Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Đôi Mắt Người Sơn Tây

Collapse
X

Đôi Mắt Người Sơn Tây

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Đôi Mắt Người Sơn Tây

    Đôi Mắt Người Sơn Tây
    Trần Hoài Thư
    ---oo0oo---

    Đôi mắt người Sơn Tây
    U uẩn chiều luân lạc
    "Quang Dũng"


    Trước ngày ngưng bắn, là một phóng viên mặt trận, tôi vẫn thường theo các đoàn quân vượt qua giòng kinh Vĩnh Tế để làm những phóng sự chiến trường ngoại địa. Vào một ngày đầu tháng chạp, tôi mang máy ảnh, sổ tay theo một chi đội thiết vận xa M-113 về giải tỏa áp lực địch tại một quận lỵ nằm trên con đường số 1 nối từ Neakluong đến thủ đô Nam Vang.

    Buổi tối có mưa sụt sùi, cùng với người bạn cũ nằm đêm tại một đồng không mông quạnh, chúng tôi cùng nhắc lại những buổi chiều ở Bonard, Mai Hương.

    Bạn tôi cũng kể về những ngày dài nơi xứ lạ này. Trời tối như mực đến nỗi cách nhau vài thước, cũng không thể nhận diện được. Thỉnh thoảng vài trái sáng được bắn lên từ phía rặng núi, soi cả thinh không trong vài giây rồi tắt lịm.

    Người bạn bỗng nói:

    - Có bao giờ anh nghĩ rằng ở giữa vùng đất lạ lẩm này lại có một người nữ như trong một bài thơ của Quang Dũng?

    Tôi hỏi:

    - Có phải là "Đôi Mắt Người Sơn Tây?"
    - Vâng.

    Rồi bạn vừa đốt thuốc vừa kéo cao cổ áo lạnh. Cơn mưa đã dứt, nhưng khí lạnh tỏa bốc đầy trời.

    Bạn lại dục:

    - Trước khi tôi kể câu chuyện, mời anh thử một chút rượu cho ấm. Rượu mang từ quê nhà đấy...

    Tôi nghe lời bạn. Hớp rượu làm nồng cả châu thân. Như những giọt hạnh phúc nho nhỏ trong vùng đất gầm gừ tai họa. Chúng tôi bây giờ chỉ còn những cơn mơ, chẳng cần để ý gì đến ngoại cảnh, đến những tiếng nổ thỉnh thoảng nổi lên cắt xé cả lòng đêm tịch mịch. Chúng tôi cũng chẳng cần bận tâm gì đến những tín hiệu đang phát ra từ chiếc máy siêu tần số bên cạnh.

    Và lời bạn tiếp tục:

    - Rồi ngày mai, tôi sẽ đưa anh tới một quán nghèo giữa quận lỵ. Anh sẽ gặp một thiếu phụ trẻ. Hy vọng anh sẽ một nguồn cảm hứng để viết.
    - Người thiếu phụ ấy có liên quan gì đến chúng ta không?
    - Có. Liên quan đến tất cả chúng ta. Nhất là anh.
    - Tại sao?
    - Anh là một phóng viên.
    - Phóng viên không phải là thầy tướng số.
    - Vâng. Nhưng tôi tin anh có những điều kiện và khả năng hơn tôi.

    Tôi cười.

    - Thôi, tôi chịu thua rồi. Anh kể tiếp về người thiếu phụ Miên ấy đi.
    - Không phải Miên mà là người Việt Nam.
    - ...?.

    Bạn tôi vất mẩu thuốc xuống ruộng nước rồi tiếp tục nhấp khẻ hớp rượu. Đêm nặng và đầy sương. Xung quanh chúng tôi tiếng dạ trùng, ếch ương ếch nhái vang lên não nuột. Thỉnh thoảng chúng tôi còn nghe cả tiếng “phụp” của trái sáng được bắn lên từ đâu đó.

    Giọng bạn ấm:

    - Bởi thế tôi mới gọi là Đôi Mắt Người Sơn Tây. Vâng, thật không ngờ, hai mươi năm về sau từ khi có bài thơ của Quang Dũng, tôi mới thấy được đôi mắt ấy. Anh còn nhớ không, những câu thơ đẹp như thế này.

    Bạn đọc trầm ngâm:

    Em ở Sài Sơn chạy giặc về
    Tôi từ chinh chiến đã ra đi
    Cách biệt bao ngày quê bất bạt
    Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì
    ....
    Đôi mắt người Sơn Tây
    U uẩn chiều luân lạc
    Buồn viễn xứ khôn khuây...


