Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Operation Babylift, 45 năm một sứ mạng nhân đạo và tình người

Collapse
X

Operation Babylift, 45 năm một sứ mạng nhân đạo và tình người

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Operation Babylift, 45 năm một sứ mạng nhân đạo và tình người

    Operation Babylift,
    45 năm một sứ mạng nhân đạo và tình người
    ~~~




    Trên một chuyến bay của chương trình Operation Babylift, 1975. (AP Photo/File)


    Trong những ngày cuối cuộc chiến Việt Nam, chiến dịch di tản nhân đạo các trẻ em mồ côi sang Hoa Kỳ với tên gọi Operation Babylift đã được thực hiện theo sự chuẩn thuận của Tổng Thống Gerald Ford. Ông tuyên bố rằng, "Trong khi truy điệu những người đã mất, chúng ta không thể quên những người còn sống" để không chỉ có kế hoạch di tản hàng chục ngàn nhân viên người Việt, mà còn là chiến dịch dành riêng cho trẻ mồ côi sẽ được di tản bằng phi cơ quân sự, có ngân sách khoảng hai triệu đô la. Theo số liệu từ bộ phim tài liệu Precious Cargo của PBS, đã có ít nhất 2,700 trẻ em mồ côi VN được đưa sang Mỹ và khoảng 1,300 em được đưa sang Canada, Úc và Châu Âu trong sứ mạng này.

    Rất không may, chiến dịch mở màn bằng một tai nạn thương tâm. Ngày 4 tháng 4 năm 1975, tin chiếc phi cơ C-5 bốc trẻ mồ côi Việt Nam sang Hoa Kỳ trong chiến dịch Operation Babylift gặp nạn làm thiệt mạng 153 trẻ em, phi hành đoàn, nhân viên thiện nguyện và nhân viên văn phòng DAO tại Sài Gòn, đã gây bàng hoàng và xúc động cho những người theo dõi tình hình chiến sự tại Nam Việt Nam.

    Chiếc phi cơ C-5 mang ký hiệu 68-0218 cất cánh từ phi trường Tân Sơn Nhất sang căn cứ Clark Air Base tại Phi Luật Tân vào chiều thứ Sáu, là chuyến bay đầu tiên chở các trẻ em mồ côi VN được đưa sang Mỹ trong chiến dịch này. Theo kế hoạch dự tính, các em sẽ tiếp tục được chuyển sang máy bay dân sự từ Phi Luật Tân để bay tiếp đến San Diego với sự chờ đón của chính TT Ford ngay phi trường. Dù tai nạn thảm khốc xảy ra đã gây thiệt mạng gần một nửa trẻ em và các nhân viên trên phi cơ, chiến dịch vẫn được tiếp tục. Và cũng không vì điều này mà có thểcản chân hàng chục y tá trẻ người Mỹ, đang làm việc tại Hồng Kông đã quyết định tình nguyện bay sang Sài Gòn để giúp đưa các trẻ em VN về Mỹ.

    Một thương gia Mỹ là ông Robert Macauley đã cầm nhà mình để lấy tiền thuê một chiếc Boeing 747 của hãng hàng không Pan Am, tiếp tục bốc dỡ những trẻ em sống sót, khi ông biết rằng các phi cơ quân đội phải mất hàng tuần để đưa các trẻ em này sang Mỹ. Câu chuyện trở thành một cổ tích tuyệt đẹp giữa những đổ nát, thương đau của buổi ly loạn trong giờ phút cuối cùng của miền Nam tự do. Không chỉ câu chuyện đầy tình người của Robert Macauley gây xúc động, mà cả chiến dịch nhân đạo Operation Babylift có lẽ sẽ mãi còn là câu chuyện đẹp trong chiến tranh Việt Nam cho những ai nhìn lại ở một góc nhỏ khác.

    Những ngày đầu tháng Tư năm 1975, tình hình chiến sự tại Nam Việt Nam xem ra đã thay đổi nhanh chóng, nhất là từ sau khi Ðà Nẵng bị thất thủ. Các tổ chức quốc tế giúp đỡ và nuôi trẻ mồ côi tại Việt Nam đã có những kế hoạch riêng để di tản các trẻ em này cùng nhân viên của họ. Nhưng với kế hoạch di tản chính thức từ TT Gerald Ford, hàng ngàn gia đình người Mỹ đã sẳn sàng đón nhận các em bé mồ côi này. Theo dự định ban đầu, khoảng 30 chuyến bay sẽ di tản hàng chục ngàn trẻ mồ côi sang Mỹ. Trên thực tế, vì tình thế thay đổi quá nhanh cũng như vì sự an toàn nên con số cuối cùng chỉ còn tổng cộng khoảng 4,000 em được di tản.

    Ðây là nỗ lực của chính phủ Hoa Kỳ cùng một số các tổ chức quốc tế như Holt, Friends of Children of Vietnam (FCVN), Friends for All Children (FFAC), Catholic Relief Service, International Social Services, International Orphans và The Pearl S. Buck Foundation thực hiện. Không chỉ với các phi cơ vận tải C-5 của quân đội, còn có hàng chục chuyến bay dân sự lớn nhỏ khác cùng tham gia việc di tản đến tận ngày 26 tháng Tư, khi phi trường Tân Sơn Nhất đã bị pháo kích.

