Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Đ. Chót là Tôi

Collapse
X

Đ. Chót là Tôi

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Đ. Chót là Tôi

    Đ. Chót là Tôi


    Nguyễn Châu


    Tên tôi là Lê Đ. Chót. Trong khai sinh ghi rõ ràng như vậy. Tôi đi học, cô giáo thấy chữ lót lạ lùng, tôi ấp úng không giải thích được. Ngày tôi sắp ra đời, mẹ hỏi cha đặt tên tôi là gì, Cha nói gọn lỏn:“Lê Đ. (đê chấm), còn tên tùy bà…”.

    Lớn lên tôi suy luận: Có thể Lê Đình, Lê Đức, Lê Đắc… Nhưng họ nhà Lê tôi, không ai có tên lót bắt đầu bằng chữ Đ.

    Tra gia phả từ đời cụ, kỵ và ngược lên mười đời trước nữa, toàn là Lê Trung… cho đến các anh trai tôi cũng vậy. Cha tôi tên: Lê Trung Hưng.

    Lâu lắm rồi, có lần uống rượu một mình say, cha kể:

    “Trong lịch sử Việt Nam, nhà Lê Trung Hưng được hình thành tiếp nối Lê Sơ. Sau khi Lê Trang Tông với sự phò tá của cựu thần Nguyễn Kim, được đưa lên ngôi báu. Đây là triều đại dài nhất so với các triều đại trong lịch sử Việt Nam với 256 năm và đây cũng là thời kỳ lãnh thổ Việt Nam được mở rộng nhiều lần nhất.

    Nhưng rồi khi Quang Trung kéo quân ra Bắc Hà, Lê Chiêu Thống hoảng hốt cầu viện quân Thanh khiến lòng người dân bấy giờ chán ghét hơn trước và sụp đổ, dù sau này nhiều thế lực khác nổi dậy đòi khôi phục nhà Lê cũng đều thất bại…”.

    Tôi hỏi lại:“- Đ. Là gì cha?” Cha tự nhiên cười lăn cười lộn, tôi hoảng hồn chạy mất.

    Tôi là con út trong chín anh chị em. Anh cả tôi sinh nhằm ngày 20.7.1954, chị Hai ra đời ngày 26.10.1956, chị Ba sinh vào ngày 20.12.1960, anh Tư lại sinh ngày 01.11.1963, anh Năm bây giờ ở Hoa Kỳ, ra đời khi Mỹ đổ quân vào Đà Nẵng (08.3.1965), chị Sáu đẻ rơi dọc đường khi mẹ tôi di tản từ Hương Trà chạy về Huế, ngày Tết Mậu Thân (1968), anh Bảy “chà và” vì da ảnh đen thui, ra đời không mang dâu ấn nào của lịch sử (1970), anh Tám tưởng chết rồi khi mẹ tôi chạy theo đoàn xe nhà binh từ Ái Tử, Quảng Trị về Huế mùa hè đỏ lửa 1972. Nhưng may thay, khai sinh của anh ghi ngày ký kết Hiệp Định Paris (27.01.1973).

    Riêng tôi, sinh vào buổi sáng 30.4.1975.

    Bây giờ đã hơn nửa đời người, cha tôi đã mất, đôi lần tôi định hỏi mẹ về chữ lót Đ. của tôi, nhưng mẹ móm mém cười bí hiểm như nàng Mona Lisa, Tôi lại càng vắt óc suy nghĩ về cái tên tôi, không những chữ lót Đ. mà còn tên CHÓT. Có lẽ tôi là đứa con cuối cùng chăng?

    Nghĩ đi nghĩ lại, tôi phục cha tôi quá! Chỉ hai mươi năm trời, cha cho ra đời chín đứa. Anh cả tôi tính nhu mì hiền lành như con gái, nhưng khuôn mặt sần sùi, khắc khổ. Có lẽ khi mang thai anh, mẹ tôi chạy tản cư từ miền xuôi lên miền ngược. Trong lòng cha mẹ tôi chỉ mong đất nước hòa bình. Ngày đình chiến dù còn đau buồn nhưng mẹ cố giành ngày trọng đại để sinh ra anh cả tôi. Nhưng rồi không được bao lâu, gia đình nội tôi tan đàn xẻ nghé. Các chú tôi bỏ lại vợ con, lên đường tập kết.

