Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Hồi Ký -TÙ CẢI TẠO

Collapse
X

Hồi Ký -TÙ CẢI TẠO

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Hồi Ký -TÙ CẢI TẠO

    Tác giả: Tuệ Chương hoànglonghải

    1. " Những Ngày Đầu..."

    24 tháng 6 năm 1975, tôi “đóng tiền đi ở tù” tại trường Taberd, Saigon. Đây là vụ lường gạt vô tiền khoáng hậu trong lịch sử Việt Nam. Mới vào thì cán bộ Việt Cộng chia thành từng đội. Đội của tôi là đội 36 (Tôi không nhớ chắc!), được cho ở trong một căn phòng nguyên là lớp học, tầng hai. Mới có hai ngày thì nhà cầu dơ không thể tưởng tượng, mới nhìn qua đã không dám vào, đành phải “nín” vậy.

    Bây giờ thì cơm nhà hàng Continental, một nhà hàng mà trước 1975, lương sĩ quan cấp úy như tôi, không có tiền hối lộ thì bao giờ mới dám vào?! Tôi nói đùa với vài anh em, phần đông đều lạ hoắc: “Kỳ nầy ăn cơm nhà hàng sang nhất Saigon nghe!” Tới giờ cơm, toàn đội sắp hàng xuống nhà ăn. Vô tới nơi thì… hết cơm. Cả mấy trăm người, nhà hàng nấu trong hai cái nồi 50, mỗi nồi chưa đủ phần cho 50 người, có đâu tới mấy trăm người. Vậy rồi ai nấy đành mang bụng đói mà về phòng uống nước lạnh qua ngày.

    Trong phòng, có anh chàng áo quần bỏ trong samsonite. Hỏi, anh ta nói, tin tưởng một cách vững chắc:

    - “Học tập 10 ngày về! Chừng nầy là vừa chớ còn gì?”

    Không biết sau nầy, trên con đường tù cải tạo mịt mù biên giới, khi ra Bắc, khi về Nam, cái Samsonite của anh ta có còn dùng được việc gì không!

    Đói quá! Phải kiếm cái gì ăn. Bên cạnh thang lầu, có kẻ hở khe gió thông ra bên ngoài, chỉ vừa lọt bàn tay. Có bóng người bên kia, thì ra là nhà dân. Bèn nhờ chú bé bên đó đi mua bánh mì giúp. Một người nhờ, hai người nhờ. Thế rồi nhiều người biết “con đường bánh mì” ấy và nhiều người nhờ. Cả trăm người nhờ. Chắc chú bé bên đó phải chở xe ba gác mới đủ… nhu cầu.

    Dĩ nhiên là bộ đội biết và… cấm. Thế là “Con đường bánh mì”… đứt đoạn, làm cho không ít người đói… đứt ruột.

    Tuy rằng một đội, khoảng 30 người ở chung một phòng nhưng chẳng ai kiểm soát, ai điểm danh nên nhiều người đi lang thang qua những phòng khác tìm bạn bè chuyện trò chơi. Tôi chẳng đi đâu, tối lại thì cùng với vài người nữa, như ông Trần Phú Trắc, gốc là đại úy Dù, chức vụ cuối cùng là chỉ huy trưởng Cảnh Sát quận Nhà Bè, tỉnh Gia Định. Ông nầy là cháu kêu “tông tông” bằng cậu ruột. Bạn thân của Trắc là anh chàng mang hai cái “đít chai” khá dày, lúc nào cũng cười cười, làm như đời… vui lắm, tên là Phạm Quang Chiểu, gốc là “Bộ binh đại úy” (tôi thường nói đùa như kiểu mấy ông “Hải quân Đại úy” hoặc gọi anh ta là trung tướng Phạm Xuân Chiểu, một ông trung tướng trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa.

    Xin nhắc lại chuyện cũ một chút. Năm “dẹp bàn thờ” 1966. Ông tướng nầy đang làm tổng thư ký (?) Hội Đồng Quân Lực, về Huế lo dàn xếp vụ Phật Giáo Miền Trung, bị đám “Sinh Viên Học Sinh Quyết Tử” (thuộc “Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc”) do Nguyễn Đắc Xuân chỉ huy, bắt ông ở đài phát thanh Huế, bỏ lên xe xích lô, đưa lên tòa Đại Biểu Chính Phủ. Bữa đó, tôi ham vui, xách xe chạy theo… coi. Tướng Thi phải tới “giải cứu” cho tướng Chiểu. Tướng Thi lên diễn đàn nói “ba xí ba tú”, lung tung, chọc thiên hạ cười chơi! Nhìn bộ râu của tướng Thi đã thấy buồn cười, huống chi ông nầy vốn vui tính, hay nói đùa, nên bữa đó, ai nấy được một trận cười thật vui, vì vậy đám “Quyết Tử” của Nguyễn Đắc Xuân không “hỏi tội” tướng Chiểu làm “tay sai” cho quân Thiệu Kỳ được. Nhớ chuyện vui đó nên tôi hay gọi đùa Phạm Quang Chiểu thành Phạm Xuân Chiểu để kể công với Chiểu rằng “bữa đó, tao cũng cười như thiên hạ nên chú mày được Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc Huế” tha mạng cho.

    Hai anh chàng Trắc và Chiểu cùng với vài người như dược sĩ Quang (không nhớ họ), dược sĩ Hoán (Tây lai), tối lại, tập trung trên cái bệ gỗ trước bảng đen của lớp học để tò mò nghe ông già Nho, - Nguyễn Văn Nho - đại úy Cảnh Sát, trưởng phòng Công Xa Hạ Nghị Viện, kẻ chuyện ông dân biểu nào “ba chân bốn cẳng” mà “tam thập lục kế” trước thiên hạ, về chuyện dân biểu Nhữ Văn Úy tự tử cùng vợ con ngay trong Hạ Viện như người ta đồn đãi, v.v…

    Trong hai buổi chiều ngắn ngủi ở Taberd, tôi thường leo lên lầu 2, ra hành lang, ngồi xem thiên hạ hóng mát. Anh bạn Ngô Duyên (tôi thường gọi đùa là Vô Duyên), đại úy Biệt Động Quân, giải thích cho tôi rằng những cây trồng trong sân trường Taberd thuộc họ đậu, như cây bả đậu. Loại cây nầy có lá lớn, cho nhiều bóng mát nên được trồng trong các sân trường, kể cả các quân trường.

    Đang khi ngồi chơi, có ông đại úy bộ đội đi từ trong văn phòng ra cổng, tướng đi lẹt bẹt như đàn bà doi đít. Một người lên tiếng chê cái tướng đi ấy, vài người phụ họa theo. Vui chuyện, tôi nói: “Họ có bao giờ ngồi ghế đâu. Thói quen là ngồi chò hỏ dưới đất. Dù có khi ngồi trên ghế thì cũng ngồi theo kiểu nước lụt. Ngồi kiểu đó thì đít doi ra, không giống đàn bà sao được.” Vài người là dân Saigon chính hiệu con nai, có mấy khi thấy ai ngồi kiểu nước lụt, thấy tôi nói, cho là đúng, khoa học - Cơ thể học nữa đấy! - bèn tới làm quen chơi.

    Đang chuyện trò, bỗng có anh chàng nào đó, ngồi ở phía hành lang bên kia, nói to lên như kiểu rao hàng mấy hôm nay, sau khi Saigon sụp đổ, ở bùng binh chợ Bến Thành:

    “Đồng hồ “Xi-Ti-Dzen” đây! Không người lái, hai cửa sổ, mười hai ông sao! Người bộ đội rất ưa dùng đây! Mại dzô, mại dzô!””

    Nghe câu rao hàng, thiên hạ ngồi hóng mát hai bên hành lang cười ầm lên. Tôi nghe có người nói: “Gan quá! Đem chú bộ đội ra mà diễu. Chết như không!”

    Nhiều chữ trong câu rao hàng trên đúng là “Danh từ Việt Cộng”. Ở miền Nam, trước 1975, đồng hồ khỏi lên giây như ngày xưa, hơi quê một chút thì người ta gọi là đồng hồ tự động. “Tây” hơn, như phần đông dân Saigon gọi là đồng hồ “Ô-tô-ma-tít” (Automatic). Ai lại gọi “tự động” là “không người lái” như “chú bộ đội” bao giờ! Cũng không ai gọi là đồng hồ có một hay hai cửa sổ. Người ta gọi là đồng hồ có lịch (ngày và thứ tự trong tuần). Người ta cũng gọi là đồng hồ có “lu-mi-nơ” (lumineux) để nhìn ban đêm. Ai lại gọi “mười hai ông sao”! Những cách nói như thế, người ta cho là quê. Câu rao hàng như trên là có ý chê cái quê của “chú bộ đội.”

    Tới đêm thứ ba, sau 12 giờ một chút thì xe Molotova của bộ đội ầm ì vào sân trường. Xe có mui vải, che kín. Bên hông mỗi xe có viết hai chữ Ta Pe bằng phấn thật lớn. Tôi cứ thắc mắc, họ viết chữ tape, - có nghĩa là băng nhựa - bên hông xe làm gì? Một lúc, tôi mới hiểu ra rằng đó là những xe Molotova tới trường Taberd để đưa chúng tôi đi. Trời đất quỉ thần ơi! Chữ Ta Pe họ viết bên hông xe có nghĩa là Taberd đấy. Chữ nghĩa những người có “tinh thần độc lập cao”, bế quan tỏa cảng thời hiện đại, không thèm học tiếng Anh, tiếng Pháp là như vậy đấy!

    Lần lượt, đội chúng tôi được đưa lên một xe. Trên xe đã có sẵn một đội rồi. Như vậy, có nghĩa là 60 người một xe, chật như nêm, không nhúc nhích được một chút. Tấm bạt sau được hạ xuống, cột chặt. Cuối hai cái băng hai bên hông xe là hai “chú bộ đội” lăm lăm cây súng AK trong tay, đạn lên nòng, khóa an toàn. Đã lên xe rồi mà Lâm Văm Xuân, đại úy Thủy Quân Lục Chiến cứ nằng nặc xin bộ đội cho anh ta xuống xe đi cầu một chút. Anh ta đau bụng quá. Đi cầu ngay bên lề đường cũng được! Anh ta kêu la quá, ai nấy đều thấy tội nghiệp cho anh.

    Khoảng ba giờ sáng, mấy chục xe Molotova chuyển bánh đưa chúng tôi đi. Ngồi trong xe, một ít trên ghế, phần đông trên sàn, kín mít, không thấy gì bên ngoài! Đoán hướng xe, anh em chúng tôi biết, xe chạy ra đường Hai Bà Trưng, qua Phan Thanh Giản, lên Lê Văn Duyệt và đi Tây Ninh…

    Khi xe đang trên đường đi Tây Ninh thì trời sáng dần. Bấy giờ thấy rõ hình ảnh chú bộ đội hơn: Người gầy, nét mặt quê mùa nhưng thật thà, thụng thịnh trong bộ đồ xanh quá khổ. Anh ta làm quen với chúng tôi bằng câu nói:

    “Mấy anh là đại úy. Trước tê đi mô cũng đi máy bay lên thẳng không?”

    Chúng tôi cười, nhưng không ai trả lời anh, mặc dầu câu nói của anh ta có nhiều cái sai. Trước hết, anh ta nói tiếng Nghệ An hay Hà Tĩnh gì đó, nặng chịch, khó nghe và không quen tai. Thứ hai, chúng tôi lạ và thấy anh ta quê mùa quá khi gọi máy bay trực thăng là máy bay lên thẳng. Thứ ba, khi còn chiến tranh, cấp đại úy như chúng tôi, làm tới đại đội trưởng hay tiểu đoàn phó, chỉ có một số ít làm tiểu đoàn trưởng. Cấp bậc đó, hành quân với lính thì lội bộ như lính, làm gì có ngồi trực thăng bay trên trời mà chỉ huy dưới đất. Điều chúng tôi ngạc nhiên nữa là tại sao anh ta biết chúng tôi là đại úy. Có lẽ trước khi “công tác”, các “chú bộ đội” đã được giáo dục cả rồi, được cấp trên của họ cho biết chúng tôi phần đông là cấp bậc đại úy và sẵn sàng đề phòng… phản động.

    Vài anh em từng ở Tây Ninh, đoán rằng Việt Cộng đưa chúng tôi đi Trảng Lớn. Quả vậy thật. Trên đường vào Trảng Lớn, qua một cái dốc, bỗng nghe bên ngoài xôn xao. Nhìn kẻ hở trên tấm vải bạt xe, chúng tôi thấy có chiếc xe Molotova bị lật bên đường khi đang đổ dốc. Có lẽ “chú bộ đội lái xe” buồn ngủ quá, lạc tay lái. Sau đó, khi vào tới trại mới biết thêm có hai người trong chúng tôi chết vì vụ lật xe đó. Có lẽ hai người ấy là những người bỏ mạng đầu tiên trong quá trình “được chính quyền cách mạng” cho đi “học tập cải tạo” chớ không phải cho đi tù, đi đày như sau nầy ai nấy mới sáng mắt ra!

    Đội tôi được đưa vào khu gia binh có mấy dãy trại dài. Nhà nầy cách nhà kia bằng tấm vách “tôn”. Gần đó có một cái garage của đơn vị. Có lẽ khu nầy thuộc quân cụ. Tới chiều, mỗi đội được gọi đưa người đi lãnh gạo, lãnh chảo nấu cơm, lãnh nồi 50 nấu canh, kho cá, v.v… Những ngày đầu gạo tuộc loại tốt, có lẽ lấy từ các kho gạo ở Chợ Lớn. Một tuần sau thì toàn gạo mốc, loại gạo Việt Cộng cất dấu trong các kho đường Trường Sơn đã lâu ngày, mốc và rất nhiều sâu. Ngày ngày, anh em chúng tôi chia nhau lượm sâu, lượm mốc cũng đã hết giờ. Gạo lãnh ra mười phần, ăn được chỉ ba bốn, còn thì hư hết. Số lượng gạo lãnh ra thì đủ, nhưng lựa sâu rồi đem nấu thì ít đi, nên bắt đầu đói. Hơn thế nữa, tiêu chuẩn gạo thông thường 21 Kg mỗi tháng chi còn lại 15Kg, lại loại bớt sâu, nên cơm ăn lại càng thiếu. Đồ ăn thì ngày ngày là rau muống do bộ đội mua ở Tây Ninh đem vào phát, chấm với… nước muối. Có khi không có rau, được phát cá khô và ba bốn tuần mới được phát cá tươi. Thiếu rau, ai nấy đều thèm. Vì đây nguyên là khu trại gia binh nên tôi có lần đi dọc hàng rào, tìm rau hoang như rau má, rau trai, rau lang, hái về luộc ăn chung với vài anh em.

    Đội tôi có một ông nguyên là đại úy tuyên úy Phật giáo, sau đồng hóa thành sĩ quan quân đội, ra khỏi ngành tuyên úy, làm phòng ba cho một tiểu khu nào đó, tôi không nhớ. Được mấy hôm, ông ta tổ chức ăn chay, nhiều người tham gia. Đội trưởng, tên Tuyên, đại úy, yêu cầu được cung cấp chao để anh em ăn chay. Thế là ngày hôm sau có ngay. Bên hè nhà có đám rau lang do gia đình binh sĩ trồng hồi trước, nay lên xanh um. Vậy là mấy thầy chú hái vào, luộc rau, ăn với chao. Tưởng vậy là xong, ai ngờ, ông cựu đại đức tuyên úy, bỗng nhiên bỏ cơm đứng dậy, mặt mày hằm hằm, mắng: “Đ.m. đứa nào pha chao chấm với rau như con c.” Ai nấy chưng hững. Gì mà dữ thế! Không ngon thì làm lại. Với lại ăn chay là do cái tâm, đâu cần ngon dở. Một miếng ăn chay mà cũng “nổi gan lên đầu.” Bỗng Trần Phú Trắc, ngồi phía cửa, la to vào, vừa nói vừa cười: “Trời ơi! Ăn chay mà trẻ c.!” Câu nói của Trắc làm ai nấy đều cười.

    Những ngày đầu, đi “tù cải tạo” sướng vậy đó. Muốn gì được nấy. Được mấy bữa, những người ăn chay đều bị gọi lên văn phòng làm việc. Về tới nơi, anh nào anh nấy mặt mày méo xẹo. Hỏi ra thì họ bị “bộ đội” lên lớp: “Tôn giáo là phản động. Ăn chay cũng là phản động luôn.” Như vậy, ăn chạy là phản động thì chắc “học tập” lâu mới được về. Vậy là từ đó về sau, không nghe ai nói tới chuyện ăn chay nữa, mãi đến một năm sau, khi tôi bị đưa về trại Suối Máu, mới thấy chuyện ăn chay xảy ra giữa ông thầy Ca và linh mục Hoàng Văn Thiên. Nhưng đó là chuyện sẽ nói sau.

    Ai cũng bắt đầu thèm thịt, nhưng làm gì có thịt mà ăn. Căn nhà phía sau lại xảy ra buồn cười về việc ăn thịt… chuột. Đầu đuôi như sau:

    Ở khu nhà phía sau nhà tôi có hai nhân vật quái kiệt. Một là ông Lê Quang Uyển, thống đốc Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam. Ông nầy còn trẻ, học bên Mỹ về. Người ta đồn ngày 29 tháng Tư, theo thông báo của Mỹ, ông đem vợ con lên nóc lầu Ngân Hàng Quốc Gia ở gần bến Chương Dương chờ trực thăng Mỹ đến đón. Chờ mãi đến tối, không thấy máy bay trực thăng nào đáp xuống cả, ông ta bèn đem vợ con về, rồi đóng tiền đi ở tù. Nghe nói nếu như kể về bên phía hành chánh, thì ông ta là ông lớn: Thống Đốc Ngân Hàng. Nhưng nếu như kể về phía quân đội thì ông ta mới trung úy, dân biệt phái, nên trình diện đóng tiền đi ở tù với đám sĩ quan cấp úy biệt phái, trễ hơn mấy ông tướng tá và mấy ông lớn bên hành chánh 10 ngày. Người thứ hai là bác sĩ Cảnh, bác sĩ giải phẩu của bệnh viện Bình Dân. Ông ta trình diện theo đám 10 ngày trước, không biết vì sao lại rớt lui đi chung với đám cấp úy chúng tôi.

    Thèm ăn thịt, hai ông bèn làm một cái lồng bẫy chuột. Lồng đặt ngay nơi ống cống thông từ trong trại ra phía ngoài là đồng vắng, là cái trảng, chỉ có cây lúp xúp.

    Ông Uyển thì bẫy chuột, đưa cho ông bác sĩ giải phẩu làm thịt ăn chơi. Có người chê: “Mấy ông ăn chuột cống, ghê quá!” Ông Uyển cải: “Chuột ngoài đồng chui vô sao gọi chuột cống?” Người ta nói: “Chuột ở trong cống chui ra là chuột cống, sao gọi là chuột đồng?”

    Có lẽ mấy ông nầy không biết thế nào là chuột đồng. Chuột đồng đâu có to như chuột cống. Chuột đồng nhỏ hơn, lông hơi vàng. Khi có mùa sạ thì chuột béo lắm vì ăn toàn mầm lúa mà thôi. Thịt chuột có phong, dù là chuột cống hay chuột đồng đều không nên ăn. Còn như người ta đồn bánh bao Chợ Lớn làm bằng thịt chuột thì ai mà biết để tránh!

    Mới vào trại thì cuộc đời cải tạo cũng có nhiều cái… vui. Nhà nầy nhà kia thông nhau, thiếu vách che. Gần nửa đêm có anh giả làm tiếng trẻ con khóc. Bỗng có người la to: “Má nó đâu! Cho em bú sữa đi!” Vậy là lại có người góp vui, làm tiếng mèo kêu, chó sủa, ngựa hí, v.v… loạn xạ ngầu cả lên, chẳng ai cản, bộ đội ở xa, không lui tới ban đêm. Họ ngại chăng?

    Khi ra đi, ai cũng đem theo ít quần áo, cứ nghĩ rằng 10 ngày, “học” xong thì về. Khi làm vệ sinh, dọn dẹp doanh trại như bộ đội yêu cầu, quần áo lính tráng chế độ cũ vất lại bừa bãi, bèn đào lỗ đem chôn. Một năm sau, áo quần lần lượt rách, lại đi đào lên, giặt sạch, đem mặc. Thậm chí, những cái bao đạn M-16, M-79, ba bốn cái gom lại, chắp nối cũng thành một cái quần xà-lỏn, mặc bền lắm. Có người không tìm được quần áo cũ, không kiếm được bao đạn thì lấy bao cát mà may quần. Vải bao cát thì dày nhưng thưa, khi tắm, “cu cậu” bày ra rõ lắm! Cũng may, ở đây toàn là đực rựa, ai hơi đâu mà lưu tâm chuyện ấy.

    Ba ngày đầu, cũng có một cô nữ quân nhân ở chung. Mấy người đàn ông dành cho cô nữ quân nhân một chỗ trong góc. Tội nghiệp cho một người đàn bà giữa đám toàn đàn ông. Được ba ngày, cô nữ quân nhân được chuyển đi, có lẽ là về trại nữ. Chưa học bài chính trị nào, chưa “thông suốt đường lối cách mạng”, “chưa tiến bộ”, làm sao được “mãn khóa học” sớm vậy!?

    Không hiểu do đâu, tôi thấy có mấy người chuẩn bị dựng cổng chào cho doanh trại. Họ lấy mấy tấm vỉ sắt của quân đội Mỹ, thứ để dùng làm phi đạo, ghép lại với nhau để dựng cổng chào. Người chỉ huy toán lo công việc nầy là họa sĩ Trịnh Cung, cùng trại với tôi.

    Tôi biết ông Trịnh Cung nầy hồi ông ta còn đi học ở Huế lận. Trước biến cố Mậu Thân, tôi còn đi dạy, thường gặp ông cuốc bộ từ khu nhà cho thuê của ông Ngô Đình Thục gần cầu Phú Cam, đi về hướng Morin, ngã sau bệnh viện Trung Ương Huế. Đây là đường Trưng Trắc, đường đi ngang nhà xác. Khi về làm giám mục địa phận Huế, ông Ngô Đình Thục, cắt một phần đất của trại Lê Lai (Quân Cụ); trước 1945, đây là khu vực trường Bá Công (Kỹ Thuật) Huế, sau làm doanh trại quân đội, để xây nhà cho thuê. Đất là đất công, cắt đất dựng nhà lầu cho thuê, lấy của công làm của riêng, việc nầy chẳng mấy ai hoan hô; nhưng chẳng ai dám nói gì đụng tới gia đình “Cậu”. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng thuê nhà ở khu nầy. Hai khu nhà lầu cho thuê nầy khá lớn, người thuê đông lắm. Trịnh Cung thường tới ở lại nhà Trịnh Công Sơn ban đêm. Tôi thuê nhà ở phía bên kia cầu Phú Cam, cũng ngày hai buổi đi dạy trên con đường nầy.

    Trịnh Cung (tên thật là Nguyễn Văn Tiến, nhà ở cầu Đá, Nha Trang, ra Huế học trường Mỹ Thuật) đi lính trước tôi hai khóa (Khóa 3-68), ra trường, ông ta về ngồi ở Cục Xã Hội, thuộc Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị. Cục trưởng cục Xã Hội là đại tá Nguyễn Lễ Trí (anh đại úy Ngyễn Lễ Phép, cùng “khóa tù” với tôi ở trại Xuân Lộc). Khi lãnh nhiệm vụ đoàn thể hóa con em gia đình binh sĩ tham gia Hướng Đạo Sinh Quân Đội, theo kế hoạch của tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị, tôi thường đến cục Xã Hội để liên lạc công việc. Do đó, tôi mới gặp ông chuẩn uý Nguyễn Văn Tiến ở đây, cùng với trung sĩ An Phong Nguyễn Văn Diễn, ông nầy cũng là dân cựu hướng đạo sinh ở Quảng Trị trước 1945, con ông Thông Bỉnh, thời Ngô Đình Diệm, cụ Bỉnh là dân biểu quốc hội, thuộc đơn vị đâu trên “đường lên núi rừng sao hãi hùng” Kontum hay Pleiku gì đó, tôi không rõ. Mới ra trường về ngồi ngay cục Xã Hội, khỏi đi tác chiến thì không phải ai cũng được như thế đâu! Cũng COCC cả đấy!

    Hai ông nầy, Trịnh Cung và Nguyễn Văn Diễn đang chuẩn bị tổ chức các khóa đào tạo huynh trưởng Hướng Đạo Sinh do Cục Xã Hội đảm trách. Nhiệm vụ tôi thì chọn mấy người trẻ trong binh chủng, ở tất cả các đơn vị đóng khắp 4 vùng chiến thuật, cho về tham dự các khóa học nầy.

    Bây giờ, lại thấy ông Trịnh Cung ở đây, lo dựng cổng chào “cách mạng”.

    Có một câu chuyện khá buồn cười.

    Nói đi học tập 10 ngày, nên chẳng ai chuẩn bị gì cho cuộc sống lâu dài cả. Vì vậy, khi gần một tháng mà chưa thấy dấu hiệu gì được về, anh em chúng tôi bỗng thấy thiếu… dụng cụ. Bấy giờ trong khu garage, còn nhiều loại đai kim loại đóng thùng quân dụng còn sót lại. Loại đai nầy bằng thép, khá cứng, nên anh em chúng tôi lấy ra, cắt từng đoạn rồi mài, dũa, làm mỗi người một cái dao xài chơi. Một người, rồi hai người, rồi rất nhiều người đua nhau làm dao vì loại đai thùng nầy còn lại trong garage nhiều lắm. Bỗng một hôm có lệnh tịch thu dao. Ai có dao, dù mới làm hay đem từ nhà theo, dao lớn, dao nhỏ đều phải đem nộp hết. Nhiều người ngạc nhiên, làm cái dao để cắt rau trái, có gì mà phải tịch thu. Vã lại, cũng có người tiếc công mình. Họ làm những cái dao đẹp lắm, cán gỗ khắc chạm khá tinh vi, dự trù “mãn khóa học” đem về nhà làm “kỷ nghệ”. Trần Phú Trắc, nói với tôi: “Anh nghĩ coi. Giả tỉ như mình là bộ đội, mình nghĩ như thế nào khi bỗng nghe báo cáo rất nhiều anh em chúng mình đua nhau làm dao? Bộ đội cũng sợ mình nổi loạn chớ. Phải nhớ rằng họ coi mình là địch hay là bạn?”

