Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Huấn Ca Tiên Rồng

Collapse
X

Huấn Ca Tiên Rồng

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Huấn Ca Tiên Rồng

    Huấn Ca Tiên Rồng
    Phạm Văn Bản

    Là người dòng giống Tiên Rồng
    Ðồng Bào ta nhớ thuộc lòng chín kinh
    Tiên Rồng thứ nhất xác minh
    Song Hiệp Hoàn Chỉnh trọn tình ai ơi
    Thứ hai Trầu Cau diễn lời
    Thân Thương nguyên lý làm đời sống chung
    Thứ ba hướng tới trùng phùng
    Chữ Ðồng, Bình Ðẳng Tột Cùng là đây
    Tiết Liêu thứ bốn dựng xây
    An Dân Thịnh Nước xum vầy ấm no
    An Tiêm truyền tích chăm lo
    Việc Làng Dân Chủ - đạo phò con dân
    Vọng Phu thứ sáu góp phần
    Chồng nào Vợ nấy chuyên cần tăng gia
    Trương Chi thứ bảy ấy là
    Căn nguyên hạnh phúc – tình ta sáng ngời
    Mỵ Châu thứ tám truyền lời
    Giúp dân Giữ Nước góp đời sĩ phu
    Kết câu Phù Ðổng diệt thù
    Dấn thân Cứu Nước cho dù gian nan
    Chánh Thuyết dân Việt chứa chan
    Tiên Rồng văn hóa bao ngàn năm qua

    Khai nguyên minh triết nước ta
    Tiên Rồng phối hiệp – xây gia dựng đình
    Từ đây thắm đượm ân tình
    Trăm con chung bọc – mẹ sinh một lần
    Trọn tình trọn nghĩa ái ân
    Mẹ cha xác quyết đôi phần như sau
    Con người – hai nửa khác nhau
    Năm mươi theo mẹ lên mau núi rừng
    Nửa phần còn lại reo mừng
    Theo cha xuống biển tưng bừng hoan ca
    Cha Rồng còn nhắn nhủ là
    “Khi cần thì gọi – Có Ta về liền!”
    Tiên Rồng phát triển thường xuyên
    Cháu con Tộc Việt khắp miền núi sông

    Tuyệt thay Chánh Thuyết Tiên Rồng
    Ông Bà xây dựng cộng đồng an vui
    Căn nguyên Nhận Diện Con Người
    Tiên Rồng Song Hiệp – tạo đời toàn năng
    Cha Rồng – biểu tượng nói rằng
    Lực thân sinh động – Trí năng biến hòa
    Và Tiên hiện hữu trong ta
    Làm nên người thật ấy là nhân sinh
    Mẹ Tiên – biểu tượng chứng minh
    Tâm tình thông hiệp – Tuệ linh vĩnh tồn
    Con Người – nền tảng lập ngôn
    Trí-Thân-Tâm-Tuệ trường tồn là đây

    Tiếp theo công cuộc dựng xây
    Cộng đồng Xã Hội xum vầy như sau
    Hiệp hai hoàn chỉnh nhiệm màu
    Trăm Con Một Bọc cùng nhau giúp đời
    Trăm người trăm việc ai ơi
    Căn cơ gia tộc tuyệt vời là đây
    Chẳng như tà thuyết phương Tây
    Duy tâm, duy lợi… chất đầy bất công
    Phân ngôi định cấp cộng đồng
    Ðặt ra thống trị: chủ ông – tớ đày
    Của tài vơ vét hàng ngày
    Bắt dân đóng góp kéo cày như trâu
    Cấp trên cứ mãi làm giàu
    Lừa khinh cấp dưới tóm thâu lợi quyền
    Nào là đảng trị chính chuyên
    Tự do – cũng bọn tuyên truyền hại dân
    Con người đau khổ muôn phần
    Biến thành con thú – ta cần xóa tan
    Thay bằng xã hội thịnh an
    Tiên Rồng – hồi phục dung nhan con người

    Quân bình tỷ lệ: năm mươi
    Số con theo mẹ bằng người theo cha
    Tương đồng tuyệt đối ấy là
    Song hiệp hoàn chỉnh – làm đà phát huy
    Nguyên sinh vạn vật gẫm suy
    Phê bình tiến hóa – cứu nguy loài người
    Kỷ nguyên cách mạng sáng ngời
    Tiên Rồng Mở Hội – tiếng cười hoan ca
    Núi – sông giao hữu hài hòa
    Siêu linh – vật chất thăng hoa muôn đời
    Lý – tình minh định tuyệt vời
    Thân thương – bình đẳng bao thời khắc ghi
    Nước – nhà lúc thịnh lúc suy
    Hợp tan – tan hợp diệu kỳ ngàn thu

    Mỗi người: sống nét đặc thù
    Trong nền Phúc Ðức luyện tu hàng ngày
    Tinh thần – thể chất tỏ bày
    Hiền hòa – dũng cảm hăng say giúp đời
    Lo ăn mặc – cũng thảnh thơi
    Cá nhân – tập thể xin mời lo toan
    Sống nhân – lẫn trí kiện toàn
    Hợp tình – hữu lý hiền ngoan Tiên Rồng

    Gia đình: thuận vợ thuận chồng
    Thương yêu kính trọng – hòa đồng việc chung
    Sống tình lẫn nghĩa – ung dung
    Vô nam dụng nữ – cũng cùng như nhau
    Vợ chồng, con cháu trước sau
    Việc làng việc nước – hãy mau trau dồi
    Gái trai – hiếu thảo xứng đôi
    Kính thờ Quốc Tổ – nhớ nôi Tiên Rồng

    Cộng đồng: trên dưới, nhưng không
    Lạm quyền thống trị: chủ ông – tớ đày
    Thời nào mà chẳng nghèo – giàu
    Chung giàn cuộc sống bí – bàu chẳng phân
    Tước thiên mà có tước nhân
    Lý – tình đạo sống mười phân vẹn mười
    Gia đình – gia tộc, loài người
    Từ làng đến xã vui cười đoàn viên

    An dân chính trị gắn liền
    Vua – quan vì nhiệm khắp miền ấm no
    Ðức – tài lãnh đạo chăm lo
    Chẳng vì chức vị tự do lộng hành
    Nào đâu quân chủ chính chuyên
    Thực ra dân chủ khắp miền lân bang
    Phép vua thua với lệ làng
    Chứng minh cuộc sống nhịp nhàng vì dân
    Chăn dân mà lại ân cần
    Ðáp ứng nguyện vọng toàn dân tỏ bày
    Mưu cơ – đạo lý thẳng ngay
    Quang minh chính đại – ra tay cứu đời
    Sống theo văn hóa sáng ngời
    Với người khuất mặt – với đời nhân sinh

    Xét về kinh tế xứ mình
    Thực thi bình sản dân tình an khang
    Không thừa không thiếu rõ ràng
    Kiệm cần liêm chính – lại càng thảnh thơi
    Tấc vàng tấc đất ai ơi
    Mặc bền ăn chắc là lời huấn linh
    Trăng thanh gạo trắng hữu tình
    Tạo ra của cải là vì thân thương

    Con người gắn bó quê hương
    Quốc phòng quân sự khắp phương thuận hòa
    Xã làng – tổ chức nước ta
    Vừa làm kinh tế – vừa là chiến khu
    Giữ làng giữ nước – bao thu
    Toàn dân là lính diệt thù lập công
    Có văn lẫn võ – hòa đồng
    Giữ nhà giữ nước vợ chồng dân binh
    Hỡi cô du kích chung tình
    Bên anh diện địa – có mình có ta
    Vừa lo giết giặc – mà là
    Cứu người lương thiện – Tình Ca Ðồng Bào

    Tiên Rồng – Ðạo sống tự hào
    Thờ Trời mà cũng đề cao Thờ Người
    Tại tâm – thể hiện vui tươi
    Lễ nghi – chứng tỏ con người thiện tâm
    Trên dương sống mãi như âm
    Từng người – toàn thể đồng tâm giúp đời
    Bao điều tôn giáo tuyệt vời
    Thế nhưng chỉ nhận những lời thích nghi
    Gia Tiên – Quốc Tổ khắc ghi
    Tình chân thiện mỹ – không gì sánh hơn

    Ngày nay nhân loại gặp cơn
    Khiếm khuyết hạnh phúc – oán hờn kiếp sinh
    Gây ra bao cảnh bất bình
    Ðấu tranh giai cấp – đoạn tình anh em
    Xin mời thế giới đến xem
    Con đường nhân bản sẽ đem hiệp đồng
    Ðó là Chánh Thuyết Tiên Rồng
    Giúp cho nhân loại – chờ trông cứu người
    Trăm Con Một Bọc tuyệt vời
    Công bình bác ái sáng ngời là đây
    Từ bi hỷ xã chứa đầy
    Ta vâng Thánh Ý – đi xây Con Người

  • #2
    Huấn Ca Chữ Đồng

    Thứ hai: truyền thuyết Sống Chung
    Tổ Tiên thuật chuyện Tiên Dung – Chử Ðồng
    Sống trong xã hội Tiên Rồng
    Căn nguyên Bình Ðẳng – hòa đồng việc chung

    Có nàng Công Chúa Tiên Dung
    Trăng tròn lẻ bóng – dạo cùng khắp nơi
    Như tiên tung cánh giữa trời
    Luống mong tìm đến một nơi an bình

    Kể ra cho rõ sự tình
    Chử Ðồng vất vưởng mỗi mình ven sông
    Thương thay kiếp sống Cha Rồng
    Áo cơm không đủ – chất chồng cô đơn
    Sớm khuya lòng luống mong ơn
    Tiên Rồng Song Hiệp thoát cơn đọa đày
    Đợi chờ cũng đến một ngày
    Ước sao nên một – kiếp này thảnh thơi

    Sáng nay công chúa ghé nơi
    Vây màn tắm gội – đất trời thăng hoa
    Hiện thân – mình ngọc tay ngà
    Nào ngờ – dưới cát vốn là ẩn nhân
    Nước trong – cuốn sạch bụi trần
    Trôi theo lớp cát – hiện thân Chử Ðồng

    Cao xanh đã thắt chỉ hồng
    Thấp cao hiệp nhất – vợ chồng nên duyên
    Mẹ Tiên – vội xuất bạc tiền
    Xây làng dựng phố – khắp miền ấm no
    Con dân – ra sức chăm lo
    Dựng nên cuộc sống tự do thanh bình

    Cha Rồng cũng góp phần mình
    Phép tiên đã luyện – tận tình dạy dân
    Tạo ra sung túc muôn phần
    Cộng đồng phát triển – đang cần bình an
    Đời người lắm chuyện liên can
    Những gì thịnh vượng – vua quan lo sầu
    Tiên Rồng – biến hóa nhiệm mầu
    Dân làng – mọi sự tóm thâu Về Trời

    Căn nguyên Nền Tảng tuyệt vời
    Làm Con Người Thật là lời khuyên chung
    Ðề cao Bình Ðẳng Tột Cùng
    Tổ Tiên diễn tả nội dung Tiên Rồng

    Tích xưa – thiên hạ thổi phồng
    Công nương hoàng tử - mới đồng sánh đôi
    Thứ dân – cũng loại hoa khôi
    Môn đăng hộ đối – tranh ngôi sang giàu

    Tạo ra giai cấp khác nhau
    Ăn trên ngồi trốc “bí – bàu” đấu tranh
    Bất công xã hội rành rành
    Chủ nô chế độ – đoạn đành anh em

    Tiên Rồng triết thuyết lại đem
    Cành vàng lá ngọc – dân đen hợp hòa
    Tiên Dung trẻ đẹp như hoa
    Giầu sang quyền thế – vậy mà yêu dân
    Chữ Ðồng không khố che thân
    Nghèo nàn mạt rệp – hưởng phần cưới tiên

    Nàng Tiên lưu lạc khắp miền
    Chính mình nhận thức – và tiên lên bờ
    Chàng Rồng nào dám hững hờ
    Ẩn mình dưới cát – đợi chờ cơ duyên
    Thấp cao – ván đã đóng thuyền
    Sinh Con Trăm Ðứa – hưởng quyền quốc gia
    Như dân – trong nước một nhà
    Lấy chi tài của – khiến ta chia lìa

    Tiên Rồng văn hóa sáng tia
    Ðừng cho ngoại vật ngăn chia cuộc đời
    Nơi đây Chỉ Thấy Con Người
    Toàn dân hạnh phúc – tiếng cười đoàn viên
    Thực thi Bình Ðẳng như Tiên
    Ta noi gương Mẹ – dùng tiền nuôi dân
    Gương Cha – cũng được góp phần
    Tài năng biến hóa – chuyên cần dạy khuyên

    Giúp dân Sống Thực căn nguyên
    Phát huy toàn diện – vang truyền gần xa
    Cháu con noi đức mẹ cha
    Tài năng của cải chỉ là hỗ tương
    Chớ dùng tài của đo lường
    Phân ngôi định cấp – thân thương xa lìa
    Mà gieo tai họa đầm đìa
    Ăn trên ngồi trốc – phân chia giàu nghèo
    Gây ra cuộc sống cheo leo
    Khinh khi cốt nhục – rắc gieo tương tàn

    Tiên Rồng – xã hội thịnh an
    Mọi người cùng hưởng – sẻ san gia tài
    Chẳng dành hạnh phúc riêng ai
    Về Trời – dẫn tới tương lai thanh bình
    Từ người tới vật hữu sinh
    Hoàn toàn được hưởng trong tình Thân Thương

    Tuy rằng cũng có ít phường
    Tham quyền lạm chức nhiễu nhương dân lành
    Ðể răn những kẻ lộng hành
    Toàn dân khinh bỉ – Sử xanh chê cười

    Chẳng như văn hóa xứ người
    Chủ nô – cổ võ coi người như trâu
    Cấp cao sẵn thế làm giầu
    Ðạp lên đồng loại – tóm thâu lợi quyền

    Và nền Ðạo Việt lại khuyên
    Góp chung Phúc Ðức – lưu truyền nghìn thu
    Sống theo nguyên lý đặc thù
    Tột Cùng Bình Ðẳng – chân tu Con Người

    Comment


    • #3
      Huấn Ca Trầu Cau

      Thứ ba: diễn tả tình người
      Ông Bà dẫn chứng cuộc đời Trầu Cau
      Sinh đôi – hai đứa giống nhau
      Trăm con một bọc – cơm rau cạnh kề
      Có nàng chớm tuổi cặp kê
      Luống mong mình có tóc thề sánh vai
      Nàng nhìn tư cách cả hai
      Kính trên nhường dưới – đức tài ngang nhau
      Giúp nàng suy tính trước sau
      Trao duyên gởi phận – lựa vào người anh
      Chuyện tình đậm nét xuân xanh
      Vợ chồng hiệp nhất – anh em một nhà

      Ngày kia trông cuốc hóa gà
      Gặp em – nàng những nghĩ là “hôn phu”
      Phận em đành quyết chu du
      Dẫu rằng xa cách – cũng vì thương anh
      Hành trình biển nhớ đoạn đành
      Sống thiêng thác gởi – hóa thành đá vôi

      Nhưng anh lòng luống bồi hồi
      Nhớ em – chàng kiếm chốn đồi xa xăm
      Khóc thương – tượng đá đang nằm
      Người anh cũng chết biến nhằm cay cau

      Thương chồng – nàng mãi âu sầu
      Đến nơi chồng chết – hóa trầu giây leo

      Từ đây lễ tết, cưới cheo
      Ăn trầu – tập tục giàu nghèo như nhau

      Gẫm suy bài học Trầu Cau
      Giống như hai đứa – nhắc nhau Tiên Rồng

      Bởi chưng Bọc Mẹ hòa đồng
      Thân Thương – nguyên lý sống lồng trong kinh
      Ðể cùng Bình Ðẳng phân minh
      Chứa chan nhân nghĩa – dân tình nước ta
      Trăm Con Một Bọc – sinh ra
      Ðồng Bào – cùng bọc mẹ cha sinh thành

      Chu toàn trách nhiệm làm anh
      Sánh duyên thiếu nữ – đặt thành tương quan
      Ðến khi xảy chuyện bất an
      Tình Người – giải quyết hoà chan sáng ngời

      Chẳng như thiên hạ - xử đời
      Vợ chồng khi cưới – sống rời anh em
      Tổ Tiên ta lại những xem
      Cuộc đời xung khắc lẫn kèm yêu thương
      Cả ba – cùng chọn một đường
      Ðồng sinh đồng tử – tình thương vẹn toàn
      Dương âm – hằng sống bình an
      Trầu Câu âu yếm che tàn Ðá Vôi
      Vị cay thơm ngát hương môi
      Hoà nhau thành máu – Chết rồi vẫn thương

      Tích truyền nhân loại tỏ tường
      Thương nhau trọn kiếp – nhẫn nhường khắc ghi
      Sẵn sàng phải chết – xá chi
      Dẫu rằng có chết – cũng vì thân thương

      Sống trong xã hội bình thường
      Trầu Cau – nền tảng là đường dựng xây
      Gia đình gia tộc – xum vầy
      Họ hàng làng nước – sống đầy thương yêu
      Tương quan xét đến các chiều
      Từ làng đến nước – một điều thân thương
      Sáng soi chân lý ngàn phương
      Trầu Cau – lời dạy thành chương dẫn đầu

      Toàn dân – thực sống chung tầu
      Thân Thương Bình Ðẳng – mưu cầu phát huy
      Nước nhà – lâm cảnh phân ly
      Hiến thân bảo vệ - chẳng tùy cứ ai
      Tiên Rồng văn hóa thoát thai
      Ông bà, chú bác – nối dài kỷ cương
      Anh em, con cháu – tỏ tường
      Diễn tình cốt nhục Thân Thương Tột Cùng

      Hôm nay tà thuyết nói chung
      Phân chia giai cấp – sao cùng yêu thương?
      Bởi chưng nền tảng khinh thường
      Gây bao tàn sát – nhiễu nhương hận thù
      Nhân quyền, cải tiến, nhà tù
      Bất công chồng chất – mặc dù đấu tranh

      Ta xem sự thể rành rành
      I – you, nị – ngộ… tị ganh hàng ngày
      Ðồng đẳng – là chữ giãi bày
      Phân ngôi định cấp – tớ thày là đây

      Ta nhìn văn hóa phương Tây
      Ðộc tài đa đảng – chứa đầy bất công
      Nhưng theo Chánh Thuyết Tiên Rồng
      Trầu Cau – căn cội Cộng Ðồng Thân Thương

      Tình Người – ta hãy am tường
      Tâm Tụê nơi Mẹ – yêu thương dẫn đầu
      Triển khai truyền thuyết nhắc câu
      Cả hai diễn tả nhiệm mầu “chữ Song”
      Trầu Cau liên kết Chử Ðồng
      Hình thành “chữ Hiệp” – Tiên Rồng là đây

      Căn nguyên Song Hiệp giãi bày
      Trăm Con Một Bọc – đi xây cuộc đời
      Thân Thương Bình Ðẳng – sáng ngời
      Chứng minh Sử Việt – ngàn đời đã qua

      Tới nay bổn phận chúng ta
      Giúp Dân Cứu Nước – phục hồi quê hương
      Tái sinh xã hội kỷ cương
      Đề cao nguyên lý Thân Thương Tột Cùng

      Comment


      • #4
        Huấn Ca Tiết Liêu

        Kính thưa quý vị và các bạn, trước khi chúng ta tiếp tục khai triển “bộ bốn sống thực” và “bộ hai phục hưng,” xin được tổng kết sơ lược “bộ ba nền tảng” của Chánh Thuyết Tiên Rồng – một tuyệt tác chính trị của Tổ Tiên Việt Nam.

