Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Mỹ Tho Trong Miền Ký Ức

Collapse
X

Mỹ Tho Trong Miền Ký Ức

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Mỹ Tho Trong Miền Ký Ức

    Mỹ Tho Trong Miền Ký Ức
    Hồi ức một đời của Nguyên Trần

    1) Đường Đinh Bộ Lĩnh: chạy dài từ Ngả Tư Chợ Cũ tới dốc đầu Cầu Quây. Ngay Chợ Cũ có phòng mạch bác sĩ Ngô Văn Bỉnh, kế bên là nhà thuốc tây Bùi Khắc Từ. Đoạn giữa đường là rạp hát Viễn Trường ít chiếu phim Tây Phương, phần lớn là phim Tàu, Việt Nam và Ấn Độ. Rạp cũng thường cho mướn tổ chức đại nhạc hội, kịch ban Dân Nam, Túy Hồng… và các đoàn cải lương Thanh Minh, Dạ Lý Hương, Kim Chưởng…


    Rạp Viễn Trường

    Đối diện rạp Viễn Trường là tiệm chụp hình Lâm Tuấn của người đẹp Lâm thị Nhàn, và cũng là nhà của Trúc Giang. Xéo rạp Viễn Trường là trại hòm bà Bảy Nhiểu. Nghe mấy người láng giềng đồn rằng mỗi khi bị ế ẩm thì đêm tối bà xõa tóc vào ngồi trong chiếc hòm trống khấn vái thì hôm sao đắc hàng luôn. Không biết chuyện thiệt giả ra làm sao nhưng nghe kể cũng thấy ớn.

    Qua khỏi trại hòm là phòng mạch thầy Tư Giao chuyện về thuốc nam.
    Bên kia đường, xích lên trên một chút về phía rạp Viễn Trường là chùa Ông (Đức Quan Thánh) mà nhiều người Tàu cũng như Việt thường tới cúng bái và xin xăm Ông.

    Sát chùa Ông là dãy nhà 2 căn lầu mà một căn trong đó giáo sư Lý Công Chuẩn mướn mở lớp dạy Anh Văn còn căn kia là trường dạy đánh máy William Minh.

    Bỏ con hẻm cạnh bên là dãy phố trệt khoảng 10 căn đa số là cơ sở kinh doanh thương mại như: tiệm hớt tóc và quán cơm tấm bì Bảy Hạp, tiệm cầm đồ Bình Dân của gia đình Võ Ba, nhà may Mỹ Công, tạp hóa Trang Xuân, dépôt nước đá Huê Hưng. Trang Xuân là nhà của bạn Nguyễn Thế Xuân tốt nghiệp ban Sử Điạ Đại Học Sư Phạm, chồng chị Nhàn tiệm chụp hình Lâm Tuấn.
    Đối diện là nhà thuốc tây Trần Kiêm Loan do dược sĩ Loan là vợ của dược sĩ Bùi Khắc Từ (nhà thuốc tây Chợ Cũ) mướn phần trước của căn nhà lầu bác Chín Phụng. Kế đó là hảng xà bông Việt Nam.

    Đến đây thì chúng ta đã tới Ngã Tư Quốc Tế nổi tiếng rồi đó. Góc Tây Bắc của Ngã Tư là các các gánh cơm tấm bì, bánh canh, xôi trước mặt dãy phố của các tiệm thuốc bắc của người đẹp Hồ Phi Yến, kế đó là tiệm nước Nam Hoa nổi tiếng món banh bao xí mại, tiệm mì chú Ngầu (em chú Phánh) rồi tới biệt thự ông Huyện Hương, tiếp theo là hủ tiếu Phánh Ký ngon nhất nước, tiệm bi da banh bàn Ngọc Thạch rồi tiệm nước Hòa Thạnh.

    Bên kia đường tức là cạnh Nam đường Đinh Bộ Lĩnh có tiệm radio Mỹ Tuyến, hàn xì gió đá Tám Danh, nhà thuốc Hồ Duy Thiệt phòng mạch bác sĩ Võ Văn Cẩn mà ông ta không bỏ dấu nên có người gọi đùa là Vo Van Can. Sát vách là tiệm phở Đồng Thanh mà món bò kho xem như đệ nhất Mỹ Tho.

    2) Đường Trịnh Hoài Đức: đây là con đường cắt ngang đường Đinh Bộ Lĩnh mà sau này có cái tên là Ngã Tư Quốc Tế. “Ngay đầu Ngả Tư là nhà thuốc tây Trần Kiêm Loan cũng là tư gia của một người đẹp khuê các lầu hoa đã làm chết mê chết mệt bao chàng trai trong xóm. Điều đáng nói là tất cả cây si trồng quanh nhà nàng, không biết có phải do thổ nhưỡng xung khắc hay sao mà chẳng có cây nào lớn lên được, khiến sau cùng người đẹp bước xuống thuyền hoa vượt qua sông Bắc Mỹ Thuận lấy chồng Vĩnh Long bỏ lại sau lưng bao cây si ngẩn ngơ ủ rủ thật là tội nghiệp. Xéo mặt hông nhà thuốc tây là dãy phố bà sáu Đức trong đó có căn phố gia đình chị Đỗ Thanh Vân mướn. Chị Vân hiện định cư tại Đức thường viết truyện dưới bút hiệu Vinh Lan. Đối diện nhà chị Thanh Vân là nhà thuốc bắc Đồng An Đường của gia đình họ Chung. Xích vô trong một chút là xóm Chùa Chà của tôi tập họp đủ mọi thành phần xã hội thượng vàng hạ cám. Chạy tới gần cuối đường là đình Điều Hòa nơi thờ phượng linh thiêng mà rất đông người Mỹ Tho tới cúng bái cầu xin nhất là trong dịp lễ Kỳ Yên hằng năm.

    Nằm giữa đường Trịnh Hoài Đức là trường Tàu Tân Dân có đội bóng rổ nổi tiếng thường mời các đội bóng chuyên nghiệp Sài Gòn như Tinh Võ, Quảng Triệu xuống đấu giao hữu. Đặc biệt đội bóng rổ Tân Dân có một đấu thủ Việt Nam là anh Trần Văn Hồng Đức (đen) Đại úy chỉ huy trường trường Vũ Thuật và Thể Dục Quân Sự, nằm trong Trường Bộ Binh Thủ Đức. Anh Đức hiện còn ở Mỹ Tho.

    3) Đường Phan Thanh Giản: cắt ngang đường Đinh Bộ Lĩnh ngay dốc Cầu Quây. Con đường nầy chạy dọc theo bờ sông Bảo Định từ Vàm Tiền Giang tới đường Học Lạc. Nằm dọc theo bờ sông là các vựa cá và vựa trái cây để ghe thuyền ở khắp nơi đổ xô về bỏ mối. Vựa cá lớn nhất là vựa bác Tư Ngôn. Bác Tư là người vui tính lanh lợi, đặc biệt nhất là bác đặt tên mấy người con toàn là kiểu gây hấn như: Xô, Lấn, Trì, Đẩy, Níu, Kéo, Cản… mà trong đó Đẩy và Kéo là hai cầu thủ nối tiếng của đội Bưu Điện và Thương Cảng Sài Gòn.

    Đối diện là các dãy phố nhà ở xen kẻ các cơ sở thương mại như tiệm tương ông bang Cửng, tiệm tương Chí Mỹ, vựa củi và vật liệu xây cất Chí Nguyên… Gần ngả tư Đinh Bộ Lĩnh là trường Tàu Sùng Chính mà một số bạn lối xóm người Việt gốc Hoa của tôi theo học.

    4) Đường Trưng Trắc: Vừa qua khỏi Cầu Quây là đường Trưng Trắc. Đường nầy song song với đường Phan Thanh Giản nhưng ở phía bên kia bờ sông Bảo Định. Có thể nói đây là con đường buôn bán sầm uất nhất ở Mỹ Tho. Đường Trưng Trắc chạy dài từ đầu vàm Tiền Giang cho tới đường Nguyễn Trãi thì được nối liền bởi đường Alexandre de Rhôdes.
    Kể từ đầu Vàm (tiếp giáp đường Gia Long) tới tận đầu Cầu Quây nằm dọc theo bờ sông thì phải kể tới tất cả những kiosques bán đồ ăn thức uống giống như là một food court. Chắc các bạn vẫn còn nhớ những quán ăn uống nổi tiếng như mì xào A Lục, quán nhậu Trung Thành, kem Duyên Thắm, Anh Đào, cháo bồ dục Anh Chui, bò viên sâm bổ lượng Cầu Ký…

    Đối diện phía bên kia đường có nhà thuốc tây ông Phan, tiệm chụp hình Thiện Ký mà con rể sau nầy là hề Thanh Việt, tiệm may Văn Minh với nhiều design thật chic, tiệm nước Nam Sơn (chủ là chú 5 Vìn cũng ở xóm Chùa Chà) với tuyệt chiêu cá hầm vĩ, tiệm bánh Thuận Phát (chủ tiệm là chị Ba dâu nhà thuốc Đồng An Đường-Trịnh Hoài Đức), tiệm Đức Nguyên bán máy đuôi tôm máy cày, tiệm giày Bata, rạp chiếu bóng Định Tường, tiệm vàng Khương Hữu ngay ngả ba Trưng Trắc- Lý Thường Kiệt. Tiệm vàng nầy có cô cháu ngoại là người đẹp hoa khôi Mỹ Tho Huỳnh Thị Nguyệt Thu.


    Cầu Quây ngày nay


    Cầu Quây ngày xưa

    Xích lại gần Cầu Quây có khách sạn Minh Cảnh, tiệm chụp hình Thiện Lai, tiệm thuốc bắc Đức Sanh Đường, tiệm bánh Khương Lạc, lò bánh mì Khánh Chương. Khu vực nầy thời Pháp thuộc có một nhà hàng Tây dành cho người Pháp mang tên La Pagode mà lúc còn nhỏ bọn nhóc chúng tôi thường vào lượm…nút khoén các chai rượu đắc tiền để đánh bài cào bằng…nút khoén.

    Gần đầu Cầu Quây là Sở Bảo Thủ Điền Thổ sau đổi là Ty Điền Địa. Ngay dốc cầu có Phòng Thông Tin Mỹ Tho đầy đủ sách báo. Đặc biệt nhật báo được treo trên mấy cái giá thẳng đứng để người đọc có thể xem từ hai phía. Kế Phòng Thông Tin là nhà sách Mai Liên của hai người đẹp Mai Liên chuyên làm Hai Bà Trưng trong ngày lễ hai bà. Ngay trước nhà sách là hảng xe bus Cosara chạy đường Sài Gòn Mỹ Tho, nổi tiếng nhờ sạch sẽ khang trang và chạy rất đúng giờ hơn xe đò Á Đông, Ngọc Châu …nhiều. Vô trong phía chợ dãy bờ sông có nhà sách Lê Tạc của đại gia đình Công, Thành, Danh, Toại- Phỉ (cô 5 Phỉ), Chí, Nam (cô Bảy Nam, má kịch sĩ Kim Cương), Nhi; Bia (cô 9 Bia), Truyền, Tạc, Để (cậu Út Để, chồng nghệ sĩ Kim Hoàng). Đối diện là dãy phố buôn bán: tiệm kiếng Huê Việt, tiệm bazaar Mỹ Đạt Hàng, qua khỏi đường Lý Công Uẩn là tiệm thuốc bắc Tân Minh Tế, các tiệm tạp hóa Nam Sanh, Hiệp Hòa Sanh (gia đình ca sĩ Tuấn Anh), đối diện khu nầy là tiệm khô Mỹ Hường, quay bán thịt quay xá xíu rồi tới nhà lồng chợ cá, hàng rau cải…

    4) Đường Alexandre de Rhôdes: nối liền đường Trưng Trắc ngay khu bán rau cải chạy dọc theo rạch Bảo Định tới ngả ba Đài Chiến Sĩ đại lộ Hùng Vương. Hai bên đường nầy toàn la khu gia cư, đặc biệt trường trung học tư thục Trúc Giang của giáo sư Trúc Giang nằm bên dãy đối diện bờ rạch.

    5) Đường Lý Công Uẩn: bắt đầu từ tiệm bazaar Mỹ Đạt Hàng tới tiệm trà Ích Phong, rạp ciné Vĩnh Lợi (ngày xưa là rạp hát cải lương Thầy Năm Tú).


    Hí Viện Vĩnh Lợi

    Tiệm cơm chay Hòa Bình, nhà bảo sanh bác sĩ Trần Công Trực tới phòng răng nha công Trần văn Mạnh. Ngay phía đối diện là dãy phố trệt chạy dài tới đường Nguyễn Huệ là tiệm vàng Phước Tín, quán cháo vịt bên hông. Đối diện nhà bảo sanh bác sĩ Trực là gia đình Huỳnh Quang. Các anh Huỳnh Quang Tòng, Huỳnh Quang Huy, Huỳnh Quang Áng (học cùng thời với tôi) hiện ở tại thành phố Toronto, Canada.

    Tưởng cũng nên nói thêm là tiệm cơm chay Hòa Bình là của dì Hai Nhung, con của ông bác Đồng An Đường và là má của tụi con Oanh con Phụng ở xéo nhà tôi, thường ngồi chung xích lô đi học trường Cầu Bắc với tôi. Sau nầy Oanh Phụng đi tu trở thành cô Tố cô Sáng.

    6) Đường Nguyễn Huệ: chạy dài từ rạp Vĩnh Lợi tới ngả ba Alexandre De Rhôdes, mở đầu là tiệm bán vật liệu xây cất Hoa Lệ, tiệm vải Kim Điền đi dài tới tiệm bazaar Đức Thái, rồi Huỳnh Thái Dũ, tiệm nước Kỳ Hương, tiệm thuốc bắc Thọ Nam Đường mà chủ tiệm là dì Năm Binh của chị Ngà,chị Hoàng, con Cúc ổ lộ đá gần xóm tôi. Đối diện là nhà lồng chợ Mỹ Tho trong đó có rất nhiều sạp bán vải và quầy thức ăn mà nổi tiếng nhất là món bún gỏi và Bà Ba với lại bánh đậu bánh giá chị Huệ.

    Xích tới một chút là trụ sở xã Điều Hòa, một tòa nhà rộng lớn sau ngăn hơn 3/4 làm văn phòng tòa thị chánh Mỹ Tho. Đối diện có tiệm may Trung Thành của chú Ba Mạnh, ba thằng Mạnh học chung lớp tôi, và là cậu thằng Nguyễn văn Hường sau tốt nghiệp cao học Hành Chánh. Khi qua khỏi đường Châu văn Tiếp thì đường Nguyễn Huệ không còn là khu thương mại nữa mà chỉ là nhà cửa dân chúng như nhà Dì Ba lục sự, vợ ông lục sự Hường, nhà chị Bé Long học cùng thời với tôi, vài nhà của gia đình bên vợ ông commis Huấn phó tỉnh trưởng.

    7) Đường Thủ Khoa Huân: đường nầy chạy dài từ đầu cầy Quây tới đường ông bà Nguyễn Trung Long.

    Kế Phòng Thông Tin là nhà thuốc tây Ông Khánh là một trong hai nhà thuốc tây xưa nhất Mỹ Tho. Tiếp đến là tiệm Đức Đồng Lợi bán máy đuôi tôm và bôm nước. Gần đó là tiệm Thành Đạt chuyên bán các hiệu xe gắn máy như Puch, Goebel…và đồ phụ tùng.

    Tới góc ngả tư Lê Lợi là biệt thư lầu ty Quan Thuế. Phía đối diện có tiệm chụp hình Phong Lan, Cảnh Trung, nhà sách Đổ Quang, tiệm vàng Huỳnh Anh, phòng mạch bác sĩ Nguyễn Văn Bửu. Xéo góc Ty Quan Thuế là Sở Trước Bạ. Tưởng cũng nên nói thêm là tiệm chụp hình Cảnh Trung là tiệm chụp hình đẹp nhất thời bấy giờ.

    Bên kia đường, đối diện Sở Trước Bạ là dãy phố công chức trong đó có nhà thầy Bùi văn Mạnh, thầy Nguyễn văn Châu cả hai thầy cùng dạy Pháp Văn, thầy Đỗ Trung Ruyên, thầy Vũ Mộng Hà đều dạy Lý Hóa, thầy Nguyễn Cao Cảo dạy Toán.

    Thầy Mạnh đặt tên con toàn là Bùi Ngọc như Bùi Ngọc Quang là thầy dạy Pháp Văn của tôi, Bùi Ngọc Đường, Bùi Ngọc Điệp (bác sĩ còn hành nghề ở Cali), Bùi Ngọc Lan. Thầy Mạnh sau qua làm hiệu trưởng trường Trung Học Kiến Hòa.

    Lên phía trên một chút là nhà bảo sanh Mỹ Tho (sau đổi thành bệnh viện 3 dã chiến), xéo góc là nhà thương.

    Rồi sau đó, đường Thủ Khoa Huân chạy bên hông sân banh cho tới khu gia binh tiếp giáp đường Ô.B. Nguyễn Trung Long.

    8) Đường Lê Lợi: Có lẽ đây là con đường nên thơ nhất với hai hàng me đoạn Tòa Án và Phố Nóc Bằng nơi mà một thời chắc quý bạn đã từng đi bên cạnh người yêu với lá me rơi lất phất trên suối tóc huyền tha thướt.

    Xích lại gần ngã tư Lý Thường Kiệt có Ty Hiến Binh mà anh Lê Minh Bá (em thẩm phán Lê Minh Liên cựu tổng trưởng Giáo Dục) con bác giáo Mực, nhà ở đường Trịnh Hoài Đức ngay đầu hẻm Chùa Chà làm chỉ huy trưởng. Nhân nói tới anh Bá, chắc các bạn cùng lứa với tôi không quên vụ thảm sát (massacre) kinh hoàng giữa thâp niên 50 làm chấn động dư luận. Đó là chuyện chàng Trung sĩ Hải quân giang đoàn 21 đóng tại Mỹ Tho vì thất tình cô Marie nhà ở hảng xáng Cầu Bắc nên xách súng tới hạ sát chẳng những cô Marie mà còn bà mẹ và bà chị Odette của cô. Chị Odette là vị hôn thê của anh Bá nên khi đưa đám, chiếc xe tang được sắp xếp cho chạy trên đường Trịnh Hoài Đức ngang nhà anh Bá để hương linh chị Odette thăm nhà vị hôn phu lần cuối cùng.

    Xéo Ty Hiến Binh là dãy phố Nóc Bằng trong đó có nhà ông Vệ Giang có cô con gái là chị Jane, chị thằng Albert học chung với tôi. Chị Jane nổi tiếng là người đẹp và cao lớn. Có lẽ vì vậy nên chị chỉ giao du với các sĩ quan Pháp mà thôi.

    Băng qua đường Nguyễn Bỉnh Khiêm là Tòa Án Mỹ Tho mà đối diện là văn phòng luật sư Nguyễn Lâm Sanh và Trần Ngọc Liễng cũng như phòng mạch bác sĩ Trần văn Chuẩn. Hồi còn là đấng nhi đồng cứu quốc, tôi có xem Tòa Án Mỹ Tho xử anh Lê văn Hữu đâm chết người yêu và cũng là em cô cậu ruột là chị Hải Đường, hoa khôi Mỹ Tho thời bấy giờ. Mặc dù bà luật sư Nguyễn Phước Đại tận tình biện hộ nhưng anh Hữu vẫn bị kết án 25 năm tù. Ra Côn Đảo anh Hữu ở dinh tỉnh trưởng để phụ giảng cho hai con của Thiếu tá Lê Văn Thể, tỉnh trưởng Côn Sơn.

    Qua khỏi ngã tư Thủ Khoa Huân là phòng mạch bác sĩ Nguyễn Kiển Bá, nhà thuốc tây Lâm Danh Mộc, bác sĩ Nguyễn Kiển Mỹ Hương, phòng răng nha sĩ Nhan Văn Túc, nhà thuốc tây Dư Yên Trí. Dược sĩ Trí là con của giáo sư Dư văn An, dạy toán chúng tôi ở lớp Đệ Tứ.

    Trở lại con đường Lê Lợi, đi một đổi nữa là tới trụ sở xã Điều Hòa, đối diện trường trung học Nguyễn Đình Chiểu. Qua khỏi ngả tư Ngô Quyền là dãy phố nhà thầy Huỳnh văn Đồ thầy dạy học tôi lớp Tiếp Liên. Thầy có đứa con trai cùng lứa với tôi là Huỳnh Minh Đức nghe nói là tốt nghiệp HEC Paris (Haute Étude Commerciale). Xéo xuống phía dưới là biệt thự bác sĩ Nguyễn Kiển Bá, biệt thự quá rộng nên ông cho mấy cô giáo ở xa mướn. Cách đó lối 50m là trường Lễ Nghi học hiệu của ông đốc Cấp là thân phụ kỹ sư Dương Kích Nhưỡng, cựu tổng trưởng Công Chánh, kỹ sư Dương Mộng Ảo cựu tổng giám đốc Xi Măng Hà Tiên. Sát bên là trường tư thục tàu Quảng Triệu.

    Cũng nên nói thêm là đường Nguyễn Trãi đoạn ở gần đại lộ Hùng Vương thì hai bên đường có trồng nhiều cây xoài nên còn có tên là lộ Hàng Xoài. Vào cuối thập niên 60, ở cuối đường Nguyễn Trãi tiếp giáp với rạch Bảo Định, một cây cầu sắt được dựng lên nối liền luôn với đường đi chùa Vĩnh Tràng.

    9) Đường Châu văn Tiếp: con đường tuy ngắn nhưng là một trong những huyết mạch của tỉnh Mỹ Tho. Chỗ ngả ba Lê Lợi là mặt sau của trường trung học Nguyễn Đình Chiểu (thực ra ngày xưa là mặt trước khi trường còn mang tên Lycée Nguyễn Đình Chiểu), ở đầu kia tiếp giáp với đường Nguyễn Huệ. Nguyên cả mặt hông trụ sở xã Điều Hòa (sau chia một nữa cho thị chánh Mỹ Tho) chiếm trọn chiều dài con đường lối 150m.

    Đặc biệt tiệm phở Hy Lập của anh Tư Thẹo nằm trên đường Châu văn Tiếp gần góc đường Lê Lợi ngọn nổi tiếng không thua bất cứ tiệm phở nào ở Sài Gòn.

    10) Đường Trương Công Định: là con đường chạy ngang bệnh viện 3 dã chiến, nó chạy dài từ nhà xác (gọi tên khoa học là cơ thể học viện), nhà đèn, rồi băng ngang qua đường Thủ Khoa Huân là biệt thự bác sĩ Dũ ngay ngả tư, tới nhà các bạn Chánh, Hòa, Thảo, nhà Chiêu Hòa, Chiêu Thuận con thầy Bảy Chánh, nhà cô Tư Huê, thầy Đoàn văn Viễn, các chị Phụng Nga, Phụng Mỹ… đối diện bệnh viện 3 dã chiến. Tới ngả ba Nguyễn Bĩnh Khiêm là nhà bảo sanh tư bác sĩ Tải. Chạy qua khỏi Lý Thường Kiệt ngang hông sân tennis, hông ty Bưu Điện rồi chấm dứt ở ngả ba Gia Long.

    11) Đại lộ Hùng Vương: có thể gọi đây là con đường của tuổi yêu đương hò hẹn học trò vì hai trường nam Trung Học Nguyễn Đình Chiểu và nữ trung học Lê Ngọc Hân nằm hai bên của con đường ngay góc Ngô Quyền nên các nam thanh nữ tú dễ có cơ hội đá bóng với nhau lắm (phải vậy hôn mấy anh mấy chị đồng môn của tui?). Nhưng buồn thay đa phần các cuộc tình nầy đều không đi tới nơi tới chốn, trong đó có cả tui luôn nữa mới đau. Họa hoằng lắm mới có vài cặp chịu hát câu “ta về ta tắm ao ta” như Lê văn Trinh-Lê thị Hóa, Lê Trường Phước (em anh Lê Tài Sinh bác sĩ)-Nguyễn thị Hòa. Nhắc tới Lê Trường Phước mà không nói tới cái tài thổi sáo bằng hai bàn tay của anh chàng là cả một điều thiếu sót. Phước có biệt tài chụm hai bàn tay chung quanh miệng rồi không biết anh di chuyển thế nào mà phát ra âm thành thành bản nhạc như bản Hận Đồ Bàn của Xuân Tiên, Trở về của Châu Kỳ. Nếu ngày xưa tiếng sáo thiệt của Trương Chi làm nàng Mỵ Nương đau tương tư thì thời bấy giờ tiếng sáo miệng của Lê Trường Phước chắc cũng khiến cho lắm nàng Lê Ngọc Hân mê mệt chàng ta lắm đó nha. Từ đó Phước có biệt danh là “Phước thổi sáo” mà đúng ra phải là “Phước thổi tay”. Phước hiện giờ ở tại Mõ Cày Bến Tre.

    Trở lại đại lộ Hùng Vương thì con đường nầy chạy từ dinh tỉnh trưởng (ngả ba Lý Thường Kiệt) cho tới tận đài chiến chiến sĩ (ngả ba Alexandre de Rhodes. Xích lên một chút phía trái là doanh trại Phù Đổng Thiên Vương của binh chủng thiết giáp. Qua khỏi ngả tư Thủ Khoa Huân cũng phía trái là sân banh mà phía trước là Công Viên Dân Chủ. Đối diện là bệnh viện Mỹ Tho và Ty Y Tế. Tới ngả tư Lê Đại Hành là trường thiếu sinh quân, sau đổi thành trường Nam Tiểu Học.

    Kế bên Ty Tiểu Học là trường Lê Ngọc Hân và đối diện là trường Nguyễn đình Chiểu và các biệt thự lầu của các thầy Phạm văn Lược, Võ Quang Định, Huỳnh Đình Tràng, Trần văn Dinh, thầy Nguyễn Ngọc Quang …

    Qua khỏi ngã tư Nguyễn Trãi là nhà thờ chánh Tòa phía tay mặt và đối diện là Trường Thánh Giu-Se. Nhắc tới nhà thờ Chánh Tòa là tôi không bao giờ quên không khí rộn rịp vào lễ Giáng Sinh ngoài thánh lễ trang trọng còn là dịp bao trai thanh gái lịch Mỹ Tho công cũng như lương cùng “ xuống đường” tìm vui và tìm duyên.

    12) Đường Ngô Quyền: Có thể nói rằng con đường nầy là con đường của những nhà tai mắt Mỹ Tho. Đường nầy chạy dài từ rạch Bảo Định cho tới ngả ba Nguyễn Trung Long. Gần ngả tư Nguyễn Huệ là nhà thuốc tây Huỳnh Hữu Tạo. Qua khỏi ngả tư Lê Lợi phía mặt là sirôp Trương văn Hoài, chung quanh có nhà cô Huỳnh thị Trị, chị Nguyễn Khai và một số bạn tôi là tụi thằng Trần Thảo Lư, Nguyễn Minh Hiền (em bác sĩ Nguyễn Minh Tiên),Nguyễn Trọng Khâm (vô địch chạy bộ Mỹ Tho) và Ngô Ngọc Vĩnh cũng là đồng môn. Vĩnh một thời là hội trưởng hội NĐC-LNH Nam Cali. Tưởng cũng nên biết là cô Trị và chị Nguyễn Khai đều du học bên Mỹ và trở về dạy trường Lê Ngọc Hân.

    Gần đó, là dãy biệt thự trong đó có nhà thầy Võ văn Liễu, chồng cô Lê thị Hai hiệu trưởng Nữ Tiểu Học Mỹ Tho. Chị Võ Bạch Mai giáo sư Đệ Nhị Cấp là vợ của giáo sư Lê Hà Quảng Lan (con nhà văn Vita). Cạnh bên là ông commis Tùng (em thầy Liễu). Hai nhà nầy là hai đại gia Võ Ngọc và Võ Bá.

    Đối diện là dãy phố tư gia của thầy Đinh văn Của, thầy Trương Ngọc Sâm (ba của Trương Ngọc Khôi học chung lớp tôi).

    Qua khỏi ngả tư Hùng Vương, phía tay trái là trường Lê Ngọc Hân, phía tay mặt là chùa Phật Ân. Gần đó là nhà của thầy Giản cô Huỳnh, thân sinh anh Lâm Trí Chánh một thời là hội trưởng NĐC-LNH Âu Châu.

    Kế bên là một khu nhà thấp hơn mặt đường của trường Bá Nghệ và ty Canh Nông. Trong đó có các nhà của cô Bảy Tốt, cô Nữ chị của Chánh học chung với tôi, nhà cô Ba Trương là thân mẫu của chị Ánh Quách, Quách Tinh Cần (thủ khoa khoá 20 trường võ bị Đà Lạt), Quách Tinh Võ (cùng lớp Đệ Tam B10 với tôi), Quách Tinh Văn.

    13) Đường Gia Long: Nếu ai hỏi tôi con đường nào đẹp nhất Mỹ Tho, tôi sẽ không ngần ngại trả lời rằng đó là con đường Gia Long. Phải! Chỉ mỗi việc con đường chạy dọc theo sông Tiền Giang đã nói lên được điều nầy rồi.
    Khởi đầu từ Vườn Hoa Lạc Hồng là chỗ hẹn hò của bao cặp trai gái ngồi bên nhau trên chiếc ghế đá công viên nghe tiếng sóng vỗ rì rào trên bờ đá , hít thở làn gió hiu hiu dịu mát từ mặt nước sông Tiền Giang để cùng nhau mơ chuyện tương lai lứa đôi. Vườn Hoa Lạc Hồng ngày xưa là nhà ga xe lửa Sài Gòn Mỹ Tho, một phương tiện chuyển vận đã đóng góp phần lớn vào việc phát triển nền kinh tế tỉnh nhà. Từ đó có câu ca dao tình tứ như:

    "Chừng nào xe lửa Mỹ bung vành
    Tàu Tây lủng đáy anh mới đành xa em"


    Đối diện Vườn Hoa Lạc Hồng là nhà thuốc tây ông Phan là một trong hai nhà thuốc tây lâu đời nhất Mỹ Tho, kế bên là hotel Bungalow. Qua khỏi ngã ba Huyện Toại có nhà may Huy Hoàng của thằng Thành học chung tiểu học với tôi, Thành tuy còn nhỏ tuổi mà dữ dằn du côn lắm, tiệm cơm Viễn Đông. Cũng có hai ba phòng ngủ ở khu nầy mà tôi chỉ còn nhớ có một là Hạnh Huê. Qua khỏi dãy phố lầu nầy là Ty Ngân Khố, đối diện bên kia đường Lê Lợi là Ty Bưu Điện.

    Nhắc tới Ty Bưu Điện là tôi nhớ ngay tới anh Phạm Phú Lộc ở cùng xóm Trịnh Hoài Đức với tôi làm Trưởng ty Bưu Điện Mỹ Tho. Anh ở nhà vợ khu Chợ Cũ gần Bến Tắm Ngựa, thế nên mỗi ngày anh đón đò máy dưới Bình Đại lên để đi tới Vườn Hoa Lạc Hồng rồi đi bộ tới Ty Bưu Điện làm việc cả hai lượt đi về nên bạn bè gọi anh là ông Trưởng ty “đò máy”.

    Cách Ty Bưu Điện không xa là 3 biệt thự của quý ông Chánh Án, Biện Lý và Dự Thẩm Tòa Án Mỹ Tho. Điểm đáng nhớ của 3 ngôi biệt thự nầy là có rất nhiều cây hoa ngọc lan hương thơm bát ngát. Ngang qua một con đường nhỏ (mà tôi không thể nhớ tên) là dinh Tỉnh Trưởng. Đối diện là căn cứ Giang Đoàn 21 xung phong và công viên Cầu Tàu là chỗ tắm sông lý tưởng của dân Mỹ Tho.

    Kế Cầu Tàu là Ty Thanh Niên, khu cư xá công chức, Ty Công Chánh, Ty Cấp Thủy, Ty Thủy Nông. Đối diện là Tòa Hành Chánh tỉnh Định Tường mà phía sau là tư dinh Phó Tỉnh Trưởng.

    Đường Gia Long chấm dứt ở ngay ngã tư Nguyễn Trung Long thường được gọi là ngã tư Cầu Bắc mà trường tiểu học Cầu Bắc (nhà lá) tọa lạc ngay gốc Tây Bắc.

    14) Đường Ông Bà Nguyễn Trung Long: con đường nầy chạy dài từ Ngã Tư Cây Xăng tới tận cầu Bắc đi Rạch Miễu. Ngay ngã Ba Ngô Quyền là trường Bách Nghệ và Ty Canh Nông. Xuống tới Ngã Ba Lê Đại Hành là trường Nữ Tiểu Học.

    Tới Ngã Tư Lý Thường Kiệt là tư gia phu nhân cố Tổng Thống Thiệu (biệt thự thầy Năm Thưởng, xéo góc là nhà vãng lai tỉnh mà sát một bên là Ty Thuế Vụ rồi tới đường rầy xe lửa Sài Gòn-Mỹ Tho.

    Xích tới một chút khỏi nhà bà Thiệu là trường Tiểu Học Cầu Bắc hay còn gọi trường Nhà Lá thời xa xưa mà chắc các bạn không quên hai cây còng to lớn lá xanh um cùng với bông màu tím thẳm nằm hai bên sân trường.

    Qua khỏi ngã tư đường Gia Long một bên và Ngô Tùng Châu một bên (đường Ông Bà Nguyễn Trung Long chia cắt hai đường Gia Long và Ngô Tùng Châu) là Bến Bắc Mỹ Tho-Rạch Miễu mà hai bên có nhiều quán xá bán thức ăn.

    15) Đường Ngô Tùng Châu: là đường nối dài của đường Gia Long kể từ đường Ông Bà Nguyễn Trung Long chạy lên tận Vòng Nhỏ. Gần ngả tư Cầu Cầu Bắc về phía tay trái là hảng Xáng chuyên sửa chửa tàu bè, phía ngoài một chút là Lò Sát Sinh mà dân Mỹ Tho quen gọi là Phú De (Fourière).

    Khu vực Hảng Xáng ngày xưa đã xảy ra vụ thảm sát cô Marie mà tôi có dịp trình bày ở đoạn trên.

    Đối diện vùng nầy là Giếng Nước thứ hai. Giếng Nước thứ nhất nằm ngang Đất Thánh Tây chạy dài tới đường Nguyễn Tri Phương. Hai giếng nước được ngăn cách bỡi đường rầy xe lửa Sài Gòn Mỹ Tho (bấy giờ là đường Lý Thường Kiệt gần nhà ông thầy Năm Thưởng là nhạc phụ cố Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu).

    Đường Ngô Tùng Châu chạy dài tới ngả tư chợ Vòng Nhỏ ngang qua nhà các cô Chín Nhãn (chủ xe đò Ngọc Châu chạy đường Sài Gòn Mỹ Tho), cô Ba Đê, thầy Nhiêu dạy trường Tiểu Học Nhà Lá. Cũng có nhà dì Tám Lịch má của anh em Khải, Hoàn. Dì Tám Lịch là đồng nghiệp nữ hộ sinh với bà ngoại tôi tại bảo sanh viện Mỹ Tho (sau đổi thành bệnh viện 3 dã chiến).

    Điểm đặc biệt nhất của con đường Ngô Tùng Châu là hai bên đường có những cây phượng vĩ tuyệt đẹp.
    Đường Ngô Tùng Châu khi chạy qua khỏi Chợ Vòng Nhỏ gần tới Cầu Dầu là giang sơn của hãng nước mắm Cửu Long với hai chị em người đẹp mà nghe cái tên không cũng đã thấy "phê” lắm rồi, đó là Thương Hương và Tiếc Ngọc mà bạn Lê văn Cầu của tôi có may mắn là phu quân của chị Tiếc Ngọc.

    Dãy nhà bên trái là các nhà may Huy Hoàng, quán cơm Viễn Đông, khách sạn Hạnh Huê, Bungalow, nhà thuốc tây ông Phan ở cuối dãy.

    Thưa quý niên trưởng và các bạn,

    Từ nãy giờ, quý vị và các bạn đã cùng tôi trở về Mỹ Tho thân yêu qua hình ảnh sinh hoạt của một thời hoa mộng trên những con đường chính của thành phố, những con đường một thời đã in hình gót chân bay nhảy của tuổi thơ và thanh xuân nhưng chắc chắn rằng Mỹ Tho luôn luôn khắc ghi trong tâm tưởng những người đã gắn bó một phần đời hay cả đời với thành phố yêu dấu.

    Hy vọng qua bài viết nầy, quý vị và các bạn có được giây phút nhẹ nhàng thả hồn về một vùng trời quá khứ với chính hình bóng của mình.