    Câu nói của Trắc làm tôi nhớ câu chuyện anh y tá Được.

    Y tá Được là y tá bộ đội, có lẽ cấp bực trung sĩ. Tôi nói có lẽ vì hồi ấy bộ đội chưa mang “loon” như sau nầy. Dĩ nhiên, y tá Được được anh em “chiếu cố” đến thăm hoài vì ai lại chẳng nhức đầu, đau bụng. Y tá Được lại dễ dãi, ai khai gì cho thuốc nấy, không khó khăn gì cả. Tôi cũng là bệnh nhân của anh ta. Buổi chiều, trước khi trời tối hẵn, anh ta thường ra ngoài đường lớn. Chúng tôi cũng thường lang thang đi lui đi tới ngoài đường ấy chuyện trò với nhau chơi. Anh ta gặp chúng tôi, cũng nhiều khi ghé lại nói chuyện. Một hôm, tôi nghe anh ta kể cho mấy người chung quanh:

    “Thằng bạn tôi đánh trận… (tôi không nhớ tên trận anh ta kể). Nó bị thương ở ngực. Trời tối quá, tôi sờ thấy máu ở bụng, tưởng là nó bị thương ở bụng liền băng ngay chỗ đó. Sáng ra mới thấy bị thương một nơi mà băng một chỗ. Thế mà máu ở ngực của nó cũng không thấy chảy ra. Nó không việc gì cả. Buồn cười thật!”

    Thấy anh ta kể chuyện bên phía anh mà coi như cùng phe ta cả, ai nấy đều thấy buồn cười vì sự chân thật của anh. Một hôm, anh ta nói với tôi:

    - “Em sắp đi Saigon!”

    Tôi hỏi:

    - “Anh cho tôi nhắn về nhà được không?”

    - “Được chứ!” Anh ta nói, thành thật.

    Bấy giờ, xa nhà gần cả tháng rồi mà bộ đội chưa cho viết thư thăm gia đình hay gởi quà. Tôi cũng hơi ngại nên nói là nhắn tin về gia đình chớ không nói gởi thư. Được anh ta nhận lời, tôi viết mấy chữ, báo tin cho mẹ, vợ và các anh chị tôi biết để ở nhà đừng lo lắng gì, vậy thôi. Tôi lo xa, không đề tên người gởi, chỉ đề tên người nhận. Tôi nói:

    - “Tôi ghi địa chỉ chị tôi cho dễ tìm. 44 Trần Hưng Đạo cách chợ Bến Thành khoảng hơn ba trăm mét thôi. Dễ tìm lắm. Anh nhớ đưa thư cho chị tôi, chị ấy sẽ nhắn mẹ và vợ tôi tới ngay.

    Anh ta đến thật. Cả nhà được tin, mừng lắm. Mẹ tôi rồi vợ tôi đến, sau khi chị tôi cho các cháu lái xe đi đón. Gia đình gởi cho tôi một số quà lớn, đồ hộp, đồ khô, thuốc cảm cúm, v.v… Chị tôi nói với y tá Được:

    - “Chi cám ơn em. Bao giờ về Bắc thăm gia đình, ghé lại chị cho em chiếc xe đạp mới đem về làm quà.”

    Mấy anh chị em chúng tôi, trước 1975, có hùn nhau thành lập một hãng sản xuất xe đạp ở Bình Thới. Sau 1975, trước khi bị đánh tư sản, hãng xe đạp vẫn hoạt động. Do đó, chị tôi mới hứa cho y tá Được chiếc xe. Hồi ấy, bộ đội về Bắc, mang theo chiếc xe đạp, nhất là chiếc xe đạp mới là coi như “le lói” lắm.

    Khi về lại trại, y tá Được nhắn tôi tới nhận quà, một cách rất tự nhiên, coi như không có chuyện gì cả, không sợ cấp chỉ huy gì cả. Y tá Được còn nói với tôi:

    - “Chị ấy bảo tôi chăm sóc sức khỏe cho anh. Chị ấy sợ anh bệnh.”

    Tôi cười, cám ơn.

    Hôm sau, tôi lên chỗ y tá Được. Bấy giờ có hai ông, có lẽ là sĩ quan, mới tới, tỏ ý khó chịu vì sự thân mật giữa y tá Được và anh em chúng tôi, nhất là khi Được mở hộp lương khô, thứ của Trung Cộng, mời chúng tôi ăn. Hôm sau, y tá Được bị bắt giam. Khoảng hai tuần sau, có thông báo nói ai có gởi tiền cho y tá Được mua thuốc thì lên nhận thuốc. Tới nơi, tôi thấy y tá Được tóc tai bơ phờ, áo quần xốc xếch, hình như bị giam mới được tha ra. Khi đưa thuốc cho tôi, y tá Được nói nhỏ: “Trên kỷ luật em vì tội quan hệ với địch.” Nghe câu đó, tôi không vui. Cộng Sản nói nhiều điều hay, rất ơn nghĩa, nhưng trong thâm tâm, họ vẫn nhìn anh em chúng tôi là địch. Tôi nói lại chuyện ấy với Trắc. Trắc nói: “Tui cải lộn với hai thằng chú tôi một trận dữ lắm. Chú cháu chưa nhìn nhau, còn coi nhau là địch, huống gì đám bộ đội nầy.”

    Việc tôi thường quan hệ với Trắc đầu đuôi như sau:

    Trắc cùng Phạm Quang Chiểu “trình diện” ở Taberd như tôi vậy, và cùng bị đưa lên Trảng Lớn, cùng chung một đội. Ban đầu, chúng tôi hoàn toàn không biết nhau. Một hôm, ngồi chơi, tình cờ biết Trắc gốc ở Dù, tôi hỏi Trắc có biết Hùng móm không. Hùng móm là em út tôi, tiểu đoàn 11 Dù, hy sinh khi tái chiếm cổ thành Quảng Trị năm 1972. Biết tôi là anh của Hùng móm, Trắc mừng lắm, nói:

    - “Tui với nó thân nhau lắm anh. Hồi tết Mậu Thân, tui tiểu đoàn 5, nó tiểu đoàn 11, cùng về giữ bộ Tổng Tham Mưu. Trận đó, tui bị thương, đạn phá mất một lóng tay - Anh ta đưa ngón tay trỏ lên cho tôi coi -. Ngón nầy còn hai lóng, anh thấy không? Hùng móm lái xe đưa tôi vào Đỗ Vinh cứu cấp. Ở đó, người ta lấy lóng phía ngoài, còn móng tay, nối với lóng phía trong, tôi chỉ bị mất lóng giữa. Nhờ đó, không để ý, không ai biết tôi mất lóng tay. Cũng nhờ thằng Hùng.”

    Từ câu chuyện đó, sau nầy có chuyện gì vui, Trắc đưa cao ngón tay bị thương tật, cười nói: “Anh Hải! Hùng nầy. Hùng móm nầy!”

    Trắc là con trai độc nhứt của bà Bảy Phận - Nguyễn thị Phận - Chị ruột ông Thiệu, thứ Tám. Khi còn nhỏ, ông Kiểu, thứ sáu, anh của mẹ Trắc, muốn giúp em gái qua khó khăn, bèn nhận Trắc làm con nuôi, cho ăn học. Vì vậy, theo cách gọi của các con ông Kiểu, Trắc thường gọi ông Thiệu bằng chú, thay vì bằng cậu.

    Bố Trắc là ông Trần Phú Đường, theo Việt Minh một thời gian, sau bỏ về với Quốc Gia, không tham gia chính quyền. Khi ông Thiệu làm chủ tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, một hôm ông Thiệu về Tri Thủy thăm làng, trời đổ cơn mưa dông bất thần, ông Thiệu và ông anh rể tình cờ gặp nhau, hai người vào núp mưa trong ngôi trường tiểu học của làng. Chỉ chừng đó mà ông Đường bị Việt Cộng bắt thủ tiêu, không cho đó là cuộc gặp gỡ tình cờ. Hai người em là Trần Phú Minh 10, và Trần Phú Minh 11, tập kết ra Bắc năm 1954. Sau tháng Tư 1975, hai người nầy về tỉnh Thuận Hải, một người làm giám đốc Công An, một người làm giám đốc Thương Nghiệp. Trắc nói với tôi: “Quyền lực và tiền bạc đều nằm trong tay hai ông nầy. Đời còn chi hơn!” Sau khi từ miền Bắc về, hai ông nầy có đến thăm bà Bảy Phận, chị dâu của họ. Sau đó thì dứt hẵn, không lui tới gì cả. Liên hệ với “Ngụy gộc”, họ sợ. Với Trắc thì cuộc gặp gỡ chú cháu thành một trận chiến nảy lửa. Trắc kể: “Hai chú tui thì cứ nói là Mỹ sợ, Mỹ chạy dài, không bao giờ dám ngó lui.” Trắc thì cương quyết: “Mỹ sẽ trở lại, chắc chắn như vậy. Để rồi xem.” Vậy là chú cháu cải nhau dữ dội, không ai chịu thua ai, bèn từ nhau. Chú không bảo lãnh cho cháu “cải tạo” về sớm. Cháu thì cứ coi như mình không có ông chú nào Việt Cộng trên đời nầy. Nghe chuyện, tôi cười, nói với Trắc: “Ông sai! Mà hai ông chú của ông cũng trật lất. Mỹ sẽ trở lại đấy, không phải với M-16 như ông nghĩ mà với samsonite đựng bản đồ xây dựng các nhà máy và với đô-la! Tới lúc đó thỉ Việt Cộng trải thảm đỏ đón chú Sam. Nên nhớ là chú Sam bao giờ cũng giàu có, áo đuôi tôm, mũ sọc dưa, tiền vàng trong túi rủng rỉnh.” Trắc cười, có lẽ cười đồng ý với tôi.

    Khoảng một tuần lễ, bộ đội họp chúng tôi lại trong một gian nhà trống làm hội trường, yêu cầu và hướng dẫn chúng tôi làm bản tự khai: Tự khai báo quá trình học hành và làm việc, tham gia chế độ cũ. Về dòng họ, thì phải khai tới ba đời, bên nội cũng như bên ngoại, tức là khai từ ông bà nội, ông bà ngoại cho tới đời mình, anh em ruột, anh em bà con xa gần và tới đời các con, cháu của mình. Hồi chế độ cũ, trong hồ sơ, chỉ bắt khai tới cha mẹ mà thôi, bây giờ khai tới ông bà, nhiều người không nhớ tên bà nội, bà ngoại. Vậy là ba đời khai báo. Có người nói đùa (Nói nhỏ mà thôi) khai ba đời để “tru di tam tộc”. Người khác nói: “Bọn mình làm gì có ba đời đi ở, bốn đời làm thuê để được khoan hồng”. Khai xong, ai ai cũng hy vọng sẽ được “học” sớm, để được “mãn khóa học” mà về nhà.

    Việt Cộng bao giờ cũng chơi trò ma giáo, phỉnh gạt và người miền Nam thì bao giờ cũng đút đầu vào tròng cho tụi nó phỉnh gạt. Được ít bữa, lại có bình bầu, chọn người lao động xuất sắc. Thế là thiên hạ đua nhau tranh thủ sao cho mình được chọn làm lao động xuất sắc. Thực ra thì đã lao động quái quỉ gì đâu. Ban ngày thì chia nhau lượm gạo mốc, tổ nào tới phiên thì lo vo gạo, nấu cơm. Còn thức ăn thì ngày nào cũng như ngày nào: rau muống chấm nước muối. Vậy mà cũng có anh em lo vận động để được bầu. Đại úy Định, không Quân, nhà ở Trương Minh Giảng đến nói chuyện với tôi, hẹn ngày về đến nhà anh uống rượu chơi. Hơn bảy năm sau, tôi mới được tha khỏi trại tù, ly rượu hứa hẹn ngày ấy có lẽ đã bốc hơi hết rồi. Vã tôi cũng không phải là đệ tử ruột của Lưu Linh để cất công đi tìm một chén rượu. Mà chắc gì người ta còn nhớ một lời hứa hẹn bảy năm trước, trước khi có cuộc bình bầu.

    Khi còn ở nhà, tôi chẳng bao giờ vô bếp. Còn nhỏ, vào bếp là bị mấy chị đuổi ra. Mẹ thì mắng: “Con trai vô bếp là xấu, chỉ lo ăn.” Tuy vậy, đi cắm trại, tôi thường nấu cơm cho anh em, cũng không đến nỗi ai nấy phải ăn cơm “tứ tuyệt”. (Tứ tuyệt là một nồi có tới bốn thư cơm: Cháy, khê, nhão, sống). Đi cắm trại thường chỉ nấu nồi nhỏ, nồi 10, hay nấu trong soong, khoảng vài chục người ăn. Vào trại cải tạo, lần nầy, nấu cơn trong chảo, khoảng 100 người ăn. Hôm tôi tới phiên nấu cơm, trời mưa, củi ướt không cháy đượm, nên cơm đã cạn mà hột gạo còn y. Kỳ nầy, chắc bị anh em chưởi chết. Hoảng quá, chạy đi cầu cứu. Có anh bạn đội bên cạnh ra tay “cứu độ”. Anh ấy bảo tôi lấy thêm bao bố tời nhúng ướt đậy chảo cho thật kín. Thế rồi lấy củi chẻ nhỏ, nhóm cháy ở bốn góc chảo, không cho lửa cháy lớn, chỉ vừa vừa thôi. Được một chốc, thấy chảo cơm bốc hơi. Vậy là yên tâm!

    Những ngày đầu mới vào trại, cũng có anh em tập chung cho cả đám hát những bài hát gọi là “cách mạng” như “Bảo Nổi Lên Rồi”, “Tiến Về Saigon.” Nhiều người thật nhạy bén. Đi trình diện ở tù, họ đem theo các bài hát nầy. Vào trại, họ tự tập hát lấy, rồi tập chung cho anh em, toàn đội. Trước khi họp hằng đêm, mọi người cùng hát, họp xong, lại cả đội cùng hát, truớc khi đi ngủ.

    Tôi vốn là người ưa hát, thấy mọi người hát, tôi cũng hát theo, nhưng tới giờ ngủ, đèn tắt, tôi hát thầm cho tôi. Ban đầu thì tôi hát cho tôi, vài người nằm cạnh biểu hát to lên cho họ nghe. Dĩ nhiên tôi hát “nhạc vàng”. Bài hát thấm thía nhứt là “Một mai giã từ vũ khí”. Anh Trần Hữu Lễ, nằm bên cạnh, biểu tôi hát cho anh ấy nghe nhiều lần. Có lẽ những câu hát như “Anh còn lại gì không, ngoài con tim héo em ơi!” làm cho anh ấy xúc động khi nghĩ tới thân phận anh, cũng như thân phận mọi anh em chúng tôi. Đại úy Biệt Động Quân Ngô Duyên, cũng nằm bên cạnh tôi, thường hay hát “Thành phố buồn”. Anh ấy, gặp vợ anh lần đầu tiên ở Đà-Lạt.

    Vài anh em khác cũng tìm cách giết thì giờ: Làm một bộ cờ tướng đánh chơi hay một bộ mạt chược.
    (Hết phần I...)
    Last edited by Phòng Trực; 02-24-2011, 06:34 PM.

  • #2
    Hồi Ký -TÙ CẢI TẠO

    Tác giả: Tuệ Chương hoànglonghải

    2. “Nguồn Tin Vui…”


    Khai lý lịch xong thì “biên chế”, có nghĩa là phân loại và chuyển trại. Té ra Việt Cộng cần chúng tôi “thành thật khai báo” trước đã. Khai báo hết rồi để biết ai là ai, khi đó mới phân loại đưa đi các trại giam.

    Toàn bộ “đơn vị” tôi đều lên xe Molotova đi hết. Dĩ nhiên chẳng biết họ bị đưa đi đâu để “học tập”. Còn lại một số khoảng 20 người, ôm khăn gói đi bộ qua phía bên kia trại, khu sát phi trường Trảng Lớn. Ở đó, sau biết là L3/T3. Hòm thư 7590. Chúng tôi lại đùa một cách chua xót về số “hòm thư”: Học bảy (7) năm (5) chín (9) không (0)? Không, bảy năm cũng chưa chín như Trần Tế Xương nói vậy: “Học đã sôi cơm nhưng chửa chín.” Coi bộ phen nầy “Mút mùa Lệ Thủy.”

    11 trong số 20 người đó, được “biên chế” ở chung với nhau trong một tổ: Đó là:

    - Huỳnh Văn Khánh, đại úy Quân Cảnh, biệt phái dạy trường Trung Học Bình Chánh, hai năm sau bị đưa ra Bắc, bây giờ không biết ở đâu!

    - Thứ hai là Hoàng Hữu Chung, đại úy quân đội biệt phái Cảnh Sát, một năm sau ra Bắc, hiện ở Boston.

    - Ba là Lê Quang Dung, đại úy Cảnh Sát (thật ra, anh ấy là thiếu tá nhưng dấu, không khai), năm 1982, cùng được tha về một lần với tôi, được ít lâu thì từ trần.

    - Bốn là Nguyễn Văn Bê, đại úy quân đội biệt phái Cảnh Sát, ca cải lương khá mùi, một năm sau ra Bắc, không biết bây giờ ở đâu!

    - Năm là Phạm Xuân Lý, đại úy Cảnh Sát, vợ cũng bị đi cải tạo, một năm sau bị đưa ra Bắc, hình như bây giờ định cư ở Úc.

    - Sáu là Nguyễn Văn Thanh, đại úy quân đội biệt phái Cảnh Sát, lừng khừng chẳng ra làm sao nhưng tránh “lao động vinh quang” thì hay lắm, anh em gọi là thằng “trốn làm”, Trần Phú Trắc đặt cho cái tên Tây là thằng “Charle Cụt”, nói theo tiếng Việt là “Sặc Cụt”, cả hai tên nầy nói lái lại thì nghe… tục lắm! Năm sau cũng bị đưa ra Bắc. Tù cải tạo về làm ở tiệm hớt tóc của ông bố, ở ngã tư Trương Minh Giảng, Trương Tấn Bửu. Có lần tôi tới rủ anh đi vượt biên, anh ta bảo không có tiền. Bây giờ không biết ở đâu!

    - Bảy là Phạm Quang Chiểu, đại úy quân đội biệt phái Cảnh Sát, tôi có nói qua ở trên, rất khoái nghe tôi hát “Gởi gió cho mây ngàn bay.” Một năm sau bị đưa ra Bắc, hiện ở Nam Cali, gần với Trần Phú Trắc.

    - Tám là Trần Phú Trắc, nói ở trên, xin khỏi nhắc lại.

    - Chín là Trần Hữu Bảo, đại úy Dù, thương binh loại 2, biệt phái Cảnh Sát, một năm sau bị đưa ra Bắc, không biết hiện giờ ở đâu.

    - Mười là Phạm Ngọc Hiền, đại úy quân đội biệt phái Cảnh Sát, bị Trắc đặt tên là Tạ Tốn, một nhân vật trong truyện Kim Dung, quê ở Quảng Ngãi, lớn lên trong vùng Việt Minh nên có ít nhiều kinh nghiêm với Việt Cộng. Một năm sau bị đưa ra Bắc. Sau khi tù cải tạo về, một lần tôi thấy anh ngồi xích lô chạy ra bến xe Miền Đông. Có lẽ anh từ Long Khánh, nơi gia đình anh cư trú, đi Saigon về, tôi đuổi theo tìm nhưng không gặp. Không biết bây giờ ở đâu!

    - Mười một là Phan Hải. Phan Hải là con Phan Mạch, cháu Phan Mỹ. Hồi ấy, Phan Mỹ là chủ nhiệm văn phòng thủ tướng (Phạm Van Đồng), còn bố anh ta làm chủ nhiệm ủy nhiệm ủy ban thống nhứt. Bác cả anh ấy là nhà văn Phan Khôi, ngoài ra còn có Phan Thao, Phan Bôi (tức Hoàng Hữu Nam, bộ trưởng bộ nội vụ (Việt Cộng) đã chết, và theo anh ta, chú anh ta cũng là Phan Hiền, lúc ấy là thứ trưởng bộ Ngoại Giao Việt Cộng. Bố mẹ anh ta tập kết ra Bắc, để anh ta ở lại miền Nam với một ông bác. Ông nầy làm thuyền trưởng chiếc tàu chạy đường Saigon – Đà Nẵng và qua đời sớm. Phan Hải lưu lạc ở Saigon, vừa đi làm vừa đi học, đậu tú tài 1, bị động viên đi sĩ quan Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, trung úy, biệt phái tòa Đô Chánh, phụ trách kiểm soát ẩm thực cho tù Chí Hòa. Theo anh ta, so với tù cải tạo, chế độ ẩm thực của tù Chí Hòa là tiên, còn chế độ ăn uống “tù cải tạo” tệ hơn địa ngục. Anh ta cố gắng “học tập tốt” để như bố mẹ anh ta hứa: “Ngày về, con sẽ là con của đảng”. Anh ta đã ở sẵn tại trại nầy, khi chúng tôi tới nơi thì biết anh ta làm Khối Trưởng. Anh em chúng tôi thì thuộc Tổ 1, đội 1, Khối 1, trại L3-T3.

    L3-T3 là một “đơn vị học tập” thuộc cấp “tiểu đoàn”. Tiểu đoàn trưởng là Năm Định, đại úy, người miền Nam. Năm Định thì cứ khăng khăng rằng: “Mấy anh học tập xong thì về.” Chính trị viên tiểu đoàn tên là Thảo, người Bắc, trung úy, khôn ngoan, kín đáo. Người điều hành công việc thường nhật, coi như phụ tá của Thảo là Hồng Dư, trung úy, trẻ hơn Thảo, năng nỏ hơn, nhiệt tình hơn, chủ tọa cuộc họp hằng ngày của các khối trrưởng, là người cấm chúng tôi không được gọi nhau bằng tù, chỉ là “cải tạo” mà thôi.

    Toàn trại chia làm 6 khối. Từ khối 1 đến khối 5 là năm khối ở trong năm ngôi nhà dài trại gia binh cũ. Mỗi nhà gồm 10 căn dành cho 10 tổ. Hai tổ thành một đội. Năm đội thành một khối. Khối thứ sáu, không ở trong gian nhà trại gia binh mà một ngôi nhà gỗ, kiểu tiền chế của nhà binh, nằm riêng ở cuối trại. Tôi chưa từng vào ngôi nhà nầy nên không biết cách sắp đặt ra làm sao. Ca sĩ Khuất Duy Trác là khối trưởng của khối 6 nầy.

    Phi trường Trảng Lớn ở phía bên kia hàng rào của L3-T3. Sát hàng rào bên đó có hai chiếc AD-6 bị hư. Khi mới về trại nầy, chúng tôi được lệnh qua phi trường gở các tấn ri sắt (PSP), thứ để làm phi đạo, đem về kê cao lên, làm sập để ngủ. PSP có hai loại, loại có lỗ to, bằng miệng chén, dày 1 lớp, không làm chỗ nằm được. Loại chúng tôi gở về là loại không có lỗ, bằng nhôm, làm sập nằm khá êm.

    Về trại nầy được mấy tuần thì chúng tôi được trại tổ chức học tập chính trị. Nghe được học tập chính trị, ai ai cũng vui, hy vọng học tập chính trị xong thì sẽ được về, trở lại cuộc sống bình thường.

    Bấy giờ, không rõ do đâu, một số anh em được gọi đi dựng hội trường để làm nơi học tập chính trị. Hội trường là khoảng trống giữa hai dãy nhà trại gia binh. Họ dựng vài, đóng đòn tay, lợp mái, và làm sân khấu để giảng viên đứng trên đó, còn “trại sinh” thì ngồi đối diện, dưới đất. Bốn phía hội trường có bắt loa, trên sân khấu, mỗi khi học tập có đặt micro cho giáo viên dùng. Để ý, tôi thấy các loa nầy nhãn hiệu đều viết bằng chữ Tàu, có lẽ do Trung Cộng sản xuất và viện trợ.

    Những người giảng bài học chính trị, gọi là giáo viên, phần đông còn trẻ, 20 tuổi hay hơn chút ít, nghe nói mới học xong ở truờng Nguyễn Ái Quốc ra. Bọn họ có khoảng 3 hoặc 4 người, phụ trách một T. (Đơn vị), phần đông là người Bắc, vui vẻ. Riêng có một anh chàng, không lên lớp bao giờ, thường đi thu gom bài học và bản khai lý lịch. Anh chàng nầy khó đăm đăm, khó ưa.

    Bài học đầu tiên nhan đề là: “Đế quốc Mỹ xâm lược nước ta là kẻ thù của nhân dân ta.” Kế đó là những bài như “Đế quốc Mỹ là kẻ thù của nhân dân toàn thế giới”, “Đế quốc Mỹ là con đĩa hai vòi”, “Đế quốc Mỹ giàu mà không mạnh”, “Không nên sợ Mỹ và phục Mỹ”, “Ngụy quân ngụy quyền là tay sai của Mỹ, có tội với nhân dân”. Quan trọng nhất là ai ai cũng phải “tự mình xác nhận có tội với nhân dân…” Cọng chung là học 10 bài. Đề tài, nghe nói, đã được phổ biến trước kia trong vùng Việt Cộng, v.v… Học xong để mà về nên chẳng ai quan tâm, miễn sao khi bộ đội, cán bộ hỏi tới thì “hỏi đâu thuộc đó” thì thôi.

