Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Thằng Bombata mất dạy

Collapse
X

Thằng Bombata mất dạy

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Thằng Bombata mất dạy

    Thằng Bombata mất dạy
    hoànglonghải

    Rồi lại có lệnh “biên chế”. Anh em chúng tôi đi hết, nào Phạm Ngọc Hiền, Phạm Quang Chiểu, Phạm Xuân Lý, Trần Hữu Bảo, Nguyễn Văn Tiếp, Hoàng Hữu Chung, Nguyễn Văn Thanh, Nguyễn Văn Bê, Nguyễn Văn Quí, v.v…


    Về sau, nghe tin mấy anh em nầy đi “Thăm lăng “bác” Hồ”, tức là tiếng gọi đùa những anh em bị đày ra Bắc. Một số còn lại gồm tôi, Trần Phú Trắc, Đào Sơn Bá, Lê Quang Dung, Nguyễn Đạo thì xuống “trại Bombata”.

    Gọi là “xuống trại” vì trại chúng tôi đang ở là ở trên đồi, gần cửa vào trại Long Giao. Nay thì xuống một trại ở dưới thung lũng, cũng thuộc trại Long Giao. Đây là căn cứ của lính Mỹ hay Úc gì đó, tôi cũng chẳng tìm hiểu.

    Xuống trại dưới nầy thì gặp ngay Bombata, một anh sĩ quan bộ đội Dziệt Cộng đểu và “mất dạy.”
    Số anh em cũ của chúng tôi nay chỉ còn mấy ngoe như tôi kể tên ở trên, còn lại phần đông anh em lạ, ở đây đã mấy tháng rồi.

    Căn phòng chúng tôi được đưa vào ở là một căn trại gia binh chế độ cũ. Nền nhà, vách, v.v… dơ dáy. Dơ dáy vì không phải nó là trại gia binh mà vì trước khi chúng tôi đến là nơi giam “tù hình sự”. Vẽ bậy, viết bậy và viết đứng đắn cũng có, đầy trên vách.

    Bá nói với tôi: “Tui thấy đằng vách kia kìa, có tên Chế Linh. Chắc anh ta có bị giam ở đây.” Có thể ban đầu, tù hình sự do bộ đội bắt nên giam ở đây. Nay “ban quân quản” giao lại cho công an nên họ bị đem đi rồi.

    Sự kiện chúng tôi để ý lúc nầy là “Hội nghị Hiệp thương Thống nhứt”. Có người nói: “Thống nhứt rồi, có lẽ mau được về!” Đâu có dễ vậy, phải không?

    Tối tối, tôi nằm nói chuyện với Đào Sơn Bá (hiện đang ở Boston). Bá hỏi tôi: “Nhắm có về sớm như người ta nói không anh?”

    Tôi nói:
    – “Hồi đầu tháng 5/ 1975, bà Nguyễn Thị Bình, bộ trưởng bộ ngoại giao (chính phủ Cộng hòa Lâm thời Miền Nam Việt Nam) đi Algerie. Bả xin thế giới giúp cho một triệu cái cuốc. Bả còn nói hai miền Nam Bắc còn nhiều khác biệt, phải năm năm nữa mới có thể thống nhứt đất nước được. Cái tui thắc mắc là bả thì nói 5 năm mà nay mới 1 năm đã thống nhứt rồi. Có chuyện chi đây?”

    Bá hỏi:
    – “Theo anh nghĩ thì có chuyện chi?”
    – “Theo “moa” nghĩ thì bọn miền Nam như Huỳnh Tấn Phát, Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Hữu Thọ không phải là “Cộng Sản ròng” như Đỗ Mười, Lê Duẫn. Phần đông họ là dân trí thức tiểu tư sản, “theo kháng chiến” rồi theo Cộng Sản chớ không phải vì thích chủ nghĩa Cộng Sản. Bọn ngoài Bắc dựng bọn trong Nam lên để làm mặt trận là làm bình phong. Bây giờ không cần nữa thì phải loại ra, mà phải loại sớm. Để lâu, bọn trong Nam mọc chưn mọc rễ ra khó loại hơn. Đó là lý do thống nhứt cho lẹ lẹ.” Tôi giải thích.
    – “Đám miền Nam về vườn hết sao?” Bá hỏi.
    – “Đâu có! Để thưởng cái công “cầm cặ… chó đái”, họ được cho một chức gì đó, ngồi chơi xơi nước. Không thuộc giai cấp “ba đời đi ở, bốn đời làm thuê” mà.” Tôi giải thích.
    – “Rồi mình có hy vọng chi về sớm không?” Bá lại hỏi.
    – “Mình không biết. Theo kinh nghiệm của mình, mình lưu lạc từ Trung tới Nam rồi thì mình nghĩ quyền hành ở trong tay đám Nam Kỳ dễ sống hơn. Với Bắc kỳ khó sống lắm “ôông” ơi!”

    &&&&&

    Chúng tôi gánh hậu quả vụ “Út Bạch Lan trốn trại.” Út Bạch Lan, Biệt Kích Dù, cùng khóa Võ Bị với “Hùng móm”, em út tôi.

    Truớc khi chúng tôi về trại nầy khoảng hai bữa, “Út Bạch Lan trốn trại”. Anh ta chui qua mấy lớp hàng rào kẽm gai, dầy đặc cả mìn chiếu sáng và mìn chống người, ngay dưới chân cái tháp canh ngày đêm có bộ đội ngồi gác trên ấy. Hàng rào và tháp canh nầy, có từ hồi lính Úc tới đóng đồn ở đây, đặc công còn không vào được mà anh ta chui ra dễ như chơi. Người ta còn kháo nhau, Út Bạch Lan còn chơi khăm “bộ đội”, bỏ lại cái áo trắng trên hàng rào, làm như báo cho tụi nó biết “Tao ra ở lối này nè!”.

    Út Bạch Lan thuộc một khối chúng tôi vừa tới, trưởng khối là ông Nguyễn Bảo Tụng, nhà chơi tem nổi tiếng miền Nam, trước 75 nhiều lần lên TV nói về chuyện chơi tem cho khán giả nghe chơi.

    Quản giáo khối nầy là một Trung úy “Cộng Sản Bắc Việt Xâm Lược”, gọi như thế cho đúng với chữ nghĩa thời Việt Nam Cộng Hòa, để phân biệt với Dziệt Cộng là dân trong Nam nhảy núi hay vào bưng.

