Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Thư gởi Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam.

Collapse
X

Thư gởi Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam.

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Thư gởi Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam.

    Đại tá Phạm Bá Hoa
    Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận/VNCH

    1. XÁC ĐỊNH VỊ TRÍ.

    Tôi là một trong hằng triệu Người Lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Ngày cuối tháng 4/1975, bối cảnh chính trị đưa chúng tôi vào tình thế thua trận, chúng tôi bị lãnh đạo cộng sản Việt Nam đày đọa trong hằng trăm trại tập trung trong số hơn 200 trại mà cộng sản gọi là trại cải tạo. Người 5 năm, 10 năm, thậm chí 17 năm ròng rả, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Giờ đây, Quân Lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi là Người Lính thua trận, nhưng tôi rất hãnh diện vì được phục vụ tổ quốc và dân tộc với tư cách một công dân trong thời chiến tranh bảo vệ dân chủ tự do. Giờ đây tôi đang sống xa quê hương đến nửa vòng trái đất, tôi chưa bao giờ và sẽ không bao giờ về Việt Nam, cho đến khi nào quê hương cội nguồn của tôi có một chế độ tự do và nhân quyền trong một xã hội dân chủ pháp trị đúng nghĩa.

    Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Chữ “Người Lính” viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản chỉ là một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó. Trong bài này, xin gọi Người Lính Quân Đội Nhân Dân một cách ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày.

    2. CÁC ANH HÃY NHÌN LẠI.

    Những sự kiện mà tôi trình bày trong bài này chỉ nhắm vào lãnh đạo đảng cộng sản và lãnh đạo Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, trong mục đích giúp Các Anh nhận ra cấp Lãnh Đạo của Các Anh hành động như thế nào trong bang giao -mà xã hội chủ nghĩa gọi là quan hệ- giữa nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam với nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa -tôi gọi ngắn gọn là Trung Cộng- và những hành động đó “có phải là đã và đang thi hành “biên bản” năm 1990 giữa Nguyễn Văn Linh & Đỗ Mười lãnh đạo của đảng cộng sản và nhà nước Việt Nam, với Giang Trạch Dân & Lý Bằng lãnh đạo của đảng cộng sản và nhà nước Trung Hoa hay không?

    Mời Các Anh ...

    a. Nhìn lại lịch sử.

    Một kẻ thù trong lịch sử = Vua Trung Hoa phong kiến. Dòng lịch sử suốt chiều dài gần 5.000 năm, dân tộc ta trải qua những biến đổi đau thương do các triều đại phong kiến Trung Hoa xâm lăng cai trị: (1) Lần thứ nhất, từ năm 111 trước tây lịch đến năm 39 sau tây lịch = 150 năm. (2) Lần thứ hai, từ năm 43 đến năm 544 = 501 năm. (3) Lần thứ ba, từ năm 603 đến năm 939 = 336 năm. (4) Lần thứ tư vào thế kỷ 15, từ năm 1.414 đến năm 1.427 = 13 năm. Cộng chung cả 4 thời kỳ bị trị đến 1.000 năm, hay là 40 thế hệ Việt Nam bị dìm sâu dưới chính sách cai trị nghiệt ngã tàn bạo của vua quan phong kiến Trung Hoa! Nhưng từ trong nghiệt ngã đó, chúng ta phải cúi đầu khâm phục tổ tiên và dân tộc ta trong lịch sử, chẳng những đã không bị Trung Hoa đồng hóa, mà lại xây dựng và bảo vệ tròn vẹn một nền văn hoá trong sáng để lại cho chúng ta.

    Lời dạy từ trong lịch sử = Vua Việt Nam Trần Nhân Tông. Vào nửa cuối thế kỷ 13, khi trao quyền cho con (Trần Anh Tông), vua Trần Nhân Tông có lời dạy rằng: “Các người chớ quên, chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái đạo làm người. Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đường làm một nẻo, vô luân. Cho nên cái họa lâu đời của ta là họa Trung Hoa. Chớ coi thường chuyện vụn vặt xảy ra trên biên ải, các việc trên khiến ta nghĩ tới chuyện khác lớn hơn là họa ngoại xâm. Họ không tôn trọng biên giới theo qui ước, cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để tranh chấp. Không thôn tính được ta, thì gậm nhấm ta. Họ gậm nhấm đất đai và hải đảo của ta, lâu dần họ sẽ biến giang san của ta từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim chích. Vậy, các ngươi phải nhớ lời ta dặn: "Một tấc đất của tiền nhân để lại, cũng không được để lọt vào tay kẻ khác". Ta cũng để lời nhắn nhủ đó như một lời di chúc cho muôn đời con cháu." Kẻ khác, mà vua Trần Nhân Tông nói đến, thuở ấy là Trung Hoa phong kiến, và bây giờ là Trung Hoa cộng sản. Ngắn gọn là Trung Cộng.

    b. Nhìn vào hiện tại.

    Kẻ thù trong hiện tại = Lãnh đạo Trung Cộng. Giữa năm 2011, tổ chức Wikileaks đã công bố hằng ngàn tài liệu loại tối mật của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ mà tổ chức Wikileaks có được, trong đó có “biên bản” cuộc họp giữa Nguyễn Văn Linh Tổng Bí Thư đảng CSVN và Đỗ Mười Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng, đại diện lãnh đạo CSVN, với Giang Trạch Dân Tổng Bí Thư, và Lý Bằng Thủ Tướng, đại diện lãnh đạo CSTH, trong ngày 3 & 4 tháng 9 năm 1990 tại thành phố Thành Đô của Trung Quốc.

    Wikileaks khẳng định, tin tức dưới đây nằm trong số 3.100 bức điện đánh đi từ cơ quan ngoại giao Hoa Kỳ tại Hà Nội và Sài Gòn gửi về chính phủ Hoa Kỳ. Tài liệu này có đoạn ghi rõ:
    “.... Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản, đảng CSVN và nhà nước Việt Nam đề nghị phía Trung Hoa giải quyết các mối bất đồng giữa hai nước. Phía Việt Nam xin làm hết mình để vun đắp tình hữu nghị lâu đời vốn có giữa hai đảng và nhân dân hai nước do Chủ Tịch Mao Trạch Đông và Chủ Tịch Hồ Chí Minh dày công xây đắp trong quá khứ, và Việt nam bảy tỏ mong muốn đồng ý sẵn sàng chấp nhận và đề nghị phía Trung Hoa để Việt Nam được hưởng quy chế “khu tự trị” trực thuộc chính quyền trung ương tại Bắc Kinh như Trung Hoa đã từng dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây…. Phía Trung Hoa đã đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên, cho thời hạn phía Việt Nam trong 30 năm (1990-2020) để đảng CSVN giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Hoa”.



    Mời Các Anh kiểm chứng qua một số sự kiện dưới đây để tùy Các Anh đánh giá, có phải là lãnh đạo CSVN đang thực hiện “biên bản” đó hay không:

    Nhìn lên biên giới.

    Ngày 30/12/1999 tại Bắc Kinh, lãnh đạo Việt Nam với lãnh đạo Trung cộng đã ký Hiệp Ước biên giới trên bộ, và ông Nông Đức Mạnh với tư cách Chủ Tịch Quốc Hội đã phê chuẩn ngày 9/6/2000. Theo đó, biên giới Việt Nam mất 789 cây số vuông vào tay Trung Cộng, bao gồm Ải Nam Quan và 3/4 thác Bản Giốc.
    Xin hỏi: “Các Anh có chấp nhận sự thực này không? Nếu không, mời đọc vài đoạn ngắn trong bài viết
    của Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang, Hà Nội: “... Hiệp Ước bán phần đất biên giới chỉ được lãnh đạo Việt Nam thông báo trong nội bộ đảng, như thể đất nước này là tài sản riêng của đảng cộng sản vậy. Thông báo chánh thức đó như thế này: Toàn bộ diện tích các khu vực hai bên có nhận thức khác nhau khoảng 227 cây số vuông. Qua đàm phán, hai bên đã thỏa thuận khoảng 113 cây số vuông thuộc Việt Nam, và khoảng 114 cây số vuông thuộc Trung Hoa. Như vậy, diện tích được giải quyết cho mỗi bên xấp xỉ ngang nhau, hoàn toàn không có việc ta để mất một diện tích lớn như bọn phản động và bọn cơ hội chính trị bịa đặt”. Rồi ông Giang mỉa mai: Vậy là cái xấp xỉ đó có mất đất thật! Nhưng mất theo nguyên tắc nào? Vì sao Việt Nam chỉ có 320 ngàn cây số vuông lại phải xẽ cho Trung Hoa với diện tích 9 triệu 600 ngàn cây số vuông để họ có thêm 1 cây số vuông nữa? Cho dù Trung Hoa có 1 tỉ 300 triệu dân, nhưng đâu phải họ thiếu đất cho dân ở đến nỗi Việt Nam phải chia cho họ 1 cây số vuông?” ..... Ông chợt nhớ đến cụ Đỗ Việt Sơn ngót 80 tuổi đời mà trong đó gần 60 tuổi đảng, cụ Sơn đã dõng dạc đề nghị không thông qua bản Hiệp Định biên giới Việt Nam-Trung Hoa, để rồi cụ phải chịu bao nhiêu sách nhiễu răn đe hỗn xược của Công An. Ông Giang cũng nhớ đến Bùi Minh Quốc! Là nhà văn nhà thơ, thiên chức đó thôi thúc Bùi Minh Quốc không thể bàng quan, không thể nín lặng, anh đã lặng lẽ làm một cuộc hành trình dọc biên giới phía Bắc, nơi mà hiệp định đã cắt một phần biên giới cho Trung Hoa, để rồi anh bị quản chế giam hảm tại nhà. Lại đến nhà xã hội học Trần Khuê, cũng chung số phận hẩm hiu như Bùi Minh Quốc. Ông Giang khẳng định: “Trung Hoa là người láng giềng, sông liền sông núi liền núi, nhân dân hai nước sáng sớm cùng chung nghe tiếng gà gáy ó o, khi tắt lửa tối đèn cùng sống với nhau trong thân bằng quyến thuộc, nhưng Trung Hoa chưa bao giờ là người láng giềng tử tế cả, không chỉ không tử tế đối với Việt Nam chúng ta mà đối với các quốc gia lân bang cũng vậy ...”
    Và một đoạn khác của Bác sĩ Trần Đại Sỹ, lúc ấy làm việc cho “Liên Hiệp Các Viện Bào Chế Châu Âu” (viết tắt của Pháp ngữ là CEF) và “Ủy Ban Trao Đổi Y Học Pháp Hoa” (viết tắt của Pháp ngữ là CMFC). Ngày 9/1/2000 - tức 10 ngày sau ngày ký Hiệp Ước bán đất biên giới- ông được hai người bạn Trung Hoa đang là ký giả cho ông biết chính xác là 789 cây số vuông thuộc hai tỉnh Lạng Sơn và Cao Bằng đã thuộc về Trung Cộng. Về mặt chính quyền, bộ Ngoại Giao CSVN đã lặng lẽ sửa câu văn trong trang Web trên internet mà Các Anh gọi là mạng lưới thông tin toàn cầu, như sau: “Lãnh thổ Việt Nam khởi từ Cây Số KHÔNG ở phía bắc”. Ông nói thêm: “Cây Số Không bây giờ lui vào nội địa Việt Nam 5 cây số”.
    Vậy là Ải Nam Quan từ trong lịch sử của chúng ta đã mất vào tay Trung Cộng! Nhưng nỗi đau của người dân Việt chúng ta là mất đất trong hòa bình, mất đất trong cái gọi là 16 chữ vàng mà lãnh đạo của Các Anh luôn rao giảng trong quân đội và buộc Các Anh phải tôn trọng”.


    Nhìn vào vịnh Bắc Việt.

    “Ngày 25/12/2000, Chủ Tịch nhà nước Trần Đức Lương sang Trung Cộng với danh nghĩa thăm viếng thiện chí, nhưng thật sự là ký Hiệp Ước bán biên giới trên vịnh Bắc Việt với lãnh đạo Trung Cộng tại Bắc Kinh. Việt Nam bị mất 11.362 cây số vuông trên Vịnh Bắc Việt”.

    Xin Các Anh bình tỉnh đọc chuỗi tin tức sau đây: “
    (1) Ngày 31/12/1999, ông Tang Jiaxuan, Bộ Trưởng Ngoại Giao CSTH sang Hà Nội gặp riêng ông Lê Khả Phiêu bàn về biên giới trên Vịnh Bắc Việt.
    (2) Ngày 25/2/2000, Lê Khả Phiêu cử Bộ Trưởng Ngoại Giao Nguyễn Dy Niên sang Bắc Kinh cho biết CSVN đồng ý giao thêm phần biển trên Vịnh Bắc Việt.
    (3) Nhân chuyến viếng thăm Thái Lan, Ngoại Trưởng CSTH gởi văn thư mời ông Nguyễn Dy Niên sang gặp ông ta tại Bangkok.
    (4) Ngày 26/7/2000, Nguyễn Dy Niên sang Bangkok gặp Ngoại Trưởng CSTH tại khách sạn Shangri-La. Khi trở về Hà Nội, ông Niên mang theo một hồ sơ mà trong đó CSTH đòi phân chia vùng biển trong vịnh Bắc Bộ theo tỷ lệ 50/50.
    (5) Ngày 28/7/2000, Bộ Chính Trị VNCS họp mật về vấn đề này.
    (6) Ngày 26/9/2000, Bộ Chính Trị cử Thủ Tướng Phan Văn Khải bay sang Bắc Kinh gặp Thủ Tướng Lý Bằng. Lý Bằng cho ông Khải biết rằng, ông Nông Đức Mạnh, Chủ Tịch Quốc Hội VN với Lê Khả Phiêu đã gặp riêng Chủ Tịch Giang Trạch Dân vào tháng 4/2000 tại Bắc Kinh, và tháng 8/2000 tại New York, cả ba đã thỏa thuận. Lý Bằng nói thêm, sau khi ông Lê Khả Phiêu xuống thì Nông Đức Mạnh phải được đưa lên nắm chức Tổng Bí Thư trong đại hội đảng CSVN lần thứ 9 vào tháng 3/2001, nếu không thì CSTH sẽ đòi nợ CSVN thời chiến tranh.
    (7) Ngày 24/12/2000, Thứ Trưởng Ngoại Giao Lê Công Phụng được Chủ Tịch Trần Đức Lương cử sang Trung Cộng gặp ông Hoàng Di, phụ trách tình báo và là cánh tay phải của Ngoại Trưởng Trung Cộng. Họ vẫn khăng khăng đòi tỷ lệ 50/50 trên vịnh Bắc Việt, gồm cả đảo Bạch Long Vĩ. Lê Công Phụng được lệnh Bộ Chính Trị cố gắng “xin lại 6%” gần khu vực Bạch Long Vĩ. Kết quả cuối cùng cuộc đi đêm của Lê Công Phụng, biên giới trên Vịnh Bắc Việt từ 62% xuống còn 56% và Trung Cộng từ 38% lên 44%.
    (8) Ngày 25/12/2000, Chủ Tịch Trần Đức Lương sang Bắc Kinh gặp Chủ Tịch Giang Trạch Dân, hai bên cùng ký Hiệp Ước. Theo đó, lãnh đạo CSVN bán một phần Vịnh Bắc Việt cho lãnh đạo Trung Cộng với giá 2.000.000.000 mỹ kim (2 tỷ), và Trung Cộng trả cho lãnh đạo Việt Nam qua hình thức đầu tư.
    (9) Hãy nghe Lý Bằng nói với Trần Đức Lương tại Quảng Trường Nhân Dân ngày 26/12/2000 như sau: “Số tiền 2 tỷ mỹ kim để mua một phần Vịnh Bắc Việt là hợp lý”. Lý Bằng nói tiếp: “Trong thời gian chiến tranh, Trung Hoa đã giao cho Việt Nam vô số vũ khí để mua vùng đất Sapa, Ải Nam Quan, thác Bản Giốc, ... của Việt Nam”.

    Vậy là Trung Cộng đã chiếm đoạt 789 cây số vuông trên biên giới và 11.361 cây số vuông trên Vịnh Bắc Việt mà Trung Cộng không tốn một mạng người, không tốn một viên đạn, không tốn một giọt xăng dầu, cũng không nhỏ một giọt mồ hôi, họ chỉ cần nhón 3 ngón tay cầm cây viết ký vào bản Hiệp Ước là xong. Với tư cách là “Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam”, có khi nào Các Anh cảm nhận được sự giằng xé từ trong chiều sâu tâm hồn của những công dân đối với Tổ Quốc không? Nếu KHÔNG, tôi xin hỏi: “Vậy, Các Anh là người Việt Nam hay người Trung Hoa?” Nếu CÓ, tôi xin hỏi: “Vậy, có phải là Các Anh biết mình phài làm gì rồi chớ?”

    Nhìn ra Biển Đông.

    Năm 1988, với chính sách gậm nhấm, Trung Cộng lần lượt đánh chiếm hoặc lấn chiếm một số đảo trong quần đảo Trường Sa. Cứ mỗi lần chiếm đóng một đảo, Trung Cộng với Việt Nam tuyên bố hai bên cùng giải quyết trong hòa bình, nhưng rồi lãnh đạo CSVN vẫn để nguyên trạng mất đất chớ không giải quyết gì cả, và một đảo khác lại vào tay Trung Cộng. Cứ như vậy mà 8 đảo lần lượt đã vào tay Trung Cộng.

    Đây là hai bản tin quan trọng dẫn đến sự kiện vừa nêu: (1) “Ngày 4/9/1958, ông Chu Ân Lai, Thủ Tướng Trung Cộng, công bố “lãnh hải Trung Hoa là 12 hải lý”. (2) Ngày 14/9/1958, Thủ Tướng Phạm Văn Đồng của Các Anh, chánh thức công nhận lãnh hải 12 hải lý trong bản tuyên bố của Trung Cộng bằng công hàm dưới đây: “

    “Thưa đồng chí Tổng Lý,
    “Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng Lý rõ, Chính phủ nước VNDCCH ghi nhận và “tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của chính phủ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (CHNDTH), quyết định về hải phận của Trung quốc. Chính phủ nước VNDCCH tôn trọng quyết “định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà Nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý “của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước CHNDTH trên mặt bể.
    “Chúng tôi xin kính gửi đồng chí Tổng Lý lời chào rất trân trọng.
    “Hà Nội, ngày 14 tháng 9 năm 1958”
    (ký tên Phạm Văn Đồng, Thủ Tướng nước VNDCCH. Đóng dấu)

    Chắc là Các Anh không phũ nhận chứ, nhưng chưa hết, xin mời đọc tiếp những sự kiện sau đây:
    (1) Năm 1972, Cục Đo Đạc & Bản Đồ của VNCS phát hành tập bản đồ thế giới, Hoàng Sa đổi tên là Tây Sa và Trường Sa đổi tên là Nam Sa đúng theo ý muốn của CSTH.
    (2) Năm 1974, trong sách giáo khoa sử địa của Bộ Giáo Dục CSVN ghi: “Chuỗi hải đảo từ Nam Sa (Trường Sa) Tây Sa (Hoàng Sa) Hải Nam và Đài Loan là bức tường thành bảo vệ Trung Hoa lục địa”.
    (3) Một đoạn khác trong bài viết nói trên của tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang: “Vùng quần đảo Trường Sa, có quân đội của Phi Luật Tân, Đài Loan, Mã Lai Á, và Việt Nam chiếm đóng, nhưng Trung Cộng thường nổ súng vào quân của Việt Nam mà không hề đụng đến quân của các quốc gia kia, chỉ vì Việt Nam đã công nhận vùng đó là của Trung Cộng nên quân đội Việt Nam có mặt ở đó họ coi là xâm phạm vùng biển của họ, thế là họ đánh. Việt Nam đề nghị mở hội nghị đa phương giải quyết, nhưng họ chỉ chấp nhận đàm phán với từng nước liên quan mà không nói chuyện với Việt Nam”.
    (4) Ngày 2/12/2007, Quốc Vụ Viện Trung Cộng ban hành văn kiện thành lập quận Tam Sa trong tỉnh Hải Nam, bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên Biển Đông của Việt Nam. Lãnh đạo CSVN phản ứng qua Lê Dũng, người phát ngôn của Bộ Ngoại Giao, đủ để gọi là có phản ứng và sau đó im lặng hoàn toàn. Nhớ lại hồi tháng 5/2009, Trung Cộng trưng ra tấm bản đồ Biển Đông với hình chữ U thường gọi là “đường lưỡi bò” để giành chủ quyền hơn 80% diện tích biển này. Đến đầu năm 2010, Trung Cộng lên tiếng lưu ý Hoa Kỳ rằng, Biển Đông thuộc lợi ích cốt lõi của họ, và họ quyết định sẽ điều động hàng không mẫu hạm đến vùng này để bảo vệ quyền lợi của họ.
    (5) Theo Thiếu tướng Lê Văn Cương (của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam) kể, thì ngày 26/5/2011 tàu Bình Minh 2 bị tàu hải giám Trung Quốc cắt cáp rồi tới ngày 9-6, tàu Viking II tiếp tục bị tàu đánh cá có hai tàu ngư chính yểm trợ cắt cáp. Toàn bộ những việc này Trung quốc đã có tính toán và hành động của họ xuất phát từ hệ thống, mục đích rõ ràng chứ không phải vấn đề một tàu ngư chính hay hải giám.
    (6) Trích bản tin Dân Trí online ngày 13/6/2011. “....2 vụ việc liên tiếp thể hiện tính chất rất nghiêm trọng của vấn đề. Trung Quốc đã hết sức ngang nhiên xâm phạm chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam ngay trong vùng thuộc chủ quyền và quyền tài phán của chúng ta. Các sự việc nằm trong mưu đồ được hoạch định rất bài bản, chứ không phải những sự kiện đơn lẻ”.
    (7) Trích bản tin RFA online ngày 6/6/2011. Theo nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc: “Khi đã có một Đặng Tiểu Bình tuyên bố biển Đông là chủ quyền thuộc ngã, và từ khi Trung quốc tuyên bố biển Đông là khu vực lợi ích cốt lõi của họ, thì khó dùng tinh thần hiếu hòa của người Việt để ngăn chận tham vọng của phương Bắc.
    (8) Ngày 18/10/2011. Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (trong nước) tự hỏi trong sự hoảng hốt: “Mất nước rồi ư?” Rồi Cô tự trả lời: “Có lẽ thế thật!. Bởi trong lịch sử 1000 năm trước dân tộc này không thể bị đồng hóa bằng hình thức xâm lấn, thống trị… thì nay đã có những hình thức ngoại giao tinh vi hơn, buộc cả dân tộc phải tự đồng hóa mình, phải cam chịu vì lép vế, đớn hèn im lặng, chấp nhận cúi đầu mà quên đi truyền thống quật cường của cha ông để lại. Có lẽ thế thật. Vì nếu không, thì tại sao Trung Cộng ngang nhiên phủ nhận đặc quyền khai thác dầu khí của Việt Nam trên thềm lục địa nước Việt trong khi ông Nguyễn Phú Trọng đang thăm viếng Bắc Kinh?”

    Nhìn trong nội địa.

    Tháng 11/2007, Thủ Tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng đã ký Quyết Định số 167/2007, về thăm dò khai thác quặng Bauxite trên Cao Nguyên Miền Trung trong thời gian từ năm 2007 đến năm 2015, xét đến năm 2025, và giao cho Tập Đoàn Than & Khoáng Sản quốc doanh Việt Nam thực hiện. Tập đoàn này dành một hợp đồng cho Công ty Chalieco của Trung Cộng khai thác.
    Mời Các Anh xem nhận định kèm theo lời cảnh báo từ một số nhân vật quan tâm đến an ninh quốc gia:
    (1) Ngày 10/3/2009 (TuanVietNamNet online). “Cha ông ta từ xưa đã nhận định vùng Tây Nguyên quan trọng tới mức nếu ai chiếm được Tây Nguyên thì coi như đã làm chủ được Việt Nam và Đông Dương. Sau này người Pháp, người Mỹ, và thế giới cũng nhận thức được vị trí yết hầu của khu vực này với câu nói nổi tiếng: “Đây là nóc nhà của Đông Dương”. Vùng đất này là ngã ba Đông Dương, cho nên khi chiếm được khu vực này thì cũng dể dàng chiếm được 3 nước Đông Dương”.
    (2) Ngày 27/3/2009, báo Tuổi Trẻ tại Hà Nội. Tiến sĩ Nguyễn Thành Sơn, Giám Đốc Công Ty Năng Lượng Sông Hồng thuộc Tập Đoàn Khai Thác Than & Khoáng Sản, được mời đến văn phòng trung ương đảng dự buổi tọa đàm. Sau đó, trong thư gởi Bộ Chính Trị, ông Sơn viết: “Lựa chọn nhà thầu Trung quốc là một sai lầm... Tôi có thể khẳng định, nếu đấu thầu một cách minh bạch, đúng luật, thì không một nhà thầu Trung Quốc nào có thể thắng thầu trong bất cứ dự án Bauxite nào”.
    (3) Ngày 3/4/2009 (Đối thoại online). Thiếu Tướng Công An Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện Chiến Lược & Khoa Học Bộ Công An, phân tách về địa thế của Tây Nguyên như sau: “Trung Quốc vào Tây Nguyên là họ đã có điều kiện khống chế đối với cả ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia. Hiện nay Trung Quốc đã thuê một vùng đất rộng lớn ở tỉnh Munbunkiri, sát biên giới tỉnh Dak Nông với thời gian 99 năm, và họ đã làm chủ các dự án kinh tế lớn ở tỉnh A-tô-pơ, tỉnh cực Nam của Lào, giáp với Việt Nam và Campuchia (tại ngã ba Đông Dương). Đây là hậu họa khôn lường đối với an ninh quốc gia.
    (4) Ngày 12/04/2009, giáo sư Nguyễn Huệ Chi, giáo sư Nguyễn Thế Hùng, và nhà văn Phạm Toàn, gởi bản kiến nghị đến Chủ Tịch nước, Chủ Tịch Quốc Hội, và Thủ Tướng CSVN. Nội dung yêu cầu dừng dự án khai thác quặng Bauxite vì gây nguy hại môi trường sống và an ninh quốc phòng. Ngay sau đó đã có 135 người trong nước, trí thức như Giáo sư đại học, kỹ sư, nhà văn nhà báo, đại biểu Quốc Hội như Nguyễn Lân Dũng, giáo sư Hoàng Tụy, tiến sĩ Phan Đình Diệu, giáo sư Trần Văn Khê, nhà thơ Dương Tường, đạo diễn Trần Văn Thủy, ... Ngoài ra có một số trí thức hải ngoại cùng tham gia. Trang nhà www.bauxitevietnam.info do một số trí thức trong nước thành lập lấy chữ ký gửi kiến nghị tới nhà cầm quyền Hà Nội kêu gọi ngưng kế hoạch, chờ đến khi nào có tiến bộ khoa học hơn thì hãy khai thác, tránh tàn hủy và đầu độc môi trường sống không chỉ riêng cho khu vực Tây Nguyên mà cả khu vực dọc theo sông Đồng Nai nữa.
    (5) Ngày 12/2/2010 (trang BauxiteVietNam.info). “Đây là một hiểm họa cực lớn liên quan đến an ninh nhiều mặt của quốc gia… Các tỉnh bán rừng là tự sát và làm hại cho đất nước. Còn các nước mua rừng của ta là cố tình phá hoại nước ta và gieo tai họa cho nhân dân ta một cách thâm độc và tàn bạo. Nếu chúng ta không có biện pháp hữu hiệu, họ có thể đưa người của họ vào khai phá, trồng trọt, làm nhà cửa trong 50 năm, sinh con đẻ cái, sẽ thành những làng “làng Đài Loan”, “làng Hồng Kông”, “làng Trung Quốc”. Thế là vô tình chúng ta mất đi một phần lãnh thổ và còn nguy hiểm cho quốc phòng”.
    (6) Theo BBC online ngày 26/8/2010, “Bộ Công Thương đưa ra con số vào tháng 7/2009, theo đó đã có 30 doanh nghiệp Trung Quốc đang tham gia tổng thầu EPC hoặc đối tác đầu tư trong 41 dự án ở Việt Nam. Tất cả 41 dự án này là kinh tế trọng điểm, hoặc dự án thượng nguồn, liên quan mật thiết tới tài nguyên quốc gia hoặc an ninh hay năng lượng”.
    (7) Trang Bauxite online ngày 26/9/2010, ông Dương Danh Hy, cựu Tổng Lãnh Sự Việt Nam tại Trung Cộng, nhắc đến bài báo trích đăng của Giáo sư Bùi Huy Hùng, Viện Khoa Học Năng Lượng, nhận định rằng: “Việc hiện nay có đến 90% dự án nhiệt điện hiện nay do Trung Quốc thắng thầu sẽ dẫn tới sự phụ thuộc có nguy cơ mất an ninh năng lượng khi có sự cố xảy ra vì khi đó chúng ta có cái gì làm đối trọng”.
    (8) Trên Đàn Chim Việt onine ngày 12/10/2010, “Trung Quốc đang giúp các nước làm cầu, làm đường nối tiếp. Trong 6 tuyến đường này thì 5 tuyến cuối cùng là Việt Nam: Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Vũng Tàu, Sài Gòn, toàn bộ là vị trí xung yếu trải rộng cả Việt Nam…Ta mới có 2 đường Lạng Sơn và Móng Cái đã thấy điêu đứng, nay có thêm 5 đường đi khắp nơi, sức đâu để bảo vệ kinh tế quốc phòng. Thế có phải là một thể chế (ý nói lãnh đạo CSVN. PB Hoa) cho phép các hành lang này như khu nhượng địa nằm khắp Việt Nam?
    (9) Ngày 20/6/2011, theo bản tin từ báo Thanh Niên thì cuộc chiến biển người kiểu mới đang diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam chúng ta: “Đó là lao động phổ thông Trung Quốc tràn ngập Việt Nam. Điều bi thảm là trong các Phố Tàu mới mọc lên tại VN, thí dụ như tại Hải Phòng và Quảng Ninh, nhiều nơi chỉ dựng lên bảng tiếng Hoa, không sử dụng tiếng Việt, làm người dân Việt tự cảm thấy thân phận mình y hệt như dân Tây Tạng bị dân Hán tộc vào lấn ép”. Bài báo còn cho biết: “Luật không cho phép các doanh nghiệp, đơn vị, tổ chức sử dụng lao động phổ thông là người nước ngoài. Thế nhưng, tại nhiều địa phương hiện vẫn tồn tại hàng ngàn lao động phổ thông nước ngoài, dù từ năm 2009 Thủ tướng đã yêu cầu các cơ quan chức năng rà soát xử lý, nhưng sự thể vẫn còn nguyên đó”.
    (10) Ngày 16/8/2011, nhà báo Tống Văn Công, nguyên Tổng Biên Tập của vài tờ báo trong nước: “ Hiện nay độc lập dân tộc đang đứng trước sự đe dọa của ngoại bang còn nguy hiểm hơn những ngày đầu Cách mạng Tháng Tám. Bởi vì giặc ngoại xâm ngày nay, được nối giáo bởi giặc nội xâm ngụy trang bằng mặt nạ đồng chí.... Vì sao 90% các công trình công nghiệp đều rơi vào tay nhà thầu Trung Hoa, hàng chục vạn lao động cơ bắp của Trung Cộng theo chân các công trình do họ trúng thầu rải từ Bắc vào Nam mà không có biện pháp ngăn chặn?
    (11) Ngày 17/8/2011, trên báo Dân Việt, ông Nguyễn Trần Bạt, Chủ Tịch Tổng Giám đốc Investconsult Group trong bài “Chuyên gia nói về người Trung Hoa thuê đất”, hiện tượng này là một sự tranh giành không gian sống. Không những thế, đó là một hệ thống các hành vi trong âm mưu của họ. Theo ông thì cứ cái đà này sẽ dẫn đến tình trạng từ sản phẩm cho đến ruộng đất, từ đất canh tác công nghiệp là rừng, cho đến đất canh tác cây lương thực đều nằm trong chiến lược của họ, tất nhiên là nguy hiểm cho Việt Nam.
    (12) Lại nhớ đến chuyện lãnh đạo CSVN đã cho các công ty Trung Cộng thuê rừng đầu nguồn mà hai viên Tướng cộng sản Đồng Sĩ Nguyên và Nguyễn Trọng Vĩnh đã lên tiếng cảnh báo đầu năm 2010. Việc cho thuê rừng với một diện tích hơn 300.000 mẫu tây trong thời hạn lâu dài (50 năm) tại các tỉnh biên giới có vị trí trọng yếu, có nguy cơ lớn đến quốc phòng Việt Nam. Báo Vietnam Net lúc đó đã đăng loạt bài phóng sự về các công ty thuê rừng đang làm gì tại những nơi này, và mọi người đều lạnh người khi nhận ra nguy cơ quá rõ ràng, là những vùng đất sau khi cho thuê trở nên “nội bất xuất, ngoại bất nhập”, không ai biết họ thực sự đang làm gì trên đất rừng của ta.
    (13) Ngày 31/8/2011, trên trang Bauxite online ngày 31/8/2011. Giáo sư Vũ Cao Đàm nhận định: “Bằng chiêu bài“ hợp tác khai thác bô-xit”, đế quốc Trung Cộng đã đóng chốt ở một vùng vô cùng hiểm yếu của bán đảo Đông Dương, cộng với những hợp đồng thuê 300.000 mẫu tây đất rừng đầu nguồn với các “đồng chí” của họ tại các địa phương trên suốt các vùng biên giới, Trung Cộng đã tạo ra một thế quân sự vô cùng nguy hiểm có khả năng làm tê liệt khả năng phản công bảo vệ Tổ quốc của Việt Nam khi bị Trung Cộng tấn công từ bốn phía. Chúng ta không quên cộng thêm một bầy nhung nhúc gồm trên 1,3 triệu người lao động Trung Cộng, gồm những tráng đinh chắc chắn đã giải ngũ sau khi thực hiện nghĩa vụ quân sự. Bọn chúng được các“ đồng chí” sắp xếp đều khắp đủ mọi miền trên đất Việt Nam đã tạo ra một đạo quân dự bị khổng lồ, cầm súng bắn được ngay, đang mai phục khắp đất nước này. Một nguy cơ đang rập rình chờ đợi và người dân Việt -những ai còn tỉnh táo- đành sống trong muôn nỗi phập phồng!”
    (14) Trang Bauxite online ngày 19/9/2011. Cái nhức nhối và nguy hiểm nhất là Trung Quốc đã cho người thâm nhập vào cùng khắp đất nước ta qua vai trò nhân công trong các công trường khai thác bauxite, cũng như các gói thầu Trung Quốc thực hiện từ Bắc chí Nam mà ta không biết đây là tình báo, gián điệp hay là đặc công nằm vùng đợi thời cơ. Cùng lúc, ông Lê Hiếu Đằng tại Sài Gòn đã cảnh báo rằng: “Ngay vấn đề lao động Trung Quốc hiện nay sang đây không phép, tôi nghĩ là không phải bộ máy cầm quyền Việt Nam không biết, nhưng tại sao lại để tình trạng như vậy? Sẽ có những cái làng Trung Quốc, những vùng Trung Quốc mà người Việt Nam không thể vào được. Đó là những nhân viên dân sự hay là quân sự? Ai mà biết họ đang làm gì trong đó! Thì vấn đề đấy không phải là vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề an ninh chính trị, vấn đề quốc phòng, mà chúng ta lại lơi lỏng. Điều này rất là nguy hiểm cho an ninh quốc gia”.

    Tôi góp nhặt 14 sự kiện trong số hằng trăm hằng ngàn sự kiện diễn ra ngay trong nội địa Việt Nam chúng ta, hẳn là Các Anh đã biết đến sự kiện kinh khủng này chớ? Tại nơi nhà thầu Trung Cộng đang khai thác ở Nhơn Cơ (Đắc Nông) và Tân Rai (Lâm Đồng), bùn đỏ đang là thảm họa trong hiện tại và trong tương lai đối với con người và rừng thiên nhiên từ Cao Nguyên Miền Trung xuống thung lũng Đồng Nai, ra vùng duyên hải Đông Bắc Sài Gòn. Và thảm họa cao nhất là dân tộc Việt Nam chúng ta bị kẻ thù từ trong lịch sử xa xưa lại tái hiện trong thế giới ngày nay thống trị lần nữa!
    Bây giờ mời Các Anh nhìn vào hành động của lãnh đạo Các Anh khiếp nhược đến mức nào đối với kẻ thù truyền kiếp từ phương Bắc, kẻ thù mà Vua Trần Nhân Tông đã răn dạy, đã cảnh báo từ 8 thế kỷ trước.

    3. NHÌN VÀO LÃNH ĐẠO VIỆT NAM.

    Lãnh đạo mà tôi nói đến trong đoạn này, bao gồm các cấp lãnh đạo trong hệ thống tổ chức đảng cộng sản, trong bộ máy hành chánh và các ngành chuyên môn, trong hệ thống giáo dục, trong tổ chức Quân Đội Nhân Dân, và trong tổ chức Công An Nhân Dân.

    a. Lãnh đạo Đảng & Nhà Nước

    (1) Ngày 15/10/2011, tại Bắc Kinh, ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí Thư đảng cộng sản Việt Nam, và ông Hồ Cẩm Đào, Chủ Tịch đảng cộng sản Trung Hoa, đã ra một tuyên bố chung rằng: “Hai bên khẳng định quyết tâm chính trị thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị để giải quyết vấn đề tranh chấp lãnh thổ trên Biển Đông. Hai bên sẽ đối thoại thường xuyên về vấn đề trên biển từ tầm cao chính trị và chiến lược, để kịp thời chỉ đạo xử lý các vấn đề trên biển. Hai bên cũng sẽ nghiên cứu và trao đổi về vấn đề hợp tác cùng phát triển Biển Đông, phân định khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và về việc cùng khai thác vùng biển này. Hai bên cam kết sẽ không có hành động làm phức tạp hóa vấn đề hoặc mở rộng thêm tranh chấp, và nhất là không để “các thế lực thù địch” phá hoại quan hệ giữa hai đảng, hai nước”.
    (2) Ngày 17/10/2011, Ông Lưu Vi Dân, phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Trung Cộng khẳng định: “ Trung Quốc và Việt Nam đã nhất trí giải quyết các tranh chấp trên biển bằng các cuộc đàm phán, và vì vậy, không cần sự can thiệp của một bên thứ ba. (Nguồn tin: Xinhua và China Daily của Trung Cộng)

    Nếu Các Anh có theo dõi tin tức liên quan đến Biển Đông chúng ta, hẳn Các Anh vẫn biết là các quốc gia ven Biển Đông trong khối ASEAN -nhất là Phi Luật Tân- muốn Việt Nam và các quốc gia trực tiếp liên quan cùng hành động chung để bảo vệ Biển Đông trước tham vọng lấn chiếm của Trung Cộng. Vậy mà ông Nguyễn Phú Trọng lại thỏa thuận với Trung Cộng là vấn đề liên quan đến Biển Đông chỉ do hai nước trực tiếp giải quyết. Các Anh nghĩ gì khi nhận biết hành động của Tổng Bí Thư đảng cộng sản Việt Nam? Vì giải quyết song phương thì Việt Nam mất biển dần dần là điều chắc chắn!

    (3) Bản tin của Dân Làm Báo. Trong khi đưa tin về chuyến thăm Trung Cộng của ông Nguyễn Phú Trọng, bản tin thời sự đài truyền hình Việt Nam VTV lúc 7 giờ tối ngày 14/10/2011 có hình cờ Trung Cộng có 6 ngôi sao, gồm 1 sao lớn và 5 sao nhỏ. Cho đến ngày trước đó, cờ Trung Cộng có 1 ngôi sao lớn là dân tộc Hán, và 4 ngôi sao nhỏ là các dân tộc Hồi, Mông, Tạng, và Mãn.
    Trước đây đã có những nghi vấn nêu lên về việc Trung Cộng thêm ngôi sao thứ 5 trên lá cờ của mình trong cộng đồng mạng với lo lắng về việc đồng hóa dân tộc Việt Nam qua hình ảnh ngôi sao thứ 5. Tuy nhiên, tất cả chỉ là giả thuyết. Cho đến bản tin tối ngày 14/10/2011 do Đài Truyền hình Việt Nam phát sóng, thì có lẽ ai cũng thấy rằng: “Đây chắc chắn không thể nào là lỗi của "cậu đánh máy". Đây chắc chắn không thể nào là "hành động vô tình" cho một cái ngôi sao thừa. Đây lại càng không thể là âm mưu của thế lực thù địch bên ngoài”. Sau khi bị phát hiện lá cờ Trung Cộng "6 ngôi sao", thay vì lên tiếng giải thích, đính chính... VTV đã âm thầm phi tang bằng chứng bằng cách tháo gỡ đoạn video thời sự lúc 7 giờ tối ngày 14/10/2011. Trước khi biến mất, nguồn “video 6 sao" này là: http://media.vtv.vn/Media/Get/Thoi-s...82824dce9.html

    (4) Ngày 16/10/2011, tác già Bùi Tín với bài “Sứ Quán hay Dinh Thái Thú?”. Ông nói về chuyện diễn ra tại tòa đại sứ Trung Cộng ở Hà Nội sau khi ông Khổng Huyễn Hựu nhận chức Đại Sứ.
    Không kể những buổi ông Khổng đến trình quốc thư Chủ Tịch Nước, chào Tổng Bí Thư, Thủ Tướng, Chủ Tịch Quốc Hội, đã có hàng loạt quan chức cao cấp đã đến sứ quán Trung Cộng trên đường Hoàng Diệu để chào tân Đại Sứ, đó là: (a) Ngày 17/8/2011, Thứ Trưởng Ngoại Giao Hồ Xuân Sơn, và Phó Trưởng Ban Đối Ngoại Trung Ương Nguyễn Mạnh Hùng. (b) Ngày 23/8/2011, Trung Tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ Trưởng Quốc Phòng. (c) Ngày 29/8/2011, Bộ Trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng, rồi Thứ Trưởng Bộ Công An Trung Tướng Đặng Văn Hiếu. (d) Ngày 31/8/2011, Phó Thủ Tướng Nguyễn Thiện Nhân, rồi Bộ Trưởng Tài Chính Vương Đình Huệ. (e) Ngày 12/9/2011, Bộ Trưởng Ngoại Giao Phạm Bình Minh. (f) Ngày 16/9/2011, Bộ Trưởng Giáo Dục & Đào Tạo Phạm Vũ Luân. (g) Ngày 21/9/2011, Trưởng Ban Đối Ngoại Trung Ương Hoàng Bình Quân, rồi Bộ Trưởng Thông Tin Tuyên Truyền Nguyễn Bắc Sơn. (h) Ngày 27/9/2011, Bí Thư Thành Ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị. (k) Ngày 29/9/2011, Bộ Trưởng Văn Hoá & Thể Thao & Du Lịch Hoàng Tuấn Anh, rồi Trưởng Ban Tổ Chức Trung Ương Tô Huy Rứa. (l) Ngày 3/10/2011, Thường Trực Ban Bí Thư Lê Hồng Anh, rồi Chủ Tịch Ủy Ban Kiểm Tra Trung Ương Ngô Văn Dụ. (m) Ngày 4/10/2011, Trưởng Ban Tuyên Giáo Trung Ương Đinh Thế Huynh.
    Sứ quán Trung Cộng cho biết, chỉ trong thời gian ngắn, ông Đại Sứ đã có dịp hội kiến với quá nửa số ủy viên Bộ Chính trị của phía Việt Nam, chưa kể một loạt ủy viên Trung ương đảng, bộ trưởng, thứ trưởng và các loại cán bộ cấp cao khác.
    Với danh sách của ông Bùi Tín mà tôi trích lại trên đây, Các Anh có nghĩ là các Ủy Viên Trung Ương Đảng đến chào tân Đại Sứ hay chầu viên Thái Thú họ Khổng?

    (5) Tháng 11/2011, trích bài viết của ông Ngô Minh “(Lãnh đạo đảng & nhà nước. PB Hoa) Chúng Ta Đang Xẻ Thịt Tổ Quốc Mình Để Sống”.
    “Cách đây vài ba năm, báo chí loan tin đến năm 2012 Việt Nam phải nhập than đá! Thế mà bây giờ là năm 2011, nước ta đã phải nhập hàng nghìn tấn than đá từ nước ngoài... Nhìn lại đối mới từ năm 1986 đến nay, một thực trạng đau lòng đang diễn ra khắp nơi là chúng ta đã khai thác, buôn bán tài nguyên quốc gia một cách ồ ạt, vô tội vạ. Dường như thu nhập GDP (GDP = tổng sản lượng nội địa. PB Hoa) đất nước đều do buôn bán tài nguyên mà có, còn hàng hoá sản phẩm mang hàm lượng chất xám cao chiếm tỷ lệ không đáng kể. Nghĩa là từ “đổi mới” đến nay, chúng ta đang sống nhờ bán tài nguyên, chứ chẳng làm được thương hiệu gì bền vững có tầm cỡ thế giới cả. Nhìn qua Hồng Kông, Ma Cao, Singapore , Nhật Bản… mà thương cho đất nước mình. Người ta chẳng có nhiều tài nguyên khoáng sản mà sao người ta giàu thế. Còn mình bán tài nguyên mà ăn, rồi con cháu vài thế hệ sau ăn không khí à?
    .... Trong hòa bình xây dựng 30 năm nay, do ấu trĩ trong nhận thức và non kém về quản lý, chúng ta tiếp tục tàn phá tài nguyên dữ dội hơn, nặng nề hơn. Hình thế núi sông Việt Nam đang thấy đổi từng ngày, đang bị cày xới nham nhở! 20 năm qua có rất nhiều “phong trào” bán tài nguyên để “làm ngân sách” xảy ra rầm rộ. Như khai thác gỗ rừng để xuất khẩu ồ ạt. Quốc doanh khai thác xuất khẩu, “hợp tác xã” khác thác xuất khẩu, tư nhân núp bóng nhà nước khai thác, xuất khẩu… Người cấp quota xuất khẩu gỗ giàu lên từng ngày một. Đến khi “ngộ ra”, ban hành lệnh cấm, thì rừng đã bị “ “bán ăn” gần hết. Thế là lại phải “làm dự án” trồng 5 triệu hec-ta rừng gần chục năm nay vẫn không thành. Hết rừng rồi thì bán đất rừng. Hơn 300.000 héc ta rừng đầu nguồn đã bị các tỉnh bán cho doanh nhân Trung Quốc khai thác 50 năm. Nghĩa là 50 năm đó chúng muốn biến mảnh đất rừng của chúng ta thành căn cứ quân sự, lô cốt, hầm ngầm.v.v… là quyền của họ. Hết nước rồi non nước ơi! Bán hết rừng đến bán khoáng sản dầu thô, than đá, cát, quặng ti-tan, quang a-pa-tít, quặng vàng… Người bán gỗ, bán than, thì có kẻ lại bán núi, bán đất ruộng làm giàu. Xem ra bán núi bán đất dễ giàu có hơn.
    Trong những chuyến đi thực tế ở vùng Đông Bắc, Thanh Hóa, Ninh Bình…, tôi thấy nhiều ngọn núi bị san bằng trơ trọi, để khai thác đá sản xuất xi măng, đá xây dựng. Bây gìờ tỉnh nào cũng hai ba nhà máy xi măng, hàng chục công trường khái thác đá hàng ngày ra sức san phá núi. Có tỉnh bán luôn cả ngọn núi cho nước ngoài làm xi măng, không chỉ bán phần dương mà còn bán cả phần âm tới 30 mét sâu, nghĩa là 50 năm sau, núi thành hồ! Hình sông thế núi Việt Nam ngàn đời hũng vĩ, bây giờ đang bị xẻ thịt nham nhở. Liệu con cháu tương lai sẽ sống như thế nào, có còn hình dung ra nước non Việt tươi đẹp như xưa nữa không, khi mà quanh chúng núi non bị gậm nhấm, thân thể Tổ Quốc ghẻ lở, xác xơ? Tài nguyên của mình, nước ngoài đến khai thác rồi chế biến thành sản phẩm xuất khẩu của họ, trong lúc hình hài non sông bị xâm hại. “Bán núi” để ăn như thế có đau núi quá không? “Bán đất” mới là cuộc tỉ thí với tương lai khủng khiếp nhất. Tỉnh nào cũng có vài ba Khu công nghiêp, nhưng chẳng làm ra sản phẩm xuất khẩu nào có thương hiệu cả vì máy móc lạc hậu, bán trong nước cũng chẳng ai mua. Tỉnh nào cũng có ba bốn sân golf. Rồi dự án mở rộng đô thị lên gấp đôi gấp ba, dự án khu biệt thư, …đang làm cho đất nông nghiệp, đất trồng lúa trong cả nước, đất trồng cây ăn trái ở Nam Bộ đang thu hẹp với tốc độ chóng mặt. Mỗi năm có từ 73.000 - 120.000 ha đất nông nghiệp bị thu hồi, bị chuyển đổi. Mở rộng đô thị thì đất ruộng thành đất thành phố, bán với giá cao hơn. Đua nhau mà ăn chia, lấn chiếm, đẩy nông dân ra khởi mảnh đất ngàn đời sinh sống của họ. Thế là khẩu hiệu của Cộng Sản “dân cày có ruộng” thành trò đùa lịch sử. Vì mục tiêu tăng GDP, tăng thu ngân sách, trung ương lẫn các tỉnh đang thi nhau bán đất nông nghiệp một cách vô tội vạ để làm giàu. (Càng nhiều dự án bao nhiêu, lãnh đạo đảng với nhà nước càng giàu thêm bấy nhiêu. PB Hoa)
    ... Hết bán rừng, than, ti-tan, đá, người ta con bán cả bo-xit Tây Nguyên, thứ mà cách đây mấy chục năm, khối Comicom ( Khối kinh tế các nước XHCN) đã ngăn không cho khai thác, họ sợ làm hư hỏng môi trường và văn hoá Tây Nguyên. Nhưng bây giờ thì bất cần tương lai Tây Nguyên, bất cần hàng ngàn trí thức tâm huyết với đất nước kịch liệt phản đối, họ vẫn khai thác. Nhưng, bọn người được quyền đầu tư khai thác ấy lại là bọn giặc truyền kiếp phương Bắc ngàn đời của Dân tộc ta mới đau, mới lo chứ. Chúng thâm hiểm lắm, người ơi. Chúng mang hàng ngàn người (dân binh?) vào Tây Nguyên, với kế hoạch làm chủ Tây Nguyên của Việt nam. Các nhà chiến lược quân sự thường nói:” Ai làm chủ Tây Nguyên sẽ làm chủ Đông Dương”. Chao ôi, từ việc bán tài nguyên đến “bán nước” chỉ còn một khoảng cách mong manh như sợi chỉ!
    Ngay cả nước là loại tài nguyên quý giá cũng đang bị xâm hại nghiêm trọng. Hiện nay tất cả các con sông đều “đang chết dần” vì ô nhiễm do chất thải công nghiệp, bệnh viện chưa qua xử lý đều thải trực tiếp ra sông. Mạch nước ngầm đang xuống thấp chưa từng có do khai thác vô tội vạ. Rồi “phong trào” phát triển thuỷ điện tùm lum làm cho mực nước ở đồng bằng giảm xuống. Đến cả sông Hồng cũng cạn trơ đi bộ qua được”.

    b. Lãnh đạo Quân Đội và Công An.

    (1) Ngày 3/6/2011, bên lề hội nghị quốc tế tại khách sạn Shangri-La ở Singapore, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh, khẳng định với Bộ Trưởng Quốc Phòng Trung Cộng Lương Quang Kiệt rằng : "Việt Nam và Trung Quốc là anh em tốt, đối tác tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt". Theo TTXVN, Đại Tướng Phùng Quang Thanh còn nói với Trung Cộng, là vụ tàu thăm dò địa chấn Bình Minh 02, ngày 26/5/2011 bị tàu hải giám của Trung Cộng cắt cáp, chỉ là chuyện nhỏ, không ảnh hưởng đến "truyền thống hữu nghị tốt đẹp giữa hai dân tộc Việt-Trung".
    (Cũng vì vậy mà hằng trăm tàu thuyền của ngư dân Việt Nam đã bị tàu của Trung Cộng đâm chìm, tài sản trên tàu thuyền bị chúng tịch thu, ngư dân bị chúng bắt và chỉ thả ra khi đóng tiền chuộc, mà quân đội “Nhân Dân” Việt Nam nói chung và Hải Quân Nhân Dân Việt Nam nói riêng, đã im lặng như Người Lính vô cảm với Nhân Dân dù danh xưng của quân đội gắn liền hai chữ “Nhân Dân”. PB Hoa)
    (2) Ngày 28/8/2011, Trung Tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ Trưởng Quốc Phòng Việt Nam, trong buổi họp với Thượng Tướng Mã Hiểu Thiên, Phó Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội Trung Cộng tại Bắc Kinh, do Thông Tấn Xã Việt Nam loan tin: "Nếu Việt Nam cần sự ủng hộ, đồng cảm, hợp tác và phát triển thì còn có ai hơn một nước Trung Quốc xã hội chủ nghĩa láng giềng... Việt Nam sẽ ‘kiên quyết xử lý vấn đề tụ tập đông người ở Việt Nam, và dứt khoát không để sự việc tái diễn... Việt Nam không bao giờ dựa vào bất kỳ một nước nào để chống Trung Quốc”.
    (Do đó mà Công An Nhân Dân -tôi nhấn mạnh hai chữ “Nhân Dân”- thẳng tay đàn áp Nhân Dân qua 12 cuộc biểu tình kể từ cuộc biểu tình lần 1 vào ngày 5/6/2011, để bày tỏ lòng yêu nước phản đối Trung Cộng lấn chiếm Biển Đông của Việt Nam. PB Hoa)
    (3) Ngày 27/9/2011, với bài viết “Linh Hồn Quân Đội Nhân Dân Lâm Nguy”, ông Bùi Tín (trước kia là Đại Tá trong quân đội Các Anh), viết về phái đoàn Tổng Cục Chính Trị do Trung Tướng Ngô Xuân Lịch, Chủ Nhiệm Tổng Cục Chính Trị hướng dẫn sang Bắc Kinh theo lời mời của Trung Cộng. Thành viên của phái đoàn gồm 6 Chính Ủy Quân Khu với một số Cục Trưởng của Tổng Cục... Ông Bùi Tín cho rằng, hệ thống Quân Ủy là “linh hồn của quân đội nhân dân”. Theo ông Bùi Tín, phái đoàn chính trị quân đội nhân dân Việt Nam được Phó Chủ Tịch Nước kiêm Phó Bí Thư Quân Ủy Trung Ương, ông Tập Cận Bình tiếp rất nồng hậu. Ông Tập Cận Bình sẽ thay ông Hồ Cẩm Đào trong chức Tổng Bí Thư kiêm Chủ Tịch Nước từ cuối năm 2012, tức ngay sau đại hội đảng cộng sàn Tàu lần thứ 18. Ông Tập Cận Bình căn dặn phía Việt Nam hãy thực hiện 3 điều: (1) Kiên trì hiệp thương hữu nghị. (2) Kiên trì tầm nhìn đại cục. (3) Kiên trì hợp tác 2 bên cùng có lợi.
    Chỉ vài câu ngắn gọn nhưng hiểu rộng ra, thì: (a) “Kiên trì hiệp thương hữu nghị”, là Trung Cộng có trưng ra hình lưỡi bò, có tuyên bố toàn vùng biển Đông là sở hữu cốt lõi không ai được tranh cãi. Còn cho tàu chiến vào vùng này, ngăn cấm ngư dân Việt đánh cá, ngăn cả tàu Ấn Độ vào thăm hữu nghị Việt Nam, lúc ấy Việt Nam không được phản đối, không để cho dân biểu tình, mà chỉ nên hiệp thương một cách ôn hòa hữu nghị với nhau. (b) “Kiên trì nhìn đại cục”, nghĩa là phía Việt Nam chỉ nên coi những việc như nhân nhượng chút ít đất đai, vài vùng biển nhỏ, vài quần đảo chỉ là chuyện nhỏ, mà chuyện lớn là tình hữu nghị truyền thống, là «16 chữ Vàng», là “quan hệ bốn tốt”. Trên đại cục 2 nước là láng giềng tốt, trên đại cục 2 nước là bạn tốt, trên đại cục là đồng chí tốt, trên đại cục cũng là đối tác tốt. Có gì xấu chỉ là về tiểu tiết, không đáng kể, nên bỏ qua. (c) “Kiên trì hợp tác 2 bên cùng có lợi”, nghĩa là không đấu tranh chống đối, tố cáo nhau làm gì cho lôi thôi, phức tạp, hãy coi nhau là bạn bè, là anh em đồng chí, luôn giữ hòa khí với nhau, hợp tác chiến lược toàn diện, sẽ duy trì tình anh em hòa thuận, có lợi cho cả 2 bên, chống đối nhau chỉ bất lợi, thiệt hại cho cả 2 bên.
    Ông Bùi Tín nhận định: “Trung Tướng Ngô Xuân Lịch và phái đoàn, chẳng những đã tán thành ý kiến được coi như chỉ thị của ông Tập Cận Bình, còn cam kết rằng là quân đội 2 nước sẽ gương mẫu thực hiện thỏa thuận giữa 2 đảng, 2 nước là giải quyết những vấn đề tồn tại giữa 2 nước bằng đối thoại song phương. Ông còn nhấn mạnh “phía Việt Nam không có ý định quốc tế hóa các vấn đề bất đồng về biển đảo, không kéo nước này chống nước khác”. Rõ ràng đó là lập trường “hèn với giặc, ác với dân” phơi bày công khai. Đất nước quả là lâm nguy, đại lâm nguy”. Cuối cùng tác giả Bùi Tín “xin để toàn thể Tướng Lãnh, Sĩ Quan, Binh Sĩ, và toàn dân nhận xét và đánh giá trên lập trường bảo vệ Tổ quốc, một cách khách quan và công bằng”.

    4. KẾT LUẬN.

    CSVN đánh thực dân Pháp không phải vì giành độc lập tổ quốc, mà là nhuộm đỏ một nửa giang sơn phía Bắc với chế độ độc tài tàn bạo hơn thực dân Pháp. CSVN từ nước Viêt Nam Dân Chủ cộng Hòa đánh chiếm nước Việt Nam Cộng Hòa không phải để thống nhất đất nước, mà là nhuộm đỏ toàn cõi giang sơn Việt Nam dưới sự cai trị độc tài tàn bạo của cộng sản quốc tế.
    Với những diễn biến trên lãnh thổ Việt Nam trong 36 năm qua, từ chính sách của lãnh đạo cộng sản Việt Nam cai trị người dân một cách tàn bạo nghiệt ngã, thậm chí thẳng tay đàn áp khi người dân quá phẫn uất đã cùng nhau biểu tình phản đối Trung Cộng hà hiếp lấn chiếm Việt Nam, đến chính sách quy lụy lãnh đạo Trung Cộng, thậm chí quy lụy cả những nhà thầu của Trung Cộng một cách hèn hạ đến khiếp nhược, nhưng xem ra lại phù hợp với “biên bản” thỏa thuận giữa lãnh đạo cộng sản Việt Nam với lãnh đạo cộng sản Trung Hoa hồi tháng 9 năm 1990.
    Nhớ lại những năm trong trại tập trung trên đất Nam lẫn đất Bắc, “nhờ bị học chính trị” nên tôi còn nhớ bài học ca tụng cộng sản Liên Sô rằng: “Liên Sô là thành trì vững chắc của chủ nghĩa xã hội”. Chắc chắn là Các Anh “phải thuộc bài này” hơn tôi nhiều. Vậy, tôi mời Các Anh đọc vài đoạn dưới đây của cố, cựu, và đương kim lãnh đạo nước Nga sau thời cộng sản:
    (1) Cựu Tổng bí thư đảng cộng sản Liên Xô Gorbachev nói: “Tôi đã bỏ một nửa cuộc đời cho lý tưởng cộng sản. Ngày hôm nay tôi phải đau buồn mà nói rằng: Đảng cộng sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá.”
    (2) Cố Tổng thống Nga Boris Yeltsin nói: “Cộng sản không thể nào sửa chữa, mà cần phải đào thải nó.”
    (3) Ngày 07/05/2010, đương kim Tổng Thống Nga Dmitry Medvedev đã trả lời phỏng vấn của nhật báo Nga Isvestiai. Trích vài đoạn: “Chế độ chính quyền ở Liên Xô khi trước không thể diễn tả bằng cách nào khác hơn là một chế độ độc tài toàn trị. Thực không may, đây là một chế độ đàn áp các quyền tự do căn bản không những chỉ người dân của nước mình, mà còn cho nhân dân các nước nằm trong khối CS, tôi muốn nói tới các nước XHCN khác, trong gần nửa thế kỷ nay. Và vết nhơ này không thể nào bôi xóa trong lịch sử”. Lời phát biểu của ông đã gây chấn động hệ thống truyền thông Nga và nhiều nước trên thế giới. ... Năm 1940, khoảng 22.000 sĩ quan Ba Lan đã bị Staline ra lệnh thảm sát tại rừng Katyn. Mãi sau này, chính quyền Ba Lan mới đưa vụ thảm sát ra tòa án Nhân Quyền Âu Châu tại Strasbourg với những bằng chứng. Thân nhân những người bị sát hại đã đòi chính phủ Nga phải bồi thường. Tháng 3/2010, Viện Công tố Quân Sự Nga đã trả lời Tòa Án Nhân Quyền Âu Châu rằng: “Vụ thảm sát xảy ra từ năm 1940, tới nay đã vượt qua thời hiệu pháp lý. Nước Nga ngày nay, không thể chịu trách nhiệm cho một chính quyền 70 năm về trước. Ông nói: “Nếu ngày hôm nay, nhắm mắt trước những tội ác này, thì trong tương lai, những tội ác như vậy sẽ còn lặp lại, ở dạng này hay dạng khác, ở nước này hay nước kia. Vì vậy, thời gian khiếu nại tuy khá xa, nhưng tội ác tày trời như vậy không bao giờ mất thời hiệu. Những người gây tội ác, bất cứ là ai, bất kể thời gian là bao nhiêu năm, cũng phải gánh trách nhiệm ! Đây là vấn đề trách nhiệm và đạo đức, một sự kiện đáng để cho các thế hệ tương lai rút kinh nghiệm”.

    Tổ Quốc Việt Nam chúng ta thật sự lâm nguy rồi!

    Nếu nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam không thức tỉnh thì dân tộc Việt Nam bị cái tròng “Bắc thuộc lần thứ 5” đang trên cổ dân tộc Việt Nam sẽ từ từ siết lại cho đến năm 2020 như đã thỏa thuận giữa lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam với lãnh đảng đảng cộng sản Trung Hoa. Từ đó, Văn hoá Việt Nam sẽ dần dần bị tan biến trong văn hoá Tàu cộng sản!
    Nhưng, đã là cộng sản và là cộng sản Việt Nam, tôi hoàn toàn không tin là họ sẽ trở thành người tử tế như những người tử tế trong xã hội, để nhận ra điều đúng điều sai mà rút ra bài học kinh nghiệm ứng dụng vào trách nhiệm lãnh đạo. Vì cho đến nay, nhìn vào sự thật, chúng ta nhận rất rõ là lãnh đạo CSVN đã thành công khi tạo nên một xã hội mà mọi người phải sống với nhau bằng gian trá lọc lừa “đúng theo bản chất” của đảng cộng sản, họ cũng đã thành công khi tạo nên một nước Việt Nam “sẳn sàng trở về” với nước Tàu cộng sản đúng theo nhóm lãnh đạo CSVN đã “đề nghị” và được lãnh đạo CSTH chấp nhận từ năm 1990!
    Vậy, Việt Nam chỉ còn cách duy nhất là phải tranh đấu giành lại những quyền căn bản của con người từ tay chế độ độc tài. Từ đó, sẽ vô hiệu hóa những văn kiện mà cộng sản Việt Nam đã ký với Trung Cộng vi phạm Hiến Pháp Việt Nam làm thiệt hại cho Việt Nam về biên giới, biển cả, và nội địa.
    Xin gởi sự suy nghĩ nhỏ nhoi hạn hẹp của tôi đến Các Anh, “Những Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam”, hãy bình tâm mà nhận định một chuỗi sự kiện đã diễn ra, và suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính mình chớ không phải tâm hồn của người đảng viên cộng sản. Các Anh đừng đứng nhìn một cách vô cảm nữa mà hãy hành động “như một đầu tàu”, kéo theo 89 triệu bà con trên quê hương Việt Nam thân yêu, và mạnh dạn đứng lên quật sập cái chế độ cộng sản độc tài tàn bạo với dân nhưng vô cùng khiếp nhược với Trung Cộng, để mọi người Việt Nam trong nước và hải ngoại cùng nhau vá lại mảnh giang sơn đã rách loang lỗ, xóa tan những “vệt da beo trên da thịt quê hương”, để xây dựng một nền văn hoá nhân bản khoa học, và phát triển một xã hội dân chủ pháp trị mà mọi người được hưởng một cách tự nhiên những quyền căn bản của mình.
    Tôi vững tin rằng, bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Lính Chúng Tôi- vẫn hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào, những thế hệ làm nên lịch sử.

    “Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng”.

    Houston, tháng 11 năm 2011.



  • #2
    Thư số 2

    Thư số 2 gởi
    Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam.


    ******
    Phạm Bá Hoa


    1. XÁC ĐỊNH VỊ TRÍ.

    Xin lặp lại đoạn này trong thư gởi Các Anh hồi tháng 11/2011 để Các Anh nào chưa đọc thư đó cũng nhận ra vị trí người viết với vị trí người nhận, từ đó tiếp nhận nội dung dễ dàng hơn.

    “Tôi là một trong hằng triệu Người Lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Ngày cuối tháng 4/1975, bối cảnh chính trị đưa chúng tôi vào tình thế thua trận, chúng tôi bị lãnh đạo cộng sản Việt Nam đày đọa trong hằng trăm trại tập trung trong số hơn 200 trại mà cộng sản gọi là trại cải tạo. Người 5 năm, 10 năm, thậm chí 17 năm ròng rả, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Giờ đây, Quân Lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi là Người Lính thua trận, nhưng tôi rất hãnh diện vì được phục vụ tổ quốc và dân tộc với tư cách một công dân trong thời chiến tranh bảo vệ dân chủ tự do, dù chưa tròn nhiệm vụ. Giờ đây tôi đang sống xa quê hương đến nửa vòng trái đất, tôi chưa bao giờ và sẽ không bao giờ về Việt Nam, cho đến khi nào quê hương cội nguồn của tôi có một chế độ tự do và nhân quyền trong một xã hội dân chủ pháp trị đúng nghĩa”.
    “Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam hôm nay. Chữ “Người Lính” viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong Quân Đội Nhân Dân, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản chỉ là một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó”.

    Xin được gọi “Người Lính Quân Đội Nhân Dân” ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày.

    Tôi trích một đoạn trong bài viết “Quá Khứ & Hận Thù” để Các Anh nhận ra quan điểm của tôi khi viết thư này gởi Các Bạn: “Trong paltalk tối 30/04/2010 trên Diễn Đàn Chính Nghĩa Việt Nam Cộng Hòa tại hải ngoại với trong nước, tôi đóng góp đề tài “Việt Nam, sau 35 năm xã hội chủ nghĩa”. Ngay sau 45 phút trình bày, một người xưng là “Em gái Mỹ Tho” nêu câu hỏi: “Với một quá khứ như vậy, ông có hận thù cộng sản không?” Tôi đáp: “Tôi không hận thù cộng sản, nhưng tôi không bao giờ quên quá khứ của cộng sản, vì lòng hận thù thường xuyên trói buộc sự suy nghĩ của mình, làm cho mình chỉ quanh quẩn với những ý nghĩ tìm cách trả thù. Và khi không thoát ra được sự trói buộc đó nên không thể có được suy nghĩ gì để đóng góp cho cuộc đấu tranh thực hiện một xã hội công bằng, dân chủ, tự do, cho đồng bào trên quê hương. Do cai trị bằng chính sách độc tài nên lãnh đạo CSVN luôn sợ hãi mọi người đứng lên lật đổ, nên họ sử dụng “Công An Nhân Dân” tạo cho người dân thường xuyên sống trong sợ hãi để bản thân lãnh đạo của Các Anh bớt sợ hãi. Với những ai vượt lên sự sợ hãi để giành lại quyền làm người cho đồng bào, tức khắc sẽ bị hằng trăm cánh tay cầm gậy gộc, cầm roi điện, cầm súng đàn áp nhân dân, bắt nhân dân bỏ tù, và trong nhiều trường hợp đã giết chết nhân dân mà không hề vi phạm cái gọi là pháp chế xã hội chủ nghĩa, cho dù Công An cũng như Quân Đội Các Anh đều có hai chữ Nhân Dân kèm theo tên gọi, có nghĩa là Quân Đội và Công An là của Nhân Dân, phải bảo vệ Nhân Dân.

    2. CÁC ANH HÃY NHÌN LẠI.

    Trong thư gởi Các Anh hồi tháng 11 năm 2011, tôi mời Các Anh nhìn lại lịch sử Việt Nam 1.000 năm bị Trung Hoa phong kiến cai trị, và lịch sử đương đại qua các góc nhìn: Biên giới, Vịnh Hạ Long, trên Biển Đông, và trong nội địa Việt Nam, dưới quyền lãnh đạo của đảng cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa.
    Trong thư này, mời Các Anh nhìn lại những sự kiện xoay quanh nhóm chữ “quá khứ - hận thù - hòa giải - hòa hợp” mà lãnh đạo đảng với lãnh đạo nhà nước Các Anh thường sử dụng để kêu gọi Cộng Đồng tị nạn cộng sản tại hải ngoại hãy quên quá khứ để về giúp đất nước, đồng nghĩa với giúp lãnh đạo đảng với nhà nước tăng thêm khối tài sản riêng tư.

    Chắc Các Anh còn nhớ ông Nguyễn Tấn Dũng, Thủ Tướng đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) sang đất nước mà lãnh đạo của Các Anh gọi là “đế quốc Mỹ đang giẫy chết tại dinh lũy cuối cùng của chủ nghĩa tư bản” hồi tháng 6/2008 chớ. Tôi gọi “Thủ Tướng đảng cộng sản” vì Bộ Chính Trị cử ông Dũng chớ có phải vị lãnh đạo do dân bầu ông ấy vào chức Thủ Tướng đâu mà gọi là Thủ Tướng Việt Nam. Đây là tôi nói theo cách nói của tiến sĩ Lê Đăng Doanh của Các Anh chớ không phải tự tôi tưởng tượng đâu. Nhưng cũng có thể Các Anh phản bác lại rằng: “Anh nói bậy, Thủ Tướng Việt Nam là do Quốc Hội bầu ra”. Đúng là Quốc Hội bầu ông ta, nhưng toàn thể đại biểu trong Quốc Hội là do đảng cộng sản chọn trước rồi mới đưa danh sách cho dân bầu. Chẳng lẽ Các Anh lại quên bài học “Nhân Dân làm chủ, Nhà Nước quản lý, Đảng lãnh đạo” rồi sao. Vì đảng lãnh đạo toàn diện, cho nên toàn bộ hệ thống tổ chức nhà nước gồm cả các ngành các cấp và suốt chiều dọc hệ thống giáo dục đều có tổ chức đảng bên cạnh, và quyết định của tổ chức đảng là quyết định chánh thức của các cơ quan mà. Vậy là từ Quốc Hội, Nhà Nước, Tư Pháp, đều trực tiếp dưới quyền lãnh đạo của đảng, người dân phải bực mình (dường như Các Anh gọi là bức xúc thì phải) khi bị bắt buộc phải đi bầu, vì mất thì giờ vô ích.
    Thêm nữa, tôi tin rằng, vào khoảng khắc nào đó khi mà Các Anh được sống với con người thật của mình, không biết Các Anh có tự hỏi: “Tại sao lãnh đạo đảng với nhà nước anh hùng Các Anh, hết người này đến người khác, cứ đến cái đất nước đang giẫy chết này hoài vậy?” Tôi tạm trả lời Các Anh nghe: “Tại vì, tên đế quốc này nó giẫy hoài chẵng những nó không chết mà nó vẫn cứ mạnh lên về mọi lãnh vực, cho nên lãnh đạo Các Anh phải quy lụy để cứu đảng CSVN mà trong đó có Quân Đội Nhân Dân Các Anh đang bên bờ vực thẳm. Nếu không như vậy thì cái đảng cộng sản và quân đội Các Anh bị phá sản từ đầu những năm 90 giống như Liên Sô, thành trì vững chắc của cộng sản mà lãnh đạo Các Anh tôn sùng đã tan rã vậy”. Tôi nói thêm cho rõ, câu “đế quốc Mỹ đang giẫy chết .... không phải do tôi đặt ra đâu, mà là bài học số 1 trong trại tập trung Long Giao hồi tháng 8/1976 do Thượng Tá Công An tên Bình từ Bộ Công An ở Hà Nội vào bắt chúng tôi phải học đó.
    Không biết lãnh đạo đảng với nhà nước của Các Anh có cảm nhận nỗi nhục khi nhìn thấy Tượng Đài Nạn Nhân Cộng Sản Thế Giới tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn không nhỉ? Tượng đài này khánh thành ngày 12/6/2007 do Tổng Thống “đất nước đang giẫy chết” chủ tọa đó. Tượng đài này là biểu tượng thảm họa kinh hoàng trong thế kỷ 20 của nhân loại nói chung, và 25 quốc gia bị cộng sản cai trị nói riêng. Từ nay, oan hồn của hơn 100 triệu nạn nhân cộng sản -gồm cả nạn nhân Việt Nam thân yêu của chúng tôi đã bị quân đội Các Anh giết chết- được những thế hệ hôm qua, hôm nay, và những thế hệ mai sau tưởng nhớ. Tưởng nhớ để tận diệt chế độ cộng sản đến tận cùng gốc rễ, vì chế độ cộng sản là phi nhân tàn bạo. Hai nhóm chữ tô đậm này là lời lên án mạnh mẽ trong bài phát biểu của Tổng Thống Hoa Kỳ, dĩ nhiên là lời lên án này có đảng CSVN của Các Anh nữa đó.
    Trở lại Thủ Tướng CSVN đến Houston ngày 26/6/2008. Từ sáng sớm, chúng tôi đông đảo đến mức như một rừng người với một rừng cờ vàng ba sọc đỏ cùng với cờ Hoa Kỳ dọc theo đại lộ Westheimer trước cửa khách sạn “The Westin Oaks”, nơi ông ta hội họp để xin Hoa Kỳ đầu tư vào Việt Nam. Những máy thu hình của các đài phát hình Việt Nam lẫn đài phát hình Hoa Kỳ cùng máy thu thanh của phóng viên các đài Hoa Kỳ phát thanh chương trình Việt ngữ, thu thanh tiếng Anh lẫn tiếng Việt rõ ràng từng câu: “Tự Do Cho Việt Nam - Nhân Quyền Cho Việt Nam - Cộng Đồng Tị Nạn Cộng Sản Không Cần Tòa Lãnh Sự Cộng Sản”, … . Không một câu nào đòi bất cứ điều gi cho Cộng Đồng tị nạn cộng sản tại hải ngoại cả.

