Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Thời Đại Tín Liệu (Information Revolution)

Collapse
X

Thời Đại Tín Liệu (Information Revolution)

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Thời Đại Tín Liệu (Information Revolution)

    Trong 3 năm làm việc toàn thời ở Thư Viện của Trường Đại Học Everett Community College từ năm 1995, tôi đã có dịp tham khảo nhiều sách vở và tổng hợp nhận thức của mình về một thời đại văn minh mới của nhân loại ngày nay, hay còn gọi là thời đại tín liệu. Cho tới khi tôi được nhóm anh em bên Đàn Chim Việt mời tới dự thảo ở Los Angeles, và tôi có cơ hội phổ biến ý tưởng mới của mình trên diễn đàn này. Vì bài còn quá dài, nên tôi viết tới đâu thì gởi tới đấy… Mong bạn đọc thông cảm - Phạm Văn Bản


    Thời Đại Tín Liệu
    Information Revolution



    Phạm Văn Bản

    Nhân dịp tham dự hội thào của Đàn Chim Việt tổ chức ở miền nắng ấm Nam California, tôi được người bạn trẻ Lê Quốc Hưng xử dụng “gậy thần rút đất,” từ Anh Quốc ngàn trùng xa cách tới đây, trình bày đề tài “Truyền Thông Điện Tử: Sức mạnh – Hệ lụy – Trách nhiệm: Những đổi mới trong công nghệ thông tin đã đưa thế giới đến với một kỷ nguyên của các phương tiện truyền thông dân chủ, trong đó hầu như tất cả mọi người đều được tiếp cận tin tức và thông tin, và trở thành những người sáng tạo và đóng góp cho ngành công nghiệp báo chí.” Tiếp đến là bài của bạn Võ Thiêm, “Truyền thông Độc lập – Truyền thông Tự do: Có tự do thì mới nghĩ đến độc lập chứ còn không có tự do thì những suy nghĩ, việc làm của mình do người khác áp đặt thì mong gì nói tới chuyện độc lập.” Sau cùng là bạn Nguyễn Ngọc Oánh, “Thư Đàn Chim Việt: Cùng nhau, chúng tôi sẽ tiếp tục đưa DCVOnline đến vị trí xứng đáng phục vụ công dân, nâng cao dân trí – những điều mà xã hội dân chủ trông chờ.” Đặc biệt, trong phần trình bày nội bộ bạn Oánh đã đề cập tới một hệ thống cơ cấu tổ chức mới xây dựng và phát triển trong thời đại liên thị tín liệu, gọi là Micro-Site.

    Tôi chăm chú lắng nghe các bạn đang thuyết trình, và miên man suy nghĩ về giòng chữ “văn minh tín liệu” đậm nét trong tâm tưởng mình. Thực ra thời đại mới của nhân loại được khai sáng từ khi phát minh ra điện toán và liên thị tín liệu, quản trị điều hành các lãnh vực đời sống con người, từ gia đình, luân lý, đạo đức, xã hội… đến lãnh đạo, quản trị, kiến thức, khoa học, kỹ thuật, giáo dục, văn hóa, xã hội, chính trị, kinh tế, doanh nghiệp, tôn giáo, … và cả ái tình. Thời đại liên thị tín liệu làm thay đổi tận gốc rễ, tận nền tảng mọi mặt trong đời sống con người, chớ không chuyển tiếp.

    Cứ mỗi lần nhân loại bước vào thời đại mới, thì các hình thức tổ chức cũ, từ gia đình cho tới cơ cấu xã hội, chính trị, kinh tế quốc gia… đoạn tuyệt phương thức tổ chức cũ và thay đổi bằng phương thức mới, hoàn cảnh mới, cuộc sống mới. Thời đại sau tiến nhanh hơn thời đại trước. Những tổ chức chính trị cũ không kịp thay đổi, và nếu còn tồn tại thì nó cũng lạc hậu, lỗi thời, và bị đào thải bởi xã hội mới.

    Cũng từ thời đại hậu kỹ nghệ, các công ty quốc gia quốc tế xuất hiện và phát triển mạnh, các nhà sản xuất thành lập ra nhiều chi nhánh trên thế giới. Nhiều công ty với ngân sách còn lớn hơn cả nhiều lần ngân sách của quốc gia chậm tiến, và họ đã quy tụ nhân viên với số đông nhân tài thông minh xuất chúng.

    Những công ty liên quốc, không còn biên cương quốc gia như trong thời đại nông nghiệp ngày trước. Nhóm lãnh đạo thời nay lại thường dựa vào nền tảng chính trị sẵn có của một quốc gia, mà họ ký kết khế ước hiệp thương với nước đó, cũng như với những quốc gia khác. Bởi thế họ đã tạo ra một loại tổ chức không lãnh thổ, không biên giới, không chính quyền... đồng thời họ hình thành đơn vị chính trị xã hội mới với những công dân quốc tế. Và bởi thế tâm tư của con người cũng đã thay đổi, ít lệ thuộc vào chủ quyền quốc gia với biên cương lãnh thổ như trong thời đại nông nghiệp.

    Về phương diện văn học, tuy còn danh từ quốc gia nhưng hình thức và nội dung đang có nhiều thay đổi. Thế giới hôm nay có nhiều hệ thống quốc tế, không còn dựa trên nền tảng của quốc gia như ngày trước, mà dựng đơn vị chính trị trên "quốc gia không lãnh thổ" như tôn giáo, sắc dân hay kinh doanh.

    Trong thời đại nông nghiệp trước đây, nhân loại xây dựng tổ chức dựa trên nền tảng kinh tế lãnh thổ, vì đất nước là tài nguyên quan trọng để nuôi sống con người. Nhưng tới thời đại kỹ nghệ, khi phát triển thì đất đai nông nghiệp lại bị giảm giá trị vì nền kinh tế lúc này chuyển hướng và dựa trên giá trị kỹ nghệ, do đó các tổ chức kinh doanh đặt căn bản giá trị là kỹ nghệ, là tư bản.

    Tới hiện nay, nền kinh tế tín liệu của nhân loại lại đặt lại nền tảng kinh tế – chủ yếu căn cứ vào kiến thức với những bằng cấp học vị. Tổ chức chính trị kinh doanh đặt lại vấn đề giáo dục kỹ nghệ, nhằm đào tạo lớp người mới có đủ trình độ kiến thức và nghiệp vụ chuyên môn nhằm cung ứng cho thời đại tín liệu.

    Nhìn chung, các tổ chức chính trị xã hội thời đại tín liệu của các nước văn minh Mỹ Âu vào cuối thế kỷ 20 đặt lại nền tảng lý thuyết và cấu trúc để căn cứ một phần trên con người, chớ không dựa trên đất đai hay tài sản như thời đại nông nghiệp và thời đại kỹ nghệ.

    I. Thời Đại Kỹ Nghệ

    Thời đại kỹ nghệ được khởi đầu từ khi nhà bác học Isaac Newton (1642 – 1727) khám phá ra nhiều lý thuyết khoa học. Anh Quốc đã ứng dụng và trở thành nước kỹ nghệ đầu tiên với máy hơi nước được dùng trong cơ xưởng dùng để phát triển kinh tế, rồi tiếp đến các quốc gia Pháp, Ý... Từ đó người nông dân bắt đầu lìa bỏ ruộng vườn mà vào sinh sống trong đô thị để thành công nhân, vì kỹ nghệ tạo ra công ăn việc làm dễ dàng và nhiều ngành nghề khác biệt, mỗi ngành nghề lại tạo ra một hệ thống tổ chức riêng.

    Và từ đó các hệ thống xã hội đã trở thành nếp sống văn minh mang tinh thần dân chủ, vì rằng những người trưởng ngành của các cấp quốc gia đã biết tôn trọng lẫn nhau và cùng nhau cộng tác phục vụ cho xã hội. Nhân tài của cấp quốc gia cũng biết huấn luyện đào tạo những khả năng lãnh đạo, điều hành quản trị, và tổ chức cho cấp dưới hay thế hệ tiếp nối. Sự ràng buộc này đã trở thành môi trường phát sinh ra đức tính “liên thuộc,” là đức tính cần thiết phải có nơi người lãnh đạo.

    Ngôn ngữ, văn chương của thời đại kỹ nghệ cũng đương nhiên thay đổi để trở thành hệ thống hóa, kỹ nghệ hóa. Ví dụ kỹ nghệ giáo dục, kỹ nghệ thông tin, kỹ nghệ báo chí… Đặc biệt trong thời đại mới này, máy in được phát minh và tạo ra người in, nghề in, ngành in và phát hành sách báo… Nhờ có máy in, nền giáo dục con người được đại chúng hóa dễ dàng và thuận lợi, kiến thức mở rộng, thông tin phát triển.

