Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Đặc San Hội Ngộ kỳ III

Collapse
X

Đặc San Hội Ngộ kỳ III

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Đặc San Hội Ngộ kỳ III


    Bạn bè SVSQ thân mến,
    Thấm thoát thế mà đã 3 tháng kể từ ngày anh em chúng mình họp đàn trong ngày Hội Ngộ Liên Khóa SVSQ/KQ Kỳ III. Đặc San Hội Ngộ đã chào đời với rất nhiều khích lệ mặc dù vẫn còn rất nhiều sơ sót. Tinh thần bao dung của người đọc với những lời phê bình xây dựng đã làm cho BBT rất cảm kích và ghi ơn.

    Để giúp cho các bạn bè và thân hữu SVSQ KQ đã không có dịp về dự Hội Ngộ và không có trong tay cuốn Đặc San, kể từ hôm nay những bài đã được đăng trong Đặc San sẽ được lần lượt post lên đây để bạn bè cùng thưởng thức.

    hung45qs
    Last edited by hung45qs; 06-20-2011, 08:34 PM.
    Hung45HTQS


  • #2
    Lời mở đầu


    Thưa các Niên Trưởng và các bạn,
    Năm nay, lịch sử đã ghi lại đúng 35 năm kể từ ngày anh em chúng ta chấm dứt đời binh nghiệp. Hoàn cảnh đã khiến anh em chúng ta mỗi người một ngã nhưng tâm hồn Không Quân đã khiến tình cảm chúng ta ngày càng thêm khắn khít hơn.
    Những chàng trai trẻ Không Quân Hào Hùng của ngày xưa nay không còn nữa mà thay vào là những vị lão thành trên dưới 60 nhưng vẫn còn cố giữ trái tim trẻ trung của Không Quân ngày nào. Chúng ta vẫn yêu cái Không Quân và vẫn hành diện là Không Quân, và trong truyền thống “Không Quân không bỏ anh em, không bỏ bạn bè”, Hội Ngộ Liên khóa 72-73 được thành hình như một lời mời gọi.
    Hôm nay, chúng ta lại có dịp quay quần bên nhau để chuyện trò, để nhắc lại chuyện xưa, để cười đùa vui vẻ. Ban Tổ Chức ước mong đã được là một nhịp cầu tri âm để nối lại những tình cảm tưởng rằng đã mất trong tháng ngày qua.
    Đặc San Hội ngộ đã được đóng góp bởi những đứa con Không Quân hoặc những thân hữu đã có một sự ràng buộc với Không Quân. Chúng tôi hy vọng đứa con tinh thần này sẽ sống mãi trong tâm hồn chúng ta và ước mơ sẽ để lại những ấn tượng đẹp đẽ cho thế hệ đời sau khi chợt nghĩ về cha và anh của họ.
    Hãy cùng nâng ly và hãnh diện là các bạn đã có mặt trong ngày Hội Ngộ này, hãy mỉm cười và tự hãnh diện là mình đã có đóng góp một tí gì trong những bước chân duy trì truyền thống Không Quân.

    Thay mặt BBT
    hung45qs
    Last edited by hung45qs; 07-19-2015, 02:44 PM.
    Hung45HTQS

    Comment


    • #3
      49 Ngày Với Em

      Lê Khánh Thọ. Thứ Ba, 2/23/2010, 12:00:00 AM
      Tác giả: Lê Khánh Thọ
      Bài số 2871 -1628971- vb3024110


      Đây là một chuyện tình cuối đời, vui vẻ và tỉnh thức trước cửa tử sinh.Tác giả là một họa sĩ viết văn định cư tại Pháp. Năm 2005, cô nhận giải hội họa Pháp lần thứ hai và nhận giải danh dự Viết Về Nước Mỹ.
      Bài viết đã đăng trong báo xuân Việt Báo Tết Canh Dần 2010 và đã khiến nhiều độc giả bầy tỏ sự xúc động. Ông Nguyễn Đăng, viết trong email ngày 9-2-2010, “Sáng nay nhận Việt Báo có bài "49 ngày với em", tôi đọc một mạch. Rất xúc động về mối tình thật đẹp... Tôi đã học được một vài điều về tình yêu, khổ đau, cuộc đời, sự sống,cái chết qua bài viết này của chị.”
      Trong email ngày 16 tháng Hai, cô Diệu Hoa viết, “Em là độc giả của Việt Báo. Em đã nín thở đọc “49 Ngày Với Em”. Bây giờ em đã hiểu sự mầu nhiệm của 49 ngày rồi. Tiếc quá, phải chi em biết điều này sớm hơn. Mẹ em mất hồi hai năm trước.”
      Nhiều độc giả khác, trong email ngợi khen bài viết còn lưu ý “Trong bài chàng từ trần 2 giờ sáng, sao cuối bài lại ghi là 4 giờ sáng?”
      Trong bản trích đăng lại sau đây, sự lầm lẫn của toà báo đã được chỉnh sửa theo đúng bản chính của tác giả.
      ***


      1. GIỚI THIỆU
      Trước 1975, tôi là một phi công Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa. Tôi qua Mỹ từ ngày mất nước, khi tuổi đời vừa mới 25. Mang tiếng pilot bay bướm nhưng tôi không có lấy một mảnh tình, bởi vì tôi không có tài tán gái. Thời đó mặc dù phụ nữ Việt nam cao giá, mấy thằng bạn không quân lanh lẹ vẫn vớt được một cô vợ Việt. Tôi khù khờ, vài năm sau đành yên bề gia thất với một thiếu nữ Mỹ tuổi đôi mươi. Hồi mới cưới, cuối tuần tôi thường dẫn Carrol hội họp bạn bè, nhưng nàng cảm thấy lạc lõng giữa đám người Việt bất đồng ngôn ngữ và từ chối những buổi họp mặt. Xuất giá tòng thê, mất liên lạc với đám bạn cũ, tôi hoàn toàn hội nhập vào đời sống Mỹ. Khi đứa con gái lên 5, chẳng may Carrol bị bịnh thận. Căn bịnh quái ác kéo dài hành hạ nàng hơn 20 năm và nàng qua đời vào thời gian đứa cháu ngoại vừa tròn 3 tuổi. Gần 2 năm qua, nổi buồn mất người vợ Mỹ tuy đã nguôi ngoai nhưng tôi vẫn giữ thói quen sống không bè bạn, vẫn âm thầm cô đơn chiếc bóng.

      2. Minie
      Đọc địa chỉ minie52@yahoo.fr qua người bạn thân giới thiệu, tôi tính ra năm nay nàng 53 cái xuân vàng. Tuổi này hồi đó má tôi nhai trầu nhổ nước miếng đỏ lòm.
      Tôi ngắm hai tấm ảnh hoàn toàn trái ngược nhau. Hình đầu tiên nàng mặc áo thun xanh thẫm bó sát, vùng ngực khoét sâu lồ lộ hai trái cam trông ngồ ngộ. Tai đeo bông lủng lẳng bự tổ chảng. Đôi môi dày tô son đỏ láng lườm. Nàng ngồi bên cạnh đám bạn cả nam lẫn nữ, trước mặt đống vỏ chai bia ngổn ngang trên bàn, bối cảnh “tuổi chiều thác loạn”. Tấm hình gởi sau nàng mặc quần đen. Chemise dài tay cổ bẻ. Mặt mũi nàng nhợt nhạt thiếu phấn son đứng bên cạnh các trẻ mồ côi Việt nam, bối cảnh“hoa úa rụng sân chùa”.

      Mail qua mail về tương đắc, bỗng nhiên mất liên lạc hai tuần lễ, tôi bị chứng hồi hộp mỗi khi mở hộp mail.
      Houston: Hello Minie,
      Mình tôi ngồi với đìu hiu
      Mù tăm, biệt tích…mất tiêu em rồi !
      Tơ vương!?

      A ha ha, sáng nay có mail Minie. Tôi cứ lo nàng trốn luôn. Ngậm điếu thuốc chưa vội châm lửa, tôi hí hửng lướt qua những dòng chữ:
      France: Salut anh Tốt !
      Em mới đi Việt nam về.
      Xin lỗi anh, em gián đoạn mail vì em đang bận rộn giải quyết một vấn đề mà em đã hùn vốn tình cảm. Em đã không sáng suốt nghĩ ra rằng người đàn ông cùng lối xóm hồi thơ ấu, sau nhiều năm sống dưới chế độ Cộng sản, đã có cách tính toán cư xử làm em vô cùng thất vọng. Lâu nay em đi tìm mà vẫn chưa được gặp người trong mộng.
      . . .

      Houston: Hi Minie,
      Ở đời, chẳng dễ gì gặp được người trong mộng đâu em! Trong tình cảm, người ta lại thường dè xẻn, mặc dù tình cảm là thứ càng tiêu hoang lại càng giàu. Dĩ nhiên, không ai muốn trao duyên lầm tên tướng cướp. Không đi khó mà đến, không hôn con cóc làm sao biến nó thành hoàng tử. Trong con cóc nào cũng có hoàng tử, chỉ chờ có nụ hôn thôi.
      Không lẽ, em duỗi chân nằm đợi tuổi già rêu phong cho đến ngày trở về cát bụi!?
      . . .

      France: Salut anh Tốt,
      Em thử hôn con cóc ở Việt nam từ 4 năm nay, hy vọng nó sẽ biến thành hoàng tử. Ai ngờ cóc vẫn là cóc. Hè năm nay em còn bị cóc cắn te tua nữa đó. Em sẽ không vì sợ mà trốn cóc.Em sẽ lạc quan như lời anh khuyên nhủ, sẵn sàng hôn thử con cóc khác...
      . . .

      Houston : Hi Minie,
      Hạnh phúc không hề là món quà tặng đương không, tựa như người bên cạnh dọn cỗ sẵn cho mình ăn, không vừa miệng thì la làng thay vì bỏ một bàn tay vào xào nấu phụ.
      Minie ơi, em có biết mỗi ngày anh ngắm hình của em. Còn ăn tiền lắm đó. Together, we can make it! Mi em

      Sau 6 tháng với gần 200 mails tán tỉnh, tốn mấy chục thẻ điện thoại, nghe nàng nói nhiều hơn tôi nói, Minie đồng ý gặp mặt tôi. Tôi hẹn bác sĩ khám răng, khám tổng quát. Đến chợ mua vớ và đồ lót trắng tinh, chờ giờ lên máy bay...
      3. Gặp gỡ - France
      Minie bằng xương bằng thịt trước mặt tôi. Điểm đầu tiên « coi được » nhờ đầu tóc nhuộm nâu hợp với khuôn mặt và bộ đồ đúng mode bó sát thân hình tròn trịa, chưa đến nổi phát phì như Carrol. Hai vết dài hằn sâu hai bên miệng nàng in dấu thời gian tàn ác. Tôi không thất vọng, trái lại cảm giác thân quen tự bao giờ tràn ngập trong tôi niềm bình an kỳ lạ. Không biết diễn tả bằng lời, tôi âu yếm nói với nàng qua ánh mắt. Mấy mươi giây trôi qua, nàng bẽn lẽn lãng tránh, gương mặt đỏ rần kiểu nữ sinh biết yêu lần đầu. Nếu bắt chước tiểu thuyết lãng mạn, chàng thanh niên hào hoa tuấn tú nâng cằm người đẹp, mắt nàng từ từ khép lại, đôi môi hé mở chờ đợi một nụ hôn nồng cháy. Khổ nỗi niềm xao xuyến dâng trào mãnh liệt khiến tôi bối rối, tôi bật tiếng cười khan và xổ đại một câu:
      - Chời ơi, già rồi còn bày đặt đỏ mặt!
      Nàng cười khúc khích, ngúng nguẩy:
      - Hihi, anh đừng nhìn em!
      Tôi ôm nàng vào lòng, nàng không chống cự, đồng lõa ép sát vào người tôi. Nhịp tim tôi đập loạn xà ngầu.

      Tôi yêu tiếng cười của nàng. Tiếng cười hồn nhiên tắm mát tâm hồn tôi vốn lâu nay cằn cỗi. Người vợ Mỹ không có được tiếng cười tràn đầy sức sống đó, kể cả những năm đầu tiên bả còn mạnh khỏe. Nàng khen giọng Sài gòn của tôi quyến rủ và tôi có lối kể chuyện tiếu lâm hấp dẫn, tôi vô cùng ngạc nhiên về tài năng chưa từng được ai khám phá. Sau mỗi câu chuyện, nghe giọng cười dòn dã của nàng thay cho lời khen thưởng, tâm hồn tôi phơi phới. Để chứng tỏ tài nghệ, tôi mất nhiều thì giờ lên Net sưu tầm truyện cấm đàn bà.

      Trước hôm tôi về lại Mỹ, nàng ngắm ngía xấp hình tôi và nàng đi chơi Paris, đang cười nói vui vẻ nàng bỗng ngậm ngùi:
      - Em già hơn trong hình anh hé!?
      - Ờ.
      - Phải chi em đẹp giống trong hình cũng đỡ. Thật sự em xấu anh há!?
      - Chớ còn gì nữa!
      Im lặng mấy giây và hai vai nàng run nhẹ. Lần đầu tiên tôi thấy nước mắt đàn bà rơi, tim tôi bỗng nhiên thắt lại.
      - Xấu đâu có sao đâu em!
      Lời an ủi vụng về khiến nàng nổi giận:
      - Người ta nói: “Bất cứ người đàn bà nào cũng đẹp trong đôi mắt của người yêu”. Rõ ràng là anh không yêu em.
      - Chời ơi, em nghe gì mấy thằng cha ba xạo bày đặt xổ ranh ngôn. Tại em xấu thì anh nói em xấu.
      Nàng hất tay tôi khỏi vai, giọng lạnh lùng:
      - Từ nay về sau, em chỉ xem anh là bạn.

      Về lại Mỹ, sau nửa tháng cầu hoà vẫn không ăn thua gì, tôi vào thư viện Hoa Sen, miệt mài nghiên cứu Phật pháp và forward tới tấp, cốt ý mượn lời vị tha của các bậc đạo sư thay lời giúp tôi, đồng thời tôi gọi phôn tán thêm:
      - Em hổng hiểu gì hết, đừng giận anh nữa cưng à! Em có biết“Thập trọc nhất thanh” là quý tướng, còn “thập thanh nhất trọc” là phá tướng? “Thập trọc nhất thanh” nghĩa là 10 phần tướng xấu mà ở trong lại ẩn 1 quý tướng thì như đá ẩn ngọc quý. Đấy là trường hợp của em. Còn tụi tài tử đẹp dàn trời nhưng thuộc về “thập thanh nhất trọc”, nghĩa là 10 phần tướng tốt đẹp, lại ẩn bên trong một tướng rất xấu, cho nên gọi là phá tướng.
      Nàng phì cười:
      - Bộ uống rượu đế sao mà hôm nay xổ Nho dữ vậy anh?

      Tôi nghỉ việc một tuần bay qua Pháp. Đúng như tôi hy vọng, nàng hiểu sự trở lại Pháp cấp tốc chỉ sau ba tuần lễ xa nhau là bằng chứng hùng hồn cho tình yêu “nặng ký” của tôi.

      Một tuần lễ hạnh phúc trôi qua thật nhanh, tôi bịn rịn giã từ nàng, trở về Houston với công việc. Cạnh computer, tấm hình tôi ôm vai nàng đứng trước tour Eiffel lồng lộng gió xác nhận tôi đang yêu và được yêu. Từ nay tôi được nói và được nghe tiếng Việt nam. Tôi sẽ cùng nàng du lịch khắp Âu Châu và về Hội An thăm nơi nàng chôn nhau cắt rún. Mấy thằng cha thi sĩ “vì em tôi làm thơ”, nhưng vì em tôi sẽ làm overtime chết bỏ!

      Mỗi lần nghe tôi làm overtime, nàng phản đối:
      - Overtime một vần với die. Anh đừng cố quá mà quá cố.
      4. Houston
      Tôi báo tin nàng sẽ qua ở với tôi 3 tháng, con gái tôi, Jenny phụ tôi vất hết đồ đạc của mẹ nó, chỉ trừ mấy tấm hình tạm dẹp vào nhà kho. Ngày đầu tiên, nàng thắc mắc:
      - Ủa, anh theo Phật giáo nhưng tại sao em không thấy bàn thờ Phật?
      - Mình ở với người ta thấy cũng kỳ.
      Nàng trợn mắt:
      - Vợ con anh chớ ai mà anh nói “người ta” !?
      Tôi không trả lời, bàng hoàng vì câu hỏi của nàng. Câu hỏi như nhát búa tỉnh thức nổi đau âm ỉ từ mấy chục năm qua. Tôi làm việc nuôi vợ con; căn nhà của tôi trả góp nhưng tôi không hoàn toàn nghĩ là của tôi. Mặc cảm ăn nhờ ở đậu như một vết xâm khó gột rửa. Có phải vì đây không phải là quê hương tôi!? Có phải vì Carrol và con gái tôi không cùng chung ngôn ngữ!?

      Từ ngày có nàng, tôi vặn đồng hồ báo thức sớm hơn 15 phút, để được ôm ấp nàng trước khi đi làm và nói những câu thuộc loại không giống ai:
      - Tội nghiệp hông! Tự nhiên ở đâu bên Pháp qua đây cho người ta dzày dzò!

      Mỗi sáng tôi được nàng trao ly cam tươi tự tay nàng vắt. Tôi nao nao xúc động nhìn bóng dáng nhỏ nhắn qua kính chiếu hậu, bàn tay vẫy tiễn đưa tôi đến sở làm. Đến từng tuổi này, chưa bao giờ tôi được hưởng loại cảm giác tình cảm đậm đà.

      Tôi xin nghỉ hai tuần lễ cùng nàng du hí Cali. Từ Houston tôi lái xe xuyên bang, ngày đi đêm nghỉ motel. Tại Las Vegas, chúng tôi làm lễ cưới đơn giản. Nhìn ngón tay nàng mang nhẫn mới, tôi bồi hồi cảm động tấm lòng nhân đạo đã chọn nhẫn cưới chỉ hơn 100 đô la. Đêm động phòng hoa chúc… lần thứ mấy mươi, nàng âu yếm hôn tôi:
      - Con cóc đã biến thành hoàng tử rồi thì cứ hoàng tử luôn nha. Xớn xác là em lột da cóc đó!

      Về đến Houston, nàng hối tôi ra phố lựa tượng Phật Quan Âm và ghé chợ Mỹ mua bó hoa cúng Phật. Nàng yêu cầu tôi chọn thêm cho Carrol bó hoa bả thích hồi còn sống. Sau khi lập bàn thờ Phật trên bệ lò sưởi, nàng kéo bàn salon ra giữa nhà, sắp trái cây và chưng bó hoa hồng tươi. Nàng nói:
      - Em là kẻ đến sau, vô nhà người ta mình phải xin phép đàng hoàng. Anh vái bả bằng tiếng Mỹ, nói rõ cho bả biết là bả chết rồi, lo đầu thai đi, có thương yêu anh thì còn nhiều kiếp khác. Anh xin phép bả cho anh lấy vợ. Em nghi bả lưu luyến anh nên vẫn còn ở nhà này, nhất là bả chết trong giấc ngủ ngay trên giường của bả. Anh vái xong đến phiên em. Em nói tiếng Mỹ bồi chắc bả cũng hiểu. Ăn thua anh dỗ bả trước cho thật hay.

      Khói hương nghi ngút, tôi cầm ba cây nhang rưng rưng nước mắt. Tình nghĩa hơn 25 năm với người vợ Mỹ hiền lành xấu số làm sao tôi quên cho được ! Tôi nao nao xúc động vì nàng giúp tôi cởi mở một gút mắc tâm tình.

      Ngày nọ ra chợ Việt tình cờ tôi gặp lại Đản, người bạn cũ báo tin tối hôm đó tổ chức họp mặt bạn bè. Tôi nôn nao được dịp gặp lại nhóm bạn không quân. Tòng từ Dallas, mặc dù sức khỏe bấp bênh cũng chịu khó lái xe mất nhiều tiếng đồng hồ, cặp mắt sáng rỡ khi nhận ra tôi, giọng miền Nam oang oang chọc phá:
      - Tưởng ai, khỏe không Tốt lèn ? Thằng Đản phôn nói có người muốn gặp tao, không ngờ là mầy !

      Đọc trong ánh mắt bốn thằng bạn cũ tràn ngập nổi vui mừng tôi có vợ, nhất là vợ Việt nam, điều này hứa hẹn tôi sẽ không biệt tích giang hồ như trường hợp với người vợ Mỹ. Bốn bà xã của họ cũng vui vẻ chấp nhận nàng. Tôi thầm nghĩ…Nếu tôi dại dột rinh con vợ nhí Việt nam qua đây thì một sự xung đột về nhan sắc và tuổi tác với bốn nữ tướng kia dễ bề bùng nổ, tôi sẽ rất khó lòng trở về vòng tay ấm áp với tụi bạn cũ.
      Vừa trở lại nhà, Đản vui vẻ phôn :
      - Ê Tốt lèn, Má mầy để quên cái bóp, khi nào rảnh ghé tao lấy.
      5. Tai họa
      Ngày nàng sắp sửa trở lại Pháp, tôi phải vào bệnh viện. Bác sĩ quyết định khẩn cấp mỗ, cạo chất vôi bám trên cột xương sống, là nguyên nhân chận dây thần kinh khiến chân tôi tê liệt.
      Vết mỗ của tôi bị nhiễm trùng làm mủ phải mỗ đi mỗ lại bốn lần. Ngảy tái khám, bác sĩ Mỹ báo tin tôi bị Hépatitis B. Chết điếng cả người, tôi phôn hối nàng đi thử máu. May mắn mười năm trước nàng đã chích ngừa miễn nhiễm.

      Vợ chồng con gái tôi đi làm cả ngày. Đến giờ ăn, tôi mệt nhọc ăn đại món gì trước mắt, hoặc lái xe ra ngoài ăn tiệm. Bụng tôi trương phình lên và ngẹt thở, phải vào nhà thương hút nước khẩn cấp. Bác sĩ báo tin tôi cần thay lá gan mới (hậu quả lạm dụng trụ sinh trong bốn lần mỗ). Bầu trời quay cuồng sụp đổ. Không, thà chết chớ tôi không muốn kéo dài cuộc sống èo uột như người vợ Mỹ, mỗi tuần phải vào nhà thương vài lần và rốt cuộc cũng không thoát khỏi tử thần. Ngày đó Carrol còn có con gái, còn có tôi bao bọc, phần tôi chẳng có gì ngoài gánh nặng bệnh tật. Tôi quyết định về Việt nam ở với chị tôi để chữa trị thuốc Nam.


      6 - Việt nam
      Tôi trở về căn nhà thời thơ ấu của ông bà ngoại tôi vùng Phú Nhuận. Ba bà dì không chồng ở chung trên căn nhà chính, gia đình chị tôi ở căn nhà ngang. Tôi được ở trong một phòng nhỏ bằng nửa căn nhà bếp của tôi bên Mỹ. Đây là căn phòng chị tôi xây thêm ở góc sân để má tôi dưỡng bịnh cuối đời. Mỗi bề 3m, giường chỉ cách toa –lét hai bước chân, rất tiện lợi cho người bệnh khó kềm hãm nhu cầu vệ sinh. Cũng may phòng có máy điều hòa không khí.
      Nàng điện thoại trấn an tôi:
      - Mấy đứa em của em nói anh đừng lo. Báo Cali đăng rần rần có ông nghệ sỹ T. bị ung thư bác sĩ Mỹ chạy, ổng về Việt nam chờ chết, không ngờ số ổng hên gặp thầy chữa thuốc Nam nào đó giỏi dàn trời. Nghe nói ổng lành bệnh xong cưới một con bồ nhí, mới đẻ đứa con trai.
      Những loại tin tức này gây phấn chấn cho nàng và cả cho tôi. Tôi không cần con bồ nhí, tôi chỉ cần nàng, người đàn bà tuổi nhai trầu thích nghe tôi kể chuyện tiếu lâm, người mang đến cho tôi hạnh phúc.

      Hai giờ trưa, tôi ngồi trên băng ghế đá trong sân, đọc báo, uống càfé, thình lình nghe tiếng xe hai bánh ngừng trước cổng nhà. Một bà dáng thấp bé, mặt bịt khăn, đầu đội mũ bảo vệ tròn vo, áo khoác rộng dài tay, kiểu thời trang Sài gòn làm xấu thành phố. Tôi liên tưởng đến con vịt đẹt. Con vịt đẹt tiến lại gần tôi, lột mũ và khăn che mặt.
      - Anh biết ai đây không?
      Minie của tôi đang nở nụ cười Mona Lisa. Nàng hôn nhẹ lên má tôi.
      Tim tôi thót lại:
      - Ủa, sao em nói còn hai tuần nữa mới dzề!?
      - Em đổi vé, nói trước làm chi, để anh ngạc nhiên chơi!
      Chị Hai mời nàng vào phòng khách. Giọng nàng dõng dạc:
      - Em nghe anh bị hút nước trong bụng, em nghĩ là bịnh tình trầm trọng nên em đổi vé về sớm hơn. Em gái em ở Cali nói người ta đồn có ông thầy Châu Đốc chữa ung thư gan giỏi lắm. Em dẫn anh đi nghen anh!
      Tôi không thích bị ai dẫn dắt, cương quyết:
      - Không.
      Nàng lục lọi trong bao nhựa đem theo, rút tờ báo Phụ Nữ, đọc lớn tiếng:
      - “Bác sĩ cho biết bịnh ung thư vẫn có người sống thêm 10 năm 14 năm, vẫn sinh con nhờ thuốc men và chế độ ăn uống cẩn thận”. Trên internet bác sĩ Pháp cũng viết y chang, em có ghi rõ nhân chứng, vậy buổi trưa em nấu và em cùng ăn với anh. Anh đọc nè.
      - Khỏi cần đọc. Anh hổng phải ung thư.
      - Thì anh bị gan nặng cũng phải chữa chớ. Anh thương em chìu em chút đi mà.
      Giọng nàng mềm như bún kèm theo gương mặt thiểu não. Tôi mềm lòng nói nhỏ:
      - O.K, đi thì đi.