        - Tiên Rồng, Chử Đồng, Trầu Cau là bộ ba nền tảng, gọi là nền tảng vì chúng ta có được nhận diện, định nghĩa về con người và cộng đồng xã hội một cách hoàn chỉnh, toàn diện, đúng thực. Đúc kết nét đặc thù và khai thác các truyền tích đó, chúng ta có được một hệ thống tư tưởng chỉ đạo sống động và hiện thực – là Sinh Thức Tiên Rồng – với nguyên lý Tiên Rồng Song Hiệp để áp dụng vào cấu trúc tổ chức cộng đồng xã hội Bọc Mẹ Trăm Con.

        1. Tiên Rồng: Chúng ta có nguyên lý sinh hóa của vạn vật, đặc biệt căn cứ trên con người – nguyên lý Tiên Rồng Song Hiệp, định nghĩa về con người một cách hoàn chỉnh, toàn diện, đúng thực. Nhận diện xã hội con người là Xã Hội Đồng Bào, xã hội anh em một là trăm, trăm là một, với hai nguyên lý siêu việt của loài người là Bình Đằng Tột Cùng – Thân Thương Tột Cùng.

        Tiên Rồng mang ý niệm và đặc tính của mẹ Tiên cha Rồng, phối hiệp tòan nhất và tương đồng, kết tinh tòan vẹn mọi tương quan sinh họat con người.

        Biểu tượng Một Bọc Trăm Con xác định đặc tính xã hội con người bẩm sinh, do kinh nghiệm cuộc sống từ gia đình, gia tộc, dân tộc. Con người nhận ra mình không thể sống đơn độc, ngay từ lúc bắt đầu mầm sống đã cần có mẹ cha, cần có sự chăm sóc, bảo bọc của tình thân ruột thịt. Bằng ngược lại, sống đơn độc thì con người không thể phát triển tòan vẹn cuộc sống về mọi phương diện. Cũng do kinh nghiệm, con người nhận ra mình vừa là một hiệp thể cá biệt tòan vẹn, mà cũng là một thành phần của cộng đồng xã hội Bọc Mẹ Trăm Con.

        Và do kinh nghiệm cuộc sống trong tình thân với cha mẹ, với anh chị em, con người nhận ra mình có cùng một nguồn gốc, cùng một sức sống, và chia sẻ cuộc sống với nhau, cho nhau. Con người rút tỉa kinh nghiệm do cuộc sống bản thân quây quần trong gia đình, và cuộc sống cũng không đóng khung trong một tập thể hạn hẹp, mà còn mở rộng ra tới nhiều con người khác. Vì vậy hai truyền tích Chữ Đồng và Trầu Cau đã ghi nhận kinh nghiệm trong cuộc sống đông người, cộng đồng xã hội.

        2. Trầu Cau: Chia sẻ với Tiên Rồng, rút tỉa từ Bọc Mẹ Trăm Con ra hai anh em sinh đôi, giống nhau như đúc, thương nhau rất mực, chưa hề lìa nhau để áp dụng vào đời sống cộng đồng xã hội bằng Nếp Sống Tiên với nguyên lý Thân Thương Tột Cùng. Trầu Cau đặt nền tảng tương quan giữa người với người: “Thương nhau trọn tình, Sẵn sàng chết vì thương, Dẫu có chết cũng vẫn còn thương.”

        Do kinh nghiệm cuộc sống thân thương của gia đình, con người nhận ra tình cảm giữa con người với con người, đã phát xuất từ việc nhìn nhận nhau là đồng bào, là anh em, Giống nhau như đúc, và thực tâm Quyết chẳng lìa nhau. Tình yêu thương ruột thịt đó lại nhận thêm nhiều kinh nghiệm khi gia đình có thêm người xa lạ, đó là hình ảnh chị dâu, khi người anh vừa cưới vợ.

        Cuộc sống bất toàn, biến chuyển và trắc trở khi con người lại nhận ra tình thân thương chỉ tồn tại, khi con người sẵn sàng đánh đổi cuộc sống mình cho những người mà mình mến thương, Sẵn sàng chết cho nhau. Dù yêu thương nhau khắng khít, vượt thắng mọi trở ngại để bảo vệ tình thân, con người cũng trải qua kinh nghiệm của sự chết, của việc người thân vĩnh viễn lìa đời.

        Nhưng cũng do kinh nghiệm ấy, lòng thương nhớ không nguôi của con người, lại cảm nhận sự chết chẳng những không chấm dứt, không ngăn cản mà còn giúp con người thể hiện trọn vẹn tình Thân Thương Tột Cùng, Mãi mãi có nhau, vì khi đó không còn bất cứ gì có thể ngăn cản con người kết hợp nhau trong yêu thương.

        3. Chữ Ðồng là bài học “Bình Ðẳng Tột Cùng” của Nếp Sống Rồng. Tổ Tiên dùng hình ảnh Tiên Rồng trong truyện tích Công Chúa Tiên Dung xinh đẹp, giầu sang, được yêu thương kính trọng và quyền thế cao cả, tột cùng trong xã hội. Theo chữ nho, chữ nhân ghép với chữ sơn thành chữ tiên, tiên là người ở núi, núi của (vật chất).

        Nàng là nàng tiên giáng trần đến với chàng rồng Chữ Ðồng đói khổ, lang thang kiếm kế sinh nhai bên bờ sông bãi sú. Chàng nghèo khổ đến nỗi chỉ có một cái khố, mà vì hiếu chàng đã cởi để liệm cho cha, lúc người lìa trần, rồi chàng không còn gì cả. Tổ Tiên muốn dạy điều gì? Phải chăng muốn sống với nhau, phải thấy nhau bằng con người thật, con người tinh tuyền, con người không bị vật chất lụa là che phủ hay vây bọc.

        Mặt khác, chàng là rồng thì ẩn mình trong lòng đất (thủy phủ) để chờ đợi cho tới khi công chúa Tiên Dung vây màn tắm gội. Nàng từ trời xuống! Chàng từ đất lên! Nàng giầu sang tuyệt thế! Chàng tệ hơn khố rách áo ôm! Thế vậy mà nên duyên, mà song hiệp, thì xin hỏi xã hội này còn kẽ hở nào để mà ngăn cách hay phân chia giai cấp?

        Chính nhờ sự Song Hiệp Tiên Rồng, con người mới được sống hạnh phúc. Tiên Dung – Chữ Ðồng đã giúp dân, có cả một chương trình phát triển xã hội, giáo hóa dân chúng (dạy dân phép tiên), phát triển kinh tế (lập phố xá), ngoại thương (ra biển đi buôn), phát triển giao dịch, lưu thông (gậy thần rút đất). Tới khi cặp tiên rồng này Về Trời thì dân chúng cũng được về theo! Tất cả thành tiên, đẹp như tiên, sướng như tiên, hạnh phúc cực lạc!

        Nhìn lại cuộc sống càng kéo dài và càng có đông người, thì con người càng thêm kinh nghiệm về những khác biệt trong tài năng, trong sức lực, cũng như trong may rủi của cuộc đời như kinh nghiệm của Tiên Dung – Chữ Đồng. Do kinh nghiệm đối xử với nhau, do tâm tình muốn bảo đảm cuộc sống tốt đẹp cho nhau, con người nhận ra rằng mỗi người phải Nhận thực chính mình.

        Khi đã biết rõ thân phận Con Người của mình, mỗi người lại phải nhìn nhận và sống với những con người khác như những con người tinh vẹn, không để bất cứ ngọai vật làm sai lạc hình ảnh đích thực con người. Chỉ thấy con người.

        Cũng do kinh nghiệm san sẻ trong tình thân, con người nhận ra cách xử dụng thích đáng tài năng và của cải. Tài và của chỉ là những phương tiện để gíup nhau cùng phát triển, Tài của giúp người, để tất cả Mọi người cùng hưởng hạnh phúc và thăng tiến, không trừ ai. Những kinh nghiệm sống đó Tổ Tiên đã gói ghém tuyệt vời trong truyền thuyết Chữ Đồng.

        Tới đây, chắc chắn nhiều bạn đọc còn hiểu nhiều chi tiết truyện tích hơn cả người viết? Thưa bạn, mình còn bao điều muốn nói, nhưng sao mà nói cho hết được. Vì mỗi người dân Việt, là con cháu của Tổ Tiên dòng giống Tiên Rồng siêu việt – thì tâm hồn Việt, máu huyết Việt đang luân lưu trong con người bạn, là cả một kho tàng Chánh Thuyết Tiên Rồng đang tiềm ẩn trong bạn, xin bạn hãy tự khai thác lấy gia tài Tổ Tiên?

        Sau Bộ Ba Nền Tảng cho con người và cuộc sống con người trong xã hội, Tổ Tiên dạy về một cơ cấu quan trọng nhất, đã chi phối mạnh mẽ tới đời sống con người, đó là Nước, Quốc Gia.



        Huấn Ca Tiết Liêu

        Thứ tư: Tình Nước sáng tươi
        Tiết Liêu – bài học Con Người An Dân
        Làng giàu nước đẹp phải cần
        Mẫu người tài đức giúp dân thái hòa

        Vua Hùng – thánh chỉ ban ra
        Cúng dâng lễ vật thì là truyền ngôi
        Và rồi khắp chốn xa xôi
        Ðã bao hoàng tử nổi trôi đi tìm
        Tiết Liêu vốn tính lặng im
        Suốt ngày quanh quẩn chẳng tìm đâu xa
        Một hôm chàng gặp Cụ Gìa
        Dạy làm kiểu bánh đậm đà hương say
        Bánh chưng cùng với bánh dày
        Chế từ lúa gạo - thường ngày nuôi dân
        Rồi chàng luyện tập chuyên cần
        Dâng lên của lễ - xứng phần làm vua

        Từ đây lễ tết đầu mùa
        Dày Chưng – là bánh tiến đưa bàn thờ

        Có ai đã mấy khi ngờ
        Việc vua việc nước – cần nhờ sứ nhân
        Nước ngoài – văn hóa chỉ cần
        Mẫu người cai trị thông phần dụng binh
        Giết người cướp của mặc tình
        Miễn tranh vương gỉa – điển hình sử xanh

        Nhưng nền Ðạo Việt tinh anh
        Phải tìm lễ vật – mới dành ngôi vua
        Khởi công bài học thi đua
        Nhờ ơn Tộc Tổ – làm vua phải cần
        Mang ra giáo hóa toàn dân
        Tri ân thủ nghĩa – góp phần dựng xây
        Non sông trăm họ xum vầy
        Cùng nhau ăn qủa – nhớ cây người trồng
        Vẫn theo tiêu chuẩn nghĩa công
        Ông bà nhắc chuyện Tiên Rồng với câu
        Long Quân Thánh Tổ – nhiệm mầu
        Khi cần thì gọi – nơi đâu cũng về!
        Bao phen linh ứng lời thề
        Tổ là Hồn Nước – cận kề với dân

        Ðã bao hoàng tử vong thân
        Ðua nhau vọng ngoại – tảo tần phương xa
        Quên luôn báu vật quê nhà
        An Dân Thịnh Nước – mới là xứng ngôi
        Cần chi những của xa xôi
        Gây ra mâu thuẫn – vua tôi trị vì

        Nhưng đây truyền thuyết lại ghi
        Tài tìm lễ vật – những gì An Dân
        Tiết Liêu vận dụng toàn phần
        Tâm Tuệ – tìm vật giúp dân hưởng nhờ
        Thức ăn từ gạo đơn sơ
        Thêm tài cải tiến – nào ngờ thơm ngon
        Làm theo hình thể vuông tròn
        Bảo Bình – hàm ý sống còn trong tên
        Tuyệt thay chiếc bánh chưng rền
        Lá xanh gạo trắng – nói lên thanh bình
        Ta nhìn tấm bánh xinh xinh
        Bên trong gói ghém bao tình quân dân
        Muối tiêu đường đậu thịt nhân
        Ngọt bùi cay đắng – chia phần sẻ san
        Dựng nên cảnh sống thịnh an
        Mọi người cùng hưởng – chứa chan công bằng

        Cũng trong buổi hội hoa đăng
        Bánh Dày nhuần nhuyễn – xin rằng chớ quên
        Thời suy – loạn lạc nổi lên
        Cứu nguy xã tắc – đạn tên không sờn
        Sứ Nhân nặng nợ công ơn
        Trước là Sống Thực – biết nhơn biết mình
        Hai là Hồn Nước quang vinh
        Cầu xin Tộc Tổ thương tình giúp cho
        Ba là Lột Xác nguyên do
        Gĩa từ cái cũ – ta lo sửa trì
        Dấn Thân – điều chót nhớ ghi
        Anh em cộng tác – xá gì gian lao
        Là con cháu Việt tự hào
        Thực thi truyền thống đề cao Tiên Rồng

        Tiết Liêu gương sáng khởi công
        Sống theo Hồn Nước – hoà đồng toàn dân
        Quyết tâm lột xác dấn thân
        Dân an nước thịnh – tỏ phần tài năng
        Truyền thuyết Tổ đã dạy rằng
        Phải luôn cải tiến – phát tăng nhu cầu
        Ðưa ra quốc sách khởi đầu
        Cộng theo cơ chế – nghèo giầu thích nghi
        Cố công tìm kiếm những gì
        Giúp dân sống thực – chớ vì quyền uy
        Làm vua – tuân giữ nội quy
        Thực hành Lời Tổ – cứu nguy dân lành
        Lợi dân ích nước – hoàn thành
        Cộng đồng hạnh phúc – sáng danh Tiên Rồng

        Trong bài Dựng Nước Chữ Ðồng
        Phúc thay! Toàn thể thưởng công Về Trời
        Có Làng – Có Nước xây đời
        Tiết Liêu hướng dẫn những lời An Dân
        Căn cơ Việc Nước tạo phần
        Quê hương thịnh vượng toàn dân huy hoàng
        Hiệp theo thực thể rõ ràng
        Việc Làng – phát triển nơi chàng An Tiêm
        Biểu trưng dưa hấu uy nghiêm
        Biến vùng sỏi đá thành niềm ước mong

        Tổ Tiên muốn nói chữ Song
        Tiên Rồng Song Hiệp – như trong từng bài
        Tiết Liêu – Rồng lại trổ tài
        Làm phần biến hóa – giúp Ngài gặp Tiên
        Lời khuyên của Tổ gắn liền
        Trường Tồn – nền tảng nơi Tiên đây rồi
        Hai phần hoàn chỉnh – truyền ngôi
        Tạo ra hiệp nhất một đôi song toàn
        Ðạo Làm Vua – Ðạo Làm Quan
        Sống Tiên – Việc Nước hòa chan hai đàng
        Sống Rồng – nền tảng Việc Làng
        Nước Làng Song Hiệp – vẻ vang giống dòng

        Tiết Liêu – gói ghém bên trong
        Công ơn Thánh Tổ – ghi lòng cháu con
        Tình người tình nước – sắt son
        Thực thi nguyện vọng sống còn nước dân
        Chưng Dày – biểu tượng minh phân
        Thanh bình – loạn lạc, điều cần giải nguy
        Giúp dân sống thực gẫm suy
        Mẫu Người Lãnh Ðạo ẩn quy trong bài
        Nơi đây nói đến chữ tài
        Cái tài thịnh nước – cùng tài an dân.