    Trong buổi họp tối tại khách sạn Hilton, ngoài phái đoàn của Thủ Tướng CSVN cả trăm người, số người mà ông Thủ Tướng gọi là kiều bào doanh gia khoảng “30 khúc ruột ly hương ngàn dặm bị ung thư” lẻn vào tham dự. Với chiếc bàn hình vuông, ông Thủ Tướng và ông Phạm Gia Khiêm ngồi giữa, Thủ Tướng CSVN cất lời kêu gọi: “Bà con hãy hướng về quê hương bằng mọi đường mọi nẻo, chúng ta hãy gác lại quá khứ để cùng nhau chung sức xây dựng đất nước. Làm được cái gì thì làm dù là việc nhỏ, ngay cả một tiếng nói ủng hộ cũng là đóng góp. Đừng mặc cảm quá khứ nhất là khi đất nước còn nhiều khó khăn. Khi ngồi nói chuyện với Tổng Thống Bush, tôi nghe kiều bào hô đả đảo Thủ Tướng mà thấy buồn. Chưa hẳn họ thù ghét cá nhân Thủ Tướng mà chỉ là mặc cảm với quá khứ …”
    Thật ra thì nhóm chữ “hãy quên quá khứ, đừng mặc cảm với quá khứ mà về xây dựng đất nước …” không phải là sản phẩm của ông Dũng đâu, mà là Thủ Tướng CSVN nói theo lời ông Nguyễn Minh Triết đã nói trong bữa tiệc tại khách sạn Saint Regis Resort vùng Nam California ngày 23/6/2007. Nhưng câu đó cũng không phải sản phẩm của ông Chủ Tịch nước, mà ông Triết nói theo ông cựu Thủ Tướng CSVN Võ Văn Kiệt sau khi hết quyền lực, vậy mà ông Kiệt cũng bị chết bất đắc kỳ tử rồi.
    Nhớ lại từ giữa những năm 70 đến giữa những năm 80, lãnh đạo Các Anh gọi chúng tôi là “cái bọn phản quốc, bọn ôm chân đế quốc, bọn đỉ điếm, bọn lưu manh cặn bả của xã hội, .....”. Giá mà bác Hồ của Các Anh còn sống đến bây giờ, không biết ông ấy nghĩ gì khi nhìn thấy cái bọn lưu manh cướp giật đỉ điếm Hồ Chí Minh nườm nượp khắp phố phường so với Sài Gòn chúng tôi thời chiến tranh, chắc bác Các Anh mừng lắm vì chính sách trăm năm trồng người của ông ấy thành công rồi! Thế nhưng từ giữa những năm 80 khi lãnh đạo Các Anh nhận thấy Cộng Đồng tị nạn giàu lên và gởi tiền về Việt Nam cùng với tuổi trẻ thành đạt trong nền học vấn văn minh tân tiến ngày càng nhiều thêm, lãnh đạo Các Anh hạ giọng gọi Cộng Đồng chúng tôi là “Việt kiều yêu nước”. Từ giữa những năm 90 về sau, lại hạ giọng lần nữa để gọi Cộng Đồng chúng tôi là “khúc ruột ly hương ngàn dặm”, .... Nhưng Các Anh có biết tại sao lãnh đạo của Các Anh lại hạ giọng như vậy không?” Mời Các Anh đọc một đoạn trong bài viết của ông Nguyễn Phú Bình, Thứ Trưởng Ngoại Giao đảng CSVN, “Chủ Nhiệm Ủy Ban Về Người Việt Nam Ở Nước Ngoài” viết ngày 11/8/2005, đăng trên trang báo điện tử với tựa bài Cộng Đồng Người Việt Nam Ở Nước Ngoài, Khơi Dậy Nguồn Lực Chất Xám Của Việt Kiều. … “Trong số gần 3.000.000 người Việt Nam sinh sống định cư ở nước ngoài, ước tính có khoảng 300.000 người được đào tạo ở trình độ đại học và công nhân kỹ thuật cao, có kiến thức cập nhật về văn hoá, về khoa học, công nghệ, về quản lý kinh tế. Trong đó có nhiều người đạt vị trí quan trọng trong các viện nghiên cứu, trường đại học, bệnh viện, công ty kinh doanh của các nước, và các tổ chức quốc tế. Tiềm lực khoa học và công nghệ của các thế hệ người Việt Nam ở nước ngoài không ngừng phát triển. Trong đó, một thế hệ trí thức mới người nước ngoài gốc Việt đang hình thành và phát triển, nhất là ở các nước Bắc Mỹ, Tây Âu, và Châu Đại Dương. Đội ngũ này tập trung ở nhiều lãnh vực khoa học chuyên ngành và kinh tế như tin học, viễn thông, điện tử, vật liệu mới, chế tạo máy, điều khiễn học, sinh học, quản lý kinh tế, ngân hàng, chứng khoán, ..v..v.. “
    Chưa hết, về số tiền mà Cộng Đồng chúng tôi gởi chánh thức về trong nước trong năm 1991 là 35 triệu mỹ kim, gia tăng dần, trong năm 1999 là 1 tỷ 100 triệu mỹ kim, trong năm 2005 là 3 tỷ 800 triệu mỹ kim. Cộng chung các năm từ 1991 đến năm 2005 là 33 tỷ 803 triệu mỹ kim (Nếu tính đến năm 2010, con số đó lên đến 53 tỷ 0 trăm 34 triệu mỹ kim).
    Chắc Các Anh dễ dàng nhận thấy sức mạnh về trí thức và tài chánh của Cộng Đồng tị nạn cộng sản tại hải ngoại rồi chớ? Do vậy mà lãnh đạo Các Anh luôn miệng kêu gào Cộng Đồng chúng tôi “hãy quên quá khứ để mang tiền mang vàng, tài năng, và hãy hòa giải hòa hợp để xây dựng đất nước”. Có thiệt không đây? Vì Việt Nam xã hội chủ nghĩa càng có nhiều dự án thì lãnh đạo các cấp của các Anh -chớ không phải Các Anh- càng có thêm nhiều mỹ kim, và sau khi rửa sạch đem gởi ngân hàng ở ngoại quốc để khi tháo chạy có mà thụ hưởng. Chúng tôi đâu có điên mà giúp lãnh đạo Các Anh nuôi dưỡng cái chế độ cộng sản độc tài tham nhũng để gây thêm đau khổ cho đồng bào trên quê hương Việt Nam.

    Vậy mà, đến nay đã 36 năm sau khi nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa của Các Anh xâm lăng đánh chiếm nước Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi, lãnh đạo Các Anh cứ theo dụ dỗ Cộng Đồng tị nạn cộng sản quên quá khứ kinh hoàng của mình để về làm việc cho họ? Tôi nói “làm việc cho họ”, vì lãnh đạo CSVN có phục vụ đất nước dân tộc đâu mà gọi là phục vụ quê hương đồng bào. Bằng chứng: (1) Nếu phục vụ đất nước thì lãnh đạo Các Anh: Đâu có bán cho Trung Cộng 789 cây số vuông trên bộ và 11.362 cây số vuông trên biển: Đâu có đồng tình để Trung Cộng sáp nhập hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào quận Tam Sa của Tàu. Đâu có bán đất cho ngoại quốc dưới danh nghĩa kinh doanh! (2) Nếu phục vụ dân tộc thì lãnh đạo Các Anh: Đâu nỡ bán hằng chục ngàn thanh thiếu nữ ra các nước lân bang làm điếm. Đâu có đẩy hằng mấy trăm ngàn thanh thiếu nữ Việt Nam ra ngoại quốc làm vợ thiên hạ ngang qua các dịch vụ quốc doanh trá hình. Đâu có bắt vào nhà tù hằng trăm công dân dũng cảm đứng lên giành lại quyền làm người mà Hiến Pháp CSVN qui định. (3) Nếu phục vụ dân tộc thì lãnh đạo Các Anh: Đâu nở đàn áp bắt giữ thanh niên sinh viên học sinh biểu tình chống đối Trung Cộng lấn chiếm đất đai biển cả, bắn giết ngư dân. Đâu có hành hạ dối gạt hằng chục ngàn thậm chí là hằng trăm ngàn đồng bào kêu oan khiếu nại thưa kiện vì đất đai tài sản bị các loại cường hào ác bá CSVN tại các địa phương trấn lột cướp đoạt dưới những tên gọi khác nhau. (4) Và nếu phục vụ người dân tại sao tổng sản phẩm quốc gia (GDP) Việt Nam có gia tăng mà người dân ngày càng nghèo khổ như chưa thời nào nghèo khổ đến như vậy! Trong khi đại đa số người dân càng nghèo thì tất cả đảng viên hàng lãnh đạo các cấp từ trung ương xuống đến hạ tầng cơ sở ngày càng giàu thêm, giàu đến mức phung phí trong các cuộc cá độ đá banh lên đến hằng triệu mỹ kim, giàu đến mức mua xe với giá bạc triệu đô la, còn mua cả phi cơ riêng nữa chớ. Một phần của nguồn gốc khối tư bản đỏ đều gắn liền giữa kinh tế quốc doanh với các cấp lãnh đạo của Các Anh qua những chằng chịt khác nhau.

    Nói đến quá khứ, bản thân tôi rất muốn quá khứ trôi vào quên lãng giúp não bộ thêm phần thư giản, nhưng không thể nào quên được! Vì cái quá khứ mà lãnh đạo Các Anh gây ra trên dãi đất quê hương, trên thể xác lẫn tâm hồn của mọi người dân Việt, nó cay đắng quá, nó tàn bạo quá Các Anh à! Đây là sự thật mà lãnh đạo CSVN không thể nào phủ nhận được. Tôi vẫn hiểu rằng, lịch sử là không thể thay đổi, nhưng có những điều sai trong lịch sử vẫn sửa được trong hiện tại, để có điều kiện hướng đến một tương lai. Nghĩa là lãnh đạo Các Anh phải làm ngược lại những gì mà họ đã làm sai từ những ngày đầu năm 1975 và sau đó, chúng tôi mới có thể quên được quá khứ. Việc sai thì không sao kể hết, nhưng tôi tóm vào 7 vấn đề sau đây, mời Các Anh đọc:

    Một. Vào ngày 30/4/1975 và những ngày trước đó, hằng chục ngàn thương phế binh chúng tôi đang trong các Tổng Y Viện và Quân Y Viện, Các Anh đã vô cùng tàn nhẫn khi quẳng Họ ra ngoài đường sau khi chiếm Việt Nam Cộng Hòa, rồi lãnh đạo Các Anh bảo “quên quá khứ” làm sao chúng tôi quên được! Bây giờ lãnh đạo Các Anh có trách nhiệm bồi thường tổn hại vật chất lẫn tinh thần cho Họ kèm thoe lời xin lỗi từ Bộ Chính trị. Đó là hành động sửa sai để cùng quên quá khứ, để tiến đến hòa giải & hoà hợp.

    Hai. Lãnh đạo Các Anh đã cướp đoạt nhà cửa ruộng vườn cùng những tài sản khác của chúng tôi dưới những nhóm chữ khác nhau để che đậy cái bản chất gian trá lọc lừa của đảng CSVN. Tài sản của chúng tôi bị lãnh đạo Các Anh chiếm đoạt, rồi bảo chúng tôi “quên quá khứ để hòa giải hòa hợp”, làm sao chúng tôi quên được! Bây giờ lãnh đạo Các Anh phải hoàn trả tất cả những tài sản ấy lại, đồng thời bồi thường thiệt hại đúng mức trên những tài sản ấy, và kèm theo lời xin lỗi từ Bộ Chính Trị. Đó là hành động sửa sai để cùng quên quá khứ, để tiến đến hòa giải & hòa hợp.

    Ba. Lãnh đạo Các Anh không thông qua một cơ quan luật pháp nào khi bắt giam ít nhất là 222.809 quân nhân viên chức cán bộ Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi, đưa vào hơn 200 trại tập trung trong mục đích vừa tẩy não vừa cho chết dần chết mòn trong các xó rừng mà Các Anh gọi là “trại cải tạo”, và hành hạ tinh thần lẫn thể xác cho đến 17 năm mới thả hằng trăm người cuối cùng, và cho đến nay lãnh đạo Các Anh trong những bài phát biểu trước đám đông vẫn gọi chúng tôi là “ngụy quân ngụy quyền”, rồi bảo chúng tôi “quên quá khứ” làm sao chúng tôi quên được! Bây giờ lãnh đạo Các Anh phải bồi thường thiệt hại vật chất lẫn tinh thần cho ngần ấy tù nhân chính trị chúng tôi, trong ngần ấy thời gian bị giam giữ, kèm theo lời xin lỗi từ Bộ Chính Trị. Đó là hành động sửa sai để cùng quên quá khứ, để tiến đến hòa giải hòa hợp!

    Bốn. Chắc lãnh đạo Các Anh không thể nào quên trong 10 năm đầu kể từ những ngày cuối tháng 4/1975, khi mà những công dân Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi không thể sống nỗi dưới sự kềm kẹp chính trị độc tài, nên phải liều chết tìm đường đến bến bờ tự do với cái giá phải trả thật khủng khiếp! Lúc ấy, lãnh đạo Các Anh sử dụng tất cả những lời lẽ xấu xa nhất để sỉ nhục chúng tôi, rồi bảo chúng tôi “quên quá khứ” làm sao chúng tôi quên được! Bây giờ Bộ Chính Trị của Các Anh phải chánh thức xin lỗi Cộng Đồng Việt Nam Tị Nạn cộng sản tại hải ngoại, để rút lại những lời sỉ nhục đó. Đó là hành động sửa sai để cùng quên quá khứ, để tiến đến hòa giải hòa hợp!

    Năm. Nghĩa trang quân đội Biên Hòa, nơi an nghỉ của hơn 16.000 người Việt Nam đã tròn bổn phận công dân với quốc gia dân tộc. Tưởng được yên bình vĩnh cửu trong lòng đất nơi đây, nhưng với bản chất vô nhân của đảng cộng sản đã “thêm một lần tàn sát thi thể Họ” qua hành động đào xới mồ mả, vừa thỏa lòng thù hận của kẻ chiến thắng do bản chất gian trá vi phạm những điều mà lãnh đạo Các Anh đã ký kết, vừa chiếm đoạt đất đai làm tài sản riêng, rồi bảo chúng tôi “quên quá khứ” làm sao chúng tôi quên được! Bây giờ lãnh đạo Các Anh phải hoàn chỉnh lại phần cấu trúc toàn cảnh như trước khi quân đội Các Anh tàn phá, kể cả tượng Thương Tiếc, kèm theo lời xin lỗi gia đình tử sĩ Việt Nam cộng Hòa từ Bộ Chính Trị của Các Anh. Đó là hành động sửa sai để cùng quên quá khứ, để tiến đến hòa giải hòa hợp!

    Sáu. Lãnh đạo các Anh sau khi chiếm được Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi, đã áp dụng chính sách cai trị độc tài, bịt mắt bịt tai bịt miệng nói chung là tước đoạt tất cả quyền căn bản của mỗi con người mà thế giới thừa nhận, rồi bảo chúng tôi “quên quá khứ” làm sao chúng tôi quên được! Bây giờ lãnh đạo Các Anh phải trả lại những quyền căn bản của con người, những quyền được sống tự do, và những quyền tư hữu cho 89 triệu công dân trên quê hương Việt Nam. Trước mắt, trả tự do cho tất cả những công dân nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã dũng cảm đứng lên đòi lãnh đạo của họ phải bảo vệ đất đai biển cả trước kẻ thù từ trong lịch sử kèm theo lời xin lỗi từ Bộ Chính Trị, và thực hiện đúng đắn những Công Ước Quốc Tế đã ký kết về quyền con người.

    Và bảy. Về vấn đề hòa giải hòa hợp. Tôi nghĩ, nhóm chữ “hòa giải và hòa hợp” phải đặt đúng vị trí của nó, vì có “hòa giải” được với nhau mới có thể “hòa hợp” được với nhau, vì từ hòa giải đến hòa hợp còn một khoảng cách nữa. Nhưng với lãnh đạo Các Anh, dù là lời nói hay lời viết, họ chỉ dùng chữ “hòa hợp“ hoặc “hòa hợp hòa giải”, mà thực chất chỉ là kêu gọi dụ dỗ Cộng Đồng chúng tôi tị nạn cộng sản hòa hợp dưới quyền cai trị của họ, chớ không có hòa giải hiểu theo nghĩa hai bên cùng thỏa thuận.

    Nhưng tại sao lãnh đạo của Các Anh không hòa giải với người dân trong nước trước, vì đây là vấn đề hoàn toàn trong tầm tay của họ mà, vì:

    (1)Theo tài liệu của Bộ Tài Nguyên & Môi Trường của nước CHXHCNVN phổ biến ngày 08/07/2010, chỉ riêng trong 6 tháng đầu năm 2010, có khoảng 100 đoàn dân oan từ các thành phố: Rạch Giá, Cần Thơ, Long An, Sài Gòn, Đồng Nai, Nam Định, Hà Nam, Hưng Yên, Hà Nội ... đến cơ quan trung ương đưa đơn khiếu nại oan ức vì đất đai nhà cửa bị các địa phương cướp đoạt”.
    Theo bản tin AFP ngày 25/11/2011, một báo cáo về tình trạng tham nhũng trong lĩnh vực đất đai tại Việt Nam đã được công bố. Nghiên cứu này, được tiến hành theo yêu cầu của Ngân Hàng Thế Giới, sứ quán Thụy Điển và Đan Mạnh tại Việt Nam. Tài liệu nhận định tệ nạn tham nhũng đã trở nên phổ biến. Theo đại sứ Thụy Điển Staffan Herrstrom: “Có tới 86% số hộ gia đình được hỏi cho biết là họ có cảm giác nạn tham nhũng tồn tại trong lĩnh vực đất đai, 33% số doanh nghiệp nói rằng họ đã phải hối lộ để có được quyền sử dụng đất. Theo luật Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu của nhà nước nhưng người dân hoặc doanh nghiệp có thể mua, trao đổi hoặc bán giấy chứng nhận sử dụng đất. Bản nghiên cứu nhấn mạnh, việc cấp giấy sử dụng đất là một trong những nguồn gốc của tệ nạn tham nhũng”. Đại sứ Thụy Điển nói: “Thủ tục cấp giấy phép sử dụng đất rất nặng nề, cực kỳ quan liêu, tạo ra một môi trường tham nhũng sinh sôi nẩy nở”. Trong khi đó, đại diện sứ quán Đan Mạch nhấn mạnh: “Do tham nhũng, người nghèo càng nghèo hơn và người giàu càng giàu hơn. Nguyên nhân là do việc chuyển giao đất đai của một bộ phận dân chúng ở nông thôn cho các nhà đầu tư và những người gi àu có ở thành thị, với mức giá thấp hơn thị trường. Bản báo cáo nhận định, tình trạng này dẫn đến việc người dân mất tin tưởng vào chính quyền, bởi vì có hiện tượng xung đột lợi ích, nói một cách khác là các quan chức hưởng lợi, nhận hối lộ khi ra các quyết định trưng dụng, thu mua đất đai của dân nghèo, để giao cho các đối tác khác và tham nhũng đã tạo ra một sự bất ổn định xã hội thực sự. Tại Việt Nam, cho đến nay, vẫn có khoảng 70% dân số sống ở nông thôn. Việc trưng dụng đất đai, đền bù thấp đã gây ra nhiều bất bình trong tầng lớp dân nghèo ở nông thôn. Nhiều vụ xung đột, tranh chấp đất đai, thậm chí dẫn đến chết người, đã xẩy ra trong những năm gần đây”.

    Vậy, lãnh đạo Các Anh hãy hòa giải bằng cách:
    “(a) Hủy bỏ Luật Đất Đai và tất cả các luật liên quan, vì đây là nguồn gốc của những mánh khóe cướp đoạt từ các cấp lãnh đạo, là một trong những nguyên nhân tham nhũng kinh hoàng trong hệ thống đảng với nhà nước.
    (b) Trả lại quyền tư hữu cho tất cả những ai từng là chủ hoặc người thừa kế của ruộng đất.
    (c) Hoàn trả toàn bộ nhà cửa cũng như cơ sở kinh doanh thương mãi cho đồng bào mà CSVN ngang nhiên tịch thu sau khi chiếm Việt Nam Cộng Hòa, và bồi thường sở hữu chủ về thiệt hại vật chất đã sử dụng suốt thời gian tịch thu trái phép.
    (d) Bộ Chính Trị chánh thức xin lỗi đồng bào vì chính sách sai lầm này”.

    (2) Với những cuộc mít tinh biểu tình của tuổi trẻ Việt Nam, thể hiện tinh thần trách nhiệm của người dân thức tỉnh trong một xã hội bị CSVN bịt mắt bịt tai bịt miệng, với mục đích bảo vệ chủ quyền đất đai biển cả của Việt Nam từ trong lịch sử xa xưa, được nói lên tiếng nói dân chủ tự do và nhân quyền, nhưng lại bị bắt bỏ tù. Vậy lãnh đạo Các Anh hãy hòa giải với thành phần dũng cảm này bằng cách: “(a) Thực hiện kế hoạch bảo vệ quần đảo Hoàng Sa Trường Sa và các hải đảo trong Vịnh Bắc Việt và trong vùng Biển Đông của Việt Nam. (b) Bảo vệ ngư phủ Việt Nam đánh cá trong phần lãnh hải của mình, Hải Quân Nhân Dân anh hùng hãy tấn công các tàu lạ xâm nhập hải phận Việt Nam bắt ngư phủ và ủi chìm tàu của ngư dân Việt. (c) Hủy bỏ Điều 4 cùng lúc thực thi những điều qui định trong Hiến Pháp liên quan đến dân chủ và các quyền tự do của người dân theo Công Ước quốc tế. (d) Trả tự do vô điều kiện cho tất cả tù chính trị mà tòa án nhận lệnh từ lãnh đạo Các Anh ghép họ vào tội hình sự, và bồi thường thiệt hại về mức thu nhập của họ trong suốt thời gian giam giữ”.

    (3) Với hoạt động của các tôn giáo, tại sao phải sử dụng mọi mánh khóe gian trá để cắt ra từng mảng rồi khai sinh ra những tổ chức “tôn giáo quốc doanh trong khi miệng thì nói đoàn kết?” Hóa ra đoàn kết của lãnh đạo Các Anh là chia cắt để trị, giống như thời thực dân Pháp chia Việt Nam thành Nam Kỳ Trung Kỳ Bắc Kỳ để cai trị hơn trăm năm trước. Vậy, lãnh đạo Các Anh hãy hòa giải với tôn giáo bằng cách: “(a) Giải tán các tổ chức tôn giáo quốc doanh. (b) Rút tất cả Công An lồng trong các tổ chức đó cũng như đã tung ra hải ngoại trở về ngành lo bảo vệ an toàn cho dân và dọn dẹp xã hội sạch sẽ. (c) Hoàn trả đất đai tài sản lại cho các tôn giáo và bồi thường thiệt hại vật chất từ khi tịch thu trái phép đến khi hoàn trả, hủy bỏ các văn kiện liên quan đến tôn giáo quốc doanh và tôn giáo ngoài quốc doanh.

    3. KẾT LUẬN.

    Nếu lãnh đạo của Các Anh hành động được như vậy với 89 triệu đồng bào trong nước, thì Cộng Đồng chúng tôi tị nạn cộng sản tại hải ngoại không có lý do gì mà không hòa giải & hòa hợp với lãnh đạo Các Anh, đồng thời cung ứng tài năng và tài chánh về tham gia xây dựng đất nước.
    Về phần Các Anh, tôi mong là Các Anh đừng nhìn những sự kiện trên đây một cách vô cảm nữa. Tôi mong Các Anh tìm lại được chính mình, còn suy nghĩ hay hành động gì là tùy Các Anh.

    Để chấm dứt bài này, tôi mượn vài đoạn dưới đây trích trong bài viết “Bao Giờ Mới Có Được Sự Hòa Giải Giữa Người Việt Với Người Việt” của tác giả Trần Mạnh Hảo, trình bày trong cuộc hội thảo nhà văn xã hội chủ nghĩa tại Hà Nội năm 2011:

    “ ......Trong hội thảo vừa rồi, tôi là người được phát biểu sau cùng, và với thời gian cũng rất hạn hẹp. Tôi cũng không hiểu tại sao khi tôi phát biểu được khoảng mươi, mười lăm phút thì có ý kiến của Chủ Tịch Đoàn ra dấu hiệu là thời gian không còn nhiều, tôi phải rút ngắn bài phát biểu của tôi đi. Thế nhưng tôi rất quan tâm đến vấn đề hòa hợp giữa người Việt với người Mỹ bởi vì chính cái đợt William Joiner mời tôi qua Mỹ để nghiên cứu về cộng đồng người Việt, tôi đã thấy một thực tế không thể quay lưng lại được. Đó là vấn đề cách đối xử, quan hệ giữa người Việt với người Việt sau chiến tranh thì phải nên như thế nào.... Đến phần cuối cùng tôi có nói như thế này: “Thưa các bạn trẻ, trong hội trường của chúng ta hôm nay, số lượng các bạn trẻ là sinh viên khoa Văn của trường đại học Văn Hóa Hà Nội tới đây rất là đông. Các bạn là tương lai, cho tôi được đối thoại với tương lai. Tất cả những tham luận trước không đề cập đến vai trò của các bạn trong hội thảo này. Tôi muốn nói với các bạn rằng, vấn đề hòa hợp giữa người Việt và người Mỹ thì coi như đã xong, cái kết rất có hậu. Nhưng cái gánh nặng để hòa hợp hòa giải giữa người Việt với người Việt thì hình như đến thế hệ các bạn vẫn phải lo. Mà cái chuyện này nó dài, các bạn sẽ có thời gian để tìm hiểu một cách thấu đáo một cách khách quan, một cách chân thành. Nhưng theo thiển ý của tôi, bằng vào những va chạm và sự hiểu biết của tôi, thì tôi thấy để tiến tới được việc hòa hợp hòa giải giữa người Việt trong nước và người Việt ngoài nước, thậm chí cả người Việt trong nước với nhau, thì có lẽ cũng phải đặt trên những cơ sở, những nguyên tắc nào đó, những định hướng nào đó thì mới trở thành hiện thực được.

    Có thể có những góc nhìn khác nhau: Góc nhìn của người ở hải ngoại, của những người trong nước, góc nhìn của những người cầm quyền, góc độ của những người không có quyền, những người bình dân, góc độ của những người trí thức…Nhưng theo thiển ý của tôi, theo sự hiểu biết rất sơ sài và ít ỏi của tôi, thì tôi nghĩ rằng có lẽ có hai nguyên tắc chính để đi tới sự hòa hợp hòa giải. Nguyên tắc thứ nhất mà tôi nghĩ rằng rất quan trọng là phải chấp nhận và tôn trọng sự khác biệt thì mới có thể có sự hòa hợp hòa giải thực sự. Và nếu không chấp nhận và tôn trọng sự khác biệt thì không bao giờ đi đến sự hòa hợp hòa giải cả. Đây là vấn đề khoa học, chứ không phải là vấn đề lập trường quan điểm hay tư tưởng. Nguyên tắc thứ hai mà tôi cho rằng cũng rất quan trọng, mà kinh nghiệm này thì chúng ta thấy tình hình thế giới diễn ra như bây giờ, thấy sự hòa hợp hòa giải giữa Đông và Tây Đức, và của chính nước Mỹ sau cuộc nội chiến năm 1860-1865, là chúng ta phải đặc biệt công bằng và minh bạch với quá khứ. Khi chúng ta biết chấp nhận và tôn trọng sự khác biệt rồi, mà chúng ta không công bằng và không minh bạch với quá khứ, thì chắc chắn là cũng không thể dẫn đến sự hòa giải thực sự bền vững được. Có lẽ đấy là những điều căn bản nhất mà tôi tâm niệm, tôi rất là tha thiết và cũng đã trình bày điều đó trước cuộc hội thảo này.....

    Điều cuối cùng mà tôi muốn nói với các bạn trẻ rằng: “Thưa các bạn, tâm hồn con người nặng gấp trăm lần thể xác. Bởi thế chúng ta phải đặc biệt coi trọng đời sống tinh thần của một dân tộc”.

    Đúng ra là bài viết chấm dứt ở đây, nhưng tôi vừa nhận được bài viết ngày 1/12/2011 của Thiếu Tướng cộng sản Nguyễn Trọng Vĩnh, “Chưa bao giờ Việt Nam bị hại bởi người láng giềng hữu nghị như từ 1979 đến nay” từ trong nước gởi ra, mời Các Anh ráng thêm khoảng 3 phút nữa là đọc xong.

    “Việt Nam không hề khiêu khích và xâm phạm vào đất Trung Quốc. Thế mà năm 1979, Trung Quốc huy động hàng chục sư đoàn “dạy cho Việt Nam một bài học”, giết hại dân và tàn phá bốn tỉnh của Việt Nam; đánh chiếm cao điểm 1509 trong huyện Vị Xuyên - Hà Giang của chúng ta; năm 1988, đánh đắm tàu hải quân, giết hơn 70 chiến sĩ, sĩ quan và chiếm một số bãi đá ngầm trong quần đảo Trường Sa của chúng ta. Trong đàm phán biên giới, họ ép ta làm ta mất một nửa thác Bản Giốc, dân ta cũng không được đặt chân đến Ải Nam quan nữa, tất cả ta mất hàng trăm km2 đất. Họ xóa hiệp định phân định ranh giới vịnh Bắc Bộ giữa hai Chính phủ Pháp - Thanh (do lịch sử để lại) đòi chia lại, ăn hơn của ta một phần hải phận.

    “Sau khi nêu ra phương châm 16 chữ và 4 tốt với lãnh đạo ta, họ đã nghiễm nhiên đứng được trên nóc nhà Đông Dương, vị trí chiến lược xung yếu của ta, khai thác Bốc-xít, di hậu họa cho hàng triệu đồng bào ta.
    Các công ty của họ thuê rừng 50 năm để trồng cây Bạch Đàn, trước tiên là chặt cây phá rừng, tạo thêm nguyên nhân gây lũ lụt cho ta. Bạch Đàn là cây ăn rất hại đất, hết hạn thuê, họ rút đi để lại cho ta hàng dãy hecta đất trống đồi trọc, vì không cây gì mọc được. Đây là một mưu kế rất thâm hiểm hại ta. Nguy hiểm hơn nữa là các công ty của họ thuê các khoảnh rừng trong đó ôm cả những đồi cao 600-700m tại các huyện Tràng Định, Bảo Lộc của Lạng Sơn và Tiên Yên của Quảng Ninh, có nơi chỉ cách biên giới Trung Quốc 700m. Họ phá rừng để trồng Bạch Đàn, phá rừng làm đường vào khu rừng họ thuê, họ làm đường xoáy trôn ốc lên đỉnh các đồi cao nói trên. 50 năm không ai kiểm soát được, họ có xây dựng công sự gì trên đỉnh các cao điểm ấy cũng không ai biết, liệu có để sau này sử dụng như cao điểm 1509 ở Vị Xuyên trước đây không?

    “Ngoài việc năm 1974, đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của ta, họ tự ý vẽ một cái “lưỡi bò” rất phi pháp bao chiếm gần hết biển Đông của Việt Nam, khoanh vùng cấm ngư dân ta vào đánh cá trong hải phận của mình, bắn chết, bắt ngư dân ta, tịch thu tài sản, ngư cụ, giam giữ, phạt tiền, dùng “tàu lạ” đâm chìm tàu cá của ngư dân ta. Cậy có Hải Quân mạnh, tập trận diễu võ dương oai ở Biển Đông, uy hiếp ta, luôn tuyên bố sẽ “thu hồi” Tây Sa tức Trường Sa của Việt Nam, mà họ to mồm nhận xí là của họ.

    “Họ thuê dài hạn một đoạn bờ biển ở Đà Nẵng, nói là để xây dựng “khu vui chơi giải trí”, xây nhà máy điện nguyên tử chỉ cách biên giới tỉnh Quảng Ninh 60km, nếu rò rỉ phóng xạ thì bên ta mang họa.

    “Trên thượng nguồn sông Mê Kông, Trung Quốc xây một hệ thống đập trong đó có đập Tiểu Loan, chặn mất một khối nước vô cùng lớn. Nam Bộ của chúng ta ở cuối dòng sông, mùa khô đồng bằng sông Cửu Long sẽ thiếu nước, liệu còn nuôi được cá tra, cá basa nữa không? Có đủ nước tưới cho các vùng cây trái không? Vựa lúa Nam Bộ có bị ảnh hưởng không? Sông cạn, nước mặn sẽ dâng sâu vào nội địa, triều cường càng dữ, nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh liên quan sẽ sống ra sao? Trung Quốc chặn nguồn nước thượng lưu của một con sông quốc tế, thật là một kế hoạch ích kỷ, ác độc.

    “Họ trúng thầu một loạt nhà máy nhiệt điện và một số công trình, họ tự do đưa ồ ạt lao động của họ vào. Thế là, trên khắp đất nước ta, từ “nóc nhà Đông Dương”, từ rừng núi tới đồng bằng, đến ven biển đã có hàng vạn người Trung Quốc rải ra, có phải là mối nguy tiềm ẩn không?

    “Từ những tình hình trên, rõ ràng Việt Nam ta bị hại đủ đường, và bị o ép tứ phía. Vì đâu nên nỗi này? Nhân dân ta nghĩ gì?./.



    Từ xứ cao bồi Texas, cuối tháng 12 năm 2011

    *********

    Comment


    • #3
      Thư số 3 gởi Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam.

      Thư số 3 gởi

      Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam.

      ******
      Phạm Bá Hoa

      Tôi tên Phạm Bá Hoa, chào đời năm 1930 tại đồng bằng sông Cửu Long. Tôi phục vụ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 21 năm trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc, sau đó tôi bị tù không án trong các “trại tập trung” mà lãnh đạo của Các Anh gọi là “trại cải tạo” 12 năm 3 tháng. Hiện cư ngụ tại Hoa Kỳ.

      Xin được gọi “Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam” là Các Anh để tiện trình bày. Chữ “người lính” mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng, gọi chung là “cấp lãnh đạo”. Là người lính trong quân đội “Nhân Dân”, chắc rằng Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Các Anh trong quân đội nhân dân mà. Với lại, Tổ Quốc & Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng chính trị nào cũng chỉ là một giai đoạn của lịch sử. Và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.

      1. GIÁO DỤC.

      “Giáo dục là nền tảng trang bị con người về nhân cách và kiến thức”. Nhân cách, cần kiến thức hậu thuẫn những lý lẽ để tránh bị lợi dụng vào mục đích không tử tế. Kiến thức, cần nhân cách trợ giúp biến kiến thức trở thành những dự án những công trình hữu ích trong cuộc sống, đồng thời tạo môi trường cho con người gần gủi nhau hơn, bởi ngày nay mọi sinh hoạt đều tương quan tác động lẫn nhau, ngay cả sinh hoạt từ thiện cũng vậy.

      Giáo dục, bao gồm: “Giáo dục gia đình , giáo dục học đường, và giáo dục xã hội”.
      (a) Giáo dục gia đình, do bẩm sinh, huyết thống, và cung cách sống của các thành viên trong gia đình, nhất là ông bà cha mẹ.
      (b) Giáo dục học đường, do chính sách của chánh phủ, hệ thống tổ chức, biên soạn sách giáo khoa, chính sách hỗ trợ nhà giáo, hỗ trợ học sinh sinh viên, phương pháp giảng dạy, cung cách của thầy dạy.
      (c) Giáo dục xã hội, do những chính sách cùng hệ thống điều hành của chánh phủ, những sự kiện phát sinh và những phương cách giải quyết trong các lãnh vực sinh hoạt xã hội.

      Giáo dục, thể hiện đường lối của lãnh đạo thực hiện mục tiêu quốc gia. Muốn đất nước phát triển như thế nào, chánh phủ phải hoạch định chính sách chiến lược như thế ấy: (a) Các ngành, căn cứ vào đó soạn thảo những chính sách dài hạn và những kế hoạch ngắn hạn để thực hiện, và cung cấp nhu cầu chuyên viên chuyên gia theo từng giai đoạn cho ngành giáo dục. (b) Ngành giáo dục, đào tạo chuyên viên chuyên gia thích ứng cho nhu cầu đó. Đồng thời liên tục đào tạo và phát triển đội ngũ sư phạm về đạo đức lẫn kiến thức, cải tiến và phát triển sách giáo khoa phục vụ cho nhu cầu chiến lược, cải tiến dụng cụ trợ giáo, phương thức giảng dạy, cơ sở và trang bị, ..v..v...

      Nói chung, “giáo dục” trang bị cho những thế hệ về phẩm chất làm người trong khuôn thước văn hoá dân tộc, về khoa học kỹ thuật của thời đại thích hợp với mục tiêu quốc gia, về tinh thần trách nhiệm với cộng đồng dân tộc, và bổn phận công dân đối với tổ quốc. Vì vậy mà đường lối chính sách giáo dục của cấp lãnh đạo quốc gia như thế nào, sẽ dẫn đến một xã hội như thế ấy.

      Đến đây, tôi nghĩ là Các Anh nhận thức được tầm quan trọng của Giáo Dục đối với những thế hệ công dân trong bổn phận bảo vệ tổ quốc và phát triển toàn diện các lãnh vực trong xã hội.

      2. CÁC ANH HÃY NHÌN LẠI.

      Với đoạn này, tôi mời Các Anh nhìn lại nền giáo dục xã hội chủ nghĩa 36 năm qua, và nhìn với nét nhìn từ con người thật của Các Anh (không phải con người của đảng) mới nhận ra sự thật, và tác hại của sự thật này trong hiện tại cũng như trong tương lai dài lâu.

      Tôi muốn nói với Các Anh rằng, những sự kiện từ giữa thế kỷ 20 đến nay, đã chứng minh lãnh đạo đảng cộng sản với nhà nước Việt Nam chỉ phục vụ cho quyền lợi của đảng chớ không phục vụ nguyện vọng người dân, mà quyền lợi của đảng lại đồng nghĩa với quyền lợi riêng tư của lãnh đạo các cấp trong các ngành sinh hoạt xã hội. Để tạo được một xã hội như vậy, chế độ giáo dục học đường và giáo dục xã hội chủ nghĩa đặt trên nền tảng “xin và cho”, là một chính sách giáo dục vô cùng hiểm độc, vì chỉ đào tạo những thế hệ thần dân -hay ngu dân- để tuân phục, chớ không đào tạo những thế hệ công dân để xây dựng đất nước, nhưng lại được lồng trong cái tủ kính trưng hàng “con người là vốn quí” hay “trăm năm trồng người” của nhân vật lãnh đạo tàn độc nhất trong lịch sử Việt Nam: Hồ Chí Minh, và những nhóm lãnh đạo tiếp nối đến nay.

      Một số công dân xã hội chủ nghĩa đã vượt khỏi chính sách giáo dục thần dân, cố gắng làm những việc tử tế cho xã hội mà trước mắt là giành lại những quyền căn bản của con người được qui định trong Hiến Pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (CHXHCN/VN), lại bị lãnh đạo Các Anh qui trách những công dân đó vào tội hình sự để bắt vào tù hoặc giam lỏng tại nhà dài hạn. Nếu muốn được tự do, phải chấp nhận sống lưu vong hải ngoại như nữ đạo diễn Song Chi lưu vong Na-Uy, nhà văn Trần Khải Thanh Thủy lưu vong Hoa Kỳ, ..v..v... Bài bản cũ mèm này trong chính sách siết thòng lọng vào cổ người dân, đến khi cần dối trá với quốc tế thì nới ra đủ cho nhân viên truyền thông ăn lương nhà nước rao giảng cái gọi là chính sách “khoan hồng nhân đạo”. Tất cả, do nền giáo dục xã hội chủ nghĩa mà ra.

      Tôi dẫn chứng chính sách giáo dục liên tục từ năm 1989 đến nay:

      Năm 1989. Trích bài viết của Vũ Hạnh đăng trong báo Công An ngày 31/05/1989 tại Sài Gòn, cho thấy giáo dục như thế nào trong hội nghị tại Viện Nghiên Cứu Giáo Dục miền Nam.
      (1) Nhà giáo Tôn Thuyết Dung trình bày: “Sách giáo khoa đang sử dụng đã lỗi thời vì nó được soạn ra trong thời kỳ chiến tranh, và chỉ nhắm vào lớp trẻ sống ở nông thôn miền Bắc. Tất cả chỉ phục vụ mà không quan tâm đến đạo đức, chuyên chở những chủ đề mà tầng lớp thanh thiếu niên không dễ gì cảm nhận được chứ nói gì đến học hỏi. Sách giáo khoa lại tham lam khi đề cập nhiều vấn đề, nội dung phản lại giáo dục ở điểm trưng dẫn những sự kiện xấu mà không chỉ dạy cách sửa đổi. Sách không đào tạo con người trước khi nói đến chủ nghĩa cộng sản. Về các câu hỏi để học sinh trả lời không nhắm vào chủ đề rõ rệt, không giúp học sinh phát huy nhận thức, trái lại gò ép học sinh trả lời một cách dối trá”.
      (2) Ông Xuân Diệu nhận xét thật ngắn nhưng rất sâu sắc: “Một trong những thiếu sót quan trọng là giáo dục không đào tạo con người, nên rốt cuộc xã hội chúng ta chỉ có thần dân mà không có công dân”.
      (3) Một nhận thức sâu sắc khác: “Giáo dục phải nhắm mục đích đào tạo con người dân chủ từ bé, phải chống lại sự tha hóa lớn nhất hiện nay là sự quanh co dối trá, sự thiếu thành thật giữa con người với nhau…”.

      Năm 2000. Cố Trung Tướng cộng sản Trần Độ, để lại tập nhật ký “Rồng Rắn” ngày 7/12/2000, có đoạn liên quan đến giáo dục như sau: “Bộ máy quản lý xã hội đã thực hiện một nguyên tắc chuyên chính tàn bạo hơn tất cả các thứ chuyên chính. Đó là chuyên chính tư tưởng, được thực hiện bởi một đội ngũ nòng cốt là “những lưu manh tư tưởng”. Nền chuyên chính tư tưởng định ra những điều luật tàn khốc để bóp nghẹt mọi suy nghĩ, mọi tiếng nói. Nó làm cho tất cả trí thức không dám suy nghĩ gì, hay ít nhất cũng không muốn suy nghĩ. Từ đó làm tê liệt toàn bộ đời sống tinh thần của dân tộc và biến họ trở thành những con rối, chỉ biết nhai như vẹt những nguyên lý bảo thủ giáo điều. Nó cũng làm cho nền giáo dục khô cứng, làm cho các hoạt động văn học nghệ thuật nghèo nàn, mất hết cơ hội sáng tạo và mất hết hào hứng. Nó cũng làm cho các hoạt động khoa học bị khô cứng và nô dịch. Nó tạo ra và nó bắt buộc nhân dân phải có một tâm lý lệ thuộc đảng, lệ thuộc nhà nước, lệ thuộc cán bộ, và một tâm lý phải tuân phục, kể cả người cao nhất cũng phải tuân phục vào một cái gì bí và hiểm (có lẽ ông Trần Độ muốn nói “người cao nhất” cũng phải tuân phục lãnh đạo Trung Cộng mà ông gọi là bí và hiểm chăng?. PB Hoa). Nói chung, nền chuyên chính tư tưởng hiện nay ở Việt Nam là một tổng hợp các tội ác ghê tởm của Tần Thủy Hoàng cùng các vua quan tàn bạo của Trung Hoa phong kiến, cộng với tội ác của các chế độ độc tài phát xít. Nó tàn phá cả một dân tộc, hủy hoại tinh anh của nhiều thế hệ. Suy cho cùng, đó là tội nặng nhất về sự vi phạm nhân quyền. Vì không phải nó chỉ xâm phạm đến quyền sống của con người, mà nó còn hủy hoại đời sống tinh thần, đời sống tư tưởng của cả một dân tộc. Nó đang làm hại cả một nòi giống”.

      Năm 2004.
      (1) Giáo Sư Hoàng Tụy trong nhóm nghiên cứu giáo dục Hà Nội phát biểu: “Chương trình giáo dục Việt Nam trong bao nhiêu năm qua vẫn trong tình trạng lạc hậu, thi cử nặng nề với phẩm chất (mà ông gọi là chất lượng) rất kém. Sách giáo khoa cũng không thích ứng với hoàn cảnh đất nước, nghĩa là những cải cách trước đây không đạt được hiệu quả so với nhu cầu đất nước. Những sự kiện gian dối trong giáo dục cũng như trong thi cử, làm xói mòn niềm tin của tuổi trẻ lẫn của phụ huynh mà thành phần này luôn kỳ vọng vào nền giáo dục nước nhà, đã dẫn đến tình trạng ngày càng trở nên trầm trọng, thậm chí nó đánh mất niềm tin của mọi người trong xã hội”.
      (2) Nhóm nghiên cứu giáo dục này cho biết thêm: “Ngày 23/2/2004 Bộ Giáo Dục & Đào Tạo đã ban hành Quyết Định, bắt buộc sinh viên đại học toàn quốc phải học và thi tốt nghiệp các môn học chính trị, bao gồm triết học Mác-Lê, kinh tế chính trị, chủ nghĩa xã hội khoa học, lịch sử đảng, và tư tưởng Hồ Chí Minh. Quyết định này có hiệu lực từ ngày 9/3/2004, và tất cả sinh viên không có quyền chọn lựa mà phải học theo giáo trình chọn sẳn. Các môn học bắt buộc này chiếm đến 203 giờ, chiến khoảng 9% (?) thời lượng của chương trình đại học”.
      (3) Một chuyên viên giáo dục tại Hà Nội, ông Quốc Việt nhận định: “Việc Bộ Giáo Dục bắt buộc sinh viên phải học các môn vô bổ đó là một quyết định phản khoa học, không phù hợp với chuẩn mực giáo dục quốc tế. Đồng thời lãng phí thời gian học, lãng phí tiền thuế của đồng bào đóng góp cho ngân sách quốc gia, nhất là tước bỏ quyền chọn lựa môn học thích hợp của sinh viên”.

      Trong hội thảo tại Hà Nội hồi tháng 7 năm 2004 tổng kết sau thời gian cải cách giáo dục, với số đại biểu trong ngành giáo dục tham dự lên đến gần 1.000 người do Thủ Tướng chủ tọa, cho thấy tầm quan trọng của ngành này. Ông Trần Hồng Quân, Bộ Trưởng Giáo Dục trình bày diễn tiến và kết quả. Ông kết luận: “…Cuộc cải cách giáo dục trong thời gian qua là hoàn toàn thất bại. Vì cải cách theo quan niệm chắp vá chớ không cải cách toàn diện…”. Dựa theo kết luận đó, Tiến sĩ Hà Sĩ Phu sử dụng câu nói của ông Phan Hiền để châm biếm cải cách giáo dục: “Sai đâu (thì) sửa đấy, sai đấy (nhưng) sửa (ở) đâu, (mà) sửa đâu (thì) sai đấy”.

      Năm 2008. Tại Việt ISD Hà Nội vào ngày 6/6/2008, giáo sư Hoàng Tụy là một trong số ít trụ cột của nền giáo dục Việt Nam trình bày một cách thẳng thắn. Trích vài đoạn: “… Nếu Việt Nam cô lập với thế giới bên ngoài thì không đến nỗi lo lắng, nhưng nếu đặt giáo dục Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và nhìn một cách khách quan và có trách nhiệm, không thể nhắm mắt trước sự tụt hậu ngày càng xa của giáo dục Việt Nam so với các nước chung quanh, và so với yêu cầu phát triển của xã hội... Thực tế, đất nước ngàn năm văn hiến này đang trả giá nặng nề cho sự suy thoái trầm trọng của giáo dục kéo dài suốt 30 năm qua... Nội dung và phương pháp giáo dục thể hiện xu hướng hư học cổ lỗ, dành nhiều thời gian học những kiến thức lạc hậu vô bổ... Đặt nặng quá mức thi cử và bằng cấp, nhà trường đã vô tình trút vào xã hội mọi thứ rác rưởi độc hại là bằng cấp giả, bằng cấp dỏm, học giả... ... Phẩm chất (GS Tụy gọi là chất lượng) giáo dục sa sút một thời gian dài nhất là ở bậc đại học, cao đẳng, và dạy nghề. Khối nhân lực đào tạo ra còn rất xa mới đáp ứng được đòi hỏi của thực tế về số lượng lẫn phẩm chất giáo dục, nó trở thành nhân tố cản trở nghiêm trọng sự phát triển kinh tế...Tư duy giáo dục xơ cứng mà mấy thập niên qua hầu như không thay đổi…”
      Vẫn theo Giáo sư Hoàng Tụy trên Vietnam Net ngày 7/6/2008 với bài “Nhìn thẳng vào khủng hoảng giáo dục Việt Nam”.
      (a) Mở đầu với nhận định sắt bén: “Dù bảo thủ đến đâu, Bộ Giáo Dục & Đào Tạo cũng như bất cứ ai đều không thể làm ngơ trước nhiều vấn nạn giáo dục đã và đang làm đau đầu cả xã hội. Chỉ có nhìn thẳng, gọi tên đúng sự vật và chấp nhận thay đổi, coi cải cách là mệnh lệnh của cuộc sống mới có thể khắc phục tình trạng nguy kịch của ngành giáo dục Việt Nam. Chính Thủ Tướng Phan Văn Khải khi từ nhiệm đã thừa nhận chánh thức sự không thành công của giáo dục, dẫn đến thực trạng nghiêm trọng của giáo dục Việt Nam hiện nay vẫn chưa được đánh giá đúng mức. Nhiều người có trách nhiệm vẫn tự ru ngủ mình với những thành tựu thực và ảo của giáo dục...”.
      (b) Trong đoạn khác, ông nhấn mạnh: “Những sai lầm trong giáo dục do tư duy xơ cứng mà không hề thay đổi. Vẫn cách nghĩ thiển cận, vẫn giáo điều thời bao cấp được biến tướng ít nhiều để thích nghi với xu hướng du nhập từ bên ngoài phù hợp với lợi ích riêng của từng nhóm. Nền giáo dục chân chính của quốc gia nào cũng có sứ mạng cao cả về giáo dục con người, đồng thời mỗi xã hội có nhiệm vụ và yêu cầu khác nhau cho nền giáo dục của mình. Thêm nữa, con người sống trong xã hội lành mạnh cần cuộc sống trung thực và óc sáng tạo để góp phần phát triển đất nước. Nhưng tiếc thay, những điều đó đã không đuợc chú ý trong xây dựng nền giáo dục Việt Nam. Ngày nay, môi trường quốc tế đã biến đổi cực kỳ sâu sắc trong khi Việt Nam vẫn dựa vào kinh nghiệm giáo dục tư tưởng chính trị thời đấu tranh giành độc lập và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự giả dối lan tràn trong giáo dục tại Việt Nam”.

      Tóm tắt bài viết “Giáo dục Việt Nam dưới nét nhìn của chuyên gia giáo dục Hoa Kỳ” do ông Nguyễn Gia Thưởng chuyển ngữ, trích trong trang Web của nhóm Thông Luận ngày 23/8/2008. Nội dung bài này là đề tài thảo luận khi Thủ tướng cộng sản Nguyến Tấn Dũng gặp Tổng Thống Hoa Kỳ hồi tháng 6 năm 2008 tại Washington DC. “Việt Nam đang đối mặt với cuộc khủng hoảng toàn diện về giáo dục: Viên chức không được đào tạo quản trị. Nhà giáo được đào tạo rất kém với đồng lương quá thấp. Cơ hội học đại học rất hạn hẹp vì cơ sở không phát triển, số giảng viên giảng sư không gia tăng, bằng chứng là năm 2007 các trường đại học chỉ tuyển 300.000 sinh viên trong tổng số 1.800.000 thí sinh. Mặt khác, số lượng sinh viên ghi tên vào ngành giáo dục chỉ 10%, trong khi Trung Hoa cộng sản 15%, Thái Lan 41%, Đại Hàn 89% (thống kê của Ngân Hàng Thế Giới). Bằng tiến sĩ thì mua, còn giáo sư thì được đề cử qua thủ tục hành chánh chớ không do công trình và sự nghiệp sư phạm. Nạn tham nhũng tràn lan chẵng khác bệnh ung thư trong ngành giáo dục. Việt Nam thua kém các quốc gia chung quanh về việc cung ứng hiểu biết và canh tân giáo dục, khi nhìn vào số lượng tập san khoa học do các trường đại học ấn hành. Năm 2006, hai đại học lớn nhất Việt Nam là đại học quốc gia và đại học kỹ thuật Hà Nội ấn hành 34 tập san, trong khi đại học quốc gia Seoul (Đại Hàn) là 4.556 và đại học Bắc Kinh gần 3.000 tập san khoa học. Cũng trong năm 2006, về đơn xin bằng sáng chế của Việt Nam chỉ nộp có 2 đơn, trong khi Trung Hoa cộng sản đến 40.000 đơn. Số sinh viên từ các trường đại học Việt Nam có trình độ rất kém, bằng chứng là công ty Intel của Hoa Kỳ phỏng vấn 2.000 sinh viên Việt Nam vừa tốt nghiệp đại học được xem là giỏi nhất trong tổng số, kết quả là công ty này chỉ chọn được 40 thí sinh có trình độ tối thiểu. Công ty Intel nói đây là kết quả tồi tệ nhất mà công ty gặp phải tại bất kỳ quốc gia nào mà công ty đầu tư. Do tình trạng giáo dục Việt Nam trên đây, có thể phá hỏng những phát triển kinh tế trong nước và tiến trình hội nhập thế giới”.

      Năm 2009. Tham khảo và trích dẫn bài nghiên cứu của đại học Harvard Hoa Kỳ về “Hiện Trạng Gíáo Dục Bậc Cao Đẳng & Đại Học tại Việt Nam”.
      (1) Mở đầu với nhận định sắc bén: “Thật khó mà phóng đại hơn nữa về mức độ nghiêm trọng của tình trạng suy sụp trong hệ thống giáo dục mà Việt Nam đang đối đầu. Nếu không có một công cuộc cải tổ cấp thời từ thể chế cho hệ thống giáo dục bậc đại học thì Việt Nam sẽ thất bại hoàn toàn trong mục tiêu đạt đến các tiềm năng to lớn của quốc gia này. Sự phát triển kinh tế của vùng Đông Bắc Á và Đông Nam Á cho thấy mối liên hệ mật thiết giữa nền giáo dục với sự phát triển quốc gia, cho dù mỗi quốc gia trong vùng Đông Bắc Á như South Korea, Singapore, Taiwan, ... theo đường lối có phần riêng biệt, nhưng căn bản vẫn là từ giáo dục dẫn đến phát triển. Trong khi đó, vì không đạt được sự xuất sắc trong giáo dục nên Thailand, Philippines, và Indonésia, tuy thành công trong sự phát triển nhưng chưa đạt được nền kinh tế tân tiến so với các quốc gia vùng Đông Bắc Á nói trên. Và điều chẳng lành cho tương lai Việt Nam do giáo dục của Việt Nam nhất là ở bậc đại học, còn sa sút đến mức đứng sau cả các quốc gia kém mở mang lân cận. ...

      (2) Nhận định về bậc đại học: “... Trong danh sách 100 trường đại học nổi tiếng của Châu Á, Việt Nam không có một trường nào cả, trong khi Nam Hàn có đến 16 trường, Trung Cộng có 14 trường, đảo quốc Đài Loan có 11 trường, Malaysia có 5 trường, Thái Lan có 5 trường, Nam Dương có 4 trường, Singapore có 2 trường, Phi Luật Tân có 2 trường, và tệ nhất là Pakistan cũng có được 1 trường trong danh sách đó. Điều này chứng minh là nền giáo dục Việt Nam nhất là giáo dục bậc đại học, bị tách biệt ra ngoài dòng kiến thức khoa học kỹ thuật quốc tế. Một chứng minh rõ nét nhất là thống kê số lượng những công trình nghiên cứu khoa học nói trên. Vì vậy mà không có gì phải ngạc nhiên, vì học sinh sinh viên Việt Nam chỉ được trang bị hành trang giáo dục một cách tồi tệ, nên kết quả mà quốc gia mong đợi chỉ đến đó là cùng. ....

      (3) Bảng nghiên cứu nhận định về nguyên nhân: “Việt Nam trải qua giai đoạn bị Pháp cai trị từ nửa cuối thế kỷ 19 đến giữa thể kế 20, giai đoạn chiến tranh giữa cộng sản với tự do, tiếp theo là giai đoạn Việt Nam bị cai trị bởi chế độ độc tài xã hội chủ nghĩa với chính sách giáo dục mà bậc đại học lệ thuộc vào cơ quan quyền lực cấp trung ương, với sự kiểm soát cao độ. Nhà nước quyết định tất cả, các trường đại học không được quyết định bất cứ vấn đề hành chánh lẫn chuyên môn của trường, ngay cả vấn đề lương bổng và thăng thưởng cũng căn cứ trên lý lịch gia đình, lý lịch chính trị, nhất là những móc nối cá nhân. Phát sinh kiến thức là một công trình không biên giới, nhưng sinh viên Việt Nam thiếu hẳn mối liên hệ với quốc tế để học hỏi....

      (4) Năm 2005, nhà nước ban hành Nghị Quyết 14 cải tổ giáo dục cao đẳng đến năm 2020 về những vấn nạn giáo dục, nhưng Nhà nước Việt Nam vẫn giữ quan niệm trọng tâm của mọi vấn đề cải tổ phải là nhà nước, mà lẽ ra phải là các học viện, trong khi hệ thống đại học Hoa Kỳ thì các học viện là nhân tố chính còn nhà nước giữ vai trò rất hạn chế.. ...

      (5) Về sinh viên du học, cũng là vấn đề gai góc: ..
      (a) Sinh viên Việt Nam du học ngoại quốc bắt đầu gia tăng từ năm 1986, nhưng chỉ là con em của những gia đình cán bộ đảng viên, và những sinh viên may mắn nhận được học bổng.
      (b) Hiện nay, xã hội Việt Nam có sự chênh lệch quá xa về mức sống giữa người thành thị giàu sang tột đỉnh với người nông thôn nghèo khổ tột cùng.
      (c) Việt Nam không thể nào chỉ trông cậy vào số sinh viên du học mà không tạo nên một hệ thống giáo dục thích ứng với mục tiêu phát triển quốc gia, thì các chuyên gia Việt Nam đào tạo từ đại học ngoại quốc vẫn tránh né nghề giảng huấn nếu phải trở về Việt Nam. Mặc khác, đại học danh tiếng quốc tế không bao giờ chấp nhận những sinh viên Việt Nam yếu kém, vì như vậy sẽ gây tổn thương danh tiếng của họ.

      (6) Bản nghiên cứu kết luận: Cách duy nhất là Việt Nam phải cải tổ toàn bộ thể chế điều hành, đó là chìa khóa cải tiến toàn diện hệ thống giáo dục cho xã hội Việt Nam tương lai.

      Tiếp theo bản nghiên cứu nói trên, Giáo sư Hoàng Tụy nhận xét: “Chúng ta có biết bao tiến sĩ, giáo sư và gần đây rộ lên cả mấy tá viện sĩ (chức danh này chưa có ở VN, nhưng nếu muốn trưng ra thì cả nước hiện nay cũng có thể trưng ra cả nghìn viện sĩ kiểu này chứ không ít), rồi lại có cả những bộ óc vĩ đại thế kỷ 21, nhiều nhân vật trí thức xuất chúng đến nỗi đang có kế hoạch phải dành 25 hecta đất vào thời buổi đất quý hơn vàng, để xây một Văn Miếu hiện đại mới đủ chỗ vinh danh bấy nhiêu bậc đại trí. Thế nhưng có ai dám chắc cái gia tài trí thức lớn ấy sau này sẽ được con cháu hoan nghênh khi đất nước đến hồi hưng thịnh? Bởi trí thức Việt Nam dễ mắc bệnh vĩ cuồng, không hòa nhập vào dòng chảy văn minh của thời đại, không chấp nhận luật chơi quốc tế, rồi ngày càng tụt hậu mà vẫn tự ru ngủ mình, tự đánh lừa mình, và đánh lừa nhân dân mình với những thành tích không có thật. Chạy theo danh hão, chạy theo quyền lực, chạy theo chức tước, là căn bệnh thời đại của trí thức Việt Nam hiện nay”.

      Năm 2010. Trên "vietnamnet.vn/giaoduc" ngày 26/05/2010, nhà văn Dạ Ngân (trong nước) dùng chữ “du học để tị nạn giáo dục” khi trả lời cuộc phỏng vấn. Thoạt nghe tưởng như đùa, nhưng thật ra là chuyện rất thật nếu chúng ta nhìn vào nền giáo dục Việt Nam ngày nay. Bà nhận định: “Các ông bố bà mẹ hiện đại ở các đô thị đang có xu hướng “ấn” con đi du học càng sớm càng tốt? Xu hướng này phản ánh điếu gì về tâm lý và sự thay đổi trong xã hội hiện nay? (Xin lỗi là tôi để nguyên chữ hiện đại và phản ánh trong nguyên văn. PBH) ... Nhưng tại sao có tâm lý đua nhau cho con đi sớm? Là vì cung cách của nền giáo dục Việt Nam không thể nào làm cho bậc cha mẹ an tâm. Tính hiếu học của người Việt đang bị thách thức. Những người có tiền không dại gì để con mình chịu đựng sự thể nghiệm mãi của những nhà cải cách, và phải học theo kiều “nhồi sọ” ở trường, lại còn phải học thêm và học thêm mãi”.

      Năm 2011. Nhà giáo Phạm Phúc Thịnh “kỹ sư tâm hồn xã hội chủ nghĩa”, giảng viên khoa ứng dụng tin học trường Đại Học Kinh Tế Kỹ Thuật Bình Dương, tâm sự nhân “Ngày Nhà Giáo 20/11 Năm 2011”. Lời mở đầu của tác giả: “Nhà giáo đang cô đơn giữa cộng đồng”. Rồi ông nói thêm:

      (1) Ngày 20/11 lại đến! Một ngày mà lúc đầu mang ý nghĩa tôn vinh những người làm công tác giáo dục. Nhưng, theo dòng đời trôi nỗi, cùng với tác động của cơm áo gạo tiền, ngày ấy đã trở thành “ngày lễ thầy” với đúng nghĩa đen của nó. Thật vậy, cách tổ chức mừng ngày này tại các trường na ná giống nhau về hình thức. Các thầy cô giáo phải đến trường, nghe những lời huấn dụ phải thế này, thế kia... Điều quan trọng nhất là làm gì để cho vị thế của giáo viên trong xã hội được nâng cao, được tôn trọng, lại chia ở thì tương lai với động từ “sẽ...” mà không biết bao nhiêu năm “sẽ...” đã trôi qua. Tại sao trong ngày này, giáo viên không được nghỉ ngơi thư giãn, đi chơi đâu đó để có thể đón nhận những niềm vui thật sự từ học trò, từ người thân, từ bạn bè...

      (2) Có ngày 20/11 để làm gì, khi những món quà tặng thầy cô bị biến tướng thành phong bì, voucher quà tặng với 1 chữ số khác 0 đứng trước và đi kèm theo đó là 5 hoặc 6 chữ số 0. Để rồi sau đó, các phương tiện truyền thông và một bộ phận xã hội người dân nói những lời xúc phạm nặng nề đến nhân cách của giáo viên. Là giáo viên chân chính không ai muốn điều đó cả. Nhưng hình như mọi người quên rằng, có những phụ huynh thật sự có điều kiện về kinh tế, họ không được tặng cho người thầy cô mà con cái họ yêu quý những món quà có giá trị lớn sao? Và giáo viên nhận những món quà này có gì sai chăng?

      (3) Có ngày 20/11 để làm gì, khi mỗi ngày trong cuộc sống, giáo viên đang là những cố gắng giáo dục cho học trò viết đúng tiếng Việt, tôn trọng những chuẩn mực đạo đức của xã hội, tuân thủ luật pháp. Trong khi hàng loạt “Cối Xay Gió” kiểu “Sát Thủ Đầu Mưng Mủ” lại in vào đầu các em những câu văn vô nghĩa, những câu nói vớ vẩn mà một số người lớn lại biện minh đó là “sự sáng tạo của tiếng Việt hiện đại”. Những hành động vô cảm trước hoạn nạn của người khác, thậm chí còn hưởng lợi từ sự thiếu may mắn của người khác. Để rồi đến một ngày khi đám trẻ trở thành sát thủ, giải quyết mọi mâu thuẫn bằng bạo lực, mọi nguyên do lại được quy về “không biết thầy cô dạy dỗ như thế nào?”

      (4) Có ngày 20/11 để làm gì, khi có những phụ huynh vì không nhìn thấy cái sai của quý tử nhà mình, sẵn sàng hành hung giáo viên, hả hê khi thấy giáo viên bị kỷ luật chỉ vì không kiềm chế được trong lúc nóng giận đã lỡ quất vào mông của quý tử đó một roi. Chưa thời nào mà nhà giáo lại là người dễ bị “bắt nạt” như thời bây giờ, nhà giáo bị phụ huynh hành hung, bị học sinh tấn công thì mọi chuyện sẽ không có gì ầm ĩ. Nhưng chỉ cần nhà giáo có một hành động gì đó không đúng chuẩn mực lắm thì ngay lập tức hàng loạt "cơn mưa đá" sẽ trút xuống nhà giáo rất tội nghiệp, mà hình như mọi người ném đá lại quên mất rằng nhà giáocũng có đầy đủ hỷ nộ ái ố của một con người bình thường.

      (5) Khi cuộc sống đời thường của người giáo viên quá nghèo khổ thì bị nhìn với cặp mắt thương hại. Nhưng khi người giáo viên vươn lên thoát nghèo bằng chính nghề nghiệp của mình thì bị xã hội mỉa mai gọi là “bán chữ”, thậm chí còn bị xem đó là hành vi phạm tội, lập ra đội chống dạy thêm để hạch sách. Xã hội đòi hỏi giáo viên phải sống thanh bạch như những “nhà giáo ngày xưa“ trong làng xã, nhưng quên mất rằng những “nhà giáo ngày xưa“ chỉ chăm lo việc dạy, còn cuộc sống được dân trong làng đảm bảo không để thầy phải bận tâm về cơm áo gạo tiền. Những người thầy mẫu mực được gọi là “vạn thế sư biểu” trong lịch sử như Chu Văn An, Khổng tử... đều có một cuộc sống đời thường thanh bạch giản dị nhưng không phải thiếu thốn những nhu cầu cần thiết...

      (6) Có lẽ, rất nhiều giáo viên đều ước rằng, thay vì một năm có một ngày 20/11 với đủ các lời chúc hoa mỹ, quà tặng, với những lo lắng “đua quà” của phụ huynh, thì suốt cả năm cha mẹ hãy cùng chung tay với thầy cô trong việc giáo dục con em mình trở thành những người có ích trong xã hội, nói đúng ngôn ngữ tiếng Việt..... Cả xã hội thay đổi cách nhìn, nâng cao vị thế và cuộc sống thực tế của giáo viên trong cuộc chiến chống lại những cái xấu, để giáo viên xuất hiện trước mắt học sinh thân yêu với hình ảnh đẹp và mẫu mực của một thầy cô giáo đúng nghĩa. Và kết thúc lời tâm sự của nhà giáo Phạm Phúc Thịnh: “Ước gì đừng có ngày 20/11 hằng năm!“

      Tôi tóm lược vài đoạn trong bài viết “Văn Hoá Cà Chớn” của một nhà văn trong nước. Tháng 11/2011 vừa qua tại Sài Gòn mà Các Anh gọi là Hồ Chí Minh, Công Ty Văn Hóa Truyền Thông Nhã Nam phát hành tập truyện “Sát Thủ Đầu Mưng Mủ” (mà nhà giáo Phạm Phúc Thịnh đã nói ở trên). Cái tên rất ư là kỳ cục vì nó không hàm chứa một ý nghĩa văn chương nào cả, nhưng lại là loại sách dành cho tuổi trẻ Việt Nam với nội dung gồm nhiều bức tranh vẽ vội nếu không nói là vẽ sơ sài, và dưới mỗi bức tranh có một thành ngữ được xếp vào loại “thành ngữ sành điệu”. Tất cả có khoảng 120 câu thành ngữ thông dụng của tuổi trẻ hiện nay, chẳng hạn như: “Ngất ngây con gà tây - Phi công trẻ lái máy bay bà già - Thuận vợ thuận chồng con đông mệt quá - Tào lao bí đao - Tự nhiên như cô tiên - Xấu nhưng biết phấn đấu - Đói như con chó sói - Một con ngựa đau cả tàu được thêm cỏ - Một điều nhịn chín điều nhục - Cái khó ló cái ngu - ....”
      Dưới nét nhìn của bất người Việt Nam nào còn quan tâm đến văn hoá dân tộc cũng tự hỏi: “Đây có phải là văn hoá mới xã hội xã hội chủ nghĩa không? Hỏi, cũng là trả lời: “Đúng vậy”. Câu trả lời này gợi lại chính sách của lãnh đạo cộng sản Việt Nam khi chiếm được Việt Nam Cộng Hòa đã ra lệnh tịch thu toàn bộ văn hoá phẩm trong xã hội dân chủ tự do, để thay vào bằng văn hoá mới xã hội chủ nghĩa, một thứ văn hoá “sáng tạo” ra một xã hội gian trá, dối gạt, lưu manh, .... nói chung nó là thứ văn hoá của một xã hội độc tài đảng trị. Tác giả cũng cho biết rất nhiều ý kiến phản đối dữ dội, vì cho rằng đây là một cuốn sách nhảm nhí, xuyên tạc thành ngữ, tục ngữ Việt Nam, làm mất đi sự trong sáng của tiếng Việt. Chị Thanh Hà, một nhân viên ngân hàng tức giận: “Tôi không hiểu vì sao một cuốn sách nhảm nhí như vậy lại được nhà nước cho xuất bản. Những câu thành ngữ tục ngữ Việt Nam đã bị cải biên xuyên tạc một cách trắng trợn. Thử hỏi, khi các cháu học sinh sinh viên sẽ học được điều gì trong sách? Với câu “Có chí thì ghê”, đã xuyên tạc ý nghĩa giáo dục tinh thần của câu “Có chí thì nên” của ông cha ta bao đời để lại cho con cháu noi theo. Nhìn chung, loại sách như vậy là phản lại truyền thống đạo đức Việt Nam.

      3. CÁC ANH NGHĨ GÌ?

      Chỉ mới ngần ấy sự kiện, tôi nghĩ cũng đủ giúp Các Anh nhận ra nền giáo dục xã hội chủ nghĩa của lãnh đạo Các Anh “đã trồng được những thế hệ thần dân“ đúng theo bản chất của đảng, để tuân phục đảng chớ không phải lắng nghe nguyện vọng của dân, phục vụ đảng chớ không phải phục vụ dân mặc dù “dân là chủ còn cán bộ đảng viên là đầy tớ“, và chết cho đảng chớ không phải chết cho tổ quốc nhân dân. Cũng vì “những thế hệ mà giáo dục xã hội chủ nghĩa đã trồng được, đã dẫn đến một xã hội mà mọi người từ lãnh đạo cao nhất trải dài xuống các lãnh đạo trong hệ thống đảng với nhà nước, đến tận người dân, phải sống với nhau bằng những phương cách lọc lừa dối trá với nhau. Hãy nhớ rằng, người dân hoàn toàn không có lỗi gì trong xã hội Việt Nam ngày nay, mà là bắt nguồn từ bản chất của lãnh đạo cao nhất của đảng cộng sản.

      Với một nền giáo dục xã hội chủ nghĩa đã thật sự tác hại vào hai thế hệ đã qua, hai thế hệ hiện nay, và vẫn còn tiếp tục. Tác hại ngay trên cuộc sống thường ngày của mỗi người trong xã hội, và đã tạo nên một xã hội băng hoại đến mức mà văn hoá dân tộc từ bao đời Ông Cha truyền lại hầu như tan biến ngược chiều với sự vươn lên một cách thảm hại của dòng “văn hoá mới, con người mới xã hội chủ nghĩa“, trong khi thứ văn hoá đó đã bị cộng sản Liên Sô và các quốc gia cộng sản vùng Đông Âu liệng vào thùng rác lịch sử hơn 20 năm trước rồi.

      Tôi gởi sự suy nghĩ nhỏ nhoi hạn hẹp này đến Các Anh, hãy bình tâm mà nhận định một chuỗi sự kiện mà Các Anh vừa đọc qua, và suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính mình chớ không phải tâm hồn của người đảng viên cộng sản. Mong Các Anh đừng đứng nhìn một cách vô cảm nữa mà hãy hành động “như một đầu tàu”, kéo theo 89 triệu bà con trên quê hương Việt Nam thân yêu, và mạnh dạn đứng lên quật sập cái chế độ cộng sản độc tài tàn bạo, một chế độ đã tạo nên một xã hội băng hoại bắt nguồn từ chính sách giáo dục ngu dân, để cùng nhau xây dựng một nền văn hoá khai phóng, nhân bản, khoa học, và phát triển một xã hội dân chủ pháp trị mà mọi người được hưởng một cách tự nhiên những quyền căn bản của mình. Nếu Các Anh “không thể đứng dậy làm đầu tàu” thì khi người dân đứng dậy, Các Anh hãy đứng về phía đồng bào mà hành động.

      Tôi vững tin rằng, bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Lính Chúng Tôi- vẫn hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào, những thế hệ làm nên lịch sử.

      “Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng”.

      Texas, tháng 1 năm 2012.


      “Nhân Tết Nguyên Đán, tôi chúc Các Anh cùng gia đình Một Năm Nhâm Thìn 2012, được An Lành và Hạnh Phúc. Năm Mới, với nét nhìn mới về mọi lãnh vực sinh hoạt xã hội vì nó bắt nguồn từ lãnh đạo của Các Anh, để nhận ra chân dung xã hội hiện nay mà nghĩ về một xã hội tương lai cho con cháu“.

      Comment


      • #4
        Thư số 4 gởi Người Lính Quân Đội Nhân Việt Nam

        Thư số 4 gởi

        Người Lính Quân Đội Nhân Việt Nam


        *********
        Phạm Bá Hoa

        Tôi tên Phạm Bá Hoa, chào đời năm 1930 tại đồng bằng sông Cửu Long. Tôi phục vụ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 21 năm trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc, sau đó tôi bị tù không án trong các “trại tập trung” mà lãnh đạo của Các Anh gọi là “trại cải tạo” 12 năm 3 tháng. Hiện cư ngụ tại Hoa Kỳ.

        Xin được gọi “Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam” là Các Anh để tiện trình bày. Chữ “người lính” mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng, gọi chung là “cấp lãnh đạo”. Là người lính trong quân đội “Nhân Dân”, chắc rằng Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Các Anh trong quân đội Nhân Dân mà. Với lại, Tổ Quốc & Dân Tộc là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng chính trị nào cũng chỉ là một giai đoạn của lịch sử. Và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.
        Với thư này, tôi mời Các Anh nhìn lại “Chân Dung Xã Hội Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” dưới góc cạnh tham nhũng trong xã hội Việt Nam ngày nay.

        1. XÃ HỘI.

        “Quốc Gia” bao gồm: Một lãnh thổ, một dân tộc, một nền văn hoá, một dòng lịch sử, một hệ thống công quyền, những công trình kiến trúc mỹ thuật.

        “Xã Hội” hình thành từ gia đình. Mỗi gia đình là một đơn vị, nhiều đơn vị gia đình hợp lại thành một đơn vị hành chánh, và tất cả các đơn vị hành chánh trong hệ thống dọc từ dưới lên trên hợp lại thành một xã hội của quốc gia.
        “Sinh Hoạt Xã Hội” được ví như sự vận hành của cái đồng hồ, với hằng chục hằng trăm bánh xe lớn nhỏ sắp xếp bên trong lớp võ, mỗi bánh xe được nhà phát minh đặt vào một vị trí với một công việc nhất định, và tất cả công việc của các bánh xe gộp lại được gọi là sự vận hành của cái đồng hồ, giúp con người biết được thời gian đi qua từng giây từng phút. Tương tự như vậy, con người sinh ra, lớn lên, và thành đạt trong sinh hoạt xã hội chớ không thể tự mình trong riêng rẽ. Do đó, mỗi người phải tạo dựng cho mình mối tương quan tốt với mọi người, chớ không thể tự cho mình giỏi hơn mọi người mà coi thường mọi người, bởi không có nghề nào trong xã hội là không cần thiết, vì tất cả các ngành nghề đều có mối tương quan với nhau trong sự vận hành của guồng máy xã hội.

        “Xã Hội Thăng Tiến Hay Suy Sụp” là do các cấp trong hệ thống lãnh đạo, nhất là lãnh đạo cấp quốc gia, thể hiện trong chính sách giáo dục học đường, và những chính sách giáo dục xã hội ngang qua các lãnh vực sinh hoạt trong đời sống, đặc biệt là các phương tiện truyền đạt tin tức trong hệ thống truyền thông.

        2. HÃY NHÌN VÀO XÃ HỘI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM.

        Lãnh đạo cấp quốc gia mà xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam gọi là Bộ Chính Trị với 14 đảng viên cộng sản, là cơ quan quyền lực tuyệt đối. Bởi trong hệ thống tổ chức không có cơ quan nào kiểm soát, vì vậy mà nhóm lãnh đạo quyền lực này tự đứng trên Tổ Quốc, trên Dân Tộc, trên Quốc Hội, trên hệ thống Nhà Nước, và trên hệ thống Tư Pháp. Đã có lần ông Nguyễn Văn An khi giữ chức Chủ Tịch Quốc Hội, trong lúc quá bực tức đã phát biểu: “Bộ Chính Trị là 14 ông vua tập thể!” Đúng vậy, Bộ Chính Trị là nơi hình thành hệ thống tham nhũng để bảo vệ sự sống còn của đảng cộng sản, vì đảng không còn lý tưởng làm điểm tựa từ khi “thành trì vững chắc của chủ nghĩa cộng sản là Liên bang Sô Viết sụp đổ từ đầu những năm 90 của thế kỷ 20, kéo theo sự sụp đổ của các quốc gia cộng sản Đông Âu. Tự bản thân các đảng viên lãnh đạo trong Bộ Chính Trị tham nhũng, cùng lúc ăn chia với lãnh đạo cấp dưới tham nhũng, khi cấp dưới bị phát giác tham nhũng thì lãnh đạo cấp trên che chắn, vì mục đích của luật pháp xã hội chủ nghĩa đặt ra là bảo vệ đảng viên. Nếu không như vậy thì đảng cộng sản với chế độ độc tài của Các Anh đã sụp đổ từ cuối những năm 90 rồi.

        Dưới đây chỉ là những trường hợp điển hình, cộng với những gì mà chính Các Anh biết về những vụ tham nhũng từ vụn vặt đến những vụ mà báo chí “lề phải” trong xã hội Các Anh được phép đăng tải, tôi nghĩ, nó sẽ giúp Các Anh tìm lại được chính mình trong một xã hội mà đảng với nhà nước đã tạo cho người dân phải chấp nhận “quốc nạn tham nhũng” một cách bình thường như một nếp sống trong văn hoá mới xã hội chủ nghĩa ngày nay. Từ đó, tôi hy vọng Các Anh có đủ lý lẽ để đánh giá các cấp lãnh đạo trong hệ thống đảng và hệ thống nhà nước Việt Nam.

        Năm 2001. Báo Tuổi Trẻ phát hành tháng 08/2001, số sinh viên tốt nghiệp đại học mà không tìm được việc làm gia tăng hằng năm: Năm 1997 thất nghiệp 64%. Năm 1998 hơn 80%. Năm 1999 là 89%. Số còn lại tìm được việc làm thì hầu hết là gia đình của các cấp lãnh đạo đảng và lãnh đạo nhà nước, những chuyên viên chuyên gia ngoài đảng cộng sản phải có tiền mới “mua” được chỗ làm. Mời Các Anh đọc tiếp để hiểu rõ chữ “mua” nó tàn nhẫn như thế nào.

