Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Dòng sông vĩnh biệt

Collapse
X

Dòng sông vĩnh biệt

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Dòng sông vĩnh biệt

    Dòng sông vĩnh biệt

    Phần A

    - Ngay hôm nay à?
    - Vâng. Tiếng người con gái trả lời vội vã bên kia đầu dây điện thoại.
    - Ba và ngoại có khỏe không? Ðã báo tin cho anh Trung biết chưa? Người thanh niên hỏi lại.
    - Cả nhà vẫn khỏe. Tinh thần ba rất tốt để chuẩn bị trị liệu. Vợ chồng anh Hai sáng mai sẽ có mặt, cả nhà chỉ còn trông mỗi mình anh.
    - Anh sẽ cố gắng và khi nào có ngày giờ lên đường, anh lập tức báo cho em biết ngay.
    - Không cố gì hết, chắc chắn anh phải có mặt vào ngày mai. Ba bảo muốn gặp mặt tất cả mọi người.
    - Vâng, em yên trí.
    Nghĩa đặt điện thoại xuống rồi không lưỡng lự một giây, anh bấm số gọi đến sở làm nói chuyện với sếp, xin nghĩ phép mấy ngày. Câu chuyện ngắn ngủi chấm dứt sau vài phút rồi Nghĩa mở computer, lên mạng tìm chuyến bay đi gấp Cali. May quá, có chỗ stand-by đây rồi. Nghĩa lại nhắc phone gọi Dung báo ngày giờ anh đến phi trường cho nàng biết để ra đón.
    Trời Maryland mấy hôm nay mây mù ảm đạm, mưa bay lất phất, sắp vào tiết lạnh. Nghĩa xếp nhanh vài bộ quần áo và mấy món quà vào chiếc vali nhỏ kéo tay. Anh phân vân không biết có nên mặc áo khoác và đội mũ ấm không? Có khi để đầu trần và mặc sơ mi ngắn tay lại hóa hay, thích hợp hơn với trời Cali đang hanh nắng. Từ lâu vùng thung lũng hoa vàng vẫn luôn là nơi khí hậu ấm áp kia mà. Nghĩa tặc lưởi, bước lên xe mở máy. Trên đường ra phi trường Nghĩa băn khoăn tự hỏi: còn hai hôm nữa ba mới phải làm chemo, vậy sao hôm nay ba lại gọi mọi người về sớm để làm gì nhỉ? Nhưng cũng không sao, về trước vài hôm để ba được vui cũng tốt mà.

    1- Căn bệnh trầm kha của bố Nghĩa mấy năm nay vẫn là nổi lo sợ thường trực, ám ảnh gia đình. Ông Khải đã âm thầm chiến đấu vật vã với bệnh hoạn và thân xác ông mỗi ngày một thêm teo tóp. Tuy không nói ra nhưng ai cũng nghĩ thời gian không xa nữa rồi ông sẽ từ giã mọi người ra đi. Biết vậy nhưng anh em Nghĩa vẫn quyết không chịu bó tay đầu hàng số phận. Họ cố gắng chạy chữa hết sức mình để kéo dài chuỗi ngày sống còn của người bố thân yêu mà cả đời đã vì họ chấp nhận cô đơn vò võ, cực nhọc làm lụng hy sinh tất cả để nuôi các con ăn học thành tài, nên người.

    2- Ông Khải góa vợ từ ngày còn ở trong nước, lúc người con trai cả lên chín và cô gái út mới chập chững đến trường học lớp mẫu giáo. Ngày vợ ông mang bạo bệnh qua đời, hai con - Nghĩa và Diễm còn bé quá chưa kịp nhận biết nỗi đau cốt nhục phân ly. Ngoại và dì ôm hai cháu vào lòng nức nở. Cậu Ba lặng lẽ chui vào xó nhà, ngồi thổn thức không thành tiếng. Chỉ mỗi mình anh Trung là kêu gào khóc lóc đòi mẹ. Ba được tin báo, từ vùng hành quân vội vã trở về để kịp nhìn mặt và tiễn đưa người trăm năm về nơi an nghỉ cuối cùng. Sau đám tang, nhà buồn như nấm mồ. Ba âu sầu đau đớn, mặt mày còn đọng đầy dấu vết bàng hoàng ngơ ngác trước cái chết tức tưởi, đột ngột của vợ hiền. Ông ở nhà với các con đủ mười hôm phép rồi lại lên đường ra mặt trận.
    Niềm đau chưa nguôi thì những biến động dồn dập của thời cuộc không cho phép gia đình có thời gian để bi lụy. Nỗi âu lo hiện rõ trên khuôn mặt mọi người. Thành phố biển quê ngoại ngập tràn các sắc áo lính và dân từ các nơi chạy giặc đến. Mấy tháng qua ba vẫn biền biệt, chỉ gởi tin nhắn về bình an. Những đoàn quân xa chở súng đạn, chở lính chạy đi chạy về như mắc cửi. Ngoài khơi thấp thoáng bóng tàu Hải Quân lớn bé rải rác. Chưa bao giờ người dân ở đây sống căng thẳng đến như thế. Không khí chiến tranh hãi hùng dầu sôi lửa bỏng đang sùng sục trước mắt. Quân đội dàn trận khắp nơi, trên bộ dưới biển để chống kẻ thù xâm lăng phương Bắc đang lăm le tiến chiếm thủ đô Sài Gòn. Thế rồi vào một đêm tháng Tư, súng lớn súng nhỏ bỗng thi nhau nổ vang rền. Bầu trời chợt bừng sáng lên bởi những ánh hỏa châu treo lơ lửng và không gian Vũng Tàu bé nhỏ như bị đan dày những tấm lưới lửa. Cả nhà đang kinh hoàng thì Ba và một số quân nhân, nón sắt áo giáp lấm bụi đường xa, trên mình mang đầy súng đạn, đi trên mấy chiếc xe nhà binh lem luốc, bất ngờ xuất hiện. Họ đưa cả gia đình lên xe chở về hướng Bãi Sau. Nơi đây Nghĩa đã thấy có vài đứa bé trai gái cùng trang lứa. Ba tìm gặp mấy người sĩ quan Hải quân nói chuyện gì đó rồi quay lại với gia đình. Ông chỉ kịp trao túi lương thực và dặn dò cậu, dì lo cho ngoại với các cháu. Ba trầm tĩnh nói:
    - Mẹ và hai em yên tâm đưa các cháu lên tàu di tản trước. Con trở lại đơn vị và sẽ đi sau.
    Dặn rồi ông ôm ba con thơ vào lòng, âu yếm hôn từng đứa. Lát sau, ông lẳng lặng quay đi, dẫn đám lính bước lên xe về lại đơn vị, tiếp tục cuộc chiến đấu chống kẻ thù vừa tấn công vào thành phố, trước khi con tàu quay đầu chạy ra khơi. Cả nhà bật khóc. Ngoại kêu tên ba khản tiếng nhưng tất cả bị át đi bởi những âm động vang rền dữ dội của tiếng súng đại bác. Mọi người được các chú lính Hải Quân đưa hết xuống tàu. Một đêm kinh hoàng và hỗn loạn đau thương. Bình minh hôm sau tàu nhổ neo, trực chỉ hướng ra phía biển khơi.
    Gần tháng sau cả nhà mới gặp lại ba tại căn cứ Không quân Hoa Kỳ trên đảo Hawaii. Trông ba già sọm và trở nên biếng nói nhác cười, trầm tư tự bao giờ. Mọi người mừng vui không sao kể xiết. Ngoại chấp tay, cúi đầu tạ ơn trời. Chiến tranh vốn vô tình, đã có bao gia đình vĩnh viễn mất đi người thân khi sắp tàn cuộc.
    Sau đó chúng tôi được đưa đến Mỹ định cư với tư cách tỵ nạn chính trị. Thời gian kế tiếp là chuỗi năm tháng dài đăng đẳng đầy phiền muộn, buồn đau của những con người vừa đánh mất tổ quốc, phải sống lìa xa quê hương với mặc cảm thua cuộc dằn vặt và nỗi cô đơn chán chường trên mảnh đất tạm dung. Anh em Nghĩa thương nhớ mẹ hiền chỉ qua tấm di ảnh trên bàn thờ và biết về mẹ qua ký ức của ngoại và dì Út. Ngoài ra, trong mắt mấy đứa bé mồ côi, chỉ có duy nhất tình yêu thương của người cha với tất cả nỗi đằm thắm, ngọt ngào riêng dành cho chúng tôi.

    3- Người Việt ra đi tỵ nạn cộng sản mỗi ngày một đông. Cộng đồng ngày càng khởi sắc lớn mạnh. Lác đác đã có chuyện dạm hỏi cưới xin. Một hôm ngoại đi dự tiệc cưới của gia đình người quen, khi về nhà ngoại ôm chúng tôi vào lòng, vẻ mặt có chiều suy nghĩ lung lắm rồi chợt bà gọi ba đến, ngoại bảo:
    - Mấy đứa cháu còn bé quá mà tuổi đời của con cũng chưa hẳn đã già lắm, mẹ nghĩ là con nên tục huyền để có người giúp đỡ chăm lo các cháu.
    Một thoáng buồn bất chợt hiện ra trong khóe mắt ba nhưng tan biến thật mau. Giọng ông tỉnh queo:
    - Mẹ đừng lo. Các cháu đã có bà ngoại và dì Út chăm sóc chu đáo rồi, vả lại...
    Ngoại tằng hắng ngắt lời ba:
    - Thằng ba con út rồi cũng phải lấy vợ lấy chồng, ra sống riêng. Mẹ thì càng ngày càng già. Dẫu sao con cũng cần phải có một người đàn bà để đỡ đần, săn sóc cho cuộc đời của con nữa chứ.
    - Mẹ quên là con đã có một người rồi sao.
    Vừa nói ba vừa chỉ tay lên bàn thờ má. Ba đùa mà sao giọng ướt sũng nỗi xót đau nghẹn ngào, trong lúc ngoại cúi đầu quay đi để kịp dấu đôi dòng lệ thương cảm đứa con rể chung tình, sống đời đơn chiếc, chịu cảnh gà trống nuôi con hằng bao năm rồi.
    Ba không tu hành mà tự nguyện kìm giữ, tiết chế tối đa những quyến rũ sắc dục. Ông sống như một nhà tu đạo hạnh, tự khép mình vào khuôn khổ giới luật khắt khe. Ngoài thời gian làm việc hai job ở hãng, trở về nhà ba chỉ quanh quẩn bên các con, chăm sóc từng miếng ăn, bày biểu từng con toán, từng chữ đánh vần ý tứ, để đừng bao giờ đám con trẻ quên mất tiếng mẹ đẻ. Lớn dần lên trong vòng tay chăm chút giáo huấn của cha, các con biết thêm được sự thiêng liêng của tình yêu quê hương, thế nào là nỗi nhục mất nước lưu vong và đạo lý nghĩa nhân trong cõi đời mênh mang hận thù nầy. Ông sợ đến thế hệ các con sẽ phôi phai dần hết đi, nên ông dạy các con đạo làm người đừng bao giờ quên cội nguồn, tổ tông. Suốt mười mấy năm dài đăng đẳng trên xứ người, trong tâm hồn các con chỉ có độc nhất mỗi một hình ảnh cao quý của người cha, lặng lẽ mà ngọt ngào, âm thầm mà son sắc. Ông như cây phong, lá chuyển màu theo từng thời gian đổi thay, giống như mái tóc bạc trên đầu của ba, mà thân cây thì vẫn lừng lững thẳng đứng, giữ nguyên được cái cốt cách thanh cao, bền bỉ giữa phong ba bão giông cuộc đời. Anh em Nghĩa chưa hề bao giờ thấy ba than van nửa lời. Ông câm nín chịu đựng, chấp nhận số phận như một an bài định mệnh. Ba âm thầm sống như một chiếc bóng cô đơn. Thảng hoặc lắm, họ mới thấy ba và cậu ngồi nhâm nhi bên cốc rượu trong những ngày cúngl giỗ. Bửa nhậu ê hề những món ngon do tự tay ngoại và dì nấu ra nhưng bao giờ cũng lặng lẽ vắng tiếng nói cười, ngược lại có khi còn rưng rưng những giọt nước mắt bi thương buồn tủi. Hình như hai người đàn ông đang ngồi uống những giọt buồn quá khứ chứa đựng nhiều hồi tưởng xót xa hơn là thưởng thức rượu ngon. Men cay 75, họ chỉ nhấm nháp một lần mà cơn say kéo dài hằng mấy mươi năm vẫn còn làm họ váng vất, cơ hồ chưa tỉnh. Không biết trong cuộc đời trai trẻ của người chiến binh Việt Nam Cộng Hòa năm xưa đã có bao nhiêu lần ba ngồi như thế, tư lự một mình với những hồi ức dĩ vãng thâm trầm và day dứt? Dần theo với thời gian, hình ảnh cao cả mà lắng đọng đó đã từ lâu thâm nhập vào tâm thức của anh em Nghĩa, làm họ suy nghĩ băn khoăn không ít. Mãi nhiều năm tháng về sau nầy, khi đã trưởng thành, họ mới hiểu và cảm nhận được phần nào mối tâm tình sâu lắng và hoài niệm đau khổ thầm kín của người lính già phiền muộn.
    Ngày tháng lặng lẽ trôi qua, rồi cậu Ba có vợ dọn ra ở riêng và dì Út cũng đã đi theo chồng. Tiếp theo anh Trung tốt nghiệp đại học và có công việc làm ăn khấm khá ở thành phố Philadelphia tận miền Bắc. Năm kế, anh lập gia đình với người nữ đồng sự ở bên đó. Hai năm sau Nghĩa tốt nghiệp cử nhân kinh tế, được tuyển dụng và bổ nhiệm làm việc tại sở thuế tiểu bang Maryland. Ðến phiên Nghĩa phải rời xa mái ấm gia đình. Cảnh nhà vắng vẻ dần, chỉ còn chơ vơ lại bà ngoại, ba và bé út. Không nói ra nhưng ai cũng thấy buồn, tuy cậu và dì vẫn thường xuyên chạy đi chạy về, nhưng vẫn không thể nào giống được như xưa.

