Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Phản bác Phim Vietnam War

Collapse
X

Phản bác Phim Vietnam War

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Phản bác Phim Vietnam War

    PHÊ BÌNH VIETNAM WAR CỦA KEN BURNS

    EPISODE 1

    Hoàng Duy Hùng


    A paratrooper from the 173rd Airborne Brigade after a July 1966 firefight, in Ken Burns and Lynn Novick’s “The Vietnam War.” Credit John Nance/Associated Press

    Trong tháng 9 năm 2017, Đài Public Broadcasting Service (PBS), một cơ quan truyền thông giáo dục, chiếu một loạt (serie) phim tài liệu Vietnam War của Ken Burns trên toàn quốc Hoa Kỳ. Trước khi trình chiếu, PBS quảng cáo rầm rộ đây là loạt phim tài liệu rất giá trị do ông Ken Burns nghiên cứu 30 năm nên rất trung thực và khách quan.

    Với tầm vóc trình chiếu toàn quốc do một cơ quan chú trọng giáo dục và với sự bảo trợ của nhiều mạnh thường quân như thế thì Vienam War của ông Ken Burns rất có uy thế cho thế hệ sau khi nghiên cứu về lịch sử Việt Nam. Người xưa nói: "Làm bác sĩ sai thì giết một người; làm chính trị sai thì giết một thế hệ; làm văn hóa sai thì giết tương lai cả một dân tộc." Vietnam War của ông Ken Burns là một tác phẩm văn hóa nghiên cứu về chính trị và sử của nước Việt và Hoa Kỳ, nếu có điều gì đó sai lầm thì nó sẽ "đầu độc" cho biết bao thế hệ tương lai.

    Vì quan niệm tầm quan trọng Vietnam War của ông Ken Burns trên thế hệ tương lai, tôi xem phim tài liệu này. Mới xem xong tập đầu, Episode 1, tôi đã cảm thấy máu chảy rần rần lên trên đầu và sự giận dữ tột độ xâm chiếm tâm hồn tôi. Tôi liền viết một điện thư (email) cho ông Steve Sherman, một người bạn của ông Ken Burns, phản ảnh quan điểm của tôi. Tôi gởi bản sao email này cho một số thân hữu và gởi lên trên Diễn Đàn Chinh Nghĩa. Tôi cho rằng tập phim tài liệu này vô tình ông Ken Burns là cái loa tuyên truyền cho Cộng Sản Việt Nam, ca tụng Hồ Chí Minh quá lố và khiếp sợ quân đội Bắc Việt một cách lố bịch cũng như ông Ken Burns chạy tội cho Hoa Kỳ vì những mưu đồ chính trị đã sát hại Tổng Thống Ngô Đình Diệm, tham gia một cuộc chiến với chủ trương không thắng để có cơ hội giải quyết toàn bộ vũ khí tồn đọng lại từ thời Đệ Nhị Thế Chiến, và vì thế đã bán đứng Việt Nam Cộng Hòa và giờ đây Ken Burns lần thứ hai đâm lút cán sau lưng các chiến sĩ VNCH. Tôi tỏ rõ lập trường là sẽ không để cho các con tôi xem phim tài liệu này vì đây là phim tuyên truyền đầu độc bóp méo lịch sử, hạ nhục Việt Nam Cộng Hòa, và tôi sẵn sàng công khai đối chất với ông Ken Burns về những quan điểm của ông ấy ở phim Vietnam War.

    Không ngờ trong một thời gian ngắn, tôi nhận nhiều phản hồi từ email cho đến điện thoại, ngay cả ông Steve Sherman, ông Sherman cũng đồng ý với quan điểm của tôi và còn yêu cầu tôi hãy làm một điều gì đó để bảo vệ chính nghĩa của người Quốc Gia, của Việt Nam Cộng Hòa, mà do ông Ken Burns đã bóp méo vo tròn đầu độc. Ông Steve Sherman còn cho biết ông muốn nhiều người Việt Nam phản ứng về Vietnam War của Burns như tôi đã làm để ông đóng lại thành tập phản ảnh cho Burns biết cũng như lưu làm hồ sơ cho thế hệ sau.

    Có người lại khích tướng: "Tôi coi hết từ đầu tới cuối.. không phản ứng. Chú mày năm 1975 còn bé tí teo, nóng chi vội."

    Cá nhân tôi có nhiều hạn chế, nhưng trước lời khích lệ và "khích tướng" của nhiều người, bước đầu, tôi phân tích những sai lầm độc hại phim Vietnam War của ông Ken Burns, và hy vọng, từ đó nhiều vị thức giả có khả năng nhập cuộc. Chúng ta cần có một cao trào phản đối phim Vietnam War của ông Ken Burns ngõ hầu trong tương lai khi con em chúng ta lỡ có coi phim tài liệu này thì con em của chúng ta cũng sẽ biết phim này bị phản đối dữ dội và con em của chúng ta sẽ tìm hiểu về những quan điểm mà chúng ta muốn trình bày.

    Những Sai Lầm Trong Vietnam War Tập I của Ken Burns: Tựa đề của tập phim là Vietnam War thì cần sự phản ảnh thời gian đồng đều cho các bên tham chiến trong đó có người Mỹ, Bắc Việt, và Việt Nam Cộng Hòa. Tuy nhiên, Ken Burns dành quá nhiều thời gian cho Mỹ, cho Bắc Việt, còn thời gian cho quan điểm của Việt Nam Cộng Hòa thì rất ít và nếu có thì chỉ trình bày những phần không quan trọng hoặc chỉ liên quan đến tầm ảnh hưởng chiến thuật chớ không nói lên được quan điểm chiến lược.

    1. Tựa Đề tập I là Vietnam War từ thời 1858-1961, tức là từ thời chống Pháp Thuộc, ở phút thứ 15, Ken Burns ca tụng Nguyễn Tất Thành với bút hiệu là Nguyễn Ái Quốc, năm 1919, đã đưa Bản Kiến Nghị cho phái đoàn của Tổng Thống Woodrow Wilson về vấn đề của Việt Nam. Thật ra, Phong Trào chống Pháp nổi danh thời gian đó phải nói đến hai cụ Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh. Bản Kiến Nghị mà Nguyễn Tất Thành đi trao cho phái đoàn của Tống Thống Woodrow Wilson năm 1919 là do những nhà chí sĩ Việt Nam ở Paris lúc đó viết. Nhóm này gồm có luật sư Phan Văn Trường, ông Nguyễn Thế Truyền, nhà ái quốc Phan Chu Trinh, và ông Nguyễn An Ninh, cả nhóm lấy bút hiệu là Nguyễn Ái Quốc. Nguyễn Tất Thành chỉ là "người đưa thư" mà thôi, nhưng sau này Nguyễn Tất Thành "chôm credit" của cả nhóm và tự nhận mình là "Nguyễn Ái Quốc " từ giây phút đó. Công trình nghiên cứu sử 30 năm của Ken Burns không đá động gì đến những người như cụ Phan Chu Trinh, luật sư Phan Văn Trường, ông Nguyễn Thế Truyền, ông Nguyễn An Ninh, và cụ Phan Chu Trinh thì quả thật đó là một việc tai hại, vô tình, Ken Burns đã ban chính nghĩa và chính thống cho Nguyễn Tất Thành.

    2. Tiếp theo phút 15, Ken Burns ca tụng Nguyễn Tất Thành sau đó lấy nhiều bí danh, và bí danh nổi bật nhất là Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh đã được đánh bóng trở thành người độc thân hy sinh cả đời cho sự nghiệp cách mạng và độc lập của dân tộc Việt, trổi lên như một lãnh đạo sáng chói không có ai có thể so sánh được. Tôi bất đồng ở điểm này một cách sâu sắc vì những tài liệu gần đây của chính Trung Cộng tung ra cho biết Nguyễn Tất Thành với bí danh Nguyễn Ái Quốc đã chết trong tù Victoria, Hong Kong, năm 1932, và nhận chỉ thị của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản, Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã chọn Thiếu Tá Hồ Quang người Trung Quốc để đóng tiếp vai Nguyễn Ái Quốc và sau này là Hồ Chí Minh, và vai Hồ Chí Minh cũng có nhiều người đóng chớ không phải một người. Vậy thì, người mà được gọi là "Hồ Chí Minh" chẳng phải vì tranh đấu chống Pháp giành độc lập cho Việt Nam, mà chỉ thi hành mệnh lệnh của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản, và khi thi hành mệnh lệnh thì có nhiều điều gây tang thương cho dân tộc Việt. Thật ra, trước năm 1945, chẳng ai biết tên tuổi "Hồ Chí Minh," nhưng lúc đó người ta biết đến ba nhà ái quốc Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học, biết đến những chí sĩ của Việt Nam Quốc Dân Đảng, biết đến nhà cách mạng Trương Tử Anh sáng lập Đảng Đại Việt, biết đến nhà cách mạng Nguyễn Hữu Thanh tức ông Lý Đông A. Pháp sát hại nhà cách mạng Nguyễn Thái Học, còn Hồ Chí Minh và nhóm của ông ấy bán đứng cụ Phan Bội Châu cho Pháp để lấy 10 vạn quan tiền, dùng nhiều thủ đoạn thâm hiểm thủ tiêu hay sát hại những nhà ái quốc khác như giết Trương Tử Anh và Lý Đông A để ngoi lên độc tôn lãnh đạo chống Pháp.!!

    3. Từ phút 16 trở đi, Ken Burns nói về tiểu sử của Nguyễn Tất Thành. Những gì Ken Burns nói là bản sao của Đảng Cộng Sản Việt Nam tuyên truyền. Hồ Chí Minh dùng nhiều ngày sinh giả mạo, nhưng theo tôi, năm sinh của Nguyễn Tất Thành chính xác nhất là năm 1894 vì theo sổ thông bạ của làng Kim Liên: "Nguyễn Sinh Cung sinh vào tháng thứ ba năm thứ sáu của Vua Thành Thái." Năm thứ sáu của Vua Thành Thái tức là năm 1894. Lúc viết sổ bạ này, Nguyễn Sinh Cung tức Nguyễn Tất Thành hay là Hồ Chí Minh lúc đó chưa là gì hết thì làng Kim Liên không có lý do gì để giả mạo.

