Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Viết về người Lính Địa Phương Quân

Collapse
X

Viết về người Lính Địa Phương Quân

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Viết về người Lính Địa Phương Quân

    Viết về người Lính Địa Phương Quân


    Nguyễn Hữu Nghĩa


    Trước nay tôi rất ít khi viết về đời lính. Thứ nhất, vì không tránh được cái tôi (đáng ghét). Thứ hai, vì tôi chỉ là lính con so (10 tháng quân trường, 8 tháng chiến trường), là cấp chỉ huy thấp nhất (Chuẩn úy) ở binh chủng "mạt" nhất (Địa Phương Quân), công trận chưa có gì để hãnh diện. Tôi vẫn nghĩ rằng, muốn viết về lính, tác giả nên là một Quân nhân có binh nghiệp lớn (cao cấp, thâm niên), xuất thân từ những Binh chủng oai hùng (Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân), vào sinh ra tử (Biệt Kích), bay bướm (Không Quân) hay pha chút lãng mạn (Hải Quân). Tác phẩm nên đề cập những mặt trận lớn (Hạ Lào, Bình long, Xuân lộc, Dakto), những địa điểm danh tiếng (Khe Sanh, Charlie).

    Trong gần hai mươi năm ở hải ngoại, tôi đọc nhiều sách viết về người lính Việt Nam, biết thêm những chiến tích hào hùng, sự làm việc cần mẫn tận tụy và sự hi sinh anh dũng của nhiều chiến hữu lớp trước, với lòng ngưỡng phục và biết ơn tác giả. Tuy nhiên, bên cạnh đó, tôi vẫn thấy thiếu thiếu một cái gì nhỏ bé nhưng gần gũi và thân thuộc. Gần đây, đọc bài của Nguyễn Văn Thông trên Làng Văn số 166, tôi nhìn ra sự thiếu vắng ấỵ Đó là chưa có, hay hiếm có, sách vở viết về đời sống nhọc nhằn và sự hi sinh âm thầm của người lính Nghĩa Quân, Địa Phương Quân (mà họ chua chát gọi tắt là Nghĩa Địa).

    Riêng tôi, trong mấy tháng ngắn ngủi ngoài chiến địa, tôi có đầy ắp kỷ niệm với họ, đã chứng kiến họ sống và chiến đấu, đã nhìn thấy họ dũng cảm hi sinh như những anh hùng. Nhân ngày 19 tháng 6, tôi xin ghi nhận sơ khởi một vài nét về sắc lính Địa Phương Quân mà tôi đã trực tiếp dự phần, như một cách bù đắp cho họ trong muôn một. Mong rằng bài viết này sẽ là một gợi ý nhỏ bé để có thêm nhiều người khác cùng viết, giúp điểm xuyết cho bức tranh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) được đầy đủ hơn.

    Như trên đã nói, kiến thức quân sự của tôi chỉ là những gì thu thập được ở quân trường, và qua thực tế hạn hẹp của một đơn vị nhỏ ở một tỉnh. Tôi ước mong đón nhận những ý kiến xây dựng, những chỉ bảo cần thiết để bổ túc, sửa chữa đoạn bài viết về sắc lính này...

    Lần đầu tiên ra nhận đơn vị, đứng trước hàng quân, tôi hơi ngỡ ngàng. Trước mặt tôi là Trung Đội 1, Đại Đội 1, Tiểu Đoàn Bạch Hổ 401, chủ lực Địa Phương Quân thuộc Tiểu khu Kiến hòa, tập hợp ở một góc sân cờ ở trại gia binh, hậu cứ Tiểu đoàn. Trừ những người nghỉ bệnh, bị thương, đi phép, trễ phép, nằm quân lao, còn lại tất cả 16 người lính tuổi từ mười tám tới ngoài năm mươi và hai Hạ sĩ quan. Ai nấy mắt hơi lạc thần vì mệt mỏi, thân thể hầu hết gầy gò, quần áo rách rưới, tóc tai bờm xờm, có người râu dài lưa thưa, có người mặt mày dớn dác như sợ hãi, có người lầm lì dữ tợn.

    Tôi đứng trước họ, có cảm tưởng đứng trước những "anh hùng" Lương Sơn Bạc, vừa hơi e dè, vừa hơi ngại ngùng và vừa hơi thất vọng. Họ cũng hơi thất vọng và phân vân. Sự phân vân trước một cấp chỉ huy trực tiếp mới ra trường, không một chút kinh nghiệm lãnh đạo chỉ huy và tác chiến. May mà năm đó tôi đã 22 tuổi tây, "già" hơn vài tuổi so với phần lớn các chuẩn úy mới ra trường. Trừ đầu tóc hớt ngắn và bộ quân phục còn khá mới với dấu alpha ở bâu và dấu hiệu "Cư An Tư Nguy" của Trường Bộ Binh Thủ Đức bên vaị. Mặt mày tôi cũng có vẻ phong sương chút chút nhờ nắng gió quân trường.

    Một cách vắn tắt, tôi giới thiệu vài điều về tôi: gốc thầy giáo, tình nguyện nhập ngũ, tuổi tác, vợ con. Tôi yêu cầu họ lần lượt xưng tên, và tôi bắt tay từng ngườị. Tay họ phần lớn chai sạn và khô như củị. Có người nắm chặt tay tôi như sắp sửa đấu vật, có người đưa tay cho tôi nắm. Mắt họ nhìn vào khoảng không hay nhìn xuống đất. Có người cười cười, nụ cười lợt lạt, có người mím chặt môi như bị tra tấn.

    Tôi nói với họ vài điều sơ sài về tình hình đất nước, Hiệp Định Đình Chiến Paris đã ký, về ngưng bắn tại chỗ, ngưng bắn da beo, về việc Cộng sản Bắc Việt (CSBV) và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN) vi phạm lệnh ngưng bắn hàng ngày, luôn luôn giành dân lấn đất để mong chiếm ưu thế nông thôn, lấy nông thôn bao vây thành thị...

    Gió chiều hiu hắt thổi, tôi thấy những chiến hữu của tôi lim dim chống lại cơn buồn ngủ. Tôi biết họ không quan tâm những điều tôi nóị. Là quân nhân, họ chờ lệnh, tuân lệnh và thi hành lệnh. Đối tượng của họ là Việt Cộng (VC). Đời họ là sự tiếp nối của những cuộc hành quân càn quét, truy kích, đột kích, giải vây, tiếp tế đồn bót, giữ cầu, giữ đường. Họ không cần biết những chuyện cao xa hơn lệnh lạc trực tiếp: tập hợp, tan hàng, cấm trại hay xả trại, nếu xả trại thì được đi bao lâu, một ngày hai ngày, nếu cấm trại thì có thể chui rào trốn ra trong mấy giờ?

    Tôi không phải là sĩ quan Chiến Tranh Chính Trị, tôi là sĩ quan tác chiến, tôi không nên bắt họ nghe chuyện chính trị, mà nên cho họ tan hàng, nghỉ ngơi hay vui chơi trong khi chờ lệnh hành quân. Tôi hiểụ Tôi vắn tắt hơn, yêu cầu họ thực lòng hợp tác với tôi trong những ngày sắp tới, hãy coi tôi như anh em, giúp đỡ lẫn nhaụ. Tôi nhắc họ giữ đúng quân kỷ, thi hành lệnh một cách đầy đủ và nghiêm chỉnh. Tôi tiết lộ cho họ biết tôi từng là Sinh Viên Sĩ Quan (SVSQ) Kỷ Luật Đại Đội ở quân trường, tôi từng... hét ra lửa và họ có thể kiểm chứng điều này với mấy ông chuẩn úy học cùng đại đội với tôi ở quân trường và nay cùng về đơn vị với tôị. Vài phút sau khi tan hàng, một ông lính tới bá vai tôi, cười cười:

    Tôi thấy ông hiền quá, đúng là thầy giáo, chắc ông không chỉ huy được đâu!

    Đó là những giây phút đầu của tôi ở một đơn vị Địa Phương Quân.

    Sự thất vọng của tôi qua mau khi tôi sống với họ qua một vài ngày ngoài chiến trường. Sự già dặn của họ về kinh nghiệm chiến đấu, sự gan dạ của họ khi đối diện với địch quân và nhất là sự chịu đựng của họ trước nghịch cảnh khiến tôi cảm thấy nhỏ bé và non dại trước họ hơn bao giờ hết. Mặc cảm này cũng phôi pha nhanh trong tôi, một phần nhờ sự độ lượng và tinh thần đồng đội của họ.

