Thông báo

Collapse
No announcement yet.

MẸ ! Sợi Tơ Rung Bần Bật Giữa Lưng Trời

Collapse
X

MẸ ! Sợi Tơ Rung Bần Bật Giữa Lưng Trời

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • MẸ ! Sợi Tơ Rung Bần Bật Giữa Lưng Trời


    MẸ ! Sợi Tơ Rung Bần Bật Giữa Lưng Trời
    Chúng con đau đớn kính gửi ba mẹ đóa hoa hồng trắng.
    tìnhhoàihương





    Tôi cố gắng giằng co, níu kéo, quyết giành lại chiếc áo gấm cũ với định mệnh. Dù thời gian trôi qua, đã khiến chiếc áo hư hao, phai mòn, sờn úa ít nhiều. Và không gian trôi dần, trôi dần về phía tương lai tách bạch ra đôi bờ cuộc sống. Không ai có cách gì ngăn chận tuổi già héo hắt đến trước thời gian. Vâng! Có lẽ nay tinh thần lẫn thể chất tôi đã già cỗi! Và, chiếc áo gấm năm xưa còn đây, mà ngón tay gầy run run, tôi cài hoài mấy nút áo cũ, vẫn chưa xong. Thời gian đã cướp dần đi tất cả. Vẫn biết thế, nhưng tôi mong muốn níu kéo, âu yếm dùng dằng ngắm nhìn lại chiếc áo gấm. Nếu tôi được nhìn nhiều lần càng tốt.
    Ngày ấy, chúng tôi vui vẻ dừng chân trên con đường mòn vòng vo uốn lên uốn xuống, gãy khúc quanh co ven đồi thông ru tình tại Đà Lạt. Chúng tôi chỉ nhìn vài con chim lí lí lắc lắc, rù rì bay qua bay lại trên những cành cây mảnh dẻ, mà cảm thấy hay hay, vui vui. Lần đó, tôi liếc liếc, lí lắc ghé ghé đầu thẹn thùng e ấp cười, tôi dùng hai ngón tay quệt nhè nhẹ vào má mà lêu lêu Luật, để trêu chọc chàng, và say đắm nhìn Luật. Hai bàn tay tôi nhẹ nhàng, khéo léo khép vạt áo veston của chàng, rồi cài hộ Luật mấy nút áo, cho chàng bớt bị gió lạnh lùa vào cơ thể.
    Giờ nầy Luật cùng muôn ngàn người trai trẻ khác đã bị đi tập trung trong tù rồi! Chàng đã ra đi. Nhưng Luật không ra khỏi đời tôi. Còn mỗi mình tôi đứng lại bơ vơ, lạc lõng muộn phiền giữa chợ đời muôn mặt, với sợi tơ hồng quá mong manh cứ rung lên bần bật giữa lưng trời. Tôi lặng lẽ chua chát đối mặt với cuộc sống, ấp ủ kỷ niệm thời chớm lớn với những tủi hổ vô vàn, và những đắng cay thăng trầm tột độ trào lên bờ mi mọng từng chuỗi giọt sầu. Ngày bị vào tù “cải tạo”, Luật đã bỏ chiếc áo vét nầy lại, trên chiếc áo vét đã dính hai sợi tóc đen mướt khá dài cuả tôi, và một sợi tóc ngắn cuả chàng, cùng với những lá thư tình đầy ắp yêu thương do chàng viết dày cui. Thư của Luật viết có văn phong gợi cảm, là những bức tranh phác thảo duyên dáng về câu chuyện gia đình, tình yêu, phúng dụ, vỗ về, hứa hẹn, an ủi, mang tính cách gia đình đầm ấm yêu thương, hạnh phúc bền lâu. Đó cũng là chiếc áo gấm lý tưởng tinh tuyền muôn thuở, có dấu vết rất thân yêu, quen thuộc duy nhất từ buổi thiếu thời. Dù qua phong sương sáng khuya trưa chiều mưa gió chiếc áo của chàng đã cũ. Thư tình Luật viết ngả màu vàng úa đọng bụi phấn thời gian, ba sợi tóc cuả hai chúng tôi vẫn bóng mướt đen tuyền đến tận bây giờ.
