Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Lý Tống - Anh Là Ai ? # NHỮNG ĐIỀU TÔI BIẾT VỀ LÝ TỐNG.

Collapse
X

Lý Tống - Anh Là Ai ? # NHỮNG ĐIỀU TÔI BIẾT VỀ LÝ TỐNG.

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Lý Tống - Anh Là Ai ? # NHỮNG ĐIỀU TÔI BIẾT VỀ LÝ TỐNG.

    Lý Tống - Anh Là Ai ?


    Lý Tống, ngoài danh danh hiệu Ó Đen, tên phi đoàn 548 anh phục vụ ở Vùng 2 của Việt Nam Cộng Hoà trước năm 1975. Sau đây là các danh hiệu do báo chí ngoại quốc gọi và đặt cho trong thời gian Lý Tống thi hành các sứ mệnh chống cộng thần sầu sau năm 1975 trên khắp thế giới:
    James Bond 007, Papillon, Top Gun, Leaflet Cowboy, Robin Hood, Don Quixote, Folk Hero, True Patriot, Mr. Impossible, The Last Action Hero, Resistance Icon, Freedom Fighter, Mr. Franklin ....nhiều và còn nhiều nữa.
    Các câu Lý Tống thường nói
    Ta cúi đầu, cộng cỡi cổ. Ta đứng dậy, cộng sụp đổ!
    Mưu sự tại Lý Tống, Thành sự do Đồng Bào!
    Thà bị nhầm lẫn hơn là vô trách nhiệm!
    Lý Tống được Sử gia Tiến sĩ Stephen E. Ambrose ví với một vị Tổng Thống vĩ đại của Hoa Kỳ :" Like Eisenhower, a fighter for freedom, a hero from another war ".
    Mời qúy vị và các bạn theo dỏi thiên tiểu sử thần kỳ độc đáo của một đứa con Mẹ Việt Nam trong thời nhiểu nhương, " khó sống ".
    Tiểu sử Lý Tống
    Lý Tống sinh ngày 1 tháng 9 năm 1945 tại Huế, gia nhập Binh chủng Không quân năm 1965, thuộc Khóa 65A, và du học Hoa Kỳ năm 1966. Vì trừng trị một niên trưởng hắc ám, Lý Tống bị kỷ luật, bị sa thải và trở về nước. Lý Tống được tuyển vào hãng Pacific Architech & Engineer và chỉ trong vòng 3 tháng thực tập ngành Thảo Chương Viên, Lý Tống tự động sửa một program chính của hãng, giảm thiểu nhân số phòng Phân Tích từ 5 nhân viên xuống còn một mình Lý Tống. Do công trạng thần kỳ đó, Lý Tống được Chủ Tịch Hội IBM Chapter Việt Nam đề nghị bầu vào chức Phó Chủ Tịch và cấp học bổng du học ngành Programmer. Nha Động Viên đã gọi Lý Tống nhập ngũ Khoá 4/68 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức trước khi Lý Tống hoàn thành thủ tục nên anh bỏ mất cơ hội du học Hoa Kỳ lần thứ nhì. Lý Tống là người duy nhất bị sa thải vì kỷ luật được trở lại Không Quân Khoá 33/69 và tốt nghiệp Hoa Tiêu ngành Quan Sát. Năm 1973, Lý Tống được huấn luyện lái phi cơ A.37, trở thành Phi Công Phản Lực Cường Kích. Vốn là người của xứ cố đô ngàn năm văn vật, Lý Tống là một tổng hợp của nhiều con người: Vừa giang hồ lãng tử, vừa nghệ sỹ, businessman, vừa là hoa tiêu gan lì gai góc. Đề cập đến các chiến tích lẫy lừng với Danh hiệu TOP GUN của Lý Tống, có câu nhận xét của Phi công cùng Phi Đoàn Ó Đen thường được nhắc nhở đến: “Nếu 4 Vùng Chiến thuật có 4 Lý Tống, VC sẽ không ngóc đầu lên nỗi!“ Sáu trong hàng trăm Phi Vụ “Tử Thần“ của Phi Đoàn 548 có sự tham dự của Lý Tống gồm: (1) Phước Long: Phi vụ đánh tan nhiều mũi tấn công cuả VC vào Tỉnh Phước Long, ngoài huy chương Anh Dũng Bội Tinh về chiến tích, Lý Tống còn được tưởng thưởng về giá trị Văn học của Bài Thơ Lý Tống diễn tả lại trận đánh nầy. (2) Tây Nguyên: Phi vụ tiêu diệt toàn bộ hàng trăm xe tiếp tế của VC tại Tây Nguyên. (3) Đèo Phượng Hoàng: Phi vụ ngăn chận đạo quân VC ồ ạt chuyển quân từ Ban Mê Thuột về hướng Đèo Phượng Hoàng. Do say mê bắn xe tăng VC, Lý Tống đã bay xuống thấp đến nỗi phi cơ bị trúng một số mãnh phi đạn do mình bắn ra cùng đất đá văng lên làm phi cơ bị phế thải vì kính phòng lái và bụng máy bay bị thủng 38 lỗ đạn! (4) Phi Vụ BOB: Bay theo sự hướng dẫn của Radar Đài Kiểm Báo. Trong Phi vụ này, Phi tuần Trưởng không đánh bom, nghĩ rằng Bộ Chỉ Huy chấm nhầm tọa độ vì chợt phát hiện vòng đai Phi trường Phù Cát qua lỗ hỗng mây! Lý Tống Phi