    Nguyên Trần Nguyễn Tấn Phát

    https://vietbao.com/a303311/my-tho-trong-mien-ky-uc

  • #2
    Hủ Tiếu Mỹ Tho

    Hoài niệm về Mỹ-Tho

    Hủ Tiếu Mỹ Tho
    Huỳnh Quốc Minh (Tiểu-Minh ) - Germany

    Vào cuối thập niên 1950, bến xe đò đi các tỉnh khác còn ở tại chợ Mỹ Tho, bên hông xã Điều Hòa ngay cổng phía sau trường trung học Nguyễn Đình Chiểu. Bến xe chỉ đông người và náo nhiệt từ sáng sớm cho tới khoảng ba giờ chiều, chừng sáu giờ tối là hầu hết xe đò đều rời bến, chỉ còn neo lại vài chiếc lẻ tẻ vì nhà xa, nên lơ xe ban đêm phải ngủ giữ xe.

    Những tài xế ở Mỹ Tho thì đánh xe về nhà nghỉ, sáng sớm hôm sau chạy ra lấy tài. Bến xe buổi tối không vì thế mà vắng vẻ, đìu hiu, nhiều gánh hàng rong và xe hủ tiếu, nước đá, nước mía, xe bán cóc ổi, khô mực nướng ép đều quy tụ xung quanh khu vực này. Lâu lâu, Giáo hội Phật giáo thống nhất địa phương cho tổ chức vài đêm thuyết pháp tại đây và rất được đông đảo người dân Mỹ Tho hưởng ứng nồng nhiệt.

    Trên lề dọc theo hàng rào sắt xã Điều Hòa có những ki ốt (kiosque) buôn bán phục vụ cho khách đi đường, nhưng tôi chỉ thích nhất là quán phở Bắc mang bảng hiệu nhỏ treo lơ lửng rất khiêm nhường: Tư Phở ở gần góc đường Lê Lợi. Sở dĩ tôi biết quán này là do mấy chị tôi thỉnh thoảng buổi sáng dẫn tôi đến đây ăn. Quán phở này phải công nhận là ngon tuyệt và chỉ bán từ sáng sớm cho đến trưa.


    Sau này, vì nhu cầu xe cộ ngày càng nhiều hơn, nên bến xe được dời ra trên giếng nước một đỗi, nhường chỗ cho ngôi chợ hàng bông bán trái cây được xây cất lên. Lúc đầu, chị em tôi cũng thấy buồn buồn vì quán Tư Phở đã dẹp mất! Sau đó tôi phát hiện ra quán này là vì nhận dạng được ông chủ quán có cái thẹo to ở một bên thái dương, mà hầu như lúc nào tôi cũng thấy ông đứng chăm chú nấu phở trước cửa tiệm. Quán đã dời ra dãy phố lầu hai tầng vừa kiến thiết xong nằm ngay mặt lộ, đối diện bến xe mới.

    Trước đây, quán Tư Phở trông chật hẹp và xập xệ. Sau vài năm làm ăn khấm khá thì tiệm phở rộng rãi, khang trang và sạch sẽ nay được đổi tên lại là Hy Lạp với cái bảng hiệu to lớn chữ đỏ trông thật oai. Đúng ra thì tiệm phở phải dùng loại bánh phở bản to, ướt và mềm, nhưng phở Hy Lạp thì lại nấu với hủ tiếu Mỹ Tho ăn không chỗ nào chê được, nhất là nước xúp được pha chế có mùi thơm ngon hết sức đặc biệt mà không nơi nào sánh bằng, nên tiệm lúc nào cũng không chỉ có nhiều khách vãng lai, mà còn đông khách quen thuộc vào buổi sáng từ các khu phố khác trong thành phố đến ăn.

    Trên mỗi bàn bên trong lẫn vài bàn phía ngoài luôn bày sẵn những hũ nhỏ và dĩa đựng các thứ như nước mắm, tương ngọt, chanh, ớt hiểm, ớt sừng trâu xắt xéo mỏng, ngò gai, rau quế, giá sống, chanh, tăm xỉa răng. Đôi khi có những khách đang ăn ngon miệng lại kêu một chén mỡ gàu hay nạm, gân hoặc củ cải để ăn thêm một cách ngon lành, vừa ăn vừa xuýt xoa đổ mồ hôi bởi nước xúp nóng, ớt cay lẫn tiết trời nóng nực bên ngoài.

    Sau khi bến xe mới được thành lập, “giang sơn” của đoàn xe lô Minh Chánh chạy tuyến đường Sài Gòn - Mỹ Tho và ngược lại, được phân phối ở góc phải khi từ phía giếng nước vừa quẹn vào bến xe. Kế bên quầy bán vé có một xe hủ tiếu, mì và hoành thánh nơi này ăn chỉ được thôi chớ không ngon lắm! Nếu nói đến quán và xe hủ tiếu ở Mỹ Tho lúc bấy giờ thì mỗi một góc chợ, khu phố đều thấy nhan nhản. Nói chung là chỗ nào ăn cũng tương đối ngon hết!

    Tuy nhiên có một vài nơi ngon đặc biệt, ngon đến nổi vang danh khắp nơi để rồi trở thành danh từ rất quen thuốc là hủ tiếu Mỹ Tho mà mãi cho đến ngày nay, có nhiều tiệm ăn ở hải ngoại vẫn mượn “đầu heo” hủ tiếu Mỹ Tho để “nấu cháo” cho tô hủ tiếu của mình.

    Gia đình chú thím bà con của tôi ở bên kia sông gần xóm Đập Đá, đối diện với chợ cá trước năm 1975 là lò sản xuất hủ tiếu nổi tiếng lớn nhất Mỹ Tho. Hồi nhỏ, tôi thường qua chơi với mấy đứa con của chú thím, luôn tiện xem công nhân bên này nấu, vớt, phơi và cắt hủ tiếu bằng máy thấy cũng thích thú lắm! Mỗi lần đi về, thím đều lấy giấy báo gói cho tôi cả bao hủ tiếu mới ra lò, thân thương căn dặn là mang về để mẹ tôi xào cho cả nhà ăn.

    Đặc điểm của hủ tiếu Mỹ Tho là cọng nhỏ, khô, dai, hương vị hơi chua, mang nét đặc trưng không lẫn với hủ tiếu ở một nơi nào khác. Những quán hủ tiếu thật ngon ở Mỹ Tho kể ra không nhiều. Thường thì nơi nào bán hủ tiếu đều có kèm theo mì và hoành thánh. Bên cạnh đó còn có một xe nước đá để cho khách giải khát. Có khi khách ăn hủ tiếu với mì hoặc không ăn hủ tiếu mà chỉ ăn mì hay hoành thánh với mì. Nhưng dù sao thì hủ tiếu vẫn luôn được đại chúng ưa chuộng nhiều hơn! Hoành thánh được xem là ngon, ngoài da bao phải mỏng và dòn, thịt nạc bằm bọc bên trong ướp cho thơm cần trộn thêm ít mỡ, nếu có pha lẫn thêm thịt cua nữa thì ăn khỏi chê!

    Mì ngon có tiếng lâu đời ở Mỹ Tho phải kể là tiệm Phánh Ký, gần bốt cảnh sát đầu cầu quay phía bên Chợ Cũ. Sợi mì vàng óng lớn và nhỏ hai loại do chính chủ nhân làm, ăn phải nói là “hết xẩy”! Lúc nhỏ, khi tôi còn học chữ Tàu ở trường tiểu học Sùng Chánh gần đó, ông hiệu trưởng rất mê mì của tiệm Phánh Ký. Tôi là học trò cưng nên thỉnh thoảng “được” ông sai cầm tô sang Phánh Ký mua mì và gói thuốc Bastos bao xanh ở tủ kiếng thuốc hút của người bán lẻ trước tiệm.

    Mỹ Tho có mì Phánh Ký, còn bên Cần Thơ, đối diện với rạp hát Minh Châu thì có mì tiệm Khung Ký cũng “oanh liệt” ở miền Tây Đô. Thời gian trong quân đội, có dạo tôi thuyên chuyển về đây nên đã “làm quen” với khá nhiều tiệm ăn. Ngoài quán nhậu đặc sản nổi danh Vĩnh Ký ở cuối đường Phan Đình Phùng, tôi chỉ chấm có mì Khung Ký mà thôi!

    Sau này kế tiệm hủ tiếu mì Phánh Ký phía trong lề đường, có xe hủ tiếu của chú Phúc cũng “nổi đình, nổi đám” không kém nhờ hủ tiếu có đặc điểm là sườn chéo chặt ra từng khúc nhỏ, tôm khô được cháy với mỡ rất dòn và thật thơm ngon.

    Song song đó, đấu mặt với hiệu Phánh Ký còn có tiệm phở, hủ tiếu bò kho Đồng Thanh nấu ăn cũng khá và rất đông khách. Từ khi có hai “đại hiệp” này xuất hiện, tiệm mì Phánh Ký ế khách thấy rõ. Tuy nhiên, tiệm này “sống được” là nhờ còn nhiều khách trung thành vẫn chưa quên được cọng mì dòn khá ngon tại đây.

    Con gái ông chủ tiệm, chị Huỳnh Hảo là bạn học chung luyện thi lớp đệ thất với tôi ở trường Hùng Vương vào năm 1961. Dáng chị đô con và mặt tròn, mới nhìn biết ngay là “A Muối”, thường bị các bạn trai chọc ghẹo là “xì dầu”. Nhưng tánh chị rất hiền hòa nên không giận mà chỉ cười hè hè thôi. Tôi cũng là người Hoa, nhưng nhờ ăn… nước mắm nhiều, nên nói tiếng Việt rành và viết chính tả khá hơn nên không bị các bạn phát hiện.

    Bên phải xe hủ tiếu của chú Phúc là tiệm nước lớn Nam Hoa lâu đời có bán mì, hủ tiếu, dimsum như: bánh bao, há cảo, xíu mại, v.v. Tiệm này hầu như mỗi buổi sáng đều đông khách quen thuộc, ngồi tập trung thành từng nhóm nhỏ uống cà phê đầy những bàn bày ra tới phía trước cửa để tán gẫu, bàn chuyện làm ăn, áp phe, đoán số đề, cá độ đá gà hay hút thuốc nhìn xe cộ dập dìu qua lại. Họ rất lớn tiếng và xem thiên hạ xung quanh như không có, thỉnh thoảng lại còn chửi thề và cãi vã nữa! Bởi thế, giới dân chơi Mỹ Tho đặt tên cho ngã tư gần đó là “Ngã tư Quốc tế”, vì nơi đây thường tập trung nhiều thành phần xã hội phức tạp, nhất là khi trời về đêm.

    Ở ngoài dãy bar bờ sông đường Trưng Trắc đối diện xéo với tiệm kem Mỹ Duyên thì có quán hủ tiếu Xường “đóng đô”. Quán này thật ra chỉ “có tiếng mà không có miếng” của giới trẻ người Hoa thường đi chơi ban đêm đói bụng tụ tập đến ăn uống, trong đó có tôi, chớ dân ăn mì, hủ tiếu sành điệu ít khi tới đây.

    Còn trong lãnh địa chợ hàng bông, ngoài tiệm nước bán cà phê, hủ tiếu ở góc đường phía cổng sau trường Nguyễn Đình Chiểu không đáng kể, thì ở khoảng giữa dãy phố có tiệm bán hủ tiếu rất nổi tiếng Hưng Ký của ông chú và bà thím tôi. Tiệm này buổi sáng luôn có đầy khách ngồi ra tới những bàn bên ngoài. Nhiều người đến ăn đôi khi sốt ruột phải đứng nhìn đồng hồ đeo tay mà đợi bàn trống.


    Chiếc xe nấu được đặt ngang phía trái tại cửa ra vào. Nước lèo ở đây nấu thơm ngọt rất đặc biệt không nơi nào ngon hơn. Một tô hủ tiếu hay mì trước khi bưng ra cho khách, đều được múc chừng một phần ba vá to thịt nạc bằm ướp rất ngon vào một cái tô cạn đáy, sau đó gần một vá đầy nước lèo thật nóng đã nấu bằng xương heo, khô mực, tôm khô được cho vào tô rồi dùng và đập nhè nhẹ để thịt bằm rời ra và vừa chín tới ăn mới ngọt, liền sau đó đổ ngay vào tô hủ tiếu đã làm sẵn phủ đầy trên mặt nào phèo, tôm khô chấy, tóp mỡ, gan heo, thịt xá xíu xắt mỏng, ngò Tây, hành lá, cải bắc thảo. Giá một tô hủ tiếu và mì ở tiệm này đắt hơn các nơi khác một ít, nhưng vẫn luôn được đông người đến ăn. Thực khách của tiệm này đa số là giới thương gia và công chức.

    Ngoài ra, ở gần đầu ngả tư bùng binh đường Trần Quốc Tuấn đi vô lò heo, bên phải có một quán hủ tiếu xương rất lè phè của chú Tiều khá ngon. Đối diện với quán này lại có một tiệm phở Bắc nấu ăn cũng khỏi chê! Nghe đâu ông chủ quán là em của chú Tư tiệm phở nổi tiếng Hy Lạp thì phải. Cũng như Hy Lạp, tiệm này bắt đầu khoảng từ 6 giờ chiều là bán lai rai cho đến tối. Nhưng thực sự thì nồi nước xúp to tướng vừa nấu xong buổi chiều là để chuẩn bị bán cho sáng ngày hôm sau. Rất tiếc hai tiệm này không có thời nên ít được người ta biết đến.

    Về sau, ngoài ngã ba Trung Lương mở quán hủ tiếu tôm và cật heo ăn cũng có mùi vị đặc biệt lắm! nhưng vì địa điểm hơi xa thành phố nên dân Mỹ Tho ít khi ra tới đây, quán chỉ bán được nhiều cho khách đi xe đò tuyến đường Sài Gòn và miền lục tỉnh dừng chân nghỉ mệt mà thôi.

    Gia đình tôi khi xưa buôn bán tại chợ Mỹ Tho, phía trước cửa tiệm của ba mẹ tôi có đến hai xe hủ tiếu và hai xe nước đá xếp hàng ngang xen kẽ với nhau. Xe hủ tiếu trước tiệm là của vợ chồng chú Ngầu được đẩy từ nhà đến vào ba giờ sáng khi chợ bắt đầu nhóm. Trong lúc chú bày trí, sắp xếp các thứ trừ trong xe ra thì vợ chú đi vô nhà lồng chợ gần đó mua thịt và xương heo. Liền sau đó, xương được nấu với khô mực và tôm khô trong một cái nồi khổng lồ với lửa than chầm chậm cho đến khoảng bảy giờ là bắt đầu bán.

    Hầu hết khách đến ăn là thành phần lao động buôn gánh bán bưng và người đi chợ. Khách quen của chú Ngầu rất đông, những người đàn ông vác mướn tại chợ hầu như ngày nào cũng đều ghé ăn, nhưng họ không ăn bình thường như người ta, mà mua nửa ký hủ tiếu mang lại nấu thành một tô lớn đầy vun và ăn một cách ngon lành. Sau đó còn kêu thêm một tô xí quách với vài con khô mực thơm phức, được vớt ra từ thùng nước lèo nóng hồi, rồi chấm vào nước tương hiệu hai con chuột để nhậu với một xị rượu đế.

    Cũng nên nói thêm về hai chữ “xí quách” mà người ta thường nghe nói là nguồn gốc của tiếng Quảng Đông, có nghĩa là xương heo dùng để nấu nước lèo hủ tiếu, người Việt Nam ăn thấy ngon nên nói theo không đúng giọng mà lệch đi thành “xí quách”. Tiếng hủ tiếu cũng do âm từ lơ lớ tiếng Hoa mà ra.

    Trước năm 1975, tôi rất thích “ngao du sơn thủy” và đi chơi gần hết các tỉnh thành miền Nam. Ở miền Trung thì tôi chưa thấy, nhưng nơi thành phố sương mù Đà Lạt có bảng hiệu Hủ Tiếu Mỹ Tho. Là người lữ khách đến từ sông Tiền hiền hòa, tôi cảm thấy rất thân thương với bốn chữ quá quen thuộc này, nơi xứ lạnh hoa anh đào mộng mơ nên liền vào tiệm ủng hộ ngay, nhưng…

    Ở Sài Gòn, tiệm bán hủ tiếu và phở dĩ nhiên là nhiều đếm không hết, nhưng chỉ có một số tiệm có tiếng được người ta biết đến, chẳng hạn như trên con đường Huỳnh Thúc Kháng có tiệm mang tên Hủ Tiếu Mỹ Tho, nhưng ăn chỉ thấy mùi… không khí nhộn nhịp của Sài Gòn. Trên con đường lớn Võ Tánh số nhà 79, có tiệm phở mang bảng hiệu số 79 thật to ăn cũng khá, nhưng rất tiếc tiệm này gây không được tiếng vang. Còn tiệm phở bò, gà Hiền Vương ở đường Hiền Vương nấu ăn rất ngon, đã một thời làm “dậy sóng” trong giới sinh viên học sinh Sài Gòn.

    Khu vực Ngã Sáu tấp nập xe cộ lưu thông ở đường Minh Mạng Chợ Lớn, đối diện trường trung học Hoa ngữ Thiên Chúa giáo Minh Viễn thì có “tướng lãnh đầu bò” phở Tương Lai trấn giữ. Ngoài bảng hiệu tiệm lớn treo ngang phía trên có vẽ hình đầu con bò trông thật vui mắt, phía dưới đất lại còn dựng thêm một cái bảng nhỏ quảng cáo nữa! Chiếc xe nấu phở án ngữ ngay trước cửa ra vào được bày trí trông sạch sẽ rất xôm tụ. Những miếng thịt bò nạm và gân khổng lồ đã luộc chín trông phát thèm được treo lên phía ngoài xe để câu khách.

    Tiệm này nấu bằng bánh phở bản lớn và mềm. Nhờ nước xúp khá ngon ngọt nên được nhiều người biết đến. Ngoài phở bò, lúc sau tiệm còn bán thêm bánh ướt chả lụa và các loại chè ngọt nước đá rất ngon. Bên kia đường trước hàng rào sắt của trường học Hoa văn, ban đêm ở khu vực này rất huyên náo bởi những hàng quán bình dân đặc biệt bán nghêu, sò, ốc, hến, hột vịt lộn, khô, mực nướng, bia, rượu

    Trong khu Chợ Lớn ở đường Nguyễn Trải, gần đại lộ Tổng đốc Phương thì có tiệm phở Tâm Tín ăn khá đậm đà nhưng nước xúp quá nhiều mỡ và bột ngọt, nhưng đó cũng là sở thích của người Hoa.

    Nói đến tô phở Sài Gòn năm xưa, người ta không quên nhắc đến tiệm phở Tàu Bay trên đường Trần Quốc Toản. Tô phở bằng thủy tinh trong suốt tuy lớn thật, nhưng nhìn kỹ lại thì thấy nước xúp nhiều hơn bánh phở và thịt. Cái bảng hiệu tiệm với hai chữ to Tàu Bay hình như có một ma lực để thu hút thực khách thì phải, chớ thật ra nước xúp tô phở chỉ nặng mùi đinh hương và tai vị hơn mùi thơm ngon của xương và thịt bò. Địa điểm của tiệm cũng gợi cho người ta nhớ lại, đối diện bên kia đường đó là chợ cá Trần Quốc Toản nổi tiếng… dơ nhất Sài Gòn, có mùi nực nồng muốn bể lỗ mũi người bộ hành hay xe cộ chạy ngang qua đây.

    Bước sang năm 1975, làn sóng người tỵ nạn bên Campuchia ồ ạt tràn sang Việt Nam. Một số người Triều Châu đã hành nghề bán hủ tiếu ở thủ đô bên đó liền sắm vợt, vá, tô, chén, dĩa, muỗng, v.v. để mưu sinh. Danh từ Hủ Tiếu Nam Vang được vang dội mạnh từ đấy nhờ cách nấu và pha chế nước lèo thơm ngon rất đặc biệt.

    Tôi đã dịp chứng kiến một ông Tiều bên Cam Bốt mới về, mở quán bán hủ tiếu Nam Vang ở ngoài quốc lộ ngã tư quận Cai Lậy thuộc tỉnh Mỹ Tho. Cứ mỗi lần nấu một tô hủ tiếu cho khách, ông đều biểu diễn tài nghệ khá đẹp mắt, bằng cách: khi vớt hủ tiếu được trụng từ nồi nước sôi lớn ra bằng cái vợt lưới to, ông liền đập nhè nhẹ phần giữa cán tre của vợt nơi mép nồi cho hủ tiếu ráo nước. Sau đó, ông ta cầm vợt để ra ngoài nhún nhún vài cái lấy trớn rồi bất thần hất mạnh vợt lên cho vắt hủ tiếu bay cao trên không. Hơi nghiêng mình, ông nhanh nhẹn lòn tréo tay phải đang cầm chiếc vợt ôm sát phía sau lưng đưa sang bên trái, để kịp hứng lấy vắt hủ tiếu từ trên đang rơi xuống một cách tài tình, rồi đổ ngay vào cái tô ông cầm bên tay trái.


    Mỗi lần ông biểu diễn như thế đều được tiếng vỗ tay nồng nhiệt của nhiều người. Cũng nhờ nghệ thuật hấp dẫn mà quán hủ tiếu dù thiết bị rất đơn sơ này bán rất đắt. Phải công nhận là hủ tiếu của ông khá ngon nhờ nước lèo thật ngọt và nhiều tôm, thịt, cật heo. Có người vì thích xem ông “hát xiệc” mà thường đến ăn. Tội nghiệp cho đám con nít hiếu kỳ nghèo không có tiền, chỉ đứng trước quán trông chờ xem ông biểu diễn mà cảm thấy đầy thích thú.

    Xe hủ tiếu ở Việt Nam trước năm 1975 phần lớn đều thu gọn trong một chiếc xe đẩy. Tuy là xe, nhưng không đẩy đi bán dạo như những xe mì gõ của người miền Trung bây giờ ở Sài Gòn mà người ta thường thấy.

    Còn hủ tiếu ở Chợ Lớn bản to và mềm, thậm chí hơi nhão, khác với cọng hủ tiếu khô, dai như Hủ Tiếu Mỹ Tho hay Hủ Tiếu Nam Vang sau này. Tô hủ tiếu bao giờ cũng lềnh mỡ, lăn tăn những thịt nạc bằm và luôn có một hai lá cải xà lách to nằm chễm chệ, ít cọng hẹ, bên cạnh là những lát thịt xá xíu và gan mỏng phủ kín mặt tô, chen chúc là những miếng tóp mỡ cỡ bằng hạt đậu phộng vàng ruộm.

    Hủ tiếu là món ăn buổi sáng khá quen thuôc của người Hoa ở Chợ Lớn. Tuy nhiên, đối với người bình dân lao động thì thỉnh thoảng mới ăn mà thôi! Các xe hủ tiếu bán đắt nhất trong mấy ngày Tết cổ truyền, giới trẻ được nhiều tiền lì xì nên tha hồ kéo nhau đi ăn hầu như mỗi ngày. Hồi nhỏ tôi cũng vậy, trong khi đồ ăn thức uống khá ngon ở nhà ấp lẩm trong ba ngày Tết thì không mấy “thiết tha”, mà lại gắn bó không quên được tô hủ tiếu.

    Lạ một điều là cho tới ngày hôm nay, mặc dù có rất nhiều vật liệu phục vụ nấu nướng bằng inox, nhôm, sắt xi bóng láng, nhưng nhan nhản ở Việt Nam, người ta vẫn còn thấy được những chiếc xe hủ tiếu kỳ cựu, mà chủ nhân nó luôn “chung thủy”. Họ nấu hủ tiếu với vợt lưới to, vớt mì bằng thau, cùng vá lớn hình khối tròn bằng nhôm có lỗ tròn, ghế xếp mặt ngồi bóng lưỡng bằng gỗ và chân sắt một mạc cũ kỹ, nhưng chắc chắn. Bên nồi nước lèo thơm ngon nghi ngút khói, thực khách dù là giới bình dân hoặc quý tộc, đều ngồi ăn xì xụp một cách vô tư trước xe bên lề đường hay trong tiệm.

    Một điều thiếu sót khi nói đến chiếc xe hủ tiếu, với nét đặc trưng riêng có tính hoài cổ của người Hoa, mà không đề cập đến những hình ảnh được trang trí trên mặt kính xung quanh xe, mô phỏng những điển tích cổ của Trung Hoa, như: Tiết Nhơn Quý, Nhạc Phi, Đông Chu Liệt Quốc, Phong Thần, Tam Quốc Chí, Tây Du Ký, v.v. mà hồi nhỏ tôi rất say mê ngắm nhìn, mỗi khi ngồi trước bàn xếp dài dính liền theo xe cầm đũa sẵn để chờ đợi… Những hình ảnh sinh động này được khắc khá rõ nét với nhiều màu sắc lòe loẹt.

    Gần cuối thập niên 70, khi vừa đặt chân đến xứ lạnh Đức quốc không bao lâu, tôi có sang khu Chinatown ở khu 13 bên Paris (Pháp) tìm đến bảng hiệu Hủ Tiếu Mỹ Tho ăn thử cho biết, nhưng tôi rất thất vọng!

    Ở thành phố lớn nhất Hà Lan là Amsterdam và Rotterdam, khu phố Tàu hoạt động rất mạnh, có nhiều tiệm ăn bán hủ tiếu, nhưng mức độ thơm ngon vẫn chưa đạt được tiêu chuẩn cao như hủ tiếu của thành phố Mỹ Tho năm xưa.

    Mấy lần sang Mỹ châu đến các tiểu bang California, Texas, LA, Philadelphia, MA, tôi đều không quên thăm viếng vài bảng hiệu Hủ Tiếu Mỹ Tho và những tiệm phở nổi tiếng tại địa phương. Tình thiệt mà nói, không phải tôi là dân Mỹ Tho mà luôn bênh vực cho những gì của quê nhà mình. Có lẽ tôi đi không tới và tìm chưa được nơi nào có mùi phở thơm ngon đặc biệt như phở Hy Lạp, mùi hủ tiếu ngọt ngào như hủ tiếu Hưng Ký hay của chú Phúc ngày nào chăng?

    Bên Toronto, Canada, khu phố Tàu của người Hoa rất đông và ngành ẩm thực phát triển vô cùng phồn thịnh. Nhiều tiệm ở đây nấu mì ăn ngon hơn mì của Phánh Ký là nhờ nước lèo. Có tiệm xào mì còn thơm khói hơn quán mì xào dòn lộ thiên ban đêm năm xưa, đã từng “vang bóng một thời” trước villa của chú Hỏa ở đường Hồ Văn Ngà (Sài Gòn).

    Nhớ lại lần đầu tiên sang thăm nhóm bạn chơi thân từ hồi nhỏ nơi quê nhà ở Toronto. Các bạn dẫn tôi đến một tiệm ăn lớn bán đầy đủ không thiếu một món ăn thuần túy nào của Trung Hoa và Việt Nam. Nhiều năm… "chết thèm" bên trời Âu, trước hết tôi xực một tô Hủ Tiếu Mỹ Tho, nhưng mới ăn vài đũa liền phải bỏ ngang vì dở quá! Sau đó tôi đã giựt giải “quán quân” về số dĩa và tô đã ăn sạch được xếp chồng lên nhau, khiến các bạn tôi ngạc nhiên và cười vỡ bụng cho tới bây giờ mỗi khi nhắc đến tôi.

    Vài lần trở về thăm quê nhà, tôi đã đi khắp hết các nẻo đường góc chợ của thành phố thân yêu để tìm lại dấu chân kỷ niệm năm xưa của mình. Việt Nam bây giờ thay đổi quá nhiều! Qua lăng kính tâm hồn, tôi nhận thấy Mỹ Tho ngày nay không còn vẻ đẹp hiền hòa của 30 năm về trước, nhất là về mặt xây cất nhà cửa và cơ sở nhà nước đa số đều được đổi mới hoặc kiến thiết thêm. Người và xe gắn máy tấp nập hơn xưa nhiều. Những tháng ngày về thăm gia đình, tôi thường yêu cầu thân nhân dẫn tôi đến những hàng quán nào bán phở, mì và hủ tiếu ngon nhất để “chấm điểm” lại. Tự nhiên tôi cảm thấy buồn buồn vì những hương vị thơm ngon, đậm đà năm xưa nay đã bay mất từ lâu rồi.

    Ngày xưa, tôi là đứa cháu… dễ thương nhất của những chú bác bán phở, hủ tiếu nơi quê nhà nhờ cái miệng… ăn hàng. Ngày nay sống nơi xứ người, mỗi lần ăn hai món này ở bất cứ nơi nào cũng không vừa ý, tâm trí tôi luôn tưởng nhớ đến hình ảnh các chú bác thân thương đó. Mãi đến bây giờ, tôi vẫn còn rất thích ăn hủ tiếu, nhưng tìm đâu cho ra được đúng với hương vị của Hủ Tiếu Mỹ Tho ngày xưa?

    Huỳnh Quốc Minh (Tiểu-Minh) - Germany

    https://www.facebook.com/photo.php?f...type=3&theater
    Last edited by nguyenphuong; 06-23-2020, 04:51 AM.

    Comment


    • #3
      Tôi có vài thắc mắc nhờ các bạn chỉ giáo giùm :
      - Hủ tiếu Mỹ Tho và Hủ tiếu Nam Vang khác nhau thế nào?
      - Chuối sứ Mỹ Tho ngon nổi tiếng mà chuối ở những nơi khác không bằng ,tại sao?
      - Sài Gòn trước 75 có tiệm hủ tiếu Thanh Xuân nổi tiếng ,DQY là fan của tiệm này
      mà cũng không để ý hủ tiếu Thanh Xuân là Mỹ Tho hay Nam Vang.
      - Ở vùng Chợ Gạo có con sông Bảo Định ,nhưng nhiều người gọi là kinh Bảo Định
      ,kinh hay sông cái nào đúng ?

      Comment


      • #4
        Nguyên văn bởi ducquany View Post
        Tôi có vài thắc mắc nhờ các bạn chỉ giáo giùm :

        - Ở vùng Chợ Gạo có con sông Bảo Định ,nhưng nhiều người gọi là kinh Bảo Định
        ,kinh hay sông cái nào đúng ?
        Sông, kinh hay rạch Bảo Đinh nối liền sông Vàm Cỏ Tây tại tỉnh lỵ Long An và sông Tiền tỉnh lỵ Định Tường, gần như song song với Quốc Lộ 4, trước năm 1975 trực thuộc quận Bến Tranh (trụ sở quận Bến Tranh vời về Tân Hiệp thời Đệ Nhất Cộng Hoà) :

        Sông Bảo Định

        Sông Bảo Định tục gọi là kênh Vũng Gù, là thủy lộ nối liền rạch Vũng Gù với rạch Mỹ Tho thuộc tỉnh Tiền Giang, Việt Nam. Thời chúa Nguyễn Phúc Chu, sông này chỉ là một con mương đào (hào), đến năm 1819 được vua Gia Long cho nạo vét và nó trở thành con kênh đào đầu tiên ở đồng bằng sông Cửu Long. Thời Pháp thuộc, sông Bảo Định lại là con kênh đầu tiên ở Nam Bộ được dùng phương tiện cơ giới là chiếc xáng múc[1] để nâng cấp dòng chảy.

        Kể từ khi hoàn thành, sông Bảo Định luôn giữ một vai trò quan trọng về các mặt: quân sự, thủy lợi, giao thông và cung cấp một phần nước sinh hoạt cho cư dân trong vùng.



        Lịch sử
        Trước khi có sông Bảo Định, tại đây đã có rạch Vũng Gù ở về phía Đông Bắc, chảy từ sông Vàm Cỏ Tây đến xóm Thị Cai; và rạch Mỹ Tho ở về phía Nam, chảy từ sông Tiền tới Bến Tranh (vì bán tranh lợp nhà, nay là chợ Lương Phú thuộc xã Lương Hòa Lạc, huyện Chợ Gạo). Khoảng giữa, tức từ xóm Thị Cai đến Bến Tranh thuộc thôn Lương Phú, là ruộng vườn liên tiếp.

        Năm Ất Dậu (1705), vâng lệnh chúa Nguyễn Phúc Chu, Vân Trường hầu Nguyễn Cửu Vân đem quân sang bình định đất Chân Lạp. Xong việc, để phòng giữ miền biên cảnh và vùng đất Mỹ Tho, được tạo lập và phồn vinh từ thời Dương Ngạn Địch (một võ tướng nhà Minh chạy sang xin thần phục Đại Việt thời chúa Nguyễn Phúc Tần) đến coi quản, Nguyễn Cửu Vân cho đắp một chiến lũy dài từ Thị Cai đến Bến Tranh. Bên ngoài lũy, ông còn cho đào một hào sâu rộng nối liền rạch Vũng Gù (Tân An) và rạch Mỹ Tho.

        Sau một thời gian dài, con mương (hào) xưa vốn có nhiều khúc quanh co hẹp nhỏ, nay lại bị bùn cỏ tích tụ gây cạn lấp, thuyền lớn đi đến đây phải đợi nước lên đầy mới đi được, nhất là đoạn giáp nước tại chợ Thang Trông. Vì vậy, ngày 28 tháng Giêng (âm lịch) năm Kỷ Mão (1819), vua Gia Long đã sai quan trấn thủ Định Tường là Bửu Thiện hầu Nguyễn Văn Phong lo việc nạo vét và nới rộng dòng chảy này.

        Theo sử liệu thì ngoài Nguyễn Văn Phong, còn sự trợ giúp của Phó tổng trấn Gia Định thành là Huỳnh Công Lý và vài viên quan khác nữa [2] đã huy động 9.679 dân tráng trong trấn, chia làm ba tốp, thay nhau nạo vét. Dân phu làm thì được cấp cho mỗi người một quan tiền và một vuông gạo để chi dùng trong một tháng.[3]

        Công trình cải tạo con mương được tiến hành trong khoảng hơn ba tháng, khởi công ngày 23 tháng 2 năm 1819 và kết thúc ngày 28 tháng 5 năm 1819. Tính từ chợ Thang Trông qua Hóc Đồng (hay Hóc Đùn) đến bến Mỹ Tho thì chiều dài của kênh là 40 dặm rưỡi (khoảng 14km), rộng trung bình 15 thước ta (độ 6 m) và sâu trung bình 9 thước ta (3,50m).

        Việc tâu lên, vua Gia Long khen ngợi và cho đặt tên là Bảo Định hà (sông Bảo Định), và cho phép Huỳnh Công Lý được dựng bia ghi công ở bên bờ kênh gần chợ Thang Trong. Năm Ất Tỵ (1835), vua Minh Mạng cho đổi tên lại là Trí Tường giang (sông Trí Tường), có tạc bia đá dựng nơi bờ sông thôn Phú Kiết. Đời vua Thiệu Trị, không rõ năm nào, lại đổi tên thành sông An Định. Đến khi quân Pháp sang xâm lấn Việt Nam, họ lại cho đổi tên là Arroyo de la Poste (kênh Bưu điện).

        Tuy nhiên, người dân vẫn quen gọi là sông Bảo Định hay kênh Trạm (vì trên bờ sông có đặt trạm để chuyển công văn của triều Nguyễn và sau nữa là của Pháp).

        Thông tin thêm

        Chỗ sông Bảo Định tiếp giáp với sông Tiền ở thành phố Mỹ Tho
        Theo Trịnh Hoài Đức, thì lúc bấy giờ để có chỗ "đứng nhắm đo đạc địa thế", người ta cho dựng một cái thang cao, tục gọi là thang trông (tên chữ là Vọng Thê), và về sau nó trở thành địa danh: chợ Thang Trông ở xã Phú Kiết thuộc huyện Chợ Gạo[4]. Tuy nhiên, theo monographie thời Pháp thuộc thì cái tên này bắt nguồn từ "cái thang cao để trông chừng địch quân". Và nó (sách chuyên khảo này ghi là Thân Trong hay Thân Trọng) đã có từ thời chúa Nguyễn đánh nhau với quân Tây Sơn, nhưng có người lại cho rằng nó có từ khi giao chiến với quân Thổ (thời Nguyễn Cửu Vân?)[5].
        Đây là một trong số địa bàn hoạt động của nghĩa quân Thủ Khoa Huân, và là thủy lộ chính đã được quân Pháp sử dụng để đưa quân và tàu chiến đến đánh chiếm tỉnh Định Tường năm 1861 (xem trang Pháp đánh chiếm Định Tường). Bởi có vai trò quan trọng về quân sự và nhiều mặt khác nữa, năm 1867 (có tài liệu ghi là năm 1866), thực dân Pháp đã cho dùng chiếc xáng múc để nâng cấp dòng kênh, và nó lại trở thành là con kênh đầu tiên ở Nam Bộ được nạo vét bằng phương tiện cơ giới.
        Sông Bảo Định trở thành bút danh của một nhà thơ đất Nam Bộ, đó là Bảo Định Giang (1919-2005). Ông kể:
        ...Thủ Khoa Huân bị quân Pháp đóng gông chở đi bằng thuyền xuôi dòng Bảo Định đến Mỹ Tịnh An để hành quyết. Với lòng biết ơn sâu sắc, buộc tôi chọn cái tên Bảo Định Giang đặt làm bút danh của mình trước khi bước vào cuộc chiến kháng chiến. Đó là đêm giao thừa năm 1946...[6]


        https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%B...%90%E1%BB%8Bnh
        Last edited by philong51; 06-10-2020, 03:03 PM.