    4- Khắc kỷ và trầm tư đến thế mà ngay sau khi nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam cho phép người chạy đi nước ngoài được quyền trở về thăm quê hương, thì ba đã có mặt lập tức trong chuyến về đầu tiên, sau thời gian mười bốn năm lìa xa tổ quốc. Ba bảo với gia đình là ông đã mòn mỏi chờ đợi giờ phút đó từ lâu lắm rồi.
    Sau ngày trở qua lại Mỹ, tâm tình ba đã có nhiều
    chuyển biến lớn lao. Ông không còn ủ ê sầu muộn như trước nữa, mà trở nên vui vẻ khác thường. Chúng tôi nghĩ, có thể sau chuyến về thăm quê hương đã giúp ba hồi phục lại trạng thái tâm lý bất ổn, vơi bớt nỗi cô đơn đau buồn và vui sống trở lại. Chúng tôi nhìn ba với ánh mắt chan hòa niềm vui.
    Từ đó ông chịu khó để ý mua sắm nhiều thứ như quần áo, giày dép, đồ gia dụng thậm chí cả nước hoa, mỹ phẩm nữa kìa. Thỉnh thoảng còn gởi tiền về Việt Nam. Ba bắt đầu xài đến số tiền dành dụm để lo cho Dung khi vào đại học, có tiền chi trả các khoản phí tổn học hành, sách vở, xe cộ... tốn kém. Ðó là phần tài sản ba đã nhọc nhằn đổ mồ hôi, vất vả làm lụng hằng bao nhiêu năm mới tích lũy nên được. Chúng tôi tự hỏi ba đã gởi quà cho ai? Ba mồ côi từ tấm bé. Gia đình ngoại thì ở hết bên nầy rồi. Câu hỏi cứ lớn dần theo với thời gian mà việc làm của ba thì vẫn còn nằm trong bí mật. Ba cũng chưa hề có một lời giải thích, vì chủ quan tin rằng chưa ai biết được việc làm bí ẩn của ông. Tuy không dám nghi ngờ ba có tình riêng, nhưng quả thật chúng tôi không làm sao không suy nghĩ đến điều đó. Riêng ngoại, cậu và dì út thì sâu sắc hơn, họ nhìn ba với ánh mắt có chút hoài nghi thầm kín, nhưng ai cũng im lặng không chịu nói gì.
    Thế rồi đến năm sau ba lại chuẩn bị về Việt Nam chuyến nữa. Tất cả đã sẵn sàng thì thình lình ba ngã bệnh nặng. Một cái bướu nhỏ xuất hiện dưới hàm bên trái gây đau nhức và tăng trưởng rất mau. Ðến bệnh viện, sau khi rút ra một ít dịch thể và bệnh phẩm của bướu để làm xét nghiệm, các bác sĩ kết luận rằng đó là khối u ác tính, nghĩa là một cái bướu ung thư, cần phải hủy diệt gấp bằng phương pháp chemo therapy hiện đại để tránh lây lan qua các tế bào lành khác, đe dọa nguy hiểm đến tính mạng. Cách chữa trị nầy rất hiệu quả nếu sức khỏe bệnh nhân chịu đựng được các dược liệu, hóa chất cần thiết phải đưa vào cơ thể để tiêu diệt mầm ung thư.
    Không còn giải pháp nào khác, ba đành hoãn lại chuyến về VN. Ông đánh giá được tầm mức quan trọng tử sinh của phương pháp trị liệu mới mẻ nầy, do đó, trước khi vào bệnh viện để tiến hành điều trị, ba đã gọi các con về dặn dò mấy điều quan trọng. Ba lo xa, nhỡ không may có điều gì bất trắc xảy ra. Con người sinh hữu hạn tử vô kỳ, mấy ai biết trước được mệnh trời.

    5- Trong phòng khách ấm áp, cả nhà quây quần đông đủ. Ba mời bà ngoại và cậu, dì ngồi rồi xin phép bắt đầu câu chuyện với chúng tôi.
    Ba bảo rằng, sống đến tuổi nầy rồi ông không có điều gì để ân hận nếu không may phải xa lìa các con ra đi vì căn bệnh hiểm nghèo. Cuộc đời của ba đã cố gắng thực hiện những điều tốt đẹp có thể làm. Ðã nuôi dạy các con nên người, không xấu hổ với linh hồn của mẹ; Đã một đời tận tụy với tổ quốc dân tộc, không trái đạo lý làm trai thời loạn; Đã sống trọn vẹn thủy chung với bằng hữu và những người thân thuộc. Tất cả những gì ba làm, đã giúp ông tìm được sự thanh thản tâm hồn trong chuỗi ngày lưu vong xa quê hương và tìm được niềm an vui hạnh phúc bên các con đã trưởng thành. Duy chỉ còn một điều độc nhất ...
    Giọng ba bỗng chùng xuống, run run xót xa. Khuôn mặt người lính già lớn lên trên quê hương có chiều dài lịch sử với nhiều biến động thăng trầm, rất hiếm hoi tìm thấy chút thời gian riêng tư hạnh phúc, nhưng lại dư thừa nhọc nhằn cay đắng ly tan, chợt hằn sâu những vết nhăn dấu tích một thời mịt mùng lửa đạn. Ðôi mắt lờ đờ mệt mỏi của người bệnh hình như ứa ra chút ngấn lệ thương đau. Ba nghẹn ngào tiếp lời:
    - Năm xưa ba đã phát nguyện một lời hứa, hay đúng hơn là một lời thề với một người đã khuất, nhưng mãi đến hôm nay ba vẫn chưa thực hiện được cho gia đình họ một chút gì gọi là bù đắp tấm ân tình sâu nặng.
    Câu chuyện của người lính trận trong cuộc chiến chính nghĩa, bảo vệ mảnh đất tự do thân yêu và đồng bào miền Nam ruột thịt, đã đưa mọi người trở về quê hương của năm tháng tang tóc, rền vang tiếng bom đạn chiến tranh hận thù ...

