Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Tôi Đi Lính

Collapse
X

Tôi Đi Lính

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Tôi Đi Lính

    Tôi Đi Lính


    Nguyễn Đức Nam


    1) Về Trường Quân Cụ.

    Vì cứ tưởng mình là sinh viên thuần túy thì sẽ được tiếp tục học hết đại học, không cần phải làm đơn xin hoãn dịch, tôi được gọi nhập ngũ khoá 21 TB Thủ Ðức, vào mùa Hè 1965. Nếu tôi nhớ không lầm thì đó là thờì gian tôi đang “trọ học” trong chùa Văn Thánh ở Thị Nghè để học thi năm cuối cùng của Ðại Học Văn Khoa Sài Gòn.

    Sở dĩ tôi xin vào chùa ở vì cần một nơi yên tĩnh để học, để trốn người yêu, trốn bạn bè hay rủ đi chơi và để học thêm chữ Hán với Thầy Tuệ Ðăng.

    Khi nghe tin tôi “đi lính”, Thầy Tuệ Ðăng rất buồn vì thầy có một học trò, tên là Ngô Trạc, trước cũng ở trong chùa, được gọi nhập ngũ vào Thủ Đức, đã tình nguyện vào Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt khóa 19. Thiếu Úy Trạc đã tử trận trong một trận chiến khốc liệt ở cao nguyên. Mấy chú tiểu thì sụt sịt khóc khi biết tin tôi vào Trường Bộ Binh Thủ Đức.

    Nhưng gia đình tôi lại vui vì biết là tôi vào nhà binh thì sẽ không còn sống một cuộc đời làm-văn-nghệ-văn-gừng lang thang, phóng khoáng nữa mà sẽ phải vào khuôn phép, kỷ luật. Tuy nói vậy nhưng các anh chị, các em tôi lần đầu tiên vào thăm tôi ở Trường Bộ Binh, thấy tóc tôi ngắn ngủn, thấy da sạm nắng, thấy thân xác tôi ốm nhom trong bộ quần áo nhà binh rộng thùng thình (vì chưa sửa) thì khóc sướt mướt. Trước mắt gia đình tôi, Thủy - người yêu Gia Long của tôi - không khóc thành tiếng nhưng nước mắt rưng rưng, sẵn sàng lăn xuống đôi má hồng.

    Nhưng rồi thời gian thụ huấn trong quân trường trôi qua rất nhanh và không cực khổ như gia đình tôi tưởng. Tôi rất vui vì được gặp những ngươì bạn mới từ bốn phương trời về đây. Tôi rất vui vì được quen rất nhiều họa sĩ, văn sĩ, nhạc sĩ, giáo sư… nổi tiếng của nước Việt Nam.

    Giai đoạn I chấm dứt khi tôi bắt đầu có những bạn thân. Ðêm cuối cùng xếp hàng ở Vũ Ðình Trường nghe đọc tên những người được chọn đi ngành chuyên môn thật là hồi hộp và cũng thật là buồn vì biết là ngày mai mình sẽ không còn gặp bạn mình và có thể sẽ vĩnh viễn không còn gặp nhau nữa.

    Tôi được chọn về ngành Quân Cụ, thật là một may mắn bất ngờ vì tôi tưởng mình sẽ được về ngành Tâm Lý Chiến hoặc Trường Sinh Ngữ Quân Ðội. Lý do: tôi có rất nhiều bạn văn nghệ đang phục vụ tại Cục Tâm Lý Chiến, Ðài Phát Thanh Quân Ðội và Má của Thủy - người yêu của tôi - đang làm Giảng Viên tại Trường Sinh Ngữ QÐ muốn tôi về Trường, trau dồi ngọai ngữ để có dịp xuất ngoại học hỏi thêm.

    ***

    Nhà tôi ở Ngã Tư Phú Nhuận, trong cư xá Chu Mạnh Trinh nên đến Trường Quân Cụ ở Hạnh Thông Tây cũng không xa lắm. Ngày đầu tiên về trình diện Trường Quân Cụ tôi cứ tưởng mình về một nơi khá quen thuộc. Bên kia là Thành Cổ Loa. Bên này là Lục Quân Công Xưởng. Ði vòng vòng phía ngoài Trường và Lục Quân Công Xưởng là những quán giải khát của chị Tình, chị Năm… mà dường như thiên hạ vào đó không phải vì khát nước.

