Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Vụ Ném Bom Saigon ngày 24/04/1975

Collapse
X

Vụ Ném Bom Saigon ngày 24/04/1975

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Vụ Ném Bom Saigon ngày 24/04/1975

    Vụ Ném Bom SàiGòn ngày 24/04/1975


    Ngày 13-6-96, hãng thông tấn Reuter đánh đi một bản tin về Nguyễn Thành Trung, phi công A-37 của Không Lực VNCH đã lấy máy bay xạ kích dinh Độc Lập và hướng dẫn hai chiếc A-37 khác đánh phá phi trường Tân Sơn Nhất chiều ngày 24-4-75, ngày hấp hối của miền Nam Việt Nam.

    Bản tin cho biết, Nguyễn Thành Trung, phi công chiến đấu của KLVNCH được huấn luyện tại Hoa Kỳ từ năm 69 tới 72, là hoa tiêu trưởng phi cơ của Hàng Không Việt Cộng, năm 1995, đã lái chiếc Boeing 767 chở tên chủ tịch nhà nước Lê Đức Anh qua New York dự ngày kỷ niệm thứ 50 của Liên Hiệp Quốc. Trả lời cuộc phỏng vấn của thông tín viên Reuter tại Tân Sơn Nhất, Nguyễn Thành Trung kiêu hãnh nói, “Năm ngoái tôi bay trở lại Hoa Kỳ, đến Nữu Ước bằng chiếc phi cơ này, đáp tại phi trường Kennedy với máy bay riêng của chúng tôi, mang huy hiệu và sơn cờ riêng của chúng tôi, đến thẳng đất Mỹ!” (Last year, I flew back to America, to New York, in this aircraft, with our logo, with our flag, to the American land, he says proudly – Reuter).

    Nguyễn Thành Trung, tên Việt Cộng nằm vùng được địch gài trong hàng ngũ chúng ta. Trung đã góp phần gây hoang mang, làm sụp đổ tinh thần chiến đấu của quân dân miền Nam, gián tiếp đầy đọa, giết hại anh em đồng đội trong các trại tù cải tạo để đổi lấy vinh thân, được Việt cộng tưởng thưởng công lao phản nghịch đó bằng địa vị hôm nay.

    Cuộc oanh kích dinh Độc Lập và sau đó, phi trường Tân Sơn Nhất chiều 28-4-75 của năm chiếc phi cơ A-37, đã được Việt cộng tuyên dương như một chiến tích anh hùng. Hàng năm, đến ngày 30-4, báo chí của chúng đều nhắc đến cái gọi là ”thành tích lịch sử” của Phi Đội Quyết Thắng do Nguyễn Thành Trung dẫn đầu với một phi công A-37 khác của Không Lực VNCH là Trần Văn On, cùng bọn giặc lái Việt cộng Từ Đễ, Mai Vượng, Nguyễn Văn Lục, Hán Văn Quảng. On và Xanh là hai phi công VNCH, tù binh bị Việt cộng bắt ở Đà Nẵng, ép buộc phải thi hành công tác huấn luyện cấp tốc cho giặc lái MIG Việt cộng, để theo Nguyễn Thành Trung bay vào đánh Saigon.

    Bài tường thuật đăng trên tờ Lao Động của Việt cộng xuất bản ngày 2-5-96 cho biết Phi Đội Quyết Thắng do Nguyễn Thành Trung bay ở vị trí số một, vừa là chỉ huy “Biên đội” (Phi đội), vừa là người dẫn đường. Bay số hai là Từ Đễ (con trai giáo sư Từ Giấy, Đại học Tổng Hợp Hà Nội), hiện đeo quân hàm Đại tá ở Bộ Tham Mưu Không Quân Cộng sản. Bay số ba là Nguyễn Văn Lục, Phó chỉ huy Biên đội. Số bốn là Hán Văn Quảng, hiện là Đại tá Sư trưởng Sư đoàn Không Quân của chúng. Máy bay số năm có hai người: Mai Vượng, quê ở Diễn Châu, Nghệ An (đã chết năm 1976) và Trung úy phi công “Ngụy” Trần Văn On.

    Bọn giặc lái Việt cộng (Lục, Đễ, Quảng, Vượng) từ trước đến nay chỉ quen với máy bay MIG-17 của Nga, chưa từng biết tới A-37 của Mỹ bao giờ. Giặc lái Việt cộng vào Đà Nẵng từ ngày 22-4-75 để học lái A-37 cấp tốc trong vòng năm ngày. Nguyễn Văn Lục cho biết y chỉ bay tập được ba chuyến trong năm ngày đó. Lục nói, “Các bộ phận điều khiển của máy bay A-37 toàn là tiếng Anh, anh em chúng tôi nhờ người dịch ra tiếng Việt, rồi cắt giấy dán đè lên tiếng Anh để biết mà xử dụng…”

    Tư Lệnh Không Quân Việt cộng thời đó là Lê Văn Tri, Thiếu tướng, đã trực tiếp giao nhiệm vụ cho bọn Lục. Y khoe, “Sau chiến thắng trở về, đồng chí Đinh Đức Thiện gặp chúng tôi, nói rất vui, “Chúng mày rất giỏi. Lính tao chuyển loại xe ô-tô cũng phải mất năm ngày, huống gì là máy bay của chúng mày… Giỏi, giỏi lắm!”…”

    Cái “giỏi lắm” của bọn giặc lái Việt cộng Từ Đễ, Nguyễn Văn Lục, Hán Văn Quảng là cái giỏi… “nói phét”! Việt cộng tổ sư nói phét không biết ngượng là gì trong bất cứ ngành nghề, giai cấp nào của chúng. Tên tướng Không quân Việt cộng xuất thân từ giới lơ xe đò Đinh Đức Thiện khen ngợi bọn Lục “giỏi lắm” chỉ là thói quen “mèo khen mèo dài đuôi” của bọn “đỉnh cao trí tuệ” mà anh em tù cải tạo ai cũng biết. Việt cộng làm gì cũng tự cho là giỏi. Không thấy ai khen, chúng tự vỗ tay khen chính mình, khen líu lo nồng nhiệt không biết ngượng thì cái chuyện anh Thiện khen em Lục chẳng có gì là lạ!

    Để biết rõ cái “giỏi lắm” của những chiến sĩ “người lái anh hùng” nhãn hiệu Vi-Xi thế nào, mời bạn đọc hãy cùng chúng tôi đọc truyện ngắn “Trận Đánh Cuối Cùng” của văn sĩ Hữu Mai viết ca tụng “anh hùng” Nguyễn Thành Trung và các đồng chí giặc lái Vi-Xi của y một cách trơ trẽn vô duyên trong tuyển tập “Văn 1957-1982” do Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số kỷ niệm lần thứ 25, xuất bản năm 82, để thấy trình độ nói phét của Vi-Xi nó “siêu” đến chừng nào mà cười đau khóc hận cho vận số hẩm hiu đất nước…



    *****

    Hữu Mai mở đầu “Trận Đánh Cuối Cùng” bằng câu “Một ngày thật dài…”. Y cho biết buổi sáng hôm đó còn ở Gia Lâm, có lệnh đi công tác ngay bằng chiếc IL-18. Đi người không và một giờ sau đáp phi trường Đà Nẵng. Hữu Mai viết theo thể văn tự thuật, dùng chữ “chúng tôi” nên người ta có thể hiểu y chính là một trong những tên giặc lái Vi-Xi được cử vào Nam làm cái “Mission Impossible” này và viết bài tường thuật. IL-18 là phi cơ vận tải như C-47 của Không Quân miền Nam. Y nói “lần này chúng tôi đi công tác người không” – chắc là cho nhẹ, để chuyến về còn chở theo chiến lợi phẩm “hia” được của miền Nam “phồn vinh giả tạo”. Có lẽ bọn y không mang theo cả vỏ cau khô đánh răng, khăn mặt hay cơm nắm muối vừng làm chi cho nặng. Hữu Mai chắc ăn, không cần bắt chước đàn anh Khổng Văn Tuyết ngày xưa… tay đôi không chiến với máy bay “Con Ma” (Phantom) hay “Thần Sấm” (Thunderbolt) của đế quốc Mỹ xâm lược. Anh hùng Khổng Văn Tuyết bay phi cơ MIG đem theo cơm nắm muối vừng, một ấm nước vối và cả cái điếu cầy lên trời, tắt máy phây phả nằm gác chân chữ ngũ mai phục trong mây, đợi từ sáng tới chiều cho khỏi tốn xăng, khi thấy phi cơ Mỹ tới là mở máy nhào xuống bắn hạ cái một…!

    Bọn giặc lái Vi-Xi hạ cánh xuống phi trường Đà Nẵng sau một giờ bay. Sân bay Đà Nẵng “rộng và dài hun hút” được Hữu Mai mô tả là “siêu cấp”, hơn gấp bội phi trường Gia Lâm của miền Bắc anh hùng. Cái phi trường Gia Lâm của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc, theo lời cậu Trác “Thuốc Lào” phi công C-130 kẹt lại, đã từng bay chở cán bộ, bộ đội Vi-Xi từ Bắc vào Nam công tác và chở đồ thổ phỉ gồm cả kẽm gai, tôn gỗ và… ghế đá công viên từ Nam ra Bắc; sau còn được trưng dụng dạy bay và dạy Địa huấn cho bọn giặc lái Việt cộng trước khi “thầy” bị cho đi tù cải tạo. Hồi vượt biển qua Mỹ, cậu Trác đã kể lại với kẻ hèn này rằng:
    Phi trường Gia Lâm vắng như nghĩa địa bỏ hoang, cỏ tranh mọc cỡ đầu người… Tớ đáp xuống, thấy bộ đội lũ lượt từng đoàn vác liềm vào cắt cỏ tranh rồi gồng gánh đi ra… Sau đó lại một bầy dân chúng kéo vào mót những đám tranh còn sót lại! Phi trường này cũng như phi trường Bạch Mai không có đài Kiểm soát Không Lưu. Mỗi lần có máy bay ngoại quốc đến, chúng nó mướn một thằng Air Traffic Control người Nhật nói tiếng Anh vào hướng dẫn cho phi cơ đáp hoặc cất cánh xong rồi về.