    Các hệ thống trong thời đại kỹ nghệ lại được phát triển nhanh chóng hơn thời đại phong kiến ngày trước, nhờ tư nhân được tự do hoạt động kinh tế, và nhờ nhân tài đất nước lãnh đạo điều hành xí nghiệp công ty, cho nên mọi phương diện đời sống con người đã thay đổi tòan diện. Và mỗi lãnh vực xã hội lại có triều chính riêng với những vua riêng như vua xe hơi, vua dầu hỏa, vua địa ốc… mỗi tiểu thị/ tiểubang đều có những "tiểu vương" thực quyền ảnh hưởng tới đời sống xã hội, và phát sinh hệ thống chính trị xã hội hàng ngang, chớ không còn hệ thống độc quyền hàng dọc như trong thời nông nghiệp: "trên chủ dưới nô."

    Biên giới tiểu thị/ tiểu bang nằm trong hệ thống liên thị/ liên bang giờ đây lại khác biệt với thời nông nghiệp, vì không còn là biên giới của hai tiểu thị hay quốc gia như trước, tuy cũng còn cột mốc, còn ranh giới địa lý của các tiểu thị/ tiểu bang, nhưng những lằn ranh đậm nét khác của đời sống con người lại đè lên trên đó như: an sinh xã hội, thuế vụ, tiền tệ, quốc phòng… ranh giới quốc gia bị mờ nhạt xóa dần. So với công tác của triều đình ở thời nông nghiệp, thì chính phủ tiểu bang trong thời kỹ nghệ lại có sự cách biệt lớn lao trong các hệ thống quốc gia. Và tiểu thị/ tiểu bang có cơ cấu điều hành và lãnh đạo riêng, rồi tạo nên sự cạnh tranh giữa các tiểu thị/ tiểu bang và hình thành những điều kiện phát triển năng khiếu con người cũng như phát triển chính trị xã hội.

    Các tỉnh của Gia Nã Đại thì tổ chức gần giống như tiểu bang của liên bang Hoa Kỳ. Riêng Úc Đại Lợi, các tiểu bang cạnh tranh nhau bằng cách công khai trong kỹ nghệ du lịch, quảng cáo, lập những cơ sở giải trí, thu hút du khách địa phương và quốc tế. Mỗi tiểu bang lại có sắc thái, luật lệ riêng cho những vấn đề phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh địa lý, kỹ nghệ riêng. Điều này tạo nên sự cạnh tranh chính đáng và nhờ vậy xã hội phát triển. Cũng như ở Hoa Kỳ hay Gia Nã Đại, các tiểu bang Úc Đại Lợi cũng ráo riết cạnh tranh trong kỹ nghệ giáo dục, đầu tư vào các đại học để đào tạo chuyên viên trong nước cũng như ngoài nước, vì kỹ nghệ giáo dục đã mang lại cho quốc gia Úc hơn một tỷ Úc Kim mỗi năm.

    1. Đơn Vị Chính tri Kinh Doanh

    Liên thị/ liên bang, đơn vị chính trị của thời đại kỹ nghệ, do sự kết hợp của các tiểu thi/ tiểu bang. Quyền hành quốc gia được “tản” đến mỗi tiểu bang, để địa phương xử dụng sao cho thích nghi với hoàn cành riêng, mà không đi ngược lại nguyên tắc căn bản của liên bang. Liên bang hay các quốc gia trong thời đại kỹ nghệ có nhiều hệ thống sản xuất ở cấp quốc gia. Mỗi hệ thống lại có những khách hàng là “công dân tiêu thụ.” Mỗi hệ thống cũng có “triều đình riêng” tạo ra quyền lực ở cấp quốc gia của một lãnh vực nào đó, mà không lãnh thổ.

    Kỹ nghệ là dùng máy móc thay cho sức lao động của con người, và sản xuất hàng loạt theo hệ thống giây chuyền. Muốn kỹ nghệ hóa, trước hết chúng ta phải có máy móc. Bời đó thời đại kỹ nghệ đã mọc lên nhiều nhà máy luyện thép, xưởng máy, sản xuất xe, xưởng dệt, đường rầy xe lửa và biến chế thực phẩm… Nhờ kỹ thuật cao nên đã biến các thị trấn trở thành đại đô thị và di chuyển với vận tốc tăng nhanh. Hình thức sản xuất càng ngày càng tăng, số lượng nhiều, giá thành giảm, và sản phẩm mới xuất hiện liên tục làm cho mọi người thích tiêu thụ. Tiêu thụ giờ đây không còn là một nhu cầu mà trở thành cái thú tiêu khiển, cái thích đi mua sắm quần áo hay vật dụng thời trang… và ít khi xử dụng tới.

    Mọi sinh hoạt xã hội đều được kỹ nghệ hóa. Văn hóa giáo dục của thời đại trước cũng biến thành kỹ nghệ giáo dục, cũng như kỹ nghệ thông tin, kỹ nghệ báo chí… Và đất đai, sức lao động, nguyên liệu trở thành yếu tố chính để phát triển kinh tế. Tài sản của công ty giờ đây được đo bằng công trình kiến trúc, trang bị máy móc nặng, vốn và hàng hóa. Thời đại kỹ nghệ cũng chia những hoạt động ra thành ba cấp:

    - Kỹ nghệ sơ cấp: gồm các lãnh vực sản xuất của thời nông nghiệp: nông, lâm, ngư được cơ giới hóa.
    - Kỹ nghệ thứ cấp là ngành kỹ nghệ nặng: luyện thép, đúc nhôm, chế tạo xi măng, khai thác hóa chất từ dầu hỏa, sản xuất xe hơi, sản xuất máy móc gia dụng.
    - Kỹ nghệ đệ tam cấp: gồm các dịch vụ tài chánh, bảo hiểm, cung cấp nước, hơi đốt, điện, chuyên chở, hàng hải, hàng không, nguyên tử năng và không gian.

    2. Kinh Tế Kỹ Nghệ

    Kinh tế của thời đại kỹ nghệ là sản xuất những sản phẩm hàng loạt, cho nên cần nhiều công nhân rẻ tiền, tay nghề tương đối, và học qua những khóa huấn luyện ngắn hạn. Thời đại kỹ nghệ thì việc mở rộng thành phố cho các khu công nghệ hãng xưởng làm trọng điểm, bởi thế lương thực thực phẩm phải được cung cấp từ nông thôn, hay nhập cảng từ nước ngoài. Người dân thì tập trung vào việc phát triển kinh tế quốc gia, trong khi quốc gia lại cần nguyên liệu sắt, thép, xi măng, gỗ, hóa chất, sản phẩm dầu hỏa… cho nhà máy hoạt động. Sản phẩm làm ra thì lại cần thị trường tiêu thụ cho nên chính quyền phải mở những hải cảng, phi cảng để vận chuyển lưu thông.

    Nhìn vào hệ thống thời đại kỹ nghệ, chúng ta trước tiên phải kể đến ngành hàng hải, vì nó có từ khi con người biết phát minh ra máy hơi nước. Máy hơi nước được trang bị trong công ty xí nghiệp, xe hơi, hay tàu thủy… Trong giai đoạn phát triển kỹ nghệ đã cần nhiên liệu cho việc sản xuất và tiêu thụ, do đó quốc gia kỹ nghệ phải mang quân đánh chiếm lãnh thổ nước khác làm thuộc địa.

    Tới thời hậu kỹ nghệ, chúng ta lại chứng kiến một nền “chính trị hậu quốc gia.” Không như thời nông nghiệp người ta cần lãnh thổ, và cũng không như thời tiền kỹ nghệ mà cần tài nguyên, ở giai đoạn hậu kỹ nghệ, việc xâm chiếm thuộc địa là không cần thiết vì khả năng hoạt động của cơ giới làm thay đổi bảng giá trị thời đại. Sức mạnh bắp thịt con người và súc vật cũng giảm dần trong việc sản xuất, đang khi sức mạnh của vũ khí, vật dụng do máy móc làm ra lại càng tăng thêm. Số công nhân làm việc bằng chân tay cũng bớt cần thiết như thời trước, cho nên quốc gia kỹ nghệ không còn cần xâm chiếm lãnh thổ làm thuộc địa, làm thị trường tiêu thụ.

    Vì con người phát minh ra nhiều phương tiện liên lạc, di chuyển nhanh chóng, giá thành rẻ và nhiều… cho nên các quốc gia lại có những mối liên quan mới. Những quan hệ quốc tế tạo ra nền “chính trị hậu quốc gia” với quyền lực quốc tế. Mỗi ngành, mỗi nghề, hay mỗi lãnh vực xã hội phát triển tạo nên những hệ thống quốc gia quốc tế và quyền lực riêng, khiến cho đôi khi quốc gia khó hoặc không kiểm soát nổi. Bởi thế quyền lực quốc gia được phân ra, và tản ra để có nhiều ban, nhiều ngành, nhiều cấp trách nhiệm. Số nhân viên làm việc công khai, tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, với dân chúng thì tạo ra các ban: ban quản trị, ban điều hành, ban kiểm soát… nhằm cải tiến sản phẩm, cạnh tranh với các công ty xí nghiệp khác. Đang khi số nhân viên làm việc kín lại cần có nơi thầm lặng mà dùng đầu óc suy tư… Bởi đó, những nguyên tắc áp dụng trong tổ chức chính trị đã phát sinh ra đảng chính trị, gồm đảng cầm quyền và đảng đối lập với các chủ tịch nổi/ lãnh tụ chìm… xuất hiện trong hệ thống quyền lực nổi /chìm.

