Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Quê hương ngày trở lại

Collapse
X

Quê hương ngày trở lại

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Quê hương ngày trở lại

    Quê hương ngày trở lại


    Thuỵ Khuê


    Về Sài Gòn tôi bị lạc. Tình trạng lạc hướng kéo dài trên taxi, xe ôm, đi một mình hay cùng gia đình, bè bạn, tôi thường lẩm nhẩm trong đầu: đường này Gia Long, Tự Do đây, chắc là Lê Văn Duyệt...Nhưng khi ra đến Hà Nội, lại tịnh không có sự lẩm nhẩm nào.

    Hôm tới Lê Văn Hưu ăn phở, dù phố này nay đã hoàn toàn khác với trí nhớ, tôi vẫn nhận ra: đây là Lê Văn Hưu, đi tới chút nữa rẽ ngang là phố Huế. Đèn phố Huế bẩy mươi năm qua chưa bao giờ tắt trong tôi. Những tối gần Noël, một đứa nhỏ năm, sáu tuổi dí sát mũi vào cửa kính hàng bán đồ chơi, thèm thuồng nhìn mấy con búp bê Pháp, tóc vàng, mắt xanh mà mơ đến ngày nó sẽ được ôm một con búp bê như thế, nó sẽ chải tóc, thắt nơ cho nó như thế nào, nó chưa từng dám mơ đến một ngày sang Pháp.

    Hôm nay, từ phố Huế, đứa nhỏ bẩy mươi ba, bước trở lại Lê Văn Hưu, đi thêm chút nữa sẽ tới phố nhà nó: Thi Sách, số bẩy. Chợ Hôm mặc dù chỉ nuôi nó có 5 năm, từ 5 đến 10 tuổi, đã trở thành người vú chưa từng rời nó bao giờ. Sài Gòn, hồi ấy tôi sống ở đường Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu) từ 10 đến 18 tuổi, đã lớn, ngoài giờ học, đạp xe đi chơi suốt, thuộc lòng hầu hết các con đường, thế mà sao bây giờ lại lạc? Từ khi rời nước năm 1962, tôi về lại cả thảy bốn lần: 74, 84, 93 và 97. Trừ lần 74 không lạc, còn ba lần sau, lần nào cũng lạc. Điều nhỏ nhặt này cứ luẩn quẩn trong đầu bao nhiêu năm, bây giờ ra Hà Nội tôi mới hiểu: tại việc đổi tên đường. Hà Nội và Sài Gòn đều của tôi, chúng đã tham dự vào mảnh đời thời thơ ấu và niên thiếu, vậy mà tôi không lạc Hà Nội thời bé, lại lạc Sài Gòn thời lớn, bởi vì đường phố Hà Nội không hề bị đổi tên: phố Huế vẫn là phố Huế, Hàng Bài, Trần Hưng Đạo vẫn là Hàng Bài, Trần Hưng Đạo. Những nhân vật có công với cách mạng, không có chỗ đứng trong quận Hoàn Kiếm, trung tâm Hà Nội, mà nhã nhặn trụ vòng ngoài, trên những đường phố mới xây sau này, họ biết lịch sự sắp hàng theo đúng trật tự thời gian của lịch sử. Nhờ vậy, những ai trở lại Hà Nội, dù bẩy, tám mươi năm sau, vẫn nhận diện được ba mươi sáu phố phường, nhờ quyết định hợp lý và cận nhân tình của những người tiếp thu Hà Nội sau 1954. Quang Trung sau khi diệt Trịnh, cũng chỉ dám đổi Thăng Long ra Bắc Thành, vậy mà Thanh Quan cũng đã giận lắm, nhiều năm sau, bà còn viết Thăng Long thành hoài cổ để lại như một chúc thư. Bởi vì con người luôn luôn gắn bó với đất nước, và đất nước của mỗi người không chỉ là nơi sinh và nơi lớn, mà còn là tiếng nói, là tên gọi những chốn thân yêu ấy nữa. Không thiếu văn nghệ sĩ đã lấy tên làng, tên tỉnh của mình, làm bút hiệu. Sự đổi tên một con đường, một thành phố, vô tình đã đụng đến ký ức xương thịt, ký ức tâm hồn của một người, của nhiều người, của một vùng, một phương, kéo theo những bi thương, phẫn nộ, vô ích. Tại sao không tránh ?

    Chúng tôi về tới Sài Gòn sáng sớm ngày 2/11/2017. Vậy là hơn 20 năm xa cách (lần chót tôi rời Sài Gòn cuối tháng 9 năm 1997). Cảm tưởng lạc đưa đến sự từ chối thành phố trong mấy hôm đầu, khiến tôi không nhận được quê hương ngày trở lại, đã từng có thứ nắng thật lãng mạn, nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát, bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông. Tôi thực thụ gặp lại quê hương qua chuyến đi Sài Gòn-Châu Đốc-Hà Tiên, do một công ty du lịch tổ chức riêng cho hai Việt kiều: Cái Bè là điểm hẹn đầu tiên với sông nước Tiền Giang. Phải đến đây mới cảm đượcCửu Long Giang bát ngát của Phạm Duy, tiếng hát Thái Thanh bốc khói trên chiều về bên sôngnhư giọng thuỷ thần cất lên từ đáy nước. Chúng tôi lên thuyền nhỏ đi vào sông lạch, ở đây cách Rạch Gầm Xoài Mút không xa, nhưng tôi không dám hỏi cô lái đò "điạ chỉ" vì chắc cô cũng chẳng biết việc Nguyễn Huệ phá quân Xiêm (1785 quá xa vời), hỏi thêm lẩn thẩn. Sông lạch miền Nam vô cùng quyến rũ, tôi nghĩ chắc hai chị em Hàn Mặc Tử đi thuyền trên sông trăng Sa Huỳnh ngày trước cũng chỉ tương tự thế này, ta thay ánh trăng bằng dừa nước, bằng tất cả những thứ cây sà xuống nước mà tôi không biết tên; lòng tôi chĩu trong đáy nước. Nước tôi. Chúng tôi ăn bữa cơm trưa đầy thi vị bên con cá chiên xù, trong khung cảnh thơ mộng của ngôi nhà cổ Anh Kiệt, không xa Rạch Gầm Xoài Mút của Nguyễn Huệ.