tuần Phó, tự động bấm bom theo phản xạ khi nghe hiệu lệnh vô tuyến thay vì theo lệnh Phi tuần Trưởng nên toàn bộ Phi công của Phi đội bay theo sau đã thả bom theo Lý Tống. Kết quả toàn bộ Sư Đoàn 23 Sao Vàng của VC bị tiêu diệt và phải mất một tuần lễ mới chôn hết thi thể địch quân. (5) Cầu Dziên Bình: Một đầu cầu chiến lược huyết mạch tại ngã ba biên giới Việt- Miên- Lào, do 4 Trung đoàn Phòng không thiện chiến nhất của VC trấn giữ, được VC dùng để chuyển quân, vũ khí và tiếp liệu ồ ạt vào Tây nguyên. Về đêm, khi phòng không địch khai hỏa, Dziên Bình bỗng rực sáng như “Thành phố San Francisco vừa lên đèn!“ Nhóm phi công cảm tử gồm 4 người. Lý Tống là người tình nguyện duy nhất đầu tiên và động viên, kêu gọi vài phi công bạn cùng tham gia. Bốn phản lực cơ A 37 cất cánh từ Pleiku, bay đi Kontum để đánh lạc hướng địch, rồi từ Kontum, “bay trên ngọn cỏ, dưới ngọn cây“ men theo sườn đồi, hẻm núi, từ sát mặt đất phóng vụt lên, nhào xuống đánh sập cầu Dziên Bình bằng Chiến thuật Đột Kích. Theo sự đánh giá của Khối Tình Báo Chiến Lược, nếu không có phi vụ đánh sập cầu Dziên Bình của nhóm cảm tử Lý Tống, Miền Nam VN đã rơi vào tay CS năm 1974 thay vì năm 1975! (6) Phi Vụ Cuối Cùng: Vào phút hấp hối của Quê Mẹ, Lý Tống thi hành phi vụ đánh sập cầu Ba Ngòi gần Cam Ranh, ngăn chận làn sóng tiến công ồ ạt của Cộng quân vào Phan Rang. Thấy dân chúng đông như kiến, lũ lượt xô đẩy nhau qua cầu chạy giặc, Lý Tống quyết định bay xuống thấp sát mặt đất làm hiệu để dân chạy nạn tránh đi, nhưng dòng người cứ ào ạt tràn qua cầu. Do trái tim đầy lòng nhân ái luôn nghĩ đến sự an nguy và tính mạng dân lành vô tội, Lý Tống phải bay thấp đến vòng thứ ba, nên khi vừa lấy cao độ để thả bom, chiếc phản lực cơ A 37 của phi công Lý Tống bị hỏa tiển SA7 tầm nhiệt VC bắn trúng ở cao độ 100 mét, vở thành nhiều mãnh. Lý Tống đã tung cánh dù trong vòng lửa đạn và bị bắt sau hơn 1 giờ bôn tẩu vào ngày 5 tháng 4 năm 1975. Lý Tống cùng chung số phận với những người tù cải tạo Miền Nam.
    Lý Tống trong ngày ra tòa ở Bangkok “I will go back to serve my country”
    Về Danh Hiệu PAPILLON, Lý Tống đã sáu (6) lần vượt ngục, chỉ thua Papillon Pháp, người vượt ngục chín (9) lần. Sự khác biệt giữa Henri Charrièrre và Lý Tống gồm các điểm: * Henri chuyên vượt ngục bằng đường biển, Lý Tống “chuyên trị“ đường bộ.* Henri luôn luôn dùng tiền nhờ người khác giúp đỡ và hợp tác, Lý Tống chỉ trốn một mình và mọi kế họach từ A đến Z đều chính tự mình vạch ra và thực hiện. * Ngoài ra, Henri chỉ chú tâm vượt rào “ra“ vì sự sống còn của bản thân, Lý Tống còn 3 lần vượt rào “vào“ các Phi trường (2 lần Phi trường Tân Sơn Nhất và 1 lần Phi trường Ubon Rachathani tại Thái Lan, tức Tổng cộng 9 lần bằng Henri Charrière) để đánh cắp máy bay, thi hành các Điệp vụ vì sự sống còn của Dân tộc VN. Sáu lần vượt ngục xẩy ra lần lượt tại1) Nhà tù Lam Sơn (Tại đây Lý Tống thường được bạn đồng tù nhắc lại câu nói bất hủ: “Bắn đi! Lý Tống này chết đi còn có trăm ngàn Lý Tống khác!“ (2) Nhà tù A.30 (Tại đây, Đại Úy Ngọc, bạn tù, thường nhắc lại câu nói của các thanh niên Miền Thùy Dương Cát Trắng ái mộ: “Lý Tống là Thần tượng Tuổi trẻ Nha Trang“; (3) Phòng giam An ninh tại Nhà ga Nam Vang ; (4) Nhà tù 7708 ở Nam Vang ; (5) Trại Nong Samet tại biên giới Miên-Thái và (6) Nhà tù Xuân Phước tức A.20. Thành tích vượt ngục được Ông Julian, Trưởng Phòng Phản gián Singapore, đánh giá: “Lý Tống là bậc thầy của Papillon.“ Lần vượt ngục thứ nhì, sau gần 6 năm tù, Lý Tống đã thực hiện đúng câu đã từng tuyên bố: “Các ông có quyền bắt tôi, bỏ tù tôi, nhưng quyền ’tự thả, tự phóng thích’ khỏi nhà tù lúc nào là quyền của tôi!