Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Đôi Dòng Cảm Nghĩ Về NGÀNH KHU TRỤC.

Collapse
X

Đôi Dòng Cảm Nghĩ Về NGÀNH KHU TRỤC.

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Đôi Dòng Cảm Nghĩ Về NGÀNH KHU TRỤC.

    Đôi Dòng Cảm Nghĩ Về NGÀNH KHU TRỤC.

    Hiệp Sĩ Mù


    Cựu Th/Tá Nguyễn Thiện Ân "Hiệp Sĩ Mù"

    Ngày đại hội Khu Trục sau 30 năm trên đất khách sẽ diễn ra tại San José. Tin tức thật hấp dẫn làm cho nhiều bạn tuy chân đã mỏi, gối đã chùng vẫn cảm thấy dòng máu trong huyết quản như được hâm nóng trở lại, và mong cho mau đến ngày hội kiến những gương mặt trẻ trung "của những ngày còn tung hoành trên bầu trời quê hương, bảo vệ xứ sở". Tuy nhiên, cũng có một số bạn, vì bệnh tật hay vì hoàn cảnh không cho phép (trong số đó có tôi) đành phải đứng ngoài cuộc vui ngàn năm một thuở này. Trở lại hơn 40 năm về trước, "13 anh em chúng tôi" tốt nghiệp hoa tiêu T-28 tại Randolph AFB, Texas vào ngày 27 tháng 3 năm 1964 (con số 13 xui xẻo). Sau lễ mãn khóa gắn cánh bay, năm người tiếp tục được gửi đi học khóa "Jungle Survival" tại Reno, Nevada, gồm Nghê Thế Hưng, Bùi Quang Lộc, La Hồng Môn, Nguyễn Văn Tám và Đinh Quốc Trực. Bẩy người ở lại xuyên huấn trên C-47, gồm: Phạm Gia Anh, Nguyễn Thiên Ân, Nguyễn Qúi Chấn, Nguyễn Hữu Duyên, Nguyễn Hải, Trần Văn Nghĩa, Nguyễn Văn Tường. Người còn lại là anh Nguyễn Nhật Quang về nước, và anh đã hy sinh 6 tháng sau đó trên A1H.


    Sau khi xong phần xuyên huấn trên phi cơ C-47, anh Chấn ở lại tiếp tục học thêm khóa phi cụ (anh cũng là người đậu "outstanding" của khóa). Sáu anh em chúng tôi hồi hương. Khi trình diện BTLKQ / Khối HL, lúc bấy giờ chúng tôi gặp Đại Úy Vũ Thượng Văn, ông hỏi:

    - Ở đây có ai tình nguyện sang ngành Khu trục thì dơ tay lên?

    Tất cả chúng tôi đều im lặng (vì ai cũng nghĩ rằng mình sẽ được thuyên chuyển về các phi đoàn Vận tải, đỡ phải xông pha trong lửa đạn thì gia đình sẽ an tâm hơn). Ông hỏi lại lần thứ hai, và đến lần thứ ba thì anh Nguyễn Hải (vốn nhát gan) đã giơ tay lên. Ông nhìn anh và bảo để tay xuống, rồi ông lạnh lùng phán một câu:

    - Các anh có tình nguyện hay không thì tất cả đều được phân phối về các phi đoàn Khu trục!

    Danh xưng "HOA TIÊU KHU TRỤC" của chúng tôi được bắt đầu kể từ đó. Lúc bấy giờ đang là thời gian chờ chuyển tiếp từ T-28 sang A1H nên chúng tôi được tạm thuyên chuyển về Phi đoàn 716 (do Đại Úy La Vĩnh Sinh) làm Phi đoàn trưởng của Phi đoàn Không ảnh, gồm đủ loại phi cơ: C-47, T-28, L-20. Chúng tôi được bay trên C-47, ngồi ghế co-pilot. Thỉnh thoảng bay duy trì khả năng trên T-28B. Phi đoàn đồn trú tại phi trường Tân Sơn Nhất thành thử cũng cảm thấy dễ chịu ở thời gian đầu của nghiệp bay.