    Cá Chiên Xù.

    Buổi trưa hôm ấy mưa như trút nước, khiến tôi nhớ lại thứ mưa đặc biệt miền Nam, mưa rồi tạnh ngay, trời lại nắng, như lời chào thân ái của vùng đất miệt vườn với đứa nhỏ di cư, mười tuổi, năm năm mươi tư. Chúng tôi tiếp tục lên xe đến Sa-Đéc, thăm ngôi trường cũ mà bà mẹ Marguerite Duras đã dạy học, trước khi đến căn nhà cổ của gia đình Huỳnh Thủy Lê, người tình của Duras, trở thành nổi tiếng vì phim Người tình (L'Amant) của Jean-Jacques Annaud. Căn nhà cũ gợi cảnh vàng son của cái đẹp ánh lên những gợn sóng xà cừ toả ra từ bộ trường kỷ, giường, sập gụ, tủ kinh, một chất xưa lắm, nay không còn nữa, đọng lại một mối tình sôi bỏng trong không gian, không mầu, nhưng tồn tại.

    Trời lại mưa.

    Mưa theo chân chúng tôi đến tận vùng đất cũ, tôi biết tên nhưng chưa bao giờ đến: Châu Đốc. Chúng tôi ở một khách sạn trên đồi cao, nằm cheo leo sườn núi Sam. Nhìn những tia nắng cuối cùng của hoàng hôn Châu Đốc chiếu lên khung cảnh tuyệt vời, đây là lần đầu tiên tôi cảm thấy hãnh diện vì quê hương,một cảm tưởng gần như đã biến mất trong tôi từ nhiều năm tháng: bởi đây là lần đầu tiên tôi được ở một khách sạn tại vùng đèo heo gió hút, do người mình xây, có kiến trúc đẹp, những căn nhà nhỏ thơ mộng lẩn trong bụi cây, có mỹ thuật và tôn trọng môi trường, đầy đủ tiện nghi, khó tìm thấy trên đất Pháp cái gì tương tự. Tôi không khỏi bồi hồi cảm động, trong bụng nẩy lên một niềm tự hào dân tộc sâu xa: hai mươi bốn năm trước, tôi cũng tá túc tại một khách sạn sang ở Huế, nhưng phòng tắm đầy gián, chuột; đêm ấy, tôi không sao ngủ được, nghĩ bụng không biết khi nào dân mình mới thoát vòng nhược tiểu, mới có khả năng xây dựng một căn nhà. Thế mà nay, những người Âu đến đây, cũng như chúng tôi, họ ngạc nhiên và trầm trồ khen ngợi: từ kiến trúc, bài trí, đến cách tiếp đãi lịch sự, nồng hậu, món ăn, tất cả đều top,giá lại phải chăng, chỉ bằng 1/4 giá một khách sạn tương đương như thế ở Pháp. Khó tìm thấy khung cảnh nào thần tiên hơn.

    Hoa Ty Gôn Châu Đốc.

    Sự tiếp xúc với Châu Đốc sâu hơn, ngày hôm sau, nhờ thiếu nữ hướng dẫn thật sự yêu nghề, yêu đất nước. Em rành từ tên cây, tên cỏ, đến tên đất của vùng quê em, ngõ nào em cũng biết, em kể về quá khứ xa, gần: nội em xưa làm công chức cao cấp trong chính quyền cũ, bị án tử hình. Ôi quê hương yêu quý, đâu đâu cũng thấy dấu vết tương tàn, nỗi buồn làm tắt niềm vui. Em dẫn chúng tôi đi thăm Trà Sư, điểm lạ của miền đất có âm thanh Châu Đốc gióng lên như tiếng trống, thúc giục ta tiến sâu vào vùng sông nước, cây cỏ, hòa một, độc nhất vô nhị này. Trà Sư là rừng tràm bí mật và thơ mộng mà tôi đã nghe tiếng từ lâu, vì không hiểu rõ, nên vẫn đồng hoá với Rừng mắm của Bình Nguyên Lộc. Nhưng không phải: Trà Sư là rừng tràm mọc trên nước, mênh mông, bất tận, mở ra, mở ra mãi... Thuyền đi, thuyền đi, rẽ lối trên bèo, đi sâu, sâu hơn, sâu mãi, thuyền đến đâu bèo mở ra đến đấy rồi vội vàng khép lại sau lưng thành một cánh thảm xanh tuyệt vời, có lẽ vì vậy mà người miền Nam gọi bèo tây là lục bình.

    Mộ Thoại Ngọc Hầu.

    Châu Đốc còn là quê hương của Thoại Ngọc Hầu, vì Hầu mà chúng tôi đến đây: Thoại Ngọc Hầu hôm nay nằm trong dinh bên cạnh những ngôi mộ đá hình trái soan trắng, là mộ của gia nhân, tùy tướng. Hầu vẫn nhăm nhăm tay thương, tay kiếm, oai phong trấn giữ mảnh đất quan ải. Tôi giật mình, vừa yên tâm, vừa sợ. Châu Đốc trong trí tôi ngày trước là vùng địa đầu, rắn .rít, nước độc, bây giờ là đất Trà Sư mênh mông đẹp rộng như rừng mắm của Bình Nguyên Lộc, có Thoại Ngọc Hầu sừng sững bảo vệ. Muôn đời.

    Trà Sư.

    Từ Châu Đốc, chúng tôi theo con kinh Vĩnh Tế của Hầu để về Hà Tiên. Anh lái xe cho đi con đường dọc sát biên giới Miên Việt, bên kia núi là đất Miên, bên này đất Việt, anh guide bảo: mạ bên mình lá xanh hơn mạ bên kia, cô ạ. Ý anh muốn nói, mạ mình xanh hơn mạ Miên, tôi mỉm cười thầm nghĩ: Người mình chủ quan thật. Con đường đi dọc kinh Vĩnh Tế, mộc mạc, không trang điểm, còn làđường mộchôn bao nhiêu nhân công đào kinh mở nước, họ đã nằm xuống đây. Phải đến mới cảm thấy thấm thía công lao của người trước: vừa chống trả với "quân xâm lăng" (xâm lăng hay đòi đất? Vì mình chiếm đất của người ta!), vừa làm công việc dẫn thuỷ nhập điền cho dân cư cả một vùng đèo heo gió hút.