    Nên chi nhìn thấy phi trường “siêu cấp” Đà Nẵng, bọn pilot Việt cộng cứ nghệt mặt ra. Hữu Mai cho biết, “Ngay sau khi đáp xuống Đà Nẵng, có đồng chí Tham Mưu trưởng đứng đợi bên chiếc A-37 sơn màu vằn vện, hình thù dữ dội, giống như một con thú rừng chưa thuần hóa”. Đàn anh ra lệnh cho các đàn em tập buồng máy ngay, “chỉ có từ ba đến năm ngày chuẩn bị”.

    Màn tập tành “ba đến năm ngày” này quả là chuyện phong thần. Nhưng ai không làm được chứ Vi-Xi cái gì mà làm không được? Không làm được bằng chân tay, trí óc, các con làm bằng… mồm! Hữu Mai viết, “Nếu trước đây có ai nói như vậy thì đó là nói đùa. Trong chiến tranh, những lần chuyển loại máy bay gấp gáp nhất cũng phải mất ba tháng. Không thể đùa với máy bay. Ở trên không, không có điều kiện để rút kinh nghiệm cho những sai lầm…”

    Nói vậy cho nổi bật cái khả năng thần thánh của con người cộng sản ”siêu cấp” và để bọn Ngụy nghe mà sợ chơi. Câu nói trên là áp dụng cho việc chuyển loại phi cơ cộng sản thôi đấy, mà cũng cần tới ba tháng là tối thiểu. Vậy mà các “đỉnh cao trí tuệ” chỉ cần từ ba tới năm ngày, nghe phát rét. Huống hồ bọn giặc lái Vi-Xi tiếng Anh tiếng U không biết một mẩu, ngoài ba tiếng “oẳn tù tì”…! Hữu Mai viết, “Mỗi feet bằng bao nhiêu đơn vị đo lường của ta nhỉ? Làm thế nào hiểu được hết những tiếng Anh trong buồng lái để khỏi phải nhớ các công-tắc, các đồng hồ bằng vị trí của chúng?…”

    Cái này phải hỏi cậu Trác Thuốc Lào, tự nhà văn KQ Trác Vũ. Cậu Trác Thuốc Lào một lần chịu không nổi những quả… ngu của lũ giặc lái con cháu lão Hồ, đã buột miệng chửi thề, xém bị mất cái chỗ đội mũ vì lỡ “hỗn”, lỡ coi thường các đấng đỉnh cao trí tuệ. Cậu Trác kể:
    Phi công Việt cộng, chúng nó từng qua Nga học bay MIG. Nhiều đứa ở Nga đến 6, 7 năm mà khi về nước vưỡn đếch biết nói tiếng Nga La Tư mới tếu! Bọn chúng nó đi học, có thông dịch viên đi kèm theo để theo dõi, kiểm soát… Trong lớp thầy dạy gì, kệ bố thầy, chúng không cần nghe vì khi về phòng có thằng thông dịch lại… Tớ bỏ công dịch tất cả sách kỹ thuật tiếng Anh ra tiếng Việt, dạy chúng nó hoàn toàn bằng tiếng Việt. Thế mà mình đọc, chúng không hiểu. Đánh vần đi đánh vần lại từng chữ như dạy trẻ con i-tờ-rít, chúng nó vẫn không biết viết ra làm sao. Tớ lập đi lập lại, bọn chúng vẫn ngớ ra như chúa tàu nghe kèn, mặt đần độn trông phát giận… Một lần, nhịn không được, tớ buột miệng chửi thề, “ĐM, sao các anh ăn gì mà ngu quá vậy?” Mình quen mồm như trước đây đùa rỡn với bạn bè… Chúng nó sừng sộ hỏi tội làm tớ xanh mặt.

    Kẻ hèn này hồi đó nghe cứ tưởng cậu Trác bôi bác Vi-Xi, không tin nổi, nghĩ rằng cậu phịa ra để tếu chơi. Lạ gì cái giống Không Quân, bạn bè gặp nhau, đúng tần số là tha hồ đấu hót vung vít, hư thực khó lường… nên bèn hỏi đểu một câu:
    Thế hả? Thì ra chúng nó là bọn ngu cả lũ. Nhưng “ngu” mà chúng nó bay MIG, dám chơi “dog fight” tay đôi với pilot Mỹ? Cậu Trác nói vậy thì chúng tôi biết vậy…

    “Dog fight” có nghĩa là “không chiến”, là vác máy bay uýnh lộn trên mây, giữa từng trời. Cậu Trác Thuốc Lào được coi là một pilot vận tải hiền nhất nước Không Quân, thật thà như đếm. Nghe kẻ hèn này nói câu móc lò, cậu chỉ cười cười, phô hai hàm răng đầy nhựa thuốc lào, kể tiếp:
    Đằng ấy tưởng chúng nó bay MIG thật đấy hả? Mình lầm hết. Mấy cậu Mẽo đồng minh mặc cảm, sợ quốc tế chê cười nên nhiệt liệt thổi phồng pilot Vi-Xi là ghê gớm để tăng giá trị của mình và để khỏi mang tiếng người nhớn bắt nạt ranh con. Chúng nó có đi Nga thật, học tới sáu, bẩy năm lận. Nhưng chúng chỉ lo buôn lậu “quần bò” đem về nước bán kiếm lời, bay với bổng mẹ gì. Toàn là bọn con ông cháu cha hay thành phần chăn trâu gánh nước có thành tích đấu tranh giai cấp tích cực, đấu cha, tố mẹ, dò la hàng xóm, được phong làm “anh hùng”, cho đi học lái nhưng chữ nghĩa đâu mà học?… Các cuộc không chiến với phi cơ Mỹ đều do pilot Bắc Hàn hay Trung cộng lái. Pilot Vi-Xi được cho đi theo, nhiều đứa thú thật với tớ chỉ là… “thợ vịn”! Ngoài Bắc chúng gọi bằng danh từ rất kêu, là “tháp tùng tử”!

    “Người lái” kiêm nhà văn Hữu Mai, hôm đầu tiên khi từ Bắc vô Nam tay không (cầm bó rau), mô tả rằng bọn y đêm đó lo cóc ngủ nghê gì được. Phần vì cấp trên giao phó cho nhiệm vụ học bay A-37 chỉ trong vài ngày – với sức các cậu – “sỏi đá làm thành cơm” tương đối dễ ợt, chứ bay bổng loạng quạng là tan nát đời huê ngay. Cậu tả oán, lý do mất ngủ thứ hai là do… không khí. Mùi máy lạnh và vì cái nệm mút dầy êm quá, các cậu ngủ không quen… “Không khí hơi ngột ngạt. Chắc là còn phải một thời gian mới quen được với cái mùi nhân tạo của máy điều hòa nhiệt độ. Một mùi hăng hắc, nồng nồng. Mùi gì vậy?… Ngoài kia, ở thành phố đang tỏa một vùng ánh sáng xanh trong lên bầu trời đêm, chắc còn nhiều thứ chúng tôi còn phải lạ lắm!”

    Đúng dzậy! Các con sẽ còn thấy nhiều thứ “lọa” hơn nữa ở miền Nam. Cái mùi đó là mùi “hăm-bơ-gơ” của đế quốc, khi đã quen rồi, các con sẽ ghiền và khi ghiền tới độ nặng là các con sẽ chết không kịp ngáp đấy. Mất ngủ, suy nghĩ đến gần phát hoảng, Hữu Mai dẹp tự ái “đỉnh cao trí tuệ”, ao ước, “Giá có mấy anh nhân viên lái cũ của Ngụy ở gần đây để yêu cầu họ ghi lại cho những hàng chữ Anh ở trong buồng lái thì hay quá. Mỗi tối trước khi ngủ say sẽ in luôn nó vào trí nhớ…”

    Mẹ kiếp, khi tỉnh học còn cóc vô, học theo lối “ngủ say” thì học với hành thế chó nào được? Mà chỉ có từ ba tới năm ngày để bay cho được chiếc A-37. Ngụy chúng nó trước khi học lái, phải tới Lackland trụ trì ít nhất vài tháng học Anh ngữ. Hữu Mai sau đó kể rằng y và đồng bọn được hai “nhân viên lái” mới được lựa chọn từ trại tập trung về kèm cho các cậu học Anh văn và học bay. “Cả hai đều gầy nhom. Người cao để râu tên là Xanh, người Quảng Bình, theo gia đình di cư vào Nam năm 1954. Người thấp nhỏ là On, quê ở Gò Công. Cả hai người đều ngạc nhiên khi thấy chúng tôi không hỏi đến vấn đề cơ bản, không hỏi về cách xử trí trong trường hợp máy móc hỏng hóc, mà hỏi ngay vào công-tắc điều khiển những đồng hồ bay…”

    Cái này phải xét lại ạ. “Những vấn đề cơ bản” nghĩa là cần điều khiển phi cơ, là những nút bấm, nút bật để mở máy, để chỉnh động cơ, để điều khiển bánh đáp, góc dựng cánh lái đuôi, vv… các con không cần hỏi tới thì bay cái củ gì? Các con muốn chứng tỏ ta đã ránh nghề, đâu cần biết tới vài ba cái lẻ tẻ, hay hỏi những cái “cơ bản” sợ quê xệ với bọn giặc lái Ngụy? Bọn giặc lái Ngụy, phi công phản lực A-37 bị các con khi dễ, chê là “gầy nhom”, đâu phải vì miền Nam đói khổ, thiếu dinh dưỡng? Mà vì họ mới được móc từ trong “tù cộng sản” ra đấy!