    Chiếc trực thăng chở trả ra mặt trận vị sĩ quan trẻ, mang mảnh khăn tang cho người vợ hiền vừa mới qua đời. Anh tiếp tục ra đi chiến đấu, làm nhiệm vụ người trai thời loạn, gởi lại quê nhà ba đứa con còn bé dại. Thượng cấp và đồng đội ai cũng nhìn anh với ánh mắt thương cảm lẫn kính phục.
    Vị Lữ đoàn trưởng sau khi ân cần hỏi han và tỏ lời chia buồn với Khải xong, ông lập tức chỉ vào bản đồ, trình bày cặn kẻ tình hình khó khăn của tiểu đoàn Khải vấp phải mấy hôm nay, khi bị chạm địch trong một địa thế rất phức tạp, hiểm trở. Ông dặn dò anh phải hết sức thận trọng và thường xuyên liên lạc để kịp thời yểm trợ cho đơn vị được an toàn. Sau một hồi thảo luận, vị chỉ huy lữ đoàn khả kính thân ái tiễn chân Khải ra tận trực thăng về lại tiểu đoàn.
    ... Ðã một tuần lễ nay, chiến trường luôn căng thẳng và đẫm máu. Tiếng súng lớn nhỏ rền vang ngày đêm khắp trận địa như bất tận. Tiểu đoàn Khải lãnh nhiệm vụ hành quân tiếp ứng, cứu nguy một đơn vị bạn đang bị địch vây hãm nhiều ngày. Là một cấp chỉ huy tác chiến dày dạn kinh nghiệm trận mạc, Khải nhanh chóng nhận ra tiểu đoàn đang bị dồn vào một vị trí quá ư bất lợi. Thế núi dốc đứng từ trên cao tiếp giáp ngay với bờ sông chạy dài mấy cây số nằm phía dưới chân núi. Lòng sông tuy hẹp, thuận lợi cho việc tổ chức vượt sông nhưng phía bên kia là rừng lau sậy um tùm, nếu địch quân phục kích trên triền núi, thì chiến sĩ tiểu đoàn khi qua sông sẽ là những tấm bia thịt cho địch tập bắn và nguy hiểm hơn nữa là chờ khi đơn vị qua hết bên kia sông, địch tập trung đánh hỏa công, thì rừng lau sậy sẽ biến thành biển lửa thiêu sống đoàn quân thiện chiến. Nhìn địa thế quá ư hiểm ác, song không thể có sự chọn lựa nào khác hơn là phải tiến quân, chứ không thể nằm yên một chỗ chờ chết. Khải suy nghĩ rồi gọi tiểu đoàn phó và trưởng ban Ba đến hội ý. Chiều hôm đó, anh dùng kế nghi binh để lừa địch phán đoán sai về kế hoạch hành quân của mình. Khải tung hai đại đội áp dụng chiến thuật “dương Ðông kích Tây”. Một ÐÐ tiến về hướng chân núi, ra lệnh cho binh sĩ bắn súng và khua động ầm ĩ làm như sắp tấn công lên núi để thu hút sự quan sát của địch. Một ÐÐ khác âm thầm lục soát và im lìm nằm án ngữ an ninh bên nầy sông, để cánh quân B gồm hai ÐÐ còn lại do vị tiểu đoàn phó chỉ huy, bất ngờ tổ chức vượt sông khi trời mờ tối. May mắn thay kế hoạch thành công. Cánh B qua sông an toàn và binh sĩ lập tức được lệnh bung rộng ra, chia nhau kiểm soát được một vùng lau sậy rộng lớn, làm đầu cầu yểm trợ an toàn cho Bộ chỉ huy của Khải và cánh quân A sẽ vượt sông vào tảng sáng hôm sau.
    Suốt đêm hôm đó Khải nằm trằn trọc, lo lắng không làm sao ngũ được dù anh rất mệt. Ðêm tĩnh lặng chỉ có tiếng gió thổi, tiếng côn trùng nỉ non. Khải biết chung quanh đây có nhiều chiến sĩ và đông đúc địch quân rình rập. Nằm thao thức trên cánh võng mắc thật thấp sát mặt đất, kề bên hố cá nhân, anh nghe rõ tiếng thủy triều dâng nước cuồn cuộn, lòng thầm mong trời mau sáng. Cuộc đời những người chiến binh như các anh ví cho cùng cũng chẳng bằng được dòng sông nầy, bình an với hai con nước lớn, ròng cố định hàng ngày. Riêng với anh, số phần còn cay nghiệt hơn, cả hai vai gánh nặng, một của Tổ quốc và một của trách nhiệm làm cha. Khải thở dài. Phải chi người vợ hiền đừng đoản mệnh, còn sống để san sẻ cùng anh gánh nặng gia đình. Nhớ đến vợ, lòng Khải bỗng quặn thắt. Hình ảnh người đàn bà nhu mì, hiền thục như chập chờn ẩn hiện trước mắt anh mỗi lúc một rõ ràng hơn. Nàng đi đến đứng bên cánh võng, một tay lay gọi vai anh, một tay chỉ về hướng doi cát cạnh bờ sông, bảo anh mau thức giấc. Thấy vợ, Khải mừng rỡ chống tay ngồi dậy, nhưng thân thể anh như bại liệt bất động, không làm sao ngồi lên được. Anh thử cố gắng nhiều lần nhưng vô ích. Lát sau nàng nhìn anh, mặt buồn rười rượi rồi buông tay, thất thểu quay bước đi về hướng doi cát. Hình ảnh nàng mờ dần rồi tan biến trong màn sương đục của sông núi, cùng lúc có tiếng gọi thảng thốt “ông thầy, ông thầy” của người hiệu thính viên, vực Khải ra khỏi giấc mơ hoang tưởng. Khải ngồi bậy dậy, anh ngơ ngác nhìn quanh. Tứ bề vẫn yên tĩnh, cái im lặng rờn rợn trước cơn bão lửa sắp giáng xuống. Khải bần thần nhớ lại giấc mơ rồi tự hỏi: “mình đâu có ngũ mà bảo là nằm mơ”. Anh đưa mắt nhìn về phía bờ sông, hướng vợ anh vừa mới đi đến. Chiều hôm qua Khải đã lội dọc theo bờ sông để tìm địa điểm cho đơn vị vượt sông, nhưng có thấy doi cát nào đâu. Hay sắp xảy ra điều gì bất ổn nên vợ hiền mới hiện về báo mộng. Tự dưng bụng anh nóng cồn cào như có lửa đốt. Khải đứng dậy bảo người sĩ quan phụ tá gọi con cái của hai đại đội còn nằm lại án ngữ bên nầy sông, lợi dụng lúc trời còn tối chuẩn bị lên đường.
    5 giờ sáng, toán quân tiền phong gồm những chiến sĩ lội giỏi, trang bị nhẹ, bắt đầu xuống nước. Lòng sông hẹp khoảng 30 mét, mặt nước mờ hơi sương giăng phủ và may mắn nhất là thời điểm con nước đang rút dần, chỉ còn cao ngang thắt lưng. Ðợi toán quân mở đường kéo theo những sợi dây bắt ngang dòng sông, đã qua đến bờ bên kia an toàn, Ðại đội trưởng Hùng ra lệnh cho các trung đội tuần tự xuất phát vượt sông, rồi anh bước xuống nước cùng với Khải và Bộ Chỉ huy tiểu đoàn tiến lên. Trước lúc quay đi, Khải còn cẩn thận dặn vói lại đại đội sau cùng nằm đoạn hậu cho tiểu đoàn, phải nhanh chóng rút qua sông trước khi trời sáng hẳn.
    6 giờ sáng. Vầng đông vừa hừng chút ánh sáng le lói ở góc chân trời, Khải vừa cảm nhận ra cái lạnh buốt của nước sông thấm qua chiếc quần trận, thì bất ngờ hàng loạt tiếng nổ chát chúa của đạn AK, B40, thượng liên từ trên sườn núi dội lửa ầm ầm xuống lòng sông. Tiếng kêu la nháo nhác, hoảng loạn. Có ai đó vừa xô ngã Khải xuống, rồi nằm đè lên lưng che chắn cho anh, bên tai tiếng đạn réo rợn người. Hỏa lực địch tới tấp đổ bừa xuống cả một khúc sông dài. Chúng bắn hú họa nhưng cũng đã có một số chiến sĩ bị thương vong. Chợt như có một sức mạnh thần bí bỗng kéo Khải bật dậy, chạy ngược thật nhanh trở lên bờ và bất ngờ anh nhìn thấy một doi cát nhỏ nằm gồ lên vừa đủ che chở an toàn cho mọi người. Không kịp suy nghĩ về điều kỳ lạ, anh chụp máy gọi lữ đoàn xin máy bay yểm trợ và điều động chiến sĩ đơn vị phản công tiến chiếm sườn núi, trong lúc tiếng súng cối của cánh quân B bên kia bờ sông, đang tới tấp rót đạn xuống triền dốc, nơi địch quân ẩn núp. Ruột gan Khải như bị cấu xé khi nhìn thấy thuộc hạ kẻ chết người bị thương la liệt, đang kêu gào giãy giụa tuyệt vọng dưới nước, chỉ cách chổ Khải chừng 20 mét mà anh đành chịu bó tay không cứu giúp gì được. Ðại đội trưởng Hùng nằm đè lên trên, lấy thân che đạn cho Khải, bên mông trái bị một mảnh B40 phá nát, anh cố gắng lết lên bờ cát ướt. Khải hét lớn gọi Hùng:
    - Cố lên Hùng, cố lên. Có anh đến đây.
    Rồi bất chấp hiểm nguy, Khải liều lĩnh lao ra. Hai chiếc bóng rằn ri phóng liền theo sau, nhưng hàng tràng đạn nổ cày tung mặt đất khiến cả ba bật dội lại. Người sĩ quan ban Ba nắm cứng bâu áo Khải hét lớn:
    - Không được đâu thẩm quyền, đừng liều lĩnh.
    Khi Hùng cố gắng đứng lên, lại bị thêm một phát đạn thứ hai đẩy anh té sấp xuống mặt cát lần nữa, chiếc nón sắt văng ra nằm lăn lóc bên cạnh. Hùng chống tay cố ngồi dậy nhưng kiệt sức đành phải gục xuống. Rồi trong khoảng cách 20 mét, rất gần để có thể nhìn thấy rõ nét mặt Hùng tuy đau đớn nhưng rất trầm tĩnh, trầm tĩnh đến lạ thường. Anh ngồi nghiêng, một chân co một chân duỗi, tay trái ôm vết thương loang máu trên ngực, tay phải Hùng cầm cây Colt 45 đưa lên vẫy chào chiến hữu, đôi mắt anh rực sáng, khuôn cằm bỗng đanh lại cương quyết, rồi bất ngờ anh trở nòng súng thật nhanh vào thái dương và bóp cò. Giữa muôn ngàn tiếng nổ của các loại súng từ cả hai phía bạn và thù, mọi người vẫn nghe rõ mồn một tiếng súng đĩnh đạc, lẻ loi, tự kết liễu đời mình của Hùng. Nhiều tiếng kêu thảng thốt đau đớn bật ra từ cửa miệng những đồng đội đã tận mắt chứng kiến cái chết bi hùng của người đại đội trưởng anh dũng. Hùng biết mình bị thương nặng khó thể sống nỗi, nên quyết định tự sát để dành lại sinh mạng cho những đồng đội khác, có thể vì mạo hiểm cứu anh sẽ phải hy sinh oan uổng. Thân xác Hùng đổ nghiêng nằm bất động trên cát. Máu anh tuôn chảy thành dòng, hòa chung với máu của những chiến binh bất hạnh khác, quyện lẫn vào dòng nước trong xanh, tạo nên một màu đỏ thật đặc biệt. Màu của chiến tranh, hận thù, tang tóc và phân ly.
    Khải đau đớn gào lên, đập tay xuống mặt cát còn ướt lạnh sương đêm, rên xiết kêu trời. Nước mắt anh ứa ra tuôn thành dòng bi phẫn. Còn nỗi thống khổ nào hơn khi phải tận mắt chứng kiến cái chết của người chiến hữu thân yêu, đã hy sinh mạng sống để che chở cho mình được an lành. Nỗi đau đớn cùng cực cào xé tâm can, biến thành nỗi uất hận, bốc cháy hừng hực trong đôi mắt đỏ ngầu, rực lửa căm hờn, khiến Khải tê dại chết điếng, không khóc nỗi thành lời. Tất cả chỉ còn lại hận thù phải trả bằng máu. Anh giật combiné trên tay người hiệu thính, hối hả gọi Hỏa Long phải trút sấm sét tiêu diệt kẻ thù. Chưa đầy mười phút sau, một phi tuần AC.119 lượn tới bao vùng, khạc từng dây đạn lửa khủng khiếp như bò rống xuống đầu địch quân. Tiếp theo một chiếc F105 xuất hiện, thả ngay vào vị trí chỉ điểm một quả bom lửa Napal. Không gian như chao đảo sau tiếng nổ long trời lở đất. Khói lửa văng ra tứ tán, không khí bị đè nén ngột ngạt, sức nóng như thiêu cháy mọi thứ, tất cả cùng lúc đổ ập xuống sườn núi, hủy diệt đám người cuồng tín sinh Bắc tử Nam, chuyên đi gây họa chết chóc và gieo rắc tang thương đến với mọi nơi, mọi người.
    Kết thúc trận đánh. Khải chọn bộ đồ trận tốt nhất của mình, tự tay anh mặc cho Hùng và lau sạch các vết máu trên khuôn mặt phong trần vẫn còn phảng phất nét hào hoa, trước khi gói xác Hùng vào poncho. Lúc cột theo tấm thẻ bài, Khải lẩm bẩm trong miệng như tâm sự với một người em thân thích, không may vừa nằm xuống sau cuộc chơi sinh tử: “Hãy yên giấc đi Hùng. Mọi chuyện gia đình của em, ngày nào còn sống anh hứa sẽ gánh vác tất cả để đền ơn cứu mạng. Hùng ơi! hãy bình an ngủ yên giấc đi em.”
    Khi đoàn trực thăng vận chuyển thương binh và tử sĩ cất cánh, các quân nhân trong tiểu đoàn tự động cùng đứng nghiêm, đưa tay chào vĩnh biệt lần cuối. Khải ngậm ngùi dõi mắt nhìn theo những cánh chim sắt đang bay về phương Ðông, mang theo thân xác những chiến hữu thân yêu vừa trả xong nợ nước, trong đó có người sĩ quan trẻ tuổi đã anh dũng hy sinh cứu mạng Khải. Lòng anh buồn rười rượi, Khải như thấy có trách nhiệm đối với cái chết của người đại đội trưởng thuộc cấp. Ðứng giữa trời đất mông lung, Khải tâm nguyện lập một lời thề sắt son có núi sông chứng giám: “Nếu ngày nào còn sống trên cõi đời nầy, anh quyết tận sức tận tâm chu toàn lo cho đời sống của vợ con Hùng được hạnh phúc để đền ơn sâu cứu tử.”

    Ba đột nhiên ngừng lời. Ông trầm ngâm nhìn ra khoảng trời thu hẹp bên ngoài khung cửa sổ như để hoài niệm quá khứ đau thương. Bóng tối lan dần, che khuất vạt nắng chiều thoi thóp trên mấy ngọn cây phong. Từng đàn chim ríu rít gọi nhau sau vườn. Ðôi mắt ba mệt mỏi đau khổ, ông thở dài buồn bã rồi tâm sự:
    - Ba đã vĩnh biệt người ân nhân cứu mạng mình bên dòng sông định mệnh kể từ đó. Thế rồi cuộc chiến khốc liệt cứ cuốn hút bước chân người chiến sĩ, không có được một ngày phép rảng rang để ghé về thăm vợ con Hùng. Tuy nhiên trước khi Sài Gòn thất thủ, một lần may mắn duy nhất trên đường chuyển quân, ba đã cố gắng tạt qua nhà của Hùng, thắp cho chú nén nhang và tự nhắc lại lòng phải nhớ lời thề xưa, rồi trao vội món quà cho hai đứa con còn bé của Hùng, một trai một gái, ba vội vã lên đường để kịp theo chân đoàn quân ứng chiến ...
    Giọng ba khàn đục, chìm xuống mênh mang tựa như tiếng vọng về từ quá khứ. Ông nói với các con mà như tâm sự với chính mình:
    - Cứ những tưởng còn súng đạn trên tay, còn đầy đủ các chiến hữu bên cạnh, còn vùng đất điểm tựa cuối cùng của miền Tây phì nhiêu, sông rạch hiểm yếu chập chùng nối tiếp là còn khả năng tiếp tục chiến đấu, còn hy vọng có ngày trở lại thủ đô Sài Gòn. Ai ngờ... tất cả đều sụp đổ. Từ đó, lời thề ngày xưa cũng luân lạc theo vận nước nổi trôi, rơi rụng theo năm tháng truân chuyên của thân phận tha hương, kiếp đời vong quốc. Lòng ba mãi ray rức ân hận, cứ nghĩ rằng cuộc đời nầy chẳng bao giờ thực hiện được lời hứa năm xưa với người ân nhân nghĩa dũng bên dòng sông định mệnh. Thế nhưng một ngày, may mắn trời còn đoái thương cho ba có cơ hội trở về quê hương để bắt đầu thực hiện điều tâm nguyện.
    Rồi như đến lúc cần thiết phải vét cạn cả cõi lòng, dàn trải hết trăm mối tâm sự ngổn ngang, để các con có thể hiểu được tấm lòng cưu mang của đời mình:
    - Về Việt Nam ba đã dành hết thời gian, lặn lội nhiều ngày, hỏi han nhiều người mới tìm gặp được vợ con chú Hùng. Gia đình họ bây giờ cơ hàn lắm, sống chui rúc trong một căn phòng ổ chuột mãi tuốt trên tầng mười của khu chung cư cũ kỷ. Những món quà ba chắt chiu gởi về chỉ vỏn vẹn là chút phần thưởng nhỏ bé dành cho hai cháu học trò con nhà nghèo nhưng ngoan hiền, thực tế chưa giúp gì được nhiều cho đời sống họ. Cứ tưởng có thời gian thư thả, ba sẽ tìm cách cải thiện đời sống họ bớt phần cơ cực, nhất là với hai cháu, không những cho chúng học hành thành đạt trong nước mà còn có thể xuất dương du học nữa kìa. Nào ngờ ...
    Ba bỏ lửng câu nói. Vầng trán hằn sâu những nếp nhăn thời gian của con người cả đời lao đao lận đận. Giọng ông trầm xuống, thiết tha như phơi bày, dàn trải cả tấm lòng:
    - “Lực bất tòng tâm”. Ngày nay thân mang trọng bệnh, ba biết là không thể nào tiếp tục làm tròn lời hứa với người đã khuất, đó là điều tủi nhục, xấu hổ. Ba cho gọi các con về sớm trước ngày ba nhập viện, chính là để kể cho các con biết câu chuyện thương tâm nầy và khẩn khoản nhờ các con cố gắng giúp ba, tiếp tục thực hiện lời thề năm xưa nếu không may ba có mệnh hệ nào trong lần chửa trị nầy. Ba muốn lòng mình được thanh thản dầu sống hay chết, để mai nầy khi xuống suối vàng gặp lại đứa đàn em dũng cảm, nghĩa tình năm xưa, ba cũng không thấy có điều gì hổ thẹn.