    Đến Hà Tiên, quang cảnh khác hẳn, như thể ta bước sang một "nước" khác. Nước của họ Mạc. Gia trang Đông Hồ-Mộng Tuyết tựa ở cửa ngoài. Thi sĩ Đông Hồ bị lạc lõng trong vùng đất này, dù đó là quê hương ông. Bởi ông đã "phản bội" quê hương, văn chương Đông Hồ quá chải chuốt, quá Hà Nội, quá tỉnh thành, không hợp với đất Hà Tiên, có lẽ vì thế mà ông chỉ ở ngoại thành. Hà Tiên là của dòng họ Mạc, cha con người Triều Châu. Mạc Cửu phá hoang, xây dựng, rồi dâng chúa Nguyễn. Mạc Thiên Tích, con trai ông, nhà thơ tướng quân, đã mở rộng Hà Tiên thành đất văn học. Tôi biết Hà Tiên qua vài truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc trong Nhốt gió,nói về người Triều Châu lưu lạc sang ta. Đặc biệt chú Yều, mẹ Việt, có ông cố lưu lạc sang đây, lập làng đồ gốm Chòm Sao, nhưng chú ương bướng chủ trương "bất cộng tác" không chịu "hội nhập", cứ nói, hát tiếng Triều. Nhưng rồi dần dần, chú Yều cũng "đầu hàng", chú trở thành... người Việt. Tôi không biết trong số những người Triều Châu này, có bao nhiêu Trịnh Hoài Đức? Bao nhiêu Hồ Dzếnh? Di tích còn lại của họ Mạc ở Hà Tiên là những nấm mồ trên núi Bình San: cả dòng họ Mạc đã sống, chết, bảo vệ mảnh đất này, cả dòng họ Mạc nằm đó, nhìn xuống vịnh Hà Tiên, vẫn một lòng trung với Chúa, đã ba trăm năm.

    Cột biên giới.

    Anh guide và anh tài dẫn chúng tôi ra tận biên giới Miên-Việt. Đứng bên cột mốc phân chia lãnh địa, bình an, một mối xúc động không tên dấy lên như thể qua bao nhiêu trận chiến tàn khốc, hồn người nằm xuống đã bảo an cho thời hiện tại trong không gian đầy nắng này. Tối đó anh guide dẫn chúng tôi tới một quán nhậu, ăn ghẹ luộc Hà Tiên, bất hủ. Sáng sớm hôm sau đi mũi Hòn Chông, phía nam Hà Tiên, thăm Hòn Phụ Tử. Tiếc thay núi cha đã bị gẫy đôi vì một trận bão, nhưng phong cảnh vùng ráng tiên vẫn tuyệt vời. Chẳng biết có phải Mạc Cửu chọn tên Hà Tiên vì khu này có người tiên hay ra vào trên sông nước? Với tôi, ông đã chọn nghiã ráng tiên, bởi khi đứng trên Hòn Chông buổi sớm, mặt trời vừa mọc, dưới biển nhấp nhô bao đảo nhỏ chen chúc, trên trời ráng tiên múa hát vạn sắc màu, cho nên Mạc Cửu đã bình trị vùng đất hoang sơ tuyệt đẹp này rồi dâng chúa Nguyễn với tên Hà Tiên.

    Mộ Mạc Cửu

    Hà Tiên gói trọn lịch sử về tình người, về lòng chung thuỷ, vượt trên mọi tranh chấp quốc gia, kỳ thị chủng tộc. Hà Tiên nhắc nhở thời điểm lịch sử mà hai dân tộc Việt-Hoa chung sống yên bình, chia nhau, không chỉ một mảnh đất, mà cả linh hồn mảnh đất ấy.

    Trên đường trở lại Sài Gòn, chúng tôi ngủ đêm tại một khách sạn ở Cần Thơ, trên bến Ninh Kiều: dòng Hậu Giang hiện ra trước mắt, vẫn Cửu Long Giang và Phạm Duy cùng trổi dậy, cuồn cuộn, dưới chân cầu Cần Thơ, uyển chuyển, thanh nhã, nổi lên trong ráng chiều. Một lần nữa tôi cảm thấy hãnh diện vì những kỹ sư, kiến trúc sư trẻ của quê hương, đã dựng lên một kiến trúc hiện đại xứng đáng bắc ngang Sông Hậu. (Cái gì đẹp thì lại có người bảo Đại Hàn hay Nhật xây đấy, nhưng tôi chắc họ không đem "thợ" sang đâu!). Từ Cần Thơ, chúng tôi trở lên Vĩnh Long, rồi xuôi xuống Mỏ Cầy gần Bến Tre thăm gia đình trước khi về lại Sài Gòn.