        Năm 2002. Đặc san Mạng Lưới Tuổi Trẻ Việt Nam/Houston 2002, trong bài “Những Con Ký Sinh Trùng Làm Chủ”, của Nguyễn Bảo An, định cư ở Pháp, có đoạn sau đây: “Lúc ở Paris, tôi cũng theo dõi thời cuộc Việt Nam, nên cũng biết dân tôi khốn khổ vì nạn tham nhũng, nhưng lúc đó tôi khó hình dung được là dân tôi khốn khổ vì tham nhũng như thế nào, và đến mức độ nào. Nhưng sau hai tháng hè về thăm quê hương, tôi mới hiểu nạn tham nhũng tàn bạo và khốc liệt ngoài sự tưởng tượng của tôi, và của mọi người. Trong một lần cùng người nhà đưa cháu tôi vào bệnh viện, tôi đã chứng kiến cảnh một bà mẹ ôm xác con khóc sướt mướt ở phòng chờ đợi. Chỉ vì bà quá nghèo, không có tiền hối lộ cho bác sĩ nên họ bỏ mặc cho mẹ con bà ngồi đó, và con bà đã chết”. Trong suốt thời gian ở quê nhà, tác giả đến bất cứ nơi đâu cũng bị làm tiền một cách trắng trợn. Tại phi trường, tại những cơ quan hành chánh, nơi đâu cũng phải xì tiền hối lộ mới được làm giấy tờ. Bị bắt buộc hối lộ nhiều đến nỗi tác giả không chịu được nữa, tác giả đem những điều tai nghe mắt thấy về tham nhũng nói với người em họ, một cán bộ trong cơ quan chánh phủ từ Hà Nội vào Sài Gòn, anh ta trả lời một cách tỉnh bơ cứ như tham nhũng như là một nếp sống rất bình thường: “Mọi người phải trả hối lộ cũng là hợp lý thôi, vì một nhân viên sở di trú phải bỏ ra chục triệu đồng mới mua được chỗ làm. Nếu họ không làm tiền đồng bào thi bao giờ họ mới thu lại được số vốn bỏ ra mua lấy chức vụ. Chức vụ của những viên chức là một dịch vụ thương mại, mà đã là thương mại thì phải có lợi nhuận. Người em cộng sản của tôi phát ra một tràng lý luận kiểu bất lương, lưu manh, nham nhở, ”. Nghe đến đó tác giả cảm thấy lạnh xương sống trước lý luận kiểu xã hội chủ nghĩa, hoàn toàn trái với đạo đức con người. Vậy là tham nhũng đã đánh đổ cả lương tri, làm đảo lộn tất cả những giá trị đạo đức trong xã hội. Quay trở lại Paris, tác giả tự mình khẳng định: “Từ nay, đọc những bài báo nói về tham nhũng tại Việt Nam, tôi thật sự hiểu tham nhũng tại đó là gì, và nó đã gây thiệt hại, đớn đau, mất mát, đổ vỡ cho dân tộc Việt Nam, quê hương Việt Nam như thế nào! Không bút mực nào diễn tả hết nỗi thống khổ của đồng bào trên quê hương về nạn tham nhũng khủng khiếp. Dân tôi bị bóc lột, bị làm tiền một cách trắng trợn vô liêm sỉ từ những kẻ tự xưng là “đầy tớ của nhân dân”!

        Tôi nhấn mạnh với Các Anh rằng, tiền thuế là mồ hôi nước mắt của người dân làm ra sản phẩm hay dịch vụ để có tiền đóng thuế cho nhà nước, nhà nước dùng tiền đó trả lương cho những viên chức chánh phủ, và viên chức chánh phủ có trách nhiệm phục vụ người dân. Đó là sinh hoạt trong một xã hội văn minh là như vậy, nhưng với xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì khác. Những viên chức nhà nước được trả lương bằng tiền thuế của dân, lại đem những chức vụ có trong tay bán cho những viên chức cấp dưới, những viên chức cấp dưới đem bán những công việc cho người dân có nhu cầu để thu lại vốn lẫn lời, mà đúng ra họ phải phục vụ người dân. Sau khi cầm quyền trên toàn cõi Việt Nam từ năm 1975, nhóm lãnh đạo CSVN đã phá nát tất cả những giá trị cao quí của văn hoá dân tộc.

        Thêm vào đó, kinh tế thị trường theo “định hướng xã hội chủ nghĩa”, một loại “định hướng không có định hướng trong các nền kinh tế thế giới”, đã biến nhóm lãnh đạo CSVN từ trên xuống dưới thành “giai cấp tư bản đỏ vô luân và vô cảm”. Không sai, vì xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một thứ xã hội đen do nhóm lãnh đạo CSVN cầm đầu, với trợ thủ đắc lực của cả bộ máy đảng và bộ máy nhà nước. Cũng không sai, vì xã hội chủ nghĩa tại quốc gia sản sinh ra nó là Liên Sô đã sụp đổ hoàn toàn do cái tồi tệ của bản thân nó, vì vậy mà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trở thành nơi dung túng xã hội đen để bao che cho sự tồn tại của họ, bảo vệ quyền lợi riêng tư của họ. Đây là cách tận cùng của những cách thực hiện. Nhưng nói cho cùng, nhóm lãnh đạo CSVN chỉ có cách đó là cao nhất của họ, và xứng hợp với cái gọi là “đỉnh cao trí tuệ” của cái đảng cầm quyền độc tài, của bộ máy cầm quyền vô cảm trước nỗi đau của đồng bào! Do vậy mà trong xã hội Việt Nam ngày nay, tham nhũng hoành hành đến tận cùn các ngóc ngách trong các cơ quan đảng, cơ quan nhà nước. Trong nhiều trường hợp, người nộp hối lộ không bực mình vì mất một số tiền, mà phẫn uất vì cái nạn hối lộ tràn lan đến tận hang cùn ngỏ hẻm ở Việt Nam, đến mức không còn một chỗ nào để tránh né được. Đúng là không thể tránh né được, vì bất cứ ngành nào trong bộ máy đảng lẫn bộ máy nhà nước, tất cả đều mua quan bán chức, từ chức lớn xuống chức nhỏ địa phương, mới có một vị trí trong xã hội dù chỉ là vị trí thấp nhất của tổ chức, để từ vị trí đó những người mua chức đều đòi hối lộ, nhận hối lộ, như lời nhận xét thật đau của Nguyễn Bảo An, một tuổi trẻ Việt Nam tại Paris sau chuyến về thăm quê hương hai tháng!

        Chắc Các Anh có biết là nhóm lãnh đạo CSVN từ Tổng Bí Thư, Chủ Tịch Nước, đến Thủ Tướng, đều tuyên bố là chống tham nhũng quyết liệt, chống bất cứ kẻ tham nhũng là ai, ở chức vụ nào, đều phải đưa ra pháp luật. Tuyên bố “quyết liệt” như vậy, nhưng khi hai ông Phạm Quế Dương với Trần Khuê nộp đơn xin thành lập Hội Chống Tham Nhũng để trợ giúp cho nhà nước thì nhà nước ra lệnh bắt lên bắt xuống, hành hạ sách nhiễu đủ điều. Rõ ràng là tuyên bố chống tham nhũng chỉ là lời dối trá của nhóm lãnh đạo CSVN, họ dối trá với người dân dưới quyền cai trị của họ, dối trá với thế giới văn minh, và dối trá với chính bản thân họ nữa.

        Năm 2003. Tóm tắt bài viết ngày 4/10/2003 “Trong vòng vây của Công An CSVN, những người Việt Nam xin tị nạn ở Đức bị tống tiền như thế nào”, bài của Việt Hùng từ Cộng Hòa Liên Bang Đức. Đó cũng là tên của bài phóng sự trên đài truyền hình ARD lớn nhất của Đức quốc, tường trình từ thành phố Munchen. Chuyện bắt đầu từ số phận của khoảng 40.000 người Việt bị từ chối tị nạn tại Đức sau khi các quốc gia cộng sản Đông Âu sụp đổ, và đang chờ trục xuất về Việt Nam. Theo “Hiệp Định Hồi Hương” giữa lãnh đạo CSVN với CHLB Đức, hai bên phải thực hiện xong công tác hồi hương trong thời gian 1995-2000. Nhưng đến năm 2003, số người hồi hương mới đạt được con số rất nhỏ. Lý do: CSVN không chấp nhận số người mà họ cho là không xác minh được lý lịch. Chánh Phủ Đức muốn công tác trục xuất được nhanh hơn, nên đồng ý cho CSVN cử phái đoàn Công An sang Đức thẩm vấn trực tiếp để xác minh lý lịch.

        Phần lớn trong số hơn 40.000 người này, không ai muốn trở về “thiên đường xã hội chủ nghĩa”, dù khối người này khi rời Việt Nam dưới danh nghĩa nhà nuớc CSVN cử đi du học, hoặc xuất cảng lao động. Bằng một máy thu hình giấu kín đã được tòa án cho phép, nhóm phóng viên đài truyền hình ARD, có đầy đủ bằng chứng qua người trung gian của Công An đã ra giá cụ thể với ông Vũ Phương Chiến: “Nếu nộp 1.500 Euro thì được ở lại thêm mấy tháng nữa, nhưng vẫn trong tình trạng không hợp pháp. Nếu nộp 5.000 Euro thì anh sẽ đuợc cấp thông hành Pháp và ở lại thêm 1 năm. Có thông hành thì thời gian 1 năm là hợp pháp, mọi sự đi lại đều không sợ bị bắt. Sau đó, cứ 5.000 Euro cho 1 năm hợp pháp với thông hành của Pháp, không sợ chánh phủ Đức trục xuất”. Một người Việt Nam khác, nhận được số điện thoại của một người trung gian đưa qua gầm bàn khi thẩm vấn, để liên lạc trao đổi giá cả. Và anh thuật lại sau khi liên lạc: “Nếu anh nộp 600 Euro thì được ở lại thêm 6 tháng. Điểm chính của vấn đề là nếu người nào nộp tiền theo giá qui định của từng thời gian, thì người đó không hồi hương Việt Nam, cũng không lo sợ sẽ bị tìm ra tung tích, vì phái đoàn Công An CSVN thông báo cho chánh phủ Đức là không xác minh được lý lịch, lúc đó chánh phủ Đức có muốn trục xuất cũng không biết trục xuất đi đâu, và đành phải để những người đó ở lại Đức. Thế là mọi việc ổn thỏa”.

        Dân Biểu Joseph Winkler, người phát ngôn về di trú của Đảng Xanh trong liên minh cầm quyền tại Đức, phát biểu: “Một quốc gia dân chủ như nước Đức, việc mua bán thuộc dạng tống tiền ngay trên lãnh thổ này là không thể chấp nhận được”. Dân Biểu Winkler nói thêm: “Những nạn nhân Việt Nam của những vụ tống tiền này, có quyền đạt đơn xin tị nạn tại Đức, và họ đáng được chấp nhận tị nạn”. Đảng PDS, cũng trong liên minh đảng cầm quyền, đã họp và ra thông báo đệ trình lên Chánh Phủ một bản nghị quyết, tạm thời đình hoản việc cho phép Công An CSVN sang Đức thẩm vấn người tị nạn. Về phía các tổ chức nhân quyền Đức, đã đồng loạt lên tiếng phản đối dữ dội về hành động tống tiền của Công An CSVN. Ông Karl Hafen, nhân danh Chủ Tịch Hiệp Hội Nhân Quyền Quốc tế, trụ sở tại thành phố Frankfurt/Main, tuyên bố: “Đây là một thảm kịch! Những người tị nạn phải chịu sức nặng từ hai phía, một bên là chánh quyền Đức về vấn đề trục xuất, một bên là Công An CSVN về những vụ tống tiền. Họ đứng trước một sự chọn lựa không dễ dàng. Nếu họ chịu tống tiền, thì họ biết rằng cho dẫu có được ở lại cũng không bảo đảm chút nào vì vẫn là không chánh thức, rồi một ngày kia cũng bị trục xuất như những tội phạm. Nếu họ chọn không bị tống tiền, họ có thể bị đưa về Việt Nam, và bị toà án xét xử”.

        Các Anh có nghĩ là lãnh đạo nhà nước Việt Nam cảm thấy nhục khi biết Công An chẳng những đòi hối lộ người dân trong nước, mà còn đòi hối lộ người dân xã hội chủ nghĩa ở ngoại quốc không? Ô, tôi quên, nếu nhóm lãnh đạo CSVN mà biết nhục thì đâu phải là cộng sản.

        Năm 2007-2010. Tóm tắt và trích dẫn bài của ông Nguyễn Duy Vinh, Tiến sĩ ngành Cơ Khí Động Học. Theo tác giả thì ông Trần Văn Tuyền, Tổng Thanh Tra Chính Phủ của nước CHXHCN Việt Nam, một quan chức hàng đầu về chống tham nhũng, phát biểu trong một cuộc họp báo tại Hà Nội: “…Việt Nam coi việc chống tham nhũng là quốc sách, là sự nghiệp quan trọng liên quan đến sự sống còn của chế độ. Việt Nam đã cam kết và sẽ thực hiện đầy đủ các công việc mà Công Ước Liên Hiệp Quốc đã đề ra”.… Rồi tác giả nhận định: Một điều tôi phải nói ngay rằng, nhà nước Việt Nam từng tuyên bố mục tiêu hàng đầu là chống tham nhũng, nhưng những vụ tham nhũng đầy tai tiếng trong 9 năm gần đây cho thấy nhà cầm quyền Việt Nam không đủ quyết tâm để giải quyết tệ nạn này.…” Tác giả nhắc đến đại hội Việt Kiều với hơn 800 người tham dự tại Hà Nội hồi đầu năm 2010, Chủ Tịch Nguyễn Minh Triết đã phát biểu: “…Chúng ta từ một nước trong chiến tranh, chưa có những cái kinh nghiệm trong quản lý, và ở nước người ta đó thì muốn tiêu cực, muốn tham nhũng cũng khó, vì hệ thống luật pháp nó chặt chẽ. Còn ở Việt Nam của mình, thì có khi không muốn tham cũng động lòng tham, cái người thủ quỹ cứ giữ tiền khư khư, ở quỹ lúc nào cũng có số dư, cho nên lúc bí quá thì em mượn một chút, mượn không thấy ai đòi hết, thì em mượn thêm. Chứ không phải người Việt Nam tham nhũng nhứt thế giới, không phải vậy! Cho nên tui đề nghị quí vị ở nước ngoài khi nghe những thông tin này, rồi nhìn về Việt Nam cũng đừng có hốt hoảng, cứ nghĩ rằng trong nước mình tiêu cực quá… Đây là quy luật muôn đời. Con người ta, trong mỗi người, ai cũng có hỉ, nộ, ái, ố. Chúng ta là con một nhà, là con Lạc, cháu Hồng, cùng một bọc trứng sinh ra, trên thế giới này ít nơi nào có cái đó lắm…”

        Các Anh nghĩ gì khi mà nghe ông Chủ Tịch nước “thành thật khai báo” là Bộ Chính Trị dốt nát đã tạo nên hệ thống tham nhũng trong toàn đảng, toàn nhà nước, và toàn xã hội? Phải hiểu rằng, ông Triết chỉ nói cái người thủ quỹ tham nhũng vụn vặt, chớ không nói đến cái bản thân ông ta cùng với cả cái Bộ Chính Trị là tiền ở đâu ra mà cái ông nào cái bà nào cũng có tài sản đến hằng chục hằng trăm triệu mỹ kim? Những cái người đó là loại người tham nhũng “quy mô” chớ đâu phải “tham nhũng vụn vặt” như cái người thủ quỹ mà ông Triết nói. Chữ “tham nhũng” mà tôi sử dụng ở đây bao gồm: Đòi và nhận hối hộ quốc nội lẫn quốc tế, ăn cướp của dân, ăn cắp tài sản quốc gia, ăn xén ngân khoản trong các dự án lớn của họ đặt ra mà càng nhiều dự án lớn chừng nào thì cả hệ thống lãnh đạo càng thêm nhiều tài sản, ăn xén ngân khoản do ngoại quốc tài trợ, đầu tư ngoại, và tham nhũng do bán đất bán biển của tổ quốc (2 tỷ mỹ kim). Thật là khủng khiếp! Mời Các Anh xem tiếp một số vụ tham nhũng chẳng những trong nước biết mà thế giới cũng biết.

        Vẫn theo Tiến Sĩ Nguyễn Duy Vinh, bản báo cáo của Ban Chỉ Đạo Trung Ương về phòng chống tham nhũng cho biết: Năm 2007 có 584 vụ bị phát giác với gần 1.300 người tham nhũng, gây thiệt hại hơn 860 tỉ đồng VN (860,000,000,000 đồng) (1 USD = trên dưới 20,000 đồng VN). Trong 584 vụ này, đến cuối năm 2011, nhà nước chỉ mới đưa ra xét xử 360 vụ. Việc xử lý các vụ tham nhũng tăng dần mỗi năm và những vụ lớn tập trung tại Hà Nội với Sài Gòn. Những vụ được “báo chí lề phải” của Các Anh và báo chí hải ngoại đăng tải nhiều nhất:

        (1) Vụ PMU 18. PMU là chữ viết tắt của Anh ngữ “Project Management Unit, dịch sang Việt ngữ là Ban Quản Lý các dự án 18 thuộc Bộ Giao Thông Vận Tải (BGTVT) với ngân khoản lên đến hằng trăm triệu mỹ kim mà trong nước gọi là “đô la Mỹ”. Một vụ án phải đưa ra ánh sáng trong bối cảnh chuẩn bị đại hội 10 đảng cộng sản, làm cho Bộ Chính Trị cảm thấy bất an vì tham nhũng đã tràn ra ngoại quốc, khiến dư luận Nhật Bản rất bất mãn khi được biết Tổng Giám Đốc Bùi Tiến Dũng (BTD), đã dùng 7 triệu mỹ kim trong số tiền vay của ngoại quốc để xây dựng hệ thống giao thông đường bộ vào cuộc đỏ đen cờ bạc. Khi bị bắt để chờ ngày xét xử, ông Dũng lại sử dụng khoảng 1 tỉ đồng Việt Nam để hối lộ các viên chức điều tra! Theo báo VietNnamNet, BGTVT đã quyết định đình chỉ nhiều viên chức liên quan trong đó có Thứ Trưởng Nguyễn Việt Tiến. Cuối cùng, trong vụ án PMU 18, Bùi Tiến Dũng và 4 người nữa cùng lãnh án tù. Chưa hết, ngày 27/06/2011, tại Hà Nội, Bùi Tiến Dũng, cùng với 8 tòng phạm khác lại phải ra tòa với tội biển thủ công quỹ với số tiền 3 tỷ 400 triệu đồng, trong dự án xây dựng cầu Bãi Cháy, Quảng Ninh hồi năm 2003.

        (2) Vụ PCI, Nhật hối lộ PMU Việt Nam. Năm 2008, ông Huỳnh Ngọc Sỹ, giám đốc ban quản lý dự án đại lộ Đông Tây, bị bắt do báo chí Nhật Bản tố giác ông đòi và nhận hối lộ 820.000 mỹ kim từ công ty tư vấn Nhật PCI (Pacific Consultants International). Công tố viện Nhật khẳng định là PCI xác nhận đã đưa ông Sỹ tổng cộng 2.600.000 mỹ kim.

        (3) Vụ buôn lậu ở Nam Phi. Vụ này do viên chức tòa đại sứ CSVN tại Nam Phi buôn lậu sừng tê giác. Thật là nhục nhã cho đất nước Việt Nam vì ngay trong ngành ngoại giao cũng buôn lậu. Bản tin của đài truyền hình Nam Phi SABC, phát đi đoạn băng toàn cảnh nhân viên tòa đại sứ CSVN tại thủ đô Pretoria, đang giao dịch mua bán sừng tê giác với một tay buôn lậu ngay trước cửa tòa đại sứ. Trước bằng chứng không thể chối cãi, đại sứ CSVN Trần Duy Thái phải xác nhận người xuất hiện trong đoạn băng chính là bà Bí Thư thứ nhất Vũ Mộc Anh.

        (4) Vụ mua sắm trang bị bưu điện. Với dự án mua trang bị cho 38 bưu điện tỉnh và các thành phố trên toàn quốc do nhà buôn Nguyễn Lâm Thái (NLT) cầm đầu, đã hối lộ hơn 1 tỉ đồng cho Giám Đốc, Phó Giám Đốc, Trưởng Phòng của 9 bưu điện lớn ở Việt Nam.

        (5) Vụ tham nhũng ở Hóc Môn.
        Tháng 8/2009, Tòa Án Nhân Dân thành phố Sài Gòn đã xét xử hai vụ án tham nhũng liên quan đến Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân huyện Hóc Môn Nguyễn Văn Khoẻ. Ngoài 10 bị cáo về tội lừa đảo, chiếm đoạt tài sản, nhận hối lộ, lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, Hội Đồng Xét Xử (HĐXX) còn có 60 nhân chứng. Theo cáo trạng, để xin được dự án khu dân cư và công nghiệp sạch với diện tích hơn 6,9 mẫu tây tại xã Đông Thạnh, Hóc Môn, vợ chồng ông bà Hà & Hòa chủ nhân Công ty Thành Phát, kết thân với Trần Văn Tè (lúc đó là Chủ tịch UBND xã Đông Thạnh), Dương Minh Trung (lúc đó là trưởng phòng tài chính, kế hoạch và đầu tư huyện Hóc Môn) và ông Nguyễn Văn Khỏe, lúc đó là Chủ tịch UBND huyện. Trong thời gian thực hiện dự án này, Công ty Thành Phát đã đưa hối lộ tổng cộng hơn 2 tỷ 200 triệu đồng, và cho các bị cáo mượn hằng tỷ đồng nữa.

        (6) Vụ tham nhũng đất đai tại Sơn La. Đây là vụ tham nhũng đất đai lớn nhất từ trước đến nay ở Sơn La. Lợi dụng trách nhiệm được giao trong thời gian thực hiện các dự án nâng cấp quốc lộ 6 thuộc thành phố Sơn La năm 2002-2005, các bị cáo thực hiện việc kiểm kê và đền bù không đúng quy định. Tám bị cáo đều là cán bộ công chức nhà nước đã làm trái các quy định, gây thiệt hại tài sản cho nhà nước gần 4 tỷ 300 triệu đồng. Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La tuyên án phạt 9 bị cáo.

        (7) Vụ cựu Thống Đốc Ngân Hàng Việt Nam. Ông Lê Đức Thúy, bị báo chí Úc Đại Lợi tố cáo đã nhận hối lộ vụ Việt Nam in tiền giấy nhựa Polymer tại Australia. Vụ hối lộ này đã được chính quyền Australia điều tra trong 20 tháng. Theo nhật báo Anh Financial Times, một người thân cận với giới điều tra cho biết, công ty thầu in tiền Securency mà 50% vốn là Ngân Hàng Quốc Gia Australia, đã thú nhận hối lộ 15 triệu Úc kim cho ông Lê Đức Thúy, bằng cách trả học phí cho con trai của ông là Lê Đức Minh du học trường Đại Học Durham tại Luân Đôn, là trường dành cho con nhà giàu. Ông Lê Đức Thúy là người đứng đầu Ngân Hàng Trung Ương Việt Nam từ năm 1999 đến năm 2007, trước khi được bổ nhiệm làm Chủ Tịch Hội Đồng Giám Sát Tài Chánh Quốc gia.

        Năm 2011. Tập đoàn Công Nghiệp Tàu Thủy Việt Nam Vinashin, cùng hơn 20 tổng công ty liên quan, vừa bị khởi kiện tại tòa án ở London, Anh quốc, vì không trả nợ đúng hạn cho ngân hàng Thụy Sĩ. Viên chức tòa án xác nhận đơn kiện được Tòa Thương Mại, Chi nhánh Queen’s Bench thuộc Tòa Thượng thẩm nhận và mở hồ sơ ngày 01/11/2011, và Cơ Quan Hình Sự Quốc Tế (Interpol) đã phát lệnh truy nã hai cựu lãnh đạo tập đoàn Vinashin, đã làm cho ngành tài chính Việt Nam bị mất uy tín trên thế giới. Hai “bị cáo” này chắc chắn được sự che chắn của nhóm lãnh đạo quyền lực nên nhanh chóng và dễ dàng ra khỏi Việt Nam rồi: “(1) Hồ Ngọc Tùng, nguyên Tổng giám đốc tài chính của tập đoàn Vinashin, xuất ngoại với lý do trị bệnh nhưng không thấy trở về. (2) Giang Kim Đạt, trưởng phòng kinh doanh công ty vận tải viễn dương, một chi nhánh của Vinashin, ra nước ngoài trước khi bị khởi tố”. Báo Tuổi Trẻ cho biết, hai người này thuộc nhóm 10 cựu lãnh đạo và viên chức cao cấp của tập đoàn đóng tàu Vinashin bị truy tố về tội cố ý làm trái các quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, nói rõ hơn là tội tham ô và biển thủ ngân sách. Theo thẩm định chánh thức, tập đoàn Vinashin bị lỗ đến 4 tỷ mỹ kim. Nhưng vào đầu tháng 6/2011, báo chí cho biết Vinashin có thể bị mất thêm 1 tỷ mỹ kim nữa vì bị phạt do không thi hành các hợp đồng. Tháng 8/2011, nhân vật đầu tiên bị bắt do hành vi biển thủ tài sản Vinashin là Tổng Giám Đốc Nguyễn Thanh Bình.

        KẾT LUẬN.

        Xin hỏi: “Có khi nào Các Anh tự hỏi tại sao xã hội chủ nghĩa ưu việt lại quá nhiều tham nhũng như vậy không? Hay Các Anh nhìn những tệ nạn, thậm chí là quốc nạn tham nhũng, chỉ là nếp sống bình thường của những người vô cảm trong xã hội Việt Nam?” Cho dù có, hay không có, mời Các Anh đọc thêm hai đoạn văn dưới đây.

        Trích trong bài viết “Ngày Phán Xét Sẽ Đến” của “Tuổi 20” viết từ Hà Nội, để Các Anh nhận ra “tuổi trẻ Việt Nam” đã vượt lên trên chính sách bịt mắt bịt tai bịt miệng của một chủ nghĩa thối rửa trên chính trường quốc tế: “Trong đêm giao thừa 2012, trước tiên tôi xin cám ơn nhân loại, và đặc biệt cám ơn những người đã sáng tạo ra hệ thống Internet, nhờ đó mà thế hệ trẻ Việt Nam không còn bị giam giữ trong ngục tù ngu dốt của đảng CSVN nữa. Cám ơn ông Bill Gates, ông Steve Jobs, nhờ quí vị mà ngày hôm nay chúng tôi được thênh thang lướt mạng ngay trước mũi bọn Công An. Những bức màn tre, màn sắt trước đây giam giữ cha anh chúng tôi, bây giờ chỉ là trò cười cho thế hệ a-còng (@). Khi những hàng rào ngăn cấm tư tưởng con người bị phá bỏ bằng công nghệ thông tin, khi những bức tường lửa (firewall) trở thành bất lực trước khát vọng tự do, đấy là lúc dân chủ khai sinh. Tuổi trẻ Việt Nam sẽ đồng khởi vùng lên để trả lại tên đường TỰ DO, chúng tôi sẽ nam kỳ khởi nghĩa để đem lại CÔNG LÝ….

        Chúng con xin cám ơn Cha Mẹ đã cho con khối óc chắp cánh bay lên những vì sao cao nhất, và nhận thức được sự giẫy chết của chủ nghĩa xã hội chớ không chủ nghĩa tư bản như người ta đã nói. Cha Mẹ đã dạy chúng con biết thế nào là dân chủ thực sự khi cho phép chúng con nói lên những điều khiến Cha Mẹ lo nhiều, sợ hãi nhiều, Cha Mẹ không bịt miệng chúng con, cũng không bắt chúng con phải suy nghĩ một chiều như đảng CSVN vẫn làm. Chúng con biết tóc Cha Mẹ đang bạc đi vì sợ hãi, để tuổi xanh chúng con vươn lên dưới ánh mặt trời. Xin Cha Mẹ yên tâm, nếu một mai con phải vào tù thì chế độ hôm nay cũng sẽ chẳng còn bao nhiêu thời gian để giam giữ con, bạn bè, và anh chị em chúng con sẽ hàng hàng lớp lớp như thác đổ triều dâng phá đi khung cửa ngục tù, và ngày đó không xa đâu Cha Mẹ. Tại Việt Nam hôm nay làm gì có tự do, chỉ có nhà tù lớn hay nhà tù nhỏ mà thôi. Sợ hãi, chính là tên cai tù nguy hiểm nhất cho mỗi người chúng ta, nhưng khi vượt qua được nỗi sợ hãi thì chính là lúc kẻ thù của chúng ta lo sợ. Con không còn sợ nữa, bạn bè con không còn sợ nữa, chúng con đang tỉnh thức sau đêm dài u mê. Bây giờ là lúc đảng CSVN sợ hãi, chính vì sợ hãi nên chúng ra tay bắt bớ giam cầm bất cứ ai, như con chó điên cắn càn trước khi nhận viên đạn thi ân và bị vất xuống cống. ….”

        Trong đoạn kế tiếp, tác giả như đang nói với nhóm lãnh đạo quyền lực Bộ Chính Trị: “…. Tuổi trẻ Việt Nam ngày hôm nay đã quen với thế giới a-còng (@), iPhone và iPad, sẽ không dễ bị che mắt, bịt mặt, và lừa đảo như thế hệ cha anh chúng tôi. Nếu 14 ông bà bộ chính trị, những đỉnh cao của sở thú còn tin vào quyền năng vô hạn của hơn 700 tờ báo, đài phát thanh, và truyền hình các vị có thể định hướng, dẫn dắt chúng tôi. Hãy tỉnh thức, Việt Nam hôm nay có hằng triệu triệu người trẻ không buồn đọc báo, không thèm nghe đài và đang âm thầm cùng nhau xây thêm ống cống đủ cỡ cho các vị, và các quan tham….. Tuổi trẻ chúng tôi không thích những kẻ loạn ngôn, chúng tôi lợm giọng và buồn nôn khi thấy quý vị ngu dốt, trơ trẽn và vô liêm sỉ đến tột cùng khi tiếp tục lải nhải “Đảng CSVN quang vinh muôn năm”. Có ai lại tôn vinh cái đảng mà bàn tay thấm máu dân mình, cái đảng xây nhà tù nhiều hơn trường học, cái đảng dựng phòng massage nhiều hơn nhà thương, cái đảng đem con gái ra trần truồng phơi bày trước người Đài Loan, Hàn Quốc, … để họ sờ nắn như đi mua gà vịt với một hy vọng mong manh là sớm thoát ra khỏi cái thiên đàng xã hội chủ nghĩa…….”.

        Và đoạn dưới đây trích trong “Lời Kêu Gọi” của ông Đào Văn Nghệ viết ngày 23/10/2010, ông Nghệ là Đại Tá Quân Đội Nhân Dân của Các Anh đó. Ông cất lời than: “Đất nước lâm nguy! Giang sơn rơi lệ! Dân chúng lầm than! …..”
        Rồi ông kêu gọi: “Hỡi toàn dân Việt Nam ở mọi miền đất nước! Hỡi Quân Đội và Công An Việt Nam, hãy bảo vệ cho người dân Việt Nam, như những chiến sĩ Quân Đội và Công An Nga Sô, Ba Lan, Đông Âu trước kia. Họ đã sớm thức tỉnh, nắm lấy thời cơ, cầm súng đứng về phía Nhân Dân, để ngày nay chính họ, gia đình, vợ con họ được dân chủ, ấm no. Họ không còn phải sống trong lo sợ, đói khổ, giả dối dưới chế độ Cộng Sản cũ đầy dối trá và tội lỗi. Chế độ đã bao năm khống chế họ bằng luật rừng, họng súng, nhà tù, cưỡi lên đầu lên cổ nhân dân họ. Bởi vậy, đây là thời điểm nhân dân và đất nước đang cần những anh hùng đứng lên giúp dân làm nên một trang sử, đưa dân tộc ta bước vào kỷ nguyên dân chủ, ấm no không còn Cộng sản độc tài. Kỷ nguyên Quốc gia Cộng Hòa….”
        “Quân Đội Nhân Dân còn chờ gì nữa? “Tiên hạ thủ vi cường”. Khẩn cấp tiến hành cách mạng lật đổ chế độ Cộng Sản Hà Nội, kiến lập quốc gia Cộng Hòa Việt Nam…. Tiến hành tổng tuyển cử toàn quốc, để nhân dân được thật sự tự do, ứng cử, bầu cử, tìm những người tài đức lãnh đạo đất nước và có nhiệm kỳ. Thay đổi Hiến Pháp phù hợp với Hiến Pháp chung quốc tế, để bảo vệ quyền con người cho toàn dân. Việt Nam ơi! Thời thế tạo anh hùng. Mẹ Việt Nam ơi! Sinh ra những anh hùng”.


        Xin gởi những hiểu biết cùng với sự suy nghĩ của tôi đến Các Anh, “Những Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam”, hãy bình tâm mà nhận định một chuỗi sự kiện đã diễn ra, và suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính mình chớ không phải tâm hồn của người đảng viên cộng sản. Các Anh đừng đứng nhìn Nhân Dân của mình một cách vô cảm nữa, mà hãy đứng về phía Tuổi Trẻ và Nhân Dân đứng lên giật sập chế độ cộng sản độc tài, tham nhũng, tàn bạo với dân nhưng lại khiếp nhược hèn hạ với Trung Cộng, để mọi người Việt Nam trong nước và hải ngoại cùng nhau vá lại mảnh giang sơn đã rách loang lỗ, xóa tan những “vệt da beo trên da thịt quê hương” do những cơ sở làng mạc Trung Cộng rãi rác khắp nội địa Việt Nam, để xây dựng một nền văn hoá nhân bản khoa học, và phát triển một xã hội dân chủ pháp trị mà mọi người được hưởng một cách tự nhiên những quyền căn bản của mình.
        Tôi vững tin bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Lính Chúng Tôi- vẫn hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào, những thế hệ làm nên lịch sử.

        “Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng”.
        Texas, tháng 2 năm 2012


        Tin đặc biệt gởi Các Anh đọc:

        Tin nhạc sĩ Việt Khang (Võ Minh Trí, Mỹ Tho) bị bắt tháng 12/2011 đã làm tràn ly nước, ly nước đầy lòng uất hận và căm phẫn của người dân đối với lãnh đạo CSVN. Cộng Đồng chúng tôi tị nạn cộng sản tại Hoa Kỳ đã cùng nhau ký vào “Thư Thỉnh Nguyện” gởi trực tiếp Tổng Thống Hoa Kỳ, can thiệp với lãnh đạo CSVN trả tự do cho tất cả tù nhân lương tâm và tù nhân chính trị, kể cả nhạc sĩ Việt Khang. “Tù nhân”, là những người bị bắt chỉ vì nói lên tiếng nói yêu quê hương trước sự lấn chiếm khống chế của Trung Cộng, hát lên tiếng hát thương đồng bào phải sống dưới chế độ độc tài, bị tước đoạt quyền sở hữu đất đai, quyền sở hữu tư tưởng, và quyền làm người của 89 triệu đồng bào trên quê hương Việt Nam.


        Tổng Thống chỉ cần 25.000 thư thỉnh nguyện trong vòng 30 ngày kể từ 0 giờ ngày 08/02/2012, nhưng đến 4 giờ 26 phút chiều 19/02/2012 -tức ngày thứ 12/30- văn phòng Tổng Thống Hoa Kỳ đã nhận 53.722 thư thỉnh nguyện và vẫn tiếp tục gia tăng, cho thấy sức mạnh của Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại nói chung, và tại Hoa Kỳ nói riêng. Sức mạnh này là “Vũ Khí Nhân Quyền”, sẽ tác động mạnh mẽ vào những chính sách của Hoa Kỳ trong bang giao với Việt Nam cộng sản, từ đó gia tăng sức mạnh cho thành phần đấu tranh ôn hòa trên quê hương trong cuộc chiến giành lại quyền làm người cho đồng bào. Bởi, giai đoạn hiện nay và trước mắt, những tiến bộ trong bang giao với Việt Nam, Quốc Hội và chánh phủ Hoa Kỳ đặt trên căn bản “những tiến bộ về Nhân Quyền tại Việt Nam”.


        Xin hỏi: “Các Anh có suy nghĩ gì không?” Nếu không, thì Các Anh là ai? Nếu có, thì Các Anh đừng dành thì giờ để ân hận bất cứ điều gì, mà hãy nghĩ bằng cách nào đó để đứng vào hàng ngũ Tuổi Trẻ và Đồng Bào, chính Các Anh tự lột xác từ “những thần dân” trở thành “những Công Dân” và làm tròn bổn phận với Dân với Nước. Đó cũng là cách đẹp nhất mà Các Anh góp phần giúp cho những thế hệ Con Cháu được hưởng tròn vẹn quyền làm người trong một xã hội văn minh lịch sự, lúc ấy người ngoại quốc sẽ trân trọng khi nghe nói đến DÂN TỘC VIỆT NAM./.

        Comment


        • #5
          Thư số 5 gởi Người Lính Quân Đội Nhân Việt Nam

          Thư số 5 gởi
          Người Lính Quân Đội Nhân Việt Nam

          *********
          Phạm Bá Hoa

          Tôi tên Phạm Bá Hoa, chào đời năm 1930 tại đồng bằng sông Cửu Long. Tôi phục vụ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 21 năm trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc, sau đó, tôi bị tù không án 12 năm 3 tháng trong các “trại tập trung” mà lãnh đạo của Các Anh gọi là “trại cải tạo”. Hiện cư ngụ tại Hoa Kỳ.
          Xin được gọi “Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam” là Các Anh để tiện trình bày. Chữ “người lính” mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng, gọi chung là “cấp lãnh đạo quân đội”. Là người lính trong quân đội “Nhân Dân”, chắc rằng Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc & Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng chính trị nào cũng chỉ là một giai đoạn của lịch sử. Và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.


          Bài này do tham khảo và trích dẫn trong một số bài của các tác giả Nguyễn Phát Quan, Huỳnh Ngọc Tuấn, Lê Mạnh Hùng, đài RFI, RFA, và trang báo điện tử trên internet, tôi mời Các Anh tiếp tục nhìn lại “Chân Dung Xã Hội Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” qua góc cạnh rất bình thường trong cuộc sống, xoay quanh hai chữ “đât đai”. Từ nhiều ngàn năm trước, đất đai là vấn đề chìm sâu trong đời sống mọi người, nhưng từ khi có đảng CSVN nhất là từ năm 1945, đất đai trở thành tai họa ập xuống toàn dân Việt, trong đó có Các Anh và thân nhân thân quyến Các Anh, được lãnh đạo CSVN ẩn dưới nhóm chữ “Đất đai sở hữu toàn dân”. Đây là một trong những tội ác của lãnh đạo CSVN, vì đã gieo rắc đau khổ triền miên cho dân tộc từ khi có đảng!

          1. LUẬT ĐẤT ĐAI.

          Khởi thủy là Luật Đất Đai 1988. Sau đó được thay thế bởi Luật Đất Đai 1993, được tu chỉnh năm 1998 và 2001. Mười năm sau, Luật Đất Đai 2003 ban hành, thay thế Luật Đất Đai 1993 và tất cả những văn kiện liên quan ban hành trước đó, hiệu lực từ ngày 1/7/2004. Luật Đất Đai có 146 Điều trong 6 Chương, có các điểm chính: (1) Đất đai thuộc quyền sở hữu toàn dân, do nhà nước bao gồm Quốc Hội, Chính Phủ, Ủy Ban Nhân Dân cấp tỉnh và huyện quản lý. (2) Đất được chia làm 3 loại: “Đất nông nghiệp, đất không sử dụng trong nông nghiệp, và đất bỏ hoang. (3) Người được sử dụng đất với thời hạn 20 năm để nuôi thủy sản, và 50 năm để trồng cây dài hạn, có quyền chuyển nhượng. (4) Mỗi năm cho phép sử dụng đến 100.000 mẫu đất nông nghiệp vào mục đích kinh doanh”. Nhóm lãnh đạo trong Bộ Chính Trị CSVN, đã dựa trên lý luận ngang ngược chẳng khác những nhóm cướp đường, cướp biển, cướp núi, rồi tự cho mình cái quyền sở hữu toàn bộ đất đai trên dãi đất hình cong chữ S, rằng: “Đất đai là kết quả của thời kỳ chế ngự thiên nhiên chớ không của riêng ai. Không một cá nhân nào có thể khai phá và giữ gìn bất cứ mảnh đất nào, để rồi nói là của mình. Họ chỉ có công khai phá và sử dụng.”

          2. NGUYÊN NHÂN THAM NHŨNG.

          Tôi nhấn mạnh để Các Anh nhớ rằng, mỗi cá nhân cũng như mỗi gia đình, cần có một diện tích đất để ở. Mỗi người dân bất cứ là ngành nghề nào trong xã hội, cần một lượng gạo làm lương thực, với một lượng thủy sản & thịt động vật làm thực phẩm để sống. Như vậy, nông dân cũng như ngư dân, ngoài diện tích đất để ở, còn cần một diện tích đất để trồng lúa, để chăn nuôi gia súc và thủy sản, cung cấp cho người dân trong nước. Nhưng sau khi đánh chiếm Việt Nam Cộng Hòa cuối tháng 4/1975, lãnh đạo CSVN đã gom đất đai trên toàn cõi Việt Nam dưới nhóm chữ “sở hữu toàn dân” vào tay nhóm lãnh đạo tự xưng là “đỉnh cao trí tuệ” trong Bộ Chính Trị, nhưng thực tế cho thấy họ là “đỉnh cao gian trá”. Về phía người dân, sau khi bị tước đoạt quyền sở hữu đất đai chỉ được phép sử dụng đất ngang qua chính sách “dân xin đảng cho”, còn cho hay không cho, hoặc cho bao nhiêu, tùy mức độ quyền lợi của lãnh đạo có thẩm quyền. Vậy mà “ông Hồ và các nhóm lãnh đạo của Các Anh” gian dối với nhân dân rằng: “Nhân dân là Chủ, cán bộ là Đầy Tớ”, nhưng mỗi khi “Chủ” có việc phải đến cơ quan thì bị “Đầy Tớ” sách nhiễu đến khi “Chủ” móc túi hay mở tủ thì “Đầy Tớ” vui vẻ giải quyết.
          Lãnh đạo nhà nước xuống đến cấp Huyện, có quyền quyết định giao đất cho các tổ chức, gia đình, hay cá nhân, sử dụng trong thời hạn nhất định. Đồng thời, cũng có quyền quyết định thu hồi đất để sử dụng theo cách riêng có lợi cho bản thân lồng dưới nhóm chữ “lợi ích nhà nước. Vậy, luật đất đai đã tạo cho các cấp lãnh đạo trong bộ máy đảng lẫn bộ máy nhà nước cái quyền tham nhũng không giới hạn, miệng thì nói đến “luật pháp nghiêm minh” nhưng hành động cho quyền lợi riêng tư thì đứng trên pháp luật. Với những vụ tham nhũng của nhóm lãnh đạo trong Bộ Chính Trị thì họ tự che chắn cho nhau, với những vụ tham nhũng của lãnh đạo cấp dưới mà không thể che giấu lấp liếm thì lãnh đạo cấp trên che chắn cho họ, vì họ cùng chia chác nhau trong hệ thống tham nhũng và cùng nhau bảo vệ đảng. Trong nhiều trường hợp tham nhũng, lãnh đạo các địa phương đã sử dụng quân đội nhân dân, công an nhân dân và côn đồ nhân dân, để “trấn áp nhân dân”, thậm chí “tấn công nhân dân” chẳng khác tấn công kẻ thù. Chắc chắn và rõ ràng, đây là nguyên nhân tham nhũng trong lãnh vực đất đai.

          3. THAM NHŨNG.

          Mời Các Anh nhìn lại một số sự kiện dưới đây:
          Năm 2002, tại quận Hoài Đức tỉnh Hà Tây, khi Công An, viên chức, và công nhân, dùng vũ khí buộc khoảng 190 người trong 38 gia đình phải dọn khỏi vùng giải tỏa để xây khu công nghiệp, thì cuộc xô sát xảy ra. Tại đại hội đảng, Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh vừa cảnh báo vừa dạy dỗ các đảng viên rằng: “Những xáo trộn xã hội sẽ gây ra những bất ổn”. Ông Mạnh nói tiếp: “Tội ác và đồi trụy lan rộng, cùng với tình trạng tham nhũng của một số đảng viên và viên chức nhà nước”.

          Các Anh thấy không, ông Mạnh nói tỉnh bơ cứ như ông ấy không hề tham nhũng, không hề gây tội ác vậy. Khi đảng viên lên hàng lãnh đạo đều giống nhau ở điểm “nói dai, nói dài, nói không giống ai, chỉ giống người nói đại, nói như thể mình là người có tài”, nhưng thật ra họ tệ hơn những đảng viên mà ông Mạnh nói nữa.
          Năm 2003-2004. Theo Viện Kiểm Sát Nhân Dân, trong những năm qua, mỗi năm nhận từ 5.000 đến 7.000 đơn khiếu nại thưa kiện. Đến cuối năm 2003, có hơn 120.000 đơn của dân bị oan ức về đất đai. Những lệnh thu hồi đất của đồng bào thiểu số Cao Nguyên trong những năm 2001-2004, đã dẫn đến những hành động phản kháng mạnh mẽ, đáng kể là trường hợp đồng bào tỉnh Bắc Giang đã dùng vũ khí thô sơ như giáo mác, gậy gộc cuốc xẻng, chống đối nhà nước thu hồi đất để công ty Đại Hàn xây dựng sân Golf, đến mức “đầy tớ của nhân dân” đưa “quân đội nhân dân” đến “đàn áp nhân dân” để chiếm đoạt cho bằng được “đất đai của nhân dân”, vừa có tiền đút lót vừa có chỗ cho lãnh đạo tham nhũng giải trí!

          Nhân vụ này tôi có câu hỏi: “Có khi nào Các Anh suy nghĩ: Tại sao quân đội nhân dân lại đàn áp nhân dân không? Nếu không, thật sự Các Anh là ai mà vô cảm đến như vậy? Nếu có, Các Anh đã hành động như thế nào đối với dân oan khi thi hành lệnh cấp trên?”
          Năm 2005. Những người dân khiếu kiện đã gởi ra hải ngoại một lá thư kêu cứu có 44 người ký tên thay mặt cho: (1) 900 gia đình ở thôn Phú Thượng, quận Tây Hồ, Hà Nội. (2) 560 gia Đình ở xã Lai Vũ, Hải Dương. (3) 100 gia đình ở tỉnh Thái Bình. (4) Và 200 gia đình ở tỉnh Bắc Giang. Thư kêu cứu cho biết các đoàn dân oan thường xuyên có mặt tại vườn hoa Mai Xuân Thưởng (Hà Nội) để kêu oan, nhưng không cơ quan nào nhân vật nào tiếp xúc cả.
          Trước sự kiện ngày càng có nhiều cuộc biểu tình, ông Nông Đức Mạnh đã phang một câu: “Chế độ dân chủ của chúng ta ngày càng loạn.” Sau đó, nhà nước CSVN ban hành Nghị Định số 38 ngày 18/3/2005, quy định các biện pháp bảo đảm trật tự công cộng với những biện pháp ngăn chặn các cuộc biểu tình. Và Bộ Công An ban hành Thông Tư số 09, “cấm những cuộc tập trung từ năm người trở lên”.

          Tôi nghĩ, chắc Các Anh nghe quen rồi nên không cảm nhận được gì trong câu nói của ông Mạnh, nhưng với tôi thì hai chữ “dân chủ” mà ông Mạnh nói nó tàn bạo lắm! Bởi, Việt Nam áp dụng: (1) Chế độ độc đảng trong chính trị, vì duy nhất chỉ có đảng cộng sản là đảng chính trị. (2) Độc tài trong cầm quyền, vì chỉ có đảng cộng sản cầm quyền. (3) Độc tài trong truyền thông, vì toàn bộ hệ thống phát thanh, phát hình, báo chí, ..v..v.. trong tay của đảng cộng sản. (4) Độc tài trong Quốc Hội, vì gần 90% là những cấp lãnh đạo từ Bộ Chính Trị xuống đến tận cùng hệ thống tổ chức đảng và tổ chức nhà nước, đều là Đại Biểu. (5) Độc tài trong tư tưởng, vì bất cứ ai suy nghĩ khác hành động khác với đảng và nhà nước cộng sản, sẽ là tội phạm và bị bắt. (6) Độc tài trong luật pháp, vì tất cả viên chức từ cơ quan điều tra đến viên chức trong phiên tòa đều là đảng viên cộng sản. (7) Độc tài sở hữu đất đai, vì chỉ có đảng cộng sản là chủ nhân toàn bộ đất đai.

          Một quốc gia độc tài như vậy mà ông Mạnh dám nói đến dân chủ. Liệu ông Mạnh có hiểu được nghĩa của hai chữ “Dân Chủ” không nhỉ? Hay là lãnh đạo CSVN chỉ có tài khôn vặt (chớ không có tài lãnh đạo), nên hiểu biết chỉ có đến ngần ấy thôi? Thật lòng mà nói, lãnh đạo của Các Anh là ai mà lạnh lùng vô cảm với nỗi khổ của dân tộc Việt Nam đến như vậy? Cũng nói thêm rằng, lãnh đạo CSVN rất sợ người dân, vì đâu có ai chấp nhận chế độ độc tài nên lúc nào họ cũng sợ người dân lật đổ, họ mới chuyển nỗi sợ hãi của họ sang người dân mà phương tiện chính là Công An, đôi khi có cả Các Anh nữa. Lãnh đạo đảng với nhà nước chỉ cho thấy, cho nghe, cho nói, những gì mà họ cho phép, vì đội ngũ nhân viên truyền thông “lề phải” xã hội chủ nghĩa chỉ thi hành chính sách bịt mắt bịt tai bịt miệng mọi người dưới quyền cai trị của họ. Trong khi những nhà báo “lề trái” là phục vụ đồng bào, dù khó khăn trong cuộc sống, dù phải tránh né Công An rình mò (mời Các Anh đọc thêm bản tin Việt Khang ở cuối bài).
          Năm 2001-2006. Theo Bộ Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn, khoảng 376,000 mẫu trồng lúa đã bị thu hồi làm một triệu nông dân không có đất canh tác để sống. Vì vậy mà Luật Đất Đai 2003 nhắm đơn giản hóa thủ tục cho các hợp đồng lớn, cũng từ đó mà nông dân bị mất đất ngày càng nhiều hơn, nhanh hơn. Cũng theo Bộ này thì số lượng các đoàn có đông dân oan gia tăng trong những năm gần đây: (1) Năm 2008 với gần 1.000 đoàn. (2) Năm 2009 khoảng 2.500 đoàn. (3) Năm 2010 với hơn 3.500 đoàn.

          Các Anh thử làm bài toán bằng cách dùng con số 3.500 đoàn DÂN OAN của năm 2010 x 20 người (trung bình của mỗi đoàn) có ngay con số 70.000 người. Với ngần ấy người bỏ công ăn việc làm từ nhiều địa phương nhất là trong Nam xa xôi lặn lội đến đất Bắc, sống vất vưỡng ở những nơi công cộng để mong được nhà nước giải quyết nỗi đau mất đất mất nhà cửa tài sản của họ, nhưng các cơ quan có trách nhiệm chỉ cần có tấm bảng trưng trước cơ quan làm cảnh, còn viên chức thì bất động cứ như không nghe không thấy không biết gì về nỗi oan ức của người dân xã hội chủ nghĩa rất đáng thương và tội nghiệp. Tôi có ý kiến: “Các Anh thử tìm đến đoàn dân oan nào đó, cố gắng tiếp xúc một vài người, và dùng con tim của Các Anh trao đổi với họ như lời tâm sự chia sẻ cho nhau qua tình người dân Việt, tình Người Lính với tình Người Dân, tôi tin là Các Anh sẽ cảm nhận được nỗi đau cũng từ con tim của họ”. Các Anh nghĩ sao?
          Sau khi tóm tắt một số trường hợp dân oan về đất đai, bây giờ mời Các Anh nhìn vào vụ cưỡng chế đất đai của ông Đoàn Văn Vươn, ông ta là cựu chiến binh của Các Anh đó. Sau khi trở về đời sống dân thường, ông Vươn theo học đại học Nông Nghiệp, tốt nghiệp Kỹ Sư. Và chuyện bắt đầu được nhìn thấy từ ngày 5/1/2012, những ngày trước Tết Nguyên Đán Nhâm Thìn.

          Căn cứ Điều 37 Luật Đất Đai 2003, ông Vươn xin phép và được sử dụng 50 mẫu tây đất ven biển để nuôi thủy sản trong 20 năm. Đây là vùng đất mà không ai dám nghĩ sẽ sản xuất được gì, thế nhưng ông Vươn và gia đình từ 1993, với sáng kiến, kiên nhẫn, tiền bạc, và bao công sức trong hằng chục năm để ngăn sóng, đắp đồng, đã biến khu đầm lầy bỏ hoang, biển mặn, thành khu đất bồi ven biển, trồng cây và nuôi thủy sản. Khi mà “những sản phẩm” sắp đưa vào thị trường thì lãnh đạo của ông tại Xã, Huyện, và thành phố Hải Phòng, ra lệnh cưỡng chế thu hồi toàn bộ phần đất mà ông còn trong thời hạn sử dụng. Ông Vươn khởi kiện. Huyện Tiên Lãng bác đơn, ông Vươn kháng cáo lên tòa án Hải Phòng. Lúc ấy, lãnh đạo Huyện tiếp xúc với ông, dụ dỗ ông Vươn rút đơn kháng cáo thì Huyện cho ông tiếp tục sử dụng đất. Nhưng khi ông Vươn rút đơn kháng cáo thì huyện Tiên Lãng lập tức thi hành cưỡng chế.
          Các Anh thấy chưa, những “đầy tớ lãnh đạo” Huyện Tiên Lãng đã lừa dối “chủ” là ông Vươn. Sự kiện này nhìn theo góc cạnh đạo lý con người là không đúng, nhưng nhìn theo góc cạnh đảng viên thì “những đầy tớ” đó làm đúng theo bản chất của đảng cộng sản. Bởi, từ ngày dẫn đoàn quân xâm lăng từ ngoài rừng tràn vào các thành phố của Việt Nam Cộng Hòa năm 1975 đến nay, lãnh đạo CSVN đã “xây dựng” được một xã hội mà mọi người phải sống với nhau bằng những lọc lừa dối trá. Vì, nếu không như vậy thì không phải là cộng sản.
          Giả thử, nếu Các Anh ở vào trường hợp của ông Vươn, Các Anh có căm phẫn không? Có chớ hả! Và sự căm phẫn đó đã dẫn ông Vươn đến phản ứng tự vệ. Với kiến thức đại học, cộng với những hiểu biết khi là Người Lính trong “quân đội nhân dân” Các Anh, ông tự làm ra “chất nổ và súng hoa cải” để thể hiện sự phẫn uất của người dân cô thế bị lãnh đạo tìm cách cướp đoạt tài sản bằng mồ hôi nước mắt của ông và gia đình, chớ loại vũ khí đó làm sao ngăn chận được Quân Đội với Công An.

          Ngày 5/1/2012, đoàn quân đông đảo hơn 100 người gồm cán bộ các ngành, Công An, Quân Đội, kéo đến cưỡng bách ông Vươn phải thi hành lệnh giao trả khu đất bồi, dù còn trong thời hạn mà ông Vươn được quyền sử dụng. Với phản ứng mạnh mẽ của ông Vươn và gia đình trong ngôi nhà trơ trọi, đoàn quân cướp đất có mấy người bị thương. Ngày hôm sau, lãnh đạo cho máy ủi đến ủi sập nhà ông Vươn, san bằng khu đất, đốt phá hết vật dụng, tài sản, và phong tỏa khu đất. “Công An nhân dân đầy tớ” bắt “nhân dân chủ” là Đoàn Văn Vươn cùng gia đình ông, truy tố như vụ án giết nhân viên nhà nước thi hành công vụ.
          Mời Các Anh nghe ông Phil Robertson, Phó Giám Đốc Khu Vực Châu Á thuộc tổ chức theo dõi nhân quyền thế giới, nhận định về trường hợp ông Vươn: "Hành động này cho thấy sự cùng quẫn mà gia đình này phải đối mặt vì họ không còn con đường nào khác. Nó cho thấy sự thoái hóa của chính quyền địa phương, nó cho thấy sự mất lòng tin vào việc thực thi luật pháp, nó cũng cho thấy ngày càng nhiều suy nghĩ là chân lý thuộc về kẻ mạnh tại Việt Nam, và nó vượt qua cái gọi là nhà nước pháp quyền mà chính quyền Hà Nội thích nói về mình." (RFI ngày 1/2/2012)
          Các Anh có thấy là người ngoại quốc còn nhận ra tình cảnh người dân Việt Nam bị lãnh đạo ức hiếp đến mức không còn sợ chết để bảo vệ tài sản của họ không?.

          Rồi nhìn vào phản ứng của:
          (1) Nguyễn Tấn Dũng, Thủ Tướng, cũng là “đại biểu Quốc Hội” của nhân dân Tiên Lãng, xuống Hải Phòng nghe tường trình sự việc, rồi kết luận: “Hành động của Xã, Huyện, và Hải Phòng là sai”. Rồi ông nhép miệng ra lệnh cho các cơ quan trực thuộc điều tra và báo cáo. Vậy là xong.
          (2) Ngày 16/1/2012, trên báo Lao Động đăng lời nhận định của ông Lê Đức Anh, một thời là Chủ Tịch Nước của Các Anh: “Chính quyền từ Xã đến Huyện đều sai”.
          (3) Ngày 18/1/2012, Đại Tá Đỗ Hữu Ca, Giám Đốc Công An Nhân Dân Hải Phòng kết luận vụ việc trên màn ảnh truyền hình Hải Phòng rằng: “… Sau khi lực lượng chống tội phạm khám nghiệm hiện trường xong, giao lại cho địa phương, thì chính những người dân chung quanh đấy người ta vào đạp đổ, phá đổ. Cho nên việc phá cái chòi ấy cho đến bây giờ chúng tôi kiểm tra lại không có ai ra lệnh phá cái nhà ấy, mà cũng không biết ai phá vì nhân dân lúc ấy đứng rất đông."
          (4) Tương tự như vậy, ông Đỗ Trung Thoại, Phó Chủ Tịch Hải Phòng, tuyên bố trong buổi họp báo tại Hà Nội rằng: “.. người dân bất bình đã phá nhà của gia đình ông Vươn”.
          (5) Tại câu lạc bộ Bạch Đằng, ông Nguyễn Văn Thành, Bí thư thành ủy Hải Phòng, nói như lời thách thức Thủ Tướng của ông, rằng: “… Báo chí nói sai, ghép ảnh chỗ khác vào chứ đâu có chuyện xe ủi nhà ông Vươn…
          (6) Nhưng nhân chứng là ông Lê Văn Kết, nói với báo chí rằng: “Anh Khanh, anh Hoan, và anh Liêm, nhờ tôi gọi máy xúc để ban cưỡng chế giải tỏa mặt bằng. Tôi điện thoại cho anh Thái, chủ máy xúc ở Hồng Thắng, nhưng anh ấy bận nên tôi gọi anh Đỗ Văn Thoàn, chủ máy xúc ở Tiên Hưng. Lúc 8 giờ sáng, ông Hoan, ông Liêm, và nhiều người trong ban cưỡng chế có mặt tại khu vực nhà ông Vươn. Tôi làm theo sự chỉ đạo của ban cưỡng chế mà trực tiếp là ông Hoan với ông Liêm trong công tác ủi sập và san bằng nhà ông Vươn. Đến 11 giờ thì xong, tôi đưa đề nghị thanh toán cho ông Hoan, với tiền công 1.500.000 đồng sau 3 tiếng đồng hồ làm việc”.
          (7) Thiếu Tướng Phạm Chuyên, nguyên Giám Đốc Công An Hà Nội, đã cùng một số cựu đảng viên và trí thức đến Tiên Lãng thăm căn nhà của ông Vươn đã bị tàn phá và tìm hiểu sự việc. Ông ta lên tiếng đề nghị cách chức ngay Bí Thư, Chủ Tịch và Giám Đốc Công An Hải Phòng, và tha bổng cho Đoàn Văn Vươn.
          Về phía nạn nhân, Bà Hiền (vợ ông Vươn) nói như một lời than: “Cơ quan điều tra ngăn cản luật sư, họ không cho luật sư tiếp xúc với những người trong gia đình nhà em”. Chình luật sư cũng nói: “Không hiểu lý vì do gì mà Công An Hải Phòng vẫn không cho ông (luật sư) tiếp xúc với bị can."

          Tôi nhấn mạnh vài điểm hầu giúp Các Anh dễ nhận ra một xã hội độc tài dối trá:
          (1) Ông Nguyễn Tấn Dũng vừa là thành viên trong Bộ Chính Trị, lại là Đại Biểu nhân dân Tiên Lãng trong Quốc Hội. Các Anh thử nhìn vào sân cỏ của một trận banh hào hứng nào đó, nếu Các Anh thấy một người vừa là cầu thủ lại vừa là trọng tài, Các Anh có thấy quái đản không? Thủ Tướng của Các Anh cũng vậy đó, vừa là đại biểu của dân vừa là trong hàng ngũ lãnh đạo tham nhũng, vậy mà chỉ nhép miệng ra lệnh điều tra là xong chớ đâu có bảo vệ cử tri của ông ta. Các Anh cũng nên nhớ rằng, lãnh đạo trung ương ra lệnh là việc của trung ương, còn địa phương có thi hành hay không là việc của địa phương, vì trong cùng hệ thống tham nhũng với nhau mà.
          (2) Ông Ca với ông Thoại, cả hai cùng dựng chuyện nói dối việc ủi sập nhà ông Vươn là do người dân địa phương, trong khi người dân trong vùng không ai có máy ủi thì làm sao ủi sập nhà xây bằng gạch. Thêm nữa, nếu không dối trá thì tại sao Công An tìm mọi cách ngăn chận luật sư tiếp xúc với ông Vươn?
          (3) Trái với lời dối trá trắng trợn của Giám Đốc Công An và Phó Chủ Tịch Hải Phòng, người lái xe ủi và ủi sập rồi san bằng nhà ông Vươn đã tường thuật rõ ràng. Chưa hết, người dân trong vùng cũng như nhiều người dân oan về đất đai từ nhiều nơi trong Nam lẫn ngoài Bắc, đến tận nền nhà ông Vươn mà chia sẻ nỗi đau của ông và gia đình, vì gia đình họ cũng uất ức phẫn nộ khi bị nhà cầm quyền địa phương cưỡng chế thu hồi đất đai đến mức không còn nhà ở, cũng không còn phương tiện sinh nhai.

          Sự kiện cưỡng chế đất đai của ông Đoàn Văn Vươn làm tràn ly nước. Đúng, ly nước đầy lòng căm phẫn của hằng chục ngàn, thậm chí là hằng trăm ngàn gia đình nông dân bị cưỡng chế đất đai đã tràn thật rồi, và nhờ ly nước tràn mới biết thêm những vụ cưỡng chế đất đai trước đó.
          (1) Ông Nguyễn Thế Đọc, chủ đầm nuôi tôm cũng ở Tiên Lãng. Đầu năm 1998, Huyện ký quyết định cho ông thuê 30 mẫu tây đất đầm bãi nuôi thủy sản. Chưa hết thời hạn mà có quyết định thu hồi nhưng ghi rõ “không đền bù”. Ông Đọc không bàn giao. Ông Đọc đưa đơn kiến nghị Huyện tiếp tục cho thuê đất vì chưa hết hạn sử dụng, Huyện không giải quyết. Ngày 18/2/2008, Chủ Tịch Huyện Tiên Lãng tên Lê Văn Hiền, mời ông Đọc lên trụ sở huyện làm việc, và khẳng định sẽ thực hiện cưỡng chế nếu gia đình không bàn giao đầm. Sáng 23/8/2008, cả trăm dân quân, tự vệ, công an viên, lực lượng liên ngành của 4 xã và từ Huyện kéo đến đầm tôm của ông Đọc. Khi đưa máy xúc đến phá đầm, gia đình ông Đọc huy động gần 50 người ra phản kháng, ông yêu cầu lập biên bản về việc tại sao phá đầm. Biên bản lập xong, có chữ ký đầy đủ của ban ngành. Thấy không chiếm được, họ rút lui”.
          (2) Tại Sài Gòn, ông Nguyễn Xuân Ngữ, cũng là cựu chiến binh, đã nhiều lần gởi thư lên Thủ Tướng và lãnh đạo Quốc Hội, Bộ Quốc Phòng, Hội Cựu Chiến Binh. Và gần nhất là ngày 29/1/2012, ông gởi thư cho Trương Tấn Sang, Chủ Tịch Nước. Tóm tắt nội vụ: “Khi đất nước chiến tranh, tôi cũng như triệu triệu thanh niên Miền Bắc đáp lời Đảng gọi. Rất sẵn sàng lúc Đảng gọi thanh niên chiến đấu giỏi cho xóm làng bình yên. Tôi cũng được lịch sử “Kính chào anh con người đẹp nhất, lịch sử hôn anh… Năm 2000, tôi về hưu ở Phường Long Mỹ, Quận 9 Sài Gòn. Hai năm trước đó, tôi mua thửa đất với diện tích 3.601 m2, xây ngôi nhà và một trang trại để kiếm sống khi về hưu vì đồng lương hưu ít ỏi. Năm 2003, Quận 9 ra lệnh miệng thu hồi thửa đất vì nơi đây sẽ xây dựng khu công nghệ cao, và ép gia đình tôi đến ở trong khu nhà trọ, số 41 đường Tăng Nhơn Phú, cũng thuộc Quận 9. Chính quyền Quận 9 được Chủ Tịch thành phố chấp thuận cho tàn phá, hủy diệt, và cướp hết. Nhà mất, trang trại mất, tiền của đổ vào xây dựng mất, vật nuôi bị cướp mất, đất đai mất… Tất cả, tất cả đều mất… Bố tôi sau Cách Mạng Tháng 8 theo Việt Minh bị thực dân Pháp bắt và giết ngay, nhà cửa bị đốt nhưng họ không cướp gia súc gia cầm, không ủi sập hết tường. Nay, tôi là Việt Cộng bị những ông đảng viên đảng CSVN Quận 9 cướp hết. Tất cả… tất cả đều mất, và đang chết dở, sống dở chớ không chết ngay như Bố tôi trước đây. Đảng CSVN, Quốc Hội nước CHXHCNVN hãy cứu giúp gia đình tôi. Nhà Nước Việt Nam là nhà nước pháp quyền, sao thành phố không có pháp luật? Chủ Tịch UBND thành phố lại chấp nhận sự chỉ đạo của ông Phó Chủ Tịch Quận 9 phụ trách nhà đất chỉ có văn hóa lớp 5. Trước khi là Phó Chủ Tịch Ủy Ban, ông chỉ là người chăn vịt mướn. Hơn nữa, ông chăn vịt còn vô hiệu hoá cả Thanh Tra Chính Phủ”.

          4. KẾT LUẬN.

          Đến đây, tôi nghĩ là trong một chừng mực nào đó, Các Anh đã hiểu được “đất đai sở hữu toàn dân” nó tác hại như thế nào với người dân nông thôn và người dân ven biển phải không? Nếu hiểu được, Các Anh hãy dành chút thì giờ để bình tâm mà nhận định chuỗi sự kiện vừa đọc, và suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính Các Anh chớ không phải tâm hồn của người đảng viên cộng sản. Mong Các Anh đừng đứng nhìn một cách vô cảm nữa, mà hãy đứng về phía đồng bào và hành động đúng với bổn phận công dân là Bảo Vệ Tổ Quốc, Bảo Vệ Nhân Dân.
          Tôi vững tin rằng, bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi- vẫn hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào, những thế hệ làm nên lịch sử.
          “Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng”.

          Texas, tháng 3 năm 2012.
          *********

          Trở lại tin về nhạc sĩ Việt Khang.
          Tin nhạc sĩ Việt Khang (Võ Minh Trí, Mỹ Tho) bị bắt tháng 12/2011 đã làm tràn ly nước. Đúng, ly nước đầy lòng căm phẫn của người dân đối với lãnh đạo CSVN, về hành động tào bạo với dân nhưng khiếp nhược hèn hạ với Trung Cộng đã tràn thật rồi. Cộng Đồng chúng tôi tại Hoa Kỳ đã cùng nhau ký vào “Thư Thỉnh Nguyện” (một phương tiện chuyển đạt ý kiến của người dân) gởi trực tiếp Tổng Thống Hoa Kỳ, can thiệp với lãnh đạo CSVN trả tự do cho tất cả tù nhân lương tâm và tù nhân chính trị, kể cả nhạc sĩ Việt Khang. “Tù nhân”, là những người bị bắt chỉ vì viết lên trang giấy phơi trải nỗi giày vò từ trong chiều sâu tâm thức của mình đối với quê hương dân tộc, nói lên tiếng nói yêu quê hương trước sự lấn chiếm khống chế của Trung Cộng, hát lên tiếng hát thương đồng bào phải sống dưới chế độ độc tài, bị tước đoạt quyền sở hữu đất đai, quyền sở hữu tư tưởng, nói chung là quyền làm người của 89 triệu đồng bào trên quê hương Việt Nam.

          Ít nhất phải có 25.000 thư thỉnh nguyện gởi đến tòa Bạch Ốc (White House) trong vòng 30 ngày kể từ 0 giờ ngày 08/02/2012 thì yêu cầu của Cộng Đồng sẽ được cứu xét. Đến hết ngày thứ 30/30 (8/3/2012) chung cuộc, tòa Bạch Ốc đã nhận 148.773 thư thỉnh nguyện. Đây là sức mạnh của Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại nói chung, và tại Hoa Kỳ nói riêng. Sức mạnh này là “Vũ Khí Nhân Quyền”, sẽ tác động mạnh mẽ vào những chính sách của Hoa Kỳ trong bang giao (mà Các Anh gọi là quan hệ) với Việt Nam, từ đó gia tăng sức mạnh cho thành phần đấu tranh ôn hòa trên quê hương trong cuộc chiến giành lại quyền làm người cho đồng bào. Bởi, giai đoạn hiện nay và trước mắt, những tiến triển trong bang giao với Việt Nam, Quốc Hội và chánh phủ Hoa Kỳ đặt trên căn bản “những tiến triển tốt về Nhân Quyền tại Việt Nam”.

          Ngày 5/3/2012, Ông Jon Carson, Giám Đốc Văn Phòng Tiếp Cận Cộng Ðồng (Office of Public Engagement), đón tiếp phái đoàn 185 người của Cộng Đồng tị nạn cộng sản, và thảo luận tình hình nhân quyền tại Việt Nam. Ngoài ông Jon Carson ra, còn có các vị đứng đầu từng phần vụ trong Bộ Ngoại Giao tham dự:
          (1) Ông George Selin, Vietnam Desk.
          (2) Ông Thomas Debass, Global Partnerships Initiative.
          (3) Ông Eric Barboriak, Văn Phòng Ðông Nam Á Sự Vụ.
          (4) Và ông Michael Posner, Phụ Tá Ngoại Trưởng đặc trách Dân Chủ, Nhân Quyền và Lao Ðộng. Các vị có cùng nhận định: “Tinh thần dấn thân của Cộng Đồng Việt Nam rất cao cho Nhân Quyền tại Việt Nam. Với hơn 130.000 chữ ký (ngày 5/3/2012), quý vị đã tạo ra một hiện tượng đặc biệt chưa từng có”. Cùng thời gian đó, phần còn lại khoảng 700 người đứng bên ngoài dinh Tổng Thống, giương cao rừng cờ vàng ba sọc đỏ với những biểu ngữ tập trong vào một mục tiêu “Ủng Hộ Nhân Quyền Cho Việt Nam” để hỗ trợ phái đoàn bên trong.

          Ngày 6/3/2012, Quốc Hội Hoa Kỳ đón tiếp phái đoàn Cộng Đồng chúng tôi hơn 500 người, được tổ chức thành 40 toán đến từng văn phòng của 100 Nghị Sĩ & Dân Biểu, cùng trình bày tình hình nhân quyền tại Việt Nam, kèm theo danh sách gần 600 tù nhân lương tâm & tù nhân chính trị. Đặc biệt, Bà Chủ Tịch Ủy Ban Đối Ngoại Hạ Viện (gốc Cuba) am hiểu về tình trạng Nhân Quyền tại Việt Nam. Bà biết CSVN đã áp dụng điều khoản 74 và 88 trong Luật Hình Sự để bắt giam những người đấu tranh cho dân chủ trong ôn hòa, và Bà sẽ làm hết sức mình cho vấn đền này.
          Ngay ngày hôm sau, 7/3/2012, Uỷ Ban Đối Ngoại của Hạ Viện Hoa Kỳ đã thông qua Dự Luật “Nhân Quyền Cho Việt Nam” (ký hiệu HR 1410) sau khi cập nhật mới nhất về sự leo thang vi phạm nhân quyền của CSVN.

          Xin nói thêm để Các Anh biết qua một góc trong sinh hoạt dân chủ. Ngày 22/9/2011, tòa Bạch Ốc đáp ứng phong trào quần chúng, trong đó có Cộng Đồng Việt Nam, bằng cách thành lập trang “We the People”, để các công dân Hoa Kỳ đưa “thỉnh nguyện” (petition) giúp chánh phủ biết được nguyện vọng của mình, với yêu cầu trong vòng 30 ngày phải có ít nhất 25.000 thư thỉnh nguyện, sẽ được cứu xét. Đó là sinh hoạt Dân Chủ trong xã hội văn minh, chớ không phải Dân Chủ kiểu xã hội chủ nghĩa mà ông Tổng Bí Thư họ Nông của Các Anh đã nói ở trên.
          Nhớ lại năm 2004 Nghị Quyết 36 ra đời, lãnh đạo CSVN đặt trách nhiệm lên vai toàn bộ hệ thống chính trị, toàn bộ tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, mặt trận tổ quốc, các ngành các cấp từ trung ương đến địa phương, và các đoàn thể nhân dân, từ trong nước ra đến hải ngoại. Họ kêu gọi toàn dân phải coi đây là một nhiệm vụ quan trọng, nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, nhưng mục đích tối hậu của lãnh đạo CSVN là “vừa dụ dỗ, vừa mua chuộc, vừa đánh phá, để khống chế mà sử dụng khối tài chánh không lồ cùng với khối chuyên gia tài năng phục vụ cho họ, và moi tất cả “phân bón xã hội chủ nghĩa ưu việt” bên trong những “khúc ruột già ly hương ngàn dặm” trong Cộng Đồng chúng tôi tỊ nạn cộng sản tại hải ngoại mà chia chác cho nhau, như họ đã và đang móc ruột người dân trong nước. Nhưng, với sức mạnh của Cộng Đồng chúng tôi trong cuộc vận động Nhân Quyền sau sự kiện Việt Khang bị bắt, NQ 36 của CSVN tự nó đã chết, như những Nghị Quyết “tài tình sáng suốt” của các đại hội đảng đã từng chết.

          Và bản tin ngắn cuối cùng:

          Bản tin từ Cục Hàng Không Việt Nam, ngày 15/1/2012, chuyến bay VN 416 từ Hà Nội đi Seoul -thủ đô Hàn quốc- Phi cơ cất cánh rời khỏi Hà Nội, khi bay ngang không phận Quảng Châu thì đài kiểm soát không lưu Trung Cộng yêu cầu bay vòng vòng một chỗ trong 55 phút vì chung quanh có hoạt động nguy hiểm, mà thật ra không có gì nguy hiểm gi cả. Sau 55 phút thì nhiên liệu trong bình không đủ để tiếp tục không trình, phải đáp xuống Thượng Hải đế tiếp tế nhiên liệu. Đến Seoul không đúng giờ, hành khách cần chuyển phi cơ đi nơi khác đều bị trễ chuyến bay, nhưng may mắn là an toàn.

          Qua sự kiện nhỏ nhoi này, Các Anh có nhận ra điều gì không? Tôi thì có. Trạm kiểm soát không lưu “nước lạ” có một yêu cầu “rất lạ” đối với chuyến bay quốc tế của một nước “rất quen”. Đây là sự kiện “rất lạ” đối với một nước “rất quen” nhưng lại rất bình thường của “nước lạ”. Các Anh nhớ lại xem, vài ngày trước đó, Bộ Ngoại Giao Việt Nam có nêu vấn đề với Trung Cộng về sự kiện tàu Hải Giám Trung Cộng cướp tàu đánh cá của ngư dân Việt Nam. Phải chăng, vì vậy mà Trung Cộng “vỗ mặt” lãnh đạo Các Anh chăng?

          ***********

          Comment


          • #6
            Thư số 6 gởi Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam

            Thư số 6
            gởi Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam

            ******
            Phạm Bá Hoa

            Tôi tên Phạm Bá Hoa, chào đời năm 1930 tại đồng bằng sông Cửu Long. Tôi phục vụ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 21 năm trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc, sau đó tôi bị tù không án 12 năm 3 tháng trong các “trại tập trung” mà lãnh đạo của Các Anh gọi là “trại cải tạo”. Hiện sống tại Hoa Kỳ. Tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam, cho đến khi nào quê hương cội nguồn của tôi có một chế độ tự do và nhân quyền trong một xã hội dân chủ pháp trị đúng nghĩa.


            Xin gọi “Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam” là Các Anh để tiện trình bày. Chữ “người lính” mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng, gọi chung là “cấp lãnh đạo”. Là người lính trong quân đội “Nhân Dân”, chắc rằng Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Các Anh trong quân đội nhân dân mà. Với lại, Tổ Quốc & Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng chính trị nào cũng chỉ là một giai đoạn của lịch sử. Và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.

