Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Đoạn Trường - Chu Kim Long

Collapse
X

Đoạn Trường - Chu Kim Long

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Đoạn Trường - Chu Kim Long

    Đoạn Trường

    Chu Kim Long


    Trong buổi họp tổ tối đầu tuần, Tổ trưởng Lợi đã yêu cầu tôi sáng mai đi lãnh cuốc sẻng cho tất cả anh em trước 7 giờ sáng. Căn nhà kho chứa dụng cụ nằm bên phải nhà vệ binh, đối diện với nhà kỷ luật và nhà các quản giáo Út Trọn, Tư Nhạc, bên kia đường – hai người quản giáo mới nhận đội C5 từ tay quản giáo Út Chót, y là một gã nham hiểm với mạng lưới ăngten và cò mồi. Quản giáo Tư Nhạc đã lớn tuổi, tóc hoa râm, còn viên Thiếu úy Út Trọn ít tuổi hơn, thường xầm xì với quản giáo Tư Nhạc những điều bất mãn nhóm tham mưu đang điều hành trại ở sân bóng chuyền C5D3 – cả hai thường xuống đánh bóng chuyền với Đoàn Thăng Long, Quách Long, Vũ Trọng Ấn.....Trân, Điệu, Đỗ Như Kim và tôi. Hai người cư xử, ăn nói tương đối phóng khoáng, dễ chịu hơn các quản giáo các C khác cùng trại. C5 mà V H H làm đội trưởng trước đây thuộc quyền quản giáo Út Chót, nơi ăn ngủ và làm việc cận kề ban chỉ huy trại. C5 vừa được chuyển giao lại cho quản giáo Tư Nhạc và Út Trọn khoảng vài ba tháng, hai quản giáo Tư Nhạc và Út Trọn làm việc và ăn ngủ ở những gian nhà cuối trại, gần nhà kỷ luật.
    Khi tôi vừa tới nhà kho thì anh Hoàng Qúy đang mở cửa lấy cuốc sẻng cho mấy anh em bên nhà kỷ luật. Thấy tôi tới, anh ghé tai nói nhỏ : Cậu phải cẩn thận đấy, nói Trần Thọ Trường mai mốt đi lao động nhớ đi ngang nhà kỷ luật. Anh Hoàng Qúy thuộc C1, bị nhốt ở nhà kỷ luật đã gần một năm vì bản nhạc anh sáng tác khi còn ở trại tù Kà Tum – Đồng Pan, bản nhạc tiếc thương anh Hiểu đã được anh em tù chuyền tay nhau hát ở trại tù Kà Tum – ngày còn ở trại Kà Tum, anh Hiểu sang đội bên cạnh thăm người bạn vừa được gia đình thăm nuôi, bị bắn chết bên cạnh hàng rào cây que ngăn cách giữa hai đội, anh bị bắn lúc đã giơ hai tay lên trời, sau khi vệ binh kêu anh đứng lại – cái chết thương tâm đầu tiên xảy ra khi anh em mới chuyển trại tới Kà Tum được vài tháng làm cả trại bàng hoàng. Cùng ở nhà kỷ luật với anh Hoàng Quý còn có Chương và bố Thọ – hai người trốn trại bị bắt lại – người sĩ quan già phòng 7 vẫn được anh em trong tổ 2 C5 gọi là bố Thọ, vì nể trọng tính nết và tuổi già với mái tóc bạc phơ của ông. Ngoài anh Hoàng Qúy, Chương và bố Thọ, ở nhà kỷ luật cũng còn có Trương Kỉnh Thành thuộc tổ 2 C5, người bị Tổ trưởng tổ 2 VMN và Đội trưởng C5 V H H báo cáo là đã không lên án bố Thọ trốn trại, mà còn phát ngôn bừa bãi khi tố họp để lên án những người trốn trại - theo lệnh của quản giáo, Thành bị bắt đem đi giam ngay buổi chiều, lúc đội vừa đi lao động về – viên quản giáo kêu V H H tập họp đội ở sân bóng chuyền, đọc lệnh kỷ luật, và Trương Kỉnh Thành bị trói dẫn đi. Hai người tù : Trương Kỉnh Thành và bố già Thọ đều bị nhốt kỷ luật khi V H H làm đội trưởng C5 chúng tôi, và thời gian đó đội còn trực thuộc quản giáo Út Chót, còn anh Hoàng Qúy và Chương thuộc đội 1, tức C1 của Kh, đội trưởng Kh cũng được các quản giáo tín nhiệm như V H H. Căn nhà kỷ luật nằm dưới gốc cây rừng già cuối trại, cạnh con đường mòn mà những người tù chúng tôi vẫn đi qua để vào các khu rừng lao động mỗi ngày, một vài anh em thường quẳng những gói qùa nhỏ trên bãi cỏ cạnh nhà kỷ luật cho các anh đang bị giam, vì các anh bị cấm thăm nuôi và số ngày bị giam kỷ luật thì không ấn định. Nhà kỷ luật do Tư Nhạc và Út Trọn điều hành – cả hai là cán bộ quản giáo tương đối xề xòa, mê và thích đánh bóng chuyền với mấy anh em tù C5 chúng tôi. Cả hai thường tỏ vẻ hiểu và thông cảm qua cách ăn nói và cư xử khi chơi bóng chuyền với chúng tôi.