    Một tháng sau đó, tất cả chúng tôi được thuyên chuyển về Phi đoàn 520, đồn trú tại căn cứ Không quân Biên Hòa (đơn vị chịu trách nhiệm trong chương trình huấn luyện chuyển tiếp các hoa tiêu T-28 mới ra ràng từ Hoa Kỳ vừa về nước để bay trên A1H). Chương trình huấn luyện gồm có ba giai đoạn:

    Giai đoạn 1: bay huấn luyện trên A1G với 34th Tactical Group khoảng 5 hoặc 6 phi vụ.
    Giai đoạn 2: bay huấn luyện trên A1H với phi đoàn Huấn Luyện VA-152 của Hải quân Hoa Kỳ.
    Giai đoạn 3: bay thực tập hành quân với 34th TAC Group trên A1G (khi thì ngồi ghế co-pilot, khi thì ngồi ghế pilot). Thời gian này là thời gian đáng sợ nhất vì đã có biết bao nhiêu hoa tiêu VN tử nạn do phần lớn chúng tôi chỉ được ghế phải (co-pilot) để cho các phi công Hoa Kỳ mặc tình tập khả năng tác chiến trên chiến trường Việt Nam (mà họ tưởng như thời chiến tranh ở Triều Tiên). Danh từ "tháp tùng tử" được biết từ dạo đó!

    Về sau, BTLKQ/VN mới can thiệp và các hoa tiêu được thay thế bởi các HSQ phi hành "tình nguyện hoặc đương nhiên" (trong thời chiến, số phận của mỗi người như thế nào thì "thiên cơ bất khả lậu!").

    Chúng tôi là khóa đầu tiên được huấn luyện với phi đoàn VA-152 của Hải Quân Hoa Kỳ (theo chương trình của BTLKQ). Khóa học gồm có sáu anh em chúng tôi, có thêm Thiếu Tá Nguyễn Huy Ánh (sau này là Chuẩn Tướng, Sư Đoàn Trưởng SĐ4KQ) và Đại Úy Nguyễn Văn Tường (Đại Tá Sư Đoàn Phó SĐ3KQ sau này). Sau khi hoàn tất chương trình huấn luyện, chúng tôi được phân phối đến các phi đoàn như sau:
    Phạm Gia Anh về PĐ. 514 và anh đã đền nợ nước vài tháng sau đó (bị đạn phòng không bắn xuyên cổ khi thả Napalm) Nguyễn Hải về PĐ.518 (sau này được thuyên chuyển về phi đoàn phản lực siêu thanh).

    Trần Văn Nghĩa về PĐ.516 (khoảng một tháng sau đó, khi Phi Đoàn 524 được thành lập, anh trực thuộc quân số của đơn vị này).

    Nguyễn Hữu Duyên, Nguyễn Văn Tường và tôi được giữ lại quân số PĐ.520 (khoảng một tháng sau anh Tường được thuyên chuyển ra Nha Trang, về PĐ.524. Sau anh được chọn đi học chuyển tiếp trên phi cơ F5, thuộc quân số của PĐ.522, phi đoàn phản lực đầu tiên của Không lực VNCH). Còn anh Duyên, sau khi cùng với PĐ. 520 du học chuyển tiếp A37 tại England AFB, thuộc tiểu bang Louisiana, Hoa Kỳ trở về, anh giữ chức vụ Trưởng Phòng Hành Quân Chiến Cuộc. Trong một phi vụ tìm cứu phi cơ L-19 của PĐ.116 lâm nạn vùng Long Xuyên, anh ngồi trên chiếc trực thăng cùng với Thiếu Tá Chín là PĐT/PĐ.116, trong lúc thời tiết xấu, trưởng phi cơ bị lạc đường, anh phải rời ghế ngồi để chỉ phương hướng và do thiếu bình tĩnh, trưởng phi cơ đã để chiếc trực thăng chạm đất, anh bị văng ra ngoài, gẫy cả hai chân, đầu bị một vật cứng đụng phải, thế là đơn vị đã thiệt mất một vị sĩ quan hoa tiêu có đầy tài năng, tác phong của một cấp chỉ huy tương lai, và một người bạn chân tình!