    Theo lời bà Joyce Harrington, một nữ y tá trong nhóm bác sĩ và y tá người Mỹ tình nguyện từ Hồng Kông bay sang Tân Sơn Nhất, có cả phu nhân Ðại Sứ Hoa Kỳ tại Hồng Kông tham gia chiến dịch này. Họ đã nghe tin về chuyến bay gặp nạn cũng như tình hình chiến sự Việt Nam đang giao tranh khốc liệt, không phải không lường được bất trắc có thể xảy ra, nhưng chẳng có gì ngăn cản bước chân họ trong sứ mạng cao cả đến với những em bé mồ côi đang cần sự giúp đỡ kia. Có cả một số cha mẹ nuôi đã bay thẳng sang Việt Nam để cùng tham gia nhóm nhân viên thiện nguyện, chăm sóc các em trên đường về Mỹ.

    Ðây là sứ mạng mà những người từng tham dự cho rằng những thiện nguyện viên, những vị nữtu, những nhân viên các tổ chức cứu trợ trực tiếp tham gia là những con người có tấm lòng hy sinh cao cả, làm xúc động lòng người. Trong hồi ký "Đây đích thực là người anh em tôi" (This Must Be My Brother), bà LeAnn Thieman-một y tá trẻ thiện nguyện lúc bấy giờ kể rằng, trên chuyến bay mà bà tham gia, có một người đàn ông tóc muối tiêu lặng lẽ và vụng về thay tả cho các em bé. Nhiều người không biết ông là người có vợ bị tử nạn trên chuyến bay đầu tiên gặp nạn nói trên.

    Một đường dây điện thoại khẩn cấp được thiết lập tại Washington D.C để những cha mẹ nuôi tương lai gọi đến các nhân viên các tổ chức lo vấn đề con nuôi. Bên cạnh hàng ngàn gia đình Mỹ, có cả một số tài tử, chính trị gia, triệu phú, nhận các em bé Việt Nam làm con nuôi. Melody, em bé còn sống sót trên chuyến phi cơ C-5 Galaxy gặp nạn là em bé mồ côi đã được tài tử Mỹ gốc Nga Yul Brynner chờ đón để nhận nuôi. Chính Brynner đã mượn phi cơ riêng của tỉ phú Hugh Hefner, chủ nhân tạp chí Playboy để đưa Melody cùng khoảng 40 em bé khác sang New York. Hay như Kym, một bé gái mồ côi Việt Nam đã may mắn được em gái tổng thống Kennedy là bà Jean Kennedy Smith nhận làm con nuôi.

    Những em nhỏ từng được di tản trong sứ mạng Babylift ngày ấy nay đã là những người quá tuổi trung niên, trên dưới 50. Ðược các gia đình người Mỹ nuôi nấng từ nhỏ, theo các tự bạch trên các trang mạng, một số người thú nhận rằng họ không hề có những khái niệm hay sự liên hệ gì đến Việt Nam cùng quá khứ. Dù vậy, cũng đã có khá nhiều những trang mạng được thiết lập để những người trong cuộc tìm lại với nhau. Hay thông qua sự bảo trợ của một vài tổ chức cùng giới truyền thông, một số người cũng đã quay về Việt Nam sau vài chục năm với những cảm xúc lẫn lộn, kể từ khi họ được đưa sang Mỹ. Phần lớn là sự tò mò hơn là để tìm lại cội nguồn.

    Trong bài thơ "Bản thể" (Identity) mà Jane Burns, một cô bé năm tháng tuổi ngày nào, đã viết bài thơ dài, so sánh giữa người mẹ ruột đã từ bỏ mình trong chiến tranh loạn lạc cùng người mẹ nuôi của mình rằng:

    "... I awake from this nightmare and am shivering uncontrollably
    Scenes of my biological mother have disappeared
    And in her place stands my mother.

    The woman who came to the airport to get me
    When I was just five months old.
    The woman who has been there to share
    My laughter
    My joys
    My tears
    And my sorrows.
    My mother tells me that even though I did not grow
    Under her heart,
    I grew in it.

    Someday, I may decide to return to my homeland,
    But for now,
    This is where I belong"

    "... chợt rùng mình tỉnh giấc sau ác mộng
    mẹ ruột tôi đã biến khỏi giấc mơ
    chỗ bà đứng, chỉ còn mẹ tôi đó

    người đón tôi chiều phi trường năm ấy,
    đứa bé con chỉ vừa năm tháng tuổi
    người đã sẻ chia qua cùng năm tháng
    những tiếng cười
    niềm vui
    những giọt nước mắt ngậm ngùi
    cùng nỗi buồn của tôi
    người đã bao lần từng bảo
    mẹ chẳng cưu mang con trong bụng
    mà ấp ủ bằng trọn cả con tim

    ngày nào đó tôi sẽ về thăm đất mẹ
    còn bây giờ
    tôi thuộc về chính nơi đây"

