Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Mặt trận Đông Nam – Xuân-Lộc 1975

Collapse
X

Mặt trận Đông Nam – Xuân-Lộc 1975

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Mặt trận Đông Nam – Xuân-Lộc 1975

    Mặt trận Đông Nam – Xuân-Lộc 1975
    Vương Mộng Long - Khóa 20 VBĐL


    Phần 1
    Tôi là một trong những chiến binh của Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân đã có mặt trong trận Xuân-Lộc tháng Tư năm 1975. Chiến thắng Xuân-Lộc là chiến thắng oanh liệt cuối cùng của Quân Lực Việt-Nam Cộng-Hòa. Nhiều năm sau chiến tranh, cứ tới tháng Tư thì trên truyền hình, truyền thanh, trên những trang báo giấy và báo điện tử, người Việt hải ngoại lại nhắc tới trận đánh này. Mỗi khi kể chuyện Xuân-Lộc tháng Tư năm 1975, thì người ta không thể quên Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân.

    Chúng tôi đã trải qua một thời gian nửa tháng trời ở đó; đã có mặt kể từ ngày mở màn, cho tới ngày kết thúc trận đánh này. Anh em chiến sĩ của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân đã chiến đấu hết mình, đã sẵn sàng hy sinh tính mạng để cùng các bạn Sư Ðoàn 18 Bộ Binh tạo dựng chiến thắng để đời ấy.

    Từ đó, những quân nhân của Sư Ðoàn 18 Bộ Binh và Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân trở thành thân thiết, coi nhau như anh em.

    Mấy chục năm qua, nhiều tác phẩm liên quan tới trận Xuân-Lộc năm 1975 đã được những nhân vật trực tiếp tham chiến viết lại.

    Qua những hồi ký ấy, hầu như độc giả đã được nghe kể một cách chi tiết diễn tiến từng ngày, từng giờ, của trận chiến, những cuộc chuyển quân, điều binh của cả đôi bên và kết quả những lần chạm súng.

    Nhưng chắc chắn khó có ai biết rằng trong trận Xuân-Lộc năm 1975 lại có những điều không ngờ trước đã xảy ra, tỷ như chuyện Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân tình cờ có mặt tại đây. Ðôi khi chỉ vì một chuyện tình cờ mà có thể đưa tới kết cục thành bại của một chiến trường.

    Cuối tháng Ba năm 1975 Quân Ðoàn II tan rã, Cao Nguyên Vùng 2 đã mất, nhưng Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Vương Mộng Long vẫn tồn tại, vẫn can trường.

    Từ Quận Kiến-Ðức, chúng tôi đã bẻ gãy vòng vây của Trung Ðoàn 271 Cộng-Sản Bắc-Việt để về bắt tay với quân bạn ở Thị trấn Gia-Nghĩa, Quảng-Ðức; tại đây các đơn vị trực thuộc Tiểu Khu Quảng-Ðức đã bỏ tỉnh lỵ một ngày rồi.

    Bị chỉ định giữ vai trò tiên phong, dẫn đầu liên đoàn rút lui, tôi quyết định không dùng Liên tỉnh lộ 8 B để về Bảo-Lộc mà sẽ đi xuyên rừng theo phương giác từ.

    Ngay ngày đầu triệt thoái, vừa qua sông Ða Dung, một trái lựu đạn nổ vì bất cẩn, ông Trung tá Liên đoàn trưởng Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân bị một vết thương nhẹ ở ngực, đã rời vùng.

    Hai ngày sau, thì ông Trung tá Liên đoàn phó Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân cũng vội vàng leo lên trực thăng tải thương, bỏ đơn vị lại giữa rừng. Từ hôm ấy, không còn ai thấy bóng dáng ông ta nữa; hóa ra ông Trung tá đào ngũ này đã nhanh chân chạy thẳng một lèo qua Mỹ!


    Cựu Th/Tá Vương Mộng Long & cựu Th/Tướng Lê Minh Đảo (USA-2009)
    Ảnh do tác giả cung cấp

    Bắt đầu từ ngày thứ ba của cuộc lui binh, gánh nặng chỉ huy, lèo lái Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân đè nặng lên vai Thiếu tá Hiện Dịch Vương Mộng Long, Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân.

    Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân dưới quyền chỉ huy của tôi đã vừa chiến đấu vừa tiến dần về hướng duyên hải. Kết quả công lao khó nhọc của tôi đã được đền bù: Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân là đơn vị duy nhất của Biệt Ðộng Quân/Quân Khu 2 còn tồn tại và chiến đấu tới giờ phút chót để bảo vệ chế độ Cộng-Hòa.

    Sau gần nửa tháng vừa đánh, vừa lui, ngày 5 tháng Tư năm 1975, qua tần số FM 47.70 trong máy PRC 25, tôi liên lạc được chiếc thám thính cơ L 19 bay trên trời.

    Người bay trên L19 để đi tìm Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân ngày đó là Trung tá Nguyễn Khoa Lộc, một sĩ quan của Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân /Quân Khu 3.

    Theo lệnh của Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh Quân Khu 3 thì Phi Ðoàn 237 Trực Thăng sẽ ưu tiên bốc Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân trước, các đơn vị còn lại sẽ được chuyển vận sau.

    Khoảng mười giờ sáng ngày 6 tháng Tư trên trời đã xuất hiện một đoàn trực thăng CH 47 dẫn đầu bởi một tàu chỉ huy UH 1 D và hai trực thăng võ trang. Tôi nhận được lệnh chuẩn bị bãi đáp.

    “Biến mà không loạn” là phương châm chỉ huy của tôi. Cho dù cái chết kề bên, quân nhân của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân vẫn răm rắp tuân theo lời cấp chỉ huy của họ.

    Tôi cho quân nối đuôi nhau theo đội hình 5 hàng dọc. Sử dụng đội hình này, người chỉ huy vừa dễ đếm quân, vừa dễ chuyển quân thành hàng ngang sẵn sàng chiến đấu nếu bị địch tấn kích bất ngờ.

    Lệnh phát ra từ chiếc tàu đang lơ lửng giữa trời:

    “Yêu cầu các anh chuẩn bị 45 người!”

    Dưới đất lập tức có 5 hàng dọc, 9 hàng ngang tiến ra đồng cỏ tranh.

    Ðang trên đường sà xuống bãi, người phi công nói tiếp:

    “Yêu cầu 5 người nữa!”

    Dưới đất lại thêm một hàng ngang 5 người, nhập vào đoàn người phía trước.

    Trên tàu lặp lại:

    “Yêu cầu 5 người nữa!”

    Dưới đất lại thêm một hàng ngang 5 người nữa tiến lên.

    Chứng kiến cảnh này, người chỉ huy đoàn trực thăng bỗng la lớn:

    "Tuyệt vời! Tuyệt vời! Kỷ luật của đơn vị này thật là tuyệt vời! Như vậy thì các bạn cứ xếp hàng 65 người một tàu! Không vũ khí nặng, cứ 65 người là okay!"

    Nhiều chục năm sau, cựu Trung tá Nguyễn Phú Chính, Phi đoàn trưởng Phi Ðoàn 237 Trực Thăng còn nhớ hình ảnh chúng tôi đã ra bãi, lên tàu như thế nào.

    Mỗi khi nhắc lại chuyện bốc quân giữa rừng ngày ấy, thì anh Chính thường nói một câu nhận xét rất ngắn:

    “Cung cách tay này chỉ huy lính thì không chê vào đâu được!”

    Xế trưa ngày 6 tháng Tư năm 1975 chúng tôi ghé lại phi trường Phan Thiết không lâu, vừa đủ thời gian cho phi hành đoàn ăn cơm và cho máy bay tái tiếp tế nhiên liệu.

    Tại phi trường Phan-Thiết, kiểm quân, tôi phát giác ra một trung đội của Ðại Ðội 4/82 không có mặt. Trung đội này do Chuẩn úy Bảo chỉ huy. Chắc ông Bảo và hai chục ông lính khác còn kẹt trong rừng Blao cùng với số người còn lại của hai tiểu đoàn bạn là Tiểu Ðoàn 63 và 81 Biệt Ðộng Quân.

    Sau đó chúng tôi lại lên tàu tiếp tục cuộc hành trình.

    Tới 5 giờ chiều ngày 6 tháng Tư năm 1975 thì năm chiếc máy bay Chinook CH47 hạ cánh trên phi đạo Xuân-Lộc.

    Trừ ra một chiếc trực thăng có nhiệm vụ móc 5 thùng xăng rỗng bằng cao su tòn ten dưới bụng, bốn chiếc còn lại đều chở đầy quân.

    Bốn chiếc Chinook này đã vận chuyển 260 quân nhân của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân từ Vùng 2 vào tăng cường cho mặt trận Long-Khánh của Vùng 3 theo lệnh của Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh Quân-Ðoàn III.

    Tôi là một trong số 65 người ngồi trên chiếc CH47 thứ nhất vừa hạ cánh.

    Tới Xuân-Lộc, chúng tôi còn ngồi trên tàu, thì có lệnh cho một mình tôi xuống đất trình diện Trung tướng Nguyễn Văn Toàn Tư lệnh Quân Khu 3.

    Nơi đầu phi đạo có hai chiếc xe Jeep đậu bên nhau. Tàu tôi đáp cách hai chiếc Jeep chừng ba trăm mét.

    Một chiếc Jeep chạy tới đón tôi, người trên xe tôi quen, đó là Ðại tá Phạm Văn Phúc, Tỉnh trưởng tỉnh Long-Khánh. Ông Phúc là cựu sĩ quan Biệt Ðộng Quân.

    Ðại tá Phúc nhảy sang ghế tài xế nhường chỗ cho tôi, rồi la lớn,

    – Lên xe đi Long! “Cha” Toàn đang chờ Long đó!

    Hai phút sau tôi đã đứng nghiêm trước mặt Tướng Toàn.

    Ông Toàn giơ cái can chỉ huy quơ quơ trước mặt tôi,

    – Ð! M! Không cần chào kính gì ráo! Tau hỏi mi chớ muốn ở đây làm trừ bị cho thằng Ðảo hay muốn về Sài-Gòn sát nhập vào Biệt Ðộng Quân/ Quân Khu 3?

    Chỉ sau vài giây suy tính, tôi buột miệng,

    – Trung tướng cho tụi tôi ở lại đây!

    Nghe tôi xin ở lại Xuân-Lộc, Tướng Toàn vừa cười vừa nói,

    – Thằng ni khôn! Mi là tàn quân của Vùng 2, nếu mi mà về Sài-Gòn, tụi nó (?) sẽ coi mi không đáng một xu teng! Tau biết mi giỏi nên cho mi xuống đây, làm trừ bị cho thằng Ðảo, không về Sài-Gòn nữa! Mi chọn ở lại đây là phải đó!

    Sau đó Tướng Toàn leo lên xe; xe trở đầu chạy đi.

    Tôi và Ðại tá Phúc quay trở lại chỗ hợp đoàn Chinook đang đậu. Sau khi ngỏ lời cám ơn phi hành đoàn, tôi ra lệnh cho anh em binh sĩ xuống tập họp trên bãi cỏ nằm sát phi đạo.

    Năm phút sau, đoàn tàu rời sân bãi, bay về hướng Tây.

    Khi anh lính cuối cùng đã đứng vào hàng, lệnh đầu tiên của tôi ban ra là:

    “Cấm quân”

    Kỷ luật là sức mạnh của quân đội. Dù bất cứ ở đâu, bất cứ trong tình trạng nào, nếu không giữ được kỷ luật thì quân đội không còn là quân đội nữa!

    Vì thế, lúc nào tôi cũng coi vấn đề duy trì kỷ luật của tiểu đoàn là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu của người chỉ huy.

    Chính vì cái kỷ luật thép của đơn vị, mà trong tình thế nguy kịch, chúng tôi vẫn ra bãi đáp, lên tàu, với phong cách như thế ấy.

    Cũng chính vì cái kỷ luật thép của đơn vị, mà suốt thời gian nửa tháng trời chúng tôi tham chiến ở Xuân-Lộc, người dân của thị trấn này hầu như chưa từng nhìn thấy bộ quân phục rằn ri nào của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân xuất hiện trong đường phố.

    Dân mà còn không biết chúng tôi có mặt ở đây, thì chắc chắn Việt-Cộng cũng không biết gì về chúng tôi


    Đ/Tá Hứa Yến Lến, Th/Tướng Lê Minh Đảo, Tr/Tướng Phạm Quốc Thuần,
    Th/Tá Vương Mộng Long, Tr/Tá Nguyễn Văn Xuân – Ảnh do tác giả cung cấp

    Tôi cầm tờ giấy ghi tình trạng quân số hiện diện do ông Thượng sĩ thường vụ tiểu đoàn vừa trình lên. Chính xác thì quân số của tôi tổng cộng có 260 Biệt Ðộng Quân khởi hành từ Blao, trừ đi 2 quân nhân bị thương là Hạ sĩ Nguyễn Ba trưởng toán Viễn Thám và một anh lính của Tiểu Ðoàn 63 Biệt Ðộng Quân được phép ngồi lại trên tàu để tiếp tục về Biên-Hòa, thì số người xuống sân bay Xuân-Lộc chiều nay phải là 258 người.

    Tới lúc các đại đội điểm mặt số quân nhân hiện diện để xem ai còn, ai mất, thì lòi ra một người lạ. Ông ta là một thiếu úy của Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân đứng trà trộn trong hàng ngũ của Ðại Ðội 4/82!

    Cái ông thiếu úy của Tiểu Ðoàn 81 này nhanh chân quá!

    Nhìn bộ dạng run rẩy sợ sệt của anh ta, tôi chợt nghĩ lại, có nhiều người cao cấp hơn anh ta nhiều mà gặp cảnh ngặt nghèo đã vội lo chạy thoát thân, bỏ rơi đồng đội, điển hình là ông Trung tá Liên đoàn phó Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân đã leo lên trực thăng, đào ngũ giữa rừng, nên tôi chỉ đá anh ta một cái rồi đuổi đi thôi.

    Bình thường mà gặp cảnh này, chắc chắn tôi không nhẹ tay đâu, mà hình phạt của tôi sẽ nặng hơn nhiều.

    Ðại tá Phúc nói,

    – Long cho anh em tạm nghỉ trong khu nhà chứa máy bay L19 nơi đầu phi đạo. Mình vào họp với ông Toàn và ông Ðảo rồi “moa” đề nghị cho tiểu đoàn của Long vào tiểu khu ở với “moa”.

    Ðại tá Phúc và tôi vào tới sân Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 18 Bộ Binh thì thấy nơi này đã có cả chục sĩ quan đang đứng lố nhố.

    Những người này chỉ ngừng nói chuyện, khi Trung tướng Nguyễn Văn Toàn kéo tay tôi, đẩy tôi tới trước mặt một ông Chuẩn tướng,

    – Tau vừa bốc thằng ni từ Blao về! Tau giao nó cho Ðảo! Ðể nó làm trừ bị! Okay!

    Không thèm nhìn mặt tôi, vị tướng một sao quay qua ra lệnh cho một ông trung tá đứng bên, sau này tôi biết ông ta tên là Nguyễn Văn Xuân,

    – “Toa” cho giải giới đơn vị này. Cho chúng nó ở tạm đâu đó, đừng để chúng nó ra phố phá làng, phá xóm!

    Nghe ông Tư lệnh Sư Ðoàn 18 Bộ Binh thốt ra những lời nói trên, tôi có cảm tưởng như vừa bị ông ta tát cho một cái ngay giữa mặt. Tôi đưa tay kéo áo Tướng Toàn,

    – Ðược rồi! Cho chúng tôi về Sài-Gòn ngay! Chúng tôi không ở lại đây nữa!

    Ðại tá Phúc vội vàng lôi tôi sang phía ông, rồi nói với ông Toàn,

    – Trung tướng giao thằng Long cho tôi! Nó quen biết tôi, chúng tôi làm việc với nhau dễ dàng hơn.

    Ngay lúc này, đứng cạnh chiếc xe Jeep Quân Cảnh có một sĩ quan đeo lon đen, tôi không nhìn rõ ông ta là trung tá hay đại úy, lớn tiếng góp ý,

    – Muốn tránh chuyện cướp bóc thì phải giải giới! Không giải giới thì cho đi chỗ khác!

    Bất thình lình, ông Tướng Tư lệnh Quân Khu 3 trợn mắt lên, giơ cao cái can chỉ huy nhứ nhứ mấy cái, rồi hét lớn,

    – Tụi mi im cái mồm đi!

    Thấy Tướng Toàn nổi giận, mọi người đều im re.

    Tiếp đó ông Toàn dõng dạc từng tiếng một,

    – Tau biết thằng ni! Không được giải giới nó! Thằng ni là dân kỷ luật số một! Ðó là lý do tại sao tau không đem nó về thẳng Sài-Gòn mà để nó ở lại đây! Tau nói là giao nó cho Sư Ðoàn 18! Ðây là lệnh! Thi hành đi!

    Lúc này ông Chuẩn tướng Tư lệnh Sư Ðoàn 18 Bộ Binh mới chìa tay ra cho tôi bắt,

    – “Qua” tên là Lê Minh Ðảo. Nếu Trung tướng Tư lệnh đã giới thiệu em như vậy thì “qua” tin. Thôi! Không cần giải giới nữa!

    Rồi ông chỉ tay về hướng một trong hai vị đại tá đứng cách đó không xa,

    – Okay! Từ giờ em được đặt dưới quyền Ðại tá Hiếu!

    Một ông đại tá người Bắc bước tới bắt tay tôi, niềm nở,

    – Long cần gì thì cứ cho anh hay. Ðừng ngại ngùng gì cả!

    Tướng Ðảo thân mật ôm vai ông sĩ quan vừa tới, rồi cười.


    *****

    Phần 2
    Ðây là Ðại tá Lê Xuân Hiếu, Trung đoàn trưởng Trung Ðoàn 43 cũng là bạn cùng Khóa 10 Võ Bị của qua. Ủa! Long là dân Hiện Dịch hay Trừ Bị vậy?

    – Thưa Chuẩn tướng, tôi tốt nghiệp Khóa 20 Võ Bị

    Tướng Ðảo gục gục cái đầu,

    – Vậy là anh em cùng trường, cũng dễ thông cảm thôi!

    Thấy tình hình có vẻ không còn ngột ngạt, khó chịu nữa, tôi mới thở ra, bớt bực bội và tức giận. Tôi hỏi Ðại tá Hiếu.

    – Chúng tôi vừa lui vừa đánh cả tháng rồi, lương thực hết, đạn dược hết, điện trì cho máy truyền tin cũng hết, Ðại tá có thể bổ sung ngay cho chúng tôi có được không?

    Nghe vậy, Trung tướng Tư lệnh Quân Khu xen vào,

    – Chuyện đạn dược, gạo cơm cho Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân tau giao cho Tiểu Khu Long-Khánh! Okay?

    Thế là tôi biết, từ giờ phút này Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân có hai người chỉ huy trực tiếp là ông Tỉnh trưởng Long-Khánh và ông Trung đoàn trưởng Trung Ðoàn 43 Bộ Binh.

    Tôi tính mở lời hỏi Ðại tá Hiếu cho đơn vị tôi mượn một chiếc xe để lo chuyện liên lạc, tản thương và chợ búa, thì có một người đứng sau lưng nắm tay tôi,

    – Ba má cháu và gia đình cháu hiện nay ra sao?

    Tôi quay mặt lại thì nhận ra ngay người vừa hỏi thăm gia đình mình là ông Ðại tá Ngô Văn Hưng. Bác Hưng trước đây là Trung tá Chỉ huy trưởng Pháo Binh của Sư Ðoàn 23 Bộ Binh và là bạn thân của bố vợ tôi; bố vợ tôi là một cựu Trung tá, nguyên Chỉ huy trưởng Tổng Hành Dinh của Sư Ðoàn 23 Bộ Binh.

    Hiện thời, Ðại tá Hưng là Chỉ huy trưởng Pháo Binh của Sư Ðoàn 18 Bộ Binh. Tôi buồn bã trả lời bác Hưng,

    – Ban Mê Thuột bị Việt-Cộng chiếm từ đầu tháng Ba. Thời gian ấy cháu ở Quảng-Ðức, cháu mất tin tức gia đình từ ngày đó.

    Bác Hưng vỗ vai tôi trấn an,

    – Bác hy vọng gia đình cháu vẫn bình yên! Bố cháu giải ngũ đã lâu rồi, chắc không sao đâu!

    Nghe Bác Hưng an ủi, tôi vẫn không thấy an tâm chút nào. Nhà tôi ở ngay giữa phố Ban Mê Thuột, không biết giờ đây cha mẹ, anh em, vợ con tôi có còn sống không? Cả tháng trời nay tôi không dám nghĩ tới gia đình…

    Trước khi rời sân Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn, tôi tới trước mặt Trung tướng Nguyễn Văn Toàn và năn nỉ ông,

    – Nhờ Trung Tướng đem nốt thành phần còn lại của Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân về đây cho tôi. Hiện thời, tôi là người chỉ huy liên đoàn. Nếu không đem được họ về đây, sau này gặp lại, tôi không còn mặt mũi nào mà nhìn họ.

    Nghe tôi khẩn khoản yêu cầu, Tướng Toàn hơi cau mày lại, rồi gật gù,

    – Ừ! Ðể coi!

    Nghe vậy, tôi tin tưởng rằng Trung tướng Tư lệnh Quân Ðoàn III và Quân Khu 3 sẽ tiếp tục ra tay cứu hai tiểu đoàn bạn, nên tôi yên tâm vào Trung tâm hành quân xin mấy bộ bản đồ Long-Khánh và cái đặc lệnh truyền tin, rồi lên xe trở về phi trường.

    Trên đường về, tôi ghé chợ Xuân-Lộc mua vài thứ cần dùng. Chợ vẫn đông. Dân chúng ở đây vẫn sinh hoạt bình thường. Tôi bùi ngùi nhớ lại, cách đây một tháng, Ban Mê Thuột, Pleiku vẫn bình yên…

    Mấy chục năm nay, người ta cứ nói rằng thượng cấp dự trù cho Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân ghé Xuân-Lộc chỉ vài ngày để nghỉ ngơi, tái trang bị, rồi về Sài-Gòn, nhưng bất ngờ Việt-Cộng tấn công thành phố, nên bất đắc dĩ chúng tôi phải tham chiến.

    Ðó chỉ là một sự hiểu lầm!

    Thực tế thì, chúng tôi đã được lệnh đóng trụ tại đó để ngăn địch.

    Chiều ngày 6 tháng Tư năm 1975 chúng tôi đang ngồi trong trực thăng; trực thăng đang bay trên lộ trình về Sài-Gòn. Nếu cứ tiếp tục bay thì chưa tới một tiếng đồng hồ sau chúng tôi đã có mặt ở Sài-Gòn rồi. Phi đoàn 237 trực thăng đồn trú ở Biên-Hòa, sau khi thả chúng tôi xuống Xuân-Lộc, trực thăng vẫn phải bay về Biên-Hòa; sao không chở chúng tôi về thẳng Biên-Hòa hay Sài-Gòn nghỉ ngơi, tái trang bị? Cần gì phải thả chúng tôi xuống Xuân-Lộc, rồi vài ngày sau mới về Sài-Gòn?

    Xuân-Lộc làm sao có dư dả quân nhu, quân dụng như Sài-Gòn? Xuống Xuân-Lộc, chúng tôi vẫn phải chờ đồ tiếp liệu từ Sài-Gòn chở tới mà!

    Như vậy có phải là Tư lệnh Quân Khu 3 đã dự trù, nếu tôi đồng ý ở lại, thì tiểu đoàn tôi sẽ là một thành phần tham gia vào trận chiến chắc chắn sẽ diễn ra trong tương lai rất gần.

    Nói trắng ra thì, chúng tôi có mặt ở Xuân-Lộc chính là do thâm ý của Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh Quân Ðoàn III.

    Trong thời gian hơn hai năm giữ chức Tư lệnh Quân Ðoàn II và Quân Khu 2, Tướng Toàn đã hiểu rõ khả năng chiến đấu của từng đơn vị của Vùng 2.