    Sau khi đi lao động ở rừng về, tôi nói lại cho Trần Thọ Trường tổ 5 lời nhắn của anh Hoàng Qúy. Và hai ba ngày sau, vừa đi trồng mì về, tôi đang lúi húi làm bánh nướng khoai mì và luộc búp măng rừng ăn độn với chén cơm ở trong cái bếp cá nhân cạnh giàn Bàu ở cuối vườn, thì Trường ghé qua đưa cho tôi tờ giấy đã được gấp nhỏ lại và ngồi xuống cạnh tôi.
    - Anh đọc đi, mẹ nó, đồ chó má, khốn nạn thật – Trường nói.
    Nhìn trước nhìn sau không có ai, có lẽ sau một ngày lao động vất vả, mọi người còn nằm trong lán nghỉ lấy lại sức. Tôi giở tờ giấy mà Trường đưa cho, đọc tới đọc lui hai ba lần và nén cơn giận khi thấy tên tôi và một số anh em trong bản báo cáo.
    Bản báo cáo viết tay, bốn trang của hai tờ giấy vở học trò đã được dùng để viết bản báo cáo tuần lễ từ ngày 24/6 đến 30/6/78 của đội 5 tiểu đoàn 3 (C5D3) trại Cây Cày A, tỉnh đội Tây Ninh. Bản báo cáo gồm hai phần: Chiết tính ngày công và Tình hình các mặt:

    I - Chiết tính ngày công:
    * Bộ phận chuyên môn công tác lẻ.
    Anh nuôi – Rèn – Mộc - Tăng gia C - Hớt tóc - Bóng đá
    * Giam, Bịnh viện, Khai bịnh.
    Giam – Viện - Khai bịnh , Nhổ răng
    * Lao động sản Xuất.
    Công tác D – Sản xuất
    II – Tình hình các mặt:
    *Tư tưởng
    * Lao động
    *Chấp hành
    * Đoàn kết
    * Vệ sinh trật tự nội vụ
    * Tăng gia rau xanh
    * Cá nhân Xuất sắc trong tuần.
    * Tư tưởng: Đa số an tâm, tin tưởng vào cách mạng. Biểu hiện cụ thể trong các nỗ lực học tập, lao động, sinh họat. Một số biểu hiện tiêu cực, lạc hậu có xảy ra. Trường hợp anh Chu văn Huy (tổ 4) và anh Phạm Qúa(tổ 1) . Hai anh này đã có những quan điểm lạc hậu về chế độ và thảo luận rất ăn ý với nhau. Riêng anh Huy đã bày tỏ sự coi thường đối với các anh chiến sĩ vì sự thiếu thốn và tỏ ý không ưa thích “ cái nón cối “. Trường hợp thứ hai là anh Trần thọ Trường và Lê đình Bột (tổ 5) . Hai anh này thì rất lâu những quan điểm cá nhân thường là mâu thuẫn với chế độ mới, thường bàn luận, tham mưu thời sự với những ý kiến đưa ra bài bác những tin tức do nhà nước công bố. Cụ thể của từng sự việc chúng tôi chưa nắm được chi tiết. Số anh em còn lại đa số đều có những quan điểm, nhận thức, tư tưởng tốt.
