Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Mai

Collapse
X
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Mai

    2 câu truyện cùng mang một tên Mai, cùng viết về cuộc tình trong thời chiến.

    Gởi các bạn đọc 2 câu truyện cùng mang một tên Mai, cùng viết về cuộc tình trong thời chiến. Nhưng có khác nhau. Truyện nào cũng hấp dẫn. Chuyện Mai (2) do 1 bạn Nhảy Dù cùng trong BBT của Đặc San Mũ Đỏ với V. Chánh. Người gốc Huế. Nên cầu chuyện có liên quan ít nhiều về Huế


    1/ Mai

    Năm 1969, Tiểu Đoàn tôi đang hành quân chung quanh Bến Lức thì được lệnh di chuyển về Đức Hòa, một quận nhỏ thuộc tỉnh Hậu Nghĩa, về Đức Hòa để bảo vệ Bộ Tư Lệnh SĐ25 đang đóng ở đây. Hậu Nghĩa có lẽ là một tỉnh nhỏ nhất của miền Nam, nguyên nó là 1 xã của Đức Hòa hay Đức Huệ gì đó, vì tính cách chiến lược, ông Ngô Đình Diệm lập nên tỉnh này.

    Rời khỏi Bến Lức với con sông Vàm Cỏ Đông lòng tôi bùi ngùi, nửa năm ở đây, thường các cuộc hành quân là ủi bãi cùng với Hải Quân , VC hai bên bờ như rươi, con sông chạy dài tới tận Tây Ninh, mỗi lần tầu đi, chúng phục 2 bên bờ bắn B40 như pháo bông, 4 ngày cuối cùng trước khi về Đức Hòa thì Thiếu Úy Hạnh, khóa 18 TĐ, Đại Đội phó của ĐĐ tôi hy sinh, tầu bị phục kích, khi bị bắn, tầu ủi bãi, Hạnh xua quân xông lên, vài phút sau tin báo Hạnh trúng đạn chết.

    Tới Đức Hòa, TĐ được phân công phòng thủ quanh vòng đai ngoài của bộ chỉ huy SĐ, Đại Đội tôi được chỉ định đóng tại Bình Hữu, tung các điểm phục kích chặn những đường tiến sát địch có thể xâm nhập vào Bộ TL, Bình Hữu là một xã nhỏ, nằm trên đường đi lên Đức Huệ, con đường Bình Hữu nhỏ, ngắn, được 3,4 chục căn nhà, Ban Chỉ huy Đại Đội tối đóng quanh quẩn trong mấy ngôi nhà đó, các trung đội vừa có toán phục kích, vừa bảo vệ ĐĐ, thỉnh thoảng hành quân nhảy trực thăng, thường là nhẩy xuống mật khu Lý văn Mạnh hoặc xa hơn nơi biên giới Đức Huệ, Lý Văn Mạnh là một khu dinh điền thời TT Ngô Đình Diệm, nay bỏ hoang đã lâu, VC bám trụ ở đây, thỉnh thoảng tập trung tấn công các đồn bót của ĐPQ, NQ, chúng bám trụ nơi này để giữ đường giao liên từ Long An, qua Đức Huệ để tới Kampuchia.

    Chiều hôm đó, sau cuộc hành quân tảo thanh về, thay quần áo xong thì Xuân, Trung Úy, bạn cùng khóa 21 VB, Đại Đội Trưởng Đại Đội 2 cùng TĐ đóng ở Bình Tả gần đó lái xe jeep qua, rủ đi uống cà phê, có cái quán nhỏ xế chỗ tôi đóng quân, bước vào, quán đã sẵn mấy anh Thiếu úy pilot trẻ lái trực thăng đang ốn ào, huyên thuyên, Xuân không kêu cà phê nữa, nó gọi bia nhậu với cá lóc nướng, mấy hôm sau tôi mới hiểu vì sao các anh chàng pilot trẻ này cứ lượn ra lượn vào ở cái quán cà phê này.

    Cũng tội nghiệp bà chủ quán tên là Dì Năm, khoảng 50 tuổi, có tụi tôi trong quán, lính không dám vào, quán bị ế, cả mấy anh pilot thấy 2 ông Trung Úy trẻ, tác phong rõ ràng là dân tác chiến chứ không phải SQ của bộ Tư Lệnh, ngồi tì tì với bia thì chút sau cũng phú lỉnh, tôi gọi máy kêu 2 Trung đội trưởng của ĐĐ lên nhậu, lúc sau ngà ngà, nói chuyện với Xuân về Hạnh mới bỏ mình bên bờ Vàm Cỏ, tôi muốn khóc, ôm chai bia đứng dậy loạng quạng bước theo bước tango : đời tôi quân nhân, chút tình riêng gửi núi sông…đời lính, biết bao nhiêu lần say ? mà có phải chỉ có chút tình riêng gửi núi sông đâu, SQ/VB là gửi cả cuộc đời cho núi sông ấy chứ, như thằng Hạnh chẳng hạn, gửi cả cuộc đời cho núi sông khi còn quá trẻ, mới ngoài hai mươi chứ mấy, thế là xong hết. Trong lúc ngật ngưỡng ôm chai bia, tôi bắt gặp một cặp mắt đen láy nhìn tôi qua cái rèm cửa sổ thông với buồng trong, tôi khựng lại nhìn đôi mắt ấy, chiếc rèm khép vội lại, đôi mắt mất hút. Tôi lẩm bẩm : ê, nhìn trộm hả, rồi nhún vai :

    em là gái trong song cửa
    anh là mây bốn phương trời
    anh theo cánh gió chơi vơi
    em vẫn nằm trong nhung lụa
    (Một mùa đông : Lưu trọng Lư)

    đúng rồi, anh là mây bốn phương trời, vấn vương chi với những đôi mắt, nhất là mắt đàn bà con gái, tôi nói lớn hỏi Sơn : Ê Xuân, đàn bà con gái làm bận rộn mình quá hả, quẳng hết đi phải không mày, Xuân gục đầu ầm ừ: quẳng gì thì quẳng nó vẫn bám cứng chân mình như thường, quả thực thằng Sơn này vướng nhiều đàn bà quá, khi làm tới Quận trưởng, lính gác quận đường canh VC thì ít mà canh đàn bà thì nhiều, nhưng thôi nó cũng xứng đáng, bị thương 3,4 lần, bay mất một mắt thành độc nhỡn như Moshe Dayan, tôi liền cánh, liền cành với nó từ ngày ra trường tới mãi 1973 khi nó làm QT, mà nào có dứt ra được đâu, thỉnh thoảng nó vẫn kêu lên SĐ xin TĐ tôi biệt phái bảo vệ Quận nó để 2 thằng bù khú.

    Trở lại với Bình Hữu, Đức Hòa, cũng một buổi chiều rảnh rỗi Sơn lại kiếm tôi rủ uống cà phê, lần này thì uống cà phê thực sự, tôi và Sơn không phải là những người nát rượu, thỉnh thoảng nổi hứng hay buồn quá mới uống, khoảng chiều, một cô gái nhỏ nhắn, mặc áo dài trắng nữ sinh, loại áo dài mà tôi thích nhất trong các kiểu áo dài, người con gái ôm cặp trước ngực, bước vô quán, nàng chào hai đứa tôi, tay vuốt mái tóc xõa trên trán, ánh mắt lướt nhanh qua nhưng tôi cũng kịp ngờ ngợ : đôi mắt này, phải rồi, đôi mắt tối nọ nhìn trộm mình đây mà! Cô gái bước vô trong còn ngoái lại nhìn tôi, môi mím lại như muốn cười nhưng không dám cười, tôi cũng toét miệng ra gật đầu, cô ta dáng dấp nhỏ bé, có lẽ bé thật, tóc ngang vai, khoảng 16,17 chứ mấy, với tôi thế là quá bé dù tôi cũng chưa già là bao, mới hơn 20 chứ bao nhiêu, ôi thôi, mà lẩn thẩn chi vậy, chuyện gì nữa đây, chắc cô ta thấy tôi tối đó ngồ ngộ hoặc chưa bao giờ thấy một người say ôm chai bia loạng quạng nhẩy?

    Xuân đá đá chân tôi: ôi chao phí của, mày ở đây, địa phương mày mà không quen cô bé này thật là phí của, tao ra lệnh cho mày, 10 ngày nữa mày phải ôm cô bé trong tay, thôi, ôm thì vội quá, mày phải nắm được tay cô ta và nói nàng hãy bảo mấy anh lái trực thăng kia đi chỗ khác chơi, mày không làm được thì không đáng là Sĩ quan Võ Bị, rõ chưa.

    Rồi tôi cũng biết, nàng tên Mai, một mẹ một con, ông bố có bà hai đi đâu mất tiêu, bà Năm, mẹ của Mai mở quán cà phê, lợi tức cũng đủ cho hai mẹ con đắp đỗi qua ngày, hình như tôi cũng đang bị điều tra, thằng tà loọc nói dì Năm hỏi về trung Úy nhiều lắm, tôi cũng không để ý, lời Xuân khích bác tôi cũng không để ý, những cuộc hành quân liên miên làm không có thì giờ nhiều, ưu tiên lo lắng an toàn cho đơn vị, mỗi lần chạm địch có người chết, tim tôi cứ thắt lại khi thấy những người vợ lính lên tìm chồng, vành khăn tang trắng, đứa bé còn bồng trên tay. SĐ quần tụi tôi như cái mền rách vì an ninh của BTL, từ ngày về đây, chỉ có đụng chạm nho nhỏ, SĐ chưa một lần bị pháo kích.

    Thường mỗi tối, khu vực ĐĐ tôi phụ trách đường phố giới nghiêm, chẳng cần thông báo, tối là mọi người ở trong nhà, Ban CH/ ĐĐ đóng xéo với quán cà phê Dì Năm, một tối, tôi lững thững sang đó uống cà phê, chẳng có mục đích gì với lời nói của Xuân, Mai ngồi nơi quầy, nàng cầm cuốn tập trong tay, tôi gọi ly cà phê sữa đá rồi hỏi :

    - Mai siêng thế này chắc học giỏi lắm hả?

    lần đầu tiên đối diện cô ta và cũng lần đầu tiên trò chuyện mà tôi nói tỉnh bơ làm như đã biết nhau lâu lắm. Mai tròn mắt nhìn khi thấy tôi gọi đúng phóc tên nàng :

    - Đâu có, quá dốt là đằng khác, sao Tr/U biết tên Mai ?