    Ken Burns cho rằng cha con Nguyễn Tất Thành tham gia Phong Trào biểu tình chống Pháp. Tài liệu lịch sử ở trong Thư Khố Aix-en-Provence cho biết Nguyễn Sinh Huy, cha ruột của Nguyễn Tất Thành, năm 1910, bị Pháp bãi chức quan huyện Bình Khê tỉnh Quảng Nam vì say rượu đánh một nông dân tên là Tạ Đức Quang đến chết. Còn nguyên do Nguyễn Tất Thành rời khỏi nước, ngày 15 tháng 9 năm 1911, từ Marseille, Nguyễn Tất Thành viết đơn xin học vào Trường Thuộc Địa của Pháp là muốn học thành tài để phục vụ Mẫu Quốc Pháp tại những thuộc địa, chớ không phải là chống lại Pháp hoặc "đi tìm đường cứu nước" tranh đấu giành độc lập cho Việt Nam.

    Ken Burns tuyên truyền dùm cho ĐCSVN về con người Hồ Chí Minh, khi Nhật xâm lăng Việt Nam, từ Trung Quốc, Hồ Chí Minh đã nhận định Nhật cũng tàn ác như Pháp nên họ Hồ đã kêu gọi "đoàn kết, đại đoàn kết," và từ đó họ Hồ tìm cách xâm nhập về nước để tranh đấu.

    Sự thật như thế nào?

    Năm 1937, tại Quảng Đông, cụ Nguyễn Hải Thần và ông Hồ Học Lãm thành lập Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội. Ông Hồ Học Lãm viết văn, dùng bút hiệu Hồ Chí Minh. Hồ Quang, thiếu tá tình báo của ĐCSTQ, nhận lệnh của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản, dưới vỏ bọc Nguyễn Ái Quốc, lân la làm quen với cụ Hồ Học Lãm. Cụ Lãm lầm tưởng đây là người Việt lưu vong yêu nước chớ không ngờ đó là người Trung Quốc thi hành điệp vụ do Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản trao phó nên vui vẻ tiếp nhận. Sau khi cụ Lãm qua đời năm 1938, Hồ Quang lấy lý lịch của cụ Lãm, dùng luôn bút danh Hồ Chí Minh. Năm 1940, cụ Nguyễn Hải Thần cứu giúp Hồ Quang nay đã núp dưới danh Hồ Chí Minh ra khỏi nhà tù của Trung Hoa Quốc Dân Đảng vì lúc đó Trung Hoa Quốc Dân Đảng rất nghi ngờ Hồ Chí Minh là đảng viên Cộng Sản. Hồ Chí Minh ma mãnh nịnh bợ cụ Nguyễn Hải Thần và xin gia nhập Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội nên cụ Nguyễn Hải Thần mới bảo lãnh cho Hồ Chí Minh ra khỏi tù. Tháng 2 năm 1941, Hồ Chí Minh xin cụ Nguyễn Hải Thần về nước để liên lạc và phát triển Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội. Cụ Nguyễn Hải Thần chấp nhận. Khi ấy, tên tuổi của cụ Nguyễn Hải Thần và Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội rất nổi danh ở Việt Nam. Hồ Chí Minh về khu rừng Việt Bắc, đánh lận con đen, thành lập Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội. Khi ấy dân nghe na ná giống nhau, cứ tưởng Việt Minh là của cụ Nguyễn Hải Thần, là Quốc Gia, nên nhiều người yêu nước gia nhập. Năm 1945, khi cướp được chính quyền, Hồ Chí Minh công khai trở mặt với cụ Nguyễn Hải Thần thì dân mới vỡ lẽ, và từ đó họ gọi Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội là Việt Cách và Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội là Việt Minh.

    Tại khu rừng Việt Bắc, Hồ Chí Minh ngã bệnh nặng. Thiếu Tá Archimedes Patti của Office of Strategic Services (OSS), tiền thân của CIA, cùng với một nhóm quân nhảy dù xuống để chăm sóc chữa bệnh cho Hồ Chí Minh và huấn luyện người của Hồ Chí Minh. Thật ra, khi ấy OSS cộng tác chặt chẽ với Trung Hoa Quốc Dân Đảng, và Trung Hoa Quốc Dân Đảng tưởng Hồ Chí Minh là người của cụ Nguyễn Hải Thần, chắc là Quốc Gia, nên giới thiệu, và khi Thiếu Tá Patti nhảy dù xuống thì Hồ Chí Minh nói láo tự nhận là Quốc Gia, nhưng qua sinh hoạt, thiếu tá Patti nghi ngờ nên đã báo cáo về cho Washington là "nghi ngờ Hồ Chí Minh là Cộng Sản," nhưng vẫn chọn giúp cho Hồ vì "Hồ nói được tiếng Anh và nếu là Cộng Sản thì có pha lẫn Quốc Gia."

    Năm 1945, khi đọc Tuyên Ngôn Độc Lập, có hai nhân viên của OSS tại quãng trường Ba Đình. Phút 26, Hồ Chí Minh đọc Tuyên Ngôn Độc Lập, không nói đã trích lời văn này từ trong Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ. Thời nay, ai cũng cho rằng đó là tội đạo văn (plagiarism) rất là ghê tởm. Nhưng ông Ken Burns phớt lờ chi tiết đó, và ông cho rằng có thể đó là sự ngẫu nhiên xuất phát từ lòng yêu nước của Hồ Chí Minh mà lúc đó Hoa Kỳ đã không nắm bắt được. Theo Burns, lúc đó Hoa Kỳ nắm bắt được để móc nối thì có lẽ Hồ Chí Minh đã không ngã về Liên Xô. Đây quả thật là một quan điểm ngây thơ vì Hồ Chí Minh là gián điệp của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản, ông ấy bề ngoài đóng vai rất hiền hòa dễ thương, nhưng bên trong là một con quỷ dâm dục và tàn ác, lợi dụng ai hoặc lợi dụng chuyện gì được thì lợi dụng, cả việc đạo văn để lấy lòng Mỹ, đừng hòng mà lôi kéo. Cứ lấy vụ cô Nông Thị Vàng ra làm điển hình, Ban Bảo Vệ Sức Khỏe chọn cô vàng làm "hộ lý" cho Hồ, Hồ quan hệ tình dục cho đã đời, rồi giao cô Vàng cho Trần Quốc Hoàn đi sát hại để phi tang.

    Chính Lê Duẫn sau này đã tuyên bố: "Ta đánh Mỹ là đánh cho Trung Quốc, đánh cho Liên Xô" nên ai nghĩ chuyện đấu tranh chống Thực Dân Pháp của Hồ và của ĐCSVN là sự tranh đấu độc lập cho nước nhà là một sai lầm to lớn.

    4. Năm 1945, người Việt gọi là Năm Đói Ất Dậu. Thực Dân Nhật ác độc lấy gạo đốt thành than cho xe lửa chạy chớ không cho dân Việt ăn. Lúc ấy, các đảng như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt Dân Xã Đảng của Lý Đông A, Đại Việt Quốc Dân Đảng kết hợp lại với nhau thành Đại Việt Quốc Dân Đảng, phát động chiến dịch cướp nhà kho của quân đội Nhật cứu đói cho dân. Khi ấy, Hồ Chí Minh chưa có thực lực, so sánh với người Quốc Gia lúc đó thì còn chênh lệch thua kém rất xa. Thế nhưng ở phút 25, Ken Burns lại không nói gì về các đảng phái Quốc Gia, lại ca tụng chính Hồ Chí Minh là người lãnh đạo ra lệnh cho các đảng viên cướp kho lương phân phát cho dân chúng ăn, và theo Ken Burns, Hồ và đàn em của ông được tung hô là những nhà cứu tinh.

    Ngày 9 tháng 9 năm 1945, Trung Hoa Quốc Dân Đảng phái Đại Tướng Lư Hán và Thiếu Tướng Tiêu Văn hộ tống nhà cách mạng Nguyễn Hải Thần về Hà Nội. Cụ Nguyễn Hải Thần giờ mới vỡ lẽ họ Hồ phản phé ông như thế nào. E sợ thế lực của cụ Nguyễn Hải Thần và thế lực Quốc Gia sẽ lớn mạnh, họ Hồ phát động chiến dịch Tuần Lễ Vàng, huy động dân chúng đóng góp vàng và dùng số vàng đó đấm mõm cho hai tướng Lư Hán và Tiêu Văn nhanh chóng trở về Quảng Đông. Hai Tướng Lư Hán và Tiêu Văn về Trung Quốc rồi thì họ Hồ ra tay tiêu diệt từ từ từng người một của các đảng phái Quốc Gia.

    5. Bước sang phút 28:50, Ken Burns cho biết các chiến lược gia e ngại Việt Nam mà rơi vào tay Cộng Sản thì sẽ như con cờ domino đầu bị ngã kéo theo toàn thể Đông Dương, Mã Lai, Nam Dương, Miến Điện và nhiều nước khác sẽ theo Cộng Sản. Ken Burns còn cho biết Tổng Pháp lúc đó là Charles De Gaulle kêu cứu Mỹ giúp họ đứng vững tại Đông Dương, kẻo không Pháp sẽ ngã theo Nga; do vậy, Mỹ đồng ý giúp Pháp.

    Không đúng, từ lâu Mỹ đã có tham vọng thay thế Pháp ở Đông Dương nhưng tìm cơ hội thuận tiện mà thôi. Vì thế, sự giúp đỡ gọi là "chừng mực" đó có hai tác dụng: 1. Bề ngoài vẫn lấy lòng Pháp để Pháp vẫn là đồng minh; 2. Bề trong thì đi đêm để kẻ thù mạnh lên hất cẳng Pháp như vụ Mỹ cho OSS tiếp cận và huấn luyện đội quân của họ Hồ tại Pắc Pó. Vậy là Mỹ là "ân nhân" của cả hai.

    6. Trận chiến Điện Biên Phủ năm 1954, Ken Burns ca ngợi Tướng Võ Nguyên Giáp như một thiên tài quân sự. Ken Burns tuyên truyền còn hơn cả CSVN về khả năng của Võ Nguyên Giáp.