        Comment


        • #5
          Hoài niệm về Mỹ-Tho

          Phố Cũ Trường Xưa
          Tiểu Minh - Germany

          Nhớ lại vào năm 1998, khi phụ thân tôi niên kỷ đã 95, hầu hết bằng hữu cũng như những người quen biết trạc tuổi ông tại chợ Mỹ-Tho đều đã ra nước ngài vào cuối thập niên 70, những người còn ở lại thì hóa ra người thiên cổ từ lâu lắm rồi! Ðược tin ông lâm trọng bệnh mà lần đầu tiên sau đúng hai mươi năm tha hương, tôi về Việt-Nam, trở lại thành phố Mỹ-Tho thân yêu, nơi tôi được sinh ra, lớn lên và rời bỏ ra đi.


          Ðúng 9 giờ sáng, khi cánh cửa phi cơ của hãng hàng không Vietnam-Airlines vừa mở toang, hơi nóng bốc khói như hỏa lò từ bên ngoài tràn vào, khiến tôi cảm thấy khó chịu làm sao ấy, nhưng lòng thầm vui mừng và bồi hồi, vì sắp gặp lại thân nhân sau những tháng năm dài biền biệt xa cách. Tôi là người thứ nhất bước vội vã xuống cầu thang và đặt chân lên phi trường Tân Sơn Nhất.

          Nhiều năm sống trong một nước tiến bộ bậc nhất ở trời Âu, về đây nhìn thấy quang cảnh cùng sinh hoạt nghèo nàn của sân bay quê nhà, mà lòng tôi không khỏi bùi ngùi xót xa …

          Mặc dù khoảng cách chỉ chừng 100 thước, nhưng mọi người đều phải lên xe buýt để được đưa vào bên trong. Khi cánh cửa xe vừa mở, tôi cũng là người đầu tiên bước xuống và đi nhanh vào các trạm kiểm soát thủ tục nhập cảnh. Một anh kiểm soát viên mặc đồ bộ đội, ngồi ở góc bìa trái thấy tôi bước vào một mình, liền nháy mắt cười tươi có vẻ thân thiện với tôi lắm! Trước khi ra đi, tôi đã được những người bạn về trước cho biết nhiều về thủ tục “đầu tiên”, cũng như mãnh lực của đồng đô-la Mỹ hiện nay ở Việt-Nam.

          Tôi liền tiến đến để trình giấy tờ, thoáng thấy ở góc Passport lú cạnh một tờ “giấy xanh” quen thuộc, anh kiểm soát viên vội lật nhanh ra xem và thản nhiên lấy ra để vào một ngăn hộc nhỏ. Vừa bấm máy computer, anh vui vẻ tự nhiên hỏi chuyện bâng quơ, như đã quen biết với tôi từ bao giờ. Phần làm thủ tục nhập cảnh rất nhanh, sau khi đóng vài con dấu, trả lại giấy tờ cho tôi, anh lịch sự chúc tôi nhiều vui vẻ khi gặp lại thân nhân. Tôi vội tiến nhanh ra phía ngoài nhận hành lý chất lên xe và đẩy đến các trạm kiểm soát sau cùng. Ðưa mắt đảo nhanh một loạt, tôi thấy không có nhân viên nào mặt mày “vui vẻ” như anh hồi nãy. Tôi vội rút trong túi áo ra một “lá bùa” đã xếp nhỏ sẵn, để cập phía dưới tờ giấy kê khai hành lý màu vàng, tiến đến trình cho một nữ kiểm soát viên đang ngồi đợi. Tôi nghĩ, dù sao thì phụ nữ cũng dễ dãi hơn đàn ông. Phần kiểm soát hành lý xuyên qua máy quang tuyến rất nhanh chóng và dễ dàng. Quả đúng:

          Trên trời ai đẹp bằng tiên ?
          Dưới đất ai mạnh bằng tiền đô-la ?


          Mừng vui đẩy chiếc xe với hai va-li lớn và một xách tay nhỏ ra ngoài. Tôi đi giữa hai hàng rào dài với cả một rừng người đầy huyên náo đang chăm chú nhìn tôi. Tình thiệt mà nói, hai mươi năm sống khô khan buồn tẻ ở xứ Ðức, lần đầu tiên tôi mới được nhìn thấy đông đảo người Việt-Nam ở tại nước ... Việt-Nam nầy. Bất chợt, tôi có cảm tưởng như mình là một tù binh vừa mới được trao đổi, phóng thích trở về sau cuộc Hội Ðàm Ba-Lê vào đầu năm 1973 ở Lộc-Ninh.

          Thật không có gì vui mừng và xúc động cho bằng, khi được trùng phùng với thân nhân sau hai thập niên dài xa cách. Trên chiếc xe 14 chỗ ngồi có máy lạnh cùng với những người thân trong gia đình, từ phi trường Tân Sơn Nhất về Mỹ-Tho, tôi không ngớt hỏi thăm tình trạng sức khoẻ, cùng cuộc sống hiện tại của tất cả người thân và những người mà ngày xưa tôi quen biết. Qua lăng kính tâm hồn, tôi nhận thấy rõ thân nhân mình đã già đi nhiều lắm bởi lớp bụi thời gian mai một. Tôi mừng vui nói chuyện huyên thuyên không biết mệt, mắt không ngừng nhìn ra quang cảnh phía bên ngoài. Tôi không ngờ Sài-Gòn bây giờ thay đổi quá nhiều.

          Trên các đường phố, nhất là xe gắn máy Honda chạy ngổn ngang đầy đường, bóp còi inh ỏi tưởng chừng như không có luật lệ giao thông gì cả. Thực tình mà nói, tôi đã từng lái xe an toàn gần bốn mươi năm. Ngày xưa, tôi cũng là một tay yêng hùng trên xa lộ khi còn ở quê nhà mà ngày nay, nhìn kiểu cách chạy xe ở Việt-Nam như thế nầy tôi đành phải chào thua. Cảnh buôn bán ở các khu chợ tấp nập, sầm uất còn nhiều hơn trước năm 1975, nhưng nhìn kỹ lại thì thấy người bán quá nhiều mà người mua lại rất ít. Nhan nhản trên những đường phố lớn, các cao ốc, công ty đồ sộ của nước ngoài đều được kiến trúc mới toanh và đang tiếp tục xây cất.

          Nhà cửa lớn nhỏ thi nhau mọc lên như nấm ở khắp nơi. Dọc theo hai bên quốc lộ 1A về đến Mỹ-Tho, tưởng chừng như không còn khoảng đất nào trống như xưa kia. Ðặc biệt là hàng quán ăn uống nhiều vô số kể ở hai bên ven lộ, mà chẳng thấy có đông khách.

          Ngoài trời nắng cháy oi bức, không khí ô nhiễm, cát bụi tung bay mịt trời mỗi khi có xe chạy qua. Tôi đã từng sống trong một xã hội an lành nề nếp ở trời Âu, về đây nhìn thấy sinh hoạt căng thẳng xô bồ hỗn độn, con người khô cằn hốc hác hình như lúc nào cũng lăng xăng không ổn, để lo chạy gạo hàng ngày, khiến tôi cảm thấy thương xót cho hoàn cảnh vất vả của họ hết biết!

          Mãi mê trò chuyện với thân nhân đủ thứ đề tài xưa nay, thì xe đã chạy về đến ngả ba Trung-Lương. Nơi đây có xây một cái cổng khá cao, nhìn thấy bốn chữ to lớn THÀNH-PHỐ MỸ-THO thân thương quen thuộc dắt ngang phía trên, tâm tư tôi như sống dậy cả một khung trời kỷ niệm xa xưa mà mình đã đánh mất từ lâu. Con đường dẫn vào thành phố, nhà cửa, tiệm buôn, quán cốc được xây cất san sát nhau tưởng chừng như muốn trồi ra mặt lộ, khiến tôi không cách nào nhận dạng được đâu là đâu, mặc dù ngày xưa tôi là “thổ địa” của thành phố nhiều cây trái nầy.

          Ði đâu cũng thấy xe gắn máy và dòng người náo nhiệt đầy đường. Bến Xe Mới nay đã dời ra trên Bót Số 8 một đổi. Còn giếng nước rộng lớn hơn, trong hai giếng nước nằm song song phía gần Bến Xe Mới ngày xưa, nay đã biến đổi thành một công viên thật rộng lớn khang trang. Ðường lộ hai bên được tráng nhựa và có xây những cột đèn cao trông rất đẹp mắt. Qua sự giải thích của thân nhân, từ ngạc nhiên nầy đến ngỡ ngàng kia, khi tôi được nhìn lại bộ mặt mới của thành phố xưa thân yêu, bỗng tôi có cảm tưởng như mình là một lữ khách từ phương xa mới tới.

          Khi xe quẹo phải qua đại lộ Hùng-Vương, để sau đó quanh trái sang đường Lê Ðại-Hành xuống chợ về nhà, thì xe không thể chạy nhanh được nữa vì nhằm lúc tan học buổi trưa. Học sinh từ các ngôi trường ở khu vực nầy đổ xô ra về đầy đường, nào xe gắn máy, xe đạp cùng nhóm học sinh đi bộ. Bên phải là trường Lê Ngọc-Hân với bao tà áo dài thướt tha tung bay trong gió. Có điều các cô bây giờ ít để tóc thề và đội nón lá hơn trước. Dóc dáng nữ sinh ngày nay hình như hơi nhỏ nhắn và trông kém duyên dáng hơn, so với thế hệ các bậc đàn chị năm xưa. Khi xe chạy chầm chậm đến trước cổng trường Nguyễn Ðình-Chiểu thì đột nhiên ngừng hẳn lại, hỏi ra thì được biết phía trước ngả tư vừa mới xãy ra tai nạn xe cộ.

          Ngồi trong xe nhìn từng đoàn học sinh từ trong trường Nguyễn Ðình-Chiểu đổ xô ra về, mà lòng tôi cảm thấy ngập tràn xao xuyến bồi hồi. Thời gian như bóng câu qua cửa sổ ... Ðã lâu lắm rồi, hôm nay tôi mới được nhìn thấy lại ngôi trường thân ái ngày xưa. Qua bao thế sự thăng trầm, vật đổi sao dời, tôi thầm mừng vui khi được thấy cổng trường ra vào với ba ngăn rộng lớn vẫn còn đông đảo học sinh, hai gian nhà ở hai bên hình như đã được tu sửa lại thì phải. Sáu chữ lớn TRUONG TRUNG HOC NGUYEN ÐINH CHIEU không có bỏ dấu làm bằng xi măng dựng ở phía trên cổng vẫn còn đỏ màu nước sơn.

          Công tâm mà nói, trong những trường tôi đã theo học qua khi còn ở quê nhà, chỉ có trường Trung Học Nguyễn Ðình-Chiểu là tôi ái mộ nhất. Giờ đây, nơi xứ lạnh Âu-Châu, những lúc ngồi bên song cửa nhìn tuyết rơi ngoài trời, hồi tưởng lại quá khứ xa xưa một thời áo trắng của tuổi học trò, lòng tôi vẫn còn cảm thấy luyến nhớ ngôi trường mà ngày xưa mình đã theo học, trường trung học công lập Nguyễn Ðình-Chiểu.

          Nhớ về phố cũ trường xưa
          Bao nhiêu kỷ niệm vẫn chưa phai mờ.


          Bài viết nầy đã được đăng trong Bản Tin tháng 2-2005, của Hội Ái-Hữu
          Nguyễn Ðình-Chiểu & Lê Ngọc-Hân Mỹ-Tho ở Úc-Châu.
          Last edited by nguyenphuong; 06-23-2020, 04:54 AM.

          Comment


          • #6
            Lược Sử Trường Trung Học Lê Ngọc Hân

            Lược Sử Trường Trung Học
            Lê Ngọc Hân


            Hoài Văn


            Trường Trung Học Lê Ngọc Hân

            Quan niệm “Trọng nam khinh nữ” còn tồn tại khá lâu đây đó trên thế giới, cho nên ngày xưa số thiếu nữ được đi học rất hạn chế. Cách nay không đầy một thế kỷ ở Việt Nam chưa có trường dành riêng cho nữ sinh, ngay cả ở cấp tiểu học.

            Giở trang lịch sử giáo dục Việt Nam, nói riêng ở Nam kỳ, sau ngày người Pháp chiếm đóng, ta thấy các ngôi trường đầu tiên họ thành lập đều dành cho nam sinh. Tính theo thời gian:

            1.- Trường Trung học D’Adran (Collège D’Adran) thành lập vào năm 1874 dành cho con em người Pháp và gia đình người công giáo.

            2.- Trường Collège Indigène hay Ttrường Trung học bản xứ xây cất cũng vào năm 1874 sau đổi thành Trung học Chasseloup Laubat. Năm 1954 đổi thành trường Trung học Jean Jacques Rousseau. Năm 1967 lại đổi tên Trung học Lê Quý Đôn và bây giờ vẫn là Trường Trung học phổ thông Lê Quý Đôn.

            3.- Trường Collège de Mỹ Tho hay là Trung học Mỹ Tho thành lập năm 1879 tại Mỹ Tho, sau đổi lại Collège Le Myre de Villers, phát triển thành Lycée Nguyễn Đình Chiểu, sau đó là Trung học Nguyễn Đình Chiểu, hiện nay là trường Trung Học Phổ Thông (THPT) Nguyễn Đình Chiểu.

            4.- Trường Collège de Cần Thơ hay là Trung học Cần Thơ thành lập năm 1917 tại Cần Thơ, sau đổi lại là Trung học Phan Thanh Giản nay là trường THPT. Châu Văn Liêm.

            5.- Trường Lycée Pétrus Ký được thành lập vào năm 1927 tại Sài Gòn và hiện nay là Trường THPT Lê Hồng Phong.
            Những trường nầy chỉ thu nhận học sinh nam nếu có nữ thì chỉ là những con số không đáng kể. Vậy khi nào ở Nam kỳ mới có trường trung học dành riêng cho nữ sinh?

            BỐN TRƯỜNG TRUNG HỌC NỮ ĐẦU TIÊN MIỀN NAM

            1.- Tính theo thời gian, trường Trung học đầu tiên dành riêng cho nữ sinh ở Nam Kỳ là Trường Nữ Sinh Áo Tím (École des jeunes filles) tại Sài Gòn xây cất từ năm 1913 và khai giảng vào năm 1915. Vào năm 1953 trường nầy được đổi tên là trường Nữ Trung học Gia Long giờ là Trường THPT Nguyễn Thị Minh Khai.

            2.- Ngôi trường thứ hai là trường Nữ Trung học Marie Curie, xây dựng năm 1915 tị Sài Gòn và khai giảng năm 1918 thu nhận nữ sinh người Pháp, hay có quốc tịch Pháp. Thoạt đầu trường mang tên Ecole Primaire Supérieure des Jeunes Filles tức là Trường Nữ Cao đẳng Tiểu học. Bây giờ là trường THPT Marie Curie..

            3.- Ngôi trường trung học nữ thứ ba là trường Trung học Trưng Vương vẫn ở Sài Gòn ra đời vào năm 1955 tiếp nhận nữ sinh từ Bắc vào Nam. Bây giờ là Trường THPT Trưng Vương.

            4.-Ngôi trường trung học nữ thứ tư là trường Trung học Lê Ngọc Hân xây dựng vào năm 1957 tại Mỹ Tho. Lúc đầu trường mang tên Trường Nữ Trung học Mỹ Tho sau đó đổi lại là Trường Trung Học Lê Ngọc Hân giờ là Trường Trung học Cơ sở (THCS) Lê Ngọc Hân.

            TRƯỜNG TRUNG HỌC LÊ NGỌC HÂN

            1. Tầm vóc
            Trường Nữ Trung học Mỹ Tho rồi sau đó đổi thành trường Nữ Trung học Lê Ngọc Hân (xin nói về tên trường ở đoạn sau) được thành lập với một vai trò quan trọng là thu nhận học sinh nữ của các tỉnh Định Tường, Gò Công, Bến Tre, Tân An nối gót đàn anh là trường Nguyễn Đình Chiểu trước kia cũng nhận học sinh một số tỉnh miền Trung Tây Nam Bộ..

            Trường Nữ Trung học Lê Ngọc Hân còn có một giá trị khá dày trong lịch sử giáo dục, như nói ở trên, là một ngôi trường nữ trung học hàng thứ tư được thành lập, trước hơn trường Nữ Trung học Đoàn Thị Điểm ở Cần Thơ, trước hơn trường Nữ Trung học Lê Văn Duyệt ở Gia Định…
            Còn nếu tính theo tầm vóc hệ giáo dục thì trường Lê Ngọc Hân ngay từ ngày thành lập đã là ngôi trường Trung học có chương trình giáo dục hệ Tú Tài, một trường Trung học Đệ Nhị cấp(Enseignement secondaire) một lycée đàng hoàng tức là hệ THPT, chớ không phải là hệ THCS như bây giờ.

            2. Vị trí xây cất của trường
            Ngày xưa khi quy hoạch chương trình thiết kế đô thị thành phố Mỹ Tho, người Pháp đã ưu tiên dành cho giáo dục 2 thửa đất rộng lớn tại đại lộ Hùng Vương, ngay giũa trung tâm thành phố. Đó là khu tứ giác Hùng Vương-Lê Đại Hành-Nam kỳ Khỡi nghĩa -Ngô Quyền-Hùng Vương dành cho giáo dục Tiểu học. Khu tứ giác đối diện dành cho giáo dục Trung học.

            Khi có nhu cầu thành lập một trường trung học dành cho nữ sinh, nơi khu đất dành cho trung học(NĐC) không còn chỗ. Do đó có một sự dàn xếp và chuyển nhượng của chính quyền giữa hai bên chủ quản Trung học và Tiểu học để cho ngôi trường trung học nữ được xây dựng bên phần đất của Tiểu hoc.

            Do đó, ngôi Trường Lê Ngọc Hân được xây cất nơi phần đất hiện hữu thuộc về Tiểu học và vị trí nằm sát cạnh Ty Tiểu học xưa, sau đó là Sở Học chánh bây giờ là Sở Giáo dục và Đào tạo.

            3. Công cuộc xây cất
            Cơ chế hành chánh lúc đó đặt các trường học theo hệ thống ngang đối với cấp Tỉnh (Định Tường) về hành chánh, còn hệ thống dọc đối với cấp Bộ (Giáo dục) về ngân sách, về tô chức về quản lý nhân viên và nhất là về chuyên môn. Do vậy, trường Lê Ngọc Hân được xây cất là do chương trình của Bộ Giáo Dục.

            Ngân sách xây cất một phần do ngân sách nhà nước, một phần do quỹ viện trợ nước ngoài. Lúc bấy giờ cơ quan thụ hưởng chịu trách nhiệm xây cất lâm thời là do Ban Giám đốc Trường Trung học Nguyễn Đình Chiểu đứng đầu là thầy Phạm Văn Lược, Hiệu trưởng.

            Khởi công năm 1957 không có tài liệu để có ngày chính xác.

            Hoàn tất công tác và nhận học sinh vào ngày đầu khai giảng năm học 1957- 1958 tức là 26.8.1957 ngày mà nhà trường lấy làm ngày kỷ niệm.

            Qui mô ban đầu: Ngay đợt đầu xây cất đã có 2 dãy lầu, một trệt một lầu. Dãy tiền diện gồm 14 phòng day ra đường Ngô Quyền. Dãy thứ hai gồm 10 phòng nằm hơi chếch về phía sau của dãy trước sát bên Ty Tiểu học sau là Sở Học chánh. Dãy trước dùng làm văn phòng và phòng học cho các lớp đệ tứ đến đệ nhị. Những phòng của dãy sau dành hết cho phòng học các lớp còn lại.

            4. Ngày nhận học sinh đầu tiên
            Do nhu cầu có một một trường trung học nữ riêng biệt nên ngày đầu năm học 1957-1958, trường mở cửa chỉ để đón nhận học sinh nữ từ bên Trường Trung học Nguyễn Đình Chiểu vốn là trường hỗn hợp (mixte) đưa sang. Hôm ấy tất cả số nữ sinh của trường Nguyễn Đình Chiểu đều được đưa qua hết bên trường Lê Ngọc Hân chỉ trừ số nữ sinh học lớp đệ nhị C, ban văn chương, vẫn phải ở lại Nguyễn Đình Chiểu, vì sĩ số ban nầy không đủ để thành lập một lớp bên trường mới.

            [/B]5. Ban Giám đốc[B]
            Thoạt đầu trường Lê Ngọc Hân được xem như là chi nhánh của trường Nguyễn Đình Chiểu nên từ công việc hành chánh, nhân viên, kế toán đến học vụ, giảng huấn, giám thị kể cả thư viện và phòng thí nghiệm đều do trường Nguyễn Đình Chiểu hoặc chi viện hoặc cho mượn để chờ Bộ Giáo dục trực tiếp điều hành. Từ bên trường Nguyễn Đinh Chiểu, chính thầy Phạm Văn Lược, Hiệu trưởng, thầy Lê Văn Chí. Tổng giám thị, thầy Võ Văn Định Giám học kể cả thầy Dương Văn Thông phụ trách kế toán cũng như thầy Đặng Văn Nữ phụ trách học vụ, thầy Trần Văn Kế phụ trách phòng thí nghiệm….ngày ngày cũng phải qua yểm trợ cho công việc được trôi chảy.

            Mãi đến năm học 1960-1961, Bộ Giáo duc mới cử bà Nguyễn Như Hằng, một giáo sư đệ nhị cấp về đảm nhiệm chức vụ Hiệu trưởng cùng với nhân viên cho các bộ phận khác của trường.

            TÊN TRƯỜNG

            Khi Bà Nguyễn Như Hằng về làm Hiệu trưởng, trường chưa có tên nên có một cuộc họp giữa ban Giám đốc, giáo sư và hội Phụ huynh học sinh để chọn tên. Vì là trường nữ nên có nêu ba danh nhân lịch sử nữ là: Trưng Vương, Bà Triệu, Âu Cơ. Trưng Vương thì lúc bấy giờ đã là tên của trường Nữ Tiểu học rồi. Bà Triệu thì cũng có đâu đó rồi. Âu Cơ được chọn nhưng trong một thời gian ngắn vì nghe giống trường mẫu giáo quá nên huỷ bỏ. Cuối cùng tên trường là Trường Nữ Trung Học Mỹ Tho.

            Mãi đến năm 1966 việc đặt tên lại cho trường dưới thời kỳ bà Nguyễn Diệu Thông làm Hiệu trưởng được khởi xướng trở lại. Và trường chính thức mang tên Trường Nữ Trung học Lê Ngọc Hân tồn tại đến ngày 1.5.1975

            Trường bắt đầu hoạt động và nhanh chóng góp mặt cùng trường Nam Nguyễn Đình Chiểu giảng dạy chương trình tú tài (Enseignement secondaire) đúng phong cách của một Lycée nữ (Trung học Cấp III) trong tỉnh nhà.

            Lúc đầu các lớp Ban C (văn chương), còn gởi bên trường Nguyễn Đình Chiểu, nay thì trường đủ điều kiện để đảm nhận lại. Trường vẫn chia ra hai cấp: đệ nhất cấp (ĐIC) và đệ nhị cấp (ĐIIC).

            Sau một thời gian ngắn, trường đã có đầy đủ các lớp cho các môn Toán, Khoa học Tự nhiên, Văn chương (A, B, C) để học sinh có đủ điều kiện và trình độ ra thi tú tài ngang ngửa với tất cả nam sinh trong toàn quốc.

            Trường nguyên thủy là một trường Nữ Trung học, với tên Lê Ngọc Hân, nguyên là Bắc cung Hoàng hậu của vua Quang Trung Nguyễn Huệ, một phụ nữ tài sắc vẹn toàn, thật sự đã gây một ấn tượng sâu đậm trong lòng người nhất là trong giới nữ sinh, đã từng một thời vang bóng trong hệ thống giáo dục Miền Nam và mãi đến sau nầy.

            NHỮNG VỊ HIỆU TRƯỞNG trước 1975

            -Bà Nguyễn Như Hằng
            -Bà Dương Thị Lớn
            -Bà Nguyễn Diệu Thông


            Hoài Văn

            http://banhoc12c6mytho.blogspot.com/...-ngoc-han.html
            Last edited by nguyenphuong; 06-24-2020, 04:30 PM.

            Comment


            • #7
              Mỹ-Tho Về Đêm

              Hoài niệm về Mỹ-Tho

              Mỹ-Tho về đêm

              Tiểu Minh - Germany


              Hình minh họa

              Nếu ai có hỏi nơi nào đẹp nhất? Không cần suy nghĩ, tôi sẽ trả lời ngay là: Mỹ-Tho! Nhớ lại thời trung học Hoa văn trong thập niên 60 ở trường Thiên-Chúa Giáo Minh-Viễn, tại ngã sáu trên đường Minh-Mạng Chợ-Lớn, thành phần nữ giáo sư trẻ đẹp, độc thân từ Ðài-Loan sang dạy học thường hay nói với học sinh rằng: “Không có nơi nào đẹp bằng quê hương, cho dù quê hương mình có nghèo khó đi nữa“. Ðiều nầy quả thật không sai! Hơn 30 năm xa xứ sống nơi một thành phố lớn đầy vui nhộn của nước Ðức, thỉnh thoảng tôi hay tưởng nhớ về Mỹ-Tho thân thương nơi mình sinh ra và lớn lên. So với Hong-Kong, Tokyo hay Paris by night, cùng nhiều phồn hoa đô thị khác, với bao cảnh ăn chơi bậc nhất thế giới thì Mỹ-Tho về đêm thuở xưa quá nhỏ và hết sức quê mùa, bình dị, nhưng lại rất vui với bao kỷ niệm đong đầy, mà kỷ niệm thì bao giờ cũng đẹp!

              Ngược dòng thời gian … Trước năm 1975, gia đình ba mẹ tôi có hai thương hiệu tại chợ Mỹ-Tho. Mỗi khi màn đêm buông xuống, sinh hoạt sôi động trong ngày chuyển sang lắng đọng thấy rõ. Tiệm buôn trên nhiều khu phố của người Hoa đóng cửa nghỉ ngơi sau một ngày làm việc mệt nhọc. Những con đường xung quanh nhà lồng và chợ cá náo nhiệt, bắt đầu dọn dẹp từ một giờ trưa để nhường chỗ cho xe cộ lưu thông. Khu vực nầy vắng lặng và kém sạch sẽ, nên ban đêm lượng xe qua lại rất ít. Từ 19 đến 21 giờ, hai cái loa sắt to đùng gắn ở đầu ngôi chợ phía đường Nguyễn Huệ, phát thanh nghe đinh tai nhức óc cùng lúc với những chiếc loa được treo trên cột trụ cao, tại nhiều giao điểm trọng yếu như đầu Cầu Quây, vườn hoa Lạc-Hồng, Cầu Bắc, bùng binh cuối đường Ông Bà Nguyễn Trung-Long (nay là đường 3 tháng 2), Bến Xe Mới, công viên Dân Chủ, chợ Hàng Bông và bên kia Cầu Quây là ngả tư “Quốc Tế“, rồi chạy dài xuống tận Chợ Cũ. Chương trình phát thanh địa phương vào buổi tối thường do nữ xướng ngôn viên duyên dáng Hồng-Loan phụ trách. Ngoài tin tức trong nước và tiếp vận đài Sài-Gòn, đa phần đều là tân nhạc. Thỉnh thoảng còn có nhạc kích động ngoại quốc không lời rất hay!

              Chợ búa ngưng hoạt động, ảnh hưởng dây chuyền đến mọi sinh động của thành phố. Trong chợ Hàng Bông, một số bạn hàng đàn bà ngồi trên chiếu đệm dưới đất, bàn bạc chuyện buôn bán bên đống trái cây còn sót lại trong ngày. Ðược biết, nhóm người nầy ban đêm thường giăng mùng ngủ tại chỗ, đợi sáng sớm đón mua trái cây của những người trong vườn mang ra. Dãy phố bên kia gần góc đường, nhà thuốc Tây Bình Dân đêm nào cũng mở cửa tới khuya. Phía ngoài đầu chợ, những xe hủ tiếu, thịt bò viên, nước đá, nước mía, xe bán bánh kẹo, cốc, ổi, xoài chua ngâm nước cam thảo (xe lẻng-kẻng), khô, mực nướng ép luôn có khách vãng lai ghé vào.

              Phía ngả ba đầu đường Nguyễn Huệ, nơi rạp hát Vĩnh Lợi chuyên chiếu phim kiếm hiệp Ấn-Ðộ, có phần nhộn nhịp hơn vì là trung tâm phố. Thỉnh thoảng rạp còn chiếu phim võ hiệp Hong-Kong của hãng SB (Shaws Brother), do hai anh em nhà tài phiệt làm chủ. Lâu lâu, có gánh cải lương từ Sài-Gòn xuống hát vài đêm, tuy chỉ vài đêm thôi nhưng cũng đủ làm khán giả say mê và đến xem đầy rạp. Bình thường rạp chiếu mỗi ngày hai xuất, 3 giờ chiều, 6 giờ tối, chúa nhật và ngày lễ thì thêm xuất 9 giờ sáng. Mặt tiền của rạp rộng lớn, nằm trên một thế đất cao ở giữa có dạng nửa hình bầu dục. Phía trên treo ngang những tấm bảng vải lớn nối liền nhau được căng bằng khung cây, vẽ hình ảnh tài tử của phim đang trình chiếu với màu sắc sặc sỡ. Từ 2 giờ chiều, tiếng nhạc Ấn-Ðộ không ngừng được phát lớn, trở thành quen thuộc với mọi người vì bị “tra tấn“ hai tai. Gian hàng ăn uống lặt vặt trước rạp như xe lẻng-kẻng, hột vịt lộn, nghêu, chuối nếp nướng, nước đá, nước mía, luôn thu hút được đông người trước giờ chiếu phim. Bên kia góc lề đường nơi hông tiệm vàng Phước Tín, xe cháo vịt luộc chấm ăn với nước mắm gừng khá đậm đà của chú người Quảng Ðông, được đẩy ra bày bán từ bốn giờ chiều là điểm hấp dẫn của nhiều người sành ăn. Ban đêm, cùng chiều gần góc bên kia đường, tiệm buôn Vân-Phát Hãng, đèn ống sáng choang với những tủ kiếng lớn, bày bán các loại rượu mạnh, thực phẩm đồ hộp, trái vải khô, nho, lê, bôm (pomme), phô-mai đầu bò, bơ (beurre) hiệu đồng tiền, nước tương Maggi của Pháp, mứt trái cây, bánh kẹo nhập cảng và rất nhiều thứ khác trông thật đẹp mắt như một Shop ở nước ngoài. Mặc dù là cửa hàng duy nhất, nhưng vì hàng thuộc dạng cao cấp, nên tiệm nầy rất ít người vào mua.

              Ban đêm, xe cộ giảm thiểu rất nhiều. Bến Xe Mới trên giếng nước đôi trở nên đìu hiu, vắng vẻ. Xe Lambretta ba bánh thì không thấy, nhưng một số ít xe đò tuyến đường Sài-Gòn, Tân-An, Tân-Hiệp còn nằm tại bến chờ tài vào sáng sớm hôm sau. Trạm xe lô Minh-Chánh từ đường lộ quẹo vào ngay phía bên phải, chỉ còn trơ lại cái bàn bán vé cùng chiếc ghế gỗ. Dãy phố phía sau gần đó, cũng như dãy lầu hai tầng giống nhau nằm đối diện bên kia, vài tiệm bán nước giải khát đang chờ khách dưới ánh đèn đường leo lét, tạo nên một khung cảnh ảm đạm giữa màn đêm. Bên ngoài đường cái, phương tiện giao thông tương đối ồn ào, vì là cửa ngõ ra vào của thành phố nối liền với Sài-Gòn và các tỉnh miền Tây. Ðường ra ngã ba Trung-Lương tối tăm, xe cộ ít hơn ban ngày rất nhiều. Thỉnh thoảng, một vài xe vận tải chở đầy hàng, xuất phát từ các vựa nông sản phẩm bên đường Phan Thanh-Giản trực chỉ chạy về cung ứng cho thủ đô.

              Bến Xe Mới chạy qua Cầu Ðúc, con đường quẹo trái nhỏ hẹp không tráng nhựa dài khoảng hai cây số, trẻ em trong các xóm nhà lao động hai bên, thường tựu tập lác đác thành từng nhóm nhỏ ra lộ chơi giỡn dưới ánh đèn yếu ớt. Nơi ngả ba chợ Vòng Nhỏ dân cư đông đúc, ngôi chợ tuy đã ngủ yên, nhưng vài hàng quán ăn vặt vẫn có người mua lai rai. Cũng tại ngả ba nầy, một con đường ngắn nhỏ tạo thành ngả tư dẫn xuống bờ sông. Bên phải nơi đây, một căn nhà ngói được rào, sân vườn có trồng cây nhãn lớn, nên chủ nhà mở quán nhậu lấy tên là Cây Nhãn. Quán ăn nhỏ có tính cách gia đình tuy nằm trong sâu, nhưng lại đông khách vào chiều tối. Với cảnh vật cây nhà lá vườn không trang trí, những chiếc bàn ghế đơn sơ được bày trước sân nhà. Thực khách thường là những người quen biết tìm đến, mà phần đông là quân nhân, rồi chuyền miệng giới thiệu lẫn nhau, vì quán có các món ăn ngon không nơi nào có, nhất là món gà con sắp nở trong trứng, lăn bột chiên ăn với rau răm chấm muối tiêu chanh. Còn thịt bò được thái mỏng ướp rất thơm, nướng bằng miếng ngói cong lợp nhà đặt nghiêng trên lò than, có chén hứng mỡ phía dưới được thoa liên tục lên miếng ngói khi nướng. Thịt bò cuốn bánh tráng cùng với bún, rau sống, chuối chát, khế chua, chấm ăn với mắm nêm uống bia thì phải nói là tuyệt!

              Nơi chợ Vòng Nhỏ, con đường hướng về chợ Ðồng Sanh ít xe qua lại. Dưới ánh đèn đường vừa đủ sáng, người dân nhà ở hai bên thường tủa ra lộ hóng mát. Một vài tủ thuốc hút bên vệ đường ế ẩm, nên người bán hay ngồi đọc tiểu thuyết. Ðoạn đường tiếp nối đổ lên Bình-Ðức, rồi đến căn cứ quân sự Ðồng-Tâm dài gần 10 cây số không có đèn đường, lại thiếu an ninh, thế mà hàng đêm trên đoạn đường mạo hiểm nầy, thường có nhiều người lính mặc quân phục, liều mạng trốn trại phóng xe Honda “dù“ về Mỹ-Tho ngủ, trong đó có … tôi!

              Ngược lại, từ chợ Vòng Nhỏ về hướng Cầu Bắc, xe gắn máy và xe đạp tấp nập. Người dân Mỹ-Tho hay ở bất cứ nơi nào, thích tìm vui trong thói quen ban đêm chạy xe vòng vòng không mục đích. Bến bắc sang Tân-Thạch ban đêm vẫn còn hoạt động, nhưng lượng người và xe ít đi khá nhiều. Hàng quán hai bên, sức bán cũng giảm theo. Cách đó không xa trong phần đất của Ty Công-Chánh, cạnh bồn cấp nước khổng lồ trên cao, những đóm đèn tròn an toàn màu đỏ từ dưới thân tháp sắt phát sóng, tới đỉnh cao 128 mét của đài truyền thanh không ngừng chớp tắt. Bên đường Ông Bà Nguyễn Trung-Long, nhiều tàng cổ thụ rợp bóng về đêm làm không khí càng mát mẻ hơn! Nơi ngả tư gần giếng nước, một ngôi biệt thự đẹp nổi bật có lính gác, mà người dân trong thành phố đều biết, đó là tư gia của phu nhân cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Cũng nên kể thêm rằng, ông cụ của bà Thiệu ngày xưa là Thầy xem mạch trong tiệm thuốc bắc Thọ-Nam Ðường, tại ngả ba đầu đường Võ Tánh - Nguyễn Huệ phía Cửa Nam nhà lồng chợ Mỹ-Tho, nơi mà tôi thường lui tới chơi thân với mấy đứa con của chủ tiệm. Trong một sự tình cờ, ngôi biệt thự được hai chiến xa M-113 canh phòng vào mùa Xuân 1968 năm xưa, khi bà Thiệu về quê nhà ăn Tết, nhờ đó mà giảm thiểu được thiệt hại phần nào, cho thành phố có cái tên Ðẹp và Thơm trong biến cố tang thương của Tết Mậu Thân.