    Họ sung sướng chỉ cho tôi cách chạy qua một cái cầu khỉ cong queo, không tay vịn, gập ghềnh có khi dài mười mấy thước và ghê gớm hơn hết là nhớp nháp bùn sình, trơn như thoa mỡ. Họ nhắc cho tôi khi nào phải bắt đầu nấu nước sôi ngâm bọc gạo sấy để nó kịp nở trước khi ăn.

    Thấy tôi lóng cóng nhóm lửa theo kiểu hướng đạo sinh, họ mỉm cười sẻ cho tôi một ít nước sôị Thấy tôi ăn cơm với muối vừng, họ mời tôi những thức tươi nóng mà họ tìm được đâu đó trong lúc di chuyển. Họ chỉ cho tôi những dấu vết tình nghi của mìn bẫy, trái nổ Việt Cộng (VC) cài khắp nơi trong vườn tược, chỗ lên mương xuống mương, bếp núc, cầu đường. Tôi đã học kỹ điều này trong quân trường, nhưng thực tế ngoài chiến trường còn phong phú và phức tạp gấp trăm lần.

    Họ bày cho tôi cách căng võng sao cho khỏi sương mưa, tránh bớt đường đạn bắn sẻ, tránh tầm lựu đạn. Họ dạy cho tôi khi ngủ súng ống, dây mang đạn để đâu; khi ngủ lúc nào thì phải bỏ võng nhảy xuống hố cá nhân sũng nước, khi nào thì cứ tỉnh bơ dù nghe tiếng "đề pa" của súng cối Việt Cộng. Họ bày cho tôi cách giữ súng cho khỏi hóc, khỏi ướt khi qua sông, qua suốị. Họ truyền kinh nghiệm tháo súng chùi súng cấp thời ngoài chiến trường, để khi cần, có thể ráp lại được trong vòng 15 giây.

    Họ hướng dẫn cho tôi cả cách... đi đại tiện sao cho an toàn, tránh gây hôi thối chỗ đóng quân mà không phải đi xa ra ngoài vọng gác, vừa nguy hiểm vừa làm lộ vị trí đóng quân. Họ biết đủ thứ, hơn tôi đủ thứ và sung sướng dạy bảo tôi về mọi thứ! Tôi chỉ hơn họ có mỗi cái bằng trung đội trưởng, cái bản đồ kèm phóng đồ hành quân và cái máy truyền tin để nhận lệnh từ thượng cấp.

    Họ thường ngập ngừng hỏi tôi với sự nể nang:

    - Còn bao xa nữa Chuẩn úy?

    - Liệu tối nay mình ngủ đâu Chuẩn úy?

    - Chừng bao lâu thì mình bắt tay được cánh quân bạn?

    - Liệu đụng lớn không?

    Tất nhiên đó là những câu hỏi thuộc bí mật quân sự, tôi chỉ có thể trả lời lơ mơ rằng: "gần tới rồi," "còn xa," "chưa biết," "có thể lắm!" v.v. Các chiến hữu của tôi chỉ chấp nhận tôi hoàn toàn sau hai tháng hành quân, khi thấy tôi định điểm đứng chính xác, điều chỉnh tác xạ cho pháo binh một cách hữu hiệu, không sợ sệt khi nghe Việt Cộng hô xung phong cả ba mặt, và còn cười đùa được khi dàn hàng ngang trên tuyến xung phong. Họ chấp nhận vị trí đóng quân do tôi định, đào hầm hố đúng chỗ tôi bảo và khi trung đội đi tiền đồn, cách xa đơn vị lớn có khi hàng cây số, họ tỏ ra yên tâm.

    Tôi đã thực sự vào đời lính, hãnh diện trở thành một Địa Phương Quân khi các chiến hữu của tôi không còn gọi tôi là "chim uyên" (ngụy thoại của Chuẩn úy), mà đổi thành "thẩm quyền", một danh từ riêng có tính cách nể nang hơn...

    Địa Phương Quân, Lực Lượng Chủ Lực Tỉnh.

    Tôi không ở một đơn vị tham mưu nên không biết gì về cách tổ chức Địa Phương Quân trên toàn quốc. Theo cách sắp xếp tiểu khu Kiến Hòa, nơi tôi phục vụ, mà suy đoán, thì mỗi tiểu khu có một số tiểu đoàn Địa Phương Quân (một số lưu động, một số đóng đồn). Ngoài ra có một Đại đội Trinh sát, tất cả do phòng 3 (Hành quân) của Tiểu Khu điều động. Đơn vị của tôi là Tiểu Đoàn Bạch Hổ 401, lực lượng chủ lực trong số 11 tiểu đoàn Địa Phương Quân thuộc tỉnh Kiến hòa, dưới quyền chỉ huy của Đại tá Kim, Tiểu Khu Trưởng, gốc Sư Đoàn 7.

    Tất cả những gì tôi viết trong bài này, căn cứ vào cơ cấu tổ chức của đơn vị nơi tùng sự từ ngày ra trường đến ngày Tổng Thống Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng. Vì Địa Phương Quân trực thuộc các tiểu khu (tỉnh), nên tùy tình hình, phương tiện và nhân sự địa phương, cách tổ chức có thể được các tiểu khu linh động thay đổi nên khác nhau ít nhiềụ. Tiểu đoàn trưởng đầu tiên tôi làm việc với là Trung tá Sáng (sau khi tôi về đơn vị được vài tuần thì ông tử trận, được vinh thăng đại tá). Các tiểu đoàn trưởng kế tiếp cao nhất ở cấp thiếu tá, còn là đại úỵ. Chỉ trong tám tháng, đơn vị tôi thay tiểu đoàn trưởng tới bốn lần, một chết, một bị thương.

    Mỗi tiểu đoàn có năm đại đội gồm bốn đại đội tác chiến và một đại đội chỉ huỵ. Mỗi đại đội có bốn trung đội, gồm một trung đội đại liên và ba trung đội vũ khí nhẹ. Quân số mỗi đại đội, trên cấp số là 108 người, nhưng trên thực tế có mặt ngoài chiến trường chỉ vào khoảng 50 ngườị. Số còn lại lớp nghỉ bệnh, lớp đi phép, lớp bị thương, lớp tử trận chưa kịp bổ sung (tôi không thấy có dấu hiệu lính ma, lính kiểng ở đơn vị tôi). Quân số hành quân của tiểu đoàn tôi trung bình khoảng 300, lúc thấp nhất dưới 200; nhưng so với một tiểu đoàn Việt Cộng thì đông gấp đôi.

    Tôi không biết các tiểu đoàn Việt Cộng ở vùng I, vùng II đông cỡ nào, khi họ tới Vĩnh Bình, Kiến Hòa, thực lực của họ chỉ còn bấy nhiêu, vì rất khó bổ sung quân số hao hụt. Cho nên khi muốn bao vây tấn công tiểu đoàn tôi, như trận phục kích xe ở Trúc Giang, Trung Tá Sáng tử trận, Việt Cộng phải tập trung ít nhất hai trung đoàn.

    Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn, ngoài tiểu đoàn trưởng, tiểu đoàn phó còn có các sĩ quan Ban 1 (Quân Số), Ban 2 (An Ninh), Ban 3 (Hành Quân), Ban 4 (Tiếp Liệu), Ban 5 (Chiến Tranh Chính Trị), Pháo Binh và Quân Ỵ. Trừ Ban 1, Ban 4 và Ban 5, các Ban khác đều đi theo đơn vị khi hành quân. Đó là cách tổ chức của đơn vị tôi, các tiểu đoàn khác có thể không được hùng hậu như vậy.

    Tôi không thấy đơn vị tôi có ban Truyền Tin riêng, nhưng máy PRC-25 được trang bị đầy đủ, do chính các binh sĩ trong tiểu đoàn đảm trách. Tiểu đoàn trưởng có hai hiệu thính viên đi theo, một máy liên lạc với Tiểu Khu, Chi Khu và đơn vị bạn. Một máy liên lạc 5 đại đội và tiểu đoàn phó (đi theo đại đội trực nhật). Mỗi đại đội trưởng cũng có hai hiệu thính viên, một liên lạc với tiểu đoàn trưởng, tiểu đoàn phó cùng các đại đội bạn, và một liên lạc với các trung độị. Mỗi trung đội trưởng chỉ có một hiệu thính viên để liên lạc với đại độị. Đại đội phó không có máy riêng, mà dùng máy của trung đội trực nhật.