    Thú thật, tôi không phải là nhà thơ. Tôi chỉ là người yêu thơ. Nhưng khi gặp nàng, nhìn đôi mắt nàng, tôi phải bàng hoàng. Cám ơn nhà thơ Quang Dũng đã cho tôi hiểu thế nào là một đôi mắt Sơn Tây...

    Giọng bùi ngùi, người bạn kể lại:

    - Khi đơn vị tôi đến K., thì bọn tôi nhào vào chợ để tìm mua vài vật dụng cần thiết. Riêng tôi, tình cờ ghé lại một quán bên đường và người chủ quán đã làm tôi ngạc nhiên hết sức. Da nàng trắng nuột, gương mặt thật thùy mị, mũi thanh tú, và nhất là đôi mắt nàng. Khi nhìn lên đôi mắt ấy, có chút gì buồn vời vợi, có chút gì như lệ long lanh anh ạ. Trong khi xung quanh nàng, màu da vàng mật, thì màu da nàng lại trắng nổi bật như một bông hoa hiếm lạ. Tuy vậy, tôi cứ nghĩ nàng là một người Miên một trăm phần trăm. Bởi cách ăn mặc, giọng nói của nàng. Bởi cung cách của nàng. Và tôi đã bập bẹ vài tiếng Miên học lóm được. Nhưng sau đó tôi bỗng nhiên nghe được hai tiếng Việt thưa ông. Càng ngạc nhiên hơn nữa, là giọng Bắc. Một giọng Bắc chính cống, không pha trộn, rất rõ và rất êm đềm. Anh hẳn biết ở xứ này, tìm được một người đồng hương đã là khó, mà người ấy lại là người Bắc thì lại càng khó hơn. Nhất là quê hương tôi là miền Bắc.

    - Nàng nói gì không?
    - Nàng hỏi quê nhà mình dạo này ra sao? Bên mình hòa bình chưa? Nàng bảo nàng nhớ nhà quá. Còn tôi, tôi hỏi gốc nàng ở đâu, tại sao lại lưu lạc ở đất này...
    - Nàng bảo sao?

    Nàng kể nàng sinh tại Sơn Tây. Rồi nàng tấm tức khóc. Sau đó chồng nàng xuất hiện. Nàng chắc sợ một điều gì đó nên giả vờ vui, rồi nói tiếng Miên huyên thuyên. Tôi muốn hỏi thêm nhưng lệnh ban xuống là đơn vị phải di chuyển gấp. Thành ra tôi chẳng biết gì thêm về lai lịch nguồn gốc của nàng...

    - Qua câu chuyện anh kể như một cơn mơ...
    - Vâng. Anh nói đúng. Nhiều khi nghĩ lại tôi nghĩ đời như cơn mơ. Cơn mơ về một đôi mắt...
    - Đôi Mắt Người Sơn Tây...
    - Vâng. Đôi Mắt Người Sơn Tây. Mà nếu không có cơn mơ ấy chắc chúng ta sống không nổi. Anh thấy không. Giữa lúc ở nhà, người ta đang sống phè phỡn, đang bình an cùng giấc ngủ không bị quấy rầy, đang làm tình, thì bọn này đang có mặt ở giữa đồng không, xung quanh là những thiết vận xa bao bọc, trời thì mưa sụt sùi...Sống như thế này nếu không có những cơn mơ thì chắc phải điên khùng...

    Bạn biết không. Có khi tôi mơ đất nước hòa bình. Có khi tôi mơ trở thành cánh chim bay về thành phố. Có khi tôi mơ có một phép lạ như như Tôn Ngộ Không, bắt tất cả những tên đồ tể chiến tranh bỏ vào chung một phòng để chúng đánh nhau cho dân đỡ khổ. Và bây giờ tôi mơ về một đôi mắt...

    - Vâng, nhưng thật tội nghiệp cho chúng ta vì chúng chỉ là những cơn mơ không bao giờ thành sự thật.

    Một trái sáng lại òa vỡ, tôi thấy mắt người bạn trở nên xa vời.