              Ðoạn đường dài Ông Bà Nguyễn Trung-Long ban đêm không có gì vui, ngoại trừ vài quán nước nhỏ, nhưng ngày nay được bình chọn là con đường đẹp nhất tại địa phương. Cuối đường là một ngả tư lớn, nối tiếp với đường Trần Quốc-Tuấn đi vô lò heo, mà nay là chợ Thạnh-Trị, hai bên nhà dân lao động có nhiều hàng quán. Tiệm phở Thanh-Bình trong mấy căn phố gần đầu đường, vừa nấu xong nồi súp bò to tướng chuẩn bị cho sáng mai cũng bắt đầu bán khi có khách vào. Tại ngả tư giao tiếp với đường Nguyễn Tri-Phương, một bùng binh tròn ở giữa được trồng hoa với thành nước xung quanh. Nơi đây xưa kia có một bót cảnh sát, nhưng về sau không còn nữa! Bên trái gần đó là ngôi nhà thờ Tin Lành trang nghiêm được sơn màu trắng. Cách đó không xa đi về hướng chợ là ngả tư đại lộ Hùng Vương, con đường rộng nhất trong thành phố. Ðối diện với trường Thánh Giu-Se, ngôi nhà thờ Công Giáo đồ sộ, do người Pháp xây cất vẫn uy nghi và là niềm hãnh diện của người sùng đạo. Khoảng giữa trên con đường lớn nầy, đáng kể nhất là ngôi trường trung học công lập danh tiếng và lâu đời Nguyễn Ðình-Chiểu, cũng do người Pháp xây cất vào năm 1879. Khuôn viên ngôi trường rộng lớn, được bao bọc bởi bốn con đường là Hùng Vương, Ngô Quyền, Lê Lợi và Lê Ðại-Hành. Phía bên kia ngả tư đường Ngô Quyền là trường Nữ Trung Học Lê Ngọc-Hân. Những con đường nầy, sáu ngày trong tuần được tô điểm thật đẹp bởi đầy bóng dáng nam, nữ học sinh của nhiều ngôi trường công, tư, tiểu và trung học tập trung, nhưng ban đêm thì trống vắng buồn tênh.

              Hai bên đường phía trên đại lộ Hùng Vương, ngoại trừ hai tiệm chụp hình Bạch-Ðằng, tiệm bán tạp hóa Huỳnh Bá có bàn bi-da và đá banh bàn nơi góc đường Lê Ðại-Hành còn mở cửa, từ khán đài trước bảo sanh viện, Trung-Tâm Y-Tế Toàn Khoa, sân vận động (giờ là cung văn hóa thiếu nhi), công viên Dân Chủ, doanh trại rộng lớn của Tiểu-Khu và dinh Tỉnh Trưởng, phạm vi nầy vắng lạnh, lại có phần nghiêm trọng bởi sự canh phòng của lính gác, nên khi chạy xe dạo chơi qua đây mà trong lòng không khỏi hồi hộp, lo sợ. Từ dinh Tỉnh Trưởng quẹo phải, băng qua ngả tư đường Ông Bà Nguyễn Trung-Long đến hai giếng nước lớn, nhỏ hai bên, rồi quẹo phải chạy dọc theo chiều dài giếng nước lớn sang bên kia đường ra Bến Xe Mới, đèn đường thưa thớt tối tăm, nhưng cảnh vật lại không hữu tình, nên ban đêm không phải là địa điểm hấp dẫn cho trai gái đưa nhau đến đây hò hẹn.

              Mỹ-Tho là một đại phố cổ xưa, có nhiều thương thuyền ngược xuôi các tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu-Long và thủ đô Sài-Gòn. Con sông dài cắt đôi tỉnh lỵ chạy xuyên qua khu trung tâm chợ với lưu lượng lớn ghe thuyền, mà hai bờ được nối liền bởi chiếc Cầu Quây có bề dầy lịch sử, đã tô điểm cho thành phố thêm nét đặc thù của miền Nam-Kỳ Lục Tỉnh. Từ phía chợ sang Cầu Quây, có bót cảnh sát bên trái nơi dốc cầu đi xuống khu Ðập Ðá và bến đò chèo đã ngưng đưa khách sang chợ Mỹ-Tho. Hai ngõ đường hẹp phân ra, dẫn sâu ngoằn ngoèo vào trong xóm nhà đông đúc dân cư đầy huyên náo. Ði đến đâu ngoài đường, người ta cũng nghe mồn một chương trình phát thanh của đài Sài-Gòn và Quân Ðội từ trong nhà vọng ra. Vào tối thứ bảy còn vui tai hơn nữa! Trong màn đêm thanh vắng, vở tuồng cải lương miền Nam qua ống loa được mở hết công suất, phát ra từ những máy truyền hình, của nhiều nhà có đông người lối xóm đến xem tập thể cho tới khuya, hình như đã quá quen thuộc, nên không thấy ai than phiền gì hết! Mọi người đang chăm chú say mê theo dõi cốt truyện, bất chợt có những tiếng cười vang thích thú, khi vai hề diễn xuất một tình tiết mắc cười như thế nào đó. Thường thì trong những tuồng tích cải lương không thiếu những màn bi kịch thảm sầu, nên khiến người xem nhất là phái nữ không khỏi thương vay khóc mướn đến hai mắt đỏ hoe.

              Hướng bên kia cùng đường Phan Thanh-Giản, đối diện với dãy phố buôn bán của người Hoa, là nhà sàn có gác được xây bằng gỗ dọc theo bờ sông của người Việt, ngoài trừ vài vựa cá, hầu hết đều là vựa thu mua nông sản phẩm từ các miền nông thôn xa xôi thuộc tỉnh Bến Tre chở đến. Ban ngày, con đường nhỏ gồ ghề nầy xe cộ tấp nập rất khó lưu thông, nhưng ban đêm ngưng hoạt động và ít xe qua lại. Nhiều công nhân khuân vác giăng võng ngủ giữa nhà, chờ ghe thuyền sáng sớm cặp bến phía sau vựa lên hàng. Bến đò nơi cuối đường, nhiều đò máy đã đến vào buổi chiều từ các quận, xã hẻo lánh ven sông như Bình-Ðại, Ba-Tri, An-Hóa, Cái-Mơn, Tân-Ðịnh, Vang-Quới, Lộc-Thuận, thuộc tỉnh Bến Tre để bổ hàng cũng hồi sinh khi trời tờ mờ vào sáng hôm sau.

              Song song với con đường bờ sông Phan Thanh-Giản, phía trong là đường Trịnh Hoài-Ðức có ngôi đình Ðiều-Hòa. Truyền thuyết dân gian cho biết thần đình rất linh thiêng nên các bàn thờ khói hương thường nghi ngút, dập dìu người đến khấn nguyện vào những ngày lễ lạc trong năm. Ngoài ra còn có ngôi chùa Chà xây cất vào thời Pháp thuộc sơn màu trắng. Bên phải chùa Chà, một con đường nhỏ bằng xi-măng chạy dài thông ra tới đường Ðinh Bộ-Lĩnh đối diện với rạp hát Viễn-Trường. Ban đêm nhà cửa hai bên đèn điện vừa đủ sáng, vài quán nước bình dân trong xóm thường có nhiều thanh niên tựu tập tán gẫu rất to tiếng.

              Con đường Ðinh Bộ-Lĩnh từ đầu Cầu Quây đến ngả tư Chợ Cũ, ngày cũng như đêm luôn có nhiều xe cộ lưu thông. Khoảng giữa con đường nầy, rạp hát Viễn-Trường xập xệ nằm phía trong, có cái sân hình chữ nhật trải rộng ra đến ven đường, chuyên chiếu phim cũ hay hai phim chung một xuất, dù vậy mà vẫn ít người xem. Trên thềm cao trước rạp, hầu như đêm nào cũng có vài người vô gia cư trải chiếu, giăng mùng qua đêm. Bên kia đường, đèn điện trong tiệm chụp hình lâu đời Lâm Tuấn vẫn còn sáng trưng.

              Ngả tư Chợ Cũ về đêm thật yên tịnh khác hẳn ban ngày. Mặt đường bên chợ hướng vào chùa Ông của người Triều-Châu và đường tới xã Gò Cát luôn dơ bẩn, nực nồng mùi hôi tanh của các gian hàng thịt cá đã dọn dẹp còn lưu lại. Ðầu đường bên kia xuống Bến Tắm Ngựa, ban ngày là bến xe ngựa đi Trung-Lương, xe lam chạy quận Chợ Gạo và xe đò xuyên quận Ông Văn đến tỉnh Gò-Công. Nhưng ban đêm không thấy bóng dáng một xe nào hết. Vài hàng quán ăn uống nơi đây luôn mở cửa mặc dù rất ế khách.

              Mỹ-Tho vào thuở xa xưa khoảng từ 1950 đến năm đầu 1960, Cầu Tàu không chỉ là nơi lý tưởng cho những người thích bơi lội vào buổi sáng và tập thể dục, mà còn là một công viên đẹp đầy bóng cây. Ban đêm thật mát mẻ nhờ gió sông thổi vào dưới tàng đại thụ. Nhiều người thưởng ngoạn thích đến đây ngồi chơi hóng mát, bước ra phía ngoài chiếc cầu hít thở không khí trong lành và xem người ta câu cá. Cũng trong thời điểm nầy, công viên Dân Chủ với diện tích không lớn bên ngoài sân vận động được xây cất, có hồ phun nước tròn với ánh đèn xung quanh khi trời về đêm. Nơi đây tuy trồng nhiều loại hoa đẹp, nhưng lại không có duyên với quần chúng, nên người đến ngồi chơi trên các băng đá rất thưa thớt.

              Cuối thập niên 50, tuyến đường sắt cũ kỹ Mỹ-Tho nối liền Sài-Gòn, do người Pháp thiết lập vào năm 1883 bị hủy bỏ. Nhà ga xe lửa nằm nơi góc đường đã biến thành vườn hoa Lạc-Hồng với một diện tích rộng lớn, có cây bồ đề thật to nhiều tàng xum xuê. Nhà hàng cao cấp Cửu-Long nằm lẻ loi sát bờ sông gần đó rất ít khách ban đêm. Vườn hoa Lạc-Hồng tân lập, nên không có kỳ hoa dị thảo và nhiều cây to lớn như ở Cầu Tàu cách đó không xa. Băng đá ngồi được đặt rải rác nhiều chỗ, hầu hết là do các nhà thương mại tài trợ, với những dòng chữ quảng cáo tiệm buôn được in trên thành dựa.

              Nhìn chung thì vườn hoa quang đãng có nhiều đường đi bộ rộng rãi. Những đêm mát trời, thiên hạ ra đây ngồi chơi hứng gió khá đông. Vì thế mà vườn hoa Lạc-Hồng ban đêm rất ồn ào bởi tiếng nói chuyện, cười giỡn, chạy chơi của trẻ em, cùng với tiếng rao của những người bán hàng rong như đậu phộng rang, bánh kẹo, cà-rem cây, mía ghim, bong bóng bay, chong chóng giấy. Phần đông những người đến đây vui chơi là gia đình lao động. Một số thanh niên nam nữ cũng tìm đến nơi nầy để hẹn hò hay thố lộ tâm tình. Dọc theo lề đường bên ngoài, những chiếc xe bán nước đá, sữa đậu nành, mía hấp luôn luôn có khách. Ở vàm sông nơi góc đường, gần cầu thang bằng đá đi xuống bến đò chèo, nhiều phu cyclo ngồi trên xe nghỉ mệt hướng mắt tìm khách. Phía ngoài, tiếng xe gắn máy bóp kèn inh ỏi, nối đuôi không ngừng chạy rầm rộ rẽ trái sang dãy bar trên đường một chiều Trưng Trắc.

              Xa xa phía bên kia là cù lao Tân-Long, nhiều đóm đèn điện của nhà dân được thắp sáng. Dưới nước, chiếc tàu của cây xăng Shell đang nhấp nhô theo lượn sóng giữa màn đêm, phút chốc lại có một chiếc ghe gắn máy đuôi tôm nổ tành-tạch chạy qua lại ở giữa con sông rộng lớn. Mặc dù trời đã tối đen, nhưng người ta vẫn nghe được đâu đó tiếng róc-rách của nước sông bị khuấy động, bởi những chiếc xuồng tam bản mong manh đang xuôi mái chèo đưa khách sang sông. Trên bờ, dãy phố hai tầng vắng người bên kia đường, các khách sạn Hạnh-Huê, Mỹ-Hoa, Lạc-Hồng và tiệm cơm Việt-Nam ảm đạm đang chờ khách lỡ đường.

              Nói đến thành phố Mỹ-Tho năm xưa, mà không nhắc tới dãy bar dọc theo bờ sông trên đường Trưng Trắc quả là một điều thiếu sót, hay nói đúng hơn là chưa biết Mỹ-Tho. Gần bốn thập niên sống nơi hải ngoại, nhiều người khi biết tôi quê quán ở Mỹ-Tho, đã thích thú đề cập ngay đến nơi chốn ăn uống nhộn nhịp nầy.

              Năm 1965, Hoa Kỳ bắt đầu đổ 184.000 quân ào ạt vào Việt Nam theo chương trình viện trợ quân sự, sang năm 1966 tăng tới 385.000 và năm 1967 lên tiếp đến con số 485.600. Trong lúc chiến tranh đang leo thang cao độ, một khoảng đất rộng lớn hình vuông đầm lầy, hoang dại ở khu Bình-Ðức, đã nhanh chóng biến thành căn cứ Ðồng-Tâm có một cạnh tiếp giáp với mặt sông Cửu-Long, theo lối xây cất nhà tiền chế bằng gỗ hai tầng cho quân đội Ðồng-Minh. Vào thời điểm nầy, phong trào Snack Bar bắt đầu nở rộ ở nơi nào có căn cứ của quân đội viễn chinh. Trên đường Trưng Trắc, chừng năm cái bar đầu tiên phía vườn hoa Lạc-Hồng, đã thay hình đổi dạng khác hẳn thành một thế giới riêng biệt, từ những cái tên bar bằng tiếng Anh, đến các ghế ngồi cao trong quán rượu và bộ Salon màu mè. Giờ mở cửa các bar nầy từ sáu giờ chiều cho đến khuya, với thức uống rượu mạnh, bia lon, Coca-Cola lon và các loại Chips khoai Tây hay đậu phộng rang. Những hàng ngoại nầy đều mua từ trong PX (Post Exchange) của Mỹ rồi mang ra bán lại với giá cắt cổ. Khách đến uống bia nhậu rượu đều là lính Mỹ và trả bằng tiền đô-la. Mỗi bar có gần mười nữ chiêu đãi viên Việt-Nam trẻ đẹp, trang điểm phấn son lòe loẹt và nực nồng mùi dầu thơm rẻ tiền. Còn ăn mặc thì cũn cỡn, áo hai dây hở hang đầy khiêu gợi. Hầu hết gái bán bar khi ngồi thân mật, lả lơi với khách đều nói được tiếng Anh, nhưng là loại tiếng bồi lẫn ngôn ngữ múa tay. Mỗi đêm, nhất là thứ bảy, tiếng nhạc ngoại quốc kích động trong những bar nầy được mở lớn vang dội cả một góc trời. Nhiều người đi đường hay chạy xe qua lại không khỏi tò mò ném mắt nhìn vào. Ðêm càng về khuya, không khí nơi góc đường nầy càng tưng bừng đôi khi náo loạn, khiến xe Jeep của MP (Military Police) Mỹ thường xuyên tuần tiểu qua lại kiểm soát nhiều lần.

              Ðến giữa năm 1969, quân đội Hoa-Kỳ đồn trú tại căn cứ Ðồng-Tâm được lệnh di chuyển, bàn giao doanh trại lại cho hai đại đơn vị là Hải-Quân và Sư-Ðoàn 7 Bộ-Binh trong thành phố Mỹ-Tho dời ra. Lúc bấy giờ, những Bar dành cho lính Mỹ đã tự động đóng cửa, rồi biến thành các quán giải khát bình thường mang tên Tina, Ru, nhưng nổi bật nhất là quán Mây Chiều có lối trang trí mỹ thuật, ấm cúng và thường mở nhạc TCS, nên đã thu hút được đông đảo giới học sinh, cùng những thức uống ngon như cà-phê Phin và nhất là món chè thạch, mặc dù giá cả có đắt đôi chút. Trong khi quán nước Hoa Xuân gần đó tuy rộng rãi hơn, nhưng có vẻ bình dân nên luôn ít khách. Ðối diện bên kia, quán nước Hoài Vĩnh Phúc đã một thời nổi đình nổi đám nhờ có nhạc sống vào mỗi tối thứ bảy. Ban nhạc của nhóm bạn người Hoa chúng tôi nhiều lần được mời đánh nhạc tại đây. Trên dãy phố nầy, hầu hết tiệm buôn ban đêm đều đóng cửa, ngoại trừ một số ít còn kinh doanh được như nơi đầu đường, tiệm chơi billard Lạc-Hồng, có nền nhà nằm trên thế đất cao, tiếp đến là tiệm chụp hình Thiện-Ký. Nhà hàng Nam-Sơn nơi ngả ba đường, chỉ bán cà-phê cho một số ít người Hoa quen biết thường đến đây đánh cờ tướng, hay bàn chuyện làm ăn.

              Hướng về phía Cầu Quây, nhà may Âu phục Văn Minh có tiếng và bán nhiều loại vải ngoại đắt tiền. Ông chủ tuổi trung niên, dáng người hào hoa phong nhã và luôn ăn mặc chỉnh tề, thường đứng cắt vải say mê với “cây kéo vàng“ của mình, bên cái tủ kiếng lớn hình chữ nhật đặt giữa phía trước, rồi chuyền vải vào bên trong cho thợ may. Sát bên là hai tiệm basar lớn nằm cạnh nhau là Huỳnh Căn-Ký và Mỹ-Lệ Hưng với đèn néon sáng chói, hàng hóa đầy ắp với cách trang hoàng đẹp mắt. Một điểm ngộ nghĩnh là khách hàng phần đông thích xem và mua radio của Nhật. Cạnh hai tiệm buôn nầy, rạp hát Ðịnh-Tường khang trang có máy lạnh thường chiếu phim Pháp, mà xuất hát chót từ 21 đến 23 giờ luôn ít khán giả. Cho nên sau 21 giờ, khi phim đã bắt đầu thì trước rạp cũng như quán kem Hương-Duyên đối diện trở nên vắng vẻ khác lạ, đèn điện tắt bớt và cánh cửa sắt cũng được khép lại, bên trong chỉ còn anh soát vé thấp thoáng khi ẩn, lúc hiện trên chiếc ghế cạnh tấm màn nhung màu đỏ sậm nơi cửa ra vào.

              Nối tiếp phía dưới, quán kem Mỹ-Duyên từ bàn ghế cho đến cách trang hoàng kém phần bắt mắt, nên không được sự ủng hộ của giới trẻ. Phần đông khách đến quán nầy là người Hoa quen biết và thường thích ăn kem dừa, sau đó được chủ tiệm cho thêm một ly nước lã pha bạc hà thật lạnh. Băng qua ngả ba đầu đường cùng chiều, chiếc xe bán bánh mì thịt Ba-Lê luôn đông khách. Bánh mì Baguette loại lớn được cắt ra từng khúc, đặt trên vỉ lò than nhỏ nướng lại cho nóng dòn rồi thoa bơ. Trước khi dồn thịt đùi khìa và chả lụa, người bán trét vào hai má bên trong ruột bánh mì, một lớp mỏng pâté gan được bọc lớp mỡ chài thơm phức. Sau đó, chế dài lên đó một muỗng nước sốt thịt thay vì nước tương, rồi cho thêm vài miếng dưa chua, ít cọng ngò rí và mấy lát ớt sừng trâu nữa là người mua có được một khúc bánh mì thịt khá ngon miệng.

              Cách đó không xa, tiệm bán đồng hồ Lưu Vinh-Ký còn mở cửa chờ khách. Nơi góc cuối dãy phố nầy, tòa nhà từ thời Pháp thuộc là Ty Ðiền Ðịa hai tầng, có cái sân thượng rộng lớn hình vòng cung nhìn xuống quang cảnh đầu Cầu Quây khá đẹp. Ðối diện phía bên bờ sông, một khoảng nền trống bằng xi-măng không có kiosk hay quán bar, mà là một sạp bánh khá quen thuộc đối với người dân địa phương, nhất là giới thanh niên. Phải công nhận quầy nầy làm bánh rất khéo và bánh lúc nào cũng còn nóng hổi, thơm ngon vì vừa từ nhà mới mang ra. Quầy có nhiều thứ bánh: bánh bò, bánh tiêu, bánh da lợn, bánh qui, bánh gan và bánh khoai mì. Sạp bánh ngọt nầy chỉ bán từ 6 giờ chiều đến chừng 10 giờ đêm là hết sạch! Chủ sạp là bà Sáu, dáng người mập mạp, phúc hậu, vui vẻ. Nhưng thường trực ngồi bán là con gái của bà, thuộc người đẹp của trường Nữ Trung Học Lê Ngọc-Hân với tánh tình đoan trang, thùy mị và ít nói. Cũng chính vì điểm nói ít, nên nàng đã thu hút được nhiều nam sinh trường Nguyễn, thường đến mua bánh nhằm mục đích để ngắm nhìn.

              Song song với đường Trưng Trắc phía bên trong gần khám đường, một con đường nhỏ yên tịnh, câu lạc bộ Châu-Diều rộng lớn và khang trang, được thành lập vào năm 1961 với bốn bức tường cao bao bọc xung quanh. Hội quán thể thao nầy mở cửa từ 10 giờ sáng, nhưng đến chiều tối mới có đông khách đến đá banh bàn, đánh ping-pong và thụt bi-da. Gần dốc Cầu Quây, hai tiệm chụp hình Phong-Lan và Cảnh-Trung còn tiếp khách chụp hình ban đêm.

              Con đường Trưng Trắc dọc theo bờ sông dài gần hai cây số, tính từ vườn hoa Lạc-Hồng, đến ngã ba Ty Công An đường Ngô Quyền tại bến đò ngang qua xóm Dầu. Tiếp nối theo là đường Alexandre de Rhodes (Bá Ða Lộc). Với chừng chiều dài đó được phân ra làm ba đoạn có sinh hoạt khác biệt cả ngày lẫn đêm. Phía các quán bar thì khỏi phải nói. Còn bên dãy phố khoảng giữa từ đầu Cầu Quây nơi Phòng Thông Tin, xuyên qua phạm vi chợ cá và phía trước cổng ra vào nhà lồng chợ Mỹ-Tho đến ngả ba đường Châu Văn Tiếp, nơi có bến đò máy và chiếc cầu bằng gỗ, được xây cất sau nầy để bắt qua bên kia sông, là khu vực thương mại sầm uất của người Hoa vào ban ngày. Phần đường ngắn còn lại chỉ có vài ba tiệm buôn nhỏ, hàn tiện làm cửa sắt và ngôi chùa Ông lâu đời được sự sùng bái của giới Hoa thương, hàng năm trong đêm Giao-Thừa đông nghẹt người đến xin xăm, cầu mong cho Năm Mới làm ăn thuận lợi phát tài.

              Trở lại đoạn đường Trưng Trắc vui nhộn của thành phố, dãy bar dọc bờ sông buổi sáng tương đối im lìm, ngoại trừ vài quán bán thức ăn sáng và cà-phê như Thái-Ký, Quới-Ký. Trong quán Xường, một số người Hoa ngồi trên những chiếc bàn ăn mì, hủ tiếu, một cách ngon lành! Từ 11 giờ trưa, hầu hết các bar bắt đầu hoạt động cầm chừng chờ hoàng hôn buông xuống. Khi trời vừa nhá nhem tối, đèn đường bật lên hòa quyện chung với ánh sáng từ bao quán bar được thắp tỏa lên, tạo nên không khí đầy sống động của một khu phố về đêm. Người và xe bắt đầu tăng dần trong tiết trời mát dịu. Một số bar đông khách có quán ăn Tòng-Ký, tiệm kem Hương-Lan. Ông chủ quán ăn A-Lục trong chiếc quần đùi và để mình trần, đưa cái “thùng nước lèo“ tròn trĩnh như Ông Ðịa phía trước, một bên vai vắt cái khăn lau mồ hôi, tay cầm chiếc vợt thau nhanh nhẹn chiên mì dòn, trên chiếc lò gas nơi bếp đang cháy bùng với ngọn lửa táp. Cạnh bên là quán ăn Chí-Thành, em ruột của chú A-Lục cũng bận rộn thao tác không kém, với những món chiên xào bốc khói, để ứng phó cho nhiều khách đang đợi chờ ngoài các bàn ăn. Nhìn chung thì thực đơn của dạng các quán ăn nầy giống nhà hàng Tàu, như thịt heo, bò, gà, vịt, tôm, cua, mực xào sền-sệt với rau cải các loại và vài món canh để ăn cơm. Tiệm kem Duyên Thắm rộng rãi với nhiều bàn ghế, thường mở nhạc kích động Mai Lệ Huyền và Hùng Cường khá lớn vang dội ra đến ngoài đường. Quán bò 7 món Hữu-Lợi và quán bánh hỏi, nem nướng Sinh-Viên có bảng thực đơn riêng biệt, với những món ăn độc đáo cũng thu hút khá đông thực khách. Gần đó, quán sâm bổ lượng Khâm Ký bán đủ các loại chè ngọt khá đậm đà luôn được nhiều người chiếu cố.

              Trong các quán ăn tập trung kề cận nầy, phải nói Việt Hải là quán nhậu ngon nhất! Ông già chủ quán người Hoa gốc Hải-Nam, có bà vợ Việt-Nam trẻ tuổi hơn nhiều, nên đặt tên quán là Việt-Hải. Ðầu bếp do chính ông chủ đảm nhận, bà vợ cùng đứa con gái duy nhất chạy bàn. Ðặc sản của quán nầy có món bồ câu quay, thịt bò lúc lắc chấm với muối tiêu chanh ăn với xà-lách-son, dồi trường xào dòn với ớt xanh Ðà-Lạt, lẩu lương hay cá bông lau ăn với rau nhúc và uống bia thì khỏi chê! Mỗi lần chủ quán chiên xào, khói thơm bay đầy ra đến ngoài đường. Quán có các món nhậu độc đáo, ông bà chủ lại nhiệt tình chiêu đãi và cô con gái xinh đẹp luôn tươi cười vui vẻ, nên khách đến ăn rất đông, nhất là vào những ngày cuối tháng lãnh lương, lính tráng khó mà tìm được bàn trống nơi quán ăn nầy. Nhan nhản dọc theo nhiều quán bar, hầu như lúc nào cũng có vài người nghèo khó, bệnh tật, phải lê thân nài nỉ thực khách để bán vé số, hoặc cầu xin ít đồng tiền lẻ độ nhật trông mà tội nghiệp!

              Còn gì thi vị cho bằng những đêm trăng thanh gió mát, an nhàn ngồi trong quán cùng bạn bè ăn uống hàn huyên tâm sự, hướng mắt nhìn xuống mặt nước dâng đầy lên dãy vựa phía bên kia bờ sông, trong khi nhiều ghe thuyền neo bến đang im lìm soi bóng dưới ánh trăng sáng thật đẹp! Bên ngoài đường lộ, người xe đông đúc qua lại không ngừng. Những ngày nghỉ lễ hay các ngày Tết, đoạn đường Trưng Trắc về đêm càng đông nghẹt rừng người và xe. Nam thanh nữ tú thích chưng diện quần áo đẹp, không rủ nhau mà cùng diễn trò “ông đi qua, bà đi lại“ nhiều lần trên con đường huyên náo nầy, chỉ đơn giản thế mà trong lòng cũng cảm thấy đầy thích thú!

              Nhiều lần trở về quê nhà thăm thân nhân sau hơn 30 năm xa cách, tôi không quên đi khắp mọi nẻo đường mong tìm lại dấu chân kỷ niệm năm xưa của mình, nhưng cảnh vật nay đã hoàn toàn thay đổi, nhà cửa lớn nhỏ đâu đâu cũng được sửa sang hoặc xây mới, cao, thấp, rộng, hẹp, đủ sắc màu không chút mỹ quan đô thị. Xe gắn máy tràn ngập đường phố chạy hỗn độn dọc ngang, hầu như không có luật lệ giao thông. Ði đến bất cứ nơi nào, tâm tư tôi không khỏi cảm thấy buồn buồn, xót xa như đánh mất một cái gì không bao tìm lại được. Lòng người viễn xứ luôn hoài niệm về cố hương. Nhưng quê hương Mỹ-Tho của tôi ngày nay sao quá xa lạ thế nầy?

              Câu nói thở than của các nữ Giáo Sư Ðài-Loan xa gia đình năm xưa, vẫn còn văng vẳng bên tai. Mà thật vậy! Không có nơi nào đẹp bằng quê hương, nhưng phải chăng Mỹ-Tho thân thương của tôi vẫn đẹp mãi, mà tôi không bao giờ quên được chỉ còn trong ký ức?

              Tiểu Minh - Germany

              Bài viết nầy đã được đăng trong Ðặc San số Xuân 2012, của Hội Ái-Hữu Nguyễn Ðình-Chiểu & Lê Ngọc-Hân Mỹ-Tho Úc-Châu và báo Viên-Giác số 189, tháng 6 năm 2012 tại Ðức-Quốc.
              Last edited by nguyenphuong; 06-24-2020, 04:49 PM.

              Comment


              • #8
                Hoài niệm về Mỹ-Tho

                Chợ Mỹ-Tho
                Tiểu-Minh Germany


                Từ thôn quê đến thành thị ở Việt-Nam, đi đến đâu người ta cũng đều thấy Chợ, vì đây gần như là huyết mạch của đời sống con người. Làng, xã, huyện nhỏ thì chợ nhỏ, tỉnh thành lớn, chợ lớn theo để đáp ứng cho nhu cầu sinh hoạt của người dân ở tại nơi chốn đó. Hầu hết chợ búa lớn nhỏ đều có xây một nhà lồng chợ ở trung tâm phố chính và mang tên của địa phương, ngoại trừ một số ít chợ lấy tên đặc biệt chẳng hạn như Cố Ðô Huế ở miền Trung có chợ Ðông-Ba, trong Nam thì có chợ Bến-Thành tại Sài-Gòn. Tuy nhiên, ở các tỉnh và thành phố lớn, mỗi nơi ngoài chợ chánh còn có thêm vài chợ phụ nhỏ nữa, để thuận tiện phục vụ cho đời sống quần chúng tại địa phương, như thành phố có cái tên Ðẹp và Thơm là Mỹ-Tho thì có chợ Hàng Bông, chợ Thạnh-Trị, Chợ Cũ, chợ Vòng Nhỏ, còn ... Chợ Gạo là tên của một quận lỵ cách xa Mỹ-Tho 10 km về hướng tỉnh Gò-Công.

                Tôi còn nhớ vào giữa thập niên 50, lúc đó tôi chưa đầy 10 tuổi, ngôi chợ Mỹ-Tho do Pháp xây cất tuy còn kiên cố, vì bề ngoài nhìn thấy có rất nhiều cọc sắt lớn nhỏ sơn màu xanh lá cây từ trên tới dưới. Mặc dù chợ chỉ có một tầng trệt, nhưng mái nhà được ngăn làm hai tầng cao thấp bằng ngói, có một khoảng thông hơi và ánh sáng ở giữa, mà tầng trên là hình chóp nón dài theo hình chữ nhật của ngôi chợ khá cao. Nhìn tổng quát thì lối kiến trúc không đẹp. Diện tích bên trong nhà lồng chợ có mái che lại không rộng lớn, bởi phần chợ lộ thiên song song dọc theo hai bên chiều dài của nhà lồng chợ đã bằng phân nửa bên trong. Có lẽ vì thế mà chính quyền địa phương đã cho phá hủy toàn bộ để xây cất mới lại ngôi chợ Mỹ-Tho.

                So với chợ cũ thì mái che chợ mới thấp hơn. Hệ thống thoát hơi phía trên lại không được rộng lớn, vì thế mà buổi trưa khi trời nắng rất nóng nực. Ngôi chợ mới tứ phía có bốn cổng rộng lớn ra vào với cửa sắt, ban đêm được đóng khóa lại và sáng sớm có người trực trong Ban Quản Lý ở cổng phía đường Nguyễn Huệ đi mở cửa. Chợ Mỹ-Tho hình chữ nhật, chiều ngang của mỗi bên có một cổng chánh. Phía trên là một thành vách khá cao mà trên đỉnh có dựng ba chữ “CHỢ MỸ-THO“ to đùng bằng xi-măng sơn màu đỏ tươi.

                Còn cổng ra vào hai bên chiều dài có phần hẹp và thấp hơn chừng một nửa hai cổng chánh, phía trên mỗi bên có xây một bức tường hình chữ nhật lớn chừng 3 m x 2 m, ở giữa có hai chữ nổi lớn cũng sơn màu đỏ tươi, bên kia là CỬA NAM, còn bên đây là CỬA BẮC, đối diện trực tiếp qua con đường lộ ngắn với cửa nầy là tiệm buôn bán của Ba Mẹ tôi ngày xưa trên dãy phố có mười thương hiệu, con đường phía bên Cửa Nam cũng vậy. Hai dãy phố lầu thương mại hai tầng cùng mang tên là đường Võ Tánh, được xây cất giống nhau mà chỉ khác số nhà chẵn, lẻ. Mặt ngoài đường và bên trong xung quanh nhà lồng chợ, đều là những tiệm buôn nhỏ xây đâu lưng thống nhất với nhau, mà phần lớn đều bán tạp hóa và hàng vải tơ lụa. Ở giữa trong nhà lồng chợ có một đường đi khá rộng lớn được ngăn đôi từ cổng ra vào từ cửa Nam đến cửa Bắc, một bên dành cho các sạp bán basar, kim chỉ, giày dép, va-li, túi xách, nhưng phần lớn là sạp vải thông với cổng chánh hướng ra đường Nguyễn Huệ. Còn phân nửa là khu bán tạp hóa và thịt heo, mà cổng chánh hướng ra chợ cá giáp với con sông dài. Nhìn chung với lối kiến trúc cũng như sự phân chia sắp xếp các gian hàng buôn bán bên trong và phía ngoài rất mỹ quan.

                Phạm vi chợ Mỹ-Tho tính ra cũng khá rộng lớn, bao gồm từ chợ Hàng Bông phía đường Nguyễn Huệ đến trước rạp hát Vĩnh Lợi, rồi từ bên trái rạp hát đến ngả ba bờ sông đường Trưng Trắc. Trên con đường dài nầy từ dốc cầu quây cho đến ngả ba đường Châu Văn Tiếp rồi quanh trái giáp vòng lại với Chợ Hàng Bông. Cộng thêm hai con đường ngắn Võ Tánh dọc theo hai bên chiều dài của nhà lồng chợ, cùng một đoạn ngắn đường Lê Ðại Hành ở giữa, giao tiếp với ngả ba đường Nguyễn Huệ và ngả tư Lê Lợi. Ngoài ra, từ dốc cầu quây phía Chợ Cũ bên phải là con đường Phan Thanh Giản chạy dài cho tới Bến Ðò, một bên là dãy phố buôn bán, còn phía bờ sông đều là những vựa cá, vựa bán trái cây và nông sản phẩm cũng tấp nập không kém bởi ghe xuồng, đò máy chở đầy ắp hàng hóa dài dọc theo bờ sông từ các vùng phụ cận tới. Chợ Mỹ-Tho trước năm 1975 được xem là một chợ sầm uất nhất ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, vì địa thế nằm gần thủ đô Sài-Gòn hơn các tỉnh miền Hậu Giang, nên phương tiện vận chuyển hàng hóa bằng đường bộ cũng như đường thủy rất thuận lợi.

                Chợ Mỹ-Tho sau một đêm vắng vẻ yên tịnh thì trở mình bừng sống dậy khoảng ba giờ sáng, với đủ mọi thứ tiếng động ồn ào khá lớn. Bắt đầu từ khu chợ cá khi những ghe cá ở trên sông chạy bình-bịch từ các địa phương nhỏ thuộc tỉnh lỵ Mỹ-Tho và Bến-Tre rầm rộ đổ tới, cộng với tiếng đò máy chạy đưa khách từ miền thôn quê lân cận của hai tỉnh nhiều sông rạch nầy lên chợ Mỹ-Tho để bổ hàng. Chiếc máy xay nước đá của depot Chú Cẩu không ngừng nổ máy nghe đinh tai điếc óc để cung cấp nước đá bào cho bạn hàng cá. Những cái máng thiếc to và tròn cạn đáy đựng cá của mấy bà bán cá ban đêm xếp chất chồng lên được thảy xuống đất nghe xốn cả tai.