    Thông thường, dân chúng chỉ nhìn thấy quyền lực nổi, đang khi quyền lực chìm lại quyết định các vấn đề nội bộ sinh tử của chế độ qua tổ chức ngụy trang dưới nhiều hình thức, dù hiện hữu hay vô hình. Trong lãnh vực kỹ nghệ kinh tế, những nhân vật điều hành ở cấp quốc gia đã lập ra Nhóm Quyết Định để giải quyết cho cả một “khối lượng quyết định.” Bởi tất cả tổ chức xã hội, dù lớn hay nhỏ đều có những vấn đề quyết định. Xã hội càng lớn và phức tạp thì quyết định lại nhiều và khó hơn, tạo ra khối phẩm và lượng quyết định.

    Vào thời tiền kỹ nghệ, phân chia lao động còn thô sơ, thay đổi chậm chạp, nên số lượng quyết định để điều hòa xã hội tương đối ít. Vì có ít quyết định nên người khả năng “trên trung bình” không chuyên môn, cũng có thể điều hành và tự quyết tất cả khối lượng quyết định của một quốc gia. Nhưng thời kỹ nghệ bành trướng thành nhiều lãnh vực, nhiều phức tạp mang tầm vóc rộng lớn hơn nên khối lượng quyết định tăng nhiều, và đòi hỏi quốc gia phải phân quyền và tản quyền xuống địa phương. Nhiều khi có những quyết định vượt ra ngoài khả năng của những người cầm quyền, nên buộc họ phải tuyển chọn nhân tài/ hay bán nhân tài nhằm đáp ứng cho nhu cầu này, từ đó mà phát sinh ra “quyền lực chuyên viên.” Và khi đã có đủ quyền lực này thì dân chủ là vấn đề đương nhiên, vì không phải là chọn lựa mà là tiến hóa bắt buộc.

    Xã hội kỹ nghệ tạo hệ thống sản xuất giây chuyền, nên hệ thống máy móc của xí nghiệp cũng giây chuyền và trở thành liên thuộc kỹ nghệ. Con người bị ràng buộc bởi các tổ chức chính trị, và càng văn minh thì lại càng bị ràng buộc trong các hệ thống chính trị nhiều hơn. Bị ràng buộc trong các hệ thống nên mới đòi hỏi người lãnh đạo quản trị phải có đức tính liên thuộc, từ tầm nhìn tới cách giải quyết đều có ảnh hưởng giây chuyền đến các bộ phận cũng như hệ thống. Cách tìm giải pháp và quyết định có ý thức trách nhiệm liên đới, người ta gọi là dân chủ.

    Tóm lại hệ thống toàn cầu đã được xây dựng bằng những đơn vị quốc gia liên thuộc, có nghĩa là quốc gia A hành động, thì ảnh hưởng tốt/ xấu cho quốc gia B, C, D. Một quyết định ở Nhật Bản cũng gây ảnh hưởng tới Hoa Kỳ và nhiều quốc gia Đông Nam Á. Khi Hoa Kỳ xử dụng giây thủy tinh để dẫn điện thì gây ảnh hưởng cho Chile và Zambia là hai nước sản xuất đồng. Việc bảo vệ môi sinh ở Brazil cũng gây ảnh hưởng đến giá gỗ trên thị trường thế giới.

    3. Cạnh Tranh Kỹ Nghệ

    Thời đại ngày nay là giao thương, con người đã chuyển Chiến Tranh Quân Sự sang giai đoạn của cuộc sống mới, là Cạnh Tranh Kinh Tế. Sự cạnh tranh quốc gia là nước nào có sản phẩm tốt, nâng cao đời sống dân chúng, phát triển ngành giáo dục tốt, và đào tạo đội ngũ chuyên viên giỏi… và nước nào thắng trong kinh tế thì sẽ thắng trong các đấu trường khác.

    Chiều hướng suy tư của giới lãnh đạo quản trị là luôn luôn thay đổi để tạo ra sản phẩm kỹ nghệ mới, tốt hơn và dẫn đưa tới thịnh vượng. Hàng tháng các công ty lớn đều phải thay đổi cách quảng cáo; và quảng cáo sau là phải hay hơn, hấp dẫn hơn, có tính cách quốc tế, toàn cầu hơn. Và qua nhiều kết hợp hệ thống, thời đại kỹ nghệ tạo ra đa sản xuất, đa tiêu thụ, đa giáo dục, đa truyền thông… Những nối kết này lại tạo ra những cơ quan gọi là trường đại học, công ty, đảng chính trị… Những người Cộng Sản Việt Nam chưa từng có kinh nghiệm sống trong những cơ chế mới này thì thường cho là xã hội hỗn độn, mặc dù xã hội vẫn phát triển theo chiều hướng mà chúng ta gọi là văn minh, bởi xã hội có nhiều hệ thống phức tạp của thời đại kỹ nghệ.

    Đã quá muộn màng cho một dân tộc tới nay, như trường hợp Việt Nam còn đang mò mẫm dựng lại "cột khói nhà máy," để hy vọng bước vào bình minh của thời đại kỹ nghệ, đang khi chính quyền Cộng sản đã phá đổ nền kinh tế thị trường của Việt Nam Cộng Hòa từ sau năm 1975 tới nay. Đang khi giới lãnh đạo này lại cố tình cản trở sức dân tộc vươn vai, vì bảo vệ quyền lợi tư riêng của cá nhân và bè đảng Cộng sản.

    4. Đối Kháng Giữa Nông Nghiệp Và Kỹ Nghệ

    Những thay đổi quan trọng trong xã hội xảy ra nhiều đụng độ, và các quốc gia kỹ nghệ hóa đã chua xót chứng kiến những va chạm đẫm máu giữa hai thành phần kỹ nghệ thương mại với khối lãnh chúa chủ đất của Châu Âu và Trung Quốc… Nhiều nông dân bị đi làm công nhân trong những xí nghiệp kỹ nghệ mà giới bảo thủ kết án là “cơ sở ma quỷ.”

    Những chống đối, đấu tranh biên giới, phong trào quốc gia… nổi lên giữa văn minh nông nghiệp và kỹ nghệ, tạo ra việc bế quan tỏa cảng của các nước nông nghiệp như Việt Nam với các nước kỹ nghệ thế kỷ 18… hiện tượng này vẫn còn lặp đi lặp lại ở nhiều nước kỹ nghệ hóa hôm nay. Vì quốc gia kỹ nghệ tự làm mòn biên cương lãnh thổ, cũng như xâm nhập lãnh thổ… và các cuộc xâm nhập khoa học kỹ thuật, văn hóa, tôn giáo cũng làm lu mờ biên cương chính trị của nhiều quốc gia.

    Kỹ nghệ bành trướng thị trường quốc gia, kéo theo chủ nghĩa quốc gia, và chiến tranh thống nhất quốc gia như đã xảy ra ở Đức, Ý và nhiều nơi khác trên thế giới. Sức mạnh kỹ nghệ của Châu Âu cần thị trường và nguyên liệu rẻ ở những nơi xa xôi, do đó sức mạnh kỹ nghệ tạo ra chiến tranh và xâm chiếm các nước ở trong thời đại bộ lạc, hay thời đại nông nghiệp của Châu Á, Châu Phi.

    Những quốc gia kỹ nghệ có nền kinh tế và xã hội phức tạp nên họ cần liên lạc với các nước qua những hiệp ước quốc tế, do đó khối lượng hiệp ước quốc tế gia tăng trong thời gian qua. Và quốc gia kỹ nghệ tiến đến nền kỹ thuật cao là nhờ sự liên lạc tân tiến. Một lần nữa kỹ thuật cao lại tiếp tục làm mềm, làm mỏng biên giới quốc gia.

    II. Tiến Trình Kinh Tế

    Thời đại văn minh thay đổi của con người được ví như những đợt sóng. Đợt sóng này có điểm phát khởi, và lan tỏa ra toàn cầu theo thời gian, khi tiến đến điểm cực đại, thì hạ xuống dần và tàn lụi ở điểm cực tiểu… và đợt sóng khác lại nổi lên kế tiếp. Nhân loại đã trải qua từ thời tiền sử (pre-history) tới nay với ba đợt sóng: đợt sóng nông nghiệp, đợt sóng kỹ nghệ, đợt sóng tín liệu. Xét trên phương diện chính trị và kinh tế, chúng ta thấy có những sự kiện đối chiếu như sau:

    Kinh Tế: - Chính Trị:

    Thời tiền sử (pre-history) - Chế độ bộ lạc
    Nông nghiệp - Quân chủ
    Kỹ nghệ - Dân chủ
    Tín liệu - Tân dân chủ

    Theo giòng lịch sử nhân loại, khởi đầu từ những chế độ bộ lạc (thời tiền sử: pre-history), tới chế độ quân chủ (thời đại nông nghiệp: agriculture) tới chế độ dân chủ (thời đại kỹ nghệ: industry) và nay tới chế độ tân dân chủ (thời đại tín liệu: information) xuất hiện nhiều hình thức cai trị, và được áp dụng tùy theo thời đại.