    Tôi nâng niu giữ gìn ba sợi tóc cùng tấm áo từ hồi chưa cưới nhau. Ngày còn trẻ, tôi chưa lo nghĩ đến tuổi xế chiều phôi pha rồi sẽ ra sao. Bởi tình yêu chúng tôi đó, giống dòng sông chảy qua bao dãi đất: Phù sa phì nhiêu có, cằn cỗi có, tươi tốt có, băng giá hoang tàn lẫn đau khổ buồn xo cũng có. Rồi dòng sông xô sóng sau dồn sóng trước, cuồng nộ đập vào gờ đá, hay lặng lờ êm ả, thong dong xuôi chảy ra biển cả. Mãi về sau tôi trân trọng ấp ủ tình luyến nhớ, mà bùi ngùi khi soi bóng mình trên gương và cảm thấy lòng nao nao nỗi buồn da diết; khi mái tóc mình đã thấp thoáng chen lẫn những sợi tóc bạc bện sợi tóc đen tận đến bây giờ. Tôi thương-xót hồi tưởng về quá khứ buồn vui lao xao, dẫu đời đang xáo trộn, chao đảo. Thế nhưng, ngọn nguồn óng ả tình trần hiện nay có mất đi chăng? Khi thời gian khẳng định ngàn mối lo âu, đói khát cơ cực, run rẩy dâng tràn!?
    Nay tôi đang mặc chiếc áo ấy của chàng mà lẽ loi đơn côi ghê gớm, tôi âm thầm đi một mình, buồn bã trên con đường xám ngắt thuở xa xưa. Hai bàn tay lạnh giá run rẩy, tôi không cài nỗi nút áo bạc phếch thời gian và cũ mèm nầy. Kỷ niệm bây giờ chả là gì! Không quan trọng! Chỉ là những chương đã viết trong pho sách tình, xếp lớp lớp trên kệ sách ít khi được mở ra xem, đã phủ lăn tăn bụi vàng. Pho sách cuộc đời từ đây phải đóng lại. Trang giấy đã lật qua quyển mới, thì hồi tưởng nhớ nhung kỷ niệm; chỉ như chiếc lá úa lắc lẽo đong đưa trên cành cao, chờ cơn gió lay để chao đi. Như những áng mây xám lưng đồi lững lờ bay qua bầu trời mùa thu. Như côn trùng biến dạng vào lòng đất mà thôi. Tôi thấy rõ tính chất phù phiếm của quá khứ mang đầy kỷ niệm lãng mạn rồi. Nay tôi muốn sống một cuộc sống khác hẳn: Thực tế sung mãn hơn. Nhưng, chả hiểu có thực hiện nỗi không, là còn tùy thuộc vào hoàn cảnh và ý chí:
    Trước tiên, tôi muốn cho đàn con phải nên người hữu dụng, kiên cường vượt qua mọi chông gai thử thách. Chỉ bấy nhiêu thôi, cũng đủ ngất ngư mà. Ý nghĩ nầy như viên sỏi ném xuống mặt hồ phẳng lặng, tạo thành những vòng tròn đồng tâm, ám ảnh tâm thức tôi bồn chồn, băn khoăn, co siết mãi trong lồng ngực quắt quay.
    ***
    Ngày mồng 5 tháng 5 năm 1980 âm lịch, tôi được anh Chín Dzoãn báo tin sét đánh: Mẹ tôi đã chết ở trong Ta In, (khu đất thuộc cuối vùng Tỉnh Tuyên Đức Đà Lạt). Ta In là cuối địa đầu quận Đức Trọng, giáp ranh giới vùng Di Linh. Nơi tít tót đèo heo hút gió, thâm u cùng cốc lạnh lẽo, vô cùng hiểm trở, có đi mà ít có ai về nguyên vẹn. Nơi chó ăn đá gà ăn muối khốn cùng của vùng kinh tế mới khô cằn toàn sỏi đá. Chỉ nhiều rắn, rết; vô số muỗi, vắt, đỉa, ruồi trâu, bò cạp rừng to và độc kinh khủng. Chúng chuyên bu bám vào người để hút máu. Nơi có nhiều mụt măng le, tre rừng, ta ăn vào cho đỡ đói, thì sẽ bị sốt rét ngã nước, mà lăn ra chết toi.