    Về phần năm anh học khóa Jungle Survival:

    Anh La Hồng Môn, vì lỶ do an ninh nên anh được chuyển sang ngành quan sát. Trong một phi vụ chở VIP, phi cơ của anh bị lâm nạn (anh bị bắt buộc cất cánh vào buổi chiều tối, lúc thời tiết xấu, theo lệnh Tỉnh trưởng tỉnh Lâm Đồng).

    Hai anh Đinh Quốc Trực và Nghê Thế Hưng được đổi về PĐ.518 (sau một thời gian anh Hưng xin về Trường phi hành, Nha Trang).

    Bùi Quang Lộc và Nguyễn Văn Tám đầu quân về PĐ.520 với chúng tôi (riêng anh Tám rất nhiệt thành và năng nổ trong các buổi tổ chức sinh hoạt của phi đoàn. Anh cùng với một hoa tiêu mới đã hy sinh vào đêm mồng 1 rạng mồng 2 tết Tết Mậu Thân).

    Tôi còn nhớ cái cảm giác thật khó tả nên lời của những phi vụ hành quân đầu tiên bay một mình trên chiếc A1H với đầy đủ bom đạn. Khi phi cơ vừa lăn bánh, trong lòng đã bắt đầu lo, tự hỏi không biết một lát nữa đây có gì rủi ro sẽ xẩy đến cho mình?!? Sau khi cất cánh, tôi dùng hết khả năng của mình cố gắng bám theo "leader". Cái cảm giác lo sợ rủi ro biến đâu mất mà chỉ lo người "lead" chê mình "bay bổng không nên thân".


    Trên mục tiêu cũng thế, tôi đã ráng hết sức để thả bom và bắn đại bác cho chính xác. Vì vậy biết bao nhiêu lần đã bị phi tuần trưởng rầy rà do nhào xuống mục tiêu qúa thấp và cũng chính vì thế mà đôi lần phi cơ của mình đã bị lãnh miểng bom hay bùn lầy văng tung tóe trên cánh phi cơ, kể cả "windshield" phía trước. Sau này khi đã trưởng thành trong nghiệp bay, tôi mới hiểu được tấm long của những cấp chỉ huy hay những phi tuần trưởng của mình (cũng vì thương cho đàn em mà phải nghiêm khắc với những lỗi lầm có thể tránh được).

    Nhắc đến những người đàn anh trong ngành Khu trục, chúng tôi nhớ tới Trung Tá Võ Văn Hội, là một trong những cấp chỉ huy trực tiếp của chúng tôi ngày xưa. Ông là một người rất vui tính, mỗi lần ông hứng chí lên là bắt đầu huyên thuyên, kể lại những chuyện vui, nghịch ngợm thời trai trẻ. Nhưng cũng có lúc ông giận đỏ cả mặt, tía cả tai vì một đàn em nào đó đã phạm lỗi (lúc bấy giờ tất cả chúng tôi đều nghĩ rằng anh chàng hoa tiêu đó thế nào cũng bị hưởng hình phạt nặng nề. Thế rồi, khi song đã lặng, biển đã êm thì chẳng có việc gì xẩy ra cả).

    Hồi mới về đơn vị, ông đã bắt tất cả hoa tiêu trong phi đoàn học thuộc long bài hát nói về "công ơn sanh thành và dưỡng dục của cha mẹ" để thức tỉnh những hoa tiêu còn non trẻ trong ngành (với hy vọng tránh được những tai nạn do sự bồng bột của tuổi trẻ mà ông đã từng trải).