    Cậu Trác Thuốc Lào kể chuyện hồi đó trong chuyến bay chở đồ thổ phỉ ra Bắc, có một thằng đại tá Không quân Việt cộng đi theo, đòi lên phòng lái ngồi ghế copil thay thằng công an “bảo vệ” như thường lệ. Trên đường bay, trời êm ả, cậu Trác lên cơn ghiền, móc cái điếu cầy ra, rít một bi thuốc lào. Đang phê phê khoái tỉ thì anh Đại tá Không quân Nhân dân tò mò hỏi chàng giặc lái miền Nam:
    – Cái đồng hồ này là đồng hồ gì, có mỗi một cánh tay?
    – Dạ, nó là cái đồng hồ “ây-đi-ép” (ADF), dùng để bay phi cụ khi trời xấu không thấy đường, từ điểm này tới vị trí khác. Có nó mới lấy đúng hướng được, không sợ phi cơ mất hướng, bay lạc…


    ADF là “Automatic Directional Finding”. Tên Đại tá Vi-Xi nhìn cậu Trác Thuốc Lào với vẻ nghi hoặc kỳ cục:
    – Anh nói thật chứ? Đề nghị anh giải thích thêm cho tôi được đả thông. Tôi không hiểu sao lại có thứ đồng hồ gì lạ như vậy?

    Cậu Trác nhà ta cũng nhìn tên Đại tá bằng vẻ nghi hoặc kỳ cục không kém:
    – Phi cơ có ba cái đồng hồ phi cụ căn bản là đồng hồ chỉ cao độ, vận tốc và đồng hồ chỉ hướng, hay la bàn. ADF là đồng hồ tìm hướng khác, dùng tần số đài phát tuyến cố định dưới đất.

    Khi thấy thằmg cha Đại tá hỏi, tớ tưởng nó muốn thử, muốn khảo sát trình độ và khả năng của mình, nên tớ ậm ừ không nói. Nhưng sau thấy nó có vẻ không biết thật ông ạ. Nó đưa tay sờ sờ cái đồng hồ, trầm ngâm nghĩ ngợi rồi hỏi nữa, “Anh nói bị mất hướng, dùng đồng hồ này lấy lại được đúng hướng à?”. Nó bảo tớ biểu diễn thử, lúc bấy giờ tớ mới tin là nó không biết thật! Tớ cho phi cơ vòng trái vòng phải, nhào lên chúi xuống, quẹo tới quẹo lui, tăng giảm cao độ lung tung xong mới đem về bình phi, lấy cao độ cũ và chỉnh mũi phi cơ bay theo đúng hướng cũ của đồng hồ ADF. Thằng Đại tá ngồi bên bị vertigo, mặt cứ thộn ra. Mãi nó mới hoàn hồn, tấm tắc:
    – Hiện đại thật…! Đúng là Mỹ có khác!

    Pilot C-130 Trác Thuốc Lào sau đó mới cảm thấy tự nhiên, thấy hân hoan vì mình “nhớn” hơn anh Đại tá Vi-Xi nhiều – ở tài bay và kiến thức phi hành. Trác Thuốc Lào từ hôm đó mới biết rõ:
    Mất miền Nam đau quá. Chúng nó ngu hơn chó chứ tài giỏi gì. Chúng chỉ giỏi lừa bịp và nói phét! Trình độ một thằng Đại tá, khả năng và kiến thức không bằng một Thiếu úy của mình. Tớ có hỏi nó, ở ngoài Bắc phi cơ của các ông không có đồng hồ giống như ADF của chúng tôi, làm sao mà bay từ tỉnh này tới tỉnh kia khi thời tiết xấu hay bay đêm được?

    Xin bà con Không Quân lắng nghe câu trả lời của cậu Đại tá Không quân Hà Nội rất đáng đồng tiền bát gạo như thế này:
    Ngoài Bắc chúng tôi dứt khoát không bay đêm. Chúng tôi có khẩu hiệu “Tự Đi, Tự Đến, Tự Về”. Nghĩa là khi nhìn thấy rõ đường đất làng mạc bên dưới thì người lái cứ việc tự mình bay theo con đường lúc đi và khi về cũng bay theo đường cũ mà về, vừa an toàn mà vừa không cần có người dưới đất điều hành chỉ đạo đường bay như các anh!

    Hèn chi, cậu Trác nói, có lần tớ để cho một thằng giặc lái Vi-Xi lái từ Hà nội đi Tuyên Quang. Nó bay như thằng say rượu, bay rất thấp dưới mây và cứ lò dò bay theo đường lộ. Buổi chiều, theo lời dặn, bốn giờ rưỡi phải trở về Hà nội, tớ ra mở máy… Đang loay hoay check máy thì ba thằng Vi-Xi xách súng AK chĩa vào tớ quát tớ tắt máy đi xuống…

    Lúc đó trời mưa lâm râm. Thằng cán bộ xếp xòng xừng sộ hỏi Trác:
    Đi đâu? Ai cho anh mở máy?

    Trác phân bua:
    Cán bộ bảo bốn rưỡi về mà?
    Không về. Trời mưa. Ở lại đây tối nay.

    Nhưng mưa nhỏ… Mưa phùn bay đâu có sao?

    Y trợn mắt nhìn Trác:
    Anh không biết bay trong mưa nguy hiểm sao? Tôi nói ở lại hôm nay!

    Khả năng của cậu Đại tá Không Quân ngành bay Việt cộng là như thế. Hữu Mai cấp bậc gì, y không giới thiệu, nhưng khả năng chắc cũng chẳng khá hơn đàn anh Đại tá với tiết lộ về khẩu hiệu “tự đi, tự đến, tự về” làm té ngửa bà con Không Quân Ngụy, thoạt nghe tưởng phi cơ được trang bị hệ thống ô-tô-pai-lốt “hiện đại”, tự nổ máy, tự cất cánh, tự bình phi, tự tìm lấy đường về căn cứ, tự hạ cánh, tự lồm cồm bò đi đổ xăng, và tự di chuyển vào bãi đậu…!

    Đêm đầu tiên không ngủ. Đêm sau bớt lo vì đã có hai anh giặc lái Ngụy tên Xanh và On đến giúp nhưng cũng khó ngủ vì cái mùi “hăm-bơ-gơ” của đế quốc nó ám ảnh quá trời trời.

    Hữu Mai thuật lại rằng, Xanh và On đã rụt rè hỏi chúng tôi, “Chúng em muốn đề nghị các anh cho đi theo trong trận đánh được không? Chúng em sẽ không phụ lòng tin cậy của các anh…” Mẹ kiếp, toàn dân Không Quân chúng ta có ai tin được không, cái giọng “điếu đóm” sặc mùi Vi-Xi nghe hèn không tả được. Pilot Không Lực Việt Nam Cộng Hòa làm gì có thói quen xưng hô “anh, em” với cấp trên và cấp trên “mày, tao” với cấp dưới như anh tướng lơ xe Đinh Đức Thiện của quân đội Vi-Xi? Nhờ các cậu một tí. Viết gì thì viết nhưng cũng phải gần với sự thật người ta mới tin. Đem bôi bác địch kiểu đó chỉ làm cho địch nó cười!

    Sau đó Hữu Mai tường thuật đến kế hoạch dùng phi cơ A-37 của VNCH để tấn công bất ngờ phi trường Tân Sơn Nhất nhằm gây chấn động tâm lý và hoang mang quần chúng, đẩy nhanh đà di tản của Mỹ. Y nói đến những mối lo, cốt tăng phần nghiêm trọng cho phi vụ “Biên đội không có máy bay tiêm kích đi kèm để bảo vệ. Nếu kẻ địch phát hiện máy bay lạ từ phía Bắc bay xuống, chắc chắn chúng sẽ dùng bọn F-5 để ngăn chặn…” Và “Làm thế nào để lọt qua mạng lưới ra-đa tối tân của địch trên suốt chặng đường dài từ nơi máy bay cất cánh đến Tân Sơn Nhất? Lần này lại không có đài dẫn đường, chúng tôi đều chưa thuộc địa hình, làm sao bay đến đúng mục tiêu?”

    Hữu Mai còn nói đến nguy hiểm thời tiết, mưa bất ngờ và kể ra nào hệ thống cao xạ phòng không của cả hai phía nhắm bắn vì không biết phi cơ phe nào. Y kể ra một lô những trở ngại nhưng sau đó kết luận, “Mọi trở ngại đều được lần lượt giải quyết (?)”.

    Vai trò của Nguyễn Thành Trung bấy giờ mới được nói đến, “Đồng chí Nguyễn Thành Trung bảo đảm sẽ đưa toàn Biên đội đến mục tiêu. Anh là người của ta hoạt động trong hàng ngũ Không Quân Ngụy, mới từ bên kia chiến tuyến trở về sau khi đã trút hai trái bom xuống dinh Độc Lập. Ta sẽ cố tránh các trận địa cao xạ cả của ta và của địch được chừng nào hay chừng ấy… Chúng tôi sẽ cố giáng cho kẻ địch một đòn thật bất ngờ…”

    Nguyễn Thành Trung dẫn đầu Biên đội tới mục tiêu, với On được tham gia trận đánh. Trung là kẻ đã tích cực đóng góp ý kiến vào kế hoạch đánh Tân Sơn Nhất bởi tên phi công phản quốc này nằm vùng, nắm rất rõ tình hình và địa hình cùng các yếu tố quan trọng khác. Chúng dùng phi cơ A-37 phát xuất từ phi trường “siêu cấp” Phan Rang, sân bay Thành Sơn. Theo kế hoạch, Trung sẽ xuống đầu tiên “cắt” bốn lần bốn trái bom thành một vệt dài làm chuẩn cho những máy bay sau oanh kích.

