Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Thư gởi Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam.

Collapse
X

Thư gởi Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam.

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • #16
    Thư số 16 gởi Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam

    Thư số 16
    gởi Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam


    Phạm Bá Hoa

    Tôi là một trong hằng triệu Người Lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo CSVN với lòng thù hận đã đày đọa chúng tôi trong hơn 200 trại tập trung mà họ gọi là trại cải tạo. Người 5 năm, 10 năm, thậm chí 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy chế độ dân chủ tự do và quân lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn trong quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam cho đến khi mà quê hương tôi có dân chủ tự do thật sự.
    Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Xin gọi Người Lính Quân Đội Nhân Dân một cách ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày. Chữ “Các Anh” viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào cầm quyền, cũng chỉ là một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.
    Nội dung thư này, tôi mời Các Anh nhìn lại mặt thật của lãnh đạo CSVN trong Bộ Chính Trị, một tổ chức đứng trên đầu Tổ Quốc với trọn quyền lực trong tay mà không một tổ chức nào giám sát, để từ đó, Các Anh sẽ hiểu được nguyên nhân tình trạng suy đồi của xã hội Việt Nam ngày nay, dẫn đến tình trạng bị khống chế bởi Trung Cộng, kẻ thù muôn thuở của dân tộc Việt Nam.


    Thứ nhất. Lãnh đạo CSVN dưới nét nhìn của Metamorph.

    Tham khảo và trích dẫn bài “Hoang Tưởng“ của Metamorph từ trong nước. Xem chừng tâm trạng bị dồn nén từ lâu nên tác giả đi thẳng vào đề mà không cần rào đón, để nhắc lãnh đạo CSVN hãy nhớ lại “những hoang tưởng” của họ. Những chữ “chúng ta” mà tác giả sử dụng có vẻ nhẹ nhàng khi nói đến cấp lãnh đạo, rất có thể để tránh bị Công An gọi “làm việc”, hoặc có thể tác giả có thời là đảng viên hàng lãnh đạo cấp trung ương nên nhận định có căn bản về những sự kiện cấp quốc gia.

    Trích 7 đoạn. …. “Mỗi khi gặp khó khăn, chúng ta thường mang cái quá khứ ra để tự ru ngủ, mong cái men chiến thắng của cha ông thành liều thuốc an thần trấn áp đi cái bất định, cái nan giải hiện tại… Chúng ta cứ nhắc đến cái chiến thắng giặc Hán, Pháp, Mỹ mỗi ngày, nhưng tuyệt nhiên không hề nhắc đến cái nạn đói 1975-1990 do sai lầm của chúng ta, một nạn đói có thể tránh được nếu chúng ta đừng quá say mê với chiến thắng đến mức coi thường cái nguy cơ tụt hậu, nghèo đói, bị cô lập. Năm 1978, trước khi xua đại quân tiến chiếm Nam Vang, Bộ Ngoại Giao tung ra một chiến dịch để mong lôi kéo các quốc gia lân cận để cùng liên minh chống hiểm họa bành trướng Bắc Kinh, mặc dầu suốt cuộc chiến chống Mỹ, chúng ta không tiếc lời mạt sát khối liên Minh Đông Nam Á là sản phẩm của đế quốc Mỹ… Tháng 6/1978, khi Việt Nam bắt đầu oanh tạc Cambodia, Phan Hiền (của Bộ Ngoại Giao) sang Mã Lai tuyên bố ủng hộ một Đông Nam Á hòa bình và trung lập…. Cùng thời gian đó, Bộ Trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch đến Nữu Ước để thúc đẩy nỗ lực bình thường hóa ngoại giao với Mỹ. Lần này, chúng ta không đặt điều kiện bồi thường 3 tỉ mỹ kim mà Tổng Thống Nixon đã hứa ở hiệp định Paris 1973”. (Trích từ Brother Enemy của Nayan Chanda).

    “Nhưng tất cả đều vô ích. Liên Minh Đông Nam Á từ lâu bị ám ảnh một Việt Nam hung hãn nên họ từ chối một cách lịch sự. Và Mỹ, sau khi tiếp Đặng Tiểu Bình, cũng lịch sự gác lại chuyện thiết lập bang giao với Việt Nam. Kết quả là chúng ta sa lầy ở Cam-Bốt suốt 10 năm, và đói nghèo suốt 15 năm. Quan trọng hơn là xã hội Việt Nam lùi lại, trong khi các quốc gia láng giềng phát triển vược bậc về khoa học kỹ thuật, văn hoá giáo dục, kinh tế xã hội… Chúng ta quay về thời xe hơi chạy than, xe bò, xe ngựa, bo-bo thay gạo, mặc quần áo vá víu lem nhem, dùng phân xanh như thời trung cổ…. Tại vì lãnh đạo chúng ta vẫn cứ hoang tưởng là cả thế giới đều ngưỡng mộ, và thế giới cần chúng ta hơn là chúng ta cần họ. Với Mỹ, chúng ta cứ cho là kẻ thua phải “bồi thường” mới mong được chúng ta bắt tay họ. Với Đông Nam Á, một Việt Nam với hơn 8 Quân Đoàn sát biên giới với họ, đáng cho họ quan tâm hơn là cái hiểm họa bành trướng từ Bắc Kinh… ”

    “ … Vì lãnh đạo vẫn cứ hoang tưởng mà cho rằng Mỹ thèm Biển Đông hơn chúng ta bảo vệ Biển Đông. Từ lâu chúng ta yên chí là chỉ cần búng tay một cái, Mỹ sẵn sàng lao vào lửa đạn để bảo vệ chúng ta, cùng lúc chúng ta vẫn sa sả chửi rủa Mỹ…. Làm như cái “lệnh ta” là một ơn huệ hay một vinh dự chúng ta ban cho Mỹ vậy… Trong lịch sử cận đại và hiện đại, dân tộc chúng ta hứng chịu nhiều cái sai lầm của lãnh đạo, nhưng mặc cảm tự ti hóa trang thành tự tôn, làm chúng ta không học hỏi được gì cả…”. Hết trích.
    Với nhận định của tác giả, Các Anh đang suy nghĩ gì? Hãy nhớ, nhóm lãnh đạo trung tương, cứ mở miệng ra tự xưng là “đỉnh cao trí tuệ” đến mức mà họ tự cho là cả thế giới ngưỡng mộ, nhưng thật ra người có chút học thức không bao giờ tuyên bố một cách ngạo mạn như vậy. Cho nên ngay từ nhóm chữ “đỉnh cao trí tuệ”, tự nó đã cho mọi người đánh giá lãnh đạo CSVN là những người kém hiểu biết, nếu không nói là thiếu học, cũng không hiểu gì về bang giao quốc tế, vì hầu hết những bằng tiến sĩ của họ mà người dân trong nước gọi là “tiến sĩ giấy”, “tiến sĩ dỏm”, “tiến sĩ mua”, … Vì vậy mà tác giả Metamorph nhận định “họ là những người lãnh đạo hoang tưởng”. Và đây là nhận định của tôi: “Đúng. Nhóm lãnh đạo trung ương vẫn hoang tưởng, nhưng là hoang tưởng với thế giới, còn với Trung Cộng thì họ lại quy lụy đến mức hèn hạ! Nếu Các Anh hỏi tại sao thì tôi trả lời rằng: “Tại vì lý tưởng của CSVN từ những năm cuối của thế kỷ 20, là phải bảo vệ đảng để cướp đoạt tài sản của dân, của nước, và của người ngoại quốc làm ăn tại Việt Nam, còn tổ quốc với nhân dân không là gì đối với họ. Các Anh nhận ra điều đó chớ? Mời Các Anh đọc thêm tài liệu tóm lược bên dưới để hiểu sâu hơn nữa về nhóm lãnh đạo.

    Thứ hai. Muốn có sổ hưu bổng phải bảo vệ chế độ độc tài.

    Tháng 9 năm 2012, Đại Tá Trần Đăng Thanh, thuộc Học Viện chính trị Bộ Quốc Phòng CSVN, đến Trường Cao Đẳng Cộng Đồng Hà Tây giảng dạy cho 300 “cán bộ chủ chốt” trong các trường đại học và cao đẳng.
    Tóm lược bài của Nguyễn Quốc Sơn, trích trong trang blog “AnhBaSam”. Tác giả là sĩ quan trong quân đội nhân dân Các Anh đó. Bài giảng của ông Thanh quá dài, nhưng tựu trung là các điểm sau đây: “Vấn đề Biển Đông, ông Thanh đưa ra 7 điểm mà ông ta gọi là “3 không và 4 tránh”.
    “Ba không” là: (1) Không được mất chủ quyền. (2) Không được mất môi trường hòa bình. (3) Không được mất tình đoàn kết giữa nhân dân hai nước Việt Nam-Trung Quốc.

    Rõ ràng là ông Thanh đặt hòa bình với Trung Cộng cao hơn bị Trung Cộng khống chế lấn chiếm đất liền đảo biển Việt Nam, khi ông Thanh dạy rằng: “Nếu để xảy ra chiến tranh với Trung Quốc, xin thưa với các đồng chí là vất vả lắm”. Rồi ông lập luận: “Lịch sử giao cho dân tộc chúng ta phải sống bên cạnh cái nước mà ta bảo họ có tư tưởng nước lớn, họ nói thế nào cũng được vì họ là nước lớn.
    Thật ra cái ông Phó Giáo sư sử dụng nhóm chữ “không được mất chủ quyền” phải hiểu theo nghĩa nào, vì ông vừa nói “không được mất chủ quyền” thì cách giải thích của ông được hiểu là khi bị Trung Cộng lấn chiếm, Việt Nam không được có bất cứ hành động nào tỏ ra chống đối họ, vì họ là nước lớn nên họ nói gì làm gì cũng được. Vậy là, tôi hiểu nội dung bài giảng của ông Phó Giáo Sư Học Viện Chính Trị Bộ Quốc Phòng CSVN rằng: “Khi Trung Cộng lấn chiếm đất đai biển đảo của Việt Nam, thì Việt Nam không được chống trả để giữ cái mà ông Thanh gọi là “tình đoàn kết với Trung Cộng”. Với Các Anh: “Ông Thanh mang cấp Đại Tá quân đội nhân dân, chỉ để dạy dỗ quân đội và những thế hệ sinh viên trong các trường đại học chỉ biết cúi đầu trước Trung Cộng như vậy, Các Anh có bằng lòng chấp nhận lời giảng đó của ông ta không?” Nếu có, quả thật trái tim của Các Anh đúng như ông Putin, đang là Tổng Thống nước Nga, nhận định: “Kẻ nào tin những gì cộng sản nói là không có cái đầu, kẻ nào làm theo lời của cộng sản là không có trái tim”. Các Anh hiểu rằng, là con người mà không có cái đầu cũng không có trái tim, có khác gì những động vật hoang dã! Nếu không, Các Anh hãy suy nghĩ … và quyết định nhé!
    Và “bốn cái tránh” là: (1) Tránh đối đầu quân sự. (2) Tránh đối đầu toàn diện. (3) Tránh bị bao vây cô lập. (4) Tránh lệ thuộc nước ngoài.

    Ông Trần ĐăngThanh giải thích: (1) Tranh chấp ở Biển Đông không chỉ giữa Việt Nam với Trung quốc, mà có nhiều nước khác tham gia vào, nếu không khéo thì Việt Nam sẽ bị lợi dụng để trở thành quân bài của nước khác. (2) Trong số các nước tranh chấp, mặc dù Trung Quốc là bên có nhiều hành động xâm lấn, nhưng họ vẫn là bạn tốt. Họ đã từng giúp đỡ Việt Nam một cách thực lòng trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Khác với phương Tây mà cụ thể là Mỹ, là những nước “chưa bao giờ tốt thật sự với chúng ta”, đã từng gây tội ác ở Việt Nam, và “tội ác của họ trời không dung, đất không tha”. Thế nên không bao giờ được ngộ nhận và ngả theo Mỹ trong vấn đề Biển Đông. (3) Nếu Việt Nam cứ mềm mỏng thì Trung quốc sẽ không làm quá. Mặc dù họ vẫn có hành động xâm lấn nhưng có nhiều khả năng Trung quốc sẽ không tấn công quân sự để chiếm các đảo đang thuộc quyền của Việt Nam. Đây cũng là tránh chiến tranh với Trung quốc. (4) Trung quốc là nước lớn, quá mạnh, còn Việt Nam quá yếu. Vì thế cho dù Việt Nam không muốn nhẫn nhịn thì cũng không được. Cho nên khi Trung quốc “đá” thì Việt Nam phải “né” chứ không được đá lại. Nếu đá lại, Việt Nam sẽ phải đối mặt với chiến tranh, mà nếu “để xảy ra chiến tranh, xin thưa với các đồng chí vất vả lắm”.

    Kết hợp các yếu tố trên, cái tốt nhất mà Việt Nam có thể làm là đấu tranh với Trung Quốc trên danh nghĩa tình đồng chí, và tranh luận thẳng thắn với Trung Quốc trên danh nghĩa tình đồng chí. Thí dụ về chuyện Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói với ông Hồ Cẩm Đào để chứng minh sự quyết liệt của Việt Nam. Đương nhiên ai cũng hiểu Trung Quốc không bao giờ chịu ra toà án quốc tế, vì vậy đưa ra toà án quốc tế không phải là cách có thể thực hiện được. (6) Những cách đấu tranh như biểu tình là không thể chấp nhận được, vì biểu tình sẽ làm phật lòng Trung quốc và biểu tình sẽ gây nguy hiểm đến an ninh chính trị, lúc ấy các thế lực thù địch lợi dụng lật đổ chế độ”.

    Đến đây thì ông Thanh như quỳ xuống bợ Trung Cộng lên, rồi nhục nhã mà giảng tiếp: “Trong 4 (?) năm kháng chiến chống Pháp, 21 năm chống Mỹ, nhân dân Trung quốc, nhà nước Trung quốc, đã từng nhường cơm xẻ áo dành cho chúng ta từ hạt gạo, từ khẩu súng, từ đôi dép, để chúng ta giành thắng lợi trong kháng chiến chống Pháp và thắng Mỹ. Ta không thể là người vong ơn bội nghĩa … ” Bợ Trung Cộng lên xong, ông phó giáo sư như đứng dậy tấn công Hoa Kỳ: “Các đồng chí nhớ người Mỹ chưa hề, chưa từng và không bao giờ tốt thật sự với chúng ta cả. Phải nói rõ luôn, nếu có tốt chỗ này, có ca ngợi chúng ta chỗ kia, có ủng hộ chúng ta về Biển Đông chẳng qua vì lợi ích của họ. Họ đang thực hiện “thả con săn sắt, bắt con cá rô”. Họ chưa bao giờ tốt thật sự với chúng ta, tội ác của họ trời không dung, đất không tha”.

    “Giảng bài” xong, ông Thanh bèn dạy dỗ cùng lúc đe dọa nhà giáo của các trường đại học, hãy giáo dục học trò của họ phải biết tuân phục đảng cộng sản, và ngăn cấm biểu tình. Ông ta nói: “… Trước mắt là chúng ta phải tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng chúng ta, sự điều hành của Chính phủ, cố gắng làm sao đừng để cho những vấn đề gây rối loạn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Và hôm nay các đồng chí nào tự ái thì tôi cũng mạnh dạn, nếu trường đại học nào còn để sinh viên tham gia biểu tình bất hợp pháp, khuyết điểm thuộc về các đồng chí Hiệu trưởng và Ban Giám hiệu trường đó, trước hết thuộc về Bí thư Đảng ủy – phòng quản lý sinh viên của trường Đại học đó. Nếu để cho công an thành phố Hà Nội hoặc v..v… người ta giữ sinh viên của mình, người ta điện mời thầy nọ thầy kia, đến nhận sinh viên của mình thì đấy là khuyết điểm của chúng ta. Và tôi hy vọng rằng tất cả các thầy với trách nhiệm và với lòng tin của chúng ta, chúng ta sẽ không để những trường hợp đó xảy ra”.

    Khi “giảng” đến nguyên tắc bảo vệ chế độ, ông Thanh nói đến cái “sổ hưu”, ông ta kêu gọi mọi người bằng mọi giá phải giữ vững chế độ, bởi vì mất chế độ là mất hết, trước nhất là mất sổ hưu…. Thế rồi “cái sổ hưu trí” của ông Thanh trở thành đề tài cho nhiều chuyện giễu cợt mỉa mai trên Internet.
    Với nhà văn Nguyễn Quang Lập trên Facebook: “”Bảo vệ chế độ là bảo vệ bằng cái… sổ lương hưu (đã lĩnh và sắp lĩnh). Chưa bao giờ những lời rao giảng về lý tưởng Xã Hội Chủ Nghiã lại “thực dụng” đến như vậy, và cũng thảm thiết đến như vậy!”
    Ông Hà Văn Thịnh, giảng viên đại học Huế: “Ông Thanh nói cái nội dung sổ hưu thì chẳng phải ông đang tầm thường hóa, trần tục hóa, và thực dụng hóa Chủ Nghĩa Xã Hội đó sao? Lý tưởng sổ hưu là tư tưởng sáng tạo của “Tổ quốc thời Xã Hội Chủ Nghĩa”? Ngay đến Tổ quốc cũng chỉ là món hàng có thời hoặc lỗi thời, thì quả thật, lòng yêu nước và tinh thần dân tộc đã trở thành cái đáy tận cùng của sỉ nhục”.
    Các Anh thấy chưa, với tư cách Phó giáo sư của Học Viện Chính Trị Bộ Quốc Phòng, Đại Tá Trần Đăng Thanh như đang nói với mọi người rằng “lý tưởng của nhóm lãnh đạo CSVN là bảo vệ đảng để cướp đoạt tài sản, còn lý tưởng của đảng viên chỉ là cuốn sổ hưu”, khi ông Thanh nói: “Phải bằng mọi giá để giữ vững chế độ, bởi vì mất chế độ là mất hết, trước nhất là mất cuốn sổ hưu”. Lý tưởng của người cộng sản Các Anh ngày nay là như vậy đó, nếu Các Anh chưa tin tôi, hãy đọc kỹ lại dòng chữ cuối cùng trong đoạn nhận định của giáo sư Hà Văn Thịnh bên trên. Tôi nghĩ, nếu trái tim Các Anh còn màu đỏ trong dòng máu bên trong cơ thể, chắc chắn Các Anh sẽ cảm nhận được nỗi đau đến tột cùng của “người lính quân đội nhân dân Việt Nam”! Vì “quân đội nhân dân” mà lại cầm súng nhắm vào nhân dân khi họ can đảm bày tỏ tinh thần trách nhiệm với dân với nước, nhưng lại chỉa súng xuống đất khi đụng đầu với quân Trung Cộng, kẻ thù từ trong lịch sử cùa dân tộc Việt Nam, chỉ vì cuốn sổ hưu!

    Với nét nhìn của tôi, trong bài giảng của ông Thanh cho thấy mức độ khiếp nhược của lãnh đạo CSVN đối với Trung Cộng là không thể tưởng tượng được. Ông Thanh còn dạy rằng: “Khi Trung quốc “đá” thì Việt Nam phải “né” chứ không được đá lại”. Vậy thì “quân đội nhân dân” Các Anh, được tổ chức và trang bị các loại vũ khí, gần đây lại mua thêm máy bay, mua thêm tàu chiến, tàu ngầm, chỉ để trấn áp dân oan khiếu kiện đất đai, trấn áp người dân để cướp đất, cướp ao hồ, để đàn áp người dân bày tỏ lòng yêu nước phản đối Trung Cộng lấn chiếm biển đảo của Việt Nam, chớ không phải đánh đuổi “người lạ, quân lính lạ, tàu nước lạ” để bảo vệ ngư dân, bảo vệ đất liền và biển đảo Việt Nam!

    Chưa hết, ông Thanh còn dạy rằng: “Trung Quốc là bên có nhiều hành động xâm lấn, nhưng họ vẫn là bạn tốt”. Sao kỳ vậy? Nếu Trung Cộng tốt với lãnh đạo CSVN mà sao họ vẫn xâm lấn Việt Nam chúng ta hết lần này đến lần khác? Bằng chứng: Năm 1988, Trung Cộng xâm lấn chiếm giữ 8 đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Năm 1999, Trung Cộng xâm lấn 789 cây số vuông dọc theo biên giới, đến mức Ải Nam Quan trở thành lãnh thổ của Trung Cộng. Năm 2000, xâm lấn chiếm giữ 11.362 cây số vuông trên Vịnh Bắc Việt. Năm 2009, Trung Cộng công bố “đường lưỡi bò” liếm đến 80% Biển Đông mà hơn phẩn trong đó là chủ quyền của Việt từ trong lịch sử. Chỉ riêng năm 2012, Trung Cộng đã xua hơn 30.000 tàu đánh cá tung hoành trên “vùng biển lưỡi bò”! Vậy mà cái ông Phó giáo sư của Các Anh lại dám mở miệng dạy dỗ các giáo sư đại học rằng “Trung Cộng là bạn tốt, dù họ đã nhiều xâm lấn Việt Nam!”
    Hởi Tổ Tiên, Hồn Thiêng Sông Núi, và Anh Linh Liệt Vị, chúng con là hậu duệ của các Ngài, là dòng dõi một dân tộc anh hùng từ ngàn xưa, mà ngày nay, sao chúng con lại phải tủi nhục đến tận cùng của nỗi đau như vầy? Chúng con xin ngược dòng thời gian để nhớ lại rằng, từ lịch sử xa xưa đến thời cận đại, chưa bao giờ có những người nhân danh lãnh đạo mà lại dạy dỗ những nhà giáo, phải đào tạo những thế hệ hiện nay và những thế hệ nối tiếp về sau, chỉ biết cúi đầu tuân phục những người lãnh đạo, rồi cùng lãnh đạo mà cúi đầu trước tham vọng của Trung Cộng lấn chiếm Việt Nam, thậm chí nếu bị Trung Cộng “đá” cũng phải “né” chớ không được chống lại! Chúng con không biết phải hỏi ai, dám xin hỏi các Ngài: “Ông Phó giáo sư Trần Đăng Thanh có phải là người Việt Nam không? Chúng con nghĩ, chắc là phải, vì ông ấy nói tiếng Việt Nam như người Việt Nam. Vậy, phải chăng bộ não trong đầu của ông Thanh chỉ là một mảng bùn non, và trái tim của ông ấy chỉ là dòng máu đen ngòm luân lưu trong đó?” Và liệu, cả nhóm lãnh đạo trung ương gần 200 người, đều là Trần Đăng Thanh? Chúng con nghĩ, chắc là phải! Vì chính sách của họ là như vậy, nếu không phải là chính sách thì 10 ông Thanh hay 100 ông Thanh, cũng không dám dạy dỗ nhà giáo bậc đại học xã hội chủ nghĩa như vậy. Chúng con kính lạy các Ngài”.

    Nếu Các Anh chịu khó nhớ lại lời của ông Phùng Quang Thanh, Bộ Trưởng Quốc Phòng CSVN khi gặp Bộ Trưởng Quốc Phòng Trung Cộng Lương Quang Kiệt bên lề hội nghị quốc tế, tại khách sạn Shangri-La ở Singapore ngày 3/6/2011. Ông Thanh khẳng định với ông Kiệt rằng: “Việt Nam và Trung Quốc là anh em tốt, đối tác tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt” (4 tốt). Theo TTXVN, Đại Tướng Phùng Quang Thanh còn nói với Trung Cộng, là vụ tàu thăm dò địa chấn Bình Minh 02, ngày 26/5/2011 bị tàu hải giám của Trung Cộng cắt cáp, chỉ là chuyện nhỏ, không ảnh hưởng đến “truyền thống hữu nghị tốt đẹp giữa hai dân tộc Việt-Trung”.
    Rõ ràng là ông Phùng Quang Thanh với ông Trần Đăng Thanh, hai nhân vật với hai câu nói cách nhau gần 2 năm, nhưng chung một ý. Mời Các Anh đọc tiếp, để nhận ra “nền tảng tạo nên con người tử tế hoặc con người tội ác, tùy theo chính sách giáo dục của người lãnh đạo”.


    Thứ ba. Hậu quả của giáo dục xã hội chủ nghĩa.


    Tóm lược bài đăng trong báo Pháp Luật trong nước, nhà báo Yên Trang phỏng vấn Giáo sư Tiến sĩ khoa học Nguyễn Đăng Hưng hồi trung tuần tháng 11/2012.
    Câu hỏi: Thưa Giáo sư. Điều gì khiến ông cho rằng xã hội hiện nay biến loạn đến mức trầm trọng?
    Trả lời: Hằng ngày trên các trang thông tin đại chúng, đâu đâu cũng có những chuyện cướp của, giết người, vô nhân tính. Cái ác hoành hành khắp nơi, khắp chốn một cách ngang nhiên. Điều đó cho thấy kháng thể của xã hội trong cuộc chiến chống cái xấu cái ác đang bị suy sụp trầm trọng. …
    Câu hỏi: Vậy thưa ông, cái xấu cái ác bắt đầu đến từ đâu?
    Trả lời: Trộm, cướp … đến từ cuộc sống khó khăn, nhưng sự chiếm đoạt của cái xấu cái ác lại nằm ở giáo dục, và khi giá trị đạo đức bị hủy hoại thì tha hóa rõ ràng. Bởi, kinh tế khó khăn thì sau thời gian suy thoái sẽ vực dậy được. Địa ốc đóng băng cũng có ngày phục hồi được. Đồng tiền mất giá, sẽ từ giá mới sẽ vươn lên được. Nhưng nền giáo dục của Việt Nam đang lầm đường lạc lối. Nền giáo dục không tạo được con người có nhân cách, có niềm tin đạo đức, biết sống lương thiện, biết sống thương yêu… Thay vào đó là từ ngay tấm bé, trẻ con đã thấy một xã hội vị kỷ, thực dụng, chỉ thấy tiền là chính… Đây không còn là câu chuyện nhỏ, mà là một vấn đề trầm trọng. Các em lớn lên trong môi trường giáo dục như thế, xã hội biến chất đảo điên là điều tự nhiên. Bởi vậy, mới có chuyện con giết cha mẹ để có tiền chơi game. Đây là đỉnh điểm của một xã hội bấn loạn, thật khó tưởng tượng là còn đỉnh điểm nào tệ hơn nữa…….
    Câu hỏi: Nhưng chúng ta không thể đổ hoàn toàn cho giáo dục. Bởi trong ca dao vẫn dạy “anh em như thể chân tay, thương người như thể thương thân…” Và vẫn còn nhiều tấm gương tốt trong xã hội?

    Trả lời: Chúng ta đưa chính trị vào trường học, nhồi nhét quan điểm một chiều trong trường học. Thay vì khuyến khích yêu thương nâng đỡ nhau để giải quyết các vấn đề thì có một thời ta lại khuyến khích đấu tranh để sống còn. Mà đấu tranh giai cấp là tiêu diệt kẻ thù, tiêu diệt thế lực thù địch… Thói ghen ghét, đố kỵ ở đâu cũng có, nhưng tôi cảm nhận tại Việt Nam ngày nay, những tật xấu này có phần gay gắt một cách không bình thường.
    Câu hỏi: Nghĩa la` vấn đề nằm từ gốc chứ không phải ngọn thưa ông?
    Trả lời: Đúng thế. Một lớp học tiểu học, sự giàu nghèo thể hiện ngay trong ăn mặc, trong những tiệc sinh nhật của từng đứa trẻ. Những đứa trẻ con nhà giàu có, nếu không được dạy phải thương bạn, tôn trọng bạn, chúng sẽ ra sao khi trưởng thành? Những đứa trẻ nghèo khó luôn tự hỏi tại sao mẹ không mua cho con áo đẹp, tại sao mẹ không mua cho con cặp đẹp? Tất cả những cái đó nếu không được giải tỏa bằng các bài học thường trực hàng ngày, thì lâu dần sẽ ảnh hưởng đến sự hình thành nhân cách của một đời người.

    Giáo dục thường thức, giáo dục công dân, đang có vấn đề. Tuổi trẻ xao nhãng học văn, ngán ngẫm học sử vì bài học, vì sách giáo khoa quá ư cứng nhắc, một chiều, không hấp dẫn, không sinh động. Giới trẻ ngày nay không biết lịch nước nhà, nhưng khi mở Ti Vi lên, khắp mọi đài đều chiếu toàn phim Trung Quốc. Tình trạng này đang dẫn đến tai hoạ, trước mắt là tuổi trẻ ta hiểu biết lịch sử Trung Quốc hơn là lịch sử Việt Nam. Đó là điều không thể chấp nhận được.
    Câu hỏi cuối: Vậy theo ông, bài học thường trực trong nhà trường phải nói về yêu thương?
    Trả lời: Đúng vậy… Con trẻ phải được dạy yêu thương ông bà, yêu thương cha mẹ, anh em, rồi mới yêu cái cây đa, cái đình làng, yêu cánh đồng lúa chín, con sông nho nhỏ uốn quanh làng quê, con đường phố rợp bóng mát cây xanh, sau nữa mới đến yêu Tổ quốc…. Nhưng dường như bài học thương yêu, đề cao những tâm hồn cao thượng, tình tương thân tương ái, nhiễu điều phủ lấy giá gương, thương người như thể thương thân, đã bị mờ nhạt từ lâu. Một môi trường như vậy mà bạo lực không xuất hiện mới là điều lạ. Hết phần tóm lược.

    Tiếp đây là một nét nhìn hạn hẹp về hậu quả chính sách “trăm năm trồng người” của cái ông mà Các Anh gọi là “bác”. Báo Lao Động dẫn lời của Phó Thủ Tướng Nguyên Xuân Phúc phát biểu ngày 25/1/2013, trong buổi họp đầu tiên về cải cách bộ máy công chức, để dẫn đến bộ máy hành chánh chuyên nghiệp… Câu đầu tiên của ông Phúc là: “Hiện nay, Việt Nam có 2.800.000 công chức”. …. “Trong số đó có khoảng 30% (tức 840 ngàn người) có thể cho nghỉ việc mà không ảnh hưởng gì tới công việc chung”…. Ông nói tiếp: “Việt Nam sẽ “thất bại trước nền kinh tế thị trường” nếu không đổi mới chế độ công vụ và công chức”. Tờ báo nhắc lại lời của các đại biểu Quốc Hội từng nói, “ngoài 30% công chức không làm được việc, còn 30% công chức nữa cần phải cầm tay họ mà chỉ việc. Cuối cùng, ông Phó Thủ Tướng kết luận: “Ông quyết tâm thực hiện đổi mới và yêu cầu áp dụng ngay việc thi công chức “công khai” và “minh bạch”..
    Chỉ một góc nhỏ thôi, Các Anh cũng thấy được cái hệ lụy của con người dẫn đến xã hội suy đồi băng hoại ngày nay, bắt nguồn từ chính sách giáo dục học đường và chính sách giáo dục xã hội ngang qua những văn kiện của các cấp trung ương lẫn địa phương. Và hệ lụy này, nếu như ngày mai đảng cộng sản Việt Nam sụp đổ, ít ra cũng phải 20 năm, 30 năm, thậm chí là 40 hay 50 năm sau, chế độ dân chủ tự do mới hy vọng khôi phục lại và phát triển một xã hội văn minh lịch sự. Tôi chưa dám nói đến xã hội Nhật Bản hôm nay sẽ là xã hội Việt Nam ngày mai, nhưng tôi luôn thao thức đến điều đó.

    Kết luận.


    Là Người Lính trong quân đội nhân dân Việt Nam, tôi nghĩ, có Anh 5 năm, 15 năm, 20 năm, thậm chí 25 hay 30 năm cầm súng, có bao giờ Các Anh suy ngẫm về quảng đời quân ngũ với súng đạn, có người về hưu, người thì thương tật tàn phế, có người đã gục ngã trên chiến trường, và Các Anh đang còn súng đạn trong tay, để nhận ra những khác biệt giữa lời nói với hành động của lãnh đạo Các Anh trong giai đoạn lịch sử từ khi nhuộm đỏ một nửa nước vào năm 1954, đến nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam năm 1975, và đến nay không? “Nói giải phóng, nhưng thật sự là xâm lăng. Nói thống nhất, nhưng là nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam theo lệnh của cộng sản quốc tế. Nói “nhân dân là chủ, cán bộ là đầy tớ”, nhưng thật ra nhân dân chỉ là một phương tiện lót đường cho họ nắm quyền lực mà thâu tóm tài sản. Nói độc lập, nhưng họ nhận lệnh từ Trung Cộng. Nói tự do, nhưng họ là độc tài. Nói hạnh phúc, nhưng toàn dân như bị họ nhốt trong cái lồng chim. Nói tự do ngôn luận, nhưng mọi người bị họ bịt mắt bịt tai bịt miệng. Nói giáo dục tân tiến, nhưng chỉ đào tạo những thế hệ thần dân để tuân phục họ. Mở miệng ra là khoa học kỹ thuật, nhưng sử dụng côn đồ và luật pháp rừng rú đàn áp người dân yêu nước chống Tàu xâm lấn. Nói đến quê hương dân tộc, nhưng họ nhân danh lãnh đạo đảng cộng sản để đứng trên đầu Tổ Quốc với Nhân Dân. Để rồi hôm nay, lý tưởng của Các Anh chỉ là “cuốn sổ hưu”. Đau lắm phải không Các Anh?
    Vậy là Các Anh nhận ra bộ mặt thật của lãnh đạo CSVN rồi chớ? Tôi mong Các Anh hãy suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính mình, rồi quyết định…. Tôi tin là quyết định đó sẽ giúp Các Anh quyết tâm bước vào hàng ngũ tuổi trẻ, trí thức, đồng bào, bằng bất cứ hình thức nào và thời gian nào mà Các Anh cho là thích hợp nhất, để cùng nhau giành lại quyền làm người cho hơn 90 triệu đồng bào được sống trong một xã hội dân chủ pháp trị, để hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước đã lừng danh thế giới, và mỗi khi cầm sổ “Thông Hành” (hộ chiếu) trong tay mà ngẫng cao đầu giữa thế giới văn minh lịch sự.
    Tôi vững tin rằng, bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại – đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi – vẫn hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào, những thế hệ làm nên lịch sử.
    Hãy nhớ rằng: “Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng, và Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước” (trích trên internet).

    Texas, tháng 2 năm 2013
    Phạm Bá Hoa
    Last edited by Phòng Trực; 04-10-2013, 08:25 AM.

    Comment


    • #17
      Thư số 17 gởi Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam

      Thư số 17
      gởi Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam


      *******
      Phạm Bá Hoa

      Tôi là một trong hằng triệu Người Lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo CSVN với lòng thù hận đã đày đọa chúng tôi trong hơn 200 trại tập trung mà họ gọi là trại cải tạo. Người 5 năm, 10 năm, thậm chí 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy chế độ dân chủ tự do và quân lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn trong quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam cho đến khi mà quê hương tôi có dân chủ tự do thật sự.

      Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Xin gọi Người Lính Quân Đội Nhân Dân, ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày. Chữ “Các Anh” viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Binh Chủng, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào cầm quyền, cũng chỉ trong một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.


      Nội dung thư này, tôi mời Các Anh theo dõi vấn đề sửa đổi Hiến Pháp mà nhiều giới trong xã hội tham gia, tiêu biểu là giới nhân sĩ và trí thức dưới hình thức “kiến nghị”. Nhưng Các Anh có đoán được kết quả sẽ ra sao không? Tôi thì không cần đoán, vì ít nhất cũng là 60 năm qua, tất cả những lần đảng CSVN kêu gọi người dân góp ý văn kiện đại hội đảng, góp ý sửa đổi Hiến Pháp, ..v..v.. cuối cùng tất cả “vẫn như cũ”, nói cho đúng là chỉ sửa đổi những điều khoản lặt vặt mà thôi. Hãy nhớ, dối trá là bản chất của cộng sản mà. Nhưng lần này, nhóm lãnh đạo không dốt gạt được đồng bào, mà bị đồng bào “nắm lấy cơ hội”.

      Thứ nhất. Chuẩn bị sửa đổi Hiến Pháp.

      Ngày 5/9/2012, các học giả pháp lý tham dự hội thảo tại Hà Nội, do Phó Chủ Tịch Quốc Hội Uông Chu Lưu chủ tọa. Đây là bước chuẩn bị cho việc góp ý sửa đổi Hiến Pháp năm 1992. Tóm tắt như sau:

      (1) Tiến Sĩ Dương Thị Thanh Mai, Viện Trưởng Viện Khoa Học Pháp Lý, khi trả lời phóng viên đài BBC, cho biết: “Các học giả tham dự, đã thảo luận vấn đề phải có sự kiểm soát các cơ quan quyền lực của Nhà nước, và đây là một nét mới so với bản Hiến Pháp hiện hành”. Bà nói tiếp: …..“Việc kiểm soát phải được hiến định như một nguyên tắc, mà một trong các nguyên tắc chính của sửa đổi Hiến Pháp lần này, là phải làm sao để Hiến Pháp trở thành công cụ cho người dân thực hiện quyền làm chủ của mình…. Các học giả đã nghiên cứu bổ sung các quyền của người dân, trong đó có các quyền dân chủ trực tiếp, như quyền phát biểu, quyền biểu quyết, và nhất là quyền phúc quyết các vấn đề trọng đại của đất nước”. (2) Luật sư Triển nhấn mạnh: “Quyền của người dân được phúc quyết các vấn đề căn bản của đất nước mà Hiến Pháp 1992 không nói đến”….. (3)Tiến sĩ Trần Ngọc Đường, Viện Nghiên Cứu Lập Pháp: “ Nhu cầu phải có một Hiến Pháp dân chủ, để nhân dân được hưởng các quyền tự do dân chủ… Sức mạnh của Hiến Pháp là thực hiện chính quyền của nhân dân”. (4) Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng,Phó Chủ Nhiệm Văn Phòng Quốc Hội cho rằng: “Chúng ta không thể vượt lên phía trước với chiếc vòng kim cô trên đầu và tấm mai rùa trên lưng, vì vậy mà năm 2013 là cơ hội bằng vàng trong việc góp ý sửa đổi Hiến Pháp”.

      Trong khi đó, báo VnEconomy được ông Nguyễn Bắc Son, Bộ Trưởng Bộ Thông Tin và Truyền Thông, cho biết: “… Năm 2013 là năm bản lề thực hiện Nghị quyết Đại hội XI. Ngành thông tin và truyền thông, sẽ chủ động trong việc cung cấp thông tin chính thống kịp thời và đầy đủ, tích cực phát triển nội dung lành mạnh trên mọi phương tiện truyền thông theo phương châm “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”… Ông nói tiếp: “Báo chí là công cụ, là phương tiện của nhà nước, trí thức nghề báo không có quyền suy nghĩ độc lập hay phản biện, mà phải biết vâng lời”.

      Trời đất! Cái ông Bộ Trưởng của Các Anh lại nói đến “năm bản lề”. Nhóm chữ này cứ sau mỗi đại hội đảng cộng sản độc tài là cả hệ thống truyền thông rầm rộ “ca tụng Nghị Quyết đúng đắn”, rồi sau đó 2 năm lại nói đến “năm bản lề” (tức là năm thứ 3 của nghị quyết 5 năm) thực hiện nghị quyết thành công. Để rồi, “đúng đắn hay thành công”, tất cả đều thất bại. Vậy mà ông Son tự ca tụng cái ngành “truyền thông một chiều” của ông đã cung cấp tin tức chính thống kịp thời và đầy đủ, được hiểu là tuyên truyền và dối trá.Cuối cùng ông ta tự nhận cái bản chất độc tài của chế độ, qua câu: “…Trí thức nghề báo không có quyền suy nghĩ độc lập mà phải biết vâng lời”. Vậy là Các Anh hiểu thêm chính sách truyền thông của đảng với nhà nước rồi chớ? Với 812 tờ báo gìấy, 70 báo điện tử, và 1.084 ấn phẩm các loại, nhưng tất cả chỉ một tiếng nói của chính sách bịt mắt bịt tai bịt miệng 90 triệu người Việt Nam. Thực tế thì mọi người trong xã hội mà điển hình là quan điểm của những nhà trí thức tham dự hội thảo, đều xoay quanh mục tiêu một Hiến Pháp tự do và nhân quyền để xây dựng một xã hội dân chủ tự do, từ đó dẫn đến sự phát triển toàn diện đúng nghĩa.

      Thứ hai. Kêu gọi góp ý sửa đổi Hiến Pháp.

      Ngày 29/12/2012, ông Phan Trung Lý, Trưởng Ban Biên Tập Dự thảo Sửa Đổi Hiến Pháp tuyên bố: “Nhân dân có thể cho ý kiến đối với mọi nội dung trong bản dự thảo Hiến Pháp, kể cả điều 4”. Cùng lúc, ông Lý lại tuyên bố: “Mỗi lần trình và thảo luận đều có những vấn đề cụ thể được sửa đổi, nhưng những định hướng lớn, nguyên tắc căn (cơ) bản vẫn giữ nguyên”.

      Các Anh hãy đọc lại câu: “….. nhưng những định hướng lớn, nguyên tắc căn (cơ) bản vẫn giữ nguyên”, hóa ra đảng chỉ sửa đổi những điều khoản lặt vặt thôi, còn những điều khoản căn bản giành cho đảng độc tài cái quyền lãnh đạo, quyền sở hữu đất đai, quyền “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, quyền nắm giữ hệ thống ngân hàng của nhóm lợi ích, quyền quyết định toàn bộ sinh hoạt xã hội,…và hơn hết là cái “quyền xét và cho”, còn người dân chỉ có mỗi cái “quyền xin” mà thôi.

      Sau đó, ông Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng ban hành “chỉ thị 22”, nói lên sự kiện lấy ý kiến nhân dân cho bản dự thảo Hiến pháp là “một đợt sinh hoạt chính trị quan trọng, rộng lớn trong toàn đảng, toàn dân, và cả hệ thống chính trị”. Nhưng ngay sau đó,ông Trọng lại ra lệnh Công An và Quân Đội phải “ngăn chặn những hành vi lợi dụng dân chủ trong việc lấy ý kiến nhân dân để tuyên truyền, xuyên tạc, chống phá đảng và nhà nước”.

      Lời tuyên bố có phần sợ hãi của ông Trọng, làm tôi nhớ lại sự sợ hãi của ông Nguyễn Minh Triết, lúc ấy là Chủ Tịch nước, đã tuyên bố: “… Tôi khằng định trước sau như một, là chúng ta vẫn tiến lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải xây dựng đảng của chúng ta. Dù ai nói ngả nói nghiêng, dù ai có muốn bỏ Điều 4 Hiến Pháp thì không có chuyện đó. Bỏ cái đó đồng nghĩa với chúng ta tuyên bố tự sát, cho nên phải củng cố công tác tư tưởng, củng cố vai trò của đảng”

      Các Anh thấy không, bởi cộng sản là độc tài, mà độc tài thì lúc nào cũng sợ người dân lật đổ vì thế giới ngày nay trên đà phát triển dân chủ, và lịch sử đã chứng minh “độc tài thì sụp đổ”. Vì vậy mà nhóm lãnh đạo CSVN thường xuyên bị ám ảnh, những nhà lãnh đạo độc tài miền Đông Âu Châu bị người dân phẫn uất đã giết chết như thế nào khi chế độ cộng sản sụp đổ, đến những nhà độc tài vùng Trung Đông và Bắc Phi cũng tương tự như vậy. Các Anh hãy nhớ, trong đời sống của mỗi con người, “làm điều tốt sẽ nhận lại điều tốt, làm điều xấu sẽ nhận lại điều xấu”. Thực tế từ ngàn xưa đến nay, đã chứng minh quy luật này và tuyệt nhiên không ngoại lệ.

      Thứ ba. Nhân sĩ và trí thức góp ý.

      Tóm lược nội dung Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang trả lời phỏng vấn đài Á Châu Tự Do về sửa đổi Hiến Pháp. (chữ nghiêng là nội dung của ông Giang, chữ đứng là của tôi)

      Kể từ ngày 02/01/2013 đến ngày 30/03/2013, người dân Việt Nam được mời tham gia đóng góp ý kiến cho bản dự thảo sửa đổi Hiến Pháp. Theo dự thảo sửa đổi Hiến Pháp, có 8 nội dung sửa đổi được lấy ý kiến nhân dân, trong đó có: (1) Lời nói đầu. (2) Chế độ chính trị. (3) Quyền con người. (4) Quyền và nghĩa vụ công dân. (5) Bộ máy Nhà nước. (6) Hiệu lực của Hiến Pháp. Và .. v..v…

      Trong bản Hiến Pháp 1992, điều 4 quy định: “Đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”….“Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật…..”. Trong bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp, điều 4 vẫn quy định Đảng lãnh đạo nhà nước, nhưng có thêm một câu: “Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình”….“Đảng chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình” mà sao không tự xử thích đáng, không tự bãi nhiệm, từ chức trước những sai lầm tệ hại như chủ trương công nghiệp nặng làm then chốt đã từng tàn phá nền kinh tế, đẩy đất nước vào kiệt quệ, nhân dân chịu đói nghèo, như chủ trương khu lọc dầu Dung Quất đã gây lãng phí hằng trăm hằng nghìn tỷ đồng …”

      Tôi giúp Các Anh nhận ra câu mà nhóm lãnh đạo cộng sản đưa thêm vào Điều 4 Hiến Pháp, bằng cách tách riêng từng ý ngắn, và chẻ nhỏ những ý đó ra để Các Anh nhìn rõ sự thật nhé:

      (1) Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân…, mà thẳng tay đàn áp nhân dân chỉ vì bày tỏ lòng yêu nước trong hòa, để phản đối Trung Cộng lấn đất chiếm biển, ủi chìm tàu cá và bắt ngư dân nộp tiền chuộc. (2) …Phục vụ nhân dân…, vậy mà mỗi khi người dân có việc phải đến bất cứ cơ quan nào của nhà nước, thậm chí đến người gác cửa nhà xác của bệnh viện, cũng phải nạp tiền mới mong được “nhà nước đầy tớ” giải quyết công việc, dù công việc đó là nhiệm vụ của nhà nước phải làm cho dân. Tham nhũng trong xã hội chủ nghĩa ngày nay nó len vào tận cùng ngóc ngách sinh hoạt xã hội, đến mức người dân không còn chỗ nào để tránh được nữa. (3) …Chịu sự giám sát của nhân dân…, nhưng tất cả những tổ chức có kèm theo hai chữ nhân dân, đều do nhà nước tổ chức và có đảng “kềm kẹp”, thì làm sao nhân dân giám sát đảng với nhà nước, vì đảng đứng trên đầu nhân dân mà! Hơn thế nữa, khi người dân bất mãn vì đảng với nhà nước đã vô cảm trước sự lấn áp khống chế của Trung Cộng trên Biển Đông, tuổi trẻ Việt Nam chỉ dám nói một lời, chỉ dám viết câu thơ, chỉ dám hát bài nhạc, chỉ dám cất cao lời than cho số phận người dân Việt Nam bị tước mất cái quyền yêu quê hương đất nước của mình, đã quá đủ để Công An bắt rồi, vì nhóm lãnh cho rằng bất cứ ai biểu lộ chống Trung Cộng thì điều đó cũng là chống Việt Cộng”, mà Việt Cộng chính là họ. (4) Chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình”, vậy mà bản tin ngày 14/11/2012 của AFP, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, lần đầu tiên bị một trong số 500 đại biểu Quốc Hội kêu gọi ông từ chức, vì những kém cõi trong lãnh đạo đã đẩy nền kinh tế đất nước vào tình trạng nguy ngập hiện nay. Đại Biểu Dương Trung Quốc nói: “Đã đến lúc phải đề cao trách nhiệm pháp luật chứ không phải chỉ là lời xin lỗi”. Rồi ông đặt câu hỏi:“Thứ nhất. Thủ Tướng nghĩ gì về ý kiến cho rằng, mình đã nặng trách nhiệm với đảng, mà nhẹ trách nhiệm với dân? Và thứ hai.Thủ Tướng có tán thành là sẽ khởi đầu cho một sự tiến bộ của chính phủ, hướng tới một văn hóa từ chức để từng bước đoạn tuyệt với lời xin lỗi suônghay không?”

      Ðáp lại những chỉ trích công khai của ông Quốc, Thủ Tướng Dũng nói: “Đối với tôi, còn 3 ngày nữa tròn 51 năm tôi theo Đảng, hoạt động cách mạng, chịu sự quản lý trực tiếp của Đảng. Trong 51 năm qua, tôi không xin với Đảng cho tôi đảm nhiệm chức vụ này hay chức vụ khác. Mặt khác, tôi cũng không thoái thác hay từ chối bất cứ nhiệm vụ gì mà Đảng và Nhà nước giao phó cho tôi. Là cán bộ, đảng viên, tôi đã nghiêm túc báo cáo với Bộ Chính Trị, Ban Chấp Hành Trung Ương về bản thân mình. Đảng, Ban Chấp Hành Trung ương đã hiểu rõ về tôi, cả về sức khỏe, thương tật, cả về năng lực, phẩm chất, đạo đức cả về tâm tư, nguyện vọng của tôi. … Đảng ta là đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội. Đảng đã phân công tôi tiếp tục làm nhiệm vụ Thủ Tướng. Quốc hội bỏ phiếu bầu tôi làm Thủ Tướng thì tôi sẵn sàng chấp nhận và hoàn thành nghiêm túc mọi quyết định của Đảng, của Quốc Hội”.

      Các Anh thấy chưa? Mới gợi ý Thủ Tướng Dũng khởi động cho tập quán “văn hóa từ chức”, thì ông Thủ Tướng Các Anh vội vàng “kê ra cái toa như toa thuốc thần”, nào là sức khỏe, thương tật, nào là phẩm chất đạo đức, nào là đảng hiểu rõ ông ta, ông ta với đảng hiểu rõ nhau (vì cùng tham nhũng và cùng bao che mà). Nhưng từ đầu đến cuối lời phát biểu, cái ông Thủ Tướng Các Anh chỉ nói đến đảng, chỉ tuân phục đảng, mà không một lời nào nói đến trách nhiệm đối với dân, với nước. Bản chất của cộng sản là dối trá, và dối trá ngay trong Hiến Pháp của đảng mới là khủng khiếp, vì Hiến Pháp là văn kiện qui định thể chế cho lãnh đạo và quản trị quốc gia. Họ viết lời lẽ tốt đẹp vào đó để dối trá với dân, dối trá với quốc tế, vì họ chỉ áp dụng những gì có lợi cho họ. Thậm chí, những văn kiện nhà nước ban hành để áp dụng Hiến Pháp lại trái ngược với Hiến Pháp nữa. Tôi nói“bản Hiến Pháp của đảng”, vì lãnh đạo đảng viết ra rồi đưa Quốc Hội -mà Quốc Hội thì hầu hết đại biểu là đảng viên- theo lệnh Bộ Chình Trị mà thông qua, còn nhân dân có được đọc chữ nào đâu mà nói Hiến Pháp của dân.

      Các Anh hãy đọc bài viết trên báo Saigon Online ngày 13/02/2013, tường thuật Chủ Tịch Trương Tấn Sang đến thăm gia đình một đảng viên tại Phường Thảo Điền, Quận 2. Chủ nhà là Giáo sư tiến sĩ Phan Thị Tươi, giới thiệu chồng bà là ông Hoàng Thái Lai, đã nghỉ hưu. Chủ Tịch Sang hỏi: “Đồng chí có gửi gắm gì không?”. Ông Lai trả lời: “Tôi mong mỗi cán bộ lãnh đạo hãy làm đúng những gì đã nói”. Ông Sang nói ngay: “Đúng. Làm đúng những gì đã nói đang là thách thức rất lớn đối với chúng ta hiện nay” …. .“Từ trước đến nay, chúng ta có “cái bệnh” rất lớn là không dám nói lên sự thật. Nhiều cán bộ không muốn nghe sự thật, và không dũng cảm nói lên sự thật, chỉ vì lợi ích…”

      Phái đoàn trao kiến nghị góp ý. Ngày 4/2/2013, phái đoàn 16 nhân sĩ và trí thức, đến văn phòng tiếp nhận ý kiến của nhân dân, số 37 Hùng Vương, Hà Nội, và trao bản kiến nghị góp ý cho Ủy ban.

      Phái đoàn gồm các vị: Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện IDS, Hà Nội. Phan Hồng Giang, TSKH ngành nghiên cứu văn học, Hà Nội. Lê Công Giàu, nguyên Phó Bí thư thường trực Đoàn TNCS/TPHCM. Chu Hảo, nguyên Thứ trưởng Bộ KH & CN, Hà Nội. Phạm Duy Hiển, nguyên Phó Viện trưởng Viện năng lượng nguyên tử Việt Nam, Hà Nội. Vũ Đức Khiển, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Quốc hội, Hà Nội (vắng mặt đột xuất). Tương Lai, nguyên thành viên Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội. Phạm Chi Lan, nguyên thành viên Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội. Hồ Uy Liêm, nguyên Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH & KTVN, Hà Nội. Nguyễn Đình Lộc, nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Hà Nội, Trưởng đoàn. Huỳnh Tấn Mẫm, nguyên Chủ tịch Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn, TPHCM. Nguyên Ngọc, Nhà văn, Hội An. Hoàng Xuân Phú, GS, Viện Toán học, Hà Nội. Nguyễn Minh Thuyết, nguyên Phó Chủ Nhiệm Ủy Ban Văn Hóa Giáo Dục & Thanh Thiếu Niên Nhi Đồng Quốc Hội, Hà Nội. Nguyễn Trung, nguyên thành viên Ban Nghiên Cứu của Thủ Tướng chính phủ, Hà Nội. Tô Nhuận Vỹ, Nhà văn, Huế.

      Tóm tắt nội dung: Ông Lê Minh Thông, Phó Chủ Nhiệm Ủy Ban Pháp Luật của Quốc hội, Phó Ban Biên Tập Sửa Đổi Hiến Pháp 1992, và một số cán bộ trong văn phòng Ủy Ban, tiếp phái đoàn: “Thay mặt Ban Biên Tập (BBT), Chúng tôi xin được lắng nghe ý kiến các bác. Ông Nguyễn Đình Lộc, trưởng đoàn: “Chúng tôi, có tên trong danh sách 16 người, đại diện cho 72 người đã trực tiếp ký tên vào “Kiến nghị sửa đổi Hiến pháp 1992” (gọi tắt là Kiến Nghị 72). Hôm nay, chúng tôi trao Bản Kiến Nghị và dự thảo Hiến Pháp gồm 79 Điều trong 7 Chương cho quý Ủy Ban. Hai văn bản này, chúng tôi đã đưa lên trang boxit, và đã có hơn 2000 chữ ký đồng ý với nội dung (đến cuối tháng 2/2013 lên đến 5.000 người).Ông Lê Minh Thông: “Tôi xin nhận Bản Kiến Nghị của các bác. Trách nhiệm của Ban Biên Tập là chuyển tận tay Ủy Ban Sửa Đổi Hiến Pháp, còn việc lắng nghe ý kiến như thế nào thì thuộc thẩm quyền của Ủy Ban”. Các bác còn có ý kiến gì nữa không? Ông Nguyễn Đình Lộc: “Những buổi như thế này, cũng nên ngồi lâu lâu tí chăng? … Chúng tôi với tất cả thành tâm mà đến đây, chắc các anh tiếp chúng tôi cũng vì … thành tâm”. Ông Nguyễn Trung: “… Hiến pháp là một văn bản cao nhất, quyết định vận mệnh của quốc gia… Tôi thẳng thắn mà nói rằng, dư luận trong nước rất sôi nổi về vấn đề này… Tôi đề nghị, nên có một diễn đàn thực sự của nhân dân bàn về vận mệnh của đất nước, từ đó có thể dẫn đến một sức mạnh chung”. Ông Phạm Duy Hiển: “Tôi rất mong là những ý kiến này được phản hồi trong buổi họp giữa những người trách nhiệm sửa đổi Hiến Pháp và lãnh đạo Quốc Hội, cùng đối thoại với chúng tôi, để tìm ra điểm đúng sai”. Ông Nguyễn Đình Lộc: “…Trước kia, Hiến Pháp nói đến chuyên chính, còn bây giờ thì Hiến Pháp không thể nói đến chuyên chính nữa. Vậy, chúng ta cần tạo cho sự góp ý sửa đổi Hiến Pháp lan rộng trong nhân dân như làn sóng, để thay đổi và phát triển xã hội”. Ông Tương Lai: “Hiến Pháp phải do dân kiểm soát quyền lực nhà nước, và với tinh thần ấy, chính là nội dung trong Kiến Nghị sửa đổi Hiến Pháp sắp tới của nước Việt Nam dân chủ. Vì cho đến nay, chúng ta đã đổ bao nhiêu xương máu để giành được độc lập, nhưng khi độc lập thì không có tự do, không có dân chủ, không có hạnh phúc thì độc lập không có ý nghĩa gì”.