                Vài chiếc xe hàng nổ máy xình-xịt chạy chầm chậm vô chợ cá để lên hàng chở về Sài-Gòn. Tiếng nói chuyện to lớn cũng như lời mặc cả giá tiền của những bà bán cá phải nói là như … bể thùng thiếc giữa không gian vào buổi sáng thật sớm. Lâu lâu cũng không tránh khỏi những tiếng chửi lộn tục tĩu trong chốc lát rồi ngưng. Ðó là chuyện xãy ra rất bình thường, vì họ là dân “hàng tôm, hàng cá“ mà! Tiếp theo đó, trên khắp các nẻo đường hướng về chợ Mỹ-Tho, từ Cầu Quây phía bên Chợ Cũ, đường Nguyễn Trải, Ngô Quyền, Lê Ðại Hành, Lê Lợi, rừng người mà phần đông là các bà, các cô trong vườn gồng gành rau cải, hoa quả, trái cây đổ xô ra chợ bán, có người còn buộc cây đuốc đang cháy lửa trên đầu đòn gánh để soi đường đi. Song song đó, những chiếc xe xích lô, ba bánh chất đầy rau cải, trái cây từ hướng Bến Xe Mới vội vã chạy xuống chợ. Tất cả tạo nên một quang cảnh vô cùng sống động cho một buổi chợ sáng bắt đầu.

                Bên ngoài còn nhá nhem tối, tiết trời thật mát dịu vào buổi sáng đầy sương mai. Dưới ánh đèn đường yếu ớt, đông đảo bạn hàng buôn bán xung quanh chợ nhôn nhao bày những chiếc sạp, dựng mái che hoặc trương những cây dù bằng vải ny-lon cho gian hàng của mình. Nhiều người còn đốt những cây đèn khí đá hoặc đèn dầu để thấy đường bày hàng ra. Trong nhà lồng chợ, nơi khu vực bán thịt rộng lớn, những phần nửa con heo xẻ ra từ lò heo được xe ba bánh vội vã chở đến. Tiếng hô to để thiên hạ tránh đường của những người khuân vác nặng nhọc, cồng kềnh không ngớt vang dậy bởi ngổn ngang người qua lại. Tiếng dao to búa lớn nghe lạnh cả người của các bạn hàng thịt không ngừng thi nhau phân chia xương thịt, trên những tấm thớt không lồ bằng gốc cây to. Khu bán tạp hóa gần đó cũng bắt đầu lăng xăng bày biện đủ thứ đồ hàng xén ra. Còn phía bên bán vải vóc có vẻ nhàn hạ, sạch sẽ cũng như sự sắp xếp, bày trí thì tương đối gọn gàng và ít bận rộn hơn, nên từ bảy giờ chủ sạp mới ra mở cửa hàng, vì khách của họ gần như không thấy vào giờ nầy, ngoài trừ một số ít người ở miền thôn quê đi đò máy lên thật sớm để mua sắm.

                Gần chợ cá dọc theo bờ sông là một dãy tiệm nhà sàn đều bán chén, dĩa, lò than, cà-ràng, khạp, lu nước chất đầy thiếu điều không có đường đi trong nhà. Nơi đây mở cửa rất sớm, vì khách hàng của họ phần đông đều từ trong vườn ra đi chợ. Những xe hủ tiếu, quán cà-phê, tiệm nước Cao-Thăng và Kỳ-Hương gần chợ đã có khách ngồi ăn uống một cách ngon lành.

                Ðoạn đường Trưng Trắc từ chợ cá đến ngả ba đường Châu Văn Tiếp gần cây cầu gỗ bắt qua bên kia sông là những sạp bán gà, vịt con kêu chíp-chíp không ngừng nghe rất vui tai. Tiếp đến là các gian hàng bán đồ thủ công nghệ được đan bằng tre, bằng mây như thúng, rổ, đệm, cần xé .v.v. Ðến hàng gia cầm heo, gà, vịt là thấy bắt đầu có mùi khó chịu rồi! Nhiều con gà, vịt bị buộc chân dính từng chùm với nhau nằm la liệt dưới đất, một số ít được nhốt trong các lồng tròn bằng tre. Thỉnh thoảng có những con gà trống đứng hiên ngang cất tiếng lớn gáy sáng. Kế đến là chỗ bán của những người lái heo còn tồi tệ hơn nữa về mặt vệ sinh. Những chú lợn sữa được chủ quan tâm cho ở trong mấy cái chuồng nhỏ khối chữ nhật có lưới kẽm. Phần lớn mấy anh Trư Bát-Giới bị trói chặt chân nằm lăn lóc vẫy vùng trên những lớp rơm mỏng dưới đất, một số khó chịu kêu la như đang bị cắt cổ không bằng, có con còn phóng uế tại chỗ bừa bãi, nhiều con thì đưa cái bụng phệ sang một bên nằm ngủ ngáy khò khò …

                Khoảng đường Nguyễn Huệ gần đầu chợ đến ngả ba đường Võ Tánh là khu vực ưa thích và quen thuộc của các bà, các cô, vì nơi đây tập trung nhiều sạp hàng ẩm thực ăn uống rất thơm ngon như: cháo lòng, cháo cá, bánh xèo, bánh giá, bánh đậu, bún bì, thịt nướng, chạo tôm, gỏi, bì cuốn, chè đậu, chè thưng, bánh ít nhưn đậu, nhưn dừa, bánh tét nhưn đậu, mỡ, chuối, bánh quy, bánh khoai mì, bánh da lợn, xôi, bắp ôi thôi đủ các thứ ngon miệng. Con đường Võ Tánh bên số nhà chẵn, phía Cửa Nam nhà lồng chợ là những sạp bán nón lá, kim chỉ, đồ đệm, mây, chiếu nằm, mà ở góc ngả ba đường Nguyễn Huệ, sát tường bên hông của tiệm thuốc Bắc Thọ-Nam Ðường, có một kiosque đặc biệt của chú Bảy Ích chuyên bán các loại bánh Tây và trái cây nhập cảng từ Pháp, Hong-Kong như: nho, táo, lê, củ năng, vải khô, hồng khô, hột dưa .v.v. Còn con đường ngắn số lẻ bên phía Cửa Bắc chỉ bán rau cải mà thôi. Từ đầu chợ đường Nguyễn Huệ đến con đường ngang rạp hát Vĩnh Lợi, là những sạp bán kim chỉ, guốc, nón lá, áo quần may sẵn. Bên phải khoảng giữa dãy phố, có tiệm buôn độc nhất Vân-Phát Hãng chuyên bán khá đầy đủ tất cả các loại rượu mạnh, thực phẩm đồ hộp, pho mai, mức, bánh kẹo nhập cảng không khác nào như một shop ở nước ngoài. Con đường phía trái dẫn đến ngả ba bờ sông là khu bán trái cây, nhưng nơi nầy bán không nhiều và ngon bằng ở đoạn đường ngắn Lê Ðại Hành tiếp giáp hai đầu với đường Nguyễn Huệ và Lê Lợi. Còn chợ Hàng Bông trái cây với khối lượng lớn thường bán sỉ cho những bạn hàng mua đi bán lại.

                Những dãy phố tiệm buôn của người Hoa xung quanh chợ có thông lệ mở cửa lúc 6 giờ sáng, nhưng thật ra vào giờ nầy chẳng mấy tiệm có khách vào mua. Không riêng gì tại chợ Mỹ-Tho mà hầu hết ngành thương mại ở các tỉnh thành lớn nhỏ tại Việt-Nam đều do người Hoa nắm giữ, đó chẳng qua vì họ có biệt tài buôn bán, tháo vác, cần kiệm, chịu cực giỏi và có tinh thần đoàn kết tương trợ lẫn nhau.

                Nói về chợ Mỹ-Tho năm xưa, mà không nhắc đến chợ đêm thì quả là một điều thiếu sót. Nhớ lại hồi nhỏ, các chị em tôi rất thích chợ đêm, vì quanh năm suốt tháng chỉ thấy chợ ngày, nên khi gặp chợ đêm thì lấy làm vui thích lắm! Hàng năm, chợ Mỹ-Tho chỉ có ba buổi chợ đêm vào ngày 27, 28 và 29 tháng chạp Âm Lịch. Trước Tết một tuần, những đoạn đường tráng nhựa thuộc phạm vi chợ, đầu tiên người ta thấy hai bên lề đường, cách khoảng xa xa có hai cái lỗ nhỏ sâu hơn nửa thước, được đào sẵn đối diện song song với nhau. Qua hôm sau, tất cả các lỗ đó đã được dựng lên những cây cột cao chừng sáu mét. Mấy ngày kế tiếp, những sợi dây chì được nối liền ở phần trên giữa hai cây cột, rồi có dây điện và sau cùng ở chính giữa có gắn một cái bóng đèn tròn. Ðó là diễn tiến của những giai đoạn để chuẩn bị đèn đuốc cho ba buổi chợ đêm vào cuối năm.

                Thực sự thì với những cái bóng đèn nhỏ được treo vỏn vẹn cách khoảng như thế, độ chiếu xa không đủ sức để tỏa sáng khắp các khu vực chợ rộng lớn, mà phải nhờ có sự phối hợp với những cột đèn đường và ánh sáng từ trong nhiều tiệm buôn dọc theo hai bên phố tăng cường thêm.

                So với chợ ngày, dĩ nhiên chợ đêm không náo nhiệt bằng. Những gian hàng bánh trái ăn uống buổi sáng, cùng nhiều sạp buôn bán lộ thiên khác trên đường Nguyễn Huệ, ở hướng đầu nhà lồng chợ được rút lui, nhường chỗ cho các gian hàng bán rượu, trà, bánh mức, kẹo, thèo lèo, chà là, quà cáp và pháo Tết .v.v. Nói đến các sạp bán pháo tiểu, pháo trung và pháo đại thì trẻ em con trai mê thích lắm! Hiệu pháo nổi tiếng nhất thời bấy giờ là Từ Quang và Ðiện Quang, với những phong pháo 100 viên, được bọc trong hộp giấy cứng dẹp hình chữ nhật màu đỏ, có giấy kiếng trắng bao bên ngoài. Một cạnh của chiều dài phong pháo để hở, thấy rõ một bên hai hàng dài “đít” pháo song song đều nhau là 50 cái lõm tròn nhỏ, với thuốc pháo có chất lưu huỳnh trong đó. Hai hiệu pháo nầy rất nhạy, nổ dòn lớn tiếng lại tan xác thành từng mảnh nhỏ như pháo của Hong-Kong.

                Ðặc biệt dọc theo giữa con đường ngang trước rạp hát Vĩnh Lợi, nhiều gian hàng căng dù che và trải những chiếc đệm thật lớn san sát bên nhau, bày bán hàng núi dưa hấu được phân loại lớn nhỏ, chất đống có thứ tự theo hình chóp nón trông thật đẹp mắt. Một vài trái dưa bị bể lòi ruột đỏ au nằm lăn lóc một góc trên mặt đất, bên cạnh một tấm thớt nhỏ với cây dao sắc bén dài bảng lớn. Thỉnh thoảng, người chủ hàng xẻ một trái dưa to thật ngon ra làm 10 đến 12 miếng đều đặn hình bán nguyệt, rồi sắp đứng trên một cái mâm nhôm theo hình tròn bên cạnh một dĩa muối và con dao nhỏ, để cho người nhà vác lên một bên vai đi bán dạo vòng khắp chợ. Dĩ nhiên, dưa bán lẻ từng miếng nhỏ có lời nhiều hơn là bán nguyên trái. Những người có tiền, hay khách hàng mua đi bán lại mua trên chục trái thì giá tiền lại càng rẻ hơn. Loại dưa thời bấy giờ chỉ có vỏ màu xanh lá cây đậm bóng láng và chỉ xuất hiện trong mùa Tết, chớ không có sọc xanh trắng như ngày nay có quanh năm. Cũng nơi khu vực nầy trên vỉa hè trước rạp hát Vĩnh Lợi, những sòng “bầu cua cá cọp” bất hợp pháp được đám con nít say mê bao quanh, trước lệnh chỉ cho phép chơi trong ba ngày đầu năm.

                Mấy tên lưu manh cờ gian bạc lận thừa cơ hội cho đồng bọn làm cò mồi, để chiêu dụ ăn tiền những người nhẹ dạ dễ tin một cách vô lương tâm, bằng trò chơi xảo thuật tráo bài ba lá. Mà khổ nỗi nạn nhân thua bạc đáng thương, lại có những người đàn bà bán rau cải, trái cây. Ban đêm họ trải chiếu, giăng mùng đơn sơ ngủ bờ ngủ bụi dưới mái hiên những tiệm buôn dọc theo phố để qua đêm, chờ sáng sớm hôm sau mối lái từ trong vườn mang hàng ra mua rồi bán tiếp. Có bà vì quá mê trò đỏ đen, nên bị thua sạch số tiền làm vốn buôn bán mà mặt mày thất sắc, xanh lét không biết tính sao trông thật tội nghiệp. Mặc dù mấy ông cảnh sát chợ thỉnh thoảng có đi tuần bố ráp các sòng cờ bạc. Nhưng khi ông Cò đi rồi thì nhóm phần tử xấu nầy lại vân tập trở lại, với hai con mắt “phía sau” để lừa bịp thiên hạ.

                Mỗi năm khi có chợ đêm, giới trẻ rất thích thú được dịp hẹn nhau đi dạo rong chơi, còn những người có gia đình thì tìm thấy được phần nào không khí mùa Xuân sắp đến, qua sự mua sắm chuẩn bị cho ba ngày Tết. Chợ đêm được kéo dài đến chừng 11 giờ thì vắng vẻ người đi. Lác đác đâu đó, người ta nghe được những tiếng pháo nổ đì đùng, mà lẽ ra lệnh cho đốt pháo được cho phép; kể từ chiều 30 Tết cho đến trễ lắm là hết ngày mùng 10.

                Nhắc tới chợ Tết là phải kể đến chợ hoa, mà chợ hoa ở thành phố lớn nhỏ nào cũng có. Mỹ-Tho thì nhóm ở ngoài vườn hoa Lạc-Hồng. Ðoạn đường dài khoảng hơn 100 mét từ góc đường Trưng Trắc cho đến Ty Bưu Ðiện, được ngăn lại cấm xe lưu thông kể từ ngày 20 tháng chạp. Nơi đây bày bán đầy cả một rừng hoa với đủ mọi chủng loại như: cúc, huệ, mồng gà đỏ, vàng, trắng, tím, nhất là mai vàng và vạn thọ được người mua chiếu cố nhiều nhất! Ngoài bông hoa còn có kiểng như tùng, đặc biệt để chỉ sự sung túc thì có kim quít sai đầy trái vàng tươi.

                Chợ hoa tấp nập nhất là vào buổi xế chiều trời mát cho đến tối, với dòng người nhộn nhịp mà phần đông là phụ nữ. Hàng ngàn chậu hoa đẹp ngũ sắc thuộc nhiều chủng loại, được sắp đầy tua tủa dưới mặt lộ để cho người mua tha hồ chọn lựa ngã giá. Nhiều nhánh mai vàng lớn nhỏ được người bán giơ cao lên để chào hàng. Có những cành mai chưa ra giêng thì đã nở rộ nên được bán với giá rẻ. Còn giới người Hoa bán tiệm trong chợ thường chuộng những gốc mai thật to đắt tiền, có nhiều nhánh bung xòe ra như cánh quạt, để gắn lên đó nhiều thiệp chúc Tết màu đại hồng, của người cùng trong ngành thương mại gởi tặng.

                Thường thì chợ hoa náo nhiệt và bán đắt nhất vào mấy ngày cận Tết. Một số người vì hoàn cảnh kinh tế khó khăn, nên đợi cho đến chiều 30 Tết mới đi mua hoa về chưng bày trong nhà, vì giờ nầy chợ hoa đã thu dẹp rất nhiều và thưa thớt thấy rõ, người bán thì bán tháo bán đổ để lo về nhà đón Giao-Thừa, người mua được dịp mua hoa rẻ mà vẫn ăn Tết vui vẻ trong ba ngày Xuân.

                Những ai có đi Chợ Mỹ-Tho vào buổi sáng 30 Tết thì đã biết, trên bốn đoạn đường ngắn bao xung quanh nhà lồng chợ, rừng người chen lấn chật cứng như nêm chưa từng thấy chỉ có thể nhích đi từ bước, tình trạng móc túi cũng thừa cơ hội nảy sinh ra không ít, vì sau Tết mấy ngày, chợ mới buôn bán trở lại bình thường, nên thiên hạ cần mua thêm nhiều nhu yếu phẩm dự trữ. Chừng 2 giờ chiều, chợ bắt đầu thưa người, từ bạn hàng trong nhà lồng chợ đến những người buôn bán bên ngoài đều đóng cửa, dọn dẹp về nhà lo chuẩn bị đón Giao Thừa. Xe chữa lửa của Sở Phòng Hỏa Cứu Hỏa bắt đầu tiến vào chợ cá ở bờ sông để rửa chợ cuối năm ăn Tết. Tất cả tiệm buôn tại chợ Mỹ-Tho đều ngưng thương mãi, phấn khởi làm tổng vệ sinh xách nước lau bàn, rửa ghế, chùi tủ, quét dọn nền nhà cửa sắt, đánh bóng lư hương tỉ mỉ để đón mừng Năm Mới.

                Mùng một Tết, chợ Mỹ-Tho hoàn toàn ngưng hoạt động. Nhan nhản ở những góc phố, nhiều chiếc xe hủ tiếu, nước đá bán đắt như tôm tươi mà phần đông khách của họ là trẻ em mặc áo quần mới, mặt mày hớn hở vui vẻ vì trong túi có được nhiều tiền lì xì mới toanh. Qua ngày mùng hai, chỉ có một số ít người bán rau cải dọc theo chợ cá. Ðến mùng ba, mùng bốn thì quang cảnh chợ đông đúc thêm, nhà lồng chợ bắt đầu mở cửa, nhưng các sạp bên trong bán vẫn còn rất ít. Ðến ngày mùng năm, mùng sáu, đa số tiệm buôn bán tại chợ đã khai trương hơn một nửa và đến ngày mùng mười thì chợ nhóm trở lại bình thường.

                Thời gian thấm thoát qua mau … Mới đây mà đã gần 40 năm dài xa Việt-Nam. Nhiều lần về thăm quê nhà, trở lại thành phố Mỹ-Tho thân yêu, nơi tôi sinh ra và lớn lên. Những lúc rỗi rảnh, tôi thường yêu cầu thân nhân chở đi vòng quanh khắp mọi nẻo đường lớn nhỏ để tìm lại dấu chân của mình năm xưa. Ði đến đâu, tôi cũng đều có cảm tưởng như đang phảng phất ít nhiều kỷ niệm của một thời thanh xuân đầy hoa mộng, không khỏi khiến tâm tư bồi hồi xao xuyến.

                Khi xe chạy ngang đại lộ Hùng Vương góc đường Ngô-Quyền, ngôi Trường “tà áo dài“ rất dễ thương Lê Ngọc-Hân bên nầy, đối diện gần đó là trường Nguyễn Ðình-Chiểu, mà ngày xưa tôi đã một thời theo học và ái mộ nhất! Quẹo trái sang đường Lê Ðại-Hành thì nhà cửa, tiệm buôn đã hoàn toàn khác hơn xưa. Ðến cuối đường rẽ sang phải là ngôi chợ hai tầng mới được xây cất sau nầy, mà bên trong rất ít người mua. Từ chợ cá đến những con đường xung quanh nhà lồng, chợ nhóm rất thưa thớt khác hẳn thời trước, người bán nhiều mà người mua thì lại quá ít. Tình thiệt mà nói, trầm ngâm đứng nhìn ngôi chợ “thiếu thiện cảm“ nầy, tâm trí tôi không khỏi liên tưởng đến hình ảnh ngôi chợ cũ thân thương đầy kỷ niệm với gia đình ba mẹ tôi đã một thời vang bóng: chợ Mỹ-Tho.

                Tiểu-Minh

                Bài viết đã được đăng trong Ðặc-San năm 2006, của Hội Ái-Hữu Nguyễn Ðình-Chiểu & Lê Ngọc-Hân Mỹ-Tho ở CA-USA, Nội San số Xuân 2007 của Hội Âu-Châu và trong website văn học nghệ thuật Nam-Kỳ Lục-Tỉnh tại CA-USA.
                Last edited by nguyenphuong; 08-15-2020, 03:54 AM.

                Comment


                • #9
                  Hoài niệm về Mỹ-Tho

                  Rửa chợ
                  Tiểu-Minh Germany


                  Nhớ lại hồi còn tấm bé với cái tuổi 11, 12 khi còn … ở truồng tắm mưa, mỗi lần nghe nói đến hai tiếng “rửa chợ“ là trong bụng tôi thấy vui mừng và nôn nao làm sao ấy. Người ta thường nói, con nít thích vọc nước, tắm nước quả không sai! Tôi đây cũng không ngoại lệ.

                  Hàng mấy thập niên trước năm 1975, gia đình Ba Mẹ tôi có tiệm bán trà đối diện Cửa Bắc tại nhà lồng Chợ Mỹ-Tho, mà chợ cá dọc theo đường Trưng Trắc gần đó được xây cất phía trên con sông Tiền. Cũng vì cái chợ cá náo nhiệt, nhưng dơ bẩn có mùi đặc biệt khó chịu nhất thành phố nầy, mà chính quyền địa phương mới cho đội phòng hỏa cứu hỏa, dùng xe chữa lửa mỗi tuần đến đây xịt rửa một lần, sẵn tiện rửa hết luôn những con đường đi, ngang dọc trong nhà lồng chợ và bốn đoạn đường ngắn bao xung quanh ngôi chợ.

                  Vào thời điểm cuối thập niên 50 và mãi đến sau nầy, ba trường tiểu học dạy Hoa ngữ cho con em người Hoa là Việt-Tú, Tân-Dân và Sùng-Chánh, mà anh chị em tôi đang theo học, mỗi tuần được nghỉ một ngày rưỡi, tức là chiều thứ bảy và trọn ngày chúa nhật. Riêng tôi, sau giờ tan học trưa thứ bảy là trong bụng cảm thấy vui thích lắm, vì buổi chiều được xem rửa chợ.

                  Chợ Mỹ-Tho ồn ào và sầm uất nhất vào buổi sáng. Nhưng khoảng từ một giờ trưa trở đi, người bán kẻ mua thưa dần thấy rõ. Ðến hai giờ thì các con đường xung quanh chợ, đều được dọn dẹp trống và xe cộ có thể lưu thông được, để lại một quang cảnh ngổn ngang đầy rác rưởi thật mất vệ sinh. Tội nghiệp cho những người phu quét chợ, phải cật lực gom hàng núi rác lên xe, kéo đến ngả ba bờ sông gần chợ cá đổ xuống đó cho nước cuốn trôi đi. Cũng vào giờ nắng cháy ngày thứ bảy hàng tuần, chiếc xe cứu hỏa to lớn đỏ chói như cục lửa khổng lồ, hụ còi inh ỏi dẹp đường hiên ngang từ từ tiến vào chợ. Ðám con nít đang đợi chờ vui reo chạy theo xe như đón tiếp xe hoa không bằng.

                  Ðiểm đậu cố định của xe chữa lửa là sát mé bờ sông, ngả ba đường đường Trưng-Trắc và Võ Tánh bên cạnh chợ cá. Ðội nhân viên rửa chợ trong bộ đồng phục màu đen rất oai, đầu đội nón bảo hiểm, chân mang giày ống cao su gần tới đầu gối, nhanh nhẹn nhảy xuống xe để chuẩn bị các thứ cho công việc sắp làm. Bọn con nít đứng xung quanh nhìn xem trầm trồ có vẻ thán phục lắm! Có đứa còn ngây ngô hỏi các chú bác rằng:

                  - Thưa chú, sau nầy lớn con có thể rửa chợ như các chú được hay không?

                  Ðội rửa chợ thường là sáu người cao lớn khỏe mạnh. Họ phân công làm việc một cách mau lẹ và ăn ý với nhau. Hai người tháo cái ống nước lớn đặc biệt gắn trên xe bằng cao su có đường kính chừng 15 cm, dài độ 5 mét xuống và nối liền một đầu vào máy bơm bên hông xe, còn một đầu có bao bọc lược lỗ lớn bằng kim loại cho thả xuống nước dưới sông. Nhưng họ còn cẩn thận buộc đầu nầy vào bên trong một cái thùng thiếc, có nhiều lỗ lớn đề phòng nghẹt nước bởi rác bám vào. Các nhân viên khác thì vác những bành ống nước bằng cao su, có bọc vải bố bên ngoài được cuốn tròn, đi thành hàng thẳng cách khoảng xa xa rồi đặt xuống đất lăn cho dài ra, sau đó vặn khớp nối lại giữa đầu dây của hai ống nước bằng kim loại thành một ống nước thật dài có hai đầu, một đầu được bắt chặt vào máy bơm nước ra bên hông xe. Ðâu đó xong xuôi rồi thì ông đội trưởng cầm cái vòi xịt nước bằng nhôm cứng, dài chừng nửa thước có một đầu túm nhỏ lại, vội vã đi lên đầu trên vặn chặt vào đầu ống nước. Lúc nầy thì đám con nít mừng vui hơn bao giờ hết, vì vòi nước sẽ bắt đầu xịt.

                  Vài nhân viên liền gọi to dây chuyền đến địa điểm chiếc xe cứu hỏa đậu, để tài xế cho nổ máy và nước từ dưới lòng sông bắt đầu được bơm lên chạy dài theo ống nước. Thật vui thích cho bọn trẻ, khi chăm chú nhìn thấy dây ống nước dài ở dưới đất đang dẹp lép, bỗng căng phồng tròn lên và nhanh chóng chạy dài. Dòng nước đầu tiên được phun xịt ra bao giờ cũng rất mãnh liệt. Mặc dù đã chuẩn bị tư thế cùng với hai nhân viên phụ đứng phía sau cầm dây ống nước, nhưng ông đội trưởng vẫn không khỏi bị mất thăng bằng, khi dòng nước mạnh trong vòi vừa xịt ra, khiến đám con nít đứng kế bên đó phá lên cười khoái chí.

                  Nơi chốn được xịt rửa trước nhất là khu bán thịt heo trong nhà lồng chợ. Tất cả chủ sạp đều đã dọn dẹp đóng cửa, nên trong chợ nhìn thấy vắng tanh và thật trống trải. Nền đất của mấy chục gian hàng bán thịt heo phải nói là … dơ như heo. Nhờ vòi nước chỉa chúi xuống đất với dòng nước cực mạnh, nên lớp nhớp nhúa dầy cộm trên nền gạch được bong mất sạch sẽ. Kế đến, đội rửa chợ kéo dây nước đến khu bán tạp hóa. Những con đường ngắn ngang dọc nầy tuy không dơ bẩn bằng khu bán thịt heo, nhưng cũng “đóng hờm“ không ít.

                  Tiếp theo đó là khu rộng lớn chiếm phân nửa nhà lồng chợ bán basar, giày dép và phần lớn là sạp vải thì đỡ vất vả hơn cho đội rửa chợ. Ống nước dài trên 100 mét được nối ráp lại bởi nhiều khúc, không đủ trải hết được trên mặt đất của tất cả những con đường đi trong nhà lồng chợ, vì thế mà cứ mỗi lần xịt rửa xong một đoạn đường dài, thì đội rửa chợ phải quay đầu ngược lại để đi sang con đường kế tiếp. Ðến vài đoạn đường sau cùng ngoài bìa, vì dây ống nước không đủ dài, nên một ông trong đội phải chạy ra xe đậu ngoài bờ sông yêu cầu tắt máy, đồng thời ông ta vác trở vào một bành dây ống nước để nối dài thêm. Dây ống khi đầy nước coi vậy mà rất nặng, ngoài ông đội trưởng dẫn đầu cầm vòi xịt nước ra, phía sau có đến hai ba nhân viên phụ nâng ống nước và kéo theo một cách khó khăn. Khối lượng nước khá lớn đã xịt ra, theo những chỗ thoát nước được xây hơi lõm dưới đất chảy xuống cống rãnh. Toàn bộ mặt đất nhà lồng chợ mới được xịt rửa xong dĩ nhiên thấy sạch sẽ mới lạ rất nhiều. Tuy nhìn còn ẩm ướt, nhưng đến sáng hôm sau khi nhóm chợ thì đã khô ráo và có bộ mặt mới thật tươi mát.

                  Sau khi xịt rửa xong nhà lồng chợ, máy xe cứu hỏa được tắt để máy bơm nước tạm ngưng hoạt động, trong thời gian nầy, đội rửa chợ kéo ống nước xẹp ra phía ngoài, để xịt rửa bốn đoạn đường ngắn bao xung quanh ngôi chợ Mỹ-Tho, mà đặc biệt khu vực chợ cá dơ bẩn và hôi thối nhất được xịt rửa sau cùng.

                  Trong lúc rửa chợ, thỉnh thoảng dòng nước đang xịt rửa bỗng nhiên chảy yếu lại thấy rõ, nhân viên rửa chợ thừa biết là đầu ống hút nước dưới lòng sông đã bị nghẹt. Thế là xe chữa lửa phải tắt máy để cho máy ngưng bơm nước. Họ kéo ống nước lớn có bọc cái thùng thiếc ở dưới nước lên, để gỡ lấy hàng khối rác bám đầy ra rồi thả trở lại xuống nước. Ngày cuối tuần rửa chợ nào gặp lúc nước lớn lên thì đội rửa chợ vui mừng, còn nhằm ngày trăng khuyết nước ròng, họ phải nối thêm một cái ống hút nước cho ra xa, tiếp xúc phía dưới mặt nước của dòng sông.

                  Lâu lâu, có khi đang lúc rửa chợ, gặp một vài dây ống nước nào đó đã cũ, nên vải bố bị mục lủng vài lỗ, tạo thành những tia nước nhỏ phun xịt cao ra phía ngoài, làm trò chơi và vui mắt cho đám con nít không ít.

                  Hàng tuần, trong suốt thời gian rửa chợ khoảng bốn tiếng đồng hồ, đám con nít phần lớn đi chân không, ở trần, mặc quần xà lỏn, không rõ từ đâu tới thường luôn có mặt, đi theo phía sau những nhân viên cầm ống và vòi xịt nước, mà xem một cách say mê. Hầu như đứa nào ít nhiều gì cũng đều bị ướt mình, nhưng bọn chúng lấy làm rất vui thích! Ðội rửa chợ phải công nhận là rất dễ thương, dễ chịu, cứ lo chăm chỉ thi hành nhiệm vụ của mình. Ðôi lúc có đứa đứng án làm cản trở tầm hoạt động, mà họ không hề rầy la lớn tiếng. Tôi nghiệp cho họ sau một buổi chiều làm việc nặng nhọc với nước dưới nắng cháy, mặt mày người nào cũng đỏ ngòm, áo quần ướt sũng, mà vẫn thấy họ luôn biểu lộ niềm vui và nụ cười trên nét mặt đầy sạm nắng.

                  Ngày xưa khi còn ở quê nhà, với bản tính thích “đi cho biết đó biết đây“, nên hầu hết các tỉnh thành lớn nhỏ ở miền Nam, từ cố đô Huế cho đến đất Mũi, đều có dấu chân của tôi đặt tới. Dãy đất Việt hình chữ S, vùng 4 ở miền Nam được xem là trù phú nhất với đất đai màu mỡ, dân cư đông đúc, ruộng lúa phì nhiêu, cây trái xum xuê, sông ngòi chằng chịt, tôm cá đầy sông. Chợ cá của các tỉnh thành thuộc vùng đồng bằng sông Cửu-Long, phần nhiều được xây cất gần bờ sông, để thuận tiện cho việc vận chuyển, nhưng đi đến bất cứ địa phương nào, tôi chưa hề nghe nói đến hai tiếng “rửa chợ“. Ðáng mừng thay duy nhất cho thành phố Mỹ-Tho nhiều cây trái là có chương trình “Rửa Chợ“. Hồi nhỏ tôi nghe nói, vào thập niên 50, một vị Tỉnh Trưởng nào đó đã chủ trương đề xướng làm sạch sẽ chợ Mỹ-Tho mà về sau, những ông Ðầu Tỉnh kế tiếp nhận thấy rất hợp lý nên cứ chiếu theo thi hành. Ðó cũng là một đặc ân cho thành phố đầy bóng mát, rất thích hợp khi mang tên Ðẹp và Thơm nầy.

                  Trong tất cả các chợ mà nhất là chợ cá, nếu không được quan tâm đến vấn đề vệ sinh thì phải nói là … hết ý kiến! Buồn thay cho “Hòn Ngọc Viễn-Ðông“ sáng chói của chúng ta ngày xưa, lại bị phải chợ cá Trần Quốc-Toản làm cho hoen danh ố tiếng. Nói đến chợ cá trên đường Trần Quốc-Toản ở Chợ-Lớn năm nào, tôi xin được phép miễn bàn!

                  Chợ nào được rửa năm xưa
                  Mỹ-Tho, thứ bảy buổi trưa, hàng tuần
                  .

                  Tiểu-Minh

                  Bài viết đã được đăng trong Bản Tin số 40, tháng 05 năm 2006, của Hội Ái-Hữu Nguyễn Ðình-Chiểu & Lê Ngọc-Hân Mỹ-Tho, website namkyluctinh ở CA-USA và báo Phật Giáo Viên-Giác số 164, tháng 04 năm 2008 tại Ðức-Quốc.Hoài niệm về Mỹ-Tho
                  Last edited by nguyenphuong; 07-30-2020, 07:03 PM.

                  Comment


                  • #10
                    Hoài niệm về Mỹ-Tho

                    Ai Về Mỹ Tho
                    Nhuan Nguyen - Tukwila, Washington - U.S.A.


                    Năm 1960, tôi đến Mỹ Tho tản cư, trọ học. Năm 1960, sáu mươi năm trước, bắt đầu của cuộc chiến ở miền Nam. Tôi không còn bình yên vui chơi thời thơ ấu ở quê nghèo, không còn căp sách đến ngôi trường làng. Đêm là trống, mõ, đào đường; ngày là phá mô, súng nổ…Con đường tôi đi học bị đào xới, là xác người đó đây, là hình nộm là truyền đơn. Người lớn mải mê với cuộc chơi sắt máu tương tàn, cho cái lý tưởng gì đó mà tuổi thơ tôi không hiểu nổi. Chiêc đò máy nhỏ ngược nước đưa tôi từ vùng quê lên Mỹ Tho ngót nghét 10 tiếng đồng hồ cho hơn hai-muơi-kí-lô-mét-đường- sông. Tôi trọ học ở khu chợ Vòng Nhỏ, Ba tôi mua một căn nhà trong hẻm. Tôi có 15 năm ở đây, dài hơn thời gian tôi ở quê tôi.

                    Năm 60, thị xã Mỹ Tho còn cổ kính, yên bình lắm. Đường phố còn leo lét ánh điện vàng vọt từ những bóng đèn tròn, mãi đến mấy năm sau mới thay bằng trụ điện neon. Bến phà Rạch Miễu nằm cuối đường Ô.B. Nguyễn Trung Long, chỉ có vài chiếc phà nhỏ một mỏ phà. Tôi ở trên đường Vòng Nhỏ, sau đổi là Pasteur, sau 75 thì tôi mù tịt không biêt là tên gì nữa rồi. Con đường Pasteur hầu như là địa giới thành phố, phiá Tây là nghĩa địa còn mồ mả hoang sơ và trường Bán Công mới cất. Từ đây lên đến cầu Trung An là đồng trống, có năm là bãi nhảy dù. Các con đường đa phần tráng nhựa nhưng hẹp vì lưu luợng xe cộ không nhiều, chủ yếu là cyclo đạp. Thành phố có công viên Dân Chủ và vườn Hoa Lạc Hồng. Sau 75, công viên Dân Chủ bị phá bỏ. Sao vậy? chắc là tội tình chi đó, tôi ngơ biết.

                    Còn gì nữa không? Mỹ Tho nhiều địa danh hay lắm: bót số Tám, Bến Tắm Ngựa, Battambang, Chùa Phật Ân (dân NĐC chắc rành!), Vuờn Ông Khánh, Trưng Trắc, Chợ Hàng Bông, Cầu Dầu, Chu Vi Đạo và…khu chị em ta : Hàng Còng (nam U 70 chắc biết chỗ này).

