Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Mèo Móng Đỏ

Collapse
X

Mèo Móng Đỏ

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Mèo Móng Đỏ

    Mèo Móng Đỏ

    Ở miền Nam, người ta thường có câu "Đi o mèo". Cứ chiều chiều mỗi khi nắng tắt, mấy anh chàng công tử miệt vườn thường mặc bộ đồ bi-da-ma trắng, tay cầm dù đen, đi guốc mộc, đầu chải bri-ăng-tin bóng lưỡng, hút thuốc thơm Ara hay Ruby, thả rểu đầu trên xóm dưới để lấy le, để o mèo.
    Mấy đứa con nít hùa nhau hát ghẹo:
    -Muốn người ta người ta không muốn
    Xách cái dù đi xuống đi lên.
    Về sau này không ai dùng chữ o mèo để tả cái sự đi cua gái, tán đào nữa, mà "có mèo" thường là để chỉ cái vụ có bồ nhí, vợ hai vợ ba mà thôi...

    Tục ngữ có câu "Mèo mả gà đồng", chắc là vì loài mèo và gà đồng khi chúng nó yêu nhau thì vào lúc đêm tối, nơi vắng vẻ ở tha ma mộ địa, thế nên ái tình bất chính bị gọi là mèo chăng?



    Mèo thường là mấy bà góa chồng, là các cô thợ may hay bán quán, ở cách nhà ông mất nết chừng vài ba cây số. Dĩ nhiên mèo thì trẻ tuổi và có bóng sắc hơn vợ nhà, nhưng cũng có nhiều trường hợp con mèo lại xấu đau xấu đớn, có lẽ nó rù quến được chồng người vì biết chiều chuộng đàn ông và giọng nói ngọt như mía lùi chăng.

    Một con mèo nổi danh thế giới, đánh bạt người vợ chính thức đẹp tuyệt trần như Công Nương Diana là bà Camilla. Chẳng biết mắt Thái tử nước Anh có bị gì không, chứ đàn ông thế giới đều chê ông ta có mắt mà như mù "Chê tôm ăn cá lù đù".

    Trong thâm cung bí sử của nước Cờ Hoa, cũng chẳng còn gì là bí mật khi nhắc tới Marylin Monroe và anh em nhà Kennedy; hay em Monica của chàng Cờ-lin-tơn và hình ảnh chàng khi lên TV trước quốc dân đồng bào, tay nhịp nhịp “Tôi không biết người phụ nữ ấy” .

    Trước khi Bộ Luật Gia Đình ra đời (thường gọi là bộ luật bà Ngô Đình Nhu) thì ở thôn quê có nhiều người hai ba vợ, ở thành phố thì hiếm hơn.

    Trong khoảng 20 năm của nền Cộng Hoà, báo chí có đăng nhiều ông lớn có mèo, các bà lớn ghen tuông tùm lum, mà nổi đình đám, tiếng vang lâu dài nhất là vụ vũ nữ Cẩm Nhung bị tạt át xít hồi 1958.
    Mãi tới năm 1976 hành khách đi ngang phà Cần Thơ vẫn thường thấy một người với gương mặt méo mó, da đầy sẹo kéo chằng chịt, mang cái loa nhỏ, ca hát rong để xin tiền. Bà ta đeo trước ngực tấm hình lớn đôi nam thanh nữ tú, phiá dưới có đề Tr/t Thức và Cẩm Nhung...

    Cẩm Nhung là một vũ nữ xinh đẹp, có nhiều người theo đuổi, y như câu tả Đạm Tiên trong Truyện Kiều: “Xôn xao ngoài ngõ thiếu gì yến oanh”.