    1. Thời Bộ Lạc

    Trong thời kỳ này, các bộ lạc được chia ra hai loại: du mục và nông nghiệp. Và từ khuynh hướng này, con người phát minh ra hai cách cai trị: chế độ mẫu hệ, và chế độ phụ hệ.

    a. Chế Độ Mẫu Hệ

    Các bộ lạc chủ yếu về nông nghiệp thì tổ chức công việc cai trị theo chế độ mẫu hệ. Người đứng đầu bộ lạc, trưởng tộc/ hay trưởng bộ lạc là nữ giới. Người phụ nữ đã giữ vai trò lãnh đạo chính trị đang khi nam giới chỉ phụ thuộc. Theo chế độ mẫu hệ, người phụ nữ đứng đầu bộ tộc, từ gia đình ra ngoài xã hội, như Trưng Nữ Vương, Triệu Nữ Vương…

    b. Chế Độ Phụ Hệ

    Các bộ lạc du mục thì nay đây mai đó, không có chỗ ở nhất định và họ tìm đến vùng sữa mật để sinh sống. Khi vùng đất ấy trở nên khô cằn thì họ lại đi tìm vùng màu mỡ khác. Vì đời sống du mục thường gặp nhiều chướng ngại trên đường di chuyển như thú dữ, bộ lạc hiếu chiến khác… nên nhu cầu lãnh đạo phải là người có đủ sức mạnh đối phó, và nam giới được chọn làm trưởng tộc/ trưởng bộ lạc, từ đó chế độ phụ hệ ra đời. Ví dụ: Thành Cát Tư Hãn, tổ phụ Abraham...

    Với hai chế độ mẫu hệ và phụ hệ, thì chế độ phụ hệ có phần trổi vượt hơn, lấn lướt hơn, vì quen sống chiến đấu để tranh giành, xâm chiếm đất đai. Khi các bộ lạc du mục đến tranh đoạt, dân theo mẫu hệ thường yếu thế hơn, vì không quen chiến tranh, không thích cảnh chém giết nên họ phải bỏ vùng định cư mà di tản đi nơi khác. Nhưng rồi đất đai cũng có giới hạn mà lòng người thì tham vô đáy, vì thế có nhiều bộ lạc bị diệt vong hoặc đồng hóa. Thiểu số bộ lạc sống sót, vì nhu cầu sinh tồn nên họ phải liên kết lại mà thành lập ra quốc gia.

    Những bộ lạc du mục cũng thế, vì nhu cầu sát nhập của các bộ lạc để đấu tranh với những bộ lạc hùng mạnh khác, cộng thêm tình trạng dân số gia tăng, đất đai có chủ và cần tổ chức xã hội qui mô để bảo vệ, để canh phòng cương vực sở hữu. Hình thức tổ chức nhiều sắc dân trên vùng lãnh thổ rộng lớn. Quyền hành nằm trong tay một người với một số thuộc hạ, hoặc họ hàng thân thích để hướng dẫn đời sống dân trong lãnh thổ nhằm phát triển trong trật tự và điều hòa. Lối cai trị với vùng lãnh thổ lớn đó gọi là quốc gia, người lãnh đạo chính trị của quốc gia gọi là vua. Thể chế quân chủ ra đời, tức đợt sóng nông nghiệp, đợt sóng thay đổi đầu tiên của con người.

    2. Đợt Sóng Nông Nghiệp

    Cách nay cả chục ngàn năm, đợt sóng thay đổi đầu tiên xuất hiện khi con người biết trồng trọt, chăn nuôi, dựng làng và đó là thời đại văn minh nông nghiệp ra đời.

    Biểu tượng thời đại nông nghiệp là “con trâu cái cày.” Từ lưỡi cày gỗ mà tiến đến lưỡi cày đồng, cày sắt do trâu bò kéo, nó đã phải trải qua cả một tiến trình với thời gian dài bao nghìn năm canh cải (ít nhất là 8000 năm như minh họa). Trong thời gian này con người có thể tự cuốc xới trồng trọt, chăn nuôi gia súc, làm ăn sinh sống và thành công nhờ sức mạnh bắp thịt, mà chúng ta gọi là thời đại cơ năng.

    Con người trong thời đại nông nghiệp, vì cuộc sống phù hợp với thiên nhiên và phát triển tuần tự theo sự xoay vần của vũ trụ, của trái đất xoay quanh mặt trời… cho nên những tư tưởng, luật lệ, luân lý, đạo đức, tôn giáo… đã trở thành khuôn vàng thước ngọc, bất biến, tín điều… và nhiều điều không phải là chân lý nhưng vẫn được xem là chân lý.

    a. Thể Chế Quân Chủ

    Từ khi thành lập quốc gia, vua và bày tôi tổ chức ra chính quyền để cai trị dân, gọi là triều đình. Những nước có nguồn gốc du mục (phụ hệ) thường chú trọng tới sức mạnh quân sự, các mặt liên quan đời sống dân sự chỉ là phụ thuộc. Họ tổ chức binh lực để dập tắt các cuộc nổi loạn/ hay muốn thay đổi chính quyền, đề phòng ngoại xâm, mở chiến tranh xâm lấn các nước lân bang, tiêu diệt hay cưỡng chiếm các bộ lạc chậm tiến/ chưa kịp theo đà biến đổi, cải tiến chính trị quân chủ. Trong nước thì họ dùng võ lực để trị dân, áp dụng hình pháp nghiêm nhặt triệt để gọi là Võ Trị.

    Những nước có nguồn gốc nông nghiệp (mẫu hệ) thì chú trọng tới việc giáo hóa, hướng dẫn chăm lo đời sống ấm no hạnh phúc của dân, võ lực không phải là điều chính yếu trong việc tổ chức cai trị dân. Hình thức cai trị này là Văn Trị.

    Tóm lại, thời tiền quân chủ thì các nước có nguồn gốc du mục áp dụng Võ Trị, nặng hình pháp trừng phạt mà hình luật thì lại vô tình. Đang khi các nước có nguồn gốc nông nghiệp dùng Văn Trị, chú trọng giáo hóa sửa đổi con người, nặng tình hơn lý.

    b. Quân Chủ Phong Kiến

    Ngày xưa vua tặng thưởng cho những người có công gồm tiền của, tặng phẩm hay chức tước làm động lực thúc đẩy lòng hăng say, nhiệt tình của những ai phục vụ cho chế độ, cho nhân quần xã hội. Tổ chức chính quyền triều đình gồm có vua quan và các phẩm trật chức tước, tước văn tước võ để tưởng thưởng cho các công thần.

    Đối với các chức quan nhỏ, dù văn hay võ, khi có công thì được thăng lên chức tương xứng. Nhưng với hàng tướng lãnh, hay quan nhất phẩm triều đình, hoàng tộc… thì tiền của hay chức tước lại trở thành thứ yếu, vì họ đã có đủ. Do đó vua phải cắt đất tặng cho công thần và cho họ có toàn quyền xử dụng đất đai, lối tưởng thưởng này gọi là phong kiến (phong hầu kiến địa).

    Nhờ lối tổ chức cai trị theo hình thức phong kiến đã giúp cho xã hội phát triển ổn định và điều hòa trong nhiều ngàn năm. Nhưng sau, vì có nhiều lãnh chúa hay tiểu quốc vương trên các lãnh địa gây hấn, xâm lấn, tiêu diệt lẫn nhau trong thời gian dài mấy trăm năm, họ đưa xã hội vào vòng hỗn loạn bế tắc. Bởi đó mà hình thức cai trị mới ra đời từ Âu sang Á… đặc biệt là Trung Quốc vào năm 221 trước Tây lịch, Tần Thủy Hoàng thành công trong chính sách “Diệt lục quốc thống nhất thiên hạ” đổi thể chế phong kiến ra Quân Chủ Chuyên Chế.

    c. Quân Chủ Chuyên Chế

    Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, sau bao trăm năm chiến tranh giữa các tiểu vương quốc, Tần Thủy Hoàng đã dùng bạo lực cưỡng chiếm các lân quốc. Ông đặt quyền thống trị lên các lãnh thổ chiếm được, đoạt quyền bính của các vua, đổi chế độ phong kiến ra chế độ quân chủ chuyên chế. Đồng thời ông tập trung tất cả các quyền hành, thống nhất chữ viết, tiền tệ, dụng cụ đo lường, luật pháp và sách vở. Quyền lực được tập trung vào một tay của ông gọi là Hoàng Đế. Những phần lãnh thổ chiếm được, ông chia làm quận huyện và bổ các quan chức triều đình đến cai trị, và trực thuộc bộ máy cai trị độc nhất của nước.