    Tôi lặng người rất lâu không thể khóc thành tiếng. Nước mắt u uẩn tự động tuôn chảy từng dòng, dội ngược vào tim mình. Hình như tôi đang nghẹt thở, chết dần chết mòn. Tôi không còn cảm giác nào khác, ngoài sự dày vò ân hận đớn đau dâng lên tột đỉnh. Vì, giá như trước ngày 30-4-1975, nếu có chiến tranh, có đánh nhau dữ dội, tôi cũng có chiếc xe hơi riêng mang hiệu Peugeot 404. Hay tôi có thể mua vé máy bay khứ hồi cấp tốc bay về với mẹ, qùy xuống bên mép giường, cầm tay mẹ, ôm chặt mẹ lúc mẹ hấp hối. Ôi! Giờ đây tôi không thể đến bên xác mẹ già yêu dấu, để nhìn mẹ một lần chót trong giờ mẹ lâm chung. Tôi không lẽo đẽo đi sau quan tài mẹ, vật vã khóc than mà tiễn đưa mẹ về nơi an nghỉ nghìn thu. Tôi không thể nào xin tấm giấy phép đi đường. Tôi cũng không thể chen lấn ra bến xe đông nghẹt người có giấy phép ưu tiên. Vì, tôi là kẻ “ưu tiên u đầu” thì có. Tôi không thể đứng ngày nầy qua đêm khác ngoài bến xe, nhịn đói nhịn khát mà chẳng dễ dàng gì chờ mua vé đi Đà Lạt. Biết tin mẹ chết, cũng đành chịu! Dù từ Hốc Môn đi Ta In, chỉ hơn 300 cây số.
    Thế là hết thật rồi! Một thân xác héo hon đã thực sự trở về với cát bụi phù dung. Má con chúng tôi không biết làm gì hơn, ngoài việc quây quần bên nhau, gùy dưới nền đất, sụt sùi, suy niệm lời Chúa, lâm râm dâng lời cầu nguyện. Tôi ứa nước mắt nhìn mẹ trong hồi tưởng: Mẹ tôi sanh tại làng Thuận Nhơn. Nhà ông bà ngoại, (tức ông bà cố ngoại của con tôi) Làng ở bên con sông rợp bóng hai hàng dừa và lũy tre xanh um bóng mát. Thuộc Tổng Cù Hoan, Phủ Hải Lăng, Tỉnh Quảng Trị. Mẹ lớn lên trong một gia đình bế thế, phong lưu giàu có, ruộng vườn của ông bà ngoại cò bay thẳng cánh, lúa gạo trâu bò nhiều nhất trong vùng thời bấy giờ. Ông cố ngoại là một võ quan rất giỏi ở triều đình vua Khải Định, Huế. Mẹ có dáng dấp thon thả, làn da bánh mật, răng hạt huyền nho nhỏ đều đặn, miệng cười chúm chím, mắt phượng mày ngài, mũi cao, mái tóc dài láy đen bối thành một búi to sau gáy. Áo quần mẹ luôn trang nhã, sạch sẽ và tươm tất. Mẹ đi ra ngoài đường, ở trong nhà, hay đi ngủ, mẹ đều thay đổi quần áo ở đâu ra đó hẳn hoi. Dù đi khỏi xóm, đi chợ, hay đi bán, mẹ luôn mặc áo dài đoan trang kín đáo che thân. Đặc biệt mẹ sống cuộc đời bình dị đạo đức, chất phác lương thiện, dịu hiền phúc hậu. Mẹ siêng năng tần tảo đầu tắt mặt tối, long đong bán buôn xuôi ngược. Mẹ nhẫn nhục lao khó giúp chồng, nuôi đàn con mườI mạng nên người. Vất vã vì chồng vì con nheo nhóc, mẹ không hề tỏ lộ bất bình, hay nặng lời to tiếng. Trời mưa tháng gió ở nhà rảnh rỗi, mẹ siêng năng cần mẫn khéo tay tự chằm nón lá. Mẹ may áo quần cho chồng, con. Đôi khi mẹ cũng may biếu cho bạn mẹ, và người thân. Đó là việc vặt, trong nhiều hy sinh to lớn khác. Phải nói là hầu như suốt cuộc đời mẹ, chưa có lúc nào an nhàn thảnh thơi, ngưng nghỉ tay chân. Cái số mẹ cực thân đến thế mà!