    Trở lại Sài Gòn, tôi bắt đầu để ý đến ngôn ngữ của người miền Nam, đặc biệt những người lái taxi. Chỉ cần một câu hỏi: cô chú ở đâu về? là biết chắc chúng tôi Việt kiều, họ bắt đầu tâm sự. Một cái tên được nhắc nhở khá nhiều trong những câu chuyện taxi là Võ Thị Sáu; có lẽ vì cô này chết trẻ. Sau này tôi còn gặp lại cô ở Côn Đảo. Người taxi phân trần: Cô coi, mấy đứa nhỏ phải học trường Võ Thị Sáu, thiếu gì tên hổng xài, lấy tên con nhỏ vô học đặt cho trường học, tui hổng cho đi, tui cho chúng học tư, tốn kém mấy thây kệ. Một người taxi trẻ đưa chúng tôi từ quận Bình Thạnh về quận Nhất, qua một khu sang trọng, nhà cửa mới tinh, tuồng của các đại gia, văng tục: ĐM, chiếm đất đấy, dám xuống trỏng (miệt vườn) mà chiếm, có mà chúng chặt đầu! Tôi rợn người, chừng máu cô Quờn (ngày xưa chém chồng 36 nhát dao) đang chảy trong huyết quản anh taxi vạm vỡ này. Bấy giờ tôi mới cảm thấy những đợt sóng ngầm. Nguy hiểm. Taxi vào vùng Thủ Thiêm, sự khác biệt còn dữ dội hơn: một quần thể biệt thự sang trọng, đường phố toàn tên cách mạng mà vắng tanh, hiềm gì bác tài không dọa: Tuichở cô zô đây, chớ đây đâu phải đất "người mình". Tôi lạnh gáy. Việc hòa hợp dân tộc xem chừng không dễ dàng. Về phiá người Bắc vào Nam, các cháu tôi từ Hà Nội vào Sài Gòn lập nghiệp, cũng than: Lúc đầu đi mua hàng họ không bán bác ạ, họ bảo hết rồi, họ đuổi đi. Bây giờ đã khá hơn nhiều. Tôi nhớ lại những ngày năm tư, lũ lỏi Bắc kỳ di cư chúng tôi, chín mười tuổi học chung trường với lũ lỏi Nam kỳ. Bọn di cư học buổi trưa, khi trường trống, còn sáng và chiều dành cho học trò Nam. Ngày nào hai bên cũng viết thư "gây chiến" để lại hộc bàn, lời lẽ con nít Bắc Kỳ ăn cá rô cây; cuộc chiến âm ỷ tới hết thời tiểu học. Lên trung học, mấy con người đẹp Bình Dương chủ trương hoà hoãn với đứa di cư lạc lõng một mình trong trường đại nữ học Gia Long, chúng đình chiến, chúng thương xót, xử huề. Thế là tôi trở thành gián điệp nằm vùng, nhiệm vụ dò thám tình hình địch Trưng Vương (của mấy bà chị): năm nay lễ Hai Bà bên đó ai cưỡi voi, ai đóng Trưng Trắc? (Thời bà Nhu rất dân chủ: hai trường chia nhau luân phiên đóng vai Trưng Trắc, Trưng Nhị, vì không trường nào chịu làm em). Tình hình "nội chiến" những năm xa xôi ấy trở lại trong tôi, lúc này; nhưng hôm nay, bây giờ, không phải là lũ trẻ ranh mà là người lớn với nhau, âm thầm, đáng ngại.

    Điểm văn hoá cuốn hút tôi ở Sài Gòn là Đường Sách, một con đường rất ngắn nằm ngang hông nhà thờ Đức Bà, ít ai nhớ tên thật, thường gọi Đường Sách. Tôi chưa thấy ở đâu có quang cảnh như thế, từ thời phồn vinh của Sài Gòn ngày trước với hai nhà sách lớn Khai Trí, Xuân Thu, hay Paris ngày nay, với nhà sách Joseph Gilbert trên đại lộ Saint Michel và siêu thị Sách-Vidéo Fnac ở Montparnasse. Đường Sách, chen lẫn giữa những cửa hàng sách là những quán cà phê, bạn mua sách rồi ra đó trao đổi với bạn bè hoặc với những độc giả khác. Hoặc bạn là tác giả, ra đó ký sách cho người đọc, trả lời những câu hỏi của họ. Hoặc chỉ đơn thuần bạn thích ngồi cà phê, nhìn ngắm những cặp vợ chồng trẻ, tung tăng dẫn con đi chơi, mua sách hình... tất cả gợi lên một không khí thanh bình, một sức sống mãnh liệt đang lên của dân tộc, tôi không biết ở dưới có giấu những ngu dốt, tham ô, tham nhũng nào không, nhưng tôi tin vào sức sống và sự an nhiên tự tại của những người trẻ đang làm sách và đọc sách ở đây, phần lớn họ đều sinh sau bẩy lăm cả.

    Đường sách chứng tỏ Sài Gòn ngày nay đã khác nhiều với Sài Gòn hôm qua, không chỉ với những cao ốc, những tiện nghi, tân tiến của một thành phố thế kỷ XXI, mà Sài Gòn còn đang phục hồi phần linh hồn, tức là phần chữ nghiã, tư tưởng, đã một thời bị dập xoá. Không chỉ những sách miền Nam cũ dần dần được in lại, như những sách về tư tưởng, triết học của Nghiêm Xuân Hồng, Trần Thái Đỉnh, Nguyễn Văn Trung... mà còn có cả sách in chui, mà còn có cả những sách hiện đại của Tây phương dịch sang tiếng Việt, cống hiến cho người đọc, ngoài Internet, một cái nhìn sâu rộng hơn về thế giới bên ngoài. Tôi không đọc những sách này, nhưng cũng đoán, tất nhiên là không thể hoàn hảo, còn nhiều lỗ hổng, có chỗ dịch sai, có chỗ bị kiểm duyệt, nhưng đây là bước đầu, rồi ta sẽ dịch hay hơn, rồi sự kiểm duyệt sẽ bớt đi, theo đà dân chủ hoá của đất nước. Người Pháp đã phải bỏ ra ba mươi năm mới có bộ sách dịch toàn thể tác phẩm của Kawabata tương đối hoàn chỉnh. Còn Dante, qua bao nhiêu thế kỷ vẫn chưa có được bản dịch Pháp văn đáng giá. Chỉ cần nhìn giới trẻ trên Đường Sách,từ người bán đến người mua đều trẻ cả, họ bán sách cũ mới, sách dịch đủ loại; có thể còn dịch sai, nhưng lần sau tái bản sẽ sửa cho đúng hơn, điều cần thiết là phải bắt đầu, và những người bạn trẻ này đã bắt đầu.

    Chúng tôi đi thăm mộ Phạm Duy.

    Mộ Phạm Duy

    Duy Cường dẫn chúng tôi đi thăm mộ cha. Ông ở Bình Dương, trên một vùng đất đẹp. Trong Vườn Phạm Duy, thực hiện theo ý tưởng của Duy Cường, bên cạnh ông là mộ Thái Hằng và bia Duy Quang. Trên tượng bán thân bằng đồng đen, khắc theo ảnh chụp của Phong Quang, do điêu khắc gia Nguyễn Văn An thiết kế và Đoàn Tấn Huệ đúc đồng, ông sừng sững như còn tại thế. Trên mộ ghi Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời người ơi! bằng chính chữ của Phạm Duy. Ông đã vĩnh viễn trở về với đất nước với tiếng nói và con người.