    Trong Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn có sĩ quan Trợ Y, thuộc cấp số đơn vị, có đơn vị gia cư trong hậu cứ. Mỗi đại đội có một hạ sĩ quan làm y tá đại đội. Sĩ quan Pháo Binh không thuộc cấp số đơn vị, chỉ khi nào tiểu đoàn đi hành quân, sĩ quan Pháo Binh mới có mặt. Hành quân xong, ông ta trở về căn cứ Pháo Binh. Sĩ quan Pháo Binh có hiệu thính viên riêng để liên lạc trực tiếp với Pháo Binh yểm trợ. Trong trường hợp cần Không yểm, tiểu đoàn phải liên lạc qua tiểu khu, và tiểu khu liên lạc với căn cứ Không Quân Cần Thơ.

    Mỗi tiểu khu có một số tiểu đoàn lưu động, một số có hậu cứ, số còn lại sau những ngày hành quân, kéo ra đóng dài theo các trục lộ, vừa dưỡng quân vừa giữ an ninh khu vực. Các tiểu đoàn cố định khác chịu trách nhiệm hẳn một vùng, coi đồn, giữ cầu đường hay đóng chốt trên các trục chuyển quân của Việt Cộng. Tôi sẽ đề cập nhiệm vụ đóng chốt ở phần sau, phần này trình bày về các đơn vị lưu động.

    Gọi là "lưu động" vì các tiểu đoàn này không chịu trách nhiệm một quận hạt nào, mà cần đâu đánh đó, bao tất cả các quận trong tỉnh, kể cả Trúc Giang, Bình Đại, Ba Tri, Giồng Trôm, Mỏ Cày, Hàm Long, Thạnh Phú, Hương Mỹ... Mỗi cuộc hành quân của đơn vị ngắn là ba ngày, lâu nhất có khi hàng sáu tuần. Giữa hai cuộc hành quân, đơn vị được về hậu cứ nghỉ ngơi vài ngàỵ. Ở hậu cứ có trại gia binh, quân nhân có vợ con mỗi người được một đơn vị gia cư tường gạch, nền đất, lợp tôn. Quân nhân độc thân sống chung với nhau trong một khu. Trong hậu cứ có quán bi da, quán nhậu, tiệm tạp hóa.

    Đơn vị nào có trại gia binh, binh lính được dưỡng quân ở hậu cứ, "vù" về thăm nhà nửa buổi, một ngày; hay chơi với vợ con trong trại, tụ họp nhậu nhẹt, tán dóc, chơi bi da giải trí, tu bổ, sửa chữa vũ khí trong khi chờ lệnh hành quân. Thương cho những tiểu đoàn lưu động không hậu cứ. Sau mỗi cuộc hành quân, họ đóng vất vưởng dọc theo các trục lộ giao thông, vừa dưỡng quân vừa giữ đường sá.

    Mỗi lần lính kéo ra là một đạo binh thân nhân từ đâu phục sẵn, kéo tới đông nghịt, phần lớn là các bà vợ trẻ đèo theo con mọn. Họ đi bằng xe đò, xe lam, xe lôi và nhất là xe "ôm". Họ mang theo gạo sấy, cá khô và muối ớt, muối sả cho chồng. Đôi khi họ nhận lại và mang về một ít gạo trắng, thuốc men và cả thức ăn tươi, nếu đơn vị của chồng họ vừa hành quân qua vùng hậu cần của Việt Cộng.

    Vào những ngày đầu tháng, đạo binh vợ lính càng xuất hiện đông đảo cùng lúc với xe tiếp tế và phát lương. Không biết các bà nhận "tin tình báo" từ đâu mà nhiều khi tiểu đoàn vừa kéo ra đường, đã thấy các bà chực sẵn hàng nửa ngày! Các bà phải tới để bảo vệ đồng lương lính còm cõi, mang về nuôi con. Nếu không, chỉ trong vài buổi, các ông có thể nướng sạch. Chỉ cần với một bộ bài cũ rách sờn nát, họp sòng vội vã và lén lút ở một góc sân kín đáo nào đó, tránh sự giám thị của sĩ quan, thế là tiêu tán hết. Dù bám sát như vậy, không một buổi phát lương nào vắng nước mắt của các bà. Hoặc họ tới trễ một chút, hết sạch. Hoặc họ đến sớm, đến trước cả xe phát lương, kết quả vẫn không có gì, khi các anh chồng mặt nghệt ra, gãi đầu gãi tai phân bua: phải trả những đầu nợ ấp lẫm do tiền rượu, nợ cờ bạc...

    Thăm nuôi chồng tại các vị trí đóng quân cũng là cách bảo vệ mái ấm gia đình. Nhiều ông lính rất tài về chuyện kiếm bồ lẻ. Đóng yên chỗ chừng nửa ngày là họ đã bắt bồ xong. Và sau vài ba ngày nhổ trại lên đường, đã có người giọt vắn giọt dài quyến luyến tiễn đưạ. Các bà vợ trẻ vì thế càng phải tới chỗ dừng quân để vừa giữ chồng, vừa nhóm chút hương lửa trong đời sống vợ chồng.

    Cấp chỉ huy bao giờ cũng để cho các ông lính có vợ con tới thăm sự thoải mái tối đa: một góc nhà, góc vườn kín đáo; được gác đầu hay gác cuối, có khi miễn gác; không bị rầy rà khi phạm những lỗi nhỏ, v.v. Nhìn các cậu có vợ tới thăm nuôi trông rất buồn cườị. Mặt họ ửng đỏ, miệng cười chúm chím, đi đứng ăn nói lóng cóng như chú rể mớị. Cấp chỉ huy mỗi khi chạm mặt họ, mỉm cười chia sẻ những nụ cười hiếm hoi trong đời lính và họ rất sung sướng.

    Trong đạo binh vợ lính ở đơn vị tôi, có hai bà rất lạ kỳ. Một bà còn trẻ, hễ chui vào mùng với chồng chừng vài phút là rú lên cười ngằn ngặt không nín nổị. Trong không khí thanh vắng ở đồng quê, tiếng cười của bà ta vọng đi rất xa, khiến cả đại đội phải khúc khích cười theo không tài nào nhịn được.

    Khi bà vợ trẻ biểu diễn tiếng cười lần thứ hai lúc nửa đêm, người lính gác phải lên tiếng tằng hắng nhiều lần, anh chồng mới thò tay bịt miệng vợ, tiếng cười trở thành tiếng âm ư, bứt rứt. Gần sáng, lại nghe cười! Sáng hôm sau anh chồng thế nào cũng bị trêu chọc cho tới khi anh ta đổ cộc mới thôi, và bà vợ mặt mày đỏ lơ đỏ lưỡng, ngồi chết một góc sân không dám nhìn aị. May mà cả đơn vị chỉ có một bà như vậy và cũng không hại gì, chỉ lưu lại kỷ niệm vui vui mỗi khi nhớ tới.

    Một bà vợ lính khác lớn tuổi hơn, khi ngủ say thì ngáy khủng khiếp. Tiếng ngáy của bà vừa to, vừa dài hơi, vừa giống hệt như tiếng chó tru. Ở vùng đóng quân, tiếng ngáy của bà khiến chó trong xóm sợ hãi tru theo và dân làng một phen bở víạ. Ở trại gia binh, tiếng bà ngáy vọng ra xa hàng chục dãy nhà và hàng xóm phải lâu lắm mới làm quen nổi và chịu đựng. Đêm đầu tiên ngủ trong trại gia binh, nghe bà ta ngáy, tôi tưởng là tiếng chó dại tru, suốt đêm trằn trọc không cách nào ngủ được, khó chịu quá phải bò dậy xách súng đi lùng. Một người lính tuần phòng nội doanh trông thấy dáng điệu của tôi, anh ta hiểu ngay, gọi tôi lại chỉ trỏ giải thích. Tôi ôm súng trở lại chỗ ngủ, và lạ lùng thay, vài phút sau tôi đã ngủ ngon lành! Cho tới bây giờ, chúng tôi, những người từng sống trong hậu cứ Tiểu Đoàn Bạch Hổ 401, kể cả Nguyên Hương, chưa ai quên tiếng ngáy độc nhất vô nhị của người đàn bà đó.