    Đồng thời mẹ xứng hợp với đức tính bác ái khoan dung của chồng. Mẹ dễ dãi cả tin khi ai nói điều gì xuôi tai “nịnh” mẹ, thì có bao nhiêu tiền của, mẹ nhẹ dạ trút cho người ấy hết. Dù sau đó biết mình bị lừa, nhưng mẹ không giận lâu, mẹ “hờn mát” một chút rồi quên ngay. Mẹ chân chất hiền lương đến độ thật thà như đếm. Mẹ tính tiền cũ từ thời vua Bảo Đại ra tiền cụ Ngô, đến thời đổi tiền ở chế độ Sài Gòn cũ ra tiền mới sau 75, thì mẹ giống thầy bói mù sờ con voi. Mẹ luôn bị kẻ chợ ăn lường.
    Thế nên, dẫu bị mất hết tất cả tiền bạc, nhà cửa villa biệt thự tan hoang, mẹ không thèm tiếc. Mà mẹ chỉ ôm khư khư bình vôi đồng đen, nhỏ như cái chén kiểu, nhưng khá nặng, thân hình vôi tròn vo, đít vôi bằng phẳng, có quai xách đồng xinh xinh bên tai vôi. Mỗi lần ăn trầu, mẹ lấy cây chìa vôi têm vào mấy lá trầu xong, còn dư vôi trên cây que chìa, mẹ quệt quệt lên trên miệng bình, cho “bình vôi hưởng tí xái”. Thế là miệng “bình vôi vui vẻ” nhô cao, còn lỗ miệng bình vôi thì teo tóp dần, mà trông nó hô, loe, vẩu ra, hơi giống miệng con heo nái, coi ngộ nghĩnh sao đâu. Hồi ấy tôi nói với mẹ:
    - Tại mẹ ưa mời bình vôi ăn trầu, nên cái miệng nó mới loe ra kinh khủng nè.
    Mẹ cười vui vẻ. Mẹ rất thích bình vôi đồng đen nầy, nó đã theo mẹ suốt từ thời mẹ về nhà chồng, đến tận ngày nay. Ấy vậy mà bây giờ mẹ cũng buông thỏng hai từ bỏ hết. Kể cả chồng, con, cháu, chắt, dấu yêu. Mẹ bỏ hết của cải vật chất vinh sang xưa. Một mình mẹ lặng lẽ chết đói ra đi, âm thầm mẹ về bên kia cuộc sống mới.
    Bà chị dâu của tôi kể lại rằng:
    - Hôm mẹ vĩnh viễn từ bỏ con cháu, ấy là một buổi sáng trời ốm nắng, trong nhà ai ai cũng lo đi rẫy, đi rừng, để kiếm sống. Tửng bưng sáng, anh Dzoãn đi bộ từ trong Ta In ra Tùng Nghĩa xa xôi khoảng mươi cây số; anh chạy đi vay tiền, để mua thuốc cảm về cho mẹ. Ở nhà chỉ có một mình chị loay hoay dọn dẹp nhà cửa. Mẹ nằm im trên giường rất lâu, không động đậy nhúc nhích. Chị (chị dâu) thấy mẹ không dậy ăn trưa như mọi ngày, nên chị bước qua gian liếp bên cạnh, chị đến bên giường tre lạnh lẽo, không nệm ấm chăn êm.
    (Nhà anh chị quá nghèo, bị đi kinh tế mới họ chỉ có mấy nhúm quần áo, vài bao bố son nồi chén bát, guốc, dép, linh tinh… Ít mùng mền đơn bạc, và những bàn tay trắng. Con dâu dắt díu mẹ già tám mươi tuổi lom khom leo núi. Chồng đau bao tử cùng bầy nhỏ lút chút tám chín đứa con, đứa lớn nhất mười ba tuổi trở xuống đứa non tháng tuổi, thì lấy đâu ra những thứ xa xỉ ấy trong thời buổi gạo châu củi quế như ri).