    Khi tôi ra đời cách đây 75 năm đã có Phạm Duy. Năm tôi lên bốn, Phạm Duy về làng với những tiếng quân hành bộ đội tràn vào sân nhà những đêm trăng sáng một mùa thu năm qua cách mạng tiến ra đất Việt, bừng ngàn tiếng thanh niên tung gông phá xiềng. Đoàn người trai ra đi miệng hô lớn quyết chiến! Quyết chiến! Chân oai nghiêm đều tiến! Tôi "theo" kháng chiến từ giây phút ấy, trong vô thức chưa định hình của đứa bé lên bốn, với Khởi hành, với Đường Lạng Sơn, với Việt Bắc, với Ngọn trào quay súng, với Tiếng hát trên sông Lô... Bao thanh niên đã lên đường như thế theo tiếng nhạc tuổi xanh. Nếu không có Phạm Duy, Văn Cao... chắc gì cuộc kháng chiến chống Pháp đã thành công.

    Nhưng Phạm Duy cũng đã sớm thấy sự tàn phá của chiến tranh, người nghệ sĩ ấy đã nghiêng mình xuống Những người thương binh, Mùa đông chiến sĩ... ông ngậm ngùi Nhớ người ra đi, thương tiếc những đồng lúa ngập vàng trong ánh hoàng hôn trên Nương chiều. Rồi Phạm Duy xuôi Trung trong những tháng ngày 1948, xót thương quê hương tan nát với những bà mẹ rách vai, với tiếng o nghèo thở dàivới những chiều khô nước mắt... trong Quê nghèo, Về miền Trung, Bà mẹ Gio Linh... Tháng 5 năm 1951, Phạm Duy cùng gia đình vào thành, sự nghiệp văn nghệ của Phạm Duy sang một bước ngoặt lịch sử: từ nay chúng ta sẽ có ban hợp ca Thăng Long với Thái Thanh Thái Hằng Hoài Trung Hoài Bắc, và Thái Thanh sẽ trở thành tiếng hát vượt thời gian đem nhạc Phạm Duy trải dài trên nền đất nước, thấm vào lòng người.

    Vào miền Nam, 1952 Phạm Duy bắt đầu một thiên tình sử mới với quê hương qua những bản tình ca bất hủ Tình hoài hương, Tình ca, Con đường cái quan, Mẹ Việt Nam... Ở Phạm Duy tình ca, tình người và tình yêu quy thành một mối, một khối, một trái tim. Chúng ta gặp lại công chúa Huyền Trân qua nhạc Phạm Duy, chúng ta đi xuyên Việt qua nhạc Phạm Duy, chúng ta biết yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, qua nhạc Phạm Duy. Chúng ta yêu nhau cũng với Phạm Duy: ngày đó có em đi nhẹ vào đời, chúng ta cưới nhau cũng có Phạm Duy: nhìn trên mây xa khơi có áo dài khăn cưới... Chúng ta giã biệt nhau cũng với Phạm Duy: ngày ấy có em ra khỏi đời rồi... Chúng ta van xin nhau cũng có Phạm Duy: Đừng xa nhau, đừng quên nhau, đừng rẽ khúc tình nghèo...Đừng cho không gian đụng thời gian... Mỗi gây phút thiêng liêng, hạnh phúc, xót xa... trong đời ta đều có Phạm Duy. Ngoài Nguyễn Du, chưa một nhà thơ, một nghệ sĩ nào đi sâu vào tâm hồn người Việt đến thế.

    Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, ta di tản, vẫn cùng Phạm Duy: Một ngày năm bốn, cha rời quê xa...Một ngày bẩy lăm đứng ở cuối đường... Ở hải ngoại, Phạm Duy hát cho Bầy chim bỏ xứ, Phạm Duy dựng lại thi ca Hàn Mặc Tử, làm sống lại Kiều trong âm nhạc.

    Người ta trách Phạm Duy, khi ông bỏ kháng chiến về thành là phản bội cách mạng. Người ta trách Phạm Duy khi ông bỏ hải ngoại về nước là phản bội miền Nam. Nhưng người ta quên Phạm Duy là Người. Người Tự Do. Phạm Duy không có bổn phận với ai, trừ với chính mình. Phạm Duy không phải là chiến sĩ: Chiến sĩ đấu tranh dưới một ngọn cờ. Phạm Duy không phải là kẻ sĩ: Kẻ sĩ trung quân ái quốc. Phạm Duy không phải là chí sĩ: Chí sĩ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, muốn dìu dắt dân tộc ra khỏi ách nô lệ, đoạ đầy.

    Phạm Duy là người Nghệ Sĩ:Nghệ sĩ cần tự do như khí trời để thở, để sáng tác. Nghệ sĩ cần khán thính giả, nếu không có khán thính giả, sẽ không còn nghệ sĩ. Không nên buộc Phạm Duy phải làm giống ta, bởi ta chưa sáng tạo được một tác phẩm nào, một lời ca nào, cho quê hương, đất nước, con người.

    Đứng trước mộ Phạm Duy, ai đã đo được tầm vóc vĩ đại của người Nhạc sĩ số một của đất nước, năm lần ba-lô xuyên Việt, để lại bao nhiêu kiệt tác cho dân tộc cùng với sự vô ơn vĩ đại của lớp quần chúng bạc như dân đã chôn sống ông vì vài ba tiểu tiết, khi ông còn tại thế ?


    Paris tháng 4/2019
    Thụy Khuê

  • #2
    ...Người ta trách Phạm Duy, khi ông bỏ kháng chiến về thành là phản bội cách mạng. Người ta trách Phạm Duy khi ông bỏ hải ngoại về nước là phản bội miền Nam. Nhưng người ta quên Phạm Duy là Người. Người Tự Do. Phạm Duy không có bổn phận với ai, trừ với chính mình. Phạm Duy không phải là chiến sĩ: Chiến sĩ đấu tranh dưới một ngọn cờ. Phạm Duy không phải là kẻ sĩ: Kẻ sĩ trung quân ái quốc. Phạm Duy không phải là chí sĩ: Chí sĩ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, muốn dìu dắt dân tộc ra khỏi ách nô lệ, đoạ đầy.