    Song song với chế độ quân chủ phong kiến phương Bắc do các sắc dân có nguồn gốc du mục dùng Võ lực lãnh đạo chính trị, thì ở phương Nam chế độ quân chủ phong kiến dùng Văn Trị. Đặc biệt do Việt tộc lãnh đạo và được hưởng thái bình an lạc hơn 2500 năm từ khi Tần Thủy Hoàng thiết lập thể chế quân chủ chuyên chế. Trong suốt 2500 năm lịch sử của Việt tộc chỉ có 3 lần xảy ra chiến tranh qui mô cấp quốc gia. Lần thứ nhất Ân Cao Tôn xua quân xâm lấn nước ta, và bị toàn dân đánh đuổi khỏi bờ cõi. Lần thứ hai Việt Vương Câu Tiễn đánh bại Ngô Vương Phù Sai để trả hận bị vây hãm ở núi Cối Kê. Lần thứ ba giữa hai sắc tộc Bách Việt: Việt Vương Triệu Đà xâm chiếm đất An Dương Vương Thục Phán ở thành Cổ Loa. Đang khi cùng khoảng thời gian này thì ở phương Bắc châu Á, Trung Đông, và châu Âu đã xảy ra hàng vạn cuộc chiến tranh kinh hoàng với sức tàn phá tàn khốc.

    Đang khi châu Á đã thay đổi thể chế chính trị, từ quân chủ phong kiến sang quân chủ chuyên chế, thì chính trị của châu Âu vẫn còn dậm chân tại chỗ. Các vua, các lãnh chúa châu Âu lại dùng thần quyền, dùng tôn giáo để làm hậu thuẫn chính trị, hay làm dù che khiên chống cho bộ máy cai trị của họ. Mãi tới khi phát minh khoa học ra đời và làm thay đổi các hệ thống gía trị cổ học, rồi nguyên nhân dẫn tới sự sụp đổ tòan bộ hệ thống cai trị của đế quốc La Mã, thì khi đó mầm mống chống đối, phản kháng trong lòng người dân bị trị mới bắt đầu trổ hoa kết trái.

    Rồi cũng trong thời gian này đã xuất hiện những đội thương thuyền nối liền các lục địa, với những thương gia trở nên giầu có. Vì có tài chánh nên giới thương gia càng ngày càng có nhiều thế lực và góp phần làm thay đổi bộ mặt xã hội. Đồng thời họ ép buộc vua phải nhượng bộ và cải tiến hình thức cai trị: Quân Chủ Lập Hiến ra đời.

    Vì chính quyền quân chủ phong kiến Châu Âu không còn đủ sức để tiêu diệt, không còn nhà tù để giam giữ… thì lúc đó những nhà thám hiểm, trong đó Christopher Colombus chỉ huy, tìm thấy các đảo nhỏ gần lục địa Châu Mỹ vào năm 1492. Ít năm sau, người khác mới chính thức tìm ra lục địa Châu Mỹ này, ông có tên là Amerigo nên người ta đặt tên cho lục địa là America. Chính sự kiện thám hiểm này đã giúp cho chính quyền Châu Âu giải quyết được những ứ đọng, qúa tải của nhà tù bằng cách đưa chính trị phạm và tội nhân đi đày ở Châu Mỹ. Tiếp đến, những dân ngang bướng sống trên lãnh địa châu Âu, cũng được di cư lập nghiệp trên vùng thế giới mới (New World), nhằm làm giảm cường độ chống đối guồng máy cai trị của các vua quan trong chế độ quân chủ phong kiến châu Âu.

    Cách giải quyết nói trên, cũng không làm thỏa mãn nguyện vọng người dân bị trị, bởi dân thời đó đã văn minh tiến bộ mà giai cấp cầm quyền vẫn không thay đổi lề lối cai trị cũ. Rồi từ đó, trên vùng đất Châu Mỹ, các thế hệ tiếp nối của lớp người di dân lưu đày, họ đã tổ chức vũ trang chống lại nhà cầm quyền của đế quốc quân chủ Anh. Cuộc chiến khởi sự từ năm 1775 và kết thúc vào năm 1783, sau khi giành độc lập mười ba thuộc địa của Anh họp lại thành quốc gia Hoa Kỳ. Các đại diện đã cùng nhau thảo luận và soạn thành văn kiện chính thức, trong đó có một số luật lệ và bản qui định quyền hạn của người cầm quyền và người dân bị trị, sự thỏa thuận giữa người thi hành cai trị và người chấp hành luật lệ cai trị gọi là Hiến Pháp Hoa Kỳ, công bố ngày 21 tháng 6 năm 1788. Ngày đó cũng là ngày Thể Chế Dân Chủ ra đời, của một hình thức cai trị mới mà người tham gia chính trị, cai trị do dân bầu ra gọi là Tổng Thống.

    3. Đợt Sóng Kỹ Nghệ

    Khi đợt sóng nông nghiệp bắt đầu chìm xuống vào cuối thế kỷ 17 tại châu Âu (năm 1750 - hình minh họa) và cuộc cách mạng kỹ nghệ bắt đầu ở Anh, tạo thành đợt sóng vĩ đại thứ hai lan tràn ra cả nước, cả lục địa, cả toàn cầu với nhiều tốc độ khác nhau.

    Đợt sóng thứ hai đã làm cách mạng đời sống người dân châu Âu, Bắc Mỹ và một vài nơi khác trên địa cầu với một thời gian ngắn, vài trăm năm so với thời gian vài nghìn năm của thời đại nông nghiệp. Đợt sóng thứ hai vẫn còn tiếp tục lan rộng ra trên các quốc gia nông nghiệp gọi là những nước chậm tiến, như trường hợp Việt Nam. Nước này hiện nay đang hì hục và cố gắng xây dựng những lò luyện thép, hãng chế tạo xe hơi, xưởng dệt, đường sắt, hệ thống xa lộ, xưởng biến chế thực phẩm… do những công ty nước ngoài vào đầu tư.

    Biểu tượng của thời đại kỹ nghệ là "cột khói nhà máy." Các đô thị lớn xuất hiện, biên giới làng được tháo gỡ, nếu còn thì chỉ còn trong tâm tưởng, trong tiềm thức mà thôi… Nhờ sự an tòan của xã hội kỹ nghệ, nên gia đình cũng được thu hẹp lại, gồm cha mẹ và con cái, gọi là “vệ tinh hóa,” tiểu gia đình của một đại gia đình trong làng/ thời đại nông nghiệp.

    Vào thế kỷ 19, nhiều học giả đã tiên đoán nền kỹ nghệ sẽ chiến thắng vẻ vang nền nông nghiệp chân tay. Sức mạnh kỹ nghệ của Đợt Sóng Thứ Hai dựng nên những đô thị lớn, sản xuất phương tiện di chuyển nhanh, và giáo dục đại chúng.

    Tư tưởng của con người trong thời đại kỹ nghệ đã phát triển thành nhiều lãnh vực, làm thay đổi mọi mặt từ đời sống cá nhân, gia đình tới những cơ cấu tổ chức đoàn thể đảng phái, hay công ty xí nghiệp cấp quốc gia và guồng máy cai trị.

    a. Quân Chủ Lập Hiến

    Trước Đợt Sóng Dân Chủ Hoa Kỳ, các nước quân chủ Châu Âu, Châu Á… không thể khinh thường, nên phải cho dân một số tự do, quy định rõ ràng trên giấy trắng mực đen, lối cai trị gọi là quân chủ lập hiến.

    Thật ra ý niệm về hiến pháp đã được triết gia Hy Lạp Aristotle bàn tới từ hơn 300 năm trước Tây lịch, khi ông đặt vấn đề về tổ chức cai trị. Nhưng các vua chúa thời đó tới nay trải qua 2000 năm vẫn không muốn thi hành. Nếu lập ra luật pháp, công bố văn kiện hiến pháp thì vua chúa phải chia quyền với dân, và vua chúa sẽ bị giới hạn quyền hành bởi luật pháp chi phối, cũng là điều mà những người cai trị không bao giờ muốn. Nhưng vì không muốn vương quyền của họ sụp đổ nên họ phải thay đổi hình thức cai trị, biến quân chủ phong kiến/ quân chủ chuyên chế thành ra quân chủ lập hiến.

    Tiếp đến cuộc cách mạng kỹ nghệ đã sản sinh ra một số đại tư bản, tư bản, và người dân nghĩ rằng thể chế quân chủ đã là mầm mống của bóc lột bất công, cần lật đổ để tranh lấy quyền cai trị. Một lần nữa, các vua chúa của chính thể quân chủ lại cho người dân thêm tự do và quyền hành để bảo đảm sự an toàn cho hoàng tộc. Hình thức cai trị này gọi là Quân Chủ Đại Nghị.

    b. Quân Chủ Đại Nghị

    Quân chủ đại nghị là hình thức cai trị của quân chủ lập hiến, nhưng quyền cai trị phần lớn nằm trong tay người dân. Các đại diện dân (dân cử) được giữ, được ứng cử vào các chức vụ trong guồng máy công quyền, trừ chức vua.