    Các Sĩ Quan trong Trường đón tiếp chúng tôi thật niềm nở, thân thiện. Ngay sau buổỉ hướng dẫn nhập học, tôi đã được Trung Uý Lợi thuộc Phòng Chiến Tranh Chính Trị cho một số công tác văn nghệ, báo chí, ca nhạc. (Ðây là “nghề của chàng” nên tôi rất lấy làm hãnh diện).

    Khoá chúng tôi gồm có bốn lớp: Quân Xa, Vũ Khí, Ðạn Dược, Kế Toán và Tiếp Liệu.

    Tôi được xếp vào lớp Tiếp Liệu, được học những phiếu Kế Toán, học cách xin tiếp liệu, cách tồn kho, lưu trữ, phiếu số 7, phương thức “một đổi một”, tên những cơ phận tiếp liệu bằng tiếng Mỹ…

    Ngoài ra, cũng phải học thêm một số giờ căn-bản về Quân Xa, Vũ Khí, Ðạn Dược. Phần lớn phần lý thuyết được giảng dậy tại Trường nhưng phần thực hành thường được học tại Lục Quân Công Xưởng. Ngày ngày xếp hàng ắc-ê, đi đi về về, hát vang vang những hành khúc “đường trường xa con chó nó tha con mèo” thấy đời Sinh Viên Sĩ Quan quá là vui.

    Nhờ vậy mà thời gian tại Trường Quân Cụ trôi qua còn nhanh hơn giai đoạn 1 trong Trường Bộ Binh Thủ Ðức. Rồi Lễ Mãn Khóa. Rồi chọn đơn-vị phục-vụ. Rồi mỗi người đi một ngả, một vùng Chiến Thuật, như những con chim rời tổ, bay đi bốn phương trời.

    Vùng trời của tôi là vùng trời Ðà-Lạt, là thành phồ sương mù, là những đồi thông xanh, những hò hẹn của tuổi trẻ, những đêm vui, những rung động đã làm cho tôi hứng khởi để viết lên Những Tình Khúc Một Ðời Nhớ Thương.

    Nhưng những năm Ðà-Lạt an-bình không còn nữa. Chiến tranh đã tràn đến thành phố sương mù. Chiến tranh thảm khốc đã phá tan nét nên thơ của Ðà-Lạt. Cấm trại 24 trên 24. Những trận đánh trong dịp Tết Mậu Thân. Tang thương, đổ nát. Chiến tranh cướp mất một người bạn thân, một người anh đáng kính: Trung Uý Nguyễn Ðình Quý, khoá 17 Quân Xa-Quân Cụ đã hy sinh trong lúc chống cự với địch quân, bảo vệ đơn vị Đại Ðội 851 YTTT-QC.

    Tôi xin thuyên chuyển, không phải vì sợ chết nhưng không muốn nhìn lại hình ảnh anh Quý nằm chết bên ngòai hầm Truyền Tin, trong những đêm đi tuần.

    Vì có một thời gian đi dậy học, tôi được thuyên chuyển về Trường Quân Cụ vào năm 1971, làm Huấn Luyện Viên.

    Từ một SVSQ năm 1965, Chuẩn úy năm 1966, tôi về trường với cấp bậc Trung Uý, đảm nhiệm chức vụ Trưởng Khoa Kế-Toán & Tiếp Liệu, được làm việc với Chỉ Huy Trưởng Ðại Tá Kiệt, Chỉ Huy Phó Trung Tá Khải, các Sĩ Quan trong Khối Huấn Luyện: Thiếu Tá Quảng, Thiếu Tá Trí, Ðại Úy Thanh, Trung Uý Lâm, Trung Uý Phương, Trung Uý Thắng, Trung Uý Kịch, Trung Uý Hiến ...

    Vui nhất là những đêm đi kích với Trung Uý Lâm, (sau này dường như đổi sang ngành Quân Cụ yểm trợ Thủy Quân Lục Chiến ?).

    Về Trường Quân Cụ được khoảng 2 năm, tôi được thăng cấp Đại úy và được gửi sang Trường Sinh Ngữ Quân Ðội học thêm Anh Văn để đi tu nghiệp tại Trường Quân Cụ Aberdeen Proving Ground thuộc tiểu bang Maryland vào năm 1974. Sau tháng 4, 1975 tôi được gửi xuống Fort Chaffee, thuộc Tiểu bang Arkansas, làm “Cố Vấn” cho Quân đội Hoa Kỳ trong vấn đề tiếp đón, định cư người Việt Tị Nạn.