                    Tôi từ vùng quê về thị xã, từ cây đèn chong, cái un- cúi mỗi đêm leo lét,bập bùng để đêm đêm đèn “ngọn xanh ngọn đỏ, ngọn tỏ ngọn lu”. Tôi làm người thành phố từ đây. Bàn chân tôi không còn để trần chạy nhảy trên cánh đồng bao la, mùi lúa thơm thơm, bàn chân nhiểm phèn vàng cháy. Tôi về thành phố, chân xỏ đôi guôc vông; không gian cơ hồ hẹp lại, chen chúc quanh con hẻm, mùi hôi thúi nực nồng. Tôi nhớ mẹ, tôi nhớ quê tôi, tôi nhớ những thằng bạn đầu trần chân đất ngày nào, từng đêm buồn lắm.“Weekdays”, tôi đi học, về nhà tự nấu lấy bữa cơm. Mẹ ở xa, tự lực là chính từ những ngày lên tám, lên mười. Hồi đó chưa có bếp dầu,bếp gas, nồi điện. Ba mẹ tôi gởi từng bó củi, bao gạo, lon guigoz thức ăn theo chuyến đò lên. Con trai thường mắc cỡ khi đi chợ nên bữa ăn chỉ là canh khoai, mắm chưng hay khô cá. Vậy thôi, mà lớn lên, lớn lên từ cái đơn sơ. Bạn mình sống với mẹ cha, có bữa ăn ngon, mè nheo từng món, chê khen. Anh em tôi đâu có thể…Hồi đó, tôi nhớ mấy câu thơ, hình như không dành cho hoàn cảnh của mình,nhưng thich thich:

                    Ra đi là sự đánh liều
                    Nắng mai ai biết, mưa chiều ai hay!


                    Cái ăn, cái ngủ, cái học…do mình cả, cha mẹ đâu gần. Nhất ẩm, nhất trác…

                    Cuối tuần, tôi thường đạp xe xuống công viên Dân Chủ,xem rồng phun nước, đèn neon xanh đỏ đẹp lắm. Khán đài đại lộ Hùng Vương và những đêm chiếu phim, văn nghệ, hoà nhạc đông đảo người xem. Sân vận động và những trận đá banh, tôi mê mãi tới bây giờ.

                    Chiến tranh về gần thành phố. Tiếng đại bác ầm ì mỗi đêm, tiếng pháo kich nổ phiá trung tâm thành phố, những ngày Mậu Thân xé toạt thành phố không thương tiêc. Từ hoạn nạn, thành phố khập khiểng đi lên, trụ viễn thông bưu điện còn đó như một niềm tin. Các Anh tôi lần lượt vào quân trường, họ vui với đời lính, thỉnh thoảng cũng về, đôi giày saut thay đôi dép ngày nào. Tôi một mình…

                    Con hẻm tôi sống từ những tấm bia mộ lót làm đường đi, dần cũng lát gạch. Con hẻm tối thui, xóm lao động nghèo vẫn nghèo,vẫn chửi lộn, đánh nhau,cờ bạc. Con hẻm của nước tù đọng đen ngòm, trời mưa đêm chong đèn ngồi tát hoặc ngồi chồm hỗm trên giường học bài. Con hẻm cũng nhiều kỷ niệm buồn vui: Thằng học trò trọ học, đêm đêm có cô gái lén nhìn.

                    Tôi xa tuổi học trò lâu lắm, tôi nhớ thời ấy khi viêt lưu bút, khi tặng ảnh cho nhau, các cô thường thêm vài câu thơ cho tăng thêm phần “trầm trọng”:

                    Thuơng nhau mới tặng ảnh này
                    Để làm kỷ niệm những ngày xa nhau
                    Dù cho ảnh có phai màu
                    Xin đừng xé bỏ mà đau lòng người..


                    Cuối dòng, vẽ thêm mấy trái tim rướm máu cho thêm bi ai, áo nảo.

                    Tôi xa Mỹ Tho, chợt nhớ mấy câu thơ, ai đó viêt về Mỹ Tho:

                    Chợ Mỹ Tho mấy chiều nắng sớm
                    Bến Cầu Dầu ai tắm chiều nay
                    Ra đi còn nhớ chốn này
                    Mong ngày tao ngộ trả vay tấc lòng
                    Rồi đây những buổi chiều đông
                    Nhớ về quê cũ đôi dòng lệ tuôn..


                    Nghe sao mà thấm thiá…mà chan hoà tình cảm quê hương. (Cô Bình Trần, nhà ở khu Cầu Dầu có biết bài thơ này không nhỉ?)

                    Rồi thôi, ngày tháng cũng qua. Năm mười chín, tôi xong tú tài 2, vào sư phạm. Rồi cũng bỏ thành phố mà đi. Tôi cũng còn trở lại cho đến 75. Năm ấy, thành phố,tên đường, tên phố, tên phường thay đổi…Con người cũng thay đổi theo thời. Tôi trở lại quê nhà từ đó. Thành phố ấy tôi trọ đã mười lăm năm…

                    Nhuan Nguyen
                    https://www.facebook.com/groups/2863...4269263372885/

                    Comment


                    • #11
                      Hoài niệm về Mỹ-Tho
                      MÚA LÂN
                      Tiểu-Minh Germany

                      Hồi còn tấm bé, cứ mỗi lần Tết đến là tôi vui thích vô cùng! Mừng vui vì được dịp mặc áo quần mới còn thơm mùi vải, được Ba Mẹ cho những bao lì xì dầy cộm màu đại hồng, bên trong có nhiều tờ giấy bạc mới toanh trị giá khác nhau, được xếp lại làm ba còn thơm phức mùi mực in của kho bạc, để tha hồ ăn hủ tiếu trừ cơm, uống nước đá thoải mái mà không sợ bị la rầy. Cũng nhân dịp Tết, ba rạp ciné được phân biệt “đẳng cấp“ thấy rõ tại tỉnh lỵ Mỹ-Tho, đều thi nhau chiếu thêm vài xuất đặc biệt trong ngày những phim hay, để đáp ứng nhu cầu khán giả tăng vọt. Rạp Ðịnh-Tường có máy lạnh, ở dãy phố quán bar khang trang ngoài bờ sông đường Trưng-Trắc, thường có phim Pháp với những cặp tài tử nổi tiếng, được giới trung lưu và học sinh ái mộ. Rạp hát Vĩnh-Lợi trong chợ thì hầu như không thể thiếu những phim kiếm hiệp Ấn-Ðộ, mà phim càng đánh kiếm nhiều thì càng thu hút được đông đảo khán giả bình dân. Còn bên rạp Viễn-Trường xập xệ, kém vệ sinh trên đường Ðinh Bộ-Lĩnh đi xuống Chợ Cũ, chuyên chiếu phim “thập cẩm“ và hát lại nhưng phim cũ cho giới lao động xem. Rạp nầy chiếu thường trực hai phim chung một xuất, mà vẫn luôn ít khán giả chiếu cố.

                      Nhắc đến ba ngày Xuân thì phải nói đến pháo. Ngoài những loại pháo thông thường như pháo tiểu, còn gọi là pháo chuột, pháo trung, pháo đại, pháo bông thì có thêm pháo chà. Ðó là loại pháo có dạng sần sùi gần như hình bầu dục màu chocolat nhạt, lớn hơn ngón tay cái một chút, được quấn đơn sơ bằng miếng giấy dầu như cục kẹo, bên trong là một viên đá sỏi, được bao bọc bởi một lớp thuốc nổ có pha trộn với chất lưu huỳnh. Chất nổ nầy khi bị va chạm hay mạ sát, thì sẽ gây ra tiếng nổ nhỏ, có một ít tia lửa và khói xẹt ra tẹt-tẹt nghe rất vui tai. Mỗi một lần nổ thì chất thuốc sẽ tan biến hao mòn dần cho đến khi lòi ra viên sỏi. Loại pháo chà nầy, không được ưa chuộng nên ít người biết đến và thường bán trong các tiệm tạp hóa. Cách chơi là thảy viên pháo chà lên cao, cho rơi xuống nền gạch bông trong nhà, hay mặt đường bằng đá trên vỉa hè, hoặc dùng tay cầm viên pháo chà quẹt mạnh xuống nền đất cứng để cho gây ra tiếng nổ.

                      Nói đến pháo mà không nhắc đến lân thì quả là một điều thiếu xót. Vào cuối thập niên 50, không phải thành phố nào cũng có múa lân trong mấy ngày Tết. Ở Chợ-Lớn thì khỏi phải nói, vì có nhiều khu China-town của người Hoa. Tỉnh Mỹ-Tho lúc bấy giờ, xuất hiện hai đoàn lân múa rất hay và khá nổi tiếng. Ðó là đội của chú Lưu Chấp (劉執)toàn người Quảng-Ðông và đoàn của chú Ngô Văn Long, có xen lẫn một số người thuộc nước Triều-Châu.

                      Trưởng đoàn lân là chú Lưu Chấp, niên kỷ chưa đến tứ tuần, tóc húi cua, dáng người mập mạp khỏe mạnh, da dẻ hồng hào, có bộ râu chữ bát và cặp mắt trong sáng với lông mài đậm nét, biểu lộ một con người nhà võ đầy dũng khí. Gia đình chú Lưu Chấp ở đối diện với chợ cá, trong xóm lao động phía bên kia bờ sông. Hàng năm cứ vào đầu tháng chạp âm lịch, chú Lưu Chấp thường chiêu mộ, khoảng 20 con em gia đình người Hoa có mức thu nhập thấp, tuổi trung niên có, nhưng đa số là thanh thiếu niên để chuẩn bị cho đoàn lân trong dịp Tết. Hồi nhỏ, tôi cũng thường sang võ đường gần nhà chú để xem tập luyện võ nghệ. Ðó là một gian nhà thô sơ xập xệ hình chữ nhật rộng chừng 60 mét vuông, mái lợp bằng lá dừa gần như bị bỏ hoang. Giờ giấc tập võ thường là buổi chiều và tối, ngày cuối tuần thì giờ tập dài hơn.
                      Là một võ sư nổi tiếng trong giới Hoa-Kiều lúc bấy giờ tại thành phố Mỹ-Tho, chú Lưu Chấp truyền bá lại những đường nét võ thuật, cho các môn sinh của mình tùy theo tuổi tác và khả năng. Trong lúc tập dợt thì có tiếng trống và chập-chõa đánh nhịp theo từng hồi, ăn khớp với những động tác đường quyền, đường côn đang tung tăng nhảy múa một cách thật hào hứng của võ sĩ. Chú Lưu Chấp kiên nhẫn chịu khó chỉ dẫn cho môn đệ mình từng thế võ. Khi thì múa với những thế tự vệ một người, lúc thì hai người đánh nhau tay không, rồi bằng gậy gộc đến đao to kiếm dài, bằng cây mâu nhọn sắc bén, với cái thuẫn chống đỡ bằng kim loại, nhất là những màn công phá độc đáo của người võ sĩ hào hiệp, phải chống chọi với hai, ba, bốn người có hung khí bén nhọn thật nguy hiểm. “Văn ôn vũ luyện“, nên những màn “nhu thắng cương, nhược thắng cường“ nầy, cần phải dầy công tập luyện mới thuần thục, bởi nhiều đòn đánh trả quyết liệt thật ngoạn mục của người hiệp sĩ độc hành.

                      Ngoài phần huấn luyện võ nghệ cho tất cả thành viên, chú Lưu Chấp còn chỉ giáo cho một số đệ tử nghệ thuật múa lân, mà người múa cần phải khỏe và có sức chịu đựng dẻo dai, vì chiếc đầu lân khá lớn không phải là nhẹ. Còn người duỗi đuôi, hai tay phải biết cách căng ngang đuôi lân mà quạt lên thả xuống cho đều, để chạy nhảy nhịp nhàng nương theo kịp thời cùng người múa phía trước mình. Tội nghiệp cho người duỗi đuôi dài của lân, phải khum lưng nhìn xuống mặt đất suốt trong khi lân múa, vì thế mà hai người múa lân thường được thay thế liên tục. Tiếng trống múa lân được đánh nhanh, có phần hùng dũng hơn tiếng trống đánh từng chập, khi tập luyện võ nghệ. Gia đình Ba Mẹ tôi trước năm 1975 có tiệm buôn bán ở đường Trưng-Trắc gần chợ cá cạnh bờ sông. Trong những ngày cuối năm giữa màn đêm thanh vắng, tôi thường nghe tiếng trống tập võ của đoàn lân chú Lưu Chấp, từ xa xa bên kia bờ sông vọng lại, mà lòng cảm thấy rộn ràng vì ngày Tết sắp đến.

                      Ðoàn lân thứ nhì được đánh giá là hay hơn của chú Lưu Chấp, từ phong cách múa lân cho đến đánh võ, cũng như nghệ thuật lúc lân leo lên cây tre cao “ăn tiền“. Trưởng đoàn là võ sư Ngô Văn Long tuổi chừng hơn ba mươi, dáng người thon và cao ráo trông có nét hào hoa xen lẫn một chút phong trần. Với khuôn mặt dễ nhìn, mái tóc có phần quăn phía trước. Nhà chú ở trong một con hẻm sâu gần cuối đường Ngô Quyền, đối diện với bên hông tường rào Ty Công An. Sinh hoạt thường nhật của chú là nghề “Sơn-Ðông mãi võ“. Buổi sáng chú thường bày một cái sạp nhỏ giữa chợ đông người để rao bán một số cao đơn hoàn tán do chú bào chế. Cũng như chú Lưu Chấp, mặc dù chánh gốc là người Hoa, nhưng sau nhiều năm sống ở Việt-Nam, chú Ngô Văn Long nói tiếng Việt tuy không văn chương, nhưng rất rành mạch.

                      Gia đình Ba Mẹ tôi ngày xưa ở tại chợ Mỹ-Tho. Hồi nhỏ tôi rất thích xem chú Ngô Văn Long, biểu diễn những màn võ thuật quảng cáo bán thuốc. Ðể thu hút người xem, vây quanh đông đảo gian hàng của chú thành một hàng rào vòng tròn lớn, khi thì chú dùng một thanh sắt dẹp, tự đập mạnh vào ngực mình vài phát đến cong, rồi quăng xuống đất cho mọi người xem, rồi chú đập ngược thanh sắt cong đó cho thẳng lại. Liền sau đó, chú giới thiệu loại thuốc rượu uống trị tức ngực. Lúc thì chú co những ngón tay bên trái lại, tay phải dùng dao xếp hiệu con chó sắc bén, can đảm cắt mạnh nhiều lằn trên mắt những ngón tay, cho chảy máu ròng ròng ra trông thật đáng sợ, rồi chú xé lớp giấy kiếng mỏng trên miếng thuốc dán hình vuông, có thuốc màu đen sền sệt hình vòng tròn, đắp ngay vào vết thương để cầm máu, để chứng minh cho sự công hiệu nhanh chóng của thuốc dán chú bán. Ngoài ra, chú còn ăn vào miệng ngọn lửa đang cháy ngùn ngụt, để làm hỏa lò cho người khác mồi thuốc hút và diễn những trò tạp kỹ như: Vừa chạy xe đạp một bánh vòng vòng, chú vừa thảy cùng lúc ba, bốn cái vỏ chai không lên xuống, bằng nhiều kiểu khá đẹp mắt một cách thật tài tình! Cứ mỗi một màn diễn xuất, chú đều thu hút được đông đảo người xem và nhận được những tràng pháo tay cổ võ. Sau đó, chú lợi dụng thời cơ đông người xúm quanh, rồi lớn tiếng giới thiệu những loại thuốc của chú bán ra và thường được một số người chiếu cố, nhưng cũng nhờ cái miệng ăn nói có duyên, kiểu “quảng cáo hát xiệc Sơn-Ðông“ của chú nữa! Tuy nhiên, phần lớn đông đảo người vây quanh gian hàng chú, nhất là đám con nít chỉ thích xem chú diễn trò cho đã mắt thôi chớ không có mua thuốc. Mấy bà, mấy cô đi chợ thường là xem xong một màn biểu diễn nào đó rồi tản đi, nên số người còn đứng lại xem tiếp giảm nhiều thấy rõ. Cứ sau một đợt bán thuốc, chú rao lớn cho biết là sẽ diễn màn xiệc nhỏ mới để thu hút trở lại người xem. Chợ Mỹ-Tho rộng lớn và khá sầm uất vào buổi sáng. Hàng ngày chú chỉ bán thuốc đến chừng 11 giờ là dọn dẹp về nghỉ.

                      Như bên chú Lưu Chấp, mỗi năm trước Tết Nguyên-Ðán chừng một tháng, chú Ngô Văn Long cũng quy tụ một số đệ tử, tập dợt võ nghệ múa lân để có thu nhập trong ba ngày Tết. So sánh với lối đánh võ của môn phái chú Lưu Chấp, thì bên chú có phần tuyệt chiêu hơn, nhất là khi đánh đông người, hung khí choảng nhau kịch liệt khiến người xem phải nhiều phen hốt hoảng. Ðoàn lân của chú có chừng 20 thành viên, một điểm đặc biệt là có thêm hai cô gái trẻ đẹp nữa, đó là cô Trân, dáng người cao hơn cô Dung một chút. Hai nữ võ sĩ nầy mặc bộ đồ đen ngắn tay viền đỏ, có hàng nút áo ở giữa bằng vải cũng màu đỏ như kiểu áo Xẫm Hong-Kong trông khá nổi bật và dễ thương.

                      Sau khi nổ lực tập luyện trước Tết, đoàn lân của chú Lưu Chấp và Ngô Văn Long bắt đầu xuất hành vào sáng Mồng Một. Theo nghi lễ truyền thống thì đoàn lân trước tiên phải vào chùa Ông ở cuối đường Trưng-Trắc, gần Ty Công-An để bái Tổ đầu năm, sau đó đoàn lân diễn hành một vòng lớn khu vực chợ Mỹ-Tho, để ra mắt chào mừng đại chúng rồi trở về nghỉ ngơi. Qua ngày mồng hai thì đoàn lân mới khởi sự đi múa kiếm tiền. Hai đoàn lân lượn quanh riêng biệt ở khắp các phố phường, nơi có nhiều tiệm buôn bán của người Hoa để chào mời múa lân. Nhìn đội hình đoàn lân diễn hành trên đường phố phải nói là rất oai vệ. Phần lớn thành viên đều có cái đầu tóc mới hớt ngắn và mang giầy đen bằng vải, vận quần dài đen bóng tựa như xa-ten túm ống, ở giữa phía ngoài hai bên có may hai lằn sọc trắng dài từ trên xuống dưới. Áo thun tay ngắn trắng tinh bỏ vô quần, phía sau có in logo của đoàn lân màu đỏ tươi bằng Hoa ngữ. Ði đầu là một thanh niên lực lưỡng, hai tay cầm chắc cây cờ thật to chịu vào bụng, với danh hiệu đoàn lân đang tung bay phất phới trong gió Xuân. Theo sau là những lá cờ nhỏ hơn đủ màu sắc với chữ Hoa biểu dương cho khí thế võ đường. Tiếp đó là con lân đang nhảy múa lượn khúc, bên cạnh có ông địa mặt tròn đỏ như say rượu, mắt xếch lên, miệng cười rộng toe toét trong chiếc quần dài màu lam, áo đỏ dài thùng thình, bụng phệ, một tay cầm chiếc quạt phe phẩy, với cái đầu xanh dương trọc lóc trông thật vui mắt, đang tung tăng đùa cợt giỡn vờn trước mặt. Kế đến là tay trống có hai người khiêng theo, không ngừng đánh liên tục một cách hăng hái, hòa hợp cùng nhóm người đánh chập-chõa bên cạnh làm vang dội cả phố phường. Phía sau là những người khuân vác một số binh khí, gậy gộc, nắp bàn tròn bằng gỗ làm phương tiện cho lân múa. Hai người đi bộ cuối cùng thì vác một cây tre lớn dài chừng sáu mét, dùng cho lân leo khi múa ăn tiền.

                      Thành phố Mỹ-Tho tuy rộng lớn, nhưng phạm vi hoạt động của đoàn lân chỉ xung quanh các phu phố ngắn ở chợ, chạy dài cho đến dãy phố đường Trưng-Trắc ngoài vườn hoa Lạc-Hồng và đối diện bên kia bờ sông là các tiệm buôn, vựa bán nông sản phẩm, nếu có chăng thì xuống tới Chợ Cũ là cùng, đó là những đường phố nhiều thương hiệu của người Hoa, có nhu cầu mời đoàn lân đến cửa tiệm của mình múa lấy hên, cầu cho Năm Mới làm ăn phát tài.

                      Ðoàn lân đi tới đâu, đông đảo người hiếu kỳ thường đi theo xem đến đó, mà đa số là trẻ em, vì một năm mới có múa lân một lần. Thường thì chủ tiệm nào muốn mời lân múa, đều được người đại diện đến liên lạc cho ngày giờ hẹn. Cờ treo tiền múa lân chỉ có tiệm Ðại-Sanh bán mà thôi! Tiệm nầy ở dãy phố mé sông đường Trưng-Trắc gần chợ cá, kế bên tiệm bán tạp hóa lớn Quảng Nguyên Hòa ở góc ngả ba đường Võ Tánh, nơi đây đặc biệt chuyên bán tất cả những loại hàng thuộc về múa lân và tang chế. Cờ treo tiền là một loại cờ vải đủ màu hình chữ nhật, có khổ rộng chừng 100 cm x 30 cm. Trên lá cờ luôn có bốn chữ Hoa lớn đen bóng, được viết bằng bút lông với mực Tàu khá mỹ thuật, biểu hiện cho “tinh thần thượng võ“, mà một bên chiều dài được xỏ vào một thanh tre để cầm treo lên.

                      Gần đến giờ lân tới múa, gia chủ thường buộc nối thêm một khúc cây với cờ cho đủ dài, để đưa ra phía ngoài lan-can trên lầu. Ðầu ngọn cờ có một sợi dây dài thòng xuống, với những tờ giấy bạc được xếp dài buộc cách khoảng đều nhau. Phần cuối cùng của đầu dây phía dưới có treo một cây xà-lách tươi để cho lân ăn. Ðược biết, những tờ giấy bạc buộc theo cờ, là tiền bạc trăm để trả thù lao cho đoàn lân. Tiệm buôn nào khá giả treo tiền thưởng hậu hỉ, thì được đoàn lân múa lâu và biểu diễn võ thuật nhiều hơn! Thường thì đoàn lân bắt đầu đi múa từ hai giờ trưa cho đến bảy giờ tối. Buổi sáng nếu có xuất hiện chăng chỉ là dạo xung quanh một vòng thành phố, để phô trương lực lượng với hy vọng sẽ tìm được nhiều khách hàng.

                      Sau khi biết được giờ hẹn, đoàn lân tiến đến địa điểm hoạt động của mình. Từ xa, quần chúng nhìn thấy được tiệm buôn nào, có treo tiền bằng cờ múa lân trên lầu cao thòng ra phía ngài trời, họ liền lũ lượt kéo nhanh tới trước cửa tiệm đó dành chỗ tốt để chờ xem, xếp thành hai hàng dài hai bên chiều ngang trên vỉa hè, chừa trống khoảng lớn ở giữa cho đoàn lân vào. Liền sau đó, ông địa bụng bự tay cầm quạt và lân tiến nhanh tới, cúi đầu lạy dài từ trong kéo ra ngoài. Tiếng trống được đánh đều đều nhanh và nhỏ lại hơn bình thường thấy rõ. Tiếp theo, lân hùng hổ nhảy cao lên hụp xuống múa một cách hăng say, để hòa hợp với tiếng trống được đánh thật hùng hồn, giữa tràng dây pháo Từ-Quang đang bốc khói nổ giòn đì đùng tan xác. Kế đến, lân bước vào nhà tiến đến bàn thờ nhỏ thổ địa đặt dưới đất lạy thổ thần. Nơi đây, hai bên có hai chậu bông vạn thọ vàng tươi, với khói nhang bay thơm nghi ngút. Lân ngồi trầm ngâm lột quít đường đang cúng thần tài ăn một cách ngon lành, rồi vừa xả vỏ quít tung tóe, vừa rút lui ra ngoài trước cửa tiệm nhảy múa tung tăng một chập. Sau đó, lân nằm xuống ra vẻ mệt mỏi chớp mắt ngủ một chút. Lúc bấy giờ, người ta mới có dịp quan sát rõ được đầu lân khá lớn, với nét đẹp ngũ sắc của nó. Lân có cái sừng cong cong màu đen gồm những khúc từ lớn tới nhỏ, ở giữa sừng có buộc ngang một cái nơ làm duyên bằng vải màu đỏ đậm. Cái miệng khá rộng với hàm râu dài và bạc phía dưới dễ nhìn. Ðặc biệt cặp mắt lân khá to và thật đẹp, nhất là bộ lông mi đen láy dài và cong như cô gái xuân thì, mỗi khi chớp chớp mắt là lúc lân đẹp nhất! Ðuôi lân dài chừng ba thước được may từng hàng ngang ghép lại đều nhau, bằng nhiều mảnh vải nhỏ hình tam giác đủ màu sặc sỡ. Từ cái đầu cho đến phần cuối đuôi lân, tất cả những chỗ giữa hai màu sắc khác nhau, đều có may những lằn viền bằng gòn trắng tinh, làm tăng thêm vẻ đẹp quý phái cho lân. Ở giữa phía sau ót lân có ấn hai chữ Hoa lớn được dịch theo danh từ Hán-Việt là “Tỉnh Sư“, có nghĩa là lân đang thức. Trước khi lân nghỉ mệt thì lạy một lần nữa, hai người múa lân nhanh nhẹn tách rời khỏi lân, nhẹ nhàng đặt đầu lân xuống đất và cẩn thận xếp đuôi lân lại theo hình chữ Z, để ở góc gần nơi nhóm người trong đoàn đang ngồi bệt dưới nền gạch, rồi thủ vài thế võ bái Tổ chào mọi người.

                      Chuyển sang phần đánh võ, những màn múa đơn tay không và bằng gậy gộc, dao kiếm được diễn trước, sau đó dần đến các màn đấu hai người, ba rồi bốn, năm người với nhau bằng các loại binh khí cổ đại. Những màn hấp dẫn nhất gây được sự chú ý cho người xem, là các thế võ thủ và công phá đột xuất của một, hay hai người mà chống chế với số đông, đã được người xem tán dương nhiệt liệt. Trong lúc lân múa và nhất là lúc đánh võ, làn sống người thường hay chen lấn xô ra phía trước để được xem cho rõ hơn, nên làm hẹp lại phạm vi hoạt động của hiện trường, đều bị mấy anh võ sĩ giữ trật tự dùng gậy tròn dài cản đẩy ngược trở lại.

                      Sau phần đánh võ là màn múa lân ăn tiền. Ðông đảo người đang đứng xem, liền hướng mắt nhìn lên ngọn cờ trên cao treo tiền lủng lẳng thòng xuống. Nhiều người thắc mắc còn đếm ngầm trong miệng xem được bao nhiêu tờ “giấy xăng“? Thường thì từ 10 đến 15 tờ giấy 100 hay 200 đồng thời bấy giờ, tùy theo mức độ buôn bán khá của chủ tiệm mời lân đến múa lấy hên đầu năm. Lúc bấy giờ, cây tre dài đặt ngoài lề đường phía sau đoàn lân được đưa chuyền vào, dựng thẳng đứng lên chính giữa vỉa hè trước cửa tiệm buôn, mà phần trên hơi nhỏ hơn phía dưới, giáp gần với ngọn cờ treo tiền, có xỏ một cây sắt ngang dài chừng 50 cm được quấn vải để cho lân đứng múa trên đó. Ðầu dưới cây tre nầy thì đặt vào cái lỗ tròn vừa khít ở trung điểm, của một tấm gỗ dầy hình tròn để dưới đất, làm nền tảng chắc chắn được nhiều bàn chân võ sĩ đạp lên, cùng những bàn tay rắn chắc nắm giữ chặt thân tre. Người võ sĩ leo cây múa lân ăn tiền, đã được huấn luyện một cách chuyên nghiệp. Bên sư phụ Lưu Chấp thì chú chỉ giáo cho đệ tử trình diễn màn nguy hiểm này. Còn đoàn của chú Ngô Văn Long khi lân leo cây múa ăn tiền, đều do đích thân chú đảm trách. Quàng tay sát nách chiếc đầu lân to lớn, nặng nề, được buộc thắt vòng bằng một sợi dây vải phía trong miệng lân. Bỏ giày ra, chú Ngô Văn Long kẹp hai bàn chân và hai tay ôm lấy thân tre, vừa thót chú vừa leo một cách nhẹ nhàng lên tới đỉnh rồi đứng trên thanh sắt ngang, hai nhượng chân chú kẹp cứng vào đầu ngọn tre, hai tay giữ lấy đầu lân vùng vẫy múa máy từng nhịp theo điệu trống hùng dũng. Khi thì chú đưa cao lên, lúc thì chú hụp đầu lân xuống, người duỗi đuôi lân được người đứng dưới đất cõng trên vai, dùng tay nắm chặt hai bàn chân để giữ thăng bằng đi vòng vòng theo đầu lân đang múa phía trên.

                      Lúc lân leo múa trên cây để ăn tiền là một màn hấp dẫn có thể nguy hiểm đến tính mạng cho người múa, vì thế nên luôn làm cho đông đảo người xem đứng phía dưới vừa thích thú lẫn hồi hộp không ít. Trong lúc đang múa lân trên cao, vài lần chú Ngô Văn Long chỉ đứng một chân, còn chân kia chú dang rộng ra rồi co giãn theo nhịp trống. Ðến màn xuất sắc nhất và cũng là màn làm cho người xem phải sợ đến đứng tim, khi chú tra cái bụng thon vào đầu ngọn tre, hai tay chú cầm đầu lân đưa ra lúc lắc múa, còn hai chân cũng duỗi thẳng ra như đang bay. Bất ngờ chú giả bộ trợt nghiêng cái bụng sang một bên cho cả thân mình rơi thật sự xuống đất, ngay sau đó nhanh như chớp, một tay chú móc giữ lấy đầu lân, còn cánh tay kia kịp thời quàng lấy thanh sắt ngang chữ thập, để tự cứu lấy sinh mạnh mình rồi trèo lên múa tiếp, trước những tràng pháo tay vang dội nhiệt liệt, của đông đảo người xem phía dưới. Ðó là màn nghệ thuật độc đáo và ngoạn mục nhất của đoàn lân Ngô Văn Long được công chúng ngợi khen và thán phục. Sau màn diễn đầy căng thẳng nầy, lân múa thêm vài đường nữa rồi bắt đầu ăn tiền. Trước hết, lân ngẩng đầu lên tìm cây xà-lách treo ở phía dưới cờ, cho vào chiếc miệng rộng rồi xé ra từng miếng quăng tứ tung xuống đất. Tiếp đến là chuỗi dây tiền buộc cách khoảng đều dính lại, được lân kéo vào miệng ăn, cho đến sau cùng là cây cờ treo tiền thì lân ngậm ngang. Vùng mình múa vẫy theo tiếng trống thật oai phong một lúc, rồi lân thả cây cờ treo tiền xuống đất. Sau đó, chú Ngô Văn Long chuyền chiếc đầu lân chúi xuống, khi cái đuôi dài được buông thả từ từ để cho người trong đoàn ở dưới đất giữ lấy. Với thân mình đẫm ướt mồ hôi và sắc mặt mỏi mệt, ngồi kẹp nhượng chân vào thanh sắt ngang trên ngọn tre, chú đưa hai tay cao lên tươi cười chào mọi người phía dưới, bất thần ngã thẳng lưng xuống song song dọc theo thân tre, rồi hai bàn tay nắm chặt nhanh chóng lộn ngược ba vòng thì đã đứng xuống mặt đất, chú đưa hai tay lên cao chào mọi người một lần nữa, giữa những tràng pháo tay nồng nhiệt đầy lòng ngưỡng mộ. Sau đó, lân và ông địa múa thêm một hồi thì lạy cám ơn chủ nhà rồi từ giã đi sang nơi khác.

                      Có một ít tiệm buôn bán nhỏ không có lầu cao, nhưng muốn cầu lộc cho Năm Mới buôn may bán đắt cũng mời lân đến múa. Trong trường hợp nầy thì lân không cần phải leo bằng cây tre dài ăn tiền, mà chỉ đứng múa thoải mái trên tấm gỗ dầy hình tròn, được nhiều người khiên đỡ giữ thăng bằng trên vai.

                      Hồi nhỏ, tôi rất mê thích xem múa lân trong mấy ngày Tết, mê thích đến đổi quen thuộc và biết cả cách đánh trống nữa! Hàng năm, lân chỉ múa đến mồng mười tháng giêng. Gia đình Ba Mẹ tôi buôn bán tại chợ, vì thế cứ mỗi lần nghe tiếng trống văng vẳng bên ngoài vọng vô nhà, tôi hầu như luôn sẵn sàng tuôn chạy ra ngoài tìm đoàn lân để hòa theo làn sóng người đi xem. Ðặc biệt nhất là ngày mồng sáu khi tiệm buôn khai trương, Ba Mẹ tôi đều có thỉnh cầu đoàn lân đến múa, nên tôi được dịp đứng ngoài balcony trên lầu, hãnh diện cầm cờ treo cho lân múa ăn tiền mà cảm thấy vô cùng thích thú!

                      Trong suốt thập niên 60, thời kỳ mà hai đoàn lân được xem là vàng son nhất. Về sau, thời cuộc biến chuyển đổi thay, đời sống khó khăn thay đổi, nên hai đoàn lân đã từng “vang bóng một thời“ ở thành phố Mỹ-Tho không thấy nữa! Chú Ngô Văn Long sau đó bỏ xứ đi mất! Còn chú Lưu Chấp có một quày bán Ðông y dược, hay nói đúng hơn là chiếc bàn nhỏ đặt sát tường trên vỉa hè, ở giữa cạnh hai tiệm bán basar Phước-Mỹ và tiệm vàng Minh-Tân của gia đình anh Trương Ðức, phu quân chị Nguyễn Thị Trung, cựu thủ quỹ Hội Ái-Hữu hai trường Lê & Nguyễn bên CA-USA. Trên bàn bày bán những lọ thuốc rượu thoa bóp đau nhức, cùng một vài loại cao đơn hoàn tán do chú pha chế. Phía trên có dựng một tấm bảng quảng cáo, bằng song ngữ Hoa-Việt với nét chữ to đùng, ở giữa có chưng một tấm hình bán thân của chú lúc còn thanh niên. Những ai bị trật cổ, loại tay, trẹo chân, bong gân chú đều có khả năng chữa trị được tại chỗ. Mỗi lần đi ngang qua đường Nguyễn Huệ gần rạp hát Vĩnh-Lợi, nhìn chú Lưu Chấp ngồi trầm ngâm bên cạnh gian hàng ế ẩm của mình, tôi nhận thấy được qua đôi mắt trong sáng, vẫn còn hằn in trên nét mặt đầy nghị lực của chú ngày nào mà đầy lòng cảm thông.

                      Gần bốn thập niên lưu lạc nơi xứ người, trong những dịp Tết Âm Lịch, thỉnh thoảng tôi có mục kích được nhiều màn múa lân của cộng đồng người Trung-Hoa và Việt-Nam ở các quốc gia. Nhưng đó chỉ là hình thức tượng trưng cho mùa Xuân nơi quê nhà mà thôi! Từ cách đánh trống cho tới nghệ thuật múa lân hầu như không có, chớ đừng nói đến biểu diễn võ thuật. Bất chợt, không khỏi khiến tôi bồi hồi nhớ lại, một thời xa xưa tuổi trẻ đầy hoa mộng của mình nơi quê nhà Mỹ-Tho, mỗi khi Tết đến thường thích đi xem múa lân.

                      Nhớ đến múa lân năm xưa
                      Gợi bao kỷ niệm những mùa Xuân qua.

                      Bài viết đã được đăng trong báo Viên-Giác số 156, tháng 12 năm 2006 tại Ðức-Quốc, Nội San số Xuân năm 2008, của Hội Ái-Hữu NÐC & LNH Mỹ-Tho Âu-Châu ở Paris-France và website namkyluctinh ở CA-USA.
                      Last edited by nguyenphuong; 09-25-2020, 07:03 PM.

                      Comment


                      • #12
                        Hoài niệm về Mỹ-Tho
                        THỊT BÒ VIÊN
                        Tiểu-Minh - Germany


                        Vào năm 1961, tỉnh lỵ Mỹ-Tho mới mở một câu lạc bộ giải trí, được xem là rộng lớn và khang trang nhất thành phố, mà chủ nhân ông là một Hoa-Kiều. Họ và tên ông dịch đúng danh từ Hán-Việt là Châu Diệu, đọc theo âm tiếng Quảng-Ðông là Chấu Diều và từ đó về sau, người ta quen gọi hội quán Châu Diều, vì câu lạc bộ của ông không có mang bảng hiệu.