    Phạm Duy là người Nghệ Sĩ: Nghệ sĩ cần tự do như khí trời để thở, để sáng tác. Nghệ sĩ cần khán thính giả, nếu không có khán thính giả, sẽ không còn nghệ sĩ. Không nên buộc Phạm Duy phải làm giống ta, bởi ta chưa sáng tạo được một tác phẩm nào, một lời ca nào, cho quê hương, đất nước, con người.

    Đứng trước mộ Phạm Duy, ai đã đo được tầm vóc vĩ đại của người Nhạc sĩ số một của đất nước, năm lần ba-lô xuyên Việt, để lại bao nhiêu kiệt tác cho dân tộc cùng với sự vô ơn vĩ đại của lớp quần chúng bạc như dân đã chôn sống ông vì vài ba tiểu tiết, khi ông còn tại thế?


    * * *

    Vẫn biết “kính nhi viễn chi” là thái độ đúng đắn cần có nơi một gã cầm bút tép riu, tôi vẫn không thể “tự chế” sau khi đọc những đoạn viết trên của một nhà phê bình & nghiên cứu văn học có tiếng tăm như bà Thụy Khuê.

    Tôi chỉ có thể giải thích: chỉ vì yêu mến, quý phục Phạm Duy tới mức tôn sùng, bà Thụy Khuê mới có thể ngụy biện và cường điệu tới mức ấy.

    Đọc cách lý luận của bà Thụy Khuê, tôi liên tưởng tới một số tên tuổi hàng đầu trong làng điện ảnh quốc tế đang ra sức bênh vực đạo diễn Pháp Roman Polanski, người đang bị nhà chức trách California tìm cách dẫn độ để đưa ra tòa về tội chuốc rượu và cưỡng hiếp một người mẫu 13 tuổi cách đây mấy chục năm. Tuy không nói thẳng ra, những người đang bênh vực ấy có ý cho rằng: một thiên tài điện ảnh đã cống hiến quá nhiều cho đời như Roman Polanski có quyền vượt rào luân lý, đạo đức!

    Riêng tôi thì cho rằng phàm làm "người", chiến sĩ, kẻ sĩ, chí sĩ, hay nghệ sĩ, thậm chí võ sĩ cũng phải sống theo đạo lý. Nghĩa là phải có lương tri!
    Last edited by Nguyen Huu Thien; 05-20-2019, 11:24 PM.

    Comment


    • #3
      Khuất Đẩu: Thụy Khuê, trở lại quê hương để làm gì?!

      LỜI GIỚI THIỆU:


      Gần đây, nhân dịp quay lại Việt Nam thăm quê hương, nhà nghiên cứu văn học Thụy Khuê (ở Pháp) đã viết loạt bút ký “Quê Hương Ngày Trở Lại”, phổ biến trên trang mạng Văn Việt và được một số trang mạng khác, trong đó có Hội Quán Phi Dũng, đăng lại.

      Loạt bút ký này, tới nay đã đăng được 3 kỳ, đã gây ra một luồng dư luận chống đối mạnh mẽ, từ trong nước ra tới hải ngoại. Nhiều trang mạng đã bày tỏ thái độ bằng cách không đăng các kỳ kế tiếp (riêng HQPD mới chỉ đăng một kỳ), thậm chí có trang mạng còn lấy xuống (delete) những gì đã đăng.

      Tuần qua, Khuất Đẩu, một nhà văn phản kháng ở trong nước gốc gác Khánh Hòa - Nha Trang, sau khi đọc kỳ 3 có phần viết về Nha Trang, đã gửi cho Văn Việt và một số trang mạng văn học ở hải ngoại bài viết “Thụy Khuê, trở lại quê hương để làm gì?!”


      HQPD xin đăng lại nguyên văn để rộng đường dư luận. Đồng thời, để giúp những độc giả “tò mò” muốn biết bà Thụy Khuê viết những gì ở các kỳ kế tiếp, chúng tôi xin ghi ra link của Văn Việt:


      https://vandoanviet.blogspot.com/......g-ngay-tro-lai



      Khuất Đẩu: Thụy Khuê, trở lại quê hương để làm gì?!

      Kính thưa bà Thụy Khuê,

      Tôi xin mạn phép được viết những dòng này, sau khi đọc xong bài bút ký của bà nhan đề là: Quê hương ngày trở lại (kỳ 3)

      Tôi xin nói ngay rằng, đó không phải là một bài viết ca ngợi quê hương, như tôi lầm tưởng, mà chỉ để chửi và dạy khôn người dân Việt Nam (trong đó có tôi).

      Những dòng đầu khiến cho ai đọc cũng phải choáng. Xin trích:

      Trước khi về nước, tôi đã được đọc những bài báo mạng vô cùng khẩn cấp báo động việc người Tầu đang chiếm miền Nam, họ đã chiếm hết Nha Trang rồi, có một “phóng viên tại chỗ” chụp hình những cửa hàng trên bờ biển Nha Trang 100% là Tầu, y hệt như ở Hồng Kông hay Thượng Hải, vị “phóng viên” này còn cho biết, Nha Trang hiện đã cho tiêu tiền Trung Cộng. Ngoài những thông tin giật gân này lại còn có bài báo (vẫn trên mạng) mô tả chuyện người Hoa ăn thịt người, với chứng cớ đầy đủ: chụp hình mâm cỗ thịt người có món xào, món rán, món nấu ninh rựa mận, kèm bên cạnh là ảnh cô kiểu mẫu chân dài tóc mượt, mắt bồ câu, trước khi bị chặt làm cơm.(hết trích)

      Là một nhà nghiên cứu và phê bình, tôi nghĩ bà không nên đọc những thứ vớ vẩn đó mới phải. Đàng này bà đọc, rồi dành cả mấy trăm chữ để chứng minh rằng người Tàu không ăn thịt người. Mà có ăn như trong Thủy Hử cũng chỉ là do tác giả Thi Nại Am hư cấu mà thôi. Và bà khuyên không nên tin các nhà văn, họ nói vậy mà không phải vậy.