    Dù có khả năng siêu việt “tự đi, tự đến, tự về” nhưng bọn giặc lái Vi-Xi cũng thập phần vất vả từ Phan Rang bay vào vì… trời mưa! Để chứng tỏ trời mưa nguy hiểm đến độ phi công Ngụy cũng teo bu-di cho đỡ mất mặt bầu cua, Hữu Mai viết, “Sau này, đồng chí Nguyễn Thành Trung nói lại với chúng tôi, trên đường bay có lúc anh nẩy sinh ra ý nghĩ đưa Biên đội quay trở về vì thấy thời tiết quá xấu.” Y mô tả cảnh rùng rợn, khi chiếc A-37 dẫn đầu của Nguyễn Thành Trung chui vào mây, các anh con giặc lái Vi-Xi tí nữa thì… xón đái, thần kinh căng thẳng, bởi như anh Đại tá Vi-Xi đã nói, “Ngoài Bắc trời mưa, chúng tôi không bay!”

    Cũng may cơn mưa nhẹ hều và cục mưa bé tí xíu nên chưa đầy ba mươi giây đồng hồ bọn không tặc Vi-Xi đã bay ra vùng trời sáng rỡ… “Chúng tôi đã ra khỏi mây. Không phải mất nhiều công tìm kiếm, lại nhìn thấy máy bay của Biên đội trưởng…”
    Hú vía. Vừa thoát nạn là các con lại yên tâm nói phét ngay. Hữu Mai, có lẽ là tên giặc lái Mai Vượng viết thế này, “Chúng tôi nhìn xuống mặt đất. Phía trước không xa, hai dãy nhà thấp cao lố nhố nằm dọc theo một trục đường. Đúng là một thị trấn. Bà Rịa đây rồi! Người bỗng cảm thấy nhẹ nhõm hẳn. Đồng bào đi lại rất đông trên mặt đường. Đột nhiên những đám người đông đặc ấy vỡ ra, tóe sang hai bên đường và bỗng chốc quang hẳn đi. Chúng tôi hiểu ngay… Đồng bào tưởng nhầm chúng tôi là những máy bay từ Saigon đến oanh tạc. Lòng chúng tôi se lại với ý nghĩ có hàng ngàn cặp mắt đang ném về phía mình những cái nhìn căm ghét và sợ hãi…”

    Nhờ cậu tí. Saigon ở hướng Nam của Bà Rịa, phi cơ các cậu bay từ hướng Bắc xuống, đồng bào “tưởng nhầm” thế quái nào được? Đoàn người suôi Nam để chạy các cậu đấy, sợ các cậu đấy, căm ghét các cậu đấy. Không Quân miền Nam, trong chiến tranh, đôi khi xảy ra chuyện “ném chuột vỡ đồ”, đồng bào có thể lâm vào cảnh tên bay đạn lạc nhưng con số thật ít nhưng không ai thù ghét Không Quân bằng thù ghét cái bọn đi đến đâu là đem tang tóc điêu linh đến đó như lũ cha con đồng chí của các cậu. Vụ chôn sống mười ngàn người hồi Tết Mậu Thân 68 ở Huế mới khiến đồng bào dẫm đạp lên nhau mà chạy, gây nên thảm trạng “Đại Lộ Kinh Hoàng” hồi Mùa Hè Đỏ Lửa 72 và cảnh di tản “Con Đường Máu” từ Pleiku về Tuy Hòa tháng 3, năm 1975…

    Hữu Mai lòng thòng kể chi tiết “Trận Đánh Cuối Cùng” vào Tân Sơn Nhất với đầy đủ tính chất ly kỳ gay cấn và đầy phét lác kiểu Vẹm ăn không nói có cực kỳ trơ trẽn và nham nhở, ba xạo không thể tả. Chẳng hạn bay hành quân đột kích Tân Sơn Nhất “hoàn tòan bí mật và bất ngờ” nhưng lại dùng tần số hành quân của Không Quân VNCH để nói chuyện với nhau và nghe được “một giọng thất thanh, một giọng nói bằng tiếng Bắc”:
    Số Bốn đi đâu thế kia? Sao lại thế kia? Nhảy dù đi chứ?

    Trái tim chúng tôi thắt lại. Có lẽ nào chưa kịp làm nhiệm vụ mà một người trong chúng tôi đã phải nhảy dù? Nhưng nhìn nhau, vẫn thấy đủ năm chiếc A-37 trên một đường bay ổn định.

    Cái giọng Bắc ban nãy thét to:
    Cháy rồi…! Số Bốn nhảy dù đi!

    Nhìn lại hai tên địch (?), chúng tôi chợt hiểu ra. Một chiếc AD-6 đang bùng cháy. Chắc nó trúng đạn của bộ đội ta tại nơi nó tới oanh kích, cố lê về đến đây, nhưng nó vẫn không thoát. Tên lái chiếc AD-6 này không nhảy dù. Chiếc máy bay lao xuống đất…

    Bố khỉ. Cứ như trong xi-nê-ma! Phải có những chi tiết gay cấn ấy mới nổi bật chiến công vĩ đại của bọn Hữu Mai. Rồi cảnh đánh phá Tân Sơn Nhất cũng được mô tả y hệt cảnh những người hùng trong phim “Bla Bla Black Ship” vừa bay bỏ bom, bắn cà nông, vừa cười vui vẻ ra cái điều ngon lành dũng cảm. Nguyễn Thành Trung đánh trước, bom không ra, làm vòng tiếp. Đại đội phó Từ Đễ theo sau Trung, nhắm hangar A-37 nhưng bom rơi mẹ nó sát chiếc C-130 vừa hạ cánh ở tuốt luốt bên này bãi đậu Whiskey Five (W-5). Rồi Đại đội trưởng Lục thả bốn trái nhưng lóng ngóng chỉ rơi có hai. Sau đó là Vượng và On, nhắm vào hangar A-37 nhưng đều trật lất!

    Hữu Mai viết, “Những việc trên đã diễn ra hết sức nhanh chóng.” Chúng ta hãy đọc tiếp những đoạn văn dưới đây để xét giá trị toàn bộ bài viết “Trận Đánh Cuối Cùng”…

    Đến lúc đó mới nghe thấy tên trực ở sân bay bắt đầu kêu lên:
    Tân Sơn Nhất bị pháo kích…!

    Một tên khác, nghe giọng nói có vẻ là một tên chỉ huy, lập lại:
    Tân Sơn Nhất bị pháo kích! Rồi hắn hỏi tiếp – A-37 của Phi Đoàn nào, xin cho biết tên?

    Giữa lúc đó, Biên đội Trưởng đã lao xuống sân bay lần thứ hai. Nhưng rồi thấy anh kéo lên, tiếp tục lượn vòng. Những trái bom vẫn chưa chịu ra.

    Một giọng nói khác bằng tiếng Anh, chắc là của một tên Mỹ, lập lại câu hỏi của viên sĩ quan trước đó:
    A-37 của Phi đoàn nào?

    Giọng nói có vẻ hách dịch của tên Mỹ đã làm cho Đại đội Phó Từ Đễ nổi nóng. Anh quát to:
    Phi đoàn A-Mê-Ri-Ca đây!

    Mẹ kiếp, thối không ngửi được. Đang bay trên trời, trong phòng lái kín mít, lo bỏ bom, nhắm bắn mục tiêu mà có “thiên lý nhĩ”, nghe được cả “tiếng tên trực ở sân bay bắt đầu kêu lên…” thì quả là con đẻ của Tề Thiên Đại Thánh! Rồi đang từ một thằng “người lái” mới vài hôm trước không biết nổi “mỗi feet là bao nhiêu đơn vị đo lường của ta” và “làm thế nào hiểu được hết những tiếng Anh trong buồng lái…” vậy mà hôm sau đã nghe rành rọt “giọng một tên Mỹ”, hiểu được nó nói gì và tên Mỹ còn biết “lập lại”, dịch ngay tại chỗ ra tiếng Anh câu hỏi của viên sĩ quan Việt, mới ly kỳ! Tên giặc lái Từ Đễ còn biểu diễn màn Tarzan nổi giận, quát to lên cho thằng Mỹ sợ vãi đái! Ghê thiệt..!

    Hữu Mai sau đó, được thể, cương thêm:
    Bây giờ từ sân bay mới vang lên những tiếng hoảng hốt:
    Bốn A-37 ném bom Tân Sơn Nhất… Đề nghị các máy bay hãy tránh xa!

    Cái vụ “nghe thấy tên trực sân bay” ở đoạn trên có thể tạm hiểu là đương sự nghe trên tần số hành quân của bọn Ngụy cũng được đi. Nhưng việc “từ sân bay bấy giờ mới vang lên những tiếng hoảng hốt” thì đúng là… “bu-siệt”! Không Quân Miền Nam đâu có lối nói lịch sự kiểu Vi-Xi “đề nghị”? Người miền Nam nói “yêu cầu tránh xa” chứ trong trường hợp bấn xúc xích đó, làm quái gì có mục “đề nghị tránh xa”?

    Văn nô Hữu Mai vớt vát thể diện cho Biên đội trưởng Nguyễn Thành Trung và bọn thợ gắn bom mà bom không nhả (có thể lính của ta bị ép buộc trang bị bom đạn cho Vi-Xi đã cố tình chơi đểu?)… “Chiếc máy bay của Biên đội trưởng đã giận dữ lao xuống lần thứ ba. Lần này, bốn trái bom của anh cùng rơi một lúc. Một đám cháy mới bùng lên tại khu vực tập trung máy bay tiêm kích F-5…” Xạo ke! Tân Sơn Nhất làm chó gì có khu vực nào tập trung F-5?