        Comment


        • #5
          Huấn Ca An Tiêm

          Thứ năm: chú trọng “Trí Thân”
          Việc Làng Phát Triển trong phần An Tiêm
          Con dân bày tỏ nỗi niềm
          Về nền dân chủ trang nghiêm nước nhà

          Lời đồn sự nghiệp dèm pha
          Người vua Hùng phạt chính là con nuôi
          An Tiêm vừa chớm đôi mươi
          Phải đày ra đảo vắng người hoang vu
          Dầu chàng gắng sức công phu
          Khai hoang khẩn đất đền bù ơn vua
          Nhưng rồi cuộc sống vẫn thua
          Càng thêm đói rách – ruộng chua nước phèn
          Lang thang chốn lạ chưa quen
          Mỏi mong hạnh phúc bao năm đi tìm
          Sáng nay gặp gỡ cánh chim
          Làm rơi hạt giống im lìm mọc lên
          Thành giây dưa hấu mang tên
          Vỏ xanh ruột đỏ dòn mềm thơm ngon
          Chàng Tiêm ghi dấu dưa tròn
          Thả trôi xuống biển – mỏi mòn trông tin
          Lượm dưa – dân kéo đến xin
          Dựng thành làng xã – giữ gìn quê hương
          Miền hoang phát triển phi thường
          Toàn dân trù phú kỷ cương thuận hòa
          An Tiêm thay mặt làng ta
          Chọn dăm trái hấu làm qùa dâng vua

          Từ đây lễ tết đầu mùa
          Trái dưa Cúng Tổ - tiến đưa lên bàn

          Truyền tích Sống Thực chứa chan
          Việc Làng Dân Chủ - tương quan Tiên Rồng
          Sống trong thể chế hiệp đồng
          Nước làng minh định việc công rõ ràng
          Thân thương bình đẳng trong làng
          Thuận trên hòa dưới nhịp nhàng kỷ cương
          Nói lên chủ nghĩa tỏ tường
          Căn cơ gia tộc là đường dựng xây
          Họ hàng lối xóm xum vầy
          Sẻ san đùm bọc sống đầy tình thương
          Ðồng bào ra sức tự cường
          Ðắp nền dân chủ địa phương vững bền
          Lễ nghi trống rộn chiêng rền
          Tay cày tay súng tạo nên thanh bình
          Lúa vàng nặng hạt ân tình
          Tre xanh che chở có mình có ta
          Ðó đây vang vọng ê, a…
          Trầm hương đình miếu chan hòa khí thiêng

          Rồng An Tiêm – vốn tính siêng
          Trổ tài vùng vẫy láng giềng – đảo hoang
          Cố công khai phá dựng làng
          Ðào kinh dẫn thủy mở mang gieo trồng
          Cũng như hình ảnh Chữ Ðồng
          Bờ sông bến nước giúp Rồng gặp Tiên
          Thoát cơn hoạn nạn triền miên
          Trút bao thống khổ ưu phiền bơ vơ
          Cơ trời nào mấy ai ngờ
          An Tiêm – Chim Lạc tình cờ gặp nhau
          Dầu như gío thoảng qua mau
          Tiên Rồng Song Hiệp – đổi màu xanh tươi
          Ðể mang hạnh phúc cho người
          Lợi dân ích nước tiếng cười hân hoan

          Phân minh cấp độ lo toan
          Nước – Làng hai việc chu toàn khác nhau
          Dấn thân – Việc Nước truyền rao
          Nặng phần Tâm - Tuệ quy vào Tiết Liêu
          Nêu cao truyền thống là điều
          Sức Dân Hồn Nước – theo chiều lòng dân
          Quốc gia vững mạnh phải cần
          Tài năng sáng tạo góp phần canh tân
          Việc Làng – cấp độ dấn thân
          Nặng về Thân – Trí như phần An Tiêm
          Thể theo đại chúng ngưỡng chiêm
          Của – Tài thực tế là niềm ước mong

          Thông điệp nêu rõ chữ Song
          Tiên nào Rồng nấy – thong dong bao thời
          Nói lên Hoàn Chỉnh tuyệt vời
          Khác nền xã hội ngược đời hiện nay
          Chủ trương cai trị phơi bày
          Ðấu thầu dân chủ - hằng ngày rêu rao
          Mỵ dân – chính sách đề cao
          Phổ thông đầu phiếu – nhưng nào vì dân?
          Trọng tâm tham chính chỉ cần
          Cậy tài ỷ của bắt dân phục tòng
          Vẽ rào pháp chế làm vòng
          Quản cai trực chỉ từng lòng nhân dân

          Tiên Rồng thể chế tuyệt trần
          Nước Làng quyền bính định phân rõ ràng
          Tạo thành hệ thống dọc – ngang
          Chính quyền căn cứ theo làng mà thôi
          Thuế sưu, lính tráng, tài bồi
          Phân chia, cắt bổ… trong nôi bảo bình
          Quan niệm Phúc Đức chứng minh
          Tận tâm vì nước – tỏ tình cháu con
          An Tiêm có trái cây ngon
          Dâng vua biếu nước làm tròn việc chung
          Chàng Rồng đại diện dân vùng
          Nói lên liên hệ nước cùng làng đây

          Thực hành bài học xum vầy
          Quê hương dân tộc tràn đầy tự do
          Cái làng là chốn ấm no
          Do dân tự lập – tự lo việc làng
          Mở ra nếp sống huy hoàng
          Toàn dân cùng hưởng thiên đàng Việt Nam

          Comment


          • #6
            Kính thưa quý vị và các bạn,

            Chúng ta vừa mở cửa kho tàng văn hóa Việt, tìm lại báu vật là gia tài Tổ Tiên dành để, là Chánh Thuyết Tiên Rồng. Sau đây chúng ta tiếp tục đào sâu hai truyền tích Tiết Liêu và An Tiêm tới tận ý nghĩa thâm thúy nhất, có thể có. Chúng ta cũng rút tỉa kinh nghiệm về việc dựng nước lập làng của hai chàng rồng này, và đừng quên “tiên nào rồng nấy!”

            4. Tiết Liêu – Nếu như Chữ Ðồng đề ra nguyên tắc phát triển xã hội, thì Tiết Liêu đặt định việc Thịnh Nước An Dân. Vua Cha muốn truyền ngôi, và hướng dẫn chúng ta đi tìm lễ vật dâng kính Tổ Tiên. Đang khi nhiều văn hóa khác lại cổ vũ bạo lực, điều binh khiển tướng đi chinh phục lân bang và kiếm nhiều thủ cấp của dân láng giềng, hoặc bắt người về làm nô lệ.

            Trước hết, Tiết Liêu có tinh thần dân tộc (thờ kính Tổ Tiên), làm con hiếu thảo (đặt gia đình là nền tảng căn bản, là gốc của nước như Trầu Cau), không màng sang giầu nhưng biết lo cho dân (lấy gạo làm căn bản cuộc sống ấm no của dân), có sáng kiến và phát triển kinh tế (gạo nấu cơm để lâu dễ thiu, nhưng làm bánh dày bánh chưng thì để dành trong thời gian dài hơn), lại mang đầy đủ ý nghĩa của đạo Trời đạo Ðất. Xin hỏi con người như thế không thịnh nước an dân sao? Không xứng tầm lãnh đạo chính trị?

            Khi các hoàng tử lên đường đi tìm của lễ vọng ngoại phương xa, Tiết Liêu vì hiếu chàng ở nhà (stay home) lo cho mẹ lâm bịnh dịch. Vì bình tâm sáng tạo Tiết Liêu đã gặp Tổ hiển hiện và chỉ cách làm bánh dày bánh chưng, lại mang đủ ý nghĩa đời sống Đạo Đức Tiên Rồng của toàn dân.

            Vâng Lời Tổ, Tiết Liêu làm bánh dày bánh chưng là chàng đã đem hết tâm thành, hết tài trí, hết sức lực để thực hiện truyền thống đạo đức siêu việt của dân tộc. Chẳng những Tiết Liêu làm ổn định đời sống người dân, mà còn biết xử dụng quyền lực nhằm bảo đảm và giảm bớt những cách ngăn, những chướng ngại trong cuộc sống chung. Chàng dùng luật lệ giúp mọi người thực sự san sẻ tài năng của cải cho nhau. nhằm thoát nạn bất công hay cách biệt giầu nghèo như bao xã hội hiện hành.

            Dấu chỉ của độc tài thống trị là hận thù chia rẽ, đấu tranh giai cấp, chia dân để trị. Nhà cầm quyền làm phân tán đại chúng, làm cho người dân trở thành đơn độc, bơ vơ, lạc lõng không nơi nương tựa, thì lúc đó quyền lực thống trị dễ bề áp bức và chiếm đoạt đặc quyền đặc lợi.

            Tiết Liêu cũng xử dụng quyền lực, tuy có thể gây phiền toái cho số người, nhưng cần thiết để bảo đảm cuộc sống chung, giúp mọi người thừa hưởng lợi ích, tạo cuộc sống chung, cộng đồng đồng tiến trong một Xã Hội Đồng Bào. Và từ đó toàn dân kết thành một khối đồng nhất, đồng thuận với chính quyền để tạo dựng nếp sống hương vị, dinh dưỡng, tồn tại lâu đời.

            Cái tài của Tiết Liêu, của người làm việc nước là “Tài biết tin tưởng vào dân nước, Tài giúp dân sống thực truyền thống dân tộc, Tài thấu hiểu nhu cầu thực tế của dân, Tài cải tiến cuộc sống người dân.” Trong hoạt động phục vụ dân mước, tài cải tiến cuộc sống người dân là công tác thực tiễn và đa đoan.

            Tiết Liêu chẳng những nấu xôi chín, tức là làm cho cuộc sống người dân đầy đủ đúng mức, mà cố gắng quết giã cho tất cả trộn lẫn vào nhau, và xôi quánh lại một khối thơm ngon. Nghĩa là chúng ta dùng quyền lực làm cho mọi người cùng nhau chia sẻ tài năng và của cải, giúp đỡ đùm bọc nhau trong đời sống Tiên Rồng, ở thời bình cũng như thời loạn.

            5. An Tiêm: Chuyện qủa dưa đỏ đã hình thành bài học dựng làng. Thà bị Vua Cha đày oan còn hơn là trốn theo tầu buôn về đất liền làm giặc. Nhưng khi có được thành qủa lao động với những trái dưa hấu là loại của ngon vật lạ ở nơi hải đảo xa xôi, An Tiêm đã gởi về dâng vua biếu nước. Từ đó dân ta, đặc biệt vùng miền khô cát nóng có được món ăn tươi mát, bổ dưỡng, thơm ngon. Chàng rồng này chẳng đáng mặt thịnh nước an dân sao?

            Dưới khía cạnh kinh tế, chúng ta có thể nói Tiết Liêu phát triển trên đất, nội địa thì An Tiêm phát triển vùng biển, ngoại thương.

            Việc phát triển Nước của Chử Đồng thì người chủ động là thành phần Tiên (Tiên Dung). Nhưng trong việc phát triển Làng, tuy cũng là Tiên Rồng nhưng phần chủ động và đặc trách công tác lại khác biệt nhau, là thành phần Rồng. Tiên chủ động trong việc Phát Triển Nước, là yếu tố Trường Cửu, truyền thống dân tộc, lòng dân song hiệp với nước là chính yếu, là động lực nhằm vận động mọi người xây dựng kiến thiết quốc gia.

            Việc phát triển Làng và đời sống người dân, tuy cần có sức sống và tinh thần chung của dân tộc, nhưng thành phần Rồng chủ động. An Tiêm nhấn mạnh tới cuộc sống thực tế, tài năng của cải trước mắt, là yếu tố Biến Hóa.

            “An Tiêm con nuôi của Vua Hùng bị đày ra đảo hoang,” Tổ Tiên giới thiệu quan niệm đặc biệt về vị trí của người dân lập làng, bị đày ra đảo hoang xa cách triều đình. An Tiêm tự lực cánh sinh, tự túc tự cường, tự chủ tự quyết thì lúc đó dân tộc mới có tự do dân chủ và nhân quyền. Toàn dân có ý thức và trách nhiệm. Bằng không thì chỉ là lũ người “ăn xin độc lập, ăn mày tự do!”

            Với truyền thuyết An Tiêm, Tổ Tiên giới thiệu nếp sống đặc biệt của làng thôn Việt Nam. Khác biệt với tổ chức chính trị của các văn hóa khác, quyền hạn vua quan ta chẳng những không can thiệp trực tiếp vào đời sống từng người, mà cũng không xâm phạm vào nếp sinh hoạt của làng thôn.

            Đối với triều đình, mỗi làng được xem là một hải đảo ở tận ngoài biển khơi, người dân phải tự quyết tự lập cho chính mình. Đây chính là chế độ tự do dân chủ thực sự của làng xã Việt, bởi “Phép vua thua lệ làng.”

            Nếu chỉ để thu tích của cải lợi lộc vật chất, dù dưới bất cứ hình thức nào như chủ trương của xâm lăng đế quốc, tư bản hay cộng sản thì cũng không giúp ích gì cho con người, mà còn tạo ra cho chúng ta thêm khốn khổ, biến chúng ta thành nô lệ, thú tiến bộ hay sinh vật kinh tế.

            Làng Nước Việt Nam là một hệ thống cấu trúc sinh hoạt độc lập tư do. Nếp sống thân thương bình đẳng, làng thôn tự thành nơi bảo toàn lực lượng dân quân, bảo vệ, nung đúc tinh thần yêu nước của toàn dân, và cũng là nơi bảo tồn đời sống dân chủ thuần túy trong thời bình cũng như thời loạn.

            Đặc tính của định chế Làng Nước, là người dân tự ý tới ở và quy tụ thành làng. Tuy cách khởi lập có khác nhau, nhưng điều kiện tiên quyết trong việc dựng làng là lợi ích tự quyết của những người quy tụ, chớ không dùng quyền hành mà bắt buộc ai.

            Làng được thành lập không chỉ vì lợi ích vật chất, biến nơi khô cằn hoang vu thành miền phì nhiêu trù phú, mà còn vì lợi ích tinh thần. Làng giúp cho người dân thoát nạn sống cảnh bơ vơ, thiếu nơi nương tựa, giúp cho mọi người có cuộc sống ấm no xum hợp trong một xã hội anh em Đồng Bào.

            Tụ họp thành làng, mọi người chia sẻ cảnh sống vui buồn sướng khổ có nhau, giúp nhau vượt thắng những khó khăn, cùng nhau gánh vác trách nhiệm, cùng nhau xây đắp cho đời, cho làng cho nước ngày thêm giầu đẹp. Và cũng không một thường dân nào bị bó buộc phải cư trú tại một nơi nhất định; dân chúng có thể tùy thích tới ở hay tự ý bỏ đi, miễn là tự quyết và chấp nhận Lệ Làng là nơi mình muốn gia nhập cư ngụ.

            Khác với tổ chức chính trị của nhiều quốc gia, quyền hạn vua quan Việt chẳng những không can thiệp vào đời sống từng người dân, mà cũng không xâm phạm vào nếp sống sinh hoạt của các làng thôn. Đối với triều đình, mỗi làng Việt là một quốc gia thu hẹp có chủ quyền và độc lập; việc làng thì dân chúng tự lập và tự quyết.

            Làng tự lập, có một ban quản trị riêng do chính dân bầu ra, điều lệ riêng cho hệ thống hành chính của làng. Làng có một ngôi đình để thờ Thành Hoàng riêng, với nghi thức tế lễ do truyền thống riêng. Làng có tổ chức trị an riêng với tiêu chuẩn thưởng phạt do làng quy định. Làng cũng có tài sản riêng và toàn quyền xử dụng ngân sách theo nhu cầu.

            Khi góp phần vào việc nước, làng là đơn vị đại diện người dân. Theo truyền thống chính trị Tiên Rồng, người dân không trực tiếp với vua quan mà qua làng trong tất cả mọi việc, từ tiếp xúc, lệnh truyền, tới sưu thuế, lính tráng. Nước chỉ căn cứ vào làng, liên lạc với làng, và theo khả năng của làng mà định phần đóng góp.

            Làng thôn Việt Nam không phải là nếp sống ngẫu nhiên, mà được Tổ Tiên tạo thành một thể chế chính trị độc đáo, nhân bản tuyệt vời và được gọi là Định Chế Làng Nước.

            Tổ Tiên phân biệt rõ ràng hai loại công tác chính trị, việc làng việc nước là hai việc khác nhau, khác biệt từ phần chủ động tới cấp độ dấn thân, khả năng tài trí, và các vấn đề nhu yếu khác. Bởi thế chúng ta có hai loại công tác làng và công tác nước.

            Người dân ai cũng có thể làm việc làng, và ai cũng có quyền can dự vào việc tổ chức, điều hành, bầu cử, hay quyết định của làng. Nhưng để đủ tầm vóc để làm việc nước thì người đó phải học hành ở trường sở, phải thông thạo những khoa chính trị thịnh nước an dân, và thi cử như thi hương, thi hội, thi đình để xác định khả năng tài trí của người làm quan.

            Với chủ trương chính đáng về bổn phận của người lãnh đạo, vua quan trong thể chế làng nước, việc chung được quan niệm và thực sự là việc giúp ích cho mọi người. Khi vua quan đem hết tâm hồn và tài trí chăm lo cho tòan dân hạnh phúc, và khi người dân được thực sự sống trong tự do dân chủ đúng nghĩa, thì đóng góp vào việc chung là một đồng tâm hiệp lực, một tương trợ cần thiết để bảo đảm cho hạnh phúc chung của nhau. Đi làm việc chung chính là ta đem tài trí giúp ích cho đời.

            Tuy nhiên, nhiều khi việc chung cũng vượt quá nếp sống thường ngày và ít mang lại kết quả lợi lộc trước mắt. Vào thời loạn, gánh vác việc chung còn kèm theo cả nguy hiểm tánh mạng, do đó việc chung thường đòi hỏi tầm nhìn xa trông rộng, và cũng thường làm nhiều người ái ngại.

            Nhìn vào lịch sử chúng ta thấy rằng vua quan cũng xây thành, nhưng thành thị không phải là nơi tập trung sức nước. Thủ đô hay thủ phủ cũng chỉ là cái làng lớn với số cơ sở thích ứng, cần thiết cho nhu cầu hành chánh, nghi lễ ngoại giao. Khi nguy cấp, vua quan sẵn sàng bỏ thủ đô mà về chiến đấu trong địa bàn làng xã mà chống giặc cứu nước, và không ảnh hưởng tới dữ kiện mất nước. Do đó làng là trung tâm sinh hoạt tự lập tự chủ của mọi người dân, mà cũng là sức mạnh của toàn thể đất nước.

            Dưới khía cạnh quân sự làng là nơi đào tạo huấn luyện toàn dân trở thành nghĩa sĩ, có hệ thống canh gác nghiêm nhặt, có lớp người túc trực, có những lò võ thuật tạo ra nhiều cấp lãnh đạo chỉ huy tài ba. Làng cũng là nơi phát xuất sức mạnh dân tộc về mọi phương diện.