      Tôi mệt mỏi vào phòng nằm nghỉ. Tôi ôm nàng vào lòng, rưng rưng cảm động.


      Giường chật hẹp chỉ đủ chỗ cho một người…rưỡi. Muốn nằm thẳng người, nàng bắt buộc trồi lên đầu tôi, cánh tay phải sát vách tường duỗi thẳng dọc theo thân hình và cánh tay trái duỗi ngang. Tôi thầm thì:
      - Cái mặt thấy ghét! Cho anh dzớt cái nha em!
      Lập tức nàng hốt hoảng:
      - Thượng mã phong đó!
      Tôi thở dài. Quả thật tôi không tin tưởng “chú A37” cho lắm! Sợ chú bay không ra bay, chỉ làm mất mặt đàn anh. Tưởng tôi buồn, nàng xoa đầu trọc an ủi:
      - Để khi nào anh lành bệnh rồi muốn dzớt bao nhiêu thì dzớt!

      Buổi tối nàng về nhà em gái. Sáng hôm sau nàng đem tới đồ ăn nấu sẵn.
      Sau hai lần bị hút dịch tràng, chị dọn cho tôi ăn một mình, chén bát để vào một mâm riêng. Tôi có cảm tưởng mọi người e dè tôi vì sợ căn bịnh truyền nhiễm nhưng cố gắng giữ lịch sự tối thiểu. Các cháu lễ phép chào cậu rồi lẫn tránh thật nhanh. Ông anh rể lạnh nhạt, chỉ trừ chị Hai gần gũi tôi nhiều nhất, nhưng chị em hỏi han vài câu là hết chuyện nói, nhất là chị cũng đang khổ sở về bịnh đau khớp chân.
      Đi Châu Đốc về, cả nàng và tôi đặt nhiều hy vọng. Ba chén thuốc Nam uống mỗi ngày đưa tôi đến tình trạng đi tiêu, đi tiểu liên miên.
      Theo lời thầy thuốc, nàng cho tôi ăn cá sông. Cử dầu, gia vị, nước mắm, chỉ trừ được thêm nghệ và gừng. Rau luộc cũng lạt nhách. Tôi quạu quọ:
      - Em đừng nấu nữa, để chị anh nấu.
      - Vậy buổi trưa chị anh nấu cho em ăn luôn à!?
      - Thì em ăn xong hãy tới.
      - Không.
      - Tại sao em ăn chung với anh?
      - Cho vui. Anh thấy chưa, em ăn giống như anh dễ dàng mặc dù em không bịnh.
      - Em khác anh khác!
      - Khác ý chí. Cho dù anh không muốn em cũng cứ nấu đem tới, ăn hay không ăn là quyền của anh.
      Tôi cau mặt lạnh lùng:
      - Em đừng tới nữa, em về đây làm anh mất tự do.

      Ba bà dì và chị tôi nói tôi tên Tốt nên số tôi tốt, bịnh gần chết còn có “hồng nhan tri kỷ” cận kề săn sóc. Bụng tôi xẹp xuống, da mặt hồng hào hơn trước. Mỗi 4 giờ rưỡi sáng, tôi chống walker bước chầm chậm quanh những con đường gần nhà. Mặt trời chưa lên, thành phố còn ngái ngủ thoang thoảng mùi cống rãnh. Thỉnh thoảng một con chuột ló đầu dáo dác. Vài quán hàng chuẩn bị mở cửa, xe chạy thưa thớt. Cho dù Sài gòn thay đổi, nhưng những con đường hồi nhỏ tôi thường đi qua tuần tự trở về sống động trong trí nhớ.

      Những buổi sáng cảm thấy khỏe, tôi ra trước sân ngồi đọc báo. Nghe tiếng xe ôm ngừng trước cửa, xuất hiện dáng dấp người đàn bà thấp bé tay xách túi đồ ăn, bịt mặt như dân khủng bố, tôi vui vẻ chọc:
      - Con dzịt đẹt hôm nay sao tới trễ dzậy!
      Nàng trả đũa:
      - A ha, ngày nào cũng xô đuổi người ta, rứa mà tới trễ chút xíu anh “sáng chói” (sói trán) cũng để ý. Con dịch đẹt tới trễ vì nghe điện thoại bên Mỹ gọi. Ba hỏi thăm anh đó.
      Ngồi bên nhau không lâu, khoảng 15 phút tôi phải lết vào toa –lét. Mỗi lần trở lại sân với nàng, nhìn khoảng trời xanh, nổi bực bội tù túng khiến tôi mất tự chủ. Vào phòng ăn, nàng xin phép cháu tôi mượn bếp. Vừa luộc rau vừa kể:
      - Hồi sáng em bị trợt té trong phòng tắm, tay bầm đen nè!
      Mặt tôi đanh lại:
      - Sao không chết phứt cho rồi!
      Hai đứa cháu lớn nhìn nhau nhướng mắt ngạc nhiên về lời độc ác. Tôi chờ nàng nổi cơn thịnh nộ nhưng sắc mặt nàng vẫn không thay đổi. Tôi chê nàng không biết xới cơm, tôi chê cá tanh, tôi đòi thêm nước mắm. Nàng điềm đạm:
      - Em biết anh rất bực bội và anh không thể trút giận vào ai ngoài em cả. Nếu điều đó giúp anh khỏe hơn thì anh cứ việc tiếp tục, còn muốn chọc tức để em không tới nữa chỉ là vô ích.
      Vẻ bình thản của nàng khiến tôi càng khổ tâm.
      Ăn xong tôi vào phòng trước, một lát sau nàng vào nằm kế bên tôi, tay trái nhè nhẹ xoa đầu trọc. Tôi hất tay nàng :
      - Đừng đụng anh. Anh quăng em ra cửa bi giờ.
      Như trò chơi con nít, tôi hất tay nàng, nửa phút sau nàng vẫn tiếp tục vuốt ve cái đầu trọc. Sừng sộ vẫn không ăn thua gì, tôi mệt mỏi chịu thua.
      Một lúc sau tôi quay người, đầu nép sát vào ngực nàng, tôi nghe rõ tiếng tim nàng đập và giọng nàng nghèn nghẹn:
      - Gan anh nát bấy rồi!
      Tôi nổi tức:
      - Em nói gì kỳ dzậy!?
      - Anh cứng đầu thì em nói sự thật luôn. Anh bị ung thư thời kỳ chót. Hôm anh mới về, chị Hai dẫn anh đi bịnh viện hút nước bụng hay dịch tràng gì đó, bác sĩ Việt nam đưa kết quả ghi chữ K có nghĩa là giai đoạn cuối cùng, có nghĩa là cancer. Bây giờ tâm hồn anh đang giao động, hãy suy nghĩ kỹ trước khi quyết định. Anh muốn ăn ngon để rồi chết sớm thì cứ yêu cầu chị Hai nấu. Em yêu anh, em muốn anh sống cho dù anh tật nguyền. Theo kinh nghiệm, những người bị cancer mà ăn thả dàn đến khi hấp hối sẽ rất đau đớn.

      Nàng nghẹn ngào, vội vã rời khỏi phòng. Tôi ngồi ôm đầu nghe đất trời sụp đổ. Cancer, ung thư. Trời hỡi! Hạnh phúc mới lóe sáng đã vội vã tắt ngúm. Bụng tôi quặn đau, mới đứng lên, chưa kịp vào toa – lét, chất lỏng tanh tưởi tuôn xối xả xuống hai ống chân teo tóp.
      Rửa ráy và thay đồ xong, tôi chống walker ra sân. Nàng đang ngồi trên băng ghế, buồn bã nhìn vào khoảng không. Tôi hút xong cả gói thuốc vẫn chưa trấn tỉnh. Nàng dịu dàng để bàn tay lên đùi tôi, bắp đùi nhăn nheo chỉ còn da bọc xương. Tôi bùi ngùi nói nhỏ:
      - Cancer lây bịnh đó em!
      - Em biết anh cancer khi còn ở Pháp, chính vì vậy em đổi vé về sớm hơn.
      - Số mệnh đã như dzậy thì cũng đành chịu thôi!
      - Em không đồng ý. Anh và chị anh bị Nho giáo chi phối. Khổng Tử cho rằng “Tử sanh hữu mạng, phú quí tại thiên”, rằng con người không thể cãi lại mệnh Trời, con người cần phải đặt hết mọi niềm tin vào ý chí của Trời. Khổng Tử cũng nói: “bất tri mạng, vô dĩ vi quân tử dã” , không hiểu mệnh Trời, không xứng đáng là người quân tử (Luận ngữ - Thiên Nghiêu viết). Anh có nhận thấy Nho giáo triệt tiêu mọi nỗ lực chuyển hóa, hướng thiện của con người, giao phó toàn bộ đời mình cho một đấng quyền năng quyết định!? Hồi còn đi học, có một số điểm em không phục Khổng Tử, nhất là ổng đưa ra những nguyên tắc bất công đối với phụ nữ.
      - Theo Phật giáo, con người tạo ra nghiệp sẽ không thể và không bao giờ trốn thoát được những nghiệp do mình gây tạo ra.
      - Anh nói đúng, nhưng điểm khác nhau giữa nghiệp (Phật giáo) và số mệnh (Nho giáo) ở chỗ, nghiệp do chính con người tạo ra, bất định tính nên nghiệp có thể chuyển hóa được. Do đó, con người có thể thay đổi, chuyển hóa nghiệp báo của mình từ xấu thành tốt, từ ác thành thiện hoặc ngược lại. Năng lực chuyển hóa Mãn nghiệp trở thành tốt hơn hoặc xấu đi được gọi là Năng tiêu nghiệp. Tác dụng của Năng tiêu nghiệp trong đời sống hiện tại rất lớn. Một người thông minh và khỏe mạnh là kết quả của Mãn nghiệp, nhưng nếu sống buông thả, đồi trụy thì trở nên ngu đần, ốm yếu. Năng tiêu nghiệp đã làm tiêu hủy nghiệp tốt của người này. Ngược lại một người với quả báo Mãn nghiệp bị bịnh tật nhưng nhờ biết cách bảo vệ sức khỏe vẫn chiến thắng bịnh tật, như Stephen William Hawking – nhà Vật lý người Anh của thế kỷ hôm nay, tuy bị liệt toàn thân chỉ còn ba ngón tay nhưng vẫn liên tục đưa ra nhiều phát minh quan trọng. Thuyết Nghiệp khích lệ con người hành động và tiến bộ, hoàn toàn không phải tiêu cực, yếm thế như Nho giáo.
      Nàng bóp nhẹ tay tôi và nói tiếp:
      - Một tháng rưỡi trước bác sĩ nói với chị Hai rằng anh chỉ còn sống được ba tháng, khuyên chị cứ cho anh ăn những gì anh muốn. Vậy tính ra anh chỉ còn một tháng rưỡi nữa thôi. Em nghĩ nếu anh ăn uống cẩn thận, sự sống sẽ được kéo dài. Chị anh muốn dấu anh vì không muốn anh đau khổ. Chị Hai thương anh theo lối của chị, em thương anh theo lối của em. Em muốn anh biết rõ sự thật. Em muốn anh can đảm, không bi thảm hóa và lẫn tránh nó, vì như vậy giai đoạn hấp hối sẽ thê thảm hơn. Theo quan điểm Phật giáo, suy ngẫm để chuẩn bị cái chết rất quan trọng. Mặc dù sự tái sinh của ta phần lớn tùy thuộc vào năng lực của nghiệp, song tâm trạng ta vào lúc chết ảnh hưởng không nhỏ tới tính chất của tái sinh kế tiếp.

      Tôi bỏ bữa ăn tối, nằm gậm nhấm nổi buồn trong bóng đêm. Ba chữ “tôi bị cancer”ngân nga mãi trong đầu từ trưa nay, từ từ dịu xuống và thiếp đi vào giấc ngủ.
      Cây mai trước ngõ trổ bông vàng rực rỡ. Tôi lắng nghe tiếng chim sẻ ríu rít trên cành cây, ngước mắt thấy hai con chim nhỏ đứng cạnh nhau, tim tôi se thắt. 33 năm xa xứ, cái Tết đầu tiên trên quê hương chỉ đầy hương vị chua chát. Nàng ngồi bên tôi, nói:
      - May mà mồng một Tết em có anh bên cạnh.
      - May cái gì! Anh bị cancer mà may cái gì!
      - May là hiện tại mình được gần nhau. May là số anh quá cha thiên hạ! Ngay tại thành phố Sài gòn mà nhà anh ở có vườn cây như vườn Thượng Uyển; hòn non bộ cá lội thảnh thơi, cây cối xum xuê mát rượi, chim hót và có cả đàn piano nữa.
      Bỗng dưng tiếng đàn im bặt, nàng ngoáy cổ vào phòng khách la lớn :
      - Hay quá! Đàn nữa đi con.
      Thằng cháu nhỏ tập tễnh vào nghề, hứng chí dạo thêm vài bản. Tôi cười:
      - Đàn trật lất. Em đừng khen nữa để nó đi chơi chớ!

      Nàng nói tiếp:
      - Số anh y chang số Hoàng tử. Dưỡng bịnh có ba người đàn bà hầu hạ: em nấu ăn, chị anh sắc thuốc, em gái anh giặt quần áo. Còn muốn gì nữa! Mấy năm trước em tới viện ung bướu Sài gòn thăm người bạn bị ung thư vú, em thấy hai người bệnh nằm chung một giường, có người nằm dưới đất, nóng nực hôi thúi như địa ngục. Thân nhân ngồi chò hỏ trong sân viện, mặt lo âu vì thiếu tiền hơn là vì lo cho người bệnh. Anh đẻ bọc điều chắc! Em thích câu nói “Con người đánh mất hạnh phúc thường là do mong muốn một hạnh phúc cao hơn hạnh phúc mà mình đang có”.
      Những lời nàng nói có tác dụng mạnh, nổi bất hạnh uất ức trong tôi từ từ dịu xuống.

      Mồng hai Tết tôi bồn chồn nhìn đồng hồ, gặp dì trước sân tôi buột miệng hỏi:
      - Dì thấy dzợ con tới chưa?
      - Chưa. Mày đuổi nó quoài sao giờ còn hỏi!?
      Tôi đuổi nàng vì tôi không muốn nàng khổ, nhưng nàng không tới thì tôi khổ.

      Hôm nay nàng tới trễ. Dọn đồ ăn ra bàn xong, nàng buồn bã báo tin:
      - Ba em mất rồi. Ba bị đứng tim bất ngờ.
      Tôi bàng hoàng sửng sốt. Ba nàng không bịnh hoạn gì cà. Đáng lý tôi phải là người đi trước ông.
      - Kể từ hôm nay em không ăn giống anh. Em ăn chay 49 ngày.
      Tôi theo nàng vào phòng. Nàng thổn thức, hai vai run nhè nhẹ. Tim tôi se lại. Ôm nàng vào lòng, tôi vỗ về:
      - Anh xin chia buồn với em.
      Bây giờ dưới mắt tôi, nàng chỉ là đứa con gái bất hạnh mang nổi đau khổ của người con mất cha. Trong tôi bỗng lai láng niềm thương xót. Nếu không vì tôi, giờ này nàng đang trên đường qua Cali dự đám tang thân phụ. Tôi quên bệnh tật, cảm thấy có bổn phận phải an ủi nàng. Bàn tay gầy guộc của tôi vận dụng hết sức lực thoa nhè nhẹ tấm lưng mầu mỡ, tai tôi lắng nghe tiếng giảng phát ra từ CD, điều mà trước đây tôi vẫn nghe nhưng không chú ý:
      “Đức Phật dạy: Thân bệnh nhưng đừng để tâm bệnh. Chúng ta có thể không thể làm được gì nhiều cho thân nhưng chúng ta có thể làm được gì đó cho tâm. Chúng ta có thể giữ tâm bình tĩnh khi chúng ta đau yếu. Chúng ta có thể theo dõi sự tăng giảm của đau đớn, nó đến và đi từng đợt như thế nào. Chúng ta có thể hiểu biết bản chất của khổ đau. Chúng ta có thể gặp nó và học hỏi từ nó. Chính nó là một cuộc thử nghiệm – Làm sao chúng ta hiểu rõ bản chất của sự sống, làm sao chúng ta hiểu rõ ràng không có cái ngã thường còn nơi đây mà chỉ có sự thay đổi liên miên của sinh và diệt, giống như dòng sông trôi chảy bất tận...

      Vai trò bỗng dưng đảo ngược… Một người bịnh cancer gần chết phải săn sóc người mạnh khỏe. Dường như Trời sinh ra tôi để phục vụ đàn bà, dù thân xác rã rời nhưng tôi cảm thấy vui vui nghe tiếng nàng ngáy đều. Vừa ôm nàng trong tay, vừa có dịp chú tâm những lời giảng phát ra từ góc phòng…
      Tôi thuộc diện khổ đau do luyến ái người. Cũng may đây là người đàn bà tuổi xế chiều nhan sắc tàn phai, nếu luyến ái loại nhí xinh đẹp thì không biết tôi còn khổ đến cỡ nào!?
      .......
      Tâm trí tôi từ từ lấy lại thăng bằng. Sáng nay hiện rõ trên nét mặt khiến nàng chú ý:
      - Lâu ngày em mới thấy anh cười tươi hết xẩy!
      - Thở vào tâm tĩnh lặng
      Thở ra miệng mỉm cười
      An trú trong hiện tại
      Giờ phút đẹp tuyệt vời
      (Thiền sư Nhất Hạnh)
      - Hôm nay Sainte Valentine, tụi mình qua càfé Du Miên nghen em.
      Nàng há hốc mồm ngạc nhiên.
      - Ơ hơ, em không nhớ. Sao lâu nay em rủ hoài anh không chịu đi!?. Đi, đi anh.
      Từ quán càfé, tôi chỉ cho nàng thấy mái ngói căn phòng của tôi khuất sau bụi chuối cuối sân. Nàng nhìn quanh và có vẻ thú vị với lối décor thiên nhiên. Cảm giác đem niềm vui đến cho nàng khiến tôi tạm quên bịnh hoạn. Tôi thèm càfé nhưng bị cấm nên phải gọi trà đá. Nàng hớp một ngụm sinh tố thơm, kể lể:
      - Em có người bạn ác ôn ở bên Đức, nghĩ rằng em có số sát phu.
      Tôi cười ha hả:
      - Chớ còn gì nữa! Ai đụng tới em là từ chết đến bị thương.
      - Bà vợ Mỹ của anh cũng chết nghe chưa, vậy là anh cũng có số sát thê đó. Vì mạng em lớn mới đè được mạng anh.
      Tôi vui vẻ lập lại:
      - Đụng tới em là từ chết đến bị thương! Anh cũng vì em mà thân tàn ma dại nè. Héhé!
      - Anh nói kiểu mê tín dị đoan. Nghiệp anh cũng nặng lắm nên gặp người hết xẩy như em mà không được hưởng! Hihi, Anh không hiểu chi cả. Nghiệp xấu của anh đến lúc phải trả, nhưng nhờ có hiếu nuôi vợ bịnh hơn hai chục năm, do đó Ơn Trên ban thưởng em cho anh. Anh có thấy sự huyền bí … mỗ xong anh tỉnh dậy cùng ngày em trở về Pháp, vé anh mua cho em từ bốn tháng trước tại sao lại có sự trùng hợp ngẫu nhiên như vậy!? Anh thấy chưa? Vì sứ mạng em đã xong, em ở lại Mỹ vô ích nên em bay về Pháp ngay. Sự sắp đặt vô hình hay hết chỗ chê. Rồi bây giờ anh bịnh, em về Sài gòn với anh không phải vì em trả nợ kiếp trước mà em là món quà tặng quí giá của Ơn Trên cadeau cho người chồng nhân đức. Có thể hiểu đây là khởi nghiệp, anh đang mắc nợ em đó, hihi!
      Tôi phì cười:
      - Con dzịt đẹt môi dày chu chu xạo thấy mẹ!
      Nàng lém lỉnh chu thêm miệng hô ra chọc ghẹo tôi.

      Mỗi khi nghỉ trưa, nàng mở CD “Tạng thư sống chết” của xứ Tây Tạng. Tôi nói:
      - Em mở quoài băng này dzậy em! Có phải vì thầy của em là dịch giả!?
      - Em không có máu phe đảng. Tại vì sách có giá trị, càng nghe càng thấm thía. Giọng thầy Tâm Kiến Chánh hay hết xẩy, giống y chang giọng của anh.
      Tôi không nói gì, lắng nghe giọng đọc của người đàn ông mà nàng xác nhận giống giọng mình. Nàng ôm tôi vào lòng, tay xoa đầu tôi nhè nhẹ. Mặt ép sát vào ngực nàng nhưng tâm tôi không gợn chút ái dục, cảm giác tin cậy một đồng đội không bỏ rơi tôi, sát cánh cùng tôi chiến đấu bên cạnh giờ phút vô cùng cam go. Chúng tôi im lặng suy ngẫm:
      “Dù bạn có tin tôn giáo nào hay không, điều rất quan trọng vẫn là có được tâm an bình lúc chết. Điều đó có lợi cho sự tái sanh. Theo quan điểm Phật giáo, dù người chết có tin luân hồi hay không, thì sự tái sinh của họ vẫn hiện hữu. Thời gian kéo dài trung bình để một người đi tái sinh vào một cơ thể mới là 7 tuần lễ. Tuy nhiên có người sau khi chết chỉ mất 2 giây họ đã đi tái sinh vào cảnh giới khác, đặc biệt những bậc thánh thiện hoặc những kẻ đại gian đại ác. Nhưng một số người khác cứ vất vưởng trong thế giới trung ấm này một thời gian rất lâu, có lúc đến 7 năm mới đi tái sinh. Nếu trường hợp họ bị kẹt lại trong thế giới trung gian này, họ sẽ trở thành ma quỷ. Đặc biệt vong linh trong cõi trung ấm 49 ngày có khả năng nghe, cảm nhận tư tưởng...”
      - Nếu em chết trước anh, em sẽ ở bên anh 49 ngày.
      Tôi hiểu nàng thầm nhắn nhủ tôi hãy thực hiện điều đó với nàng.
      Tinh thần tôi càng ngày càng thanh thản. Mỗi chiều tôi thường rủ nàng đi ăn chè đậu đen, đậu ván ở những quán cóc bên đường. Mỗi lần nàng lăng xăng chận xe sợ tôi bị tai nạn, tôi tức uất người. Tôi bắt nàng đi vào trong lề, bổn phận đàn ông là che chở đàn bà, tôi không thích nàng làm điều trái ngược. Sau vài lần nổi xung, nàng hiểu và để yên cho tôi giữ vị trí bảo bọc nàng. Một hôm nàng hỏi tôi:
      - Hồi trước anh có bồ với bà nào không? Đưa em địa chỉ, em dẫn bả tới thăm anh.
      - Anh không có bồ nào cả.
      Nàng ngạc nhiên:
      - Em xem hình hồi trẻ, thấy anh coi được lắm! Ít nhất anh cũng có dẫn một cô đi chơi chớ!
      - Hồi học lớp đệ nhất, anh có rủ một cô cùng lớp đi ciné.
      Mắt nàng thích thú sáng lên:
      - A, anh kiss cổ trong rạp ciné.
      - Hổng dám đâu! Anh chỉ khều mấy ngón tay thôi. Sau đó cổ giận anh.
      - Anh hiền queo, chỉ dám khều mấy ngón tay thôi à. Vậy mà giận à, vô lý!
      - Hổng phải. Hôm đó đông đảo chen lấn mệt hộc xì dầu. Gần hết phim cổ hối anh: “Đông người quá mình ra trước, hông thì chút nữa chen lấn hôi lắm!”. Anh nói :“Thì cũng đã hôi rồi !”.
      Nàng cười ngặt ngoẽo và láu lỉnh hỏi tiếp:
      - Vậy anh còn trinh với bà vợ Mỹ à!?
      Tôi phì cười:
      - Trinh cái lỗ rún. Hồi còn đi học, có thằng bạn dưới quê lên Sài gòn thuê nhà trọ, tụi anh hùn tiền bao một em nhím. Thời đó dzui thật là dzui!
      - Thanh niên mới lớn lên hầu như ai cũng vậy!
      Được nàng khuyến khích, tôi hứng thú kể tiếp:
      - Sau đó tụi anh thằng nào buổi sáng đi học bụng cũng đói meo, tại tiền dành để chích pénicilline. Hehe, thằng nào cũng đi cà náng. Ba anh hỏi, anh nói anh bị té xe đạp. Cả bọn té xe đạp. Xạo thiệt tình! Tụi anh còn phải năn nỉ bà y tá cùng xóm giữ bí mật dùm.
      Nàng cười nắc nẻ.
      - Hihi, đám anh em trai nhà em y chang đám bạn của anh.
      Tôi đổi đề tài:
      - Anh tính lành bịnh sẽ mua miếng đất vùng quê làm nhà ở. Anh sẽ nuôi vài con gà chạy lanh quanh cho dzui. Em chịu dzề ở với anh hông?
      - Không được đâu anh ơi, em ớn lắm! Anh là Việt kiều, tụi công an sẽ tối ngày kiếm chuyện đòi “quà thông cảm”, hoặc dân xì ke đêm khuya tăm tối sẽ giết anh chỉ vì mấy chục dollars. Lành bịnh anh qua Pháp với em là tiện nhất.