    Tướng Toàn đã tận mắt chứng kiến vào giữa tháng 8 năm 1972, dưới áp lực của Cộng-Quân, căn cứ Biên-Phòng Ðức-Cơ gần như tuyệt vọng, Thiếu tá Phạm Văn Toán là người chỉ huy căn cứ này đã bỏ chạy, tôi đã nhảy vào Ðức-Cơ, nhận chức Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân để bảo vệ Ðức-Cơ. Tới khi tình hình yên ổn trở lại, tôi mới bàn giao quyền chỉ huy cho Thiếu tá Hoàng Ðình Mẫn. Hai tháng sau khi tôi ra đi, thì Ðức-Cơ lại bị bao vây lần nữa, ngày 1 tháng 12 năm 1972 Ðức-Cơ thất thủ.

    Rồi qua chiến dịch Pleime kéo dài 33 ngày đêm, tháng 7 và tháng 8 năm 1974, thì Tướng Toàn càng nhìn rõ con người và bản lãnh thực sự của tôi; thời gian đó tôi là người chỉ huy Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân, đơn vị đã giữ vai trò tử thủ cái tiền đồn này.

    Trận Pleime là chiến thắng vang dội nhứt của Quân Lực Việt-Nam Cộng Hòa ở Vùng 2 Chiến Thuật trong năm 1974.

    Hiện thời, dưới mắt Tướng Toàn, Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân của tôi là một trái chanh chưa bị vắt hết nước, nên khi nghe tin chúng tôi còn trôi dạt trong rừng Bảo-Lộc, ông ta đã tìm cách liên lạc để tiếp cứu chúng tôi.

    Hôm qua vì được thông báo rằng Trung tướng Tư lệnh Quân Khu 3 đã chấp thuận cho trực thăng cứu toàn bộ liên đoàn nên tôi mới có mặt ở đây.

    Ông Toàn biết rõ tâm trạng của chúng tôi, những người của Vùng 2, đang trong cơn đau khổ và uất hận vì đã mất tất cả, gia đình, cha mẹ, vợ con, cơ nghiệp. Cả tháng trời nay, chúng tôi ví như những người đã chết rồi! Chúng tôi đã đánh nhau liên tục từ đầu tháng Ba cho tới bây giờ.

    Khởi hành từ Kiến-Ðức, dưới tay tôi có hơn năm trăm quân, giờ này Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân chỉ còn hơn một nửa.

    Có đánh thêm một trận, hay vài trận nữa rồi thì chúng tôi cũng chết! Chúng tôi quyết định ở lại đây để “ÐÁNH!” và để “CHẾT!”

    Ông Toàn đã hiểu chúng tôi muốn gì nên mớm lời, ướm hỏi, để tôi chọn ở lại.

    Nếu ở lại đây, ít nhứt chúng tôi, Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân còn được người ta coi như một đơn vị. Anh em tôi còn được ở bên nhau một thời gian nữa.

    Còn như, leo lên tàu về Sài-Gòn thì chúng tôi sẽ chẳng thống thuộc đơn vị nào, chẳng biết dưới quyền ai.

    Thêm vào đấy là cái thành kiến cho rằng chúng tôi là những người bại trận, đang chạy trốn, nhìn không giống ai, người ta có thể sẽ giải tán Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân, rồi đem chúng tôi bổ sung cho những đơn vị Biệt Ðộng Quân khác.

    Trong trường hợp đó, cho dù Tướng Toàn có ưu tiên, biệt đãi cá nhân tôi, giao cho tôi chỉ huy một đơn vị mới, thì tôi và những đứa em trong tiểu đoàn sẽ phải chia lìa nhau.

    Giờ này, trên đời, tôi chỉ còn những đứa em này là thân thiết nhứt.

    Nếu phải chia tay chúng nó thì không còn gì đau xót cho bằng.

    Tôi được một ông trung úy bộ binh hướng dẫn vào nơi chúng tôi sẽ tạm trú. Ðây là khu doanh trại cũ đã bỏ trống của Tiểu Ðoàn 181 Pháo Binh của Sư Ðoàn 18.

    Doanh trại này nằm đối diện với khúc đuôi hướng Ðông của sân bay Xuân-Lộc.
    Nơi đây là vùng ngoại ô vô cùng hẻo lánh, cách trung tâm thành phố và chợ búa rất xa.

    Nếu hồi chiều tôi không có lời phản kháng mà cứ để cho ông Tướng Tư lệnh Sư Ðoàn 18 Bộ Binh cho người giải giới thì giờ này tình trạng của chúng tôi còn thua những cô cậu Nhân Dân Tự Vệ. Vì Nhân Dân Tự Vệ còn có súng, nếu chúng tôi bị giải giới thì chỉ có tay không!

    Tôi có cảm tưởng rằng người ta coi chúng tôi như cùi, hủi, nên vứt bỏ chúng tôi vào một góc tối tăm, xa xôi nhất của thành phố mà không thèm đoái hoài tới.

    Tôi đang mang nỗi bực bội, muộn phiền trong lòng thì một chiếc xe Dodge của Tiểu Khu chở gạo tiếp tế và hàng hóa Quân Tiếp Vụ tới bán cho đơn vị.

    Nhìn những ánh mắt sáng lên vì vui mừng của thuộc cấp, tôi thấy lòng mình dịu lại, hết buồn rầu ngay.

    Tôi tự an ủi: “Dù gì thì anh em tôi cũng còn may mắn và hạnh phúc hơn các bạn khác của hai Tiểu Ðoàn 63 và 81 giờ này còn đang đói rét ở trong rừng. Không rõ ngày mai đây ông Tư lệnh Quân Ðoàn III có tiếp tục cho trực thăng tiếp cứu họ hay không.”

    Suốt đêm 6 tháng Tư tôi đã trằn trọc không chợp mắt vì đây là lần đầu tiên trong đời lính, tôi đóng quân ở một vị trí mà tôi không biết xung quanh mình ra sao?

    Cả tiểu đoàn nằm trong một cái đồn nhỏ tí teo với rào tre cao phủ kín như bưng.

    Chẳng biết địch ở hướng nào? Bạn ở hướng nào?

    Thường thì mất ngủ, người ta hay hút thuốc liên miên rồi nghĩ ngợi mông lung.

    Tôi đốt hết điếu Lucky này tới điếu khác mà đêm vẫn chưa tàn.

    Nghe tiếng rì rầm của những người lính dưới quyền mình đang chụm đầu bên nhau trong bóng tối, tôi chợt phân vân tự hỏi:

    “Mình tình nguyện ở lại Xuân-Lộc, nhưng không biết các anh em khác có đồng ý không? Biết đâu có nhiều anh em không muốn ở lại đây, họ muốn về nơi an toàn hơn? Họ sẽ không vui khi chính họ không được quyết định số phận của họ.”

    Sáng sớm ngày 7 tháng Tư năm 1975, tôi cho lệnh tất cả anh em tập họp trong căn nhà tôn để nói với họ đôi điều.

    Trước hàng quân, tôi đã dõng dạc nói thẳng với những người dưới quyền:

    “Cùng các anh em Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân! Hôm qua tôi không hỏi ý kiến các anh, và tôi đã thay mặt các anh quyết định để tiểu đoàn mình ở lại đây mà không về Sài-Gòn.

    Lý do tôi quyết định không về Sài-Gòn chỉ vì tôi sợ vừa tới nơi, người ta đã coi chúng ta như những người lính bại trận vừa di tản về.

    Dưới mắt họ, chúng ta sẽ là mối lo ngại cho an ninh của đồng bào đô thành. Họ sợ chúng ta sau bao ngày đói khát sẽ đi ăn quỵt, uống chạy và cướp bóc.

    Cấp trên sẽ xé lẻ tiểu đoàn mình thành nhiều mảnh rồi đem bổ sung cho các đơn vị của Vùng 3.

    Các bạn đã trải qua hai năm chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ với Thái Sơn. Hai năm qua, các bạn đã từng hãnh diện với những chiến công. Chúng ta đã là những chiến binh bách chiến, xuất sắc của Vùng 2 Chiến Thuật.

    Nay chúng ta rút lui khỏi Vùng 2, nhưng chúng ta không phải là người bỏ chạy vì thua trận. Cấp trên của chúng ta đã bỏ chạy, cấp trên của chúng ta đã đào ngũ, bỏ rơi chúng ta, bỏ rơi gia đình, vợ con, thân bằng, quyến thuộc của chúng ta.

    Giờ này chúng ta chỉ còn cái tình đồng đội và cái tên chung là Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân thôi!

    Hôm qua tôi đã thay mặt các bạn, chọn ở lại đây, chiến đấu cho tới giọt máu cuối cùng. Hôm qua tôi không có thì giờ hỏi ý kiến các bạn, hôm nay tôi tập họp các bạn lại để xác định rằng, gia đình chúng ta đã mất, và chắc chắn trong tương lai gần đất nước của chúng ta chưa chắc đã tồn tại.

    Tôi sẽ tiếp tục chiến đấu, nhưng tôi không rủ rê hay ép buộc bất cứ ai theo mình chọn con đường tự vẫn.

    Vậy thì, ngay sau đây, bạn nào muốn chiến đấu thì ở lại đây với tôi. Ai muốn về Sài-Gòn thì cứ tự nhiên bỏ súng xuống, bỏ hàng quân, rồi ra bến, lên xe đò mà đi. Ðường Sài-Gòn, Long-Khánh còn thông thương. Trong túi tôi còn tiền đây! Bạn nào muốn đi thì lên đây gặp Ðại úy tiểu đoàn phó để lấy tiền. Tôi cho tiền mà mua vé xe đò. Nhớ rằng, phải trả tiền mua vé xe, đừng giựt chạy! Ðừng làm mất mặt Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân!”



    Cựu Đ/Tá Lê Xuân Hiếu & cựu Th/Tá Vương Mộng Long (USA, 2014)
    Ảnh do tác giả cung cấp

    Tôi rút xấp giấy bạc loại 1 ngàn đồng từ cái túi bên ống quần ra, để trên bàn, đây là số tiền chợ chưa dùng tới của tháng Ba năm 1975.

    Tôi nói với ông Ðại úy Ngũ Văn Hoàn, tiểu đoàn phó,

    – Chiều qua tôi có ghé chợ Xuân-Lộc, tôi thấy trên bảng bán vé xe có ghi giá đi Sài- Gòn hiện thời chỉ có 500 hay 600 đồng thôi. Nhưng ông cứ phát một tờ 1000 đồng cho bất cứ ai muốn đi!

    Tôi xoay người bước xuống tam cấp rồi tránh mặt bằng cách đi vòng vòng tản bộ trong sân trại, xa ngoài tầm mắt của anh em đang ngồi trên sàn xi măng.

    Mười phút sau, khi đã hút tàn hai điếu Lucky, tôi quay trở lại. Thuộc cấp của tôi vẫn còn ngồi trong hàng. Ðại úy tiểu đoàn phó đưa trả lại cho tôi cọc tiền mà tôi đã để trên bàn,

    – Chỉ có một người trả súng, xin một tờ bạc rồi chạy đi, đó là Binh nhì Phan Thọ, người nấu cơm của Thái Sơn.

    Nhét xấp bạc hầu như chưa suy suyển vào túi quần, mà tôi cảm như tay mình buốt giá, lạnh ngắt, giống như có ai vừa quất một roi đau điếng trên cánh tay phải của tôi, cánh tay đã bao lần giơ lên truyền hiệu lệnh xung phong cho đồng đội.

    Tôi không ngờ giờ đây người đã bỏ tôi, bỏ đơn vị lại là Binh nhì Phan Thọ.

    Tại sao người bỏ đơn vị không là ai khác, mà lại là người đêm ngày ở sát bên tôi, lo cho tôi từng bữa cơm, từng điếu thuốc, căng võng đắp mền cho tôi khi tôi ngủ, nhắc nhở tôi uống thuốc cảm mỗi khi trái gió trở trời.

    Ba anh, Binh nhứt Bích, Binh nhì Thọ, và Binh nhì Ba Rỗ là những người tôi tin cẩn, theo tôi gần một năm rồi. Anh em trong đơn vị thường gọi ba anh lính này là “Cái kiềng ba chân” ngụ ý rằng họ có nhiệm vụ đỡ nồi cơm của tiểu đoàn trưởng giống như cái kiềng ba chân trong bếp. Bây giờ cái kiềng chỉ còn hai chân, thì trưa nay làm sao tôi có cơm ăn?

    Một chiếc Jeep của Trung Ðoàn 43 ghé vào sân đón tôi ra phi trường. Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn đã chờ sẵn ở đây.

    Ngồi trên sàn tàu, hai chân thòng xuống đánh đung đưa, ông Toàn nói,

    – Chút nữa trực thăng sẽ tiếp tế 300 đôi giày mới cho mi! Còn gạo nước, súng ống, đạn dược, thì có thằng Phúc (Ðại tá tỉnh trưởng) lo. Cần gì nữa không?

    Tôi bước tới sát bên cửa trực thăng,

    – Cám ơn Trung tướng! Ðiều tôi mong mỏi nhứt là Trung tướng cho bốc hết số anh em còn lại của Liên Ðoàn 24 về đây càng sớm càng tốt.

    Nghe tôi năn nỉ, ông Tư lệnh Quân Ðoàn III trợn mắt,

    – Ð! M! Bốc cái gì nữa? Bỏ đi! Bỏ đi! Tau đem tiểu đoàn mi về đây là quá sức rồi! Tau là Tư lệnh Quân Khu 3! Tau không có trách nhiệm gì với bất cứ đứa nào đang chạy trốn của Quân Khu 2! Bỏ đi! Ðừng đòi hỏi gì thêm!


    *****

    Phần 3
    Nghe ông Toàn nói, tôi không ngăn nổi sự tức giận, liền lớn tiếng,

    – Thưa Trung tướng! Trung tướng có thể làm người bất tín, bất nghĩa! Nhưng tôi thì không! Tôi không thể làm một Liên đoàn trưởng đem con bỏ chợ! Yêu cầu Trung tướng cho bốc hết liên đoàn, hay là trả tôi vào rừng trở lại với thuộc cấp của tôi! Trong hai ngày tới mà Trung tướng không đem hết những người còn lại ra khỏi vùng thì tôi sẽ cho Tiểu Ðoàn 82 giải tán! Tôi không đánh nhau nữa!

    Chắc thái độ của tôi đã làm cho Tướng Toàn tức giận lắm. Ông ta nhảy xuống đất, tay cầm cái can chỉ huy giơ lên, hạ xuống hai ba lần, như sắp bổ xuống đầu tôi mấy phát cho hả dạ.

    Ông Toàn biết tôi là người dám nói, dám làm. Có lẽ yêu cầu của tôi đã đưa ông Tư lệnh Vùng 3 vào một tình trạng rất khó xử trí. Bình thường thì mặt Tướng Toàn đã không hồng hào, sáng sủa gì, giờ đây tôi thấy mặt ông ấy tím ngắt.

    Sau khi cúi đầu đi qua, đi lại, mấy vòng quanh cái đuôi trực thăng, Tướng Toàn chợt đứng lại, giơ cao cây gậy chỉ huy của ông ta lên, rồi thẳng tay đập liên tiếp mấy cái trên tấm bảng đỏ 3 sao trắng là dấu hiệu Trung Tướng, gắn bên hông con tàu.

    Lẫn với tiếng “Kịch! Kịch! Kịch!” do cán gậy gỗ chạm mặt tấm bảng thiếc là tiếng chửi thề của ông,

    – Ð! M! Mi ép tau vừa thôi! Mi ép tau vừa thôi! Okay! Tau cho bốc! Tau cho bốc!

    Rồi chẳng thèm nhìn mặt tôi, ông Tư lệnh leo lên trực thăng. Cánh quạt quay nhanh, con tàu bay đi.

    Tới lúc chiếc trực thăng bay lẫn vào trong đám mây trắng hướng Ðông Bắc, tôi mới chợt nghĩ lại, tự thấy rằng mình vừa làm một việc quá nóng nảy, quá hồ đồ. Nhưng ngay sau đó, tôi lại tự an ủi, biết đâu vì cái hồ đồ, nóng nảy của tôi mà Tướng Toàn nghĩ lại, sẽ ra tay cứu vớt những anh em đồng ngũ của tôi còn đang nguy khốn ở trong rừng.

    Tướng Toàn đi rồi, tôi theo xe của Chiến Ðoàn 43 vào gặp mặt ông Chiến đoàn trưởng. Ðại tá Lê Xuân Hiếu nói rằng tạm thời Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân giữ vai trò trừ bị cho Chiến Ðoàn 43 và có nhiệm vụ phòng thủ doanh trại 181 Pháo Binh của Sư Ðoàn.

    Muốn có một ý niệm thích hợp để bố quân và điều quân, phòng khi biến động, thì tôi phải đích thân đi quan sát địa thế.

    Tôi thấy trại 181 Pháo Binh nằm về hướng Tây của Núi Chứa Chan và cách xa ngọn núi này đúng 12 cây số đường chim bay. Doanh trại này có hình vuông, mỗi chiều cỡ hơn trăm mét.

    Hướng Tây trại này cách bờ đất phòng thủ của thị trấn Xuân-Lộc một con đường rộng chừng bốn thước, hướng Bắc và Ðông là đồng cỏ tranh um tùm, hướng Nam là đường hương lộ lát đá kéo dài từ sân bay Xuân-Lộc tới Quốc lộ số 1.

    Xung quanh căn cứ này có hàng rào tre đực, với dây thép gai, cùng giao thông hào, thiết trí như một Ấp Chiến Lược.

    Trong vòng đai và cổng chính của căn cứ có gần chục cái lô cốt xi măng, cốt sắt.

    Nếu có giao chiến, căn cứ này sẽ là một cứ điểm vô cùng lợi hại. Vậy mà nó đang bị bỏ trống.

    Trên khuôn viên của trại có năm cái nhà vòm bằng tôn, bốn nhà không có tường vách, cái thứ năm nằm sát bờ rào hướng Ðông thì được vây bằng ván kín mít, hiện có ba gia đình binh sĩ với vài cháu bé cỡ năm sáu tuổi đang trú ngụ trong đó.

    Giờ này không biết Tiểu Ðoàn 181 Pháo Binh đang ở đâu.

    Hiện thời Bộ chỉ huy Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân còn tôi (Thiếu tá Vương Mộng Long), Ðại úy Ngũ Văn Hoàn, Trung úy Nguyễn Văn Trâm, Chuẩn úy Lê Văn Phước.

    Trung đội vũ khí nặng của Ðại Ðội Chỉ Huy coi như đã triệt tiêu, không súng cối, không đại liên. Sáu toán Viễn Thám, thì còn ba toán.

    Ðại Ðội 1/ 82 của Thiếu úy Ðặng Thành Học trở thành đơn vị vững chãi nhứt của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân từ sau trận Ðạo-Trung, Quảng-Ðức cuối tháng 9 năm 1974. Suốt thời gian lui binh từ Quảng-Ðức về Blao tôi đã đi sát với đại đội này.

    Ðại Ðội 2/ 82 hiện thời không có đại đội trưởng vì Trung úy Võ Hữu Danh coi như mất tích trên đường rút lui theo chân Tiểu Khu Quảng- Ðức nên tôi đặt đại đội này dưới quyền chỉ huy của Chuẩn úy Gấm là một sĩ quan lớn tuổi, và có nhiều kinh nghiệm trận mạc.

    Ðại Ðội 3/82 được giao cho ông sĩ quan Ban 2 là Trung úy Trần Văn Phước. Phụ tá cho Trung úy Phước là một ông sĩ quan vừa đẹp trai, vừa đánh giặc giỏi là Chuẩn úy Phan Quốc Thiều.

    Ðại Ðội 4 vẫn còn dưới quyền Thiếu úy Phạm Văn Thủy. Hiện nay Thiếu úy Thủy là sĩ quan đại đội trưởng thâm niên nhất của tiểu đoàn tôi.

    Quân số của các Ðại Ðội 1,2,3 còn khoảng trên 50 người một đại đội. Ðại Ðội 4 thiếu một trung đội của Chuẩn úy Bảo, quân số hiện giờ là hơn 40 tay súng.

    Tôi cho các Ðại đội 1, 2 và 3 bố trí trong vòng rào trại 181 Pháo Binh.

    Còn Ðại Ðội 4 có nhiệm vụ giữ cổng chính và cây cầu bắc ngang qua con suối khá lớn, các chị vợ lính Pháo Binh gọi con suối này là suối Rét, nhưng trên bản đồ thì tên của nó lại là suối Gia Lêu.

    Khi biết rằng tôi được giao nhiệm vụ phòng thủ doanh trại 181 Pháo Binh thì Ðại tá Phúc chở theo một ông Ðại úy và một ông Trung úy Ðịa Phương Quân ra tận đầu phi đạo gặp mặt tôi, rồi vừa cười cầu tài, vừa nói,

    – Chú cho anh nhờ chút được không?

    Hóa ra ông Tỉnh trưởng đề nghị “bán cái” cho tôi cái nhiệm vụ phòng thủ phi trường Xuân-Lộc!

    Lúc này trên sân bay có hai đại đội Ðịa Phương Quân do Quân-Khu 3 tăng cường cho Long -Khánh, nhưng không có sĩ quan liên đội trưởng, nên Ðại tá Tỉnh trưởng muốn đặt hai đại đội Ðịa Phương Quân này dưới quyền chỉ huy của tôi.

    Liên đội này có một đại đội của Tiểu Khu Long-An, do ông đại úy tên là Ðức làm đại đội trưởng. Ông đại úy này là người Nam, cao, to, oai vệ, nhìn không khác gì Trung tướng Nguyễn Văn Toàn.

    Ðại đội thứ nhì thì di tản từ Bình-Long về do một trung úy chỉ huy, tôi đã quên tên. Ông này là người Bắc, nhỏ con nhưng rất nhanh nhẹn, ăn nói thực thà, dễ có cảm tình, gia đình ông này ở Cái Sắn.

    Tôi đang thiếu quân giữ an ninh phía sau lưng, nên vui vẻ nhận lời của ông Tỉnh trưởng, rồi giao cho đại đội của Long-An phòng thủ nửa phần hướng Tây phi trường, còn đại đội của Bình-Long phòng thủ nửa phần hướng Ðông, tiếp giáp với Biệt Ðộng Quân.

    Ðể khép kín vòng đai phòng thủ tuyến, tôi cho một tiểu đội Ðịa Phương Quân của Bình-Long và một tiểu đội Biệt Ðộng Quân đóng quân chung trên một cái chốt chặn ngay đầu con hẻm đất nằm giữa hàng rào căn cứ 181 Pháo Binh và tường đất bao quanh Bộ Tư Lệnh và hậu cứ Trung Ðoàn 43 Bộ Binh.

    Tôi hỏi thăm các chị vợ lính Pháo Binh rằng có đơn vị bạn nào hoạt động ngoài vòng đai không, thì các chị nói không.

    Tôi hỏi ông Trung úy đại đội trưởng đại đội Ðịa Phương Quân Bình-Long về tình hình bạn và địch ở ngoài kia, ông ta cũng không biết gì.

    Theo tôi thì địch chỉ có thể tấn công phi trường Xuân-Lộc bằng hai đường, một là từ hướng Ðông Nam, hai là từ hướng chính Ðông.

    Nếu tiến từ Ðông Nam thì địch có lợi thế là đường đi rộng thênh thang, rất thuận tiện cho cơ giới và đại quân bộ chiến tiến hàng ngang. Nhưng theo hướng này thì phải dùng Quốc Lộ 1 chắc chắn sẽ dễ bị lộ, dễ làm mồi cho không quân oanh kích.

    Mặt khác, ngay trên ngã ba Quốc lộ 1, muốn vào Xuân-Lộc, địch phải vượt qua xã Bảo Ðịnh là một thành đồng chống Cộng của dân Công-Giáo.

    Qua cái tiền đồn này, còn phải vượt hai cây số hương lộ cùng ba cây cầu nữa mới tới đầu phi trường Xuân-Lộc.

    Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân đang ở ngay bờ Bắc của cây cầu thứ ba.