    (ĐYT phỏng dịch)

    Không biết bao nhiêu sách báo và phim ảnh đã nói về Operation Babylift, nhưng quả chẳng thừa để nhắc đến sứ mạng nhân đạo chứa đầy tình người trong những ngày tháng Tư này. Bởi nhìn lại nỗ lực nhân đạo tột bực này từ nước Mỹ, từ không ít bao nhiêu tấm lòng bác ái và hy sinh của những thiện nguyện viên tham gia Operation Babylift, để nhắc rằng cũng với tinh thần nhân đạo đó, nước Mỹ đã cưu mang hàng triệu người Việt vượt biển cùng những người đến Mỹ qua các chương trình nhân đạo sau này. Nên nếu có ai đó viết câu thơ như Jane Burns rằng "Tôi thuộc về chính nơi đây" thì quả cũng là điều tự nhiên.


    Đinh Yên Thảo
    diendantheky.net

  • #2
    * Ngạn ngữ La-tinh: Qua habito in pace patria mea hac
    (Wherever I live in peace this is my country)

    * * *

    Trích: "QUÂN LỰC HOÀNG GIA ÚC trong CUỘC CHIẾN VIỆT NAM", Nguyễn Hữu Thiện (Hội Quán Phi Dũng)

    ...Ngày 11/2/1973, nước Úc chính thức tuyên bố chấm dứt hoàn toàn mọi can dự vào cuộc chiến Việt Nam. Thủ tướng Lao Động khét tiếng thân cộng Gough Whitlam chính thức công nhận chế độ cộng sản Hà Nội (trước đó, ông ta cũng là nhà lãnh đạo tây phương đầu tiên công nhận chế độ cộng sản Bắc Kinh).

    Cho nên cũng là một điều dễ hiểu khi quân cộng sản Bắc Việt chuẩn bị chiếm Sài Gòn vào cuối tháng 4/1975, các vận tải cơ C-130 Hercules của Không Lực Hoàng Gia Úc tới Việt Nam với nhiệm vụ di tản các nhân viên sứ quán Úc và 130 người Việt gồm nhân viên sứ quán và thân nhân (như đã hứa trước), Gough Whitlam đã tàn nhẫn ra lệnh cho các phi công Úc không được cho một người Việt nào bước lên phi cơ, với lý do “chính phủ Úc đã quyết định không nhận người tỵ nạn Việt Nam”.

    Nhưng cái rủi của người này đôi khi lại là cái may cho người khác, mà trong trường hợp này, “người khác” ấy chính là các em cô nhi trong chương trình nhân đạo “Babylift” (Operation Baybylift) do Không Lực Hoa Kỳ và Không Lực Hoàng Gia Úc thực hiện: những chỗ trống ấy đã giúp thêm khoảng 100 em được đưa ra khỏi Việt Nam trong những giờ phút hấp hối của Sài Gòn, nâng tổng số được đưa sang Úc lên 281 em, trong đó em nhỏ tuổi nhất mới lọt lòng mẹ được 10 ngày.



    Tan Son Nhat airfield during the second airlift on 17 April 1975. (Australian War Memorial)
    Last edited by Nguyen Huu Thien; 04-23-2020, 09:23 PM.

    Comment


    • #3
      Hình ảnh...



      Last edited by Nguyen Huu Thien; 04-24-2020, 01:02 AM.

      Comment


      • #4

        Lockheed C-5A Galaxy 68-0218 lifts off from Tan Son Nhut Air Base, South Vietnam, 4:00 p.m., Friday, 4 April 1975. (CORBIS)

        The first flight was aboard a U.S. Air Force Lockheed C-5A Galaxy heavy lift transport, serial number 68-0218, piloted by Captains Dennis W. Traynor III and Tilford Harp.

        When the Galaxy took off from Saigon at 4:00 p.m., there were 328 people aboard, including flight crew, medical teams, orphans and their escorts, as well as other U.S. personnel.

        The C-5A quickly climbed to 23,000 feet (7,010 meters). Just a few minutes after takeoff, the locks of the rear loading ramp failed. Explosive decompression hurled people and equipment throughout the airplane which instantly filled with fog. Lieutenant Aune was thrown the entire length of the upper deck. The airplane was severely damaged with two hydraulic systems inoperative and many flight control cables severed.

        The pilots could only control the airplane with engine thrust. They began an emergency descent and turned back to Tan Son Nhut.


        Helicopters standing by near the wreck of the Lockheed C-5A Galaxy. (NPR)

        Unable to maintain flight, at about 4:45 p.m., the Galaxy touched down in a rice paddy two miles short of the runway at 270 knots (500 kilometers per hour). It slid for a quarter mile, became airborne for another half mile, then touched down and slid until it hit a raised dike and broke into four sections. 138 people were killed in the crash.


        Wreckage of the Lockheed C-5A Galaxy transport. (NPR)



        Comment


        • #5
          Operation Babylift

          Operation Babylift






          Last edited by BachMa; 04-25-2020, 07:44 PM.

          Comment



          Hội Quán Phi Dũng ©
          Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




          website hit counter

          Working...
          X