    Ngày hôm nay, biết bao tài liệu từ Trung Cộng, từ nội bộ Đảng CSVN cũng như của những người chống đối đã vạch trần Võ Nguyên Giáp không hiểu biết gì về quân sự. Phải nói, kiến thức quân sự của Võ Nguyên Giáp rất là tồi nên chính CSVN cho họ Võ về làm Bộ Trưởng Bộ Kế Hoạch Sinh Đẻ như một hình thức hạ nhục và Võ Nguyên Giáp nuốt nhục về nhận bộ này đủ thấy rõ tư cách tồi bại của Giáp.

    Có khoảng 11 ngàn quân của Pháp trấn đóng ở Điện Biên Phủ và họ tin rằng với sự góp sức bằng không lực thì Việt Minh không làm gì họ được. Pháp quá ngây thơ tin vào sự thành thật của Mỹ. Họ Hồ khôn hơn nhiều, họ Hồ xin cố vấn của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản. Nhiều tài liệu nay đã lộ rõ Trung Cộng ở đàng sau kế hoạch và chỉ đạo cách thức tấn chiếm Điện Biên Phủ. Nhiều tài liệu cho thấy các tướng tham mưu của Trung Cộng khinh khi kiến thức quân sự của Võ Nguyễn Giáp ra mặt, họ quyết định dùng chính sách "vây nông thôn lấy thành thị" và tấn công bất ngờ; và, quan trọng nhất là phải "thí quân." Chiến thuật "thí quân" là chiến thuật quan trọng nhất vì đạt được 2 mục tiêu: 1. Dùng biển người để làm thiệt hại quân thù; 2. quân thù thiệt hại thì quân ta cũng thiệt hại, nhưng quân ta đây không phải là quân chủ lực mà là "nội thù," nôm na là người Quốc Gia.

    "Vây nông thôn lấy thành thị" thì các tướng tham mưu của Trung Cộng yêu cầu họ Hồ phải kêu gọi toàn dân Việt tham gia tiến về vây Điện Biên Phủ. "Bất ngờ" thì Trung Cộng chia xẻ cho biết kinh nghiệm của họ là phải ngụy trang để không quân không thấy gì hết, ban ngày thì nghỉ, ban đêm thì khởi hành. Còn biển người thì báo cho "phe chủ lực" phải hô to "anh em tiến lên" nhưng không được tiến chút nào, để cho những kẻ không phải là chủ lực, nhất là phe đảng phái Quốc Gia, vì lòng yêu nước, nôn nóng tiến lên trước, chết la liệt cái đã. Chính vì chiến thuật này mà trong trận Điện Biên Phủ, Pháp thiệt hại khoảng 8000 người mà Việt Minh (lúc đó cả Quốc Gia lẫn Cộng Sản) đã thiệt hại gần 50,000 mà đa số là Quốc Gia.

    Rất nhiều tài liệu cho thấy Võ Nguyên Giáp không biết làm gì, lúc thì ra lệnh đưa khẩu pháo ra, bỗng thấy ai đó to tiếng, vào đàng trong họp, 15 phút sau đó trở ra, ra lệnh đưa khẩu pháo vào.

    Ken Burns không hề tham khảo những ý kiến trái chiều, ca tụng Võ Nguyên Giáp như một thiên tài quân sự khi Pháp thất thủ ở Điện Biên Phủ. Nghe qua thấy Võ Nguyên Giáp còn giỏi hơn Quang Trung Đại Đế!!! Đây là quan điểm mà Ken Burns muốn con cháu của tôi thấm nhuần thì ... "sorry, it's not my view."

    Ở phút 55:53, Ken Burns cho biết Tổng Thống Dwight Eisenhower, không cần hỏi ý kiến Quốc Hội, đã cho những phi vụ cứu giúp quân Pháp tại Điện Biên Phủ nhưng cuối cùng Pháp vẫn thua. Đương nhiên, vì quyền lợi của người Mỹ và theo double standard (tiêu chuẩn nước đôi), Tổng Thống Mỹ qua nhiều đời, vẫn sử dụng tiêu chuẩn nước đôi như vậy để đạt tới mục tiêu chiến lược của Mình. TT Dwight Eisenhower giúp Pháp như chỉ cầm chừng để Pháp vẫn ghi ơn Mỹ, nhưng Pháp không đủ sức và Pháp thua thì Mỹ mới có cơ hội thay thế Pháp làm "đàn anh" ở Việt Nam và toàn cõi Đông Dương.

    7. Tới biến cố chia đôi nước Việt năm 1954, Ben Kurns không hề nhắc tới đại diện của phe Quốc Gia là bác sĩ Trần Văn Đỗ phản đối kịch liệt và đã "khóc nức nở như vợ góa trẻ mất chồng" vì Đất Mẹ phải bị cắt đôi, trong khi đó phe của họ Hồ dửng dưng đồng ý tức thời vì như thế cho họ cơ hội thời gian củng cố lực lượng trước khi tấn chiếm toàn thể đất nước chớ không phải lúc đó họ Hồ và "mọi người tin rằng sau 2 năm có Tổng Tuyển Cử thì họ Hồ sẽ chiến thắng hoàn toàn."

    Điểm mâu thuẫn của Ken Burns đó là "dân Việt suy tôn Hồ Chí Minh" như vậy thì tại sao sau Hiệp Định Geneva, dân Việt cả triệu người bỏ cả ruộng vườn nhà cửa để di cư vào Nam? Ken Burns có nhắc đến biến cố này, nhưng ông còn quên chưa nhắc đến Cộng Sản VN tìm bằng mọi cách ngăn chận dân di cư, còn có những vụ nổi dậy của dân như vụ Quỳnh Lưu. Nếu không có sự ngăn chận và hăm dọa của CSVN thì dân di cư vào Nam không phải là 1 triệu mà nhiều triệu người.

    8. Ken Burns nói đến ông Ngô Đình Diệm về chấp chánh năm 1954 và những khó khăn ông Diệm gặp phải với Quân Đội Bình Xuyên là phần còn sót lại của quân Pháp. Burns không nhắc đến những khó khăn khác như Quân Đội của các giáo phái như Cao Đài, Hòa Hảo. Ken Burns cho rằng có những báo cáo không nên ủng hộ ông Diệm, nhưng bất thần ông Diệm tấn công dẹp Bình Xuyên cách ngon lành trong 1 tuần nên Mỹ không còn sự lựa chọn nào khác phải ủng hộ ông Diệm là "một người đa nghi chỉ tin anh em mình" nên cuối cùng ông Diệm đã phải bị giết chết.

    Thật ra ông Diệm bị giết chết không phải vì lý do đó. Lý do đơn giản đó là Hoa Kỳ muốn ông Diệm phải nhường cảng Cam Ranh cho họ đưa quân vào làm chủ tình hình như Hoa Kỳ lúc đó hoàn toàn khống chế Subic Bay ở Phi Luật Tân. Các nhà đại tư bản của Hoa Kỳ, nhất là các công ty chuyên về vũ khí, muốn kích động một cuộc chiến để giải quyết tất cả các vũ khí còn tồn đọng ở Đệ Nhị Thế Chiến, họ muốn dùng Việt Nam là bãi tha ma để thải vũ khí đó.

    Thí dụ, vụ USS Maddox ở Vịnh Bắc Bộ vào tháng 8 năm 1964. Lúc đầu Hoa Kỳ hô hoán lên hải quân CSVN ngụy trang là các tàu đánh cá tấn công hạm đội USS Maddox để rồi Mỹ phải đánh trả rồi chính thức đưa quân hàng loạt vào Việt Nam. Mãi tới năm 2005, tài liệu của National Security Agency (NSA) giải mã cho biết chả có lính hải quân nào của Cộng Sản Bắc Việt dám đùa dỡn hay tấn công USS Maddox, mà đây chỉ là sự giàn dựng của Hoa Kỳ để đưa quân vào Việt Nam.

    Tổng Thống Ngô Đình Diệm không muốn dân Việt là nạn nhân của vụ sa thải vũ khí tồn đọng hoặc là nơi để thử những vũ khí mới, thế là Hoa Kỳ dàn dựng một lô sự kiện nào là "đàn áp Phật Giáo," nào là "độc tài gia đình trị," v.v., để rồi, năm 1963, qua nhân viên tình báo CIA Lucien Conein ra lệnh cho Tướng Trần Thiện Khiêm và Dương Văn Minh phải lật đổ ông Diệm. Các vị tuớng trong Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng mà theo lời Tổng Thống Lyndon Johson, "thugs," tức là "bọn cướp sát nhân," đã đảo chính và sát hại hai anh em Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu vì e sợ "nếu hai ông còn sống thì sau này có thể lật ngược thế cờ thì mấy ông Tướng này không còn đường trốn chạy."

    9. Nói về chuyện Tổng Thống Ngô Đình Diệm từ năm 1956 trở đi chuẩn bị xây dựng quân đội mạnh lên để chống sự xâm lăng của Bắc Việt, Ken Burns cho rằng điều đó không cần thiết vì lúc đó Hồ Chí Minh chủ trương tái kiến thiết và xây dựng lại Bắc Việt mà trong đó có những sai lầm của Đấu Tố Ruộng Đất. Ken Burns cho rằng chủ trương xâm lăng Nam Việt Nam là của Lê Duẫn. Đây là một sự bẻ cong, bóp méo lịch sử để chạy tội cho họ Hồ cách rẻ tiền.

    Sự thật như thế nào?

    Vụ Đấu Tố Ruộng Đất xảy ra từ năm 1953 đến năm 1956. Chuyện này xảy ra trước khi ông Ngô Đình Diệm về nước nhận chức Thủ Tướng. Hồ Chí Minh nhận lệnh của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản, bắt chước mô hình của Mao Trạch Đông ở Trung Quốc, phát động chiến dịch Đấu Tố Ruộng Đất với nhiều mục đích: 1. Triệt hạ những người có công vì sợ nạn kiêu binh; 2. Cơ hội cướp của để có ngân sách cho Đảng CSVN nói riêng và cho chính phủ của họ Hồ nói chung; 3. Gây hoang mang lo sợ để từ đó thiết lập công an trị. Sau khi có ngân sách, để trấn an dân chúng, Hồ Chí Minh đóng vai mèo khóc chuột, rút ưu khuyết điểm và mang Trường Chinh Đặng Xuân Khu ra làm dê tế thần nhận khuyết điểm sai lầm rồi hạ chức nhưng vẫn còn một số thực quyền. Cải Cách Ruộng Đất, Hồ giết chết từ 50,000 đến 100,000 trong đó có bà Cát Long là một đại ân nhân của Hồ.