    Còn tiến từ chính Ðông thì có nhiều lợi thế hơn về mặt chiến thuật.

    Tôi thấy trên bản đồ thì, vùng Ðông Nam của Thành phố Xuân-Lộc có một con lộ đất, con lộ này bắt nguồn từ khu vực rừng lá dưới chân núi Chứa Chan.

    Ra khỏi rừng, và sau khi len lỏi qua những đồn điền cao su và vườn chuối, vườn xoài, thì con lộ đất này đâm thẳng vào một ngõ hẻm.
    Ngõ hẻm này ở ngay đầu phi trường, chỗ tôi đặt cái chốt hỗn hợp của Biệt Ðộng Quân và Ðịa Phương Quân.

    Thế là, chiều ngày 7 tháng Tư tôi cứ đi đi, lại lại nhiều lần trên con hẻm này.

    Dưới mắt tôi, một người lính nhà nghề, một người từ khi vừa lên lớp Ðệ Thất đã thuộc nằm lòng “Tôn Ngô Binh Pháp” thì con lộ đất này ví như một lưỡi dao găm kề cổ thị trấn Xuân-Lộc.

    Muốn giết Xuân-Lộc, chỉ cần một cú đâm cực nhanh, cực mạnh, xuyên qua con hẻm dài chưa tới hai trăm thước này, rồi cho lưỡi dao lách về bên phải thì trái tim của thành phố sẽ bị mũi dao đó đâm xuyên qua ngay.

    Tôi ước tính, nếu một đoàn chiến xa T54 mà xuất phát từ điểm mà tôi đang đứng, thì chỉ ba phút sau chúng đã có mặt trong sân Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 18 Bộ Binh và Tòa Hành Chánh tỉnh Long-Khánh rồi!

    Dinh cơ của Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 18 Bộ Binh chính là trái tim của thị trấn Xuân-Lộc. Nơi đó có Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn, sau lưng Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn là chỉ huy sở và hậu cứ của các đơn vị giữ nhiệm vụ phòng thủ Xuân-Lộc.

    Nếu Bộ Tư Lệnh mà bị chiến xa Cộng-Sản chiếm giữ, thì các đơn vị phòng thủ trong vòng đai của Bộ Tư Lệnh sẽ bị địch đánh từ phía sau; trước mặt họ là bờ đất cao, cùng rào kẽm gai chằng chịt, đầy mìn bẫy, không đường thoát chạy. Chiến đấu trong tình thế này chắc chắn họ sẽ bị tiêu diệt.

    Cũng trong tình huống ấy, tòa hành chánh cũng sẽ bị địch uy hiếp, các đơn vị Ðịa Phương Quân và Cảnh Sát Dã Chiến của Long-Khánh sẽ trở thành rắn mất đầu.

    Tôi không hiểu tại sao yếu điểm này lại không có người canh gác hay rào giậu.

    Chợt mắt tôi nhìn thấy dọc theo lề đường có những cái hố trũng với lá khô phủ lên trên, hố này cách hố kia chừng năm thước. Tôi tò mò cào lá khô sang bên thì phát giác ra đó là những hố mìn chống chiến xa, có tất cả mười trái mìn đã được gài. Chắc những quả mìn này mới được chôn cách đây không lâu nên chưa bị cát sạn che lấp vì mưa gió.

    Tôi giật mình khi thấy trên lưng những quả mìn này chỉ là những lỗ tròn trống rỗng! Không quả mìn nào còn ngòi nổ cả!

    Chắc lực lượng phòng thủ thấy bãi mìn của họ nằm sát phi trường, nên không cần cho người canh giữ. Nhưng nào có ai hay? Quân trinh sát của Cộng-Sản đã khôn ngoan lẻn vào gỡ hết ngòi nổ của mìn mà vứt đi rồi!

    Chắc chắn chiến xa của chúng sẽ dùng con hẻm này để thọc sâu vào giữa phòng tuyến của Việt-Nam Cộng-Hòa.

    Tôi đoan chắc điều này chỉ vì tôi nghĩ rằng nếu họ tấn công bằng bộ binh, thì họ không cần cho lính trinh sát mạo hiểm len lỏi vào đây gỡ đi những cái ngòi nổ.

    Nay ngòi nổ đã được gỡ, nhưng mìn thì vẫn còn, tức là địch đã tương kế tựu kế để đánh lừa người giăng bẫy.

    Người đặt mìn, nếu có bỏ công rà soát lại, cũng lười biếng, không lật lá khô lên kiểm soát xem ngòi nổ có còn hay không? Rồi cứ tưởng mìn còn đó, chiến xa địch chạy vào thì mìn nổ. Ðâu ngờ mười quả mìn giờ này đã thành vô dụng không khác gì mười cục gạch!

    Vừa phát giác ra mười quả mìn không còn ngòi nổ thì tôi chột dạ, vội vàng gọi Thiếu úy Phạm Văn Thủy đem theo một tiểu đội bảo vệ rồi đi ra ngoài vòng đai doanh trại để thám sát địa thế vùng xung quanh.

    Ði giữa lòng con lộ đất, một bên là tường đất cao nghệu của hệ thống phòng thủ quanh Bộ Tư Lệnh, một bên là hàng rào tre đực của căn cứ 181 Pháo Binh, tôi có cảm tưởng đang đi trong Lạc Phụng Ba của Phụng Sồ thời Tam Quốc!

    Ra khỏi con lộ đất, tôi tiến vào một vùng lòng chảo cỏ tranh cao quá đầu người hướng chính Ðông của doanh trại. Tiếp tục theo đường, là vườn xoài, rừng chuối ngút ngàn, rồi con đường bị cỏ tranh che phủ, không còn rộng nữa.

    Chợt mắt tôi thấy thấp thoáng hình như có những cột mốc cắm thành hai hàng song song, hàng này cách hàng kia chừng bốn thước, như dấu mốc mà Công-Binh Bắc-Việt đã đánh dấu để phóng đường cho xe đi trong tương lai.
    Tôi rẽ cỏ tranh bước tới gần, thì đúng là địch đã cắm mốc! Cột mốc là một khúc nứa, cao cỡ ba mét, mỗi ngọn cột đều buộc một mảnh vải tai nheo màu xanh, đỏ, tím, vàng rất dễ nhận ra!

    Tôi nhớ lại, cuối năm 1973, Công-Binh Việt-Cộng cũng đã đánh dấu một con đường như thế này nối dài từ thung lũng Ia Drang tiến về vùng 10 cây số Bắc Pleime; cây lớn mọc trên mặt đường có đánh dấu đều bị cưa nửa vời.

    Tới tháng Tư năm 1974, khi triển khai chiến dịch, chiến xa địch chỉ cần chạy ngay giữa hai hàng mốc thì những cây cối này sẽ gãy ngay, xe tank cứ thế, đè lên cây mà lao tới.

    Như thế thì trong tương lai, nếu có chuyện đánh nhau, chắc chắn con đường đã đánh mốc này sẽ được địch dùng cho chiến xa tiến vào vùng Ðông Nam của thị xã.

    Từ bìa rừng, quay đầu nhìn lại, tôi thấy hệ thống tường đất cao với nhiều lớp rào phòng thủ dư sức ngăn cản chiến xa; như vậy, muốn vào thị xã, xe tank của địch bắt buộc phải dùng con hẻm độc đạo bên rào Trại 181 Pháo Binh.

    Muốn chặn chúng lại, ta chỉ còn cách duy nhất là thắt nút ngõ hẻm này bằng mìn chống chiến xa và thép gai vòng loại concertina.

    Nhưng để cho chắc ăn, tôi vẫn tiếp tục dẫn quân đi vòng quanh rào để thăm dò thêm. Tôi thấy mặt Ðông Nam của căn cứ là một dải đất sình lầy, tiếp giáp với bờ suối; khu vực đất thấp này bộ binh di chuyển còn khó khăn, chắc chắn chiến xa không thể vượt qua được.

    Sau khi hoàn tất công tác thám sát địa thế, về tới cổng trại, tôi mới nghĩ lại, thật là may mắn cho tôi, đêm qua địch chưa đánh!

    Ðêm qua, tôi chưa chuẩn bị, mà địch ra tay thì chắc chắn đơn vị tôi tan tành rồi.

    Tôi cấp tốc gọi cho Ðại tá Tỉnh trưởng cho xe đón tôi vào để báo cho ông một phát giác thật quan trọng.

    Sau khi nghe tôi trình bày chi tiết những gì vừa chứng kiến, ông Ðại tá vỗ vai tôi rồi hối thúc,

    – Lẹ lên! Lẹ lên! Chú lấy một chiếc Dodge rồi chạy xuống Trung Tâm Yểm Trợ Tiếp Vận Tiểu Khu lấy tất cả những gì chú cần! Mau lên! Mau lên!

    Sau hai chuyến chuyển vận, tôi nhận được mười lăm cuộn concertina, hai chục khẩu M72 và trên một chục quả mìn chống chiến xa.

    Ba toán Viễn Thám đã lãnh 6 khẩu M72 rồi; số còn lại tôi chia đều cho các đại đội. Mỗi đại đội đều có ba toán chống tank do chính tay tôi huấn luyện trong thời gian phòng thủ Kiến-Ðức.

    Thực ra thì chúng tôi bắn XM 202 giỏi hơn M72. Gần nửa năm trấn thủ Kiến-Ðức, kho đạn của Tiểu Khu Quảng-Ðức có bao nhiêu XM 202 đều bị tôi trưng dụng hết.

    Súng chống tank hữu hiệu nhứt là XM202 với đạn màu đỏ, tức là đạn khói, đạn lân tinh. Trúng đạn lân tinh, xe tank sẽ cháy ngay. Còn bắn đạn với liều thuốc lõm màu đen thì chỉ làm cho nó đứt xích hay lủng bộ phận phun khói sau lưng; bắn ngang hông cũng có hy vọng; còn bắn trúng pháo tháp T54 thì coi như “gãi ngứa” cho nó mà thôi.

    Thế là từ chiều cho tới tối, hai ông Thiếu úy Ðặng Thành Học và Phạm Văn Thủy phải nhịn đói, vất vả căng kẽm gai và moi lỗ gài mìn trên con hẻm. Mười quả mìn mới có ngòi, nằm đè lên mười quả mìn cũ đã bị Việt-Cộng tháo ngòi, thế là mình có mười lỗ mìn đôi. Nếu dính một lỗ mìn đôi, chắc chắn chiếc T54 cán mìn sẽ banh xác!

    Công việc thiết trí trận địa của tôi coi như đã hoàn tất.

    Và tôi có thể yên tâm là, từ tối ngày 7 tháng Tư năm 1975, Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân của tôi đã ở trong tư thế sẵn sàng đương cự với bất cứ địch thủ nào.

  • #2
    Mặt trận Đông Nam – Xuân-Lộc 1975 (4-6)

    Phần 4

    Người ta nói trong trận Xuân-Lộc tháng Tư năm 1975 cả hai ông Tướng Hoàng Cầm và Lê Minh Ðảo đều được đánh giá là toàn hảo. Cả hai vị chỉ huy Nam Quân và Bắc Quân đều đã bỏ ra rất nhiều công sức để chuẩn bị trận đánh này.

    Nếu không có những biến chuyển bất ngờ thì chắc chắn trận Xuân- Lộc sẽ diễn tiến đúng theo bài bản đã dựng sẵn của cả hai ông tư lệnh.

    Chiều hôm qua trong lúc vào Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn để xin mấy bộ bản đồ Xuân-Lộc và cái đặc lệnh truyền tin, tôi đã được nghe Ðại tá Hứa Yến Lến kể sơ lược tình hình bạn và địch trong vùng.

    Lực lượng bạn gồm có Sư Ðoàn 18 Bộ Binh, và lực lượng Ðịa Phương Quân của Tiểu khu Long-Khánh, nay được tăng cường thêm một đơn vị Biệt Ðộng Quân duy nhất là Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân của tôi.

    Qua lời Ðại Tá Lến, tôi biết thêm, trong thời gian vừa qua Chuẩn tướng Lê Minh Ðảo đã bỏ công thiết trí nhiều vị trí chỉ huy tiền tiêu, phòng khi chiến trận xảy ra, bộ chỉ huy hành quân có thể di động từ vị trí này tới vị trí kia. Pháo binh cũng di động không ngừng. Ðặc biệt là khi bắn phá thì tập trung hỏa lực để tăng cường hiệu quả.

    Về phía địch thì hầu như ai cũng hay, sau khi thanh toán xong Vùng 1 Chiến Thuật và Cao-Nguyên Vùng 2 của Việt-Nam Cộng-Hòa, Cộng Quân đã có đủ trong tay yếu tố tất thắng gồm cả nhân lực và khí tài.

    Bản tin tình báo do Phòng 2 Quân Ðoàn III cung cấp cũng ghi rõ, người chỉ huy binh đoàn Cộng Quân sẽ tiến công Xuân-Lộc là một danh tướng của Miền Bắc, Thiếu tướng Hoàng Cầm.

    Tôi đã biết Hoàng Cầm là người từng chỉ huy các đơn vị Cộng-Sản đánh chiếm căn cứ Biên Phòng Bu Prang ở làng Bù Bông, Quảng-Ðức cuối năm 1973.

    Hoàng Cầm cũng là người chỉ huy trận Phước- Long đầu năm 1975. Ngày đó tôi đang trấn giữ vùng giáp ranh Quảng-Ðức và Phước-Long; những quân nhân thoát chạy từ Phước- Long về Quảng-Ðức phần nhiều đều do đơn vị dưới quyền tôi tiếp cứu, trong số đó có ông Thiếu tá Cảnh-Sát Quốc-GiaPhước-Long tên là Tư.

    Từ cuối năm 1974 tôi đã từng đối mặt với Trung Ðoàn 271 trực thuộc Sư Ðoàn 7 Cộng-Sản Bắc-Việt của Hoàng Cầm trong một thời gian khá dài.

    Vài ngày, trước khi rút khỏi Quảng-Ðức, tôi đã đánh cho đơn vị này một trận thất điên bát đảo.

    Hiện thời, tại chiến trường Long-Khánh, dưới quyền Thiếu tướng Hoàng Cầm có 3 sư đoàn bộ binh cùng với một trung đoàn xe tank và một trung đoàn pháo binh. Ðó là chưa kể tới lực lượng địch dự bị tăng viện cho mặt trận này có thể lên tới cấp quân đoàn.

    Ai cũng biết ba yếu tố quyết định thắng lợi của một trận đánh là: “Thiên Thời, Ðịa Lợi, và Nhân Hòa”

    Trong chiến dịch này, Tướng Hoàng Cầm đã nắm chắc hai trong ba yếu tố quan trọng trên.

    1) Về “Thiên Thời” bây giờ đang tiết cuối Xuân, đường sá khô ráo, việc vận hành quân lương, binh lính và cơ giới thật thuận tiện.

    2) Về “Ðịa Lợi” xung quanh Xuân-Lộc là rừng lá xanh rì, dù có bay rà sát đọt cây, trinh sát cơ của Việt-Nam Cộng-Hòa cũng khó mà tìm ra vị trí trú quân của những binh đoàn Cộng-Sản.

    Trong khi đó thì Thị trấn Xuân-Lộc của Việt-Nam Cộng-Hòa lại nằm phơi mình lồ lộ, đứng từ xa mà dùng ống nhòm, người ta có thể thấy từng nóc nhà, từng khu phố.

    Cũng vì có “Ðịa Lợi” nên Hoàng Cầm có thể tự do đi đâu thì đi, có thể đích thân điều nghiên thực địa, rồi chọn lựa mục tiêu. Từ đó, ông ta biết được nơi nào có thể đánh, nơi nào không cần đánh.

    Trong thiên “Hư Thực” còn gọi là thiên “Biến Hóa” của Tôn Tử Binh Pháp có ghi:

    “Người giỏi đánh, quân địch không biết đâu mà giữ. Người giỏi giữ, quân địch không biết đâu mà đánh.”

    Hoàng Cầm là một tướng tài, ông ta là “Người giỏi đánh, quân địch không biết đâu mà giữ.”

    Dù cho không phải là Hoàng Cầm, mà bất cứ người cầm quân nào cũng phải biết rằng, “Ðánh mà chắc chắn lấy được, phải đánh vào chỗ họ không giữ.”

    Bởi vậy, khi thấy con hẻm chiến thuật bên hông phi trường Xuân-Lộc đã bị lực lượng trú phòng chẳng những “không giữ” mà còn coi nhẹ, bỏ quên, nên Hoàng Cầm đã “biến hóa” nó thành một lưỡi dao găm để đâm một nhát trí mạng xuyên qua trái tim của thị trấn.

    Nhưng đâu ngờ ngày đó trong số những người chỉ huy phòng thủ cũng có “Người giỏi giữ, quân địch không biết đâu mà đánh.”

    Người đó đã nhìn ra sự lợi hại của con hẻm này, nên đã “biến hóa” nó thành tử lộ đón chờ những chiếc tank T54 của Hoàng Cầm sẽ đi qua.

    Tóm lại, sự thắng bại trên mỗi chiến trường không chỉ do tài thao lược của cấp chỉ huy, do tay nghề và lòng quyết chiến của người lính, mà nó còn phụ thuộc vào những nước cờ “biến hóa” đúng thời, đúng khắc của người cầm quân.

    Gần tối ngày 7 tháng Tư, giữa cái nhà vòm có mái tôn rộng thênh thang, tôi ngồi một mình với chai bia cổ cao. Thường thì người đối ẩm của tôi là Thiếu úy Ðặng Thành Học. Giờ này chú Học còn bận gài mấy quả mìn chưa về.

    Có tiếng động cơ xe gắn máy hướng sân bay, rồi tiếng léo nhéo từ cái lô cốt ngoài cổng chính, người to tiếng là Ðại úy Ngũ Văn Hoàn,

    – Mi cứ vào trình diện ổng đi! Chắc ổng không la đâu!

    Rồi ai đó nói nhỏ hơn,

    – Nhờ Hoàng Long dẫn em vào gặp Thái Sơn! Vào một mình, em sợ lắm!
    – Hồi sáng mày ngon lắm mà! Sao giờ này lại “thỏ đế” vậy! Rồi! Ði! Ði theo tao!

    Ðại úy Hoàn, danh hiệu là Hoàng Long, chân chưa kịp cột dây giày, bước thấp bước cao, đang đi về phía tôi, sau lưng ông là một người tôi chưa nhìn rõ mặt.

    Ông Hoàn nói,

    -Thằng Thọ vừa về lại tiểu đoàn. Nó không dám vào gặp Thái Sơn, nó nhờ tôi dẫn nó trình diện Thái Sơn đây!

    Thấy Binh nhì Phan Thọ cứ nép mình sau lưng ông Hoàn, tôi lấy làm lạ, bỏ chai bia xuống rồi nhẹ nhàng,

    – Sao mi không đi luôn mà còn về đây làm chi vậy?

    Anh Binh nhì nấu cơm của tôi lúc này như vừa hoàn hồn, hết sợ, ào tới ôm chân tôi rồi khóc,

    – Hu! Hu! Hu! Em đâu có bỏ Thái Sơn! Em chỉ chạy về thăm má em rồi em trở lại! Em đâu có bỏ ông thầy!
    – Ủa! Nhà mi ở gần đây à? Sao không xin phép về thăm mà vội vàng bỏ súng chạy đi, làm cho anh em cứ tưởng rằng mi bỏ hàng, bỏ ngũ?

    – Dạ! Nhà em ở sát bến xe. Má em bán bún trong chợ. Tại vì Thái Sơn ra lệnh cấm quân, em đâu dám xin phép! Em cũng không dám “dù” về thăm má. Sáng nay nhân lúc Thái Sơn không có mặt, em đánh liều chạy về nhà. Anh Hai em có cái xe đò. Cả nhà em đã chuẩn bị, sáng mai thì chạy về Hố-Nai. Anh Hai em và mấy đứa em của em đều khuyên em đi theo gia đình. Nhưng em biết rằng giờ này Thái Sơn không còn ai thân thuộc. Em không nỡ bỏ Thái Sơn. Má em cũng nói, tùy ý em, muốn đi thì đi, muốn ở thì ở. Nhưng em biết ý má muốn em ở lại với Thái Sơn. Có điều… có điều… một ngàn đồng của Thái Sơn, em tiêu mất hai trăm rồi! Thằng xe thồ đòi hai trăm tiền công chở em từ chợ về đây. Tám trăm còn lại, em đã đưa cho Hoàng Long để trả lại cho Thái Sơn!

    Thằng em tôi vừa khóc sụt sùi, vừa nói một hơi không nghỉ. Rồi nó cầm bàn tay phải của tôi, bóp bóp không chịu buông. Tôi thấy hình như bàn tay lạnh giá của tôi vừa ấm lại. Ðồng thời cũng giây phút ấy, tôi thấy hai mắt mình hơi cay cay…

    Ðêm đó người căng võng, đắp mền cho tôi vẫn là thằng em Phan Thọ.

    Sáng hôm sau, người pha cà phê cho tôi cũng vẫn là nó.

    Cho tới năm ngày sau nữa thì Binh nhì Phan Thọ bị phòng không 12.8 ly của Việt-Cộng bắn thủng ruột khi đang leo lên tháo khẩu súng đại liên gắn trên chiếc chiến xa T54 vừa bị bắn cháy.

    Chiến tranh đã tạo nên nhiều trang sử liệt oanh, quang vinh, nhiều tấm gương hy sinh can đảm, những mối tình đẹp, những mối tình buồn, những cuộc chia ly, những chiến công rất phi thường. Nhưng cũng còn có những chuyện rất lạ thường phát sinh từ cái tình “huynh đệ chi binh” mà ra. Chính vì cái tình “huynh đệ chi binh” đó, mà thầy trò tôi, dù gặp hiểm nguy, dù cho sắp chết, cũng không nỡ lòng nào mà bỏ nhau.


    Đ/Tá Hứa Yến Lến, Th/Tá Vương Mộng Long, Th/Tướng Lê Minh Đảo, Th/Tá Nguyễn Hữu Chế (USA 2009)

    Tôi là một người đã trải qua một đời chinh chiến, những kỷ niệm in sâu trong tâm tưởng của tôi, suốt đời không quên được, chính là những chuyện liên quan tới ân tình của những thằng em dưới quyền tôi.

    Tới tối ngày 7 tháng Tư, sau khi nghe Ðại tá Phúc báo cho biết rằng gần 5 giờ chiều hôm đó hai Tiểu Ðoàn 63 và 81 Biệt Ðộng Quân đã được Chinook của Phi Ðoàn 237 bốc về thả ở phi trường Phan-Thiết, tôi bèn vào Trung Tâm Hành Quân Tiểu Khu Long-Khánh, gọi cho Trung Tâm Hành Quân Quân Ðoàn III xin liên lạc với Trung tướng Tư lệnh Quân Khu 3 để cám ơn.

    Qua ba cửa ải là, một ông Chuẩn úy sĩ quan trực mà tôi không biết tên, tới ông Thiếu tá Nho, rồi đến ông Ðại tá Thọ, tôi mới được nói chuyện với Tướng Toàn.

    Tôi cám ơn Trung tướng Tư lệnh Quân Khu 3 đã nể tình tôi quen biết nên ông đã ra tay cứu vớt Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân của Vùng 2.

    Ðầu máy bên kia tôi không rõ Tướng Toàn nghĩ gì, chỉ nghe ông “Ừ! À!” mấy tiếng.

    Tới lúc tôi hỏi ông,

    – Sao Trung tướng không đem toàn bộ Liên Ðoàn 24 về Long-Khánh cho tôi, mà lại để hai tiểu đoàn kia ở Phan-Thiết vậy?

    Thì ông Toàn nổi dóa,

    – Ð!M! Ðem tụi nó về Xuân-Lộc làm chi? Tau đâu cần tụi nó!

    La hét xong, Tướng Toàn cúp máy.