    - Ồ, tôi biết Mai từ buổi tối Mai nhìn tôi qua cái cửa sổ kia kìa, tối đó chắc tôi say làm Mai buồn cười lắm hả ?

    - Ôm chai bia mà cứ tưởng là ôm cô nào thì không biết có thể gọi là buồn cười hay không !

    Hay, cô này biết nói chuyện đây dù tuổi còn nhỏ, mới 17 và đang học ở Trung Học Quận, có lẽ Tam, Tứ gì đó.

    Cũng một tối khác sang chơi, Mai hỏi tôi giải giúp một bài toán phương trình bậc 2, tôi hỏi về toán, cô ta chẳng biết gì cả, dốt toán quá, tôi giảng cho Mai – giảng mấy lần mà vẫn chưa hiểu, tôi buột miệng:

    - dốt quá thế này

    Mai sửng cồ:

    - thì Mai đã nói Mai dốt rồi mà, chê người ta mai mốt qua uống cà phê em bỏ muối vô cho xem

    - có bỏ muối cũng không giỏi toán hơn được, chịu khó làm bài tập nhiều vào, và muốn thật giỏi hơn, phải hối lộ thầy.

    - Tr/U muốn Mai hối lộ gì ?

    - hối lộ gì sẽ cho biết sau nhưng trước hết không được gọi tôi là Tr/U nữa, cô có phải là lính của tôi đâu.

    Hai tuần sau, Xuân hỏi :

    - tình hình đến đâu rồi, đã nắm tay cô ta chưa, sao mày ụt quá vậy.

    Tôi trả lời:

    - tao chưa nắm được tay nàng nhưng nàng nắm tay tao thì sao ?

    Xuân trợn mắt :

    - thật không ? vậy là mày vượt quá chỉ tiêu rồi còn gì, sao có chuyện ngược đời vậy ?

    Chẳng có gì là ngược đời và sao lại không thật, chỉ tình cờ thôi, tối đó khi giải cùng Mai bài toán xong, tôi về, chợt Mai nắm tay tôi:

    - em còn một câu toán nữa quên hỏi anh.

    Cái nắm tay đó rất tự nhiên, rất thật thà của cô gái mới lớn nhưng không hiểu sao tôi lại không nhận ra cái thật thà đó, tôi nghịch ngợm biến sự thật thà đó thành điều có ý nghĩa hơn, tôi im lặng không nói gì nhìn Mai, sự im lặng của tôi làm Mai bối rối, chút sau nhận ra, nàng rụt tay về nhưng tôi giữ chặt lại, được một lúc, bàn tay không còn có vẻ muốn rút về nữa, hình như nó muốn được nằm yên như vậy, tay Mai mềm đi trong tay tôi và tôi biết trái tim nàng cũng đang mềm đi, 17 tuổi rồi, không lẽ không biết rung động là gì sao, còn tôi thì tỉnh táo như con sói nhìn con cừu, hai tay tôi nắm tay Mai, giờ mới thấy được tay Mai run run, sau này có nhiều bàn tay cũng run run trong tay tôi nhưng những bàn tay đó có sự xúc động khác, không tinh khiết như cô học trò nhỏ này, vậy là vấn vương rồi ư.

    Một lần hành quân về, nhẩy trực thăng, người đầy sình, tắm rửa xong thì lính nói Dì năm kêu Tr/ U sang ăn cháo, vừa đói vừa lạnh, có tô cháo gà nóng, tỉnh cả người, vừa ăn tôi vừa nghĩ : vậy là sâu đậm rồi đây. Mai dốt toán nhưng lại giỏi văn chương, cứ tưởng cô học trò nhỏ ở cái quận đèo heo hút gió này thì biết gì nhưng Mai hiểu khá nhiều về thơ văn, cách nói chuyện cũng khéo léo, một lần nói về ý nghĩ này, Mai lại sửng cồ : đèo heo hút gió cái gì, từ đây về SG có 1, 2 tiếng đồng hồ chứ mấy, không được coi thường người ta ạ. Một tối, sau khi dậy Mai học, lúc về, Mai chợt đứng phắt dậy ôm lấy tôi, ô hay, tối nay sao bạo thế này, nàng thì thầm :

    - hôm nay em được 18 tuổi rồi, mừng sinh nhật em đi

    cách bày tỏ này là tự nhiên hay sắp đặt trước ? thây kệ, tôi ôm Mai đặt lên trán nàng nụ hôn :

    - mừng em được 18, với anh, em vẫn là cô học trò bé nhỏ, còn anh vẫn là mây bốn phương trời, quen lính khổ lắm nghe em, để ý đến anh hồi nào vậy ?

    - Thì cái tối anh uống bia say đó, anh và ông Tr/U Sơn nhắc về một người nào mới chết, em thấy anh buồn, rồi anh ôm chai bia nghêu ngao hát, trông anh lúc ấy thật tội nghiệp, hôm nay em 18, đến tuổi đi bầu rồi, có quyền công dân rồi, không được coi em như con nít nữa, mọi lần nói chuyện với anh, em thấy anh như chẳng để ý gì lời em cả, lúc nào cũng coi em như con nít, này anh, có phải ông Nguyên Sa yêu bà ấy lúc bà mới 13 phải không, anh trễ hơn ông ta 5 năm rồi đấy.

    - Vậy ư, 13 nhỏ quá, em biết Phạm Thiên Thư chứ, thuộc thơ như em hẳn phải biết ông này, tà áo trắng mỗi chiều em học về, anh đứng nhìn lơ mơ thấy em là cô Hoàng thị Ngọ: em tan trường về, anh theo Ngọ về…Mai ngắt ngang : anh mà theo ai, anh chẳng theo mà cũng làm chết người ta đây này.

    Thế ra tôi đóng ở đây cũng khá lâu mà không biết, Mai đã được 18 rồi đấy. Mấy ngày sau sinh nhật Mai, ĐĐ tôi được lệnh chuyển lên Đức Huệ, hành quân chung với một ĐĐ của SĐ 9 Mỹ, hôm lên xe di chuyển, tôi thấy ánh mắt ấy khuất sau cánh cửa quán cà phê nhìn theo, chắc có ngấn lệ, đã nói rồi mà, anh là mây bốn phương trời, yêu lính khổ lắm, u uẩn chiều ly biệt như thơ Quang Dũng. Tới Đức Huệ, BCH/ ĐĐ tôi đóng chung với BCH/ĐĐ Mỹ trong nhà máy đường Hiệp Hòa, nhà máy đồ sộ to lớn cao sừng sững, đã lâu nhà máy không còn hoạt động vì chiến tranh, máy móc còn nhưng cũng không biết ai đã gỡ đi một ít. Thời gian phối hợp ở đây, tôi mới thấy cách tổ chức của quân đội Mỹ quá lớn, Tiểu Đoàn Trưởng có trực thăng riêng, ĐĐT Mỹ thì như TĐT của VN, họ cho các Trung đội hành quân riêng lẻ, ĐĐT ngồi một chỗ chỉ huy thành ra tôi cho các Trung đội phối hợp với Mỹ, không phải lội theo, một lần chạm địch, tôi dẫn Trung đội trừ bị vượt sông Vàm Cỏ tiếp ứng, đi chung với Mỹ nên họ gọi pháo binh, Cobra, các phản lực rất nhanh, còn ta hành quân pháo binh thì có nhanh nhưng các phương tiện yểm trợ khác thì chậm, có người bị thương, họ kêu Medevac có ngay. Đức Huệ gần biên giới Kampuchia nên VC nơi đây khá nhiều nhưng với phương tiện dồi dào của Mỹ, chúng không thể tập trung đông vì pháo binh Mỹ bắn suốt ngày, hơi có chút nghi ngờ là máy bay bay lên dội bom ngay, một lần hành quân mở rộng lục soát, ban chỉ huy ĐĐ tôi thoát chết trong đường tơ kẽ tóc vì mìn bẫy, người lính mang máy đá phải sợi dây căng mìn của VC, may mà chỉ có hạt nổ kích hỏa, còn trái 155 nằm chình ình như con heo dấu dưới lớp cỏ, trái pháo bị lép, nếu không, mấy thầy trò chỉ còn cách hốt xương vô poncho.

    Một hôm đang ngồi nghiên cứu bản đồ khu vực hành quân ngày mai thì viên ĐĐT Mỹ kêu tôi:

    - ra đây tao chỉ cho coi cái này

    hắn dẫn tôi xuống dưới gần cái giếng, chỉ vào một người lính của ĐĐ tôi đang loay hoay cạo lông cái lỗ tai heo, lỗ tai còn bám đầy đất cáu bẩn, lông lá tua tủa. Hắn nói :

    - lính mày ăn cái gì mà dơ quá vậy, bộ C Ration không đủ cho tụi mày à ?

    Tôi mắc cở đỏ mặt, cái lỗ tai heo đó là do chính tôi sáng nay nói với anh chàng đầu bếp nấu ăn là ra chợ Đức Huệ kiếm cái lỗ tai heo, tao thèm chấm mắm nêm với chuối chát quá, cũng may, chiều đó trong chuyến tiếp tế, Mai ghé hậu cứ gửi cho tôi một cạp lồng cháo gà, cái lỗ tai heo, tôi cho người lính nấu ăn, tôi thấy họ bàn tán với nhau đi mua xị đế. Gần 1 tháng hành quân chung với ĐĐ Mỹ, ĐĐ tôi trở nên “giầu có “ lựu đạn, claymore, khói mầu…dư giả.

    Sau một tháng ở đây, ĐĐ trở về mái nhà xưa, TĐ tôi vẫn còn nhiệm vụ bảo vệ BTL/SĐ, vì thông thuộc địa thế, tôi vẫn trông giữ Bình Hữu, đôi mắt đen như hạt nhãn đón tôi trong reo cười, trong tôi cũng có bâng khuâng rộn ràng , chiều đó lại có cháo gà. Tối tối tôi thường sang Mai, nàng không còn hỏi tôi nhiều về toán nữa, chuyện giờ là những nhớ nhung của những ngày xa cách, khi nói chuyện, Mai thường hay nắm tay tôi, tôi hỏi:

    - nắm tay anh hoài không chán ư ?