    Mỗi ngày anh Trung úy cộng sản tập trung điểm danh chúng tôi. Câu anh ta thường đe dọa khi điểm danh là “Không được trốn trại”. Buổi tối, sau giờ kẻng đánh là “Không được bước chân xuống khỏi thềm nhà. Ra khỏi thềm nhà là vệ binh của tôi chúng nó bắn ngay. Chúng nó được “nệnh” không được bắn vào đầu, chỉ bắn vào chân cho què thôi. Nhưng chúng nó bắn dở “nắm”. Nó nhắm vào chân nhưng “nại” trúng vào đầu đấy. Rõ chưa?”

    Chúng tôi phải hô “rõ” thật to trước cách nói xỏ lá của nó; nó mới chịu.

    Mỗi khi nó điểm danh, trưởng khối Nguyễn Bảo Tụng đứng bên cạnh nó, nhìn về phía chúng tôi. Khi nó nói cái câu xỏ lá như trên thì ông Tụng thường nhìn tôi, mĩm cười. Tôi cũng nhếch mép cười, không hướng về phía ông Tụng và dĩ nhiên không cho tên Trung úy cộng sản thấy. Thái độ hung hãn và bất thân thiện, nếu không muốn nói rất ghét chúng tôi, trông giống như một nhân vật trong một cuốn phim Bulgary, tên nhân vật đó là “Bombata”, nên anh em thay vì gọi tên, họ gọi là Bombata. Vì vậy, cho tới nay, tôi vẫn không biết tên thật y là gì!

    Bombata biểu ông Tụng cắt tù canh đêm, hễ thấy ai trốn trại thì hô hoán lên báo động cho bộ đội biết. Mỗi phiên hai người tù canh chung. Một hôm, tôi chung phiên với “ông thầy chùa Phát”. Ông Phát nguyên là Đại úy Tuyên úy, nay không còn ăn chay và cũng chẳng thấy kinh kệ hay Phật pháp gì cả. Hôm ông canh với tôi, tôi nói: “Hộp quẹt tôi bị hư rồi, làm sao hút thuốc?”

    Thầy chùa Phát nói:
    – “Anh cứ lấy thuốc ra hút. Hễ gần hết điếu, mình mồi qua điếu khác.”

    Tôi nói:
    – “Hút vậy hao quá! Thầy có hộp quẹt không?”

    Ông ta trả lời không!

    Thế là tối hôm đó, tôi đem ra 3 gói thuốc “Basto Xanh” do vợ gởi cho. Cứ hết điếu nầy, tôi và ông thầy chùa vì sợ khuya rồi, biết xin lửa ở ai, mà canh đêm, không có thuốc hút thì buồn lắm, hút liền tù tì điếu nầy qua điếu khác, miệng nóng và đắng nghét.

    Hôm sau, tôi thấy Trắc hút thuốc lào. Tôi cự nự Trắc:
    – “Có hộp quẹt mà tối qua không cho tôi mượn.”

    Trắc giải thích:
    – “Đâu có, tui mới mượn của ông thầy chùa Phát.

    Tôi nói:
    – “Vậy mà ông ta nói với tôi ông không có hộp quẹt?”
    – “Anh tin thằng chả?” Trắc hỏi. “Ông thầy chùa nầy ghê lắm. Cần tiền thì ông cũng bán cả Phật như không!”

    Một hôm, Bombata dẫn năm sáu anh em chúng tôi đi đốn cây ở phía dưới Long Giao một chút, trong một khu rừng nằm bên cạnh trục lộ từ Long Khánh đi Phước Tuy, có mấy vệ binh vác súng đi theo. Cứ hai người đốn và khiêng về một cây dài khoảng 5 thước, gốc bằng bắp chuối. Không nặng lắm nhưng đi đường xa cũng mệt.

    Tới một cái quán bên đường, chúng tôi xin nghỉ chân, vào quán xin nước uống. Thằng Bombata chấp thuận.
    Chủ quán là một bà cụ già, khoảng 60 tuổi, vui vẻ lấy nước cho chúng tôi uống. Cụ còn nói: “Anh nào muốn uống nước ngọt thì uống đi, tôi không tính tiền đâu!” Chẳng ai uống mà cũng không mua vì sợ bà cụ không tính tiền cũng kỳ. Quán chỉ bán vài chai nước ngọt, mấy nãi chuối, ổi, đu đủ, v.v…

    Đang ngồi nghỉ mệt, bà cụ nói đùa một câu: “Bây giờ khỏi đi đánh giặc, chỉ đi học không thôi, khoẻ há?” Rồi cụ cười, cái cười phải là rất ý nghĩa. Chúng tôi sợ thằng Bombata, chỉ nhìn cụ cười lại mà không nói gì.

    Trước khi ra về, chúng tôi xin phép thằng Bombata mua ít nãi chuối đem về trại. Nó bằng lòng. Bà cụ tính mỗi nãi chuối có 1 đồng (tiền mói đổi của Cộng Sản).
    Thấy rẻ, Bombata cũng vào mua ba nãi. Bà cụ tính ba nãi mười đồng. Bombata thắc mắc:
    – “Tại sao chị bán cho những người kia một đồng mà bán cho tôi những hơn ba đồng?”

    Bà cụ hỏi lại:
    – “Anh là chủ quán hay tui? Tui là chủ, tui muốn bán sao tui bán.”

    Bombata tức lắm, nó nói:
    – “Chị chưa giác ngộ, còn phản động “nắm”! Tôi sẽ phản ảnh với địa phương.”

    Bà cụ cười mỉa:
    – “Tui chấp đó. Thuở đời nhà ai, tui chừng nầy tuổi mà gọi tui bằng chị. Tui đáng tuổi bà nội. Chắc tụi nầy dưới đất chui lên.”

    Biết không làm gì được bà cụ, Bombata quăng mấy nãi chuối lại, hằm hằm bảo chúng tôi khiêng cây về.