    Không ngờ học xong 10 bài rồi mà vẫn chưa về.

    Vậy là bắt đầu có việc trốn trại.

    Một tuần vài lần, khoảng sau nửa đêm lại nghe súng nổ từng tràng ngoài hàng rào. Sáng hôm sau thì nghe tin có người trốn trại, bị bắn chết, bị thương, v.v… Cũng có khi trốn trại mà không nghe súng nổ. Ấy là trốn mà Việt Cộng không phát hiện được, thoát rồi.

    Trại L3-T3, suốt thời gian đó không ai trốn trại nhưng những T chung quanh thì nhiều. Khi thì nghe người trốn ở T1, T2 hay T4, T5 gì đó. Phan Hải, là con cán bộ cao cấp ở Hà Nội, anh thường lên nhà bộ đội ở, chơi với họ, chuyện trò hằng ngày. Vã họ cũng nể anh ta có cha chú làm lớn nên dễ dải, vui vẻ với anh. Có anh bộ đội hỏi Phan Hải: “Bố mẹ anh làm lớn như thế, anh đi cải tạo có buồn không?”

    Phan Hải vô ra nhà bộ đội hằng ngày nên biết nhiều chuyện, về kể lại cho chúng tôi nghe, còn như không thì cũng mù tịt, chẳng biết chuyện gì.

    Được mấy tháng, vì ăn uống thiếu thốn, rất nhiều người bị bệnh phù thủng, chân sưng phù lên, đi đứng khó khăn. Người ta bảo là thiếu Vitamin B-1. Chẳng cần thuốc men gì, bấy giờ, thay vì phát gạo trắng, bộ đội phát gạo đỏ, ăn vào thì bệnh bớt nhiều. Hồi nầy, “gạo Trường Sơn” là thứ gạo mốc ở các kho của Việt Cộng trên đường Trường Sơn đã hết, nên chúng tôi được phát loại gạo bình thường, thường thấy bán ở Chợ Lớn trước đây. Tuy nhiên, chỉ tiêu 15Kg một tháng nên ai cũng đói.

    Đói thì tìm cách “cải thiện”. Trước là, như tục ngữ dạy: “Đói ăn rau, đau uống thuốc” nên tất cả đều “phát triển trồng rau”.

    Khoảng trống giữa các dãy nhà trại gia binh và hàng rào phi trường, ngoại trừ một khu nhỏ là kho đạn cũ, được chúng tôi sắp xếp lại, rào kỹ không cho ai ra vào, phần còn lại được dùng trồng rau. Mạnh ai cứ cuốc đào, lượm sỏi, bỏ phân, trồng rau muống và tưới.

    Hàng ngày, bộ đội phát rau muống cho chúng tôi. Phần non để ăn, phần già, ngắt một khoảng có hai hoặc ba mắt, đem ra trồng. Nước tưới là đường cống bên hông nhà trại gia binh. Các hố cầu tự tiêu phía sau nhà gia binh, khi đầy lên thì trào ra ở hố nầy. Múc nước đó tưới rau tốt lắm. Rau lên mau xanh, cỡ một tuần hoặc 10 ngày là có rau non ăn được rồi.

    Chưa thỏa mãn với thứ nước cống đó để tưới rau, Hoàng Hữu Chung, là người đầu tiên, cạy nắp hầm cầu lên rồi múc phân từ trong hầm cầu đem ra tưới rau. Ban đầu thì ai cũng la oai oải ghê quá, gớm quá, hôi quá. Nhưng được ít bữa, thấy rau của Hoàng Hữu Chung lên tốt quá, người ta lại bắt chước, làm theo. Buổi trưa, chờ khi anh em ngủ, Hoàng Hữu Chung, hai tay xách hai thùng đạn loại đại liên 50, mở nắp hầm cầu, lấy một cái gáo dài, thọc xuống lổ cầu, múc lên đổ vào thùng, xách ra ruộng rau. Trần Phú Trắc, vốn tính hay đùa, chỉ Hoàng Hữu Chung, nói với mấy anh em ngồi chơi quanh đó:

    - “Đó, mấy ông thấy không? Thi sĩ Trần Dạ Từ đó. Thi sĩ đang mở nắp hầm cầu múc phân đi tưới rau đó. Cách mạng là đổi đời, thấy chưa?”

    Nhiều người tưởng thật, gọi Chung là thi sĩ Trần Dạ Từ. Biết chuyện, Chung cự nự Trắc: “Ông cứ hay xạo không? Tui là thi sĩ Trần Dạ Từ khi mô?” Trắc và chúng tôi cười ha hả. Từ đó, trong trại nhiều người xì xào về việc thi sĩ Trần Dạ Từ mở nắp hầm cầu, múc phân bón rau.

    Từ cách làm của Hoàng Hữu Chung, nhiều người làm theo nên có nhiều đám rau, nhiều dàn bầu, dàn bí tốt lắm, rất sây quả.

    Thỉnh thoảng trại có phát cà chua, anh em chúng tôi đem ăn sống. Do việc làm của Chung, bỗng nhiên giữa luống rau có nhiều cây cà chua mọc lên, anh em chúng tôi lại bứng cà chua ra trồng, lại tưới theo cách của Chung, cà chua trái nào trái đó thật bự. Một hôm, lại cắt cà chua ăn sống, vài anh em chê dơ, không chịu ăn. Trắc lại đùa: “Mình ăn của mình, có gì mà dơ!” Có người lại đùa: “Ối! Cà chua thơm như “câu thơ thi xã.” (1)

    Một hôm nào đó, tổ của tôi được lệnh đi khiêng củi. Xe molotova chở củi vào, chúng tôi đem củi xuống sân và chia lại cho 6 khối. Khi ấy trời còn sáng, anh em chúng tôi thấy trên sàn xe, chỗ kẹt mấy tấm ván có những hột đậu xanh nguyên. Phan Hải nói: “Luợm hột đậu xanh, đem về làm giống.” Vậy là hè nhau lượm cho hết, được khoảng một muổng canh. Hơn một tháng sau là chúng tôi có vườn đậu xanh, trái to. Đậu xanh đem về, nấu chè, sau khi chừa một ít làm giống trồng đợt sau và đem cho vài tổ khác, họ xin.

    Bấy giờ ai nấy thèm thịt. Hôm “ba ngày nễ nớn” (18 tháng 9, ngày 2 tháng 9 và gì nữa, quên mất rồi…) trại có làm thịt heo chia cho chúng tôi. Tuy chúng tôi ăn chung nguyên tổ, không chia phần từng người nhưng thịt heo thì khác. Kho nấu xong rồi, chia cho anh em mỗi người được một miếng bằng ngón tay út. Miếng nào có xương thì to hơn tí chút. Đang ăn, Phạm Quang Chiểu la lớn, đùa: “Báo cáo đồng chí! Con ruồi tha mất miếng thịt của tôi rồi.” Ai cũng cười.

    Phạm Ngọc Hiền lui cui lấy các giải băng đạn, ngồi rút sợi. Hỏi, anh ta nói: “Làm lưới bắt chim ăn chơi.” Các sợi chỉ rút ra, dài chưa tới một sãi tay. Hiền nối lại, đan thành môt tấm lưới lớn khoảng bằng một cái mền.

    Bên hông dãy nhà T-3, bên kia là T-2, cách nhau bằng một hàng rào kẽm gai mới dựng, là một con đường xe hơi chạy được. Ngày ngày, dọc theo con đường nầy, chim én bay từng đám năm ba con. Hiền bèn đóng cọc, cột lưới, có sợi giây kéo. Anh núp sau góc nhà, chờ chim én bay tới thì anh ta bất thình lình kéo lưới lên, cho chim én vướng vào lưới. Hiền ngồi từ sáng đến trưa; vào ăn cơm trưa xong, lại tiếp tục ngồi canh nữa, giữa trời, khi im khi nắng, mặt mày đỏ lơ đỏ láo, suốt một ngày mà chẳng được con nào cả. Chim én khôn lắm. Thấy anh ta kéo lưới lên, chim vụt lên cao bay mất. Sau vài lần, rút kinh nghiệm, chim én không bay dọc theo con đường đó nữa, trong khi Hiền vẫn kiên nhẫn ngồi chờ.

    Tới giờ cơm chiều, anh em trong tổ đùa:

    - “Bữa nay ngày rằm, ông bắt chim không được là phải rồi. Ai cho ông sát sinh?”

    Có người lại nói:

    - “Mai mười sáu, ông rán ngồi một ngày nữa đi, thế nào cũng có con chim nhào vô cho ông!”

    Trắc lại đùa:

    - “Đừng lo! Thế nào ngày mai cũng có con bay qua, gởi lại cho ông cái lông!”

    - “Để đốt lò phải không?”

    Người nói câu đó là vì nhớ câu chuyện đùa tôi mới kể cho anh em nghe, trước khi đi ngủ. (2)

    Trước khi đi ngủ, trong bóng tối, vì lúc nầy máy đèn đã ngưng chạy, anh em nằm một dãy dài trên sập, thường yêu cầu tôi hát cho anh em nghe chơi. Từ khi bị cấm hát nhạc vàng thì kể chuyện, chuyện tiếu lâm, chuyện “xứ Huế của tui”, chuyện “cụ Ngô không cu” hay “Chuyện thủ hiến Phan Văn Giáo bắt con gái Đồng Khánh đem về chơi bời”, mà nhiều người biết, chuyện “Cậu Cẩn câu cá …”, (3) chuyện “ngủ đò sông Hương”, v.v… Huế là xứ vua quan, có biết bao nhiêu chuyện để kể nghe hằng đêm, hết chuyện nầy tới chuyện khác, chuyện nọ xọ chuyện kia, giống như chuyện “Một ngàn lẻ một đêm” bên xứ Ba-Tư vậy.

    Trại tôi phần đông là quân nhân biệt phái nên có rất nhiều bác sĩ. Theo họ thì việc ăn uống thiếu thốn làm cho chất kháng sinh trong cơ thể yếu đi, vì vậy, sau đợt bị phù thủng, anh em chúng tôi gặp nhiều thứ bệnh khác. Bỗng có anh đau bệnh… lậu. Ai cũng cười. Trời ơi! Ở tù hơn nửa năm nay, có đi chơi bời ở đâu mà mắc bệnh phong tình. Thì ra, anh ta hồi trước, khi chưa đi tù, có chơì bời đấy và mắc bệnh. Việc chữa trị hồi đó không tới nơi tới chốn, vi trùng tiềm ẩn, “nằm vùng”, bây giờ sức đề kháng yếu đi thì vi trùng gono nổi lên “Đồng Khởi”. Tôi kể lại lời một bác sĩ như vậy, anh em ai cũng cười, nhưng Phan Hải cảnh cáo tôi: “Anh làm như cán bộ cách mạng là vi trùng lậu.” Ai nấy lại cười thêm.

    Tôi bị lưỡi cưa cứa vào mắt cá, chảy máu. Vậy mà nó sưng mũ, đi lại khó khăn, phải lấy bột peniciline trong viên thuốc con nhộng, xức vào. Cả tháng sau mới lành. Hôm Trần Phú Trắc bị bệnh, cả chục bác sĩ tới thăm, và cho lời khuyên, không cho thuốc. Ai có thuốc mà cho. Bác sĩ thì đông, thuốc không có thì bác sĩ cũng bó tay mà thôi. Bệnh thông thường nhứt là bệnh ghẻ lở. Có người ghẻ đầy mình, có người bị ghẻ ăn sâu vào da, gần tới xương. Bỗng một hôm nửa đêm, nghe tiếng nổ lớn lắm. Bộ đội báo động, cầm súng đi rảo ngoài sân, ra lệnh chúng tôi ai nấy ở trong nhà, không được ra cửa. Sáng thì biết có một anh trung úy cải tạo, bị ghẻ lở ăn gần đứt con cu, mà trước khi đi, anh có hẹn với người yêu “học tập” xong, sẽ về làm lễ cưới. Bệnh hoạn như thế, anh buồn tình lén ra kho đạn cũ, lấy một trái lựu đạn, nửa đem ra đầu hè nhà, mở chốt, tự tử. Nghe nói ruột gan banh hết. Bộ đội sai lấy thùng đạn pháo binh, ghép thành ván, đóng cái hòm, gánh ra chôn ở bên cạnh phi đạo phi trường Trảng Lớn.

    Tôi vốn sợ ma, nhưng hình như ma lại sợ tôi. Ma không dám hiện lên cho tôi thấy bao giờ. Vậy rồi anh Phạm Ngọc Hiền nói rằng bên phía T-2, cách chúng tôi con đường nhỏ và một hàng rào kẽm gai, có con ma mặc áo trắng, đêm nào cũng hiện ra đứng đầu cột ở hiên nhà. Khuya, Hiền thức dậy đi tiểu. Hiền gốc “nhà quê”, mắc bệnh “đái đường” nên anh ta không tiểu trong nhà cầu mà ra đứng tiểu ở góc nhà, thấy ma hiện lên bên ấy. Anh em chúng tôi tò mò để ý, cũng có người thấy có con ma mặc toàn áo trắng, đêm nào cũng hiện ra một chỗ ấy. Sau đó, Phan Hải hỏi thăm anh em cải tạo ở ngay gian nhà chỗ con ma hiện ra có thấy ma không? Ma quỉ gì đâu! Bên ấy có anh chàng mắc bệnh lao, đêm đêm ngủ không được, nằm trong phòng sợ phiền anh em nên ra đứng dựa cột hiên nhà. Trời lạnh, anh ta không có mền, chỉ mang theo có cái ra màu trắng. Anh ta quấn ra vào mình cho bớt lạnh, làm cho nhiều người, trong đêm tối mờ mờ, lại có sương khuya, tưởng là có con ma mặc toàn đồ trắng hiện hình. Vài tuần sau, ma không hiện hình nữa. “Con ma” ấy không chịu nỗi vi trùng Kock, ra nằm ở chỗ nghĩa trang tù cải tạo bên cạnh phi đạo rồi.

    Cũng bên T-2, có ông giáo sư Đinh Tiến Lãng (hay Đinh Viết Lãng, tôi không nhớ), giáo sư toán nổi tiếng ở Saigon hồi trước 1975. Ông ta là trung úy biệt phái, nay đi cải tạo. Một hôm ông ta bỗng nổi cơn điên, la toáng lên rằng “Tao là bạn của Văn Tiến Dũng.” Thế là bộ đội xuống, bắt trói đem đi. Tưởng vậy là ông ta xong đời. Ai ngờ mấy hôm sau, hết bệnh lại được tha về trại, tiếp tục “học tập”. Hình như ông ta mới qua đời năm ngoái hay năm kia gì đây, ở Nam Cali.

    Tội nghiệp nhất là trường hợp của Hoan, hình như anh ta là dược sĩ, cũng lên cơn điên. Hiền nói với tôi: “Điên mà khôn thấy mẹ.” Hỏi ra mới biết, hễ lên cơn điên thì Hoan lôi Hồ Chí Minh ra mà chưởi, nào là “thằng tay sai cho Nga Tàu”, “nào là tên Cộng Sản Quốc Tế.” Hồi ấy, Hồ Chí Minh chưa bị lật tẩy như bây giờ nên Hoan cũng như mọi người, không biết gì nhiều về tội lỗi của Hồ Chí Minh mà chưởi cho đã. Chưởi lãnh tụ, đối với Việt Cộng là tội to lắm. Tôi kể cho anh em nghe chuyện về một chữ Người viết hoa mà Trần Dần đi tù (4). Hoan đi cải tạo, đã là tù, nay bị đưa vào conex. Conex để giữa trời, nắng và nóng ghê gớm. Chiều lại, bộ đội đến mở cửa conex, cho anh ta chén cơm muối và một chai nước lạnh, ngày một lần. Một hôm, chờ giờ bộ đội mở cửa, Phạm Ngọc Hiền dẫn tôi giả bộ đi dạo gần conex, coi Hoan ra làm sao! Hiền nói: “Tội ghê anh ơi! Cả xương là xương.” Vậy mà Hoan vẫn không ngớt chưởi Hồ Chí Minh. Một hôm, tên bộ đội đem cơm cho Hoan, thấy anh ta chưởi “bác” Hồ của nó, nó bèn nổ một phát AK. Hoan chết ngay tại chỗ.

    Cũng một hôm, Hiền dẫn tôi ra bếp nấu T-2, sát hàng rào, phía tôi nhìn sang khá rõ. Bây giờ cơm chia xong rồi, bếp đã vắng, chỉ còn lại một người, hơi lớn tuổi. Ông ta lấy cái muỗng sắt, cạo từng hột cơm dính trong thành chảo, bỏ vào cái chén cầm ở tay kia. Ông ta cạo một buổi như vậy, cọng lại, giỏi lắm cũng hơn muỗng canh. Vậy mà ngày nào ông ta cũng xin được cạo, rửa chảo, để kiếm thêm chút cơm. Hiền nói với tôi: “Anh biết ai không? biết ai không?” Tôi lắc đầu. Hiền tỏ vẻ chán nản: “Cũng không biết nữa, giáo Sư L.T.L đó, ông nầy dạy đại học. Vậy mà anh cũng không biết.” Thật ra, tên ông thì tôi biết. Tôi biết luôn cả hai vợ chồng ông ta nữa. Sách vạn vật của họ in ra, đề tên tác giả là ông bà giáo sư L.T.L. Ở bên Tây về, ông ta bị động viên, mang loon trung úy thì biệt phái về dạy đại học trở lại, nay đi ở tù.

    Việt Cộng phí phạm nhiều cái. Trại Trảng Lớn nầy trước kia là căn cứ Mỹ, sau giao lại cho Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa. Vì là căn cứ cũ của Mỹ nên có nhiều cột đèn bằng loại thông ngâm dầu. Mỗi cây dài hơn chục thước. Bộ đội biểu cắt ra, chẻ làm củi nấu cơm. Thứ cột đèn nầy là “tiền không”. Vậy mà đem làm củi. Uổng thật!

    Thỉnh thoảng, ông trung úy Cộng Sản Trần Đức Ước, phụ trách khối 1, khối của tôi, xuống kiểm tra tư trang cá nhân. Huỳnh Văn Khánh, khi đi cải tạo, đem theo cuốn “L’art de conjuguer”. Thấy cuốn sách, anh trung úy nói lớn: “Gì mà sách tiếng Anh không vậy nhỉ?” Biết ông ta nói lộn, chúng tôi làm thinh, cười ông ta dốt thì cũng tội. Cái chế độ đó đào tạo ra những con người dốt như thế, có phải lỗi ở anh ta đâu! Có lần anh ta lại nói: “Các anh chỉ được học tiếng Anh, không được học tiếng Mỹ. Nhớ không!” Vài anh em chúng tôi cũng trả lời “nhớ” cho xong chuyện. Hơi đâu mà giải thích. Lỡ mấy chã quê thì mình cũng phiền.

    Trần Đức Ước lại hay ưa kể chuyện cho chúng tôi nghe. Có lần đi Saigon về, Ước nói: “Ối giời! Thành phố “bác” xao mà ló nhớn thế. Nhà nầu cao nắm, nhìn mỏi cả cổ.” Tôi hỏi: “Tối lại anh ngủ ở đâu?” Ước trả lời: “Tôi có ngủ đâu. Tối tôi ghé nại trạm dân phòng, ngủ chung với mấy anh ở đó. Họ tốt nắm.” Tôi cười, nghĩ thầm, dân Nam Bộ tốt là bởi thấy anh không có chỗ ngủ; còn như anh hách mặt lên, cà chớn với họ, chưa hẵn họ tốt với anh. Dân miền Nam, phù suy không phù thịnh.

    Đi Saigon về, Ước kể chuyện đi qua sân bóng, muốn vào xem mà không vào được, cửa khóa. Rồi Ước kể: “Một nần ta đấu hữu nghị với ông Niên Xô. Ta được quả phạt đền. Đội bóng ta niền gọi điện về hỏi “bác”, nên đá như thế lào. Bác bảo: “Đá thế lào ta vẫn thắng mà không nàm mất nòng ông Niên Xô.” Thế nà ta đá một phát, quả bóng lứt nàm đôi, một lửa vào khung thành, một lửa ra ngoài.”

    Nghe chuyện, tối lại, nằm chờ giấc ngủ, có anh em hỏi tôi đá trái bóng nứt làm hai là đá làm sao? Tôi cười: “Đá như thơ Hồ Xuân Hương, “Nứt làm hai mảnh hỏm hòm hom.” Có anh cười, trách tôi: “Đang nằm nhớ vợ mà nghe cha Hải nói gì không?” Tôi cười, giải thích, nghiêm trang hơn: “Anh chàng nầy từ một miền đồng chua nước mặn nào đó, đi bộ đội, vào quân trường rồi thoát được cảnh xương trắng Trường Sơn mà về đây. Có bao giờ được xem đá bóng đâu mà biết nó ra như thế nào! Chẳng qua, nghe người nầy kể qua, nguời kia kể lại, tam sao thất bổn, mới có chuyện quả bóng đá một phát nứt làm hai.”

    Quả thật, Uớc ưa kể chuyện mà anh ta không biết gì thật. Lại một hôm, xuống nói chuyện với chúng tôi, anh ta lại kể chuyện “Đồng chí Phạm Tuân cho máy bay đậu trên mây, chờ B-52 tới thì nhào xuống đánh, Mỹ bị đánh bất ngờ, B-52 rụng như sung.”

    Cũng chưa hết dâu, lại một hôm, xuống chơi, Ước kể: “Đồng chí trung tướng Đồng Văn Cống nái máy bay về thăm quê ở Bến Tre. Địch biết được, bèn đem một tiểu đoàn vây bắt. Đồng chí Đồng Văn Cống niền chạy ra ruộng, máy bay đang đổ ngoài ấy, nái máy bay đi mất. Mỹ cho hai chiếc “con ma” đuổi theo. Bị đuổi riết quá, đồng chí Đồng Văn Cống nặn xuống biển, ra tới Hải Phòng, đồng chí Đồng Văn Cống nại cho máy bay lổi nên. Mỹ không nàm gì được. Các anh biết không? Vậy mà “bác” biết đấy. “Bác” gọi đồng chí Đồng Văn Cống vào, bảo rằng đi chơi thì được, nhưng đừng khinh địch quá!”

    Trên là những chuyện điển hình của Ước kể, không nhớ cũng phải nhớ. Đọc chuyện phong thần của Tàu cũng khó quên!

    Nghe chuyện Đồng Văn Cống, có lần tôi đùa: “Đã đồng lại còn cống. Hai thứ nầy đâu có ở chung với nhau được. Có lẽ bố mẹ ông nầy vừa muốn ở tỉnh, vừa muốn ở nhà quê. Nhà quê thì có chuột đồng, lên thành phố thì có chuột cống.”

    Lại nói chuyện hát hò. Hồi mới tới trại nầy, thuộc vài bài bên trại cũ, tối tối trước khi sinh hoạt, chúng tôi hát cho lên “khí thế”, hết “Bão nổi lên rồi”, “Tiến về Saigon” thì tới “Bác cùng chúng cháu hành quân.” Mấy đội ở trại T-2, bên kia hàng rào, nghe hát, bực mình, nói với chúng tôi: “Mấy ông hát nâng bi!” Thế là chúng tôi ngậm họng. Tuy nhiên, được ít lâu, sau khi bắt đầu học tập chính trị, cả trại phải hát ở hội trường, trước khi buổi sinh hoạt bắt đầu. Mỗi khối, một vài anh em được cử đi tập hát, về tập lại cho anh em. Mỗi người phải chép tay lời bài hát. Tôi lại thấy vài bài hát cũ được đem ra hát lại như bài “Diệt Phát Xít” của Văn Cao. Bài nầy tôi biết hát hồi mới “Cách mạng tháng Tám”, cách đã 30 năm. Tôi quên lời đã nhiều. Vậy mà rồi tôi được chép lại bài hát nầy đầy đủ. Không biết “ai” mà nhớ hay vậy! Trắc cười nói với tôi: “Trong bài hát có chó có mèo mà hát vẫn hay!” Suy nghĩ một lát, tôi mới nhớ trong bài “Diệt Phát Xít” có câu “Diệt bầy chó đê hèn của chúng.”

    Có hôm toàn thể khối tôi tập một bài hát mới. Nhan đề bài hát là “Nguồn Tin Vui”. Người tập hát cho chúng tôi là Ân, không nhớ họ. Ân thuộc tổ 4, đội 2, cựu trung úy Cảnh Sát. Bài nầy chúng tôi đã chép lời trước, có nghe hát qua. Vốn hay đùa nên trong bài hát có câu: “Cuộc đời sang xuân từ đây” thì chúng tôi hát là “Cuộc đời gian nan từ đây.” Hát riết rồi quen miệng nên khi đứng trước khối, tập cho toàn thể anh em, Ân cứ câu “Cuộc đời gian nan từ đây” mà hát ông ổng, khiến ai nghe cũng cười. Phan Hải thấy thế bèn tới cạnh Ân nói: “Anh tập cho anh em hát đàng hoàng. Hát vậy không được”. Khi đó Ân mới giật mình, lại còn sợ Phan Hải đi báo cáo với bộ đội thì nguy. May mắn! Phan Hải nhắc chừng vậy thôi. Ông “Quảng Nam hay cải” nầy vốn không có tính đi báo cáo hay làm ăngten.

    Tập xong, chúng tôi mới biết bài hát ấy do ông Khuất Duy Trác mới sáng tác ra, tập cho anh em chúng tôi. Trước 1975, mỗi tối thứ hai, tôi có nghe Duy Trác hát trong chương trình Phạm Duy, vào lúc nửa đêm. Nay mới biết thêm ông họ Khuất, không biết có bà con chi với ông Khuất Nguyên bên Tàu không!.