            Trong Thư số 5 (tháng 3/2012), sự kiện cưỡng chế đất đai của ông Đoàn Văn Vươn đã làm tràn ly nước đầy lòng căm phẫn của hằng chục ngàn, thậm chí là hằng trăm ngàn gia đình nông dân bị cưỡng chế đất đai. Tiếp đến là sự kiện ca nhạc sĩ Việt Khang bị bắt đã làm tràn ly nước đầy lòng căm phẫn về sự tàn bạo của đảng và nhà nước cộng sản với đồng bào, nhưng lại khiếp nhược đến mức hèn hạ với nước Tàu cộng sản, đã dẫn đến 148.773 người ký Thỉnh Nguyện Thư của Cộng Đồng chúng tôi gởi Tổng Thống song song với vận động Quốc Hội Hoa Kỳ, ủng hộ Nghị Quyết về Nhân Quyền Cho Việt Nam. Với Cộng Đồng chúng tôi tị nạn tại hải ngoại, đây là một thành công cao hơn mức dự tưởng trong “Trận Chiến Nhân Quyền”, và chúng tôi đang thực hiện những bước tiếp theo trong mục đích hỗ trợ những thành phần trong nước đấu tranh ôn hòa giành lại quyền làm người cho đồng bào trên quê hương.
            Song song với thành công trong “Trận Chiến Nhân Quyền”, là một thành công khác trong “Trận Chiến Dựng Lại Quốc Kỳ” cũng cao hơn dự tưởng của Cộng Đồng chúng tôi. Xin nhấn mạnh: Nhóm chữ “quốc kỳ nền vàng” hay “quốc kỳ Việt Nam” hay “cờ vàng” trong bài này, phải hiểu là “quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ” đã có từ trong lịch sử lâu đời của Việt Nam. Từ tháng 4/1975 đến nay, quốc kỳ này là biểu tượng “lý tưởng tự do, dân chủ, nhân quyền” của Cộng Đồng Việt Nam chúng tôi tị nạn cộng sản tại hải ngoại nói chung, và tại Hoa Kỳ nói riêng.
            Đọc xong, tôi tin là Các Anh sẽ rất ngạc nhiên, vì chưa bao giờ Các Anh nghe nói đến “trận chiến” này. Hãy suy nghĩ với nhận thức về “trận chiến lạ lùng” đối với Các Anh, nhưng rất lý thú đối với chúng tôi. Và mời Các Anh vào nội dung ….


            Phần một.

            Quốc Kỳ Việt Nam (QKVN) trên nhiều kỳ đài tại nhiều thành phố, trong nhiều cuộc mít tinh biểu tình, trong tham dự diển hành tại các thành phố lớn trên thế giới có Cộng Đồng Việt Nam cư ngụ, được tiêu biểu qua một số trường hợp tóm lược dưới đây: (bài này đầy đủ dài đến 21 trang)

            QKVN nền vàng tại Boston. Ngày 30/07/2003, thành phố Boston tiểu bang Massachussetts chánh thức công nhận quốc kỳ Việt Nam. Ngày 08/08/2003, phái đoàn tòa đại sứ CSVN gồm 4 người do Vũ Đ. Dũng dẫn đầu. Dũng đang xử lý thường vụ chức vụ Đại sứ vì Nguyễn Tâm Chiến đã về Hà Nội nhận lệnh. Từ Washington DC đến Boston, xin gặp Hội Đồng thành phố. Bà Maura Hennigan, Nghị Viên, thay mặt Hội Đồng thành phố tiếp phái đoàn. Vào đề là Vũ Đ. Dũng mạnh mẽ phản đối Boston công nhận quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ,.vì đó là “cờ của Sài Gòn cũ”. Chánh phủ của ông và tòa đại sứ mà ông đang xử lý, quyết lìệt đòi thành phố Boston phải hủy bỏ Nghị Quyết đó, đồng thời chấm dứt việc treo cờ vàng trên nóc tòa thị chánh Boston. Với lời lẽ cứng rắn, Bà Nghị Viên Maura Hennigan đáp: “Chúng tôi rất tiếc là Nghị Quyết công nhận cờ vàng ba sọc đỏ được tất cả 13 vị Nghị Viên thành phố đã ký, Nghị Quyết đã thành Luật và không có vấn đề thay đổi. Cờ vàng ba sọc đỏ đã được treo trên nóc tòa thị chánh Boston từ lâu rồi chớ không phải bây giờ mới treo, Luật mới ban hành là chánh thức công nhận và khuyến khích sự tiếp tục đó. Cử tri trong Cộng Đồng người Mỹ gốc Việt tại đây, đã đóng góp nhiều mặt cho sự phát triển của thành phố Boston, và chúng tôi công nhận nguyện vọng của họ đối với quốc kỳ truyền thống của họ. Chúng tôi treo quốc kỳ đó ngang hàng với quốc kỳ Hoa Kỳ, cờ tiểu bang Massachussetts, và cờ của thành phố Boston chúng tôi. Mặt khác, chúng tôi rất quan tâm đến vấn đề dân chủ tự do tại Việt Nam, chúng tôi đòi hỏi phải cải thiện nhân quyền, tự do tôn giáo, và thả hết tù nhân lương tâm tại Việt Nam”. Nhìn phái đoàn CSVN im lặng, Bà Hennigan nói tiếp với lời lẽ lịch sự của chủ nhà: “Những đòi hỏi của phái đoàn, theo tôi, các ông nên mang về Washington DC là tốt hơn, và nên hiểu rằng, chính trị là vấn đề của địa phương “Politics is local”. Nói xong, bà Hennigan đứng dậy, với cử chỉ thật ngoại giao, bà mở cửa văn phòng, tay hướng ra ngoài cửa như có ý “tôi không nói chuyện với các anh nữa”. Chần chừ giây lát, phái đoàn CSVN ra về với nét mặt thất vọng của những viên chức ngoại giao!

            QKVN nền vàng trên đỉnh Everest. Ông Craig Van Hoy, người Mỹ, sống tại Oregon. Vợ ông là người gốc Lào, nên ông thấu hiểu chính sách tàn bạo của chế độ cộng sản. Vì vậy mà trong những câu chuyện trao đổi giữa ông với người bạn hàng xóm, ông cảm kích tinh thần của Cộng Đồng Việt Nam vì không sống nỗi với cộng sản độc tài nên phải vượt lên sự chết để tìm sự sống trong xã hội dân chủ tự do, nhưng không quên mình là người Việt Nam, nên ông chấp nhận lời yêu cầu của bạn hàng xóm, mang theo lá quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ trong chuyến ông hướng dẫn đoàn thám hiểm chinh phục đỉnh Hy Mã Lạp Sơn (Himalaya). Ông Craig nói: “Ông sẽ cắm lá quốc kỳ này -ông chỉ vào lá quốc kỳ mà ông vừa nhận- lên đỉnh Everest theo ước nguyện của người bạn Việt Nam, nhưng danh dự này không phải chỉ dành riêng cho bạn hay cho 2.700.000 người Việt tị nạn tại hải ngoại, mà ông còn dành cho 82.000.000 người dân đang bị cộng sản độc tài cai trị trên đất nước Việt Nam. Vì nơi đó -tức Việt Nam- một dân tộc đã và đang bị bất hạnh như đồng bào trên quê hương cội nguồn hiền thê của ông”. Ngày 09/05/2004, đoàn leo núi gồm 5 người bắt đầu leo dốc. Sau khi vượt qua những gian nan trên hành trình, ngày 16/05/2004 đoàn đến đỉnh Everest trên độ cao 29.035 feet (bộ Anh). Ông Craig Van Hoy đã cắm quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ của chúng tôi trên đỉnh Everest vào ngày 17/05/2004, như một thông điệp gởi cho nhân loại về chính nghĩa của dân tộc Việt Nam tôn trọng Dân Chủ - Tự Do - Nhân Quyền, từ đỉnh núi cao nhất của thế giới.

            QKVN nền vàng tại Melboure, Australia. Ngày 12/8/2005, một buổi tiếp tân trọng thể tại Quốc Hội tiểu bang để “Vinh Danh Cộng Đồng Việt Nam 30 Năm Tị Nạn tại tiểu bang Nam Úc”. Buổi lễ do ông Mike Rann, Thủ Hiến tiểu bang Nam Úc chủ tọa. Hằng trăm quan khách Việt Nam và Úc Đại Lợi, trong số đó có nhiều viên chức của cơ quan lập pháp và hành pháp tham dự. Hai quốc kỳ Australia và Việt Nam nền vàng được đặt vào vị trí trang trọng nhất. Thủ Hiến Mike Rann đã đọc một bài diễn văn thật ý nghĩa, xin trích vài đoạn: “… Chúng ta không bao giờ được quên những người đã bỏ mình trong cuộc vượt thoát chế độ cộng sản Việt Nam trong thập niên 70. Chúng ta phải vinh danh Họ, và chúng tôi phải vinh danh quí vị, là những người đã sống sót để thuật lại câu chuyện như một chiến thắng vinh quang của mình, một câu chuyện về vô số người Việt Nam đã trốn chạy chế độ cộng sản ác ôn áp bức từ năm 1975. Cuộc trốn chạy can trường của người Việt Nam, đã làm cho cả thế giới nói chung, và nước Úc nói riêng, phải kinh ngạc! … Quí vị phải đương đầu với bão tố và hải tặc, với niềm hy vọng trông thấy một dãi đất nhân hậu bên kia chân trời để bắt đầu cho cuộc sống mới. … Sự đóng góp của quí vị đã tạo ra của cải cho tiểu bang Nam Úc, không chỉ về phương diện kinh tế, mà còn cả về phương diện xã hội và văn hoá nữa. ... Tên của những người Úc gốc Việt trẻ tuổi học hành tận tụy, đã chiếm nhiều hàng tít lớn trên báo chí vào tháng Giêng hằng năm, khi mà kết quả các kỳ thi được công bố với số điểm tối ưu hoặc rất cao. Các em đó cũng học hành xuất sắc như thế ở bậc đại học. Thật ra, tuổi trẻ Việt Nam đã được đứng vững trên đôi vai phi thường của các bậc phụ huynh vĩ đại …Cộng Đồng người Việt cũng đã tiến hành những cuộc tranh đấu đòi hỏi những quyền căn bản cho mọi người dân đang sống tại Việt Nam. Đó là những quyền mà mỗi con người đương nhiên được hưởng, như quyền tự do ngôn luận, quyền tự do tín ngưỡng, quyền tự do đi lại, quyền không bị ngược đãi bằng bất cứ hình thức nào…… Chánh phủ do tôi lãnh đạo, và cá nhân tôi, đứng về phía quí vị trong cuộc đấu tranh không ngưng nghỉ, nhằm mang lại tự do và những quyền căn bản cho mỗi con người Việt Nam trên quê hương của quí vị. Vì vậy, trong khi chúng ta tán dương những thành tựu của Cộng Đồng người Việt hôm nay, chúng ta cũng công nhận sự nghiệp đấu tranh cho người dân tại Việt Nam.”

            QKVN nền vàng tại Đức. Ngày 21/8/2005, một thánh lễ bế mạc Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 20 tổ chức tại thành phố Koln, Cộng Hòa Liên Bang Đức do Đức Giáo Hoàng chủ lễ. Ước lượng có khoảng 800.000 người tham dự và hằng tỷ người trên thế giới theo dõi qua hệ thống truyền thông. Khán giả theo dõi buổi lễ dễ dàng trông thấy rất rõ quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ tung bay phất phới ngay sau lưng Đức Giáo Hoàng.
            QKVN nền vàng tại New York, Hoa Kỳ. Nhận lời mời của Ủy Ban Tổ Chức Ngày Văn Hoá Quốc Tế tổ chức hằng năm tại New York sau khi đánh bại sự vận động của CSVN giành quyền đại diện tại Cơ Quan Di Dân Quốc Tế Liên Hiệp Quốc. Trong cuộc diễn hành năm thứ 22 ngày 18/6/2007, Cộng Đồng Việt Nam chúng tôi tham dự với hơn 2.000 người từ 44 Cộng Đồng qui tụ tại New York, cũng là dịp biểu dương sức mạnh của Cộng Đồng tị nạn ngay trước mặt phái đoàn CSVN do ông Nguyễn Minh Triết của Các Anh dẫn đầu đang có mặt nơi đây. Đoàn nam giới mặc quốc phục cổ truyền, đến màu sắc rất đẹp của đoàn nữ giới với trang phục ba miền Nam Trung Bắc, xe hoa với ảnh Phù Đổng Thiên Vương + bản đồ Việt Nam + lá quốc kỳ Việt Nam nền vàng, đến đoàn nữ giới với chiếc áo dài tha thướt và những chiếc nón lá duyên dáng, rồi đoàn thanh thiếu niên nam nữ với chiếc áo tứ thân và khăn đóng áo dài, và đông đảo bà con đồng hương. Đoàn diễn hành của Cộng Đồng chúng tôi giương cao một rừng cờ vàng ba sọc đỏ, đã tạo được tình cảm của Ban Tổ Chức Liên Hiệp Quốc và mọi người có mặt. Đặc biệt là các đơn vị Cảnh Sát bảo vệ trật tự, đều hô to “Việt Nam, Việt Nam” khi đoàn chúng tôi đi ngang.


            QKVN nền vàng tại Sydney, Australia. Ngày Giới Trẻ Quốc Tế lần thứ 23 tổ chức tại Sydney (Australia) từ 15 đến 20/7/2008, với khoảng 100.000 bạn trẻ bản xứ và 125.000 người từ khắp nơi trên thế giới đến, trong số đó có 15.000 bạn trẻ mà đa số là Mỹ gốc Việt đến từ Hoa Kỳ, và khoảng 600 bạn trẻ đến từ Việt Nam. Ngày 17/7/2008, trên du thuyền gần Cầu Hải Cảng và Nhà Hát Con Sò, bạn trẻ Phạm Vũ Anh Dũng đã kể chuyện với Đức Giáo Hoàng về gia đình anh không thể sống trên quê hương dưới sự cai trị của cộng sản độc tài, nên phải liều chết vượt biển tìm tự do và đã đến Australia. Nói xong, anh dâng dãi quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ lên Đức Giáo Hoàng. Ngài ban phép lành và tự choàng lên cổ với nụ cười hiền hòa. Ngày 20/7/2008, trong Thánh Lễ bế mạc Đại Hội, Cộng Đồng tị nạn đã thành công cao hơn dự tưởng, hoàn toàn không một lá cờ đỏ nào của CSVN xuất hiện trong khi rừng cờ vàng rực rỡ giữa rừng người dự lễ mà cơ quan truyền thông Australia ước lượng khoảng 500.000 người. Ngày 21/7/2008, tờ Sydney Morning Herald với bài viết ngắn “A Flag For Freedom” (Lá Cờ Cho Tự Do) được ông Trần Hưng Việt tại Brisbane, Queensland, Australia, dịch từ Anh ngữ như sau: “Cuộc chiến có thể đã chấm dứt, nhưng đối với nhiều người trong Cộng Đồng người Việt ở Sydney thì không. Quốc kỳ của Nam Việt Nam là biểu tượng được trông thấy rõ ràng nhất giữa rừng quốc kỳ và các biểu ngữ về tôn giáo trong thánh lễ của Đức Giáo Hoàng, mặc dù đó là một biểu tượng không có quốc gia, và bị cấm tại quốc gia nguyên thủy của nó. Đây là quốc kỳ của nước Việt Nam Tự Do. Một người hành hương trong nhóm người Việt đang đứng dưới lá đại kỳ màu vàng ba sọc đỏ, nói rằng: Hôm nay, chúng tôi mang lá cờ này để nhắc nhớ mọi người rằng, đảng cộng sản cầm quyền tại Việt Nam vẫn đàn áp quyền tự do tôn giáo và các quyền tự do khác”.

            Ngày 22/6/2009, Thống Đốc tiểu bang Texas ký ban hành Nghị Quyết HCR 258 sau khi Hạ Viện và Thượng Viện đã thông qua. Nội dung khuyến cáo tất cả các trường đại học trong tiểu bang Texas không treo cờ đỏ cộng sản mà chỉ treo cờ vàng biểu tượng tự do của Cộng Đồng Việt Nam tị nạn tại Texas. Từ nay, 506 trường đại học trong tiểu bang, không treo cờ đỏ của CSVN cho dù có sinh viên từ Việt Nam sang du học, mà chỉ treo cờ vàng biểu tượng của dân chủ tự do của chúng tôi.

            Tôi nghĩ là Các Anh chưa từng biết, hoặc có biết nhưng do “thông tin lề phải” lãnh lương nhà nước và thông tin theo đảng CSVN dạy, chớ Các Anh không thể biết sự thật về lãnh đạo Các Anh nhục nhã như thế nào khi phải đối diện với rừng quốc kỳ Việt Nam nền vàng trong Cộng Đồng chúng tôi. Những phái đoàn của lãnh đạo Các Anh, như phái đoàn Phan Văn Khải (Thủ Tướng, 2006), Phạm Gia Khiêm (Phó Thủ Tướng/, nhất là phái đoàn Nguyễn Minh Triết (Chủ Tịch, 2007) và Nguyễn Tấn Dũng (Thủ Tướng, 2008 và 2010) đến thành phố nào trên đất Mỹ mà có Cộng Đồng Việt Nam Tị Nạn, họ thấy cả rừng cờ vàng ba sọc đỏ của Cộng Đồng chúng tôi. Cho nên lãnh đạo của Các Anh chắc là cảm nhận nỗi nhục đến mức không dám ngẫng đầu lên để đối điện với lá quốc kỳ Việt Nam, “nền vàng” biểu tượng cho dân tộc da vàng, và “ba sọc đỏ” biểu tượng cho đồng bào ba miền Nam-Trung-Bắc thân yêu của chúng ta.

            Phần hai.

            Bia đá tưởng niệm chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa hy sinh trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc, tưởng niệm Thuyền Nhân Việt Nam đã chết trên đường vượt biên vượt biển tìm tự do. Tại mỗi Bia Tưởng Niệm có hai kỳ đài với quốc kỳ Việt Nam nền vàng và quốc kỳ bản xứ:. Và đây là những ngày khánh thành Bia Đá Tưởng Niệm: Tháng 3/2005, trên đảo Galang (Indonesia) và đảo Bidon (Malaysia), với dòng chữ “Bia Tưởng niệm hằng trăm ngàn người Việt Nam đã bỏ mình trên đường tìm tự do 1975-1996. Dù Họ chết vì đói khát, vì bị hãm hiếp, vì kiệt sức, hay vì bất cứ lý do nào khác, chúng ta hãy cùng cầu nguyện để Họ được an nghỉ nơi cõi vĩnh hằng. Sự hi sinh của Họ sẽ không bao giờ bị lãng quên”. Ngày 30/4/2006, trong khuôn viên “Nghĩa Trang Quốc Gia Thái Bình Dương” tại Honolulu, tiểu bang Hawaii, Hoa Kỳ, với dòng chữ: “Vinh danh Quân Lực và Nhân Dân Việt Nam Cộng Hòa & Quân Lực Hoa Kỳ, Australia, New Zealand, South Korea, Philippines. Taiwan, Thailand, đã cùng với Việt Nam Cộng Hòa chiến đấu chống cộng sản, bảo vệ dân chủ nhân quyền cho thế giới”. Ngày 12/5/2006, La Fayetteville, tiểu bang North Carolina, Hoa Kỳ. Trung Tướng James B. Vaught, Cố Vấn Sư Đoàn Nhẩy Dù Việt Nam năm 1971, nhấn mạnh: “… Tưởng rằng làm cố vấn giúp các bạn chiến đấu, nhưng thật sự thì chúng tôi học được tinh thần chiến đấu của các bạn thật tuyệt vời....”. Ngày 9/2/2006, tại thành phố Geneve, Thụy Sĩ, với dòng chữ: “Tưởng niệm cuộc ra đi của những Thuyền Nhân trên thế giới 1975 - 2005. Người Việt tị nạn chân thành cám ơn Thụy Sĩ và các nước tiếp cư, đã giúp cho chúng tôi được sống hạnh phúc trong hòa bình, tự do, và dân chủ. Chúng tôi sẽ mãi mãi không quên quê hương Việt Nam, mãnh đất ngàn đời của Tổ Tiên để lại”. Ngày 30/6/2006, tại Công Viên D’Avroy, thành phố Liège, Bỉ Quốc. Ngày 30/4/2007, tại thành phố Troisdorf, Đức Quốc.

            Phần ba.

            Tượng đài tưởng niệm chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc, và tưởng niệm Thuyền Nhân Việt Nam đã chết trên đường vượt biên bượt biển tìm tư do. Tại mỗi tượng đài có quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ và quốc kỳ bản xứ thường xuyên trên đĩnh hai cột cờ. Và đây là ngày khánh thành và địa điểm đặt tượng đài: Ngày 31/8/1991, tại công viên Cabra-Vale, ngoại ô Sydney, Australia. Hai mươi năm sau, ngày 5/3/2011, Dân Biểu Tony Kelly, đại diện bà Thủ Hiến bang New South Wales, chủ tọa lễ khánh thành tượng đài này sau thời gian tân trang và nâng cao tượng đài. Ngày 30/4/1995, tại thủ đô Ottawa, Canada, với “Người Mẹ bồng con chạy trốn cộng sản”. Ngày 7/12/2002, tại thành phố Perth, miền Tây Australia. Ngày 27/4/2003, tại công viên tòa thị sảnh thành phố Westminster, tiểu bang California, nơi được xem là “thủ đô” của Cộng Đồng tị nạn chúng tôi, với tượng “Hai Người Lính Việt & Mỹ”. Ngày 11/6/2005, tại Houston, tiểu bang Texas, Hoa Kỳ. Ngày 16/9/2005, tại thành phố Brisbane, tiểu bang Queensland, Australia. Ngày 30/4/2006, tại thành phố Dandenong, tiểu bang Victoria, Australia. Ngày 14/10/2006, tại thành phố Hamburg, Cộng Hòa Liên Bang Đức. Ngày 2/6/2007, tại thành phố Saint Cloud, tiểu bang Minnesota, Hoa Kỳ. Ngày 22/9/2007, tại thành phố West Valley, tiểu bang Utah, Hoa Kỳ. Ngày 21/6/2008, tại thành phố Melbourne, tiểu bang Victoria, Australia. Cùng ngày 21/6/2008, tại Montréal, Canada. Ngày 2/11/2008, tại Bagneaux, Pháp quốc. Ngày 25/4/2009, tại thành phố Westminster, California, Hoa Kỳ, với “một gia đình trên chiếc thuyền mong manh trên biển cả”. Ngày 12/9/2009, tại hải cảng Hamburg, Cộng Hòa Liên Bang Đức, với dòng chữ: “Tưởng niệm các đồng hương tị nạn cộng sản đã bỏ mình trên đường tìm tự do”.
            Ngoài ra, ngày 12/6/2007, chánh phủ Hoa Kỳ đã khánh thành Tượng đài tưởng niệm 100.000.000 (100 triệu) nạn nhân cộng sản tại thủ đô Wasington DC do Tổng Thống George W. Bush, chủ tọa. Đây là biểu tượng thảm họa kinh hoàng nhất trong thế kỷ 20 của nhân loại nói chung, và 25 quốc gia bị cộng sản cai trị nói riêng. Từ nay, oan hồn của nạn nhân cộng sản -có cả nạn nhân Việt Nam thân yêu của chúng tôi- được những thế hệ hôm qua, hôm nay, và những thế hệ mai sau tưởng nhớ. Tưởng nhớ để tận diệt chế độ này đến tận cùng gốc rễ của nó, vì “nó” đã lấy đi mạng sống của 100 triệu đàn ông đàn bà và trẻ con vô tội!

            Tôi nhấn mạnh với Các Anh rằng, bất cứ nơi nào có Bia Đá Tưởng Niệm, có Tượng Đài Tưởng Niệm, cơ quan ngoại giao của Các Anh cũng ráo riết vận động với Thị Trưởng thành phố hay Thống Đốc tiểu bang, trong mục đích ngăn chận Cộng Đồng chúng tôi không thể thực hiện, nhưng tất cả đều thất bại nhục nhã. Hơn thế nữa, nhóm lãnh đạo “đỉnh cao gian trá” của Các Anh càng nhục nhã khi yêu cầu Malaysia và Indonesia đục bỏ những dòng chữ trên hai Bia Tưởng Niềm Thuyền Nhân tại hai quốc gia này để xóa bỏ tội ác của họ, nhưng hai mảng trống trên tấm bia trở thành chứng tích tội ác càng rõ ràng hơn. Nhưng suy cho cùng, cho dẫu lãnh đạo của Các Anh có vận động ngăn chận được đi nữa, Các Anh cũng nên nhớ rằng, Cộng Đồng Việt Nam chúng tôi tị nạn cộng sản tại hải ngoại từ thế hệ đương thời truyền sang những thế hệ kế tiếp, “mỗi người chúng tôi là một Tấm Bia sống, một Tượng Đài sống, một Nhân Chứng sống”, sẽ lưu truyền mãi mãi trong dân gian Việt Nam và trên thế giới, về tội ác kinh hoàng nhất trong dòng sử Việt do CSVN đã gây ra cho dân tộc! Bởi, CSVN đã cắt đất xén biển đem đổi chác dâng tặng cho Trung Cộng, kẻ thù từ trong lịch sử xa xưa đến nay vẫn nguyên vẹn bản chất không chế cai trị các quốc gia chung quanh, CSVN đã phá nát nền văn hoá nhân bản, đã làm băng hoại xã hội đến mức mà mọi người từ đảng viên viên chức nhà nước đến đồng bào, phải sống với nhau bằng muôn ngàn cách lọc lừa dối trá! Trong vô vàn tội ác của CSVN, tội ác phá nát nền văn hoá dân tộc là di hại đến nhiều thế hệ mai sau!


            Phần bốn. Những địa phương đã công nhận quốc kỳ Việt Nam.

            Đến ngày 15 tháng 04 năm 2012, quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ đã được các cơ quan hành chánh địa phương chánh thức công nhận theo thứ tự thời gian như sau: (1) Khởi đi từ ngày 19/2/2003 với Nghị Quyết 3750 của thành phố Westminster, tiểu bang California. Ngày 11/3/03, NQ 8486-03, thành phố Garden Grove, California. Ngày 14/4/03, NQ TR-03-07, thành phố Falls Church, Virginia. Ngày 5/5/03, NQ 7300, thành phố Milpitas, California. Ngày 3/6/03, NQ của quận hạt Santa Clara, gồm San Jose và 14 thành phố nữa. California. Ngày 4/6/03, NQ của thành phố Hooland, Michigan. Ngày 18/6/03, NQ 17-2003, thành phố Houston, Texas. Ngày 24/6/03, NQ 03-502, thành phố Saint Paul, Minesota. Ngày 7/7/03, NQ 2003-140, thành phố Pomona, California. (10) Cùng ngày 7/7/03, NQ của quận hạt Fairfax, Virginia. Ngày 15/7/03, Luật số 839, tiểu bang Louisiana. Đây là tiểu bang 1/15. Ngày 30/7/03, NQ của thành phố Sacramento, California. Ngày 30/7/03, NQ 03-1104, thành phố Boston, Massachussetts. Ngày 8/9/03, NQ của thành phố Springfield, Massachussetts. Ngày 12/9/03, NQ của thành phố Oklahoma, Oklahoma. Ngày 16/9/03, NQ 8384, thành phố El Monte, California. Ngày 16/9/03, NQ của thành phố Garland, Texas. Ngày 16/9/03, NQ R2003-013, thành phố Tumwater, Washington. Cùng ngày 16/9/03, NQ của thành phố Malden, Massachussetts. (20) Ngày 17/9/03, NQ của thành phố Rowley, Massachussetts. Ngày 30/9/03, NQ của thành phố Grand Rapids, Michigan. Ngày 9/10/03, NQ của thành phố Lacey, Washington. Ngày 8/10/03, NQ của thành phố Quincy, Massachussetts. Ngày 20/10/03, NQ của thành phố Doraville, Georgia. Ngày 21/10/03, NQ của thành phố Olympia, Washington. Cùng ngày 28/10/03, NQ của thành phố Lowell, Massachussetts. Ngày 3/11/03, NQ của thành phố Norcross, Georgia. Cùng ngày 3/11/03, NQ của thành phố Clarkston, Georgia. Cùng ngày 3/11/03, NQ của thành phố Dekalb, Georgia. (30) Cũng ngày 3/11/03, NQ của thành phố Gwinnett, Georgia. Ngày 4/11/03, NQ của thành phố Lawrence, Massachussetts. Ngày 11/11/03, NQ 03-E-555 của thành phố Arlington, Texas. Cùng ngày 11/11/03, NQ của thành phố Port Arthur, Texas. Ngày 12/11/03, NQ 461 của thành phố Rainer, Washington. Ngày 18/11/03, NQ 2003 của thành phố Marina, California. Ngày 1/12/03, NQ 1834 của thành phố Puyallup, Washington. Ngày 6/12/03, NQ của thành phố Worcester, Massachussetts. Ngày 8/12/03, NQ 2003-29 của thành phố Lakewood, Washington. Ngày 16/12/03, NQ 3017 của thành phố Fort Worth, Texas. (40) Ngày 13/1/2004, NQ của thành phố Lincoln, Nebraska. Cùng ngày 13/1/04, NQ 04-279 của thành phố Dupont, Washington. Cùng ngày 13/1/04, NQ của thành phố Wichita, Kansas. Ngày 14/1/04, NQ R-2004-670 của thành phố San Diego, California. Ngày 27/1/04, NQ của quận hạt Pierce, Washington. Ngày 29/1/04, NQ của thành phố Philadelphia, Pennsylvania. Ngày 3/2/04, NQ 3975 của thành phố Grand Prairie, Texas. Ngày 10/2/04, NQ của thành phố South El Monte, California. Ngày 17/2/04, NQ của thành phố Stockton, California. Cùng ngày 21/2/04, Resolution của Hạ Viện, Resolution của Thượng Viện, và Proclamation của Thống Đốc tiểu bang New Jersey. Đây là tiểu bang 2/15. 50. Ngày 20/2/04, NQ của thành phố Hartfort, Connecticut. Ngày 24/2/04, NQ của thành phố Centralia, Washington. Cùng ngày 24/2/04, NQ của thành phố University Place, Washington. Ngày 28/2/04, NQ của thành phố Jersey City, New Jersey. Ngày 15/3/04, NQ của thành phố West Hartfort, Connecticut. Cùng ngày 15/3/04, NQ của thành phố Salina, Kansas. Ngày 16/3/04, NQ của thành phố Biloxi, Mississippi. Cùng ngày 16/3/04, NQ của thành phố Orlando, Florida. Cùng ngày 16/3/04, NQ của thành phố Fort Wayne, Indiana. Ngày 24/3/04, NQ 04-72 của Honolulu, thủ phủ tiểu bang Hawaii. 60. Ngày 1/4/04, NQ của thành phố Tampa, Florida. Ngày 12/4/04, NQ của thành phố Syracure, New York. Ngày 15/4/04,NQ của tiểu bang Virginia. Đây là tiểu bang 3/15. Ngày 16/4/04, NQ 2004R-155 của thành phố Minneapolis, Minnesota. Ngày 20/4/04, NQ 1667 của thành phố Kent, Washingon. Cùng ngày 20/4/04, N! 36154 của thành phố Tacoma, Washington. Ngày 24/4/04, NQ cùa quận hạt Thurston, Washington. Ngày 30/4/04, NQ 16 của thành phố Saint Louis, Missouri. Cùng ngày 30/4/04, NQ của quận hạt Camden, New Jersey. Ngày 4/5/04, NQ 04 của thành phố West Valley, Utah. 70. Ngày 11/5/04, NQ của thành phố Bonney Lake, Washington. Ngày 3/6/04, NQ của thành phố Seaside, California. Ngày 7/6/04, NQ của thành phố Vancouver, tiểu bang Washington. Ngày 12/6/04, NQ của tiểu bang Colorado. Đây là tiểu bang 4/15. Ngày 15/6/04, NQ của thành phố Coral Springs, Florida. Cùng ngày 15/6/04, NQ của thành phố Carrollton, Texas. Ngày 19/6/04, NQ 1866 của tiểu bang Georgia. Đây là tiểu bang 5/15. Ngày 28/6/04, NQ của thành phố Beaverton, Oregon. Ngày 19/7/04, NQ 2003-7-180 của thành phố St. Cloud, Minnesota. Ngày 20/7/04, NQ của thành phố Portland, Oregon. 80. Cùng ngày 20/7/04, NQ của thành phố Eagle Mountain, Utah. Ngày 10/8/04, NQ của quận hạt Marin gồm 10 thành phố, California. Ngày 24/8/04, NQ của thành phố Sugar Land, Texas. Ngày 7/9/04, NQ của thành phố Missouri, Texas. Ngày 4/10/04, NQ 70 của thành phố Indianapolis, Indiana. Ngày 29/10/04, NQ của tiểu bang Florida. Đây là tiểu bang 6/15. Ngày 11/11/04, NQ của thành phố Austin, Texas. Cùng ngày 11/11/2004, NQ của tiểu bang Texas. Đây là tiểu bang 7/15. Ngày 22/11/04, NQ của thành phố Charlotte, North Carolina. Ngày 13/12/04, NQ R-04-156 của thành phố Albuquerque, New Mexico. 90. Ngày 6/2/2005, NQ của thành phố Reading, Pennsylvania. Ngày 3/3/05, NQ 050233 của thành phố Kansas, Kansas. Ngày 11/5/05, NQ SR0097 Thượng Viện & NQ HR0017 của Minnesota. Đây là tiểu bang 8/15. Ngày 17/5/05, NQ của thành phố San Jose, California. Ngày 18/5/05, NQ của thành phố San Antonio, Texas. Ngày 10/6/05, NQ của thành phố Greenville, South Carolina. Ngày 14/6/05, NQ của thành phố Columbus, Ohio. Ngày 5/10/05, NQ của thành phố Greer, South Carolina. Ngày 28/01/2006, NQ của thành phố Allentown, Pennsylvania. Ngày 26/4/06, NQ 126-06 của thành phố Pennsauken, New Jersey. 100. Ngày 3/6/06, NQ của quận hạt San Diego, California. Ngày 5/8/2006, Sắc Lệnh S-14-06 của tiểu bang California. Đây là tiểu bang 9/15. Ngày 19/8/06, Luật của Ohio. Đây là tiểu bang 10/15. Ngày 10/11/06, NQ của 642-06 của thành phố San Francisco, California. Ngày 3/12/06, NQ của thành phố Davenport, Iowa. Ngày 16/12/06, NQ SA 148-HR16 của tiểu bang Michigan. Đây là tiểu bang 11/15. Ngày 13/4/07, NQ của tiểu bang Oregon . Đây là tiểu bang 12/15. Ngày 26/4/07, NQ của tiểu bang Nebraska. Đây là tiểu bang 13/15. Ngày 30/4/07, Tuyên Cáo của tiểu bang Utah. Đây là tiểu bang 14/15. Ngày 1/1/2008, NQ của thành phố Sunnyvale, California. 110. Ngày 2/2/2009, NQ 85A của thành phố Santa Ana, California. Ngày 26/5/2009, NQ của thành phố Stanton, California. Ngày 16/6/2009, NQ của thành phố Costa Mesa, California. Ngày 15/05/2009, NQ 27 của tiểu bang Oklahoma. Đây là tiểu bang 15/15. Ngày 18/11/2009, NQ của Quân Hạt Lancaster, Pennsylvania. Ngày 26/03/2010, NQ 2010-21 của thành phố Rosemead, California. Ngày 18/10/2010, Tuyên Cáo của thành phố Auburn, Washington. Ngày 22/10/2010, Tuyên Cáo của thành phố Renton, Washington. Ngày 22/10/2010, Tuyên Cáo của thành phố Federal Way, Washington. Ngày 22/10/2010, Tuyên Cáo của thành phố Bellevue, Washington. 120. Ngày 22/10/2010, NQ của thành phố Seattle, Washington. Ngày 18/01/2011, Tuyên Cáo của thành phố Lyberty Lake, Washington. Ngày 18/01/2011, Tuyên Cáo của thành phố Raleigh, North Carolina. Ngày 25/01/2011, NQ của thành phố Fountain Valley, California. Ngày 13/2/2011, Tuyên Cáo của thành phố Taconma, Washington. 125. Ngày 16/2/2011, Tuyên Cáo của thành phố Millwood, Washington.
            Sơ kết 125 địa phương đã công nhận quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ, gồm: 15 tiểu bang, 8 quận hạt, 102 thành phố, và các địa phương này thuộc 29 tiểu bang theo thứ tự mẫu tự sau đây: (1) California. (2) Colorado. (3) Connecticut. (4) Florida. (5) Georgia. (6) Hawaii. (7) Indiana. (8) Iowa. (9) Kansas. (10) Louisiana. (11) Massachussetts. (12) Michigan. (13) Minnesota. (14) Mississippi. (15) Missouri. (16) Nebraska. (17) New Mexico. (18) New York. (19) New Jersey. (20) North Carolina. (21) Oklahoma. (22) Ohio. (23) Oregon. (24) Pennsylvania. (25) South Carolina. (26) Texas. (27) Utah. (28) Virginia. (29) Sau cùng là tiểu bang Washington.
            Chắc Các Anh ngạc nhiên về rừng quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ của chúng tôi lắm phải không, vì tôi tin là chưa bao giờ Các Anh biết đến nội dung thư này? Thêm nữa, riêng tại Hoa Kỳ chỉ có 3 lá cờ của nước Việt Nam cộng sản tại Washington DC, San Francisco, và Houston. Lá cờ với nền đỏ, biểu tượng dòng máu của người dân Việt đã phủ trên toàn cõi Việt Nam do cộng sản gây ra, còn ngôi sao vàng biểu tượng “đỉnh cao gian trá” cai trị trên hằng chục triệu xác chết của đồng bào. Trong khi đó, quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ của đồng bào Việt Nam chọn chế độ dân chủ - tự do - nhân quyền, phất phới song song với quốc kỳ của Hoa Kỳ 24/24 giờ, 7 ngày trong tuần, 365 ngày trong năm, và từ năm này sang năm khác.

            Phần kết.

            Các Anh hãy nhìn lại lịch sử thế giới, chưa có trường hợp nào tên một quốc gia không tồn tại mà quốc kỳ của quốc gia đó vẫn tồn tại trong những trường hợp khác nhau trên thế giới, như quốc kỳ của người Việt Nam tự do chúng tôi.
            Với trận chiến này, Cộng Đồng chúng tôi khắp nơi liên tục vận động với cơ quan hành chánh địa phương, để quốc kỳ biểu tượng cho dân chủ tự do và nhân quyền của Cộng Đồng Việt Nam chúng tôi ngày càng được công nhận nhiều hơn. Mặt khác, trong một mức độ nào đó, đã thể hiện nhãn quan của những nhà chính trị trong những cơ quan Lập Pháp và Hành Pháp Hoa Kỳ cấp tiểu bang, quiận hạt, và thành phố, vì những bài học kinh nghiệm trong sinh hoạt chính trường cho thấy sự kiện chính trị nào cũng mang theo nét nhìn riêng của nó. Và chiến thắng này là điều nhức nhối của lãnh đạo đảng với nhà nước Các Anh. Cái đau của lãnh đạo CSVN, nhất là lãnh đạo ngành ngoại giao Việt Nam đã thấu hiểu sự nhức nhối đó hơn ai hết, nhưng không có bất cứ phương cách nào ngăn chận được.
            Đúng như một đoạn trong bài viết “A Flag For Freedom” (Lá Cờ Cho Tự Do) đăng trên nhật báo “Sydney Morning Herald” phát hành ngày 21/7/2008: “… Cuộc chiến có thể đã chấm dứt, nhưng đối với nhiều người trong Cộng Đồng người Việt ở Sydney thì không. ... Mặc dù đó là một biểu tượng không có quốc gia, và nó bị cấm tại quốc gia nguyên thủy của nó. Đây là quốc kỳ của nước Việt Nam Tự Do”.
            Tôi mong Các Anh bình tâm mà nhìn chuỗi sự kiện đã và đang diễn ra, và suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính mình chớ không phải tâm hồn của người đảng viên cộng sản. Các Anh hãy đứng trong hàng ngũ tuổi trẻ, trí thức, đồng bào, giành lại quyền `làm người cho 89 triệu đồng bào được sống trong một xã hội dân chủ pháp trị, được ngẫng cao đầu giữa thế giới văn minh lịch sự, được hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước đã lừng danh thế giới.
            Tôi vững tin rằng, bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những `Người Lính Chúng Tôi- vẫn hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào, những thế hệ làm nên lịch sử.
            “Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng”.
            Texas, tháng 4 năm 2012

            ************

            Bản tin ngắn gởi Các Anh.

            Ngày 23/3/2012, trong cuộc họp thảo luận dự án tiếp tục đổi mới, nâng cao phẩm chất (mà Các Anh gọi là chất lượng) và hiệu quả làm việc của Quốc Hội, ông Nguyễn Hạnh Phúc, Chủ Nhiệm Văn Phòng Quốc Hội cho rằng: “Thực hiện việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với các giới chức lãnh đạo cao cấp do Quốc Hội phê chuẩn hoặc bầu lên là phản ảnh tinh thần của Nghị Quyết Trung Ương lần thứ 4. Như vậy, hàng năm, Quốc Hội sẽ tổ chức bỏ phiếu tín nhiệm và kết quả sẽ được công khai cho dân biết. Những giới chức mà Quốc Hội bỏ phiếu tín nhiệm sẽ là Thủ Tướng và Phó Thủ Tướng chính phủ, Chủ Tịch và Phó Chủ Tịch nước, Chủ Tịch và Phó Chủ Tịch Quốc Hội, Ủy Viên Ban Thường Vụ Quốc Hội, Chánh Án Tòa Án Tối Cao, Viện Trưởng Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao, và Tổng Kiểm Toán Nhà Nước.....”
            Có thể Các Anh nghe những phát biểu như vậy quen rồi nên không cảm nhận được nội dung đích thực của nó, nhưng với tôi thì có. Vì gần 90% đại biểu trong Quốc Hội là những cấp lãnh đạo từ Bộ Chính Trị xuống đến tận cùng hệ thống tổ chức đảng và tổ chức nhà nước, chẳng lẽ họ bỏ phiếu truất phế họ trong khi họ là “những đỉnh cao gian trá” mà. Nếu Các Anh chưa tin tôi, hãy nghe ông Gorbachev, cựu Tổng Bí Thư đảng cộng sản Liên Xô nói: “Tôi đã bỏ một nửa cuộc đời cho lý tưởng cộng sản. Ngày hôm nay tôi phải đau buồn mà nói rằng, đảng cộng sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá”.
            Và bản tin ngắn cuối cùng Theo bản tin của Thông Tấn Xã Việt Nam, sau 4 ngày xét xử, Tòa án Nhân Dân thành phố Hải Phòng, ngày 30/3/2012, vụ án “Cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam (Vinashin) đã kết thúc, với bản án như sau: Ông Phạm Thanh Bình, nguyên là Chủ Tịch tập đoàn công nghiệp tàu thủy Vinashin, 20 năm tù giam. Tám bị cáo còn lại đều bị tù giam. Sau phiên tòa, ông Phạm Thanh Bình bị biệt giam cùng với Nguyễn Tuấn Dương tại trại T14. Sáng sớm ngày 31/03/2012, lúc thức dậy thì Nguyễn Tuấn Dương nhìn thấy ông Bình đã chết trong tư thế treo cổ bằng một sợi dây buộc vào chấn song cửa sổ phòng giam, chân của ông Bình cách mặt đất 5-7 phân tây. Tuấn Dương hốt hoảng, kêu cứu với trại giam. Sơ khởi, ban chuyên án xác định ông Phạm Thanh Bình đã ngừng thở trước đó khoảng 3 hay 4 tiếng hồ.
            Điều mà tôi gởi đến Các Anh là Nguyễn Tuấn Dương nói rằng: “Đêm qua trước khi ngủ, ông Bình đã tâm sự với tôi trong trạng thái của ông ấy căng thẳng. Ông nói: Khi ăn thì cùng ăn, nó còn ăn nhiều hơn tôi nhiều lần. Giờ thì nó bỏ mặc tôi chịu một mình với bản án tột khung, không có tình tiết giảm nhẹ. Đã vậy, tôi sẽ đạp đổ tất cả, sẽ khai đúng sự thật để chết thì cho chết hết như nhau”. Cuối bản tin của TTXVN có câu: “Bị cáo Phạm Thanh Bình vừa nói vậy tối hôm trước, nhưng không biết vì sao bị cáo lại thắt cổ tự tử ngay trong đêm đó? Không biết cái chết của bị cáo Phạm Thanh Bình có uẩn khúc gì hay không?”
            Đọc xong bản tin này, Các Anh có nhận ra “Nó là nhân vật nào trong nhóm lãnh đạo đỉnh cao gian trá” không vậy? “Có phải Nó là người đã tuyên bố tại “Quốc Hội hộp thư” là nhận trách nhiệm sự sụp đổ của Vinashin, và Nó cũng nói là Nó không làm điều gì sai?” Tôi nói “Quốc Hội hộp thư” vì Quốc Hội chỉ làm nhiệm vụ của nhóm “đỉnh cao gian trá” chỉ thị, chớ không làm nhiệm vụ “đại biểu” do cử tri giao phó qua lá phiếu, thì giờ còn lại thì ngủ gục vì họ thuộc lòng bài bản của các vị đứng trên bục giảng hết rồi.

            Comment


            • #7
              Thư số 7 gởi Người Lính Quân Đội Nhân Việt Nam

              Thư số 7 gởi
              Người Lính Quân Đội Nhân Việt Nam


              *********
              Phạm Bá Hoa

              Tôi tên Phạm Bá Hoa, chào đời năm 1930 tại đồng bằng sông Cửu Long. Tôi phục vụ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 21 năm trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc, sau đó, tôi bị tù không án 12 năm 3 tháng trong các “trại tập trung” mà lãnh đạo của Các Anh gọi là “trại cải tạo”. Hiện cư ngụ tại Hoa Kỳ. Tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam khi mà quê hương cội nguồn của tôi chưa có dân chủ, tự do, và nhân quyền thật sự.


              Xin được gọi “Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam” là Các Anh để tiện trình bày. Chữ “người lính” mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng, gọi chung là “cấp lãnh đạo quân đội”. Là người lính trong quân đội “Nhân Dân”, chắc rằng Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc & Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng chính trị nào cũng chỉ là một giai đoạn của lịch sử. Và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.

              Thời gian đang là tháng 5 năm 2012, nhớ lại tháng này năm 1975 là tháng bắt đầu cho thời gian hơn 20 năm của gần hai triệu người Việt Nam đã phải chấp nhận “vượt lên sự chết để tìm sự sống”, sống tự do, sống cho bản thân, cho các con, cho thế hệ mai sau, và sống cho quê hương dân tộc.

              Các Anh có biết tại sao không? Với thư này, tôi giúp Các Anh nhìn lại 37 năm trước, kéo dài đến nay và chưa biết còn bao lâu nữa, để có nét nhìn thiện cảm -không phải nét nhìn thù hận của người cộng sản- và trân trọng nhau trong tình đồng bào cùng là da vàng máu đỏ, cùng âm thanh tiếng nói Mẹ Việt Nam, qua những tài liệu từ cơ quan Liên Hiệp Quốc. Các Anh cũng sẽ nhận ra những đắng cay của lãnh đạo cộng sản quốc tế và quốc nội, khi nói về chủ nghĩa cộng sản. Nhưng trọng tâm của tôi là muốn giúp Các Anh thêm một lần nữa, nhận ra bản chất của nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam.

              Trước khi vào bài, tôi nghĩ là Các Anh cần nhớ lại sự kiện 58 năm trước. Đó là nửa cuối năm 1954 ngay sau Hiệp Định Geneve chia đôi lãnh thổ Việt Nam trở thành hai quốc gia, sự kiện 875.478 người dân miền Bắc đã ào ạt chạy trốn cộng sản độc tài, vào miền Nam lập lại đời sống mới trên đất nước tự do, đã nói lên một cách hùng hồn về tính chất tàn bạo sắt máu của cộng sản mà trường hợp điển hình là chiến dịch “Cải Cách Ruộng Đất 1954-1956” đã giết 172.008 nạn nhân tại 3.563 xã. (Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-2000 của Viện Kinh Tế CSVN ấn hành). Với cuộc di cư vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam đến lúc bấy giờ, “là cuộc bỏ phiếu bằng chân” của người dân nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, đã chứng minh mạnh mẽ sự chối bỏ một chế độ độc tài tàn bạo dưới sự cai trị của đảng CSVN.

              Nếu Các Anh là thế hệ trẻ, hãy hỏi lại người thân để hiểu thêm sự thật, giúp cho sự suy nghĩ của Các Anh có được nét nhìn chính chắn về sự kiện chính trị nói trên, để có kết luận theo nét nhìn của con người bình thường với những quyền căn bản mà Công Ước Quốc tế công nhận. Bây giờ mời Các Anh vào nội dung ...

              Chiến tranh Việt Nam là giải phóng hay xâm lăng?

              Trong một cuốn sách mỏng (không nhớ tên) của xã hội chủ nghĩa mà “Đoàn 776 quân đội nhân dân” Các Anh bắt chúng tôi đọc hồi năm 1977 khi bị giam tại Trại Cốc, trong một thung lũng nhỏ phía nam thị xã Yên Báy khoảng 6 cây số. Nội dung cuốn sách cho thấy lãnh đạo của Các Anh đã chuẩn bị “chiến tranh xâm lăng” Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) chúng tôi từ cuối những năm 50 dưới dưới lớp võ “giải phóng miền Nam”, nối tiếp hành động đã giấu lại trên lãnh thổ VNCH chúng tôi hằng chục ngàn đảng viên cộng sản khi thực hiện kế hoạch rút quân (mà lãnh đạo của các anh gọi là tập kết) về xã hội chủ nghĩa trên đất Bắc theo qui định trong Hiệp Định Geneve tháng 7/1954. Điều này cho thấy lãnh đạo Các Anh bắt đầu chiến tranh xâm lăng VNCH từ đó, và bành trước qua từng giai đoạn cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 ...

              Các Anh hãy nhớ lại, ...

              “Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” (VNDCCH) các anh theo chế độ cộng sản độc tài, đã thiết lập bang giao (mà các anh gọi là quan hệ) với 15 quốc gia (năm 1960), và đã trao đổi những cơ quan ngoại giao giữa thủ đô Hà Nội với thủ đô các quốc gia đó. Đây là sự thật.

              “Nước Việt Nam Cộng Hòa” chúng tôi theo chế độ dân chủ tự do, đã thiết lập bang giao với 81 quốc gia (năm 1960), và đã trao đổi cơ quan ngoại giao giữa thủ đô Sài Gòn với thủ đô các quốc gia đó. Đây là sự thật.

              Trong bang giao quốc tế, không có vấn đề tình cảm mà chỉ có quyền lợi quốc gia, huống chi là giữa VNCH chúng tôi với VNDCCH các anh không có bang giao, nên quyền lợi quốc gia càng mạnh mẽ hơn nữa. Vì vậy, quân của nước VNDCCH đánh chiếm nước VNCH, ngoài hai chữ xâm lăng ra, không có nhóm chữ nào khác sử dụng được trong trường hợp này. Đây là sự thật. Những nhóm chữ mà lãnh đạo Các Anh đã sử dụng qua từng giai đoạn để chỉ cuộc chiến tranh này, đều là tuyên truyền và dối trá.

              Các Anh hãy nghe ông Mikhail Gorbachev, một thời là Tổng Bí Thư đảng cộng sản Liên Xô, vừa hối hận vừa than thở, khi ông nói: “Tôi đã bỏ một nửa cuộc đời cho lý tưởng cộng sản, ngày hôm nay tôi phài đau buồn mà nói rằng, đảng cộng sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá”. Chưa hết, ông Vladimir Putin, một thời là Tổng Thống nước Nga (năm 2012 lại đắc cử Tổng Thống lần nữa), quả quyết hơn: “Kẻ nào tin những gì cộng sản nói, là không có cái đầu (chắc là ông muốn nói kẻ đó ngu. PBH). Kẻ nào làm theo lời của cộng sản, là không có trái tim (chắc là ông muốn nói kẻ đó vô cảm. PBH).

              Còn nữa, nhà văn Nguyễn Khải (trong nước) trong bài viết như vừa tâm sự, vừa tự hào ẩn chứa nỗi đắng cay của người cộng sản trước khi nhắm mắt xuôi tay: “... Là một chuyên gia nói dối có tổ chức, có chỉ đạo suốt gần 30 năm trời, tôi quá rành 1001 kiểu nói dối mà chính bản thân tôi đã nói dối lem lẻm, nói dối cứ như chuyện thật, nói dối một cách tự nhiên đến mức trở thành nhiệm vụ hàng ngày. Ngay cả khi biết mình đang nói dối với đồng bào, nhưng vẫn cứ phải nói dối, vì không nói dối mà nói thật thì mất miếng cơm, mất chiếc ghế, và .. mất mạng như chơi!”

              Và đây là vài đoạn trích trong bài viết của nhạc sĩ Tô Hải (cũng trong nước) thật rõ ràng và thằng thắn: “Trong lịch sử Việt Nam, chưa bao giờ trên đất nước này lại có một xã hội giáo dục cho công dân đừng sống trung thực, mà phải biết nói dối. Nói dối tỉnh bơ, nói dối không biết ngượng, nói dối càng giỏi càng đạt nhiều thành tích!”..... Và một đoạn khác, ông viết: “... Cuộc Nói Dối Vĩ Đại nhất là cuộc chiến tranh giải phóng Miền Nam khỏi tay Đế Quốc Mỹ Xâm Lược! Sự Thật đã bị đánh tráo quá trắng trợn! Hàng triệu con người đã mất xác mà đến nay đa số vẫn chưa tìm ra được, hàng vạn thương phế binh của cả hai miền, hàng triệu gia đình mẹ mất con, vợ mất chồng, con mất cha, chỉ vì Tổng Bí Thư Lê Duẫn đã từng nói rằng: “... Ta đánh đây là đánh cho Liên Xô, cho Trung Quốc"....

              Thât ra lời của ông Lê Duẫn không phải của ông ấy, mà là trong ý nghĩa câu nói của ông Khroutchev, một thời là nhân vật đứng đầu đảng cộng sản Liên Xô. Ông Khroutchev đọc bản báo cáo tại đại hội các đảng cộng sản vào tháng 11/1960, có đoạn: “... Người cộng sản và giai cấp công nhân, sẽ cố gắng đấu tranh để đạt tới mục tiêu vĩ đại là chủ nghĩa cộng sản thống trị thế giới”... Tháng sau đó, khi thăm thủ đô Austria (Áo quốc), trong bài phát biểu của ông Khroutchev có dòng chữ ngắn: “Đời vắn lắm. Tôi ước ao sống tới ngày được nhìn thấy lá cờ đỏ bay phất phới trên toàn thế giới ...”

              Dưới đây là trích vài đoạn trong bài viết không tên của Blogger Huỳnh Thục Vy (trong nước) ngày 20/4/2012:

              ..... “Kết quả là, "sự nghiệp giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước" đã không khiến Việt Nam trở nên hùng mạnh hơn, dân tộc ta trở nên kiêu hãnh hơn, mà đơn giản chỉ là biến một miền Nam trước "giải phóng" hơn hẳn Hàn Quốc, sau gần bốn mươi năm thống nhất, cùng với cả nước lẹt đẹt chạy theo sau cả Thái Lan. Nếu ta lấy cứu cánh là sự phồn thịnh của quốc gia, là an sinh hạnh phúc, là tự do nhân phẩm của mỗi một người dân làm chuẩn, thì liệu sự thống nhất ấy có nghĩa lý gì?”
              “Đó là khi vấn đề được đặt dưới lăng kính lý luận. Còn thực tế thì mọi sự đã quá rõ ràng. Cái mà người ta gọi là "kháng chiến chống Mỹ cứu nước" ấy thực chất chỉ là để giúp Trung Quốc "đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng". Hay như Lê Duẩn từng nói: “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước, cho cả nhân loại". Nói cho rõ ra, đó là cuộc chiến giúp cho chủ nghĩa Cộng sản bành trướng xuống Đông Nam Á theo tinh thần Quốc tế Cộng sản bất chấp tinh thần dân tộc, là giúp cho Trung Cộng dễ dàng Hán hoá một Việt Nam suy yếu sau cuộc chiến tương tàn khốc liệt”.

              “Đã ba mươi bảy năm trôi qua kể từ ngày "giải phóng", giải phóng miền Nam khỏi mối quan hệ đồng minh với Mỹ, để trở thành chư hầu hèn mọn của Trung Cộng. Sự thống nhất, sự giải phóng đó mới đau đớn làm sao! Gần bốn thập niên đã qua đi, dấu vết chiến tranh trên mảnh đất quê hương Việt Nam đã dần phai nhạt, nhưng những tổn thương của lòng người vẫn còn hằn sâu, thậm chí ngày càng sâu hơn”....

              Trong thư số 1 gởi Các Anh hồi tháng 11/2011, phần đầu của Kết Luận là nhận định của tôi: “Chiến tranh 1946-1954, CSVN đánh thực dân Pháp không phải giành độc lập tổ quốc, mà là nhuộm đỏ một nửa giang sơn phía Bắc với chế độ độc tài tàn bạo hơn thời bị thực dân Pháp cai trị. Chiến tranh 1954-1975, nước Viêt Nam Dân Chủ cộng Hòa đánh chiếm nước Việt Nam Cộng Hòa, không phải để thống nhất đất nước, mà là nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam theo mục tiêu của cộng sản quốc tế là thống trị toàn thế giới”.

              Tôi dẫn lời của một số nhân vật một thời là lãnh đạo cộng sản quốc tế và trí thức trong nước, để chứng minh thật rõ ràng và xác định: “Nước cộng sản Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa của các anh, đã xâm lăng nước Việt Nam Cộng Hòa tự do của chúng tôi, trong mục đích cuối cùng là cộng sản thống trị toàn thế giới, mà CSVN là cánh tay nối dài của cộng sản quốc tế trong vùng Đông Nam Á Châu”. Các Anh nhận ra rồi chớ?

              Vì xâm lăng nên thẳng tay chiếm đoạt tài sản.

              Sau khi chiếm xong VNCH chúng tôi, lãnh đạo của các anh:

              (1) Nhanh chóng cướp 16 tấn vàng (gồm 1.234 thoi, mỗi thoi nặng từ 12 đến 14 kí lô) và hơn 1.000 tỷ đồng tiền giấy dự trữ trong ngân khố quốc gia Việt Nam Cộng Hòa, do ông Huỳnh Bửu Sơn người giữ chìa khóa, và ông Lê Minh Kiếm người giữ mật mã các cửa hầm bạc, hướng dẫn và giao toàn bộ vàng bạc và sổ sách cho Hoàng Minh Duyệt. Cùng lúc, cướp những máy điện tử tối tân sử dụng trong các cơ quan cũng như tại các nhà ở, chuyển về Hà Nội và tất cả biến thành tài sản cá nhân.
              (2) Vô cùng tàn nhẫn khi đẩy hơn chục ngàn thương binh VNCH đang điều trị trong các Quân Y Viện và Tổng Y Viện ra đường phố, bất cứ họ có đi được hay không đi được!
              (3) Dối trá dưới lớp võ “tập trung cải tạo” để đẩy gần nửa triệu quân nhân viên chức VNCH cũ vào trong hơn 200 trại tập trung từ đồng bằng Cửu Long, núi đồi heo hút miền Trung, rừng già Lạng Sơn Yên Báy, đến trại Cổng Trời sát biên giới Việt-Trung, đày đọa 17 năm ròng rã mà không qua một cơ quan luật pháp nào, vừa thỏa lòng thù hận vừa cướp đoạt tài sản.
              (4) Đánh gục xã hội VNCH đang sung túc, xuống ngang bằng xã hội nghèo khổ đến tận cùng của Miền Bắc 20 năm xã hội chủ nghĩa, để thực hiện chính sách cướp đoạt nhà cửa, đất đai vườn ruộng, tiền bạc vòng vàng, cơ sở sản xuất, kinh doanh, thương mãi, vận chuyển, ....
              (5) Đào xới mồ mả trong các nghĩa trang quân đội VNCH chúng tôi, để tranh nhau từng khu đất nghĩa trang làm tài sản cá nhân.

              Xin hỏi: “Các Anh có bao giờ nghe nói đến những sự kiện đó không?” Dĩ nhiên, đây mới là vài sự kiện trong hằng ngàn hằng chục ngàn sự kiện cướp đoạt tàn nhẫn của hằng triệu người dân VNCH chúng tôi, những người đã góp phần tạo nên một xã hội sung túc và phóng khoáng trong chế độ dân chủ tự do, rồi đày đọa họ trong các trại tập trung như những Người Lính chúng tôi thua trận!

              Kẻ xâm lăng là vậy đó, Các Anh nhận ra sự thật chưa?

              Nhưng trên đây mới là nguyên nhân nhìn thấy từ bên ngoài, đã dẫn đến tình cảnh hằng triệu người VNCH cũ phải vượt biên vượt biển tìm tự do, đã để lại những dòng sông đẫm máu và xác người nhấp nhô trên biển cả mệnh mông, đến mức thế giới phải kinh hoàng trước sự can đảm tột cùng của người Việt Nam tự do, đồng thời cảnh tỉnh thế giới về chủ nghĩa cộng sản. Đây là cuộc chạy trốn cộng sản độc tài lần thứ 2 trong lịch sử Việt Nam.

              Thống kê năm 2000 của cơ quan Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, cho thấy những con số dưới đây:

              Thứ nhất. Trong đợt di tản trong những ngày cuối tháng 4/1975, khoảng 150.000 người thoát khỏi Việt Nam.

              Thứ nhì. Vượt biên vượt biển là cuộc chạy trốn đông đảo nhất và bi thảm nhất trong lịch sử nhân loại nói chung, và lịch sử Việt Nam nói riêng, ròng rã trong 20 năm kể từ tháng 5/1975 đến năm 1995, chia làm 4 giai đoạn với 839.200 người đến bến bờ tự do tị nạn:

              Giai đoạn 1, từ tháng 5/1975 đến cuối năm 1979, có 14.600 người vượt biên giới trên đất liền, và 311.400 người vượt biển mà thế giới rất xót xa khi gọi là “Thuyền Nhân”. Cộng chung của giai đoạn 1 là 326.000 người tị nạn.

              Giai đoạn 2, từ năm 1980 đến năm 1984, có 11.000 người vượt biên giới và 242.000 người vượt biển. Cộng chung của giai đoạn 2 là 253.100 người tị nạn.

              Giai đoạn 3, từ năm 1985 đến năm 1989, có 10.500 người vượt biên giới và 186.500 người vượt biển. Cộng chung của giai đoạn 3 là 197.000 người tị nạn.

              Giai đoạn 4, từ năm 1990 đến năm 1995, có 6.700 người vượt biên giới và 56.400 người vượt biển. Cộng chung của giai đoạn 4 là 63.100 người tị nạn.

              Không một cơ quan quốc tế nào có đủ dữ kiện về số người Việt Nam vượt biên vượt biển đã bị bỏ xác trong rừng sâu và trên biển cả, mà các cơ quan truyền thông quốc tế, sau khi tiếp xúc phỏng vấn hằng chục ngàn người tị nạn tại các trại tạm trú Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật Tân, Hong Kong, họ ước tính cứ 3 người Việt Nam vượt biên vượt biển thì 2 người đến bến bờ tự do và 1 người chết. Như vậy, có khoảng từ 400.000 đến 500.000 người chết mất xác trên đường chạy trốn chế độ cộng sản độc tài!

              Vào những ngày cuối tháng 3 năm 2005, một phái đoàn qui tụ nhiều thành phần xã hội trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn, từ nhiều quốc gia khác nhau mà đông nhất là từ Hoa Kỳ, cùng đến Mã Lai và Nam Dương là hai quốc gia đã đón nhận cưu mang khoảng 700.000 đến 800.000 đồng bào Việt Nam chúng tôi trong thời gian tạm trú, chờ đi định cư các quốc gia thứ ba. Một trong những câu chuyện cảm động nhất là lời thuật của người Mã Lai, rằng: “Khi chúng tôi hay tin tàu chở người Việt Nam vượt biển bị chìm, chúng tôi cùng kêu gọi nhiều người nữa ra biển vớt được “130 xác thuyền nhân Việt Nam”, và chôn trong một cái hố!”

              Các Anh thử hình dung cái quang cảnh 130 xác người Việt Nam bập bềnh trên sóng nước vịnh Thái Lan? Các Anh nghĩ gì nếu như trông thấy 130 xác đồng bào lớn nhỏ nhầy nhụa ngổn ngang bị quẳng vào cái mồ chôn tập thể? Thật là thê lương! Thật là bi thảm! Nhóm lãnh đạo CSVN độc tài là nguyên nhân duy nhất đẩy dân tộc vào nỗi thê lương bi thảm này khi họ cai trị tàn bạo nghiệt ngã sau khi chiếm VNCH chúng tôi! Không lẽ Các Anh lại vô cảm đến mức không một chút xót xa thương cảm nào gợn lên trong lòng Các Anh, trong khi Họ là những người có “chứng minh nhân dân do nhà nước nước Cộng Hòa XHCN Việt Nam của các anh cấp”? Nếu vô cảm đến như vậy, Các Anh hãy nghe ông Boris Yeltsin, một thời là Tổng Thống Nga phát biểu: “Cộng sản không thể nào sửa chữa, mà cần phải đào thải nó”.

              Và thứ ba. Với các chương trình Đoàn Tụ Gia Đình, Cựu Tù Nhân Chính Trị (HO), Con Lai, ..v..v..., bắt đầu từ năm 1990, dù rằng những năm trước đó lác đác đã có chương trình Đoàn Tụ Gia Đình. Số người thuộc các chương trình này đến Hoa Kỳ từ năm 1990 đến năm 2002 là 481.245 người, trong số đó có 112.000 cựu tù nhân chính trị.

              Cộng Đồng chúng tôi tị nạn CSVN vươn cao hơn dự tưởng.

              Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại Hoa Kỳ, theo thống kê năm 2010 là 1.548.946 người, bằng 1.7% dân số trong nước là 86.000.000 người. Làm chủ 229.000 cơ sở kinh doanh thương mãi, với doanh thu 28 tỷ 800 triệu mỹ kim (năm 2008), bằng 32.3% tổng sản lượng 89 tỷ mỹ kim của nước CHXHCNVN (năm 2008). Nên nhớ, khi chúng tôi đặt chân đến Hoa Kỳ chỉ là những bàn tay trắng, vì bị nhóm lãnh đạo cộng sản xâm lăng cướp đoạt hết rồi.

              Về khối nhân lực quí giá trong Cộng Đồng chúng tôi, các anh sẽ rõ khi đọc hai đoạn trong bài viết “Khơi Dậy Nguồn Lực Chất Xám Của Việt Kiều” dưới đây của ông Nguyễn Phú Bình, năm 2005 là Thứ Trưởng Ngoại Giao nước Việt Nam cộng sản, kiêm Chủ Nhiệm Ủy Ban Về Người Việt Ở Nước Ngoài:

              “... Trong số gần 3.000.000 người Việt Nam sinh sống định cư ở nước ngoài, ước tính có khoảng 300.000 người được đào tạo ở trình độ đại học và công nhân kỹ thuật cao, có kiến thức cập nhật về văn hoá, về khoa học, công nghệ, về quản lý kinh tế. Trong đó có nhiều người đạt vị trí quan trọng trong các Viện Nghiên Cứu, Trường Đại Học, Bệnh Viện, Công Ty kinh doanh của các nước, và các tổ chức quốc tế. Tiềm lực khoa học và công nghệ của các thế hệ người Việt Nam ở nước ngoài không ngừng phát triển. Trong đó, một thế hệ trí thức mới, người nước ngoài gốc Việt, đang hình thành và phát triển, nhất là ở các nước Bắc Mỹ, Tây Âu, và Châu Đại Dương. Đội ngũ này tập trung ở nhiều lãnh vực khoa học chuyên ngành và kinh tế như tin học, viễn thông, điện tử, vật liệu mới, chế tạo máy, điều khiễn học, sinh học, quản lý kinh tế, ngân hàng, chứng khoán, ..v..v.. Theo ước tính, chỉ số học vấn đại học và trên đại học của người Việt Nam tại các nước công nghiệp phát triển gần ở mức trung bình của người dân sở tại....”

              “......Chính thế hệ trẻ Việt Nam ở nước ngoài, đang làm thay đổi cơ cấu Cộng Đồng từng bước thay thế lớp người lớn tuổi. Thế hệ trẻ này đang trở thành một thành phần quan trọng của công tác vận động nhằm động viên khuyến khích sự hợp tác, đóng góp của họ vào công cuộc xây dựng quê hương đất nước. Thế mạnh của đội ngũ trí thức người Việt Nam ở nước ngoài là được đào luyện, tiếp cận môi trường khoa học công nghệ tiên tiến, và nắm bắt được phương pháp quản lý kinh tế vĩ mô và chuyên ngành. Họ có khả năng phát kiến sáng tạo, có năng lực tổng hợp thông tin, tư vấn và tạo dựng mối quan hệ với các cơ sở khoa học, cơ sở kinh tế ở nước sở tại. Từ trước đến nay, đội ngũ trí thức kiều bào vẫn được các cơ quan chức năng trong nước đánh giá là thế mạnh của người Việt ở nước ngoài, là một nguồn lực có thể góp phần tích cực cho sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước....”

              Tôi nhấn mạnh với Các Anh về khối nhân lực có trình đại học trở lên mà ông Nguyễn Phú Bình ước tính trong bài viết là 10% (300.000 trong tổng số 3.000.000 người). Về phẩm chất giáo dục (các anh gọi là chất lượng) ở bậc đại học Hoa Kỳ được công nhận là tân tiến trên thế giới, vì vậy mà số sinh viên từ các quốc gia đến Hoa Kỳ du học là 690.923 sinh viên trong năm học 2009-2010. Trong số đó, Việt Nam có 13.112 sinh viên. Vậy là Các Anh có thể tự mình đánh giá phẩm chất giáo dục của tuổi trẻ tốt nghiệp đại học Việt Nam với tuổi trẻ hải ngoại tốt nghiệp đại học tại Hoa Kỳ nói riêng và thế giới nói chung, để nhận ra sức mạnh về kiến thức của Cộng Đồng chúng tôi tị nạn cộng sản tại hải ngoại mà ông Thứ Trưởng Ngoại Giao các anh đã nhận định và mơ ước....

              Cũng nói thêm để các anh có nét nhìn bao quát hơn về giáo dục. Trong danh sách 50 trường đại học nổi tiếng trên thế giới, Hoa Kỳ có đến 37 trường, quốc gia thứ nhì là Anh quốc 5 trường, thứ 3 là Canada có 2 trường, Nhật Bản cũng 2 trường, ... Dân số Hoa Kỳ là 310 triệu, có 14.261.000 sinh viên trong 9.449 trường đại học. Việt Nam với dân số 89.000.000 người (năm 2010), có 1.450.000 sinh viên trong 87 trường đại học công + 14 trường đại học tư + 1 trường đại học ngoại quốc = 102 trường đại học. Đây mới là số lượng trường đại học, còn phẩm chất giáo dục thì sao? Gần lại Việt Nam hơn, với danh sách 100 trường đại học nổi tiếng của Châu Á, Việt Nam không có trường nào trong số đó, và con số KHÔNG này tự nó đã nói lên phẩm chất giáo dục của xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam, không có gì để so sánh với nền giáo dục các quốc gia trong vùng.

              Mời Các Anh đọc tiếp đoạn ngắn dưới đây nhà văn Dạ Ngân (trong nước), để có thêm dẫn chứng:

              “.... Nếu cứ đùa dai với truyền thống hiếu học thì sẽ còn chuyện học sinh đi du học hết. Các ông bố, bà mẹ hiện đại ở các đô thị, đang có xu hướng “ấn” con mình đi du học càng sớm càng tốt? Xu hướng này phản ánh điều gì về tâm lý và sự thay đổi trong xã hội hiện nay?

              “Xin đừng quên người Việt mình rất chăm con, bất đắc dĩ người ta mới chịu xa con sớm và họ biết rõ, con mình sẽ “lóng ngóng” ở xứ người một thời gian dài. “Nhưng tại sao có tâm lý đua nhau cho con đi sớm” Chỉ vì cung cách của nền giáo dục không còn khiến người ta an tâm. Tính hiếu học của người Việt đang bị thách thức. Những người có tiền, không dại gì để con mình chịu đựng sự thể nghiệm mãi của những nhà cải cách và phải học theo kiểu “nhồi sọ” ở trường, lại còn phải học thêm học thêm mãi ....Ngày nay, nhiều người Việt ra nước ngoài là để tị nạn giáo dục”.

              Chưa hết. Với bài “Trào Lưu Du Học Sớm” đăng trên Tiền Phong chủ nhật 24/4/2012 tại Hà Nội, cô học sinh Phạm Tâm Anh, lớp 10A trường trung học phổ thông ngoại ngữ, tháng 7 /2012 này sẽ du học Hoa Kỳ ở bậc trung học. Bài báo cho rằng: “Đây là một thách thức với nền giáo dục trong nước”. Quan điểm này cùng quan điểm với nhà văn Dạ Ngân là “du học để tị nạn giáo dục”.

              Nhớ lại lúc tôi bị giam trong trại tập trung Long Giao cuối năm 1975, Thượng Tá công an tên Bình đã “dạy” chúng tôi rằng: “Tư bản chủ nghĩa đang giãy chết tại dinh lũy cuối cùng của nó là đế quốc Mỹ..” Có điều lạ là tư bản chủ nghĩa đã giãy 37 năm rồi mà chưa chết, trái lại càng giãy càng hùng mạnh hơn lên, đến mức nhóm lãnh đạo “đỉnh cao gian trá” m à Các Anh gọi là đỉnh cao trí tuệ, thay phiên nhau lặn lội nửa vòng trái đất để cầu lụy giúp đỡ. Trong cầu lụy này còn có chương trình cho sĩ quan các anh sang “đế quốc đang giãy chết” học sử dụng vài loại vũ khí, trong khi tuổi trẻ Việt Nam đua nhau sang Hoa Kỳ “tị nạn giáo dục” như lời của nhà văn Dạ Ngân.

              Đến đây Các Anh đã nhận ra mức độ tệ hại của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa như thế nào rồi. Hãy nhìn xa hơn nữa để hình dung nền giáo dục này sẽ tác hại ra sao với những thế hệ sau Các Anh? Và liệu đất nước Việt Nam sẽ như thế nào nếu nhóm lãnh đạo “đỉnh cao gian trá” cộng sản độc tài vẫn tồn tại? Tùy Các Anh ...

              Dưới đây là tóm lược bài “Cả Nước Đã Bị Lừa” của Châu Hiển Lý, là “bộ đội tập kết 1954”, để Các Anh có thêm nét nhìn nữa. Người Việt Nam tự do chúng tôi, khi nhìn vào sự kiện nào cũng nhìn từ nhiều phía với những tranh luận tìm đến nết nhận định chung, chớ không như “Các Anh chỉ được nhìn duy nhất một phía” do đảng cho nhìn”.

              “ ..... Nhìn lại Việt Nam sau hơn nữa thế kỷ dưới chế độ cộng sản, hàng loạt các câu hỏi được đặt ra:

              (1) Năm 1954 sau khi thắng Pháp, tại sao gần 1 triệu người Bắc phải bỏ lại nhà cửa ruộng vườn di cư vào miền Nam?
              (2) Sau năm 1975 , tại sao dân miền Nam không ồ ạt di cư ra Bắc sinh sống để được hưởng những thành quả của chủ nghĩa xã hội, mà chỉ thấy hàng triệu người Bắc lũ lượt kéo nhau vào Nam lập nghiệp?
              (3) Tại sao sau khi được "giải phóng khỏi gông cùm của Mỹ Ngụy”, hàng triệu người phải vượt biên tìm tự do trong cái chết gần kề trên biển cả mênh mông?
              (4) Tại sao nhân viên trong các phái đoàn CSVN đi công tác hay đi tranh giải thể thao, thường hay trốn lại ở các nước tư bản dưới hình thức tị nạn chính trị?
              (5) Tại sao đàn ông của các nước tư bản Châu Á có thể đến Việt Nam để chọn vợ như người ta đi mua một món hàng?
              (6) Tại sao Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ?
              (7) Tại sao có cuộc sống cách biệt quá xa giữa Đông Đức cộng sản với Tây Đức tự do, giữa Bắc Hàn cộng sản với Nam Hàn tự do, và giữa Miền Bắc Việt Nam cộng sản với Miền Nam Việt Nam tự do?
              (8) Tại sao các lãnh đạo CSVN lại gởi con đi du học tại các nước tư bản thù nghịch “đang giãy chết”?

              “Hỏi tức là trả lời. Người Việt Nam đã “bỏ phiếu bằng chân” từ bỏ một xã hội phi nhân tính. Mọi lý luận phản biện và tuyên truyền của nhà nước cộng sản đều trở thành vô nghĩa.... Sự thực đã quá hiển nhiên nhưng đảng cộng sản không dám công khai nhìn nhận, đó là họ đã hy sinh bốn triệu sinh mạng trong một cuộc chiến sai lầm, chỉ vì họ được đào tạo để chỉ biết có bài bản cộng sản, cho nên từ ba dòng thác cách mạng chuyên chính vô sản, lãnh đạo CSVN đã hy sinh hơn bốn triệu người, để rồi đi lòng vòng gần nửa thế kỷ, lại phải rập khuôn theo mô hình tư bản “đang giãy chết” để tồn tại.... “

              “Con người có thể sống trong nghèo nàn, thiếu thốn. Nhưng người ta không thể sống mà không suy nghĩ, không nói lên ý nghĩ của mình. Không có gì đau khổ hơn là buộc phải im lăng, không có sự đàn áp nào dã man hơn là bắt người ta phải từ bỏ các suy nghĩ của mình và "nhai lại" suy nghĩ của kẻ khác.... Và tương lai nào sẽ dành cho dân tộc và đất nước Việt Nam, nếu cái tốt phải nhường chỗ cho cái xấu? Một xã hội mà cái xấu cái ác nghênh ngang, dương dương tự đắc, trong khi cái tốt cái thiện phải lẩn tránh, phải rút vào bóng tối, thì tương lai dân tộc này sẽ đi về đâu? Mượn 2 câu thơ sau đây của nhà thơ Bùi Minh Quốc, diễn tả xã hội ngày nay: “Quay mặt phía nào, cũng phải ghìm cơn mửa. Và một thời, đểu cáng đã lên ngôi!” Hết phần tóm lược.