    Xin trích một đoạn hồi ký của Nguyên Sa:
    Chúng tôi ngồi trong gian phòng khách nhỏ, người thiếu nữ khuôn mặt đã trang điểm, đôi mắt rất đen và rất to, phấn nền và phấn hồng đều mỏng, nói với tôi chào anh, nói với Mai Thảo chờ em. Mai Thảo giới thiệu, người thiếu nữ và tôi có thêm cơ hội làm những cử chỉ lịch sự. Nàng mau chóng đi ra phía sau bức bình phong, không phải là bức tứ bình có những khoảng không gian ngăn cách mai lan trúc cúc, chỉ là bình phong hình chữ nhật chiều ngang lớn hơn chiều cao, phía ngang kín bưng, ngoại trừ hai phiá đầu và chân không được che kín. Người thiếu nữ đã đứng vào sau bình phong cười với chúng tôi. Thân mình nàng được che khuất, phiá trên ngang tầm vai, phía dưới tới đầu gối. Nàng cũng khởi đầu nói những câu chuyện thông thường với Mai Thảo, em tưởng anh quên, tay chơi cười nhếch mép nói quên thế nào được, thiếu nữ nói tiếp, Mai Thảo chỉ nhếch mép. Thiếu nữ nghiêng đầu nhìn xuống phía dưới. Tôi nhìn theo đường nhìn của nàng, tôi nhìn thấy hai ống chân của thiếu nữ, thấy nàng làm động tác chân đá đá đẩy ra chiếc quần đã rớt xuống. Nàng có di chuyển thế đứng một bước nhỏ, để cho chiếc quần đi ra khỏi vướng víu. Chiếc quần dài rớt xuống trước, trước quần ngắn hơn nhiều, màu sắc cũng nổi bật hơn nhiều rớt xuống sau. Thiếu nữ nhìn tôi cười có nét e thẹn, tôi cười đáp lại, có phần ngượng ngùng. Mai Thảo dường như không chú ý, anh tiếp tục hút thuốc nhìn khói bay lên chậm và tan loãng còn chậm hơn trong gian phòng nhỏ đóng kín. Khi bàn tay của người con gái để lên trên bình phong tôi ghi nhận ngay trên đó đã có để sẵn quần áo, có một chiếc quần dài, màu đen trông loang loáng, chắc sa tanh, càng lấp lánh khi phản chiếu ánh đèn, một chiếc quần ngắn hơn, màu sắc tươi mát hơn, và chiếc áo dài lụa màu nâu gụ có thêu bông. Người con gái lấy xuống chiếc quần ngắn trước, rồi quần dài, đoạn cởi ra chiếc áo cánh, lấy chiếc áo dài nâu thêu bông.

    Chúng tôi đi, thiếu nữ ngồi kế bên Mai Thảo trên băng trên, lần đó, nhiều lần khác nàng ngồi băng sau, tôi ngồi kế bên Mai Thảo. Câu hỏi mình đi đâu của tôi khi được nêu lên mỗi lần có những câu trả lời khác nhau. Tôi không hỏi đi đâu từ trước, đi đâu thì đi, lên xe hỏi han thế thôi, không có định kiến. Câu trả lời thường đến từ phía người con gái.

    -Cho em vào Arc en Ciel!

    - Cho em đi đâu cũng được!

    -Hỏi bác tài!

    Vào Arc en Ciel những hôm nàng đi làm, em đi chơi với chúng mình là câu trả lời đến từ Mai Thảo những lần khởi hành khác. Mai Thảo lái xe chừng mực hơn mỗi khi có phụ nữ. Anh chỉ bay bướm nhẹ nhàng khi xe đề pa và khi dừng lại.