    Về tới “nhà”, Bá vẫn chưa quên câu chuyện bà cụ trả lời “Bombata”. Bá hỏi tôi:
    -“Tại sao thằng Bombata gọi bà cụ bằng chị. Nghe kỳ quá.”
    -“Tại vì người ta có “một cha cung trên trời”. Bọn chúng có một “bác chung” cho cả nước. Ai cũng là “cháu của bác” thì già trẻ, lớn bé, cha con, mẹ con đều là anh em cả thì gọi nhau anh, chị em. Vậy là đúng chính sách đấy.”
    Bá nói:
    -“Hèn chi tụi thấy tụi cán bộ gọi nhau là anh anh em em, không lịch sự chút nào cả. Phải là có máu mũ bà con hay bồ bịch gì đó mới gọi là anh em chứ!”
    -“Văn hóa ông nói là “văn hóa tư sản”, “văn hóa tiểu tư sản.” Văn hóa mới của tụi Bắc Kỳ là “văn hóa vô sản”, “văn hóa Chí Phèo”, giống nhau thế chó nào được.” Tôi trả lời.

    Thằng Bombata “hành hạ” ông Nguyễn Bảo Tụng đến tội nghiệp.

    Vì Út Bạch Lan ở trong khối của ông nên sau khi Út Bạch Lan trốn trại, nó đặt ra nhiều biện pháp rất nghiêm nhặt: Không cho nói chuyện với người ngoài tổ. Vì vậy, tôi chỉ có thể nói chuyện với Đào Sơn Bá, cùng tổ. Tôi và Trắc, trong đời tù cải tạo, đi chung với nhau từ đêm đầu tiên ở Taberd, 24 tháng 6 năm 1975 cho tới bây giờ. Không biết bao nhiêu lần chúng tôi ở chung, ăn chung, chơi chung, đào giếng, trồng rau, trồng sắn (mì) chung, v.v…

    Trắc thấy tôi, cười một cái rồi nói “Nhưng không chết người trai khói lửa” rồi đường ai nấy đi. Trong suốt thời gian tù cải tạo sống bên nhau, mỗi khi gặp khó khăn, Trắc thường nói đùa với tôi câu hát ấy. Sau nầy, qua tới Mỹ, lần đầu tiên gọi điện thoại cho tôi, Trắc hỏi: “Biết ai đây không? “Nhưng không chết người trai khói lửa…” Trắc nói chưa xong thì tôi đã la lên: “Trắc, tui tìm ông quá trời!..”

    Chúng tôi đoán chừng tên quản giáo buộc ông Tụng theo dõi bọn tôi để báo cho nó hay những “biểu hiện xấu”.
    Chúng tôi cũng đoán chắc ông Tụng không thể làm như vậy được. Vì vậy mà thằng Bombata làm khó làm dễ ông quá lắm!

    Chỉ một việc Út Bạch Lan trốn trại mà nó hành hạ ông già Tụng đến thảm. Nó bắt ông Tụng viết báo cáo về việc Út Bạch Lan trốn trại đến cả chục lần, lần nào nó cũng bảo rằng chưa đạt. Đạt có nghĩa là ông Tụng cũng như anh em biết Út Bạch Lan âm mưu trốn trại mà không báo cáo cho “cách mạng” hay. Ối trời! Ai mà biết ai “âm mưu trốn trại”. Ai có khùng mới “phổ biến” việc mình muốn trốn trại cho người khác biết. Mà dù có biết, chẳng ai báo cáo. Việc ấy, ai làm được?!

    Mỗi ngày một lần, ông Tụng phải cầm tờ báo cáo đọc cho nó nghe. Không hiểu tại sao nó không cầm tờ báo cáo tự đọc lấy mà bắt ông Tụng phải đọc. Có thể nó đọc chữ quốc ngữ không thông chứ chữ ông Tụng viết rất đẹp và khá rõ. Ông thuộc loại học trò trước 1945, thầy giáo dạy tập viết kỹ lắm.

    Khi ông đọc báo cáo, nó bắt ông phải ngồi dưới đất, theo kiểu nước lụt, thông tục gọi là “ngồi chò hỏ”; còn nó ngồi trên sập, “vách đốc củ tỏi”, như mấy ông lý trưởng, chánh tổng ngày xưa.

    Trong cái “tư thế” như vậy, ông Tụng khó chịu lắm, nhưng ông làm gì được nó. Nó từng hăm nhốt ông vào “cát-xô” vì tội tán trợ Út Bạch Lan trốn trại. “Anh biết trước nó trốn nhưng anh không báo cáo. Tôi sẽ “xử ní” anh.”
    Chưa nhốt ông vào cát-xô là điều may cho ông, nói gì tới chuyện khác. Vả lại cách làm của Bombata như thế cũng là một hình thức khủng bố ông Tụng.

    Cùng đơn vị trước đây với ông Tụng có ông cựu Đại úy Lượm. Ông Lượm thường tự hào mình là con chủ điền. Có lần ông nói: “Cha mẹ tôi giàu, con khó nuôi, nên mới đặt tên tôi là Lượm. Lượm đâu đó về nuôi, chớ không phải do ông già bà già đẻ ra, sợ ma bắt.”

    Không mấy khi tôi nói chuyện với ông Lượm. Tôi không thích những người gọi cha mẹ là “ông già, bà già.” Gọi như thế là thiếu tôn kính cha mẹ, là cách nói của giới bình dân.

    &&&&&

    Khi thằng Bombata điểm danh xong, về rồi, tôi thường ngồi nơi cửa sổ phòng tôi nhìn về phía bên kia đồi.
    Tôi chờ mặt trời xuống. Bây giờ đang mùa Hè!

    Mặt trời như một khối lửa, khi chạm tới đỉnh đồi phía xa xa, nó tóe ra trăm ngàn tia lửa đỏ, rực cả một chân trời, phản chiếu vào mầu mây. Cao trên mây chút nữa là mầu đen của một cảnh trời chiều sắp tắt, trông buồn lắm. Cảnh ấy làm cho tôi nhớ thời niên thiếu khi tôi còn ở quê nhà, ngồi bên nầy bờ sông Thạch Hãn, nhìn mặt trời sắp lặn sau dẫy Trường Sơn. Chỉ khác một điều, những ngọn đồi ở đây không cao, không trùng điệp và hùng vĩ như những ngọn núi ở dãy Trường Sơn.

    Trong những buổi chiều lặng lẽ và u buồn như thế, ông Tụng hay ra đứng bên cạnh tôi, nói bâng quơ vài câu chuyện. Tò mò một chút ít về tem. Có lần tôi hỏi ông:
    – “Bác Tụng nè! Câu sấm nói “Voi bò trên giấy” là ứng với tờ giấy hai giác (hai mươi xu, hai giác là gọi theo cách xưa của người Trung; người Bắc gọi là hai hào) thời Đông Dương. Hồi đó, tôi nhớ cũng có con tem vẽ hình mấy con voi. Vậy câu sấm có ứng với mấy con tem không?”