“ Lý Tống trốn thoát Trại tù A.30 tỉnh Phú Khánh ngày 12/7/1980. Ra khỏi chốn tù đày, về đến Sài Gòn, Lý Tống đột nhập phi trường Tân Sơn Nhất 2 lần dự định cướp máy bay ném bom Bộ Chỉ Huy tại Trại A.30 để cứu bạn tù như đã hứa. Mưu sự không thành do toàn bộ phi cơ VNCH bị bộ đội CS “làm thịt’’ bán sắt vụn, tháng 9/1981 Lý Tống rời quê hương tìm tự do bằng đường bộ, xuyên qua 5 quốc gia, dài hơn 3 ngàn cây số, trong thời gian gần 2 năm, trốn thoát 3 nhà tù, cuối cùng bơi qua eo biển Johore Baru từ Mã Lai đến Singapore, và được chính phủ Hoa Kỳ chấp thuận cho đi định cư tại Mỹ vào ngày 1/9/1983. Cuộc hành trình vượt biên tìm tự do của Lý Tống ly kỳ vô tiền khoáng hậu, độc nhất vô nhị của thế kỷ 20 được Tổng Thống Ronald Reagan vinh danh qua nhận định: “Your courage is an example and inspiration to all who would know the price of freedom“ (Sự can trường bất khuất của Lý Tống là một biểu tượng và nguồn cảm hứng cho những ai muốn biết cái giá của tự do); và được ca tụng bởi những Tờ báo, Tạp chí nổi tiếng nhất thế giới như: Barry Wain của The Wall Street Journal: “Ly Tong is in a class by himself,“ và Anthony Paul của Reader’s Digest: “His flight has become one of the great escape saga of our time.“
    Lý Tống đến Hoa Kỳ dừng chân đầu tiên tại Thành phố Boston, đúng ngày sinh nhật 1/9/1984. Lý Tống nộp đơn học trường Harvard nhưng bị từ chối vì không có “học bạ“ và không đủ khả năng tài chánh trả học phí tại trường học đắc đỏ nhất Mỹ quốc. Lý Tống đã tuyên bố: “Hôm nay tôi xin làm Học Trò, Harvard từ chối. Sau này Harvard mời làm Thầy, tôi cũng sẽ từ chối! “Sau khi chu du qua các Tiểu Bang New York, Washington DC, California, Texas... Lý Tống định cư tại New Orleans, Louisiana, làm Quãn lý China Nite Club, lập Đảng “Trừ Gian Diệt Bạo“ đơn thương độc mã “bắn chết“ một tên cướp Mỹ đen ngày 9/7/1984 và sau đó đánh “tắt thở“ một tên anh chị VN.
    Sau 9 năm đèn sách, Lý Tống lần lượt đậu các bằng Cử Nhân Khoa Chính Trị và Cử Nhân phụ Khoa Pháp Văn (1988), Thạc sĩ (11/8/1990). Lý Tống được Sử gia Tiến sĩ Stephen E. Ambrose ví với một vị Tổng Thống vĩ đại của Hoa Kỳ:“ Like Eisenhower, a fighter for freedom, a hero from another war.“ Năm 1992 Lý Tống hoàn tất chương trình Tiến sĩ Chính Trị ngành Bang Giao Quốc Tế và chuẩn bị trình Luận án Tiến sĩ tại Đại Học New Orleans về đề tài “Học Thuyết Chất Xúc Tác: Cách Mạng Và Phản Cách Mạng’’ tức “Sức Mạnh Quần Chúng’’ (People’s Power). Nhân sau khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, Lý Tống trở về VN áp dụng học thuyết do mình phát kiến, được nhiều quốc gia áp dụng thành công đã lật đổ 23 Chế Độ độc tài trên thế giới trong 2 thập kỷ qua, để thực hiện cuộc “Cách Mạng Đua Xe’’ bằng cách đột nhập phi trường Ubon Rachathani của Thái Lan đêm 1/9/1992, định đánh cắp phi cơ bay về Sài Gòn dội bom kho xăng Khánh Hội vào dịp Quốc Khánh VC ngày 2/9/1992 để gây bạo loạn và tạo nên Chất Xúc Tác, đốt lên ngọn lửa đấu tranh tại quê mẹ. Điệp vụ bất thành vì bình điện phi cơ yếu, mở máy không nổ, Anh chuyển sang cách thứ 2, khống chế chiếc Air Bus 321-200 cuả Hàng Không VC ngày 4/9/1992 từ Bangkok về Sài Gòn, thả 50 ngàn truyền đơn kêu gọi đồng bào Tổng Nổi Dậy lật đổ chế độ bạo quyền CS. Lý Tống định chun qua cửa sổ hẹp của phòng lái (cocpit) thì bị áp suất và gió mạnh hút ra khỏi phi cơ và nhờ dù không mở nên thoát hiểm khỏi hàng trăm họng súng Phòng Không VC đang ghìm chờ và 2 chiếc MIG bám sát trên Không phận Sài Gòn và sau đó thoát chết nhờ rơi vào giữa ao rau muống. Sau 4 giờ trốn tránh truy nã, Lý Tống bị bắt, bị kết án 20 năm tù và bị đòi bồi thường ½ triệu Mỹ Kim vì làm hư 2 cánh cửa phi cơ khi mở nhảy dù, với câu tuyên bố bất hủ trước Tòa VC: “Tôi Quốc tịch Việt Nam Cộng Hòa“ và “Tôi trở về đây nhân danh Tổ quốc, Công lý để lật đổ Chế độ CS. Các ông cũng nhân danh Tổ quốc, Công lý để kết tội tôi. Tại phiên tòa này các ông là quan tòa, tôi là bị cáo. Nhưng ngoài phiên tòa này còn có Tòa án Lịch sử và toàn Dân VN sẽ là những vị quan tòa công minh nhất, họ sẽ định công, định tội tôi và các ông!