    Từ đầu đến cuối tòan nói phét. Nói phét lộ liễu trắng trợn và bất chấp sự hợp lý của sự kiện. Cậu văn nô liên tục nói phét với mục đích đáng bóng thành tích với những chi tiết chỉ có thể đánh lừa được bọn lãnh đạo già nua ngớ ngẩn của các cậu, đánh lừa đám dân miền Bắc đã được họ Hồ làm cho ngu từ năm 1954… Còn đối với nhân dân miền Nam, nhất là với “bọn giặc lái Ngụy”, thì chỉ tổ làm trò cười rẻ tiền như cái phét vĩ đại trong bài “Trận Đánh Cuối Cùng”, khi Hữu Mai viết về chuyến bay trở về của đám không tặc Vi-Xi.

    Từ Đễ gần hết xăng khi về gần căn cứ xuất phát nhưng y biểu diển màn “người hùng” cải lương không chịu được. Y không báo cáo sắp hết xăng, không chuẩn bị nhảy dù và quyết định khi hết xăng sẽ dùng “tốc độ thừa” để chiếc A-37 tắt máy, thành máy lượn, đáp êm ru bà rù cho thiên hạ sợ chơi. Y học bay A-37 trong vòng từ ba tới năm ngày, khoe chỉ mới bay thử có một lần là ra trận!

    Vụ cạn xăng chỉ là bịa đặt, tạo nỗi lo sợ cho có vẻ hồi hộp bà con chơi thôi. Đồng chí Đại đội phó đã nhìn thấy phi trường! Nguyễn Thành Trung bay sau cùng, nhắc “số Hai” Từ Đễ nhớ bật đèn đáp trước khi hạ cánh.

    Đồng chí Đại đội phó nhìn những núm nút trước mặt mình. Anh không tìm thấy công-tắc đèn pha ở đâu. Nhưng không sao, trời tuy gần tối, nhưng anh vẫn cảm thấy thời tiết ở đây tốt lắm vì anh vẫn còn nhìn thấy đường băng. Anh tự bảo, mình chỉ cần giữ sao cho mọi động tác thật chính xác. Chiếc máy bay chiếu hướng đường băng hạ dần độ cao. Đài chỉ huy sân bay đã đồng ý cho Đễ hạ cánh trực tiếp.
    Số Hai bật đèn pha! Biên đội trưởng nhắc một lần nữa vì tưởng đồng chí Đại đội phó quên.

    Rõ! Đễ đáp gọn.

    Anh không trả lời Biên đội trưởng được nhiều hơn vì đang phải dồn toàn bộ tinh lực vào việc tiếp đất.

    Hai bánh xe phía trước đã chạm mặt đường băng. Thế là xong. Chiếc máy bay theo đà tiếp tục lướt về cuối sân. Nó nằm ịch lại không chịu sự điều khiển của anh nữa. Anh không biết dầu của mình đã hết tự lúc nào. Có thể là từ khi máy bay chưa tiếp đất và anh đã hạ cánh bằng tốc độ thừa…

    Độc giả từ bao nhiêu năm sống trong xã hội ưu việt miền Bắc chắc chắn sẽ tin lắm, phục lắm, vì dân trí được Bác và Đảng dạy dỗ phải tin những gì Bác và Đảng muốn dân nghe và tin. Như trước đây phải nghe và tin máy bay Mỹ Ngụy làm bằng giấy và dân quân miền Bắc lấy sào tre… thoọc phi cơ “Con Ma, Thần Sấm” rớt như sung rụng chẳng hạn.

    Nhưng cái bọn nhân dân ngoan cố miền Nam thì phải xét lại ạ. Nhất là bọn giặc lái Ngụy thì dù ngu si cách mấy cũng bật cười phì khi đọc sáng tác “Trận Đánh Cuối Cùng” của Hữu Mai trong tuyển tập Văn 1957-1982 của Hội Văn Nghệ Sĩ Quân Đội Việt Cộng. Trong đó, những “người lái anh hùng” mang nhãn hiệu Vi-Xi đã học Anh văn và học bay phản lực cơ chiến đấu A-37 trong vòng năm ngày, có đứa chỉ bay thử có một phùa là bay vung vít, đánh đấm vung vít, nói tiếng Anh vung vít. Cả bầy bay hồ hỡi tới lúc sắp cạn xăng (chúng gọi là dầu) cũng cóc biết. Không biết cả tới cái công-tắc bật đèn pha nằm ở chỗ nào và đáp mò, đáp không đèn ở một phi trường nhỏ và xa lạ, khi phi cơ đã tắt máy và đáp như để!

    Cậu Pilot Trác Thuốc Lào nghe chuyện chỉ cười khinh khỉnh ra cái điều “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi!”… Hữu Mai kết luận rất dzui thế này:
    Mọi người cười ầm lên. Khi trận đánh đã hoàn thành, khó khăn đã qua rồi, thì những chuyện như vậy lúc này đều có thể trở thành chuyện vui…

    Đúng như dzậy. Dzui dễ sợ. Cũng may Hữu Mai, có lẽ là tên giặc lái Vi-Xi Mai Vượng đã “hy sinh”, ngỏm củ tỉ trong trận đánh nhau với thằng đàn anh Trung Quốc, bị mấy mụ xẩm du kích Tầu phù cầm sào tre thoọc rớt, chết lăn cù đèo, nếu không, bây giờ độc giả còn được thưởng thức nhiều sáng tác dzui hơn nữa. Như chuyện “người lái anh hùng” Hiệp Sĩ Mù của đảng cướp Vi-Xi đáp phi trường Ngã Năm Chuồng Chó chẳng hạn – và đáp không đèn. Thật đáng tiếc!

    Đào Vũ Anh Hùng

    _____________________



    Tên phản tặc Nguyễn Thành Trung, sau khi đem giặc Cộng về ném bom Dinh Độc Lập ngày 28/4/1975

    Thật sự, tôi không muốn viết những dòng này, viết về sự thực của câu chuyện cũ, câu chuyện này được ông kể lại theo cách bịa đặt của ông, nhiều tưởng tượng, có phần cổ xúy cho cá nhân ông, che lấp đi cái thực của ông mà tôi và nhiều người, trải qua một thời gian dài không muốn nói đến nữa, đó là sự phản bội, vong ân cái quá khứ mà ít nhiều gì cái quá khứ này đã nuôi dưỡng, dạy dỗ ông, trong hoàn cảnh côi cút, không nơi nương tựa thưở ấu thơ của ông. Bài viết này, không nhằm gửi đến riêng ông, (cũng không cần phải nói đến những lời lừa mị, dối trá mới đây, về cuộc Hải chiến Hoàng Sa, 1974 của Hải Quân VNCH Hoàng Sa, 1974), và cũng không để đính chính với Mark về những điều lệch lạc, thiếu trung thực của ông đã nói với Mark. Tôi chỉ viết cho đồng đội của tôi, cho đồng bào tôi đọc, riêng cá nhân ông, với luận điệu thiếu trung thực, thêm thắt bịa đặt của ông, trong cuộc nói chuyện với Mark, bài viết này không muốn những con người khoác loác, dối trá với chính mình như ông được đọc nó.

    Vào khoảng tháng 4 năm 2000, qua một cuộc phỏng vấn của Mark McDonald, một ký giả Hoa Kỳ đã đến Sàigòn phỏng vấn ông. Sau khi qua trở lại bên Hoa Kỳ, bài phỏng vấn này đã được đăng rộng rãi trên khắp Hoa Kỳ, cả trên mạng lưới thông tin điện toán toàn cầu. Nội dung bài, phản ảnh đầy đủ tất cả những gì ông đã nói, không thêm bớt sửa chữa (tôi tin điều này bởi ký giả ở các xứ tự do rất ít khi thêm thắt, bịa đặt). Tôi và đồng đội của tôi, đồng bào của tôi, tất cả đều đã xem bài tường thuật này. Không ai thèm trả lời Mark, không ai thèm viết để đính chính với công luận ở đây, hoặc ở VN, hay bất cứ chỗ nào trên toàn thế giới này, về những điều ông nói thông qua Mark. Chúng tôi và mọi người đều cảm thấy vô bổ, mất thì giờ khi phải tranh luận, hay giải thích bất cứ điều gì với ông và các “đồng chí” của ông, bởi thật mất công khi phải làm những điều này với những con người không còn biết sự thật, những con người hầu như cả cuộc đời chìm đắm trong u mê tưởng tượng, sống còn và thăng tiến bằng việc ăn gian nói dối, lừa phỉnh với đồng bào, cả với các “đồng chí”, và với chính bản thân của họ.