    Từ năm 1956 đến năm 1959, CSVN phát động chiến dịch bắt bớ giam cầm những tiếng nói đối lập mà CSVN e sợ những đảng viên của các đảng phái Quốc Gia còn ở lại. Bề ngoài là vụ Nhân Văn Giai Phẩm để trấn áp những nhà thơ, nhà văn nhưng bên trong là bắt bớ tiêu diệt cho tận gốc rễ những người mà họ Hồ nghi rằng là "còn sót lại" của đảng phái Quốc Gia. Trước khi mở chiến dịch xâm lăng miền Nam, họ Hồ muốn triệt tiêu cho tận cùng những người đối lập để an lòng mà xâm chiếm chớ không phải họ Hồ lo "kiến thiết và xây dựng lại miền Bắc" như quan điểm của Ken Burns.

    10. Nói đến sau cuộc đảo chính Tổng Thống Diệm năm 1963, Ken Burns cho rằng các tướng lãnh và quân đội VNCH "tham nhũng và lười biếng" đến độ Tổng Thống Lyndon Johnson nổi giận phát biểu bằng mọi giá phải ép QLVNCH ra chiến trường chiến đấu. Năm 1964, Bộ Trưởng McNamara đến Việt Nam với sứ vụ tuyên bố Đại Tướng Nguyễn Khánh là "our boy" của Mỹ nhưng vì "Nguyễn Khánh" không có uy tín nên bị lật đổ và sau đó trong vòng 1 năm Nam Việt Nam đã thay đổi 9 chính phủ.

    Không biết quý vị, nhất là quý tiền bối, nghĩ sao chớ tôi cảm thấy họ nhục mạ Việt Nam Cộng Hòa và QLVNCH tới mức không thể nhục mạ hơn được nữa. Như vậy, Đệ Nhị VNCH chỉ là "boy," là công cụ trò chơi của Mỹ mà thôi, và như vậy, CSVN nói "VNCH là nguỵ quân ngụy quyền tay sai cho Mỹ" thì đúng quá rồi.!!!! Đau lòng khi quá ít người ở trong Đệ Nhị VNCH lên tiếng phản đối quan điểm này. Và như vậy, CSVN tiến chiếm Việt Nam Cộng Hòa thì quá đúng rồi?!!

    11. Phần mở đầu và phần cuối tập I, Ken Burns cho rằng Vietnam War là câu hỏi không có câu trả lời, người này đổ lỗi cho kẻ nọ, không ai trả lời nổi tại sao Hoa Kỳ thua. Điều này hoàn toàn sai.

    Trong bài "Sau 40 Năm Bí Mật" viết vào năm 2011, tôi đã cho quý đồng hương biết rõ ông Daniel Ellsberg gốc Do Thái (sinh ngày 7 tháng 4 năm 1931), là nhân viên của Research and Development (viết tắt là Rand), một công ty cánh tay tình báo của Hoa Kỳ, đã theo dõi từ đầu và tiết lộ Henry Kissinger đi đêm với Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông năm 1971-1972 để bán đứng VNCH và Đài Loan. Chính vì áp lực những tiết lộ của Danel Ellsberg nên năm 2011, Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ chính thức tiết lộ 25,000 trang giấy cho biết Mỹ đã bán đứng VNCH và Đài Loan để đổi lấy giao thương với Trung Cộng hơn 1 tỷ dân mà Mỹ cho rằng thương trường đông dân này có lợi hơn cho Mỹ cũng như để kích động cho Khối Cộng Sản mâu thuẫn lẫn nhau từ đó đưa đến cảnh huynh đệ tương tàn.

    Chính vì lý do này mà Mỹ đã làm ngơ cho Trung Cộng xâm chiếm Hoàng Sa năm 1974, dầu rằng lúc đó Hải Quân VNCH kêu cứu hạm đội 7 của Hoa Kỳ cứu giúp về nhân đạo, họ vẫn làm ngơ không giúp đỡ. Đó là món quà ra mắt tặng cho Trung Cộng của chính phủ Nixon - Henry Kissinger.

    Chính vì lý do này mà nhiều tài liệu từ bên phía CSVN lẫn Hoa Kỳ cho biết sau khi Tổng Thống Richard Nixon cho B52 "trải thảm đỏ" Hà Nội, đặc biệt là Phố Khâm Thiên của Hà Nội mùa Giáng Sinh năm 1972, đầu năm 1973, Lê Duẫn đánh điện gởi Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, gởi cho Henry Kissinger, tín điện đầu hàng, nhưng Henry Kissinger dấu nhẹm vì Chiến Tranh Việt Nam là chiến tranh Hoa Kỳ không có chiến thắng, dùng sự thắng trận của CSVN để phân hóa Trung Cộng và Liên Sô, từ đó tạo nên sự phân rã của khối này.

    Hoa Kỳ đã thua chiến thuật nhưng thắng chiến lược, y như thí xe để sát tuớng đối phương, thắng cả bàn cờ. Tại sao Ken Burns không dám nhắc đến điều này?

    Lời Kết: Bank of America là một trong những nhà bảo trợ để trình chiếu phim Vietnam War của Burns với chủ trương "because we believe what's perspective, comes understanding," - "vì chúng tôi tin rằng cái gì là quan điểm thì sẽ đưa đến sự hiểu biết lẫn nhau." Quan điểm của Burns trong tập 1 như sau: 1. Hồ Chí Minh là người yêu nước hy sinh lo cho dân, họ Hồ được dân Việt mến mộ tột cùng; 2. Hồ Chí Minh không muốn dùng vũ lực tấn chiếm miền Nam, chủ trương đó là của Lê Duẫn; 3. Tổng Thống Ngô Đình Diệm vì độc tài gia đình trị nên bị các tướng lãnh VNCH giết chết; 4. Quân đội của Bắc Việt và của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam chiến đấu kiên trì, anh dũng, trong khi đó, các tướng tá trong QLVNCH thì tham nhũng ăn chơi phè phỡn đến độ Tổng Thống Lyndon Johnson phải bực mình nói tìm bằng mọi cách đẩy cho QLVNCH phải có trách nhiệm chiến đấu và QLVNCH phải ra chiến trường chớ không phải quân đội của Mỹ! Đây là quan điểm mà Ken Burns muốn truyền lại cho thế hệ sau, vì CSVN là kẻ thù "xứng đáng" thì đủ trọng lượng để trở thành người bạn "hợp tác chiến lược toàn diện."

    Nếu Hồ Chí Minh và các đảng viên của ông ấy tranh đấu hy sinh gian khổ như vậy cho dân chúng như Ken Burns trình bày, thì tại sao năm 1954, hàng triểụ người Việt bỏ lại nhà cửa ngoài bắc để trốn chạy vào Nam và năm 1975 vài triệu người bỏ nước ra đi, trong đó có nửa triệu người làm mồi cho cá ở biển cả? Vậy thì người người Quốc Gia tỵ nạn và các đảng phái Quốc Gia rõ ràng là "phản quốc" chớ còn gì nữa? Đó là lý do tại sao tôi phẫn uất khi xem tập phim tài liệu và tôi cho rằng Ken Burns là cái loa tuyên truyền độc hiểm cho CSVN bóp méo vo tròn lịch sử và đây là sự phản bội trắng trợn lần 2 của Hoa Kỳ đối với người Việt Quốc Gia.


    Houston ngày 24 tháng 9/2017
    Mời bạn ghé thăm nhà:
    http://thovanyenson.com

  • #2
    Tôi cũng đã xem mấy episode của phim VIETNAM WAR, cũng nhận thấy quá nhiều điều không đúng, làm như đây là cuộc chiến giữa Hoa Kỳ và Việt cộng, miền Nam VN với QLVNCH chỉ là vai hề phụ, vì thế tôi hoàn toàn đồng ý với nhận xét của anh Hoàng Duy Hùng, và cũng mong các anh chị đã xem thì nếu được nói lên ý kiến của mình nhằm bảo vệ sự thật, bảo vệ chính nghỉa của QLVNCH đã vì nước hy sinh vì dân tộc mà cầm súng chiến đấu chống bọn Cộng sản Bắc Việt tay sai bán nước cho Trung cộng và Nga sô.

    Comment


    • #3
      (Chia sẻ từ Facebook Van Pham)

      Bài viết này của Thiếu Tá Vương Mộng Long (tốt nghiệp khóa 20 Võ Bị QG Đà Lạt), Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 82 Biệt Động quân thuộc Liên Đoàn 2 BĐQ trấn thủ tại mặt trận Tây Nguyên... tôi đã đăng trước đây.

      Nay qua cuốn phim "Vietnam War" vừa được trình chiếu tại Mỹ & phổ biến trên internet.... trong đó có nhiều điều chưa đúng sự thật hay còn thiếu sót. Tôi xin được đăng lại, để mọi người hiểu tại sao những tay "phản chiến" hoặc giới truyền thông báo chí thường bóp méo cuộc chiến Việt Nam qua lăng kính của người ngoài cuộc và thời thượng...

      THƯA ĐẠO DIỄN LYNN NOVICK. ĐÂY MỚI LÀ GÓC NHÌN ĐỨNG ĐẮN VỀ CUỘC CHIẾN VIỆT NAM TỪ NGƯỜI LÍNH VIỆT NAM CỘNG HÒA ĐÃ TRỰC DIỆN VỚI CUỘC CHIẾN ĐÓ

      Xin mời bà con hãy đọc ở đây để công tâm hơn.
      *************

      Một chiều cuối năm 1998 tôi vào trường University of Washington (UW) để đón đứa con gái áp út tan giờ học. Tình cờ tôi nhìn thấy một ông già đứng chờ xe bên bến bus. Có lẽ ông cụ lớn tuổi hơn tôi nhiều.