      Có những ngày chán ngán bịnh hoạn, tôi lại nghĩ khác:
      - Anh biết đời anh tiêu rồi, em lo kiếm người khác đi.
      - Em già và xấu nữa ai mà lấy em! Chính anh cũng công nhận em xấu. Họa may nhờ anh phò hộ em...
      Nàng trả lời diễu cợt với ánh mắt láu lỉnh.
      - Cho dù anh không linh thiêng, em cũng đừng lo. Hoàng tử Charles mê bà già Camilla trong khi Diana đẹp tản thần. Em nên nhớ rằng trên đời này vẫn có những cha yêu đàn bà không phải vì nhan sắc.
      - Hơi hiếm! Nếu gặp một người nào đó giống như anh, em mới chịu.
      - Làm sao có người nào mặt mũi giống anh được!
      - Xí, ý em nói giống tính tình của anh kìa. Làm như anh đẹp trai lắm!
      Cả tôi và nàng cùng cười, quên hẳn mình đang ở trong hoàn cảnh mếu máo.

      Thấm thoát ba tháng trôi qua, chỉ còn vài tiếng nữa nàng lên máy bay trở về Pháp. Tôi ngồi trên giường, hai chân dạng ra ôm lấy nàng đứng giữa. Hai tay nàng không ngừng ve vuốt đầu tôi.
      - Sao em dzày dzò đầu anh quoài dzậy?
      Nàng áp sát đầu tôi vào ngực nàng.
      - Tại em không biết để tay ở đâu!
      Nàng cười khẻ nhưng tôi cảm giác những giọt nước mắt rơi trên da đầu trọc.
      - Anh đừng ăn bậy bạ nghen anh.
      - Ờ.
      - Lành bệnh qua Pháp ở với em, nhớ mua bảo hiểm sức khỏe loại du lịch.
      - Ờ.
      - Nếu, nếu…anh có mệnh hệ nào, chắc em không về được, anh đừng buồn em nghen.
      - Bộ em nghĩ anh chết sao!?
      - Biết đâu được! Tốt nhất anh cứ chuẩn bị tinh thần, nhớ nghe băng giảng mỗi ngày, nghe đi nghe lại mới thấm anh à.
      - Ờ.
      - Và nhớ rằng em yêu anh.
      Tôi nuốt nước mắt nói:
      - Anh đi được là anh qua với em ngay.
      Nàng hôn môi tôi và vội vã lấy khăn bịt kín khuôn mặt đẫm lệ. Tội nghiệp từ ngày yêu tôi, nàng khóc nhiều lần. Tôi chợt nhớ chưa bao giờ thấy người vợ Mỹ nhỏ một giọt nước mắt. Chậm chạp chống Walker, tôi tiễn nàng ra ngõ. Đứng lặng người một lúc thật lâu, tôi nhìn theo chiếc xe ôm chở nàng khuất xa cuối con đường hẻm.

      Qua phôn, tôi nói chuyện với nàng một lần chót, để an tâm nàng bình an về tới Pháp. Và rồi tôi trốn tránh, vì giọng nói quen thuộc đó chỉ khiến tâm hồn tạm thời an bình của tôi trở nên xao động. Tôi biết rõ mình đang may mắn không vướng bận gì khác, ngoài việc quán sát cái đau để buông cái đau, đừng dại dột rơi vào luyến ái.
      Tôi sẵn sàng rời cõi trần gian với tâm an lành, đó cũng chính là điều nàng ao ước tôi đạt được.

      11 giờ khuya. Tôi rung chuông gọi chị Hai. Tôi điềm tĩnh nói:
      - Em thấy trên trời đầy sao chiếu sáng ngời. Hình em hiện lên quanh bốn bức tường. Em nghe rõ tiếng ai gọi tên em. Em biết tới giờ em đi rồi đó chị.
      Chị tôi an ủi:
      - Giữ lòng thanh thản nha em.
      - Em sẵn sàng rồi. Chị à, em có lỗi nhiều với ba má phải hông chị?
      - Hông, em hổng có lỗi gì cả. Ba má thông cảm hoàn cảnh của em. Những ngày nước mới mất, tụi nó vào nhà mình làm khó dễ quoài, điều tra “thằng giặc lái cút theo Mỹ”.
      - Dzợ em sao chị?
      - Nó ở Pháp làm sao chị biết. Lần nào nó gọi, em cũng hổng chịu tiếp chuyện.
      - Chân chị còn đau hông?
      - Đau lắm em!
      Tôi cười thân mật nói:
      - Mặt bà mệt quá chời, thôi đi ngủ đi bà ơi!

      7- Ra đi
      4 giờ sáng thứ năm 9/10/2008
      Theo thường lệ, người đàn ông làm vệ sinh vào phòng chào hỏi :
      - Ngủ ngon hông anh Tốt ?
      Tôi không trả lời.
      Vì tôi đã chết.
      France, khuya hôm sau...
      Tôi trở lại mạnh khỏe và cảm thấy nhẹ nhàng thoải mái, đi đứng bình thường không cần walker. Tôi không gặp ba má tôi, không gặp Carrol, cũng không gặp ba của nàng. Chung quanh tôi là một số người tôi không quen biết, họ đi lại với dáng vẻ thanh thản.

      Điều kỳ diệu, tôi mong muốn được gặp nàng thì tức khắc tôi đã có mặt bên nàng. Tính thời gian, tôi quen nàng được 3 năm 2 tháng; gần gũi nhau tổng cộng khoảng 7 tháng. Tương tự cuộc tình ngắn ngủi của vua Chế Mân và Huyền Trân công chúa, cũng như chuyện phim Love Story.

      Tôi bồi hồi ngắm tấm hình đặt trên bàn ngủ. Tấm hình tôi và nàng chụp hôm picnic vùng Nam Cali, tươi cười dựa vai nhau ngồi bệt trên bãi cỏ xanh mướt. Nàng đang say ngủ, cái cổ ngấn nọng làm nàng già hơn sáu tháng trước. Tôi nằm cạnh nàng với tâm hồn bình thản.
      Chợt biết có tôi bên cạnh, nàng hấp háy mắt nhìn tôi. Giọng nàng vui mừng ngái ngủ:
      - Anh qua với em đó à!
      Tôi cười nhẹ và lập lại câu nói hôm chia tay :
      - Anh đi được là anh qua với em ngay.
      Nàng dường như không mảy may ngạc nhiên, cánh tay nàng ôm choàng qua bụng tôi làm vòng khóa êm ái, mỉm cười và tiếp tục ngáy đều. Mân mê những ngón tay nàng theo thói quen những ngày chưa bịnh hoạn, mắt tôi nhìn lên trần nhà màu trắng. Một màu trắng tinh khiết và tang tóc.

      Nàng tỉnh giấc, ngơ ngác tiếc nuối giấc mơ vô cùng sống động. Nàng không ngờ rằng thế giới nàng đang sống chỉ là mộng, thế giới nàng nằm bên tôi trong giấc ngủ mới chính là thật.

      Nàng điện thoại về Việt nam nói chuyện với chị tôi, biết tôi ra đi trong một trạng thái tốt lành, và linh tính tôi đang ở bên cạnh nàng, tư tưởng nàng truyền đạt đến tôi lời khen ngợi :
      - Em rất hãnh diện vì anh.

      Bây giờ nàng đang mang nổi buồn ủ rủ của loài chim lẻ bạn, não nề của loài người khóc cô đơn. Tôi có nhiệm vụ an ủi nàng, nhắc nhở nàng phấn đấu, tiếp tục đời sống bình thường. Mỗi ngày nàng nhận nhiều mails bạn bè khuyên đừng buồn nhưng vô hiệu quả. Khi màn đêm buông xuống, nàng thổn thức nghe tôi vỗ về:
      - Em còn nhớ những điều chúng mình đã từng nghe qua: “Ta không thể nào tránh né khổ đau. Khi ta cố tự vệ chống lại đau khổ, thì ta chỉ càng thêm đau khổ và không học được gì về kinh nghiệm khổ đau”. Em nên lấy làm an ủi: “Một trái tim chưa hề mở ra nhận chịu sự mất mát, một trái tim được che chở, luôn vô tư an ổn, thì không thể biết yêu thương”.

      Nước mắt nàng ràn rụa. Tôi tiếp tục thầm thì:
      - Em hãy suy nghĩ lời giảng hữu ích: “Đừng dập tắt nổi đau khổ của bạn, hãy chấp nhận nó và giữ tâm nhạy bén với nổi khổ đau. Dù tuyệt vọng đến đâu, bạn hãy nhận nổi đau khổ như nguyên trạng của nó, vì kỳ thực nó đang đem lại cho bạn một món quà vô giá, nhờ tu tập, bạn sẽ có cơ hội tìm ra được cái ẩn dấu sau nỗi đau buồn. Đau buồn có thể là khu vườn bi mẫn. Nếu bạn mở lòng ra với mọi sự, thì nỗi khổ có thể trở thành đồng minh lớn nhất của bạn trên đường tìm kiếm từ bi và trí tuệ.”

      Tôi nói thêm :
      - Em nên ghi nhớ điều quan trọng mà anh đang trải qua kinh nghiệm: « Những kiến thức thu lượm được trong vấn đề tôn giáo không có giá trị gì cả . Tôn giáo là một điều phải tự kiểm chứng lấy qua sự thực hành”.

      Trước khi vĩnh viễn ra đi, tôi muốn tiếp xúc với chị tôi, với con gái tôi và một số bạn thân nhưng thất bại. Tôi chỉ liên lạc được ba người. Đứa cháu dâu trong giấc mơ thấy một đám mây trắng nhẹ nhàng bốc lên từ thân thể tôi, chầm chậm bay lên cao và tan loãng vào không gian như làn khói. Cháu thức dậy nhìn đồng hồ đúng 2 giờ sáng, như vậy chị tôi sẽ hết thắc mắc về giờ giấc chính xác tôi trút hơi thở cuối cùng.


      Hôm sau, thằng bạn thân ở Chicago mừng rỡ ngạc nhiên gặp tôi trong giấc ngủ: «Tao nghe nói mầy chết rồi mà !». Tôi tươi cười trả lời : « Ờ, tao về thăm mầy đây».Vậy càng hay, người bạn Công giáo này là nhân chứng hùng hồn về thuyết siêu hình.
      Có lẻ linh hồn là dòng điện tinh tế, muốn phát ra phải chạm đúng tần số tương tự làn sóng đài phát thanh. Tôi liên lạc với nàng dễ dàng, có lẻ vì nàng tập trung mãnh liệt tư tưởng vào tôi cùng với thiện chí ăn chay 49 ngày. Chắc hẳn sức mạnh tình yêu đã giúp chúng tôi.

      Tôi bảo nàng vào trang nhà “Cánh Thép”. Những đồng đội vẫn chưa quên tôi, có đứa thương tôi làm thơ khóc bạn. Có đứa nhắn nhủ: “Mầy linh thiêng phù hộ tụi tao nghen Tốt”. Tụi nó không biết rằng tôi có khả năng nghe và đọc được tư tưởng của người khác nhưng tôi không có quyền phép gì để phù hộ ai cả. Tôi vẫn là tôi. Tôi chỉ lìa bỏ cái xác phàm bệnh hoạn. Linh hồn của tôi trong cuộc đời hiện tại này đến từ linh hồn của đời trước và là nguyên nhân của linh hồn trong đời sau.

      Nàng đọc đi đọc lại mấy lần lời phân ưu của Phong, tôi thầm cám ơn đây cũng là điều tôi muốn nói:
      “Từ khi gặp Tốt và chị, tôi đã vui mừng vì Tốt đã có cả một khung trời hoa mộng, dẫu là ngắn nhưng tôi đoan chắc một điều là Tốt cất cánh trong phi vụ cuối cùng để đi vào miền miên viễn với nụ cười hạnh phúc”.

      Mùi hương thơm ba cây nhang phảng phất trong đêm khuya tĩnh mịch. Tôi và nàng ngồi trước màn ảnh computeur, nhưng duy nhất bóng đen của nàng cô đơn phản chiếu lên bờ tường lạnh lẽo. Tôi không hôn nàng vì tôi không muốn cả hai thêm bịn rịn. Tôi mân mê những ngón tay nàng... những ngón tay một ngày không xa cũng sẽ trở thành cát bụi. Nó chỉ tạm thời là dụng cụ của con người trên dương thế, chỉ là phương tiện cho tôi nhắn gởi dòng tâm thức.
      Tôi nói câu cuối cùng:
      - Hôm nay đúng 49 ngày, anh phải bye cưng. Bài viết này anh muốn lấy tựa đề « 49 ngày với em ». Cưng nghĩ sao?





      (Nguyễn văn Tốt, từ trần 2g sáng 9/10/2008)

      LÊ KHÁNH THỌ -FRANCE
      Last edited by hung45qs; 06-20-2011, 08:35 PM.
      Hung45HTQS

      Comment


      • #4
        1000 Con Hạc Giấy !!

        Sự hiểu lầm có thể làm cho con người ta mất đi vĩnh viễn 1 thứ gì đó mà ta rất yêu quý, để rồi, khi nhận ra thì đã quá muộn...

        Có một chàng trai đã gấp 1.000 con hạc giấy tặng người anh yêu. Mặc dù lúc đó anh chỉ là một nhân viên quèn trong công ty, tương lai chẳng có vẻ gì sáng lạng nhưng họ vẫn luôn rất hạnh phúc bên nhau.


        Rồi cho đến một hôm người yêu của anh nói rằng nàng sẽ đi Paris, sẽ không bao giờ còn có dịp gặp lại anh nữa. Nàng rất lấy làm tiếc về điều này và an ủi chàng rằng rồi nỗi đau của chàng cũng sẽ trở thành dĩ vãng. Hãy để cho nó ngủ yên trong ký ức của mỗi người.

        Chàng trai đồng ý nhưng trái tim tan nát. Anh lao vào làm việc quên cả ngày đêm, cuối cùng anh đã thành lập được công ty của riêng mình. Nó không chỉ giúp anh vươn đến những điều mà trước đây vì thiếu nó mà ngưới yêu đã rời bỏ anh, nó còn giúp anh xua đuổi khỏi tâm trí mình một điều gì đó của những tháng ngày xưa cũ.


        Một ngày mưa tầm tã, trong lúc lái xe, chàng trai tình cờ trông thấy một đôi vợ chồng già cùng che chung một chiếc ô đi trên hè phố. Chiếc ô không đủ sức che cho họ giữa trời mưa gió. Chàng trai nhận ngay ra đó là cha mẹ của cô gái ngày xưa. Tình cảm trước đây anh dành cho họ dường như sống lại.

        Anh chạy xe cạnh đôi vợ chồng già với mong muốn họ nhận ra anh. Anh muốn họ thấy rằng anh bây giờ không còn như xưa, rằng anh bây giờ đã có thể tự mình tạo dựng một công ty riêng, đã có thể ngồi trong một chiếc xe hơi sang trọng. Vâng, chính anh, chính người mà trước đây con gái họ chối từ đã làm được điều đó.


        Đôi vợ chồng già cứ lầm lũi bước chậm rãi về phía nghĩa trang. Vội vàng, anh bước ra khỏi xe và đuổi theo họ. Và anh đã gặp lại người yêu xưa của mình, vẫn với nụ cười dịu dàng, đằm thắm nàng từng đem đến cho anh, đang dịu dàng nhìn anh từ bức chân dung trên bia mộ. Cạnh cô là món quà của anh, những con hạc giấy ngày nào, đến lúc này anh mới biết một sự thật: nàng đã không hề đi Paris. Nàng đã mắc phải căn bệnh ung thư và không thể qua khỏi.

        Nàng đã luôn tin rằng một ngày nào đó anh sẽ làm được nhiều việc, anh sẽ còn tiến rất xa trên bước đường công danh. Và nàng không muốn là vật cản bước chân anh đến tương lai của mình. Nàng mong ước cha mẹ sẽ đặt những con hạc giấy lên mộ nàng, để một ngày nào đó khi số phận đưa anh đến gặp nàng một lần nữa, anh có thể đem chúng về bầu bạn.

        Chàng trai bật khóc.


        Chúng ta cũng vậy, như chàng trai kia, cũng chỉ nhận ra giá trị lớn lao về sự có mặt của một người mà cuộc đời đã ban tặng cho cuộc sống của chúng ta khi một sáng mai thức giấc, người ấy đã không còn ở bên ta nữa. Có thể họ đã chẳng yêu bạn như cách mà bạn mong đợi ở họ nhưng điều này không có nghĩa rằng họ không dâng hiến tình yêu của họ cho bạn bằng tất cả những gì họ có.

        Một khi bạn đã yêu, bạn sẽ mãi mãi yêu. Những gì trong tâm trí bạn có thể sẽ ra đi, nhưng những gì trong tim bạn thì mãi mãi ở lại.


        Trương Công Bình Sưu tầm
        Last edited by hung45qs; 10-12-2010, 06:28 PM.
        Hung45HTQS

        Comment


        • #5
          BỘ ĐỒ BAY


          (Kính tặng tất cả những anh SQKQ liên khoá72-23, đặc biệt là những anh nào hãy còn giữ lại bộ áo bay của thời trai trẻ)


          Nâng niu bộ áo năm xưa
          Một thời quân ngũ, nắng mưa dãi dầu
          Áo nay dù đã phai màu
          Đã co rút lại vết nhàu thời gian

          Vẫn còn dấu tích hiên ngang
          Của đời chinh chiến nguy nan kiêu hùng
          Anh mang áo, bay khắp vùng
          Vì quê hương, chằng ngại ngùng tử sinh

          Chỉ mong giây phút thanh bình
          Quê hương một dải, ấm tình nước non
          Mấy mươi năm áo đã sờn
          Tình quê ly tán, nỗi hờn chưa nguôi

          Cuộc đời chằng thề êm xuôi
          Binh đao thế sự nổi trôi theo giòng
          Bao nhiêu số phận tù gông
          Người đi, người ở, nghe lòng xót xa

          Thanh bình trong nỗi phong ba
          Người còn , người mất nghĩ mà thương tâm
          Buồn cho vận nước thăng trầm
          Thương quê mình vẫn còn lầm than thôi

          Dẫu nhiều năm đã qua rồi
          Áo bay mãi gợi nhớ đời gian truân
          Một đời huấn luyện không quân
          Anh mang áo trận bay gần, bay xa

          Kim Mai
          Last edited by hung45qs; 10-11-2010, 08:02 PM.
          Hung45HTQS

          Comment


          • #6
            Bay Trên Lửa Ðạn



            Thường thường những chiến trường càng sôi động, càng có một hấp lực lôi cuốn tôi phải đến, phải ghi nhận và phải viết. Tôi đến chiến trường bằng mọi phương tiện: máy bay, tàu thủy, xe và cả đi bộ. Nhưng thường là đi bằng đường bộ, từ phía sau trận tuyến để tiến dần vào vùng giao tranh theo những hướng tiến quân của các đơn vị đang tham chiến. Như vậy, cái nhìn của người phóng viên chiến trường bị giới hạn bởi những điều kiện tương đối an toàn nên sự ghi nhận sẽ thiếu phần trung thực. Và tôi tâm niệm mình phải có một cái nhìn khái quát hơn, những cảm xúc mạnh mẽ và sống động hơn, từ một độ cao, ngay trên lằn đạn, để ngòi bút mô tả thật đúng với những trận đánh đang ở mức khốc liệt nhất của một vùng được mệnh danh là Vùng Hỏa Tuyến. Tôi cố gắng thực hiện điều đó để đạt được cái nhìn cần thiết của một người viết phóng sự chiến trường, và đồng thời mới có cơ hội trực tiếp nhìn thấy sinh mạng của những chiến sĩ Không Quân thật như treo trên sợi chỉ trong những lần đùa với tử thần, bay trên lửa đạn.

            Năm 1970, nhìn tình hình chiến sự ngày càng sôi động, tôi nghĩ đến lúc muốn có mặt tại chiến trường để viết, e rằng những phương tiện như xe cộ không còn tiện dụng. Hơn nữa, một phóng viên chiến trường mà không có mặt tại chiến địa cùng lúc với những đơn vị đang hành quân, thì những bài viết nếu không phải là sản phẩm của tưởng tượng, thì cũng chỉ là nghe kể lại hoặc dự những buổi thuyết trình của phòng hành quân mà thôi. Do đó, tôi nạp đơn xin phép Bộ Tổng Tham Mưu theo học một khóa Nhảy Dù. Đơn xin của tôi được chấp thuận thì không may, một tai nạn xe cộ khiến tình trạng sức khỏe của tôi không thể theo học được. Cách còn lại duy nhất là bay trên chiến địa để trực tiếp ghi nhận những diễn biến của chiến trường và những đơn vị đang chiến đấu bên dưới.

            Từ mặt trận Cao Nguyên vừa về tới Saigon, tôi trở ra lại miền Trung để tiếp tục tham dự chiến trường Trị Thiên. Tôi chọn Huế để viết phóng sự, một phần vì mặt trận phía Bắc của thành phố này đang tới hồi nóng bỏng, một như bị quyến rũ bởi những lời mời mọc âm thầm của đất Thần Kinh, sự cảm phục sức phấn đấu của người dân miền Trung, và cũng tựa hồ như định mệnh.



            Pilot Phi Ðoàn 516 "Phi Hổ" & A-37 Dragonfly

            Với miền Nam và Gia Định, nơi tôi sinh trưởng, thì Huế là một vùng đất xa xôi với nhiều huyền thoại lịch sử. Huế của cung miếu, đền đài. Huế như người tình vừa kiêu sa vừa lãng mạn. Huế như đấng quân vương đến hồi sa cơ thất thế, vẫn kiêu ngạo với một thời vàng son dĩ vãng, và cả những khổ đau mà hiện mình đang gánh chịu.

            Vào những ngày đầu của tháng 7, thành phố Huế đã nằm trong tầm pháo của Cộng quân. Mọi đơn vị và kể cả dân chúng đang nỗ lực phòng thủ. Cái nóng của mùa hè ở Huế thật oi nồng. Gió Hạ Lào luồn qua những khe núi của rặng Trường Sơn đưa mùi khói súng về tận sông Hương. Huế đang ở trong vùng hành quân. Xe nhà binh di chuyển vội vàng. Đủ mặt quân binh chủng trên đường phố. Hàng ăn, quán uống rộn ràng với những đoàn xe chuyển quân tạm dừng chân giây lát. Người dân đào hầm trú ẩn ngay trong nhà. Bao cát ở chợ trời Đông Ba bán chạy như tôm tươi.

            Sau khi đi thăm những đơn vị có nhiệm vụ giữ vòng đai của Huế, tôi liên lạc với Biệt Đoàn Tiền Phương đóng ở phi trường Phú Bài để xin được tháp tùng theo những phi vụ mà Biệt Đoàn này đang yểm trợ cho mặt trận phía Bắc của Huế. Đó là cách duy nhất mà tôi có thể dự phần và hiểu một cách rõ ràng những giây phút hào hùng và thập phần nguy hiểm của những người đấu từ trên không, của những cánh chim bằng vào ra chiến trận như trò đùa, đem mạng sống của mình treo trên lửa đạn. Những cuộc sống hào hùng đó, tôi đã được nghe nhắc đến trong lần đầu gặp Thiếu Tá Diệm, Biệt Đoàn Trưởng Biệt Đoàn Tiền Phương, một người trầm lặng, ít nói, thường vẫn ngậm ngùi nhắc đến những người bạn, những huynh đệ đã vĩnh viễn ra đi và những người đang làm rạng danh cho binh chủng như Thiếu Úy Nguyễn Xuân Chi của Không Đoàn 41, Thiếu Úy Tạ Nhất Chí của Không Đoàn 5...

            Buổi sáng, nắng hè đang còn dịu, tôi ngồi nghe vị Sĩ Quan Trưởng Phòng Hành Quân của Biệt Đoàn Tiền Phương tại Phú Bài thuyết trình về tình hình chiến trường và các nhiệm vụ yểm trợ của Biệt Đoàn. Những dặn dò và quy luật mà tôi phải tuân theo, đồng thời phải để lại địa chỉ, điện thoại những nơi sẽ được cấp báo nếu có gì không may xảy ra cho chuyến bay này. Tôi để lại số điện thoại của người chị bà con ở Saigon và của một người mới quen ở Huế.

            Người phi công mà tôi tháp tùng là Đại Úy Trần Ngọc Hoàng. Phi cơ L-19 có hai chỗ ngồi, tôi ngồi phía sau với mũ nghe và một chiếc ống dòm. Phi cơ cất cánh rời phi trường Phú Bài lúc 10 giờ 24 phút, Đại Úy Hoàng nhắc nhở tôi:

            - Đây không phải là một chuyến bay quan sát khơi khơi trên cao, mà là một phi vụ yểm trợ thực sự trong vùng giao tranh.

            Tôi hiểu ý người phi công. Không có một sự an toàn nào cho tôi, dù là tối thiểu như những lần quan sát chiến trường từ sau lưng những đơn vị Bộ Binh. Tôi nhủ thầm, con người sống chết có số và chuyện sinh nghề tử nghiệp cũng là chuyện thường tình mà thôi. Cũng có thể vì tôi là phái nữ và ở từ một nơi yên ổn như Saigon mới ra đây xa lạ nên được căn dặn kỹ càng.

            Như hai hôm trước, tôi xin trực thăng đi từ Đà Nẵng ra Huế, nơi đáp sẽ là bãi đáp trực thăng trước Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh tại Mang Cá, Huế. Khi trực thăng gần đến Huế, người phi công cũng dặn dò tôi:

            - Máy bay đáp xuống là chị phải chạy ngay vào giao thông hào bên cạnh, kiếm một chiếc nón sắt đội lên đầu cho chắc ăn rồi mới di chuyển vào trong doanh trại. Tôi hồi hộp chờ đợi, và có cảm tưởng những khẩu pháo của Việt Cộng đang im lặng như một cái bẫy chờ đợi con mồi... Nhưng khi trực thăng vừa đáp xuống, tôi thấy người đón tôi vẫn chiếc mũ lưỡi trai trên đầu và điếu thuốc cố hữu trên môi, đứng dựa lưng vào xe Jeep, rất thản nhiên, cái thản nhiên của những người đã quen sống trong vùng lửa đạn.