    Ông Tụng giải thích:
    – “Tờ giấy bạc hay con tem không quan trọng, cái ý chính của câu sấm là nói tới “thầy tăng” là “thằng Tây” sắp đi đời.” (1)

    Tôi lại hỏi:
    – “Bác có nghĩ thầy tăng là mấy ông thầy chùa không?”
    – “Làm gì có!” Thầy tăng là thằng Tây. Câu sấm nói lái.” Ông Tụng giải thích.
    – “Tui không nghĩ câu sấm nầy là của ông Trạng Trình đâu. Nếu là ông Trạng Trình, mắc chi ông phải nói lái. Nói lái như vậy là để đánh lạc hướng mật thám Tây. Như vậy là câu nầy mới đẻ ra hồi Tây.” Tôi nói.
    – “Cũng có thể đấy!” Ông Tụng nói. “Tôi chơi tem mấy chục năm, chưa ai hỏi tôi rắc rối như anh!” Ông Tụng vừa cười vừa nói.
    – “Bác có bực mình không? Bác nên nhớ tui là “dân trọ trẹ” mà!”
    – “Bực mình thì tôi đã không ra đứng đây nói chuyện chơi với anh cho vui. Tôi khổ tâm vì cái thằng trung úy bộ đội nầy. Nó chưa bằng tuổi con tôi mà nó mất dậy quá!”
    – “Thời thế mà! Hàn Tín còn luồn trôn giữa chợ!”

    Rồi tôi đọc câu đối của Ngô Thời Nhiệm “Gặp thời thế thế thời phải thế!”

    Bỗng ông Tụng hỏi tôi:
    – “Anh ở Huế có biết Như Hà không?”
    – “Như Hà nào? Hà-Lãng-Hổ à? Bà ấy là chị thằng bạn tui.”
    – “Tôi lập hồ sơ vụ án Hà-Lãng-Hổ. Hồi đó cho tới 30 tháng Tư, tôi làm việc ở Biên Hòa.”

    Ông Nguyễn Bảo Tụng, người gốc Bắc, không rõ tỉnh nào. Trước là Hiến Binh. Sau chế độ Ngô Đình Diệm, Hiến Binh giải tán, một số chuyển ngành Cảnh Sát, một số chuyển qua Quân Cảnh. Ông thuộc ngành Quân Cảnh Tư Pháp, chức vụ cuối cùng của ông trước 30 tháng Tư là Đại Đội Trưởng Đại Đội Quân Cảnh Tư Pháp Quân Khu 3, đóng tại Biên Hòa.

    Khi vụ án Hà-Lãng-Hổ xẩy ra, ông làm việc ở Đại Đội Quân Cảnh Tư Pháp đó, nhưng không biết đã làm đại đội trưởng hay chưa. Ông là người lấy cung, điều tra vụ án nầy.

    Tò mò, tôi muốn thêm chút ít về một vụ án, mà Ngô Thị Như Hà, nhân vật chính là chị của Trần Quang Quy, bạn học của tôi.

    Năm 1954-55, tôi và Trần Quang Quy học chung một lớp, chuẩn bị thi Trung Học Đệ Nhất Cấp. Chúng tôi là bạn thân. Bà Hà chuẩn bị thi Tú Tài 1.

    Hồi đó, nhà Quy tại “Villa Elizabeth” nằm trên đường Duy Tân, là đường nối liền từ đầu cầu Trường Tiền xuống An-Cựu. Ngôi nhà nầy sau thuộc phạm vi “Khách Sạn Duy Tân” của Cậu Cẩn.

    Tôi ăn cơm tháng gần trong hồ Tịnh Tâm, khu vực không có điện, tối mù mù, phải dùng đèn dầu hỏa. Học bài khuya, hao dầu, nhắm bộ bà chủ không vui lòng nên cứ tối tối, tôi qua nhà Quy học chung. Cũng không phải là học trong nhà. Bọn tôi ra ngồi ở gốc đèn điện đường. Ngồi cột đèn nầy một chút thì qua cột đèn kia. Thỉnh thoảng, thấy chó chạy hoang thì lấy đá vụt chơi. Gặp mấy o bán chè thì hát “Con mèo chạy quanh tấm ván” nhại theo câu rao hàng của mấy o là “Chè đậu xanh đậu ván.” Có một câu nhại tục hơn, nhưng mấy ông lính mới xài câu đó, chúng tôi là học trò, không dám (2).

    Gặp cảnh sát đi tuần sau giới nghiêm, 12 giờ đêm, thì phải trốn cho lẹ vì đôi khi, mấy thầy cảnh sát bắt được, nếu không thông cảm thì “Bị bác bếp Bình bắt bỏ bót ba bốn bữa.” Không “ba bốn bữa” đâu! Sáng hôm sau đã thả ra, vừa mất học bài, vừa trễ một buổi học ở trường.

    Nhà Quy ở là nhà Tây, có nhiều phòng. Ông thân Quy, Thiếu Tá Trần Thành, dân Quảng Bình, cùng quê với Cậu nên sớm làm Trung đoàn Trưởng đóng gần Huế.

    Thỉnh thoảng ông mới về nhà. Quy có phòng ngủ riêng. Bà Hà cũng có phòng riêng. Nó cười cười, dặn tôi không được vào phòng bà Hà: “Phòng con gái, dơ lắm.”

    Nó nói vậy. Tôi hiểu mờ mờ về cái dơ đó. Tuy thường đến đây, tôi chưa bao giờ thấy bà Hà tại nhà. Chỉ có một lần, khi chúng tôi đang ngồi trong lớp, bà Hà đạp xe đạp tới, gọi Quy ra, nói chuyện gì đó. Cả lớp, nhất là Nguyễn Đình Thống, anh ca sĩ Hoàng Lan của Đài Phát thanh Huế, trầm trồ “Chị thằng Quy đẹp ghê!” Vậy thôi.

    Năm tôi học ở Khải Định, sau nầy là Quốc Học, tôi không thấy bà Hà lần nào, mặc dù, mấy lớp trên tôi, con gái còn học chung với con trai bên Khải Định vì trường Đồng Khánh chưa mở những lớp Đệ Nhị Cấp.
    Nghe nói bà Hà đã đi dạy Trung Học, sau khi đậu tú tài 1. Hình như có một năm bà ấy về học lại lớp đệ nhứt, chung với bà Tường Loan.