    Phòng khách yên tĩnh như tờ, chỉ có âm thanh rì rầm đều đều của máy điều hòa và tiếng sụt sùi của ngoại, dì Út và Dung. Mọi người lặng lẽ cúi đầu trầm mặc xót xa trước câu chuyện quá đỗi bi thương. Thế mà bấy lâu nay họ lại đem lòng nghi kỵ việc làm đạo nghĩa của người lính già, trọn đời luôn xem trọng danh dự, lời hứa còn hơn cả của cải tiền bạc và sự an nguy bản thân mình. Sự thật ba không hề có tình riêng, ông vẫn một lòng chung thủy với người vợ hiền đã khuất. Thì ra trên cõi đời nầy chỉ có mỗi mình mẹ là hiểu rõ và tin tưởng ba nhất mực, nên dầu thân xác đã tan vữa thành cát bụi mà hồn mẹ vẫn còn vật vờ theo ba phù hộ, dẫn lối chỉ đường cho ông thoát họa tử vong trong đường tơ kẻ tóc.
    Cánh cửa căn phòng khách đang khép hờ bỗng mở toang, gió từ đâu lồng lộng ùa vào tưởng như có linh hồn mẹ phảng phất theo về, lẩn quất quanh đây.

    6- Anh em Nghĩa nhìn người cha thân yêu ngồi im lìm, bất động trên chiếc ghế sô-pha, như đang thiền định bình an giữa giang sơn của mình. Thân xác ông gầy gò ốm yếu, đôi mắt mỏi mệt ẩn giấu bên trong những điều thầm kín, đã không còn vẻ tinh anh của ngày xa xưa, khuôn mặt xương xẩu trầm tư như một chiếc bóng hiu hắt... tất cả đã điểm nhiều vết nhăn phong trần phôi pha của thời gian, nhưng vẫn không thể che lấp cốt cách lương chính của con người nhân hậu, thủy chung. Họ nhìn người cha như phảng phất hình ảnh một nhà hiền triết đạo đức, biết rõ cội nguồn đau khổ của nhân loại và muốn được cùng chia sẻ. Ông có tâm hồn quảng đại của nhà tu đạo trên con đường khai hóa, giải thoát và tiêu trừ nghiệp chướng, dẫn độ chúng sanh đến cõi hạnh phúc.
    Anh em Nghĩa bồi hồi xúc động nhìn sự hiện hữu héo mòn của cha. Qua câu chuyện kể của ông, họ thầm nghĩ: “Giữa cõi đời ô trọc nầy há dễ gì tìm được một tâm hồn cao quý giống như cha”. Chính vì thế họ thấy cần thiết phải có bổn phận tích cực giúp đỡ ông sớm thành toàn lời nguyện thề của một buổi sáng oan khiên bên dòng sông định mệnh năm nào trên quê hương cội nguồn./-

    TiênSha-LêLuyến
    Virginia, ngày Lập Ðông 2005

    (Xin đọc tiếp phần B - Nỗi lòng người lính già)

  • #2
    Dòng sông vĩnh biệt. phần B

    Dòng sông vĩnh biệt

    Trích lược Phần A: Người lính già Việt Nam Cộng Hòa kể lại nỗi đớn đau cuộc đời mình với lời thề son sắt trong một buổi sáng hành quân bên dòng sông định mệnh năm xưa. Kiếp đời lưu vong, thân mang trọng bệnh, không cho phép ông thực hiện trọn vẹn lời hứa cao quý với người chiến hữu nhân nghĩa đã vì mình hy sinh. Ông nhắn nhủ đàn con tiếp tục giúp ông toại nguyện.

    Phần B: Nỗi lòng người lính già.

    1- Cô gái tiếp thị:
    Ngày Nghĩa về Việt Nam, một người bạn cùng thời đại học lái xe ra phi cảng Tân Sơn Nhất đón bạn.
    Tùng và Nghĩa cùng tốt nghiệp ngành quản lý kinh tế với vị thứ khá cao. Tùng may mắn được một công ty Mỹ có hợp đồng khế ước làm ăn với Việt Nam tuyển dụng. Sau một thời gian làm việc trong nước Mỹ, anh được vị giám đốc tín nhiệm và đánh giá cao, nên khi công ty cần một người đại diện tại Việt Nam, Tùng được ưu tiên phân công đảm nhiệm.
    Học hành đỗ đạt, ra trường có việc làm hợp ý, lương hậu, được đãi ngộ, đường công danh rộng mở thênh thang, hoàn cảnh độc thân, được trở về làm việc trên quê hương của mình thì quả là một điều lý thú tuyệt vời, ai cũng ước ao nhưng dễ gì có mấy người được.
    Mừng gặp lại bạn, Tùng rủ Nghĩa đến một nhà hàng máy lạnh nhâm nhi ly bia với vài món đặc sản quê hương, để có thời gian hàn huyên tâm sự. Trái hẳn với ước đoán tốt đẹp của Nghĩa, Tùng rầu rĩ nói cho bạn nghe những khó khăn gặp phải do bởi lề thói hành chánh rườm rà, bệnh cửa quyền và nhất là khổ nạn tham ô, hối lộ, ăn cắp và phe đảng của chế độ hiện thời. Tùng bảo là anh không thể nào làm sai nguyên tắc, chịu luồn cúi, hạ thấp phẩm giá để công việc khỏi bị bế tắc, cản trở. Tùng không biết phải ăn nói làm sao để trình bày với cấp trên mà khỏi phải nêu ra những cái xấu xa thuộc về bản chất của người cộng sản Việt Nam. Anh kết luận:
    - Chỉ còn cách xin trở về lại Mỹ để công ty cử người Mỹ chính gốc sang thay thế. Có vậy mới hy vọng khai thông được công việc.
    Trên chiếc bàn phủ khăn trắng muốt, nhà hàng vừa dọn ra món bồ câu non hầm thuốc bắc, hạt sen thơm ngào ngạt và trông rất hấp dẫn. Hai người bạn chưa kịp nâng ly mời nhau thì vừa lúc đó một người đàn ông đẫy đà, mặc đồ lớn, bệ vệ ra dáng chủ nhân ông, từ trên lầu bước xuống đi đến bên bàn, vồn vã chào hỏi Tùng. Tùng giới thiệu ông ta là một sếp lớn nhà nước. Nghĩa nhìn thấy một cái nháy mắt kín đáo của bạn. Không đợi mời, người đàn ông tự động kéo ghế ngồi xuống và ngỏ ý muốn nhậu với hai người. Sếp nói:
    - Không có gì vô duyên bằng độc ẩm.
    Rồi đưa mắt nhìn món ăn trên bàn, ông tiếp:
    - Ở đây có món thỏ dồn nấm hấp rượu vang tuyệt cú mèo, nhưng phải uống với rượu ngoại mới đúng gôut.
    Rồi không đợi ý kiến chúng tôi, ông ta kênh kiệu ngoắc tay gọi quản lý nhà hàng đến bảo làm món thỏ và muốn có một chai rượu ngon để đãi khách quý. Người quản lý gọi ngay nhân viên tiếp thị rượu.
    Một cô gái trạc tuổi Dung, em Nghĩa, nhỏ nhắn nhu mì trong bộ đồng phục màu mạ non, giày bata xanh, hàng chữ trắng “White Wine” thêu nổi trước ngực áo. Chiếc mũ cùng màu đội lệnh trên đầu ôm gọn mái tóc đen nhánh, làm nổi bật làn nước da trắng muốt và khuôn mặt nhí nhảnh, tròn trịa dễ thương. Cô bày ra bàn mấy chai rượu và đứng chờ nghe ý kiến khách hàng.
    - Rượu gì mà trông giống như nước lã. Không có Courvoisier hay Hennessy à? Sếp cật vấn.
    Cô gái mỉm cười có đôi má lúm đồng tiền dễ thương, lễ phép thưa:
    - Dạ vâng. Rượu nầy vốn tinh khiết không có tạp chất, được ủ đúng thời gian và chưng cất cẩn thận với nhiệt độ thích hợp cần thiết, nên màu rượu trong vắt mà mùi thơm dịu dàng, uống rất đậm đà và ngon không thua kém gì các loại rượu ngoại. Xin mời quý vị dùng thử.
    Nghĩa lạ lùng nhìn cô gái trẻ chào hàng. Cái nghề tiếp thị bia rượu rất mới mẻ, chỉ bắt đầu được phổ biến từ sau thời kỳ bãi bỏ chế độ quản lý bao cấp để hội nhập vào định chế thị trường tự do, vẫn còn nhiều xa lạ đối với người Việt Nam mới về thăm quê hương lần đầu như Nghĩa. Khách vào quán nhậu thường gặp những cô gái trong bộ trang phục đồng màu xanh dương, xanh mạ non, vàng hay đỏ thắm, có biểu trưng (logo) thêu trên ngực, với chiếc váy ngắn cũn cỡn và chiếc áo hở nách hay chỉ có một nửa thân. Họ là nữ nhân viên của hàng chục, thậm chí lên đến hàng trăm hãng bia, đang thịnh hành khắp nơi trên thị trường ăn nhậu cả nước như: Heineiken, Tiger, Larue, San Miguel, SàiGòn đỏ, xanh, 333, Ðại Việt, Dung Quất ... hoặc các loại rượu như Wall Street, Làng Vân, Whisky, Cognac, Martell... Họ không được lãnh đồng lương cố định hoặc nếu có thì cũng là tượng trưng, thường chỉ được hưởng theo tỷ lệ phần trăm của sản phẩm mình bán ra; Phần còn lại đều nhờ vào tiền hoa hồng của khách hào phóng. Nếu có ai tò mò hỏi chuyện lương tiền, thì các cô cũng kín miệng như bưng, chỉ thẹn thùng thỏ thẻ: “Ít lắm, nói mắc cỡ”.
    Họ có thể là một số hiếm hoi các sinh viên, học sinh hay công nhân nghèo, vì hoàn cảnh phải đi làm công việc quảng cáo bán bia rượu để kiếm thêm tiền, mà cũng có thể là người ưa thích công việc nhàn hạ, vừa nhẹ nhàng lại vừa có thu nhập khá hơn công nhân; Một số khác đặc biệt hơn, thường lả lơi mời mọc khách đa tình, mồi chài mấy anh có máu trăng hoa để kiếm chút tiền boa kha khá, hay hẹn hò sau giờ nghỉ việc gặp gỡ nhau ở khách sạn, phòng trọ. Tựu trung, tính chất của công việc tiếp thị nầy đa diện phức tạp, lại rất nhạy cảm, tế nhị mỗi khi gặp phải những tay bợm nhậu đã bia rượu “sần sần” vào rồi nói năng thô tục, tay chân máy mó lung tung. Có ở trong nghề mới thấy được sự chịu đựng, nhẫn nhịn để kiếm đồng tiền lương thiện của người tiếp viên mỗi khi gặp phải khách trêu chọc sàm sỡ, dùng lời thanh hay tục cũng đành cắn răng cam chịu. Hôm nào may mắn thì bán được vài chai rượu, vài két bia, bằng ngược lại chỉ tốn nước bọt mà còn bị đùa cợt thô bỉ. Ðiều đáng ghi nhận là những cô gái tiếp thị nầy còn rất trẻ và nhiều tràn lan trong các nhà hàng, quán nhậu dày đặc trên khắp nẻo đường đất nước.
    Nghe cô gái giới thiệu lưu loát mặt hàng, khách cứ tưởng cô là một chuyên viên thiện nghệ nấu rượu. Cô nói với niềm tự tin và kiêu hãnh về giá trị những cái mình có; Như một sự thách thức, không hề nao núng của mặt hàng rượu nội phôi thai trước những anh già khổng lồ đắt giá như Martell, Hennessy, Brandy hay Whisky Scotch... đã nổi tiếng lẫy lừng từ lâu, đang hiện diện đầy đủ trên quầy rượu của nhà hàng.
    Lòng Nghĩa thấy nao nao xúc động. Anh muốn đưa tay đón lấy chai rượu cô gái chào mời, thì ông sếp đã vói ra lấy trước. Bàn tay con người quyền lực có những ngón chuối mắn no tròn đỏ ửng, mân mê săm soi chai rượu với chút diễu cợt. Ðôi mắt quen thuộc với màu hổ phách, mận chín, hồng đào của rượu ngoại, nhưng lại rất xa lạ với màu trắng như nước mắt của quê hương. Ðó là thói thường tình của lớp người ngu dốt mới học đòi làm trưởng giả, từ trên rừng sâu trở về sau 75. Họ kêu gào, hối thúc thậm chí cưỡng ép người dân xài mặt hàng nội địa, nhưng chính họ lại âm thầm xài toàn hàng ngoại, dầu là của Lào, Miên hay Tầu cũng mặc.
    Sếp cười ngả ngớn khi cô gái trẻ vừa lẩn tránh bàn tay ve vuốt thô bạo rồi vẫn kiên nhẫn đứng nghiêm trang chờ đợi. Cuối cùng sếp phán:
    - Tôi mua nhưng không phải vì rượu ngon mà vì đôi mắt phượng và má lúm đồng tiền của cô, cô em ạ.
    Tùng và Nghĩa thoáng thấy cái nhăn mặt của cô gái khi quay lưng bước đi. Hai anh cảm thấy nóng mặt, nổi gai ốc trước câu nói đểu cáng, thô bỉ của hạng người lớn tuổi thiếu đứng đắn đối với kẻ hậu bối trạc bằng con cháu. Ðó cũng là một khía cạnh phô trương, hợm hĩnh của những kẻ có lắm tiền, nhiều quyền lực trong tay nhưng lại phách lối, vô đạo đức. Chẳng trách gì Tùng chán nản định bỏ cuộc, muốn quay về làm lại con người trên xứ người.
    Tự dưng bữa ăn của hai người bạn học thân thiết đã nhiều năm mới gặp lại, bỗng trở thành nhạt nhẽo, nặng nề vô cùng.