“ Lý Tống tuyệt thực 48 ngày tại Khám Chí Hòa, bị chuyển đến Nhà tù Xuân Lộc nhưng Trại không dám nhận sợ Lý Tống trốn trại Giám Đốc phải vào tù thế chỗ! Khi chuyển ra Nhà tù Xuân Phước, Lý Tống vượt ngục thất bại nên Đầu vụ 5 Nhóm đều bị chuyển ra Miền Bắc, Nhà tù Ba Sao, Nam Hà. Lý Tống đã Tuyệt Thực tổng cộng 6 lần trong 21 năm tù đày: (1) Aran Jail (Thái Lan ) 7 ngày ; (2) Khám Chí Hòa 48 ngày; Nhà tù Ba Sao, Nam Hà, 1 tháng; Nhà tù Rayong (Thái Lan) 2 lần: Lần đầu 6 tháng và lần nhì 33 ngày và Trại tù Klong Prem 52 ngày. Tại Nhà tù Ba Sao, Lý Tống tuyệt thực 1 tháng, trong đó có 3 tuần bị cúp nước uống, nhưng kết thúc thắng lợi và Bộ Nội vụ đã chấp thuận 4 Yêu Sách của Lý Tống: 1. Tù Chính trị được ở riêng. 2. Không lao động. 3. Được sinh hoạt bình thường. 4. Được đọc sách báo tự do (kể cả sách báo từ Mỹ gữi về). Lý Tống đã từ chối hớt tóc với câu tuyên bố trước mặt Giám Đốc Trại: “Ông có thể cắt đầu tôi nhưng không thể cắt tóc tôi.“ Và khi viết “Thu Hoạch“ học tập Nội Quy, Lý Tống đã đọc bài nầy trước 4 bạn tù cùng Khóa và Quãn giáo câu kết luận: “Tôi trở về đây để thay đổi, sửa đổi Luật pháp chứ không phải để tuân thủ và chấp hành Nội quy, Luật pháp rừng rú nầy!“ “Tôi nguyện sẽ cải tạo đến chừng nào Chế độ CS tốt mới về! ”
    Ngày được Thái Lan trả tự do “Nói chung tôi cảm thấy cũng bình thường thôi, vì tôi đã ở tù (nhiều lần) 21 năm nay rồi ”
    Cuối cùng, nhờ sự tranh đấu kiên trì của Đồng bào Hải ngoại và dưới áp lực của các cường quốc tự do, bạo quyền CS đã phải trả tự do cho Lý Tống và một số tù nhân lương tâm khác sau 6 năm bị giam cầm. Ngày 1/9/1998, đúng ngày Sinh nhật, tai Phi trường San Francisco, trước hàng trăm Đồng bào chào đón “Người từ cõi chết trở về“, Lý Tống tuyên bố: “Chúng ta đã bóp cổ CS đủ mạnh để chúng phải nhả 3 người chúng tôi hôm nay. Chúng ta cần phải bóp cổ CS mạnh hơn nữa để chúng phải nhả hết những tù lương tâm còn lại. Và chúng ta cần phải tiếp tục bóp cổ đến khi nào bạo quyền CS hoàn toàn tắt thở!“
    Lý Tống đã viết lên trang sử đẹp nhất của đời mình, là niềm kiêu hãnh chung của những người con dân Việt. Lý Tống đã xem thường vinh hoa phú quí khi thành tài trên đất người, đã hy sinh mạng sống của mình cho chính nghĩa dân tộc, nói lên khát vọng tự do của con người, thắp lên hàng triệu ánh đuốc sáng rực bầu trời VN. Hành động phi thường quả cảm của Lý Tống đã được đồng bào toàn quốc và thế giới kính phục. Nhà thơ Hà Huyền Chi đã viết:

    "Một dũng cảm trên chót thang dũng cảm
    Một hy sinh trên cao độ hy sinh.
    Lý Tống đi, thế giới nghiêng mình
    Chào chính nghĩa, chào Anh hùng dân tộc."
    Ngày 1/1/2000, chỉ hơn 1 năm sau ngày trở về từ ngục tù CS, Lý Tống đã thực hiện một phi vụ đầy mạo hiểm khác. Nhân ngày Quốc Khánh thứ 41 của CS Cuba, và là ngày đầu tiên của thiên niên kỷ mới với hiện tượng Y2K có thể đình động mọi máy tính và Radar toàn cầu theo giới chuyên môn, Lý Tống đã bay đến Havana, Cuba, rải 50 ngàn tờ truyền đơn kêu gọi toàn dân đứng lên lật đổ “Con Khủng Long Già Nua Fidel Castro,’’ làm kinh động cả thế giới, tạo thành huyền thoại một “Lưỡng Quốc Anh Hùng.’’ Hành động xả thân vì đại nghĩa của Lý Tống đã được người Cuba lưu vong, đặc biệt ½ triệu người trong cuộc Diễn Hành Ba Vua, nồng nhiệt vinh danh Anh Hùng và tri ân, do góp công lớn vào sự nghiệp chống Cộng toàn cầu.