    Dưỡng quân ở hậu cứ bao giờ cũng yên ổn hơn, dù doanh trại lúc nào cũng ồn ào như họp chợ từ khi đơn vị hành quân về tới cho đến khi chiếc quân xa cuối cùng rời trại, mang họ vào một chuyến đi khác. Sống trong trại chỉ khổ nhất khi đơn vị có người chết trận, và thân nhân người chết sống trong trạị. May mà những tiếng than khóc, vật vả ấy không kéo dài lâụ. Thân nhân người quá cố được xe đón ra Chung sự vụ ở tiểu khu, nơi quàn xác và hoàn tất việc chôn cất các chiến sĩ trận vong.

    Tuy nhiên, những phút giây ngắn ngủi ấy đã để lại trong tôi những cảm xúc khó quên, như cái chết của anh Lâm, Trung Sĩ Ị

    Lâm gốc Biệt Kích Thám Báo, sau về Tổng Tham Mưu, cuối cùng không hiểu sao lại về Địa Phương Quân, làm trung đội phó cho tôị. Anh Lâm nhỏ người, nhỏ tiếng, ít cười, lúc nào cũng buồn buồn. Lâm có vợ, vợ chồng anh có một con nhỏ và đang chờ đứa thứ hai, đang bầu bảy tám tháng gì đó. Anh đánh giặc rất giỏi, nhiều kinh nghiệm hành quân và bố trí phòng thủ.

    Mỗi chiều dừng quân, tôi bàn bạc với anh về cách sắp xếp hầm hố nếu ý anh khác tôi, anh giải thích cặn kẽ, thấy hợp lý, bao giờ tôi cũng nghe anh. Hố của anh bao giờ cũng ở vào chỗ nguy hiểm nhất và gần một vọng gác. Ban đêm anh tự đảm nhiệm phần đốc canh, bảo vì mắc tật khó ngủ. Lâm chỉ lay tôi dậy khi cảm thấy có chuyện gì bất tường, còn thì cứ để tôi ngủ thẳng giấc, anh làm việc với các tiểu đội trưởng, thay phiên nhau kiểm soát lính gác. Khi trung đội tới phiên trực, dẫn đầu một cánh quân tiến về phía địch, anh Lâm bao giờ cũng đi trước. Anh dẫn lính đi rất đúng hướng và nhanh vừa phải, phía sau không bị đứt quãng hay dồn ứ lại.

    Mỗi khi chạm địch, tôi vừa lên tới nơi, anh đã bố trí xong đội hình tác chiến. Anh Lâm dũng cảm nhất ở những trận chống đột kích ban đêm. Cách bố trí của Lâm và lệnh "hầm chắc hố sâu" của tôi khiến trung đội đủ sức chịu đựng những cuộc quần thảo với Việt Cộng hầu như suốt đêm. Lâm giữ chặt liên lạc với các hố. Giữa hai đợt xung phong của địch, anh bò nhanh một vòng để kiểm soát tình hình, san sẻ đạn dược và ủy lạo thương binh trong khi tôi bận báo cáo lên thượng cấp và trực tiếp liên lạc với sĩ quan pháo binh qua máy truyền tin. Anh Lâm là một chiến sĩ xuất sắc. Nếu được thưởng huy chương, tôi sẽ rất sung sướng đề cử anh thay đơn vị mà nhận...

    Một lần, trước khi đơn vị hành quân, Lâm nói cho tôi biết là anh bị ho ra máu và muốn ở lại để vào Quân Y viện khám bệnh. Theo nội lệ của đơn vị, phép tắc do đại đội trưởng quyết định, tôi không dám tự chuyên. Cấp trên của tôi lúc đó là một ông trung úy rất thô lỗ và không thân với tôị. Lâm cho biết đã hỏi ông ta nhưng không được, anh quyết định trốn lại trại nhưng phải báo cho tôi biết để lo liệu cho anh em.

    Tôi tin là anh đang đau ốm, và tôi cũng có thể khỏa lấp, che chở cho anh để đại đội trưởng không biết anh ở lại trạị. Nhưng nhìn vào phóng đồ hành quân, biết đơn vị sẽ đi vào một vùng đất cực kỳ nguy hiểm, tôi phân vân ra mặt, do dự không biết xử trí ra saọ. Anh Lâm kiên nhẫn chờ đợi, cuối cùng tôi cho anh biết tình hình, khuyên anh "cố gắng" và hứa sẽ cho anh theo xe tiếp tế để trở lại trại sau khi đơn vị hoàn thành công tác và kéo ra tới đường cái.

    Anh Lâm chào tay, quay lưng đi và vài phút sau khi ra tới địa điểm tập hợp, tôi đã thấy anh đang có mặt với đầy đủ trang bị và đang kiểm soát đạn dược của từng binh sĩ. Chuyến hành quân đó, tôi đi cùng chiếc GMC cuối cùng.
    Trông coi cho binh sĩ lên xe đầy đủ, tôi bấm Lâm:

    Anh về nghỉ đi, chờ xe tiếp tế rồi theo vô, mọi chuyện để tôi lo!

    Lâm cười nhanh:

    Chuẩn úy đừng lo, tôi thấy đỡ rồị. Tôi sẽ theo xe tiếp tế mà về!

    Hai ngày sau Lâm tử trận. Giữa cuộc hành quân, lúc đơn vị dừng quân ngồi nghỉ, anh trúng một tràng đạn bắn sẻ, hai viên chui vào cổ và buồng phổị. Lâm nằm ngửa, mắt mở hé chỉ thấy lòng trắng, miệng ngáp từng chập như cá lóc bị đập đầụ. Tôi thương cảm vuốt mắt anh, mắt tôi ráo hoảnh nhưng lòng như ứa máụ. Nửa phút sau, anh qua đờị. Hai người lính khiêng xác Lâm, bảo nhau chưa có xác nào nhẹ đến thế! Hôm sau, anh đã "theo xe tiếp tế mà về," đúng như lời đã bảo.

    Đợt hành quân đó không thành công, địch kịp thời chuyển quân sang vùng khác, tiểu đoàn được lệnh về trại để bổ sung khí giới rồi lên đường hành quân ở một hướng khác. Xác anh Lâm về chung sự vụ và chúng tôi về hậu cứ. Tôi bắt gặp chị Lâm bụng cao vượt mặt, tay cầm nắm rau thơm, cười hớn hở:

    Em mới xin được nắm rau tần dày lá! Canh chua mà thiếu rau tần, anh Lâm không thích!

    Lòng tôi thắt lại, chết điếng. Ông thượng sĩ thường vụ đại đội chưa kịp báo tin cho chị. Trông thấy vẻ mặt bất thường của tôi, chị Lâm tái mặt, lấp bấp:

    Anh Lâm... bị thương?

    Tôi nhẹ giọng:

    Anh Lâm chết rồi! Chị dắt cháu lên Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn. Tôi lo xe cho chị ra chung sự vụ.

    Chị Lâm ngồi phệt xuống đất, không khóc, không nấc được tiếng nàọ. Tôi không nhìn thấy chị nữa. Trời đất như phủ một màn sương. Một người vợ lính nào đó nâng chị dậy, dìu đị. Tôi lửng thửng vào nhà, nhìn Nguyên Hương chua xót. Một ngày nào đó, biết đâu ông Thượng sĩ Thường vụ lại chẳng phải nói với Hương một câu tương tự: "Anh Nghĩa..."


    Nguyễn Hữu Nghĩa

  • #2
    Viết về những bạn cùng Khóa về Địa-Phương-Quân

    Địa-Phương-Quân QLVNCH (Quân-lực VNCH) : là Lính Điạ-phương của cấp Tỉnh, nguyên-tắc chỉ hoạt-động trong "Tỉnh Nhà", nhưng đôi-khi cũng được "tăng-phái" cho mấy Tỉnh lân-cận trong 1 thời-gian tương-đối ngắn.

    Về tổ-chức Quân-sự Diện-điạ, hồi-đó, Tỉnh gọi Tiểu-Khu, Quận : Chi-Khu, Xã : Phân-Chi-Khu
    Lính Cơ-hữu của Tỉnh và Quận : gọi Địa-Phương-Quân, của Xã : là Nghĩa-Quân (Nghĩa-Quân thường chỉ được thành-lập cấp Trung-đội, từ 15 --> tới 35 người. Số Trung-đội nhiều ít tùy-theo Xã lớn nhỏ, và rất ít-khi lưu-động ra khỏi "Xã Nhà")

    Toàn VNCH chia làm 4 Quân-Khu, mỗi Quân-Khu (gồm nhiều Tiểu-Khu) có 1 Quân-Đoàn chủ-lực (gồm 2 hoặc 3 Sư-Đoàn Bộ-Binh), và 3 tới 5 Liên-Đoàn Biệt-Động-Quân (Trừ-bị Lưu-động cơ-hữu của Quân-Khu, đôi-khi cũng được tăng-phái cho Quân-Khu khác).