            Hôm nay là ngày 5 tháng 7, năm 1972. Một ngày nắng thật đẹp. Những người phi công không thích sương mù. Bây giờ đang ngồi trên máy bay, tôi mới hiểu điều đó. Trời trong sáng giúp sự quan sát dễ dàng hơn. Dưới chân tôi là núi rừng, đồng ruộng. Trên đầu tôi từng đám mây trắng bay ngược chiều. Chợt nhớ lời một người phi công trẻ nào đó:

            - Mỗi ngày chúng tôi bay đi trước khi mặt trời mọc, và trở về sau khi mặt trời đã lặn.

            Nhiệm vụ của những người phi công lái L-19 là nhiệm vụ có tầm quan trọng trong một cuộc hành quân: hướng dẫn hành quân, quan sát mục tiêu, quan sát những biến chuyển của trận đánh, phối hợp hỏa lực... Nhưng những phi công lái L-19 lại là những cánh chim đơn độc, đi một mình, về một mình và đến trận địa thì cũng tự lo lấy thân mình. Nhiệm vụ muốn lo cho hoàn hảo phải bay thật thấp, dưới 2000 bộ, để quan sát cho chính xác, mà hỏa tiển SA-7 của Việt Cộng rất nhẹ, như võ khí cá nhân, có thể mang trên vai, bắn cao đến 9,000 bộ. Như B-40 biến cải cũng có thể bắn lên tới 4000 bộ rồi...


            Đến 11 giờ, dòng sông Mỹ Chánh hiện ra trước mắt. Đây là một con sông nhỏ, như một lằn ranh giữa hai thành phố Huế và Quảng Trị. Bên kia bờ phía Bắc sông Mỹ Chánh không thấy bóng dáng một người dân. Đại Úy Hoàng chỉ cho tôi các vị trí của quân bạn bên dưới và một đoàn công voa của mình đang di chuyển. Tôi nhìn thấy rõ những đám bụi đỏ bốc lên mù mịt đằng sau mỗi chiếc xe. Chúng tôi đang cách cầu Mỹ Chánh khoảng 4 cây số về hướng Đông. Tôi biết chỉ trong chốc lát chúng tôi sẽ đến quận Hải Lăng. Hải Lăng đằng trước mặt. Chiếc L-19 nhẹ nhàng bay vào vùng đang giao tranh bên dưới.

            Tiếng của Đại Úy Hoàng trong mũ nghe:

            - Chị nghe tôi rõ không?

            - Rõ.

            - Chị nhìn qua phía bên phải, bên trong Quốc Lộ 1, xe tăng của Việt Cộng đó, chụp hình đi.

            Người phi công cho máy bay đảo nhiều vòng trên cao để quan sát tổng quát tình hình bạn và địch, đồng thời liên lạc với những đơn vị bên dưới để biết yêu cầu của họ. Tôi vừa quan sát, vừa chụp hình, vừa lắng nghe cuộc đối thoại của những đơn vị Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến với máy bay của tôi:

            - Hotel, Hotel, đây Sóng Thần, nghe rõ không, trả lờị

            - Tôi nhận bạn 5 trên 5. Có gì cho đi.

            - Việt Cộng đang nằm trên gò mả, xem dùm tôi, trả lời.

            - Chờ một chút.

            - Nhờ bạn quan sát chính về hướng Ðông, Tây Bắc điểm đã chọn.

            - Bảo Phong, đây Chung Sơn gọi.

            - Tôi đưa nón sắt đến cho bạn đó. Bạn hướng dẫn tôi, trả lời.

            - Tôi đã tới ngay nhà thờ mà chưa thấy bạn.

            - Hoa Đào, đây Tiêu Lương gọi.

            - Đánh dùm tôi cách 100 mét, nghe rõ không, trả lời.

            Nhiệm vụ của Đại Úy Hoàng thật đơn giản nhưng thập phần nguy hiểm. Nguy hiểm là vì bên dưới gặp khó khăn, mới nhờ trên không giải quyết dùm, và nơi nào mà Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến gặp khó khăn, là nơi đó đang đong đưa một lưỡi hái của tử thần.

            Qua ống dòm, tôi thấy một ngôi nhà thờ nhỏ nằm trong vùng giao tranh, trên gác chuông và những cao điểm khác, những ổ súng của Cộng quân đã cầm chân các đơn vị Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến một cách hữu hiệu. L-19 phải dùng trái khói để đánh dấu những vị trí đó cho phản lực cơ đánh.

            Đại Úy Hoàng ra hiệu cho tôi biết phi cơ sẽ xuống thấp để làm nhiệm vụ. Tôi thật sự hồi hộp trong giây phút này, vì đây là lần đầu tiên tôi theo máy bay ra tận giữa hai lằn đạn của một cuộc giao tranh mà hai bên đang cố gắng đẩy lui đối thủ và giữ từng tấc đất.

            Chiếc L-19 xuống thấp rất nhanh bên phần đất của các đơn vị bạn rồi bay thẳng về phía địch. Tôi nhìn rõ bằng mắt những chiến sĩ Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến đang tiến công bên dưới như xem phim trên màn ảnh. Họ tiến tới chậm và khó khăn vì hỏa lực của Cộng quân từ các cao điểm. Chậm nhưng vẫn anh dũng tiến và tiến tới không ngừng. Đại Úy Hoàng đã cho máy bay vào phần đất của địch. Máy bay bay sát trên ngọn cây và những họng súng phòng không bắt đầu chuyển hướng nhắm vào chiếc L-19.

            Chiếc máy bay nhỏ bé khi thì lượn lờ trên cao như đùa giỡn, khi thì để thả trái khói cho thật chính xác, đã phải lao xuống thật thấp, xuyên qua những lằn đạn, rồi phóng lên cao và lại nhào xuống như vậy nhiều lần. Những giây phút đó mới thấy sự phối hợp nhịp nhàng, hữu hiệu của Không Quân. Trong khi chiếc L-19 cố gắng xuống thấp, đến gần để ghi dấu vị trí địch bằng trái khói, thì đằng xa, những chiếc phản lực đang đảo vòng, gầm thét thị uy. Và khi chiếc L-19 vừa cất mình lên cao nhường chỗ, thì những chiếc phản lực như những con diều hâu đã thấy mồi, lao xuống mục tiêu như một mũi tên. Địch thừa hiểu L-19 chỉ đâu, phản lực đánh đó, nên hầu hết các ổ súng đã châu lại nhả đạn vào chúng tôi cùng một lần.

            Đại Úy Hoàng đang cố gắng xuống thấp hơn để ghi dấu một ổ súng phòng không của địch. Đã bao lần tôi thấy rõ là phi cơ sẽ trúng đạn, nhưng rồi vẫn tránh được. Vừa bị một tai nạn xe trầm trọng năm ngoái, sức khỏe của tôi chưa được bình phục, nên sau một hồi phi cơ bay lên, nhào xuống, gan ruột tôi cảm thấy nhộn nhạo. Và lần này, khi tôi vừa kịp thấy một màn lưới lửa từ dưới đất xẹt lên hướng máy bay chúng tôi, Đại Úy Hoàng đã nhanh nhẹn đưa phi cơ ngược lên trời như một mũi tên để tránh. Sự thay đổi độ cao và áp suất bất ngờ đó làm cho tôi không còn cố gắng hơn được nữa.

            Trước khi ngất đi, tôi còn nghe văng vẳng tiếng của người phi công hỏi tôi:

            - Chị Duyên, chị Duyên, nghe tôi rõ không, trả lời.

            Tôi muốn nói, "Đại Úy cứ tiếp tục phi vụ," nhưng hình như tôi không nói được. Tôi biết lúc đó máy bay của tôi chỉ mới thực hiện được 48 phút bay, và tình hình bên dưới làm cho Đại Úy Hoàng trong một lúc hình như quên mất sự hiện diện của tôi trên máy bay.

            Khoảng 15 phút sau, tôi có cảm giác như máy bay đang ở trên một mặt phẳng, không còn nhào xuống rồi vút lên như trước nữa và tiếng người phi công lại vang lên trong mũ nghe:

            - Chị Duyên, chị Duyên, chị tỉnh lại rồi phải không? Ngả về đằng sau, nhắm mắt một lát cho khỏe.

            Tôi dùng ngón chân ấn nhẹ lên chiếc nút dưới sàn tàu:

            - Cứ bay hết giờ nghe Đại Úy.

            Tuy nói vậy, nhưng bay đến phút thứ 150 thì tôi lại muốn ngất đi như trước. Chiếc mũ bay vẫn chụp trên đầu, nên trong trạng thái mơ màng, tôi còn nghe những lệnh lạc, những lời gọi khẩn cấp, những câu cự nự nhau và cả những tiếng chửi thề. Có những câu nói chưa trọn đã im bặt, có lẽ bởi một viên đạn nào đó... Tôi biết mình đã phí mất những giây phút quý báu này. Sau một phi vụ dài hai tiếng rưỡi với L-19, những dự tính tháp tùng bay theo khu trục A-37 và phản lực F-5 của tôi đã tan theo mây khói vì tự hiểu sức khỏe của mình không thể nào theo được.

            Phi cơ trở về lại phi trường Phú Bài, một số những người quen biết trong Biệt Đoàn đến chúc mừng tôi bình yên sau những giờ bay nguy hiểm trên chiến trận. Đại Úy Hoàng vừa rời phòng lái là vội vã đi ăn cơm trưa. Ăn xong lại lên máy bay bay tiếp. Một phản lực cơ của ta bắn cháy 3 chiến xa của địch, Đại Úy Hoàng được lệnh bay đến chụp hình. Người phi công lần này vai mang máy ảnh có gắn telé, ông vẫy tay chào và nói:

            - Bắn cháy chiến xa thì phải chụp hình chứ để người ta không tin.

            Từ phi trường Phú Bài, tôi xin vào Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương Huế nằm tĩnh dưỡng một vài hôm trước khi tiếp tục loạt phóng sự cho chiến trường Trị Thiên. Trong quân y viện, đêm đêm không ngủ được, tôi nằm lắng nghe và đếm từng chuyến trực thăng tải thương về. Cứ mỗi giây, mỗi phút, bao nhiêu người đã hy sinh cho đất nước?

            Làm một việc gì với tất cả nhiệt tình của mình, thì cuối cùng cũng có một phần thưởng, dưới bất cứ một hình thức nào đó. Với những loạt phóng sự và hình ảnh sống động trong chuyến đi này, tôi được sự tán thưởng của độc giả. Ðiều đó xem như là một khích lệ đối với cá nhân tôi, một nữ phóng viên chiến trường đã đi và viết ngay trên chiến địa như vậy. Những khen tặng chút can đảm đó của tôi thật chẳng xứng đáng gì so với sự quả cảm và hào hùng của những chiến sĩ đang mặt đối mặt với quân thù bên dưới, và của những người vẫn vào sinh ra tử trên ngàn bộ cao với đôi cánh chim bằng mà một lần tôi đã trực tiếp chi xẻ từng cảm xúc.


            Kiều Mỹ Duyên
            Last edited by hung45qs; 10-06-2010, 04:52 PM.
            Hung45HTQS

            Comment


            • #7
              BÀI THƠ CHO NGƯỜI GÁI HUẾ



              Chiều nao em đứng bên bờ
              Nước Sông Hương vẫn lững lờ cuốn trôi
              Mắt em bỗng chợt xa rời
              Thuyền ta như lạc giữa đời sông em

              Nghe mưa miên viễn trên triền
              Núi che mắt hút em miên man buồn
              Gió phơ phất mái tóc huyền
              Tà huy máu nhuộm giữa miền nước đau

              Rồi từ khi gãy nhịp cầu
              Ôi thương thành nội những ngày đao binh
              Giặc về em bỏ kinh thành
              Sau lưng kỷ niệm đã xanh những mồ

              Ta thân phiêu bạt vô bờ
              Mấy năm xuôi ngược tàn mơ đợi chờ
              Chợt nghe thương nổi bơ vơ
              Nhớ em ta nhớ cả bờ bến xưa

              Ôi xa rồi em tôi người gái Huế
              Có đôi mi cong với mắt vọng buồn
              Chừ em biết có còn thương
              Hay như cánh vạc giữa sương trời mù

              Tình như chiếc lá mùa thu
              Bay theo cơn gió ta sầu trăm năm
              Ôi đôi mắt ! Mắt em ngời ngời sáng
              Một tinh cầu ta lơ lững giữa không gian

              Thuyền lạc hướng ta về đâu trăm ngả
              Một giòng sông em đã chở ta về
              Ôi đôi mắt ! Mắt em buồn vô kể
              Sóng xô bờ từng đợt cuốn hồn anh

              Nước luân lưu mâ trắng bỗng xây thành
              Ta đã thấy mênh mông chiều tưởng nhớ
              Ôi đôi mắt ! Mắt em người gái Huế
              Một trời thơ mang nặng những u hoài

              Giòng sông đó như vẫn còn cuốn mãi
              Trong mắt em con nước xoáy tâm hồn
              Ta từ độ giặc về gieo chết chóc
              Những hầm chông ụ pháo bỗng nhiều thêm

              Đạn gào lên! Tăng rú! Quỷ ma cười!
              Và từ đó ta đi ngoài sương gió
              Mùa Xuân nào lũ giặc phá nội thành
              Ta còn nghe những âm hưởng thất thanh

              Trong bể lửa ôi tiếng cười rỉ máu
              Xác nào đây ôi mẹ hiền đó phải
              Bà mẹ hiền khốn khổ suốt trăm năm
              Chừ nằm xuống mắt vẫn còn trân tráo

              Chờ thằng con độc nhất tận phương nào
              Mẹ nằm đó như vẫn còn hối tiếc
              Rồi buông xuôi như một tiếng thở dài
              Non thế kỷ ôi một đời hệ lụy

              Còn gì nữa không em người gái Huế ta ơi!


              (Viết tại TTHLKQ Nha Trang 1973)
              Trần Hậu
              Last edited by hung45qs; 03-01-2011, 05:07 AM.
              Hung45HTQS

              Comment


              • #8
                CÁM ƠN CÁC ANH



                Thấm thoát từ ngày các anh xếp bỏ bút nghiên, chấm dứt thời học sinh thơ mộng để bước vào binh chủng Không Quân đã hơn ba mươi tám năm. Thật sự huấn nhục đã thay hình đổi dạng những thanh niên trẻ từ một chàng thư sinh bé bỏng sớm đã phải làm quen với những hình phạt phủ đầu, vô lý, mồ hôi nước mắt đã nuôi nấng lòng tự tin kiên nhẫn chịu đựng để trở thành những anh hùng tương lai của non sông đất nước.
                Năm nay Đại Hội SVSQKQ kỳ III được tổ chức thật long trọng ngay trung tâm Little Saigon tại Orange County, Ca. Do đó tôi có cơ hội tham dự và xin được viết lên vài lời cám ơn các anh trong cuốn Đặc San. Các anh và chồng tôi là những người lính Không Quân hào hùng đầy nhiệt huyết. Tôi rất hân hoan, hạnh phúc đi bên anh trong những ngày hội họp của khóa, con cái tôi khi học đến chiến tranh VN chúng rất hãnh diện về sự oai hùng của người Cha thân yêu. Tuy đất nước đổi thay, mỗi người một phương trời nhưng chính các anh đã đan giây nối kết, giăng cầu kỷ niệm để các anh em cùng nhau nắm tay trở về sum họp như đàn chim thất lạc, chia lìa..Nay nhắn nhủ nhau tìm về tổ ấm. Cám ơn các anh trong Ban Tổ Chức thật nhiều.

                Trong gia đình, anh tôi là một người lính KQ, tôi có nhiều thiện cảm với bộ quân phục của anh, nhưng không biết nhiều về Pilot KQ. Khi tôi lớn lên vào lứa tuổi tràn đầy ước mơ, e thẹn cũng là ngày tôi đã có nhiều thành kiến với những chàng Pilot lả lướt trước cổng trường học của tôi. Những buổi chiều tan trường, tôi thấy những ông mặc áo liền quần, cổ thắt khăn màu tím hay màu cam lái xe Lambretta đứng chờ ngay cổng nữ sinh có ông chở đào về, còn ông chờ mãi.. Không có ai chở về dùm bắt buộc chạy xe chậm chậm bắt chuyện với những cô nữ sinh đi bộ về nhà. Hình ảnh này tạo cho tôi không mấy thích Pilot KQ. Thật đúng, VN ta có câu: ghét của nào trời trao của ấy! Tôi đã gặp chồng tôi khi gia đình tôi tạm trú tại đảo Wake chờ làm thủ tục giấy tờ nhập cảnh Hoa Kỳ. Một người đàn ông với khuôn mặt bầu bĩnh với làn da trắng tạo nên nét mặt hiền hậu dễ mến. Anh mặc quần Jean với áo xanh sọc đầu đội mũ xanh đậm đứng ngay cửa nhà supply. Qua sự giới thiệu của bạn bè, chúng tôi thân nhau và yêu nhau từ dạo ấy…mọi chuyện dường như đã xắp đặt vì anh cũng là cựu Phi Công. Thời gian sau này khi vợ chồng tôi nhắc đến câu chuyện cũ, tôi gân cổ cãi: lúc em gặp anh anh đâu còn là Phi Công nữa! Anh mặc quần jean mà, anh đâu có khăn quàng mà quần cũng không liền áo. Anh chỉ nhìn tôi cười xòa.

                Năm tháng trôi đi thật nhanh, chồng tôi vẫn thường liên lạc những bạn bè cùng khóa. Tôi đã có dịp gặp gỡ các anh chị từ các tiểu bang xa xôi về quay quần bên nhau trong những dịp lễ hay những ngày tổ chức Đại Hội Không Quân, Đại Hội Trực Thăng, ngày liên khóa 72-73. Những dịp này tôi có cơ hội tìm hiểu các anh hơn .Các anh thật vui tính, hoạt bát (có phải lúc trước các anh đã từng nặn óc, suy nghĩ cố tìm chữ văn hoa để tán đào nên các anh khéo nói?). Anh nào cũng có nét đẹp trai riêng, dáng người cao ráo dù cho vùng bụng hơi nở nang theo số tuổi đang lên nhưng nét hiên ngang và oai hùng vẫn còn đậm nét trên mặt các anh. Càng giao thiệp tôi càng mến các anh nhiều hơn.

                Những người vợ các anh thật dễ thương vui tính. Chị em chúng tôi rất tâm đầu ý hiệp vì tuổi tác không chênh lệch nhiều nên rất quý trọng nhau như chị em trong nhà. Trong khóa 72 B các anh đã sống kề vai sát cánh bên nhau từ trại huấn nhục, trong đó có anh Lê Mạnh Hiệp, anh Mỹ, anh Sơn, anh Lộc, anh Hồng, anh Thành, anh Tuấn, anh Chúc và anh Út. Đặc biệt trong lính các anh đều đặt tên đệm cho nhau nghe thật bi đát, mới nghe qua tôi bắt chồng tôi giải thích..Vì tôi không hiểu những tên thật kinh hoàng này phát xuất từ đâu? Đôi khi cái tên đệm quái ác gắn liền với người, như anh Hiệp bị gọi là Hiệp mập hay Hiệp Heo vì người anh tròn trĩnh, vòng bụng nở nang như một đại thương gia. Anh Mỹ có làn da nâu được gắn tên Bảy Chà (anh là thứ bảy trong gia đình) .Anh Sơn Thầy Bói, ngày xưa anh đeo kính đen như Thầy Bói hay Tony Hô (bây giờ anh có da có thịt nên hết hô). Anh Lộc Rùa làm gì cũng chậm chạp nên bị gắn tên chậm như rùa. Anh Hồng có tên thật quái ác: Hồng Dâm, mặt anh lúc nào cũng ửng hồng..Như thể sẵn sàng ứng chiến? Anh Thành họ Dương nên lúc nào anh cũng dương..hết! Anh Tuấn Bệu và anh Chúc Ngố không biết hai anh này có ngố và bệu bạo không? Còn ông xã yêu quý của tôi tên Phước Quẹo (anh ở khu Bà Quẹo) các anh đã hỏi tôi xem “cái” của ông nhà quẹo hay thẳng vậy? Các anh muốn chọc ghẹo để tôi mắc cỡ chứ có gì phải hỏi phải không các anh? Của mấy anh như thế nào cái của nhà tôi cũng như vậy thôi ạ.

                Thời gian trôi đi thật nhanh, các anh đang bước sang lục tuần, mái tóc đen nhánh phô trương sự hùng dũng, tráng kiện tràn đầy sinh huyết nay đã phảng phất hơi sương..Theo thời gian, mái tóc đen pha lẫn những sợi tóc trắng bạc lấp lánh dưới nắng và linh động dưới ánh đèn màu khi dìu vợ lả lướt trên sàn nhảy. Các anh ơi đừng sợ nhé, các chị hãnh diện lắm đi bên chàng đấy! Màu tóc của người từng trải, kinh nghiệm (đầy mình)..Trên mọi mặt? Các anh đừng thèm nhuộm, cứ để màu pha của Picasso trên tóc..Có lý lắm.

                Tôi còn nhớ cách đây vài năm, ngày tổ chức liên khóa đầu tiên 72-73 tại Cali. Rất đông người tham dự. Buổi lễ diễn ra thật hoàn hảo, thành công rực rỡ. Lần đầu tiên tôi chứng kiến nghi lễ rước Quốc Kỳ, các anh mặc đồng phục trắng cầm cờ thật trang trọng uy nghiêm. Nhạc Quốc Ca VN vang lên thật hùng hồn như nhắc nhở mỗi công dân VN yêu nước hãy đứng lên đấu tranh cho quê nhà. Đến bài Không Quân Hành Khúc lời ca hùng dũng..Ta là đoàn chim bay trên không trung... bài hát làm máu và nhịp tim trong người tôi chảy nhanh và đập mạnh hơn.bàn tay nắm chặt, mắt hướng theo mây khói trên nền trời như các anh đã từng mang cánh chim sắt bảo vệ giữ gìn quê hương ngày nào. Màn slide show đặc sắc, hình trắng đen chụp khi các anh còn trong trại huấn nhục, người nào cũng đen, gầy nhưng vẫn nở những nụ cười thật vui bên nhau dưới ánh gay gắt của quân trường. Kế tiếp là hình ảnh các anh thực thụ điều khiển những con chim sắt ,những chiếc Trực thăng , F-5, F-37, Cessna lả lướt trên nền trời xanh mây trắng quyện theo nhạc đệm thật oai phong. Cám ơn các anh 72-73 đã tổ chức thật chu đáo và tạo điều kiện cho anh em từ xa gặp gỡ nhau đồng thời các chị có dịp nhìn thấy nghi lễ và những hình ảnh quý giá của các anh đã một thời hy sinh thân mình bảo vệ quê hương Tổ Quốc.

                Ngày họp mặt liên khóa 72-73 kỳ II tổ chức tại Virginia thật hoàn hảo, công phu và kỷ niệm không bao giờ quên. Các chị trong ban tổ chức đã bỏ nhiều thời gian tập dợt những bài hợp ca rất hay, áo dài màu xanh đồng phục duyên dáng lộng lẫy làm tăng vẻ đẹp thùy mị của các chị. Màn biểu diễn tân khóa sinh rất linh động và hồi hộp.. Màu áo cứt ngựa tân binh trên vai đeo nặng trĩu bao dụng cụ cá nhân, mỗi lần bị phạt nhẩy xổm phải đội bao này lên đầu nhẩy như con cóc vậy..Thấy thương quá chừng. Từ trước tôi chỉ nghe nói bây giờ mới chứng kiến..Thật cảm động. Màn biểu diễn chấm dứt, chúng tôi đứng lên trao tặng các anh tràng pháo tay thật lớn như không muốn dứt vì quá hay và thương các anh nhiều… nhiều lắm. Các anh đã biểu hiện tinh thần chung, đoàn kết mang đến buổi họp mặt rất thành công và nâng cao tình đồng đội năm xưa. Thật đáng kính.

                Lần họp mặt lần này đòi hỏi rất nhiều thời gian tập dợt, từ màn tân khóa sinh bị phạt đến những phần Văn Nghệ đặc sắc, các anh BTC không quên sự có mặt của các chị, các anh đã trao tặng mỗi người một pin cài áo ở giữa in hình hoa màu hồng nhạt, chính giữa hình trái tim màu đỏ tươi có câu: To my other half with love& honor. Các anh ơi... hãnh diện quá! Cám ơn các anh thật nhiều. Khi tôi đón nhận pin này tôi cảm động đến chảy nước mắt…hôm ấy tôi lên có lời cám ơn các anh trong BTC nhưng nghẹn ngào nói chẳng nên lời nay lòng tôi được trải lên trang giấy để gửi đến các anh trong BTC lời cám ơn vô tận.

                Năm nay 2010 tháng bảy là tháng hội họp dựa vào mùa lễ Độc Lập Hoa Kỳ , anh em trong BTC được dịp mở rộng bàn tay chào đón những anh em khắp nơi trở về đoàn tụ nhắc lại những kỷ niệm xa xưa ..Một thời vang bóng. Một buổi tổ chức rất công phu. BTC đã hy sinh thì giờ riêng tư làm việc cho hội nếu không có việc làm cao quý này chúng ta không có dịp gặp nhau. Các anh ơi đây là món ăn bồi bổ tinh thần vô giá. Thời gian là người bạn không mời vẫn đến, không đuổi vẫn đi.. Đôi khi gặp nhau chúng ta quá vui mừng muốn níu kéo thêm thời gian nhưng nào đâu giữ được. Do đó các anh muốn tăng tuổi thọ nên tổ chức thường xuyên rất có lợi cho sức khỏe và chính liều thuốc bổ không cần toa là động lực thúc đẩy BTC kêu gọi các anh em gặp nhau trong ngày Hội Ngộ.