    Người bạn tiếp tục nói:

    - Tôi là một kẻ rất yêu thích thơ văn. Tôi cũng thường xuyên theo dõi tình hình sinh hoạt văn học nghệ thuật. Có một điều tôi rất ngạc nhiên là trong khi người ngoại quốc lấy Việt Nam làm đề tài, những nhà sản xuất phim, những phóng viên kỳ cựu hay những nhà văn nổi tiếng đều bay qua Việt Nam tìm chất liệu, thì mình lại đi ca ngợi tung hô mấy loại sách dịch như Một Thời Để Yêu và Một Thời Để Chết của Remarque hay Lolita hay Love Story...Đất nước mình có biết bao nhiêu đề tài cho những ông nhà văn nhà thơ, tại sao lại cứ đi vay mượn. Có phải dân tộc mình có thói quen là nô lệ tinh thần hay không. Cứ nghĩ là mấy ông Tây ông Mỹ là mấy bậc thầy, cần phải học ở mấy ông ấy...Xin lỗi tôi có cái nhìn hơi chua chát nhưng không nói ra thì ấm ức lắm.

    Vào sáng hôm sau, cả đơn vị lên đường. Tôi theo thiết vận xa của người bạn. Chiến tranh nơi nào cũng vậy. Cũng tang thương, đổ nát...Khi chúng tôi tiến qua một khu ruộng mía, người dân quì trên bờ ruộng, lạy chúng tôi. Làm sao mà người tài xế có can đảm cán bừa vào đám mía non ấy. Cả một dân tộc hiền hòa với những ngôi chùa mái cong vút lên mây ẩn hiện đàng sau những khóm dừa, khóm thốt nốt. Những ngôi nhà sàn trong sóc, còn thở khói. Đám con nít thấy chúng tôi cười thơ ngây. Trong gió, chừng như nghe cả mùi đất, mùi rơm và cả mùi ngây ngây của luống cày mới vỡ. Có những cánh én bay rợp xuống mặt hồ, rồi lại vút lên cao. Có những cánh én khác đuổi theo thiết vận xa, giỡn đùa với những đường nước mà bánh xích đã cày và tạo nên. Bầu trời thật xanh. Có ai nhắc đến Tết. Gần đến Tết rồi anh em ơi. Giọng nói mang vào lòng những đứa con của chiến trường những nhớ nhung tràn ngập. Thấy họ càng thương họ. Những phận đời tuổi trẻ chưa biết hưởng thế nào là hương vị thanh xuân, nếu có, chỉ là những ước mơ, nhung nhớ tội nghiệp.

    Và đúng như lời bạn nói, buổi trưa cả đơn vị đóng quân ngay tại trung tâm quận K..

    Người bạn đã nháy tôi và cả hai tìm đến chiếc quán bên đường. Tôi thật sự bị mê hoặc bởi gương mặt thanh tú, sóng mũi dọc dừa, màu da trắng nuột của người đàn bà. Nàng quả là một bông hoa lạ thường ở giữa cõi khô cằn này. Tuy nàng mặc chiếc sà rông đã bạc màu, những ngón tay, bàn chân của nàng đã in dấu gian khổ lầm than, nhưng người ta vẫn tìm ở nàng một vẻ đẹp nổi bật vượt lên khỏi một tập thể dân quê nghèo nàn và khổ cực xung quanh. Và đôi mắt của nàng, thật khó diễn tả. Thấy như thể cả trời u uẩn, đầy nước mắt. Tôi chỉ biết ngồi yên như bị đôi mắt ấy hớp hồn rồi. Tự dưng tôi cảm thấy thương nàng hết sức. Chỗ của nàng không phải là chỗ này. Chỗ của nàng ở bên kia biên giới có cùng chung màu da tiếng nói, có ao nhà, vườn rau, có bà con lân láng.

    Nắng đã lớn, tươi thắm cả khu chợ quận. Người bạn giới thiệu tôi bằng tiếng Việt:

    - Đây là người bạn của tôi.

    Tôi nói chào cô. Người thiếu phụ cũng cúi đầu đáp lễ. Tôi nhận ra đôi vai nàng mềm quá. Người bạn lại nói tiếp:

    - Hôm qua cô kể cho tôi nghe nửa chừng.Tại sao thế?

    Để đáp lại câu hỏi của người bạn, nàng chỉ nói:

    - Các ông không hiểu hoàn cảnh của em đâu.

    Đôi mắt của người thiếu phụ chợt hoe đỏ. Nàng nói giọng sũng lệ:

    - Thấy các ông em bỗng nhớ đến quê nhà. Đã mười mấy năm em xa nhà. Thưa ông, từ đây qua bên ấy có xa không?