    Trên “Tập văn Học sinh Quốc Học” năm ấy, hai bà nầy đăng thơ gởi qua gởi lại cho nhau, làm như đôi tình nhân.
    Tôi chỉ nghe nói, không đọc thơ họ hay đọc rồi mà quên. Nói như thế là thật tình, thơ không hay lắm. Nếu thơ hay lắm, – tôi nói là hay lắm -, có lẽ tôi đã thuộc vài câu. Khi tôi đã đi dạy rồi, một người bạn đồng nghiệp, rất thân, bạn học với Tường Loan kể cho tôi nghe một câu chuyện như sau:

    Một hôm, anh bạn tôi tới tư thất viện trưởng, nhà số 1, ở đầu đường Trương Định, là nhà của cha Luận, để mượn sách. Vào sân, anh bạn tôi thấy ngay cửa giữa, sau bức màn phía sau phòng khách, phía dưới màn còn hở là cái áo đen và hai chân cha Luận, bên cạnh là hai chân một người đàn bà. Chỉ thấy hai chân vì phần trên đã bị tấm màn che khuất. Tò mò, người bạn tôi đạp xe ra phía cửa sau. Té ra lúc đó, bà Hà đang đứng khâu lại bức màn. Cha Luận đứng bên cạnh. Hai người đang nói chuyện với nhau, vui vẻ lắm!

    Khu nhà phía sau, có nhiều phòng. Những người ở lại nhà cha Luận, như bà Hà thì ngủ ở những phòng sau đó, không ngủ lại trên gian nhà chính.

    Bọn sinh viên Huế, không ít người biết bà Hà là con nuôi của cha Luận.

    Có một điều vui nữa, theo người bạn kể, cha Luận thường cho những “học trò cưng” của ông mượn sách về đọc. Ông có một tủ sách lớn, sách mua từ bên Tây về. Mượn sách về phải rọc sách mà đọc. Điều đó cho thấy cha Luận có nhiều sách nhưng lại ít đọc.

    Chuyện nầy cũng khá buồn cười. Năm bà Hà học Đệ Nhứt gì đó, một buổi sáng, bà Hà không đi học. Bà đau bụng! Mấy người bạn cả trai lẫn gái rủ nhau đạp xe lên ga xe lửa Huế, thăm bả vì bả thuê nhà ở trên ấy. Vô tới nhà, hỏi thì bà nói đã đỡ đau nhiều, nhờ hồi khuya có gọi điện thoại cho cha, cha đã lên thăm và có xức dầu cho bà rồi.

    Cha xức dầu cho bà Hà đau bụng, xức ở đâu? “Nhứt quỉ, nhì ma, thứ ba học trò”, dĩ nhiên là chúng tôi có rất nhiều “lời bàn Mao Tôn Cương” và tiếng cười vì việc xức dầu ấy!

    Giữa năm 1974, tôi đang ở Hà Tiên, nhân viên của tôi đi học ở Cần Thơ, không biết sao lại gặp Trần Quang Quy. Biết tôi ở Hà Tiên, Quy theo họ về tôi chơi, ở lại một đêm. Sáng hôm sau, tôi xin máy may trực thăng bên Biệt Khu 44 cho Quy quá giang về Cần Thơ. Khi ấy, Quy mang “loon” Trung úy, đang phục vụ tại Cần Thơ.

    Bữa đó, ăn cơm xong, tôi bảo lính xếp hai cái giường bố trong văn phòng của tôi để chúng tôi nằm bên nhau nói chuyện chơi. Tôi lại tò mò hỏi Quy về vụ Hà-Lãng-Hổ mà báo chí đã đăng tùm lum, khi tôi còn ở Saigon. Lúc nầy, hình như bà Hà làm chủ thẩm mỹ viện Như Hà trên đường Phan Thanh Giản, Saigon.
    Quy kể:
    “Bà Hà có cái xe Fiat trắng, đẹp lắm; ngày ngày đưa đón con đi học ở Taberd. Thiếu Tá Đinh Viết Lãng cũng có một chiếc Fiat giống y chang vậy, cũng đưa đón con đi học mỗi ngày như bà Hà. Để ý xe ai giống xe mình, rồi để ý đến người lái xe, mối tình ngang trái bắt đầu, rồi làm thơ gởi qua gởi lại cho nhau. Chuyện lãng mạn của những người còn trẻ, giàu có, tư sản.

    Khi câu chuyện tình bể ra, muốn giàn xếp cho yên, cha Luận can thiệp.

    Cha yêu cầu Bộ Tổng Tham Mưu đổi Thiếu Tá Lãng về Cần Thơ, để hai người xa nhau, không có cơ hội gặp gỡ.
    “Vậy mà rồi hai người cũng cứ lén lút gặp nhau. Thiếu Tá Hổ theo dõi, bắt gặp hai người đưa nhau đi chơi trên xa lộ Saigon - Biên Hòa. Hổ chận xe bắn chết Thiếu Tá Lãng, đạn lạc, chết luôn cả cậu em Như Hà ngồi ở băng sau.”

    Hỏi về chuyện bà Hà mở thẩm Mỹ viện, Quy cho biết bà Hà đi học thẩm mỹ ở Nhật, cũng do cha Luận giúp đỡ.
    Ông Tụng lại kể chuyện vụ án Hà-Lãng-Hổ với tôi. Tôi hỏi:
    – “Giết chết hai mạng người, một cố sát, một ngộ sát mà chỉ bị án treo. Khó hiểu không?”
    – “Nói chung thì tội cho bà Lãng và mấy đứa con. Thiệt thòi nhất.” Ông Tụng nói.
    – “Bà không khiếu nại gì hết trơn?” Tôi hỏi.
    – “Họ giàn xếp.” Ông Tụng giải thích. “Bà Như Hà cam kết chăm sóc nuôi nấng các con của bà Lãng cho đến khi khôn lớn.”
    – “Tình trạng như bây giờ, ai ở ai đi! Bà Hà còn giữ lời cam kết không?” Tôi hỏi.
    – “Tôi cũng không rõ!” Ông Tụng nói.

    Nhớ cha Luận là cha nuôi bà Hà, tôi hỏi:
    – “Có ai giàn xếp vụ nầy không? Cha Luận có can thiệp gì không?”
    – “Như Hà không khai được một lời, chỉ ngồi khóc. Mọi việc cha lo liệu hết.” Ông Tụng giải thích.
    – “Khai như thế nào mà chỉ bị tù treo. Tui không hiểu được.” Tôi nói.