    Cha tôi được thuyên chuyển về Sài Gòn, thành phố hoa lệ rộn rã, sáng ngời trong niềm hân hoan đón mừng ngày Quốc Khánh đầu tiên, sau gần 100 năm đứng nghiêm chào cờ Tam Tài và hát quốc ca Tây.

    ***

    Chị Hai xinh đẹp như Đức Mẹ Maria. Cha đưa mẹ ra bờ sông Bạch Đằng, hoa đăng ngập tràn xen lẫn những cánh bèo trôi xuôi về biển Đông. Trên đường phố, từng đoàn xe hoa rực rỡ ánh đèn, chân dung Ngô Tổng Thống với khuôn mặt phúc hậu, hình như đang mỉm cười. Bỗng mẹ tôi đau bụng, chị Hai ra đời trong niềm hạnh phúc, yên bình nhất và cũng ngắn ngủi nhất trong đời làm chồng làm vợ của cha mẹ tôi.

    Lúc ra đi, các chú hứa với nội tôi, sau hai năm sẽ tổng tuyển cử, nước nhà thống nhất các chú lại về. Trong tuyên bố cuối cùng của hiệp định Genève ngày 21.7.1954, có ghi:

    “Hội nghị tuyên bố, giải pháp cho những vấn đề chính trị ở Việt Nam dựa trên cơ sở tôn trọng độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ sẽ cho phép người dân Việt Nam được hưởng nền tự do cơ bản thông qua kết quả tổng tuyển cử tự do sẽ được tổ chức vào tháng 7/1956”.

    Bà nội tôi sụt sùi than thở:

    - Nếu có tổng tuyển cử việc gì phải đi đâu? Ưng ai mình bầu, tự do dân chủ… tụi mầy việc gì phải đi, bỏ vợ bỏ con, bỏ hai thân già trông ngóng héo hon!

    Ngày mẹ sinh chị Ba tôi, gió bấc lùa về từng cơn lạnh buốt thịt da, mưa phùn giăng trắng xóa. Mùa đông u ám nhưng những cơn giông ùng uỳnh, sấm chớp lóe lên những tia sáng trắng lạ kỳ trên đỉnh Chư Prong. Chị như con nhái bén, ốm nhách tong teo. Đã bao lần mẹ tôi chạy đôn chạy đáo tìm thầy tìm thuốc, vất vả vì chị trăm bề. Nhưng sau này càng lớn, chị không giống ai trong nhà, chỉ biết thụ động sai gì làm nấy. Hơn mười lăm tuổi, chị bỏ chúng tôi về với ông bà…

    Cha mang theo cả gia đình cùng bà nội tôi ra Đà Nẵng. Trận lụt năm Giáp Thìn (1964), mưa to gió lớn, nước trên nguồn từ Trà My, Phước Sơn cuồn cuộn đổ về, núi lở từng cụm, ruộng đồng lấp đầy bùn non, làng mạc bị cuốn trôi. Hằng ngàn con người lẫn trâu bò gà chó trôi phăng phăng theo dòng nước hung hãn.

    Người dân từ các vùng “xôi đậu” Điện Bàn, Duy Xuyên, Quế Sơn… lần lượt dắt díu nhau chạy về thành phố, hầu như tất cả gia sản đã bỏ lại sau lưng. Họ được chính quyền bảo trợ, những căn nhà mái tole vách ván được dựng lên vội vàng trên bãi cát trắng rực nắng và gió ở ven biển Mỹ Khê, Hòa Khánh mang tên An Cư 1,2,3…

    Những người tản cư đã có cơ may khi Mỹ đổ quân vào Đà Nẵng. các hãng thầu RMK-BRJ tuyển dụng những người nông dân chạy giặc thất nghiệp, nghèo đói. Đời sống của họ dần hồi lại khá hơn xưa.