    Tôi có thể ở lại, phục vụ cho Quân đội Mỹ, theo lời khuyên của các Sĩ quan Hoa Kỳ nhưng tôi đã xin ra khỏi trại, theo học môn Quản Trị Khách Sạn và làm cho các công ty Hyatt, Renaissance, Marriott, Hilton cho đến nay.

    Việc làm chính thức đầu tiên của tôi trong khách sạn là Hotel Manager nhưng sau này, tôi xin chuyển sang công việc Kế Toán & Tài Chánh. Công ty Hyatt đã trả tiền học cho tôi trong nhiều năm để tôi có thể trau dồi thêm, cải tiến nghề nghiệp của mình. Hiện thời tôi vẫn còn làm full time cho công ty Hilton.

    Trong tất cả các trường tôi được theo học, phải nói là Trường Quân Cụ mới là trường cho tôi cái căn bản nghề nghiệp - Trưởng Khoa Kế Toán & Tiếp Liệu - nhờ đó mà tôi có một ý thức, một khái niệm, một con đường để đi theo, để hướng tới tương lai và sự thành công hôm nay.

    Xin cám ơn các Ân Nhân trong ngành Quân Cụ của tôi. Xin cám ơn các Huấn Luyện Viên của Trường Quân Cụ VNCH và Hoa Kỳ. Xin đặc biệt cám ơn Ðại Tá Thông, cục phó Cục Quân Cụ và tổng cục phó Tổng Cục Quân Huấn, đã cho tôi những lơì khuyên nhủ quý báu trong lần chúng tôi đến Tổng Cục Quân Huấn để chào tạm biệt trước khi lên đường du học: “Chịu khó học hỏi những vũ khí, chiến cụ mới để về nước huấn luyện cho các đàn em. Chính phủ Mỹ sẽ cắt viện trợ nay mai, khóa học này có lẽ là khóa học cuối cùng đấy…”

    2) Hát Cho Người Tị Nạn.

    Aberdeen Proving Ground, MD. 3/24/1975 :

    Tối 23 tháng 3 năm 1975, tôi đang ở nhà một người bạn thuộc quận Arlington,Virginia thì nhận được điện thoại của Đại Úy Hick từ Văn Phòng Trung Tướng Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Aberdeen Proving Ground, gọi về trình-diện ngay lập tức.

    Tôi về đến trường vào lúc 2 giờ sáng ngày 3/24/-1975. Cùng với 5 sĩ quan khác, tôi nhận được Sự Vụ Lệnh đi công tác ở Fort Chaffee, tiểu bang Arkansas và phải lên đường ngay tức khắc. Trong Sự Vụ Lệnh không ghi rõ công tác kéo dài bao lâu, chỉ cho biết là các sĩ quan vẫn được trả lương như khi còn đang thụ huấn.

    Xe bus của Bộ Binh Hoa Kỳ đưa chúng tôi ra phi trường Baltimore, đáp chuyến bay 455 của hãng Frontier - một hãng máy bay nhỏ, được thuê riêng cho Quân nhân và gia đình - đến St. Louis, Missouri rồi từ đây, bay đến Fort Chaffee, Arkansas vào lúc 20:36.

    Theo lời người Sĩ Quan Hướng Dẫn thì Fort Chaffee là Trung Tâm Huấn Luyện Vệ Binh Quốc-Gia (National Guard) của Hoa Kỳ, lớn như một thành phố và có thể cung ứng chỗ ở cho hơn hai chục ngàn người. Hiện nay, trung tâm này hoàn toàn bỏ trống, để chính phủ liên bang dùng cho một chương trình đặc biệt nào đó, đang còn được giữ kín.

    Vì trời tối, chúng tôi không thấy nhiều, chỉ thấy những doanh trại ngang dọc, trống trải, như những trại lính đã bỏ hoang từ lâu. Vả lại, phải dậy từ sáng sớm nên giờ này, chúng tôi đã thấy mệt, không quan tâm nhiều đến ngoại cảnh, cũng như những lời người Sĩ Quan Hướng Dẫn vừa nói.