    Một năm sau, tôi có nghe bài “Nguồn Tin Vui” được hòa tấu trên đài TV Saigon. Nguyên lời ca bài hát như sau:

    Nguồn tin vui lan tràn đó đây,
    Cùng bao chiến công bay về rộn ràng
    Từ nông thôn vượt lên núi cao,
    Cùng chung tiếng ca nhịp nhàng.
    Lửa đốt cháy giữa lòng thành phố
    Diệt quân Mỹ cùng quân Thiệu Kỳ
    Đồng lúa mới hát mừng giải phóng
    Chào đoàn quân bước đi!
    Tay súng tay gươm diệt quân thù,
    Lòng ta, chung một lời nguyền.
    Cuộc đời sang xuân từ đây
    Tiếng ca vui ngày ngày./

    (1) “Câu thơ thi xã, con thuyền Nghệ An” là câu thơ của Cao Bá Quát

    (2) Xưa, có ông già sính thơ. Ông có ba cô gái, gả cho ba chàng rể. Chàng thứ nhứt, chàng thứ hai đều hay chữ. Riêng có chàng thứ ba chỉ được cái mả đẹp trai mà thôi, chữ nghĩa không ra gì. Một hôm, ông ra đề cho ba chàng rể thử tài làm thơ. Đề bài là ông già cỡi ngựa chạy nhanh.

    Đề ra xong, chàng thứ nhứt đọc:
    Mặt nước thả cây kim
    Cha tôi cỡi ngựa chạy như chim
    Chạy đi chạy lại,
    Cái kim chưa chìm.

    Chàng rể thứ hai không chịu thua, bèn đọc ngay:

    Ngọn lửa thả cái lông
    Cha tôi cỡi ngựa chạy như dông
    Chạy đi chạy lại,
    Cái lông chưa hồng.

    Chàng thứ ba vì dốt thơ, nghĩ mãi không ra câu nào. Mẹ vợ thương tình, vã bà cũng khoái chàng rể đẹp trai, bèn vội vàng bước khỏi sập, hỏi con: “Được chưa con! Được chưa con?” Trong khi vội vã, bà vô tình để xì ra tiếng bụp. Nghe tiếng đó, chàng rể thứ ba nói: “Xong rồi mẹ!” Nói rồi anh ta đọc thơ:

    Mẹ tôi xán cái địt,
    Cha tôi cỡi ngựa chạy như hít!
    Chạy đi chạy lại,
    Đít mẹ chưa khít!

    (3) Xem bài “Nói chuyện Ngàn Năm”, cùng tác giả, trong “Viết Về Huế”, tập 1, Văn Mới xuất bản.

    (4) Xưa nay Người vẫn thiếu tin Người
    Người vẫn kinh hoàng trước tương lai.
    (Nhất Định Thắng – Trần Dần)

    Theo Hoàng Văn Chì, trong “Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc”, Việt Cộng kết tội Trần Dần vì chữ Người (Viết hoa) là muốn ám chỉ Hồ Chí Minh.

    Comment


    • #3
      Hồi Ký -TÙ CẢI TẠO

      Tác giả: Tuệ Chương hoànglonghải

      3. Cuộc Đời Ngô Nghĩa



      Các trưởng khối đi họp lúc 10 giờ sáng, tới 11 giờ thì về thông báo cho biết trưa nay “cách mạng” sẽ xử bắn Ngô Nghĩa ở phi trường Trảng Lớn. Mỗi khối cử một hay hai người đi coi để về phổ biến cho anh em cải tạo hay. Riêng L3/T3, “đơn vị” chúng tôi, gồm 6 khối, từ khối 1 đến khối 6 vì ở sát phi trường nên mọi người có thể ra sát hàng rào, đứng bên nầy bờ đất để coi.

      Phan Hải, trưởng khối 1, yêu cầu tổ trực nấu cơm hôm nay, phát cơm sớm để “anh em đi xem” như lời “bộ đội yêu cầu”.

      Trưởng khối Phan Hải nhắm bộ háo hức trong vụ xử bắn nầy. Anh ta lảnh phần ăn, ăn vội vã cho xong, rồi mặc áo đi lên khu nhà bộ đội ở.

      Anh ta nguyên là trung úy chế độ cũ, thuộc Đặc Khu Saigon - Chợ Lớn, biệt phái kiểm soát ẩm thực ở nhà tù Chí Hòa. Anh ta rất “giác ngộ” bởi một lý do rất dễ hiểu. Anh ta thuộc thành phần liên hệ với Việt Cộng, mà liên hệ nặng như tôi đã kể ở bài trước. Cũng vì có lý lịch như thế, anh ta thường lên chơi với bộ đội và có nhiều chuyện hay hay đem về kể cho chúng tôi nghe.

      Chẳng hạn như chuyện Ngô Nghĩa sẽ bị xử bắn trưa nay.

      Ngô Nghĩa là trung úy pháo binh thuộc Sư Đoàn 21 Bộ Binh. Anh ta cũng trình diện đóng tiền đi ở tù như mọi người. Anh ở “đơn vị” L3/T1 hay T2 gì đó. Có lẽ là T1 vì nếu T2 thì cách T3 chúng tôi một hàng rào kẽm gai mong manh, bên nầy bên kia anh em lén lút chuyện trò qua lại được thì chúng tôi biết rõ sự việc hơn.

      Theo Phan Hải thì cách đây mấy hôm, trời mới rạng sáng, Ngô Nghĩa mặc quần áo bộ đội, - Anh ta giả trang bộ đội – đi từ trại ra cổng lớn ở Trảng Lớn, khoảng đường cũng khá xa, gần hai cây số. Trên đường đi, Ngô Nghĩa cắt giây điện thoại nối từ cổng vào bộ chỉ huy. Anh ta mang một khẩu súng CKC nhưng lại băng đạn AK. Có lẽ anh “điều nghiên sơ hở về khâu” nầy, dễ làm cho bộ đội sinh nghi. Khi tới cổng, bộ đội gác cổng chận anh ta lại hỏi. Anh ta trả lời không rõ ràng đơn vị bộ đội nào. Toán ở cổng gọi điện thoại vào “xác minh” với bộ chỉ huy thì không nối đường giây được. - Ngô Nghĩa đã cắt rồi, còn đâu!- Thế là toán gác cổng giữ anh ta lại, chờ “xác minh với trên”. Bất thần, anh ta vùng chạy ra khỏi cổng. Bộ đội đuổi theo, Ngô Nghĩa quăng lui một trái lựu đạn, loại mini. “May” là lựu đạn rơi xuống một cái hố bên đường nên chỉ làm cho một “chú bộ đội” bị thương nhẹ. Toán gác cổng tiếp tục truy đuổi, cuối cùng anh bị bắt ở khu nhà dân phía ngoài cổng lớn.

      Ngô Nghĩa nhứt định không khai một lời mặc dù Quân Pháp, từ “sư” (Sư là Sư Đoàn, - Việt Cộng hay gọi tắt như vậy) về hỏi cung rất kỹ và rất căng. Theo Phan Hải thì không bao giờ Ngô Nghĩa bị đánh vì luật pháp không cho phép đánh bị can - Do đó, “cách mạng” không biết ai đã cung cấp súng và quần áo bộ đội. Họ cương quyết cho rằng phải có người lấy giúp súng và quần áo cho Ngô Nghĩa chứ anh ta không thể lên khu bộ đội lấy cắp được. Cuối cùng, Ngô Nghĩa ôm một lô tội mà ra pháp trường. Nặng nhứt là tội “sát thương bộ đội”, thứ hai là “tội trộm tài sản xã hội chủ nghĩa”, đặc biệt lại là trộm vũ khí và quân nhu (có nghĩa là quần áo bộ đội), thứ ba là tội trốn trại, thứ tư là “tội phá hoại tài sản xã hội chủ nghĩa”, có nghĩa là cắt giây điện thoại. Với chừng đó tội, “quân pháp” đề nghị với “trên” xử tử. “Trên” chuẩn y. Vậy là trưa nay Ngô Nghĩa ra pháp trường.

      Trong khi Phan Hải vừa ăn vừa kể chuyện, anh em trong tổ tôi - Tổ 1, Đội 1, Khối 1 L3/T3 – im lặng ngồi nghe. Ăn xong, Phan Hải đi ra giếng bên hông nhà, Phạm Quang Chiểu, Bắc Kỳ 54, (như chúng tôi thường gọi đùa), chỗ nằm gần sát vách trong, bên cạnh Trần Phú Trắc, người thâm trầm ít nói, nhìn anh em chỉ cười cười, phán một câu, nghe hơi lạnh mình: “Chiến dịch khủng bố bắt đầu!”

      Phạm Ngọc Hiền, dân Quảng Ngãi, chỗ nằm gần phía cửa trước, đang đu đưa nhè nhẹ trên võng, ngóc đầu lên ngó Chiểu cảnh cáo: “Mi coi chừng cái miệng mi. Tau từng ở với Việt Minh trước 54 cả chục năm, tau biết họ lắm. Khi họ làm một việc chi quan trọng, họ tăng cường theo dõi để tìm mấy đứa “phản động”.

      Tôi đang ngồi dựa vách, tay cầm cái ông vố “tự biên tự diễn”, bập bập mấy khói “xơ-vơn-ti-rê” (1) góp ý bằng một câu Kiều:

      Ở đây tai vách mạch rừng
      Gặp ai người cũ cũng đừng nhìn chi.

      Trần Phú Trắc đang nằm dài sau lưng Chiểu, buồn buồn nói:

      - “Không rõ có ai biết gia đình Ngô Nghĩa ở đâu mà báo cho họ hay. Không chắc bộ đội báo tin về nhà anh ta đã bị xử bắn. Chắc rồi không ai hương khói cho anh ta.”

      Hoàng Hữu Chung, người nằm kế Phan Hải, nghe nói tới chết không ai hương khói, mặt mày trở nên thểu nảo:

      - “Anh Hải nhớ câu chi trong Chinh Phụ Ngâm, nói về người lính chết trận?”

      Tôi nói:

      - “Bỏ đi dạy lâu, tôi quên. Để nhớ thử coi.”

      Một lát sau, tôi đọc:

      “Hồn tử sĩ ù ù gió thổi
      Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi.
      Chinh phu, tử sĩ mấy người
      Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn?!

      Mấy câu thơ trong Chinh Phụ Ngâm làm ai nấy liên tưởng đến việc xử bắn Ngô Nghĩa trưa nay, không làm cho mọi người cảm thấy bình thản như thường lệ.

      Sau khi Phan Hải đi rồi, vài anh em lục tục đi coi xử bắn. Tôi lấy gối nằm nghỉ, chờ giấc ngủ trưa. Trần Hữu Bảo, nằm bên kia vách, phía cửa sau, hỏi tôi:

      - “Anh Hải không đi coi hay răng?”

      Tôi trả lời bình thản:

      - “Bộ hết cái coi hay răng mà đi coi giết người!”

      Ngoại trừ Hoàng Hữu Chung, Nguyễn Văn Bê, Huỳnh Văn Khánh, Phạm Ngọc Hiền và Phan Hải đi xem xử bắn, còn lại thì nằm nhà. Lê Quang Dung, dân Nam bộ, là người ít suy nghĩ sâu xa nhứt, lên tiếng:

      - “Cái thằng Ngô Nghĩa sao nó ngu, trốn trại làm chi không biết!”

      Phạm Quang Chiểu nghe vậy, trả lời:

      - “Mình không phải là nó, làm sao mình biết nó nghĩ gì mà cho là khôn với ngu.”

      Phạm Xuân Lý, người được xem là khôn nhất tổ, khôn theo nghĩa “từng trải và lắc léo” góp ý:

      - “Khôn dại gì thì cũng chết. Càng khôn sớm, càng chết sớm. Dại lại càng dễ chết hơn. Đằng nào cũng chết. Đùng một phát là xong.”

      Tôi nói:

      - “Đúng ra thì không nên giết. Bây giờ nhiều nước bỏ án tử hình, trên bảy chục nước trên thế giới không còn án giết tù.”

      Chiểu nói, giọng dài ra, mai mỉa:

      - “Tư bản đế quốc mới vậy anh ơi! “Cách mạng” là “giải phóng”. Đùng một phát là “giải phóng” một mạng người.”

      Tôi nói:

      - “Cũng không hẵn vì họ là những nước tư bản. Người ta văn minh. Người ta lý luận rằng chúng ta không thể lấy đi cái ta không cho. Nhân loại không tạo ra sự sống. Dù khoa học có tiến bộ như thế nào thì khoa học cũng không thể tạo ra sự sống; không ai cho ai sự sống. Không cho thì không có quyền lấy. Sự sống là do tạo hóa cho. Chỉ có tạo hóa mới lấy đi cái tạo hóa cho. Ta nhân danh cái gì mà lấy đi cái tạo hóa đã ban cho người khác?”

      Trắc lại nói với giọng chán nãn:

      - “Đời thiệt vô nghĩa.”

      Lê Quang Dung nói:

      - “Anh Ngô Nghĩa nầy nên đổi tên. Không phải Ngô Nghĩa mà Vô Nghĩa.”

      Phạm Quang Chiểu cười cười:

      - “Không có cuộc đời nào vô nghĩa cả. Đời có nghĩa đấy nhé.” Rồi anh ta đọc mấy câu thơ của Tố Hữu:

      Nghĩa đời trong ba tiếng:
      Máy điện giục gầm gừ
      Chuông đạo hát vô tư
      Kiểng tù khua gắt gỏng.

      Phạm Xuân Lý nghe đọc thơ, cười nói:

      - “Trại bữa nay thay kẻng mới rồi. Bộ đội mới đem về một thanh tà vẹt, thay cho cái mâm xe. Kẻng nầy nghe to hơn. Không muốn dậy cũng phải dậy.”

      Tôi bỗng nhớ mỗi sáng, khi còn tinh mơ, trước kẻng báo thức, tôi đã thức giấc nhưng còn nằm trong chăn. Mỗi sáng, cứ giờ đó, có tiếng chuông nhà thờ từ xa vọng lại. Trong cái im lặng buổi sớm tinh sương mùa đông, tiếng chuông nhà thờ tuy dóng dã mà nghe cũng buồn lắm. Đời tù tuy đông mà cô đơn, lạnh lẽo, mà ngoài kia cuộc đời vẫn tuần tự trôi đi, trong cuộc sống mới, không rõ người đời sướng khổ như thế nào! Gia đình bây giờ cũng xa lắm, xa lắm rồi, cũng không rõ vợ con no đói ra sao!

      Có khi chuông không đổ đúng giờ mà lại bất thường. Có lẽ ai đó mới qua đời. Không biết “Chuông gọi hồn ai” (2) của Hemingway có buồn như vậy không.

      Ở cuối khối 6, chỗ có ca sĩ Khuất Duy Trác, có cái máy điện của quân đội cũ để lại. Cứ buổi chiều, một anh lính chế độ cũ, được bộ đội thuê lại, vào cho máy chạy. Cái máy điện Mỹ cũng giục gầm gừ y như trong thơ Tố Hữu vậy. Tố Hữu có nghĩ rằng chính vì ông ta mà cả triệu binh lính miền Nam đang sống trong cảnh tù như ông đã từng trải. Liệu ông có nghĩ tới những ngày tù trước kia của ông mà có sự thông cảm nào chăng?

      Lại cứ mỗi sáng, khi trời chưa rạng, tôi lại nghe tiếng còi xe Ford giục giã phía chợ Long Hoa, gần tòa thánh Tây Ninh. Cuộc đời ngoài kia vẫn cứ sinh hoạt ồn ào, giòng đời cứ trôi mà trong nầy cuộc sống như dừng lại, ngày nào cũng như ngày nào. Những người tù ở đây, phần đông còn trẻ, sức sống còn hăng, nhiệt huyết còn nhiều nhưng tất cả những thứ ấy, “cách mạng” thấy không có ích lợi gì cho “cách mạng” cả nên để cho chúng tiêu hao dần mòn trong những tháng ngày dài vô vị.

      * * *
      Khoảng trưa, trong khi chúng tôi đang nằm nửa thức nửa ngủ trong phòng thì nghe một loạt súng nổ phía phi trường. Có lẽ đó là tiếng súng bộ đội xử bắn Ngô Nghĩa. Một lát sau, tôi lại nghe tiếng người nói lao xao phía sau nhà cũng như ở sân trước. Mấy anh em đi coi xử bắn về đang bàn tán gì đó.

      Mới vào nhà, Hoàng Hữu Chung vừa cởi áo vừa kể lại câu chuyện Ngô Nghĩa bị bắn, giọng sôi nổi:

      - “Cha nội ni chì thiệt. Đi ra chỗ bị xử tử mà cha tỉnh bơ, làm như đi dạo phố.”

      Phan Hải cũng vừa về tới, góp ý:

      - “Tới phút cuối, sau khi từ trên xe xuống, “Quân Pháp” hỏi chả một lần chót. Nếu khai ra ai đưa súng và quần áo cho chả thì sẽ tha chết. Chả lắc đầu, không nói chi hết.”

      - “Hèn chi tôi thấy thằng chả lắc đầu mà không biết chuyện chi. Chắc Ngô Nghĩa có hứa gì với “chú bộ đội” nào đó. Anh ta giữ lời hứa, chẳng thà chết chớ không chịu khai tên ra.” Phạm Ngọc Hiền nói.

      Phan Hải thuật lại:

      - “Trước khi bắn, anh ta không chịu cho bịt mắt. Bộ đội phải lấy cái bao cát rộng trùm lên đầu anh ta. Hai tay bị trói, anh ta lắc mạnh cái đầu cho cái bao cát văng ra nhưng không được.”

      Chung hỏi:

      - “Hình như anh ta không chịu quì?”

      - “Không”. Phan Hải nói. “Hai bộ đội phải vật anh ta xuống rồi trói vào cọc bắn. Vậy mà anh ta cứ rướn thẳng người lên. Lợi dụng lúc ấy, Trung Úy Dư ra lệnh bắn, một loạt đạn ghim vào ngực anh ta. Khi đó, anh ta mới gục xuống, đi luôn. Trung úy Dư bắn phát ân huệ cũng vô ích, anh ta đã chết rồi.”

      - “Không biết anh ta có được cái hòm không?” Hiền hỏi.

      Phan Hải trả lời:

      - “Sức mấy. Bộ chỉ huy bảo lấy tấm chiếu mà bó lại. “Pản động, chống phá cách mạng” sức mấy có hòm mà chôn. Có chiếc chiếu là may rồi.”




      (1) Trước khi “sập tiệm” tôi thường hút “Seventy nine”. Bây giờ không còn thuốc lá nhập, gia đình chỉ gởi cho thuốc rê. Tôi gọi đùa là “xơ-vơn-ti-rê”. Ông điếu (ống vố) thì tôi lấy một khúc củi mà tự làm lấy.

      (2) “To whom the bell rings?”. Tác phẩm nổi tiếng của Hemingway

      Comment


      • #4
        Hồi ký “Tù Cải Tạo”


        Tác giả: Tuệ Chương hoànglonghải

        4. Một giọt máu đào…


        “Một giọt máu đào, hơn ao nước lã”
        tụcngữ

        Trần Phú Trắc nói với tôi:

        - “Anh thấy có mất mặt không? Cán bộ Thắng nó nói bây giờ các anh có người bà con nào thật xa theo “cách mạng” cũng cố khai vô lý lịch để mong được khoan hồng. Kỳ cục không?”

        - “Còn “ông” thì sao?” Tôi hỏi kháy Trắc.

        Trắc trả lời, giọng cương quyết:

        - “Tui thì dứt khoát. Tui coi như không có hai thằng chú tui. Cả ba tui, thời theo “kháng chiến”, tui cũng bỏ luôn, không thèm khai.”

        Tôi cười:

        - “Ông “kiên cường” đấy. Ông không thấy thằng Diệm nó tự cao. Nó nói “Tao mới “gia đình cách mạng”. Mấy đứa bây mà “gia đình cách mạng” chi?!”

        Trắc là con bà Bảy Ph., chị “anh Tám Thẹo” - Chữ chúng tôi thường gọi đùa với Trắc về tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.

        Thời chiến tranh Việt-Pháp (1945-54), thân phụ Trắc và hai ông em theo “kháng chiến”. Tới hiệp định Genève 54, hai ông em tập kết. Thân phụ Trắc, bỏ “kháng chiến”, ở lại quê nhà, không còn hoạt động gì cho Việt Minh nữa. Năm làm Chủ tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, một hôm ông Thiệu về thăm nhà. Hồi ấy cây cầu sắt bắt qua sông để vào làng Tri Thủy chưa có, xe cộ dừng lại bên kia sông, ông Thiệu đi bộ về nhà, chỉ là một đoạn ngắn từ bến sông về tới nhà mà thôi. Bất thình lình gặp mưa, ông vào trú tạm trong trường học của làng. Ông Thiệu gặp ông anh rể - Ông Trần Phú Đường - ở tại đấy. Hai anh em nói chuyện với nhau chỉ có một lúc ngắn ngủi. Vậy mà mấy đêm sau, Việt Cộng lén về bắt cóc ông Đường, rồi giết mất, nói là làm tay sai cho Mỹ Ngụy. Thực ra, ông Đường chỉ có một cái tội là có người em vợ làm “lãnh đạo chính quyền miền Nam” mà thôi.

        Sao 30 tháng Tư, hai người em ông Đường từ ngoài Bắc về, có đến thăm chị dâu, tức bà Bảy Ph. Gặp Trắc, mấy chú cháu ban đầu thì thăm hỏi, sau thì cải nhau một trận dữ dội, vì chỉ một vấn đề. Hai ông chú thì cho rằng Đế Quốc Mỹ đã táng đởm kinh hồn, tởn tới già, chẳng bao giờ dám trở lại Việt Nam. Còn Trắc thì nói ngược lại, Mỹ sẽ quay lại với vũ khí hiện đại hơn và sẽ… chiến thắng vinh quang. Thế rồi chú cháu từ hẳn nhau.
        Tôi nói với Trắc:

        - “Hai ông chú của ông sai, mà ông cũng sai luôn. Mỹ sẽ trở lại đấy. Không lâu đâu, nhưng không phải “tàu sắt súng đồng tối tân” mà với một cái cặp Samsonite đầy đôla và bản đồ xây dựng nhà máy. Lúc đó thì Việt Cộng trải thảm đỏ đón tụi Mỹ đấy.”

        Trắc chỉ cười, không nói gì.

        Không cần nghĩ tới hai ông chú, một ông là Giám Đốc Sở Công An, một ông là Giám Đốc Sở Thương Nghiệp tỉnh Thuận Hải, Trắc nói với tôi rằng anh ta khai cha chết sớm, còn không khai gì về hai ông chú cả. Tôi nói:

        - “Chức vụ như vậy là mạnh lắm, đứng ra bảo lãnh là ông về cái một.”

        Trắc nói:

        - “Tui cũng có tự ái chớ anh. Tui không cần đâu! Một thằng thì nắm thương nghiệp, một thằng thì nắm công an, coi như tỉnh nầy là của hai anh em ông nầy.”

        Thế rồi vì lý lịch là cháu ông Tám Thẹo, nên Trắc “được tha ra khỏi trại cải tạo” - câu trong lệnh tha thường ghi – sau tôi năm năm. Anh ngồi gỡ thêm 5 cuốn lịch nữa. Tội nghiệp! Mà là cháu ông Thiệu, anh ta được cái gì cơ chứ?! Ra trường khóa 21 Thủ Đức, Trắc đi Dù, về tiểu đoàn 5 với ông Trần Quốc Lịch, băng rừng, lội suối cũng như mọi người. Một lần, Trắc nhớ hành quân ở giới tuyến, trong một đêm mưa phùn gió Bấc, ông Lịch sáng tác bài thơ, Trắc nhớ được mấy câu:

        Bữa trước mưa đêm cũng chốn nầy
        Bây giờ mưa gió lại về đây.
        Ô hay mưa chẳng thương đời lính.

        “Chốn nầy” là Quảng Trị, quê hương thơ ấu của tôi đấy! Hành quân ở đó mà gặp mùa mưa phùn gió Bấc thì da diết khó quên.

        Hồi còn ở trại Trảng Lớn, cùng chung L3-T3, Tôn Thất Chu đến thăm tôi. Ông nầy cũng là hạng “học trò quái kiệt” của tôi đấy! Hồi học với tôi, anh ta nghịch lắm, được cái là tuy học không chăm nhưng rất lễ phép. Đậu trung học, anh vào Quốc Học. Năm thi Tú Tài 1, anh “quay phim” bị giám khảo bắt được, đưa ra Hội Đồng Kỷ Luật, cấm thi ba năm, không những vì tội quay phim mà còn bướng, cãi lấy được với giám khảo. Năm sau, anh ta thay giấy khai sinh, thêm dấu ư và dấu ngã, từ Chu ra Chữ, đi thi lại như thường. Những năm “đấu tranh” của cái gọi là “hội đồng nhân dân cứu quốc”, anh ta từ Quốc Học về trường cũ, phá cổng trường vào kêu gọi học sinh bải khóa. Ông cai trường giận anh ta lắm, cứ nói hoài câu: “Thằng Chu chớ không ai hết. Hắn phá cổng trường! Hắn phá cổng trường!” Vì tham gia đấu tranh, anh bỏ học rồi nhập ngũ.

        Bây giờ thì hai thầy trò gặp nhau trong “trại cải tạo”. Tác phong của Chu vẫn như cũ, vui đùa tự nhiên và vẫn nghịch, dù đang ở tù. Anh ta nói:

        - “Không biết chắc em có về trước thầy không?! Ba em bảo lãnh cho em rồi.”

        Ba của Chu là ông Tôn Thất Khâm, thiếu tướng Việt Cộng. Ông ta ở ngoài Bắc về, hiện nghỉ hưu ở Huế. Chu cũng có một người chú nữa, Việt Cộng nằm vùng, bị Thanh Niên Cộng Hòa bắn chết ở Nam Hòa năm khoảng năm 1960. Chu lại nói:

        - “Ba em dặn em được về thì nhớ nghe lời ba dặn, đừng như Tôn Thất Đính.”

        Tôi hỏi:

        - “Đính nào, mà sao?”