    Sau trận Long-Khánh, gặp lại nhau ở Bình-Ba, nghe tôi nhắc lại chuyện tôi đã làm cho ông nổi giận, khiến ông vì tự ái mà cứu hai tiểu đoàn Biệt Ðộng Quân bạn, thì ông Toàn cười,

    – Nếu hôm đó tau không ghé thăm mi, thì tau đâu có bị mi khích tướng? Tau đã để tụi nó chết trong rừng rồi! Tau là Tư lệnh Vùng 3! Tau đâu có trách nhiệm gì với Vùng 2? Không ai có quyền bắt tau phải bốc tụi nó cả! Tau chỉ cần mi thôi, nên tau bỏ tụi nó ngoài Phan-Thiết.

    Tôi đâu có lạ gì ông Tướng Nguyễn Văn Toàn? Ông ta là người hứa đó rồi quên đó!

    Ấy vậy mà lúc này đây, lần đầu tôi thấy ông ta tỏ ra là một người coi trọng nghĩa khí, đã hứa thì phải làm, đã nợ thì phải trả.

    Tôi sẽ mãi mãi không quên cái phong cách giang hồ trượng nghĩa mà Trung tướng Nguyễn Văn Toàn đã đối xử với tôi, và các đơn vị dưới quyền tôi ngày ấy.

    Như vậy là từ giờ phút này, điều băn khoăn, áy náy nhất của tôi đã được giải quyết, tôi đã không còn phải lo lắng gì tới số phận của hai Tiểu Ðoàn 63 và 81 Biệt Ðộng Quân nữa.

    Mặt khác, tôi cũng đã yên tâm về mặt trang bị, vì chỉ sau một ngày, chúng tôi đã được cấp phát gạo, đạn, giày vớ, và điện trì đầy đủ. Dù không nhận được khẩu súng cộng đồng nào, chúng tôi vẫn có thể coi như một tiểu đoàn khinh chiến, dạn dày kinh nghiệm, đủ sức chiến đấu trong bất cứ tình huống nào.

    Sáng ngày 8 tháng Tư tôi đang ngồi bên cái lô cốt cổng chính, uống cà phê cùng ông tiểu đoàn phó thì một anh lính tay cầm chiếc radio nhỏ chạy ào tới, miệng lắp bắp,

    – Trình Thái Sơn, Sài-Gòn có loạn! Sài-Gòn có đảo chánh!

    Tôi giựt cái máy thu thanh trên tay người lính. Trong máy, là tiếng Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đang kêu gọi toàn dân, toàn quân hãy đoàn kết sau lưng ông để chống lại một cuộc dấy binh lật đổ ông.

    Tiếp đó là nhạc quân hành, giống y như cảnh đã xảy ra nhiều năm trước đây, khi chính trường có biến động.

    Tôi rời cái pháo đài, đi một vòng ra lệnh cho anh em tu sửa hệ thống hầm hố và giao thông hào, cốt ý là để cho họ bận bịu công việc mà đừng bàn tán xôn xao về những tin tức phát đi từ thủ đô Sài-Gòn.

    Ðại úy Hoàn đi kế bên, nhìn tôi dọ dẫm,

    – Thái Sơn nghĩ sao, nếu có đảo chánh?

    Tôi là người có quá nhiều kinh nghiệm với những vụ đấu đá của các sứ quân thời hậu đảo chánh năm 1963, và tôi đã từng là nạn nhân với nhiều năm sống xấc bấc, xang bang vì dính líu tới mấy chuyện này rồi.

    Tôi buột miệng,

    – Buồn quá! Sắp mất nước tới nơi mà mấy ông to đầu còn lo tranh giành nhau!

    Tới trưa thì mọi chuyện sáng tỏ, không có đảo chánh, mà chỉ có chuyện một phi công nội tuyến đem bom thả xuống dinh Ðộc-Lập.

    Tôi tản bộ ra khỏi vòng rào, ghé thăm Thiếu úy Thủy và Ðại Ðội 4/82, rồi tiện thể đi quan sát cây cầu nằm cách bờ rào hướng Ðông Nam của Trại 181 Pháo Binh không xa.

    Tôi còn hai quả mìn chống chiến xa và vài cuộn concertina chưa dùng tới, nên tôi giao cho Ðại Ðội 4/82 lo gài mìn và rào kín một đầu cầu. Cẩn tắc vô áy náy! Dư vật liệu chống tank thì ta cứ đề phòng trước là hơn.

    Khoảng hai giờ chiều, trong máy truyền tin, trên tần số của Chiến Ðoàn 43 có tiếng Chuẩn tướng Lê Minh Ðảo,

    – Tiên Giao đây Hằng Minh!
    – Hằng Minh đây Tiên Giao nghe!

    – Em đang ở đâu vậy? Qua muốn gặp em ở đầu phi đạo.
    – Tôi đang ở đó!

    – Qua xuống ngay!

    (Hằng Minh là danh hiệu của Tướng Ðảo, Tiên Giao là tên đứa con gái thứ ba của tôi, cũng là danh hiệu do tôi chọn cho Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân).

    Chiếc C&C đáp, một người nhảy xuống đầu phi đạo, chiếc tàu bay đi. Tướng Lê Minh Ðảo vẫn gọn gàng, súng ngắn, nón sắt nhưng xuống đất mình ên, không có người hộ tống, không tùy viên, không máy truyền tin.

    Ông Tướng thay vì đưa tay cho tôi bắt, lại dang tay ôm tôi một cái thật chặt rồi thả ra, cứ như phong cách của các ông chỉ huy Phương Tây.

    Với cử chỉ thật là vồn vã, Tướng Ðảo vỗ vai tôi,

    – Qua mới từ Long-Bình lên đây cốt ý là để thăm đơn vị của em vài phút rồi qua phải đi ngay.

    Sau đó ông Tướng nhìn tôi, nhẹ giọng,

    – Em đã cảm thấy okay với không khí ở đây chưa?

    Thật hững hờ, tôi đáp lời ông,

    – Cám ơn Chuẩn tướng! Ở đây chắc chắn là thoải mái hơn những ngày vừa đói, vừa đánh, vừa lui, ở trong rừng.


    *****

    Phần 5

    Tướng Ðảo ngỏ ý muốn tôi dẫn ông đi một vòng của tuyến phòng thủ để thăm hỏi và khích lệ tinh thần anh em binh sĩ.

    Lúc này tôi mới rõ dụng ý của ông Tướng, cố ý đi một mình, không đem theo tùy tùng, để thuộc cấp nhìn vào, thấy được sự hòa đồng, bình dị của ông.

    Dừng chân nơi đầu con hẻm, chỗ tôi đặt cái chốt hỗn hợp Biệt Ðộng Quân và Ðịa Phương Quân, Tướng Ðảo thắc mắc,

    – Hình như Long mới cho rào con lộ này thì phải?

    Tôi phải từ từ kể cho ông Tướng nghe chuyện tôi đã phát giác ra những quả mìn đã bị tháo ngòi, chuyện Việt-Cộng đã đánh mốc con đường ở ngoài kia, và chuyện tôi chuẩn bị bãi mìn, rồi rào giậu ra sao cho ông Tướng Tư lệnh Sư Ðoàn biết.

    Nghe xong, Chuẩn tướng Tư lệnh Sư Ðoàn 18 Bộ Binh vội nắm tay tôi,

    – Ði! Long phải dẫn qua đi quan sát con hẻm này ngay!

    Tôi ra lệnh cho các quân nhân đang giữ cái chốt đầu con hẻm gỡ một bên rào, rồi tiến ra ngoài bãi tranh giữ an ninh, để cho ông Tư lệnh chiến trường đi thám sát trận địa.

    Tướng Ðảo đã thận trọng bước từng bước một theo con hẻm, bỏ công quan sát từng hố mìn, từng lớp kẽm gai, rồi đứng ngẩn người hồi lâu như đang suy tính điều gì đó.

    Ra tới ngoài đồng cỏ, ông Tướng còn muốn tôi dẫn ông tiếp tục thám sát con đường mà Việt-Cộng đã cắm mốc trong vườn xoài, vườn chuối, nhưng tôi không đồng ý,

    – Tôi không thể đưa Chuẩn tướng đi vào rừng được, nguy hiểm lắm! Nếu có chuyện bất trắc, sợ rằng mình trở tay không kịp.

    Sau vài phút ngắm nhìn khu đồng tranh và vườn chuối ngoài xa, ông Tướng giơ tay chỉ về phía bìa rừng,

    -Tối nay em nhớ gửi cho qua một hỏa tập đánh chặn ngay cửa rừng, phòng khi địch ào vào cánh đồng tranh kia thì mình khóa đít nó lại bằng pháo binh, khiến cho chúng nó tiến không được, mà thối cũng không xong!

    – Thưa Chuẩn tướng, chiều hôm qua tôi đã đưa những hỏa tập tiên liệu cho Ðại tá Hiếu rồi!

    Về tới cổng trại 181 Pháo Binh, Tướng Ðảo dang hai tay ôm vai tôi thật thân thiết,

    – Em giỏi! Qua công nhận là em giỏi! Hổm rày qua đã coi thường em, tính cho em ở càng xa thành phố càng tốt, không ngờ chuyện cho em đóng quân ở đây lại là điều may! Nếu giao chỗ này cho ai khác, không phải là em, thì yếu điểm này đã bị bỏ quên rồi! Chúng ta sẽ chết vì con hẻm này! Mai mốt phải đánh nhau mà xe tank địch bị chận lại ở đây thì em là người có công đầu đó! You’re excellent!

    Nghe lời khen của Tướng Ðảo mà lòng tôi cứ dửng dưng, không mảy may vui thích hay tự hào.

    Ở Vùng 2, tôi đã từng được Tướng Ân, Tướng Du, Tướng Toàn, Tướng Cẩm, Tướng Niệm… vỗ vai khen giỏi nhiều lần rồi, vậy mà đầu tháng 3 năm 1975, trên đồi Kiến-Ðức, tôi chỉ biết chết đứng giữa trời mà nhìn gia đình vợ con tôi đắm chìm trong biển lửa Ban Mê Thuột.

    Tôi đưa ông Tư lệnh vào căn cứ 181 Pháo Binh để cho ông trò chuyện với anh em binh sĩ đang tạm trú nơi này. Sự ân cần, thân ái của ông đã làm những người lính Thượng của Vùng 2 cảm thấy được an ủi phần nào.

    Lúc trở ra, qua cái lô cốt cổng chính, nhìn thấy mấy cháu bé đang chơi đùa giữa sân, Tướng Ðảo ngạc nhiên,

    – Gia đình binh sĩ của Long hay của đơn vị nào vậy?

    Tôi lắc đầu,

    – Ðó là gia đình của các anh em Pháo Binh Sư Ðoàn. Con cái của chúng tôi đã mất hết rồi! Ở Ban Mê Thuột!

    Nghe tôi trả lời, Tướng Ðảo bèn cầm tay tôi, nhỏ giọng,

    – Qua biết vì sao về tới đây em lại dùng danh hiệu “Tiên Giao” Mong rằng hiện thời cháu bé Tiên Giao, con gái của em, vẫn bình an. Ðại tá Hưng đã kể cho qua nghe tình trạng hiện thời của gia đình em. Qua cũng đã nghe Trung tướng Tư lệnh Quân Ðoàn nhắc lại những chiến tích của em ở Vùng 2. Trung tướng ngợi khen em lắm! Qua rất ân hận trong mấy ngày vừa qua, qua đã đối xử với em không tốt. Bây giờ thì qua biết lỗi rồi. Qua tin rằng những ngày sắp tới, anh em mình sẽ không còn gì lấn cấn nữa. Em và những người lính của em đã chịu thiệt thòi quá nhiều mà vẫn còn giữ được kỷ luật như thế thì quả là rất đáng khen. Trong cuộc chiến tranh này, những quân nhân nơi tuyến đầu là những người chịu hy sinh và thiệt thòi nhiều nhất. Qua rất thông cảm với em và những người lính dưới quyền em! Từ nay có gì cần tới qua giúp thì em cứ nói, đừng ngại ngùng gì cả”

    Nghe Tướng Ðảo nói, tôi chợt thấy được an ủi phần nào.

    Ông Toàn và ông Ðảo là hai hình ảnh trái ngược nhau, ông Toàn thô lỗ, cộc cằn bao nhiêu thì ông Ðảo ân cần, lịch sự bấy nhiêu.

    Trung tướng Nguyễn Văn Toàn là một sĩ quan Quân Phiệt; ông ta chỉ huy bằng quyền lực, và hình phạt. Trong thời gian hơn hai năm làm việc dưới quyền ông, tôi chưa từng được nghe ông nói một câu thân tình. Với Tướng Toàn chỉ có “lệnh!” và “lệnh!” cùng với hình phạt.

    Trong khi đó, làm việc với Chuẩn tướng Lê Minh Ðảo, tôi thấy dễ chịu hơn, thoải mái hơn. Qua tiếp xúc lần này, tôi đã thấy rằng Tướng Ðảo là một người chỉ huy còn có một trái tim biết rung động, biết chia sẻ niềm vui, nỗi buồn của những người dưới quyền mình.

    Ít có ông Tướng nào tự nhận mình có lỗi trước mặt thuộc cấp, rồi có lời hối lỗi.

    Ngày hôm nay Tướng Ðảo đã cho tôi một cái gương sáng về nhân cách để noi theo.

    Trước khi lên máy bay để về Long-Bình, Chuẩn tướng Tư lệnh Sư Ðoàn 18 Bộ Binh móc túi đưa cho tôi mảnh giấy nhỏ ghi tần số riêng của ông và căn dặn tôi phải có một cái máy vô tuyến giữ tần số đó để cho ông có thể liên lạc trực tiếp với tôi khi cần.

    Sau thời gian một tháng, đêm nào cũng chập chờn, tối ngày 8 tháng Tư năm 1975, tôi an tâm lên võng, đi ngủ sớm.

    Thế rồi, rạng đông ngày 9 tháng Tư năm 1975, lúc trời còn mù sương, tôi giật mình thức dậy.

    “Ùm! Ùm! Ùm!” – “Vèo! Vèo! Vèo!”- “Xèo! Xèo! Xèo!”- “Oành! Oành! Oành!” từ ba hướng Ðông, Tây, và Bắc, đủ loại đạn xé gió bay vào Xuân-Lộc.

    Tôi phóng xuống đất chạy ra tuyến phòng thủ của Ðại Ðội 1/ 82, ở đó tôi có cái hầm dã chiến với hình thù của một cái giếng lộ thiên.

    Ðất Xuân-Lộc là loại đất pha đá tổ ong, moi được một cái lỗ đường kính bốn gang tay, sâu tới đầu gối đã là trần ai rồi, mong gì đào được những đường giao thông hào cao một đầu, một với và những cái hàm ếch chống pháo như ở Pleime!

    Hố cá nhân chỉ che được nửa người, nếu bị cối bắn tập trung trên mục tiêu thì lính của tôi bị đứt đầu như chơi.

    Tôi nghĩ rằng, khi điều nghiên trận địa, thấy căn cứ này chỉ là mấy cái nhà tôn bị bỏ trống, không người canh gác, nên địch đã loại cái trại này ra ngoài danh sách những mục tiêu cần đánh phá.

    Thêm vào lý do đó, có thể bề mặt của trại 181 Pháo Binh này quá nhỏ, nếu so với diện tích của toàn thị trấn Xuân-Lộc thì chẳng thấm vào đâu. Vì thế mà, trong suốt thời gian địch pháo kích, chẳng có trái đạn đại bác nào rơi trên vị trí Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân trú đóng cả.

    Ðạn cứ “Vèo! Vèo! Xèo! Xèo!” bay qua đầu chúng tôi rồi nổ “Oành! Oành! Ùm! Ùm!” toé lửa trên phi đạo, trên đường phố, trên các tòa nhà lầu của Tòa hành chánh tỉnh.

    Trong gần hai giờ đồng hồ, thị trấn Xuân-Lộc đã hứng chịu hàng chục nghìn trái đạn 130 ly, 122ly, 105 ly và 120 ly.

    Tôi leo lên cái lô cốt giữa sân trại nhìn về hướng thành phố. Thành phố Xuân-Lộc đang bốc cháy! Lửa đỏ, khói trắng, khói đen ngùn ngụt bốc lên cao.

    Trong thời gian ba ngày ở đây, tôi mới có dịp đi qua thị xã này hai ba vòng nên chẳng biết gì, ngoài Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 18 Bộ Binh, và cái chợ. Hình như lúc này cái chợ đang cháy, và Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn cũng đang cháy.

    Ông đại đội trưởng Ðịa Phương Quân Bình-Long gọi tôi, báo cáo rằng phi đạo đã lãnh hàng trăm viên đại bác, ông ta phải cho quân dạt về hướng Nam, tá túc trong vườn chuối và vườn cây điều lộn hột trong xóm nhà dân.

    Ông trung úy còn yêu cầu tôi cho phản pháo ngay trên vài tọa độ mà ông ta mới chấm được.


    Cựu Th/Tá Vương Mộng Long & cựu Th/Tướng Lê Minh Đảo cùng vài anh em
    cựu sĩ quan của Sư Đoàn 18 BB (USA 2009)

    Tôi nói với ông ấy cứ yên trí bám sát bìa Nam của sân bay. Có gì lạ, tôi sẽ cho lệnh sau. Hiện thời thì pháo binh của ta cứ mạnh ai nấy bắn. Pháo địch có mặt khắp nơi vùng hướng Bắc, Ðông, và Tây; không có ai rảnh mà nhận đơn phản pháo!

    Tôi không liên lạc được Trung Ðoàn 43 Bộ Binh, cũng không liên lạc được Tiểu Khu Long-Khánh; các tần số đều tắc nghẽn, đài này át đài kia, chẳng nghe được gì cho trọn câu.

    Tôi mở tần số của Hằng Minh thì nghe ông Tư lệnh đang đàm thoại với anh sĩ quan điều không tiền tuyến đang bay trên chiếc phi cơ L 19. Không Quân Việt-Nam Cộng-Hòa đã hiện diện, hai chiếc F 5 vừa trút bom xong, bay đi, thì hai chiếc A 37 đã có mặt.

    Bom đạn của oanh tạc cơ tạo thành một màn khói bụi thứ hai bốc nhanh lên trời cao. Bầu trời sáng nay không có gió, nên khói, bụi cứ cuồn cuộn tới mây mà chưa tan.

    Có nhiều tiếng “Lụp bụp! Lụp bụp!” giòn giã trong mây, đó là tiếng nổ do đạn 37 ly và 57 ly phòng không của địch.

    Những lúc máy bay của ta vắng bóng trên vùng thì 37 ly của Việt-Cộng lại hạ nòng quét qua quét lại trên tường thành phòng thủ.

    Có lúc góc quét của những giàn phòng không này chệch về hướng Ðông Nam khiến cho từng chùm lửa của 37 ly cứ bay “Vèo! Vèo!” qua đầu chúng tôi rồi toé khói trong rừng cây.

    Tôi đứng trên pháo đài, tay cầm điếu Lucky nhìn từng đám khói đen, khói trắng, bốc lên trong phố, cứ như mình là một người ngoại cuộc, đang nhìn người khác biểu diễn cho mình coi.

    Thấy chỗ mình đóng quân yên như bàn thạch, ông tiểu đoàn phó cũng leo lên đứng cạnh tôi.

    Bất thình lình, trên ngọn tranh trong đồng cỏ ngoài xa, có một lá cờ xanh đỏ đang nhấp nhô lao tới! Khẩu 12.8 ly trên chiếc xe tank liên tục nhả đạn “Ðùng! Ðùng! Ðùng!” về phía trước.

    Có lẽ xạ thủ Việt-Cộng không biết địch nằm, ngồi chỗ nào, nên hắn cứ tưới đạn lên hàng rào kẽm gai của tường đất phòng thủ.

    Ðứng trên lô cốt, tôi và Ðại úy Hoàn nhìn thấy một chiếc PT76 hình thù như một cái xà lan, với lá cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam căng gió đang nhắm hướng con hẻm bên hông trại 181 Pháo Binh mà từ từ tiến tới. Sau lưng nó là những cành lá ngụy trang của một đoàn quân rất đông đang di động.

    Trong gió, tai tôi nghe tiếng cán binh tùng thiết bắt đầu reo hò “Xung phong! Xung phong!”

    Trên đồng cỏ, Cộng Quân đang diễn tập màn đánh hiệp đồng bộ binh, thiết giáp trước mặt những tay súng bách chiến vừa về từ Vùng 2 Chiến thuật.

    Có điều những người đang diễn tập đó không biết chúng tôi đang có mặt trên phòng tuyến để chờ đợi họ. Còn họ thì cứ cắm đầu chạy trong đồng tranh cao quá đầu người, không biết rằng sau rặng tre xanh, có hàng trăm cặp mắt đang theo dõi họ.

    Tôi ra lệnh cho Ðại úy Hoàn,

    – Cho tất cả anh em bắn đan cánh sẻ!

    Ông Hoàn lớn tiếng ra lệnh:

    “Chuẩn bị! Chuẩn bị!”

    Tiếp đó ông Ðại úy dang hai tay ngang vai rồi đánh chéo hai cánh tay lại thành chữ “X” trước ngực, giống như người ta ra thủ lệnh cho một chiếc trực thăng hạ cánh; hiệu lệnh này tất cả anh em trong đơn vị đều đã thuộc nằm lòng, họ tự động xoay mũi súng, một về trái, một về phải chờ đợi.

    Khi nghe ông tiểu đoàn phó ban khẩu lệnh “Bắn!” thì cứ thế, xạ thủ bóp cò, chỉ một hướng không thay đổi.

    Hàng trăm lằn đạn M16 giao nhau, ngoài đồng cỏ tranh, những cành lá ngụy trang bị đốn ngã, không đứng lên được nữa.

    Chỉ một phút sau, không còn cán binh Việt-Cộng tùng thiết nào chạy sau chiếc xe tank.

    Trong hàng rào các chiến sĩ Cộng-Hòa vừa siết cò súng, vừa la: “Biệt Ðộng Quân! Sát! Biệt Ðộng Quân! Sát!”

    Tiếng la vang dội trên cánh đồng lồng lộng gió, khiến cho những bộ đội Cộng-Sản mới ló đầu ra khỏi vườn chuối đã hoảng hồn vội vàng quay đầu co giò chạy ngược vào rừng.

    Trong khi đó chiếc thủy xa PT76 cứ lừng lững tiến vào con hẻm; tên xạ thủ phòng không 12.8 ly và năm, sáu cán binh ngồi trên lưng nó đã bị Biệt Ðộng Quân bắn chết hết rồi.

    Bên hàng rào tre đã có bốn năm khẩu M72 sẵn sàng! Có lẽ việc bắn hạ chiếc xe này còn dễ hơn là chuyện bắn cho trúng cái mục tiêu giả nằm ẩn hiện trong rừng Kiến-Ðức mỗi khi thực tập.

    Vượt qua cửa ngõ của tử lộ vài thước thì guồng quay xích của chiếc chiến xa Việt-Cộng bị thép gai vòng cuốn chặt khiến cho nó cứ xoay dọc, rồi lại xoay ngang; nó rướn lên hai mét rồi lại lui hai mét.

    “Ùm!” xích xe cán trên quả mìn đôi! Cùng lúc, một trái đạn M72 bay tới! Ngay lập tức, chiếc thủy xa PT76 bốc cháy như ngọn đuốc! Nó đã cháy trong thế quay ngang, nên đương nhiên biến thành một cái ụ bằng thép chắn trước mặt con hẻm độc đạo dẫn vào sân bay Xuân-Lộc!

    Xăng cháy, đạn dược chứa trong xe cũng cháy theo rồi nổ “Ùng! Ùng! Ùm! Ùm! Lép bép! Lép bép!”

    Cột khói đen từ chiếc PT 76 ngùn ngụt bốc lên cao ngút, đã gây chú ý cho những người ngồi trên chiếc trực thăng chỉ huy đang bay trên không phận Xuân-Lộc.

    Trên máy vô tuyến có tần số riêng của Chuẩn tướng Lê Minh Ðảo tôi nghe ông la lên,

    – Tiên Giao đây Hằng Minh! Tiên Giao đây Hằng Minh!

    Tôi chụp ống liên hợp,

    – Tiên Giao nghe!
    – Tiên Giao vừa bắn cháy một chiếc tank có phải không? Qua thấy khói đen đang bốc lên ở chỗ em!

