Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Chuyện Thật Giữa Hai Người Phi Công (A-37) VNCH và Phi Công (Mig -19) Bắc Việt 1975

Collapse
X

Chuyện Thật Giữa Hai Người Phi Công (A-37) VNCH và Phi Công (Mig -19) Bắc Việt 1975

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Chuyện Thật Giữa Hai Người Phi Công (A-37) VNCH và Phi Công (Mig -19) Bắc Việt 1975

    [MYOUTUBE]Ok5etA79XPU[/MYOUTUBE]

    Xin gởi đến quý độc giả và các chiến hữu bài viết tôi ghi lại theo lới kể của một SVSQ/KQ. Để nói lên sự tuyên truyền láo khoét và che lấp của người cộng sản Việt Nam.
    SVSQKQ
    Chuyện thật giữa hai người phi công (A-37) VNCH và phi công (Mig -19) Bắc Việt, sau năm 1975(phần #1)


    4/11/1975: Khóa chúng tôi gồm 15 người, là khóa phản lực đàn em cuối cùng của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa mản khóa tại trường bay Webb AFB, Big Spring, TX


    4/20/1975: Chuyến phi cơ hành khách PANAM 747 cuối cùng chở chúng tôi hạ cánh tại phi trường Tân Sơn Nhất trong khung cảnh nhốn nháo và lo âu hỗn độn của những người di tản rời Việt Nam.
    4/21/1975: Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đọc bái diễn văn từ chức tại Thượng Viện và tố cáo Mỹ đã bỏ và cúp viện trợ cho Việt Nam một cách vô trách nhiệm.
    4/30/1975: Tân Tổng Thống Dương văn Minh lên đài phát thanh kêu gọi anh em quân nhân các cấp buông súng đầu hàng vô điều kiện.

    5/00/1975: Cộng sản kêu gọi các sĩ quan quân đội VNCH, từ cấp thiếu úy tới cấp tướng đi trình diện để học tập chỉ có 3 ngày rồi sau đó trở về lại với gia đình (sau này mới biết là đi học tập cải tạo mút chỉ, có khi tới 17..20 năm, có khi bị chết trong tù, hoặc bị tàn tật hay bị bệnh hậu, khi trở về thành phế nhân hoặc chết sớm), anh em Sĩ Quan VNCH bị gạt một cách dễ dàng. Đúng là câu" Đừng nghe những gì cộng sản nói, mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm".

    Sau khi về nước, vì còn mang cấp bậc Sinh Viên Sĩ Quan, nên tôi không bị đi cải tạo, chỉ đi trình diện ở địa phương và bị theo dõi chăc chẻ bởi lũ công an phường khóm.

    Cuối năm 1975, tôi lập gia đình và vợ tôi quê ở Vĩnh Long, lên Sài Gòn ở với tôi nhưng vì mẹ chồng nàng dâu không thuận, nên bà xã tôi ở với tôi được vài tháng rồi trở về ở lại Vĩnh Long quê nàng ta, còn tôi thì ở lại Sài Gòn cuối tuần thứ sáu thì về Vĩnh Long, rồi chiều chủ nhật thì đón xe đò lên Sai Gòn, y như lính đi nghỉ phép vậy.

    Một ngày cuối tuần sau khi đi thăm bà xã ở Vĩnh Long, tôi mua vé xe đò để trở lên Sài Gòn (vì tôi hộ khẩu ở thành phố), tôi ngồi ở chẳng giửa ghế bia sát cửa sổ, người ngồi kế bên tôi là một người đàn ông người Bắc, trông mập mạp và cao ráo tuổi chừng khoảng 35-40, xe đang chạy khoảng hơn nửa tiếng, tôi đang ngủ gà ngủ gục, lúc đó đeo chiếc nhẫn của Không Quân Mỹ (USAF) bên ngón tay tay phải, nhưng khi công an hay lính cộng sản xét giất tờ thì tôi sẽ lật mặt chiếc nhẫn vô lòng bàn tay để giấu, giống như đeo nhẫn bình thường, thì người đàn ông ngồi kế tôi dùng cùi chỏ thúc vào hông tôi nhè nhẹ hỏi:

    "Ê, có phải chú mày là giặc lái?"


    Tôi tỉnh dậy: " Sao chú biết?"


    "Tao nghe nói bọn giặc lái ngụy nó thường đeo chiếc nhẫn không quân Mỹ, vậy chắc chú mày là giặc lái phải không?"

    Tôi hỏi: "Ủa vậy chú là...?"


    "Tao là người lái của Không Quân Nhân Dân"

    "Ủa vậy chắc chú còn bay"


    "Không tao làm phó thường dân rồi, đâu còn bay bổng chi nữa"

    "Ủa sao vậy chú? trông chú còn trẻ, khỏe mạnh lắm mà?"
    ***

    Mời các bạn đón xem tiếp phần 2

  • #2
    Phần 2

    Chuyện thật giữa hai người phi công (A-37) VNCH và phi công (Mig -19) Bắc Việt sau năm 1975 (phần #2)

    "Tao bị đuổi ra khỏi đảng và bây giờ làm dân bình thường thôi"

    "Thật vậy hả chú, tại sao vậy chú?"

    "Số là như vậy, tao là người lái máy bay Mig-19, là máy bay phản lực 2 máy, giống máy bay A-37 hay F-5 của chú mày, nhưng nó không có khả năng không chiến mạnh như Mig-17 hay Mig -21 để đương đầu với phi cơ F-4 con ma của Mỹ, nhưng tao thich lên đấu với chiếc F một lẽ năm (F-105) của Mỹ, vì chiếc này nó to và bay nhanh. Chủ đích là mang bom nhiều ở dưới cánh và bụng, nhưng khả năng không chiến hoặc tự vệ rất yếu.


    Một ngày kia khoảng trung tuần tháng sáu năm 1972, tao đang ngồi ở phòng trực tác chiến, thì nghe loa phóng thanh báo động: Có phi cơ F-105 của Mỹ ở hướng Đông Nam Hà Nội, có phi cơ địch, có phi cơ địch...! ! !


    Tui tao mừng lắm, vì nếu gặp F-105 thì hên lắm, còn thọ được. Chớ nếu gặp F-4 thì phiền lắm, thì coi như chết chắc, tới số ! Chớ Mig-19 tụi tao không đủ sức độ với F-4 của Mỹ.


    Tao bay về hướng Đông Nam, hướng dẫn thẳng ra biển, trên cao độ khoảng 5000 mét, thì tao thấy nhiều đốm đen theo hướng hai giờ(hướng tay phải), nhìn rõ tao thấy toàn F-4, chớ đâu phải F-105. Tao lẩm bẩm chửi thề mẹ kiếp cái đài không lưu báo cáo loét, chết cha tao rồi...tao chửi thề trong miệng, liền đẩy tay ga lên tối đa, bay thẳng lên trên cao thêm khoảng 7000-8000 mét, hy vọng trốn vào trong mây cho nó chắc ăn, nhưng tao đã lầm to: ít nhất có 30 chiếc F-4 bay giăng hàng ngang ở trên từng mây cao này, tao bay gần sát bọn nó, thậm chí còn thấy tụi Mỹ đội nón an toàn(helmet) thật rõ, tao liền kéo cần để nhảy dù ngay (eject/ bailout) liền tức tốc.

    "Chú nhảy dù ??? Trời đất ???"


    "Chớ còn gì nữa, nếu chần chờ thì sẽ bị ăn cái hỏa tiển (sidewider) của nó là chết banh xác.

    Tao nhẩy dù ra bay lơ lửng trên trời xanh rồi từ từ hạ xuống, tao còn thấy chiếc Mig-19 của tao nó rớt xuống đất nổ tan tành với một cục lửa màu đỏ cam rất to, có vài chiếc F-4 của Mỹ nó bay vào vèo vèo bên tao, nó thấy tao nhưng nó không bắn, thật là tao rất có phúc...đại phước...tao cũng nghe nói là bọn Mỹ rất anh hùng, nó không bao giờ bắn người ngã ngựa, kinh nghiệm trong thế chiến thứ hai.

    Tao rớt xuống một cánh rừng, bị vướng tòng ten trên một cây thật cao, nhưng may phước là thân hình tao còn nguyên, lành lặn không có gì bị thương cả, nhưng tao thấy ở dưới gốc cây có chừng khoảng 10 thằng du kích xã, hầu hết là mang súng trường SKS và đứa nào cũng đang nhắm vào tao để bắn chết tao, đứa đứng và ngồi.