    - Mẹ trùm chiếc khăn màu nâu, mặc áo dài nỉ dạ đen, quần đen, áo len nâu khoát bên ngoài, và mang đôi tất đen. Mẹ nằm nghiêng, quay mặt vô phía ván vách bằng bìa gỗ. Mẹ chập chờn thiêm thiếp trong giấc ngủ muộn phiền.
    Chị e dè hỏi thăm:
    - Mệ ơi! Mệ có khoẻ không?
    Chị Ngọ không thấy mẹ trả lời, chị liền cúi sát xuống bên mẹ, nhè nhẹ lay lay đập đập vào cánh tay mẹ:
    - Mệ ơi! Con nấu cháo, cho mệ ăn nghen.
    Mẹ tôi lừ đừ mở đôi mắt nhiều ánh đục dường như đã bất thần ra, mẹ cố gắng quay ngoái cần cổ yếu ớt về phía con dâu, thều thào:
    - Hôm ni có… cháo ăn… hả con.
    - Dạ. Mệ đau, không ăn được măng luộc hầm mềm như mọi ngày đâu. Để con chạy ra chợ xép, mua chút gạo, con về nấu cháo. Mệ ráng chờ. Con nấu mau lắm.
    - Thôi con. Để dành gạo nấu… cho thằng Cu Nâu… có chút nước hồ mà uống, thay cho sữa mẹ không có… Con à.
    - Thằng bé con không đến nỗi nào đâu. Mệ.
    Thế rồi, mẹ tôi ư hữ lại lừ đừ quay mặt vào trong vách. Non giờ sau mẹ từ từ nhắm mắt, và dần dần thiếp vào giấc ngủ nghìn thu muộn phiền. Mẹ đã đói khát năm năm rồi, và trước khi lìa đời, mẹ vẫn nhịn đói. Mẹ không đành ăn chén cháo trắng với muối hột. Mẹ muốn nhịn phần ăn hiếm hoi ít ỏi cuối cùng, để chia sẻ cho đứa cháu nhỏ chưa tròn hai tháng. Mẹ đã chết đói. Mẹ âm thầm lặng lẽ ra đi đúng vào ngày Tết Đoan Ngọ.
    Lẽ ra, như Tết Đoan Ngọ từ những năm xưa, thì mẹ tôi ưa đi chợ mua đầy thức ăn, hoa quả bánh trái. Mẹ làm bánh tro, bánh nếp, bánh bèo, bánh ít, bánh nậm. Mẹ làm cả cơm rượu nếp cẩm, nếp than. Mẹ nấu cơm gạo thơm với nhiều thức ăn thịnh soạn, nóng hổi, linh đình, để cho con cháu từ xa trở về nhà thăm cha mẹ. Cha mẹ con cháu hân hoan sum họp gia đình vui vẻ ăn uống. Mẹ nói:
    - Các con, cháu, ăn bánh tro, ăn cơm rượu, uống chút nước cơm rượu, thì sẽ diệt giun sán trong bụng. Hì.
    Nay mẹ không nói một lời từ giã, không một lời trăn trối. Mẹ muốn im lìm sớm ra đi, ngỏ hầu trút bỏ gánh nợ đời, khỏi làm phiền con cháu khó nghèo đông đúc. Con cháu không phải cưu mang “nuôi người vô dụng” thêm một miệng ăn. Mẹ muốn rũ bỏ từ trên vai anh chị tôi, và các cháu nhỏ nỗi âu lo vì bổn phận và trách nhiệm nặng nề. Ôi Mẹ!
    Hầu như cả xóm Trong xóm Ngoài ở Ta In đều thương cảm mẹ của chúng tôi, họ đã cùng nhau đến nhà anh chị Dzoãn, tận tình lo cho mẹ chúng tôi chu đáo. Mỗi người một việc tươm tất từ đầu đến cuối gọn gàng. Trước khi đậy nắp áo quan, họ vẫn mặc nguyên bộ quần áo cũ, khăn, tất, lúc mẹ chưa bỏ đi. Và họ mặc lồng thêm cho mẹ chiếc áo gấm, nền áo màu nâu non, điểm rải rác những bông hoa cúc đại đóa vàng nghệ. Chiếc áo gấm xưa kia mẹ tôi đã mặc trong ngày trọng đại nhất của đời con gái, khi họ nhà trai hân hoan tưng bừng đến rước dâu. Nay thì người khác đã thay ba tôi mặc chiếc áo gấm của ba đã trao tặng mẹ. Họ đặt xâu tràng hạt vào bàn tay mẹ lạnh giá, và họ nhớ để bình vôi đồng đen bên cạnh mẹ. Sau rốt, họ choàng thêm cổ áo quan dày cui thô sơ ra bên ngoài mẹ.