    Nhưng lần chót tôi gặp lại người phụ nữ ấy, Mai Thảo dừng xe có phần gấp gáp, không có nét bay bướm nào. Anh đang phóng nhanh bỗng thắng két, tấp xe vào lề, đậu xe bên phía tay mặt đường Pasteur. Mai Thảo ra khỏi xe không một lời giải thích. Tôi không hỏi, xuống theo ngay, linh cảm có chuyện gì khác lạ. Chúng tôi băng qua con lộ xe chạy một chiều vun vút. Mai Thảo dừng lại trước một người hành khất, một người phụ nữ, móc trong túi ra một nắm giấy bạc, anh chuyển nắm giấy bạc sang tay kia, tìm kiếm thêm, tôi không nhận ra người hành khất là ai, chỉ thấy mặt loang lổ những vết cháy nổi lên những mảng thịt nửa đỏ nửa tím sậm, dị dạng, hai mắt vết cháy càng rõ, lòng trắng và lòng đen bị hủy hoại lổn nhổn. Bạn tôi bỏ nắm tiền vào chậu bằng nhôm, những tờ giấy chạm vào tay người đàn bà hành khất, dường như nàng biết ngay người cho tiền là ai, sự va chạm của bàn tay vào những tờ giấy bạc cho nàng biết ngay là ai, ai có thể cho nàng nhiều tờ giấy bạc như thế, nàng ngẩng mặt lên gọi "anh", Mai Thảo vỗ nhẹ vào bàn tay nàng có tiếng nói an ủi bằng xúc giác, không có âm thanh nào được phát lên.

    Tôi muốn nói lên tên người đàn bà hành khất. Tôi chưa kịp nói Mai Thảo kéo tôi băng qua đường. Tôi ngồi vào trong xe, nói lên ngay tên nàng. Mai Thảo gật đầu. Cẩm Nhung. Tên người vũ nữ thay quần áo sau tấm bình phong mỗi lần Mai Thảo và tôi đến đón nàng đi làm hay đi ăn, đi ra Pointe des Blagueurs hóng mát. Cẩm Nhung bị tạt át xít trong một trận đòn ghen có sức mạnh của tiền hô hậu ủng, có sự tàn bạo mới của thế kỷ khoa học.

    Tôi nhìn bạn tôi ngậm ngùi:

    -Cẩm Nhung!

    Mai Thảo nhìn về phía trước mặt, như nói một mình, rất khẽ:

    -Nhung đấy!

    (Hết trích)



    50 năm qua đi, những người muôn năm cũ như Mai Thảo, Nguyên Sa đã lần lượt ra đi. Không biết bây giờ vợ chồng ông Thức còn sống không, nhưng ai cũng cho rằng "con Mèo Cẩm Nhung" đã chết rồi, chết khá lâu trước khi phà Mỹ Thuận ngừng hoạt động khi chiếc cầu dây văng đã nối liền đôi bờ, vì không ai còn nhìn thấy tấm thân tiều tụy ấy đi hát xin tiền trên từng chuyến phà nhếch nhác, bẩn thỉu nữa.

    Ấy vậy mà nhân dịp họp mặt KQ mấy tuần trước, khi nghe tôi đề cập đến người vũ nữ ngày xưa ấy, anh chị Thành Cối cho biết là Cẩm Nhung vẫn còn sống lây lất xin ăn ở quanh chợ Tân Định, năm nay đã hơn bảy mươi tuổi và bịnh tật rề rề. Còn anh BTM thì nói hồi năm 1970, thường thấy cô ta quẩn quanh ở góc đường Lê Lợi và Nguyễn Trung Trực.

    Thời ấy trong mục Từ Thành Đến Tỉnh mà người ta thường gọi đùa là "Tin Chó Cán Xe" không mấy ngày không có chuyện đánh ghen, mà đề tài này mới là mục có nhiều độc giả, từ bà lớn mệnh phụ đến cô bán hàng, từ cô thư ký công tư sở đến em Ma ri Sến, cũng đều hăm hở đọc như là câu chuyện có mình tham dự.