    Đi thẳng vào bài phỏng vấn được viết lại dưới dạng một loại tự thuật, nhân vật chính là ông. Toàn thể bài tự thuật này có thể tóm gọn lại bằng câu kết luận sau cùng của ông: “Tôi mến các đồng đội của tôi lắm, nhưng tôi không quan tâm gì về những điều họ nghĩ về tôi, việc tôi làm vào những ngày cuối tháng 04 năm 1975 duy nhất chỉ nhằm kết thúc cuộc chiến thê lương nhất của Việt Nam, nhiều sinh mạng hy sinh oan uổng, tôi có bổn phận phải kết thúc cuộc chiến này trong khả năng của mình, đem lại thanh bình cho đồng bào tôi, cũng là một việc làm báo thù cho cái chết của cha tôi bị chính quyền miền Nam sát hại.” Bỏ ra ngoài tất cả những đoạn viết trong bài được trinh thám hóa bằng cuộc đời mai ẩn của ông trong giới học sinh, sinh viên Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi, được ăn học bằng sự nuôi dưỡng của chính quyền VNCH, rồi trà trộn vào hàng ngũ Không Quân VNCH chúng tôi, cuối cùng thi hành những mệnh lệnh của Việt cộng, phản bội lại tất cả những gì được thụ ơn, chịu nghĩa…

    Tất cả các đoạn này kể lại không lớp lang thứ tự, nhiều chỗ mang tính cường điệu, anh hùng cá nhân, thậm chí khi kể về công việc chuyên môn của một người lái máy bay, nó cũng sai và thêm thắt, bịa đặt, hoàn toàn không phù hợp với những hiểu biết bình thường của một người biết lái máy bay. Như đã nói ở trên, tôi chỉ tóm gọn bài tự thuật này bằng phần kết thúc bài nói chuyện của ông với ký giả Mark McDonald, và tôi chia phần này thành 2 vế:

    Vế thứ nhất: Mục đích của việc ông oanh kích vào Dinh Độc Lập và dẫn dắt những nhân viên phi hành của Việt cộng về không tập Phi trường Tân Sơn Nhất , theo ông nói là “nhằm kết thúc cuộc chiến thê lương nhất của Việt Nam.” Sự thật, như ông và tất cả mọi người đều biết, cuộc chiến ở Việt Nam chẳng kết thúc sau ngày 30 tháng 04 năm 1975, Việt cộng đã lôi cuốn toàn dân Việt Nam vào một cuộc chiến khác, cuộc chiến mà hậu quả và di hại không kém cuộc chiến ý thức hệ trước đấy. Nhiều trăm ngàn thanh niên Việt Nam, thế hệ đàn em, cả những thế hệ con, cháu chúng ta, tiếp tục bị xô đẩy vào cuộc chiến thê lương, tàn nhẫn này. Đó là cuộc chiến ở các chiến trường Căm Bốt, Lào và cả phần biên thùy phía Bắc, tiếp giáp với Trung cộng. Chứng tích và hậu quả của cuộc chiến tranh này còn rõ rệt đến hôm nay với nhiều nghĩa địa, bạt ngàn bia mộ ở một số huyện lỵ của tỉnh Tây Ninh, Cao Bằng, Hà -Tuyên, v..v.. nơi chôn cất thi hài của những thế hệ sau chúng ta đã mạng vong oan uổng. Cả nước đã nhìn ra sự thực của câu nói : “Chiến thắng giặc Mỹ xong, ta sẽ xây dựng đất nước bằng năm, bằng mười ngày nay…”. của HCM, đã lừa phỉnh hoặc trí trá với nhân dân mình, trong đó có cá nhân ông đấy ông Trung ạ!

    Hậu quả này còn kéo dài theo từng đoàn thương phế binh của cuộc chiến sau 30 tháng 04 năm 1975, xuất hiện nhan nhản khắp nẻo đường các thành phố lớn, chưa hết ! dân Việt Nam chúng tôi còn gánh thêm cái món nợ tiền tệ, khí tài mà Việt cộng đã vay mượn các nước “Xã Hội Chủ Nghĩa anh em”, để tiến hành giấc mộng bá chủ bán đảo Đông Dương, như Lê Duẩn và bè lũ thường huênh hoang khi còn sống. Cho đến tận hôm nay, sau cuộc chiến “ý thức hệ”, Việt Nam, nhiều chục ngàn thanh niên Việt Nam còn ngủ bờ, ngủ bụi bên Vương quốc Lào, nhiều trăm ngàn thanh niên khác phải gác bỏ chuyện học hành, chuyện phụng dưỡng cha mẹ già, dạy dỗ các em thơ để sung vào “bộ đội”, tiếp tục cuộc chiến do Việt cộng đang ôm ấp, chờ đợi khởi phát. Kết luận, những điều trình bày ở vế này là: Chiến tranh ở Việt Nam chưa hề chấm dứt kể từ sau tháng 04, 1975. Ông đã nói láo với Mark, nói không đúng với sự thật của Việt Nam, bóp méo đi sự thực mà ông biết rất rõ. Việc ông nói láo do tính chủ quan hay khách quan, do chính ông hay do chế đô. Việt cộng ra lệnh cho ông, tôi không bàn ở đây.

    Vế thứ hai: Trong câu kết luận trong cuộc trao đổi giữa ông với Mark là ông oanh kích vào dinh Độc Lập, và dẫn dắt Việt công về oanh kích vào phi trường Tân Sơn Nhất cũng để trả thù cho cái chết của thân phụ ông. Thân phụ của ông, theo như lời ông giới thiệu khi mở đầu cuộc nói chuyện với Mark, là một du kích Việt cộng. Ông còn khoe là có đâu đó vài người anh trai cũng là du kích Việt cộng. Ở vế này, tôi phải dài dòng về thân phụ của ông trong vai trò “du kích quân” Việt cộng. Trước đây , nhân dân Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi biết rõ và cũng từng chứng kiến những vụ ám sát, thủ tiêu, khủng bố đẫm máu, của du kích Việt cộng nhắm vào hàng ngũ viên chức chính phủ, quân nhân của Việt Nam Cộng Hòa, và cả những người dân lành vô tội. Đó là các vụ đặt chất nổ trong thành phố, gài mìn trên quốc lộ, đánh phá các Ấp Chiến Lược, và cao điểm của các hành động khát máu này là việc du kích VC tấn công vào rất nhiều bệnh viện ở các làng xã xa xôi, cướp bóc thuốc men, y cụ, đốt phá nhà thờ, chùa chiền… Sau này, quy mô tàn sát của Việt cộng to lớn và tàn ác hơn qua những hố chôn người tập thể ở Huế vào Tết Mậu Thân, 1968, pháo kích vào các thành phố, pháo kích cả vào các trường tiểu học, v..v..

    Còn nhiều vụ việc nữa nhưng vì khuôn khổ hạn hẹp của bài viết này, tôi không thể kể hết ra được. Tất cả những hành động tàn ác này, Việt cộng và cụ thể là các tầng lớp du kích, nằm vùng, sớm đầu, tối đánh như thân phụ của ông, đã gây ra trên lãnh thô? Việt Nam Cộng Hòa của chúng tôi. Trước những hành động khát máu, mang tính phá hoại sự an ninh và thanh bình của Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi, không cần phải là một thanh niên, dẫu chỉ là một người bình thường nào nhất trong một đất nước đang xây dựng và phát triển, ai cũng cảm thấy cần phải làm một cái gì để ngăn chặn những hành động sát nhân, phá hoại man rợ, thiếu tính người này, đồng thời để bảo vê. An ninh tối thiểu cho đồng bào, lương dân vô tội, bảo vệ các thành quả y tế, giáo dục, kinh tế, v..v.. của đất nước có luật pháp và hiến pháp mà mình đang sống. Do vậy, việc thân phụ ông phải đền tội do các tội ác mà ông ấy gây ra, như lời ông thuật lại, công bình mà xét, không có gì là quá đáng. Tuy nhiên, ông có nói thêm, thân phụ ông “bị xử bắn ngay trước mặt thân mẫu và chị em gì đó của ông, sau đấy những người xử bắn còn kéo lê xác của thân phụ ông trên những con đường mòn của tỉnh Bến Tre …” Tôi e rằng ông cường điệu và thêm thắt tình tiết việc này. Dẫu sao, việc xử bắn những người gây tội ác với lương dân vô tội, phá rối trị an của Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi là việc cần làm trong một quốc gia có luật pháp và hiến pháp, điều này không cần bàn cãi thêm, cũng ví như dưới chế đô. Việt cộng hiện nay, nhiều người bị xử bắn vì vi phạm những điều quy định do đảng Việt cộng ban hành. Việc cần xem xét và phân tích để xác định những điều ông thêm thắt, tăng cường tính chất tàn ác của những người xử bắn thân phụ ông, mà thâm ý của ông muốn gán ghép cho cả chế độ và chính quyền Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi trước công luận, thông qua một anh ký giả nước ngoài. Chúng ta cùng xem xét và luận bàn việc này. Ông từng được ăn học dưới chế độ của chúng tôi, ông khoe với Mark, ông từng là sinh viên Đại Học Khoa Học Sàigòn, thiết tưởng ít nhiều gì, ông cũng biết chút ít về Pháp luật và Hiến pháp của VNCH chúng tôi. Việc xử bắn một tội phạm nguy hiểm nào đấy, luôn luôn được thi hành theo luật pháp và hiến pháp đương thời, tiểu đội hành quyết, sau khi thi hành xong bản án, họ thường thông báo cho thân nhân của tội phạm đến để nhận thi hài của tội phạm về an táng. Trong trường hợp, không ai thừa nhận thi hài của tội phạm (cụ thể là trường hợp của thân phụ ông đấy), chính quyền sẽ tiến hành mai táng theo thủ tục bình thường, một phần vì luật pháp đã quy định, một phần để bảo đảm vệ sinh môi trường chung quanh. Những công việc này, thật sự được chu tất bởi tính pháp trị của một đất nước có Hiến pháp và Luật pháp. Không một cá nhân, tổ chức nào được quyền xâm phạm vào thi thể của tội phạm, cho dẫu kẻ tội phạm ấy khi còn sống, gây ra nhiều tội ác man rợ, gây nợ máu với nhiều người, như thân phụ của ông.