    - không, em vẫn có linh cảm rồi anh sẽ bỏ đây đi xa, giữ được anh lúc nào hay lúc đó, không anh lại bỏ đi

    - thì anh vẫn nói với em rồi mà, anh là mây bốn phương trời, anh theo cánh gió chơi vơi, lính tác chiến chứ có phải lính Phủ Tổng Thống đâu.

    - không, đừng làm mây bốn phương trời, hãy là những áng mây che phủ ngọn núi gì mà anh hay kể em nghe đó, ừ, đúng rồi, ngọn núi Lâm Viên nơi hồi xưa anh học ở Đà Lạt, những ngày mùa đông, mây tụ trên đỉnh núi, anh hãy như những áng mây đó, tung bay bốn phương trời làm chi, ở đây với em, tình yêu làm người ta ích kỷ, em biết ước muốn của em mong manh như những sợi tơ trời, tơ trời chỉ giữ được con ruồi, con muỗi, làm sao giữ được chân anh, em sợ ngày đó quá anh ạ .

    - Có níu kéo cũng không thể được đâu, đã nói rồi mà, thôi chào em, chào người con gái bé bỏng tội nghiệp, anh cũng đâu có muốn bỏ đi, nhưng lính mà em. Ít lâu sau, TĐ tôi di chuyển lên Tây Ninh, lần ra đi này tôi nghĩ khó có dịp quay lại Đức Hòa vì nơi sắp đến là nơi mịt mù khói lửa, không có những tối yên bình để chúng ta ngồi bên nhau, tình hình chiến sự biên giới có vẻ sôi động, sau thời gian dài Sihanouk cho VC sử dụng đất Kampuchia sát Việt Nam làm nơi chứa quân và vật dụng chiến tranh để tấn công miền Nam, trước đây, khi truy kích VC mà lỡ xâm phạm biên giới, Sihanouk làm rùm beng, đưa vấn đề ra LHQ, giờ ông ta bị lật đổ, Lonol lên làm Thủ Tướng, Lonol thỏa thuận với chính phủ VNCH cho ta mở cuộc hành quân biên giới đánh đuổi VC, SĐ 25 là một thành phần của cuộc hành quân này cùng với Nhẩy Dù, TQLC, BĐQ…Quân Đoàn 3 dưới sự chỉ huy của vị Tướng lừng danh Đỗ Cao Trí, người Mỹ gọi ông là Patton của Mỹ, Patton là tướng Thiết Giáp mà Mỹ đã gọi ông ta là America’s greatest General, Tướng Trí không phải là Tướng Thiết Giáp nhưng trong các cuộc hành quân ở Kampuchia, ông sử dụng TG rất tài tình trong nhị thức Bộ Binh Thiết Giáp, cuộc chiến ở Kampuchia đã tạo nên những vị Thiết Đoàn Trưởng nổi tiếng như Đại Tá Trần quang Khôi ( sau là chuẩn Tướng ), Đại Tá Quang, Đại Tá Đồng… Những vị Thiết Đoàn Trưởng này rất gần gụi với Tướng Trí vì ông luôn sử dụng họ phối hợp với bộ binh, tạo được nhiều chiến thắng vẻ vang, ngược lại Tướng Hoàng Xuân Lãm là Tướng Thiết Giáp nhưng trận Hạ Lào Lam Sơn 719, ông không sử dụng TG được như Tướng Trí.

    Tháng 3-1970, quân ta rầm rộ vượt qua biên giới sau khi có lệnh là lời hiệu triệu của TT nguyễn Văn Thiệu với toàn dân : Thưa quốc dân đồng bào, khi tôi đang nói những lời này cùng đồng bào thì Quân Đội ta vừa vượt qua biên giới Kampuchia để đánh đuổi quân CS xâm lược…

    Lệnh xuất phát ban ra, từng cánh quân tràn qua biên giới, ĐĐ tôi được “cõng” bởi Chi Đoàn 2 Thiết Đoàn 10, Chi Đoàn Trưởng là Đ/U Nhuận, chưa vượt được bao xa thì chạm địch liền, không phải chỉ riêng cánh quân tôi mà hầu như suốt dọc biên giới, chỗ nào cũng chạm địch, chứng tỏ chúng ung dung ở đây đã lâu, xây dựng các cơ sở hậu cần vững chắc, quân ta với hỏa lực hùng hậu cùng sự yểm trợ của phi pháo, lúc này Hoa Kỳ vẫn còn yểm trợ ta nên các cánh quân tiến như chẻ tre, chiếm mục tiêu đầu, vượt qua cánh rừng chồi tới khoảng trống, tôi thấy trải dài theo biên giới ngút ngàn, khói lửa mù mịt, máy bay quần thảo tứ tung, mồ hôi trán đổ xuống mắt cay sè với cái nóng tháng 3, tôi nhận tin cánh quân bên cạnh, người bạn cùng khóa 21 VB của Trung Đoàn 49, Đại Đội Trưởng Nguyễn văn Bình vừa hy sinh, hồi trong trường, Bình chung ĐĐE với tôi, đạn nổ ròn rã từ các khẩu 12.7 của Thiết vận xa, đạn VC xé gió bay tới khiến tôi chẳng kịp bùi ngùi cho người bạn vừa nằm xuống, chiều các mục tiêu ấn định thanh toán xong, VC bỏ lại nhiều xác cùng vũ khí, tối quây tròn phòng thủ cùng với Chi Đoàn Thiết vận xa, nằm ngửa trên cái poncho bên cạnh hầm trú ẩn mới đào, người còn nguyên quần áo, hôi rình vì mồ hôi, cát bụi của cuộc quần thảo ngày hôm nay, người lính hỏa thực mang lại bịch gạo sấy với miếng thịt ba lát :

    - ăn chút đi ông thầy, sáng tới giờ ông chưa ăn gì cả

    chưa ăn gì mà có thấy đói đâu, chỉ khát nước, nhệu nhạo nhai vài ba miếng, nhớ tới Mai, ngước lên bầu trời, các vì sao lấp lánh, tôi thấy đôi mắt hạt nhãn như đang nhìn mình : chàng từ đi vào nơi gió cát, đêm trăng này nghỉ mát phương nao? nghỉ ở đâu ư Mai, anh đang trên vùng biên giới đó em, với mùi thuốc súng và mùi máu người. Em ạ, như anh nói rồi đấy, đời lính khổ lắm, yêu lính cũng khổ theo, chẳng biết rồi sẽ như thế nào, rất dễ dàng như Bình bạn anh hôm nay, với anh đã đành, phải chấp nhận và quen rồi, chỉ cầu xin em đủ nghị lực thôi.

    Sau mấy tháng hành quân liên tục không ngừng nghỉ, tôi được thăng Đại Úy tại mặt trận, một ngày tháng 7-1970, TĐ tôi tách ra, hành quân chung với Thiết Đoàn 15 chiến xa, tiến vào vùng Mỏ Vẹt và chạm địch nặng tại đây, mục tiêu sát bìa rừng, một ngôi làng trải dài với hàng tre dầy kiên cố, 10 giờ sáng chạm địch, sau 2 lần xung phong không chiếm được mục tiêu, hầm hố địch rất kiên cố với đủ loại hỏa lực, ta bị cháy mất 2 chiếc M41, một số bị chết và bị thương của cả Thiết giáp và BB.

    Khoảng 3 giờ chiều, một chiếc trực thăng lượn vòng vòng rồi đáp xuống, tôi ở gần đó đang chuẩn bị dàn quân cho cuộc xung phong tới, nhẩy ra khỏi trực thăng là Tướng Trí và một người đàn bà người Âu, cả 2 mặc đồ dù, Tướng Trí đội cái mũ lưỡi trai mầu đen, ông thoăn thắt bước lên chiếc xe nơi tuyến đầu mà thỉnh thoảng VC vẫn cầm chừng bắn về phía ta ( chúng ta nên biết Tướng Trí rất bận rộn vì bao quát nhiều cánh quân của QĐ 3, hầu như đâu cũng chạm địch, với ông lúc đó chỉ là lệnh và lệnh + sự điều động và theo dõi các trận đánh. Ông đáp xuống đây chắc SQ Tham Mưu bay cùng ông báo cáo cánh quân này chạm nặng và chưa tiến lên được ), nhìn vào mục tiêu quan sát một hồi, tôi thấy ông ta cầm cái can gõ gõ lên cái nón sắt của Trung Tá Đồng, Thiết đoàn Trưởng Thiết Đoàn 15 :

    - Đù mẻ, lên ngay nghe Đồng, cháy bao nhiêu xe tao cho bấy nhiêu, phải chiếm cho được mục tiêu trước tối nay nghe chưa.

    Trung Tá Đồng đứng nghiêm chào Tướng Trí nhận lệnh, Thiết giáp và BB xốc lại hàng quân, máy bay của ta và Mỹ quần thảo gầm rú trút bom xuống mục tiêu, xong tới pháo binh, cuối cùng TG và BB căng hàng ngang nhất tề xung phong, ông Tướng 3 sao đứng ngay phía sau, cả Thiết Đoàn Trưởng và Tiều Đoàn Trưởng đều xông lên, địch còn bắn ra nhưng yếu đi nhiều, giờ thì liều, chết cũng phải xông lên chứ không còn lui được nữa, xe và Bộ Binh tràn như nước vỡ bờ, địch tung hầm bỏ chạy, ta chiếm được mục tiêu, có sự trả giá đắt, ĐĐ tôi, Ch/U Thái trung đội Trưởng hy sinh, Đại Úy Xuân, Đại Đội Trưởng ĐĐ2, bạn cùng khóa, người ra lệnh cho tôi 10 ngày phải nắm được tay Mai, bị thương nặng, Thiết giáp cháy thêm một xe và một số chết + bị thương, xác địch và vũ khí vương vãi khắp nơi, ngay lúc đó TĐT cho tôi biết Tướng Nguyễn Viết Thanh, Tư Lệnh vùng 4 vừa tử nạn máy bay khi đang điều động Quân Đoàn 4 đánh qua biên giới, chiếc CNC của ông đụng phải chiếc Cobra của Mỹ, 2 phi công Mỹ và Ban Tham Mưu + Tướng Thanh, tất cả đều hy sinh.