    2- Bắt phong trần, phải phong trần (Kiều)
    Theo chỉ dẩn của ông Khải ghi rõ trong giấy, sáng hôm sau Nghĩa tìm đến khu chung cư nhếch nhác, cũ kỹ nằm trên đường Nguyễn thiện Thuật. Ðặt chân lên những bậc cầu thang xi măng xây hình trôn ốc không được sạch sẽ mấy dưới ánh sáng vàng ệch hắt hiu của vài bóng đèn tròn lẻ loi, Nghĩa phải vượt qua nhiều tầng lầu ồn ào đông đúc đàn bà và con nít, đi qua những hành lang tối tăm hầm hập hơi người và những căn phòng bé tí xíu như những chiếc hộp xếp chồng chất lên nhau cao ngất, anh mới đến được căn phòng muốn tìm. Mồ hôi thấm áo, tươm đầy trên trán, Nghĩa phải dừng lại nhiều lần để thở và nghỉ mệt trước khi gõ cửa.
    Một người đàn bà đứng tuổi có đôi mắt sâu, buồn mênh mang tiếp anh trong phòng khách chật hẹp, oi bức. Mới buổi sáng mà khoảng không gian nhỏ bé của căn chung cư đã ngột ngạt vô cùng. Nghĩa lễ phép đưa thư giới thiệu của ông Khải ở Mỹ gởi về. Nhìn thoáng qua lá thư, bà mời anh ngồi. Một chàng trai khoảng 19 tuổi đứng dậy lễ phép cúi chào anh. Ðợi Nghĩa ngồi xuống ghế, người đàn bà mới chậm rãi mở thư ra đọc. Lát sau, từ bên trong một cô gái trẻ bưng nước ra mời khách, gật đầu chào Nghĩa rồi bước lui ra, đứng bên cạnh chàng trai, đàng sau lưng người đàn bà.
    Thoáng nhìn cô gái, Nghĩa chợt giật mình nhưng anh vội trấn tĩnh lại ngay. Tình huống bất ngờ chưa bao giờ Nghĩa nghĩ đến, thế mà đang xảy ra. Ðối diện với anh là cô gái tiếp thị dễ thương, ăn nói dịu dàng, có cặp mắt phượng mơ và đôi má lúm đồng tiền duyên dáng mà Nghĩa mới gặp hồi hôm trong nhà hàng.
    Theo lời bố kể, chú Hùng có hai người con, đứa trai tên là Vũ sắp vào đại học và cô gái lớn tên là Trâm. Nghĩa không ngờ con gái vị ân nhân lại là người giới thiệu sản phẩm rượu, kiếm tiền huê hồng và là cô sinh viên sắp tốt nghiệp đại học. Tuy nhiên Nghĩa im lặng lờ đi, xem như vô tình không biết gì để cô gái được tự nhiên.
    Câu chuyện bố kể về lần hành quân được một người đồng đội cứu thoát chết vẫn còn in đậm trong đầu. Nghĩa kín đáo nhìn về phía chiếc tủ búp-phê duy nhất trong phòng, chổ dùng làm bàn thờ đặt di ảnh người quá cố. Gần đó có dựng hai chiếc xe đạp. Anh tò mò muốn nhìn thấy mặt người chiến binh anh hùng đã dũng cảm hy sinh thân mình để cứu cha anh, vị chỉ huy trực tiếp thoát khỏi cái chết trong đường tơ kẻ tóc. Ðợi người thiếu phụ đọc xong lá thư, Nghĩa đứng dậy lễ phép thưa với bà:
    - Bây giờ thì cô đã biết cháu là ai rồi, vậy cháu xin phép được thắp cho chú Hùng nén nhang.
    Khuôn mặt người đàn bà sau khi xem thư, lộ đầy vẻ xúc động không nói nên lời, bà chỉ khẻ gật đầu. Nghĩa bước đến bên chiếc tủ thờ cũ kỷ, phía sau bình cắm nhang nhỏ là tấm ảnh một người thanh niên oai phong trong bộ quân phục hoa rừng, đầu đội mũ bê rê đỏ, khuôn mặt đẹp trai, cương nghị và đôi mắt trầm tỉnh sáng quắt. Nghĩa thành kính đốt hương cắm lên bình. Lát sau anh trở lại chỗ ngồi và trình bày tóm lược câu chuyện:
    - Cách đây hai tháng, tình cờ bác sĩ phát hiện bố cháu có một khối u ác tính cần phải được chữa trị gấp trước khi biến thành ung thư bất trị. Tuy bố cháu rất nóng lòng trở về gặp cô và hai em để thành toàn lời hứa ngày xưa với chú Hùng trong giây phút chú lâm chung, nhưng rất tiếc, bệnh tình ông chuyển biến trầm trọng và thời gian điều trị có thể kéo dài vài năm mà chưa biết kết quả cuối cùng sẽ như thế nào. Do đó, anh em cháu được người kể cho nghe toàn bộ chi tiết câu chuyện và phải hứa giúp ông tiếp tục thực hiện những dự tính còn dang dở. Và đó là lý do cháu đã có mặt ở đây ngày hôm nay.
    Khuôn mặt người thiếu phụ thoáng u buồn xa xăm nhưng giọng nói thì dịu dàng, trầm tĩnh:
    - Thời gian vừa qua tuy ngắn nhưng cô đã hiểu bố cháu là người có tấm lòng và trọng nghĩa tình. Vậy mà không ngờ, mới đây ông lại mang trọng bệnh. Câu chuyện ngày xưa cô đã có lần nói với ông, tất cả chỉ là định mệnh. Tử sinh có số, phúc họa có phần, không thể trách cứ ai được. Do đó, bố cháu cũng đừng nên băn khoăn thái quá, trước mắt là phải lo tập trung chữa bệnh. Cho cô gởi lời thăm và chúc ông mau bình phục.
    Rồi như để xua đi bầu không khí nặng nề buồn bã vì câu chuyện quá khứ, người đàn bà ân cần hỏi Nghĩa:
    - Cháu về từ lúc nào và hiện giờ ở đâu?
    - Thưa, cháu về sáng hôm qua và đang nghĩ tạm ở một khách sạn gần đây.
    Người đàn bà đưa ánh mắt ảm đạm nhìn qua khung cửa kính ố vàng lem luốc, nhẹ thở dài:
    - Nhà cô chật chội quá, mùa nầy lại thêm nóng nực ghê gớm nên không tiện mời cháu nghĩ lại. Cháu thông cảm nhé.
    Nhìn vẻ băn khoăn tội nghiệp của người quả phụ, Nghĩa nói ngay để trấn an bà:
    - Dạ thưa cô đừng lo. Cháu chỉ ở tạm mươi hôm lo giải quyết xong công việc là phải trở về lại Mỹ ngay. Duy có điều ...
    Một thoáng ngập ngừng rồi Nghĩa nhìn mọi người mạnh dạn tiếp lời:
    - Bố cháu có gởi về một ít quà và tiền biếu cô và hai em, cháu còn để ở khách sạn. Lát nữa nhờ em trai cùng đi chơi với cháu đến đó mang về.
    Người đàn bà hiền lành nhẹ gật đầu.
    Rời căn phòng, Nghĩa theo chân Vũ. Nhìn chàng thanh niên vai vác chiếc xe đạp thở hào hển, khuôn mặt trẻ măng khả ái đẫm đầy mồ hôi, nhẫn nại vượt qua nhiều cầu thang tầng lầu trong khu chung cư mới xuống đến được mặt đường lộ, lòng Nghĩa thấy thương xót quá. Anh bất chợt liên tưởng đến cô gái yếu đuối cũng phải thực hiện cùng một động tác đó để mang xe xuống đường, Nghĩa chợt nghe lòng mình xót xa vô hạn. Trong đầu anh thoáng có quyết định, tuy không nói ra nhưng phải tìm cách chủ động thực hiện cho bằng được.
    - Chúng ta kiếm cái gì ăn uống cho vui. Hôm nay em có bận chuyện gì không? Nghĩa nói.
    Vũ thật thà trả lời:
    - Mới có kết quả thi tuyển vào đại học, em còn rảnh được vài tuần để chuẩn bị khai giảng nhưng hàng ngày phải giúp mẹ làm thêm bánh đem bỏ các tiệm ăn.
    Nghĩa nhìn Vũ với ánh mắt đầy thiện cảm và thương mến. Vào quán sau khi ăn xong, lúc ngồi nhâm nhi tách càfé, Nghĩa lựa lời nói với Vũ:
    - Về Việt Nam lần nầy, anh có vài công việc cần thiết phải làm, do vậy muốn sắm một chiếc xe máy để tiện chủ động đi đây đi đó. Vũ quen thuộc đường sá ở đây, vậy giúp anh chuyện nầy nhé.
    Vũ nhanh nhẩu gật đầu.
    Buổi trưa. Sau khi mang quà trở lại nhà cô Hùng, Nghĩa xin phép cho Vũ cùng đi dạo phố Sài Gòn với anh. Cô gật đầu, cẩn thận căn dặn:
    - Cháu đừng mua sắm gì thêm tốn tiền. Ba cháu gởi cho cả va ly quà, tha hồ mà dùng.
    Chiều hôm đó Nghĩa và Vũ trở về nhà với một chiếc xe máy mới toanh. Người đàn bà nhìn đứa con trai với ánh mắt nghiêm khắc và tỏ ý không hài lòng. Tuy nhiên sau khi được Nghĩa giải thích cặn kẽ, vẻ mặt cô mới dịu lại, nhưng cô im lặng, hẳn trong lòng vẫn còn vương vấn chút hoài nghi.