    Thực sự, chúng tôi chưa từng thấy có hoa tiêu đàn em nào bị ông kỶ giấy phạt bao giờ. Ngày ông bị phòng không bắn nát bàn tay trái, và kể từ ngày ấy, ông đành phải rời bỏ nghiệp bay. Khi ông lành bệnh trở về đơn vị, ông đã tâm sự với chúng tôi rằng ông thật sự tiếc nuối những ngày còn được cùng với anh em tung hoành trên bầu trời, trước là để bảo vệ quê hương xứ sở, sau là được hưởng những cảm giác thật sảng khoái, một mình trên bầu trời trong xanh, tránh xa được những ưu phiền mà đôi khi chúng ta đành chấp nhận. Ông cũng hãnh diện trong nghiệp bay của mình, "chưa từng để mất một phi tuần viên nào". người ta bảo, ông mát tay, nhưng thực tế phải công nhận rằng ông là một phi tuần trưởng có thực tài. Đặc biệt trong lần dẫn phi tuần 16 phi cơ A1H phi diễn nhân dịp lễ tiếp nhận phi cơ phản lực siêu thanh F-5 tại Biên Hòa, vì lỶ do thay đổi giờ T.O.T. đã khiến cho các phi tuần phi diễn gặp trở ngại. Tuy nhiên, những thành viên trong đội hình của phi tuần do ông dẫn dắt vẫn cảm thấy thoải mái và tuyệt đối im lặng trên tần số.

    Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông bị tập trung HTCT. Đến khoảng năm 1988, tôi có đến nhà thăm ông, và ông đã giã từ bạn bè vào khoảng mùa mưa năm ấy vì bị bịnh sốt cấp tính.

    Cuộc đời của chúng tôi gắn liền với "Ngành Khu trục" cho đến ngày tàn cuộc chiến. Chúng tôi vẫn hăng say, ngày ngày thi hành các phi vụ hành quân yểm trợ quân bạn. Những trận đánh ác liệt khắp 4 vùng chiến thuật, vào những thời điểm như không còn đủ sức để chạy ra bãi đậu phi cơ ở những ngày rối loạn của Tết Mậu Thân (có người đã giật mình tỉnh giấc sau một phi vụ bay đêm trở về, mà tưởng mình đã bị rớt ở một vùng trời trách nhiệm nào đó!). Ở những ngày ngập tràn khói lửa của mùa hè năm 72, biết bao hoa tiêu khu trục, nói riêng, và vận tải, trực thăng, quan sát, nói chung, đã sớm rời bỏ ngành, bỏ cả gia đình, cha me, vợ con than yêu, kể cả bạn bè không một lời từ giã.

    Với thời gian, chúng tôi học được thêm kinh nghiệm từ những cấp chỉ huy đến các bạn cùng trang lúa, kể cả những đàn em của mình, vì biết rằng trong cuộc chinh chiến, những viên đạn vô tình nào có từ bỏ một ai!!!

    Chiến trường càng ngày càng sôi động. Bọn Cộng sản điên cuồng đem quân ồ ạt để lấn chiếm miền Nam, chúng vừa ăn cướp vừa la làng. Quân đội VNCH bị bó tay bó chân, chỉ được phòng thủ để lo chống đỡ những đợt tấn công toàn diện vào thời điểm Tết Mậu Thân và "Mùa Hè Đỏ Lửa" năm 1972, và đặc biệt trong trận chiến cuối cùng đầy uất hận của năm 1975. Cộng sản Bắc Việt được quan thầy của chúng trang bị những vũ khí tối tân, trong khi quân lực VNCH chỉ có Garand M1 và Carbine M2 để tự vệ trong đợt tổng tấn công của chúng vào dịp Tết Mậu Thân. Trong khi đó, quân đội đồng minh Hoa Kỳ án binh bất động, mãi hơn một tuần sau đó họ mới rrịch tham chiến. Nếu có hỏi thì họ chỉ bảo là phải thi hành lệnh của cấp trên mà thôi. Các phi công khu trục bay ngày bay đêm, phi tuần vừa cất cánh là đã nhận những điện cầu cứu của quân bạn ở khắp mọi nơi trên toàn lãnh thổ. Phải công nhận rằng, các phi công khu trục đã chiến đấu thật dũng cảm mặc dù đã có biết bao người bạn một đi không trở lại.