    Người bạn trả lời:

    - Quê mình chỉ cách nơi này non 15 cây số, đường bộ chỉ mất nửa tiếng đồng hồ nếu đi xe...
    - Thế sao? Em không hề biết.
    - Chứ cô không bao giờ nghe nói đến quê nhà hay sao?
    - Dạ thưa không.

    Rồi nàng lại hỏi:

    - Không biết giờ này bên ấy nóng hay lạnh, trời có hay mưa không?
    - Bên nhà trời đã bắt đầu có những cơn rét cuối năm. Có nơi mai đã bắt đầu nở. Thiên hạ đang chuẩn bị ăn Tết.
    - Thế ư? Gần đến Tết rồi ư?

    Đôi mắt của người thiếu phụ sậm buồn. Nàng nói như khóc:

    - Không ngờ em lại làm kẻ mất quê hương. Các ông không biết hoàn cảnh của em đau lòng lắm.

    Nàng lại tấm tức khóc. Tôi tìm cách khơi mào câu chuyện:

    - Cô có thể kể ra được không?

    Nàng gật đầu. Gạt nước mắt, nàng kể lại cuộc đời của nàng. Từ một quê nhà xa lắc xa lơ ngoài Bắc tên là Sơn Tây. Từ những ngày đầu tiên theo cha mẹ di cư vào Nam, quanh quẩn dưới rừng lá cao su, chưa bao giờ dám nghĩ đến một ngày rời xa cái thế giới mà người mộ phu gọi là đồn điền. Nàng kể về chiếc xe tải mỗi ngày chạy khắp đồn điền để chở những thùng mủ trắng về nhà máy. Ở đâu? Nàng chỉ nhớ lại những tiếng chuông buổi sáng chủ nhật, từ gác chuông nhà thờ bằng ván tạp với ông Linh mục già, hàm râu trắng xóa, đội chiếc mũ nồi đen, lúc nào cũng tươi cười và luôn luôn phát bánh kẹo cho lũ trẻ trong đồn điền. Ở đâu? Nàng không biết. Nhưng nàng nhớ rõ về những cảnh cơ hàn của người dân phu cạo mủ, gồm đủ hạng người: Thượng, Miên và Việt. Và chúng tôi liền đoán ra là đồn điền Lộc Ninh cũng nên.

    Rồi tai họa bỗng dưng bủa xuống như một trận bão lửa kinh hoàng. Trận chiến từ đâu kéo về, chọn ngay đồn điền làm nơi giao tranh, ròng rả suốt cả một tuần lễ.

    Nhắc đến đây, tuồng như đôi mắt của nàng là cả một bầu trời sầu thảm. Hai giòng lệ lăn trào trên má. Tuy buổi trưa trời nắng lửa, hàng cây bên đường đứng bất động nhưng tôi nghe tuồng như có một cơn gió lạ thổi qua, rồi một đám mây buồn bã đậu lại trong hồn người như thể một phiến băng giá.

    Buổi trưa hôm nay, trong một quán lạ tai xứ người, có những kẻ cùng xa nhà gặp nhau mà nước mắt rưng rưng. Em xa nhà, tôi xa quê, em bỏ đi, tôi cũng bỏ đi, hai đàng. Đôi Mắt Người Sơn Tây. U uẩn trời luân lạc. Buồn viễn xứ khôn khuây.
    Hôm nay có một người của xứ Sơn Tây gặp lại người lính đồng hương, để nói về một kiếp đời bất hạnh. Đầu nhà bên kia đường có giàn hoa giấy vàng tươi thắm dưới ánh nắng mặt trời nhưng ở nơi này có một bông hoa tội nghiệp đang khóc cho hoàn cảnh của mình.

    Sau đó...nàng kể tiếp. Suốt cả tuần lễ ở trong đồn điền, bố mẹ em tìm cách thoát ra ngoài. Vào khoảng tối, bố kêu em mang một bọc đồ quần áo, rồi dặn em phải theo kỹ bố. Nhưng mới đi khoảng chừng 100 thước, thì pháo lại nổ ầm ầm. Em không còn thấy bố thấy mẹ thấy em nữa. Em khóc. Em cứ chạy bừa. Vừa chạy vừa kêu bố kêu mẹ. Các anh cũng biết trong đồn điền cây cối san sát, đường nào cũng như đường nào...Em cứ nhắm mắt mà đi, vừa đi vừa kêu bố. Lúc ấy em mới 10 tuổi...