    * Lao động: Đa số đều tích cực trong công tác được giao, các chỉ tiêu do sản xuất giao đều dứt điểm, chất lượng công tác tương đối tốt. Những cá biệt thường nói năng tranh luận hăng say nhưng tiêu cực trong lao động như: Chu văn Huy, Trần thọ Trường, Lê đình Bột. Các bộ phận chuyên môn đều làm tốt công tác chuyên môn.
    * Chấp hành: Đa số chấp hành tốt nội qui, qui định của trường. Cá biệt có vi phạm trong tuần là anh Đinh văn Châu chặt buồng chuối gần lò rèn, sau D2 bị bắt giữ, sinh hoạt, phạt làm cỏ đến 18 giờ ngày 27/6. Sự việc đã được kiểm điểm đêm 28/6/78. Anh Châu đã nhận khuyết điểm và hứa khắc phục.
    …………………………………….................................... ......... (Trích: Bản báo cáo).


    Sự an nguy của người tù căn cứ vào các bản báo cáo. Đối với các viên quản giáo – trong mục hai của bản báo cáo tình hình các mặt thì các chi tiết báo cáo về tư tưởng, lao động và chấp hành là quan trọng nhất. Với những năm tháng tù đày, đây là lần đầu tiên tôi cầm trong tay bản báo cáo viết tay của đội trưởng, đội phó VHH và NKÁ – hai người bạn đồng tù lại là kẻ đang đoái công chuộc tội với những hàng chữ báo cáo tôi và vài anh em cùng đội, cùng tù

    Đọc xong bản báo cáo của đội trưởng V H H và đội phó N K Á – C5, tôi cảm thấy tức giận pha chút suy tư và tự nhủ phải “ cẩn tắc vô ưu “ trong những ngày tháng tới , rồi trả lại Trường.
    - Trong bản báo cáo, chúng gọi đây là nhà trường! Làm sao có được bản này – tôi nói và hỏi Trường.
    - Sau buổi chiều anh nói với tôi, sáng hôm sau tổ tôi đi làm rẫy, tôi đi sau cùng, khi đi ngang nhà kỷ luật, Chương và mấy người bị giam kỷ luật đang làm cỏ bên mấy luống khoai mì, Chương nháy mắt và tôi cúi xuống lượm nhét vào túi rồi đi lao động như thường lệ – Trường trả lời.
    - Nhưng làm sao bọn Chương lấy được ? – tôi hỏi.
    - Hôm qua đi lãnh cuốc sẻng tôi gặp lại, mấy người cho biết là trong khi quét dọn nhà quản giáo, nhờ lúc quản giáo đi vắng hết, mở ngăn kéo thấy tờ báo cáo, lại thấy có tên bọn mình nên anh em lấy dấu đi và báo cho bọn mình biết để đề phòng. Tôi sẽ giữ cái này suốt đời, tôi sẽ cất dấu thật kỹ, khi được thả tôi sẽ mang về theo – Trường nói.
    - Thôi đốt đi, mình biết để cẩn thận, phòng thân thôi – tôi nói.
    - Không, đừng lo, tôi sẽ giữ kỹ, quản giáo họ cũng chẳng để ý, anh có thấy không, cần đóm hút thuốc họ đã xé một góc để làm đóm hút thuốc lào, rồi mới để trong ngăn kéo bàn, nhờ thế mấy anh em mới lấy được. Quản giáo Tư Nhạc và Út Trọn tính nết xề xòa, thường xuống chơi bóng chuyền với anh đó, họ có vẻ không cùng cánh thủ trưởng Năm Quân và không ác như tên Út Chót trông coi bọn mình trước đây. Trường nói và đứng dậy về lại tổ 5 cách tổ 4 của tôi cái sân bóng chuyền và nhà ăn của đội.