    Có một điều thú vị và cảm động, trong một lần tiếp tế, tôi dặn Sĩ Quan chỉ huy hậu cứ mua cho cái bắp cải vì cứ ăn gạo sấy hoài, háo người quá, cái bắp cải có cộng với một cạp lồng cháo gà, viên HSQ hậu cứ theo chuyến trực thăng tiếp tế nói cô Mai lên tận Tây Ninh gửi cái này cho Đ/U, tôi gọi 3 Trung đội Trưởng sớt cho mỗi người ít cháo và mấy lá bắp cải, rau rửa qua loa vì nước rất quý, mọi người nhai ngấu nghiến, gạo sấy hoài, xót cả ruột.

    TĐ tôi tạm rời vùng Mỏ Vẹt, tiến theo trục Quốc Lộ 1, đường lên Neak Luong, giữ đường cho TQLC hành quân đưa người Việt sống ở Kampuchia về, nhiều người Việt bị giết khoảng thời gian này, trong lần lục soát một ngôi làng ở vùng Kampong Trabek, vài người Tầu còn lại dẫn chúng tôi ra mấy cái giếng chỉ xuống cho coi, tôi thấy xương người, tóc tai, quần áo đầy dưới đó, họ nói trong làng có chục gia đình người Việt tất cả bị chặt đầu (cáp duồn) trong đó có nhiều trẻ con đều bị giết xô xuống giếng, thái độ lính trong ĐĐ thay đổi hẳn khi thấy điều này, tuy vẫn giữ kỷ luật nhưng đâu đó tôi thấy có sự xô đẩy và quát tháo mấy người Miên ở đây, tôi vội rút ĐĐ đi chỗ khác và ngăn chặn âm mưu của 3 Trung đội Trưởng, họ bàn với tôi là dàn dựng một cuộc chạm địch giả rồi nói: thẩm quyền xin pháo binh đi, tụi này tàn ác quá mà, tôi nói họ thôi, trong làng có đàn bà và trẻ con, không phải tất cả đều tàn ác - nếu không, với cuộc đụng trận giả, pháo binh sẽ làm không còn cái nhà nào đứng vững trong ngôi làng này.

    Tôi được tin TĐ sẽ về lại Đức Hòa dưỡng quân, tin làm tôi thật vui, như vậy sẽ gặp lại Mai, xa nhau cũng mấy tháng rồi còn gì, tội nghiệp Mai, vò võ đợi chờ, còn tôi với bao bận rộn có thể quên đi được, trước khi về, ông Tiểu Đoàn Trưởng cho biết tôi có 2 ngày cho một Đại Đội lính Kampuchia( Lonnol ) theo tôi thực tập, hôm ra ngoài quốc lộ nhận ĐĐ này tôi mới tá hỏa, không phải 1 ĐĐ mà đông nghẹt tới 4,5 ĐĐ vì lính Kampuchia đi hành quân mang theo cả vợ con, gà vịt, nồi niêu soong chảo.

    Tối đóng quân, lính mình nằm vòng ngoài, đào hầm hố phòng thủ, họ nằm giữa còn nổi lửa nấu nướng linh tinh, tôi phải ra lệnh tắt hết lửa nhưng cũng vô ích, khuya trẻ con khóc, chó sủa, gà gáy…may là vùng này lúc đó tạm yên, giả như tối mà VC tấn công, tôi không biết lo toan sao với đám “lính” này. ĐĐT của lính Miên là 1 anh Tr/U Tầu lai, đeo 2 vạch vang trên cầu vai như quân đội Pháp, tay cầm bản đồ, địa bàn nhưng cầm cho lấy có, anh ta không biết cách sử dụng, cũng chẳng hiểu tốt nghiệp quân trường nào, nói chuyện với nhau phải dùng tiếng Pháp, may là suốt 7 năm Trung Học tôi chọn sinh ngữ 1 là Pháp nên cũng tạm hiểu nhau, họ nói tiếng Pháp rất thông thạo.

    Cuối cùng chúng tôi cũng lên đoàn xe trở về Đức Hòa, có lẽ tại hậu cứ TĐ tôi vẫn còn ở đây dù SĐ đã chuyển về Cử Chi, tới nơi, Thiếu Úy Cư, ĐĐ phó nói với tôi : Đ/U cứ đi gặp chị Mai đi, để tôi sắp xếp ĐĐ cho. Tôi xuống xe jeep bước ngay vào nhà, Mai ôm chầm lấy tôi, nàng khóc chưa bao giờ tôi thấy khóc như vậy, lòng tôi cũng chùng xuống, mình cũng yêu Mai quá mất rồi, bắt đầu chỉ là tinh nghịch thôi, ai ngờ, người ta bảo đừng đùa với lửa mà.

    Ngày mai, tôi nhận sự vụ lệnh đi đơn vị mới : Đại Đội Trinh Sát, ở các đơn vị BB, hiếm có ĐĐT là Đ/U lắm nên việc tôi và Xuân chuyển làm nhiệm vụ khác cũng dễ hiểu. Xuân sau khi xuất viện đi làm Tiểu Đoàn Trưởng TĐ2 , tối đó là tối cuối còn ở Đức Hòa, tôi và Mai ngồi nói chuyện tới tận khuya, lúc đứng lên, Mai quấn chặt lấy tôi, có tiếng thút thít, thân thể con gái thơm tho ấm áp, mềm mại qua làn áo mỏng, khi thấy ánh mắt tôi nhìn nàng khẽ gật đầu, Mai run rẩy :

    - em xin anh, hãy giữ gìn cho em, giữ gìn cho chúng ta, giữ gìn cho ngày hạnh phúc.

    Tôi thở dài, tôi trân trọng Mai, giữ cho nàng, tôi biết nếu tôi muốn hơn nữa, Mai cũng chịu thua thôi, nàng đang mềm như sợi bún, không còn là chính nàng lúc này, tôi hối hả quay ra, tôi cũng không còn là chính tôi lúc này.

    Về nắm ĐĐ Trinh sát, quanh quẩn suốt ngày với núi rừng, tuy nhiên cũng thường ở Hậu cứ sau những chuyến đi nguy hiểm, những lần như vậy. tôi cho xe về đón Mai lên, bây giờ thì đã có toan tính về tương lai, về những hoạch định chính thức, trước đây cứ nghĩ lấy vợ sẽ là một người ở Sài Gòn, nhưng SG xa quá và ít có thời gian ở đây, mà con tim thì sao biết được, Mai có gì cho mình phải suy nghĩ đâu? trước mắt, nàng được tất cả, yêu mình nồng nàn, chuyện là do chai bia biết nhẩy tango, cũng buồn cười, có phải tôi xuất hiện đúng lúc và nỗi buồn “may mắn” của tôi cũng đúng lúc.

    Năm 1972, chiến trường lại bùng lớn, ĐĐ Trinh Sát không còn len lỏi bờ bụi rình rập nữa mà trực diện đánh nhau với VC như một ĐĐ bộ binh, tôi và Xuân lại có duyên với nhau, tôi được tăng phái cho Xuân lúc này là TĐT/TĐ2, cuộc chiến rất khốc liệt, VC sử dụng nguyên một SĐ rải chốt từ Chơn Thành lên tới Bình Long, mục đích không cho ta dùng đường bộ tiếp tế cho An Lộc, cả tôi và Xuân đều thiệt hại nặng, thậm chí có lúc Trinh Sát hết cả Sĩ Quan mà phải để Trung sĩ coi trung đội, một lần nữa, Xuân lại bị thương vì pháo, mất một mắt, nó rất tiếu lâm :

    - mỗi lần bị thương trước tiên tao sờ xem cái đó còn không, còn là tao yên tâm

    Xuân lên Thiếu Tá và đi làm Quận Trưởng sau đó. Tôi nghĩ, giá Tướng Đỗ Cao Trí không bị “tai nạn” nổ trực thăng, có lẽ không có trận An Lộc này, Cục R của VC bị ông dí bắt, chiến trường ông mang ra xa khỏi miền Nam, ông làm chúng te tua, cái chết của ông lúc đó người ta chưa hiểu gì nhiều, cũng có suy nghĩ nào đó nhưng chưa rõ ràng, phải sau khi miền Nam rơi vào tay CS, lý do cái chết của ông ngày càng sáng tỏ hơn, bàn tay lông lá của Mỹ tạo ra sự việc này khi ông được điều động ra vùng 1 cứu nguy cho Lam Sơn 719. Đầu năm 1973, tôi rời Trinh Sát, về nắm Tiểu Đoàn 3/46, sau hiệp định Paris, tôi dẫn TĐ về bảo vệ Quận Dầu Tiếng, một quận nhỏ heo hút nằm sâu trong vùng đồn điền Michelin, ba phía trước mặt là mật khu, sau lưng là con sông, chỉ có chiếc cầu độc nhất nối liền với Quận Khiêm Hanh, có lần tôi tập họp Tiểu Đoàn nói chuyện cùng binh sĩ :

    - nếu địch tấn công phải ráng mà đánh trả, đây không có đường rút, con sông đó lội qua được không hay chết đuối. Vị trí như thế này, tôi nhớ tới một Tướng nào trong chuyện Tam quốc Chí thì phải đã đóng quân dựa lưng vào cái chết như thế này, nhưng nhờ vậy mà binh sĩ phải dốc lòng chiến đấu, không còn đường nào khác.

    Mai xuống xe ở Khiêm Hanh, chuyển qua chiếc xe đò vô Dầu Tiếng, Mai lên thăm không báo trước, nàng nghĩ thầm : thôi kệ, để anh ấy bất ngờ, mọi lần thì có xe đón Mai lên, hôm nay Mai cứ sao xuyến trong lòng, mấy cái thiệp cưới đã in xong, nàng muốn đưa lên ngay để : anh ấy kịp gửi mời bạn bè.