      Các Anh có thấy là tất cả ý kiến đều tập trung vào xây dựng dân chủ trong nội dung Hiến Pháp rồi chớ? Điều này thể hiện quan điểm chính trị của nhiều giới trong xã hội. Nếu nhóm lãnh đạo CSVN có vứt những ý kiến đó vào sọt rác như bao nhiêu lần trước đây đi nữa, sự kiện này vẫn chứng tỏ người dân càng ngày càng mạnh mẽ hơn lên, cùng lúc với sự giảm dần nỗi sợ hãi, chứng tỏ người dân không còn tin vào chế độ độc tài tàn bạo với dân, nhưng vô cùng hèn hạ với Trung Cộng đến độ mất dần đất đai biển đảo do tổ tiên gầy dựng, mở mang, và gìn giữ.

      Thứ tư. Quốc Hội trả lời nhân sĩ và trí thức.

      Ngày 7/2/2013, ông Phan Trung Lý, Chủ Nhiệm Ủy Ban Pháp Luật Quốc Hội, Trưởng Ban Biên Tập Dự Thảo Sửa Đổi Hiến Pháp, đã phúc đáp bản kiến nghị của phái đoàn nhân sĩ trí thức. Nội dung: “Bác bỏ bản dự thảo của phái đoàn vì không đúng quy định trong Nghị quyết số 38 của Quốc Hội”.

      Vậy là, chỉ mới bước đầu, đồng bào mà tiêu biểu là nhóm nhân sĩ trí thức đông đảo, với hy vọng góp ỳ xây dựng bản Hiến Pháp dân chủ cho tương lai Việt Nam phát triền lành mạnh, như vừa bị “cái tát” từ Ban Biên Tập Sửa Đổi Hiến Pháp. Nhưng “cái tát” đó lại giúp cho mọi người nhận ra điều đạt được rất quan trọng, vì một lần nữa, nhóm lãnh đạo cho thấy chính sách “tay này mở cửa, tay kia lập tức đóng lại”, tương tự như từ đầu những năm 1990 khi tuyên bố “mở cửa kinh tế xã hội, cùng lúc đóng chặt thêm nữa cánh cửa chính trị và nhân quyền”. Đó là hành động của nhóm lãnh đạo độc tài luôn luôn sợ hãi bị lật đổ.

      Ngày 25/2/2013, tại Vĩnh Phúc, ông Tổng Bí Thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng phát biểu: “Vừa rồi đã có các luồng ý kiến cũng có thể quy vào được là suy thoái chính trị, tư tưởng, đạo đức … Xem ai có tư tưởng muốn bỏ Điều 4 Hiến pháp không, phủ nhận vai trò lãnh đạo của đảng không? Muốn đa nguyên đa đảng không? Có tam quyền phân lập không? Có phi chính trị hóa quân đội không? Người ta đang có những quan điểm như thế, đưa cả lên phương tiện thông tin đại chúng đấy. Thì như thế là suy thoái chứ còn gì nữa!”

      Phóng viên Nguyễn Đắc Kiên đã bị cho nghỉ việc vì phản đối phát biểu của Tổng Bí thư Ðảng CS Việt Nam Nguyễn Phú Trọng.Ngày 26/2/2013, nhà báo Nguyễn Đức Kiên 29 tuổi(báo Gia Đình & Xã Hội) có bài viết trên nhiều Diễn Đàn ở hải ngoại. Bài viết như tiếng thét, như nòng súng đại bác, nhắm thẳng vào ông Nguyễn Phú Trọng, người đang đứng đầu một đảng chính trị Việt Nam. “Ông nói điều đó với ai? Tôi nói ông không có tư cách để nói với nhân dân, mà ông chỉ có thể nói với đảng viên của ông thôi. Ông nói suy thoái về đạo đức. Đạo đức nào? ….Tôi tạm đoán là ông muốn nói đến đạo đức người cộng sản của các ông. Vậy, các ông cho rằng chỉ có đạo đức cộng sản của các ông là đạo đức đích thực? Thế ra, cha ông tổ tiên chúng ta, khi chưa có chủ nghĩa cộng sản là vô đạo đức hết à? Và những người không theo cộng sản trên thế giới là vô đạo đức hết à? Ông nói suy thoái chính trị, tư tưởng, ông hãy đọc lại Cương Lĩnh Chính Trị và Điều Lệ đảng của các ông, trong đó không có điều nào nói xóa bỏ Điều 4 là suy thoái cả. Và Bây giờ, tôi trân trọng tuyên bố những điều tôi muốn:

      (1) Tôi không chỉ muốn bỏ Điều 4 trong Hiến Pháp hiện hành, mà tôi muốn tổ chức một Hội Nghị Lập Hiến, lập một Hiến Pháp mới để Hiến Pháp đó thực sự thể hiện ý chí của toàn dân Việt Nam, không phải là ý chí của đảng cộng sản như Hiến Pháp hiện hành. (2) Tôi ủng hộ đa nguyên, đa đảng, ủng hộ các đảng cạnh tranh lành mạnh vì tự do, dân chủ, vì hòa bình tiến bộ của dân tộc Việt Nam, không một đảng nào, lấy bất cứ tư cách gì để thao túng, toàn trị đất nước. (3) Tôi không chỉ ủng hộ xây dựng một chính thể tam quyền phân lập, mà còn muốn một chính thể phân quyền theo chiều dọc, tức là tăng tính tự trị cho các địa phương, xây dựng chính quyền địa phương mạnh, xóa bỏ các tập đoàn quốc gia, các đoàn thể quốc gia tiêu tốn ngân sách, tham nhũng của cải của nhân dân, phá hoại niềm tin, ý chí và tinh thần đoàn kết dân tộc. (4) Tôi ủng hộ phi chính trị hóa quân đội. Quân đội là để bảo vệ nhân dân, bảo vệ tổ quốc, bảo vệ cương vực, lãnh thổ không phải bảo vệ bất cứ một đảng phái nào. (5) Tôi khẳng định mình có quyền tuyên bố như trên, và tất cả những người Việt Nam khác đều có quyền tuyên bố như thế. Tôi khẳng định, mình đang thực hiện quyền cơ bản của con người là tự do ngôn luận, tự do tư tưởng; quyền này mỗi người sinh ra đã tự nhiên có, nó được nhân dân Việt Nam thừa nhận và tôn trọng; quyền này không phải do đảng cộng sản của các ông ban cho, nên các ông cũng không có quyền tước đoạt hay phán xét nó. Vì thế, tôi có thể xem những lời phán xét trên của ông, nếu có hướng đến tôi là một sự phỉ báng cá nhân. Và tôi cho rằng, những người nào chống lại các quyền trên là phản động, là đi ngược lại với lợi ích của nhân dân, dân tộc, đi ngược lại xu hướng tiến bộ của nhân loại.

      Các Anh có công nhận anh nhà báo Nguyễn Đắc Kiên là một công dân đúng nghĩa không? Với tư cách một công dân, anh Kiên đã dũng cảm nói lên tiếng nói của mình thật rõ ràng về một chế độ chính trị thật sự của dân, do dân, vì dân, để phục vụ dân. Về phần tôi, “Người Lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa” từ 38 năm về trước, tôi hoàn toàn ủng hộ những điều mà nhà báo Nguyễn Đắc Kiên muốn.

      Cũng trong ngày 26/02/2013, báo Gia Đình & Xã Hội thông báo rằng: “Phóng viên Nguyễn Đắc Kiên, vi phạm Quy Chế hoạt động của báo và hợp đồng lao động, nên hội đồng kỷ luật của báo Gia Đình & Xã Hội đã họp, và ra quyết định kỷ luật, buộc anh Nguyễn Đắc Kiên thôi việc”. Trả lời AFP hôm nay qua điện thoại, nhà báo Nguyễn Đắc Kiên tuyên bố: “Tôi không ngạc nhiên. Sau các bài viết của tôi, việc tôi bị sa thải là chuyện dễ dự báo”. Anh nói tiếp: “ Điều thôi thúc tôi viết, chính là bài phát biểu của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Không thể chấp nhận được phát biểu đó“. Và anh tuyên bố: “Tôi sẽ tiếp tục đấu tranh cho dân chủ ở đất nước tôi”.

      “Những điều tôi muốn” của anh Kiên, chỉ sau 24 tiếng đồng hồ đã có 33 người lên tiếng ủng hộ, gồm: Chủ một số trang Blog, những vị nhân sĩ, trí thức, sinh viên, thi sĩ, nhạc sĩ, doanh nhân, và người lính Các Anh.

      Ngày 27/2/2013, trong khi chỉ thị cho cấp lãnh đạo Hà Nội, Chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn Sinh Hùng nói: “Tuyên truyền vận động nhân dân chống lại đảng, phải kiên quyết đấu tranh và ngăn chặn”. Chưa hết. Cũng ngày 27/2/2013, bản tin tối trên đài VTV Hà Nội nói về “không thể phi chính trị hóa quân đội”. Tướng Phùng Khắc Đăng, nói: “Quân đội do đảng sinh ra để bảo đảm thực hiện đường lối, chủ trương của đảng với nhà nước”. Tiến sĩ (giả hay thiệt đây) Hồ Trọng Ngũ, Phó Chủ Nhiệm Ủy ban Quốc Phòng An Ninh của Quốc Hội, cảnh báo: “Các nước xã hội chủ nghĩa trước đây sụp đổ khi phi chính trị hóa quân đội, công an”.

      Các Anh thấy nhiều cấp lãnh đạo của Các Anh sợ hãi quá phải không? Đúng vậy. Vì họ độc tài, nên lúc nào cũng bị ám ảnh cái cảnh “sẽ phải trốn chui trốn nhũi trong ống cống” như nhà độc tài Gadhafi của Lybia, cuối cùng bị giết chết như con chó chết bên đường. Các Anh hãy đọc lại Thư số 4, với bài viết “Ngày Phán Xét Sẽ Đến” của tác giả Tuổi 20 ở Hà Nội, có đoạn: “…. Bây giờ là lúc đảng CSVN sợ hãi, chính vì sợ hãi nên chúng ra tay bắt bớ giam cầm bất cứ ai, như con chó điên cắn càn trước khi nhận viên đạn thi ân và bị vất xuống cống.… Việt Nam hôm nay có hằng triệu triệu người trẻ không buồn đọc báo, không thèm nghe đài, và đang âm thầm cùng nhau xây thêm ống cống đủ cỡ cho các vị và các quan tham …”

      Kết luận.

      Các Anh là Người Lính trong quân đội nhân dân Việt Nam, tôi nghĩ, có Anh 5 năm, 10 năm, thậm chí 20 hay 25 năm cầm súng. Có bao giờ Các Anh suy ngẫm về quảng đời quân ngũ với súng đạn và bạn bè, hằng triệu người đã gục ngã trên chiến trường, hằng triệu người thương tật tàn phế sống vất vưỡng đó đây, lớp lớp người về hưu, và Các Anh đang còn súng đạn trong tay, để nhận ra những khác biệt giữa lời nói với hành động của lãnh đạo Các Anh từ khi nhuộm đỏ một nửa nước vào năm 1954, đến nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam năm 1975, và đến nay không? “Nói giải phóng, nhưng thật sự là xâm lăng. Nói thống nhất, nhưng là nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam theo lệnh của cộng sản quốc tế. Nói nhân dân làm chủ, nhưng thật ra nhân dân chỉ là một phương tiện lót đường cho họ nắm quyền lực mà thâu tóm tài sản. Nói độc lập, nhưng họ nhận lệnh từ Trung Cộng. Nói tự do, nhưng họ là độc tài. Nói hạnh phúc, nhưng toàn dân như bị họ nhốt trong cái lồng chim. Nói tự do ngôn luận, nhưng mọi người bị họ bịt mắt bịt tai bịt miệng. Nói giáo dục tân tiến, nhưng chỉ đào tạo những thế hệ thần dân để tuân phục họ. Mở miệng ra là khoa học kỹ thuật, nhưng sử dụng côn đồ của luật pháp rừng rú đàn áp người dân yêu nước chống Tàu xâm lấn. Nói đến quê hương dân tộc, họ lại nhân danh lãnh đạo đảng cộng sản để đứng trên đầu Tổ Quốc với Nhân Dân”.

      Tôi mong Các Anh hãy suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính mình, rồi quyết định…. Và quyết định đó giúp Các Anh quyết tâm bước vào hàng ngũ tuổi trẻ, trí thức, đồng bào, bằng bất cứ hình thức nào và thời gian nào mà Các Anh cho là thích hợp nhất, để cùng nhau xây dựng một xã hội dân chủ tự do, để hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước đã lừng danh thế giới, và mỗi khi cầm sổ “Thông Hành” (hộ chiếu) trong tay mà ngẫng cao đầu giữa thế giới văn minh, lịch sự,

      Tôi vững tin rằng, bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi- vẫn hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào, những thế hệ làm nên lịch sử.

      Hãy nhớ: “Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng, và Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước” (trích trên internet).


      Texas, tháng 03 năm 2013.
      Phạm Bá Hoa
      Last edited by Phòng Trực; 04-10-2013, 08:25 AM.

      Comment


      • #18
        Thư số 18 gởi Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam

        Thư số 18
        gởi Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam

        *********
        Phạm Bá Hoa



        Tôi là một trong hằng triệu Người Lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, chống lại cuộc chiến tranh xâm lăng do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo CSVN với lòng thù hận đã đày đọa chúng tôi trong hơn 200 trại tập trung mà họ gọi là trại cải tạo. Người 5 năm, 10 năm, thậm chí 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy chế độ dân chủ tự do và quân lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn trong quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam cho đến khi mà quê hương tôi có dân chủ tự do thật sự.


        Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, xin gọi ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày. Chữ “Các Anh” viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Binh Chủng, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào cầm quyền, cũng chỉ trong một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.

        Nội dung thư này, tôi mời Các Anh tiếp tục theo dõi vấn đề “góp ý sửa đổi Hiến Pháp”.

        Thứ nhất. Đảng kêu gọi nhân dân góp ý sửa đổi Hiến Pháp 1992.

        Khi kêu gọi nhân dân góp ý sửa đổi Hiến Pháp từ ngày 2/1/2013 đến ngày 31/3/2013, Chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn Sinh Hùng, nói: “... Tạo điều kiện cho công dân tham gia một cách rộng rãi vào Hiến pháp, có thể tham gia vào tất cả các điều khoản của Hiến pháp và toàn bộ Hiến pháp...”. Ông Phan Trung Lý, Trưởng Ban Biên Tập Dự Thảo Sửa Đổi Hiến Pháp tuyên bố: “Nhân dân có thể cho ý kiến đối với mọi nội dung trong bản dự thảo Hiến Pháp, kể cả điều 4...”. Sau đó, Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng ban hành “chỉ thị 22”, nói lên sự kiện lấy ý kiến nhân dân cho bản dự thảo Hiến Pháp là “một đợt sinh hoạt chính trị quan trọng, rộng lớn trong toàn đảng, toàn dân, và cả hệ thống chính trị...”.

        Các Anh hiểu gì về ba vị lãnh đạo cộng sản vừa nói ở trên? Với tôi, lời nói của ba ông ấy gộp lại như thế này: “Các ông ấy ra cái điều chế độ cộng sản có dân chủ, nên kêu gọi đồng bào tham gia ý kiến bất cứ điều khoản nào trong Hiến Pháp để xây dựng Hiến Pháp mới, và đây là một sinh hoạt chính trị quan trọng trong toàn dân. Cũng là dịp mà các ông ấy mang cái bản chất dối trá ra sử dụng, như đã từng sử dụng khi kêu gọi đồng bào góp ý đại hội đảng năm 2001, 2006, 2011, để rồi tất cả những ý kiến đóng góp được “lãnh đạo sốt sắng liệng vào thùng rác”.

        Thứ hai. Đông đảo nhân dân góp ý sửa đổi Hiến Pháp.

        Sau khi rất nhiều thành phần trong xã hội tham gia góp ý sửa đổi Hiến Pháp, lãnh đạo cộng sản Việt Nam vội vàng lên tiếng.

        Ngày 25/2/2013 tại Vĩnh Phú, ông Nguyễn Phú Trọng có phần hốt hoảng khi ông nói: “Vừa rồi đã có các luồng ý kiến cũng có thể quy vào được là suy thoái chính trị, tư tưởng, đạo đức … Xem ai có tư tưởng muốn bỏ Điều 4 Hiến pháp không? Phủ nhận vai trò lãnh đạo của đảng không? Muốn đa nguyên đa đảng không? Có tam quyền phân lập không? Có phi chính trị hóa quân đội không? Người ta đang có những quan điểm như thế, đưa cả lên phương tiện thông tin đại chúng đấy. Thì như thế là suy thoái chứ còn gì nữa!”

        Ngày hôm sau 26/2/2013, bài viết của nhà báo Nguyễn Đắc Kiên như nòng súng nhắm thẳng vào ông Trọng, khi tác giả nhấn mạnh: “..... (1) Tôi không chỉ muốn bỏ Điều 4 trong Hiến Pháp hiện hành, mà tôi muốn tổ chức một Hội Nghị Lập Hiến, lập một Hiến Pháp mới để Hiến Pháp đó thực sự thể hiện ý chí của toàn dân Việt Nam, không phải là ý chí của đảng cộng sản như Hiến Pháp hiện hành. (2) Tôi ủng hộ đa nguyên, đa đảng, ủng hộ các đảng cạnh tranh lành mạnh vì tự do, dân chủ, vì hòa bình tiến bộ của dân tộc Việt Nam, không một đảng nào, lấy bất cứ tư cách gì để thao túng, toàn trị đất nước. (3) Tôi không chỉ ủng hộ xây dựng một chính thể tam quyền phân lập, mà còn muốn một chính thể phân quyền theo chiều dọc, tức là tăng tính tự trị cho các địa phương, xây dựng chính quyền địa phương mạnh, xóa bỏ các tập đoàn quốc gia, các đoàn thể quốc gia tiêu tốn ngân sách, tham nhũng của cải của nhân dân, phá hoại niềm tin, ý chí và tinh thần đoàn kết dân tộc. (4) Tôi ủng hộ phi chính trị hóa quân đội. Quân đội là để bảo vệ nhân dân, bảo vệ tổ quốc, bảo vệ cương vực, lãnh thổ không phải bảo vệ bất cứ một đảng phái nào. (5) Tôi khẳng định mình có quyền tuyên bố như trên, và tất cả những người Việt Nam khác đều có quyền tuyên bố như thế. Tôi khẳng định, mình đang thực hiện quyền cơ bản của con người là tự do ngôn luận, tự do tư tưởng; quyền này mỗi người sinh ra đã tự nhiên có, nó được nhân dân Việt Nam thừa nhận và tôn trọng; quyền này không phải do đảng cộng sản của các ông ban cho, nên các ông cũng không có quyền tước đoạt hay phán xét nó. Vì thế, tôi có thể xem những lời phán xét trên của ông, nếu có hướng đến tôi là một sự phỉ báng cá nhân. Và tôi cho rằng, những người nào chống lại các quyền trên là phản động, là đi ngược lại với lợi ích của nhân dân, đi ngược lại xu hướng tiến bộ của nhân loại.

        Ngay chiều ngày 26/2/2013, Nguyễn Đắc Kiên bị buộc thôi việc. Khi trả lời phỏng vấn của hãng tin AFP, anh Kiên dứt khoát: “Tôi không ngạc nhiên là tôi bị sa thải sau khi tôi phổ biến bài viết.....Tôi sẽ tiếp tục đấu tranh cho dân chủ ở đất nuớc tôi”.

        Trần Sơn (Danlambao): “Sau bài phát biểu của ông Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng và ông Chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn Sinh Hùng, một sự thật hiển hiện là các ông đã chánh thức tuyên chiến với toàn dân ngay từ giờ phút ấy... Các ông không còn ngần ngại mà tự bóc trần bản chất của mình: “bản chất độc tài”.

        Tác giả Phạm Thạch Hồng: “Lời tuyên bố khẳng khái của Nguyễn Đắc Kiên đã ném vào mặt Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí Thư đảng CSVN, nổ tung như một quả bom gây hiệu ứng dây chuyền, kéo theo một loạt phản ứng”. Ngày 28/2/2013, lời tuyên bố mạnh mẽ ấy trở thành “Lời tuyên bố của các công dân tự do” trên trang mạng, và tính đến 1 giờ sáng ngày 7/3/2013 (giờ Việt Nam) có đến 5.200 người ký tên ủng hộ. Điều đáng chú ý là trong danh sách đó, 174 người ký tên đầu tiên là trong nước, từ số thứ tự 175 trở lên là chữ ký của nhiều người Việt sống khắp năm châu”.

        Tác giả Trần Việt Hoàng. “... Đúng vậy! Cơn bão đòi hỏi dân chủ nhân quyền cho dân tôi đang đến. Nó đang còn là những cơn gió tụ họp lấp ló từ xa, nhưng tôi đã cảm nhận được sức mạnh vô cùng của nó. Đó là những cơn gió của “Triệu con Tim, Một Tiếng Nói”, của “Kiến Nghị 72”, của “Lời Tuyên Bố Của của các Công Dân Tự Do”, của “Nhận Định và Góp Ý Sửa Đổi Hiến Pháp của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam”, và của những gì mà ta chưa biết đến. Chỉ trong vòng một, hai ngày mà số người ký tên đồng tuyên bố đã tăng thêm… một con số kỷ lục mà tôi chưa được thấy trong những năm qua. Nó đã nói lên một điều là hình như chúng ta đã tìm được một đáp số cho bài toán đồng thuận mà trong bao năm qua nhiều người đã và đang mãi mê tìm kiếm…”
        Blogger Huỳnh Ngọc Chênh, là một trong những người ký tên đầu tiên, nói về thông điệp chính của Lời Tuyên bố này: “... “Tới thế kỷ thứ 21 rồi mà mấy chục năm qua Việt Nam vẫn chưa đạt được một thiết chế dân chủ, chưa có được một nhà nước thật sự do dân, vì dân. Cho nên, thông điệp của Lời Tuyên bố này nói lên điều đó. Chính anh Kiên nói ra điều đó, và đã đồng cảm với tất cả mọi người cho nên được sự hưởng ứng của nhiều người, nhất là các bạn trẻ. Chuyện này là do các bạn trẻ khởi xướng.”

        Trầm Tử, một blogger trẻ: “Lời Tuyên bố có thể không có tác dụng gì đối với nhà cầm quyền, nhưng là một sự đánh động, kêu gọi quan tâm của mọi người, nhất là giới trẻ, về trách nhiệm với tình hình đất nước.... “Một bản lên tiếng như vậy, mình nghĩ, dù có đến tay những người cầm quyền đi chăng nữa thì họ cũng không có phản ứng gì tích cực đâu. Cái này là một thông điệp cho giới trẻ, nhất là những công dân mạng. Ngoài cuộc sống thực tế, việc lên tiếng rất khó khăn. Cho nên, cộng đồng mạng như một mối dây liên kết mang thông điệp chung đến giới trẻ, và thức tỉnh giới trẻ trong điều kiện đất nước đang lâm vào hoàn cảnh hết sức khó khăn. Trong cái khó khăn đó, những sự liên kết như vậy tạo thêm sức mạnh và thêm cơ hội để Việt Nam có thể có một thay đổi tích cực trong tương lai.”

        Vũ Đông Hà (Danlambao). “Tự Do không phải là quà tặng. Con đường đi đến Tự Do của một dân tộc, không bao giờ là con đường bằng phẳng. Trên con đường Tự Do hôm nay, tuy không có hố mìn bom đạn của thời chiến, nhưng lại chứa đầy những nguy hiểm được đánh dấu bằng những con số. như 79, 88, 258… . Đó là những điều trong Luật Hình Sự. Con đường đó ở nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam này, đôi khi lại là con đường ngắn nhất dẫn đến ngục tù. Thế nhưng vẫn có những con người tiên phong chọn cách đi về phía trước, và phất cao ngọn cờ Tự Do. Đó chính là những người khởi xướng lên Lời Tuyên Bố của các Công Dân Tự Do. Bước chân của họ đang góp phần làm ngắn lại con đường đến bờ Tự Do. Họ đang lót đường cho thành quả sau cùng của tương lai.

        “Nguyễn Hoàng Vi, Phạm Thanh Nghiên, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, ...v..v... Trong đoàn người ấy, khởi đi là những cô gái nhỏ bé về dáng người nhưng đầy lòng quả cảm. Đó là những khuôn mặt thân quen của các bloggers trẻ tuổi. Gió Lang Thang, người bạn trẻ vừa mới đi tặng quà Tết cho dân oan đã bị đánh và bị bắt đem về đồn Công An. Hành Nhân, Huỳnh Công Thuận, Huỳnh Ngọc Chênh, Trịnh Kim Tiến, Nguyễn Hồ Nhật Thành, Uyên Vũ, Châu Văn Thi, Binh Nhì, Nguyễn Chí Tuyến, Nguyễn Lân Thắng, Lê Thiện Nhân, Lê Dũng, Aduku Nguyễn Văn Dũng, Bùi Thị Minh Hằng, Trầm Tử, Lê Khánh Duy, Huỳnh Thục Vy, Huỳnh Ngọc Tuấn, ..v..v..... Những người miệng nói, tay viết, chân đi, trong mọi nỗ lực tranh đấu cho sự toàn vẹn lãnh thổ và biển đảo, cho công lý và quyền lợi của dân oan, cho tự do ngôn luận, cho công bằng xã hội. Họ đã dõng dạc cất cao lời xác định tư thế của những Công Dân Tự Do”.
        “Trên con đường ấy, đồng hành với những người em, người cháu, sánh bước cùng thế hệ trẻ là những bậc đàn anh suốt đời luôn nặng nợ với núi sông như Tiến sĩ Hà Sĩ Phu, nhà nghiên cứu Mai Thái Lĩnh, Bác sĩ Nguyễn Đan Quế, Nhạc sĩ Tô Hải, bác Trần Khuê, ..v..v... Ở trong đoàn người ấy có bóng dáng của những nhà thơ Bùi Chát, Bùi Minh Quốc, Đỗ Trung Quân, Phan Đắc Lũ, Phan Bá Thọ, Trần Đức Thạch, Chiêu Anh Nguyễn. Cũng có những chiếc áo dòng tu sánh bước của những vị Linh mục Nguyễn Hữu Giải, Phan Văn Lợi, Nguyễn Hữu Thoại, Hoàng Minh Giám, Lê Xuân Lộc, Nguyễn Quốc Hưng, Linh mục An Phong Nguyễn Công Minh, và Mục sư Nguyễn Trung Tôn. Cũng ở đó có những đảng viên dứt khoát từ bỏ con đường của đảng độc tài đã lâu, như anh em Huỳnh Nhật Hải, Huỳnh Nhật Tấn, Tiến sĩ Đỗ Xuân Thọ, hoặc mới đây như Nguyễn Chí Đức”.

        Chưa hết. “Còn có những người cựu tù của chế độ, bỏ lại sau lưng ám ảnh của lao tù để tiếp tục con đường khai mở cho Tự Do, là Lê Thăng Long, Nguyễn Bắc Truyển, Trần Văn Đức, Phạm Minh Hoàng, Phạm Văn Trội. Cùng với những tên gọi quen thuộc là Tiến sĩ Nguyễn Quang A, nhà giáo Phạm Toàn, Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang, cựu chiến binh Nguyễn Anh Dũng, nghệ sỹ Tạ Trí Hải, nhà báo Võ Văn Tạo, nhà báo blogger Osin Huy Đức, nhà báo blogger Phạm Thành, nhà báo Lưu Trọng Văn, Bác sĩ Lê Đình Phương, Bác sĩ Thạch Nguyễn, và các thành viên của 8406 là Đỗ Nam Hải và Lư Thị Thu Trang. Sau cùng với con số 1001, là một tên tuổi vừa làm nên tất cả: Nguyễn Đắc Kiên”.

        “Tất cả, từ các nẻo đường khác nhau của đất nước, xuất phát từ những hoàn cảnh, những cuộc sống, những mảnh đời khác nhau, đã cùng đồng hành, công khai tên tuổi là tiếng nói xác định tư cách và quan điểm của những Công Dân Tự Do. Khởi đi từ những thanh niên thiếu nữ ban đầu, dần dần lên đến con số ngàn. Họ đã đứng lên. Tự Do đã lên tiếng gọi. Lời Tuyên Bố của các Công Dân Tự Do là bước khởi đầu. Và tự nó, đã là một chiến thắng. Mỗi bước chân đi tới, là một chiến thắng chung của dân tộc trong cuộc cách mạng của sợ hãi này”. Chắc chắn rằng, trong số họ, sẽ là những người phất cao ngọn cờ Tự Do ở quãng trường Ba Đình vào ngày mai, theo sau là hàng trăm ngàn, hằng triệu người Việt Nam reo mừng chiến thắng Thoát Vòng Nô Lệ. Ngày chiến thắng đó sẽ không bao giờ đến, nếu không có ngày hôm nay”.

        Các Anh cảm nhận được gì sau khi đọc những lời tâm huyết của tuổi thanh niên, tuổi trung niên, tuổi lão niên, cùng lứa tuổi với Các Anh và cha mẹ Các Anh? Những chính sách cai trị của lãnh đạo Các Anh, thường xuyên tạo cho người dân phải sống trong sợ hãi để lãnh đạo được an tâm mà thâu tóm quyền lợi, vì hình ảnh những nhà độc tài tại các nước cộng sản miền đông Âu Châu, cùng với những nhà độc tài tại các quốc gia miền bắc Phi Châu và Trung Đông, đã bị người dân nổi dậy giết chết, hoặc bị tòa án quốc tế tuyên án tử hình, luôn luôn ám ảnh họ! Giờ đây, đông đảo những lứa tuổi trong xã hội chủ nghĩa đã vượt qua nỗi sợ hãi, đã và đang đứng dậy đòi hỏi lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam thực hiện dân chủ tự do mà bước khởi đầu là một Hiến Pháp thật sự tự do dân chủ.
        Mới đây, cô Tạ Phong Tần được Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ công nhận là một trong 10 phụ nữ can đảm nhất thế giới. Anh Huỳnh Ngọc Chênh, đoạt giải thưởng NITZEN “công dân mạng internet can đảm trên thế giới”, do Tổ Chức Phóng Viên Không Biên Giới và tập đoàn Google tổ chức tại Paris ngày 12/3/2013. Và mới nhất là cô Nguyễn Hoàng Vi, được tổ chức IFEX trụ sở tại Canada vinh danh “những phụ nữ nỗ lực tranh đấu cho tự do ngôn luận”. Các Anh có cảm nhận được tinh thần yêu nước của tuổi trẻ Việt Nam như thế nào trước sự tàn bạo từ những vị lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam? Các Anh có góp phần hãnh diện với tuổi trẻ Việt Nam trên đường tranh đấu giành quyền sống cho dân tộc Việt Nam, mà trong đó có Các Anh và gia đình thân quyến của Các Anh không? Nếu không, tôi xin hỏi: “Các Anh là ai?” Xin lỗi, câu này tôi mượn lời của nhạc sĩ Việt Khang đó. Về phần tôi, tôi ngưỡng mộ Việt Khang, Nguyễn Đắc Kiên, tất cả ... và tất cả ..!

        Ngày 1/3/2013, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam tại Hà Nội, công bố bản “Nhận định và góp ý dự thảo sửa đổi Hiến Pháp 1992”. Xin trích một đoạn: .... “Quyền bính chính trị cần thiết để điều hành xã hội, nhưng chủ thể của quyền bính chính trị phải là chính nhân dân xét như một toàn thể trong đất nước. Nhân dân trao việc thi hành quyền bính ấy cho những người có năng lực và tâm huyết mà họ bầu làm đại diện cho họ, bất kể người đó thuộc đảng phái chính trị hoặc không thuộc đảng phái nào. Chỉ khi đó mới có Nhà nước pháp quyền “của dân, do dân và vì dân” .

        Ngày 6/3/2013, Câu Lạc Bộ Truyền Thống Kháng Chiến hội thảo tại Sài Gòn, về việc đảng kêu gọi nhân dân góp ý sử đổi Hiến Pháp. Theo luật sự Trần Quốc Thuận, nguyên Phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc Hội, có mặt tại buổi hội thảo nhận xét, thì không khí tranh luận giữa hai phía, một bên nhất quyết giữ vai trò của Đảng trong Hiến Pháp, còn một bên thì dứt khoát phải bỏ điều 4 vì nó đi ngược lại lợi ích của đất nước, nhân dân, có lúc diễn ra khá gay gắt.... Ông Lê Công Giàu phát biểu:

        “Đối với điều 4 tôi đề nghị dứt khoát là phải bỏ. Có nghĩa là không nên để cho đảng độc quyền, với bốn lý do. Thứ nhất. Đảng đã nói theo chủ nghĩa Marx Lenin chấp nhận biện chứng, nhưng thủ tiêu đối lập. Như vậy sẽ không có đấu tranh thì làm sao phát triển? Những nước Xã Hội Chủ Nghĩa có nước nào phát triển đâu? Thứ hai. Ai cho anh cái quyền đó? Trong lúc chưa trưng cầu ý dân anh tự đặt cái quyền đó và đưa vào Hiến Pháp, như vậy là lạm quyền. Thứ ba. Khi anh đặt điều 4 thì nó chống lại những điều khác. Nó chống lại quyền con người, quyền ăn nói, quyền lập hội, vì khi đảng đã lên trên rồi thì các quyền kia không còn nữa. Thứ tư. Cho đến bây giờ cái gọi là xã hội chủ nghĩa, nhưng trong thực tế là nội dung không rõ ràng. Nó là một sự thí điểm trên toàn xã hội. Một sự thí nghiêm, không phải với con chuột bạch mà là đem cả một dân tộc làm thì nghiệm”.

        Ngày 7/3/2013, sau khi phân tách, Khối 8406 tuyên bố: “.....Cảnh báo toàn thể đồng bào Việt Nam trong nước, hãy cẩn thận đề phòng những phản ứng điên cuồng và trả thù tàn bạo mà đảng và nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam có thể sẽ tung ra trong thời gian tới bằng cách sử dụng lực lượng công an, quân đội, côn đồ để hăm dọa, giam cầm, thủ tiêu những công dân ái quốc đang nỗ lực thay đổi vận mệnh đất nước cách bất bạo động theo chiều hướng dân chủ. .... Điều họ luôn khẳng định “Chế độ chính trị độc đảng ở Việt Nam hiện nay là sự lựa chọn của nhân dân và của lịch sử” là hoàn toàn dối trá và ngụy biện, không thể nào được Dân tộc Việt Nam hôm nay chấp nhận! .....”

        Ngày 10/3/2013, sau khi phân tách sự kiện đông đảo tuổi trẻ, trí thức, và đồng bào tham gia góp ý sửa đổi Hiến Pháp theo lời kêu gọi của đảng với nhà nước, Đức Tăng Thống Hòa Thượng Thích Quảng Độ, trả lời phỏng vấn của đài Á Châu Tự Do, đoạn cuối như sau: “...Tôi mong đảng cộng sản biết lắng tai nghe tiếng nói của dân, điều hành vận nước như thế nào cho nó phù hợp để đáp ứng nguyện vọng của dân. Tôi đã sống gần dân tôi biết, tính họ cộc lắm, đòi mãi mà không được là họ nổi xung đó. Mà họ nổi xung thì khó ngăn cản. Có thể rồi vạn người tràn ra đường. Không lẽ các ông bắn giết hết ư? Không được đâu!...”

        Tôi tin là Các Anh đã thấy được, sự kiện lãnh đạo đảng kêu gọi đồng bào tham gia góp ý sửa đổi Hiến Pháp, đã được đông đảo các giới khác nhau trong xã hội tham gia. Tuy lời lẽ cũng như cách diễn đạt khác nhau, nhưng chung một mục đích là kiến nghị đảng xây dựng Hiến Pháp thật sự tự do dân chủ, và nhà nước thi hành đúng đắn, chớ không phải lừa dân, dối dân, mị dân, như từ khi có đảng đếnnay

        Tóm tắt thư của cựu Thiếu Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh ngày 7/3/2013, gởi ông Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng, về vấn đề góp ý sửa đổi Hiến Pháp:

        “.... Trong đại hội Ban Chấp Hành trung ương đảng tháng 10/2012, Tổng Bí Thư nhận định đúng. Đúng là một bộ phận không nhỏ đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, đe dọa sự tồn vong của đảng và chế độ, mà phần lớn là đảng viên có chức có quyền, kể cả ở cấp cao. Như thế, cũng có nghĩa là đảng suy thoái. .... Nhưng Tổng Bí Thư đã sai khi phát biểu ở Vĩnh Phú. Đã là đông đảo người góp ý kiến, thì ý kiến rất đa dạng, có người tán thành điều này, có người muốn sửa đổi điều kia, có người đồng ý với dự thảo, có người có ý kiến khác với dự thảo, đó là điều bình thường, sao Tổng Bí Thư lại chụp cho những người đó “cái mũ suy thoái” lại còn yêu cầu phải “xử lý” như trường hợp Nguyễn Đắc Kiên. Nếu góp ý kiến chỉ được đồng ý với dự thảo của Ủy Ban Soạn Thảo… thì lấy ý kiến của nhân dân làm gì cho mọi người thấy là “dân chủ hình thức, dân chủ giả dối”. Còn chỉ đạo “phải xử lý” thì xử lý sao được, vì đã có hơn 6.000 người đã ký vào “Kiến nghị 72” trong đó có nhiều nhà khoa học, trí thức có tên tuổi cả trong nước và trên quốc tế.....”

        “Nhân đây, tôi đề nghị sửa điều 70 trong dự thảo. Thay vì “Lực lượng vũ trang phải trung thành với đảng cộng sản”, bằng câu “lực lượng vũ trang phải trung thành với Tổ Quốc Việt Nam”, điều đó không phải là “phi chính trị hóa” quân đội.,,,,”


        Thứ ba. Đảng thật sự hốt hoảng.

        Theo bản tin VRNs ngày 9/3/2013. Tại Sài Gòn, từng toán cán bộ Phường/Xã đến các khu dân cư, vào tận nhà trao cho mỗi nhà một “Bản Hiến Pháp 1992” và một “Bản Dự Thảo Hiến Pháp mới”, kèm theo danh sách đánh máy sẳn, họ yêu cầu đọc và ký tên vào, rồi đưa lại cán bộ.

        Anh Tùng ở Hốc Môn cho VRNs biết: “Hôm qua -tức 8/3/2013- Ủy Ban đến nhà tôi và những nhà khác, đưa mỗi nhà một cuốn tài liệu bản góp ý sửa đổi Hiến Pháp, lúc đó tôi không có ở nhà. Khi về, con gái tôi nói lại là họ đưa cuốn sách in đối chiếu hai bản hiến pháp cũ và mới (dầy 79 trang), rồi thêm một danh sách in sẵn đề nghị con bé xem rồi ký tên đồng ý vào, tất cả chỉ diễn ra trong vòng 5 phút. Danh sách ký xong, họ mang đi luôn chỉ để lại cuốn sách in”.

        Theo tác giả Trần Anh, thì đảng với nhà nước vội vàng tung cán bộ đến từng nhà dân ở các Quận Huyện Phường Xã trực thuộc Sài Gòn, ngoài những hành động như trên, họ còn kèm theo lời dặn cho chủ gia đình: “Hãy đánh dấu vào chỗ “đồng ý” rồi ký tên mà không được viết bất cứ điều gì”.

        Tuy ngày 6/3/2013, Quốc Hội có thông bào thời gian góp ý, thay vì chấm dứt ngày 31/3/2013 được kéo dài đến ngày 30/9/2013 theo yêu cầu của phái đoàn trao “kiến nghị 72”, tức thêm 6 tháng nữa. Nhưng sao lãnh đạo đảng tại Hà Nội cũng như Sài Gòn, ra sức ép dân ký ngay và trao cho cán bộ tại chỗ, “để biết chắc là những ý kiến đó đúng mục đích của lãnh đạo chăng? Nếu đúng vậy thì lãnh đạo cộng sản hoảng hốt thật sự rồi. Tôi nhận định: “Người dân đang làm cuộc cách mạng chân chính”.

        Kết Luận

        Bài học kinh nghiệm hơn nửa thế kỷ qua, đã là cộng sản thì không có người cộng sản tử tế, vì chính sách giáo dục của họ chỉ nhắm đào tạo những thế hệ thần dân tuân phục họ, và những chính sách xã hội chỉ nhắm bóp nghẹt các quyền tự do của con người trên căn bản “xin và cho” trong chính sách cai trị của họ. Vì vậy mà Việt Nam không có những công dân tử tế để xây dựng một xã hội trong mục đích phục vụ nguyện vọng người dân. Phải biết rằng, “nguyện vọng người dân, chính là nhiệm vụ của lãnh đạo quốc gia”. Nhưng với 14 đảng viên cộng sản trong Bộ Chính Trị, người dân lại là kẻ thù của họ.
        Các Anh là Người Lính trong quân đội nhân dân Việt Nam, tôi nghĩ, có Anh 5 năm, 10 năm, thậm chí 20 hay 25 năm cầm súng. Có bao giờ Các Anh suy ngẫm về quảng đời quân ngũ với súng đạn và bạn bè, hằng triệu người đã gục ngã trên chiến trường Việt Nam Cộng Hòa, chiến trường Campuchia, hằng triệu người thương tật tàn phế sống vất vưỡng đó đây, nhiều lứa tuổi về hưu, và Các Anh đang còn súng đạn trong tay, để nhận ra những khác biệt giữa lời nói với hành động của lãnh đạo Các Anh từ khi nhuộm đỏ một nửa nước vào năm 1954, đến nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam năm 1975 đến nay không? Lãnh đạo Các Anh:
        “Nói giải phóng, nhưng thật sự là xâm lăng. Nói thống nhất, nhưng là nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam theo lệnh của cộng sản quốc tế. Nói nhân dân làm chủ, nhưng thật ra nhân dân chỉ là một phương tiện lót đường cho họ nắm quyền lực mà thâu tóm tài sản. Nói độc lập, nhưng họ nhận lệnh từ Trung Cộng. Nói tự do, nhưng họ là độc tài. Nói hạnh phúc, nhưng toàn dân như bị họ nhốt trong cái lồng chim. Nói tự do ngôn luận, nhưng mọi người bị họ bịt mắt bịt tai bịt miệng. Nói giáo dục tân tiến, nhưng chỉ đào tạo những thế hệ thần dân để tuân phục họ. Mở miệng ra là khoa học kỹ thuật, nhưng sử dụng côn đồ của luật pháp rừng rú đàn áp người dân yêu nước chống Tàu xâm lấn. Nói đến quê hương dân tộc, họ lại nhân danh lãnh đạo đảng cộng sản để đứng trên đầu Tổ Quốc với Nhân Dân”.
        Tôi mong Các Anh hãy suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính mình, rồi quyết định.... Và quyết định đó giúp Các Anh quyết tâm bước vào hàng ngũ tuổi trẻ, trí thức, đồng bào, bằng bất cứ hình thức nào và thời gian nào mà Các Anh cho là thích hợp nhất, để cùng nhau xây dựng một xã hội dân chủ tự do, để hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước đã lừng danh thế giới, và mỗi khi cầm sổ “Thông Hành” (hộ chiếu) trong tay mà ngẫng cao đầu giữa thế giới văn minh, lịch sự.
        Tôi vững tin rằng, bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi- vẫn hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào, những thế hệ đang từng bước làm nên lịch sử.
        Hãy nhớ: “Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng, và Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước” (trích trên internet).
        Texas, tháng 04 năm 2013.

        Comment


        • #19
          Thư số 19 gởi Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam

          Thư số 19 gởi
          Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam


          *********

          Phạm Bá Hoa

          Tôi là một trong hằng triệu Người Lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo CSVN với lòng thù hận đã đày đọa chúng tôi trong hơn 200 trại tập trung mà họ gọi là trại cải tạo. Người 5 năm, 10 năm, thậm chí 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy Quân Lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi chưa bao giờ và sẽ không bao giờ về Việt Nam, cho đến khi đảng cộng sản bị triệt tiêu trên quê hương tôi.
          Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, xin gọi ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày. Chữ “Các Anh” viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản chỉ là một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.


          Nội dung thư này, Các Anh hãy cùng tôi trở lại “vụ án Đoàn Văn Vươn” mà người địa phương gọi là “vụ án Tiên Lãng”, Hải Phòng.

          Thứ nhất. Khởi đầu của vụ án.

          Ông Đoàn Văn Vươn là cựu chiến binh của Việt Nam. Khi trở về đời sống dân thường, ông Vươn theo học đại học Nông Nghiệp, tốt nghiệp Kỹ Sư. Căn cứ Điều 37 Luật Đất Đai 2003, ông Vươn xin, và được phép sử dụng 50 mẫu đất ven biển để nuôi tôm cá trong 20 năm. Đây là vùng đất mà không ai dám nghĩ sẽ sản xuất được gì, nhưng với lòng kiên nhẫn của ông Vươn và gia đình, với tiền bạc và công sức trong hằng chục năm để ngăn sóng, đắp đồng, đã biến khu đầm lầy bỏ hoang, biển mặn, thành khu đất bồi ven biển, trồng cây và nuôi tôm cá. Khi mà “những sản phẩm” sắp bán cho khách hàng thì nhà nước Xã, Huyện, và thành phố Hải Phòng, ra lệnh cưỡng bách thu hồi toàn bộ phần đất dù còn trong thời hạn sử dụng. Ông Vươn khởi kiện. Huyện Tiên Lãng bác đơn. Ông Vươn kháng cáo lên tòa án Hải Phòng. Lúc ấy, Huyện tiếp xúc với ông, dụ dỗ ông Vươn rút đơn kháng cáo thì Huyện cho ông tiếp tục sử dụng. Ông Vươn rút đơn kháng cáo, lập tức huyện Tiên Lãng thực hiện cưỡng bách thu hồi đất.


          Ngày 5/1/2012, đoàn quân đông đảo hơn 100 người gồm cán bộ viên chức Hành Chánh, Công An, Quân Đội, kéo đến cưỡng bách ông Vươn phải giao trả khu đất bồi cho nhà nước. Với phản ứng mạnh mẽ của ông Vươn và gia đình trong ngôi nhà trơ trọi, đoàn quân cướp đất có mấy người bị thương do “súng hoa cải” của ông ông Vươn tự tạo. Ngày hôm sau, nhà nước đưa máy ủi đến ủi sập nhà ông Vươn, san bằng ngôi nhà, đốt phá hết vật dụng, tài sản, và phong tỏa khu đất. “Công An nhân dân đầy tớ” bắt “nhân dân chủ” Đoàn Văn Vươn cùng gia đình ông, truy tố ra tòa.



          Các Anh thấy chưa, những “đầy tớ” Huyện Tiên Lãng đã lừa dối “chủ” là ông Vươn. Sự kiện này nhìn theo góc cạnh đạo lý con người là không đúng, nhưng nhìn theo góc cạnh đảng viên thì “những đầy tớ” đó làm đúng theo bản chất của đảng cộng sản. Bởi, từ ngày dẫn đoàn quân xâm lăng từ ngoài rừng tràn vào các thành phố của Việt Nam Cộng Hòa năm 1975 đến nay, lãnh đạo CSVN đã “tạo dựng” được một xã hội mà mọi người phải sống với nhau bằng những lọc lừa dối trá. Vì, nếu không như vậy thì không phải là cộng sản. Nói cách khác, đã là cộng sản, mà là cộng sản cấp lãnh đạo, thì không có người cộng sản nào tử tế để lo cho dân cho nước cả.

          Thứ hai. Dư luận chung quanh vụ án.

          Tòa án Hải Phòng thông báo sẽ xử công khai 6 nghi phạm là Đoàn Văn Vươn, Đoàn Văn Quý, Đoàn Văn Sinh, Đoàn Văn Vệ, Phạm Thị Báu và Nguyễn Thị Thương.

          Bà Phạm Thị Báu, vợ ông Đoàn Văn Quý, nói một câu xúc động người nghe: ”Chúng tôi vui lòng chịu thiệt trong vụ án này, để hy vọng từ nay bà con nông dân ta không còn bị thiệt thòi đau khổ vì bị hà hiếp dập vùi nữa”. Câu nói thật đơn giản, chân thành, không cho riêng mình, mà là cho người dân như gia đình Bà.

          Vụ án này sẽ đi vào lịch sử, ghi dấu cuộc chiến “xáp lá cà” giữa Sự Thật và Dối Trá. Đó là ngày xử ông Đoàn văn Vươn và gia đình ông về cái gọi là tội giết người, chống người thi hành công vụ. Vậy là, lịch sử lại ghi thêm vào hồ sơ tội ác của cộng sản, không biết trong danh sách tội ác của chúng đến thứ mấy chục ngàn, mấy trăm ngàn, hay mấy triệu lần tội ác sau 60 năm chà đạp dân tộc, xé rách quê hương!

          Theo Tiến sĩ Hà Sĩ Phu, thì sự kiện đang diễn ra ở Hải Phòng, chắc chắn sẽ đánh dấu một mốc lớn, đưa hai anh em Đoàn Văn Vươn vào trang sử Việt Nam hiện đại.

          Trên trang Blog AnhBaSam có lời bình thật ngắn của Kiến trúc sư Trần Thanh Vân: “Phiên tòa này sẽ dẫn đến một cuộc khởi nghĩa từ nông dân. Không thể khác được”.

          Nữ diễn viên điện ảnh Kim Chi tiếp tục bày tỏ lòng tin là ông Vươn vô tội, vì ông chỉ hành động khi bị dồn đến chân tường. Bà trả lời đài BBC:

          Bà Kim Chi nhận định: “Tôi có bài viết trên trang blog của Bùi Văn Bồng về sự có mặt của tôi trong buổi lễ cầu nguyện đó. Tôi nói rõ quan điểm của mình, nếu mà cái việc đó mà nó xảy ra như vậy, thì đó là một vết nhơ cho cái ngành tòa án Việt Nam, chứ không phải là oan hay là nặng nữa, mà một sự bất công vô lý. Vì là tài sản của người ta mà lại chiếm đoạt một cách phi lý thì người ta bảo vệ. Năm ngoái, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nói họ bị cưỡng chế là sai rồi, mà những người lãnh đạo Hải Phòng cũng đã bị kỷ luật rồi. Thế tại sao bây giờ lại làm ngược lại, chúng tôi rất gỡ ngàng và rất căm phẫn”.

          Đài BBC: “Có một nhà báo cũng viết trên mạng rằng, vụ việc này nếu chính quyền xử chặt, sẽ là ngòi nổ cho các vụ phản đối chính quyền để đòi đất khác, và nếu xử công bằng, tự nó sẽ tháo gỡ được sự giận dữ của người dân vì người ta sẽ hy vọng còn có công lý. Bà nghĩ sao về tình hình và đời sống của người dân hiện nay?”

          Bà Kim Chi:Thật là khó nói. Và cái vụ việc này làm tôi rất là buồn. Tôi nghĩ rằng, nếu người ta tha bổng cho Đoàn Văn Vươn và gia đình anh ta, điều đó sẽ thu phục được lòng dân. Còn nếu mà lấy quyền, lấy luật rừng để trừng trị một người lương thiện như thế, nhất định tức nước phải vỡ bờ. Người Việt Nam mình xưa nay vốn rất hiền hòa, theo tôi là như thế, chỉ khi nào người ta bị dồn đến chân tường thì người ta mới vùng dậy”.

          Đài BBC: “Trong khi chống đối thì cũng có xảy ra thương tích, tai nạn cho những người phía chính quyền, thì bà có cho là ông Vươn cũng nên chịu tội?”

          Bà Kim Chi: “Nếu mình công bằng thì mình phải đi từ cái gốc rễ của vấn đề. Vì sao lại có chuyện gia đình Đoàn Văn Vươn làm như thế? Bây giờ có người đến đe dọa thì người ta giăng những cái vũ khí tự tạo của người ta, nhưng nếu mà chẳng ai đến thì làm gì có ai bị thương, làm gì có ai chống người thi hành công vụ. Như tôi nói từ đầu, đấy là tài sản riêng của người ta, nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam khích lệ lấn biển, khai phá này kia, đó là cái mồ hôi, nước mắt, và máu của gia đình người ta. Bây giờ bỗng dưng người ta bị chiếm đoạt. Ai mà cướp đi sự sống của tôi một cách vô lý, thì tôi cũng hành động như thế”.

          Đài BBC: “Cách đây vài tháng, Bà từng từ chối nhận bằng khen vì không muốn có chữ ký của Thủ Tướng Việt Nam, và nay lại xuất hiện cùng nhóm người ủng hộ gia đình ông Vươn, có ý kiến cho rằng bà đã ngả về phía bất đồng chính kiến, Bà nghĩ sao?”

          Bà Kim Chi: “Rõ ràng là tôi bất đồng chính kiến với nhiều việc lắm. Và vì bất đồng chính kiến nên tôi mới có bức thư gửi cho Hội Điện Ảnh, với cái quan niệm là ôi trời, một ông Thủ Tướng ổng để nợ nần như thế mà sao mọi người ham được ông ký khen. Tôi nghĩ là ông ấy phải từ nhiệm từ lâu rồi. Rõ ràng là tôi hành động có suy nghĩ chín chắn của một người có lương tri, thương nước thương dân, chứ tôi không làm bốc đồng hay ngẫu hứng. Cho nên cũng có những người ném đá, nói tôi chơi nổi, đánh bóng tên tuổi, nhưng tôi mặc họ, tôi không quan tâm. Tôi có thể nói một câu rất là bướng bỉnh, rất là láo, nhưng mà tôi rất thích, là dân gian có câu rằng; “Tôm tép luôn luôn nghĩ là cứt của ai cũng ở trên đầu như chúng nó”. Tôi không sợ những lời vu khống....”

          Đài BBC: “Bà từng tham gia cách mạng, từng tham gia chiến tranh mong giành độc lập để có cuộc sống tốt đẹp hơn, có bao giờ bà thấy tiếc, thấy thất vọng, khi mà xã hội bây giờ không được như mình mong muốn?”

          Bà Kim Chi: “............... Cho đến giờ này, đã mấy chục năm qua mà dân vẫn khổ, đất đai bị chiếm để làm dự án này, quy hoạch kia mà dân vẫn đói khổ, phải xuống đường để đòi đất thì đau đớn lắm! .... Nếu mà cứ cúi đầu sợ hãi mãi thì sẽ không bao giờ có sự thay đổi. Bản thân tôi cũng từng rất tự hào mình là đảng viên đảng cộng sản trước đây, nhưng mà bây giờ thì, đảng đã làm mất lòng tin của nhân dân.... Nói lại chuyện Đoàn Văn Vươn thì tôi phản đối tới cùng, nếu như mà xử oan sai, xử nặng”.

          BBC: Điều gì trong xã hội Việt Nam hiện nay khiến Bà trăn trở nhiều nhất?

          Bà Kim Chi: “Tôi trăn trở nhiều nhất là dân không được tự do. Thực sự là không được tự do. Vừa rồi tôi góp ý thay đổi Hiến Pháp thì bị người ta cho là tôi có tư tưởng này kia, chống đối rồi thoái hóa, đủ kiểu. Nếu vậy thì các vị lãnh đạo chỉ muốn người ta vâng dạ thôi, chứ không muốn người ta góp ý chân thành về những điều cần làm để mà sửa chữa”.

