tôi vào phi trường sớm chút cho chắc ăn.
                                Lưu luyến chia tay với Biểu Quyên, hẹn gặp lại nhau ở Hội Ngộ 46 năm, Khóa 4/69 Sĩ quan Không Quân hiện dịch tại, Seatle 2015. Vâng, 46 năm, quả là một thời gian khá dài. Ở trên đất nước này đã 39 năm qua (vẫn cảm thấy như một người khách lạ) so với tuổi đời vừa có thêm mấy năm bonus. 39 năm! Con số gần gấp đôi thời gian sinh ra, lớn lên, đi học và làm lính chiến. Thế nhưng thời gian trên quê hương yêu dấu vẫn như cả cuộc đời. Ôi hai tiếng quê hương thiêng liêng làm sao! “Quê hương là gì hở mẹ” nếu không là sự nghèo khó ở tuổi thơ, không là đôi mắt nhìn đau đáu dưới gốc phượng già khi tiếng trống trường giục giã thay lời chia ly ở một đầu mùa hạ, không là khung cảnh chen chân ghi chép ở các giảng đường, không là những đêm nóng bỏng chiến trường…

                                Ngồi chờ chuyến bay, tôi lan man nghĩ tới việc tổ chức hội ngộ ở Seatle năm sau. Đáng lẽ tổ chức ở Houston như anh chị em đã thảo luận tại Hội Ngộ vừa qua. Có lẽ vì đang vui nên một số đông đưa tay biểu quyết cho xong việc, số khác cứ theo phản ứng tự nhiên mà đồng ý theo. Kịp khi những ngày vui hội ngộ đã lắng đọng, một số anh chị em mới chợt nghĩ là nên tìm chỗ mới để thăm viếng. Chẳng những tôi đồng ý mà còn cổ võ thêm vì tôi cũng muốn có dịp qua thăm lại Vancouver và Rose Garden ở Victoria Island. Cái gì chứ có cơ hội đi chỗ này chỗ kia bao giờ cũng là một hấp lực cuốn hút tôi.

                                Nói chuyện du lịch đây đó, tôi bỗng nhớ đến Mẹ tôi. Bà vẫn thường nói với tôi khi còn bé, “hai bàn chân của con có nhiều nốt ruồi chắc sau này sẽ phải bôn ba trên đường đời”. Tôi thương Mẹ lắm nhưng trong thâm tâm không có chút tin tưởng nào. Tôi rất ghét sự mê tín dị đoan, chẳng ưa mấy ông thầy cúng, rất phiền lòng khi thấy người ta đi chùa để cầu xin đủ thứ; nhất là giữa lúc chuông mõ kinh kệ trang nghiêm lại nghe tiếng xin xăm lạch xạch ở bàn thờ bên cạnh… Nhưng có một điều không thể chối cãi đó là tính thích giang hồ, thích đi đó đây từ những ngày còn rất bé. Nhìn lại đoạn đường đời tôi đã đi qua chỉ toàn chữ đi… lông bông! Lúc bé đi học nghe cắm trại là mừng run. Trại nào cũng muốn tham gia. Gia nhập gia đình Phật tử lại thích theo giúp việc Sư Thầy mỗi khi ngài đi chỗ này chỗ khác thuyết giảng. Bởi vậy có một độ xin Thầy xuống tóc đi tu. Thầy không cho, về nhà khóc, nhịn ăn, thuyết phục Ba Mẹ tới cầu xin. Ba Mẹ cưng chìu nên cũng tới xin, nói với Thầy rằng “chắc cháu có căn tu, chúng con rất vui lòng, kính mong Thầy thu nhận làm đệ tử”. Thầy nhất quyết không cho, nói rằng “tướng nó mà đi tu cùng lắm chỉ được một thời gian ngắn cũng sẽ trốn chùa, vô ích“. Ba Mẹ mang con về khuyên nhủ năm ngày ba bữa thì nguôi. Trong sinh hoạt đoàn, ai rủ đi đâu cũng welcome. Cứ nghe chữ đi là tíu tít. Xong bậc trung học đệ nhất cấp, bằng mọi giá xin đi học xa nhà, hết tỉnh tới thành phố dù có phải làm thêm để phụ Ba Mẹ số chi phí ăn học khá cao. Học chưa tới đâu thì “nghe theo tiếng gọi phiêu bồng” đi mây về gió. Rồi một “thuở trời đất nổi cơn gió bụi”, hai tay dắt hai đứa em học trò chạy bạt mạng tới xứ Cờ Hoa muôn trùng dặm thẳm! Tưởng sẽ cố gắng yên định để lo tương lai cho các em, cho bản thân và nghĩ rằng đại gia đình cũng sẽ trông cậy vào mình dù chưa liên lạc được! Nhưng có lẽ bị mấy cái nốt ruồi ác ôn dưới hai bàn chân thúc giục nên lại khăn gói quả mướp, một mình một ngựa lên đường. Ngựa là chiếc xe cà tàng mua mấy trăm bạc dành dụm sau mấy tháng dài dãi nắng dầm mưa.
                                Một thân một mình đi ta bà tứ xứ hơn một năm. Đi tới đâu cũng cố làm việc độ thân, cố ghi tên đi học… mà nào có làm có học gì được lâu lại “ngựa quen đường cũ”… lên đường! Khi tới bắc Cali thì không còn đủ sức để đi tiếp nên trụ lại đây đi học đi làm. Một thời gian ngắn bỗng dưng giật mình nhìn lại bản thân, không thấy tương lai sự nghiệp là đâu mà tuổi đời cũng đã vượt khỏi lằn ranh “tam thập nhi lập”.