    – Ðúng ra thì chiếc PT 76 này vướng mìn trước khi bị bắn!
    – “Dzậy” là tụi nó tới số rồi! Tụi nó chui đầu vào cái bẫy của em! Em là Number One đó!

    Bất thình lình trên trời, chiếc C&C hạ cao độ một cách thật đột ngột, thật khẩn cấp, như thể là nó đang rơi tự do!

    “Bụp bụp! Bụp bụp!” đạn phòng không 37 ly của Việt-Cộng đua nhau nổ như pháo bông giữa ban ngày để nghênh đón chiếc C&C của ông Tướng Tư lệnh! Cuộc điện đàm bị cắt đứt. Chiếc C& C bị bắn rớt rồi hay là đã bay đi đâu mất tôi cũng chẳng biết.

    Mười lăm phút sau tôi mới nghe lại được tiếng Chuẩn Tướng Ðảo, lúc này trực thăng của ông đang bay xa về hướng Nam để tránh phòng không.


    *****

    Phần 6

    Thấy pháo địch tạm ngưng, tôi chạy ra ngoài vòng rào, ra lệnh cho toán quân đang đóng chốt ở đầu con hẻm tiến lên chiếm cái PT76, rồi dùng nó làm một pháo đài phòng thủ.

    Mặt khác, vì sợ rằng địch quân nhìn thấy chiếc PT 76 đã nằm chặn mất con đường hẻm, thì chúng sẽ dùng con hương lộ hướng Nam mà tiến lên, nên tôi lập tức ra lệnh cho Thiếu úy Thủy gỡ hai quả mìn chống chiến xa nơi đầu cầu, rồi dùng một trái Claymore kích hỏa cho hai quả mìn đó đánh sập cây cầu bắc ngang suối Gia Liêu.

    Tôi cũng dặn chú Thủy nhớ cho hai toán chống tank của Ðại đội 4/82 lội qua suối, ém quân trong bụi để đề phòng những chiếc tank tiến lên theo hương lộ.

    Ngay lúc này từ đầu sân bay, một chiếc Cessna đang vượt đường băng. Chiếc L 19 chất đầy hành khách, có những cái áo màu xanh, màu đỏ của phụ nữ.

    Tôi đứng ngay cuối phi trường; anh phi công đã thấy tôi đưa cái bản đồ lên vẫy vẫy mấy cái, ngụ ý: “Chúc may mắn!”

    Anh ta cũng thò tay ra cửa vẫy lại. Mấy chục năm qua rồi, nếu tình cờ đọc được những giòng chữ này, anh bạn Không Quân lái chiếc Cessna ngày ấy chắc sẽ nhớ lại kỷ niệm này.

    Tôi trở vào tuyến phòng thủ, tiếp tục leo lên pháo đài.

    Trong phố có tiếng súng giao tranh nổ rộ, đủ loại súng đang bắn nhau. Chắc địch đã có mặt trong trung tâm thành phố rồi!

    Hình như sau khi pháo kích, địch bắt đầu mở những đợt tấn công trực diện vào các đơn vị trấn thủ trong vòng đai có bờ đất và hàng rào để hỗ trợ cho các mũi Ðặc-Công và Trinh-Sát đang có mặt trong thành phố.

    Ðối lại, trên bờ đất phòng thủ, những khẩu đại liên, đại bác của quân ta cũng liên tục tưới đạn như mưa về hướng Bắc. Giờ đây bốn phương, tám hướng của Xuân-Lộc đều có đạn bay, lửa cháy thật là hỗn loạn.

    Từ khu vườn chuối, vườn xoài, bộ binh địch bắt đầu đợt xung phong lần thứ hai. Vẫn những cành lá ngụy trang nhấp nhô trong đồng tranh.

    Ðịch quân vẫn chưa nhìn thấy chúng tôi, địch quân lại bị đốn ngã.

    Bỗng tôi thấy khói trắng liên tiếp phụt lên trong khu đất thấp của thung lũng trước mặt.

    “Oành! Oành! Oành!”

    Cái lô cốt mà tôi đang đứng lãnh hai, ba trái đạn đại bác 100 ly thì nghiêng qua một bên!

    Tai tôi nghe được tiếng đạn nổ trước khi nghe tiếng súng khai hỏa chỉ vì đại bác của địch bắn tôi với cự ly quá gần.

    Lúc này tôi mới phát giác, cách hàng rào của trại 181 Pháo Binh chừng hai trăm mét là năm hay sáu chiếc T54 xếp hàng ngang đang khạc đạn.

    Cỏ tranh cao quá, súng lại nổ rền trời, nên đoàn xe tank tới gần bên mà tôi không hay.

    Trên ngọn cỏ chỉ thấy những cái cần ăngten nhún tới, nhún lui, và thấp thoáng những cái pháo tháp nhấp nhô vì xe chạy trên thế đất lòng chảo quá lồi lõm và gập ghềnh.

    Nơi bìa rừng, trên dốc, tôi còn thấy cả chục chiếc T54 khác đang chui ra từ con lộ đã được Công-Binh Việt-Cộng đánh dấu trước đây.

    Nhìn đoàn T54 này chẳng khác gì một đàn bọ hung đang bò lổm ngổm.

    Tôi vội nằm áp bụng trên nóc lô cốt, rồi theo chiều nghiêng của cái pháo đài, buông tay cho thân mình trượt xuống sân. Nhảy hai bước, tôi đã ngồi trong cái giếng cạn.

    Ðoàn chiến xa bỗng chuyển đội hình, theo hàng một, vừa tiến vừa bắn “Ðùng! Ðùng!” nhắm vào hệ thống tường đất phòng thủ bao quanh thị trấn.

    Chiếc T54 đi đầu mở hết tốc lực, rồi phóng tới húc mũi vào chiếc PT 76 đang nằm im.

    Tiểu đội Biệt Ðộng Quân núp sau chiếc PT 76 bị hàng rào thép gai concertina chặn đường lui, bèn theo nhau chui vào cái lỗ trống trong rặng tre đực mà nhào vào sân trại.

    Sau khi tông mạnh vào hông chiếc thiết vận xa, chiếc tank T54 cố sức hất chiếc chiến xa lội nước này sang bên phải con hẻm, để dọn đường cho nó tiến lên.

    Bên phải là tường đất cao, với nhiều lớp hàng rào. Bên trái chỉ có lũy tre đực với một lớp rào, xe tank có thể đè lên rào tre để vòng qua chiếc PT76 đang nằm ụ.

    Vị trí hiện thời của chiếc tank T54 chỉ cách ban chỉ huy của Ðại Ðội 1/ 82 chừng hai chục thước.

    Ngồi trong cái giếng khô, tôi thấy Thiếu úy Ðặng Thành Học, Ðại đội trưởng Ðại Ðội 1/82 đứng xõng lưng với khẩu súng chống tank trên vai phải.

    Thiếu úy Học bóp cò!

    Ðuôi cái ống phóng M72 phụt ra những tia lửa chói lóa cùng với tiếng “Ùm!”

    Nhưng khổ thay! Khẩu M72 này quá cũ, quả đạn vừa ra khỏi nòng súng thì rơi ngay trên mặt lộ, cách hàng rào chỉ ba hay bốn mét. Trái đạn M72 lăn long lóc như củ khoai!

    Tên xạ thủ súng 12.8 ly trên xe của Việt-Cộng đã nhìn thấy Thiếu úy Học, nó xoay mũi súng về bên trái,

    “Choác! Choác! Choác!”

    hàng tre đực bị đốn gãy gục xuống, đè trên đầu những người đang ngồi dưới dãy hố sau rặng tre.

    Vừa hay chiếc T54 lui lại để lấy đà, vô tình cái đuôi của nó phơi bày trước mắt Hạ sĩ Mom Sol.

    Anh Trưởng toán Viễn Thám 821 bấm nút!

    Viên đạn M72 nhắm ngay bộ phận mềm nhất của chiếc chiến xa mà chui vào!

    “Bùm!”

    Con quái vật T54 hung hãn banh xác! “Năm anh em trên chiếc xe tăng” cũng banh xác theo!

    Xăng, đạn trên xe phát nổ, “Ùng! Oành! Ùng! Oành!”

    Chiếc tank này bị bắn cháy ngay bên hàng rào, đám lửa bùng lên, phừng phừng phà ra xung quanh, làm cho lớp rào tre cũng phát cháy theo, quân ta phải bỏ tuyến ùa nhau chạy vào sân, núp sau mấy cái lô cốt.

    Lúc này trong cái lô cốt hướng Ðông, lũ trẻ con cũng bắt đầu khóc như vỡ chợ.

    Nhìn thấy một chiếc AC 119 bay trên cao, tôi vặn máy truyền tin sang tần số giải tỏa của Chiến Ðoàn 43. May quá, tần số này không bị nhiễu loạn! Tôi xin được tần số không lục để liên lạc với chiếc AC 119.

    Ðại tá Hiếu đang lo chống đỡ những đợt tấn công trực diện đang đè nặng trên phòng tuyến của ông, nên ông không có thì giờ liên lạc với cái máy bay trên trời, ông giao nó cho tôi.

    Thế là chiếc AC 119 trút từng cơn mưa đạn 20 ly trên đồng tranh. Ðạn đại bác 20 ly không đục thủng được pháo tháp của chiến xa, nhưng chắc chắn có nhiều tên xạ thủ giữ súng 12.8 ly đã bị bắn chết, nên đột nhiên bọn T54 trở đầu chạy lui về hướng Ðông.

    Tôi yêu cầu hỏa lực của AC 119 cứ tự do nhả đạn từ vùng đồng tranh, cách hàng rào 200 mét kéo dài về hướng Ðông.

    Có một chiếc T54 còn nổ máy nằm ngay trong cái thung lũng thấp, nó bị M72 của Ðại Ðội 3/82 bắn đứt xích. Tên Việt-Cộng, xạ thủ 12.8 ly chết rồi, xác nó nằm vắt trên lườn xe, bốn người anh em “Sinh Bắc Tử Nam” của nó đã bỏ xe mà chạy mất dạng.

    Trung úy Trần Văn Phước xin tôi cho phép chú ấy gửi người chui ra khỏi rào dùng lựu đạn thanh toán cái T54 này cho dứt hậu họa. Tôi trả lời đồng ý; vài phút tiếp đó, chiếc chiến xa này bốc cháy.

    Xa hơn, về phía Ðông, còn một chiếc T54 nữa cũng đang nằm im trên đồi tranh. Tôi không dám cho người đi tới đó để kiểm soát.

    Chiếc C&C của Hằng Minh lại xuất hiện trên trời, hơi xa về phía Nam, hướng Tân-Phong,

    – Tiên Giao đây Hằng Minh!
    – Tiên Giao nghe Hằng Minh!

    Tướng Ðảo hỏi,

    – Hình như có thêm mấy chiếc tank nữa vướng mìn của em rồi phải không?

    Nghe ông Tướng nói, tôi phì cười,

    – Không phải tụi nó bị mìn đâu! Tụi tôi vừa bắn đó!

    Ông Tư lệnh reo lên,

    – Qua biết em giỏi lắm mà! You’re excellent! Okay! Ðánh cho tụi nó tà đầu hết cục cựa nghe em!
    – Vâng! Tôi sẽ đánh cho tụi nó tà đầu, hết cục cựa!

    Chuẩn tướng Ðảo cho tôi biết rằng vài phút trước, Ðại tá Tỉnh trưởng đã đề nghị ông Tư lệnh cho Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân vào tái chiếm các cơ sở, căn cứ mà địch đang chiếm giữ trong thành phố, nhưng Tướng Ðảo đã từ chối, vì thời gian này chúng tôi đang bị xe tank địch tấn công.

    Tới xế chiều thì sự liên lạc giữa Tiểu Ðoàn 82 với Chiến Ðoàn 43 và Tiểu Khu Long- Khánh đã trở lại bình thường.

    Tôi vắn tắt báo cáo cho hai ông đàn anh biết tình hình trong khu vực của tôi.

    Tổng kết thiệt hại ngày hôm đó Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân có ba người bị thương nhẹ, không có người chết; Ðại Ðội Ðịa Phương Quân của Long-An hoàn toàn vô sự; còn Ðại Ðội Ðịa Phương Quân Bình-Long có hai người chết vì bị pháo kích, không ai bị thương.

    Tôi xin hai ông chỉ huy tiếp tế thêm hỏa tiễn M 72 cho tôi, càng nhiều càng tốt.

    Ông Ðại tá Tỉnh trưởng cho tôi hay Khách-Sạn Long-Khánh bị Ðặc Công chiếm giữ từ nửa đêm qua, tới giờ này Cảnh-Sát Dã-Chiến vẫn chưa lấy lại được.

    Cái tháp chứa nước giữa phố cũng bị Việt-Cộng leo lên đặt một khẩu đại liên trên nóc. Từ đó, khẩu súng này đang là mối nguy cho các cánh quân của ta, Ðại tá Phúc đang yêu cầu xe tank của Thiết Ðoàn 5 Kỵ Binh đánh sập cái tháp chứa nước này.

    Ðại tá Phúc cũng cho tôi hay, trong đợt pháo kích dữ dằn sáng nay của Cộng Quân, tư dinh của ông đã bị pháo địch bắn sập một phần, còn tư dinh của Tướng Ðảo hiện thời chỉ là một đống gạch vụn! May mắn là đêm qua Tướng Ðảo ngủ ở tiền cứ Long-Bình nên thoát nạn!

    Giờ này, trong đường phố vẫn còn đánh nhau rất dữ, súng nổ không dứt.

    Ðịa Phương Quân của Tiểu Khu Long-Khánh và quân của Chiến Ðoàn 43, Thiết Ðoàn 5 Kỵ Binh, cũng như Ðại Ðội Trinh Sát của Sư Ðoàn 18 còn đang tiếp tục tranh giành với địch từng thước đất trong vùng trung tâm thị trấn. Quân bạn phòng thủ vòng đai hướng Ðông và Bắc thị trấn cũng đã bắn hạ được nhiều xe tank của Cộng-Quân.

    Cuối cùng, ông Phúc yêu cầu, nếu tôi còn quân (?) thì gửi vào tăng viện cho Tiểu Khu.

    Mãi tới khi nghe tôi kể lại diễn tiến tình hình suốt ngày hôm đó của vùng Ðông Nam Xuân-Lộc, Ðại tá Phúc mới biết rằng chúng tôi không còn là đơn vị trừ bị cho chiến trường nữa, mà chúng tôi đã sớm trở thành một lá khiên ngăn địch ngay bên cạnh Tòa hành chánh tỉnh.

    Nghe hiểu chuyện này, ông Ðại tá Tỉnh trưởng bèn gửi lời khen ngợi và cám ơn anh em đơn vị tôi đã giữ cho sân bay Long-Khánh và Tòa hành chánh tỉnh thoát một cuộc tấn công bất ngờ bằng xe tank của Cộng Quân.

    Tôi cũng được Ðại tá Hiếu, Chiến đoàn trưởng Chiến Ðoàn 43 thông báo rằng, do tin kiểm thính của Sư Ðoàn 18 Bộ Binh thì đơn vị Cộng-Sản tấn công chúng tôi là Trung Ðoàn 209 của Sư Ðoàn 7 Cộng-Sản Bắc-Việt phối hợp với một đơn vị tank của Quân-Khu 7 Cộng-Sản.

    Cũng do tin kiểm thính mà tôi được biết rằng đơn vị cơ giới nặng gồm có xe tank T54 và xe ủi đất của Cộng-Sản đã tới tuyến xung phong chậm 15 phút vì đi lạc. Từ đó tôi mới hiểu vì sao đoàn chiến xa T54 đã tới sau chiếc PT76 một khoảng thời gian khá lâu.

    Tôi leo ra ngoài hàng rào, đến quan sát cái lỗ mìn đôi đã nổ. Mặt đất chỉ bị khoét một cái hố to bằng cái thúng, vậy mà cả một phần bên trái chiếc thủy xa PT76 đã nát bươm. Còn chiếc T54 ở cách đó vài thước thì nằm bẹp sát mặt đất, bánh xích cháy đen, hình thù không khác một cục than.

    Ngay ngày đầu chiến trận, đoàn chiến xa Việt-Cộng đã bị Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân chặn lại tại đầu con lộ đất dẫn vào phi trường Xuân-Lộc. Lưỡi dao găm của Thiếu tướng Hoàng Cầm đã bị chặt gãy ngay khi vừa rút ra khỏi vỏ!

    Ðúng là, “Nhất ẩm, nhất trác, giai do tiền định!” (Chuyện lớn, chuyện nhỏ trên đời đều đã do Trời sắp đặt!)

    Nếu ngày 6 tháng Tư năm 1975 Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân của tôi không có mặt ở đây, nếu tôi không chịu bỏ công đi thám sát con lộ này, không thấy những quả mìn đã bị tháo ngòi nổ, thì chắc chắn sáng ngày 9 tháng 4 năm 1975 những chiếc tank T54 của Quân-Khu 7 Cộng-Sản đã nằm đầy trong sân Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 18 Bộ Binh và trên sân Tiểu Khu Long-Khánh rồi!

    Tới tối thì Ðại tá Chiến đoàn trưởng Chiến Ðoàn 43 gửi cho tôi một khẩu Bazoka Trung Cộng cùng 12 viên đạn. Ðây là một khẩu súng cá nhân chống tank với nòng 82 ly, rất nhẹ nhàng và dễ sử dụng. Khẩu súng này là chiến lợi phẩm do Sư Ðoàn 18 Bộ Binh tịch thu được của Việt-Cộng trước đây cả năm.

    Ðêm xuống, thành phố Xuân-Lộc không ngủ, thành phố ngập trong lửa khói. Dưới đất, xung quanh vành đai phòng thủ là những hỏa tập pháo binh theo nhau bùng lên rồi tắt. Từ bờ thành phòng thủ, những tràng đạn lửa nối đuôi nhau và đan vào nhau bay ra đồng cỏ; trên không trung thì sáng lóa vì hỏa châu của quân bạn và đạn phòng không của địch.

    Giờ này mặt trận Ðông Nam của tôi lại rất yên. Doanh trại 181 Pháo Binh ẩn mình dưới vòm tre xanh ví như một hòn đảo nhỏ dính vào cái đảo lớn, trên cái đảo lớn Xuân-Lộc là những hỏa diệm sơn đang sùng sục sôi và đang phun khói.

    Ngồi trong chiến hào, chúng tôi chong súng chờ địch tới, mà trong lòng thì bình tĩnh như không. Vì mới qua một ngày đọ sức, chúng tôi đã thấy khả năng tác chiến của Trung Ðoàn 209, Sư Ðoàn 7 Cộng-Sản còn thua xa nếu đem so sánh với các trung đoàn chủ lực trực thuộc Sư Ðoàn F 320 A Cộng-Sản ở Tây Nguyên.

    Nhất là trong tình hình hiện thời Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân của tôi còn có cả một sư đoàn quân bạn đang giữ lưng, nên chúng tôi cảm thấy thật là vững tâm, chẳng thấy lo lắng gì.

    Sáng ngày 10 tháng Tư, tôi đích thân bắn viên đạn chống tank đầu tiên từ khẩu Bazoka 82 ly Trung Cộng nhắm vào cái T54 nằm trên đồi tranh. Chiếc xe này đã bị bắn đứt xích ngày hôm trước. Kết quả là, chỉ cần một viên 82 ly trúng ngang hông, chiếc chiến xa này đã cháy ngay!

    Có một chuyện vui đã xảy ra sáng hôm đó là, sau khi tôi bắn cháy chiếc chiến xa trên bãi tranh thì lập tức, nhiều khẩu đại pháo của quân bạn nằm trong vòng đai thị trấn cũng nhắm vào nó mà bắn liên tục, khiến cho xác của chiếc T54 lúc thì bị quay ngang, lúc lại quay dọc!

    Sau đó, Thiếu úy Ðặng Thành Học, Ðại đội trưởng Ðại Ðội 1/82 là người được tôi ủy nhiệm cho công tác đánh tank T54 do Liên Xô chế tạo bằng khẩu súng chống tank 82 ly do Trung-Cộng chế tạo.

    Mười giờ sáng thì có tiếng súng nổ nơi đầu vườn chuối, rồi một đám khói tím bốc lên.

    Từ khuya, tôi đã gài sẵn hai toán Viễn Thám chống tank nơi bìa rừng. Trong trận này Viễn Thám không có máy truyền tin, nhưng nhìn và nghe những tín hiệu vừa xảy ra, tôi hồi hộp đợi chờ.

    Chỉ một phút sau khi cụm khói tím dâng cao thì trong vườn chuối, một chiếc T54 đã bắt đầu nổ và bốc khói.

    Tôi la lên: “Hoan hô! Hoan hô!”

    Thiếu úy Ðặng Thành Học cũng nhảy tưng tưng, phụ họa theo, “Hoan hô! Hoan hô!”

    Toán Viễn Thám 823 quả là giỏi! Thuộc bài quá!

    Trong thời gian còn ở Kiến-Ðức tôi đã bỏ công, bỏ sức ra nhiều ngày để huấn luyện cho một số chuyên viên, thực hành nhuần nhuyễn bài học đánh tank có một không hai này.

    Ai cũng biết, khi di chuyển trên đường trường, nhất là trên những đoạn độc đạo nguy hiểm, các đơn vị xe tank, dù của ta hay của địch đều phải giữ cự ly khá xa. Ðó là dịp may để ta có thể bắn hạ từng chiếc một.

    Trước hết, ta phải bắn chết tên xạ thủ 12.8 ly, nó là tai mắt của chiếc tank; tiếp theo là bung một quả lựu đạn khói, làm màn chắn che mắt cái tank bạn của nó ở cách nó không xa, không cho xạ thủ cây đại liên trên xe thứ hai có thể thấy mình mà bắn; sau cùng là bóp cò khẩu M72, nhắm ngay phần phun khói sau đít cái tank mục tiêu, đây là phần mỏng nhất, dễ bắn thủng nhất.


    (còn tiếp)

    Comment


    • #3
      Mặt trận Đông Nam – Xuân-Lộc 1975 (7 - Kết)

      Phần 7

      Ba công tác này phải được ba Viễn Thám Viên thực hành thật ăn khớp, nhịp nhàng. Thực hành mà trật nhịp thì cả toán Viễn Thám đó coi như khó mà thoát chết!

      Nơi bìa rừng đột nhiên biến động!

      Mặc cho chiếc tank cháy cản đường, những chiếc đi sau né sang một bên rồi tiếp tục tiến lên.

      Khẩu Bazoka khai hỏa! Thêm một chiếc T54 nữa đứt xích!

      Lúc này từ trong vòng đai phòng thủ của Chiến Ðoàn 43 cũng có nhiều họng súng nhắm vào đoàn T54. Lại thêm vài chiếc tank nữa bị hạ!

      Nhưng, đoàn chiến xa bỗng đồng loạt tạt về bên trái hướng tiến. Vì bị tường đất phòng thủ che khuất, nên các chiến sĩ trụ trên vòng đai không còn thấy những chiếc xe tank, họ không còn có thể tiếp tục yểm trợ trực tiếp cho chúng tôi nữa.

      Giờ này Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân bắt đầu lâm nguy! Hàng chục quả đạn 100 ly ào ào bay vào Trại 181 Pháo Binh và phi trường!

      Tôi la lên,

      – Anh em 1 mau vào núp sau các lô cốt! Còn tất cả anh em 2 và 3 men theo bờ rào rút ra đầu cầu!

      Ra tới ngoài rào, tôi cho quân dàn theo cái rãnh thoát nước từ phi trường xuống đầu cầu, người này bố trí sát cánh người kia.

      Bỗng đoàn chiến xa ngừng lại không tiến nữa. Chúng ẩn mình trong khu đồng tranh lòng chảo, nơi này nằm trong tử giác của những khẩu đại bác trong vòng rào của tỉnh.

      Có tiếng Thiếu úy Học gọi cho tôi rồi báo cáo,

      – Có mấy chiếc T54 bị bắn cháy đã được xe ủi đất của tụi nó kéo đi!