          Các Anh nghĩ gì khi Bà Kim Chi nói đến lãnh đạo mà viết câu “tôm tép luôn luôn nghĩ là cứt của ai cũng ở trên đầu như nó”? Phải chăng Bà ấy muốn nói là trong đầu các ông lãnh đạo đảng chỉ có cứt thôi? Nếu không phải, thì tại sao gần 40 năm cai trị Việt Nam trong hòa bình mà người dân vẫn khổ? Khổ vì lãnh đạo tham nhũng! Khổ vì bị đảng cướp đất cướp nhà! Khổ vì bị đảng thẳng tay đàn áp bắt giam bỏ tù những người yêu nước chống Trung Cộng khống chế lấn đất chiếm đảo chiếm biển Việt Nam. Cộng các tình cảnh đó lại, rõ ràng là đảng đã đẩy người dân vào đày, người không mảnh đất mưu sinh, không nhà không cửa, đến mức dân oan phải ngủ tại các vườn hoa Hà Nội trong những ngày Tết Nguyên Đán vừa qua?



          Thứ ba. Phiên tòa và bản án.

          Sáng ngày 2/4/2013, ngày thứ nhất của phiên xử 4 ngày tại tòa án nhân dân Hải Phòng.

          Công An bắt buộc các luật sư phải để xe từ xa và đi bộ khoảng 500 thước mới đến tòa. Trước khi vào được bên trong tòa án, phải qua phòng kiểm soát giấy tờ, lại sang phòng khác gởi điện thoại cầm tay dù rằng trong khu vực này bị nhà nước cho chuyên viên phá làn sóng, lại bị Công An kiểm soát giấy tờ lần nữa, cuối cùng là ngang qua máy soi bên trong cái cặp xách tay.

          Bên trong phòng xử. Nhà nước tuyên bố xử công khai, nhưng tấm hình chụp được trong tòa, toàn Công An mặc sắc phục màu xanh tái mét đứng đầy gian phòng, cùng với màu áo của những bị cáo, và vài người mặc sơ-mi trắng có thể lần thân nhân ông Vươn và luật sư, ngoài ra không một người dân nào được vào.

          Theo Luật sư Trần Đình Triển, Hiến Pháp qui định rằng: «Xét xử công khai, thì mọi công dân đủ năng lực đều có quyền tham dự phiên tòa».

          Các Anh đọc kỹ dòng chữ bên trên rồi chớ? Nhà nước tuyên bố xử công khai, nhưng vì đảng đứng trên đầu nhà nước nên nhà nước cộng sản không cần Hiến Pháp mà chỉ cần tuân lệnh đảng là đủ. Nhà nước cộng sản cũng không cần giữ uy tín -vì thật ra cộng sản đâu có uy tín mà giữ- chỉ cần tuân lệnh đảng là đủ. Vì vậy, Hiến Pháp chỉ là những trang giấy khi không cần đến, lời tuyên bố cũng chỉ là lời nói đầu môi, chỉ cần giữ đúng bản chất dối trá và tàn bạo của đảng là được.
          Vẫn theo Luật sư Triển. Mở đầu phiên tòa, Luật sư Hùng -bào chữa cho ông Vươn- đề nghị thay đổi toàn bộ Hội Đồng Xét Xử với lý do, thẩm quyền điều tra truy tố và xét xử thuộc thẩm quyền của Tòa Án Quân Sự.

          Hội Đồng Xét Xử, sau khi nghị án và quyết định bác đề nghị của luật sư Hùng với lý do, đã được Tòa Án Hải Phòng và Tòa Án Nhân Dân Tối Cao trả lời khiếu nại của luật sư Hùng, và khẳng định thuộc thẩm quyền của Tòa Án Nhân Dân Hải Phòng xét xử.
          Đa số các bị cáo đều tố cáo trong giai đoạn điều tra bị đánh đập, bức cung, mớm cung. Nhiều trường hợp, Công An đưa giấy trắng ép các bị cáo ký vào. Cả phòng xử giật mình khi anh Đoàn Văn Vệ khai rằng, trong thời gian điều tra có một điều tra viên đưa điện thoại cho anh Vệ gọi về cho vợ để đưa tiền cho điều tra viên hai lần. Một lần 20 triệu đồng và một lần 10 triệu đồng. Điều tra viên đã hứa sẽ lo cho anh Vệ không có tội. Nhưng khi không thấy kết quả, anh Vệ đề nghị thay đổi điều tra viên thì bị khước từ.



          Bên ngoài tòa án.

          Hàng trăm công an bao quanh tòa án ở phía Bắc thành phố Hải Phòng, họ xé áp phích từ những người biểu tình, họ ngăn chặn nhiều nhóm người và các phóng viên nhiếp ảnh.

          Báo Washington Post - Asia & Pacific đưa tin của Associated Press: “Dưới sự kiểm soát chặt chẽ của an ninh, tòa án Việt Nam bắt đầu phiên tòa xử những nông dân chống lại Công An”.

          Lúc trưa, tòa tạm ngưng, Luật sư Triển nói: “Tôi ra ngoài đường cùng với một số luật sư đứng nói chuyện với vợ ông Vươn và vợ ông Quý, ngay lúc đó có một người mặc thường phục có bảng ghi “Ban Tổ Chức” bước đến ngăn chận cuộc nói chuyện. Tức quá, luật sư Triển hỏi: “Này anh! Anh nên bỏ vào đầu một chút kiến thức, để biết rằng đây là quyền của chúng tôi. Anh sai rồi. Nhưng nếu tôi chống lại thì sẽ bị xử lý về chống người thi hành công vụ như vụ án này đây!”

          Blogger Phạm Thanh Nghiên cho biết: “Sau khi kết thức phiên xét xử buổi sáng, anh Ngô Nhật Đăng và Facebook Nguyễn Lân Thắng tới nhà thăm tôi, ngay lập tức hai anh này bị hắng chục Công An vây và bắt về Phường gần đó. Lực luợng an ninh dày đặc trước cổng nhà, họ đã ngăn cản khi tôi định bước ra khỏi cổng, thậm chí mẹ tôi bước ra cổng cũng bị mấy tay an ninh dí máy ảnh vào mặt để chụp hình.

          Fabookker Nguyễn Việt Hưng cho biết: “Anh cùng với một người tên Kết tới thăm nhà Blogger Phạm Thanh Nghiên. Ngay lập tức, bị hơn 10 tên an ninh vây bắt về đồn Công An.

          Nhà báo Trần Quang Thanh đã liên lạc với chị Bùi Thị Minh Hằng đang bị tạm giữ tại Công An quận Hải An, Hải Phòng. Chị Minh Hằng cho biết: “Cùng bị tam giữ tại đây, còn có các anh Trương Văn Dũng, Nguyễn Chí Đức, và một sinh viên”.

          Vào ngày thứ hai của phiên tòa, bà chánh án Nguyễn Thị Mai, cho phóng viên báo điện tử của đảng biết: “Tòa sẽ xét xử khách quan, công bằng, đúng tội, và xem xét tình tiết giảm nhẹ theo đúng thông báo số 43 về kết luận của Thủ Tướng chính phủ là “Ủy ban nhân dân huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng đã có những sai phạm trong giao đất, thu hồi đất, cưỡng chế thu hồi đất đã giao cho ông Đoàn Văn Vươn”.

          Các Anh nhận ra điều gì khi đọc lời tuyên bố của bà Chánh Án? Tôi thì thấy ngay:
          (1) Tòa án phải xử đúng người đúng tội là trách nhiệm của tòa, cần gì phải tuyên bố trước. Như vậy là bà Mai “vạch áo” cho bàn dân thiên hạ thấy “những cái lưng của chánh án xã hội chủ nghĩa có hàng chữ, từ trước đến giờ tòa xử không đúng người, không đúng tội, mà xử theo lệnh đảng”. Còn phiên tòa này có xử đúng hay không, Các Anh chờ xem nhé!
          (2) Cũng theo bà Mai, tôi hiểu là bản án của ông Đoàn Văn Vươn đang trong túi bà, trong khi tòa án của xã hội văn minh căn cứ vào bản cáo trạng, các luật sự bào chữa cho bị can, kết luận của bồi thẩm đoàn, từ đó mới dẫn tới bản án.

          Ngày 5/4/2013, ngày cuối cùng của phiên xử 4 ngày, tòa tuyên án: Ông Đoàn Văn Vươn, 5 tù giam. Ông Đoàn Văn Quý, 5 năm tù giam. Ông Đoàn Văn Sinh, 3 năm 6 tháng tù giam. Ông Đoàn Văn Vệ, 2 năm tù giam. Bà Nguyễn Thị Thương -vợ ông Vươn- 15 tháng tù treo. Và bà Phạm Thị Báu -vợ ông Quý- 18 tháng tù treo.

          Thứ tư. Dư luận chung quanh bản án.

          Luật sư Nguyễn Việt Hùng, một trong 8 tám luật sư của gia đình ông Vươn, cho biết: “... Quan điểm của chúng tôi là không có tội danh “giết người, chống người thi hành công vụ”.

          Bản án là đáp số chung cuộc cho bao nhiêu năm vun đắp của gia đình Đoàn Văn Vươn trên mảnh đất canh tác của mình, cho 3 năm họ ròng rã khiếu nại, khiếu kiện phản đối quyết định cưỡng bách một cách bất công mà không được giải quyết, cho những xôn xao dự đoán của công luận về phiên tòa xã hội chủ nghĩa trong chính sách đất đai và bài trừ tham nhũng. Kết quả phiên tòa không chỉ là sự thất vọng tột cùng đối với các bị can, mà còn là nỗi thất vọng của hằng triệu nạn nhân về đất đai trên cả nước.

          Ông Vũ Văn Luân, Thư ký Liên Chi Hội Nuôi Trồng Thủy Sản huyện Tiên Lãng, phát biểu: “Tôi không hài lòng các bản án hôm nay. ... Theo dõi các phiên tòa, tôi cho rằng ông Vươn không “giết người, cũng không chống người thi hành công vụ”, vì theo Điều 15 Khoản 1 của luật hình sự thì ông Vươn không phạm tội, mà ông bị dồn vào tình cảnh phải bảo vệ tài sản của gia đình ông. Với lại người ta đã có sẵn bản án rồi. .... Chừng nào nhà nước Việt Nam chưa giải quyết tốt những vụ án như vậy, thì chừng đó vẫn còn nhiều vụ án Đoàn Văn Vươn nữa”.

          Tổ chức bảo vệ nhân quyền quốc tế Human Rights Watch cho rằng: “Vụ án Đoàn Văn Vươn là tín hiệu cảnh báo nhà cầm quyền Hà Nội về hậu quả của tình trạng thiếu nhân quyền và pháp trị tại Việt Nam”.

          Phản ứng trước bản án dành cho gia đình ông Vươn, ông Phil Robertson, Phó Giám Đốc phụ trách khu vực Châu Á trong tổ chức theo dõi Nhân quyền (Human Rights Watch) nói: ““Thật thú vị khi những người bị cáo buộc dùng võ khí, súng ống chống lại nhà nước thì bị 5 năm tù, trong khi những người chỉ thể hiện quyền tự do ngôn luận của công dân để bày tỏ chính kiến như blogger Điếu Cày lại bị kêu án 12 năm tù. Thực trạng này thật kỳ quặc, và cần lời giải thích từ nhà cầm quyền Việt Nam.... Chính sách nhân quyền và đất đai của nhà nước Việt Nam, sẽ còn gây ra nhiều vụ Đoàn Văn Vươn” khác nữa”.

          Kết Luận.

          Là Người Lính trong quân đội nhân dân Việt Nam, tôi nghĩ, có Anh 5 năm, 15 năm, 20 năm, thậm chí 25 hay 30 năm cầm súng, có bao giờ Các Anh suy ngẫm về quảng đời quân ngũ với súng đạn, có Anh đã thương tật tàn phế, có bạn đã gục ngã trên chiến trường, và Các Anh đang còn súng đạn trong tay. Có bao giờ Các Anh suy nghĩ tại sao đại đa số người dân từ thành thị đến nông thôn trong tình cảnh khốn khổ như ngày nay? Có bao giờ Các Anh tự hỏi” ”Tại sao Quân Đội nhân dân với Công An nhân dân, không chống quân Trung Cộng rượt đuổi ủi chìm tàu cá của ngư dân, không chống quân Trung Cộng lấn chiếm biên giới Việt Nam, cũng không chống quân Trung Cộng lấn chiếm biển đảo Việt Nam? Nhưng lại cầm súng đàn áp nhân dân đứng lên phản đối kẻ thù từ trong lịch sử là Trung Cộng lấn chiếm Việt Nam, để lãnh đạo Các Anh bớt nỗi sợ hãi người dân mà ngồi yên trên những chiếc ghế quyền lực, rồi bày ra đủ cách đủ kiểu để lấy đất của dân cung ứng cho các công ty theo “lợi ích riêng tư” của họ! Và có bao giờ Các Anh tự hỏi: “Tại sao ngày nay lãnh đạo của Các Anh luôn sợ hãi người dân, nên sử dụng Các Anh thẳng tay đàn áp người dân?

          Cái câu mà Bà Kim Chi nói “tôm tép luôn luôn nghĩ là cứt của ai cũng ở trên đầu như nó”, theo nghĩa đen có ý nói lãnh đạo cộng sản Việt Nam chỉ có cứt trong đầu, theo nghĩa bóng thì người cộng sản thiếu kiến thức lãnh đạo, lại trấn áp đồng bào để cướp đoạt đất đai, đàn áp người yêu nước trong khi hèn hạ khiếp nhược với Trung Cộng.
          Bằng chứng:
          (1) Năm 1988, chỉ phản kháng ngang qua người phát ngôn của Bộ Ngoại Giao, để rồi Trung Cộng chiếm 8 đảo trong quần đảo Trường Sa.
          (2) Năm 1990, đã ký biên bản thỏa thuận với Trung Cộng, sẽ từng bước đưa Việt Nam sáp nhập vào Trung Cộng dưới chế độ tự trị vào năm 2020.
          (3) Năm 1999 đã dâng cho Trung Cộng 789 cây số vuông dọc biên giới phía bắc.
          (4) Năm 2000, đã dâng 11.362 cây số vuông trong Vịnh Bắc Việt cho Trung Cộng.
          (5) Năm 2007, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng ký Quyết Định cho thăm dò khai thác quặng bauxite trên Cao Nguyên Miền Trung, và Tập Đoàn Khoáng Sản quốc doanh giao cho công ty Chalieco của Trung Cộng thực hiện từ 2007 đến 2015, xét đến năm 2025.
          (6) Năm 2009, lại ký biên bản lần hai, tái xác nhận đưa Việt Nam sáp nhập Trung Cộng vào năm 2020.
          (7) Nhớ lại năm 1979, quân Trung Cộng tràn sang đánh chiếm 6 tỉnh dọc biên giới phía bắc, chúng giết nhiều ngàn “lính quân đội nhân dân và nhân dân Việt Nam”. Vậy mà bây giờ, lãnh đạo cộng sản Việt Nam lại ngăn cấm cá nhân cũng như tổ chức, không được thắp nhang tưởng nhớ những người đã nằm xuống trong trận chiến đó!

          Những hành động tội ác trên đây, góp phần vào trang sử tệ hại nhất trong dòng lịch sử Việt Nam cận đại và đương đại, mãi mãi lưu truyền trong sử sách từ thế hệ này đến thế hệ khác. Các Anh có cảm nhận được nỗi đau của đồng bào không? Vì dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, đất nước cũng như con người chỉ là một loại phương tiện đa dụng của lãnh đạo cộng sản Việt Nam! Vậy, Các Anh suy nghĩ gì về lãnh đạo của các Anh?

          Tôi mong là Các Anh thật bình tâm mà suy nghĩ, và suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính mình, rồi quyết định.... Và quyết định đó giúp Các Anh mạnh mẽ bước vào hàng ngũ tuổi trẻ, trí thức, đồng bào, để cùng giành lại quyền làm người cho hơn 90 triệu đồng bào được sống trong một xã hội dân chủ pháp trị, được ngẫng cao đầu giữa thế giới văn minh, được hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước đã lừng danh thế giới.

          Tôi vững tin rằng, bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi- vẫn hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào, những thế hệ làm nên lịch sử.

          Hãy nhớ, “Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng, và Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước” (trích trên internet).

          Texas, tháng 5 năm 2013

          Comment


          • #20
            Thư số 19a gởi Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam

            Thư số 19a
            gởi Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam


            ******

            Phạm Bá Hoa


            Tôi là một trong hằng triệu Người Lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo CSVN với lòng thù hận đã đày đọa chúng tôi trong hơn 200 trại tập trung mà họ gọi là trại cải tạo. Người 5 năm, 10 năm, thậm chí 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy chế độ dân chủ tự do và quân lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn trong quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam cho đến khi mà quê hương tôi có dân chủ tự do thật sự.
            Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Xin gọi Người Lính Quân Đội Nhân Dân một cách ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày. Chữ “Các Anh” viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào cầm quyền, cũng chỉ là một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.


            Nội dung thư này, tôi mời Các Anh nhìn lại tình hình Nhân Quyền tại Việt Nam. Nhân Quyền hay nhưng quyền của người dân, qui định trong Công Ước quốc tế do Liên Hiệp Quốc ban hành, mà Việt Nam đã cam kết thực hiện khi ký vào Công Ước năm 1982. Vấn đề là lãnh đạo Các Anh chưa bao giờ thực hiện, nên bị các cơ quan theo dõi Nhân Quyền trên thế giới chỉ trích. Qua đó, Các Anh sẽ nhận rõ thêm về tình trạng suy đồi niềm tin của đồng bào đối với lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam.

            Thứ nhất. Quốc Hội Châu Âu với nhân quyền Việt Nam.

            Ngày 18/4/2013, tại Strasbourg (Pháp) dưới sự chủ tọa của ông Miguel Angel Martinez -đảng viên cộng sản- Quốc Hội Châu Âu đã thảo luận dự thảo Nghị Quyết về nhân quyền và tôn giáo tại Việt Nam do 6 chính đảng đệ trình. Cuộc tranh luận rất sôi nổi. Lúc 5 giờ chiều cùng ngày, Nghị Quyết được thông qua với đa số các chính đảng mà đại diện là 754 Dân Biểu, thiểu số là nhóm cực tả bỏ phiếu trắng.

            Nghị Quyết Quốc Hội Châu Âu. (Tóm lược).

            Căn cứ vào:
            (1)
            Hiệp Ước đối tác và hợp tác giữa Liên Âu và Việt Nam ký ngày 27/6/2012, và cuộc đối thoại Nhân Quyền giữa Liên Âu với Việt Nam hai lần mỗi năm. (2) Công Ước quốc tế về các Quyền Dân Sự và chính trị mà Việt Nam tham gia ký kết năm 1982.
            (3) Cuộc kiểm điểm thường kỳ toàn diện mà Việt Nam tường trình trước Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc tháng 4/2009.
            (4) Phúc trình của báo cáo viên Liên Hiệp Quốc Đặc Nhiệm thăng tiến và bảo vệ quyền tự do ý kiến và ngôn luận, tại khóa họp lần thứ 14 của Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc (LHQ) tháng 4/2010.
            (5) Lời tuyên bố của phát ngôn nhân dại diện tối cao Liên Âu là bà Catherine Ashton trước các án lệnh đối với các bloggers tại Việt Nam ngày 24/9/2012.
            (6) Nghị Quyết ngày 15/11/2012 về “Chiến lược cho tự do kỹ thuật số” trong chính sách đối ngoại của Liên Âu.
            (7) Các Nghị Quyết trước đây đối với Việt Nam. (8) Điều 122 trong những quy tắc và thủ tục của Liên Hiệp Châu Âu.

            Xét rằng: Theo phúc trình của các tổ chức Nhân Quyền quốc tế, 32 bloggers đã bị kết án tù khắc nghiệt hoặc đang chờ xét xử tại Việt Nam, 14 nhà hoạt động dân chủ lãnh án tù tổng cộng 100 năm vì sử dụng quyền tự do ngôn luận, những án từ 10 năm tù giam lên tới chung thân, một ký giả một tờ báo nhà nước bị sa thải vì đưa lên blog lời phê bình Tổng Bí Thư đảng cộng sản... Các bloggers và các nhà hoạt động bảo vệ nhân quyền, thường xuyên sử dụng Internet để nói lên quan điểm của họ về tệ nạn tham nhũng, về tình trạng cưỡng bách chiếm đoạt đất đai của người dân.... Năm 2009, trong cuộc phúc trình nhân quyền của Việt Nam tại Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc, Việt Nam đã chấp nhận một số khuyến nghị về tự do ngôn luận, kể cả điều “bảo đảm hoàn toàn cho quyền tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi tin tức, ý kiến, phù hợp với điều 19 của Công Ước Quốc Tế về Các Quyền Dân Sự và Chính Trị”. Quyền tự do tôn giáo và tín ngưỡng bị đàn áp, và Giáo Hội Thiên Chúa cùng những tôn giáo không được thừa nhận, như Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Giáo Hội Tin Lành và các giáo hội khác hiện đang bị khủng bố trầm trọng... Nhất là ngày 24/9/2012, ba nhà báo nổi danh: Nguyễn Văn Hải -tức Điếu Cày- Tạ Phong Tần, và Phan Thanh Hải, bị kết án tù, trong khi Việt Nam đang nhắm chiếc ghế tại Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc nhiệm kỳ 2014-2016.

            Quốc Hội Châu Âu:

            Bày tỏ mối quan tâm trước sự kết án và án tù khắc nghiệt cho những nhà báo và bloggers tại Việt Nam, tố cáo sự tiếp diễn những vi phạm nhân quyền, kể cả việc hăm dọa chính trị, sách nhiễu, tấn công, bắt bớ tùy tiện, kết án tù khắc nghiệt và các phiên tòa xử bất minh đối với những nhà hoạt động chính trị, nhà báo, bloggers, nhà bất đồng chính kiến, và nhà đấu tranh bảo vệ nhân quyền, cả hai giới ngoài luồng và trực tuyến, vi phạm rõ ràng nghĩa vụ quốc tế đối với nhân quyền của Việt Nam. Yêu cầu nhà cầm quyển tức khắc và vô điều kiện trả tự do cho tất cả các bloggers, ký giả trực tuyến và các nhà hoạt động bảo vệ nhân quyền; kêu gọi chính quyền Việt Nam chấm dứt mọi hình thức trấn áp chống lại những ai sử dụng quyền tự do ngôn luận, quyền tự do tín ngưỡng và tự do hội họp phù hợp với tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế. Đồng thời kêu gọi chính quyền Việt Nam sửa đổi hay hủy bỏ các luật pháp hạn chế quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí, chuẩn bị cho một diễn đàn đối thoại và thảo luận dân chủ.

            Yêu cầu chính quyền Việt Nam chấm dứt việc cưỡng bức trục xuất “nông dân ra khỏi mảnh đất của họ”, để bảo đảm quyền tự do ngôn luận của những ai tố cáo nạn lạm quyền trong vấn đề đất đai, bảo đảm cho những ai bị trục xuất hưởng các quyền khắc phục pháp lý, và được bồi thường theo tiêu chuẩn quốc tế và nghĩa vụ chiếu theo luật nhân quyền quốc tế... Kêu gọi nhà cầm quyền Việt Nam chấm dứt việc đàn áp tôn giáo và hủy bỏ các cản trở pháp lý đối với những tổ chức tôn giáo độc lập để họ được tự do sinh hoạt tôn giáo ôn hòa, phù hợp với nghĩa vụ quốc tế của Việt Nam, bằng sự công nhận quyền pháp lý cho tất cả các cộng đồng tôn giáo, cho phép tự do sinh hoạt tôn giáo và hoàn trả tất cả tài sản bị nhà nước cưỡng chiếm của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Giáo hội Thiên chúa giáo và các cộng đồng tôn giáo khác.

            Kêu gọi thêm lần nữa rằng, việc đối thoại nhân quyền giữa Liên Âu với Việt Nam, phải đưa tới tiến bộ cụ thể trên lĩnh vực nhân quyền và tiến trình dân chủ hóa. Kêu gọi Liên Âu phải luôn luôn nói lên mối quan tâm về vi phạm nhân quyền tại Việt Nam ở cấp cao nhất. .... Cho phép các nhóm hay cá nhân thăng tiến nhân quyền, bày tỏ ý kiến hay bất đồng chính kiến của họ môt cách công khai, từng bước bãi bỏ án tử hình, bãi bỏ hay sửa đổi các điều luật “an ninh quốc gia” đã sử dụng để trừng phạt những nhà bất đồng chính kiến ôn hòa, và trả tự do cho các tù nhân lương tâm....

            Chỉ thị cho Chủ Tịch Liên Âu, chuyển Nghị Quyết này đến Phó Chủ Tịch Ủy Hội/Đại diện tối cao của Liên Âu, để trao cho Ủy Ban Đặc Trách Chính Sách Đối Ngoại & An Ninh Liên Âu, Hội Đồng Châu Âu, Ủy Hội Châu Âu, các chính phủ và thành viên quốc gia, chính phủ và quốc hội Việt Nam, các chính phủ thành viên quốc gia ASEAN, Cao Ủy Nhân Quyền LHQ, và Tổng Thư Ký LHQ. Ngày 27/6/2012, Liên Hiệp Châu Âu và Việt Nam đã ký văn kiện hợp tác, trong đó bao gồm điều khoản cam kết thực thi về Nhân Quyền. Các Nghị Sĩ Liên Hiệp Châu Âu, đề nghị phải sử dụng các quy định trong văn kiện nói trên, để bảo vệ đúng đắn Nhân Quyền và quyền tự do ngôn luận tại Việt Nam.

            Giới quan sát tại Châu Âu cho rằng, Nghị Quyết Nhân Quyền vừa được thông qua tại Strasbourg, là một thông điệp mạnh mẽ đối với nhà cầm quyền Hà Nội, và sẽ có ảnh hưởng đến cuộc đàm phán về tự do mậu dịch giữa Liên Hiệp Châu Âu với Hà Nội. Văn kiện này cũng được Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc tại Genève quan tâm, nhất là hiện nay, Việt Nam đang có tham vọng trở thành thành viên của Hội đồng Nhân Quyền Liên hiệp Quốc vào năm 2014, nhưng lập trường của các Nghị Sĩ Châu Âu về vấn đề nhân quyền tại Việt Nam, sẽ ảnh hưởng không thuận lợi cho tham vọng của họ.

            Thứ hai. Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ với nhân quyền Việt Nam.

            Ngày 19/04/2013, Ngoại Trưởng Mỹ John Kerry đã công bố báo cáo thường niên của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ về tình trạng nhân quyền trên thế giới. Riêng về Việt Nam, bản báo cáo này cho biết các vấn đề nhân quyền đáng kể nhất đó là việc nhà nước cộng sản Việt Nam vẫn hạn chế nghiêm ngặt các quyền chính trị của công dân, đặc biệt là quyền thay đổi chính phủ, việc chính quyền gia tăng những biện pháp giới hạn các quyền tự do dân sự và nạn tham nhũng trong bộ máy tư pháp và Công An.

            Riêng về quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí, nhà nước Việt Nam tiếp tục sử dụng các điều luật về an ninh quốc gia và vu khống để hạn chế các quyền này, chẳng hạn như điều 88 về tội “tuyên truyền chống nhà nước”, như trường hợp của sinh viên Nguyễn Phương Uyên, bị bắt tháng 10/2012 chỉ vì mang trên người những truyền đơn chống Trung Cộng. Như trường hợp các bloggers đăng tải những tài liệu, bài viết bị xem là phương hại an ninh quốc gia, làm lộ bí mật nhà nước. Như trường hợp ngày 12/09/2012, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng đã cáo buộc ba trang Blogs Dân Làm Báo, Quan Làm Báo, và Biển Đông, vào tội tương tự, cộng thêm tội “nói xấu các lãnh đạo đảng”, đồng thời ra lệnh điều tra về ba trang Blogs này.

            Nhà cầm quyền Việt Nam đã bắt giam nhiều nhà hoạt động sử dụng Internet chỉ trích chính phủ, và đăng các bài viết về nhân quyền và dân chủ đa đảng. Đa số các bloggers bị bắt đã bị truy tố về tội “tuyên truyền chống Nhà nước” và “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền”. Trong năm 2012, ít nhất đã có 14 nhà hoạt động bị kết án tù, và ít nhất là 20 bloggers và nhà hoạt động khác đang chờ ngày ra tòa, trong khi những nhà hoạt động khác thì bị chính quyền sách nhiễu. Báo cáo cũng nhắc lại ngày 25/09/2012, Cao Ủy Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc đã bày tỏ quan ngại sâu sắc, trước sự kiện nhiều phóng viên và bloggers bị kết án tù nặng nề, và ghi nhận xu huớng gia tăng hạn chế quyền tự do ngôn luận ở Việt Nam, đặc biệt là đối với những chỉ trích chánh phủ trên Internet.
            Báo cáo nhân quyền thế giới 2012 được công bố sau khi Hoa Kỳ với cộng sản Việt Nam mở lại đối thoại Nhân Quyền ngày 12/4/2013 tại Hà Nội. Ngày trước đó, tòa đại sứ Hoa Kỳ tại Hà Nội đã ra tuyên bố về đối thoại Nhân Quyền Hoa Kỳ-Việt Nam lần thứ 17, cho biết hai bên “đã bàn về một số lãnh vực bao gồm tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, tù nhân lương tâm, pháp quyền, quyền lao động, và tự do thông tin, liên quan đến các phương tiện truyền thông và trực tuyến. Nhân dịp này, Phó Trợ Lý Ngoại Trưởng Hoa Kỳ đặc trách Dân Chủ, Nhân Quyền & Lao động, ông Dan Baer đã gặp một số nhà hoạt động dân chủ, nhân quyền, và tôn giáo, nhưng đã bị Công An Việt Nam ngăn chận không cho tiếp xúc với luật sư Nguyễn Văn Đài và bác sĩ Phạm Hồng Sơn.

            Thứ ba. Tự do báo chí.

            Ngày 03/05/2013Ngày Tự Do Báo Chí Thế Giới, tổ chức “Phóng Viên Không Biên Giới (RSF)”, trụ sở tại Pháp, công bố bản xếp hạng 2013 về tự do báo chí trên thế giới. Việt Nam vẫn ở vị trí thứ 172 trong tổng số 179 quốc gia trên thế giới, tức là nhóm 10 nước cuối bảng, bóp nghẹt quyền tự do báo chí.

            Ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí Thư đảng cộng sản Việt Nam có mặt trong danh sách “Hung thần của tự do báo chí”. “Phóng Viên Không Biên Giới” chứng minh qua lời phát biểu của ông Trọng: “Báo chí không có vai trò tuyên truyền chống nhà nước. Các nhà báo chỉ đưa các thông tin có thể chấp nhận được, và không được bình luận ủng hộ đa đảng”.

            Ngày 3/5/2013 là Ngày Tự Do Báo Chí Quốc tế, đài VOA có phát đi bài phỏng vấn Blogger Phạm Minh Hoàng liên quan đến tự do báo chí tại Việt Nam. Câu hỏi cuối cùng như sau: “Nhân Ngày Tự do Báo chí Thế giới hôm nay, là một ngòi bút tự do, một blogger tại Việt Nam, nếu có điều kiện chia sẻ với những người cầm bút trên khắp thế giới, anh sẽ nói điều gì với họ?”


            Blogger Phạm Minh Hoàng: “Điều tôi muốn nói với mọi người là mọi người đã biết đến Việt Nam như một nước từng đau khổ vì chiến tranh, nhưng đừng quên rằng Việt Nam của chúng tôi hôm nay vẫn đang quằn quại trước sự đe dọa, trước sự thiếu tự do thông tin, tự do ngôn luận, và tự do báo chí. Chúng tôi mong ước rằng tất cả nhà báo trên thế giới, những người đấu tranh cho tự do-dân chủ-nhân quyền trên thế giới hãy lưu tâm đến vấn đề này và hãy tiếp tục hỗ trợ chúng tôi tranh đấu, thúc đẩy các chính phủ trên thế giới lưu tâm để tình trạng tại Việt Nam càng ngày càng được cải thiện hơn”.

            Thứ tư. Khi người dân mất niềm tin.

            Ngày 24/4/2013, trên New York Times có bài của nhà báo Thomas Fuller, với nội dung nói về người dân Việt Nam đã mất niềm tin vào lãnh đạo của họ. Sau thời gian đến Sài Gòn, tiếp xúc với Giáo sư Nguyễn Phước Tường -tức Giáo sư Tương Lai- cựu cố vấn hai đời Thủ Tướng cộng sản Việt Nam, đã trao đổi với ông Trương Huy San -tức nhà báo Huy Đức- một cựu cố vấn khác của Thủ Tướng Việt Nam là Tiến sỹ kinh tế Lê Đăng Doanh, và một số nhân vật khác để tìm hiểu về tình hình kinh tế chính trị của Việt Nam hiện nay.

            Tại nhà riêng của của Giáo Sư Tương Lai, trên các kệ sách chất đầy các tuyển tập của Marx, Engels, và Hồ Chí Minh, đã nói lên niềm tin của ông vào đảng cộng sản. Nhưng giờ đây, Giáo sư Tương Lai, 77 tuổi, đang nói lên những tiếng nói phản kháng mạnh mẽ chính quyền Việt Nam, giống như bao nhiêu người khác ở Việt Nam ngày nay: “Tôi không còn tin vào đảng nữa. “Hệ thống của chúng tôi bây giờ là chế độ toàn trị độc đảng. Tôi xuất thân từ bên trong hệ thống ấy, tôi hiểu tất cả những khiếm khuyết, những bất cập, những suy đồi thoái hóa của nó. Hệ thống này không được sửa chữa thì sẽ sụp đổ, đè lên trên chính bản thân nó”


            Ông Peter R. Ryder, Giám Đốc Điều Hành Quỹ Đầu Tư Indochina Capital, nhận định: “Nếu chế độ này không sửa đổi, thì tự nó sẽ sụp đổ. Đảng cộng sản Việt Nam đang đối mặt với sự giận dữ ngày càng tăng của người dân, về sự trượt dốc của nền kinh tế, và nội bộ đảng đang bị chia rẽ, giữa nhóm bảo thủ với nhóm cấp tiến kêu gọi dân chủ đa nguyên..... Với 21 năm làm việc tài Việt Nam, tôi chưa bao giờ thấy sự bất mãn của trí thức và doanh nhân đối với chánh phủ lên đến mức độ như hiện nay”.

            “Bài báo dẫn lời của ông Carlyle A. Thayer từ Học Viện Quốc Phòng Austrlia, một trong những học giả ngoại quốc hàng đầu về Việt Nam, cho rằng: ”Giờ đây, sự chỉ trích đảng cộng sản đã bùng nổ trên toàn xã hội, cùng lúc nhà nước cũng gia tăng đàn áp. Đây là khác biệt lớn nhất so với các thách thức mà đảng cộng sản Việt Nam đã trải qua, kể từ khi cầm quyền trên toàn cõi Việt Nam từ năm 1975”.

            Vẫn theo bài báo của Thomas Fuller trên New York Times, trong diễn đàn Kinh Tế Mùa Xuân do Quốc Hội Việt Nam tổ chức tại Nha Trang ngày 6/4/2013, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh cho biết: “Các diễn giả đã tranh nhau nói trước micro. Nhiều người đã chỉ trích, mặc dầu nền kinh tế cần phải được tái tổ chức sâu rộng, nhưng gần như chẳng ai làm gì cả. Năm nào người ta cũng nghe hứa hẹn là thời gian tới mọi việc sẽ được cải thiện, nhưng thật sự họ không thấy gì cả. Đó là sự khủng hoảng niềm tin. Và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là trung tâm của cơn bão chính trị hiện nay”.



            Thứ năm. Buổi dã ngoại vì nhân quyền Việt Nam.

            Ngày 5/5/2013, do lời kêu gọi của Nhóm Công Dân Tự Do, buổi sinh hoạt ngoài trời lần đầu tiên được tổ chức tại Sài Gòn, Nha Trang, và Hà Nội, với mục đích phổ biến và đòi hỏi các quyền căn bản của con người được công nhận trong bản “Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền” năm 1948, mà chánh phủ Việt Nam đã ký năm 1982. Như vậy, Việt Nam là một thành viên và phải thực hiện, nhưng chưa bao giờ thực hiện.

            Tại Nha Trang. Tóm lược cô Như Quỳnh trả lời phỏng vấn của đài RFI:

            “Sáng nay, 5/5/2013, tại địa điểm tổ chức dã ngoại bị Công An và an ninh ngăn chận, không cho các xe vào công viên, họ viện dẫn lý do dành cho sinh hoạt của Đoàn Thanh Niên Cộng Sản. Tôi ra khỏi nhà một đoạn thì bị toán an ninh chận lại. Từ lâu nay, tôi muốn có cơ hội đối thoại với lực lượng an ninh, nhưng vì hôm nay tôi có hẹn với các bạn, nên tôi trả lời dứt khoát là tôi phải đến nơi hẹn. Họ đồng ý, với điều kiện là sau giờ bắt đầu một chút thì tôi phải rời khỏi chỗ đó. Và thực tế thì tôi bị ép phải đi cùng với an ninh khi đến gặp các bạn. Điều này không sao, vì mỗi bên có việc của mình. Sau khi gặp và cho biết là tôi không được ở lại với các bạn đến cuối. Tôi cùng với vài bạn đến một quán cà phê, tại đây, chúng tôi cùng trao đổi những gì liên quan về quyền con người, dưới sự chứng kiến của hai người an ninh mặc thường phục. Thật ra thì những trao đổi công khai của chúng tôi trong những buổi dã ngoại, là những cơ hội cho những công dân Việt Nam muốn tìm hiểu về những quyền của con người, để họ hiểu rõ hơn là mình có quyền gì, và mình nên làm gì trong tình huống nào. Việc này đã được công khai hơn hai tuần rồi. Và tôi nghĩ là qua buổidã ngoại hôm nay, tất cả những người tham gia cũng như những người theo dõi, có thêm sự hiểu biết về quyền tự do của con người, đặc biệt là quyền tự do đi lại”.

            Tại Sài Gòn. Tóm lược bạn Châu Văn Thi trả lời phỏng vấn của đài VOA:

            “Ngày 5/5/2013, tụi em sinh hoạt dã ngoại tại công viên 30/4, vừa hát xong bài “Nối Vòng Tay Lớn” thì Công An xông vào, miệng la lớn là tuị em buôn bán ma tuý, rồi họ rạch giỏ xách tay của tụi em. Lúc đó tụi em đang cầm bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền chuẩn bị nói về “Quyền Con Người” thì họ xông vào đánh tụi em mà miệng họ la lớn lên rằng: “Bọn này là phản động, chống đối chánh quyền”, rổi đ6ảy lên xe đưa về đồn Công An phường Phú Thạnh quận Tân Phú. Các bạn bị họ giữ lâu nhất là Vũ Quốc Anh, Vũ Sĩ Hoàng, và Nguyễn Hoàng Vi. Vi và Hoàng bị đánh nặng nhất. Lúc họ thả Hoàng Vi, họ còn cướp cái Ipad”.

            “Hai giờ chiều cùng ngày, tụi em đến để lấy lại máy, thì họ cho phụ nữ và an ninh thường phục ra đánh tụi em ngay trước đồn Công An. Hoàng Vi, mẹ và chị với em của Hoàng Vi, bị chúng nắm đầu đánh, trong khi Công An với Dân Phòng bao vây tụi em tại chỗ. Khi miọ người bị thương, máu me đầy người, họ kêu xe taxi chở đi cấp cứu. Tới bệnh viện Tân Phú trên đường Âu Cơ, vừa xuống xe, ba người của họ bay vào tới tấp đánh tụi em tiếp. Em của Hoàng Vi là Nguyễn Thảo Chi bị đnáh gãy 3 cái răng. Mẹ của Hoàng Vi đưa người ra đỡ, họ lấy điếu thuốc châm vào mặt bà làm bà ngất xỉu. Sau đó, họ cứ đi theo xe vào trong bệnh viện để uy hiếp. Tụi em sinh hoạt công khai và ôn hòa, vậy mà họ thẳng tay đánh đập rất dã man!. Trong khi Việt Nam đang ứng cử vào Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc, không hiểu họ ứng cử vào Hội Đồng này để làm gì nữa...”


            Tại Hà Nội. Tóm lược bài của bà Trần Thị Nga.

            Sáng ngày 5/52013, bà Nga và hai con đến công viên Nghĩa Đô tham gia buổi dã ngoại. Rất đông Công An và an ninh tại cổng công viên. Bà vào trong: “Thấy một số các ông bà và nhiều bạn trẻ ngồi cạnh bờ Hồ, có người trên tay cầm tờ giấy A3, A4 với nội dung “Phản đối đàn áp quyền tự do của Công Dân, tự do hội họp là Quyền Của Công Dân... Vài bạn trẻ đang cầm Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền mà Việt Nam đã ký với Liên Hiệp Quốc, được in ra đưa cho những người có mặt trong công viên để họ biết được những quyền căn bản mà con người từ khi sinh ra đã được hưởng là gì. Có lẽ do đây là buổi dã ngoại đầu tiên để thảo luận về quyền con người. .. Nhiều người vừa đọc vừa bàn luận với nhau rất phong phú, đa dạng”. Trong tay bà Nga cũng có tờ giấy A3: Phản đối đàn áp Quyền tự do của công dân.


            Quan sát buổi dã ngoại, bà Nga nói: “Tôi thấy số lượng an ninh theo dõi có lẽ đông gấp đôi số người tham gia dã ngoại, người quay phim chụp ảnh, người theo dõi chúng tôi chứ không ra tay bắt bớ, đánh đập tàn ác như trong Sài Gòn, hoặc ngăn chặn như ở Nha Trang. Sau buổi dã ngoại, có người cho là thành công, có người cho là thất bại. Còn câu trả lời cho việc thành công hay thất bạn là tùy vào cách nhìn của từng người, bởi quyền tự do là thế!”


            Nhận định của bạn Nguyễn Trung Tôn, từ Thanh Hóa. Qua ngày dã ngoại về Nhân Quyền tại Nha Trang, Sài Gòn, và Hà Nội, đã đạt được 3 chiến thắng:
            (1) Nhiều người dân được hiểu thêm về quyền con người của họ mà lâu nay bị công sản bưng bít.
            (2) Việc cộng sản đưa Công An đàn áp người tham dự, đã phơi bày bộ mặt tồi tệ của họ về vi phạm nhân quyên tại Việt nam. Là bằng chứng để Việt Nam không thể đủ tư cách đắc cử vào Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc trong năm tới.
            (3) Là cơ hội thu hút được nhiều thành viên, thể hiện sự khát khao nóng bỏng của người dân về một đất nước thực sự tự do.”

            Kết luận.

            Là Người Lính trong quân đội nhân dân Việt Nam, tôi nghĩ, có Anh 5 năm, 15 năm, 20 năm, thậm chí 25 hay 30 năm cầm súng, có bao giờ Các Anh suy ngẫm về quảng đời quân ngũ với súng đạn, có người về hưu, người thì thương tật tàn phế, có người đã gục ngã trên chiến trường, và Các Anh đang còn súng đạn trong tay, đã bao lần theo lệnh đảng mà thẳng tay đàn áp đồng bào yêu nước, đàn áp đồng bào quanh năm nghèo khổ với mảnh đất nhỏ nhoi mà vẫn không yên, thậm chí cũng không còn nhà ở. Tôi xin hỏi: “Có khi nào Các Anh cảm thấy hối hận, cùng lúc cảm nhận nỗi đau của Nhân Dân bị Quân Đội Nhân Dân với Công An Nhân Dân đàn áp không?

            Đây là một đoạn trong bài “Cảm xúc ngày 30 tháng Tư” của Luật sư Nguyễn Văn Đài -Hội Anh Em Dân Chủ- trên làn sóng đài BBC Luân Đôn ngày 29/4/2013: “Một quốc gia đã giành được độc lập và thống nhất, mà nhân dân không được hưởng các quyền tự do, dân chủ, nhân quyền, thì người dân của quốc gia đó đã hy sinh xương máu chỉ để thay thế sự cai trị của giặc ngoại xâm bằng sự cai trị của giặc nội xâm, chớ không phải hy sinh cho dân tộc. Mà giặc nội xâm thì tham lam và gian ác gấp trăm gấp ngàn lần giặc ngoại xâm.”

            Vậy, Các Anh nghĩ gì sau khi đọc đi đọc lại nhận định của những đảng viên từng giữ những chức vụ quan trọng trong đảng lẫn nhà nước?

            Nếu điều đang nghĩ chưa rõ nét, Các Anh hãy đọc đoạn dưới đây mà tôi trích trong “Lời Kêu Gọi” của cựu Đại Tá quân đội nhân dân Đào Văn Nghệ viết ngày 23/10/2010. Ông bắt đầu với lời than não nuột: “Đất nước lâm nguy! Giang sơn rơi lệ! Dân chúng lầm than!” Rồi ông mạnh mẽ kêu gọi:

            “Hỡi toàn dân Việt Nam ở mọi miền đất nước! Hỡi Quân Đội và Công An Việt Nam, hãy bảo vệ cho người dân Việt Nam, như những chiến sĩ Quân Đội và Công An Nga Sô, Ba Lan, Đông Âu trước kia. Họ đã sớm thức tỉnh, nắm lấy thời cơ, cầm súng đứng về phía Nhân Dân, để ngày nay chính họ, gia đình vợ con họ được dân chủ, ấm no. Họ không còn phải sống trong lo sợ và đói khổ, dưới chế độ cộng sản cũ đầy dối trá và tội lỗi. Chế độ đã bao năm khống chế họ bằng luật rừng, bằng họng súng với nhà tù, cưỡi lên đầu lên cổ nhân dân họ. Bởi vậy, đây là thời điểm nhân dân và đất nước đang cần những anh hùng đứng lên giúp dân làm nên một trang sử, đưa dân tộc ta bước vào kỷ nguyên dân chủ, ấm no không còn cộng sản độc tài. Kỷ nguyên Quốc Gia Cộng Hòa…. Quân Đội Nhân Dân còn chờ gì nữa? Khẩn cấp tiến hành cách mạng lật đổ chế độ cộng sản Hà Nội, kiến lập quốc gia Cộng Hòa Việt Nam…. Tiến hành tổng tuyển cử toàn quốc, để nhân dân được thật sự tự do, ứng cử, bầu cử, tìm những người tài đức lãnh đạo đất nước và có nhiệm kỳ. Thay đổi Hiến Pháp phù hợp với Hiến Pháp chung quốc tế, để bảo vệ quyền con người cho toàn dân. Việt Nam ơi! Thời thế tạo anh hùng. Mẹ Việt Nam ơi! Mẹ sinh ra những anh hùng”.

            Khi Các Anh nhận ra người dân, đảng viên, giới trẻ, giới trí thức, và giới doanh nhân, không còn niềm tin vào lãnh đạo thì Các Anh nghĩ gì? Tôi mong là Các Anh hãy suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính mình, rồi quyết định.... Tôi tin là quyết định đó sẽ giúp Các Anh quyết tâm bước vào hàng ngũ tuổi trẻ, trí thức, đồng bào, bằng bất cứ hình thức nào và vào thời gian nào mà Các Anh cho là thích hợp nhất, để cùng nhau góp phần giành lại quyền làm người cho hơn 90 triệu đồng bào được sống trong một xã hội dân chủ pháp trị, để hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước đã lừng danh thế giới, và mỗi khi cầm sổ “Thông Hành” (hộ chiếu) ra ngoại quốc mà ngẫng cao đầu giữa thế giới văn minh lịch sự.

            Tôi vững tin rằng, bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi- vẫn hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào, những thế hệ làm nên lịch sử.

            Hãy nhớ rằng: “Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng, và Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước” (trích trên internet).
            Texas, tháng 05 năm 2013

            Comment


            • #21
              Thư số 19b gởi Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam

              Thư số 19b

              gởi Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam.

              ******
              Phạm Bá Hoa

              Tôi là một trong hằng triệu Người Lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo CSVN với lòng thù hận đã đày đọa chúng tôi trong hơn 200 trại tập trung mà họ gọi là trại cải tạo. Người 5 năm, 10 năm, thậm chí 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy chế độ dân chủ tự do và quân lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn trong quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam cho đến khi mà quê hương tôi có dân chủ tự do thật sự.
              Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Xin gọi Người Lính Quân Đội Nhân Dân một cách ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày. Chữ “Các Anh” viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào cầm quyền, cũng chỉ là một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.


              Nội dung thư này, tôi mời Các Anh đọc chầm chậm để hiếu rõ vụ án “tuyên truyền chống nhà nước” mà nạn nhân là hai sinh viên ở hai thành phố. Từ đó Các Anh sẽ hiểu được: “Tại sao có nhiều người yêu nước bị quản thúc tại nhà, bị đàn áp đánh đập trên đường phố, bị bắt giam, bị bỏ tù với những bản án theo nhu cầu của đảng”, nhưng ngày càng có nhiều người mạnh mẽ đòi hỏi một xã hội dân chủ?” Những người can đảm đó, vì lòng yêu quê hương, thương đồng bào, mà chống những kẻ nhân danh lãnh đạo hại dân hại nước, và chống Trung Cộng lấn chiếm Việt Nam.

              [B]Thứ nhất. Người dân nghĩ về Phương Uyên và Nguyên Kha.

              Theo bản tuyên bố của quí vị trong nhóm Linh Mục Nguyễn Kim Điền. Đây là một vụ án có nhiều kịch tính, bộc lộ tất cả bản chất ghê tởm của chế độ và nền pháp lý cộng sản tại Việt Nam. Cô sinh viên 21 tuổi, đã bị bắt giam theo kiểu bắt cóc, bất chấp mọi quy định về tố tụng hình sự. Bị gia đình và thân hữu của em chất vấn và phản đối, nửa tháng sau Công An mới tìm cách lấp liếm và dối gạt công luận một cách trắng trợn khi trả lời gia đình của Phương Uyên.

              Khi bạn bè cùng lớp và 144 nhân sĩ trí thức gởi thư lên Chủ Tịch nước minh oan cho Phương Uyên, họ liền bị trừng phạt bằng một loạt hành vi đê tiện. Các sinh viên thì bị nhà trường, từ trưởng khoa, giáo sư, đến tổ chức thành đoàn, ép buộc phải rút lại chữ ký, và họ thường xuyên bị Công An theo dõi. Còn các vị nhân sĩ trí thức, vừa chịu sự thóa mạ khi bị Công An gọi là “trí thức bầy đàn, phạm pháp bầy đàn”, vừa bị mạo danh qua một kiến nghị giả với nội dung trái ngược.

              Sau khi Đinh Nguyên Kha bị bắt, và Nguyễn Thiện Thành bị truy nã, thì cả một chiến dịch tấn công trên “báo chí lề phải” của đảng. Họ không điều tra tìm hiểu sự việc để phân tách tìm kết luận, mà họ chỉ tuân lệnh đảng đua nhau vu khống các sinh viên đủ thứ tội... Gia đình của ba sinh viên cũng chẳng được buông tha, cứ bị Công An nay gọi mai gọi để đe dọa ép cung, khi đến thăm nuôi thì bắt buộc không được biểu lộ tình cảm giữa mẹ con, lại còn ép buộc phải ký xác nhận trên giấy phép thăm nuôi là con mình có tội, đến cơ sở làm ăn gây cản trở công việc. Thậm chí còn sử dụng cựu chiến binh đến nhà hành hung cha mẹ của hai em rồi vu vạ con của họ là phản động…

              Tác giả Lê Hoành Sơn: “Các em Phương Uyên và Nguyên Kha, các em không có tội gì ngoài tội yêu nước. Các em dư thừa can đảm, tỉnh táo để mỉm cười và mạnh mẽ nói lên rằng: “Tôi có tội yêu nước” trước cái gọi là tòa án nhân dân xử công khai, nhưng lại cấm nhân dân tham dự... Mọi người đang ngưỡng mộ, hỗ trợ, và luôn sát cánh các em. Khi lòng yêu nước nổi dậy, hung bạo đến đâu cũng phải cúi đầu... Hai thanh niên yêu nước chỉ rãi truyền đơn nói cho đồng bào biết những bất công, thối nát, và tham nhũng của lãnh đạo cộng sản Việt Nam (CSVN). Nguyễn Phương Uyên đã sử dụng biểu ngữ để hét lên với đảng cầm quyền rằng; “Tàu Khựa cút khỏi Việt Nam”, với những dòng chữ viết bằng máu từ con tim yêu nước của cô sinh viên bé bỏng, nhưng mạnh mẽ về lòng yêu nước”. Tác giả nhắn với lãnh đạo CSVN rằng: “Quay đầu lại với lịch sử, sẽ bị lịch sử nghiền nát. Quay đầu lại với đồng bào, sẽ bị đồng bào trừng phạt”.

              Thứ hai. Phiên tòa và bản án.

              Ngày 16/5/2013, tòa án nhân dân Long An xử Nguyễn Phương Uyên, sinh viên đại học Công Nghiệp Thực phẩm Sài Gòn, và Đinh Nguyên Kha, sinh viên đại học Công Nghiệp Long An. Với bản cáo trạng của Viện Kiểm Sát Long An ngày 06/03/2013, đã kết tội hai sinh viên “Tham gia tổ chức phản động. Trong tháng 8/2012 và tháng 10/2012, có hành vi làm ra, tàng trữ, và lưu hành các tài liệu chống nhà nước, có sự chỉ huy của sinh viên Nguyễn Thiện Thành, đã trốn thoát”.

              Bên ngoài tòa.

              Từ sáng sớm, nhóm quí vị từ Sài Gòn xuống Long An ủng hộ tinh thần hai bạn trẻ: Linh Mục Giuse Đinh Hữu Thoại, Linh Mục Antôn Lê Ngọc Thanh, Vương Các, Hoàng Vi, Huyền Trang, và Nguyễn Khanh. Khi xe rời Sài Gòn, các vị nhận ra 6 tên an ninh chìm trên 3 xe gắn máy số 51M3 2419, 54X6 2058, và 54S5 1711, bám sát theo xe của nhóm.

              Tác giả Trọng Thành. Phiên tòa xử Nguyễn Phương Uyên, sinh viên trường đại học Công Nghiệp Thực Phẩm Sài Gòn, và Đinh Nguyên Kha, sinh viên đại học Kinh Tế Công Nghiệp Long An, bị bắt hồi tháng 10/2012, vì hành động rải truyền đơn với nội dung phản đối Trung Cộng xâm lược Biển Đông, đồng thời lên án tệ nạn tham nhũng và các bất công trong xã hội. Hai bạn trẻ tỏ ra tự tin và thoải mái trong chiếc áo sơ mi trắng giản dị, bao quanh là lực lượng Công An sắc phục dày đặc.
              Bản cáo trạng ngày 6/5/2013, kết tội Phương Uyên nhận tiền nước ngoài 100 mỹ kim để mua máy ảnh phục vụ cho việc rải truyền đơn. Bản cáo trạng, chắc chắn chỉ dựa trên kết luận điều tra của Công An tỉnh Long An hoàn toàn không nói rõ số tiền đó là của ai. Theo Phương Uyên cho biết, một người bạn học cũ của Uyên thời tiểu học tên Hạnh, định cư tại Hoa Kỳ, đã có ý định tặng Phương Uyên nhân dịp sinh nhật một máy ảnh kỹ thuật số. Tuy nhiên nếu mua máy ảnh ở Hoa Kỳ gửi về khá nhiêu khê nên Hạnh đã gửi cho Phương Uyên 100 USD để mua máy ảnh. Thế nhưng Công An và Viện Kiểm Sát tỉnh Long An đã cố tình không ghi rõ là số tiền 100 USD này là của ai mà chỉ ghi chung chung là “từ nước ngoài”. Đây có thể là điều mà tòa án đã dùng để kết tội Phương Uyên nhận trợ giúp từ “nước ngoài” để thực hiện việc rải truyền đơn. Trong thực tế, Công An tỉnh Long An đã không thu thập được bằng chứng gì để kết tội Phương Uyên vi phạm điều 88 Bộ Luật Hình Sự. Ngược lại, bản cáo trạng đã cố tình không viết nguyên văn dòng chữ “Tàu khựa cút khỏi Biển Đông” mà Phương Uyên viết trên miếng vải, mà lại cho là Phương Uyên đã viết “một số nội dung không hay về Trung Quốc”.