      Nhưng, theo chỗ tôi biết, dưới thời đại nhảy vọt của Trung Quốc, vì nạn báo cáo láo, cả mấy chục triệu người chết vì đói. Phải ăn cả thịt người. Nhiều đứa trẻ phải chết để cho người lớn sống. Không nỡ ăn thịt con, họ phải trao đổi con lẫn nhau để ăn.

      Nạn đói năm Ất dậu, hai triệu người miền Bắc chết, trong đó có những xác người đã được ăn để người khác còn có cơ may mà sống sót.

      Việc phải ăn thịt người trong những hoàn cảnh như thế, chỉ thương chứ không thấy ghét. Và, người Việt Nam nói chung và Nha Trang nói riêng cũng không ai ghét những người khốn khổ đó.

      Nếu bà về thăm lại quê hương mà chỉ cốt để chứng minh cho ông bạn “trí thức nhớn” của bà ở bên Pháp, rằng Tầu không chiếm Việt Nam, không có chuyện xẻ thịt một cô gái mắt bồ câu ra làm bảy món và vân vân, thì thưa bà thật uổng công và mất tiền một cách không đáng có.

      Bà lại còn khen nhờ người Tầu mà bây giờ Nha Trang tiến bộ và sang hơn cả Tây. Xin trích:

      Ngoài cát trắng, miền Trung còn dẫy Trường Sơn chạy dọc bờ biển, tạo những vũng, những khe, những cồn cát, những mỏm đá… phong cảnh tuyệt vời, trùng trùng điệp điệp, như thể trời đất ban cho vùng quê nghèo đất cầy lên sỏi đá đầy bão táp lụt lội này một nguồn lợi thứ hai để sinh sống. Và dường như người mình hiện nay đã nắm bắt được nguồn lợi thiên nhiên đó: Những khách sạn và những resort mọc lên như nấm. (hết trích)

      Rất nhiều người đi xa về cứ chê Việt Nam này nọ. Riêng bà thì ngợi khen ngất trời. Xin trích: những cô gái không phải nhúng chân xuống ruộng bùn đầy đỉa, cấy lúa dưới nắng mưa, cũng không phải chạy sang Hồng Kong Ma Cao để kiếm chồng. Họ làm việc trong phòng lạnh của các khách sạn đắt tiền, thường thường mỗi em làm hai job, ở hai khách sạn khác nhau lương đủ sống (hết trích)

      Nhưng thưa bà, thử hỏi cả Nha Trang được bao cô gái như thế? Còn những cô khác phải ngồi tước bẹ chuối, phơi lục bình làm ghế, còm cõi dưới nắng mưa bụi mù trong các phiên chợ quê, giỏi lắm kiếm chưa tới 100 bạc. Và những chàng trai làm gì? Xếp chõng bố, căng dù, rửa bát…dù đang là sinh viên cũng chỉ để kiếm 100 bạc mỗi xuất 8 tiếng.

      Ngành du lịch có tổ chức như các nước tiên tiến thì may ra mới có thể gọi là công nghiệp không khói. Chứ làm ăn chụp giựt, ba hồi thế này ba hồi thế khác, như du lịch Việt Nam thì hãy còn lâu mới đổi đời.

      Nhưng cái điều bà đau đáu nhất, ngay cả khi đặt chân xuống đất Pháp rồi, tức là đã về đến nhà, ấy là bà không hiểu tại sao dân Việt Nam lại căm thù Tàu đến như vậy.

      Tôi thật không hiểu từ đâu phát xuất sự căm thù người Tầu hiện nay. Nói rằng từ vụ Hoàng Sa, Trường Sa ư? Chắc không hẳn thế. Tôi có người bạn quen biết đã hơn bốn mươi năm, anh vẫn thường chuyển cho tôi những thông tin giật gân, kiểu miền Nam đã bị Tầu xâm chiếm, trong nước bây giờ họ bán gạo plastique, Tầu đã chiếm xong Nha Trang, về nước ăn xoài thấy ngọt, hoá ra bên trong hột bằng plastique, đừng có dùng nước mắm Phú Quốc, làm toàn cá thối Formosa, phải ăn nước mắm Thái Lan; chớ ăn bún, bánh tráng của Việt Nam bây giờ làm bằng plastique…

      Khi cao trào chống Tầu lên đến cực điểm, ở trong nước có người đưa ra ý kiến bất hủ: vì tổ quốc, kêu gọi bỏ học chữ Hán
      . (hết trích)

      Những chuyện tầm phào đó người Nha Trang chúng tôi chỉ cười thôi, thưa bà. Ai lại đi tin để rồi thắc mắc, rằng sao lại phải căm thù này nọ.

      Bà còn đặt giả thiết là tại Tầu chiếm Hoàng Sa, rồi bà lý giải. Xin trích:

      … Dĩ nhiên ta không quên việc người Tầu chiếm Hoàng Sa, nhưng một vùng có dầu hoả thì làm sao cản được lòng tham của con người? Côn Đảo chỉ có vị trí chiến lược và hải sản quý mà còn bị Anh chiếm.

      Đây là những luận điểm hết sức ấu trĩ, ngớ ngẩn, nếu không muốn nói cho chính xác là phản động.

      Bà bảo, vì Hoàng Sa một vùng có dầu hỏa thì làm sao cản được lòng tham của con người. Đồng ý là không cản được, nhưng đâu có phải cứ có sức mạnh cọng với lòng tham là muốn chiếm bất cứ vùng nào có dầu hỏa (và tài nguyên khác) là chiếm được sao? Đâu phải là thời của đế quốc Anh thế kỷ thứ 17.

      Thế thì, biển Đông là của Tầu rồi cần gì phải thưa kiện ra tòa án quốc tế!

      Và bà dạy khôn:

      Hiện nay, ta không có phương tiện làm một cuộc chiến với Tầu, vậy phải tìm cách khác, tức là khai thác khả năng tiêu dùng của những du khách rủng rỉnh đến từ lục điạ Trung Hoa. Người Pháp đã làm và dường như Nha Trang cũng đang nhìn thấy khiá cạnh ấy, ta nên khuyến khích hơn là đạp đổ, tẩy chay. (hết trích).