    Nào là "con mèo" bị sởn lông sởn tóc, bị xé áo xé quần trước bàn dân thiên hạ, bị đổ nước mắm pha ớt hiểm vào trong chỗ kín v v... Họ đọc báo với tấm lòng hồ hởi, ít người tỏ lòng thương hại, cũng chẳng thèm tìm hiểu gia cảnh nạn nhân như thế nào, cô ta có bị người đàn ông lừa gạt hay tự ý âm mưu đoạt chồng người. Mà cũng ít khi thiên hạ quy tội cho người đàn ông, người ta chỉ chép miệng mà rằng:

    -Ối, đàn ông như cái gậy thằng ăn mày, nó bạ đâu chọc đấy, mình là đàn bà con gái khôn thì nhờ, dại thì ráng mà chịu.

    Đến sau 1975 có nhiều ông lớn hay thương gia Ba Tàu cũng dắt díu qua trại có hơn một bà... Lúc đó biết rằng nếu khai đa thê thì sức mấy Mỹ nhận, nên mấy ông đành khai là em vợ, em họ v v...nhưng chẳng chóng thì chầy, những người em hờ này cũng cao chạy xa bay, vì họ có thể tự lực cánh sinh, kiếm được ông chồng cho riêng mình trong thời buổi gái thiếu trai thừa ấy, dại gì sống kiếp "kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng", mà những ông chồng giàu có, uy quyền hét ra lửa mửa ra khói ngày nào bây giờ dở thầy dở thợ, chẳng còn ai coi trọng thì bị bỏ rơi cũng là phải phải.

    Ngay sau khi Miền Nam thất thủ, người dân hay cán bộ nào dính tới "Ái tình bất chính" thì ôi thôi thê thảm. Họ bị lôi ra bêu xấu trước tổ dân phố, nếu là cán bộ thì bị khai trừ khỏi đoàn đảng, bị hạ tầng công tác, có khi bị đuổi cổ khỏi guồng máy cai trị nữa.

    Ấy vậy mà ngày nay, sau bao năm tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc, rất nhiều người lấy làm hãnh diện khi có một cô thư ký chân dài cặp kè bên mình đi hội nghị đó đây. Người nào không có được thì cảm thấy dưới cơ, đối tác nhìn mình chẳng ra gì!

    Bây giờ các quan chức và đại gia chẳng còn ai thèm cặp với gà móng đỏ trong các quán massage hay nơi chốn ăn chơi như bar rượu, vũ trường cho nó nhẹ thể, mà phải là Nữ Sinh Viên, biết nói vài ngoại ngữ, biết đấu hót văn chương và nói chuyện chính trị tầm cỡ ... thế giới.

    Các "Trung gia" như chủ xe hàng, chủ xe tang, nuôi cá, nuôi vịt thì lo bao mấy nữ Công nhân Khu Công Nghiệp, trong khi họ đang trọ ở những phòng ngủ tồi tàn. Mấy cô bèn cho đi chút đỉnh ái tình để kiếm thêm chút tiền gửi về nhà, nếu khéo cư xử có khi cũng mua được chiếc wave Tàu!

    Các ông đứng như chờ người nhà gần cổng, mắt láo liên cho điểm từng cô gái đi qua như người ta kiểm điểm đàn vịt, ưa cô nào thì rà theo đến tận phòng trọ.

    Mỗi chiều khi tan tầm, hàng mấy ngàn nam nữ công nhân tuá ra từ các hãng xưởng, các cô gái tuổi đôi mươi gốc gác ở miền quê xa xôi lên thành phố kiếm việc làm, họ sống thanh đạm, phải nói là quá nghèo nàn nên khi có người tán tỉnh, đeo bám, cho quà nọ thức kia, thì cho dù ông đó có hơi lớn tuổi, thì lâu ngày cây cũng bị cưa đổ.

    Họ sẽ được mướn riêng một phòng trọ chứ không còn phải chung đụng năm sáu người, để người tình kia thỉnh thoảng ghé thăm.

    Mấy tháng sau khi cái bụng nhu nhú thì người tình biến mất. Cũng có khi người con gái ấy bị một đám nặc nô đánh ghen mướn kéo tới hành hung, đành phải bán xới dọn đi nơi khác.