              Lúc phiên tòa nghỉ trưa. Ba của Phương Uyên cho biết: “Tuy không được vào dự khán, nhưng tôi theo dõi phiên xử con tôi từ bên ngoài. Tôi rất vui, vì có nhiều người ủng hộ con tôi. Tôi hãnh diện về con gái của tôi. Gia đình chúng tôi không sợ hãi gì cả”.

              Bà Kim Liên ra ngoài, thì VRNs hỏi bà thấy phong thái của Đinh Nguyên Kha và Nguyễn Phương Uyên sáng nay ở tòa thế nào, Bà cho biết: “Các con rất thoải mái, hiên ngang, ngẩng cao đầu. Hai con ngồi nhìn thẳng lên thẩm phán, không cúi mặt. Trước tòa, Phương Uyên khẳng định những việc Phương Uyên làm hoàn toàn do tinh thần yêu nước chống ngoại bang, và chống những bất công xã hội. Đây là những điều mà người dân thấp cổ bé miệng không nói lên được, nếu ai dám nói thì cũng sẽ bị đàn áp.......” Ngay lập tức, chủ toạ phiên tòa cắt lời Phương Uyên.

              Được biết, trong phiên xử buổi sáng, Phương Uyên đã không xin khoan hồng, cũng không nhận tội. Đây rõ ràng là một cái tát vào mặt Bộ Công An với “đoạn video nhận tội” đã được phát trên các làn sóng phát thanh phát hình trước ngày 16/5/2013.

              Trong khuôn viên cũng như bên ngoài tòa án, rất đông thân nhân và bằng hữu của hai sinh viên Uyên và Kha. Ngoài ra, còn có những bạn trẻ từ Sài Gòn xuống: Nguyễn Hoàng Vi, Hoàng Dũng, Châu Văn Thi, Trịnh Anh Tuấn, Phạm Lê Vương Các, ... cùng một số bà con từ Long An, Tiền Giang cũng đang ngồi cùng gia đình hai sinh viên yêu nước. Chung quanh là Công An chìm nổi, túc trực canh giữ mọi người.

              Bên trong tòa.

              Phiên tòa buổi sáng, chỉ có bà Nguyễn Thị Nhung mẹ của Phương Uyên, bà Nguyễn Thị Kim Liên là mẹ và Đinh Nhật Uy là anh của Nguyên Kha được vào dự phiên tòa. Tất cả những thân khác của hai gia đình đều ở bên ngoài. Bên trong tòa án, Công An rất đông, và những người mặt mũi xa lạ được xem là Công An chìm, cũng có thể là đám côn đồ tay chân của Công An choán hết chỗ để Công An viện dẫn lý do “hết chỗ” mà ngăn cản người dân.
              Bản cáo trạng có nói đến 3 nhân chứng, nhưng cả 3 nhân chứng không có mặt tại tòa. Đây là một bằng chứng cho thấy Công An điều tra dựng chuyện để kết tội hai sinh viên. Về vật chứng, chỉ là khẩu hiệu mà họ cho là chống đảng cộng sản, nhưng họ không dám trưng dẫn cho mọi người thấy, vì đó là khẩu hiệu chống Trung Cộng và chống đảng CSVN. Luật sư biện hộ cho hai sinh viên, nhiều lần đề nghị tòa trưng dẫn vật chứng, nhất là mảnh vải có dòng chữ ”Tàu khựa cút khỏi Biển Đông” mà Phương Uyên đã viết, nhưng chủ tọa phiên tòa không chấp nhận. Vậy là người ngồi ghế “chủ tọa” rất sợ sự thật, nhất là sự thật nói lên ý chí của một công dân nhỏ bé chống Trung Cộng.


              Hai sinh viên “nạn nhân” của nhóm lãnh đạo tàn bạo với dân vì khiếp nhược với Trung Cộng, đã rất dũng cảm khi đứng trước “vành móng ngựa”, dõng dạc phát biểu:
              Nguyễn Phương Uyên: "Tôi là sinh viên yêu nước, nếu phiên tòa hôm nay kết tội tôi, thì những người trẻ khác sẽ sợ hãi mà không dám bảo vệ chủ quyền đất nước. Nếu một sinh viên, tuổi trẻ như tôi mà bị kết án tù vì yêu nước, thì thật sự tôi không cam tâm".

              Đinh Nguyên Kha: "Tôi, trước sau vẫn là một người yêu nước, yêu dân tộc. Tôi không hề chống dân tộc tôi, tôi chỉ chống đảng cộng sản. Mà chống đảng thì không phải là tội".


              Sau giờ nghỉ trưa, phiên tòa tiếp tục lúc 2 giờ chiều. Theo chương trình, chiều nay sẽ đến phần tranh luận giữa đại diện Viện Kiểm Sát với các luật sư biện hộ, sau đó tòa sẽ nghị án và tuyên án.

              Luật sư Hà Huy Sơn, thuộc Đoàn Luật sư Hà Nội là người bào chữa cho Nguyễn Phương Uyên bị bắt ngày 19/10/2012. Bị truy tố giữa tháng 08/2012:

              Về lá cờ vàng ba sọc đỏ. Uyên sử dụng giấy trắng A4, dùng bút sáp màu vàng và màu đỏ tô thành lá cờ. Phía dưới lá cờ có ghi chú bằng bút sáp màu đen dòng chữ: 1890 – 1920, Đại Nam quốc kỳ từ thời vua Thành Thái tới vua Khải Định, 1948 – 1975 là cờ quốc gia Việt Nam. Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia: Năm 1890, lá cờ vàng ba sọc đỏ được tạo ra và sử dụng lần đầu tiên như là lá cờ quốc gia. Về lịch sử, đây là lá cờ của tổ tiên mà sau này Nhà nước Việt Nam Cộng Hòa dùng lại, cũng như tên “Việt Nam” là do tổ tiên để lại chớ không phải là biểu tượng của thế lực phản động nào cả. Đây là sự thật lịch sử có trước cả Nhà nước CHXHCN Việt Nam ra đời (1976). Vậy là Phương Uyên không làm ra, không xuyên tạc, cũng không phỉ báng chính quyền nhân dân, chỉ là nhắc lại lịch sử.

              Về khẩu hiệu. Uyên sử dụng hai mảnh vải trắng, lấy máu pha loãng với nước, rồi dùng ngón tay chấm viết, một mảnh có nội dung phỉ báng đảng CSVN, mảnh vải còn lại có nội dung không hay về Trung Quốc. Không đúng, vì đảng CSVN với Nhà nước CHXHCN Việt Nam không phải là một, nên không thể cho rằng phỉ báng đảng là phỉ báng nhà nước, nên không vi phạm điều 88 bộ luật hình sự (BLHS). Với lại BLHS không có “Tội tuyên truyền chống đảng CSVN”. Trên mảnh vải không có “dòng chữ không hay về Trung Quốc, mà là Tàu khựa cút khỏi Biển Đông. “Tàu khựa cút khỏi Biển Đông” là quyền của công dân, vì điều 77 Hiến Pháp năm 1992 ghi rằng: “Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân”. Về yếu tố lịch sử và luật pháp quốc tế, Trung Quốc không có chủ quyền ở Biển Đông. Trung Quốc là kẻ đã xâm chiếm Hoàng Sa Trường Sa của Việt Nam, công dân phản đối kẻ xâm lược là một hành động yêu nước không thể bị kết tội.

              Về tội phỉ báng. Biên bản hỏi cung Phương Uyên ngày 23/11/2012, cho rằng Phương Uyên phỉ báng lãnh tụ Hồ Chí Minh là “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” là không đúng. Bởi, Hồ Chí Minh không đồng nghĩa với nhà nước CHXHCN Việt Nam.

              ........ Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án và gặp Phương Uyên, tôi nhận thấy Phương Uyên là nạn nhân của Nguyễn Thiện Thành, người mà Phương Uyên chưa gặp mặt bao giờ. Cơ quan an ninh điều tra không bắt được Nguyễn Thiện Thành; không xác định được tổ chức “Tuổi trẻ yêu nước” của Nguyễn Thiện Thành. Phải chăng đây là cái bẫy để Nguyễn Thiện Thành gài những thanh niên sinh viên có nhiệt huyết với đất nước như Nguyễn Phương Uyên và những thanh niên sinh viên khác. Theo quan điểm của tôi, vụ án Đinh Nguyên Kha và Nguyễn Phương Uyên, sẽ làm cho thanh niên sinh viên Việt Nam không dám quan tâm đến chủ quyền biển đảo quốc gia.

              Luật sư Hà Huy Sơn kết luận. Theo bản cáo trạng của Viện Kiểm Sát thì hành vi của Nguyễn Phương Uyên không gây ra hậu quả nào cho xã hội; không có động cơ cũng như mục đích nào chống nhà nước CHXHCN Việt Nam. Các hành vi của Nguyễn Phương Uyên chỉ là phản ánh phẫn uất của cá nhân trước hiện trạng của đất nước và muốn cảnh tỉnh thanh niên sinh viên về ý thức và trách nhiệm bảo vệ chủ quyền của tổ quốc. Các hành vi của Nguyễn Phương Uyên không thể cấu thành trách nhiệm hình sự. Vì vậy, tôi đề nghị Hội Đồng Xét Xử hãy công minh xem xét tuyên Nguyễn Phương Uyên vô tội.
              Vậy mà, “tòa án nhân dân Long An” vẫn kết án như dư luận loan truyền trước phiên tòa: (1) Sinh viên Nguyễn Phương Uyên, 21 tuổi, 6 năm tù và 3 năm quản chế. (2) Sinh viên Đinh Nguyên Kha, 25 tuổi, 8 năm tù, cùng 3 năm quản chế. Và lúc 4 giờ 27 phút chiều, xe chở tù đã đưa hai sinh viên yêu nước Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha, rời tòa án chạy về trại giam.

              Thứ ba. Phản ứng chung quanh hai bản án.

              Tiến sĩ Đặng Huy Văn. Sau khi phiên tòa kết thúc với bản án nặng nề cho hai sinh viên yêu nước, ông viết lá thư như sau. “Tôi viết bài này kính gửi Tổng Bí Thư đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng, thỉnh cầu ông cho phép tôi được đi tù thay hai cháu, vì tôi đã già không còn có ích cho ai nữa, trong khi hai cháu Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha là những hiền nhân của Tổ Quốc. Hai cháu sẽ là ngọn cờ chống lại sự bành trướng xâm lược của kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt Nam trong tương lai”

              Tham khảo và trích dẫn bài của ông Trần Quốc Việt. “Bản án tàn khốc giáng xuống hai mái đầu xanh vô tội Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha, là cái tát vào lịch sử bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước của tổ tiên và dân tộc... Từ nay, lằn ranh chiến tuyến càng rõ nét trong lòng người. Một bên là những trái tim yêu nước, cùng nhịp đập với lịch sử. Một bên là những kẻ phản bội dân tộc, phản bội lịch sử, phản bội lại những đấng sinh thành và tổ tiên người Việt đã sinh ra họ, khi họ rắp tâm triều cống tương lai Việt Nam cho kẻ thù bốn ngàn năm lịch sử, để nhận lại những quyền lực phù du trước mắt”.

              “.... Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha, đôi chân chưa bước trọn vào đời, nhưng đã khắc tên mình vào lịch sử và tâm trí của muôn người. Từ năm 1954 đến nay, có lẽ chưa ai khẳng định chân lý rất xác tín và đơn giản như Đinh Nguyên Kha khẳng định: "... Tôi chỉ chống đảng cộng sản. Mà chống đảng thì không phải là tội." Vì đảng là hiện thân của sự toàn ác, nên chống cái ác là hành động của tất cả mọi người Việt Nam yêu nước. Và cũng từ năm 1954 đến nay, không ai chửi hiện thân của sự toàn ác mà sắc bén như Nguyễn Phương Uyên chửi:"Đi chết đi đảng cộng sản Việt Nam bán nước". Khẩu hiệu viết bằng máu ấy là điểm cao nhất của dòng thác phẫn uất cuộn trào trong xã hội, thoát ra từ tâm hồn của thiên thần yêu nước ấy.... Bằng tất cả tấm lòng yêu nước trong trắng của mình, Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha, đã nắn nót dòng chữ đầu tiên trên trang sử đương đại sáng ngời của dân tộc. Chúng ta hãy cùng nhau viết tiếp những dòng chữ sau họ, để mười năm, hai mươi năm, ba muơi năm sau, họ sung sướng khi thấy tất cả hy sinh của họ hôm nay, sẽ không hoài phí......”

              Theo ông Brad Adams, Giám Đốc Châu Á của HRW, “việc xét xử các công dân vì tội phân phát truyền đơn chỉ trích chính quyền là điều kỳ quặc”. Ông khẳng định: “Việt Nam cần phải ngừng sử dụng tòa án để kết tội những người bất đồng chính kiến”.


              Tóm lược bài của ông Trần Trung Đạo. Cô bé đứng trên bục cao, đôi kính cận có cọng dày, tóc vén cao, áo trắng học trò, thân hình mảnh mai trông giống như một cô bé học sinh 15 tuổi, đang đứng trước bảng đen trong lớp học chớ không phải đứng trước tòa án cộng sản. Em không sợ hãi, không van xin, trầm tĩnh và tinh khôi như một thiên thần: "Tôi là sinh viên yêu nước, nếu phiên tòa hôm nay kết tội tôi, thì những người trẻ khác sẽ sợ hãi và không còn dám bảo vệ chủ quyền của đất nước. Nếu một sinh viên, tuổi trẻ như tôi mà bị kết án tù vì yêu nước thì thật sự tôi không cam tâm". Cạnh em, Đinh Nguyên Kha, áo sơ mi trắng, tóc cắt cao của một thanh niên Việt Nam kiểu mẫu. Nguyên Kha cũng dõng dạc: "Tôi trước sau vẫn là một người yêu nước, yêu dân tộc tôi. Tôi không hề chống dân tộc tôi, tôi chỉ chống đảng cộng sản. Mà chống đảng thì không phải là tội".

              Luật sư Nguyễn Văn Miếng trao đổi với VRNs, ông cho biết: “Bản án gắn cho Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha, là bản án nặng nề cho hai thanh niên yêu nước”.

              Luật sư Hà Huy Sơn, nhận xét trên trang Facebook: “Kha, Uyên, và gia đình rất bình thản trước bản án. Các Luật sư đều yêu cầu tuyên bố hai em là vô tội, nhưng tòa cứ tuyên đọc theo bản án của tòa.”

              Theo Vũ Đông Hà, bản án dành cho Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha, nếu nhìn cho kỹ, suy cho sâu, chính là bản án dành cho chế độ. Nó bày ra hết những ti tiện, nhỏ nhen, gian ác của chế độ và những con người cộng sản Việt Nam, từ cấp lãnh đạo cho đến những người đang xếp hàng chờ lãnh sổ hưu.
              Ông Phil Robertson, Phó Giám Đốc phụ trách khu vực Châu Á thuộc tổ chức theo dõi Nhân Quyền (Human Rights Watch), nói với VOA Việt ngữ rằng: “Bản án này thật sự gây căm phẫn và chúng tôi sẽ tiếp tục nêu các bản án này ra trước công luận quốc tế càng nhiều càng tốt. Bản án này cho thấy sự phá sản của thành tích nhân quyền Hà Nội. Trong khi nhà cầm quyền Việt Nam nói họ hành xử theo luật pháp và tôn trọng nhân quyền thì các bản án này chứng tỏ họ chỉ hành xử theo quyền lợi của đảng cộng sản cầm quyền, bất chấp quyền căn bản của con người bị chà đạp”.

              Anh Nguyễn Lân Thắng (Hà Nội) diễn tả tâm tình đối với Uyên Phương và Nguyên Kha, như sau: “Họ kết án các em bao nhiêu năm không quan trọng. Tôi sung sướng cực kỳ vì hai em đã quyết không nhận tội mà tòa án gắn cho hai em. Hãy hoàn thành nốt sứ mạng của mình trong cái nhà tù nhỏ. Các bạn tù dự khuyết bên ngoài, ngưỡng mộ và ghi nhớ công lao của hai em. Hai em đã đi vào lịch sử”.

              Đạo diễn Nguyễn Văn Hùng, ngắn gọn: “Đây là phiên tòa ô nhục”.

              Tác giả Hoàng Hưng. ... “Những kẻ kết án nặng nề hai em Đinh Nguyên Kha và Nguyễn Phương Uyên, thật là ngu xuẩn... Phản dân phản nước lại còn ngu xuẩn, vì cáo trạng đã hạch tội Phương Uyên “nói những điều không hay về Trung Cộng”, tức là công khai thú nhận cái bóng khổng lồ của Trung Cộng đã đè bẹp luật pháp Việt Nam, cũng là công khai thú nhận bản án này là của một lũ bề tôi nhằm chuộc lỗi với thiên triều phương Bắc”.

              Bác sĩ Hồ Hải (trong nước), ngày 17/5/2013 đưa vào trang blog của ông bài thơ “Dân Khí & Tình Yêu Đất Nước”, diễn đạt tâm tình và những suy nghĩ của mình đến Nguyễn Phương Uyên Và Đinh Nguyên Kha. Xin trích 8 câu cuối của bài thơ: .... “Con sẽ cho thế giới biết rằng ở nước Nam ta. Có một thời trẻ thơ không được quyền yêu và suy nghĩ. Không được sống và được làm Người. Chỉ được cúi đầu trước họa ngoại xâm bằng những trò lố bịch. Trong ngực trái của các con có cái gì đang hiển hiện. Đó là Dân Khí đấy Mẹ ơi. Dân khí mất có nghĩa là nước mất. Phận làm Người Có Học, con đâu nở cam lòng để Dân Khí vụt tan”.

              Ngày 17/05/2013, Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội, phổ biến bản tuyên bố yêu cầu chính quyền Việt Nam trả tự do ngay lập tức cho sinh viên Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha, hai nhà tranh đấu trẻ vừa bị kết án tù với tội danh tuyên truyền chống nhà nước. Vị đại diện Hoa Kỳ tại Việt Nam rằng: “Các hành động trấn áp này là một xu hướng đáng lo ngại”.

              Tôi xúc động đến nghẹn ngào với đoạn văn ghi lại lời nói mạnh mẽ của hai sinh viên khi đứng trước “vành móng ngựa” của chế độ cộng sản độc tài tàn bạo! Các Anh trong quân đội nhân dân Việt Nam, đã nhận ra “chân dung tuổi trẻ Việt Nam yêu nước” rồi chớ? Nói chung là những người yêu nước, như tác giả Lê Hoành Sơn đã nói: “Họ cất cao tiếng nói để đòi công bằng xã hội, đòi độc lập tự do, đòi nhân quyền nhân phẩm cho thế hệ hôm nay và những thế hệ mai sau, được sống một cuộc đời đáng sống, được ngẫng cao đầu mà nhìn mọi người trên khắp năm châu. Tổ Quốc ơi! Thật là may mắn khi Tổ Quốc đang có thêm những mầm non yêu nước như vậy. Đây, chính là nguyên khí hồn thiêng sông núi Việt Nam. Đây, thật sự là rường cột quốc gia góp phần giữ vững sơn hà”.

              Kết luận.

              Các Anh là Người Lính trong quân đội nhân dân Việt Nam, tôi nghĩ, có Anh 5 năm, 10 năm, thậm chí 20 hay 25 năm cầm súng. Có bao giờ Các Anh suy ngẫm về quảng đời quân ngũ với súng đạn và bạn bè, hằng triệu người đã gục ngã trên chiến trường, hằng triệu người thương tật tàn phế sống vất vưỡng đó đây, lớp lớp người về hưu, và Các Anh đang còn súng đạn trong tay, vừa đọc xong những trang giấy bên trên, Các Anh cần đọc thêm những dòng chữ dưới đây do ông Trần Hải Vân, một người yêu nước từ Sài Gòn xuống Long An để theo dõi phiên tòa. Ông Hải Vân nói:

              “Ngọn lửa đấu tranh cho tự do dân chủ trong nhân dân ngày càng lan rộng vì người dân ngày càng bất mãn, không còn tin vào cộng sản nữa. Chỉ cần một cơn gió thì ngọn lửa nhỏ sẽ lan tỏa và nhấn chìm những thứ phế thải của nhân loại (ý nói đến các đảng cộng sản còn lại trên thế giới. PB Hoa). Hỡi những người đang làm trong cơ quan của cộng sản như Công An với Quân Đội, nếu vẫn còn chút lương tâm, hãy chừa cho mình một con đường để quay về với tổ quốc và nhân dân, đừng gây thêm tội ác với nhân dân nữa. Nhân dân đang cần các bạn. Các bạn hãy thức tỉnh đi, đừng bán mình cho bọn quỷ sứ là nhóm lãnh đạo cộng sản. Đừng để quá muộn”.

              Tôi mong Các Anh hãy suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính mình, rồi quyết định.... Và quyết định đó giúp Các Anh quyết tâm bước vào hàng ngũ tuổi trẻ, trí thức, đồng bào, bằng bất cứ hình thức nào và thời gian nào mà Các Anh cho là thích hợp nhất, để cùng nhau xây dựng một xã hội dân chủ tự do, để hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước đã lừng danh thế giới, và mỗi khi cầm sổ “Thông Hành” (hộ chiếu) trong tay mà ngẫng cao đầu giữa thế giới văn minh, lịch sự,
              Tôi vững tin rằng, bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi- vẫn hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào, những thế hệ làm nên lịch sử.

              Hãy nhớ: “Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng, và Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước” (trích trên internet).

              Texas, tháng 05 năm 2013.

              Comment


              • #22
                Thư số 20 gởi Nguời Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam

                Thư số 20 gởi
                Nguời Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam
                *********

                Phạm Bá Hoa



                Tôi chào đời năm 1930, vào quân đội Việt Nam Cộng Hòa năm 1954, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo CSVN với lòng thù hận đã đày đọa chúng tôi trong hơn 200 trại tập trung mà họ gọi là trại cải tạo, hằng trăm Bạn tôi đến 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy Quốc Gia và Quân Lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn trong quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam cho đến khi mà quê hương tôi có dân chủ tự do thật sự.
                Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Xin gọi Người Lính Quân Đội Nhân Dân một cách ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày. Chữ “Các Anh” viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc với Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào cầm quyền, cũng chỉ là một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.


                Nội dung thư này vẫn là “Quyền Của Mỗi Con Người” gọi tắt là “Nhân Quyền”. Tôi nhấn mạnh với Các Anh rằng, “Nhân Quyền” là tiêu biểu của xã hội dân chủ tự do. Những xã hội độc tài -Việt Nam là một trong số đó- Nhân Quyền bị nhà nước tước đoạt bằng mọi cách, kể cả những cách xấu xa của giới côn đồ trong xã hội. Khi không có dân chủ tự do, xã hội không thể có những con người tử tế để xây dựng đất nước.

                Thứ nhất. Nhìn lại các cuộc biểu tình chống Trung Cộng.

                Tham khảo bài viết không ghi tên tác giả, nhưng cuối bài có câu “tác giả là nhà văn đang sống tại Sài Gòn”.
                Một sự kiện tình cờ gợi ý tác giả “nhìn lại 5 năm các cuộc biểu tình chống Trung Cộng” lấn chiếm quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, ngày 9/12/2007 - ngày 9/12/2012 tại Hà Nội và Sài Gòn. Trong 5 năm đó, nhiều người bị hành hạ đọa đày, nhiều người đang trong các nhà tù, nhiều người đã lưu vong, và nhiều người đang bị hành hạ sách nhiễu ... Cũng trong thời gian đó, nguy cơ mất hẳn quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa ngày càng trở nên rõ nét.
                Ngày 6/12/2007. Với bản tin Trung Cộng thành lập thành phố Tam Sa bao gồm quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, họa sĩ Trịnh Cung, nhạc sĩ Tuấn Khanh, các nhà thơ Trần Tiến Dũng, Thận Nhiên, Lynh Bacardi, và tác giả, ngồi uống cà phê bên hông siêu thị Diamond (phía đường Phạm Ngọc Thạch), cùng nghĩ: “Không thể im lặng, phải làm cái gì đi chứ. Và chúng tôi đồng ý ra một tuyên cáo kêu gọi chống Trung Quốc”, và tác giả nhận trách nhiệm dự thảo bản Tuyên Cáo.

                Sau khi mọi người xem lại, góp ý sửa đổi. Ngày 7/12/2012 thì bản văn hoàn chỉnh với tựa là “Tuyên Cáo Của Người Việt Nam Yêu Nước”, và được ký tên bởi nhóm ““Văn Nghệ Sĩ Việt Nam” với đầy đủ tên tuổi của nhóm lúc bấy giờ. Bản Tuyên Cáo này gửi đến anh Hoàng Ngọc Tuấn (tienve.org) và anh Phùng Nguyễn (damau.org) nhờ dịch sang Anh ngữ rồi phổ biến trên mạng internet, gần như cùng thời gian với cuộc biểu tình đầu tiên vào ngày 9/12/2012. Sau mấy ngày phổ biến, đã có hơn 3.000 chữ ký ủng hộ. Lúc ấy, bản Tuyên Cáo chỉ còn ghi là “Văn Nghệ Sĩ Việt Nam” chớ không còn tên những người chủ xướng.


                Những cuộc biểu tình chống Trung Quốc được tiếp tục, và có sự tham gia đặc biệt của giới văn nghệ sĩ, nhưng phần lớn các cuộc biểu tình đã bị nhà nước giải tán nhanh chóng. Riêng cuộc tập họp ngày 9/12/2007 tại Sài Gòn, là sự liều mạng của nhà thơ Phan Bá Thọ và Vương Văn Quang. Hai anh đã lừ lừ từ phía Nhà Văn Hoá Thanh Niên bước sang bên kia đường đến sát Tòa Tổng Lãnh Sự Trung Cộng, cuốn hút mọi người ùa theo, và biến thành biểu tình.......
                Những tên tuổi nổi bật xuất hiện từ các cuộc biểu tình chống Trung Quốc năm 2007 ở Sài Gòn, có: Nguyễn Văn Hải (Điếu Cày), Tạ Phong Tần, Tuấn Khanh, Song Chi, Lynh Bacardi, Bùi Chát, Uyên Vũ, Huỳnh Công Thuận, Thiên Sầu, Phan Thanh Hải (Anh Ba Sài Gòn), Kim Duy… Ở Hà Nội, tác giả nhớ nhất là bài viết của nhà văn Trang Hạ kể chuyện chị bị bắt.

                Có một hiện tượng mà lịch sử văn học Việt Nam cần ghi nhận. Đó là sự bùng nổ văn thơ chống Trung Cộng trên truyền thông “lề trái”, với chủ đề Hoàng Sa và Trường Sa, bằng những ngôn ngữ chưa từng có trong văn học Việt Nam, phần lớn được phổ biến trên trang “tienve.org” và trang “damau.org”. Đến nay là năm 2013, phong trào văn chương này vẫn tiếp tục, khác hẳn với loại văn chương yêu nước chung chung xưa nay vốn dĩ thiếu cái nồng nhiệt trong nội dung.


                Ngày 29/4/2008. Trung Cộng có cuộc rước đuốc Olympic vòng qua Sài Gòn, dù rằng Sài Gòn không nằm trên hành trình vòng quanh thế giới. Toàn bộ anh chị em văn nghệ sĩ có dính dáng đến biểu tình đều bị mời đến các cơ quan Công An Phường. Với bàn tay của Trung Cộng, lực lượng Công An đã kiểm soát nghiêm ngặt để bảo vệ an ninh cho đoàn rước đuốc. Ngoài đoàn của Trung Cộng, nhà nước Việt Nam đã tổ chức đoàn người ủng hộ “rước đuốc Olympic”, mà thật ra đoàn người này lúc nào cũng sẳn sàng quật ngã bất cứ ai có thái độ chống đối. Vì vậy mà có mấy người bị Công An bắt mà không ai biết lý do.

                Năm 2011

                Tác giả nhận định: “Nếu năm 2007 các cuộc biểu tình thường gắn với văn nghệ sĩ và sinh viên học sinh, thì năm 2011, lại là sự đóng góp nòng cốt của “nhân sĩ, trí thức” với các vị như: Giáo sư Huệ Chi. Tiến sĩ Nguyễn Quang A. Các Nhà văn Nguyên Ngọc, Chu Hảo, Phạm Xuân Nguyên… ở Hà Nội. Trong khi tại SàI Gòn thì có: Cụ Nguyễn Đình Đầu, giáo sư Tương Lai, các ông Lê Hiếu Đằng, Huỳnh Tấn Mẫm, Cao Lập, Huỳnh Kim Báu, Lê Công Giàu, Hạ Đình Nguyên…”
                Ngày 5/6/2011, biểu tình lớn xảy ra ở Hà Nội và Sài Gòn mở đầu cho đợt đấu tranh mới. Sài Gòn chỉ thực hiện được 2 lần chánh thức, còn lại là bị đảng với nhà nước ngăn chận tại nhà, mời gọi đến cơ quan Công An giữ chân tại chỗ. Trong khi tại Hà Nội thì thực hiện liên tục vào mỗi chủ nhật đến lần thứ 10. Công đầu thuộc về “Nhật Ký Yêu Nước” đã phát động kêu gọi. Mỗi cuộc biểu tình đều có một số người bị đánh, bị bắt. Hình anh Nguyễn Chí Đức bị đạp vào mặt, tiêu biểu cho chính sách của đảng với nhà nước thẳng tay đàn áp công dân yêu nước để làm vừa lòng Trung Cộng.
                Tác giả cũng như nhiều người khác từng tham gia biểu tình vào những ngày chủ nhật, đều bị an ninh canh cửa ngăn chận, hoặc trên đường đi thì bị cưỡng ép vào quán uống cà phê và họ canh giữ tại đó. Điều mà tác giả không thể quên là các cuộc biểu tình do sự hình thành của “Nhóm No-U Sài Gòn” và “Nhóm No-U Hà Nội”. Họ có tinh thần tương trợ, đoàn kết, thể hiện một thái độ chính trị dứt khoát, mạnh mẽ. Bên cạnh đó còn có Chị Bùi Hằng, Mẹ Nấm, Nguyễn Hoàng Vi, Huỳnh Thục Vy, Phan Thị Lan Phương, Trịnh Kim Tiến… các anh Nguyễn Chí Đức, Người Buôn Gió.… cũng vậy.

                Năm 2012


                Tại Hà Nội. Vẫn “Nhóm Nhật Ký Yêu Nước” ra lời kêu gọi biểu tình vào ngày 9/12/2012, trước các hành động leo thang lấn chiếm Biển Đông của Trung Cộng, như: Trên “Thông Hành” (hộ chiếu) có in hình đường lưỡi bò, cắt cáp tàu Bình Minh, ra lệnh kiểm soát tàu bè từ đầu năm 2013… Trong khi tại Sài Gòn, cùng lên tiếng là các ông Huỳnh Tấn Mẫm, Giáo sư Tương Lai, Hồ Ngọc Nhuận, Lê Hiếu Đằng, và ông Lê Công Giàu, đã từng thay mặt cho 42 nhân sĩ và trí thức ký tên vào kiến nghị tổ chức biểu tình chống Trung Cộng hồi tháng 7/2012, cũng có tên trên một Thông Báo kêu gọi mít tinh tại nhà hát thành phố.
                Cuộc biểu tình ngày 9/12/2012 là cách nói với đảng và nhà nước về sức sống của người dân yêu nước, không thể ngồi yên nhìn Trung Cộng ngày càng lấn chiếm Việt Nam. Theo tác giả, đây là lần đầu tiên cuộc biểu tình có tổ chức hẳn hòi. Nhóm tổ chức gồm 5 người, nhưng chỉ có ông Huỳnh Tấn Mẫm có mặt tại chỗ, vì bốn vị còn lại đều bị Công An ngăn chận không cho ra khỏi nhà. Sự kiện này được đăng tải trên báo chí và trên làn sóng phát thanh quốc tế trong chương trình Việt ngữ. Các vị khác trong số 42 vị có tên trong bản kiến nghị, như các ông Cao Lập, Phạm Đình Trọng, Tuấn Khanh,..v..v.. cũng bị Công An canh giữ tại nhà, nên không vị nào đến được nhà hát. Trong khi tác giả, cùng với nhà thơ Đỗ Trung Quân và nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh uống cà phê gần nhà hát, cũng bị Công An đứng bên ngoài theo dõi. Một lúc sau thì Công An vào tận chỗ buộc phải ra về, và họ áp tải từng người về tận nhà để họ canh giữ. Tác giả than thở: “Yêu nước quả thật không đơn giản!”

                Cuộc đôi co với Công An Quận 7, Sài Gòn, khi ông Huỳnh Tấn Mẫm viện dẫn Hiến Pháp cho phép biểu tình ôn hòa sao Công An ngăn chận? Công An trả lời: “Hiến Pháp thì có, nhưng luật biểu tình thì chưa có”.
                Ông Mẫm hỏi tiếp: “Tại sao mấy chục năm rồi mà chưa có luật biểu tình? Nếu sợ bị lợi dụng thì chúng tôi chịu trách nhiệm các cuộc biểu tình đó, các ông nghĩ sao?" Câu mà Công An trả lời là câu của người đuối lý: “Bây giờ chưa được phép biểu tình”.

                Với phần tóm tắt những cuộc biểu tình của người dân yêu nước, bày tỏ quyết tâm chống Trung Cộng lấn chiếm đất liền, biển, đảo Việt Nam trong 5 năm qua, mà Các Anh cũng dự phần đàn áp người dân không có bất cứ phương tiện gì trong tay để họ tự bảo vệ bản thân, Các Anh có suy nghĩ gì không? Chẳng hạn như: “Tại sao lãnh đạo Các Anh vô cùng khiếp nhược với Trung Cộng -dù đã tặng đất tặng biển rồi- mà Trung Cộng vẫn cứ lấn chiếm đất liền, biển, đảo của Việt Nam? Trong khi lãnh đạo “không dám nhúc nhích” thì người yêu nước đứng lên chống Trung Cộng thay cho đảng, tại sao đảng đàn áp người dân? Tại sao lãnh đạo đảng sợ nhân dân biểu tình bày tỏ lòng yêu nước đến mức phải canh giữ họ trong nhà? Tại sao người dân lại can đảm đến mức không sợ đảng đàn áp, thậm chí là bị bắt vào tù nữa? Tại sao Công An Nhân Dân cũng như Quân Đội Nhân Dân, mà lại thẳng tay đàn áp Nhân Dân?” Tôi không nói đến nhà nước, vì lãnh đạo đảng đứng trên đầu tổ quốc với bằng chứng là tự cho mình cái quyền đem đất đem biển tặng cho Trung Cộng, thì quyền lực của nhà nước chỉ là thi hành lệnh của đảng thôi.


                Thứ hai. Biểu tình ngày 2/6/2013.


                Từ ngày 29/5/2013, trên trang Facebook, có lời kêu gọi biểu tình vào ngày chủ nhật 6/65/2013, Hà Nội, tập trung tại khu vực Hồ Gươm, và Sài Gòn tại Công Viên 30/4: “Đồng bào hãy xuống đường đem theo khẩu hiệu và biểu ngữ, cùng dòng người hô vang Đả đảo bàng trướng Trung Cộng xâm lược, xâm phạm chủ quyền Việt Nam”.
                Ngày 2/6/2013. Blogger Nguyễn Xuân Diện. Khoảng 8 giờ sáng thì khu vực bờ hồ có khoảng 150 người, với nhiều biểu ngữ chống Trung Cộng lấn chiếm Việt Nam. Cùng lúc, nhiều Công An và Dân Phòng bao vây một nhóm người đưa lên xe.


                Marianne Brown, cộng tác viên của VOA cho biết. Lúc 8 giờ 30 sáng, hơn 100 người có mặt chung quanh Hồ Hoàn Kiếm. Một số người mặc áo phông có hình bản đồ Hoàng Sa và Trường Sa, hai quần đảo mà Trung Cộng nói là của họ. Cùng với các biểu ngữ, có một phụ nữ giương cao tấm bảng có ảnh của sinh viên Nguyễn Phương Uyên, chỉ phát tờ rơi kêu gọi mọi người xuống đường phản đối Trung Cộng, mà bị tòa kết án 6 năm tù cách nay 3 tuần. Trước khi bị Công An tịch thu tấm ảnh này và đẩy bà ra chỗ khác, một phụ nữ tên Hạnh cho đài VOA biết, người dân tụ tập ở đây bởi vì những sự kiện gần đây ở Biển Đông, và bà nói lớn: “Chúng tôi phản đối bọn bành trướng Bắc Kinh đã xâm lược đất nước Việt Nam, đã chiếm biển đảo của quê hương tôi.” Sau đó, Công An đẩy một số người dẫn đầu đoàn biểu lên các xe lớn đậu gần đó, trong số này có một phụ nữ bồng con nhỏ.
                Theo bản tin AFP gởi đi từ Hà Nội lúc 2 giờ 14 phút chiều, có khoảng 30 người biểu tình bị Công An bắt lên xe bus.

                Thứ ba. Hội Anh Em Dân Chủ.


                Nhóm người từng tham gia đấu tranh cho dân chủ nhân quyền tại Việt Nam, vừa thành lập một tổ chức có tên “Hội Anh Em Dân chủ”. Đây là nhóm tận dụng không gian mạng internet, và những phương tiện khoa học kỹ thuật trong truyền thông để sinh hoạt cho mục đích “phổ biến rộng rãi trong các tầng lớp xã hội về Dân Chủ và Nhân Quyền”. Trong những ngày gần đây, Những vi-hữu trên trang facebook quan tâm đến vấn để “Dân Chủ và Nhân Quyền cho Việt Nam”, thấy xuất hiện một huy hiệu tròn với những cánh cuộn màu xanh, chung quanh vóng tròn có dòng chữ “Hội Anh Em Dân Chủ” và dòng chữ Anh ngữ “Brotherhood Association for Democracy”.

                Một trong những người sáng lập Hội này là Luật sư Nguyễn Văn Đài, người từng bị tù vì những hoạt động đấu tranh của ông trước đây cho nền dân chủ. Ông cho biết:

                "Trong năm 2013, sau khi có phong trào ký ủng hộ sửa đổi Hiến Pháp đã dấy lên hoạt động ký ủng hộ “Kiến Nghị 72”, rồi đến Kiến Nghị của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Tuyên bố của Nhóm Công Dân Tự Do, … tạo ra một phong trào xã hội ký kiến nghị, cũng như gửi các thỉnh nguyện thư. Nay là thời điểm của những người đấu tranh cho nền dân chủ trong xã hội Việt Nam ngồi lại với nhau, cùng nhau thảo luận và đồng ý chọn con đường ngắn nhất cho tiến trình dân chủ Việt Nam. Trước đây mỗi cá nhân đấu tranh rất đơn lẻ, nên phong trào đấu tranh rất yếu. Nay cùng đứng chung với nhau trong “Hội Anh Em Dân Chủ”, có thể phát huy được những điểm mạnh và tích cực của từng cá nhân, tạo nên sức mạnh tập thể để có thể đấu tranh một cách mạnh mẽ hơn, đồng thời cũng có thể giúp nhau khắc phục những yếu điểm hay nhược điểm của mỗi một thành viên. Từ đó tạo nên một tập thể gắn bó để đoàn kết với nhau”.
                “Chúng tôi là những người tiên phong thành lập Hội, sau khi trải qua những năm tháng lao tù vì đấu tranh cho dân chủ. Đây là lúc chúng tôi thể hiện quyền lập hội của mình để tập hợp những anh em đấu tranh. Cũng là khuyến khích, cổ vũ cho những tổ chức khác, nhóm khác, sẽ mạnh dạn hơn nữa để thành lập các hội đoàn khác nhau. Bởi vì nếu chỉ có một Hội hoặc một vài Hội, hay chỉ một vài tổ chức chính trị thì không thể nào có thể làm nên sự thay đổi về chính trị ở Việt Nam được. Thời điểm này chính là lúc chúng ta rất cần nhiều hội đoàn để cùng phát triển mỗi một nhóm, mỗi một hội khác nhau, ở mỗi địa phương khác nhau, thuộc các thành phần khác nhau, để khi các hội đoàn lớn mạnh sẽ tạo thành liên minh. Lúc đó, mới đủ sức áp lực với đảng và nhà nước để thực hiện tiến trình dân chủ cho đất nước, đem lại lợi ích cho mọi người trên toàn cõi Việt Nam".
                Thành viên đầu tiên của “Hội Anh Em Dân Chủ” là cựu tù nhân lương tâm Phạm Văn Trội. Anh cho biết: “Nhu cầu phải thành lập một tổ chức với sinh hoạt tận dụng trang facebook,và các phương thức trên mạng xã hội cho công cuộc đấu tranh vì tự do dân chủ cho Việt Nam. Hiện nay phong trào dân chủ ở Việt Nam lên rất cao. Có rất nhiều người muốn tham gia hội và lập hội. Đó là những người đang đấu tranh hằng ngày, hằng giờ cho Nhân Quyền Việt Nam. Với cuộc đấu tranh này, chúng tôi xác định cùng hướng đến việc làm chung nhất của Hội. Chúng tôi chỉ quan tâm đến việc chung, và cùng nhau tham gia làm những việc chung."
                Blogger Huỳnh Ngọc Chênh là một trong rất nhiều người tham gia buổi “Dã Ngọai vì Nhân Quyền” tại Hà Nội ngày 5/5/2013, nhận định: “Thông thường lâu nay, khi những tổ chức chính trị không theo đường lối của đảng với nhà nước, đã hình thành như Khối 8406, Đảng Thăng Tiến… cơ quan an ninh đều có những cản trở, sách nhiễu, bắt bớ đối với những tổ chức như thế. Bản thân những người như Luật Sư Nguyễn Văn Đài, ông Phạm Văn Trội, đều có kinh nghiệm về chuyện đó. Tuy nhiên, đối với tổ chức trên không gian facebook là một điểm mà những người trong cuộc không bị sự can thiệp từ các cơ quan an ninh”.
                Luật sư Nguyễn Văn Đài nói về pháp lý: “Điều 69 Hiến Pháp cho phép người dân được thành lập hội; rồi Luật về hội năm 1957, Nghị định số 45 năm 2010, hướng dẫn về việc thành lập hội. Với sự phát triển khoa học kỹ thuật trong ngành truyền thông hiện nay, cũng như các trang mạng internet cho phép người dân ở khắp nơi trên thế giới có thể liên kết với nhau một cách chặt chẽ mà không nhất thiết phải gặp mặt, cũng không cần có trụ sở chánh thức. Hội Anh Em Dân Chủ được thành lập trên nền tảng truyền thông và trang mạng xã hội facebook. Chúng tôi tạo ra một liên kết với nhau mà không chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam, cũng không cần phải xin phép. Chúng tôi chỉ phải tuân thủ những qui định của Facebook là nhà cung cấp dịch vụ và luật pháp Hoa Kỳ cũng như luật pháp quốc tế. Nhưng thực tế, chúng tôi có những hoạt động rất rộng rãi, có thể trao đổi hay huấn luyện cho nhau rất nhiều kiến thức, để có thể trao đổi trong hoạt động trên không gian mạng internet qua những phần mềm như Skype, PalTalk … Khi mà chúng tôi tạo ra sự gắn kết rồi, chúng tôi có thể tạo nên những buổi gặp mặt như picnic, tổ chức những buổi tiệc, hay cùng nhau chia xẻ về một sự kiện nào đó mà sự kiện đó mà không phải xin phép, vì luật pháp Việt Nam đến nay không ngăn cấm điều đó”.
                “Hội chúng tôi có các chương trình đào tạo các kỹ năng để đối phó khi bị Công An sách nhiễu. Có thể sẽ mời những nhà nghiên cứu ở trong nước cũng như ở ngoài nước, giúp đào tạo các kỹ năng về văn hoá ứng xử cách hòa giải giữa các thành viên trong một tổ chức. Vì khi trong tổ chức thì phát ngôn cũng như hành động phải có ý thức tổ chức để giữ uy tín cho bản thân, cũng là giữ uy tín cho tổ chức. Có như vậy mới tạo được sức mạnh chung của tổ chức. Đó là ý hướng đưa chúng tôi đến thành lập nên Hội Anh Em Dân Chủ."


                Vẫn theo Luật sư Nguyễn Văn Đài, “Hội Anh Em Dân Chủ”, mới hơn 10 ngày sau khi Hội ra đời, số hội viên đã ghi tên tham gia gần 70 thành viên.
                Các Anh nghĩ gì về những người rất can đảm khi tổ chức “Hội Anh Em Dân Chủ?” Tôi nghĩ là nếu Các Anh vẫn giữ nét nhìn của người cộng sản, thì không thể nào hiểu được lòng can đảm của những người hình thành “Hội Anh Em Dân Chủ” bắt nguồn từ đâu? Vậy Các Anh hãy “nhìn vào tận đáy tâm hồn” của mình, tôi tin là Các Anh sẽ có câu giải đáp thích hợp nhất. Hãy nhớ, Dân Chủ là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước đấy nhé!

                Thứ tư. Khuyến cáo về dân chủ và nhân quyền.

                Theo bản tin của AFP ngày 15/05/2013, ông Ben Cardin, Thượng Nghị Sĩ Chủ Tịch Ủy Ban Đối Ngoại Thượng Viện Hoa Kỳ tuyên bố: “Sẽ thúc đẩy Việt Nam và Malaysia phải tiến bộ về Nhân Quyền và Quản Trị bên cạnh các tiêu chuẩn vể môi trường và lao động, mà Hoa Kỳ đặt trọng tâm trong các cuộc đàm phán về “Hiệp Định Mậu Dịch Tự Do Xuyên Thái Bình Dương”, tiếng Anh là Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement, gọi tắt theo Anh ngữ là TPP.... Khi phát biểu tại Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược Quốc Tế hôm 14/5/2013, Ông đã thẳng thắn nêu lên vấn đề Nhân Quyền Việt Nam, và bày tỏ quan ngại về việc Hà Nội bỏ tù hàng loạt các bloggers, cùng với các nhà hoạt động chỉ vì họ bày tỏ quan điểm dân chủ cá nhân”. Ông nhấn mạnh: “Hoa Kỳ muốn giao thương với các nước TPP, nhưng các nước này phải có nghĩa vụ đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế về Quản Trị và Nhân Quyền. Đó là các tiêu chuẩn quốc tế chớ không phải là các tiêu chuẩn của riêng Hoa Kỳ”.

                Gần đây, Việt Nam bị Quốc Hội Liên Hiệp Châu Âu và Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, chỉ trích mạnh mẽ những vi phạm Nhân Quyền và tự do Tôn Giáo, dù Việt Nam đã ký vào Công Ước quốc tế về Nhân Quyền. Tại Hoa Kỳ, dự luật Nhân Quyền HR 1897 vừa được Tiểu Ban Nhân Quyền Hạ Viện thông qua ngày 15/5/2013. Những ngày tới đây, sẽ đưa ra Hạ Viện. Vì vậy mà Cộng Đồng Việt Nam đang thực hiện cuộc tổng vận động cho Nhân Quyền Việt Nam dự trù diễn ra tại Quốc Hội Hoa Kỳ vào ngày 4/6/2013, sẽ hỗ trợ cho Dự Luật Nhân Quyền này.
                Trong khi đó, ông David Shear, Đại Sứ Hoa Kỳ tại Hà Nội, khẳng định: “Nếu Việt Nam không tiến bộ về Dân Chủ và Nhân Quyền, sẽ rất khó được Quốc Hội Hoa Kỳ phê chuẩn cho gia nhập TPP, vì sẽ có rất nhiều Dân Biểu Nghị Sĩ hỏi về những vấn đề liên quan tới Dân Chủ và Nhân Quyền tại Việt Nam khi chính phủ Hoa Kỳ đệ trình TPP cho Quốc Hội xem xét. Đó là một thực tế chính trị không thể tránh”.
                Thứ năm. Một tinh thần dân chủ.
                Đây là câu chuyện ngắn giữa nhân viên của cơ quan cấp Thông Hành (hộ chiếu) với Đức Giám Mục tại Kontum. Chuyện bắt đầu khi vị Giám Mục đến nhận Thông Hành, nhân viên ở đây dặn dò rằng:
                ”Ông đi nước ngoài nhớ đừng chụp hình với lá cờ vàng ba sọc đỏ, nếu không là toi đời ông!”.
                Vị Giám Mục trả lời: “Vậy tôi trả Thông Hành lại cho các ông. Tôi không đi nữa”.
                Họ ngạc nhiên hỏi lại: “Sao vậy?”
                “Nếu đi nước ngoài mà toi đời thì tôi đi làm gì?”. Rồi vị Giám Mục nói tiếp: “Này nhé, tôi vào nhà ông, thấy ông để tượng Hồ chí Minh với lá cờ đỏ, tôi có bảo ông đem đặt chỗ khác không? Đến nhà người ta ai làm thế. Ra nước ngoài, nơi tôi đến có lá cờ vàng, chẳng lẽ tôi bảo họ đem đi chỗ khác cho tôi ngồi và chụp hình à? Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm năm nô lệ giặc Tây, vậy các ông có ghét Tàu và Tây lắm không? Tôi thấy mấy ông lãnh đạo vẫn đứng chào cờ Trung Cộng, chào cờ Pháp cờ Mỹ. Vậy tại sao lá cờ vàng của anh em người Việt mình mà các ông căm ghét đến thế? Còn nữa, hàng năm chúng ta đón bao nhiêu Việt kiều mang tiền về, nhận bao nhiêu tiền họ gửi về, sao lại lúc nào cũng căm ghét cờ của họ?”
                Ngài nói tiếp như lời tâm sự rất xúc động: “Năm 1954, gia đình tôi di cư vào Nam. Gia đình tôi sống được và tôi lớn lên, ăn học là dưới lá cờ vàng. Nếu các ông di cư năm ấy thì các ông cũng thế thôi”.

                Các Anh phải hiểu rằng, đó chính là tiếng nói của người tự do, với đầy đủ Quyền Của Mỗi Con Người mà Công Ước quốc tế công nhận. Tuy sống trong xã hội độc tài, nhưng vị Giám Mục vẫn giữ cho mình nếp sống cũng như cách sống của người tự do. Ông nói một cách thẳng thắn về quan điểm của mình dù ông đang nói với Công An. Các Anh có biết là chỉ hai âm thanh Công An đã đủ cho người dân bình thường cảm thấy lạnh người không! Từ năm 1978 đến năm 1987, khi tôi bị nhốt tại trại tập trung Nam Hà A tỉnh Hà Nam Ninh, trẻ con lẫn người lớn vùng này khi nói chuyện với chúng tôi, họ đều dùng chữ “Chó Vàng” để nói đến Công An. Tôi cũng được biết là quân đội Các Anh chẳng ưa gì Công An, nhưng tôi vẫn hỏi: “Các Anh hiểu gì về hai chữ Chó Vàng mà người dân nói đến?”

                Thứ năm. Một Phương Uyên đứng thẳng giữa tòa.

                Với phiên tòa xử ngày 16/5/2013 tại Long An, hai “nạn nhân” Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha đứng thẳng giữa tòa, và dõng dạc nói với tòa là “tôi chống Tàu (Trung Cộng) xâm lấn Việt Nam, tôi chống đảng cộng sản không bảo vệ tổ quốc, và làm cho dân nghèo”. Liệu, lòng dũng cảm của Phương Uyên và Nguyên Kha, có thể trở thành ngòi nổ cho cuộc chiến giành quyền sống cho toàn dân như: (1) Anh Bouazizi bị Cảnh Sát áp bức đến mức anh phải tự thiêu ngày 17/12/2010 và chết ngày 03/01/2011, trở thành ngòi nổ cho cuộc nổi dậy của người dân, Zine El Abidine Ben Ali, Tổng Thống nước Tunisia 23 năm, và chế độ độc tài sụp đổ. (2) Và anh Abdou Adbel Moneim Jaafara tự thiêu ngày 17/01/2011, được đưa vào bệnh viện. Ngày hôm sau -18/01/2011- Mohammed Farouk Hassan và Mohammed Ashour Sorour cùng tự thiêu tại thủ đô Cairo, trong lúc Ahmed Hashim Al Sayyed tự thiêu và chết tại thành phố Alxandria. Khi ngòi nổ bùng lên, người dân Ai Cập cùng đứng dậy chống đối và đòi Tổng Thống độc tài Hosni Mubarak của họ phải từ chức.
                Kết Luận.
                Là Người Lính trong quân đội nhân dân Việt Nam, tôi nghĩ, có Anh 5 năm, 15 năm, 20 năm, thậm chí 25 hay 30 năm cầm súng, có bao giờ Các Anh suy ngẫm về quảng đời quân ngũ với súng đạn, có Anh đã thương tật tàn phế, có bạn đã gục ngã trên chiến trường, và Các Anh đang còn súng đạn trong tay. Có bao giờ Các Anh suy nghĩ tại sao đại đa số người dân từ thành thị đến nông thôn trong tình cảnh khốn khổ như ngày nay? Có bao giờ Các Anh tự hỏi” ”Tại sao Quân Đội nhân dân với Công An nhân dân, không chống quân Trung Cộng rượt đuổi ủi chìm tàu cá của ngư dân, không chống quân Trung Cộng lấn chiếm biên giới Việt Nam, cũng không chống quân Trung Cộng lấn chiếm biển đảo Việt Nam? Thậm chí cũng không dám hành động bảo vệ người dân khi bị “công nhân Trung Hoa” hiếp đáp ngay trên lãnh thổ Việt Nam? Nhưng lại cầm súng đàn áp nhân dân can đảm đứng lên phản đối Trung Cộng lấn chiếm Việt Nam thay cho đảng? Và có bao giờ Các Anh tự hỏi: “Tại sao ngày nay lãnh đạo của Các Anh lại sợ hãi người dân đến mức phải sử dụng Các Anh để thẳng tay đàn áp người dân? Phải chăng, lãnh đạo Các Anh quá khiếp nhược với Trung Cộng để giữ được những cái ghế quyền lực mà thu tóm quyền lợi? Hay lãnh đạo Các Anh là tay sai trung thành của Trung Cộng đang từng bước đưa nước Việt Nam trở thành một tỉnh của Trung Cộng? Hoặc cả hai?
                Những câu hỏi nêu trên là tôi căn cứ vào một số sự kiện mà lãnh đạo Các Anh đã hành động phục vụ cho quyền lợi của Trung Cộng, kẻ thù từ trong lịch sử ngàn năm trước mà đến nay tham vọng lấn chiếm Việt Nam ngày càng tinh vi hơn. Đó là: (1) Năm 1988, chỉ phản kháng ngang qua người phát ngôn của Bộ Ngoại Giao, để rồi Trung Cộng chiếm 8 đảo trong quần đảo Trường Sa. (2) Năm 1990, đã ký biên bản thỏa thuận với Trung Cộng, sẽ từng bước đưa Việt Nam sáp nhập vào Trung Cộng dưới chế độ tự trị vào năm 2020. (3) Năm 1999 đã dâng cho Trung Cộng 789 cây số vuông dọc biên giới phía bắc. (4) Năm 2000, đã dâng 11.362 cây số vuông trong Vịnh Bắc Việt cho Trung Cộng. (5) Năm 2007, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng ký Quyết Định cho thăm dò khai thác quặng bauxite trên Cao Nguyên Miền Trung, và Tập Đoàn Khoáng Sản quốc doanh giao cho công ty Chalieco của Trung Cộng thực hiện từ 2007 đến 2015, xét đến năm 2025. (6) Năm 2009, ký biên bản lần hai, tái xác nhận Việt Nam trở về với Trung Cộng vào năm 2020. (7) Năm 2013, lãnh đạo Các Anh ngăn cấm Các Anh và mọi người không được đến nghĩa trang thắp nhang tưởng nhớ đồng đội của Các Anh đã nằm xuống trong trận chiến chiến đầu năm 1979, khi quân Trung Cộng ồ ạt tràn sang biên giới đã bắn giết hằng chục ngàn lính của quân đội nhân dân và nhân dân Việt Nam!
                Chỉ với những hành động tội ác trên đây, đã và đang góp phần vào trang sử tệ hại nhất của Việt Nam thời cận đại và đương đại, và mãi mãi lưu truyền trong sử sách từ thế hệ này đến thế hệ khác. Các Anh có cảm nhận được nỗi đau của đồng bào không? Vì dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, con người chỉ là một loại phương tiện đa dụng của lãnh đạo đảng cộng sản! Vậy, Các Anh suy nghĩ gì về lãnh đạo của các Anh?
                Tôi mong là Các Anh thật bình tâm mà suy nghĩ, và suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính mình, rồi quyết định.... Và quyết định đó giúp Các Anh mạnh mẽ bước vào hàng ngũ tuổi trẻ, trí thức, đồng bào, để cùng giành lại quyền làm người cho hơn 90 triệu đồng bào được sống trong một xã hội dân chủ pháp trị, được ngẫng cao đầu giữa thế giới văn minh, được hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước đã lừng danh thế giới.
                Tôi vững tin rằng, bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi- vẫn hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào, những thế hệ làm nên lịch sử.
                Hãy nhớ, “Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng, và Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước” (trích trên internet).
                Texas, tháng 6 năm 2013

                Comment


                • #23
                  Thư số 21 gởi Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam

                  Thư số 21 gởi
                  Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam
                  ******


                  Phạm Bá Hoa


                  Tôi chào đời năm 1930, vào quân đội Việt Nam Cộng Hòa năm 1954, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo CSVN với lòng thù hận đã đày đọa chúng tôi trong hơn 200 trại tập trung mà họ gọi là trại cải tạo, hằng trăm Bạn tôi đến 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy Quốc Gia và Quân Lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn trong quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam cho đến khi mà quê hương tôi có dân chủ tự do thật sự.
                  Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Xin gọi Người Lính Quân Đội Nhân Dân ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày. Chữ “Các Anh” viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc với Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào cầm quyền, cũng chỉ một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.