      Hỏi chuyện, tôi mới hay, ông cụ đã qua tuổi bảy mươi, ăn tiền hưu, và đang học môn Truyền Thông (Communication) năm Senior. Tôi chợt nghĩ, thời gian này mình cũng không bận lắm, tại sao không trở lại trường? Ít ra cũng học thêm được vài điều hay. Thế là, hôm sau tôi nộp đơn xin trắc nghiệm trình độ Toán và Anh Văn để xếp lớp tại Shoreline Community College (Shoreline C... C.).

      So với các trường đại học cộng đồng quanh vùng, thì học phí của Shoreline C. C. tương đối nhẹ. Thật là, không có gì diễn tả nỗi niềm vui sướng tột cùng của tôi buổi đầu được cắp cặp trở lại trường làm học trò. Ba mươi lăm năm sau khi rời ghế nhà trường (1963) để tình nguyện vào quân ngũ, tôi đâu ngờ còn có ngày được ngồi dưới lớp nghe lời thầy giáo giảng? Xung quanh tôi là những người trẻ tuổi vừa qua bậc trung học.

      Tôi làm việc mười tiếng đồng hồ một ngày, bốn ngày một tuần lễ. Ngày, ngày, vừa tan sở, tôi lại vội lái xe tới lớp. Từ ấy, tôi làm việc full time, đi học full time, bận bịu vô cùng. Học kỳ (quarter) đầu tiên, tôi ghi danh một lớp Toán, và hai lớp Anh Văn, mỗi lớp 5 tín chỉ (credit). Tôi miệt mài trong công việc suốt ngày, và chuyên cần trong học tập mỗi đêm. Vào mùa thi, tôi thức trắng hai, ba đêm là thường. Tôi ghi danh full time để thúc đít thằng con út. Thằng nhỏ sợ ông bố theo kịp, nên phải gắng chạy có cờ để thoát lên đại học bốn năm.

      Một niên khóa trôi qua. Con đường học hành của tôi đang có vẻ rộng mở thênh thang, thì bỗng dưng lại quẹo vào một khúc quanh, chỉ vì mùa Fall 2000 tôi đã ghi danh lớp History 274 “U.S. and Vietnam.”

      Tôi “lấy” lớp Sử Ký này với mục đích tìm hiểu xem cuộc chiến tranh vừa qua đã được các sử gia Mỹ ghi chép lại như thế nào? Từ đó, hy vọng biết được phần nào, nguyên nhân vì sao, giữa đường, Mỹ đã bỏ rơi Việt Nam, vì sao chúng ta đã thua trận.

      Người từ lâu độc quyền phụ trách lớp Sử 274 là thầy Dan. Trong thời gian dài cả chục năm qua, ông giáo kỳ cựu này đã đào tạo hàng ngàn môn sinh. Những học trò của ông sau khi chuyển tiếp lên trường đại học bốn năm, đã trở thành những thạc sĩ, tiến sĩ. Lâu lâu họ lại ghé về trường xưa, thăm ông thầy cũ.

      Lớp “U.S. and Vietnam” mùa Fall 2000 có chừng hơn hai chục học viên, trong đó da trắng chiếm đa số. Có bốn học trò gốc Châu Á, gồm hai anh Tàu lục địa, một cậu bé H’Mong và tôi. Bạn đồng lớp với tôi còn nhỏ lắm. Họ trẻ hơn mấy đứa con tôi nhiều.

      Tôi cứ tưởng rằng những tài liệu lịch sử mà các thầy giáo đem truyền bá, phải nằm trong chương trình đã kiểm duyệt và cho phép của Bộ Giáo Dục Hoa Kỳ. Nhưng thực tế không phải vậy. Nền giáo dục của Mỹ đã đi vào tự trị từ lâu. Thầy giáo có toàn quyền lèo lái, hướng dẫn con thuyền học vấn chở học trò mình tới bất kỳ bến bờ nào mà thầy đã chọn.

      Thầy giáo chỉ định sách giáo khoa nào thầy sẽ dạy để chúng tôi mua. Thầy phổ biến những tài liệu nào mà thầy ưng ý. Trong hai phần ba thời gian đầu của học kỳ Fall 2000, mỗi khi nói tới phong trào Việt Minh, ông giáo sư dạy Sử không ngớt ca tụng HCM như một lãnh tụ tài ba, và vô cùng sáng suốt đã khôn khéo hướng dẫn dân tộc Việt Nam tới chiến thắng thoát ách đô hộ của đế quốc Pháp.

      Thầy khẳng định rằng, chính phủ Hoa Kỳ là nguyên nhân cuộc chiến tranh Ðông Dương lần thứ hai (1954 1975). Vì theo lời thầy, thì HCM đã năm lần gửi mật thư cho Tổng Thống Harry Truman để xin thần phục và hợp tác, nhưng Tổng Thống Harry Truman đã từ chối. Thầy cho rằng người Mỹ đã lầm lẫn trợ giúp quân Pháp trở lại tái chiếm Ðông Dương trong khi cao trào dân chủ, đấu tranh giành độc lập đang lan tràn trên toàn thế giới, và chủ nghĩa thực dân đã lỗi thời.

      Chúng tôi đã được cho xem những đoạn phim cũ về trận Ðiện Biên Phủ, về Hiệp Ðịnh Geneve, và về cuộc di cư năm 1954. Với những trận có âm vang quốc tế như Plei Me, Khe Sanh, Kontum, Bình Long, Long Khánh vân vân… chúng tôi chỉ được thấy những cảnh thương vong của quân đội Ðồng Minh và Việt Nam Cộng Hòa. Trận Mậu Thân, chỉ là cảnh… nhà cháy, dân chạy loạn. Tất cả những “tư liệu” này đều có thực, nhưng thầy Dan chỉ trưng bày những phần có lợi cho Việt Cộng. Tôi chưa nghe được từ miệng thầy một lời nói tốt nào cho phía Việt Nam Cộng Hòa. Thầy mô tả Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa như một đội quân kém cỏi về cả tổ chức lẫn khả năng tác chiến. Với thầy Dan, chiến tranh Việt Nam chỉ là một gánh nặng cho ngân sách Quốc Phòng Hoa Kỳ, một sự phí phạm công quỹ. Ðã có đôi lần tôi giơ tay nêu ý kiến bênh vực quân đội ta, chính quyền ta, thì ông chỉ cười, chỉ tay vào quyển Sử dày cộm, “Book said!”

      Cứ cái điệp khúc “Sách dạy!” đó, ông thầy phản chiến đã lịch sự gián tiếp nhắc nhở cho tôi hay rằng, tôi là một học trò, còn ông là một vị giáo sư nói có sách, mách có chứng.
      Thầy hùng hồn thuật lại những lần thầy tham gia biểu tình chống chiến tranh thời 1960s và nặng lời đả kích lệnh động viên ngày đó, đã đưa hàng trăm ngàn thanh niên Hoa Kỳ vào chỗ chết.

      Kết quả hai lần khảo hạch giữa học kỳ (Mid Term) tôi đều lãnh điểm (F) bởi vì tôi chỉ làm trót lọt phần A, B, C khoanh, còn về bài tiểu luận (essay) thì tôi bị loại thẳng tay.

      Cả hai bài đều lãnh điểm “không” (0) chỉ vì tôi đã viết không hợp ý ông thầy. Ngặt một điều là, lớp History 274 này bị tính điểm đem lên trường đại học bốn năm. Bị đánh rớt lớp này thì giấc mơ chuyển tiếp lên University of Washington của tôi sẽ thành mây khói.

      Tôi theo học lớp này đúng vào lúc nhà trường đang sôi sục với cuộc vận động bầu cử tổng thống. Ông thầy dạy Sử không phải là người độc nhất có ác cảm với chiến tranh, mà tiểu bang Washington tôi đang cư ngụ cũng là thành trì của Ðảng Dân Chủ. Tâm sự này kiếm cả trường chắc cũng chẳng có ai thông cảm!

      Thời gian này lòng tôi thật muộn phiền. Tôi tự trách rằng, mùa Fall 2000 có thiếu gì lớp tương đương với History 274 mà sao tôi lại nộp mạng vào cái lớp chết tiệt này? Ðúng là bỏ tiền ra ghi danh để ngồi nghe người ta chửi mình, chửi quân đội mình. Càng nghĩ tôi càng thấy tức! Thằng con trai thấy ông bố rầu rầu bèn lân la hỏi chuyện. Khi hiểu nguồn cơn nỗi buồn của tôi, nó mới cho tôi hay, năm ngoái nó cũng ghi danh học lớp này, và đã bị một “vố” đau. Ðể thoát thân, từ bài thi thứ nhì nó phải viết theo ý ông giáo. Vất vả lắm nó mới kiếm được đủ điểm.

      Sau ngày có kết quả khảo hạch kỳ thứ nhì, tôi bỏ công xuống thư viện nghiên cứu, sao chép những tài liệu sử liên quan tới chiến tranh Việt Nam. Tôi không màng đến vấn đề chuyển tiếp lên University of Washington nữa. Tôi chờ, nếu có cơ hội là tôi sẽ “choảng nhau” với ông giáo phản chiến này một trận, rồi muốn ra sao thì ra. Tôi lục lạo kệ sách loại chọn lọc (preference) và tìm được một quyển Sử Ký, trong đó, chứa đựng nhiều tài liệu ghi chép rõ ràng những thành quả mà Việt Nam Cộng Hòa đã thực hiện được.

      Trong số những tài liệu quý giá đó, có cả một bài đề cập tới đơn vị tôi, Liên Ðoàn 2 Biệt Ðộng Quân. Tôi vui mừng và cẩn thận photo copy những chứng cứ thu nhận được để dùng làm bằng chứng khi cãi lý với ông giáo sư dạy Sử. Tôi cũng tận dụng thời gian rảnh cuối tuần để sắp xếp cho có thứ tự những điều cần tranh luận. Tôi ghi sẵn những câu phê bình, những câu chất vấn thẳng thắn với thầy Dan về cung cách giáo dục học trò của ông, và về những tài liệu mà ông đã dùng để trợ huấn. Buổi học áp chót của mùa Fall chúng tôi có một giờ đầu thi A, B, C khoanh. Sau đó thày giáo phát đề bài làm ở nhà. Thời gian còn lại, thày sẽ giảng gợi ý cho bài tiểu luận. Bài tiểu luận sẽ phải giao nộp vào đầu giờ buổi học cuối cùng.