    Chúng tôi được đưa đến một khu nhà xây cất khang-trang, có bảng chữ “BOQ” (Bachelor Officer Quarter: Cư Xá Sĩ Quan Ðộc Thân). Mỗi người trong chúng tôi có một phòng riêng, có bếp, có phòng tắm, có TV, có tủ lạnh, có điện thoại, rất tiện nghi. Tuy nhiên, sau khi tắm rửa, chúng tôi mở TV để xem tin tức bên nhà, mới biết tất cả TV đều không có hình ảnh. Chúng tôi thử điện thoại và giật mình khi biết đường giây điện thoại chưa được nối với tổng đài. Tất cả những khu nhà kế cận đều vắng tanh. Người Sĩ Quan Hướng Dẫn đã đi từ lâu. Chúng tôi quyết định đi ngủ sớm, sáng mai lên Văn Phòng trình diện, sẽ hỏi về vấn đề TV và điện thoại.

    Fort Chaffee, Ark. 3/25/1975 :

    Việc đầu tiên chúng tôi phải làm ngay sáng nay là lên Văn Phòng Bộ Chỉ Huy Lực Lượng Đặc Biệt tại Fort Chaffee để trình diện. Ðại Úy Tân là sĩ quan cao tuổi nhất được chúng tôi đề cử làm Trưởng Toán để trình Sự Vụ Lệnh cũng như để liên lạc với Thiếu Tá Miller, trưởng khối Khối Ðiều Hành. Sau khi làm đầy đủ thủ tục, chúng tôi được mời sang phòng họp. Tại đây, chúng tôi được Thiếu Tá Miller cho biết chúng tôi được Trung Tâm Huấn Luyện Quân Cụ Hoa Kỳ Aberdeen Proving Ground biệt phái xuống Arkansas, phục vụ cho Trung Ðoàn 96 Dân Sự Vụ, trong một công tác đặc biệt và tối mật. Vì lý do đó, chúng tôi sẽ không được liên lạc với bên ngoài, không có báo đọc, không được dùng điện thoại, không được xem TV, không được gửi thư cho bất cứ ai.

    Chúng tôi có nhiệm vụ dậy những người đầu bếp của Quân đội Mỹ cách nấu cơm và thức ăn Việt Nam. Chúng tôi có nhiệm vụ huấn luyện một số Sĩ quan và Hạ sĩ quan Hoa Kỳ viết và đọc tiếng Việt. Dĩ nhiên là những đối thoại thông thường và đặc biệt là phải nhấn mạnh đến phong tục, tập quán, cách xưng hô phức tạp của ngôi thứ trong gia đình, cũng như ngoài xã hội.

    Đại Úy Lư, Bắc Kỳ Di Cư 54, dân Hố Nai, là người nấu ăn rất giỏi, thường nấu Phở cho chúng tôi ăn ở Aberdeen, được chúng tôi đề cử dậy mấy anh Chef Cooks Hoa-Kỳ nấu cơm Ta. Đạ -Úy Tân, già nhất, người miền Trung, lúc nào cũng giảng “moral” như ông Giáo Già, cho làm Giảng Sư Công Dân Giáo Dục, dậy cho Mỹ những bài học Ðạo-Ðức thuộc loại “Quốc Văn Giáo Khoa Thư ”.

    Trung Úy Long, trẻ tuổi yêu đời, “đấu láo” không biết mệt, được đề cử dậy Mỹ “đàm thoại tiếng Việt”. Long thích lắm vì luôn luôn dậy Mỹ những “tiếng lóng”, làm chúng tôi cười đứt ruột.

    Tôi tưởng mình thoát nợ, có nghĩa là không phải dậy dỗ gì cả, ai dè, có một anh hạ sĩ quan Mỹ, không biết học tiếng Việt từ hồi nào mà đọc tiểu thuyết Việt Nam rất nhiều, chuyện nào cũng nhớ vanh vách, bây giờ lại muốn học nhạc Việt Nam mới phiền chứ!

    Muốn học nhạc thì phải có đàn, tôi bảo anh ta như vậy. Anh hạ sĩ tên Tom bèn dẫn tôi đến một Thrift Shop trong căn cứ, mua tặng tôi một cây guitar cũ, giá 20 đồng, tình trạng cũng khá tốt.Từ đó, sau bữa ăn tối, chúng tôi có màn “văn nghệ bỏ túi: Mỹ hát nhạc Việt” cũng đỡ buồn trong lúc xa nhà, xa gia đình, xa quê hương….