    Buổi chiều Trâm rời nhà đi làm tiếp thị.
    Nhìn cô gái vất vả dắt chiếc xe đạp xuống cầu thang, Nghĩa không cầm được lòng. Suy nghĩ thật nhanh, Nghĩa quyết định giúp Trâm. Anh chạy theo, thật thà bày tỏ ý định muốn giúp cô đưa xe xuống đường. Nhìn ánh mắt thiết tha như khẩn cầu, Trâm thấy lòng xúc động. Mang được xe xuống đến tầng trệt, người Nghĩa vã đầy mồ hôi, chân tay muốn rã rời, nhưng anh vẫn cố gắng nói với cô gái:
    - Xin Trâm hãy xem tôi như một người anh trong gia đình. Tôi thấy lòng mình như có trách nhiệm thôi thúc. Có nhiều việc cần thiết phải làm, phải bàn thảo với Trâm và Vũ trước khi về lại Mỹ. Ðược vậy, tôi mới yên tâm mà cũng không phụ lòng tin ủy thác của ba tôi.
    Trâm nhìn người thanh niên mới quen để đo lường mức độ thành thật. Cô cân nhắc rồi nhẹ nói:
    - Em thường xuyên có mặt ở nhà hàng từ sáu giờ chiều đến nửa đêm. Nếu có chuyện gì cần thiết, anh có thể đến đó gặp... nhưng chỉ chốc lát thôi nhé, vì em còn phải làm việc.
    Nghĩa gật đầu. Anh dõi mắt nhìn theo người con gái trong bộ đồng phục màu mạ non có in logo, thương hiệu của hãng. Dáng cô mảnh mai, loáng thoáng ẩn hiện trong ánh nắng chiều chói chang rồi hòa nhập vào dòng xe cộ xuôi ngược đông đúc, với những tiếng còi inh ỏi như bất tận của thành phố, nơi một thời từng là thủ đô nổi tiếng của chính phủ tự do miền Nam.
    Tối hôm đó Nghĩa gọi điện nói chuyện với bố để ông được yên lòng chửa bệnh. Sau đó, chuyển qua đường dây ba chiều để nói chuyện riêng với anh Trung và Dung. Nghĩa kể sơ lược về hoàn cảnh kinh tế gia đình, công việc học hành, làm ăn và những nhận xét khách quan về ba con người, có cuộc sống tuy nghèo nàn nhưng thanh bạch và nhiều tự trọng nầy. Nghĩa bảo rằng họ cam lòng chịu cực khổ trong căn phòng chật hẹp oi bức như một chiếc hộp, cũng như họ chấp nhận cuộc sống nhọc nhằn thiếu thốn một cách an phận. Ðáng lẽ ra họ phải được thụ hưởng hạnh phúc, nhưng nhìn cuộc sống nghèo nàn vất vả của ba mẹ con, mà cứ tưởng như họ đang đùa cợt trên chính những bẩn thỉu gai góc của cuộc đời và ngay cả trên số phận hẩm hiu của mình. Nhân nghĩa thường tình của thế gian lý ra phải đầy ắp lòng yêu thương độ lượng, thì ngược lại đã xử sự thật bất công và dung túng bao điều đau xót từ bên ngoài xã hội dồn dập ập đến với họ. Chuyện cuộc đời của những kẻ lương thiện, giàu tình người xem sao mà bi thảm quá. Nghĩa tận mắt chứng kiến và anh không làm sao có thể yên lòng được. Do đó Nghĩa đã đề nghị ba anh em sẽ đồng tâm hợp lực cố gắng giải thoát, tháo bỏ cái gai góc bất hạnh của họ, để bù đắp phần nhỏ nào so với sự hy sinh to lớn của chú Hùng, đồng thời thực hiện thành toàn ước mơ cao quý, chính đáng mà người cha kính yêu của họ vẫn hắng ấp ủ. Trung và Dung bằng lòng.
    Tối hôm sau Nghĩa tìm đến nhà hàng gặp Trâm. Anh khẩn khoản nói:
    - Thời gian cấp bách quá khiến tôi có hành động hơi đường đột, xin Trâm thứ lỗi. Vũ bảo là cô có thể xin phép được nghĩ sớm. Tôi có chuyện quan trọng cần bàn bạc với hai chị em cô, vậy mong cô thông cảm và cố gắng gặp nhau một lần nhé.
    Nhìn ánh mắt khẩn khoản, giọng nói nài nỉ thiết tha, Trâm nghĩ rằng mình khó lòng từ chối lời đề nghị của anh chàng nầy. Thôi thì cứ thử một phen xem anh ta muốn mè nheo hay âm mưu gì đây. Cuộc sống có quá nhiều dối trá lừa lọc khiến người ta phải đề phòng, phải đến với nhau bằng khuôn mặt giả tạo. Vì an toàn và tự vệ, cô gái cũng không có cách gì khác hơn. Trâm hỏi lại:
    - Anh bảo có cả Vũ, vậy nó ở đâu rồi?
    Nghĩa chỉ tay về phía nhà hàng cách đó vài ngã tư đường. Anh vui mừng nói:
    - Tôi và Vũ chờ cô ở trên lầu nhé.
    Hai mươi phút sau Trâm đến. Vẫn chiếc mũ xanh đội lệch trên đầu, ôm gọn mái tóc, khuôn mặt trái xoan xinh xắn và chiếc áo mỏng khoát bên ngoài, Trâm ngồi xuống cạnh Vũ, đối diện Nghĩa và bắt đầu khai chiến:
    - Thế nào ông Việt kiều, có chuyện gì cần thiết mà phải gọi gấp chị em tôi đến nơi chốn sang trọng nầy.
    Mặc cho ánh mắt trêu chọc và lời nói cợt đùa của cô gái, Nghĩa nghiêm trang mở lời:
    - Tôi không biết phải bắt đầu từ đâu để nói cho chị em cô hiểu rõ về câu chuyện của thế hệ người xưa cách đây mười mấy năm về trước ...
    Có cái gì đó như tiếng thở dài ray rứt đàng sau câu nói của người thanh niên:
    - Chỉ có thể cắt nghĩa ngắn gọn là người chết thì đã chết rồi, mà người sống thì vẫn luôn bị dằn vặt, đau khổ bởi mặc cảm trốn chạy, không thực hiện được lời đã hứa. Phải nói như thế nào để mẹ con cô có thể biết được nỗi lòng ray rức của bố tôi. Có cái gì đó vẫn âm ỉ, nhức nhối thường xuyên trong cuộc đời người lính già mang nặng nghĩa tình, âm thầm lớn dần theo tháng ngày lặng lờ trôi qua trên xứ người. Chuyện phiền muộn tưởng đâu đã nguôi ngoai mờ nhạt từ lâu rồi, thế mà vẫn là nỗi đau trăn trở luôn hiển hiện bấy lâu nay trong lòng ông.
    Nghĩa nhìn ra khoảng không gian mở rộng ngoài trời đêm lồng lộng, giọng anh trĩu buồn:
    - Cái quá khứ đau thương ám ảnh suốt cuộc đời bố tôi, như những cơn ác mộng thường xuyên xuất hiện hành hạ. Nó lẽo đẽo theo ông thâm nhập vào đời sống và cả trong giấc ngủ hiếm hoi của người già. Tất cả những hệ lụy đó, có phải chăng chính là nguyên nhân sâu xa của căn bệnh hiểm nghèo mà hôm nay bố tôi bị mắc phải? Do vậy, tôi cảm nhận lần nầy về VN lo công việc của ông đã mang một ý nghĩa quan trọng tử sinh. Nếu không thành công, có nghĩa là bố tôi sẽ phải chết dần chết mòn trong nỗi ân hận, đau khổ dày vò khôn nguôi của một con người bội tín, bất nghĩa.
    Khuôn mặt chàng thanh niên đầy xúc động, phong thái chững chạc, lời nói chân thành, cử chỉ đứng đắn khiến cô gái thay đổi ngay thái độ, không còn dám bỡn cợt. Trâm dịu dàng nói với Nghĩa:
    - Anh có bi thảm hóa sự việc trở thành nghiêm trọng quá không? Câu chuyện ngày xưa đã an bài từ lâu rồi, sao lại bắt tội bắt tình bác Khải phải sầu khổ đến thế. Bác đã làm gì có lỗi đâu?
    Nghĩa nhìn sâu vào ánh mắt hồ nghi của cô gái rồi nhẹ lắc đầu. Anh nghĩ, lẽ ra lứa tuổi của Trâm phải vô tư ngây thơ như một đứa trẻ, thế mà bây giờ cô lại già dặn trong từng câu nói như một người từng trải. Phải chăng cuộc sống và xã hội đã dạy nàng sớm trưởng thành? Anh giải thích cho Trâm hiểu rõ:
    - Không đâu cô. Ðành rằng đời sống con người bắt buộc phải có những đổi thay. Thời gian rồi sẽ xoa dịu, làm lành tất cả mọi vết thương đau và, phải như mọi người đều bị chi phối theo định luật bất di bất dịch đó thì chắc cũng chẳng có gì để nói. Thế nhưng riêng với bố tôi, người không được may mắn như vậy. Ông phải đánh đổi cả cuộc đời mình và bằng vào một nghị lực phi thường mới có thể khắc chế được căn bệnh hiểm nghèo, để có thể tiếp tục duy trì mạng sống mà thực hiện cho bằng được những ước mơ ông hằng nuôi dưỡng. Thế mà không ngờ, căn bệnh đột biến phát triển theo chiều hướng xấu khiến ông phải bỏ cuộc dở dang. Còn mẹ con cô thì vì lòng tự trọng không chịu ...
    Nghĩa thở dài, bỏ lửng câu nói. Thương cha già bệnh tật nan y khiến anh xúc động nghẹn lời.
    Ðêm về khuya nhà hàng thưa khách dần. Tiếng ồn ào từ ngoài đường vọng vào xuyên qua lớp kính giảm thanh chỉ còn nghe như xa xăm, mơ hồ. Không khí phòng ăn điều hòa mát mẻ, ba mái đầu xanh tuổi trẻ chụm vào, thảo luận gay cấn. Họ tuy có đời sống khác nhau về xã hội, môi trường và văn hóa nhưng lại cùng chung một cội nguồn dân tộc, một lịch sử và được sinh ra đồng thế hệ, nên dễ cảm nhận nhau hơn; Từ đó họ thông cảm, gần gũi và khoan hòa hơn trước những trăn trở, khó khăn của con người, nhất là họ cùng có cái nhìn thấu đáo về một cuộc chiến tranh, mà không thể có cách gì biện minh khác hơn là một động cơ giết người tàn ác và hủy diệt quê hương ghê gớm. Lớp tuổi trẻ hôm nay nhờ có sự hiểu biết hơn, nên họ phải là những người tiên phong giúp đỡ hàn gắn, vá víu lại những vết thương hậu chiến, trong đó có cả cuộc đời của chính họ, của một bà mẹ góa bụa từ khi còn rất trẻ và của một chiến binh Cộng hòa bao năm trời kéo lê kiếp sống sầu đau, thấp thỏm chờ đợi ngày nhìn thấy vết thương lòng mình lành lặn, dẫu rằng ngày đó có thể ông chỉ cảm nhận được rất ngắn ngủi trong vài khoảnh khắc.
    Bằng vào một trí tuệ trong sáng, lời nói chân thành thiết tha, đầy sức thuyết phục và những đạo lý làm người mà anh em Nghĩa đã được bố dày công giáo dục, rèn luyện, đã khiến hai chị em Trâm lặng người trước tâm hồn cao quý của chàng trai. Cảnh điêu tàn của chiến tranh và nỗi điêu linh của người dân Việt, tuy được Nghĩa phác họa đơn giản nhưng cũng đủ để những con người đã từng là nạn nhân của cuộc chiến và thù hận, may mắn còn sống sót, nay có thể cùng nhau chia sẻ, cảm thông.
    Giữa biển đời mênh mông với muôn nghìn chính tà, chân giả, thiện ác lẫn lộn trong một xã hội dối trá lừa lọc, Trâm vẫn nhìn ra được nét đẹp nhân bản thanh khiết không hề bị mất nơi con người tuổi trẻ còn quá nhiều xa lạ nầy. Trước lời nói thấu tình đạt lý của Nghĩa, cuối cùng chị em Trâm đã chấp thuận đề nghị của anh. Cô gái hứa sẽ cố gắng thuyết phục mẹ dẹp bỏ tự ti mặc cảm, để cùng nhau hướng về viễn ảnh một giấc mơ chung của tương lai tốt đẹp, sáng lạn cho lớp người trẻ như Trâm, như Vũ hôm nay.