    Sau khi Trần Thọ Trường đi về tổ 5, hình ảnh những người tù chết, bị đánh chí mạng từ năm 1975 đến 1978 lởn vởn trong đầu tôi: Ngô Nghĩa bị xử tử hình, bắn ở Trảng Lớn, Hiểu bị bắn ở Kà Tum, Trần Duy Hóa bị nhà sập đè chết ở Kà Tum, Hồ Thanh Long đi phát quang té xuống giếng hoang chết, Mai Duy Hạnh bị Hai Tý – tên Đội trưởng Khung bắn chết ở Cây Cày A, anh Trần Duy Chương, trước năm 1975 là gíáo sư Việt Văn biệt phái, thân hình ốm yếu, gầy trơ xương, anh không bưng nổi cái vỉ đựng đầy đất đổ lên khu đất thấp để làm nền cho căn nhà kho, đã bị tên đội Năm lửa đánh bằng báng súng thừa sống chí chết, cùng những oan khiên ác độc khác xảy ra hàng ngày. Tự nhiên tôi cảm thấy hơi e ngại khi nghĩ đến những ngày mai đây. Nhưng bất chợt lời Chúa trong sách Tân Ước đánh thức tâm trí tôi : Ngày mai có ngày mai lo........ Đứng dậy, vươn vai, nhìn ra sân bóng chuyền, nắng vàng chan hòa, không một làn gió, không một bóng người, tôi rảo bước đi lên lán nằm nghỉ.
    Trời vừa hừng đông, khoảng hai tuần sau ngày tôi và Trần Thọ Trường đọc được bản báo cáo về mình, các quản giáo xuống các đội ra lệnh thu xếp quân trang chuyển trại. Đây là lần chuyển trại thứ ba - cùng với các đội, các anh em đang bị kỷ luật cũng trở về các tổ, các đội cũ để di chuyển. Khoảng 10 giờ sáng, năm trăm người tù đã được chở đến trại Cây Cày B và Bàu Cỏ, trại tù đặt dưới sự chỉ huy và quản lý của Công an, trực thuộc bộ Nội vụ Cộng Sản. Mấy anh em chúng tôi liên hệ tới bản báo cáo và các anh bị kỷ luật được “ biên chế “ vào những đội khác nhau, riêng tôi và Trường vẫn thuộc đội của đội trưởng V H H, đội phó N K Á. Từ đó, không ai nhắc tới bản báo cáo nữa, và V H H cũng như N K Á đều không hay biết về bản báo cáo của họ mà chúng tôi đã đọc và Trần Thọ Trường cất dấu lâu nay.
    Đời sống xoay vần bất định, trong cái rủi bị báo cáo, nhưng lại có các bạn tù trong nhà kỷ luật “ra tay nghĩa hiệp “ nên vẫn có cái may. Trong đau khổ vẫn ẩn tàng hạnh phúc, và tôi tin rằng có những ân lộc được trao ban từ Thượng Đế qua bàn tay của những tâm hồn nghĩa hiệp, như những con nai trên đồng cỏ bên giòng suối mát, coi thường hiểm nguy của những đám thợ săn. Và đâu đây, mọi sinh hoạt trong đời tù ngục hay trong đời sống dù chông gai, vẫn như có sự quan phòng một cách siêu nhiên, mà người có đức tin có thể cảm nhận được – tôi tự nhủ như an ủi chính mình sau khi đọc bản báo cáo.
    Cùng “ 500 thằng tù lười ”, chúng tôi di chuyển đến một trại tù khác, thoát khỏi vòng kim cô của trại tù Cây Cày A với bản báo cáo thâm độc của hai anh đội trưởng, đội phó – trước đây, đã một thời cùng chiến tuyến, và nay tâm hồn đã đổi thay khi vật đổi sao rời, tang hải biến vi tang điền.
    Năm tháng đi theo người tù không tội đã gần sáu năm, mùa thu hoạch tôi theo đội cơ động qua lao động ở trại tù Cây Cày B. Qua thời vụ, đội cơ động lại khăn gói theo xe Motolova về trại tù Bàu Cỏ, và tôi lại trở về lao động cũng như sinh hoạt với đội của hai anh đội trưởng, đội phó VHH – NKÁ như trước. Dù ở trại này hay chuyển qua trại khác, chúng tôi vẫn sống, vẫn lao động khổ sai dưới mũi súng của Công an. Tuy nhiên – sự đày ải và bóc lột vô hạn là một vết nhơ, khiến đảng Cộng Sản Việt Nam bị cô lập với thế giới. Do đó, dưới áp lực quốc tế về nhân quyền, và trong lúc người Cộng Sản Việt Nam muốn hội nhập vào sinh hoạt thế giới để cứu vãn nền kinh tế què quặt Xã Hội Chủ Nghĩa. Nên đảng Cộng Sản Việt Nam đã phải thả tù từng đợt, tôi được thả khi đang lao động khổ sai ở trại tù Cây Cày B, đội Cơ động – một đội lao động gồm những người tù đã có tên trong sổ đen của các đội, đi và về giữa trại Bàu Cỏ và trại Cây Cày B. Rời trại tù miền biên giới lúc 7 giờ sáng, sau nhiều lần đổi từ xe ôm sang xe Lam ba bánh và xe đò mà đôi lần các bác tài không lấy tiền xe. Tôi về đến ngã tư Bảy Hiền, Phú Nhuận lúc 8 giờ tối.