    Rồi lại đến "Mùa Hè Đỏ Lửa" năm 1972, tất cả các phi đoàn Quan sát, Trực thăng, Vận tải, Khu trục đều tham chiến và không còn phân biệt ngành nào an toàn hơn ngành nào như nhiều người đã từng nghĩ, theo sự hiểu biết đơn giản và tầm thường trong thời chiến. Những tin tức đủ các loại phi cơ lâm nạn vì cuộc chiến, mang theo những người bạn, những chiến sĩ Không quân, kể cả chuyên viên kỹ thuật, phi đạo, vũ khí đạn dược, nhân viên, tài chánh, phòng thủ v.. vẨ Tự nghĩ lại và so sánh với các Quân, Binh chủng khác, thấy rằng mình còn may mắn hơn biết bao nhiêu người. Vừa được trang bị bom đạn trong tay đủ để khiến cho kẻ thù phải run sợ, vừa yểm trợ cho quân bạn được vững lòng trong nhiệm vụ bảo vệ quê hương, xứ sở.

    Nói đến Ngành Khu Trục mà quên nhắc đến danh xưng của một văn phòng đặt tại BTLKQ, thuộc văn phòng TMP/HQ, "Khối Đặc Trách Khu Trục" là một thiếu sót lớn!

    Thú thật, ngày mới gia nhập vào ngành khu trục, khi nói về BTLKQ chúng tôi cảm thấy có một khoảng không gian ngăn cách khó diễn tả giữa BTLKQ và các Không đoàn Chiến thuật. Lại càng xa hơn nữa đối với các phi đoàn, mà chúng tôi là những thành viên luôn gắn bó trong sinh hoạt hàng ngày (có nghĩa là sống chết gần gũi với nhau). Mãi đến sau này, có dịp về BTLKQ để trình diện du học chuyển tiếp sang một loại phi cơ khác, chúng tôi mới có cơ hội tiếp xúc với những văn phòng liên hệ như Nhân viên, Hành chánh Tài chánh, Du học, Huấn luyện, Hành quân (trong đó có Phòng Đặc Trách Khu Trục, sau này là Khối Đặc Trách Khu Trục). Thời điểm lúc bấy giờ (khoảng năm 1967-1968), nói là văn phòng, thật sự chỉ có một cái bàn làm việc thật khiêm tốn. Chúng tôi tạt ngang qua chào thăm mà chẳng phải làm thủ tục gì cả. Đến năm 1970, Phòng Đặc Trách đó có đủ 4 ngành, gồm Khu trục, Trực thăng, Quan sát và Vận tải làm việc chung với nhau. Anh Lại Quốc Ấn là nhân viên kỳ cựu của văn phòng này. Phần tôi cũng có một chút duyên nợ với văn phòng này, đầu tháng 9-1974 tôi nhận được giấy thuyên chuyển về Khối Đặc Trách Khu Trục.

    Tất cả công việc đều mới lạ đối với một hoa tiêu ở đơn vị tác chiến chuyển sang làm việc tham mưu ở văn phòng. Khối Đặc Trách Khu Trục tọa lạc ở ngay phòng đầu tiên trong dẫy tầng lầu thứ nhất khi vào BTLKQ, dành cho Văn phòng Tham Mưu Phó Hành Quân. Một phòng thật khang trang và thoáng mát, nhân viên gồm có:

    Trưởng Khối Đặc Trách:
    Trung Tá Lê Như Hoàn.

    Trưởng ban Định chuẩn:
    Trung Tá Lại Quốc Ấn.
    Sĩ quan phụ tá:
    Thiếu Tá Nguyễn Gia Tập.

    Trưởng ban Hành quân:
    Trung Tá Nguyễn Thành Dũng.
    Sĩ quan Hành quân:
    Thiếu Tá Vũ Ngô Dũng.

    Sĩ quan nghiên cứu kỹ thuật và chiến thuật:
    Thiếu Tá Nguyễn Thiên Ân.

    Trưởng ban An ninh phòng nạn:
    Thiếu Tá Hồng Khắc San
    Sĩ quan phụ tá:
    Đại Úy Lại Tấn Cầu

    Ban Văn thư gồm một Thượng sĩ và hai Hạ sĩ quan phụ tá.