                        Ðịa điểm của khu giải trí nầy nằm song song bên trong, gần với dãy bar ăn uống nổi tiếng dọc theo bờ sông trên đường Trưng-Trắc, đối diện phía bên hông lại là … khám đường. Từ khi có hội quán Châu Diều, tiệm thụt billard “nổi đình nổi đám“ có nền nhà khá cao ở đầu góc đường vườn hoa Lạc-Hồng giảm khách thấy rõ. Khuôn viên của hội quán Châu Diều gần như hình vuông, rộng lớn khoảng bằng 1/3 cái sân đá banh, xung quang có bốn bức tường kiên cố cao hơn 2 mét và chỉ có một tầng trệt, với mái nhà cao lợp thiếc, nên buổi trưa nắng rất nóng nực. Nơi nầy có mười hai bàn billard, đây cũng là nguồn huê lợi thu nhập chánh của hội quán. Hai bàn đá banh đặt phía trước gần quày thu tiền, bên trong cũng là chỗ ở của gia chủ ở góc trái khi từ cửa bước vào, nơi mà hình như lúc nào, người ta cũng thấy ông Châu Diệu mặc áo thung lá, đeo kính trắng ngồi xem sách hoặc đọc báo Tàu để … nhìn đồng hồ, chờ thu tiền bàn của khách đến giải trí. Kế đó là hai bàn ping-pong rất đẹp màu đen có viền sơn trắng đánh rất là “ngon“!

                        Cũng trong năm khai trương đó, để quảng cáo cho hội quán, nên ông Châu Diệu ngoại giao mời được vài danh thủ bóng bàn, của đảo quốc Hong-Kong xuống Mỹ-Tho, để thi đấu với các tuyển thủ của Sài-Gòn lúc bấy giờ như Huỳnh Văn Ngọc, hai anh em Lê Văn Tiết và Lê Văn Inh. Sau đó, mặt đứng chiều dài của hai cạnh bàn được sơn viết lên mấy dòng chữ lưu niệm, để tăng thêm phần giá trị của bàn ping-pong. Còn những tấm hình chụp chung trong cuộc tranh tài, thì được trịnh trọng lồng trong khung kiếng treo trên tường, bên phải quày tính tiền để phô trương cho thiên hạ xem. Lúc bấy giờ ông Châu Diệu ở tuổi ngũ tuần, dáng người cao và ốm, nhưng khỏe mạnh. Ðược biết, ông là một tay vợt bóng bàn có tiếng trong giới Hoa-Kiều. Hai đứa con gái ông trạc tuổi 18, diện mạo dễ nhìn, cao gần bằng nhau là chị Cẩm-Vân và Cẩm-Hà cũng thuộc hàng cao thủ nữ đội bóng bàn của thành phố Mỹ-Tho vào thời đó.

                        Hồi nhỏ khi đi học trường Hoa văn, bóng rổ thì tôi không thích mấy, nhưng bóng bàn phải nói là tôi chơi trội hơn các bạn và thường đoạt giải, mỗi lần có thi đấu ở nhà trường. Sở dĩ tôi đánh bóng bàn khá là nhờ ở nhà, anh chị tôi dùng bộ ván ngủ có đánh vernis màu da bò rất láng, khuôn khổ và chiều cao cũng na ná bằng bàn ping-pong, chỉ việc giăng lưới kẹp vào bộ ván ngăn đôi ở giữa, rồi sắm vợt mua banh thêm nữa thì tha hồ mà đánh. Vào thời điểm đó, hội quán Châu Diều ngay từ lúc đầu, đã có tổ chức hội bóng bàn Mỹ-Tho, nhưng chia ra làm ba đội A, B và C tùy theo tuổi tác và khả năng. Tôi liền gia nhập đội C, đội được xem là nhỏ tuổi và dở nhất so với hai đội đàn anh đàn chị. Hàng tháng hội viên phải đóng tiền và mỗi tuần, được đến tập dợt hai lần vào buổi chiều. Thỉnh thoảng cuối tuần, hội Mỹ-Tho có mời các hội tỉnh khác đến thi đấu giao hữu, nhưng đều chỉ dành cho đội A đương đầu, trong đó có anh Thiện học ở trường Nguyễn Ðình-Chiểu, con của nhà sách Nam-Hùng ở đường Trưng-Trắc gần dốc Cầu Quây. Tôi còn nhớ, anh Thiện có cú “triêu đờ-que“ bất ngờ như trời giáng, mà các đối thủ anh khó đỡ được. Riêng tôi, từ khi được xem trận đấu thật xuất sắc và ngoạn mục của các danh thủ Hong-Kong, tôi đã thấy mê và bắt chước đổi lại cách cầm “vợt thìa“, một lối cầm vợt khác lạ, nhưng thường thấy của người Hoa.

                        Hội quán Châu Diều sau vài năm hoạt động, bỗng nhiên xuất hiện một xe bán thịt bò vò viên, của chú Tiều đậu bên trái phía ngoài cổng ra vào. Lúc đầu thì chưa được nhiều người biết đến, nhưng nhờ thịt bò viên thơm ngon độc đáo, nên tiếng vang của chú Tiều không mấy chốc đã lan rộng khắp nơi. Vì thế mà thịt bò viên của chú không những chỉ bán cho khách của hội quán Châu Diều, mà lượng khách ở các khu phố khác, nhất là giới thanh niên ở chợ còn đông hơn nữa!


                        Ngược dòng thời gian … Vào khoảng năm 1958, 1959, lúc đó tôi chừng 8, 9 tuổi. Có thể nói, cả tỉnh Mỹ-Tho chỉ có hai chỗ bán thịt bò vò viên mà thôi! Chú Tiều ốm, nhỏ con và luôn mặt áo phạch ngực, có thói quen là miệng lúc nào cũng thấy ngậm cây tăm xỉa răng. Cứ khoảng 3 giờ chiều là chú đẩy chiếc xe thịt bò viên, đến đậu trước rạp hát Vĩnh-Lợi bán cho đến tối. Còn một nơi nữa là tại ngả ba đường Nguyễn Huệ và cuối đường Lê Ðại-Hành. Chú Tiều dáng người cao, Chú bán thịt bò viên không bằng xe đẩy mà là bằng gánh, tức là một bên có cái lò than, trên là nồi nước súp lớn bằng nhôm, còn một bên có khung gỗ cao, cái thau nước rửa chén đặt ở phía dưới, ngăn kế đến đựng chén, nĩa và dĩa nhỏ, phần trên có một hộc kiếng hình khối vuông đựng thịt bò viên, bên cạnh đó thì để những lọ chai tương, ớt, dầu mè, hành, ngò rí. Chú Tiều gánh thịt bò viên đi bán lưu động. Khoảng 5 giờ chiều, trạm dừng chân đầu tiên của chú là trên vỉa hè trước góc tiệm bán tạp hóa Minh-Cảnh. Chú bán lai rai cho đến 7 giờ tối trước khi gánh đi tiếp, chú vào tiệm mua vài ký than để thay lò lửa sắp tàn cho cái nồi súp đang hâm nóng. Nói chung thì hai nơi bán thịt bò viên nầy ăn khá ngon.

                        Về sau, có lẽ vì nghề nầy kiếm sống được nên có thêm mấy ông Tiều ra bán thịt bò viên nữa, mà nổi bật nhất là xe của chú Tiều bán lộ thiên trước cửa bên trái hội quán Châu Diều. Chú Tiều tánh tình hiền hòa, dáng người khỏe mạnh, mập mạp. Ðược biết chú có vợ người Việt, hèn gì chú nói tiếng Việt tuy không chuẩn, nhưng rất khá. Hàng ngày, khoảng hơn 3 giờ chiều là thấy chú đẩy xe thịt bò viên ra rồi! Xe bán của chú không có bàn ghế, chỉ trương một miếng ván có bọc nhôm, bề ngang chừng 30 cm dọc theo chiều dài chiếc xe làm cái bàn, đặt những chén thịt bò viên và dĩa tương ớt nhỏ cho khách đứng ăn.

                        Bất cứ ai chỉ một lần ăn thịt bò viên của chú Tiều thôi, cũng đều công nhận là ngon tuyệt vời không nơi nào sánh bằng. Riêng tôi, ăn thịt bò viên không bao lâu thì đã bị thấm ghiền. Cho nên mỗi buổi chiều, tôi thường thấy… nhớ chú Tiều, hay nói đúng hơn là thèm ăn thịt bò viên thì phải! Ngay từ giờ đầu cho đến trời bắt đầu sụp tối, hầu như lúc nào xe bán thịt bò viên cũng đều có người đứng ăn, mà “giờ cao điểm“ là khoảng từ 5 đến 6 giờ chiều, xe của chú Tiều thường bị “bao vây“ chật người. Có hôm bán hết sớm thì trước 7 giờ tối là chú đẩy xe về rồi!

                        Thường thì các nơi khác bán hai loại viên nhỏ và lớn, mà viên thịt lớn được tính bằng hai viên nhỏ, nhưng thịt bò của chú Tiều chỉ vò viên lớn mà thôi! So với giá tiền một tô hủ tiếu hay phở, thì bằng một chén thịt bò 5 viên tròn, lớn bằng đầu ngón tay cái. Một điểm lạ là thịt bò viên của chú Tiều thật ngon, nhưng khách hoàn toàn chỉ là cánh đàn ông thanh niên. Ðiều nầy cũng rất dễ hiểu thôi, chẳng lẽ mấy cô mấy bà lại đứng ăn ngoài đường thì xem sao được? Thỉnh thoảng cũng có người xách gà-men lại mua mang về. Thịt bò viên đang nóng hổi mà đổ vô cơm nguội ăn cũng rất ngon!

                        Tôi là người cùng nước Triều-Châu với chú Tiều, lại là “khách ruột“ nữa nên càng quen thân hơn! Tôi mê thịt bò viên ngon hết sẩy đến độ xin phép chú Tiều cho tôi được đến nhà xem cách làm ra sao? Chú Tiều hiểu rõ thân thế tôi, vì lúc bấy giờ Papa tôi làm Bang Trưởng nước Triều-Châu có tiếng trong giới người Tiều, nên chú thương tôi như con cháu, biết chắc chắn là tôi không có “ăn cắp nghề“ nên chú đồng ý ngay! Chú Tiều ở phía dãy nhà sàn mé bờ sông, đường Alexandre de Rohde ( Bá Ða Lộc ), mà thiên hạ thường nói giỡn chơi là đường … Ba lít xăng dầu nhớt. Nhà chú đối diện với trường tư thục của Giáo-Sư Trúc-Giang. Theo kinh nghiệm, chú Tiều giải thích cho tôi biết là:

                        - Muốn cho thịt bò viên ngon thì phải mua thịt vừa mới làm, chớ để lâu quá thịt sẽ bở, không dính. Nên mua loại thịt phần bụng thì mềm lại dễ quết hơn!

                        Mỗi buổi sáng khoảng 9 giờ, chú đã mua 10 kí-lô thịt bò mới ra lò, ở tiệm Quảng Nghĩa-Long trên đường Võ Tánh đem về nhà rồi! Thịt không có rửa, chú xắt hết ra từng miếng nhỏ bằng hai ngón tay cái. Chú hốt từng nắm tay đầy, bỏ lên tấm thớt dầy khổng lồ bằng thân cây để dưới đất, ngồi trên chiếc ghế thấp, chú dùng hai thanh thép dẹp dài chừng 50 cm, có bề ngang độ 6 cm đập liên tục mớ thịt trên thớt, vừa đập chú vừa gom tém lại rồi cứ thế mà đập không ngừng, thay vì thịt được xắt, bằm nhỏ hoặc xay nhuyễn ra rồi để vô cối quết. Chú cho biết, đập bằng hai thanh thép nặng như vậy thịt cũng rất nhuyễn và dai. Trong lúc đập thịt nặng nhọc, chú mặc quần đùi ở trần, để lộ những bắp thịt ngực và cánh tay rắn chắc đầy gân guốc. Mình mẩy chú đổ ướt mồ hôi, không thể tránh khỏi những giọt mồ hôi từ trên trán, trên mặt rơi rớt xuống thớt thịt đang đập. Thỉnh thoảng chú ngưng một lát, rồi kéo chiếc khăn tắm máng gần bên lau mồ hôi đẫm ướt cả châu thân. Sau đó chú lại dùng tay bốc thịt bò để vào tấm thớt gỗ lớn đập tiếp.

                        Không riêng gì chú Tiều làm thịt bò viên, mà phần đông những hàng quán ăn uống khác, người làm bếp đều không giữ sạch sẽ. Thà rằng không biết, chớ nếu ai tình cờ thấy được sự mất vệ sinh ở nhà bếp của một nhà hàng nào đó, tôi tin rằng lúc trở ra, mặc dù bàn ăn được bày trí đẹp mắt, món ăn ngon thật hấp dẫn được dọn lên thấy mà phát thèm, nhưng khi nghĩ đến sự dơ bẩn của nhà bếp thì khó mà cầm đũa lên được. Biết đâu những món ăn ngon nổi tiếng ở các hàng quán cũng nhờ có sự “thấy ghê“ nầy?

                        Gia đình ba mẹ tôi khi xưa buôn bán tại chợ Mỹ-Tho, gần đó có sạp bán bánh xèo ngon khỏi chê nên rất đông khách. Các bà, các cô đi chợ đều ngồi đầy trước sạp ăn ngấu nghiến một cách ngon lành! Trong khi bà Hai bận rộn không hở tay đang chiên bánh xèo, thỉnh thoảng bà cầm cái lon sữa bò để dưới chân lên miệng, bà đang ăn trầu nhổ nghe một cái “phẹt“ vào, liền đưa hai ngón tay lên lau mép miệng, xong lại quẹt xuống ống quần lãnh đen, rồi cũng chính bàn tay đó, bà Hai bốc rau, hốt cải xà-lách rửa không sạch, đôi khi còn dính đất cát hoặc thấy vài ba con sâu nhỏ, để thêm cho khách đang ngồi ăn, mà có thấy ai than phiền khiếu nại gì đâu?

                        Thịt bò đã đập quết xong được bỏ trong một cái thau to đùng bằng inox. Sau khi rải vào đó mấy muỗng bột ngọt, rồi chú dùng hai bàn tay trộn và bóp đều thì xem như xong cái khâu quan trọng. Thường thì thịt bò viên chỉ có một loại là thịt nạc, nhưng chú Tiều có làm thêm phần viên mỡ gân nữa, loại nầy làm cũng dễ thôi! Chú lấy mười phần thịt nạc đã đập nhuyễn, trộn với chừng hai phần mỡ gân bò đã xắt nhỏ bằng đầu ngón tay út trộn vào. Nồi nước thật nóng đã chuẩn bị trước trên lò lửa than cạnh đó.

                        Sau khi thoa một lớp mỡ vào tay cho khỏi dính, chú dùng bàn tay trái hốt một nắm đầy thịt bò sền sệt đã đập quết trong thau lớn, rồi bóp nhè nhẹ mấy cái theo cảm giác, tạo thành một cục thịt bò tròn bằng đầu ngón tay cái, lòi ra ở trên mặt ngang chiều dài của hai ngón tay trỏ và cái đang khoanh tròn, tay phải chú dùng một cái muỗng canh gạt ngang phía dưới viên thịt, cho rơi chìm vào nồi nước đang nóng bốc khói. Chú làm rất nhanh vì đã quá quen thuộc. Hàng trăm viên thịt bò chạy ra từ lòng bàn tay chú đều to bằng nhau. Trong chốc lát, những viên thịt bò nào đã được luộc chín thì tự động sẽ nổi lên mặt nồi nước nóng, chú liền dùng chiếc vợt lưới to bằng thau vớt thịt bò viên lên.

                        Thường thì những người bán thịt bò viên, mua tương xay ở tiệm tạp hóa về, là đổ vào keo để bán cho khách ngay, nhưng chú Tiều còn chế biến pha thêm gia vị xào lại cho ngon ngọt vừa ăn. Còn ớt sa-tế xào trộn với tỏi xay nhỏ, nên tương ớt của chú có mùi thật cay nồng và rất thơm! Những ai hồi xưa ở Mỹ-Tho có ăn thịt bò viên của chú Tiều, đều phải công nhận ngon đặc biệt không nơi nào sánh bằng! Chẳng những thịt bò thơm ngon, mà luôn cả nước súp và tương ớt chấm nữa! Nếu nói có bí quyết gì đó thì tôi nghĩ là không, mà chỉ làm theo kinh nghiệm của mỗi người mà thôi!

                        Mỹ-Tho sau cơn mưa chiều, tiết trời bên ngoài lành lạnh ra câu lạc bộ Châu Diều, đứng bên xe bán của chú Tiều ăn một chén thịt bò viên nóng hổi khói bốc lên lơ thơ. Viên thịt chú làm không mềm, mà cũng không dai lắm! Cầm viên thịt trên nĩa, chấm với tương ngọt và ớt sa-tế, đưa vào miệng nhai nghe sừn-sựt, nhất là loại thịt có gân và mỡ vàng phải nói là thơm ngon vô cùng! Ðưa chén lên miệng xì-xụp húp nước lèo, có trộn lẫn những lát nhỏ ngò gai và mùi dầu mè thơm phức thì còn gì sung sướng cho bằng!

                        Nếu nhắc đến những chú Tiều bán thịt bò viên ở Việt-Nam ngày xưa, mà không nói đến vấn đề đổ “xí ngầu lắc“, thì quả là một điều thiếu xót. Hột xí ngầu là một khối lập phương có sáu mặt, được đánh dấu từ một tới sáu bằng những chấm tròn xen kẽ màu đỏ và đen được khắc lõm xuống. Ðó là một hình thức cờ bạc, duy nhất chỉ ở những ông Tiều bán thịt bò viên mới có. Trò đỏ đen nầy khách được đi trước và thường có hai cách chơi, là cầm trong nắm tay một lúc ba hay bốn hột xí-ngầu thả xuống một cái tô, sao cho hai hột có mặt trên giống nhau, còn mặt trên của một, hay hai hột kia thì cộng chung lại tính điểm, tùy theo đổ ba hay bốn hột. Trường hợp đổ có được 6 và 12 điểm, hay các mặt đều giống nhau, hoặc có những điểm liên tục cao nhất như 4, 5 và 6 hay 3, 4, 5 và 6 thì khách xem như thắng đương nhiên, chủ không được đổ hột xí-ngầu để tranh hơn thua. Còn thấp nhất ngược lại thì khách kể như thua trước bàn đó, mà chủ không cần phải tranh dự.

                        Các ông Tiều bán thịt bò viên thường dùng những đồng xu có lỗ hay tiền chì cũ, xếp thành hai hàng riêng biệt gần cái tô đổ hột xí-ngầu, để đánh dấu sự ăn thua với khách. Trò chơi cờ bạc nầy không có tên trong từ điển, nên người ta đặt cho nó một cái tên có âm điệu lơ lớ tiếng Tiều, “xí ngầu lắc“, nghĩa là ba mặt có điểm lớn nhất của ba hột xí-ngầu là bốn, năm, sáu.

                        Khách của chú Tiều phần đông đều có máu đỏ đen, vì thịt bò viên của chú quá ngon, ăn hoài không biết ngán, ăn một chén năm viên thì chưa đã thèm, muốn ăn thêm nữa không phải rẻ tiền, chi bằng làm gan chơi đỏ đen với chú Tiều, nếu vận may thắng được thì sẽ có nhiều thịt bò viên mà ăn cho thỏa thích! Muốn thắng chú Tiều cũng không phải là đơn giản, khách phải thắng liên tục ba bàn thì mới có quyền ngưng để được 16 viên thịt bò, chỉ số nầy thường thấy ngừng lại của những người nhát gan, nhưng đa số thì khách vẫn còn muốn ăn thua chơi tiếp, cứ mỗi một bàn là đôn lên gấp đôi, từ 16 tăng 32 lên 64 thành 128 rồi 256… Chỉ số càng lớn thì càng hồi hộp cho khách. Những người ngoài cuộc đứng xung quanh xe chú Tiều đang ăn, hay chờ đợi đến phiên mình đổ “xí ngầu lắc“, không bỏ lỡ cơ hội hào hứng, để xem cuộc thư hùng sôi nổi nầy, tạo nên bầu không khí thật căng thẳng đầy thích thú! Có những lúc khách thắng lớn thì vui mừng hò reo như vỡ chợ. Nhưng thường thì khách ngừng lại ở chỉ số 32 hay 64, vì muốn thắng liên tiếp từ sáu bàn trở lên phải nói là rất khó! Khách chỉ cần thua một bàn thôi là xem như trắng tay và phải bắt đầu lại từ đầu. Một bàn thua của khách được tính và trả bằng tiền khi chung cuộc, lúc thắng thì được thịt bò viên.

                        Tiền bạc được tính tương đồng với giá bán của thịt bò viên. Khi khách chơi thắng, thịt bò viên được múc liền tại chỗ tha hồ mà ăn. Những ai mạnh nuốt giỏi lắm ăn được đến 30 viên là cùng! Số thịt bò viên còn lại đựợc gởi bằng “miệng“, lần tới đến ăn tiếp mà không cần phải ghi sổ gì hết! Phải công nhận là chú Tiều có đầu óc nhớ rất hay. Hàng chục người gởi mà chú không bao giờ nhầm lẫn. Ðổ “xí ngầu lắc“ là trò chơi hên xui. Những hôm chú Tiều vận đỏ thắng được nhiều, tiền bạc rủng rỉnh đầy túi và cũng có ngày bị tổ trác, chú thua to phải đẩy xe về sớm trước mặt trời lặn mà không đủ tiền thu nhập. Có lẽ vì đã quen với sinh hoạt thường nhật như thế, nên sắc mặt của chú Tiều bao giờ vẫn luôn giữ bình thản khi thắng cũng như lúc bại, chớ không có buồn vui ra mặt như khách đến chơi đổ bác ăn thua với chú.

                        Khi còn ở quê nhà, tôi rất thích phiêu bạc giang hồ. Miền Trung thì tôi không thấy, còn ở trong Nam, nhất là các tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu-Long thì hầu như đâu đâu cũng đều có bán thịt bò viên, nhìn chung thì ăn rất ngon!

                        Thời gian qua mau … Mới đây mà đã hơn 50 năm trôi qua. Gần bốn thập niên dài sống an lành nơi xứ Ðức, tôi đã có dịp đi chơi ở nhiều quốc gia khác nhau, ngoài hủ tiếu và phở, tôi rất thích ăn thịt bò viên, mà tất cả mùi vị đều ngon gần như giống nhau, nhưng thơm ngon đặc biệt từ thịt bò, đến nước dùng trong vắt, cũng như tương ngọt, ớt cay sa-tế, tôi nghĩ chỉ có xe thịt bò viên của chú Tiều ngày xưa, bán trước cửa hội quán Châu-Diều ở Thành-Phố Mỹ-Tho mà thôi!

                        Mỹ-Tho có thịt bò viên
                        Thơm ngon nổi tiếng khắp miền quê hương.


                        Bài viết đã được đăng trong Bản Tin số 36, tháng 05 – 2005, của Hội Ái-Hữu Nguyễn Ðình-Chiểu & Lê Ngọc-Hân Mỹ-Tho và website: namkyluctinh ở CA-USA.


                        Last edited by nguyenphuong; 10-03-2020, 08:37 PM.

                        Comment


                        • #13
                          CHỢ TẾT MỸ THO NGÀY CŨ
                          Đoàn Xuân Thu

                          Thưa Nam phần là vùng đất mới!… Nói là vùng đất mới, so với vùng đất khác là trẻ, nhưng Nam phần đã trọng tuổi, cũng khoảng 5,000 năm rồi đó.


                          Nam phần là Út cưng của dòng Cửu Long hùng vĩ. Gọi là Út cưng vì bao nhiêu phù sa mà dòng sông nầy ky cỏm mang theo từ thượng nguồn, tuốt bên Tây Tạng, năm dài chày tháng đều cho Út cưng hưởng hết ráo: bằng cách bồi đắp vùng hạ lưu nầy.

                          Ðược vỗ béo, miền Nam trở nên màu mỡ, phởn phơ lớn như con gái tới tuổi dậy thì, cứ từ từ mỗi năm dài thêm một chút, lấn dần ra phía Biển Ðông..

                          Mùa nước nổi, nước dâng, tràn mênh mông. Mùa nước kiệt, nước rút đi, cạn quéo. Chỉ còn phù sa, con tôm, con cá ở lại trong những ao, bàu, xẻo, lung để dâng hiến cho người.

                          "Xắn quần em lội qua lung
                          Quần em tuột xuống anh hun chỗ nào?".

                          Mỹ Tho, cửa ngõ của miền Nam, phù sa con sông Tiền bồi đắp vào chỗ trũng nên bà con từ từ biến ao, bàu, xẻo, lung thành ruộng rẫy.

                          Ruộng rẫy thì cần nước vào mùa khô nên ông bà mình đào kinh dẫn nước. Vào mùa mưa, nước tràn bờ gây sạt lở để kinh biến thành sông. Để ông bà mình chèo xuồng ba lá qua nhà anh chị sui ăn đám giỗ.

                          Để dọc theo hai bờ sông, rạch… dừa nước ken dày cho bà con mình chằm lá lợp nhà. Thiệt là nhứt cử tam tứ tiện!

                          Để tui nhớ hồi 7, 8 tuổi có lần theo anh về trong Ngoại rọc lá dừa khô về cho Má nhóm bếp. Mùa mưa đường đất sình lầy nhão nhẹt. Về tới nhà chưn cẳng sình bùn lấm lem!

                          Má kêu ra cầu ao sau nhà rửa cẳng; rồi vô má lột cam cho ăn. Tui lọ mọ xuống chiếc cầu ao. Phần gỗ chìm xuống nước lưu niên, nên rong nó mọc đầy, làm trơn trợt và tui đi luôn...


                          Không biết bao lâu sau, tui tỉnh dậy khi thấy mình được dượng Tư Hí, bà con lối xóm, nắm hai cái cẳng, dốc ngược đầu tui, nhẩy tưng tưng xốc nước. Nước tràn ra lỗ mũi, tui tỉnh. “Thôi cho con xuống đi!”.

                          “Con té ao mùa nước nổi!
                          Má la làng cô bác cứu con tôi.
                          Môi tím ngắt bà con đem xốc nước.
                          Trễ chút thôi là con đã đi rồi!”
                          Con nhớ má! Má ơi!".

                          Sau lần chết hụt đó, về Ngoại, tui ôm bập dừa tập lội, quậy nước đùng đùng, sình nổi lên đục ngầu, mặt đứa nào cũng mọc râu hết ráo; để ông Ngoại nổi sùng, vác cây roi đánh ngựa, rượt mấy thằng cháu trai khỉ khọn, chạy té khói luôn, trong tiếng la rầy ỏm tỏi vọng theo sau: “Tao đố tụi bây đó nhe!”

                          Chữ rằng: Một công rẫy bảy công ruộng! Làm rẫy cực gấp bảy lần làm ruộng! Làm ruộng mới mặt nám da nhăn chớ làm vườn con gái má trắng nõn hồng hồng như trái mận hồng đào; anh chàng nào thấy cũng đòi cho tui chén nước mắm đường có dằm thêm trái ớt hiểm, ăn cho nó đã… cái thèm!

                          Còn con trai miệt vườn, phè cánh nhạn như công tử con quan vậy, vì chỉ cực mùa nắng do phải tiếp ông già Tía mình xúc sình bồi liếp cây ăn trái!

                          Xong chờ cho cây ra hoa đậu quả, xách lồng hái, đóng vào mấy cái tụng đệm, chở ra chợ Hàng Bông ngoài Mỹ Tho hay chợ An Đông trong Chợ Lớn bán; rồi đếm tiền, giấy bộ lư, vậy thôi!

                          Do đó mới có câu ca dao là:

                          “Mẹ mong gả thiếp về vườn,
                          Ăn bông bí luộc dưa hường nấu canh!”

                          Vậy mà cách đây gần nửa thế kỷ, đi Sài Gòn học, mới xáp xáp vô "ve" mấy tiểu thơ khuê các của cái đất Sài Thành; mặc quần "xì cớt" (skirt), mặt rất "xì trum", bên chứng chỉ SPCN (Lý Hóa Vạn Vật) của Đại học Khoa học Sài Gòn mà hổng em nào chịu tui, còn xì xầm sau lưng, gọi tui là dân "vưỡn" tức dân miệt vườn.


                          "Ê, miệt vườn có gì tệ đâu em? Nó còn có cái văn minh miệt vườn đó nhe! Hổng nghe nhà văn Sơn Nam ổng ca tụng quê tui lên tới chín tầng mây sao? “

                          Dẫu vậy hổng có em nào chịu nghe tui thuyết phục hết ráo… để tui đưa nàng về vườn ăn bông bí luộc, dưa hường nấu canh mới chết!

                          Thưa! Rồi đêm nay xa quê đã chừng ấy năm, bịnh lẫn của tuổi già đã bò tới bên song cửa, kỷ niệm xưa tui quên gần hết trơn hết trọi rồi!

                          Vậy mà thầy Nguyễn văn Nghĩa không thông cảm dùm, lại kêu tui viết một bài cho mấy em Lê Ngọc Hân, nhân sinh nhựt trường được 60 năm, tức ăn đáo tuế. Thầy biểu tui nào dám cãi, làm tui đêm nằm không ngủ được, cứ trằn trọc miết!

                          Quê người lưu lạc đã lâu không về khi còn VC, vậy mà ai nhắc một cái tới Mỹ Tho làm tui nhảy mũi vì tui nhớ cái quê xưa, quê cũ của mình quá đỗi.

                          Tui nhớ cái đất Mỹ Tho! Có những điều mà hồi xưa tui thấy tự nhiên như cơm mình ăn, nước mình uống… giờ gẫm lại… mới thấy lạ!

                          Chẳng hạn như: Cái đất Mỹ Tho của tui sao có quá nhiều làng, xã có tên bắt đầu bằng chữ Tân, nghĩa là mới! Như: Tân An, Tân Hương, Tân Lý Ðông, Tân Lý Tây, Tân Hòa Ðông, Tân Hòa Tây, Tân Hội Ðông, Tân Hội Tây, Tân Ðức Ðông, Tân Ðức Tây, Tân Phú Ðông, Tân Phú Tây… và biết bao là Tân nữa.

                          Tại sao ông bà mình xưa khoái cái Tân quá vậy Trời?

                          Nghĩ ra rồi! Ông bà mình khoái đặt tên vùng đất mới là Tân vì trong tận cùng thâm tâm của những người lưu lạc, vì thời cuộc hay vì chén cơm manh áo, phải bỏ quê cha đất tổ mà đi nhưng trong lòng bao giờ cũng dàu dàu nhớ thương về quê cũ.

                          “Mỹ Tho Đại Phố”, trở thành một trong hai trung tâm thương mại sầm uất miền Nam lúc bấy giờ (trung tâm còn lại là Cù lao Phố, Biên Hòa).

                          Khi “Mỹ Tho Đại Phố” ì xèo thì Bến Nghé chỉ mới là một khu chợ nhỏ, còn Cần Thơ hầu như chưa có gì. (Hãnh diện nhe!)

                          Mà vùng đất nào giàu, trù phú là thường hay bị ăn cướp. Mỹ Tho đại phố đã hai lần chịu cảnh tang thương như thế!

                          Lần đầu vào năm 1785, quân Xiêm theo Nguyễn Ánh tràn sang. Phố xá bị tàn phá, của cải bị cướp bóc nên Mỹ Tho đại phố trở nên tiêu điều, chỉ còn lại một đống tro tàn. Thương nhân ở đây bỏ đi gần hết, chuyển lên làm ăn ở Sài Gòn – Bến Nghé…

                          Lần thứ hai vào năm 1968, Mỹ Tho đại phố lại bị tàn phá là Tết Mậu Thân.

                          Đã gần 50 năm rồi mà tưởng chừng như mới hôm qua. Năm ấy, trường trung học Nguyễn Ðình Chiểu cuối năm trước khi học trò về nghỉ ăn Tết, mấy Thầy có cho chút đỉnh tiền “còm” để mấy “trò” viết giai phẩm Xuân cho trường mua thèo lèo cứt chuột và xá xị con cọp BGI để liên hoan.

                          Tui có góp một bài…Viết về cái gì lâu quá nên quên mất tiêu rồi?

                          Chiều liên hoan, có mấy “em” bên trường nữ trung học Lê Ngọc Hân qua tham dự. Ôi! Con gái 17 bẻ gãy sừng trâu; huống hồ gì một chàng trai mới vừa bể tiếng, râu măng lún phún vài cọng trên cằm như tui là em bẻ niềm rạo rực của tui gãy nghe cái rốp!

                          Ngồi kế một em mặc áo dài trắng, tay raglan, vải tetron mỏng dính như cánh con chuồn chuồn mà tim mình đập thùng thình như cái trống đình hôm lễ cúng kỳ yên…(Ôi người em muôn năm cũ! Giờ em phiêu bạt đến phương nào?)

                          Chỉ mười ngày sau buổi liên hoan đó là tui phải chui xuống hầm trốn; vì VC dùng cối 82 của Trung Cộng pháo kích vào trung tâm Mỹ Tho đại phố để bắt đầu trận đánh Tết Mậu Thân, dù đã hứa hẹn sẽ 3 ngày hưu chiến.

                          Từ Cầu Vĩ hoặc Hốc Ðùn, chỉ cách trung tâm Mỹ Tho, chừng hai cây số đường chim bay, đạn súng cối 82 ly, sau tiếng “đề pa” cái bụp, là bay vo vo vào! Trước khi tiếp đất, kêu xè xè, rồi nổ ùng oàng, phang miểng bay rào rào trên mái ngói của nhà tui số 31 đường Gia Long tức ty bưu điện Mỹ Tho! Cả nhà co rúm lại trong hầm năm, ba lớp cát, chìm sâu dưới mặt đất mà cầu Trời khẩn Phật cho đạn pháo không rớt ngay hầm…

                          Sáng hôm sau, con nhỏ học Lê Ngọc Hân mà tui thầm yêu trộm nhớ, đến tìm tui, mếu máo khóc hu hu, nói: “Vậy mà em tưởng Thu chết rồi chớ!”

                          Con gái Mỹ Tho, dễ yêu như vậy đó! Nhưng có đứa dám nói vì em là dân Lê Ngọc Hân nên có huông! Ai yêu em đều chết bất đắc kỳ tử như Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ vậy!

                          Đời tui có quá nhiều lỗi lầm. Tui ngu nhiều thứ lắm nhưng cái ngu nhứt là tui không có cưới được em nào thuộc cái đất Mỹ Tho, của cái trường Lê Ngọc Hân nức tiếng!

                          Mỹ Tho, tiếng Khmer, nghĩa là nàng tiên, nghĩa là người con gái đẹp. Nhứt là con gái vừa đẹp vừa học giỏi như con gái trường nữ trung học Lê Ngọc Hân. Con gái đẹp thì anh nào không khoái chứ?

                          Nhưng nào phải lỗi tại tui! Chẳng qua không có em nào Lê Ngọc Hân chịu đèn tui mới chết.

                          Sầu đời! Có lần tui tính bắt chước Trương Chi học thổi sáo, để tối tối đến bên khung cửa sổ nhà em mà thổi véo von coi có làm rung động trái tim son của em không? Dù anh lỡ sanh ra Trời bắt xấu; nhưng chỉ cần em mến tài thổi sáo của tui, nhỏ xuống vài giọt nước “cá sấu” buồn thương làm chén ngọc vỡ tan thì lòng tui cũng hả dạ lắm rồi.

                          Có lúc tui lại tính bắt chước Chữ Đồng Tử, ra bờ sông Mỹ Tho, nằm tồng ngồng lấy cát phủ lên để hôm nào em ‘quởn’, ra sông tắm! Nước sẽ trôi đi. Tui thấy em tô hô; em cũng thấy tui tồng ngồng (không còn trong trắng nữa) và đôi ta phải vầy duyên can lệ…

                          Sau cùng, tuyệt vọng quá, tui đi lấy vợ. Bởi biết rằng em đã có chồng. Anh về lấy vợ thế là xong. Vợ anh không đẹp bằng em lắm. Anh lấy cho anh đỡ lạnh lòng.

                          Thiệt là trong cơn giận dỗi vì hỏng được em Lê Ngọc Hân nào để mắt tới, tui quyết định rất sai lầm là: “Cưới em xứ Chắc Cà Đao. Cưới rồi mới biết như dao cắt lòng!” Hu hu!

                          Ôi nữ sinh trường Lê Ngọc Hân đã làm dang dở đời tui! Đã làm tình tui như xe lửa Mỹ bung vành như Tàu Tây kia liệt máy!

                          Nhưng tui không giận hờn gì em cả. Chẳng qua mình số con rệp!

                          Nên năm nay mấy em xúm lại mừng sinh nhựt trường 60 tuổi. Ăn lễ “60th Diamond” (Lễ Kim Cương) thì cứ vui đi đừng bận lòng đến một người còn lăn lóc gió sương như tui nhé!

                          Thưa xa quê đã quá xá là lâu! Ðêm nay đốt lò hương cũ, ly rượu buồn của kẻ tha hương nhìn về phía bên kia biển, tui vẫn còn hy vọng đất nước mình ngày nào đó sẽ có tự do, hy vọng hão huyền nào đó có người con gái Mỹ Tho, con gái Lê Ngọc Hân, ngồi bên song cửa chờ chàng về dẫu mà hóp da nhăn, răng đà rụng ráo!