    Mọi người tiễn đưa mẹ về an nghỉ nơi nghĩa trang quạnh quẽ. Không một vòng hoa cườm đen cườm tím, cùng lời thành kính phân ưu. Không có cỗ áo quan sang trọng đắt tiền, mà chỉ là sáu tấm ván thông đơn sơ hèn mọn thơm mùi nhựa mới. Không hề có bát nhang đèn nến, rườm rà nghi lễ. Không có gì, không còn gì tất cả, ngoài nỗi đớn đau kinh hoàng phủ chụp xuống đời lặng lẽ. Ấy thế mà người dân cùng đinh đến thăm viếng mẹ đứng lố nhố đông đúc, từ ngoài ngỏ đầy kín người cho đến trong nhà tranh lụp xụp nầy. Họ chia buồn, ân cần giúp đỡ gia đình anh chị tôi nhiệt tình. Họ nghỉ đi rừng ngày hôm ấy, không đi rẫy, họ nhịn đói nhịn khát, cùng nhau lặng lẽ khiêng quan tài mẹ tôi băng rừng, leo qua một triền núi thấp, vượt đốc, qua bãi đầm, đi trong thung lũng sình lầy. Rồi họ leo lên ngọn đồi toàn đá ong lởm chởm, trên núi đơn điệu. Mẹ tôi nằm xuống, và vĩnh viễn ở lại nơi rừng núi bạt ngàn hoang vu lạnh lẽo, chơ vơ với cây thánh giá gỗ lắc lư theo gió rì rào.
    Tấm bia mộ gỗ đơn sơ, ghi khắc nơi an giấc nghìn thu đạm bạc và đớn hèn: Mattha Ngô thị Cúc, sanh năm: 1895 >> 1980. Thọ 85 t.
    Thật đông nghẹt người đói khát nghèo nàn lại lủi thủi trở về lối cũ, trên con đường đất đỏ gồ ghề, nơi mẹ đã nhờ người sống ngáp ngáp mang mẹ đi qua.
    Tôi luôn đau đớn, tủi hổ, dày vò và khóc sưng mắt khi nghĩ về mẹ. Thời gian lật đật qua đi, tôi tất bật bồn chồn, âu lo với công việc cơm áo khốn đốn mỗi ngày, nhưng gia đình vẫn không đủ sống. Ngoảnh nhìn lại, mới đó mà đến ngày giỗ đầu của mẹ. Tôi bươn bả đi mót khoai lang, sắn mì, dưa leo và đậu đũa ngoài ruộng Nhị Tân (Hốc Môn). Tôi hớn hở đem mấy thứ ấy về nhà, làm sạch, chu đáo xào nấu xong. Tôi bày thức ăn lên chiếc bàn cũ kỹ xiêu vẹo, chỉ có ba chân rung rinh như răng rụng. Còn một góc bàn thì kê tấm táp lô sứt mẻ, để thay thế một chân bàn què.
    Bà Nga hàng xóm là người thân cận của tôi, bấy giờ đã nói:
    - Xời! Việc gì cô phải nhọc lòng! Chứ cô không thấy mẹ cô chưa kịp về ăn chút xí, thì bầy ruồi ốm đói đã trúng mánh, bu tám lớp, và o o o… xơi tuốt rồi. Cô làm gì có ghế, cho mẹ ngồi chơi xơi nước. Ơ! cô lại bắt mẹ mặc áo gấm, ngồi ăn giỗ mí chạp cho mệt! Khéo vẽ!