      Vừa nghe chuông giải lao, tôi tiến tới bàn ông giáo Sử. Dù trong bụng đã chuẩn bị sẵn một mớ ngôn từ đao to búa lớn cho một cuộc đấu khẩu sống mái, nhưng tôi vẫn dằn lòng, nhỏ nhẹ:
      – Thưa giáo sư. Xin giáo sư vui lòng cho phép tôi được trình bày với ông đôi điều liên quan tới sự giảng dạy của ông trong thời gian vừa qua. Tôi có thể làm phiền ông vài phút được không?

      Thầy Dan niềm nở :
      – Dĩ nhiên là được. Ông có điều gì cần cứ nói.
      Thấy câu chuyện đã mở đầu trót lọt, tôi mạnh miệng:
      – Thưa giáo sư, tôi là một người Việt Nam tị nạn. Tôi là một cựu sĩ quan của Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa. Tôi còn nhớ trong bài giảng đầu tiên, thầy có nhắc đi, nhắc lại rằng, phi vụ đầu tiên của pháo đài bay B 52 trên cao nguyên Việt Nam là vụ oanh tạc Thung Lũng Ia Drang. Thầy có biết không? Cũng vào ngày hôm đó, tôi đang tập dượt lễ mãn khóa sĩ quan Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam. Và mười năm sau, trước khi tàn cuộc chiến, vùng đất mà tôi chịu trách nhiệm trấn giữ cũng bao gồm cả cái Thung Lũng Ia Drang đó.

      Thầy chỉ biết tới những trận đụng độ đẫm máu trong thung lũng Ia Drang qua báo chí, truyền thanh, và truyền hình. Còn tôi là người đã lặn lội mười năm ở đó, đã nhiều lần bị thương đổ máu ở đó, đã rơi lệ vuốt mắt cho nhiều đồng đội nằm xuống ở đó. Trong số những người nằm xuống ấy, không thiếu những thanh niên Mỹ đồng trang lứa với thầy. Nơi đó chúng tôi chiến đấu quên mình từng ngày, vì nền độc lập của đất nước tôi, và vì quyền lợi của nước Mỹ. Thầy chưa từng khoác áo nhà binh, chưa một lần có mặt trên chiến trường. Suốt đời thầy không hiểu nổi thế nào là niềm kiêu hãnh của một người lính chiến, thế nào là lòng khát khao chiến thắng, thế nào là tình huynh đệ chi binh.

      Suốt đời thầy không hiểu được vì sao hơn hai chục thương binh què quặt của một đơn vị Biệt Ðộng Quân Việt Nam Cộng Hòa phải mở đường máu rút lui mà vẫn cưu mang theo ba người lính Mỹ, trong đó có hai người bị trọng thương; và vì sao một đại tá Hoa Kỳ đã đưa thân che chở cho một thương binh Việt Nam để rồi ông bị mảnh đạn vỡ đầu. Mạng lưới truyền thông thiên Cộng khổng lồ của Hoa Kỳ đã tiếp tay với bộ máy tuyên truyền của Cộng Sản Quốc Tế cố tình xuyên tạc, bóp méo tất cả những liên quan tới nguyên nhân, diễn tiến, và hậu quả của cuộc Chiến Tranh Việt Nam. Từ đó, tên Việt Cộng khát máu HCM đã được tô vẽ, đánh bóng thành một vị lãnh tụ đức độ anh minh.

      Chính tên sát nhân này và đảng Cộng Sản Việt Nam đã giết oan không biết bao nhiêu đồng bào vô tội của tôi trong suốt thời gian ba mươi năm chiến tranh. Nằm trong số hàng trăm ngàn nạn nhân bị giết, tù đầy, thủ tiêu, cha tôi và chú tôi cũng bị chặt đầu trôi sông trong thời gian đó. Nếu chế độ cộng sản là tốt đẹp, thì đã không có một triệu dân miền Bắc di cư vào Nam sau Hiệp Ðịnh Geneve năm 1954, và sẽ chẳng có những cuộc vượt biên bi thảm của hàng triệu thuyền nhân trên biển bỏ quê hương sau khi Miền Nam rơi vào tay cộng sản năm 1975. Thầy chỉ mới thấy hình bé gái Kim Phúc trần truồng, vừa khóc vừa chạy, thân mình phỏng cháy vì bom Napalm của quân Ðồng Minh đánh lầm vào nhà dân, mà thầy đã thấy xót xa, cho rằng quân Ðồng Minh tàn ác.

      Nếu thầy ở vào vị trí của tôi, không hiểu thầy sẽ nghĩ sao? Ngày 18 tháng 4 năm 1974, sau khi tái chiếm Căn Cứ Hỏa Lực 711, Pleiku, tôi đã tận mắt chứng kiến một cảnh dã man chưa từng thấy. Trong một căn hầm trú ẩn đầy ruồi nhặng, trên chiếc giường tre là cái xác trần truồng của một người vợ lính. Chị bị Việt Cộng lột hết quần áo, bị hãm hiếp, rồi bị đâm chết bởi nhiều nhát lưỡi lê, ruột gan lòi lòng thòng. Trên nền đất, máu đọng thành vũng. Trong góc hầm là xác đứa con trai hai tuổi của nạn nhân. Cháu bé bị trói hai tay, hai chân bằng dây dù và cũng bị hàng chục nhát lưỡi lê đâm vào bụng, vào ngực. Hai người này vừa theo chuyến xe tiếp tế của đơn vị lên thăm chồng và cha của họ được vài ngày. Họ đã không kịp chạy khi Việt Cộng tràn ngập căn cứ trưa 15 tháng 4 năm 1974.

      Câu chuyện vừa tới đây thì hết giờ giải lao, học trò trở lại lớp. Ông giáo vỗ vai tôi,
      – Ông cứ ngồi đây, ta sẽ tiếp tục.
      Rồi ông lớn tiếng cho phép lớp nghỉ sớm, để học trò có thời gian chuẩn bị bài thi viết. Chờ cho người học trò sau cùng ra khỏi cửa, thầy Dan nói nhỏ với tôi,
      – Ông hãy tiếp tục câu chuyện của một nhân chứng sống. Tôi mong được nghe thêm.
      Tôi không ngần ngại, tiếp lời:
      – Cám ơn giáo sư. Tôi chỉ nói những gì thấy tận mắt, nghe tận tai, và những gì xảy ra cho chính bản thân và gia đình tôi để thầy có một nhận định chính xác về cuộc chiến tranh Việt Nam đã ảnh hưởng như thế nào đối với người dân Việt.

      Tôi tâm sự với thầy Dan rằng, tôi là một học trò tốt nghiệp trung học vào đúng thời điểm đất nước lâm nguy nên tôi đã tình nguyện vào quân ngũ để cứu nước. Tôi tóm lược cuộc đời chinh chiến của mình cho ông giáo nghe. Tôi thấy thầy Dan đặc biệt lưu tâm tới những chiến dịch xảy ra trên Tây Nguyên, và ông có vẻ rất quen thuộc với những địa danh Ban Mê Thuột, Pleiku, Plei Me, Ðức Cơ, Kontum. Nghe tôi nói ở Tây Nguyên chiến trận, chết chóc xảy ra hàng ngày, ông vội hỏi,
      – Mỗi lần ra trận, ông có sợ không?
      Tôi cứ tình thực trả lời,
      – Sợ chứ! Vào chỗ chết, ai mà không sợ? Nhưng tinh thần trách nhiệm đã làm cho tôi quên cái sợ.

      Thấy ông giáo sư có vẻ muốn nghe truyện chiến trường, muốn hiểu tâm tư người đi trận ra sao, tôi đã không ngần ngại thuật lại hoàn cảnh của tôi trong trận Dak Tô năm 1969. Cuối trận này tôi đã phải mở khói đỏ yêu cầu máy bay đánh ngay trên đầu mình để cùng chết với quân thù. Vào giờ phút tuyệt vọng nhứt của trận đánh đó, tôi đã nghĩ gì, tôi cũng thổ lộ cho ông giáo biết. Ông giáo sư đã từng nghe nói tới cái tên “Ðường Mòn HCM” nhưng chưa bao giờ ông ngờ rằng đó là cả một hệ thống đường giao thông chằng chịt che giấu dưới rừng già dọc Trường Sơn. Tôi đã chia sẻ với ông những cảm giác hồi hộp, căng thẳng của người có cái kinh nghiệm đi toán Viễn Thám săn tin dọc biên giới Việt Miên Lào từ Khâm Ðức tới Bu Prang vào những năm 1972-1973.

      Ông cũng rất hứng thú khi nghe tôi thuyết trình về kỹ thuật bắn xe tank mà Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân đã áp dụng trong trận Xuân Lộc tháng 4 năm 1975. Trận Xuân Lộc này ông có nghe qua, nhưng ông không ngờ, một trong những cấp chỉ huy trực tiếp của trận đánh lừng lẫy ấy đang ngồi trước mặt ông. Tôi không quên nói tới những lần dừng quân bên xóm làng quê nghèo nàn, nhận những bát nước chè xanh, những củ khoai luộc của đồng bào tôi đem ra mời mọc. Tình quân dân cá nước ấy đã là những liều thuốc bổ giúp tinh thần chúng tôi mạnh mẽ hơn khi đối mặt với quân thù. Tôi thuật lại cho thầy nghe, trong tình thế hoàn toàn tuyệt vọng, chúng tôi đã chiến đấu kiên cường như thế nào.

      Và sau khi biết rằng chỉ trong vòng một tháng cuối cùng, chín mươi phần trăm của quân số hơn năm trăm người thuộc Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân đã chết vì tổ quốc, thì ông giáo đã giơ hai tay lên trời, lắc đầu thốt ra hai tiếng,
      – Trời ơi!”