        Té ra Chu có một người anh tên là Tôn Thất Đính, đại úy, trước 1972, phục vụ ở tiểu khu Quảng Trị. “Mùa Hè Đỏ Lửa”, Đính bị Việt Cộng bắt, đưa ra Bắc. Thiếu tướng Tôn Thất Khâm nghe tin con bị bắt, bảo lãnh cho con về Hà Nội chơi, thăm cho biết “Thủ Đô Cách Mạng Việt Nam” văn minh tiến bộ như thế nào!!! Ông ta cho con biết rằng Hiệp Định Paris 73 ký rồi, sắp trao trả tù binh, và yêu cầu con nên ở lại miền Bắc với cha, đừng về miền Nam nữa. Đính nhứt định về, nói là về với mẹ ở trong Nam. Ông Khâm chiều ý con nhưng dặn, nếu có về thì đừng đi “lính ngụy” nữa. Đính hứa. Về tới miền Nam, khi còn ở trại An Dưỡng, anh xin trở lại quân đội Cộng Hòa, cố quên lời hứa với cha. Ông Khâm rất giận con việc nầy, nên lần nầy không bảo lãnh cho Đính nữa. Chỉ bảo lãnh cho Chu và ông anh cả, Trung tá Tôn Thất Thuyên. Chu có một người chị nữa, cũng là học trò của tôi, nổi danh ở Huế một thời vì đẹp, sexy và có mái tóc nhuộm vàng như “Mùa Hè Rực Rỡ”, như đào ciné. Người ta đồn sau nầy vì cô ta mà một ông thầy chùa cởi áo tu. “Sắc bất ba đào dị nịch nhân” mà. Hỏi Chu, Chu nói:

        - “Tụi nó nói tầm bậy. Chồng chị ấy học sư phạm ra!”

        Chu đưa cho tôi xem bản sao tờ bảo lãnh của cha, lời lẽ khá cảm động: “Tôi vì công tác cách mạng nên không có cơ hội chăm sóc con cái để đến nỗi gia đình ly tán như thế nầy. Tôi cũng thương các con tôi, vì Bác Hồ có nói tình yêu gia đình cũng thiêng liêng như tình yêu tổ quốc…”

        Tôi nói:

        - “Thư viết hay đó! Không biết mấy ông Việt Cộng đọc có thương tình mà cho ông về sớm không!? Thôi cứ “an tâm học tập cải tạo” đi.”

        Chu nói:

        - “Ba em nói nếu em “học tập” ở Huế thì nay em đã được về rồi.”

        Tôi cười, nói đùa:

        - “Tha ông về sớm để ông theo ông Đính chớ gì?”

        Chu chỉ cười.

        Đơn bảo lãnh của ông Khâm cũng được “cách mạng” xét tới, sau khi Chu ở “tù cải tạo” hơn ba năm, đủ để đi HO.

        Ở trại nầy, tôi cũng có nhân vật khác, cũng khá buồn cười là anh Đặng Mậu Hùng. Anh thuộc loại sinh viên xuất sắc của viện Đại Học Huế hồi đầu thập niên 1960. Cùng với Huỳnh Hữu Tuệ - em họ tôi, người tôi từng làm precepteur khi tôi học ở Quốc Học, - (1) được học bổng du học Canada. Tuệ lên máy bay đi Canada dễ dàng, còn được chọn làm trưởng nhóm du học sinh nầy. Hùng bị kẹt lại, bộ Nội Vụ không cho đi vì có bố tập kết ngoài Bắc. Hùng tiếp tục học ở Đại Học Huế, đậu cử nhân, bị động viên, ra trường được chọn làm giáo sư ngành văn hóa tại trường Võ Bị Quốc Gia. Khi trường Võ Bị muốn kiện toàn một đội ngũ giáo sư cho chính của trường, Hùng lại được du học Mỹ, không bị trở ngại như lần trước. Đậu kỹ sư hóa học ở Mỹ rồi về nước, Hùng tiếp tục dạy ở Võ Bị cho đến 30 tháng Tư thì đi ở tù. (2)

        Hùng là em vợ Lê Trọng Thọ, hai anh em cùng trình diện và “học tập” cùng chung trại Trảng Lớn với tôi. Một lần chúng tôi nói chuyện chơi với nhau, Hùng nói đùa:

        - “Ông già không bảo lãnh cho tui về là tui từ ông luôn.”

        Tôi cười, nói:

        - “Chuyện từ nhau là chuyện vô duyên. Cha mẹ có từ con thì con vẫn là con cha mẹ. Nó không thể chui đất mà lên được, dù là cán bộ Cộng Sản. Ai cũng phải có cha mẹ. Con từ cha mẹ thì cha mẹ vẫn là cha mẹ mình. Còn nếu như từ để khỏi nuôi cha mẹ là tội bất hiếu.”

        Hùng thành thật nói:

        - “Nóng về thì nói bậy nhưng tôi chắc ông không đủ sức để lo cho tôi về.”

        Quả thật, ông cụ có bảo lãnh cho Hùng nhưng Hùng không về sớm được. Có người quen ở Huế nói với tôi rằng ngày xưa ông từng làm Công An Liên Bang, nhưng rất thường giúp đỡ những người hoạt động cách mạng, bất kể đảng phái quốc gia hay cộng sản. Sau cách mạng tháng tám, ông làm việc cho Việt Minh, rồi đi tập kết, không dám trốn Việt Minh về với vợ con vì sợ Tây trả thù. Khổ nỗi, vì lý lịch từng làm Công An Liên Bang nên Cộng Sản chẳng tin dùng gì ông, ông chỉ là nhân viên thường. Họ chỉ cần ông lúc ban đầu, khi mới cướp chính quyền mà thôi.

        Về trại Suối Máu, tôi lại gặp một người học trò cũ khác, anh Trần Hữu Xiêm. Ông nầy cũng “buồn cười” không khác gì ông Chu.

        Năm đệ tam, Xiêm học với tôi. Anh thuộc loại học trò xuất sắc, vì vậy, giáo sư Nguyễn Ngọc Minh dạy kèm cho anh Toán và Lý Hóa, các môn khác, tôi chỉ sách cho anh tự học thêm. Cuối năm đệ tam, anh thi tú tài 1 và trúng tuyển. Người anh to cao, trắng trẻo, thi vào không quân và tốt nghiệp lái máy bay L. 19 ở Nha Trang. Ra trường, anh về phục vụ ở vùng 1. Một lần hộ tống cho đoàn xe của một người bạn trên quốc lộ 1, anh suýt chết khi qua đèo Hải Vân. Máy bay bị gió thổi sà ngang đầu mấy chiếc xe đang đậu trên đỉnh đèo chờ đổi giờ đèo, ai cũng khiếp đảm. Anh cũng hú hồn thoát chết. Được nửa năm, An Ninh Quân Đội “điều chuẩn an ninh”, phát hiện bố anh là ủy viên trung ương đảng ở ngoài Bắc nên anh bị “cấm bay”, được giao công tác trên mặt đất. Cả anh của Xiêm là Trần Hữu Tín cũng bị vạ lây. Tín đang làm ở phòng 2 bộ Tổng Tham Mưu, bị thuyên chuyển về Khối Chiến tranh Chính trị tiểu khu Gia Định. Bây giờ cả hai anh em cùng đi “tù cải tạo” với nhau.

        Sau vụ “cấm bay” được nửa năm, cấp chỉ huy xét lại nên Xiêm được bay như cũ.

        Xiêm kể:

        - “Ngày 1 tháng Tư (1972), em bay quan sát từ Đà Nẵng ra Bến Hải. Ngang cầu Đông Hà em thấy 7 chiếc xe tăng đang từ hướng Bắc chạy vào, hai chiếc đầu gần tới cầu Đông Hà rồi. Em rà thấp xuống coi thử xe tăng ai mà hơi lạ lạ. Nhìn kỹ té ra xe tăng Việt Cộng, chúng từ ngoài kia, theo quốc lộ mà vào. Em gọi về trung tâm hành quân ở Đà Nẵng, xin máy bay oanh tạc. Đà Nẵng biểu chờ, phải trình trung tướng đã. Mẹ nó lên. Xe tăng Việt Cộng sắp tới cầu Đông Hà rồi mà còn biểu chờ. Xe tăng nó qua cầu được là coi như xong. Nghe em chưởi thề trong máy, một anh chàng A-37, chẳng biết tên họ là chi, cùng tần số, bảo em:

        - “Đ. Mẹ, đếch có chờ. Ông chỉ điểm đi, tôi chơi liền”.

        “Thế là em rà xuống thấp, bắn trái khói. Anh chàng kia cùng người bạn, hai chiếc A-37 nhào xuống chơi trò “cua rang muối”. Năm chiếc cháy ngay trên đường, hai chiếc hoảng hồn lao xuống ruộng, em chi điểm tiếp cho hai anh chàng kia rang cháy luôn. Còn thêm khoảng cỡ mười chiếc ngoài kia đâm đầu chạy vào, như tụi liều mạng vậy. Bọn em cũng hết bom, nhưng dưới đất thì kêu réo om sòm vì xe tăng Việt Cộng tới. May khi đó, Thiết Đoàn 21 Chiến Xa của trung tá Nguyễn Hữu Lý kịp phá sập cầu Đông Hà.”

        Tôi hỏi:

        - “Trong bản tự khai, ông có khai vụ nầy ra không?”

        - “Có chớ sao không?” Xiêm trả lời tự nhiên. “Biểu thành thật khai báo là em khai hết. Sợ gì? Mà hình như ba em ông “đấu tranh” dữ lắm. Em gái em ở Huế gởi thư cho biết nhiều lần ba em ngồi uống trà suốt đêm không ngủ. Bảo lãnh cho một thằng con rang hết cả chục con cua của “cách mạng” chắc khó lòng cho ông dữ!” Nói xong, Xiêm cười hề hề!

        Sau đó ít lâu, có đợt đày tù cải tạo ra Bắc. Cả hai anh em của Xiêm đều có mặt trong đợt nầy.”


        Hoàng Long Hải (Tuệ Chương)
        (1) Huỳnh Hữu Tuệ, du học Canada năm 1961, đậu kỹ sư rồi tiến sĩ toán, dạy đại học ở Québec, Michigan, Mascơva và Hà Nội (sau 1975), đảng viên đảng Cộng Sản Canada, chủ tịch cái gọi là “Việt Kiều Yêu Nước” Canada. Thân phụ là ông Huỳnh Hữu Hiến, một thành viên của “đảng cụ Ngô” như các ông Võ Như Nguyện, Ngô Ganh, Ngô Đình Thảng, Phùng Ngọc Trưng, v.v… Anh Đặng Mậu Hùng, vì thân phụ là Đặng Mậu Tư, đi tập kết, nên việc du học của Hùng bị trở ngại. Hai người nầy là bạn học, cùng quê ở Huế và cùng là sinh viên giỏi của viện đại học nói trên. Hùng có thân phụ đi tập kết nhưng lại thuộc thành phần chống Cộng, hoàn toàn trái ngược hẳn với Tuệ.

        (2) Hùng cưới vợ Quảng Trị, cô Mai (em) của nhà sách Sáng Tạo. Hùng kể lại cho tôi nghe khi còn đi học, mỗi tuần, Hùng chạy xe gắn máy từ Huế ra thăm “bồ” ở Quảng Trị, cách Huế 60Km. Về sau, Hùng cưới cô nầy làm vợ.


        Còn tiếp....

        Comment


        • #5
          Hồi ký “Tù Cải Tạo”

          Tác giả: Tuệ Chương hoànglonghải

          5. Bombata



          Tháng Sáu năm 1976, chúng tôi bị chuyển trại, từ Trảng Lớn, đi đâu thì… chưa biết. Đây là đợt chuyển trại chung của nhiều “đơn vị” như L1, L2, L3 (L3 là đơn vị của tôi), v.v… L3 phần đông là dân biệt phái, bò nhứt, bò nhì, nhiều hơn bò tam (thiếu úy, trung úy, đại úy, tiếng chúng tôi thường gọi đùa). Thiếu tá thì độc nhứt chỉ có một mình Đỗ Quan Tư, anh xuất thân khóa 13 Võ bị, khóa nầy phần đông người ta lên trung tá, đại tá cả rồi, vì ông là “Quan Tư” nên chỉ lên tới thiếu tá thì nằm ì ở đó. Quan Tư mà. Chính tả trong Nam viết hơi… ẩu, thiếu mất chữ G, làm anh ta chết cứng ở “loon” quan tư, thiếu tá. Vừa mới về L3 ít lâu thì anh đã bị đưa đi một mình, cũng chẳng ai biết đi đâu.

          Tới bây giờ thì ra đi phần đông là đại úy. Tổ 1 của tôi, ở lại chỉ có Phan Hải, trung úy. Tổ 2, ở lại cũng chỉ có vài ba mạng mà thôi.

          Lệnh chuyển trại đưa ra từ trưa nhưng tới chiều mới tập trung lên xe. Phan Hải đưa chúng tôi ra cổng “đơn vị”. Anh ta khóc.

          Chúng tôi ngồi tập trung bên con đường nhựa, chờ lệnh. Nhiều người ngồi quanh tôi nói đùa chơi. Tôi là người hay nói đùa nhất đám, hay kể chuyện “hoang” nên rất được anh em “chiếu cố” ngồi chung quanh. Theo trại phổ biến, chuyến đi nầy là để “Các anh có cơ hội lao động, để thấy “Lao động là vinh quang”, “sớm trở về sum họp với gia đình”, v.v… Mấy tiếng nầy, nghe cả năm nay rồi, cũng … chán.

          Một người nào đó, ngồi phía sau tôi, nói: “Mình đi dzậy, chắc còn lâu mới được về.”

          Tôi nói:

          - “Phải tẩy não. Chưa tẩy não xong thì chưa được về.”

          Lê Quang Dung, dân Nam bộ chính cống, nóng tính, ít suy nghĩ sâu, cãi lại:

          - “Tẩy con mẹ gì nữa. Học xong 10 bài rồi thôi chớ!”

          Trần Hữu Bảo hỏi tôi:

          - “Biết khi nào thì tẩy não xong?”

          Tôi cười:

          - “Khi nào mình không muốn về nữa là tẩy não xong. Cách mạng sẽ cho về.”

          Một tay nào đó, bất mãn:

          - “Đ. Mẹ, nghe cha Hải nói chán thấy mẹ. Không muốn về nữa thì về làm gì?”

          Tôi cũng cười:

          - “Không muốn về mà “cách mạng” cho về thì cũng phải về. Cũng giống như mình có muốn đi cải tạo đâu! Có ai dám không đi nào?”

          Trung úy (Việt Cộng) Hồng Dư và Phan Hải đi tới. Chúng tôi làm thinh, không nói gì nữa. Anh trung úy Hồng Dư nầy phụ trách “học tập” của trại tôi. Trước đây, anh ta cấm chúng tôi không được gọi nhau bằng tù. “Các anh chỉ đi học tập thôi. Học xong là về.” Tội nghiệp, anh chàng người Việt gốc Tàu nầy ngây thơ vậy. Tin tưởng tuyệt đối vào đảng. Nghe nói sau nầy, vì là gốc Tàu, nên khi vụ “Nạn Kiều” xẩy ra, anh ta bị đuổi về Tàu.

          Phải nó về Phan Hải một chút. Như tôi có kể trong bài “Cuộc Đời Ngô Nghĩa”, bố Phan Hải là Phan Mạch, chủ nhiệm ủy ban thống nhất (Của Hà Nội, dĩ nhiên), bác là Phan Mỹ, chủ nhiệm văn phòng thủ tướng hay gì đó, cũng là Cộng Sản. Một ông nữa là Phan Bôi, tức Hoàng Hữu Nam, bộ trưởng bộ nội vụ Cộng Sản. Ông nầy đã chết đuối, nên anh ta hy vọng về sớm.

          Đi lần nầy, cũng xe Molotova, nhưng không bít bùng như lần trước, từ Taberd Saigon lên Trảng Lớn, hồi mới tập trung “Đóng tiền đi ở tù”, mặc dù cũng có một chú bộ đội cầm AKA ngồi canh ở cuối xe. Xe chưa chạy, anh ta đã xổ ra một tràng giọng Nghệ, xứ của “bác”:

          - “Hồi trước mấy anh đi mô cũng đi máy bay lên thẳng.”

          Nghe tiếng Nghệ, có anh không quen, không hiểu, nhưng thấy anh em chung quanh nghe cái giọng Nghệ nhà quê nặng chình chịch, nhe răng cười, cũng cười theo.

          Tôi thì hiểu anh ta nói gì, nhưng không có ý kiến bởi vì tôi cũng đã ngồi trực thăng khoảng hơn một chục lần đi đánh Việt Cộng, cũng có lần “quá giang” trực thăng khu 42 Chiến Thuật nhảy dù về Cần Thơ chơi.

          Lần chuyển trại nầy té ra về Long Giao.

          Về tới đó khoảng sau nửa đêm. Trời mưa. Đất đỏ chèm nhẹp. Tối thui, tối như mực, lò mò tập trung cho bộ đội điểm danh, xong vô một cái nhà dài, trại lính Mỹ cũ. Nền nhà dơ vô cùng, không nằm ngủ được. Tôi mò tìm được một nửa tấm ri sắt, ai đã kê cao khỏi mặt đất, nằm co lại thì cũng vừa đủ, ngủ một giấc ngon lành, có lẽ vì mệt.

          Sáng, khi thức dậy, trời đã tạnh mưa. Anh em léo nhéo kéo nhau đi tìm nước. Bên cạnh cái sân lớn có một cái giếng. Trời! Thấy cái giếng mà lạnh mình! Miệng giếng rộng gần bằng nữa cái sân bóng chuyền. Nhìn xuống dưới thì sâu thăm thẳm, mịt mù, không khác gì đường xuống âm ti. Không dám vói nhìn xa vì miệng giếng không xây thành, rớt xuống giếng dễ như chơi. Chẳng có máy bơm, chẳng có máy quay tay lấy nước. Anh em đi tìm giây, nối lại, làm gầu, v.v… Một cái gầu mà những mấy chục người chờ nhau. Có người vội vàng đi tìm bao cát, tước sợi, xe giây. Ai bảo “sĩ quan ngụy” chỉ biết bóc lột?! “Mưu sinh thoát hiểm” là nét đặc sắc trong đời lính cũng như trong đời tù. Họ hay lắm!

          Tôi thì chịu, ngồi nhìn, không than oán, không rên rỉ, dững dưng. Một chốc, Phạm Ngọc Hiền, người được Trần Phú Trắc đặt cho cái tên là Tạ Tốn, dân Quảng Ngãi, ở chung tổ với tôi cả năm nay, cầm tới cho tôi một “gô” nước, bảo tôi đánh răng rửa mặt rồi đi uống càphê. Anh ta đang nấu nước sôi. Tôi cảm động về hành động nầy của Tạ Tốn. Trong cuộc sống bình thường thì không thấy chi hết. Khi khó khăn mới biết lòng nhau.

          Khoảng mười giờ, bộ đội xuống kêu có lệnh tập trung. Anh em, khoảng vài ba trăm người mới tới, tập trung ở một căn nhà hình chữ T khá lớn. Nhà chỉ còn mái, không có vách. Bỗng gió ào ào cùng mưa tới. Căn nhà rung lên rồi kêu răng rắc. Ai nấy bỏ chạy ra khỏi nhà vì sợ nhà sập. Tôi cũng phóng ra giữa sân khá nhanh vì tôi còn đứng ở mép nhà, chưa vào sâu bên trong. Rồi căn nhà đổ ập xuống, mái nằm sát đất. Cả chục người không chạy kịp, bị kẹt trong đó. Một chốc, tôi thấy Đào Sơn Bá vạch mái tôn chui ra. Thấy tôi, Bá cười:

          - “May tui lọt vô giữa hai cái vài nên không can chi.”

          Chúng tôi nghe thấy tiếng la, tiếng gọi nhau. Một người nào đó, bị cái vài nhà sập xuống, đè bể ngực, chết ngay tại chỗ. Bộ đội ra lệnh chúng tôi khiêng mái nhà cho hỏng lên rồi lôi xác chết ra, đem đi chôn, không có hòm, lấy tấm nylon mà bó lại. Thế là xong. Đời tù, “Một cõi đi về” như hơi gió thoảng.

          Phạm Ngọc Hiền nói với tôi:

          - “Tại sao chôn như vậy. “Cách Mạng” không thấy tôi nghiệp cho người ta à?”

          - “Vậy “Xương Trắng Trường Sơn” thì ai chôn? Gian khổ, nguy hiểm và nhất là hận thù làm cho lòng người ta trơ ra. Có chỗ mà chôn là còn may.”

          Tôi nghĩ tới một câu Kiều “Vùi nông một nắm mặc dù cỏ hoa”. Xưa cũng vậy mà nay cũng rứa. Nhân loại ngày nay tiến bộ nhiều mặt nhưng lòng người thì hình như chai cứng hơn.

          Ngày hôm sau, chúng tôi được sắp xếp lại. Tất cả anh em tổ 1, tổ 2 thuộc đội 1 chúng tôi được gom chung ở một nhà. Tôi và Phạm Ngọc Hiền chiếm một đầu góc nhà. Sau trận đau ở Trảng Lớn, Hiền bị suyển nặng. Anh phải nằm võng. Tôi nằm giữa sàn. Đêm đêm nghe tiếng suyển kéo khò khò trong cổ anh, tôi biết anh khó ngủ. Lại thêm, lo nghĩ cho gia đình nhiều, tôi cũng đoán chừng anh không ngủ được. Gia đình anh đang sinh sống ở Quảng Ngãi. Khi Quảng Ngãi mất, anh dắt díu vợ con và bà mẹ già chạy vào Saigon. Trong cảnh sống chưa ổn định, nhà cửa chưa có thì anh phải trình diện đi cải tạo. Anh nói vợ con anh không ở Saigon được, không có nhà, không có hộ khẩu, đã dọn về Long Khánh để làm rẩy. Sau nầy, cải tạo về, tôi cố tìm bạn tù cũ mà không gặp. Một hôm, tôi thoáng thấy anh ngồi trên chiếc xe xích lô chạy nhanh về hướng bến xe Miền Đông. Tôi quay xe lại đạp theo mà không kịp. Có lẽ anh từ Long Khánh lên, nay về lại.

          Chúng tôi ở đây khoảng vài tuần, chẳng lao động hay học tập gì cả. Bộ đội cũng không mấy khi xuống, ngoài mỗi ngày một lần điểm danh. Chúng tôi cứ quanh quẩn trong vòng rào, không được ra khỏi trại.

          Rảnh rổi, tôi rủ Hiền qua cái gian nhà khác chơi. Có lần đi ngang một gian nhà chúng tôi nghe tiếng đàn từ trong nhà vọng ra, tôi nói với Hiền:

          - “Không phải tiếng đàn “ôông” ơi! Nghe như tiếng kẻng nhỏ.”

          Hiền nói:

          - “Của nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang đó. Thằng chả lấy vỏ đạn nhôm cắt thành từng miếng, chả canh sao mỗi miếng nhôm ăn với một nốt nhạc, đánh nghe hay lắm. Tụi nó phục lăn!”

          Từ đó, nhiều ngày, tôi rủ Hiền đi ngang căn nhà đó để nghe Nguyễn Đức Quang “chơi nhạc”. Anh ta chơi toàn nhạc vàng, nhưng không thấy “Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ”, đôi khi không nghe anh ta chơi gì cả, cũng buồn.

          Chúng tôi tự do trong vòng rào kẽm gai. Tối tối, mấy anh chàng ưa hát, ngứa cổ, qua các nhà khác hát biểu diễn, dĩ nhiên là hát chùa, đôi khi được mời uống càphê. Từ ngày bị cấm hát nhạc vàng từ khoảng nửa năm trước, nay nghe nhạc vàng đả lắm, chẳng ai cấm cản gì cả.

          Ở đây, tôi gặp Phạm Gia Định. Anh học luật với tôi cùng một năm tại Luật Khoa Huế, hồi bà Tăng Thị Thành Trai còn làm khoa trưởng. Năm sau, Định vào Quốc Gia Hành Chánh. Chức vụ cuối cùng của anh là phó thị trưởng Đà Lạt, cấp bậc thiếu úy. Định than phiền anh giải thích thế nào cán bộ cộng sản cũng không tin vì một chuyện khá buồn cười. Thị trưởng Đà Lạt mang “loon” đại tá, tại sao anh chỉ mới thiếu úy mà được làm phó thị trưởng. Anh phải là trung tá hoặc ít ra cũng là thiếu tá, tại sao chỉ có thiếu úy. Vậy là khai gian, che dấu, dối trá với “cách mạng”. Tội khai man là nặng lắm, khó có hy vọng “Cách mạng khoan hồng cho về sum họp với gia đình”.

          Anh ta có mang theo tập “Thơ Đường” của Trần Trọng San, cho tôi mượn đọc chơi. Tôi bỏ phấn cầm súng năm 1968, nay đã tám năm. Bây giờ có thì giờ trở lại với môi trường văn chương mà tôi đã “lặn lội” trong đó suốt mười năm dạy Việt Văn, nay đọc lại, sau nhiều bầm dập cuộc đời, thấm thía và thú vị biết chừng nào!

          Rồi lại có lệnh “biên chế”. Anh em chúng tôi đi hết, nào Phạm Ngọc Hiền, Phạm Quang Chiểu, Phạm Xuân Lý, Trần Hữu Bảo, Châu Văn Tiếp, Hoàng Hữu Chung, Nguyễn Văn Thanh, Nguyễn Văn Bê, v.v… Về sau, nghe tin mấy anh em nầy đi “Thăm lăng “bác” Hồ”, tức là tiếng gọi đùa những anh em bị đày ra Bắc. Một số còn lại gồm tôi, Trần Phú Trắc, Đào Sơn Bá, Lê Quang Dung, Huỳnh Văn Khánh, Nguyễn Đạo thì xuống trại Bombata.