    Lý Tống dự tính đánh sập Lăng HCM, một biểu tượng và long mạch của Chế độ CSVN, nên nhờ người liên lạc với Tướng Vàng Pao và Kháng Chiến Quân H’Mong để từ Lào bay về Hà Nội dội bom. Điệp vụ bất thành do Tướng Vàng Pao có tang, cắt mọi liên lạc. Nhân chuyến công du VN của Tổng Thống Bill Clinton, Lý Tống chuyển sang phương cách thứ nhì, qua Cam Bốt chuẩn bị phi vụ kế tiếp. Do sự phản bội của người dẫn đường, phi vụ ngày 14/11 bị hủy bỏ, Lý Tống trở về Thái Lan, thuê 1 chiếc máy bay dân sự, dùng 15 ngàn MK tiền mặt và 5 ngàn MK hiện vật thuyết phục HLV người Thái hợp tác, bay đến Sài Gòn lần thứ nhì ngày 17/11/2000 để rải 50 ngàn tờ truyền đơn kêu gọi dân chúng đứng lên lật đổ ách độc tài áp bức của CSVN. Lý Tống bay trở lại Thái Lan, đáp tại Phi Trường Utapao, và bị bắt giữ vì âm mưu cấu kết giữa Chính Phủ Thatsin Thái Lan và VC. Trước Tòa án Rayong, Lý Tống đã từng tuyên bố: “Tội Khinh mạn Tòa án không nặng bằng tội khinh mạn Công lý, nhất là kẻ coi thường Công lý, Luật pháp lại là Thẩm phán và Công tố viên!“ “Ngày nào tôi chưa đưa được các ông (Thẩm phán, Công tố Thái) vào tù, ngày đó tôi sẽ chết không nhắm mắt!“ “Quốc gia nầy cần một cơn ’Đại Hồng Thủy’ để tiêu diệt hết giống nòi thối nát, sa đọa. Và Bà Suthathif cần được đưa lên thuyền Noah để sinh ra một dân tộc mới xứng đáng với danh hiệu Vương quốc Thái Lan!“
    Trong gần 7 năm bị giam cầm, Lý Tống luôn suy nghĩ tìm biện pháp Giải thể Chế độ CSVN và chống lại bản án Không Tặc sai trái bịa đặt của Tòa án Thái Lan, cùng áp lực của Bạo quyền CS đòi Dẫn Độ Anh về VN xét xử và trừng trị. Với nỗ lực đấu tranh không mệt mỏi của Đồng bào Hải ngoại khắp thế giới, cùng cuộc Đảo Chánh lật đổ Chế Độ độc tài, tham nhũng của Thủ Tướng Thaksin của Nhóm quân nhân Thái, và những Biện Minh Trạng mới hùng hồn dựa trên các bộ Luật Không Tặc, Dẫn Độ, Không Hành, Chicago Convention 1940 và Công pháp Quốc tế mới nhận đựơc, với những bằng chứng và luận điểm chính xác, chặt chẽ, sắc bén đầy tính thuyết phục của Lý Tống, cuối cùng “Chính nghĩa thắng hung tàn,” ngày 3/4/2007 Toà Chung Thẩm Thái Lan đã ra Phán Quyết công nhận Phi vụ Lý Tống là một hành động Chính Trị, và trả tự do cho Lý Tống, đánh dấu bước thắng lợi lớn nỗ lực đấu tranh của Đồng Bào Hải ngoại và sự thất bại nhục nhã của CSVN.
    Trong 10 tháng qua, kể từ ngày trở lại Hoa Kỳ, Lý Tống đã đi thăm đồng bào Việt Nam tỵ nạn khắp nơi trên toàn thế giới, từ Hoa Kỳ đến Canada, Úc Châu và Âu Châu với thông điệp kêu gọi đồng bào hải ngoại đoàn kết qua khẩu hiệu:“đoàn kết trong chia rẻ,’’ trình bày kế hoạch Giải Thể Chế Độ Cộng Sản Việt Nam bằng cuộc:“Cách Mạng Đua Xe,’’ và cảm ơn sự yểm trợ, tranh đấu của đồng bào trong thời gian 7 năm tù đày tại Thái Lan. Ngoài ra Lý Tống đã tích cực tham dự các cuộc tranh đấu chống Trung Cộng chiếm Trường Sa-Hoàng Sa, yểm trợ đồng bào tỵ nạn tại Phi Luật Tân, Thương Phế Binh tại Việt Nam, dựng Builboard Linh Mục Nguyễn Văn Lý tại Bắc Cali, yểm trợ các nhà đấu tranh quốc nội, dân oan, và các hoạt động chống Cộng khác tại hải ngoại với tổng số tiền 54.000 Mỹ Kim, đặc biệt bắt đầu tuyệt thực từ 12 giờ trưa ngày 15/2/2008 chống lại Nghị Quyết phản dân chủ của Nghị viên Madison Nguyễn đã vận động bằng những thủ thuật xảo quyệt, gian trá để đòi lại tên Little Saigon, trả lại danh dự cho Cộng Đồng và trừng phạt kẻ phản bội bằng hình thức truất nhiệm. Cuộc tuyệt thực tự phát đã được đồng bào ở Bắc Cali yểm trợ tích cực bằng sư hiện diện của trên 700 đồng hương đến và ký tên, đồng thời yểm trợ tài chánh hơn 12 ngàn Mỹ Kim tính đến trưa ngày 16/2/08 tức sau đúng 1 ngày tuyệt thực! Song hành với cuộc tuyệt thực, biểu tình mỗi Thứ Ba Đen, dùng Luật Sư để sau khiếu kiện, tranh tụng, cuộc tập hợp lực lượng vào ngày 4/3/2008 phải lên đến hàng ngàn, hàng chục ngàn người mới có thể đạt thắng lợi 100%, tiêu diệt âm mưu từng bước “đỏ hoa" Bắc Cali của các thế lực thân Cộng, phản bội lý tưởng Quốc Gia hiện nay.
    Ngoài các câu đã trích dẫn, Lý Tống còn có các Tuyên bố nổi tiếng sau:
    Ta cúi đầu, cộng cỡi cổ. Ta đứng dậy, cộng sụp đổ!
    Mưu sự tại Lý Tống, Thành sự tại Đồng Bào!
    Thà bị nhầm lẫn hơn là vô trách nhiệm!