    Trong thể chế đại nghị, vua chỉ có trên hình thức trị vì, đang khi quyền cai trị, quyền quyết định lại thuộc về các đại diện của dân. Có thể nói, chính thể quân chủ đại nghị là một hình thức chuyển giao quyền cai trị từ vua sang dân, từ quân chủ sang dân chủ. Một cuộc cách mạng, một cuộc biến đổi thể chế chính trị trong vòng trật tự, ổn định và điều hòa.

    c. Thể Chế Dân Chủ

    Sự kiện tuyên bố bản Hiến Pháp Hoa Kỳ mở đầu một hình thức cai trị mới, mọi thành phần xã hội, không phân biệt nguồn gốc, chủng tộc, phái tính, tín ngưỡng… đều được quyền tham dự vào mọi sinh hoạt của quốc gia, và bình đẳng trước pháp luật. Hình thức chính trị này gọi là thể chế chính trị dân chủ. Mặc dù hình thức mới này được sinh sản và thực thi ở Châu Mỹ, nhưng phải thừa nhận rằng nó đã được thai nghén từ những cá nhân ưu tú, yêu chuộng tự do và công bằng với lòng nhiệt thành, hăng say nung đúc tư tưởng dân chủ từ môi trường mang thân phận nông nô, tội đày của các lãnh chúa và giai cấp qúy tộc thống trị Châu Âu.

    Và mặc dù Châu Âu có thực thi thể chế chính trị dân chủ, nhưng tinh thần độc tài của các lãnh chúa vẫn còn tồn tại… cho nên nó đã sản sinh ra các lãnh chúa trong ngành kỹ nghệ, gọi là tư bản. Sự chênh lệch của hai giai cấp giàu – nghèo trong xã hội tạo ra bất công và làm tiền đề cho Chủ Thuyết Cộng Sản phát sinh.

    Rồi từ đó, thể chế dân chủ đã bị diễn giải và thi hành bởi những tham vọng cá nhân có đầu óc bệnh hoạn như những người Cộng Sản đang cai trị trên quê hương Việt Nam chúng ta. Cho nên hiện nay có nhiều thể chế dân chủ: Dân Chủ Thật (Âu Mỹ) – Dân Chủ Trá Hình (Cộng Sản) – Dân Chủ Hạn Chế (Á, Phi).

    4. Đợt Sóng Tín Liệu

    Trong lúc đợt sóng thứ hai vẫn còn đang tiếp diễn trên các quốc gia chậm tiến, thì đợt sóng khác quan trọng hơn lại đã bắt đầu. Đợt sóng mới khởi nguồn từ đầu thập niên sau Thế Chiến II, và là Đợt Sóng Thứ Ba đang lan tràn trên địa cầu, làm thay đổi toàn diện cuộc sống con người.

    Nếu như đợt sóng thứ hai bắt đầu tại Hoa Kỳ vào khoảng năm 1650, thì đợt sóng thứ ba đã chuyển đổi thời đại tại Hoa Kỳ vào năm 1955. Ở thập niên này, lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại: giới công nhân dịch vụ văn phòng có nhiều hơn công nhân lao động chân tay. Chúng ta thấy xuất hiện máy điện toán, máy bay phản lực thương mại, thuốc kiểm soát sinh sản, và những phát minh kỹ thuật khác.

    Ngày nay tại những quốc gia kỹ thuật cao, thì sự va chạm giữa hai đợt sóng nói trên đã làm cho nền kinh tế của đợt sóng thứ hai đông đặc và tàn lụi dần.

    Biểu tượng của thời đại tín liệu là “máy điện toán.” Máy này đã làm cho tiền tệ di chuyển với vận tốc ánh sáng, là điều mà những nhà kinh tế học của thời đại trước khó tiên đoán được. Tiếp đến các cơ quan xã hội có chiều hướng lưỡng hệ/ đa hệ, tức nam nữ bình quyền và không mang huyết thống hay liên hệ họ hàng… vì nhân tài là đặc tính của thời đại chớ không độc quyền của một dòng tộc hay sắc tộc.

    a. Kinh Tế Tín Liệu

    Trong lúc đất đai, công nhân, nguyên liệu, vốn liếng là những yếu tố sản xuất của thời đại kỹ nghệ, thì Kiến Thức (Knowledge) lại được xem là dữ kiện, tin tức, hình ảnh, biểu tượng, văn hóa, lý thuyết… là yếu tố sản xuất của thời đại tín liệu. Kinh tế tín liệu đặt nền tảng ở các Thị Xã Kỹ Thuật Cao (HITECH City) [*1].

    Kỹ thuật của thời đại mới làm hạ giá thành của các sản phẩm. Các sản phẩm và dịch vụ lại càng ngày càng rẻ tiền, tiện lợi, nhanh chóng nhờ có kỹ thuật cao. Ví dụ điển hình là trong thập niên trước, giá thành của một chiếc máy in Lasser bán ra thị trường với số tiền rất cao, đã mắc gấp ba lần giá thành hiện nay, và cũng nhờ kỹ thuật tân kỳ đã làm cho máy in chạy ra nhanh gấp nhiều lần so với máy thời trước.

    Vì kỹ thuật càng ngày càng được tinh vi, nhỏ gọn, rẻ tiền nên nó được phổ biến nhanh chóng và địa phương hóa nền kinh tế khắp nơi. Chính điều này đã tác dụng và làm thay đổi cán cân thăng bằng của các nền kinh tế quốc gia và các khối chính trị.

    Kiến thức là điều cần thiết cho việc sản xuất và tạo ra thịnh vượng. Nó làm giảm sức lao động, bớt đi máy móc, tiết kiệm năng lượng, nguyên liệu, thời giờ, tiền bạc… và không cần kho chứa hàng hóa. Ví dụ, máy tiện được điện toán hóa nên có độ chính xác rất cao, rất nhanh, bớt hao hụt nhôm, thép và còn giảm giờ làm việc của công nhân. Và nhờ kỹ thuật thông minh kiểm soát nhiệt độ nên máy móc này đã gỉam điện, giảm khí, giảm nước… hoặc xe hơi cũng giảm nhiều nhiên liệu tiêu dùng. Năng lượng mặt trời và sức gió cũng sẽ trở nên đóng góp quan trọng trong kỹ nghệ cũng như tư gia vào một ngày gần đây.

    Với mức độ sản xuất trong thời đại tín liệu sẽ nhanh, nhiều, đẹp, nhiều kiểu… và được thay đổi luôn nhờ vào máy điện toán cho phép, một nhà máy chế tạo xe hơi có thể sản xuất ra rất nhiều kiểu xe mới lạ, mà tốn phí trong việc đúc khuôn lại còn rẻ hơn ở thời đại kỹ nghệ.

    Thời đại tín liệu là thời mua bán tin tức, sáng kiến, quản trị, văn hóa, kỹ thuật tân tiến, nhu liệu điện toán, giáo dục, huấn luyện, y khoa, tài chánh và các dịch vụ của thế giới. Bởi thế những công nhân trí óc hay lao động chân tay, muốn có việc làm trong thời đại mới này họ đòi hỏi phải có Kiến Thức, nhưng cũng nhờ kỹ thuật tân tiến sẽ giúp cho việc gíao dục mở rộng để có thể đào tạo ra hàng tỷ chuyên viên.

    Giá trị của các hãng điện tử, điện ảnh, máy móc gia dụng, xe hơi… ắt lệ thuộc vào sáng kiến, kiến thức cao, sự hiểu biết trong đầu của nhân viên, các dữ kiện của ngân hàng, bằng sáng chế mà các công ty có thể kiểm soát được, chớ không chỉ lệ thuộc vào xe vận tải, hệ thống giây chuyền với những tài sản vật chất khác như thời đại kỹ nghệ. Số vốn kiến thức sẽ tăng trưởng dần, nhưng khó mấy ai nhìn thấy.

    Tóm lại, các khám phá về khoa học, kỹ thuật của thời gian trước ắt trở thành lỗi thời. Hệ thống gíao dục cũng phải đặt lại vấn đề. Các cơ cấu tổ chức kinh doanh, xã hội, chính trị… cũng được nghiên cứu để canh tân cải tiến sao cho phù hợp và theo kịp thời đại văn minh tín liệu này.

    b. Kiến Thức

    Kiến thức là sự hiểu biết thấu đáo một hay nhiều vấn đề. Từ công ty cho tới cường quốc đều thu thập kiến thức trong mọi lãnh vực: truyền thông, văn hóa, nghiên cứu và phát triển bằng nhiều nguồn tài nguyên rộng lớn với những phương tiện tối tân. Phương cách để thu thập tin tức có gía trị là qua hệ thống tình báo, điệp viên.

    Chiến Lược Kiến Thức của quá khứ, hiện tại, và tương lai là tìm cách chuyển các nhân tài/ thiên tài của nước người thành ra của nước mình. Vì nhân tài/ thiên tài là người thông minh, là kho tàng kiến thức, do đó các sinh viên/ học sinh ưu tú đều được cấp học bổng.