    Chiếc xe cũ kỹ mệt mỏi lăn trên con đường đất đỏ, dân Dầu Tiếng cũng không đông mấy nên chuyến xe cũng không đến nỗi chật chội, đường vô Dầu Tiếng là con đường độc đạo, 2 bên đã được phát quang mỗi bên 200m, khi chiếc xe còn cách ngã ba Đất Sét 3 trăm thước thì bỗng một loạt đạn vang lên từ trong bìa rừng, tiếp theo là một tràng dài nhắm vào chiếc xe, chiếc xe cũ kỹ rung lên, VC lén lút mò ra bắn cả vào xe đò dân chúng di chuyển, Mai thấy nhói ở ngực, một vệt máu loang trên chiếc áo dài trắng, chiếc áo dành cho chàng, một loạt đạn nữa vang lên, Mai giật nẩy người gục xuống, nàng thảng thốt kêu lên :

    - anh ơi !

    nàng thấy ánh sáng mờ dần, Mai còn thấy chiếc cạp lồng đựng cháo ngả xuống, nàng với tay muốn giữ nó lại nhưng bàn tay không đưa ra được nữa rồi, nó buông thõng xuống, mấy cái thiệp cưới Mai vẫn giữ trong tay rớt xuống sàn xe, nhiều tiếng người kêu khóc, một làn gió thổi tới, mấy tấm thiệp bay tung theo bụi đỏ.

    Khi nghe tin, tôi lái xe hộc tốc ngay ra chỗ chiếc xe đò bị bắn, chiếc xe đầy vết máu và vết đạn, tôi nhặt được một cái thiệp còn lại trên xe, cầm cái thiệp, người tôi run lên, không, không phải, Mai không sao hết, em không sao hết, những người chết và bị thương người ta cho biết đã được chuyển về Bệnh Viện Tây Ninh, tôi hối tài xế chạy ngay lên đó, tới nơi, tôi xông vào, người y tá trực hỏi:

    - thưaThiếu Tá cần điều chi ?

    tôi nói về chiếc xe đò bị bắn ở giữa Khiêm Hanh và Dầu Tiếng

    - Dạ, có 4 người chết và 6 người bị thương, mời Th/Tá theo tôi,

    anh ta dẫn tôi vô một cái phòng, trên một cái bàn, tôi thấy Mai nằm đó, nàng nằm ngửa, 2 tay đặt trên ngực, chiếc áo dính đầy máu, tôi nấc lên nắm tay Mai :

    - em ơi, Mai ơi, anh đây, cầm lấy tay anh

    trong hốt hoảng tôi mong Mai sẽ cử động mà nắm lấy tay tôi, chớp chớp mắt khi nghe tiếng tôi nói, điều đó nghĩa là Mai chưa đến nỗi nào, hãy còn sự sống, nhưng bàn tay bất động và giá lạnh. Người y tá đến bên tôi :

    - thưa Thiếu Tá, chị ấy đi rồi !

    Nước mắt dàn dụa, tôi nhìn khuôn mặt ngây thơ của Mai, nàng như đang ngủ, tôi cúi hôn lên vầng trán, vuốt vuốt mài tóc rối bời vương bụi đỏ, tôi đặt lên tay nàng chiếc thiệp cưới tôi nhặt được trên xe : ôi hạnh phúc của em đây, một hạnh phúc nhỏ nhoi em đang ngụp lặn mà người ta nỡ nhẫn tâm cướp đi của em. Tôi gục xuống.

    Người ta bảo rồi thời gian sẽ xóa nhòa hết nhưng cho mãi nhiều năm sau này, tôi không bao giờ quên được hình ảnh Mai nằm trên chiếc bàn ở bệnh viện Tây Ninh máu loang chiếc áo học trò, khuôn mặt ngây thơ không chút hận thù : tôi có làm gì nên tội mà sao cướp đi hạnh phúc tôi, tôi đi gặp người yêu dấu của tôi mà? sao không cho tôi hưởng hạnh phúc của ngày lấy chồng, tôi mới đặt chân vào thiên đường thì lại xô tôi ra ? - Hữu Loan còn có đồi sim để những lần hành quân nhớ về người vợ trẻ chết vùng quê xa, tôi cũng có những lần hành quân nhưng không có đồi sim đi qua mà nhớ về Mai, không còn đôi mắt hạt nhãn chờ đợi như trước, nhưng tôi vẫn còn Bình Hữu, còn căn nhà xưa đầy ắp kỷ niệm để quay về, tôi trở lại đây biết bao lần, ngôi mộ ở giữa vườn sau nhà, Mai nằm đó cô đơn, hai bên mộ, má Mai trồng mấy cây huệ trắng, trắng tinh khiết như mầu áo học trò nàng mặc khi xưa, lần nào tôi cũng đứng lặng hàng giờ trò chuyện cùng nàng, tội nghiệp em, người đi chinh chiến đầy hiểm nguy thì không sao, tội nghiệp em đang say sưa ngụp lặn trong hạnh phúc, đang hân hoan với cuộc đời mầu hồng.

    Trong căn nhà, cái bàn Mai thường ngồi học mỗi tối vẫn để nguyên vậy, cái khung ảnh có hình Mai 2 tay chống dưới cằm, ánh mắt nhìn tôi cười nghịch ngợm : thì đã nói người ta dốt mà, chê người ta mãi, em bỏ muối vô cà phê cho xem

    Trần Như Xuyên



    2/ Mai

    Việc gặp lại Ðằng ở đơn vị, quả thật là điều tôi không hề mong muốn, nhất là phải ở cùng trung đội. Khi Ðằng bỏ trường, bỏ lớp, bỏ cả giòng sông chảy ngang qua thành phố, và những chuyến đò ngang đầy ắp thật nhiều dự định, những dự định tưởng như có thể hồng tươi hơn chòm hoa phượng là đà mặt sông xanh thắm. Tôi vẫn không nghĩ là Ðằng đã đi lính. Việc gì phải thế, khi chỉ còn vài tháng nữa là đến kỳ thi năm cuối. Cửa ải mà nếu vượt qua được, phần số mỗi người sẽ có được nhiều chọn lựa hơn ở giảng đường đại học, và nếu có phải bước vào cuộc chiến vẫn sẽ có rất nhiều đổi khác.

    Dù sao thì chiến tranh cũng đã tới bên ngưỡng cửa trường học, khi mỗi sáng điểm danh, lại thỉnh thoảng vắng đi một người, nhất là vào ngày thứ hai đầu tuần, đám bạn bè ngoại ô, sau ngày thứ bảy, chủ nhật về quê, là gần như đi hẳn. Tụi nó nhảy núi, chúng tôi thật không hiểu vì sao lại có những chọn lựa trái nghịch với ý muốn khi họ rất sợ phải về quê cuối tuần. Riêng bọn chúng tôi ở thành phố, lại thong dong tuần tự bước vào nghiệp lính không mảy may lo nghĩ, hay chờ đợi lên phiên. Sớm hay muộn, một hai năm, chẳng có nghĩa lý gì với cuộc chiến đã dài hơn tuổi đời chưa kịp lớn. Vả lại, có quá nhiều lý do để thôi thúc đám nai vàng ngơ ngác chui đầu vào lò thui một cách tự nguyện, khi ngoài cổng trường xôn xao cờ quạt biểu ngữ của quá nhiều đám biểu tình, bãi khóa... đến nỗi câu khẩu hiệu thông dụng nhất mỗi khi chúng tôi được bỏ ngang lớp học, nhập vào bất cứ đoàn biểu tình nào là... “Hoan hô, đả đảo, muôn năm... muôn năm.” Chẳng cần phải biết hoan hô hay đả đảo ai muôn năm. Thầy giáo tóc dài dạy triết lại thỉnh thoảng bơm chút hơi hướng... buồn nôn lạc lõng, váng vất ảo ảnh về một cuộc cách mạng mà hình như thầy cũng chỉ mới tiêm nhiễm đâu đó, hơn là chính sự chọn lựa của thầy khi đã quá say mê dẫn đám học trò bơi trong những bài giảng xa vời, hỗn loạn về chủ nghĩa hiện sinh và triết học Karl Mark, để có đứa bỗng nhiên trở nên ngớ ngẩn, gật gù như một triết gia, thuyết giảng ồn ào về quyền tự quyết của dân tộc. Tự quyết gì? khi vẫn lạy ông Stalin còn hơn ông cố tổ. Tôi cắc cớ hỏi đám yêu nước thời thượng, để được chúng nó ném cho những tia nhìn diễu cợt. Có ai biết, chiến tuyến tội nghiệp đã manh nha từ ghế nhà trường?

    Hôm Ðằng bỏ học, tôi chỉ biết, lúc Mai cho tôi đọc những phân trần của hắn về một sự vắng mặt cần thiết, “trời đất bao la nhưng không còn một chỗ cho Ðằng” khi Mai khước từ những ý định xa hơn của hắn về tình bạn giữa ba đứa chúng tôi. Cái thằng lậm nặng Kim Dung, tưởng mình cũng mang dòng máu Khiết Ðan của Kiều Phong bỗng mất A Tử, than một tiếng vang động tới trời xanh. Oan cho tôi một điều là hắn tưởng Mai đã chọn tôi thay vì hắn, trong khi tôi ù ù cạc cạc, ngớ ngẩn chuyện trai gái phiền toái. Tôi vẫn còn thích những buổi tắm sông, mệt nhoài bơi theo chuyến đò ngang tan học, khoanh hai tay nổi lềnh bềnh trên những con sóng lăn tăn, nghe rong rêu ve vuốt tấm lưng trần để mường tượng những tà ào trắng trên chuyến đò chiều nhập nhòa mây nước bất chợt bay vút giữa thinh không... để làm gì nhỉ? Tôi cũng chẳng hiểu. Nhưng một bóng dáng nào để phải lơ đễnh nhìn bâng quơ ngoài cửa lớp thì vẫn là điều úy kỵ đối với một kẻ vừa nhỏ con và xấu trai như tôi. Cuối “bảng tường trình” hắn còn phang một câu chúc Mai và tôi hạnh phúc? Oái oăm hơn, tự nhiên tôi lại thấy đôi mắt Mai long lanh kỳ lạ khi dí vào mắt tôi đoạn văn của kẻ sắp bước lên đoạn đầu đài. Tôi vẫn đinh ninh hắn nhập vào một khóa sĩ quan nào đó thuộc hải lục không quân, để sau một hai năm trở về với áo quần đại lễ, mắt nhìn thẳng về phía trước, dáng kiêu bạt bất cần đời cũng đủ để... Mai ân hận, và đủ để tôi kính cẩn chào ngài cho sướng chí phục thù, dù tôi chẳng có xơ múi gì trong những oan khiên của hắn.