    Việc ông mô tả là ai đấy, đã lôi kéo xác của cha ông trên các con đường đất ở tỉnh Kiến Hòa năm xưa, xem ra không mang tính thực. Nếu có ai đó, vì căm hờn thân phụ của ông, lúc sinh thời từng hãm hiếp vợ con của họ, ám sát thủ tiêu thân nhân của họ, gài mìn các chuyến xe đò, đặt chất nổ ở chợ búa, gây tử thương cho thân nhân đồng bào của họ, họ cũng chỉ oán hận cho đến khi pháp luật xử bắn cha ông là xong, chẳng ai có thì giờ để làm thêm cái việc vô ích, mất vệ sinh là lôi kéo cái xác bị bắn kia lê thê trên đường đất đâu đó. Hơn nữa, cơ quan pháp luật, nơi ban hành bản án tử hình cha ông, chắc chắn sẽ không dung tha cho những người làm các việc này đâu. Không phải vì họ thương xót gì thân phận của một gã du kích hèn nhát, khát máu kia đâu, duy nhất bởi luật pháp không cho phép ai được làm như vậy. Còn việc ông cứ khư khư, cùng luận điệu như các “đồng chí” của ông, phủ nhận hiến pháp và luật pháp của Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi, gán ghép các việc làm không có kia cho chế độ và chính quyền chúng tôi, thì quả ông và các “đồng chí” của ông có lệch lạc tư tưởng, mất lập trường khi nói lên điều đó. Tại sao để có thể kết luận cái lập trường chao đảo của ông và các “đồng chí” của ông qua việc các ông phủ nhận hiến pháp và luật pháp của VNCH chúng tôi ? Đơn giản thôi, vì thật sự một đất nước vô hiến pháp, vô luật pháp, muốn bắn ai thì bắn, bắn xong muốn lôi kéo xác tội phạm đi đâu, làm gì thì làm, thì thật sự đó là một đất nước hỗn loạn, vô trật tự, vô tổ chức. Một đất nước như vậy, quân đội Việt cộng phải hy sinh trên một triệu sinh mạng, mất một thời gian trên 20 năm, vay mượn các nước “Xã Hội Chủ Nghĩa anh em” tiền tỉ tỉ để mua vũ khí và quân dụng, mới triệt hạ được thì e rằng cái quân đội Việt cộng kia quả bạc nhược và cái chiến thắng mà chúng có được là do cơ may, hên xui, chứ làm gì còn quân đội “anh hùng, chiến thắng nghiêng trời lở” đất như “Bộ Chính Trị” của ông thường rêu rao.

    Trong thời gian chúng tôi bị cầm giữ ở các trai tù “cải tạo”, có một vài đồng đội tôi vì không kham nổi sự cơ cực, đói rét, họ vượt ngục; công an, bộ đội truy lùng, đuổi theo và bắt lại được, trước khi sát hại anh em đồng đội chúng tôi, lũ người này đánh đấm, làm tất cả những gì có thể nói là tận cùng của sự dã man. Sau khi bắn đồng đội chúng tôi xong, họ không chôn cất như chúng tôi đã làm với thân phụ của ông, chúng tôi tự nhặt nhạnh thi thể của đồng đội, bó vào trong các bao bố bằng ny lông, dùng để đựng phân bón, chúng tôi cáng thi thể đồng đội chúng tôi trên một cái ky dùng để khiêng đất hàng ngày, đi chôn! Chúng tôi chẳng cần phải kể với Mark, hoặc kể lại với thân nhân, vợ con của đồng đội chúng tôi về những hành động này của người Việt cộng các ông, bởi chúng tôi chấp nhận sự trả thù tán tận lương tâm này của chúng, và tự xem cái chết của cá nhân mình, của đồng đội mình là sự hy sinh cần có cho chính thể và đồng bào Việt Nam Cộng Hòa của chúng tôi. Cứ bình tâm mà suy xét, ngay chính bản thân của ông, khi dẫn dắt Việt cộng vào oanh kích phi trường Tân Sơn Nhất, thù ấy kể như đã trả xong, nhưng Việt cộng thì không dừng lại ở đấy, việc đày đọa các Quân Cán chính của VNCH trong các trại tập trung, cứ xem như để trả thêm mối thù cho cái chết của thân phụ ông, thế còn việc nhiều đồng bào vô tội khác, quanh năm họ chỉ buôn bán, làm việc bình thường như bao người bình thường khác trên thế giới, phút chốc mất nghiệp, mất nhà cửa, ruộng đất, công ăn việc làm, mất tất cả những gì của cuộc sống bình thường mà trước đấy, chúng tôi chiến đấu bảo vệ cho họ. Nhiều thanh thiếu niên khác của miền Nam Việt Nam chúng tôi, phút chốc họ bị lôi ra khỏi gia đình, học đường, lôi khỏi tuổi Xuân, để bị xô đẩy vào các lò lửa chiến cuộc do Việt cộng chủ xướng, … Chẳng lẽ cũng vì cái chết của thân phụ ông mà Việt cộng ưu ái trả thù cho ông chăng?…

    Ngay lúc này, khi những dòng này đang viết, Tổ Chức Nhi Đồng Liên Hiệp Quốc có đưa ra các báo cáo trước công luận thế giới về mức độ lợi dụng trẻ em tuổi vị thành niên trong lao động và sản xuất của Việt Nam, và còn phải kể đến việc không ít các em trở thành phương tiện mua dâm của những con dã thú đến từ Hương Cảng, Mã Lai, và nhiều nước khác nữa khi đến Việt Nam du lịch, hẳn các em bé ngây thơ vô tội này cũng đón nhận mối thù của ông thanh toán cho cái chết của thân phụ ông ? … Rộng lớn hơn, hẳn tất cả đồng bào Việt Nam từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau đang đói rét, lầm than, tha phương cầu thực ngay trên chính quê hương xứ sở của mình, bị các tầng lớp công an, viên chức Việt cộng hà hiếp, đàn áp, bóc lột, họ bị như vậy vì cái mối thù của ông hẳn? … Chúng tôi, những người vì lý do này hay vì lý do khác, tất cả đều phải bỏ Việt Nam ra đi, chúng tôi có những mối thâm thù với Việt cộng, hầu hết những người Việt Nam ở hải ngoại hiện nay, đều có người thân bị tử vong vì sự trả thù cuồng bạo của Việt cộng, nếu không thì cũng phải tiêu gia, bại sản vì bè lũ tay sai, cướp bóc, tịch thu tài sản, nhà cửa, đất đai, ruộng vườn, … và rất nhiều anh em chúng tôi tự các trại tập trung trở về với gia đình, xã hội, chúng tôi ghi nhớ mối thâm thù này đến chết!

    Nhưng, khi đất nước bị thiên tai, lũ lụt, đồng bào lâm cảnh màn trời chiếu đất, chúng tôi không nghĩ đến mối thâm thù này, chúng tôi tự quyên góp, vận động để gửi về Việt Nam những đồng tiền có được bằng mồ hôi, nước mắt trên đất khách, quê người, để mong xoa dịu phần nào nỗi thống khổ đã triền miên nhiều đời trên dân tôi, nước tôi. Chúng tôi biết, và biết rất rõ, trong những bàn tay ngửa ra nhận những ân tình của chúng tôi chuyển về, có cả những bàn tay của những kẻ năm xưa đã thẳng tay sát hại cha mẹ, anh em, thân nhân, đồng đội chúng tôi, có cả những bàn tay đã từng cướp sạch tiền của, nhà đất, ruộng nương, cùng công ăn việc làm thường nhật của chúng tôi, … Chúng tôi cũng biết thật rõ, không ít người trong hàng ngũ “đồng chí” của ông sẽ ăn chặn, bớt xén những đồng tiền mồ hôi nước mắt của chúng tôi gửi cho đồng bào các vùng thiên tai, bão lụt, và chúng tôi cũng biết thật rõ những đồng chí các ông hiện nay, bây giờ, ăn nhậu, tiệc tùng sang trọng hơn chúng tôi rất xa, có những đồng chí của ông hiện đang có con em theo đuổi các Đại Học đắt tiền trên Hoa Kỳ mà chính bản thân con em chúng tôi đang ở Hoa Kỳ, hàng mơ ước, mong đợi. … Chúng tôi biết rất rõ, nhưng chúng tôi vẫn phải làm, vẫn phải dè sẻn mức chi dụng để thi hành cái bổn phận, cái tính người kia. Cái tính người này, chúng tôi được học hành và dạy dỗ tự bé ở Việt Nam Cộng Hòa ông Trung ạ. Dẫu ly tông xa tổ, chúng tôi vẫn gìn giữ, bởi chúng tôi ý thức một điều, đánh mất cái này, tức là trở thành thú vật, là trâu, chó,là heo ngựa, v..v..

    Ông cũng từng được hấp thụ nền giáo dục này của Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi, trong vòng tay bảo vệ của chúng tôi năm xưa, ông không phải gọi kẻ xa lạ nào đấy bằng “Bác” khi còn tấm bé, ông cũng không phải quên công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy để ghi nhớ cho cái công ơn bố láo của “Đảng” gì đó, của “Bác” gì gì đó, cho đến ngày ông phản bội chúng tôi. Ngay cả đến phút cuối, khi ông mờ mắt vì những hứa hẹn hão huyền của Việt cộng, để làm cái chuyện phản tặc năm xưa, hẳn ông vẫn chưa quên ?… Lúc ấy, ông đã bỏ vợ, bỏ con lại trong vòng tay của chúng tôi, thi hành cái mệnh lệnh của Việt cộng mà như ông đã nói với Mark là đã được bàn thảo, kế hoạch rất kỹ trước đấy. Ông dẫn dắt Việt cộng trở về oanh kích nơi đang cưu mang vợ con ông. Giả dụ, một quả bom oan nghiệt nào đấy vô tình giết hại vợ con ông trong vòng tay của chúng tôi, hẳn ông sẽ có thêm chuyện bịa đặt, thêm thắt nữa về những cái tính người của chúng tôi cư xử với kẻ phản bội, kẻ phản quốc, tên tội phạm nghiêm trọng ? … Nhiều năm trôi qua, ông có nghĩ đến việc này không ? Suốt bao nhiêu năm qua, có lúc nào ông tự hỏi, tại sao khi ông liều mình thi hành mệnh lệnh của Việt cộng, để Việt cộng lại có thể nhẫn tâm, bỏ vợ con lại trong vòng tay của chúng tôi không? Việt cộng và hàng ngũ nằm vùng, du kích không ít trong lãnh thổ của chúng tôi, tại sao chúng không đem vợ con ông ra mật khu trước, để ông được yên tâm thi hành cái việc làm do chúng chỉ thị ?… Thử một lúc bình tâm nào đó, suy nghĩ chín chắn về điều nay theo cái nhìn trung thực nhất của người bình thường xem sao?… Rất là vô ích khi kể lể điều này với ông, nhưng vẫn phải nhắc đến, viết lại, vì đây là cái tính người, bình thường như bao tính người khác mà ông và các “đồng chí” của ông chưa từng biết, chưa từng làm được, chưa từng ao ước vươn đến. Còn nếu, ông xem việc bỏ vợ con lại cho chúng tôi để tích cực thi hành nhiệm vụ Việt cộng giao cho ông, là chuyện chuyên chính vô sản, thì quả là ông cũng đạt đến được cái đích vô gia đình của Việt cộng trước khi quay đầu về với chúng. Riêng cá nhân tôi, tôi nghĩ, trong thâm tâm của ông, lúc ông quyết định thực hiện cái ý đồ riêng tư nọ, ông đã chắc ăn là Quân chủng Không Quân Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi biết tôn trọng, luật pháp và hiến pháp của đất nước mình, chúng tôi hành xử công việc theo tinh thần thượng tôn luật pháp, không bao giờ tiểu nhân, trả thù ông bằng cách đày đọa vợ con ông, bắt vợ con ông đi “vùng kinh tế mới” để cưỡng đoạt nhà cửa, ruộng vườn, dụng cụ sản xuất, nhà máy, công ăn việc làm, như Việt cộng từng làm với vợ con chúng tôi, do vậy, do chắc ăn như vậy, ông để vợ con lại thủ đô Sàigòn an toàn hơn là cưu mang về vùng “giải phóng” của các “đồng chí” của ông…