            Xin tiếp tục truyền tích “bộ bốn sống thực:

            Huấn Ca Vọng Phu

            Ðơn sơ hát khúc tình lòng
            Diễn phần Trường Cửu như trong đề tài
            Bồng con ru điệu Nam Ai
            Trông chồng – thương mãi thương hoài ngàn năm

            Quê nhà – em vốn lo chăm
            Quản chi bao chốn xa xăm tảo tần
            Nuôi con – phụng dưỡng song thân
            Ruộng vườn canh tác – mộ phần sửa sang
            Việc nhà cho chí việc quan
            Chiều chiều đứng ngóng tin chàng phương xa
            Eo xèo chì bấc rầy rà
            Vững chân bàn thạch – nàng là Vọng Phu
            Hóa thành núi đá ngàn thu
            Trông ra cửa biển mịt mù lửa binh

            Vào thời đất nước chiến chinh
            Bao chàng trai Việt đáp tình non sông
            Gĩa nhà thực hiện nghĩa công
            Tỏ phần “biến hóa” của Rồng là đây
            Gia đình – nền tảng dựng xây
            Việc chung làm trọng niềm tây phải nhường

            Quê hương lâm cảnh tai ương
            Giúp chồng – ra tuyến tiền phương diệt thù
            Hậu phương – em tiếp quân nhu
            Ẵm con mong đón chiến khu khải hoàn
            Nước nhà – phận sự song toàn
            Chồng nào vợ nấy – lo toan đắp bồi
            Và nền văn hóa thăng ngôi
            Chức năng nam nữ – hiệp đôi Tiên Rồng
            Gia đình thể hiện việc công
            Tình nhà tình nước – vợ chồng cùng xây

            Khác nền văn hóa phương Tây
            Phong trào giải phóng đã gây sai lầm
            Con người – tan nát lương tâm
            Cộng đồng cực hóa – dương âm một chiều
            Ngụy danh – chính sách thủ tiêu
            Chức năng làm mẹ – tạo điều nguy cơ
            Khiến người con gái bơ vơ
            Hóa thân đực rựa – hững hờ quyên sinh
            Phá tan hạnh phúc gia đình
            Biến thành loài thú dục tình mà thôi

            Trầu Cau – nền tảng lứa đôi
            Thương nhau trọn kiếp – chết rồi vẫn thương
            Như em – gia đạo kính nhường
            Hóa thành Người Ðá – thăng hương chan hòa
            Vọng Phu – trọn đạo nước nhà
            Biến lên Núi Ðá – thăng hoa trọn đời

            Tổ Tiên nhắn nhủ những lời
            Chức năng cha mẹ – góp đời Ðứa Con
            Chẳng như cảnh vợ chồng son
            Ðứa Con – biểu tượng Sống Còn Nước Dân
            Nói lên diễm phúc tuyệt trần
            Góp cho xã hội – sứ nhân Con Người

            Kìa trông thiếu phụ đôi mươi
            Thương chồng – thương với tiếng cười trẻ thơ
            Ðảm đang kết chỉ se tơ
            Tháng năm sừng sững nàng chờ chinh phu
            Ðăm chiêu đứng ngóng chiến khu
            Mong chàng hăng hái diệt thù cứu nguy

            Việc chung – chồng xướng vợ tùy
            Tiên Rồng Song Hiệp – hội quy Ðồng Bào
            Anh thời việc nước đề cao
            Giúp em – thể hiện phần nào làm dân
            Em ơi – đang gánh góp phần
            Giúp anh – làm trọn nghĩa ân với nhà
            Nước non – phận sự đôi ta
            Cùng nhau gánh vác sơn hà Việt Nam
            Nghĩa công – chồng vợ cùng làm
            Rồng sống nhờ nước – như Vàm Cửu Long
            Trổ tài vùng vẫy khắp giòng
            Tỏ phần biến hóa – mà hòng gặp Tiên
            Non cao Hòn Vọng Phú Yên
            Bồng con – nàng đợi đoàn viên cùng chàng
            Nước non – cơ nghiệp của nàng
            Chàng đi vì nước – vì nàng mà đi

            Cho nên lý tưởng thực thi
            Tiên Rồng Nền Tảng chẳng vì lợi danh
            Chẳng như xã hội hiện hành
            Tham gia chiến đấu chỉ tanh mùi tiền
            Tạo ra cảnh sống đảo điên
            Nhìn nhau gía trị đồng tiền mà thôi

            Tích truyền – hướng dẫn khúc nhôi
            Chồng nào vợ nấy – xứng đôi Tiên Rồng


            Last edited by Phạm Văn Bản; 05-09-2020, 11:03 PM.

            Comment


            • #7
              Huấn Ca Trương Chi

              Vang lên sóng nước Cửu Long
              Tiếng tiêu sầu nhớ nỗi lòng Trương Chi
              Nhạt khoan theo tuổi xuân thì
              Rộn ràng chèo chống cũng vì tình nhân
              Lênh đênh trôi nổi xa gần
              Thuyền rồng lẻ bóng thoáng phần gặp tiên

              Cũng ngay trong phút giao duyên
              Mỵ Nương – say đắm triền miên tháng ngày
              Mơ chàng trai đẹp làng này
              Mộng chàng nghệ sĩ tỏ bày tâm tư
              Sánh duyên với bậc tiểu thư
              Trai tài gái sắc – đẹp như tình hồng

              Sớm mai – chớm buổi lập đông
              Thiên hương – gặp mặt chàng rồng Trương Chi
              Ngỡ ngàng – duyên phận so bì
              Gặp chàng tàn phế – nàng thì dửng dưng!

              Chàng Trương, trái lại thầm mừng
              Say mê người đẹp – ngỡ chừng tơ duyên
              Thế rồi nhung nhớ triền miên
              Khiến chàng chết gục trong niềm yêu thương

              Trái tim – chén ngọc chàng Trương
              Ðưa đò thổi sáo – hiện trường tình ca
              Ước mong xum họp một nhà
              Nước non xa cách – tình ta chia lìa

              Thương chàng nghệ sĩ canh khuya
              Mỵ Nương nhỏ lệ - sao kìa chén tan
              Âm dương – xa cách muôn ngàn
              Khi tình song hiệp – hòa chan Tiên Rồng

              Tổ Tiên diễn đạt tình hồng
              Tích truyền hướng dẫn cộng đồng yêu thương
              Trái tim – lẽ sống chàng Trương
              Căn nguyên hạnh phúc – tỏ tường là đây
              Con Người – nền tảng xum vầy
              Tình yêu – nguyên tắc dựng xây cuộc đời

              Sống trong xã hội đương thời
              Lắm tên tàn ác – sống rời thương yêu
              Nguyên do khoa học lầm điều
              Con người phản xạ theo chiều thú y
              Tạo ra xã hội suy vi
              Yếu thua mạnh thắng – là vì không yêu
              Ðấu tranh giai cấp khê nhiêu
              Làm cho đời sống thủ tiêu Tình Người

              Tiên Rồng chánh thuyết tuyệt vời
              Thân Thương Bình Ðẳng là lời sống chung
              Trở thành nguyên lý tột cùng
              Toàn dân chung hưởng – khắp vùng yêu thương

              Trải qua thời buổi nhiễu nhương
              Lai căng văn hóa khinh thường tình yêu
              Tống Nho – lập luận một chiều
              Trọng nam khinh nữ – xóa điều Trầu Cau
              Môn đăng hộ đối – mè màu
              Phá tan chánh thuyết – còn đâu Chử Ðồng
              Gia đình – phân hóa vợ chồng
              Tam tòng tứ đức – Tiên Rồng lãng quên

              Chử Ðồng – nền tảng nói lên
              Gặp nhau trọn vẹn – đôi bên “đi tìm”
              Con người sống thực trong tim
              Tiên Rồng hoàn chỉnh – đắm chìm tình yêu

              Trương Chi – khác hẳn một điều
              Hai người đôi ngã – tình nhiều trái ngang
              Thương ai trong cảnh phũ phàng
              Nhớ ai mà nhớ có nàng Mỵ Nương

              Trở về sinh hoạt – ngày thường
              Chàng Trương – ray rứt nhớ thương cô nàng
              Tương tư lá ngọc cành vàng
              Dẫn chàng tiến tới thiên đàng tình yêu

              Mộng mơ nhan sắc diễm kiều
              Khiến chàng chết đứng trong chiều thu sương
              Trái tim hóa ngọc yêu thương
              Giúp chàng sống mãi trên đường ái ân
              Quản chi năm tháng tảo tần
              Ðưa đò thổi sáo đơn thân đợi chờ

              Tích truyền – người đẹp mộng mơ
              Sống trong nhung lụa – nàng chờ bóng ai
              Chiêm bao hiện rõ hình hài
              Về chàng nghệ sĩ xấu trai hôm nào
              Bởi nàng trả gía thấp cao
              Khiến chàng gục chết – để vào tình thương

              Làm người sáng tỏ bước đường
              Sống thiêng thác gởi – tinh tường nơi đây
              Lạ thay! Tình được xum vầy
              Khi nàng bật khóc đáp đầy tình yêu

              Lạ thay – người đẹp diễm kiều
              Vừa rơi giọt lệ mỹ miều khóc thương
              Phút giây nhắc nhớ chàng Trương
              Chén tan tình trọn – âm dương hợp hòa

              Tích truyền – nhắc đến thăng hoa
              Cảm thông chấp nhận – nhạt nhòa tình yêu
              Cuộc tình gắn bó sớm chiều
              Cho nhau trọn vẹn – sống điều Thân Thương
              Tình-chân-thiện-mỹ là đường
              Con người sống thực – kỷ cương thuận hòa.

              * *

              Kính thưa quý vị và các bạn,

              Với Huấn Ca Trương Chi, Tổ Tiên bàn chuyện trái tim, nơi thâm sâu nhất, căn cội hạnh phúc của con người. Chuyện kể chàng chèo đò tàn tật họ Trương có tài thổi sáo, với mối tình người đẹp nhà giầu Mỵ Nương.

              Không tình yêu con người không thể sống.
              Trong tình yêu con người luôn sống.
              Tình yêu quyết định sự sống con người.
              Có tình yêu đời sống con người mới thật là sống, biết sống, và quý trọng sự sống.

              Mỵ Nương ngày đêm mơ mộng chàng lái đò tài ba với tiếng tiêu tiên vũ rồng bay, tưởng nhớ hình bóng chàng phi công khôi ngô tuấn tú sẽ ngự trị trong vòng tay ngọc của nàng, ước nguyện cùng nàng chung sống trong túp lều tranh hai trái tim vàng và cuộc đời thanh nhàn bên bờ sông tương, với sự nghiệp hành nghề đưa đò tiễn khách qua sông. Trai Tài Gái Sắc! Ngưu Lang Chức Nữ! Môn Đăng Hộ Đối! Định mệnh phũ phàng! Khi được gặp mặt Trương Chi thì nàng bỗng dửng dưng, vì nhìn chàng khác với người trong mộng.

              Nhưng tiếng sét ái tình lại làm Trương Chi thương nhớ và ngậm ngùi ôm mối tình câm.. Tình đầu, lãng mạn, đẹp và buồn làm sao. Rồi chàng đã chết trong tẻ lạnh! Tình tuyệt vời và tuyệt vọng! Đã biến trái tim chàng thành chén ngọc. Chàng vẫn mãi chèo đò trong chén ngọc với tiếng tiêu oán thương sầu nhớ. Chàng đã chết vì nàng! Trọn tình chung thủy với nàng!

              Nhận tin sét đánh Mỵ Nương thẫn thờ, than vắn thở dài và thôi thúc nàng xuất hành tới thăm Trương Chi. Nghe chuyện kể, nàng nhìn chàng lái đò trong chén ngọc và ngậm ngùi nhỏ lệ. Chàng chờ nàng được giọt nước mắt của người yêu, chén mới tan, tình mới trọn! Ai dám bảo Tổ Tiên khô cằn sỏi đá? Lìa xa tâm hồn con người?

              Dầu bất cứ hoàn cảnh hay lý do gì mà đôi nam nữ gặp nhau, ngay cả cảnh ngộ ngỡ ngàng hay cuộc sống khác biệt. Nếu hai người biết chấp nhận cho nhau, biết thực tâm tìm hiểu lẫn nhau, biết cảm thông cho nhau thì cuộc tình mới mỗi ngày tăng trưởng và thêm hạnh phúc. Ngược lại cuộc tình cho dù có được khởi sự tốt đẹp mà mỗi người lại tự đóng khung trong ốc đảo, so sánh hơn thua thì ngày càng xây bức tường ngăn cách và đổ vỡ.

              Khi yêu nhau vợ chồng phải ứng dụng nguyên tắc nhận thực chính mình trong cuộc sống hằng ngày, chỉ thấy con người, chỉ lấy con người làm tiêu chuẩn căn bản để nhận diện, chớ không vì gái tham tài, trai tham sắc như bao xã hội đương đại. Ngoài ra vợ chồng còn phải dùng tài năng và của cải để giúp cho nhau thăng tiến trong cuộc sống lứa đôi, chung hưởng cuộc sống, kết hai cuộc sống thành một cho dù bất cứ ở hoàn cảnh nào.

              Chấp nhận cho nhau, không vì bất cứ lý do gì mà lìa nhau. Sẵn sàng chết cho nhau. Mãi mãi có nhau. Khi vợ chồng biết đối xử với nhau như vậy thì Tình Yêu mới thực sự trọn vẹn, cuộc sống mỗi ngày tăng thêm hạnh phúc, bền vững bên nhau.

              Tóm lại, chuyện chàng rồng Trương Chi chết vì tình, Tổ Tiên xác tín về đời sống Bản Thân, nền tảng hạnh phúc Con Người, và đề ra những nguyên tắc sống thực nhằm bộc lộ và phát triển Tình Yêu của con người trong Xã Hội Đồng Bào. Mình sống vì mọi người, và mọi người vì mỗi người.

              Comment


              • #8
                Huấn Ca Mỵ Châu

                Dương Vương muốn dựng Cổ Loa
                Ước mong chống giặc Triệu Ðà xâm lăng
                Nhưng thành luôn mất thăng bằng
                Xây xong lại xập – bởi rằng yêu tinh
                Vương liền cầu khẩn thần linh
                Kim Quy – đế quốc nể tình giúp cho
                Từ đây – thành ốc khỏi lo
                Thần còn tặng móng – làm cò cung tên
                Bắn ra một phát – sướng rên
                Giết ngay vạn giặc lền khên ngoài thành

                Triệu Ðà – mưu chước khôn ranh
                Cầu hòa – xin tặng thêm cành thiên hương
                Mỵ Châu Trọng Thủy – uyên ương
                Thương chồng – nàng lộ hiến chương quốc phòng
                Giúp chàng nội gián vào trong
                Tráo ngay lãy nỏ – việc xong là về
                Cùng cha – qua đánh nhạc thê
                Cổ Loa thất thủ ê chề đắng cay
                Vương cùng con gái cao bay
                Ôm lưng tuấn mã mơ ngày thoát thân
                Ngàn trùng đào tẩu tảo tần
                Ðối phương lại cứ rần rần rượt theo
                Vì nàng – lông ngỗng rắc gieo
                Giúp chồng Trọng Thủy – bám đeo đuổi hoài!

                “Triệu Đà Trọng Thủy” – cả hai
                Biểu trưng “đế quốc” – chuỗi dài xâm lăng
                Tiên Rồng – vì mất quân bằng
                Bởi không “song hiệp” – gia tăng đối thù

                Tích truyền lịch sử nghìn thu
                Một lần duy nhất trùng tu vương thành
                Tuyên xưng chống giặc đã đành
                Nhưng vì thành ốc chỉ dành cho vua
                Nguyên nhân công cuộc thắng thua
                Tốn hao công quỹ – theo hùa ngọai bang

                Chẳng màng cải tiến Nước – Làng
                Đã không chăm sóc – lại càng hại dân
                Rồi thành sập đổ nhiều lần
                Sưu cao thuế nặng – muôn phần tốn hao
                Bắt dân đắp lũy vét hào
                Ruộng nương hoang phế – tăng cao đói nghèo
                Tạo ra xã hội cheo leo
                Lòng dân than oán – rắc gieo tương tàn

                Người người cơ cực lầm than
                Tham quan nhũng nhiễu lan tràn khắp nơi
                Nước – Dân thành chuyện xa vời
                Còn chi lý tưởng với lời nói suông
                Tướng binh dù có bổng lương
                Nhưng vì “hồn nước” đã ruồng bỏ đi
                Dân thì “hồn giặc” ám ghi
                Mong thay chế độ – thị phi bất cần

                An Dương – lại sống xa dân
                Chui vào ốc đảo – vinh thân lợi nhà
                Kết bè – nhận giặc thông gia
                Môn đăng hộ đối – để mà khinh dân
                Hôn nhân đình đám rần rần
                Xe bao trăm cỗ tỏ phần xa hoa
                Tiệc tùng quà cáp lụa là
                Vui trên xương máu nước nhà – mà thôi

                Nỏ thần thành ốc – đủ rồi
                Tăng tàu phi pháo – yên ngôi trị vì
                Mặc dân – ai khổ can chi
                Tin vào vũ khí – cậy vì đồng minh
                Giặc kia – mà ngỡ thâm tình
                Rước tên nội gían – rập rình săn tin
                Còn đâu quân sự giữ gìn
                Còn chi bảo mật – thiếu nhìn thanh tra
                Việc công – vua đã lơ là
                Quên lời Dựng Nước – để mà An Dân
                Xa lìa truyền thống tiền nhân
                Chạy theo Duy Lợi – vong thân cầu ngoài
                Mộng mơ khoa bảng làm “tài”
                Cam tâm nô lệ – Chẳng hòai “nước non”

                Nuôi thân trả nợ chưa mòn
                Sớm khuya hia mão bon chen việc làm
                Lâu lâu có buổi họp quan
                Vua ngồi vua phán – lam nham ích gì

                Toàn dân – xa lánh khinh khi
                Vua thời chờ phút sinh thì – mất ngôi
                Việc vua việc nước – đơn côi
                Một người con gái – thành đôi nghịch thù
                Gả nàng – trao đổi – đền bù
                Biến con thành giặc cho dù giữ ngai