    ***

    Bà nội ở lại với cô Dung. Cha lại mang cả gia đình tôi ra Hương Trà, Thừa Thiên. Hương Trà là vùng đất có lịch sử lâu đời, nơi đây gắn liền với nền Văn hóa Sa Huỳnh. Chiều cuối năm, tiếng pháo nhà ai rước ông bà nổ dòn bên kia đường. Cha dồn hết cả nhà, valy áo quần và chút của cải lên xe Jeep định chạy về thành phố Huế. Kinh thành xưa cổ kính mờ mờ lặng im trong hoàng hôn tím ngắt, tia nắng yếu ớt còn le lói qua rặng lá hướng chùa Thiên Mụ, chuông ngân thanh thoát mơ hồ trong gió…

    Tiếng kêu chới với của mẹ khiến cha phanh gấp, anh cả tôi đập đầu vào thành xe chảy máu. Mẹ đẻ rơi.

    Cha lái xe băng băng lên đèo Hải Vân, Hải Vân Quan mù sương. Quay nhìn về vịnh Lăng Cô, những hàng dừa lắt lay như vẫy tay chào tạm biệt, mây xám đục phiêu bồng lướt qua đầu, rời xa cố đô về Đà Nẵng cùng nội tôi.

    Chị Sáu ra đời đã tránh cho gia đình tôi kiếp nạn tết Mậu Thân (1968). Ngày đầy tháng, mẹ lấy mảnh vải trắng chít ngang đầu chị, chị khóc thét lên đưa hai tay lên trời như ngậm ngùi tiễn đưa những linh hồn đã chết oan khốc, chưa trọn sum vầy trong buổi đoàn viên, ngày tết Nguyên Đán thiêng liêng… Năm mười bảy tuổi, chị Sáu xuất gia: Ni cô Diệu Hương.

    Sau này, mỗi lần nhà Nước làm lễ kỷ niệm “chiến thắng Mậu Thân”. Ni cô Diệu Hương đưa tôi lên chùa cầu siêu và khuyên nhủ:”- Em hãy tránh xa nơi huyễn hoặc ấy, trần gian lắm nỗi gian tà, không phải nơi chốn em về, hãy theo ta…”.

    Tôi lơ đễnh nhìn ra dòng sông lấp lánh chảy ngang, gợn sóng lăn tăn, ánh lên màu bạc. Một, hai, rồi vô số thân hình tiều tụy đưa hai cánh tay lên trời, những hồn ma bóng quế nghiêng ngả, thanh âm tiếng chuông chùa xa vắng như vọng tiếng kinh gọi hồn.

    Những khuôn mặt trợn trừng căm phẫn, nghiến răng nguyền rủa: “Thế gian chúng mầy toàn lũ vô ơn, khiến hồn ta xiêu phách ta lạc, đường về mù mịt, chịu phận âm hồn tha phương, tứ cố vô thân…”.

    Vô số vong hồn không siêu thoát từ lâu có vẻ trầm tĩnh hơn, chỉ nhoẻn miệng cười. Có lẽ hiểu lẽ đời, trần gian vốn bạc bẽo vô ơn:”Nhất tướng công thành vạn cốt khô”, thân phận quê hương nhược tiểu đã bao lần khói lửa, bao nhiêu thế hệ đã bỏ mình nơi chân trời góc biển, rừng sâu núi thẳm hay chìm xuống bùn đen nơi sông rạch U Minh.

    Có lẽ trận thư hùng đã gần cạn máu xương. Chính phủ Mỹ chuyển dần trách nhiệm cho người Việt, tương tự như chiến lược “Da vàng hóa chiến tranh” mà quân Pháp đã áp dụng ở Đông Dương. Sự tương tàn, nồi da xáo thịt Trịnh - Nguyễn bị lặp lại nhiều lần trong lịch sử đau thương.