                Thân mến chào tất cả các anh trong liên khóa 72-73 đã cho tôi cơ hội cám ơn cùng bày tỏ lòng tri ân và lời tâm sự cùng các anh.


                Kim Quy
                Last edited by hung45qs; 10-13-2010, 01:08 AM.
                Hung45HTQS

                Comment


                • #9
                  Cho những CÁNH CHIM không còn VÚT BAY...

                  Thứ bảy, 21/03/2008 13:00 pm


                  Quỳ gối xuống _ nữa cánh chim gửi lại
                  Đứng lên đi _ hai cánh rộng xoè bay
                  Mang trách nhiệm từ đây hai vai nặng
                  Nợ tang bồng hồ thỉ viết vào tay...

                  ... thế là chúng mình chẳng còn dịp đọc lại những câu ấy nữa phải không các bạn _ Air Cadets, seventy-five-oh-eight TH55A... tao không phải là người thích dẫm chân lên hiện tại, bước vào tương lai với hành trang là một túi đầy ắp quá khứ vác nặng trên vai... nhưng lại post entry này như một hoài niệm dành cho con cháu thay cho lời cổ tích của cha ông & cũng để thực hiện lời hứa với thaonguyen nhân buổi họp mặt thường niên của chúng mình trên Biên Hoà...
                  ... ngày đó, thời buổi loạn ly chinh chiến, dù ở bên này hay phía bên kia, tuổi trẻ vẫn phải lên đường... những chàng tuổi trẻ, (nhưng chưa chắc) vốn dòng hào kiệt ... nhưng vẫn phải xếp bút nghiên theo nghiệp kiếm cung ... ba tháng Nha Trang nhọc nhằn huấn nhục, nhưng cũng vui với "tứ khoái profile":
                  Ăn cơm Nhà Bàn
                  Ngủ sàn Thiên Nga
                  Đ... gái Thành Nha
                  I... cầu Hoàng Yến
                  Thân trai tứ chiến
                  Dãi nắng dầm sương
                  Dẫu có phong sương
                  Cũng tròn Tứ Khoái...
                  ... Rồi đêm lột xác cũng đến, nhọc nhằn lần cuối, áo thấm đẩm sương đêm lẫn mặn chát mồ hôi, ngồi đợi vầng dương xuất hiện cho cặp alpha bắt đầu ngời trên vai áo...
                  ... ngày phép đầu tiên, chàng SVSQ lớ ngớ ra thành phố biển NT, ngơ ngẫn không biết xử lý ra sao khi cái nón képpi bay vèo ra khỏi đầu vào tay đứa con gái thành Nha... đang cười khoái chí còn vứt ra sau cho chàng cái hôn gió chọc quê!... thôi đành chịu phạt "hậu lột xác" vậy!...
                  ... ba tháng sau, chuyển về trường Sinh Ngữ Quân Đội, chuyên luyện Anh văn, đợi ngày du học... ơ hơ!... gần nhà quá ta... thế là từ một SV tác phong kỷ luật nghiêm chỉnh, chàng tập tành leo rào, vượt chướng ngại vật... để được về nhà: mọi kỷ thuật ẩn nấp, ngụy trang...thời còn đi hướng đạo sinh được chàng áp dụng để qua mặt quân cảnh... không từ luôn những thủ thuật tình cảm ... hehe... ...
                  ...nhớ nhất vẫn là kỷ niệm dzí đại uý Lãm trưởng trại Tent-City, dân bộ binh... kg hiểu sao lão rất ghét dân KQ... hôm ấy, mình áp dụng chiến thuật tâm lý _ nơi nào gần mặt trời nhất, nơi đó an toàn nhất... và mình chọn nơi vượt rào cạnh văn phòng đại uý Lãm... nè nha! Hãy quan sát... một khoá sinh Hải Quân leo qua và... thoát... đến phiên mình, được phân nữa rào rồi... chết mịa! Đại uý Lãm đang đứng chống nạnh, cười đểu, tay quắc quắc... lại đây em! hềhề... bộ não mình lúc đó bắt đầu ép xung overclock... đằng sau lưng mình xuôi theo chiều xe jeep của lão là cổng gác của tiểu đoàn 6 Quân Cảnh & lính của Bộ Tổng Tham Mưu... bề ngang đường không đến 5m, còn khuya mới quay đầu kịp mình... thế là giả bộ riu ríu tiến đến xe jeep, lão cười đắc thắng bước lên xe trước... kakaka, ta chỉ đợi có thế mà thôi!... 100m nước rút cho tui... bay dzô cái ào, vào trong cái bar... chui tận buồng của mấy em... nghe tiếng xe thắng gấp, tiếng lão hét hỏi: có thằng SV nào chạy vào đây hok?... không có đại uý ơi _ em đang ôm mình trả lời... hìhì... thoát nạn...
                  ... nhưng mà, đi đêm có ngày gặp ma... hôm leo rào chắn B40 qua sân golf, tiếng súng chỉ thiên bên TTM nổ đì đùng, núp dzô trong khoảng 30'... chắc ăn rồi, bước ra... 2 họng M16 chỉa ngang hông, bước lên xe jeep, 5 em ngồi trước mình gòy, đích thân Đại Tá Huỳnh Vĩnh Lại _ Chỉ Huy Trưởng Trường SNQĐ đi bắt để chấn chỉnh lại quân phong quân kỷ nhà trường... thôi rồi kỳ này chắc tiêu tan đời binh nghiệp... nhất là vừa mới đậu off-shore để đi Mỹ...
                  ... hay chẳng bằng hên, trong 6 tên có tên là cháu của Tôn Thất Đính, nên không bị loại ra khỏi quân chủng... và hên hơn nữa Bô Tư Lệnh KQ lại gọi dzìa cho tài khoá mới sang Mỹ học...
                  ... Rồi thì... đi cho biết đó biết đây, ở nhà dzí mẹ biết ngày nào khôn... thế là cũng biết đất rộng, trời cao... cũng tập tành làm người xa xứ...

                  DLI_LACKLAND AFB...(cho những CÁNH CHIM không...)

                  Thứ bảy, 27/03/2008 13:02 pm


                  ... Thế là ta lên đường... tiển đưa không chỉ có gia đình mà còn 3 em mặt ngầu... như bà Smith sữa soạn bấm mìn nổ, thịt ông Smith... mà mình nhớ đâu có cho ai biết ngày lên đường đâu ta?! ... thyanh thì mang cặp mắt kiếng đen to đùng nhưng không dấu được 2 dòng nước mắt đang chảy, ngập lụt cả phi trường ... thloan & kimxuan thì khoanh tay, mặt hầm hầm, như đang đói... bị ai giựt mất ổ bánh mì ... tớ đành im thin thít nép mình vào hai đấng song thân ...
                  ... rồi cũng tới giờ cất cánh... chiếc C 141 Lockheed _ Starlifter 4 động cơ phản lực theo chuyến bay P2T2/04; xuất phát từ Bangkok ghé qua phi trường TSN để đón bọn mình... cánh cửa phi cơ khép chặt... chợt bỗng thấy như đã xa xăm, dù phi cơ vẫn còn trên đất Việt... chung quanh ngoại trừ 18 tên SVSQ/KQ/VN, chỉ toàn người ngoại quốc...


                  C141 Starlifter

                  ... hihi... bi jờ bắt đầu áp dụng những gì đã học từ ngôn ngữ đến cách ăn uống, giao tế, etc... & thực tế thì vẫn còn một khoảng cách với lý thuyết:... cô tiếp viên dễ thương đưa ra menu hỏi mình dùng gì?... uh thì cũng như bạn bè kêu một món dễ nhất cho người Việt mình thôi _ Fried Chicken... rồi thì _ theo đúng bài bản: nĩa tay trái, dao tay phải, bắt đầu vật lộn với cái đùi gà to đùng... xong, nhưng sao miếng xương vẫn còn nham nhở những miếng thịt không rời... những đĩa của người nước ngoài thì xương sạch boong, láng coóng... liếc sang tên Mỹ bên cạnh còn đang ăn... xời ơi! Có dùng dao nĩa gì đâu?!... Bốc tay không, ăn xong còn mút tay nữa chớ... uhm! Phải thực tế, thực dụng như thế thôi!...
                  ... Sau hơn 30h bay, lần lượt ghé qua sân bay Clark của Philippine, Guam, Honolulu... phi cơ đã đáp xuống phi cảng quốc tế San Francisco... Ah! Nước Mỹ là đây...


                  Ngày xưa mình cũng ăn ảnh quá đi chứ... còn bi jờ chắc ảnh nó ăn mình... hìhì...


                  PhiLan
                  Last edited by hung45qs; 10-13-2010, 01:34 AM.
                  Hung45HTQS

                  Comment


                  • #10
                    CHO TÔI YÊU LẠI TỪ ĐẦU



                    Buổi họp mặt tân niên của khóa AC 73F vào ngày mùng sáu tết năm con cọp thật vui và tràn đầy xúc động, lần đâu tiên được tham dự với các niên trưởng, tôi thấy như mình đang sống lại những ngày còn thơ. Cả một đám cận kề “sáu bó” mà cứ như đám trẻ con tiểu học trên sân trường vào ngày đầu năm học

                    Các anh ồn ào đến nỗi “chủ xị” phải cầm micro hét toáng lên “AC73F họp mặt hay họp chợ ?”, nhưng cuối cùng cũng đành thông cảm cười trừ vì cả mấy chục chàng trai ưu tú của quá khứ này ngày xưa đâu phải ở cùng barrack với nhau, và cũng đâu phải cùng thân thiết với nhau, mà trong đó có những người cùng nằm cạnh giường của nhau, có người cùng nhóm huấn nhục với nhau, có người cả hơn ba chục năm mới gặp lại nhau lần đầu tiên, dù khóa đã có nhiều lần gặp mặt, thế nên khi gặp lại cố nhân là vội vàng nhào đến nhắc nhau những kỷ niệm mà trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn những tưởng các anh đã không còn nhớ nữa.

                    Có nhiều anh trông vẫn còn phong độ, nụ cười vẫn còn mang dáng dấp hào hoa của một binh chủng hào hùng, nhưng cũng có những anh thật chân chất nông dân, nếu không gặp trong khung cảnh này chắc là tôi không thể nào hình dung nổi. Sự chân chất thật thà đặc trưng của người nam bộ khiến khi nhìn mình rưng rưng muốn khóc, rưng rưng thương nhớ một thuở vàng son đã thoáng chốc vụt bay.

                    Những anh em gặp nhau hôm nay, mỗi người hẳn đã chất chứa trong lòng những nỗi niềm riêng không sao nói hết, dù có nhiều anh giờ nhà cao cửa rộng, vợ con hạnh phúc đề huề, nhưng tôi cũng đọc được đâu đó trong những đôi mắt thoáng buồn nhớ về quá khứ, khi nghe các anh nhắc lại những kỷ niệm một thời ở quân trường, những ngày huấn nhục tưởng đã không còn nhớ nữa.

                    Nghe các anh nhắc những kỷ niệm, những ma mãnh của một thời tuổi trẻ, những anh chàng ngày xưa được cho là “chân chỉ hạt bột”, nghe Bình nhắc chuyện nhờ anh Sơn viết thư tán gái dùm, lúc ra về nghe “nhà mình” nói: “anh Sơn hồi xưa cũng giống anh, không có thư bồ nên mới viết thư dùm thằng khác cho đỡ ghiền, anh cũng vậy, hồi đó mong thư em gần chết mà bà đâu có thèm viết cho tui, nghe ông Sơn nói không, huấn nhục khổ hơn con chó, nhiều khi khóc lên được, chỉ có thư người yêu để chia sẻ, vậy mà bà ở sài gòn lo chuyện gì đâu không, “chờ thư bà dài cả cổ” mà mình thấy thật tội lỗi, có biết chuyện đó đâu, anh cứ có tật cái gì cũng không chịu nói, anh Sơn nói “ Thằng Tân ồn ào lắm, nó là người của đám đông chứ không phải như anh, anh thì thích những cái gì trầm lắng. . .”

                    Người của đám đông ơi! Anh có bao giờ nói, có bao giờ chịu chia sẻ với em đâu- Từ những ngày học cùng mái trường Nguyễn Công Trứ, những ngày yêu nhau, khi tự nguyện đi Không Quân anh cũng không hề nói với em, và cả bây giờ nữa, những nhọc nhằn trong cuộc mưu sinh anh cũng tự gánh vác một mình.. Hôm nay em mới biết một chút xíu những ngày gian khổ của anh.

                    Những ngày hào hùng của một thời trai trẻ đã thóang bay đi, ba mươi lăm năm như một cái chớp mắt phải không anh, chúng mình già hết cả rồi, nhưng như lời hát của Ngô Thụy Miên mà em muốn gửi trao anh trong buổi họp mặt tân niên đó “Dù cho mưa, em xin theo anh đến hết cuộc đời...,

                    Không chỉ mưa đâu, mà cho dù bão táp phong ba, dù cho đời ta rồi trôi dạt, dù em phải trầm luân hết kiếp này chăng nữa thì em vẫn cứ yêu anh... Yêu anh mãi mãi cho đến tận hơi thở cuối cùng của đời em, bù đáp lại những ngày huấn nhục mà em đã không hề biết đến.

                    Cám ơn các niên trưởng, cám ơn ngày họp mặt, nhờ câu chuyện hôm nay mà em thấy yêu” nhà mình” hơn, và ước gì thời gian có thể quay trở lại để em “ Xin yêu lại từ đầu . .”


                    Phạm thiên Thu
                    Last edited by hung45qs; 10-13-2010, 01:41 AM.
                    Hung45HTQS

                    Comment


                    • #11
                      Chuyện Đã Lâu Rồi Bây Giờ Mới Kể…Theo Trí Nhớ



                      Hồi xửa, hồi xưa 1972… khi tôi mới vào ngõ cụt Phi Dũng. Sau mấy tuần huấn nhục, có mấy đàn anh tốt nghiệp Phản Lực cơ A37 ở hải ngoại về, khoảng một chục mạng. Mấy con ma mới nầy mon men đến hỏi thăm:

                      “Niên trưởng, cho đàn em biết, vậy chớ các ông học hành bay bổng như thế nào??

                      Tay nào cũng trắng trẻo đẹp trai, lịch lãm như Mai Ngọc Trai khoá tôi cả. Có tay trả lời:

                      “Trực Thăng hay Phản Lực mình đâu có chọn. Chính số phần đã chọn cho mình. Học bay và tốt nghiệp như là chuyện hên xuôi mà. Có những đứa rất đẹp trai, nhưng chưa chắc không gian đã chọn hắn. Có những tay nhà quê ở miền Tây, Mỏ Cày….nhưng lọt vào cặp mắt xanh của không gian và thích hợp với mây trời…mấy em gái hậu phương mê nó như em Oanh Sún mê Huỳnh Thanh Hải vậy…”

                      Tên nào có số “Trời Sanh Ta Ra Để Bay” như Lưu Khải Minh thì chẳng nói gì. Còn như C.B Phan Việt Quốc Vận và Nguyễn Hoàng Tân thì phải còn xét lại….

                      Hãy xem cái tướng của hắn kìa. …Phi Công hả??!!!! Trời hởi! Nó chỉ có một khúc hà. Không biết hai ông thần nầy có “chè lá” với BTLKQ phòng khám nghiệm y khoa không??? Có lần Trần Lâm Già Dịch ở Vancouver hỏi:

                      “Ê Tân Già! hồi đó lúc khám sức khoẻ gia nhập, mầy có đứng trên vài chục tờ “giấy con cọp ” không mà đủ thước tấc vậy?? ”.

                      “Trùi ui! Tao mà không sợ ở tù, tao sẽ xé mầy ra từng mảnh, tao sẽ vác M16 cho mầy một bài học, để mầy câm cái mồm mầy lại được không Lâm GD. Tao có lùn đó, nhưng ông Lữ cho tao pass, thì mầy còn théc méc cái nổi gì. Có thằng xấu trai như mầy, mà có chiều cao lý tưởng, cũng chẳng làm ăn gì đâu”.

                      “Phải hông? Mầy xách M16 mà có biết lên đạn không, coi chừng kéo lết cái bá súng, vì nó cao hơn mầy, thì làm sao mà bắn. Lúc học giai đoạn 1 ở núi Sạn thì trốn tập bắn. Mầy lấy cây chổi chà rượt, thì họa may tao sợ. Chứ chưa chắc biết bắn súng đâu”.

                      Hmmm. Chèn ui! Câu nói ấy ám ảnh tôi gần 4 thập niên, vẫn chưa nhúc nhích gì cả. Mỗi lần đứng trước gương, tôi chẳng thấy mình lùn tí nào…cao đến 1 thước 63 phân đó. Tại sao hắn ăn mắm, ăn muối nói xấu, nói bậy bạ “Phi Công Hào Hùng Độc Đáo của K.L.V.N.C.H”. Có lẻ mình “đẹp trai” nên nó ganh tỵ chớ gì…..

                      …..Trong phòng lab , tôi liếc quanh quẩn bốn hướng, quẹt cho đầy trang giấy, và trả lời đủ 100 câu ECL , được 65 điểm…. Bà mẹ nó… chó táp phải ruồi. ….Phen nầy du học là cái chắc….

                      …Ba tháng sau… rồi 6 tháng, không có tài khoá du học. Điểm ECL dần dà theo ông theo bà đi hết rồi, phải thi lại. Đến chừng có tài khoá thì thiếu điểm…thi rớt. Bọn tôi gọi đó là ECL lèo…

                      Thôi chắc phải “gôm ống quần” rồi. Tôi “vọt” đã 10 ngày không trình diện. Coi như chỉ thêm vài ngày nữa thì cuộc đời tôi sẽ là một hướng đi khác. Hướng mà mình chưa bao giờ mong đợi, nghe sao mà chua như khế. Vì 15 ngày vắng mặt, sẽ bị báo cáo đào ngũ. Ra “Bộ Binh”, “Ở Tù”, “Trại Tương Lai”, “Thặng Số”. Trời hởi! Những từ ngữ nầy không có một thằng SVSQ nào muốn nghe đến. Trại Tương Lai là trại nằm chờ cho Tương Lai quyết định thế nào cũng được, chứ không phải do mình định. Trại Tương Lai là trại không có tương lai tí nào cả. Nhưng tôi không còn con đường nào để chọn nữa.

                      ….Tôi lang thang ở chợ Sài Gòn, gặp Trung Uý Nguyễn Văn Năm, Sỉ Quan Huấn Luyện Trường Anh Ngữ Quân Đội. Ông rất quý tôi, hay coi tử vi cho mấy đứa nầy. Ông ta rất lạc quan về số phận của mấy ông thần khoá 72 A nầy. Nên thường hay xem quẻ tử vi trong giờ rảnh. Ông bảo có lúc, ông đã đoán vận mạng của mấy vị chỉ huy, lần nào cũng trúng cả. Hỏi thăm cớ sự, ông mới bảo:

                      “Ngày mai vào trại, chú mầy có tên trong danh sách thi “off shore” đấy. “

                      Tôi bảo “ Em trốn 10 ngày rồi, vào trại không được, đàng nào thì Trung Uý Ba trưởng trại “Tent City” sẽ bắt nhốt. Em vắng mặt bất hợp pháp. Làm sao đi thi??

                      Ông Năm bảo: " Chú mầy ngồi sau xe Honda, tao chở thẳng vào trường Anh Ngữ. Ai mà bắt được mầy. Thi xong chịu khó ngồi Conex cho nó đếm quân số, đậu thì đi Mỹ, rớt thì cũng đã ngồi Conex cũng sướng thôi!!! Cũng nở được bề ngang…."

                      Tôi thưa “Em lâu rồi không dò bài, làm sao mà qua nổi điểm Off Shore ông thầy??”

                      Ông Năm “Chú Mầy quên là tao đoán tụi bây có số du học sao???”

                      Tôi đáp “Thôi được, có ông thầy ra tay cứu mạng, thì ngày mai tôi đứng ngay Ngã Ba Chú Ía đón ông, làm phước chở tôi vào cổng trường Anh Ngử. Mối thù nầy tôi không bao giờ quên”.

                      Y như rằng, tôi đứng tại điểm hẹn, sáng sớm ông Thầy Năm lù lù tới, tôi liền phóng lên yên sau ngồi, vào cổng Trường Anh Ngữ êm ru, như thằng trốn quân dịch.

                      Trong phòng thi, mồ hôi ra đầy cả người, tay chân bủn rủn, sợ bị nhốt bất tử, sợ không làm bài được. Sau cùng chuyện gì đến rồi cũng đến. Anh Mỹ trắng mở phong bì ra đưa cho mỗi đứa một tập bài thi. Coi như đề thi quá bí mật, đến giờ chót mới biết.

                      Lần thi nầy là lần thi sau cùng của tôi. Đủ điểm thì cuộc đời khác hẳn, nếu thiếu thì cuộc đời vẫn nhàm chán như tự bao giờ.

                      Không lẻ ông Năm gỏ lộn mu… rùa hay sao, mà quẻ của tôi lãng đến thế, bây giờ thì chỉ có chó dẫn đường, chứ tài gì mà tôi thi đủ điểm..

                      Thi xong, tôi xếp hàng trở về Địa Ngục Trần Gian “Tent City”. Tôi vào hàng trở về trại. Đếm xuôi, đếm ngược, dư một tên.

                      Trung Uý Ba phán rằng: “Ai mới vào trại bước ra khỏi hàng”.

                      Tôi đưa tay lên chào:” SVSQ Nguyễn Hoàng Tân, số quân 73/606502 có mặt.”

                      Ông Ba: “Thượng Sỉ Mười đâu, cho anh nầy lên tới ốc o, và bỏ vào Conex lập tức.”

                      Án lệnh đã ra, Thượng sỉ Mười, dẫn tôi vào Conex không một lời từ giả. Nhưng không quên dùng tông đơ, để một đường thẳng từ cạnh lổ tai đến đỉnh ốc ở trên đầu.

                      Trước khi thi hành “án lệnh” tôi vẫn không quên nói với Trần Trung Tín

                      “Tín à! Làm ơn nhớ rằng tao vẫn còn ở Conex nhé. Mầy phải nhắc nhở Trung Uý Năm. Khi nào có kết quả thi off shore thì báo cho Ông Năm biết. Đậu thì báo. Còn rớt thì thôi, Hãy nhớ rằng tao đang bị ở tù nhé.”

                      Số phần của tao, chắc chọn Conex là quê hương thứ hai rồi. Cái đầu tóc bị cạo tới ốc o, lần nầy sao mà xú quẻ quá, ông Ba chơi tới ót, làm sao mà đội nón.

                      “Phạn xá chiều nay buồn tê tái
                      Anh âm thầm vác sắc tới trường bay”

                      Hay

                      Phạn xá chiều nay buồn tê tái
                      Ánh lửa tù đốt cháy cả tương lai”

                      Mấy câu thơ mà khoá đàn anh viết lại, để chọc quê các đàn em trong các Conex từ Nhatrang về Sài Gòn, để mỗi lần có đàn em nào nhập thất, biết được đời cay đắng như thế nào. Không biết mấy câu thơ trên của ông thần đàn anh nào, viết lên lúc ngồi Cải Hối Thất sao mà nghe thơ mộng quá, y như là tù chung thân vậy.

                      …Ngày một, ngày hai, rồi một bửa nọ thằng Tín báo:

                      “Mầy OK rồi, xém bị cháy đít (đậu sát nút)”.

                      Rỏ ràng quẻ ông Năm linh thiệt, tôi pass off shore mắc me. Trúng lọt lưới qua khỏi địa ngục trần gian “ Tent City ” . Thầy Năm ơi! Mu Rùa của thầy linh còn hơn ….

                      Ông Năm nhắn: “Hãy ngồi tù chơi thêm mấy ngày nữa, chờ cho đến khi có Sự Vụ Lệnh của BTL thì sẽ mãn hạn tù. Chuyện Conex là chuyện nhỏ, xử nội bộ trong trại cho vui thôi. Chừng nào, bị nhốt ở Cải Hối Thất Sư Đoàn kìa, mầy là SVSQ thì chuyện tù rạt nầy là chuyện nhỏ như con thỏ.” (Thầy Năm, nếu Thầy đang xem những dòng chữ nầy…nơi cỏi xa xôi nào đó… thằng Tân xin chúc thầy an lành…)

                      Tôi được Lưu Khải Minh tặng cho mấy điếu Bastos Xanh. Châm điếu thuốc sau cùng trong Conex, rồi không biết thuốc lá đâu nữa mà đốt, chừng nào mới rời hoả ngục nầy. Chà! Nếu ông Năm quên, mà thằng Tín cũng không nhớ, thì đời tôi đen như mõm chó.

                      Chính ông Ba phải mở tù cho tôi ra, vì Sự Vụ Lệnh củ BTL cho phép tôi “phóng thích”. Không bị khống chế bởi “khách sạn 5 sao của ông Trung Uý Ba” nữa.

                      Đáng lẻ tôi nhập khoá cùng với bọn 7504 ở Sheppard, nhưng cũng tội tà tà nên ra trường khoá 7506….