    Bà Nga líu lo nói huyên thuyên, và cười sảng khoái, chẳng ngại mất lòng. Tôi nghe mãi mới hiểu được thâm ý bà. Thiệt dễ ghét quá đi. Tôi ngẩn ngơ nhìn bà Nga. Những giọt nước mắt nóng hổi đang lăn dài dài xuống má. Giọt khóc quê hương. Giọt hờn tủi khóc ông bà ông vãi cha mẹ khuất mặt khuất mày. Giọt khóc chồng sống đoạ đày ở trong tù. Giọt khóc bầy con lù đù vất vưỡng long đong ở ngoài tù. Giọt đắng cay khóc cho chính bản thân tôi lầm than cơ cực. Khổ đến nỗi tôi không tiền không bạc, để mua cặp nến đỏ, bình hoa tươi, hương nhang cắm trên bàn. Tôi không thể mua cúng mẹ dĩa bánh bèo, bánh ít, bánh nậm, thứ bánh mà mẹ thích ăn lúc sinh tiền! Tôi không thể kéo mẹ về cùng hương khói, để má con chúng tôi quỳ dưới đất, sì sụp lạy tạ lỗi cùng mẹ, cùng bà ngoại! Sợi dây tình nghĩa thiêng liêng mong manh hơn khói sương, nối liền giữa mẹ -với má con chúng tôi- đã đứt lìa.
    * *
    Người đàn bà còn quá trẻ, bỗng co nhói lên từng cơn đau tim nghẹt ứ xót xa đắng cay khôn tả xiết. Vốn bị nghị lực mài dũa cọ liếc mỏng tanh, tôi nghẹn ngào, đắng cay, hơn sự cơ cực đọa đày chịu đựng dài lâu. Sự trầm uất nén dưới chiều sâu tâm hồn đã vọt lên tim, lên óc, lên cổ tôi những cục nấc nghẹn ngào tức tưởi. Tôi đứng giữa trời mà khóc, mà cười. Cười khẩy. Tôi không sao hiểu nỗi “đời”! Tâm hồn tôi hằn lên vết rạn, xếp lớp lăn tăn theo sóng đời cơ cực. Khi gia đình nhỏ chúng tôi lầm than khốn cùng, đã rớt dưới tận đáy xã hội phù phiếm.
    Nơi con đường cũ mà cha mẹ tôi xưa kia rất vinh sang đã từng đi qua đó, và chính gia đình nhỏ cuả tôi từng lả lướt rộn ràng líu lo ca hát trên đại lộ mỗi độ hoàng hôn…; Ngày nay mẹ con chúng tôi dắt díu nhau lọt tọt líu ríu bước thấp bước cao, lần mò đi từ ngày nầy qua tháng nọ. Đi từ hừng đông đến hoàng hôn, không ngơi nghỉ. Những đôi môi khô run run nếm đủ cay đắng, ngọt bùi xính vính tình đời, còn mấp máy và thút thít, như nghiến chặt hai hàm răng nghiền nát hiện tại đang rát bỏng phừng phựt cháy trong lòng. Sau đám sương mù dày đặc ngoài trời kia, là tương lai tối thui và con đường gồ ghề, lởm chởn sỏi đá lẫn lộn bùn tro bầy nhầy. Con đường tiến thân của mẹ con chúng tôi đó, hình như có tiếng âm vọng não nề. Chúng tôi không biết nên bắt đầu từ hướng nào cho phải! Đôi bàn tay tôi khô cứng, chai sạn nứt nẻ, hợp lực với những bàn tay các con thơ yếu gầy bé tí xíu, vẫn quơ quơ về phía trước. Cùng lòng can đảm, tận tụy, chịu đựng gian lao, nghèo khổ siết chặt, thì không có cách gì lay chuyển.
    Trời xanh xanh không có một vắt mây trắng, nhưng sao đôi mắt tôi mù mây giăng mắc!? Giống như những sợi tơ tóc ngày xưa đen tuyền quyện cùng chùm tóc bạc trước thời gian, đã phủ khắp nẽo đi lối về? Tôi đang mặc chiếc áo gấm của Lụât để lại, tôi tưởng tượng chiếc áo dù cũ, nhưng có phần nào che gió chắn mưa. Thì hy vọng là tôi bớt cảm thấy cô độc, ấm áp và ít lạnh. Ngỏ hầu tôi sẽ đương đầu, chạm trán, chơi những canh bạc đen đỏ với định mệnh.
    Đành phải như thế thôi. Nếu định mệnh không thách đố gạt gẫm chúng tôi: Xỏ lá sát phạt, chơi khăm chúng tôi trắng tay –và đểu giả lật ngửa quân bài ra– Khi trận đấu chưa bất phân thắng bại. Thưa ông!