          Gọi là xuống trại vì trại chúng tôi đang ở là ở trên đồi, gần cửa vào trại Long Gia. Nay thì xuống một trại ở dưới thung lũng, cũng thuộc trại Long Giao. Đây là căn cứ của lính Mỹ hay Úc gì đó, tôi cũng chẳng tìm hiểu.

          Xuống trại dưới nầy thì gặp ngay Bombata, một anh sĩ quan bộ đội dữ dằn và “mất dạy.”

          Số anh em cũ của chúng tôi nay chỉ còn mấy ngoe như tôi kể tên ở trên, còn lại phần đông anh em lạ, ở đây đã mấy tháng rồi.

          Căn phòng chúng tôi được đưa vào ở là một căn trại gia binh chế độ cũ. Nền nhà, vách, v.v… dơ dáy. Dơ dáy vì không phải nó là trại gia binh mà vì trước chúng tôi đến là nơi giam tù hình sự. Vẽ bậy, viết bậy và viết đứng đắn cũng có, đầy trên vách. Bá nói với tôi: “Tui thấy đằng vách kia kìa, có tên Chế Linh. Chắc anh ta có bị giam ở đây.” Có thể ban đầu, tù hình sự do bộ đội bắt nên giam ở đây. Nay ban quân quản giao lại cho công an nên họ bị đem đi rồi.

          Sự kiện chúng tôi để ý lúc nầy là “Hội nghị Hiệp thương Thống Nhứt”. Có người nói: “Thống nhứt rồi, có lẽ mau được về.” Tôi không tin. Tối tối, tôi nằm nói chuyện với Bá. Bá hỏi tôi: “Nhắm có về sớm như người ta nói không anh?”

          Tôi nói:

          - “Hồi đầu tháng 5/ 1975, bà Nguyễn Thị Bình, bộ trưởng bộ ngoại giao (chính phủ cộng hòa lâm thời Miền Nam Việt Nam) đi Algerie, bả xin thế giới giúp cho một triệu cái cuốc. Bả còn nói hai miền Nam Bắc còn nhiều khác biệt, phải năm năm nữa mói có thể thống nhứt đất nước được. Cái tui thắc mắc là bả thì nói 5 năm mà nay mới 1 năm đã thống nhứt rồi. Có chuyện chi đây.”

          Bá hỏi:

          - “Theo anh nghĩ thì có chuyện chi?”

          - “Theo moa nghĩ thì bọn miền Nam như Huỳnh Tấn Phát, Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Hữu Thọ không phải là cộng sản ròng như Lê Duẫn. Phần đông họ là dân trí thức tiểu tư sản, theo kháng chiến rồi theo Cộng sản chớ không phải vì thích chủ nghĩa cộng sản. Bọn ngoài Bắc dựng bọn trong Nam lên để làm mặt trận là làm bình phong. Bây giờ không cần nữa thì phải loại ra, mà phải loại sớm. Để lâu, bọn trong Nam mọc chưn mọc rễ ra khó loại hơn. Đó là lý do thống nhứt cho lẹ lẹ.” Tôi giải thích.

          - “Đám miền Nam về vườn hết sao?” Bá hỏi.

          - “Đâu có! Cho một chức gì đó, ngồi chơi xơi nước. Không thuộc giai cấp ba đời đi ở, bốn đời làm thuê mà.” Tôi giải thích.

          - “Rồi mình có hy vọng chi về sớm không?” Bá lại hỏi.

          - “Mình không biết. Theo kinh nghiệm của mình, mình lưu lạc từ Trung tới Nam rồi thì mình nghĩ quyền hành ở trong tay đám Nam Kỳ dễ sống hơn. Với Bắc kỳ khó sống lắm “ôông” ơi!”

          Chúng tôi gánh hậu quả vụ “Út Bạch Lan trốn trại.” Út Bạch Lan, biệt kích dù, cùng khóa với Hùng móm, em út tôi. Truớc khi chúng tôi về trại nầy khoảng hai bữa, “Út Bạch Lan trốn trại”. Anh ta chui qua mấy lớp hàng rào kẽm gai, dầy đặc cả mìn chiếu sáng và mìn chống người, ngay dưới chân cái tháp canh ngày đêm có bộ đội ngồi gác trên ấy. Hàng rào và tháp canh nầy, có từ hồi lính Mỹ tới đóng đồn ở đây, đặc công còn không vào được mà anh ta chui ra dễ như chơi. Người ta còn kháo nhau, Út Bạch Lan còn chơi khăm bộ đội, bỏ lại cái áo trắng trên hàng rào, làm như báo cho tụi nó biết “Tao ra ở lối này nè!”

          Út Bạch Lan thuộc một khối chúng tôi vừa tới, trưởng khối là ông Nguyễn Bảo Tụng, nhà chơi tem nổi tiếng miền Nam, trước 75 nhiều lần lên TV nói về chuyện chơi tem cho khán giả nghe chơi.

          Quản giáo khối nầy là một trung úy Cộng Sản Bắc Việt Xâm Lược, gọi như thế cho đúng với chữ nghĩa thời Việt Nam Cộng Hòa, để phân biệt với Việt Cộng là dân trong Nam nhảy núi hay vào bưng.

          Mỗi ngày anh trung úy cộng sản tập trung điểm danh chúng tôi. Câu anh ta thường đe dọa khi điểm danh là “Không được trốn trại”. Buổi tối, sau giờ kẻng đánh là “Không được bước chân xuống khỏi thềm nhà. Ra khỏi thềm nhà là vệ binh của tôi chúng nó bắn ngay. Chúng nó được “nệnh” không được bắn vào đầu, chỉ bắn vào chân cho què thôi. Nhưng chúng nó bắn dở “nắm”. Nó nhắm vào chân nhưng “nại” trúng vào đầu đấy. Rõ chưa?”

          Chúng tôi phải hô rõ cho thật to nó mới chịu. Mỗi khi nó điểm danh, trưởng khối Nguyễn Bảo Tụng đứng bên cạnh nó, nhìn về phía chúng tôi. Khi nó nói cái câu xỏ lá như trên thì ông Tụng thường nhìn tôi, hơi mỉm cười. Tôi cũng nhếch mép cười, không hướng về phía ông Tụng và dĩ nhiên không cho tên trung úy cộng sản thấy.

          Thái độ hung hãn và bất thân thiện, nếu không muốn nói rất ghét chúng tôi, trông giống như một nhân vật trong một cuốn phim Bulgary, tên nhân vật đó là Bombata, nên anh em thay vì gọi tên, họ gọi là Bombata. Vì vậy, cho tới nay, tôi vẫn không biết tên thật y là gì!

          Một hôm, Bombata dẫn năm sáu anh em chúng tôi đi đốn cây ở phía dưới Long Giao một chút, trong một khu rừng nằm bên cạnh trục lộ từ Long Khánh đi Phước Tuy, có mấy vệ binh vác súng đi theo. Cứ hai người đốn và khiêng về một cây dài khoảng 5 thước, gốc bằng bắp chuối. Không nặng lắm nhưng đi đường xa cũng mệt. Tới một cái quán bên đường, chúng tôi xin nghỉ chân vào quán xin nước uống. Thằng Bombata chấp thuận. Chủ quán là một bà cụ già, khoảng 60 tuổi, vui vẻ lấy nước cho chúng tôi uống. Cụ còn nói: “Anh nào muốn cứ uống nước ngọt thì uống đi, tôi không tính tiền đâu!” Chẳng ai uống mà cũng không mua vì sợ bà cụ không tính tiền cũng kỳ. Quán chỉ bán vài chai nước ngọt, mấy nải chuối, ổi, đu đủ, v.v…. Đang ngồi nghỉ mệt, bà cụ nói đùa một câu: “Bây giờ khỏi đi đánh giặc, chỉ đi học không thôi, khoẻ há?” Rồi cụ cười, cái cười rất ý nghĩa. Chúng tôi sợ thằng Bombata, chỉ nhìn cụ cười lại mà không nói gì. Trước khi ra về, chúng tôi xin phép thằng Bombata mua ít nải chuối đem về trại. Nó bằng lòng. Bà cụ tính mỗi nải chuối có 1 đồng. Thấy rẻ, Bombata cũng vào mua ba nải. Bà cụ tính ba nải mười đồng. Bombata thắc mắc:

          - “Tại sao chị bán cho những người kia một đồng mà bán cho tôi những hơn ba đồng?”

          Bà cụ hỏi lại:

          - “Anh là chủ quán hay tui? Tui là chủ, tui muốn bán sao tui bán.”

          Bombata tức lắm, nó nói:

          - “Chị chưa giác ngộ, còn phản động “nắm”! Tôi sẽ phản ảnh với địa phương.”

          Bà cụ cười mỉa:

          - “Tui chấp đó. Thuở đời nhà ai, tui chừng nầy tuổi mà gọi tui bằng chị. Tui đáng tuổi bà nội. Chắc tụi nầy dưới đất chui lên.”

          Biết không làm gì được bà cụ, Bombata quăng mấy nải chuối lại, hằm hằm bảo chúng tôi khiêng cây về.

          Thằng Bombata “hành hạ” ông Nguyễn Bảo Tụng đến tội nghiệp. Vì Út Bạch Lan ở trong khối của ông nên sau khi Út Bạch Lan trốn trại, nó đặt ra nhiều biện pháp rất nghiêm nhặt: Không cho nói chuyện với người ngoài tổ. Vì vậy, tôi chỉ có thể nói chuyện với Đào Sơn Bá, cùng tổ, còn Trần Phú Trắc, rất thân với tôi vì hồi còn ở Dù, Trắc là bạn của Hùng móm, em tôi. Tôi và Trắc, trong đời tù cải tạo, đi chung với nhau từ đêm đầu tiên ở Taberd, 24 tháng 6 năm 1975 cho tới bây giờ. Không biết bao nhiêu lần chúng tôi ở chung, ăn chung, chơi chung, đào giếng, trồng rau, trồng sắn (mì) chung, v.v... Tôi và Trắc thấy nhau, chỉ cười một cái rồi đường ai nấy đi.

          Chúng tôi đoán chừng nó buộc ông Tụng theo dõi bọn tôi để báo cho nó hay những “biểu hiện xấu”. Chúng tôi cũng đoán chắc ông Tụng không thể làm như vậy được. Vì vậy mà thằng Bombata làm khó làm dễ ông quá lắm! Chỉ một việc Út Bạch Lan trốn trại mà nó hành hạ ông già đến thảm. Nó bắt ông Tụng viết báo cáo về việc Út Bạch Lan trốn trại đến cả chục lần, lần nào nó cũng bảo rằng chưa đạt. Đạt có nghĩa là ông Tụng cũng như anh em biết Út Bạch Lan âm mưu trốn trại mà không báo cáo cho “cách mạng” hay. Ối trời! Ai mà biết ai “Âm mưu trốn trại”. Ai có khùng mới “phổ biến” việc mình muốn trốn trại cho người khác biết. Mà dù có biết, chẳng ai báo cáo. Việc ấy, ai làm được?!

          Mỗi ngày một lần, ông Tụng phải cầm tờ báo cáo đọc cho nó nghe. Không hiểu tại sao nó không cầm tờ báo cáo tự đọc lấy mà bắt ông Tụng phải đọc. Có thể nó đọc chữ quốc ngữ không thông chứ chữ ông Tụng viết rất đẹp và khá rõ. Ông thuộc loại học trò trước 1945, thầy giáo dạy tập viết kỹ lắm. Khi ông đọc báo cáo, nó bắt ông phải ngồi dưới đất, theo kiểu nước lụt, tức là ngồi chò hỏ; còn nó ngồi trên sập, “vách đốc củ tỏi”, như mấy ông lý trưởng, chánh tổng ngày xưa. Trong cái “tư thế” như vậy, ông Tụng khó chịu lắm, nhưng ông làm gì được nó. Nó từng hăm nhốt ông vào “cát-xô” vì tội tán trợ Út Bạch Lan trốn trại. “Anh biết trước nó trốn nhưng anh không báo cáo. Tôi sẽ “xử ní” anh.” Chưa nhốt ông vào cát xô là điều may cho ông, nói gì tới chuyện khác. Vã lại cách làm của Bombata như thế cũng là một hình thức khủng bố ông Tụng.

          Khi thằng Bombata điểm danh xong, về rồi, tôi thường ngồi nơi cửa sổ phòng tôi nhìn về phía bên kia đồi. Tôi chờ mặt trời xuống. Như một khối lửa, khi mặt trời chạm tới đỉnh đồi phía xa, nó tóe ra trăm ngàn tia lửa đỏ, rực cả một chân trời, phản chiếu vào mầu mây. Cao trên mây chút nữa là mầu đen của một cảnh trời chiều sắp tắt, trông buồn lắm. Cảnh ấy làm cho tôi nhớ thời niên thiếu khi tôi còn ở quê nhà, ngồi bên nầy bờ sông Thạch Hãn, nhìn mặt trời sắp lặn sau dẫy Trường Sơn. Chỉ khác một điều, những ngọn đồi ở đây không cao và hùng vĩ như những ngọn núi ở dãy Trường Sơn mà thôi.

          Trong những buổi chiều lặng lẽ và u buồn như thế, ông Tụng hay ra đứng bên cạnh tôi hỏi bâng quơ vài câu chuyện. Tôi hỏi ông một chút ít về tem. Có lần tôi nói:

          - “Bác Tụng nè! Câu sấm nói “Voi bò trên giấy” là ứng với tờ giấy hai giác (hai mươi xu, hai giác là gọi theo cách xưa của người Trung; người Bắc gọi là hai hào) thời Đông Dương. Hồi đó, tôi nhớ cũng có con tem vẽ hình mấy con voi vậy. Vậy câu sấm có ứng với mấy con tem không?”

          Ông Tụng giải thích:

          - “Tờ giấy bạc hay con tem không quan trọng, cái ý chính của câu sấm là nói tới “thầy tăng” là thằng Tây sắp đi đời.” (1)

          Tôi lại hỏi:

          - “Bác có nghĩ thầy tăng là mấy ông thầy chùa không?”

          - “Làm gì có!” Thầy tăng là thằng Tây. Câu sấm nói lái.” Ông Tụng giải thích.

          - “Tui không nghĩ câu sấm nầy là của ông Trạng Trình đâu. Nếu là ông Trạng Trình, mắc chi ông phải nói lái. Nói lái như vậy là để đánh lạc hướng mật thám Tây. Như vậy là câu nầy mới đẻ ra hồi Tây.” Tôi nói.

          - “Cũng có thể đấy!” Ông Tụng nói. “Tôi chơi tem mấy chục năm, chưa ai hỏi tôi rắc rối như anh!” Ông Tụng vừa cười vừa nói.

          - “Bác có bực mình không? Bác nên nhớ tui là dân trọ trẹ mà!”

          - “Bực mình thì tôi đã không ra đứng đây nói chuyện chơi với anh cho vui. Tôi khổ tâm vì cái thằng trung úy bộ đội nầy. Nó chưa bằng tuổi con tôi mà nó mất dậy quá!”

          - “Thời thế mà! Hàn Tín còn luồn trôn giữa chợ.” Rồi tôi đọc câu đối của Ngô Thời Nhiệm “Gặp thời thế thế thời phải thế!”

          Bỗng ông Tụng hỏi tôi:

          - “Anh ở Huế có biết Như Hà không?”

          - “Như Hà nào? Hà-Lãng-Hổ à? Bà ấy là chị thằng bạn tui.”

          - “Tôi lập hồ sơ vụ án Hà-Lãng-Hổ. Hồi đó cho tới 30 tháng Tư, tôi làm việc ở Biên Hòa.”

          Ông Nguyễn Bảo Tụng, người gốc Bắc, không rõ tỉnh nào. Trước là Hiến Binh. Sau chế độ Ngô Đình Diệm, hiến binh giải tán, một số chuyển ngành Cảnh Sát, một số chuyển qua Quân Cảnh. Ông thuộc ngành Quân Cảnh Tư Pháp, chức vụ cuối cùng của ông trước 30 tháng Tư là Đại Đội Trưởng Quân Cảnh Tư Pháp Quân Khu 3, đóng tại Biên Hòa. Khi vụ án Hà-Lãng-Hổ xẩy ra, ông làm việc ở Đại Đội Quân Cảnh Tư Pháp đó, nhưng không biết đã làm đại đội trưởng hay chưa. Ông là người lấy cung, điều tra vụ án nầy. Tò mò, tôi muốn thêm chút ít về một vụ án, mà Ngô Thị Như Hà, nhân vật chính là chị của Trần Quang Quy, bạn học của tôi.

          Năm 1954-55, tôi và Trần Quang Qui học chung một lớp, chuẩn bị thi Trung Học Đệ Nhất Cấp. Chúng tôi là bạn thân. Bà Hà chuẩn bị Tú Tài 1.

          Hồi đó, nhà Qui tại Villa Elizabeth nằm trên đường Duy Tân là đường nối liền từ đầu cầu Truờng Tiền xuống An-Cựu. Ngôi nhà nầy sau thuộc phạm vi “Khách Sạn Duy Tân” của Cậu Cẩn.

          Tôi ăn cơm tháng gần trong hồ Tịnh Tâm, khu vực không có điện, tối mù mù, phải dùng đèn dầu hỏa. Học bài khuya, hao dầu, nhắm bộ bà chủ không bằng lòng nên cứ tối tối, tôi qua nhà Qui học chung. Cũng không phải là học trong nhà. Bọn tôi ra ngồi ở gốc đèn điện đường. Ngồi cột đèn nầy một chút thì qua cột đèn kia. Thỉnh thoảng, thấy chó chạy hoang thì lấy đá vụt chơi. Gặp mấy o bán chè thì hát “Con mèo chạy quanh tấm ván” nhại theo câu rao hàng của mấy o là “Chè đậu xanh đậu ván.” Có một câu nhại tục hơn, nhưng mấy ông lính mới xài câu đó, chúng tôi là học trò, không dám (2). Gặp cảnh sát đi tuần sau giới nghiêm, 12 giờ đêm thì phải trốn cho lẹ vì đôi khi, mấy thầy cảnh sát bắt được, nếu không thông cảm thì đem về “bỏ bót”, sáng hôm sau mới thả ra, vừa mất học bài, vừa trễ một buổi học ở trường.

          Nhà Qui ở là nhà Tây, có nhiều phòng. Ông thân nó, thiếu tá Trần Thành, dân Quảng Bình, cùng quê với Cậu nên sớm làm trung đoàn trưởng đóng gần Huế. Thỉnh thoảng ông mới về nhà. Qui có phòng ngủ riêng. Bà Hà cũng có phòng riêng. Nó cười cười dặn tôi không được vào phòng bà Hà: “Phòng con gái, dơ lắm.” Nó nói vậy. Tôi hiểu mờ mờ về cái dơ đó. Tuy thường đến đây, tôi chưa bao giờ thấy bà Hà tại nhà. Chỉ có một lần, khi chúng tôi đang ngồi trong lớp, bà Hà đạp xe đạp tới, gọi Qui ra, nói chuyện gì đó. Cả lớp trầm trồ “Chị thằng Qui đẹp ghê!” Vậy thôi.

          Mấy năm tôi học ở Khải Định, sau nầy là Quốc Học, tôi không thấy bà Hà lần nào, mặc dù, mấy lớp trên tôi, con gái còn học chung với con trai bên Khải Định vì trường Đồng Khánh chưa mở những lớp ấy. Nghe nói bà Hà đã đi dạy, Trung Học, sau khi đậu tú tài 1. Hình như có một năm bà ấy về học lại lớp đệ nhứt, chung với bà Tường Loan. Trên tập văn học sinh Quốc Học hồi ấy, hai bà nầy đăng thơ gởi qua gởi lại cho nhau, làm như đôi tình nhân. Tôi chỉ nghe nói, không đọc thơ họ hay đọc rồi mà quên. Nói như thế là thật tình, thơ không hay lắm. Nếu thơ hay lắm, tôi nói là hay lắm, có lẽ tôi đã thuộc vài câu.

          Khi tôi đã đi dạy rồi, một người bạn đồng nghiệp, rất thân, bạn học với Tường Loan kể cho tôi nghe một câu chuyện như sau:

          Một hôm, anh bạn tôi tới tư thất viện trưởng, nhà số 1, ở đầu đường Trương Định, là nhà của cha Luận, để mượn sách. Vào sân, anh bạn tôi thấy ngay cửa giữa, sau bức màn phía sau phòng khách, phía dưới màn còn hở là cái áo đen và hai chân cha Luận, bên cạnh là hai chân một người đàn bà. Chỉ thấy hai chân vì phần trên đã bị tấm màn che khuất. Tò mò, người bạn tôi đạp xe ra phía cửa sau. Té ra lúc đó, bà Hà đang đứng khâu lại bức màn. Cha Luận đứng bên cạnh. Hai người đang nói chuyện với nhau, vui vẻ lắm! Khu nhà phía sau, có nhiều phòng. Những người ở lại nhà cha, như bà Hà thì ngủ ở những phòng sau đó, không ngủ lại trên gian nhà chính. Bọn sinh viên Huế, không ít người biết bà Hà là con nuôi của cha Luận.

          Có một điều vui nữa, theo người bạn kể, cha Luận thường cho những “học trò cưng” của ông mượn sách về đọc. Ông có một tủ sách lớn, sách mua từ bên Tây về. Mượn sách về phải rọc sách mà đọc. Điều đó cho thấy cha Luận có nhiều sách nhưng lại ít đọc.

          Giữa năm 1974, tôi đang ở Hà Tiên, nhân viên của tôi đi học ở Cần Thơ, không biết sao lại gặp Qui. Biết tôi ở Hà Tiên, Qui theo họ về tôi chơi, ở lại một đêm. Sáng hôm sau, tôi xin máy may trực thăng bên biệt Khu 42 cho Qui quá giang về Cần Thơ. Khi ấy, Qui mang “loon” trung úy, đang phục vụ tại Cần Thơ.

          Bữa đó, ăn cơm xong, tôi bảo lính xếp hai cái giường bố trong văn phòng của tôi để chúng tôi nằm bên nhau nói chuyện chơi. Tôi lại tò mò hỏi Qui về vụ Hà-Lãng-Hổ mà báo chí đã đăng tùm lum. Lúc nầy, hình như bà Hà làm chủ thẩm mỹ viện Như Hà trên đường Phan Thanh Giản, Saigon. Qui kể:

          Bà Hà có cái xe Fiat trắng, đẹp lắm; ngày ngày đưa đón con đi học ở Taberd. Thiếu tá Đinh Viết Lãng cũng có một chiếc Fiat giống y chang vậy, cũng đưa đón con đi học mỗi ngày như bà Hà. Để ý đến xe giống xe mình, ròi để ý đến người lái xe, mối tình ngang trái bắt đầu như vậy, rồi làm thơ gởi qua gởi lại cho nhau. Chuyện thật lãng mạn. Khi câu chuyện tình bể ra, để giàn xếp cho yên, cha Luận can thiệp. Cha yêu cầu Bộ Tổng Tham Mưu đổi thiếu tá Lãng về Cần Thơ, để hai người xa nhau, không có cơ hội gặp gỡ.

          Vậy mà rồi hai người cũng cứ lén lút gặp nhau. Thiếu tá Hổ theo dõi, bắt gặp hai người đưa nhau đi chơi trên xa lộ Saigon-Biên Hòa. Hổ chận xe bắn chết thiếu tá Lãng, đạn lạc, chết luôn cả cậu em Như Hà ngồi ở băng sau. Hỏi về chuyện bà Hà mở thẩm Mỹ viện, Qui cho biết bà Hà đi học thẩm mỹ ở Nhật, cũng có cha Luận giúp đỡ.

          Ông Luận lại kể chuyện vụ án Hà-Lãng-Hổ với tôi. Tôi hỏi:

          - “Giết chết hai mạng người, một cố sát, một ngộ sát mà chỉ bị án treo. Khó hiểu thiệt!”

          - “Nói chung thì tội cho bà Lãng và mấy đứa con. Thiệt thòi nhất.” Ông Tụng nói.

          - “Bà không khiếu nại gì hết trơn?’ Tôi hỏi.

          - “Họ giàn xếp.” Ông Tụng giải thích. “ Như Hà cam kết chăm sóc nuôi nấng các con của bà Lãng cho đến khi khôn lớn.”

          - “Tình trạng như bây giờ, ai ở ai đi! Bà Hà còn giữ lời cam kết không?” Tôi hỏi.

          - “Tôi cũng không rõ!” Ông Tụng nói.

          Nhớ cha Luận là cha nuôi bà Hà, tôi hỏi:

          - “Có ai giàn xếp vụ nầy không? Cha Luận có can thiệp gì không?”

          - “Như Hà không khai được một lời, chỉ ngồi khóc. Mọi việc cha lo liệu hết.” Ông Tụng giải thích.

          - “Khai như thế nào mà chỉ bị tù treo. Tui không hiểu được.” Tôi nói.

          Ông Tụng giải thích:

          - “Trong lời khai ghi như thế nầy”. Ông Tụng kể lại: “Khi thiếu tá Hổ chận xe lại, chỉ rút súng ra là để hăm dọa và tự vệ vì thiếu tá Lãng cũng có mang súng. Thiếu tá Hổ hỏi thiếu tá Lãng: “Tại sao mày ngoại tình với vợ tao?” Lãng nói: “Tao ngoại tình với vợ mày. Mày không thấy xấu hổ sao mà còn hỏi…” Đó là câu nói khiêu khích của Lãng làm cho Hổ nóng lên, mất bình tỉnh, nên nổ súng bừa.”

          - “Ai làm chứng? Bà Hà làm chứng, ông Hổ làm chứng, cũng như không!” Tôi nói.

          Nghe câu đó, ông Tụng chỉ cười. Một chốc, ông Tụng nói: “Tướng bà Hà là dâm lắm.” Tôi cũng làm thinh, nhớ hồi đi học, bọn học trò chúng tôi được ông Lê Hữu Mục cho chia phe cải nhau “Kiều đa tình hay đa dâm, hay cả đa dâm đa tình?” Chúng tôi cải nhau dữ dội, chẳng đâu ra đâu!