    Các anh chị tôi không ai sinh ra phải mổ, ngoại trừ anh Bảy. Có khi người ta tiếp nhầm máu cho mẹ tôi, nên da ảnh không giống ai, chỗ đỏ chỗ vàng. Cha nhìn về hướng Trung Phước, Đại Bường (Đại Bình) - quê ngoại tôi bên bờ hữu ngạn sông Thu Bồn, trời xanh lơ bát ngát, nhưng không thể về. Những con người hiền lương bị tiêm nhiễm chất độc vô hình, trở thành ác thú. Họ chân quê chất phác đã ngộ nhận đến đau lòng, cùng hò reo treo cổ ông ngoại tôi lên nhánh đa bìa làng. Tự dưng đang yên bình thân thiện, trở thành đối nghịch căm thù.

    Ngó lên “Hòn Kẽm Đá Dừng”, những giọt nước lăn dài theo vách đá dựng đứng không biết tự thuở nào, có lẽ lăn mãi không thôi như giọt nước mắt nội tôi.

    Cha tôi tính cương trực, nhưng không thể làm gì khác, khi mọi sự đã quá tầm tay với. Ngày ấy, cả gia đình đông đúc của tôi sống nhờ vào đồng lương và phụ cấp của cha. Mẹ tôi không có thời gian để nghỉ ngơi, ngoại trừ những lần sinh đẻ. Cha nói con cái là viên ngọc quý trời cho, anh em chúng tôi cùng dòng máu đỏ.

    Cha thuê nhà cho anh chị em tôi tạm “định cư” để học hành, mẹ bồng anh Bảy theo cha ra tận Cửa Việt, Đông Hà. Vùng giới tuyến đìu hiu im ắng, hai lá cờ đối nghịch phần phật trong gió, những thanh sắt đã rỉ của cầu Hiền Lương trong cơn mưa phùn, nhỏ xuống dòng sông Bến Hải đang lững lờ trôi, những giọt nước sẩm như màu máu.

    Mẹ ôm bụng bầu lếch thếch theo đoàn người chạy giặc, giòng máu lâm bồn ngày sinh anh Tám nhỏ giọt trên đại lộ kinh hoàng…

    Gia đình tôi như bầy kiến gặp nước lụt, trôi dạt theo sấm chớp của chiến tranh. Tiếng đại bác dội về từ vùng ven đô kéo theo tình trạng hỗn loạn trong thành phố, cũng là ngày khánh kiệt nhất của gia đình tôi, cả nhà bị lùa ra khỏi khu gia binh. Tôi lại bị sinh ra.

    Anh Tám èo uột từ ngày ra đời, đã chết trên tay chị Ba tôi.

    ***

    Tôi về thăm mẹ, nhà vắng hoe. Con chó còm già nua nhổm lên sủa nhưng giọng thiếu hơi, nghe như hụt hẫng. Lâu không về thăm mẹ, nên chó cũng quên người.

    Anh chị Bảy từ ngoài đồng chạy về, mồ hôi muối loang lổ những vệt trắng mờ mờ sau lưng áo, anh ôm tôi vào lòng:

    - Em khác quá, ốm nhách!

    Da anh bây giờ không còn đỏ đỏ vàng vàng như thời ấu thơ mà đen sạm. Mẹ đi đâu về, miệng nhai trầu cười móm mém:

    - Tổ cha mi, răng không đi luôn?

    Tôi rưng rưng nhìn mẹ, chị Bảy tò mò nhìn thằng em văn nghệ:

    - Nghe nói chú làm thơ đăng báo, tui tìm đọc mà không biết báo gì. Tui lật qua lật lại không mua, con nhỏ bán báo bực mình chửi miết.

    - Chị có đọc báo đời không? Em chỉ đăng báo đời!

    Chị Bảy tưởng thiệt, le te xuống bếp nấu cơm, còn nói vọng lên:

    - Mai tui ra sớm, mua về cả nhà đọc thơ chú, rồi cất để dành.