    Lực-lượng Tổng-Trừ-Bị, ko trực-thuộc Quân-Khu nào, gồm có : Sư-Đoàn Dù (Nhảy-Dù), Sư-Đoàn TQLC (Thủy-Quân-Lục-Chiến), Liên-Đoàn 81 Biệt-Cách-Dù, Chiến-Đoàn Biệt-Kích Lôi-Hổ, Liên-Đoàn Hải-Kích Người-Nhái, Nha Kỹ-Thuật.

    Chương-trình đào-tạo Sĩ-quan Hiện-dịch Dalat QLVNCH : từ 2 tới 4 năm.

    Sĩ-Quan Trừ-bị Thủ-Đức và Sĩ-Quan Trừ-bị Đồng-Đế Nha-Trang là 9 tháng, chia-làm 3 giai-đoạn, mỗi giai-đoạn 3 tháng :

    - Giai-đoạn 1 : Huấn-luyện căn-bản để trở-thành 1 người lính Binh-Nhì, cấp-bậc thấp nhất trong Quân-đội (hàng Binh-Sĩ có 4 cấp : Binh-Nhì, Binh-Nhất, Hạ-Sĩ, Hạ-Sĩ-Nhất)

    - Giai-đoạn 2 : Đào-tạo Hạ-Sĩ-Quan, cấp-bậc chỉ-huy thấp nhất, Trung-Sĩ Tiểu-đội trưởng, chỉ-huy từ 6 tới 10 Binh-Sĩ (hàng Hạ-Sĩ-Quan cũng có 4 cấp : Trung-Sĩ, Trung-Sĩ-Nhất, Thượng-Sĩ, Thượng-Sĩ-Nhất)

    - Giai-đoạn 3 : Đào-tạo Sĩ-Quan Căn-bản Bộ-Binh, ra Chuẩn-úy (cấp-bậc Sĩ-Quan thấp nhất) chỉ-huy Trung-đội (từ 20 tới 40 người). Những binh-chủng "Tổng-Trừ-Bị" (như Dù, TQLC..) : thường chỉ cho Chuẩn-Úy mới ra-trường, chính-thức coi Trung-đội sau 6 tháng "tập-sự".

    Hàng Sĩ-Quan có 11 cấp, từ dưới lên : Chuẩn-Úy, Thiếu-Úy, Trung-Úy, Đại-Úy -- Thiếu-Tá, Trung-Tá, Đại-Tá -- Chuẩn-Tướng, Thiếu-Tướng, Trung-Tướng, Đại-Tướng (ko có cấp Chuẩn-Tá)

    Tại Trường Bộ-Binh Thủ-Đức (15 tháng sau-cùng dời về Long-Thành), Giai-đoạn 1 : gọi "Tân-Khóa-Sinh", Giai-đoạn 2 và 3 : là "Sinh-Viên Sĩ-Quan"

    Sau mỗi Giai-đoạn đều có những người bị đánh rớt !

    - Rớt Giai-đoạn 1 : thường vì "lý-do Lý-lịch".

    - Rớt Giai-đoạn 2 : thường vì "lý-do Trình-độ", ko đủ khả-năng "Lãnh-đạo Chỉ-huy" !

    - Rớt Giai-đoạn 3 : cả 2 lý-do.

    Ngoài-ra còn những lý-do khác : Sức-khỏe, Kỷ-luật ...

    Tổng-cộng trong lịch-sử QLVNCH :

    - Sĩ-quan Trừ-Bị tốt-nghiệp từ Thủ-Đức, Long-Thành là nhiều nhất : khoảng 80 ngàn

    - Sĩ-quan Trừ-Bị, nhưng vì Thủ-Đức thiếu chỗ (nhất-là vào những năm 1968 : Tổng-Động-Viên sau Tết Mậu-Thân, 1972 : "Đôn-Quân" sau "Mùa-Hè Đỏ-Lửa"), được gửi ra học ở Trường Hạ-Sĩ-Quan Đồng-Đế Nha-Trang : hơn 10 ngàn

    - Sĩ-quan Hiện-Dịch, tình-nguyện, phải qua thi-tuyển, tốt-nghiệp Trường VBQGVN (Võ-Bị Quốc-Gia VN) Dalat : trên-dưới 5 ngàn

    Võ-bị Dalat : ra thẳng Thiếu-Úy

    Từ Thủ-Đức và Đồng-Đế : ra Chuẩn-Úy, 18 tháng sau được tự-động lên Thiếu-Úy (trừ những trường-hợp bị "giam lon" vì nhiều lý-do, chủ-yếu là kỷ-luật, "ba-gai" ("Pagaille", tiếng Pháp)

    Ngoài-ra, còn SVSQ Không-Quân và Hải-Quân, học-trình 2 năm, ra Thiếu-úy, tại 2 Trung-Tâm Huấn-Luyện, đều ở Nha-Trang (TTHL Không-Quân và TTHL Hải quân) : đào-tạo cả 3 cấp Sĩ-Quan, Hạ-Sĩ-Quan, Binh-Sĩ)

    QLVNCH khoảng 1 triệu người, thì Không-Quân : 55 ngàn, Hải-Quân : 45 ngàn, Lục-Quân : 900 ngàn (trong-đó, phân-nửa là Điạ-Phương-Quân, Nghĩa-Quân).

    Hình-thức tổ-chức khá "nặng-nề cổ-điển". Tỷ-lệ Lục-Quân quá nhiều, mà Lưc-Lượng Lưu-Động "Tổng-Trừ-Bị" thì ít !

    Những Quân-Đội "tân-tiến" ngày-nay : Hải-Quân + Không-Quân phải nhiều bằng hoặc hơn Lục-Quân : HQ + KQ > LQ

    (Quân-Chủng Lục-Quân : bao-gồm tất-cả những Binh-Chủng - Chủ-Lực và Điạ-Phương- không thuộc Hải-Quân và Không-Quân)

    HÀNH-KHÚC.

    Bộ-Binh Thủ-Đức :
    https://www.youtube.com/watch?v=5Gz2bQVNsTY
    Võ-Bị Dalat :
    https://www.youtube.com/watch?v=NpbTWeAyK6c
    Đồng-Đế Nha-Trang :
    https://www.youtube.com/watch?v=L9fze5JkvDw

    K 9/73 SQ.TBTX.TĐ (Khóa Thứ 9 -cũng là khóa cuối-cùng- của năm 1973, Sĩ-Quan Trừ-Bị Thường-Xuyên Thủ-Đức) có hơn 1200 SVSQ, tốt-nghiệp chẵn 1000 Chuẩn-Úy

    (Với "Mật-khẩu nhận-bạn" sau-này khi gặp nhau ngoài-đời, hỏi - "973 ?", phải đáp - "1 Ngàn"),
    9/73, lúc ở Thủ-Đức, được xếp vào Tiểu-Đoàn 4 Khóa-Sinh, Khăn Vàng, Cờ Vàng. Ra trường được đặt tên Khóa Kiến-Thiết, nên sau-này thường gọi nhau là GĐ.KVKT ("Gia-Đình Khăn-Vàng Kiến-Thiết") thì gồm :

    - Khoảng 200 người về các Ngành chuyên-môn (Quân-y, Quân-cụ, Quân-huấn, Công-binh..)

    - và 800 đi tác-chiến : chia cho 13 Sư-Đoàn và 43 Tiểu-Khu, riêng Tiểu-khu Kiến-Hòa (tức tỉnh Bến-Tre ngày-nay) nhận nhiều nhất : 82 Tân Chuẩn-Úy

    Có chàng "Chim-Uyên tốt-nghiệp Trường Bại-Binh Thức-Đủ, Quân-Lực Việt-Nam-Cộng-Trừ, về Điạ-Phao-Câu" (Chuẩn-Úy tốt-nghiệp Trường Bộ-Binh Thủ-Đức, QLVNCH, về Điạ-Phương-Quân) kể chuyện những tháng-ngày bỡ-ngỡ mới ra đơn-vị..