              Mời Các Anh nghe vài câu hát của nhạc sĩ Việt Khang “Việt Nam ơi thời gian quá nửa đời. Và ta đã tỏ tường rồi. Và nhận định của Khang: “Chiến tranh xảy ra tại Việt Nam mà không ở đâu khác, chỉ vì Việt Nam có đảng cộng sản”. Nghe tiếp 2 câu thơ của nhà thơ Trần Dần: “Tôi đi giữa phố phường. Chỉ thấy nước mắt sa trên nền cờ đỏ”. Và nhận định của ông Trần Độ, cựu Trung Tướng quân đội nhân dân Các Anh trong quyển nhật ký Rồng Rắn: “Tại sao chỉ có từ các nước xã hội chủ nghĩa và đặc biệt là từ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đến hằng mấy triệu người bất kể hiểm nguy sống chết khi ra đi tìm đường sống ở các nước khác?”

              Các Anh hãy nhìn lại lịch sử thế giới từ đầu thế kỷ 20 khi đảng cộng sản lật đổ chế độ Nga Hoàng đến nay, có người dân nào từ các nước tự do chạy sang quốc gia do đảng cộng sản cầm quyền xin tị nạn không? Chắc chắn là KHÔNG. Từ đó, có khi nào Các Anh tự hỏi “tại sao không?” Nếu chưa bao giờ, thì hãy tự hỏi bản thân Các Anh, rồi đọc lại nội dung thư này sẽ có giải đáp cho Các Anh.

              Kết luận.

              Như nói ở trên, điều mà tôi muốn gởi đến Các Anh trong thư này là bản chất của cộng sản mà nhóm lãnh đạo Các Anh đã và đang thực hiện. Bản chất của đảng cộng sản là độc tài. Vì biết rằng không một dân tộc nào trên thế giới chấp nhận độc tài nói chung, và dân tộc Việt Nam nói riêng, nên phải che giấu bằng chính sách dối trá mà phương tiện là hệ thống giáo dục và hệ thống truyền thông trong tay đảng. Độc tài dẫn đến quyền lực, vì không có bất cứ cơ quan nào kiểm soát. Từ quyền lực dẫn đến độc đoán khi quyết định những chính sách ngang qua Quốc Hội dưới quyền lãnh đạo của đảng gọi là luật, tạo điều kiện cho một hệ thống tham nhũng bằng bất cứ hình thức nào mà mọi cấp mọi nơi cho là thích hợp khi áp dụng những văn bản đó, và quyết định độc đoán cao nhất là Hiến Pháp. Cuối cùng của độc tài là đạt đến quyền lợi cá nhân cho các đảng viên trong hệ thống tổ chức đảng với nhà nước ngày nay, và tùy lúc tùy nơi tùy từng vụ mà cấp lãnh đạo Các Anh “sẽ nhân danh bảo vệ đảng” để che chắn cho nhau bằng những cách mà họ cho là thích hợp.

              Một góc nhỏ của quyến lợi cá nhân trong bản chất của đảng cộng sản mà nhóm lãnh đạo CSVN “đã và đang nhiệt tâm” vơ vét bằng nhiều cách khác nhau, nhưng cách cưỡng chiếm đất đai đồng ruộng ao hồ của người dân, mà điển hình gần đây của những vụ dã man nhất trong lịch sử Việt Nam là vụ Tiên Lãng (Hải Phòng) ngày 5/1/2012, Văn Giang (Hưng Yên) ngày 24/4/2012, và Vụ Bản (Nam Định) ngày 8/5/2012.

              Tôi gởi sự suy nghĩ này đến Các Anh, hãy bình tâm nhận định một chuỗi sự kiện mà Các Anh vừa đọc qua, và suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính mình chớ không phải tâm hồn của người đảng viên cộng sản. Mong Các Anh đừng đứng nhìn một cách vô cảm nữa mà hãy hành động “như một đầu tàu”, kéo theo 89 triệu bà con trên quê hương Việt Nam thân yêu, và mạnh dạn đứng lên giành lại quyền làm người từ tay cộng sản độc tài tàn bạo, một chế độ đã tạo nên một xã hội băng hoại bắt nguồn từ chính sách dối trá, ngu dân, để cùng nhau xây dựng một nền văn hoá khai phóng, nhân bản, khoa học, và phát triển một xã hội dân chủ pháp trị mà mọi người được hưởng một cách tự nhiên những quyền căn bản của mình. Nếu Các Anh “không thể đứng dậy làm đầu tàu” thì khi người dân đứng dậy, Các Anh hãy đứng về phía đồng bào mà hành động.

              Tôi vững tin rằng, bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Gốc Lính Chúng Tôi- vẫn hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào, những thế hệ làm nên lịch sử.

              Xin hãy nhớ rằng “Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng”.
              Texas, tháng 5 năm 2012

              Comment


              • #8
                Thư số 8 gởi Người Lính Quân Đội Nhân Việt Nam


                Phạm Bá Hoa

                Tôi tên Phạm Bá Hoa, chào đời năm 1930 tại đồng bằng sông Cửu Long. Tôi phục vụ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 21 năm trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc, sau đó tôi bị tù không án 12 năm 3 tháng trong các “trại tập trung” mà lãnh đạo của Các Anh gọi là “trại cải tạo”. Hiện cư ngụ tại Hoa Kỳ. Tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam khi mà quê hương tôi chưa có dân chủ, tự do, và nhân quyền thật sự.

                Xin được gọi “Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam” là Các Anh để tiện trình bày. Chữ “người lính” mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng, gọi chung là “cấp lãnh đạo”. Là người lính trong quân đội “Nhân Dân”, chắc rằng Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Các Anh trong quân đội nhân dân mà. Với lại, Tổ Quốc & Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng chính trị nào cũng chỉ là một giai đoạn của lịch sử. Và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.

                Vẫn trong mục đích giúp Các Anh, từ góc nhìn khác để nhận ra “Chân Dung Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam Ngày Nay”. Đọc báo Quân Đội Nhân Dân cũng là cách gần gủi Các Anh nhất. Nói rõ hơn là tôi phân tách vài bài báo giúp Các Anh nhìn sâu vào nội dung, để so sánh giữa lời lẽ trên trang báo với sự thực trong xã hội nó khác nhau đến mức nào, và từ đó Các Anh sẽ nhận ra mức độ dối trá ngược ngạo trong truyền thông nó tác hại ra sao với độc giả, khán giả, thính giả! Và tùy Các Anh suy nghĩ ….


                Báo Quân Đội Nhân Dân “lo” cho tuổi trẻ. Số báo ngày 27/3/2012, cảnh giác về thành phần sinh viên:

                “....Rất nhiều tuổi trẻ Việt Nam đã “bị lung lạc” qua chiến dịch diễn biến hòa bình từ hải ngoại đưa vào... Hầu hết sinh viên còn hạn chế khả năng phân tích và chọn lọc thông tin. Chính vì vậy, lực lượng này dễ bị kích động, lôi cuốn vào những hoạt động không lành mạnh… Đây chính là điểm yếu của sinh viên mà các thế lực thù địch đã chọn làm đối tượng để thực hiện ''diễn biến hòa bình'' nhằm lôi kéo, tạo lực lượng chống phá cách mạng nước ta.

                “Rất dễ dàng nhận thấy, khi nhằm vào đối tượng sinh viên, chiến thuật của chúng vẫn là mềm, ngầm, sâu, tiến hành trên tất cả các lĩnh vực. Chúng thông qua internet, điện thoại di động, đặc biệt là các trang web đen… để đưa các ấn phẩm văn hóa đồi trụy, phản động vào sinh viên. “Mưa dầm thấm lâu”, những văn hóa phẩm độc hại, những tư tưởng xấu, lối sống vô trách nhiệm… cứ dần dần len lỏi vào các ký túc xá sinh viên, lôi kéo, kích động họ, tạo ra sự bất ổn về chính trị tư tưởng, gây ra những vụ gây rối trật tự an ninh trong đời sống sinh viên và trong xã hội. Âm mưu chống phá này cũng đã tác động xấu đến tư tưởng của một bộ phận sinh viên, khiến họ giao động và giảm sút lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng, thậm chí còn vào hùa với các thế lực thù địch nói xấu Đảng, nói xấu chế độ... Lãnh đạo CSVN đưa ra các biện pháp: “Tăng cường giáo dục cho sinh viên về chủ nghĩa Mác- Lê, tư tưởng Hồ Chí Minh; quán triệt chủ trương đường lối chính sách và pháp luật của Đảng với Nhà nước...”


                Các Anh thấy gì khi đọc đoạn trên đây? Có thể Các Anh đã quen với nếp sống vô trách nhiệm, nếp sống vô văn hoá của xã hội ngày nay nên không thấy gì trong bài báo đó. Nhưng tôi thì thấy, và hiểu:

                Thứ nhất. Nhóm lãnh đạo CSVN là thủ phạm tạo nên hệ thống giáo dục xã hội chủ nghĩa với mục đích đào tạo những thế hệ thần dân để tuân phục đảng, mà đảng chỉ là nhóm lãnh đạo “đỉnh cao gian trá” trong Bộ Chính Trị, chỉ lo bảo vệ đảng bằng bất cứ chính sách nào, phương cách nào, kể cả phương cách sử dụng côn đồ xã hội đen để trấn áp người dân, chớ không phục vụ quyền lợi người dân. Những con người vô văn hoá.

                Thứ nhì. Nhóm lãnh đạo CSVN là thủ phạm tạo nên hệ thống tham nhũng bằng những văn bản mà Hiến Pháp là văn bản cao nhất, dẫn đến Luật Đất Đai ra đời. Từ đó, lãnh đạo ở mọi cấp cùng nhau tham nhũng, chia chác, che chắn, để cùng “bảo vệ đảng” mà tiếp tục tham nhũng, bởi đảng đang chơi vơi vì chủ nghĩa cộng sản sụp đổ hơn 20 năm rồi, nhưng vẫn bám vào để ôm chiếc ghế quyền lực mà cùng nhau tham nhũng. Những con người vô trách nhiệm.

                Thứ ba. Và cũng nhóm lãnh đạo CSVN là thủ phạm tạo nên một xã hội mà mọi người phải sống với nhau bằng dối trá, dối trá trong học đường, dối trá trong luật pháp, dối trá trong Quốc Hội, trong chánh phủ, dối trá từ trong gia đình, thân nhân thân quyến, cho đến bạn bè bằng hữu. Những con người vô cảm.

                Nhìn chung, xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay, là một xã hội băng hoại đến mức mà mọi người không còn chỗ nào để tránh được dối trá và tham nhũng. Các Anh hãy đọc một đoạn dưới đây, bài viết trong đêm Ba Mươi Tết Nhâm Thìn 2012, “Ngày Phán Xét Sắp Đến” của tác giả “Tuổi 20” từ Hà Nội. Đoạn này, “Tuổi 20” như đang nói với nhóm lãnh đạo trong Bộ Chính Trị:

                “Tuổi trẻ Việt Nam ngày hôm nay đã quen với thế giới a-còng (@), iPhone và iPad, sẽ không dễ bị che mắt, bịt mặt, và lừa đảo như thế hệ cha anh chúng tôi. Nếu 14 ông bà bộ chính trị, những đỉnh cao của sở thú còn tin vào quyền năng vô hạn của hơn 700 tờ báo, đài phát thanh, và truyền hình các vị có thể định hướng, dẫn dắt chúng tôi. Hãy tỉnh thức, Việt Nam hôm nay có hằng triệu triệu người trẻ không buồn đọc báo, không thèm nghe đài, và đang âm thầm cùng nhau xây thêm ống cống đủ cỡ cho các vị, và các quan tham….. Tuổi trẻ chúng tôi không thích những kẻ loạn ngôn, chúng tôi lợm giọng và buồn nôn khi thấy quý vị ngu dốt, trơ trẽn và vô liêm sỉ đến tột cùng, khi tiếp tục lải nhải “Đảng CSVN quang vinh muôn năm”. Có ai lại tôn vinh cái đảng mà bàn tay thấm máu dân mình, cái đảng xây nhà tù nhiều hơn trường học, cái đảng dựng phòng massage nhiều hơn nhà thương, cái đảng đem con gái ra trần truồng phơi bày trước người Đài Loan, Hàn Quốc, … để họ sờ nắn như đi mua gà vịt với một hy vọng mong manh là sớm thoát ra khỏi cái thiên đàng xã hội chủ nghĩa…….”.

                Tôi nghĩ là Các Anh hiểu được rằng, chính tuổi trẻ -nhất là sinh viên- là tầng lớp rất nhạy bén với những sự kiện xảy ra trên quê hương cũng như trên thế giới, vậy mà báo Quân Đội Nhân Dân Các Anh cho là “khả năng hạn chế”. Hóa ra nhà báo lãnh lương nhà nước, nên mọi sự việc trong xã hội họ chỉ được phép nhìn một mặt, với cái “mũ kim cô” trên đầu, và trái tim vô cảm của người cộng sản. Đúng là nói theo lệnh chớ không cần sự thật. Nếu nói theo nhà văn cộng sản đã thức tỉnh Nguyễn Khải trước khi từ giã cõi đời, là nói dối lem lẻm, nói dối không biết ngượng, nói dối cứ như thiệt, vì nếu không nói dối thì .... mất mạng như chơi.

                Như vậy, những gì xấu xa nêu trong bài báo “Quân Đội Nhân Dân” của Các Anh, thật ra những thứ đó đã có, đang có, và tiếp tục phát triển những cái xấu xa đó ngay trong lòng xã hội chủ nghĩa rồi, đâu cần hải ngoại đưa vào mà la hoảng lên như vậy. Cũng may cho đất nước Việt Nam chúng ta, còn có được một thành phần dân tộc với đa số là tuổi trẻ -mà tác giả “Tuổi 20” là điển hình- vượt thoát hê thống giáo dục đó để trở thành những công dân đúng nghĩa, đã và đang chấp nhận mọi hiểm nguy gian khổ mà tranh đấu cho một xã hội dân chủ pháp trị thật sự trên quê hương Việt Nam. Hãy nhớ rằng, ngày nay là thời đại phát triển vượt bậc về truyền thông điện tử mà Các Anh gọi là thời đại a-còng @, chỉ trong nháy mắt là tin tức truyền đi khắp nơi, nhờ đó mà mọi người dễ dàng và nhanh chóng trao đổi quan điểm về các lãnh vực trong cuộc sống, từ chính trị ngoại giao, kinh tế xã hội, đến văn hoá giáo dục, ..v..v.., qua đó mà các thành phần trong nước, nhất là tuổi trẻ, hiểu biết về những sự thật tồi tệ mà lãnh đạo đảng với nhà nước che giấu.

                Báo QĐND “sợ” Nhân Dân phê bình. Số báo ngày 15/5/2012, bài viết của Văn Hải về “Tăng cường sự giám sát của nhân dân đối với cán bộ, đảng viên”:

                “Chỉ thị số 3 ngày 14/5/2011 của Bộ Chính Trị là tiếp tục đẩy mạnh xây dựng cơ chế giám sát của tổ chức đảng và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cán bộ của cán bộ đảng viên. Vấn đề cấp bách là cán bộ phải thường xuyên tiếp xúc và đối thoại với nhân dân để nắm bắt tâm tư, đánh giá, và dự báo diễn biến tư tưởng của cán bộ đảng viên, và có biện pháp giải quyết kịp thời. Thực tế thì phần lớn cán bộ đảng viên vẫn gắn bó với nhân dân, tôn trọng nhân dân, nhưng vẫn còn một bộ phận cán bộ có tác phong quan liêu, cửa quyền, cách biệt với cuộc sống đạm bạc, bình dị của phần lớn người dân ....” Trước đó, ngày 14/5/2012, cũng báo Quân Đội Nhân Dân, tóm lược các nét chính về chính sách đất đai nêu ra ở Hội nghị Trung ương Đảng vừa kết thúc: “Đất là nguồn sống của nhân dân, tài sản, nguồn lực to lớn của Việt Nam”.

                Trời đất ơi! Tôi không thể tưởng tượng được mức độ dối trá của nhóm lãnh đạo trong Bộ Chính Trị khi nhận định: “... Thực tế thì phần lớn cán bộ đảng viên vẫn gắn bó với nhân dân, tôn trọng nhân dân”, dù tôi vẫn biết nếu không dối trá thì không phải cộng sản. Mời Các Anh nhìn vào vài sự thật đã xảy ra dưới đây để nhận ra “chân dung lãnh đạo” của Các Anh:

                Thứ nhất. “Phần lớn cán bộ đảng viên vẫn gắn bó với Nhân Dân và tôn trọng Nhân Dân”, sao không sử dụng Hải Quân với Cảnh Sát Biển để bảo vệ ngư dân thể hiện sự gắn bó với dân, tôn trọng nhân dân, mà để hằng chục ngàn ngư dân bị hải quân Trung Cộng hành hạ cướp đoạt tài sản, cuối cùng là đòi tiền chuộc giống như bọn cướp biển chuyên nghiệp bên Somalia. Thậm chí cũng không dám gọi đích danh là Trung Cộng mà chỉ dám gọi là “tàu lạ”. Vậy là dối trá rồi. Các Anh hãy đọc tài liệu dưới đây do Bộ Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn Việt Nam công bố ngày 2/3/2010, trong hội nghị khẩn để duyệt lại tình hình đánh cá trên Biển Đông như sau:

                (1) Tổng kết trong 4 năm qua, có 1.186 tàu đánh cá và 7.045 ngư dân Việt Nam bị bắt giữ trong khi hoạt động ở các vùng tranh chấp trên Biển Đông. Trong tất cả các vụ này, không thấy bóng dáng tàu tuần tra của Việt Nam xuất hiện.

                (2) Hiện nay hiện còn 751 ngư dân còn đang bị nước ngoài bắt giữ, đa số là Trung Cộng.

                (3) Riêng năm 2009 có 304 tàu cá và 2.472 ngư dân Việt Nam bị nước ngoài kiểm soát bắt giữ, xử phạt. Đây là con số báo động, thử chia đều cho 365 ngày thì mỗi ngày có ít nhất 6 ngư dân bị nước ngoài bắt và mỗi tuần từ 5 đến 6 tàu đánh cá bị cầm giữ.

                (4) Trong hai tháng đầu năm 2010, xảy ra 18 vụ bắt giữ tàu cá và 208 ngư dân.

                (5) Và ngày 22/3/2010, tàu cá QNg 50362 với 12 ngư dân bị bắt giữ ở đảo Phú Lâm quần đảo Hoàng Sa, phía Trung Hoa đòi tiền chuộc lên đến 150 triệu đồng.

                Thứ nhì. Bộ Chính Trị nói “phần lớn cán bộ đảng viên vẫn gắn bó với nhân dân, tôn trọng nhân dân”, trong khi không sử dụng lực lượng để bảo vệ ngư dân trên biển, nhưng lại hung hăng khi sử dụng Công An võ trang và côn đồ mang gậy gộc, bao vây, đánh đập, bắt giam Nhân Dân trong 10 cuộc biểu tình tại Hà Nội và Sài Gòn vào mỗi ngày chủ nhật, kể từ chủ nhật 5/6/2011? Trong mỗi lần đồng bào biểu tình phản đối Trung Cộng lấn chiếm Việt Nam, có đến 500 Công An đàn áp người dân, chẳng lẽ hành động tàn bạo này là thể hiện “cán bộ đảng viên vẫn gắn bó và tôn trọng nhân dân?” Vậy là dối trá nữa.

                Thật ra hành động của tuổi trẻ xứng đáng được vinh danh, “vì thế hệ hậu duệ” thể hiện ghi nhớ chính chắn lời dạy của vua Trần Nhân Tôn từ 800 năm trước nhưng ngày nay vẫn nguyên giá trị trong bang giao giữa Việt Cộng với Trung Cộng, rằng:

                “Các người chớ quên, chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái đạo. Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đường làm một nẻo. Cho nên cái họa lâu đời của ta là họa Trung Hoa. Chớ coi thường chuyện vụn vặt xảy ra trên biên ải. Các việc trên, khiến ta nghĩ tới chuyện khác lớn hơn. Tức là họ không tôn trọng biên giới qui ước. Cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để tranh chấp.Không thôn tính được ta, thì gậm nhấm ta. Họ gậm nhấm đất đai của ta, lâu dần họ sẽ biến giang san của ta từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim chích. Vậy nên các người phải nhớ lời ta dặn: "Một tấc đất của tiền nhân để lại, cũng không được để lọt vào tay kẻ khác". Ta cũng để lời nhắn nhủ đó như một lời di chúc cho muôn đời con cháu".

                Thứ ba. Bộ Chính Trị nói “phần lớn cán bộ đảng viên vẫn gắn bó với nhân dân, tôn trọng nhân dân,... và công nhận đất là nguồn sống của nhân dân...., sao lại sử dụng 100 Công An Nhân Dân và Quân Đội Nhân Dân đến Tiên Lãng, Hải Phòng, thẳng tay đàn áp, cưỡng chế, cướp đoạt ao hồ nhà cửa của Nhân Dân là Đoàn Văn Vươn ngày 5/1/2012, và bắt cựu chiến binh Đoàn Văn Vươn đưa ra tòa vì “nhân dân chủ “ dám chống lại lệnh cướp đất của “nhà nước đầy tớ”. Dối trá chồng lên dối trá.

                Thứ tư. Bộ Chính Trị nói “phần lớn cán bộ đảng viên vẫn gắn bó với Nhân Dân và tôn trọng Nhân Dân,... và công nhận đất là nguồn sống của nhân dân ...” mà theo phóng viên Việt Hà của đài Á Châu Tự Do, thì ngày 24/4/2012 “nhà nước đầy tớ” đã huy động 3.000 quân võ trang gồm Công An Nhân Dân + Quân Đội Nhân Dân + côn đồ Nhân Dân trang bị mã tấu gậy gộc, cùng với 40 máy xúc máy ủi đến xã Xuân Quan, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên, đối đầu với 2.000 Nhân Dân, cưỡng chế 70 hecta đất của “Nhân Dân chủ” để xây dựng khu đô thị Ecopark do con gái của Thủ Tướng cộng sản Nguyễn Tấn Dũng là chủ dư án. Từ 9 giờ sáng, lực lượng của “nhà nước đầy tớ” bắt đầu chia cắt “Nhân Dân chủ” ra từng mảng nhỏ, và các máy ủi máy xúc hoạt động. Đến 12 giờ trưa cùng ngày, việc cưỡng chế kết thúc. Xe ủi đã ủi toàn bộ các cây cối mà phần lớn là cây cảnh của người dân trên cánh đồng. Người dân ở đây cho biết, hầu hết các gia đình đều trồng cây cảnh trên cánh đồng là nguồn sống của họ, có gia đình trồng hơn 1000 cây. Trong đêm trước đó không thể chuyển hết cây cảnh này ra khỏi cánh đồng, nên bị thiệt hại rất nặng. Đã vậy mà “10 Nhân Dân chủ” thuộc xã Xuân Quan và xã Phụng Công bị “Nhân Dân đầy tớ” bắt về Huyện. Một sự kiện khác cũng cần nói đến. Đó là hai phóng viên Đài Tiếng Nói Việt Nam đã bị hành hung đến mang thương tích, vì bất cứ ai tìm cách ghi nhận hình ảnh cũng như tin tức trong khi cưỡng chế cày xới cánh đồng đều bị cấm. Trong lá thư gởi Quốc Hội, nhà báo Tống Văn Công đã bày tỏ sự bất bình về việc hạn chế hoạt động báo chí trong vụ cưỡng chế Văn Giang. Ông Tống Văn Công đặt câu hỏi: “Nếu việc cưỡng chế là đúng pháp luật thì tại sao phải hạn chế thông tin? Tại sao những tấm bảng “Cấm quay phim, chụp ảnh” được dựng ra khắp nơi? Chỉ có hai tờ báo dám nói một phần sự thật, và nói rất từ tốn là Người Cao Tuổi và Sài Gòn TiếpThị, thì cả hai đều bị buộc phải gỡ bài xuống khi vừa cho lên mạng!” Lại chồng lên dối trá.

                Thứ năm. Cũng Bộ Chính Trị đã nói “Phần lớn cán bộ đảng viên vẫn gắn bó với Nhân Dân và tôn trọng Nhân Dân, .... và công nhận đất là nguồn sống của nhân dân”, mà sao ngày 8/5/2012 lực lượng của Nam Định, cộng với lực lượng từ Hà Nội kéo đến Vụ Bản, Nam Định, để cưỡng chế cướp đất. Lực lượng gồm 250 Công An & Cảnh Sát Chiến Đấu + 20 côn đồ + 20 xe các loại + cộng với xe cấp cứu, và 1 xe bít bùng để chở “Nhân Dân chủ” bị “Nhà Nước đầy tớ” bắt quăng lên xe đem đi nhốt. Về phía nhân dân, ngay trong đêm trước (7/5/2012), khoảng 200 dân chia nhau canh giữ rải rác trên cánh đồng. Khoảng 7 giờ sáng, Công An với côn đồ bắt đầu “trận đánh” bằng cách chia cắt đám đông nhân dân ra từng nhóm nhỏ, rồi đẩy dần sang bên kia đường sắt. Chỉ 35 phút sau thì đám đông tan rã, chỉ còn lại Cảnh Sát Chiến Đấu, Công An nhân dân, với côn đồ nhân dân, bảo vệ cho các toán đào đất của nhân dân, và cắm các bảng chỉ dẫn công trình trên khu đất cưỡng chế chiếm đoạt của nhân dân. Cuối cùng, “2 nhân dân chủ” bị đánh chảy máu đầu & “6 nhân dân chủ” bị “Công An đầy tớ” bắt lôi đi, vừa lôi vừa đánh túi bụi vào đầu vào lưng. Và chồng lên dối trá nữa.

                Các Anh thấy không, “đỉnh cao gian trá “ trong Bộ Chính Trị: “Vừa nói dối, vì sự thật không phải như vậy. Vừa nói ngược, vì sự thật phải hiểu ngược lại 180 độ mới đúng. Với lại đã công nhận “đất là nguồn sống của nhân dân .....”, vậy mà vẫn giữ nguyên điều luật trong Hiến Pháp nói về “Đất đai thuộc quyền sở hữu toàn dân, do nhà nước quản lý”. Rõ ràng là lãnh đạo đảng với nhà nước chỉ nói cho người dân tưởng là đảng thương dân, lo cho dân, nhưng làm thì ngược lại 180 độ, nghĩa là chỉ biết tham nhũng hại dân để bảo vệ đảng.

                Vẫn là dối trá, thậm chí là ngược ngạo. Mời Các Anh đọc vài đoạn trong bài tâm sự của ông Nguyễn Nhân Trí sau chuyến về thăm quê hương, để nhận ra dối trá trong hệ thống giáo dục nó tác hại thế hệ trẻ hiện nay như thế nào. Ông Trí mướn xe đi thăm nhiều nơi. Trong những ngày tại Huế, ông mướn xe và cô hướng dẫn của công ty du lịch đưa đi thăm các thắng cảnh. Ông chợt nhớ đến hình ảnh kinh hoàng sau trận chiến Tết Mậu Thân đầu năm 1968 mà ông thấy trên đài truyền hình trong nước, cộng với những phóng sự trong chương trình Việt ngữ của các đài phát thanh ngoại quốc. Ông hỏi cô hướng dẫn:

                “Cô có biết chỗ những mồ chôn tập thể hồi Tết Mậu Thân năm 1968 không? Tôi muốn đến đó xem”.
                - Cô trả lời: “Dạ cháu có nghe nói. Nhưng ở cách đây xa lắm”. Rồi cô nói đến một địa danh hoàn toàn xa lạ.
                - Tôi muốn biết chắc là cô hiểu tôi đang nói về điều gì nên hỏi thêm: “Cô biết gì về những mồ chôn tập thể nầy?”
                - Cô giải thích: “Cháu biết chứ. Đó là nơi mà hồi Tết năm 1968 nhiều người đã bị Mỹ Ngụy giết chết và chôn ở đấy.”
                - Tôi sựng lại, xoay qua nhìn cô ấy. Câu trả lời trên của cô hoàn toàn nằm ngoài dự đoán của tôi. Tôi hỏi lại: “Ai bị ai giết?”
                - Cô ấy nhướng mắt và trả lời một cách thông thạo: “Thì chú biết mà, hồi Tết năm ấy lính Mỹ và lính Ngụy vào đây giết chết rất nhiều thường dân và cán bộ rồi đem chôn họ ở mấy chỗ đó.” Nét mặt cô thản nhiên, cho thấy cô trả lời tôi một cách thành thật.
                - Tôi hỏi lại một cách dè dặt: “Làm sao cô biết rõ là lính Mỹ Ngụy đã giết thường dân và cán bộ rồi chôn họ ở đó?”
                - Cô mĩm cười, có lẽ vì sự ngớ ngẩn trong câu hỏi của tôi: “Thì cháu đã học rõ ràng như thế mà. Không những ở trường học hồi nhỏ mà khóa đào tạo hướng dẫn du lịch của cháu cũng có dạy rất đầy đủ. Lúc đó lính Mỹ Ngụy vào bắn giết rất nhiều dân và cán bộ rồi đem chôn họ tập thể. Ai cũng biết điều đó cả.”

                “Tôi lặng người đi vài giây. ....Tôi quyết định không hỏi thêm về vấn đề nầy nữa. Cô gái ấy đã giải thích rất rõ ràng: trường học đã dạy như vậy, khóa đào tạo cũng dạy như vậy, ai cũng biết điều đó. Từ ngày sinh ra, cô đã được dạy bảo như vậy. Không có lý do gì cô nghi ngờ điều đó....”

                Trường hợp này theo ông Hà Sĩ Phu, tiến sĩ, đảng viên cộng sản lão thành, trong bài viết “Sức Nén Của Ngôn Từ”, đoạn nói về ngôn ngữ lộn ngược trong xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay, ông diễn giải: “Nói nghe nó “ngược” nhưng chắc gì đã “ngược”, chẳng hạn như cả một bộ máy đảng bộ máy nhà nước “bị” làm đầy tớ của nhân dân thì sướng đến tột đỉnh, trong khi nhân dân “được” làm chủ thì thất điên bát đảo, chạy gạo chạy cơm chạy tiền học cho con cho cháu đủ điên đầu. Khi người “được” làm chủ mà có việc phải đến với những người “bị” làm đầy tớ, thì từ đầu chí đuôi luôn bị hạch sách hoạnh hẹ đến mức phải vét tiền và kính cẩn “tự nguyện” đưa cho đầy tớ mới xong việc. Điều này rất thực, không ai phủ nhận được cả. Thế mới biết, trong một không gian đảo lộn thật giả giả thật, khi nói ngược chính là nói xuôi đó! Vậy, chính xã hội chủ nghĩa đã tạo nên nhu cầu nói ngược, rồi theo thời gian nhu cầu nói ngược đó trở thành một nếp khác trong đời sống văn hoá: “Nếp sống nói ngược nhưng là xuôi”.....

                Chắc Các Anh đã nhận ra nhà trường và xã hội chủ nghĩa đã bẽ cong lịch sử như thế nào rồi chớ? Các Anh cũng nhận ra sự đảo lộn chữ nghĩa trong xã hội Việt Nam ngày nay rồi chớ? Tất cả đã trở thành nếp sống trong văn hoá Việt Nam rồi. Phải qua bao nhiêu thế hệ sau ngày cộng sản tan rã, văn hoá Việt Nam chúng ta mới khôi phục lại bản sắc dân tộc, để từ đó mà phát triển?

                Báo QĐND “sợ” Nhân Dân buồn. Vẫn số báo ngày 13/5/2012 có bài viết “Bệnh chạy chọt” của Đỗ Phú Thọ:

                “Một Cảnh Sát giao thông than phiền là không sợ trời nắng trời mưa, mà sợ những lời xin xỏ, đề nghị, nhất là cấp trên can thiệp cho những người lái xe bị chận bắt. Hiệu trưởng một trường tiểu học danh tiếng tại Hà Nội, than phiền là đến tháng tuyển sinh phải tắt điện thoại vì quá nhiều người gọi đến xin ưu tiên cho con cho cháu vào trường. Lãnh đạo một bệnh viện than phiền là quá mệt, vì những điện thoại nhờ ông ưu tiên khám bệnh cho thân nhân, ưu tiên điều trị cho thân quyến, thậm chí là cho bạn bè”.

                Tác giả có vẻ “xót xa” khi viết: “Dường như cái bệnh chạy chọt đã ngấm sâu vào máu và trở thành phản xạ tự nhiên của rất nhiều người Việt Nam, từ những người lao động tay chân đến lao động trí óc, từ dân thường đến người có chức có quyền”. Rồi tác giả có phần lo âu: “Điều nguy hại là thói xấu này trở thành phong cách ứng xử trong đời sống xã hội của một số người mà họ không hề thấy sự bất ổn trong đó. .......”.

                Tôi không thể tưởng tượng được mức độ nói dối của tác giả. Bởi, trong xã hội chủ nghĩa ngày nay, điều mà tác giả gọi là “bệnh chạy chọt”, đã trở thành một nếp trong đời sống hằng ngày của xã hội từ lâu lắm rồi, ít ra cũng hơn 20 năm rồi, chớ có phải mới hôm qua hay năm vừa qua đâu mà tác giả dùng chữ “dường như cái bệnh chạy chọt”. Ngôn ngữ dân gian thường dùng chữ “bôi trơn = chạy chọt”, mỗi khi đến bất cứ cơ quan nào của nhà nước từ trung ương xuống đến tận cùng Phường/Xã, khu phố, tổ dân phố, khi đi ngang nhân viên Quan Thuế (Các Anh gọi là Hải Quan) tại phi trường, khi cần đến nhân viên giữ kho, nhân viên tại bệnh viện như bác sĩ, y tá, quét dọn phòng, thậm chí đến nhân viên giữ nhà xác cũng phải “bôi trơn” thì cửa nhà xác mới mở, còn Cảnh Sát giao thông thì .. ôi thôi ...khỏi nói .... vì đó là “chuyện thường ngày trên đường phố” mà.

                Còn nữa, Các Anh hãy đọc vài đoạn tóm lược trong bài dưới đây, để nhận ra mức độ dối trá từ nét nhìn của phóng viên Thanh Quang, đài Á Châu Tự Do ngày 12/1/2012: “Thời gian gần đây, vấn đề sa sút đạo đức, và thực trạng đó ra sao? ..... Ngày nay, tình hình đạo đức sa sút trong nước đang gây nhiều bất an, trăn trở cho những người có tâm huyết với quê hương. Căn bệnh nặng nhất, chí tử nhất, toàn diện nhất của xã hội ta hiện nay là bệnh giả dối. Nhà văn Nguyên Ngọc, qua bài “Cần Một Cuộc Tự Vấn” đã thẳng thắn đề cập tới một trạng thái chán chường sâu sắc và mênh mông về đạo đức xâm chiếm mọi con người. Theo cái nhìn của nhà văn Nguyên Ngọc, thì tâm trạng chán chường trước sự sa sút về đạo đức ấy phát sinh từ một “căn bệnh” cứ “vây kín quanh mình, “va vào đâu cũng gặp” dưới “mọi kiểu trắng trợn hay tinh vi”, đó là sự giả dối. Câu hỏi thường trực bây giờ: Tốt để làm gì? Sạch để làm gì? Quên mình để làm gì? Xả thân chống lại cái xấu, cái giả để làm gì? Liệu rồi có ai, có cơ chế nào bảo vệ những nỗ lực đạo đức đó không? Hay thậm chí bị cả cơ chế đó quật đánh lại như vẫn thấy không hề ít?”

                Chưa hết, nhà văn Trần Mạnh Hảo cũng không tránh khỏi âu lo khi căn bệnh giả dối ấy “đang thống trị xã hội” Việt Nam, mà chủ yếu bắt nguồn từ tình trạng thiếu trung thực của nền giáo dục nước nhà. “Sự giả dối tồn tại ở xã hội VN lâu rồi. Ngay trong lãnh vực giáo dục, ông phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân phụ trách các mặt văn hóa giáo dục, cũng khẳng định là tình trạng thiếu trung thực trong giáo dục là bệnh lớn nhất tại Việt Nam. Mà giáo dục là gì? Giáo dục là dạy cho con người trở thành người. Nó dạy cho con người phải có đạo đức. Mà cái đầu tiên của đạo đức là chân thật. Giả dối thì trái ngược lại, là phản giáo dục. Xã hội nói chung bao gồm hệ thống giáo dục. Rất nhiều cán bộ cao cấp về hưu như Thủ Tướng Võ Văn Kiệt, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An, phó Thủ tướng Trần Phương cũng khẳng định điều đó rồi. Vừa rồi nhà bác học toán học Hoàng Tụy cũng vừa viết một bài rất hay góp ý cho Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng về tái cấu trúc xã hội. Theo Giao Sư Hoàng Tụy thì không thể nào tái cấu trúc xã hội. Bởi vì tái cấu trúc là những bộ phận rời. Nhưng toàn bộ hệ thống đã hư, đã sai rồi, thì phải thay đổi cả hệ thống mới cải tạo được xã hội hiện nay. Hiện sự giả dối đang thống trị xã hội chúng ta.”

                Giáo Sư Hà Văn Thịnh từ Huế, cảnh báo tình trạng giả dối ở Việt Nam lan tỏa từ “A đến Z”, khi cảnh nhiễu nhương, tự tung tự tác đang hoành hành xã hội: Điều đầu tiên tôi nghĩ là tôi trách bộ Giáo & Đào Tạo của Việt Nam, vốn lâu nay toàn dạy đạo đức, giáo dục công dân v.v…trên mây trên mưa, toàn giáo điều mà chẳng thiết thực gì. Trong bản chất xã hội Việt Nam có sự giả dối, vô cảm, ích kỷ, sự tàn nhẫn. Đó là tất cả những gì biểu hiện của văn hoá Việt Nam hiện nay. Nói ra chẳng ai thích đâu. Nhưng đó là sự thật. Vì sao? Vì bây giờ người ta giả dối từ A tới Z, từ trên xuống dưới. Ai muốn làm gì thì làm, ai muốn lừa ra sao thì lừa, muốn tự tung tự tác hay ăn cướp như thế nào vẫn được. Tôi ví dụ 1 tỉnh mà có 2 trạm công an ở đầu tỉnh, cuối tỉnh, chặn xe lại để lấy tiền. Một xã hội như vậy làm sao không loạn được.”

                Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện trong “Chiều cuối năm nhìn lại”, qua đó ông không quên lưu ý tới “những vụ giết người cướp của ngày càng táo bạo, kẻ thủ ác tuổi đời càng ngày càng trẻ, cách thức giết người càng ngày càng dã man, độc ác, và quyết liệt hơn.”...... Ngay cả đại biểu Quốc hội Việt Nam Dương Trung Quốc cũng than thở rằng: “Thế hệ chúng ta là thế hệ mất gốc”.... Cón nói theo lời nhà văn Trần Mạnh Hảo, thì hai chữ dối trá ngày càng phản ánh đậm nét thực trạng xã hội là “vô cảm”. Xã hội Việt Nam bây giờ, con người ngày càng vô cảm trước nỗi đau của đồng loại giữa lúc cảnh “ăn cướp đã trở thành hiện tượng đương nhiên”.

                Tôi tóm lược bài của các tác giả: Nhà văn Nguyên Ngọc, nhà văn Trần Mạnh Hảo, Phó Thủ Tướng CSVN Nguyễn Thiện Nhân, cựu Thủ Tướng CSVN Võ Văn Kiệt, Chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn Văn An, Phó Thủ Tướng Trần Phương, Giáo Sư Hoàng Tụy, Giáo Sư Hà Văn Thịnh, Tiến Sĩ Nguyễn Xuân Diện, Đại Biểu Quốc Hội Dương Trung Quốc, giúp Các Anh nhận ra, đó là những nhân vật trong nước có chung nhận thức rằng: “Xã hội Việt Nam ngày nay là một xã hội dối trá, vô cảm, do hệ thống giáo dục học đường và hệ thống truyền thông trong xã hội tạo nên, theo đường lối của lãnh đạo cộng sản Việt Nam”.

                Trước khi đến lời kết, tôi mời Các Anh đọc vài đoạn trích dẫn trong bài viết “Lời Bộc Bạch Của Một Đảng Viên”, mà tôi nghĩ là Các Anh sẽ dễ cảm thông với tác giả, vì tôi tin tà từ chiều sâu tâm hồn của Các Anh cũng gói ghém giấu kín một tâm trạng như vậy, cũng có thể là hơn thế nữa.

                Vào bài, người đảng viên này ”bộc bạch”, nhưng nỗi sợ hãi vẫn hiện rõ: “....Tôi nghe được những thằng bạn làm bên an ninh nói rằng, đang thực hiện những chỉ thị của cấp trên rất quyết liệt để tìm ra dấu vết tông tích của những blogger “có vấn đề” để có cách xử lý thích đáng. Tôi thực sự sợ, có lẽ là tôi hèn nhát”.
                Nhưng, sau phút sợ hãi, người đảng viên tác giả tỏ ra cứng răn, nhưng sợ hãi vẫn còn đó: “Hôm nay tôi muốn viết. ... Tôi cảm nhận rõ ràng một sự thôi thúc phải nói ra những gì mình suy nghĩ cho nhiều người đọc, ... nhưng thật tình là tôi rất run sợ khi post bài này. Tôi không phải là người dũng cảm, nhưng tôi thấy mình cần làm điều đó. Và tôi cũng chỉ có nơi này để viết, để nói ra được sự thật, blog là nơi duy nhất ở xã hội này người ta có thể nói thật, còn lại đều là một cuộc sống dối trá với chính mình, và với mọi người”

                “Tôi đã gần 50 tuổi đời, trong đó có 15 tuổi đảng, đang làm cho một viện nghiên cứu của Nhà nước. Thật lòng là tôi đã nghĩ đến việc ra khỏi Đảng nhưng lại không dám thực hiện, vì tôi không đủ can đảm..... Lương hai vợ chồng cộng lại hơn chục triệu. Riêng tôi mỗi năm được thêm vài công trình nghiên cứu, chia ra cũng được khoảng 30-40 triệu đồng. Số tiền này là bổng lộc mà cấp trên ban phát, vì nghiên cứu cho có, xong cho vào tủ, chủ yếu là viết theo ý muốn cấp trên, rồi lập hội đồng khen nhau mấy câu là xong. Giàu thì chủ yếu là các sếp lớn, vì đề tài nghiên cứu nào các sếp cũng có tên để chia tiền dù chẳng làm gì, có khi cũng chẳng nhớ nổi cái tên đề tài. Nếu lên được trưởng phòng thì không phải lo tiền bạc, vì người ta “cúng” cho mình. Do vậy mà trong nội bộ đấu đá giành giật nhau ghê lắm.... Muốn ngoi lên phải có nhiều thủ thuật, phải biết luồn cúi thật giỏi, chà đạp người khác mà không bị cắn rứt. ... Chuyên viên như tôi -dù là được xếp vào ngạch cao cấp- bây giờ toàn phải nói như vẹt, nói dối đến mức mất tư cách mà chẳng biết phải làm sao. Giờ mới thấy mình hèn nhưng đã muộn.... Đảng viên như tôi, bây giờ chiếm đến 95%, đa số tuyệt đối trong Đảng.
                “Hồi tháng 4 năm ngoái, tôi được đọc một bản nghiên cứu của Viện Nghiên Cứu Dư Luận Xã Hội, đây là tài liệu chính thức nghiên cứu theo yêu cầu của Bộ Chính Trị. Theo đó, Đảng viên bây giờ đều chán nản và bi quan, không còn tin vào đường lối chủ nghĩa Cộng Sản và học thuyết Mác Lê-Nin nữa.... Nhưng cái làm xói mòn niềm tin ở Đảng nhất là tham nhũng và đặc quyền, thì Đảng chẳng có một biện pháp hiệu quả nào ngăn chặn, nếu không muốn nói là Đảng phải duy trì nó để sống, và để cai trị quan chức.... Tôi đang đứng trước một trạng thái chông chênh, giữa những lựa chọn không dễ dàng: theo thói xấu của xã hội để sống, hay tham gia vào những sự thay đổi của người khác làm xã hội tốt hơn, nhưng nhiều lần tôi đã không vượt qua được chính mình. .... Gần đây tôi bắt đầu tin dần vào những gì vô hình như là định mệnh, số phận, vận nước... nhưng có lẽ niềm tin là tâm linh không phải biện chứng khoa học. Do vậy, tôi hy vọng như nhiều người dân đang hy vọng, hồn thiêng sông núi sẽ phù hộ cho vận mệnh của đất nước”.
                “....Chính quyền hiện nay dù làm ra vẻ chống đối và mạnh tay với những người đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền; giả bộ như là sợ những điều đó đe dọa sự cầm quyền của họ, nhưng thực ra họ rất mong muốn những người đấu tranh này lao vào những mục tiêu như vậy... Những gì thiết thực đối với quần chúng thì rất nhiều, nhiều vô kể, không thể nhắm đến tất cả trong một lúc được. Những con người sáng suốt sẽ nhận ra một vài điểm thật quan trọng từ những nhu cầu đó, nhấn mạnh nó, giương cao nó lên làm ngọn cờ để tạo ra động lực cho đa số dân chúng, tạo ra lực lượng và thế lực thay đổi xã hội hiện nay. Điều đáng mừng là một vài năm gần đây đã thấy xuất hiện vài người có tầm nhìn như vậy, nhìn được những mấu chốt từ những gì rất thiết thực. Tôi có hân hạnh được trao đổi với những người như vậy trên blog, và cảm nhận được sức mạnh tư duy của họ cho dù họ không nói gì về điều đó”.
                “Nếu ai muốn copy bài này để phổ biến thì cứ tự nhiên làm, đừng hỏi ý kiến tôi. ... Tôi sợ không vượt qua nổi sự hèn nhát mà sẽ xóa hẳn cái blog này. Đa số Đảng viên và quan chức hiện nay đều hèn nhát như tôi vậy, những người dũng cảm có tư cách thì rất ít. Những kẻ chức vụ càng cao thì không những hèn mà còn nhát. Bản chất bọn chúng là những kẻ sợ sệt đủ thứ, chúng chỉ hung hăng khi nắm quyền lực trong tay và đối xử thô bạo với kẻ dưới..... Tôi đảm bảo rằng, khi có một sự thay đổi thì bọn người này sẽ trốn chạy đầu tiên, hoặc quay ngoắc lại để theo lực lượng mới.... Sự sụp đổ và thay đổi là chắc chắn và không thể tránh khỏi, nhiều người bảo rằng sẽ rất nhanh, nhưng cũng có người bảo rằng sẽ chưa thể trong một hai năm nữa. Tôi thì nghĩ điều đó không tùy thuộc vào Đảng, vào Nhà Nước nữa, vì ngoài khả năng của họ rồi. Nó tùy thuộc vào lực lượng thay đổi có thể hành động lúc nào thì lúc đó sẽ có sự thay đổi... Tạm biệt mọi người, cũng có thể là vĩnh biệt…. Tôi đã thực sự ân hận vì đã vào Đảng”.


                Kết luận.

                Đến đây, tôi nghĩ là trong mức độ nào đó, Các Anh cũng nhận ra được “Chân Dung Xã Hội Việt Nam Ngày Nay” về “góc độ dối trá”, và ngược lại là “góc độ chân thành” của những người thoát ra khỏi xã hội dối trá, đã và đang đấu tranh bằng những phương thức thích hợp với hoàn cảnh xã hội trong mục tiêu xây dựng một xã hội dân chủ, tự do, và quyền được mưu cầu hạnh phúc cho bản thân, cho xã hội.
                Một lần nhắc lại đoạn kết trong Thư Số 7. Điều mà tôi muốn gởi đến Các Anh trong thư là bản chất của cộng sản mà nhóm lãnh đạo Các Anh đã và đang thực hiện. Bản chất của đảng cộng sản là độc tài. Vì biết rằng không một dân tộc nào trên thế giới chấp nhận độc tài nói chung, và dân tộc Việt Nam nói riêng, nên phải che giấu bằng chính sách dối trá mà phương tiện là hệ thống giáo dục và hệ thống truyền thông trong tay đảng. Độc tài dẫn đến quyền lực, vì không có bất cứ cơ quan nào kiểm soát. Từ quyền lực dẫn đến độc đoán khi quyết định những chính sách ngang qua Quốc Hội dưới quyền lãnh đạo của đảng gọi là luật, tạo điều kiện cho một hệ thống tham nhũng bằng bất cứ hình thức nào mà mọi cấp mọi nơi cho là thích hợp khi áp dụng những văn bản đó. Cuối cùng của độc tài là đạt đến quyền lợi cá nhân cho các đảng viên trong hệ thống tổ chức đảng với nhà nước ngày nay, và tùy lúc tùy nơi tùy từng vụ mà cấp lãnh đạo Các Anh “sẽ nhân danh bảo vệ đảng” để che chắn cho nhau khi không còn che giấu được.
                Tôi gởi sự suy nghĩ này đến Các Anh, hãy bình tâm nhận định một chuỗi sự kiện mà Các Anh vừa đọc qua, và suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính mình chớ không phải tâm hồn của người đảng viên cộng sản. Mong Các Anh đừng đứng nhìn một cách vô cảm nữa mà hãy hành động “như một đầu tàu”, kéo theo 89 triệu bà con trên quê hương Việt Nam thân yêu, và mạnh dạn đứng lên giành lại quyền làm người từ tay cộng sản độc tài tàn bạo, một chế độ đã tạo nên một xã hội băng hoại bắt nguồn từ chính sách dối trá, ngu dân, để cùng nhau xây dựng một nền văn hoá khai phóng, nhân bản, khoa học, và phát triển một xã hội dân chủ pháp trị mà mọi người được hưởng một cách tự nhiên những quyền căn bản của mình. Nếu Các Anh “không thể đứng dậy làm đầu tàu” thì khi người dân vùng lên, Các Anh hãy đứng về phía nhân dân mà hành động như đã xảy ra tại Tunisia, Ai Cập, và Lybia trong năm 2011, và nhân dân Syria vùng dậy từ tháng 3/2011 sắp đạt đến chiến thắng, vì được nhiều quốc gia Châu Âu, Châu Úc, Châu Mỹ, chánh thức ủng hộ.
                Tôi vững tin rằng, bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi- vẫn hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào, những thế hệ làm nên lịch sử.
                “Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng”.

                Texas, tháng 6 năm 2012.

                Comment


                • #9
                  Thư số 9 gởi Người Lính Quân Đội Nhân Việt Nam

                  Thư số 9 gởi
                  Người Lính Quân Đội Nhân Việt Nam
                  *********

                  Phạm Bá Hoa

                  Tôi tên Phạm Bá Hoa, chào đời năm 1930 tại đồng bằng sông Cửu Long. Tôi phục vụ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 21 năm trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc, sau đó tôi bị tù không án 12 năm 3 tháng trong các “trại tập trung” mà lãnh đạo của Các Anh gọi là “trại cải tạo”. Hiện cư ngụ tại Hoa Kỳ. Tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam cho đến khi quê hương tôi có dân chủ, tự do, và quyền con người thật sự được tôn trọng.
                  Xin được gọi “Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam” là Các Anh để tiện trình bày. Chữ “người lính” mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng, gọi chung là “cấp lãnh đạo”. Là người lính trong quân đội “Nhân Dân”, chắc rằng Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Các Anh trong quân đội nhân dân mà. Với lại, Tổ Quốc & Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng chính trị nào cũng chỉ là một giai đoạn của lịch sử. Và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.


                  Vẫn trong mục đích giúp Các Anh, từ góc nhìn khác để nhận ra “Chân Dung Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam Ngày Nay”, qua những chỉ thị của đảng và những bài viết nhận định về tình hình trong nước. Trong bài này, tôi xin thay chữ Trung Quốc bằng chữ Trung Hoa.

                  Thứ nhất về chính trị.

                  Hội nghị lần thứ 5 của Ban Chấp Hành Trung Ương đảng cộng sản, tổ chức tại Hà Nội trong 9 ngày vào đầu tháng 5 vừa qua, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng có hai bài phát biểu lúc khai mạc, và lúc bế mạc. Trong bài phát biểu khai mạc, có đoạn: “... Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, và vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thông qua tổ chức nhà nước dưới sự lãnh đạo của đảng. ... Nhà nước ta không tam quyền phân lập ....”

                  Đây là tóm lược nhận định của:
                  (1) Blogger Trương Duy Nhất. “Vẫn giọng đều đều như ông giáo làng, không nhấn nhá, không gây chú ý (mà các anh gọi là “ấn tượng”. PB Hoa), vẫn những câu những chữ sáo rỗng, không thấy gì mới. trong bối cảnh hội nghị căng thẳng, ngột ngạt, bực bội, bế tắc, của “200 khuôn mặt lạnh lùng, phản cảm, thiếu niềm tin”.
                  (2) Blogger Dân Choa. “.....Thất vọng về tuyên bố của ông Tổng Bí Thư. Những tưởng cuộc sống thực tiễn sẽ thôi thúc nhà nước xúc tiến mạnh mẽ cải cách hành chính vốn là nhu cầu thiết yếu, mà đầu tiên là tu chính Hiến Pháp, rồi Nhà nước sẽ dẫn tới việc tam quyền phân lập. Nhưng không phải, ông Tổng Bí Thư đã đặt sẵn tiền đề cho việc sửa đổi, chỉ nhắm củng cố quyền lực cho đảng với nhà nước....”
                  (3) Tác giả Nguyễn Ngọc Già. “.... Qua hội nghị này, đảng CSVN tiếp tục tái khẳng định “đất đai là sở hữu của họ” cũng không dấu hiệu nào cho thấy đảng chia sẻ quyền lực. Đảng tiếp tục dắt tay nhau đi dưới tấm biển chỉ đường của… đồng tiền.... Họ đang mất đoàn kết nghiêm trọng, cũng bởi tiền... và tái khẳng định một cách dứt khoát vấn đề không có chuyện "tam quyền phân lập". Vậy là đảng CSVN vẫn lãnh đạo tuyệt đối đất nước... Họ rất yếu”.
                  Với tôi, góc nhìn mạnh mẽ hơn. Ông Nguyến Phú Trọng cũng là “một con Két như bất cứ con Két nào khác” trong Bộ Chính Trị đảng CSVN từ hơn nửa thế kỷ qua, hết nhóm lãnh đạo này đến nhóm lãnh đạo khác cứ nhai đi nhai lại cái “nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, và vì nhân dân ...”, nhưng đoạn dưới thi ông Trọng lại khẳng định “không có chuyện tam quyền phân lập”.
                  Trong ngôn ngữ chính trị, một xã hội “pháp quyền” phải là một xã hội văn minh được quản trị (trong nước gọi là quản lý) bằng luật pháp, bất cứ lãnh vực sinh hoạt nào trong xã hội dù lớn hay nhỏ phải thông qua luật pháp, và tổ chức thực thi luật pháp là hệ thống tòa án. Vì vậy mà ngay cả Cảnh Sát chận những xe mà người lái xe vi phạm luật giao thông cũng chỉ là “nhân chứng” khi ra tòa, để thuật lại người lái xe vi phạm như thế nào để ông chánh án, và chỉ có chánh án mới đủ thầm quyền quyết định phạt người vi phạm . Việt Nam thì khác, vì cho đến nay vẫn là xã hội xã hội chủ nghĩa, chậm tiến, hỗn tạp, được cai trị bởi đảng cộng sản độc tài. Luật pháp, nhất là những luật quan trọng trong sinh hoạt xã hội thì trái với điều khoản căn bản qui định trong Hiến Pháp. Chưa hết, khi cá nhân hay cơ quan áp dụng luật pháp thì diễn giải theo mục đích phải đạt cho dù sai luật pháp, trái luật pháp, thậm chí là sai trái với đạo lý dân tộc nữa. Vậy là pháp quyền trong xã hội độc tài do đảng cộng sản đặt ra, chớ không phải xã hội văn minh.
                  Rồi ông ta lại nói “không tam quyền phân lập”. Tam quyền, tức Lập Pháp = Quốc Hội + Hành Pháp = Hệ thống hành chánh + Tư Pháp = Hệ thống tòa án. “Không phân lập”, nghĩa là 3 ngành này cũng chỉ là một, và dưới quyền lãnh đạo của đảng cộng sản. Trong xã hội văn minh, 3 ngành này riêng biệt. Mỗi ngành vừa kiểm soát 2 ngành kia, vừa bị 2 ngành kia kiểm soát, nhờ sự tác động qua lại giữa 3 ngành “vừa kiểm soát vừa bị kiểm soát” mà tạo được thế cân bằng quyền lực trong sinh hoạt xã hội. Với xã hội văn minh như vậy, không thể tạo điều kiện dẫn đến độc tài. Trong khi hệ thống tổ chức Việt Nam, dưới sự cai trị của chế độ của đảng duy nhất là đảng cộng sản, và độc quyền lãnh đạo, dẫn đến một xã hội độc tài là điều đương nhiên. Không tam quyền phân lập, Việt Nam là một xã hội độc tài không thể nào phủ nhận.
                  Viết đến đây tôi nhớ trên trang có lời than phiền một nhân vật ngoại quốc đã dùng chữ Việt Cộng khi nói đến lãnh đạo cộng sản Việt Nam. Tôi không hiểu tại sao lãnh đạo Các Anh không dám vỗ ngực xưng danh là Việt Cộng, vì người Việt Nam gia nhập đảng cộng sản thì gọi ngắn gọn là Việt Cộng chớ gọi là gì. Chắc Các Anh không thể nào không nhìn thấy những tấm bảng dọc theo đường phố viết rõ ràng “Đảng cộng sản Việt Nam quang vinh. Đảng cộng sản Việt Nam muôn năm”. Vinh quang và muôn năm như vậy mà sao không dám nhận mình là Việt Cộng? Phải chăng “cộng sản” là cái đảng xấu xa? Vì nếu không xấu xa, hà tất lãnh đạo Các Anh ghê sợ đến mức không dám nhận là Việt Cộng. Các Anh nghĩ sao về điều mà tôi vừa phân tách?

                  Thứ hai về tham nhũng:

                  Cũng trong bài phát biểu của ông Trọng, có đoạn: “.. Từ nhiều năm qua, đã sớm ban hành Nghị quyết của Trung ương, Pháp lệnh, và tiếp đó là Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Chiến lược Quốc gia phòng & chống tham nhũng và nhiều quyết sách khác; đã thành lập Ban Chỉ đạo về phòng, chống tham nhũng ở Trung ương và các địa phương; đã tiến hành nhiều biện pháp liên tục.”
                  Rồi ông thừa nhận: “.... Nhưng đến nay công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí vẫn chưa đạt được kết quả như mong muốn. Tại sao?” Ông đặt câu hỏi, nhưng ông không trả lời. Có lẽ ông cho đó là nhiệm vụ của cả Ban chấp hành Trung ương trong mấy ngày họp hành sau đó. Ông chỉ nêu lên một nguyên tắc chung như thế này: “Để trả lời cho câu hỏi đó, cần nhìn thẳng vào sự thật, phân tích, đánh giá một cách khách quan, toàn diện, sâu sắc tình hình tham nhũng, lãng phí và kết quả của công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. .... Ban Chấp hành Trung ương đã quyết định chủ trương thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng trực thuộc Bộ Chính trị; lập lại Ban Nội chính Trung ương, vừa thực hiện chức năng một ban đảng, đồng thời là cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng. Mỗi đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng hãy là một chiến sĩ tiên phong, đi đầu trong cuộc đấu tranh này. Phải gương mẫu, giữ mình cho trong sạch, không vướng vào tham nhũng, lãng phí; đồng thời phải lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt trong đơn vị công tác của mình.”
                  Với đoạn trên đây, Các Anh có nhận ra điều gì không? Tôi thì có, vì trong xã hội dân chủ văn minh, mọi người có quyền nhìn từ các góc cạnh khác nhau đối với mỗi sự việc cũng như mỗi sự vật. Đầu tiên là tôi đành phải lặp lại rằng, ông Tổng Bí Thư đảng CSVN của Các Anh vẫn “phun ra cái ngôn ngữ chung chung” mà bất cứ vị nào trong bất cứ đại hội nào của Bộ Chính Trị, ít nhất là từ khi chiếm Việt Nam Cộng Hòa tháng 4/1975 đến nay đều “nhai đi nhai lại rồi phun ra” được cả. Trong bài phát biểu lúc bế mạc, ông Trọng cho thấy Bộ Chính Trị đã mạnh tay khi tước quyền lãnh đạo phòng chống tham nhũng từ trong tay Nguyễn Tấn Dũng, đảng viên cộng sản giàu số 1 Việt Nam do “lãnh đạo chống tham nhũng” trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Bộ Chính Trị lại giao cho một cơ quan cũng trực thuộc Bộ Chính Trị”, tức là “tước quyền tham nhũng” từ nhân vật này sang nhân vật khác, vì Bộ Chính Trị là nguồn gốc của tham nhũng, nên không thể đưa “chức vụ nặng túi” đó cho cơ quan nào khác ngoài Bộ Chính Trị.
                  Phải chăng đây là cách tranh giành quyền lực trong hàng ngũ lãnh đạo, và Nguyễn Tấn Dũng không còn ở thế vững vàng nữa?” Rất có thể do vậy mà dư luận loan truyền rằng, gia đình Nguyễn Tấn Dũng đang tìm cách thoát khỏi “bức màn kềm tỏa” của một âm mưu mà lãnh đạo CSVN thường áp dụng với những kẻ thất sủng chăng?

                  Thứ ba về bang giao với Trung Cộng (trong nước gọi là quan hệ).

                  Ngày thứ ba 19/6/2012 vừa qua, báo Quân đội Nhân Dân Việt Nam ra mắt trang Web tiếng Trung Hoa (người dân gọi là tiếng Tàu), với sự tham dự của nhiều viên chức Quốc Phòng, Ngoại Giao, Tuyên Giáo, và Đại sứ Trung Cộng tại Việt Nam. Tướng Phùng Quang Thanh, Bộ Trưởng Quốc Phòng không có mặt, nhưng có gởi hoa chúc mừng. Báo Quân Đội Nhân Dân cho biết mục đích của trang Web tiếng Trung Hoa là “tăng cường mối quan hệ hữu nghị truyền thống”. Được giải thích rộng hơn: “Trang Web giúp bạn Trung quốc và những người biết tiếng Hoa trên thế giới có thêm nguồn thông tin chính xác, tin cậy, dấn dần hiều thêm về đất nước và con người Việt Nam, hiểu thêm quan điểm chính sách của đảng và nhà nước Việt Nam , hiểu rõ hơn về một đất nước Việt Nam yêu chuộng hòa bình, đổi mới, năng động, dân chủ và phát triển”. Trong phần phát biểu của Tướng Mai Quang Phấn, Phó Chủ Nhiệm Tổng Cục Chính Trị Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, có đoạn: ....“Trọng tâm trang web là khai thác những mặt tốt, những điểm đồng. Với những điểm còn khác biệt, cần có thông tin chính xác để bạn đọc hiểu đúng lập trường quan điểm của Việt Nam; giáo dục quan hệ hữu nghị truyền thống lâu đời giữa hai nước"....

                  Trước khi tôi phân tách giúp Các Anh suy nghĩ tìm hiểu mục đích của nhóm lãnh đạo CSVN trong Bộ Chính Trị khi cho phép Quân Đội Nhân Dân mở trang Web này, mời Các Anh đọc lại đoạn tài liệu dưới đây:
                  Giữa năm 2011, tổ chức Wikileaks đã công bố hằng ngàn tài liệu loại tối mật của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ mà tổ chức Wikileaks có được, trong đó có “biên bản” cuộc họp giữa Nguyễn Văn Linh Tổng Bí Thư đảng CSVN và Đỗ Mười Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng, đại diện lãnh đạo CSVN, với Giang Trạch Dân Tổng Bí Thư, và Lý Bằng Thủ Tướng, đại diện lãnh đạo Trung Cộng, trong ngày 3 & 4 tháng 9 năm 1990 tại thành phố Thành Đô của Trung Cộng. Wikileaks khẳng định, tin tức này nằm trong số 3.100 bức điện đánh đi từ cơ quan ngoại giao Hoa Kỳ tại Hà Nội và Sài Gòn gửi về chính phủ Hoa Kỳ. Tài liệu có đoạn ghi rõ:

                  “.... Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản, đảng CSVN và nhà nước Việt Nam đề nghị phía Trung Hoa giải quyết các mối bất đồng giữa hai nước. Phía Việt Nam xin làm hết mình để vun đắp tình hữu nghị lâu đời vốn có giữa hai đảng và nhân dân hai nước do Chủ Tịch Mao Trạch Đông và Chủ Tịch Hồ Chí Minh dày công xây đắp trong quá khứ, và Việt nam bảy tỏ mong muốn đồng ý sẵn sàng chấp nhận và đề nghị phía Trung Hoa để Việt Nam được hưởng quy chế “khu tự trị” trực thuộc chính quyền trung ương tại Bắc Kinh như Trung Hoa đã từng dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây…. Phía Trung Quốc đã đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên, cho thời hạn phía Việt Nam trong 30 năm (1990-2020) để đảng CSVN giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc....”.

                  Với đoạn tài liệu trong Biên Bản thuộc loại tối mật trên đây, do lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam với đảng cộng sản Trung Cộng thảo luận, đồng ý, và ký tên cách đây 22 năm. “Liệu trang Web bằng tiếng Tàu do Quân Đội Nhân Dân Các Anh thực hiện, có phải là lãnh đạo CSVN thực hiện một bước nữa trong giai đoạn chuyển tiếp, để người Tàu quen dần với tiếng Tàu từ Việt Nam cùng với sinh hoạt trong xã hội Việt Nam, mà sẳn sàng tiếp nhận Việt Nam trở thành thành viên trong cái gọi là đại gia đình Trung Cộng vào năm 2020 không?”
                  Nếu không phải, thì tại sao lãnh đạo CSVN lại lo người Tàu tại Trung Hoa và trên khắp thế giới “hiểu không đúng” về Việt Nam, trong khi ngăn cấm các cơ quan truyền thông trong nước với 194 nhật báo in, hơn 590 tạp chí, 61 trang tin điện tử, 67 đài phát thanh truyền hình trên cả nước, và 17.000 nhà báo được cấp thẻ hành nghề, tuyệt đối không viết, không đăng, không nói, không chiếu hình, về những tin tức mà lãnh đạo CSVN gọi là “nhạy cảm”, cho nên đại đa số người dân trên quê hương không hề biết gì về những sự kiện nhạy cảm đã xảy ra trên đất nước Việt Nam. Cũng may, còn có một số nhỏ đồng bào -nhất là tuổi trẻ- qua hệ thống internet mà nhận ra loại sự kiện nhạy cảm đó và phản ứng kịp thời, nhưng đã bị nhóm lãnh đạo sử dụng Quân Đội nhân dân, Công An nhân dân, với côn đồ nhân dân: (1) Đàn áp nhân dân phản đối Trung Cộng lấn chiếm đất, lấn chiếm biển, lấn chiếm đảo, thâm nhập tràn khắp nội địa thông qua lãnh thầu các dự án, thuê mướn hơn 300.000 mẫu đất rừng đầu nguồn và cấm người Việt Nam vào những khu đất đó. (2) Đàn áp nhân dân phản đối Trung Cộng tự do khai thác tài nguyên trong lãnh hải Việt Nam, trong khi tự ý ra lệnh cấm ngư dân Việt Nam hành nghề trên biển. Sự kiện này có vẻ như có thỏa hiệp ngầm giữa lãnh đạo CSVN với lãnh đạo Trung Cộng, nên Hải Quân, Cảnh Sát Biển, và Dân Quân Biển Việt Nam, không một lực lượng nào cứu giúp ngư dân, thậm chí cũng không giúp tiền cho ngư dân đóng tiền chuộc cho Trung Cộng. (3) Đàn áp nhân dân phản đối Trung Cộng ào ạt vào Tây Nguyên khai thác Bauxite, một loại tài nguyên sẽ gây ô nhiểm môi trường trầm trọng và dài lâu trong một vùng rộng lớn từ Cao Nguyên xuống đến sông Đồng Nai.
                  Nếu phải, thì Các Anh nghĩ gì khi mà chính Các Anh cùng thân nhân thân quyến cũng phải chuẩn bị để trở thành người Tàu trên đất Việt, dãi đất có dạng hình cong chữ S mà ông cha chúng ta đã đổ ra biết bao xương máu gìn giữ từ 2000 năm trước? Nhất là trong cuộc chiến 1954-1975, lãnh đạo CSVN đã dùng sinh mạng của hơn 4.000.000 thanh niên nam nữ xã hội chủ nghĩa trên đất Bắc để thi hành lệnh của cộng sản quốc tế nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam?
                  Tôi dẫn chứng: (1) Trong đại hội 4 của đảng CSVN năm 1976, lúc ấy tôi bị giam trong trại tập trung vùng rừng già xã Việt Cường, huyện Trấn Yên, tỉnh Hoàng Liên Sơn. Cán bộ “quản giáo” là Trung Úy Khảm đã nói với chúng tôi trong giờ học chính trị, rằng: “Đại Hội 4 đã sơ kết tôn thất nhân mạng trong cuộc chiến vừa qua là hơn 4 triệu thanh niên chết, với con số nhiều hơn về thương tích. (2) Trong đại hội cộng sản quốc tế tháng 11/1960, ông Khroutchev (Nga) tuyên bố: “Khi một đảng cộng sản tham gia vào cộng sản quốc tế (tức Liên Sô) phải chấp nhận Liên Sô là quốc gia số một (tức lãnh đạo). Người cộng sản và giai cấp công nhân, sẽ đấu tranh để đạt tới mục tiêu vĩ đại là chủ nghĩa cộng sản thống trị thế giới”. Tháng 1/1961, khi đến thăm thủ đô Austria (Áo quốc), ông Khroutchev trả lời báo chí, có câu: “Đời vắn quá, không biết tôi còn sống để vui mừng khi cộng sản quốc tế thống trị thế giới hay không?” Hơn 10 năm sau đó, khi ông Lê Duẫn giữ chức Tổng Bí Thư, cũng tuyên bố: “Ta đánh đây là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, và cho cộng sản toàn thế giới”.
                  Điều trên đây chứng minh thêm nữa về mục tiêu của nước cộng sản Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trong chiến tranh 1954-1975 là xâm lăng nước Việt Nam Cộng Hòa, vì CSVN là cánh tay nối dài của cộng sản quốc tế tại bán đảo Đông Dương (tức 3 nước: Việt Nam - Cam Bốt - Lào).
                  Thứ tư về người Tàu trên đất Việt.
                  Theo phóng viên Thanh Quang đài Á Châu Tự Do ngày 18/6/2012, thì tâm trạng người dân Việt Nam trong nước có tinh thần dân chủ tự do luôn khắc khoải và bất an cho vận nước, do rừng đầu nguồn trọng yếu của tổ quốc bị Trung Cộng đưa dân (hay quân) thuê mướn hàng loạt và dài hạn. Vùng đất đầu nguồn là “xương sống của quê hương” bị họ án ngữ theo sự mời gọi của “chính sách lớn của đảng và nhà nước”, cho khai thác bô xít Tây Nguyên, nhiều công trình trọng yếu bị người Trung Hoa trúng thầu, nền kinh tế nước nhà bị họ lũng đoạn, biển cả của tổ tiên bị Trung Quốc lấn chiếm…, và mới đây, người dân lại càng bất an trước tình trạng người phương Bắc dưới dạng “doanh nhân” tới “an nhiên nuôi cá” ở Vũng Rô, thậm chí ngay tại cảng chiến lược trọng yếu Cam Ranh. Chưa hết, gần đây nhất, có tin “Hải Phòng tràn ngập lao động Trung Hoa”!
                  Bài viết “Gian nan với chú Ba Tàu”, nhà văn Trần Khải (trong nước) cảnh báo: “Trong khi Việt Nam lăng ba chi bộ, đánh võng giữa Biển Đông, thì lặng lẽ anh Tàu đưa dân tràn ngập, mở mặt trận biển người ở Hải Phòng, cấy du kích biển ở ven cảng Cam Ranh, cửa biển Vũng Rô, Côn Đảo.... Anh Tàu muốn gì? Có phải muốn Việt Nam tung hô vạn tuế Bắc Vương? Thì đã tung hô rồi”.
                  “Tình trạng “anh Tàu đưa dân tràn ngập” quê hương Việt Nam, ắt hẳn không tránh khỏi phản ứng mạnh mẽ của người dân Việt biết nghĩ tới quê hương. Có lẽ đây là lý do khiến độc giả Nguyễn An Liên của báo Đất Việt, báo động rằng: “Chẳng bao lâu nữa, toàn bộ 63 tỉnh, thành trên cả nước đều có bóng dáng của bọn giặc Tàu.
                  Một độc giả khác tên Minh Hối Hạn (trong nước), bày tỏ nỗi bất bình: “Từ Hải Phòng, Quảng Ninh, Bình Dương, Đắk Nông, Vũng Tàu…cho đến Khánh Hòa, Cam Ranh, chính quyền ở đâu cũng nói không quản lý được” người Tàu trong phạm vi của mình”. Tác giả nhấn mạnh: “Bây giờ lãnh đạo Việt Nam mới sáng mắt ra trước tình hữu nghị 2 nước gọi là đời đời bền vững”. Rồi tác giả tự hỏi: “Ai bảo anh Tàu có văn hóa? May ra chỉ với Đài Loan là Bắc Kinh nhân nhượng, còn thì anh Tàu luôn luôn giở trò kích động cái gọi là 3 dòng thác cách mạng để xúi Hà Nội đánh phá, triệt hạ Sài Gòn, trong khi Bắc Kinh luôn luôn nhìn Đài Bắc như tình anh em cốt nhục, không chơi trò tự đẩy dân mình “Sinh Bắc Tử Nam” như Hà Nội đã làm”.
                  Còn tác giả Chiều Thu (trong nước) như một lời than: “Bây giờ chính phủ thả lỏng cho các quan địa phương: địa phương nào thì chính quyền nơi ấy quản lý. Cứ tiền vào là OK. Bọn Trung Hoa nó nằm thóp các quan Việt Nam từ trên xuống dưới chỉ hám tiền nên…người Trung Hoa tràn ngập Việt Nam… Đồng tiền lên ngôi, đạo đức xuống vực, con người vô cảm với đồng loại, với đất nước …!”
                  Một cựu đảng viên cộng sản tự hỏi: “Có bao nhiêu sư đoàn quân Tàu núp bóng công nhân hiện đang có mặt trên khắp đất nước ta?”. Vẫn theo độc giả này thì “bọn quan tham từ chóp bu cho đến tép riu chỉ mãi mê tập trung theo dõi, đàn áp những người yêu nước và cưỡng chế cướp đất của dân, tranh nhau vơ vét cho đầy túi tham, nên đã mặc sức cho bọn Tàu hoành hành như Việt Nam không có chủ”.
                  Hãy nghe ông Nguyễn Đại Nghĩa, Phó chánh văn phòng Sở Lao Động thành phố Hải Phòng bị đại diện công nhân nêu câu hỏi: “Vì sao thành phố cho phép hằng ngàn lao động người Tàu vào Việt Nam là công nhân như đào đất, phụ hồ, quét dọn, ... nói chung là những công việc này lao động Việt Nam không được thuê mướn trong khi công nhân thất nghiệp lang thang đầy đường?” Ông Nghĩa trả lời như không có gì phải quan tâm: “Ta phải đáp ứng nhu cầu nhà thầu, vì chủ trương của thành phố là luôn luôn thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, nên phải tạo điều kiện dễ dàng cho người ta”. "Trong lúc các nhà thầu CHỆT CỘNG nêu lý do không sử dụng lao động Việt Nam là vì "Tình trạng mất cắp thường xảy ra." ....
                  Theo nhà báo Tống Văn Công, “hầu hết 90% dự án EPC trên cả nước là nhà thầu Trung Hoa thực hiện”..... Như vậy, lãnh đạo CSVN rất có thể đã thỏa thuận trước với lãnh đạo Trung Cộng, nên đã tạo mọi điều kiện cho nhà thầu Tàu thắng tất cả các gói thầu EPC, trong đó có một số chỉ định thầu mà không qua đấu thầu. Các nhà thầu Tàu mang theo bao nhiêu quân lính trá hình, có lãnh đạo nào biết không? Nhà báo viết tiềp: “Từ Nam chí Bắc không một địa phương nào là không có các gói thầu của Trung Hoa”..... Vậy là công nhân hay quân lính Trung Cộng, chừng như đã ngập đồng bằng, rừng núi, và các thành phố Việt Nam rồi.
                  Nhưng blogger Hà Sĩ Phu (trong nước) thì “Ước làm người Tàu trên đất Việt”. Ông chua chát nhưng rất chí lý trước cảnh nhiễu nhương “một tư nhân Trung Quốc đã chiếm lĩnh truyền hình cáp Quy Nhơn”. Đó là sự nhạy cảm chính trị bậc thầy của một đảng cộng sản biến đâu mất, hay (CSVN. PB Hoa) đã dùng để ứng phó với dân chúng hết rồi? “Giặc ngoài” chẳng thấy, chỉ thấy “thù trong nơi nhân dân ư?” ....
                  “Ông nêu câu hỏi: “Mà Trung Hoa là ai?” Rồi ông tự trả lời: “Chính đảng CSVN đã xác định, đây là kẻ thù truyền kiếp, chưa bao giờ họ từ bỏ âm mưu thôn tính nước ta ! Điều này cả thế giới đều biết, người Việt Nam nào cũng biết, chẳng lẽ chỉ những người lãnh đạo Việt Nam hôm nay lại bỗng dưng không biết?” Tác giả nhấn mạnh: “Nhưng nếu biết, sao không phổ biến tinh thần cảnh giác ấy đến toàn quân, toàn dân, mà lại chủ trương thủ tiêu tinh thần cảnh giác ái quốc bằng 16 chữ “vàng dởm”, sao cứ để những hiện tượng nguy hiểm đến an ninh quốc gia, cứ như giặc nội xâm với giặc ngoại xâm đã thống nhất một phương án “diễn biến hòa bình, gậm nhấm hòa bình, thôn tính hòa bình, tự diễn biến, tự dâng hiến” trên hình hài đau thương của Tổ quốc vậy?” Ông thách thức: Thương binh nặng đâu, nhân dân tự phát đâu, phải tiến vào những nơi đã để cho người Tàu được trá hình “rải quân” trên những nơi trọng yếu, chứ sao lại ngoặc sang tấn công một ông Tiến sĩ Hán Nôm (chắc là ông nói đến tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện. PB Hoa) biết bênh dân nghèo, tấn công một đảng viên 82 tuổi quyết dành quãng đời còn lại cho sự minh bạch của đất nước? Đây chính là mối lo “chệch hướng” chứ không gì khác. Chuyện chệch hướng này là vô tình hay chủ tâm?” Tác giả cựu đảng viên lão thành cảnh báo: “Người Tàu tự do quá, ngang nhiên quá, khi họ tới Việt Nam lúc nào rồi trốn biệt tăm lúc nào, giới hữu trách hói là không hay không biết. Như vậy, người Tàu quả là “công dân loại 1” ngay trên quê hương Việt Nam, trong khi người Việt bản xứ chỉ là “công dân loại 2”. Như vậy “ai là chủ nhân đất nước này?”
                  “Đáng nói hơn nữa là những người Trung Hoa này làm gì ở Việt Nam? Nếu họ chỉ làm lậu, thì về phương diện kinh tế và xã hội, hậu quả đã rất đáng lo ngại. Còn nếu họ làm thêm việc gì khác nữa thì hậu quả thật không thể lường hết được. Nhất là khi tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Hoa không còn kìm giữ được nữa. Trong trường hợp ấy, rõ ràng là Trung Hoa đã có sẵn một lực lượng nằm vùng khổng lồ. Có khi không cần đánh, họ cũng thắng. Bất cứ người nào có chút lương tri cũng đều biết điều đó. Nhưng tại sao chính quyền Việt Nam có vẻ như không biết? Tại sao họ vẫn dửng dưng? Nó vượt ra ngoài khả năng quản lý của họ ư? Họ thiếu nhân sự ư? Nhất định là không phải, vì tất cả những người có chút tên tuổi từng tham gia biểu tình đều được ba bốn công an cặp kè. ..... Người ta gọi đó là hiện tượng “người mọc đuôi”. Tại sao với các trí thức được họ đào tạo, có người là đảng viên của họ, mà họ lại sợ đến như vậy? Còn với người Trung Hoa thì không? Tại sao? Thực tình, tôi không hiểu, không thể hiểu!”
                  Với bài “Người Trung Hoa không mong gì hơn thế”, tác giả Ngô Văn Lang lưu ý rằng: “Trung Hoa quyết định đây là thời cơ ngàn vàng của họ, và họ đã chuẩn bị “rất bài bản, rất cẩn thận cho quá trình thôn tính Việt Nam”, mà mở đầu là thôn tính từng phần qua những hành động như thuê rừng đầu nguồn, khai thác bô-xít Tây Nguyên, đầu tư nhiều công trình trọng yếu, lo lót để được nuôi cá ngay tại nơi trọng yếu chiến lược”. Rồi tác giả báo động: “Đây là âm mưu vô cùng thâm độc trên con đường thôn tính Việt Nam, thế mà Trung ương và địa phương làm ngơ, không có động thái gì để đuổi họ ra khỏi vịnh biển chiến lược quốc gia này. Thôn tính thị trường Việt Nam bằng hàng hóa Trung Hoa, và chủ yếu là hàng hóa phẩm chất (xin thay chữ chất lượng) kém để đầu độc người Việt Nam, với mục đích vô hiệu hóa nền sản xuất kinh doanh của Việt Nam. Trung Hoa hiểu rằng hàng hóa không chỉ là hàng hóa, mà hàng hóa còn là văn hóa. Người Việt Nam hàng ngày dùng đồ Trung Hoa sẽ bị ảnh hưởng một cách từ từ nhưng sâu đậm bởi văn hóa Trung Hoa. Trung Hoa thôn tính truyền hình Việt Nam bằng vô số phim Trung Hoa, và đã thành công kinh khủng khi khiến cho thanh niên Việt Nam thuộc sử Trung Hoa hơn là sử Việt Nam…Câu hỏi mà người Việt Nam phải đặt ra là: “Tại sao Trung Hoa lại thành công được như vậy?.Và nếu mỗi người Việt Nam đều đặt câu hỏi đó thì Trung Hoa có tài giỏi đến mấy cũng không thành công được”.
                  Kết luận.
                  Với phát biểu của ông Nguyễn Phú Trọng “không có chuyện tam quyền phân lập”, và ông cũng cho biết là Bộ Chính Trị đã “tước quyền lãnh đạo phòng chống tham nhũng từ tay Nguyễn Tấn Dũng”, đến vấn đề “bang giao với Trung Cộng”, và sau cùng là “người Tàu trên đất Việt”, mà tôi trích dẫn hoặc tóm lược cùng với nét nhìn của tôi, hy vọng là vừa giúp Các Anh có được nét nhìn từ góc cạnh khác với nét nhìn của công dân nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, vừa gợi lên những điều mà Các Anh cần suy nghĩ để đánh giá lãnh đạo đảng với lãnh đạo nhà nước Các Anh như thế nào.
                  Tôi gởi sự suy nghĩ về những vấn đề trên đến Các Anh, hãy bình tâm nhận định những sự kiện, những phân tách cùng với những nhận định mà Các Anh vừa đọc qua, và suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính mình chớ không phải tâm hồn của người đảng viên cộng sản. Mong Các Anh đừng đứng nhìn một cách vô cảm nữa, mà hãy đứng về phía 89 triệu bà con trên quê hương Việt Nam thân yêu, cùng với hằng triệu triệu cánh tay đứng lên giành lại quyền được làm người từ tay cộng sản độc tài, một chế độ đã tạo nên một xã hội băng hoại bắt nguồn từ chính sách dối trá, ngu dân, để cùng nhau xây dựng một nền văn hoá khai phóng, nhân bản, khoa học, và phát triển một xã hội dân chủ pháp trị mà mọi người được hưởng một cách tự nhiên những quyền căn bản của mình như những công dân của các quốc gia văn minh trên thế giới.
                  Tôi vững tin rằng, bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi- vẫn hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào, những thế hệ làm nên lịch sử.