    Tao hét lên: "Này đừng bắn, Không Quân Nhân Dân...Không Quân Nhân Dân !" và đồng thời tao vỗ vào cánh vai trái bình bịch vào cụm tay tao có may lá cờ đỏ sao vàng to tổ bố để phân biệt là người lái phe ta với giặc Mỹ.

    Tao tiếp tục la thất thanh:"Ông là Không Quân Nhân Dân, Không Quân Nhân Dân đừng bắn !!! Đụ má đừng bắn !!!
    Tiếp theo tao nghe một tiếng súng nổ ...Đoành!
    Tao mở mắt ra,thì thấy tao đang nằm trên giường nhà thương, áo choàng màu trắng, chân phải tao đang bị băng bột treo lên cao và đang bị vô nước biển, cô y tá đứng bên giường nói: " Thưa đồng chí Thượng Úy, đồng chí đang nằm điều trị tại nhà thương Bạch Mai, Hà Nội.

    Mời các bạn đón xem tiếp phần 3
    Last edited by SVSQKQ; 09-01-2017, 05:36 AM.

    Comment


    • #3
      Phần 3

      DogFight - Hell Over Hanoi full
      [MYOUTUBE]62fIyD5ag_c[/MYOUTUBE]

      Chuyện thật giữa hai người phi công (A-37) VNCH và phi công (Mig -19) Bắc Việt sau năm 1975 (phần #3)

      Tao mở mắt ra, thì thấy tao đang nằm trên giường nhà thương, áo choàng trắng, chân phải tao bị băng bột treo lên cao và đang bị vô nước biển, cô y tá đứng bên giường nói:" Thưa đồng chí Thượng Úy, đồng chí đang nằm điều trị tại nhà thương Bạch Mai, Hà Nội. Chừng khoảng nửa tiếng thì có phái đoàn vô thăm tao, dẫn đầu là một thượng tá là người lái xếp của tao và kế tiếp theo sau là các người lái Mig-17, Mig-21 vô để chúc mừng tao nói là hôm ấy tao bắn hạ 3 chiếc F-4 và sau đó máy bay tao bị hết xăng và tao phải nhẩy dù ra và phi cơ địch đã bắn trúng chân phải của tao, họ cấp cho tao giấy bản khen là chiến sĩ anh hùng diệt máy bay Mỹ và truy thăng tao lên Đại Úy và nói là kể từ phút này vì bị thương tích nơi chân, nên tao không thể bay được nữa và họ đã dành cho tao một nhiệm sở mới đó là làm việc tại phòng huấn luyện, để giảng dạy dưới đất cho các học viên người lái. Tao rất buồn vì thú thật tao rất thích đi bay lắm, nhưng tao phải thầm cám ơn mấy thằng du kích xã vì nó bắn tao bị thương chân, nên bị loại ra khỏi đi bay, chớ nếu còn bay thì có ngày nát thây với bọn F-4.

      Tôi hỏi tiếp: "Rồi sao hả chú?"

      "Tao làm việc tại phòng huấn luyện được vài năm, thì đến ngày 30-4-1975. Miền Bắc tấn công và chiếm miền Nam, tụi tao thì nói với nhau: Miền Nam thua vì bị thằng Mỹ bỏ rơi nửa chừng, tụi mình có đánh đâu mà thắng, còn miền Nam có đánh đâu mà thua".


      Sau 30-4-1975 , tao nhận được một lá thư từ trong Nam gởi tới nhà tao tại Hà Nội, trong thư nói là tao có một thằng em trai, nó đi vô Nam hồi năm 1955, sau này nó lớn lên tốt nghiệp ở trường Võ Bị Đà Lạt, rồi giữ chức Đại Úy nhảy dù, bây giờ nó đi cải tạo ở suối Máu, nhờ anh đó bảo lảnh ra dùm, dẩu sao cũng là anh em ruột thịt, tao động lòng máu mủ, tao mới đứng ra điền đơn xin bảo lảnh cho thằng em ra trại.


      Kết quả là thằng em không ra tù, mà tao lại bị chúng nó điều tra lại lý lịch, tụi nó nói là tao khai gian và che dấu có thằng em Mỹ ngụy ác ôn, rồi kể từ đó tao bị trục xuất ra khỏi đảng. Cho tao ra làm phó thường dân, tao xin về miền Nam ở nhà gia đình thằng em tại tỉnh Vĩnh Long này. Thứ nhất là tại vì tao thích ở trong Nam thoải mái hơn, thứ hai là thấy có cán bộ trong nhà tụi công an phường xã nó đỡ ăn hiếp gia đình em tao.

      Sau khi ở miền Nam được vài tháng tao mới phát hiện được là trong Nam, thằng cha nông dân, thằng tài xế xe đò ...còn có hai bà vợ lẽ, con gái miền Nam rất đẹp, khêu gợi, ăn mặc đều đẹp cả, ngay cả đi ngủ cũng mặc đồ ngủ riêng, cái khổ miền Bắc đàn bà chỉ được cấp một năm có hai bộ đồ, nó mặc hoài hôi rình, nhìn thấy mắc ói, chán lắm mày ơi! Thành thử giải phóng miền Nam đâu chưa thấy, chớ tao thấy là giải phóng tao trước.

      Tuy nói vậy, cũng phải làm gì để sống kiếm ăn, tao thì đi đi về về Hà Nội ...Sài Gòn bằng đường xe hỏa Bắc Nam, tao thấy trên tàu hỏa, người ta đi hầu hết là đi buôn, vậy mà họ sống rất khuây khỏa, đâu cần đi làm công nhân cho nhà nước suốt đời nghèo mạt, tao bèn nghĩ ra cái kế ra nghề đi buôn, mua đi bán lại. Miền Nam gọi nôm na là nghề chợ trời, ở trong Nam, tao đi mua xe đạp mini, xe đạp Pháp Peugeot 5 lip, xe gắn máy Honda, đồng hồ Seiko không người lái, có hai cửa sổ, mền nĩ US, mền dù lính, mùng ngủ lính Mỹ, máy may Singer, hộp quẹt Zippo, bột ngọt...



      Chợ trời Sài Gòn

      Đem ra ngoài Bắc bán, còn từ Bắc vô Nam thì tao chỉ mua đồ của Liên Sô, thuốc Tetra lon nhôm vàng Bulgary chống sốt rét, đại khái là mua một lời năm, sau một năm tao chỉ cần đi hai ba chuyến là đủ sống trong năm, đời sống rất thoải mái sung sướng, không còn giặc giã chết chóc, ăn cơm thì toàn độn thịt, chớ không độn bo bo, sướng thật vì sống bằng nghề đi buôn. Nói xong anh ta kéo hai tay áo lên, trên hai cánh tay đeo ít nhất là mười mấy cái đồng hồ Seiko trên hai cánh tay và chiếc áo khoác bên ngoài thì có nhiều túi kéo chứa toàn là hộp quẹt Zippo, mắc giống như chiếc áo giáp.
      " À quên nữa, thế chiếc nhẫn Không Quân mày đang đeo có định bán không tao mua nó thật đấy!"
      ***

      Mời các bạn đón xem tiếp phần 4
      Last edited by SVSQKQ; 09-21-2017, 02:05 PM.

      Comment


      • #4
        Phần 4

        Chuyện Thật Giữa Hai Người Phi Công (A-37) VNCH và Phi Công (Mig -19) Bắc Việt 1975(phần # 4)

        Tôi trả lời:"chiếc nhẫn này của tôi quí lắm, là kỷ vật của tôi để kỷ niệm hồi học bay bên Mỹ, tôi không bán đâu"


        Ông ta hỏi tiếp:" à nghe nói bọn mày đi Mỹ học bay nó có cấp cho mỗi đứa một cái áo khoát màu xanh lá cây bên trong có vải satin màu cam đẹp lắm, mày còn giữ không? Nếu có bán cho tao đi"
        Tôi trả lời:"trong lúc loạn lạc, hồi miền Bắc mới chiếm miền Nam, tôi vất đi hết rồi đâu dám giữ, vì mình là dân Mỹ ngụy, à chú đi buôn lên xuống như vậy có bị công an hay trạm xét làm khó dễ không?