    3- Căn nhà tình nghĩa.
    Một ngôi nhà trệt nho nhỏ biệt lập, có những tiện nghi tối thiểu cần thiết cho đời sống con người vốn là niềm ước ao từ lâu của mẹ con Trâm.
    - Cảnh đời bấn chật, cố giật gấu vá vai mà cuộc sống vẫn thiếu trước hụt sau, đến nỗi Trâm phải vừa đi học vừa làm thêm nghề tiếp thị phức tạp nhiều tai tiếng, mới có đủ tiền thuê nhà hàng tháng, thì làm gì còn dám suy nghĩ viển vông đến chuyện xe cộ, nhà cửa. Cứ tưởng tượng đến những tiếng huyên náo ầm ĩ suốt ngày đêm, từ tháng nầy qua năm khác và cái nóng hầm hập oi bức ngột ngạt của căn hộ, nhất là...
    Cô Hùng nghẹn ngào bỏ dở câu nói. Một lát sau, cố đè nén cô tiếp lời, giọng ướt sũng nước mắt:
    - Phải chứng kiến cảnh con cái hàng ngày vật lộn với chiếc xe đạp, cực nhọc lên xuống hàng mười tầng thang lầu tối tăm cao ngất là lòng cô đòi đoạn như kim châm muối xát.
    Có tiếng thở dài não nuột tiếp sau câu nói:
    - Nhưng phận nghèo đành phải cam chịu. Cô hằng ước ao nếu có tiền, việc đầu tiên phải làm là đi tìm mua ngay một căn nhà riêng để ở, dẫu là trong hẻm trong hóc cũng đỡ cho hai em cảnh nhọc nhằn vác xe lên xuống cầu thang và thoát khỏi cái không khí ồn ào lộn xộn, nóng bức kinh hoàng của chung cư.
    Giọng cô thoáng trở nên mơ màng. Cô nói mà như tâm sự với chính cuộc đời mình:
    - Ngày xưa lúc yêu chú Hùng, khi quyết định lấy
    chồng là lính chiến thì cô đã sẵn sàng chấp nhận hết mọi bất trắc, bất hạnh chia ly có thể xảy đến với đời mình, cũng giống như mẹ cháu hay một người đàn bà nào khác cùng thời, cùng cảnh. Tuy nhiên, cô chưa hề bao giờ nghĩ đến cảnh cô đơn giữa bão giông cuộc đời sau 75, phải cam chịu sống đau khổ trong nỗi dằn vặt bất công, thiếu thốn tứ bề với hai đứa con còn thơ dại.
    Giọng cô Hùng chợt ráo hoảnh. Niềm đau sâu lắng của người đàn bà góa bụa đã gánh chịu quá nhiều nghịch cảnh đau thương, khiến lòng bà trở nên trơ lạnh chai đá, không khóc nỗi thành lời. Tất cả tưởng chừng dửng dưng vô hồn.
    - Nhưng rồi theo với thời gian phôi phai đã làm nguôi ngoai dần, cân bằng lại tất cả mọi suy nghĩ, để con người thấy rằng vẫn cần phải sống, phải tồn tại để phát triển và nuôi dưỡng thế hệ mai sau nên người. Ðó là quy luật và trách nhiệm của người sinh ra trước.
    Lời cô Hùng chợt trở nên bâng khuâng:
    - Rồi hôm nay niềm ước mơ bỗng dưng hóa thành sự thật một cách quá ư bất ngờ, bảo làm sao cô không khỏi bàng hoàng, sửng sốt và cân nhắc để có thể dễ dàng tiếp nhận được sự giúp đỡ to lớn của bố con cháu. Người xưa có câu: “Vô công bất thọ lộc”, cô làm sao dám quên lời giáo huấn nghiêm cẩn đó.
    Người đàn bà nhìn Nghĩa, rồi giọng nói trở lại bình thản như để kết thúc câu chuyện:
    - Cháu có dịp về thăm quê hương cứ vui chơi cho thỏa thích, đừng nặng lòng bận bịu với câu chuyện dĩ vảng làm gì, giống như bố cháu. Cháu cứ xem cô và hai em là những người thân trong đại gia đình quân đội của chú Hùng và bố cháu ngày xưa là tốt lắm rồi.
    Lắng nghe lời tâm tình chân thành, cảm động của người quả phụ luôn xem trọng danh dự, giúp Nghĩa mạnh dạn trình bày ra suy nghĩ của mình. Anh đắn đo cân nhắc, lựa lời nói khéo để cô Hùng hiểu được tấm lòng thiết tha của bố con anh:
    - Cháu rất xúc động trước nỗi bất hạnh và gian nan của gia đình cô phải gánh chịu trong nhiều năm qua. Cháu nghĩ, giá như chú Hùng đừng bị định mệnh cướp đoạt mạng sống một cách tàn nhẫn và vội vã lúc tuổi đời đang xuân, thì gia đình cô sẽ không phải chịu thiệt thòi như vậy và hai em cũng không mất đi chuỗi ngày thơ mộng hoa niên. Dĩ nhiên như cô nói, tất cả đều đã được an bài, nhưng người sống thì cần phải có tình cảm và đạo lý, không cho phép vì thế mà suy nghĩ trở thành đơn giản, hời hợt một cách vô trách nhiệm được.
    Nghĩa dừng lại một chút để lời anh nói thấm sâu vào lòng ba con người đối diện, rồi giọng Nghĩa chợt nghiêm lại, dứt khoát:
    - Huống gì đối với bố cháu là người phải chứng kiến bi kịch éo le của gia đình cô mà oái oăm thay, chính ông lại là nguyên nhân gây ra, chẳng khác chi là thủ phạm. Do vậy ông luôn luôn bị mặc cảm tội lỗi theo đuổi ám ảnh suốt đời.
    Cô Hùng và chị em Trâm sửng sốt mở tròn mắt nhìn người thanh niên đã tôn trọng sự thật, không ngần ngại dám phát biểu thẳng thắn những lời cương trực để nói rõ, nói hết nỗi lòng bi thương thầm kín của một người cha đau khổ. Mãi một lát sau giọng Nghĩa mới trầm xuống nhẹ nhàng như lời thủ thỉ tâm tình:
    - Cháu cám ơn những lời cô đã bảo ban. Xã hội hôm nay vì cuộc sống nên đã nhẫn tâm cướp hết đi nụ cười, niềm tin và sinh lực con người như trường hợp của bố cháu hoặc của cô chẳng hạn, do vậy, cháu tha thiết xin cô cho bố cháu một cơ hội để tẩy rửa những ám ảnh mặc cảm khủng khiếp đó. Việc làm của ông chẳng qua cũng giống như lời cô nói, chỉ là chút tình thể hiện mối thâm giao huynh đệ chi binh, san sẻ gánh nặng cho nhau như đã san sẻ nỗi gian khổ, nguy khốn tử sinh của một thời gồng gánh trách nhiệm núi sông trên vai. Ngày đó họ sống vì an nguy Tổ quốc Dân tộc, vì danh dự trách nhiệm, còn hôm nay ...
    Nghĩa nhìn vợ con chú Hùng đang chìm đắm trong cơn xúc động, giọng anh hồn hậu:
    - So sánh việc làm nhỏ nhoi của ba cháu để bù đắp phần nào cho gia đình cô chú, thật ra thì có đáng gì đâu đối với nghĩa lớn của người xưa, từng xem của cải vật chất như bọt bèo phù du. Giúp đỡ gia đình cô chú chính là giúp bố cháu tìm thấy lại được những giây phút bình an tâm hồn và sự hạnh phúc thanh thản của tuổi già trong đoạn cuối cuộc đời lưu vong, mất nước…
    Căn phòng im lặng như tờ. Không biết đến bao lâu sau mới có tiếng thở dài thật nhẹ của người góa phụ coi trọng đạo nghĩa, xem nhẹ tiền tài:
    - Thôi thì đành vậy. Cô thật không biết đã làm bố cháu đau lòng và cô cũng không còn có thể nói lời gì hơn, chỉ xin cúi đầu cám ơn bố cháu và các cháu đã có lòng thương tưởng đến hoàn cảnh mẹ con cô.
    Nghĩa và chị em Trâm không đè nén được niềm vui òa vỡ, họ cùng reo lên mừng rỡ.

    4- Những bất ngờ thích thú.
    Tùng về Mỹ công tác có ghé qua thăm bệnh tình ba Nghĩa. Ngày trở lại Việt Nam, anh trao cho bạn lá thư và gói quà của ông Khải và Dung gởi cô Hùng.
    Vài hôm sau Nghĩa gọi phone mời Tùng đi uống càfé để hỏi rõ thêm chuyện gia đình của mình. Xong việc, lúc ngồi nhâm nhi ly càfé, Tùng chợt nhớ ra và kể cho Nghĩa nghe một tin vui, lạ. Anh nói:
    - Chiều hôm qua công ty mình vừa tuyển thêm nhân viên mới. Bạn có nhớ cô bé tiếp thị hôm đầu tiên chúng mình tình cờ gặp lão sếp lớn nhà nước không?
    Nghĩa gật gù im lặng. Tùng chép miệng, vừa nói tiếp như là bình phẩm:
    - Chà! có ai ngờ cô bé xinh đẹp làm nghề tiếp thị bất đắc dĩ lại là một sinh viên sắp tốt nghiệp cử nhân Anh văn. Cô được công ty chấp thuận vào làm việc sau một loạt bài test và interview khó khăn. Sáng thứ hai đến, cô bé sẽ bắt đầu nhận việc tại chổ tôi làm trưởng phòng.
    Nghe bạn nói, lập tức Nghĩa đã đoán ra và hiểu ngay là ai. Anh mừng thầm. Thế là đỡ cho Trâm phải đi làm tiếp thị - một nghề đi sớm về muộn, dễ bị xúc phạm mà lại ít tiền, lắm khi còn chịu nhiều lời đắng cay.

    Chia tay Tùng, Nghĩa đi thẳng đến nhà cô Hùng. Hôm nay thứ bảy nhưng mẹ con cô vẫn bận rộn với công việc làm bánh như thường nhật. Ngôi nhà mới quét sửa trông sáng sủa và xinh xắn. Cuộc sống vốn dĩ nghèo nàn nên hành trang của ba mẹ con cũng thật khiêm tốn, đạm bạc. Ngoài hai chiếc xe đạp ra chỉ còn lại ít quần áo xoong nồi chén bát cũ kỷ. Ðáng kể nhất có lẻ là chiếc tủ thờ, bộ bàn ghế cũ và ba cái giường lò xo của Mỹ sắm trước 75 còn sót lại. Do đó, khi dọn nhà chỉ cần một chuyến xe kéo là xong tất cả. Tuy vậy ba mẹ con cô Hùng xem ra rất vui mừng khi thoát được cảnh sống náo nhiệt, nhọc nhằn của khu chung cư ổ chuột.
    Nghĩa trao thơ, quà cho cô Hùng rồi anh tự nhiên xăn tay áo xáp vào, giúp Vũ nhào bột làm bánh. Ðây là khâu nặng nhọc nhất dành cho cánh đàn ông. Nghĩa nói:
    - Một người bạn học ghé thăm gia đình cháu ở Mỹ vừa trở lại Việt Nam, ba và em cháu có gởi thư thăm và biếu cô một ít quà cho vui.
    Cô Hùng hôm nay trông vui vẻ, ánh mắt trìu mến nhìn mọi người. Cô dễ dãi gật đầu nói cám ơn. Rồi thấy Nghĩa cứ liếc mắt nhìn Trâm tủm tỉm cười hoài, làm cô ngạc nhiên phải mở lời thăm dò:
    - Nghĩa hôm nay chắc cũng có tin vui của bạn gái ở Mỹ gởi qua nên có vẻ phấn khởi lắm hả?
    Nghĩa lém lỉnh nhìn Trâm, cười nói bí mật:
    - Dạ không có đâu cô. Chẳng qua cháu vui vì hy vọng chiều nay mình được đi ăn khao cô ạ.
    - Ai khao? Mà khao cái gì vậy? Cô hỏi lại.
    - Cái đó thì phải hỏi người có chuyện vui.
    Lặng đi một phút. Cô gái thông minh chợt hiểu ra, cô phá lên cười nhìn Nghĩa kêu to:
    - A! anh nầy sao hay quá ta. Tại sao lại biết em vừa mới trúng tuyển vào làm việc cho một công ty Mỹ?
    - Ðừng đánh trống lảng. Chỉ cần nói cho biết là chiều nay có chịu đãi gia đình đi ăn nhà hàng hay không thì bảo?
    - Em chưa có tiền, vậy xin khất lại kỳ lương đầu tháng sau, được không?
    Trâm năn nỉ. Nghĩa lắc đầu nguây nguẩy:
    - Ai có thời gian rảnh đâu mà chờ mãi đến tháng sau mới được ăn. Người ta đây sắp trở về Mỹ rồi mà.
    Câu nói vô tình của chàng trai khiến không khí đang vui bỗng chùng xuống im lặng, khuôn mặt mọi người hiện vẻ buồn bã. Nghĩa cũng vừa nhận ra điều sơ ý tai hại của mình. Anh gãi đầu gãi tai, xuýt xoa nói vớt:
    - Ờ, ờ! nếu Trâm chưa sẵn tiền thì để cả nhà mời em trước, gọi là chúc mừng cho người may mắn.
    Ba mẹ con cô Hùng nhìn chàng thanh niên chỉ mới cách đây mươi ngày còn là một người xa lạ, thế mà nay bỗng trở thành, không những như người thân mà còn là ân nhân của gia đình, vậy bảo sao lúc chia tay không buồn cho được. Giọng bùi ngùi, cô Hùng nói với Nghĩa:
    - Cháu vội về Mỹ thật sao? Thế mà cô nghĩ cháu còn ở chơi lưng nửa tháng nữa kịp đến ngày kỵ cơm chú Hùng, tiện thể cô cúng đất đai nhà mới luôn một lần.
    Nghĩa nhẹ lắc đầu, trả lời thành thật:
    - Không nán được cô ạ, công việc bề bộn đang chờ cháu ở bên đó. Cháu cần phải về đúng ngày.
    Mọi người thất vọng, không khí lắng đọng nặng nề. Một lát sau Vũ đưa ra sáng kiến:
    - Vậy tại sao má không cúng ba sớm một tuần khi còn anh Nghĩa ở đây. Ðến đúng ngày kỵ chính, chúng ta sắm nhang đèn hoa quả thắp hương lại cho bố.
    Cô Hùng suy nghĩ nhanh rồi dứt khoát:
    - Thôi quyết định làm theo lời Vũ đề nghị.
    Mẹ con Trâm muốn tổ chức một bữa tiệc thật long trọng để vừa kỵ cơm chú Hùng, vừa cúng đất đai nhà mới, vừa mừng Trâm có việc làm như ý và Vũ được vào đại học, đồng thời cũng để tạm biệt chàng thanh niên hiếu thảo, giàu lòng nhân nghĩa.
    Trước ngày giỗ một hôm, cả nhà thuê xe lên chùa viếng chú. Nghĩa cũng có mặt. Anh muốn thắp một nén nhang tưởng niệm trước mộ phần người đã có ân sâu với bố con anh, theo một ý nghĩa tâm linh nào đó. Trên đường đi cô nói cho Nghĩa biết, trước đây chú nằm trong Nghĩa Trang Quân Ðội, nhưng sau 75 những kẻ chiến thắng đã phá hủy và cấm đoán thăm viếng nên nghĩa trang dần dần trở thành một nơi hoang vắng lạnh lẽo, ít người lai vãng, không còn là một chốn để người sống gắn bó, hồi tưởng. Cô đã phải chạy vạy tốn kém lắm mới được cải tang, rồi gởi hài cốt chú vào nằm trong phần đất của chùa.
    Nghĩa thở dài. Cuộc chiến của những người Cộng Sản thật quá ư tàn ác, bạo ngược. Họ say sưa chiến thắng đến nỗi bất chấp đạo lý nhân tình, cạn tàu ráo máng với cả những địch thủ khi họ đã nằm xuống, trở thành cát bụi. Quả là một chiến thắng bẩn thỉu, vô đạo và man rợ.
    Khi trở về nhà, Nghĩa kín đáo bỏ vào phong bì biếu cô Hùng một số tiền để lo chi phí cho lễ tiệc, nhưng cô nhất định không lấy. Cô bảo đã nhận của bố con Nghĩa quá nhiều rồi, nên không được phép nhận thêm. Thời buổi nầy mua cho mẹ con cô một căn nhà tốn hàng chục cây vàng, không phải là việc mà ai cũng có thể làm được. Nghĩa lại nói, vậy xin cô nhận để góp thêm vào sắm cho hai em chiếc xe máy, tiện dụng việc đi học đi làm và sử dụng lúc cần thiết, chứ thời buổi nầy mà còn xài xe đạp thì chậm chạp quá. Cô Hùng lại lắc đầu bảo mặc thiên hạ, cứ đi tạm xe đạp, chuyện xe máy thư thả rồi hãy tính sau. Hiện nay đã an tâm về chổ ở nhưng còn phải lo cái ăn cái mặc hàng ngày cho ổn, rồi còn dành dụm phòng khi cơ nhỡ, trái gió trở trời nữa chứ. Nghe cô nói, Nghĩa đành lắc đầu quay ra.
    Trước khi đi chợ, cô Hùng còn dặn Nghĩa, ngày mai cháu có bạn bè nào cứ mời đến dự cho vui.