                                Bây giờ ngồi tính lại sổ đời, nếu không may mắn gặp được nhà tôi thì không biết những nốt ruồi “phải gió” dưới hai bàn chân còn dẫn dắt tôi tới vùng trời biển nào nữa. Nhưng việc đời, cái hên của tôi chính lại là cái xui của nhà tôi vì nàng phải theo chân tôi hết Cali đến Texas qua lại bao lần sau khi giữ chân tôi đủ lâu để cả hai cùng hoàn tất chương trình học đại đại học.

                                ***

                                Về đến Houston hơn 6 giờ chiều ngày lễ Chiến Sĩ Trận Vong. Nắng vẫn còn rực rỡ cùng với sự nhộn nhịp thường tình của phi cảng trong những ngày lễ làm đôi chân vui bước ra khỏi cổng.
                                Nhà tôi chờ sẵn ở cổng trạm đến với nụ cười rạng rỡ trên môi. Nàng chủ động đưa tôi về thăm Mẹ. Mẹ tôi ở với ông con út, thứ 9, độc thân nhưng khó tính; gia đình ông con thứ 7 không xa, gia đình cô con gái út 10 cũng chỉ cách 5 dặm. Chỉ có tôi và ông thứ 8 ở cách xa Mẹ, xa nhau cả tiếng đồng hồ lái xe. Mẹ tôi năm nay đã ở tuổi 93 nhưng Cụ còn khỏe mạnh, minh mẫn bình thường ngoại trừ đôi đầu gối không cho phép Cụ đi đứng thoải mái và những cơn suyễn đôi khi thăm viếng bất thường. Cụ có thể ngồi binh xập xám, đánh bài cát-tê với con cháu hàng giờ mà không thấy chỉ dấu mệt mỏi chút nào. Cụ luôn trông mong cuối tuần để thấy con cháu đầy nhà, để nghe tiếng cười tiếng nói rộn rịp, để thấy đàn tằm ăn dâu, để rồi cùng con dâu rể gầy sòng sau bữa ăn tối. Việc họp mặt đông đủ các gia đình anh em cuối tuần chứng tỏ cho Cụ thấy sự thương yêu, đùm bọc, thuận hòa với nhau. Cụ thường nói với anh chị em khi họp mặt gia đình đông đủ “trong nhà này, đứa nào cũng là con của Mẹ, có nghĩa là không phân biệt con ruột, con dâu, con rể gì cả”.Hạnh phúc của Cụ chỉ có thế thôi nhưng giữ cho Cụ sống vui vẻ để san sẻ hạnh phúc với mọi gia đình con cháu
                                Thấy tôi bước vào, Cụ mừng nói, “con về tới nơi bình an là tốt rồi”. Mỗi lần tôi đi đâu cũng cho Cụ biết và lần nào cũng nhận được một câu chúc và lời khuyên tương tự: “đi đâu mà đi hoài vậy con; đi đứng cẩn thận, lúc nào cũng nên ngó trước nhìn sau, chúc con đi bình yên”.
                                Tôi ở chơi và ăn tối với Mẹ vài tiếng trước khi ra về.
                                Một cuối tuần thiếu ngủ và nhiều hoạt động tâm tình bây giờ mới thực sự chiếu cố đến tôi khi ngồi yên trên xe cho bà quận rước về dinh.

                                Cuối tháng 5/2014
                                Last edited by chimtroi; 07-15-2014, 08:43 PM.
                                Mời bạn ghé thăm nhà:
                                http://thovanyenson.com

                                Comment



                                Hội Quán Phi Dũng ©
                                Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




                                website hit counter

                                Working...
                                X