    Chúng tôi xuống Fort Chaffee đã gần một tuần. Thấy quân nhân Mỹ thuộc ngành Công Binh Kiến Tạo ngày đêm tu sửa doanh trại, chúng tôi nghĩ là sắp có khóa huấn luyện của hàng chục ngàn National Guards. Nhiều khi chúng tôi cũng thắc mắc không biết tại sao mình lại phải huấn luyện quân nhân Mỹ cách nấu cơm, cách trò truyện, phong tục, tập quán của người Việt Nam. Mỗi buổi tối, trước khi đi ngủ, chúng tôi hỏi Niên-Trưởng Phạm Văn Tân thì Niên Trưởng bảo rằng: “Các cậu đừng có nghĩ tầm bậy tầm bạ.Mỹ sẽ không bỏ mình đâu !”…

    Fort Smith, Ark. 4/30/1975 :

    Chúng tôi được lệnh ra phi trường Fort Smith từ tờ mờ sáng. Chúng tôi đi hai xe Jeep với khoảng 10 xe Bus của quân đội Mỹ chạy theo sau. Sau một tuần cấm trại, hôm nay là lần đầu tiên chúng tôi được thấy thành phố Fort Smith. Khi đoàn xe vừa ngừng, chúng tôi bước ngay đến mấy sạp báo. Hình ảnh đầu tiên mà chúng tôi thấy trên trang nhất là hình Thiết Giáp của VC tràn vào Dinh Độc Lập, phía trên là một hàng chữ lớn: “Tổng Thống VNCH Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng”.

    Tôi tưởng mình ngủ mê, nhưng cả một xấp báo đều có hình ảnh, có tựa đề như thế. Tôi cảm thấy lạnh run người. Ðầu óc tôi choáng váng, nhức nhối. Tôi nhìn các bạn đồng ngũ. Ðại Úy Tân, đại đội trưởng Đại Ðội 811 ở Ðà Nẵng nhưng vợ con còn ở Huế, thì mắt đỏ hoe. Ðại Úy Lư, thuộc Kho Ðạn Dược Long Bình, vợ con ở Biên Hòa, đang dán mắt vào tờ báo, khóc thành tiếng.

    Trung Úy Long, còn độc thân hàng ngày nói liếng thoắng, bay giờ im lặng, cúi đầu thở dài. Trung Úy Linh và Trung Úy Hùng, là hai Sĩ quan thuộc vùng 4 Chiến Thuật thì đang thì thầm với nhau : “Đ.m, buông súng sao được ! Tao nghĩ là Vùng 4 không đầu hàng, Vùng 4 sẽ là một chiến tuyến mới, sẽ là một chiến khu để quân ta kéo về cố thủ, chờ ngày phản công…”…

    Một chiếc máy may của hãng Pan Am vừa hạ cánh. Vì Fort Smith Airport là một phi trường nhỏ, phi cơ có thể chạy gần đến phòng đợi nên chúng tôi có thể bước thẳng đến phi cơ để chào đón những hành khách, những đồng bào ruột thịt, những người Việt Tị Nạn đầu tiên đặt chân lên đất Mỹ.

    Bây giờ chúng tôi mới biết rõ mục-đích của Quân Ðội Mỹ khi gửi chúng xuống Fort Chaffee để huấn luyện quân nhân Mỹ về cách sinh sống của người Việt Nam !

    Dù đang choáng váng vì tin “buông súng đầu hàng” kia, nhưng chúng tôi vẫn phải cố gắng làm bổn-phận chào mừng đồng bào và hướng dẫn đồng bào về Trại Tạm Trú Fort Chaffee.

    Trong khi đang trò truyện, thăm hỏi đồng bào, chúng tôi nghe được những lời nói mỉa mai trong đám đông :

    “Mẹ kiếp, Tướng tá còn phải tháo lon, tháo Quân phục bỏ chạy, Đại úy thì nhằm nhò gì mà còn đeo lon vớí lá …”

    Chiều hôm ấy, sau khi đã lo chỗ ở, chỗ ăn và cấp phát một số những vật dụng cần thiết cho khoảng trên 300 đồng bào, chúng tôi lên Văn Phòng Thiếu Tá Miller, xin được tháo bỏ cấp bậc sĩ quan VNCH trên quân-phục. Thiếu Tá Miller đồng ý và làm cho chúng tôi những bảng tên bằng tiếng Mỹ để quân nhân Mỹ xử sự với chúng tôi cho đúng cách. Thiếu Tá Miller đã từng phục vụ ở VN, trong dịp Mâu Thân 1968, ông tỏ ý rất thông cảm với hoàn cảnh thất lạc gia đình, mất nhà, mất nước, mất cả quân đội của chúng tôi. Trong một Văn Thư gửi cho toàn thể quân nhân Mỹ trong trại Tị Nạn Fort Chafee, tôi còn nhớ có một đoạn “The following named Vietnamese Officers is to be accorded all military respects and priviledges that are accorded to U.S Army Officers.”