    (Theo tài-liệu Phòng Tổng-Quản-Trị, Bộ Tổng-Tham-Mưu, chỉ sau 6 tháng ra-trường, số "Chim-Uyên" hy-sinh, với một Tỷ-lệ thật ngậm-ngùi đau-xót ! Đơn-giản, dễ-hiểu, bởi-vì Họ luôn được "trám" vào những chỗ "Thiếu-hụt, Nặng-nề, Nguy-hiểm" nhất !)

    Mời xem bài-viết kèm-đây, không quá dài, không quá ngắn, nhưng rất tình-tiết súc-tích, sống-động và cảm-động, tạm đủ giúp những ai ko đi lính, có-thể hiểu qua về đời-sống quân-ngũ ở sắc-lính tác-chiến đông nhất QLVNCH : Địa-Phương-Quân, của Chuẩn-úy "Sữa" : Nguyễn-Hữu-Nghĩa (Cựu Sinh-viên Sĩ-quan 9/73, nhập-khóa : 07-11-1973 tại Thủ-Đức, mãn-khóa : 17-08-1974 tại Long-Thành) chọn về Tiểu-khu Kiến-Hòa, thuộc Quân-Khu 4, hồi-đó còn gọi "Vùng 4 Chiến-Thuật"

    Mà ngày-nay thường gọi "Miền-Tây", tức "Đồng-Bằng Sông Cửu-Long", "Vựa Lúa" của cả Nước, giúp VN là 1 trong những quốc-gia xuất-cảng gạo "mạnh" trên Thế-giới. Dân ta giờ-đây ko Đói chỉ Nghèo thôi (đủ "Mệt" rồi) !

    (Lương công-nhân không "Tay-nghề", Tối-thiểu : 4 Triệu, Gạo thường : 10 ngàn / 1 kg, tức mua được 400 kg, sao Đói được ? Thế-nào là Nghèo ? - Bị "tụt-hậu" so với các nước !)

    Miền-Tây : cũng chính là Vùng-Đất mà "Người Con-Gái VN Da-Vàng" phải đi lấy mấy Thằng "Tày-Oẳn, Hứng-Cẳng, Củ-Sâm-Cầm-Bạnh" (tức Đài-Loan Hồng-Kông Đại-Hàn) nhiều nhất cả nước !

    https://vi.wikipedia.org/…/%C4%90%E1...1%BA%B1ng_s…

    https://petrotimes.vn/xuat-khau-gao-...g-thu-3-the…

    http://iasvn.org/…/Top-10-nuoc-xuat-...-nhat-the-g…


    Nguyễn Chính Tâm - SVSQ TĐ khóa KT 9/73
    Last edited by Longhai; 07-04-2019, 12:26 AM.

    Comment


    • #3
      ​Đọc bài " Viết về người Lính Địa Phương Quân của Nguyễn Hữu Nghĩa​ ", bao nhiêu kỹ niệm về vùng đất này mặc dầu tôi lại là lính Quân y Sư đoàn 1 BB xa tít thò lò ngoài Vùng 1 CT Huế .cũng gần 50 năm rồi ,xin phép nói một ít về lai lịch gia đình DQY ở Kiến Hòa thời gian đó, ông già tôi khóa 2 Thủ Đức, năm 69 về làm Tham mưu trưỡng Tiểu khu Kiến Hòa ( có thể nói là lánh nạn sau những đụng chạm với những vị Tân Tư lịnh SĐ 23 và TM.Tr, Tỉnh trưỡng.BMT..sau khi Tướng Tư lịnh Trương quang Ân tử nạn rớt trực thăng. Ông già ôm bài vị Tướng TQA về Kiến Hòa thờ trong nhà do lời hứa đi đâu có nhau !!), chọn về Kiến Hòa vì khi đó Tiểu khu Trưỡng kiêm Tỉnh Trưỡng là Tr/tá Nhiên khóa 1 Thủ Đức đang bị ông Chủ tịch Hội đồng Tỉnh ( VC ) gây khó chèn ép ,ông già về đó lột lon giả dạng làm tài xế cho Tr/tá Nhiên ,dàn cảnh tạo 1 buổi họp bên Định Tường ( có ông chú ruột tôi tức em của ông già là Trưỡng phòng 2 TK ) kết quả ông Chủ tịch H.Đ.Tỉnh bị còng tay giải đi .Sau vụ này Tr/tá Nhiên về làm Tỉnh trưỡng Kiến Phong .
      Đại tá Kim là Tr/Đ Trưỡng Trung đoàn 10 S.Đ 7 BB về thay, Tướng Tư lịnh S Đ Ng.K.Nam có ghé qua nhờ ông già giúp cho Đ/Tá Kim .Giữa ông già và Tướng Ng.Kh.Nam cũng có nhiều liên hệ, năm 1966 ông già là TM.Trưỡng Biệt khu 24 đồng thời kiêm TM Trưỡng hành quân, lúc đó Ô Ng.Kh.Nam là Tr/tá Lữ đoàn Trưỡng Dù đánh chiếm đỉnh 1416 ở Dakto, trước lúc mở màn chiến dịch thì Tư lịnh Dù là Tướng Dư.Q.Đống bay ra gỡi ông Nam cho ông già .Tr/tá Ng.K.Nam về dinh TMT và ngũ trên giường DQY tui cả tháng chờ hành quân .Nếu kể thêm dây mơ rể má giữa Tướng Đống và ô.già thì dài lắm, cả hai ông gắn cấp Th/tá 1 lượt, nhưng biết nhau từ nhỏ vì bạn học ô.già là anh lớn ô Đống .
      Đó là vòng vo mà ô.già về Kiến Hòa theo gợi ý của Tướng Nam, và cuối cùng cũng vì vậy mà tháng 04/1975 ô.già nghe lời ở lại giúp Tướng Nam là Tư lịnhVùng 4 CT vì ô.già là dân Tình báo cao cấp tốt nghiệp Trường Tình báo Hải quân Hoa Kỳ ở Baltimore năm 1964 .Tướng Nam tự sát còn ô.già trả giá mười mấy năm tù .Năm 1990 ô.già nhờ DQY giúp cho hồ sơ xuất cảnh của Đ/tá Kim gồm cả gia đình con cháu dâu rể 16 người, và trong 1 tuần DQY đã lấy passport cho gia đình ô Kim, xin nói rỏ là giúp không đòi chi phí gì hết vì DQY đã chung chi cho Trưỡng Dịch vụ Xuất cảnh ở Nguyễn trải thời đó.
      Không biết khi bạn Nguyễn Hữu Nghĩa về Tiểu Đoàn Bạch Hổ 401 trước hay sau khi bị phục kích làm T.Đ.Trưỡng tử trận ,vụ này là một lổi sơ suất chết người của các quan lớn .Thói quen là sau những ngày hành quân, đụng độ đến khi có lịnh rút về là thiếu cảnh giác ,ỷ lại , lè phè , VC dàn trận phục kích trên đường về gần hậu cứ .Thế là toi mạng !!.