        Chú ta hề hả cười nói:"có gì đâu, hễ tụi nó xét, là tao rút túi ra tờ giấy chứng nhận liệt sĩ, anh hùng diệt máy bay Mỹ, là tụi nó cho qua tuốt, vả lại tao là cựu Đại Úy có giấy tờ chứng minh mà mày, tụi nó thấy là run rồi. Coi vậy có tờ giấy tùy thân mắc dịch này cũng có lúc được nhờ cậy, chưa kể buồn buồn tao đeo cái huy chương Bác Hồ phi công anh hùng ở ngực áo là tụi nó phát khiếp...ha ha




        À tao thấy trong hình bọn giặc lái chú mày mặc đồ bay đẹp và trong oai quá, đồ bay gì mà toàn là giây kéo(zipper),ăn mặc khít khao, có khăn quàng cổ màu tím, màu cam, hông đeo súng cá nhân , dây nịt súng có đầy đạn tùm lum, mang dao, máy truyền tin, súng bắn cứu nguy(flare gun) áo lưới mưu sinh(survival vest), coi chằng quá, đội mũ vải xanh dương(calo) trong oai ghê, tao thấy còn mê, chắc mấy em trong Nam khoái mấy chú mày lắm phải không?. tao thấy thằng nào trông cũng bảnh trai hết?"


        Tôi trả lời:'thì đồ bay của chú cũng đẹp lắm mà?"


        Chú ta trả lời:' đẹp cái con khỉ khô, đồ bay mà của tụi tao mặc còn cài nút, mặc hai mảnh trên dưới, trông giống mất thằng công nhân xí nghiệp chết mẹ, nhìn muốn mửa, còn lái Mig 17 giờ này còn mang nón bay bằng da( leather helmet), giống lính lái xe tăng vào đệ nhất thế chiến, trừ cái đám lái Mig 21 thì còn đội nón bay hao hao giống Mỹ, nhưng vẫn không đẹp bằng của Mỹ, còn mặc mày thì thằng nào trông cũng thấy ngố ngố, miệng hô hốc, vì tối ngày lo luyện bài chính trị Bác và Đảng, thì làm sao ga lăng được"

        Nói ba hoa chích chòe, mà xe đã chạy tới Phú Lâm, xe đò chạy vô bến xe Xa Cảng miền Tây, có cả ngàn người đang lô nhô, bụi bặm, khói xe ngộp trời, xe ngừng tại bến, thấy chú ấy đang đợi các lơ xe thả xe đạp, máy may xuống. Tôi tình nguyện đứng giữ đồ cho chú ấy, bên cạnh chiếc cyclo máy đang nổ máy nghe xình xịt , sau khi chất được hai chiếc xe đạp mini, một máy may, vài bịt hàng lỉnh kỉnh lên xe, chú ta đã ngồi gọn hẳn trong cyclo máy.

        Chú ấy nói lần cuối:
        " bây giờ tao lên thành phố, đón tàu hỏa về Bắc, thôi tạm biệt chú em, nhớ giữ gìn sức khỏe nhé, cám ơn đã giữ đồ cho tôi lúc nẫy, thôi mình đi nhe."

        Tôi giơ tay lên chào theo kiểu nhà binh, chú ấy cũng chào lại y chang.

        Tôi đón xe lam về Sài Gòn cư xá Nguyễn Thiên Thuật, trong lòng không bao giờ quên lại câu chuyện gặp lại anh phi công Mig Hà Nội này, trông cũng thật tội nghiệp. Đúng là đất nước mất, mất tất cả, cộng sản thà bắt giết lầm, chứ không tha lầm, đa nghi như Tào Tháo. Vậy mà cũng có người nhẹ dạ nghe theo, rồi chết ân hận.

        Tôi rất hối hận không có dịp hỏi tên của anh ta.
        ***

        Mời các bạn đón xem tiếp phần 5
        Last edited by SVSQKQ; 09-01-2017, 05:39 AM.

        Comment


        • #5
          Chuyện Thật Giữa Hai Người Phi Công (A-37) VNCH và Phi Công (Mig -19) Bắc Việt 1975

          Xem lại cuộc sống khó khăn, đầy nước mắt và lòng người của hai người phi công VNCH (cựu Thiếu Tá phi công khu trục PĐ#518 anh đã chết trong trại tù ở Hoàng Liên Sơn, Bắc Việt 1977) và phi công Bắc Việt dưới chế độ cộng sản Việt Nam, họ đã gặp nhau, giúp nhau để sinh tồn và may mắn vượt biên qua vùng đất tự do.







          Mời các bạn đón xem tiếp phần 5
          Last edited by SVSQKQ; 09-01-2017, 10:04 PM.

          Comment


          • #6
            Trại Tù Hoàng Liên Sơn (Bắc Việt)

            Sau ngày 30/4/75 nghe lời rêu rao của CS đang cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam, hằng vạn quân dân cán chính VNCH đã bị lừa qua lời láo khoét này, các anh cũng ra đi. Nào ngờ, thời gian biền biệt, đói khát khổ cực trăm bề trong trại tù CS. Trên thế gian này, không có một trại tù nào đầy đủ tính chất dã man tàn bạo như các trại tù CS tại VN. Xin được nghiêng mình kính cẩn trước linh hồn các anh, những người Anh Hùng không tên tuổi. SVSQKQ
            [MYOUTUBE]k6DFCjF8vuI[/MYOUTUBE]
            YÊN BÁI – HOÀNG LIÊN SƠN (Cựu Tù)
            Trại Suối Máu, Biên Hòa, vào tháng 9-1976, đã hơn một năm gọi là “học tập cải tạo”, mù tịt, không biết tương lai ra sao cả. Hằng ngày chỉ lo miếng ăn, và càng ngày ăn uống càng thiếu thốn, nhưng tuyệt đối không có chương trình lao động. Rồi một hôm, các anh đi lãnh gạo về nấu cơm có bắt được một tin. Dường như có người từ miền Bắc vừa vào, vì các bộ đội trong này hỏi họ “ngoài đó có nóng lắm không?” Vào thu, ngoài đó mà nóng thì vì gió Lào thổi qua. Rồi một hôm, vào khoảng 10 giờ tối, lại có lệnh tập trung ra sân. Một danh sách được đọc lên, và những người đó phải lấy hành trang tập trung lại sân. Những người khác trở về láng ngủ như thường. Sáng sớm hôm sau, khi thức dậy thì số người hôm qua đã đi rồi…, đi rồi, không biết đi đâu… Gần chỗ nằm của tôi có anh biết bói, anh bói cho một quẻ, thấy số người hôm qua rời trại Suối Máu, di chuyển về sân bay Tân Sơn Nhất, rồi từ đó biến mất.

            Vài ngày sau, một đợt nữa được gọi, mà chỉ gọi các quan Đại Thần mà thôi, rồi cũng đi cùng hướng, rồi biến mất ở Tân Sơn Nhất. Lúc đó, cấp Đại Tá kể cả những người đã giải ngũ gồm có 375 người. Ông Hà Trọng Tín được chỉ định làm đội trưởng đầu tiên của chúng tôi, còn ông Phạm Văn Thường làm Đội Phó đầu tiên. Riêng Không Quân chúng ta có tất cả 15 đại tá ở trại này vào lúc đó (sau này, ra Bắc rồi, gặp thêm anh Báu bị bắt ở Đà Nẳng là 16 người, đến năm 1982 về trại Xuân Lộc lại gặp thêm anh Sửu nữa là 17 người, cho đến sau cùng , chết mất anh Lê Minh Luân tại Yên Bái, còn lại 16 người được tha về), đó là một tỷ lệ khá lớn. Số đại tá giải ngũ cũng nhiều, nhưng con số không nhớ rõ. Các ông giải ngũ rồi và các ông bác sĩ cấp đại tá đều không được gọi ra sân trong mấy đợt này, và sau này được biết họ được giữ lại trong Nam, hoặc cho về nhà sớm vì họ đã quá già.

            Người viết bài này đi vào đợt cuối cùng. Vào TSN bằng xe Molotova, chạy theo đường Biên Hòa –Thủ Đức-Cầu Bình Lợi-Đường Chi Lăng-Đường vào sân golf hay vào Nhà Thương Cộng Hòa, rồi rẽ vào TSN qua khu Hàng Không Dân Sự. Xong chạy theo đường bay Bắc Nam trước kia, rồi ghé vào các ụ chứa máy bay ở phía Bắc phi trường. Bỏ chúng tôi tập trung vào một ụ lớn. Các lính canh đứng trên bờ ụ, cầm AK-47 chỉ xuống chúng tôi. Trời gần sáng, chúng tôi được xếp lên từng chiếc C-130, một tay bị còng vào tay của một người khác luôn luôn theo mình, đi tiêu tiểu gì cũng đi chung. Lúc đầu, máy bay bay về hướng mặt trời mọc, làm nhiều người phấn khởi ra mặt, nhưng sau đó, mặt trời đổi hướng về bên phải, và cứ thế mà bay. Mọi người bí xị, và thấy thời gian dài hơn bao giờ hết. Sau khoảng 4 giờ bay, đáp xuống phi trường Yên Bái.