    Để che mắt công an khu vực và để khỏi bị đẩy đi kinh tế mới, tôi học người anh họ bên ngoại cách làm vỏ xe đạp và vỏ xe Honda. Việc làm tương đối dễ và đơn giản, tất cả các công đoạn được chế biến tại nhà, những sợi bố gai trong các vỏ xe hơi cũ ra được bóc ra bằng tay, rồi các sợi bố gai sau đó được nối lại, và dùng thùng phuy mà các cây xăng dùng để chứa xăng làm thành cái trục quay những sợi bố gai thành một cuốn dây căng cứng, kẹp giữa hai lớp keo Cao Su đen, hay cao Su đỏ bao quanh thùng phuy. Sau đó, những miếng keo Cao Su có ruột bằng chỉ bố ở trong sẽ được cắt thành từng miếng dán vào hai vòng kẽm là vành xe, và cho vào khuôn hấp điện để trở thành vỏ xe đạp hay Honda có các nhãn hiệu giống như vỏ chính gốc. Nhà máy hấp vỏ xe độc quyền thuộc một gia đình được bảo kê bởi Công an, cơ xưởng ở ngay sau dãy chuồng heo cũ nhà thày mẹ tôi. Đây là kỹ thuật làm giả tinh vi của người Tàu Chợ Lớn, những người Tàu bán nghề lại cho người Việt để rời Việt Nam về lại Trung Hoa, Hồng Kông hay Đài Loan, Úc châu qua các thương vụ vượt biên bán chính thức – một mánh khóe xảo quyệt của nhà nước Việt Cộng để cướp đoạt tài sản của người Hoa. Nhờ học và làm một nghề bất đắc dĩ qua ngày, nên viên Công an Khu vực không tỏ vẻ nghi ngờ, và nó hữu ích như một cái phao mà tôi bám vào trong khi cuộc đời còn đang nổi trôi, để tương kế tựu kế, kiếm đường vượt biên tìm tự do.
    Song hành với làm vỏ xe, với ba lần xuống Rạch Giá vượt biên kể từ khi được thả đầu tháng 9 năm 1980. Cuối tháng 12, tôi và 18 người lớn, 3 trẻ em đã vượt biên thành công, chiếc ghe bàu cập bến quân cảng Sattahip thuộc thành phố Chonburi - Thái Lan lúc 11 giờ trưa ngày 01-01-1981.
    Đây là chuyến vượt biên đầy mạo hiểm sau 5 ngày 4 đêm theo trăng sao định hướng, không hải đồ, không hải bàn, với 120 lít nước, 120 lít dầu, 50 kg gạo, 5 ký tôm khô và đã bị hải tặc Thái lục soát, kéo tới kéo lui ba lần. Chiếc ghe bầu rời cửa biển Rạch Giá đã được thả trôi vào chiều ngày thứ bốn, sau khi tài công cho biết chỉ còn 10 lít săng để chạy tránh cho ghe không bị chìm khi có cơn giông. Ngọai trừ hai anh em anh tài công và anh thợ máy, còn lại, theo sự chỉ định của anh tài công: Tất cả ngồi đều hai bên sườn ghe, thay nhau tát nước ra khỏi ghe. Chiếc ghe trôi theo mặt biển lặng sóng, mọi người vừa thay nhau tát nước và đọc kinh suốt đêm, lời kinh đêm vang lên như trong một nhà nguyện nhỏ di động. Trong ghe chỉ có năm người là Kính - người em út tôi, Tâm, Tám, Hòa và tôi là ở Sài Gòn, trừ hai anh tài công chính và phụ, còn lại là cư dân Công Giáo Rạch Gía. Các anh chị đa số là những ngư dân chuyên nghiệp, rất bình tĩnh khi đi biển.