    - Ngay tự ngàn xưa, vấn đề nhân tài và mỹ nữ đã trở thành mối quan tâm đối với triều đình đế quốc, và trong nhiều giai thoại, nhân tài hay mỹ nữ đã làm thay đổi cuộc diện chính trường của một quốc gia. Và để thâu nạp và chiếm hữu nhân tài của các nước chư hầu, thì đế quốc thời đại nông nghiệp cũng đã “chiêu hiền đãi sĩ,” hoặc tìm bắt nhân tài qua hình thức Triều Cống.

    Triều cống là dâng nạp phẩm vật hoặc người tài cho nước thống trị. Thời gian bị đô hộ thì Việt Nam phải triều cống Trung Quốc theo thứ tự ưu tiên: thứ nhất nhân tài, thứ nhì mỹ nữ, thứ ba tiền vàng… Và thời nay, chính sách thâu nạp nhân tài phục vụ cho “thiên triều” vẫn còn áp dụng qua những chương trình “săn người”: viện trợ, học bổng, di dân, tuyển mộ chuyên viên nghiên cứu.

    Tiếp đến, quân sự hay dân sự, cũng đều xử dụng chiến thuật “tát cạn thông minh,” bằng cách: một là hủy diệt nhà thông thái của đối phương, hai là thâu nạp các nhà bác học. Và một trong những bí quyết của siêu cường ngày nay, là “ăn trộm thông minh” của các nước chậm tiến.

    Trong Đệ Nhị Thế Chiến khi quân đồng minh chiếm Berlin, các nước đua nhau tìm bắt các nhà thông thái của Đức nhằm ngăn ngừa Đức Quốc Xã sáng chế những vũ khí tối tân, bom nguyên tử… và Hoa Kỳ thành công hơn đồng minh trong công tác này để mang số nhà bác học về nước. Chiến lược “tát nước bắt cá,” các nhà thông thái trong Đệ Nhị Thế Chiến cũng xảy ra nhiều chuyện rùng rợn. Đức Quốc Xã đã giết nhiều nhà khoa học Châu Âu vì không đồng ý mà phục vụ cho tham vọng chiến tranh của quốc trưởng Adolf Hitler.

    Ngày nay, chiến lược kiến thức vẫn không tận cùng. Lưỡi kiếm chiến lược kiến thức được mài sắc bén hai bên, một bên thì dùng chém đứt sức tấn công của quân địch, và bên kia lại chặt đứt những cánh tay nuôi dưỡng nó. Hoa Kỳ là một nơi tốt nhất và nuôi dưỡng nhân tài/ thiên tài.

    Các nhân tài/ thiên tài của các ngành, các lãnh vực ở khắp nơi trên thế giới đổ xô về Hoa Kỳ để học hỏi, nghiên cứu, tiến thân vì rằng quốc gia của họ không đủ phương tiện cung ứng trong việc nghiên cứu, và giúp họ phát triển tài năng. Ngoài ra, mức lương bổng và nếp sống cao đã thu hút rất nhiều nhà thông thái của thế giới vào Hoa Kỳ để làm việc cho siêu cường nguyên tử.
    Cũng trong Đệ Nhị Thế Chiến, kỹ thuật quân sự ở Hoa Kỳ đã tiến bằng vận tốc ánh sáng qua cuộc nghiên cứu và thí nghiệm nguyên tử thành công. Hai quả bom nguyên tử thả xuống Nhật Bản trước đây, nó chỉ là mặt trái của một vấn đề, đang khi việc xử dụng nguyên tử vào kỹ thuật hòa bình, nó đã thúc đẩy nền kinh tế vượt tiến quá nhanh. Từ đó mà ngành tín liệu phát triển và ảnh hưởng ngược lại lãnh vực quân sự.

    Như chúng ta biết nhà bác học Von Braun, người phát minh hỏa tiễn V1, V2 của Đức. Hỏa tiễn thì đã có tự ngàn xưa dưới dạng pháo thăng thiên của Trung Hoa. Khi những chiến lược gia Đức Quốc Xã cần vũ khí mới để thống trị thế giới, Von Braun được bổ nhiệm giám đốc trung tâm sản xuất hỏa tiễn. Hỏa tiễn V1 ra đời bằng nhiên liệu đặc biệt và đạt vận tốc 600 cây số/ giờ. Nạn nhân đã từng kinh hoàng với tiếng rú tử thần gầm thét xé tan bầu trời u ám của hỏa tiễn V1, trước khi chạm mục tiêu và tàn phá muôn loài. Chiếc V1 chỉ là bước đầu của Von Braun, đã không phải là mục đích nhắm tới, như lời ông nói trong một buổi thuyết trình về hỏa tiễn. Ông cho biết, hỏa tiễn sẽ mở cửa cho Con Người bước vào không gian vô tận, và từ đó Con Người sẽ cảm nhận sự u tối của chính mình đối với không gian, [*2].

    Hỏa tiễn V2 ra đời và đốt bằng nhiên liệu lỏng, có vận tốc nhanh hơn vận tốc âm thanh, nên khi hỏa tiễn mang bom nổ tan tành thì lúc đó nạn nhân mới biết mình chết, và đã gây ra kinh hoàng cho thế giới. Những nhà chiến lược Đức Quốc Xã cũng tiếc rằng đã chế V2 hơi trễ, và nếu chế được bom nguyên tử thì quốc trưởng Adolf Hitler không ngần ngại gì mà không cho gắn bom nguyên tử vào hỏa tiễn V2 để tàn sát các quốc gia láng giềng.

    Sau này Von Braun cũng làm giám đốc trung tâm hỏa tiễn Hoa Kỳ, và các khoa gia tuyên dương ông làm người mở đầu kỷ nguyên thám hiểm không gian. Và là một giám đốc, ông đã thành công trong nhiệm là được sự hợp tác tích cực của mọi nhân viên. Dù là một nhà bác học, nhưng ông ngay thẳng liêm chính, công bằng, không lạm dụng quyền hạn chèn ép nhân viên dưới quyền, và biết áp dụng quyền lợi như lên chức, lên lương, tặng thưởng để khuyến khích, thúc đẩy nhân viên tích cực hợp tác. Von Braun đã thành công trong vai trò lãnh đạo của mình.

    c. Nghiên Cứu Phát Triển

    Các nước văn minh chi tiêu một ngân khoản khổng lồ trong việc “Nghiên Cứu và Phát Triển. Công việc nghiên cứu (Research) của các công ty, hay của quốc gia được nâng lên ưu tiên hàng đầu vì có nghiên cứu tìm tòi học hỏi thì mới khám phá, mới phát minh để phát triển nền kinh tế quốc gia.

    Hoa Kỳ chi tiêu những ngân khoản lớn cho việc nghiên cứu. Những trung tâm nghiên cứu này lại được trang bị những máy móc, dụng cụ tối tân bậc nhất thế giới. Chính đặc điểm này đã thu hút nhân tài trên thế giới, vì rằng các nơi khác không đủ phương tiện để nghiên cứu giúp cho người tài thi thố tài năng.

    Ngoài ra, chương trình “săn đầu người,” Hoa Kỳ trợ cấp học bổng cho những sinh viên/ học sinh ưu tú đại học/ trung học, và những ai tỏ lộ khả năng xuất chúng ở bất cứ lãnh vực nào trong xã hội, họ cũng đều được đi du học/ tu nghiệp ở Hoa Kỳ, và tạo cho nước này thành nơi qui tụ nhân tài/ thiên tài của cả một thế giới.

    Đọc trong quyển “Wake up and Dream,” xây dựng niềm tin và đạt tới đỉnh cao của danh vọng của một nữ nhân tài/ thiên tài, mà tôi ngưỡng mộ [*3]. Chuyện kể rằng Romana Acosta Banuelos lập gia đình năm 16 tuổi ở Mexico, khi được hai con thì cô phải ly dị. Trước nghịch cảnh gia đình tan vỡ, tương lai mờ mịt Romana thu xếp hành trang gia tài vào trong hai gói khăn nhỏ và vượt biên vào Texas, Hoa Kỳ.

    Thoạt tiên Romana phải đi làm công cho một tiệm giặt ủi rẻ mạt với mức lương một dollar mỗi giờ. Khi dành dụm được ít mỹ kim, cô di chuyển về Los Angeles và làm đủ mọi thứ nghề. Thời gian sau Romana để dành được vài ngàn mỹ kim và hùn vốn với một người cô họ mở ra một tiệm, hai tiệm, ba tiệm… và cứ thế nhiều tiệm “Romana’s Mexican Food: Thực Phẩm Mễ Tây Cơ,” một hệ thống bán sỉ thực phẩm Mễ lớn nhất ở Hoa Kỳ, được điều khiển bởi hai phụ nữ và hàng trăm công nhân.