            Khi xuống máy bay, xung quanh rừng núi chập chùng, những người chăm sóc phi đạo lấy vải ngụy trang che phi đạo sau khi đáp. Có một số tướng lãnh VC sáp lại gần và bảo với chúng tôi:”Đây là Bắc Bó, quê hương của Cách Mạng”. Chúng tôi được đưa lên xe Molotova chở về trại. Trên đường đi, quan sát thấy hangar chứa Mig-19 và Mig-21 đều được cất bằng tre, sát tường núi, rất khó mà nhận ra từ phi cơ bay nhanh, nhưng rất dễ nếu có dò tìm infra-red, vì đường di chuyển bằng concrete đi từ chỗ chứa máy bay ra phi đạo. Hồi ở Biên Hòa, đã từng thấy F-5 và Mig-21 cùng bay tập với nhau. Ra Yên Bái, chỉ thấy toàn Mig-21, thỉnh thoảng có Mig-17 hay Mig-19 mà thôi.

            Khi xe đến thị xã Yên Bái, chờ qua phà, như phà Chợ Gạo hồi năm 1957 vậy, nghĩa là dùng sức kéo của người, truyền qua dây cable to giăng ngang qua sông. Nhưng rồi cũng từ từ qua được. Xe Molotova tiếp tục theo những con đường đất đỏ, không có lót gì cả, chỗ bằng phẳng, chỗ có ổ gà, chỗ rộng, chỗ hẹp. Chúng tôi được chở đến Liên Trại 1, và tập trung lại ở Trại 2, nhà có lợp ngói đỏ. Còn xung quanh đó, không thấy bóng một nhà lợp ngói nào cả. Sau này, khi đã đi lao động bên ngoài, chúng tôi thấy một nhà nhỏ khác, đó là trường tiểu học của xã. Các tướng lãnh của ta, trong đó có hai tướng KQ, được ở một nhà tre khu gần chúng tôi. Trại ngói của chúng tôi quá hẹp so với số lượng tù vừa chở ra. Không lẽ họ đã nghĩ chắc là số đại tá không nhiều lắm. Do đó, chúng tôi chỉ nằm ở trong một phần, ngoài hành lang một phần, và một phần khác ở dưới một mái tre gần trại ngói, mà cũng là nơi làm bếp. Ở đó, cái nền mới đắp, còn ướt, nên nằm phải lót một tấm nylon, nếu không sau này sẽ bị thấp. Như vậy là không cửa nẻo gì cả. Tối trời hay sáng trăng, có thấy bộ đội canh gác hay không, mỗi khi di chuyển thì hô lên “báo cáo bộ đội, tôi đi ra” , hay sau khi tiểu tiện thì “báo cáo bộ đội tôi đi vào”. Tất nhiên, đã có anh hô to:”Báo cáo bộ đội, tôi đi ỉa.” Tôi tự hỏi, chắc nó bắt mình làm như vậy để mình cứ tưởng có người để mắt theo dõi, chứ hơi sức nào, vì một lần đi ra hay đi vào có cả 10 người hay hơn. Nên tôi muốn thử cho đến độ nào thì bảo hòa. Lúc cao điểm, tôi đi ra mà không báo cáo gì cả. Đi ngang qua bộ đội đứng im trong bóng tối, đùng một cái phóng ra chận đầu tôi, lấy tấn, chỉ mũi súng vào tôi và bảo”sao không báo cáo”. Tôi ấp úng, “chưa tỉnh ngủ mà báo cáo cái gì?”. Hắn bảo”rút kinh nghiệm, lần sau nhớ báo cáo rồi mới đi”.

            Trại ở Yên Bái do Bộ Đội quản lý. Ít hôm sau, chúng tôi gặp một số mặc đồ tù loại sọc, vải do Trung Quốc dệt, xem rất ngộ nghễnh, đó là vải mà tù binh Mỹ mặc trước kia, bằng loại vải ấm và bền hơn vải ta mà Nam Định dệt và họ cấp phát cho chúng tôi sau này. Tạm thời thì chúng tôi dùng quần áo lính cũ của miền Nam mà chúng tôi lấy từ trại đầu tiên là Trung Tâm Huấn Luyện Địa Phương Quân của Sư Đoàn 18 cất trên đường Xuyên Mộc-Bình Giả. Tại Yên Bái, chúng tôi phải qua ba trại khác nhau. Trước hết là trại nhà ngói vừa kể, sau đó là trại 2 trong cốc, và sau cùng là trại 3 sâu trong cốc hơn nữa.

            Cái cảm giác đầu tiên ở trong vùng núi Hoàng Liên Sơn là mình cảm thấy cái gì cũng quá to lớn, trùng trùng điệp điệp, từ núi nầy sang núi nọ, không thấy chân trời là đâu cả. Con người của Hoàng Liên Sơn có cái gì khác lạ. Họ có phải là người Việt không? Dường như không giống! Họ có cái nhìn vừa tò mò, nhút nhát, đôi khi lại có vẻ thù hận. Chính tù với nhau cũng không còn gì để nói, ai ai cũng sống với suy nghĩ riêng tư của mình, mà cái buồn thấm thía nhất là có lẽ sẽ không còn gặp lại gia đình, cha mẹ, vợ con nữa. Ra đây rồi, có lẽ sẽ bỏ xác nơi đây. Một vài dấu tích của sinh hoạt tù binh Mỹ trước kia, như cây gậy đánh base ball, và bộ đội cũng có nói với chúng tôi rằng “Mỹ khỏe như trâu, nhưng ăn cũng dữ lắm.” Nhưng Mỹ thì còn có luật tù binh, có hiệp định là chúng đã được tự do. Còn chúng tôi thì chỉ biết “mút mùa …”, là “mọt gông..”. Sau nầy, về nhà nghe vợ con nói lại thì họ cũng dự trù nhốt chúng tôi cho đến ngày tàn.

            Mỗi người sống với suy nghĩ riêng của mình, ít nói ít cười. Tôi rất tò mò với nhóm nhỏ của anh Báu, những người đã ra đây trước chúng tôi, và là những người chuẩn bị rất nhiều để tiếp đón chúng tôi. Đó là những anh biệt kích ra Bắc đã bị bắt, những người đã bị bắt trong trận Lam Sơn 719, những người đã bị bắt khi mất Đà Nẳng…. Có người họ còn cho nói chuyện và gặp gỡ, nhưng cũng có người họ tuyệt đối giữ bí mật, như anh Nguyễn Văn Thọ, cựu Đại Tá Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn Nhảy Dù tham dự Lam Sơn 719. Mới đầu, họ bảo đã thả anh Thọ rồi, vài tháng sau đi lao động lại gặp anh Thọ. Họ dấu anh Thọ suốt thời gian chúng tôi ở Yên Bái, mãi đến khi chúng tôi di chuyển xuống đồng bằng giao cho Công An quản lý, chừng đó, anh Thọ mới cùng chúng tôi xuống Nam Hà. Phần chúng tôi, người ta “biên chế” thành đội, có người chỉ được làm vệ sinh láng trại (tuyệt đối không được xuất trại, thường là thành phần họ đặc biệt chăm sóc, không để bị thất thoát, như cấp Tướng, như trong ngành tình báo, an ninh…), có người chỉ làm công việc nhẹ vì đã quá già và nhiều bệnh tật, chắc họ cũng đã có Mẫu số 8 nhưng muốn nán lại trong quân đội để hưởng lương, những người này cũng làm việc trong láng như đan lát, bệnh giây thừng…vv…Những người khỏe hơn một chút, tuy cũng xem như thiếu sức khỏe để lao động nặng, thì vào các đội trồng rau, nuôi lợn. Còn lại là lao động nặng, đi rừng lấy củi hằng ngày để có củi nấu nướng, lấy gổ xây cất nhà cửa, làm cột đèn cho xã hay Liên Trại theo nghĩa vụ với cấp cao hơn trong vùng, làm ruộng, phát nương, thu hoạch gổ để làm giấy….toàn việc nặng. Nói chung chung thì giữa hai việc trồng rau và đi rừng thì đi rừng giống như đi bay trực thăng hay khu trục, không biết chết ngày nào, nhưng cũng có cái sướng của nó. Còn trồng rau thì nhàn hạ hơn, nhưng phải chịu cảnh hôi thối, vì chỉ có phân tươi 100% mới bảo đảm chỉ tiêu 50kg/mỗi người/một tháng. Ngày ngày giành giựt nhau lấy nước tiểu, lấy phân, thậm chí có người ngồi chờ cho phân rớt ngay xuống xẻng của mình chứ không dám bỏ chỗ. Những người có kinh nghiệm trồng rau, sau này về sinh hoạt với gia đình, nếu phải sống ở vùng kinh tế mới, thì họ sẽ mang kinh nghiệm ra giúp cho cuộc sống dễ dàng hơn, vì mục tiêu cải tạo là giúp cho đối tượng sống một cuộc sống tự lực cánh sinh khi được tha. Những người trong đội lao động nặng là những người phải dự trù sống mãi trong tù, là những thành phần phải được triệt để khai trừ khỏi xã hội vì họ còn sức lực, trong tương lai có thể làm bậy, lãnh đạo chống đối chánh quyền. Vì vậy, họ phải được giao cho việc thật nặng để có muốn trốn trại cũng không còn sức để trốn, để họ sớm trở thành như các cụ già nằm trong láng kia mà ngâm thơ trách đời,…trách cấp trên.