    Một năm rồi hai năm, tôi không có cơ hội để báo cho hắn biết, khi Mai hồn nhiên bước lên chuyến xe lộng lẫy của một buổi chiều hồng tươi pháo cưới. Ðến lúc đó, tôi mới chợt ngẩn ngơ, chợt biết cũng như hắn, tôi đã vuột mất khu vườn thần tiên thanh thoát... mà có khi tưởng như đã của mình! Ðể rồi khu giảng đường nhìn ra bờ sông bỗng trở nên trống vắng, tan hoang hơn theo những biến động dồn dập tới lui qua từng nhịp cầu xám dần nắng bạc, những bước chân cuồng nộ của đám biểu tình dần đưa thành phố vào cõi chết, bàn thờ cũng xuống đường cùng với xe pháo ngược xuôi, tôi chẳng thể nào hiểu nỗi cảnh bát nháo, dữ tợn của những thằng bạn học với băng xanh băng đỏ trên tay áo, hăm hở chạy theo chiếc vespa bạc phếch màu sơn của ông thầy triết hippy thuở nào, phân phát những tờ báo sặc mùi giặc cỏ, cổ võ cho một kiểu Trung Kỳ Quốc ly khai tự trị, mà có lẽ Tổng thống hay Thủ tướng gì đó cũng chỉ là Thầy, hay một vị giáo sư họ Hồ, họ Tôn nào đó của viện đại học đã không còn là chốn cửa Khổng sân Trình. Những vị giáo sư đáng kính mà danh tiếng và sự thành đạt của giòng họ không hề vì, từ, hoặc cho đám dân đen nghèo khó, khi họ vẫn luôn tách biệt trong tháp ngà quý tộc, ban phát sự ngưỡng phục cho mọi người từ những ngựa xe, tước vị. Những ngựa xe, tước vị có từ cơm áo ngoại bang. Nay miếng đỉnh chung hình như lại được ngoại bang mới bày bàn bánh vẽ, nên các thầy đã mạnh miệng đốc xúi đám học trò, giương cờ quyết tử, học sinh quyết tử, sinh viên quyết tử, đòi xé rách thêm một miếng trên quê hương vốn đã đau với lằn dao Bến Hải.

    Tôi may mắn được cơn lốc hỗn loạn đó cùng với ngọn bão hiu hắt của Mai thổi bay ra khỏi giảng đường để đi vào quân đội. May mắn, vì nếu chậm chân một năm sau, khi đám cuồng khấu trở về cùng với “Thầy” giết ngon lành sáu ngàn mạng người, những người đã từng là bạn học, bạn cùng xóm, bạn đá banh, đánh bi, đánh đáo, là học trò của Thầy, nhưng không cùng một lý tưởng bán nước như Thầy và lũ chạy hiệu. Thưa Thầy! Ðến bây giờ, Thầy vẫn là một kẻ mang trọng tội, là một vết nhơ của lịch sử, dù Thầy có dư khả năng biện bác, chạy tội của một người ngồi trên lý của kẻ thắng. Và cho dù Thầy có chết. Thành phố nhỏ có năm nào quên khói hương cho mấy ngày Tết mới, đã mãi mãi là bản án trĩu nặng trên chút lương tâm nào đó còn sót lại, không phải chỉ của Thầy, mà ngôi từ đường thầy hưởng hương khói, cũng phải biết ăn năn. Thầy biết xứ mình mà, họ đay nghiến không phải chỉ bằng đôi mắt ngó.

    Vậy mà Ðằng đi lính, thay tên đổi họ để thoát khỏi tài nguyên sĩ quan, làm một người lính lặng lẽ tự mình khoét sâu vết thương, tự mình cay đắng với quá nhiều điều hoang tưởng, như Ðằng vẫn thường hoang tưởng trên những bài thơ viết đều trên các báo văn học tôi vẫn được đọc mỗi tháng. Cái bút hiệu của hắn, mang tên ba đứa chúng tôi Vương Ðằng Mai, dù bây giờ đã không còn chữ Vương, tên tôi đứng trước, nhưng dấu đâu được giọng thơ u uất, kiêu bạt của một kẻ đã tự đăng cáo phó, ngồi đọc bản tin mình chết trận, bật giọng cười khan thâm thẩm, đếm trên đầu ngón tay để biết mặt bằng hữu nào còn chia lời ai điếu.

    “Ta đứng đầu rừng, ngu như loài cỏ dại
    Hứng hết mặt trời
    Ðốt cháy cõi nhân gian
    Ðể biết đâu em sẽ qua như là gió
    Vướng hạt tro buồn
    Cay mắt tiểu thư...”

    Thơ của hắn, mang mãi một mặt trời cô quạnh, một mặt trời hừng hực khát khao, cực đoan và tuyệt vọng. Vết thương đầu đời không ngờ mỗi ngày một mênh mông không bến...

    Anh uống say sưa
    Những giọt nắng thừa rơi qua kẽ lá
    Gọi gió về
    Cho nắng rụng nhiều hơn
    Từ những cành cao chưa một lần với tới
    Nắng rụng vô vàn, anh uống đến ngất say...

    Cũng may hồi đó, khi đọc mẩu tin buồn trên báo, tôi tưởng Ðằng chết thật, và có lẽ bài viết ngắn tôi dành cho hắn, trên tờ Nghệ Thuật của ông Viên Linh- Mai Thảo (Vương Ðằng Mai - Những người viết mới. Tuần báo Nghệ Thuật. 1966, không nhớ rõ số) đã kéo hắn chịu ngồi xuống với tôi, để nói những điều tưởng chừng như đã chết. Như một Trần văn Ðằng đã biến mất trong tất cả hồ sơ lý lịch, để bây giờ hắn gặp tôi với một tên rất lạ Hạ sĩ Trần Hiếu Ðịch.

    Không ai trong đơn vị biết những giòng thơ đầy ấp nắng si tình là của Ðằng, hạ sĩ Trần Hiếu Ðịch sống lang bạt như một hảo hán bất cần đời, mà Cao Bá Quát có sống lại cũng chưa chắc đủ sức nằm bên hũ hèm để xuống bút những vần thơ đánh động tận cõi xa xôi của những niềm riêng bi phẫn. Niềm riêng từ cõi hy vọng thâm sâu lẫn niềm tuyệt vọng. Hắn không thể quên Mai, và tình yêu đó vẫn như một mặt trời rực lửa hắn ngày ngày cắn trong răng xông vào cõi chết.

    Cho đến thời điểm đó, cả tôi và hắn vẫn chưa biết gì về cái chết của vợ chồng Mai. Mãi bốn năm sau, một ngày đầu Xuân, tôi hối hả băng đồng từ vị trí đóng quân về thành phố cũ, ba lô trĩu buồn những bài thơ và bóng mặt trời của Ðằng, cố gắng tìm đến khu vườn xưa vẫn vàng hoa sứ, và cụm Mai tứ thời ráng đỏ sắc chiều trôi, thì Mai đã không còn nữa. Hai vợ chồng đã cùng chung số phận với sáu ngàn người chết tức tưởi đầu Tết Mậu Thân. Chuyện tưởng như Màu Tím Hoa Sim của Hữu Loan. Tôi tìm Mai cho hắn hay tìm Mai cho tôi? Những giòng thơ của hắn có mang hộ tôi lời tự tình câm nín? Hắn còn hơn tôi là đã nói và đã mất. Còn tôi? Giọt nước vô tình vẫn rơi giữa trời không.

    Tôi cố thuyết phục Ðằng về một khóa sĩ quan để hắn tạm quên cơn binh lửa đang cuốn hút đơn vị vào những cuộc hành quân tất bật.

    - Nếu muốn, bây giờ tôi đã là Tiểu đoàn trưởng của Thiếu úy!

    Hắn vẫn gọi tôi với đầy đủ cấp bậc, dù đã nhiều lần tôi phải nài nỉ:

    - Thôi Ðằng à! Cần gì phải thế! Sao mầy không gọi tao như hồi đó?

    - Khi nào giải ngũ, mình sẽ tính lại vụ đó.

    Cánh bay chao nghiêng để những triền núi tím sẫm mây chiều bỗng bập bềnh ngoài ô cửa. Tôi dựa lưng vào balô của Ðằng, hắn vẫn hí hoáy viết suốt chuyến không vận từ Nam ra Bắc.

    - Này ông bạn! Xứ mình mùa nầy hiếm thấy mặt trời lắm đó!

    - Mình sẽ vẽ nên mặt trời. Nhất là...

    Hắn bỏ lửng câu nói rồi nhìn đăm chiêu vào khoảng tối mập mờ tận đuôi tàu. Cuộc hành quân đang mở về quê cũ, như tôi và Ðằng vẫn hằng mong đợi. Là đơn vị tổng trừ bị của Quân đội, chúng tôi đã vác balô ngược xuôi khắp miền chinh chiến, nhưng trở về để được nhìn giòng sông đã êm đềm trôi hết thời thơ ấu của cả hai đứa, để có thể ngập ngừng lướt xe nhanh qua khu vườn nhỏ ngập tràn những bướm hoa niên thiếu, và nhất là để bước vào căn nhà rêu phong ẩn khuất sau hàng bông cẩn, nhìn lại tấm ảnh bán thân Mai vẫn treo bên cửa sổ... dù “đôi mắt người Sơn Tây đã u uẩn theo chồng.” Chúng tôi đã mất hơn bốn năm để có ngày về mong manh đó. Khi nhận phóng đồ hành quân từ đại đội, tôi đã reo mừng như một đứa bé, tìm ngay Ðằng để nói với hắn thật nhiều dự định. Nhất là phải trầm mình một buổi xuống giòng nước óng ánh mặt trời trên từng con sóng nhỏ, chịu phép thánh tẩy dành cho hai đứa giang hồ lưu xứ, cuốn trôi những phong trần lang bạt và cả những u uất một thời đã chín mùi theo lửa đạn. Ðể sẽ cất giọng cười sảng khoái, khà một chung “tửu phùng tri kỷ.”