      Thầy Dan cũng muốn tìm hiểu xem, sau khi mất nước thì số phận của tôi và gần một triệu quân nhân, công chức chính quyền Việt Nam Cộng Hòa ra sao. Ông đã trố mắt ngạc nhiên khi biết ra rằng, từ sau tháng 4 năm 1975, khắp đất nước tôi, “Trại Cải Tạo” đã mọc lên như nấm. Cái tên “Re Education Camp” mà ông đã nghe qua, trên thực tế chỉ là những trại tù khổ sai. Những “học viên” trong các trại đó sống không khác gì những con vật, quằn quại với cái đói. Họ bị ép buộc làm việc tới kiệt lực. Tinh thần bị khủng bố, căng thẳng liên miên bởi những buổi ngồi đồng học tập, phê bình, bầu bán. Tôi thú thật với ông giáo rằng, trong thời gian đó, tôi chỉ nghĩ tới tự do; làm sao để tìm lại được tự do, dù có chết cũng cam lòng. Ông giáo đã tỏ ra say mê theo dõi truyện hai lần tôi trốn trại thất bại, cùng những cực hình mà tôi phải gánh chịu. Tôi cũng không ngần ngại thuật lại hoàn cảnh của vợ tôi ngày đó, một nách bốn đứa con thơ dại, vất vả, tảo tần nuôi con, chờ chồng trong 13 năm tôi bị giam giữ, tù đầy.

      Tôi cho ông giáo biết tôi là người sinh ra tại Miền Bắc Việt Nam. Tháng 7 năm 1954 gia đình tôi đã cùng gần một triệu người khác di cư vào Nam để trốn lánh cộng sản. Tôi cặn kẽ phân tích cho thầy rõ, sau Hiệp Ðịnh Geneve năm đó, hai miền Nam, Bắc Việt Nam đã thành hai quốc gia, độc lập và có chủ quyền, có biên giới. Chính HCM và đảng Cộng Sản Việt Nam đã chủ trương, phát động và điên rồ theo đuổi một cuộc chiến tranh tiến chiếm Miền Nam. Quân đội và nhân dân Việt Nam Cộng Hòa chỉ làm nhiệm vụ tự vệ. Quân Mỹ và Ðồng Minh vào Việt Nam là để phụ giúp chúng tôi chống lại một cuộc xâm lược từ phương Bắc.

      Chúng tôi thất trận không phải vì chúng tôi kém khả năng, thiếu tinh thần chiến đấu, mà vì người Mỹ đã phản bội, nửa đường rút quân, cắt viện trợ. Từ khi người Mỹ rút lui, chúng tôi bị bó chân bó tay, bụng đói mà vẫn phải chiến đấu. Trong khi đó, Miền Bắc lại tràn ngập lương thực, quân dụng, quân nhu, và vũ khí viện trợ từ khối Cộng. Thời gian khởi đầu chương trình Việt Nam Hóa chiến tranh, còn được cung ứng vũ khí, lương thực dồi dào, chúng tôi đã chứng tỏ khả năng có thể cáng đáng bất cứ nhiệm vụ nào của quân đội Ðồng Minh bàn giao lại. Ðể chứng minh điều này, tôi mở tờ copy từ quyển History của thư viện, trong đó có sơ đồ các cánh quân Việt Nam Cộng Hòa vượt biên tiến chiếm miền Bắc Cam Bốt trong chiến dịch Bình Tây 1, 2, 3 cuối năm 1970 của Quân Ðoàn II. Tôi chỉ cho ông cái dấu hiệu quân sự hình tam giác có chữ R ở giữa, cạnh trên có ba cọng râu, bên trái là con số 2,

      – Ðây! Thưa thầy, cuối năm 1970, tại vùng 2 Chiến Thuật, chúng tôi đã đánh đuổi quân Bắc Việt tới bờ đông của sông Mê Kông trên đất Miên. Ngày đó tôi là người chỉ huy một đơn vị trực thuộc Liên Ðoàn 2 Biệt Ðộng Quân. Tôi đã đánh chiếm thành phố Ba Kev, và đóng quân tại nơi này một thời gian. Chúng tôi đã chứng tỏ rằng khả năng chiến đấu của chúng tôi đã hơn hẳn quân đội Bắc Việt. Nhưng những năm sau, viện trợ cắt giảm dần. Mặc dầu tinh thần của chúng tôi không suy giảm, nhưng chiến đấu trong cảnh thiếu thốn thường xuyên, chúng tôi vất vả lắm. Tôi xin đan cử ra đây một so sánh để thầy thấy rõ sự khác biệt.

      Trước khi Mỹ rút, tháng 6 năm 1968, có một lần tôi đang dàn quân tiến chiếm một ngọn đồi thì Bộ Chỉ Huy Task Force South của Mỹ ở Ðà Lạt đã bắt tôi ngừng lại để chờ pháo binh và không quân yểm trợ. Tôi đã nhận được một phi tuần hai phi xuất F4C và sau đó là một hỏa tập tám trăm quả đạn đại bác 105 ly trên mục tiêu trước khi xung phong. Mục tiêu đó chỉ rộng bằng diện tích khuôn viên trường Shoreline C. C. này. Chỉ hơn một năm sau khi Mỹ rút, tháng 8 năm 1974, tiền đồn Plei Me do tôi trấn giữ đã bị một lực lượng địch đông gấp chín lần vây hãm 34 ngày đêm. Plei Me cũng chỉ rộng bằng trường Shoreline C.C. thôi. Vậy mà mỗi ngày chúng tôi đã hứng chịu từ một ngàn tới hai ngàn viên đạn pháo cối của địch. Ðể chống lại, ngoài hai khẩu 155 ly của quân bạn yểm trợ từ xa, tôi chỉ có hai khẩu đại bác 105 ly. Vì tình trạng khan hiếm, tôi chỉ được phép bắn theo cấp số đạn giới hạn là bốn viên cho mỗi khẩu súng một ngày. Chiến đấu trong tình trạng thiếu thốn như thế, chúng tôi vẫn chiến thắng. Thầy nghĩ sao về chuyện này?

      Chúng tôi đã chiến đấu cho chính nghĩa như thế đấy, chúng tôi đã hy sinh như thế đấy, và chúng tôi đã bị bỏ rơi như thế đấy. Tôi cũng không hiểu vì sao người Mỹ phản chiến, trong đó có thầy, lại xuống đường tranh đấu, cổ vũ cho kẻ thù của chúng tôi, và ngược đãi chiến binh của chính nước Hoa Kỳ? Thầy ơi! Sao thầy lại nỡ nhẫn tâm như thế! Thầy đã tiếp tay với kẻ thù, đâm sau lưng thân nhân và bạn bè đồng minh của thầy. Nhân dịp này, tôi cũng chuyển lại cho thầy nghe tâm sự của anh Bill, một bạn cựu quân nhân Mỹ trở về từ Việt Nam năm 1973. Anh Bill hiện nay (2000) là Supervisor của hãng mà tôi đang làm việc. Ðây là lời của anh ấy,

      – Bạn có cảm thông nỗi đau đớn của chúng tôi ngày đó không? Hôm chúng tôi cặp bờ Everett, Washington, dân chúng Mỹ, kể cả những người thân, tiếp đón chúng tôi bằng cách giơ cao ngoắc ngoắc ngón tay giữa! Ði đâu chúng tôi cũng bị nhìn với đôi mắt khinh khi. Bao nhiêu ê chề nhục nhã đổ lên đầu người thua trận. Thua trận đâu phải lỗi của chúng tôi? Có bạn tôi đã buồn mà tự tử. Rồi tôi bị giải ngũ. Thời gian ấy kiếm được một việc làm là điều khó khăn trần ai. Hãng xưởng nào cũng không mặn mà với những hồ sơ xin việc của những cựu chiến binh. Cũng may, có người bạn học thời Mẫu Giáo đã giới thiệu tôi vào làm việc cho hãng này. Lương hướng thời ấy chỉ có 3 USD một giờ cũng đã khiến tôi mừng quá lắm rồi.

      Sau câu chuyện này, tôi chuyển sang phê bình cách giảng dạy của ông thầy, tôi nói thẳng với ông giáo sư rằng, bao năm nay ông đã bóp méo lịch sử của cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam và Bắc Việt Nam, làm như thế ông đã phạm tội đối với lịch sử. Cách giảng dạy của ông đã gieo vào trí óc học trò những thành kiến sai lầm đối với Việt Nam Cộng Hòa, làm giảm giá trị sự trợ giúp của chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ đối với nước tôi. Cuối cùng, tôi hỏi ông giáo,
      – Thầy còn nhớ, năm ngoái, có một cậu bé Việt Nam, mặt mày sáng sủa, lông mày rậm, tóc hớt kiểu nhà binh theo học lớp Sử 274 này không?
      – Nhớ chứ! Mỗi lớp chỉ có vài học trò Á Châu, dĩ nhiên là tôi nhớ!
      – Cậu bé Việt Nam đó chính là thằng con út của tôi! Năm ngoái, bài tiểu luận đầu của nó bị điểm “không” (0) vì nó viết theo quan điểm của một người dân Miền Nam. Những bài sau nó phải đổi cách viết, để thầy cho điểm khá hơn. Tôi là cha nó; tôi là một trong những người chứng kiến, tham gia và trực tiếp gánh chịu hậu quả của cuộc chiến tranh vừa qua; tôi không thể làm như con tôi được. Tôi đã nói hết những điều cần nói với giáo sư, và tôi sẵn sàng chấp nhận hậu quả.

      Ông thầy dạy Sử như bừng tỉnh cơn mơ,
      – Tôi tin lời ông, vì chẳng có lý do gì để ông nói dối. Có điều là, từ đó tới nay, hơn hai mươi năm dài, kể từ ngày những gia đình Việt Nam đầu tiên tới định cư ở Hoa Kỳ, chưa ai nói cho tôi nghe những điều này. Có thể, người ta muốn quên đi quá khứ, hoặc là người ta không có can đảm nói ra. Tôi đã hiểu, và tôi phải cám ơn ông. Ông quả là một chiến binh thực thụ.