                  “Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng”.

                  Texas, tháng 7 năm 2012.

                  *********


                  Một tin ngắn mới nhất, chuyển đến Các Anh.

                  Biểu tình ngày chủ nhật 1/7/2012, với sự tham dự của đông đảo đồng bào, nhất là tuổi trẻ, để ủng hộ Luật Biển của Việt Nam vừa được Quốc Hội Việt Nam thông qua, và phản đối Trung Cộng lấn chiếm biển đảo Việt Nam. Nhiều biểu ngữ viết bằng tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Tàu: (1) “Khẳng định hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của dân tộc Việt Nam từ trong lịch sử”. “Tổ Quốc gọi, chúng con có mặt, vì bình yên xã tắc sơn hà”. “Hãy hành động xứng đáng với tiền thuế của dân”. (2) Khẩu hiệu được hô to: “Viêt Nam. Hoàng Sa. Trường Sa”. “Việt Nam. Hoàng Sa. Trường Sa”.
                  Tại Sài Gòn: Theo Blogger Huỳnh Ngọc Chênh, khoảng 500 người tập trung tại Công Viên 30/4. Các ông Lê Hiếu Đằng, Giáo sư Tương Lai, nhà thơ Đỗ Trung Quân, nhà bào Huỳnh Ngọc Chiêm, ông Hồ Cương Quyết, ..v..v.. trong đoàn biểu tình từ nhà thờ Đức Bà hướng đến tòa lãnh sự mới của Trung Cộng ở số 175 đường Hai Bà Trưng, nhưng bị hàng rào Công An dày đặc ngăn chận, đoàn biều tình phải quay lại Công Viên 30/4. Sau đó tự giải tán.
                  (1) Những người bị bắt bằng nhiều cách khác nhau: Blogger Huỳnh Thục Vy và chồng sắp cưới. Huỳnh Trọng Hiếu. Huỳnh Khánh Vy. Huỳnh Công Thuận. Lê Khánh Duy. Facebooker Quốc Anh. Blogger Vi. Đỗ Minh Đức và Hương (bạ gái của Hiếu). Chị Bùi Thị Minh Hằng. Facebook Châu Văn Thi. Anh Nguyễn Chí Đức. Và khoảng 10 thanh niên nữa. (2) Những người bị Công An bao vây không cho ra khỏi nhà, là: Blogger Uyên Vũ và vợ là Blogger Hồ Điệp. Facebook Trần Hoài Bão. Cô Trịnh Kim Tiến. (3) Những người bị Công An vận động không đi biểu tình: Blogger Nguyễn Tường Thụy. Blogger Bích Phương.
                  Tại Hà Nội. Theo phóng viên hãng tin AP, đoàn biểu tình khoảng 200 người từ Hồ Gươm hướng đến tòa đại sứ Trung Cộng, tuy không bị ngăn chận dọc đường nhưng bị Công An vây chặt chung quanh bảo vệ tòa đại sứ. Trong đoàn biểu tình có Tiến sĩ Nguyễn Quang A, Bác sĩ Phạm Hồng Sơn, ..v..v.. Theo Blogger Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện, đoàn biểu tình bắt đầu lúc 9 giờ sáng, và tự giải tán lúc 10 giờ 36 phút.
                  Trong một tuyên bố phổ biến cho báo chí, ông Phil Robertson Phó Giám Đốc khu vực Châu Á của Tổ Chức Nhân Quyền Quốc Tế (Human Rights Watch) nhận định rằng: “Hành động của Công An tại các cuộc biểu tình diễn ra ngày hôm nay ở Hà Nội và Sài Gòn, một lần nữa chứng tỏ phản ứng quen thuộc của chính quyền nhằm quấy rối và ngăn chặn mọi hình thức phản đối ôn hòa của công chúng, bất kể vì lý do gì. Thật là mỉa mai khi những hành động ủng hộ chính sách của Chính phủ đối với Trung Quốc lại chịu sức ép thô bạo của Công An, kể cả sự hăm dọa quấy nhiễu và hạn chế đi lại đối với các nhà hoạt động và gia đình họ. Thậm chí một số bloggers và nhà họat động nổi tiếng như Bùi Thị Minh Hằng và Huỳnh Thục Vy đã bị tạm giữ một cách tùy tiện để họ không thể tham gia biểu tình”. Ông Phil Robertson nhấn mạnh: “Việt Nam có kế hoạch tìm kiếm một vị trí tại Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc trong tương lai gần, nhưng việc này sẽ rất khó đạt được, khi mà những hành động như vừa nêu, đã thể hiện việc Hà Nội tiếp tục coi thường những quyền cơ bản của con người”.

                  Các Anh hiểu biết gì về cuộc biểu tình này từ đảng với nhà nước phổ biến ngang qua hệ thống truyền thông quốc doanh? Tôi tóm tắt dưới dạng một câu hỏi: “Tại sao nhân dân biểu tình ủng hộ Luật Biển mà Quốc Hội vừa thông qua, đồng thời phản đối Trung Cộng lấn chiếm biển và đảo của Việt Nam, mà đảng với nhà nước Các Anh lại sử dụng đông đảo Công An ngăn chận, và bắt gần 20 người yêu nước?”

                  *********

                  Comment


                  • #10
                    Thư số 10 gởi Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam

                    Phạm Bá Hoa

                    Tôi tên Phạm Bá Hoa, chào đời năm 1930 tại đồng bằng sông Cửu Long. Tôi phục vụ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 21 năm trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc, sau đó tôi bị tù không án 12 năm 3 tháng trong các “trại tập trung” mà lãnh đạo của Các Anh gọi là “trại cải tạo”. Hiện cư ngụ tại Hoa Kỳ. Tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam khi mà quê hương tôi chưa có dân chủ, tự do, và nhân quyền thật sự.
                    Xin được gọi “Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam” là Các Anh để tiện trình bày. Chữ “người lính” mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng, gọi chung là “cấp lãnh đạo”. Là người lính trong quân đội “Nhân Dân”, chắc rằng Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Các Anh trong quân đội nhân dân mà. Với lại, Tổ Quốc & Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng chính trị nào cũng chỉ là một giai đoạn của lịch sử. Và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.


                    Với thư này, tôi giúp Các Anh nhận ra “Chân Dung Xã Hội Chủ Nghĩa” về dối trá, hèn hạ, đồng thời giúp Các Anh có nét nhìn từ góc cạnh xã hội dân chủ văn minh, để hiểu “tại sao xã hội Việt Nam dưới quyền lãnh đạo của CSVN lại hèn hạ với Trung Cộng như vậy”.

                    Thứ nhất, vẫn là dối trá trong giáo dục.

                    Với bài “Giả dối lên ngôi, đạo đức suy đồi”, phóng viên Thanh Quang, đài phát thanh Á Châu Tự Do ngày 24/6/2012, nhận xét rằng: “Tình trạng đạo đức suy đồi dẫn tới nhiều tệ nạn xã hội trong nước, vẫn làm trĩu nặng nỗi trăn trở của những người có tâm huyết với quê hương, dân tộc”.
                    Một trong những nhà giáo dục luôn quan tâm cho đất nước dân tộc là Giáo sư Hà Văn Thịnh từ Huế, cảnh báo rằng: “Trong bản chất xã hội Việt Nam có sự giả dối, vô cảm, ích kỷ, và tàn nhẫn. Đó là tất cả những gì biểu hiện của văn hoá Việt Nam hiện nay. Nói ra chẳng ai thích đâu, nhưng đó là sự thật. Vì sao? Vì bây giờ người ta giả dối từ A tới Z, giả dối từ trên xuống dưới. Ai muốn làm gì thì làm, ai muốn lừa ra sao thì lừa, muốn tự tung tự tác hay ăn cướp thế nào đó vẫn được.”
                    Với bài “Lạm bàn về căn bệnh dối trá tại Việt Nam”, Giáo sư Trần Kinh Nghị từ Hà Nội, đề cập tới điều có thể nói là hài hước, nhưng rất chua chát: “Ở Việt Nam, mọi thứ đều giả, chỉ có dối trá là thật! Dối trá, thoạt nghe qua cũng chỉ là một thói đời không mấy tốt đẹp, vốn nhan nhản trong xã hội loài người, nên người ta dễ tưởng rằng “không có gì nguy hại lắm”...... Vẫn theo Giáo Sư Nghị: “Thói làm thì láo, báo cáo thì hay” cùng thói “chạy theo thành tích” vốn phát xuất từ thời xã hội chủ nghĩa Miền Bắc, đã góp phần làm trầm trọng thêm căn bệnh dối trá ở Việt Nam hiện nay, và đã trở thành “căn bệnh trầm kha” bám sâu rễ trong toàn xã hội đến mức ai không biết nói dối, không biết làm dối, và không biết “ăn theo nói leo” thì không thể tồn tại. Tệ nạn bè phái và tham nhũng nghiêm trọng đến mức tràn lan trên khắp miền đất nước hiện nay, cũng có nguyên nhân sâu xa từ căn bệnh dối trá ấy, để từ đó, sinh sôi và dung dưỡng cho những kẻ bất tài, những kẻ vô đạo đức, nhưng thích làm quan”.
                    Nhà văn Trần Mạnh Hảo, cũng không tránh khỏi âu lo khi căn bệnh giả dối ấy “đang thống trị xã hội” Việt Nam, mà chủ yếu bắt nguồn từ tình trạng thiếu trung thực của nền giáo dục nước nhà, nhưng toàn bộ hệ thống đã hư, đã sai rồi, thì phải thay đổi cả hệ thống mới cải tạo được xã hội hiện nay. Ông nhấn mạnh: “Sự giả dối tồn tại ở xã hội Việt Nam lâu rồi.
                    Theo Giáo Sư Hoàng Tụy. Không thể nào tái cấu trúc xã hội được, bởi vì tái cấu trúc là những bộ phận rời, nhưng toàn bộ hệ thống đã hư, đã sai rồi, thì phải thay đổi cả hệ thống mới cải tạo được xã hội hiện nay. Hiện sự giả dối đang thống trị xã hội chúng ta.”
                    Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện với bài viết “Chiều Cuối Năm Nhìn Lại” (2011), cho thấy ông không quan tâm đến những vụ giết người cướp của ngày càng táo bạo mà tuổi đời càng trẻ thì cách giết người càng dã man độc ác hơn, vì điều đó đã có nhiều người khẳng định rồi. Ngay cả Nghị viên Quốc Hội Việt Nam Dương Trung Quốc cũng nói rằng: “Thế hệ chúng ta là thế hệ mất gốc, mà mất gốc là mất những giá trị tốt đẹp của Việt Nam. Còn xã hội Việt Nam hiện nay, về mặt đạo đức, xuống cấp chưa từng thấy. Tình trạng này đầy tràn những mặt báo “lề phải” (báo quốc doanh. PB Hoa). Ngày nào cũng cướp, cũng giết, cũng có những tội phạm xã hội khủng khiếp. Nó tràn lan, không còn là hiện tượng riêng lẻ, mà cả hệ thống như khiến cho những người có tâm huyết với quê hương vừa trăn trở vừa cảm thấy bất an”.
                    Nhận thức của Các Anh như thế nào về “chính sách giáo dục của xã hội chủ nghĩa” thì tôi không biết, nhưng nhận thức của tôi như thế này:
                    “Giáo dục là nền tảng trang bị con người về nhân cách và kiến thức”. Nhân cách, cần kiến thức hậu thuẫn những lý lẽ để tránh bị lợi dụng vào mục đích không tử tế. Kiến thức, cần nhân cách trợ giúp biến kiến thức trở thành những dự án những công trình hữu ích trong cuộc sống, đồng thời tạo môi trường cho con người gần gủi nhau hơn, bởi ngày nay mọi sinh hoạt trong xã hội đều có mối tương quan tác động lẫn nhau, ngay cả sinh hoạt từ thiện cũng vậy.
                    Giáo dục bao gồm: “Giáo dục gia đình , giáo dục học đường, và giáo dục xã hội”.
                    - Giáo dục gia đình, do bẩm sinh, huyết thống, và cung cách sống của các thành viên trong gia đình, nhất là ông bà cha mẹ.
                    - Giáo dục học đường, do chính sách của chánh phủ, hệ thống tổ chức, biên soạn sách giáo khoa, chính sách hỗ trợ nhà giáo, hỗ trợ học sinh sinh viên, phương pháp giảng dạy, cung cách của thầy dạy.
                    - Giáo dục xã hội, do những chính sách cùng hệ thống điều hành của chánh phủ, những sự kiện phát sinh và những phương cách giải quyết trong các lãnh vực sinh hoạt xã hội.
                    Giáo dục thể hiện đường lối của lãnh đạo thực hiện mục tiêu quốc gia. Muốn đất nước phát triển như thế nào, chánh phủ phải hoạch định chính sách chiến lược như thế ấy:
                    - Các ngành, căn cứ vào đó soạn thảo những chính sách dài hạn và những kế hoạch ngắn hạn để thực hiện, và cung cấp nhu cầu chuyên viên chuyên gia theo từng giai đoạn cho ngành giáo dục.
                    - Ngành giáo dục, đào tạo chuyên viên chuyên gia thích ứng cho nhu cầu đó. Đồng thời liên tục đào tạo và phát triển đội ngũ sư phạm về đạo đức lẫn kiến thức, cải tiến và phát triển sách giáo khoa phục vụ cho nhu cầu chiến lược, cải tiến dụng cụ trợ giáo, phương thức giảng dạy, cơ sở và trang bị, ..v..v...
                    Với nhận thức đó, tôi khẳng định là từ khi cộng sản cai trị toàn cõi Việt Nam đến nay, là một xã hội toàn dối trá, dối trá đến mức mà những nhà văn nhà báo nhà chính trị trên đây, phải thốt lên lời than nghe như đau đớn từ trong đáy tâm hồn của những vị ấy, rằng: “Xã hội Việt Nam ngày nay bị thống trị bởi giả dối. Xã hội Việt Nam, nếu ai không biết dối trá thì không thể tồn tại, đến mức mà ngày nay tất cả đều giả, chỉ có dối trá là thật. Với một xã hội như vậy đã dẫn đến tình trạng mà mọi người không còn tin vào bất cứ điều gì chung quanh họ, thậm chì là cũng không tin ngay bản thân của họ nữa, chỉ vì nếu họ thành thật với chính mình thì họ không thể tồn tại trong cuộc sống! Xin Các Anh hãy nhớ, đó không phải là ngẫu nhiên, mà là bắt nguồn từ chính sách giáo dục của nhóm lãnh đạo trong Bộ Chính Trị, vì sau khi Liên Sô mà lãnh đạo Các Anh tôn vinh là “thành trì vững chắc của chủ nghĩa xã hội đã sụp đổ hoàn toàn” từ đầu những năm 1990, kéo theo các quốc gia cộng sản vùng Đông Âu Châu sụp đổ, để từ đó chế độ dân chủ tự do tái sinh, thì CSVN chỉ có thể tồn tại trong một xã hội dối trá hiện nay mà thôi.
                    Tôi tóm tắt để Các Anh có nét nhìn trung thực vào một góc của Chân Dung Xã Hội Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ngày nay. Với dân số 89 triệu người trong một khoảng không gian 331.000 cây số vuông, đã và đang sống với nhau dưới chế độ cộng sản độc tài, dối trá, và tham nhũng, dẫn đến một xã hội băng hoại đạo đức, đến mức mà ngày nay Hồ Chí Minh lưu manh đĩ điếm, Hồ Chí Minh trộm cắp cướp giật, Hồ Chí Minh lừa đảo dối trá, trở thành chuyện thường ngày trên đường phố thủ đô kinh tế Việt Nam. Viết đến đây tôi chợt có ý nghĩ: “Biết đâu là vào thời gian nào đó, lãnh đạo đảng với nhà nước CSVN sẽ phá bỏ hệ thống nhà tù vì số người không lương thiện chiếm đa số trong xã hội, và xây dựng Những Trung Tâm Bảo Vệ Người Lương Thiện để nhận những người lương thiện trở thành thiểu số vào sống ở đó, trong khi người không lương thiện sống trong xã hội phải đi hành nghề của họ và đóng thuế đầy đủ, để chánh phủ có tiền nuôi người lương thiện trong các Trung Tâm. Điều kiện để được nhận vào các Trung Tâm Bảo Vệ là phải làm đơn kèm theo giấy tờ chứng minh là người lương thiện, và mang tay đến nộp cho Hội Đồng Cứu Xét theo tiêu chuẩn gắt gao để ngăn chận đám người không lương thiện trà trộn vào sống trong các Trung Tâm. Sở dĩ phải mang tay, vì các cấp địa phương lúc ấy thuộc thành phần đa số, tức thành phần không lương thiện, nên lời phê của họ không có giá trị đối với Hội Đồng Cứu Xét”.
                    Các Anh hiểu theo nghĩa ĐEN hay nghĩa BÓNG đều đúng cả, và từ đó Các Anh suy nghĩ .......

                    Thứ hai, cái hèn của giới cầm bút Việt Nam.

                    Với bài viết “Nó Tự Cắt Nó” hay “Sự Hèn Mạt Của Báo Chí” của Trương Duy Nhất. Chỉ riêng cái tựa bài thôi, cũng đủ cho người đọc cảm nhận được nỗi đắng cay của tác giả nói riêng, và của những người “được” nhà nước cộng sản cấp cho cái “thẻ nhà báo” nói chung.
                    Tác giả Trương Duy Nhất kể lại: “Vài năm trước, trong một bữa nhậu nhân “hội nghị tuyên giáo toàn quốc” tại Đà Nẳng, một lão bá vai tôi nói một câu rất hách, báo chí các cậu hèn bỏ mẹ. Rồi tác giả giải thích: “Một tay nó bóp “chỗ nhược” bên dưới (mạn phép thay một chữ trong nguyên bản. PB Hoa), còn tay kia nó dán băng keo bịt miệng mình, thế mà nó lớn tiếng chê mình hèn. Định vung cho nó một đấm, nhưng nghĩ lại hắn nói không sai. Báo chí kiểu gì mà trong vụ cưỡng chế đất đai ở Văn Giang (Hưng Yên), chỉ một cú điện thoại, một lệnh miệng đã khiến cho 700 tờ báo câm nín, không dám cử phóng viên đến nơi đưa tin. Thậm chí khi hai phóng viên của đài tiếng nói Việt Nam (VOV) đến đó đã bị đánh đập, trấn áp dã man, bị còng tay bắt giữ như tội phạm, thu máy ảnh, thu thẻ nhà báo, thẻ đảng, thẻ luật gia… mà không một tờ báo nào dám lên tiếng, kể cả cơ quan của họ. Và bản thân 2 nhà báo bị đánh, cũng không dám công khai nói lên sự thật.
                    Chưa bao giờ báo chí lại sợ hãi đến như vậy. Chưa bao giờ báo chí kỳ lạ như giai đoạn này, xa lánh, tránh né hầu hết các vấn đề nhạy cảm mà lẽ ra nhà báo phải có mặt tại chỗ. Vì sao tránh, vì sao không đăng, vì sao không can dự? Vì đó là vấn đề “nhạy cảm”..... Nhưng vấn đề nhạy cảm mới cần báo chí can dự, nếu không nhạy cảm thì viết để làm gì, tuyên truyền làm gì, can dự làm gì?
                    Với blogger Mười Sáu:
                    (1) Một độc giả. “Là người dân đang sống tại Việt Nam, tôi thấy cần phải nói sự thật một điều. Đó là từ nhiều năm nay tôi chẳng đọc một bài báo nào do báo chính thống (tức báo của nhà nước. PB Hoa) đăng tải, gần đây cứ bật truyền hình từ địa phương đến truyền hình trung ương là tôi “dựng cả da gà”. Vì sao thế? Vì tôi không thấy ở những phương tiện ấy phát ra những câu nói của “những người yêu nước thực sự”. Chỉ thấy những tiếng nói mang tính bênh vực, chụp mũ, phản cách mạng, toàn thấy những bài viết cũng như những lời nói sáo rỗng, những lời nói tự khen ...Thử nghĩ xem có thời đại nào như thời buổi này, có dạng truyền thông nào như ở Việt Nam, ... đến cả việc dân chúng xuống đường biểu tình chống Trung Cộng (xin phép thay chữ Trung Quốc của tác giả bằng chữ Trung Cộng. PB Hoa), một hành động thật đậm đà truyền thống dân tộc, noi gương các anh hùng, những cha ông, một hành động thể hiện lòng yêu nước, thì báo chí làm ngơ!”
                    (2) Blogger Trường Sa. Nếu chúng ta (ở hải ngoại) có phương tiện và thì giờ, nên tìm đọc cho biết, đồng thời giúp đồng bào mình một tay trong việc phổ biến rộng rãi tin tức báo chí ngược về Việt Nam (qua email), bởi đây cũng là một phương cách hữu hiệu ngăn chặn, giảm thiểu những tội ác, những bất công, đầy dẫy trong xã hội vô thần cộng sản mà người dân Việt Nam là những nạn nhân đang phải gánh chịu thảm họa”.
                    (3) Nguyễn Chính, cựu phóng viến báo Đại Đoàn Kết nhận định: “Cái sợ cái hèn của người cầm bút, nhất là làm báo, nguy hiểm lắm. Rất vô thức, nhưng anh ta sẽ làm “lây nhiễm” cái sợ cái hèn nhát cho đồng bào mình”.
                    (4) Blogger Phan Văn Tú. Với câu nói rất đau: “Trong đầu thằng nhà báo Việt Nam nào hình như cũng có một cái kéo. Nó tự cắt (bài) nó trước khi bị người khác cắt. Cái thói tự biên tập, tự ra lệnh, tự cột nhốt đã hình thành như một thói nết tệ hại trong làng báo..
                    (5) Nhà báo Đào Tuấn, được giới thiệu là một “cây bút kỳ cựu của báo Đại Đoàn Kết, nay sang tờ Dân Việt”: “Nhiều người cầm bút giờ đây còn bi kịch hơn khi hàng ngày phải viết những điều không đúng với sự thật… Những chuyện hằng ngày, cho dù tin hay không tin cũng phải viết ra một điều không thật -một cách khéo léo gọi là dối trá- để thuyết phục người đọc tin rằng đó là sự thật.” Cuối cùng, Trương Duy Nhất kết luận, đay đi nghiến lại nhiều lần, trong nhiều câu khác nhau, trong suốt nửa sau của bài viết: “Chưa bao giờ báo chí lại sợ hãi đến vậy. Run sợ đến dối trá. Báo chí chưa bao giờ nhạt chán, hèn nhục đến như vậy. Ở Việt Nam, nếu không mù chữ, ai cũng có thể làm báo được cả” (vì chỉ làm theo lệnh của đảng với nhà nước, nên dễ ợt. PB Hoa).
                    (6) Nói đến cái hèn của người cầm bút Việt Nam, không thể không nhớ đến bài “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa” của Nguyễn Minh Châu. Ông là cây viết có tâm huyết, tiêu biểu cho phong trào đổi mới văn học Việt Nam. Bài viết của ông để lại nhiều suy nghĩ cho người đọc, chính là vấn đề cái hèn. Có lúc ngỡ như ông vừa viết vừa nghẹn ngào với giọng văn đầy cảm xúc: “Văn chương gì mà muốn viết một câu trung thì phải viết một câu nịnh? Hèn. Hèn chứ? Nhà văn nước mình tận trong tâm can ai mà chẳng thấy mình hèn? Cái sợ, nó làm mình hèn. Vì thế mà từ xưa tới nay có bao nhiêu nhà văn nhà thơ đã đi ở ẩn ngay trong tác phẩm của họ? Chúng ta vắng thiếu những cây thông đứng sừng sững. Có một nhà văn đàn anh nâng chén rượu lên giữa đám đàn em mà nói rằng: “Tao còn sống, còn cầm bút được đến bây giờ, là nhờ tao biết sợ!. Rồi ông ngửa mặt lên trời cười run giường trong khi nước mắt tuôn lã chã, giọt đổ xuống đất, giọt đổ ngược vào lòng”. Có người cầm bút đến lúc sắp bước sang thế giới bên kia, vẫn chưa dám thốt lên một lời nói thật tự đáy lòng, “không dám viết hồi ký thực, vì sợ để liên lụy đến đời con cái. […] Sao mà khổ vậy?”
                    Tôi nghĩ, khi mà Các Anh hiểu được chính sách giáo dục người dân trong xã hội xã hội chủ nghĩa mà tôi nói ở trên, Các Anh sẽ không ngạc nhiên khi nhận ra chân dung các lãnh vực sinh hoạt trong xã hội đều băng hoại mà nặng nhất là trong giới giáo dục và giới cầm bút. Mà “khi giới nhà giáo nhận rõ sự dối trá trong giáo dục, và khi giới cầm bút, nhìn rộng hơn là giới truyền thông nhận mình là hèn”, thì mọi người trong xã hội không còn một chỗ nào để tránh né, cũng không còn một điều gì để tin nữa! Các Anh thử nhìn sang xã hội dân chủ tự do để thấy giới nhà giáo được tôn trọng là “những nhà kiến trúc” đào tạo con người phục vụ xã hội, còn giới cầm bút được mọi người tín nhiệm, vì họ là những nguời có khả năng giúp mọi người nhận ra chân dung xã hội với những góc cạnh khác nhau trong cuộc sống, đồng thời hướng dẫn dư luận đưa xã hội ngày càng phát triển, đặc biệt về văn hoá xã hội.
                    “Nhưng tại sao hèn? Tại vì giới này luôn luôn sợ hãi, sợ hãi đến mức tự mình cắt xén sự thật trong bài viết của mình, sợ hãi đến mức phải tự nhận mình còn sống chính là nhờ biết sợ hãi. Tại sao sợ hãi? Tại vì chính sách giáo dục dạy cho mọi người phải biết sợ hãi mà phục tùng mệnh lệnh của lãnh đạo đảng với lãnh đạo nhà nước, rồi hệ thống truyền thông quốc doanh biến chính sách giáo dục đó thành những bài viết, những hình ảnh chuyển tải cho toàn xã hội. Tại sao đảng với nhà nước lại dạy dân phải sợ hãi? Tại vì lãnh đạo đảng cộng sàn là đảng độc tài, lại giành độc quyền lãnh đạo, mà độc tài thì người dân không chấp nhận cho nên đảng với nhà nước lúc nào cũng nơm nớp sợ hãi người dân nổi dậy lật đổ giết chết. Tôi dẫn chứng: Từ khi có chế độ cộng sản độc tài trên thế giới từ đầu thế kỷ 20 đến nay, không người dân nào từ xã hội dân chủ tự do, lại bỏ làng xã quê hương mà chạy sang định cư tại bất cứ quốc gia nào bị cộng sản cai trị, như cộng sản Liên Sô, các quốc gia cộng sản Đông Âu, cộng sản Bắc Hàn, cộng sản Cu Ba, cộng sản Trung Hoa ..v..v.. Ngược lại, chỉ có người dân từ các quốc gia cộng sản trốn chui trốn nhủi, chấp nhận mọi hiểm nguy để vượt lên sự chết mà đi tìm sự sống tại các quốc gia dân chủ tự do, Việt Nam chúng ta là trường hợp điển hình chính xác nhất: (1) Sau Hiệp Định Đình Chiến ký ngày 20/7/1954 tại Geneve, Thụy Sĩ, Việt Nam bị nhuộm đỏ nửa nước phía bắc, đã có 875.478 người trên đât bắc 20 năm xã hội chủ nghĩa chạy trốn cộng sản vào Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi định cư. (2) Theo tài liệu của Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc phổ biến năm 2000, từ năm 1976 đến năm 1995, tức sau 20 năm cộng sản nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam, đã có 839.200 người Việt Nam vượt biên và vượt biển đến định cư tại 91 quốc gia tự do. Đồng thời ước tính khoảng 450.000 đến 500.000 người Việt Nam đã chết trên biển cả cũng như trong rừng sâu! Thậm chí đến tháng 5/2012 vừa rồi, vẫn có đồng bào cùng tỉnh với ông Hồ dùng tàu vượt biển sang Australia xin tị nạn!
                    Các Anh biết tại sao không? Tại vì xã hội chủ nghĩa là đồng nghĩa với chủ nghĩa giết người. Tôi dẫn chứng: “Ngày 12/6/2007, Tổng Thống Bush chủ tọa lễ khánh thành “Tượng Đài Tưởng Niệm Nạn Nhân Cộng Sản thế Giới” tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn, với sự tham dự của đại diện 25 quốc gia đã và đang bị cộng sản cai trị. Trong bài diễn văn của Tổng Thống Hoa Kỳ, có đoạn: “... Đây là biểu tượng thảm họa kinh hoàng trong thế kỷ 20 của nhân loại nói chung, và 25 quốc gia bị cộng sản cai trị nói riêng. Từ nay, oan hồn của hơn 100.000.000 (100 triệu) nạn nhân cộng sản trên thế giới, được những thế hệ hôm nay và những thế hệ ngày mai tưởng nhớ”....
                    Chưa hết, Các Anh nên đọc vài con số mà tôi trích ở trang 14 trong quyển “Le Livre Noir du Communisme”, tạm dịch là “Sách Đen về Chủ Nghĩa Cộng Sản” của Stéphane Courtois và 5 tác giả nữa, ấn hành năm 1997 tại Pháp. Theo các tác giả, thì: (1) Cộng sản Liên Sô đã giết 20.000.000 người. (2) Cộng sản Trung Hoa đã giết 65.000.000 người. (3) Cộng sản Bắc Hàn đã giết 2.000.000 người. (4) Cộng sản Cam-Bốt đã giết 2.000.000 người. (5) Các quốc gia cộng sản vùng đông Châu Âu đã giết 1.000.000 người.
                    Riêng về cộng sản Việt Nam đã giết bao nhiêu người, thì tài liệu trong nước và ngoại quốc mà tôi tham khảo, cho thấy: Trong cải cách ruộng đất giai đoạn 1953-1955 trên đất bắc xã hội chủ nghĩa, theo nhật báo “Nhân Dân” ngày 20/7/1955 cho biết, sau 6 đợt cải cách ruộng đất đã có 10.303.004 nạn nhân. Trong Tết Mậu Thân năm 1968 trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi, theo tác giả David T. Zabecki trong quyển “The Vietcong Massacre at Hue” ấn hành năm 1976, số hài cốt tìm được do cộng sản Việt Nam đã giết trong 21 ngày chiếm giữ một phần thành phố Huế, và chôn tập thể trong các hầm là 2.810 người trong tổng số dân ghi mất tích hơn 5.000 người! (trích bài viết của tác giả Lữ Giang. PB Hoa) Trong chiến tranh xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi 1954 - 30/4/1975, theo tài liệu đúc kết từ Đại Hội 4 của CSVN, ít nhất là 4.000.000 thanh niên miền Bắc đã chết trong cuộc chiến xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa, gồm cả số người chết trên đường xâm nhập từ Bắc vào Nam, do lời của Trung Úy Khảm nói với chúng tôi khi chúng tôi bị giam tại Trại 2, Liên Trại 1, Đoàn 776 tỉnh Hoàng Liên Sơn năm 1977. Nhưng theo nhà văn nữ Dương Thu Hương (cựu đảng viên cộng sản) thì số người chết lên đến 10.000.000 người!
                    Hãy nghe Thủ Tướng CSVN Phạm Văn Đồng, nói trong bài diễn văn dài lê thê ngày 1/5/1975, rằng: “Thống nhất để đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên Chủ Nghĩa Xã Hội. Việt Nam là lá cờ đầu, là đội quân tiên phong tiến hành cuộc Cách Mạng Xã Hội Chủ Nghĩa trên toàn thế giới”. Được hiểu là đảng CSVN còn tiếp tục giết chết người dân xã hội chủ nghĩa dưới quyền cai trị của họ nữa, vì xã hội chủ nghĩa đồng nghĩa với giết người mà.
                    Các Anh hãy nhìn, hãy suy ngẫm, và suy ngẫm từ nơi sâu thẳm của trái tim Các Anh. Và Các Anh có đồng ý với những dẫn chứng của tôi không? Nếu không, sao Các Anh lại vô cảm hoặc là chủ quan đến như vậy? Nếu có, thì Các Anh đang nghĩ gì cho những thế hệ đương thời có cả thân nhân thân quyến Các Anh, và những thế hệ tương lai ..... Chẳng lẽ Các Anh vẫn chịu gói mình trong cái xã hội chủ nghĩa dối trá và hèn nhục đến như vậy hay sao?

                    Thứ ba, Hải Quân Việt Nam và Biển Đông.

                    Trong tình hình Biển Đông như đang thấp thoáng cơn giông bão, ngày 7/7/2012, Chủ Tịch của Các Anh là ông Trương Tấn Sang, đến thăm Vùng 3 Hải Quân tại Đà Nẳng. Nói chuyện với các cấp của đơn vị này, ông Sang yêu cầu các binh sĩ phải huấn luyện làm chủ vũ khí trang bị mới. Theo bản tin Thông tấn xã Việt Nam, ông Sang chỉ thị Hải Quân phải kiên quyết bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ trên biển. Tuy nhiên, ông cũng đặc biệt nhắc nhở phải kiên trì, khôn khéo trong xử lý các tình huống để giữ vững ổn định, hòa bình, tạo điều kiện cho ngư dân đi biển và phát triển các ngành kinh tế biển của đất nước. Theo trang điện tử Đài Tiếng Nói Việt Nam (VOV), cấp lãnh đạo của Vùng 3 Hải Quân đã khẳng định với ông Sang rằng: “Lực lượng Vùng 3 Hải Quân sẽ bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc, bảo vệ các hoạt động kinh tế trong vùng đặc quyền của Việt Nam dù đối mặt với nhiều khó khăn”. Trước đó, ông Sang cũng đến thăm Quân Khu 5, ông cũng đã đề cập đến bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia, và cấp lãnh đạo của họ cũng hứa sẽ bảo vệ chủ quyền lãnh thổ.
                    Xin nhắc lại. Ngày 21/6/2012, Quốc Hội Việt Nam thông qua Luật Biển gồm 55 Điêu trong 7 Chương, đã chánh thức ban hành ngày 16/7/2012, và sẽ có hiệu lực từ ngày 1/1/2013. Trong Điều 1 Chương 1 qui định rằng “Luật này quy định về đường cơ sở, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, các đảo, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và quần đảo khác thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam; hoạt động trong vùng biển Việt Nam; phát triển kinh tế biển; quản lý và bảo vệ biển, đảo”.
                    Nội dung của Luật Biển, phủ định điều mà Trung Cộng nhiều lần tự mình tuyên bố giành chủ quyền trên các quần đảo, đảo, và vùng biển thuộc Việt Nam. Đây là điều tốt, nhưng liệu lãnh đạo CSVN có dám ra lệnh cho Hải Quân Nhân Dân và Cảnh Sát Biển ra khơi, để bảo vệ ngư phủ khi bị tàu của Trung Cộng rượt đuổi, ủi chìm, tịch thu tài sản, và bắt ngư phủ đưa tiền chuộc không? Hay vẫn cứ như “không nghe không thấy không biết” như lâu nay, vì “người lạ tàu lạ” luôn nắm quyền chủ động trên biển hành động tàn bạo với “người quen tàu quen”, cứ để Dân Quân Biển tự lo? Luật Biển rất cần thiết, nhưng bảo vệ biển đảo và bảo vệ ngư dân thật sự là điều cần thiết hơn, thậm chí là tối cần thiết. Nếu không hành động như vậy, Luật Biển chỉ có tác dụng trước mắt làm giảm sự phẫn uất của đồng bào phẫn nộ hành động của Trung Cộng lấn chiếm đảo biển Việt Nam, cũng như Hiến Pháp chỉ có tác dụng phô trương đường lối chớ không phải thực hiện đường lối đó. Nói cho đúng, lãnh đạo CSVN chỉ áp dụng Hiến Pháp để bảo vệ độc tài và bao che tham nhũng mà thôi. Vậy là, quanh đi quẫn lại, lãnh đạo CSVN vẫn là dối trá!
                    Vậy, liệu hai ông đó -nhất là Tư Lệnh V3HQ- có dám ra lệnh cho tàu chiến ra khơi rượt đuổi lại tàu của Trung Cộng để bảo vệ ngư phủ không? Với phản ứng hèn hạ nhục nhã trên hồ sơ Biển Đông trong thời gian qua, tôi tin hai ông ấy “chỉ dám tuyên bố chớ không dám hành động”. Nói cho đúng là tôi không tin nhóm lãnh đạo CSVN dám ra lệnh cho chiến hạm của Hải Quân chống lại tàu cá Trung Cộng được sự bảo vệ bảo vệ bởi các chiến hạm của quốc gia họ.

                    Tiếp đây là vài sự kiện sau ngày Luật Biển được thông qua:
                    Ngày 21/6/2012, song song với phản đối LUẬT BIỂN VIỆT NAM, Trung Cộng cho thành lập thành phố Tam Sa cấp địa khu, bao gồm toàn bộ Biển Đông Việt Nam trong phạm vi “đường lưỡi bò” mà Trung Cộng tự vẽ và công bố với thế giới vào năm 2009.
                    Ngày 23/6/2012, Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung cộng (CNOOC) thông báo mời thầu quốc tế 9 khu vực rộng 160.000 cây số vuông thuộc vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa của Việt Nam.
                    Ngày 26/6/2012, Cơ quan Giám sát hàng hải (CMS) Trung Cộng điều động 4 tàu Hải Giám rời căn cứ tại thành phố Nam Á thuộc đảo Hải Nam để thực hiện chuyến tuần tra trên Biển Đông. Cũng trong ngày này, Hồng Lỗi, người phát ngôn Bộ Ngoại Giao Trung Cộng tuyên bố trong cuộc họp báo rằng: “Quân đội đã thiết lập chế độ tuần tra bình thường để đề phòng chiến tranh vùng biển Nam Sa” (tức quân đảo Trường Sa của Việt Nam).
                    Ngày 13/7/2012, Trung Cộng đưa 30 “tàu đánh cá”, gồm 1 tàu tiếp liệu có trọng tải 3.000 tấn, và 29 tàu cá trọng tải 140 tấn mỗi chiếc. Đoàn tàu cá này hướng đến quần đảo Trường Sa và hoạt động trong vùng này 20 ngày. Ngày 16/7/2012, đoàn tàu cá đã đến đảo Chữ Thập. Theo báo chí TRung Cộng thì đây là đoàn tàu cá lớn nhất của tỉnh Hải Nam.
                    Ngày 19/7/2012, Trung Cộng điều động chiến hạm đổ bộ xuống khu vực Trường Sa, theo báo chí nước này thì đây là con tàu chở lính và phương tiện tiếp liệu.
                    Tân Hoa xã ngày 20/7 dẫn các nguồn tin từ Bộ Tư Lệnh quân khu Quảng Châu, thì Quân Ủy Trung Ương Trung Cộng đã phê chuẩn thành lập bộ chỉ huy quân đồn trú tại “thành phố Tam Sa”. Đây có thể xem như hợp pháp hóa sự chiếm đóng về quân sự trên đảo đã và sẽ chiếm được trong tương lai.
                    Ngày 21/7/2012, Trung Cộng cho bầu “Đại Biểu Hội Đồng Nhân Dân” thành phố Tam Sa, “hành chính hóa” toàn bộ phần biển Đông trong phạm vi “đường lưỡi bò”.
                    “Phải chăng hành động trên đây của Trung Cộng là một thách thức mạnh mẽ và trực tiếp với nhóm lãnh đạo CSVN?” Nếu không, thì tại sao những hành động xảy ra chỉ mấy ngày sau ngày Luật Biển được Quốc Hội Việt Nam thông qua, với lại nội dung Luật Biển chánh thức phủ nhận đường lưỡi bò tự Trung Cộng vẽ ra rồi tuyên bố với các quốc gia trong vùng là của họ, còn thêm nhóm chữ “không thể tranh cãi” nữa chớ. Nếu phải, thì liệu lãnh đạo CSVN phản ứng thế nào, vì đến nay CSVN mới phản ứng như trước đây đã từng phản ứng, tuy lời lẽ có phần cứng rắn.
                    Liệu Trung Cộng còn dám ngang nhiên rượt đuổi tàu thuyền của ngư phủ như trước đây nữa không?
                    Viết xong câu tự hỏi trên đây thì tôi nhận được các bản tin như sau:
                    (1) Ngày 5 & 6/7/2012, tàu Trung Cộng bắt 6 tàu cá Việt Nam đang bỏ lưới ngoài khơi Hoàng Sa. Ba ngày sau, 3 tàu có giá trị thấp được Trung Cộng cho về nhưng tất cả tài sản trên tàu bị chúng tịch thu, con lại 3 tàu có giá trị cao vẫn bị chúng cầm giữ.
                    (2) Ngày 13/7/2012, đại diện Ủy Ban Biên Giới Quốc Gia thuộc Bộ Ngoại Giao CSVN ra phản ứng: “Lập trường của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã được khẳng định nhiều lần. Hoạt động khai thác của ngư dân Trung Quốc ở khu vực quần đảo Trường Sa là phi pháp, xâm phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo này. Việt Nam yêu cầu phía Trung Quốc có trách nhiệm giáo dục, hướng dẫn ngư dân tôn trọng chủ quyền, lãnh thổ của Việt Nam, tuân thủ luật pháp quốc tế".
                    Vậy là, Bộ Ngoại Giao CSVN chỉ tốn một trang giấy với khoảng 30 phút là tối đa để phổ biến văn bản nói lên phản ứng trước hành động ngang ngược của Trung Cộng, là xong. Với lời khẳng định của ông Tư Lệnh Vùng 3 Hải Quân trước mặt ông Sang “lực lượng của ông luôn bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc” cũng là xong. Vậy là đoàn tàu cá 30 chiếc của Trung Cộng, cứ ung dung mà tha hồ đánh cá trong vùng biển Việt Nam, cứ như đang trong ao hồ của chúng nó vậy. Trong khi 3 tàu cá Việt Nam tiếp tục “bị nghỉ ngơi” trong tay của Trung Cộng tại Hoàng Sa.
                    Còn ghê gớm hơn nữa. Theo bản tin của nhật báo Hải Nam, tính đến 1 giờ trưa ngày 1/8/2012, Trung Cộng đã “đổ ra Biển Đông” 8.994 chiếc tàu đánh cá của tỉnh Hải Nam và Quảng Đông đánh bắt cá trên Biển Đông mà họ gọi là “ngư trường Tam Sa”. Vậy là Trung Cộng thật sự biến Biển Đông thành ao nhà của chúng rồi, nhưng không thấy những chiến hạm tối tân, những phi cơ tối tân, những hỏa tiển tối tân của Việt Nam đem ra mà hành sử chủ quyền của Việt Nam cho Trung Cộng biết tay. Chẳng lẽ cấp lãnh đạo của Vùng 3 Hải Quân đã khẳng định với ông Trương Tấn Sang rằng: “Lực lượng Vùng 3 Hải Quân sẽ bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc, bảo vệ các hoạt động kinh tế trong vùng đặc quyền của Việt Nam dù đối mặt với nhiều khó khăn”. Vậy là xong rồi sao?
                    Kết luận.
                    Với chính sách dối trá trong giáo dục, đẵ dẫn đến một xã hội băng hoại mà các nhà giáo cũng như các nhà trí thức hằng quan tâm, phơi trải nỗi uất ức trên những trang Bloggers. Với chính sách bóp nghẹt tin tức chính trị và đời sống, đã dẫn đến một xã hội phẫn uất đến nghẹt thở mà giới nhà báo đã thố lộ, như những lời than từ đáy sâu tâm hồn của người “biết cầm bút và còn giữ gìn đạo nghĩa”, dù sống trong xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hy vọng là tôi vừa giúp Các Anh có được nét nhìn từ góc cạnh khác với nét nhìn thường ngày của Các Anh, vừa gợi lên những điều mà Các Anh cần suy nghĩ để đánh giá lãnh đạo đảng với lãnh đạo nhà nước Các Anh đã dối trá che giấu xấu xa như thế nào với đồng bào, đã hèn hạ nhục nhã với Trung Cộng như thế nào, đã cắt xén cướp đoạt trấn lột như thế náo mà tài sản của họ kinh khủng trong khi đa số người dân và chính Các Anh cùng gia đình Các Anh sống trong nghèo khổ thiếu thốn, nhất là thiếu hẳn tình người trong xã hội chủ nghĩa!
                    Tôi mong Các Anh bình tâm mà nhìn chuỗi sự kiện đã và đang diễn ra, và suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính mình. Các Anh hãy dứt khoát mà đứng vào hàng ngũ tuổi trẻ, trí thức, đồng bào, giành lại quyền sống thật sự đúng nghĩa cho bản thân Các Anh, cho gia đình Các Anh, và cho toàn dân được sống trong một xã hội dân chủ pháp trị, được ngẫng cao đầu khi cầm “Sổ Thông Hành” mà trong nước gọi là “Hộ Chiếu” mỗi khi đến các quốc gia văn minh lịch sự, được hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước.
                    Tôi vững tin rằng, bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những `Người Lính Chúng Tôi- vẫn hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào, những thế hệ làm nên lịch sử.

                    “Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng”.
                    Texas, tháng 8 năm 2012
                    Last edited by tieuchuy; 08-16-2012, 12:03 AM.

                    Comment


                    • #11
                      Thư số 11 gởi Người Lính Quân Đội Nhân Việt Nam

                      Phạm Bá Hoa

                      Tôi tên Phạm Bá Hoa, chào đời năm 1930 tại đồng bằng sông Cửu Long. Tôi phục vụ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 21 năm trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc, sau đó tôi bị tù không án 12 năm 3 tháng trong các “trại tập trung” mà lãnh đạo của Các Anh gọi là “trại cải tạo”. Hiện cư ngụ tại Hoa Kỳ. Tôi vẫn hãnh diện về màu cờ sắc áo mà tôi đã phục vụ. Cho đến nay, tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam khi mà quê hương tôi chưa có dân chủ, tự do, và nhân quyền thật sự.
                      Xin được gọi “Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam” là Các Anh để tiện trình bày. Chữ “người lính” mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng, gọi chung là “cấp lãnh đạo”. Là người lính trong quân đội “Nhân Dân”, chắc rằng Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Các Anh trong quân đội nhân dân mà. Với lại, Tổ Quốc & Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng chính trị nào cũng chỉ là một giai đoạn của lịch sử. Và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.


                      Với thư này, tôi hy vọng giúp Các Anh nhận ra một chuỗi hành động ngang ngược lấn chiếm Biển Đông của Trung Cộng, trong khi lãnh đạo CSVN chỉ phản ứng để vừa làm giảm cơn phẫn nộ của đồng bào, vừa vuốt ve quy lụy Trung Cộng. Đồng thời, tôi giúp Các Anh vài giả thuyết về hành động của Trung Cộng trong thời gian trước mắt.

                      Thứ nhất. Luật Biển 1982 của Liên Hiệp Quốc. (Tóm tắt từ Người Sưu Tầm, 17/7/2012)

                      Năm 1967, các tuyên bố khác nhau về lãnh hải đã được nêu ra tại Liên Hiệp Quốc. Năm 1973, Hội Nghị Liên Hiệp Quốc lần thứ 3 về Luật Biển tổ chức tại New York, với hơn 160 quốc gia tham dự. Hội nghị kéo dài đến năm 1982, đạt đến kết quả với sự đồng thuận của Hội Nghị và một Công Ước hình thành, có hiệu lực từ ngày 16/11/1994. Đến lúc ấy mới có 60 quốc gia ký vào Công Ước.

                      Công Ước qui định các vùng:

                      “Đường cơ sở” (baseline) dọc theo bờ biển, được định nghĩa như sau: “Thông thường, một đường biển cơ sở dọc theo bờ biển khi thủy triều xuống, nhưng khi đường bờ biển bị thụt sâu, có đảo ven bờ, hoặc đường bờ biển rất không ổn định, có thể sử dụng các đường thẳng làm đường cơ sở”.
                      Vùng nội thủy, bao phủ tất cả vùng biển và đường thủy ở bên trong đường cơ sở. Tại đây, quốc gia ven biển được tự do qui định về kiểm soát việc sử dụng, và sử dụng mọi tài nguyên. Các tàu thuyền ngoại quốc không có quyền đi lại tự do trong các vùng nội thủy.
                      Vùng lãnh hải, nằm ngoài đường cơ sở có chiều rộng 12 hải lý. Tại đây, quốc gia ven biển được quyền tự do qui định về kiểm soát việc sử dụng, và sử dụng mọi tài nguyên. Các tàu thuyền ngoại quốc được quyền "qua lại nhưng không gây hại" thì không cần xin phép nước chủ nhà. Đánh cá, làm ô nhiễm, dùng vũ khí, và do thám, không được xếp vào dạng "không gây hại". Nước chủ nhà có thể tạm thời cấm việc "qua lại nhưng không gây hại" này tại một số vùng trong lãnh hải của mình khi cần bảo vệ an ninh.
                      Vùng nước quần đảo. Công Ước đưa ra định nghĩa về các quốc gia quần đảo trong phần IV, cũng như định nghĩa về việc các quốc gia này có thể vẽ đường biên giới lãnh thổ của mình như thế nào. Đường cơ sở được vẽ giữa các điểm ngoài cùng nhất của các đảo ở ngoài cùng nhất, bảo đảm rằng các điểm này phải đủ gần nhau một cách thích đáng. Mọi vùng nước bên trong đường cơ sở này sẽ là vùng nước quần đảo và được coi là một phần của lãnh hải quốc gia đó.
                      Vùng tiếp giáp lãnh hải. Bên ngoài giới hạn 12 hải lý của lãnh hải là một vành đai có bề rộng 12 hải lý, đó là vùng tiếp giáp lãnh hải. Tại đây, nước chủ nhà có thể thực thi luật pháp của mình đối với các hoạt động như buôn lậu hoặc nhập cư bất hợp pháp.
                      Vùng đặc quyền kinh tế. Rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Trong vùng này, quốc gia ven biển được hưởng độc quyền trong việc khai thác tất cả tài nguyên thiên nhiên. Khái niệm vùng đặc quyền kinh tế được đưa ra để ngừng các cuộc xung đột về quyền đánh cá, tuy rằng khai thác dầu mỏ cũng đã trở nên một vấn đề quan trọng. Trong vùng đặc quyền kinh tế, nước ngoài có quyền tự do đi lại bằng đường thủy và đường hàng không, tuân theo sự kiểm soát của quốc gia ven biển. Ngoại quốc cũng có thể đặt các đường ống ngầm và cáp ngầm.
                      Thềm lục địa. Là vành đai mở rộng của lãnh thổ đất cho tới mép lục địa (continental margin), hoặc 200 hải lý tính từ đường cơ sở, chọn lấy giá trị lớn hơn. Thềm lục địa của một quốc gia có thể kéo ra ngoài 200 hải lý cho đến mép tự nhiên của lục địa, nhưng không được vượt quá 350 hải lý, không được vượt ra ngoài đường đẳng sâu 2500m một khoảng cách quá 100 hải lý. Tại đây, nước chủ nhà có độc quyền khai thác khoáng sản và các nguyên liệu không phải sinh vật sống.
                      Bên cạnh các điều khoản định nghĩa các ranh giới trên biển, Công Ước còn thiết lập các nghĩa vụ tổng quát cho việc bảo vệ môi trường biển, và bảo vệ quyền tự do nghiên cứu khoa học trên biển. Công Ước cũng tạo ra một cơ chế pháp lý mới cho việc kiểm soát khai thác tài nguyên khoáng sản tại các lòng biển sâu nằm ngoài thẩm quyền quốc gia, được thực hiện qua Ủy Ban Đáy Biển Quốc Tế (International Seabed Authority).
                      Các nước không có biển được quyền có đường ra biển mà không bị đánh thuế giao thông bởi các nước trên tuyến đường nối với biển đó”.

                      Ký và phê chuẩn. Các quốc gia bắt đầu ký từ ngày 10 tháng 12 năm 1982. Bắt đầu hiệu lực ngày 16 tháng 11 năm 1994.

                      Thứ hai. Đường Lưỡi Bò 2009 của Trung Cộng.

                      Ngày 7/5/2009, Trung Cộng phản đối bản đệ trình của riêng Việt Nam và bản đệ trình chung của Việt Nam với Malaysia gởi đến Ủy Ban Biên Giới Thềm Lục Địa (CLCS) Liên Hiệp Quốc. Kèm theo Công Hàm phản đối là một bản đồ, có vẽ một đường hình chữ U với nhiều chấm bao trùm phần lớn Biển Đông. Thật ra, trong hội nghị của Hội Quốc Liên năm 1951 tại San Francisco (Hoa Kỳ) có 51 phái đoàn tham dự, lúc ấy phái đoàn Trung Cộng trưng dẫn bản đồ do Trung Hoa Quốc Gia thời Tổng Thống Tưởng Giới Thạch vẽ ra, bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm trong đường chữ U có hình dáng cái “lưỡi bò” chiếm khoảng 80% Biển Đông là thuộc chủ quyền của Trung Cộng. Sự trưng dẫn này bị 46 phái đoàn phản đối. Cũng trong hội nghị này, phái đoàn Quốc Gia Việt Nam do Thủ Tướng Trần Văn Hữu hướng dẫn, đã trình bày với những tài liệu chứng minh Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam từ trong lịch sử, thì không một phái đoàn nào phản đối, đã chứng tỏ tài liệu lịch sử chứng minh được quốc tế công nhận chủ quyền của Việt Nam là đúng.
                      Các Anh có nhận ra sự thành công của phái đoàn quốc gia Việt Nam trong sự kiện chứng minh Hoàng Sa Trường Sa là của Việt Nam từ trong lịch sử, trong khi Trung Cộng trình bày thị bị phản bác không? Và Các Anh có biết Biển Đông rộng đến mức nào không? Tôi vào trang Web thấy vài con số như sau: “Biển Đông (đối với Việt Nam) với diện tích rộng 2.974.100 cây số vuông, lớn hạng thứ 5 trong số 10 đại dương lớn nhất thế giới. Vậy, 80% của Biển Đông nằm trong “đường lưỡi bò” mà Trung Cộng tự cho là của họ đã chiếm đến 2.379.928 cây số vuông, trong đó có hơn phân nửa thuộc chủ quyền của Việt Nam từ trong lịch sử xa xưa. Trong khi lãnh đạo Trung Cộng bất chấp luập pháp quốc tế mà đạp đầu đạp cổ Việt Nam, thì nhóm lãnh đạo của Các Anh vẫn nâng niu cái gọi là “16 chữ vàng và 4 tốt” trong bang giao với Trung Cộng.
                      Các Anh nghĩ gì về nhóm lãnh đạo trong Bộ Chính Trị? Nếu Các Anh muốn tìm hiểu thêm, hãy đọc tiếp đoạn phỏng vấn ngắn dưới đây để thấy mưu đồ của Trung Cộng chiếm lấy Biển Đông như thế nào. Ngày 16/8/2012, phóng viên của TTXVN phỏng vấn ông Phạm Nguyên Long, một thời là nghiên cứu viên cao cấp của Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam.
                      Phóng viên: “Những ngày vừa qua, sau khi Việt Nam công bố về những tấm bản đồ cổ của Trung Quốc không có hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, và dù đang có xu hướng bị Mỹ phong tỏa, nhưng Trung Quốc vẫn cho in bản đồ giả, rồi tuồn vào Việt Nam. Điều đó nói lên rằng, Trung Quốc vẫn nhất quyết độc chiếm Biển Đông dù uy tín quốc gia đang bị hạ thấp. Vậy, Việt Nam nên xử lý như thế nào?”
                      Ông Phạm Nguyên Long: “Chúng ta tuyên bố, không những phải tuyên truyền cho nhân dân Việt Nam biết những bản đồ về sự thật lãnh thổ Trung Quốc trong lịch sử, mà còn phải cho nhân dân Trung Quốc biết điều đó. Để đáp lại hành động này của Việt Nam, Trung Quốc cũng đưa ra những bản đồ sai sự thật và tuồn sang Việt Nam trước cả khi Việt Nam cho người dân Trung Quốc biết. Đó là những thủ đoạn đầy tính mưu lược của Trung Quốc”.

                      Thứ ba. Luật Biền 2012 của Việt Nam.

                      Luật Biển có 55 Điều trong 7 Chương, được Quốc Hội thông qua ngày 21/6/2012, Chủ Tịch nước ký ban hành ngày 17/7/2012, và sẽ có hiệu lực từ ngày 1/1/2013.
                      Điều 1. Phạm vi điều chỉnh. Luật này quy định về đường cơ sở, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, các đảo, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và quần đảo khác thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam; hoạt động trong vùng biển Việt Nam; phát triển kinh tế biển; quản lý và bảo vệ biển, đảo.
                      Điều 2. Áp dụng pháp luật. Trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của Luật này với quy định của luật khác về chủ quyền, chế độ pháp lý của vùng biển Việt Nam thì áp dụng quy định của Luật này. (2) Trường hợp quy định của Luật này khác với quy định của điều ước quốc tế mà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là thành viên thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.
                      Các Anh có thấy là Luật Biển được ban hành có muộn không? Với tôi, “dù muộn còn hơn không”. Tại sao muộn? Tại vì nhóm lãnh đạo CSVN nhu nhược, sợ Trung Cộng lấy lại cái gọi là “16 chữ vàng và 4 tốt” thì mất ghế ngồi, mất quyền lực, mất quyền lợi, thậm chí mất mạng như tình cảnh ông Võ Văn Kiệt vậy. Mãi đến lúc, không phải nước mới đến chân mà là nước ngập đến đùi, đành phải ra lệnh Quốc Hội thông qua Luật Biển để vuốt ve đồng bào bày tò lòng yêu nước qua những cuộc biểu tình phản đối Trung Cộng “gậm nhấm” biển đảo của Việt Nam. Nhân đây, tôi nhắc để Các Anh nhớ lại (nếu đã biết) hoặc để biết rõ (nếu chưa biết) vài sự kiện quan trọng, cho thấy Trung Cộng “gậm nhấm” đất liền và biển cả Việt Nam chúng ta như thế nào, và phản ứng của một số lãnh đạo CSVN hèn hạ ra sao:
                      (1) Năm 1988, với chính sách “gậm nhấm”, Trung Cộng lần lượt đánh chiếm hoặc lấn chiếm một số đảo trong quần đảo Trường Sa. Cứ mỗi lần chiếm đóng một đảo, lãnh đạoTrung Cộng với lãnh đạo CSVN tuyên bố hai bên cùng giải quyết trong hòa bình, nhưng rồi lãnh đạo CSVN vẫn để nguyên trạng mất đất chớ không giải quyết gì cả, và một đảo khác lại vào tay Trung Cộng. Cứ như vậy mà 8 đảo lần lượt đã vào tay Trung Cộng.
                      (2) Ngày 30/12/1999 tại Bắc Kinh, lãnh đạo CSVN với lãnh đạo Trung cộng đã ký Hiệp Ước biên giới trên bộ, và ông Nông Đức Mạnh với tư cách Chủ Tịch Quốc Hội đã phê chuẩn ngày 9/6/2000. Theo đó, biên giới Việt Nam mất 789 cây số vuông vào tay Trung Cộng, bao gồm Ải Nam Quan và 3/4 thác Bản Giốc.
                      (3) Ngày 25/12/2000, Chủ Tịch nhà nước Trần Đức Lương sang Trung Cộng với danh nghĩa thăm viếng thiện chí, nhưng thật sự là ký Hiệp Ước bán 11.362 cây số vuông trên vịnh Bắc Việt với giá 2.000.000.000 mỹ kim (2 tỷ) cho lãnh đạo Trung Cộng tại Bắc Kinh.
                      (4) Ngày 3/6/2011, bên lề hội nghị quốc tế tại khách sạn Shangri-La ở Singapore, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh, khẳng định với Bộ Trưởng Quốc Phòng Trung Cộng Lương Quang Kiệt rằng : "Việt Nam và Trung Quốc là anh em tốt, đối tác tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt" (4 tốt). Theo TTXVN, Đại Tướng Phùng Quang Thanh còn nói với Trung Cộng, là vụ tàu thăm dò địa chấn Bình Minh 02, ngày 26/5/2011 bị tàu hải giám của Trung Cộng cắt cáp, chỉ là chuyện nhỏ, không ảnh hưởng đến "truyền thống hữu nghị tốt đẹp giữa hai dân tộc Việt-Trung".
                      Các Anh vẫn nhớ là đã có hằng ngàn tàu thuyền của ngư dân Việt Nam đã bị tàu của Trung Cộng đâm chìm, tài sản trên tàu thuyền bị chúng tịch thu, ngư dân bị chúng bắt và chỉ thả ra khi đóng tiền chuộc, vậy mà quân đội “Nhân Dân” Việt Nam nói chung và Hải Quân “Nhân Dân” nói riêng, đã im lặng như Người Lính vô cảm với Nhân Dân dù danh xưng của quân đội gắn liền hai chữ “Nhân Dân”.
                      (5) Ngày 28/8/2011, theo bản tin thông tấn xã Việt Mam, thì Tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ Trưởng Quốc Phòng Việt Nam, trong buổi họp với Tướng Mã Hiểu Thiên, Phó Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội Trung Cộng tại Bắc Kinh, Tướng Vịnh nói: "Nếu Việt Nam cần sự ủng hộ, đồng cảm, hợp tác và phát triển thì còn có ai hơn một nước Trung Quốc xã hội chủ nghĩa láng giềng... Việt Nam sẽ ‘kiên quyết xử lý vấn đề tụ tập đông người ở Việt Nam, và dứt khoát không để sự việc tái diễn... Việt Nam không bao giờ dựa vào bất kỳ một nước nào để chống Trung Quốc”.
                      (6) Trong những năm 2010, 2011, và nửa đầu năm 2012, tàu Trung Cộng thường xuyên săn đuổi ủi chìm tàu cá Việt Nam, và bắt giữ đòi tiền chuộc hằng ngàn ngư phủ Việt Nam, trong khi tài sản của ngư dân Việt Nam thì bị chúng tịch thu.
                      Vậy mà Công An Nhân Dân -tôi nhấn mạnh hai chữ “Nhân Dân”- thẳng tay đàn áp Nhân Dân qua 12 cuộc biểu tình kể từ cuộc biểu tình lần 1 vào ngày 5/6/2011 và 3 cuộc biểu tình trong tháng 6 &7/2012, bày tỏ lòng yêu nước phản đối Trung Cộng lấn chiếm Biển Đông của Việt Nam. Các Anh vẫn chưa quên hành động đáng phẫn nộ đó chớ? Và Các Anh đang nghĩ gì?

                      Thứ tư. Hành động của Trung Cộng trên Biển Đông.

                      Đặc biệt là những hoạt động của Trung Cộng trên Biển Đông trong những tháng vừa qua, có tính cách thách thức Việt Nam lẫn Phi Luật Tân:

                      (1) Các Anh có biết là trong thời gian qua, trên Biển Đông chỉ có tàu của Trung Cộng tuần tiểu bảo vệ từng đoàn tàu đánh cá của chúng tranh đoạt hải sản, mà lẽ ra là vùng hoạt động của Hải Quân Việt Nam bảo vệ tàu cá & ngư dân Việt Nam không? Chưa nói đến Trung Cộng đang chiếm đoạt tài nguyên dưới đáy biển. Như vậy, Trung Cộng xem Biển Đông như cái ao của chúng rồi.
                      (Tam Sa có phi trường và quân đội)

                      (2) Ngày 24/7/2012, Trung Cộng thành lập thành phố Tam Sa, là một thành phố cấp địa khu, thuộc tỉnh Hải Nam. Thành phố được giao một khu vực mà nhiều nước tranh chấp chủ quyền: Quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa, quần đảo Trung Sa (bãi Macclesfield và bãi cạn Scarborough), cùng vùng biển chung quanh. Trung Cộng đặt chính quyền thành phố Tam Sa tại đảo Phú Lâm mà họ gọi là Vĩnh Hưng, thuộc quần đảo Hoàng Sa. Bộ chỉ huy quân sự cũng đóng trên đảo Phú Lâm. Trung Cộng đã công bố danh sách 45 đại biểu vừa được bầu vào cơ quan lập pháp thành phố Tam Sa.

                      (3) Ngày 1/8/2012, theo bản tin của tỉnh Hải Nam thì họ sẽ làm chủ Biển Đông với hạm đội tàu cá lên đến 22.000 chiếc và 225.000 ngư dân. Trong số ngư dân, có đến 110.000 ngư dân sắp được võ trang. Riêng đoàn tàu cá loại lớn với 5.000 chiếc, sẽ dàn trải khắp vùng biển từ hải phận Bà Rịa Vũng Tàu đến quần đảo Trường Sa. Ngày 2/8/2012, tỉnh Quảng Đông cũng cho biết, hơn 1.000 tàu cá của thành phố Dương Giang đã quay mũi ra Biển Đông, ngay sau lời của Phó Chủ Tịch tỉnh Quảng Đông Liu Kun tuyên bố lễ hội đánh cá bắt đầu. “Phải chăng, Trung Cộng sử dụng đoàn tàu đánh cá khổng lồ của chúng để bao vây lấn chiếm Biển Đông, hay ít nhất là bao vây vùng đánh cá rộng lớn trên Biển Đông của Việt Nam?”

                      hạm đội tàu cá
                      Trong khi hành động của Trung Cộng xem Biển Đông như ao nhà của chúng, vậy mà ngày 28/7/2012, Bộ Quốc Phòng CSVN đã gọi hàng trăm sĩ quan thuộc các Quân Chủng, Binh Chủng, các Quân Khu đã từng học quân sự ở Trung Cộng đền họp mặt để chào mừng ngày thành lập quân đội Trung Cộng 1 tháng 8, do Tướng Phùng Quang Thanh, Bộ Trưởng Quốc phòng, và Tướng Ngô Xuân Lịch, Chủ Nhiệm Tổng Cục Chính Trị chủ tọa (Các Anh gọi là chủ trì). Ngoài ra, còn có Thứ Trưởng là Tướng Nguyễn Thành Cung, Tướng Nguyễn Chí Vịnh, và Tướng Mai Quang Phấn, tham dự. Đặc biệt là sự có mặt của đại biện lâm thời Trung Cộng Khương Tái Đông, cùng với tùy viên quân sự của họ.
                      Theo bản tin Thông Tấn Xã Việt Nam, đây là “dịp thể hiện lòng biết ơn sự giúp đỡ của Trung Cộng đào tạo cán bộ cho quân đội Việt Nam, đồng thời biểu dương các sĩ quan từng được Trung Quốc đào tạo đã đóng góp chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược”. Tướng Phùng Quang Thanh nói: “Chúng tôi luôn trân trọng, ghi nhớ và mãi biết ơn sự giúp đỡ chí tình, chí nghĩa, to lớn có hiệu quả mà Đảng, Chính phủ, nhân dân và Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã dành cho Việt Nam”. Thay mặt quân đội Việt Nam, ông Thanh gửi tới Quân Ủy Trung Ương và quân đội Trung Cộng “lời chúc mừng tốt đẹp nhất nhân ngày thành lập”.
                      Còn báo Quân Đội Nhân Dân của Các Anh, có bài tường thuật chi tiết về “tình cảm biết ơn” của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam đối với quân đội Trung Cộng trong buổi gặp mặt này, dưới dòng chữ “khắc ghi tấm lòng nhường cơm sẻ áo” của Trung Cộng. Trong diễn từ khai mạc, Tướng Mai Quang Phấn khẳng định sự giúp đỡ của Trung Cộng đã đem lại ‘kết quả to lớn cho Việt Nam. Cuộc gặp mặt “vừa bày tỏ lòng biết ơn sự giúp đỡ quý báu của Trung Cộng, vừa là hoạt động thiết thực góp phần tăng cường hơn nữa mối quan hệ hữu nghị hợp tác, đối tác chiến lược toàn diện giữa hai Đảng, Nhà nước, và Quân Đội với Nhân Dân hai nước ngày càng bền chặt”. Trong diễn từ của Tướng P.Q. Thanh, có đoạn “khẳng định đặc biệt coi trọng quan hệ với giải phóng quân Trung Quốc, coi đây là chủ trương nhất quán, và là ưu tiên hàng đầu.
                      Đại Biện lâm thời Trung Cộng là Khương Tái Đông, nhận định: “Quan hệ hai nước đang có bước phát triển tốt đẹp”. Ông Đông còn nhắc đến quan hệ giữa hai nước là “núi liền núi, sông liền sông, vừa là đồng chí vừa là anh em” nữa chớ.
                      Các Anh đọc tiếp đoạn văn ngắn này mà tôi trích từ bài viết của tác giả Vũ Cao Đàm, giúp Các Anh nhận rõ thêm về chính sách bang giao quy lụy của lãnh đạo CSVN đối với Trung Cộng:
                      “Năm 2010, tôi đọc được một bài báo sặc mùi hiếu chiến được đăng trên trang mạng “Trung Quốc Binh Khí Đại Toàn” là một trang mạng của Trung Cộng. Tôi đã dịch sang Việt ngữ và gửi đăng trên trang Bauxite Việt Nam (BVN). Ngay sau khi BVN đăng tải, tôi rất vui mừng vì bản dịch rất nhanh chóng lan truyền trên các trang mạng và blog của Cộng Đồng Việt Nam, và nhận được những lời bình luận sôi sục tình cảm yêu nước thương nòi, căm thù bọn cộng sản xâm lược khát máu Đại Hán, và thức tình lương tri của những ai đang còn mê muội ảo tưởng vào giọng lưỡi xảo trá “đồng chí quốc tế vô sản, anh em môi hở răng lạnh, bốn tốt, và mười sáu chữ vàng”. Bài báo kết thúc bằng lời nguyền: “Hãy giết chết bọn giặc Việt Nam để làm vật tế cờ cho trận chiến Nam Sa”.
                      “Mấy hôm nay, bỗng dưng dân tình lại được nghe một số phương tiện truyền thông ồn ào những bản hợp ca… “biết ơn Đảng Cộng sản Trung Quốc anh em”, tôi sực nhớ đến bài báo “thắm tình anh em, đồng chí, môi hở răng lạnh” của cái “Đảng bạn đểu cáng” mà tôi đã dịch và gửi anh Nguyễn Huệ Chi cho đăng trên trang BVN, tôi bèn tìm lại bài báo gợi ý BVN đăng lại để toàn dân ta thêm một dịp nhận rõ kẻ thù ngàn đời của dân tộc. Thế rồi tôi đặt câu hỏi: Vì sao cái mà một số kẻ được gọi là “đảng anh em” lại đi rao giảng cái bài “giết giặc Việt”? Vì sao chúng gọi nhân dân “anh em” là “giặc”? Nhưng đau hơn, là vì sao mà một số người vẫn tâng bốc chúng là “ân nhân”, lại vuốt ve chúng là “anh em đồng chí”? Họ“khôn khéo hay họ mơ ngủ?”
                      Đến đây Các Anh nhận ra “một số người vẫn tâng bốc ...” mà ông Vũ Cao Đàm nói đến, chính là nhóm lãnh đạo “đỉnh cao gian trá” trong Bộ Chính Trị, vô cùng khiếp nhược với lãnh đạo Trung Cộng rồi chớ?
                      Bây giờ tôi giải thích về ý nghĩa hai chữ “gậm nhấm” mà tôi sử dụng ở trên. Vào nửa cuối thế kỷ 13, khi trao quyền cho con (Trần Anh Tông), Vua Trần Nhân Tông có lời dạy rằng: “Các người chớ quên, chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái đạo làm người. Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đường làm một nẻo, vô luân. Cho nên cái họa lâu đời của ta là họa Trung Hoa. Chớ coi thường chuyện vụn vặt xảy ra trên biên ải, các việc trên khiến Ta nghĩ tới chuyện khác lớn hơn là họa ngoại xâm. Họ không tôn trọng biên giới theo qui ước, cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để tranh chấp. Không thôn tính được ta, thì gậm nhấm ta. Họ gậm nhấm đất đai và hải đảo của ta, lâu dần họ sẽ biến giang san của ta từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim chích. Vậy, các ngươi phải nhớ lời ta dặn: "Một tấc đất của tiền nhân để lại, cũng không được để lọt vào tay kẻ khác". Ta cũng để lời nhắn nhủ đó như một lời di chúc cho muôn đời con cháu."
                      Các Anh có cảm thấy thấm thía không? Lời dạy từ thế kỷ 13, nay là thế kỷ 21 mà vẫn nguyên giá trị, vì rõ ràng và chắc chắn, Trung Cộng ià -kẻ thù của dân tộc chúng ta từ trong lịch sử- đang gậm nhấm “cái tổ đại bàng” Việt Nam chúng ta. Với mức độ khiếp nhược của nhóm lãnh đạo CSVN, rồi bao lâu nữa đây, “cái tổ đại bàng” này không chỉ trở thành “cái tổ chim chích” trong lời răn dạy của Vua Trần Nhân Tông, mà trở thành “cái gì đó nằm trong ống tay áo của Trung Cộng”. Cái gì đó, rất có thể là một văn bản chánh thức “Việt Nam trở về với nước Tàu” đúng theo “Biên Bản tối mật” trong cuộc họp giữa Nguyễn Văn Linh Tổng Bí Thư đảng CSVN, và Đỗ Mười Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng, đại diện lãnh đạo CSVN, với Giang Trạch Dân Tổng Bí Thư, và Lý Bằng Thủ Tướng, đại diện lãnh đạo Trung Cộng, trong ngày 3 & 4/9/1990 tại thành phố Thành Đô của Trung Cộng, mà Wikileaks đã phổ biến giữa năm 2011. Tôi trích đoạn cuối Biên Bản đó giúp Các Anh đọc tài liệu này để hiểu rõ lãnh đạo của Các Anh: “....Việt Nam bày tỏ mong muốn đồng ý sẵn sàng chấp nhận, và đề nghị phía Trung Hoa để Việt Nam được hưởng quy chế “khu tự trị” trực thuộc chính quyền trung ương tại Bắc Kinh như Trung Hoa đã từng dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây…. Phía Trung Hoa đã đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên, cho thời hạn phía Việt Nam trong 30 năm (1990-2020) để đảng CSVN giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Hoa”.
                      Đến đây, Các Anh hãy đọc lại loạt thư tôi gởi Các Anh từ số 1 hồi tháng 11/2011 đến Thư số 10 hồi tháng 8 vừa qua (2012), rồi kết những sự kiện trong các thư đó vào một chuỗi, để Các Anh khả dĩ có đủ yếu tố mà đánh giá: “Liệu có phải các nhóm lãnh đạo trong Bộ Chính Trị CSVN, đã và đang đưa dân tộc Việt Nam trở thành dân tộc thiểu số của Trung Cộng vào năm 2020 không?” Các Anh hãy chứng nghiệm trong thực tế để xác định hành động của lãnh đạo Các Anh, là những vũ khí tối tân mà lãnh đạo CSVN mới mua chỉ để vuốt ve sự phẫn nộ của đồng bào, chớ chưa một lần sử dụng để ngăn chận hành động của Trung Cộng rượt đuổi ủi chìm tàu cá của ngư dân Việt Nam, và hành động lấn chiếm đảo biển của Việt Nam, thậm chí cũng không dám đụng đến “hạm đội tàu cá” của Trung Cộng đang tràn lan tưởng như đen ngòm trên Biển Đông nữa..