    Và các câu thiên hạ nhận xét về Lý Tống:
    Anh là người đàn ông hướng dẫn được định mạng đời mình (Hạnh Sài Gòn).
    He made himself a torch for the whole world to exterminate the Communist (The Orange County Register).
    Ly Tong is a great American (Congressman Dana Rohrabacher).
    Washington State Senate recognizes the valiant efforts deserve the respect, admiration, and acknowledgment of all. Các Danh hiệu của Lý Tống do báo chí ngoại quốc gọi và đặt ngoài Black Eagle và Kinh Kha thời đại gồm: James Bond 007, Papillon, Top Gun, Leaflet Cowboy, Robin Hood, Don Quixote, Folk Hero, True Patriot, Mr. Impossible, The Last Action Hero, Resistance Icon, Freedom Fighter, Mr. Franklin (vì trước kia chỉ yểm trợ bằng những tờ giấy bạc 1 trăm Mỹ Kim có hình Ông Franklin và sau nầy số tiền yểm trợ tăng lên với đơn vị tối thiểu 1 ngàn Mỹ Kim, như 1 ngàn, 4 ngàn, 8 ngàn, 27 ngàn Mỹ Kim chẳng hạn...)
    http://www.thienlybuutoa.org/Misc/LyTong.htm

    NHỮNG ĐIỀU TÔI BIẾT VỀ LÝ TỐNG.

    Năm 1975, sĩ quan còn ở lại đều phải vào “tù” hay cải tạo, sở dĩ tôi phải đề hai chữ cải tạo và tù vì cũng trên diễn đàn này, cách đây vài năm tôi đã tranh cãi về hai chữ này, và sau đó, một đề tài đăng trên biệt động đã đồng quan điểm với tôi,
    vì vậy tôi viết chữ cải tạo trong những điều tôi biết về Lý Tống, như một người có một thời cải tạo tại tổng trại 6, tổng trại 5 và trại A 30.
    Tôi không biết Lý Tống trước nắm 1975, sau năm 1975,
    khi vào tổng trại 6 tại trung tâm huấn luyện Lam Sơn, tôi cũng chưa biết Lý Tống là ai.
    Tổng trại 6 chia làm nhiều trại, trại cấp tá hay những thành phần cộng sản cho là đối tượng quan trọng vào trại 1, sau đó kế tiếp là 2, 3, 4, 5.
    Lý Tống ở trại 4 hay 5,
    tôi không chính xác.
    Các trại nằm dọc theo đường từ cổng trung tâm huấn luyên Lam Sơn, chạy dài hơn cây số. Mấy tháng đầu bọn cai trại cho thoải mái, hàng ngày lao động nhẹ, chặt củi, chặt lá kè,
    lợp nhà, đào giếng nước… hàng ngày, buổi trưa, tới chiều ai có người nhà đều được thăm, tại khu thăm nuôi.
    Bỗng có tin từ trại 4, có Lý Tống vượt trại, trong thời kỳ này, thật ra nếu ai muốn đi,
    cũng không khó khăn lắm vì việt cộng còn lơi là, nghe tin từ dưới trại 4, tôi biết Lý Tống là pilot A 37, bị bắn rơi tại Phan Rang.
    Lý Tống đã lợi dụng lơi lỏng trong quản lý, Tống không biết móc nối hay làm sao mà chui nằm dưới bụng chiếc xe tải, thật ra chỉ nghe nói,
    không hình dung Tống nằm như thế nào. Xe chạy ngược lên Ban Mê Thuột, tại đèo Phượng Hoàng, Việt cộng bắt Tống, giải giao về trại 4,
    khi biết Tống trốn trại.
    Tại trại 4, bọn quản chế, bắt Lý Tống quì xuống đất,
    Tống không thi hành, và banh ngực ra, nói các anh muốn bắn, cứ bắn, không chịu quì,
    câu chuyện này nổi lên và từ đó ai cũng nghe tên Lý Tống, sau này tại trại tôi, cùng tổng trại với Lý Tống, có hai thiếu tá bị tên Sơn Khói gài rủ vượt trại và bị bắn chết, sở dĩ biết bị gài vì 3 người vượt trại, bọn bảo vệ bắn chết 2, và mang tên Sơn khói, làm bộ nhốt nhà cùm nhưng được ăn uống đầy đủ, và được cho thuốc lá,
    nhiều người bị nhốt đều trông thấy.
    Khi tên Sơn khói được thả,
    về làm đội trưởng đội cấp tá cho tới khi trại này chuyển lên Củng Sôn, Tuy Hòa, Sơn khói vẫn làm đội trưởng.
    Khi tổng trại 6 di chuyển lên tổng trại 5 tại Sơn Hòa, Củng Sơn, Lý Tống cũng đi theo và ở trại 54.
    Tôi theo trại cấp tá, ỡ trong rừng, là trại 53.
    Tại đây cải tạo viên vẫn đi làm, nhưng một hôm nghe anh em trại 54, khi ra ngoài chặt cây gặp những người trại 53, Lý Tống không chịu học tập và chống đối, bị cùm, biệt giam. Tống bị nhốt tại một dãy nhà cùm, nằm ngoài vòng đai của trại 54, nhưng có mấy vọng gác của cảnh vệ.
    Một hôm, vào khỏng 5 giờ sáng, anh em tại trại 54 la rất lớn:
    “các anh em ơi, tụi việt cộng muốn giết tôi”,
    người nghe kể lại, buổi sáng nên ai cũng nghe rất rõ,
    nhưng không ai làm gì được, trong khi đó Lý Tống vẫn tiếp tục la cho tới sáng, mọi người đều thức dậy, nhưng không nghe tiếng súng, ai cũng hy vọng Lý Tống không bị đánh chết.