    Kết luận cho đoạn viết dài dòng này, điều ông tường thuật với Mark về cái chết của thân phụ ông cũng thiếu trung thực, thêm thắt, chính xác hơn là tuyên truyền, ngụy biện cho hành động phản tặc của ông đã làm vào những ngày tháng 04 năm 1975. Hôm nay, khi viết những dòng này, tôi vẫn còn uất hận, nhiều đồng bào tôi, đồng đội tôi không thể quên kẻ thù và những tội ác của chúng, nhưng chúng tôi phải nén nỗi uất hận này trước hoàn cảnh tang thương tang tóc của nhiều đồng bào chúng tôi đang màn trời, chiếu đất, đang vô vọng trước cảnh đói rét chưa từng trong đời,chúng tôi tạm nguôi nỗi uất hận, sự căm thù để nghĩ về đồng bào chúng tôi. Chúng tôi thừa biết ông và các đồng chí của ông đang mỉm cười đắc chí vì đạt được những mưu đồ đã sắp đặt, và nhiều đồng chí của ông, đôi khi cả chính bản thân ông đang ký sinh vào những ân tình của chúng tôi gửi về cho các đồng bào khốn khổ này ! … Bởi như đã nói, chúng tôi không thể mất đi cái tính người mà chúng tôi được nuôi dậy từ chính thể VNCH.

    Bài viết này muộn màng so với thời điểm mà ông trình bày quan điểm lập trường của ông với một phóng viên Mỹ. Nhưng tôi vẫn viết, không để tranh luận hơn thua với những điều ông nói với Mark, lại chẳng cần phải thanh minh gì với công luận về những điều này, duy chỉ trình bày một điều thực, việc thực, con người thực từ những những chuyện thực, thuộc thiên niên kỷ trước. Tôi cũng không quan ngại việc ông và các “đồng chí” của ông sẽ bóp méo lịch sử Việt Nam như nhiều người thường lo ngại, bởi tôi tin một điều: Những con người trí trá, gian dối, lừa thầy phản bạn, những kẻ này thường hay sợ sự thực, sợ đối diện với sự thực, mà lịch sử luôn luôn là sự thực, việc thực, người thực, do vậy, ông và các “đồng chí” của ông không làm sao có thể bóp méo được lịch sử! Ông cũng đừng lo là về sau này, nếu chúng tôi có giành lại được chính quyền ở Việt Nam, chúng tôi sẽ không bắt ông đi trình diện, để sau đó gửi ông vào một trại tập trung xa xôi hẻo lánh nào đó, nơi đó ông sẽ bị bỏ đói, bị lao động khổ sai, chết dần, chết mòn như Việt cộng đã làm với tôi, với anh em đồng đội chúng tôi khi chúng cướp được nước Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi, chúng tôi sẽ không làm như Việt cộng đã làm, để trả thù việc ông phản bội chúng tôi đâu. Chúng tôi không quan tâm gì mấy về cái việc gian dối, trí trá của ông đâu, vì bởi như tôi đã nói, chúng tôi phải bảo vệ cái tính người sẵn có của chúng tôi. Còn một điểm nhỏ, tôi cần nói thêm với ông, trong đoạn cuối của bài tường thuật với Mark, ông gọi chúng tôi là đồng đội ! … Tôi e rằng ông đi hơi xa và quá hấp tấp để dùng chữ đồng đội này. Nhắc ông nhớ một điều, hai chữ đồng đội và “đồng chí” khác nhau xa lắm ông Trung ạ ! Ông từng có thời gian đứng trong hàng ngũ chúng tôi, chắc ông ắt hiểu cái ý nghĩa cao quý của chữ đồng đội. Nhiều anh em chúng tôi từng hiên ngang bước tới, nhận lãnh cái oan nghiệt của chiến tranh thay cho chúng tôi, vì cái ý nghĩa đồng đội này. Cho mãi đến hôm nay, chúng tôi vẫn gọi nhau là đồng đội, dẫu chúng tôi bước ra khỏi cái tử sinh của chinh chiến, vì chúng tôi nặng nợ với nhau, thật sự là đồng đội của nhau, cùng nhau nhìn về một hướng, cùng phong cách khi còn sống, thật sự thương xót, đau đớn khi nhìn đồng đội mình còn bị giặc cầm giữ, hành hạ, thảm sát. Chúng tôi biết nhục nhã, hổ thẹn khi vì bất cứ lý do gì, quay lưng đi trước sự đau khổ của đồng đội, phản bội lại đồng đội. Giữa chúng tôi, chưa hề có đồng đội nào chạy sang phía Việt cộng, dẫn dắt, chỉ bảo Việt cộng cách thức, đường lối để đày đọa, tàn sát đồng đội mình. Chữ đồng đội ý nghĩa như vậy ông Trung ạ ! Khác xa lắm cái chữ “đồng chí “mà ông và một số kẻ khác đang dùng.

    Nói như vậy, thật sự cũng không phải tranh luận đúng sai gì với ông, chỉ để ông và tôi cùng nhìn lại, hiểu đúng về một vài ngôn từ Việt Nam. Dầu sao, ông vẫn có thể sử dụng lại cái chữ đồng đội mà ông nói, một khi ông làm được những điều vừa nói ở trên. Không cần ông phải lấy cắp một chiếc Mig 21 nào đó, vất một hai quả bom vào chỗ làm việc của “Trung ương đảng” Việt cộng, chúng tôi cũng không cần ông chỉ bảo cách thức bay Mig 21 để được ông hướng dẫn bay ra phi trường Kép, hay Nội Bài, hoặc Tân Sơn Nhất hiện nay, để oanh kích những mục tiêu này; ông không cần thiết phải làm những việc này ông Trung ạ ! Chỉ hiểu đúng, và thực hiện đúng cái nghĩa đồng đội như tôi dẫn ở trên là đủ. Để kết thúc bài viết này, tôi lập lại một lần nữa, bài này dành cho những người trung thực, chỉ biết nói điều thực đọc nó, rất tiếc, ông đã đánh mất cái tính người này, kể từ ngày ông phản bội chúng tôi, chạy theo Việt công, do đó, ông không còn tư cách gì để đọc nó, dẫu ngay trên đầu bài viết này, đề tên của ông: Nguyễn Thành Trung, tuy nhiên như ông đã nói với Mark, cái tên này cũng không thực là của ông, mà là tên của một thanh thiếu niên nào đó, ông lấy giấy tờ hộ tịch của người này để len lỏi vào hàng ngũ chúng tôi, thực hiện việc riêng tư của ông. (tên thật của Nguyễn Thành Trung là Đinh Khắc Chung). Điều lẩn quẩn này ông cũng không xa lạ gì, vì chính cái tên Hồ Chí Minh mà hiện nay, ông và một số người khác đang ca tụng, sùng bái, nhưng đã có người nói là “tên của một lão già Trung Hoa nào đó bị ho lao, chết vô thừa nhận trong một bệnh viện hẻo lánh bên Trung Hoa lục địa lâu lắm rồi, ai đấy đã lấy giấy tờ hộ tịch của lão này sử dụng lại, để làm việc gì đấy”, để đến hôm nay, ông và một số kẻ khác tung hô, ngưỡng mộ cái tên Hồ Chí Minh Trung Hoa lục địa này ! Cũng như các tên Lê Duẩn, Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Mai Chí Thọ, Đinh Đức Thiện, Đỗ Mười, Tố Hữu, Phạm Hùng, Mai Thị Lựu, Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Thị Định, Võ Văn Kiệt, Trần Bạch Đằng,v..v.. , tất cả đều là tên của một kẻ vô danh tiểu tốt nào đó, không hề có lai lịch, gốc gác hộ tịch trong Việt Nam, để hôm nay, có một số người “nhắc nhớ, tưởng niệm, suy tôn.” Điều tiếu lâm này, những người Không Quân trên toàn thế giới này lấy làm xa lạ, nực cười, trừ ông và các “đồng chí” của ông ra.

    Một người Lính Không Quân VNCH


Hội Quán Phi Dũng ©
Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




website hit counter

Working...
X