      Bây giờ DQY xin kể lại vài chuyện ở Kiến Hòa cho các HT nghe, năm 1971 xảy ra vụ đặt chất nổ trong nhà của Th/tá Trưỡng phòng 3 TK, 2 vợ chồng ông không con, trước đó bà vợ do người quen giới thiệu một cô bé xinh xắn hiền lành dưới quê lên nấu ăn, dọn dẹp ...lâu ngày 2 ô.bà thương như con ruột, vì cô bé siêng năng, hiền dịu, xinh xắn và rất ngoan .Cho đến hôm cô bé xin về nhà dưới quê Mỏ Cày thăm gia đình ,theo thường lệ 2 ô.bà Th/tá nếu không có gì thì ăn trưa xong vào ngũ một chút vì nhà sát bên Tiểu khu .Số chưa tận nên hôm đó có người quen ghé cho 1 bao cua biển ,2 ô.bà trưa lui cui dưới bếp nướng cua ăn thì chất nổ gài dưới giường đúng giờ phát nổ tan nát cái giường, bay luôn cái nóc nhà .Còn ai nữa mà có thể vào tận phyòng ngũ gài mìn ?
      Ô già DQY cho lính xuống Mõ Cày bắt được cô bé đang nhởn nhơ có lẻ nghỉ không ai biết, đem về lấy cung bấy giờ mới biết cô bé là tổ trưỡng đặc công tỉnh ,dọa nạt, có cả dùng vủ lực, tất cả chịu thua không ngờ cô đặc công này quá lì đòn .Chờ giải về Quân đoàn thôi.
      Tối đó ô.già gọi Đ/úy Nghĩa Trưỡng phòng 2, một sỉ quan cao lớn bảnh trai ,không biết ô.già nói chơi hay sao đó : Ê, Nghĩa con nhỏ này lỳ lợm thật, đánh đập không ăn thua gì hay là mày vào ngon ngọt rồi đè nó hổng chừng ó chịu khai tin tức .!!
      Được lịnh, xếp Nghĩa vào trại giam, ghé thăm phạm nhân rồi tỏ ra thương xót ,chăm sóc, xức thuốc mấy vết thương, cho ăn uống đàng hoàng ,tối đó xếp ghé qua trò chuyên ngon ngọt rồi đè đại .Ai dè cô bé lúc đầu chống cự, sau rồi buông xuôi rồi từ từ chịu đèn, khai hết các đường dây nằm vùng đặc công Bến Tre ,đường đi nước bước cùng chương trình hội họp, nhờ vậy mở các cuộc hành quân lục soát, phá vở lưới đặc công, bắt được cả huyện ũy ...Coi như cô bé đã chiêu hồi, lập công chuộc tội ,phần Đ/úy Nghĩa và cô bé cũng thương nhau, nhưng làm sao đơn xin kết hôn được chấp thuận. Ô già phải về Sài gòn vận động Bộ TTM cuối cùng đơn xin kết hôn được chấp thuận, cô bé chính thức thành bà Đ/úy Nghĩa .Câu chuyện của đôi vợ chồng này còn lâm ly bi đát lắm DQY xin dời lại sẽ kể sau.
      Nói về Đại tá Kim Tỉnh.Trưỡng ,thỉnh thoãng Tướng Tư lịnh Q.Đ 4 Ng.K.Nam ghé qua mượn Đ.tá Kim một buổi, ( lúc trước ô Kim là Tr/Đ trưỡng Tr.Đ 10 Tướng Nam là Tư lịnh S.Đ 7 BB.).
      Thắc mắc nên ô già DQY có hỏi: Sao Th/Tướng thỉnh thoãng xuống bốc ô Kim đi dâu vậy? Tướng Nam vừa cười vừa nói:
      -Ô Kim này ngó vậy chớ mưu lược giỏi lắm, tôi mượn ô Kim cùng bay trên C & C để điều động các vị Tư Lịnh S.Đ 9, S.Đ 21 BB trên vùng hành quân ..
      Tài giỏi như vậy mà giặc ngay trong nhà lại không biết, chồng cô Thũy con gái ô Kim lại là VC nằm vùng. Sau tháng tư 75 có lẻ vì ân hận, gia đình tan nát ô Kim đi tù vì giờ chót Đ.tá Kim nghe lời con gái và rể quay tàu lại rồi tù tội ,cô con gái tự tử chết !.
      Ở Kiến Hòa những năm 70, các cố vấn Mỹ thường mở tiệc tùng vui chơi trong Mac-V, mời các vị bác sỉ dân sự ( một số nhận lời giúp đở tin tức khi thấy các vị dân quê bị thương bom đạn điều trị ở các bệnh viện tỉnh, quận tình nghi VC ), một số bác sỉ khác không biết cũng vào vui chơi, VC ghi tên và lên kế hoạch ám sát các bác sỉ làm việc cho Mỹ .Trong đó có Bác sỉ Nguyễn.Th.T hiện đang ở vùng San Gabriel. L.A.
      Hôm đó 1 đặc công VC rất trẻ, giả dạng vào khám bịnh ở phòng mạch B.s T, khi vào trong khám bịnh, đứng đối diện tên VC rút súng bắn ông Bs.T, nhưng có lẻ run quá cậu nhóc bắn trật rồi bỏ chạy ra ngoài có 1 xe honda chờ trước phóng lện chay mất .Được tin báo ô già cho gọi máy về các địa phương chận bắt trên đường hướng về Vĩnh Bình ,cuối cùng bắt được anh chạy xe honda ôm, anh khai báo là câu nhỏ dí súng bắt anh phải chạy, và cậu nhóc đã xuống giữa đường rồi ,nhìn trên bản đồ biết cậu nhóc VC trốn đâu đó chờ tối sẽ có ghe qua đón về vùng xôi đậu VC tạm chiếm .Cho lính lục soát trưa nắng mà không thấy đâu, ô.già cho gom hết đám học sinh đưa lên giử ở văn phòng xã cấm thân nhân liên lạc. Một lúc lâu sau có một bà già tru tréo:
      Mấy quan ơi mấy quan à, con tui nó vô tội có biết gì đâu mà mấy quan bắt giam cho nhịn đói nhịn khát ác quá, sao mấy quan không giỏi bắt cái thằng trốn dưới ao sau nhà tui đó.
      Thế là thộp cổ tên VC đặc công nhóc liền và thả đám con nít học sinh ra
      Tới đây DQY xin tạm ngưng, lúc khác sẽ kể tiếp về cặp vợ chồng Đ/úy Nghĩa khúc cuối lâm ly còn hơn truyện trinh thám ,và kết cục tang thương lắm .