                Hỡi ơi! Tham lợi háo tài
                Bán buôn máu huyết hình hài Tổ Tiên
                Nhận làm phương tiện – ngang nhiên
                Giúp cho giặc chiếm trọn miền quê hương
                Ngây thơ chính trị – dẫn đường
                Lộ điều bí mật – vì thương người chồng

                Cướp xong vào buổi chiều đông
                Anh chàng gián điệp – thong dong về nhà
                Cùng cha – qua đánh nhạc gia
                Phép công là trọng – lọ là niềm riêng
                Đất bằng nổi sóng binh khiên
                Dân cư tan tác – xóm giềng điêu linh

                Dương Vương nay rõ sự tình
                Nỏ thần hết nghiệm – tướng binh đầu hàng
                Pháo phi thiết kỵ – mọi đàng
                Lọt về tay giặc – phũ phàng – hận căm

                Ba mươi tháng bốn bảy lăm
                Mặc dân sống chết – vua nhằm thoát thân
                Ẵm con – ôm bạc – nhanh chân
                Tìm đường tỵ nạn – cầu ân xứ người

                Nào đâu chẳng thấy tiếng cười
                Con dân địch vận là người ngu ngơ
                Lệnh truyền từ “cục e – rờ”
                Áo choàng lông ngỗng – phất phơ chỉ đường
                Chạy qua bao ải dặm trường
                Địch quân sao mãi tinh tường rượt theo
                An Dương lâm cảnh hiểm nghèo
                Truy ra nguyên cớ – Giặc đèo sau lưng
                Than ôi – nàng Mỵ – con cưng
                Lông chim đã nhổ – biểu trưng Tiên tàn
                Nhát gươm oan nghiệt – chém tan
                Máu nàng – vung vãi lan tràn biển khơi

                Đau thương khổ lụy chưa vơi
                Chết theo vua chúa – chết đời nước dân

                Triệu Đà chiến thắng khắp phần
                Chủ trương vô sản – phi nhân phơi bày
                Tòan dân cùng cực đọa đày
                Người người căm phẫn – chờ ngày vùng lên
                Giúp Dân Cứu Nước – xứng tên
                Học bài Phù Đổng làm nền dựng xây

                Mỵ Châu – dẫn chứng nơi đây
                Trước là Hồn Nước – từ rầy chớ quên
                Tổ là biểu tượng nói lên
                Tiên Rồng Chánh Thuyết – dựng nên nước nhà
                Tinh thần kết hiệp hài hòa
                Tòan Dân Giữ Nước – chính là việc công
                An Dương – phản bội Tổ Tông
                Không cầu khấn Tổ – cậy trông người ngòai
                Kim Quy – biểu tượng thần tài
                Đại cuộc giữ nước – đã sai từ đầu

                Hồn lìa trước – Nước mất sau
                Nỗi đau mất nước – lụy sầu nhà tan
                Nước Dân – Đời sống liên can
                Mất theo Hồn Nước – lụi tàn Lòng Dân

                Mất Dân – thì mất mọi phần
                Kể chi thành ốc nỏ thần – thị uy
                Cổ Loa – bài học dễ suy
                Biểu trưng thành chết – xụp tùy thời gian

                Lòng Dân – Sức Nước tương quan
                Quốc phòng quân sự – bảo an nước nhà
                Phải luôn cải tiến, kiểm tra
                Là phần cơ mật – để mà phòng nguy

                Tuyệt tin vũ khí Kim Quy
                Dương Vương ỷ lại – tiện tùy ngủ quên
                Say men chiến thắng – ngỡ bền
                Quên điều cập nhật – sót tên bảo trì!
                Nhận con rể giặc – làm gì
                Rước vào cung cấm – còn chi quốc phòng

                Dương Vương – dầu hưởng thong dong
                Nhưng về tay giặc đã xong mọi phần
                Chỉ chờ khi giặc xuất quân
                Nhà tan nước mất – thóat thân chạy dài

                Đồng minh – trở mặt ly khai
                Quốc gia xụp đổ – như bài học trên

                Tích truyền minh chứng – nói lên:
                Phát huy truyền thống – giữ bền non sông
                Sống theo Đạo Đức Tiên Rồng
                Giúp Dân Giữ Nước – thành công sáng ngời

                Hồn – Dân – Sức – Đất ai ơi
                Giữ tòan vẹn bốn – Nước thời thịnh an

                Mỗi khi nạn nước tràn lan
                Giữ Hồn – Dân – Sức phá tan giặc thù

                Hồn – Dân – mất Sức cho dù
                Muốn mong quật khởi – cần cù có ngay

                Mất Dân – Sức – Đất chờ ngày
                Giữ Hồn tụ điểm – tỏ bày thành công

                Mất Hồn – mọi sự tang bồng
                Nước thành xác chết – đừng mong phục hòan

                Mất Hồn – Dân mãi lo toan
                Cũng thành công cụ – hòan tòan gây nguy

                Mất Hồn – Dân – Sức ích chi
                Thuộc về tay giặc – cũng tùy thời gian

                Giữ – Hồn – Dân – Sức liên quan
                Theo bài Phù Đổng – ta bàn sâu hơn

                Mỵ Châu – phá họai giang sơn
                Tội đền xử chém – làm ơn răn đời
                Nước – Nàng không sống trọn lời
                Tình Nhà chung thủy – đồng thời thưởng công

                Tổ Tiên – phán xử minh thông
                Tội làm mất nước – thương chồng mà ra
                Máu nàng – được hóa ngọc ngà
                Chính là Máu Đá – Tình Nhà thăng hoa
                Ngọc trai nước giếng – tẩm hòa
                Trở nên sáng đẹp – nhạt nhòa Thân Thương

                Trầu Cau – tích dẫn tỏ tường
                Thương nhau trọn vẹn – con đường quang vinh
                Nước Nhà sống thực – trọn tình
                Tiên Rồng Song Hiệp – chứng minh tuyệt vời

                * *

                Kính thưa quý vị và các ban,

                Mỵ Châu là bài học Giữ Nước. Trong đại cuộc xây dựng và kiến thiết đất nước là của toàn dân, bất cứ cơ cấu tổ chức chính trị độc tài chuyên chế nào cũng là phản dân hại nước và đắc tội với Tổ Tiên Dân Tộc.

                Xây thành, lập đảng nhằm mang lại lợi ích dành cho giai cấp thống trị, có ích chi? Cậy chi vũ khí nỏ thần mà quên sức dân? Trông chi đồng minh Kim Quy mà lìa hồn nước?

                Xây thành Cổ Loa làm cho dân đói khổ. Phung phí tài nguyên làm cho dân cùng cực. Tốn hao ngân sách làm cho nước kiệt quệ. Ỷ vào thành vững nỏ thần mà khinh dân, xa dân, bỏ dân để mặc tình chạy theo lợi ích ngoại bang.

                Thành cao lũy tốt, khí giới hiện đại có ích chi khi chính người công dân cuối cùng là Công Chúa Mỵ Châu, con gái của mình còn đối nghịch, huống chi người ngoài? Vì từ khi gả nàng cho giặc, nàng thành người của giặc, thì nàng phài làm giặc. Không thể đổ thừa hay trách oán ai.

                Việc An Dương Vương xây thành Cổ Loa cách Hà Nội khoảng 15 cây số, và làm mất nước đã thành đề tài suy tư của bao thế hệ. Và với hơn bốn ngàn năm văn hiến, việc tích lũy truyền đạt kinh nghiệm An Dương Vương cho con cháu về công việc Giữ Nước. Tổ Tiên dùng câu chuyện thương tâm An Dương Vương và Mỵ Châu - Trọng Thủy là đề tài Mất Nước để dẫn chứng về bài học Giữ Nước: Giữ Hồn Nước, Giữ Dân Nước, Giữ Sức Nước và Giữ Đất Nước.

                Dưới khía cạnh bài học Làm Người, truyền tích Mỵ Châu cũng nói lên diễn tiến của một người làm mất chính mình, mất đồng bào tính, mất Chánh Thuyết Tiên Rồng và khiến cho kẻ đó bị tha hóa, bị tuyên truyền, bị đầu độc bởi tà thuyết nhằm biến thành con người của Cá Nhân Vị Kỷ.

                Chuyện kể rằng để chống quân Triệu Đà, An Dương Vương khởi công xây dựng Loa Thành. Đặc biệt trong suốt dòng lịch sử của dân tộc chưa bao giờ có việc xây thành kiên cố cho vua chúa trú ngụ. Các Vua Hùng luôn sống gần dân và cùng dân chia sẻ mọi trách nhiệm của định chế Làng Nước.

                Việc xây Loa Thành đánh dấu quan niệm chống giặc giữ nước kiểu An Dương Vương. Quan niệm này đi ngược lại truyền thống ngàn đời của dân tộc Việt, và xây thành trở nên việc làm xa lạ với nếp sống của toàn dân đương thời.

                Ngoài ra sự kiện thành bị xụp đổ nhiều lần, đã chứng tỏ hoàn cảnh đất nước không đủ cung ứng cho việc xây thành. Chẳng những An Dương Vương lìa xa tinh thần dân tộc, mà còn lìa xa đời sống thực tế, thực thể, thực trạng hiện hữu của đất nước.

                Khi thành bị xụp đổ, đáng lý An Dương Vương phải tìm hiểu, thay đổi kế hoạch mới để ứng hợp với hiện trạng nhằm vận dụng, xử dụng, tận dụng sức mạnh thiết thực của toàn dân. Nhưng ông lại trông cậy vào mưu lược tài trí của người lạ Thần Kim Qui. Như thế việc xây Loa Thành còn nói lên khuynh hướng sống vọng ngoại của An Dương Vương.

                Theo Chánh Thuyết Tiên Rồng, việc lìa bỏ tinh thần dân tộc, Hồn Nước của An Dương Vương lại càng rõ rệt. Ở các truyền tích Tiết Liêu và Phù Đổng, khi cần An Dân và Cứu Nước, thì các Vua Hùng này khẩn Cầu Tổ về chỉ dạy. Nhưng ở đây, An Dương Vương không cầu Tổ, mà lại đi cầu đồng minh Kim Quy đến giúp xây đặc khu kinh tế giữ nước.

                Chẳng những giúp xây được Loa Thành, Thần Kim Qui còn cho thêm một cái móng chân để làm lãy nỏ, bắn một phát giết vạn người và được gọi là nỏ thần.

                Với thành vững, với vũ khí mạnh của cái nỏ thần thì các tài năng thiện nghệ của thanh niên Việt trở thành vô dụng. Các tài năng chất xám của thanh thiếu niên thời đại cũng không xử dụng, không nuôi dưỡng, không cần thiết trong công cuộc dựng nước và giữ nước của An Dương Vương. Có chăng một nhà độc tài chuyên chế?

                Nhận Hồn Giặc. Đã xa nếp sống người dân, đã chỉ cậy nhờ người ngoài, An Dương Vương lại đem công chúa Mỵ Châu gả cho hoàng tử Trọng Thủy, con của của đối phương Triệu Đà.

                Đang là một tên xâm lăng khiến cho An Dương Vương phải lo xây thành để chống cự, thì Trọng Thủy bỗng ngang nhiên bước vào tung hoành tới tận thâm cung bí sử của Loa Thành. Đang là một tên giặc nguy hiểm Trọng Thủy lại trở thành người đầu gối tay ấp của nàng tiên Mỵ Châu.

                Như vậy, từ chỗ tùy thuộc vào người ngoài, An Dương Vương bước tới giai đoạn rước giặc vào nhà. Và tiên Mỵ Châu, biểu tượng cho tâm hồn Việt, cũng đã chấp nhận giặc, ôm ấp giặc, và trở thành người của giặc.

                Cớ sự mất nước đã vậy, mà Mỵ Châu còn tiến thêm một bước, là nàng yêu và chiều Trọng Thủy đến nỗi đưa vũ khí tối mật của quốc gia là cái nỏ thần cho Trọng Thủy coi. Tuy không hoàn hảo, nhưng đất nước đang được tạm thời sống trong yên ổn nhờ có thành vững nỏ thần. Thế mà sau khi giúp cho giặc phá lũng thành, thì giờ đây Mỵ Châu còn làm theo ý giặc là trao cho Trọng Thủy xem cái nỏ thần, để rồi bị chàng đánh tráo cướp mất.

                Mỵ Châu đã coi ý giặc hơn sự an toàn của dân nước. Nàng đã yêu qúy giặc hơn đồng bào mình, hơn quê hương mình. Vậy thì còn gì Nước, còn chi là Dân? Nhưng nàng vẫn cho là chưa đủ! Trên lưng ngựa cùng cha chạy trốn, Mỵ Châu còn nhổ lông ngỗng nơi chiếc áo đang mặc để ghi dấu cho Trọng Thủy tìm đường rượt theo.

                Thực là chua chát. Nàng tiên Việt đã hoàn toàn quên mình vì giặc! Giờ đây, người nàng chỉ còn chiếc áo lông ngỗng, hình ảnh cuối cùng của Tiên, mà nàng cũng nhẫn tâm rứt bỏ để làm dấu dẫn đường cho giặc! Lông đã nhổ, lớp áo tiên mỏng manh bên ngoài cũng không còn, nên Mỵ Châu gục chết. Lâu nay, tuy tâm hồn đã đổi thay, nhưng nàng vẫn còn giữ và khoác chiếc áo Tiên. Giờ đây nàng lộ nguyên hình là giặc.

                Mỵ Châu là Tiên, là biểu tượng cho tinh thần, cho ý thức văn hóa trong việc Giữ Nước. Nay đã mất Tiên. Mất theo nàng, theo An Dương Vương, là cả một đất nước và cả một dân tộc. Thật là chua chát đắng cay.

                Diễn Tiến Mất Hồn Nước. Thế là An Dương Vương và Mỵ Châu đã làm cho Nước mất Nhà tan. Đó cũng chỉ vì “Rồng” An Dương Vương từ bỏ truyền thống, xa lìa hiện trạng dân nước đi cậy nhờ và lệ thuộc người ngoài. Và “Tiên” Mỵ Châu lại chấp nhận việc kết thân với giặc, rồi làm theo ý giặc, quên mình vì giặc, và chết cho giặc.

                An Dương Vương và Mỵ Châu đã để Hồn Nước dần dần tiêu hao với những quyến rũ hào nhoáng của những lợi ích hời hợt. Khi nền tảng dân tộc bị phai lạt nơi bất cứ dạng thức nào của đời sống dân nước, thì tại phần đó, nước đã bắt đầu mất.

                Dưới khía cạnh Con Người, đây cũng là diễn tiến Con Người đánh mất chính tâm hồn mình. Điều đáng sợ là diễn tiến rất tuần tự, nên nhiều khi mình đã đánh mất chính mình, đã trở thành giặc, đã làm hại mình, mà mình cũng không ngờ. Hồn Mất Trước, Nước Mất Sau.

                Bài Học Dân Nước. Việc bỏ mất Hồn Nước luôn luôn kéo theo việc bỏ dân, làm mất dân. Khi giới quyền chức đã tin tưởng và ỷ lại vào người ngoài, thì người dân trong nước bị rẻ rúng khinh khi và bị coi là phương tiện để phục vụ quyền lợi riêng của nhóm người thống trị.

                Sự kiện An Dương Vương quyết định xây thành đã tố cáo việc ông bỏ quên trách nhiệm chăm sóc đời sống cho toàn thể mọi người dân trong nước. Trước đây, mọi người đều là con dân, đều được ông chăm sóc. Nhưng từ nay, với quyết định xây thành của ông, những kẻ ở ngoài thành sẽ bị phó mặc cho bất trắc.

                Thế mà thành lại hư sập nhiều lần. Gánh nặng lại đổ xuống trên người dân. Dân phải chịu sưu cao thuế nặng, mưa nắng dãi dầu, gia đình ly tán, vợ con nheo nhóc. Đã hết lo cho dân, An Dương Vương lại hành hạ dân, bắt dân phục vụ ông.

                Khi xây xong thành, An Dương Vương đã thực sự sống xa cách dân. Trước kia, trong suốt mấy ngàn năm, các vua dân Việt đã không hề xây thành, mà luôn sống với dân, chia sẻ cuộc sống người dân. Nhưng nay, An Dương Vương rút mình vô trong vỏ ốc. Đối với ông, dân bây giờ chỉ còn có nghĩa là nhóm người đang lo phục dịch ông ở trong thành.

                Thêm vào vòng thành vỏ ốc, chiếc nỏ thần của Kim Qui càng làm cho An Dương Vương xa dân hơn. Đã hết gần dân, giờ đây ông lại không cần dân. Một phát nỏ thần có thể giết hàng vạn quân giặc, nên sự góp sức của dân không cần thiết nữa. Trong việc giữ nước, người dân đã trở thành thừa thãi, thành người ngoại cuộc.

                Chẳng những vậy, từ nay, ngoài đám phục dịch trong thành, toàn thể dân trong nước đều ở trong tầm sát hại của nỏ thần. An Dương Vương coi dân như giặc, và ông đã trở thành giặc bán nước.

                Thành Giặc. Từ chỗ đối xử với dân như giặc, An Dương Vương đem Mỵ Châu gả cho Trọng Thủy, hoàng tử của giặc. Với việc thông gia giữa hai dòng vua, An Dương Vương đã tạo ra giai cấp đặc quyền. Ông muốn từ nay gia đình ông phải là dòng họ đặc biệt, không còn liên hệ với dân. Ông hoàn toàn tách rời dân, tách rời truyền thống văn hóa đặt nền tảng trên bài học: nàng công chúa lấy người không khố.

                Thế là An Dương Vương đã rước giặc vào cung. Ông hủy bỏ công dụng của Loa Thành, và bỏ quên những người ở trong thành. Giờ đây ông chỉ còn biết có gia đình ông. Quanh ông chỉ còn có hai người: một là Mỵ Châu, hai là tên giặc nằm vùng Trọng Thủy. An Dương Vương chỉ còn Mỵ Châu là con, là dân, người dân cuối cùng. Vì vậy, ông giao cho Mỵ Châu trách nhiệm gìn giữ chiếc nỏ thần, báu vật bạo lực thần thánh của ông. Ông tập trung quyền lực vào gia đình, vào những người thân cận ông.