    _ * _

    Tình Hoài Hương
    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

  • #2
    Về Mẹ Dấu Yêu


    Về Mẹ Dấu Yêu




    Mẹ tôi mắt phượng mày ngài
    Vai ngang dáng nhỏ tóc dài chấm chân
    Cười xinh chúm chím hạt huyền
    Không hề quản ngại thuyền quyên một thời

    Sớm khuya nắng gió cuộc đời
    Bán buôn tất bật, (thảnh thơi bao giờ)!
    Rảnh rang chằm nón bài thơ
    Vá may quần áo, mẹ thờ song thân.

    Đôi khi mẹ đã ân cần
    Viếng thăm người bệnh, bạn gần xóm xa
    Chia cơm xẻ áo cùng ta
    Những chiều tần tảo vào ra mẹ cười

    Nhẹ nhàng gánh thúng hoa tươi
    Luyến lưu mẹ nói: “Xin mời mua hoa”
    Kẻ trên người trước dần dà
    Trao tình quý mến. Thiết tha mẹ hiền.

    Mẹ tôi là một bà tiên
    Gia đình đầm ấm đoàn viên một nhà
    Ngọt ngào Con Cháu Mẹ Cha.
    Niềm vui hạnh phúc bao la tình nồng.

    *


    Tình Hoài Hương
    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

    Comment



    Hội Quán Phi Dũng ©
    Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




    website hit counter

    Working...
    X