    Giao máy cho ông thượng sĩ già lên ngồi phía trước cạnh tài xế, tôi đứng trên thành xe cùng với hắn. Ðoàn quân xa đang vượt qua chiếc cầu xe lửa phía tây thành phố, những thanh sắt đen một màu đổ nghiêng xuống giòng sông đang ôm lấy nền trời trong vắt, như lung linh nấc thang bước xuống thủy cung rong rêu xanh thẫm phía xa kia, phía những nhịp cầu trắng bạc băng qua thành phố. Ôi mặt trời lên kìa, Ðịch, mỗi khi quýnh quáng tôi vẫn kêu tên lính của hắn, mặt trời sớm mai tươi tắn một vòng cung trên bức tranh lụa, nhịp cầu cong nghiêng như nẻo quay về của thật nhiều ký ức, hình như có ba chiếc xe đạp đi học sớm... tôi thì khi nào cũng rướn mình trên pédal vượt dốc cầu lên phía trước, để nuốt trọn khoảng không gian mở ra bát ngát dưới lòng cầu, nghe mùi rong man man tưởng như theo gió đến từ đại dương xa khuất. Hắn chậm rãi nhường Mai lên dốc, không biết tà áo, mái tóc, vòng bánh xe, hay tiếng reo tí tách từ những nan hoa xe đạp của Mai là nguồn thơ cho hắn...

    Mai em nhung lụa qua cầu,
    Ta loay hoay giữa rối mù cuộc vui
    Khi về gió vắng áo ai
    Sông bâng khuâng bóng mờ phai hương người.

    Tôi ngâm khẽ bài thơ buồn hắn viết những năm còn đi học, để bất chợt thấy đôi mắt đỏ hoe của Ðằng đang nhìn đăm đăm về phía mặt trời, khi chiếc quân xa gầm gừ khuất dần dưới những tàn cây ngược đường số một, ngược về mặt trận phía bắc đang đang ngút lửa chiến chinh.

    Mục tiêu cuộc đột kích là một chốt mạnh, vừa là đài quan sát của địch, nằm sâu trong vùng thượng sơn, trên một đỉnh núi, cách căn cứ hỏa lực gần nhất của quân ta hơn mười cây số về phía tây bắc. Tin tình báo và giải đoán không ảnh còn cho biết, rất có thể, đầu não của các đơn vị pháo Bắc quân đang trú đóng quanh khu vực nầy, chuẩn bị cho một kế hoạch phủ toàn bộ khu vực mặt trận, cũng như phần nửa phía bắc thành phố, trong một cuộc bắn phá dữ dội của pháo binh, tạo kinh hoàng và hỗn loạn để dọn đường tấn chiếm bằng các đơn vị bộ binh và chiến xa đang chờ sẵn bên kia giới tuyến. Khi họp ở đại đội, tôi đã biết tất cả những khó khăn sẽ gặp phải, vì yếu tố bất ngờ, cũng là sở trường chiến thuật của đơn vị là đổ bộ chớp nhoáng bằng trực thăng vận khó mà thực hiện được khi hướng vào duy nhất, nằm dọc theo lưu vực của một con suối chạy dài giữa thung lũng đã bị khóa chặt bằng một hỏa lực phòng không hùng hậu, mà ngay cả máy bay trinh sát võ trang OV 10 của Hải quân Mỹ cũng bỏ chạy té khói huống chi mấy chiếc HU nặng nề quân đổ bộ. Thế nhưng, đó lại là giải pháp khả thi duy nhất khi vị trí đột kích nằm quá xa căn cứ yểm trợ, vì thế, phải chấp nhận hướng bay xa hơn, vượt qua đỉnh núi cao vòng sau lưng địch rồi bất ngờ chụp xuống từ mặt dốc dựng đứng phía tây, đây cũng là hướng rút dự phòng nếu đường không vận bị trở ngại. Ðáng lẽ, vấn đề sẽ được giải quyết dễ dàng nếu các đại đội trinh sát của sư đoàn kịp tới vùng hành quân, vì đó là “nghề của chàng.” Nhưng họ đang bị cầm chân tại các mặt trận Komtum và An Lộc. Chúng tôi là tiểu đoàn đầu tiên, cũng vừa rời mặt trận An lộc, tăng phái ra chiến trường cực bắc, và theo như ý niệm của bộ tư lệnh vùng, cuộc đột kích nầy nhằm đạt hiệu quả tâm lý hơn là giá trị chiến thuật, khi cần chứng tỏ với địch, cũng như với đồng bào về sự hữu hiệu của các đơn vị tổng trừ bị vừa được tăng phái đến, để không còn ám ảnh về những ngày Xuân tang tóc năm nào.

    Chúng tôi có hai ngày để chuẩn bị, nhận dạng các vị trí, hỏa điểm và cách bố trí của mục tiêu trên sa bàn được lập theo không ảnh, với tỷ lệ một trăm phần trăm khu vực trung tâm, gồm có tám căn hầm chữ A và hai vị trí phòng không rõ mồn một trên hình chụp. Hai con gà cồ nầy, chúng tôi phải mang về làm quà tết, không biết quà tết cho ai, nhưng chắc chắn phải mua bằng giá máu. Và quan trọng nhất là thực tập cách đánh đổ bộ, xáp chiến bằng claymore, M16, và rút quân ngay lập tức, chiến thuật thần tốc nầy đã được các đơn vị trinh sát sư đoàn sử dụng và giáng cho các đơn vị Bắc quân những cú tát bất ngờ, nẩy lửa tại các đỉnh núi kéo dài từ Komtum lên Võ Ðịnh, Tân Cảnh.

    Trong hai ngày chuẩn bị, phải tập gói “bánh chưng”, mỗi trái claymore kẹp thêm mười thỏi TNT để tăng sức công phá, thẩy và giựt để dây mìn xếp theo dạng dây xoa dù T10 bung ra nhẹ nhàng, tập nhấn nút chính xác để khi cái “bánh chưng” vừa lọt xuống công sự địch là kích hỏa. Sở dĩ không sử dụng lựu đạn, vì thời nổ không đủ nhanh và chính xác, địch có thể chụp, ném lại, gây khó khăn cho đơn vị đột kích. Mỗi người chỉ đeo ba trái làm quà xuân cho những người khách không mời mà đến, hai mươi băng đạn, hai bịch gạo sấy, bi đông nước và poncho. Thời điểm được quyết định vào đúng rạng sáng ba mươi.

    Mọi việc chuẩn bị coi như hoàn tất, đêm trước khi lên đường, tôi ngồi với Ðằng, nhiệm vụ đã rõ ràng cho mỗi một người theo vị trí và trách nhiệm trong đơn vị. Tôi chẳng giao thêm gánh nặng nào cho Ðằng, nhưng sao vẫn cứ băn khoăn bứt rứt. Khi tôi về trung đội thì Ðằng đã ở đó, tiểu đội khinh binh gồm tám người kể cả Ðằng luôn luôn đứng trước mọi hiểm nguy trên tất cả mặt trận. Và tôi, trung đội trưởng đã luôn luôn theo sát, chia xẻ và cùng quyết định với họ tất cả mọi tình thế, vì thế sự an nguy của bản thân không hề khác biệt giữa người nhảy xuống từ chiếc trực thăng thứ nhất, và chiếc thứ hai, thứ ba, hay chiếc cuối cùng.

    Hương mai rừng thoang thoảng ngoài cứ điểm, nhắc nhở chúng tôi về những phong bao lì xì đỏ thắm trẻ thơ, bếp lửa giao thừa reo vui ngày mới lớn, thùng bánh chưng cháy khét ngượng ngùng của cả ba đứa... Tôi chẳng hiểu tại sao có thể ôm đầu, bó gối ngồi ngủ ngon lành, khi cùng Ðằng và Mai nhận canh thùng bánh chưng chung cho cả ba gia đình đêm ba mươi tết, chẳng biết đứa nào ngủ trước, đứa nào ngủ sau, nhưng khi chợt thức giấc thì bếp lửa chỉ còn âm ỉ khói, và thùng bánh thì ôi thôi, chỉ còn một mùi khê khét nặc nồng... Tôi biết, Ðằng cũng đang nghe thoang thoảng hương mai. Tôi biết, Ðằng cũng đang đắm mình trong cõi hồi tưởng xa xôi êm ái. Tôi biết, chỉ còn một ngày để bước vào năm mới, và cũng chỉ một ngày nữa thôi, để biết có còn không, những dự định chưa thành.

    Trung đội, làm gì còn đủ lính để gọi là trung đội, khi chúng tôi chỉ có mười tám người, lên vừa đủ ba chiếc trực thăng, hai chiếc trừ bị không chở quân và hai gunship hộ tống. Ðằng lên chiếc thứ nhất, tôi đi chiếc thứ hai, phần còn lại của trung đội đi chiếc thứ ba. Chúng tôi chỉ có ba mươi giây để rời tàu, mười lăm phút tấn công, thanh toán mục tiêu, và, một phút để lên tàu trở về. Hy vọng mấy ông Pilot hào hoa, đủ gan dạ để xuống trúng chỗ, nhất là khi trở về. Toán trực thăng bốc cao, bay vượt về phía tây, nơi những triền núi dựng đứng lẫn trong sương mai mờ đục, những ngọn cây lướt nhanh dưới thân tàu như muốn quất mạnh vào sáu đôi chân đang đong đưa hai bên thành cửa, tàu nghiêng cánh hướng vào mục tiêu.