    Qua một đêm chiếc ghe được thả trôi trong bình an, và buổi sáng vừa thức giấc, bầu trời còn tranh tối tranh sáng, bé gái độ chừng tám tuổi - em anh tài công kéo tay tôi chỉ tay về phía trước mạn thuyền, nói: Có hòn kìa chú. Tôi nhìn theo hướng bé gái và thấy mờ mờ như hình một hòn núi. Thấy vậy, tôi đánh thức anh tài công Hưng và nói cho anh biết. Nhưng anh không tin và trả lời với giọng ngái ngủ.
    - Hòn gì mà hòn, nước trôi ra ghe trôi theo, hòn gì mà hòn, ngủ đi, tát nước đi.
    - Anh Hưng, anh dậy đi, có hòn mà, em gái anh cũng thấy mà, anh dậy mà coi – tôi cố thuyết phục để anh phải ngồi dậy.
    Với câu nói chân tình của tôi, anh tài công vừa dụi mắt vừa ngáp rồi ngồi dậy. Tôi chỉ tay về hướng có hình cái hòn thật mờ cho anh trông theo.
    - Ồ, Chúa các ông đã cứu chúng ta rồi – anh tài công la lên và nói anh phụ tài công giật cho nổ cái máy Côle chạy về hướng có hình cái hòn.
    Như một phép lạ, khoảng năm phút sau, trong khi ghe đang chạy về hướng cái hòn với lá cờ trắng làm bằng cái áo may ô với hàng chữ đen: Vietnamese Refugee - SOS. Help! Please, thì một thương thuyền kéo cờ Phi luật Tân từ xa thấy được chiếc khăn trắng với hàng chữ Vietnamese Refugee – SOS. Help! Please, đã ra hiệu cho ghe ngưng chạy, và đánh điện cho hải quân Thái kéo vào quân cảng Sattahip, một căn cứ trực thuộc Hải Quân Hoàng gia Thái, sau khi đã cung cấp cho chúng tôi nước uống và cho trẻ em bánh kẹo. Vào đến đất Thái đúng ngày đầu năm 1981. Nhìn vào bản đồ Thái Lan, tôi thấy cảng Sattahip giáp biên giới Campuchia, nếu có hải đồ, hải bàn, cuộc vượt biên chỉ mất độ vài giờ đồng hồ.
    Nhờ chút ít vốn liếng Anh ngữ khi còn ngồi trên ghế học đường, và hơn một năm học tại Trường Sinh ngữ quân đội để chờ xin theo học khóa Leadership tại Force Benning – Hoa Kỳ. Nên vừa vào trại tỵ nạn Leam Sing được hơn một tuần, Ban ngọai vụ trại tỵ nạn Leam Sing đã yêu cầu tôi làm phụ hồ sơ giúp đồng bào tỵ nạn khi có Phái đoàn Hoa Kỳ đến trại phỏng vấn, và sau đó bà con Công Giáo yêu cầu về làm đại diện Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam trại tỵ nạn Leam Sing, thế chỗ anh chủ tịch đi Anh quốc định cư. Làm việc cho Ban ngọai vụ khi có phái đoàn đến phỏng vấn, tôi được trả 25 Bath một ngày và một đĩa cơm gà, so với một tô hủ tíu hay ly cà phê sữa giá 3 Bath, tôi thấy cũng tốt số. Nhưng sau vài tuần, theo lời yêu cầu của Ban Chấp Hành Công Giáo trại, tôi đã xin nghỉ và về làm đại diện Công Gíáo Việt Nam, để cùng với Công Giáo Thái ( Thai Catholic Action ) mỗi ngày trợ giúp đồng bào tỵ nạn trong mọi lãnh vực, không phân biệt tôn giáo như : Phát sữa, phát thịt cho các cụ và trẻ em, phát quần áo, phiên dịch xin phẩm vật cứu trợ hay phụ giúp các lớp học nghề hớt tóc, may cắt, đánh máy. Như một thiện nguyện viên, tôi chỉ được mời ăn trưa với Phái đoàn Công Giáo mỗi ngày, không phụ cấp. Nhưng tôi lại cảm thấy rất vui khi nhận được từ Phái đoàn Công Giáo Thái những cảm tình qúy mến dành cho đồng bào tỵ nạn Việt Nam và sự hợp tác chân tình của tôi.