    Thật ra sau này Lý Tống kể chuyện cho anh em trại 53
    (trại tôi) nghe, đêm hôm đó, trời còn tối, hai tên cảnh vệ,
    tới nhà cùm, nói, anh Tống, trại tha anh rồi, ra khỏi nhà cùm theo tụi tôi về với anh em cải tạo viên, Lý Tống biết, đây chỉ là bọn cảnh vệ dụ Tống ra khỏi nhà cùm là bắn, rồi đổ tội Lý Tống cố tình trốn nhà cùm, buổi tối và bắn bỏ.
    Lý Tống không ra, và nói với hai tên cảnh vệ, các anh thả tôi, chờ trời sáng, trại viên ngủ dậy, mọi người đầu biết, tôi sẽ theo ra, còn bây giờ, tôi không ra khỏi nhà cùm này.
    Nói xong, Tống nằm và la làng, Tống nói bị mấy báng súng nhưng vẫn không ra, càng la to.
    Mấy ngày sau, Lý Tống bị chuyển trại, lên trại 53, trại cấp tá và thành phần thuộc đối tượng nguy hiểm nhất, trong đó có đại tá Lương,
    lữ đoàn trưởng Dù, và Thành khóa 19, tiểu đoàn trưởng Dù, cùng chung trại.
    Tôi biết Tống từ đó, vì chung trại 53, nhưng tôi và Tống không cùng chung lán, tuy vậy hàng ngày nhiều khi đi làm chung,
    tôi biết thêm về Tống, Tống nói chung, cao ráo, đẹp trai, trắng và hơi thư sinh, khi nói chuyện, hay khôi hài, nhưng không có gì là khác với anh em, tôi hỏi Tống, hồi làm sao mày bị bắt năm 75,
    Tống cười, máy bay tao bị bắn, nhảy dù rơi trên một rẫy mía ngút ngàn, tao cuộn dù, dấu trong đám mía, tính theo đám mía chờ tối là đi, không ngờ tụi chăn bò, thấy từ trên trời, tao đi đâu, tụi chăn bò theo đó,
    cuối cùng du kích tới bắt.
    Tại trại 53, Tống không có ai thăm nuôi, con bà sơ 100/100, những người khác 3 tháng được thăm một lần, thỉnh thỏang, anh em cũng chia chút đường, chút bánh cho Tống.
    Tống ăn rất mạnh, ăn hết phần mì của mình, ăn thêm mì của anh em, nó để một cái nón nhựa, buổi sáng ai thấy mình dư mì,
    cứ để vào đó, Tống cặm cụi lấy chày nhào quết thành một trái banh nhỏ và ăn lần.
    Qua trại 53, Tống bắt đầu học thổi sáo, ai đã từng nghe tiếng sáo của người mới tập thổi, thì mới thấy khó chịu ghê gớm,
    cứ trưa hè mà nghe tiếng sáo Tống thổi là muốn điên, ai nói sao thì nói, Tống không giận hờn và tiếp tục…
    Vào dịp Tết, mọi người được thăm nuôi, đội nào cũng đi làm, nhưng khi có người nhà,
    cảnh vệ sẽ gọi tên cho thăm, Lý Tống được kêu tên, người thăm, nghe nói là anh ruột của Tống, dạy đại học ở Hà Nội, bọn cán bộ trại biết như vậy nên rất sốt sắng, cho người kêu Tống, Tống nói:
    “tôi không có bà con, anh em gì hết, làm sao ai thăm tôi được. Trại cho tên quản giáo gọi Tống, Tống nhất định không đi,
    cuối cùng đành chịu, và anh Lý Tống phải về. Tống có một đặc điểm, không bao giờ đi dép cao su do trại phát mà chỉ đi chân đất, đôi dép quàng trên cổ tòn ten, phải nói, không dễ gì, khi đi rừng, khiêng súc, chặt tre mà không có dép.
    Hỏi Tống, sao mày không mang dép Tống, nó trả lời gọn:
    “Da Chân mòn thì còn mọc da khác, dép mòn ai phát dép mới mà đi “,
    Tống là người nổi danh với câu nói:
    “Con gì nhúc nhích là ăn hết”, cóc nhái, ễnh ương, rắn rít mà gặp Tống, coi như xong, nó lột da cóc, giã thịt cho thật nát,
    cho chút muối, nướng ăn ngon lành.
    Đặc biệt Tống ít nói về trốn trại hay ý định gì, vì vậy không ai biết Trong đầu Tống nghĩ gì, Tống không có bạn thân, nhưng không có người ghét,
    một người bề ngoài, không khác ai trong anh em cải tạo.
    Trại 53 khi giao lại cho Công An, được di chuyển về Tuy Hòa,
    nằm trên một đồng bằng chung quanh là lúa và rẫy, thuộc ấp Thạch Thành, trại A 30.
    Về A 30, tôi khác lán với Tống, nhưng đều bị trong trại, ra vào trại đều phải qua nhà gác của công an, chung quanh hàng rào trại có chòi canh,
    và hàng rào kẽm gai, những đội mộc, đội rau, đội văn nghệ,
    gọi là đội tự giác, ở ngoài, hàng ngày vào trại lảnh cơm và nước.
    Đội tôi và đội Lý Tống, làm ruộng, sáng phải ra ruộng, chiều tối,
    tắm rửa, đếm số, vào trại.
    Tuy không chung đội nhưng gặp nhau vẫn chào hỏi, như đã nói, Tống không có bạn Thân.