          Từ đó về sau, mỗi chiều, nói chuyện với nhau, chúng tôi không nói chuyện Hà-Lãng-Hổ nữa. Hà-Lãng-Hổ là tên vụ án do bao chí hồi đó đặt ra. Chúng tôi trở lại việc chơi tem. Tôi hỏi ông Tụng:

          - “Bác có con tem bà Nam Phương hoàng Hậu không?”

          - “Tôi có những mấy con. Bà đội khăn vàng, khăn hoàng hậu.” Ông Tụng nói.

          Tôi cười:

          - “Hồi xưa chỉ có hoàng hậu, hoàng thái hậu mới dội khăn vàng. Bây giờ mấy cô dâu Huế cô nào cũng đội khăn vàng. Vợ tui khi đám cưới cũng vậy. Bà nào cũng muốn làm hoàng hậu.” Rồi tôi nói đùa: “Vợ tui là hoàng hậu của tui.”

          Còn tiếp....

          (1) Câu sấm là:
          Bao giờ cỏ mọc trên chì,
          Voi bò trên giấy đi đời thầy tăng!
          (2) Câu tục mấy ông lính tráng thường chọc mấy o là “Đè đầu hôm tới sáng.”

          Comment


          • #6
            Hồi ký “Tù Cải Tạo”

            Tác giả: Tuệ Chương hoànglonghải

            6. Hai Bà Trưng, Hai Bà Triệu



            Khi về trại Suối Máu, mỗi tối chúng tôi đều được xem TV. Đời tù buồn tẻ, được xem TV, dù chỉ là tuyên truyền, nhiều người cũng thấy vui.

            Cứ hai ba đội chung tiền nhau mua một cái TV, dĩ nhiên TV cũ, giá rẻ. Tuy cũ, nhưng TV cũng còn tốt, ít khi xảy ra “sự cố” bất thường nên cũng không đến nỗi bực mình. Nếu TV có nổi chứng, chỉ lằn ngang lằn dọc thì có “Hoàng chấm phết”, chuyên viên của chúng tôi sửa chữa. Qua bàn tay rành rọt của anh, TV lại hoạt động bình thường. Gọi là “Hoàng chấm phết” vì anh bị thương ở một chân nên đi đứng không bình thường.

            Bộ đội dành một gian trong các gian nhà tôn để làm nơi xem TV. Nhờ đó, dù trời mưa, chương trình xem TV cũng không có gì trở ngại.

            Cái TV để ở đầu gian nhà, trên một cái kệ cao, quay mặt về hướng trống. Dĩ nhiên phòng xem TV không có ghế. Mỗi người đi xem tự đem theo một cái đòn hoặc một cái ghế xếp tự mình đóng lấy hay của ai cho. Có người khéo tay, đóng một cái ghế xếp nhưng có lưng dựa, ngồi dựa ngữa mà xem cũng thoải mái chán. Cơm chiều xong, điểm danh xong, bảy giờ tối chương trình TV bắt đầu thì anh em tụ lại phòng TV để xem. Có khi vào đó thì người ta ngồi dầy đặc, nhất là ở những chỗ tốt, vừa tầm xem và nghe được rõ. Có anh đến sớm hơn nhưng nhiều khi người ta đã đặt ghế, đặt dòn dày đặc để xí phần.

            Khoảng mùa hè năm 1976, sau khi “Hội Nghị Hiệp Thương Thống Nhất” họp ở rạp Rex Saigon xong màn trình diễn, đội bóng tròn Tổng Cục Đường Sắt ở Hà Nội vào Saigon đá trận đầu tiên để “mừng thắng lợi”. “Mừng thắng lợi” là do quản giáo nói như thế, và trại cho phép mở TV để xem đài truyền hình Saigon trực tiếp chiếu cho xem trận đấu. Dân ghiền bóng đá bắt đầu bàn tán xôn xao, nhiều ông làm thầy bàn, làm tham mưu. Có người nói:

            - “Xem làm mẹ gì! Làm sao mà Saigon thắng được Hà Nội, có chỉ thị rồi. Cái gì xã hội chủ nghĩa cũng “ưu việt”. Đã ưu việt thì miền Bắc không thể thua miền Nam. Coi làm gì cho bực mình.”

            Lê Thành Công, bạn tôi, nói đùa:

            - “Cứ coi việc đi ỉa cũng đã thấy ưu việt rồi. Ỉa xong còn hốt đem bón rau. “Hiện đại” lắm đó nhá.”

            Tuy có người nói thế nhưng cũng lắm người xem. Mới cơm trưa xong, “Hoàng chấm phết” đã loay hoay dời TV ra cửa giữa bên hông nhà, hướng TV ra khoảng sân trống giữa hai gian nhà. Người ta đoán chắc là trận nầy, anh em xem TV đông lắm. Đưa TV ra cửa hông để rộng chỗ anh em ngồi xem. Một số anh em khác thấy chỗ đặt TV chói nắng bèn lấy hai ba cái poncho nối lại với nhau làm màn che cho tối bớt, dễ thấy hình trên TV hơn.

            Ba giờ chiều trận đấu mới bắt đầu nhưng mới hơn 1 giờ, chỗ sân bóng xem TV đã dày đặc người và đòn, ghế. Có người đặt ghế rồi, nhưng vẫn không yên tâm sợ người ta dời mất chỗ bèn ra ngồi ngay chỗ cho yên tâm. Người lui tới nói cười xôn xao. Ồn ào nhứt là đại úy Trương Văn Tuyên. Ông nầy người Bắc di cư, trước kia, khi còn mang “lon” trung úy, đã có thời làm quận trưởng một quận ở Quảng Ngãi, đánh nhau với Việt Cộng khá dữ, “nợ máu”, - nói theo theo kiểu Việt Cộng -, cũng không ít; nói theo kiểu người miền Nam thì anh ấy là “anh hùng diệt Cộng”. Ông nầy thuộc loại bạo phổi, học tập không chịu “giác ngộ”, hễ nói tới Việt Công thì anh ta đã kích ào ào, đếch sợ thằng ăng-ten nào cả. Giữa sân xem đông người, anh ta cứ oang oang.

            - “Coi thì coi nhưng tao chắc chắn là đội Quan Thuế không được thắng. Có lệnh rồi đó, hễ thằng nào đá lọt banh vào “gôn” tụi Hà Nội là có giấy gọi đi học tập cải tạo ngay. Đ.m. Ngu hay sao mà thắng để rồi đi ở tù.”

            Có người góp ý, giả bộ hỏi để anh ta nói nghe cho vui:

            - “Trận nầy có Tam Lang. Ông liệu Tam Lang có dám đá hết mình như thường lệ không?”

            Giọng Tuyên cứ oang oang:

            - “Dám! Thằng nầy đứng tiền vệ hay lắm. Nhưng trận nầy, bọn Bắc Kỳ đem banh xuống, nó đứng qua một bên mà nói “Xin mời ông đá vào “gôn” dùm chúng cháu.”

            Có người nói:

            - “Tụi nó là Bắc Kỳ! Còn mày là gì! Bắc kỳ cục chắc!”

            Mọi người cười ồ!

            Tuyên cố giải thích:

            - “Tao đâu có Bắc Kỳ mầy. Tao là… “Rân Ri Cư”. Anh ta cười nói đùa.

            Nguyễn Hoàng Trương, dân Bình Định, cùng đội với tôi, nói thật to cố ý cho mọi người nghe:

            - “Nó là cam Bố Hạ thành bưởi Biên Hòa rồi.”

            Thiên hạ lại cười.

            Khi vào trận được ít phút, đội Đường Sắt đem banh xuống, Tam Lang ra chận, lại hỏng, Trương Văn Tuyên la toáng lên:

            - “Đ.m. thằng Tam Lang. Thấy không! Thấy không! Nó đâu có dám chận banh. Có chỉ thị rồi!”

            Bên đội Đuờng Sắt, có Điểm, mang số 7, chạy biên khá nhanh. Anh ta đem banh xuống nhanh bên cánh trái, ai nấy hồi hộp, lại nghe Trương Văn Tuyên la to lên:

            - “Chặt giò thằng ấy đi. Thằng đó nguy hiểm lắm.”

            Vừa nghe, anh em vừa cười vì những câu nhận xét của “nhà bình luận bóng đá chống Cộng Trương Văn Tuyên”. Đá càng lâu, người xem càng thấy chán vì trận đấu không cân sức, coi như một bên thì đá thẳng cẳng, đá bạo, ăn hiếp, đá kiểu “chém đinh chặt sắt”, một bên thì bị trói chân mà còn sợ gọi đi “cải tạo”. Sự việc diễn ra lộ liễu quá khiến người ta thấy khó chịu, bất mãn. Số nhà bình luận gia bóng đá kiểu Trương Văn Tuyên càng lúc càng đông, khiến cho chỗ ngồi xem càng thêm ồn ào như cái chợ. Khi có một đường banh Saigon bị thua hay mất banh một cách vô lý thì nhiều tiếng ồ đồng loạt vang lên kèm theo những tiếng chưởi tục.

            Tới 5 giờ trận đấu kết thúc, Saigon thua một bàn. Mọi người chán nản ra về, uể oải, mệt mỏi và buồn bực. Đâu đâu cũng nghe những lời bình luận khách quan có, chủ quan cũng có nhưng không thiếu khôi hài. Xem một trận banh, sự dàn xếp có tính chính trị hiện ra một cách trắng trợn. Điều ấy chạm đến lòng tự ái của người miền Nam, những kẻ thua trận, cọng thêm với thân phận tù, người ta thấy qua đó, ngày về xa hơn, buồn hơn.

            Cũng tại cái sân đó, sau khi mọi người ra về hết, trở thành nơi anh em đội tôi ngồi ăn chiều mỗi ngày. Trong bữa ăn, dư âm trận đấu bóng đá vẫn còn, nhiều anh em lại bàn bạc sôi nổi. Tôi đang ngồi ăn chung với Nguyễn Thụy Hiền, nói to cho nhiều anh em cùng nghe:

            - “Đ. m. Con tau sau nầy nhứt định tau không cho nó làm cầu thủ đá banh.”

            Trần Phú Trắc, ngồi cách tôi hơi xa, nói:

            - “Bộ anh thấy đá banh như hồi chiều nên anh chán chớ gì?”

            Tôi cười:

            - “Đâu phải lý do chính trị. Ông coi có thằng cha nào đá banh mà người ta gọi bằng anh hay bằng ông không. Giữ “gôn” hay là thằng Rạng, tiền vệ hay là thằng Tam Lang, tiền đạo hay là thằng Đức, thằng Vinh. Có ai gọi ông Tam Lang, ông Rạng đâu. Tau đâu có muốn người ta gọi con tau bằng thằng.”

            Mọi người cùng cười.

            Họa sĩ Nguyễn Uyên nói:

            - “Ông không đá bóng, người ta cũng gọi ông là thằng điện chạm vậy!”

            Mọi người lại cười to.

            Hiền nói:

            - “Vậy nhưng mấy ông ấy là thần tượng của đám trẻ con đó. Mấy chả đi đâu, bọn trẻ chạy theo rần rần. Đứa nào nắm tay anh Rạng yêu mến của chúng được một cái là tối ấy nằm ngủ mơ.”

            Tuyên cười, hỏi:

            - “Ông cũng từng nằm mơ hay sao mà ông rành vậy?”

            Một hôm, TV chiếu vở tuồng “Cô gái và người lái xe”, Tú Trinh đóng vai cô gái. Xem phim, tôi dè chừng Trần Phú Trắc chưa quên người cũ, bèn nói đùa với Trắc:

            - “Bữa nay không có Khả Năng nên không có ai ôm Tú Trinh mà run nữa nghe!” (1)

            Trắc trả lời tôi, cười mà như mếu:

            - “Thôi mà anh! Phận mình bây giờ là tù rồi!”

            Tự nhiên tôi thấy buồn, nói với Trắc và Hiền:

            - “Hai tiếng phận tù làm người ta đau lòng lắm! Bao nhiêu tình đời tới một chữ tù thì coi như 99 phần trăm “thuyền ra cửa biển”.

            Lại một hôm xem vở tuồng “Gánh Cỏ Sông Hàn”. Vốn không thích cải lương, nhưng chúng tôi tối tối đi xem TV để giết thì giờ. Hôm sau, đi cuốc đất ngoài suối, phía trước cổng trại Suối Máu để trồng rau muống, chúng tôi vừa gom cỏ đem đốt, vừa nói đùa với nhau: “Bữa nay “Gánh Cỏ Sông Hàn” nha!”

            Trung úy Đoan, quản giáo, người dẫn chúng tôi đi cuốc đất nói:

            - “Các anh nói “Gánh Cỏ Sông Hàn” là nói con ngựa không quên chủ cũ chứ gì?!?”

            Chúng tôi nhìn nhau, không nói gì. Trên đường về, Trắc đi bên cạnh tôi, lúc trung úy Đoan ở xa xa, bèn nói:

            - “Anh thấy không! Mình thì nói chơi mà tụi cán bộ Cộng Sản thì sâu sắc vậy đó.”

            Chương rồng (2) cười cười ý nhị:

            - “Thiếu sâu sắc chính trị cũng là một lý do để mất nước đó ông ơi!”

            Sau khi hái rau đợt 1 (Cộng Sản gọi là thu hoạch), Chương Rồng, tổ trưởng, biểu chúng tôi cuốc vào bên hông gốc rau rồi cạy vừa cho gốc rau vừa bị bứng nhẹ lên một chút, xong hạ gốc xuống và tưới nước lên. Quản giáo Đoan hỏi tại sao làm như thế, Chương Rồng giải thích:

            - “Cuốc cho rễ rau bị đứt một chút thôi. Vì đứt, rễ rau sẽ mọc rễ mới, như cành cây bị chặt nó sẽ nẩy ra chồi mới vậy. Nhờ thêm rễ, rau sẽ mọc mạnh.”

            Nghe giải thích, quản giáo Đoan phải nói: “Các anh thông minh thật! Tôi làm nông nghiệp nhiều nhưng chưa nghe ai lý luận như anh.”

            Tới ngày hôm sau nữa, đang tưới rau thì có lệnh tập trung về sớm. Quản giáo Đoan phát hiện anh Quang nhân khi đi tưới rau hôm nay, đã trốn trại. Trong khi chúng tôi tập trung chuẩn bị ra về, quản giáo Đoan đi dọc bờ suối hy vọng Quang có núp vào bờ suối nào đó không. Chương Rồng thấy vậy, nói:

            - “Thằng Quang nó không ngốc như anh bộ đội nầy đâu. Nó lên xe lam đi Biên Hòa lâu lắm rồi, khi tụi mình còn cuốc rau kia.”

            Quang, dân Trinh Sát Dù, đâu có trốn trại theo kiểu quản giáo Đoan nghĩ. Anh ta chuẩn bị khá kỹ. Sáng hôm nay, đi tưới sau, trời hơi lạnh, Quang mặc hai áo. Trong là cái áo trắng, ngoài áo trận. Vừa mới tản hàng, Quang xin “đi ngoài” bên kia suối. Một chốc, anh ta lại xin “đi ngoài” lần thứ hai. Lúc nầy, ai cũng lo làm việc. Quản giáo Đoan đang theo dõi chúng tôi cuốc đất. Quang từ bên kia suối, đi thẳng ra hướng Quốc lộ 1. Gần tới nơi, anh ta cởi cái áo trận dấu dưới bụi lau rồi bước ra bên đường, xe lam Hố Nai-Biên Hòa trờ tới, anh ta nhảy vội lên xe, như một người khách đi đường. Xe chạy mất. Thế là xong. Vài anh em thấy Quang trốn, chận xe, lên xe rõ ràng nhưng không ai hô hoán, chờ tới khi trên đường về trại mới kể cho nhau nghe!

            Gần tới trại, khi quản giáo ở phía sau khá xa, Chương giải thích:

            - “Dân biệt kích. Tụi nó học biết bao nhiêu khóa, trải qua bao nhiêu trận, mấy bộ đội lớ ngớ nầy, bị qua mặt dễ như không!”

            Có khi trên chương trình TV mấy ông Việt kiều, phần đông ở Pháp, về thăm quê hương nói chuyện với đồng bào. Ông nào giọng điệu cũng giống nhau, cũng “nhân dân ta anh hùng”, “đảng ta vinh quang”, “kiên cường đánh Pháp, đuổi Mỹ”, v.v…

            Hôm ấy, có ông họa sĩ Lê Bá Đảng, quê ở Quảng Trị, nghe nói rời đất nước hồi còn trẻ, đi lính Tây, lính thợ gì đấy; ngày xưa, khi tôi còn nhỏ thấy người ta gọi là lính ONS (Ouvrier-Non-Special). Ông họa sĩ Lê Bá Đảng cũng lên TV, ca ngợi Cộng Sản, ca ngợi nhân dân ta, v.v… Ông ta nói:

            - “Nước ta có nhiều anh hùng như Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Hai Bà Trưng, Hai Bà Triệu…”

            Có lẽ ông ta lịu miệng mà nói Hai Bà Triệu chớ không đến nỗi dốt mà cho rằng lịch sử có tới những Hai Bà Triệu.

            Nguyễn Thụy Hiền ngồi bên tôi thật thà hỏi:

            - “Anh Hải, anh dạy sử địa biết nước ta làm gì có hai bà Triệu?”

            Thầy đồ Nho Trần Hưng (3), dân “Bình Định hay lo”, đại úy, nói đùa:

            - “Có chớ sao không. Anh Hải dạy sử nhưng có biết đâu. Nầy, hai bà Triệu thì một là Bà Triệu Ẩu, hai là Bà Triệu Tả…”
            Thiên hạ lại cười.


            (1) Trước 1975, tờ báo Sân Khấu in hình ngoài bìa Khả Năng ôm Tú Trinh, dưới ghi chú: Khả Năng run vì sợ ông cò quận Bình Chánh. Hồi ấy Trần Phú Trắc làm cò Bình Chánh, là bạn của Tú Trinh.

            (2) Lê Văn Chương, khóa 17 Võ Bị, người chơi đàn Guitar nổi tiếng ở Đà Lạt, thường biểu diễn chơi đàn một tay cho chúng tôi nghe. Trên đường di tản Quốc Lộ 7, anh bị thương ở ngón chân cái, không được điều trị nên bị gân rút, ngón chân cái tự nhiên ngóc cao đầu lên như đầu rồng. Do đó, Trần Phú Trắc đặt cho anh ta biệt danh là Chương Rồng.

            (3) Anh em chúng tôi gọi anh Trần Hưng là Thầy Đồ Nho vì anh đang học thêm chữ Hán, viết chữ Nho đẹp, trình độ Hán Học cũng cao. Lúc ấy, tôi học chữ Nho với anh. Tôi không gọi anh ta là Thầy Đồ Nho mà gọi theo tiếng Tàu là Chi-Pụ (Sư phụ).
            Last edited by Phòng Trực; 03-10-2011, 07:54 PM.

            Comment


            • #7
              Đai Úy Khinh Binh

              Tác giả: Tuệ Chương hoànglonghải
              7. Đại Úy Khinh Binh



              Tháng 6 năm 1976, tôi lại bị đưa đi, chưa biết đi đâu. Lên xe Molotova lần nầy thì vẫn đông, nhưng những bạn bè cũ từ Trảng Lớn ra đi thì rơi rụng cũng nhiều, phần đông đều được đi “thăm lăng “bác” Hồ”. “Ăn theo” tôi kỳ nầy chỉ còn Đào Sơn Bá, đại úy cảnh sát đặc biệt; Trần Phú Trắc, đại úy chỉ huy trưởng cảnh sát Nhà Bè; Huỳnh Văn Khánh, đại úy quân cảnh, biệt phái làm giáo sư trường trung học Bình Chánh. Kỳ chuyển trại nầy cũng khá kỹ, có nghĩa là mui xe đóng bít bùng, chẳng thấy được gì bên ngoài cả. Cuối xe, một anh vệ binh cầm Aka đạn đã lên nòng. Thấy anh đóng khóa an toàn nên tôi đoán chừng vậy. Người trong xe chật ních, lẫn lộn với hành trang, không nhúc nhích gì được.

              Dù ở trong xe bít bùng nhưng vài anh em đoán hướng xe chạy, nói to “Về Saigon! Mấy ông ơi!” Biết là về Saigon nhưng người nào ngu lắm mới hy vọng được đem về Saigon để tha.

              Xe chạy khoảng gần nửa ngày thì ngừng, mở mui và có lệnh xuống. Nhìn quanh, có người nói to: “Trại Suối Máu”. Lần đầu tiên tôi nghe hai tiếng Suối Máu. Ghê thật! Máu chảy thành suối! Trận đánh nào xảy ra ở đây mà ghê thế! Lịch sử hai tiếng Suối Máu như thế nào?! Té ra tên Suối Máu nầy có từ lâu. Trước 1975, đây là trại tù binh Cộng Sản.

              Đường từ cổng đi vào phải đi qua ba khu trại giam 1, 2 và 3 bên tay trái. Một số “tù cải tạo” ra đứng sát hàng rào nhìn chúng tôi. Có người quen biết từ trước nhận ra nhau nhưng không dám gọi to cho nhau. Bên tay phải là nhà thờ, chùa. Dĩ nhiên, “tù cải tạo” không ai được đi nhà thờ, đi chùa. Còn cán bộ Cộng Sản thì đã được giáo dục rằng “tôn giáo phản động”. Có ai đi lễ bao giờ. Chùa, nhà thờ đều hoang phế. Phật, Chúa cũng không ở được với Việt Cộng đâu, cũng đã vượt biên cả rồi, chẳng còn vị nào ngồi lại trên tòa sen hoặc trên thánh giá! Khi mới vào trại cải tạo, thỉnh thoảng đọc báo “Quân Đội Nhân Dân”, thấy không ít bài đã kích đạo Thiên Chúa. Biến cố di cư năm 1954 thì họ gọi là “Chúa đã vào Nam”. Tới 30 tháng Tư thì họ gọi là “Chúa đã đi Guam.” Có người đặt câu thơ nói đùa:

              Ngày xưa Chúa bỏ vào Nam,
              Ngày nay Chúa lại đi Guam mất rồi.

              Hồi ở trại Trảng Lớn, Phan Hải thường lên khu bộ đội chơi, cho biết có một anh trung úy bộ đội theo đạo Thiên Chúa. Anh ta có cái thánh giá nhưng phải dấu tuốt dưới đáy ba-lô. Anh ta sợ bị đồng đội phát hiện! Dĩ nhiên. Anh ta dấu đồng đội nhưng không dấu với “tù cải tạo”.

              Anh em chúng tôi được đưa vào một khu mới: Khu 4. Trước 1975, chỗ nầy là khu thể thao. Bây giờ “trường cải tạo” phát triển nên khu thể thao biến thành khu nhà giam “cải tạo viên”. Gần một chục gian nhà “tôn” ở đây mới được nhà thầu dựng lên, cái nằm ngang, cái nằm dọc, trông hơi giống khu lao động Saigon cũ, tuy nhà tôn ở đây có dài hơn. Gian nhà “tôn” đầu tiên cách riêng với toàn bộ khu nhà bằng một hàng rào chăng giây kẽm khá kỹ. Bên kia là gian bệnh nhân. Một người nằm trên giường, bụng to như bụng trâu. Người ta nói là bệnh cổ trướng; có người gọi là viêm gan. Cổ trướng và viêm gan có bà con gì với nhau?! Tôi mù tịt về y khoa! Một người đứng sau tôi, có lẽ tới đây trước tôi mấy tháng, nói: “Ông nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông đó.” Có người à lên một tiếng vui mừng! Người vừa nói tỏ ra rành chuyện: “Bác sĩ nói chắc không qua khỏi. Kim Cương có lên thăm ông ta!” Nguyễn Uyên, họa sĩ, đứng bên tôi nói: “Bác sĩ Việt Cộng thì biết gì. Khám tầm bậy không!” Người lúc nãy cải chính: “Bác sĩ của mình, không phải “Cách mạng”. Có anh chưởi thề: “Cách mạng cái con c…” Nói xong anh ta cười hề hề. Mấy người khác cũng cười theo… Thấy vui vui, tôi bỗng hát hơi to một chút, cũng mong ông nhạc sĩ nghe được cho vui: “Chiều mưa biên giới anh đi về đâu…” Nguyễn Thụy Hiền, đại úy giải ngũ, từ quân lao Gò Vấp được tha hai năm nay, người tôi mới quen, nói đùa: “Anh hát tầm bậy không! Sao lại “đi về đâu”. Anh phải hát “Chiều mưa biên giới anh đi về … đây!” Đang nằm chình ình ở đó mà còn hỏi “đi về đâu” nữa. Không chừng về dưới đó.” Họa sĩ Nguyễn Uyên, đại úy cục Tâm Lý Chiến, cự nự: “Người ta sắp chết mà mấy ông còn đem ra đùa. Bậy! Bậy quá.” Mọi người tản đi.

              Người miền Nam có nhiều cái buồn cười. Tình nguyện đi lính, chọn những binh chủng thật dữ: Cọp Ba Đầu Rằn, Trâu Điên, Nhảy Dù, v.v… nhưng lại phản chiến hay thích phản chiến. Ngay “Hùng móm” em tôi cũng vậy. Ra trường, cố chọn cho được Nhảy Dù, sợ bị người ta chê, không cho đi Dù. Mậu thân, “loon” thiếu úy mới toanh, đánh một trận nổi tiếng gan lì ở Vạn Kiếp rồi về giữ Bộ Tổng Tham Mưu ở trại Trần Hưng Đạo. Tôi cũng mới nhập ngủ, lính mới tò te ở Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, cuối tuần đi phép. Hai anh em đi dạo phố Lê Lợi, Hùng ghé quán nhạc mua một tập nhạc của Trịnh Công Sơn vì trong đó có bài “Cho Một Người Nằm Xuống”, một bài hát phản chiến, Trịnh Công Sơn khóc Lưu Kim Cương. Trước khi nhập ngũ, Hùng rất thích hát những câu như “Anh đến thăm, áo anh mùi thuốc súng…” Hà Thanh hát những bài hát nầy của Nguyễn Văn Đông thì tuyệt, trước nay chưa ai bằng. Nhưng thằng em út của tôi cũng “mâu thuẫn không ai bằng”.