      Nghe được những lời nói chân tình từ miệng ông giáo sư, lòng tôi cảm thấy ấm áp lạ lùng. Trước mắt tôi, ông đã thành một người bạn đồng minh, ông đưa bàn tay hộ pháp ra cho tôi bắt,
      – Thưa người chiến binh. Ông vừa lập một chiến công!

      Ðêm ấy trên đường về nhà, lòng tôi rộn ràng như thuở nào giữa sân vận động Pleiku, sau chiến thắng Plei-Me, tôi đã đứng trước một đoàn hùng binh, quần áo hoa rừng, nhận những vòng hoa rực rỡ, tai nghe bản nhạc “Bài Ca Chiến Thắng” do ban quân nhạc Quân Ðoàn II hòa tấu.

      Ngày chấm dứt mùa Fall năm 2000 ông thầy dạy Sử tươi cười trao cho tôi bản tổng kết cuối khóa, trên đó điểm trung bình (GPA) lớp History 274 của tôi ghi 4 chấm (4.00).

      Cuối mùa Spring 2001 tôi dự lễ cấp văn bằng tốt nghiệp A.A. nơi vận động trường có mái che của Shoreline Community College. Khán đài đông nghẹt thân nhân. Vợ tôi và bốn đứa con tôi cũng có mặt ngày hôm ấy. Khi người điều hành gọi tên tôi lên bục để nhận văn bằng, cả hội trường đều ngạc nhiên vì thấy nơi hàng ghế giữa của khu giáo sư có tiếng ai gào lên như tiếng sấm:
      – Long! I’m proud of you!

      Ðến lúc bà hiệu trưởng bắt tay tôi thì ông giáo Dan đứng dậy, bắc loa tay hướng về sân khấu, “My soldier! I’m loving you!”

      Ông là một người cao lớn. Trong chiếc áo thụng đen, trông ông dềnh dàng như nhân vật chính trong phim “Người Dơi.”

      Những người có mặt trong hội trường buổi ấy đều quay mặt nhìn về hướng ông giáo, ai cũng ngạc nhiên vì hành động phá lệ của một ông thầy xưa nay nổi tiếng là mô phạm. Thấy ông giáo Dan réo tên tôi ầm ầm, vợ con tôi và những khán giả ngồi trên khán đài cũng vỗ tay, reo hò, la hét theo. Hai năm sau, khi tốt nghiệp B.A. từ University of Washington, tôi về thăm và báo cho ông biết, ông vui lắm.

      Từ đó cho tới khi tôi ngồi viết lại những dòng này (2011) hàng chục ngàn học trò đã tới, rồi giã từ Shoreline Community College. Và chắc chắn, hàng trăm lượt người trẻ tuổi đã đi qua lớp History 274. Mười một năm qua, tôi vẫn nhớ buổi tối năm nào, tôi với ông giáo sư dạy Sử đã ngồi tâm sự với nhau. Lời khen của ông, mà tôi quý như một tấm huy chương, vẫn còn văng vẳng,
      – Thưa người chiến binh. Ông vừa lập một chiến công!
      VƯƠNG MỘNG LONG.

      Comment


      • #4
        Chia sẻ từ email của một người bạn còn trong nước
        ----------------------------------------------------------------------------------------
        Tôi mới coi được 2 tập .
        Từ chính phủ Mỹ cho đến người Mỹ đều xỏ lá , chạy tội khi cho rằng chính phủ Mỹ giúp hết mình , nhưng quân đội VNCH không chịu đánh đấm nên mất nước .
        Phủ nhận mọi công lao của TT Ngô Đình Diệm đối với đất nước , một đất nước điêu tàn , nhiều sứ quân , mà chỉ săm soi vô vụ Phật giáo .
        Cho tên ký giả thân cộng Neil Sheehan phát biểu những lời ca ngợi vc và hậm hực với chính phủ VNCH nhiều lần trong phim , tôi tởm tên này .
        Những tên VN phát biểu trong 2 tập , đa số là vc như Bảo Ninh , Nguyễn Thới Bưng , Đồng Sĩ Nguyên , hoặc thân cộng như Trần Ngọc Châu .Phe ta chỉ có Trung tá Trần Ngọc Toàn và Đại sứ Bùi Diễm .
        Sẽ nói thêm ở những tập sau .

        Comment


        • #5
          Đây là một nhận xét của một thân hữu rất quen thân từ trước, có thể đúng phần nào. Nhân đây cũng nói thêm một ít về Mậu Thân 1968 .lúc đó tôi đang ở với ông bố ngoài Vùng 2 CT, bố của tôi là 1 sỉ quan cao cấp của QLVNCH, nếu tôi không lầm thì ông đã biết hoặc tiên liệu được nên trước Tết đưa tôi lên máy bay về Sài Gòn, và vì ông là Tham mưu Trưỡng nên cho lịnh phòng thủ và cấm trại 100%, các cố vấn cũng có chuẩn bị trước nên nằm lại trong các doanh trại của lực lượng Đồng Minh chớ không xuống phố vui chơi hay party tiệc tùng như mọi năm. Nhờ vậy đã hạn chế thiệt hại khi cuộc chiến bùng nổ, và ở vùng 2 CT bọn VC thảm bại vì thiếu tính bất ngờ bí mật !!. Tôi biết tình hình quân sự vì thường phụ giúp ông già chuẩn bị các bản đồ, phóng đồ hành quân để thuyết trình với các vị Tư lịnh, các cố vấn Mỹ thời đó .
          Subject: The whiter shade of pale
          Đêm qua TV chiếu tập 6 , có thể coi 5 tập còn lại trên net.
          Nhạc nền cuả 5 tập đầu là bài The Sounds of silence , có thể hiểu được .
          Nhạc nền cuả tập 6 là bài
          A whiter shade of pale.
          Nghe không hiểu có ý gì , có lẽ câu
          " The truth is plain to see "
          That her face, at first just ghostly,
          Turned a whiter shade of pale
          She said, 'There is no reason
          And the truth is plain to see.'
          Hết tập 6 thì có thể nói những người ở Little Saigon không có lý do gì chưa coi phim mà đã chống .
          Phim không nói xấu gì VNCH, có vẽ như nói xấu VC nhiều hơn . 3/4 phim nói về nước Mỹ và người Mỹ . Lãnh đạo cuả Mỹ thời đó quá sức tệ hại mới thua cuộc chiến và thua từ 1965 , kết luận của phim khá rõ ràng . Bỏ qua chuyện tham nhũng thì suốt cuộc chiến VNCH chỉ đóng một vai trò quá phụ thuộc và mờ nhạt .
          Johnson không đủ thông minh để hiểu một cái gì. Không thể nào có một ông Tướng thiếu thông minh đến như Westmoreland .
          Bỏ qua chiến lược " đếm xác ", ngay trong chỉ huy trận chiến hàng ngày Westmoreland không đủ thông minh để hiểu một cái gì hết. 1 tháng trước trận Mậu thân tình báo Mỹ đã biết VC sắp đánh. VC tung đòn lưà là đánh một loạt các trận chiến ở biên giới như Cồn tiên , Khe sanh , Lộc ninh. Westmoreland đưa hết quân Mỹ ra ngoài .Tư lịnh phó là tướng Weyand đã nói đây là đòn nghi binh phải rút quân về. Westmoreland không chịu. Tệ hại nhất là Westmoreland và Johnson đều nói láo lưà bịp người Mỹ, đổ vấy là báo chí Mỹ đầu độc người Mỹ.
          Trong phim có khen VNCH là đã chịu đựng được trận Mậu thân và dân VNCH không theo VC.
          Lê Duẫn là loại bịnh thần kinh tâm trí, muốn dành quyền từ Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp mới tưởng tượng ra trận Mậu thân, lấy cớ thanh trừng hết đàn em cuả Võ Nguyên Giáp. Có báo VN đã nói là Lê Duẫn tìm cách giết HCM , khi máy bay chở Hồ Chí Minh từ Bắc Kinh bay về Lê Duẩn cho tắt hết đèn, nhưng phi công đã đáp mù xuống Hà nội.
          Ai chửi phim nầy nên coi tập 7 trong đó chính cán bộ VC lên án vụ thảm sát Mậu thân ở Huế và công nhận thảm bại trận Tết.
          Phim công bằng cho cả hai bên .
          Giưã tập 7 nói đến chiến dịch Phuợng Hoàng, chiến lược nầy Mỹ đã lập lại ở Trung Mỹ và Nam Mỹ , Mỹ có trường huấn luyện Special Forces ở North Carolina dạy cho lính Trung Mỹ , tụi nầy trở về nước thành Death Squads. Chiến dịch Phượng Hoàng do CIA chỉ huy nhưng do người VN đảm nhận .Có lẽ sau khi Westmoreland bị đuổi thì Mỹ trở lại chiến thuật cuả Kennedy .Tướng Abrams không thể cứu vãng được một cuộc chiến mà McNamara biết đã thua từ 1965 , nghiã là từ 10 năm trước .
          Trong tập 7 có nói đến chuyện Nixon nói dụ Nguyễn văn Thiệu không dự hoà đàm Paris chỉ mấy ngày trước bầu cử để Humphrey thua. Nixon rõ ràng phạm tội phản quốc, nhưng Johnson không thể công bố tại sao Johnson biết là CIA đã ghi băng dinh Độc Lập , toà Đại sứ VNCH.
          Chuyện nầy lập lại, trong chuyện điều tra Trump .
          Sự thật luôn luôn cay đắng. Nước Mỹ luôn luôn mạnh và truờng tồn vì người Mỹ có lương tâm . Có lẽ vì tác giả muốn nói với người Mỹ " And the truth is plain to see "

          Procol Harum - A Whiter Shade of Pale (Live HD) Legendado em PT- BR
          https://youtu.be/UumQYhFgHew

          https://youtu.be/xj7Og27VyeI

          Simon & Garfunkel - The Sounds of Silence (Audio) - YouTube

          https://www.youtube.com/watch?v=4fWyzwo1xg0

          Comment



          Hội Quán Phi Dũng ©
          Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




          website hit counter

          Working...
          X