                  Nội dung thư này tôi mời Các Anh nhìn vào điều mà lãnh đạo Các Anh chiêu dụ Cộng Đồng tị nạn ‘”hãy quên quá khứ mà hòa giải hòa hợp”. Vì vậy mà từ năm 2003, lãnh đạo Các Anh chia nhau ra hải ngoại -nhất là Hoa Kỳ- tìm mọi cách chiêu dụ để khống chế Cộng Đồng chúng tôi vào vòng tay tàn bạo của họ! Thật là ghê tởm!

                  Lãnh đạo cộng sản chiêu dụ Cộng Đồng tị nạn cộng sản.

                  Chắc Các Anh chưa quên là khi lãnh đạo CSVN xua toàn lực đánh chiếm Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi vào cuối tháng 4/1975, thì từ đó cả hệ thống truyền thông của đảng ra rả hết ngày này sang ngày khác, hết tháng này sang tháng khác, hết năm này sang năm khác, họ miệt thị chúng tôi dưới những nhóm chữ “bọn ngụy quân ngụy quyền, bọn phản quốc, bọn ôm chân đế quốc ăn bơ thừa sữa cặn, bọn đỉ điếm lưu manh, bọn rác rưởi cặn bả của xã hội, ..v..v...” Họ dùng tất cả những chữ nào mà chửi rủa được là mang ra sử dụng. Lúc bấy giờ lãnh đạo Các Anh, luôn miệng ngạo mạn cứ như cộng sản quốc tế sắp nắm quyền bá chủ thế giới vậy. Họ tranh nhau cướp đoạt tài sản quốc gia và tài sản người dân Việt Nam Cộng Hòa cũ.
                  Rồi “nhờ những Nghị Quyết đúng đắn” của nhóm lãnh đạo trong Bộ Chính Trị, mà chỉ 10 năm sau khi hoàn thành cuộc xâm lăng, họ đã đẩy toàn dân Việt Nam xuống đến tận đáy của lạc hậu nghèo khổ. Hóa ra ở đó là xã hội chủ nghĩa, đúng như họ luôn miệng hô hào “tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Người tự do chúng tôi gọi là “lùi xuống” nhưng lãnh đạo Các Anh nói là “tiến lên”. Thôi thì cứ gọi là tiến lên cũng được, nhưng tại sao khi “tiến đến xã hội chủ nghĩa” thì lãnh đạo Các Anh vội vã tìm đường ra hài ngoại cầu cạnh thế giới tự do nhất là Hoa Kỳ, một quốc gia mà họ từng mạnh miệng nguyển rủa “Mỹ là tên đế quốc đầu sỏ đang giãy chết tại dinh lũy cuối cùng của chủ nghĩa tư bản”. Câu này trong bài học số 1 có tên là “Đế quốc Mỹ, kẻ thù số 1 của Việt Nam” mà tên Thượng Tá Bình của Bộ Công An, từ Hà Nội vào trại tập trung Long Giao bắt buộc anh em chúng tôi “học 10 bài chính trị” hồi tháng 8/1975, chớ hổng phải tôi nghĩ ra à nghe. Mà lạ thật, “tên đế quốc đầu sỏ Hoa Kỳ giãy chết từ những năm 1970” mà 20, 30 năm sau chẳng những chưa chết, lại còn phát triển mạnh mẽ chưa từng thấy, nhất là lãnh vực khoa học kỹ thuật.
                  Giá mà “bác Hồ” Các Anh còn sống đến bây giờ để tận mắt nhìn thấy bộ mặt Hồ Chí Minh của ổng: Tham nhũng từ trên chót vót xuống đến làng xã. Công An thì móc ngoặc khắp phố phường đến tận cùng ngóc ngách xã hội. Còn “các cháu ngoan” của ổng đang lãnh đạo thì bằng cấp giả là kiến thức của họ, nhưng ăn chơi sa đọa và hiếp đáp dân lành thì thế giới tự do phải chào thua. Hồ Chí Minh thì lưu manh đỉ điếm với côn đồ cướp giựt ngày đêm. Hằng trăm cơ sở môi giới đã bán hơn nửa triệu cô gái Việt Nam sang các xứ lân bang làm vợ mọi người. ..v..v... Thấy được tận mắt những điều mà đám đàn em của ổng thực hiện chính sách trăm năm trồng người mà ổng đẻ ra từ hơn nửa thế kỷ trước, chắc “bác” Các Anh mừng lắm.
                  Bây giờ Các Anh theo tôi để biết lãnh đạo Các Anh hô hào chiêu dụ Cộng Đồng tị nạn cộng sản “khép lại quá khứ mà đoàn kết với họ” như thế nào?

                  Năm 2003. Ông Nguyễn Đình Bin, Thứ Trưởng Ngoại Giao, dẫn một phái đoàn sang Hoa Kỳ tiếp xúc với người Mỹ gốc Việt tại Washington DC, vào ngày 13/6/2003 tại Ngân Hàng Thế Giới thào luận về kinh tế, và ngày 14/6/2003 tại trường đại học Johns Hopkins thảo luận về chính trị. Số người Việt tham dự tại mỗi nơi là 12 người, nhưng không phải cộng lại thành 24 vì có một số vịi tham dự cả hai buổi. Ông Nguyễn Đình Bin, mở đầu buổi tiếp xúc mà giáo sư Nguyễn Quốc Khải nói là “đối thoại”:

                  “Đoàn đại biểu sang Hoa Kỳ với hai nhiệm vụ: Thứ nhất. Tiếp tục làm việc với chánh quyền Hoa Kỳ, thúc đẩy hợp tác giữa Việt Nam với Hoa Kỳ. Thứ hai. Tiếp xúc với các người Mỹ gốc Việt, hoặc là người Việt đang làm ăn sinh sống ở Hoa Kỳ. Theo con số thống kê sơ bộ thì có khoảng 2 triệu 7 hay 2 triệu 800 ngàn, đang làm ăn sinh sống tại 90 quốc gia có nền kinh tế khoa học công nghệ tiên tiến .... . Lần đầu tiên, hội nghị trung ương lần 7 ra nghị quyết về đại đoàn kết dân tộc. Những người Việt đang sinh sống và làm việc tại hải ngoại, được đất nước vẫn coi là một phần của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Tuy về đầu tư kinh tế trong nước của người Việt hải ngoại chưa bao nhiêu, nhưng điều quan trọng hơn cả là chất xám và trí tuệ, và những hiểu biết những kinh nghiệm của các chuyên viên ở nước ngoài, hiện nay phải nói là cực kỳ quí....”

                  Các Anh thấy chưa, sau những năm sống trong ảo tưởng “cộng sản sắp thống trị thế giới”, bỗng chợt tỉnh khi cộng sản Liên Sô -thành trì vững chắc của chủ nghĩa xã hội sụp đổ- lãnh đạo Các Anh buộc phải nhìn nhận sự thật về sức sống của Cộng Đồng tị nạn cộng sản tại hải ngoại về kinh tế tài chánh, trình độ giáo dục, khoa học kỹ thuật, và vận động chính trị. Bộ Chính Trị cộng sản đành phải cúi mặt khi ra nghị quyết kêu gọi Cộng Đồng tị nạn cộng sản đoàn kết với cộng sản. Lãnh đạo Các Anh “muốn nói chuyện” với người tự do chúng tôi, mà vẫn cứ như đang nói với “những thần dân” xã hội chủ nghĩa vậy

                  Năm 2004. Nghị Quyết 36. Ngày 26/3/2004, lãnh đạo CSVN phổ biến Nghị Quyết số 36, qui định một chính sách toàn diện đối với Cộng Đồng Việt Nam Tị Nạn Cộng Sản Tại Hải Ngoại, mà họ gọi là “những người Việt Nam ở nước ngoài”.
                  “Người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời, và là nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị giữa nước ta với các nước. Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị và của toàn dân. Các tổ chức đảng, nhà nước, và các đoàn thể nhân dân, các ngành các cấp từ trung ương đến địa phương, ở trong nước và ngoài nước, và toàn dân ta cần coi đây là một nhiệm vụ quan trọng nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc....”.
                  Trong số Các Anh, tôi tin là có những anh có cơ hội ra hải ngoại nói chung và Hoa Kỳ nói riêng, đều biết Cộng Đồng chúng tôi tị nạn cộng sản, chỉ trang bị một tư tưởng dân chủ tự do, một kiến thức khoa học kỹ thuật tân tiến, một hệ thống truyền thông toàn cầu, và một tinh thần trách nhiệm với quê hương Việt Nam cội nguồn, chớ không trang bị bất cứ loại vũ khí giết người nào cả. Vậy mà lãnh đạo Các Anh lại tập trung toàn bộ hệ thống chính trị và toàn quân toàn dân, chỉ vì điểm căn bản đầu tiên của Nghị Quyết nhận ra “Người Việt Nam ở nước ngoài ....là nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị giữa nước ta với các nước”. Họ nói họ cần khối trí thức hải ngoại, nhưng trong bản chất của cộng sản thì người trí thức không có giá trị gì cả, và trong thực tế từ Nga Cộng, Trung Cộng, Cu Ba Cộng, đến Việt Cộng, đâu có sử dụng người trí thức chân chánh. Họ dùng dối trá để che đậy điều họ cần là khối tài chánh cho riêng họ, và khối trí thức phải dưới quyền khống chế của họ.

                  Năm 2005. Ký giả Thạch Anh phỏng vấn ông Võ Văn Kiệt, cựu Thủ Tướng CSVN. Đây là cuộc phỏng vấn giữa người cộng sản với nhau, để ông Kiệt có cơ hội nói lên những ưu tư mà ông ta gọi là “bức xúc” trước thời cuộc. Ký giả Thạch Anh mở đầu với nhóm chữ: “Nhân dịp 30 năm, ngày đất nước liền một dãi từ Mũi Cà Mau đến địa đầu Móng Cáy,…”
                  Các Anh hiểu rồi chớ? Anh ký giả này không dùng nhóm chữ “nước Việt Nam từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau” như ghi chép trong sử sách Việt Nam, mà anh ta dùng nhóm chữ “từ Cà Mau đến Móng Cáy”, vì lãnh đạo của anh ký giả này đã cắt Ải Nam Quan dâng cho lãnh đạo Trung Cộng từ lâu rồi, còn đâu nữa mà nói!
                  Và anh ta hỏi ông Kiệt: “Thưa ông, thấm thoát đã 30 năm kể từ ngày tiếp quản Sài Gòn, và ông là một trong số ít các nhà lãnh đạo còn lại , ông có suy nghĩ gì về sự kiện này?”
                  Ông Kiệt: “Suy nghĩ của tôi là chiến tranh đã qua cách đây đã mấy chục năm, chúng tôi đã chuyển giao quyền lãnh đạo cho thế hệ kế tiếp. Nói như thế có nghĩa là tôi mong cho chiến tranh thật sự phải thuộc về quá khứ, một quá khứ mà chúng ta mong muốn khép lại....”.
                  Tôi có thư ngỏ gởi cho ông ta để hòi một câu: “Ai có trách nhiệm khép lại cái quá khứ đó Chẳng lẽ Cộng Đồng hải ngoại chúng tôi? Chính các ông, phải có trách nhiệm khép lại, bằng cách làm ngược lại những gì mà các ông đã làm từ sau ngày 30/4/1975 đối với tất cả người dân Việt Nam Cộng Hòa cũ....”.

                  Cũng trong năm 2005, ông Phan Văn Khải, Thủ Tướng CSVN công du Hoa Kỳ một tuần kể từ 19/6/2005. Trước khi rời Việt Nam, trong bản tin đài BBC và đài RFI ngày 19 và 20/6/2005, trong phần trả lời của ông Khải, có câu: “... tôi sẳn lòng khép lại quá khứ để nhìn về tương lai …”. Tôi cũng có thư ngỏ gởi ông Khải và cũng nêu câu hỏi như tôi đã hòi ông Kiệt. ..

                  Năm 2007. Ông Nguyễn Minh Triết, Chủ Tịch nước trước khi đến Hoa Kỳ ngày 18/6/2007, ông có trả lời trong cuộc phỏng vấn của Vietnamnet và đăng trên Đàn Chim Việt Online ngày 15/6/2007, có đoạn ông nói: “… Nhà nước và nhân dân Việt Nam luôn luôn coi trọng Cộng Đồng Người Việt ở nước ngoài là bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt Nam, là máu của máu Việt Nam…” Trong một đoạn sau đó, ông nói: “Cộng Đồng người Việt ở nước ngoài là khúc ruột ly hương ngàn dặm….”

                  Lúc ấy tôi gởi ông Nguyễn Minh Triết hai thư ngỏ ngày 23 & 24/6/2007. Trong thư có đoạn: “... Tôi không hiểu tại sao đến nay là 32 năm sau khi nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đánh chiếm nước Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi, ông và “đồng chí” của ông trong Bộ Chính Trị, cứ theo dụ dỗ Cộng Đồng tị nạn cộng sản, hãy quên cái quá khứ kinh hoàng của mình để đoàn kết giúp các ông có uy tín với thế giới mà ông nói là xây dựng đất nước? Về phần tôi, tôi không hận thù các ông dù tôi bị đày trong các trại tập trung hơn 12 năm, nhưng tôi không bao giờ quên cái quá khứ mà ông và các “đồng chí” của ông đã xén phần đất “trên đầu tổ quốc”, và xén “một bên tai” của quê hương dâng cho Trung Cộng, biến “mảng da đầu” của đất nước trở nên lởm chởm chưa từng có trong lịch ngàn năm chống vua quan phong kiến Trung Hoa. Chưa hết, các ông đã đối xử quá dã man tàn bạo với người dân Việt từ thể xác đến tinh thần! Cũng các ông, suốt 20 năm từ năm 1975, đã sử dụng hệ thống truyền thông để sỉ nhục và miệt thị Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản, sao bây giờ ông ra cái điều như là người cộng sản tử tế khi gọi chúng tôi là khúc ruột ly hương ngàn dặm? Khi là đảng viên cộng sản thì các ông đã vứt bỏ tên tuổi của mình mà chấp nhận tên của đảng đặt cho, vứt bỏ mẹ cha mà chấp nhận chỉ có “bác” với đảng, vứt bỏ tinh thần dân tộc mà chấp nhận tinh thần cộng sản quốc tế đặt trên ảo tưởng thống trị thế giới”. Như vậy, làm quái gì có người cộng sản tử tế trên quê hương cội nguồn của dân tộc Việt Nam ......” . Thật rõ ràng, người cộng sản là cộng sản, người tử tế là tử tế, không có sự pha trộn hay trở thành nào giữa hai người ấy.

                  Năm 2008. Ông Nguyễn Tấn Dũng, Thủ Tướng CSVN cùng phái đoàn gần 100 người đến Hoa Kỳ. Buổi họp trong khách sạn Hilton tại Houston ngày 26/6/2008, với chiếc bàn hình vuông, ông Thủ Tướng và ông Phó Thủ Tướng Phạm Gia Khiêm ngồi giữa, ông Thủ Tướng Dũng cất lời kêu gọi: “Bà con hãy hướng về quê hương bằng mọi đường mọi nẻo, chúng ta hãy gác lại quá khứ để cùng nhau chung sức xây dựng đất nước. Làm được cái gì thì làm dù là việc nhỏ, ngay cả một tiếng nói ủng hộ cũng là đóng góp. Đừng mặc cảm quá khứ nhất là khi đất nước còn nhiều khó khăn....”

                  Các Anh thấy không, sau khi ban hành Nghị Quyết 36 thì hết lãnh đạo này đến lãnh đạo khác sang Hoa Kỳ, vừa du lịch miễn phí trên đất nước giãy chết từ mấy chục năm trước nhưng lại phát triển vượt bực, vừa cầu cạnh Hoa Kỳ để có đầu tư ngoại quốc với kỹ thuật tân tiến, vừa chiêu dụ Cộng Đồng gồm những người mà họ đã liên tục chửi rủa hằng chục năm trước. Với lãnh đạo cộng sản, khi không cần thì mạt sát miệt thị, khi cần thì họ vừa nâng vừa bợ trong mục đích khống chế Cộng Đồng tị nạn cộng sản. “Liệu có phải mục đích của họ là để hưởng “những khúc ruột già của Cộng Đồng ly hương ngàn dặm chăng?”
                  “Đồng chí X của ông Chủ Tịch nước” vẫn còn trong ảo tưởng như mấy chục năm qua khi kêu gọi chúng tôi “đừng mặc cảm quá khứ”. Không biết đến bao giờ ông ta mới tỉnh lại để nhìn thấy Cộng Đồng chúng tôi chẳng những không bao giờ mặc cảm, mà trái lại, chúng tôi rất hãnh diện là một Cộng Đồng không bao giờ quên quê hương cội nguồn của mình, chỉ vì không thể sống dưới chế độ độc tài nghiệt ngã nên phải vượt lên sự chết để tìm đất sống tự do. Dù xa quê hương nhưng luôn gắn bó tình cảm gia đình trong nếp sống đạo nghĩa Việt Nam, mà Cộng Đồng chúng tôi gởi tiền về giúp thân nhân từ năm 1991 với số tiền 31 triệu mỹ kim, dần dần gia tăng và năm 2012 là 10 tỷ mỹ kim. Cộng chung từ 1991 đến 2012, tổng số tiền gởi về trong nước là 70 tỷ 115 triệu mỹ kim (tài liệu của ngân hàng thế giới, ngân hàng Việt Nam, và đài RFA 1/5/2011), chưa kể số tiền những người về thăm thân nhân mang theo. Các Anh phải biết là số tiền này góp phần quan trọng vào tổng sản lượng quốc gia (GDP) hằng năm gia tăng đó.

                  Hòa giải và hòa hợp?

                  Bây giờ là quan điểm của tôi về lãnh đạo Các Anh chiêu dụ Cộng Đồng tị nạn cộng sản, mà họ phải họp cấp trung ương rồi ban hành Nghị Quyết 36, trong mục đìch huy động toàn bộ tổ chức của quốc gia và bằng mọi phương cách chiêu dụ chúng tôi hãy quên quá khứ, hãy khép lại quá khứ, để chấp nhận sự khống chế của họ. Là một thành viên nhỏ bé li ti trong Cộng Đồng tị nạn cộng sản, tôi vẫn hiểu rằng, lịch sử là không thể thay đổi, nhưng có những điều sai trong lịch sử vẫn sửa được trong hiện tại, để có điều kiện nói đến tương lai. Nghĩa là lãnh đạo Các Anh phải làm ngược lại những gì mà họ đã làm sai từ tháng 4/1975 đến nay (2013), mới có hy vọng Cộng Đồng tị nạn suy nghĩ việc khép lại quá khứ. Việc mà họ làm sai thì không sao kể hết, nhưng theo cách nhìn của tôi thì 5 vấn đề dưới đây mà lãnh đạo Các Anh phải sửa sai đối với Cộng Đồng tị nạn cộng sản, và vấn đề thứ 6 là lãnh đạo Các Anh phải sửa sai với 90 triệu đồng bào trong nước:

                  Thứ nhất. Vào những ngày trước và sau ngày 30/4/1975, hằng chục ngàn thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa đang điều trị trong Tổng Y Viện và cả hệ thống Quân Y Viện, lãnh đạo Các Anh đã vô cùng tàn nhẫn khi ra lệnh cho Các Anh quẳng anh em thương phế binh chúng tôi ra ngoài đường sau khi chiếm Việt Nam Cộng Hòa, rồi họ muốn chúng tôi “hãy quên quá khứ” làm sao chúng tôi quên được! Bây giờ lãnh đạo Các Anh phải bồi thường tổn hại vật chất lẫn tinh thần cho Họ đồng thời Bộ Chính Trị phải chánh thức nói lời xin lỗi Họ. Đó là hành động sửa sai để cùng quên quá khứ.

                  Thứ hai. Lãnh đạo Các Anh đã cướp đoạt nhà cửa ruộng vườn cùng những tài sản khác của chúng tôi, do họ sử dụng nhiều nhóm chữ khác nhau để che đậy sự gian trá lọc lừa. Tài sản của chúng tôi bị lãnh đạo Các Anh cướp đoạt, rồi muốn chúng tôi “quên quá khứ” làm sao chúng tôi quên được! Bây giờ lãnh đạo Các Anh phải hoàn trả tất cả những tài sản ấy lại cho chủ nhân, đồng thời bồi thường thiệt hại đúng mức trên những tài sản ấy thích ứng theo thời gian. Đó là hành động sửa sai để cùng quên quá khứ.

                  Thứ ba. Lãnh đạo Các Anh không thông qua bất cứ cơ quan luật pháp nào khi bắt giam hơn 500.000 quân nhân viên chức cán bộ Việt Nam Cộng Hòa cũ, và những người trong giới kinh doanh thương mãi, dịch vụ, đẩy vào hơn 200 trại tập trung từ nam ra bắc, trong mục đích đày đọa chúng tôi chết dần chết mòn mà họ gọi là “cải tạo”. Nhưng thế giới cộng sản ngày càng suy sụp kinh tế, buộc họ phải thả chúng tôi thì họ mới được thế giới tự do giúp đỡ mà tồn tại. Và hơn trăm người cuối cùng phải 17 năm sau mới ra khỏi trại, rồi họ muốn chúng tôi “quên quá khứ” làm sao chúng tôi quên được! Bây giờ lãnh đạo Các Anh phải bồi thường thiệt hại vật chất lẫn tinh thần cho ngần ấy tù nhân chính trị chúng tôi trong ngần ấy thời gian bị giam giữ. Đó là hành động sửa sai để cùng quên quá khứ!

                  Thứ tư. Lãnh đạo Các Anh không thể nào quên trong 10 năm đầu kể từ những ngày cuối tháng 4/1975, khi mà những công dân Việt Nam Cộng Hòa cũ không thể sống nỗi sự kềm kẹp chính trị, nên đành phải vượt lên sự chết để tìm sự sống tự do với cái giá phải trả thật là khủng khiếp! Lúc ấy, họ gọi chúng tôi là bọn ngụy quân ngụy quyền, bọn phản quốc, bọn ôm chân đế quốc, bọn ăn bơ thừa sữa cặn, bọn đỉ điếm lưu manh rác rưởi của xã hội, ..v..v... Thôi thì họ dùng những chữ nào mà chửi rủa được là mang ra sử dụng để sỉ vã nhục mạ chúng tôi, rồi muốn chúng tôi “quên quá khứ” làm sao chúng tôi quên được! Bây giờ lãnh đạo Các Anh phải bồi thường vật chất lẫn tinh thần cho hằng trăm ngàn gia đình của những người đã chết trên đường vượt biên vượt biển, phải chánh thức xin lỗi Cộng Đồng Việt Nam Tị Nạn cộng sản tại hải ngoại, và rút lại những lời mà họ đã sỉ nhục chúng tôi. Đó là hành động sửa sai để cùng quên quá khứ!

                  Thứ năm. Nghĩa trang quân đội Biên Hòa, nơi an nghỉ của hơn 16.000 người Việt Nam đã tròn bổn phận công dân với quốc gia dân tộc. Tưởng được yên bình vĩnh cửu trong lòng đất quê hương, nhưng với bản chất dã man của lãnh đạo Các Anh đã đào xới mồ mả để vừa thỏa lòng thù hận của kẻ chiến thắng, vừa chiếm đoạt đất đai làm tài sản riêng, rồi muốn chúng tôi “quên quá khứ” làm sao chúng tôi quên được! Bây giờ lãnh đạo Các Anh phải hoàn chỉnh lại phần cấu trúc toàn cảnh nguyên trạng như trước lúc bị tàn phá, kể cả tượng Thương Tiếc. Đó là hành động sửa sai để cùng quên quá khứ!
                  Và thứ sáu. Nhóm chữ “hòa giải và hòa hợp” phải đặt đúng vị trí của nó, vì có “hòa giải” được với nhau mới có thể “hòa hợp” được với nhau. Như vậy, từ hòa giải đến hòa hợp còn một khoảng cách nữa. Nhưng lãnh đạo Các Anh chỉ dùng chữ “hòa hợp“ mà thực chất chỉ là chiêu dụ Cộng Đồng tị nạn cộng sản hòa hợp dưới quyền cai trị của họ, chớ không có hòa giải hiểu theo nghĩa hai bên cùng thỏa thuận công bằng và minh bạch. Nhưng tại sao họ dốc toàn lực của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam để bám theo chiêu dụ Cộng Đồng tị nạn cộng sản tại hải ngoại, mà lãnh đạo Các Anh không hòa giải và hòa hợp với người dân trong nước trước, vì đây là vấn đề hoàn toàn trong tầm tay của họ.
                  Quan điểm của tôi như sau:

                  (1) Cưỡng bách thu hồi đất. Thật vắn tắt. Năm 2010. Theo tài liệu Bộ Tài Nguyên & Môi Trường ngày 08/07/2010, chỉ riêng trong 6 tháng đầu năm 2010, có khoảng 100 đoàn dân oan từ các thành phố: Rạch Giá, Cần Thơ, Long An, Sài Gòn, Đồng Nai, Nam Định, Hà Nam, Hưng Yên, Hà Nội ..”, đến cơ quan trung ương đưa đơn khiếu nại oan ức về đất đai bị cưỡng bách thu hồi. Năm 2011. Bản tin AFP 25/11/2011, một báo cáo về tham nhũng trong đất đai do Ngân Hàng Thế Giới, tòa đại sứ Thụy Điển và tòa đại sứ Đan Mạch tại Hà Nội, thì “Việt Nam hiện nay có khoảng 70% dân số sống ở nông thôn. Việc trưng dụng đất đai mà đền bù thấp, đã dẫn đến những vụ xung đột tranh chấp đất đai, thậm chí dẫn đến chết người”. Năm 2012. Sau vụ Tiên Lãng với tiếng súng hoa cải và bom tự chế nổ từ phía người dân bị cưỡng bách thu hồi vào ngày 5/1/2012, rồi tiếng súng lại nổ nhưng không phải từ phía người dân mà từ phía lực lượng cưỡng bách thu hồi đất của 1.244 gia điình nông dân tại Văn Giảng ngày 24/4/2012. Hai nhà báo của truyền thông đảng là Nguyễn Văn Năm và Hàn Phi Long, cũng bị lực lượng cưỡng chế hành hung mang thương tích.
                  Vậy, lãnh đạo Các Anh hãy hòa giải với đồng bào oan ức về đất đai, bằng cách: “(a) Hủy bỏ Luật Đất Đai và tất cả các luật liên quan, vì đây là nguồn gốc của những mánh khóe cướp đoạt từ các cấp lãnh đạo, là một trong những nguyên nhân tham nhũng kinh hoàng trong hệ thống đảng & nhà nước. (b) Trả lại quyền tư hữu đất đai cho toàn dân như khi chiếm Việt Nam Cộng Hòa. (c) Bồi thường cho sở hữu chủ về thiệt hại vật chất đã tịch thu sử dụng riêng tư, hoặc bán cho các nhà đầu tư. (d) Bộ Chính Trị chánh thức xin lỗi đồng bào vì chính sách sai lầm”.

                  (2) Đàn áp người yêu nước. Với những cuộc biểu tình của đồng bào yêu nước -nhất là tuổi trẻ- chống đối Trung Cộng lấn chiếm biển đảo, trong khi lãnh đạo đảng lặng thinh cứ như không nghe không thấy không biết gì hết, nhưng lại thẳng tay trấn áp bằng những hành động loại lưu manh côn đồ, quản chế và bắt bỏ tù. Ngày 17/06/2013, ngày đối thoại nhân quyền Việt Nam-Australia. Dân biểu Chris Hayes, đã lên án tình trạng vi phạm nhân quyền của nhà cầm quyền Việt Nam với công dân của họ, chỉ trong một năm mà 38 nhà hoạt động ôn hòa cho dân chủ đã bị bắt vào tù.
                  Vậy, lãnh đạo Các Anh hãy hòa giải và hòa hợp với thành phần dũng cảm đáng trân trọng này, bằng cách: “(a) Trả tự do vô điều kiện cho tất cả tù chính trị mà họ bị ghép vào tội hình sự, bồi thường thiệt hại vật chất lẫn tinh thần nhập cho họ trong suốt thời gian bị giam giữ, và chánh thức xin lỗi họ. (b) Thực hiện kế hoạch bảo vệ quần đảo Hoàng Sa Trường Sa và các hải đảo trong Vịnh Bắc Việt và trong vùng Biển Đông của Việt Nam. (c) Bảo vệ ngư phủ Việt Nam đánh cá trong phần lãnh hải của mình, Hải Quân Nhân Dân anh hùng hãy xua đuổi thậm chí là tấn công các tàu lạ xâm nhập hải phận Việt Nam bắt ngư phủ và ủi chìm tàu của ngư dân Việt. (d) Hủy bỏ Điều 4, cùng lúc thực thi những điều qui định trong Hiến Pháp liên quan đến quyên dân sự và quyền chính trị của người dân theo Công Ước quốc tế mà họ đã ký”.

                  (3) Chia cắt các tôn giáo. Tại sao lãnh đạo Các Anh sử dụng mọi mánh khóe gian trá để cắt ra từng mảng rồi tổ chức thành “tôn giáo quốc doanh” trong khi họ luôn miệng nói đến đoàn kết?” Hóa ra đoàn kết của lãnh đạo Các Anh là chia cắt để trị như thực dân Pháp sao?
                  Vậy, lãnh đạo Các Anh hãy hòa giải với các tôn giáo, bằng cách: “(a) Giải tán các tổ chức tôn giáo quốc doanh. (b) Rút tất cả Công An lồng trong các tổ chức đó cũng như đã tung ra hải ngoại trở về ngành lo bảo vệ an toàn cho dân và dọn dẹp xã hội sạch sẽ. (c) Hoàn trả đất đai tài sản lại cho các tôn giáo và bồi thường thiệt hại vật chất từ khi tịch thu trái phép đến khi hoàn trả. (d) Hủy bỏ các văn kiện liên quan đến tôn giáo quốc doanh và tôn giáo ngoài quốc doanh.

                  Nếu lãnh đạo Các Anh hành động được như vậy, tôi tin rằng đồng bào trong nước và Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản sẽ vui lòng suy nghĩ lại cái quá khứ kinh hoàng đó, để tiến đến hòa giải và hòa hợp. Chớ họ nói theo cái ngôn ngữ mà ông Hà Sĩ Phu gọi là thứ “ngôn ngữ lộn ngược trong xã hội xã hội chủ nghĩa” ngày nay, làm sao người dân trong nước và ngoài nước tin được, nói gì đến cái việc quên quá khứ! Nếu lãnh đạo Các Anh không làm được những điều đó, thì đừng bao giờ kêu gọi trong nước và hải ngoại “quên quá khứ mà đoàn kết với họ”. Rất có thế vào một ngày đẹp trời nào đó, đồng bào trong nước sẽ vùng lên lật đổ họ như người dân các quốc gia Bắc Phi đã vùng lên thành công, và đang vùng lên sắp đạt thành công.
                  Quan điểm của tôi rất rõ ràng, không chứa đựng những gì mà lãnh đạo Các Anh có thể xem là tôi mang lòng thù hận. Và tôi nhấn mạnh rằng, tôi đòi lại, chớ không phải tôi xin họ.

                  Kết luận.

                  Là Người Lính trong quân đội nhân dân Việt Nam, tôi nghĩ, có Anh 5 năm, 15 năm, thậm chí 20 năm hay 25 năm cầm súng, có bao giờ Các Anh suy ngẫm điều gì về quảng đời quân ngũ với súng đạn, có Anh đã thương tật tàn phế, có bạn đã gục ngã trên chiến trường? Và Các Anh đang còn súng đạn trong tay, có bao giờ Các Anh suy nghĩ: “Tại sao 10 năm sau năm 1975, lãnh đạo Các Anh luôn miệng ngạo mạn khi chửi Hoa Kỳ là tên đế quốc đầu sỏ đang giãy chết ngay tại dinh lũy cuối cùng của chủ nghĩa tư bản, cùng lúc chửi rủa miệt thị hằng triệu người vượt biển vượt biển tìm đất sống tự do, mà bây giờ họ lại cúi đầu cầu cạnh Hoa Kỳ cứu giúp, và họ cũng hạ giọng gọi Cộng Đồng tị nạn cộng sản là khúc ruột ly hương ngàn dặm, lại muốn Cộng Đồng này hãy quên quá khứ để đoàn kết với họ? Và tại sao 30 năm sau năm 1975, người dân luôn tuân phục đảng, nhưng gần 10 năm nay người dân lại chống đảng dữ dội?”
                  Trong thực tế, những hành động tội ác của lãnh đạo Các Anh, đã và đang góp phần vào trang sử tệ hại nhất của Việt Nam thời cận đại và đương đại, sẽ mãi mãi lưu truyền trong sử sách từ thế hệ này đến thế hệ khác, mà các nhà viết sử của cộng sản không thể nào bóp méo được. Các Anh có cảm nhận được nỗi đau của đồng bào không? Và Các Anh suy nghĩ gì về lãnh đạo của các Anh? Tôi mong Các Anh thật bình tâm mà suy nghĩ, và suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính mình, rồi quyết định.... Và quyết định đó giúp Các Anh mạnh mẽ bước vào hàng ngũ tuổi trẻ, trí thức, đồng bào, để cùng giành lại quyền làm người cho hơn 90 triệu đồng bào được sống trong một xã hội dân chủ pháp trị, được ngẫng cao đầu giữa thế giới văn minh, được hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước đã lừng danh thế giới.
                  Tôi vững tin là bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi- sẽ hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào để làm nên lịch sử.

                  Hãy nhớ, “Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước. Và Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng. (trích trên internet).
                  Texas, tháng 7 năm 2013

                  Comment


                  • #24
                    Thư số 21a gởi Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam

                    Thư số 21a gởi
                    Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam.
                    *********
                    Phạm Bá Hoa


                    Tôi chào đời năm 1930, vào quân đội Việt Nam Cộng Hòa năm 1954, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo CSVN với lòng thù hận đã đày đọa chúng tôi trong hơn 200 trại tập trung mà họ gọi là trại cải tạo, hằng trăm Bạn tôi đến 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy Quốc Gia và Quân Lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn trong quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam cho đến khi mà quê hương tôi có dân chủ tự do thật sự.
                    Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Xin gọi Người Lính Quân Đội Nhân Dân ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày. Chữ “Các Anh” viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc với Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào cầm quyền, cũng chỉ một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.


                    Nội dung thư này tôi với Các Anh cùng phân tách nhóm chữ lòng tin chiến lược của lãnh đạo cộng sản Việt Nam và cộng sản Trung Hoa, để quyết định “có tin được hay không?”

                    Thứ nhất. Lòng tin chiến lược của cộng sản Việt Nam!

                    Năm 2002, là lần đầu tiên họp mặt “Đối Thoại” tổ chức tại khách sạn Sangri-La, tại Singapore. Vì vậy mà tên gọi là “Đối Thoại Sangri-La. Diễn Đàn hình thành trong mục đích tạo cơ hội các quốc gia trong khu vực và các quốc gia liên quan, thảo luận và quyết định những hồ sơ liên quan đến tình hình an ninh và hợp tác. Năm nay là lần thứ 12 tổ chức trong 3 ngày, với sự tham dự của nhiều vị Bộ Trưởng Quốc Phòng từ 31 quốc gia, trong đó có Bộ Trưởng Quốc Phòng của Anh, Đức, Mỹ, Pháp, và khá đông quí vị học giả tham dự.


                    Ngày 31/05/2013, Thủ Tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng đọc diễn văn khai mạc, với chủ đề “Xây dựng lòng tin chiến lược vì hòa bình, hợp tác, thịnh vượng của châu Á – Thái Bình Dương.'' Có đoạn: “.... Đâu đó đã có những biểu hiện đề cao sức mạnh đơn phương, những đòi hỏi phi lý, những hành động trái với luật pháp quốc tế, mang tính áp đặt và chính trị cường quyền.....” Một đoạn khác liên quan đến hồ sơ Biển Đông: “ASEAN và Trung Quốc cần đề cao trách nhiệm, cùng nhau củng cố lòng tin chiến lược và trước hết là thực hiện nghiêm túc Tuyên Bố Chung về ứng xử của các bên tại Biển Đông = DOC, nỗ lực hơn nữa để sớm có Bộ quy tắc ứng xử COC .....” Tức thì, truyền thông trong nước đồng loạt đề cao lòng tin chiến lược của ông Thủ Tướng CSVN, như thể “đồng chí X” của ông Chủ Tịch nước là nhà tư tưởng vậy!

                    Thật ra, lòng tin chiến lược mà ông Dũng nói đến, không phải lần đầu tiên xuất hiện trên chính trường thế giới nói chung, và trong vùng Đông Nam Á nói riêng, vì trước đó Tổng Thống Indonesia đã nói rồi. Chuyện là giữa tháng 3/2013 có cuộc hội thảo tổ chức tại Indonesia. Trước khoảng 1.300 cử tọa đến từ 38 quốc gia, ông Susilo Bambang Yudhoyono, Tổng Thống nước chủ nhà đọc bài diễn văn với chủ đề “lòng tin chiến lược”. Ông nhấn mạnh nhu cầu xây dựng lòng tin chiến lược để giải quyết các mâu thuẫn liên quan đến chủ quyền của các nước trên hồ sơ Biển Đông (theo cách gọi của Việt Nam).

                    Như vậy, có phải Thủ Tướng Các Anh “ăn cắp” lòng tin chiến lược của Tổng Thống Indonesia? Chớ chẳng lẽ ngược lại? Nhưng theo tác giả Nguyễn Hưng Quốc, thì trước Tổng Thống Indonesia đã có lãnh đạo Trung Cộng nói về lòng tin chiến lược đến 5 lần:
                    (1) Tháng 8/2009, trong cuộc họp tại New Dehli, Bộ Ngoại giao Trung Cộng nhấn mạnh đến sự cần thiết phải xây dựng lòng tin chiến lược giữa Ấn Độ với Trung Cộng.
                    (2) Tháng 2/2012, trong chuyến công du Hoa Kỳ, ông Tập Cận Bình, lúc ấy còn là Phó Chủ Tịch Trung Cộng, cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của lòng tin chiến lược, vì lòng tin chiến lược là nền tảng của sự hợp tác để hai bên cùng có lợi.
                    (3) Ngày 27/3/2012, trong lúc thảo luận với Thủ Tướng Manmohan Singh, Chủ tịch Tập Cận Bình cũng nhấn mạnh đến lòng tin chiến lược trong bang giao hai nước.
                    (4) Tháng 4/2013, khi tiếp phái đoàn quân sự cao cấp của Hoa Kỳ tại Bắc Kinh, Chủ Tịch Tập Cận Bình cũng nói đến lòng tin chiến lược trong bang giao và nhấn mạnh đó là nền tảng.của ổn định.
                    (5) Ngày 20/5/2013, trong chuyến công du Ấn Độ, Thủ Tướng Trung Cộng Lý Khắc Cường, lại nhấn mạnh lần nữa việc xây dựng lòng tin chiến lược như một nền tảng giữa hai nước.

                    Tôi nghĩ là Các Anh cũng nên biết qua hai chữ “chiến lược” để dễ dàng đi sâu vào vấn đề. Chiến lược, có tính cách dài lâu, ngược lại với chiến thuật là ngắn hạn. Chắc Các Anh có nghe nói đến máy bay B52 của Hoa Kỳ là loại máy bay bay rất xa và rất cao trên bầu trời, do vậy mà phải thả bom theo lệnh của đài chỉ huy từ xa. Đó là máy bay chiến lược. Cũng tính cách dài lâu đó, thông thường thì chánh phủ nào cũng thiết lập kế hoạch mà tùy theo mỗi quốc gia, lúc nào cũng sẳn sàng kế hoạch 10 năm, 15 năm, hay 20 năm. Đó là kế hoạch chiến lược phát triển đất nước trong dài hạn.

                    Vậy, lòng tin chiến lược, là lòng tin dài lâu, lòng tin bền vững. Nhưng nhìn lại lời nói và hành động của lãnh đạo cộng sản trong hơn nửa thế kỷ qua, cho dù là cộng sản Trung Hoa hay cộng sản Việt Nam cũng vậy, đã chứng minh họ “nói một đằng làm một nẻo”. Đó là sự thật trong xã hội xã hội chủ nghĩa, vậy mà họ nói đến lòng tin chiến lược thì làm sao tin họ được! Các Anh hãy đọc vài đoạn trong nhật ký “Rồng Rắn” của cố Trung Tướng Trần Độ, cựu đảng viên lão thành của Các Anh để thấy người cộng sản kỳ cựu này đã từng đứng đầu cơ quan coi về tư tưởng của đảng nói về dối trá bắt nguồn từ đâu. Với bộ máy cầm quyền, ông viết:

                    “.... Bộ máy quản lý xã hội đã thực hiện một nguyên tắc chuyên chính tàn bạo hơn tất cả các thứ chuyên chính. Đó là chuyên chính tư tưởng, được thực hiện bởi một đội ngũ nòng cốt là những lưu manh tư tưởng. Nền chuyên chính tư tưởng định ra những điều luật tàn khốc để bóp nghẹt mọi suy nghĩ, mọi tiếng nói. Nó làm cho tất cả trí thức không dám suy nghĩ, hay ít nhất cũng không muốn suy nghĩ..... Nói một đằng làm một nẻo. Nói dân chủ mà làm thì chuyên chính. Đặc điểm này cũng có nghĩa là nói dối, nói láo, lừa bịp, trò hề, nói vậy mà không phải vậy. Suốt ngày đóng trò, cả năm đóng trò, ở đâu cũng đóng trò. Lãnh đạo dối lừa, đảng dối lừa, cán bộ dối lừa, làm ăn dối lừa, gia đình cũng dối lừa, lễ hội dối lừa, tung hô dối lừa, hứa hẹn dối lừa, đến giáo dục dối lừa, bằng cấp cũng dối lừa. Ôi, cay đắng thay!”

                    Cùng chữ mà khác nghĩa, tương tự như nói một đằng làm một nẻo, nhưng Bác Sĩ Fred C. Schwarz, người Australia, đã nói “cùng chữ mà khác nghĩa”. Ông nói thêm: “Chữ mà người cộng sản sử dụng cũng là chữ mà người tự do sử dụng, nhưng hoàn toàn khác nghĩa”. Từ đó, Các Anh phải suy ngẫm để hiểu: “Khi lãnh đạo Các Anh nói tự do, phải hiểu là tự do có Công An kiểm soát từng người, từng nhà, từng khu phố, từng khu vực, nhưng nếu mọi người có những hành động ăn chơi trụy lạc làm băng hoại xã hội thì được tự do hoàn toàn. Khi lãnh đạo Các Anh nói dân chủ, phải hiểu là dân chủ trong vòng tay kiểm soát của Công An mặc sắc phục lẫn Công An loại lưu manh côn đồ. Nói bầu cử dân chủ, phải hiểu là Công An đến từng nhà tự do lùa cử tri đến phòng phiếu, rồi cử tri rất tự do chọn trong số những ứng viên mà lãnh đạo đã dân chủ chọn trước cho cử tri. Nói cách khác, chắc Các Anh còn nhớ “chính sách mở cửa đổi mới” từ cuối những năm 1980, rồi nhìn vào thực trạng xã hội rất dễ nhận thấy là lãnh đạo Các Anh có mở cửa đổi mới thật, nhưng chỉ đổi mới trong lãnh vực kinh tế, xây dựng, nhất là các sinh hoạt giải trí, nhưng tuyệt nhiên không hề đổi mới -hiểu theo nghĩa phát triển- trong lãnh vực chính trị và giáo dục.

                    Tôi nói chính trị, vì lãnh đạo Các Anh rất sợ người dân thấu hiểu chính trị dẫn đến hành động chính trị, sẽ đụng đến những chiếc ghế quyền lực của họ. Tôi nói giáo dục, vì theo tôi, giáo dục là nền tảng đào tạo những thế hệ tử tế để xây dựng một xã hội tử tế, nhưng giáo dục xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì không phải vậy. Các Anh hãy đọc vài đoạn dưới đây sẽ rõ:
                    (1) Hội nghị của Ban Chấp hành Trung Ương hồi tháng 10/2012 thảo luận về cải tổ giáo dục, Tiến sĩ Hoàng Tụy, một nhà giáo lão thành và là nhà toán học quốc tế, đã trình bày: “Giáo dục của ta đang lạc điệu không giống ai, bắt nguồn từ triết lý giáo dục, tư duy, quan niệm cơ bản về mục tiêu đường lối, cung cách làm giáo dục. Nói cách khác, nhà trường không phải chỉ dạy chữ, dạy kiến thức, mà còn phải dạy học sinh làm người“.
                    (2) Ngày 13/6/2012, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, ban hành nghị quyết Chiến lược phát triển giáo dục 2010-2020, trong đó có đoạn: “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, nâng cao vai trò các tổ chức, đoàn thể chính trị, xã hội trong phát triển giáo dục. Xây dựng nền giáo dục có tinh thần nhân dân, tiên tiến, hiện đại xã hội chủ nghĩa Mác-Lénin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng ....”
                    (3) Ngày 24/10/2012, báo Lao Động có bài “Triết lý giáo dục của người Việt” có đoạn: “...Nhiều người cho rằng giáo dục của ta không thấy lối ra, vì không tìm được triết lý giáo dục. Một số giáo sư khẳng định là nước ta chưa từng có một triết lý giáo dục…” .
                    (4) Giáo Sư Phạm Minh Hạc, một thời là Bộ Trưởng Giáo Dục cũng đồng ý là “Giáo dục nước nhà thiếu hẳn một triết lý”.

                    Tóm tắt. Khi lãnh đạo Các Anh nói đến dân chủ tự do, thì chính sách bịt mắt bịt tai bịt miệng, cộng với chính sách sử dụng Công An và côn đồ luôn tạo nỗi sợ hãi cho mọi người, thì thật sự đời sống người dân có khác gì trong một nhà tù lớn, mà trong nhà tù lớn có hằng trăm hằng ngàn nhà tù nhỏ đang giam giữ dân oan bị cưỡng bách thu hồi đất, đày đọa người dân yêu nước chống Trung Cộng lấn chiếm Việt Nam che giấu qua những tội danh qui định trong luật hình sự. Vậy mà lãnh đạo Các Anh nói đến lòng tin chiến lược thì làm sao tin được.

                    Thứ hai. Lòng tin chiến lược của cộng sản Trung Hoa!

                    Chỉ riêng cái “đường lưỡi bò” mà lãnh đạo Trung Cộng tự công bố là chủ quyến của họ hơn 80% trong diện tích Biển Đông 2.974.600 cây số vuông, rồi họ coi “đường lưỡi bò như ao nhà” của họ. Từ đó, họ tung hằng chục ngàn tàu cá xuống đến tận quần đảo Trường Sa đánh cá, trong khi tàu có võ trang của họ rượt đuổi ủi chìm tàu cá Việt Nam, họ còn bắt ngư phủ Việt Nam đề đòi tiển chuộc. Nội địa Việt Nam thì tràn ngập xóm làng người Tàu từ Móng Cáy trải dài theo duyên hải đến tận Cà Mau, xóm làng của họ cũng tràn ngập dọc Cao Nguyên đến Tân Cảnh, Tân Rai, Đắc Nông, ... và họ cấm người Việt Nam vào xóm làng của họ. Họ coi Việt Nam như một bãi rác với những sản phẩm xấu, sản phẩm độc hại sản xuất từ hóa chất, từ thị trường bên kia biên giới họ đẩy mọi thứ đó tràn ngập thị trường Việt Nam, ..v..v... Vậy mà, lãnh đạo Trung Cộng luôn miệng nói đến “16 chữ vàng và 4 tốt” trong bang giao với cộng sản Việt Nam. Trong thực tế, Trung Cộng “nói một đằng làm một nẻo”.


                    Ngày 5 & 6/6/2013, “Hội Thảo biển Đông” hằng năm lần thứ 3, tổ chức tại “Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Tế & Chiến Lược” ở Washington DC. Phóng viên Việt Hà phỏng vấn Tiến Sĩ Trần Trường Thủy, Học Viện Ngoại Giao Việt Nam, tham dự hội thảo về hồ sơ Biển Đông. Trích một trong những câu hỏi:

                    Việt Hà: “Học giả Trung Quốc có nói rằng, họ không muốn làm rõ đường lưỡi bò, vì như vậy sẽ gây ảnh hưởng đến các nước khác khi Trung Quốc sẽ phải lấy tất cả các đảo mà các nước khác đang chiếm trên đó. Vì vậy, chính sách tốt nhất là giữ nguyên hiện trạng như hiện nay là không làm rõ ràng đường lưỡi bò. Nhận xét của ông về câu trả lời của học giả người Trung Quốc là như thế nào?”

                    Tiến sĩ Trần Trường Thủy: “Tôi cho rằng cái này cũng chỉ là ngụy biện. Thực tế nếu không có đường lưỡi bò thì Trung Quốc vẫn duy trì cái chính sách chủ quyền đối với các đảo:
                    (1) Cũng lập luận vì Trung Quốc có yêu sách nên bắt buộc phải dùng vũ lực, cho nên Trung Quốc cũng đã yêu sách đối với chủ quyền của Hoàng Sa và Trường Sa cũng như các đảo khác trong tranh chấp với Philipines..
                    (2) Theo tôi thì vấn đề chính đối với đường lưỡi bò, là Trung Quốc muốn sử dụng mập mờ để đòi hỏi quyền chủ quyền và quyền tài phán, nhắm vào tài nguyên của vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các nước khác.
                    (3) Bản thân nội bộ Trung Quốc cũng có ít nhiều ý kiến khác nhau, họ cũng không thống nhất nhau làm thế nào để làm cho rõ ràng. Và đìều cơ bản là làm rõ yêu sách theo Công Ước Luật Biển, sẽ làm hạn chế việc Trung Quốc tự do hoạt động như bây giờ”.


                    Ông Tiến Sĩ của Học Viện Ngoại Giao Việt Nam, rất thận trọng khi nói đến Trung Cộng về hồ sơ Biển Đông. Tuy vậy, ông cũng nói được ý chính là Trung Cộng quyết chiếm Biển Đông, cho dù có hay không có “đường lưỡi bò” cũng vậy. Theo nhận định này thì lãnh đạo Trung Cộng “nói một đằng làm một nẻo”.

                    Các Anh nhận ra điều gi từ phía Trung Cộng? Với tôi, lãnh đạo Trung Cộng, vừa gậm nhấm vừa lấn chiếm lãnh thổ lãnh hải của Việt Nam, thực tế là:
                    (1) Năm 1988, họ lấn chiếm 8 đảo trong quần đảo Trường Sa.
                    (2) Năm 1990, họ đạt được sự thỏa thuận của lãnh đạo CSVN là từng bước Việt Nam sẽ sáp nhập vào họ từ năm 2020.
                    (3) Năm 1999, họ lấn chiếm 789 cây số vuông dọc biên giới Việt Nam.
                    (4) Năm 2000, họ lại chiếm được 11.362 cây số vuông trong Vịnh Bắc Việt.
                    (5) Năm 2007, họ đạt được vùng Cao Nguyên Miền Trung dưới dạng khai thác bô-xít xit.
                    (6) Năm 2009, đạt được biên bản lần hai, tái xác nhận Việt Nam sẽ trở về với họ từ năm 2020.
                    (7) Năm 2013, ngang qua lãnh đạo CSVN, họ đã ngăn cấm Các Anh và mọi người không được đến nghĩa trang thắp nhang tưởng nhớ đồng đội của Các Anh đã nằm xuống trong trận chiến chiến đầu năm 1979, khi quân Trung Cộng ồ ạt tràn sang biên giới đã bắn giết hằng chục ngàn lính của quân đội nhân dân và nhân dân Việt Nam!
                    (8) Trong 10 năm gần đây, cũng ngang qua lãnh đạo Các Anh, hầu hết những người yêu nước xuống đường biểu tình chống đối họ (Trung Cộng), đều bị lãnh đạo Các Anh bắt vào tù.

                    Vậy mà, lãnh đạo Trung Cộng luôn miệng nói đến “16 chữ vàng và 4 tốt” trong bang giao với cộng sản Việt Nam. Trong thực tế, Trung Cộng “nói một đằng làm một nẻo”.

                    Tóm tắt. Nói một đằng làm một nẻo là dối trá. Đảng dối trá, nhà nước dối trá, giáo dục dối trá, truyền thông dối trá, dẫn đến một xã hội dối trá, là nét đậm trong bản chất của cộng sản. Vậy, lòng tin chiến lược mà ông Thủ Tướng CSVN nói trong “Đối Thoại Sangri-La” tại Singapore ngày 31/5/2013 vừa qua, có thuyết phục được người nghe không? Với tôi, ông ta nói chỉ để nhận lại tiếng vỗ tay của cử tọa theo cung cách lịch sự trong bang giao quốc tế. Tôi cũng không loại trừ giả thuyết Thủ Tướng Các Anh đã được phép của lãnh đạo Trung Cộng “xì hơi chút chút”, cho quốc tế cũng như người dân trong nước tưởng như lãnh đạo Các Anh chống Trung Cộng. Để rồi sau đó, ông Chủ Tịch Trương Tấn Sang của Các Anh phải sang Bắc Kinh ký một loạt văn kiện loại “đầu hàng từ từ”. Ngắn gọn, lòng tin chiến lược mà cộng sản Việt Nam cũng như cộng sản Trung Hoa nói đến, là không có sức thuyết phục người tự do. Nói thẳng thừng, là không thể nào tin.

                    Kết luận.