    Ngày lại ngày, chúng tôi ra phi trường đón đồng bào, hướng dẫn, giúp đỡ đồng bào, nhiều khi xuống khu tạm trú, ăn cơm với đồng bào, thay vì ăn ở Câu Lạc Bộ Sĩ Quan.

    Ngày lại ngày, chúng tôi hy vọng tìm được tin tức gia-đình qua những người quen biết từ các trại tị nạn khác được chuyển đến Fort Chaffee.

    Vào khoảng giữa tháng 5, 1975 đồng-bào tị nạn ở đây có ngày đã lên đến 25 ngàn người. Mỗi khi có gia đình nào được sponsor ra khỏi trại thì lại có một gia đình khác được chuyển từ Guam hay từ Mã Lai, Thái Lan đến thay thế. Vì số đồng bào quá đông, chúng tôi được tăng cường bằng một số sĩ quan cùng cảnh ngộ từ các Trường Hải Quân, Không Quân, Truyền Tin, Công Binh, Pháo Binh, Bộ Binh. Dù vậy, chúng tôi vẫn phải làm việc 24 trên 24 vì có những chuyến bay đến vào lúc nửa đêm về sáng.

    Fort Chaffee, Ark. 5/ 1975: Tân Dân, Tờ Báo Việt Ðầu Tiên Trên Ðất Mỹ :

    Ðể đồng-bào biết tin tức về VN, tin tức thế-giới và nhất là để gửi đến 25 ngàn đồng bào những thông cáo quan trọng, tôi đề nghị Thiếu Tá Miller làm một tờ nhật báo Việt Ngữ. Tất cả máy móc để ấn loát, Trung Ðoàn 96 Dân Sự Vụ, thuộc Lực Lượng Đặc Trách Tị Nạn đã có đầy đủ, chỉ thiếu nhân sự. Nữ Trung Úy Kathy Newman, một người biết đọc và viết tiếng Việt, được cử làm chủ nhiệm, tôi làm chủ bút và Trung Sĩ Tom làm thư ký, đặc trách layout và ấn loát. Tin tức thì được dịch ra từ báo Mỹ, chép xuống từ TV, Radio. Thông cáo thì Tom và tôi có thể viết được.

    Báo được đặt tên là “Tân Dân”, theo ý của Kathy là “New People”. Tôi đề nghị lấy tên báo là “Người Mới” cho dễ hiểu và gần gũi với đồng bào nhưng Kathy thích “Tân Dân” vì cô cho rằng nó có vẻ “văn chương” hơn.

    Sau số báo đầu tiên, chúng tôi được rất nhiều đồng bào đến văn phòng giúp đỡ trong vấn đề dịch tin, vẽ tranh, viết bài. Văn Phòng Liên Lạc của Trại Tị Nạn bây giờ biến thành tòa soạn của Nhật Báo Tân Dân. Tôi thành Nhà Báo Full Time, không phải ra phi trường đón đồng bào, cũng không phải lái xe đi vòng quanh trại kêu gọi trẻ em vào nhà mỗi khi có mưa đá, to bằng trái banh ping pong.

    Một hôm, đang làm tin thì Capt Tân đến cho biết ca sĩ Khánh Ly mới nhập trại. Tôi bỏ tất cả, chạy xuống khu tạm cư, tìm về dãy nhà mà anh Tân đã cho biết số.

    Khánh Ly ở đó, với em gái Ngọc Anh và người anh là Phạm Ngọc Sơn.

    Ðã lâu lắm tôi không gặp “Bé Lệ Mai” của báo Ngôn Luận. Cũng đã lâu lắm tôi không gặp Ngọc Anh và Sơn. Những truyện kể, những thăm hỏi, những nhắc nhở về kỷ niệm ở Chợ Quán, ở Phan Thanh Giản, ở Đà Lạt cứ tiếp nối, theo nhau tràn về.