    Ông Tụng giải thích:
    – “Trong lời khai ghi như thế nầy”. Ông Tụng kể lại: “Khi thiếu tá Hổ chận xe lại, chỉ rút súng ra là để hăm dọa và tự vệ vì thiếu tá Lãng cũng có mang súng. Thiếu tá Hổ hỏi thiếu tá Lãng: “Tại sao mày ngoại tình với vợ tao?” Lãng nói: “Tao ngoại tình với vợ mày. Mày không thấy xấu hổ sao mà còn hỏi…” Đó là câu nói khiêu khích của Lãng làm cho Hổ nóng lên, mất bình tỉnh, nên nổ súng bừa.”
    – “Ai làm chứng? Bà Hà làm chứng, ông Hổ khai, cũng như không!” Tôi nói.

    Nghe câu đó, ông Tụng chỉ cười. Một chốc, ông Tụng nói: “Tướng bà Hà là dâm lắm.” Tôi cũng làm thinh, nhớ hồi đi học, bọn học trò chúng tôi được ông Lê Hữu Mục cho chia phe cải nhau “Kiều đa tình hay đa dâm, hay cả đa dâm đa tình?” Chúng tôi cải nhau dữ dội, chẳng đâu ra đâu!

    Một lúc sau, tôi nói với ông Tụng: “Xã hội nào cũng có hai giai cấp chính. Giai cấp bị trị và giai cấp thống trị. Người Tây có nói: “giai cấp thống trị là giai cấp thượng lưu.” Họ cấu kết với nhau để bảo vệ quyền lợi của họ.”

    Ông Tụng hỏi:
    – “Theo anh nghĩ, “cách mạng” nói họ xây dựng một xã hội không có giai cấp. Họ có làm được không?”
    Tôi nhìn ông Tụng, nói nhỏ: “Đừng nghe những gì…” rồi tôi cười, không nói tiếp nữa. Dĩ nhiên ông ta nhớ hết cả câu và biết rõ ai nói lên cái chân lý đó.

    &&&&&

    Từ đó về sau, mỗi chiều, nói chuyện với nhau, chúng tôi không nói chuyện Hà-Lãng-Hổ nữa. Hà-Lãng-Hổ là tên vụ án do bao chí hồi đó đặt ra.

    Chúng tôi trở lại việc chơi tem. Tôi hỏi ông Tụng:
    – “Bác Tụng! Bác có tin sấm không? Sấm Trạng Trình!”
    – “Cũng có, nhưng không tin lắm.” Ông Tụng trả lời.
    – “Tôi nói bác đừng phiền tôi. Bác có đạo, tin Chúa, tin Kinh Thánh. Tôi nghĩ, kinh Thánh, cũng như sấm, nhiều khi nói sai, hoặc tam sao thất bổn. Có khi các đệ tử của Chúa giảng kinh Thánh sao cho có lợi cho bản thân họ, chứ không cần có đúng kinh Thánh hay không! Hình như kinh Thánh nói năm hai ngàn tận thế. Ba mươi tháng Tư là coi như miền Nam tận thế trước thiên hạ.” Tôi nói.

    Ông Tụng cười:
    – “Anh nói buồn cười thật. Sấm truyền không thể so với kinh Thánh, thứ hai, Ba mươi tháng Tư mà tận thế sao?”
    – “Kinh Thánh, sấm Trạng Trình, sấm giảng của ông Huỳnh Phú Sồ, ai tin cái nào thì cho cái đó đúng hơn, cao hơn, đó là thường tình. Còn với những người bị bắt đi cải tạo, gia đình ly tán, phiêu lạc, trời có sập, có tận thế cũng tới đó là cùng.”

    Không trả lời tôi, ông Tụng chỉ cười.
    Tôi lại hỏi:
    – “Bác có con tem bà Nam Phương không?”
    – “Tôi có những mấy con. Bà đội khăn vàng, khăn hoàng hậu.” Ông Tụng nói.

    Tôi cười:
    – “Hồi xưa chỉ có Hoàng hậu, Hoàng thái hậu mới đội khăn vàng. Bây giờ mấy cô dâu Huế cô nào cũng đội khăn vàng. Vợ tui, khi đám cưới cũng vậy. Bà nào cũng muốn làm hoàng hậu.” Rồi tôi nói đùa: “Vợ tui là hoàng hậu của tui.”

    Tôi nhớ có đọc một bài viết của ông Đoàn Thêm, kể chuyện khi ông Bảo Đại bên Pháp về, ra thăm Hà Nội, kiều nữ Hà Thành nhiều người nhắm ngôi hoàng hậu, nhưng sau đó, ông cưới bà Nguyễn Hữu Thị Lan. Tôi thuật lại câu chuyện đó với ông Tụng.
    Ông Tụng nói:
    – “Con gái Hà Nội đẹp lắm, đẹp hơn bà Nam Phương nhiều, vậy mà chẳng cô nào lọt mắt Hoàng đế.”

    Tôi nói:
    – “Tôi không nghĩ ông Bảo Đại yêu bà Nguyễn Hữu Thị Lan mà cưới. Ông ta háo sắc mà bà Nam Phương thì không đẹp. Bà có duyên nhưng hai mắt nhỏ quá, phá tướng. Người thương thì gọi lá “mắt phượng”; người ghét thì cho là “mắt ti hí” Bác nghĩ phải không?”
    – “Vậy tại sao ông Bảo Đại cưới bà?”
    – “Chính trị. Chính trị mà.” Tôi nói. “Đám cưới nầy là do ông Charles (3) dàn dựng. Ông ta có công dạy dỗ ông Bảo Đại, lo vợ, lo con. Dĩ nhiên, công việc của ông Charles là một công tác đặc biệt, được Thực dân Pháp giao phó, nhắm vào quyền lợi nước Đại Pháp (4), đâu phải vì quyền lợi của người Việt Nam.”
    – “Bà Nam Phương lấy ông Bảo Đại thì nước Pháp được lợi gì?” Ông Tụng hỏi.
    – “Trói ông Bảo Đại lại. “Sắc bất ba đào dị nịch nhân.” (5) Người Huế có tinh thần yêu nước, ai không biết như thế! Sau khi ông Bảo Đại cưới vợ thì ông “nằm im”, chỉ chăm việc nhảy đầm, săn bắn, vui chơi. “Năm cụ khi không rớt cái ình” (6) xong rồi thì ông Bảo Đại rớt theo.” Tôi nói.