    Sau sáu tháng tạm cư tại trại Leam Sing và Panat Nikhom – Thái Lan, hồ sơ bảo lãnh định cư tại Hoa Kỳ theo diện CAT-A1 của tôi đã được Phái đoàn Hoa Kỳ phỏng vấn, chấp thuận, tôi và người em út đã đến định cư tại San Jose từ tháng 6 năm 1981. Được trợ cấp một năm để ổn định đời sống, nên những năm tháng đầu tiên định cư tại xứ ngườì thật vất vả - bốn giờ sáng tôi thức dậy, lái xe lên Moutain View làm cho hãng điện tử California Assembly với lương căn bản 3.35 Mỹ kim một giờ – đây là một thành phố nhỏ trên đường đi tới San Francisco. Sau 8 giờ làm việc, từ hãng tôi về thẳng trường San Jose College học các lớp chiều của ngành điện tử. Trong hai năm vừa làm vừa đi học, mỗi đêm tôi chỉ ngủ được 4 tiếng đồng hồ. Nhưng với kiên nhẫn, đời sống nơi xứ người đã ổn định từ từ theo năm tháng. Suốt tuần lễ vật lộn với việc làm, việc học, cuối tuần được nghỉ ngơi, sau những giờ ngủ bù, tôi thường đến nhà bạn cùng lớp tán dóc, hay đi dự các tiệc cưới của họ hàng, bạn bè. Thập niên 90 tại thành phố San Jose, trong ngày vu qui của Dung, cô em họ, con gái người chú ruột, vô tình tôi gặp lại người bạn tù không quân Trần Thọ Trường trong tiệc cưới, Trường và chú rể Nuôi – chồng mới cưới của cô em họ tôi là bạn cùng khóa phi hành xưa kia. Gặp lại Trần Thọ Trường trên xứ người, hai người chúng tôi kể cho nhau những chuyện vui buồn khi vượt biên và nhắc lại những chuyện ngày xưa khi còn sống trong tù.......
    - Tôi sẽ gửi cho ông bản báo cáo của thằng H và thằng Á – Trường trợn mắt và gằn giọng nói.
    - Ủa ông còn giữ và mang theo được à ? – tôi hỏi.
    - Sao lại không, tôi đã hứa mà, làm sao tôi quên được, khi đi vượt biên bị thấm nước hơi nhòe một tí, và Cao ủy Liên Hiệp Quốc đóng dấu tùm lum. Nhưng còn đọc được. Tôi sẽ gửi cho ông để nhớ những thằng khốn ấy, thế nào cũng có ngày – Trường nói, rồi bỏ lửng câu nói giữa chừng và cười mỉm .
    Xen lẫn những câu chuyện vui của các thân hữu cô dâu chú rể bên ly rượu thơm ngon, là những lời mừng của các anh chị ngồi cạnh tôi và Trường khi biết hai chúng tôi là những người bạn tù, vượt biên và vô tình gặp lại nhau trong tiệc cưới. Không khí tiệc cưới rộn rã tiếng cười với những lời chúc thân tình, tốt đẹp nhất dành cho cô dâu chú rể khi đến chào bàn và cám ơn từng qúy khách đã đến tham dự tiệc cưới. Cô dâu, chú rể đã ngạc nhiên khi nhận ra tôi đã đổi chỗ ngồi dành cho tôi để đến ngồi cùng bàn với Trần Thọ Trường. Do đó, sau khi đã đi chào bàn xong, chú rể – bạn cùng khóa phi hành với Trường đã trở lại bàn, mời Trường và tôi nâng ly chúc mừng một đêm vui hội ngộ, hàn huyên bên nhau, dù cô dâu và chú rể đang rất bận rộn.
    Trên đường lái xe về nhà sau tiệc cưới, tôi tự nhủ: Nếu không có tình huynh đệ chi binh, sống chết có nhau của đại đa số người tù, mà tiêu biểu là những anh em bị giam trong nhà kỷ luật trước đây, đã can đảm “ đánh cắp “ bản báo cáo, cùng với những hành động cao qúy đầy tình nhân đạo của các quốc gia yêu chuộng công lý, tự do và nhân quyền như Hoa kỳ, Úc, Canada, Anh, Na uy....thì những anh em cựu tù như tôi và Trần Thọ Trường đâu có đêm hội ngộ như trong tiệc cưới, và ngày nay đồng bào Việt Nam tỵ nạn của tôi đâu có một đời sống an bình, và thành đạt trên mọi lãnh vực trong các quốc gia tự do – tôi nói nhỏ như nhắc nhở tôi: Tạ ơn Người, tạ ơn đời – những đồng bào tôi và những quốc gia yêu chuộng tự do, đầy tình người.