    Tuy làm việc ở văn phòng nhưng tôi được Đại Tá Tham mưu phó và Trung tá trưởng khối cho phép tôi về cùng bay hành quân với các phi đoàn A-37 mỗi tuần (có khi 2 hoặc 3 phi vụ). Nhờ thế, tôi cảm thấy lòng mình thật sảng khoái khi được cùng chia sẻ với anh em những vui buồn và những mất mát ở những ngày tàn của cuộc chiến. Ngoài ra, tôi cũng thu thập được rất nhiều kinh nghiệm về tham mưu mà ngày xưa mình không bao giờ quan tâm tới. Hàng ngày chúng tôi thay phiên nhau họp trên văn phòng BTLKQ, thỉnh thoảng được đại diện BTLKQ sang họp bên Tổng Tham Mưu, đôi khi cùng phái đoàn Thanh tra các Sư đoàn Không quân hoặc thuyết trình tại trường Tham mưu cao cấp Long Bình. Sau này, BTLKQ chỉ thị cho các ngành trong quân chủng được quyền đề nghị bổ nhiệm hoặc thuyên chuyển nhân viên trong ngành tùy theo nhu cầu các đơn vị. Cũng chính vì thế mà nguyện vọng của anh em ở các đơn vị xa được giải quyết một cách mau lẹ (theo nhận xét riêng của cá nhân tôi). Càng ngày các anh em ngành khu trục ghé văn phòng chúng tôi càng nhiều hơn. Riêng tôi, được phép liên lạc với 19 phi đoàn khu trục bằng diện thoại để cập nhật hóa tình trạng tổng quát mỗi tuần và cũng chính vì thế mà vô tình tôi đã thuộc nằm lòng tên, họ và chữ lót của trên 700 hoa tiêu có chỉ số của ngành. Thời gian được làm việc ở Khối đặc trách khu trục chỉ vỏn vẹn tám tháng ngắn ngủi, mà thời gian đó cũng chính là thời gian mà tôi cảm thấy dài nhất trong cuộc đời quân ngũ của mình. Biết bao những sự kiện quan trọng đã xảy ra cho đất nước và cho chính cả số phận của toàn dân và quân của miền Nam tự do.


    Tôi vẫn còn nhớ ngày mà SĐ1KQ phải di tản, chúng tôi đã thức trắng gần như trọn đêm hôm đó, vui mừng khi biết có một đồng đội đã về đáp an toàn tại một phi trường (Phù Cát, Phan Rang, Biên Hòa, hoặc TSN). Chúng tôi thật xót xa khi liên lạc được với những đồng đội của mình còn kẹt lại ở phi trường Đà Nẵng trong tình trạng đang bị pháo kích rồi sau cùng nói lời từ biệt chúng tôi vì Việt cộng đã tràn ngập căn cứ.
    Đã gần 30 năm qua, mỗi lần hồi tưởng lại cảnh tượng bi đát của những đồng đội, cũng là những đàn em của mình, như rắn mất đầu, đang ngưỡng vọng về Khối đặc trách khu trục để cầu cứu, hy vọng có được một chút tia sáng nào đókhả dĩ giúp cho họ có một hướng giải quyết ổn thỏa. Nhưng thật đau lòng biết bao! Chúng tôi chỉ có được lời khuyên: "Thôi, các em hãy cố tự lo liệu lấy thân và bảo toàn mạng sống". Hình như có gì cay cay ở đôi mắt và đăng đắng ở lưỡi mình, cổ họng như bị thắt lại. Phải chăng những cay đáng của cuộc đời mà người ta thường nói là ở đây!?

    Rồi kế tiếp các căn cứ Phù Cát, Phan Rang và chót hết là phi trường Biên Hòa cùng với chúng tôi một số phận. "Đi không ai tìm xác rơi"

    Chỉ với mấy lời đơn sơ trong bài "Không quân hành khúc" đã tạo cho những phi công của Không lực VNCH lòng can đảm, và biết bao anh hùng đã hy sinh!