    Không chỉ riêng tôi ngồi nói chuyện với Khánh Ly mà đồng bào đứng đầy căn phòng tạm trú để nghe Khánh Ly nói chuyện …

    Nhiều người ao ước được nghe Khánh Ly hát. Khánh Ly chỉ cười buồn cho rằng chuyện ấy khó có thể làm được. Tôi chợt nghĩ đến lời Thiếu Tá Miller nói với chúng tôi hôm nào “tôi có thể giúp quý bạn bất cứ vấn đề gì, nếu trong khả năng và trách nhiệm của tôi”. Tôi cảm thấy phấn khởi lạ lùng. Từ dẫy nhà tạm trú, tôi băng qua một khu đồi đầy hoa tím dại, hướng về văn phòng của Miller. Tới bên kia chân đồi, tôi thấy một người nằm dài trên cỏ, trong bộ đồ bay mầu đen đã bạc phếch, dường như đang ngủ. Tôi đến gần người phi công đó, nhìn lên phía trên túi áo, thấy hàng chữ Sĩ Phú.

    Tôi lấy chân đá nhẹ vào người ấy và hỏi :

    - Này, phải Sĩ Phú đấy không ?

    Người phi công kia, hé mắt nhìn, giọng mệt mỏi :

    - Sĩ Phú đây. Ai đó ? Nam đấy hả ?

    - Nam đây. Tại sao lại ra nằm ở chỗ này vậy ?

    - Moa trốn Sponsor ! Moa không muốn rời trại, sợ về chỗ xa lạ, không được gặp người Việt mình nữa !

    Fort Chaffee, Ark. 6/1975: Hát Cho Người Tị Nạn.

    Vào một chiều tháng 6, khi nắng vừa khuất sau những dẫy nhà tiền chế - trước kia dùng làm nơi huấn luyện Vệ Binh Quốc Gia Hoa Kỳ và nay là những mái nhà tạm thời cho hai mươi lăm ngàn người tị nạn hàng ngàn đồng bào đã tràn ra đường, hớn hở kéo nhau về khu văn phòng của Bộ Chỉ Huy Liên Ðoàn Dân Sư Vụ. Ở đó, một sân khấu lộ thiên mới được dựng lên. Ở đó, có dựng vài cây micro và có những chiếc loa phóng thanh của nhà binh chồng chất lên nhau. Ở đó, có một cây guitar, mua ở tiệm bán đồ cũ.

    Nhưng ở đó có Khánh Ly và Sĩ Phú. Thế là đủ, quá đủ cho một buổi hát nhạc Việt Nam lần đầu tiên trên đất tạm dung. Ðặc- biệt hơn nữa: Người đệm đàn lại là một người lính Mỹ, đôi khi được tiếp tay bởi một sinh viên tị nạn vô danh nhưng tiếng đàn thì vô cùng truyền cảm.

    Khánh Ly hát như chưa bao giờ được hát, hát như say, như mê. Sĩ Phú dốc toàn sức lực cho những tình khúc tiền chiến bất hủ, những giòng nhạc Ngô Thụy Miên ngọt lịm. Những tình tự dân tộc không những chỉ vang lên trong thính trường đó mà còn truyền đi khắp nơi, bao trùm cả một khung trời bát ngát bao la qua nhũng máy khuếch đại âm-thanh treo trên những cành cây, những cột điện.

    Có nhiều người đã khóc. Tiếng khóc hòa với tiếng vỗ tay. Có những tiếng khóc biến thành lời ca, có những tiếng khóc không thành lời trên phím đàn. Những giọt lệ âm thầm nhỏ xuống môi khô vì nhớ nhà, nhớ quê, nhớ vợ dại con thơ, nhớ chồng trong tù, thương con chìm sâu đáy biển.

    Không cần ghế bọc nhung của một rạp hát sang trọng, không cần hệ thống âm thanh đắt tiền, không cần ánh sáng nhấp nháy, không cần ban nhạc đại hòa tấu, chỉ có hai người hát mà có tới hơn hai mươi ngàn khán thính giả ngồi trên cỏ say mê nghe, vỗ tay như pháo nổ thì làm sao mà quên được.

    Ðã gần 42 năm qua, những hình ảnh tôi chụp trong Fort Chaffee đã mờ nhạt đi, nhưng dường như hình bóng Khánh Ly, Sĩ Phú vẫn còn sáng rõ trong tâm hồn tôi.


    Nguyễn Đức Nam


Hội Quán Phi Dũng ©
Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




website hit counter

Working...
X