    Và vài ba ngày sau tiệc cưới, Trần Thọ Trường gửi cho tôi bản báo cáo đã được Trường cất dấu và mang theo khi đi vượt biên, bản báo cáo được đóng dấu của Chỉ huy trưởng Trại tỵ nạn Paula Bidong, Kuala Terengganu, Terengganu thuộc Cao Ủy Tỵ Nan Liên Hiệp Quốc. (*)
    Nếu không gặp lại người bạn tù Không quân Trần Thọ Trường, có lẽ những kỷ niệm buồn trong cuộc chiến huynh đệ tương tàn do Cộng Sản Việt Nam phát động và nuôi dưỡng, cùng những hành động của vài ba con chim lạc đàn - một thời làm bàn đạp cho Cộng Sản Việt Nam đày đọa anh em tù nhân.... vẫn nằm ngủ yên trong ký ức tôi. Những bất hạnh, những nhục hình mà người tù ngày xưa cũng như ngày nay, đã và đang gánh chịu trong các trại tù khổ sai của đảng Cộng Sản Việt Nam ở những vùng đèo heo hút gió, trong các vùng rừng núi đầy sương lam chướng khí bất chợt thức dậy trong tâm trí tôi mỗi khi có ai nhắc tới. Như một vết hằn khó phai mờ.
    Xuân Canh Tý 2020 đang về, thấy đây đó người xa người gần đang sửa soạn cho ngày tết cổ truyền khiến tâm tư tôi chùng lại - nhớ những năm tháng đã qua trên quê hương, nhớ đến các bạn tù xa gần trong và ngoài nước, và người bạn tù Không quân Trần Thọ Trường can đảm năm xưa, đã kiên nhẫn cất dấu bản báo cáo và vượt qua những năm tháng khó khăn để những anh em cựu tù có tài liệu nhìn lại những đoạn đường gian khổ đã trải qua. Đọc lại bản báo cáo, tôi hình dung ra và nhớ đến những thân hình tiều tụy, gầy trơ xương trong bộ áo quần bạc màu vá chằng vá đụp bằng những miếng vải bao cát, nhớ đến những anh em chết dưới họng súng của bọn cai tù hay chết vì lao động khổ sai, thiếu ăn, thiếu thuốc khi đau yếu, nhớ đến những búp măng rừng, những chén cơm Bo bo, những củ khoai mì đã chạy chỉ, những hạt bắp ngô già cứng như đá cuội trong các trại tù ngày nào. Và nghĩ đến những anh chị đang hy sinh tranh đấu cho một Việt Nam dân chủ cũng như nhân quyền trong nước – trong đó, nhiều anh chị đang bị đọa đày một cách dã man trong các trại tù của đảng Cộng Sản Việt Nam, một đảng vẫn cố bám vứu vào một ý thức hệ ngoại lai, vong bản, đang đẩy đưa dân tộc đến nguy cơ diệt vong trước giòng giống Hán tộc.
    “ Đoạn trường ai có qua cầu mới hay .*



    (*) Chú thích:
    - Từ phải qua trái các cựu tù nhân các trại tù Cây Cày A, Cây Cày B, Bàu Cỏ: Trần Thọ Trường, Chu Văn Huy, Nguyễn Viết Hùng, Võ Tư, Trương Kỉnh Thành, Ara Nguyễn Phát, Bùi Quang Hùng ( trong số “ 500 thằng lười ” )
    - Ảnh chụp tại mặt tiền nhà hàng Ponoma, thành phố San Jose, miền Bắc California ngày 27 tháng 3-2016 nhân dịp “ thằng tù lười “ Nguyễn Phát từ Bỉ quốc sang thăm anh em cựu tù. Và bản báo cáo tình hình C5D3 ( Từ ngày 24/6 đến 30/6/78 ) được đề cập đến trong truyện.
    - “ Đoạn trường ai có qua cầu mới hay “ – Nguyễn Du: Truyện Kiều.










Hội Quán Phi Dũng ©
Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




website hit counter

Working...
X