      Tôi đánh liều chạy vào quan sát tình hình, quả thực ngoài kia có vài cái máy cày hạng nặng đang ì ạch kéo đi những chiếc chiến xa đã bị thương.

      Tôi liên lạc được với Thiếu tá Nguyễn Văn Dư, Tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 3/43 Bộ Binh đóng trong vòng rào. Khẩu cối 81 ly của anh Dư đang rảnh, tôi yêu cầu anh bạn Dư bắn tập trung hai chục viên đạn nổ ngay nơi cửa rừng. Từ lúc đó cho tới chiều tối, không thấy chiến xa địch quay trở lại.

      Chiều 10 tháng Tư tiếng súng trong thành phố có chiều lắng dịu. Ðại tá tỉnh trưởng báo cho tôi hay rằng cái tháp chứa nước đã bị chiến xa của Thiết Ðoàn 5 Kỵ Binh bắn sập, tụi Việt-Cộng nằm trên bể nước chết hết rồi!

      Ông Tỉnh trưởng cũng thông báo cho tôi biết, từ tối 10 tháng Tư, Ðại Ðội Ðịa Phương Quân của Long-An sẽ được điều động vào trong hàng rào tiểu khu để bảo vệ tiểu khu.

      Ðại Ðội Ðịa Phương Quân của Long-An đi rồi, tôi không còn quân giữ nửa phần hướng Tây của phi trường, nên đành gọi Ðại Ðội Ðịa Phương Quân Bình-Long rút hết về đóng quân với tôi, phi đạo Xuân-Lộc đành bỏ trống.

      Rạng đông 11 tháng 4 năm 1975, khởi đầu ngày thứ ba của trận Xuân-Lộc, thành phố lại lãnh thêm một trận mưa pháo kích lâu chừng hơn một tiếng đồng hồ.

      Tôi không biết những khu vực khác tình hình ra sao, riêng mặt trận Ðông Nam thị xã thì phi đạo Xuân-Lộc đã hứng ít nhất là vài trăm viên đại bác. Phi trường này bị bỏ trống từ tối hôm trước, nên quân bạn không có ai bị thương.

      Lúc pháo binh địch vừa dứt thì khói tím bốc lên trong vườn chuối, thêm một T54 bị làm thịt. Hai toán chống tank của Ðại Ðội 3/82 đã ém quân chờ ở cửa rừng từ mờ sáng. Chiếc tank này đi riêng lẻ, có vẻ như đang bò ngu ngơ làm nhiệm vụ dò đường, nên chết liền tại chỗ.

      Trưa ngày 11 tháng Tư lại có khói tím bốc lên trong vườn chuối, nhưng không thấy khói đen bốc lên, không nghe tiếng đạn nổ “Bùng! Bùng! Lép! Bép!” do xe tank bị cháy, mà chỉ có tiếng đại liên 12.8 ly “Chóc! Chóc! Chóc! Chóc!” giòn giã vọng lại.

      Tôi lo lắng ngồi chờ hoài. Mãi tới xế chiều, một anh trưởng toán diệt tank của Ðại Ðội 3/82 mới về tới cái cổng sau của doanh trại.

      Anh binh nhì này tay trái ôm vai phải máu còn đang chảy, vừa nhăn nhó, vừa nói, “Toán 1 của em mới bắn được thằng Việt-Cộng giữ đại liên trên xe tank thứ nhất thì bị chiếc xe thứ hai phát giác. Hai thằng bạn của em chết liền, còn em bị đạn trúng vai. Toán 2 lên cứu tụi em thì chết hết rồi!”

      Có lẽ địch quân đã biết chiến thuật diệt tank của chúng tôi rồi, nên chúng đã tìm ra cách đối phó lại. Từ giờ đó, tôi không dám cho quân mạo hiểm vào khu vườn xoài, rừng chuối nữa.

      Cũng lúc này Ðại tá Lê Xuân Hiếu báo cho tôi hay, ông vừa ra lệnh cho khẩu đội hỏa tiễn TOW chạy ra giúp sức cho tôi ngăn tank của địch. Ở trong vòng rào và tường đất phòng thủ, họ không nhìn thấy những chiếc chiến xa này.

      Nghe nói có TOW tới trợ lực tôi mừng quá, vội leo ra khỏi cái rãnh thoát nước rồi đứng chờ.

      Chỉ mấy phút sau chiếc Jeep chở khẩu đội TOW xuất hiện.

      Ông chỉ huy khẩu đội TOW nón sắt, áo giáp dềnh dàng, chẳng biết cấp bậc gì, chậm rãi bước xuống xe.

      Tiếng ông sang sảng,

      – Chiến xa Việt-Cộng đâu? Các anh mau mau chỉ cho tui! Chiến xa Việt-Cộng …

      Ông ta chưa dứt câu thì, “Oành! Oành!” hai trái 100 ly của chiến xa Việt-Cộng đã bắn trúng một gian chứa máy bay L19, làm cho mái tôn bay tung toé, khói bốc mịt mù.

      Theo phản ứng tự nhiên, để giữ mạng, tôi và hai anh lính cận vệ nhảy ào xuống cái rãnh nước bên đường.

      Các ông xạ thủ hỏa tiễn TOW cũng bỏ xe mà nằm bẹp xuống mặt lộ để tránh bị văng miểng.

      Trái 100 ly thứ ba rơi trên phi đạo, quét một vệt lửa kéo dài cả chục thước rồi đốn ngã một gốc điều lộn hột.

      Một phút sau, thấy tình hình có vẻ yên, tôi ngóc đầu lên quan sát xung quanh, thì thấy mấy ông xạ thủ TOW đang vội vàng giành nhau leo lên xe.

      Thấy tôi đứng giương mắt ngó, ông khẩu đội trưởng bèn lớn tiếng phân bua,

      – Ở đây cũng không có xạ trường! Chúng tôi chẳng nhìn thấy gì cả!

      Lúc này tôi cũng nhận ra, ngoài miếng đất cao ở đầu cầu Gia Liêu thì không chỗ nào có thể đặt TOW được, nếu đem TOW ra đầu cầu thì khẩu đội này sẽ không được tường đất bảo vệ, chắc chắn sẽ bị tank tấn công. Tôi đành khoát tay cho phép khẩu đội TOW rời vị trí.

      Từ đó cho tới ngày trận Xuân-Lộc kết thúc, tôi không còn dịp tái ngộ khẩu TOW này nữa.

      Chuyện khẩu súng chống tank TOW ra đi không làm cho tôi lo lắng bằng tin vừa nhận được là cây Bazoka 82 ly Trung Cộng đã bị đại bác 100 ly bắn nát rồi!

      Chiều hôm đó Ðại tá Hiếu báo cho tôi hay, tin tình báo vừa ghi nhận có một đơn vị lớn của Cộng-Quân, không rõ phiên hiệu, mới được điều động tới vùng Ðông của xã Bảo-Ðịnh nằm trên Quốc lộ 1. Ông khuyên tôi nên lưu ý đề phòng. Sau đó, ông Ðại tá cũng hứa sẽ tìm cách kiếm thêm quân để gửi tăng viện cho tôi.


      Vợ chồng cựu Th/Tá Vương Mộng Long nhận nón kỷ niệm của Sư Đoàn 18 BB

      Tôi nghĩ rằng, nếu đêm nay địch đồng thời mở hai mũi giáp công chính Ðông và Ðông Nam thì tôi chỉ còn cách cho anh em, ai ở chỗ nào nằm chỗ đó mà tự vệ, vì không còn lực lượng nào trừ bị cả.

      Ðể có địa thế tương đối tốt có thể chống lại một cuộc tập kích từ hướng Nam, tôi cho quân căng hàng ngang từ bờ rào Trại 181 rồi cứ thế, kéo dài sát bờ Bắc suối Gia Liêu.

      Con suối này không sâu lắm, bên hướng Bắc là vườn điều lộn hột, bên hướng Nam là một vạt cỏ trống trải, sau vạt đất trống là vườn cây chôm chôm và măng cụt. Mãi sau này tôi mới nghe biết tên của vườn cây này là Ðồn Ðiền Thống Tướng Lê Văn Tỵ.

      Trời sập tối, tôi đang buồn vì chuyện năm anh lính diệt tank của Ðại Ðội 3/82 vừa chết mất xác thì Ðại Ðội 1/82 đã báo cáo rằng có tiếng chiến xa gầm rú vùng vườn chuối.

      Tôi cho Ðại Ðội 1/82 bỏ phòng tuyến, rút vào cố thủ trong các pháo đài, chỉ để hai toán diệt tank nằm ở đầu hẻm, nơi chiếc PT76 bị cháy.

      Ðồng thời, tôi liên lạc được với Ðại tá Hiếu, nhờ súng chống tank của Chiến Ðoàn 43 bắn tối đa vào khu vực này để ngăn địch.

      Không lâu sau, ông chiến đoàn trưởng báo cho tôi hay đoàn chiến xa địch đã di chuyển về vùng Tây Bắc, nơi này là khu vực trách nhiệm của Chiến Ðoàn 52 Bộ Binh. Nghe xong tin này, tôi mới thở phào nhẹ nhõm.

      Vào giờ đài BBC tiếng Việt bắt đầu phát tin thì Thiếu úy Phạm Văn Thủy Ðại đội trưởng Ðại Ðội 4/82 báo cáo rằng có nhiều ánh đèn pin lấp lóe trên hương lộ hướng Nam.

      Tôi ở với Ðại Ðội 2/82 của Chuẩn úy Gấm cách cuối sân bay chừng một trăm mét, trước mặt tôi là con suối, xung quanh là vườn điều, cây cao, nên không nhìn thấy gì.

      Tôi phải đem toán Viễn Thám của Mom Sol đi cùng tôi ra đầu cầu theo dõi tình hình. Rõ ràng bộ binh Việt-Cộng đang chuyển quân từ Ðông sang Tây.

      Những chớp loé của ánh đèn pin không di chuyển mà lại nằm cố định như những cột mốc đánh dấu cho quân Việt-Cộng đi theo một hướng.

      Tôi không có tiền sát viên pháo binh, muốn xin hỏa yểm phải gọi qua Chiến Ðoàn 43 Bộ Binh. Ðại tá Hiếu nói rằng, pháo binh trong vùng còn rất bận rộn, tôi không được ưu tiên vì chưa chạm địch.

      Tôi mở tần số của Hằng Minh thì được biết pháo binh ở Tân-Phong cũng không rảnh.

      Tôi mô tả tình hình địch cho Chuẩn tướng Ðảo, ông bảo tôi chờ sẽ có cách giúp đỡ. Mười phút sau tôi được tin sẽ có AC 119 cho tôi.

      Cả tiểu đoàn chẳng có cái đèn pin nào để làm tín hiệu cho máy bay. Cuối cùng, tôi nghĩ ra một cách là gỡ vách ván, cột gỗ từ cái nhà chứa L 19 ra đốt một đống lửa giữa sân bay nơi đầu phi đạo, rồi chỉ hướng cho AC 119 cứ hướng 180 độ, tầm xa một cây số mà tưới đạn.

      Chiếc AC 119 mới bay được một vòng, thả xong mấy trái hỏa châu và phun được một tràng đại bác 20 ly xuống vườn chôm chôm, măng cụt, thì từ hướng núi Chứa Chan phòng không 37 ly của Việt-Cộng bắt đầu khai hỏa.

      Thế là con rồng lửa AC 119 bỏ ngang nhiệm vụ yểm trợ cho Biệt Ðộng Quân, quay qua đánh nhau tay đôi với phòng không Bắc-Việt.

      Ðêm cuối tháng 2 Âm Lịch, bầu trời tối đen, chiếc máy bay lại tắt hết đèn cánh, đèn đuôi, nên chẳng biết nó đang ở chỗ nào. Ðùng một cái, nó tưới đạn, “Ồ! Ồ! Ồ!” trên rừng lá.

      Phòng không Việt-Cộng vội đổi hướng, “Bụp! Bụp! Bụp!” đại bác 37 ly nhắm mắt bắn theo đuôi những lằn lửa 20 ly của máy bay.

      Chiếc AC 119 có vẻ thắng thế, vì nó ở trên cao, nhìn xuống biết ngay địch thủ đang nằm chỗ nào. Còn giàn phóng 37 ly của Việt-Cộng nằm trong rừng, nên xoay trở đã khó, lại thêm tầm quan sát bị hạn chế nên hai bên đánh nhau được chừng mười lăm phút thì không còn thấy 37 ly hoạt động nữa.

      Chiếc AC 119 trở lại vùng, thả hỏa châu và bắn yểm trợ cho tôi chừng mười lăm phút nữa thì bay đi.

      Chiếc Khủng Long AC 119 rời vùng, nhưng tôi vẫn ngồi trên bờ suối, thức gần như trắng đêm.

      Ðâu ngờ mới mờ sáng ngày 12 tháng Tư, tôi vừa chợp mắt được vài phút đã nghe bên tai, tiếng súng tay nổ rền, đồng thời trong phi trường sau lưng tôi, là ánh chớp chói lòa của thủ pháo “Ùm! Ùm! Ùm!”

      Thì ra, có một mũi Ðặc-Công Việt-Cộng đã chui ra khỏi xóm nhà hướng Nam sân bay Xuân-Lộc. Chúng vừa chạy vòng vòng trên phi đạo, vừa ném bộc phá vào căn nhà vòm chứa vật dụng tu sửa và làm vườn không có người canh giữ.

      Tiếp đó, bọn này tràn qua đường băng, tung bộc phá vào dãy nhà chứa máy bay L19, khiến cho nhiều tấm vách và mái tôn bay tung.

      Chưa kịp bén mảng tới cửa trại 181 Pháo Binh, đám Ðặc-Công này đã bị các chiến sĩ Ðịa Phương Quân Bình-Long bắn chết hết.

      Ngay khi mặt trời vừa lên thì nơi khu rừng hướng Nam có tiếng súng lệnh: “Bép! Bép! Bép!” chen lẫn tiếng la hét, và bóng người thấp thoáng.

      Phút sau, tôi thấy bên kia suối, một toán bộ đội Việt-Cộng xuất hiện. Dạo này địch có vẻ thích đánh nhau ban ngày và đánh công khai!

      Trước mắt tôi, địch quân từng đợt hàng ngang tiến, trông chẳng khác một đơn vị bộ binh đang diễn tập trong quân trường!

      Việt-Cộng đánh nhau kiểu này thì chẳng khác gì nạp mạng cho Biệt Ðộng Quân!

      Bên kia suối, từng hàng người tiến lên thật nhịp nhàng. Những tên bộ đội Bắc-Việt quân phục màu xanh, nón cối cũng màu xanh, ôm súng ngang hông, sát vai nhau; có một điều quái lạ là chúng không bắn một viên đạn nào, cứ lừng lững tiến.

      Chẳng lẽ bọn này là những con người máy? Hay chúng là những hình nộm biết đi!

      Ðịch không bắn ta, nhưng ta vẫn phải bắn địch vì địch đang tiến lên, địch chỉ còn cách ta chưa đầy một trăm mét, ngay bên kia bờ suối!

      Vì đóng quân một hàng ngang, tuyến phòng ngự không có chiều sâu, nên tôi cũng chỉ là một khinh binh, với khẩu M16. Ðằng trước tôi không có ai, đằng sau tôi cũng không có ai.

      Hôm đó tôi bóp cò súng mà cảm thấy ngón tay mình hơi nhờn nhợn, không biết những sinh vật đang lừng lững xông tới để cho mình giết có phải là con người hay không!

      Sau này, lần đầu được xem phim “The Walking Dead” tôi vẫn tỉnh bơ, không thấy sợ, chỉ vì mấy chục năm trước, tôi đã tận mắt chứng kiến những thây ma đang sát cánh bên nhau, hàng hàng, lớp lớp, đi từ vườn cây Thống tướng Tỵ ra bờ suối Gia Liêu một ngày tháng Tư năm 1975 ở Xuân-Lộc.

      Ít hôm sau, qua cung từ của những tù binh, tôi mới biết lý do vì sao những người lính Bắc-Việt cứ ôm súng lừng lững đi lên mà không bắn; chỉ vì họ đã được học tập là vào Nam, họ không cần phải đánh nhau, chỉ cần xếp hàng mà tiến vào “tiếp thu” những phi trường, quận lỵ và thành phố mục tiêu.

      Sáng hôm đó, sau ba, bốn đợt tiến hàng ngang bị đốn ngã, đè lên nhau mà chết thì Cộng Quân có vẻ đã chùn bước.

      Thấy vậy, tôi cho anh em cứ nhắm mắt bóp cò, đuổi bọn chúng đi càng xa càng đỡ lo.

      Bắn địch bằng súng tay được chừng nửa giờ thì tôi được Hằng Minh đích thân thông báo rằng tôi sẽ có pháo binh yểm trợ tập trung.

      Tọa độ vừa gửi đi không lâu, thì cả một vùng cây cối sum sê bên kia suối bị đạn đủ loại đánh cho tan tành, tơi tả.

      Hằng Minh bay trên trời, hướng Tân-Phong, ông Tướng lớn tiếng thúc quân,

      – Ðánh cho tụi nó tà đầu nghe em!
      – Tôi nhận 5! Tụi nó tà đầu rồi!

      Pháo Binh tàn sát cái đồn điền xong thì mặt trận trở lại yên tĩnh.

      Tới mười giờ thì Ðại tá Chiến đoàn trưởng Chiến Ðoàn 43 tăng phái cho tôi một đại đội tác chiến trực thuộc Tiểu Ðoàn 3/43 Bộ Binh.

      Anh trung úy đại đội trưởng đại đội này là một sĩ quan hiện dịch tôi không nhớ tên, hình như chú ấy xuất thân khóa 24 Võ Bị (?).


      *****

      Phần 8

      Tôi giao cho đại đội bộ binh tăng phái đóng quân dọc theo khu nhà chứa máy bay L19, thay thế cho Ðại Ðội Ðịa Phương Quân Bình-Long. Ðại đội bộ binh này sẽ giữ vai trò trừ bị. Còn Ðại Ðội Ðịa Phương Quân Bình -Long chuyển sang trấn giữ đoạn đường từ bìa rào trại 181 Pháo Binh tới đầu cầu, bắt tay với Ðại Ðội 4/82.

      Giữa trưa bỗng có một chiếc tank T54 đơn độc đi cặp theo bờ đất phòng thủ của Xuân-Lộc rồi tiến vào vùng phục kích của Ðại Ðội 1/82. Chiếc tank bị bắn cháy ngay lập tức.

      Tôi đang ngồi ăn cơm thì nghe ông phóng viên nhà báo và Binh nhì Phan Thọ hí hửng gọi nhau rồi theo nhau nhanh chân chạy vào vòng rào Trại 181.

      Không lâu sau có tiếng phòng không 12.8 ly giòn giã phía ngoài xa. Rồi có tiếng Thiếu úy Học trong máy,

      – Trình Thái Sơn! Thằng Thọ bị thương lủng ruột, máu ra nhiều lắm!

      Binh nhì Phan Thọ thấy chiếc T54 nằm cách hàng rào không xa, nên rủ anh nhà báo ra đó để chụp cho nó cái hình kỷ niệm ghi lại cảnh nó hiên ngang đứng bên pháo tháp, chuẩn bị tháo khẩu đại liên đem về sân bay làm chiến lợi phẩm. Ðâu ngờ, chiếc tank thứ nhì vừa trờ tới, lập tức đạn đại liên vãi như mưa.

      Chỉ trúng có một viên đại liên thôi, Binh nhì Thọ đã bị vỡ bụng, lộn cổ xuống đất rồi. Anh chàng phóng viên vứt máy chụp hình bò lê bò càng, nằm nép sau lưng chiếc xe bị cháy để tránh đạn.

      Cũng may, lúc này pháo binh từ vòng đai kịp thời yểm trợ, bắn ào ào về hướng chiếc tank thứ hai khiến cho nó trở đầu chạy vào vườn chuối.

      Tôi phải cho đại đội bộ binh tăng phái mở rộng vòng đai an ninh để Ðại Ðội 1/82 yên tâm làm công tác tải thương và kéo thép gai vòng quanh chiếc T54 vừa cháy, không cho địch kéo nó đi.

      Tản thương xong, tôi cho Ðại Ðội 1/82 rút ra ngoài sân bay, đại đội bộ binh vào giữ trại Pháo Binh 181.

      Xế chiều địch mở một cú đột kích bằng hỏa lực, với đủ loại súng bắn thẳng từ trong bìa rừng nhắm vào bờ rào trại. Tiếp sau đó là một đợt tấn công bằng bộ binh.

      Mục tiêu của đợt tấn kích này là bờ rào chính Ðông của trại 181 Pháo Binh.

      Chắc chắn đơn vị Việt-Cộng có mặt chiều nay là thành phần của E 209 Sư Ðoàn 7, vì cách tiến sát và tác xạ không khác những cán binh đã xuất hiện ở đây ba ngày trước. Kỳ này địch không có chiến xa tham chiến.

      Lúc này hai phần ba quân số của tôi đã trải dài trên bờ Bắc con suối, nên tôi chỉ còn trông cậy vào những khẩu M16 của anh em Ðịa Phương Quân Bình-Long đang trấn giữ ngoài đầu cầu bắn tập trung về hướng Ðông Bắc để chi viện cho đại đội phòng thủ.

      Tôi cũng gọi được anh Thiếu tá Dư, và yêu cầu anh cho khẩu cối 81 ly yểm trợ tối đa cho tôi.

      Sau đó, không rõ do lệnh của ai mà trên đầu tôi có hai chiếc trực thăng võ trang xuất hiện rồi cứ vần vũ trên cao như có ý chờ.

      Hình như hai chiếc tàu này đang giữ nhiệm vụ hộ tống cho hợp đoàn trực thăng nào đó, nay bất ngờ được chuyển vùng để yểm trợ cho chúng tôi.

      Tới khi chiếc UH1 chỉ huy có mặt trên vùng thì tôi mới được người trên tàu gọi trong tần số của Chiến Ðoàn 43 Bộ Binh.

      Hỏa lực hùng hậu của hai chiếc trực thăng võ trang đã khiến mũi tấn kích của địch bị bẻ gãy ngay. Vì không thấy khẩu phòng không nào của địch ló dạng, nên tôi yêu cầu trực thăng vũ trang tiếp tục đánh dọc theo hướng địch rút chạy, xa về hướng Ðông. Không lâu sau thì tiếng súng im.

      Kết quả lần chạm súng này đã khiến cho đại đội bộ binh bị thiệt hại khá nặng, với năm người chết và hơn chục người khác bị thương. Công tác vận chuyển gần hai chục thương binh, tử sĩ ra khỏi vùng cũng tốn một thời gian khá lâu mới hoàn tất.

      Tới tối, Ðại tá Chiến đoàn trưởng Chiến Ðoàn 43 báo cho tôi một tin vui là Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù Việt-Nam Cộng-Hòa đã vào vùng để tiếp viện cho Xuân-Lộc. Ông cũng yêu cầu tôi cố gắng cầm cự, chịu đựng thêm vài ngày nữa, hy vọng tình hình sẽ sáng sủa hơn.

      Sáng 13 tháng Tư, nhiều cụm khói bốc lên trên vùng trời của xã Bảo-Ðịnh hướng Nam, cùng với tiếng nổ ì ầm của đại bác. Có lẽ giao tranh đã bắt đầu giữa quân Dù và đơn vị Việt-Cộng đã từng đánh nhau với tôi ngày trước đây.

      Tới trưa thì nhiều đợt máy bay F5 và A37 luân phiên nhau nhào lộn trên trời.

      Chiều 13 tháng Tư, trong tần số của Hằng Minh, tôi nghe được lời nhắn của Trung tá Nguyễn Văn Ðỉnh, Lữ đoàn trưởng Lữ Ðoàn 1 Dù,

      – “Nhí” yên chí giữ vững vị trí! Có anh vào tiếp tay với chú đây!

      Trung tá Nguyễn Văn Ðỉnh xuất thân khóa 15 Võ Bị, tôi tốt nghiệp khóa 20, anh Ðỉnh gọi tôi là “Nhí” cũng là đúng thôi!