            Chúng tôi được biên chế vào đội lao động nặng, cùng với các anh đã từng làm Trung Đoàn Trưởng, Chỉ Huy Trưởng hay Phó các Biệt Khu, các Tỉnh Trưởng, toàn là các anh hùng tứ xứ, nay mới gặp nhau ở nơi này. Khu rừng mà chúng tôi thường vào khai thác từ trại này chỉ cách trại từ 3 đến 5 km, nhưng phải qua một ngọn đồi khá giốc. Mỗi ngày mỗi người hai bó “chổm”, là một loại tre, kính cở 5 cm, dài độ 4,50m. Họ dùng chổm để làm mái thay ngói, để làm vách tô bùn, để làm ruôi lợp nhà, để đan rổ rá…Nói cách khác, rất cần, và ngày nào cũng đi. Lúc đầu, đi vào một khu vực mà có tới 5 đội. Phải dành nhau mà đốn cho kịp, ai chậm chạp phải đi tìm xa hơn. Đốn đủ chỉ tiêu hai bó, mỗi bó 10 cây, tập trung về một điểm rồi cùng nhau vác về. Sau này, chúng tôi được cùng một anh bạn tù khác được chỉ định kết tất cả các bó chổm thành một cái bè, rồi chống bè về sau. Ra đến đập nước thì sẽ có các toán khác từ trại ra để vác về. Chính trong lúc đốn chổm này, anh Quế nhà ta đã trốn trại và bị dân bắt lại 6 ngày sau.

            Mỗi ngày về quá mệt mõi, chỉ muốn đi tấm giặt, ăn xong rồi ngủ. Chủ nhật mới có thì giờ nói chuyện với các bạn ở đội khác, như các đội làm rau, làm ruộng. Một hôm, có người nói:”Tôi biết ‘bò thất’ ở đâu rồi”.-Cái gì?”-“Bò thất là các ông tướng của mình đó”. Té ra là các anh lấy bài domino để chỉ lon lá. Thiếu Uùy là ‘bò nhất’, nhưng ‘bò thất’ thì ngoại lệ rồi. Chúng tôi là ‘bò lục’. Dân thì gọi chúng tôi là ‘ngụy’. Còn chúng tôi gọi nhau bằng ‘bò’, gọi VC là ‘cối’ hay là ‘chèo’. Có nhiều từ không biết từ đâu mà có, nói mãi cũng quen. Cối thì không thích chúng tôi nói chuyện với nhau. Trong khu vực, rất nhiều đội, nhưng họ làm kế hoạch hành quân khá tốt, không khi nào để cho hai trại có dịp thông tin cho nhau trong những lúc đi lao động (để tránh kết hợp nhau mà trốn trại hay làm loạn). Một hôm, có đội làm ruộng về kể một chuyện nực cười. Anh dắt trâu của hợp tác xã xuống ruộng cày ruộng. Khi đang cày dỡ lỡ một luống, có kẻng nghỉ giải lao, tức khắc con trâu leo lên bờ đẻâ ăn cỏ, anh kéo xuống, nhất định không xuống. Con trâu cũng biết tranh thủ, là quyền lợi của nó, trong lúc đó, tác phong của ta là làm hết việc, không làm hết giờ, cũng là một tác phong cần sửa đỗi trong xã hội XHCN.

            Vài tháng sau, chúng tôi dời vào cốc, một trại cất toàn chổm. Trong khu vực này, bị tre cắt đứt tay chân là chuyện thường, nhưng tuyệt đối không thấy một cây đinh. Vào trại này, đội lao động nặng chúng tôi tham gia một công trình lớn là đấp một đập nước, dài chừng 30 m, rộng của đập khoảng 10 m. Dự trù khi có nước trong đập thì sẽ nuôi cá trám cỏ, một giống cá ăn không ngon lắm vì thịt nhão, nhưng chỉ nuôi bằng rau cỏ, nghĩa là lấy công làm lời. Cá to cũng cả thước tây, nhưng chưa có cá là chúng tôi đã đi nơi khác. Công trình xây đập là gian khổ, nhọc nhằn, tuy không mấy nguy hiểm. Trái lại, vét ao nước động lâu ngày là một việc làm quá nguy hiểm, vì phân nửa những người tham gia đều đi nằm nhà thương vì bị sốt xuất huyết, trong đó có Võ Quế và Lê Minh Luân. Võ Quế may mắn khỏi bệnh, còn anh Luân bị chết vì trúng lạnh, sưng phổi sau khi vừa hồi phục bệnh sốt xuất huyết. Trước khi chết, anh Luân bảo:”Phải chi được một tách cà-phê thì sướng quá”. Tại trại bệnh mà anh Luân chết, Không Quân cũng để ở đó Trưởng Phòng Thăng Thưởng và Huy Chương củ, là Trung Tá (hồi hưu) Nguyễn Phước Kiêm.

            Nửa năm sau, trại chúng tôi lại tách làm hai, và chúng tôi theo các bạn vào trại 3 trong cốc, xích vô trong núi một tí nữa. Bình thường, công việc chỉ là đốn cây chổm, trồng khoai lan, khoai sắn (khoai mì). Nhưng có hai công tác làm tôi nhớ mãi là “Phát Nương” để trồng bắp, và thu hoạch cây bồ đề để làm giấy.

            Phát nương làm rẫy là việc người miền núi thường làm, nhưng qui mô ở đây là việc làm của 150 người. Dao phát là một loại dao đặc biệt, giống như cây Thanh Long Đao của Quan Vân Trường vậy. Vì mình tiến lên giốc, chặt gốc cây bằng cùm chân trở xuống, còn lại phải xử lý bằng riều. Một anh bạn khác dùng tay trái và tôi thủ riều bàng tay phải. Chúng tôi đốn cây to có khi lên tới hai ôm. Nguy hiễm nhất là có một lần gặp loại cây xoắn vào nhau khi mộc lên. Muốn đốn cây to bên trong thì phải đốn cây quấn bên ngoài trước. Khi đốn thì chúng tôi cùng đốn một lượt, một đứng bên nay, một bên kia, nhưng khi gần đứt gốc thì chúng tôi ngồi nghỉ để nghĩ kế, vì cây sẽ tuông ra bên người nào thì người kia phải dứt một mình. Đúng là phần tôi phải dứt. Anh bạn ra ngồi cách gốc cây độ 5 m, lấy thuốc ra hút. Còn tôi dọn dẹp kỹ lưỡng xung quanh gốc cây rồi cầm riều vào dứt cho đứt gốc. Khi vừa đứt, cây bung ra ngoài thật mạnh cách gốc cây mẹ chừng 2 m và bắt đầu tuông như lò xo, quay hơn một vòng , xong còn trả ngược lại giống như nó tìm tôi trả thù. Tôi may mắn thoát được nhờ đã chuẩn bị chỗ trước để phóng ra ngoài nằm sát mặt đất mới tránh khỏi. Hai đứa chúng tôi hú hồn hú vía, dù đã đoán trước nó sẽ làm như vậy nhưng không ngờ nó nhanh quá. Một gốc gây cở 2 tấc bề kính mà tán vào đầu một cái thì chỉ có nước chầu Trời. Dọn nương xong, chờ cây khô thì đốt rồi lại dọn gốc cây nhỏ cho sát mặt đất. Sau đó sẽ gieo hột bắp, và đến khi thu hoạch thì dường như không được bằng phần bắp giống đã mua, vì khỉ và két ăn hết. Thú rừng ở đây theo dân mà sống. Dân sống chỗ nào thì có cây ăn trái, có bắp, có khoai, sắn, có cao lương. Trái lại, đi sâu vào hướng Tây và hướng Bắc thì rừng già không có gì ăn được.