    Cô lo bửa kỵ cơm chú Hùng thật chu đáo, có đầy đủ nhang đèn, hoa quả, chè xôi, các loại thịt cá… Gần đúng ngọ cô bảo hai chị em Trâm thay đồ sạch sẽ ra quỳ trước bàn thờ, rồi cô đốt nhang sụt sùi khấn vái. Nghĩa cũng xin phép cô được quỳ dưới di ảnh của vị ân nhân đã cứu sống cha mình. Cô khấn:
    - Hôm nay ngày giỗ của anh, em và hai con sửa soạn mâm cơm nhớ ngày âm dương đoạn tuyệt. Hồn anh sống khôn thác thiêng xin hãy nương theo mây ngàn gió núi, trở về ngôi nhà mới của bố con anh Khải vì nhớ ơn cứu tử năm xưa của anh, đã giúp đỡ mua cho mẹ con em có chỗ dung thân yên ổn. Ơn trọng nghĩa dày nầy xin anh hãy ghi nhớ mà phù hộ cho ảnh thoát qua căn bệnh hiểm nghèo, cho mẹ con em được mạnh khỏe và hai con học hành sớm nên người, cho anh em Nghĩa là những thanh niên nhân đức chí tình gặp nhiều hạnh phúc.
    Vái rồi ba mẹ con cung kính quỳ lạy. Trâm, Vũ tuy lớn lên sau 75, trong giai đoạn đạo đức xã hội suy đồi, tình người nhạt như nước lã nhưng hai em vẫn được mẹ quan tâm dạy dỗ đầy đủ lễ nghi phép tắc, lý lẻ đạo hiếu như là phần gốc rễ của giềng mối khuôn phép, kỷ cương tôn kính đối với tổ tiên sinh thành, với người bố nửa chừng lìa bỏ vợ con, bỏ đồng đội, thênh thênh nhẹ bước ra đi thành người thiên cổ, để lại bao tiếc thương nhung nhớ cho gia đình và tổ quốc.
    Buổi trưa sau khi cúng xong, một số bà con họ hàng thân thuộc kéo đến chung vui và chúc mừng gia đình cô Hùng có được căn nhà riêng và Trâm có công việc làm ổn định, lương tiền hậu hĩ.
    Buổi chiều, có vài bạn nam nữ của Trâm, Vũ đến tham dự. Riêng Nghĩa chỉ mời một người khách duy nhất, đó là Tùng. Gặp mặt bất ngờ, Trâm và Tùng tròn mắt nhìn nhau bỡ ngỡ trong tiếng cười khoái trá của Nghĩa. Ðến lúc đó cô Hùng mới biết Tùng chính là sếp của Trâm. Khi ngồi vào bàn tiệc, lựa lúc vắng người, Tùng bạo dạn nói nhỏ: “Hôm nay tôi muốn là người được uống rượu của cô bé tiếp thị có đôi mắt mơ màng và đôi má lúm đồng tiền xinh đẹp, cô Trâm ạ.” Trâm đỏ bừng mặt, e thẹn quay đi với nụ cười lảng tránh nhưng thích thú. Bỗng dưng cô thấy lòng mình rung động, xao xuyến một cách kỳ dị.
    Hôm sau Tùng lái xe đưa Nghĩa và gia đình cô Hùng ra phi trường. Chia tay lần nầy, mọi người đều bịn rịn tuy chỉ mới biết nhau trong thời gian ngắn ngủi. Riêng với Nghĩa anh thấy lòng mình nhẹ nhõm thơ thới, như một người lính trận vừa vượt qua vùng lửa đạn bất trắc gian khổ để hoàn thành nhiệm vụ khó khăn của cấp chỉ huy giao phó, nhất là, anh đã chu toàn bổn phận làm con đối với cha già như một nghĩa cử báo hiếu. Nghĩa tâm sự với cô Hùng:
    - Mấy hôm nay sức khỏe ba cháu khả quan lắm. Có lẻ ông sung sướng vì được biết gia đình cô vui vẻ. Ông còn nói muốn bảo lảnh cả gia đình cô qua Mỹ để lo cho hai em học hành thành tài nữa kìa.
    Quay sang Vũ, Nghĩa bắt tay và nói:
    - Với Vũ, vào đại học rồi cần phải cố gắng nhiều hơn nữa. Hôm nay mừng em, anh tặng chiếc xe máy mới mua hôm trước làm quà. Anh đã nhờ Tùng sang tên chủ quyền cho em rồi.
    Một giây sững sờ rồi Vũ bật reo lên thích thú mừng rỡ, trong lúc cô Hùng xúc động bồi hồi, rưng rưng nước mắt trước sự lo toan chu đáo và tế nhị của Nghĩa. Cô lặng lẽ nhìn người thanh niên, cái nhìn đằm thắm sâu xa bao hàm trọn vẹn ý nghĩa, thay cho trăm ngàn lời cảm ơn chân thành đối với người tuổi trẻ.
    Nghĩa quay qua chào Trâm và Tùng, hai người đang đứng nói chuyện riêng gần đó. Nghĩa thoáng thấy nụ cười tươi như đóa hoa hàm tiếu và ánh mắt ngời sáng long lanh tình yêu của cô gái vừa hé mở cửa lòng như quấn quít, vây bọc lấy Tùng. Anh ngầm hiểu được ý nghĩa của ánh mắt đó và tủm tỉm cười một mình khi bước vào khu cách ly, với suy nghĩ ngộ nghĩnh vừa lóe lên trong đầu. Nghĩa lẩm bẩm: “Biết đâu chừng.”

    5- Phần Kết
    Một năm sau ...
    Với người Mỹ, mùa lễ Giáng Sinh là ngày sum họp gia đình, cũng giống như ngày tết âm lịch cổ truyền của Việt Nam. Một ngày mang ý nghĩa thiêng liêng của mọi người đối với tổ tiên ông bà cha mẹ, mà cũng là dịp hội ngộ của anh em bà con thân thuộc trong gia tộc và một năm chỉ duy nhất có được một lần.
    Như thông lệ hàng năm, anh em Nghĩa rủ nhau về Cali nắng ấm, vừa để trốn cái buốt lạnh của mùa đông tuyết giá, đồng thời để thăm viếng và tổ chức lễ mừng ông Khải vừa qua khỏi căn bệnh hiểm nghèo. Năm nay gia đình có thêm niềm vui mới nhờ tiếng nói bập bẹ của đứa bé trai, con đầu lòng anh chị Trung. Nhưng phải nói niềm vui bất ngờ nhất chính là cú điện thoại viễn liên từ Việt Nam gọi sang của mẹ con cô Hùng.
    Sau lời thăm hỏi và chúc mừng ông Khải, cô Hùng thông báo chính thức với mọi người, lễ đính hôn của Tùng và Trâm sẽ tiến hành vào dịp tết Nguyên Ðán sắp đến. Kế đó, Tùng sẽ lo xúc tiến thủ tục bảo lãnh cho Trâm sang Mỹ theo diện fiancée (hôn thê). Phần còn lại là việc của Trâm khi đã ở trên đất Mỹ, tiếp tục lo bảo lãnh cho mẹ và em trai.
    Niềm vui chợt òa vỡ, mọi người cùng vỗ tay reo mừng, nhưng tiếng reo to nhất có lẻ là của ông Khải. Ông cười rung cả hàm râu bạc, cười đến ràn rụa nước mắt nước mũi. Nhìn hình ảnh người cha già, cả gia đình đều ngầm hiểu rằng có lẻ chính ông là người hạnh phúc nhất khi nhận được tin con gái của bạn mình có chồng và sắp được qua Mỹ.
    Mười lăm năm đằng đẵng, mười lăm năm chờ đợi dằng dặc, thời gian thật quá đỗi dài đối với những cuộc đời lưu vong lạc loài, bệnh tật như ông Khải. Một phần tư đời người mỏi mòn chờ đợi, ước mơ của ông đến bây giờ mới thật sự đơm bông kết trái.
    Bên ngoài, trời đêm thung lũng hoa vàng cũng vừa rộ vang tiếng pháo. Tiếng nổ mừng vui chào đón một mùa Giáng sinh và một năm mới an lành, khác với những tràng súng trận ghê rợn, những tiếng đại pháo thịnh nộ, gieo rắc chết chóc, tai ương kinh hoàng của chiến trận năm xưa. Thành phố bỗng bừng sáng với những chùm pháo thăng thiên như những bông hoa nhất loạt cùng nở rộ, sáng rực cả bầu trời; Không như những ánh hỏa châu lạnh lẽo, chập chờn ma quái, soi rọi từng bước đi hung hiểm của tử thần đã một thời gây ra biết bao tang tóc cho dân tộc, trên quê hương Việt Nam.
    Ông Khải bồi hồi nhớ lại từng khoảnh khắc gian nan, từng khuôn mặt phờ phạc thân yêu của những anh em đồng đội đã cùng ông xông pha lằn tên mũi đạn khắp vùng trận mạc, đã cận kề tử sinh, chia bùi sẻ ngọt suốt bao năm tháng chiến tranh. Ông không biết hiện giờ ai còn, ai mất? Nhưng chắc chắn người mất thì nhiều lắm, mà người còn thì thân xác cũng bị tật nguyền, bệnh hoạn, chẳng mấy ai lành lặn, khoẻ mạnh. Họ đang sống đày đọa ở quê hương hay cũng như ông, lưu lạc khắp chân trời góc bể, nơi đâu cũng có thể dừng lại sống, lập nghiệp, nhưng chẳng nơi đâu là tổ quốc quê hương của mình. Họ nương náu dung thân như một kẻ lạc loài.
    Vang vọng trong tâm thức người lính già là những hoài niệm của một cuộc đời, hào hùng cũng nhiều mà bi thảm cũng không ít. Ông Khải âm thầm thương nhớ và trân trọng với những kỷ niệm vui buồn của ngày xưa, như là một thứ tài sản hồi môn quý giá mà cả đời ông đã chắt chiu dành dụm, đùm bọc giữ gìn, thủy chung trước sau cho mãi đến hôm nay. Phảng phất trong cõi xa xăm mịt mùng, ông Khải hình như nghe thấy vọng về âm vang tiếng nói cười vô tư và nhân dáng mờ ảo của những chàng lính trẻ phong sương, kiêu dũng. Họ như vừa bước ra từ trong đám bụi thời gian quá khứ dày đặc của nhiều thế hệ với vô số biến động thăng trầm lịch sử, lần tìm về với đồng đội chiến hữu, với ông. Những cánh tay thân ái hẳn vẫn còn lưu luyến nhân gian, cứ vươn dài ra như ôm choàng lấy ông vỗ về, ve vuốt. Họ như đang cùng ông Khải - một người của hiện tại và một của quá khứ, một sống một chết, một của thế giới hữu hình và một ở cõi vĩnh hằng... như ôm quyện lấy nhau trong niềm thương yêu, quý mến vô bờ. Ông Khải đè nén cảm xúc, cố gắng nhìn kỹ từng khuôn mặt và sung sướng làm sao khi ông nhận ra lẫn lộn trong đám người, có nhân dáng phong trần khả ái của người sĩ quan anh hùng, đã dũng cảm đương đầu với nguy hiểm, xem nhẹ tử sinh, đem thân đỡ đạn cứu ông thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, vào một buổi sáng tinh mơ bên dòng sông định mệnh quê hương. Ánh mắt Hùng đằm thắm nhìn ông rồi anh rập chân đứng nghiêm, đưa tay lên ngang mày, chào kính người sĩ quan chỉ huy khí tiết, đã giữ tròn lời hứa thủy chung, hết lòng tận tụy lo cho vợ con anh.
    Thoảng trong thinh không nghe như văng vẳng có âm vang những lời thơ bi tráng: “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”./-

    TiênSha - LêLuyến
    Virginia – Halloween 2006
    Last edited by chieutim; 05-08-2020, 03:31 PM.

    Comment



    Hội Quán Phi Dũng ©
    Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




    website hit counter

    Working...
    X