    Cho đến khi trời sáng thì em không còn đủ sức đi nữa. Em cứ bò, vừa bò vừa run vì trời sớm thì rét lắm. May em gặp một gia đình người Miên tốt bụng. Họ mang em về đất Miên. Từ đó em sống đến bây giờ... Cho đến lúc này em cũng không biết bố mẹ em còn sống hay đã chết nữa...

    Tiếng kể của nàng như làm nhói cả tim tôi. Tôi nói với nàng:

    - Cô có thể cho tôi biết tên bố mẹ cô. Khi về lại quê nhà tôi sẽ cố thăm dò giúp cô...May ra, khi trở lại nơi này, tôi sẽ mang theo tin mừng.

    Trên không bỗng hiện ra một đàn chim én. Những cánh chim báo hiệu mùa xuân đã cận kề.

    Tôi nghĩ là tôi sẽ giúp nàng được. Bởi vì tôi là một phóng viên. Bạn bè tôi làm ở các tòa soạn, và đài phát thanh. Tôi sẽ nhờ họ.

    Nhưng tôi sẽ không bao giờ có dịp trở về chốn cũ ấy nữa. Hiệp định ngưng bắn đã không cho phép tôi vượt giòng kinh Vĩnh Tế ấy nữa. Món quà xuân cho người thiếu phụ xa xăm kia cũng không có dịp để trao tận tay. Tin mừng cũng hoài công không đến. Thỉnh thoảng tôi cũng có dịp đến bên này bờ kinh, nhưng đến để nhìn qua bên kia bờ, trên cánh đồng bao la xanh màu mạ, trên những hàng thốt nốt, rặng núi thẩm trong mây mà liên tưởng về một hình bóng cũ. Ở đấy, có người thiếu phụ trẻ đồng hương đang trải qua những tháng ngày mỏi mòn bất hạnh. Ở đấy có một Đôi Mắt Người Sơn Tây, đang hướng về quê nhà vì nỗi buồn viễn xứ.

    Còn riêng tôi, đứng trên bờ kinh bên này, mà cứ ngỡ đang đứng ở một điểm chấm cuối cùng. Tôi sẽ không bao giờ được nhìn lại một đôi mắt buồn vời vợi ấy nữa.

    Trần Hoài Thư
    Source: "www.vannghesi.net"



    Đôi Mắt Người Sơn Tây
    Sáng tác: Phạm Đình Chương
    Thơ: Quang Dũng
    Trình bày: Vũ Khanh
    ---oo0oo---

    Thương nhớ ơ hờ thương nhớ ai
    Sông xa từng lớp lớp mưa dài
    Mắt em ơi mắt em xưa có sầu cô quạnh
    Khi chớm thu về,
    khi chớm thu về một sớm mai

    Đôi mắt Người Sơn Tây
    U uẩn chiều luân lạc
    Buồn viễn xứ khôn khuây,
    Buồn viễn xứ khôn khuây
    Em hãy cùng ta mơ
    Mơ một ngày đất mẹ
    Ngày bóng dáng quê hương
    Đường hoa khô ráo lệ

    Tôi từ chinh chiến đã ra đi
    Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì
    Sông Đáy chạm nguồn quanh phủ Quốc
    Non nước u hoài,
    non nước hao gầy, ngày chia tay

    Em vì chinh chiến thiếu quê hương
    Sài Sơn , Bương Cấn mãi u buồn
    Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm
    Em có bao giờ,
    Em có bao giờ,
    Em thương nhớ thương

    Đôi mắt Người Sơn Tây
    U uẩn chiều luân lạc
    Buồn viễn xứ khôn khuây,
    buồn viễn xứ khôn khuây
    Em hãy cùng ta mơ
    Mơ một ngày đất mẹ
    Ngày bóng dáng quê hương
    Đường hoa khô ráo lệ

    Đôi mắt Người Sơn Tây
    Đôi mắt Người Sơn Tây
    Buồn viễn xứ khôn khuây.




  • #2
    Anh KQ2
    Bài thơ Quán Bên Đường có hai câu cuối đọc cũng phê lắm: "Hồn lính vương qua vài sợi tóc, tôi thương mà em đâu có hay", nhất là mấy chàng lính hào hoa ngày xưa, hoặc thỉnh thoảng lai rai rồi nhớ lại những câu thơ của Quang Dũng " Thoáng hiện em về trong đáy cốc, nói cười như chuyện một đêm mơ".

    Comment



    Hội Quán Phi Dũng ©
    Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




    website hit counter

    Working...
    X