            Ở trại này, chúng tôi còn đi khai thác gổ bồ đề để làm giấy. Công tác này giao cho hai trại 2 và 3, toàn ‘bò lục’. Chúng tôi chia làm ba bộ phận, một lo đốn cây và đoãn ra từng khúc 4 m, bề kính nhỏ nhất là 2 tấc. Một bộ phận di chuyển gổ ra dàn phóng từ trên đồi xuống đường cái. Một bộ phận chừng 4 người ở dưới đường cái để coi chừng cho người qua lại trên đường, và dẹp các khúc gổ xếp theo loại lớn nhỏ. Công tác đốn có nguy hiểm của nó. Khi có cây chóng chày, thì ngưng không đốn mà chờ chuyên viên lâm nghiệp đến giúp đỡ. Chóng chày là khi mình chặt gốc cho một cây ngả, cây đó lại không ngã hẳn xuống đất mà ngọn của nó lại vướng vào một cây gần đó rồi chóng đó. Khi ta đốn cây chóng (đứng thẳng) thì cây chày (nằm nghiêng) rớt xuống từ trên cao, không biết rớt vào đâu mà chạy. Đốn cây trên đồi cao, ngại nhất là gió dật. Ta xem chiều gió để định hướng cho cây đỗ. Nếu gió Bắc thí cho cây đỗ về Nam. Ta sẽ mở miệng phía Nam, và chặt gáy phía Bắc. Ta định là như vậy, còn Trời định là cái khác. Có lần tôi thâý mà phát sợ. Một nhóm đốn một cây bồ đề bỏ hoang trên đỉnh đồi. Cây to cở hai ôm. Khi mở miệng được chừng phân nửa thân cây thì có một luồng gió mạnh giật ngược ngọn cây lại (ngọn cây bật ngược về hướng đối nghịch với hướng mình dự trù cho ngã) làm thân cây xé ra từ chỗ mở miệng, phần gốc phóng nhanh về hướng mở miệng độ 10 m và bắn lên cao, xong đập mạnh xuống đất làm thân cây vỡ ra thành hai mảnh nữa. Tôi thấy cái nón cối mà anh đội trưởng dùng đã bị nát nghiến từng mảnh nhỏ. Chặt ra làm tư, đoãn ra từng 2 m, mỗi khúc phải 4 người khiêng. Khiêng gổ cũng có cái nguy hiểm của nó. Tôi nhớ có lần hai anh khiêng, một người một đầu, bổng đàng trước làm rớt cây khỏi vai mà đàng sau không hay kịp để vất gổ, nên đầu cây đánh vào sọ một cái, làm anh ấy bị té bất tỉnh, nằm nhà thương nhiều ngày, và dường như thị lực cũng giảm nhiều. Gian lao là thế. Tối chỉ chờ giờ ngủ để lấy sức ngày mai đi làm. Chúng tôi có tiêu chuẩn 6 lạng ngày về chất bột, quy ra thành sáng được bốn khúc khoai mì, trưa sáu khúc, chiều sáu khúc, có rau muống luột và nước muối. Lúc nào cũng thấy đói. Lúc đó, đã bắt đầu cho phép gia đình mỗi tháng được gửi ra một gói quà, không quá 5 kg. Khi thiếu chất đạm (protein) thì mình lại thèm đường, nhưng thà thiếu ăn, tôi không để thiếu hút. Có khi tôi lấy nửa phần ăn sáng đỗi lấy nửa gói thuốc lá, hay nửa phần thuốc lào. Có khi tôi được 8 gói thuốc một tháng, và tháng đó phải nhịn đường luôn. Có người đi mua đường về bị say đường, khi người chủ bán đường họ cho vét hủ. Đường còn có công dụng chữa một thứ bệnh, là bệnh say sắn (khoai mì) vì trong chất của nó có độc khi ta ăn chưa quen, nhất là lấy đọt sắn luột mà ăn cho đỡ đói. Chỉ có đường mới trị bệnh say sắn, đừng khi nào dùng aspirine. Các cán bộ họ nói:”Cái anh chưa rèn luyện bao tử. Khi chúng tôi di chuyển trên đường mòn Hồ Chí Minh từ Bắc vào Nam, đi liên tục mà mỗi ngày chỉ có một vắt cơm mà thôi”. Vất vả ban ngày, tối lại nghe lên lớp, nhất là khi bửa nào cán bộ quản giáo được Đảng “mở mắt” cho. Nghĩa là anh ta vừa được học cái gì mới đó, về khoe lại với chúng tôi là mình biết. Khi có kẻng 9 giờ đêm, chúng tôi xếp hàng điểm danh trước khi đi ngủ, tập họp ngoài sân nếu trời không mưa. Có hôm, anh cán bộ lên lớp:”Các anh phải biết quí trọng tài sản của nhân dân. Như đốn cây làm giấy, không được phí phạm, đừng đốn xa gốc quá. Các anh có biết không, nước ta có một rừng cây rất quí. Liên Sô chỉ có mấy cây loại này, nó trong suốt như pha lê, lại có lõi đỏ như một chỉ hồng xuyên suốt. Liên Sô định đỗi với ta rừng cây đó, và nếu được, họ sẽ mang trực thăng lại bứng cả rễ, họ đỗi cây đó và cho Đông Dương một Trạm Thủy Điệm ở thác Khon, có thể cấp điện cho ba nước Việt Miên Lào.” Khi tan hàng, anh em cười khúc khích rồi đi ngủ. Hôm sau, cán bộ gặp antenne hỏi nhỏ:”Tại sao các anh cười?”-“Họ cho rằng cán bộ nói láo hay quá”.-“Nói láo sao được, sách của Đảng ghi rõ như vậy, không lẽ sách Đảng viết sai sao?”

            Chúng tôi ở Yên Bái gần hai năm dưới sự quản lý của Bộ Đội và…dân tộc Dao. Sau đó, chúng tôi về Hà Tây và Nam Hà để bắt đầu chịu sự quản lý tinh vi hơn của Công An. Vùng Yên Bái có cái độc mình phải đương đầu là chính mình. Đừng vì quá đói mà ăn bậy. Có anh lấy lá sâm trong rừng về vò ra, để đông đặc mà ăn. Một tuần sau, anh bị lạnh run cả tháng trời không dứt. Cứ thế mà đợi cho cơ thể tự giải quyết chứ không có chữa trị gì cả. Có lần tôi nghe có lệnh tập trung thuốc trụ sinh lại, tôi bèn dấu dưới sạp tre. Khi cần đến chỉ còn lại phần màu trắng ở trong, còn phần vỏ bộc bên ngoài đã bị dáng ăn hết vì nó ngọt. Tới khi tôi bị cúm đường ruột , mỗi ngày đi tiêu 20 lần, thuốc Kiết, thuốc sulfamide, anh Tiên cho tôi uống hết thuốc của anh mà bệnh vẫn còn. Đến khi tôi liều mạng, lấy mấy viên tétracycline bôïc đường bị dáng ăn ra uống thì dứt ngay, và chỉ vài ngày sau là lên đường đi xuống núi. Kẻ thù độc nhất hằng ngày của chúng tôi khi đi rừng là con vắt. Nó nhỏ hơn con đĩa, hút máu người và thú đi ngang qua cành cây là bị nó bắn vào người, rồi chui vào chỗ kín, mãi cho đến khi về nhà cỡi quần ra thấy nó đã no máu và rớt xuống đất. Anh em ngạo nhau nói anh bạn mình đang có kinh kỳ. Những con cái thường để lại một vết thẹo lâu lành, cứ ngứa mà gãy vào là tuôm máu ra. Dường như khi con vắt hay đĩa hút máu thì chúng có một chất gì đó làm cho máu loảng ra. Đã nghèo lại mắc cái eo. Chúng tôi không biết là chúng tôi đã gầy đến đâu. Nhưng có hôm, tôi đứng trên đồi nhìn các bạn tôi tấm dưới giếng, thấy thật hởi ơi, người nào cũng chỉ còn bộ xương khô, thì mình chắc cũng thế thôi….
            Lê Thy
            Last edited by SVSQKQ; 09-01-2017, 11:53 PM.

            Comment


            • #7
              Phần 5

              Vào năm 1976, sau nước mất.Tôi sống bằng nghề chợ trời (nghề chánh là làm việc cho hãng in (printing shop) trong thành phố nên không bị đi vùng kinh tế mới, nhưng đó là cái nghề để qua mắt công an phường khóm, chớ thật ra phải sống bằng nghề mua đi bán lại còn là gọi nghề chợ trời, khi thì buôn thuốc tây ở khu Huỳnh Thúc Kháng, Hàm Nghi. Khi thì đi mua bán vàng và đô la Mỹ ở khu Lê Thánh Tôn, thấy vậy mà sống rất phây phả, ung dung.