                      Trước ngày du học, tôi có gặp bạn già Nguyễn Thanh Tòng, hắn bảo:

                      “Mầy nhớ mua cho tao cái nón kalo size số 6, và cái hộp quẹt Zippo, làm kỷ niệm”

                      Tôi vẫn còn nhớ lời bạn già năm xưa nhắn nhủ. Thế mà khi trở về vào tháng 2 năm 1975. Khi đến tìm Tòng (cây Xăng Shell đường Lê Văn Duyệt). Bố hắn bảo rằng: không thấy nó trở về sau 1975….Tôi cầm món quà định tặng cho Tòng mà lòng ngậm ngùi, sau nầy giữ lại cho chính mình, mà ngỡ như món quà kia chính Tòng đã tặng cho tôi vậy.

                      …Tôi và Trần văn Lợi (Guitarist), Nguyễn thanh Minh (Minh Mỏ Cày). Ba thằng nằm dưới trướng của ông thần Ortiz. Ông thần nầy dạy T41 ở Hondo, tánh rất cao bồi, có lẻ lạnh cẳng nên Ortiz chỉ vớt một hoặc hai khoá sinh, còn lại bỏ rơi rớt chẳng ngại. Tôi nằm trong số bị đánh rớt, vì đã không solo sau 20 giờ bay huấn luyện. Khoá nầy lên Sheppard nhập vào khoá 7504. Tôi có biệt danh là “Thằng Tân bay từ trong Board bay ra”.

                      Tôi bị đánh rớt bay và coi như ra hội đồng kỷ luật, chờ ngày về nước. Ôi buồn 5 phút.

                      Đang đứng tần ngần ngoài lang cang trường bay Hondo, sau khi phi vụ bị suspend, vì ông thần Ortiz không thả solo theo thời gian ấn định.

                      Một tay Đại Uý đẹp trai, tên Marc Marchessault trong trường bay, ít có SVSQ nào biết nhiều về tay nầy, đi ngang và hỏi tôi, sao thấy buồn quá vậy.

                      Tôi bảo, thôi có lẻ đời bay bổng đến đây là chấm dứt.

                      Ông ta hứa rằng: Nếu ra Board, không nên ký vào giấy chấp nhận của Hội Đồng. Thì ông ta sẽ giúp tôi bay trở lại. (Sau nầy tôi dùng first name của ông làm tên mình đến bây giờ).


                      ….Một lần nữa tôi lang thang, lần nầy không phải là chợ Sài Gòn, mà Winns thuộc San Antonio, Texas (1973). Captain Marchessault tới tận shopping tìm tôi và bảo rằng: Vì tôi không ký vào quyết định của Board, nên tôi được phép đứng ngoài vòng kềm toả, kể cả Sĩ Quan Việt Nam mình, không làm gì được tôi. Dạo đó Thiếu Tá Duy có mặt trong phiên xử của tôi. Ông Duy rất khó chịu, khi tôi từ chối ký tên. Định hăm dọa phạt nặng vì cho rằng tôi bất tuân, tức là vô kỷ luật. Nhưng ông không biết, vì tôi có Marchessault đã back up.

                      Tôi được đi xe riêng với Marchessault mỗi lần đến trường bay, ông dàn xép tôi thêm 3 rides nữa và hứa thả solo.

                      Trời ơi! Cuộc đời sinh viên sĩ quan phi hành chỉ chờ đến giây phút nầy thôi. Thả solo thì mới sống trong làng bay, không solo thì coi như xù cả cuộc đời.

                      Sau 3 rides, ông cho máy bay vào ramp, bôm thêm xăng, và đưa cho tôi thêm cái flight guide. Cẩn thận kéo ghế phải ra phía sau, buộc seat belt vào ghế trống bên phải.

                      Và bảo rằng: “Mầy đi đi, chúc may mắn. Nếu 30 phút sau mầy trở lại, thì tao có thêm thằng bạn, nếu mầy đi luôn thì tao mất thằng học trò…”

                      Tôi théc méc hỏi tại sao….ông không trả lời, lặng lẻ tiển tôi taxi ra phi đạo.

                      ….Bây giờ là giờ thứ 25, cuộc đời phi hành xét ra cũng huy hoàng đó. Nhưng có ai biết được những lúc cô đơn như thế nầy, biết ngỏ cùng ai. Lòng vui tràn đầy hạnh phúc, nhưng vẫn lo sợ. Không biết mình có làm vừa lòng con chim sắt nầy không? Không biết không gian có đãi ngộ mình không? Không biết mình chọn mây trời là chuyện số phần hay là nghiệp dử. Thôi thì hãy làm công việc, mà bao nhiêu chàng trai miền Nam tuổi đôi mươi, thuở bấy giờ mơ ước…..mà chính mình cũng từng mơ ước. Hãy ráng sống với mây trời một lần xem sao. Bây giờ, trên không, một mình ta…Trời ơi! Sao tui oai quá vậy nè….

                      Người yêu ơi! Anh đang làm người hùng nè em ơi! Không biết rồi đây, vài mươi phút nữa anh sẽ trở lại “in one piece” hay là đây là lần đầu nếm mùi không gian, cũng làn lần cuối giả từ không gian, cái mà mình yêu quý nhất đời, tợ như giấc mộng đẹp……

                      Kéo qua, kéo lại cái sừng trâu thử hướng gió, nhìn đằng xa, phía trước phi đạo thẳng băng, gió hiu hiu, ngọn wind sock lững lờ như gà chết. Thì ra, đó là thời tiết lý tưởng nhất của mấy chàng solo.

                      Tống hết gas, mặt đất dâng cao… dâng cao.. Rồi không còn nhìn thấy phi đạo và đường chân trời nữa. Lòng bối rối như lần đầu ngồi cạnh người yêu ở bải biển Nha Trang. Không biết phải làm gì. Ngồi gần nàng, mà tim hồi hộp, xa nàng thì buồn thảm, Đời người mâu thuẫn, thật là những chuyện ngớ ngẫn, xa thì mong chờ, gần thì hồi hộp, run sợ. Bây giờ sao không dám tỏ tình với người đẹp T41….Những động tác trên không, đã được học thuộc từ lâu rồi. Tôi lăng xăng như cái máy, không còn một khoảnh khắc mơ màng nào khác nữa.

                      Ai đã từng solo đầu tiên, nếm mùi không gian và mây trời, sẽ thấy con người mình sao quá bé nhỏ, nhỏ bé và e dè như đang nâng niu vật gì vô giá, chỉ sợ đánh rớt làm hư hao cả đời người. Giờ nầy, trên buồng lái chỉ một mình ta, đáng lẻ ra, muốn làm gì thì làm. Nhưng, chỉ vì một mình ta, nên không dám làm gì cả!! Vì con chim sắt sẽ vô tình bất khả dụng, khi có những động tác không thuộc sách vở. Chỉ dám đụng tới những gì đã căn dặn, dạy dỗ nhiều lần, trước khi rời mặt đất.

                      Flare!….Flare!…đùng!.. ành!…. hai bánh sau con chim sắt chạm đất touch and go trên phi đạo, sau hai lần vòng quanh Pattern. Sau cùng hạ cánh an toàn trên phi đạo. Kể từ nay tôi làm cuộc đổi đời.

                      Ra khỏi con chim sắt T41, chân cẳng tôi không bước đi bình thường được, ông Thầy bảo:

                      “Bây giờ tao có thêm thằng bạn nữa. Vì tao là Pilot mầy là Pilot, tao mầy là bạn…Còn như mầy đi luôn, mà chưa có cánh, thì tao vĩnh viễn mất thằng học trò…”

                      Thằng Vận giấu cái tông đơ ở đâu chẳng biết, nó chơi tôi một cái tới ốc o. Nó lấy chai Coca đựng nước lạnh, đổ vào người của tôi. Nó bảo:

                      “Ở đây không có bồn tắm, vòi nước, tắm bằng chai coca để làm lể “tẩy trần” vậy.”

                      Ước mơ nào rồi có lúc cũng thành sự thật. Bây giờ nhớ lại, thà cho tôi được đứng ngoài vòng ước mơ của mình, để chưa bao giờ biết yêu mây trời, chưa bao giờ vắng mây trời, để đời tôi sẽ không bao giờ nhớ mây trời….chuyện thời hoa niên, thời mà ngày tôi đạt được ước mơ, cũng là ngày bắt đầu sự cay nghiệt, buộc phải bỏ cuộc, khi tuổi đời chỉ mới 23. Trời ơi! Hãy cho tôi quên đi quá khứ, hãy chôn vùi những kỷ niệm xa xưa, để tôi vẫn còn là mình, cho dù tôi đã tự hiến dâng đời mình cho không gian và mây trời.

                      Giống như ai đó đã từng nói một câu bất hủ, hình như CB Nguyễn Ngọc Châu Phòng thỉ phải, hắn là người Phi Công Boeing 747 Tài Hoa của khoá 72 A nói rằng:

                      “Bạn có thể đem tôi ra khỏi Không Quân. Nhưng bạn không thể đem Không Quân ra khỏi tôi được”.

                      Không gian bây giờ nó xa lạ làm sao ấy. Xa lạ như tôi chưa bao giờ từng ôm ấp trên tay cái “Sừng Trâu” để được sống với nó ở đầu đời, và xin được chết với nó ở hởi thở sau cùng.

                      Thì ra vào nghề bay là một chuyện hên xui. Mấy ông đàn anh nầy nói bậy bạ thiệt là đúng.


                      Tân Già 72 A
                      Last edited by hung45qs; 10-13-2010, 02:31 AM.
                      Hung45HTQS

                      Comment


                      • #12
                        CHUYỆN ÔNG GIÀ NOEL KHOÁ 4 HTTT
                        PT-Version


                        Được lệnh bay công tác cho Dome Petroleum, một hãng sản xuất và tìm kiếm dầu hoả offshore ở vùng biển Beaufort Sea, thuộc miền Tây Bắc Arctic Canada, một địa danh của người dân Eskimo; thành phố có tên là Tuktayotuk, dân cư ở đây người ta gọi tắt là Tuk ! Cầm phi lệnh trên tay, tôi lăm răm đọc mấy câu thần chú thuở xưa, lúc tôi hãy còn là khoá sinh Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang:

                        Ôi không gian giờ đây ta mới biết!
                        Mộng mây trời đã giết chết đời ta
                        Hôi hận ư! Cũng đã muộn màng rồi
                        Ta thèm khát một khung trời thoải mái.

                        Kỳ này thoải mái là cái chắc, không sợ quấy rầy: “hành xác tối đa" mà đám cán bộ đàn anh "áo vàng” thường hay hò hét. Tôi xa bạn bè thân yêu của tôi đã bao năm nay, tiếp tục theo cái nghiệp “ăn cơm dưới đất - làm việc trên trời" sau ngaỳ 30 tháng 4 -75.

                        Dở bản đồ không hành để thiết lập chuyến không hành (VFR Flight Plan) từ thành phố Calgary, thuộc tiểu bang Alberta để đi đến Tuk, chấm toạ độ cho những phi trường liên cận trong đường bay để đổ xăng phi cơ và nhiên liệu cho cái thân mình.

                        Tổng cộng đường bay vào khoảng trên dưói 1000 nautical miles, với chiếc trực thăng Aerospatiale 355 trang bị bởi hai động cơ Allison 250 turbine jet.

                        Tốc độ bình phi (normal cruising airspeed) của chiếc trực thăng này là 130 knots, cuộc không hành dự tính tốn khoảng 11 giờ đồng hồ tất cả. Sau khi điền phiếu phi hành và khai báo với Air Traffic control Calgary là tôi đã hoàn tất xong thủ tục hành chánh cho chuyến bay thật hiếm hoi, và có lẻ thật tê tái trong đời, Với tôi, chỉ phải settle down miền đất Canada cũng đã là một thử thách rồi, huống chi còn dzọt tuốt lên North Artic Circle.

                        Sau chín giờ bay trong ngày đầu tiên của chuyến không hành, mọi sự được thuận buồm xuôi gió (every thing đều Okey Dokey) như dự tính trong bản VFR Flight plan đã nộp cho đài kiểm báo Calgary (Air traffic control). Tôi ghé đáp phi trường Inuvik để nghỉ qua đêm.

                        Phi trường Inuvik, cũng là tên của thành phố thuộc tiểu bang Northwest Territories còn trong lảnh thổ Canada. Tôi lay quay, vội vã mướn khách sạn cho sớm, để còn giải quyết cái bụng đang đánh loto!

                        Tôi bước vội vào bên trong một quán ăn độc nhất do người Eskimo làm chủ, nhà hàng này bán những món ăn vùng Bắc cực; chế biến từ các loại thịt rừng Reindeer hay thịt Caribou bản xứ , không biết ở đây người ta ướp gia vị bằng cái giống gì ? Khi họ mang ra cho mình ăn, vị thịt rừng nướng ăn kèm bánh mì, rau quả toàn đặc sản: Ngon lành mùi thơm ngất - không chổ nào chê được. Đói khát quá sau một ngày ăn uống thất thường, kèm theo được thưởng thức món ăn lạ trong đời .Tôi dùng bữa hôm ấy thật khuây khỏa, nhiệt tình.


                        Trên đường về lại hotel
                        Nơi đây Inuvik đèo heo
                        Mùa Thu đêm sáng trong veo
                        Phố xá ….Hỡi ơi, tí teo- cù teo !

                        Chẳng có gì hấp dẫn, cho một du khách hiếu kỳ lần đầu. Tôi đành thúc thủ quay ra ôn lại sự việc xẩy ra hôm nay, briefing cho chuyến đi ngày mai trước khi chìm vào giấc ngủ.

                        Sau một đêm dài ngủ lấy sức, 6:00 giờ sáng, nghe đồng hồ báo thức, tôi lật đật thức dậy, làm thủ tục vệ sinh, rồi đón taxi trực chỉ ra phi trường Inuvik.
                        Tôi chuẩn bị tiếp tục cuộc không hành giai đoạn cuối, bay 130 nauticaul miles nữa thôi, mình sẽ tới nơi tới chốn, rồi nhủ thầm ý tưởng tự an ủi lấy mình chấp nhận làm con bà Phước trong chuỗỉ ngày cô đơn chiếc bóng.

                        “Cũng được thôi! Miễn sao có người, bất cứ người nào chỗ tôi đáp xuống cũng làm cho tôi vui mừng lắm rồi. Vã lại có ai là ngườì da vàng mũi tẹt Việt Nam, ai là người vô tích sự lên đây, lên cái xứ khỉ ho cò gáy này làm gì!. Mình đừng đòi hỏỉ quá đáng chứ! Phở Dakao, Hủ tiếu Mỹ Tho, Chả cá Thăng Long, Bún bò Huế, Bánh Canh Cua đồng chợ củ v v.. Ôi thôi! Tôi không thèm đâu.....Không thèm ăn món quê hương thuần tuý. Chỉ vì một lý do duy nhất là tôi đang sống ở chốn địa đầu vĩ tuyến.”
                        Đến nơi, tôi vừa làm một tua D.I. (Pre-flight Daily Inspection) cho con tàu có mang kiểu số 355 (dê 5 lần), đầu óc vừa miên man, tay chân lạnh quờ quạng.
                        Sau khi hoàn tất thủ tục DI, mình đi bộ tới đài kiểm báo Inuvik để lấy tin tức khí tượng trong ngày, và đồng thời khai báo để mở lại VFR fight plan cho đoạn đường cuối của cuộc không hành đến Bắc cực.
                        Thời tiết đầu mùa thu ở vùng Arctic hôm đó được thông báo là clear sky, visibility +40 miles, temperature 15degree F, wind 250 degree at 10 MPH, barometer 2995.
                        Leo lên phi cơ, liếc sơ qua bản check list, quay máy bắt đầu động cơ số 1, rối tiếp theo đó động cơ sồ 2, .. vv.. kiểm soát lại phi cụ một lần nữa, bấm microphone để gọi clearance:

                        Tôi gọi đài kiểm báo:
                        - Inuvik, helicopter Charlie Gulf Kilo Hotel Whiskey (nick name C-GKHW)

                        Inuvik trả lờì:
                        - Kilo Hotel Whiskey goes ahead

                        Tôi gọi đài kiểm báo tiếp theo:
                        - Kilo Hotel Whiskey is ready for take-off and would like to re-open the VFR flight plan to Tuktayotuk.

                        Inuvik trả lời:
                        - Roger that, contact Inuvik when you are 20 nautical miles out.

                        Tôi trả lời lần cuối trước khi take-off:
                        - Kilo Hotel Whiskey roger

                        Từ từ nâng nhẹ cần collective pitch, đem chiếc trực thăng mới toanh trị giá khoảng 2 triệu mỹ kim lên vị thế hover. Tôi đẩy nhẹ cần cyclic forward, tiếng máy động cơ và tiếng xé gió phật phật của 3 cánh quạt từ từ tăng lên. Tôi trực chỉ bay về North Artic circle hướng tây bắc 330 degree.

                        Chỉ trong khoảng thời gian ngắn; tôi đã tới cao độ bình phi, mở tầng số để intercept Tuk's VOR (Very High Frequency Omni-directional Range) and NDB (None Directional Beacon). Từ cao độ 2500 (feet above sea level) nhìn xuống vùng Arctic Circle lổm chổm toàn là những hồ nước phủ với một lớp tuyết trắng, rải rác khắp nơi như những tổ ong, hay như là mặt đất của những Hoả Tinh mà mình đã từng thấy qua trên TV, tuyệt nhiên không một ngọn cây nào thấy được nơi đây! Xa xa vài đám reindeer chỗ này, đám caribou chỗ kia đang thong thả rảo bước tìm miếng ăn.

                        Trên đường về lại hotel
                        Nơi đây Inuvik đèo heo
                        Mùa Thu đêm sáng trong veo
                        Phố xá ….Hỡi ơi, tí teo- cù teo!

                        Chẳng có gì hấp dẫn, cho một du khách hiếu kỳ lần đầu .Tôi đành thúc thủ quay ra ôn lại sự việc xảy ra hôm nay, briefing cho chuyến đi ngày mai trước khi chìm vào giấc ngủ.

                        Sau một đêm dài ngủ lâý sức, 6:00 giờ sáng, nghe đồng hồ báo thức, tôi lật đật thức dậy, làm thủ tục vệ sinh, rồi đón taxi trực chỉ ra phi trường Inuvik.
                        Tôi chuẩn bị tiếp tục cuộc không hành giai đoạn cuối, Bay 130 nautical miles nữa thôi, mình sẽ tới nơi tới chốn. Rồi nhủ thầm ý tưởng tự an ủi lấy mình chấp nhận làm con bà Phước trong chuỗi ngày cô đơn chiếc bóng.

                        “Cũng được thôi! Miễn sao có người, bất cứ người nào chỗ tôi đáp xuống cũng làm cho tôi vui mừng lắm rồi. Vả lại có ai là người da vàng mũi tẹt Việt Nam, ai là người vô tích sự lên đây, lên cái xứ khỉ ho cò gáy này làm gì!. Mình đừng đòi hỏi quá đáng chứ! Phở Dakao.... Hủ tíu Mỹ Tho. Chả cá Thăng Long, Bún bò Huế, Bánh Canh Cua đồng chợ củ v.v.. Ôi thôi! Tôi không thèm đâu..... Không thèm ăn món quê hương thuần túy. Chỉ vì môt lý do duy nhất là tôi đang sống ở chốn địa đầu vĩ tuyến.”
                        Đến nơi, tôi vừa làm một tua D.I. (Pre-flight Daily Inspection) cho con tàu có mang kiểu số 355 (dê 5 lần), đầu óc vừa miên man, tay chân lạnh quờ quạng.

                        Sau khi hoàn tất thủ tục DI, mình đi bộ tới đài kiểm báo Inuvik để lấy tin tức khí tượng trong ngày, và đồng thời khai báo để mở lại VFR fight plan cho đoạn đường cuối của cuộc không hành đến Bắc cực.
                        Thời tiết đầu mùa thu ở vùng arctic hôm đó được thông báo là clear sky, visibility + 40 miles, temperature 15degree F, wind 250 degree at 10 MPH, barometer 2995.

                        Leo lên phi cơ, liếc sơ qua bản check list, quay máy bắt đầu động cơ số 1, rối tiếp theo đó động cơ số 2, .. v.v.. kiểm soát lại phi cụ một lần nữa, bấm microphone để gọi clearance:

                        Tôi gọi đài kiểm báo:
                        - Inuvik, helicopter Charlie Gulf Kilo Hotel Whiskey (nick name C-GKHW)

                        Inuvik trả lời:
                        - Kilo Hotel Whiskey goes ahead

                        Tôi gọi đài kiểm báo tiếp theo:
                        - Kilo Hotel Whiskey is ready for take-off and would like to re-open the VFR flight plan to Tuktayotuk.

                        Inuvik trả lời:
                        - Roger that, contact Inuvik when you are 20 nautical miles out.

                        Tôi trả lời lần cuối trước khi take-off:
                        - Kilo Hotel Whiskey roger

                        Từ từ nâng nhẹ cần collective pitch, đem chiếc trực thăng mới toanh trị giá khoảng 2 triệu mỹ kim lên vị thế hover. Tôi đẩy nhẹ cần cyclic forward, tiếng máy động cơ và tiếng xé gió phật phật của 3 cánh quạt từ từ tăng lên. Tôi trực chỉ bay về North Artic circle hướng Tây Bắc 330 degree.

                        Chỉ trong khoảng thời gian ngắn; tôi đã tới cao độ bình phi, mở tầng số để intercept Tuk's VOR (Very High Frequency Omni-directional Range) and NDB (None Directional Beacon). Từ cao độ 2500 (feet above sea level) nhìn xuống vùng Arctic Circle lổm chổm toàn là những hồ nước phủ với một lớp tuyết trắng, rải rác khắp nơi như những tổ ong, hay như là mặt đất của những Hoả Tinh mà mình đã từng thấy qua trên TV, tuyệt nhiên không một ngọn cây nào thấy được nơi đây! Xa xa vài đám reindeer chỗ này, đám caribou chỗ kia đang thong thả rảo bước tìm miếng ăn.

                        My God! Trời cao thăm thẳm - Đất rộng mênh mông! Ngút ngàn ganh nhau một màu trắng sát dài vô tận.


                        “North Artic Circle! Vương quốc truyền thuyết ngàn năm của tổ phụ tôi đây sao?

                        Hoàn cảnh hi hữu mãi cho đến hôm nay, tôi mới được tìm về quê hương đất tổ truyền tụng trong nhân gian... bởi câu nick name mà bạn bè trong khoá gọi tôi là: "Ông Già Noel “

                        Cross check hàng phi cụ, đồng hồ DME (Distance Measurement Instrument) mới chỉ 20 nautical miles, bấm microphone tôi gọi Inuvik:

                        - Inuvik center, this is Kilo Hotel Whiskey

                        Inuvik trả lời: Kilo Hotel Whiskey this is Inuvik, go ahead

                        (Tôi cho biết tọa độ con tàu, gởi lời cám ơn trước khi rời đài kiểm báo Inuvik)
                        - Kilo Hotel whiskey is 20 nautical miles to the North West at 2500 feet, have a good day sir!)

                        Inuvik trả lời:
                        - Kilo Hotel Whiskey thank you, contact Tuk flight service station at 123. XX when you are 20 nautical miles away, and have a good day yourself too.

                        - Kilo Hotel Whiskey roger that.

                        Thời gian như chớp mắt, xa xa hướng chân trời, Tuktayotuk mờ mờ xuất hiện quyện lẫn trong màu tuyết trắng,.

                        Tôi lại bấm microphone:
                        - Tuk radio, this is Kilo Hotel Whiskey

                        Đài kiểm báo Tuk
                        - Kilo Hotel Whiskey, this is Tuk radio, go ahead.

                        - Kilo hotel Whiskey is a TwinStar helicopter, presently 20 nautical miles to the South, South East at 2500 feet inbound for landing.
                        (Tôi vang lên cho đài biết là mình đang cận tiến đáp xuống phi trường cách 38 cs, từ hướng Nam, Đông Nam)

                        - Kilo Hotel Whiskey roger that, current wind condition is at 250 degree at 15 knots, visibility is at 20 miles, barometer is at two niner, niner three (2993), and please be advised that there is a helicopter also inbound from the South West at 1500 feet.

                        - Thank you Tuk, Kilo Hotel Whiskey will keep an eye on that.
                        (Tôi trả lời cám ơn và thông báo cho đài kiểm báo Tuk là sẽ để ý chiếc phi cơ bạn cùng lúc thực hiện việc đáp xuống làng Eskimo; town có tên là Tuktayotuk)

                        Sau vài phút im lặng, đột nhiên tiếng gọi đài từ chiếc trực thăng kia vang lên trong helmet: Tuk radio this is helicopter Charlie XXX (mình đã quên ký hiệu của chiếc phi cơ này)

                        Đài kiểm báo Tuk trả lời: Charlie XXX go ahead

                        Charlie XXX is Bell 214 helicopter, 5miles to the SW on final approach

                        Tôi ngạc nhiên khi nghe âm thanh request landing của chiếc phi cơ bạn dường như hơi quen thuộc.

                        Đài kiểm báo Tuk gọi: Kilo Hotel Whiskey, this is Tuk radio, do you have him insight?
                        Rồi tiếng đài kiểm báo Tuk radio gọi lại cho tôi, xem tôi có thấy phi cơ bạn đang cận tiến phía trước không?

                        Tôi trả lời ngay : Roger that Tuk, Kilo Hotel Whiskey has him insight and I'm presently 10 miles to the SSE descending to land after Charlie XXXX.( Hiểu rỏ Tuk, tôi thấy phi cơ bạn, và tôi đang 10 miles hướng Nam Đông Nam. Tôi đang hạ xuống cao độ cận tiến đáp tiếp theo sau đó)

                        Hai chiếc phi cơ trực thăng không hẹn nhau, lại cùng nhau đáp xuống North Artic Circle ngày hôm ấy. Chuyện càng hy hữu hơn thế nữa danh xưng Charlie kia không ai xa lạ, đó chính là niên trưởng Không Quân Tr/uý Tuấn bay ở Phù Cát hay Pleiku gì đó năm xưa.