              Nguyễn Thụy Hiền hỏi tôi:

              - “Anh Hải, người ta nói Kim Cương hoạt động cho Cộng Sản có phải không?”

              - “Hoạt động mẹ gì!” - Tôi nói. “Con mẹ ấy chính cống là Việt Cộng. Hồi Nguyễn Văn Đông làm chánh văn phòng hay bí thư gì đó cho tướng Là, nó bắt cặp với Nguyễn Văn Đông để vào ra Tổng Nha Cảnh Sát lấy cắp tài liệu chuyển ra bưng. Sau nầy nó cặp với Nguyễn Mâu, cũng để làm cái việc tình báo đó.”

              Hiền hỏi:

              - “Ông Mâu nầy làm gì?”

              - “Trưởng khối Đặc Biệt ở Tổng Nha. Ông biết không, mấy thằng chả nầy ngu lắm.” Tôi nói.

              - “Ngu sao?” Hiền hỏi.

              - “Thằng cha Mâu khoe với nhân viên ông ta có con cu bự nên Kim Cương mê lắm. Té ra nó có cần cu đâu! Nó vào ngủ với thằng chả ngay trong Tổng Nha là để chôm tài liệu. Thằng chả cứ nghĩ vì cái củ cải mà nó mê. Mất nước là phải!” Tôi giải thích.

              - “Anh làm cảnh sát ở dưới ruộng không, sao mà biết rõ trên nầy vậy?” Hiền nói.

              - “Hồi đó thì ai biết gì. Sau 30 tháng Tư mọi chuyện mới tá hỏa ra. Một đám ở Trảng Lớn với mình là sĩ quan khối Đặc Biệt. Mấy ngày sắp đứt phim, tụi nó ngồi đốt tài liệu mà khóc. Coi như thế là xong! Tới đó trong Tổng Nha nhiều ông mới lộ ra nhiều điều mà trước nay câm như hến. Người ta sợ mấy ông lớn ghét, trả thù.” Tôi giải thích.

              - “Vậy chớ Kim Cương tình nghĩa gì mà lên thăm Nguyễn Văn Đông!” Hiền lại hỏi.

              - “Lòng con người ta phức tạp lắm, không biết hết được. Yêu nhau mà coi thường nhau, lợi dụng nhau. “Trong khi chắp cánh liền cành mà lòng rẻ rúng đã dành một bên.” Đọc xong câu Kiều, tôi cười.

              Tới đó, Hiền mới tin tôi. Thật ra, Hiền nhỏ hơn tôi ít ra cũng gần mười tuổi, thấy tôi hay làm thầy bàn nên tin tôi lắm. Bàn trật hay trúng nghe cũng… vui.

              Ở trại “tù cải tạo” nầy có nhiều điều thật buồn cười đến đau xót. Cả chục gian nhà nằm trong vòng rào thứ nhất. Nhà cầu, nhà xí hay cầu tiêu, gọi thế nào cũng được là nằm trong vòng rào lớn, nhưng lại ngoài vòng rào nầy. Khi đi cầu, anh em ít khi dùng giấy lau đít vì kiếm không ra. Có trường hợp như anh Bùi Thành Trai được quản giáo khen là người chịu khó nghiên cứu triết học Mác-Lênin vì anh đã nhờ quản giáo mua một lượt mấy cuốn sách nói về chủ nghĩa Cộng Sản. Anh ta có nghiên cứu gì đâu! Khi quản giáo khen, cả đám đang đứng trong hàng cười rúc rích. Anh ta mua sách để lấy giấy làm cái việc vệ sinh ấy. Anh em khác không có tiền hay tiếc tiền thì mỗi lần đi cầu xách theo một cái loon sắt hay một cái chai bia lớn đựng nước. Thấy người ta xách cái chai đi ngang qua, họa sĩ Nguyễn Uyên nói đùa với tôi: “Đi nhậu! Xách bia đi nhậu đấy!” Nói xong, Nguyễn Uyên cười hề hề! Nham nhở.

              Ra tới cổng hàng rào trong, người ta đứng lại, ở tư thế “nghiêm”, bỏ cái chai xuống đất, cất mũ, ngó lên cái chòi cao, có “chú bộ đội” chưa đầy 20 tuổi, ngồi canh trên đó, nói lớn:

              - “Báo cáo anh! Tôi đi ngoài.”

              Khi còn do bộ đội quản lý trại giam, “tù cải tạo” gọi bộ đội bằng anh, dù là sĩ quan cũng vậy. Ở trại do Công An quản lý, không được gọi bằng anh, phải gọi là cán bộ. Cấp chỉ huy thì gọi bằng ban, có nghĩa là ban tham mưu hay ban gì đó, không phải là ban cua hay ban sởi (bệnh sởi).

              Gặp “chú bộ đội” dễ tính thì chờ anh ta trả lời “Đi đi” thì mới đi. Chưa có lệnh đi mà đã đi có thể bị khiển trách, bị mắng, bị đuổi vào hoặc bị dọa bắn… Chỉ dọa thôi chớ chưa bắn lần nào. Gặp “chú bộ đội Bắc kỳ” từng “đứng lên đánh đổ bọn cường hào ác bá” thì “chú bộ đội” sẽ có thái độ không khác gì với giai cấp đã từng bị đánh đổ. “Chú bộ đội” bắt bẻ:

              - “Đi đâu mà gọi “nà” đi ngoài. Muốn trốn trại hả? Đi ỉa thì báo cáo “nà” đi ỉa. Nhớ không?”

              Anh “tù cải tạo” nói “Báo cáo nhớ”. Thế là được nghe hai tiếng “Đi đi!”. Anh ta đội nón lên đầu, cái chai cầm tay đi ra nhà cầu. Khi đi cầu xong rồi, về gần cổng, cũng phải đứng lại, thế “nghiêm”, bỏ mũ và cái chai không xuống, quay mặt về hướng chòi, nói “Báo cáo anh! Tôi vào”. Chờ “chú bộ đội” bảo “Vào đi!” mới được vào. Gặp khi “chú bộ đội đang ngủ gà ngủ gật, không nghe “Báo cáo” thì người đi cầu đứng nghiêm chờ cũng… hơi lâu!

              Gặp “chú bộ đội” nhiễu sự, nếu báo cáo là “Đi ỉa” hoặc đi cầu, “chú” lại bắt bẻ:

              - “Ăn nói gì mà bất “nịch” sự thế”. Không được “lói” “nà” đi ỉa. Phải gọi “nà” đi ngoài. Nghe không?”

              Thế là hơi nghịch với “chú bộ đội” kia nhưng anh “tù cải tạo” cũng cứ “Báo cáo anh! Tôi nghe!” không cần thắc mắc. Thế cho xong để được đi.

              Anh bạn Cường của tôi gặp trường hợp khá buồn cười. Tại anh ta đãng trí hay hôm đó bị tào tháo đuổi gấp quá nên khi “Báo cáo anh”, anh bạn tôi quên… cất mũ. Vậy là “chú bộ đội” nổi sùng vì cái tội vô lễ. “Chú bộ đội” “giáo dục” việc vô lễ không cất mũ bằng cách:

              - “Đứng đó, không đi đâu hết!”

              Anh bạn tôi đành đứng đó, như trời trồng, mặt mày nhăn nhó, khó chịu, vặn vẹo thân mình. Anh ta chẳng dám đi ra mà cũng chẳng đi vào vì “chú bộ đội” bảo “đứng đó”. Hồi lâu, “bài học tập giáo dục” đứng nghiêm tại chỗ chấm dứt. “Chú bộ đội” nói:

              - “Đi đi!”

              Anh bạn tôi bèn nói:

              - “Báo cáo anh, tôi xin vào đi… tắm.”

              Nói xong, không cần “chú bộ đội” nói thêm gì nữa, anh ta ba chân bốn cẳng chạy nhanh ra giếng, mượn gầu của người ta đang múc nước ở đó mà dội ào ào lên người, không cần cởi quần áo.

              Câu chuyện anh ta xin vào đi… tắm trở thành đề tài cho anh em vui cười. Có lần, Cường bực mình nói:

              - “Đ. Má nó. Tao hận cái thằng bộ đội nầy suốt đời.”

              Không biết về sau, nếu khi Cộng Sản hô hào “Hòa hợp hòa giải”, anh ta có thể quên câu chuyện ỉa… trong quần để hòa hợp với họ được không!?

              Nhà cầu nầy mới xây, theo kiểu Tây, nghĩa là chỗ ngồi thì trên cao, phân người rơi vào những cái thùng sắt đặt bên dưới. Hằng ngày, những cái thùng phân ấy được lôi ra, đổ xuống hố, vài ba tuần, có khi phân chưa kịp hoai thì đã được moi lên, đem bón rau muống để làm giàu quê hương, xây dựng “xã hội xã hội chủ nghĩa”.

              Chúng tôi được chia thành từng đội ở trong các nhà số 2, số 3, số 4, v.v… Nhà 1 đã có người ở trước, tại đây có hai “nhân vật” đặc biệt, một là “Hùng Con”, dân “Bắc Kỳ ri cư”, như người ta thường đùa với nó, hai là Quảng Què, dân Saigon lâu năm, nhân vật nào cũng có sự tích lạ lùng như sau:

              Gọi là Hùng Con vì anh ta nhỏ tí chút, cở bằng đứa bé 11 hay 12 tuổi, nhưng theo anh ta thì anh đã lớn tuổi. Có lần anh ta nói:

              - “Em cháu mới lấy chồng!”

              - “Uở, mầy chừng đó mà có em gái lấy chồng. Sao nó lấy chồng sớm thế?” - Có người hỏi.

              - “Không! Cháu lớn rồi, cháu gần 20 tuổi, bởi vì “Mỹ Ngụy” nó chích thuốc làm cho cháu không lớn để cháu dễ đi vào những chỗ đánh nhau lấy tin cho họ nên cháu mới nhỏ con vậy.” Hùng Con giải thích.

              Lắm người không tin, mắng nó:

              - “Mày nói tằm bậy! Mỹ Ngụy nào mà làm thế. Người ta thiếu gì phương tiện tình báo.”

              Hùng Con nói:

              - “Thật ra thì cháu cũng không biết đâu! Khi “cách mạng” bắt cháu điều tra, họ nói vậy nên cháu tin như vậy!”

              Có người nói to, cười:

              - “Chết cha rồi! Tin Việt Cộng là đời mày tiêu luôn. Mày ở tù là phải.”

              Hùng Con láu cá nói:

              - “Cháu thì bị bắt còn mấy chú thì đóng tiền để được đi ở tù.”

              Thấy nó nói vậy, nhiều anh em bỏ đi. Có người nói: “Thằng láu cá!”

              Thật ra thì Hùng Con có làm tình báo cho Sư Đoàn Dù. Hồi Mậu Thân, nó khoảng tuổi giống như tuổi người ta đoán bây giờ, được một đơn vị Dù nào đó đang hành quân ở An Phú Đông nhờ nó đi vào xóm nhà dân, giả làm người chạy nạn để dò xét binh lính Cộng Sản còn núp lén trong đó. Hùng Con hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc, được thưởng tiền, được giới thiệu về sư đoàn để tiếp tục công việc do thám ở nhiều nơi khác, giúp cho Dù nhiều trận đuổi Việt Cộng chạy có cờ. Hùng Con được phong làm “Hạ Sĩ Danh Dự” và được tướng Dư Quốc Đống nhận làm con nuôi. Đấy là anh ta nói vậy, không biết trúng trật vào đâu nhưng có điều thật là sau ngày 30 tháng Tư, Hùng Con bị bọn Việt Cộng nằm vùng tố cáo. Bộ Đội tới tận nhà bắt Hùng Con đi điều tra, xong cho vô tù, trại Suối Máu.

              Hùng Con có một màn biểu diễn rất hay làm mọi người để ý, thích thú. Tối tối, Hùng Con sang các nhà khác chơi, xin một điếu thuốc lào. Thằng bé 11 tuổi hút thuốc lào thành thạo như một dân ghiền điệu nghệ. Nó cầm cái điếu, thổi vào nõ cho tàn thuốc còn sót lại bay ra; xong, hai ngón tay nhỏ của nó xe xe viên thuốc lào cho thật tròn, gọn, đặt vào nõ. Nó lấy ngón tay ém viên thuốc cho chặt, một tay thì cầm đóm lửa đang cháy, một tay từ từ đưa cái điếu lên miệng, đặt ngay ngắn vào giữa hai hàng môi. Nó rít một hơi thật dài. Ngọn lửa bị sức hút kéo vào nõ, đốt cháy hết thuốc trong nõ. Tiếng nước trong điếu kêu lên sọc sọc, dòn dã. Xong, Hùng Con đặt điếu xuống, nhẹ nhàng nằm ngữa người xuống chiếu, nhắm mắt lim dim. Có người nói to: “Phê! Nó phê (1) rồi đó.” Hùng Con vẫn nhắm mắt, miệng nở nụ cười thật tươi. Nhìn nó, ai cũng vui và lần sau, Hùng Con chưa kịp xin, người ta đã gọi nó cho thuốc hút. Không chắc người ta thương nó, nhưng người ta muốn xem một hoạt cảnh ngộ nghĩnh. Một thằng bé 11 tuổi hút thuốc điệu nghệ còn hơn cả người lớn, những anh mới tập hút thuốc lào. Người lớn có thể say, có lần té vì đứng dậy khi vừa hút xong. Hùng Con thì khác. Kéo xong hơi thuốc lào, bao giờ nó cũng nằm ngã xuống chiếu, nhắm mắt để thưởng thức cái “phê” của thuốc lào.

              Khỏi đi lao động, hằng ngày Hùng Con vui chơi từ nhà nầy qua nhà khác. Đôi khi Hùng Con cũng thuật lại những trận đánh ngày trước Hùng Con có tham dự, nhất là những trận đánh hồi tết Mậu Thân. Có khi, Hùng Con kể “Việt Cộng nằm chết đầy đường, máu chảy lênh láng. Không có chỗ để cháu đặt chân đi qua. Cháu sợ muốn chết, nhưng cháu vẫn đi. Đã có lệnh sai đi thì cháu đi.”

              Có lần, một anh chàng tinh nghịch nói:

              - “Mầy nói mầy hai mươi tuổi. Mầy nói láo. Để tao coi cu mầy có lông chưa.” Nói xong, anh ta xông tới. Mọi người cười hô hố, hưởng ứng. Hùng Con giận, bỏ đi. Không bao giờ Hùng Con trở lại nhà đó vì “mấy chú bất lịch sự.”

              Một năm sau, khi tôi rời trại đi nữa thì Hùng Con vẫn còn đó. Có người nói “Không thể giam tù một thằng bé con lâu như thế!” Có người lại nói: “Việt Cộng mà lớn bé gì. “Lao động là vinh quang” tuốt, chẳng chừa thằng nào.”

              Nhân vật thứ hai là Quảng Què. Gọi như thế vì anh ta tên Quảng và què một chân. Anh nầy tuy lớn tuổi nhưng không lễ phép như Hùng Con. Với ai, Hùng Con cũng gọi bằng chú, bằng bác và xưng cháu. Quang Què chẳng thèm gọi ai bằng anh hoặc bằng ông. Anh ta cứ gọi trổng: “Ê! Xích ra!”, “Ê! Đưa đây!”, tùy theo trường hợp. Anh ta làm như mọi người đều có chung một cái tên “Ê”

              Quảng Què thuộc thành phần thương phế binh, giải ngũ từ trước 1975, khi cái thời huy hoàng của thương phế binh được “anh râu kẽm” (2) ủng hộ, xúi dục đã qua. Tuy nhiên, cái dư âm thương phế binh biểu tình, giành đất, làm nhà, đòi hỏi nọ kia khiến người ta ngán vẫn còn. Với cái “hào quang” đó, Quảng Què trở thành cái bang ở chợ Thái Bình, ngang ngược lắm, ai cũng sợ.

              Sau ba mươi tháng Tư, anh ta xoáy đâu đó được một cái ví trong chỉ có ít tiền và một cái Chứng Chỉ Tại Ngũ tên là Nguyễn Quảng, cấp bậc đại úy. Họ tên thì trùng với anh ta, nhưng cấp bậc chức vụ thì không. Trước khi bị thương và bị cưa chân, cấp bậc của Quảng Què là binh nhì, chức vụ là … khinh binh. Anh ta nhớ mang máng như vậy.

              Mới đứt phim (3) được nửa tháng, anh ta đang hành hiệp ở chợ Thái Bình, giựt cái bót của một chị phụ nữ. Chị ta hô hoán lên. Mấy “chú bộ đội” cùng mấy chú “cách mạng ba mươi” (4) bắt Quảng Què đem về trụ sở phường.

              Cán bộ hỏi:

              - “Anh là lính ngụy, có giấy tờ gì không? Nếu thật là lính ngụy sẽ được đưa đi học tập.”

              Nghe nói “học tập” Quảng Què nghĩ ngay tới quân trường, chỗ đó anh ta có đi học và học lâu hơn ở nhà trường khi anh ta còn nhỏ. Ở quân trường thì lính ăn uống cực khổ, ngày nào cũng chỉ có cơm, cá mối, rau muống luộc hoặc canh su, canh cải. Nghe nói người ta học ra sĩ quan ăn uống sướng hơn. KBC Thủ Đức sang hơn nhà hàng. “Bốn người một mâm”. Thịt gà, thịt heo, thịt bò ê hề (5). Vì vậy, Quảng Què chìa ngay ra cái Chứng Chỉ Tại Ngũ của đại úy Nguyễn Quảng.

              Cầm cái Chứng Chỉ Tại Ngũ, cán bộ hỏi:

              - “Anh tên là Nguyễn Quảng?”

              - “Dạ! phải!”

              Cán bộ lại hỏi:

              - “Cấp bậc đại úy?”

              Quảng Què cũng ừ luôn để được “đi học” chung với sĩ quan cho được ăn uống sung sướng, đầy đủ. Thế là anh ta bị đưa vào trại Suối Máu. Tới đây thì Quảng Què mới biết mình đi ở tù. Tù Việt Cộng thì khổ sở không thể nào kể xiết. Vậy là Quảng Què có ba bốn mối hận: Hận ông trời bắt anh ta què, hận chế độ cũ bắt anh ta đi lính, hận dân chúng hô hoán khiến bộ đội đến bắt anh ta đi tù, hận “cách mạng” đã bỏ tù anh. Anh ta kêu oan rằng anh chỉ là binh nhì, không biết tại sao người ta ghi anh là đại úy. Bộ đội ghi nhận, cho rằng anh khai dối với “cách mạng”. Tội khai gian là tội lớn nhưng cũng hứa sẽ giải quyết. Sẽ có nghĩa là việc chỉ có thể xảy ra ở thì tương lai, còn khi nào thì chưa “cụ thể”. Hai năm rồi mà thì tương lai vẫn chưa tới.

              Tuy vậy, anh ta cũng được “cách mạng” chiếu cố hơn. Trước hết là kêu lên làm việc, khơi sâu mặc cảm giữa sĩ quan và binh lính để giao cho Quảng Què công tác theo dõi những phần tử phản động, phát biểu linh tinh, âm mưu trốn trại, v.v… “Cách mạng” sẽ khoan hồng cứu xét, sớm cho về sum họp với gia đình. Không biết Quảng Què có thực hiện công tác gì không nhưng lời hứa thì coi như hứa… chùa. Hai năm rồi, chưa thấy gì.

              Buổi chiều, dãy nhà bếp chỉ còn lại vài ba anh em lui cui hâm nấu món ăn gì đó trên những cục than đang tàn dần trong bếp, Quảng Què, tay cầm nạng, tay cầm gầu nước, không nói một lời báo động cho ai, tạt nước vào bếp cho lửa tắt hẵn. Nước tạt vào tro than nóng kêu xè một tiếng lớn, làm bụi bay lên mù mịt. Có người bỏ đi, cũng có người cự nự. Quảng Què không những thấy mình sai còn chưởi thề, nói năng thô lổ. Thấy thái độ Quảng Què như vậy, người ta cũng đành thôi. Người ta biết Quảng Què chẳng biết phù thịnh phù suy gì chi rắc rối. Những người chung trại với anh bây giờ là ngang hàng với cấp chỉ huy của anh ta ngày xưa. Ngày đó, anh sợ họ khiển trách, trừng phạt, v.v… Bây giờ họ sa cơ thất thế, anh ta làm vậy cho bỏ ghét. Chỉ là bỏ ghét! Cái ghét đó được “đường lối và chính sách” của “cách mạng” “bồi dưỡng” thêm cho thật sâu sắc và triệt để..

              Lần thăm nuôi đầu tiên, Quảng Què cũng gởi thư về cho vợ, bảo lên thăm và tiếp tế lương thực cho anh ta. Vợ anh ta ở Saigon, trại Suối Máu ở Biên Hòa nên đường đi thăm gần, xe đò cũng tiện.

              Bộ đội đặt một cái bàn ngay cổng nhà thăm nuôi, có khối trưởng hay đại diện khối ngồi bên cạnh để dò tên “cải tạo viên” được thăm giúp. Khi vợ Quảng Què đến thăm, “chú bộ đội” hỏi:

              - “Chị thăm ai?”

              - “Dạ, tui thăm anh Quảng.”

              “Chú bộ đội” dò tên trong danh sách, lại hỏi:

              - “Chồng chị là anh Nguyễn Quảng có phải không?”

              Vợ Quảng Què xác nhận:

              - “Dạ phải! Chồng tui là Nguyễn Quảng.”

              “Chú bộ đội” lại hỏi:

              - “Anh Nguyễn Quảng là đại úy phải không?”

              - “Không! Chồng tui là binh nhì.”

              “Chú bộ đội” xác nhận:

              - “Ở đây không có anh Nguyễn Quảng nào là binh nhì. Chỉ có anh Nguyễn Quảng đại úy.”

              Vốn quê mùa, vợ Quảng Què thật thà nói:

              - “Chắc là anh Quảng đi học tập lâu ngày, nay được lên đại úy!”

              Dĩ nhiên, “chú bộ đội” không tin như vợ Quảng Què, hồi lâu mới tìm ra anh khai gian cấp bậc, cố “xác minh” một lần nữa:

              - “Có phải chồng chị bị què phải không?”

              Chị vợ nhanh nhẩu:

              - “Dạ đúng! Đúng chồng tui què một chân.”

              Nhờ “xác minh” cái què đó, chị vợ được vào khu thăm nuôi.

              Mới thấy vợ, Quảng Què tức giận:

              - “Mày ở nhà lấy thằng nào mà bụng mầy to vậy?”

              Chị vợ ra dấu biểu chồng im. Quảng Què tức tối chống nạng quày quả đi vào, không cần thăm. Chị vợ chạy theo nói nhỏ: “Không phài có bầu anh ơi! Mì! Mì!”

              Té ra vì “bộ đội” không cho gia đình tiếp tế mì gói, sợ trốn trại, nên khi viết thư gởi về nhà, người viết thư giúp khéo léo báo cho vợ Quảng Què biết là Quảng Què cần có mì gói nhưng phải kín không cho bộ đội thấy. Vợ Quảng Què lanh trí lận hai chục gói mì vào bụng, làm như người có bầu.

              Việc “học tập lâu ngày lên đại úy” và vợ Quảng Què có bầu trở thành câu chuyện vui của nhiều người.

              Quảng Què không được thăm nuôi nhiều vì vợ anh ta nghèo. Mỗi lần đi thăm, vợ Quảng Què tiếp tế cho chồng cũng ít ỏi. Vừa thiếu ăn, vừa tức tối và ganh tị vì những người khác được thăm nuôi nhiều đồ ăn, lại quen thói chôm chỉa từ trước, nên bây giờ Quảng Què hành hiệp ngay trong trại giam. Ban đầu thì người ta không biết, sau tìm ra thủ phạm. Quản giáo bắt Quảng Què làm tờ kiểm điểm nhưng cái chứng tật Quảng Què đã quen, nên anh ta cứ bị anh em bắt tội ăn cắp nhiều lần. Cuối cùng, trong một buổi lên lớp toàn trại 4, trong phần khen thưởng, vài cá nhân, vài tổ được bộ đội khen “học tập tốt, lao động tốt”, riêng Quảng Què thì bị “cảnh cáo trước toàn trại”. Anh ta bị gọi lên trình diện trước anh em, ông đại úy chính trị viên đọc lệnh như sau:

              “Nay cảnh cáo có ghi hồ sơ học tập anh Nguyễn Quảng, cấp bậc: đại úy, chức vụ: khinh binh…”

              Cả trại cùng cười về mục cấp bậc và chức vụ trái khoáy như vậy.

              Ngày lập xuân



              (1) Nói tắt chữ effet, có hiệu quả, kết quả, tiếng Pháp.
              (2) “Anh râu kẽm” hay “tướng râu kẽm” là tiếng báo chí hồi 1964, 65 dùng để gọi Nguyễn Cao Kỳ. Khoảng năm 1970, 71 vì mất ăn Kỳ dùng thương phế binh để phá Thiệu.
              (3) Đứt phim, tiếng lóng, để gọi ngày 30 tháng Tư.
              (4) Cách mạng ba mươi, tiếng lóng để gọi những người mới theo Cộng Sản sau khi đứt phim.
              (5) KBC của trường Bộ Binh Thủ Đức là 4.100. Bốn ngàn một trăm, đọc trại để đùa là “Bốn người một mâm”

              Comment



              Hội Quán Phi Dũng ©
              Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




              website hit counter

              Working...
              X