    Khi người Pháp còn cai trị Việt Nam, họ vẫn cho phép một người đàn ông được lấy nhiều vợ, nhất là trong giới quan quyền và những nhà phú hộ. Đặc biệt là chính những bà vợ mang sính lễ đi cưới vợ bé cho chồng.

    Năm 1958 khi gia đình tôi từ Bình Dương về sống chung với người Bắc Di Cư ở vùng Cái Sắn, tôi không hề thấy có ông Bắc Kỳ nào hai vợ, vì hầu như họ là dân toàn tòng trong họ đạo Công Giáo, nếu có ông bà nào “hó háy với nhau” một chút thì tiếng đồn ùn lên, mang tiếng lắm, chỉ còn có nước đi chơi chỗ khác như lên miệt SG.

    Nhưng như đã nói ở trên, những ai đã có nhiều vợ trước khi luật mới ra đời vẫn được đa thê như cũ, không phải bỏ bớt bà nào chi cho uổng. Ở đầu Kinh 5 có vài gia đình người Nam có hai vợ. Gia cảnh họ cũng không giàu có gì:

    -Ông Mười Hàm làm nghề nông và còn đan lát lọp và ống trúm bắt lươn. Nhà ông ở ngay bến đò Kinh 5. Năm nay chắc ông cũng xấp xỉ 90 tuổi. Lần về thăm VN gần đây nhất, tôi thấy ông đã lụm cụm lắm. Tuy tên là Mười Hàm, nhưng trên mặt ông chẳng còn hàm nào vì răng đã rụng sạch. Tôi quên không hỏi thăm hai bà vợ ông còn hay đã mất.

    -Ba vợ chồng anh Lu- theo cách gọi của bà Phần Phụng kế bên nhà tôi- Anh Lu còn trẻ và hai vợ của anh là hai chị em ruột. Cả ba thường đi cấy lúa mướn trong kinh.

    Một hôm vào mùa nước lớn, anh Loan con bà Phần Phụng đang phát cỏ thì nghe cái cụp, anh nghĩ là mình chặt trúng con cá khá lớn nên thò tay xuống nước mà mò, nhưng không ngờ nó là một con rắn, bị cái phảng chặt trúng gần đuôi, nó táp cho anh một phát. Anh cáu sườn cầm cái cù nèo đập năm sáu cái rồi gọi anh Lu đang cấy lúa ở lô ông Bạ Tụng:

    -Nè anh Lu, có lấy rắn không?

    Anh Lu bỏ mói xuống ruộng vừa chạy vừa nói, “Lấy chứ, lấy chứ”.

    Thuở ấy hầu như người Bắc chưa có mấy người dám ăn thịt rắn.

    Khi đến gần, thấy anh Loan dùng cù nèo móc lên một con rắn dài thoòng lớn hơn cổ tay, có khoang đen khoang trắng thì Ba Lu dội ngược:

    -Tôi không lấy con rắn này đâu, nó độc lắm, rắn trung mà, nó cắn một cái là chết liền!

    Anh Loan giơ bàn tay ra:

    -Chết cái khỉ khô. Nó mới cắn tay tôi, dấu răng còn ràng ràng đây nè.

    Ba Lu xanh mặt, tặc lưỡi mấy cái:

    -Trời, trời. Không biết con rắn trung này nó cắn người Bắc thì sao, chớ nó cắn người Nam một cái là chết liền!

    Gia đình ông Mười Hàm và Ba Lu tuy một ông hai bà nhưng sống rất hài hòa và hạnh phúc. Tuy nhiên ai cũng nhận thấy việc này rất hiếm hoi, chứ thường ra ông nào đèo bòng cũng cảm nhận “Sung sướng một vài ngày, mà đau khổ cả một đời”.


    Nguyễn Viết Tân
    Last edited by Phòng Trực; 01-30-2013, 09:33 AM.


Hội Quán Phi Dũng ©
Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




website hit counter

Working...
X