              Một bữa kia vào đầu năm 1979. Tình cờ tôi gặp lại anh phi công Mig-19 Hà Nội (hồi gặp trên xe đò Sài Gòn-Vĩnh Long). Lúc này trông anh ta thấy khác ra, không khác người Sài Gòn, tuy hơi ốm nhưng trông rất khỏe. Anh ta đang lái chiếc xe gắn máy Honda 50cc kiểu đàn ông màu đen, ngồi sau xe là một cô cũng khá trẻ đẹp ngồi ôm eo ếch (thoạt tiên tôi tưởng là anh ta chạy xe ôm).

              Tôi hỏi:
              "Giời ơi trái đất tròn, bây giờ gặp lại chú, trông chú đẹp trai quá, chú còn nhớ tôi không?"

              "A thì ra anh...anh là phi công tôi gặp trên xe đò năm 1975 phải không?

              "Đúng rồi đó, a còn cô ngồi ở phía sau là...?


              "Bà xã mình đó, anh ta dựng xe và nói tiếp:
              "Bà ấy nguyên là vợ một Thiếu Tá phi công của chế độ Sài Gòn, đi học tập và chết trong trại cải tạo năm 1977. Sau đó bà ấy phải lam lũ khổ sở buôn bán chợ trời để nuôi hai đứa con nhỏ, có vài lần bị công an nó bắt, mình là bạn bè bán hàng với bà ấy. Tôi lên đồn công an xin nó thả bà ra và mình nói là bà con của mình và xin đặc biệt thả ra, chứ không nó bắt đầy đi vùng kinh tế mới, nhận bừa là bà con nó vừa nể mình là cựu cán bộ. Sau đó mình thấy tình cảnh đắng lòng mẹ góa con côi, còn tôi thì còn độc thân, vả lại làm ăn qua lại riết có cảm tình. Lấy nhau rồi tôi về nhà bà ấy ở khu đường Trương Minh Giảng, gần nhà thờ Ba Chuông (Sài Gòn) cho tiện. Buôn bán thì cũng tạm được, có điều lúc nào cũng cảm thấy bị rình rập bởi công an cộng sản, đất nước mang tiếng là Độc Lập - Tự Do, nhưng lúc nào cũng phập phòng lo sợ không biết bị bắt bất cứ lúc nào, vả lại thằng em Đại Úy Nhảy Dù đi học tập mới chết năm ngoái, còn ông chồng củ của bà xã mình thì cũng chết trong trại tù ở Hoàng Liên Sơn (Bắc Việt), nên tôi buồn khổ lắm. Tôi không còn luyến tiếc ra miền Bắc nữa, chỉ ở trong Nam thôi."

              "À chú mày có đường dây nào đi ra nước ngoài không? Chúng tôi không muốn sống sống ở đất nước này nữa!

              Tôi nói:
              "Nếu chú thím đi chui thì lỡ bị bắt thì rất là nguy hiểm, vì chú là chính gốc cán bộ, còn nếu đi theo kiểu bán chính thức, tức là theo kiểu người Hoa thì đường này thì nó tính mỗi đầu người là 7 cây vàng, nhưng nó chắc và an toàn hơn, nhưng nó sẽ đặt tên chú là tên Hoa kiều chớ không lấy tên Việt Nam"

              "Số tiền đó tụi này lo được, nhưng chú em biết tổ chức đó ở đâu không?"

              "Tôi cũng đang đi tìm, nếu có sẽ cho chú thím hay"

              "Nếu muốn gặp, thì vợ chồng tụi này hằng ngày ở đây. Chỗ quán nước mía cạnh cây cột đèn và sẽ thấy có chiếc Honda màu đen này, thì tụi này có mặt ở đó."


              "Thôi tạm biệt chú và chúc chú thím may mắn."

              Mời các bạn đón xem tiếp phần 6
              Last edited by SVSQKQ; 09-02-2017, 12:59 AM.

              Comment


              • #8
                Hành Trình Vượt Biển ...

                Mời các bạn đón xem cuộc hành trình vượt biển của hai gia đình phi công và họ gặp nhau trên đảo trong trại tỵ nạn...
                Hình này được chụp bởi cảnh sát Indo, sau đó tặng cho mỗi người trong nhóm tàu này làm vật kỷ niệm.


                Mời các bạn đón xem tiếp phần 6
                Last edited by SVSQKQ; 09-09-2017, 12:20 AM.

                Comment


                • #9
                  Phần# 6

                  Chuyện Thật Giữa Hai Người Phi Công (A-37) VNCH và Phi Công (Mig -19) Bắc Việt, sau năm1975 (phần 6)


                  Vào tháng 6/1979, vợ chồng chúng tôi đi vượt biển đường Vĩnh Long, ghe chở khoảng 300 người và sau một tuần lênh đênh trên biển thì đến đảo Tanjung Pinang, Indonesia. Cũng may là tàu đi vào tháng này biển rất êm và may mắn không gặp hải tặcThái Lan hoặc Mã Lai lộng hành, ở được hai tháng thì một ngày kia, tôi đang ở trại A đi qua khu trại B để thăm coi có ai quen không. Tình cờ tôi thấy một người đàn ông trông rất quen, anh ta đang sửa lại cái lều của mình.

                  Tôi hỏi đại:
                  "Chú còn nhớ tôi không, có phải chú lái Mig-19?

                  Chú đưa lên miệng một ngón tay:
                  "Này nói khẽ chứ, mình đây, sao chú em đến đảo này hồi nào. Tôi đi đường Bến Đáy ở Trà Vinh, tới đây vợ chồng chúng tôi ở trong lều này."

                  Tôi hỏi:
                  "Chú sắp được phỏng vấn bởi phái đoàn Mỹ chưa? à có điều này mình cần nói với chú là phải khai thành thật, không dấu diếm, phải khai báo sự thật về lý lịch củ của chú nhé, đừng khai gian. Mỹ họ rất ghét ai nói láo, khai gian và nhớ khai đúng sự thật thì không bị trở ngại xin tỵ nạn theo diện chính trị (political asylum) nhé. Thôi chào chú thím và chúc may mắn."

                  Tuần lễ sau là ngày tôi được phái đoàn Mỹ kêu lên phỏng vấn, mình mừng hết cỡ, vì ở trại tỵ nạn tuy không có làm gì, nhưng ngày nó kéo dài đăng đẳng. Chỉ trông lên đường định cư qua Mỹ, rồi có đi làm cơ cực cũng chịu.

                  Phái đoàn Mỹ gồm có một ông Mỹ trắng già khoảng 50-60 tuổi, một cô Việt Nam(ở bên Mỹ qua) làm thông dịch viên và một người Mỹ trắng mang mắt kiếng đen, râu rậm. Trông giống điệp viên Gestavo hay CIA với khuôn mặt rất lạnh lùng như pho tượng.

                  Nghe tôi học bay bên Mỹ mới về nước.

                  Ông Mỹ mang kiếng đen hỏi tôi bằng tiếng Mỹ:
                  " What is your name and your serial number?"

                  Tôi nói:
                  "Yes sir, my name is ... and serial number is..."

                  Ông ta hỏi tiếp:
                  "Do you know how to fly T-37 and can you let me know how to start the engine?"

                  Tôi bình tỉnh trả lời:
                  "Carburator switch on, throtlle on, mixture to cold, prime switch to on, navigator light to on, ignition switch on and hold."
                  Ông ta hỏi tiếp:" What is the name of your jet engine and thrust?"
                  Tôi trả lời:"Each engine has 1025 lbs thrust, has two J-69-T engines"

                  Tôi trả lời rành rẽ không lúng túng, không nói vấp vì đó là nghề củ của tôi mà.(trong cuốn Dash 1 trước khi pre flight hay bị IP hỏi.)
                  Ông ta nói:"Very good, now you can go and let us interview the next one"
                  Tôi đứng dậy chào tay kiểu nhà binh rồi đi ra.

                  Buổi chiều hôm đó, tôi gặp lại anh ta(Mig-19) ở khu giếng lấy nước, thấy anh ta đang khom lưng khệ nệ khiêng hai thùng nước về cho gia đình xài.


                  Tôi chận lại hỏi nhỏ:
                  "Sao bửa nay anh có được phái đoàn Mỹ phỏng vấn không?
                  "Có chứ, hú hồn hú vía"
                  Tôi hỏi:
                  "Chú khai thật hết phải không?"
                  "Vâng theo lời chú em tôi khai thật hết"

                  Last edited by SVSQKQ; 09-16-2017, 06:36 AM.