      Nha Trang không đạp đổ, tẩy chay người Tầu, thưa bà. Từ xưa đã có người Minh hương, có trường học Tàu lên đến cả bậc Trung học (tên Khải Minh). Có các hội quán thường gọi là chùa Tàu của người Hải Nam, Triều Châu, Quảng Đông.

      Tuy không được tổ chức bài bản nhưng ở Nha Trang vẫn được coi là nơi khách du lịch Tây và Ta ưa thích nhất. Vì biển Nha Trang sạch đẹp, vì chợ Đầm nhiều hàng hải sản, vì người Nha Trang hiền hòa, ăn nói dịu dàng, dễ nghe.

      Nha Trang đâu có căm thù Tầu mà bà phải bận tâm thắc mắc. Nha Trang chỉ ghét Tầu cộng thôi. Từ khi Tập Cận Bình lên ngôi hoàng đế, đâu chỉ có Nha Trang, mà cả thế giới đều ghét (ngay cả Hồng Kông, Ma Cao và Đài Loan).

      Vì sao ư? Vì cái mộng bành trướng, mộng bá chủ thế giới. Mà bước thứ nhất là chiếm hoặc kéo Việt Nam vào vòng đai sắt của Tầu. Như Tân Cương, Như Tây Tạng.

      Cái mộng đó được Tập ngày đêm nhồi nhét vào đầu óc của cả hơn một tỷ dân, khiến cho họ cứ tưởng mình giàu nhất, sang nhất, mạnh nhất thiên hạ, muốn gì được nấy. Muốn có Hoàng Sa là có ngay. Muốn có Gạc Ma là đưa tàu chiến vào bắn bùm bùm trong khi lính công binh Việt Nam tay không có súng. Rồi đưa giàn khoan khổng lồ vào vùng đặc quyền. Rồi dòm ngó Vân Đồn, Văn Phong, Phú Quốc.

      Hoàng đế Tập còn tham hơn cả Mao Trạch Đông, tàn bạo hơn cả Tần thỉ hoàng, thì người Việt Nam dù có yêu Lý Bạch, Đỗ Phủ tới đâu, cũng biến yêu thành ghét được, chớ sao không?

      Bà đâu biết cái đám du khách rủng rỉnh tiền mà bà bày kế định moi, thực ra họ khôn bỏ mẹ. Họ mua “tua” từ các hãng của Tầu, đi xe Tầu, mọi chi phí trên đường hãng Tầu lo. Đến Việt Nam , hoặc vào khách sạn của các đại gia (tư bản đỏ) hoặc của người Tầu ẩn danh. Chỉ có ăn, tắm, chơi (không nói tới gái), nếu không cà phê, hoặc nhậu thì chẳng tốn thêm đồng nào. Nghĩa là không rơi rớt một đồng chinh nào cả.

      Vậy mà, bà nào ông nào cũng như thái thú Tô Định hay Tôn Sĩ Nghị, coi dân bản xứ như cỏ rác, mặt lúc nào cũng vênh vênh, bụng thì núng nính như thùng nước lèo, chỉ khác thời Mỹ là không ôm eo ếch một em nào không chịu xuống ruộng mà chỉ muốn nằm ké giường nệm có máy lạnh mà thôi.

      Thế thì thương sao được, đành phải ghét vậy thôi.

      Khi bà đặt tiêu đề “quê hương ngày trở lại”, tôi nghĩ hai chữ “quê hương” đối với bà và nhiều bà con Việt kiều khác trên khắp thế giới đều rất thân thương, rất thiêng liêng. Vì vậy bà đã lặn lội lên tận Diên Khánh để chụp hình chứng minh cho người Pháp biết thành do vua Việt Nam xây chứ không phải Pháp xây theo kiểu Vaubal.

      Nói đến tài liệu, thì bà là nhất.

      Nhưng nói tới tình cảm, nhất là tình yêu quê hương thì, xin nói thực, bà hãy còn “hô khẩu hiệu” lắm.

      Là người cho dù không sinh trưởng ở Nha Trang, nhưng là nhà nghiên cứu, lại là nhà văn, bà phải biết ít nhiều về một vài di tich ở Nha Trang chứ.

      Như lầu ông Tư, tức nhà riêng của bác sĩ Yersin ở xóm Cồn, vừa là nhà bác học vừa là ân nhân của dân nghèo Nha Trang. Bà có biết khi ông chết dân Nha trang đã để tang ông như tang cha? Sao bà không thắc mắc cái lầu ấy nằm ở đâu, giờ có còn không?

      Hay cầu sông Cạn, gần Thành, là nơi nhà chí sĩ Trần Quý Cáp bị triều đình Huế vâng lệnh Pháp chém ngang lưng. Khi lên Diên Khánh sao bà không dừng lại chụp một tấm hình?

      Hay con đường ven biển đẹp nhất Nha Trang, giờ đổi tên Trần Phú. Bà có biết trước 75 con đường ấy mang tên một ông vua trẻ yêu nước bị Pháp bắt đi đày. Bà có biết đó là vua Duy Tân và có thắc mắc ông có bị tội gì với đảng cộng sản không mà bị lấy mất tên?

      Là một người yêu nước, xa quê hương trở về, sao bà không thắc mắc những điều đó, mà lại đi thắc mắc sao người Việt lại căm thù Tầu trong khi họ rủng rỉnh tiền bạc, sao không moi tiền họ để làm giàu mà đạp đổ tẩy chay?

      Những người xa quê hương không nhiều thì ít, ai cũng thắc mắc này nọ. Bà thắc mắc cũng phải thôi. Chỉ tiếc là hơi trật bản lề.

      Thắc mắc tại sao lại thù Tầu, có lẽ để cho những người như Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống thì đúng hơn.

      Mong bà bớt đọc những gì quàng xiên trên mạng và cẩn thận hơn khi nói về cái mà bà gọi là căm thù Tầu của người Việt Nam.

      Xin trân trọng chào bà

      19/5/2019
      KHUẤT ĐẨU
      Last edited by Nguyen Huu Thien; 05-22-2019, 09:52 AM.

      Comment



      Hội Quán Phi Dũng ©
      Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




      website hit counter

      Working...
      X