                Với việc tập trung quyền lực, từ nay người dân trở thành miếng mồi ngon cho tham vọng không đáy của nhóm quyền chức. Ai làm chủ nỏ thần, ai nắm giữ quyền lực, người đó có toàn quyền trên sinh mạng và tài sản của dân.

                Vì vậy, Trọng Thủy đã dùng thủ đoạn đoạt cái lãy nỏ khỏi tay Mỵ Châu một cách dễ dàng. Sau đó nhóm đặc quyền tranh nhau xương máu của dân. Người dân trở thành mối lợi, món hàng, của bọn người chỉ còn biết tư lợi và quyền lực. Kết qủa của tranh chấp quyền lực là tai họa giáng xuống trên người dân. Ách thống trị theo chân Trọng Thủy và Triệu Đà trùm lên toàn thể dân nước.

                Bài Học Dân Nước thực thấm thía. Bỏ trách nhiệm chăm sóc dân, hành hạ dân, xa lánh dân, coi dân như thù địch, để chỉ dựa vào thành lũy, vào nỏ thần, vào nhóm đặc quyền, vào bạo lực, thì rồi, việc giữ nước chỉ còn là những thủ đoạn tranh quyền đoạt lợi. Người dân trở thành mục tiêu cho bóc lột, cho bạo hành. Giữ nước trở thành cướp nước.

                Giữ Nước Là Việc Của Toàn Dân. Dân không giữ nước thì giặc giữ! Không cho dân giữ nước là cướp nước.

                Bài Học Sức Nước. Dưới khía cạnh Sức Nước, khi An Dương Vương từ bỏ truyền thống và xa lìa cuộc sống người dân, để quyết định xây thành, chính là lúc ông làm băng họai sức mạnh xã hội của nước. Việc xây thành làm hao tổn của cải, tài năng và nhân lực của nước. Vậy mà thành còn bị hư xụp đổ nhiều lần, nên sức mạnh kinh tế lại càng suy sụp thêm.

                Khi sống trong thành, xa dân, không còn biết đến đời sống người dân, An Dương Vương bỏ mất sức mạnh chính trị. Khi được nỏ thần, khi không còn vận dụng sức dân, khi làm cho dân thấy mình trở thành người ngoại cuộc thừa thãi, chính là lúc An Dương Vương đánh mất sức mạnh tinh thần trong công cuộc Giữ Nước.

                Làm mất dân, An Dương Vương đã bỏ mất những sức mạnh nền tảng của việc Giữ Nước. Nhưng ông cũng chưa thấy nguy cơ vì ông đặt trọn niềm tin vào Loa Thành và Nỏ Thần. Loa Thành bảo đảm thế thủ an toàn, và Nỏ Thần đang làm mọi người khiếp sợ. Loa Thành và Nỏ Thần là biểu trưng của sức mạnh quân sự, khả năng giữ nước cuối cùng của An Dương Vương.

                Nhưng rồi ông thua kém trên mặt trận ngoại giao, khi bị rơi vào thủ đoạn của giặc. Sau khi hao tốn biết bao công qũy để xây thành ngăn giặc, ông lại long trọng rước giặc vào tận thâm cung. Chính ông đã loại bỏ công dụng của sức mạnh phòng thủ của ông.

                Thành đã bị phá lũng, An Dương Vương chỉ còn chiếc Nỏ Thần. Nhưng ông lại bị thua ở mặt trận gián điệp. Trọng Thủy biến đã biến Mỵ Châu thành nội tuyến, và nàng đã tiết lộ bí mật quốc phòng. Khi để Trọng Thủy đánh tráo lãy nỏ, trao vũ khí giữ nước cuối cùng vào tay giặc, An Dương Vương đã để mất luôn sức mạnh kỹ thuật. Không Sức Mạnh Lấy Gì Giữ Nước?

                Bài Học Đất Nước. Công cuộc giữ nước bộc lộ rõ ràng nhất trong việc bảo vệ từng tấc đất của quê hương. Thế mà An Dương Vương dám bỏ mất dần. Trước kia, chưa xây Loa thành, An Dương Vương đã để tâm chăm sóc toàn thể đất nước.

                Nhưng khi xây thành, ông chỉ còn giữ lại mảnh đất trong thành. Đối với ông, đất nước ta không còn trải rộng ra khắp bờ cõi, mà thu hẹp lại trong hào lũy. Ông chểnh mảng trong việc giữ nước, để chỉ chú tâm tới cái làng mà ông đang ở.

                Thế nhưng, khi lo cưới chồng cho Mỵ Châu, rước tên giặc Trọng Thủy vào nội cung, An Dương Vương lại vì tình nhà mà hủy bỏ sự phòng thủ của thành. Ông chỉ còn thấy có cái nhà của ông.

                Và rồi, khi để Mỵ Châu trao nỏ thần vào tay giặc, ông đã không giữ nổi mấy chục thước đất cuối cùng. An Dương Vương đã thực sự không còn đất sống.

                Ảo Tưởng Giữ Nước. Thế là hết, An Dương Vương đã để mất Hồn Nước, để mất Dân Nước, để mất Sức Nước, và cũng đã mất Đất Nước. Tuy nhiên, ông vẫn không ngờ, ông vẫn tưởng ông đang giữ nước.

                Thực vậy dầu Hồn Nước có mất, cũng chỉ có nghĩa là ông đã thực hiện quan niệm của riêng ông. Cho dù người Dân đã bị loại ra khỏi việc giữ nước, nhưng nhờ đó ông lại càng dễ thống trị hơn. Cho dù Trọng Thủy là con giặc, nhưng đã trở thành con ông. Cho dù Mỵ Châu nằm trong tay giặc, nhưng nàng vẫn còn mặc áo lông ngỗng. Cho dù giặc có tung hoành ở thâm cung, nhưng vòng thành bên ngoài vẫn kiên cố vô song. Và cho dù lẫy thần đã bị tráo, chiếc nỏ vẫn còn nguyên hình dạng cũ.

                Tất cả đều cho An Dương Vương ảo tưởng là đất nước vẫn an toàn, là ông đang hoàn thành nhiệm vụ giữ nước một cách tuyệt hảo. Nhưng qủa thực, sở dĩ đất nước còn, và ông vẫn còn như đang giữ nước, không phải là vì ông phòng thủ hữu hiệu, mà vì giặc chưa xua quân tiến chiếm.

                Vì vậy, khi Triệu Đà xua quân tới, An Dương Vương chỉ còn cách lên ngựa chạy trốn. Ông không còn gì. Tất cả đã bị giặc chiếm. Cả đứa con ngồi sau lưng cũng đã thuộc về giặc, cũng đã là giặc. Ôi dân tộc đồng bào! Ôi giang sơn gấm vóc!

                Tuy rằng Chánh Thuyết Tiên Rồng đang liệt kê nhiều nhân vật góp phần làm mất nước, nhưng mọi nhân vật đều có thể quy về một mình An Dương Vương. Chính An Dương Vương đã lìa bỏ truyền thống dân tộc mà quyết định xây thành. Chính ông đã nhờ thần Kim Quy, đã xin nỏ thần. Chính ông đã hành hạ dân, đã từ khước dân. Ông cũng đã đón rước Trọng Thủy, đã đặt nỏ thần trong tay Trọng Thủy. Chính ông đã cho Triệu Đà mọi điều kiện để đặt ách nô lệ lên toàn dân.

                Trong diễn tiến đó, chúng ta có thể thấy tất cả đều chỉ là những giai đoạn của con người An Dương Vương.

                Từ chỗ là một người chăm lo cho cuộc sống an thịnh của dân nước, như Tiết Liêu, ông đã để tham vọng cho ông ảo tưởng ông là thần thánh. Qua việc ông cấu kết với thần Kim Quy, qua việc xây xong thành và làm chủ chiếc nỏ thần, ông muốn toàn dân suy phục ông như một vị thần. Ông đã bỏ nguyên tắc nền tảng đầu tiên của người làm việc nước, là phải xác tín Thân Phận Là Người của mình.

                Từ chỗ coi mình là thần thánh, An Dương Vương khinh rẻ người dân, không còn nhớ tới điều kiện thứ hai của người làm việc nước, là mình đang Mang Nặng Trách Nhiệm. Ông dùng thành lũy để bảo vệ ông, và dùng nỏ thần để uy hiếp mọi người. Ông quyết tâm hưởng thụ, và bắt toàn dân phục vụ ông.

                Thay vì cùng với toàn dân chia sẻ gánh nặng giữ nước, An Dương Vương chỉ còn chuyên dùng bạo lực của thành Ốc và nỏ thần.

                Từ đó, ông tạo ra giai cấp đặc quyền. Ông chọn một hoàng tử để làm phò mã, dầu đó là con của giặc. Ông còn tập trung quyền lực vào gia đình của riêng ông. Ông giao trọn việc giữ nước, giờ đây chỉ còn cái nỏ thần, vào tay đứa con gái ngờ nghệch của ông.

                Từ đây, đối với ông, dân chỉ là một lũ nô lệ phải luôn luôn cúi đầu khuất phục. Thế là, đối với nước, đối với dân, ông không còn là người giữ nước, mà đã trở thành tên giặc cướp nước. Ông trở thành Triệu Đà.

                Như vậy, làm vua, làm việc nước, nhiều khi còn có nghĩa là giặc nước. Người giữ nước tuyệt hảo là người cùng với toàn dân chia sẻ cuộc sống. Mọi người đều chung phần trách nhiệm giữ nước. Tuy ở tầm độ khác nhau, nhưng mọi chức vụ đều là trách nhiệm.

                Nếp sống này đã được thể hiện trong nhiều giai đoạn của lịch sử Việt, và được kết tinh trong những truyền tích Tiết Liêu, Chữ Đồng, An Tiêm, và Vọng Phu. Là thời suy thoái khi An Dương Vương xây thành và đặt dân dưới sự kìm tỏa của nỏ thần. Đó là chế độ, dầu dưới bất cứ danh xưng cao quý nào, mà xây dựng trên võ lực, trên lý của kẻ mạnh, trên mạnh được yếu thua.

                Khi An Dương Vương tiếp nhận hoàng tử ngoại bang và trao nỏ thần cho con gái, chính là lúc thành lập chế độ gồm giai cấp đặc quyền, nắm giữ mọi quyền hành, và hưởng thụ trên xương máu người dân. An Dương Vương thành Triệu Đà là hình thức lộ liễu nhất của thống trị, chuyên chế, đế quốc, thực dân, đảng trị, thủ đoạn, mị dân.

                Yếu Tố Giữ Nước. Muốn giữ Nước thì phải giữ Hồn Nước, giữ Dân Nước, giữ Sức Nước, và giữ Đất Nước. Hồn nước được giữ bằng việc sống thực và phát huy truyền thống cao quý của dân tộc.

                Dân Nước có được là nhờ chăm sóc đời sống người dân và để dân chia sẽ trách nhiệm giữ nước. Sức Nước mạnh được là nhờ các cơ cấu xã hội, chính trị, kinh tế, và tổ chức quân sự thích đáng và hữu hiệu. Đất nước chỉ còn, khi thực sự được các yếu tố trên bảo vệ một cách trọn vẹn.

                Có được cả bốn, giữ được cả bốn, thì quê hương thanh bình thịnh vượng, đồng bào hạnh phúc yên vui.

                Nếu mất Đất, vì quân xâm lăng tràn ngập, nhưng vẫn còn Hồn, còn Dân, còn Sức, thì ngày quật khởi ở trong tầm tay.

                Nếu mất Đất, mất Sức, mà còn Dân, còn Hồn, thì lo gì không có ngày vùng dậy.

                Nếu mất Đất, Sức tan và Dân bị phân tán, mà còn Hồn Nước, thì tuy cần thời gian, vẫn còn cơ hội có lại Dân, có lại Sức và có lại Đất.

                Nếu mất Hồn Nước, dầu còn Đất, còn Sức, còn Dân, thì cũng đã khô cạn sức sống, cái xác không hồn, ma giặc sắp ám.

                Nếu mất Hồn, mất Dân, thì Sức và Đất trở thành những khí cụ đầy bất trắc, cực kỳ nguy hiểm. Nếu mất Hồn, mất Dân, mất cả Sức, thì giang sơn gấm vóc của Tổ Tiên đang là miếng mồi ngon nằm bên miệng giặc.

                Và nếu giặc đã ra tay, như thảm trạng quê hương đồng bào ta hiện nay, thì Tổ Tiên linh hiển hướng dẫn chúng ta tiến sang bài học cứu nước của truyền tích Phù Đổng trong Chánh Thuyết Tiên Rồng siêu việt.
                Last edited by Phạm Văn Bản; 05-12-2020, 07:49 AM.

                Comment


                • #9
                  Huấn Ca Phù Đổng

                  Tích truyền Cứu Nước dẫn lời
                  Huấn linh Phù Đổng từ thời Hùng Vương
                  Đề ra Sách Lược tỏ tường
                  Tổ Tiên hướng dẫn con đường Giúp Dân

                  Xâm lăng với nạn giặc Ân
                  Vua Hùng tìm cách giải phần nguy cơ
                  Dùng bao phương thức – nào ngờ
                  Chẳng ngăn nổi giặc – cõi bờ phá tan
                  Nhà Vua chợt nhớ lập đàn
                  Khẩn cầu Quốc Tổ – thương ban nước nhà
                  Can qua tại chốn ngã ba
                  Trong cơn giông tố hiện ra Cụ Gìa
                  Hình dung cổ quái – múa ca
                  Râu dài áo đỏ – đậm đà tuyết sơn
                  Giỡn chơi với đám trẻ con
                  Rầm rầm chạy nhảy – cười dòn pháo rang
                  Nhìn qua khung cảnh ngòai đàng
                  Tuần quan thấy lạ vội vàng tâu vua
                  Hùng Vương tiến đến kính thưa
                  Cầu Cụ giúp chước – tránh thua quân thù
                  Cụ cười và bảo: “Nhân thu
                  Nhà vua sai sứ chu du tìm người!”

                  Vương liền phán đến khắp nơi
                  Tìm người cứu nước như lời Tổ khuyên
                  Sứ nhân hăng hái rao truyền:
                  “Tổ về và bảo thường xuyên đi tìm”
                  Và làng Phù Đổng đồi sim
                  Có con trai nhỏ im lìm ba năm
                  Chẳng đi, cười, nói – chỉ nằm
                  Tới khi sứ đến viếng thăm làng này
                  Cậu ta bật dậy trình bày
                  Xin con ngựa sắt với tay roi dài
                  Từ đây Cậu Bé trổ tài
                  Lớn mau như thổi – tiêu sài áo cơm
                  Gia đình tận lực bổ bơm
                  Bà con lối xóm đong đơm giúp vào
                  Tới hôm ngựa sắt sứ trao
                  Vươn vai hít thở lớn cao phi thường
                  Phóng lên ngựa sắt cầm cương
                  Ngựa liền phun lửa nhắm phương nghịch thù
                  Vung roi đánh giặc mịt mù
                  Nhổ tre mà đánh – cho dù gãy roi

                  Số làng ngựa thổi cháy toi
                  Giặc tan – trời đất đã soi rửa hờn
                  Thắng quân tới núi Sóc Sơn
                  Cậu cùng ngựa lửa thoát cơn – Về Trời
                  Gốc tre bỏ lại trên đời
                  La Ngà – Thánh Gióng – đồng thời mọc lên
                  Vua Hùng phong cậu với tên
                  Thiên Vương Phù Đổng giữ bền non sông

                  * *

                  Kính thưa quý vị và các bạn,

                  Sách Lược Cứu Nước của Tổ Tiên muôn đời hữu dụng, sách gối đầu giường hằng đêm suy tính từng điểm, từng chữ, từng câu làm một chương trình sống cho những ai dám quyết tâm phá giặc. Dám thấy việc phải làm, dám làm việc đã thấy. Dám đối diện với thực tại, dám nhìn thẳng vào tương lai. Dám đương đầu với khó khăn, dám biến chướng ngại thành phương tiện. Dám từ bỏ những gì mà mình đang có, để thực hiện điều cao qúy hơn. Không chỉ dám bằng hứng chí, bằng lý trí, bằng chứng cớ, bằng suy tư mà còn dám với tất cả tâm hồn, chúng ta dám cảm nhận sống thực với chính mình, vì bao trăm năm qua dân nước Việt Nam chưa một lần được thực sự giải cứu.

                  Bởi thế Phù Đổng là Bài Học Cải Hóa – cải hóa từng con người, và cải hóa toàn thể xã hội. vừa Cứu Nước lại vừa Cải Hóa Con Người.

                  Khởi đầu sự kiện nước bị Giặc Ân xâm chiếm – Thời Nhà Ân Trung Quốc cũng cùng với Thời Vua Hùng ở vùng Đất Tổ của chúng ta là Hồ Động Đình. Nhân việc kể đi kể lại chiến tích chống ngoại xâm, Tổ Tiên đúc kết thành bài học Cứu Nước và Cứu Người.

                  Trước nạn giặc xâm chiếm, nước mất nhà tan, dân tình khốn khổ, Vua Hùng và triều đình đã dùng hết cách, hết sức, hết lực nhưng vẫn không ngăn được giặc. Tuy là bối cảnh câu chuyện, nhưng lại là yếu tố giúp chúng ta chuẩn bị cho một tổ chức cứu nước hoàn chỉnh và hữu hiệu.

                  Mọi phương thức chống giặc đều vô hiệu, lực lượng tan rã, lòng dân phân tán, đồng minh trở mặt. Giặc lại thừa thắng xông lên, gây bao oan nghiệt, điêu linh thống khổ cho đồng bào, cho đất nước, cho giống dòng.