    Mẹ kể chuyện ngày xưa, nhớ đâu nói đó:

    - Ngày cha mi sắp mất, bầy chèo bẻo rượt đánh mấy con quạ ngồi chồm hổm, chờ cha mi tắt thở. Tháng bảy mưa ngâu, quạ trọc đầu vì bắc cầu Ô Thước qua sông Ngân Hà cho Ngưu Lang - Chức Nữ gặp nhau, vậy mà cha mi đành đoạn bỏ tau đi, đi miết không về.

    Anh Bảy cười hề hề:

    - Mỗi năm tái hợp một lần, đám giỗ cha về với mẹ. Chỉ có cầu Hiền Lương chia cách hơi lâu, mấy chục năm thím hỉ ?

    Mẹ tôi run run quệt vôi hồng hồng lên lá trầu xanh, nói bâng quơ:

    - Non sông đã liền một dãy, nhưng dòng sông trong lòng người ngày càng sâu hiểm hơn phá Tam Giang!

    Chú thím tôi giờ quá ngon, mấy chục năm “thoát ly” không trầy vi tróc vẩy chút nào. Ngày đoàn viên chỉ mang về cái “xắc-cốt”, nhưng nay giàu có lên từng ngày.

    Thím thật thà, mơ chuyện gì cũng kể cho mẹ tôi nghe:

    - Trong cơn mơ, dữ thành hiền phải không chị? Em thấy nhà em đổ sụp, vôi vữa gạch đá đâu không thấy, chỉ thấy mùi tanh tưởi của máu và thịt chảy thành dòng, cột bê-tông rệu rã lòi ra những ống xương trắng hếu. Em ám ảnh quá, giờ tay chân cũng còn run!

    - Của phi nghĩa để ngoài sân, của phù vân để ngoài ngõ. Mẹ nhìn lên di ảnh cha tôi, trả lời thím mà như nhủ lòng mình.

    Ngày sinh tiền, cha với chú không gặp nhau thì thôi, chớ gặp nhau là bất đồng mọi sự. Chú nói cha cố chấp, cha nói chú bị “nhồi sọ”. Bà nội may mà điếc nặng, mắt đã lòa nên chỉ ngồi bó gối nhìn ra khoảng trời xanh bao la, không ai biết nội nghĩ gì.

    ***

    Cũng vì cái tên Đ. Chót mà đời tôi lên bờ xuống ruộng, một lũ ngu si xuyên tạc và “chụp mũ” lên tên cúng cơm của tôi. Chúng nó nghĩ ra nhiều điều oái ăm và tàn bạo mà người lương thiện không bao giờ dám nghĩ. Tôi đâu có đặt tên mình, tôi còn không biết ý nghĩa vậy mà chúng truy ngược mấy đời nhà tôi, nhảy vào moi gan móc óc cha tôi để tìm câu trả lời theo lối suy luận giết người của chúng. Cha mẹ sinh con há dễ sinh lòng, ông nội tôi càng mô phạm bao nhiêu thì tôi lại càng lãng tử bấy nhiêu.

    Tôi khoan khoái với tự do tuyệt đối của mình trong ý nghĩ. Dưới bóng mát của bụi tre sau nhà, tôi ngồi bó gối nhìn ra cánh đồng xa, đàn cò trắng bay về sà xuống ruộng lúa xanh ngát thì con gái. Chợt ý nghĩ quái dị phớt qua, tôi cố níu lại: Không lẽ cha mẹ tôi là nhà tiên tri vĩ đại, Đ. Chót là chấm dứt cuộc đời khi tôi đang còn sống hay theo lối suy diễn ma quái của lũ bợm người, cố tình gán ghép cho tôi hay còn có ý nghĩa gì khác đã theo cha tôi về bên kia thế giới ?


    Nguyễn Châu


Hội Quán Phi Dũng ©
Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




website hit counter

Working...
X