      Bốn ngày nay, nguyên mặt trận hướng chính Ðông tôi chống đỡ đã khờ rồi, hai ngày vừa qua, tôi lại phải đối diện thêm một trung đoàn địch tiến đánh từ hướng Nam. Tôi nghĩ, không chóng thì chày Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân của tôi cũng tan hàng mất!

      Nay được tin có một lữ đoàn Dù vào tiếp viện tôi mừng quá!

      Những ngày kế đó, mặt chính Bắc và chính Ðông của tôi thật là yên tĩnh.

      Tôi đã cho người đi vào khu vườn chuối, tìm được xác năm người lính chết trong rừng vì xe tank mấy ngày trước.

      Ðại úy Hoàn nảy ra sáng kiến dùng lựu đạn khói màu vàng xịt trên thành chiếc PT76 và bốn chiếc T54 nằm sát hàng rào những giòng chữ “Tiểu Đoàn 82 BĐQ diệt tank”

      Sáng 14 tháng Tư năm 1975 Ðại tá Hiếu ra lệnh cho tôi phải chuẩn bị đón tiếp một phái đoàn nghị sĩ và dân biểu Quốc Hội từ Sài-Gòn sẽ tới thăm chiến sĩ tiền tuyến.

      Phái đoàn này dự trù sẽ tới quan sát những chiếc chiến xa bị Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân bắn cháy.

      Tôi cho Ðại Ðội 1/82 bung ra xa để giữ an ninh cho quý vị đại diện dân muốn có chứng tích chiến trường thì ra đứng chụp hình, chụp ảnh bên xác mấy chiếc chiến xa rồi đem về văn phòng mà treo.

      Tới trưa thì phái đoàn Quốc Hội tới cổng trại 181 Pháo Binh trên chiếc xe GMC mười bánh.

      Phái đoàn có bảy ông, ba bà, quần lượt, áo là thẳng nếp, lịch sự vô cùng.

      Tôi dẫn phái đoàn đi một vòng quanh bờ Bắc con suối để các ông bà đại diện dân thăm hỏi và trao những gói quà tượng trưng cho những anh em hiện diện.

      Phái đoàn còn đem cho chúng tôi một thùng sách báo Sài-Gòn. Chúng tôi lấy làm ngạc nhiên và thích thú khi thấy trên mặt báo Chính Luận, Trắng Ðen và Tiền Tuyến có in hình những chiếc T54 được các báo ghi chú rõ ràng là do Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân bắn cháy.

      Thì ra những hình ảnh này đã được chụp và gửi đi do anh phóng viên đang có mặt ngay bên cạnh tôi kể từ ngày 10 tháng Tư năm 1975. Ngày nào anh ta cũng thậm thụt đi về giữa sân bay và tòa hành chánh để nhờ xe của Tiểu Khu chuyển tin ra Tân Phong.

      Tin tức và hình ảnh từ Tân Phong sẽ bay về Sài-Gòn trên những chiếc trực thăng liên lạc, tiếp tế, tản thương. Ðôi khi tin tức còn được “quá giang” trên chiếc C&C của Chuẩn tướng Tư lệnh chiến trường.

      Thấy quý vị dân biểu, nghị sĩ có vẻ háo hức muốn đi xem những chiếc chiến xa T54 đã bị bắn cháy, nên tôi giao cho ông tiểu đoàn phó nhiệm vụ hướng dẫn họ ra ngoài rào để chụp ảnh.

      Vì con hẻm đã bị rào, khách quý đành phải khom lưng chui qua lỗ bò, lỗ dê mà ra.

      Có vài vị thượng khách sau khi chụp hình xong, còn nhanh tay túm được mấy cái vỏ đạn đồng của đại bác, tính đem về văn phòng cắm hoa cho đẹp.

      Trong khi chờ đợi quý vị dân biểu trở về, tôi đi một vòng quanh trại. Tới bên cái lô cốt hướng Ðông tôi giật mình khi bị một cháu bé bất thình lình níu tay,

      – Chú ơi! Chú ơi! Ba con đâu rồi? Ba con đâu rồi? Con đói quá chú ơi!

      Tôi cúi xuống nhìn mặt cháu bé, cháu gái cỡ chừng 5 hay 6 tuổi, mặt cháu xanh xao vì đói. Thấy cháu, tôi bỗng nhớ con tôi, đứa con gái đầu của tôi còn nhỏ hơn cháu gái này, tôi ôn tồn,

      – Ba cháu đi hành quân chưa về! Cháu đói lắm hả? Ðể chú lấy cơm cho cháu ăn nhé!

      Cháu bé dang hai tay ôm chân tôi rồi nức nở,

      – Con đói! Con đói! Chú ơi!

      Tôi bế cháu lên rồi thò đầu vào cửa lô cốt quan sát. Mùi hôi thối xông ra làm cho tôi nghẹt mũi. Có lẽ từ ngày đầu chiến trận, số gia đình binh sĩ trú ẩn trong cái pháo đài này đã không dám đi ra ngoài. Họ đã phóng uế ngay trên vị trí ăn ngủ của họ. Diện tích của cái lô cốt này chỉ chừng hơn một sải tay mỗi chiều mà chứa tới gần chục nhân mạng.

      Một chị vợ lính tóc tai bù xù, ló đầu ra cửa sụt sùi,

      – Thiếu tá ơi! Mấy ngày nay tụi em đói quá! Thiếu tá có gì cho mấy đứa bé ăn! Nếu không tụi nó chết mất!

      Tôi quay qua ra lệnh cho anh lính cận vệ,

      – Thằng Bích đem nồi cơm trưa của thầy trò mình ra chỗ nhà chứa L 19 chờ tao!


      Vợ chồng Th/Tá Vương Mộng Long & Th/Tướng Lê Minh Đảo (USA-2009)

      Cũng may là, trong thời gian qua Ðặc-Công của Việt-Cộng không nhắm vào cái trại 181 Pháo Binh bé tí này.

      Nếu chúng nó vào được đây thì chỉ cần một trái bộc phá ném qua lỗ châu mai thì gần chục nhân mạng nằm trong cái lô cốt hướng Ðông chắc chắn đã đi đời!

      Tôi vội vàng bảo các chị vợ lính thu xếp những thứ cần thiết rồi đem con cái ra sân bay chuẩn bị di tản.

      Nồi cơm trưa của ba thầy trò tôi chia không đủ một chén nhỏ cho mỗi thân nhân binh sĩ.

      Những đứa bé ăn xong bát cơm rồi mà miệng vẫn còn nhóp nhép, thòm thèm. Dù đã vét sạch mấy hộp thịt Quân Tiếp Vụ, các cháu vẫn còn le lưỡi cố liếm láp những cái vỏ hộp mà chẳng chịu vứt đi.

      Tôi ra lệnh cho ông tài xế sắp xếp chỗ cho ba bà vợ lính và mấy cháu nhỏ quá giang chiếc GMC này để về Tân-Phong lánh nạn.

      Ðoàn quan khách đi thăm chiến trường đã quay trở lại. Tôi thấy mặt mũi vị nào cũng hớn hở, tươi vui.

      Sẵn có ông phóng viên nhà báo đang ở đây, quý vị dân biểu, nghị sĩ đua nhau phát biểu những lời tuyên bố thật hùng hồn nhằm khích lệ tinh thần binh sĩ và trấn an dân chúng đô thành.

      Bỗng đâu, từ hướng Ðông, một trái 75 ly bay “Vèo!” qua đầu phái đoàn, rơi xuống cuối phi trường hướng Tây, rồi nổ một tiếng “Ùm!”

      Thế là quý vị đại diện cho dân miệng la chí chóe, chúi đầu xuống đất, nằm đè lên nhau ngay trên mặt lộ!

      Tôi hét,

      – Tất cả lên xe!

      Ông hạ sĩ tài xế lập tức nổ máy, bóp còi, “Te! Te! Te!”

      Bảy ông, ba bà dân biểu, nghị sĩ, vội vàng chen nhau leo lên xe, có người đánh rơi cả máy chụp hình và giày dép.

      Chiếc xe lao đi, trên mặt đất còn lại năm sáu cái vỏ đạn 100 ly bằng đồng nằm chỏng chơ.

      Quý vị dân cử mãi lo chụp ảnh, chụp hình, nên đã quên, không trao cho tôi số tiền mà Quốc Hội đã hứa thưởng cho mỗi chiếc chiến xa bắn được là 30 ngàn đồng một cái.

      Tính tới ngày 14 tháng Tư năm 1975, Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân đã bắn cháy và bắn hư hại trên một chục chiến xa địch, nhưng chúng tôi chỉ kiểm soát được sáu chiếc tank bị cháy ở gần vòng rào Trại 181 Pháo Binh.

      Mỗi chiến xa Việt-Cộng chỉ có một khẩu 12.8 ly thôi, do đó chúng tôi chỉ gỡ được 6 khẩu phòng không đem về trưng bày nơi đầu phi đạo. Như vậy là Quốc Hội đã nợ Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân 180 ngàn đồng!

      Nhưng ngày chúng tôi rút quân về tới Long-Bình, tôi chỉ nhận được 30 ngàn đồng tiền thưởng, gọi là tiền thưởng “tượng trưng”.

      Tôi đã giao cho ông Ðại đội trưởng Ðại Ðội Ðịa Phương Quân Bình-Long 7 ngàn đồng, số tiền còn lại tôi chia đều cho các đại đội của tôi, vừa đủ cho mỗi người mua một bao thuốc lá!

      Từ 15 tháng Tư tới 20 tháng Tư năm 1975 vùng trách nhiệm của tôi không có gì biến động lớn.

      Sau khi Lữ Ðoàn 1 Dù tái chiếm xã Bảo-Ðịnh, thì đơn vị tôi chỉ còn giữ vai trò của một cái đe, yên tâm án ngữ mặt Tây Bắc suối Gia Liêu để cho quân Dù giáng những nhát búa chí tử lên lực lượng địch đang đóng chốt trong đồn điền của Thống tướng Lê Văn Tỵ.

      Từ khi Lữ Ðoàn 1 Dù lâm trận thì ngày nào pháo binh của quân bạn cũng bắn liên tục vùng hướng Nam, rồi cứ thế tiến dần lên hướng Bắc.

      Khi Pháo binh và Không quân oanh kích gần tuyến phòng thủ của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân hơn thì Việt-Cộng bắt đầu thoát chạy ra bờ suối.

      Con suối không lớn lắm, và cũng không sâu lắm, nhưng những cán binh Bắc-Việt đã không thể vượt qua, vì nơi bờ bên này hàng chục khẩu súng của Biệt Ðộng Quân đã sẵn sàng.

      Những toán Việt-Cộng vượt thoát sau này đã biết bên bờ Bắc con suối có người, nên thay vì cắm đầu chạy thục mạng, chúng đã khôn hơn, biết cởi áo lót ra làm cờ trắng đầu hàng, rồi theo chân nhau từ từ bước tới.

      Những tên bộ đội Bắc-Việt còn rất trẻ, mặt không còn hột máu, mắt không dám nhìn lên mỗi khi tôi và anh phóng viên nhà báo có lời hỏi han. Tên tù binh nào khai cũng giống nhau:

      “Thưa Thủ trưởng, nhà cháu mới mười lăm. Nhà cháu là thanh niên xung phong, sau đổi thành tình nguyện quân đi giải phóng Miền Nam. Nhà cháu được học tập là vào Nam chỉ để tiếp thu, không cần đánh nhau! Nhà cháu sợ đánh nhau lắm!”

      Ðại khái, cung từ khai thác tù binh, ngoài tên tuổi, đơn vị và ngày xâm nhập của chúng, chúng tôi không còn biết gì hơn. Cũng may là thời gian canh giữ tù không lâu, chỉ vừa nghe chúng tôi thông báo, thì vài ba phút sau ông Tỉnh trưởng đã cho xe ra mang chúng đi rồi.

      Chúng tôi tiếp tục làm đe cho quân Dù làm búa, cho tới một hôm, pháo binh Dù “Xè! Xè! Oành! Oành!” nổ ngay trên tuyến phòng ngự của tôi!

      Gặp cảnh tản đạn này thì chỉ còn cách vắt giò lên cổ mà chạy, chần chờ gọi máy liên lạc được với quân bạn, chờ cho họ ngưng tác xạ, thì mình đã chết hết rồi!

      Tôi cho quân cấp tốc bỏ tuyến lui vào giữ sân bay.

      Bố trí xong, tôi quay đầu nhìn lại thì thấy sau lưng mình có vài người lạ đang đuổi theo. Hóa ra đó là một tốp Việt-Cộng bị pháo dội trên đầu, nên bỏ hàng ngũ mà chạy chết.

      Bọn này vứt súng, cùng nhau phóng về hướng Bắc, ào qua suối rồi theo chân Biệt Ðộng Quân! Tới đầu phi đạo thì bốn tên bộ đội Bắc-Việt vội vàng giơ hai tay lên trời đầu hàng!

      Ðợt pháo tập trung của quân Dù sáng hôm đó đã khiến cho Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân của tôi thiệt mất ba người chết, bốn bị thương!


      *****

      Kết

      Tuyến phòng ngự mới của chúng tôi bây giờ là cái mương thoát nước nằm sát đường băng của phi trường. Ở vị trí này chúng tôi không thấy gì bên kia suối, nhưng xạ trường và thị trường trước mặt thì rất trống, nếu có chỉ dấu gì mới của địch thì chúng tôi cũng phát hiện ngay.

      Cũng trong khoảng thời gian này, vào một buổi trưa, Ðại tá Chiến đoàn trưởng Chiến Ðoàn 43 gọi cho tôi, bắt tôi xác nhận đi, xác nhận lại, xem trên một tọa độ cách tôi 6 hay 7 cây số về hướng Bắc Ðông Bắc có quân bạn hay không? Tôi cứ một tiếng “Không!” mà trả lời.

      Sau đó tôi thấy trên trời có chiếc vận tải cơ C 130 bay vòng vòng trên cao, rồi một tiếng “Ùm!” âm vang.

      Hóa ra đó là một quả bom loại tối tân nhất đã được thả xuống chiến trường Long-Khánh.

      Mãi lâu lắm, sau chiến tranh tôi mới biết đó là một quả bom nhiệt hạch, có tên CBU 85 (?) hay CBU 82 (?) gì đó có tầm sát hại rất là khủng khiếp. Tôi cũng nghe nói trong thời gian này còn một quả bom cùng loại đã được thả xuống vùng hướng Tây của thị trấn Xuân-Lộc.

      Hình như hai quả bom đó đã dẫn chiến trận rẽ sang một khúc quanh. Ðịch quân bỏ Xuân-Lộc, đi vòng về hướng Tây để vây hãm thủ đô Sài-Gòn.

      Năm giờ sáng ngày 18 tháng Tư có tiếng chiến xa gầm rú ầm ầm ngoài xa hướng Bắc và hướng Ðông. Pháo binh từ Tân-Phong và Núi Thị đều bắn tập trung thành một tuyến rào cản sát vành đai thị trấn.

      Suốt ngày hôm đó chúng tôi chờ mãi không thấy xe tank địch tiến lên, không thấy chiến xa địch bắn một viên đạn nào. Tới chiều tối, đoàn chiến xa Việt-Cộng theo nhau rút đi mất.

      Ðêm 18 tháng Tư tôi nhận được tin kiểm thính cho biết, một tiểu đoàn Cộng-Sản đang bị quân Dù vây hãm trong đồn điền của Thống tướng Lê Văn Tỵ sẽ kéo cờ trắng đầu hàng.

      Tôi nghĩ đơn vị Việt-Cộng này đã bị lính của Lữ Ðoàn 1 Dù vây kín ba mặt Ðông, Tây và Nam, chỉ còn mặt Bắc là bỏ ngỏ, biết đâu chúng nó sẽ kéo nhau về hướng Bắc, là chỗ tôi đóng quân để đầu hàng thì cũng vất vả cho chúng tôi lắm! Chỉ có cái việc lo chuyện ăn, ở cho họ cũng đã đủ mệt rồi!

      Ai ngờ chiều 20 tháng Tư tôi được Ðại tá Lê Xuân Hiếu gọi vào Trung Tâm Hành Quân Chiến Ðoàn 43 để thông báo rằng, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vừa ra lệnh cho chúng tôi phải lập tức rút quân, bỏ rơi Long-Khánh!

      Tôi phải hoàn trả đại đội bộ binh tăng phái cho Thiếu tá Dư vì Tiểu Ðoàn 3/43 của anh Dư sẽ giữ vai trò tùng thiết cho Thiết Ðoàn 5 Kỵ Binh trong cuộc hành quân triệt thoái này.

      Tới giờ phút đó thì Ðại Ðội Ðịa Phương Quân Bình-Long không còn thống thuộc ai, vì thế đại đội này cứ theo chân đơn vị tôi như một thành phần của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân cho tới ngày về tới căn cứ Long-Bình.

      Tôi nhận được lệnh rút lui, mà trong lòng không khỏi ngỡ ngàng.

      Mười hai ngày qua chúng tôi đã chiến đấu quên mình để bảo vệ quê hương và bảo vệ danh dự của Quân- Ðội

      Trong chiến dịch Xuân-Lộc tháng Tư năm 1975 Cộng Quân có hai yếu tố quan trọng là “Thiên Thời” và “Địa Lợi” nhưng những người tử thủ Xuân-Lộc, lại có yếu tố quyết định sống còn, đó là “Nhân Hòa”

      Vì có yếu tố “Nhân Hòa” ngàn người như một, quyết chiến, quyết thắng, nên Quân- Lực Việt-Nam Cộng-Hòa đã đánh cho địch ngất ngư, đánh cho địch “tà đầu”.

      Tháng Tư năm 1975, chiến trường Xuân-Lộc đã là mồ chôn của quân xâm lăng!

      Rõ ràng chúng tôi đang là người chiến thắng!

      Vậy mà bỗng dưng chiều nay Tổng thống dọa cắt tiếp liệu, tiếp vận, không cho chúng tôi tiếp tục chiến đấu, bắt chúng tôi cấp tốc lui binh.

      Vì hai chữ “tử thủ” mà mới hôm qua, những người anh em của tôi còn đổ máu giành giựt từng thước đất với quân thù, tôi đã chôn họ dưới những cái huyệt moi vội vàng, sâu chưa tới đầu gối.

      Hôm nay, có khi xác của họ còn chưa kịp lạnh.

      Trong mười năm chinh chiến, tôi đã từng nhiều lần đóng vai trò của một người “tử thủ” từ một ngọn đồi không tên nơi biên giới Việt Miên, tới những cái tiền đồn mà địa danh của chúng đã được ghi vào quân sử như Ðức-Cơ, Pleime, bây giờ là Long-Khánh.

      Không biết ngày mai, sau Long-Khánh tôi sẽ còn phải “tử thủ” rồi lại phải bỏ rơi nơi nào nữa đây?

      Tôi có mặt ở Xuân-Lộc đúng nửa tháng, vậy mà hình thù, dáng dấp thị trấn này như thế nào tôi cũng không hay. Ngoài cái phi trường và vài đoạn đường ngắn quanh đó, tôi không biết gì hơn.

      Trước lúc ra lệnh cho quân vào đội hình di chuyển, tôi dẫn theo toán Viễn Thám của Mom Sol đi tới đầu phi đạo hướng Ðông để có đôi lời khấn nguyện cho linh hồn 12 chiến sĩ của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân đã ngủ yên trên chiến trường Xuân-Lộc sớm phiêu du nơi chốn Thiên Ðường.

      Ðoàn người bắt đầu rời vị trí, tới đầu con lộ đất, trong bóng đêm, tôi ngừng lại vài phút lặng nhìn con đường hẻm ẩn mình dưới vòm tre đen. Con đường hẻm này tôi đã ví như Lạc Phụng Ba của Phụng Sồ thời Tam Quốc.

      Nơi cuối con hẻm và trên đồng cỏ ngoài kia là xác những chiếc chiến xa Việt-Cộng đã bị bắn cháy nằm rải rác. Trên lưng mỗi chiến xa đó đều được sơn một giòng chữ bằng khói màu vàng “Tiểu Đoàn 82 BĐQ diệt tank”

      Sự hiện diện của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân trong trận Xuân-Lộc tháng Tư năm 1975 quả là một điều quá bất ngờ, ngoài dự liệu của Thiếu tướng Hoàng Cầm.

      Vì thế trên đoạn sạn đạo này, “Người giỏi đánh” và “Người giỏi giữ” đã tình cờ đối đầu nhau.

      Và trên con hẻm oan nghiệt ấy, danh tướng Hoàng Cầm của Bắc-Việt đã thành bại tướng.

      Phải chăng chuyện hội ngộ của hai người cầm quân ngày đó đã được thiên cơ tiên liệu, an bài?

      Ði qua cái nhà chứa máy bay đã tan tành, đổ nát, tôi thấy 2 chiếc L.19 vẫn còn nằm trong đó.

      Tới trước tòa tỉnh trưởng, Ðại tá Phạm Văn Phúc chạy ra cổng, nắm tay tôi và ngỏ lời muốn tháp tùng theo đoàn quân của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân, tôi đã chối từ.

      Tôi không cho ông Ðại tá Tỉnh trưởng đi theo, vì tôi đã được lệnh chỉ bảo vệ Chuẩn tướng Tư lệnh chiến trường và Ðại tá Chiến đoàn trưởng Chiến Ðoàn 43 thôi.

      Bốn mươi lăm năm sau, tôi vẫn chưa quên được hình ảnh thật là cảm động lúc chia tay, trong bóng tối, ông Ðại úy trưởng quầy hàng Quân Tiếp Vụ Tiểu Khu Long-Khánh đã hối hả chạy đi, chạy lại, giữa chiếc xe Dodge chở hàng và đoàn quân đang di chuyển để dúi vào tay những người lính vài gói mì ăn liền và vài bao thuốc lá.

      Không rõ sau ngày chiến tranh kết thúc, ông đại úy này có còn sống hay không?

      Trong cuộc lui binh rời bỏ Xuân -Lộc, Long-Khánh đêm 20 tháng 4 năm 1975, Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân đã hoàn thành nhiệm vụ được giao phó.

      Sáng 21 tháng 4 năm 1975 Chuẩn tướng Tư lệnh chiến trường và Ðại tá Chiến đoàn trưởng Chiến Ðoàn 43 đã được chúng tôi bảo vệ an toàn về tới Bình Ba, Phước-Tuy.

      Tôi cũng không thể ngờ rằng, vì tôi đã từ chối không cho ông Ðại tá Tỉnh trưởng Long-Khánh đi theo Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân mà chỉ vài tiếng đồng hồ sau thì Ðại tá Phạm Văn Phúc đã bị địch bắt sống khi ông đang trên đường lui binh.

      Ông tiểu đoàn phó của tôi là Ðại úy Ngũ Văn Hoàn vì bị đau chân nên không theo kịp đơn vị. Ông ta bị tụt lại đàng sau phải đi theo quân Dù. Tới tối ngày 21 tháng Tư ông Hoàn mới tới chỗ chúng tôi trú quân.

      Những anh lính người Nùng trong toán bảo vệ cho ông đại úy như Trung sĩ Nông Văn Tụi, Binh 1 Vi Văn Trung và toán Viễn Thám của Binh 1 Nguyễn Tuấn cũng không thấy về, không rõ họ đã bị thất lạc, hay họ đã chết trên đường Liên Tỉnh Lộ số 2.

      Ngày 21 tháng Tư năm 1975 Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức.

      Người lên thay ông Nguyễn Văn Thiệu là Phó tổng thống Trần Văn Hương đã hết lời ca ngợi chiến thắng Xuân-Lộc tháng Tư năm 1975.

      Sau khi nhậm chức, Tổng thống Hương đã ra quyết định thăng một cấp đặc cách tại mặt trận cho tất cả quân nhân có mặt ở Xuân-Lộc trong suốt thời gian dầu sôi lửa bỏng. Trận Xuân-Lộc đã trở thành chiến thắng oanh liệt sau cùng của Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa.

      Chiều 22 tháng 4 năm 1975 Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân về tới Long-Bình.