                  Chúng ta phải nhận chân thảm trạng mất nước. Không lượng định chính xác sức mạnh của giặc, và tình trạng yếu kém của ta về mọi phương diện, thì chỉ là lạc quan trái mùa hay sợ giặc mà không nhìn ra giặc, không đánh giặc mà lại đánh nhau. Chúng ta cần học hỏi và trau dồi tài năng sao cho hơn giặc mọi mặt thì mới mong thắng giặc.

                  Nhận chân thực trạng để biết địch biết ta.

                  Xác định đức tính thiết yếu của chúng ta là dám nhận thực hiện trạng phũ phàng, dám tin tưởng tuyệt đối vào sức sống sức mạnh của dân tộc. Chúng ta dám lột xác để thích ứng với tình thế mới, điều kiện mới, hoàn cảnh mới, và quyết tâm dấn thân thực hiện việc tổ chức cứu nước cho đến ngày thành công.

                  Bài học khởi sự với việc nêu rõ điều kiện, đức tính cần thiết để cải hóa từng người, rồi từ một người tới tổ chức, từ tổ chức tới mọi người khác. Phù Đổng duyệt qua từng giai đoạn, từng công tác, từng hành động từ việc vận động tinh thần, tới các điều kiện đoàn kết, qua phương thức phát hiện tiềm năng, tới cách thể hiện điều hợp, ứng biến và tập trung sức mạnh.

                  Bài học nêu rõ vấn đề vai trò các chủ lực, thái độ và phương thức để khỏi rơi vào tròng độc tài, áp bức, bất công. Tất cả được Tổ Tiên hướng dẫn từng bước cụ thể, từng giai đoạn thực tế, để từng người, từng nhóm người và toàn thể trở về với Con Người đích thực, và Xã Hội cũng đích thực trọn vẹn là xã hội con người.

                  Trong ngõ bí của thời cuộc, trong phũ phàng của thực trạng mất nước, Tổ Tiên cho bừng lên một vừng sáng chói chang hy vọng là Vua Hùng lập đàn cầu Tổ về giúp. Việc lập đàn chứng tỏ lòng thành và ý thức của chúng ta về tầm mức quan trọng vượt bực trong đại cuộc giúp dân cứu nước. Cứu một người đã khó thay, huống chi cứu cả một dân tộc, một đất nước, một lịch sử giống dòng.

                  Tổ là biểu trưng cho Tinh Thần, cho Sức Sống tối cao, Hồn Thiêng của Dân Tộc. Ngài là nguồn gốc và là sự sống còn, là niềm hy vọng và là tụ điểm của toàn dân. Cầu Tổ là bộc lộ niềm tin bất diệt, niềm hy vọng tuyệt đối vào sức sống vô biên và truyền thống siêu việt của dân tộc. Ðây chính là nền tảng đích thực của tổ chức chính trị mang sứ mệnh Giúp Dân Cứu Nước. Bất cứ nền tảng nào khác đều dẫn tới hậu quả là biến dân nước thành vong nô của ngoại bang, của tà thuyết, của cường quyền hay nhóm lợi ích.

                  Việc cầu Tổ, Phù Đổng còn nối kết cách tuyệt diệu với các truyền thuyết Tiên Rồng, Tiết Liêu. Tiên Rồng – Cha Rồng nhắn nhủ: “Khi cần thì gọi, Ta về ngay.” Tiết Liêu – Tiết Liêu thành tâm an dân thịnh nước, Tổ cũng về giúp. Thời bình mà Tổ còn thương như vậy, huống chi thời loạn và con cháu đau khổ. Con cháu Tiên Rồng có lúc nào cần Tổ thương về giúp, khi đất nước gặp nạn, gia đình ly tán, đồng bào thống khổ?

                  Con cháu khẩn thiết kêu cầu, Vua Hùng lập đàn cầu Tổ về giúp.

                  Trên đàn có ngai qúy để Tổ về ngự, hương trầm nghi ngút, đèn nến sáng ngời, lễ vật đầy đủ. Vua quan đều thân thanh tâm tịnh, thành tâm thiện ý, đoàn kết một lòng. Dân chúng vây quanh cầu khẩn, van xin thống thiết, và uy nghi trang trọng. Ai cũng chờ Tổ hiển hiện tại đàn, “hoành tráng” chưa từng thấy.

                  Nào ngờ trên đàn chưa thấy dấu linh, thì ở ngã ba đường có một Cụ Già Áo Đỏ đang đùa giỡn với đám trẻ trong làng. Người dám tiến vào đại chúng, tìm gặp Tổ chính là Vua Hùng. Vì quyết tâm cứu nước, nên dầu thấy những cảnh tượng bất thường của Cụ Gìa, Vua Hùng cũng tìm tới gặp Cụ, và xin Cụ dạy cách cứu nước. Phải thành tâm cùng tột, tuệ linh sáng ngời như Vua Hùng mới có thể nhận ra đó không phải là quái nhân tới phá đám, mà Tổ đã về.

                  Tuy đã lập đàn và chuẩn bị mọi sự, tức là đã dự tính cho nhiều kế hoạch, nhiều chương trình nhưng Vua Hùng cương quyết gạt bỏ tất cả, tới ngã ba đường gặp Cụ Gìa cổ quái để học cách tổ chức cứu nước. Đây là điểm đột phá quan trọng cho người lãnh đạo, là Lột xác.

                  Không vượt điểm đột phá này, không lột xác, không từ bỏ dự tính và phương thức cũ, thì chúng ta không thành công. Không thích ứng với điều kiện và hoàn cảnh mới, không đón nhận kiến thức mới, chúng ta không thể hội nhập vào tổ chức chính trị Tiên Rồng. Không mở rộng tâm trí đón nhận những bất ngờ, những cổ quái, thì chúng ta không thể nghe được tiếng Tổ gọi, tức là không thể nhận ra những phương thức thực sự hữu hiệu cho việc cứu nước. Và chúng ta có vượt qua được điểm lột xác thì mới có cơ may được Tổ dạy cách Cứu Nước.

                  Bất chấp sự phản đối của những quần thần kênh kiệu can ngăn, Vua Hùng lội bùn đội mưa tới ngã ba đường gặp Tổ, và được Tổ dạy một phương thức cứu nước. Nhưng cách Tổ dạy cũng cổ quái. Tổ bảo vua sai sứ đi khắp nơi tìm người cứu nước. Thực kỳ lạ! Tại sao Tổ không nói rõ vị cứu tinh đó là ai? Tại sao lại bảo cho người đi tìm? Nếu chỉ có thế, thì Tổ hiện về làm gì? Vua Hùng cũng chẳng đang làm những việc đó sao?

                  Nhưng chính điểm kỳ quái lại là một bài học cho chúng ta. Tổ nhắc nhở, Tổ chỉ dạy, chớ Tổ không thể làm giúp thay cho chúng ta. Tổ không giết giặc, Tổ không chỉ huy, Tổ cũng không làm gián điệp, cũng không cho nỏ thần hay khí giới hiện đại để thị uy hoặc tiêu diệt giặc.

                  Biết bao lần chúng ta cầu mong phép lạ, điềm linh giết giặc thay chúng ta hưởng. Biết bao lần chúng ta trách móc các Đấng Linh Thiêng không tích cực độ trì, giúp ta khoanh tay nhìn giặc chết! Biết bao lần chúng ta kết tội người khác, kết tội nhau không làm thế này thế nọ.

                  Vấn đề không phải là Tổ làm, mà là chúng ta biết thực thi ý muốn của Tổ. Khi biết Tổ Tiên và các Đấng Thiêng Liêng muốn cứu dân lành, thì chính chúng ta phải tỏ ra là người con thảo, là tín đồ thuận thành. Chính chúng ta ra công phá giặc và hoàn thành ý muốn của Đấng Thiêng Liêng. Chính chúng ta phải làm, phải dấn thân, thì mới cứu được nước. Xin nhớ rằng chúng ta có tổ chức hợp nhu cầu thời đại thì mới thành công.

                  Vua Hùng được Tổ chỉ cách. Nhưng trước khi vua thể hiện ý Tổ, chúng ta thử nhìn lại giai đoạn vừa qua. Vua Hùng sống với thực trạng mất nước, và khởi công từ thực trạng đó mà làm. Vua không nuối tiếc hão huyền, cũng không mơ mộng viển vông của cuộc đời vương giả. Vua tìm về nền tảng của công cuộc tổ chức cứu nước. Nền tảng đó là Tổ, là Sức Sống, là Truyền Thống siêu việt đang tiềm tàng trong đời sống dân chúng.

                  Với quyết tâm cứu nước, vua lột xác, sẵn sàng thích ứng và xử dụng mọi hoàn cảnh mới, mọi điều kiện mới. Cuối cùng là dấn thân, không do dự, không ỷ lại, sẵn sàng biến mọi chướng ngại thành phương tiện hữu hiệu trong việc cứu nước. Vua Hùng là biểu tượng của con người cứu nước đích thực. Vì vậy những đức tính trên cũng chính là những điều kiện cần thiết cho bất cứ ai muốn thực sự góp phần vào việc phá giặc.

                  Truyền thuyết Mỵ Châu - An Dương Vương từ bỏ Hồn Nước, nên dẫn tới mất Nước. Ở đây Vua Hùng gặp lại Tổ, sống lại Hồn Nước, nên khởi sự cứu nước.

                  Lời dạy của Tổ chính là phương thức cứu nước. Lời dạy của Tổ là ý muốn của Tổ, là chính Tổ sống động hiện thực trong dân nước. Theo Lời Tổ là động lực cho mọi hành động của vua Hùng. Vua sai sứ đi tìm Người Cứu Nước, sở dĩ các sứ chịu đi và toàn dân chịu nghe theo cũng vì làm theo Lời Tổ – chớ không theo Lời Vua.

                  Lời Tổ trở thành Sức Sống, trở thành Hồn Thiêng tạo dựng, thúc đẩy, điều hợp và hoàn thành đại cuộc. Sức Sống này từ Vua Hùng truyền qua đoàn sứ nhân (đảng chính trị) và từ sứ nhân truyền qua toàn dân.

                  Được Tổ chứng giám, Tổ chỉ dạy, giờ đây vua mạnh dạn sai sứ lên đường. Đoàn sứ nhân chính là đại diện, là hiện thân, là chính Vua Hùng đi đến với toàn dân.

                  Như vậy, đoàn sứ nhân là Người Cứu Nước lên đường hành động, dấn thân thể hiện sứ mạng theo Lời Tổ dạy. Đem Sức Sống của Tổ đến cho toàn dân. Toàn dân nhờ đó mới nhận được sứ điệp Tổ và mới cứu được nước. Vai trò của tổ chức chính trị đích thực là nền tảng trong công cuộc cứu nước.

                  Sứ nhân lên đường và chia nhau đi đến với dân chúng khắp nơi. Mục tiêu hành động đầu tiên của tổ chức cứu nước là Dân, chớ chưa trực tiếp đối đầu với Giặc. Công tác chính là vận động mọi người đứng lên chống giặc. Có như thế thành công mới trọn vẹn là của dân và do dân.

                  Sứ nhân đi khắp nơi, không bỏ sót, không từ khước bất cứ nơi chốn hay một phạm vi nào. Nơi đó có thể là trong nước hay ngoài nước, nơi thân thiện hay ở ngay trong lòng địch, trong các lãnh vực văn hóa, xã hội, kinh tế, chính trị, ngoại giao, quân sự, kỹ thuật, văn nghệ, giáo dục, thể thao, giải trí, truyền thông. Sứ nhân tiến vào các cộng đồng, hội đoàn, nghiệp đoàn, họ tộc, gia đình, hay là trí óc, con tim, cuộc sống của bất cứ ai, ở bất cứ nơi đâu, trong bất cứ hoàn cảnh hay sinh hoạt con người, cá nhân cũng như tập thể.

                  Sứ nhân chia nhau đi, không dồn chung một chỗ, không dành nhau một việc. Mỗi người tùy khả năng và hoàn cảnh riêng mà nhận phần trách nhiệm của mình. Có phân nhiệm mới có tổ chức. Tổ chức cứu nước là những con người cùng thể hiện các đức tính của sứ nhân, và theo hiện tình và khả năng linh động, mà chia nhau trách nhiệm hoàn thành các công tác thực thi sách lược cứu dân. Ðoàn sứ nhân chia nhau đi khắp nơi để loan tin. Nhưng tin của họ thực là đơn sơ, Tổ đã về và sai đi tìm người cứu nước.

                  Thông điệp với nội dung ngắn gọn, nhưng tác dụng lại hệ trọng. Tổ về và Tổ bảo đi tìm chứng tỏ Tổ độ trì cho tổ chức, cho phương thức, chắc chắn có người cứu được nước. Chúng ta đã có Sức Sống, có sách lược, có nhân sự. Ðây là lúc khám phá, là lúc thực hiện. Dầu giặc đang mạnh, nhưng chắc chắn chúng ta sẽ thắng. Có gì khích động và hứng khởi hơn để khơi dậy niềm tự tin tự hào dân tộc bằng nguồn tin tuyệt diệu này? Dầu ai tuyệt vọng, cũng phải hăng say với tin mừng.

                  Đoàn sứ nhân đi loan tin khắp nơi, chính là thể hiện công tác đem Tinh Thần dân tộc đến cho toàn dân. Nước mất vì dân quên Tổ, quên nếp sống truyền thống siêu việt của Tổ Tiên, quên Chánh Thuyết Tiên Rồng. Giờ đây sứ nhân nhắc nhớ tới Tổ, thức tỉnh niềm tin, sống lại tinh thần và sức sống dân tộc.

                  Khi đến với dân sứ nhân không chỉ loan tin, mà còn phải có hành động cụ thể. Sứ nhân lục lạo tìm kiếm cho ra Người Cứu Nước (Phù Đổng). Hoạt động này cũng gây tác dụng thiết yếu. Khi đã phấn khởi nhờ sống lại niềm tin, mọi người cũng tiếp tay với đoàn sứ nhân mà đi tìm Phù Đổng.

                  Khi góp phần tìm kiếm, chính là lúc mọi người đều thấm thía nạn mất nước. Do đó, mỗi người sẽ ý thức đích xác về phận vụ của mình trong công cuộc cứu nước. Mọi người sẽ lột xác, lãnh nhận trách nhiệm, và dấn thân chu toàn sứ mạng lịch sử. Như vậy, đoàn sứ nhân loan tin và tìm kiếm chính là thực hiện công tác làm cho người dân sống lại Hồn Nước, ý thức nạn nước, nhận lãnh trách nhiệm, và dấn thân cứu nước.

                  Ðây cũng là công tác làm cho Mọi Người sống trọn nếp sống Việt, trở thành Người Dân Đích Thực, trở thành Người Cứu Nước.

                  Truyền tích An Dương Vương làm mất nước, vì đã xa cách dân, loại dân ra khỏi việc nước. Giờ đây Vua Hùng, qua đoàn sứ nhân đã tìm lại dân, giúp dân ý thức và chung phần việc nước.

                  Mọi người đã cùng cố công tìm kiếm, và rồi tại làng Phù Ðổng họ đã gặp người cứu nước. Việc gặp thấy người cứu nước tại một làng cũng là nét đặc trưng của Chánh Thuyết Tiên Rồng, nhấn mạnh người cứu nước được tìm gặp ở trong làng, chớ không phải cung điện vua hay chốn đô thị. Trong nếp sống dân ta, làng giữ một vai trò nền tảng. Thể chế làng nước đã được Tổ tiên đặc biệt chú trọng và lưu truyền trong truyện tích An Tiêm.

                  Tại làng đã xuất hiện người cứu nước. Nhưng nhân vật này cũng kỳ lạ khác thường, chỉ là cậu bé ba tuổi. Tính cách bé bỏng của cậu bé tượng trưng cho đại chúng, cho toàn dân. Cậu bé lên ba cũng phù hợp với khoảng thời gian mà sử Trung Quốc ghi Ân Cao Tôn xâm lấn nước ta. Như vậy, cậu bé ba tuổi này chính là biểu trưng cho đại chúng, cho toàn dân. Vị cứu tinh chính là người dân.

                  Dầu tê liệt câm nín, nhưng Cậu Bé lại lắng nghe. Sống trong tay giặc, toàn dân hay Cậu Bé Phù Ðổng phải lặng im bất động. Vì ai phát biểu linh tinh là bị giặc bắt đi tù cải tạo mút mùa lệ thủy.

                  Mọi người nôn nóng trông chờ ngày thoát ách giặc. Mọi người sôi sục đợi ngày vùng lên. Mọi người lắng tai nghe ngóng tin tức cứu nước. Khi sứ nhân loan tin Tổ về, Cậu Bé cấp thời hưởng ứng. Khi nghe sứ nhân, chính là lúc Cậu Bé bừng lên niềm hy vọng chói chan, sống lại Hồn Nước.

                  Ðã gặp lại Tổ, đã sống lại niềm tin, Cậu Bé liền bật nói, toàn dân đều bật nói. Bật nói là dám hiên ngang bộc lộ. Dầu mới chỉ bằng lời, nhưng đây cũng là dấu chỉ của lòng tự tin và phấn khởi. Từ đây người dân đã dám tự hào về mình, dám nói lên niềm tin tưởng của chính mình. Cậu phát biểu lời đầu tiên là đòi ngựa và roi sắt. Cậu đòi hỏi phương tiện để phá giặc cứu nước.

                  Dấu chứng sức mạnh tinh thần đã bộc lộ. Khi thoát khỏi tình trạng câm nín, khi tinh thần đã được củng cố, khi ý thức được trách nhiệm với nước, điều đầu tiên người dân nghĩ tới là phương tiện chiến đấu.

                  Khi dân đòi phương tiện chiến đấu, cũng là dấu hiệu cho thấy đoàn sứ nhân – tổ chức cứu nước đã thành công trong công tác thức tỉnh người dân. Tại khúc quanh quyết định này, vai trò của sứ nhân cũng đổi khác. Trước đây thì sứ nhân nói cho dân nghe. Hôm nay dân đã nghe đã nói, thì sứ lại là người phải nghe dân. Trong hoạt động tổ chức, chúng ta phải thấy rõ điều này.