                        Thật là hạnh phúc cho chúng tôi vô cùng, khi tình cờ hội ngộ với nhau nơi chốn đỉnh đầu của trái đất. Trong khoảng thời gian biệt phái này hai anh em chúng tôi chia sẻ với nhau đầy đủ ý nghĩa của chữ chia sẻ. Tâm tình với nhau mọi chuyện có thể tâm tình, hầu vơi đi nỗi cô đơn giá buốt và cũng để nói lên truyền thống của Không Quân VNCH là "Không quên anh em, không quên bạn bè" dù tôi và anh Tuấn chưa một lần biết nhau trước khi biến cố 4/1975



                        Phan Toan - Dec-15-2008
                        Last edited by hung45qs; 10-13-2010, 05:16 AM.
                        Hung45HTQS

                        Comment


                        • #13
                          Chuyện Tình Với Chàng Cựu Không Quân Y 2 K


                          Giữa chàng với tôi là hai thái cực khác nhau. Tôi yêu văn thơ, ca nhạc, chàng thì không. Khẩu vị của tôi là đồ ngọt, còn chàng thì lại thích chua và đắng. Chàng trông cao ráo, hoạt bát, nhanh nhẹn, ngược lại tôi thì lù đù chậm chạp và thấp bé. Đôi lúc chàng cứ như người ở trên mây (không quân mà), mặc dù tâm hồn chàng chẳng có tí gì là nghệ sĩ cả. Không biết đã nợ nần nhau tự kiếp nào mà ông trời lại se duyên cho chúng tôi ở tuổi hoàng hôn đang dần dà xuống.
                          Tôi gặp chàng ở cái tuổi mà theo quan niệm của các cụ xưa cho là tuổi “quá lứa nhỡ thì” nếu không muốn nói là ê sắc. Lần đầu tiên quen nhau trên diễn đàn bạn đọc của tờ báo Suối Nguồn.com, lúc ấy tôi là người thỉnh thoảng viết bài gửi cho báo, với bút hiệu là Thiên Lý (mỗi tác giả thường đề email của mình dưới bài viết để độc giả có thể liên lạc) còn chàng là độc giả đi tìm một người bạn gái cũ cũng có tên là Thiên Lý. Không biết chàng thật tâm đi tìm hay chỉ là giả vờ. Tôi thành thật cho chàng biết; tôi không phải là người bạn gái mà chàng đang tìm, vì Thiên Lý chỉ là bút hiệu của tôi mà thôi. Sau lần đó, chàng vẫn email cho tôi bàn chuyện văn chương như một nhà bình luận gia chuyên nghiệp, và chàng tự giới thiệu với tôi trước năm 1975 chàng là phi công phản lực. Tôi đã nửa tin nửa ngờ khi nghĩ đến những anh chàng “bốc phét” mà tôi đã gặp trước đây. Cái ngờ là thế, nhưng tôi cũng tự trấn an mình để có được một niềm tin nơi chàng, rồi xem nếu chàng là Không Quân chàng sẽ kể thêm những gì về đời quân ngũ của chàng. Để củng cố lòng tin của tôi, chàng liệt kê tên những quân trường chàng đã đặt chân qua trên đất Mỹ từ năm 1969, nào là: Travis, Lackland, Sheppard, Tincan, Hondo, Medina… Chỉ nghe qua vài tên thôi, tuy không biết được đâu là đâu, tôi cũng đoán ra chắc chàng là Không Quân thật rồi. Tôi cố tưởng tượng đến hình ảnh những anh chàng Không Quân trong bộ đồ bay vừa oai hùng, vừa hào hoa phong nhã. Chàng nào cũng một vai gánh vác việc quân, còn một vai thì vắt vẻo vài mối tình văn nghệ; và dẫu bây giờ chàng đã không còn là không quân nữa, nhưng biết đâu cái máu bay bướm từ mấy chục năm trước vẫn còn trong cá tính của chàng. Và tình cảm với chàng chắc cũng chỉ là: “Tình vui trong phút giây thôi”…Nghĩ đến đây một cảm giác thất vọng và chán chường bắt đầu len lỏi trong tôi. Tôi xếp lại lá thư xem như đó là một trò chơi không đoạn kết như những chuyện tình vớ vẩn trước đây.
                          Ngày lễ tình yêu Valentine năm 2000, qua email chàng gửi đến tôi một bông hồng tươi thắm với một bản nhạc đệm không lời rất hay. Chàng bảo: hy vọng sau này chàng sẽ có dịp gởi cho tôi cả bó hồng chứ không phải một đoá như bây giờ. Chà, chỉ là lời hứa hẹn thôi mà sao lúc đó lòng tôi đã có chút xao xuyến kỳ lạ. Để tỏ lòng cảm kích tặng phẩm cánh hồng đặc biệt của chàng, tôi cũng gõ lại mấy hàng cảm ơn và cố ghi nhớ ngày sinh nhật của chàng vào đầu tháng ba, tôi sẽ gởi lại tấm E card chúc mừng cho đúng phép lịch sự. Ngày nối tiếp ngày, chàng viết thư cho tôi đều đặn hơn, chàng kể chuyện tiếu lâm của mấy ông Hoàng, bà Chúa thời xưa, thời nay. Chàng viết thư rất vui, nên mỗi khi buồn, tôi thường mở thư chàng ra đọc rồi cười một mình.
                          Tôi còn nhớ một buổi trưa sau khi tôi từ trường về nhà, đang vội vã sắp xếp túi cơm mang đi làm thì tôi nhận được một bó hồng rực rỡ cùng tấm card nhỏ vỏn vẹn có 3 chữ: “I love you” và chữ ký của chàng. Tôi vừa ngạc nhiên, vừa ngẩn ngơ, lòng băn khoăn tự hỏi: Sao cái ông này gan thế nhỉ? Chưa biết mặt ngang mũi dọc của mình ra sao mà đã bày tỏ rồi, ông ta là ai? Ở đâu, sao lại gửi hoa nhanh đến thế? Tôi không có câu trả lời cho những câu hỏi của mình. Ngày hôm ấy trong sở làm tôi cứ miên man nghĩ đến bó hồng và anh chàng Không Quân bí mật kia. Chàng khôn quá đã âm thầm bắt tôi phải tò mò đến chàng rồi.
                          Càng ngày chàng viết thư càng nồng thắm hơn, chàng tả những giấc mơ của chàng về tôi, chàng tưởng tượng ra ánh mắt, mùi hương… cứ y như một anh chàng văn sĩ, có lúc tôi đã nghĩ sao chàng không làm nghề viết văn mà lại đi lính Không Quân nhỉ? Vốn là người đa cảm, tôi rất xúc động với những bày tỏ tình cảm chàng viết cho tôi. Tuy nhiên, tôi vẫn còn ngại ngùng, lo lắng cho sự thật, giả lẫn lộn trong những lời lẽ ấy, và vì tôi cũng không mấy tự tin lắm về vóc dáng bên ngoài của mình. Tôi tự hỏi ở đời có mấy ai nhìn thấy được sự tốt đẹp bên trong tâm hồn mình đâu? Đàn ông chỉ toàn là mơ mộng về bóng sắc thôi. Tôi liền cảnh giác chàng rằng đừng quá mơ nhiều như thi sĩ Đinh Hùng là: “Chưa gặp em, anh đã nghĩ rằng…”.để chàng không thực sự thất vọng nếu sau này có dịp gặp nhau, thực ra tôi chỉ là một người bình thường, đã già, lại còn lùn và xấu nữa. Khi nghe qua ba chữ tóm tắt rất giá trị về ngoại hình của tôi như thế, chàng bảo rằng không sao, chàng không hề chú ý đến những tiểu tiết bên ngoài ấy. Điều này tôi rất nghi ngờ, tâm hồn tôi cũng đã bắt đầu xáo trộn bởi những lo âu, những nỗi buồn, những sợ sệt, những nhung nhớ vu vơ…
                          Sau mấy tháng email và chuyện trò qua điện thoại. Chàng nồng nhiệt mời tôi đến Farmington, nơi thành phố chàng đang ở thuộc tiểu bang New Mexico. Tôi thật e dè không muốn đi, vì tôi cảm thấy sờ sợ. Chàng cố gắng thuyết phục tôi, và còn mang cả danh dự của một người đã từng là lính Không Quân ra thề rằng, chàng sẽ không làm gì tổn hại đến tôi, sẽ giữ gìn và bảo vệ tôi từ đường răng kẽ tóc. Chàng thêm rằng, nếu tôi không tin chàng thì khi tôi đến phi trường, chàng sẽ đưa cho tôi một khẩu súng, vừa để làm tin, và cũng vừa để tôi tự vệ. Trời ơi! chỉ nghe nói đến súng thôi là tôi đã khiếp vía rồi, huống hồ là cầm đến cây súng. Tôi cũng chưa bao giờ nhìn thấy cây súng thật thì làm sao mà biết đến chuyện sử dụng nó để bảo vệ mình khi gặp nguy hiểm. Song, vì lời chàng quá chân tình nên tôi đã siêu lòng. Chàng ân cần đặt vé cho tôi, dặn dò tôi từng đường đi nước bước đến phi trường.
                          Tôi không bao giờ quên được cái ngày đầu tiên “blind date” đó. Sợ chàng chê tôi lùn, tôi đã mang đôi giày cao gót đến 10 phân và cứ đi tới đi lui trước gương ngắm nghía xem mình đã cao lên bao nhiêu… Môt cảm giác lo sợ, một chút mắc cỡ và một chút sững sờ khi tôi nhìn thấy chàng xuất hiện bằng xương bằng thịt. Chao ôi, tôi không tin được chàng đây chính là người đã viết email nồng nàn và nói chuyện hết sức tình cảm với tôi qua điện thoại mấy tháng nay. Chàng cao lớn, lại trông rất già và rất “dữ” với cái đầu cạo trọc, và cặp kính mát đen thui trông như là một lãnh chúa trùm băng đảng nào đấy. Tôi thật kinh hãi muốn quay lên máy bay trở về nhà ngay. Nhưng tôi đã không thể làm gì khác hơn là phải giữ phép lịch sự cho việc xã giao, và tôi thầm nhủ: ồ nếu chàng có chê tôi xấu thì tôi cũng hết sức thank you, rồi vui vẻ say “bye bye forever”. Chàng đến bên tôi với nụ cười rất hiền và một giọng nói quen thuộc mà tôi vẫn nghe hằng đêm. “Lý đấy phải không? Trông em xinh như thế này mà cứ bảo là xấu lắm.” Ối trời! Lần đầu tiên trong đời có người khen tôi xinh, ồ mà có thể so với chàng thì tôi xinh hơn một tí. Lòng tôi chợt dịu lại, không phải vì lời khen của chàng mà là cử chỉ thân ái, trân trọng, và nồng nhiệt đã làm tôi cảm thấy giá trị của người phụ nữ trong tôi được nâng lên một chút. Đúng là Sĩ Quan Không Quân có khác, và cũng đúng như lời chàng đã nói, chàng chẳng để ý gì mấy đến thước tấc của tôi trong khi tôi cứ ra sức nhón thêm khi đi bộ với chàng quanh ven hồ. Nhón hết sức mà đầu tôi chỉ vừa chạm đến bờ vai chàng, tôi chắc lúc đó chàng đã cười thầm tôi là nhà quê. Đi bên chàng tôi có cảm giác được bảo vệ, chở che. Chúng tôi chia xẻ với nhau chuyện sóng gió trong cuộc đời riêng của mỗi người suốt một buổi chiều mưa trong công viên Cotez. Chàng cho tôi xem những tấm hình từ hồi chàng còn trong hàng ngũ Không Quân, có tấm chàng chụp chung với bạn bè, có tấm chàng chụp một mình khi đang thực hành. Mỗi tấm hình là một câu chuyện kỷ niệm về công việc huấn luyện bay của chàng. Tôi không thề tưởng tượng hết được những nỗi gian khổ của đời lính lúc phải đương đầu với cuộc chiến tranh ác liệt là như thế nào, và mỗi người lính đều phải sẵn sàng cho mình một ngày đi có thể sẽ không bao giờ trở lại. Thật là anh hùng làm sao!
                          Sau hai ngày rong chơi tâm tình qua nhanh, dường như chàng sợ tôi đi luôn hay sao nên không ngần ngại đề nghị chuyện đám cưới nếu tôi muốn bất cứ lúc nào. Chàng làm tôi giật mình cho sự quyết định táo bạo của chàng. Ồ chàng là phi công phản lực mà, tốc độ muốn tiến đến hôn nhân của chàng cũng thật là “phản lực.” Tôi cứ gặng hỏi chàng rằng anh nói thật hay đùa vậy? Chàng nhấn mạnh; chàng đã qua rồi cái thời xây lâu đài trên cát, bây giờ chàng không còn thì giờ để đùa nữa mà chỉ dành thời giờ cho một tình yêu nghiêm túc. Tôi thật bối rối không biết nói sao, tôi hẹn chàng là tôi sẽ trả lời sau khi hỏi ý kiến của dì tôi.
                          Khi về lại thành phố Hồ Muối, tôi hỏi ý của dì tôi (bố mẹ tôi đã qua đời) về chuyện ngỏ lời cầu hôn của chàng cựu Không Quân và tôi thật do dự khi quyết định. Dì tôi bảo: “Thế mày định đợi đến bao giờ nữa, bốn chục rồi còn gì, đừng có chần chừ rồi tới năm mươi thì chẳng có ma nào ngó tới đâu con ạ”. Lời của dì làm tôi thấy tủi thân cho phận mình, phải rồi tôi đang tiến đến tuổi già, tôi không có thời gian lựa chọn như hồi còn son trẻ nữa. ..Thôi thì cũng đánh liều với số phận một phen.


                          Chúng tôi đã thành hôn sau 3 tháng chuẩn bị. Trong đám cưới, chúng tôi được vinh dự đón ông thầy đã thả chàng bay solo mà chàng tha thiết gọi là “my IP”. Mặc dù đi đứng rất khó khăn vì chứng bịnh Parkinson, nhưng ông vẫn bay từ Dallas sang thành phố Hồ Muối đứng bên phía nhà trai dự đám cưới thân mật. Trong ngày cưới chàng cũng đeo lại chiếc nhẫn bay năm xưa, chiếc nhẫn vàng trắng mà chàng đã phải trả bằng hai tháng lương sinh viên. Đứng bên cạnh chàng, tôi cứ tự hỏi thầm: “Chồng mình đây sao?”
                          Thấm thoát mà đã mười năm chung sống bên nhau, mười năm chưa đủ dài để tôi có thể hiểu hết được chàng vì thế trong mười năm đã có bao nhiêu cay đắng, ngọt bùi, giận hờn, cãi cọ, để rồi có lúc đã gần đến lằn mức chia tay. Thật tình mà nói, chúng tôi cũng đã xa nhau một thời gian, vì sự độc tài của chàng, vì chàng cho rằng chàng lớn tuổi hơn tôi, kinh nghiệm sống nhiều hơn tôi nên chàng luôn luôn đúng, còn tôi thì luôn luôn sai. Những lúc bất đồng ý kiến với nhau, chàng tranh cãi rất hùng hồn, và luôn tạo cho mình một thế mạnh để đánh bại ý tưởng của tôi bằng cách lên cao giọng, rồi lại đập bàn, xô ghế, có khi còn quăng cả đồ đạc nữa… Cũng chính những lúc nóng giận chàng xem tôi như là một địch quân của chàng. Chàng đổ lỗi cho tôi nào là sống với Việt Cộng lâu ngày nên giọng lưỡi của tôi cứ y như Việt Cộng, nào là chàng đã bị tôi, một nữ cán bộ thâm độc bỏ bùa yêu thuốc lú…. Tôi khóc nhiều hơn là tranh cãi, sợ hãi đã dập bớt ngọn lửa yêu thương trong tôi. Tôi chán nản, tôi tức giận cho sự ngu ngốc của chính mình, tôi hối hận cho cuộc hôn nhân “phản lực” có lẽ chỉ có một không hai này. Ôi, hôn nhân không còn là hoàng hôn cùa ái tình như một nhà danh ngôn nào đã nói. Với tôi lúc ấy, hôn nhân như một bóng tối kinh hoàng, một con đường “dead end” thê thảm. Tôi càng buồn hơn những khi ngồi một mình và nghe câu hát quen thuộc: “Tình chỉ là giấc mơ thôi, nào ai sống trong mơ hoài. Tỉnh giấc ta nghe con tim đau…” Thế nhưng, chính thời gian xa nhau lại là thước đo tình cảm của nhau. Khi ra đi, tôi đã mong cho chàng sớm gặp được người đàn bà khác để chàng trả tự do cho tôi, thế mà chuyện đó lại không dễ dàng như tôi mong muốn, bởi lẽ chàng vẫn bám địch quân của chàng rất sát. Khi thì chàng phục kích tôi bằng máy bay, có lúc chàng tấn công bằng xe hơi. Chàng cũng chẳng ngần ngại đi xe bus mười mấy tiếng sang Hồ Muối trinh sát. Ngoài ra chàng còn email truyền đơn “chiêu hồi” địch với giọng văn thiết tha tình cảm. Chàng, một cựu Sinh Viên Sĩ Quan Không Quân Việt Nam luôn dang rộng cánh tay chào đón người đi sai đường lạc lối trở về. Thấy chưa, rõ ràng là chỉ trích tôi sai mà! Song, qua những chiến dịch bủa vây chặt chẽ của chàng, tôi đã nhận ra tình yêu chân thật giữa hai chúng tôi, và tình yêu đã giúp chúng tôi “cho hận thù vào lãng quên”…
                          Khi cơn giông bão của sự hờn giận đã qua đi, tôi hỏi chàng: “Lúc mình giận nhau, sao anh không đi tìm bà nào khác để thả em ra luôn cho rồi. Không Quân như anh thì thiếu gì bà.” Vẫn nụ cười hiền như ngày nào mới gặp tôi, chàng thì thầm: “Anh đã không thể tìm được bà nào… lùn hơn em và khờ khạo hơn em.” Thế đấy, vẫn còn giọng điệu trêu tức tôi, nhưng tôi không còn giận hờn chàng nữa. Bây giờ chàng rất ngoan hiền, thỉnh thoảng, chỉ thỉnh thoảng thôi, mới gầm gừ một chút khi gặp chuyện bất bình. Dù như thế nào đi nữa, chàng vẫn là người có lòng hướng thiện, và trong mười năm qua, tôi đã nhận ra ở con người chàng tính kiên cường, gan dạ của một người lính trên cả hai mặt trận chiến trường và tình ái. Đó phải chăng cũng là hình ảnh của những chàng cựu Không Quân, một thời bay nhảy và một đời bền bỉ, thủy chung với bạn tình trăm năm?
                          Chuyện tôi với chàng cựu không quân Y 2 k chỉ giản dị là thế!


                          Thiên Lý
                          Last edited by thien ly; 11-27-2015, 05:05 AM.
                          Hung45HTQS

                          Comment


                          • #14
                            CHUYẾN VỀ THĂM AN LỘC

                            Bạn thân,
                            Nhận được thư bạn kèm theo những hình ảnh trong cuộc chiến tranh biên giới Hoa Việt năm 1979, bao nhiêu hình ảnh đó đã đủ làm ám ảnh mình suốt ngày hôm ấy... tàn bạo thay, thật tai họa thay! Bởi chính con người gây ra chiến tranh mà hung thủ chỉ vì tham vọng quyền lực, ích kỷ, khác nhau về ý thức.


                            Năm 2007 gia đình chúng tôi có làm một chuyến về thăm quê cha đất tổ Việt Nam sau hơn 32 năm xa cách. Tôi có bao một chuyến xe đi lên An Lộc, nơi mà cuộc chiến mùa hè đỏ lửa tàn phá vùng III chiến thuật. Hồi ấy quốc lộ 13 đi từ Lai Khê lên quận lỵ Chơn Thành rồi đến An Lộc là cả một địa ngục trần gian ai oán, xác người nằm la liệt chồng chất lên nhau, con nít, đàn bà, ông già, bà lão, nam phụ, lão ấu, xác anh em chiến hữu bên ta, xác chính qui bộ đội bên kia! Không chỗ nào là không có cảnh chết chóc tan thương.

                            Bây giờ thì cũng đoạn đường ấy, xe chạy thênh thang, yên bình vượt qua những khu rừng cây cao su, vườn cây trái ngút ngàn trùng trùng điệp điệp. Ôi quê hương Việt Nam, đất nước mà ông cha chúng ta gây dựng suốt bao tháng năm dài lập quốc, đối với tôi, con dân nước Việt lưu lạc, thật thơ mộng và đẹp quá.

                            Khi xe chạy đến Tàu Ô, địa danh này nơi đây 35 năm trước cả hai bên Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa và VC Chính Qui dành nhau từng tấc đất. Ngồi trong xe, tôi miên mang suy tư giữa hai cảnh đời thay đổi, rồi tôi cảm thấy lành lạnh nồi da gà khi tưởng đến nơi đây sanh ra biết bao nhiêu là oan hồn uổng tử.

                            Anh tài xế nhỏ tuổi hơn mình vài tuổi có lẽ lo lắng sao đó nên mở miệng góp ý với vợ chồng chúng tôi:
                            - Anh chị ơi! Mấy chổ này đi chơi thăm bà con xong rồi mình nên dzọt về sớm... Buổi chiều tối sợ tụi nó lẽng ra, mình chạy trên đường một thân một mình, thấy ngại lắm.

                            Anh tài xế này thật là hiểu được lòng mình!
                            - Tôi cũng đang lo trong cảnh hoang vắng mịt mùng đâu đâu cũng toàn cây xanh che rợp bóng, rủi VC nó ra chận xe thì mình chỉ có nước mạc vận hết thời thôi.
                            Anh tài xế có vẽ thông cảm cho tôi, một người xa xứ trong thời gian còn chiến tranh, nên lúc nào trong tư tưỏng cũng hướng về quê cũ, lời ăn tiếng nói cũng không "hợp thời buổi"! Anh tài xế cười trả lời một cách thật dễ chịu:
                            - Ôi bây giờ hết VC rùi, tui chỉ ngại tụi ăn cướp địa phương lẽng ra khi chiều tối, mình phải liệu đề phòng mà về sớm vậy thôi.


                            Đã đến nơi rồi, hình như là thị xã An Lộc hồi xưa thì phải! Bây giờ người ta đã đổi thành chợ Bình Phước... Ngoài trời thì cơn mưa tầm tã không nhìn được gì ngoài 15-20 thước.
                            Tôi muốn tìm xem chiếc xe tank T-54 của phía bên kia bị lực lượng phòng thủ lúc bấy giờ phang cho sứt càng gãy gọng ngay cửa vào thị xã An Lộc, mà người xạ thủ là đàn bà khi chết còn bị xiềng chân trong pháo tháp. Tôi muốn tim thấy bao kỷ niệm ngaỳ xưa khi lên đây bằng trực thăng biệt phái cho liên đoàn 5 BĐQ, trước khi tôi xuông thì phía dưói đất quân bạn bắn "hoả châu" hổ trợ cho phi hành đoàn xuống an toàn.


                            Ngày xưa khi bay lên đây sau trận đánh mùa hè đỏ lửa năm 72, chỉ cần phi cơ cận tiến vào không phận thị xã An Lộc ở trên nhìn xuống, bạn sẽ thấy một cảnh hoang tàn kinh hồn. Bạn thấy thị xã An Lộc thân yêu trù phú, hôm nay đã thu gọn lại sau trận thư hùng. An Lộc chỉ còn võn vẹn lớn hơn một sân vận động thể thao soccer ball. Phía trên thành phô lúc bấy giờ không một mái nhà nào còn nguyên vẹn, tất cả và tất cả bị chiến tranh tàn phá san bằng.
                            Sức sống của An Lộc thân yêu không còn gi nữa, chỉ còn chăng trong hầm sâu địa đạo mà liên đoàn 5 BĐQ trấn thủ bên trong thị xã.
                            Lần nào biệt phái cho An Lộc riêng tôi cũng rất mệt, vì chúng tôi không được bay theo tiêu chuẩn normal, mà bắt buộc theo kiểu cách riêng đặc biệt của ngành trực thăng Việt Nam Cộng Hòa, cách bay này hoàn toàn không có trong tự điển chiến tranh cận đại, để tránh phòng không và Sam-7 nghĩa là làm vòng xoáy bay lên, đủ cao độ rồi nương theo mây bay theo, từ căn cứ Sư Đoàn 5 BB ở Lai Khê, hướng về An Lộc khi đến nơi, tắt động cơ cho phi cơ rơi xuống tự do, gần đến đất mới mở máy lên lại đáp khẩn cấp. Một ngày như mọi ngày, lần nào cũng như thế, lý do an toàn "né đạn" mà phải làm như thế. Chơi mấy ride như vậy là mệt lứ đừ lư. Take off lên thì không thể ra xa căn cứ bạn, lúc xuống đất thì cứ force landing …. Ôi sức người nào chịu nổi!

                            Tôi nhớ một lần bay hơi trưa mới đến An Lộc ở trên trời, trưởng phi cơ gọi xuống liên lạc với quân bạn xin đi về Lai Khê để phi hành đoàn ăn cơm. Anh em BB dưới đất năn nĩ hết ý và dụ chúng tôi đáp xuông hứa là cho phi hành đoàn ăn uống ngon lành... Sẽ có phở Ba Lê cho anh em phi hành đoàn, các bạn đừng lo v.v..

                            Không biết ông trưởng phi cơ của tôi lúc đó suy nghĩ thế nào, có lẽ ông ái ngại đi về Lai Khê ăn xong rồi phi hành đoàn cũng phải mất thời giờ bay lên An Lộc trở lại, nên ông ấy quyết định nhào xuống.