      Tôi được tin báo rằng hai Tiểu Ðoàn 63 và 81 Biệt Ðộng Quân dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Trần Ðình Ðàng đã được bốc về đây ngay sau khi bị Cộng Quân đẩy lui ra khỏi phi trường Phan-Thiết. Ngày đó đoàn trực thăng đi đón một Lữ Ðoàn Nhảy Dù ở mặt trận Phan Rang đã không liên lạc được với quân Dù nên phải về không, trên đường về họ đã xuống cứu đơn vị Biệt Ðộng Quân của Thiếu tá Ðàng.

      Những ngày cuối tháng Tư năm 1975, Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân nằm ứng chiến sẵn sàng trong căn cứ Long-Bình, trong khi người thủ đô Sài-Gòn cuống cuồng tìm đường đưa gia đình di tản.

      Giữ lời ước nguyện, anh em của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân đã không lìa bỏ nhau. Ngày 28 tháng Tư năm 1975 tôi dẫn quân vào vùng. Cho tới trưa 30 tháng Tư năm 1975 chúng tôi vẫn còn vững tay súng, sát cánh bên nhau, cùng nhau đi tới cuối đường để bảo vệ quê hương.

      Trong 48 giờ cuối cùng của cuộc chiến tranh Việt-Nam, hơn một trăm người anh em Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân của tôi đã phơi thây trên chiến địa.

      Trong số những anh hùng vị quốc bị nghiền nát dưới bánh xích chiến xa T54 của quân thù có Ðại úy Ngũ Văn Hoàn, Tiểu đoàn phó của tôi và Binh 1 Lê Văn Bích, người nấu cơm cho tôi.


      Trong cuộc chiến tranh này, tôi đã cố gắng hết sức mình để làm tròn nghĩa vụ một công dân Việt-Nam Cộng-Hòa. Là một người lính, tôi đã chiến đấu tới giờ phút cuối cùng để bảo vệ đất nước, bảo vệ danh dự Quân Ðội.

      Vì thế, suốt những năm dài bị giam giữ, tù đày, lúc nào đầu tôi cũng ngửng cao.

      Mười ba năm sau khi thua trận, tôi được tha về.

      Cám ơn Trời! Vợ con tôi vẫn còn là của tôi.

      Thời buổi ấy, kỷ niệm chiến chinh của dĩ vãng, hầu như đã quên; suốt ngày tôi chỉ lo chuyện cơm, áo, gạo, tiền.

      Thế rồi số phận đổi thay, tôi được nhận vào định cư ở Hoa-Kỳ theo diện H.O.

      Qua tới Mỹ, tôi có dịp gặp lại những người chỉ huy cũ của chiến trường Xuân-Lộc, Long-Khánh năm 1975 là Thiếu tướng Lê Minh Ðảo, Ðại tá Hứa Yến Lến, Ðại tá Lê Xuân Hiếu, Trung tá Nguyễn Văn Ðỉnh, và Thiếu tá Nguyễn Hữu Chế.

      Từ đây, tôi biết tin Trung tá Trần Văn Nô Thiết đoàn trưởng Thiết Ðoàn 5 Kỵ Binh đã qua đời vì bạo bệnh sau khi được tha về từ trại cải tạo.

      Tôi cũng nghe tin, chỉ một ngày sau lệnh buông súng đầu hàng, thì anh bạn của tôi là Thiếu tá Nguyễn Văn Dư, Tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 3/43 Bộ Binh đã bị Việt-Cộng tìm tới tận nhà, đánh gãy hai chân rồi đem đi thủ tiêu mất xác.

      Tướng Ðảo cũng cho chúng tôi hay, cựu Ðại tá Phạm Văn Phúc sau ngày ra tù thì tình nguyện ở lại Việt-Nam và đã qua đời.

      Ở Hoa-Kỳ, hiện thời cựu Trung tá Nguyễn Văn Ðỉnh đã phải ngồi xe lăn, đi đâu cũng cần người phụ giúp.

      Cựu Ðại tá Lê Xuân Hiếu và tôi thì chọn cuộc sống âm thầm, ẩn dật, chỉ giao thiệp với một số bạn bè giới hạn.

      Còn cựu Thiếu tướng Lê Minh Ðảo, Ðại tá Hứa Yến Lến, và Thiếu tá Nguyễn Hữu Chế lại thường xuyên xuất hiện trước công chúng, họp mặt với các hội đoàn.

      Tướng Ðảo hay nói với tôi và anh Hiếu câu này:

      “Mình là chứng nhân của lịch sử. Mình không kể lại, không nói ra, thì ai sẽ thay mặt cho mình đây?”

      Hằng năm, cứ tới gần ngày 30 tháng Tư, thì cựu Thiếu tướng Lê Minh Ðảo lại bận rộn với những buổi thuyết trình, họp báo.

      Nhân dịp này, đồng bào Việt Hải Ngoại lại được nghe Tướng Ðảo tường thuật lại diễn tiến từng ngày của chiến thắng lẫy lừng Xuân-Lộc năm xưa.

      Trong những buổi họp báo đó, thế nào Tướng Ðảo cũng nhắc tới Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân của Thiếu tá Vương Mộng Long như là một bất ngờ của trận đánh này.

      Có một lần, khi trả lời phỏng vấn, vị cựu Tư lệnh Sư Ðoàn 18 Bộ Binh đã cao hứng, khen Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân là một đơn vị có cung cách đánh giặc thật “Thần Sầu”.

      Tôi nghĩ rằng ở thế giới bên kia, linh hồn những người đàn em của tôi đã nằm xuống vì đất nước sẽ rất vui khi nghe được những lời tuyên dương của ông Tướng Tư lệnh Mặt Trận Long-Khánh.

      Với người khác thì Thiếu tướng Lê Minh Ðảo là “Tư Lệnh” là “Người hùng” vì Tướng Lê Minh Ðảo là linh hồn của chiến thắng Xuân-Lộc lẫy lừng. Thiếu tướng Lê Minh Ðảo là người ở tù cải tạo lâu năm nhất. Sang Mỹ, ông cũng là một chiến sĩ chống Cộng không mệt mỏi. Ông Lê Minh Ðảo còn là một thuyết khách, đồng thời là một nghệ sĩ tài hoa.

      Nhưng với riêng tôi, thì ông Ðảo lại là một người anh mà tôi thực lòng quý mến.

      Ngoài tình đồng môn Võ-Bị, tình chiến hữu, giữa tôi và Tướng Ðảo còn những kỷ niệm khó quên trong thời gian chúng tôi chung sống khi bị giam giữ tù đày ở Trại cải tạo Nam-Hà A, ngoài Bắc-Việt.

      Từ lâu rồi, ông Ðảo đã là “Anh Tư” của vợ chồng tôi.

      Theo thông lệ, hàng năm chúng tôi đều hẹn gặp Thiếu tướng Lê Minh Ðảo một lần ở tư gia của Ðại tá Lê Xuân Hiếu dưới Portland, Oregon, để tâm tình và thăm hỏi nhau.

      Mỗi khi gặp lại, tôi đều phải “báo cáo” với “Anh Tư” tình trạng hiện thời của cháu Tiên Giao, đứa con gái thứ ba của tôi, mà tên nó đã trở thành danh hiệu truyền tin của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân trong trận Xuân-Lộc tháng Tư năm 1975.

      Trong số một vài người mà tôi coi là thân thiết thì Anh Tư là người độc nhất biết tường tận từng bước trưởng thành của cháu Tiên Giao, từ khi nó bắt đầu vào đại học cho tới ngày nó trở thành một manager của một công ty lớn, rồi có gia đình, và có một cháu trai.

      Lần chúng tôi gặp nhau gần nhất là tháng 9 năm 2014.

      Từ năm 2015 chúng tôi không còn hội họp ở nhà anh Hiếu nữa, nhưng vẫn thường xuyên gọi điện thoại hỏi thăm nhau.

      Và mỗi năm, theo thói quen, cứ tới ngày đầu tháng Tư tôi vẫn không quên vấn an vị cựu Tư lệnh chiến trường Long-Khánh; lần nào tôi cũng được nghe ông cổ vũ:
      “Bây giờ em không còn súng! Nhưng em còn cây bút! Em cố gắng nói cho đồng bào mình, cho con em mình và thế hệ mai sau biết rằng, anh em ta đã đem hết sức mình để phục vụ quê hương, phục vụ đồng bào! Cố gắng nghe em!”

      Cuối tháng Ba năm 2020 trên vòm trời Bắc Mỹ có một vì sao rụng.

      Hằng Minh đã ra đi rồi!

      Thế là từ đây, con chim đầu đàn của chiến trường Xuân-Lộc, Long-Khánh tháng Tư năm 1975 mãi mãi xa bầy.

      Giờ này ở nơi thế giới mới xa thăm thẳm, Anh Tư có còn nghe được tiếng của em không?

      “Hằng Minh đây Tiên Giao gọi! Tháng Tư lại về rồi! Hằng Minh ơi!”

      Vương Mộng Long - K20
      Seattle tháng Tư năm 2020

      Comment


      • #4
        Bản đồ trận Xuân Lộc và đường rút quân của tđ 82 BĐQ

        [CENTER]



        Last edited by TH-72G; 08-21-2020, 07:03 PM.

        Comment


        • #5
          Cám ơn Anh Vương Mộng Long đã cho đọc một bài viết quá hay tường thuật lại sự chiến đấu can trường của QLVNCH trong những ngày tháng 4 cuối cùng chống giữ Xuân Lộc, TĐ 82 BĐQ đã bẻ gãy kế hoạch tấn công vào XL mà Tướng Hoàng Cầm đã nghiên cứu.

          Comment


          • #6
            Nguyên văn bởi Bao Vu View Post
            Cám ơn Anh Vương Mộng Long đã cho đọc một bài viết quá hay tường thuật lại sự chiến đấu can trường của QLVNCH trong những ngày tháng 4 cuối cùng chống giữ Xuân Lộc, TĐ 82 BĐQ đã bẻ gãy kế hoạch tấn công vào XL mà Tướng Hoàng Cầm đã nghiên cứu.
            Chào anh Bảo,
            Nhờ bạn Bảo chuyển lời thăm hỏi của Vương Mộng Long tới anh Nguyễn Phú Chính và các bạn PĐ 237 Trực Thăng.
            Ngày đó nhờ các bạn PĐ 237 giúp đỡ mà TĐ82 BĐQ chúng tôi có dịp góp mặt ở Xuân Lộc.
            Mến chúc các bạn PĐ 237 và gia quyến an khang.
            Vương Mộng Long

            Comment


            • #7
              Xin gửi đến niên trưởng Yaly 82 và bạn đọc HQPD bản đồ trường Bộ Binh Long Thành.

              Trong hồi ký Tháng Tư Lại Về, thiếu tá Vương Mộng Long viết:
              "... Ngày 28/4/1975 Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân được lệnh vào vùng hành quân phía sau lưng Trường Bộ Binh Long-Thành. Vì lệnh đến bất ngờ do đó 1/3 quân số đơn vị xuất trại về không kịp giờ di chuyển nên tiểu đoàn vào vùng với quân số 161 người, thiếu vắng Thiếu Úy Đặng Thành Học, người sĩ quan đại đội trưởng ưu tú nhất của tôi. Tiểu đoàn có nhiệm vụ ngăn chặn địch từ hướng bắc tiến về, đồng thời hỗ trợ cho một đơn vị bạn (?) tái chiếm trường Bộ Binh LongThành. Ngọn đồi chúng tôi phòng thủ là một cái tiền đồn cũ, có ba cái lô cốt nhỏ, không hầm hố địa đạo, không có hàng rào. Chúng tôi chỉ chất sơ sài những viên đá tổ ong thành một chiến lũy cấp thời. Tối hôm đó, từng đoàn xe vận tải của CSBV đã đổ hàng trăm bộ đội xuống khu rừng hướng bắc ngọn đồi trọc mà chúng tôi trấn giữ. Khoảng tám giờ tối, đoàn xe bật đèn rọi đường cho bộ binh theo sau T 54, dàn hàng ngang xung phong biển người vào tuyến phòng ngự của Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân."

              Xin hỏi: Trận tử chiến của TĐ82BĐQ tại đây diễn ra tại ngọn đồi nào? Đồi 53 hướng Đông Bắc của trường, hay đồi 60 bên cầu Sông Buông? Mong được giải đáp để tiện tham khảo sử liệu. Xin cám ơn niên trưởng.

              Tôi tin Tổ Quốc Việt Nam sẽ mãi mãi Ghi Ơn TĐ82BĐQ. Kính chúc Niên trưởng và gia quyến An Khang.

              (Con đường đất từ Long Đức đi về hướng Đông 20 km sẽ đến các nông trường cao su An Viễng và Ông Quế, nơi VC tập trung quân để đánh vào Dầu Giây trước đó.)






              Last edited by TH-72G; 08-28-2020, 12:38 PM.

              Comment


              • #8
                Nguyên văn bởi KiwiTeTua View Post
                Phần 7


                Từ 15 tháng Tư tới 20 tháng Tư năm 1975 vùng trách nhiệm của tôi không có gì biến động lớn.

                Sau khi Lữ Ðoàn 1 Dù tái chiếm xã Bảo-Ðịnh, thì đơn vị tôi chỉ còn giữ vai trò của một cái đe, yên tâm án ngữ mặt Tây Bắc suối Gia Liêu để cho quân Dù giáng những nhát búa chí tử lên lực lượng địch đang đóng chốt trong đồn điền của Thống tướng Lê Văn Tỵ.

                Từ khi Lữ Ðoàn 1 Dù lâm trận thì ngày nào pháo binh của quân bạn cũng bắn liên tục vùng hướng Nam, rồi cứ thế tiến dần lên hướng Bắc.


                Vương Mộng Long - K20
                Seattle tháng Tư năm 2020
                Sau 2 tuần biệt phái Cần Thơ, sáng ngày 19/4/1975 tôi cùng Th/úy Nguyễn Văn Chuyên cất cánh sớm để về bao vùng trên Xuân Lộc từ 08 giờ đến 11 giờ trưa và phi vụ buổi chiều bao vùng từ 14 giờ đến 17 giờ 30 phút. Lấy làm lạ cả 2 phi vụ sáng và chiều cả 2 chiếc phi cơ quan sát L-19 đều không thể tìm được mục tiêu ???
                Cuối cùng họ hướng dẫn chúng tôi thả bom xuống những bụi cây nghi ngờ nơi đóng quân của Cộng quân. Chúng tôi không biết phòng tuyến của quân bạn nơi nào. Rất tiếc không có dịp yểm trợ cho quân bạn.
                Cám ơn Niên Trưởng Vương Mộng Long đã giải tỏa thắc mắc nầy.
                Trân trọng,
                Philong51

                Comment


                • #9
                  Chào bạn TH-72G
                  Lâu nay tôi vẫn nhớ rằng, gần tối 28 tháng Tư năm 1975 thì TĐ82 BĐQ vượt qua một cây cầu gãy trên Sông Lá Buông rồi leo lên ngọn đồi hướng Nam của cây cầu này để đóng quân.
                  Bây giờ coi lại bản đồ, tôi nhận ra tọa độ chính xác của ngọn đồi này là YT 130060 có cao độ trên 60.
                  Thân ái,
                  VML

                  Comment


                  • #10
                    Nguyên văn bởi philong51 View Post
                    Sau 2 tuần biệt phái Cần Thơ, sáng ngày 19/4/1975 tôi cùng Th/úy Nguyễn Văn Chuyên cất cánh sớm để về bao vùng trên Xuân Lộc từ 08 giờ đến 11 giờ trưa và phi vụ buổi chiều bao vùng từ 14 giờ đến 17 giờ 30 phút. Lấy làm lạ cả 2 phi vụ sáng và chiều cả 2 chiếc phi cơ quan sát L-19 đều không thể tìm được mục tiêu ???
                    Cuối cùng họ hướng dẫn chúng tôi thả bom xuống những bụi cây nghi ngờ nơi đóng quân của Cộng quân. Chúng tôi không biết phòng tuyến của quân bạn nơi nào. Rất tiếc không có dịp yểm trợ cho quân bạn.
                    Cám ơn Niên Trưởng Vương Mộng Long đã giải tỏa thắc mắc nầy.
                    Trân trọng,
                    Philong51
                    Bạn Philong51 mến,
                    Ngày 19 tháng Tư tôi lo gỡ từng đoạn giây điện thoại để chuẩn bị trói một tiểu đoàn tù binh VC sắp đầu hàng (!) nên không theo dõi chuyện L 19 bao vùng.
                    Ngày 20 tháng Tư thì Tổng Thống ra lệnh cuốn lều, bỏ chạy!
                    Bạn có biết ông pilot L19 cất cánh từ Xuân Lộc, sau khi tôi bắn cháy chiếc PT76 của VC sáng 9/4/1975 nay còn sống không?
                    Bên Không Quân tôi có hai người bạn thân là Lê Ngọc Yên (Yên Khỉ) và Nguyễn Thành Dũng (Dũng Má Đào) , cả hai đứa bạn này của tôi đều đã qua đời.
                    Mến chúc bạn và gia đình an khang.
                    VML

                    Comment


                    • #11
                      Nguyên văn bởi Yaly 82 View Post
                      Bạn Philong51 mến,
                      Ngày 19 tháng Tư tôi lo gỡ từng đoạn giây điện thoại để chuẩn bị trói một tiểu đoàn tù binh VC sắp đầu hàng (!) nên không theo dõi chuyện L 19 bao vùng.
                      Ngày 20 tháng Tư thì Tổng Thống ra lệnh cuốn lều, bỏ chạy!
                      Bạn có biết ông pilot L19 cất cánh từ Xuân Lộc, sau khi tôi bắn cháy chiếc PT76 của VC sáng 9/4/1975 nay còn sống không?
                      Bên Không Quân tôi có hai người bạn thân là Lê Ngọc Yên (Yên Khỉ) và Nguyễn Thành Dũng (Dũng Má Đào) , cả hai đứa bạn này của tôi đều đã qua đời.
                      Mến chúc bạn và gia đình an khang.
                      VML
                      Thưa NT Vương Mông Long,
                      Rất tiếc tôi không biết người phi công bay L-19 mà anh nói. Tháng 7 năm 1972 khi biệt phái Phù Cát để giải tỏa 3 quận phía Bắc Bình Định, Th/Tá Lê Ngọc Yên PĐ 524 cùng chúng tôi (Biệt Đội 530) cùng ở chung 1 trailer, tôi rất kính mến anh.
                      Ngày xưa không có duyên hội ngộ với Niên Trưởng, chớ LĐ 2 Biệt Động Quân, 3 vị Tiểu Đoàn Trưởng : NT Mai, NT Hương và NT Xuân đều khắng khít với chúng tôi. Chúng tôi thường gặp nhau mỗi lần về hậu cứ ở Pleiku và chúng tôi có tần số giải tỏa để liên lạc với nhau khi cần. Thường nhất là Đ/U Trần Cao Chánh của TĐ 11 BĐQ và bây giờ cũng vậy 2 đứa vẫn thường gặp nhau.
                      Last edited by philong51; 08-29-2020, 04:39 PM.

                      Comment


                      • #12
                        Nguyên văn bởi philong51 View Post
                        Thưa NT Vương Mông Long,
                        Rất tiếc tôi không biết người phi công bay L-19 mà anh nói. Tháng 7 năm 1972 khi biệt phái Phù Cát để giải tỏa 3 quận phía Bắc Bình Định, Th/Tá Lê Ngọc Yên PĐ 524 cùng chúng tôi (Biệt Đội 530) cùng ở chung 1 trailer, tôi rất kính mến anh.
                        Ngày xưa không có duyên hội ngộ với Niên Trưởng, chớ LĐ 2 Biệt Động Quân, 3 vị Tiểu Đoàn Trưởng : NT Mai, NT Hương và NT Xuân đều khắng khít với chúng tôi. Chúng tôi thường gặp nhau mỗi lần về hậu cứ ở Pleiku và chúng tôi có tần số giải tỏa để liên lạc với nhau khi cần. Thường nhất là Đ/U Trần Cao Chánh của TĐ 11 BĐQ và bây giờ cũng vậy 2 đứa vẫn thường gặp nhau.
                        Cuối năm 1970 tôi không còn ở LĐ2 nữa, nhưng tôi rất quen biết các vị BĐQ mà bạn nêu tên. Hẹn gặp nhau nếu có dịp. Chúc bạn và gia quyến an khang.

                        Comment


                        • #13
                          Bên Không Quân tôi có hai người bạn thân là Lê Ngọc Yên (Yên Khỉ) và Nguyễn Thành Dũng (Dũng Má Đào) , cả hai đứa bạn này của tôi đều đã qua đời.
                          Mến chúc bạn và gia đình an khang.
                          VML[/QUOTE]
                          Kính NT Vương Mộng Long,
                          Sau khi ông John Paul Vann nhậm chức cố vấn QĐ II không lâu, ông áp lực Tr/Tướng Ngô Du truy tố Đ/Úy Nguyễn Hoàng Mai (cùng khóa 63 với các anh Lê Ngọc Yên và Nguyễn Thành Dũng) và Th/Úy Nguyễn Ngọc Hùng PĐ 530 (cấp bậc lúc bấy giờ, Tr/Úy Nguyễn Ngọc Hùng tử nạn tại triền đồi Chu Pao ngày 21/5/1972) ra Tòa Án Mặt Trận Quân Sự Vùng II về tội thả bom lầm làm tan rã 1 TĐ BĐQ Biên Phòng.
                          Có lẽ vì sau 13 năm tù đày và 2 lần biệt giam xuýt chết, Th/Tá Mai không thể nhớ tên của TĐ BĐQ Biên Phòng nầy cũng như địa danh xảy ra lúc đó (phía Bắc Dakto).
                          NT ở Vùng II lâu năm chắc NT vẫn nhớ tên của TĐ nầy ?
                          Kính chúc NT và gia đình nhiều sức khỏe.
                          Trân Trọng,
                          Philong51.

                          Comment


                          • #14
                            Nguyên văn bởi philong51 View Post
                            Bên Không Quân tôi có hai người bạn thân là Lê Ngọc Yên (Yên Khỉ) và Nguyễn Thành Dũng (Dũng Má Đào) , cả hai đứa bạn này của tôi đều đã qua đời.
                            Mến chúc bạn và gia đình an khang.
                            VML
                            Kính NT Vương Mộng Long,
                            Sau khi ông John Paul Vann nhậm chức cố vấn QĐ II không lâu, ông áp lực Tr/Tướng Ngô Du truy tố Đ/Úy Nguyễn Hoàng Mai (cùng khóa 63 với các anh Lê Ngọc Yên và Nguyễn Thành Dũng) và Th/Úy Nguyễn Ngọc Hùng PĐ 530 (cấp bậc lúc bấy giờ, Tr/Úy Nguyễn Ngọc Hùng tử nạn tại triền đồi Chu Pao ngày 21/5/1972) ra Tòa Án Mặt Trận Quân Sự Vùng II về tội thả bom lầm làm tan rã 1 TĐ BĐQ Biên Phòng.
                            Có lẽ vì sau 13 năm tù đày và 2 lần biệt giam xuýt chết, Th/Tá Mai không thể nhớ tên của TĐ BĐQ Biên Phòng nầy cũng như địa danh xảy ra lúc đó (phía Bắc Dakto).
                            NT ở Vùng II lâu năm chắc NT vẫn nhớ tên của TĐ nầy ?
                            Kính chúc NT và gia đình nhiều sức khỏe.
                            Trân Trọng,
                            Philong51.[/QUOTE]

                            Bạn Philong 51 mến,
                            Tôi không có mặt tại Vùng 2 từ đầu tháng 5 tới đầu tháng 8 năm 1972 nên không rõ chuyện gì đã xảy ra ở đây.
                            Thời gian này tôi theo học Khóa 3/72 Bộ Binh Cao Cấp.
                            Thân ái,
                            VML
                            Last edited by Yaly 82; 08-31-2020, 02:04 AM.

                            Comment



                            Hội Quán Phi Dũng ©
                            Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




                            website hit counter

                            Working...
                            X