      Comment


      • #4
        ay cha .. đang lúc lâm ly bi đát thì ... ." to be continued" , làm tui cụt hứng ..
        Anh DQY ráng nhớ và gỏ lại nha .. cho bà con thưởng thức ...
        thánh kìu

        Comment


        • #5
          Viết tiếp " Viết về người Lính Địa Phương Quân của Nguyễn Hữu Nghĩa ".
          Bến Tre hay Kiến Hòa là địa danh nổi tiếng xứ dừa với " ông già Ba Tri " xa xưa lặn lội ra tận ngoài Trung kiện cáo tới Triều đình Huế, sau này còn có ông Đạo Dừa trên cồn Phụng chống đối Chính phủ VNCH ( sau 04/75 cũng bị VC nhốt tù rồi chết ), Trong thời kỳ chiến tranh thì các lực lượng ĐPQ -NQ và Cảnh sát Quốc gia cùng Cảnh sát dã chiến đánh giặc rất chì nếu so sánh với các Tiểu khu khác, Nam 1973 DQY có vào BV 3 dả chiến bên Mỹ Tho thăm người bạn, tình cờ gặp một anh thương binh nghe nói thuộc LL.CSQG Kiến Hòa cũng đang trị thương, hỏi thăm thì biết anh bắn nhau với VC du kích khi chúng chặn đường xe đò trên đường từ bến phà Rạch Miễu về Thị xã, lúc đó chạng vạng tối ,khi xe đò ngừng lại tên du kích ôm AK leo lên xe thì bị anh là hành khách móc súng " ru-lô " ( Smith & Wesson ) trang bị cho Cảnh sát nả 2 phát vào ngực ngả ngữa, rồi nhào ra ngoài bắn lộn với đám du kích VC hơn hẳn người và hỏa lực, cho đến khi các đơn vị gần đó tới tiếp cứu đưa anh về tỉnh, hỏi ra mới biết anh là nguyên Thượng sĩ bên Dù chuyển về Cảnh sát Kiến Hòa .Có đi thăm một đồn anh em Nghĩa quân mới biết họ đánh đấm không thua gì Chủ lực của các Sư đoàn, Một đồn NQ đóng trơ trọi giữa đồng ruộng ngập nước mênh mông, quân số khoãng trung đội mà hầu hết tất cả là bà con dây mơ rể má nhau nên không sợ phản phé nội công ngoại kích !!, giữa đồn là cột cờ thòng xuống bên dưới là cây đèn Măn sông dầu lữa với tấm thiếc phía sau ,giữa sân có tấm ván ép thật to trên đó có gắn chặt các lon với giẻ bùi nhùi theo hình mũi tên. Ban đêm nếu VC tấn công thì cây đèn măn sông thắp sáng kéo lên hướng về phía bị tấn công thay trái sáng, mũi tên với các lon bùi nhùi tẩm dầu cũng được đốt lên chỉ hướng cho máy bay oanh kích yễm trợ ,rồi còn có vũ khí bí mật là bó rocket của trực thăng hay gì đó , cột lên cây tre to với dây nhợ lòng thòng do 2 -3 thày ôm đưa lên hướng về phía VC chắc để hù dọa và lên tinh thần anh em nghĩa quân thôi chớ bắn gì được !!, hơn nữa mỗi khi VC chuyễn quân là dân làng cũng là gia đình, bà con nhau báo tin liền. Còn có theo Cảnh sát dã chiến Kiến Hòa mỡ cuộc hành quân lục soát cũng không thua gì đám SĐ 1 BB tụi tôi, Có một kỹ niệm trong năm 73, đi phép từ Huế về thăm ông già, khi đó ông đã chuyễn qua làm Chỉ huy Trưỡng CSQG Kiến Hòa, kéo theo Đ/úy Nghĩa người đàn em thân tín làm Trưỡng phòng hành quân cảnh lực. DQY đi xe đò về tới bến phà Rạch Miễu, chờ chuyến phà thấy bà bán chuối nếp nướng quạt than ngon quá, vừa xong bà hỏi: Cậu mua mấy trái ?,Dạ mua hết.
          Xong bà già lấy giỏ cói hốt hết chuối nếp đã nướng thêm bịch nước cố dừa thành một giỏ, mấy người đợi sau cằn nhằn vì không còn chuối đã nướng, thông cảm đi bà con, tui từ Huế dzìa phép thèm chuối này lâu rồi ..hì..hì, lên phà nhìn quanh thấy có xe jeep cảnh sát cũng qua sông, DQY mon men tới gần, đưa tay chào ông Đại úy cảnh sát ngồi ghế trước, ông hỏi có gì không thiếu úy?
          -Dạ xe Đại úy có về tỉnh không cho tôi quá giang xe>.
          -À, được.
          Rồi ông xây ra sau bảo mấy anh cảnh sát viên trên xe:
          -Tụi bây dẹp cái lồng gà cho ông thiếu úy này ngồi.!
          Có lẻ ông thấy một thiếu úy phù hiệu SĐ 1 tay xách giỏ cói ngó coi bộ quê mùa nên như vậy, DQY leo lên ngồi xuống sàn xe với cái lồng gà, còn mấy ông cảnh sát viên ngồi trên ghế nệm đàng hoàng cười cười .
          Xe chạy về tới ngã ba tỉnh thì ông Đ/úy ngừng xe bảo thôi Th/úy xuống đây nhé, DQY năn nỉ cho vào thành phố luôn rồi xuống, ông gật đầu cho xe chạy tiếp, vào tới chợ ông hỏi muốn xuống ở đâu?, DQY hỏi xe Đ/úy có về Ty CSQG không cho tui đi luôn, xe quẹo vào đường dến Ty CS thì ông hỏi Th/úy vô Ty làm chi?. Dạ tui đi phép về thăm ông già cũng làm cảnh sát trong ty.
          Ông Đ/úy hỏi:
          -Ba của Th/úy làm cảnh sát gì trong Ty?
          -Dạ làm Chỉ huy Trưỡng.
          Xe thắng cái rột và ông Đ/úy nói:
          -Trời sau cậu không nói sớm cho tui biết.
          -Không có chi, kìa nhà ông già tui đó, cho tui xuống được rồi.
          Chiều xuống thấy ông Đ/úy xách cặp rượu tới nhà xin gặp DQY, ông xin lổi và mời đi ăn đồng thời biếu cặp rượu, DQY từ chối vì cũng không biết uống rượu, chỉ xin ông sau này đừng có như thế nữa, dù gì thì mình cũng là sỉ quan, mang cấp bậc đàng hoàng, dù khác binh chủng, khác đơn vị cũng đừng ra uy hạ nhau như vậy .Thế thôi .
          Gần cuối năm 74, tình hình Kiến Hòa yên tỉnh sau những cuộc hành quân tảo thanh VC ,với sự yễm trợ tối đa của SĐ 7 BB, phía bên kia Vĩnh Bình cũng do SĐ 9 BB hành quân liên tục ,dưới sông lực lượng giang cảnh hoạt động hữu hiệu ,không còn các ghe thuyền chở đồ lậu hoạt động như trước .Mọi chuyện tốt đẹp và có lẻ vì thế nên mới lơ là mất cảnh giác. Một buổi tối ông già ngồi xe jeep với tài xế, 2 cảnh sát viên ôm súng ngồi sau, một xe dodge 4X4 cảnh sát dã chiến trang bị đầy đủ chạy quanh thành phố kiểm soát các toán tuần tiểu trực gác..., chợt ngang qua một trạm cảnh sát làm nút chặn trên đường, lực lượng CSQG ở Kiến Hòa rất là kỹ luật, khi thấy xe jeep cảnh sát chạy ngang qua là tất cả đều giơ tay chào như nhà binh, cho dù có hay không mấy thày ngồi trên xe, lần này thấy 1 anh cảnh sát dã chiến trên đường đứng gát lại chào tay trái. Ông già cho xe ngừng lại, ốp lên xe chở về ty xem là lính của ai mà chào kính không đúng cách thế thôi, ngoài ra tối đó tại sao cảnh sát dã chiến có lịnh gì mà cho lính gát khắp thành phố, riêng gần dinh tỉnh trưỡng của Đ/tá Kim có cả 2 trung đội CSDC đóng gần đó .Về tới ty ông già gọi Đ/úy trực ban hỏi sao bửa nay có gì mà điều động CSDC gát đông dử vậy, thì sỉ quan trực báo là không thấy lịnh gì hết, hơn nữa lực lượng CSDC còn trong ty, hỏi xem anh lính bị đưa về Ty thì mới biết chàng đã lẻn ra ngoài trốn mất tiêu. Linh tính báo biết có chuyện gì không ổn, ông già gọi qua tiểu khu báo động,
          ​đồng thời báo cho bộ tư lịnh cảnh sát vùng 4 xin lệnh thì bị Đ/tá CHT cảnh sát vùng nạt ngang, đâu có gì mà làm to chuyện phiền quá !.
          Dẹp qua ông Đ/tá này​, ông già gọi thẵng Tướng Bình tư lịnh CSQG thưa chuyện vì cũng biết nhau từ trước, Tướng Bình cho lịnh là ông già toàn quyền điều động và trực tiếp báo cáo cho ông. Lịnh báo động toàn tỉnh ban ra, Lực lương CSDC mở cuộc hành quân với mấy xe commando car yễm trợ, hốt hết đám cảnh sát dã chiến do VC giả dạng ém quân sẳn chờ lịnh đánh úp ,gần 150 tên trước sau bị tóm cổ, nhốt đầy trại giam .Phá vở trận đánh úp tỉnh Kiến Hòa cuối năm 74.
          Như​ng vấn đề là ai cung cấp quân trang quân dụng, phù hiệu cảnh sát dã chiến cho VC ?
          Điều tra mãi mới lòi ra làm ông già muốn ngả ngữa, thủ phạm là tên đàn em thân tính nhất đã làm chuyện này. Còng Đ/úy Nghĩa Trưỡng phòng hành quân cảnh lực tống giam​ và điều tra.
          Vì trước đó ( cô bé đặc công ) bà Đ/úy Nghĩa sau vụ phản phé khai báo VC nên bị lên án tử ,bọn VC địa phương bắt cả nhà bà Đ/úy và hăm dọa tử hình hết cả nhà, cuối cùng bà Đ/úy về chịu tội. Bọn chúng dùng bà để ép Đ/úy Nghĩa phải làm theo lịnh chúng ,cung cấp quần áo CSDC, phù hiệu, quân dung như giày saut, nón ...
          Sau khi điều tra ra thì đưa ông Nghĩa vào giam chờ giải về bộ Tư lịnh ,được vài ngày thì không biết sơ hở thế nào phạm nhân Nghĩa lại trốn thoát được, ông già biết là vì viên Đ/úy coi trại giam là bạn thân của anh Nghĩa nên dàn cảnh cho trốn, ông già đem lính rượt ra tới bến phà Rạch Miễu thì bắt kịp, nhưng nhìn thằng đàn em tiều tụy khóc ngất nói, sau khi thất bại vụ đánh úp tỉnh, tụi nó đem vợ em và gia đình ra bắn chết hết rồi, em không còn muốn sống nữa .Ông già cho ít tiền rồi chi đi.
          Sau 75 khi đi tù ra Bắc thì có gặp lại Đ/úy Nghĩa một lần cũng tù mười mấy năm, từ đó đến nay không nghe tin tức gì nữa !

          Comment



          Hội Quán Phi Dũng ©
          Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




          website hit counter

          Working...
          X