                      Thứ năm. Giả thuyết về hành động của Trung Cộng.

                      Căn cứ vào một loạt hành động của Trung Cộng ngay trước và sau khi Quốc Hội Việt Nam thông qua Luật Biển ngày 21/6/2012, tôi ước tính những hành động có tính cách chiến lược của Trung Cộng trong thời gian trước mắt, dưới dạng “giả thuyết”:
                      Giả thuyết 1 và phân tách. Trong khi Lục Quân sẳn sàng dọc biên giới Trung-Việt, lực lượng công nhân Tàu sẳn sàng tại các công trường khắp nội địa Việt Nam, thì một lực lượng nhỏ của Hải Quân ngụy trang dưới dạng tàu Hải Giám hay tàu Tiếp Liệu chẳng hạn, yểm trợ “Hạm Đội Tàu Cá” gần 30.000 chiếc mà ngư dân được võ trang dưới tên gọi “Dân Quân Biển” của Trung Cộng lấn chiếm từng đảo rồi từng đảo, dẫn đến các đảo và quần đảo của Việt Nam lần l ượt sẽ vào tay Trung Cộng. Cũng nên lưu ý, cộng sản nói chung và Trung Cộng nói riêng, rất gian manh mánh khóe, cho nên rất có thể Dân Quân Biển của họ chính là “Thủy Quân Lục Chiến” của họ ngụy trang đó.
                      Với giả thuyết này, Trung Cộng tránh né được sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ và của Phi Luật Tân, nhưng với Việt Nam chắc Trung Cộng đánh giá “chẳng ra gì” đâu. Dù rằng trong hai năm trở lại đây, đã nhiều lần Hoa Kỳ khẳng định quyền lợi hàng hải của mình trên Biển Đông, và để chứng minh những lời tuyên bố trong những hội nghị trong vùng Đông Nam Á và trong những hội nghị quốc tế, Hoa Kỳ chánh thức tuyên bố trở lại vùng Châu Á Thái Bình Dương. Với bóng dáng liên minh giữa Hoa Kỳ - Úc Đại Lợi - Ấn Độ, góp phần nói lên sự trở lại của Hoa Kỳ trong thế phòng thủ chung vùng này, mà khu vực trọng yếu là hành lang Biển Đông nối vào eo biển Malacca phía nam để qua Ấn Độ Dương, và ngược lên ngang qua quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trước khi đến các quốc gia vùng Đông Bắc Á Châu & Thái Bình Dương. Thêm nữa, ngày 26/07/2012, Ông Leon Panetta, Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ, chấp thuận kế hoạch điều động phi đội máy bay chiến đấu tàng hình F-22 đến căn cứ không quân Hoa Kỳ tại Nhật Bản.
                      Tôi vẫn không quên là trong thời gian gần đây, Không Quân với Hải Quân của Phi Luật Tân lẫn của Việt Nam, được gia tăng đáng kể về khả năng tuần thám và chiến đấu. Tuy chưa phải là hùng mạnh so với hai quân chủng đó của Trung Cộng, nhưng cũng thể hiện ít nhiều về trách nhiệm bảo vệ phần lãnh hải của mình, nhất là Phi Luật Tân. Còn lãnh đạo CSVN, mua để phô trương chớ không để ngăn chận Trung Cộng mà thực tế đã chứng minh điều đó, có lẽ họ “sợ mất 16 chữ vàng và 4 tốt” chăng?
                      Dĩ nhiên là Trung Cộng thừa biết sức mạnh của Hoa Kỳ, nhưng rất có thể Trung Cộng lợi dụng điều mà Trung Cộng cho rằng, cả hệ thống chính trị Hoa Kỳ đang bận rộn với cuộc bầu cử Tổng Thống và Nghị Sĩ cùng Dân Biểu vào đầu tháng 11/2012 tới đây, mà sử dụng “Hạm Đội Tàu Cá” gần 30.000 chiếc để “gậm nhấm” Biển Đông. Nếu áp dụng giả thuyết này, cầm chắc là Trung Cộng sẽ phải “tứ bề thọ địch” về ngoại giao nhiều hơn là về quân sự. Nhưng, nếu Trung Cộng sử dụng Hải Quân với Không Quân tấn công toàn diện Biển Đông thì tổn thất khó mà lường được trước sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ, dù Hoa Kỳ đang bận rộn bầu cử Tổng Thống. Nhưng nếu Hoa Kỳ không tham chiến, hóa ra Hoa Kỳ là “con cọp giấy” sao? Vì Hoa Kỳ đã nhiều lần tuyên bố Hoa Kỳ có quyền lợi trên hành lang Biển Đông mà.
                      Và như vậy, giả thuyết này với cơ hội Trung Cộng áp dụng ước tính khoảng 40%. Tôi ước tính chỉ đến 40% là vì “Dân Quân Biển” hay “Thủy Quân Lục Chiến” ngụy trang, với nguy cơ rất cao trong khả năng tạo nên trận hải chiến chỉ vì một vài hành động va chạm với đối phương của họ, cho nên Trung Cộng không dại gì mà mạo hiểm để “va đầu vào tứ bề thọ địch về quân sự”.
                      Giả thuyết 2 và phân tách. Sử dụng Hải Quân và Hạm Đội Tàu Cá dàn trải khắp các khu vực trọng yếu trên Biển Đông, Lục Quân vẫn sẳn sàng chiến đấu dọc biên giới Trung-Việt, Không Quân sẳn sàng tại các phi trường gần Hà Nội, Đà Nẳng, và Sài Gòn, Trung Cộng sử dụng lực lượng bộ binh dưới dạng công nhân, hoặc công nhân được trang bị trở thành lực lượng quân sự,và các cấp lãnh đạo công ty trở thành các cấp chỉ huy quân sự, thực hiện cuộc đảo chánh tai Hà Nội, Đà Nẳng, Sài Gòn, và Cần Thơ, lật đổ nhóm lãnh đạo trong Bộ Chính Trị và bộ máy đảng, lật đổ chánh phủ và bộ máy nhà nước, đưa các tay chân thân tin cũng là Việt Nam nhưng là những tay sai trung thành của Trung Cộng lên cầm quyền, và tất cả sẽ đặt dưới sự thống trị của viên chức Trung Cộng như viên Thái Thú ngày xưa chẳng hạn. Trường hợp này, quốc tế khó mà viện dẫn lý do để đưa ra phản ứng quân sự được, dĩ nhiên là tùy mỗi quốc gia sẽ chọn lựa những biện pháp thích ứng trong bang giao với Trung Cộng.
                      Vậy là cả Việt Nam bao gồm Hoàng Sa Trường Sa, vào tay Trung Cộng. trong khi Trung Cộng rất ít tổn thất nhân mạng, rất ít tổn thất dụng cụ chiến tranh, rất ít chi phí, ít cơ hội bị quốc tế lên án cùng với những biện pháp trừng phạt. Song song đó, Trung Cộng được lãnh đạo Cam Bốt tiếp tay canh chừng CSVN từ biên giới Cam Bốt-Việt Nam, giúp tăng thêm thuận lợi cho Trung Cộng, vì Cam Bốt đã chứng tỏ sự trung thành của họ trong vai Chủ Tịch hội nghị ASEAN hồi tháng 7 vừa qua (2012), đến mức hội nghị không đưa ra được bản Tuyên Bố Chung vì bất đồng trên hồ sơ Biển Đông.
                      Giả thuyết này với cơ hội Trung Cộng áp dụng ước tính tới 60%, nhất là trong tình hình giữa các lãnh đạo trong Bộ Chính Trị Việt Nam đang đấu đá nhau quyết liệt vì tranh giành quyền lực quyền lợi (chớ không phải đấu đá vì quốc gia dân tộc đâu).

                      Thứ sáu. Kết Luận.

                      Nhóm lãnh đạo của Các Anh mà tôi gọi đúng với nghĩa đen là “đỉnh cao gian trá” trong Bộ Chính Trị, rõ ràng và chính xác là họ đặt quyền lợi tổ quốc dân tộc dưới quyền lợi của đảng cộng sản, nói cho đúng là họ đặt quyền lợi tổ quốc dân tộc dưới quyền lợi của chính họ. Từ đó, chính sách bang giao với Trung Cộng là chính sách quy lụy phục tùng để đảng cộng sản tồn tại, họ tồn tại, vì vậy mà phản ứng của họ chỉ để vuốt ve sự phẫn nộ của đồng bào thôi. Hẳn là Các Anh còn nhớ, ngày 28/8/2011, Thông Tấn Xã Việt Nam loan tin rằng: ”Trung Tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ Trưởng Quốc Phòng Việt Nam, trong buổi họp với Thượng Tướng Mã Hiểu Thiên, Phó Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội Trung Cộng tại Bắc Kinh, đã tuyên bố: "Nếu Việt Nam cần sự ủng hộ, đồng cảm, hợp tác và phát triển thì còn có ai hơn một nước Trung Quốc xã hội chủ nghĩa láng giềng... Việt Nam sẽ kiên quyết xử lý vấn đề tụ tập đông người ở Việt Nam, và dứt khoát không để sự việc tái diễn... Việt Nam không bao giờ dựa vào bất kỳ một nước nào để chống Trung Quốc”. Vì nhóm lãnh đạo sợ mất ghế ngồi, mất quyền lực, mất quyền lợi, thậm chí là mất mạng dễ dàng, nên không dám hành động trái ý Trung Cộng. Hãy nhớ, cộng sản là chủ nghĩa giết người mà.
                      Các Anh hãy dành chút thì giờ để bình tâm mà nhận định chuỗi sự kiện vừa đọc, và suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính Các Anh chớ không phải tâm hồn của người đảng viên cộng sản. Mong Các Anh đừng đứng nhìn một cách vô cảm nữa, mà hãy đứng về phía đồng bào và hành động đúng với bổn phận công dân là Bảo Vệ Tổ Quốc, Bảo Vệ Nhân Dân.
                      Tôi vững tin rằng, bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi- vẫn hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào, những thế hệ làm nên lịch sử.

                      “Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng”.
                      Texas, tháng 9 năm 2012.
                      *********
                      Last edited by tieuchuy; 09-11-2012, 03:02 AM.

                      Comment


                      • #12
                        Thư số 12 gởi Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam.

                        Phạm Bá Hoa

                        Tôi là một trong hằng triệu Người Lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, chúng tôi bị lãnh đạo CSVN đày đọa trong hơn 200 trại tập trung mà lãnh đạo cộng sản gọi là trại cải tạo. Người 5 năm, 10 năm, thậm chí 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy Quân Lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi chưa bao giờ và sẽ không bao giờ về Việt Nam, cho đến khi nào quê hương tôi có một chế độ tự do và nhân quyền trong một xã hội dân chủ pháp trị.
                        Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Xin gọi Người Lính Quân Đội Nhân Dân một cách ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày. Chữ “Người Lính” viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản chỉ là một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.


                        Với bài này, tôi gởi đến Các Anh 7 vụ trong một chuỗi rung chuyển các tập đoàn kinh tế và các ngân hàng liên quan trực tiếp đến lãnh đạo đảng với nhà nước, nhằm giúp Các Anh nhận rõ mức độ tham nhũng trên những hồ sơ này đã tác hại đến nền kinh tế tài chánh Việt Nam, dẫn đến sự tranh giành quyền lực trong Bộ Chính Trị hiện nay.

                        Vụ số 1. Mười sáu tấn vàng của Việt Nam Cộng Hòa.

                        Tác giả Bùi Tín trong bài viết gởi cho đài VOA. Trưa 30/4/1975, trong Dinh Độc lập, ông Nguyễn Văn Hảo (của VNCH) nói với tôi: Chúng tôi nhờ ông báo ra ngoài đó, là chúng tôi đã giữ lại hơn 16 tấn vàng hiện còn trong ngân khố, mong ngoài đó cho người vô nhận. Tôi hỏi lại: Có thiệt không?. ông Hảo trả lời: Thiệt chớ. Năm 1994, khi tôi ở Paris, một bạn người Việt ở Texas, Hoa Kỳ, cho tôi địa chỉ điện thoại của ông Nguyễn Văn Hảo. Tôi gọi ngay cho ông và từ đó có dịp nói chuyện về ngày 30/4/1975. Theo ông biết thì đầu tháng 5/1975, Hà Nội đã cho riêng 1 chiếc phi cơ vào Sài Gòn tiếp nhận hơn 16 tấn vàng và chở ra Hà Nội..... Cũng đầu tháng 5/1975, tôi được Tướng Đào Đình Luyện, Không Quân, cho biết là nguyên chiếc phi cơ IL 18 đã chở số vàng thu được từ Sài Gòn ra Hà Nội. .....Năm 1987, khi gặp ông Trường Chinh tại Đà Lạt, tôi kể lại chuyện này, và ông Trường Chinh cho biết : Tôi có biết chuyện này, nhưng hết sạch cả rồi, trong mấy năm khó khăn, cấu véo hết tấn này đến tấn khác, mua lương thực, nguyên liệu, nay còn gì nữa đâu!. ... Chưa hết, hồi ấy bộ Công An chủ trương «bán bãi để lên tàu thuyền vượt biển», thu vàng từ 3 lạng đến 6 lạng, có nơi đến 12 lạng vàng trên mỗi đầu người, tất cả là bao nhiêu? Và tiền thu của người Hoa bị xua đuổi từ Cẩm Phả, Hòn Gai, Hải Phòng vào đến Vũng Tàu, Chợ Lớn, Cần Thơ...là bao nhiêu? Lại còn tiền của thu được qua các chiến dịch tiêu diệt công thương nghiệp tư nhân, cái gọi là diệt gian thương trên toàn miền Nam hồi đó là bao nhiêu, và đâu cả rồi?

                        Tác giả Huỳnh Bửu Sơn với bài «Câu chuyện 16 tấn vàng». Ông Sơn là Kiểm Soát Viên của Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1970. Ông Sơn cho biết: Đầu tháng 6/1975, ông với ông Lê Minh Kiên, một người giữ chìa khóa một người giữ mật mã hầm vàng và hầm bạc, Ban Quân Quản ra lệnh kiểm kê kho vàng và kho bạc để bàn giao. Kết quả kiểm soát : Về vàng. Tổng số là 1.234 thoi, mỗi thoi nặng từ 12 đến 14 kí lô. Cộng chung là 16 tấn. Về bạc. Loại giấy bạc 500 đồng và giấy bạc 1.000 đồng, cộng chung hơn 1.000 tỷ đồng. So với hồ sơ lưu trong máy computer, hoàn toàn chính xác. Hai ông Huỳnh Bửu Sơn và Lê Minh Kiên, cùng ký tên bàn giao tất cả vàng và bạc này cho một người cộng sản khoảng 50 tuổi tên Hoàng Minh Duyệt, mãi về sau ông Sơn mới biết ông Duyệt là Chỉ Huy Phó đơn vị tiếp nhận Ngân Hàng Quốc Gia.
                        Các Anh có biết tin tức vụ này chưa, hay là đọc thư này mới biết? Dù đã biết hay vừa mới biết, rõ ràng và chắc chắn là 16 tấn vàng mà nhóm lãnh đạo Các Anh đã chở từ Sài Gòn ra Hà Nội, đến năm 1987 tất cả đều biến mất. Ông Trường Chinh của Các Anh trả lời ông Bùi Tín về vụ 16 tấn vàng của quốc gia cứ như ông ta giỡn chơi chớ chẳng có gì quan trọng qua câu trả lời của ông. Chưa hết, biết bao nhiêu tài sản của người Việt Nam Cộng Hòa cũ bị cướp đoạt dưới hình thức đổi tiền nhưng chỉ trao lại số tiền đủ sống một tuần lễ + diệt tư sản mại bản cướp tài sản + diệt thành phần buôn bán tư nhân cướp tài sản + thu vàng người Việt gốc Hoa rời khỏi Việt Nam, cướp nhà đem bán, và ..v..v.. Vậy, Các Anh thử nghĩ xem «những ai đã được chia?» Lãnh đạo Các Anh cùng nhau chia chác 1.234 thoi vàng, mà Các Anh có được «miếng bụi vàng» nào đâu, trong khi chính Các Anh là những người cầm súng xâm lăng nước Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi mà? Thật là kinh khiếp!

                        Vụ số 2. Nhà máy lọc dầu Dung Quất.

                        Năm 1997, dự án nhà máy lọc dầu vịnh Dung Quất với kinh phí dự trù lúc đầu là 1 tỷ 300 triệu mỹ kim, rồi điều chỉnh thành 1 tỷ 500 triệu mỹ kim. Dự trù hoàn thành năm 2001 và bắt đầu sản xuất từ năm 2002, với công suất 6.500.000 tấn/năm. Lần lượt các công ty Total của Pháp, công ty Conoco của Mỹ, công ty Petronas của Malaysia, đến Dung Quất quan sát, nhưng tất cả đều rút lui. Lý do: “Dung Quất cách xa các giếng dầu đến hằng ngàn cây số, cũng như các thị trường lớn tiêu thụ sản phẩm, dẫn đến chi phí vận chuyển dầu thô từ các giếng dầu cũng như sản phẩm đến các thị trường tiêu thụ ước tính tăng thêm từ 10 đến 15 mỹ kim mỗi tấn sản phẩm”.
                        Nhận định của các nhân vật: (1) Ông Võ Hồng Phúc, Bộ Trưởng Bộ Đầu Tư và Kế Hoạch than rằng: “Dự án Dung Quất thiếu cơ sở khoa học và thiếu kiến thức thực tiễn. Những chủ đầu tư đã tự tạo ra tính khả thi cao để trình chánh phủ”. (2) Ông Hoàng Trung Hải, Bộ Trưởng Bộ Công Nghiệp, nặng hơn một chút khi cho rằng: “Năm 1997, thời gian các quốc gia Á Châu khủng hoảng tài chánh thì Quốc Hội nhanh chóng thông qua dự án Dung Quất, nên không tìm được nguồn vốn”. (3) Ông Phạm Quang Dự, Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị PetroVietnam: “Dự án Dung Quất bị động ngay từ đầu, do chủ trương liên doanh, nhưng không có đối tác nên chuyển qua Việt Nam tự đầu tư, rồi quay trở lại chủ trương liên doanh, để rồi cuối cùng thì tự đầu tư. Cứ mỗi lần thay đổi chủ trương, tự nó kéo theo nhiều thay đổi, dẫn đến lãng phí tài sản và nhất là lãng phí thời gian”. (4) Ông Đỗ Trọng Ngoạn, đại biểu Quốc Hội phát biểu: “Vịnh Dung Quất có mực nước không sâu vì phù sa nhánh sông Thu Bồn thường xuyên đổ vào. Nếu xây dựng đê cảng cũng không thể tiếp nhận được những tàu có trọng tải lớn”.
                        Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội cử Đoàn Giám Sát điều tra.. Sau mấy tháng công tác, đã nhận định: “Nhà máy lọc dầu Dung Quất sẽ hoàn thành vào năm 2008, và năm 2009 bắt đầu sản xuất. Tính ra chậm đến 7 năm. Nhưng rồi dự án cũng được thực hiện bởi liên doanh PetroVietNam với tập đoàn Zarubeznheft của Liên Bang Nga, dự định sẽ khánh thành vào năm 2003. Đến tháng 11/2002, liên doanh này có những bất đồng quan trọng. Để chấm dứt bất đồng, Nga tuyên bố rút lui liên doanh trong dự án nhà máy lọc dầu Dung Quất, và đòi lại số vốn chung góp 500 triệu mỹ kim. Vậy là, dự án do PetroVietNam tự thực hiện.
                        “Năm 2010, nhà máy lọc dầu Dung Quất bắt đầu sản xuất. Giữa năm 2012, nhà máy lọc dầu Dung Quất ngưng lại để sửa chữa, đến tháng 8/2012 bắt đầu sản xuất lại với năng suất 2.600.000 tấn/năm. Như vậy, sau 15 năm từ khi bắt đầu dự án, PetroVietNam đã tiêu đi khoản tiền lên đến 3 tỷ 500 triệu mỹ kim mà nhà máy lọc dầu Dung Quất vẫn chưa thật sự hoàn thành, vì dự trù cuối năm 2012 này mới chánh thức bàn giao. So với 1 tỷ 300 triệu mỹ kim theo dự trù lúc đầu (năm 1997), 15 năm sau (2012) chi phí đầu tư lên đến 3 tỷ 500 triệu mỹ kim, tức tăng 2 tỷ 200 triệu mỹ kim = 169%.
                        Các Anh đã nhận ra chưa? Chỉ riêng trong dự án này, nhóm lãnh đạo Các Anh chọn người lãnh đạo tập đoàm kinh doanh theo tiêu chuẩn trung thành với đảng chớ không chọn người có kiến thức chuyên môn, nên đã lãng phí thời gian, lãng phí tài nguyên, lãng phí tài chánh, và lãng phí nhân lực đến mức không thể tưởng tượng được từ nét nhìn xã hội dân chủ văn minh. Như vậy, liệu trong mấy chục năm qua từ khi bắt đầu “cởi mở, đổi mới” đến nay, đã có bao nhiêu dự án trong tình trạng như nhà máy lọc dầu Dung Quất, hoặc tồi tệ hơn nữa? Nhưng mà, Các Anh nghĩ xem: “Sự lãng phí đó chỉ là lãng phí về phía đồng bào, còn đối với lãnh đạo Các Anh rất có lý vì khối tài sản của họ ngày càng gia tăng”, vì bất cứ dự án nào họ cũng nhắm phục vụ cho đảng cộng sản mà đảng cộng sản chính là quyền lợi của đảng viên trong Bộ Chính Trị, chớ không phục vụ đồng bào.. Đến đây, Các Anh suy nghĩ gì?

                        Vụ số 3. Xa lộ Đông Tây Sài Gòn.

                        Xa lộ Ðông Tây là một chương trình viện trợ của Nhật cho Việt Nam, vừa xây mới vừa tân trang con đường cũ từ Miền Tây đến Sài Gòn, xuống hầm gần cầu Calmette qua Thủ Thiêm, cuối cùng đến ngã ba Cát Lái. Công ty PCI của Nhật trúng thầu dự án này năm 2001 và 2003. Tháng 8/2008, báo chí Nhật đưa tin, Cảnh Sát Nhật đã bắt giam 4 viên chức của PCI về tội đưa hối lộ. Tại phiên tòa, các viên chức PCI nói rõ, người nhận hối lộ là ông Huỳnh Ngọc Sỹ, Phó Giám Đốc Sở Giao Thông Vận Tải, Giám Đốc Quản Lý Dự Án Xa Lộ Đông Tây. Biện Lý Cuộc cho biết, PCI đã hối lộ cho ông Sỹ nhiều lần, cộng chung là 2.300.000 mỹ kim, nhưng phía Biện Lý Cuộc Nhật bản quyết định chỉ truy tố trên con số 820.000 mỹ kim.
                        Thứ Trưởng Ngoại Giao Hồ Xuân Sơn khẳng định: “Thực tế chứng minh chính phủ Việt Nam đã quản lý và sử dụng rất hiệu quả, rất đúng mục đích nguồn ODA của Nhật Bản.” Không những vậy, ông này còn yêu cầu báo chí Nhật đừng loan tin vụ tham nhũng. Trong bản tin Thông Tấn Xã Việt Nam, ông Sơn nói: “Chúng ta đã đề nghị Nhật Bản trong khi vụ việc đang được điều tra, chưa có kết luận cuối cùng thì các cơ quan truyền thông đại chúng của Nhật Bản cũng như của Việt Nam đều không nên đưa tin về vụ này.”
                        Các Anh có thấy xấu hỗ khi ông Thứ Trưởng Ngoại Giao Việt Nam ngốc nghếch không? Ông ta cứ tưởng xã hội dân chủ tự do Nhật Bản như xã hội cộng sản độc tài Việt Nam, nên ông ta rất tự nhiên khi yêu cầu chánh phủ Nhật ra lệnh các cơ quan truyền thông Nhật không được tường trình vụ án. Ông Sỹ được bao che bởi Ủy Viên Bộ Chính Trị đang là Bí Thư thành ủy Lê Thanh Hải. Càng được bao che hơn, vì con trai H.N. Sỹ là rể tương lai của L.T. Hải. Do vậy, mà ông Sỹ chưa hề hấn gì. Nhưng tháng 12/2008, năm ngày sau ngày Nhật Bản tạm cắt một phần viện trợ, Huỳnh Ngọc Sỹ bị bắt. Ngày 11/3/2009, ông Sỹ ra tòa sơ thẩm. Đến tháng 9/2009, H.N. Sỹ bị kết án 3 năm tù. Một tháng sau đó, ông Sỹ nhận thêm bản án khác cùng tội danh “nhận hối lộ”.
                        Tôi mong là Các Anh đừng “nhạy cảm” với hai chữ cộng sản mà tôi sử dụng, vì đảng viên cộng sản lãnh đạo, đảng viên trong hàng ngũ quân đội, trong bộ máy cầm quyền, thì gọi là cộng sản chớ gọi là gì. Sự thật là sự thật mà.

                        Vụ số 4. Dự án PMU 18.

                        Theo phóng viên Đức Tâm của đài RFI. Năm 2006, Bùi Tiến Dũng với vụ án tham nhũng dự án PMU 18, được đưa ra ánh sáng trong khi CSVN chuẩn bị Đại Hội lần thứ 10, đã gây chấn động lớn về tình trạng tham nhũng tràn lan tại Việt Nam. Vào thời điểm đó, lãnh đạo CSVN đã thừa nhận vụ PMU 18 đe dọa toàn bộ hệ thống chính trị và quản trị quốc gia. Bộ Trưởng Giao Thông Vận Tải Đào Đình Bình đã phải từ chức, còn Thứ trưởng Nguyễn Việt Tiến thì bị bắt, nhưng khi ra tòa thì được trắng án, trong khi các nhà báo đưa tin về vụ tham nhũng này lại bị bắt và “tòa án nhân dân” phán họ phạm cái tội “quái đản” là lạm dụng quyền tự do dân chủ, và lãnh án tù. Tôi nói “cái tội quái đản” vì mọi người trong xã hội xã hội chủ nghĩa hỗn tạp, làm quái gì có tự do dân chủ mà “tòa án nhân dân” phán quyết họ vi phạm.
                        Năm 2007, “kẻ lãnh đạo bao che” cho Dũng không thể làm gì khác, đành phải nhìn đám đàn em ra tòa, để rồi tòa theo lệnh của “kẻ lãnh đạo nào đó” mà kết án tù Bùi Tiến Dũng về tội biển thủ chia chác làm giàu, dùng tiền viện trợ đó để đánh bạc, và cá cược bóng đá. Trong phiên xử đầu tiên, Bùi Tiến Dũng bị kết án 13 năm tù giam. Năm 2010, nhân vật này lại ra tòa lần thứ hai với tội cho thuê xe công vì mục đích cá nhân, gây thất thoát 2.700.000.000 đồng và lãnh thêm 3 năm tù.
                        Ngày 27/06/2011, đây là lần thứ ba Bùi Tiến Dũng ra tòa, cùng với 8 tòng phạm khác trong vụ tham nhũng hơn 3 tỷ 400 triệu đồng = khoảng 120.000 Euro, khi thực hiện dự án xây cầu Bãi Cháy năm 2003 (Quảng Ninh). “Nhờ vậy” mà hãng tin AFP cho biết, Việt Nam bị đánh giá là một trong những quốc gia có nạn tham nhũng trầm trọng nhất thế giới.

                        Vụ số 5. Tổng Công Ty Vinashin.

                        Theo bản tin VNOnline ngày 26/11/2010, Tổng Công Ty Công Nghiệp Tàu Thủy Việt Nam” (Vinashin) bị phác giác thâm thủng đến 86.565 tỷ đồng VN = 4 tỷ 300 triệu mỹ kim. Khi bị chất vấn tại Quốc Hội, Nguyễn Tấn Dũng, Thủ Tướng của Các Anh trả lời: “Tôi xin nhận trách nhiệm về những hạn chế, yếu kém tại Vinashin, nhưng tôi không làm điều gì sai. Thủ Tướng, Phó Thủ Tướng, và các Bộ Trưởng có liên quan đang kiểm điểm để làm rõ trách nhiệm”. Theo bản tin RFI online ngày 21/3/2011, ông Nguyễn Sinh Hùng, Chủ Tịch Quốc Hội thừa nhận rằng: “Thủ Tướng và một số thành viên trong chính phủ đã phạm sai lầm trong vụ Vinashin. Nhưng, Bộ Chính Trị đảng CSVN đã thảo luận và bỏ phiếu về việc “có nên kỷ luật hay không”. Căn cứ theo kết quả bỏ phiếu, Bộ Chính Trị quyết định, “không xử lý kỷ luật đối với các tập thể và cá nhân, và yêu cầu nghiêm túc tự phê bình, rút kinh nghiệm, tiếp tục chỉ đạo tái cơ cấu tập đoàn Vinashin”.
                        Vậy là vụ án tham nhũng này dưới con mắt của Bộ Chính Trị đến đây là xong. Nhưng với quốc tế thì mới bắt đầu. Vì năm 2011, Vinashin cùng với hơn 20 tổng công ty & công ty liên quan, bị khởi kiện tại tòa án ở London, Anh quốc, vì không trả nợ đúng hạn cho ngân hàng Thụy Sĩ. Ngày 01/11/2011, Cơ Quan Hình Sự Quốc Tế (Interpol) đã phát lệnh truy nã hai cựu lãnh đạo tập đoàn Vinashin, là: “(1) Hồ Ngọc Tùng, nguyên Tổng giám đốc tài chính của Vinashin, xuất ngoại với lý do trị bệnh nhưng không thấy trở về. (2) Giang Kim Đạt, trưởng phòng kinh doanh công ty vận tải viễn dương, một chi nhánh của Vinashin, ra nước ngoài trước khi bị khởi tố”. Đầu tháng 6/2011, báo Tuổi Trẻ cho biết, ngoài 4 tỷ nói trên, Vinashin có thể bị thâm thủng thêm 1 tỷ mỹ kim tiền phạt vì không thi hành các hợp đồng. Tháng 8/2011, ông Phạm Thanh Bình bị bắt. Theo bản tin của Thông Tấn Xã Việt Nam, sau 4 ngày xét xử, Tòa Án Nhân Dân Hải Phòng, vụ án Vinashin kết thúc ngày 30/3/2012 với bản án: (1) Ông Phạm Thanh Bình, nguyên là Chủ Tịch Vinashin, 20 năm tù giam. (2) Tám bị cáo còn lại đều bị tù giam.
                        Sau phiên tòa, Phạm Thanh Bình bị biệt giam cùng phòng với Nguyễn Tuấn Dương tại trại T14. Sáng sớm ngày 31/03/2012, lúc thức dậy thì Nguyễn Tuấn Dương thấy ông Bình đã chết trong tư thế treo cổ bằng một sợi dây buộc vào chấn song cửa sổ phòng giam, chân của ông Bình cách mặt đất khoảng 5-7 phân tây.
                        Điều mà tôi gởi đến Các Anh là Nguyễn Tuấn Dương nói rằng: “Đêm qua trước khi ngủ, ông Bình đã tâm sự với tôi trong trạng thái của ông ấy căng thẳng. Ông nói: Khi ăn thì cùng ăn, nó còn ăn nhiều hơn tôi nhiều lần. Giờ thì nó bỏ mặc tôi chịu một mình với bản án tột khung, không có tình tiết giảm nhẹ. Đã vậy, tôi sẽ đạp đổ tất cả, sẽ khai đúng sự thật để chết thì cho chết hết như nhau”. Cuối bản tin của TTXVN có câu: “Người tù Phạm Thanh Bình vừa nói vậy tối hôm trước, nhưng không biết vì sao lại thắt cổ tự tử ngay trong đêm đó? Không biết cái chết của người tù Phạm Thanh Bình có uẩn khúc gì hay không?” Đọc xong bản tin này, Các Anh có nhận ra “Nó là nhân vật nào trong nhóm đỉnh cao gian trá” không vậy? “Có phải Nó là người đã tuyên bố tại Quốc Hội là nhận trách nhiệm sự sụp đổ của Vinashin, Nó cũng nói là Nó không làm điều gì sai? Và Nó chính là người cử ông Phạm Thanh Bình vào chức vụ Chủ Tịch Vinashin để nhận phần chia chác nhiều hơn như ông Bình đã nói vào đêm đầu tiên trong tù, để rồi ông Bình chết ngay đêm đó mà theo bản tin TTX Việt Nam nghi ngờ có uẫn khúc”. Cầm chắc là có bàn tay của Nó cho dù là gián tiếp.

                        Vụ số 6. Tổng Công Ty Vinalines.

                        Năm 2005, Thủ Tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng cử ông Dương Chí Dũng giữ chức Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị Vinalines (Tổng Công Ty Hàng Hải Việt Nam). Tháng 2/1012, ông Dũng rời khỏi chức vụ vì Vinalines đang thiếu nợ hơn 2 tỷ mỹ kim, nhưng nhờ có bao che nên được cử giữ chức Cục Trưởng Cục Hàng Hải. Ông Dũng bị khởi tố về tội “cố ý làm trái quy định của Nhà Nước về quản lý kinh tế, gây hậu quả nghiêm trọng”. Ngày 17/5/2012, Bộ Công An cho toán Công An thi hành lệnh bắt và khám xét nhà thì Dương Chí Dũng đã trốn thoát. Bộ Công An quyết định truy nã đặc biệt.
                        Ngay sau đó, Công An đã bắt hai lãnh đạo khác của công ty này là ông Mai Văn Phục và Trần Huy Chiếu. Những người này cùng với ông Dương Chí Dũng bị cáo buộc phải chịu trách nhiệm trước khoản lỗ do mua hơn 70 chiếc tàu ngoại quốc quá cũ, và ụ nổi do Nga sản xuất từ 50 năm trước.
                        Theo tin RFA ngày 22/7/2012, hội nghị sơ kết hoạt động trong 6 tháng đầu năm 2012 của Vinalines, đã lỗ 1.400 tỷ đồng. Số nợ của Vinalines đến mức mà những tháng cuối năm 2011, có đến 126 tàu hàng lớn nhỏ bị giữ tại các hải cảng quốc tế vì nợ đáo hạn.
                        Bản tin VietNamNet.vn. Ngày 5/9/2012, Bộ Công An CSVN loan tin đã bắt được Dương Chí Dũng tại một quốc gia khối ASEAN, nhưng cho đến nay vẫn không tin tức gì thêm về vụ này. Liệu, sự thật đằng sau bản tin đó là gì? Hệ thống tham nhũng của lãnh đạo Các Anh khiếp thật!

                        Vụ số 7. Tập Đoàn Tài Chánh Á Châu.

                        Theo thông tin sớm nhất từ các Blog tự do như “Quan Làm Báo”, Thông Tấn Xã Vàng Anh, và đồng loạt các Blog khác, thì nửa đêm rạng sáng 21/08/2012, ông Nguyễn Đức Kiên, được gọi là “bầu Kiên”, hay “bố già Kiên”, Tổng Giám Đốc Tập Đoàn Tài Chánh Á Châu, kiêm nhiều chức quan trọng tại nhiều ngân hàng (trong 42 ngân hàng) và tổng công ty, đã bị Công An bắt. Tiếp theo là ngày 22/8/2012, ông Lý Xuân Hải, Tổng Giám Đốc Ngân Hàng ACB cũng bị bắt. Cùng ngày, Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao phê chuẩn lệnh tạm giam 4 tháng đối với ông NĐ Kiên và ông LX Hải. Theo bản tin TTX Việt Nam tối thứ Sáu 7/9/2012, Bộ Công An bắt giam ông Nguyễn Duy Hưng, Trưởng Văn phòng đại diện Công Ty Cổ Phần đầu tư Sài Gòn (SGI). Cùng ngày, Bộ Công An cũng bắt giam bà Nguyễn Thị Bích Trang, nhân viên của Công Ty Cổ Phần đầu tư và công nghiệp Tân Tạo (ITACO) ở Sài Gòn. Tiếp đến là ông Trầm Bê đầu thú và bị Công An quản thúc.
                        Ông Nguyễn Đức Kiên, từng du học ngoại quốc. Ông Kiên với thế lực trong ngành tài chánh, trở thành người thân cận của Thủ Tướng Dũng với Tướng Công An Nguyễn Văn Hưởng. Vì vậy mà sự kiện ông NĐ Kiên và ông LX Hải bị bắt, chính là đòn tranh giành quyền lực trong Bộ Chính Trị nhắm vào Nguyễn Tấn Dũng, nhân vật khuynh loát toàn bộ quyền hành về kinh tế tài chánh.
                        Ngay vài phút đầu tiên bị thẩm vấn, khi được biết bị Thủ Tướng Dũng bỏ rơi, và con gái của ông Dũng cũng chạy ra ngoại quốc, ông Nguyễn Đức Kiên đã thẳng thắn đặt vấn đề: “Nếu tôi thành thật khai báo thì sẽ được hưởng khoan hồng thế nào?”
                        Chiều ngày 12/9/2012, trang Web của chánh phủ có công văn số 7169, với nội dung cho biết “Thủ Tướng chỉ thị xử lý các trang blog có những bài bôi đen bộ máy lãnh đạo đất nước” như Blog “Quan Làm Báo”, đồng thời ngăn cấm cán bộ nhà nước xem và phổ biến tin tức từ các trang Blog đó. Ông Dũng nhấn mạnh: “Đây là thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch”.
                        Các Anh có biết Blog “Quan Làm Báo” mới xuất hiện từ cuối tháng 5/2012, chỉ mới hơn 3 tháng mà có đến 23 triệu lượt người xem, vì hầu hết là những tin tức thuộc loại bí mật quốc gia, không phải bí mật về quốc phòng mà bí mật về tham nhũng. Và Các Anh có rùng mình khi nhận ra các đảng viên cộng sản hàng lãnh đạo mỗi khi mở miệng ra là nhân danh “đại diện cho giai cấp nông dân và giai cấp công nhân”, nhưng tất cả họ chỉ có mục đích duy nhất là kết thành nhóm để dùng quyền lực khuynh đảo các hoạt động kinh tế tài chánh quốc gia, dẫn đến tình trạng tham nhũng khủng khiếp. Tôi nhận định ở cấp quốc gia, vì bản tin AFP ngày 24/8/2012 cho biết, chỉ trong 4 ngày sau ngày ông Kiên và ông Hải bị bắt, thị trường chứng khoán Sài Gòn và Hà Nội đã thiệt hại đến 5 tỷ 620 triệu mỹ kim.
                        "Ngày 17/9/2012, lãnh đạo ba ngành Tư Pháp trung ương đã họp nghe cơ quan Cảnh Sát điều tra Bộ Công An đánh giá tài liệu, chứng cứ thu thập được trong vụ án Nguyễn Đức Kiên và những người có liên quan, và quyết định: (1) Khởi tố bị can Nguyễn Đức Kiên, về “tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước gây hậu quả nghiêm trọng theo Điều 165 Luật Hình Sự”. (2) Bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự đối với Nguyễn Đức Kiên về “tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 139- Bộ Luật Hình Sự." Bộ Công An cũng quyết định khởi tố và đã bắt giam Trần Ngọc Thanh Giám Đốc, và Nguyễn Thị Hải Yến kế toán trưởng Công ty Cổ phần đầu tư ACB Hà Nội, về tội đồng phạm.
                        Ngày 19/09/2012, Ngân Hàng ACB thông báo là ông Trần Xuân Giá, Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị của ngân hàng, cùng với hai Phó Chủ Tịch là Lê Vũ Kỳ và Trịnh Kim Quang đã từ chức vì lý do cá nhân. ACB cũng xác nhận hai vị này có liên quan đến vụ tai tiếng tài chánh của ngân hàng này. Vì liên quan đến ngân hàng ACB, ông Phạm Trung Cang, Phó Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị ngân hàng Eximbank cũng đã từ chức vì lý do cá nhân. Nhưng ngày 27/09/2012, ông Trần Xuân Giá, cùng với các ông Lê Vũ Kỳ, Trịnh Kim Quang, và Phạm Trung Cang bị khởi tố, vì liên quan đến vụ lừa đảo hơn 700 tỷ đồng của ngân hàng ACB. Cả 4 người được tại ngoại, nhưng bị cấm rời khỏi nơi cư trú.
                        Trong khi chờ kết quả vụ án tham nhũng rất lớn liên quan đến chính trị nội bộ đảng cộng sản mà ông Kiên khai báo những gì, Các Anh có thấy tội nghiệp cho dân tộc Việt Nam mình không? Chỉ vì cái ông Thủ Tướng thuộc dòng họ “Bạch Tuộc” nên “cha con” Thủ Tướng cộng lại có đến hằng mấy chục cái vòi lớn nhỏ dài ngắn, cùng nhau rút ruột quốc gia qua từng ngóc ngách trong xã hội.
                        Kết Luận
                        Hiện nay, Thủ Tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng và những tay sai thân tín của ông ta thật sự hốt hoảng, sau khi những tham nhũng gộc trong ngành tài chánh và các tâp đoàn kinh tế do ông ta cai quản bị bắt. Cùng lúc, lệnh của Nguyễn Tấn Dũng ngày 12/9/2012 cấm công nhân viên chức không xem những “tin tức phản động”, thì trong nữa ngày đầu tiên có hơn 500.000 người tìm đọc các tin tức trong các Blogs đó để nhận ra bộ mặt ghê tởm của ông ta. Tiếp đến là bản án quái đản mới nhất đối với ba Bloggers Điếu Cày Nguyễn Văn Hải + Tạ Phong Tần + Phan Thanh Hải khi nhìn từ góc cạnh pháp lý trong xã hội văn minh, chính Thủ Tướng CSVN đã vạch áo cho mọi người thấy “dòng chữ xâm trên lưng” khi họ gia nhập đảng: “Đảng CSVN cao hơn luật pháp, với lý tưởng tranh đoạt quyền lực để “thâu tóm” quyền lợi, và không bao giờ thay đổi”. (thâu tóm, là chữ mà Nguyễn Tấn Dũng sử dụng khi nói đến lãnh đạo các ngân hàng bị bắt)
                        Tôi thấy cần giúp Các Anh với nét nhìn của người tự do về hai nhóm chữ mà Thủ Tướng Các Anh đã sử dụng trong công văn ngày 12/9/2012 là “Những tin tức phản động, những thế lực thù địch” để chỉ những người mà ông ta trấn áp, giam giữ, phạt tù, để giúp ông ta giảm bớt nỗi sợ hãi vì bị ám cái chết “bất đắc kỳ tử” trước mắt ông. Những tin tức phản động, chính là những tin tức xác thật về những sự kiện xấu xa tồi tệ về hành động của ông ta thâu tóm tài sản. Còn Những thế lực thù địch, chính là những người dân yêu nước, yêu tự do, muốn xây dựng một xã hội dân chủ được quản trị bởi luật pháp, vì đó là hạnh phúc của đồng bào.
                        Tôi mong Các Anh bình tâm mà nhìn vào chuỗi sự kiện đã và đang diễn ra để nhận ra sự thật, và suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính mình chớ không phải tâm hồn của người đảng viên cộng sản, rồi quyết định.... Và quyết định đó giúp Các Anh mạnh mẽ bước vào hàng ngũ tuổi trẻ, trí thức, đồng bào, để cùng giành lại quyền làm người cho hơn 90 triệu đồng bào được sống trong một xã hội dân chủ pháp trị, được ngẫng cao đầu giữa thế giới văn minh, được hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước đã lừng danh thế giới. Hãy nhớ ...

                        “Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng”.
                        “Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước ...”.

                        Texas, tháng10 năm 2012

                        Comment


                        • #13
                          Thư số 13 gởi Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam

                          Thư số 13 gởi Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam
                          Phạm Bá Hoa


                          Tôi là một trong hằng triệu Người Lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo CSVN với lòng thù hận đã đày đọa chúng tôi trong hơn 200 trại tập trung mà họ gọi là trại cải tạo. Người 5 năm, 10 năm, thậm chí 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy Quân Lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi chưa bao giờ và sẽ không bao giờ về Việt Nam, cho đến khi đảng cộng sản bị triệt tiêu trên quê hương tôi.


                          Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Xin gọi Người Lính Quân Đội Nhân Dân một cách ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày. Chữ “Các Anh” viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản chỉ là một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.

                          Nội dung thư này là nối tiếp “Thư số 12” trong tháng 10 vừa qua, giúp thêm những yếu tố để Các Anh nhận rõ hơn nữa mức độ tồi tệ của xã hội chủ nghĩa, ngang qua bộ mặt thật của nhóm “đỉnh cao gian trá” trong Bộ Chính Trị, sau chuỗi rung chuyển các tập đoàn kinh tế và các ngân hàng trong vòng tay của ông Nguyễn Tấn Dũng.

                          Tuy hội nghị trung ương lần 6 của đảng CSVN đã bế mạc ngày 16/10/2012 sau 15 ngày họp kín, với kết quả là “Ban Chấp Hành Trung ương đã quyết định không kỷ luật Bộ Chính Trị, cũng như không kỹ luật một đồng chí trong Bộ Chính Trị” mà ông Chủ Tịch Trương Tấn Sang của Các Anh gọi là “đồng chí X”, nhưng tôi vẫn “giới thiệu” với Các Anh về một số sự kiện mà người dân trong nước muốn được đối chất với “đồng chí X” của ông Sang, chính là ông Thủ Tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng.

                          Thứ nhất. Công văn số 7169 ngày 12/9/2012 của ông Nguyễn Tấn Dũng, như bản án tử hình đối với 3 trang blog “Quan Làm Báo, Dân Làm Báo, và Biển Đông” mà không cần tòa án. Vì vậy mà trang Blog “Quan Làm Báo” có bài thách Thủ Tướng đối chất bằng cách sử dụng toàn bộ hệ thống truyền thông “lề phải” làm diễn đàn tranh luận những sự kiện sau đây:

                          Sự kiện 1. Vinashin sụp đổ. Tại phiên họp Quốc Hội, Thủ Tướng chỉ nhận trách nhiệm chính trị vụ sụp đổ Vinashin. Xin hỏi: Với Quyết Định số 43 ngày 22/8/2011, “Thủ Tướng ra lệnh các ngân hàng thương mại phải xóa nợ hơn 20.000 tỷ đồng cho Vinashin là theo điều luật nào?

                          Sự kiện 2. Ngân hàng Phương Nam.
                          (1) Tháng 11/2011, Thủ Tướng chị thị ngân hàng nhà nước “rót trực tiếp” cho ngân hàng Phương Nam 5.000 tỷ đồng, và 5.000 tỷ đồng khác “rót gián tiếp” cũng cho ngân hàng Phương Nam nhưng vòng qua BIDV, trong khi BIDV mất thanh khoản và bị Ủy Ban Giám Sát Tài Chánh xếp vào nhóm hạng 5, nhưng lại thâu tóm ngân hàng Samcombank trị giá 7 tỷ mỹ kim. “Xin hỏi: “Thủ Tướng có khẳng định là không tham nhũng khi nhóm lợi ích của Thủ Tướng thâu tóm các ngân hàng không?”
                          (2) Sau khi ngân hàng Phương Nam được cứu do hợp đồng tư vấn của Bản Việt, Trầm Bê đã trả cho Bản Việt 1.500 tỷ đồng. Xin hỏi: “Thủ Tướng có dám bảo đảm an toàn cho những người công khai nói lên sự thật về hành động của Thủ Tướng không?”
                          (3) Ông Nguyễn Văn Bình, Thống Đốc ngân hàng nhà nước, đã truyền đạt ý kiến của Thủ Tướng về vụ thâu tóm ngân hàng Phương Nam rằng: “Nếu lùm xùm quá thì ngân hàng nhà nước lấy lại 24% cổ phần Samcombank mà ngân hàng Phương Nam đang nắm giữ”. Xin hỏi: ”Có đúng là Thủ Tướng ra lệnh này? Nếu đúng, Thủ Tướng đã biết rất rõ diễn tiến và bản chất của việc thâu tóm sẽ gây chấn động thị trường tài chánh Việt Nam, trường hợp này “Thủ Tướng sẽ trả lời thế nào, nếu Thủ Tướng bị kết án là người chủ mưu?”

                          Sự kiện 3. Thâu tóm 9 ngân hàng. Thống đốc Bình chính là người đã “lừa” Thủ Tướng khi trình danh sách 09 Ngân hàng tái cấu trúc phục vụ mưu đồ cho nhóm thâu tóm, mà Thủ Tướng hoàn toàn không hề biết ngân hàng nào mất thanh khoản, và ngân hàng nào không, dẫn đến 03 ngân hàng khi sáp nhập đã mất trắng 46.000 tỷ đồng, chính là trách nhệm của Thống Đốc Bình. Đề nghị cho Thống Đốc Bình đối chất.

                          Sự kiện 4. Con gái của Thủ Tướng nhận hối lộ. Thủ Tướng trả lời thế nào về việc trong thời kỳ bóp nghẹt tiền tệ một cách khốc liêt, thì riêng Eximbank, Techcombank và Ngân hàng Bắc Á, vẫn được Ngân Hàng Nhà Nước rót tiền hỗ trợ từ hàng ngàn tỷ đến vài chục ngàn tỷ đồng trong 06 tháng đầu năm 2012, “đó có phải là việc làm “bình thường và bình đẳng” giữa các ngân hàng thương mại Việt Nam?” Sự kiện này có phải là nguyên nhân từ hành động của Nguyễn Đức Kiên đã “tặng” cho con gái của Thủ Tướng là Nguyễn Thanh Phượng 50 triệu mỹ kim để thôn tính Ngân Hàng Gia Định?. Sau đó, ông Nguyễn Đức Kiên được phép đưa cô Phượng đi “du hí” Châu Âu, tham gia cá độ giải bóng tròn Châu Âu vừa qua như người dân tố cáo. Xin hỏi: “Thủ Tướng có dám cam kết sẽ cho điều tra làm rõ vự việc tố cáo này?”

                          Sự kiện 5. Hơn 200.000 doanh nghiệp phá sản. Toàn bộ dự án tái cấu trúc ngân hàng của Thủ Tướng vừa qua, rõ ràng đã bị chi phối và phục vụ cho nhóm Nguyễn Đức Kiên thâu tóm, đã đẩy nền kinh tế Việt Nam suy thoái đến mức hơn 200.000 doanh nghiệp phá sản hoặc chết một cách âm thầm lặng lẽ, nạn thất nghiệp gia tăng gấp 02 lần so với năm 2007, nhân dân đang bị bần cùng hoá. Xin hỏi: ”Thủ Tướng trả lời thế nào về sự kiện này?”

                          Sự kiện 6. Vàng lá SJC.
                          (1) Dự án xây dựng thương hiệu vàng SJC thành thương hiệu vàng Việt Nam do Thống Đốc Nguyễn Văn Bình trình lên Thủ Tướng, nhưng ông Bình không báo cho Thủ Tướng biết thương hiệu SJC không phải là hoàn toàn của nhà nước 100%, mà thật ra là ông Đỗ Minh Phú đã mua toàn bộ số vàng này ở miền Bắc và miền Trung từ Lê Hùng Dũng. Xin hỏi: “Vậy, có phải Thủ Tướng đã bị ông Thống Đốc lừa không?” Và đề nghị Thủ Tướng nên cho Thống Đốc Bình cùng tham gia đối chất được không?”
                          (2) Dự án cấm toàn dân bán vàng lá, biến thói quen trữ vàng trong nhân dân thành bất hợp pháp. Xin hỏi: “Có phải mưu đồ của Thủ Tướng là để Công An của Tướng Hưởng có thể bắt và tịch thu bất cứ lúc nào, hoặc có phải Thủ Tướng cùng với đàn em Nguyễn Đức Kiên + Lê Hùng Dũng + Đỗ Minh Phú, sẽ thu được 1 tỷ mỹ kim khi người dân hoảng loạn đem vàng lá bán tháo bán đổ vì biết mình không được giữ vàng, phải không?” Dù thế nào đi nữa, xin Thủ Tướng cho Thống Đốc Bình cùng tham gia đối chất.

                          Và mong rằng Thủ Tướng dám tranh luận công khai trước Tòa Án để nhân dân theo dõi và có phán quyết đúng đắn nhất.

                          Trên đây là “bản cáo trạng” của Blog “Quan Làm Báo” với những dẫn chứng kèm theo. Tôi nghĩ là Các Anh cần đọc vài lần, rồi thử làm bài toán cộng xem ông Thủ Tướng của Các Anh cùng với tay chân bộ hạ, nhất là con gái của ông ta, thâu tóm được bao nhiêu? Xong, hãy nhìn lại cuộc sống Các Anh cùng với gia đình quyến thuộc như thế nào. Lãnh đạo các cấp của Các Anh thường hay rao giảng rằng: “Dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản là đảng của giai cấp công nhân với nông dân, xã hội Việt Nam không có cảnh người bóc lột người như bọn thực dân với bọn đế quốc”.

                          Tôi nghĩ, rất có thể Các Anh nghe đến phát chán rồi nên không Ithấy gì trong lời rao giảng đó. Nhưng tôi thì thấy, và thấy rất rõ. Đúng là không có cảnh người bóc lột người, mà chỉ có cấp lãnh đạo bóc lột người, thậm chí là cướp đoạt mọi thứ của người dân, kể cả Các Anh và gia đình Các Anh. Với lại không phải chỉ có cấp lãnh đạo trung ương bóc lột người, mà là lãnh đạo các cấp từ trung ương xuống đến tận đáy hạ tầng cơ sở, và luồn vào mọi ngóc ngách sinh hoạt của xã hội. Mức độ tham nhũng, bóc lột, cướp đoạt, đến mức mà người dân không còn một chỗ nào để tránh né được nữa, đã dẫn đến một xã hội mà ngày nay Hồ Chí Minh đỉ điếm, Hồ Chí Minh cướp giật, Hồ Chí Minh trấn lột, đầy đẫy trên mọi nẽo đường góc phố. Hồ Chí Minh của Các Anh ngày nay, cho dù có bao nhiêu nhà nhiều tầng, có bao nhiêu khách sạn ba bốn năm sao, có hằng trăm nơi ca hát khiêu vũ, có những sòng bạc không kém gì xứ sở Monaco nhỏ bé ở Âu Châu, ..v..v.. , vẫn là một Hồ Chí Minh bừa bãi trong xây dựng ngang dọc thấp cao, Hồ Chí Minh dơ dáy về vệ sinh với những bãi rác cao ngút đầy người tìm sống từ trong những đống rác đó , đường phố trở thành “sông rạch” bẩn thỉu dưới cơn mưa vì hệ thống thoát nước bị hư hỏng do nhà cửa xây cất ngỗn ngang. Hồ Chí Minh của Các Anh với mọi thứ độc hại thải ra từ bụi mù, từ khói xe, ..v.v. đến mức mà mọi người phải bịt mũi bịt mặt khi ra khỏi nhà, chẳng khác những ông bác sĩ những bà y tá mỗi khi vào phòng bệnh nhân lao phổi hay phong cùi vậy.

                          Các Anh hiểu rằng, càng nhiều dự án, càng nhiều phô trương mặt nổi của xã hội thì lãnh đạo các cấp càng thâu tóm được nhiều tài sản, kể cả “rút ruột” công trình bằng cách trộn bùn đất vào bê tông như đập thủy điện Dakrông 3 thuộc tỉnh Quảng Trị, chỉ sau 15 ngày tích trữ nước để chạy thử thì đập bị vỡ ngày 9/10/2012, gây thiệt hại nặng nề cho đồng bào vùng hạ lưu. Những sự kiện kinh hoàng đó xảy ra thường xuyên nên trở thành “chuyện thường ở Huyện” đã có thời gian trên làn sóng phát hình ở Việt Nam, vì vậy mà những vụ sụp nhà, vỡ đập, mưa lụt, nhà ngập, ..v..v.. , lãnh đạo Các Anh vẫn cứ xây dựng bất kể cảnh trí của thành phố, vẫn cứ ngăn sông đắp đập, vẫn giăng mắc giây điện như những mạng nhện khắp phố phường, có đẹp mắt hay không chẳng có nnghĩa gì hết, họ cứ làm xong thì tiền vào là được rồi.

                          Theo Các Anh thì ông Thủ Tướng đảng CSVN có can đảm nhận đối chất để chứng minh ông ta là người trong sạch không? Tôi nghĩ, chắc ông ta không có cái can đảm đó đâu, cho dù trong tay ông ta có cả một hệ thống truyền thông để ông ta sử dụng. Với lại “nhóm đỉnh cao gian trá” trong Bộ Chính Trị cũng không cho ông Dũng đối chất đâu, vì ông Dũng vừa bị lột mặt nạ trong cuộc đấu đá vừa qua, rất có thể ông ta nhân đó mà lột một loạt mặt nạ của cả đám thì sao.

                          Chưa hết đâu, dưới đây còn lời thách thức của một công dân khác.

                          Thứ hai. Báo “International Business Times” ngày 17/9/2012, có bài phỏng vấn Trần Hưng Quốc với những câu hỏi mà ông Quốc muốn được tranh luận với Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng và gia đình, cùng các tay chân thân tín của ông ta đã lũng đoạn kinh tế tài chánh Việt Nam, qua một số sự kiện sau đây:

                          Sự kiện 1. Bằng cách nào mà em vợ Thủ Tướng là Trần Minh Chí và con gái Nguyễn Thanh Phượng trở thành sở hữu chủ 20.000 m2 đất “kim cương” tại số 3A đường Tôn Đức Thắng từ tay Tổng Cục 2 Tình Báo? Thủ Tướng có dám khẳng định việc này là bình thường mà Thủ Tướng không có ảnh hưởng gì đến thương vụ này, và bất cứ người Việt Nam nào cũng có thể mua được nếu đưa ra đấu thầu công khai?

                          Sự kiện 2. Dự án sinh thái khu rừng “U Minh Thượng” (Cà Mau) là sòng bài trá hình, để hợp thức hóa khối tiền hối lộ Thủ Tướng qua tay em vợ là Trần Minh Chí. Xin hỏi: ”Thủ Tướng có dám trả lời trước nhân dân nếu chúng tôi cung cấp bằng chứng và nhân chứng? Và Thủ Tướng có bảo đảm cho nhân dân tham gia tranh luận được an toàn không?”

                          Sự kiện 3. Thủ Tướng đến thăm mỏ Núi Pháo và tuyên bố sẽ đuổi nhà đầu tư nước ngoài, và vài tháng sau đó thì tập đoàn Masan mua được mỏ núi Pháo. Xin hỏi: “Thủ Tướng có dám khẳng định, nếu không có bản hợp đồng tư vấn với Bản Việt và bàn tay của Nguyễn Thanh Phượng, thì tập đoàn Masan có mua được dự án Núi Pháo với giá rẻ sau khi đuổi nhà đầu tư ngoại quốc không?

                          Sự kiện 4. Thủ Tướng trả lời thế nào về việc tập đoàn Masan của Nguyễn Đăng Quang và Hồ Hùng Anh, được vay 2.376 tỷ đồng ưu đãi từ ngân hàng Phát Triển Việt Nam, là chính sách của Nhà nước chỉ tài trợ các dự án thuộc lãnh vực “quốc kế dân sinh” và lại được chánh phủ bảo lãnh vay 130 triệu mỹ kim của tổ chức tín dụng nước ngoài để khai thác Núi Pháo là “Mỏ Vonfram” lớn thứ nhì thế giới?

                          Sự kiện 5. Tại sao em ruột của anh em cột chèo với Thủ Tướng được giữ chức vụ Chủ Tịch của Sabeco, trong khi Công An điều tra các vị lãnh đạo công ty này trong mấy năm qua mà không có kết luận. Xin hỏi: ”Thủ Tướng có dám nói là mình vô can không?

                          Sự kiện 6. Thủ Tướng trả lời thế nào về tố cáo tập đoàn Masan của Nguyền Đăng Quang và Hồ Hùng Anh, cộng với Nguyễn Thanh Phượng, về kế hoạch thâu tóm GTEL và Mobifone?

                          Sự kiện 7. Thủ Tướng trả lời thế nào việc tập đoàn Masan đã thâu tóm 51% Vinacafe Biên Hòa, sau khi ký hợp đồng tư vấn với công ty Bản Việt với chi phí gần 100 tỷ đồng mà không thông qua đấu thầu? Đây có phải là hợp đồng trá hình cho việc “hối lộ” không? Thủ Tướng có dám khẳng định Vinacafe chuyển nhượng cổ phiếu cho tập đoàn Masan là do tự nguyện, và nếu Masan không thông qua Nguyễn Thanh Phượng thì liệu có thâu tóm được Vinacafe không? Nếu các cổ đông Vinacafe đệ đơn tố cáo họ bị ép bán, Thủ Tướng có hủy bỏ thương vụ thâu tóm này mà KHÔNG kết tội họ là phản động?

                          Sự kiện 8. Thủ Tướng trả lời thế nào về dư luận tố cáo vợ chồng con gái Thủ Tướng tham gia tư vấn mua Tàu Hoa Sen cho Vinashin với giá cao hơn vài chục triệu mỹ kim? Tương tự như vậy, Thủ Tướng trả lời thế nào về dư luận tố cáo vợ chồng con gái Thủ Tướng tham gia tư vấn mua ụ nổi và tàu già cỗi hư hỏng cho Vinalines, góp phần vào sự phá sản của Vinalines. Thủ Tướng có đồng ý chỉ đạo cơ quan điều tra và Bộ Ngoại Giao kêu gọi các quốc gia liên quan giúp điều tra làm rõ sự tố cáo này không?

                          Sự kiện 9. Với hợp đồng tư vấn mà công ty Bản Việt được trả hàng trăm tỷ đồng, để giúp Holcim mua được nhà máy xi măng Cotec với giá chỉ bằng 50% thị trường vào năm 2010 mà không thông qua đấu thầu. Xin hỏi: “Đây có phải là một dạng hối lộ trong mua bán với lợi thế về phía con gái của Thủ Tướng?”

                          Sự kiện 10. Tại sao Bản Việt có thể mua được cổ phần của ngân hàng Gia Định từ Vietinbank bằng đúng trị giá để trở thành sở hữu chủ, và đổi tên là ngân hàng Bản Việt với lô-gô là con Phượng bay lên! Thủ Tướng có dám đoan chắc rằng ”Nếu Nguyễn Thanh Phượng không phải là con gái của Thủ Tướng, thì Vietinbank này có dễ dàng bán cổ phần cho Bản Việt chỉ bằng trị giá mà mình đang nắm giữ không?”

                          Sau cùng là chúng tôi tố cáo con gái của Thủ Tướng. Nguyễn Thanh Phượng đã nhận 1.500 tỷ đồng từ ông Trầm Bê, gián tiếp góp phần thâu tóm Sacombank. Thủ Tướng trả lời thế nào về việc này?
                          Theo 19 Điều mà đảng viên không được làm, đề nghị: Việc con gái của Thủ Tướng tham gia hoạt động kinh tế thuộc phạm vi Thủ Tướng quản lý, điều đó có vi phạm Nghị Quyết Trung Ương về chỉnh đốn Đảng không?

                          Các Anh thấy chưa? Một người làm Thủ Tướng, không phải chỉ cả họ được nhờ, mà là cả họ bên vợ bên chồng, và “dây mơ rễ má” của bên chồng bên vợ, kéo theo hai bên bốn phía thông gia bên vợ bên chồng của con cũng được nhờ nữa. Dễ sợ chưa? Chính xác là không có cảnh người bóc lột người, chỉ có lãnh đạo và dòng họ xa gần bóc lột người thôi.

                          Thứ ba. Nguyễn Thanh Phượng, dưới nét nhìn của Blogger Thùy Linh.

                          Nguyễn Thanh Phượng, sinh ngày 20/3/1980 tại Kiên Giang, tốt nghiệp Cử Nhân ngành Tài Chính Ngân Hàng trường đại học Kinh Tế Quốc Dân Hà Nội, Thạc Sĩ về Quản Trị Tài Chánh trường đại học Quốc Gia Geneve, Thụy Sĩ khoảng 2004-2005. Và đang là nghiên cứu sinh Tiến Sĩ tại Học Viện Kỹ Nghệ Châu Á.

                          Bà Phượng là một sáng lập viên, và là Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị VCSC. Cũng là sáng lập viên, và cũng là Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị Công Ty Quản Lý Quỹ Bản Việt. Trước đó, bà từng là Giám Đốc Đầu Tư của quỹ Vietnam Holding, một quỹ đầu tư niêm yết trên thị trường chứng khoán London. Ngoài ra, bà Phượng từng giữ chức Phó Giám Đốc Tài Chánh của Công ty Liên doanh Holcim (Việt Nam), một tập đoàn đa quốc gia Thụy Sĩ”. Dưới đây là 4 Công Ty trong tay con gái Thủ Tướng:


                          Ngân hàng Bản Việt. Vốn điều lệ là 3.000 tỷ đồng.

                          Công ty bất động sản Bản Việt. Chưa có tài liệu đầy đủ.

                          Công ty Bản Việt quản lý quỹ đầu tư chứng khoán (Viet Capital Asset Management). Vốn điều lệ ban đầu là 150 tỷ đồng, trong đó Nguyễn Thanh Phượng nắm giữ đến hơn 43% cổ phần của công ty. nhưng theo tài liệu năm 2008 thì tài sản niêm yết của VCF là 800 tỷ đồng, VCHF là 500 tỷ đồng. Đến năm 2012, với tin tức tổng hợp về các cổ phiếu mà Công Ty VCAM đang nắm giữ, thì tổng tài sản ước tính gần 3000 tỷ đồng.

                          Công ty chứng khoán Bản Việt của Nguyễn Thanh Phượng, từ vị trí thứ 8 hồi nửa đầu năm 2011, nhưng đến nửa cuối năm này (2011) đã lên đến vị trí thứ 4 trong số10 công ty chứng khoán dẫn đầu về phần môi giới giao dịch trên thị trường chứng khoán tại Sài Gòn. Theo báo cáo tài chính năm 2011, tổng tài sản của Công ty này là 2.417,6 tỷ đồng.

                          Với các tài liệu dưới dạng những con số đã thu thập được, thì tổng tài sản của 4 Công Ty Bản Việt do Nguyễn Thanh Phượng giữ chức Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị, ước tính vào khoảng trên 10.000 tỷ đồng. Trong đó, theo các báo cáo thì nhóm lãnh đạo nắm tỷ lệ vốn trên 45%, đặc biệt với Công Ty Quỹ Đầu Tư Bản Việt thì Nguyễn Thanh Phượng nắm giữ hơn 43%.

                          Xin được hỏi Thủ Tướng về những công ty mà Nguyễn Thanh Phượng lãnh đạo thuộc quyền quản lý của Thù Tướng:

                          (1) Giá trị tài sản của Nguyễn Thanh Phượng từ đâu mà có? Tài sản xuất phát là bao nhiêu? Lợi nhuận, mức tăng trưởng nguồn vốn là bao nhiêu phần trăm mà sau 7 năm đã có được tài sản trên 10.000 tỷ đồng?
                          (2) Vậy, ai là người đã thường xuyên rót tiền cho Nguyễn Thanh Phượng?


                          Và nếu thật sự Nguyễn Thanh Phượng có tài năng xuất chúng trong ngành tài chính như vậy, sao Thủ Tướng không bảo Thống Đốc ngân hàng Nguyễn Văn Bình học hỏi để điều hành ngành tài chính ngân hàng của Việt Nam thoát khỏi tình trạng rối loạn và nợ xấu như hiện nay?

                          Các Anh nhận ra bộ mặt thật của ông Thủ Tướng CSVN rồi chớ? Chỉ với những tố cáo bên trên, cũng đủ cho người đọc thấy được mức độ ông Thủ Tướng CSVN tham nhũng lên bậc “siêu” rồi, vì chỉ riêng số tiền mặt ký thác tại ngân hàng Thụy Sĩ lên đến 1 tỷ 480 triệu mỹ kim. Nhưng không phải chỉ cá nhân ông ta, mà là cả nhóm “đỉnh cao gian trá” trong Bộ Chính Trị đều cùng loại “siêu tham nhũng” như vậy, vì tệ nhất như Trương Tấn Sang cũng ký thác đến 1 tỷ 124 triệu mỹ kim tiền mặt.

                          Không phải họ chỉ “siêu tham nhũng” mà họ còn “siêu tàn bạo” với người dân yêu nước, nhưng lại “siêu hèn hạ” với Trung Cộng, kẻ thù của dân tộc từ trong trong lịch sử xa xưa đến nay. “Siêu hèn hạ” đến mức bất cứ người dân nào từ già đến trẻ, biểu lộ chống Trung Cộng là bị Công An đàn áp, quản chế, bắt giam, bỏ tù, dù những công dân đó chỉ nói một lời, chỉ viết bài thơ, hát một bài nhạc, cất cao lời than cho số phận người dân Việt Nam bị tước mất cái quyền yêu quê hương đất nước của mình, hoặc tham gia bày tỏ thái độ chống kẻ thù chiếm đất, lấn biển, chiếm đảo của Việt Nam. Lãnh đạo CSVN “siêu hèn hạ” đến mức họ tự đồng hóa họ vào Trung Cộng, mà bằng chứng là người dân yêu nước chống Trung Cộng, họ cho là chống đảng cộng sản với nhà nước Việt Nam. Ngày 24/9/2012, một phiên tòa họp lại để đọc bản án định sẳn từ Bộ Chính Trị đối với 3 công dân yêu nước là Nguyễn Văn Hải chủ Blog “Điếu Cày”, cựu nữ Công An Tạ Phong Tần chủ Blog “Công Lý & Sự Thật”, và Phan Thanh Hải chủ Blog “”Anh Ba Sàigòn”. Mới nhất là hai ca nhạc sĩ Việt Khang và Trần Vũ Anh Bình, bị đưa ra cái gọi là “tòa án nhân dân” ngày 30/10/2012 vừa qua để “tuyên án”, anh Việt Khang tức Võ Minh Trí 4 năm tù + 2 năm quản thúc, và anh Trần Vũ Anh Bình 6 năm tù + 2 năm quản thúc, sau vài tiếng đồng hồ gọi là “xử án”. Họ họp lại chỉ vài tiếng đồng hồ là đọc bản án đã được Bộ Chính Trị định sẳn rồi. Cộng Sản độc tài mà Các Anh! Các Anh thử nhớ lại thời gian 1946-1954, tòa án của CSVN áp dụng “luật rừng”, còn bây giờ tuy ở thành phố nhưng tòa án vẫn sử dụng loại “luật rừng” chớ không gì khác, cho dù “luật rừng thời nay” ẩn dưới dạng luật với những điều này khoản nọ nhưng quyết định bản án có phải là do ông bà “chủ tọa” phiên tòa đâu.

                          Nguyễn Phương Uyên, cô gái trẻ với tuổi đời chỉ mới 20, bị Công An bắt tại Sài Gòn ngày 14/10/2012 nhưng mãi đến khi đưa xuống giam ở Long An mới công bố, chỉ vì cô gái nhỏ bé này dám làm thơ chống Trung Cộng. Các Anh chịu khó lục lọi lại ký ức Các Anh trong suốt thời gian học dưới mái trường tiểu học, trung học, đại học (nếu có), có thời đại nào trong lịch sử chúng ta mà những công dân yêu nước đứng lên bày tỏ thái độ chống kẻ lấn đất chiếm biển của Việt Nam mà bị nhà nước sử dụng Quân Đội nhân dân, Công An nhân dân, cùng với bọn Côn Đồ xã hội chủ nghĩa để đàn áp, quản chế, bắt giam, bỏ tù những công dân đứng lên chống giặc không? Mời Các Anh hãy đọc mấy câu thơ tôi trích trong bài “Tôi Yêu Tổ Quốc Tôi Mà Tôi Bị Bắt” của nhà thơ (trong nước) Trần Mạnh Hảo:

                          “....... Tuổi trẻ mít tinh. Đả đảo Trung Quốc xâm lược. Sông Bạch Đằng tràn lên phố biểu tình, Sông Bạch Đằng bị bắt. Ải Chi Lăng theo Tuổi Trẻ xuống đường, Ải Chi Lăng bị bắt. Gò Đống Đa nơi xương giặc vùi xương, sẽ bị bắt nếu biểu tình chống giặc. Có nơi đâu trên thế giới này, như Viêt Nam tôi hôm nay. Yêu nước là tội ác, biểu tình chống ngoại xâm bị Nhà Nước bắt? Các anh hùng dân tộc ơi! Ngô Quyền ơi! Trần Hưng Đạo ơi! Nếu sống lại, các ngài sẽ bị bắt! Ai cho phép các Ngài đánh giặc phương Bắc?.......”

                          Các Anh hãy đọc tiếp ba dòng chữ mà tôi trich trong bài viết của cô Nguyễn Thu Trâm ngày 29/10/2012.

                          “.... Có đâu trên thế gian này lòng yêu nước cần phải được kín giấu, nếu không muốn bị xỉ vả, bị đấu tố, bị giam cầm tra tấn và bị tù đày? Có đâu trên thế gian này sự gian trá, lường láo, bịp bợm và phản trắc lại được tôn vinh là quang vinh muôn năm, là đời đời sống mãi… ?”

                          Các Anh có cảm nhận nỗi đau từ nơi sâu thẳm trong tâm hồn mình không! Đau lắm Các Anh à! Đau vì bất cứ chế độ nào cho dù man rợ hay tàn bạo đến đâu đi nữa, cũng chưa bao giờ lại bắt bỏ tù những người dân yêu nước đứng lên chống giặc thù. Vậy mà, trong thế giới văn minh ngày nay, một thế giới phát triển nhanh đến mức như mọi người chóng mặt, lại có chế độ cộng sản độc tài đang cai trị đất nước Việt Nam với những cái tên không biết có từ lúc lọt lòng mẹ hay là tên của cái đảng cộng sản độc tài, là Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang, Nguyễn Tấn Dũng, .... , lại hành động dã man tàn bạo với đồng bào như vậy, nhưng lại ươn hèn khiếp nhược với Trung Cộng là kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt Nam như vậy!