                  Khi người dân thành tâm tiếp nhận và sống đúng tinh thần Tổ, thì tiếng dân trở thành tiếng Tổ. Ý dân là ý Tổ trong hiện trạng đất nước. Tiếng dân giờ đây trở thành phương thức thiết thực và hữu hiệu cho công cuộc cứu nước.

                  Khúc quanh này đặc biệt rất quan trọng cho tổ chức cứu nước, chẳng những vì nó quyết định sự thành bại cho đại cuộc, mà còn thẩm định bản chất của tổ chức. Tổ chức không biến đổi, không trở thành người nghe dân, thì chắc chắn tổ chức đó không phải là tổ chức của dân.

                  Từ đó láng giềng khắp nơi đem gạo vải tới giúp Cậu ăn mặc. Khi đã tự tin, người dân tự động khởi công gia nhập và đóng góp. Ăn mặc là nhu cầu nền tảng của đời sống con người. Gạo vải là tất cả nhu cầu thiết yếu trong cuộc cứu nước.

                  Ðẹp thay cảnh toàn dân tấp nập góp gạo góp vải. Mọi người tự nguyện góp của góp công, cộng tài cộng đức. Bao thiện chí bấy nhiêu nung nấu, bao tài năng bấy lâu che đạy, bao sức mạnh bấy lâu đè nén, bao phương tiện bấy lâu tích trữ, bao diệu kế bấy lâu ấp ủ thì giờ đây tất cả bộc phát, tất cả hiển hiện, tất cả vùng lên.

                  Khi lãnh nhận trách nhiệm, người dân tự nguyện đóng góp, tự túc chu cấp những nhu yếu cơ bản của cuộc chiến đấu. Tất cả gạo vải, mọi sự đóng góp đó, đều để giúp cho Cậu Bé Phù Ðổng ăn mặc. Tất cả tự nguyện của dân đều tập trung vào Cậu Bé. Người dân chỉ quy tụ quanh Cậu Bé, là dân chớ không tập họp theo các sứ.

                  Trong giai đoạn đầu của công cuộc thức tỉnh, người dân chỉ mới tin tưởng vào những người thân cận quanh mình, trong tầm vóc làng thôn. Những gì sứ nhân hứa hẹn, dầu sao, cũng còn quá xa vời. Theo đúng tâm trạng Con Người, người dân chỉ tự ý quy tụ quanh Cậu Bé Phù Ðổng, vì chính Cậu Bé đã tỏ ra vài dấu hiệu đặc biệt, chỉ Cậu Bé đáp ứng phần nào công tác tìm kiếm anh hùng cứu nước.

                  Dân chỉ quy tụ theo ai tỏ ra thực sự có tâm huyết, có tinh thần, hết lòng vì đại cuộc, dấn thân chu toàn sứ mạng chung. Có dân tự ý quy tụ chính là tiêu chuẩn để thẩm định một công cuộc đích thực của dân, do dân. Khi mọi người góp sức, Cậu Bé Phù Ðổng lớn nhanh như thổi. Gạo vải thu tích không phải để chất đống, mà tất cả đều được xử dụng làm tăng trưởng sức sống toàn diện.

                  Việc tập trung sức mạnh, vấn đề phân nhiệm và điều hợp giữ phần quan trọng hàng đầu. Sức mạnh toàn dân chỉ có thể thực sự hữu hiệu, khi được vận dụng và điều hợp đúng mức. Không phân nhiệm, không định hướng, sự quy tụ sẽ trở thành hỗn loạn, phân hóa, và đối nghịch nội bộ.

                  Giai đoạn tập trung năng lực toàn dân, cũng là bài học đoàn kết. Mọi người vây quanh Cậu Bé Phù Ðổng, là vì sống lại niềm tin dân tộc, ý thức trách nhiệm cứu nước, tìm ra Cậu Bé, và Cậu Bé bật nói. Như vậy, công tác kết hợp toàn dân đã thành công, chẳng những giúp cho mọi người sống thực tinh thần dân tộc và ý thức trách nhiệm, mà còn chứng tỏ kế sách hữu hiệu, qua một số hoạt động có kết qủa thực tiễn. Ðây là những điều kiện thiết yếu cho việc đoàn kết toàn dân. Khi không hội đủ các yếu tố này, việc đoàn kết chỉ là chòm xóm, giai đoạn, hời hợt theo mục tiêu hạn hẹp.

                  Sứ vua đem ngựa và roi sắt tới. Ngựa sắt và roi sắt là sức mạnh và phương tiện chiến đấu. Ngựa và roi sắt cũng là biểu trưng của sức mạnh quân sự để phá giặc. Trong bầu khí mất nước và toàn dân vừa vùng lên góp tài góp của, thì ngựa và roi sắt chính là sự đóng góp của toàn dân.

                  Tuy nhiên, sức mạnh phương tiện đó lại do sứ đem tới. Ðoàn sứ nhân, tổ chức cứu nước đã đem Hồn Nước về với toàn dân, nhờ đó Toàn Dân vùng dậy. Giờ đây đoàn sứ nhân còn phải điều hợp sức mạnh ở các tổ chức làng xã thành tầm vóc toàn nước, biến sự đóng góp của toàn dân thành sức mạnh chiến đấu chống giặc. Sức mạnh này không chỉ nhấn mạnh ở lãnh vực quân sự, mà còn bao trùm mọi lãnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, giáo dục, ngoại giao ảnh hưởng tới cuộc chiến đấu.

                  Phận vụ của tổ chức cứu nước còn là nhận rõ sức mạnh hiện thực tiềm ẩn trong dân nước, rồi tùy theo hoàn cảnh và điều kiện thực tế mà ứng biến thành sức mạnh cứu nước hữu hiệu. Việc tổ chức và điều hợp lại cần nhân sự, khả năng đặc biệt, và ngành nghề chuyên môn. Tất cả đều xác định đúng vai trò quan trọng của một tổ chức có đủ tầm nhìn xa trông rộng, biết quyền biến với tình thế.

                  Khi nhận được ngựa và roi sắt, Cậu Bé liền vươn vai thành người cao lớn. Cậu đã ăn nhiều, đã lớn như thổi, nhưng phải chờ cho tới khi có ngựa và roi. Cậu mới vươn vai vượt tới tầm vóc đúng mức của mình. Trước đây, khi nghe về Tổ, Cậu đã bật nói, đã dám bộc lộ chính mình. Nhưng nay, có thêm ngựa và roi sắt, Cậu mới vùng dậy, mới đi đứng, mới hành động. Dầu mọi người đã thức tỉnh, đã quyết tâm, nhưng phải có phương tiện thì toàn dân mới có thể ra tay, mới có thể đối đầu với giặc.

                  Nhờ có sứ nhân trao ngựa sắt, Cậu Bé đã vươn vai. Nhưng khi cậu nhảy lên ngựa, thì ngựa sắt biến thành ngựa thần, sống động và phun lửa.

                  An Dương Vương ỷ vào thành ốc và nỏ thần để mất dân. Nỏ thần dầu bắn một phát giết cả vạn giặc, mà vì không có dân, nên mất hiệu nghiệm, không bằng nỏ gỗ. Khi được sức mạnh dân tộc xử dụng, thì ngựa sắt cũng hóa thành ngựa thần.

                  Không dân, nỏ thần thành nỏ gỗ. Có dân, ngựa sắt hóa ngựa thần.

                  Toàn dân vươn vai thì mọi sự cũng đều vươn theo. Sức mạnh của toàn dân làm cho mọi phương tiện trở thành hiệu lực cách thần kỳ, trở thành linh hiển. Không có hình ảnh nào diễn tả sức mạnh và vai trò của toàn dân một cách rõ ràng và đầy đủ hơn.

                  Ðã có Hồn Nước, đã có toàn dân. Sức mạnh đã tập trung, đây là lúc vùng lên đuổi giặc để giành lại Đất Nước. Với ngựa lửa roi sắt, vị anh hùng Phù Ðổng đã oai dũng đánh giặc một trận tơi bời. Khi toàn dân đã có tinh thần, đã có sức mạnh, đã có phương tiện, thì việc đuổi giặc ra khỏi bờ cõi là chuyện đương nhiên.

                  Ngựa lửa là sức mạnh của đấu tranh, nhưng Phù Ðổng dùng roi sắt. Hình ảnh dùng roi nói lên lòng nhân thứ của Tổ Tiên, tổ chức chúng ta dùng roi chứ không dùng gươm. Roi mang ý nghĩa sửa dạy, đánh phạt, dầu là roi sắt, gươm giáo luôn là vũ khí chém giết, tàn sát. Ngay trong ngôn ngữ chúng ta cũng dùng chữ đánh, dầu là giặc, đánh giặc. Cương quyết, dũng mãnh, nhưng không tàn bạo, giết giặc. Đó là tinh thần nhân thứ, khoan dung, và qúy trọng con người được ghi trong Chánh Thuyết Tiên Rồng.

                  Với việc Tổ trở về, với vua Hùng và đoàn sứ nhân dấn thân, với tổ chức cứu nước, với mọi người góp gạo góp vải, với ngựa sắt roi sắt, với tre làng bị nhổ, với số làng bị cháy, tính cách toàn dân toàn diện của công cuộc cứu nước đã bộc lộ rõ ràng.

                  Mọi người và tất cả, đều được vận dụng để chống giặc. Từ những phương tiện vật chất, gạo, vải, sắt, lũy tre, thú vật đến làng thôn, hệ thống tổ chức quốc phòng, chính trị, xã hội, văn hóa cho đến tinh thần dân tộc, qúa khứ lịch sử, và cả sông núi, Hồn Thiêng tất cả đều gom đúc thành Sức Mạnh thần diệu của Dân Tộc, tất cả đều góp phần vào việc cứu dân cứu nước.

                  Giờ đây chiến thắng mới thực sự là chiến thắng toàn vẹn của toàn thể dân tộc. Có như vậy, cuộc sống mới thực sự mở đầu cho tất cả mọi người.

                  Bài học dạy cách đánh giặc cứu nước. Giờ đây giặc đã tan, nhưng việc cứu nước vẫn chưa xong. Bài học Phù Đổng vẫn còn tiếp khi cỡi ngựa lên núi về trời. Núi là nơi ở của Tiên (chữ nhân ghép với chữ sơn là chữ tiên). Hình ảnh lên núi nhắc nhớ đến phần Tiên.

                  Phù Ðổng biểu tượng của sức mạnh tập trung của dân tộc, tức phần Rồng. Sức mạnh đó đã được vận dụng tối đa và oai dũng đánh đuổi quân giặc. Giờ đây giặc đã tan, dân nước lại vui hưởng thanh bình, nên Sức Mạnh đó lên núi, tức không còn cần phải bộc lộ oai dũng, mà được thăng hoa tiềm tàng vào sông núi, vào tâm hồn của dân nước.

                  Chiến công đuổi giặc trở thành kinh nghiệm sống của toàn dân, trở thành phần Tinh Thần, phần Truyền Thống bất diệt, xáp nhập vào phần Tiên của dân tộc, theo nguyên lý Tiên Rồng Song Hiệp.

                  Qua toàn bộ công cuộc, chẳng những toàn dân đã đánh đuổi giặc nước, mà mỗi người còn dẹp tan được mọi thứ giặc trong chính bản thân. Trong tiến trình trở thành người cứu nước, mọi người cũng trở thành Con Người toàn vẹn. Khi cứu được nước, dân tộc ta đã trở thành một khối hiệp nhất, toàn hảo, toàn hiệp.

                  Với mọi chướng ngại đã được đánh tan, với những kinh nghiệm tuyệt hảo, với niềm tin chan chứa, và với sức sống tràn đầy, giờ đây khối người toàn hiệp này đem trọn tâm sức cùng nhau xây dựng một cuộc sống mới. Với cuộc sống phát xuất từ tâm khảm của những con người thấm nhuần Chánh Thuyết Tiên Rồng, toàn dân hiên ngang bước vào một Kỷ Nguyên Mới của một xã hội loài người tràn đầy hạnh phúc.

                  Về trời là sự phong thưởng cao qúy nhất của Chánh Thuyết Tiên Rồng. Như Chử Đồng - Tiên Dung về trời sau khi hai ngài trọn đời chăm lo việc thịnh nước an dân. Phù Ðổng thi hành nghĩa vụ giúp dân cứu nước, cũng được về trời. Tổ Tiên phong thưởng cho những người đóng góp công đức trong đại cuộc dựng nước được về trời, được tòan dân kính nhớ tôn thờ.

                  Có người cho rằng dân Việt có đạo thờ Anh Hùng. Quả thật chúng ta thờ những vị Danh Tướng và trên đất nước có nhiều đền thờ các Ngài. Ngòai ra, mỗi làng đều có Thành Hòang và hầu hết là những Anh Hùng đóng góp công đức cho dân nước thuộc mọi thành phần. Anh Hùng Kiệt Nữ được thờ là những vị cứu dân cứu nước, không có người nào đi xâm lăng hay tàn hại dân tộc khác mà được tôn thờ như những văn hóa khác sùng bái thần Chiến Tranh, thần Máu Lửa trong các đền thờ và cổ vũ trong nếp sống, trong phim ảnh, trong giáo dục như thảm trạng nhân loại hiện nay.

                  Bi kịch Loa Thành thất thủ đẫn tới việc nàng công chúa Mỵ Châu bị chết dưới lữa gươm oan nghiệt của vua cha An Dương. Mỵ Châu đền tội vì trách nhiệm trong việc làm mất nước. Nhưng sự thể xảy ra nông nỗi đó cũng chỉ vì nàng quá yêu thương và tin tưởng chồng.

                  Tổ Tiên thưởng phạt phân minh. Có tội làm hại nước thì phải chết. Nhưng nàng đã trọn tình nhà, thì cũng được thưởng công. Tổ Tiên phong thưởng bằng cách cho máu nàng chảy xuống biển và được giống trai nuốt vào mà hóa thành ngọc.

                  Cách phong thưởng này chẳng những không kỳ lạ, mà lại nằm trong hệ thống giá trị của văn hóa Việt. Những người sống trọn tình nhà như người em trong Trầu Cau, người vợ trong Vọng Phu, trái tim của Trương Chi, và máu của Mỵ Châu. Tất cả đã hóa đá hóa ngọc. Đá, ngọc là thành phần Vật Chất, là trở thành trường tồn với thời gian, được qúy chuộng, và được làm nền tảng xây dựng lâu dài.

                  Về phần Trọng Thủy, dầu thành công trong mưu đồ xâm chiếm, nhưng chàng nhớ vợ và nhảy xuống giếng mà chết. Chàng đã vì ý đồ xâm lăng, mà phụ nghĩa vợ chồng, thì chàng cũng phải chết. Vì danh lợi mà không trọn Tình Nhà, thì cuộc đời cũng không đáng sống, thì không có quyền sống.

                  Vì tình nhà mà hại nước thì phải chết. Vì quyền lực mà hại nhà, thì cũng phải chết. Đây là tuyệt đỉnh bài học làm người của văn hóa Việt. Bài học này đi ngược hẳn chủ trương của nhiều văn hóa khác.

                  Với cái chết của Mỵ Châu, Tổ Tiên ta đã xử tử hình các chủ thuyết cá nhân vị kỷ. Với việc Trọng Thủy nhảy xuống giếng, các chủ thuyết tập thể bá quyền cũng bị nhận chết theo.

                  Con người chỉ có thể sống xứng đáng, trọn vẹn và hạnh phúc khi thể hiện đầy đủ các đặc tính bẩm sinh vừa cá thể vừa xã hội của mình. Có nhà mà cũng có nước, Có nước mà cũng có nhà. Tiên Rồng Song Hiệp hoàn chỉnh.

                  Mỵ Châu và Trọng Thủy đều phải chết. Thực cảm động khi những viên ngọc do máu Mỵ Châu trở thành sáng đẹp hơn khi rửa trong nước giếng chôn xác chồng nàng. Nàng yêu thương và tin tưởng chàng đến nỗi giao phó cả nước non, đưa nỏ thần cho chàng xem. Nàng yêu chàng trong tuyệt vọng đến liều lĩnh khi nhổ lông ngỗng làm dấu hiệu trên đường chạy trốn chàng. Giờ đây cả những giọt máu của nàng cũng tươi sáng lên khi được tắm trong nước tẩm xác chàng.

                  Nàng sống trọn tình yêu Chánh Thuyết Tiên Rồng. Nàng thể hiện những nguyên tắc Thân Thương Tột Cùng, Quyết chẳng lìa nhau, Sẵn sàng chết cho nhau, và Mãi mãi có nhau.

                  Chỉ tiếc là nàng không ứng dụng nguyên tắc tắc đầu tiên của hai người phải Giống nhau như đúc, là phải tìm hiểu nhau, phải Gặp nhau trọn vẹn, nên nàng đã không nhận ra Trọng Thủy và bị giặc lừa gạt.

                  Ở cấp Tình Nước, những người an dân thịnh nước như Tiên Dung Chử Ðồng thành Tiên, Phù Ðổng thành Thần… Tiên, Thần là phần thưởng công, phần thăng hoa hay tinh túy của linh thiêng.

                  Ở cấp Tình Nhà, Trầu Cau qua chuyện người em hóa đá, máu Mỵ Châu trọn tín thác chồng thì hóa ngọc, trái tim Trương Chi ôm mối tình câm, chỉ vì con người phân chia đẹp xấu, giầu nghèo… thì cũng hóa ngọc. Ðá, ngọc là kết tinh, tinh túy của vật chất!

                  Nói đến cả hai phần vật chất và tinh thần của con người, được thăng hoa thành đá, thành ngọc, thành tiên, thành thần thì chúng ta lại trở về với con người Tiên Rồng – con người thật trong bộ ba nền tảng!

                  Vậy có sự an ủi và niềm hãnh diện nào hơn là chúng ta được làm con cháu của Tổ Tiên dòng giống Tiên Rồng siêu việt – Con Cháu Tiên Rồng!
                  Last edited by Phạm Văn Bản; 05-17-2020, 12:55 AM.

                  Comment



                  Hội Quán Phi Dũng ©
                  Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




                  website hit counter

                  Working...
                  X