                    Là Người Lính trong quân đội nhân dân Việt Nam, tôi nghĩ, có Anh 5 năm, 15 năm, thậm chí 20 năm hay 25 năm cầm súng, có bao giờ Các Anh suy ngẫm điều gì về quảng đời quân ngũ với súng đạn, có Anh đã thương tật tàn phế, có bạn đã gục ngã trên chiến trường? Và Các Anh đang còn súng đạn trong tay, có bao giờ Các Anh suy nghĩ “Tại sao mọi người trong xã hội phải sống với nhau bằng dối trá không?” Tôi phải một chút dài dòng để giúp Các Anh tự giải đáp. Bắt đầu Cương Lĩnh của cộng sản quốc tế do Liên Xô lãnh đạo mà đảng CSVN là một đảng thành viên, c ũng gọi là chi bộ. Tôi trích 2 điều sau đây: Điều 12, "tất cả các đảng thuộc Đệ Tam Quốc Tế phải được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ". Điều 21, “đảng hội viên nào phủ nhận các điều kiện và Cương Lĩnh của Đệ Tam Quốc Tế, sẽ bị loại khỏi Đệ Tam Quốc Tế”. Đảng cộng sản Việt Nam là một Chi Bộ của Đệ Tam Quốc Tế, phải thi hành lệnh của tổ chức này.

                    Tập trung dân chủ, đồng nghĩa với độc tài, mà độc tài thì đâu có dân tộc nào lại chấp nhận. Tôi thấy cần giải thích nhóm chữ mà Các Anh vừa đọc: “Các Anh sinh ra, lớn lên, học hành, và trở thành Người Lính trong quân đội, tất cả những gì Các Anh học trong trường văn hoá, trường quân sự, lại thường học tập chính trị trong các đơn vị, cộng với những chính sách về các lãnh vực sinh hoạt hằng ngày trong xã hội, mà hơn hết là toàn bộ các phương tiện trong hệ thống truyền thông cùng một tiếng nói, trở thành nếp sống rất bình thường đối với người dân nói chung, đối với Các Anh nói riêng. Chính vì vậy mà có thể Các Anh nghĩ rằng “đời sống bây giờ đã tốt hơn đời sống thời 1954-1986 rồi, đâu cần phải đòi hỏi gì khác”. Nếu Các Anh nghĩ như vậy, hãy đọc lại phần nhận định của cố Trung Tướng Trần Độ 58 tuổi đảng, đã một thời thay mặt Đảng lãnh đạo văn nghệ. Quan điểm của ông lúc ấy như sau: “Văn hóa mà không có tự do là văn hóa chết. Văn hóa mà chỉ có văn hóa tuyên truyền cũng là văn hóa chết. Càng tăng cường lãnh đạo bao nhiêu, càng bóp chết văn hóa bấy nhiêu, càng hiếm có những giá trị văn hóa và những nhà văn hóa cao đẹp". Cũng từ đó mà ông bất mãn vì lãnh đạo không chấp nhận quan điểm của ông, và ông bị khai trừ khỏi đảng từ ngày 4/1/1999. Trung Tướng Trần Độ của Các Anh, là một trong những đảng viên thức tỉnh, nhận ra độc tài là một chế độ dối trá, mà dối trá thì đưa dân tộc vào nền văn hoá chết, văn hoá chết thì còn gì để gọi là con người có văn hoá trong thế giới văn minh lịch sự.
                    Sau khi Các Anh nghiền ngẩm đoạn trên, tôi nghĩ là trong một mức độ nào đó, Các Anh hiểu được tại sao tôi viết loạt thư này gởi đến Các Anh. Thật sự là tôi muốn giúp Các Anh có được nét nhìn của người tự do như chúng tôi, để Các Anh nhận ra con đường cộng sản mà Các Anh đã và đang đi là tự mình nhốt mình vào nhà tù lớn do Bộ Chính Trị lãnh đạo bằng bản chất dối trá, và cai trị dối trá. Từ đó, Các Anh hãy suy nghĩ mà chọn cho mình một hướng đi, cùng 90 triệu đồng bào hòa nhập vào Cộng Đồng thế giới tự do, để được ngẫng cao đầu giữa thế giới văn minh, được hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước đã lừng danh thế giới.
                    Tôi vững tin là bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi- sẽ hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào để làm nên lịch sử.

                    Hãy nhớ, “Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước. Và Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng. (trích trên internet).

                    Texas, tháng 7 năm 2013
                    Last edited by tieuchuy; 07-13-2013, 01:27 AM.

                    Comment


                    • #25
                      Thư số 22 gởi Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam.

                      Thư số 22 gởi
                      Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam.
                      *****

                      Phạm Bá Hoa


                      Tôi chào đời năm 1930, vào quân đội Việt Nam Cộng Hòa năm 1954, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo cộng sản Việt Nam với lòng thù hận đã đày đọa chúng tôi trong hơn 200 trại tập trung mà họ gọi là trại cải tạo, hằng trăm Bạn tôi đến 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy tên Quốc Gia và Quân Lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn trong quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam cho đến khi quê hương tôi có một chế độ dân chủ tự do thật sự.
                      Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Xin gọi Người Lính Quân Đội Nhân Dân ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày. Chữ “Các Anh” viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc với Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào cầm quyền cũng chỉ một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.


                      Nội dung thư này, tôi hy vọng là Các Anh sẽ hiểu rõ hơn là những gì Các Anh đọc trên báo chí cũng như nghe truyền thanh và xem truyền hình xã hội chủ nghĩa, điều mà ông Gorbachev, cựu Tổng Bí Thư sau cùng của Liên Bang Sô Viết đã nói “cộng sản chỉ có tuyên truyền và dối trá”, về nội dung chuyến công du của ông Trương Tấn Sang, Chủ Tịch nước Việt Nam sang Trung Cộng hồi tháng 6/2013.

                      Thứ nhất. Trước ngày ông Sang rời Việt Nam.

                      Ngày 1/6/2013. Tàu cá của ngư dân Việt Nam trong lãnh hải của mình đã bị tàu cá Trung Cộng đâm chìm và ngư dân mất xác!
                      Ngày 2/6/2013. Công An và côn đồ thẳng tay đàn áp, hành hung tàn bạo người dân bày tỏ lòng yêu nước của mình trước hành động xâm lăng của Trung Cộng.
                      Ngày 17/6/2013. Theo tác giả Thiên Ngọc trong blog DanLamBao, lúc 22 giờ đêm, "tàu lạ" lại đâm vào tàu cá của ngư dân Bình Định, tàu thì bể vụn và 8 ngư dân chơi vơi trên biển. Rất may là các ngư dân được các tàu cá cùng địa phương nỗ lực tìm kiếm và cứu sống, nhờ tin tức truyền đi nhanh chóng trong giới ngư dân.
                      Hình ảnh hai sự kiện Trung Cộng đã đâm chìm tàu cá Việt Nam, trong khi Việt Nam có phi cơ tuần duyên, có lực lượng Hải Quân với đoàn tàu tuần duyên, có hỏa tiển phòng vệ duyên hải, nhưng tàu Trung Cộng tự do tung hoành Biển Đông trong vùng biển Việt Nam như “ao nhà” của họ. Các Anh có biết tại sao không? Tại vì các loại vũ khí nói trên chỉ để phô trương với đồng bào, cũng có ý nói với ngư dân rằng: “Cứ yên tâm ra khơi đánh cá, với “Dân Quân Biển” tự bảo vệ được mà, chỉ khi nào sự việc đến mức “đại cục” thì nhà nước lo. Dĩ nhiên là lãnh đạo Các Anh thừa biết các vũ khí đó làm sao dám đụng đến “tàu lạ”, nhưng vì 16 người trong Bộ Chính Trị đang ôm chặt “16 chữ vàng với 4 tốt” để ngồi yên trên những cái ghế quyền lực, cho nên Trung Cộng có hành động gì đi nữa thì họ xem như không nghe không thấy không biết là xong, còn ngư dân tự lo lấy mọi việc. Cùng lúc với sự kiện tương phản, trên biển thì “tàu lạ” rượt đuổi ủi chìm tàu cá Việt Nam, trong khi trên đất liền thì lãnh đạo Các Anh sử dụng Công An với côn đồ, thẳng tay đàn áp gây thương tìch và bắt giam những người yêu nước bày tỏ thái độ chống đối Trung Cộng lấn chiếm biển đảo Việt Nam.
                      Tóm tắt. Trung Cộng có hành động gì với tàu cá Việt Nam là chuyện của ngư dân, còn quyền lực là chuyện của lãnh đạo Các Anh.

                      Ngày 5/6/2013. Tướng Nguyễn Chí Vịnh sang Bắc Kinh yêu cầu Trung Cộng "không sử dụng vũ lực và đe dọa sử dung vũ lực trên biển giữa Hải Quân hai nước". Tướng Thích Kiến Quốc trả lời: “Sẽ nghiên cứu”.
                      Câu trả lời đồng nghĩa với không trả lời gì hết, nhưng tôi nghĩ là ông Thứ Trưởng Quốc Phòng Các Anh rất bằng lòng, vì vừa ra cái điều thương xót ngư dân Việt Nam, và vừa được lãnh đạo Trung Cộng trả lời một câu không đụng chạm đến “đại cục”, được hiểu là “cục lớn” do lãnh đạo Trung Cộng dành cho lãnh đạo Việt Cộng trong bang giao giữa hai nước cộng sản mà thực tế là “đàn Anh với đàn Em”.
                      Ngày 13/6/2013. Bộ Ngoại Giao Việt Nam ra thông báo cho biết, Chủ Tịch Trương Tấn Sang sẽ công du Trung Quốc từ 19 đến 21/6/2013, theo “lời mời” (hay gọi) của Chủ Tịch Tập Cận Bình. Cùng lúc, theo người phát ngôn bộ Ngoại Giao Việt Nam Lương Thanh Nghị trả lời hãng tin Hoa Kỳ Blomberg, thì chuyến công du của ông Chủ Tịch Trương Tấn Sang có mục tiêu “tăng cường lòng tin chính trị giữa hai bên, vì hòa bình, ổn định, và phát triển trong khu vực”.
                      Ngày 14/6/2013. Về phía Trung Cộng, bà Hoa Xuân Oánh, người phát ngôn của Bộ Ngoại Giao cho biết: “Bắc Kinh hy vọng chuyến thăm của Chủ Tịch nước Việt Nam sẽ góp phần thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Trung - Việt, tăng cường sự tin cậy lẫn nhau”.
                      Thật sự có phải là tăng cường “lòng tin chính trị và tin cậy lẫn nhau” hay không, bây giờ tôi với Các Anh lần theo những sự kiện liên quan đến ông Chủ Tịch nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa Các Anh sang Trung Cộng, để tìm hiểu sự thật.

                      Thứ nhì. Những ngày ông Sang tại Trung Cộng.

                      Ngày 18/6/2013.
                      Trước khi rời Việt Nam, Chủ Tịch Trương Tấn Sang trả lời báo chí Trung Cộng, có đoạn: "Đảng với Nhà Nước và Nhân Dân Việt Nam trước sau như một, hết sức coi trọng việc phát triển quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện với Trung Quốc”. Ông nhấn mạnh: "Hơn bao giờ hết, cả hai nước đều cần môi trường quốc tế và khu vực hòa bình, ổn định để tập trung phát triển".
                      Không biết ông Chủ Tịch của Các Anh tuyên bố “trước sau như một”, có phải là ông ấy muốn nói đến trước sau như một là lãnh đạo cộng sản Việt Nam vẫn xem 16 chữ vàng và 4 tốt là nền tảng trong bang giao giữa hai nước cộng sản hay không? Cho dù phải, hay không phải, rõ ràng là Trung Cộng luôn đứng ở vị trí cao trong khi Việt Nam ở vị trí thấp. Hãy xem tiếp những hoạt động của ông Chủ Tịch Các Anh ra sao.

                      Ngày 19/6/2013. Khi đến Bắc Kinh, ông Trương Tấn Sang được ông Tập Cận Bình đón tiếp nồng hậu. Nhưng tại địa điểm đoàn quân dàn chào, ông Tập Cận Bình chỉ hơi cúi đầu khoảng 10 độ, trong khi ông Trương Tấn Sang của Các Anh cúi đầu khoảng 50 độ. Trời đất ơi! Ông Chủ Tịch của Các Anh có quy lụy lãnh đạo Trung Cộng cũng nên kín đáo trong văn phòng, hoặc có quá lắm thì trong phòng họp cũng được, nhưng đứng giữa trời mà quy lụy như vậy là làm nhục cả dân tộc Việt Nam chớ có phải chỉ đảng cộng sản của ông ta nhục đâu!


                      Cũng ngay trong ngày 19/6/2013, ông Trương Tấn Sang cùng ông Tập Cận Bình chứng kiến lễ ký 10 văn kiện hợp tác giữa hai nước. Xin trích dẫn vài điểm chính:

                      Một. Theo Tập Đoàn Dầu Khí Việt Nam thì thỏa thuận phù hợp với hiệp định song phương về phân định vịnh Bắc Bộ, và Hiệp định này mới gia hạn lần thứ tư, kéo dài đến năm 2016.

                      Hai. Bộ Nông Nghiệp hai nước, sẽ thiết lập đường dây nóng để giải quyết các vụ va chạm liên quan đến ngư dân trên biển.

                      Ba. Giữa hai Bộ Quốc Phòng, sẽ xây dựng trung tâm văn hóa tại hai nước.

                      Bốn. Chương trình hành động giữa hai chính phủ về triển khai quan hệ đối tác và hợp tác chiến lược toàn diện.

                      Chỉ có vậy là hệ thống truyền thông Việt Nam ca ngợi ý nghĩa chuyến đi của ông Sang, để khẳng định “chính sách nhất quán của Đảng với Nhà Nước Việt Nam trong bang giao giữa hai đảng và hai quốc gia, đưa hai nước phát triển thực chất theo khuôn khổ đối tác và hợp tác chiến lược toàn diện. Cán bộ cao cấp hai bên đều đồng loạt trả lời phỏng vấn về chuyến đi này trên hệ thống truyền thông cộng sản, cho thấy hai bên không hề mâu thuẫn trên hồ sơ biển đảo”.

                      Với nhóm chữ “chính sách nhất quán” của truyền thông theo sau nhóm chữ “trước sau như một” của ông Sang, phải chăng để chỉ sự khiếp nhược của Việt Nam đối với Trung Cộng như từ trước đến nay sẽ vẫn tiếp tục? Với nhóm chữ “không hề mâu thuẫn” của truyền thông cộng sản Việt Nam, được hiểu là lãnh đạo Các Anh không bao giờ làm trái ý của lãnh đạo Trung Cộng, đến mức không dám dùng chữ tàu của “trung quốc” ủi chìm tàu cá Việt Nam, mà chỉ dám dùng chữ “tàu lạ” để nói đến sự kiện đó. Ngoan ngoãn đến như vậy thì làm gì có mâu thuẫn.

                      Ngày 20/6/2013. Sau cuộc hội đàm, hai phái đoàn cộng sản đã đạt được “thỏa thuận nguyên tắc căn bản để giải quyết vấn đề biên giới và trên biển, như sau:

                      Một. Lấy đại cục quan hệ hai nước làm trọng, xuất phát từ tầm cao chiến lược và toàn cục, dưới sự chỉ đạo của phương châm 16 chữ vàng “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần 4 tốt “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” .Kiên trì thông qua hiệp thương hữu nghị, xử lý và giải quyết thỏa đáng vấn đề trên biển, làm cho Biển Đông trở thành vùng biển hòa bình, hữu nghị, hợp tác, đóng góp vào việc phát triển quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Hoa, góp phần duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực.

                      Hai. Trên tinh thần tôn trọng đầy đủ chứng cứ pháp lý và xem xét các yếu tố liên quan khác như lịch sử…, đồng thời chiếu cố đến quan ngại hợp lý của nhau, với thái độ xây dựng, cố gắng mở rộng nhận thức chung, thu hẹp bất đồng, không ngừng thúc đẩy tiến trình đàm phán. Căn cứ chế độ pháp lý và nguyên tắc được xác định bởi luật pháp quốc tế trong đó có Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982, nỗ lực tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được cho các vấn đề tranh chấp trên biển.

                      Ba. Trong tiến trình đàm phán vấn đề trên biển, hai bên nghiêm chỉnh tuân thủ thỏa thuận và nhận thức chung mà lãnh đạo cấp cao hai nước đã đạt được, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc và tinh thần của Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC). Đối với tranh chấp trên biển giữa Việt Nam-Trung Hoa, hai bên giải quyết thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị. Nếu tranh chấp liên quan đến các nước khác, thì sẽ hiệp thương với các bên tranh chấp khác.

                      Bốn. Trong tiến trình tìm kiếm giải pháp căn bản và lâu dài cho vấn đề trên biển, trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau, đối xử bình đẳng, cùng có lợi, tích cực bàn bạc thảo luận về những giải pháp mang tính quá độ, tạm thời mà không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của hai bên, bao gồm việc tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển theo những nguyên tắc đã nêu tại điều 2 của thỏa thuận này.

                      Năm. Giải quyết các vấn đề trên biển theo tinh thần tuần tự tiệm tiến, dễ trước khó sau. Vững bước thúc đẩy đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, đồng thời tích cực bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này. Tích cực thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực ít nhạy cảm như bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, tìm kiếm, cứu nạn trên biển, phòng chống, giảm thiểu thiệt hại do thiên tai. Nỗ lực tăng cường tin cậy lẫn nhau để tạo điều kiện cho việc giải quyết các vấn đề khó khăn hơn.

                      Sáu. Hai bên tiến hành cuộc gặp định kỳ Trưởng đoàn đàm phán biên giới cấp Chính phủ một năm hai lần, luân phiên tổ chức, khi cần thiết có thể tiến hành các cuộc gặp bất thường. Hai bên đồng ý thiết lập đường dây nóng trong khuôn khổ đoàn đại biểu cấp Chính phủ để kịp thời trao đổi và xử lý thỏa đáng vấn đề trên biển.


                      Tôi nghĩ, Các Anh không thể hiểu khác với những gì mà các phương tiện truyền thông của đảng cộng sản Việt Nam ra rả hằng ngày, trong những ngày ông Chủ Tịch Sang đang công du “nước lạ”, nhưng tôi căn cứ vào những sự kiện đã xảy ra để phân tách những chữ tôi tô đậm trong 6 nguyên tắc căn bản mà lãnh đạo Trung Cộng với lãnh đạo Việt Cộng (= Việt Nam cộng sản) thỏa thuận.

                      “Lấy đại cục quan hệ hai nước làm trọng…. với phương châm 16 chữ vàng và 4 tốt… làm cho Biển Đông trở thành vùng biển hòa bình…”. Được hiểu rằng, cho dẫu Trung Cộng vẫn cứ tung hoành trên Biển Đông như ao nhà của họ, thì Việt Cộng cũng không được ồn ào phản đối mà phải vì “đại cục” và hai nhóm phương châm mà giữ cho Biển Đông trong tình trạng hòa bình. Ngay cả sự kiện trọng đại là ngày 7/5/2009, Trung Cộng tự công bố “đường lưỡi bò 9 đoạn” chiếm khoảng 80% Biển Đông là của họ, rôi từ đó họ ngang nhiên hoạt động bất chấp chỉ trích từ quốc tế, họ cũng xem đó là “tiểu cục” (hay là cục nhỏ). Vậy, Các Anh có nghĩ rằng, “theo thỏa thuận giữa lãnh đạo hai nước cộng sản, chỉ khi nào mất cả nước Việt Nam mới gọi là “đại cục” chăng?” Và lúc ấy, Các Anh sẽ là thứ công dân hạng hai hạng ba của Trung Cộng. .Các Anh có cam tâm trở thành người Tàu như vậy không? Hãy dành chút thì giờ mà suy nghĩ nhé!

                      “..... xem xét các yếu tố ….lịch sử…, với thái độ xây dựng, cố gắng mở rộng nhận thức chung….”. Được hiểu rằng, khi Trung Cộng căn cứ vào “đường lưỡi bò” mà Trung Cộng tự cho là họ có chủ quyền không thể tranh cãi và họ tung hoành trên Biển Đông, thì Việt Nam phải cố gắng có nhận thức chung với Trung Cộng. Nghĩa là giải quyết hồ sơ Biển Đông theo ý của Trung Cộng mới gọi là có nhận thức chung.
                      “……hai bên nghiêm chỉnh tuân thủ thỏa thuận và nhận thức chung….hiệp thương hữu nghị”. Được hiểu rằng, từ nay về sau những sự kiện xảy ra cho dẫu là do Trung Cộng gây ra, hai bên vẫn giải quyết như đã thỏa thuận từ nhận thức chung.

                      “…. Giải quyết các vấn đề . dễ trước khó sau… Tích cực thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực ít nhạy cảm…” Được hiểu là, nếu như Trung Cộng cùng lúc lấn chiếm Trường Sa với rượt đuổi ủi chìm tàu cá của ngư dân Việt Nam, thì giải quyết vụ tàu cá trước, còn vụ lấn chiếm Trường Sa thì từ từ giải quyết theo “đại cục, hòa bình hữu nghị”. Cách giải quyết này đã xảy ra hồi năm 1988, cứ mỗi lần quân Trung Cộng lấn chiếm 1 đảo trong quần đảo Trường Sa, thì Trung Cộng với Việt Cộng đồng ý giải quyết trong hòa bình hữu nghị trên căn bản lấy “đại cục” làm trọng, đề rồi lần lượt 8 đảo vào tay Trung Cộng. Lấy “đại cục với hòa bình hữu nghị” giải quyết những vấn đề trong bang giao giữa hai nước là như vậy đó. Cách này cũng tương tự như ông Trương Tấn Sang đã tuyên bố trước khi rời Việt Nam sang Bắc Kinh, là Việt Nam vẫn “trước sau như một” trong bang giao với Trung Cộng, được hiểu là hôm qua như thế nào thì hôm nay và ngày mai, Việt Nam cũng như vậy.

                      Và nguyên tắc thứ 6 là “…. Hai bên đồng ý thiết lập đường dây nóng …” Được hiểu là, khi có “đường dây nóng” thì những sự kiện xảy ra trên biển giữa hai nước, sẽ giải quyết nhanh chóng. Nhưng thực tế trong 5 năm qua, hằng trăm vụ xảy ra trên vùng biển Việt Nam do chính Trung Cộng gây ra, và tất cả thiệt hại đều ở phía Việt Nam, nhất là ngư dân. Bây giờ Trung Cộng nói đến “đường dây nóng” để giải quyết những vấn đề trên biển, có vẻ như họ ra cái điều tử tế với Việt Nam hay sao ấy? Nhưng đã là cộng sản, làm quái gì có người cộng sản tử tế, chỉ cần sự công bằng cũng không có thì làm sao nói đến hành động tử tế cho xã hội, tử tế trong bang giao quốc tế, vì bản chất của cộng sản là dối trá mà. Thôi thì hãy ráng chờ xem những vụ tàu Trung Cộng rượt đuổi tàu cá Việt Nam sẽ giải quyết ra sao với đường dây nóng mà ông Sang với ông Bình thỏa thuận.

                      Ngày 21/6/2013. Kết thúc chuyến công du, bản Tuyên Bố Chung do ông Trương Tấn Sang với ông Tập Cận Bình cùng ký ngày 21/6/2013. Mở đầu vẫn là 16 chữ vàng “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”, và tinh thần 4 tốt “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”. Đoạn này cũng là đoạn mở đầu ở nguyên tắc số 1 trong 6 nguyên tắc mà ông Sang thỏa thuận ngay sau khi ông đến Bắc Kinh. Chỉ trong một chuyến đi mà có đến 2 bản văn ghi đầy đủ 16 chữ vàng và 4 tốt, phải chăng đó là “mệnh lệnh” của lãnh đạo Trung Cộng buộc lãnh đạo cộng sản Việt Nam phải thực hiện?

                      Ông Bùi Tín, trong bài viết ngày 1/7/2013, nhận định “Chưa bao giờ có sự đầu hàng nhanh chóng và nhục nhã đến như vậy”. Tác giả viết tiếp: “Mọi người Việt Nam yêu nước, không thể không bàng hoàng và phẫn nộ khi đọc kỹ văn kiện nói trên, không thể không nhận định đây là một văn kiện tuyên bố đầu hàng bọn bành trướng và xâm lược phương Bắc. Chắn chắn cả Bộ Chính Trị 16 người, đã được thông báo và đồng tình với bản Tuyên Bố Chung thảm hại này”. Tác giả nhấn mạnh: ”Đọc thật kỹ bản Tuyên Bố Chung, có thể dễ dàng nhận ra nó được phía Trung Hoa khởi thảo, và phía Việt Nam hoàn toàn không được đóng góp hay thay đổi gì hết. … Hoàn toàn phản ảnh tham vọng bành trướng và xâm lược của đế quốc cộng sản Đại Hán Trung Hoa đối với đất nước Việt Nam, … biến nhà nước Việt Nam cộng sản thành một chư hầu, biến Việt Nam cộng sản thành một thuộc địa kiểu mới của họ, với sự tiếp tay của nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam bất tài, tham nhũng, và thoái hóa đến cùng cực”.

                      Ông Bùi Tín lần lượt đi sâu vào bản văn đó. Xin tóm tắt: “Bản Tuyên Bố Chung có 8 điểm, riêng điểm thứ 3 có đến 13 mục nói đến quan hệ hợp tác chiến lược toàn diện song phương giữa hai đảng, hai ban đối ngoại, hai ban tuyên huấn, hai bộ ngoại giao, hai quân đội, và giữa hai bộ quốc phòng, về công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội, trong đào tạo sĩ quan, trong tuần tra chung ở vùng biên phòng đất liền, về thực thi pháp luật, an ninh, về trật tự an toàn xã hội, về an ninh biên giới, và an ninh trên biển…”.

                      Các Anh có thấy 2 chữ “song phương giữa hai đảng” không? Nó được hiểu là, hồ sơ Biển Đông sẽ đóng khung giữa Trung Cộng với Việt Cộng. Đó là sự thỏa thuận đưa Việt Nam tự mình cô lập với thế giới bên ngoài trên hồ sơ này. Vậy là Việt Nam “sẽ chết” bởi Trung Cộng trong tầm mắt! Chỉ vì nhóm lãnh đạo cộng sản độc tài mà dân tộc Việt Nam từ trong lịch sử xa xưa đến nay, chưa bao giờ phẫn uất trong đau khổ đến như vậy! Đau khổ, phẫn uất đến mức chỉ đứng nhìn mà “chờ chết”, chớ không được phép yêu nước bằng cách chống lại Trung Cộng dù chỉ mít tinh biểu tình, hoặc phơi trải nỗi đau trên trang blog góp phần tranh đấu giành quyền sống cho đồng bào!
                      “…. Bản Tuyên Bố còn nhấn mạnh đến mối quan hệ hợp tác chặt chẽ giữa 7 tỉnh biên giới phía bắc Việt Nam gồm: Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh, với 3 tỉnh tự trị của Trung Cộng là Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, và đảo Hải Nam. Cùng phát huy vai trò của cơ chế hợp tác liên quan giữa địa phương hai nước; tập trung thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại, cơ sở hạ tầng giao thông, khoa học, giáo dục, văn hóa, y tế… thúc đẩy các tỉnh cũng như khu tự trị biên giới hai nước cùng phát triển...”

                      Liệu, thỏa thuận này có phải trong mưu đồ của Trung Cộng chia cắt vùng này thành những khu vực nhỏ bằng hệ thống giao thông để lấn chiếm dọc biên giới Việt Nam từ những lãnh vực sinh hoạt thường ngày, đến mức khi nhận ra thì quá trễ chăng?
                      Tương tự nhận định của tác giả Bùi Tín, cựu Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, một thời là đại sứ Việt Nam tại Trung Cộng, nhận định ngắn nhưng đủ nghĩa: “Hoàn toàn lợi cho Trung quốc”.
                      Trong khi nhận định của Khối 8406 như một lời than cho số phận dân tộc Việt Nam: “29 chữ nhất trí, và 7 chữ toàn diện” trong một bản Tuyên Bố Chung trên mấy trang giấy thì không thể khá được!”
                      Với giáo sư Ngô Vĩnh Long khi trả lời phỏng vấn của phóng viên Trọng Nghĩa đài Á Châu Tự Do, thì: “Nội dung bản Tuyên Bố Chung là bước lùi chiến thuật của Việt Nam trước sức ép của Trung Quốc, vốn không muốn đề cập đến các vấn đề đa phương trong một văn kiện đúc kết một chuyến thăm mang tính chất song phương”.
                      Các Anh hãy nhớ lại, khi mà những nhà lãnh đạo Các Anh từ Bộ Chính Trị, Chánh Phủ, các Bộ, các Tỉnh/Thành, xuống đến Quận/Huyện, Phường/Xã, khi họ nói hay đọc diễn văn đều dài lòng thòng mà tôi nghĩ là chính họ cũng không biết họ đã nói gì nữa, vì quanh đi quẫn lại vẫn là những nhóm chữ: Các ý tưởng tốt đẹp, các tổ chức hiệu quả, các chỉ chị đúng đắn, tôn trọng hòa bình hữu nghị, tăng cường đối tác hợp tác ..v..v.., như trong bản Tuyên Bố Chung này, nhưng lại không có chữ nào nói đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cũng không nói đến những vụ tàu Trung Cộng rượt đuổi ủi chìm tàu cá ngư dân Việt Nam! Vậy, Các Anh có cảm nhận nỗi đau của người Việt Nam luôn bị Trung Cộng “đàn áp” từ suy nghĩ đến hành động, trong khi lãnh đạo đảng với nhà nước có quá lắm cũng chỉ một bản tin phản đối là phủi tay?

                      Thêm nữa, những sự kiện mà Trung Cộng lấn áp đảng cộng sản Việt Nam và lấn chiếm đất liền biển đảo Việt Nam từ sau chiến tranh biên giới đầu năm 1979 đến nay, lãnh đạo cộng sản Việt Nam không thể phủ nhận là họ không phụ thuộc lãnh đạo Trung Cộng trong bang giao giữa hai nước cộng sản, vì: “Năm 1988, lần lượt 8 đảo trong quần đảo Trường Sa bị Trung Cộng chiếm. Giữa năm 2011, tài liệu mà Wikileaks công bố, đã khẳng định tin tức dưới đây trong số 3.100 bức điện đánh đi từ cơ quan ngoại giao Hoa Kỳ tại Hà Nội và Sài Gòn gửi về chính phủ Hoa Kỳ. Trong đó có “biên bản” cuộc họp giữa Nguyễn Văn Linh Tổng Bí Thư đảng cộng sản và Đỗ Mười Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng, đại diện lãnh đạo cộng sản Việt Nam, với Tổng Bí Thư Giang Trạch Dân, và Thủ Tướng Lý Bằng, đại diện lãnh đạo cộng sản Trung Hoa, trong ngày 3 & 4/9/1990 tại Thành Đô của Trung Cộng, có đoạn: “… Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản, đảng cộng sản và nhà nước Việt Nam đề nghị phía Trung Hoa giải quyết các mối bất đồng giữa hai nước. Phía Việt Nam xin làm hết mình để vun đắp tình hữu nghị lâu đời vốn có giữa hai đảng và nhân dân hai nước do Chủ Tịch Mao Trạch Đông và Chủ Tịch Hồ Chí công xây đắp trong quá khứ, và Việt nam bảy tỏ mong muốn đồng ý sẵn sàng chấp nhận và đề nghị phía Trung Hoa để Việt Nam được hưởng quy chế “khu tự trị” trực thuộc chính quyền trung ương tại Bắc Kinh như Trung Hoa đã từng dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây…. Phía Trung Hoa đã đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên, cho thời hạn phía Việt Nam trong 30 năm (1990-2020) để đảng cộng sản và nhà nước Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Hoa”. Ngày 30/12/1999, 789 cây số vuông dọc theo biên giới do Việt Cộng giao cho Trung Cộng. Ngày 25/12/2000, 11.362 cây số vuông trên Vịnh Bắc Việt do Việt Cộng giao cho Trung Cộng. Tháng 11/2007, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng ký Quyết Định số 167/2007, về thăm dò khai thác quặng Bauxite trên Cao Nguyên Miền Trung trong thời gian từ năm 2007 đến năm 2015, xét đến năm 2025, và giao cho Tập Đoàn Than & Khoáng Sản quốc doanh Việt Nam thực hiện. Tập đoàn này dành một hợp đồng cho Công ty Chalieco của Trung Cộng khai thác. Ngày 3/4/2009, Thiếu Tướng Công An Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện Chiến Lược & Khoa Học Bộ Công An, nhận định: “Trung Hoa vào Tây Nguyên là họ đã có điều kiện khống chế cả ba nước Việt Nam, Lào, và Campuchia. Bởi vì, Trung Hoa đã thuê một vùng đất rộng lớn ở tỉnh Munbunkiri của Kampuchia, sát biên giới tỉnh Dak Nông với thời gian 99 năm. Và họ cũng đã làm chủ các dự án kinh tế lớn ở tỉnh A-tô-pơ, tỉnh cực Nam của Lào, giáp với Việt Nam và Campuchia (tại ngã ba Đông Dương). Đây là hậu họa khôn lường đối với an ninh quốc gia”. Ngày 31/8/2011, Giáo sư Vũ Cao Đàm nhận định: “Bằng chiêu bài“ hợp tác khai thác bô-xit”, đế quốc Trung Cộng đã đóng chốt ở một vùng vô cùng hiểm yếu của bán đảo Đông Dương, cộng với những hợp đồng thuê 300.000 mẫu tây đất rừng đầu nguồn với các “đồng chí” của họ tại các địa phương dọc biên giới, Trung Cộng đã tạo ra một thế quân sự vô cùng nguy hiểm có khả năng làm tê liệt khả năng phản công bảo vệ Tổ quốc của Việt Nam khi bị Trung Cộng tấn công từ bốn phía. Chúng ta không quên cộng thêm một bầy nhung nhúc với trên 1.300.000 người lao động Trung Cộng, gồm những tráng đinh chắc chắn đã giải ngũ sau khi thực hiện nghĩa vụ quân sự. Bọn chúng được các“ đồng chí” sắp xếp đều khắp đủ mọi miền đất nước Việt Nam đã tạo ra một đạo quân dự bị khổng lồ, cầm súng bắn được ngay và đang mai phục khắp đất nước này. Một nguy cơ đang rập rình chờ đợi và người dân Việt -những ai còn tỉnh táo- đành sống trong muôn nỗi phập phồng. Và ..v..v..”

                      Vớ nhận định của tôi, là từ khi có đảng cộng sản đến nay, dân tộc Việt Nam phải gánh chịu hậu quả chưa bao giờ có trong lịch sử do sai lầm của lãnh đạo cộng sản, từ “bác” Các Anh, lần lượt qua từng nhóm lãnh đạo, đến Bộ Chính Trị đương nhiệm hiện nay. Rồi đây, họ khó mà tránh được lịch sử ngàn đời sẽ nguyền rủa họ và những người trong dòng họ của họ, đã trực tiếp tạo nên một giai đoạn lịch sử đen tối nhất của dân tộc Việt Nam!.

                      Kết luận.

                      Là Người Lính trong quân đội nhân dân Việt Nam, tôi nghĩ, có Anh 5 năm, 15 năm, thậm chí 20 năm hay 25 năm cầm súng, có bao giờ Các Anh suy ngẫm điều gì về quảng đời quân ngũ với súng đạn, là tại sao có Anh đã thương tật tàn phế, có bạn đã gục ngã trên chiến trường? Và Các Anh đang còn súng đạn trong tay, đang nghĩ gì sau khi đọc xong những dòng chữ mà tôi vừa phơi trải bên trên?
                      Tôi thông cảm với Các Anh, những người sinh ra, lớn lên, học hành, và trở thành Người Lính trong quân đội, tất cả những gì Các Anh học ở trường văn hoá, trường quân sự, lại thường học tập chính trị tại các đơn vị, cộng với những chính sách về các lãnh vực sinh hoạt xã hội, mà hơn hết là toàn bộ các phương tiện trong hệ thống truyền thông chỉ là tiếng nói của lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam mà Các Anh theo dõi hằng ngày. Trôi dần theo thời gian, chính sách độc tài của cộng sản lan tỏa đến mọi ngóc ngách trong sinh hoạt đời thường của xã hội, rồi biến thành một nếp trong đời sống thường ngày đối với người dân nói chung, với Các Anh nói riêng từ lúc nào không ai biết. Vì vậy mà Các Anh khó nhận ra, thậm chí là không thể nhận ra những điều tồi tệ của lãnh đạo cộng sản, nhất là mức độ tồi tệ trong giáo dục học đường và giáo dục xã hội đã dẫn đến một xã hội băng hoại như hiện nay. Đây là nỗi đau lớn hơn bất cứ nỗi đau nào khác, vì thời gian khôi phục lại một xã hội nhân bản theo nếp sống văn hóa dân tộc, ít nhất phải hai thế hệ, hay là 50 năm sau!

                      Các Anh hãy đọc phần nhận định của cố Trung Tướng Trần Độ có 58 tuổi đảng, đã một thời thay mặt Đảng lãnh đạo văn nghệ. Quan điểm của ông trong nhật ký “Rồng Rắn” năm 2000, như sau: “Văn hóa mà không có tự do là văn hóa chết. Văn hóa mà chỉ có văn hóa tuyên truyền cũng là văn hóa chết. Càng tăng cường lãnh đạo bao nhiêu, càng bóp chết văn hóa bấy nhiêu, càng hiếm có những giá trị văn hóa và những nhà văn hóa cao đẹp". Cũng từ đó mà ông bất mãn vì lãnh đạo không chấp nhận quan điểm của ông, và ông bị khai trừ khỏi đảng từ ngày 4/1/1999. Trung Tướng Trần Độ của Các Anh, là một trong những đảng viên thức tỉnh, nhận ra độc tài là một chế độ dối trá, mà dối trá thì đưa dân tộc vào nền văn hoá chết, văn hoá chết thì còn gì để gọi là con người có văn hoá trong thế giới văn minh lịch sự!
                      Sau khi Các Anh nghiền ngẩm đoạn trên, tôi nghĩ là trong một mức độ nào đó, Các Anh hiểu được tại sao tôi viết loạt thư này gởi đến Các Anh. Thật sự là tôi muốn giúp Các Anh có được nét nhìn của người tự do như chúng tôi, để Các Anh nhận ra con đường cộng sản mà Các Anh đã và đang đi là tự mình nhốt mình trong nhà tù lớn do Bộ Chính Trị lãnh đạo với bản chất dối trá, và cai trị dối trá. Từ đó, Các Anh hãy suy nghĩ mà chọn cho mình một hướng đi, cùng 90 triệu đồng bào hòa nhập vào Cộng Đồng thế giới tự do, để được ngẫng cao đầu giữa thế giới văn minh, được hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước đã lừng danh thế giới.
                      Tôi vững tin là bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi- sẽ hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào để làm nên lịch sử.
                      Hãy nhớ, “Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước. Và Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng. (trích trên internet).

                      Texas, tháng 8 năm 2013

                      Comment


                      • #26
                        Thư số 22a gởi Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam

                        Thư số 22a gởi
                        Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam
                        ******

                        Phạm Bá Hoa

                        Tôi chào đời năm 1930, vào quân đội Việt Nam Cộng Hòa năm 1954, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo cộng sản Việt Nam với lòng thù hận đã đày đọa chúng tôi trong hơn 200 trại tập trung mà họ gọi là trại cải tạo, hằng trăm Bạn tôi đến 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy tên Quốc Gia và Quân Lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn trong quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam, cho đến khi quê hương tôi có một chế độ dân chủ tự do thật sự.
                        Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Xin gọi Người Lính Quân Đội Nhân Dân ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày. Chữ “Các Anh” viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc với Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào cầm quyền cũng chỉ một giai đoạn của lịch sử. Và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.


                        Nội dung thư này “xem như” Các Anh cùng tôi đang có mặt tại Hoa Kỳ trong những ngày ông Chủ Tịch nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa Các Anh tại đây, để theo dõi những hoạt động của ông Chủ Tịch Sang, đồng thời Các Anh cũng “thấy được” thái độ của Cộng Đồng chúng tôi tị nạn cộng sản đối với sự có mặt của ông Sang, người thay mặt nhóm lãnh đạo cộng sản độc tài, đã tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc “đến” xã hội băng hoại, hóa ra đó là xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là băng hoại về giáo dục. “Cũng nhờ” nền giáo dục băng hoại mà đại đa số lãnh đạo các cấp trên dưới ngang dọc đều có bằng cử nhân giả, thạc sĩ giả, tiến sĩ giả. Từ đó, Các Anh sẽ nhận ra kiến thức chính trị ngoại giao của ông Chủ Tịch Sang và ông Thứ Trưởng Ngoại Giao tệ đến mức nào.

                        Thứ nhất. Ông Chủ Tịch Trương Tấn Sang công du Hoa Kỳ.

                        Ông Trương Tấn Sang, Chủ Tịch nước Việt Nam công du Hoa Kỳ sau 2 tuần lễ chuẩn bị. Phái đoàn tháp tùng ông, gồm có: 3 Bộ Trưởng. 4 Thứ Trưởng. 4 viên chức của Quốc Hội, thành phố, tỉnh. Thư Ký của ông Sang + Công An + mật vụ + cận vệ. Còn có đại diện tôn giáo quốc doanh, gồm: 1 Linh mục, 1 Hòa thượng, và 2 Mục sư.

                        Ngày 24/7/2013. Ông Trương Tấn Sang đến phi trường quân Sự Andrew Air Force Base, ngoại ô thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Chỉ có ông David Shear, Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, trở về Mỹ để đón ông Chủ Tịch nước Việt Nam. Ngoài ông Đại sứ ra, không một viên chức nào đại diện Tổng Thống, cũng không vị Bộ Trưởng nào thay mặt chánh phù, thậm chí cũng không vị nào đại diện Bộ Ngoại Giao có mặt. Không một lằn thảm dưới chân ông Sang bước, không có đoàn quân để ông Sang duyệt, không một phát đạn đại bác chào mừng ông, không có lá cờ đỏ sao vàng để ông Sang chào, cũng không có phóng viên ngoại quốc nào chụp hình ông Sang đăng báo.. Cho đến lúc ấy, chưa có vị lãnh đạo quốc gia nào đến thăm Hoa Kỳ mà “được đón tiếp” như trường hợp ông Chủ Tịch nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, một chế độ không tôn trọng nhân quyến, không tôn trọng các Công Ước quốc tế mà họ đã ký, họ cũng không tôn trọng Hiến Pháp của chính họ, thậm chí họ cũng không tôn trong họ vì bản chất dối trá của đảng cộng sản đã thấm sâu trong dòng máu họ, và dối trá của họ đã loang đến mọi ngóc ngách xã hội đến mức mà mọi người phải sống với nhau bằng dối trá.


                        Cũng hôm ấy, ông John Kerry, Bộ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ mời ông Sang ăn trưa, và đây là bữa ăn duy nhất trên phương diện chánh phủ trong hai ngày ông có mặt nơi đây.

                        Phái đoàn tháp tùng ông Trương Tấn Sang ở trong khách sạn Mariott. Nhiều phóng viên theo thu hình và phỏng vấn Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản đang đông đảo trước khách sạn, nhưng ít người biết đến chuyện đang diễn ra bên trong khách sạn. Chuyện là một phụ nữ, một tay cầm chiếc nón lá, tay kia cho vào bên dưới nón lá lấy ra xấp giấy, nhanh tay trao cho người trong phái đoàn. Nội dung xấp giấy đó nói gì? Dĩ nhiên là nói đến tình trạng tồi tệ về nhân quyền tại Việt Nam, cộng với Quyết Định 72 mà Nguyễn Tấn Dũng của Các Anh vừa ban hành, càng làm tồi tệ thêm nữa. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến 11.000 lá thư của Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản từ nhiều nơi trên thế giới, gởi đến văn phòng Tổng Thống Hoa Kỳ, kiến nghị Tổng Thống quan tâm đến tình trạng vi phạm nhân quyền tại Việt Nam khi hội đàm với Chủ Tịch Trương Tấn Sang.


                        Ngày 25/7/2013. Khoảng 9 giờ 30 sáng, công viên LaFayette trước Tòa Bạch Ốc, Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản từ nhiều tiểu bang qui tụ về đây để “dàn chào” ông Chủ Tịch Trương Tấn Sang. Ngoài phóng viên của báo chí và các đài truyền hình Việt ngữ có mặt, còn có phóng viên đài phát thanh Á Châu Tự Do (RFA) và đài Tiếng Nói Hoa Kỳ (VOA). Cảnh Sát phụ trách an ninh tại đây ước lượng có khoảng 1.500 người có mặt, với một rừng quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ, chen lẫn với nhiều biểu ngữ phản đối Việt Nam vi phạm nhân quyền, yêu cầu trả tự do cho những người yêu nước chống Trung Cộng lấn chiếm Việt Nam mà bị bắt vào tù, phản đối chánh phủ tàn bạo với dân nhưng hèn hạ với Trung Cộng .. Nhiều biểu ngữ khác, phản đối Trung Cộng lấn chiếm biển đảo Việt Nam


                        Đoàn tùy tùng xuống xe đi bộ vào cổng sau, xe của ông Trương Tấn Sang vào cổng chánh, và đoàn biểu tình vừa phất cao quốc kỳ cùng với biểu ngữ, vừa hô to những khẩu hiệu: Trương Tấn Sang Go Home. Trương Tấn Sang cút về nước. Freedom for VietNam. Tự Do Cho Việt Nam. Democracy for Vietnam. Dân Chủ Cho Việt Nam. Human Rights for VietNam. Nhân Quyền Cho Việt Nam.... Tiếng hô đả đảo ông Trương Tấn Sang càng lúc càng lớn, vang rền công viên LaFayette. Tiếp theo là chương trình ca nhạc tranh đấu với nhạc sĩ Trúc Hồ, với đông đảo ca sĩ của Trung Tâm Asia, chen lẫn vào đó là phát biểu của Cộng Đồng các Tiểu Bang. Cùng lúc ấy, nhiều người phân phát những trang giấy, giải thích lý do cuộc biểu tình với rất nhiều khách du lịch và người Hoa Kỳ đứng xem. Khi hiểu được mục đích, nhiều người Hoa Kỳ đã nhập cuộc với Cộng Đồng tị nạn cộng sản chúng tôi, họ xin cầm tay những biểu ngữ ủng hộ nhân quyền, ủng hộ tự do cho Việt Nam, và kêu gọi nhà nước Việt Nam trả tự do cho Blogger Điếu Cày. Trong số đó có ba phụ nữ Hoa Kỳ, đã vul vẽ cầm biểu ngữ đòi nhân quyền và ủng hộ Blogger Điếu Cày. Họ nói lý tưởng của họ là bảo vệ nhân quyền, nên họ ủng hộ đoàn biểu tình. Khi được hỏi “tại sao họ hân hoan nhập đoàn biểu tình?” Họ lần lượt trả lời.
                        Cô Katy vừa nói vừa chỉ vào hình blogger Điếu Cày (bản dịch của VietTide): “Tôi đi qua đây, được một phụ nữ dễ thương nói cho tôi biết về ông Điếu Cày, và ông ấy đang tuyệt thực trong 30 ngày qua. Ông là một người viết blog cho Nhân Quyền, nên tôi phải bày tỏ ý kiến về điều gì đó, do đó tôi có mặt ở đây”.
                        Cô Amber: "Tôi cũng vậy. Tôi ở đây vì ông ấy đang tuyệt thực và tôi có mặt để ủng hộ ông ấy”.
                        Cô bé Kiana (con gái cô Katy): “Tôi cũng ở đây vì cùng một chuyện. Thật buồn là chuyện ấy xảy ra cho Nhân Quyền ở Việt Nam”.
                        Theo Blog Người Buôn Gió tức Bùi Thanh Hiếu, thì trước ngày ông Sang rời Việt Nam, ông ấy hỏi Bộ Ngoại Giao là “người Việt hải ngoại có khả năng biều tình mạnh không?” Thứ Trưởng Nguyễn Thanh Sơn báo cáo: "Còn ai chống cộng nữa mà đi biểu tình. Có quá lắm là vài chục tên ngo ngoe với cờ xí thôi". Không ngờ ông Trương Tấn Sang bị cả mấy ngàn ngưới đã đảo và mất mặt với Tổng Thống Obama. Cho nên khi về tới Hà Nội, ông Sang đã hỏi tội Bộ Ngoại Giao về việc báo cáo không đúng.

                        Buổi hội đàm diễn ra tại phòng bầu dục trong tòa bạch ốc, dự trù 45 phút nhưng thực tế là 75 phút. Trong khung cảnh của chế độ dân chủ tự do, ông Chủ Tịch Việt Nam bình tỉnh khi thảo luận với Tổng Thống Hoa Kỳ, hoàn toàn khác với khung cảnh khi ông Chủ Tịch Việt Nam của chế độ độc tài đàn em, gặp ông Chủ Tịch Tập Cận Bình chê độ độc tài đàn anh hồi tháng 6/2013.
                        Ông Trương Tấn Sang nói với Tổng thống Hoa Kỳ rằng “Việt Nam đã nỗ lực không ngừng để bảo vệ và cổ võ nhân quyền, nhờ vậy mà người dân được hưởng những thành quả tốt đẹp nhất của tiến trình cải cách hiện còn đang diễn tiến”.
                        Tôi nghĩ là dụng ý của ông Sang khi mang theo 4 vị đại diện tôn giáo quốc doanh, để giúp ông mạnh miệng “khoe” với lãnh đạo Hoa Kỳ, là nước Việt Nam do cộng sản lãnh đạo có nhân quyền, có tự do tôn giáo.


                        Khoảng 10 ngày sau ngày ông Sang “mạnh miệng” nói với Tổng Thống Obama về nhân quyền và tôn giáo. Ngày 6/8/2013. Quí vị lãnh đạo tôn giáo Cao Đài, Phật giáo, Phật giáo Hòa Hảo, Thiên Chúa, và Tin Lành tại Việt Nam, đồng ký tên Bản Tuyên Bố, phản đối Chủ Tịch Trương Tấn Sang trong chuyến công du Hoa Kỳ, nói với Tổng Thống Hoa Kỳ rằng: “Chánh phủ Việt Nam nỗ lực bảo đảm quyền tự do tôn giáo và tiếp tục cam kết ủng hộ các Công ước quốc tế về quyền con người.” Nội dung Bản Tuyên Bố khẳng định: “Các quyền tự do căn bản của con người vẫn thường xuyên bị chà đạp, số tù nhân lương tâm không ngừng gia tăng, quyền tự do thông tin của người dân không ngừng bị cản trở mà một bằng chứng cụ thể nhất là Nghị định 72 về quản lý internet mới ban hành”.
                        Mục sư Nguyễn Mạnh Hùng, Quản Nhiệm Hội Thánh Tin Lành Mennonite, một trong những vị ký tên trong Bản Tuyên Bố, nói với đài VOA Việt ngữ rằng: “Trong thời gian qua, nhà nước Việt Nam có nhiều vụ đàn áp tôn giáo, và sự đàn áp càng ngày càng gia tăng. Trong chuyến công du Mỹ vừa qua, Chủ Tịch nước Trương Tấn Sang nói Việt Nam có cải thiện nhân quyền, nhưng thực sự mà nói còn tồi tệ hơn nữa.... Những vị ký tên trong Bản Tuyên Bố, yêu cầu nhà nước Việt Nam chứng minh lời nói bằng hành động cụ thể nhất, bằng hành động phóng thích các tù nhân lương tâm và tù nhân tôn giáo, đồng thời hủy bỏ Nghị Định 72 ngăn cấm công dân không được chia sẻ tin tức trên các trang mạng xã hội”.
                        Nhận định của tôi. Nói một đằng làm một nẻo là dối trá. Đảng dối trá, nhà nước dối trá, giáo dục dối trá, truyền thông dối trá, dẫn đến một xã hội dối trá, là nét đậm trong bản chất của cộng sản. Tôi tin là ông Obama thừa hiểu bản chất đó, vì với 58.000 chiến sĩ Hoa Kỳ hy sinh trên chiến trường Việt Nam, đã cung ứng bài học kinh nghiệm quý báu về cộng sản cho Tổng Thống của họ.
                        Cuối buổi hội đàm, ông Chủ Tịch nước Việt Nam nói lời cám ơn Tổng Thống Obama: “Chúng tôi chân thành cảm ơn sự chăm sóc chu đáo của chính phủ Hoa Kỳ đối với người Mỹ gốc Việt trong suốt mấy mươi năm qua. Chúng tôi cũng thành thật cảm ơn Tổng Thống, nhân dân Mỹ đã giúp đỡ người Việt rất nhiều, hầu hết đa số những người Việt đã hết sức thành đạt, kể cả những hoạt động chính trị. Tôi mong muốn bà con người Việt đang sinh sống và làm việc tại Hoa Kỳ sẽ là một chiếc cầu vững chắc nối liền sự phát triển mạnh mẽ của 2 nước trong tương lai.”
                        Tôi nghĩ, khi ông Sang nhìn thấy rừng cờ vàng với hằng ngàn người đả đảo ông, còn một loạt biểu ngữ thì phản đối nhân quyền tồi tệ do ông lãnh đạo, ông bèn tự hỏi: “Phải chăng thằng Sơn là phe thằng đồng chí X nên nó chơi xỏ cho mình mất mặt với ông Obama. Về tới Hà Nội là mầy biết tay tao. Nhưng mà ngay bay giờ, mình phải nói gì với ông Chủ Nhà, chớ chẳng lẽ làm thinh càng thêm mất mặt ...”.
                        Các Anh có hình dung là ông Sang đang lo sợ đồng chí X của ổng có thêm vây cánh, nên ổng vội vàng nói câu cám ơn với ông Obama thật “lãng xẹt”. Lẽ ra tôi phải nói là trơ trẽn mới đúng, vì cái đảng cộng sản độc tài, dối trá, trấn áp cướp đoạt tài sản đất đai nhà cửa sau khi chiếm Việt Nam Cộng Hòa, là nguyên nhân mà gần hai triệu người Việt Nam chấp nhận rời khỏi quê hương, vượt lên sự chết để tìm sự sống tại các quốc gia dân chủ tự do với cái giá phải trả là gần 500 ngàn người đã mất xác trên biển! Bây giờ ông Sang ra cái điều như đang ôm những người sống sót trên biển, sống sót trong hơn 200 trại tập trung, được thế giới công nhận là Cộng Đồng tị nạn cộng sản và tiếp nhận hỗ trợ cho cuộc sống mới bắt đầu.
                        Từ đó, Cộng Đồng tị nạn cộng sản vươn lên nhanh chóng, đến mức mà lãnh đạo Các Anh phải mấy lần hạ giọng thay đổi cách gọi chúng tôi: “Ngay từ năm 1975, gọi chúng tôi là “bọn ngụy quân ngụy quyền, bọn phản quốc, bọn đĩ điếm lưu manh, bọn cặn bả rác rưởi xã hội”. Từ năm 1991, khi thấy Cộng Đồng chúng tôi vươn lên các phương diện, và gởi tiền về giúp thân nhân, họ hạ giọng gọi chúng tôi là “Việt kiều yêu nước”. Từ năm 2004, lãnh đạo Các Anh qua Nghị Quyết 36 lại hạ giọng thêm nữa để gọi chúng tôi “là bộ phận không tách rời, và là nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị giữa nước ta với các nước”. Năm 2007, ông Chủ Tịch Nguyễn Minh Triết khi thăm Hoa Kỳ, hạ giọng thấp thêm nữa để gọi chúng tôi là “khúc ruột ly hương ngàn dăm”. Chính vì vậy mà ông Sang muốn lấy lòng Cộng Đồng tị nạn cộng sản, nhưng lại nói một câu thật trơ trẽn. Đường đường là Chủ Tịch một nước mà ăn nói không ra gì trước mặt Tổng Thống Hoa Kỳ. Theo Các Anh thì đó là điều đáng tiếc, hay là điều sỉ nhục đồng bào trên quê hương?
                        Khi thuận tiện, tôi nhờ Các Anh chuyển lời tôi nhắn đến ông Sang giùm: “Chào ông Sang, chúng tôi không hận thù các ông đâu, nhưng không bao giờ quên những gì trong quá khứ và hiện tại mà các ông đã gây ra cho dân tộc. Các ông đã cắt xén tổ quốc dâng cho Trung Cộng, và đang chuẩn bị đưa dân tộc vào sự thống trị trực tiếp của Trung Cộng qua từng giai đoạn 20 năm: 2020, năm 2040, và hoàn tất vào năm 2060. Các ông đừng mong đợi gì ở mấy triệu người Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại, trừ phi các ông can đảm, đứng thẳng người, và làm nên lịch sử như ông Gorbatchev của Nga năm 1991. Tôi nói không hận thù các ông. Đúng vậy. Vì trong lòng cứ nuôi hận thù thì không bao giờ đầu óc thanh thản để có được những suy nghĩ, những ý tưởng vượt lên mọi khó khăn để biến đổi xã hội tốt hơn, mà chỉ quanh quẩn trong cái vòng thù hận và tìm cách trả thù, trả thù. Tôi xin ông vui lòng chuyển giúp lời nhắn này đến ông Nguyễn Thanh Sơn, Thứ Trưởng Ngoại Giao của ông . Xin cám ơn, và chúc ông “bình an trên đường về”.