                  Comment


                  • #10
                    Phần # 7

                    Chuyện Thật Giữa Hai Người Phi Công (A-37) VNCH và Phi Công (Mig -19) Bắc Việt, sau năm1975 (phần # 7)

                    "Sao bửa nay anh có được phái đoàn Mỹ phỏng vấn không?"
                    "Có chứ, hú hồn hú vía"

                    "Chú khai thật hết phải không?"
                    "Vâng theo lời chú em dặn tôi khai thật hết"

                    "Họ hỏi gì?"
                    "Có ông Mỹ trắng mang mắt kiếng đen, có râu rậm, ông hỏi tôi bằng tiếng Việt"
                    "Trời đất ơi! ổng ta nói tiếng Việt theo giọng Bắc mới khiếp chứ"

                    "Thế họ hỏi chú cái gì?"
                    "Ổng Mỹ hỏi:"Nghe nói ông là người lái phi cơ Mig-19, xin ông cho biết, ông thuộc phi đoàn nào và căn cứ nào?"
                    Tôi trả lời:"Phi đoàn 925 tại Yên Bái, Bắc Việt"
                    Ông ta nói tiếp:"Anh học lái Mig-19 ở đâu?"
                    Tôi trả lời:"Tân Cương, Trung Quốc"
                    Ông ta hỏi tiếp:"ông có thể nói cho tôi biết cách đề (start) của máy bay phi cơ Mig-19"
                    Tôi trả lời:"Đề máy như vầy...như vầy"
                    Ông ta hỏi tiếp:"Lý do nào mà ông muốn xin qua Mỹ?"
                    Tôi trả lời:"Tôi muốn ở thế giới Tự Do, tôi không thế nào sống dưới chế độ cộng sản. Tôi không thích cộng sản và tôi xin phép được tỵ nạn chính trị tại nước Mỹ"

                    Ông ta chỉ tay qua vợ con tôi hỏi:"Còn người đàn bà này là ai và hai đứa nhỏ này?"
                    Vợ tôi trả lời:"Tôi tên... và ...tuổi, nghề nghiệp nội trợ. Chồng củ tôi tên là...cấp bực Thiếu tá, lái phi công khu trục A1H, phi đoàn 518 đóng ở Biên Hòa. Lúc trước chồng tôi học bay T-28 ở tại Keesler, thành phố Biloxi, tiểu bang Mississippi, và đã chết trong tù cải tạo trại Hoàng Liên Sơn, Bắc Việt năm 1977. Tôi có hai đứa con với ảnh, đưa con gái được 11 tuổi và đứa con trai 8 tuổi. Vào năm 1978, tôi lấy anh này và anh ấy là người rất tốt, đến năm 1979 chúng tôi vượt biển đến trại tỵ nạn này.

                    Ông Mỹ trả lời:"Cám ơn ông bà, hồ sơ phỏng vấn của ông bà đã xong, xin ông bà ra về. Chúng tôi sẽ điều tra và sẽ thông báo cho ông bà biết sau"

                    Chú ta trả lời:"Chỉ vậy thôi, bây giờ mình như cá nằm trên thớt, không biết ra sao nữa. Có điều là vái trời là họ cho đi định cư bên Mỹ, đợi bao lâu cũng được, chớ đừng gởi trả về Việt Nam là chết bỏ mẹ"

                    Huyền diệu thay, một tháng sau gia đình tôi và gia đình anh ta được đi khám sức khỏe tại bệnh viện Tanjung Pinang và tuần sau thì lên thuyền đi Singapore để định cư bên Mỹ.


                    Mời các bạn đón xem tiếp phần 8
                    Last edited by SVSQKQ; 09-22-2017, 11:49 PM.

                    Comment


                    • #11
                      Chuyện thật giữa hai người phi công (A-37) VNCH và phi công (Mig-19) Bắc Việt - Video

                      [MYOUTUBE]oaQUT8GLpbM[/MYOUTUBE]

                      Mời các bạn đón xem tiếp phần 8
                      20 năm sau tình cờ tôi gặp lại chị ở Little Saigon, con cái đều thành công và công ăn việc làm ổn định. Nhưng đổi lại với nét buồn trên khuôn mắt chị và tôi nhìn thấy trên bàn thờ hình ảnh hai vị phi công đã cất cánh bay cao, ở một nơi mãi mãi Tự Do, không có bóng dáng cộng sản đang từng ngày dày xéo trên quê hương Việt Nam bé nhỏ thân thương.

                      Last edited by SVSQKQ; 09-22-2017, 11:50 PM.

                      Comment


                      • #12
                        Phần 8 (Phần cuối)

                        Chuyện thật giữa hai người phi công (A-37) VNCH và phi công (Mig -19) Bắc Việt, sau năm 1975 (phần cuối)

                        Gặp lại anh trên thuyền tôi hỏi:"Chúc mừng anh và gia đình được đi Mỹ, à anh biết định cư ở tiểu bang nào không?"

                        Anh ta trả lời:"Mình được gia đình Mỹ bảo lảnh, sang định cư ở Newyork, còn anh đi tiểu bang nào vậy?"

                        Tôi trả lời:"Tôi được bảo lảnh về tiểu bang Cali, thôi xin gặp lại chú thím nhé"

                        Anh ta trả lời:"Cám ơn anh đã chỉ bảo cặn kẽ lúc phỏng vấn, thôi tụi mình đi nha, hẹn sớm gặp lại"

                        20 Năm Sau: Little Saigon - California
                        Sau khi định cư ở Mỹ, tôi đi làm cho một hãng đóng máy bay F-16 ở tại San Diego được 20 năm.
                        Một ngày cuối tuần năm 2000, vào trung tuần tháng 5, vợ chồng tôi rủ nhau đi lên Santa Ana để đi chợ Việt Nam mua thức ăn và nhân tiện ghé một nhà hàng bán phở tại khu Westminster.
                        Chúng tôi vào nhà hàng ăn, vừa ngồi ghế xong, là có một người đàn bà, cầm menu đưa chúng tôi và hỏi:"Thưa ông bà dùng chi và đây là thực đơn, xin ông bà lựa chọn món ăn"
                        Tôi ngẩn lên nhìn và trông thấy bà này quen quen ở đâu nè, tuy nét mặt khoảng trên 50 tuổi nhưng nét đẹp vẫn còn đó. Tôi hỏi đại:" Hình như bà chủ tên...lúc trước ở Sài Gòn, khu nhà thờ Ba Chuông thì phải?"
                        Bà ta trả lời và mừng rỡ:"A hình như đây là chú...mình hồi đó có làm ăn trên đường Lê Thánh Tôn"
                        Tôi mừng quá nói:"Đúng rồi! chính mình đây, ủa anh đâu rồi chị? anh khỏe không?

                        Bà ta sầm nét mặt và buồn rười rượi nói:"Anh mất hơn hai năm rồi, anh bị đột quỵ (Stroke) khi đang ở trong bếp. Anh ấy đi làm technician trên 15 năm ở một hãng điện tử, thì xin về hồi hưu rồi để dành chút tiền để mở tiệm phở này. Tính ra hai vợ chồng già sống qua ngày, không phải đi làm vì hai đứa con đã lớn hết rồi. Con bé thì học ở UCI xong ra làm bác sĩ ở bệnh viện Fountain Valley, còn thằng con trai học xong ở UC Davis ra làm kỹ sư cho hãng Boeing ở Long Beach, tụi nó có gia đình hết rồi. Bây giờ anh ấy mất rồi, tôi buồn quá, cũng nhờ có công việc ở nhà hàng bề bội nên thời giờ qua mau và bớt lo buồn. Bây giờ tôi có thờ linh cốt (Tro) anh ấy trong chùa Điều Ngự và thờ linh vi thì ở nhà và trong văn phòng nhỏ trong tiệm này. Chị dẫn chúng tôi vô văn phòng nhỏ của chị, trên tường có thờ hai linh vị của: Thiếu Tá Phi Công thuộc PĐ 518 và anh phi công Mig-19. Tôi đốt nén nhang lên khuấn vái và kính chúc hai anh chóng siêu thoát lên cõi niết bàn. Hai anh đã cất cánh bay về miền viễn cực lạc, ở một nơi mãi mãi tự do, không còn khổ đau như trần thế.
                        Chị nói:" Khi không anh em đánh giết lẫn nhau cũng vì ngoại bang, anh em cũng một nhà, cùng một nước, nói cùng ngôn ngữ vả lại có chiến tranh cũng vì ngoại bang gây ra, chị cầu mong cho đất nước mình, một ngày không còn cộng sản, có thể chế tự do dân chủ và không bao giờ có chiến tranh nữa."
                        Hết
                        Cánh Thép Channel

                        Comment



                        Hội Quán Phi Dũng ©
                        Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




                        website hit counter

                        Working...
                        X