                          “Mỹ Tho! Em đón anh về
                          Trăm thương, ngàn nhớ tư bề Mỹ Tho!”

                          Đoàn Xuân Thu
                          (Melbourne)
                          Last edited by nguyenphuong; 10-09-2020, 09:13 PM.

                          Comment


                          • #14
                            Hoài niệm về Mỹ Tho


                            XE LỬA TRỞ ÐẦU

                            Tiểu-Minh
                            Germany


                            Trung tuần tháng 12 năm 2009, thành phố Mỹ Tho đã tưng bừng tổ chức buổi lễ, kỷ niệm 330 năm (1679-2009) thành lập. Trong dịp nầy, Thầy Tân Văn Công là người sinh sống lâu đời tại chợ Mỹ-Tho, được phóng viên của chương trình “Ðất nước mến yêu“ tìm đến phỏng vấn, hầu tìm hiểu về nguồn gốc của địa danh, thành phố cổ xưa nổi tiếng nhất thuộc miền Nam Kỳ Lục Tỉnh nầy. Một đoạn phim Video dài hơn 20 phút, đã được ghi nhận với khá nhiều hình ảnh cũ mới, về sự thay đổi theo từng giai đoạn thời cuộc, cũng như bài tường thuật của người nữ phóng viên, đặc biệt là lời kể lại theo ký ức của Thầy Tân Văn Công, với những mẩu chuyện nhỏ đáng ghi nhớ, của một thời xa xưa mà Thầy đã trải qua. Trong phim, Thầy có nhắc đến niềm vui của một số học sinh thích đi xe lửa trở đầu, đã khiến tâm tư tôi như sống dậy, cả một khung trời kỷ niệm ấu thơ khi còn ở tại quê nhà.

                            Theo sử liệu do Thầy Tân Văn Công cung cấp, thì tuyến đường sắt đầu tiên tại Ðông Dương, được Toàn Quyền Pháp khởi công thiết lập vào tháng 11 năm 1883, sau bao cuộc tranh luận đầy cam go giữa hai phe. Bên thì đề nghị tuyến đường Sai Gòn - Mỹ Tho - Châu Đốc - Phnom Penh, còn một bên lại muốn Sài Gòn - Tây Ninh - Phnom Penh. Cuối cùng đoạn đường ngắn nhất được chọn là Sài Gòn - Mỹ Tho dài khoảng 70 cây số, với kinh phí 11.6 triệu Francs. Đến ngày 20.07.1885 thì đường sắt được khánh thành và bắt đầu hoạt động.

                            Nhà ga xe lửa Mỹ Tho thuở xưa, tọa lạc ở vườn hoa Lạc-Hồng bây giờ. Tại góc đường Trưng Trắc phía khu vực vàm sông, trước kia là bến đổ hàng hóa của ghe thuyền cho nhà ga, nhưng sau nầy trở thành bến đò chèo đưa rước khách qua lại cù lao Tân-Long. Nhiều người dân gần đây, thường đi xuống cầu thang rộng lớn bằng xi măng tắm giặt và gánh nước về xài. Đối diện bên kia là nơi vân tập khá nhiều ghe thuyền, đò máy từ các miền nông thôn thuộc hai tỉnh Mỹ-Tho, Bến- Tre và các tỉnh miệt dưới đổ đến. Phía trên cũng chạy dài theo bờ sông cho đến đầu Cầu Quây, đều là những vựa cá và nông sản phẩm. Nơi đây được xem là một giao điểm thương mại sầm uất và quan trọng nhất, ở vùng đồng bằng sông Cửu-Long. Mỹ-Tho có địa thế nằm gần thủ đô Sài-Gòn hơn các tỉnh miền Hậu- Giang, nên phương tiện vận chuyển hàng hóa bằng đường thủy và hỏa xa vô cùng thuận lợi.

                            Vào những năm cuối của thập niên 50, đường phố ở Mỹ-Tho còn rất cũ kỹ. Tuổi thơ của tôi thật ra chẳng có gì để vui chơi giải trí. Gia đình ba mẹ tôi là người Hoa có hai thương hiệu tại chợ Mỹ-Tho. Thường ngày, tôi cùng vui chung những trò chơi bình dị con gái với mấy chị tôi trong nhà như: nhắc cò cò, nhảy dây, đánh đũa, búng hột me, năm mười (trốn tìm), quanh đi quẩn lại chừng các trò chơi đó hoài riết rồi cũng chán! Cho nên, với bản tính lí lắc, háo động, thỉnh thoảng tôi thường đi bộ vòng vòng trong nhà lồng chợ và dọc theo lề đường, những dãy phố buôn bán xung quanh, với cái đầu tròn húi cua gần trọc trông rất … dễ thương, nên được nhiều người biết đến.


                            Ðịa điểm thu hút tôi và đám con nít, hay la cà đến là rạp chiếu bóng Trung- Quốc, sau đổi chủ và được xây cất mới rồi cải danh hiệu lại Vĩnh-Lợi. Xa hơn một chút nữa là dãy phố trên con đường Trưng Trắc, từ đầu Cầu Quây đến ngả quẹo phải hình chữ L ngược. Tại góc đường nầy, một phần phía dưới của tòa nhà hai tầng khá đồ sộ, là Pharmacie Lê Văn Phan rộng lớn, nằm chễm chệ trên một nền nhà cao ráo thiếu ánh nắng, nhưng đầy gió mát từ mặt sông luồn vào trông bề thế thật uy phong. Được biết, nơi nầy trước đó là Restaurant và Hotel hạng sang chỉ dành cho người Pháp. Lúc bấy giờ, Mỹ-Tho chỉ có ba nhà thuốc Tây. Lớn nhất là Lê Văn Phan, thứ đến Trần Văn Khánh nơi phòng Thông Tin sau nầy. Mấy đứa con của ông Khánh có những cái tên “bốn mùa“ khá đẹp, đều là cựu học sinh hai trường Nguyễn Đình-Chiểu & Lê Ngọc-Hân, bạn học chung với các chị tôi như anh Đông, chị Trần Thị Bích-Thu .v.v. Pharmacie Lâm Danh Mộc tuy nhỏ nhất, nhưng dược phẩm tương đối đầy đủ. Ông chủ cũng lấy tên mình làm hiệu tiệm trên đường Lê Lợi, nằm tại ngả ba đối diện xéo nhà hộ sanh của ông Hồ Văn Trực và cùng dãy phố với rạp hát Vĩnh Lợi sau nầy.


                            Hồi nhỏ, mỗi lần được ba mẹ sai tới nhà thuốc Tây Lâm Danh Mộc mua thuốc, vì gần chợ là tôi rất thích, bởi nơi đây có một cái cân bàn của Pháp đặt cạnh cửa bước vào phía bên phải. Nhiều người đến mua thuốc thích đứng lên cân thể trọng. Mặc dù đã có một chị nhân viên luôn nở nụ cười trên môi túc trực ngồi trước caisse, nhưng ông Lâm Danh Mộc tuổi trung niên, cũng thường đứng phụ bán thuốc trước tiệm. Dáng người ông ốm và cao, nhưng trông khỏe mạnh với làn da xạm nắng, nếu không muốn nói là … đen. Ông có khuôn mặt dễ nhìn và chiếc mũi như Tây, mang kiếng trắng trông rất sang, luôn đi giày và vận áo tay dài bỏ trong quần đàng hoàng. Ông vui tính và thương trẻ em. Thấy tôi thích cân, ông thường hù tôi coi chừng bệnh đó nếu cứ cân hoài. Nhiều lần tôi thắc mắc về mảnh bằng được trang trọng lồng trong khung kiếng, treo trên tường phía trong ngay cửa ra vào, mà tôi chỉ đọc được có ba chữ tên ông không bỏ dấu, nên có lần tôi hỏi thì được ông vui vẻ trả lời với một chút dí dỏm lẫn tự hào dân tộc. Ðứng phía bên trong quầy thuốc, đưa ngón trỏ tay phải chỉ lên phía trên văn bằng treo đối diện, ông nói:


                            - Ðây là bằng dược sĩ, do Ðại Học Ðường Dược Khoa ở thành phố Lyon bên Pháp cấp đó nghen! Mầy biết không? Học với Tây mà tao thi đậu được hạng nhất có ghi trong đó kìa! Cho nên, tụi nó nể người Việt Nam mình lắm!


                            Trở lại đoạn đường Trưng Trắc từ đầu Cầu Quây, chạy dài ra đến vườn hoa Lạc Hồng sau nầy, dãy phía bờ sông ngày xưa đã có hàng quán, nhưng còn đơn sơ và thưa thớt khách ăn uống. Bước sang thập niên 60 thì được xây cất lại đồng nhất trông đẹp mắt. Hồi còn tấm bé, tôi thường cùng những đứa trẻ khác bước xuống đáy sông khi mực nước ròng, cách bờ thành xi-măng hơi nghiêng chừng bốn thước để lượm những cái nút phén (nắp chai) bằng thiếc, có lót cạt-bần mặt trong, do thực khách ăn nhậu ban đêm hoặc chủ quán dọn dẹp từ trên ném xuống. Những cái nắp chai tròn nhỏ có viền ngoài hình răng cưa nầy, coi vậy mà bày được vài trò chơi lý thú. Bọn trẻ chúng tôi tự quy định điểm cho các loại nắp chai, cái nào thông thường thì tính nhỏ điểm, chẳng hạn như bề mặt nắp chai có hình bóng con cọp bán thân của các loại nước Soda, bạc-hà, nước cam, chỉ tính có một. Nắp chai xá-xị có in nguyên hình con nai màu nâu thì được hai. Còn la-ve của hãng bia 33 tính năm điểm. Tức là loại nắp chai càng hiếm thì trị giá càng nhiều, nhất là những cái nắp nhặt được từ nhà hàng cao cấp Cửu-Long, nằm riêng biệt ở cạnh bên phía vườn hoa Lạc-Hồng. Nhà hàng nầy có thực đơn theo Tây, nổi tiếng nhất là món gà tơ quay với beurre hiệu đồng tiền và ăn với nước tương Maggi của Pháp. Nói tới vườn hoa Lạc-Hồng là nói chuyện sau nầy, chớ xưa kia nơi đây là nhà ga xe lửa, là trạm đầu và trạm cuối cho tuyến đường Mỹ Tho - Sài Gòn, Sài Gòn - Mỹ Tho, khang trang với một ngôi nhà tương đối rộng lớn làm văn phòng, có guichet bán vé và phía ngoài có nhiều băng ghế cho hành khách ngồi chờ chuyến xe. Vào thời đó xe hơi rất ít, nên con nít mà được dịp ngồi xe đò, hay xe Huê Kỳ hoặc xe lửa, thì quả thật vui sướng vô cùng! Nhưng dù xe có chạy đến tỉnh thành nào cũng không bằng đi Sài-Gòn. Cái tên Sài-Gòn nghe sao mà sang trọng và bảnh bao quá nếu ai được đi chơi.


                            Thực tình mà nói, đám trẻ con chúng tôi đều rất mê thích xe lửa. Cho nên, bọn tôi thường lén cha mẹ ra nhà ga, ngắm nhìn xe lửa chạy chầm chậm vào sân ga và lúc khởi hành đi Sài-Gòn, nhất là khi nghe được tiếng còi hụ (siffler) đinh tai nhức óc của xe lửa thì lại càng thích hơn! Lúc đầu, bọn tôi chỉ mê mẩn nhìn xe lửa cho vui mắt. Nhưng không bao lâu, chúng tôi phát hiện được chuyện “xe lửa trở đầu“ nên mừng rỡ vô cùng, vì được ngồi xe lửa “chùa“ đi chơi mà khỏi phải tốn tiền thì còn gì thích thú cho bằng!

                            Nhắc đến xe lửa thời đó do Pháp để lại thì cần phải nói cho minh bạch, ngoài xe lửa cũ xưa chạy bằng than đốt vận hành nhờ hơi nước, nên kêu chát tai và phun khói ô nhiễm đầy trời, còn có thêm một loại xe khi tiếng máy nổ, hụ còi êm và chạy nhanh hơn gọi là ô-tô rây (Autorail), mà từ đầu máy đến các toa xe có chút “ngoại hình“ tương tự như tàu hỏa sau nầy. Ðầu máy xe ô-tô rây phía dưới ở những khoảng trống giữa hai bánh xe sắt, có thiết bị hai hàng đến mấy chục khối giẹp nam châm hình chữ nhật, cách khoảng chừng 2 cm với đường rầy, để tạo từ trường cực mạnh giữ cho xe được đứng vững. Mỗi lần nghe tiếng còi hụ lớn và nhìn xa thấy xe lửa hay ô-tô rây từ Sài-Gòn sắp về đến, bọn tôi thường vỗ tay hò reo như chào mừng đoàn quân chiến thắng vậy!

                            Khi đoàn xe sau cuộc hành trình hơn hai tiếng đồng hồ, vừa đổ tại sân ga thì hành khách lũ lượt vội vã xuống xe, một số người tay bắt mặt mừng, quàng vai thân thiện người nhà đến đón mà miệng không ngớt lời hỏi thăm. Còn bạn hàng nhanh chóng khiêng hàng hóa xuống từ các toa sau, để cho phu khuân vác mang ra mặt đường phía ngoài, nơi có những phương tiện vận tải thô sơ đang chờ sẵn như cyclo, ba bánh, xe tay, một dạng xe có cái thùng phía trên để chứa hàng, chỉ có hai bánh sau và hai càng chống phía trước, do sức người đứng giữa kéo đi bằng hai thanh gỗ dài nằm ngang. Rồi trong chốc lát, nhà ga ồn ào náo nhiệt bỗng trở nên vắng lặng thấy rõ!

                            Lúc bấy giờ, mấy ông soát vé trong bộ đồng phục màu xanh dương đậm, đầu đội nón kết thong thả đi dài theo từng toa xe trống, để kiểm soát xem hành khách có bỏ quên đồ đạc gì hay không. Vừa đúng lúc lũ con trai chúng tôi thường khoảng mười đứa, nhanh nhẩu bước leo lên các toa xe, chọn ghế bìa ngồi gần cửa sổ thì xe bắt đầu chuyển bánh chạy lùi từ từ. Trước khi tới cổng chắn ở giữa Cầu Tàu và dinh Tỉnh Trưởng, một hồi còi vang dội được hụ lên. Trong lúc đoàn xe chầm chậm xuyên qua lộ, chạy dọc theo dãy nhà nhỏ nằm san sát nhau phía bên trái chừng vài trăm thước, hồi còi kế tiếp inh ỏi lại vang lên để chuẩn bị cho đoàn xe một lần nữa băng qua đường Ông Bà Nguyễn Trung-Long gần Cầu Bắc. Nơi đây, cổng chắn được hạ thấp xuống hai bên, đông đảo xe cộ các loại và người đi đường ngừng lại nhìn xe lửa chậm rãi chạy qua. Trong lúc nầy, bọn tôi thường đứng lên đưa cái đầu ra ngoài, khoái chí, hãnh diện nhìn trái ngó phải, tưởng chừng như mình là nhân viên theo xe không bằng. Sau đó, xe lửa bắt đầu lui nhanh khoảng 40 km/giờ, về hướng khu vực Bình-Đức chừng 5 cây số. Bấy giờ, nhiều đứa không những thò tay mà còn chường đầu ra ngoài, để gió mạnh thổi ngược vào mặt muốn ngộp thở cho vui. Mấy ông soát vé dễ tính đi tới lui nào còn lạ gì đám nhóc con liếng khỉ, là “khách hàng ruột“ trong chuyến “xe lửa trở đầu“, nên thường nhìn chúng tôi lắc đầu cười cảm thông, vì nhận thấy không có gì là nguy hiểm.

                            Khi xe đến một quãng đồng trống sắp rẽ sang đường sắt có hình vòng cung rộng lớn, thì chạy thật chậm rồi ngừng lại trước đoạn đường sắt hở có thiết kế một bộ phận gọi là aiguille được lò-xo giữ chặt. Tại giao điểm nầy, một nhân viên trên xe bước xuống dùng một thanh sắt dài, xeo mạnh bộ phận có lò-xò cho đầu mối đường sắt hở, chuyển hướng nối tiếp sang đoạn đầu mối đường rầy hình vòng cung bên cạnh. Sau đó, khi hai bánh xe sắt hai bên của toa xe sau cùng bắt đầu lăn bánh, cả đoàn tàu được kéo sang đường vòng cung lớn. Nơi cuối đường nầy khi xe ngừng hẳn, người thợ máy theo xe bước xuống thao tác tương tự lại một lần nữa, để cho đoàn tàu từ đường sắt vòng cung, được chuyển đổi sang đường sắt song song chạy ngược chiều lại, từ hướng Sài-Gòn đổ về, đây là giai đoạn quan trọng khi “xe lửa trở đầu“. Sau đó, đoàn xe chạy ngược lui về nhà ga để chuẩn bị cho chuyến đi sắp tới, đó là lúc mà bọn tôi xôn xao nhất, nên thường hiếu kỳ nhìn ra phía ngoài theo dõi.

                            Thường thì đầu máy xe lửa hay ô-tô rây kéo theo chừng sáu, bảy toa xe. Trong những chuyến đi đông khách, hay nhiều hàng hóa thì được nối thêm vài toa bằng một cái móc thật to, có chốt gài ngang giữa hai wagons. Nơi nhà ga có nhiều đường rầy, bên cạnh hai đường sắt chánh bao giờ cũng có những toa xe dự bị. Cũng nên nói thêm là khoảng cách giữa đường rầy ngày xưa chỉ đúng có một thước, còn ngày nay bề rộng là 1 m 20 nên được an toàn hơn.

                            Mặc dù có những lúc được ngồi ô-tô rây trở đầu thoải mái, nhưng bọn tôi thì lại thích đi xe lửa, có lẽ vì hình ảnh quen thuộc của cái đầu máy thô kệch phát ra tiếng nổ xình-xịch, với ống khói lớn như hỏa lò không ngừng nhả khói từng cuộn đen trời, nhất là những bánh xe lớn lăn tròn, nhờ sức đẩy của trục truyền động thoi đưa các đòn tay thì phải.

                            Mỗi chuyến “xe lửa trở đầu“ khứ hồi không quá 30 phút, bao giờ cũng mang đến cho chúng tôi một niềm vui không biết chán. Có hôm khi đám nhóc chúng tôi nhảy lên xe lửa, nhằm lúc lò đốt của đầu máy gần hết than, nên có dịp đứng chăm chú nhìn công nhân hỏa xa đẫm ướt mồ hôi, vất vả xúc than đá đổ liên tục vào buồng đốt đang cháy đỏ hừng hực, dưới thùng súp-de khổng lồ bốc hơi sôi sục mà thấy tội nghiệp họ quá!

                            Tuyến đường hỏa xa khi xưa chỉ có Mỹ Tho - Sài Gòn và ngược lại. Phần lớn đường sắt đều “băng đồng lội ruộng“ phía bên trong, chỉ có vài đoạn ngắn bắt buộc phải chạy dọc sát theo lề quốc lộ 4, qua hai chiếc cầu Tân An với Bến Lức. Những lần ngồi xe đò Á-Ðông, hay xe lô Minh-Chánh đi Sài Gòn cùng với phụ huynh, tôi rất vui thích khi thấy được xe lửa chạy cặp theo quốc lộ. Nhiều hành khách đứng bên cửa sổ, đưa tay ra ngoài vui vẻ vẫy chào thiên hạ bâng quơ. Có những chuyến đông khách không đủ chỗ ngồi, nhiều người còn đu theo các cửa lên xuống bất chấp sự nguy hiểm. Cũng may là xe lửa chạy chậm chừng 50 cây số giờ, nên tai nạn ít khi xảy ra. Ngày nay, nếu nhìn sang các nước nghèo như Ấn-Ðộ hay Bangladesh, chắc chắn chúng ta không khỏi kinh hoàng, khi tất cả toa xe đã quá tải khách ngồi lẫn đeo đầy nơi các cửa xe, hàng trăm người còn chen chúc ngồi chật ních trên mui, tưởng chừng như có thể rơi xuống đất bất cứ lúc nào.

                            Nhắc đến những niềm vui tuổi thơ của chúng tôi, thì chuyện đi “xe lửa trở đầu“ cũng là một điểm đáng ghi nhớ. Bao nhiêu hình ảnh hồn nhiên, vô tư của tuổi trẻ đã thoáng qua trong lăng kính tâm hồn, mà nay đã có gần 60 năm dài, nhưng kỷ niệm thì bao giờ cũng đẹp!

                            Mấy năm trước về thăm thân nhân nơi quê nhà, trên đường ra miền Trung du lịch, gia đình tôi ghé qua thành phố sương mù Ðà-Lạt và tình cờ có cơ duyên, được ngồi lại xe lửa cũ kỹ còn chưa “trồng hành“ từ thời Pháp thuộc, đi tham quan vài thắng cảnh trong phạm vi gần của vùng cao nguyên. Cũng như những lần đi chơi trên xe lửa tốc hành ICE (Intercity-Express), chạy nhanh đến 250 cây số giờ trong Âu-Châu, đã không khỏi gợi cho tôi bồi hồi, tưởng nhớ về thuở xa xưa nơi nhà ga Mỹ-Tho cùng đám con nít đi “xe lửa trở đầu“.



                            Bài viết đã được đăng trong Nội San, của Hội Ái-Hữu Nguyễn Ðình-
                            Chiểu & Lê Ngọc-Hân Paris Âu-Châu và báo Viên-Giác tại Ðức-Quốc.

                            Last edited by nguyenphuong; 10-29-2020, 07:47 PM.

                            Comment


                            • #15
                              Hoài niệm về Mỹ-Tho
                              1. Ði tắm Cầu Tàu
                              Tiểu-Minh
                              Germany




                              Tựa đề bài viết tuy rất bình dị, nhưng đối với ai dưới tuổi 50 ở thành phố Mỹ-Tho, tôi tin rằng phần đông, họ không thể hình dung được sinh hoạt đầy thú vị nầy. Cũng có không ít người dân địa phương, niên kỷ cao hơn nhưng vẫn chưa biết được, vì thuở xa xưa của mấy thập niên trước, họ không hề một lần đặt chân tới địa danh nầy vào buổi sáng sớm, một nơi chốn có thật nhiều bóng mát của những hàng cổ thụ, dẫn dài hơn một cây số, từ đường Lê Lợi gần chợ Mỹ-Tho, đến đối diện với dinh Tỉnh Trưởng thời bấy giờ. Khuôn viên nơi đây tuy không rộng lớn bằng vườn hoa Lạc Hồng, ở góc đường hình chữ L, nối liền với dãy Bar ăn uống dọc theo bờ sông trên đường Trưng Trắc, nhưng bóng mát của nhiều tàng cây cao, tưởng chừng như phủ kín bao quanh bốn phía. Có lẽ vì không có nhiều “kỳ hoa dị thảo“, nên không được mang danh công viên, mà lại gọi là Cầu Tàu, tên nôm na của một bờ sông có cái cầu lỡ dẫn ra chiếc tàu chìm. Mặc dù nơi nầy cũng có nhiều băng ghế đá để cho người ta ngồi nghỉ chân, hóng mát rất hữu tình.



                              Từ khi vườn hoa Lạc Hồng của ngày nay, còn là nhà ga xe lửa Mỹ-Tho - Sài-Gòn, Cầu Tàu là nơi thể thao rất được yêu thích của dân chúng tại thành phố Mỹ-Tho. Một cạnh chiều ngang của Cầu Tàu tiếp giáp với doanh trại Chương Dương, đơn vị chủ lực Hải Quân của thành phố. Phía bên kia là Ty Thanh Niên cạnh Ðài Phát Thanh Mỹ-Tho. Còn chiều dài Cầu Tàu phía ngoài giáp với đường lộ lớn. Mặt đối diện bên trong là một bờ thành thấp kiên cố, dài không tới 100 mét được xây bằng đá, chạy dọc theo dòng sông Cửu-Long xuống dưới đáy sông cao hơn bốn thước, với những bậc thang chữ Z thật dài và nhỏ, đủ làm nhịp cầu cho người ta đi xuống và bước lên được dễ dàng. Cũng dọc theo bờ sông nơi đây, có mấy cây dừa khá cao thân uốn cong, ngã nghiêng nghiêng ra mặt nước trông rất nên thơ. Ngoài ra, tiếp giáp với bờ sông ở khoảng giữa, một chiếc cầu sắt chắc chắn cũ kỹ, sơn đen lót ván theo chiều ngang, dài chừng 15 mét được xây cất lộ ra mặt sông có hình chữ T, để cho thiên hạ thả bộ ra hóng mát gió sông. Nơi đây, thỉnh thoảng có những người đàn ông ngồi âm thầm, kiên nhẫn thả câu vào những buổi chiều tối. Ra khỏi cầu không xa, thấp thoáng ẩn hiện theo con nước đầy vơi, đáy của một chiếc tàu bị lật nằm úp dưới mặt sông. Đó là chiếc tàu sắt của Pháp, đã bị đánh chìm trong thời đệ nhị thế chiến cho mãi đến về sau, chính quyền sở tại vẫn chưa có phương tiện trục vớt lên. Cũng trên mặt phẳng rộng lớn của đáy tàu nhìn thấy lúc nước cạn nầy, nhiều người khi bơi lội ra đó, đã có được nơi nghỉ chân khá tốt.



                              Ðặc tính của Cầu Tàu là một “hồ tắm“ lộ thiên rộng thênh thang vào buổi sáng, cho bất cứ những ai thích bơi lội đều có thể đến đây. Thật ra thì không có ai biết rõ, nguồn gốc của bãi tắm ngoài trời nầy được khởi đầu từ lúc nào? Một số ít người tắm thì đã có vào cuối của những năm 40, nhưng thời điểm hoạt động náo nhiệt nhất của Cầu Tàu, được xem là từ những năm 50, cho đến suốt thập niên 60 của thế kỷ trước. Ðáy sông nơi đây tuy không được thuần túy là cát vàng, cát trắng như ở những bãi biển khác, nhưng cũng không phải bùn sình, mà toàn là cát với sỏi đá lớn nhỏ đủ loại lẫn lộn, nên không làm bẩn chân cho người bơi lội, cũng như đi bộ dạo chơi những lúc nước ròng.



                              Cầu Tàu mỗi sáng thật sớm chừng 5 giờ 30, khi trời còn tối đen như mực thì đã bắt đầu có người đến nơi rồi! Với chừng thiểu số luôn cố định, họ là những thương gia như: Ba mẹ anh Trương Ðức, chủ tiệm vàng Minh-Tân, phu quân của chị Trung, cựu thủ quỹ của Hội Ái Hữu hai trường Lê & Nguyễn ở CA-USA, ông bà chủ tiệm thuốc bắc Tân Minh Tế tại chợ Mỹ-Tho, là ba mẹ của anh Jimmy Huynh, chị Hiếu với ông bố là tiệm chụp hình Thiện-Ký, Thầy Sáu Châu Văn Trụ, tùng sự thâm niên ở Ty Ðiền Ðịa, Mama cùng chị cả của người viết và vài người nữa! Ðến 6 giờ, số người ra đến Cầu Tàu tăng dần cho đến 7 giờ thì xem như là đông đảo nhất! Thành phần ra Cầu Tàu bơi lội đa số là giới công chức và học sinh. Họ đi thành từng nhóm ít người như bạn bè, vợ chồng và con cái, nhưng không có trẻ em quá nhỏ. Quang cảnh Cầu Tàu với khí trời mát mẻ, trong lành vừa bừng sáng thật sống động và huyên náo, bởi số lượng ước chừng 200 người.



                              Vài ông bà lớn tuổi trước khi xuống tắm, thường đứng rải rác trên các bãi cỏ tập thể dục cá nhân thông thường, bằng cách bắt đầu hít mũi chầm chậm thật sâu vào, rồi thoải mái thở dài nhè nhẹ ra. Song song với mỗi thao tác nhiều lần như chống nạnh nhón chân lên xuống, ngồi chồm hổm cũng ở thế nhón gót rồi lại đứng dậy. Dang hai tay ngang ra như cánh máy bay, để uốn éo thân mình chuyển động sang trái và phải, rồi một cánh tay duỗi thẳng xéo lên cao, còn cánh tay bên nầy đưa xuống chân bên kia và ngược lại. Ðứng cong mình xuống về phía trước để cố gắng chấm hai bàn tay đụng tới chân, rồi từ từ đưa hai cánh tay lên cao theo thân mình, đứng ngay trở lại trong tư thế bình thường. Gần đó, quang cảnh thật sinh động không ngừng đang diễn tiến ở dưới nước, những người bơi khá thì lội xa ra đến chiếc tàu chìm, còn phần đông đều tập trung ở khu phía trong, giáp với bờ thành đá có bậc thang lên xuống. Vài trẻ em được phụ huynh tập lội với những chiếc phao lớn, nhỏ bằng ruột xe hơi hay xe Vespa, trong đó có … tôi. Tình thiệt mà nói, mãi cho đến ngày nay, tôi vẫn chưa biết lội, nhưng lại vượt qua cả một đại dương đến được ở cái xứ Ðức nầy.



                              Sáng sớm tinh sương nơi Cầu Tàu, trên những lùm cây cao không ngớt tiếng chim kêu chíu chít nghe thật vui tai, báo hiệu cho một buổi bình minh thật mát mẻ tràn đầy sinh khí. Những tháng mùa hè, người ta còn được “thưởng thức“, tiếng hòa tấu của ban nhạc “Nỗi Buồn Hoa Phượng“, với liên khúc dài bất tận của đàn ve sầu làm muốn ù tai. Ngoài ra, người ta còn nghe thêm được tiếng hụ còi inh ỏi, đinh tai nhức óc của vài chuyến xe lửa và Ô Tô Rây, từ Sài-Gòn sắp về đến trạm cuối ở nhà ga, mà sau nầy biến cải thành vườn hoa Lạc Hồng, cách Cầu Tàu chừng ba trăm thước. Cổng chắn xe cộ giữa đường gần Ðài Phát Thanh và dinh Tỉnh Trưởng được hạ xuống, để cho đoàn tàu hỏa xình xịch, với làn khói đen cuồn cuộn phía trên đầu xe chầm chậm chạy qua. Lúc nầy, hầu hết đám con nít thường nôn nao chạy ùn ra, phía hàng rào thấp được trồng bằng những bụi cây, để ngắm nhìn xe lửa một cách thích thú! Bên kia Ðài Phát Thanh, giọng nói ngọt ngào của chị xướng ngôn viên xinh đẹp Hồng-Loan, phát ra rất lớn tiếng từ chiếc loa khổng lồ, qua phần đọc tin tức buổi sáng, sau đó xen lẫn một vài bản nhạc tình ca quê hương. Mãi đến gần 7 giờ, những người thương buôn bắt đầu rời khỏi Cầu Tàu, tiếp đến là giới công chức và học sinh cũng phải về nhà, chuẩn bị ăn sáng để vào công sở và đến trường học. Cầu Tàu trở nên yên tịnh vắng vẻ khoảng 8 giờ, có chăng chỉ còn lại một vài người đàn ông trộng tuổi ra tắm trễ, họ đứng trên chiếc tàu chìm phía ngoài, thong thả kỳ cọ mình mẩy và thoải mái nhìn ngó dáo dác xung quanh.



                              Vào các ngày âm lịch giữa tháng khi nước lớn, số người ra Cầu Tàu bơi lội khá đông. Ngược lại, những hôm con nước ròng, lượng người thưa thớt giảm thiểu thấy rõ! Gặp lúc nước cạn, trẻ em và những người bơi không giỏi, thường thích đi lang thang qua lại đùa giỡn dọc theo bãi cát, giáp với mực nước có tiếng sóng vỗ rì rào từng đợt. Còn những người lội khá thì bơi ra chiếc tàu chìm có nước xoáy chảy khá mạnh. Mặc dù không có giám thị kiểm soát bãi tắm, nhưng mọi ngưòi đều tự động ý thức, không ai lội ra gần đến giữa sông có thể xảy ra sự cố nguy hiểm, khi bị “ma da“ kéo chân như người ta hay nói truyền miệng. Vào những ngày cuối năm gần Tết khi có gió chướng, người ta thường nghe tin vài người nào đó, la hoảng lên bị cá nốc cắn rất đau. Ðiều nầy quả đúng là có sự thật!



                              Cầu Tàu được xem là một nơi lý tưởng, cho những người thích đi bơi lội vào sáng sớm. Buổi chiều cũng có vài tay bơi giỏi, đi tập luyện thường xuyên và một ít cha mẹ, cố ý dẫn con đi làm quen với nước. Còn buổi trưa chẳng thấy ai tắm cả, mặc dù không có lệnh cấm. Nơi đây tuy không có nhà vệ sinh công cộng, hay phòng thay quần áo, nhưng nào có nghe ai than phiền gì đâu? Nam cũng như nữ, trước và sau khi tắm đều choàng một chiếc khăn lông lớn, để thay đồ tại chỗ một cách tự nhiên. Hầu hết phụ nữ đứng tuổi, cũng như các cô đều mặc áo quần tắm liền thân. Tuy nhiên, một vài người đẹp chân dài, có thân hình thon thả hấp dẫn, muốn phô trương những đường cong tuyệt mỹ của mình, cho thiên hạ nhìn lé mắt chơi, qua các kiểu áo tắm loại hai mảnh với màu sắc thật bắt mắt. So với thanh niên thì thanh nữ đi bơi lội cùng phụ huynh nhiều hơn. Có lẽ vì thế mà trong suốt quá trình hoạt động của Cầu Tàu, tôi không hề nghe được một mối tình nào chớm nở từ “dưới nước“, như bao nhiêu cuộc tình thơ mộng của tuổi hoa niên học trò, đã nở rộ trong phạm vi rộng lớn ở đại lộ Hùng Vương, nơi tập trung trường học nhiều nhất tại thành phố Mỹ-Tho.



                              Sự quen biết giữa mọi giới người vào mỗi buổi sáng ở Cầu Tàu, thường là những câu chuyện thăm hỏi xã giao mà thôi! Cũng tại nơi đây vào những buổi trưa chiều nắng đẹp, không ít cô cậu học sinh của hai trường Trung Học Nguyễn Ðình-Chiểu và Lê Ngọc-Hân trong đồng phục, với cặp sách trên tay hẹn hò nhau ra đây tâm tình. Trên phần gốc của những thân cây dừa dọc theo bờ sông, người ta thấy ghi khắc nhiều mẫu tự, bằng hai chữ hoa cận kề hay quyện vào nhau như HM, XN, VÐ .v.v. Ngoài ra, còn có dấu nhiều hình trái tim sát bên nhau nữa! Ðau khổ thay cho những mối tình không được trọn vẹn, khi có vài trái tim bị mũi tên xuyên qua rỉ máu trông thật thảm sầu. Những đêm trăng thanh gió mát, một ít người lớn tuổi thường đi dạo, ngồi nghỉ chân trên các băng ghế đá gần bờ sông, hướng mắt nhìn về mặt nước dâng đầy, có hàng dừa nghiêng mình đang soi bóng dưới ánh trăng sáng thật đẹp! Thỉnh thoảng, vài em bé đi ngang ghé lại rao bán đậu phộng rang, hột đậu rất dòn và thơm ngon được gói trong những túi giấy dầu nhỏ hình cái quặng. Dưới gốc cây to gần đó, mùi thơm ngào ngạt khá hấp dẫn bay ra, từ những trái chuối nướng bọc nếp, đã trổ màu vàng trên dỉ sắt của bếp lửa, mà bà bán chuối đang cẩn thận lật qua lật lại, làm khách nhàn du khó lòng không dừng bước, để rồi mấy phút sau đó, vừa đi vừa thổi ăn một cách ngon lành!



                              Gần bốn thập niên sống tại một quốc gia tiến bộ bậc nhất của trời Âu, thỉnh thoảng gia đình tôi có đi tắm, ở những hồ bơi thiết bị cực kỳ hiện đại, nhưng chỉ riêng tôi thì “bơi“ bên hồ cạn dành cho … trẻ em vì không biết lội. Những lúc nằm trên ghế bố nghỉ mệt cạnh bờ hồ, đôi khi tôi hay so sánh và hồi tưởng viễn vông, về bao kỷ niệm êm đềm trong quá khứ của Cầu Tàu năm xưa nơi quê nhà, mà không khỏi chạnh lòng, xót xa…



                              Bài viết đã được đăng trong Nội San số Xuân năm 2009, của Hội Ái Hữu hai trường Nguyễn Ðình-Chiểu& Lê Ngọc-Hân Mỹ-Tho Âu Châu ở Paris - France.
                              Last edited by nguyenphuong; 11-21-2020, 04:26 AM.

                              Comment



                              Hội Quán Phi Dũng ©
                              Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




                              website hit counter

                              Working...
                              X