                        Và đây, Các Anh xem bài tổng kết chuyến công du Hoa Kỳ của ông Chủ Tịch nước Việt Nam về phía truyền thông, tác giả Bùi Văn Phú cho biết:
                        “Chuyến đi Mỹ của Chủ Tịch Nước Trương Tấn Sang hôm 25/72013 là một chuyến đi vội vã. Truyền thông Hoa Kỳ không đưa tin hàng đầu vì không có gì đặc biệt trong phát triển bang giao, hai quốc gia cũng không có những hợp đồng thương mại được ký kết. Tờ báo tài chánh có đông độc giả nhất là Wall Street Journal đưa tin chưa đến 100 chữ trong cột tin vắn nơi trang A8. Những gì ông Sang đem về chỉ là lời hứa của Tổng thống Barack Obama sẽ tăng cường bang giao toàn diện giữa hai nước, đồng thời thúc đẩy thương thảo với hy vọng cuối năm sẽ ký Hiệp ước Đối Tác Thương Mại Xuyên Thái Bình Dương. Vỏn vẹn chỉ có thế. Khoảng cách lớn giữa hai lãnh đạo là tình trạng nhân quyền. Ông Obama nói Hoa Kỳ tin rằng, mọi người có quyền tự do phát biểu, tôn giáo và hội họp. Trong khi ông Sang cho biết, hai bên còn khác biệt.... Cuộc hội kiến giữa Tổng Thống Obama với Chủ Tịch Trương Tấn Sang, cũng không có tin trên trang nhất của báo New York Times. Tại miền tây, tờ Mercury News ở San Jose, nơi có đông người Việt sinh sống, cũng chỉ đưa tin nơi trang trong. Trong khi đó, tờ Los Angesles Times lại viết về những nỗ lực tranh đấu cho nhân quyền của người Mỹ gốc Việt. Riêng báo Washington Post ngày 25/7/2013, có trang quảng cáo về diễn tiến bang giao Việt-Mỹ do tòa đại sứ Việt Nam bỏ tiền ra đăng.

                        Tôi nghĩ là Các Anh sống trong xã hội chủ nghĩa từ khi chào đời, chỉ nhận biết báo chí truyền thanh truyền hình, nói chung là truyền thông của đảng, do đảng lãnh đạo. Đảng muốn cho dân biết dân nghe dân thấy điều gì, thì truyền thông phải thi hành lệnh của đảng. Nhưng truyền thông trong xã hội dân chủ pháp trị -mà Hoa Kỳ là điển hình- thì ngược lại. Tất cả phương tiện truyền thông đều là tư nhân, và là tiếng nói của người dân, của những tổ chức không thuộc chánh phủ.

                        Thứ hai. Ngôn ngữ từ trong hai tấm hình.


                        Dưới đây là bài viết “Hai bức ảnh nói lên nhiều điều” của tác giả Bùi Tín ngày 30/7/203.

                        “Tấm hình thứ nhất, Tổng thống Barack Obama tiếp bà Aung San Syu Kyi hồi tháng 9/2012, khi Bà đến thăm và phát biểu tại Quốc Hội Hoa Kỳ. Tại đây, Bà được trao tặng Huy chương Vàng (Congressional Gold Medal), là huy chương cao quý nhất của Quốc Hội dành cho một nhân vật dân sự. Nhìn tấm hình, dễ dàng nhận ra nét mặt cả chủ lẫn khách đều tươi tắn, thân mật, tuy là lần đầu hai vị gặp nhau trên chính trường. Tổng thống Obama đã gắn lên áo Bà Aung San Syu Kyi chiếc Huân Chương Tự Do.

                        Tấm hình thứ hai, Tổng thống Obama tiếp Chủ Tịch Trương Tấn Sang ngày 25/7/2013. Sau cuộc hội đàm và ra tuyên bố chung, ông Sang nói lời “cám ơn Tổng thống Obama đã cưu mang chăm sóc bà con người Mỹ gốc Việt”. Rõ ràng là ông Obama đã không che giấu nổi ánh mắt ngạc nhiên về câu nói của ông Sang. Rồi ông kéo ống tay áo lên cao, để lộ mặt đồng hồ cho ông Sang thấy, như nhắc khéo ông Sang “là hết giờ”, hoặc là “tôi còn việc khác” nữa..
                        Lúc ấy khoảng 30 phóng viên quốc tế có mặt, với những đôi mắt tinh ranh của nhà báo, họ dễ dàng nhận ra dáng ngồi với nét mặt hai vị lãnh đạo quốc gia. Nét mặt bực mình của Tổng Thống Hoa Kỳ hiện rõ bao nhiêu, thì nét mặt ông Sang càng hiện ra nét bẽ bàng bấy nhiêu....”


                        Và hai tấm hình, tự nó nói lên những điều trái ngược trong bang giao quốc tế. Các Anh hãy nhớ rằng, Bà Aung San Syu Kyi là nhà hoạt động dân chủ tự do, và Bà đang đóng góp rất quan trọng vào công cuộc chuyển sang chế độ dân chủ tự do mà chánh phủ Miến Điện đang thực hiện khá nhanh. Trong khi, ông Trương Tấn Sang là Chủ Tịch nước Việt Nam cộng sản độc tài.

                        Kết luận.

                        Là Người Lính trong quân đội nhân dân Việt Nam, tôi nghĩ, có Anh 5 năm, 15 năm, thậm chí 20 năm hay 25 năm cầm súng, có bao giờ Các Anh suy ngẫm điều gì về quảng đời quân ngũ với súng đạn, là tại sao có Anh đã thương tật tàn phế, có bạn đã gục ngã trên chiến trường? Và Các Anh đang còn súng đạn trong tay, đang nghĩ gì sau khi đọc xong những dòng chữ mà tôi vừa tường thuật, vừa phân tách và giải thích bên trên?
                        Tôi thông cảm Các Anh, những người sinh ra, lớn lên, học hành, và trở thành Người Lính trong quân đội, tất cả những gì Các Anh học ở trường văn hoá, trường quân sự, lại thường học tập chính trị tại các đơn vị, cộng với những chính sách về các lãnh vực sinh hoạt xã hội, mà hơn hết là toàn bộ các phương tiện trong hệ thống truyền thông chỉ là tiếng nói của lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam mà Các Anh theo dõi hằng ngày. Trôi dần theo thời gian, chính sách độc tài của cộng sản loang đến mọi ngóc ngách trong xã hội, rồi biến thành một nếp trong đời sống thường ngày đối với người dân nói chung, với Các Anh nói riêng, từ lúc nào không ai biết.
                        Sau khi Các Anh đọc xong những trang thư vừa rồi, tôi nghĩ là trong một mức độ nào đó, Các Anh hiểu được tại sao tôi viết loạt thư này gởi đến Các Anh. Thật sự là tôi muốn giúp Các Anh có được nét nhìn của người tự do như chúng tôi, để Các Anh nhận ra con đường cộng sản mà Các Anh đã và đang đi là tự mình nhốt mình trong nhà tù lớn do Bộ Chính Trị lãnh đạo với bản chất dối trá, và cai trị dối trá. Từ đó, Các Anh hãy suy nghĩ mà chọn cho mình một hướng đi, cùng 90 triệu đồng bào hòa nhập vào Cộng Đồng thế giới tự do, để được ngẫng cao đầu giữa thế giới văn minh, được hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước đã lừng danh thế giới.
                        Tôi vững tin là bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi- sẽ hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào để làm nên lịch sử.

                        Hãy nhớ, “Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước. Và Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng. (trích trên internet).


                        Texas, tháng 8 năm 2013

                        Comment


                        • #27
                          Thư số 22b gởi Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam.

                          Thư số 22b gởi
                          Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam.
                          *****

                          Phạm Bá Hoa


                          Tôi chào đời năm 1930, vào quân đội Việt Nam Cộng Hòa năm 1954, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo cộng sản Việt Nam với lòng thù hận đã đày đọa chúng tôi trong hơn 200 trại tập trung mà họ gọi là trại cải tạo, hằng trăm Bạn tôi đến 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy tên Quốc Gia và Quân Lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn trong quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam cho đến khi quê hương tôi có một chế độ dân chủ tự do thật sự.


                          Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Xin gọi Người Lính Quân Đội Nhân Dân ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày. Chữ “Các Anh” viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc với Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào cầm quyền cũng chỉ một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.
                          Nội dung thư này giúp Các Anh nhận rõ thêm về lãnh đạo Các Anh ban hành luật pháp ngược lại Hiến Pháp, rồi căn cứ theo đó mà sử dụng Công An với côn đồ thường xuyên trấn áp toàn xã hội, đặc biệt là giới Blogger và những nhà báo ngoài đảng, dẫn đến bản Tuyên Bố 258 ra đời. Ở phần cuối, là phiên tòa phúc thẩm hai bạn trẻ yêu nước là Phương Uyên và Nguyên Kha. Tuyên Bố 258 và phiên tòa phúc thẩm, cho thấy tuổi trẻ Việt Nam yêu nước rất khôn ngoan và dũng cảm khi tranh đấu cho Nhân Quyền, nhờ vậy mà quốc tế càng quan tâm hơn.

                          Thứ nhất. Quyết Định 72 của chánh phủ.

                          Theo phóng viên Mặc Lâm trong bản tin ngày 8/8/2013 từ đài phát thanh Á Châu Tự Do, hai blogger Trương Duy Nhất và Phạm Viết Đào bị bắt. Nhà nước Việt Nam vận dụng Điều Luật 258 để tống giam hai người mà không công bố là họ bị tội gì. Thực tế thì họ là những nhà báo giỏi, nhưng khi Internet tiến vào Việt Nam thì cả hai đều bỏ làm báo và viết blog, một hình thức thoát khỏi sự kềm kẹp của nền báo chí trong tay đảng để viết những gì mà họ nghĩ là nên viết.
                          Trước đó, nhà nước đã áp dụng Điều 258 với nhà báo Phạm Chí Dũng. Ông Dũng bị bắt trong một tình trạng hoàn toàn bí mật. Việc bắt ông tạo ra một màn sương mù dư luận và hàng chục nghi vấn bao trùm trên báo ngoài đảng. Cho tới khi ông được trả tự do, người ta mới biết là ông đã bị buộc vào tội vi phạm Điều 258, và lý do mà ông được trả tự do vì cơ quan điều tra nhận thấy ông không vi phạm như cáo buộc khi bị bắt.

                          Vậy, Điều 258 nói gì? Điều 258 Bộ Luật Hình Sự quy định tội danh “lợi dụng các quyền dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước”.
                          Khi tuổi trẻ yêu nước chống đối Điều 258 Bộ Luật Hình Sự ngày càng cao, thì nhà nước vội vã ban hành Nghị Định 72 ngày 15/7/2013, và sẽ hiệu lực từ ngày 1/9/2013. Đây là văn kiện như một câu trả lời cứng rắn trước đòi hỏi chính đáng của cao trào tranh đấu cho tự do ngôn luận có ghi trong Hiến Pháp. Nghị định 72 có 46 Điều trong 6 Chương, với mục đích chính là “ngăn cấm cung cấp tin tức tổng hợp”.

                          Vậy, “thế nào là tin tức tổng hợp?” Đó là những tin tức hay ý kiến quan trọng của báo chí hay cá nhân nào đó, mà blog hay Facebook mang vào trang cá nhân của mình để rồi sau đó hằnng ngàn người vào đọc. trong số hằng ngàn người đó, có nhiều người lấy ra đem post vào trang blog cá nhân của họ. Cứ như thế mà một bản tin hay một bài viết được nhân lên nhiều lần, thậm chí khi có tin tức quan trọng có thể hằng trăm ngàn lượt nguời vào đọc trong phút chốc. Nhờ vậy mà người dân quen dần với những bản tin trái ngược với báo chí của đảng.
                          Thời gian trước khi internet lan tràn đến giới trẻ Việt Nam, những bản án tối tăm của tòa án không được truyền thông của đảng đưa tin, thì hôm nay cả thế giới đều biết qua các trang blog và Facebook cá nhân. Các bài viết tường thuật những tồi tệ về dân chủ, về nhân quyền, về tham nhũng, về những hành động lạm dụng quyền hành của chánh phủ độc tài, sẽ nhanh chóng lan tỏa khắp nơi qua hệ thống truyền thông internet. Từ đó, những điều mà trước đây đảng với nhà nước nghiêm cấm, thì bây giờ không còn hiệu quả nữa. Với tình trạng vươn lên của các trang cá nhân trên internet, chínhi là sự thất bại của đảng với nhà nước Việt Nam.
                          Cũng vì vậy mà Nghị Định 72 hoàn toàn ngược lại các quyền tự do của công dân mà Hiến Pháp Việt Nam cũng như Công Ước quốc tế công nhận. Nói cách khác , Nghị Định 72 vi phạm Hiến Pháp.

                          Thứ hai. Phản ứng đầu tiên của giới Blogger.

                          Từ Paris, Tổ Chức Phóng Viên Không Biên Giới (Reporters sans Frontières), tố cáo Nghị Định 72 là “thêm một bằng chứng về thái độ thù địch với tự do truyền thông của nhà nước Việt Nam”.
                          Từ New York, Ủy Ban Bảo Vệ Các Nhà Báo (Committee to Protect Journalists), đã phổ biến Bản Tuyên Bố lên án Nghị Định 72 “chà đạp quyền tự do bất khả xâm phạm của những nhà báo độc lập, vi phạm các công ước quốc tế mà Việt Nam cam kết tôn trọng, cần phải bị hủy bỏ”.
                          Ngày 18/7/2013, nhóm bạn trẻ thuộc Mạng Lưới blogger Việt Nam khởi thảo bản văn, để nói lên nhận thức và quan điểm về Điều 258 Luật Hình Sự và Nghị Định 72. Bản văn này là “Tuyên Bố 258”, có khoảng 70 chữ ký mà trong đó có những tên tuổi blogger được nhiều người biết đến, như: Huỳnh Ngọc Chênh, Phạm Đoan Trang, Phạm Toàn, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Huỳnh Thục Vy, J.B Nguyễn Hữu Vinh ... Những người ký tên bản Tuyên Bố 258 cho biết: “Sẽ tiếp tục truyền đạt đến người dân Việt Nam về các quyền của họ, bằng cách phân phối công khai bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền, tổ chức các diễn đàn công khai để thảo luận về nhân quyền ở Việt Nam và vận động cho những sự cải thiện cần thiết trong việc tôn trọng và bảo vệ nhân quyền".

                          Số 258 là Điều 258 Bộ Luật Hình Sự, ghi tội danh là “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”. Đây là tội danh mà đảng với nhà nước Việt Nam đã sử dụng trong điều tra và xét xử nhiều blogger viết bài chống đối nhà nước độc tài tàn bạo với dân, nhưng khiếp nhược với Trung Cộng lấn chiếm biển đảo Việt Nam trong thời gian qua. Tuyên Bố 258 cũng kêu gọi nhà nước Việt Nam và Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc, xét lại để sửa đổi hoặc bỏ hẳn Điều 258 của Bộ luật Hình Sự năm 1999, sửa đổi năm 2009".
                          Vì nhà nước Việt Nam đang là ứng viên vào Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc nhiệm kỳ 2014-2015, nên Tuyên Bố 258 còn là một đòi hỏi: “Nhà Nước Việt Nam phải chứng minh các cam kết hợp tác với Hội Đồng Nhân Quyền bằng hành động những chuẩn mực cao nhất để bảo vệ nhân quyền Việt Nam. Trước hết, nhân dân Việt Nam phải có quyền tự do tư tưởng, và quyền tự do truyền đạt tư tưởng”.

                          Thứ ba. Tuyên Bố 258 tại thủ đô Thái Lan.

                          Ngày 31/7/2013. Một nhóm 5 nam nữ thanh niên rất trẻ, đại diện “mạng lưới Blogger Việt Nam” là: Nguyễn Thảo Chi, Nguyễn Nữ Phương Dung (Sài Gòn), Nguyễn Anh Tuấn (Đà Nẵng), Nguyễn Lân Thắng (Hà Nội), và Phạm Đoan Trang (Hà Nội), sang Bangkok với mục đích tiếp xúc với các tổ chức Nhân Quyền Thế Giới có trụ sở tại thủ đô Thái Lan, để trao tận tay bản “Tuyên Bố 258” chống lại Điều 258 Luật Hình Sự và Nghị Định 72.
                          Tại cơ quan đại diện Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc (Office of United Nations High Commissioner for Human Rights. OHCHR), gọi tắt là HĐNQLHQ, và tổ chức Quan Sát Nhân Quyền (Human Rights Watch), các bạn Blogger đã trao tận tay bản “Tuyên Bố 258”.
                          Cô Leong Tsu Quin, Cố Vấn của Ủy Ban Luật Gia Quốc Tế (The International Commission of Jurists. ICJ) tại Bangkok, tiếp các bạn của Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam. Ủy Ban Luật Gia Quốc Tế là một tổ chức qui tụ các Luật Sư, Luật Gia, Thẩm Phán, Giáo Sư Đại Học, ... quan tâm đến Nhân Quyền, và căn cứ vào công pháp quốc tế để bảo vệ những giá trị, những tiêu chuẩn tổng quát về Nhân Quyền.


                          Các bạn blogger đã trình bày với cô Leong Tsu Quin, đại diện của ICJ, về tình trạng nhà nước Việt Nam đàn áp các Blogger đấu tranh cho các quyền tự do dân chủ của người dân, đã vi phạm những điều căn bản nhất của Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. Do đó, nếu Việt Nam trở thành thành viên của Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc, sẽ làm giảm uy tín của Liên Hiệp Quốc.
                          Như những lần tiếp xúc với Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc, Hội Bảo Vệ Ký Giả, Tổ Chức Quan Sát Nhân Quyền, Phóng Viên Không Biên Giới, tòa đại sứ Hoa Kỳ, tòa đại sứ Thụy Điển, các đại diện của Mạng lưới Blogger Việt Nam, khi trao bản Tuyên Bố 258, cũng nêu ý kiến là ICJ quan tâm hơn nữa về tình trạng Việt Nam vi phạm những Công Ước Quốc Tế về Nhân Quyền. Các blogger cũng đề nghị việc ICJ ra tuyên bố lên án Điều 258.
                          Cô Leong Tsu Quin đã tiếp nhận Tuyên Bố 258, và đánh giá cao việc blogger Việt Nam sang thăm văn phòng ICJ tại Bangkok. Cô cũng đã trình bày các hoạt động mà ICJ đã thực hiện để nâng cao năng lực Luật Sư Nhân Quyền Việt Nam, và cho biết ICJ quan tâm đặc biệt đến việc một số blogger có tên trong tuyên bố như Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Phạm Văn Hải, ... đã từng bị tạm giữ chỉ vì đi phân phát bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. Cô cho biết: “ICJ sẽ đưa ra lời tuyên bố trong thời gian thích hợp cũng như giúp các blogger Việt Nam gửi Tuyên bố 258 đến các tổ chức có quan hệ với ICJ trên thế giới”.
                          Cũng tại Bangkok, một số đại diện của tổ chức Goggle và Yahoo, đã tiếp xúc với những người trẻ này và nhận Bản Tuyên Bố 258. Blogger Nguyễn Anh Tuấn, một trong những thành viên của Nhóm, cho biết:
                          "Nội dung mà nhóm trao đổi với Google, thì mình cũng đã cam kết với người ta là tạm thời không tiết lộ về nội dung. Muốn thông báo điều gì chính thức thì phải cho người ta xem trước. Đại ý nội dung những lần gặp là cung cấp thông tin cho người ta để họ có thêm thông tin tại Việt Nam. Mình cũng giới thiệu cho họ biết về Đìều Luật 258. Như anh biết, Google không giống như các tổ chức nhân quyền khác, vì họ có những mục tiêu khác nên họ không cam kết gì với mình nhiều, nhưng trước sau gì thì họ cũng sẽ có một official statement, tuyên bố chính thức về việc này có lẽ cho tới ngày 1/9/2013 khi Nghị Định 72 có hiệu lực."
                          Blogger Đoan Trang, từ Bangkok, trả lời phỏng vấn của đài “Tiếng Nói Hoa Kỳ” (VOA) rằng: “Điều tôi mong mỏi nhất là có thể góp phần thay đổi chút nào suy nghĩ của người dân Việt Nam nói chung, và giới blogger Việt Nam nói riêng. Tôi rất mong muốn người dân Việt nhận ra trong thời đại toàn cầu hóa này, chính phủ và nhân dân mỗi quốc gia đều phải tham gia một cách tích cực với cộng đồng quốc tế, có trách nhiệm bảo vệ nhân quyền. Mọi công dân phải biết tự bảo vệ các quyền lợi đó của mình, và có trách nhiệm với đất nước, với khu vực, và thế giới.”

                          Thứ tư. Bản Tuyên bố 258 tại tòa đại sứ Thụy Điển.

                          Ngày 7/8/2013. Năm bạn trẻ là: Nguyễn Thu Trang, Nguyễn Đình Hà, Lê Hồng Phong, Nghiêm Ngọc Trai, và Nguyễn Văn Viên, đã thành công trong việc mang những thông tin cần thiết ra thế giới bên ngoài ngang qua tòa đại sứ Thụy Điển, và trao tận tay Bà Elenore Kanter, Phó Đại Sứ Thụy Điển “Tuyên Bố 258”. Đồng thời nhóm bạn trẻ này cũng chia sẻ với Bà, về tất cả những thông tin mà nhà nước Việt Nam đang cố thực hiện để chống lại tự do ngôn luận, song song với gia tăng đàn áp nhân quyền.


                          Diễn tiến sự việc. Blogger Lê Thiện Nhân trả lời phỏng vấn của đài BBC, như sau: “Nhóm 5 người khi đến trước cửa tòa đại sứ Thụy Điển, thì tại đây Công An rất đông, nhưng kịp thời là từ trong tòa đại sứ, có bốn người ra đón và chúng tôi vào trót lọt. Thật ra nhóm chúng tôi là 6 người, nhưng blogger Nguyễn Vũ Hiệp bị Công An ngăn chận tại nhà nên không thể đến với nhóm được. Cuộc nói chuyện giữa nhóm blogger với Bà Phó Đại Sứ trong khoảng 2 tiếng đồng hồ với thái độ cởi mở, thân thiện, xoay quanh những vấn đề về tự do báo chí, về dân oan bị mất đất, về hệ thống pháp luật, về chống tham nhũng ..” Phía Thụy Điển cho biết: “Tôi rất ngạc nhiên khi Việt Nam lại có thể ra một Nghị Định như vậy. Những thông tin mà các bạn cung cấp, chúng tôi sẽ chuyển sang Bộ Ngoại Giao Việt Nam, và chuyển về Khối Liên Hiệp Âu Châu (EU) để người ta hiểu được tình hình, và sẽ có tiếng nói cần thiết"
                          Trả lời câu hỏi của phía Thụy Điển: “Tại sao các blogger lại chọn gửi Tuyên bố 258 đến tòa đại sứ Thụy Điển?”
                          Blogger Lê Thiện Nhân trả lời: “Tòa đại sứ Hoa Kỳ và tòa đại sứ Thụy Điển, là hai tòa đại sứ luôn quan tâm đặc biệt đến tình hình nhân quyền Việt Nam. Sắp tới, chúng tôi sẽ tiếp tục gửi Bản Tuyên Bố đến các tòa đại sứ khác nữa”.
                          Theo Liên Hiệp Internet Á Châu được thành lập bởi: eBay, Facebook, Google, và Yahoo, thì Nghị Định 72 có tính cách ngăn cấm hoạt động của môi trường Internet Việt Nam, sẽ gây trở ngại cho nguồn đầu tư ngoại quốc.

                          Thứ tư. Phiên tòa phúc thẩm tại Long An.

                          Ngày 16/8/2013. Phiên tòa phúc thẩm hai bạn trẻ Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha diễn ra lúc 7 giờ 30 sáng. Dù là phiên tòa công khai, nhưng chỉ có 2 Luật sư là Hà Huy Sơn và Nguyễn Thanh Lương được vào trong tòa, ngoài ra không một ai được vào kể cả cha mẹ của hai em. Lúc này, Công An sắc phục và Công An chìm dày đặc quanh khu vực tòa án, cùng với nhiều máy quay phim và chụp hình.
                          Trang “Danlambao” ghi nhận những người đến ủng hộ hai em Uyên và Kha, có: Linh mục Đinh Hữu Thoại, Trưởng văn phòng Công Lý & Hòa Bình. Linh mục Nguyễn Văn Phương. Chị Trần Thị Nga từ Hà Nam vào. Chị Dương Thị Tân và Nguyễn Trí Dũng. Phóng viên Huyền Trang của Truyền thông Chúa Cứu Thế. Anh Lê Quốc Quyết. Bạn Công Khanh. Anh Thịnh, dân oan Vườn Rau Lộc Hưng. Anh Hoàng Văn Dũng. Chị Bùi Minh Hằng. Blogger Huỳnh Công Thuận. Blogger Nguyễn Hoàng Vi. Blogger Nguyễn Tường Thụy. Blogger Huỳnh Ngọc Chênh, ..v..v....
                          Rất đông người đứng trước cổng tòa án, cùng hô to rất nhiều lần: "Phương Uyên và Nguyên Kha vô tội. Phương Uyên và Nguyên Kha vô tội” Vì Công An ngăn chận nghiêm ngặt, đám đông đi vòng quanh thành phố để người dân biết thêm về tình trạng nhà cầm quyền bán nước xử người yêu nước. Trên đường đi, bị Công An chận lại và giật lấy biểu ngữ "Phương Uyên - Nguyên Kha vô tội".
                          Lúc 4 giờ 10 phút, phiên xử phúc thẩm đưa ra phán quyết: “Đinh Nguyên Kha giảm còn 4 năm tù giam và 3 năm quản chế. Nguyễn Phương Uyên giảm 3 năm nhưng là tù treo, với 3 năm quản chế”, và Nguyễn Phương Uyên được tự do ngay lúc ấy.


                          Bình luận về sự kiện này, hãng thông tấn quốc tế AP và AFP gọi là: “Màn trình diễn khoan hồng, rất hiếm hoi. Công tố viên lúc đầu đề nghị giảm một ít năm tù, nhưng sau đó đã thay đổi bản án mà không giải thích tại sao, trong khi “can phạm” vẫn khẳng định mình là người yêu nước và “chống đảng, không có nghĩa là chống tổ quốc Việt Nam”. Tổ Chức Nhân Quyền Hoa Kỳ nhận định: “Việt Nam chưa thay đổi chính sách về nhân quyền, nhưng áp lực quốc tế bắt đầu có tác dụng, và Hà Nội biết lắng nghe thông điệp của Tổng Thống Mỹ Obama cải thiện nhân quyền”. Ông Phil Robertson, Giám Đốc Tổ Chức Quan Sát Nhân Quyền tại Á Châu, phân tách: “Đúng là ngoài sức tưởng tượng nhưng chúng ta phải thận trọng. Bản cáo trạng vẫn còn treo lơ lững trên đầu cô gái (Phương Uyên), và cô có thể bị đưa trở lại vào nhà tù một cách dễ dàng mặc dù cô chẳng có tội tình gì để phải bị bắt. Sự kiện cô gái được thả là một cử chỉ khéo léo của nhà nước Việt Nam. Nhưng điều này không có nghĩa là họ thay đổi chính sách đối với những người có lời phát biểu không lọt tai chế độ. Tôi nghĩ, nhờ có một phong trào vận động quốc tế bảo vệ cho cô, và như vậy là áp lực quốc tế đã mang lại kết quả. Đây là một bài học mà cộng đồng quốc tế, chính phủ, cũng như các nhà tài trợ phải suy ngẫm khi hỗ trợ hay giao dịch với Việt Nam. Từ nay về sau, quốc tế phải cứng rắn hơn với nhà nước Việt Nam trên hồ sơ nhân quyền”.
                          Trích vài câu mà Phương Uyên trả lời phỏng vấn của đài RFI vào buổi chiều cùng ngày

                          ..... Dạ, em nói hành động của là không phạm vào điều 88... Em vẫn yêu Tổ quốc của mình đấy thôi. Em chỉ có xúc phạm đến đảng, vì đảng chỉ là một tổ chức nên không cào bằng đảng với nhà nước Việt Nam. ..... Em cho rằng đó là một bản án có trước, không công minh, và không có sự công bằng.....
                          .... Em cảm ơn mọi người rất là nhiều! Bây giờ em được như thế này là nhờ một phần rất là to lớn của mọi người, ở trong nước cũng như trên thế giới, đã đứng về phía em, cho em cơ hội nói lên quan điểm của mình tại một đất nước ở chế độ cộng sản”.
                          .... Vâng. Em chỉ có thể nói lời cảm ơn tất cả mọi người trong nước cũng như trên thế giới! We are one. Chúng ta là một, ở đâu cũng vậy, phải có công lý. Công lý và công bằng sẽ phải trở lại! Em hy vọng là trở lại càng sớm càng tốt”.


                          Kết luận.

                          Là Người Lính trong quân đội nhân dân Việt Nam, tôi nghĩ, có Anh 5 năm, 15 năm, thậm chí 20 năm hay 25 năm cầm súng, có bao giờ Các Anh suy ngẫm điều gì về quảng đời quân ngũ với súng đạn, là tại sao có Anh đã thương tật tàn phế, có bạn đã gục ngã trên chiến trường? Và Các Anh đang còn súng đạn trong tay đang nghĩ gì? Tôi thông cảm với Các Anh, những người sinh ra, lớn lên, học hành, và trở thành Người Lính trong quân đội, tất cả những gì Các Anh học ở trường văn hoá, trường quân sự, lại thường học tập chính trị tại các đơn vị, cộng với những chính sách về các lãnh vực sinh hoạt xã hội, mà hơn hết là toàn bộ các phương tiện trong hệ thống truyền thông chỉ là tiếng nói của lãnh đạo đảng mà Các Anh theo dõi hằng ngày. Trôi dần theo thời gian, chính sách độc tài của cộng sản lan tỏa đến mọi ngóc ngách trong sinh hoạt xã hội, rồi biến thành một nếp trong đời sống thường ngày đối với người dân nói chung, với Các Anh nói riêng từ lúc nào không ai biết.

                          Các Anh tiếp tục đọc bản dịch Việt ngữ dưới đây, để hiểu được ý chánh trích từ bài viết của Tướng Lưu Á Châu (Trung Cộng), đăng trên báo Phoenix (Phượng Hoàng) tại Hong Kong ngày 12/8/2013:
                          “....Nếu một hệ thống không cho người dân được thở không khí tự do và phát huy sức sáng tạo đến mức cao nhất, nếu hệ thống ấy không lựa chọn được những người tốt nhất làm đại diện cho chế độ và nhân dân để đưa vào các vị trí lãnh đạo, hệ thống ấy sẽ đi đến diệt vong ... Bí quyết thành công của Hoa Kỳ không nằm ở phố Wall (New York) hay ở thung lũng Silicon (California), mà nằm ở hệ thống luật pháp minh bạch lâu đời và ở hệ thống chính trị gắn liền với nó....Hệ thống của Hoa Kỳ được thiết kế bởi những thiên tài, nó giúp cho những người ngu ngốc cũng có thể vận hành tốt.... Một hệ thống tồi, khiến một người tốt cũng hành xử tồi, trong khi một hệ thống tốt sẽ khiến ngay cả một người tồi cũng có thể hành xử rất tốt ... Dân chủ là điều cấp thiết nhất, không có dân chủ, không thể có sự trỗi dậy và phát triển bền vững“.

                          Đến đây, tôi nghĩ là trong một mức độ nào đó, Các Anh hiểu được tại sao tôi viết loạt thư này gởi đến Các Anh. Thật sự là tôi muốn giúp Các Anh có được nét nhìn của người tự do như chúng tôi, để Các Anh nhận ra con đường cộng sản mà Các Anh đã và đang đi là tự mình nhốt mình trong nhà tù lớn xã hội chủ nghĩa. Từ đó, Các Anh hãy suy nghĩ mà chọn cho mình một hướng đi, cùng 90 triệu đồng bào hòa nhập vào Cộng Đồng thế giới tự do, để được ngẫng cao đầu giữa thế giới văn minh lịch sự, được hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước đã lừng danh thế giới.
                          Tôi vững tin là bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi- sẽ hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào để làm nên lịch sử.

                          Hãy nhớ, “Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước. Và Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng.

                          Texas, tháng 8 năm 2013
                          Last edited by tieuchuy; 09-12-2013, 11:55 PM.

                          Comment


                          • #28
                            Thư số 23 gởi người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam.

                            Thư số 23 gởi
                            người lính quân đội nhân dân Việt Nam.
                            ******

                            Phạm Bá Hoa


                            Tôi chào đời năm 1930, vào quân đội Việt Nam Cộng Hòa năm 1954, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo cộng sản Việt Nam với lòng thù hận đã đày đọa chúng tôi trong hơn 200 trại tập trung mà họ gọi là trại cải tạo, hơn 100 Bạn tôi đến 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy tên Quốc Gia và Quân Lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn trong quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam cho đến khi quê hương tôi có một chế độ dân chủ tự do thật sự.


                            Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Xin gọi Người Lính Quân Đội Nhân Dân ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày. Chữ “Các Anh” viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc với Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào cầm quyền cũng chỉ một giai đoạn của lịch sử. Và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.
                            Nội dung thư này, tôi đưa Các Anh trở lại vấn đề “đạo đức xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, với dẫn chứng theo dòng lịch sử cận đại.

                            Thứ nhất. Đạo đức xã hội chủ nghĩa suy đồi!

                            Từ bài viết của phóng viên Thanh Quang đài Á Châu Tự Do ngày 10/7/2013: Đạo đức xã hội Việt Nam ngày nay, vẫn là đề tài mà người dân Việt quan tâm đặc biệt, nhất là những người luôn ưu tư đến dân tộc và vận nước. Một câu hỏi được nêu lên: “Vì sao đạo đức suy đồi?”
                            Trong thời gian gần đây, xem chừng như ngày càng có nhiều báo động về tình trạng xuống dốc đáng ngại, gần như mọi mặt trong xã hội Việt Nam! Từ nhận xét của nhà văn Nguyên Ngọc nhận xét về “căn bệnh giả dối là nặng nhất, chí tử nhất, toàn diện nhất”, đang hoành hành xã hội Việt Nam, khiến “người ta thật sự không còn tin vào bất cứ điều gì nữa”, đến lối hành xử “vô cảm của cấp lãnh đạo đảng với nhà nước”, mà blogger Tạ Phong Tần -khi chưa bị tù- đã nhiều lần lên tiếng.
                            Đầu tháng 7/2013, tác giả Trần Thị Huyền Trang cũng cảnh báo về sự dối trá đang bao trùm đời sống toàn xã hội Việt Nam: “Chưa bao giờ phẩm chất giá trị của cuộc sống lại xuống thấp như hiện nay ở Việt Nam, vì xã hội đã coi sự dối trá là một việc bình thường, niềm tin giữa con người với nhau thật sự lung lay, đi tới đâu ta cũng nghe bàn tán tới sự lừa đảo giựt dọc nhau trong làm ăn, trong giao tiếp, trong mua bán với nhau, đọc báo cũng đầy dẫy tin tức lừa đảo nhau ở mọi cấp độ trong xã hội…”
                            Mục Sư Nguyễn Trung Tôn từ Thanh Hoá, trong bài “Lương Tâm Đạo Đức Làm Người”, ông cảnh báo rằng: “Xã hội càng ngày càng đầy dẫy những chuyện bất công, chuyện bạo hành, và bao nhiêu thứ tệ nạn khác”. Rồi ông tâm sự: “Tôi sinh ra sau Cách mạng tháng Tám -sau năm 1945. Cha mẹ tôi, các cụ ngày xưa thì sống cuộc sống khổ sở, đói khát và nghèo nàn hơn so với bây giờ, nhưng các cụ vẫn nói với tôi rằng nhìn vào con người ngày hôm nay mới thấy đạo đức con người càng ngày càng xuống cấp: Con có thể chửi cha mẹ, chữ hiếu không còn, đạo đức chẳng còn đâu cả. Con người đi ra đường, không nhìn người ta thì người ta bảo mình khinh, nhưng nếu không may vô tình nhìn họ thì họ bảo là mình nhìn đểu ! Đây là trường hợp người dân đối với người dân thôi. Bây giờ ra đường có thể chỉ vì một cái nhìn, chỉ vì một câu nói có thể dẫn tới án mạng; con có thể giết cha, vợ có thể giết chồng, anh em có thể chém giết lẫn nhau”.
                            Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện từ Hà Nội, nhận xét rằng “Những vụ giết người, cướp của ngày càng táo bạo, kẻ thủ ác tuổi đời càng trẻ thì cách thức giết người càng ngày càng dã man hơn”.
                            Nhà văn Trần Mạnh Hảo cũng báo động: “ Xã hội Việt Nam ngày nay suy đồi đạo đức, không còn là hiện tượng riêng lẻ, mà là cả hệ thống”..
                            Khi bàn về căn bệnh dối trá tồi tệ ở Việt Nam, Giáo Sư Trần Kinh Nghị nhận định: “Xã hội Việt Nam ngày nay, bệnh dối trá có những đặc thù riêng”. Rồi ông giải thích: “Nó bắt nguồn từ thời kỳ cách mạng, trải qua nhiều biến cố lịch sử với những phong trào thi đua và những đợt cải cách ruộng đất, cải tạo công thương, nhân văn giai phẩm. v.v… khiến xã hội bị xáo trộn, lòng người đảo điên. Đến những thời kỳ kinh tế khắc khổ khiến con người ta trở nên bon chen và thủ đoạn. Giới lãnh đạo ngày càng nhiều đặc quyền, đặc lợi, nói một đàng làm một nẻo, khinh thường và xa lánh người dân, ngày càng gia tăng cưỡng chiếm đất đai của dân. Nhìn chung, giới lãnh đạo ngày càng “ác với dân nhưng hèn với giặc”.

                            Luật Sư Lê Đức Minh nhận định: “Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, họ bắt người dân phải đề cao và noi theo tư cách đạo đức của đảng viên. Mà tư cách và đạo đức của đảng viên ngày nay có quá nhiều vấn đề. Cho nên chúng ta không lấy làm lạ về sự vô cảm của xã hội ngày nay. Một xã hội coi tham ô hối lộ là cách kiếm tiền đương nhiên, coi sự lừa trên gạt dưới là tiêu chuẩn giao tiếp, coi pháp luật chỉ là đồ trang sức cho chế độ, coi các bản án hình sự như món hàng mua bán”. Theo Luật sư Lê Minh Đức: “Đảng cộng sản kêu gọi mọi người trong xã hội noi gương đảng viên, chính là nguồn gốc tha hóa về nhân cách và trí tuệ của con người...”.
                            Tôi xin tiếp ý của tác giả cho rõ nghĩa. Đảng kêu gọi mọi người phải noi gương đảng viên, “vì đảng viên nhất là đảng viên hàng lãnh đạo, là những người đã tạo nên một xã hội vô cảm nên mọi người phải noi gương đảng viên mà sống như vậy. Vì đó, chính là xã hội chủ nghĩa mà “bác” Các Anh đã chủ trương từ khi thành lập đảng cộng sản Việt Nam, và được thực hiện bởi các nhóm lãnh đạo trong Bộ Chính Trị từ đó đến nay ”.
                            Theo Mục sư Nguyễn Trung Tôn thì: “Đảng cộng sản phát động học theo gương đạo đức ông Hồ, nhưng không biết gương của ông Hồ nó tốt tới đâu? Phải chăng là họ học vấn đề mà ông Hồ đem đồng bào ra “đấu tố” khiến con giết cha, vợ giết chồng, anh em giết lẫn nhau, cho nên ngày hôm nay cái “đạo đức” ấy nó dẫn đến tình trạng tồi tệ như vậy?”
                            Trong một bài viết trên tạp chí Văn Hóa Nghệ An ngày 31/7/2013, giáo sư Nguyễn Minh Thuyết nhận định: "Quan sát trong xã hội, đúng là chưa bao giờ đất nước ở vào tình trạng suy đồi đạo đức như bây giờ. Nhìn lại lịch sử, chỉ vào thời mạt mới có một xã hội xuất hiện những chuyện như thế...".
                            Giào sư Tương Lai, trong bài viết “Hiện tượng Trần Độ”, có đoạn: “....Quyền lực thúc đẩy việc mở rộng vô hạn quyền lực. Khi quyền lực có xu hướng tha hóa, thì quyền lực tuyệt đối cũng tha hóa tuyệt đối... Chế độ toàn trị phản dân chủ, là nguyên nhân sâu xa cho cái chuyện "quyền lực tuyệt đối thì tha hóa cũng tuyệt đối ấy. Liệu lịch sử loài người, có bao nhiêu thứ quyền lực tuyệt đối như chế độ toàn trị hiện hành?”

                            Thứ hai. Vì sao đạo đức suy đồi?

                            Vì thi hành Nghị Quyết của cộng sản quốc tế.
                            Là câu hỏi của phóng viên Thanh Quang nêu lên khi bắt đầu bài phóng sự. Vậy, sau khi đọc qua một số nhận định của những vị giáo sư, tiến sĩ, nhà văn, nhà thơ, nhà báo, và vị mục sư bên trên, Các Anh có nhận ra chiều sâu của câu hỏi đó không? Với tôi, để có giải đáp câu hỏi đó, Các Anh hãy “theo tôi” cùng ngược dòng thời gian từ thời mà “bác” Các Anh tham gia cộng sản quốc tế, và liên tục đến nay: thứ

                            Đệ Tam Quốc Tế hay cộng sản quốc tế, do ông Lenin thành lập năm 1919 sau khi cướp chánh quyền ở Nga. Năm 1920, đại hội quốc tế quy định 21 điều cho các đảng cộng sản hội viên. Một tổ chức có tên là “Ủy Ban Chấp Hành Đệ Tam Quốc Tế” (ECCI) do Liên Xô giữ chức Chủ Tịch. Trên Ủy Ban Chấp Hành là một Chủ Tịch Đoàn, và Chủ Tịch của Chủ Tịch Đoàn có quyền hạn rộng lớn, do ông Lenin nắm giữ từ năm 1920 đến năm 1924, sau đó là ông Stalin.Dưới đây là tôi trích 4 Điều liên quan trực tiếp đến các đảng hội viên trên thế giới, trong đó có Việt Nam:

                            Điều 9. Liên hệ giữa các đảng hội viên với các cơ quan trung ương của Đệ Tam Quốc Tế, theo nguyên tắc thống nhất và kỹ luât vô sản. ECCI là cấp trên, các đảng hội viên là cấp dưới. ECCI có quyền đòi một đảng hội viên trục xuất một nhóm, hay một đảng viên vi phạm kỹ luật, hoặc trục xuất một đảng vi phạm quyết định của Đại Hội Đệ Tam Quốc Tế.
                            Điều 12: Tất cả các đảng thuộc Đệ Tam Quốc Tế phải được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
                            Điều 15: Các đảng phải lập chương trình thích ứng với điều kiện của nước, và đúng với những nghị quyết của Đệ Tam Quốc Tế.
                            Điều 16: Tất cả quyết nghị của các đại hội thế giới Đệ Tam Quốc Tế, cùng các quyết nghị của Ủy Ban Chấp Hành của Đệ Tam Quốc Tế, đều ràng buộc các đảng hội viên thi hành.
                            Điều 17: Các đảng hội viên, chỉ là những chi bộ của Đệ Tam Quốc Tế, vì Đệ Tam Quốc Tế không phải là một tập hợp của những chi bộ quốc gia, mà là một tổ chức quốc tế thống nhất.
                            Ông Lênin giải thích trong đại hội (1920) rằng: “Đệ Tam Quốc Tế là "một đội quân vô sản quốc tế" với nhiệm vụ "thực hiện cách mạng vô sản quốc tế, thiết lập một Cộng Hòa Sô Viết Quốc Tế".


                            Tóm tắt.
                            “Với những điều khoản ràng buộc trên đây, “đảng cộng sản Việt Nam là một Chi Bộ của Đệ Tam Quốc Tế”, và phải thi hành lệnh của tổ chức này thực hiện mục tiêu của ông Lenin, là “thiết lập một Cộng Hòa Sô Viết trên toàn thế giới”. Nói cho dễ hiểu, mục tiêu là cộng sản sẽ thống trị thế giới.


                            Về phần “bác” Các Anh. Theo tài liệu trong Wikipedia, dưới tên Nguyễn Ái Quốc, ông Hồ đã dự đại hội “Quốc Tế Cộng Sản” lần thứ 4 năm 1923, và lần thứ 5 năm 1924 tại Liên Xô. Trong đại hội, “bác” Các Anh được cử làm “Ủy Viên Ban Phương Đông”. Năm 1930, theo chỉ thị của Quốc Tế Cộng Sản, ông Hồ thành lập “Đảng Cộng Sản Đông Dương”, tiền thân của đảng cộng sản Việt Nam ngày nay. Vẫn tài liệu trong Wikipedia, “bác” Các Anh kết hợp tư tưởng cộng sản của Karl Marx & Friedrich Engels với tư tưởng của Lenin vào chủ trương cuộc cách mạng vô sản tại Việt Nam. (ông Karl Marx và ông Engels ra bản Tuyên Ngôn Cộng Sản ngày 21/2/1848)

                            Năm 1952, để thực hiện cuộc cách mạng vô sản đó, “bác” Các Anh viết 2 thư gởi cho lãnh đạo Quốc Tế Cộng Sản là ông Stalin.
                            Thư số 1 đề ngày 30/12/1952 với nội dung xin thuốc kí-ninh và súng đạn.
                            Thư số 2 đề ngày 31/12/1952 với nội dung ngắn gọn như sau: “Xin gửi Ngài chương trình “Cải Cách Ruộng Đất” của đảng Lao Động Việt Nam. Chương trình hành động được lập bởi chính tôi, với sự giúp đỡ của đồng chí Lưu Shao Shi và Văn Sha San. Đề nghị Ngài xem xét và cho chỉ dẫn” (kèm theo chương trình Cải Cách Ruộng Đất).

                            Vẫn trong Wikipedia, “mục đích của Cải Cách Ruộng Đất trên lãnh thổ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là xóa bỏ văn hóa phong kiến, tiêu diệt các thành phần bóc lột, phản quốc, và phản động, để lập nền chuyên chính vô sản, và đưa nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tiến lên chủ nghĩa xã hội theo Bản Tuyên Ngôn đảng cộng sản mà ông Karl Marx đã công bố Cách mạng ruộng đất là điều kiện giải phóng dân tộc”. Kết quả: Từ năm 1953 đến 1956 do 48.818 cán bộ thực hiện mà theo chỉ thị phải đánh gục 5.68% địa chủ trong số dân tại mỗi xã, và tổng số xã trong chương trình cải cách là 3.341 xã. Theo tuần báo Time ngày 1/7/1957, có 15.000 người bị xử tử. Theo bộ “Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-2000” do Viện Kinh tế Việt Nam ấn hành năm 2004, thì tổng số nạn nhân trong chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất là 172.008 người, trong số đó có đến 123.266 người hay là 71.6% bị oan Đó là về con người, còn về ruộng đất thì sau khi phân chia cho nông dân, “bác” Các Anh lại ra lệnh tập thể hóa toàn bộ đất đai từ năm 1958. Rồi Hiến Pháp năm 1959 thiết lập quyền sở hữu tập thể. Đến Hiến Pháp 1980, thì quyền tư hữu của nông dân hoàn toàn biến mất, và nhà nước nắm quyền sở hữu ruộng đất trên toàn cõi Việt Nam từ đó.

                            Tóm tắt về “bác” Các Anh, và nhận định của tôi:
                            “Điểm 1. Cải Cách Ruộng Đất đã giết người theo tỷ lệ 5.68% tại mỗi xã. Dòng lịch sử Việt Nam từ thời dựng nước, chưa bao giờ người dân bị giết dã man đến như vậy, trên thế giới cũng chưa bao giờ có cách giết người theo tỷ lệ như “bác” Các Anh đã giết. Tôi nói “bác” Các Anh đã giết, vì chính ông ấy nói với ông Stalin là chương trình hành động do ông soạn thảo, tức là “bác” Các Anh ra lệnh giết người trong chương trình đó.
                            Điểm 2. Tịch thu đất của người bị giết trong thời cải cách ruộng đất, đem phân chia cho bần cố nông tức là nông dân nghèo mạt rệp, rồi lại đem đất tập trung vào hợp tác xã trở thành quyền sở hữu tập thể, sau cùng thì quyền sở hữu ruộng đất vào tay lãnh đạo, cho đến nay vẫn vậy. Do đảng với nhà nước nhà nước nắm quyền sở hữu ruộng đất, nên tham nhũng phát sinh mạnh mẽ nhất đối với nông dân. Quả thật, “bác” các Anh dối trá lừa gạt nhân dân có một không hai trong dòng lịch sử.
                            Điểm 3. Thực hiện một xã hội vô sản để không còn người bóc lột người đúng theo điều lệ của quốc tế cộng sản. Thật ra khi trở thành vô sản thì mỗi người có hai bộ quần áo thay đổi thì còn gì mà bóc lột. Một chính sách quá đơn giản. Nhưng từ đầu những 1990 đến nay thì khác, hoàn toàn khác. Vì xã hội chủ nghĩa Việt Nam vẫn là xã hội vô sản, ngoại trừ đảng viên cộng sản lãnh đạo trong hệ thống đảng với hệ thống nhà nước, chẳng những không phải vô sản mà là đại tư bản, hơn hẳn những tư bản khác. Tôi muốn nói các đảng viên lãnh đạo ở các cấp quá nhiều tài sản, nhưng khối tài sản của họ là do họ, và dòng họ của họ cùng nhau ăn cắp ăn cướp của dân, của quốc gia, của quốc tế. Chính lãnh đạo Các Anh, tùy mỗi cấp quyền lực mà họ thực hiện những công trình với trị giá càng cao bao nhiêu thì họ thâu tóm được nhiều bấy nhiêu, còn hiệu quả như thế nào không quan trọng. Lý thuyết cộng sản hình thành từ giữa thế kỷ 19 do chủ trương không bóc lột người, nhưng bây giờ thì đảng viên cộng sản được phép làm kinh tế nên được phép bóc lột người, và bóc lột thẳng tay.

                            Vì mục đích thâu tóm quyền lợi.

                            Tôi vẫn nhớ rằng, Đảng Cộng Sản Quốc Tế hay Đệ Tam Quốc Tế đã sụp đổ từ tháng 12/1991, nhưng lãnh đạo cộng sản Việt Nam hiện nay vẫn giữ nguyên chủ trương và mục đích từ thời “bác” Các Anh còn sống:
                            Bằng chứng thứ nhất, là ”Điều 4 trong Hiến Pháp, đảng cộng sản Việt Nam vẫn là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Bằng chứng thứ hai, là Điều 17 trong Hiến Pháp ghi rằng; Đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời, phần vốn và tài sản do Nhà nước đầu tư vào các xí nghiệp, công trình thuộc các ngành và lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc phòng, an ninh cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước, đều thuộc sở hữu toàn dân. Nhóm chữ này nằm trong dòng chữ “nhân dân làm chủ, nhà nước quản ký, đảng lãnh đạo”. Vậy, sở hữu toàn dân, tức là đảng ra lệnh, nhà nước thì hành, nhân dân phải tuân hành.
                            Mà thật sự có phải đảng cộng sản Việt Nam là đại biểu trung thành của nhân dân lao động và dân tộc không? Nếu phải, thì tại sao đảng với nhà nước thẳng tay thu hồi đất đai tạo nên hằng chục ngàn Đoàn Dân Oan không nhà ở, không đất canh tác, không vườn tược ao hồ trồng trọt chăn huôi? Nếu phải, thì tại sao không bảo vệ công nhân khi bị chủ nhân bóc lột hà hiếp, nhất là những chủ nhân là người Trung Hoa? Nếu phải, thì tại sao thằng tay đàn áp bắt giam hằng ngàn đồng bào yếu nước đứng lên chống Trung Cộng lấn chiếm biển đảo Việt Nam? Và Nếu phải, thì tại sao ngăn cấm giới trẻ tiếp xúc với giới trẻ thế giới qua hệ thống internet, để học hỏi mà góp phần xây dựng một xã hội thật sự dân chủ văn minh?
                            Hoàn toàn không phải, vì những Điều ghi trong Hiến Pháp chỉ để phô trương với thế giới chớ không áp dụng trong đời sống. Nhận định đúng nhất là “nói một đàng làm một nẻo = dối trá lừa gạt nhân dân. Tôi dẫn chứng:

                            (1) Độc tài đảng chính trị, vì duy nhất chỉ có đảng cộng sản là đảng chính trị, nên xã hội phát triển khập khễnh do không có đối lập nên không có tiếng nói thúc đẩy phát triển. Vì vậy mà lãnh đạo của Các Anh chỉ phục vụ quyền lợi riêng tư, mà không hề phục vụ nguyện vọng người dân.
                            (2) Độc tài cầm quyền, vì chỉ có đảng cộng sản cầm quyền, nên hình thành một xã hội theo mục tiêu của đảng, rồi đảng với nhà nước cùng nhau thao túng.
                            (3) Độc tài trong Quốc Hội, vì gần 90% là những cấp lãnh đạo từ Bộ Chính Trị xuống đến tận cùng hệ thống tổ chức đảng và tổ chức nhà nước đều là Đại Biểu, nên những luật ban hành chỉ là theo lệnh đảng để phục vụ đảng với nhà nước.
                            (4) Độc tài truyền thông, nên không có tiếng nói của sự thật từ người dân. Hơn thế nữa, bất cứ ai suy nghĩ khác hay hành động khác với đảng và nhà nước cộng sản, sẽ là phạm tội và bị bắt, vì vậy mà mọi người trên toàn cõi Việt Nam không hề biết sự thật nằm ở đâu, vì hệ thống truyền thông của đảng phun ra suốt ngày đêm toàn dối trá, hoặc sai lạc sự thật.
                            (5) Độc tài luật pháp, vì tất cả viên chức từ cơ quan điều tra đến viên chức trong phiên tòa đều là đảng viên cộng sản, nên bản án được đảng quyết định trước đối với những “bị can” mà đảng thấy là bất lợi cho họ.
                            (6) Độc tài sở hữu đất đai, vì chỉ có đảng cộng sản là chủ nhân toàn bộ đất đai, vì vậy mà lãnh đạo các cấp toàn quyền cướp đoạt tài sản của dân liên quan đến đất đai vườn ruộng.
                            (7) Độc tài kinh tế tài chánh, vì nền tảng trong lãnh vực này toàn là quốc doanh dưới tên gọi “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Do không có cạnh tranh nên không thể hòa mình vào kinh tế thị trường thế giới.