    Ông Tụng hỏi:
    – “Anh nói “năm cụ khi không rớt cái ình” là chuyện gì?”
    – “Là năm ông thượng thư già bị ông Bảo Đại cho về hưu, lập một nội các mới, nhiều người trẻ. Trong số, trẻ nhứt là ông Ngô Đình Diệm, mới 32 tuổi.”
    – “Thế rồi tại sao ông Diệm xin từ quan?”
    – “Vì nội các mới đặt vấn đề với Tây, yêu cầu thi hành đứng đắn các hiệp ước đã ký với triều đình An-Nam. Ông Bảo Đại còn trẻ, tinh thần còn hăng, muốn đem cái sở học từ bên Tây về để canh tân nước nhà cho kịp đà tiến hóa với năm châu. Tụi thực dân Pháp ngửi thấy mùi “phản động” đó, triệt tiêu ngay bằng một “mụ” đàn bà.” Tôi giải thích.

    Một lúc, tôi nói tiếp:
    – “Tui nhớ hồi tui chưa đi học, đã nghe bài hát:

    "Dậy, dậy, dậy mở mắt xem toàn châu
    Đèn khai hóa rọi khắp toàn cầu
    Ngọn đường thông thương ngàn dặm
    Xe tàu điện, tàu nước, tàu bay…"
    Lời ca thật ngô nghê…”


    – “Chưa đi học mà nhớ tới giờ cũng hay đấy!” Ông Tụng vừa cười vừa nói.

    Phấn chấn vì lời khen của ông Tụng, tôi nói tiếp:
    – “Tôi còn nhớ một bài nữa “Kìa, núi vàng bể bạc, có sách trời, sách trời định phận. Một dòng ta gầy non sông vững chặt…” chỉ nhớ chừng đó, đoạn sau tôi quên mất. “Sách Trời Định” là “Tiệt nhiên định phận tại thiên thư” của Lý Thường Kiệt đấy.”

    Ông Tụng nói:
    – “Bài anh hát là bài “Đăng Đàn Cung” là bài dùng để rước vua.”
    – “Tôi không biết, nhưng hồi Tây, sau bài Marseillaise thì học trò hát bài nầy. Tôi cứ tưởng là bài quốc ca nhà Nguyễn.”
    – “Cũng có thể đấy. Tôi học trường Tây nên khi chào cờ chỉ hát Marseillaise mà thôi. Sau đó hát bài “Maréchal! Nous voila! Devant toi, le sauver…” Ông Tụng nói.

    Một lúc, tôi lại hỏi ông:
    – “Bác có biết những bài kêu gọi Đông du, Duy tân như “Á tế Á”, “Hải ngoại huyết thư”, “Lưu cầu huyết lệ tân thư” của cụ Phan Bội Châu không?”
    – “Tôi chỉ biết sơ thôi, tôi có đọc sử.” Ông Tụng trả lời.

    Tôi đọc:
    “Phen nầy cắt tóc đi tu,
    Tụng kinh Độc lập ở chùa Duy Tân.
    Đến ngày khấn vái ân cần,
    Cầu cho ích quốc, lợi dân mới là,
    Tu sao cho mở trí dân nhà,
    Tu sao độ được nước ta phú cường.”


    Hồi ấy, tôi cứ thắc mắc, không biết chùa Duy Tân nằm ở đâu?”
    Cả ông ta với tôi đều cười.

    Một lúc ông Tụng than:
    – “Coi như ông Diệm là “đồng chí” với ông Bảo Đại. Vì vậy mà ông bị kẹt.”
    – “Còn nữa bác. Ông Bảo Đại lập “Ủy ban Cải cách”, cử ông Diệm làm thư ký hay tổng lý gì đó, đại khái là một cái chức gì đó, tôi không nhớ, chỉ dưới quyền ông Bảo Đại mà thôi. Ông Bảo Đại muốn cải cách cái gì? Tây nó coi đó như là sự chống đối. Vậy thì phải trói tay ông ta lại chớ. Ông Diệm không từ chức cũng không được. Đó chỉ là một cách nói. Ông Diệm đi rồi, còn lại toàn là một đám người dễ bảo. Cưới cho ông Bảo Đại một bà vợ, với một triệu đồng tiền Đông Dương làm hồi môn. Thế là xong. Có bài bản cả đấy. Thành ra, tôi cho rằng ai bôi lọ ông Diệm, cho rằng vì tranh chức thượng thư không lại với Phạm Quỳnh mà xin từ chức là xuyên tạc lịch sử.”
    – “Lâu lâu nghe anh nói chuyện lịch sử triều đình Huế cũng hay. Theo anh thì bà Nam Phương là người như thế nào?” Ông Tụng hỏi tiếp.
    – “Nầy, bác coi nhé. Học trường đạo nầy, du học bên Tây nầy, dòng dõi “Huyện Sĩ theo Tây Đại Việt Gian nầy”, “dân Tây” nầy, quê “Nam Kỳ thuộc địa” nầy. Bác biết quan trọng nhứt là điều gì không?” Tôi nói.
    – “Điều gì?” Ông Tụng hỏi.
    – “Đạo Thiên Chúa. Với một con người như bà ấy, bà đặt quyền lợi giáo hội La Mã lên trên quyền lợi dân tộc Việt Nam. Bà “dân Tây”, “Nam kỳ thuộc địa”, đâu có thuộc “nước An-Nam”. Đưa tôn giáo vào chính trị là vậy. Nước ta, đưa thần quyền vào thế quyền là chủ trương của giáo hội La Mã khi họ bắt tay với bọn thực dân xâm lăng, cai trị nước ta. Đến khi bà Nam Phương lên ngôi hoàng hậu, lúc ấy, từ trung ương đến địa phương, thế lực giáo hội đã quá rõ ràng. Vì vậy, ở nước ta, quyền lợi thực dân Pháp liên kết chặt chẽ với quyền lợi của giáo hội.” Tôi nói, một hơi.

    Giọng ông Tụng vẫn từ tốn:
    – “Theo tôi, anh nghĩ hơi xa rồi đấy!”
    – “Có thể bác không đồng ý với tôi, cũng là điều thường tình. Nhưng kính mến bác nên tôi nói thẳng và nói thật những gì tôi suy nghĩ từ trước tới nay./

    hoànglonghải

    (1) Câu sấm là:
    Bao giờ cỏ mọc trên chì,
    Voi bò trên giấy đi đời thầy tăng!