    Hai đội làm ruộng gần nhau,
    Tống vẫn không có thăm nuôi, nhưng nghe nói, khi Tống làm đội xay sát gạo, có một cô trong đội văn nghệ rất thích Tống, ai cũng nói đầu dây mối nhợ là do người này báo cho Tống, tôi không tin, vì tuy hai đội văn nghệ và xay sát gạo gần nhau, nhưng không được tự do nói chuyện.
    Một hôm, vào năm 1980, tôi nấu nước cho đội tôi, sau giờ trưa, anh em nghỉ trưa, ra ruộng làm buổi chiều, tôi bắt đầu đi lấy củi để nấu nước cho anh em cải tạo ngày hôm sau,
    tôi đi khá xa, vào các rẫy lấy củi, nhờ vậy mà tôi quen nhiều người làm rẫy, trồng mía, tới mùa làm đường, tôi mang hai ba loong gô theo, nhiều cô làm mai xin tiếp đường cho tôi đường non mang về, tôi chia cho mấy bạn thân cùng lán ăn thoải mái, ngày mai xin tiếp (phải nói, lúc này dân chúng thấy rõ cộng sản rồi, nên rất cảm tình với người cải tạo), mới có dịp ăn đường non mệt nghỉ.
    Mấy cô làm mía, tiếc gì một loong gô đường.
    Đây nói chuyện Tống, một hôm tôi đi ngang qua mấy bụi chuối trồng theo bìa ruộng, lúc đó anh em đã ra ruộng lúa hết,
    tôi thấy Tống, mặc bộ đồ tù sọc đỏ, nằm ngay gốc chuối,
    tôi tưởng Tống ngủ quên, tôi lấy chân lay Tống dậy, nói:
    -Tống “Đội mày đi làm hết trơn rồi, sao mày nằm đây”,
    Tống vẫn nằm, trả lời:
    Tao đau đầu quá, tao xin ông Lía (cán bộ quản giáo) đội 9, nghỉ buổi chiều nay, ngủ chút xíu cho đỡ đau đầu , rồi nó hỏi tôi, mày đi lấy củi hả, tôi ừ, rồi nói với Tống, thôi mày nghỉ cho khỏe, tao đi đấy”.
    Hôm đó, nếu không lầm là thứ sáu, ngày hôm sau nghỉ lao động.
    Hôm sau, theo lệ thường, ngày nghỉ, thường ai có thăm nuôi thì nấu ăn, không có gì thì chạy qua mấy lán, gặp bạn bè, nói chuyện, ai có cà phê thì rủ nhau, mấy thằng một ly cà phê, nhâm nhi, nói chuyện đời,
    A 30 cho thăm nuôi xả láng, không hạn định bao nhiêu quà bánh, gạo, đường đều được mang, nhiều nhà khá giả mang cả gánh thăm nuôi.
    Tụi tôi đang, mỗi người một nơi, trong hàng rào dây thép, thì khoảng 10 giờ trưa, nghe tiếng kẻng tập họp, ai về nhà nấy, điểm danh. Số là, thường ngày nghỉ, 10 giờ mọi người đều lãnh cơm, cơm do người trực của đội gánh từ nhà bếp, tới từng lán chia.
    Thường ai không có mặt thì nhờ bạn nằm gần lãnh dùm, hôm đó, lán của Lý Tống, khi chia cơm, người chia cơm thấy không có đồ lãnh cơm của Tống, nên kêu inh ỏi, Lý Tống đâu rồi, không lãnh cơm, người chia cơm, hỏi Tống có nhờ ai lãnh cơm không?, kêu hoài kêu hủy, người đội trưởng Tù, báo cáo cho chòi canh ngoài cổng, cảnh vệ bèn đánh kẻng kêu tập họp điểm danh từng nhà, ai cũng có mặt, chỉ thiếu Lý Tống, cảnh vệ báo lên trại, lệnh truy nã tù trốn trại bắt đầu. Ai trong anh em, cũng mong cho Tống đừng bị bắt, và trốn được, và quả thật cả tuần, cả tháng, và cả năm, không bao giờ bắt được Tống.
    Năm 1981, khi tôi ra khỏi A 30, tôi vẫn mang một câu hỏi trong đầu, Tống ra khỏi trại bằng cách nào, và đi ra sao ?
    Tôi không là bạn thân của Tống, nhưng cùng chung trại mấy năm, tôi phục Tống khi nghe và thấy những hành động của Tống, Tống là một người vượt trại giỏi, nhưng tiếc thay, Tống không kết hợp được nhiều người, trước sau vẫn hành động đơn độc, sau này khi nghe, đọc một bài báo Mỹ nói về Tống, tôi thấy Tống phi thường, nếu có bạn nào đi Mã Lai, mỗi chiều thứ Sáu, rời khỏi trại huấn luyện JWS “Jungle Warfare School”, tại Johore bahru, Malaysia, qua chiếc cầu thật dài giữa eo biển Malaysia và Singapore, các bạn mới cảm phục Lý Tống,
    không những về ý chí, mà phải thán phục vì sức khỏe của Tống, khi Tống bơi qua eo biền này, dưới dòng nước xanh, sóng mạnh,
    Tống đã tới tòa đại sứ Mỹ tại Singapore, bằng một câu tiếng anh trôi chảy:
    “Tôi xin gặp đại sứ Mỹ”, tôi là một sĩ quan không quân VNCH, đã đi từ VN qua nhiều nước, và vừa bơi qua eo biển Mã Lai tới đây.
    Lý Tống được lệnh từ Mỹ, ra khỏi singapore chỉ sau vài tiếng đồng hồ...
    *Phạm Văn Lương K20


Hội Quán Phi Dũng ©
Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




website hit counter

Working...
X