    Theo kế hoạch đã thực tập, toán thứ nhất đổ xuống phải dứt điểm hai vị trí trung tâm, toán thứ hai đánh bung lên mặt bắc, toán thứ ba đánh dạt xuống phía nam. Phi hành đoàn sẽ bay cover đúng ba vòng quanh mục tiêu rồi đáp xuống nếu chúng tôi còn sống và mở khói vàng. Mục tiêu rõ dần trong thoang thoáng hơi sương, với cái lạnh và ẩm ướt của mịt mù rừng núi chưa tỏ ánh mặt trời, trong chăn ấm cuối đông, có lẽ đơn vị địch không thể ngờ tử thần đang ập đến, nên chiếc thứ nhất của Ðằng trút quân nhanh chóng, máy bay vừa cất khỏi mục tiêu đã thấy nháng lên bốn chớp lửa và ầm ì tiếng nổ công phá của mìn claymore, chúng tôi nhảy bung ra khỏi thành tàu, không chờ chạm đất để tàu ngon trớn cất bổng lên nhanh chóng, rồi xông lên phía trước nhường chỗ cho chiếc thứ ba đổ quân đánh tấp ngược về phía sau. Người hạ sĩ quan xạ thủ phi hành thấy cây phòng không 12 ly 8 nằm lật gọng cạnh thân tàu, nhanh tay nhảy xuống dỡ gọn thẩy lên mới chịu cất cánh. Chiến trận tràn ngập những tràng M16 thanh toán mục tiêu và tiếng nổ đanh gọn của claymore nổ ập xuống từng căn hầm đang ngái ngủ... Nhanh, nhanh hơn nữa... Nhanh hơn nữa, những trái mìn tung xuống miệng hầm, dây mìn bung ngọt lịm đủ khoảng an toàn cho kịp nhấn ngòi nổ, từng căn hầm nổ tung với gỗ, đá, và cả xác người. Không một tiếng súng kháng cự. Chẳng phải anh hùng, tráng sĩ gì đâu, đã đổ xuống đây rồi thì phải đánh, phải giành phần sống sót, phải tận dụng hết khả năng và sự hung bạo của chiến tranh. Phải cướp và giữ chặt thời cơ. Phải ghìm địch dưới những căn hầm. Phải la hét chửi thề. Phải đứng xổng người lên mà bắn, rướn cao lên mà ném mìn, chúc mũi súng xuống miệng hầm mà tặc tặc... tặc tặc... Ðm bung ra nhanh lên, cờ trắng hả? khỏi... khỏi... mạng giữ chưa xong, sức đâu mà bắt tù binh... Ðm bắt về nó khai tùm lum, mất công lội, Tết nhất tới nơi rồi. Ê! nói gì kỳ vậy... tôi chưa kịp hét với thượng sĩ Sáng thì cây cờ trắng đã bắn tung lên cùng với căn hầm. Có ai muốn lên trực thăng bay vào chỗ chết lúc năm cận tháng tàn? Lên rồi, bay rồi, tới rồi, thì phải xuống. Xuống rồi thì phải đánh. Không lẽ xuống đó, đứng như trời trồng chờ lãnh đạn? Mặc cho tiếng máy truyền tin ồn ào sôi sục, tôi máng ống liên hợp vào vai, không có thì giờ đàm thoại. Mọi việc sẽ được trả lời nếu tôi còn sống sót... Mười phút, hai vòng bay, chỉ còn năm phút nữa là quay về, vậy mà trong năm phút phù du đó, chúng tôi mất Ðằng.

    Khi toán thứ ba vừa đổ xuống, chỉ còn căn hầm cuối cùng thì cũng là lúc địch bừng tỉnh và phản ứng. Ðiều nầy cũng không ngoài dự tính, nhưng việc xẩy ra ngoài ý muốn là từ dưới thung lũng, họ tung quân phản kích. Lưỡng đầu thọ địch. Không còn cách gì khác là phải nhanh chóng tiêu diệt căn hầm còn lại trước khi quân tăng viện đối phương tới được mục tiêu. Chúng tôi đang ở sau lưng căn hầm đó, nên hướng tác xạ hoảng hốt của mấy khẩu AK không ghìm được toán của Trung sĩ Vệ, thẩy nhanh hai trái claymore lên nóc hầm và bấm nút, căn hầm vỡ toang cùng với tiếng nổ chát chúa của hai trái mìn nổ ngoài khoảng trống, cùng lúc, địch bắt đầu pháo kích vào vị trí, vì biết chốt của họ đã bị tiêu diệt. Tôi bung trái khói vàng và máy bay sà xuống thật nhanh, bốc gọn hai toán cùng với con gà cồ còn lại, chiếc thứ ba chưa kịp đáp xuống thì địch bắn dữ dội vào hướng con tàu nên chiếc trực thăng bắt buộc phải cất cao, bỏ lại chúng tôi sáu đứa cùng với tiếng reo hò của địch “...bắt sống thám báo... bắt sống thám báo... hàng sống chống chết... hàng sống chống chết…” Trong nháng lửa của một trái 82 ly, tôi thấy Ðằng rướn người lên và gục xuống. Hạ sĩ nhất Kim ôm lấy xác Ðằng lăn nhanh xuống triền dốc trước khi đám đông Bắc quân lố nhố tràn lên. Nhiệm vụ hoàn tất, tám căn hầm nát bấy. Không biết bao nhiêu người “sinh bắc tử Nam” ở dưới đó. Hai con gà cồ cũng đã được đem về. Không việc gì phải kháng cự trước áp lực đông đảo ngay trong sào huyệt đối phương, tôi ra hiệu cho cả toán theo hướng rơi của Kim, buông mình tuột dốc, thoát nhanh khỏi sự truy kích của địch, hướng về bãi đáp dự phòng. Tụi nó la lối kiểu đó, chứng tỏ không biết tụi tôi là ai, quân số bao nhiêu, hoặc nhầm tưởng lính thám báo sư đoàn bộ binh, và chắc là tưởng đã được bốc về hết, may mà không có thương vong nào để lại, ngoài Ðằng đang nằm vắt bất động trên vai Kim, chưa biết chết hay sống.

    Ðằng không chết ngay lúc đó, vết thương ở thành bụng kéo dài nỗi đau đớn không chỉ riêng cho Ðằng. Chúng tôi cởi áo, chặt cây rừng làm cáng, thay phiên nhau khiêng, hối hả tiến nhanh về tọa độ bãi đáp. Hai cây số cách mục tiêu, đường đi không phải suông sẻ gì, khi phải né tránh tối đa các đơn vị địch. Kim và tôi mở đường, Thum đoạn hậu, xóa dấu vết. Hải, Quý khiêng cáng, Ðằng bất động, mặt tái nhợt và môi khô nứt, mấy cuộn băng cá nhân không cầm được máu. Rừng quá rậm và gai góc, dốc núi dựng đứng lởm chởm đá, trơn trợt rong rêu, và mưa lạnh. Mấy lần cáng nghiêng muốn hất Ðằng và người khiêng xuống vực thẳm. Lòng tôi như lửa đốt, ôi Ðằng ơi, mình đang trở về mà, ráng lên với tao, ráng lên với tao. Mặt trời lên kìa Ðịch..., mặt trời lên kìa Ðịch... Tôi thấy hắn mỉm cười, một nửa vành môi nhếch lên méo mó. Có tiếng trực thăng phành phạch xa xa. Nắng sớm mai chưa kéo nỗi đám sương mù đang trĩu xuống thung lũng. Kim thở hồng hộc sau một đoạn quá dài băng bờ lướt bụi. Mặc kệ, phải tiến lên thôi, phải đem được Ðằng về, và hắn phải sống, không lẽ mầy chỉ quay về đây để chết hả Ðằng?

    Tôi thay Kim mở lên phía trước, còn một cây số mà như dài hơn hai thế kỷ, một ngàn thước hướng tới chỏm đồi thấp đã nhìn thấy dưới kia. Một ngàn thước sá gì da thịt rách bươm với gai mây, tre nứa. Một ngàn thước máu Ðằng nhỏ xuống tong tong ướt đẫm cáng thương binh. Tôi tuyệt vọng rẽ cây, vẹt lá, nhắm hướng địa bàn càn lên phía trước. Máu nó ra thế kia làm sao sống nỗi? Cố lên thôi, cố lên thôi! Vẹt cành lá và tưởng như mình hoa mắt... cả một màu vàng rực rỡ của mai, hoa mai, bất ngờ choáng ngợp khoảng rừng phía trước. Màu vàng tươi và hương mai ngào ngạt, có làm tôi khựng lại một chút, rồi hối hả tiến lên. Nhưng hình như Ðằng đã nhận biết, hắn ra hiệu cho Hải và Quý dừng lại. Tôi nóng nảy ra thủ hiệu nhanh lên... nhanh lên. Quý vẫy tôi, rồi chỉ vào Ðằng. Tôi biết điều gì đang đến, cắn môi nén cơn bật khóc, tao đã không cứu được mầy Ðằng ơi! Rồi chống súng quỳ xuống bên hắn, bàn tay lạnh ngắt bất động trong tay tôi, máu đọng khô từng mảng trên quần, áo, băng ca. Mắt hắn nhắm nghiền nhưng môi còn mấp máy, đôi môi khô tái vì mất máu và lạnh. Tôi cúi sát để nghe những điều hắn muốn. Ngón tay trỏ yếu ớt hướng về cành mai rực vàng mà hắn đã cảm nhận được qua mùi hương quen thuộc. Ðằng thều thào:

    - Ðể tao ở đây! ...Mai...!

    Không chờ hắn nói hết, tôi nhỏm dậy ra hiệu cho Hải và Quý tiếp tục, ráng lên, ráng lên may ra còn kịp. Rừng thưa rồi, chạy mau lên Quý, đổ hết con dốc nầy là tới. Năm người sống và một người chờ chết, gom hết sức bình sinh băng rừng vượt thoát.

    Khi đến được bãi đáp, clear một vòng chung quanh rồi lên máy gọi trực thăng, thì Ðằng đã chết, trên nắp túi áo trái của hắn còn vương lại cánh mai rừng mong manh, chực chờ bay theo gió. Cánh hoa đã vô tình rơi xuống lúc băng qua khu rừng mai, đậu ơ thờ bên trái tim, trái tim cho đến lúc hết máu, vẫn quấn quít cánh hoa vàng bạc mệnh.

    Phan Hội Yên
    Lập Đông, Denver


Hội Quán Phi Dũng ©
Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




website hit counter

Working...
X