                          Cũng vì vậy mà lãnh đạo CSVN của Các Anh, là những người luôn luôn sợ hãi. Họ sợ người dân nổi dậy lật đổ và giết chết họ, vì họ là lãnh đạo đảng cộng sàn độc tài, vừa độc tài vừa tham nhũng, vừa tàn bạo với dân lại vừa khiếp nhược với Trung Cộng, nên người dân không chấp nhận. Chính vì vậy mà họ phải chuyển nỗi sợ hãi của họ sang người dân, bằng cách thẳng tay đàn áp bắt giữ bỏ tù những công dân nào dám lên tiếng chống Trung Cộng, đến mức các đảng viên trong Bộ Chính Trị -nói theo Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang trong nước- là họ như đang trong “ống tay áo” của Trung Cộng vậy. Họ sợ Trung Cộng thanh trừng sẽ mất quyền lực quyền lợi, đến mức đoàn tàu cá Trung Cộng đen ngòm trên Biển Đông rượt đuổi ủi chìm tàu cá Việt Nam, nhưng chỉ dám gọi là “tàu lạ” mà không có bất cứ hành động nào để chống trả. Sợ Nguyễn Tấn Dũng phanh phui hành động quy lụy Trung Cộng để còn được mạng sống sau năm 2020 khi Việt Nam điểm thêm một ngôi sao nhỏ xíu trên lá cờ của Trung Cộng, hoặc sợ Nguyễn Tấn Dũng phanh phui những vụ cùng nhau chia chác những vụ tham nhũng, những vụ cướp đoạt tài sản quốc gia, tài sản đồng bào, tài sản quốc tế, nên muốn hạ bệ Nguyễn Tấn Dũng mà không dám nói đích danh, chỉ dám gọi là “đồng chí X”.

                          Các Anh hãy nhận ra sự thật, là nhóm “đỉnh cao gian trá” trong Bộ Chính Trị đều có tham vọng như nhau trong mục đích nắm giữ quyền lực để thâu tóm quyền lợi, không một đảng viên nào nghĩ đến Tổ Quốc Dân Tộc trong vị trí lãnh đạo của họ. Hành động của CSVN ít nhất là từ năm 1954 đến nay, bất cứ người Việt Nam nào cũng nhận thấy rõ ràng như vậy, ngoại trừ những người Việt Nam vô cảm với đồng bào và quê hương. Vậy, họ có đấu đá nhau đến đâu đi nữa, cũng vì tham vọng của riêng họ mà thôi. Thật là tội nghiệp cho Dân Tộc Việt Nam chúng ta!

                          Kết Luận.

                          Là Người Lính trong quân đội nhân dân Việt Nam, tôi nghĩ, có Anh 5 năm, 15 năm, 20 năm, thậm chí 25 hay 30 năm cầm súng, có bao giờ Các Anh suy ngẫm về quảng đời quân ngũ với súng đạn, có Anh đã thương tật tàn phế, có bạn đã gục ngã trên chiến trường, và Các Anh đang còn súng đạn trong tay, để nhận ra những khác biệt giữa lời nói với hành động của lãnh đạo Các Anh trong giai đoạn lịch sử từ năm 1945 đến nay không? Nói giải phóng, nhưng thật sự là xâm lăng. Nói thống nhất, nhưng là nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam theo lệnh của cộng sản quốc tế. Nói nhân dân làm chủ, nhưng thật ra nhân dân chỉ là một phương tiện lót đường cho họ nắm quyền lực mà thâu tóm tài sản. Nói độc lập, nhưng họ nhận lệnh từ Trung Cộng. Nói tự do, nhưng họ là độc tài. Nói hạnh phúc, nhưng toàn dân như bị họ nhốt trong cái lồng chim. Nói tự do ngôn luận, nhưng mọi người bị họ bịt miệng bịt mắt bịt tai. Nói giáo dục tân tiến, nhưng chỉ đào tạo những thế hệ thần dân để tuân phục họ. Mở miệng ra là khoa học kỹ thuật, nhưng sử dụng côn đồ và luật pháp rừng rú đàn áp nhân dân yêu nước chống nước Tàu xâm lấn. Nói đến quê hương dân tộc, nhưng họ nhân danh lãnh đạo đảng cộng sản để đứng trên đầu Tổ Quốc với Nhân Dân.

                          Chẳng lẽ Các Anh không nhận thấy bất cứ sự xúc động nào trong tâm hồn Các Anh, cũng không nhận thấy sự khác biệt nào về “Công An Nhân Dân” mà lại dã man tàn bạo với Nhân Dân, nhiệm vụ của quân đội phải bảo vệ tổ quốc mà lại cầm súng bắn vào Nhân Dân, và cũng không nhận thấy vô số những sự kiện rất lạ so với xã hội văn min, đã và đang diễn ra hằng ngày trong xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam?

                          Nếu Các Anh trả lời: “Không”, quả là Các Anh đã vô cảm đến mức như bên trong lồng ngực không có trái tim với dòng máu đỏ. Vậy là Các Anh không có cái hãnh diện được làm người Việt Nam trong vũ trụ này. Vì khi là Con Người thì không thể vô cảm như vậy. Thật là vô phúc cho dân tộc Việt Nam chúng ta!

                          Nếu các Anh trả lời: “Có”. Tôi mong là Các Anh đang có những suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính mình, rồi quyết định.... Và quyết định đó giúp Các Anh mạnh mẽ bước vào hàng ngũ tuổi trẻ, trí thức, đồng bào, để cùng giành lại quyền làm người cho hơn 90 triệu đồng bào được sống trong một xã hội dân chủ pháp trị, được ngẫng cao đầu giữa thế giới văn minh, được hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước đã lừng danh thế giới.

                          Tôi vững tin rằng, bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi- vẫn hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào, những thế hệ làm nên lịch sử.

                          Hãy nhớ, “Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng, và Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước” (trích trên internet).

                          Texas, tháng 11 năm 2012
                          Last edited by tieuchuy; 11-05-2012, 03:31 PM.

                          Comment


                          • #14
                            Thư số 14 gởi Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam

                            Phạm Bá Hoa

                            Tôi là một trong hằng triệu Người Lính Việt Nam Cộng Hòa, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo CSVN với lòng thù hận đã đày đọa chúng tôi trong hơn 200 trại tập trung mà họ gọi là trại cải tạo. Người 5 năm, 10 năm, thậm chí 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy chế độ dân chủ tự do và quân lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn trong quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam cho đến khi nào quê hương tôi có được một chế độ dân chủ tự do thật sự.


                            Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Xin gọi Người Lính Quân Đội Nhân Dân một cách ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày. Chữ “Các Anh” viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào ầm quyền, cũng chỉ là một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.

                            Nội dung thư này nối tiếp “Thư số 12” và “Thư số 13”, giúp thêm những sự kiện để Các Anh nhận rõ hơn nữa mức độ tồi tệ của xã hội chủ nghĩa, ngang qua bộ mặt thật của nhóm lãnh đạo trong Bộ Chính Trị sau chuỗi rung chuyển các tập đoàn kinh tế và các ngân hàng trong vòng tay của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, người mà Chủ Tịch Trương Tấn Sang vì run quá nên chỉ dám gọi là “đồng chí X”.

                            Thứ nhất. Lại tố cáo tập đoàn Nguyễn Tấn Dũng.

                            Trích bài viết ngày 17/08/2012 của ông Nguyễn Thứ Lữ, bí danh Hồng Hà với 50 tuổi đảng, nguyên chính trị viên Trung Đoàn Tây Bắc. Ông viết:

                            “Trân trọng thưa đồng bào, nhất là các cán bộ, đảng viên, những quân nhân trong Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, những công an trong Công An Nhân Dân đang ra sức bảo vệ chế độ, hãy thức tỉnh vì chúng ta đã và đang bị “Tập đoàn Nguyễn Tấn Dũng lường gạt cả nước”. Những mồ hôi nước mắt và tiền bạc của nhân dân Việt Nam, đã và đang chảy vào túi tham của “Tập đoàn Nguyễn Tấn Dũng”, vì họ đang nắm giữ 20 tập đoàn kinh tế quốc doanh trong tay, đó là:
                            (1) Tập đoàn Dệt May. (2) Tập đoàn Điện Lực Việt Nam. (3) Tập đoàn Dầu Khí. (4) Tập đoàn Công nghiệp Than. (5) Tập đoàn Công nghiệp Cao su. (6) Tập đoàn Bưu chính Viễn Thông. (7) Tập đoàn Xăng Dầu (trước là Tổng Công Ty Xăng Dầu) (8) Tập đoàn Công nghiệp Hoá Chất. (9) Tổng công ty Giấy Việt Nam. (10) Tập đoàn Thuốc Lá (trước là Tổng công ty thuốc lá). (11) Tổng công ty Sông Đà. (12) Tập đoàn Thép (trước là Tổng công ty Thép). (13) Tổng công ty Hàng Không Việt Nam. (14) Tổng công ty công nghiệp Xi Măng. (15) Tổng công ty Lương thực miền Bắc. (16) Tổng công ty Lương thực miền Nam (có kế hoạch sáp nhập 2 Tổng công ty lương thực này). (17) Tổng công ty Cà phê Việt Nam. (18) Tổng công ty Đường Sắt. (19) Tập đoàn Hàng Hải Việt Nam (trước là Tổng công ty Hàng Hải Việt Nam). (20) Tập đoàn Viễn Thông Quân Đội Viettel......
                            Với quyền thao túng trong tay, Nguyễn Tấn Dũng” đã gây ra không biết bao nhiêu thất bại lổ lã cho các tập đoàn quốc doanh, nợ nhiều tỷ đô la mà người dân đóng thuế cả đời trả không hết. Ông ta lại còn là người đứng đầu của Đảng Nhà Nước CSVN trong chương trình chống tham nhũng, nhưng lại biến tham nhũng ngày càng trở thành quốc nạn trầm kha, làm cho dân chúng bất mãn đến động trời động đất...” Ngưng trích.
                            Trích bài phát biểu của ông Nguyễn Bá Thanh, Bí Thư thành ủy Đà Nẳng tại Quốc Hội CSVN ngày 31/10/2012. ...”Nợ xấu không phải chỉ xấu mà là quá xấu, và không bao giờ đòi được". ...Tại sao với người dân hoặc doanh nghiệp tư nhân, khi đi vay mà không trả được hết nợ thì ngân hàng siết nhà siết đất, nhưng với doanh nghiệp nhà nước thì ngân hàng làm ngơ? Ngoài nguyên nhân nợ xấu là “bất động sản đóng băng”, có một vấn đề lớn hơn là “nâng khống giá trị” tài sản thế chấp lên để cho vay, chẳng hạn như khu đất thực giá chỉ 200 tỷ đồng, ngân hàng định giá lên 1.000 tỷ đồng và cho vay 600 tỷ đồng. Nhưng khi tịch thu đem rao bán 100 tỷ đồng cũng không ai mua, vậy là ngân hàng mất 500 tỷ đồng! Đây chính là nợ xấu, nhưng thật ra người vay và người cho vay đã chia nhau bỏ túi hằng trăm tỷ đồng”. Có những khoản nợ quá xấu mà không bao giờ đòi được, chẳng hạn như nhà máy xi măng ở Hạ Long và nhà máy Cẩm Phả, tổng số tiền đầu tư lên đến 4.000 tỷ đồng, nhưng sau vài năm hoạt động mỗi nhà máy lỗ hơn 1.000 tỷ đồng, đây chính là nợ quá xấu.


                            Theo bản tin đài Á Châu Tự Do ngày 31/10/2012, hiện nay Ngân Hàng nhà nước đang đối diện với nguy cơ nợ xấu tăng cao, trong đó chỉ riêng tín dụng về bất động sản đã lên tới 1 triệu tỷ đồng chiếm 57% trong tổng số nợ, vì nhà cất xong rồi bỏ trống mà chưa có cách nào giải quyết. Bộ Trưởng Xây Dựng Trịnh Đình Dũng, tình trạng này đe dọa nghiêm trọng đến kinh tế vĩ mô, dẫn đến mọi chính sách kinh tế đều rất khó hoàn thành. Điển hình là các khu đô thị Hạ Long Star tại Quảng Ninh, khu đô thị Đa Phước và Jade Center tại Đà Nẵng, chung cư Quốc tế Booyoung tại Hà Nội, đều xây dựng dở dang. Tại Sài Gòn thì nhiều dự án lớn cũng không thể thực hiện. Tập đoàn Berjaya có tổng số vốn đăng ký lên đến 4 tỷ rưỡi mỹ kim nhưng không thực hiện với lý do “nếu xây dựng xong cũng không ai mua”. Theo báo cáo của Quỹ Vinaland do Vina Capital quản lý, tình trạng nhà bán ra của nhiều công ty rất tồi tệ, bằng chứng là trong 8 tháng đầu năm 2012, nhiều khu đô thị và các biệt thự của ba tỉnh Đồng Nai, Nha Trang, và Đà Nẵng, chỉ bán được tổng cộng 58 căn nhà trong tổng số xây dựng hằng ngàn căn.

                            Vẫn theo bản tin trên, Thống đốc Nguyễn Văn Bình trả lời trước phiên thảo luận tại Quốc Hội, ông nhận trách nhiệm về thị trường vàng bất ổn trong vài tuần nay, vì chính sách độc quyền vàng miếng mà ông phổ biến chưa rõ ràng, làm cho đa số người dân lo sợ chính sách này sẽ ảnh hưởng đến việc quản lý vàng của nhà nước đối với xã hội. Vẫn theo ông Bình, hệ thống ngân hàng đã thu gom được 60 tấn vàng từ người dân, tương đương 3 tỷ Mỹ kim, và Ngân Hàng nhà nước mua vàng từ người dân có nghĩa là chuyển từ vàng sang tiền lưu hành trong xã hội để hỗ trợ nền kinh tế.

                            Tóm lược bài viết ngày 25/11/2012 của Tiến sĩ Vũ Quang Việt, từng là Vụ trưởng Vụ Tài Khoản Quốc Gia thuộc Cục Thống Kê Liên Hiệp Quốc. Tổng số nợ công của Việt Nam khoảng 129 tỷ mỹ kim nếu tính theo chuẩn quốc tế, bằng 106% tổng sản phẩm nột địa (chữ tắt trong tiếng Anh là GDP) năm 2011. Theo tiêu chuẩn quốc tế, nợ công bao gồm nợ của các công ty quốc doanh, và nợ mà nhà nước bảo lãnh cho các công ty quốc doanh vay mượn quốc tế. Nhưng CSVN tránh né số nợ quá cao nên không tính nợ của các công ty quốc doanh vào, để giảm tổng số nợ xuống mức 67 tỷ mỹ kim, hay là 55% tổng sản phẩm nội địa năm 2011. Ông nói: “Chính vì nhà nước làm chủ sở hữu các công ty quốc doanh mà nhà nước không thể trốn trách nhiệm trả nợ, vậy mà lãnh đạo CSVN lại buộc các công ty quốc doanh khác phải trả số nợ của Vinashin".

                            Ông Việt dẫn lời Bộ Trưởng Tài Chánh CSVN Vương Đình Huệ, cho biết có đến 30 tập đoàn và tổng công ty có số nợ nhiều gấp ba lần tổng số vốn. Trong số này có 8 tập đoàn mang nợ gấp 10 lần vốn, và 10 tập đoàn mang nợ từ 5 đến 10 lần vốn. Và ông Việt nhận định: "Như vậy, có lẽ 30 tập đoàn này đã mất khả năng trả nợ”.
                            Tóm lược bài “Thủ Tướng và cái giá của sự ngạo mạn” của Nhật Bình trên đài BBC Luân Đôn ngày 18/10/2012. Việt Nam của năm 2012 là đất nước chìm trong khối nợ xấu khổng lồ, bắt nguồn từ hệ thống ngân hàng, khối kinh tế quốc doanh yếu kém, và sự thao túng nền kinh tế mà nhiều ý kiến chỉ trích nhắm vào Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, kém khả năng lãnh đạo nhưng lại tôn sùng chủ nghĩa bè phái, và hội nghị Trung Ương đảng lần 6 hồi nửa đầu tháng 10 vừa qua, đã thể hiện mức độ chỉ trích cao nhất.

                            Tác giả dẫn lời giáo sư Carl Thayer, Học Viện Quốc Phòng Australia. Ông Dũng là Thủ Tướng đã đặt ưu tiên hàng đầu là hỗ trợ xuất cảng tài nguyên năng lượng, nông nghiệp, lâm nghiệp, các sản phẩm hải sản và may mặc;.....“Là một Thủ Tướng quyền lực nhất trong lịch sử CSVN, và là người theo chính sách tăng trưởng nhanh. Tuy nhiên, “điểm yếu lớn nhất của ông Dũng là sự ngạo mạn mà lại thiếu khả năng lắng nghe những ý kiến quan trọng. Thời Thủ Tướng Võ Văn Kiệt có thành lập Tổ Chuyên Gia tư vấn về cải cách kinh tế và hành chính. Đến Thủ Tướng Phan Văn Khải, ông này nâng tổ chuyên gia thành Ban Nghiên Cứu về kinh tế đối ngoại, nhưng khi ông Nguyễn Tấn Dũng nhậm chức Thủ Tướng đã giải tán Ban Nghiên Cứu này bằng quyết định số 1008 ngày 28/7/2006. Ông Dũng đã loại bỏ đội ngũ cố vấn của thế hệ trước, để thay vào đó bằng một mạng lưới bè phái của riêng mình. Sự ngạo mạn này còn được cho là thể hiện qua cách ông Dũng đề cử những người thân cận vào các vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước, các tập đoàn và các tổng công ty nhà nước dưới quyền lãnh đạo của ông”....

                            Các Anh đọc qua những tố cáo với dẫn chứng kèm theo, phải nói rằng, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, với khả năng của một y tá, không có kiến thức căn bản về quản trị kinh doanh một xí nghiệp, vậy mà chỉ một sớm một chiều đã nắm trong tay đến 20 tập đoàn, cho nên đã có hằng loạt các tập đoàn thua lỗ là điều hiển nhiên. Kiến thức của một nhà lãnh đạo thì kém, nhưng mức độ tham nhũng trong thực tế đã chứng minh Thủ Tướng đảng CSVN đáng xếp vào bậc siêu rồi, “siêu tham nhũng”. Vì không chỉ Nguyễn Tấn Dũng tham nhũng, mà là con trai con gái con rể con dâu, rồi cả dòng họ bên vợ bên chồng, kéo theo dây mơ rễ má với bà con dòng họ bên chồng bên vợ của các thông gia, lại còn tay chân thân tín nữa, cho nên ông Nguyễn Thứ Lữ với 50 tuổi đảng viên cộng sản, gọi ông Nguyễn Tấn Dũng cùng với nhóm tham nhũng dây mơ rễ má với ông Dũng, ngắn gọn là “tập đoàn Nguyễn Tấn Dũng” cũng đúng thôi.

                            Tham nhũng đến mức nhóm “đỉnh cao gian trá” trong Bộ Chính Trị, tuy cùng tham nhũng riêng tư và cùng ăn chia nhau trong những vụ tham nhũng chung, nhưng họ không chịu nổi nữa, bèn tổ chức đại hội trung ương đảng lần thứ 16 trước định kỳ, và kéo dài trong hai tuần lễ hồi nửa đầu tháng 10 vừa qua, dẫn đến dư luận loan truyền là phe tham nhũng trong Bộ Chính Trị sẽ hạ bệ Nguyễn Tấn Dũng và tập đoàn tham nhũng của ông. Cùng thời gian này lại xuất hiện trang Blog “Quan Làm Báo”, đưa lên các Diễn Đàn hằng loạt những tin tức thuộc loại “thâm cung bí sử” về tình tiết những vụ tham nhũng kinh khủng của “tập đoàn Nguyễn Tấn Dũng”, làm cho độc giả khắp nơi tin rằng lần này người dân bớt được một “con bạch tuộc khổng lồ” cộng chung dòng họ có đến hằng trăm cái vòi đua nhau rút ruột người dân, rút ruột quốc gia, và rút ruột đầu tư quốc tế. Nhưng đại hội chỉ là chuyện bắt đầu thi “lớn như con voi” để rồi chung cuộc thì “nhỏ xíu như con chuột”, nhỏ đến mức không có con chuột nào nhỏ hơn nữa. Lãnh đạo cộng sản là như vậy mà.
                            Các Anh đã biết ý nghĩa của kết quả đại hội đó chớ? Với tôi, ý nghĩa đó cũng là điều hiễn nhiên thôi, bởi bản thân phe nhóm tham nhũng trong Bộ Chính Trị phải tự cứu nhau, vì nếu không che chắn cho Thủ Tướng thì ông “tiến sĩ y tá” dại gì mà không phanh phui những vụ tham nhũng của từng người trong Bộ Chính Trị, từ đó có thể dẫn đến tình trạng đảng cộng sản Việt Nam sụp đổ chăng? Các Anh cũng biết nhóm lãnh đạo CSVN chỉ sợ mất đảng chớ họ đâu có sợ đất nước vào tay Trung Cộng, bởi cộng sản chỉ có cái lý tưởng “quyền lực và tham nhũng”.


                            Dương Trung Quốc

                            Theo bản tin của AFP ngày 14/11/2012, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, lần đầu tiên bị một trong số 500 đại biểu Quốc Hội kêu gọi ông từ chức vì những kém cõi trong lãnh đạo đã đẩy nền kinh tế đất nước vào tình trạng nguy ngập hiện nay. Đại Biểu Dương Trung Quốc nói:

                            “Đã đến lúc phải đề cao trách nhiệm pháp luật chứ không phải chỉ là lời xin lỗi. Phải chăng Thủ Tướng nên nhân dịp này thể hiện quyết tâm sửa chữa của mình bằng cách khởi động cho một cuộc phấn đấu của chính phủ, hướng tới đoạn tuyệt với những lời xin lỗi, thay vào đó bằng tập quán phù hợp với xã hội hiện đại là “văn hóa từ chức”, với một lộ trình là các quan chức của ta làm được cái điều mà các quốc gia tiên tiến vẫn làm. Xin nhắc lại rằng, xa xưa các cụ nhà ta cũng coi việc cáo quan hồi hưu là một cách giữ tiết tháo....” Rồi ông đặt câu hỏi: “Thứ nhất. Thủ Tướng nghĩ gì về ý kiến cho rằng, mình đã nặng trách nhiệm với đảng, mà nhẹ trách nhiệm với dân? Và thứ hai. Thủ Tướng có tán thành là sẽ khởi đầu cho một sự tiến bộ của chính phủ, hướng tới một văn hóa từ chức để từng bước đoạn tuyệt với lời xin lỗi hay không?”

                            Ðáp lại những công kích công khai hiếm thấy này, Thủ Tướng Dũng phát biểu:

                            “Đối với tôi, còn 3 ngày nữa tròn 51 năm tôi theo Đảng, hoạt động cách mạng, chịu sự quản lý trực tiếp của Đảng. Trong 51 năm qua, tôi không xin với Đảng cho tôi đảm nhiệm chức vụ này hay chức vụ khác. Mặt khác, tôi cũng không thoái thác hay từ chối bất cứ nhiệm vụ gì mà Đảng và Nhà nước giao phó cho tôi. Là cán bộ, đảng viên, tôi đã nghiêm túc báo cáo với Bộ Chính Trị, Ban Chấp Hành Trung Ương về bản thân mình. Đảng, Ban Chấp Hành Trung ương đã hiểu rõ về tôi, cả về sức khỏe, thương tật, cả về năng lực, phẩm chất, đạo đức cả về tâm tư, nguyện vọng của tôi. ... Đảng ta là đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội. Đảng đã phân công tôi tiếp tục làm nhiệm vụ Thủ Tướng. Quốc hội bỏ phiếu bầu tôi làm Thủ Tướng thì tôi sẵn sàng chấp nhận và hoàn thành nghiêm túc mọi quyết định của Đảng, của Quốc Hội”.

                            Các Anh thấy chưa, ông Thủ Tướng Các Anh từ đầu đến cuối lời phát biểu chỉ nói đến đảng, chỉ tuân phục đảng, mà đảng chỉ là một nhóm người trong Bộ Chính Trị cùng tham nhũng như ông, mà không nói một lời nào đến trách nhiệm của Thủ Tướng đối với dân với nước. Bản chất của cộng sản là như vậy mà. Ông Dũng lại ra vẻ như không biết gì về mục đích mà ông Tổng Bí Thư với ông Chủ Tịch nước vội vàng triệu tập đại hội của Trung Ương đảng vừa qua, rằng “nhóm tham nhũng” trong Bộ Chính Trị dự định hạ bệ ông ta, nên mạnh miệng hồi đáp đại biểu Quốc Hội rằng ông Thủ Tướng “tiến sĩ y tá” là một đảng viên lãnh đạo, nào là năng lực, đạo đức, nào là luôn luôn thi hành lệnh đảng, chớ không bao giờ dùng thủ đoạn tranh đoạt quyền lực để thâu tóm tài sản. Tôi nói “cả nhóm tham nhũng” trong Bộ Chính Trị, vì nếu không tham nhũng thì tài sản hồi năm 1975 từ ngoài rừng vào thành phố Việt Nam Cộng Hòa chỉ có cái ba-lô đựng hai nắm cơm vắt với đôi dép râu, mà theo bản tin của Câu Lạc Bộ Dân Chủ số 39 tháng 2/2005, trích dẫn nguồn tin tuyệt mật từ Bộ Công An, thì Nguyễn Tấn Dũng lúc ấy là Phó Thủ Tướng thường trực, đã gởi ngân hàng Thụy Sĩ hơn 1 tỷ 480 triệu mỹ kim. Đúng là “lý tưởng” của cộng sản Việt Nam từ sau khi cộng sản quốc tế sụp đổ, khi leo lên được chiếc ghế lãnh đạo là siết chặt cái ghế đó “theo cách nói của Nguyễn Tấn Dũng”, để bám giữ quyền lực mà thâu tóm quyền lợi, và không bao giờ thay đổi. Tất cả chỉ là dối trá, và dối trá.

                            Các Anh hãy nghe ông Mikhail Gorbatchev, một thời là Tổng Bí Thư đảng cộng sản Nga nói rằng: “Tôi đã bỏ một nửa cuộc đời cho lý tưởng cộng sản, ngày hôm nay tôi phải đau buồn mà nói rằng, đảng cộng sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá”.

                            Chua hết. Vẫn trong lời phát biểu của ông Dũng về đảng lãnh đạo toàn xã hội, tự nó đã tố cáo đảng cộng sản đứng trên đầu Tổ Quốc Dân Tộc. Vậy, cái Quốc Hội với gần 90% đại biểu là đảng viên cộng sản thì cái chuyện bầu ông ta làm Thủ Tướng, chẳng qua là “đảng cử và Quốc Hội theo lệnh đảng mà bầu” chớ có gì đâu mà khoe, lại tự nó đã tố cáo bản chất dối trá của CSVN.

                            Thêm một đảng viên lãnh đạo là ông Trương Tấn Sang. Theo báo VietnamNet ngày 18/10/2012, khi tiếp xúc với cử tri Quận 4, có đoạn ông nói: ”Khi thấy mình nhu nhược thì tôi làm đơn xin nghỉ.... Thậm chí khi về quê, tôi sẽ trả lại nhà cho đảng. Nhà tôi nhỏ thôi, 51 mét vuông, khi về hưu dứt khoát tôi không lấy một mét vuông đất nào”. Các Anh nghe qua tưởng như ông Chủ Tịch Sang quá sức thanh liêm, đạo đức. Nhưng theo tài liệu của FYI (Poliburo network) ngày 19/12/2000, thì Trương Tấn Sang lúc ấy là Chủ Tịch Ủy Ban Kinh Tế trung ương, đã gởi ngân hàng Thụy Sĩ 1 tỷ 124 triệu mỹ kim.

                            Thứ hai. Đến con gái của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng.

                            Với bài “Nổi Oan Cô Phượng” của tác giả “Tư Miệt Vườn” trong Blog “Dân Làm Báo”. Cô Phượng, người con gái quyền lực và nổi tiếng về tham nhũng. Ngay trước khi “cơn bão nổi lên nhắm vào cha cô là Dũng Thú Tướng đầy quyền lực và “danh tiếng” hơn con gái về tham nhũng”, thì cô ta vội vàng chạy khỏi Việt Nam để sang Hoa Kỳ “tị nạn”, xứ sở mà cha cô và nhóm lãnh đạo CSVN từng miệt thị là “tư bản chủ nghĩa đang giẫy chết tại dinh lũy cuối cùng của nó”. Tác giả vào đề: .....
                            Tư tui có đọc bài trả lời phỏng vấn của cô trên đài BBC, “cô cho rằng cô bị bịa đặt, bị gán ghép... những việc mà cô không liên quan làm cô buồn phiền, căng thẳng”. Thưa cô Phượng, có những con người yêu nước thật sự bị gán ghép, bị chụp mũ, và kết quả là họ phải ở sau song sắt nhà tù hàng chục năm. “Ai oan hơn ai thưa cô Phượng? Nỗi oan của cô, hay của những người yêu nước chống Tàu xâm lấn Việt Nam lại bị gán ghép âm mưu lật đổ nhà nước, đều có phần trách nhiệm của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, cha của cô đó”.
                            Với tư cách là người lớn tuổi, Tư tui cũng “khuyên cô đừng bắt chước những kẻ độc đảng, độc tài, độc quyền, độc ác mà gán ghép, mà chụp mũ những người yêu nước là "phản động". Cô có hiểu được định nghĩa của từ "phản động" là gì không? Cô là người được ra nước ngoài ăn học, cô phải hiểu rằng để quản trị một đất nước đâu thể là một tên lớp ba trường làng, một tên chăn trâu, một tên y tá rừng, một tên đồ tể giết người bằng cách bán bãi vượt biển rồi giết người trên biển. Ở Rạch Giá - Kiên Giang này ai mà không biết Nguyễn Tấn Dũng hả cô Phượng. Những miếng vàng mà mẹ cô cất giữ năm xưa có máu của những oan hồn chết trên biển cả đó thưa cô. Đừng ngậm máu phun người thì chính miệng cô sẽ dơ”.

                            “Cô nói, làm con của một người lãnh đạo đất nước chịu nhiều áp lực, điều đó đúng. Nhưng nói đi còn có nói lại, nó chỉ đúng khi người lãnh đạo đó là một minh quân, biết "tu thân tề gia trị quốc bình thiên hạ", còn như cha cô, một kẻ uống máu người thì làm sao dạy dỗ con cái như cô làm người tử tế. Cô tài ba cỡ nào mà kinh doanh ở Bản Việt đạt lợi nhuận từ năm 2010 chỉ có 75 tỷ sang đến năm 2011 là 360 tỷ, tỷ lệ tăng 379%? Nếu thật vậy sao cô không xin đoạt giải Nobel kinh tế về tài kinh bang tế thế của mình và thay cha mình ngồi vào ghế Thủ Tướng lèo lái Vinashin, Vinaline, hay là nền kinh tế Việt Nam đang chìm theo các tập đoàn mà cha cô là cha đẻ của các công trình thất thoát hàng tỷ mỹ kim. “Thưa cô, nếu cô không phải là con của ông Thủ Tướng độc tài, tham lam thì Bản Việt sẽ không có thành tích đó, tất cả là nhóm lợi ích mà cha cô là một đầu lĩnh MAFIA. Vậy mà Cô nói là cô bị oan à?”

                            “Ông Tổng Bí Thư Trọng đã nói khi kết thúc hội nghị Trung ương 6 là các ủy viên Bộ Chính Trị phải biết dạy dỗ con cái mình, ông ta đang nói về cha cô và gia đình cô đó. Cô thấy oan sao không lên tiếng phản bác mà chỉ dám phản bác mấy cái blog "phản động"? Còn "đồng chí X" không bị kỷ luật mặc dù tội dày trên 300 trang A4 mà ông Sang nói thì cũng chính là cha cô đó, cô có dám lên tiếng minh oan không? Người ta gọi cô là một quốc vụ khanh của chính phủ, trước khi gặp ông Thủ Tướng thì phải đến gặp cô, để cô thu xếp thời gian và địa điểm thích hợp và đương nhiên là cái giá phải trả cho sự thu xếp là không nhỏ, nó tùy thuộc vào giá trị của mỗi thương vụ. Oan nỗi gì hả cô? Cha cô với sự tiếp sức của cô cùng những kẻ cánh hẩu đang khuynh đảo cả đất nước này. Tư tui cũng được biết, cô Phượng là con gái yêu của “ngài” Thủ Tướng, nên Tư tui xin mạo muội nhắn gởi cô đôi điều, khi cô và mẹ cô đang sống trên cả hạnh phúc, ăn quá ngon, mặc quá đẹp, đi xe đắt tiền, và nhà ở thì sang trọng hơn dinh thự của các triều đại vua chúa ngày xưa. Xin cô và mẹ cô hãy, dành một ngày để bước ra chợ mà nhìn những người phụ nữ Việt Nam lam lũ, gánh từng bó rau đi xa hàng cây số để bán thu được khoảng vài chục nghìn đồng mưu sinh cho gia đình”.
                            “Những người phụ nữ cũng cở tuổi cô thất học thất nghiệp phải lên thành thị bán để giúp đỡ cha mẹ nghèo ở quê. Những người phụ nữ dành dụm từng đồng ít ỏi để thăm nuôi chồng con mình đang bị kết án "phản động" ở những trại tù xa xôi. Nhìn ra những việc đó, cô hãy nói với người cha của mình là hãy dừng bàn tay tội ác, tiền quyền sẽ hết, chết chỉ có hai bàn tay trắng, thì tham lam để làm gì? Cô có muốn gia đình cô cùng với họ hàng nhà cô, sẽ có một kết cục như những gia đình bạo chúa Saddam Hussein, Hosni Mubarack, Gadahfi không? Cô đừng nói mình bị oan, những điều mà người ta nói đến chỉ là một phần nhỏ, cô đã thay đổi quá nhiều từ khi là một học sinh từ Rạch Giá lên Sài Gòn ở nhờ đi học tại khu nhà nghỉ của công ty Thực Vật An Giang, bây giờ cô đã trở thành một tay mưu mô lọc lừa, tham lam tàn ác. Cô với cha cô, đúng là cha nào con nấy”.


                            Thứ ba. “Dân Nghèo Bỗng Dưng Gánh Nợ Khủng Khiếp”.

                            Đó là bài viết của Alan Phan ngày 5/11/2012: “Vay 10 triệu, 20 triệu, 50 triệu hay hơn nữa, một ngày kia bỗng dưng nhận giấy của ngân hàng báo nợ là 400 triệu, 500 triệu, 800 triệu,... Thậm chí có người không hề vay đồng nào cũng có tên trong danh sách nợ ngân hàng tới vài trăm triệu đồng.
                            Sự kiện này bùng nổ tại “chi nhánh Agribank Nam Am” từ giữa tháng 10/2012 khi hằng trăm gia đình dân nghèo thuộc xã Tam Cường huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng, bỗng dưng họ nhận được giấy báo nợ của gân hàng Agribank Nam Am, họ kinh ngạc đến mức không tin vào mắt mình khi giấy thông báo nợ với những con số ghê gớm, vì từ 2 triệu, 5 triệu, 10 triệu thành 400 triệu, 50 triệu thành 800 triệu đồng....

                            Quá phẫn uất (trong nước gọi là bức xúc) trước sự kiện này, họ kéo nhau đến Ủy Ban Nhân Dân xã rồi Công An huyện Vĩnh Bảo, đưa đơn kiện bà Lê Thị Vững, cán bộ chi nhánh Nam Am trực thuộc Agribank Hải Phòng. Ông Vũ Xuân Thảo, Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân xã Tam Cường xác nhận: Tới nay, Ủy Ban đã tiếp nhận 80 đơn của người dân địa phương tố cáo bà Lê Thị Vững (nếu kể cảc các cơ quan khác đã nhận đơn cũng đến vài trăm). Các đơn này đều tố cáo bà Vững là cán bộ ngân hàng, cho người dân vay vài chục triệu, nhưng thực tế số tiền ghi nợ tại ngân hàng lại lên tới vài trăm triệu đồng. Bằng chứng: (1) Vợ chồng anh chị Trần Văn Mười & Đào Thị Lưu, cũng qua bà Lê Thị Vững đã thế chấp “sổ đỏ” (thẻ sử dụng nhà đất) để vay 40 triệu đồng của Agribank hồi tháng 8/2012, nhưng giữa tháng 10/2012 khi vợ chồng đến ngân hàng trả tiền lời thì ngân hàng cho Anh Chị biết số nợ là 480 triệu đồng. (2) Bà Đặng Thị Viên, sanh năm 1964 tại thôn 10, xã Tam Cường, cũng vay ngân hàng 10 triệu đồng qua bà Lê Thị Vững. Ngày 18/10/2012, khi đến ngân hàng xem lại hồ sơ thì số tiền vay nợ của gia đình bà tứ 10 triệu biến thành 400 triệu đồng. (3) Bà Ngô Thị Thắm xã Tam Cường, vay 90 triệu đồng trở thành 400 triệu đồng. (4) Gia đình anh Phạm Công Tuyển vay 10 triệu, đã trả xong 8 triệu, chỉ còn thiếu 2 triệu, nhưng số nợ nhỏ nhoi đó bỗng biến thành 400 triệu đồng.

                            Đó là trường hợp người dân có vay nợ từ ít biến thành 10 lần cao hơn. Lại có tình trạng những người không hề vay nợ lại có tên trong danh sách “con nợ” của Agribank Nam Am. Bằng chứng: (1) Bà Phạm Thị Miền, 54 tuổi, ở thôn 10, xă Tam Cường, từ nhiều năm nay thuộc thành phần nghèo nhất xã. Bà cùng người con tàn phế sống trong một căn nhà tồi tàn do người dân địa phương đóng góp 3 triệu đồng xây dựng. Căn nhà này lại được xây trên đất của người em trai, nên bà không hề có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Thế nhưng, bà Miền lại có tên trong danh sách nợ ngân hàng với số tiền 400 triệu đồng. (2) Chị Phạm Thị Bích, xã Tam Cường, không hề vay ngân hàng đồng nào, cũng nhận được “trát” thông báo số nợ 40 triệu đồng.

                            Ngày 1/11/2012, ông Phạm Quư Giang, Phó Giám Đốc Agribank Hải Phòng, tiếp chuyện với phóng viên báo Lao Động, ông cho biết: “Agribank Nam Am là chi nhánh trực thuộc trực tiếp Agribank Hải Phòng. Ngay sau khi xảy ra sự việc, chúng tôi đã thành lập đoàn điều tra với kết quả sơ bộ như sau: Tại xã Tam Cường có 230 người tố cáo là bị “ghi khống số nợ” dù không vay nhưng cũng có tên trong danh sách nợ của ngân hàng. Đến nay vẫn chưa có kết luận cuối cùng, nhưng chứng tỏ đơn của người dân là có cơ sở. Vì số người gửi đơn quá nhiều, chúng tôi mới điều tra được ở xã Tam Cường, còn những xã khác thì chưa xong”...

                            Sau đó, phóng viên báo Lao Động tiếp xúc với ông Bùi Thanh Tịnh, Giám Đốc chi nhánh Agribank Nam Am. Ông Tịnh trả lời câu hỏi về bà Lê Thị Vững : “Tôi không có “chức năng” (= không có quyền) trả lời báo chí”. Bài báo nhấn mạnh, để có thể rút tiền ngân hàng với số lượng hằng chục hằng trăm triệu, một mình bà Vững không thể làm được. Vì vậy mà dư luận người dân tại huyện Vĩnh Bảo đang đặt câu hỏi: “Liệu Bùi Thanh Tịnh liên quan thế nào khi ký vào các “hợp đồng khống” do bà Vững trình cho ông?”

                            Tiếp tục trích bài của ông Nguyễn Thứ Lữ. Blogger Ðào Tuấn cho biết: “Tổng Công Ty Xăng Dầu chỉ trong 3 tháng đã lỗ đến 3.600 tỷ đồng.” Làm thế nào để khỏi bị lỗ? Họ xin có một tỷ giá riêng, tức là người dân muốn đổi lấy một đô la Mỹ phải trả từ 18.000 đến 21.000 đồng Việt Nam, trong khi họ chỉ cần 12.000 đồng là đổi được một đô la, có nghĩa là người dân vừa mới trợ cấp cho công ty xăng dầu 6.000 đồng/1 đô la. Ðổi một lần độ 100 triệu đô la, thì toàn dân Việt Nam đã đóng góp vào túi “tập đoàn Nguyễn Tấn Dũng” 600.000 tỷ đồng! Toàn dân Việt Nam đang bị rút ruột một cách tinh vi như thế! ....
                            Bây giờ thì Nguyễn Tấn Dũng không còn lo việc cất giấu hay chuyển ngân ra nước ngoài như trước nữa. Đã có con gái và chàng rể lo cho tất cả. Con gái của Dũng thế nào cũng trở thành công dân Mỹ vì lấy chồng là người Mỹ. Một mai nếu có xẩy ra biến cố ở Việt Nam thì đã có con gái là công dân Mỹ bảo trợ cho Dũng vào nước Mỹ dễ dàng. Chúng tôi xin lặp lại, chúng ta cả nước từ trung ương đảng đến các điạ phương, từ Quân Đội đến Công An, Quốc Hội, cũng như đồng bào cả nước đã bị “Tập đoàn Nguyễn Tấn Dũng” lường gạt.

                            Chúng tôi tha thiết kêu gọi các sĩ quan trong Quân Đội Nhân Dân Việt Nam hãy thức tĩnh, hãy nhận xét sự việc và hãy nhận chân sự thật. Chỉ có các bạn mới có hoàn cảnh làm nên lịch sử! Ở bất kỳ nước nào mà chúng tôi đã đọc qua lịch sử của những cuộc chính biến hay đảo chính, phải có địa vị tướng tá mới làm nên lịch sử. Nước kề cận ta là Thái Lan những người cầm đầu đảo chính chỉ là sĩ quan cấp úy như cố Thống Chế Phibul Songkram lúc làm đảo chính ông ấy chỉ là một Trung úy Pháo binh. Bạn nào có chí, có đảm lược thì nhất định thành công.
                            Kính mong các sĩ quan có binh lính và vũ khí trong tay, hãy tùy theo hoàn cảnh để làm nên lịch sử....
                            Kính chào Đoàn Kết. Nay kính. Nguyễn Thứ Lữ bí danh Hồng Hà. Hết trích.


                            Đọc đến đây Các Anh có thấy mỉa mai lắm không, vì tham nhũng là cả một hệ thống lãnh đạo đảng với lãnh đạo nhà nước từ trung ương đến tận các địa phương, và len vào mọi ngóc ngách của xã hội, đến mức người dân không còn chỗ nào để tránh né được nữa, vì vậy mà cái gọi là chức vụ Trưởng Ban phòng chống tham nhũng trung ương trong tay Nguyễn Tấn Dũng hay Nguyễn Phú Trọng hoặc Trương Tấn Sang nắm giữ cũng vậy thôi. Trong thư số 12 gởi Các Anh, căn cứ vào những sự kiện từ năm 1975 đến nay, tôi khẳng định “Trong xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam, không có người bóc lột người, chỉ có đảng cộng sản với nhà nước cộng sản bóc lột người, mà là bóc lột đến tận cùng xương tủy của người dân”. Chính xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã chứng minh rành rành là bất cứ ai chống tham nhũng thì bị buộc tội chống đảng chống nhà nước, chống Trung Cộng xâm lấn biển đảo Việt Nam cũng là chống đảng chống nhà nước. Vậy lãnh đạo CSVN là ai? Không có cách nói nào khác ngoài cách nói “họ là những tay sai của Trung Cộng, với lý tưởng tranh đoạt quyền lực để thâu tóm quyền lợi, và không bao giờ chuyển đổi sang chế độ dân chủ tự do theo nguyện vọng người dân”.

                            Kết Luận.

                            Là Người Lính trong quân đội nhân dân Việt Nam, tôi nghĩ, có Anh 5 năm, 15 năm, 20 năm, thậm chí 25 hay 30 năm cầm súng, có bao giờ Các Anh suy ngẫm về quảng đời quân ngũ với súng đạn, có người về hưu, người thì thương tật tàn phế, có người đã gục ngã trên chiến trường, và Các Anh đang còn súng đạn trong tay, để nhận ra những khác biệt giữa lời nói với hành động của lãnh đạo Các Anh trong giai đoạn lịch sử từ năm 1954 khi nhuộm đỏ một nửa nước đến nay không? Nói giải phóng, nhưng thật sự là xâm lăng. Nói thống nhất, nhưng là nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam theo lệnh của cộng sản quốc tế. Nói nhân dân làm chủ, nhưng thật ra nhân dân chỉ là một phương tiện lót đường cho họ nắm quyền lực mà thâu tóm tài sản. Nói độc lập, nhưng họ nhận lệnh từ Trung Cộng. Nói tự do, nhưng họ là độc tài. Nói hạnh phúc, nhưng toàn dân như bị họ nhốt trong cái lồng chim. Nói tự do ngôn luận, nhưng mọi người bị họ bịt mắt bịt tai bịt miệng. Nói giáo dục tân tiến, nhưng chỉ đào tạo những thế hệ thần dân để tuân phục họ. Mở miệng ra là khoa học kỹ thuật, nhưng sử dụng côn đồ và luật pháp rừng rú đàn áp nhân dân yêu nước chống Tàu xâm lấn. Nói đến quê hương dân tộc, nhưng họ nhân danh lãnh đạo đảng cộng sản để đứng trên đầu Tổ Quốc với Nhân Dân.

                            Ông Nguyễn Thứ Lữ, với 50 tuổi đảng, đã nhắn nhủ Các Anh rằng: “Chúng tôi tha thiết kêu gọi các sĩ quan trong Quân Đội Nhân Dân Việt Nam hãy thức tĩnh, hãy nhận xét sự việc và hãy nhận chân sự thật. Chỉ có các bạn mới có hoàn cảnh làm nên lịch sử!
                            Sau khi Các Anh đọc loạt thư của tôi từ số 1 hồi tháng 1/2011 đến số 13 vừa qua, tôi mong là Các Anh hãy suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính mình, rồi quyết định.... Và quyết định đó giúp Các Anh quyết tâm bước vào hàng ngũ tuổi trẻ, trí thức, đồng bào, bằng bấy cứ hình thức nào mà Các Anh cho là thích hợp nhất, để cùng nhau giành lại quyền làm người cho hơn 90 triệu đồng bào được sống trong một xã hội dân chủ pháp trị, cầm sổ “thông hành” (trong nước gọi là hộ chiếu) trong tay mà ngẫng cao đầu giữa thế giới văn minh, được hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước đã lừng danh thế giới.
                            Tôi vững tin rằng, bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi- vẫn hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào, những thế hệ làm nên lịch sử.

                            Hãy nhớ, “Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng, và Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước” (trích trên internet).

                            Texas, tháng 12 năm 2012
                            Last edited by tieuchuy; 12-09-2012, 02:46 AM.

                            Comment


                            • #15
                              Thư số 15 gởi Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam

                              Thư số 15 gởi
                              Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam.

                              *******
                              Phạm Bá Hoa

                              Tôi là một trong hằng triệu Người Lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo CSVN với lòng thù hận đã đày đọa chúng tôi trong hơn 200 trại tập trung mà họ gọi là trại cải tạo. Người 5 năm, 10 năm, thậm chí 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy chế độ dân chủ tự do và quân lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn trong quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ và trách nhiệm của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam cho đến khi quê hương tôi có dân chủ tự do thật sự.


                              Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Xin gọi Người Lính Quân Đội Nhân Dân ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày. Chữ “Các Anh” viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào cầm quyền, cũng chỉ là một giai đoạn của lịch sử. Và nội dung tôi gởi thư đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.
                              Nội dung thư này, tôi mời Các Anh nhìn từ những góc cạnh khác nhau về cuộc biểu tình của đồng bào ngày 9/12/2012 tại Hà Nội và Sài Gòn, phản đối hành động của Trung Cộng lấn chiếm Biển Đông, và phản ứng của lãnh đạo cộng sản Việt Nam đàn áp người dân biểu tình bày tỏ tinh thần bảo vệ tổ quốc đã nói lên điều gì với đồng bào, với thế giới, và với Trung Cộng.

                              Thứ nhất. Hành động của Trung Cộng.

                              Sự kiện 1. Về Thông Hành (trong nước gọi là Hộ Chiếu) của Trung Cộng có in hình “Đường Lưỡi Bò” tự nhận chủ quyền của họ trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Theo bản tin Tân Hoa Xã của Trung Cộng thì “Thông Hành” này phát hành từ ngày 15/5/2012 với số lượng 6.000.000 cuốn đầu tiên, có giá trị trong 10 năm.
                              Nơi “khám phá” loại Thông hành này là đồn biên giới Lào Cay. Theo Trung Tá Trần Việt Huynh, trưởng đồn, trong khoảng thời gian từ 11/11/2012 - 23/11/2012, có hơn 100 người Trung Hoa sử dụng loại Thông Hành này nhập cảnh Việt Nam. Trong khi đó, bản tin của chánh phủ CSVN ngày 22/11/2012, đại diện Bộ Ngoại giao Việt Nam đã gặp đại diện tòa đại sứ Trung Cộng và trao công hàm phản đối việc in hình bản đồ loại này trong Thông Hành. Cũng ngày 22/11/2012, phát ngôn Bộ Ngoại Giao Việt Nam Lương Thanh Nghị mới có phản ứng. Khi đề cập đến hành động nói trên của Trung Cộng, ông Nghị nói : “Việc làm trên của Trung Quốc đã vi phạm chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cũng như chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với các vùng biển liên quan ở Biển Đông.” Vậy là lãnh đạo CSVN vừa hoàn thành công việc phản đối Trung Cộng!

                              Các Anh có thấy là phản ứng ở cấp chánh phủ đối với vấn đề nghiêm trọng như vậy là vừa chậm vừa cho có lệ như những phản ứng từ trước không? Nhưng nhìn lại phản ứng của lãnh đạo Các Anh từ khi “Biển Đông dậy sóng” năm 1988 đến nay, thì không có gì là chậm, cũng không có gì khác ngoài phản ứng “rất nhẹ nhàng hữu hảo” của Bộ Ngọai Giao, đúng với chính sách hèn hạ và khiếp nhược của lãnh đạo CSVN đối với Trung Cộng, một nước Tàu vừa thâm lại vừa độc như lời dạy của vua Trần Nhân Tông từ cuối thế kỷ 13. Khi trao quyền cho con (Trần Anh Tông), vua Trần Nhân Tông có lời dạy rằng: “Các người chớ quên, chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái đạo làm người. Tự cho mình cái quyền ăn nói, rồi nói một đường làm một nẻo. Chớ coi thường chuyện vụn vặt xảy ra trên biên ải, các việc trên khiến ta nghĩ tới chuyện khác lớn hơn là họa ngoại xâm. Trung Hoa là cái họa lâu đời truyền kiếp. Họ không tôn trọng biên giới theo qui ước, cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để tranh chấp. Không thôn tính được ta, thì gậm nhấm ta. Họ gậm nhấm đất đai và hải đảo của ta, lâu dần họ sẽ biến giang san của ta từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim chích. Vậy, các ngươi phải nhớ lời ta dặn: "Không để mất một tấc đất của tiền nhân để lại. Hãy đề phòng quân Đại Hán Trung Hoa". Ta cũng để lời nhắn nhủ này như một lời di chúc cho muôn đời con cháu."

                              Sự kiện 2. Ngày 29/11/2012, theo “Trung Hoa nhật báo” thì Trung Cộng chuẩn bị đưa Cảnh Sát biên giới thuộc tỉnh Hải Nam, chận tàu ngoại quốc xâm nhập trái phép vùng biển mà Trung Cộng tự nhận chủ quyền, lên tàu lục soát, tịch thu, và trục xuất ra khỏi vùng biển của họ.

                              Sự kiện 3. Ngày 30/11/2012, tàu khảo sát Bình Minh 2 của Việt Nam đang công tác nghiên cứu trong vùng biển Việt Nam, bị hai tàu cào cá của Trung Cộng cắt cáp thu nổ địa chấn. Nhớ lại, tàu Bình Minh 2 đã một lần bị tàu hải giám của Trung Cộng cắt cáp ngày 26/5/2011.

                              Sự kiện 4. Ngày 6/12/2012 các hãng thông tấn lớn trên thế giới đều loan tin Trung Cộng “ra lệnh cho CSVN phải ngưng tất cả công trình dò tìm dầu khí ở Biển Đông, và không được quấy nhiễu tàu đánh cá của họ”. Trung Cộng còn dạy lãnh đạo CSVN phải tỏ ra có tình hữu hảo trong lúc hai nước còn thương lượng về chủ quyền biển đảo. Rõ ràng là chưa bao giờ Biển Đông lại bị Trung Cộng quậy sóng như hiện nay.

                              Các Anh thấy và hiểu rồi chớ? “Trung Cộng tự vẽ ra đường lưỡi bò”, rồi hệ thống truyền thông của họ cho thế giới biết đó là vùng biển của họ bị Việt Nam với Phi Luật Tân xâm lấn. Vậy là họ có lý do để vội vàng xây cất sân bay, thiết lập bến cảng, dựng lên những cơ sở quân sự rồi đưa quân lính tới trú đóng mà họ nói là “bảo vệ chủ quyền của họ”. Lời dạy của vua Trần Nhân Tông từ hơn 8 thế kỷ trước mà cứ như báo “lề trái” mới đăng hôm qua để nhắc nhỡ lãnh đạo CSVN “phải luôn luôn đề phóng quân Đại Hán” vậy. .
                              Trung Cộng dùng mọi mánh khóe lấn chiếm phần Biển Đông của Việt Nam, vậy mà Tổng Bí Thư của Các Anh lại hân hoan đón tiếp Ủy Viên Quốc Vụ Trung Cộng Mạnh Kiến Trụ tại Hà Nội vào ngày 24/10/2012. Ông Mạnh Kiến Trụ nói với ông Trọng rằng: “Vấn đề Nam Hải (Biển Đông) không phải là toàn bộ của quan hệ Trung-Việt, nhưng xử lý không thỏa đáng sẽ ảnh hưởng đến toàn cục của quan hệ hai nước.”

                              Chắc Các Anh đồng ý với tôi lời của vua Trần Nhân Tông từ trong lịch sử quá đúng trong hiện nay, chính xác là Trung Cộng luôn luôn tạo ra những rắc rối rồi dạy lãnh đạo CSVN phải vì đại cuộc mà đừng quan tâm đến những chuyện lặt vặt đó, cứ thế mà họ chiếm 8 đảo trong quần đảo Trường Sa năm 1988, chiếm 789 cây số vuông trên biên giới năm 1999, chiếm 11.362 cây số vuông trên Vịnh Bắc Việt năm 2000, đưa “đường lưỡi bò” ra liếm đến 80% trên Biển Đông rồi tự hợp thức hóa bằng cách in bản đồ trên “Thông Hành” (hộ chiếu) có thêm “đường lưỡi bò” năm 2012, ..v..v.. Vậy mà Tổng Bí Thư của Các Anh đáp lời của Mạnh Kiến Trụ thế này: “Tình hữu nghị truyền thống hai nước Việt Nam-Trung Quốc nồng thắm. Đảng, chánh phủ, và nhân dân Việt Nam, sẽ mãi mãi không quên sự giúp đỡ quý báu, chân thành của Trung Quốc dành cho Việt Nam lâu nay. Việt Nam sẵn sàng duy trì giao lưu cấp cao với Trung Quốc, tăng cường sự tin cậy chính trị, tăng cường đoàn kết và hợp tác, xử lý thỏa đáng vấn đề trên biển thông qua hiệp thương hữu nghị trên tinh thần "vừa là đồng chí vừa là anh em".

                              Ông Nguyễn Phú Trọng vẫn quy lụy Trung Cộng với lời lẽ không khác gì lời lẽ 22 năm trước lúc Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh với Thủ Tướng Đỗ Mười, khi đứng trước Tồng Bí Thư Giang Trạch Dân và Thủ Tướng Lý Bằng của Trung Cộng, rồi cắm cúi ký vào biên bản ngày 4/9/1990 tại thành phố Thành Đô của Trung Cộng về việc đưa nước Việt Nam “về” với Trung Cộng vào năm 2020. Các Anh hãy đọc đoạn dưới đây trích trong biên bản đó để mà suy nghĩ: “.... Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản, đảng CSVN và nhà nước Việt Nam đề nghị phía Trung Hoa giải quyết các mối bất đồng giữa hai nước. Phía Việt Nam xin làm hết mình để vun đắp tình hữu nghị lâu đời vốn có giữa hai đảng và nhân dân hai nước do Chủ Tịch Mao Trạch Đông và Chủ Tịch Hồ Chí Minh dày công xây đắp trong quá khứ, và Việt nam bảy tỏ mong muốn đồng ý sẵn sàng chấp nhận và đề nghị phía Trung Hoa để Việt Nam được hưởng quy chế “khu tự trị” trực thuộc chính quyền trung ương tại Bắc Kinh như Trung Hoa đã từng dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây…. Phía Trung Quốc đã đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên, cho thời hạn phía Việt Nam trong 30 năm (1990-2020) để đảng CSVN giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc....”.

                              Chưa hết. ông Hoàng Bình Quân, Trưởng Ban Đối Ngoại Trung Ương, đặc phái viên của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, được lệnh sang Bắc Kinh để chúc mừng thành công của Đại Hội XVIII Trung Cộng. Theo TTXVN, ông Hoàng Bình Quân được Ủy Viên Thường Vụ Bộ Chính Trị của Trung Cộng là Lưu Vân Sơn tiếp ngày 17/11/2012. Ông Quân nói với ông Sơn rằng: “ Những người đồng chí anh em, đảng, nhà nước và nhân dân Việt Nam, rất vui mừng trước thành công tốt đẹp của Đại hội XVIII Đảng Cộng Sản Trung Quốc, mở ra giai đoạn phát triển mới trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc… Khẳng định, đảng, nhà nước, và nhân dân Việt Nam luôn coi trọng quan hệ láng giềng hữu nghị và hợp tác toàn diện với Trung Quốc, mong muốn hai bên cùng nỗ lực tiếp tục củng cố và thúc đẩy quan hệ hai đảng, hai nước phát triển lên tầm cao mới; đồng thời giải quyết thỏa đáng những vẫn đề còn tồn tại, vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình, hợp tác, và phát triển trong khu vực và trên thế giới.”
                              Sao lại lãnh đạo của Các Anh nhục quá vậy! Vậy, Các Anh suy nghĩ gì sau khi đọc xong một số sự kiện trọng đại mà tôi vừa giúp Các Anh nhìn lại một giai đoạn lịch sử vừa hơn hai chục năm qua dưới nét nhìn của người tự do?

                              Thứ hai. Biểu tình chống Trung Cộng.

                              Ngày 9/12/2012 (tổng hợp từ nhiều nguồn trong nước).

                              Do Trung Cộng mà tình hình Biển Đông đang trong tình trạng căng thẳng mà Việt Nam “nắm chắc” kết quả thảm hại, vì vậy mà người dân Hà Nội và Sài Gòn cùng xuống đường biểu tình phản đối Trung Cộng.

                              Tại Hà Nội.

                              Theo độc giả Mongun cho biết trong lời bình trong trang Blog: “Nhà riêng bà Lê Hiền Đức ở số 7 ngõ 56 phố Pháo Đài Láng, Hà Nội, suốt đêm qua (8/12/2012) có Công An canh giữ. Lúc 11 giờ đêm qua, bà tìm cách thoát ra ngoài nhưng bị Công An chặn lại. Sau đó, hai lần bà gọi taxi đến đón nhưng bị Công An khu vực không cho taxi dừng lại. Lúc 3 giờ sáng, bà Lê Hiền Đức cho biết; Công An Hà Nội hứa đến sáng sẽ đưa bà ra Nhà Hát Lớn. Bà nói tiếp; “Nếu 9 giờ sáng mà không thấy bà đến Nhà Hát Lớn thì cầm chắc là có chuyện xảy ra cho bà”. Trong khi đó, nhà của Luật sư Lê Quốc Quân, anh Phạm Văn Trội, và blogger Đặng Phương Bích đều bị Công An chặn bên ngoài.
                              Lúc 8 giờ 15 sáng. Có khoảng 10 xe Công An bao quanh trước tượng Lý Thái Tổ, rất nhiều biển cấm quay phim chụp ảnh cắm tại đây. Trước tượng Cảm Tử Cho Tổ Quốc Quyết sinh, có 2 xe tải nhỏ của Công An án ngữ, có cả ông Cường, đội trưởng Công An quận Hoàn Kiếm cùng hơn chục Công An chìm, nổi.

                              Lúc 9 giờ 5 phút sáng, khoảng 200 người tập trung bên ngoài nhá hát lớn, dần dần tăng lên khoảng 300 người và chuẩn bị tuần hành. Lúc ấy rất đông phóng viên truyền thông báo chí ngoại quốc có mặt. Đoàn biểu tình rời nhà hát và đang trên đường Tràng Thi hướng đến tòa đại sứ Trung Cộng, được đông đảo bà con dân oan từ Hồ Gươm nhập vào đoàn biểu tình. Theo cộng tác viên của đài VOA là Marianne Brown, đoàn biểu tình mang theo nhiều biểu ngữ và hô to khẩu hiệu “Hoàng Sa Trường Sa là của Việt Nam. Trung Quốc hãy ngưng sát hại các ngư dân vô tội”, trong khi xe Công An đọc bản văn gì đó mà âm thanh bị mất hút trong tiếng hô vang dậy của đoàn người biểu tình..
                              Lúc 9 giờ 38 phút, đoàn biểu tình tới ngã tư Tràng Thi & Phủ Doãn thì bị Công An đủ loại xông vào trấn áp, những tiếng la hét vang lên. Mấy chục thành viên nòng cốt trong đoàn biểu tình bị Công An giằng kéo tàn bạo và bị đẩy lên xe buýt đưa sang trại Lộc Hà. Trong số người bị bắt, có các anh chị Nguyễn Văn Phương, Lã Việt Dũng, Phạm Chính, Nguyễn Tường Thụy, blogger Gốc Sậy, Đào Tiến Thi, Dương Thị Xuân, Nguyễn Việt Hưng, blogger Lê Anh Hùng, blogger Lê Dũng, Facebooker Tiến Từ Từ, du ca Lê Văn Dũng, Phan Linh, Ngô Nhật Đăng, Chu Tuấn,.....

                              Tại Sài Gòn.

                              Ngày 9/12/2012. Gần 6 giờ sáng, ông Lê Hiếu Đằng nhắn tin nhà ông đang bị Công An vây kín chung quanh. Cùng lúc, có nhiều tin nhắn cho biết khá đông trong số 42 vị ký tên trong thư ngỏ yêu cầu thành phố phải tổ chức biểu tình chống Trung Cộng, đã bị Công An cô lập bằng nhiều hình thức khác nhau. Lúc 7 giờ 20 phút, nhà thơ Đỗ Trung Quân nhắn tin: "Tôi bị túm rồi".
                              Khoảng 7 giờ 45 phút, Công An dựng hàng rào kẽm gai ngăn chận các ngã đường vào công trường Lam Sơn, nhưng “nhờ” mỗi sáng chủ nhật ban quân nhạc trình diễn miễn phí cho dân xem, nên Công An dành một lối ra vào, mà hôm nay dân vào xem là “dân tham gia biểu tình” rất đông. Lúc 8 giờ 30 phút, đoàn quân nhạc chơi xong, công trường Lam Sơn bị siết chặt lại. Khi mọi người còn túm tụm từng nhóm nhỏ trước Nhà Hát Lớn, chờ hiệu lệnh châm ngòi cho cuộc biểu tình chống Trung Quốc thì lúc 8 giờ 40 phút, một thanh niên rút từ trong túi ra lá cờ Tổ quốc rồi hô lớn “Việt Nam, Việt Nam”. Hai tiếng “Việt Nam, Việt Nam” đầy phẫn uất đã vang lên giữa Sài Gòn bởi một chàng trai trẻ khiến tất cả mọi người có mặt hiểu ngay đó chính là tiếng gọi chống quân Trung Cộng. “Việt Nam, Việt Nam” đã khiến mấy trăm người ùa ra đứng bên cạnh anh và cùng hô vang những lời phản đối bọn bành trướng phương Bắc: “Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam”. “Phản đối Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa, Trường Sa”. “Việt Nam chiến thắng”…

                              Lúc 8 giờ 45 phút, Hồ Nhật Thành và Trịnh Kim Tiến bị chặn tại nhà riêng. Nhân viên an ninh tên Bình hỏi hai bạn đi đâu sáng nay, hai bạn trả lời là đến công ty làm việc, tên Bình lớn tiếng: "không đi làm gì hết, phải ở nhà đến 12 giờ trưa mới được ra khỏi nhà". Hai bạn Thành và Tiến phản ứng quyết liệt, và rồi Thành và Tiến vẫn lên xe rời nhà. Lập tức, Công An đuồi theo và cướp chìa khóa xe giữa đường tại khu vực ngã ba Năm Châu & Lạc Long Quân, Quận Tân Bình. Trong khi đó, nhiều Công An bao vây quán cà phê Terrace trên đường Lê Lợi, ngăn chận nhà văn Nguyễn Viện và nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh đang uống cà phê, không cho hai người ra ngoài.
                              Từ nhà hát lớn, đoàn người biểu tình kéo nhau đến ngã tư Nguyễn Huệ - Lê Lợi là phải quay đầu lại, vì bị hai hàng rào kẽm gai ngăn chận ở đầu đường Lê Lợi. Tại đây, Công An vây kín đoàn biểu tình tại các bậc “tam cấp” trước Nhà hát lớn, trong lúc đoàn biểu tình hô vang “Việt Nam chiến thắng”. “Đả đảo Trung Quốc”… Lúc ấy Huỳnh Tấn Mẫm xuất hiện. Nhà thơ Lưu Trọng Văn vui mừng cầm tay ông Huỳnh Tấn Mẫm giơ cao và hô lớn: “Thưa bà con, anh Huỳnh Tấn Mẫm đã đến”. Huỳnh Tấn Mẫm bước lên bậc cấp cao nhất và hô to: “Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam. Không ai, không thế lực nào xóa bỏ được. Cảm ơn các bạn”. Đoàn biểu tình hò reo vang dội, có người bắt nhịp bài hát “Dậy Mà Đi” và mọi người cùng cất cao tiếng hát.

                              Ông Hồ Hiếu tay chống gậy, tay kia giơ cao nắm đấm: “Ai tiếp tay với Trung Quốc là bán nước”. Mọi người lại đồng thanh: “Đả đảo Trung Quốc xâm lược”. Nhà thơ Lưu Trọng Văn, người có mặt trong nhóm biểu tình ngay từ đầu, cũng đứng lên hướng dẫn đoàn biểu tình hô to “Việt Nam Chiến Thắng”. Trước đó, khi đoàn biểu tình bị chặn trước cửa hàng miễn thuế, ông Văn cũng kêu gào những người dân xung quanh hai bên đường: “Mọi người lên tiếng đi, lên tiếng đi các anh, Hoàng Sa, Trường Sa là của chúng ta”. Cuộc biểu tình chống Trung Cộng sáng chủ nhật 09/12/2012, được châm ngòi bởi một người thanh niên phất cờ, mặc áo thể thao xanh sọc đỏ của đội bóng Barca. Khi cuộc biểu tình chấm dứt, nhiều nhân chứng cho biết người thanh niên này đã bị Công An bắt nguội và bị đánh đập thô bạo.

                              Kiến trúc sư Nguyễn Trọng Huấn, thành viên nhóm cố vấn của cựu Thủ Tướng Võ Văn Kiệt trước đây, vừa qua cơn đau được vợ dìu tay cùng tham gia biểu tình. Ông Huấn đứng trên bậc cấp trước nhà hát hô vang khẩu hiệu yêu nước cùng các ông Huỳnh Tấn Mẫm, Hồ Hiếu, Lưu Trọng Văn. Lúc này có thêm nhà báo Nguyễn Trọng Chức, luật sư Trương Trọng Nghĩa, Phó Chủ Tịch Liên Đoàn Luật Sư Việt Nam, và vợ là Nguyễn Thế Thanh, nguyên Phó Giám Đốc Sở Văn Hoá Thông Tin thành phố, ông Chu Hảo nguyên Thứ Trưởng Bộ Khoa Học & Công Nghệ, Tiến Sĩ Bùi Văn Nam Sơn, Tiến sĩ Nguyễn Văn Trọng, dịch giả Nguyễn Đôn Phước, và Đinh Kim Phúc, cũng có mặt trên các bậc thềm nhà hát, cùng mọi người bày tỏ lòng yêu nước trước kẻ thù Trung Cộng .


                              Khi mọi người đang hừng hực khí thế, bỗng xuất hiện một đám “thanh niên xung phong” đồng phục xanh lá cây, từ trong nhà hát lớn lao ra dàn hàng ngang sau lưng các vị lão thành đang đứng quay mặt về phía đoàn biểu tình. Mọi người phẫn nộ khi chứng kiến đám người này bắt đầu xô đẩy những người cao tuổi đang đứng trên các bậc thềm cao. Tất cả mọi người bị xô xuống các bậc dưới. Riêng ông Nguyễn Trọng Huấn đã bị xô té dúi đầu xuống các bậc cấp thềm phía dưới, đám đông vội đỡ ông và dìu xuống. Một số biểu ngữ chống Trung Cộng bị Công An giật khỏi tay người dân và xé nát.

                              Khoảng 9 giờ 30 phút sáng, đoàn biểu tình giải tán trong trật tự.

                              Một blogger nào đó đã viết: “Việt Nam”, “Việt Nam”, “Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam”, … và một lần nữa, lãnh đạo thành phố này nợ người dân những điều không thể nào hiểu nổi: “Tại sao lại đàn áp những người biểu tình bày tỏ lòng yêu nước, chống Trung Cộng xâm lăng?! Thành phố trả lời làm sao trước công luận cho hành động xua “thanh niên xung phong” xô ngã các cụ già, các nhà lão thành cách mạng khi họ đang hô vang “Việt Nam”, “Việt Nam”, “Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam”, “Phản đối Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa, Trường Sa”, “Việt Nam chiến thắng”?

                              Tổng kết cuộc biểu tình ngày 9/12/2012. Tại Sài Gòn, Công An đã ra tay ngăn chận, nhiều người đã bị bao vây trước khi rời nhà, và giải tán đám đông hằng mấy trăm người trước nhà hát lớn. Tại Hà Nội, 24 người biểu tình bị Công An bắt đưa lên xe chở về trại phục hồi nhân phẩm gái mại dâm Lộc Hà. Chuyện rõ ràng như vậy mà không một tờ báo cũng không một đài phát thanh phát hình nào của nhà nước CSVN loan tin.

                              “Biểu tình kiểu du kích” ngày 16/12/2012 tại Hà Nội.


                              Theo phóng viên Tú Anh đài RFI, thì phong trào chống Trung Cộng vừa có cuộc “biểu tình kiểu du kích” ngay trước cổng tòa đại sứ Trung Cộng trưa ngày chủ nhật 16/12/2012, môt nhóm không rõ bao nhiêu người đã giăng nhiều biểu ngữ bằng tiếng Việt và tiếng Anh “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam” và “Trung Quốc phải chấm dứt xâm lược”. Không có người biểu tình nào bị bắt, vì “đoàn biểu tình ngồi” chỉ là đoàn búp bê nhồi bông, còn “người lãnh đạo biểu tình” đã biến mất sau khi dựng xong biểu ngữ, mà Công An thì hoàn toàn bất ngờ.

                              “Cuộc biểu tình ngoạn mục” này được bạn Nguyễn Lân Thắng cho biết thêm: “Trưa nay, tôi ra vườn hoa Lênin đối diện tòa đại sứ Trung Cộng để chụp ảnh, tình cờ thấy hai bạn trẻ cùng nhau dựng các mô hình là những con thú đồ chơi trẻ con, và trên tay các con thú cầm biểu ngữ phản đối Trung Cộng bằng tiếng Việt, tiếng Anh mà tôi nhớ không hết....”

                              Trong một xã hội nghiệt ngã do chế độ độc tài đảng trị của lãnh đạo CSVN xây dựng, tuổi trẻ Việt Nam phải tìm mọi khe hở của những đôi mắt cú vọ với những đôi tay tàn bạo và những cái đầu như những cái máy cát-xét của Công An, để bày tỏ lòng yêu nước của mình thật là tuyệt vời, phải không Các Anh?

                              Bây giờ tôi muốn Các Anh vừa đọc vừa suy nghĩ về bài thơ ngắn dưới đây của Đỗ Trung Quân, để mà ngậm ngùi thương cảm cho dân tộc Việt Nam nói chung, cho tuổi trẻ Việt Nam nói riêng đã vượt cao hơn nỗi sợ hãi về mức độ tàn bạo của lãnh đạo CSVN, và cho nhà thơ Đỗ Trung Quân nói riêng nữa: “Các anh (Công An) bẻ quặt tay tôi, dẫu gì cũng không đau lắm. Các anh thúc cùi chỏ vào hàm tôi, thú thật cũng không đau lắm. Các anh đạp vào mặt tôi, dẫu gì cũng không ê ẩm lắm. Các anh dúi chúng tôi vào xe, thú thật cũng chỉ ngồi chật một tí. Các anh kẹp cổ, lên gối tôi, dẫu gi cũng chỉ bầm dập chút. Cái chúng tôi đau, rất đau. Cái chúng tôi ê ẩm. Chính là, các anh thay mặt kẻ cướp nước, bọn cướp biển. Bẻ tay, đánh đập, bắt bớ, đàn áp Chính Đồng Bào Mình!

                              Các Anh có thấm thía có xót xa cho dân tộc Việt Nam chúng ta không? “Vì trên thế giới này, không có một quốc gia mà lãnh đạo quốc gia đó như lãnh đạo CSVN lại đàn áp người dân khi họ bày tỏ lòng yêu nước một cách ôn hòa trước một Trung Cộng đã lấn chiếm và đang tiếp tục lấn chiếm Việt Nam. Vậy là, lòng yêu nước tại Việt Nam bị cấm. Tại sao? “Phải chăng lãnh đạo CSVN là tay chân là thuộc hạ của Trung Cộng?”

                              Kết luận.

                              Là Người Lính trong quân đội nhân dân Việt Nam, tôi nghĩ, có Anh 5 năm, 15 năm, 20 năm, thậm chí 25 hay 30 năm cầm súng, có bao giờ Các Anh suy ngẫm về quảng đời quân ngũ với súng đạn, có người về hưu, người thì thương tật tàn phế, có người đã gục ngã trên chiến trường, và Các Anh đang còn súng đạn trong tay, để nhận ra những khác biệt giữa lời nói với hành động của lãnh đạo Các Anh trong giai đoạn lịch sử từ khi nhuộm đỏ một nửa nước vào năm 1954, đến nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam năm 1975, và đến nay không? “Nói giải phóng, nhưng thật sự là xâm lăng. Nói thống nhất, nhưng là nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam theo lệnh của cộng sản quốc tế. Nói nhân dân làm chủ, nhưng thật ra nhân dân chỉ là một phương tiện lót đường cho họ nắm quyền lực mà thâu tóm tài sản. Nói độc lập, nhưng họ nhận lệnh từ Trung Cộng. Nói tự do, nhưng họ là độc tài. Nói hạnh phúc, nhưng toàn dân như bị họ nhốt trong cái lồng chim. Nói tự do ngôn luận, nhưng mọi người bị họ bịt mắt bịt tai bịt miệng. Nói giáo dục tân tiến, nhưng chỉ đào tạo những thế hệ thần dân để tuân phục họ. Mở miệng ra là khoa học kỹ thuật, nhưng sử dụng côn đồ và luật pháp rừng rú đàn áp người dân yêu nước chống Tàu xâm lấn. Nói đến quê hương dân tộc, nhưng họ nhân danh lãnh đạo đảng cộng sản để đứng trên đầu Tổ Quốc với Nhân Dân”.

                              Thêm nữa. Bằng hành động đàn áp đồng bào để cướp đất cướp nhà, bằng hành động gian trá tham nhũng của tập đoàn Nguyễn Tấn Dũng thâu tóm quyền lợi làm sụp đổ các tập đoàn kinh tế tài chánh, bằng hành động đàn áp biểu tình chống Trung Cộng lấn chiếm Việt Nam, lãnh đạo CSVN đã tự họ nói với 90 triệu đồng bào và thế giới rằng, “sau khi cộng sản quốc tế sụp đổ, bản chất của lãnh đạo CSVN chỉ biết tranh giành quyền lực để tranh đoạt quyền lợi riêng tư”. Đồng thời họ cũng nói với Trung Cộng rằng, “Bộ Chính Trị CSVN luôn luôn vâng theo 4 tốt với 16 chữ vàng, để từng bước đưa dân tộc này vào xiềng xích Đại Hán như “biên bản” mà Việt Nam với Trung Cộng cùng ký hồi tháng 9 năm 1990”.

                              Vậy là Các Anh nhận ra bộ mặt thật của lãnh đạo CSVN rồi chớ? Tôi mong Các Anh hãy suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính mình, rồi quyết định.... Và quyết định đó giúp Các Anh quyết tâm bước vào hàng ngũ tuổi trẻ, trí thức, đồng bào, bằng bất cứ hình thức nào và thời gian nào mà Các Anh cho là thích hợp nhất, để cùng nhau giành lại quyền làm người cho hơn 90 triệu đồng bào được sống trong một xã hội dân chủ pháp trị, để hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước đã lừng danh thế giới, và mỗi khi cầm sổ “Thông Hành” (hộ chiếu) trong tay mà ngẫng cao đầu giữa thế giới văn minh lịch sự,
                              Tôi vững tin rằng, bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi- vẫn hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào, những thế hệ làm nên lịch sử.

                              Hãy nhớ rằng: “Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng, và Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước” (trích trên internet).


                              Texas, tháng 01 năm 2013
                              ********
                              Last edited by chimtroi; 01-05-2013, 10:14 PM.

                              Comment



                              Hội Quán Phi Dũng ©
                              Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




                              website hit counter

                              Working...
                              X