    (2) Câu tục mấy ông lính tráng thường chọc mấy “o” là “Đè đầu hôm tới sáng.”

    (3) "Jean Eugène Charles" nguyên Khâm Sứ Trung Kỳ, Toàn quyền Đông dương tạm thời 1916-1917. “Bạn” của vua Khải Định, thay mặt nhà vua chăm sóc việc học hành cho Bảo Đại khi ông nầy du học ở Pháp. Sau khi ông Bảo Đại thôi học trở về Huế, ông Charles cũng qua Việt Nam, tiếp tục “chăm sóc” cho nhà vua, “sắp đặt” việc vợ con cho vua.

    (4) “Nước Đại Pháp”, ấy là cách nói “nịnh” nước Pháp, cũng giống như sau nầy, chế độ Cộng Sản Hà Nội gọi “Trung quốc Vĩ đại” hay “Liên xô Vĩ đại” vậy.

    (5) Nguyễn Giản Thanh, thường được gọi là Trạng Me; 1482–?) là trạng nguyên khoa thi Đoan Khánh năm thứ tư (1508), đời vua Lê Uy Mục, người làng Ông Mặc (tục gọi là làng Me) huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh.

    Ông làm quan đến chức Hàn lâm viện Thị thư kiêm Đông các Đại học sĩ. Sau đó, lại ra làm quan với nhà Mạc, được cử đi sứ sang Trung Hoa để cầu phong cho Mạc Đăng Dung. Khi trở về, ông được thăng Thượng Thư Bộ Lễ kiêm Hàn lâm viện Thị độc, Chưởng viện sự, khi mất được tặng tước Hầu.

    Lúc Nguyễn Giản Thanh còn đi học, thầy học là Đàm Thuận Huy, thấy học trò sắp ra về thì trời đổ mưa to, học trò không về được, thầy bèn ra vế đối để thử tài học trò:
    “Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách” (Mưa không có then khóa mà có thể giữ được khách).

    Nguyễn Giản Thanh liền đối lại là:
    "Sắc bất ba đào dị nịch nhân" (Sắc đẹp của người đàn bà, không phải là sóng, nhưng dễ nhận chìm người).

    Thầy Đàm Thuận Huy nói:
    Câu đối này thật hay và thật chỉnh, văn khí này có thể đậu Trạng nguyên, nhưng về sau coi chừng việc sắc dục làm hại sự nghiệp.

    Tương truyền, Nguyễn Giản Thanh chỉ đậu bảng nhãn còn Hứa Tam Tỉnh(làng Ngọt) đậu trạng nguyên. Trong buổi lễ ra mắt vua, các tân khoa phải làm một bài phú dâng tặng vua và Hoàng thái Hậu (mẹ của vua). Hoàng thái hậu thấy Hứa Tam Tỉnh dung mạo xấu xí thì không ưng lắm, trong khi đó Nguyễn Giản Thanh khuôn mặt khôi ngô thanh tú nên bà muốn ông làm trạng nguyên. Vua vì muốn chiều lòng mẹ nên đánh giá bài phú của Nguyễn Giản Thanh cao hơn và trao danh hiệu trạng nguyên cho ông. Do đó dân gian có câu “Trạng Me đè trạng Ngọt”.

    (6) Toàn bộ bài thơ nầy, theo một người bà con, chị là con gái cụ cử Hoàng Đức Cự, bạn đồng song với ông Tuần Chi (Nguyễn Đình Chi – chồng bà Tuần Chi, thường gọi là bà Tùng Chi, xưa là hiệu trường Đồng Khánh, mẹ vợ tướng Trần Văn Trung) đọc cho tôi chép lại như sau:
    Năm cụ khi không rớt cái ình
    Đất bằng sống dậy chốn thần kinh
    Bài không đeo nữa xin dâng lại
    Đàn chẳng ai nghe, khéo dở hình
    Liệu thế không xong, binh chẳng được.
    Liêm đành giữ tiếng, lễ đừng rinh
    Công danh như rứa là hậu hỉ
    Đại sự xin nhường kẻ hậu sinh.


    Trong “Thuyền ai trước bến Văn Lâu” của giáo sư Nguyễn Lý Tưởng”, chép lại theo “Hương Bình Thi Tập” của cụ Hoàng Trọng Thược, có khác vài chữ như sau:

    Câu 2: Đất bằng sóng dậy đất Thần Kinh
    Câu 7: Công danh thôi thế là hưu hỉ
    Câu 8: Đại sự xin nhường lũ hậu sinh

    Cũng trong sách nói trên, tác giả chép lại theo “Giai Thoại Làng Nho” của Lãng Nhân Phùng Tất Đắc như sau:

    Năm trụ khi không ngã cái ình
    Đất bằng một tiếng thảy đều kinh
    Bài không đeo nữa xin dâng lại
    Đàn nọ ai nghe, khéo dở hình
    Liệu thế không xong, binh chẳng được
    Liêm đành giữ tiếng, lễ đừng rinh
    Công danh như thế là hưu hỉ
    Đại sự xin nhường lũ hậu sinh.


    Năm cụ, tiếng Huế thường dùng để gọi các quan, những người lớn tuổi như cụ Ngô, cụ Hồ (năm 1945, 46), cụ Huỳnh, cụ Phan, v.v… là 5 ông thượng thư tại chức khi vua Bảo Đại còn ở bên Pháp.

    Năm cụ rớt chức Thượng Thư gồm có:
    Câu 3: Nguyễn Hữu Bài, rớt chức Thượng Thư Bộ Lại
    4: Tôn Thất Đàn, Thượng Thư Bộ Hình
    5: Phạm Liệu, Thượng Thư Bộ Binh
    6: Võ Liêm, Thượng Thư bộ Lễ
    7: Vương Tứ Đại, Thượng Thư Bộ Công.

    Con cháu ông Nguyễn Hữu Bài, tước Quận Công, bây giờ còn ai, tôi không biết, nhưng các ông như Giáo sư Tôn Thất Thiện, Phạm Biểu Tâm, Võ Văn Hải, là con cháu các cụ Thượng Thư ở Huế, tôi không rõ có quan hệ giữa các ông nói trên với các cụ “rớt cái ình” như thế nào!

    Năm trụ: là 5 cột trụ của triều đình.


Hội Quán Phi Dũng ©
Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




website hit counter

Working...
X