                            Tiếp đây là trích bài viết ngày 17/08/2012 của ông Nguyễn Thứ Lữ, bí danh Hồng Hà với 50 tuổi đảng, nguyên chính ủy Trung Đoàn Tây Bắc: “Trân trọng thưa đồng bào, nhất là các cán bộ, đảng viên, những quân nhân trong Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, những công an trong Công An Nhân Dân đang ra sức bảo vệ chế độ, hãy thức tỉnh, vì chúng ta đã và đang bị tập đoàn Nguyễn Tấn Dũng lường gạt cả nước. Những mồ hôi nước mắt và tiền bạc của nhân dân Việt Nam, đã và đang chảy vào túi tham của “tập đoàn Nguyễn Tấn Dũng”, vì họ đang nắm giữ 20 tập đoàn kinh tế quốc doanh trong tay để tự do thâu tóm, đó là:

                            (1) Tập đoàn Dệt May.
                            (2) Tập đoàn Điện Lực Việt Nam.
                            (3) Tập đoàn Dầu Khí.
                            (4) Tập đoàn Công nghiệp Than.
                            (5) Tập đoàn Công nghiệp Cao su.
                            (6) Tập đoàn Bưu chính Viễn Thông.
                            (7) Tập đoàn Xăng Dầu (trước là Tổng Công Ty Xăng Dầu)
                            (8) Tập đoàn Công nghiệp Hoá Chất.
                            (9) Tổng công ty Giấy Việt Nam.
                            (10) Tập đoàn Thuốc Lá (trước là Tổng công ty thuốc lá).
                            (11) Tổng công ty Sông Đà.
                            (12) Tập đoàn Thép (trước là Tổng công ty Thép).
                            (13) Tổng công ty Hàng Không Việt Nam.
                            (14) Tổng công ty công nghiệp Xi Măng.
                            (15) Tổng công ty Lương thực miền Bắc.
                            (16) Tổng công ty Lương thực miền Nam.
                            (17) Tổng công ty Cà phê Việt Nam.
                            (18) Tổng công ty Đường Sắt.
                            (19) Tập đoàn Hàng Hải Việt Nam (trước là Tổng công ty Hàng Hải Việt Nam).
                            (20) Tập đoàn Viễn Thông Quân Đội Viettel...”.

                            Với 20 tập đoàn kinh tế tài chánh cốt cán trong tay, Thủ Tướng Các Anh có một một thế lực mạnh nhất trong những thế lực tranh nhau để cùng thâu tóm quyền lợi của tổ quốc, của nhân dân. Các Anh nghĩ gì khi nói đến “cách mạng vô sản mà “bác” Các Anh chủ trương thực hiện để không còn tình cảnh người bóc lột người?” Nghĩ cho cùng, chủ trương đó vẫn đúng trong hiện nay, vì “không còn người bóc lột người, chỉ có lãnh đạo cộng sản bóc lột người thôi”. Dưới nét nhìn về xã hội xã hội chủ nghĩa, rõ ràng là đạo đức trong văn hóa Việt Nam suy đồi đến mức băng hoại, thì đạo đức mới xã hội chủ nghĩa vươn lên, và đó là thứ đạo đức không có đạo đức, cũng là thứ đạo đức lộn ngược.

                            Kết luận.

                            Là Người Lính trong quân đội nhân dân Việt Nam, tôi nghĩ, có Anh 5 năm, 15 năm, thậm chí 20 năm hay 25 năm cầm súng, có bao giờ Các Anh suy ngẫm điều gì về quảng đời quân ngũ với súng đạn, là tại sao có Anh đã thương tật tàn phế, có bạn đã gục ngã trên chiến trường? Và Các Anh đang còn súng đạn trong tay, đang nghĩ gì sau khi đọc xong những dòng chữ mà tôi vừa tường thuật, phân tách và giải thích bên trên?
                            Tôi rất thông cảm với Các Anh, những người sinh ra, lớn lên, học hành, và trở thành Người Lính trong quân đội nhân dân, tất cả những gì Các Anh học ở trường văn hoá, trường quân sự, lại thường học tập chính trị tại các đơn vị, cộng với những chính sách về các lãnh vực sinh hoạt xã hội, mà hơn hết là toàn bộ các phương tiện trong hệ thống truyền thông chỉ là tiếng nói của lãnh đạo đảng mà Các Anh theo dõi hằng ngày. Trôi dần theo thời gian, chính sách độc tài của cộng sản loang đến mọi ngóc ngách trong xã hội, rồi biến thành một nếp trong đời sống thường ngày đối với người dân nói chung, và Các Anh nói riêng, từ lúc nào không ai biết.
                            Sau khi Các Anh đọc xong những trang thư vừa rồi, tôi nghĩ là trong một chừng mực nào đó, Các Anh hiểu được tại sao tôi viết loạt thư này. Thật sự là tôi muốn giúp Các Anh có được nét nhìn của người tự do như chúng tôi, để Các Anh nhận ra con đường cộng sản mà Các Anh đã và đang đi, là tự mình nhốt mình trong nhà tù lớn do Bộ Chính Trị lãnh đạo với bản chất dối trá, và cai trị dối trá. Từ đó, Các Anh hãy suy nghĩ mà chọn cho mình một hướng đi, cù ng 90 triệu đồng bào hòa nhập vào Cộng Đồng thế giới tự do, để được ngẫng cao đầu giữa thế giới văn minh, được hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước đã lừng danh thế giới.
                            Tôi vững tin là bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi- sẽ hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào để làm nên lịch sử.

                            Hãy nhớ, “Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước. Không có dân chủ, không thể có sự trỗi dậy và phát triển bền vững. Và Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng. (trích trên internet).

                            Texas, tháng 9 năm 2013

                            Comment


                            • #29
                              Thư số 23a gởi người lính quân đội nhân dân Việt Nam.

                              Thư số 23a gởi
                              người lính quân đội nhân dân Việt Nam.
                              ******
                              Phạm Bá Hoa



                              Tôi chào đời năm 1930, vào quân đội Việt Nam Cộng Hòa năm 1954, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo cộng sản Việt Nam với lòng thù hận đã đày đọa chúng tôi trong hơn 200 trại tập trung mà họ gọi là trại cải tạo, hằng trăm Bạn tôi đến 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy tên Quốc Gia và Quân Lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn trong quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi không hận thù lãnh đạo Các Anh, nhưng tôi không bao giờ quên quá khứ đau thương tàn bạo mà họ gây ra cho Tổ Quốc, Dân Tộc! Vì vậy mà tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam cho đến khi quê hương tôi có một chế độ dân chủ tự do thật sự.
                              Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Xin gọi Người Lính Quân Đội Nhân Dân ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày. Chữ “Các Anh” viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc với Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào cầm quyền cũng chỉ một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.


                              Nội dung thư này giúp Các Anh nhìn sâu hơn vào tinh thần yêu nước của người dân -nhất là giới trẻ- bằng những hành động dũng cảm, tranh đấu ôn hòa cho một xã hội dân chủ tự do thật sự trên quê hương Việt Nam, cho dù bản thân họ bất cứ lúc nào cũng có thể trở thành “mục tiêu” của đảng với nhà nước xã hội chủ nghĩa. Hãy nhớ, lịch sử Việt Nam luôn tái diễn, khi người dân bị cai trị tàn bạo nghiệt ngã đến tận cùng của khúc quanh lịch sử, thì những anh hùng sẽ xuất hiện cứu dân cứu nước. Dưới nét nhìn của tôi, chúng ta đang vào khúc quanh đó.

                              Thứ nhất. Mạng lưới Blogger Việt Nam vận động quốc tế tại Bangkok.

                              Nhớ lại. Ngày 18/7/2013, nhóm Blogger trẻ khởi thảo bản văn, để nói lên nhận thức và quan điểm về Điều 258 Luật Hình Sự và Nghị Định 72. Bản văn này là “Tuyên Bố 258”, có khoảng 70 chữ ký mà trong đó có những tên tuổi blogger được nhiều người biết đến, như: Huỳnh Ngọc Chênh, Phạm Đoan Trang, Phạm Toàn, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Huỳnh Thục Vy, J.B Nguyễn Hữu Vinh ... Những người ký tên bản Tuyên Bố 258 cho biết: “Sẽ tiếp tục truyền đạt đến người dân Việt Nam về các quyền của họ, bằng cách phân phối công khai bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền, tổ chức các diễn đàn công khai để thảo luận về nhân quyền ở Việt Nam và vận động cho những sự cải thiện cần thiết trong việc tôn trọng và bảo vệ nhân quyền".


                              Số 258, là Điều 258 Luật Hình Sự, ghi tội danh là “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”. Đây là tội danh mà đảng với nhà nước Việt Nam đã sử dụng trong điều tra và xét xử nhiều blogger viết bài chống đối nhà nước độc tài tàn bạo với dân, nhưng khiếp nhược với Trung Cộng lấn chiếm biển đảo Việt Nam trong thời gian qua. Tuyên Bố 258 cũng kêu gọi nhà nước Việt Nam và Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc, xét lại để sửa đổi hoặc bỏ hẳn Điều 258 của Bộ luật Hình Sự năm 1999, sửa đổi năm 2009".
                              Ngày 31/7/2013. Một nhóm 5 nam nữ thanh niên rất trẻ, đại diện “mạng lưới Blogger Việt Nam” sang Bangkok tiếp xúc với các tổ chức Nhân Quyền Thế Giới có trụ sở tại thủ đô Thái Lan, để trao tận tay bản “Tuyên Bố 258” chống lại Điều 258 Luật Hình Sự và Nghị Định 72.
                              Tại cơ quan đại diện Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc (Office of United Nations High Commissioner for Human Rights. OHCHR), và tổ chức Theo Dõi Nhân Quyền (Human Rights Watch), các bạn Blogger đã trao tận tay bản “Tuyên Bố 258”.
                              Cô Leong Tsu Quin, Cố Vấn của Ủy Ban Luật Gia Quốc Tế (The International Commission of Jurists. ICJ) tại Bangkok, tiếp các bạn của Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam và nhận bản Tuyên Bố 258..

                              Thứ hai. Mạng lưới Blogger vận động quốc tế tại Hà Nội.

                              Ngày 7/8/2013. Năm bạn trẻ khác đã thành công trong việc trao tận tay Bà Elenore Kanter, Phó Đại Sứ Thụy Điển bản Tuyên Bố 258. Đồng thời nhóm bạn trẻ này cũng chia sẻ với Bà, về tất cả những tin tức mà nhà nước Việt Nam đang cố gắng ngăn chận tự do ngôn luận, song song với gia tăng đàn áp mạnh mẽ.
                              Ngày 23/8/2013. Nhóm Blogger gồm Nguyễn Chí Đức, Trịnh Anh Tuấn, Đào Trang Loan, Nguyễn Hoàng Vi, và Nguyễn Đình Hà, đã vào tòa đại sứ Australia (Úc Đại Lợi), và đã thành công trong mục đích trao bản “Tuyên Bố 258” cho viên chức ngoại giao trong tòa đại sứ.
                              Ngày 25/8/2013. Theo bản tin VRNs thì lúc 2 giờ 30 phút chiều, khoảng 30 bạn thuộc Mạng Lưới Blogger phía bắc, đã gặp nhau tại quán Cafe Win tại Hà Nội.
                              Vẫn bản tin VRNs. Cùng ngày 25/8/2013, lúc 10 giờ 15 phút tối, tại quán cà phê BB ở Sài Gòn có khoảng 40 người mà trong đó có gần 30 Blogger, cùng nhìn lại những hoạt động trong thời gian qua. Tóm tắt:
                              Blogger Nguyễn Tường Thụy, từ Hà Nội vào Sài Gòn tham gia hoạt động trong Mạng lưới Blogger, nhận định: “Đây là một việc làm hết sức ý nghĩa và có tác động đến nhà cầm quyền, họ rất lo ngại về Tuyên Bố 258 của chúng ta. Tôi rất cảm phục lòng dũng cảm của các bạn trẻ đã trao Tuyên Bố 258 cho tổ chức Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc, cho một số tòa đại sứ ngoại quốc có uy tín trên thế giới. Tôi nghĩ, chúng ta không chỉ phản đối về Điều 258 mà chúng ta còn phải có hành động phản đối cả điều 79 và điều 88, là những điều luật rất mơ hồ trong Luật Hình Sự. Chúng ta phải hết sức tỉnh táo và khôn khéo trong cuộc đấu tranh cho dân chủ”.
                              Blogger Nguyễn Thảo Chi, nhận định: “Nhiều tổ chức theo dõi nhân quyền trên thế giới chưa biết nhiều đến tình trạng đàn áp nhân quyền một cách có hệ thống tại Việt Nam. Bởi truyền thông trong nước là truyền thông của đảng, luôn che dấu sự thật, bẻ cong sư thật, hoặc dựng chuyện hoàn toàn. Cũng vì vậy mà rất cần nhiều người cộng tác, như những cánh tay nối dài để dịch sang Anh ngữ các sự kiện liên quan đến nhà cầm quyền Việt Nam vi phạm nhân quyền, quyền tự do ngôn luận, quyền tự do tôn giáo…, với mục đích chuyển đến các tổ chức nhân quyền trên thế giới biết, để họ có thể can thiệp kịp thời”. Nguyễn Thảo Chi là một trong những blogger đại diện Mạng lưới Blogger đến thăm và trao Tuyên bố 258 cho Cao ủy Liên Hợp Quốc về Nhân quyền, tại Thái Lan vào đầu tháng 8/2013.
                              Nhà báo Phạm Chí Dũng: “Trong vấn đề dân chủ ở Việt Nam, tôi nghĩ rằng chúng ta đang khủng hoảng và thiếu những cây viết để truyền đạt và lan tỏa những vấn đề Việt Nam ra nước ngoài. Cho nên, vấn đề quan trọng lúc này, chúng ta nên tập sự, hướng dẫn, và đào tạo những cây viết trẻ ở Việt Nam để chuẩn bị cho thời gian sắp tới. Vì vấn đề truyền thông và báo chí là một trong những yếu tố quan trọng của xã hội dân sự, mà có thể nói các bạn là tiền thân của xã hội dân sự ở Việt Nam.”
                              Blogger Hoàng Dũng: “Mỗi người nên lập một hồ sơ cá nhân liệt kê các hoạt động liên quan đến nhân quyền mà cá nhân đó đã và đang tham gia. Sau đó, gởi đến cho một người thân cận để khi có chuyện bất trắc xảy ra, thì người thân này sẽ truyền đạt rộng rãi hồ sơ cá nhân đó đến cho mọi người và cả cơ quan nhân quyền quốc tế biết, để họ kịp thời lên tiếng”.
                              Trước khi kết thúc, tất cả người tham dự đã cùng ký tên vào “Tuyên Bố Chung của Mạng Lưới Blogger Việt Nam”.
                              Các Blogger trẻ Việt Nam đã chứng tỏ lòng can đảm và trí thông minh bằng phương thức đấu tranh thích hợp, là vận dụng tối đa các phương tiện truyền thông quốc tế trong cuộc vận động Dân Chủ cho quê hương Việt Nam, cùng lúc ngang qua những cánh tay từ trong các tòa đại sứ nối dài ra thế giới Tự Do. Thật sự, các Blogger trẻ Việt Nam đã trưởng thành trong bối cảnh một xã hội dưới chế độ độc tài tàn bạo. Các Anh có công nhận, “giới trẻ đang tranh đấu ngày nay là rường cột quốc gia” một cách đúng nghĩa không? Tôi tin chắc rằng, dưới nét nhìn của Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại, những thành phần tranh đấu trong nước -nhất là giới trẻ- quê hương Việt Nam ngày mai đang trong tay họ.


                              Vẫn là ngày 25/8/2013. Buổi gặp gỡ của đại diện Mạng lưới Blogger Việt Nam với hai viên chức ngoại giao tại tòa đại sứ Cộng Hòa Liên Bang Đức đã thành công ngoài dự tưởng của các bạn ấy. Và đây là chi tiết:.
                              7.00 giờ sáng. Được tin nhân viên an ninh Hà Nội đến nhà trao giây mời Blogger Nguyễn Chí Đức đến Công An làm việc, liên quan đến nhóm Blogger đã vào tòa đại sứ Australia 5 ngày trước đó. Blogger Nguyễn Chí Đức từ chối yêu cầu này của Công An.
                              10.20 sáng. Nhóm đại diện Mạng lưới Việt Nam gồm các Blogger đều là nữ, là: Đặng Bích Phượng (Phương Bích), Nguyễn Hoàng Vi (An Đỗ Nguyễn) , Lê Thị Phương Lan (Lan Lê), Đào Trang Loan (Hư Vô), và Lê Hiền Giang (Sông Quê), đến tòa đại sứ Cộng Hòa Liên Bang Đức tại Hà Nội
                              10.28 sáng. Khi xe taxi chở nhóm Blogger vừa dừng trước cổng tòa đại sứ, lực lượng an ninh khoảng 30 Công An ào tới, hướng máy quay phim và máy ảnh vào các bạn Blogger. Rất may là hai viên chức của tòa đại sứ Đức đứng chờ nhóm Blogger bên trong cổng, nhanh chóng can thiệp và hướng dẫn các bạn vào bên trong an toàn


                              Lướt qua đôi nét về hoạt động của các Blogger này trong thời gian qua: (1) Blogger Phương Bích, được biết đến qua nhiều bài viết về các vấn đề chính trị-xã hội và cả đời sống thường ngày. Với giọng văn trong sáng, chân thật, và rất nữ tính. Ngày 21/8/2011, Cô là một trong 47 Blogger bị bắt tại Hà Nội, vì tham gia biểu tình chống Trung Cộng. Cô bị giam 6 ngày trong Hỏa Lò. Sau khi được tự do, đã viết loạt bài nổi tiếng “Bước chân vào chốn ngục tù”, gây xúc động cho nhiều độc giả trên internet. (2) + (3). Hai blogger Lan Lê và Sông Quê, là thành viên tích cực của “câu lạc bộ No-U” và phong trào biểu tình chống Trung Cộng ở Hà Nội. (4) Blogger Hư Vô, chào đời năm 1991, tuy rất trẻ nhưng đã tham gia tích cực trong các hoạt động xã hội như làm từ thiện, giúp đỡ người nghèo, và biểu tình chống chính sách gây hấn của Trung Quốc đối với Việt Nam. Đầu năm nay, dịp trước Tết Nguyên đán, Hư Vô đi phân phát quà Tết cho dân oan vô gia cư, và bị công an Hà Đông bắt giam vô cớ. Chỉ cho đến khuya, sau khi các blogger kéo đến và phản đối quyết liệt, công an mới thả cô gái trẻ. (5) An Đổ Nguyễn, sinh năm 1987, cũng là một blogger rất nhiệt tình, năng nổ trong các hoạt động đấu tranh và vận động cho nhân quyền ở Việt Nam. Cô từng tham gia phân phát Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền trong ngày dã ngoại 5/5/2013, sau đó có xô xát với Công An và bị sách nhiễu thường xuyên từ đó tới nay.
                              Xin trở lại bên trong tòa đại sứ Đức. Hai viên chức ngoại giao tiếp nhóm Blogger Việt Nam, là: ông Felix Schwarz, Lãnh Sự & Tham Tán Chính Trị. Và ông Jonas Koll, Bí thư thứ nhất, phụ trách Văn Hóa, Báo Chí, và Chính Trị.
                              Suốt hai tiếng đồng hồ, cuộc thảo luận thân mật gần như là buổi trò chuyện giữa bạn bè bằng hữu đã diễn ra trong không khí ấm áp, thông cảm, hiểu biết, và chia sẻ nhiều chi tiết cảm động.
                              Blogger Nguyễn Hoàng Vi kể lại: “Trong lúc vội vàng ra khỏi taxi để tìm cách vào trong tòa đại sứ, các blogger đã để quên bản Tuyên Bố 258 trên xe. Khi biết việc này, họ rất thông cảm vì họ cảm nhận được sự nguy hiểm khi mà bên ngoài cổng, có rất nhiều an ninh trang bị camera, máy chụp hình. Họ nói họ đã in sẵn Tuyên bố 258 và blogger có thể dùng bản in sẵn đó để trao cho họ. Hai ông Felix Schwarz và Jonas Koll cũng tỏ ra đặc biệt quan tâm đến tình trạng bị đàn áp của từng cá nhân blogger có mặt, kể cả những nguy hiểm, trục trặc về an ninh trên đường tới tòa đại sứ dự buổi gặp gỡ. Cả hai ông đều nói “không thể tưởng tượng nổi” khi nghe các blogger trình bày tóm lược tình hình vi phạm nhân quyền, vốn diễn ra tràn lan ở Việt Nam những năm qua”.
                              Phía các blogger cũng khá ngạc nhiên khi biết rằng, viên chức tòa đại sứ Đức xem thường điều mà dư luận cho rằng, Việt Nam cải thiện nhân quyền qua phiên tòa phúc thẩm xét xử Phương Uyên ngày 16/8/2013. Tòa đại sứ Đức khẳng định: ”Việt Nam chỉ muốn làm đẹp ở mặt nổi trước dư luận quốc tế, trong khi mặt chìm thì tình hình đàn áp và bắt bớ vẫn tiếp tục”.

                              Với bản Tuyên bố 258 của Mạng lưới Blogger Việt Nam, tòa đại sứ Đức nhận định: “Khách quan, đầy đủ, và súc tích của Tuyên bố 258, sẽ giúp Mạng Lưới thành công trong việc thu hút sự quan tâm của cộng đồng quốc tế; và Đức sẽ vận động để đưa bản Tuyên Bố này ra phiên họpcủa UPR (Universal Periodic Review) vào năm tới tại Geneve. Đó là phiên họp tổng kết bản đánh giá định kỳ của Việt Nam với tư cách ứng viên vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc”.
                              Các blogger Việt Nam nói lời cảm ơn và trân trọng đối với thiện ý của viên chức ngoại giao Cộng Hòa Liên Bang Đức. Blogger Hoàng Vi phát biểu: “Việc tự do thông tin, báo chí, ngôn luận ở Việt Nam, bị xếp ở mức thấp nhất thế giới thực sự là điều khiến cho người Việt Nam phải trăn trở, suy nghĩ, bởi vì phần lớn trong đó là do ý thức của người dân Việt Nam chúng tôi. Chính những nỗ lực của người dân Việt Nam mới có thể cải thiện tiến đến thay đổi được tình hình. Nhưng chúng tôi mong với vị thế và sức mạnh ngoại giao của các nước, cộng đồng quốc tế sẽ hỗ trợ chúng tôi, trước mắt là giúp để Điều 258 vi phạm tự do ngôn luận phải bị bãi bỏ”.
                              Cả 5 Blogger nữ đều cảm nhận được sự cảm thông và chia sẻ rất lớn từ viêc chức ngoại giao Đức quốc. Không ai nói thành lời, nhưng dường như mọi cử chỉ mọi hành động của hai nhà ngoại giao đại diện cho nước Đức, đã nói lời mạnh mẽ rằng: “Chúng tôi ở bên các bạn, những blogger đấu tranh cho nhân quyền của người dân Việt Nam”.
                              Buổi gặp gỡ trao đổi tình hình Nhân Quyền tại Việt Nam kết thúc, khi viên chức ngoại giao Đức quốc cho biết, sẽ cùng Liên Minh Châu Âu đặt vấn đề để Chính phủ Việt Nam xóa bỏ Điều 258 Bộ luật Hình sự cũng như các điều luật khác có tính cách vi phạm nhân quyền.
                              Lúc ấy đã quá trưa, .rất đông Công An vẫn bên ngoài cổng như đang chờ các Blogger trở ra. Thấy vậy, tòa đại sứ cho biết sẽ sử dụng xe công vụ (của tòa đại sứ) đưa mọi người về nhà, lại còn sắp xếp người đi theo xe để bảo đảm an toàn. Các bạn Blogger cám ơn, chỉ xin được giúp xe đưa về nhà là đủ..Đôi bên bịn rịn chia tay. Hai ông Felix Schwarz và Jonas Koll tiễn cả nhóm ra tận xe.

                              Thứ ba. Tuổi trẻ nghĩ về Phương Uyên

                              Diana Võ 85, với bài “Cào Bằng” trong DânLàmBáo, đã nói lên sự suy nghĩ của tác giả về hai chữ “Cào Bằng” mà Nguyễn Phương Uyên đã sử dụng trong phiên tòa phúc thẩm ngày 16/8/2013. Lần đầu tiên tôi nghe hai chữ “cào bằng” lạ tai lắm. Tôi hỏi ba tôi, và được ông giải thích. “Chữ “cào bằng” có nghĩ như chữ san bằng, hoặc làm cho hai điều gì đó như giống nhau. Chẳng hạn như những người làm ruộng, trước khi gieo mạ phải cuốc đất lên. Xong lấy chày vồ đánh cho đất vỡ vụn ra. Rồi lấy cái cào, cào đất cho bằng phẳng, bơm nước vào cho đất ướt, và cuối cùng là gieo hột lúa xuống”.

                              “Từ lời giải thích này, tôi mới hiểu hai chữ cào bằng mà Phương Uyên đã dùng khi ra trước tòa.
                              Thật vậy, đảng chỉ là một tổ chức của một số người tham gia, chớ không phải toàn bộ người dân trong một quốc gia đó đếu vào đảng. Do đó, họ (lãnh đạo cộng sản) không thể cào bằng như là một chính phủ điều hành của một nước..... Ngày nay, người Tàu đã chiếm đất chiếm biển Đông. Chúng bắn giết ngư dân đồng bào tôi. Chúng đem hàng độc hại qua Việt Nam để giết chết dân tộc tôi. Cũng như mấy ngàn năm trước, ngày nay người Tàu qua mua con gái Việt Nam với giá rẻ mạt, đem về rao bán cho các người Tàu già nua bệnh hoạn với giá cao gấp trăm ngàn lần. Khi thấy những điều sai trái trên, tôi phản đối thì nhà cầm quyền bắt tôi, kết án tôi với cái tội nói xấu nước bạn. Nhà cầm quyền không được cào bằng tôi với các ông. Các ông là bạn của người Tàu, chứ tôi và người Việt Nam không bao giờ là bạn của họ.... Một điểm khác nữa, đảng cộng sản đã cào bằng nhóm chữ "yêu tổ quốc là yêu xã hội chủ nghĩa”.. ....Tổ quốc bao gồm một lãnh thổ, một dân tộc, một nền văn hóa, chung một ngôn ngữ, cón xã hội chủ nghĩa là nhóm chữ trừu tượng không ai sờ nắm được, vậy mà họ “cào bằng” ai chống chủ nghĩa xã hội là chống tổ quốc, chống nhà nước cộng sản.... Cào bằng, cũng có nghĩa là áp đặt....... Hiện nay, người dân Việt Nam đã bước qua sự sợ hãi là nhờ vào các phương tiện truyền thông nhiều chiều. Các ông không thể muốn nói gì thì nói, làm gì thì làm. Qua rồi thời làm mưa làm gió của các ông, gió đã đổi chiếu. Các thế lực áp đặt, phản dân hại nước sẽ bị cuốn trôi theo làn gió mới”.

                              Kết luận.

                              Là Người Lính trong quân đội nhân dân Việt Nam, tôi nghĩ, có Anh 5 năm, 15 năm, thậm chí 20 năm hay 25 năm cầm súng, có bao giờ Các Anh suy ngẫm điều gì về quảng đời quân ngũ với súng đạn, là tại sao có Anh đã thương tật tàn phế, có bạn đã gục ngã trên chiến trường? Và Các Anh đang còn súng đạn trong tay đang nghĩ gì? Tôi thông cảm với Các Anh, những người sinh ra, lớn lên, học hành, và trở thành Người Lính trong quân đội, tất cả những gì Các Anh học ở trường văn hoá, trường quân sự, lại thường học tập chính trị tại các đơn vị, cộng với những chính sách về các lãnh vực sinh hoạt xã hội, mà hơn hết là toàn bộ các phương tiện trong hệ thống truyền thông chỉ là tiếng nói của lãnh đạo đảng mà Các Anh theo dõi hằng ngày. Trôi dần theo thời gian, chính sách độc tài của cộng sản lan tỏa đến mọi ngóc ngách trong sinh hoạt xã hội, rồi biến thành một nếp trong đời sống thường ngày đối với người dân nói chung, với Các Anh nói riêng từ lúc nào không ai biết.
                              Các Anh hãy nhớ. Trên thế giới, chưa bao giờ người dân của các quốc gia Dân Chủ Tự Do ào ạt chạy sang các nước do cộng sản cầm quyền để xin tị nạn chính trị, chỉ có người dân trong các quốc gia bị cộng sản cai trị ào ạt chạy sang các quốc gia Dân Chủ Tự Do xin tị nạn chính trị. Riêng Việt Nam từ tháng 4/1975 đến cuối năm 1995, theo tài liệu của Liên Hiệp Quốc phổ biến năm 2000, đã có 839.200 người thoát khỏi Việt Nam đến tị nạn tại 91 quốc gia, cũng trong thời gian đó Liên Hiệp Quốc ước lượng có từ 400.000 đến 500.000 người chết mất xác trên biển và trong rừng sâu, trên đường vượt biên vượt biển tìm tự do! Với sự kiện đó, với những con số đó, có gợi cho Các Anh hai chữ “tại sao” không? Tôi không tin Các Anh là những người vô cảm, bởi Người Lính thường xuyên trên lằn ranh giữa sống với sự chết, chính vì vậy mà trong những giờ phút riêng tư đã biến họ trở nên tình cảm hơn.
                              Đến đây, tôi nghĩ là trong một mức độ nào đó, Các Anh hiểu được tại sao tôi viết loạt thư này gởi đến Các Anh. Thật sự là tôi muốn giúp Các Anh có được nét nhìn của người tự do như chúng tôi, để Các Anh nhận ra con đường cộng sản mà Các Anh đã và đang đi là tự mình nhốt mình trong nhà tù lớn xã hội chủ nghĩa. Từ đó, Các Anh hãy suy nghĩ mà chọn cho mình một hướng đi, cùng 90 triệu đồng bào hòa nhập vào Cộng Đồng thế giới tự do, để được ngẫng cao đầu giữa thế giới văn minh lịch sự, được hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước đã lừng danh thế giới.
                              Tôi vững tin là bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi- sẽ hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào để làm nên lịch sử.
                              Hãy nhớ, “Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước. Không có dân chủ, không thể có sự trỗi dậy và phát triển bền vững. Và chính chúng ta phải tranh đấu, vì Dân Chủ Tự Do không phải là quà tặng.
                              Texas, tháng 9 năm 2013
                              Last edited by tieuchuy; 11-19-2013, 02:50 AM.

                              Comment


                              • #30
                                Thư số 24a gởi người lính quân đội nhân dân Việt Nam

                                Thư số 24a gởi
                                người lính quân đội nhân dân Việt Nam
                                ******
                                Phạm Bá Hoa


                                Tôi chào đời năm 1930, vào quân đội Việt Nam Cộng Hòa năm 1954, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo cộng sản Việt Nam với lòng thù hận đã đày đọa chúng tôi trong hơn 200 trại tập trung mà họ gọi là trại cải tạo, hằng trăm Bạn tôi đến 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy tên Quốc Gia và Quân Lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn trong quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi không hận thù lãnh đạo Các Anh, nhưng tôi không bao giờ quên quá khứ đau thương tàn bạo mà họ gây ra cho Tổ Quốc, Dân Tộc! Vì vậy mà tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam cho đến khi quê hương tôi có một chế độ dân chủ tự do thật sự.

                                Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Xin gọi Người Lính Quân Đội Nhân Dân ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày. Chữ “Các Anh” viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc với Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào cầm quyền cũng chỉ một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.


                                Nội dung thư này tôi giúp Các Anh nhận ra một góc của “chân dung” Thủ Tướng Các Anh trong chuyến thăm Pháp 24-26/9/2013.

                                Thứ nhất. Thủ Tướng cộng sản Việt Nam tại Paris.

                                Bản tin ngày 24/9/2013 của đài Á Châu Tự Do cho biết, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng hướng dẫn phái đoàn thăm nước Pháp trong các ngày 24-26/9/2013. Theo chương trình, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng sẽ hội đàm với Thủ Tướng Pháp Jean-Marc Ayrauld, diện kiến Tổng thống Francois Hollande, và dự đối thoại với các doanh nghiệp Pháp. Sau đó, ngày 26-28/9/2013, Thủ Tướng cộng sản Việt Nam sẽ có mặt tại New York tham dự đại hội đồng Liên Hiệp Quốc khóa 68. Trong thời gian ở Hoa Kỳ, ông Dũng sẽ có các cuộc gặp với Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc, lãnh đạo các tổ chức như UNICEF, UNDP, và dự Diễn đàn đầu tư Việt Nam - Hoa Kỳ.


                                Ngày 24/9/2013, phái đoàn Việt Nam rầm rộ đến phi trường thủ đô Pháp quốc, Thủ Tướng cộng sản Việt Nam được đón tiếp bởi một viên chức đại diện của tỉnh Val de Marne, và khoảng 10 người Việt Nam với 2 hay 3 lá cờ máu đã nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam theo lệnh của Quốc Tế Cộng Sản. Không có bất cứ một phóng viên hay một máy thu hình nào của truyền thông Pháp quốc có mặt. Nói chung là âm thầm lặng lẽ.


                                Theo bản tin đài Á Châu Tự Do ngày 25/09/2013, Thủ Tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng, đã hội đàm với Thủ Tướng Pháp Jean-Marc Ayarault tại Phủ Thủ Tướng. Cuối buổi hội đàm, hai ông Thủ Tướng đã ký bản Tuyên bố Chung, nhấn mạnh đến bang giao chiến lược đánh dấu 40 năm thiết lập bang giao. Thủ Tướng Dũng hoan nghênh lập trường của Pháp trên hồ sơ Biển Đông, giải quyết tranh chấp trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển.

                                Ngoài Tuyên Bố Chung, hai Thủ Tướng đã chứng kiến các thành viên của hai phái đoàn Việt – Pháp ký: (1) Hiệp Định giữa tập đoàn khí đốt Pháp GDF Suez với tập đoàn Petro Vietnam Gas về dự án khai thác khí hóa lỏng Sơn Mỹ. (2) Hiệp Định hợp tác giũa Ubifrance với ViệtTrade, tăng cường khả năng hoạt động của chi nhánh Ubirance tại Việt Nam. (3) Hiệp Định giữa công ty Pháp Vinci Concessions với Bộ Giao Thông Việt Nam, phát triển hệ thống đường bộ với tốc độ nhanh của Việt Nam. (4) Thống Đốc Ngân Hàng Việt Nam Nguyễn Văn Bình, đã trao cho chủ tịch tập đoàn ngân hàng Pháp BNP Parisbas Beaudoin Prot giấy phép thành lập một chi nhánh của ngân hàng này ở Hà Nội. (5) Hiệp Định tài chính của Bộ Trưởng Ngoại Thương Pháp Nicole Bricq, tài trợ 13,5 triệu euro năm 2013 cho một dự án bệnh viện ở Việt Nam......


                                Trong lúc ký bản Tuyên Bố Chung, Thủ Tướng Các Anh nhìn vào trang giấy toàn chữ Pháp mà không biết ký tên vào chỗ nào, thấy lúng túng mãi nên Thủ Tướng Pháp dùng ngón giữa của bàn tay phải chỉ vào trang giấy cho ông ấy ký. Nhìn trên tấm hình hoặc màn ảnh TV, lúc ấy ngón cái và ngón trỏ chập vào nhau như đang cầm vật gì, nên ông dùng ngón giữa để chỉ cho Thủ Tướng Việt Nam. Với cử chỉ này làm tôi nhớ lại thời Pháp cai trị Việt Nam, cử chỉ đó là thể hiện một ý nghĩa không đúng đắn, nhất là trong bang giao quốc tế. Vậy, có phải ông Thủ Tướng Pháp vì quá bực mình nên có ý xỏ Thủ Tướng Việt Nam chăng? Nếu phải, thì tại sao Thủ Tướng Pháp bực mình? Các Anh hãy đọc tiếp đoạn dưới đây sẽ hiểu.

                                Thứ hai. Thủ Tướng Dũng trên đài TV Canal Plus tại Paris.

                                “Theo yêu cầu của một số bằng hữu, tôi ghi lại và chuyển ngữ đoạn video dưới đây, ghi lại cuộc trao đổi ngắn ngủi giữa Thủ Tướng cộng sản Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng và Thủ Tướng Cộng Hòa Pháp Jean Marc Ayrault, trong cuộc họp báo tại Phủ Thủ Tướng Matignon, thủ đô Paris ngày 25/9/2013”. Đó là đoạn văn mở đầu của ông Vọng Trấn Quốc từ Paris. Ông viết tiếp:

                                “Người dân Pháp không hề biết chuyến công du của Thủ Tướng cộng sản Việt Nam vì giới truyền thông Pháp không loan tải bất cứ tin tức nào liên quan, nhưng nhờ có chương trình truyền hình PHIẾM LUẬN (La Nouvelle Edition) trình chiếu đoạn video chế nhạo Thủ Tướng cộng sản Nguyễn Tấn Dũng họ mới biết, biết để mà cười với nụ cười nhạo báng. “La Nouvelle Edition” là chương trình truyền hình hàng ngày từ thứ hai đến thứ sáu, từ lúc 12 giờ 20 trưa của đài TV Canal Plus. Mục đích của chương trình là phân tích, mổ xẻ, và phiếm luận thời sự nước Pháp nói riêng, và trên thế giới nói chung. Được điều khiển bởi Ali Baddou, với trợ giúp của hai nhân vật thiên tả dầy kinh nghiệm là ông Nicolas Domenach, và bà Anne-Elisabeth Lemoine”. (Trong đoạn này, tôi có thay đổi vài chữ để giúp người lính cộng sản dễ hiểu. Phạm Bá Hoa)

                                Dưới đây là đoạn video dài 3 phút 50 giây trên đài TV Canal Plus, nguyên bản Pháp ngữ và bản dịch Việt ngữ của ông Vọng Trấn Quốc:

                                Ông Nicolas Domenach: Jean-Marc Ayrault tient des conférences de presse. Vous allez le voir avec le Premier Ministre vietnamien. Vous allez regarder ça et vous allez même peut être avoir quelques compassions pour lui, même vous, Anne-Elisabeth. Oui, oui, vous allez voir parce que ça commence mal. Ça commence mal avec des questions de lumière et puis ça ne finit pas très très très bien. Mais regardez d’abord le début.
                                “Jean-Marc Ayrault họp báo. Quý vị sẽ thấy ông với Thủ Tướng Việt Nam. Quý vị sẽ xem cái này và có thể sẽ có chút từ bi tội nghiệp cho ông ta, thậm chí là bà, bà Anne-Elisabeth ạ. Vâng, các vị sẽ thấy, bởi vì mọi việc khởi đầu tồi tệ, với vấn đề ánh sáng và kết cuộc thì rất rất rất là tồi tệ. Nhưng trước hết mời quý vị xem phần đầu"

                                Bắt đầu buổi họp báo, Nguyễn Tấn Dũng có vẻ không được bình thản, nhìn láu liên, chung quanh và đằng sau cửa sổ. Thủ Tướng Pháp cười, tỏ ý không hiểu Dũng muốn nói gì, có lẽ Dũng muốn nói hôm nay là một ngày đẹp trời chăng?

                                Thủ Tướng Pháp bắt đầu phát biểu: Monsieur le Premier Ministre. Mesdames, Messieurs. … convivial et particulièrement chaleureux..
                                “Thưa ông Thủ Tướng. Thưa quý bà, quý ông, thân ...thiện và đặc biệt nồng nhiệt...”.

                                Thủ Tướng Việt Nam ngắt lời bằng tiếng Việt: “Ê, có thể khóa cái này đằng sau được không? Nắng quá!”

                                Thủ Tướng Pháp thấy Dũng múa tay, không hiểu Dũng muốn gì nên kiếm xung quanh có ai đoán được không: C’est le soleil qui vous…Ah oui, il faut tirer le rideau.
                                "Là ánh nắng làm ông…À vâng, phải kéo rèm cửa sổ".

                                Thủ Tướng Việt Nam: “Ờ”. (vẫn là tiếng Việt)

                                Thủ Tướng Pháp nhờ tùy viên: Voulez-vous tirer le rideau s’il vous plaît, parce que… .
                                "Nhờ ông vui lòng kéo rèm cửa sổ, bởi vì…” Nói xong, ông chỉnh lại áo veste, giơ cao hai tay thở dài bất lực

                                Bình luận viên Ali Baddou chế nhạo: Très très chaleureux, très très chaleureux.
                                “Rất rất là nồng nhiệt, rất rất là nồng nhiệt”.

                                Nicolas Domenach phụ họa thêm: Et quand ça commence mal, eh ben, ça continue mal. Regardez, les pauvres!
                                "Và khi mọi sự khởi đầu không tốt, thì mọi việc tiếp theo đều sẽ xấu. Quý vị nhìn xem, tội nghiệp!"

                                Thủ Tướng Pháp: Je ne sais pas comment pour la traduction on fait parce que…je… pour Monsieur le Premier Ministre. Vous avez pris… (làm dấu tay chỉ ống nghe) Nous avions envisagé un déplacement en France et il a lieu....
                                "Tôi không biết cho việc dịch thuật mình làm sao đây, bởi vì…tôi… ông Thủ Tướng. Ông có đã lấy... (làm dấu tay chỉ ống nghe) ? (trở lại bài diễn văn) Chúng tôi đã dự tính một chuyến công du tại Pháp và điều đó đang xảy ra..."

                                Thủ Tướng Việt Nam ngắt lời vẫn bằng tiếng Việt: "Xin lỗi Ngài, chưa nghe được"

                                Thủ Tướng Pháp: “ça ne marche pas?” “Không chạy à?”

                                Thủ Tướng Việt Nam: "Chưa nghe được, xin lỗi Ngài cho dịch trực tiếp"

                                Thủ Tướng Pháp
                                (nghe thông dịch) Ông nói nhỏ điều gì với nhân viên, rồi giơ tay lên thở dài lần thứ hai.

                                Ông Ali Baddou: Et ce n’est pas fini. C’est ça qui est génial.
                                “Vẫn chưa hết, thế mới tuyệt vời”.

                                Ông Nicolas Domenach: ça continue avec les oreillettes. Ecoutez.
                                “Mọi việc tiếp tục với ống nghe, quý vị hãy lắng nghe”.

                                Thủ Tướng Việt Nam: “À, thưa Ngài Thủ Tướng. À, trước hết thay mặt đoàn đại biểu cao cấp của chính phủ Việt Nam, tôi bày tỏ vui mừng được trở lại thăm nước Pháp… ở Âu Châu và… trên thế giới”.

                                Thủ Tướng Pháp: Merci Monsieur le Premier Ministre pour les vœux que vous venez de formuler. “Cám ơn những lời chúc của ông Thủ Tướng”.

                                C’est génial “MISTER BEAN " (Tuyệt vời MISTER BEAN!)
                                Quelqu’un s’est fait engueler? “Có ai bị mắng không?”
                                Tout le monde. “Tất cả mọi người”.
                                Mais on comprend pourquoi le Premier ministre vietnamien a dit merci à.... “Nhưng chúng ta hiểu rằng, tại sao ông Thủ Tướng Việt Nam đã chuyển lời cảm ơn đến...”

                                Tiếng và hình của ông Nguyễn Tấn Dũng: “GiĂNG MẮC Ê RÔ”, làm mọi người cười ồ!

                                Ông Nicolas Domenach:
                                Ah oui, Jean-Marc Ayrault. On souffre pour lui. On souffre effectivement. “À là Jean-Marc Ayrault. “Mình đau đớn hộ ông ấy. Mình thực sự đau đớn”.
                                On souffre pour... “Mình đau đớn cho..” :

                                Nghe lại giọng nói của ông Nguyễn Tấn Dũng lần thứ hai: GiĂNG MẮC Ê RÔ

                                Ông Ali Baddou: C’est joli, ça donne un petit côté exotique. “Cũng đẹp, nó cho một khía cạnh ngoại lai.

                                Bà Anne-Elisabeth nhại giọng nghẹt mũi quê mùa của ông Dũng: "Giăng Mắc Ê Rô"

                                Ông Ali Baddou hỏi bà Anne-Elisabeth: ça va Michel Leeb? “Khỏe không ông Michel Leeb?” (Giải thích thêm. Michel Leeb là một tên hề người Pháp, chuyên chọc cười bằng cách lấy hai tay kéo dài híp mắt lại, nhái giọng the thé và nghẹt mũi của người Tàu nói tiếng Pháp bồi)

                                Bà Anne-Elisabeth: On ne s’en lasse pas avec Giăng Mắc Ê Rô. Vous pouvez remettre? "Mình vẫn không chán với Giăng Mắc Ê Rô. Ông có thể cho nghe lại được không?"

                                Ông Ali Baddou: Allez remettez le encore une fois. “Ừ, nghe lại ông ta một lần nữa”.

                                Hình và giọng ông Nguyễn Tấn Dũng lần thứ ba.

                                Nicolas Domenach: Et ce n’est pas Michel Leeb. “Và đây không phải là Michel Leeb”.

                                Cuối cùng, ông Vọng tóm tắt đoạn video chưa đến 4 phút mà chương trình Canal Plus đã giúp khán giả nhận biết Thủ Tướng cộng sản Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng qua ba điểm:

                                (1) Vô văn hóa, vì Thủ Tướng Việt Nam khều tay Thủ Tướng Pháp, và hỏi: “Ê, có thể khóa cái này đằng sau được không ? Nóng quá."
                                (2) Vô học, vì Thủ Tướng Việt Nam phát biểu: “À, thưa ngài Thủ Tướng... Pháp. Trước hết, thay mặt đoàn đại biểu cấp cao của chính phủ Việt Nam, tôi bày tỏ vui mừng được trở lại thăm nước Pháp ở… Châu Âu và… trên thế giới”.
                                (3) Nhà quê, vì tên của Thủ Tướng Pháp là Jean-Marc Ayrault, phát âm là Jăng-Mạc E-Rô, nhưng với giọng nói nhừa nhựa the thé giống như người Trung Hoa, nên Thủ Tướng cộng sản Việt Nam phát âm tên Thủ Tướng Pháp thành Giăng-Mắc-Ê-Rô. Vì vậy mà đài truyền hình này chế nhạo rằng, Thủ Tướng cộng sản Việt Nam đặt tên mới cho Thủ Tướng Cộng Hòa Pháp là Giăng-Mắc-Ê-Rô.


                                Đến đây, Các Anh có cảm nhận nỗi nhục của người Việt Nam khi có người lãnh đạo như Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng không? Chẳng lẽ đường đường là Thủ Tướng của đảng cộng sản Việt Nam, mà bị đài truyền hình tại Paris chế nhạo mà Các Anh vẫn thản nhiên, vẫn không có gì để suy nghĩ sao? Thôi thì dù thế nào đi nữa, Các Anh hãy đọc lời bình của cô (hay bà) Bích Liên ngày 29/9/2013 dưới đây:

                                “Mấy ông Tổng Bí Thư và Thủ Tướng Việt Cộng đều dốt Anh ngữ và Pháp ngữ. Ngồi bên phải của Thủ-Tướng Pháp Jean-Marc Ayrault mà nói tiếng Việt như ông ta đang ở văn-phòng tại Hà Nội thì mất mặt anh-hùng và sỉ diện quốc gia Việt Nam. Phát âm rập khuôn Hồ Chí Minh cũng dốt ngoại-ngữ như Các Mác (Karl Marx), Ăng-ghen (Engels), Xích-ta-lin (Stalin), vì vậy mà họ Ayrault (e-rô) của Thủ Tướng Pháp bị Thủ Tướng Việt Cộng phát âm thành “ê-rô” có nghĩa là anh hùng (héros)! Còn tên đôi “Jean-Marc” (Giăng-Mạc) thì Thủ Tướng Việt Cộng phát âm thành “Giăng-Mắc” thì Bích-Liên tôi chào thua! Đây đúng là tên hề thứ hai của giới lãnh-đạo Việt Cộng. Tên hề thứ nhứt là cựu Chủ Tịch nước Nguyễn Minh-Triết cũng nói sai tiếng Anh trong lần bắt tay với cựu Tổng Thống Hoa Kỳ Bill Clinton tại Hà Nội năm xưa. Ông ta nhìn Tổng Thống Hoa Kỳ mà nói ”Who are you?” “Ngài là ai?”, thay vì “How are you?”. “Ngài có khỏe không?”. Rất có thể là Tổng Thống Bill Clinton không muốn ông Nguyễn Minh Triết mất mặt, nên trả lời I’m Hillary Clinton’s husband, Tôi là chồng của Bà Hillary Clinton”.

                                Và xin trích trong bài viết của tác giả Phan Nhân, cũng mô tả chân dung Thủ Tướng Các Anh như sau: “Tên tuổi của Thủ Tướng Dũng đã gắn liền với cái tên “Giăng Mắc Ê Rô” ngay trên một đài truyền hình của nước Pháp”

                                “Thiệt ra, Phan Nhân tui cứ tưởng rằng, một khi đã làm tới “Thủ Tướng” thì ít ra, Nguyễn Tấn Dũng phải học đôi câu tiếng Pháp, trước khi đến nước Pháp, cũng như phải học qua những cung cách lịch sự, phép xã giao tối thiểu của một người bình thường khi giao tiếp với người ngoại quốc. Trường hợp Nguyễn Tấn Dũng tới Pháp vừa qua, người Pháp vốn rất lịch sự từ cung cách ăn nói, từng cử chỉ, phải biết tay chân của mình để ở đâu… chớ chưa nói đến những điều cần phải có của một người mang danh là Thủ Tướng của một quốc gia, cũng là nhà ngoại giao nữa. Tôi nghĩ, không riêng tại hải ngoại, mà cả người Việt Nam trong nước, cũng có rất nhiều người đã được những tràng cười tương tự như mọi khán thính giả đài truyền hình Canal Plus của Pháp, khi được mục kích những động tác quơ tay, nói nhảm bằng tiếng Việt của Nguyễn Tấn Dũng ngay bên cạnh Thủ Tướng Pháp Jean Marc AyRault....”.

                                Trên đây là tài liệu từ Paris, còn những bản tin thời sự trong trang tuyệt nhiên không có bản tin nào đụng đến cuộc họp giữa Thủ Tướng cộng sản Việt Nam với Thủ Tướng Cộng Hòa Pháp, mà là những bài đề cao Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng về “lòng tin chiến lược” trong đối thoại Sangri-La tại Singapore ngày 31/5/2013, nay ông Dũng rao giảng tại Pháp và Châu Âu, như thể bản chất vừa gian vừa dối lồng trong cái gọi là lòng tin chiến lược đó, đang là “cái phao cho hòa bình và phát triển” mà nhóm “đỉnh cao gian trá” Bộ Chính Trị cộng sản Việt Nam rao giảng cho toàn thế giới vậy. “Đỉnh cao hoang tưởng” đến mức ấy là hết nói rồi.

                                Kết luân.

                                Cho tôi hỏi Các Anh một câu nhé! “Với những cử chí cộng với lời ăn tiếng nói của Thủ Tướng Các Anh tại Paris, bị đài truyền hình Pháp ví như một người hề tên Michel Leeb, thì liệu có phải 15 đảng viên còn lại trong Bộ Chính Trị đều là hề như “đồng chí X của ông Sang”, hay tệ hơn nữa?” Tôi hỏi vậy thôi, chớ thật ra cho dù có khá hơn hay tệ hơn một tên hề thì nỗi nhục vẫn là 90 triệu đồng bào chớ không phải các ông ấy, vì khi đảng viên cộng sản “tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc” lên đến hàng lãnh đạo thì đâu còn liêm sỉ mà biết nhục. Nhìn theo cách khác, “khi liêm sỉ đi xuống thì lòng tham đi lên, vì vậy mà tự điển xã hội ch3 nghĩa Việt Nam thời nay có nhóm chữ “nhóm lợi ích”, để chỉ những phe những nhóm lãnh đạo cùng nhau chia chác từng lãnh vực mà thâu tóm quyền lợi. Tôi nhớ trong trang “quanlambao” có bài viết của một tác giả nào đó nói rằng: “Lãnh đạo các cấp trong đảng cộng sản Việt Nam, đã trở thành những phe nhóm như những tổ chức băng đảng xã hội đen từ sau khi cộng sản quốc tế sụp đổ tháng 12/1991, từ đó chỉ biết đến quyền lực và quyền lợi thôi”. Tôi cho rằng, thực tế vấn đề quản trị và điều hành xã hội Việt Nam hiện nay, không có gì khác với nhận định đó.
                                Các Anh là Người Lính trong quân đội nhân dân Việt Nam, tôi nghĩ, có Anh 5 năm, 15 năm, thậm chí 20 năm hay 25 năm cầm súng, có bao giờ Các Anh suy ngẫm điều gì về quảng đời quân ngũ với súng đạn, là tại sao có Anh đã thương tật tàn phế, có bạn đã gục ngã trên chiến trường? Và Các Anh đang còn súng đạn trong tay đang nghĩ gì? Tôi thông cảm với Các Anh, những người sinh ra, lớn lên, học hành, và trở thành Người Lính trong quân đội, tất cả những gì Các Anh học ở trường văn hoá, trường quân sự, lại thường học tập chính trị tại các đơn vị, cộng với những chính sách về các lãnh vực sinh hoạt xã hội, mà hơn hết là toàn bộ các phương tiện trong hệ thống truyền thông chỉ là tiếng nói của lãnh đạo đảng mà Các Anh theo dõi hằng ngày. Trôi dần theo thời gian, chính sách độc tài của cộng sản lan tỏa đến mọi ngóc ngách trong sinh hoạt xã hội, rồi biến thành một nếp trong đời sống thường ngày đối với người dân nói chung, với Các Anh nói riêng từ lúc nào không ai biết.
                                Tôi xin nhắc để Các Anh hãy nhớ rằng: “Trên thế giới, chưa bao giờ người dân của các quốc gia Dân Chủ Tự Do ào ạt chạy sang các nước do cộng sản cầm quyền để xin tị nạn chính trị, chỉ có người dân trong các quốc gia bị cộng sản cai trị ào ạt chạy sang các quốc gia Dân Chủ Tự Do xin tị nạn chính trị. Riêng Việt Nam từ tháng 4/1975 đến cuối năm 1995, theo tài liệu của Liên Hiệp Quốc phổ biến năm 2000, đã có 839.200 người thoát khỏi Việt Nam đến tị nạn tại 91 quốc gia, cũng trong thời gian đó Liên Hiệp Quốc ước lượng có từ 400.000 đến 500.000 người chết mất xác trên biển và trong rừng sâu, trên đường vượt biên vượt biển tìm tự do!” Với sự kiện đó, với những con số đó, có gợi cho Các Anh hai chữ “tại sao” không? Tôi không tin Các Anh là những người vô cảm, bởi Người Lính thường xuyên trên lằn ranh giữa sống với sự chết, chính vì vậy mà trong những giờ phút riêng tư đã biến họ trở nên tình cảm hơn.
                                Đến đây, tôi nghĩ là trong một mức độ nào đó, Các Anh hiểu được tại sao tôi viết loạt thư này gởi đến Các Anh. Thật sự là tôi muốn giúp Các Anh có được nét nhìn của người tự do như chúng tôi, để Các Anh nhận ra con đường cộng sản mà Các Anh đã và đang đi là tự mình nhốt mình trong nhà tù lớn xã hội chủ nghĩa. Từ đó, Các Anh hãy suy nghĩ mà chọn cho mình một hướng đi, cùng 90 triệu đồng bào hòa nhập vào Cộng Đồng thế giới tự do, để được ngẫng cao đầu giữa thế giới văn minh lịch sự, được hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước đã lừng danh thế giới.
                                Tôi vững tin là bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi- sẽ hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào để làm nên lịch sử.
                                Hãy nhớ, “Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước. Không có dân chủ, không thể có sự trỗi dậy và phát triển bền vững. Và chính chúng ta phải tranh đấu, vì Dân Chủ Tự Do không phải là quà tặng.
                                Texas, tháng 10 năm 2013
                                *********
                                Last edited by tieuchuy; 11-19-2013, 02:40 AM.

                                Comment



                                Hội Quán Phi Dũng ©
                                Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




                                website hit counter

                                Working...
                                X