    Giờ đây, chúng ta được cùng nhau ôn lại những kỷ niệm không thể nào quên, nhất là những người bạn thân thương đã ra đi trong cuộc chiến bảo vệ quê hương xứ sở của ba mươi năm về trước.
    Xin thành kính để tưởng niệm và nhớ ơn những chiến sĩ của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, đã vị quốc vong thân.

    Hiệp sĩ mù
    Last edited by khongquan2; 08-20-2012, 01:00 AM.

  • #2
    Hôm nay, tình cờ lục lạo trong diễn đàn Hội Quán Phi Dũng mới phát hiện ra một người quen với bài viết "Đôi Dòng Cảm Nghĩ Về Ngành Khu Trục". Hiệp sĩ Mù đã diễn tả những cái rất thực của những phi công khu trục còn non trẻ mới ra lò, vui mừng khi được check out hành quân, bay ở vị trí phi tuần viên. Lúc ấy, chúng tôi xem "leader" như người hùng, suốt phi vụ lúc nào cũng tỏ ra ngoan ngoản, bay bám sát, tầm mắt không dám rời mất số 1, vì nếu mất số 1 chắc chắn là phi tuần viên khó mà xoay sờ và chưa chắc là đã biết đường về đáp.
    Nhớ phi vụ đầu tiên bay hành quân, tôi bay số 2 , leader là cù lủ thiếu tá Nguyễn Văn Tường (mực). Tâm trạng tôi rất lo lắng, trên đường đi cố gắng bám sát ông, đến mục tiêu, bom ông thả ở đâu, tôi cố gắng thả đúng nơi đó. Mình cứ tưởng sau khi debrief, ổng sẽ khen 1 câu, không ngờ ổng đã phán:"anh phải thả bom khác vị trí của tôi thì mới giết thêm VC chứ". Rồi ngày tháng qua mau, người phi công khu trục nào cũng theo thời gian mà trưởng thành,những người trẻ tuổi sau nầy rất xuất sắc, gan dạ và liều lĩnh, đã không hổ thẹn cho quân chủng KQ hào hùng. Phi đoàn khu trục cánh quạt 530 Thái Dương, tôi cảm phục những phi công hào hùng như Nguyễn Tài Cơ bị bắn rơi, lẩn lút trốn tránh trong rừng rậm 2 ngày đêm, khi được bốc về, ngày hôm sau đã xin được bay hành quân trở lại. Trần Ngọc Hà bị bắn rơi 2 lần. Tôi khâm phục và ngưỡng mộ những phi công khu trục bị bắn phải bỏ phi cơ mà nhảy dù. . . Đó mới xứng đáng và đúng nghĩa là "người phi công khu trục". Tôi vẫn thấy hối tiếc khi cuôc chiến chấm dứt mà tôi chưa có cơ hội nhảy dù một lần nào.
    Đọc bài nầy của Hiệp sĩ Mù tự nhiên nhớ lại những người bạn củ, mà giớ đây kẻ ờ người đi. Nhớ đến Huỳnh Văn Vui, Nguyễn Hữu Duyên, Sơn (gáo), Huỳnh Công Danh, Châu Trung Thành, Nguyễn Phấn Chấn (jango), Nguyễn Văn Xuân (rổ), câu Tám Uẩn, Tuấn (tèo), Hoàng thân Phạm Quang Điềm, Lê Mộng Hoan, Nguyễn Văn Thi, Tạ Hoà Hưởng, Trần Mạnh Khôi, Thái Phương Thủy, Mai Văn Hiền, Nguyễn Quang Thẩm, Hai (voi),, Hà Văn Thoại, Hồ Sĩ Hoàng, Bùi Văn Minh, Lê Văn Thặng, Bùi Quang Lộc, Huỳnh Cao Khải, Hiền (điên), Anh (lé), Nguyễn Tấn Trinh, Nguyễn Tấn Ngàn.
    Cuộc đời người, kiếp phù du. . .Chúng ta hãy vui sống với những kỷ niệm hào hùng của một thời ngang dọc . . .

    Comment



    Hội Quán Phi Dũng ©
    Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




    website hit counter

    Working...
    X