    Khi thành công về tài chánh và bảo đảm cho hai con, Romana quay về thực hiện giấc mơ của bà, bằng cách bà thành lập ngân hàng mang tên The Pan-American National Bank ở phía đông Los Angeles. Trải qua nhiều thử thách, ngân hàng này đã tích lũy số vốn và có trên 20 triệu mỹ kim. Romana đã không dừng ở đó, mà từ một chủ ngân hàng bà bước sang giữ chức vụ Tổng Trưởng Ngân Khố thứ 34 của Hoa Kỳ, là chức trách quan trọng của một siêu cường thế giới.

    d. Địa Lý Chính Trị

    Theo lý thuyết địa lý chính trị vào thế kỷ 19, Châu Âu đã trở thành một trung tâm quyền lực của thế giới. Các nước Châu Âu được coi như là quần đảo quyền lực (thuyền: chính quyền), và các nước chậm tiến trên Thế Giới được xem như đại dương (nước: dân). Và từ đó các chiến lược gia nhận định rằng: Ai cai trị Châu Âu thì cai trị Thế Giới [*1]. Nhưng rồi chiến lược quân sự đã phải thay đổi và tùy thuộc mục tiêu, vũ khí trang bị thời đại:

    - Khi tàu thủy nhả khói trên biển cả, người ta nhận định: “Ai kiểm soát đại dương thì kiểm soát toàn cầu.”

    - Khi máy bay bắt đầu lượn trên bầu trời, người ta lại nói: “Ai kiểm soát bầu trời thì kiểm soát toàn cầu.”

    - Khi vệ tinh và trạm không gian xuất hiện, người ta kết luận: “Ai kiểm soát không gian thì kiểm soát thế giới.”

    Vào thế kỷ 20 Châu Âu đã mất quyền lực nắm giữ trung tâm chính trị thế giới, và biến thiên với những trung tâm quyền lực khác là Hoa Kỳ – Liên Sô – Nhật Bản hoạt động trong chiến tranh lạnh (Cold War) [*2]. Nhưng sau khi Liên Sô sụp đổ thì thế giới nhìn nhận chỉ còn Hoa Kỳ là siêu cường, chẳng những là siêu cường trong nhiều thập niên qua mà còn giữ được địa vị này trong nhiều thập niên tới, “Hoa Kỳ là trung tâm quyền lực thế giới.”

    Hoa Kỳ phát triển kỹ thuật nguyên tử, điện tóan và đồng Mỹ kim đã ngự trị trên nền tài chánh thế giới. Và để đương đầu với tiền Mỹ, các nước Âu Châu cố gắng củng cố Khối Châu Âu và phát hành đồng Euro nhằm mục đích làm thăng bằng cán cân quyền lực với Hoa Kỳ.

    Theo thuyết thăng bằng vũ trụ, một hòn bi lớn lên thì những hòn khác sẽ tự động kết lại để làm thăng bằng. Khi một nước trở thành siêu cường thì các nước khác sẽ thành lập liên minh đương đầu với siêu cường đó, và làm cho siêu cường đó quay đúng qũy đạo. Lý thuyết này cũng đặt trên những ý tưởng: không một ai muốn chiến tranh, chính quyền không thích mạo hiểm, mọi thành phần có thể thương thuyết trong hòa bình, và nhân loại có một hệ thống chính trị hợp lý.

    Những cuộc nghiên cứu về hệ thống địa cầu và mặt trăng của Hoa Kỳ, hay những nước tân tiến khác… đã phát sinh “chiến lược quân sự không gian: Strategic Defense Initiative,” khi Tổng Thống Hoa Kỳ Ronald Reagan đề ra chương trình chiến tranh giữa các vì sao (Star War). Vấn đề quân sự thế giới lại bị lệ thuộc vào các vệ tinh bay xung quanh địa cầu. Từ đó câu nói “Ai kiểm soát trạm không gian thì cũng kiểm soát các vệ tinh,” đã trở thành chân lý.

    Trạm không gian được thiết lập tại các điểm mà sức hút cân bằng giữa mặt trăng và trái đất. Những căn cứ này có thể ở lại một thời gian lâu mà không cần tiếp tế nhiên liệu. Chương trình thiết lập trạm không gian của Hoa Kỳ và Nga đã được tiến hành, trạm này có diện tích rộng như một sân banh.

    d. Hòa Bình

    Hòa bình là ước vọng của nhân loại, khác với chiến tranh là khía cạnh tàn ác của con người. Mỗi thời đại con người cũng tạo ra một loại chống chiến tranh, cần giới hạn chiến tranh để mang lại hòa bình. Mỗi thời đại cũng tùy theo vũ khí, tổ chức quân đội để có những loại chiến tranh và hình thức hòa bình thích nghi với thời đại.

    Năm 1864, nhiều quốc gia đồng ý để bác sĩ và nữ cứu thương trung lập trong việc chăm sóc thương bệnh binh không phân biệt quốc tịch, không phân biệt bạn thù. Phong trào này ảnh hưởng bởi cuốn hồi ký của thương gia Henry Dunant có tên “A Memory of Solferino” xuất bàn năm 1862 [*3]. Tiếp đến năm 1868, nhiều quốc gia đồng ý không chấp nhận một số đạn đầu nổ.

    Thời đại kỹ nghệ những tổ chức chống chiến tranh miệt mài tranh đấu, chống lại những kỹ nghệ quân sự sản xuất vũ khí. Nhưng thời đại tiền tín liệu kỹ nghệ sản xuất vũ khí đã hoán chuyển dân sự, thì sao? Nhiều xí nghiệp dân sự sản xuất sản phẩm dân sự mà có thể áp dụng cho quân sự, thì sao? Cần biện pháp nào kiểm soát?

    Từ khi các quốc gia trên thế giới ký kết hòa ước đồng ý loại bỏ một số vũ khí hóa học và vi trùng, và ấn định những tiêu chuẩn dành cho tù hàng binh, ngăn ngừa diệt chủng và vũ khí nguyên tử… Người ta coi đó là những bước tiến dẫn đến hòa bình.

    Nhưng hiện tình lại thường xảy ra, mỗi khi các nhà thương thuyết vừa im hơi là tiếng súng lại bắt đầu nổ vang. Thế giới thêm nhiều biện pháp như trừng phạt kinh tế, cô lập ngoại giao… nhưng chiến tranh vẫn luôn xảy ra, và không bao giờ ngừng.

    Thế rồi các hiệp ước hạn chế vũ khí nguyên tử, cấm thí nghiệm nguyên tử… là dấu hiệu hòa bình, nhưng các vũ khí đó thuộc về thời đại kỹ nghệ. Đang khi nền văn minh tín liệu cần cải tiến hành tinh chúng ta đang sống, ai hy vọng nền văn minh này sẽ mang lại hòa bình mà không có kế hoạch ngăn ngừa chiến tranh thì thật là ngây thơ, vì “Lưỡi Kiếm lúc nào cũng sắc bén hơn Lưỡi Cày.”

    Lưỡi kiếm tín liệu chắc chắn sắc bén hơn, nhanh chóng hơn, hữu hiệu hơn bất cứ chiến tranh nào ngày trước. Nếu con người không đặt lại vấn đề hòa bình của ngày nay, thì các dụng cụ máy móc kinh doanh có thể biến thành vũ khí trong thoáng chốc. Bởi các dịch vụ, phương tiện kinh tế, thương mại của thời nay cũng có thể xử dụng cho chiến tranh.

    Để tồn tại chúng ta phải có chiến lược chống chiến tranh. Chúng ta cần nhìn xa cảnh giác, ủng hộ các tổ chức chống chiến tranh hầu mang lại nền hòa bình thế giới. Việc làm này đã không dễ, vì theo Tôn Tử dạy rằng, “Đánh trăm trận trăm thắng chưa phải là người tài. Người tài là người ngăn ngừa không để chiến tranh xảy ra.”

    Vũ khí tín liệu thay đổi hình dạng… vũ khí không giết người, hay vũ khí giết người một cách khủng khiếp. Những vũ khí này có thể sản xuất ngay trong xí nghiệp dân sự, mà không cần thiết bị quân sự như trước đây. Những vũ khí bán ra lại được “in vào” bộ phận thông minh để giới hạn việc xử dụng trong trường hợp bị rơi tay địch. Nhà sản xuất có thể “cấy chip” tự hủy vào máy bay, hay vào dàn phóng hỏa tiễn, xe tăng, hỏa tiễn, tàu thủy… khi lọt vào tay địch, thì họ có thể ra lệnh tự hủy chiến cụ ấy.

    Vệ tinh không gian có thể phát giác ra những vũ khí chiến cụ đang hoạt động ở đâu, mục đích gì… để có thể ngăn chặn, hoặc phá hủy kịp thời. Với trình độ khoa học hiện nay, đối phương không thể tháo gỡ “bộ phận tự hủy,” vì khi đụng tới, đương nhiên nó tự phá hủy vũ khí, hay chiến cụ tịch thu được. Đây cũng là hình thức giải quyết chiến tranh để có hòa bình.

    Tuy nhiên, vấn đề chiến tranh và chống chiến tranh thời nay lại lệ thuộc vào không gian, với những đồn binh đang đóng ngoài hành tinh trái đất. Việc làm này không đơn thuần về ngân khỏan tài chánh mà là sinh mạng nhân loại.

    (Còn tiếp)


    Hình minh họa internet


Hội Quán Phi Dũng ©
Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




website hit counter

Working...
X