                            Thật đúng như lời hứa của tên sĩ quan liên lạc vô tuyến, bữa ăn trưa hôm đó, phở Ba Lê là một trong những bữa ăn ngon lành nhất, mà cuộc đời nhà binh của chúng tôi có được. Phi hành đoàn cấp bực cao nhất lúc bây giờ là Tr/uý Định Lôi Vũ 221, tôi là T/uý pilot lơ tơ mơ mới ra lò cùng hai anh em cơ phi xạ thủ, bốn anh em phi hành đoàn chúng tôi ngồi ăn trưa với Đ/tá LĐT/LĐP các sĩ quan hầu bàn cấp bậc nhỏ nhất thì cũng bằng cỡ trưởng phi cơ của mình, hay là Đ/uý làm mình ngại quá... hên một chuyện là phơ Ba Lê ăn rất ngon nên cứ thê mà chơi thẳng cẳng ai sao thì tui vậy, chẳng phải làm sao, “trước có Phước thì cứ hưởng rồi từ tính với toán"

                            Giòng đời thông thả buông trôi, không một mãi mai nuối tiếc, cành củ ngưòi xưa qua bao nhiêu thăng trầm lich sử . Tôi bay đến đây nhiều lần trong nhiêu thời gian khác nhau năm 1975, có khi đến An Lộc quân bạn thì ân cần mời gọi, lúc thì kẻ thù phòng không trù dập đuổi xua... Riêng hôm nay 32 năm trở về thăm lại An Lộc lòng tôi bồi hồi, nhiều cảm xúc bâng khuâng. Nghe loáng thoáng trong cơn mưa giông như thác đổ, dư âm tiếng tơi bời của đạn pháo binh âm ỉ gần xa, tiếng bom nổ, tiếng đạn xung phong nổ don của AK của M-16, súng đan vô tình môt thơi khói lửa chiến tranh, đã cướp đi bao nhiêu sinh linh vô tội.. Trong số người bạc mệnh & hy sinh ấy có đông bào ruột thịt và chiến hữu anh em đồng đội của tôi.

                            Bấy nhiêu kỷ niệm ấm ức khắc ghi trong tâm tư chờ đợi 32 năm, đến An Lộc hôm nay tôi như một chứng nhân ngỡ ngàng tư lự, bối cảnh quá thay đổi về không gian lẫn thời gian.
                            Trước cảnh hồn thiêng sông núi yên bình... Tôi nghiêng mình tưỏng nhớ đến con dân An Lộc & những đồng đội anh hùng của tôi vị quốc quên mình vì lý tưởng tự do, dân chủ.


                            PS khóa 72G
                            Last edited by hung45qs; 10-13-2010, 05:58 AM.
                            Hung45HTQS

                            Comment


                            • #15
                              Chuyến Vượt Biên Bất Thành

                              Từ thị trấn Xuân Lộc Long Khánh ba người chúng tôi đáp chuyến xe đò Long Khánh - TPHCM về Sàigòn. Tôi, bà vú dẫn đường người gốc Long Xuyên, một đệ tử em của thằng bạn lúc đó khoảng 15 tuổi cư ngụ trong ấp Nùng xuôi Nam trên chuyến xe đò đã xuống cấp thê thảm nhưng vẫn còn chạy được. Thời điểm năm 1982 muốn mua đựợc một chỗ ngồi trên xe quả thật vô vàn khó khăn, thiên hạ xếp hàng dài dài, ngóng dài cả cổ để chờ đến lượt, khi có chiếc xe đò nào được điều vào bến ai ai cũng nhấp nhõm mong sao tới lượt mình. Từ tờ mờ sáng chúng tôi đã có mặt ở bến xe nhưng tới gần trưa mới có vé lên xe, thế là mừng rồi. Những thành phần ưu tiên xếp hàng mua vé là đám cán bộ công nhân viên nhà nước, còn dân đen và phó thường dân nam bộ đành chịu phép, phải chờ các đầy tớ của nhân dân đi sạch sẽ mới mong tới phiên mình.


                              Chiều cùng ngày bộ ba chúng tôi về tới Xa Cảng Miền Đông và đi xe ôm xuống Xa Cảng Miền Tây. Tại Xa Cảng Miền Tây này ba người mua 3 ổ bánh mì để dành lên xe ngồi ăn, tranh thủ mua vé về Long Xuyên. Lúc lòng vòng ở Xa Cảng này đợi mua vé xe không ai để ý ai cả vì ai cũng có những nỗi lo riêng, theo tôi nghĩ lúc đó biết đâu trong số những người vội vã chen lấn đó cũng có những đồng bào có cùng tình cảnh như mình, cũng đang hướng tới một nơi nào đó của miền Tây, tổ chức vượt biên, những năm này phong trào vượt biên lên cao, nhà nhà vượt biên, người người vượt biên ngoại trừ cột đèn không thể nhúc nhích mà thôi. Thằng đệ tử người trắng trẻo lại hay lấm la lấm lét làm tôi cũng hơi hồi hộp vì từ nơi nó có thể gây chú ý của đám Công An bận đồ vàng.

                              Tới đây xin nói rõ về bà vú người Long Xuyên một chút, chúng tôi biết bà vì bà là người nhà của một gia đình Hòa Hảo gốc Long Xuyên, làm rẫy và buôn bán trái cây đặc sản ở Long Khánh. Gia đình này ở chung trong xóm Nùng để kinh doanh làm ăn với người bản xứ nơi này. Tôi dạy kèm buổi tối cho con gia đình này nên lâu ngày dần dần thân tình bà vú mới móc nối và nhờ tôi quen biết để tìm người vượt biên. Chuyến đi này chỉ có tôi và thằng đệ tử tên A Coỏng theo bà vú dẫn đường.
                              Xe đò chạy tuyến đường TP - Long Xuyên coi bộ khá hơn một chút, có lẽ xe chạy đường dài nên được chuẩn bị sửa chữa sơn phết giống như còn mới. Lên xe ngồi mình có cảm giác an toàn trên xa lộ, yên tâm hơn mặc dù trong lòng lúc nào cũng hồi hộp. Còn A Coỏng có lẽ mệt mỏi nên lên xe ngủ gà ngủ gật…

                              Đoạn đường từ bến xe Xa Cảng Miền Tây chạy dài theo Quốc Lộ số 4 xuống tới Bắc Mỹ Thuận mất độ trên 2 tiếng đồng hồ. Trên đường đi xe thỉnh thoảng ngừng lại ở các trạm kiểm soát đột xuất, tụi CA kinh tế chỉ kiểm soát hàng của các bà buôn chuyến, không biết họ buôn những gì nhưng mỗi lần xe ngừng là chàng lơ xe có nhiệm vụ nhảy xuống phóng tới trước các đầy tớ rù rì ngoại giao, một lát sau lơ xe hớn hở quay lại phóng lên xe la lớn với bác tài: “ Tới”.

                              Không thấy kiểm tra giấy đi đường nên tôi cũng mừng thầm trong bụng. A Coỏng ngủ vùi (đúng là thằng con nít mới lớn không biết lo gì), bà vú trông có vẻ bình thản, có lẽ vú đã quen với hoàn cảnh như vậy rồi - chuyên gia dắt vượt biên.
                              Khi xe chạy gần tới Bắc Mỹ Thuận, nói là gần chứ thực sự xe còn cách mấy cây số phải ngừng lại và từ từ bò dần tới bến. Giống như người ta xếp hàng mua vé xe ở các Xa cảng, đoàn xe hàng dài như rồng rắn, khi tới gần trạm lơ xe la làng lên hối thúc khách xuống xe đi bộ mua vé qua trạm xuống phà phía trước. Sợ A Coỏng ngố ngố đi lạc tôi phải kêu nó đi trước tôi để dễ kiểm soát nó. Hai bên lề đường đầu phà vô số những trẻ bán mía ghim, bánh mì. Các bà già có, trẻ có bưng các thúng nem, cóc, ổi, xoài, mít...rao inh ỏi, người mua kẻ bán chụp giựt hối hả cãi vã nhau tranh giành mối đúng như người ta thường nói ồn ào như cái chợ. Lúc bấy giờ cũng đã chiều tối, đèn điện ở hai đầu phà sáng trưng, càng lùi xa bờ ánh đèn mờ dần, xa một chút là ánh đèn dầu lờ mờ trên tủ thuốc của các cô thiếu nữ bán thuốc lá bên vệ đường. Tôi ghé mua 2 điếu thuốc có đầu lọc hút cho tỉnh táo vì thời gian lâu rồi tôi không nhớ tên thuốc là gì.

                              Cuối cùng chúng tôi 3 người xuống phà trước qua tới đầu phà bên kia sông đợi xe qua. Sinh hoạt về đêm của hai bến phà giống y chang nhau. Gần nửa tiếng sau xe đò mới sang sông. Xe ai nấy lên, tôi phải nhắc chừng A Coỏng coi chừng mất đồ mặc vì chúng tôi mang theo chỉ một bộ đồ để thay và một số lặt vặt cần thiết. Rồi cũng tới Bắc Cần Thơ, qua phà cũng y như phà Mỹ Thuận, nhưng nước sông ở phà Mỹ Thuận chảy xiết hơn. Khi vô bến xe Cần Thơ chúng tôi phải đổi xe Cần Thơ - Long Xuyên. Đường từ Cần Thơ về Long Xuyên xấu dần do ảnh hưởng bom đạn của chiến tranh trước 75, đến thời điểm này vẫn chưa được tu sửa lại. Lỗ chỗ ổ gà, ổ vịt, xe dằn sóc muốn đau cả cái lưng. Không ai có thể chợp mắt được cho dù rất buồn ngủ. Ngồi trên xe tôi với A Coỏng chưa biết sẽ đi về đâu, không biết đích tới, không biết cá lớn cá bé ở mô tê (cá lớn là tiếng lóng gọi ghe dùng để ra biển, cá bé là chiếc xuồng nhỏ dùng chèo để đưa khách qua cá lớn có nơi gọi là taxi). Chỉ biết theo bà vú mà đi tới thôi, tôi chỉ lờ mờ đoán chắc bà vú dắt đi đường Hồng Ngự Châu Đốc qua Miên.

                              Xuống xe tại bến xe Long Xuyên, A Coỏng và tôi không khỏi bỡ ngỡ vì những chiếc xe đạp lôi nhiều vô kể, chiếc xe đạp kéo rờ-moọc phía sau ngồi được cỡ 4-5 người và hành lý (những xe chế này ở Sài Gòn và Long Khánh làm gì có). Bà vú kêu một chiếc lôi 3 người chạy vòng vòng một hồi về tới nhà bà vú ở gần chợ Long Xuyên. Chúng tôi không thể hình dung được cái thị xã Long Xuyên lớn cỡ nào vì vọn vẹn một ngày một đêm ở nhà vú chỉ có ăn uống tắm rửa và nghỉ ngơi, chẳng dám ra khỏi nhà. Sáng hôm sau, vú lại dắt cả hai người ra bến xe kiếm xe về Rạch Giá.

                              Con đường từ Cần Thơ về Long Xuyên xấu 5 thì đường từ Long Xuyên về Rạch Giá xấu 10, nhất là từ khúc quẹo ở ngã ba Lộ Tẻ về Rạch Giá - Ôi thôi đường xấu ơi là xấu, xấu không thể tưởng tượng được, Quốc Lộ gì mà trơ ra toàn sỏi đá. Sau 7 năm " phỏng giái " đường xá xe cộ, giao thông khắp nước xuống cấp hư hại thê thảm, nhà cửa loang lỗ, nhìn vào đó đủ biết đời sống của dân chúng thê lương thế nào.

                              Chiếc xe mà 3 người ngự trên đó là một chiếc xe tải không ghế ngồi, chúng tôi phải ngồi bẹp xuống sàn xe, mỗi lần xe lọt ổ gà 3người bị hất qua bên này lúc qua bên kia y như con lật đật, đau khổ nhứt là mỗi khi xe cán trúng đá bị nảy lên như nhảy cóc cái mông của 3 người ê thấu trời xanh. Nhìn mặt thằng Coỏng lúc đó không biết phải diễn tả như thế nào, nó muốn khóc mà chẳng dám thấy mà tội cho nó. Xe chạy khá lâu và đặc biệt song song với con lộ là con sông hay con kênh, nhìn ghe thuyền chở đủ thứ hằm bà lằng mà tôi chỉ nhìn vu vơ không chủ đích nên không nhớ rõ lắm. Hình như ghe thuyền là phương tiện vận chuyển và lưu thông chủ lực của dân vùng lục tỉnh nhiều sông lạch lắm kênh đào này. Còn xe cộ do đường xá quá bết bát nên chỉ lưa thưa không nhiều như thuyền bè trên sông.
                              Xe chuẩn bị vào thị xã, từ xa chúng tôi nhìn thấy quang cảnh biển Rạch Giá, lại gần mới thấy biển khơi xa xa; tôi liếc mắt nhìn A Coỏng, nó cũng liếc nhìn tôi gật gật tỏ ý ngầm hiểu chắc chúng ta vượt biển từ nơi đây. Lúc đó mặc dù khá mệt mỏi do suốt ngày ngồi bó gối trên xe nhưng cũng vui ra mặt vì cảm thấy le lói ánh sáng của hy vọng. Hy vọng thực sự được bước xuống ghe vượt biên chứ không phải tới để ém quân rồi về.
                              Đêm đó ngủ ở nhà do tổ chức sắp xếp, tôi lấy chiếc khâu 1chỉ đưa cho bà vú đem bán lấy tiền chi tiêu mua những thứ cần thiết. Sáng hôm sau dậy thật sớm, ba người ra kêu một chiếc xe đạp lôi chở tới bến tàu Rạch Sỏi. Xuống một chiếc vỏ lãi chở khách (danh từ địa phương ám chỉ chiếc ghe dài có 2 hàng ghế 2 bên có mui che nắng mưa cho bà con qua đò sang sông) chạy gần tới một bến đỗ, bà vú dắt 2 người xuống đò lên bờ. Vú dắt đi bộ một hồi tới 1 căn nhà lợp lá dừa gần một trại cưa mà giờ không còn nhớ tên. Ở nhà này cơm nước và chuẩn bị, trời chưa sáng có một chiếc xuồng do một ông chèo tới, bà vú dặn dò xong tụi tôi theo ông ta xuống xuồng. Tôi biết ông này đang chèo đưa 2 chúng tôi về hướng sông Cái Lớn, bà vú cho tôi biết cá lớn đang chờ đón tụi tui nơi đó. Sau này tôi mới biết đây là con kênh đào nối dài từ huyện Rạch Sỏi qua rừng U Minh Thượng, U Minh Hạ tới miệt dưới Cà Mau.

                              Trở lại ông chèo xuồng đưa 2 chúng tôi tà tà theo làn nước, luồn lách qua các trạm biên phòng trên bờ kênh giả giống như dân địa phương đi vô trông rẫy dứa, tới trưa mặt trời đứng bóng, lủi chiếc xuồng vô một gốc rừng tràm nghỉ mệt lấy cơm nước ra ăn uống. Dĩ nhiên cả 2 thằng tui đều mặc đồ y như dân ở đây, cũng giỏ cói khăn rằn máng trên vai, nón lá đội lụp xụp để che nắng che mặt. Dân trong vùng đa số trồng dứa nên nhiều ghe chở toàn dứa đầy khẩm, nhiều ghe máy chạy ngang tạo sóng vỗ vô bờ làm ánh mặt trời phản chiếu lóng lánh hắt vô mặt làm chói cả 2 mắt. Chiếc xuồng này có lẽ chở tôi với thằng Coỏng thôi nên suốt ngày lênh đênh trên nước cũng thoải mái. Tới chiều lúc mặt lặn chúng tôi ăn vội mấy cái bánh ú đem theo, ông chèo chèo nhanh hơn hướng về cửa sông Cái Lớn. Khoảng 8 giờ tối, màn đêm bao trùm không gian, mặt nước bập bềnh theo mái chèo và chiếc xuồng, gần tới ngã tư giữa con kênh và sông Cái, ông chèo chèo nhanh đưa chúng tôi vào bờ hữu của con sông; nhìn lên bầu trời trong xanh có vài vì sao lấp lánh, xa xa có vài ánh đèn leo lét mà mình không biết là ánh đèn nhà dân hay ánh đèn của những ghe đêm. Và đúng giờ hẹn chiếc ghe đã cặp vào bên hông của chiếc ghe lớn nằm khuất trong lùm cây lớn, ông chèo ghe nói vừa đủ nghe:
                              - Cá lớn đó leo qua đi.

                              Tôi và A Coỏng mừng quá trèo vội qua chiếc ghe lớn làm nó hơi tròng trành. Ông đưa xuồng lúc đó kêu mọi người trên cá lớn giao mật mã để đem về, ông ta chèo đi và chúc mọi người may mắn.

                              Khi ông taxi (người chèo xuồng) đi khuất rồi bọn tui mới ổn định được lại vị trí, đếm đi đếm lại chỉ có vọn vẹn 7 người vượt biên đêm nay mà thôi. Tôi, A Coỏng, anh Quang làm tài công, Hoàng, chú Sáu và 2 thanh niên nữa tôi không còn nhớ tên. Nhìn lại chiếc ghe gọi là cá lớn, chỉ là loại ghe tam bản loại chở hàng chạy trong sông, dài cỡ 8 mét, bề ngang chừng 2 mét, có 2 máy đặt ngoài: một máy Nhật loại Yanmar 7 và máy kia là máy xăng. Nếu mặt biển êm thì còn tạm được còn biển động có sóng chắc không xong. Biết sao bây giờ, lao đã phóng rồi, cưỡi lên lưng cọp rồi, Quang, Hoàng và chú Sáu nói đi được, còn tôi đâu biết gì thuyền bè và hải hành, nghe mấy giả nói được thì cũng cầu sao cho được thôi, thì hên xui may rủi vậy. Chết cũng đành chịu vì đến nước liều rồi, tôi không tin dị đoan, nhưng chú sáu là người lớn tuổi nhứt trong đám cứ lẩm bầm: “Tại sao lại là 7 - 7 là thất”. Tui nghe ông lầm bầm mà giựt mình. Bà mẹ nó! Tới nước này rồi tới đâu thì tới hơi đâu mà lo!

                              Quang cầm lái, Hoàng phụ và quay máy, 2 máy nổ đều và ghe vọt tới trước. Còn tụi tôi 5 người ngồi mọp xuống lườn ghe, ghe phóng dọc theo bờ sông hướng ra cửa biển. Thay vì lái ghe ra giữa sông anh Quang cứ cặp bờ miết nên ghe lướt qua những cái đáy đóng ngầm dưới sông của dân. Cũng may nhờ máy đặt ngoài nên không bị vướng đáy, nếu không là dính lại hết chạy. Ghe chạy chừng 10 phút thì nghe mấy tràng AK bắn phía bên kia sông, không chừng bị phát hiện rồi chăng. Nỗi lo lắng tăng dần, ghe vẫn phóng tới. tuy ban đêm không nhìn thấy mặt nhưng tôi biết ai ai cũng đang căng thẳng. Một tiếng đồng hồ sau vẫn không thấy tàu nào đuổi theo nên cũng an tâm. Ghe bắt đầu ra cửa biển, giờ phút quan trọng từ đây, nhìn xa xa ngọn hải đăng ngoài Rạch Giá quay vòng vòng chiếu sáng trên mặt nước biển.
                              - Chết cha! Ghe vô nước.

                              Tiếng ông già Sáu vang lên báo động. Ai nấy hết hồn, rồi ai đó kiếm được miếng giẻ nhét vô lỗ thủng. Chắc lúc phóng qua mấy cái đáy trong bờ làm thủng chăng!. Nước vẫn rỉ vô ghe nên thay phiên nhau tát nước. Nước vô không nhiều nên tát được, còn hy vọng.

                              Ghe vẫn tiếp tục chạy khoảng 2 tiếng nữa thấy đi ngang qua một hòn đảo có ánh đèn mờ mờ trên đó, tài công nói đó là Hòn Khoai. Nhờ không có trăng nên ghe khó bị phát hiện trong đêm. Lúc đó đã xa bờ, nếu tài công ngon lành chắc ghe ra tới hải phận quốc tế trước khi trời sáng sẽ thoát.

                              Thật không may, khi trời hừng đông ghe vẫn còn loay hoay trong vùng biển Thổ Chu. Phía sau là quần đảo Nam Du. Còn chếch về phía tay phải đảo Thổ Chu sừng sững xa xa. Và chuyện gì đến rồi sẽ đến, khoảng 7 giờ sáng tài công la lên:
                              - Có tàu đuổi theo.

                              Nghe la tôi nhón chân ló đầu quay sau nhìn thấy một chiếc tàu lớn đuổi theo sau. Ống khói tàu này khói xịt đen bầu trời, rõ ràng nó đang tăng tốc để bắt chiếc tàu vượt biên nhỏ bé này. Ai nấy đều hối tài công mở ga lớn đua với nó. Nhưng chiếc ghe sao mà chậm quá, nhìn lại thấy tàu sau dí theo mỗi lúc một gần. Bị dí gần 2 giờ đồng hồ, tôi thành tình hình bi đát rồi nên quăng hết giấy tờ đặc biệt xuống biển mà vô cùng tiếc nuối. Không lâu sau đó tiếng đạn chíu chíu trên đầu, tụi nó bắn trực xạ đó, tui la lên tài công buông cần lái ôm đầu nhào xuống lườn ghe núp chung với tụi tui .Chiếc ghe không người lài xoay vòng vòng rồi tắt máy. Cũng may tụi nó không bắn nữa, không ai bị thương.

                              Chiếc tàu quốc doanh đánh cá chạy vòng vòng chiếc ghe và giữ một khoảng cách an toàn đúng bài bản đề phòng chúng tôi có vũ khí chơi lại. Tụi nó bắt loa kêu tụi tôi giơ tay lên đồng thời AK chỉa thẳng vô đám vượt biên khốn khổ này. Tụi nó cũng chưa dám sáp lại gần và chạy vòng thêm 2 vòng nữa mới cho tàu sáp vô. Sau đó thảy dây qua kéo ghe vượt biên sát vô mạn tàu và tụi tôi lần lượt leo qua. Chúng trói mọi người lại thành một xâu chẳng khác gì cá bị dính câu, cho ngồi đàng trước mũi tàu. Mọi người nhìn nhau thở dài, buồn bã mắt rưng rưng muốn khóc cho số phận đen đũi này, đúng là công dã tràng. Tương lai mịt mờ, nhà tù đang rộng mở. Tâm trạng lúc đó chán chường vô cùng, bao nhiêu mơ ước tan theo dòng nước, số phận thật nghiệt ngã. Bảy người đúng là thất bại như điều mà chú Sáu đã lo sợ.

                              Chúng đưa tụi tui vô Hòn Máu nơi tụi biên phòng này đóng chốt. Giam lỏng trên đảo đúng 1tuần mới có ghe dân vô đất liền mới dẫn độ chúng tôi vô bờ. Ông chủ ghe bữa đó nói nhỏ với chúng tôi, sao các người chạy vô nạp mạng vậy, tụi nó đâu có phương tiện đâu, tại tài công ôm sát hòn quá nên nó nhìn thấy mới mượn ghe đánh cá dân ra rượt đó. Nghe xong chúng tôi ngỡ ngàng, ai cũng nhìn anh tài công mà lắc đầu, thật là khốn nạn thay, đời đen như mõm chó.

                              Bữa đó có sóng vì biển động, trên đường vô bờ anh Quang ói quá chừng, chúng tôi càng buồn thêm, đúng là dỏm, dỏm nên không biết đường lái ra xa, và hậu quả cả nhóm phải vô tù ngồi. Khi vô trong trại tạm giam Tà Niên ở Rạch Sỏi rồi ,ngày nào ông Sáu cũng đay nghiến mỉa mai chàng tài công dỏm này. Trại tạm giam này có người kể lại có cô ca sĩ Thanh Lan cũng đã từng bị bắt vô đây rồi, bây giờ đến phiên chúng tôi, nơi đây mỗi ngày đều có những chuyến vượt biên bị bắt giải tới giam chung với tụi tôi. Hỏi ra đa số bị bắt trong đất liền, chỉ có nhóm 7 người chúng tôi là bị bắt ngoài biển thôi. Nếu tổ chức mướn được tài công đúng tài công chắc tụi tôi thoát được trong chuyến đi này rồi.

                              Trong vòng chỉ có một tháng mà nhân số trong trại tăng nhanh chóng mặt. Có một số anh tham gia phục quốc bị bắt giam bên Khám Lớn, Rạch Giá cũng bị giải qua đây, rồi thêm đám ngư phủ TháiLan bị bắt cũng đưa vô, nhà tù trở nên chật chội.

                              Hai tháng sau A Coỏng được thả vì tuổi vị thành niên, gần đến Tết tụi tôi bị gom xuống tàu chở tuốt tới Thứ Bảy. Đây là nơi tập trung lao động “cải tạo" - nơi đầy ải con người - một thứ địa ngục trần gian. Sáu tháng trầm luân trong bể khổ này thì nhóm tôi được thả về. Mừng quá vừa ra khỏi cổng là xá nó luôn, tổng cộng ở hai trại giam đúng 9 tháng. Một ngày trong tù bằng 3 năm ngoài đời, ai có trong tù cộng sản mới thấm thía hai chữ tự do. Mãi tới năm 1989, tức 6 năm sau hai vợ chồng tôi mới vượt thoát được bằng đường qua Phnom Penh (Miên) xuống tàu ở cảng Kom-pong -som trực chỉ đảo Bidong - Malaysia.



                              Vong A Duong 72H
                              30/5/2010
                              Last edited by hung45qs; 10-13-2010, 06:19 AM.
                              Hung45HTQS

                              Comment



                              Hội Quán Phi Dũng ©
                              Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




                              website hit counter

                              Working...
                              X